Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
Được tổ chức đến nay là 5 lần (2011-2016), Hội thi “Tìm hiểu giá trị văn
hóa lịch sử tỉnh Đồng Nai” đã thực sự trở thành sân chơi trí tuệ bổ ích để mỗi
tầng lớp nhân dân cùng nhau tìm hiểu, khám phá những giá trị lịch sử văn hóa
tốt đẹp của quê hương mình. Qua đó, góp phần giáo dục truyền thống văn hóa –
lịch sử cho các tầng lớp nhân dân, cán bộ, Đảng viên, đoàn thanh niên, lực lượng
vũ trang và nhất là thế hệ trẻ, khuyến khích công tác nghiên cứu khoa học - xã
hội trong đó chú trọng văn hóa lịch sử.
Theo yêu cầu của hội thi năm nay, tôi đã lựa chọn viết về nhân vật được
chọn đặt tên đường ở địa phương mình đang sống là nhà nho yêu nước Thân
Nhân Trung với công lao to lớn trong việc trấn hưng nền văn hóa giáo dục Việt
Nam thời thịnh trị Lê Thánh Tông (1460-1497) và tìm hiểu về vị đại biểu Quốc
hội của Đồng Nai khóa VI, nhà báo, nhà văn, nhà hoạt động cách mạng Lý Văn
Sâm. Ông là nhà văn tiêu biểu của dòng văn học yêu nước tiến bộ ở đô thị miền
Nam bị tạm chiếm giai đoạn 1945-1954.
Qua tìm hiểu những nhân vật này không chỉ giúp tôi hiểu biết sâu sắc
thêm về những truyền thống, giá trị văn hóa, lịch sử tốt đẹp của cha ông như
truyền thống yêu nước, hiếu học, trọng người tài…mà từ những tấm gương sáng
ấy còn tạo động lực để thế hệ trẻ chúng tôi nỗ lực phấn đấu hơn nữa, góp phần
xây dựng Đồng Nai nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung ngày càng giàu
mạnh.
Trang 2
PHẦN I: TÌM HIỂU VỀ NHÂN VẬT THÂN NHÂN TRUNG
Câu hỏi: Cảm nhận về tiểu sử nhân vật được chọn đặt tên đường tại
địa phương, phường, xã nơi đang ở. Những hành động, đức tính nào của
nhân vật cần học tập và làm theo?
TRẢ LỜI
Sử dụng tên nhân vật lịch sử hay sự kiện lịch sử tiêu biểu để đặt tên
đường phố vừa là một cách tôn vinh các cá nhân tiêu biểu của dân tộc, vừa là
việc làm tỏa những giá trị văn hóa- lịch sử trong cộng đồng.
Hiện nay, trên địa bàn phường Trảng Dài có một số tuyến đường được đặt
tên những nhân vật lịch sử tiêu biểu, có nhiều đóng góp trong lịch sử đất nước,
đáng để người dân ngưỡng mộ, tôn vinh như: Nguyễn Thái Học, Nguyễn Văn
Tiên, Trần Văn Xã, Bùi Trọng Nghĩa, Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Khuyến,
Đồng Khởi và đường Thân Nhân Trung.
Điểm đầu của đường Thân Nhân Trung từ Ngã ba Cây sung, phường Trảng Dài
Đường Thân Nhân Trung được đặt tên theo Nghị quyết số 63/2012/NQ-
HĐND ngày 06 tháng 12 năm 2012 của HĐND tỉnh Đồng Nai. Đường Thân
Nhân Trung là con đường nhựa có bề rộng khoảng 5-6m và chiều dài 800m với
điểm đầu từ Ngã ba Cây sung đến điểm cuối là phường Hố Nai. Mỗi ngày trên
đường đi làm về, vẫn đi qua con đường ấy nhưng quả thật cái tên Thân Nhân
Trung là con đường tôi đi qua mỗi ngày nhưng thực sự bản thân chưa biết rõ về
Trang 3
nhân vật được chọn để đặt tên cho con đường này. Hội thi Tìm hiểu văn hóa lịch
sử Đồng Nai năm 2016 có câu hỏi “nêu cảm nhận về tiểu sử nhân vật được chọn
đặt tên đường tại địa phương phường, xã đang ở”, đây là cơ hội để bản thân tôi
có động lực tìm hiểu và thể hiện cảm xúc về một cái tên, một con người chưa
từng biết đến nhưng lại rất đỗi quen thuộc.
I. Con người tài năng và đức độ
Trong thời kỳ lịch sử phong kiến Việt Nam, đã có nhiều tấm gương hiếu
học. Đặc biệt, đời thịnh trị Lê Thánh Tông (1460-1497), Thân Nhân Trung là
một trong những tấm gương sáng ấy. Ông là một trong những người góp phần
làm rạng rỡ cho quê hương, đất nước, với câu nói nổi tiếng “Hiền tài là nguyên
khí của Quốc Gia”. Tên tuổi của ông đã được khắc trên bia đá, tấm bia thứ nhất
về khoa thi tiến sĩ năm Nhân Tuất niên đại Bảo Đại thứ ba (1442, đời Lê Thái
Tông), dựng năm 1484 tại Văn Miếu Thăng Long - Đông Đô đời Lê Thánh
Tông.
Thân Nhân Trung sinh năm 1418, mất năm 1499, là người làng Yên Ninh
(làng Nếnh) huyện Yên Dũng, trấn Kinh Bắc, nay thuộc xã Hoàng Ninh, huyện
Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Có thể nói, Thân Nhân Trung là người mở đầu cho
một gia tộc khoa bảng, ba đời liên tiếp với 4 vị đỗ tiến sĩ và làm quan dưới triều
Lê Thánh Tông. Trước cảnh thịnh đạt ấy của gia đình họ Thân, vua Lê Thánh
Tông đã từng ca ngợi:
Thập Trịnh đề huynh liên quý hiển
Thị Thân phụ tử mộc ân vinh
(Mười anh em nhà họ Trịnh nối nhau quý hiển,
Hai cha con nhà họ Thân tắm gội ân vinh).
Thân Nhân Trung thi Hội đỗ Hội nguyên và thi Đình đỗ đệ tam giáp đồng
Tiến sĩ, khi đã ngoài 50 tuổi (1469). Nhưng khi vào thi Đình để xếp hạng cao
thấp, Thân Nhân Trung chỉ đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Khoa thi này
có 22 người đỗ, không có Đệ nhất giáp Tiến sĩ, chỉ có 2 người đỗ Đệ nhị giáp
Trang 4
Tiến sĩ xuất thân là Phan Phiên và Nguyễn Như Uyên. Khi đã chính danh, Thân
Nhân Trung mới thực sự bước sang bước ngoặt mới của cuộc đời, đem hết sở
học của mình thi thố với đời.
May mắn cho Thân Nhân Trung, đương thời, ông sống trong chế độ minh
quân, với vị Vua Sáng Lê Thánh Tông, đời thịnh trị 38 năm (từ năm 1460-
1497), đưa nước ta trở thành một nước hùng cường vào bậc nhất trong khu vực
Đông Nam Á bấy giờ, cũng như lịch sử phong kiến Việt Nam. Tài năng của
Thân Nhân Trung đã lọt vào “mắt xanh” của Lê Thánh Tông. Ông đánh giá rất
cao tài năng Thân Nhân Trung, trao cho ông nhiều chức vụ quan trọng. Trải qua
hai đời vua là Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông, ông làm quan với các chức vụ
như: Đông các đại học sĩ kiêm tế tửu Quốc Tử Giám, Thượng thư bộ Lễ, chưởng
Hàn lâm viện sự, Thượng thư bộ Lại, nhập nội phụ chính. Trong các năm Ất
Mùi (1475), Canh Tuất (1490), Quý Sửu (1493), Bính Thìn (1496), ông được
nhà vua cử làm độc quyển cho các kỳ thi Đình, giai đoạn niên hiệu Hồng Đức từ
thứ 6 đến 27.
Đối với quê hương - làng Nếnh, Thân Nhân Trung là người khai khoa,
xây nên truyền thống thi thư của làng. Kể từ Thân Nhân Trung (đỗ năm 1469)
đến năm 1619, trong khoảng 150 năm Yên Ninh có 10 người đỗ đại khoa, trong
đó họ Thân có 4 người.
Tiếp bước người cha, người ông hiếu học, tài năng, đức độ và là bậc
lương đống của triều đình như vậy, con cháu Thân Nhân Trung cũng làm góp
phần làm rặng danh truyền thống gia đình. Trong đó người con thứ của Thân
Nhân Trung là Thân Nhân Vũ, thi đỗ Tiến sĩ khoa Tân Sửu, Hồng Đức 12 (năm
1481). Tiếp theo người chú ruột Thân Cảnh Vân, con trai Thân Nhân Tín, cháu
đích tôn Thân Nhân Trung, vào năm 25 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ tam
danh (Thám hoa) khoa Đinh Mùi, Hồng Đức 18 (năm 1487). Và người thứ ba là
Thân Nhân Tín, con đầu của Thân Nhân Trung, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ
xuất thân khoa Canh Tuất, Hồng Đức 21 (1490) khi đã 52 tuổi. Ông đỗ sau con
trai 3 năm (1 khoa), và chỉ đỗ Tiến sĩ. Như vậy cả cha con, ông cháu Thân Nhân
Trang 5
Trung trước sau có 4 người đỗ đại khoa và làm quan cùng triều, nêu cao tấm
gương về truyền thống hiếu học của người dân đất nước Việt Nam.
Tấm gương sáng về tinh thần hiếu học của Thân Nhân Trung cùng con
cháu trong gia đình ông khiến trong lòng tôi trào dâng một cảm xúc tự hào. Tự
hào về truyền thống hiếu học của cha ông, tự hào vì nơi mình sinh sống có con
đường mang tên một bậc hiền tài, tự hào vì mỗi lần chở con đi học trên con
đường ấy lại có thêm một câu chuyện về tinh thần hiếu học để kể cho con nghe,
từ đó khơi dậy tinh thần hiếu học trong con, góp phần động viên con noi gương
học tập theo để trở thành những con người có ích với xã hội, với đất nước.
II. Sự nghiệp văn thơ
Có thể nói cuộc đời làm quan của Thân Nhân Trung gắn bó mật thiết với
hoạt động văn hoá giáo dục. Thân Nhân Trung không những chỉ hoạt động chính
trị, xã hội, mà ông còn sáng tác văn thơ. Ở ông văn hoá và giáo dục - đào tạo
không tách rời nhau. Trong lĩnh vực văn hóa, ông tham gia biên soạn và sáng tác
mặc dù chỉ trong phạm vi triều đình giữa vua tôi nhưng lại gắn bó với đời sống
xã hội.
Ông sáng tác nhiều nhưng chưa tập hợp thành tập riêng, nên chúng ta nắm
không hệ thống và chính xác. Hiện nay, các nhà nghiên cứu bước đầu tìm thấy
một số sáng tác của ông như: Năm bài văn bia (Quang Thục trinh huệ khiêm tiết
hoạ xung nhân thánh Hoàng Thái Hậu bi; Đại Bảo tam niên tiến sĩ đề danh ký;
Hồng Đức thập bát niên tiến sĩ đề danh ký; Thánh Tông chiêu lăng bi minh tịnh
tự; Thượng Hồng Đường An liệt nữ bi); đồng tác giả của một số sách (Thiên
Nam dư hạ; Quỳnh uyển cửu ca; Văn minh cổ xuý; Châu cơ thắng thưởng); một
số bài thơ (Thứ vận tống Chánh sứ hiệu thư Văn Lễ; Vãn Quang Thục Hoàng
Thái Hởu; Vãn Thánh Tông Thuần Hoàng đế); một số đoạn văn bình cho những
bài thơ của Lê Thánh Tông.
Theo nghiên cứu của tác giả Lâm Giang, bước đầu tìm hiểu thấy rằng,
một số tác phẩm của ông nằm trong các văn bản sau đây:
Trang 6
- Minh lương cẩm tú A.254, VHv.94, A.1413
- Lê triều thi tập VHv.826
- Cúc đường bách vịnh A.1168
- Hoàng Việt văn tuyển A.3.63
- Cổ tâm bách vịnh A.702
- Toàn Việt thi lục A.1232, A.3200, A.132
- Hoàng Việt thi tuyển VHv.608, VHv.1451
- Thịnh Lê thi tập VHv.1455
- Nguyễn Phi Khanh thi tập A.198
- Lê Thánh Tông Thuần Hoàng Đế thi VHv.1010
- Thiên Nam dư hạ A.334, VHv.1313
- Đại Việt sử ký toàn thư A.3
- Lê triều danh nhân thi tập VHv.152
- Lê triều lịch khoa Tiến sĩ đề danh bi ký A.109
- Quang Thục Trinh huệ khiêm tiết hòa xung nhân thánh Hoàng thái hậu
bi, 13478.
Sau khi so sánh đối chiếu các văn bản trên, thấy Thân Nhân Trung có
những sáng tác sau:
1. Thiên Nam dư hạ: Đồng soạn giả.
2. Bài văn bia: Đại Bảo tam niên Tiến sĩ đề danh bi ký Đề tên Tiến sĩ năm
Đại Bảo thứ 3 (1442).
3. Bài văn bia: Hồng Đức thập bát niên Tiến sĩ đề danh bi ký. (Đề tên
Tiến sĩ năm Hồng Đức thứ 18 (1487).
4. Bài văn bia: Chiêu Lăng thần đạo bi. Đồng tác giả.
Trang 7
5. Quỳnh uyển cửu ca: Đồng tác giả. Trong đó, có 9 bài thơ họa và 9 đoạn
văn bình thơ Lê Thánh Tông.
6. Một số bài thơ khác chép rải rác trong các văn bản trên, trong đó, tập
trung nhất ở Toàn Việt thi lục A.1322 và Minh lương cẩm tú A.251. Đó là
những bài:
- Họa Ngự chế Tư gia tường sĩ.
- Họa Ngự chế Anh tài tử.
- Họa Ngự chế Lục Vân động.
- Họa Ngự chế Giao Thủy giang.
- Họa Ngự chế Bái yết Sơn lăng cảm thành.
- Họa Ngự chế Hánh kiến Thụy đường.
- Họa Ngự chế Trú Thúy ái châu.
- Họa Ngự chế Truy hoài Thánh tổ huân nghiệp.
- Họa Ngự chế Quang Đức điện thượng cảm thành.
- Thứ vận Tống chánh sứ hiệu thư Vân lễ.
- Vãn Nhân Thánh Hoàng Thái hậu.
- Vãn Thánh Tông Thuần Hoàng đế.
Cả thảy 13 bài + 9 bài trong Quỳnh uyển cửu ca là 22 bài thơ thất ngôn
bát cú và ngũ ngôn. Ngoài ra còn một số đoạn văn bình hoặc “cẩn ngôn” cho
những bài thơ của Lê Thánh Tông.
