102

MẠNG AN NINH LƯƠNG THỰC VÀ GIẢM NGHÈO (CIFPEN) hinh nong nghiep ben vung... · đai, không làm ô nhiễm môi trường. Nông nghiệp bền vững đặc biệt quan

  • Upload
    others

  • View
    23

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

1

MẠNG AN NINH LƯƠNG THỰC VÀ GIẢM NGHÈO (CIFPEN)

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA DÂN TỘCHÀ NỘI - 2010

2

@ Cuốn sách này được tài trợ bởi ActionAid tại Việt Nam.

CHỊU TRÁCH NHIỆM XUẤT BẢN:Lưu Xuân Lý

CHỊU TRÁCH NHIỆM NỘI DUNG:Ban điều hành mạng CIFPEN

BIÊN TẬP:ThS. Phạm Văn Thành - CCRDThS. Đỗ Đức Khôi - PEDTS. Cao Vĩnh Hải - CERPAThS. Nguyễn Thị Lan Hương - CEPHADLê Đức Lưu - RPCNguyễn Thị Minh Nghĩa

THIẾT KẾ:Lê Đức Lưu - RPC

3

Xây dựng nền nông nghiệp bền vững là mục tiêu của mỗi quốc gia và của toàn cầu hiện nay. Đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng đối với nền nông nghiệp Việt Nam.

“Mục đích của nông nghiệp bền vững là kiến tạo một hệ thống bền vững về mặt sinh thái, có tiềm lực về mặt kinh tế, có khả năng thỏa mãn những nhu cầu của con người mà không làm hủy hoại đất đai, không làm ô nhiễm môi trường. Nông nghiệp bền vững đặc biệt quan tâm đến việc bảo vệ công bằng xã hội cũng như bảo vệ và duy trì bản sắc văn hóa dân tộc”.

Hiện nay, vấn đề phát triển nông nghiệp bền vững đã được xã hội quan tâm. Ở một số vùng đã hình thành những mô hình nông nghiệp sinh thái bền vững: Một số nguyên lý của nông nghiệp bền vững đã được ứng dụng. Tính hệ thống trong nông nghiệp bền vững cũng được chú trọng với các mô hình canh tác tổng hợp, gắn kết các yếu tố thành phần, các mô hình VAC... nhằm tạo ra các quy trình sản xuất phi chất thải, nâng cao hiệu quả của đồng vốn đầu tư và bảo vệ môi trường. Biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) cũng được hướng dẫn thực hiện ở nhiều nơi. Việc sử dụng phân bón sinh học đã bắt đầu được mở rộng. Việc bảo vệ rừng, trồng và khoanh nuôi rừng đã được đặc biệt quan tâm chú trọng theo các chương trình như “Chương trình trồng mới 5 triệu hecta rừng”, “Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn”...

Cuốn sách “Một số mô hình nông nghiệp bền vững cho hộ sản

xuất quy mô nhỏ” được biên soạn từ việc tập hợp các thành tựu của các đơn vị thành viên thuộc Mạng An ninh lương thực và giảm nghèo (CIFPEN) và một số đơn vị ngoài CIFPEN. Các mô hình này thực sự có ý nghĩa góp phần thúc đẩy phát triển sinh kế bền vững của những hộ nông dân nghèo trước những khó khăn và thách thức trong quá trình phát triển và hội nhập hiện nay. Tuy cũng còn hạn chế về sự đa dạng cũng như chưa thể bao quát được thực tế sản xuất nông nghiệp ở tất cả các vùng sinh thái, song kết quả bước đầu của các mô hình thu được từ những cố gắng và nỗ lực của các thành viên mạng CIFPEN thực sự là những bài học bổ ích.

LỜI GIỚI THIỆU

4

Các mô hình này đã nêu được một số kinh nghiệm cụ thể, gắn liền với các tiêu chí áp dụng đơn giản và phù hợp để các hộ nông dân sản xuất quy mô nhỏ ở các vùng nông thôn có thể lựa chọn và áp dụng, góp phần giảm bớt khó khăn trong đời sống thông qua lợi ích kinh tế gia tăng từ các hoạt động sản xuất liên quan và bảo vệ môi trường.

Tôi đánh giá cao những nỗ lực của các mô hình được biên soạn và in trong cuốn sách này. Đặc biệt là cách tiếp cận phổ biến thông tin, phổ biến kiến thức và truyền bá kinh nghiệm để nhân rộng các mô hình liên quan thực sự mang lại những giá trị gia tăng cho phát triển nông nghiệp bền vững và là những kinh nghiệm tốt để có thể phát huy và áp dụng cho Chương trình phát triển “Nông nghiệp, Nông thôn và Nông dân” trong giai đoạn hiện nay.

Hà Nội, tháng 8 năm 2010.

Nguyễn Ngọc TrìuNguyên Phó Thủ tướng Chính phủ

Nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNTChủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam

5

Building a sustainable agriculture is the goal of each country and of the world today. This is also an important task of Vietnam agriculture.

“The purpose of sustainable agriculture is to build an ecologically sustainable, economically viable system which can meet human needs without damaging the land or polluting the environment. Sustainable agriculture pays special attention to protecting social equality as well as protecting the nation’s cultural identity”.

Currently, society is paying much more attention to sustainable agriculture. A model of ecologically sustainable agriculture has been built in some regions; principles of sustainable agriculture have been applied; sustainable agriculture has also been included in integrated cultivation models, which combine it into VAC and other models, in order to establish agricultural processes which produce much less waste, enhance the effectiveness of investment capital and protect the environment. The Integrated Pest Management (IPM) strategy has also been part of the guidance for agriculture in many regions; the use of biological fertilizers has started to be expanded; forest protection is paid special attention under the New 5 hectare Forest Growth Programme, the National Target Programme for Rural Water Supply and Sanitation, and other programmes.

The book collection “Proven models of sustainable agriculture

for household on a small-scale” has been compiled by gathering together the achievements of members of the Civil Society Inclusion in Food security and Poverty Elimination Network (CIFPEN). These models are really helpful to the development of sustainable livelihoods for poor farmer households who today are struggling with many difficulties in the process of development and integration today. Although they do not cover all possible models or agriculture in all ecological regions, the initial results from the models offer really helpful lessons, thanks to the efforts of CIFPEN members. The descriptions of the models cover specific experiences, and include simple criteria so that farmers farming on a small-scale in rural regions can select an appropriate model

INTRODUCTION

6

to apply. Thus they can contribute to more sustainable livelihoods through relevant production activities and environmental protection.

