28
Nâng cao Hiu quThtrường cho người nghèo tài liu tham lun ADB S18 Thtrường lao động nông thôn và Vn đề di cư Tháng 3 năm 2007 www.markets4poor.org

Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

  • Upload
    foreman

  • View
    5.890

  • Download
    0

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Thị trường lao động nông thôn và vấn đề di cư

Citation preview

Page 1: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

Nâng cao Hiệu quả Thị trường cho người nghèo

tài liệu tham luận

ADB

Số 18

Thị trường lao động nông thôn

và Vấn đề di cư

Tháng 3 năm 2007

www.markets4poor.org

Page 2: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

Lien he: NGAN HANG PHAT TRIEN CHAU A Co quan Dai dien Thuong tru tai Viet Nam Phong GF02,Toa nha Mat troi Song Hong 23 Phan Chu Trinh, Ha Noi, Viet Nam Tel: +(844) 933 1374 Fax: +(844) 933 1373 Website: www.markets4poor.org

B¶n quyÒn: Ng©n hμng Ph¸t triÓn Ch©u ¸ 2006 Ng©n hμng Ph¸t triÓn Ch©u ¸ ®−îc gi÷ b¶n quyÒn víi cuèn s¸ch nμy Quan ®iÓm tr×nh bμy trong cuèn s¸ch nμy lμ quan ®iÓm cña c¸c t¸c gi¶. Nh÷ng quan ®iÓm nμy kh«ng nhÊt thiÕt ph¶n ¸nh quan ®iÓm vμ chÝnh s¸ch cña Ng©n hμng Ph¸t triÓn Ch©u ¸ hay cña Ban ®iÒu hμnh Ng©n hμng hay cña c¸c chÝnh phñ mμ c¸c nhμ qu¶n lý ng©n hμng ®¹i diÖn. Ng©n hμng Ph¸t triÓn Ch©u ¸ kh«ng ®¶m b¶o tÝnh chÝnh x¸c cña c¸c d÷ liÖu ®−îc tr×nh bμy trong Ên phÈm nμy vμ kh«ng chÞu tr¸ch nhiÖm vÒ bÊt cù hËu qu¶ nμo do viÖc sö dông c¸c d÷ liÖu nμy g©y ra. ViÖc sö dông thuËt ng÷ “®Êt n−íc, n−íc” kh«ng hμm ý sù b×nh luËn cña c¸c t¸c gi¶ hoÆc cña Ng©n hμng Ph¸t triÓn Ch©u ¸ vÒ t− c¸ch ph¸p nh©n hay c¸c vÞ thÕ kh¸c cña bÊt cø vïng l·nh thæ nμo.

Page 3: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 1

Mục lục

1. Tổng quan...............................................................................................................................................2

2. Thị trường lao động nông thôn và di cư nông thôn ở Việt Nam.................................................4

2.1. Thị trường lao động nông thôn Việt Nam ................................................................. 4

2.2. Tình hình di cư nông thôn Việt Nam......................................................................... 5

3. Tác động của di cư tới thị trường lao động nông thôn – phân tích ở mức hộ gia đình ..........6

3.1 Mô hình lý thuyết........................................................................................................ 6

3.2. Dạng hàm thực nghiệm.............................................................................................. 8

3.3 Kết quả hồi qui............................................................................................................ 9

3.3.1 Di cư và cầu lao động nông thôn ............................................................................. 9

3.3.2 Phân bổ lao động của hộ ở khu vực nông thôn:..................................................... 12

3.3.3 Năng suất lao động của hộ ..................................................................................... 13

4. Tác động của di cư tới thị trường lao động nông thôn – 8 trường hợp nghiên cứu về tác

động và nhận thức về tác động ở cấp độ xã ...................................................................................... 15

4.1. Các nguồn số liệu..................................................................................................... 15

4.2. Các đặc điểm di cư................................................................................................... 16

4.3. Chi tiêu từ tiền gửi về và cầu lao động địa phương ................................................. 18

4.4 Ảnh hưởng của di cư đối với các doanh nghiệp và trường học ................................ 19

4.5 Nhận thức về tác động của di cư đến cộng đồng, các hộ gia đình và người di cư.... 20

4.5.1 Tác động đối với cộng đồng .................................................................................. 20

4.5.2. Tác động tới các hộ di cư...................................................................................... 22

4.5.3 Tác động tới những người di cư ............................................................................ 23

5. Kỳ vọng về di cư trong tương lai và đánh giá các lựa chọn chính sách .................................. 24

5.1. Kỳ vọng về di cư trong tương lai ............................................................................. 24

5.2 Đánh giá các lựa chọn chính sách............................................................................. 24

6. Các kiến nghị chính sách .................................................................................................................. 26

Page 4: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 2

1. Tổng quan

Sự phát triển kinh tế ở cả nông thôn và thành thị không những đã thúc đẩy sự phát triển ở nông thôn Việt Nam mà còn đặt ra các vấn đề thách thức cho khu vực này. Năng suất nông nghiệp tăng cao trong thời gian qua, một mặt đã giúp đảm bảo an ninh lương thực cho đât nước, mặt khác tạo ra sự dôi dư lao động ở nông thôn. Với điều kiện khan hiếm diện tích đất ở nông thôn, đặc biệt là đất nông nghiệp và sự tăng trưởng dân số cao so với khu vực thành thị, vấn đề dư thừa lao động ngày càng cộm lên ở nông thôn và trở nên nghiêm trọng hơn trong suốt 20 năm qua. Thất nghiệp và bán thất nghiệp đã và đang trở thành vấn đề lớn vì khả năng tạo ra việc làm cho lao động ở nông thôn là rất yếu. Tất cả các nhân tố này cùng với khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông thôn đã sinh ra các dòng di cư từ nông thôn ra thành thị. Cùng với quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá vẫn đang tiếp diễn ở Việt Nam, khu vực thành thị sẽ tiếp tục được mở rộng và vùng nông thôn ngày càng bị thu hẹp lại. Áp lực đối với khu vực nông thôn sẽ gia tăng và vì vậy, không thể tránh khỏi thực tế về các dòng di cư lao động lớn từ nông thôn ra thành thị trong thời gian tới.

Khá nhiều mặt khác nhau của quá trình di cư ở Việt Nam đã được phân tích trong các nghiên cứu, tuy nhiên, rất ít sự chú ý được dành cho vai trò của di cư đối với việc phát triển thị trường lao động nông thôn và phát triển nông thôn nói chung. Hầu hết các nghiên cứu phân tích các hình thức, động cơ và các mặt kinh tế xã hội khác của di cư (Đặng N. A và Nguyễn T.L (2006)), tuy nhiên, tác động của di cư chủ yếu được phân tích ở khu vực thành thị và tổng quát hơn là ở những đầu đến của di cư, chẳng hạn như Đặng N. A và Lê B.D (2001) nghiên cứu sự di cư của phụ nữ và gắn kết với vùng đô thị. Trong khi đó Hà T. P. T và Hà Q.N (2000) lại phân tích những vấn đề khác nhau của di cư tự do từ nông thôn và thành thị của phụ nữ. Một số nghiên cứu tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến di cư và tác động của di cư chủ yếu tới các vùng đô thị như Đặng N. A và Lê (2001), Đặng N. A và các cộng sự (2006), Thân V. L (1997) và Nguyễn V.T (1998). Thực tế, có rất ít nghiên cứu đề cập phần nào tới tác động của di cư đến các vùng xuất phát của di cư. Thân V. L (1997) và Đỗ V. H (1999) có đề cập nhưng hai nghiên cứu trên phân tích các tác động này ở một mức độ khá khiêm tốn.

Tuy nhiên, tác động của di cư bao gồm cả tác động tích cực và tiêu cực tới vùng xuất phát di cư không nên bị bỏ qua. Các lợi ích tiềm năng đối với các vùng xuất phát di cư có thể kể đến: i) Làm giảm nhẹ tình trạng dư thừa lao động nông thôn; ii) Kiều hối; iii) Kỹ năng và iv) Đầu tư ((iii) và (iv) do lao di cư trở về địa phương tạo nên) và các tác động tiêu cực có thể bao gồm chẳng hạn như “chảy máu chất xám” của những người di cư có trình độ cao một cách tương đối, sự khan hiếm lao động nông nghiệp, các vấn đề xã hội v.v… Cần lưu ý rằng mối quan hệ giữa di cư và thị trường lao động nông thôn hay phát triển nông thôn là một “dòng chảy”, tức là chúng tương tác lẫn nhau. Vì vậy, ít nhất các tác động “hai vòng” sẽ được xem xét trong nghiên cứu này.

Do sự thiếu vắng các nghiên cứu về tác động của di cư đến các vùng xuất phát di cư, một điều lô-gic và cũng là một thực tế là cho đến nay có rất ít các nghiên cứu về tiềm năng của việc tạo lập các chính sách nhằm tối đa hoá lợi ích do di cư đem lại đối với các vùng nông thôn xuất phát di cư. Thân Văn Liên (1997) đưa ra một số giải pháp mang tính chất gợi ý cho vùng nông thôn xuất phát di cư chỉ với mục tiêu ngăn cản các dòng di cư tự do lớn từ nông thôn ra thành thị ở Việt Nam chẳng hạn như giúp đỡ nông dân trong việc mở rộng sản xuất nông nghiệp, củng cố cơ sở hạ tầng v.v… Tuy nhiên, các chính sách này mặc dù đề cập đến các vùng nông thôn xuất phát di cư, nhưng không được thiết kế nhằm nâng cao lợi ích của những vùng này. Cho đến hiện nay, mới có rất ít chính sách đề cập đến tiềm năng cải thiện sự phát triển nông thôn từ những lợi ích của di cư ở Việt Nam. Trong một

Page 5: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 3

cách nhìn tương tự nhưng rộng hơn của di cư quốc tế, Taylor và các cộng sự (1996) cho rằng: “Các chính sách của chính phủ phản ánh một mối liên kết rất chặt chẽ giữa di cư và phát triển….. Hơn là can thiệp trực tiếp vào thị trường lao động, các chính phủ mà muốn giảm các dòng di cư đi thì cần phải có ý định sửa chữa những khiếm khuyết ở các thị trường vốn và thị trường rủi ro trong nước, bằng cách đưa ra các lựa chọn khác nhau về tín dụng hộ và bảo hiểm đối với di cư.” Đó chỉ là một vài trong số các chính sách di cư có thể được tạo lập mà các cấp chính quyền có thể xem xét áp dụng nhằm thúc đẩy sự phát triển của các vùng di cư xuất phát.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc di cư đối với chính quê nhà của họ và sự thiếu vắng các nghiên cứu về các vấn đề nêu trên, nghiên cứu này được thực hiên nhằm: i) Mô tả thị trường lao động nông thôn và di cư ở Việt Nam; (ii) Phân tích tác động của các dòng di cư đối với thị trường lao động nông thôn, và iii) Đề xuất các chính sách về di cư để tối đa hóa lợi ích ở cấp địa phương.

Câu hỏi nghiên cứu chính ở đây là “Những tác động có thể của di cư đối với thị trường lao động nông thôn tại những nơi có dân đi là gì và những chính sách nào có thể tối đa hoá lợi ích của di cư đi đối với phát triển nông thôn?”. Nghiên cứu này tập trung phân tích tác động của di cư trên 2 cấp độ: những tác động đối với hộ gia đình và những tác động đối với xã có di dân.

Ở cấp độ hộ gia đình, nghiên cứu về cơ bản phân tích tác động của di cư đến cầu lao động hộ ở nông thôn bao gồm các quyết định của hộ và các hệ quả của nó. Một số câu hỏi nghiên cứu cụ thể trong nghiên cứu bao gồm: i) Di cư ảnh hưởng như thế nào đến việc phân bổ lực lượng lao động nông nghiệp, phi nông nghiệp và lao động làm công ăn lương của hộ gia đình ?; ii) Di cư ảnh hưởng như thế nào đến việc lựa chọn ngành nghề trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp; và iii) Di cư ảnh hưởng như thế nào đến năng suất lao động trong các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp?.

Ở cấp độ xã, phân tích cũng được thực hiện nhằm nghiên cứu tác động của di cư đến thị trường lao động cũng như về khía cạnh chi tiêu. Các giả thuyết chính được kiểm nghiệm trong phân tích là: i) Những người sử dụng lao động ở những vùng có di cư tương đối cao phải đối mặt với các vấn đề về thay thế lao động, có lợi nhuận ít hơn và thị trường nhỏ hơn do tác động của di cư; ii) Di cư không chỉ tốt cho bản thân người di cư mà còn tốt cho cả gia đình của họ và địa phương (xã); và iii) Cấu trúc chi tiêu từ tiền người di cư gửi về của các hộ có người di cư thay đổi và có tác động tích cực tới sự phát triển của địa phương.