Năm Hồng Đức thứ 26 (1495), Lê Thánh Tông lập hội thơ Tao Đàn, tự
xưng là Tao Đàn đô nguyên súy, Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận được cử làm
Tao Đàn phó đô nguyên súy. Thân Nhân Trung đóng góp phần đáng kể vào các
tập thơ Quỳnh uyển cửu ca, Hồng Đức quốc âm thi tập, những tác phẩm tiêu
biểu của hội Tao Đàn, trong đó phản ánh khí phách hào hùng của dân tộc thông
qua những trang sử oanh liệt và các nhân vật anh hùng hiển hách; ca ngợi đất
Trang 8
nước An Nam gấm vóc; hản ánh bản sắc tâm hồn giàu tình cảm và chất thơ của
người Việt; miêu tả sinh hoạt của những người dân lao động bình dị, thân
thương…
Cuốn sách “Thân Nhân Trung – con người và sự nghiệp” của nhà nghiên cứu Lâm Giang do Sở Văn hóa Thông tin (nay là Sở Văn hóa Thể thao và Du
lịch) tỉnh Bắc Giang xuất bản năm 1995 Những bài thơ, bài văn bia và một số đoạn văn bình luận của Thân Nhân
Trung đã chứng minh tư tưởng, tình cảm của ông đối với dân, với nước. Cảnh
thái bình thịnh trị, vua sáng tôi hiền, luôn luôn được nhắc tới, như một sợi chỉ đỏ
xuyên suốt các sáng tác của ông:
Văn mô Vũ liệt phi thừa nhật
Tứ hải thanh minh tuyệt tấm phân
(Học theo vua Văn, vua Vũ thừa mưu lớn
Bốn bể thanh bình vững bội phần)
Đó cũng là những vần thơ đẹp, toát lên cảnh “vật thịnh dân an”:
Vật phụ dân khang xuân sắc hảo
Hoạ thuyền cao ỷ lục âm kiều
(Dân yên vật thịnh, sắc xuân tươi đẹp
Thuyền rồng cao tựa bên bóng mát cây cầu)
Trang 9
Những sáng tác của ông luôn gắn với trật tự xã hội, với đạo lý làm vua,
làm quan, làm người và làm con dân một đất nước đang chấn hưng phát triển. Ví
dụ như năm 1483 Thân Nhân Trung cùng Quách Đình Bảo, Đỗ Nhuận, Đào Cử,
Đàm Văn Lễ biên soạn bộ sách Thiên Nam dư hạ tập, gồm 100 quyển, trong đó
bộ Luật Hồng Đức nổi tiếng gồm 721 điều rất có ảnh hưởng đến đời sau. Bộ
phận sáng tác thơ văn cũng chỉ là một mảng của văn hoá Đông Đô trong 38 năm
(1460 – 1497) trị vì triều Lê Thánh Tông. Chỉ xem đề tài những bài thơ của nhà
vua mà Thân Nhân Trung họa lại cho thấy rất phong phú: mừng một vụ lúa được
mùa hai năm liền, cảnh sắc hoa mai bên hồ, một danh lam thắng cảnh của đất
nước, nghĩ về người anh tài, nỗi nhớ nhà của tướng sĩ trong gió bấc lạnh lùng,
khí tiết của các bậc anh hùng, đạo làm vua, tiết tháo của bề tôi vv…
Qua những sáng tác của Thân Nhân Trung ta thấy sáng ngời một tấm lòng
yêu nước, thương dân của một nhà nho đức độ. Những hình ảnh trong văn thơ
ông là cảnh đất nước thanh bình, thịnh trị, là những người dân chất phác, thật
thà. Trong các tác phẩm ấy, ông luôn thể hiện rõ quan điểm của mình để làm sao
xây dựng được đất nước hưng thịnh để cuộc sống của người dân được ấm no.
III. Thân Nhân Trung với tư tưởng “Hiền tài là nguyên khí của quốc
gia”
Chúng ta đã rất nhiều lần nghe đến câu “Hiền tài là nguyên khí của quốc
gia” với ý nghĩa là đất nước muốn phát triển thì phải coi trọng người tài bởi đây
chính là “nguyên khí”, là nền tảng vững chắc nhất để xây dựng và phát triển đất
nước. Lịch sử thế giới loài người đã chứng minh, ở đâu coi trọng nhân tài thì ở
đó sẽ phát triển thịnh vượng. Thế nhưng ít ai biết được câu nói nổi tiếng này là
của Tiến sĩ Thân Nhân Trung.
Bản thân ham học hỏi nên Thân Nhân Trung luôn coi trọng sự học, coi
trọng người có học. Thân Nhân Trung là người có tư tưởng lớn về đào tạo nhân
tài, sử dụng nhân tài vì việc nước. Trong lời bình bài “Đạo làm vua” của vua Lê
Thánh Tông, Thân Nhân Trung đã viết: “Nay đức thánh thượng lại lấy mùa
Trang 10
màng tươi tốt làm điềm lành, điều ấy khác hẳn hạng khoe lạ vô ích, và phổ vào
lời ca là có ý giữ gìn sự cần cù cẩn trọng mãi không thôi… Bắt đầu đặt vấn đề
như thế thì đó là một vị vua khiêm tốn” (Bài ký đề tên Tiến sĩ khoa Đinh Mùi
niên hiệu Hồng Đức thứ 18 - 1487).
Bia Tiến sĩ khoa thi nho học năm Nhâm Tuất (1442) do Thân Nhân Trung soạn lời văn
Thân Nhân Trung được triều đình tin dùng trong việc tuyển chọn nhân tài
và đào tạo nhân tài cùng các công việc quan trọng khác trong triều. Các kỳ thi
hương, thi hội ông đều có đóng góp tích cực, việc xem xét bài vở của các thí
sinh, vua đều giao cho Thân Nhân Trung xem xét đọc duyệt để trình lên. Uy tín
và vai trò của Thân Nhân Trung càng được đề cao vào năm 1493, khi ông được
giữ chức Hàn lâm viện thừa chỉ, Đông các đại học sĩ kiêm Quốc Tử Giám Tế
tửu. Với trọng trách này, Thân Nhân Trung lại càng phải tăng thêm trách nhiệm
chăm lo vun trồng cho sự nghiệp nhân tài của đất nước.
Trang 11
Đặc biệt, vào năm Hồng Đức thứ 15 (1484), vua Lê Thánh Tông đã đưa ra
một chế định là khắc tên các Tiến sĩ vào bia đá đặt trên lưng rùa đá đặt ở Văn
Miếu - Quốc Tử Giám. Điều khó nhất của công việc này là soạn bài văn để khắc
trên bia đá. Bởi, lời văn đó phải lột tả hết ý tưởng của vị Minh Quân Lê Thánh
Tông không chỉ để răn dạy quan lại và người dân đương thời, mà còn là thông
điệp của thời đại và cá nhân Lê Thánh Tông gửi gắm cho muôn đời sau. Và, Lê
Thánh Tông đã trao trọn trọng trách này cho Thân Nhân Trung. Đây là vinh dự ,
song cũng là thách thức lớn đối với ông. Song với trí tuệ hơn người, đặc biệt là
tư tưởng coi trọng sự học, coi trọng hiền tài, Thân Nhân Trung đã hoàn thành tốt
trọng trách được giao.
Bài văn bia này có tiêu đề: “Đề tên Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại
Bảo thứ ba (1442)”. Văn bia có đoạn: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia,
nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế nước
yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy các bậc vua tài giỏi đời xưa chẳng có đời nào
lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài, bồi đắp thêm nguyên khí”.
Lần đầu tiên trong lịch sử Nho Giáo, Thân Nhân Trung khẳng định vai trò
của kẻ sĩ tạc trên bia đá và lý do dựng bia đá đề tên Tiến sĩ: “Kẻ sĩ có mối quan
hệ thật là quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Vì thế, cái ý tôn trọng
họ thật là vô cùng, nên đã ban ân sủng bằng khoa danh, lại gia thêm bằng tước
trật, ơn ban cho đã lớn, vẫn còn cho là chưa đủ. Lại cho đề tên ở Tháp Phạn, ban
tự hiệu ở bảng Long Hổ, mở tiệc vui triều đình mừng được người tài, không cái
gì không ở mức cao nhất. Ngày nay Thánh Thượng cho rằng việc lớn lao đẹp đẽ
tuy lừng lẫy vang dội một thời, song lời khen tiếng thơm chưa đủ để truyền lại
vạn đời. Cho nên dựng đá đề tên đặt ở cửa Quốc Tử Giám, khiến kẻ sĩ trông lên
thấy hâm mộ, phấn khởi, cố gắng rèn luyện danh tiết, dốc sức giúp rập hoàng
gia. Há chỉ là chuộng hư danh ham văn suông mà thôi đâu. Ôi! kẻ sĩ chốn trường
ốc, lều tranh, số phận thật nhỏ bé mà được triều đình đề cao như vậy thì cái chí
của họ vì tự trọng bản thân mà phải lo báo đáp. Hãy đem tên họ những người đỗ
trong khoa này mà kê lại”.
Trang 12
Cũng chính Thân Nhân Trung đã nhìn ra những điểm yếu, hạn chế của kẻ
sĩ và đưa ra lời cảnh báo cũng như ý nghĩa, tầm quan trọng của bia tiến sĩ:
“Những người đưa vào văn học chính sự tô điểm cho cảnh thịnh trị, thanh bình,
vài chục năm trở lại đây, được quốc gia tin dùng, kể cũng nhiều vậy. Nhưng
trong số đó cũng có kẻ vì hối lộ mà hư hỏng, hoặc sa ngã vào cùng loại với bọn
gian ác, là bởi vì lúc ấy họ sống chưa được nhìn thấy tấm đá trinh bạch này thôi.
Giả sử hồi đó họ kịp nhìn thấy thì ắt hẳn lòng thiện sẽ tràn đầy, ý ác được ngăn
chặn, đâu dám làm chuyện càn bậy. Thế thì việc dựng tấm bia đá này, ích lợi
biết chừng nào. Kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà cố gắng. Làm sáng
tỏ những điều đã qua, mở rộng dậy bảo cho hậu thế. Một là để dài mãi tư chất
danh tiết cho kẻ sĩ, hai là củng cố sự bền vững của quốc gia. Thánh thần làm như
vậy, đâu phải chuyện vô ích. Vậy ai nhìn thấy cũng nên hiểu rõ ý này.”
Còn trong bài văn bia năm 1487, Thân Nhân Trung quan niệm, hiền tài là
người “lấy trung nghĩa mà rèn cho danh thực hợp nhau, thực hành điều sở học,
làm nên sự nghiệp vĩ đại sáng ngời, khiến cho mọi người đời sau kính trọng
thanh danh, mến mộ khí tiết, may ra trên không phụ lòng nhân dưỡng dục của
triều đình, dưới không phị công phu học tập thường nhật". Như vậy, theo ông,
hiền tài ở đây phải vừa là người có đức, vừa có tài. Đó là lòng trung nghĩa, có
khí tiết trong sạch và dùng chính kiến thức học tập của mình để đạt được thành
công khiến người đời mến phục.
Để có được bậc hiền tài như thế, theo Thân Nhân Trung phải có nột hoàn
cảnh khách quan thuận lợi. Ông nói : "Nhân tài phồn thịnh vốn có quan hệ đến
khí hoá của trời đất và ở cái gốc giáo hoá của thánh nhân". Có khí hoá của trời
đất là nói hoàn cảnh thịnh trị của đất nước trong đó mọi sự vật đều phát triển tốt
đẹp. Theo Thân Nhân Trung đó là thời đại Lê Thánh Tông, có sự giáo hoá của
thánh nhân là nói sự quan tâm đặc biệt của nhà vua.
Giáo sư Vũ Khiêu đã nhận định: Với bài văn bia ngắn gọn, Thân Nhân
Trung đã để lại cho đời sau những ý kiến vô cùng sâu sắc về vai trò của người trí
thức, về chính sách đối với hiền tài, nhắc nhở đời sau một chân lý lịch sử: “Kẻ sĩ
Trang 13
có mối quan hệ thật là quan trọng đối với sự phát triển của đất nước” (Văn bia
1487). Hai tấm bia nói trên vẫn tồn tại ở Văn Miếu trên 500 năm nay, thường
xuyên nhắc nhở các triều đại về chính sách đối với kẻ sĩ và đã luôn luôn chứng
minh lời nói bất hủ của ông về sự thịnh suy của đất nước gắn liền với sự thịnh
suy của hiền tài.Với tinh thần nói trên, Thân Nhân Trung và các bậc hiền tài
đồng thời với ông đã đóng góp hết sức mình trong việc xây dựng một thời đại
hưng thịnh của đất nước với vua thánh, tôi hiền.
Ở thời kì nào cũng vậy, nếu xem hiền tài chính là “nguyên khí”, là trụ cột
thì đất nước đó sẽ có những bước tiến mới. Thân Nhân Trung không chỉ nhấn
mạnh khía cạnh ‘coi trọng” mà còn nhấn mạnh việc “phát hiện, phát triển”
những người đủ chí và lực để gánh vác những việc trọng đại của quốc gia. Đây
chính là tư tưởng tiến bộ, có sức ảnh hưởng lớn đến với sự sinh tồn của quốc gia
đó.
Câu nói nổi tiếng của Thân Nhân Trung “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia” được treo ở đền Khải Thánh – Văn miếu Quốc Tử Giám Đúng vậy, hiền tài không phải tự nhiên mà có. Ngoài năng khiếu bẩm sinh
mang tính chất truyền thống của gia đình, dòng họ, quê hương…thì người tài
phải được phát hiện, giáo dục và đào tạo một cách nghiêm túc và bài bản để thực
sự trở thành hiền tài của đất nước. Nhân tài của một đất nước không nhiều
nhưng cũng không quá hiếm hoi. Để có được hiền tài, Nhà nước phải có chính
Trang 14
sách đào tạo và sử dụng đúng đắn cùng chính sách đãi ngộ trân trọng, hợp lý; tạo
điều kiện thuận lợi để hiền tài phát triển tài năng và cống hiến có hiệu quả nhất
cho sự nghiệp phát triển đất nước giàu mạnh.
Tư tưởng của Thân Nhân Trung về trọng dụng nhân tài không chỉ dừng lại
trong xã hội thời Lê mà đối với chúng ta vẫn còn nguyên giá trị, khi giáo dục
đang trở thành quốc sách hàng đầu, khi văn hoá, khoa học và đội ngũ trí thức
đang giữ một vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp kiến quốc đất nước hôm
nay. Đặt Thân Nhân Trung vào hoàn cảnh đất nước hôm nay càng thấy hết ý
nghĩa to lớn và tính trường tồn của câu nói bất hủ “Hiền tài là nguyên khí quốc
gia”. Chúng ta hiểu vì sao Đảng và Nhà nước đã coi giáo dục là quốc sách hàng
đầu và nhấn mạnh vai trò cực kỳ quan trọng của văn hóa khoa học và đội ngũ trí
thức trong sự nghiệp chung của đất nước hôm nay.
Xin được trích lời của Giáo sư Vũ Khiêu khi nói về tư tưởng trọng nhân
tài của Thân Nhân Trung: “Ngày nay kỷ niệm Thân Nhân Trung, nhân dân ta
đưa ông trở về vị trí quang vinh của ông trong lịch sử văn hiến của dân tộc.
Cuộc đời ông, sự nghiệp của ông và đặc biệt là tư tưởng của ông về vinh dự và
vai trò của người trí thức sẽ mãi mãi là bài học quý giá và nguồn cổ vũ lớn cho
chúng ta hôm nay”.
IV. Cảm xúc về những phẩm chất, đức tính tốt đẹp của nhân vật
Qua tìm hiểu về nhân vật Thân Nhân Trung, tôi thực sự cảm thấy ngưỡng
mộ ông, một nhà nho chân chính luôn đề cao sự học, coi trọng người tài, một vị
quan trung quân, ái quốc. Với tình cảm ấy, tôi xin nêu lên những đức tính tốt
đẹp của Thân Nhân Trung mà bản thân tôi nói riêng cũng như tất cả mọi người ở
bất cứ thế hệ nào cũng có thể học tập và làm theo.