I highly appreciate the effort that has gone into compiling this set of models for printing in this book, especially the approach of disseminating information and propagating experiences so that relevant models can be widely applied to bring added value to the development of sustainable agriculture and the best experience can be promoted and applied to the current stage of the “Agriculture, Rural Areas and Farmers Development Programme”.

Ha Noi, August 2010.

Nguyen Ngoc TriuFormer Vice Prime MinisterFormer Minister of Agriculture & Rural DevelopmentChairman of Vietnam Gardening Association

7

Chúng ta đều biết, nông nghiệp toàn cầu với xu hướng sử dụng các phương pháp thâm canh theo quy mô lớn, đòi hỏi đầu tư cao đang phản ánh tác động hai mặt bất cân bằng: Tăng sản lượng trước mắt của một loại sản phẩm nông nghiệp nhất định và làm tổn hại đến các hệ thống sản xuất nông nghiệp khác (canh tác nông hộ, chủ trại chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản...). Hậu quả của xu thế này là loại bỏ sự đa dạng của hệ thống nông nghiệp và sự phát triển không đồng đều trên thế giới. Xu thế đồng nhất toàn cầu các hoạt động nông nghiệp và sinh kế hiện nay hiển nhiên đang tập trung quyền lực vào các tập đoàn đa quốc gia, biến nông nghiệp trở thành mục tiêu cho các động cơ lợi nhuận của họ. Tình trạng trên dẫn tới một thực tế là: có một nhóm nhỏ của thế giới sản xuất dư thừa trong khi đa số chứng kiến sự phá hủy của cơ chế tự cung tự cấp trong các cộng đồng nông nghiệp. Số người liên quan ngày càng trở nên dễ bị tổn thương trong hoàn cảnh suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện tại. Hơn thế nữa, nông nghiệp đang bị chi phối bởi các định chế tài chính lớn, định chế này khuyến khích các hoạt động đầu cơ trong các thị trường lương thực. Đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng khủng hoảng giá lương thực, đẩy hàng trăm triệu người trên thế giới rơi vào tình trạng mất an ninh lương thực và đói nghèo.

Ở Việt Nam, tăng trưởng kinh tế và các tiến triển trong việc giảm nghèo ở khu vực nông thôn đã đạt được những thành tựu đáng kể, tuy nhiên trước mắt vẫn còn nhiều thách thức. Nông dân đã được giới thiệu các quy trình canh tác tiên tiến và các giống có năng suất cao. Kết quả là sản lượng nông nghiệp đã tăng đáng kể, góp phần đưa Việt Nam thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới; giúp Nông nghiệp duy trì mức độ tăng trưởng khoảng 4% trong 5 năm vừa qua; Tuy nhiên, hầu hết các công nghệ và giống mới này đòi hỏi phải đầu tư cao, các yếu tố đầu vào nhiều cũng như sự lệ thuộc vào các yếu tố này ngày càng gây thêm nhiều áp lực và khó khăn mới cho người nông dân. Đại bộ phận các hộ gia đình nghèo, hộ nông dân sản xuất quy mô nhỏ, với kiến thức và kỹ năng quản lý sản xuất thấp... đều nhận được lợi ích rất thấp từ những phương thức canh tác mới này. Ở rất nhiều nơi, nông dân đang ngày càng lệ thuộc nhiều hơn vào các mô hình đầu tư từ bên ngoài, trong khi đó chất lượng đất canh tác, nguồn nước và môi trường ngày càng bị giảm sút. Từ đó gây tác động tiêu cực đến sinh kế, hệ thống an ninh xã hội, kinh tế địa phương và môi trường. Các điều kiện về ANLT và giảm nghèo của người dân vì vậy cũng không được đảm bảo.

Cuốn sách “Một số mô hình nông nghiệp bền vững cho hộ sản xuất quy

mô nhỏ” dưới dạng “kỷ yếu” ra đời nhằm ghi nhận lại một số thông tin và kinh nghiệm giúp cho cộng đồng người nghèo phát triển sinh kế bền vững, đảm bảo an ninh lương thực và giảm nghèo, qua đó cũng phản ánh hình ảnh và tên tuổi

LỜI NÓI ĐẦU

8

của một Mạng lưới (CIFPEN) tuy mới ra đời còn non trẻ, song các thành viên của Mạng lưới này đã góp phần đáng kể vào việc cải thiện đời sống của cộng đồng người dân nghèo các khu vực nông thôn, miền núi. Các sáng kiến và cách tiếp cận thực hiện hiệu quả mô hình gắn liền sinh kế của người dân ghi lại trong cuốn sách này giúp chúng ta có thêm các bài học kinh nghiệm bổ sung khi bắt tay vào thiết kế và thực hiện các chương trình phát triển sinh kế bền vững liên quan ở các vùng nông thôn Việt Nam trong thời gian tới.

BĐH Mạng CIFPEN xin chân thành cảm ơn tổ chức ActionAid tại Việt Nam đã xác định Mạng lưới An ninh lương thực và Giảm nghèo là một đối tác chiến lược để cùng thực hiện nhiều hoạt động cho mục tiêu của mình tại Việt Nam, đặc biệt đã khích lệ và hỗ trợ xây dựng cuốn kỷ yếu này nhằm khởi đầu việc tư liệu hóa những thành tựu có ý nghĩa thực tiễn của các đơn vị thành viên Mạng CIFPEN.

BĐH Mạng CIFPEN cũng xin biểu dương các đơn vị trong và ngoài Mạng lưới đã nỗ lực cung cấp thông tin liên quan, đặc biệt là Trung tâm Y tế Công cộng và Phát triển Cộng đồng (CEPHAD), Trung tâm Nghiên cứu Xuất bản sách và Tạp chí (RPC) và Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED) đã đóng góp nhiều nỗ lực để hoàn thành biên soạn cuốn kỷ yếu này.

BĐH Mạng CIFPEN cũng xin dành lời cảm ơn tới nhóm cố vấn của mạng về những đóng góp mang tính định hướng cho nội dung của cuốn sách này.

Cuốn kỷ yếu ra đời trong lúc nguồn lực của Mạng lưới còn nhiều hạn chế, do đó không thể tránh khỏi những thiếu sót cũng như còn cần nhiều thông tin để hoàn thiện. BĐH Mạng CIFPEN đánh giá cao những góp ý, phê bình của bạn đọc để lần tái bản sau được tốt hơn.