Nguồn thông tin quan trọng được sử dụng để phân tích “tác động tại cấp xã” là kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu tại các vùng nông thôn trong cả nước. Cuộc khảo sát này được thiết kế phục vụ cho mục đích riêng của nghiên cứu này và được tiến hành tại 8 xã (thuộc 5 tỉnh) nơi mà gần đây có tỷ lệ di cư đi cao (kể từ năm 1993) và cũng là nơi đã được khảo sát bởi tất cả các cuộc Điều tra Mức sống Hộ gia đình Việt Nam. Để đảm bảo tính đại diện trên toàn quốc và sự cân đối giữa các vùng, 4 xã ở miền Bắc (thuộc 3 tỉnh) và 4 xã khác (thuộc 2 tỉnh) ở miền Nam đã được chọn. Đại diện các Uỷ ban Nhân dân Xã, các hộ gia đình có người di cư, các hộ gia đình không có người di cư, các doanh nghiệp và trường học đã được phỏng vấn để có thể thu được các thông tin và nhận thức khác nhau về tình hình di cư ở địa phương. Cùng với các nguồn dữ liệu thứ cấp khác, nghiên cứu này có sử dụng một phần số liệu từ các cuộc Điều tra Mức sống Hộ gia đình Việt Nam và tập trung khai thác bộ số liệu VHLSS2004. Những số liệu này được sử dụng để lượng hoá tác động của di cư đối với thị trường lao động nông thôn tại cấp hộ gia đình.

Nghiên cứu sử dụng kết hợp cả hai phương pháp phân tích định lượng và phân tích

Page 6: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 4

định tính khi phân tích tác động của di cư ở cả hai cấp độ hộ gia đình và cấp xã. Về mặt định lượng, mô hình bài toán kinh tế hộ của BENJAMIN (1992) được sử dụng để phân tích tác động của di cư ở cấp độ hộ gia đình và các hồi qui logit thứ tự được dùng để phân tích tác động này ở cấp độ xã cũng như đối với kỳ vọng về di cư trong tương lai và đánh giá đối với các lựa chọn chính sách nhằm tối đa hoá lợi ích cho thị trường lao động nông thôn và phát triển nông thôn.

2. Thị trường lao động nông thôn và di cư nông thôn ở Việt Nam

Thị trường lao động nông thôn Việt Nam hiện nay có đặc trưng là dư thừa lao động, chủ yếu là lao động nông nghiệp và có rất ít việc làm công trong lĩnh vực nông nghiệp. Bức tranh di cư nông thôn của Việt Nam được minh họa bởi di cư theo kế hoạch và di cư trong nền kinh tế thị trường. Mặc dù di cư theo kế hoạch đã đạt được một số những thành tựu quan trọng, ngày nay di cư theo thị trường được quan tâm nhiều hơn.

2.1. Thị trường lao động nông thôn Việt Nam

• Dư thừa lao động lớn ở nông thôn: Trong tổng số hơn 82 triệu người Việt Nam, hiện vẫn có gần 60,4 triệu người hay 73,68% tổng dân số sống ở nông thôn. Vì cơ cấu dân số nông thôn có tỷ lệ lao động trẻ cao, lực lượng lao động nông thôn vẫn tiếp tục tăng lên với khoảng 0,5 triệu người mỗi năm. Hệ quả là, có một lượng dư thừa lao động lớn ở nông thôn Việt Nam. Mặc dù số liệu chính thức về tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn vẫn thấp hơn đáng kể so với thành thị (1,18% so với 5,6%, năm 2004), tình trạng thất nghiệp ở đây tương đối phổ biến.

• Việc làm nông nghiệp ở nông thôn: Trong cơ cấu lao động nông thôn 10 năm gần đây, tỷ lệ lao động làm việc trong công nghiệp và dịch vụ đã tăng từ 10,88% năm 1996 lên 17,35% năm 2004. Cũng trong khoảng thời gian này, lực lượng lao động làm việc trong nông nghiệp đã giảm xuống đáng kể (CIEM, 2006). Xu hướng việc làm như vậy ở vùng nông thôn tiếp tục được khẳng định trong Bảng 2.1.

Bảng 2.1: Việc làm phi nông nghiệp theo vùng

Điều tra Mức sống Việt Nam (giờ lao động)

Điều tra Lao động và Việc làm

1997 2001 2004 1997 2001 2004 Vùng núi phía Bắc 11,01 34,29 36,31 12,96 15,75 19,61 Đồng bằng Sông Hồng 19,35 52,12 56,58 26,31 33,54 43,56 Ven biển Bắc Trung bộ 20,49 40,85 45,70 24,15 31,58 34,44 Ven biển Nam Trung bộ 22,39 51,62 52,93 31,20 42,67 50,72 Tây nguyên 8,54 33,42 32,91 19,88 22,29 23,66 Đông Nam bộ 40,18 53,53 55,36 45,63 51,56 56,58 Đồng bằng sông Cửu long 28,95 48,33 48,02 33,71 37,88 39,25 Cả nước 21,69 45,46 47,15 27,69 33,61 38,26

Nguồn: Lê X.B. và các cộng sự (CIEM, 2006) Tuy nhiên, hiện nay việc làm ở nông thôn Việt Nam vẫn đặc trưng bằng việc làm nông nghiệp với hơn 60% lao động ở vùng nông thôn làm việc trong lĩnh vực này, và khoảng 52% tổng thời gian làm việc của lao động ở các vùng nông thôn được dành cho công việc nông nghiệp

• Việc làm tự tạo và việc làm công ở nông thôn: Tính từ năm 1997 trong cả nước, việc làm tự tạo đã liên tục tăng lên trong khu vực phi nông nghiệp trong khi việc làm tự tạo nông nghiệp lại giảm xuống. Tỷ lệ việc làm tự tạo phi nông nghiệp đã tăng gấp đôi từ

Page 7: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 5

10,9% đến 20,3% trong tổng việc làm tự tạo ở nông thôn trong giai đoạn từ 1997 đến 2004. Ngược lại, việc làm tự tạo trong khu vưc nông nghiệp đã thống trị với 83,26% trong năm 2001 và 79,62% trong năm 2004. Những số liệu này tiếp tục khẳng định đặc điểm của nền kinh tế nông nghiệp có tính tự cấp của Việt Nam.

Khác với việc làm tự tạo, việc làm công ở vùng nông thôn cho thấy một xu hướng tương tự như xu hướng của việc làm phi nông nghiệp. Gần 90% việc làm công ở vùng nông thôn là việc làm phi nông nghiệp. Thị trường lao động nông thôn đang thay đổi theo xu hướng khu vực phi nông nghiệp tiếp tục chiếm phần lớn việc làm công. Về mặt này, khu vực phi nông nghiệp của Đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ việc làm công cao nhất trong các năm 1997 – 2004, và những tỷ lệ này tăng dần lên. Nhưng ở đồng bằng sông Mê-kông thì lại khác. Mặc dù, khu vực phi nông nghiệp vẫn chiếm một phần lớn trong cơ cấu việc làm công (73,72% trong năm 2004), tỷ lệ việc làm công trong nông nghiệp của vùng này vẫn cao nhất trong cả nước.

2.2. Tình hình di cư nông thôn Việt Nam

Di cư đã diễn ra từ lâu tại Việt Nam. Hầu hết các hoạt động di cư đều có liên quan đến khu vực nông thôn bao gồm di cư từ nông thôn đến nông thôn và từ nông thôn đến thành thị. Do đặc điểm này, di cư ở Việt Nam có thể được xem là di cư nông thôn. Có một điểm chung là từ trước đến nay, tình hình di cư vẫn liên tục tăng lên.

Di cư theo kế hoạch: Trong thời kỳ này, do thiếu đất canh tác ở các vùng đồng bằng, di cư được tổ chức bởi chính quyền, và chủ yếu là để đưa người từ vùng nông thôn này đến các vùng nông thôn khác để thực hiện các kế hoạch phát triển khác nhau. Dòng di cư lớn nhất trong thời kỳ này là di cư từ đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long đến Tây nguyên. Một số dòng di cư đi đến các khu vực miền núi phía bắc và số khác đến các vùng biên giới. Có thể nói rằng mặc dù di cư theo kế hoạch đã đạt được một số thành tựu, song nó đã không huy động được tính tự chủ và và sự tham gia của những người trực tiếp chịu sự ảnh hưởng của chính sách.

Di cư trong nền kinh tế thị trường: Một loại di cư đa dạng hơn bắt đầu từ thời kỳ đổi mới. Loại di cư này chủ yếu do các động lực về kinh tế thúc đẩy, do vậy được xem là di cư trong nền kinh tế thị trường. Do đó, nơi đến của dòng di cư thị trường này là các tỉnh có mức độ công nghiệp hóa cao hơn, trong đó, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Quảng Ninh và Đà Nẵng là 5 nơi đến quan trọng nhất. Đồng thời, những nơi đi chủ yếu bao gồm Thanh Hóa, Nam Định, Thái Bình, Hà Tây và Quảng Nam. Trong số 5 tỉnh có nhiều người đến nhất trong giai đoạn 2002-2004, các dòng di cư có tính tập trung cao và chủ yếu đến Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Bình Dương. Trong khi các dòng di cư đi lại phân bố đều hơn theo 5 nơi đi chủ yếu. Khi xem xét kỹ hơn, chúng ta thấy các dòng di cư di chuyển từ tỉnh có GDP trên đầu người thấp, chỉ số Phát triển Con người thấp và tỷ lệ thất nghiệp cao đến các tỉnh có GDP trên đầu người cao, chỉ số phát triển con người cao và tỷ lệ thất nghiệp thấp.

Trong năm 2004, tỷ lệ những người rời khỏi gia đình ở vùng ven biển Nam bộ là 3,38%, đây là tỷ lệ cao nhất khi so sánh theo vùng. Tỷ lệ này ở vùng đồng bằng Sông Hồng, ven biển Bắc Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long là xấp xỉ 1%. Khi đề cập đến nơi đến, vùng Đông Nam bộ có tỷ lệ người di cư cao nhất so với 8 vùng trong cả nước với 4,16% trong tổng lực lượng lao động, vùng này nhận được 67% tổng số người di cư trong cả nước và tiếp đó là vùng Đông Bắc bộ, đồng bằng sông Hồng với tỷ lệ tương ứng là 11%

Page 8: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 6

và 8%.1

Phân tích di cư theo trình độ học vấn và lý do di cư: Có thể thấy trình độ học vấn của những người di cư từ đồng bằng sông Hồng là tốt nhất. Có tới 35,53% trong tổng số những người di cư đi khỏi vùng này có trình độ phổ thông trung học, và 5,8% trong số họ tốt nghiệp đại học. Vùng Đông Bắc bộ và vùng Đông Nam bộ là những vùng tiếp theo có trình độ học vấn của người di cư đi cao với 25,87% và 28,8% là các tỷ lệ tương ứng số người nhập cư từ các vùng này có trình độ trung học phổ thông, trong khi tỷ lệ tốt nhiệp đại học tương ứng là 2,85% và 2,59%. Các vùng tiếp nhận dân di cư ở miền Bắc dễ dàng thu hút lao động nhập cư có trình độ cao hơn (45% những người nhập cư có trình độ trung học phổ thông), trong khi đó, mặc dù có nền tảng phát triển công nghiệp hoá mạnh hơn, các vùng tiếp nhận dân đến ở miền Nam khó có được lao động nhập cư có học vấn cao (80% những người nhập cư vào những vùng này chỉ có trình độ trung học cơ sở).

Trong số những lý do di cư, tìm việc làm và điều kiện sống tổt hơn là những lý do chủ yếu của những người di cư hiện đang sinh sống và làm việc ở các thành phố và các vùng khác nhau.

3. Tác động của di cư tới thị trường lao động nông thôn – phân tích ở mức hộ gia đình

Di cư xuất phát từ hộ gia đình, vì vậy tác động trực tiếp của nó cũng tập trung ở hộ gia đình (TAYLOR ET AL. 1996). Hai ảnh hưởng quan trọng nhất liên quan đến cung lao động và thu nhập chuyển giao. Hộ gia đình có các thành viên di cư sẽ đối mặt với sự sụt giảm cung lao động nhưng thường có thêm thu nhập gửi về đáng kể. Trong phần này chúng tôi sẽ nghiên cứu tác động của việc cá nhân di cư tới các hộ gia đình ở vùng nông thôn Việt nam với việc phân tích 3 vấn đề nghiên cứu chính: i) Di cư ảnh hưởng như thế nào đến việc phân bổ lực lượng lao động nông nghiệp, phi nông nghiệp và lao động làm công ăn lương của hộ gia đình? ii) Di cư ảnh hưởng như thế nào đến việc lựa chọn ngành nghề trong từng lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp? và iii) Di cư ảnh hưởng như thế nào đến năng suất lao động trong các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp?.

3.1 Mô hình lý thuyết

Cơ sở lý thuyết ở đây dựa trên mô hình ‘không phân tách’ của hộ gia đình nông dân. Mô hình này là động lực phát triển của kinh tế học mới về di cư lao động (BENJAMIN 1992). Mô hình này khái quát hơn mô hình ‘phân tách’ cổ điển của hộ gia đình và nó cho phép có tồn tại lao động dư thừa kiểu Lewis (năng suất lao động cận biên bằng không). Do đó, mô hình này là mô hình khái quát nhất và phù hợp với tình trạng thị trường chưa hoàn hảo của Việt nam hiện nay.