1. Tinh thần hiếu học
Thân Nhân Trung thi Hội đỗ Hội nguyên và thi Đình đỗ đệ tam giáp đồng
Tiến sĩ, khi đã ngoài 50 tuổi, cái tuổi thủa ấy được cho là đã lên lão. Điều đó
Trang 15
chứng tỏ Thân Nhân Trung là một tấm gương hiếu học, dù tuổi đã cao nhưng
vẫn ra sức học tập để chinh phục những đỉnh cao của tri thức
Đây là một phẩm chất tốt đẹp mà chúng ta cần phải học tập và làm theo.
Đặc biệt trong thời đại kinh tế tri thức hôm nay, với sự phát triển như vũ bão của
khoa học kỹ thuật, kiến thức bùng nổ và tăng lên theo cấp số nhân thì việc rèn
luyện kỹ năng học một cách chuyên nghiệp càng là một điều bắt buộc. Vì sự học
chính là cái gốc, là căn cốt của mọi thành công, giúp cho xã hội hưng thịnh, làm
cho gia đình “đỏ ngành xanh ngọn”, là cơ sở để con người có thể trở nên tử tế.
Như vậy, mọi sự thành công chính đáng đều phải nhờ học hành. Vì để thành
công một cách đàng hoàng cần phải có kiến thức mà kiến thức chỉ có đươc nhờ
con đường học tập. Ngoài kiến thức chuyên môn nghiệp vụ còn cần phải có
được kiến thức văn hóa nền tảng như văn học nghệ thuật, luật học, lịch sử học,
tin học và ngoại ngữ. Bởi vì mọi sự phát triển bền vững, lâu dài chỉ có được trên
cơ sở nền tảng văn hóa vững chắc. Đúng như câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh
:“Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người” .
Có thể nói, mặc dù lên làm quan ở cái tuổi sắp hưu trí này, Thân Nhân
Trung trong những năm còn lại của đời mình vẫn tạo dựng được những dấu ấn
đậm đà trong lòng dân tộc. Ông đã khẳng định một điều, ra giúp đời, nếu có tâm
và có tài, thì ở lứa tuổi nào cũng không là muộn màng.
Đối với một cán bộ công chức, viên chức thì việc không ngừng học tập lại
càng cần thiết. Học để nâng cao trình độ chuyên môn nhằm thực hiện tốt nhiệm
vụ chính trị được giao, đồng thời có kiến thức để có thể tham mưu, hiến kế
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, góp phần xây dựng một đất nước
giàu mạnh. Bên cạnh đó cũng cần không ngừng học tập nâng cao trình độ chính
trị để luôn kiên định với lý tưởng, mục tiêu của Đảng, đấu tranh phản bác lại các
quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, đồng thời góp phần tuyên truyền, vận
động người thân, gia đình và quần chúng nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước, đoàn kết một lòng tạo nên sức mạnh để xây dựng và bảo vệ
đất nước.
Trang 16
Từ tấm gương hiếu học của ông cùng với con cháu trong gia đình cũng
như người dân làng Nếnh, quê hương ông, tôi tự nhủ bản thân mình cũng cần
phải học tập không ngừng để nâng cao trình độ chuyên môn, chính trị để hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
2. Coi trọng nhân tài
Với câu nói “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” đã cho thấy Thân Nhân
Trung là một người trọng dụng nhân tài. Tư tưởng “Hiền tài là nguyên khí quốc
gia” của Thân Nhân Trung không chỉ có giá trị đối với thệ hệ ông đang sống mà
cho đến ngày nay nó vẫn giữ nguyên ý nghĩa. Đối với một đất nước, muốn phát
triển giàu mạnh vững bền thì yếu tố con người vô cùng cần thiết. Cần phải tìm
người giỏi và giáo dục người giỏi để họ có thể gánh trên vai trọng trách nước
nhà.
Quang Trung – Nguyễn Huệ đã từng nói: "Dựng nước lấy việc học làm
đầu. Muốn thịnh trị lấy nhân tài làm gốc". Dân tộc Việt Nam trải qua biết bao
cuộc chiến tranh ngoại xâm, nhiều người đã phải hi sinh và ngã xuống. Để có
được một đất nước hòa bình và phát triển như ngày hôm nay, không chỉ nhờ sức
mạnh đoàn kết, ý chí kiên cường của người dân Việt Nam, mà trong đó còn có
sự đóng góp không nhỏ của những con người tài giỏi, hết lòng vì dân, vì nước.
Dù trong hòan cảnh nào thì những nhân tài vẫn luôn cần được trân trọng.
Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta cũng đã có nhiều chính sách trọng dụng người
tài để họ có cơ hội được phát triển bản thân, cống hiến sức lực của mình cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Những sinh viên xuất sắc, cán bộ có
năng lực, ... đều được chính phủ trợ cấp chí phí sinh hoạt và học tập ở nước
ngoài để mai này phục vụ đất nước. Bên cạnh đó, những cải cách giáo dục luôn
được đưa ra để phù hợp với từng thời kì phát triển. Các trường học được xây
dựng tạo điều kiện cho trẻ em mọi vùng miền đều có cơ hội học tập, các chính
sách miễn giảm học phí cho các em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được đưa ra,
những quỹ học bổng dành cho những em có thành tích cao trong học tập cũng
được xây dựng và duy trì...
Trang 17
Riêng đối với Đồng Nai, thời gian qua đã có nhiều chính sách đào tạo và
thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển.
Tiêu biểu phải kể đến Chương trình đào tạo sau đại học được thực hiện từ năm
2006. Trong đó, chương trình đã mở rộng quan hệ hợp tác với các Viện, trường
trong và ngoài nước; có chính sách ưu tiên, đãi ngộ đối với các học viên đã hoàn
thành tất chương trình đào tạo ở nước ngoài. Bên cạnh việc cử đi học từ nguồn
kinh phí của chương trình, chủ động tìm kiềm các nguồn tài trợ, hỗ trợ từ trong
và ngoài nước để đầu tư cho công tác đào tạo chuyên sâu cho cán bộ công chức
của tỉnh và lựa chọn những học sinh, sinh viên giỏi có đủ điều kiện được chuyển
tiếp lên chương trình đào tạo sau đại học… Tổng số học viên đã hoàn thành
chương trình đào tạo sau đại học đến thời điểm hiện nay là 696 học viên trong
đó: xuất sắc chiếm 33%, khá chiếm 60% và Trung bình chiếm 7%. Mới đây,
UBND tỉnh đã thông qua Chương trình Đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 – 2020. Thực hiện Nghị quyết Đại hội
X của Tỉnh ủy, Chương trình Đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 – 2020 bao gồm 4 mục tiêu cụ thể, đó là: đào tạo
nhân lực công nhân kỹ thuật trình độ cao theo chuẩn quốc gia, khu vực và quốc
tế; đào tạo nhân lực ngành khoa học và công nghệ trình độ cao, chất lượng cao;
đào tạo nhân lực giáo dục và đào tạo làm nền tảng cho sự nghiệp đổi mới căn
bản, toàn diện của ngành giáo dục; đào tạo đội ngũ huấn luyện viên, vận động
viên năng khiếu thể dục thể thao… Những chính sách này của tỉnh Đồng Nai đã
thể hiện được chủ trương trọng dụng người tài của tỉnh, vừa tìm kiếm, phát hiện
nhân tài, vừa tổ chức đào tạo và tạo môi trường làm việc thuận lợi để những
người giỏi phát huy được hết khả năng, góp sức xây dựng tỉnh Đồng Nai ngày
càng giàu mạnh.
Bài học về trọng dụng nhân tài của Thân Nhân Trung đối với mỗi người
cán bộ công chức, viên chức chúng ta đó là phải ra sức học tập, nghiên cứu để
nâng cao trình độ, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời chủ động tham
mưu với lãnh đạo, cấp trên về những chính sách thu hút nguồn nhân lực chất
Trang 18
lượng cao cho tỉnh. Ngoài ra cũng cần tích cực tham gia vào các hoạt động
khuyến học, khuyến tài của địa phương. Trước hết phải động viên con, cháu,
người thân của mình ra sức học tập, chinh phục những đỉnh cao tri thức, làm chủ
khoa học kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước thời kỳ mới,
thời kỳ hội nhập.
Bản thân là một lãnh đạo phòng, tôi tự nhủ sẽ học tập không ngừng, học
từ người thân, học từ bạn bè, đồng nghiệp và tiếp tục học tập nâng cao trình độ
để có đủ năng lực lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Bên cạnh
đó là luôn khuyến khích và tạo điều kiện cho các nhân viên trong phòng học tập
nâng cao trình độ; động viên, sử dụng những người giỏi trong công việc, đồng
thời chủ động đề xuất với cấp trên sử dụng, quy hoạch những cán bộ thực sự có
tài.
Tác giả bài viết chụp hình tại Bảng ghi tên đường Thân Nhân Trung ở phường Trảng Dài
Để làm được điều đó, tôi nghĩ, là người lãnh đạo, mình phải đánh giá
đúng năng lực từng cá nhân, hiểu nhân viên, tìm hiểu được năng lực làm việc
của mỗi một người dưới quyền cũng như những sở trường và sở thích của họ.
Khi sắp xếp công việc, nên đặt nhũng người thích hợp vào cương vị thích hợp
Trang 19
với năng lực và sở trường của họ. Mặt khác, muốn phát hiện và có được nhiều
nhân tài, phải loại bỏ các trở ngại cho nhân tài phát triển, tạo môi trường tốt cho
nhân tài phát huy hết tài năng. Có chính sách động viên, khích lệ người tài. Hơn
nữa, sử dụng được người tài cũng cần phải có sự tín nhiệm, nhận biết nhân tài,
tấm lòng yêu quý nhân tài, lòng can đảm bảo vệ nhân tài, ý chí sử dụng nhân tài
và đức tiến cử nhân tài.
3. Thân Nhân Trung - một nhà nho đức độ, một tấm lòng yêu nước,
thương dân sâu sắc
Lòng yêu nước của Thân Nhân Trung thể hiện trước hết ở việc dù tuổi cao
nhưng vẫn ra sức học hành, quyết tâm thi đỗ để làm quan, để có thể đóng góp
sức lực và trí tuệ của mình để xây dựng đất nước phồn thịnh, ấm no. Nếu không
có một tình yêu nước nồng nàn thì sao ông có thể làm nên những vần thơ, áng
văn chương mà mỗi cảnh vật, con của quê hương đất nước lại tươi đẹp đến thế.
Tư tưởng xuyên suốt con người Thân Nhân Trung, kể cả trong văn
chương dù làm trong lúc vua tôi ngâm vịnh, có tính thù tạc, người đọc vẫn thấy
ở ông một tấm lòng yêu nước thương dân sâu xa, một ý thức trách nhiệm cao
với dân, với nước, một đòi hỏi cao về đạo đức đối với mọi người, ngay cả với
bậc đế vương. Ông viết: " Trị nước càng thịnh vượng lòng càng phải thận trọng,
càng phải lo cho dân, chăm chỉ chính sự hàng ngày nơm nớp lo lắng" là muốn
người ở ngôi cao phải luôn ghi nhớ. Trong lời bình "Đạo làm vua" của Lê Thánh
Tông trong khuôn khổ hội Tao Đàn do chính Lê Thánh Tông làm Đô Nguyên
suý và Thân Nhân Trung làm Phó Đô Nguyên suý, ông đã nói rõ điều tâm đắc
của mình:" Nay đức Thánh thượng lại lấy mùa màng tươi tốt làm điềm lành,
điều ấy khác hẳn hạng khoe lạ vô ích… có ý giữ gìn sự cần cù cẩn trọng mãi
không thôi...Bắt đầu đặt vấn đề như thế thì đó là một vị vua khiêm tốn".
Ta cũng hiểu vì sao ông coi trọng hiền tài bởi đất nước càng nhiều hiền tài
thì đất nước mới cường thịnh và cuộc sống của người dân mới được quan tâm,
sống ấm no và hạnh phúc.
Trang 20
Bài học từ lòng yêu nước ấy đã một lần nữa nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta
về tình yêu đối với quê hương, với dân, với nước. Đối với thế hệ trẻ, yêu nước là
cố gắng học tập tốt, rèn luyện tốt, hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình hay
tham gia nghiên cứu khoa học; là tự giác thực hiện chính sách, pháp luật, tôn
trọng kỷ cương; là lựa chọn được một nghề nghiệp phù hợp với bản thân mình,
gắn bó và cống hiến hết mình vì công việc; là lao động tích cực, hăng hái, làm
giàu chính đáng, đó là yêu nước…. Ngày nay, lòng yêu nước đã có thêm những
nội dung phong phú hơn khi đất nước đang hội nhập toàn diện với thế giới.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì tiến công vào mặt
trận kinh tế, làm giàu cho đất nước được xem như nhiệm vụ then chốt của thanh
niên.
Đối với bản thân mình, là một cán bộ viên chức, tôi tự nhủ yêu nước là
phải ra sức học tập, cống hiến hết mình cho công việc, những việc có lợi cho
dân thì làm hết sức mình, làm việc trách nhiệm, chí công vô tư. Trong công việc
luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, không ngừng sáng tạo để thực hiện
công việc hiệu quả mà lại đỡ tốn thời gian cũng như tiền bạc và luôn lấy lời dạy
của Hồ Chủ tịch về “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” để tự soi rọi và làm
theo. Đặc biệt, là một đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi cần phải giữ
tư tưởng, chính trị vững vàng, sống theo Hiến pháp và Pháp luật. Luôn đấu tranh
với những quan điểm sai trái, đẩy lùi sự tha hóa, xuống cấp về đạo đức trong xã
hội. Trong công việc và cuộc sống đều phải có ý thức nêu gương. Còn trong đời
sống hàng ngày phải sống có trách nhiệm với cộng đồng, xã hội, biết yêu
thương, chia sẻ với những con người có hoàn cảnh khó khăn, giữ gìn vệ sinh
môi trường và ưu tiên sử dụng hàng Việt…
Như vậy, yêu nước không phải là làm những việc gì quá to tát hay lớn lao
mà hãy làm từ những việc nhỏ nhất có ích, có ý nghĩa với xã hội với cộng đồng.
Điều này, mỗi con người chúng ta dù ở hoàn cảnh nào cũng có thể làm được.
Trang 21
V. Một vài kiến nghị
Hiện nay, mặc dù con đường Thân Nhân Trung chỉ dài 800m, nối phường
Trảng Dài ra đường Nguyễn Ái Quốc nhưng đối với người dân ở khu phố 4,
phường Trảng Dài thì đây thực sự là một con đường trọng yếu. Bởi người dân ở
khu vực này chủ yếu làm việc ở khu công nghiệp Amata và khu công nghiệp
Biên Hòa II nên đây là con đường đi làm ngắn nhất và thuận tiện nhất. Hơn nữa,
đây cũng là con đường ngắn nhất đi đến Bệnh viện Đa khoa Thống Nhất và
Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai.