T/M BĐH Mạng CIFPENChủ tịch Phạm Văn Thành

9

As we all know, the trend in global agriculture has been to use large-scale intensive methods, which require higher investment and have two disparate effects: Increasing the short-term productivity of a specific agricultural product but damaging other agricultural systems (farming households, farms and livestock, aquaculture). The consequences of this trend is to reduce the diversity of agricultural systems and cause unequal development in the world. This homogeneous trend in global agricultural activities and livelihoods is now concentrating power in trans - national corporations (TNCs), making agriculture a target for their profit motives. This situation leads to a small part of the world seeing excess production while most of the rest witness the destruction of self-sufficient mechanisms in agricultural communities. The associated people are becoming more vulnerable in the context of economic recession and the current global financial crisis. Moreover, agriculture is also affected by financial regulations dominated by the interests of large organisations which encourage speculative activities in the food market. This is one of the main causes of the crisis in food prices, pushing hundreds of millions of people around the world into food insecurity and poverty.

In Vietnam, economic growth and progress in reducing poverty in rural areas have been significant achievements, however there are still some immediate challenges. Farmers have been introducing advanced cultivation processes and high-yield varieties. As a result agricultural production has increased significantly, contributing to bringing Vietnam to be the second largest rice exporter in the world and helping sustain an agriculture growth rate of about 4% in the past 5 years. However, most of the new varieties and technologies require high investment and inputs. Dependence on these factors increases pressure on and causes more difficulties for farmers. The majority of poor households, farmers producing on a small-scale, with limited knowledge and production skills receive very low benefits from these new cultivation methods. In many places, farmers are increasingly more dependent on outside investment models. The quality of farmland, water resources and the environment generally, therefore, is being significantly reduced, resulting in negative impacts on livelihoods, the social security system, the local economy and the environment. Food security and poverty alleviation of the people are not being assured.

The booklet with “Proven models of sustainable agriculture for households

on a small-scale“ is published in order to record information and experiences to help poor communities develop sustainable livelihoods, ensure food security and poverty reduction. It can also reflect the image and profile of the CIFPEN network. Despite being only recently established, the members of this network

FOREWORD

10

have contributed significant improvements for the lives of poor communities in rural and mountainous areas. The initiatives and guidance for effective implementation of the models associated with improved livelihoods for poor people recorded in this booklet could also help add lessons learned which will be very useful in the design and implementation of future sustainable livelihood development programmes for rural areas of Vietnam.

The CIFPEN Board would like to express its sincere thanks to ActionAid Vietnam who identified CIFPEN as a strategic partner for implementing many activities aimed at shared objectives in Vietnam and in particular, encouraged and supported the production of this booklet to document the achievements of CIFPEN members.

The CIFPEN Board would like to praise the network members, especially The Centre for Public Health and Community Development (CEPHAD), The Research and Publishing Centre (RPC) and the Centre for Population, Environment and Development (PED) who have provided the relevant information and contributed significant effort to compile and edit this booklet.

The CIFPEN Board would also like to say many thanks to advisory group for contributions on the focus of the booklet content.

The booklet has been produced by CIFPEN which is still in its infancy with limited resources, so there will inevitably be some shortcomings and omissions of some information. The CIFPEN Board would welcome comments and criticisms from readers so that the next edition can be improved.

On behalf of the CIFPEN BoardChairmanPham Van Thanh

11

CÁC TỪ VIẾT TẮT

AAV Tổ chức ActionAid tại Việt NamADDA Tổ chức phát triển nông nghiệp Đan MạchAFAP Quỹ Australia vì nhân dân Châu Á Thái Bình DươngANLT An ninh lương thựcATTP An toàn thực phẩmBĐH Ban điều hànhBĐKH Biến đổi khí hậuBVTV Bảo vệ thực vậtCCRD Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng Nông thônCEPHAD Trung tâm Y tế Công cộng và Phát triển Cộng đồngCERPA Trung tâm Tư vấn Môi trường Tài nguyên và Giảm nghèo

Nông thônChildFund Quỹ Trẻ emCIFPEN Mạng lưới An ninh lương thực và Giảm nghèoCISDOMA Viện Tư vấn Phát triển Kinh tế Xã hội Nông thôn và Miền núiCORDAID Tổ chức hỗ trợ của Hà LanCRD Trung tâm Phát triển Nông thôn Miền TrungCRĐ Cá rô đồngCSEED Trung tâm Kinh tế xã hội cộng đồng và Phát triển môi trườngđ Đồng (tiền Việt Nam)ĐSQ Đại sứ quánENABLE Dự án “Nâng cao hiệu quả hợp tác và học hỏi của các tổ chức

phi chính phủ Việt Nam”FAO Tổ chức Nông lương Thế giớiHCVS Hữu cơ vi sinhHT Hội thảoICCO Tổ chức Liên Nhà thờ vì sự Hợp tác và Phát triển Hà Lan KHKT Khoa học kỹ thuậtKN Khái niệmKSH Khí sinh họcKTV Kỹ thuật viên

12

LĐ Lao độngMT Môi trườngNGO Tổ chức phi chính phủNLN Nông lâm nghiệpNN Nông nghiệpNN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thônNNBV Nông nghiệp bền vữngOHK Oxfam Hồng KôngPED Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triểnPTNT Phát triển nông thônRDPR Quỹ Phát triển Nông thôn và Giảm nghèo huyện Quảng

Ninh, Quảng BìnhRDSC Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thônRPVĐTĐL Rô phi vua đơn tính Đài loanS-CODE Trung tâm Phát triển Cộng đồng Bền vữngSRD Trung tâm Phát triển Nông thôn Bền vữngSRI Thâm canh lúa cải tiến TT Thị trấnUBND Ủy ban nhân dânVAC Vườn - Ao - ChuồngVND Việt Nam đồngVSV Vi sinh vậtVUSTA Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt NamWB Ngân hàng Thế giớiWTO Tổ chức Thương mại Thế giớiWWF Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên

13

MỤC LỤC

Lời giới thiệu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3

Lời nói đầu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7

Các từ viết tắt . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 11

Nông nghiệp bền vững - Đạo đức & Nguyên lý. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 15

GS. Trịnh Văn Thịnh

KS. Nguyễn Văn Mấn

Mô hình BIOGAS VACVINA cho các hộ chăn nuôi vừa và nhỏ . . . . . . . . . . . 20

Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng nông thôn (CCRD)

Trung tâm Y tế Công cộng và Phát triển Cộng đồng (CEPHAD)

Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa

Sản xuất và sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh quy mô hộ gia đình . . . . . . . 26

Trung tâm Nghiên cứu & Phát triển Cộng đồng nông thôn (CCRD)

Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED)

Trung tâm Phát triển Cộng đồng Bền vững (S-CODE)

Bếp đun cải tiến ĐK phương thức thương mại hóa . . . . . . . . . . . . . . . . . 32

Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED)

Khai thác thủy hải sản bằng lưới rê hỗn hợp . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 39