Mô hình bài toán của hộ của BENJAMIN (1992) được sử dụng trong nghiên cứu có dạng tổng quát sau:

);,(max,,,,,

alcuODODFHW LLLLLlc − (1)

bị ràng buộc bởi: )();,( aywLwLALLFc WHDODF ++−= (2)

)(aTLLLl WOF =+++ (3) 1 Điều tra Lao động và Việc làm, 2004 (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội)

Page 9: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 7

HOFDODF LLLLL ++=+ (4) trong đó: u(c,l;a) là một hàm lợi ích gần lõm có thể lấy đạo hàm hai lần c tiêu dùng của hộ gia đình l thời gian nghỉ ngơi của hộ gia đình a làm một vec-tơ đặc tính của hộ gia đình (trong đó có các biến di cư) A đất đai LDF nhu cầu lao động nông nghiệp của hộ gia đình LDO nhu cầu lao động phi nông nghiệp của hộ gia đình F(LDF,LDO;A) là hàm sản suất thông thường có thể đạo hàm 2 lần LF cung lao động cho các hoạt động nông nghiệp LO cung lao động cho các hoạt động phi nông nghiệp LW cung lao động làm công ăn lương LH lao động đi thuê w lương cho LH và LW

T(a) quĩ thời gian y(a) thu nhập ngoại lai Kết hợp (2)-(4) cho ta ràng buộc thu nhập tổng hợp:

YayawTALLwwlc DODF =++=+ )()();,,(π (5)

trong đó DODFDODFDODF wLwLALLFALLw −−= );,();,,(π (6)

Quá trình tối ưu hóa có thể diễn ra lần lượt, đầu tiên tối ưu hóa hàm lợi nhuận theo LDF và LDO sau đó tối đa hóa hàm lợi ích theo c và l với ràng buộc về thu nhập, phương trình (5), với hàm lợi nhuận tối ưu [π*=π(w,LDF*,LDO*;A)]. Như vậy, lợi nhuận sẽ được tối đa hóa độc lập so với các sở thích và cung lao động của hộ gia đình. Bản chất lần lượt của quá trình tối đa hóa này gọi là đặc điểm ‘phân tách’.

Với đặc điểm ‘phân tách’, lao động thực tế được sử dụng trong nông nghiệp và phi nông nghiệp có thể được xác định từ lời giải của hệ phương trình đạo hàm bậc nhất của hàm lợi nhuận:

wALLF DODFLDF =);,( (7)

wALLF DODFLNDF =);,( (8)

và lời giải này có thể được thể hiện bằng một hàm số của lương và đất đai: LDF*(w;A) và LDO*(w;A). Nhu cầu lao động chỉ phụ thuộc vào công nghệ sản xuất và lương, không phụ thuộc vào các sở thích của hộ gia đình.

Với đặc điểm ‘phân tách’, các đặc điểm của hộ gia đình (trong đó có di cư) không thể ảnh hưởng tới nhu cầu lao động LDF* và LDO* (và năng suất lao động F/L). Khi thị trường lao động đã phát triển, lao động đi thuê có thể thay thế hoàn hảo cho những người di cư, và sản xuất của hộ gia đình sẽ không bị ảnh hưởng.

Tuy vậy, như BENJAMIN (1992) đã chỉ ra, đặc điểm ‘phân tách’ sẽ không giữ được trong một vài trường hợp. Những trường hợp đó là: (1) Ràng buộc đối với lao động phi nông nghiệp có hiệu lực; (2) Nhu cầu lao động làm thuê quá lớn; và (3) lao động của hộ gia đình và lao động được thuê là không thể thay thế cho nhau. Những điều kiện trên nhằm đảm bảo

Page 10: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 8

cho lợi nhuận bị ràng buộc và sản phẩm cận biên của lao động tại điểm tối ưu không bằng được với mức lương (w) trên thị trường như phương trình (7) và (8). Nếu những điều kiện này xảy ra, sản phẩm cận biên của lao động tại điểm tối ưu (còn gọi là lương ẩn) không bằng với mức lương thị trường, và mức lương ẩn sẽ phụ thuộc vào sở thích của hộ gia đình. Khi đó, di cư sẽ ảnh hưởng đến lựa chọn lao động thông qua lương ẩn.

3.2. Dạng hàm thực nghiệm

Theo BENJAMIN (1992), chúng ta giả định hàm cầu lao động tối ưu có dạng log-tuyến tính:

AwL DFDFDFDF ln*lnln γβα ++= (9)

AwL DODODODO ln*lnln γβα ++= (10)

Cũng theo BENJAMIN (1992) chúng ta giả định hàm lương ẩn có dạng tích số:

wamAaw )(),(* = (11)

trong đó m(a) được lựa chọn sao cho nó bằng 1 khi giả thuyết không ‘phân tách’ xảy ra (tức là khi di cư không có ảnh hưởng tới cầu lao động của hộ gia đình) và có dạng2:

)1()( aam δ+= (12)

Trong trường hợp giả thuyết không, tức là đặc điểm ‘phân tách’ đúng, δ≈0 và lô-ga-rít tự nhiên của lương ẩn có thể được ước lượng:

aww δ+= ln*ln (13)

Khi đó hàm cầu lao động có thể được đơn giản như sau

aAwL DFDFDFDFDF δγβα +++= lnlnln (14)

aAwL DODODODODO δγβα +++= lnlnln (15)

trong đó δDF=δβDF, δDO=δβDO.

Nếu δDF≠0 và δDO≠0, đặc biệt nếu hệ số của các biến di cư khác không, chúng ta loại bỏ giả thuyết ‘phân tách’ chấp nhận trường hợp không phân tách, và di cư sẽ có ảnh hưởng tới cầu lao động của hộ gia đình. Khi có di cư, chúng ta kỳ vọng là những thành viên còn lại sẽ lao động chăm chỉ hơn để bù đắp cho sự sụt giảm T(a), nhưng nếu không được bù đắp toàn phần cung lao động sẽ giảm (và F/L tăng lên). Tuy nhiên, nếu lao động dư thừa và sản phẩm cận biên của lao động bằng không [mô hình Lewis, xem LEWIS (1954)] thì các thành viên của hộ gia đình có thể sẽ không chăm chỉ hơn. Do vậy, cung lao động sẽ chỉ có thể xác định bằng nghiên cứu thực nghiệm.

Với hàm cầu lao động được biểu diễn ở trên và với hàm sản xuất có dạng Cobb-Douglas, năng suất lao động nông nghiệp và phi nông nghiệp có thể được biểu diễn như sau:

2 Ở đây chúng tôi cũng bỏ qua đât đai trong hàm m(a) do những lý do tương tự như BENJAMIN (1992) đã

chỉ ra: chúng tôi chỉ quan tâm đến tác động của di cư tới lượng lao động tối ưu mà hộ gia đình sử dụng, không phải là để tính lương ẩn. Dầu sao thì việc thêm đất đai vào cũng không ảnh hưởng nhiều đến kết quả tính toán.

Page 11: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 9

AbaAwacLAbLacLY

DFDFDFDFDFDFDF

DFDFDFDFDFDFF

ln]lnln)[1(lnlnln)/ln(

++++−+=

−++=

δγβα (16)

AbaAwacLAbLacLY

DODODODODODODO

DODODODODODOO

ln]lnln)[1(lnlnln)/ln(

++++−+=

−++=

δγβα (17)

Như vậy, năng suất lao động có thể được nghiên cứu giống như cầu lao động.

3.3 Kết quả hồi qui

Mô hình thực tế được chạy chủ yếu dựa trên bộ cơ sở dữ liệu của Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2004. Ảnh hưởng của di cư vĩnh viễn và di cư ngắn hạn được xem xét một cách riêng biệt. Di cư vĩnh viễn là những người đã rời khỏi hộ gia đình3 lâu dài để đi lao động. Trong khi đó, người di cư ngắn hạn là những người là thành viên của hộ gia đình nhưng ở trong hộ ít hơn 6 tháng trong vòng 12 tháng qua. Chúng tôi nhận thấy rằng, mô hình được thể hiện tốt hơn khi sử dụng các biến di cư là tỷ lệ của những người di cư trên tổng số người trong hộ gia đình so với trường hợp dùng biến giả di cư. Các biến khác có liên hệ trực tiếp tới hiện tượng di cư là lượng tiền người lao động chuyển về gia đình, cả tiền gửi về từ trong nước lẫn kiều hối. Để tránh vấn đề qui mô, chúng tôi cũng sử dụng tỷ số giữa tiền gửi về và thu nhập của hộ gia đình chứ không phải là số tuyệt đối.

3.3.1 Di cư và cầu lao động nông thôn

Di cư và mức cầu lao động tối ưu đối với các hoạt động nông nghiệp

Bảng 3.1 cho thấy những kết quả ước lượng cầu lao động đối với các hoạt động nông nghiệp. Do vấn đề nội sinh của di cư, chúng tôi đã ước lượng 3 phương trình của cầu lao động: bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS) của phương trình (14), OLS của phương trình (14) với các đặc điểm của xã, OLS với các đặc điểm của xã và biến giả của tỉnh. Việc thêm các đặc điểm của xã và biến giả của tỉnh không thay đổi đáng kể hệ số của các biến di cư (chúng không có ý nghĩa ở cả ba kết quả ước lượng các phương trình), do đó vấn đề nội sinh không quan trọng đối với kết quả tính toán của chúng tôi. Mặc dù vậy, kết quả ước lượng vẫn ủng hộ giả thuyết không ‘phân tách’.

Bảng 3.1: Kết quả ước lượng hàm cầu lao động nông nghiệp.

Bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS)

OLS với các đặc điểm của xã

OLS với các đặc điểm của xã và biến giả của tỉnh†

Log lương -0,212 -0,102 -0,051

[4,90]*** [2,18]** [0,95]

Log diện tích đất sử dụng 0,212 0,199 0,209

[17,12]*** [14,70]*** [13,74]***

Tỷ lệ di cư vĩnh viễn 0,113 0,122 0,000

[0,51] [0,55] [0,00]

Tỷ lệ di cư ngắn hạn 0,021 0,030 0,048

[0,45] [0,63] [1,12]

3 Tức là họ có trong hộ gia đình trong cuộc điều tra 2002, nhưng hiện nay không còn là thành viên của hộ

gia đình (năm 2004).

Page 12: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 10

Bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS)

OLS với các đặc điểm của xã

OLS với các đặc điểm của xã và biến giả của tỉnh†

Tiền kiều hối -0,286 -0,266 -0,227

[0,99] [0,94] [0,89]

Tiền người lao động chuyển về từ trong nước -0,263 -0,241 -0,219

[1,13] [1,04] [0,92]

Dân tộc của chủ hộ -0,195 -0,057 -0,080

[7,07]*** [1,33] [1,85]*

Chủ hộ hiện tại là người đơn chiếc -0,208 -0,205 -0,208

[4,76]*** [4,67]*** [4,85]***

Qui mô hộ gia đình 0,123 0,126 0,122

[17,29]*** [17,50]*** [17,56]***

Tỷ lệ nữ giới -0,063 -0,077 -0,056

[0,87] [1,06] [0,80]

Tỷ lệ trẻ em -0,719 -0,764 -0,804

[8,85]*** [9,28]*** [9,88]***

Mức độ nghèo đói theo phân loại của địa phương -0,081 -0,052 -0,059

[2,24]** [1,39] [1,63]

Loại nhà ở -0,059 -0,062 -0,068

[2,26]** [2,30]** [2,43]**

Trình độ học vấn của chủ hộ -0,061 -0,068 -0,073

[5,27]*** [5,73]*** [6,19]***

Tỷ lệ vay 0,072 0,067 0,049

[0,79] [0,72] [0,53]

Tỷ lệ di cư vĩnh viễn ở xã 2,053 1,733

[2,38]** [2,01]**

Tỷ lệ di cư ngắn hạn ở xã 1,055 1,021

[2,57]** [2,32]**

Tỷ lệ di cư đến ngắn hạn ở xã -0,210 -0,079

[1,59] [0,50]

Tỷ lệ di cư đến vĩnh viễn ở xã -2,918 -2,771

[2,93]*** [2,76]***

Dân tộc chính ở xã -0,005 -0,019

[0,10] [0,38]

Tôn giáo ở xã -0,101 0,015

[3,86]*** [0,48]

Loại hình địa lý ở xã 0,074 0,000

[6,12]*** [0,02]

Mức độ nghèo của xã 0,010 -0,001

Page 13: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 11

Bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS)

OLS với các đặc điểm của xã

OLS với các đặc điểm của xã và biến giả của tỉnh†

[0,27] [0,03]

Mức độ xa xôi của xã -0,018 -0,029

[0,51] [0,83]

Hằng số 5,001 4,476 4,301

[27,54]*** [22,45]*** [16,93]***

Số lượng quan sát 3616 3557 3557

R2 0,3127 0,3246 0,3856

Kiểm định F của các biến di cư 0,64 0,61 0,74

Xác suất > F 0,636 0,6557 0,5618

Kiểm định F của các biến xã 9,31 2,20

Xác suất > F 0,000 0,0195

Kiểm định F của các biến giả của tỉnh 5,65

Xác suất > F 0,000

Kiểm định Robust t trong ngoặc; * Có ý nghĩa ở mức 10%; ** Có ý nghĩa ở mức 5%; *** Có ý nghĩa ở mức 1%. † Kết quả ước lượng cho các biến giả không được báo cáo ở đây để tránh dài dòng.