Hình ảnh con đường Thân Nhân Trung
Những năm gần đây, người dân nhập cư đổ về khu phố 4, phường Trảng
Dài để định cư ngày một tăng lên nhanh chóng, trong khi còn đường chỉ có bề
rộng 5-6m nên với mức độ tăng dân số cơ học như hiện nay thì tình trạng kẹt xe,
tắc đường sẽ sơm xảy ra. Mặt khác, là con đường làm bằng nhựa do người dân
Trang 22
tự nguyện đóng góp để thực hiện nên hai bên đường không có hệ thống cống
đảm bảo. Người dân chỉ vét 2 rãnh nước to hai bên đường, trong khi đây lại là
con đường rất dốc nên chỉ sau vài trận mưa là rác và đất đã lấp đầy, dẫn đến khi
mưa lớn nước tràn ra đường nên dễ gây hư hại mặt đường. Không những thế,
điểm cuối của con đường đến phường Hố Nai lại là một chiếc cầu dân sinh bắc
ngang qua suối Săn Máu rất sơ sài, không hề có lan can hai bên nên khi trời mưa
lớn, người dân đi qua đây rất nguy hiểm bởi nước trên phía Ngã ba Cây sung đổ
xuống, nước suối dâng cao và chảy siết. Đặc biệt, từ điểm cuối của đường chỉ
cách chừng 300m là đã đến đường Nguyễn Ái Quốc nhưng do là địa phận giáp
ranh giữa phường Trảng Dài và Hố Nai nên còn một đoạn đường đất gồ nghề rất
khó đi. Vì thế, tôi thiết nghĩ, UBND tỉnh cần quan tâm chỉ đạo chính quyền địa
phương có kế hoạch mở rộng thêm con đường Thân Nhân Trung thành con
đường liên phường để chính quyền và nhân dân 2 phường hợp sức xây dựng con
đường rộng hơn, đẹp hơn, có hệ thống cống thoát nước đảm bảo để thuận tiện
cho việc đi lại cũng như đáp ứng nhu cầu của sự phát triển.
Kiến nghị thư hai tôi muốn nêu lên ở đây chính là việc làm thế nào để mọi
người dân có thể hiểu biết được ý nghĩa, giá trị của những cái tên được đặt cho
những con đường ở nơi mình sinh sống, từ đó thêm hãnh diện, tự hào và có ý
thức hơn trong việc giữ gìn, bảo vệ đường phố xanh, sạch, đẹp. Thật vui vì trong
hội thi Tìm hiểu giá trị văn hóa lịch sử Đồng Nai năm nay, Ban tổ chức đã có
câu hỏi tìm hiểu về nhân vật được chọn để đặt tên đường. Đây chính là một việc
làm thiết thực để tuyên truyền cho người dân, nhất là thế hệ trẻ hiểu biết về
những con đường nơi mình sinh sống. Theo tôi, khi đặt tên một tuyến đường bất
kỳ thì từng khu phố phải tổ chức họp dân để thông báo cho dân biết và tuyên
truyền ngắn gọn về việc tại sao con đường đó lại được mang tên như thế. Hoặc
có thể tuyên tuyền cho dân bằng hình thức khác như vận động người dân tự
nguyện tham gia dọn dẹp vệ sinh đường phố và kết hợp với tuyên truyền về ý
nghĩa của tên đường. Hoặc nên chăng cần lắp thêm tấm bảng ghi tiểu sử nhân
Trang 23
vật lịch sử hoặc nguồn gốc tên đường đặt phía dưới bảng tên đường để người
dân biết thêm thông tin.
PHẦN II: TÌM HIỂU VỀ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI, NHÀ VĂN LÝ
VĂN SÂM
Câu hỏi: Trình bày cảm xúc về tấm gương của một trong những vị
đại biểu Quốc hội ở Đồng Nai qua các nhiệm kỳ đã qua đời?
TRẢ LỜI
Đại biểu Quốc hội là những người có năng lực, phẩm chất đạo đức để
thực sự là người đại diện của nhân dân. Đại biểu Quốc hội đều phải là những
chủ thể gần dân, sát dân, gắn bó mật thiết nhân dân, phản ánh tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân, nêu cao tinh thần vì nhân dân phục vụ…Thời gian qua, tỉnh
Đồng Nai đã có nhiều đại biểu được nhân dân tin tưởng bầu làm đại biểu Quốc
hội. Một trong số vị đại biểu Quốc hội ở Đồng Nai qua các nhiệm kỳ đã qua đời,
người mà tôi khâm phục và ngưỡng mộ nhất là nhà văn Lý Văn Sâm, đại biểu
Quốc hội khóa VI (1976-1981). Ông là một nhà hoạt động cách mạng kiên
cường và là nhà văn xuất sắc của miền Nam, từng được đánh giá là một trong
hai cây bút xuất sắc nhất ở miền Nam giai đoạn 1945 - 1954. Ông cũng là một
trong ba nhà văn của Đồng Nai được vinh dự truy tặng Giải thưởng Nhà nước
năm 2006.
Bản thân tôi làm công tác truyền thông, công việc mà sử dụng ngòi bút
của mình để góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển, đáp ứng yêu cầu
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xu hướng hội nhập thế giới. Vì
thế tôi đã lựa chọn tìm hiểu về nhân vật Lý Văn Sâm bởi đây là một nhà văn lớn
của miền Nam đã dùng chính ngòi bút của mình để đấu tranh trên mặt trận văn
hóa, tư tưởng chống lại quân thù, góp phần bảo vệ và giành lại hòa bình cho đất
nước. Mong muốn của tôi là qua tìm hiểu về nhân vật Lý Văn Sâm sẽ giúp tôi có
được bài học hữu ích cho nghề nghiệp của mình.
Trang 24
Hình ảnh Lý Văn Sâm ở Sài Gòn năm 1955
I. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương
1. Cuộc đời
Nhà văn Lý Văn Sâm sinh ngày 17 tháng 02 năm 1921 nhằm ngày mồng
Mười tháng Hai năm Tân Dậu. Ông sinh ra trong một làng nhỏ ấp Ông Lình,
làng Tân Thuận, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (cũ), nay là huyện Tân Uyên
thuộc tỉnh Bình Dương. Vùng này là miệt vườn rừng núi, hồi ấy hãy còn hoang
vu. Vì thế, không ít lần Lý Văn Sâm nói “Tôi sinh ra ở trong rừng”. Sau này, khi
cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông Huỳnh Văn Nghệ lập nên Chiến khu
Đ, thì Tân Thuận cùng với các xã như: Tân Hòa, Tân Lịch, Mỹ Lộc, Thường
Lang… trở thành vùng hạt nhân của Chiến khu oai hùng này
Lý Văn Sâm sinh ra trong một gia đình thuộc tầng lớp trung lưu nhưng về
sau trải qua nhiều khó khăn, biến cố. Cha của ông làm nghề kiểm lâm và lãnh
tiền xâu trả cho công nhân đốn cây nên cả quãng đời thơ ấu của Lý Văn Sâm trải
Trang 25
qua hầu hết ở vùng rừng rậm. Từ nhỏ, ông ở với bà ngoại ở làng Tân Nhuận.
Những cảnh thiên nhiên của quê hương đã in đậm dấu ấn trong tâm hồn ông từ
thời thơ bé như lời Lý Văn Sâm đã từng nói: Tâm hồn thơ dại của tôi đã thấm
sâu bóng núi, hình cây, tiếng chim, lời suối. Cậu bé “bắt đầu biết đứng mơ
mộng bên con sông cố hữu của làng” và nhất là thấy những vòng cánh trắng dịu
dàng của đàn cò trở về khi sương chiều dâng lên.
Tuổi thơ Lý Văn Sâm “nằm trong lòng bà ngoại nhiều hơn trong lòng mẹ.
Là vì mẹ tôi phải buôn bán vất vả quanh năm. Một chuyến ra tỉnh trở về cũng
mất bảy, tám ngày…Tôi nằm trong lòng bà, lớn lên trong tay bà, như tôi đã nằm
vắt vẻo trong chiếc võng cũ, trọn những ngày thơ ấu”.
Từ nhỏ, Lý Văn Sâm đã rất ham học và đến năm bảy tuổi, ông được cha
ông đưa xuống Thị trấn Tân Uyên để học sơ học tại trường làng. Năm lên mười
tuổi, Lý Văn Sâm được gia đình đưa lên tỉnh học. Cha ông nghĩ đến tương lai
của ông nên đã đưa cả nhà về tỉnh lỵ Biên Hòa mướn phố ở nhưng cha ông vẫn
làm thầy đội kiểm lâm.
Hồi Lý Văn Sâm học tiểu học ở Bình Trước chỉ có một “trường con trai”.
Đây là trường tiểu học hoàn chỉnh (École primaire de plein exercices) duy nhất
tới lúc đó ở tỉnh Biên Hòa, có từ thế kỷ XIX (là Trường tiểu học Nguyễn Du
ngày nay) và tiếng Pháp là ngôn ngữ chính của trường. Vì thế, Lý Văn Sâm là
người được học hành tử tế so với nhiều thanh thiếu niên thời đó. Tại đây, Lý
Văn Sâm được học với rất nhiều thầy giáo giỏi như thầy giáo Năm, thầy Lương
Văn Lê, thầy Huỳnh Văn Giỏi, Thầy Nguyễn Văn Tòng, v, v….
Trong số các thầy giáo tiểu học ở Biên Hòa, Lý Văn Sâm yêu mến nhất là
Thầy Tòng. Thầy Tòng đã nêu tấm gương khí khái, quyết từ bỏ nghề giáo những
năm 1936-1938 để tham gia phong trào công khai lúc bấy giờ và đã không nề hà
bất cứ hy sinh nào, ngay cả đến tính mạng của mình. Lý Văn Sâm còn yêu quý
một thầy giáo nữa - đó là nghệ nhân mù Năm Trừu. Thầy Năm Trừu có nghề
đờn thổi rất giỏi. Sau này, khi bắt đầu viết văn, Lý Văn Sâm nhớ về thầy giáo cũ
và sáng tác truyện ngắn Tiếng Đàn sông Phố đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy.
Trang 26
Chính tiếng sáo của Bác Năm Trù đã thổi vào tâm hồn trẻ Lý Văn Sâm những
khúc ca tình tự đầu tiên của quê hương.
Học xong năm lớp nhứt (Cours Supérieur), Lý Văn Sâm đã thi lấy bằng
tiểu học. Tốt nghiệp tiểu học ở quê, Lý Văn Sâm xuống Sài Gòn thi đậu vào
trường Pétrus Ký – trường trung học lớn nhất Nam Kỳ (nay là Trường trung học
phổ thong Lê Hồng Phong). Ông đậu vào trường loại nửa nội trú nửa không.
Học ở trường này không bao lâu thì giữa ông với đốc học Nguyễn Văn Dĩ xảy ra
xung đột và ông bị buộc thôi học. Sau đó, ông phải xin vào học trường tư thục
Lê Bá Cang, nhưng chỉ một thời gian ngắn thì ông nghỉ học về Biên Hòa.
Thời điểm này là những năm tháng sôi nổi của thời kỳ Mặt trận Dân chủ
(1936-1939). Chính phong trào này đã làm trỗi dậy chất lãng mạn vốn có trong
tâm hồn Lý Văn Sâm. Ông cùng một vài người bạn chí cốt trong tỉnh nuôi mộng
lập một gánh hát nghiệp dư gồm toàn “cây nhà lá vườn” để đi hát quanh vùng,
lấy tiền giúp các quỹ cứu tế và các hội đá banh, hội âm công….
Về gia đình một thời gian, Lý Văn Sâm lên miệt Định Quán dạy kèm con
gái vị Hương cả người dân tộc, sau đó nảy sinh tình yêu và ông đã cưới bà làm
vợ. Tuy đã có vợ nhưng Lý Văn Sâm còn rất trẻ, do đó, cha của ông muốn ông
có công danh sự nghiệp nên đã cho ông ra Huế để học. Sau đó, ông học trường
tư thực Hồ Đắc Hàm được vài năm thì nhà trường xem hồ sơ biết ông đã có vợ
nên không cho học nữa. Lý Văn Sâm rời trường và xin vào Trường trung học
Phú Xuân của đốc học Cao Xuân Chiểu và đậu bằng Thành Chung năm 18 tuổi.
“Từ ấy, cảnh nắng vàng trên sông Hương và sương xanh trên núi Ngự đã đưa
hồn lãng mạn của tôi lên tuyệt vời” – Lý Văn Sâm từng nói.
Những năm tháng lưu lại trên đất kinh kỳ đã đem đến cho Lý Văn Sâm
nhiều cảm xúc về vẻ đẹp cổ kính và đặc biệt ấn tượng khi được học với những
người Thầy nổi tiếng như Giáo sư Hoài Thanh, Giáo sư Thanh Tịnh. Ấn tượng
lớn nữa là Lý Văn Sâm có nhiều lần gặp gỡ nhà cách mạng Phan Bội Châu.
Trang 27
Đến năm 1942 sau khi mẹ mất rồi năm sau, ba ông cũng qua đời, Lý Văn
Lý Văn Sâm trở về thọ tang mẹ, cha, lo xây cất mồ mả và gánh vác sự nghiệp
của cha ông để lại là làm chủ lò than giữa vùng Mã Đà – Trị An.
Từ năm 1943, ông đã giác ngộ cách mạng và tham gia các cuộc rải truyền
đơn, tuyên truyền cách mạng trong thanh niên học sinh ở Biên Hòa. Đến ngày
nổ ra tổng Khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, Lý Văn Sâm là đoàn viên Thanh
niên tiền phong của tỉnh cùng nhân dân vùng lên cướp chính quyền. Lý Văn
Sâm trở thành cán bộ tuyên truyền Quận Châu Thành (đơn vị hành chính mới
của Thị xã Biên Hòa). Sau đó, Lý Văn Sâm rời Biên Hòa đi về vùng căn cứ
kháng chiến là Tân Hòa, Tân Tịch, Lạc An, v,v,….
Sau khi chiếm thị xã, thực dân Pháp ra sức xây dựng bộ máy chính quyền
tay sai từ tỉnh xuống huyện, xã. Thực dân Pháp mở các cuộc càng quét, bố ráp
liên tục. Do đó, Lý Văn Sâm vào hoạt động trong chiến khu Đ, nơi đây ông gặp
chiến thi tướng Huỳnh Văn Nghệ, lúc đó đang là Phó Chủ tịch Ủy ban hành
chính tỉnh, kiêm Ủy viên quân sự, Chỉ huy Trưởng vệ quốc đoàn Biên Hòa.
Lý Văn Sâm phải đi nhiều nơi trong địa bàn chiến khu Đ khi làm cán bộ
tuyên truyền của tỉnh. Năm 1946, thực dân Pháp mở nhiều cuộc càn quét hòng
tiêu diệt kháng chiến, Lý Văn Sâm về làng Bình Long để tìm Huỳnh Văn Nghệ
nhưng đụng phải trận càn lớn của quân Pháp. Lý Văn Sâm bị bắt nhốt ở bót Cây
Đào (xã Tân Phú). Quân Pháp đưa Lý Văn Sâm về khám Biên Hòa sau khi bị
giam ở bót Cây Đào mấy hôm. Sau khi ra tù, ông bị mất liên lạc với tổ chức nên
ông lên Sài Gòn làm báo, viết văn với các bạn văn là những nhà văn, nhà báo
yêu nước như Dương Tử Giang, Hoàng Tấn và tham gia các hoạt động điệp báo
trong lòng địch. Đây cũng chính là thời gian (giai đoạn 1947-1950) sáng tác
sung sức nhất của Lý Văn Sâm. Vì những tác phẩm mang yếu tố chống chế độ,
ông lại bị chính quyền thực dân bắt, giam tại khám lớn Sài Gòn một thời gian
ngắn vì tờ Cộng Đồng do ông làm quản lý đăng tin chiến sự Việt Minh. Năm
1947, ông trở thành cán bộ điệp báo hoạt động trong lòng địch.