Hội nghề cá Việt Nam

Nuôi giun Quế làm thức ăn cho gia cầm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 43

Trung Tâm Tư vấn Chất lượng sản phẩm

thuộc Viện Tư vấn Phát triển Kinh tế Xã hội

Nông thôn và Miền núi (CISDOMA)

Nuôi ong lấy mật tăng thu nhập cho người nghèo dân tộc xã miền núi . . . . 50

Quỹ Phát triển Nông thôn và Giảm nghèo

huyện Quảng Ninh, Quảng Bình (RDPR)

Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa

Trồng rau hữu cơ để xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường . . . . . . . . . 57

Trung tâm Hành động vì Sự phát triển Đô thị

Di ương nuôi cá rô phi vua đơn tính Đài loan, cá lóc, cá rô đồng. . . . . . . . . 62

Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa

14

Mô hình khuyến nông viên, kỹ thuật viên trợ giúp nông dân hoạt động theo cơ chế thị trường . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 68

Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED)Nhóm nông dân cùng sở thích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 74

Trung tâm Phát triển Nông thôn Miền Trung (CRD) Mô hình khuyến nông theo tiếp cận “Nông dân với Nông dân” để xóa đói giảm nghèo. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 81

Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (RDSC)Mô hình củng cố và phát triển hệ thống giống lúa nông dân . . . . . . . . . . 86

Trung tâm Phát triển Nông thôn Bền Vững (SRD)Mô hình Vườn - Ao - Chuồng (VAC) cách tiếp cận mới của mạng CIFPEN . . . 92

Hội Làm vườn Việt Nam (VACVINA)Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng Nông thôn (CCRD)

Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED)

15

NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG

ĐẠO ĐỨC & NGUYÊN LÝ

GS. Trịnh Văn Thịnh KS. Nguyễn Văn Mấn

1. ĐỊNH NGHĨA“Nông nghiệp bền vững (Permaculture, đã được nhiều tác giả thừa nhận) là

việc thiết kế những hệ thống cư trú lâu bền của con người; một triết lý và một cách tiếp cận về việc sử dụng đất tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa tiểu khí hậu, cây hàng năm, cây lâu năm, súc vật, đất, nước và những nhu cầu của con người, xây dựng những cộng đồng chặt chẽ và có hiệu quả” (Bill Mollison và Remy Mia Slay - Đại cương về Nông nghiệp bền vững, bản dịch, NXB Nông nghiệp, Hà Nội - 1994).

Nông nghiệp bền vững chủ trương bảo vệ môi trường, tạo dựng một môi trường trong lành và sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Mục đích của nông nghiệp bền vững là kiến tạo một hệ thống bền vững về mặt sinh thái, có tiềm lực về mặt kinh tế, có khả năng thoả mãn những nhu cầu của con người mà không làm huỷ diệt đất đai, không làm ô nhiễm môi trường. Nông nghiệp bền vững rất quan tâm đến việc bảo đảm công bằng xã hội và việc bảo vệ văn hoá dân tộc.

Để đạt mục đích đó, nông nghiệp bền vững dựa vào 3 nhân tố cơ bản:1/Sự khảo sát các hệ sinh thái tự nhiên.2/Kinh nghiệm quý báu của những hệ canh tác truyền thống và của nông

dân các vùng.3/Những kiến thức khoa học hiện đại.Nông nghiệp bền vững tạo ra một hệ sinh thái nông nghiệp sản xuất lương

thực thực phẩm cho con người và thức ăn cho chăn nuôi nhiều hơn so với các hệ thống tự nhiên. Nông nghiệp bền vững là một hệ thống trong đó con người tồn tại và sử dụng những nguồn năng lượng không độc hại, tiết kiệm và tái sinh năng lượng, sử dụng nguồn tài nguyên phong phú của thiên nhiên mà không phá hoại những nguồn tài nguyên đó. Nông nghiệp bền vững không chỉ bảo vệ những hệ sinh thái đã có trong tự nhiên mà còn tìm cách khôi phục những hệ sinh thái đã bị suy thoái.

Triết lý của nông nghiệp bền vững là hợp tác với thiên nhiên, tuân thủ những quy luật của thiên nhiên, không chống lại thiên nhiên. Phải xem xét toàn bộ hệ thống trong sự vận động của nó, không tách rời từng bộ phận; phải suy nghĩ đến lợi ích toàn cục, không vì lợi ích của bộ phận mà làm hại đến toàn cục. Suy rộng ra, trái đất là của toàn thể nhân loại, do vậy toàn thể nhân loại phải có trách nhiệm bảo vệ trái đất, nơi cư trú của mình. Tấn công vào thiên nhiên chính là sự

16

tấn công vào mình và cuối cùng tự huỷ diệt. Như vậy, nông nghiệp bền vững không chỉ thu hẹp trong phạm vi nông nghiệp mà còn tham gia vào việc giải quyết nhiều vấn đề lớn toàn cầu và mở rộng ra cả lĩnh vực văn hoá, xã hội, đạo đức, cuộc sống.

Nông nghiệp bền vững khuyến khích mọi người phát huy lòng tự tin, suy nghĩ sáng tạo để góp phần tích cực giải quyết những vấn đề đang đặt ra ở từng địa phương cũng như các vấn đề chung của thế giới: sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái môi trường, sự phá vỡ cân bằng sinh thái...