Kết quả hồi qui phương trình (14) đã loại bỏ giả thuyết ‘phân tách’ cho trường hợp các nông dân Việt nam. Bảng 3.1 cho thấy, mặc dù hệ số của các biến di cư không có ý nghĩa (Tỷ lệ di cư vĩnh viễn, Tỷ lệ di cư ngắn hạn, Kiều hối, Tiền người lao động chuyển về từ trong nước) và sự có mặt của tất cả các biến này cũng không có ý nghĩa thống kê, nhưng các hệ số của biến “Chủ hộ hiện tại là người đơn chiếc”, Qui mô hộ gia đình, Tỷ lệ trẻ em, Loại nhà, Trình độ học vấn của chủ hộ có ý nghĩa thống kê ít nhất ở mức 5%. Kiểm định F của các biến xã và biến giả của tỉnh có ý nghĩa thống kê ở mức ít nhất 2%. Điều này gợi ý rằng kết quả ước lượng phương trình (14) với đặc điểm của xã và biến giả của tỉnh là mô hình tốt nhất.

Mặc dù di cư không có ảnh hưởng trực tiếp tới cầu lao động nông nghiệp, di cư có thể ảnh hưởng tới cầu lao động nông nghiệp thông qua Qui mô hộ gia đình và Tỷ lệ trẻ em do hệ số của những biến này có ý nghĩa thống kê. Do chỉ có Qui mô hộ gia đình và Tỷ lệ trẻ em có ý nghĩa thống kê, tác động của di cư ngắn hạn và vĩnh viễn đối với cầu lao động nông nghiệp là như nhau. Thêm một người di cư khỏi một hộ gia đình bình thường sẽ làm giảm cầu lao động nông nghiệp tới 73 ngày công (từ 403 xuống 330 ngày công). Tuy nhiên, do số ngày làm việc trung bình trong năm trên mỗi một người trong độ tuổi lao động là 252 ngày, tổng cộng sự sụt giảm cầu lao động nông nghiệp vẫn nhỏ hơn số người di cư (một người/năm). Điều này có nghĩa là, những người ở lại đã làm nhiều hơn để bù đắp cho những người di cư.

Di cư và cầu lao động phi nông nghiệp tối ưu

Tương tự như trường hợp lao động nông nghiệp, kết quả ước lượng cũng phủ nhận giả thuyết ‘phân tách’ với hệ số của Tiền người lao động gửi về từ trong nước, Dân tộc của chủ hộ, Qui mô hộ gia đình, Tỷ lệ trẻ em, Mức độ nghèo đói theo phân loại của địa phương, Trình độ học vấn của chủ hộ có ý nghĩa thống kê ít nhất ở mức 10%. Hệ số của Kiều hối có ý nghĩa thống kê ở mức 5% khi đặc điểm của xã và biến giả của tỉnh được thêm vào.

Page 14: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 12

Mặc dù hệ số của các biến di cư (vĩnh viễn và ngắn hạn) không có ý nghĩa thống kê, di cư vẫn có tác động gián tiếp đến cầu lao động phi nông nghiệp thông qua Qui mô hộ gia đình, Tỷ lệ trẻ em và Tiền người lao động chuyển về. Di cư ngắn hạn sẽ có tác động âm rõ ràng tới cầu lao động phi nông nghiệp. Cùng với việc những người lớn di cư, Qui mô hộ gia đình giảm và Tỷ lệ trẻ em tăng lên, do vậy cả hai sẽ cùng có tác động tiêu cực đến cầu lao động phi nông nghiệp. Do di cư ngắn hạn chỉ có thể có tác động tới cầu lao động phi nông nghiệp thông qua 2 biến trên, nên tác động này là tiêu cực. Di cư vĩnh viễn sẽ tác động đến cầu lao động phi nông nghiệp thông qua tất cả các biến: Qui mô hộ gia đình, Tỷ lệ trẻ em và Tiền người lao động chuyển về. Tác động thông qua Qui mô hộ gia đình và Tỷ lệ trẻ em âm như đã nói ở trên. Tác động gián tiếp thông qua kiều hối cũng là tiêu cực theo như kết quả mô hình

Để có thể đánh giá mức độ ảnh hưởng của di cư, chúng tôi mô phỏng tác động của việc có thêm một người di cư khỏi hộ gia đình. Kết quả mô hình cho thấy một người là nam giới di cư vĩnh viễn có tác động lớn nhất đến cầu lao động phi nông nghiệp. Di cư ngắn hạn có tác động ít nhất. Nếu tính theo ngày công, một người là nam giới di cư vĩnh viễn sẽ làm giảm cầu lao động phi nông nghiệp từ mức trung bình 226 ngày công xuống còn 193 ngày công. Thêm một thành viên nữ di cư vĩnh viễn sẽ làm giảm nhu cầu lao động phi nông nghiệp từ mức trung bình xuốn còn 194 ngày công và một người di cư ngắn hạn sẽ giảm cầu lao động phi nông nghiệp trung bình xuống còn 208 ngày công. Những sự sụt giảm này nhỏ hơn so với mức ngày công lao động phi nông nghiệp trung bình (156 ngày công). Như vậy kết quả cho thấy những người còn lại trong hộ gia đình đã làm thêm để bù đắp cho những người đi khỏi hộ gia đình.

Bảng 3.2. Tác động của việc thêm một người di cư tới cầu lao động phi nông nghiệp (thay đổi log của cầu lao động phi nông nghiệp).

Ảnh hưởng gián tiếp thông qua Ảnh hưởng trực tiếp

Qui mô hộ gia đình

Tỷ lệ trẻ em Tiền người lao động gửi về từ trong

nước

Kiều hối

Tác động tổng cộng

Di cư ngắn hạn 0 -0,0544 -0,0293 N/A N/A -0,0837

Di cư vĩnh viễn –nam giới

0 -0,0544 -0,0293 -0,064 -0,009 -0,1568

Di cư vĩnh viễn –nữ giới

0 -0,0544 -0,0293 -0,0573 -0,009 -0,15

Chú ý: Mô phỏng được thực hiện với các biến được giữ ở mức trung bình.

3.3.2 Phân bổ lao động của hộ ở khu vực nông thôn:

Trong phần này, chúng tôi sẽ nghiên cứu tác động của di cư đến phân bổ lao động của hộ gia đình. Khác với phần trước, trong phần này lao động trong các hoạt động phi nông nghiệp sẽ bao gồm cả lao động phi nông nghiệp tự làm và lao động làm công ăn lương.

Các hoạt động nông nghiệp

Để nghiên cứu sự lựa chọn của hộ gia đình giữa các hoạt động nông nghiệp khác nhau, chúng tôi ước lượng một mô hình logit đa thức với trồng trọt là nhóm so sánh. Hoạt động chính của hộ gia đình được định nghĩa là hoạt động tạo ra thu nhập cao nhất cho hộ gia đình. Các biến độc lập bao gồm đặc điểm của hộ gia đình và biến giả của vùng. Có tất cả 8

Page 15: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 13

vùng từ Bắc vào Nam.

Kết quả mô hình ước lượng được cho thấy khác với trường hợp cầu lao động, di cư phần nào có tác động trực tiếp đến sự lựa chọn ngành nghề trong nông nghiệp. Cụ thể, di cư ngắn hạn chỉ có tác động tiêu cực trực tiếp tới xác suất lựa chọn ngành lâm nghiệp và săn bắn so với ngành trồng trọt. Một phần trăm tăng Tỷ trọng di cư ngắn hạn sẽ làm giảm 8,516% xác suất lựa chọn ngành lâm nghiệp và săn bắn so với ngành trồng trọt. Di cư vĩnh viễn cho thấy là không có tác động đến sự lựa chọn giữa lâm nghiệp và săn bắn và ngành trồng trọt. Hệ số của di cư vĩnh viễn không có ý nghĩa thống kê và hệ số của tiền người lao động gửi về, Qui mô hộ gia đình, Tỷ lệ trẻ em và nữ giới cũng như vậy.

Ngược lại, di cư chỉ có tác động gián tiếp đến xác suất lựa chọn ngành chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp so với trồng trọt. Di cư ngắn hạn tăng lên sẽ có tác động tích cực rõ ràng đến sự lựa chọn giữa ngành chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp và ngành trồng trọt do di cư làm giảm Qui mô hộ gia đình. Trong khi đó, di cư vĩnh viễn chỉ có tác động gián tiếp tới sự lựa chọn giữa ngành Chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp so với ngành trồng trọt. Mặc dầu vậy, chiều hướng tác động gián tiếp này phụ thuộc vào việc người di cư là nam hay nữ. Nếu tăng tỷ trọng những người di cư vĩnh viễn từ thấp đến cao với những người di cư tăng thêm là nam giới, tỷ số xác suất giữa việc lựa chọn ngành Chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp so với ngành trồng trọt giảm đi, trong khi cũng tăng tỷ lệ di cư vĩnh viễn như vậy với những người di cư là nữ trước tiên sẽ làm tăng tỷ số xác suất này và sau đó sẽ làm giảm nó khi tỷ lệ di cư vĩnh viễn tăng từ mức trung bình lên mức cao.

Các hoạt động phi nông nghiệp:

Tương tự như các hoạt động nông nghiệp, chúng tôi định nghĩa hoạt động phi nông nghiệp nào đem lại nhiều thu nhập nhất cho hộ gia đình là hoạt động phi nông nghiệp chính của hộ gia đình. Lại một lần nữa chúng tôi thấy rằng di cư không có tác động trực tiếp đến sự lựa chọn giữa các ngành phi nông nghiệp. Tuy nhiên, do hệ số của Kiều hối, Tỷ lệ nữ giới và trẻ em có ý nghĩa về mặt thống kê, di cư sẽ có tác động gián tiếp đến sự lựa chọn các ngành phi nông nghiệp.

Kiều hối là yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến sự lựa chọn giữa ngành công nghiệp và dịch vụ. Do vậy, chỉ có di cư vĩnh viễn ảnh hưởng đến sự lựa chọn này. Kết quả mô hình cũng cho thấy cứ 1% tăng trưởng tỷ trọng những người di cư vĩnh viễn sẽ làm tăng tỷ trọng Kiều hối 0,0526% (tỷ trọng trên thu nhập). Kiều hối tăng sẽ làm tỷ số xác suất lựa chọn giữa ngành công nghiệp và dịch vụ giảm 0,1408%.

Ảnh hưởng của di cư tới sự lựa chọn giữa ngành Xây dựng và Dịch vụ không đơn giản như vậy do Kiều hối không phải là yếu tố ảnh hưởng duy nhất. Do Tỷ lệ nữ giới có thể tăng hay giảm, phụ thuộc vào việc người di cư là nam hay nữ, tác động của di cư lên sự lựa chọn giữa ngành Xây dựng và Dịch vụ có thể âm hay dương.

Thay đổi di cư vĩnh viễn từ thấp đến cao làm giảm xác suất lựa chọn ngành Công nghiệp so với Dịch vụ. Ngược lại, thay đổi di cư (cả ngắn hạn lẫn vĩnh viễn) từ thấp đến cao sẽ làm tăng tỷ số xác suất lựa chọn ngành Xây dựng so với Dịch vụ, trong đó, tỷ số xác suất này tăng nhanh hơn khi những người di cư là nữ giới so với trường hợp nam giới.

3.3.3 Năng suất lao động của hộ

• Năng suất lao động nông nghiệp: Trong phần này, năng suất lao động nông nghiệp được định nghĩa là tỷ số giữa doanh thu từ các hoạt động nông nghiệp chia cho cầu lao động nông nghiệp. Một lần nữa, chúng tôi đưa ra 3 ước lượng để kiểm soát vấn đề nội sinh

Page 16: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 14

có thể làm hỏng kết quả ước lượng. Do việc thêm các đặc điểm của xã và biến giả của tỉnh lại một lần nữa không có tác động trực tiếp đến các biến di cư nên nội sinh cũng không phải là vấn đề trong trường hợp này. Chúng tôi chọn ước lượng OLS với đặc tính của xã và biến giả của tỉnh do thống kê F khẳng định tầm quan trọng của những biến này.

Di cư không có tác động trực tiếp tới năng suất lao động nông nghiệp. Các hệ số của các biến di cư không có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, Tiền người lao động chuyển về, Qui mô hộ gia đình, và Tỷ lệ trẻ em đều có ý nghĩa đối với năng suất lao động nông nghiệp. Điều đó có nghĩa là sẽ có tác động gián tiếp của di cư. Di cư ngắn hạn có tác động tích cực rõ ràng. Do thu nhập của những người di cư ngắn hạn không ảnh hưởng đến Tiền người lao động gửi về, di cư ngắn hạn chỉ tác động đến năng suất lao động nông nghiệp thông qua Qui mô hộ gia đình và Tỷ lệ trẻ em. Thêm người di cư, Qui mô hộ gia đình sẽ giảm và cũng sẽ làm Tỷ lệ trẻ em tăng. Do hệ số của Qui mô hộ gia đình âm và Tỷ lệ trẻ em dương, tác động gián tiếp của di cư ngắn hạn thông qua các biến trên là tích cực rất rõ ràng. Tác động của di cư dài hạn không may lại không rõ ràng. Tác động gián tiếp thông qua Qui mô hộ gia đình và Tỷ lệ trẻ em vẫn sẽ dương như trong trường hợp của di cư ngắn hạn. Tuy nhiên, tác động gián tiếp thông qua tiền người lao động gửi về sẽ âm do hệ số của chúng âm và di cư dài hạn sẽ làm tăng lượng tiền người lao động gửi về.