Trang 28
Năm 1950, trước nguy cơ bị lộ, ông để gia đình cùng vợ con gái và cô em
út ở lại ngã tư Bình Hòa, còn Ông được điều ra vùng kháng chiến. Sau đó, ông
được cử hoạt động ở ngành công an và trở thành cán bộ của Ban sưu tập 1 (phân
sở công an miền Đông Nam Bộ). Năm 1954, sau hiệp định Geneve, Lý Văn Sâm
tiếp tục sứ mệnh chiến đấu cao cả của mình bằng ngòi bút giữa trùng vây kẻ thù.
Ông công khai hoạt động báo chí và văn nghệ tại Sài Gòn trong phong trào đấu
tranh đòi dân sinh, dân chủ, tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Nhà văn Lý Văn Sâm phát biểu tại Đại hội Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai lần thứ II
Tháng 11 năm 1955, Lý Văn Sâm viết một truyện ngắn có tên là “Chuông
rung trên tháp đổ” đăng trên tập san Xuân dân tộc với bút danh Bách Thảo
Sương. Tác phẩm đả kích trực tiếp chính quyền Ngô Đình Diệm. Vì thế, ông bị
mật vụ chính quyền Sài Gòn bắt với tội danh “Cộng sản nằm vùng”, tra tấn dã
man và giam tại bốt Catinat và Trung tâm huấn chính Biên Hòa (tức nhà lao Tân
Hiệp). Vào tù đúng một năm, ông cùng một số bạn tù tổ chức tham gia cuộc phá
ngục lớn, đưa hàng trăm người của kháng chiến cũ bị giam cầm trong nhà lao
Tân Hiệp, Biên Hoà trở về với kháng chiến, với cách mạng đang nhen nhóm từ
trong rừng sâu hay trên nẻo cao. Tháng 12 năm 1956, ông tham gia lãnh đạo tù
chính trị nổi dậy, cướp súng, phá trại giam, thực hiện vụ phá nhà lao Tân Hiệp
nổi tiếng ngày 02 tháng 12 năm 1956 tại Biên Hòa. Cuộc vượt thoát cho dù có
Trang 29
trả giá đắt nhưng cũng đã thành công, và Lý Văn Sâm lại trở về với đồng đội của
mình một cách chính danh là người kháng chiến. Ra khỏi tù, ông quay về Chiến
khu Đ, tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia lực lượng văn nghệ Giải phóng.
Từ năm 1956 đến 1958, ông trở thành Chánh văn phòng Bộ chỉ huy các
lực lượng vũ trang tỉnh Thủ Dầu Một, Trưởng đoàn Văn công miền Nam, chủ
bút báo Chiến thắng của Quân giải phóng miền Nam. Những năm 1959 đến
1961, ông công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương Cục Miền Nam, lần lượt đảm
nhận các chức vụ: Chính trị viên đoàn Văn công Giải phóng, Thư ký tòa soạn
báo Văn Nghệ giải phóng, Vụ Trưởng Vụ Nghệ thuật (Bộ Văn hóa Chính phủ
cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam). Năm 1962, Hội Văn nghệ giải phóng
miền Nam thành lập, Lý Văn Sâm được bầu làm Tổng thư ký đầu tiên của Hội.
Sau năm 1975, Lý Văn Sâm được bầu làm Phó Chủ tịch Liên hiệp văn
học nghệ thuật Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam, Ủy
viên Ủy ban Trung ương Mật trận Tổ quốc Việt Nam, đại biểu Quốc hội (khóa
VI), Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và nhiều năm
làm Chủ tịch Hội Văn học tỉnh Đồng Nai.
Khi nghỉ hưu, ông trở thành hội viên lão thành của Hội Nhà văn thành
phố Hồ Chí Minh. Ông từ trần vào lúc 19 giờ 02 phút ngày 14 tháng 9 năm 2000
(nhằm ngày 17 tháng 8 năm Nhâm thin) tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Ông được Nhà nước tặng thưởng các danh hiệu cao quý như Huân chương Độc
lập hạng nhì, Huân chương kháng chiến hạng nhất, Huy chương vì sự nghiệp
văn học Việt Nam, Nhà nước truy tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2006, Huy
hiệu 40 năm tuổi đảng.
2. Sự nghiệp văn chương
Lý Văn Sâm là nhà văn khá quen thuộc đối với bạn đọc quê hương Đồng
Nai của ông mà còn bạn đọc cả nước. Ngoài tên thật là Lý Văn Sâm, nhà văn
còn sử dụng nhiều bút danh khác như Ánh Minh, Bách Thảo Sương, Mộc Tử
lang, Thanh Lý, Huyền Sâm, Đào Lê Nhân, v, v… Là một nhà văn trẻ, tài năng,
Trang 30
ngay từ khi mới xuất hiện, Lý Văn Sâm đã viết khá nhiều và nhanh ở đủ mọi thể
loại: truyện ngắn, truyện vừa, kịch, tiểu thuyết, v, v…Đề tài sáng tác của ông
khá phong phú, từ thể tài đường rừng, phiêu lưu, dã sử, tâm lý xã hội, cho đến cả
những sách trẻ, sách tuổi xanh….
Truyện đường rừng “Mười lăm năm hận sử” của Lý Văn Sâm
Theo tác giả Bùi Quang Huy: “Vốn có tâm hồn lãng mạn, tâm hồn ấy lại
được tắm trong một vùng quê với bóng núi, hình cây, tiếng chim, lời suối, lại có
nhiều năm sống ở Sài Gòn, Đồng Nai, chiến khu Đ, cộng với ảnh hưởng của văn
học Pháp, Lý Văn Sâm thường có văn phong mượt mà, uyển chuyển trữ tình
giàu chất thơ”.
Văn nghiệp của Lý Văn Sâm bắt đầu từ năm 1941, với truyện ngắn đầu
tay “Cây nhị sông Phố” đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, một tờ báo khá danh giá
trong đời sống văn học lúc bấy giờ ở Bắc Kỳ.
Trang 31
Những năm kháng chiến chống Pháp là những năm sáng tác sôi nổi và
sung sức nhất của Lý Văn Sâm, nhất là giai đoạn nhà văn hoạt động ở Sài Gòn
(1947 – 1950). Trong khoảng thời gian này, khá nhiều tác phẩm thuộc loại
truyện ngắn và truyện vừa của nhà văn đã được xuất bản như: Thù nhà nợ nước
(1947), Mười lăm năm hận sử (1947), Chiếc vòng ngọc thạch (1948), Sương
gió biên thùy (1949), Ngoài mưa lạnh (1949), Sau dãy Trường Sơn (1949),
Nắng bên kia làng (1949), Cỏ mọn hoa hèn (1949), Sống vỗ bờ xa (1949),
Trong cơn loạn ly (1949),…Trong đó, nhiều tác phẩm trước khi in thành sách
đã được in trên các báo Việt bút, Tiếng chuông, Lẽ sống,… Ông “dùng cán bút
làm đòn xoay chế độ” khơi dậy tình yêu quê hương đất nước, tinh thần quật
khởi, đả phá chế độ tàn ác của thực dân Pháp và bè lũ tay sai.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và sau khi đất nước thống nhất do
phải đảm nhận nhiều nhiệm vụ khác nhau để phục vụ Cách mạng, Lý Văn Sâm
ít viết hơn nhưng thông qua những tác phẩm mang tính chất hồi ức như: Cà
Ngá, Chuyện người thổi sáo ở bến Xuân, Chuyện ấy đã qua rồi, nhà văn cũng
đã khắc họa rõ nét những con người kháng chiến miền Nam đầy khí tiết. Hình
ảnh cuộc kháng chiến và sức mạnh quật khởi của dân tộc được Lý Văn Sâm
khéo léo lồng trong câu chuyện mang dáng dấp đường rừng, hay chuyện tình
cảm riêng tư. Bên cạnh những truyện ngắn dưới dạng hồi ức hay tự truyện, sau
năm 1975, Lý Văn Sâm còn viết khá nhiều bài ký như: Nguyễn Phương Danh –
một người nghệ sĩ đặc biệt (1976), Huỳnh Văn Nghệ, chiến sĩ – thi sĩ (1978),
Một nhà thơ đã khuất (1980), Sự tích “đội văn công bỏ túi” (1981), Người
chết trẻ mãi (1982), v, v…
Trong cuộc đời cầm bút, Lý Văn Sâm có khoảng 12 năm viết truyện
đường rừng. Ông viết thể tài này ở giai đoạn cuối, khi mà gần như chẳng còn ai
viết truyện đường rừng nữa. Tuy nhiên tác phẩm của ông vẫn được độc giả nhiệt
tình đón nhận bởi những câu chuyện ấy được đặt trong bối cảnh của đất nước.
Ông viết loại truyện này từ những ám ảnh của bối cảnh rừng núi nơi chôn nhau
cắt rốn của mình. Nội dung truyện đường rừng của Lý Văn Sâm không đơn
Trang 32
thuần đem đến cho những người đọc những hương vị của cảnh rừng núi hay
những phong tục lạ, mà truyện của ông thấm đẫm hơi thở của thời cuộc, của
những chí hướng đấu tranh. Cũng vì thế, Lý Văn Sâm đã xác lập cho mình một
chỗ đứng riêng trên văn đàn và trong lòng độc giả.
Một trong những bản thảo viết tay truyện vừa “Vợ tôi – người dân tộc thiểu số”, năm 1954
Dù viết ở đề tài đường rừng, tác phẩm của Lý Văn Sâm đều mang dấu ấn
của cuộc sống và con người đương thời. Lý Văn Sâm đã phần nào dựng lại hình
ảnh quê hương và con người trong kháng chiến kiên trung, dũng cảm, tận
tụy,…Nhân vật trong truyện ngắn ở mảng đề tài của Lý Văn Sâm đều là những
con người hào hoa, lãng mạn, trẻ trung và nhất là sục sôi lý tưởng cao cả vì
nghĩa lớn.
Trang 33
Lý Văn Sâm chưa một lần phát biểu hay tuyên ngôn rõ ràng về quan niệm
nghệ thuật, quan niệm sáng tác của mình, kể cả trả lời khi báo chí phỏng vấn,
nhưng qua những gì ông viết, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra quan niệm sáng tác
của nhà văn. theo nhà văn, người nghệ sĩ muốn có cảm hứng để sáng tạo nghệ
thuật thì phải sống trong cuộc đời, tìm đề tài và ý tưởng, cảm xúc từ cuộc sống,
tức phải dấn thân và hòa nhập. Theo ông, làm văn chương - nghệ thuật phải gắn
với cuộc đời, phải có ích cho con người. Nói cách khác, văn chương phải phản
ánh hiện thực cuộc sống. Những truyện, ký và kịch đã xuất bản của nhà văn từ
1941 đến cuối đời là hoàn toàn nhất quán với quan niệm trên. Ở đó, nhà văn chỉ
viết những gì mình đã chứng kiến mắt thấy tai nghe, viết về hiện thực cuộc sống
diễn ra chung quanh mình, dĩ nhiên, đã là văn chương thì phải hư cấu, tưởng
tượng, chứ không phải là bê nguyên xi hiện thực vào trang văn. Lời tâm sự trong
bài Tôi viết văn ở trên có nêu và trong bài Về một truyện ngắn đầu tay của tôi
mà sau này (tháng 5-1985) nhà văn cho đăng trên tờ Văn nghệ Đồng Nai là
những minh chứng.
Có thể khẳng định rằng, sự nghiệp sáng tác của Lý Văn Sâm là vô cùng
phong phú và đa dạng, dù viết ở đề tài nào, ông cũng kín đáo bộc lộ tư tưởng
đấu tranh cách mạng và tinh thần yêu nước của mình. Lý Văn Sâm đã tạo nên
giá trị nghệ thuật cho những trang viết của mình. Vì vậy, những tác phẩm làm
nên tên tuổi của ông vẫn còn sống mãi trong tâm thức người đọc và là một trong
những giá trị không thể phủ nhận.
*Các tác phẩm chính của nhà văn Lý Văn Sâm
Sau đây là những tác phẩm của ông (chỉ ghi năm xuất bản lần đầu, không
ghi năm tái bản), và chia theo thể loại như sau:
* Truyện ngắn đã in thành tập và đăng báo, hiện có 42 truyện (chưa tính
vài truyện in trong Mây trôi về Bắc, vì bị tiêu huỷ lúc vừa in xong):
+ Cây nhị sông Phố, Tiểu thuyết thứ Bảy, 1941.
Trang 34
+ Mây trôi về Bắc, tập truyện ngắn, viết chung với nhà văn nhà báo Việt
Quang, Nxb Nam Việt, SG, 1947 (hiện không tìm lại được, vì sách vừa in xong
đã bị chính quyền thực dân tịch thu, tiêu huỷ, nên chúng tôi không rõ nhà văn
viết mấy truyện ngắn trong tập này).
+ Kòn Trô, tập truyện ngắn, Nxb Tân Việt, SG, 1949, gồm 8 truyện:
Thâm u và cao cả, Kòn Trô, Thần Ngư động, Xác Mu Mi trên núi đá, Răng Sa
Mát, Voi đội đèn, Ngăn rạch bắt sấu, Mũi Tổ.
+ Rồng bay trên núi Gia Nhang, Nxb Sống chung, SG, 1949.
Về sau, khi tái bản nhiều lần truyện Rồng bay trên núi Gia Nhang được
gộp in chung với tập Kòn Trô, và cũng lấy nhan đề là Kòn Trô.
+ Sương gió biên thuỳ, tập truyện ngắn, Nxb Tân Việt, SG, 1949, gồm 11
truyện: Sương gió biên thuỳ, Chớp bể mưa nguồn, Sứ mạng, Hồn Do Thái, Lạc
loài, Chuyện một đàn cò trắng, Tiếng rên trong rừng lạnh, Đìu hiu lau lách, Gió
bãi trăng ngàn, Đường vào đất Thục, Sa mù.
+ Nắng bên kia làng, tập truyện ngắn, Nxb Sống chung, SG, 1949, gồm 3
truyện: Nắng bên kia làng, Tàn một mùa thơ, Rửa hờn.
+ Ngoài mưa lạnh, tập truyện ngắn, Nxb Sống chung, SG, 1950, gồm 11
truyện: Ngoài mưa lạnh, Vực thẳm, Tàn một mùa ve, Ngàn sau sông Dịch, Nửa
mảnh ngân tiền, Đờn Chìn-kha-la, Một cốt truyện mới, Thèm một ngọn đèn,
Oan gia, Mưa Sài Gòn, Ngày ra đi.
+ Qua bến lạnh, Tiểu thuyết thứ Bảy, số 40, ngày 31-12-1949.
+ Một con chó sủa hóng chiều ba mươi Tết, Giai phẩm số Xuân Canh Dần
1950.
+ Trời như muốn sáng, Tiểu thuyết thứ Bảy, số 13, thứ Bảy 18-3 đến thứ
Bảy 25-3-1950.
+ Chuông rung trên tháp đổ, Đặc san Xuân dân tộc, Tết Bính Thân
(1956), ra ngày 21-11-1955.
Trang 35
+ Bến xuân, tập truyện và ký, Đồng Nai, 1980, có in 3 truyện ngắn:
Chuyện người thổi sáo ở bến Xuân, Cà Ngá, Chuyện ấy đã qua rồi.
* Truyện vừa gồm 17 truyện, đã xuất bản 14 truyện và bản thảo chép tay
có 03 truyện, gồm:
- Mười lăm năm hận sử, viết xong 1942, Nxb Nam Việt, SG, 1947.
- Xin đắp cho tôi mảnh lụa hồng, Nam Việt, SG, 1947
- Mây trôi về Bắc, Nxb Nam Việt, SG, 1947.