Từ đầu thế kỷ XVIII và nhất là từ giữa thế kỷ XX, việc phát triển công nghiệp và khoa học kỹ thuật đã đem lại những thành tựu kỳ diệu làm thay đổi hẳn bộ mặt của trái đất và cuộc sống của loài người. Nhưng do chạy theo lợi nhuận tối đa cục bộ, không có một chiến lược phát triển chung thích hợp, nên đã đồng thời gây nên những hậu quả tiêu cực, những mối nguy cơ khôn lường cho tương lai của hành tinh và nhân loại. Trước hết là nạn ô nhiễm môi trường với khối lượng chất thải khổng lồ của các xí nghiệp và các khu dân cư tập trung cao độ. Việc khai thác tài nguyên ngày một gia tăng với quy mô ngày càng lớn đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt. Hàng năm gần 12 triệu hecta rừng nhiệt đới bị tàn phá, nhiều nhất là ở Châu Mỹ Latinh và Châu Á. Braxin hàng năm bị mất 1,7 triệu hecta rừng, Ấn Độ 1,5 triệu hecta, Inđônêxia 0,9 triệu hecta và Thái Lan 0,4 triệu hecta. Việc tàn phá rừng đã kéo theo sự huỷ diệt của nhiều loài động vật, thực vật và làm mất tính đa dạng sinh học của tự nhiên. Cân bằng sinh thái bị phá vỡ. Hàng triệu hecta đất bị hoang mạc hoá. Thành phần khí quyển thay đổi làm thay đổi cân bằng nhiệt lượng. Tỉ lệ khí CO2 và một số khí nhà kính khác đang gia tăng làm tăng nhiệt độ của khí quyển, gây biến đổi khí hậu toàn cầu. Do nhiệt độ gia tăng, một phần tuyết và băng ở hai cực có thể tan thành nước, cộng với sự giãn nở của nước biển sẽ làm mực nước biển dâng cao (theo dự tính của các nhà khoa học, trong vòng 50 năm tới, mực nước biển có thể dâng cao lên 0,20 - 1,60m, tuỳ theo mức độ gia tăng của nhiệt độ khí quyển) làm ngập nhiều thành phố và vùng đất canh tác ven biển, nhiễm mặn sông ngòi, gây tác hại vô cùng to lớn: khoảng 2 tỉ người (1/3 dân số thế giới) phải chuyển đến những vùng cao hơn để sống(1). Các chất khí thải công nghiệp như SO2, NO2 đã gây ra những trận mưa axit ở nhiều nơi, chất chloro fluoro cacbon (CFC) tăng lên đã phá thủng tầng ôzôn (tầng khí quyển có tác dụng cản trở các tia tử ngoại và bảo vệ sự sống trên trái đất).

Trong nông nghiệp, việc lạm dụng phân hoá học và các hoá chất bảo vệ thực vật đã làm hỏng cấu tượng đất và nhiễm độc đất, làm ô nhiễm môi trường: ô

1. Việt Nam là một trong những nước chịu tác động nhiều nhất của Biến đổi khí hậu.Với kịch bản hiện tượng mực nước biển dâng cao 1 mét thì ước tính diện tích đất của Đồng bằng Sông Hồng và Đồng bằng Sông Cửu Long, 2 khu vực sản xuất lúa gạo chủ yếu của cả nước, sẽ bị mất đi lần lượt là 5.000km2 và từ 15.000 - 20.000 km2.Theo đó, tổng sản lượng lương thực sẽ giảm khoảng 5 triệu tấn.

17

nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước. Việc công nghiệp hoá nông nghiệp theo mục đích thu lợi nhuận tối đa của các tập đoàn tư bản siêu quốc gia đã làm phá sản hàng triệu nông dân nghèo, đại bộ phận những nông dân này kéo ra thành phố bổ sung vào đội quân thất nghiệp vốn đã rất lớn ở thành thị, làm trầm trọng thêm các tệ nạn xã hội và làm ô nhiễm môi trường.

Có thể nói chúng ta đang sống trong một cuộc khủng hoảng môi trường toàn cầu. Những năm gần đây, nhiều Hội nghị thượng đỉnh đã họp bàn, tìm cách giải quyết những vấn đề trên. Tuy nhiên vấn đề trên còn gặp nhiều khó khăn trở ngại và kết quả thu được chưa cao.

Nông nghiệp bền vững có thể góp phần tìm ra giải pháp cho các vấn đề nói trên. Nó có thể tác động và cải thiện những vấn đề, đồng thời mở ra một cuộc sống có chất lượng hơn.

Những khái niệm về nông nghiệp bền vững được phát triển trên nền tảng các đạo đức và nguyên lý dẫn đến những chuẩn mực chỉ đạo đúng đắn những người thực hiện.

2. ĐẠO ĐỨC CỦA NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG1. Chăm sóc và bảo vệ trái đất.2. Chăm sóc con người.3. Tiết kiệm và giảm bớt tiêu thụ - đặt một giới hạn cho dân số và tiêu thụ.4. Phân phối dư thừa. Dành thời gian, tiền của, năng lượng dư thừa vào mục

đích chăm sóc trái đất và con người.Chăm sóc trái đất là chăm lo đến tất cả các sinh vật và thành phần phi sinh vật

trên trái đất. Bảo vệ tài nguyên - sử dụng tiết kiệm và phục hồi những tài nguyên đã bị huỷ hoại, xây dựng những hệ thống có ích và bền vững.

Chăm sóc trái đất bao hàm cả chăm sóc con người, thoả mãn những nhu cầu cơ bản về vật chất và tinh thần của con người về lương thực, nhà ở, học hành, công việc làm, tạo ra những mối quan hệ chung sống tốt lành. Mặc dù con người chỉ chiếm một bộ phận nhỏ trong các loài sinh vật nhưng con người có tác động lớn đến sự sống trên trái đất. Nếu những nhu cầu cơ bản của con người được đáp ứng một cách thoả đáng thì sẽ không còn những hành động tàn phá huỷ diệt trái đất.

Hiện nay việc tiêu thụ, nhất là tiêu thụ thực phẩm và năng lượng (chủ yếu là nhiên liệu “hoá thạch” dự trữ trong lòng đất như dầu khí, than đá) đặc biệt là ở các nước phát triển ngày càng tăng và càng lãng phí. Theo B. Mollion cứ 10 calor từ công nghiệp đưa vào nông nghiệp thì mới lấy được 1 calor sản phẩm. Ở Thuỵ Điển hầu hết năng lượng dùng trong nông nghiệp là lấy ra từ nhiên liệu hoá thạch. Tỷ lệ tiêu thụ năng lượng đầu người đã tăng gấp 8 lần kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Nhiên liệu hoá thạch không những bị sử dụng lãng phí mà còn làm ô nhiễm môi trường. Mặt khác tỷ lệ như hiện nay dân số thế giới cứ mỗi thập

18

kỷ lại thêm gần 1 tỷ người, trong khi đó đất trồng trọt ngày càng giảm sút.Vì vậy nông nghiệp bền vững chủ trương tiết kiệm tiêu dùng, tiết kiệm năng

lượng từ nhiên liệu hóa thạch, tăng cường sử dụng năng lượng tự nhiên (năng lượng mặt trời, sức gió, sức nước), năng lượng tái sinh và hạn chế việc gia tăng dân số.

Mỗi người hãy tự xây dựng cho mình một cuộc sống đơn giản, lành mạnh, dành thời gian, tiền của, năng lượng dư thừa để góp phần vào việc chăm sóc trái đất, chăm sóc con người. Như vậy nghĩa là sau khi thiết lập được một hệ thống phù hợp với điều kiện và khả năng của mình, từng người sẽ phát huy ảnh hưởng và phương tiện của mình để giúp đỡ người khác cùng đạt những mục tiêu đó.

3. NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNGTrong nông nghiệp bền vững, việc thiết kế và xây dựng những hệ sinh thái

nhằm kết hợp áp dụng những kỹ thuật khác nhau tuỳ vào điều kiện khí hậu, đất đai và điều kiện kinh tế xã hội của từng địa phương. Tuy nhiên tất cả công việc trên đều phải tuân thủ một số nguyên lý chung:

1. Các yếu tố liên quan như công trình kiến trúc, nhà ở, ao, vườn, đường đi... cần đặt trong mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau. Mỗi yếu tố có thể xây dựng chiến lược sử dụng qua phân tích các mặt sau đây:

- Sản phẩm của yếu tố đó có thể sử dụng cho nhu cầu các yếu tố khác như thế nào?

- Các yếu tố khác có thể cung cấp cho nhu cầu của yếu tố đó những gì? - Yếu tố đó có lợi cho những yếu tố khác như thế nào? những đặc điểm

không phù hợp với yếu tố khác được thể hiện ra sao? - Phải sắp đặt các yếu tố sao cho hệ thống tổng thể có thể vận hành với

hiệu quả tốt nhất.2. Mỗi yếu tố phải đảm bảo ít nhất hai chức năng: Mỗi yếu tố trong hệ thống

phải được chọn lọc và đặt vào vị trí có thể đảm bảo được nhiều chức năng nhất. Hồ nước có thể dùng tưới cây, cung cấp nước uống cho gia súc, trữ nước cứu hoả, cũng có thể là nơi nuôi cá, nuôi vịt. Nước ao hồ làm tăng nhiệt độ về mùa đông và làm cho môi trường mát hơn trong mùa hè. Đập chứa nước có thể dùng làm đường đi, trồng cây.

3. Tìm giải pháp chứ không phải nêu vấn đề.4. Hợp tác chứ không cạnh tranh.5. Làm cho mọi thứ đều sinh lợi: không bỏ phí một thứ gì, thí dụ có thể sử

dụng nước thải, các chất hữu cơ phế thải để ủ phân rác.6. Chỉ làm một việc gì khi việc đó đem lại hiệu quả: thí dụ chỉ làm cỏ khi trồng

cây, không làm cỏ rồi để đất trống đến khi trồng cây phải làm cỏ lại.7. Tận dụng mọi thứ tới khả năng cao nhất của nó: thí dụ sử dụng năng lượng

19

mặt trời vừa để cây phát triển, vừa để sưởi ấm, đun nước, nấu ăn.8. Đưa việc sản xuất thực phẩm trở lại các thành thị: tận dụng khả năng để sản

xuất thực phẩm ngay tại các thành thị (trồng rau quả, nuôi gà, cá).9. Giúp cho mọi người tự tin ở mình: có thể tự tìm ra giải pháp thích hợp để

cải thiện cuộc sống.10. Chi phí và đầu tư thấp nhất để đạt được năng suất cao nhất: thí dụ chọn

chỗ đắp đập chi phí ít nhưng giữ được nước nhiều nhất và tổn thất về nước ít nhất.

Mặc dù các chuyên gia về nông nghiệp bền vững đều thống nhất với nhau về nền tảng đạo đức và những nguyên lý nói trên, nhưng chiến lược, chiến thuật, các biện pháp sử dụng rất khác nhau, như không thể có hai môi trường hoàn toàn giống nhau. Do đó sự sáng tạo trong nông nghiệp bền vững là rất lớn. Mặc dầu vậy, dù chiến lược và kỹ thuật có khác nhau bao nhiêu chăng nữa thì hệ thống nông nghiệp được gọi là bền vững cũng vẫn phải được quyết định phù hợp với đạo đức và các nguyên lý cơ bản.

Đặc trưng của mô hình nông nghiệp bền vững: - Quy mô nhỏ. - Thâm canh. - Đa dạng hoá trong sản xuất (đa dạng trong các chủng loại, các chế độ canh

tác, đa dạng hoá các chức năng lao động). Áp dụng hệ thống canh tác phong phú đa canh sẽ tạo ra thế ổn định và giúp ta dễ dàng chuyển hướng trước những biến động về môi trường và xã hội.

- Kết hợp nhiều ngành, nhiều bộ môn: nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, kết hợp kinh tế học, xã hội học.

- Có biện pháp thích hợp để sử dụng các diện tích đất quá xấu, quá nhỏ, đất ở ngoài rìa.

- Tận dụng các đặc tính tự nhiên vốn có của vật nuôi, cây trồng và mối quan hệ của chúng với đặc điểm cảnh quan thiên nhiên để tạo ra một nền nông nghiệp tự phát triển một cách bền vững và bảo vệ được môi trường.

- Sử dụng được cả các chủng loại đã thuần hoá cũng như các chủng loại hoang dã.

- Bảo đảm tính bền vững lâu dài - các tài nguyên năng lượng và sinh học được bảo toàn, tái tạo, tự điều chỉnh và tự tái sinh.

CHO CÁC HỘ CHĂN NUÔI VỪA VÀ NHỎ

Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng Nông thôn (CCRD)Trung tâm Y tế Công cộng và Phát triển Cộng đồng (CEPHAD)

Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa

1. LỜI GIỚI THIỆUBiogas là khí sinh học, một hỗn hợp các loại khí được sản sinh trong quá trình

phân hủy các chất hữu cơ trong môi trường không có ô-xy (yếm khí), trong đó thành phần chủ yếu là khí mê - tan. Hệ thống biogas gồm có bể phân hủy phân gia súc và các phụ kiện khác. Nhiệm vụ chủ yếu của hệ thống này là sản xuất khí sinh học từ chất thải gia súc để tạo nguồn năng lượng (biogas) sử dụng để đun nấu (như bếp gas), có thể dùng để đốt đèn (như đèn măng xông) hoặc chạy máy nổ, máy phát điện.

Hệ thống Biogas VACVINA do Trung tâm CCRD nghiên cứu và triển khai. Đây là hệ thống đặc biệt vì đã kế thừa và phát huy được những ưu điểm của các loại hầm khác như “hầm KSH dạng nắp vòm”, “hầm KSH sử dụng túi ủ bằng nilông”, “bể

20

MÔ HÌNH BIOGAS VACVINA

phốt tự hoại”, đồng thời khắc phục được những nhược điểm cơ bản của các loại trên như: Đóng váng và giảm hiệu suất gas sau một vài năm sử dụng. Chương trình đã nhận được sự tài trợ của Quỹ Toyota và Tổ chức ETC- Chương trình EASE, Hà Lan.