Để đánh giá ảnh hưởng của di cư tới năng suất lao động nông nghiệp, chúng tôi một lần nữa mô phỏng tác động của việc thêm một thành viên trong hộ gia đình đi di cư. Như đã nói ở trên, tác động của di cư ngắn hạn có dấu dương như dự đoán. Một người di cư ngắn hạn trong hộ sẽ làm tăng log của năng suất lao động nông nghiệp lên 0,1075, hay là 11,35% so với giá trị trung bình. Di cư vĩnh viễn cũng có tác động tích cực do tác động tích cực thông qua Qui mô hộ gia đình và Tỷ lệ trẻ em cao hơn tác động tiêu cực của tiền người lao động gửi về. Cùng với một người di cư thêm, tác động của di cư ngắn hạn lớn hơn đối với năng suất lao động nông nghiệp so với trường hợp nếu người đó di cư vĩnh viễn. Một thành viên nam di cư vĩnh viễn sẽ có tác động thấp nhất lên năng suất lao động nông nghiệp của hộ, chỉ làm tăng log của năng suất lao động nông nghiệp lên 0,0184, hay 1,85% so với mức năng suất lao động nông nghiệp trung bình.

Bảng 3.3 Tác động của việc thêm một người di cư lên năng suất lao động nông nghiệp (thay đổi giá trị của log năng suất lao động nông nghiệp).

Tác động gián tiếp qua Tác động trực tiếp Qui mô hộ

gia đình Tỷ lệ trẻ

em Tiền người lao động chuyển về từ trong nước

Kiều hối

Tác động tổng cộng

Di cư ngắn hạn 0 0,0594 0,0481 - - 0,1075

Di cư vĩnh viễn – nam giới

0 0,0594 0,0481 -0,082 -0,0072 0,0184

Di cư vĩnh viễn – nữ giới

0 0,0594 0,0481 -0,0734 -0,0072 0,027

Chú ý: Mô phỏng được thực hiện với các biến được giữ ở mức trung bình.

Hiện tượng tiền người lao động gửi về và tín dụng có tác động tiêu cực đến năng suất lao động là ngược với quan điểm của kinh tế lao động mới, cho rằng tiền người lao động gửi về có thể giúp hộ gia đình vượt qua được những hạn chế về tín dụng và đầu tư hiệu quả hơn cho những công nghệ sản xuất tiên tiến (STARK 1991). Ngược lại, diện tích canh tác có

Page 17: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 15

tác động tích cực đến năng suất lao động nông nghiệp. 1% tăng diện tích canh tác sẽ làm tăng 0,127% năng suất lao động nông nghiệp. Hiệu quả sản xuất sẽ tăng lên khi đất đai được tích tụ.

• Năng suất lao động phi nông nghiệp: Các đặc điểm của hộ gia đình ít quan trọng hơn trong trường hợp năng suất lao động phi nông nghiệp so với trường hợp năng suất lao động nông nghiệp. Chỉ có tiền người lao động chuyển về từ trong nước, Dân tộc của chủ hộ, Mức độ nghèo đói theo phân loại của địa phương, và Tỷ lệ nữ giới là có tác động có ý nghĩa về mặt thống kê đối với năng suất lao động phi nông nghiệp.

Một lần nữa di cư chỉ có tác động gián tiếp đối với năng suất lao động phi nông nghiệp. Do thu nhập của những người di cư ngắn hạn không có trong tiền người lao động trong nước gửi về, thêm các thành viên di cư ngắn hạn sẽ chỉ có tác động tới năng suất lao động phi nông nghiệp thông qua Tỷ lệ nữ giới và tác động này là không rõ ràng. Các thành viên nữ di cư ngắn hạn sẽ làm giảm Tỷ lệ nữ giới, và như vậy sẽ có tác động tích cực đối với năng suất lao động phi nông nghiệp của hộ. Ngược lại, thêm thành viên nam di cư sẽ làm tăng Tỷ lệ nữ giới và do đó sẽ có tác động tiêu cực đến năng suất lao động phi nông nghiệp của hộ. Với di cư vĩnh viễn tình hình còn kém rõ ràng hơn. Thêm người lao động vĩnh viễn sẽ có tác động gián tiếp tới năng suất lao động phi nông nghiệp thông qua Tiền người lao động gửi về từ trong nước và Tỷ lệ nữ giới. Thêm thành viên di cư vĩnh viễn thì tiền người lao động gửi về từ trong nước sẽ tăng (xem phần 3.3.1), và qua đó sẽ có tác động tiêu cực rõ ràng đến năng suất lao động phi nông nghiệp, do hệ số của biến Tiền người lao động gửi về âm. Tác động của di cư vĩnh viễn thông qua Tỷ lệ nữ giới một lần nữa sẽ không rõ ràng như đã nói ở trên. Thêm thành viên nam di cư vĩnh viễn sẽ có tác động tiêu cực gián tiếp đến năng suất lao động phi nông nghiệp. Điều này làm tăng Tỷ lệ nữ giới và như vậy cả hai tác động thông qua tiền người lao động gửi về từ trong nước và Tỷ lệ nữ giới đều âm. Trong khi đó, thêm thành viên nữ di cư vĩnh viễn Tỷ lệ nữ giới sẽ giảm, và như vậy sẽ có tác động tích cực đến năng suất lao động phi nông nghiệp. Tác động này ngược với tác động của Tiền người lao động gửi về từ trong nước, và như vậy, thêm thành viên nữ di cư sẽ có tác động không rõ ràng đối với năng suất lao động phi nông nghiệp.

4. Tác động của di cư tới thị trường lao động nông thôn – 8 trường hợp nghiên cứu về tác động và nhận thức về tác động ở cấp độ xã

Tác động của di cư đối với các thị trường lao động nông thôn ở cấp hộ là ảnh hưởng trực tiếp và ở “vòng đầu tiên”. Trong phần này, các tác động “vòng hai” của di cư sẽ được nghiên cứu. Đây là những ảnh hưởng đối với thị trường lao động nông thôn và phát triển nông thôn ở cấp độ xã.

4.1. Các nguồn số liệu

Nguồn thông tin lớn nhất được dùng trong các phân tích “Tác động ở cấp độ xã” là thông tin của các khảo sát thực địa tại các khu vực nông thôn được thiết kế đặc biệt cho nghiên cứu này. 8 xã ở 5 tỉnh đã được khảo sát trong khuôn khổ nghiên cứu này để thu thập thông tin về di cư. Việc lựa chọn các xã đã được thực hiện rất kỹ lưỡng nhằm tối ưu hoá tính đại diện của các xã ở Việt Nam. Ở mỗi xã các đối tượng phỏng vấn chính là đại diện của các UBND xã, các hộ có người di cư, các hộ không có người di cư, các doanh nghiệp và các trường học.

Trong khảo sát, những người di cư đi được xác định là những người vắng mặt ở nhà ít nhất hai tháng liền trong thời gian 3 năm qua. Người không di cư đơn giản là không dị cư đi theo định nghĩa trên. Cũng tương tự như vậy, những người di cư đi lâu dài (hay vĩnh viễn)

Page 18: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 16

được xác định là những người vắng nhà ít nhất một năm và không có dự định quay trở về. “Những người di cư đi không lâu dài” đơn giản được xác định là những người ngược với di cư đi lâu dài. Tương tự, những người nhập cư đến của các xã được xác định trong khảo sát là những người đến các xã ít nhất 2 tháng liên tục trong vòng 3 năm qua và “những người nhập cư lâu dài” được xác định là những người đến xã ít nhất 1 năm và không có dự định trở về nhà. Những định nghĩa này đã được đưa ra dựa trên những kinh nghiệm thực địa và dường như phù hợp với mục đích của nghiên cứu về đánh giá ảnh hưởng của các dòng di cư khác nhau đối với thị trường lao động nông thôn. “Các doanh nghiệp” trong khảo sát phải đóng tại xã hoặc cách trung tâm xã 10km. Không gian này được chọn để phù hợp với số liệu của Điều tra Mức sống Hộ gia đình Việt Nam. Về cơ bản, các doanh nghiệp quan trọng nhất về thu hút việc làm của xã được chọn. Số lượng công nhân viên trung bình của các doanh nghiệp thực tế được khảo sát là 208 người. Những trường học được khảo sát có trình độ văn hoá cao nhất trong các xã cũng đã được chọn trong khảo sát này. Khu vực thành thị trong nghiên cứu này được xác định theo định nghĩa của Tổng cục Thống kê (GSO), bao gồm các đô thị là các trung tâm hành chính của các huyện, các tỉnh hoặc các thành phố. Như vậy, các khu vực nông thôn là những khu vực không được phân loại là “các khu vực thành thị”. Các khu vực ngoại ô không được phân loại là thành thị mặc dù về mặt hành chính các khu này thuộc về các thành phố. 134 hộ có người di cư đi thay cho 120 hộ (theo kế hoạch) và 97 hộ không có người di cư thay cho 80 hộ (theo kế hoạch), 8 UBND xã, 34 doanh nghiệp và 9 trường học đã được khảo sát và phỏng vấn thành công tại thực địa. Ở một mức độ nhỏ hơn, các số liệu được chọn từ Điều tra Mức sống Hộ gia đình Việt Nam năm 2004 cũng được sử dụng trong phân tích tác động ở cấp độ xã.

4.2. Các đặc điểm di cư

Di cư vì việc làm đã rất phổ biến ở khu vực nông thôn Việt Nam nói chung và ở 8 xã đã chọn nói riêng. Tỷ lệ di cư đi được thể hiện trong bảng 4.1.

Bảng 4.1 Tỷ lệ di cư đi Đơn vị: %

Trung bình hàng năm thời kỳ 2004-2006 (*)

Xã 1998 2004

Tỷ lệ phần trăm Trong đó: Tỷ lệ % của di cư dài hạn trên tổng số

người di cư Miền Bắc Hiệp Hoà 1,02 2,11 1,4 15,0Nghĩa Châu 5,74 9,98 11,5 24,0Xuân Thượng 25,7 4,44 12,7 23,6Xuân Hội 2,63 2,63 7,7 20,7Miền Nam An Hoà 0 0,26 3,6 3,8Truông Mít 0,72 3,36 2,4 32,0Bình Ninh 0,75 1,92 11,4 47,4Tân Ngãi 1,44 1,68 12,7 7,1

Chú thích: Người di cư đi: i) trong năm 1998 là những người di cư đi tìm việc làm từ 3 tháng trở lên trong vòng 12 tháng qua; ii) trong năm 2004 là những người đăng ký tạm vắng; iii) trong năm 2006 là những người vắng mặt ở xã ít nhất 2 tháng liên tiếp trong một năm trong thời kỳ 2004-2006. Nguồn: Ước lượng từ Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 1998, 2004 và kết quả điều tra (*)

Page 19: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 17

Một xu hướng rõ ràng là di cư tăng lên và thậm chí tăng nhanh trong những năm gần đây. Hiện nay, tỷ lệ di cư đi cao phổ biến cả ở miền Bắc và miền Nam mặc dù có sự khác nhau giữa các địa phương. Trong số những người di cư đi, di cư tạm thời phổ biến hơn ở miền Bắc. Có thể thấy rằng tỷ lệ di cư lâu dài không cao lắm với mức trung bình là 20.8%4 đối với 4 xã miền Bắc trong thời kỳ 2004-2006. Ở miền Nam, hình thức này không phổ biến.

Di cư đến thực sự thấp ở tất cả các xã mặc dù có sự chênh lệch giữa các địa phương này. Tân Ngãi là xã có mức di cư từ các địa phương khác đến cao nhất, chiếm 7,64% dân số vào năm 2006. Đối với hầu hết các xã còn lại, trừ Bình Ninh, tỷ lệ di cư đến là trên dưới 1%. Điều này cho thấy một hiện tượng ở Việt Nam là các luồng di cư từ nông thôn ra thành thị phổ biến hơn rất nhiều so với các luồng di cư từ nông thôn đến nông thôn và từ thành thị về nông thôn.

Di cư đi đa phần là dịch chuyển giữa các tỉnh. 68,18% di cư đi tạm thời (không lâu dài) là đi đến các tỉnh khác và con số tương ứng đối với “di cư đi lâu dài” là khoảng 50%. Tỷ lệ số người dịch chuyển trong cùng một tỉnh chỉ khoảng 26 – 27% đối với cả di cư đi tạm thời và lâu dài. Tỷ lệ di cư ra nước ngoài trong thời gian dài (“lâu dài”) cũng đáng kể với 22,87% trong khi tỷ lệ tương ứng đối với di cư ra nước ngoài “tạm thời” rất nhỏ, chỉ khoảng 5%. Ngược lại, di cư đến đa phần là di chuyển trong cùng một tỉnh. Tỷ lệ những người di cư đến tạm thời và lâu dài trong cùng một tỉnh đều chiếm trên dưới 70%, giữa các tỉnh là 25,91% đối với di cư đến tạm thời và 31,4% đối với di cư đến lâu dài. Tỷ lệ người nước ngoài và Việt Kiều di cư đến Việt Nam tạm thời và lâu dài là rất nhỏ.