- Chiếc vòng ngọc thạch, Nam Việt, SG, 1947 (Nguồn sáng, SG, 1949, tb)
- Sau dãy Trường Sơn, truyện vừa, Nxb Nam Việt, SG, 1949.
- Ma ní bửu châu, loại sách thần đồng, Nxb Tân Việt Nam, SG, 1949.
- Nợ nước thù nhà, loại sách thần đồng, Nxb Tân Việt Nam, SG, 1949, bút
danh Huyền Sâm.
- Kiếp này thôi đã lỡ, trong tập Mẹ người tử tù, viết chung với Việt
Quang, Nxb Nam Việt, SG, tháng 7-1949.
- Trong cơn ly loạn, Nxb Tân Việt Nam, SG, 1949.
- Sóng vỗ bờ xa, Nxb Nam Việt, SG, 1949.
- Cỏ mọn hoa hèn, Nxb Nam Việt, SG, 1949; Nxb Phạm Văn Sơn, tb,
1950.
- Ánh sáng của người mù, Nam Việt, SG, 1949 (tục Cỏ mọn hoa hèn)
- Văn Phay Khửn, truyện vừa, Nam Việt, SG, 1949
- Đất Khách, Tân Việt Nam, SG, 1949
- Nga và Thuần, Phạm Văn Sơn, SG, 1950
(Sau này khi tái bản vào năm 1950, Nxb Phạm Văn Sơn in gộp 3 truyện:
Cỏ mọn hoa hèn, Ánh sáng của người mù, Nga và Thuần thành một tập lấy nhan
đề là Nga và Thuần).
Trang 36
- Vợ tôi người dân tộc thiểu số, bản thảo chép tay của tác giả, 1954.
- Một chuyện oan cừu, bản thảo chép tay của tác giả, 1954.
- Nước lên, bản thảo chép tay của tác giả, 1954.
* Tuồng cải lương có 1 vở:
- Mũi tên diệt bạo, tuồng cải lương, soạn khoảng năm 1936-1939.
* Kịch có 11 vở, được viết trong thời kỳ Nam bộ khói lửa:
- Tập Người đi không về, Nxb Nam Việt, SG, 1949 gồm các vở: Người đi
không về (2 hồi); Trùng dương (2 hồi); Trong một ngày vui (kịch ngắn, 1 hồi);
Nham hiểm (kịch dã sử, 1 hồi); Sậu lệnh (2 hồi); Một bi kịch đã hạ màn (kịch
ngắn, 1 hồi); Nửa mảnh trăng thề (3 hồi).
- Đường vào xứ Phật, kịch ngắn, 1 hồi 1 cảnh, Tiểu thuyết thứ Bảy, số 12
(tập mới), thứ Bảy 18-6-1949.
- Đi chơi Tết, kịch vui đầu năm, 1 hồi, in trong Thi văn hiện đại, Dân tộc
xuất bản, SG, 1949.
- Vàng, kịch 4 hồi: hồi 1 có 7 cảnh; hồi 2 có 5 cảnh; hồi 3 có 2 cảnh; hồi 4
có 6 cảnh, in trong tập truyện Nắng bên kia làng, Nxb Sống chung, SG, 1949.
- Sa mạc, kịch ngắn, 1 hồi, Tiểu thuyết thứ Bảy, số 4 (tập mới), thứ Bảy
25-3 đến thứ Bảy 01-4-1950.
* Ký gồm những bài đã đăng báo hồi chống Mỹ và sau ngày đất nước
thống nhất, về sau Nxb Tổng hợp Đồng Nai tuyển in trong các tập:
- Bến xuân, tập truyện và ký, Hội VHNT Đồng Nai xuất bản, 1980. Trong
tập này, có 15 bài ký: Địa ngục và ánh sáng; Con tằm dẫu thác vẫn còn vương
tơ; Ngày hội lớn của những bông hồng Việt Nam; Lá thư năm mới; Gửi anh bạn
nhà văn cùng quê; Một bài thơ, một cuộc đời; Chiếc “mùng lé” của con trai tôi;
Nguyễn Phương Danh - một nghệ sĩ đặc biệt; Một nhà thơ đã khuất; Mồ anh
hoa nở; Huỳnh Văn Nghệ - chiến sĩ thi sĩ; Người chết còn trẻ mãi; Chuyện kể từ
một bài thơ; Sự tích “đội văn công bỏ túi”; Ở Trị An những năm tháng ấy.
Trang 37
- Những bức chân dung, tập truyện và ký, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, 1983,
gồm những bài viết về chân dung văn nghệ sĩ, mà những bài này đã in trước đó
như viết về Dương Tử Giang, Huỳnh Văn Nghệ, Nguyễn Phương Danh, v.v..
- Ngàn sau sông Dịch, tập truyện và ký, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, 1988,
gồm một số truyện ngắn đã in trong các tập trước, nay Nhà xuất bản tuyển in lại.
* Tạp văn đã đăng báo gồm 20 bài: Tôi viết văn, Truyện ngắn đầu tay của
tôi, Về một truyện ngắn cách đây sáu mươi ba năm, Một truyện ngắn ‘nguy
hiểm’, Tầm vóc hôm nay trong con người và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Một
địa chỉ thân yêu, Văn nghệ Giải phóng số đầu tiên, Nguyễn Đình Chiểu với
Đồng Nai, Vĩnh biệt anh Nguyễn, Thành phố Biên Hoà bảy mươi năm về trước,
Mã Đà sơn cước, Tết Biên Hoà năm Kỷ Tỵ (1929-1930), Người Biên Hoà với
ngày Nam bộ kháng chiến, Sự tích chùa Thủ Huồng, Câu chuyện đằng sau đình
Tân Lân, Một buổi biểu diễn văn công không có khán giả, Thủ môn bất đắc dĩ,
Bây giờ thì... ngon rồi, Bao cấp xe hơi, Trả lời nhà báo (bài: Trao đổi với nhà
văn Lý Văn Sâm).
* Thơ hiện còn 3 bài: Một mình bên thác nước, Chuyện riêng, Nhân sinh
thất thập.
Trang 38
Một số tác phẩm của nhà văn Lý Văn Sâm
II. Cảm xúc về những đóng góp của Lý Văn Sâm cho cách mạng và
nền văn học Việt Nam
Tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của nhà văn Lý Văn Sâm
đã giúp tôi có cái nhìn toàn diện, khách quan và sâu sắc về những cống hiến
cách mạng lâu dài và son sắc của ông, về giá trị của sự nghiệp văn chương mà
nhà văn đã để lại, để rồi cảm thấy ngưỡng mộ một con người nhỏ bé nhưng lại
có ý chí cách mạnh kiên cường, một con người sống vất vưởng nay đây mai đó
giữa thời chiến tranh loạn lạc nhưng lại có một tâm hồn hết sức lãng mạn, giàu
chất thơ. Có lẽ chính tâm hồn ấy đã tiếp cho Lý Văn Sâm sức mạnh để dùng
ngòi bút sắc nhọn của mình tham gia đấu tranh cách mạng, góp phần bảo vệ
vững chắc quê hương để chúng ta có được cuộc sống thanh bình như ngày nay.
Có thể khẳng định, Lý Văn Sâm vừa là một chiến sĩ gan góc, trung kiên, vừa là
một nhà văn tài hoa.
Trang 39
1. Cống hiến cả cuộc đời cho cách mạng
Là người giàu lãng mạn nhưng Lý Văn Sâm lại sớm ý thức về bản thân
mình, một thanh niên đang sống trong một đất nước nô lệ. Vì thế, dù có địa vị xã
hội như thế nào đi nữa thì ông vẫn là người mất tự do. Năm 1934, lần đầu tiên
Lý Văn Sâm chứng kiến một thằng Tây bắt nạt cha mình. Khi hỏi cha vì sao bị
Tây đánh, cha ông đã trả lời rằng, thằng Tây là chủ, đến nước còn mất thì bị
đánh như vậy vẫn là nhẹ, nhiều người còn bị đày, bị giết nữa kia. Nghe thế, Lý
Văn Sâm rất đau lòng và thấy đó là nhục. Từ đó, ông quyết định sẽ không làm
việc cho Tây và bắt đầu lần mò tìm hiểu số phận, hoạt động của những người bị
Tây đày hoặc giết chết. Ông bắt đầu chớm có ý nghĩ thoát ra cuộc sống nô bộc
đối với bọn chủ Tây.
Từ năm 1943, ông đã giác ngộ cách mạng và tham gia các cuộc rải truyền
đơn, tuyên truyền cách mạng trong thanh niên học sinh ở Biên Hòa. Đến ngày
nổ ra tổng Khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, Lý Văn Sâm là đoàn viên Thanh
niên tiền phong của tỉnh cùng nhân dân vùng lên cướp chính quyền. Lý Văn
Sâm trở thành cán bộ tuyên truyền Quận Châu Thành. “Lúc bấy giờ tôi mới 20
tuổi, tóc còn mượt xanh, ngọn lửa hăm hở cháy đỏ trong lòng. Tôi được Ban
Tuyên truyền huyện phân công giữ một chân biên tập trong tờ tuần tin tức được
gọi là tờ báo của huyện. Tôi chuyên làm thơ đả kích, thỉnh thoảng có viết một ít
văn xuôi…”. Sau đó, Lý Văn Sâm tiếp tục làm công tác tuyên truyền ở Chiến
khu Đ. Với vai trò là người cán bộ tuyên truyền, ông đã dùng ngòi bút của mình
làm vũ khí sắc bén để đấu tranh cách mạng.
Là con của một ông chủ hầm than, sau khi cha qua đời Lý Văn Sâm đã
phải lo cai quản những hầm than do cha để lại. Nhưng ông lại không hào hứng
gì trong việc làm ra nhiều than để đốt lên những ngọn lửa cho những xe chạy
bằng than mà chỉ hứng thú với việc làm ra chữ nghĩa để đốt lên lòng yêu quê
hương đất nước, khát vọng tự do độc lập trong người Việt. Trước cảnh nước
mất, nhà tan, đời khổ thế ông cảm thấy bế tắc, tuy nhiên trong bài viết: Truyện
ngắn đầu tay của tôi (Báo Văn nghệ Đồng Nai số tháng 7- 1985) ông đã giãi bày
Trang 40
con đường đến với văn chương của mình là: “Quê hương vẫn nhiều hấp dẫn, con
người bị đè nén nên vẫn âm ỉ một sự vùng dậy trong lòng. Sự vật chung quanh
nhen nhúm và trang bị cho tôi một triết lý mới, không thể tồn tại như một thứ
thảo mộc vô tri. Sống phải có suy nghĩ và hành động... Thế thì tôi làm báo, tôi
viết văn. Bước vô cái nghề này coi mòi hợp với năng khiếu của tôi. Không gào
thét căm phẫn được thì than thở ngậm ngùi cho vơi bớt những gì đè nặng tâm
tư”.
Khát vọng tự do, công bằng trong một xã hội nô lệ đã đưa Lý Văn Sâm
đến với cách mạng rất sớm. Sống, hoạt động và sáng tác giữa lòng đô thị, phải
chịu sự kìm kẹp chế độ thực dân – tay sai, Lý Văn Sâm vẫn biến ngòi bút của
mình thành vũ khí sắc bén chống giặc ngoại xâm và nuôi dưỡng được tình yêu
quê hương nồng nàn, sâu nặng qua từng trang viết.
Trong những tác phẩm của mình, Lý Văn Sâm khắc họa hình tượng
những con người cao cả với lòng yêu đồng loại, yêu quê hương đất nước thiết
tha. “Cái đáng quý là trong nhiều truyện của mình, nhà văn thường gởi gắm lòng
yêu nước, nhắc nhở người dân vùng tạm chiếm không nên quên nghĩa vụ đối với
Đất Nước, dân tộc.” – PGS.TS Nguyễn Công Lý (Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh) đã khẳng định.
Ngòi bút điêu luyện của ông đã ít nhiều khơi dậy trong lòng người đọc
tình yêu quê hương đất nước và niềm xót xa ngậm ngùi cho thân phận con người
trong nghịch cảnh của đời sống.
Là, nhà văn nhà báo yêu nước, hoạt động công khai trong lòng đô thị tạm
chiếm, họ phải vừa viết vừa lách sao cho lọt khỏi mạng lưới kiểm duyệt gắt gao
của chế độ ấy. Vì thế mà lời kêu gọi của nhà văn về đoàn kết dân tộc, đấu tranh
chống kẻ thù xâm lược, thể hiện lòng yêu quê hương đất nước đã được các nhà
văn chuyển tải bằng một thủ pháp nghệ thuật đầy ngụ ý, có khi dùng ngôn ngữ
phiếm chỉ, hàm ẩn; có lúc dùng hình thức ngụ ngôn; có khi cuộc kháng chiến
chống Pháp được khúc xạ thành cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược
dưới thời Hậu Trần...
Trang 41
Những tác phẩm của nhà văn Lý Văn Sâm đã song hành suốt chiều dài
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Lý Văn Sâm đã chọn con
đường viết văn như một cách tham gia tích cực vào công cuộc cách mạng của
dân tộc. Đặc biệt trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếng nói,
tấm lòng của ông vô cùng ý nghĩa. Nó tác động đến tầng lớp thanh niên trí thức,
và nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Chính điều đó đã đem đến cho ông một chỗ
ngồi xứng đáng không chỉ trên văn đàn công khai Sài Gòn những năm kháng
chiến chống Pháp mà mãi đến ngày nay.
2. Lý Văn Sâm là một trong hai nhà văn xuất sắc của miền Nam.
Khi nhắc đến truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước miền Nam các
giai đoạn 1945 – 1954, 1954 – 1975 không thể không nhắc đến các tác phẩm của
Lý Văn Sâm. Là một nhà văn tiêu biểu của Đồng Nai nói riêng, của Nam bộ nói
chung, cùng với Vũ Anh Khanh, Lý Văn Sâm được đánh giá là một trong hai
cây bút xuất sắc nhất miền Nam ở giai đoạn 1945 – 1954. Hơn nữa cuộc đời
giành cho văn chương, Lý Văn Sâm đã để lại những dấu ấn sâu đậm trên văn
đàn Việt Nam. Ngòi bút điêu luyện của ông đã làm say mê biết bao độc giả
đương thời, đánh thức những tình cảm sâu xa nhất trong tâm hồn con người.
Ông có cống hiến rất lớn cho nền văn học Đồng Nai nói riêng, nền văn học Nam
bộ và Việt Nam nói chung.
Trong sự nghiệp sáng tác cuả mình, Lý Văn Sâm viết về nhiều đề tài khác
nhau, nhưng căn cứ vào nội dung tác phẩm, có thể chia thành ba mảng đề tài là:
mảng truyện đường rừng, mảng viết về cuộc sống đô thị, mảng viết về cuộc
sống kháng chiến. Hầu như ở mảng nào ông cũng đều có những sáng tạo, những
thành công đáng kể gây tiếng vang trong văn học đương thời.