Mô hình Biogas VACVINA đã được Hội đồng Khoa học (Bộ NN & PTNT) đánh giá và thẩm định. Ngày 18/10/2002 Bộ trưởng Bộ NN & PTNT ra Quyết định số 4414/QĐ - BNN - KHCN công nhận tiến bộ kỹ thuật và cho phép nhân rộng mô hình Biogas VACVINA trong toàn quốc.

2. ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA MÔ HÌNH• Mô hình Biogas VACVINA có cấu tạo đặc biệt, không bị đóng váng, không

làm giảm hiệu suất gas trong suốt thời gian sử dụng.• Rất nhiều tổ chức trong và ngoài mạng CIFPEN đã áp dụng mô hình này.• Hệ thống các thiết bị phụ trợ (bếp đun, đường ống, van...) được cung ứng

đến tận tay người tiêu dùng.• Sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ.• Hầm Biogas có thể xây ngầm ngay dưới nền chuồng trại, do vậy không tốn

diện tích.• Kỹ thuật viên được đào tạo tại địa phương và hoạt động theo cơ chế thị

trường “khi Dân cần là có”. • Sản phẩm được bảo dưỡng, bảo hành bởi các kỹ thuật viên tại địa phương.

3. KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC

Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng Nông thôn (CCRD)

CCRD nhận được tài trợ cho mô hình này từ tổ chức Toyota Foundation và tổ chức ETC Hà Lan tài trợ. CCRD đã phối hợp với Hội Làm vườn các tỉnh xây dựng được gần 10.000 hầm do các hộ tự đầu tư 100% kinh phí xây dựng.

Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa

Đã xây dựng được 1.320 hầm (trong chương trình: 881 hầm, người dân tự xây 439 hầm) do VUSTA tài trợ.

Trung tâm Y tế Công cộng và Phát triển Cộng đồng (CEPHAD)

Đến tháng 12/2009 dự án đã hỗ trợ cho 25 hộ gia đình để xây dựng hầm biogas, trong đó thị trấn Nước Hai có 5 hầm và xã Hưng Đạo có 20 hầm. Đây là hoạt động của dự án “Tăng cường năng lực về chăm sóc sức khỏe, phòng chống HIV/AIDS và xóa đói giảm nghèo cho người dân thị trấn Nước Hai và xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng“ do tổ chức Bánh mỳ cho Thế giới (BfdW) tài trợ.

4. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN

4.1. Điều kiện đối với hộ gia đình

Để xây dựng hệ thống biogas, hộ gia đình cần có các điều kiện sau:• Thường nuôi ít nhất 5 - 7 con lợn thịt, hoặc 2 - 3 con trâu bò (để đủ phân cho

hầm hoạt động).

21

• Có thể xây hầm biogas ngầm bên dưới nhà xí, hoặc dưới chuồng nuôi lợn, nuôi trâu bò. Hầm biogas có thể xây trước rồi mới làm chuồng chăn nuôi hoặc xây sau khi chuồng trại đã làm đều được.

• Tiền vốn đầu tư cho loại hầm này là thấp nhất trong các loại hầm phổ biến hiện nay (khoảng từ 3 - 4 triệu đồng cho hầm 7 - 8m3) tùy theo giá vật liệu ở mỗi địa phương và thể tích của hầm chứa.

• Gia đình có nhu cầu sử dụng khí biogas cho việc đun nấu và xử lý ô nhiễm môi trường liên quan.

• Các vật liệu xây dựng như gạch, xi măng, cát vàng dễ mua ở mọi nơi.4.2. Điều kiện đối với các chương trình, dự án

Các chương trình, dự án cần có các điều kiện sau: • Tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho cộng đồng về các vấn đề có liên

quan. • Nâng cao năng lực cho cộng đồng bằng cách tổ chức tập huấn chuyển giao

công nghệ, kết hợp xây dựng các mô hình trình diễn để “mắt thấy - tai nghe” và tham quan học tập. Sau đó cộng đồng tự phát triển công nghệ theo cơ chế thị trường.

• Ở Thanh Hóa, dựa vào tổ chức Hội Làm vườn cấp xã, CCRD đã xây dựng 20 “Đơn vị cung cấp dịch vụ”. Sau khi thành thạo công việc xây dựng và kỹ năng tiếp thị, các đơn vị này triển khai đầu tiên ở xã mình, sau đó sang các xã khác, huyện khác để hành nghề.

5. LỢI ÍCH

5.1. Lợi ích môi trường và sức khỏe cộng đồng

• Hộ chăn nuôi và các gia đình xung quanh không còn bị ảnh hưởng mùi hôi thối do phân gia súc đã được cho xuống hầm và xử lý tại đây.

22

• Các loại ký sinh trùng gây hại như giun, sán, tả, kiết lỵ... có trong phân đã bị diệt toàn bộ trong hầm ủ và không còn khả năng gây hại cho người và động vật nuôi.

• Giảm sức lao động của phụ nữ trong công việc nội trợ.• Giảm lượng phát thải CO2 từ phân gia súc gây hiệu ứng nhà kính và biến đổi

khí hậu toàn cầu.

5.2. Lợi ích kinh tế

• Khí biogas dùng để đun nấu, thay cho củi, thay cho gas công nghiệp, thay cho điện, lại có thể dùng để thắp đèn. Như vậy là tiết kiệm được tiền điện, tiền củi, tiền mua gas. Mặc dù xây dựng hệ thống biogas phải bỏ ra đầu tư ban đầu 3 - 4 triệu đồng nhưng sử dụng được từ 20 đến 30 năm.

• Ở các vùng trung du và miền núi, sử dụng biogas để đun nấu sẽ giảm được thời gian và công sức đi kiếm củi đun.

6. ĐỊA ĐIỂM ĐÃ THỰC HIỆN • Hiện nay ở mọi địa phương đều đã có mô hình biogas do các chương trình/

dự án khác nhau triển khai.• Riêng mô hình biogas VACVINA do trung tâm CCRD và Hội Làm vườn và

Trang trại tỉnh Thanh Hóa triển khai đã thực hiện gần 1.000 hầm (tại các huyện Hà Trung, Hậu Lộc, Thạch Thành, Nga Sơn, Vĩnh Lộc... ).

• Trung tâm Y tế Công cộng và Phát triển Cộng đồng (CEPHAD) đã phát triển biogas tại Cao Bằng, Phú Thọ và Hà Giang.

• Mô hình biogas VACVINA bắt đầu được các nước: vương quốc Campuchia, cộng hoà Kenya và cộng hoà Tanzania áp dụng.

23

7. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC THỰC HIỆN

7.1. Kinh nghiệm

• Thành lập các tổ cung cấp dịch vụ biogas: CCRD phát triển các “Tổ cung cấp dịch vụ Biogas” dựa trên Hội Làm vườn xã đã được hình thành để ký hợp đồng cung cấp biogas cho các hộ gia đình tiềm năng (đang có chăn nuôi 5 - 7 heo hoặc trâu bò tương đương).