Một khía cạnh quan trọng khác của phân tích di cư là các nguyên nhân của việc di cư đi/đến. Các thông tin này được thu thập từ các số liệu khảo sát và được thể hiện trong bảng 4.2. Bảng 4.2 Những lý do cơ bản khiến người di cư đi khỏi/đi đến xã Đơn vị: %

Di cư đi Di cư đến Không lâu dài (tạm thời)

Lâu dài Không lâu dài (tạm thời)

Lâu dài

1. Tìm việc làm 88,17 75,56 56,83 42,922. Kết hôn 2,13 13,51 40,57 57,083. Đi học 9,69 10,93 2,60 04. Lý do khác 0 0 0 0Tổng số 100% 100% 100% 100% Chú thích: Các con số là mức trung bình và được làm tròn.

Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra thực địa

Bảng 4.2 thể hiện tỷ lệ trung bình theo mục đích di cư của 8 xã được khảo sát. Đối với các xã này, có thể thấy rằng động cơ quan trọng nhất đối với những người di cư đi là để kiếm sống. Gần 90% (88,17%) di cư đi tạm thời đến các vùng khác để làm việc và con số tương ứng đối với di cư lâu dài cũng cao, 75,56%. Ở miền Bắc, di cư để làm việc là nguyên nhân lớn nhất của di cư. 98 – 99% người di cư đi tạm thời ở các xã Xuân Thượng và Nghĩa Châu, tỉnh Nam Định rời nhà để làm việc ở nơi khác.

Phần lớn những người di cư ở nhóm thu nhập trung bình. Về giới, nói chung có thiên lệch về di cư đi bởi nam giới. Về nhóm tuổi, phần lớn những người di cư đều còn rất trẻ. Trình độ văn hoá trung bình chung của người di cư là lớp 10,85, cũng tương đương trình độ văn hoá trung bình của Việt Nam nói chung. Điều này cho thấy một thực tế là để có thể di cư được, người dân cần có một trình độ văn hoá nhất định.

4 Ước lượng từ số liệu điều tra

Page 20: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 18

4.3. Chi tiêu từ tiền gửi về và cầu lao động địa phương

Như đã phân tích trong phần trước, phần lớn những người di cư đi là để làm việc. Bên cạnh việc trang trải những chi phí cho cuộc sống ở những nơi họ đến, phần lớn họ đều có mục đích giúp đỡ gia đình họ ở quê gốc. Vì vậy, tiền gửi về là rất phổ biến ở các vùng nông thôn Việt Nam, nơi mà người dân cơ bản nghèo hơn dân ở các khu vực thành thị hay các khu công nghiệp. Tiền gửi về thường được dùng cho nhiều mục đích khác nhau và phần nào phản ánh được tác động của nó đối với đời sống các hộ dân.

Các hình thức tiêu thụ của hộ từ các nguồn tiền gửi về trong hai năm qua của khối toàn bộ 8 xã khảo sát được thể hiện trong Bảng 4.3

Bảng 4.3 Chi tiêu của hộ gia đình từ tiền gửi trong hai năm qua. Tỷ lệ % trong từng khoản

chi tiêu Tỷ lệ % theo các khoản

chi tiêu Các khoản chi tiêu Trong tỉnh Ngoài tỉnh Trong tỉnh Ngoài tỉnh

Làm nông 100,0 0,0 4,97 0,00Kinh doanh 93,8 6,3 4,10 4,66Học hành 81,5 18,5 9,37 72,73Y tế 98,5 1,5 2,43 9,09Đám cưới/đám tang 100,0 0,0 4,74 0,00Mua đất 100,0 0,0 0,27 0,00Sửa chữa/xây dựng nhà 96,4 3,6 13,81 8,26Chi tiêu hàng ngày 97,5 2,5 32,83 1,99Trả nợ 100,0 0,0 10,89 0,00Cho vay/tiết kiệm 94,7 5,3 7,47 3,26Khác 100,0 0,0 9,11 0,00Tổng 100% 100%

Nguồn: Ước lượng từ số liệu điều tra thực địa.

Đối với tất cả các khoản mục chi tiêu, hơn 90% tiền gửi về được chi tiêu trong tỉnh trong hai năm gần đây, chỉ trừ khoản giáo dục. Điều này cho thấy là tiền gửi về thực sự có ích đối với đời sống hộ và phát triển cộng đồng địa phương ở các vùng. 18,5% tiền gửi về chi tiêu cho giáo dục ở ngoài tỉnh chỉ nói lên rằng một số gia đình có thể sử dụng tiền của họ cho con cái họ học ở các thành phố (cơ bản là ở các trường đại học và học nghề). Mặc dù vậy, 81,5% tiền tiêu cho giáo dục từ tiền gửi về vẫn được sử dụng tại địa phương.

Chỉ riêng trong tỉnh, bốn mục đích sử dụng chính của tiền gửi về là cho chi tiêu hàng ngày, sửa chữa hoặc xây nhà, trả nợ hoặc chi cho giáo dục, trong đó chi tiêu hàng ngày chiếm tỷ lệ ưu thế. Tiền gửi về ở dạng hàng hoá không còn quan trọng nữa. Một phần tiền gửi về rất nhỏ được dùng để mua máy móc và thiết bị đầu tư vào sản xuất. Về mặt thống kê, không có bằng chứng cho thấy sự khác nhau về “vùng” cũng như đối với “khoảng cách đến các thành phố lớn” về ảnh hưởng của tiền gửi về đến các nhu cầu địa phương đối với nhiều loại chi tiêu ngoại trừ chi tiêu hàng ngày. TiÒn göi vÒ được sử dụng với tỷ lệ phần trăm ít hơn cho chi tiêu hàng ngày ở miền Bắc so với miền Nam và các hộ ở gần các thành phố lớn dường như chi tiêu hàng ngày từ tiền gửi về nhiều hơn.

Page 21: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 19

4.4 Ảnh hưởng của di cư đối với các doanh nghiệp và trường học

Một tỷ lệ lớn công nhân bỏ doanh nghiêp trung hai năm qua ở 8 xã khảo sát. ở các xã An Hoà, Hiệp Hoà, Truông Mít và Bình Ninh, tỷ lệ trung bình những người làm công bỏ đi nhiều hơn số người làm công của doanh nghiệp với tỷ lệ khá cao, lần lượt ở các xã là 45,90%, 37,46%, 33,72% và 33,75%. Tỷ lệ cao những người công nhân bỏ doanh nghiệp tất nhiên gây nên vấn đề “thay thế“ cho doanh nghiệp đặc biệt nếu họ là những người thợ lành nghề. Xã Xuân Hội (tỉnh Hà Tĩnh) là một ngoại lệ khi hiện tượng những người làm công của các doanh nghiệp bỏ đi trong thời gian hai năm gần đây là không phổ biến (3,96%). Điều này có thể là do Xuân Hội khá xa các thành phố lớn và không có nhiều doanh nghiệp ở các vùng gần đó. Vì thế, công nhân thấy khó khăn khi rời bỏ doanh nghiệp.

Tuy nhiên, những thay đổi trên thị trường lao động không có nghĩa là các doanh nghiệp (hoặc môi trường các doanh nghiệp) bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tất nhiên, các công nhân bỏ đi làm phát sinh chi phí tuyển công nhân và đào tạo mới. Nếu thiếu nguồn cung lao động trong khu vực, các doanh nghiệp có thể phải chịu áp lực tăng tiền lương. Tuy nhiên, tất cả các vấn đề này không có câu trả lời thống nhất. Mức độ các khó khăn do di cư của người làm công trong 8 xã khảo sát được thể hiện ở Bảng 4.4.

Bảng 4.4. Khó khăn của doanh nghiệp do cán bộ, công nhân di chuyển

Đơn vị: % số doanh nghiệp trả lời “Có” Loại cán bộ, công nhân Khó tìm cán bộ, công nhân

tốt Là vấn đề đối với các

doanh nghiệp 1. Cán bộ quản lý 23,53 23,532. Cán bộ chuyên môn 17,65 20,593. Công nhân sản xuất có kỹ năng 32,35 23,534. Công nhân sản xuất không có

kỹ năng 14,71 17,655. Lái xe, bảo vệ, tạp vụ v.v... 0 5,88

Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra thực địa.

Theo số liệu trong Bảng, các doanh nghiệp cho rằng tìm được công nhân tốt các ngành là rất khó khăn. Nhưng rất ngạc nhiên khi họ cho rằng những công nhân sản xuất có tay nghề cao là khó tìm nhất chứ không phải những người quản lý và các cán bộ chuyên môn và phần lớn các doanh nghiệp (32,35%) đồng ý với điểm này. Khó khăn lớn “thứ hai” là tìm được những nhà quản lý tốt do di cư ở 8 xã nông thôn, với bằng chứng là 23,53% các doanh nghiệp thấy rất khó khăn để tìm được những người quản lý giỏi. Tương tự như vậy, công nhân sản xuất lành nghề và quản lý là hai loại lao động có thể gây ra vấn đề lớn nhất cho các doanh nghiệp nếu như họ bỏ việc. 23,53% doanh nghiệp cho rằng sẽ có vấn đề nếu hai loại lao động này bỏ việc. Việc thiếu các công nhân sản xuất không có tay nghề có thể gây ra vấn đề cho doanh nghiệp chỉ chiếm 17,65% số các doanh nghiệp có hiện tượng di cư. Một lần nữa, các công nhân không sản xuất không làm cho doanh nghiệp lo lắng.

Đối với các trường học, mức độ quan trọng của các chính sách cũng có điểm giống nhưng không giống hoàn toàn như trong trường hợp các doanh nghiệp. Có “nhiều quyền lợi hơn” và nhiều “khuyến khích” khác là các chính sách quan trọng nhất được đại diện các trường xem xét. 33,33% các trường cho rằng có “nhiều quyền lợi hơn” nên được xem xét, trong khi đó chỉ có 22,22% tin rằng tiền lương cho giáo viên cao hơn là yếu tố quyết định. Các lợi ích cụ thể và các “khuyến khích khác” thu thập được từ khảo sát là giảm giờ làm việc cho các giáo viên đang nuôi con nhỏ, tuyển dụng và khuyến khích các giáo viên của quê hương, có nhiều trợ cấp hơn v.v… Một vấn đề khác thú vị nảy sinh từ di cư nông thôn ảnh hưởng đến các trường học được thấy ở xã Xuân Thượng (tỉnh Nam Định). Do mọi người di

Page 22: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 20

cư đến các thành phố để làm việc và buôn bán nên họ cũng mang theo các con của họ. Tỷ lệ di cư cao ở trong xã cũng có nghĩa là một số lượng lớn trẻ em đến các thành phố để sống và tất nhiên là học luôn ở đó. Hậu quả là tỷ lệ đầu vào của trường ở xã (Xuân Thượng) rất thấp và các giáo viên đang phải đối mặt với hiện tượng “bán thất nghiệp”.

4.5 Nhận thức về tác động của di cư đến cộng đồng, các hộ gia đình và người di cư

Phần này được thiết kế để nghiên cứu nhận thức của người dân về tác động của di cư đối với ba “đối tượng tham gia” là cộng đồng, các hộ gia đình và bản thân những người di cư. Cả hai loại thông tin số lượng và chất lượng thu thập được từ khảo sát sẽ được phân tích.

4.5.1 Tác động đối với cộng đồng

Tác động của di cư đối với cộng đồng được nhận thức ở nhiều khía cạnh. Thông tin từ các cuộc khảo sát ở 8 xã đưa ra thông tin về nhận thức rõ ràng của người dân về tác động này. Đại diện các xã cho rằng di cư đi có cả tác động tích cực và tiêu cực đối với phát triển của xã. Các ảnh hưởng tích cực của di cư đối với phát triển của địa phương ở các xã khảo sát bao gồm5: i) Giảm áp lực bán thất nghiệp và thất nghiệp; ii) Tăng thu nhập cho các hộ và tạo ra cầu tiêu dùng lớn hơn ở địa phương; iii) Đóng góp nhiều hơn cho xã; iv) Đầu tư hoặc kinh doanh trong xã bằng tiền gửi về của người di cư. Theo nhận thức của đại diện địa phương, các ảnh hưởng tiêu cực của di cư đối với cộng đồng địa phương bao gồm: i) Gây nên tình trạng thiếu lao đặc biệt là lao động nông nghiệp vào các vụ mùa cao điểm; ii) Con em của những người di cư không được chăm sóc cẩn thận; iii) Những người di cư trẻ tuổi có thể mắc phải “các tệ nạn xã hội” và mang các tệ nạn này về địa phương; iv) Các truyền thống địa phương và các giá trị văn hoá phần nào bị thoái hoá.