Lý Văn Sâm có hơn mười năm nở rộ tài năng, từ năm 1941 khi ông đăng
truyện ngắn Cây nhị Sông Phố trên Tiểu thuyết thứ bảy đến năm 1956 với
truyện ngắn Chuông rung trên tháp đổ đăng trên báo Xuân dân tộc. Giai đoạn
cao vút trong sáng tác của ông là từ năm 1947 -1950. Thật lạ lùng trong bốn
năm sống vất vưởng trong vòng vây bọc của kẻ thù thì tài năng của ông lại nở rộ
Trang 42
nhất. Các sáng tác của Lý Văn Sâm đã hiện lên hình sông, dáng núi, cảnh rừng
và nhất là con người miền Đông Nam bộ, đặc biệt là cảnh và người ở hai vùng
đất Sài Gòn và Đồng Nai. Ẩn dưới lớp vỏ chữ nghĩa là một trái tim của một nhà
văn luôn thổn thức với số phận của quê hương, đất nước đang bị giày xéo, luôn
lo lắng cho số phận những con người lầm than, bị chà đạp và cao hơn hết là khát
vọng giành cho được cuộc sống Độc lập, Tự do, lẽ công bằng. Có lẽ cuộc sống
lăn lộn với những người cùng khổ lại được ánh sáng của Đảng soi rọi đã làm trái
tim ông giàu có và trong trẻo đến như vậy.
Các tập truyện ngắn của Lý Văn Sâm
Trong mảng viết về cuộc sống đô thị, Lý Văn Sâm thường viết về những
chuyện thường nhật cuả những nhân vật tiểu tư sản thành thị, về cảnh cơ cực
những người dân nghèo thuộc tầng lớp dưới đáy xã hội trong những truyện ngắn
như Lạc loài, Mưa Sài Gòn, Rửa hờn, Ngoài mưa lạnh, Thèm một ngọn đèn,
Ngàn sau sông Dịch... Đặc biệt, trong mảng truyện này, chúng ta thấy hiện lên
nổi bật nhất là cuộc sống chật vật, khốn đốn từ vật chất đến tinh thần của những
Trang 43
người trí thức thành thị nghèo. Họ khổ không phải chỉ vì kiếm sống vất vả, mà
còn vì những cuộc bắt bớ, bố ráp, giam cầm xảy ra liên miên. Nhân vật Huyền
trong Thèm một ngọn đèn chỉ vì “bị tình nghi bạo động” mà anh phải trải qua
hai năm dài lao lý, khi được ra tù thì vợ con đói rách đã phiêu bạt về quê ngoại.
Bản thân anh phải sống nhờ vào bè bạn, cũng là những người khổ cực không
kém gì anh. Ước mơ cuả anh là khi ra tù sẽ có một chiếc bàn và ngọn đèn để
viết, thế mà mãi không thực hiện được. Nhiều chuyện khác viết về cuộc sống
thực của người viết văn, làm báo thời đó thực cảm động. Họ viết trong cảnh túng
quẫn bần hàn, trong cảnh vợ đói con khóc, trong tiếng eo sèo của các chủ nợ. Họ
chết vì không có tiền mua thuốc lúc ốm đau. Nhưng trong hoàn cảnh đó, họ vẫn
phải đấu tranh với những cám dỗ vật chất để giữ “sắc đỏ trong lòng người cầm
bút”. Trong mảng này cũng có những truyện hay như Nắng bên kia làng, Tàn
một đời thơ viết về những trí thức vì một lý do khách quan nào đó đã phải trở về
thành, thậm chí có những trường hợp sa ngã, mất khát vọng nghệ thuật để chạy
theo tiền tài vật chất. Những truyện ngắn như vậy, đã tạo một âm hưởng tố cáo,
phê phán hiện thực xã hội đương thời, vạch trần tội ác cuả cuộc chiến do quân
xâm lược gây ra.
Trong giai đoạn 1947-1954, Lý Văn Sâm còn sáng tác nhiều về đề tài
cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc. Trong những câu chuyện này, Lý Văn
Sâm đã phản ánh khí thế cuả những ngày khởi nghiã giành chính quyền trong
Cách mạng tháng Tám ở miền Nam, những ngày Nam Bộ kháng chiến đầy khói
lửa, hy sinh mà cũng thật hào hùng. Cái đặc biệt là đề tài những truyện này hầu
như đều hướng về những chuyện rất thời sự của cuộc sống kháng chiến lúc bấy
giờ, nhưng vẫn được viết rất nghệ thuật. Những tác phẩm như Nga và Thuần,
Mây trôi về bắc, Hoàng hôn sắc tím, Nắng bên kia làng... dù còn phải dùng
cách nói ẩn, nói lách để tránh sự kiểm duyệt cuả địch , ông đã phần nào xây
dựng được hình ảnh những làng quê kháng chiến, con người kháng chiến, biểu
dương, ngợi ca những anh bộ đội, chị du kích, người nữ cứu thương dũng cảm,
tận tụy, những bà mẹ làng quê chăm sóc thương binh, tử sĩ, những cuộc tiễn đưa
Trang 44
người lên đường đi kháng chiến v.v... Đặc biệt, trong mảng truyện này, đã có
những truyện mà trong đó Lý Văn Sâm đã nêu cao lòng yêu nước, lên án những
kẻ theo giặc, phản bội giống nòi. Qua mảng truyện này, hình ảnh của một cuộc
chiến tranh nhân dân thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ đã
được phản ánh trong tác phẩm Lý Văn Sâm, giúp cho người dân thành thị hiểu
đúng về chính nghĩa cuả cuộc kháng chiến, về con người kháng chiến. Đó là
đóng góp rất đáng quý cuả Lý Văn Sâm.
Lý Văn Sâm còn nổi tiếng về nhiều tác phẩm truyện đường rừng. Đây là
mảng mà Lý Văn Sâm có nhiều truyện hay và thành công hơn cả. Vì những câu
chuyện đường rừng cuả ông không đơn giản chỉ đem lại cho người đọc những
hương vị của cảnh núi rừng hay những phong tục lạ, những chuyện lạ miền
ngược như các tác giả khác đã làm mà lúc nào trong truyện của ông cũng có hơi
thở của thời cuộc, của những ý hướng tranh đấu.
Trong những truyện đường rừng được viết trước 1945, ông thường xây
dựng các kiểu nhân vật như Kòn Trô trong truyện Kòn Trô, Châu Phiên trong
truyện Rồng bay trên núi Gia Nhang… Mỗi người một hoàn cảnh, một số phận
khác nhau nhưng đều là những người hùng cô đơn, dũng cảm có thừa nhưng
cũng đầy thất vọng về cuộc đời, trốn chốn phồn hoa đô thị mà tìm đến nơi rừng
xanh núi đỏ, hy vọng có thể lập một cõi riêng có tự do như họ quan niệm.
Những nhân vật này đáp ứng khát vọng về tự do, nhân nghĩa, về sự công bằng
trong xã hội của người dân trước Cách mạng tháng Tám. Khi người dân Nam Bộ
cùng nhân dân cả nước vùng lên giành độc lập tháng 8-1945, rồi ngay sau đó lại
bước vào những ngày chiến đấu chống Pháp ác liệt , chúng ta sẽ gặp lại những
mẫu nhân vật ấy của Lý Văn Sâm nhưng trong một tư thế khác. Họ đang ở chiến
khu ,trên đường hành quân, hay đang chiến đấu, truy đuổi quân thù… Có khi, họ
bị đặt vào những hoàn cảnh ngặt nghèo của cuộc chiến nhưng vẫn sẵn sàng hy
sinh không tiếc nuối vì chính nghĩa cách mạng, vì đất nước. Những câu chuyện,
những nhân vật đó như là lời thúc giục đấu tranh giữ lấy độc lập, tự do cho Tổ
quốc, bởi không có tự do của cả một dân tộc thì cũng sẽ chẳng có tự do nào cho
Trang 45
mỗi con người. Do đó, mảng truyện đường rừng của Lý Văn Sâm không chỉ
nhiều về số lượng mà còn có ý nghĩa xã hội, có chất văn học đậm đà, đã góp
phần khẳng định chỗ đứng của ông trong lòng bạn đọc lúc đó. Nhà nghiên cứu
Bùi Quang Huy khẳng định “truyện đường rừng của Lý Văn Sâm là sự bắc cầu
từ tinh thần lãng mạn đầy ý nghĩa nhân sinh đến với lí tưởng đấu tranh vì độc
lập, tự do, dân tộc theo ánh sáng cách mạng của nhà văn sau này”.
Tác phẩm Kòn Trô qua các lần tái bản năm 1968, 1997
Với người chiến sĩ hằng đêm lặn lội dưới ánh trăng, văn chương Lý Văn
Sâm là lời ngợi ca trìu mến. Với ai đang sống mỏi mòn trong vùng tạm chiếm,
văn chương Lý Văn Sâm là lời tha thiết gọi mời, thúc giục của cuộc đời tháo cũi,
sổ lồng, tự do ca hát, là tiếng quê hương đậm đà tình nghĩa...
Bằng sáng tác của mình, nhà văn đã nhen nhóm nhiệt tình yêu nước của
thanh niên, đồng bào trong vùng bị kìm hãm để đến lúc gặp bão lớn cháy bùng
thành biển lửa. Với những đóng góp bằng tài năng, trí tuệ, lòng nhân ái và cả sự
dũng cảm, Lý Văn Sâm đã được chính những người viết lịch sử văn chương thời
Trang 46
đó đánh giá là “một trong hai cây bút xuất sắc nhất của văn chương ” vùng tạm
chiếm những năm 1945 - 1954.
Là một nhà văn có năng khiếu, trải đời, nhiều năm xông pha trong trường
văn trận bút Lý Văn Sâm có nhiều kinh nghiệm trong nghệ thuật kể chuyện. Cái
tài kể chuyện của ông là chỉ với vài dòng mở đầu đã tạo dựng được không khí
truyện, sau đó ông cuốn người đọc vào không khí ấy và diễn biến câu chuyện
cùng sự phát triển tính cách nhân vật. Vốn có tâm hồn lãng mạn, tâm hồn ấy lại
được tắm trong một vùng quê với bóng núi, hình cây, tiếng chim, lời suối, lại có
nhiều năm sống ở Sài Gòn, Đồng Nai, chiến khu Đ, cộng với ảnh hưởng của văn
học Pháp, Lý Văn Sâm thường có văn phong mượt mà, uyển chuyển trữ tình
giàu chất thơ.
Phong cách viết văn của nhà văn Lý Văn Sâm là viết để bày tỏ, viết để trải
lòng và viết để cho gió cuốn đi, v,v ….. Ông viết nhiều lắm, lao động nghệ thuật
cật lực, mê say nhưng ông hưởng không nhiều với thành quả cống hiến và lao
động của mình. Cả cuộc đời làm chính trị và làm văn, nhà văn cứ mải miết đi,
mải miết viết và mải miết cống hiến. Dù làm quan cao chức trọng hay cuối đời
làm một nhà văn bình thường thì Lý Văn Sâm vẫn là người một mình kể chuyện
đời giữa vòng vây bủa. Và chính những năm tháng ấy đã để lại cho chúng ta một
Lý Văn Sâm - nhà văn xuất sắc nhất miền Nam.
Bên cạnh nội dung nghệ thuật đặc sắc, ông còn hướng người ta đến tình
yêu thương đất nước, sống, chiến đấu và hy sinh. Thông qua các tác phẩm của
mình, Lý Văn Sâm đã tạo nên giá trị nhân văn chân – thiện – mỹ gửi đến cho
cuộc đời. Chính những giá trị đó đã tạo ra một chỗ đứng riêng cho nhà văn Lý
Văn Sâm trên văn đàn. Bên cạnh đó, Lý Văn Sâm còn là một nhà văn giàu lòng
yêu nước, yêu mảnh đất quê hương, gắn bó với đất và người Nam bộ. Những
đặc điểm nội dung, tư tưởng và nghệ thuật trong các tác phẩm đã làm ánh lên
tính chất tài hoa của ngòi bút Lý Văn Sâm và từ đó đã làm nổi bật lên giá trị văn
chương của nhà văn.
Trang 47
Có thể nói, trong dòng chảy văn học đô thị miền Nam trước 1975, Lý Văn
Sâm đã đóng góp một tiếng nói riêng với sắc thái và giọng điệu không dễ lẫn với
những cây bút cùng thời. Đó là tiếng lòng của một tâm hồn yêu nước, khát khao
cống hiến, luôn hướng về Tổ quốc, nhân dân, đồng thời lại bay bổng, lãng mạn,
thấm đẫm chất thơ. Nói như nhà văn Sơn Nam: “Nếu thiếu ông, văn chương
nước nhà đã chịu một thiệt thòi lớn, không gì bù đắp nổi”.
Các nhà văn: Nguyễn Văn Vy – Lý Văn Sâm – Hoàng Văn Bổn ở Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai
3. Người đặt nền móng đầu tiên xây dựng Hội Văn học nghệ thuật
Đồng Nai
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, giữa bộn bề công việc, Tỉnh
ủy, UBND tỉnh vẫn rất quan tâm tới sự phát triển văn học nghệ thuật. Ngày 22-
12-1979, tại Biên Hòa, sau một thời gian tích cực vận động chuẩn bị, những cây
bút sáng tác và những người yêu nghệ thuật đã tổ chức Đại hội thành lập Hội
Văn học - nghệ thuật Đồng Nai và Lý Văn Sâm được bầu giữ chức Chủ tịch
Hội. Với vai trò là Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật đầu tiên trong vòng 13 năm
(1979-1993), ông là người đặt nền móng để xây dựng Hội Văn học nghệ thuật
tỉnh bước những bước đi vững chắc và ngày càng trở nên vững mạnh.
Trang 48
Ông đã cùng với nhà văn Hoàng Văn Bổn trực tiếp dìu dắt trưởng thành
lứa nhà vă trẻ như Khôi Vũ, Nguyễn Đức Thọ (đã mất), Đàm Chu Văn, Cao
Xuân Sơn... để cho ra đời nhiều tác phẩm hay. Là một trong 65 hội viên đầu tiên
của Hội Văn học nghệ thuật Đồng Nai, Nhà giáo ưu tú, nhạc sĩ Nguyễn Văn Vy
nhớ lại: “Lúc mới thành lập, Hội chưa có được cơ sở cố định và phải di chuyển
chỗ làm việc liên tục, từ rạp Lido sang trụ sở của Ban Dân tộc hiện nay rồi đến
số 30 đường Nguyễn Ái Quốc (thành phố Biên Hòa). Thời gian đó, đời sống của
anh em văn nghệ sĩ đều rất khó khăn nhưng vẫn cùng động viên nhau trên con
đường nghệ thuật để cho ra đời những tác phẩm hay”.
Nhà văn Lý Văn Sâm cùng các hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai
Không chỉ tập hợp, động viên, tạo điều kiện cho anh em văn nghệ sĩ hăng
say sáng tác, Lý Văn Sâm còn hỗ trợ cho những hội viên có hoàn cảnh khó khăn
để họ yên tâm, say mê với nghệ thuật. Biên đạo múa Nguyễn Thị Minh Chính
chia sẻ: “Tôi rất biết ơn Hội Văn học nghệ thuật Đồng Nai vì khi tham gia vào
Hội, tôi được tạo điều kiện thuận lợi để sáng tác, biểu diễn nghệ thuật, đồng thời
lãnh đạo Hội còn hỗ trợ gia đình tôi trong lúc khó khăn nhất. Đó là khi gia đình
tôi từ miền Bắc chuyển vào Đồng Nai, do chưa có nhà ở nên Hội đã cho gia đình
tôi sinh sống ngay tại trụ sở của Hội tại rạp Lido. Ngay cả anh chị em hội viên
Trang 49
dù còn khó khăn nhưng ai cũng sẵn lòng giúp đỡ gia đình tôi. Chính tình cảm
chân thành đó đã giúp cho những hội viên khóa đầu như chúng tôi vượt lên trở
ngại để cống hiến”.