Các hộ có người di cư đi ở các xã khảo sát nhận thấy tác động của di cư cụ thể hơn. Khi được hỏi liệu di cư có làm cho việc thuê lao động trở nên khó khăn hơn không thì 50,06% các hộ cho rằng khó khăn hơn vào mùa vụ, chỉ có 25,38%6 nghĩ rằng khó khăn hơn kể cả khi ngoài mùa vụ. Những tỷ lệ này là khiêm tốn và có thể nói rằng có những ảnh hưởng tiêu cực trên thị trường lao động ở một mức độ nào đó, nhưng nói chung, về mặt này những khó khăn là không nghiêm trọng. Các xã ở miền Nam có nhiều khó khăn hơn trong việc thuê lao động ở cả thời gian mùa vụ và ngoài mùa vụ. 93,33% ở xã Truông Mít và 70,59% ở xã Bình Ninh cho rằng có khó khăn vào mùa vụ, trong khi đó chỉ 18,75% ở Xuân Hội và 44,44% ở Hiệp Hoà cho rằng như vậy. Điều này cho thấy nhu cầu lao động trong sản xuất nông nghiệp ở các vùng nông thôn miền Bắc không cao như ở miền Nam hoặc đất nông nghiệp ở miền Bắc hạn chế đến nỗi chỉ một lực lượng lao động nhỏ cũng có thể đảm đương được công việc.

Nhận thức của người dân về tác động của di cư có thể thấy trong những phản hồi của các hộ đối với một câu hỏi khác trong khảo sát là mức độ tốt nhất của di cư đi là thế nào so với mức độ hiện nay. Kết quả phản hồi được thể hiện trong Bảng 4.5.

5 Tổng kết từ thông tin điều tra (phỏng vấn đại diện các chính quyền xã) 6 Ước lượng từ số liệu điều tra

Page 23: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 21

Bảng 4.5. Mức độ di cư đi mong muốn so với mức độ hiện tại

Đơn vị: % số người trả lời Người có tay nghề (kỹ năng) thấp Người có tay nghề (kỹ năng) cao

Các đối tượng tham gia

Thấp hơn

Giữ nguyên Cao hơn Thấp hơn

Giữ nguyên Cao hơn

Hộ có người di cư đi 8,33 6,06 85,61 6,77 6,02 87,22 Hộ không có người di cư đi 24,21 6,32 69,47 24,74 3,09 72,16 Các doanh nghiệp 32,35 17,65 50,00 63,64 12,12 24,24 Đại diện chính quyền xã 0,00 25,00 75,00 37,50 12,50 50,00 Đại diện trường học 77,77 22,22

Chú thích: Câu hỏi cho đại diện các trường là đối với các giáo viên di cư Nguồn: Ước lượng từ số liệu điều tra thực địa.

Về mức độ di cư đi đối với người có tay nghề thấp, các hộ có người di cư đi rất tin rằng nhiều người di cư đi là lựa chọn tốt nhất (có 85,61% hộ loại này). Các hộ không có người di cư và đại diện của xã cũng có chung quan điểm này nhưng với tỷ lệ thấp hơn (chỉ gần 70% đối với các hộ và 75% đối với đại diện xã). Trong khi đó, chỉ 50% các doanh nghiệp cho rằng người không có tay nghề di cư nhiều hơn là lựa chọn tốt nhất đối với môi trường kinh doanh của các xã. Đại diện các trường có quan điểm ngược lại. Phần lớn họ (77,77%) cho rằng ít người di cư hơn sẽ tốt hơn cho trường học của họ. Những điểm khác biệt của các chủ thể khác nhau có thể giải thích được do họ nhìn vấn đề từ các góc độ khác nhau. Các hộ quan tâm về sinh kế và thu nhập của họ và đại diện của xã cũng có cái nhìn tương tự về phát triển kinh tế ở mức độ địa phương. Trong khi đó, đại diện các doanh nghiệp quan tâm về nhu cầu lao động và đại diện các trường thường nghĩ đến các điều kiện ổn định của giáo dục. Quan điểm của những người tham gia này hơi khác nhau trong trường hợp đánh giá di cư đi của người có tay nghề cao. Sự khác nhau là các doanh nghiệp quan tâm nhiều hơn đến di cư của những người có tay nghề cao và vì thế 63,64% các doanh nghiệp cho rằng ít người thuộc loại này di cư đi là lựa chọn tốt nhất. Đại diện các xã thích nhìn thấy tỷ lệ di cư loại này thấp hơn so với các hộ dân trong xã của họ, đặc biệt là có sự khác nhau đáng kể trong cách nhìn của họ về mức độ của những người di cư đi có tay nghề cao. Một mặt, họ muốn giữ những người có tay nghề cao ở lại xã cho mục đích phát triển địa phương. Mặt khác, họ nhận thấy rõ rằng không có đủ các cơ hội ở xã cho những lao động loại này làm việc có hiệu quả. Sự trái ngược này đều có ở tất cả các xã. Tuy nhiên, cuối cùng họ luôn đồng ý với lựa chọn sau và nghĩ rằng thậm chí với lao động có tay nghề cao, di cư có thể là lựa chọn tốt nhất cho cộng đồng. Bằng chứng là 62,5% đại diện các xã có quan điểm như vậy hoặc người có tay nghề cao di cư nhiều hơn là lựa chọn tốt nhất cho sự phát triển của xã.

Về mặt thống kê, cần kiểm định tính không đồng nhất trong nhận thức của các đối tượng phỏng vấn khác nhau (hoặc “những người tham gia”) về mức độ di cư mong muốn. Các hàm hồi quy lôgic có thứ tự đã được thực hiện cho mục đích này ở ba nhóm đối tượng phỏng vấn bao gồm:

a) Nhóm các hộ có người di cư đi, các hộ không có người di cư, các doanh nghiệp và các đại diện của xã (nhóm 1);

b) Nhóm tất cả các hộ bao gồm những hộ có người di cư và cả những hộ không có người di

Page 24: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 22

cư (nhóm 2), và

c) Tập hợp các doanh nghiệp (nhóm 3).

Đối với mỗi nhóm, 4 hàm hồi qui lôgic có thứ tự được thực hiện đối với các nhận thức về mức độ mong muốn của: i) Di cư đi của công nhân không có tay nghề; ii) Di cư đi của công nhân có tay nghề; iii) Công nhân nhập cư không có tay nghề; và iv) Công nhân nhập cư có tay nghề.

Các kết quả của các hàm hồi quy lôgic có thứ tự đối với “nhóm 1” được ghi lại trong Bảng 4.6.

Bảng 4.6. Kết quả hồi qui logit có thứ tự về nhận thức của “nhóm 1” về mức độ mong muốn của di cư.

Di cư đi Nhập cư Đối tượng được phỏng vấn Không có tay

nghề (a1) Có tay nghề (a2) Không có tay

nghề (a3) Có tay nghề (a4)

0,498 1,899 -0,856 -0,254 Hộ có người di cư đi (biến giả 1) [0,60] [2,63]*** [1,22] [0,38]

-1,213 -1,06 -0,777 1,028 Doanh nghiệp (biến giả 2) [1,42] [1,39] [1,01] [1,33]

-0,524 0,847 -0,745 -0,192 Hộ không có người di cư (biến giả 3) [0,64] [1,19] [1,05] [0,28] S/lượng quan sát 269 271 246 241 Kiểm định tính chất bằng không đồng thời của các hệ số biến giả

chi2 (3) = 19,46 Xác suất > chi2 = 0,0002

chi2 (3) = 46,40 Xác suất > chi2 = 0,0000

chi2 (3) = 1,50 Xác suất > chi2 = 0,68

chi2 (3) = 7,97 Xác suất > chi2 = 0,05

Chú thích: Đối tượng phỏng vấn “đại diện chính quyền xã” ở dạng ẩn. Giá trị tuyệt đối của thông số thống kê z được để trong ngoặc đơn Có ý nghĩa ở mức 10%; ** có ý nghĩa ở mức 5%; *** có ý nghĩa ở mức 1%

Nguồn: Ước lượng từ số liệu điều tra thực địa.

Do có 4 loại các đối tượng được phỏng vấn trong “nhóm 1”, 3 biến giả được sử dụng trong các hàm hồi quy như đã được liệt kê ở cột đầu tiên của Bảng 4.6. Do các hệ số logit đều không có ý nghĩa thống kê ở (a3) và kết quả kiểm định (giá trị p bằng 0,68) cho thấy rằng ta không thể bác bỏ (với mức có ý nghĩa 5%) giả thuyết rằng tất cả các hệ số hồi qui bằng 0, có thể kết luận rằng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa những phản hồi của các đối tượng phỏng vấn khác nhau đối với các mức mong muốn về di cư của công nhân không có tay nghề. Tuy nhiên kết quả hồi qui cũng cho thấy tồn tại những sự khác biệt về mức độ mong muốn của di cư đi của lao động không có tay nghề và nhập cư lao động có tay nghề giữa các đối tượng được phỏng vấn khác nhau, đồng thời có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê về mức độ mong muốn của lao động di cư có tay nghề. Kết quả hồi qui đối với nhóm 2 và nhóm 3 cũng tương tự và cho thấy sự khác biệt về quan điểm đối với mức độ mong muốn của di cư giữa các đối tượng phỏng vấn khác nhau

4.5.2. Tác động tới các hộ di cư

Rõ ràng là di cư tác động đến các hộ của người di cư. Mặc dù luôn có cả hai loại ảnh hưởng tích cực và ảnh hưởng tiêu cực đến các hộ có người di cư đi, nhưng tác động tích cực vẫn ảnh hưởng nhiều hơn so với tác động tiêu cực. Do một hoặc nhiều thành viên của

Page 25: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 23

hộ di cư đi nên “sự cân bằng” của hộ trước đó dù thế nào chăng nữa cũng bị “phá vỡ” về nhiều mặt. Mặt khác, các hộ có người di cư đi cơ bản là được các thành viên di cư của họ giúp đỡ.

Các tác động là đa dạng trên nhiều khía cạnh khác nhau. Các hộ di cư có được ảnh hưởng tích cực lớn nhất đến thu nhập của họ với 82,58% hộ đồng ý về điểm này. Những ảnh hưởng “tích cực” tiếp theo có thể thấy được trong “hài lòng với cuộc sống”, “đời sống xã hội” tốt hơn, “tiết kiệm”, “có việc làm” và “trả nợ”. Do thu nhập của các hộ có người di cư tăng nên họ có thể tiêu nhiều tiền hơn cho giáo dục của hộ đặc biệt là cho việc học hành của con cái. Tỷ lệ các hộ cho rằng “ảnh hưởng trung tính” của di cư là lớn nhất ở nhiều khía cạnh. Chỉ trên dưới 10% các hộ có người di cư nghĩ rằng di cư có ảnh hưởng tiêu cực. Trong số 134 hộ có người di cư được phỏng vấn, 60 hộ cho rằng có ít nhất một tác động tiêu cực, chiếm tỷ lệ 44,78% trong tổng số. Tỷ lệ các hộ phân vân về ảnh hưởng của di cư thậm chí còn thấp hơn nhiều.

Quan điểm của các hộ không có người di cư hơi đối lập ở những khía cạnh nào đó. 66,67% các đại diện của các hộ không có người di cư cho rằng di cư không tốt cho trẻ em. Theo các quan niệm của họ thu được trong khảo sát, trẻ em của các hộ di cư, đặc biệt nếu những người di cư là bố mẹ của chúng, thường dễ bị mắc phải các vấn đề xã hội, được quan tâm ít hơn và bị tổn thương nhiều hơn. Tuy nhiên, các đại diện từ các hộ không có người di cư luôn mạnh mẽ tin rằng di cư là tốt cho các thành viên gia đình khác của các hộ có người di cư. 81% các hộ “không di cư” đồng ý về điểm này.

4.5.3 Tác động tới những người di cư

Tất nhiên di cư ảnh hưởng đến chính bản thân những người di cư. Sự thay đổi trong đời sống và tương lai của họ là đôi khi là rất lớn. Không có mẫu hình thống nhất của ảnh hưởng của di cư đến những người di cư. Tuy nhiên, một số nhận xét chung có thể được đưa ra giả sử rằng thông tin không bị thiên lệch do mẫu khảo sát hạn chế. Tác động đến những người di cư chủ yếu là các nhân tố và các điều kiện nơi đến của những người di cư hơn là các nhân tố và các điều kiện ở quê hương của họ.

Quan điểm của các hộ có người di cư khác nhau phụ thuộc vào các nhân tố bị ảnh hưởng. Những ảnh hưởng tích cực đến người di cư có thể thấy rõ nhất trong “tác động đối với thu nhập” với thực tế là hơn 90% các hộ đồng ý với quan điểm này. Những ảnh hưởng tốt tiếp theo có thể là ảnh hưởng đến nâng cao tay nghề chuyên môn, “hài lòng với cuộc sống”, “đời sống xã hội” và y tế. Ảnh hưởng trung tính là nhiều nhất đối với giáo dục và các điều kiện về nhà ở. Các ảnh hưởng tiêu cực đến những người di cư được nhìn thấy rất rõ trong những khó khăn về nhà ở. Gần 40% các hộ cho rằng họ có các ý nghĩ tiêu cực về các điều kiện nhà cửa đối với người thân của họ. Sự rủi ro cho những người di cư được xếp thứ tiếp theo trong danh sách các ảnh hưởng tiêu cực. Mặc dù y tế cho những người di cư được đánh giá chung là được ảnh hưởng tích cực cùng với di cư, những người di cư vẫn có những dịch vụ y tế và đời sống xã hội thấp theo ý kiến của khoảng 14-15% các hộ di cư. Nhìn tổng thể, có 65 hộ có người di cư đưa ra ít nhất một mặt nào đó tiêu cực, chiếm 48,51% hay nói cách khác là gần một nửa số hộ này. Thật ngạc nhiên là hơn 95% các hộ không có người di cư quan niệm rằng di cư tốt cho bản thân những người di cư, có nghĩa là chỉ hơn 4% các hộ loại này nghĩ rằng người di cư bị ảnh hưởng tiêu cực.