Trong thời gian ông làm chủ tịch, Hội Văn học nghệ thuật Đồng Nai đã
gặt hái được nhiều thành công, góp phần khẳng định vị thế của văn học nghệ
thuật Đồng Nai. Xin điểm qua một số tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ đầu (1979
– 1990): về văn học có tiểu thuyết "Lũ chúng tôi" của Hoàng Văn Bổn (giải
thưởng văn học năm 1982), truyện "Đồng đội" và tiểu thuyết "Lời nguyền hai
trăm năm" của Khôi Vũ (giải thưởng Hội Nhà văn, 1989 - 1990), bút ký "Ánh
trăng rừng tếch" của Lê Đăng Kháng (giải thưởng Bộ Lâm nghiệp năm 1983),
truyện ngắn "Hồi ức làng Che" của Nguyễn Đức Thọ (giải nhất Báo Tuổi trẻ
1989) ...; về âm nhạc, những tác phẩm của hội viên được Đoàn Ca múa kịch của
tỉnh và đặc biệt là phong trào văn nghệ quần chúng trong tỉnh thường xuyên dàn
dựng như: "Đồng Nai mùa sầu riêng" và "Hương bưởi" của Trần Viết Bính, "Về
Đồng Nai quê em" của Nguyễn Thái Hải, "Tình ca Trị An" của Đào Thắng,
"Biên Hòa thành phố mến yêu" của Nguyễn Bính, ...; về sân khấu có vở diễn
"Tình yêu và bạo chúa" kịch bản của Trần Nhật Quang (HCV Hội diễn sân khấu
toàn quốc), múa Chàm "Do phụ" và "Múa K'ho" của Minh Chính (Huy chương
Vàng Hội diễn ca múa nhạc toàn quốc), múa "Ánh đuốc trên bán đảo" của Sơn
Viện (Huy chương Bạc Hội diễn ca múa nhạc toàn quốc). Ngoài ra, dưới sự dẫn
dắt của nhạc sĩ Nguyễn Văn Vy (hiệu trưởng Trường Văn hóa Nghệ thuật Đồng
Nai), đoàn Ca múa kịch Đồng Nai đã đem về nhiều huy chương vàng tại các kỳ
hội diễn. Về nhiếp ảnh, tại hai cuộc triển lãm Ảnh nghệ thuật đầu tiên của khu
vực miền Đông Nam bộ, các tác giả Phan Dẫu với "Điểm hẹn", Bùi Viết Đồng
với "Đồng Tâm", Ngọc Châu với "Ánh đuốc trẻ thơ" đã giành 03 giải nhất. Mỹ
thuật có các họa sĩ Nguyễn Nam Ngữ, Sỹ Nguyên, Thanh Thanh, Thanh Thúy,
Hoàng Vũ Hoài đã sáng tác được nhiều tranh tượng đặc sắc.
Có được thành quả đó là nhờ tài năng và sự nỗ lực không ngừng của
những hội viên của Hội, những văn nghệ sĩ tài hoa, song cũng không thể phủ
Trang 50
nhận có sự đóng góp quan trọng của người Chủ tịch Hội là Lý Văn Sâm, người
anh cả, người đã tập hợp và phát huy tối đa khả năng của anh em văn nghệ sĩ.
4. Hoàn thành vai trò là một đại biểu Quốc hội
Ngày 15-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội thống nhất-Quốc hội
khóa VI được tiến hành trong cả nước và đã thành công rực rỡ, bầu được 492 đại
biểu, trong đó có người chiến sĩ cách mạng, nhà văn Lý Văn Sâm, tạo nền tảng
chính trị-pháp lý vững chắc cho sự phát triển Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Quốc hội khoá VI đã có những đóng góp tích cực vào việc xây dựng hệ
thống chính quyền mới ở miền Nam, xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất
bảo vệ chính quyền trong điều kiện hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn quốc. Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá VI đã thông qua Hiến pháp
năm 1980. Nếu Quốc hội khóa I là mở màn cho nền độc lập dân chủ thì Quốc
hội khóa VI đánh dấu sự thống nhất đất nước về mặt Nhà nước sau 30 năm
chiến tranh chia cắt hai miền đất nước.
Là một trong những đại biểu Quốc hội khóa VI, Lý Văn Sâm và nhiều đại
biểu khác đã tham gia biểu quyết quyết định những vấn đề trọng đại nhất của đất
nước; quyết định về đường lối, chính sách của Nhà nước Việt Nam thống nhất;
quyết định xây dựng Hiến pháp, về cơ cấu lãnh đạo của Nhà nước khi chưa có
Hiến pháp mới, bầu các cơ quan đó để điều hành công việc chung của cả nước.
Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI đã thông qua các vấn đề quan trọng hàng đầu
của đất nước, gồm Nghị quyết về tên nước, Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca và tổ
chức Nhà nước khi chưa có Hiến pháp mới, thủ đô và quyết định chính thức đặt
tên thành phố Sài Gòn - Gia Định là Thành phố Hồ Chí Minh.
Được nhân dân tín nhiệm bỏ phiếu là niềm vinh dự, sự tự hào lớn lao đối
với bản thân mỗi người đại biểu Quốc hội, trong đó có Lý Văn Sâm. Và cũng
chính vì thế mà họ đã không ngừng cố gắng để làm hết trọng trách của người đại
biểu dân cử, đại diện cho lợi ích của nhân dân. Là một nhà văn, Lý Văn Sâm đã
Trang 51
hòa mình vào cuộc sống của người dân, phát hiện, đi cùng những bức xúc,
những khó khăn của người dân. Chính vì thế, những tác phẩm của ông đều phản
ánh chân thực cuộc sống. Không những thế, vì cùng ăn, cùng ở, theo đuổi, lắng
nghe và thấu hiểu những suy nghĩ, mong mốn của người dân đã giúp ông có sự
suy xét, phân tích để từ đó có những kiến nghị để thay đổi chính sách, góp phần
thay đổi những bất cập trong quản lý nhà nước.
Trong thời đoạn với nhiều trọng trách được giao, từ Chánh văn phòng Bộ
chỉ huy quân sự tỉnh, Chính trị viên đoàn văn công, sau là Tổng thư ký Hội văn
nghệ giải phóng, Thư ký tòa soạn Báo Văn nghệ giải phóng, Vụ trưởng vụ Văn
nghệ trong Bộ Văn hóa Thông tin Chính phủ lâm thời cộng hòa miền Nam Việt
Nam, Ủy viên Tiểu ban văn nghệ Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam,
đặc biệt là đại biểu Quốc hội. Công việc sự vụ chi phối, việc sáng tác của ông có
phần giảm đi, nhưng tự coi mình như một cán bộ tác chiến, ông vẫn làm đủ thứ,
như ông từng tâm sự “hồi đó tôi viết búa xua, cần văn viết văn, cần cải lương
viết cải lương, cần đàn chơi đàn kìm… làm tất tật” miễn là những công việc đó
có ích cho cách mạng. Khi hiểu rõ điều này chúng ta càng thêm yêu mến, kính
trọng và thông cảm với ông hơn, chứ không đòi hỏi như đối với một người chỉ
chuyên công việc sáng tác.
Trong sâu thẳm tâm hồn ông, từ những ngày trai trẻ đầy mộng mơ, cho
đến khi giác ngộ dấn thân vào con đường cách mạng đầy gian khổ, những ngày
vinh quang khi được giao những trọng trách, ông đều nung nấu những khát vọng
cao đẹp, những lý tưởng tiến bộ, giàu lòng nhân ái, yêu thương con người, đem
hết sức lực, trí tuệ để phục vụ cho ước vọng, chiến đấu cho tự do hạnh phúc của
những người nghèo khó.
III. Nhận thức của bản thân sau khi tìm hiểu về nhân vật Lý Văn
Sâm
Nhìn tổng thể, Lý Văn Sâm là ngòi bút tài hoa, cuộc đời ông là những
trang hoạt động sôi nổi và phong phú. Với tài năng và những quan điểm tiến bộ
về xã hội và lý tưởng thẩm mỹ, văn chương của ông có sự gắn bó với thời cuộc
Trang 52
và đem lại những hiệu quả tích cực trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của
Đảng và của nhân dân. Theo nhà nghiên cứu Lê Quang Trang: “Trong sâu thẳm
tâm hồn ông, từ những ngày trai trẻ đầy mộng mơ, cho đến khi giác ngộ dấn
thân vào con đường cách mạng đầy gian khổ, những ngày vinh quang khi được
giao những trọng trách, ông đều nung nấu những khát vọng cao đẹp, những lý
tưởng tiến bộ, giàu lòng nhân ái, yêu thương con người, đem hết sức lực, trí tuệ
để phục vụ cho ước vọng, chiến đấu cho tự do hạnh phúc của những người
nghèo khó”.
Tác giả bài viết tìm hiểu về nhà văn Lý Văn Sâm trong tác phẩm “Lý Văn Sâm toàn tập” của Bùi Quang Huy
Với tư cách một chiến sĩ, ông đã “tận hiến” hầu như toàn bộ cuộc đời cho
cách mạng, cho cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của nhân dân. Trong cách mạng
tháng Tám, Lý Văn Sâm từng tham gia cướp chính quyền ở địa phương; trong
chống Pháp và Mỹ, đã hai lần ông bị địch bắt giam, đã vận động và lãnh đạo
cuộc phá nhà lao Tân Hiệp (Biên Hòa) để vượt ngục, gây tiếng vang lớn khắp cả
nước vào năm 1956. Sau ngày miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất,
ông là là Đại biểu Quốc hội khóa VI (1976-1981), Ủy viên Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Trang 53
Với tư cách nghệ sĩ, Lý Văn Sâm là cây bút xuất sắc nhất của văn học đô
thị miền Nam trong hai thập niên 40 và 50 của thế kỷ trước. Các tác phẩm của
ông đã gieo vào lòng người đọc đương thời nhiều ấn tượng tốt đẹp, khơi dậy
những khát vọng và hướng họ đến với con đường tranh đấu, con đường cách
mạng với lòng yêu quê hương đất nước thiết tha. Ông là người đầu tiên đảm
nhận vai trò Tổng thư kí Hội Văn nghệ Giải phóng miền Nam, là Thư kí tòa
soạn báo Văn nghệ Giải phóng rồi sau 1975 được bầu làm Phó Tổng thư kí Hội
liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam (nay là Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các
Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam). Ông cũng là một trong ba nhà văn của
Đồng Nai được vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
Thông qua bài viết này, tôi cũng hy vọng rằng, chúng ta hiểu hơn về
những đóng góp to lớn của ông trong cuộc kháng chiến của dân tộc, cho nền văn
học Đồng Nai nói riêng, Việt Nam nói chung và những giá trị tinh thần mà nhà
văn đã tạo nên bằng chính tài năng của mình. Từ đó, chúng ta càng thêm quý
trọng tài năng và những đóng góp của ông để giữ gìn và phát huy cho thế hệ mai
sau.
Theo tôi, đã đến lúc cần khẳng định văn học miền Nam, đặc biệt là dòng
“văn chương tranh đấu ở đô thị” là một bộ phận không thể tách rời của văn học
dân tộc và cần phải đưa vào sách giáo khoa vài sáng tác tiêu biểu để giúp cho
lớp trẻ thấu hiểu tiếng nói yêu nước hào hùng, thiết tha của con người ở vùng
đất miền Nam “gian lao mà anh dũng”, trong đó có truyện của Lý Văn Sâm, bởi
ông là một trong vài nhà văn có nhiều đóng góp vào cuộc kháng chiến của dân
tộc với hai tư cách: nghệ sĩ, chiến sĩ ở miền Nam.
Bản thân làm công việc liên quan đến truyền thông, tôi tự nhủ phải noi
gương Lý Văn Sâm, giữ vững phẩm chất của người làm công tác tuyên truyền,
luôn phải đi sâu, đi sát thực tế để có những bài viết phản ánh chân thực, khách
quan hiện thực đời sống. Trong chiến tranh, Lý Văn Sâm đã dùng chính ngòi bút
của mình làm vũ khí để đấu tranh chống lại quân thù trên mặt trận tư tưởng. Còn
với tôi, trong thời kỳ hòa bình, xây dựng đất nước, tôi nghĩ, qua từng bài viết
Trang 54
của mình phải góp phần định hướng dư luận xã hội hướng đến những giá trị tốt
đẹp, trong đó tập trung tuyên truyền về những tấm gương người tốt, việc tốt,
những con người dám nghĩ, dám làm, không ngừng thi đua sáng tạo trong lao
động và học tập, tích cực nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật
mới vào sản xuất và đời sống để làm giàu cho bản thân và xây dựng đất nước
giàu mạnh; tuyên truyền về những chủ chương, chính sách của Đảng, Nhà nước
và hiệu quả của những chủ trương, chính sách ấy khi tác động tích cực đến cuộc
sống nhân dân, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến đời sống người
dân trên mọi mặt, từ đó giúp nhân dân luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
của Nhà nước để rồi ra sức thi đua lao động sáng tạo để bảo vệ và dựng xây quê
hương, đất nước giàu mạnh.
Trang 55
KẾT LUẬN
Qua cuộc thi này, giúp tôi hiểu thêm những đóng góp của nhà nho yêu
nước Thân Nhân Trung và nhà văn, đại biểu Quốc hội Lý Văn Sâm đối với lịch
sử phát triển của đất nước nói chung và Đồng Nai nói riêng. Cả 2 nhân vật dù
sống ở thời đại khác nhau, có những đóng góp khác nhau trong lịch sử nhưng
đều có điểm chung là có tấm lòng yêu nước, thương dân tha thiết và cả cuộc đời
đều đem hết tài năng và sức lực của mình để góp phần xây dựng và bảo vệ đất
nước. Nếu như Thân Nhân Trung là một nhà nho đức độ, luôn đề cao sự học và
coi trọng người tài, một vị quan trung quân, ái quốc, một người tận tụy và uyên
bác, đã giúp vua Lê chấn hưng nền văn hoá và giáo dục Việt Nam ở thời ấy thì
Lý Văn Sâm là một nhà văn có nhiều đóng góp vào cuộc kháng chiến của dân
tộc với hai tư cách nghệ sĩ, chiến sĩ ở miền Nam. Họ là những tấm gương sáng
để các thế hệ trẻ chúng ta phấn đấu và noi theo.
-HẾT-
Trang 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lý Văn Sâm, Lý Văn Sâm toàn tập, tập 1 (truyện ngắn), tập 2 (truyện
vừa), tập 3 (kịch, ký, tạp văn), Bùi Quang Huy sưu tầm, chú thích và giới thiệu,
Nxb Tổng hợp Đồng Nai, 2001.
2.Vũ Tùng, “Lý Văn Sâm một tên tuổi rất đáng trân trọng”, trang web:
http://nhavantphcm.com.vn
3. Nguyễn Công Lý, Lý Văn Sâm: nhà văn tiêu biểu của dòng văn học
yêu nước Nam Bộ, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 4 (518)-2015.
4. “Quốc hội khóa VI (1979-1981)”, trang web: http://quochoi.vn.
5. Nguyễn Khánh Hòa, “Những điểm sáng 35 năm Văn học nghệ thuật
Đồng Nai (1979-2014)”, trang web: http://vanhien.vn.
6. Lâm Giang, “Thân Nhân Trung – con người và tác phẩm”, trang web:
http://vannghesontay.com.
7. Kỷ yếu: Họ Thân trong lịch sử Việt Nam, Hội Khoa học lịch sử Thừ
thiên Huế năm 2014.
8. Lâm Giang, “Thân Nhân Trung – con người và sự nghiệp”, xuất bản
năm 1995.