Page 26: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 24

5. Kỳ vọng về di cư trong tương lai và đánh giá các lựa chọn chính sách

5.1. Kỳ vọng về di cư trong tương lai

Chính phủ Việt Nam rất kiên định thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hệ thống cơ sở hạ tầng đã và đang được xây dựng cùng với quá trình đô thị hoá đang ngày càng mở rộng. Vì vậy, một điêù tự nhiên là di cư từ nông thôn ra thành thị sẽ tăng lên đáng kể trong những năm tới. Khoảng cách thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn khá lớn và ngày càng bị doãng rộng khiến cho các dòng di cư tăng lên.

Kết quả ước lượng từ số liệu điều tra cho thấy hầu hết các ý kiến cho rằng tỷ lệ di cư đi khỏi xã của họ sẽ tăng lên trong thời gian tới. 87,12% và 75,79% là tỷ lệ tương ứng các hộ gia đình hiện có và không có người di cư đi đồng ý với nhận định này. Tỷ lệ các gia đình có người di cư đồng ý với ý kiến này cao hơn cho thấy rằng họ có thể có nhiều trải nghiệm tốt và thông tin nhiều hơn về di cư. Có ít hơn 10% các gia đình ở nhóm này cho rằng tình hình di cư sẽ giảm xuống. Tuy vậy, vẫn có sự khác biệt trong phỏng đoán về tình hình di cư của các hộ gia đình miền Bắc và miền Nam. Những thông tin này được trình bày trong Bảng 5.1.

Bảng 5.1. Dự đoán mức độ di cư đi trong 10 năm tới của các hộ gia đình theo địa phương. Đơn vị: %

Ở miền Bắc Ở miền Nam Người trả lời Tăng Vẫn vậy Giảm Tăng Vẫn vậy Giảm

Hộ gia đình có người di cư

92,54 4,48 2,99 81,54 4,62 13,85

Hộ gia đình không có người di cư

72,09 20,93 6,98 78,85 7,69 13,46

Nguồn: Ước lượng từ số liệu điều tra thực địa.

Đại diện cho các hộ gia đình có người di cư đi ở miền Bắc ước tính số người di cư đi trong 10 năm tới cao hơn so với các hộ gia đình có người di cư ở miền Nam. Hơn 90% (92,54%) các hộ gia đình này dự đoán mức độ di cư đi trong thập kỷ tới cao hơn, trong khi chỉ có 81,54% các hộ gia đình có người di cư ở phía Nam ủng hộ ý kiến này. Chỉ có gần 3% (2,99%) các hộ gia đình có người di cư đi ở miền Bắc cho rằng tình hình di cư đi sẽ giảm xuống cũng trong khoảng thời gian đó. Ở miền Nam, tỷ lệ các hộ gia đình có đặc điểm như vậy nhận định như vậy cao hơn với 13,85% trong tổng số. Điều này có thể do thực tế là các hộ gia đình có người di cư ở miền Bắc nhận thức rõ hơn về tình trạng thất nghiệp và bán thất nghiệp ở nông thôn. Hơn nữa, các hộ gia đình ở phía Bắc cũng kém lợi thế hơn so với các hộ gia đình phía Nam về sinh kế tại quê nhà.

Tình hình hơi trái ngược đối với các hộ gia đình không có người di cư. Mặc dù ý kiến của các hộ gia đình không có người di cư ở cả hai miền đều cao về tình hình di cư tăng lên trong thời gian tới, tỷ lệ này ở miền Bắc thấp hơn ở miền Nam. Ở miền Bắc, tỷ lệ các hộ gia đình không có người di cư cho rằng mức độ di cư sẽ không thay đổi cao hơn. Một trong các lý do có thể là các gia đình này ở phía Bắc cho rằng mức độ di cư như hiện nay là đã rất cao và vì thế sẽ không thể tăng lên trong 10 năm tới.

5.2 Đánh giá các lựa chọn chính sách

Tại 8 xã được khảo sát, những người tham gia trả lời phỏng vấn được yêu cầu đánh giá các lựa chọn chính sách. Để có thể thiết kế các chính sách di cư tốt trong tương lai, thông tin

Page 27: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 25

về đánh giá chính sách của người dân là rất hữu ích. Bảng 5.2 tổng kết đánh giá của các đối tượng phỏng vấn trong điều tra thực địa về các lựa chọn chính sách đưa ra.

Bảng 5.2. Điểm đánh giá trung bình cho các lựa chọn chính sách Đối tượng được phỏng vấn Chính sách

Các hộ gia đình có người

di cư

Các hộ gia đình không có

người di cư

Đại diện các xã

1. Cung cấp tín dụng để chi trả các chi phí tái định cư 3,65 3,73

4,62

2. Cấp giấy phép di cư dễ dàng hơn 2,14 2,63

2,87

3. Cải hiện thủ tục chuyển tiền 1,64 1,75

1,75

4. Kêu gọi sự đóng góp tự nguyện từ phía những người di cư đi để nâng cấp cơ sở hạ tầng địa phương (đường xá, trường học, v.v.)

3,86 3,63

3,37 5. Đưa ra nhiều chế độ đãi ngộ để giữ lại những lao động có kỹ năng và cần thiết cho xã 3,13 3,42

3,87

6. Trợ giúp bằng giáo dục và đào tạo cho người di cư 4,00 4,41

3,87

7. Cung cấp thông tin về nơi đến (về cơ hội việc làm, thủ tục đăng ký, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội và những hỗ trợ khác)

4,11 4,21

4,12 8. Khuyến khích người di cư đầu tư tại địa phương 3,71 3,80 4,12 9. Giúp đỡ những người di cư quay lại địa phương do

gặp phải khó khăn tại nơi đến 3,92 3,83

3,14 Ghi chú: Câu hỏi đưa ra ở đây để tìm hiểu xem theo người được hỏi là liệu chính quyền trung ương/địa phương/các tổ chức phi chính phủ có nên chủ động hơn với vấn đề di cư đi tại xã đó không; Thang điểm: từ 1 (“không quan trọng”) đến 5 (“quan trọng nhất”)

Nguồn: Ước lượng từ số liệu điều tra thực địa. Các kết quả nghiên cứu cho thấy có lẽ không có khoảng cách lớn về đánh giá của các

đối tượng phỏng vấn khác nhau cho tất cả các lựa chọn chính sách mặc dù tồn tại một số khác biệt. “Cung cấp tín dụng để chi trả các chi phí tái định cư” được xem là một lựa chọn chính sách rất quan trọng với điểm trung bình 4,62 theo đánh giá của đại diện các chính quyền xã, nhưng được các hộ gia đình đánh giá thấp hơn một chút. Trái lại, chính sách làm thuận lợi hơn việc chuyển tiền được phần nào đánh giá là một chính sách không quan trọng do có một thực tế là dịch vụ chuyển tiền đã tương đối thuận lợi và nhanh chóng. Ngoài ra, bản thân những người di cư thường tự mang tiền về khi thăm gia đình. “Khuyến khích người di cư đầu tư tại địa phương” và “Cung cấp thông tin về nơi đến” là hai lựa chọn chính sách quan trọng kế tiếp theo quan điểm của tất cả các đối tượng phỏng vấn nhưng các hộ có người di cư nhấn mạnh tầm quan trọng của các lựa chọn chính sách “Cung cấp thông tin về nơi đến” và “Trợ giúp bằng giáo dục và đào tạo cho người di cư”. Lựa chọn chính sách sau cùng được các hộ gia đình đánh giá cao hơn so với các đại diện chính quyền xã của họ. Kết quả này cũng được khẳng định lại một lần nữa bằng các kết quả hồi qui logit có thứ tự. Các hộ gia đình có người di cư đánh giá mức độ quan trọng thấp hơn của lựa chọn chính sách 2 về “Cấp giấy phép di cư dễ dàng hơn” so với các hộ không có người di cư và đại diện chính quyền các xã. Trong khi đó, quan điểm của các hộ có người di cư, hộ không có người di cư và đại diện chính quyền các xã không có nhiều sự khác biệt đối với các lựa chọn chính sách khác.

Page 28: Thị truong lao dong nong thon va van de di cu

www.markets4poor.org 26

6. Các kiến nghị chính sách

Với những phát hiện chủ yếu trên đây, nghiên cứu này đưa ra một số đề xuất chính sách chủ yếu như sau:

• Do sự không hoàn hảo tương đối cao của thị trường lao động nông thôn Việt Nam dẫn đến việc bác bỏ giả thuyết “phân tách”, thị trường lao động nông thôn bị ảnh hưởng đáng kể ở cấp độ hộ gia đình từ hiện tượng di cư từ nông thôn. Di cư giảm tổng cầu lao động của hộ nhưng làm tăng giá trị thời gian của các thành viên không di cư trong hộ gia đình. Vì vậy, một mặt di cư từ nông thôn cần được khuyến khích để giảm lao động dôi dư ở nông thôn, mặt khác, thị trường lao động nông thôn cần được phát triển hơn nữa để các hộ có thể sử dụng thị trường lao động điều chỉnh sự dư thừa cũng như thiếu hụt lao động không phụ thuộc vào việc di cư.

• Do yếu tố đất nông nghiệp được phát hiện là có tác động tích cực đến năng suất lao động nông nghiệp, phân bố hiện tại về đất nông nghiệp là chưa hiệu quả do những thay đổi về lực lượng lao động của hộ trong đó di cư là một trong những nguyên nhân gây ra. Vì vậy, cần phải tạo ra một “thị trường” về quyền sử dụng đất nông nghiệp linh động và hiệu quả. Chỉ khi thị trường đất nông nghiệp hoạt động một cách thực sự thì đất đai mới có thể được sử dụng với năng suất cao hơn. Một trong những giải pháp là có được thời hạn cho quyền sử dụng đất nông nghiệp thật dài hơn nữa.

• Tạo việc làm ở cả khu vực nông thôn và thành thị cần được thúc đẩy. Do tác động của di cư đến năng suất lao động được phát hiện trong nghiên cứu và tiền gửi về chủ yếu được sử dụng cho chi tiêu hàng ngày, điều đó chỉ ra rằng các chính sách thúc đẩy đầu tư nên được đưa ra để thay đổi phương thức sản xuất nông nghiệp và đặc biệt là phi nông nghiệp để tiến tới năng suất lao động cao hơn. Điều đó là do di cư giảm cầu lao động của hộ đối với các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp và cũng làm giảm năng suất lao động phi nông nghiệp. Việc phát triển cơ sở hạ tầng, tạo thêm nhiều cơ hội việc làm phi nông nghiệp và thu hút đầu tư có thể được coi là những giải pháp quan trọng hơn để thúc đẩy phát triển kinh tế ở cấp xã. Di cư tạm thời cần được khuyến khích nhiều hơn so với di cư dài hạn nếu xét từ quan điểm về năng suất lao động nông nghiệp.

• Từ nhận thức căn bản «gốc rễ» của các đối tượng được phỏng vấn, những người di cư cần được cung cấp các thông tin về nơi đến bao gồm cơ hội việc làm, thủ tục đăng ký, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội và hỗ trợ xã hội, v.v. tại cấp xã để nhờ đó các quyết định về di cư đi của các hộ gia đình là có căn cứ “hợp lý”. Trong nhiều trường hợp, điều này có thể giúp họ tránh những rủi ro do thiếu thông tin hay thông tin sai lệch. Cần xây dựng một số điểm hỏi đáp thông tin tại các địa phương có nhiều người di cư đi. Bên cạnh đó, việc cung cấp nhiều cơ hội về giáo dục và đào tạo hơn là một biện pháp then chốt để giúp đỡ những người di cư. Một chiến lược để đào tạo các công nhân có kỹ năng với giáo trình có tính thực tế cao nên được xem là nhiệm vụ cấp bách do có sự khan hiếm các công nhân lành nghề bởi rất nhiều lý do trong đó có di cư.

• Trong dài hạn, một sự phát triển cân bằng theo các vùng nên được nhấn mạnh với cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư vững chắc để sẽ không còn những luồng di cư lớn từ nông thôn. Các vấn đề xã hội (chẳng hạn như dịch HIV, phá vỡ gia đình, trẻ em bị lãng quên v.v…) nảy sinh do quá trình di cư ở những vùng nông thôn nơi xuất phát di cư cần được đặc biệt quan tâm từ tất cả các phía bao gồm chính quyền ở mọi cấp, các hiệp hội và công đoàn. Ở cấp độ xã, chính sách thu hút các nguồn tài trợ để giải quyết các vấn đề xã hội có liên quan đến di cư cần được đẩy mạnh với mục tiêu đầu tiên hướng tới là những người di cư nghèo từ nông thôn.