• Đào tạo kỹ thuật viên: Nên lựa chọn thợ xây đang hành nghề để đào tạo chuyển giao kỹ thuật xây dựng hầm biogas và đào tạo kỹ năng về tiếp thị liên quan. Các KTV sẽ trực tiếp xây dựng hầm biogas và hướng dẫn tỷ mỉ về vận hành sử dụng cho tất cả các thành viên gia đình đã xây dựng hầm biogas. Thực hiện bảo hành công trình trong thời gian vận hành quy định.

• Cung cấp các phụ kiện: các phụ kiện không có bán sẵn ở thị trường địa phương (như bếp biogas, túi trữ ga...).

• Phối hợp với chính quyền địa phương để tổ chức tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh ở xã và phân phát tờ rơi tuyên truyền.

7.2. Kết quả của mô hình

• CCRD đã tổ chức xây dựng gần 10.000 hầm ở các địa phương thuộc 61 tỉnh; Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa hơn 1.300 hầm và Trung tâm Y tế Cộng cộng và Phát triển Cộng đồng (CEPHAD) gần 50 hầm.

• Trong đó: Kích cỡ của các hầm biogas từ 7m3 cho các hộ có quy mô chăn nuôi nhỏ (5 - 10 heo) đến 500m3 cho các hộ chăn nuôi 1.000 heo.

8. ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ

Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng Nông thôn (CCRD)

Số 28 Phố Phạm Tuấn Tài, P. Nghĩa Tân, Q. Cầu Giấy, Hà NộiĐiện thoại: (04)37930380, Fax: (04) 37930306; Email: [email protected]; www.ccrd.com.vn

Trung tâm Y tế Cộng cộng và Phát triển Cộng đồng (CEPHAD)

648A Lạc Long Quân, P. Nhật Tân, Q. Tây Hồ, Hà NộiĐiện thoại: (04) 37168808 Fax: (04) 62581426Email: [email protected]

Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa

Số 47 Mai An Tiêm , P. Lam Sơn, Tp. Thanh HóaĐiện thoại: (037) 3850935; Fax: (037) 3850935Email: [email protected]

24

SUMMARYVACVINA BIOGAS MODEL FOR SMALL AND MEDIUM

HOUSEHOLD SCALECenter for Rural Communities Research and Development (CCRD)

Thanh Hoa Gardening and Farming Association (GFA)Center for Public Health and Community Development (CEPHAD)

INTRODUCTIONThe VACVINA BIOGAS system has been developed by CCRD. It is special in

taking and strengthening the advantages of other systems such as “Fixed dome”, “Polyethylene tube biodigester” and the “Septic tank”. However it also overcomes the basic disadvantages of the mentioned systems such as: forming a hard scum on the surface of the water inside the digester and reduced gas productivity after a few years of use. The program has received support from Toyota Foundation (2000 - 2004) and ETC of Netherlands (from 2006 under the EASE program).

The VACVINA Biogas model was recognised, in 2002, by the Scientific Council of The Ministry of Agriculture and Rural Development as an advanced technology and authorised for expansion nationwide.

• Currently, there are many biogas models in different localities thanks to the support of VACVINA organisations.

• Biogas tanks’ sizes vary from 7m3 for households with small-scale husbandry breeding (5 - 10 pigs) to 500m3 for households breeding 1,000 pigs.

RESULTS

1. Center for Rural Communities Research and Development (CCRD)

CCRD has collaborated with the provincial Gardening Associations to build nearly 10,000 tanks with the households paying 100% of the construction cost.2. Thanh Hoa Gardening and Farming Association (GFA)

Has achieved 1,320 tanks (within the program: 881 tanks, of which 439 were paid for by the households) funded by VUSTA.3. Center for Public Health and Community Development (CEPHAD)

By December 2009 the project had supported 25 households to build biogas tanks: 5 in Nuoc Hai town and 20 in Hung Dao commune, Cao Bang province. This is one activity of the project “Strengthening the capacity of health care, HIV/AIDS prevention and poverty reduction for the villagers in Nuoc Hai town, Hung Dao commune, Hoa An district, Cao Bang province”, funded by Bread for the World (BfdW). Furthermore, CEPHAD had supported 40 households to build biogas in Co Tiet commune, Phu Tho province and 80 households in Ha Giang province.

The VACVINA BIOGAS model has also been applied in Cambodia, Kenya and Tanzania.

25

SẢN XUẤT VÀ SỬ DỤNG

PHÂN BÓN HỮU CƠ VI SINH QUY MÔ HỘ GIA ĐÌNH

Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng Nông thôn (CCRD)Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED)

Trung tâm Phát triển Cộng đồng Bền vững (S-CODE)

1. LỜI GIỚI THIỆUPhân hữu cơ vi sinh (HCVS) là loại phân bón mà các hộ nông dân có thể tự làm

từ phế thải nông nghiệp như: phân trâu, bò, lợn, gà, rơm rạ, cỏ dại, thân cây ngô, đậu, lạc, mía... và được ủ với men vi sinh.

Hiện nay trên thị trường đã có bán một số loại men ủ phân khác nhau. Mặt khác, trên thị trường cũng có bán phân vi sinh được sản xuất ở quy mô công nghiệp, loại này rất khác với phân hữu cơ vi sinh mà người dân có thể tự làm.

Phân hữu cơ vi sinh tự sản xuất ở hộ gia đình chứa nhiều chủng vi sinh vật hữu ích với mật độ cao (VSV phân giải lân, cố định đạm, khử mùi, kháng sinh... >107 CFU/gr), giúp nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm cây trồng trên thị trường.

26

2. KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC

2.1. Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng nông thôn (CCRD)

• CCRD sản xuất men vi sinh có tên là BiOVAC. Men này chứa tập đoàn các chủng vi sinh vật hữu ích, giúp phân hủy các loại nguyên liệu thu gom được trong thời gian 45 - 50 ngày thành phân HCVS có giá trị dinh dưỡng cao cho cây trồng. CCRD nhận được kinh phí cho mô hình này từ “Ngày Sáng tạo Việt Nam” do Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức và ĐSQ Đan Mạch tài trợ.

• Đề tài đã được Hội đồng Khoa học của Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam (VUSTA) đánh giá, nghiệm thu và công nhận tiến bộ kỹ thuật từ năm 2005.

• Năm 2008, Bộ Tài nguyên & Môi trường và Bộ NN & PTNT đã đánh giá và trao tặng CCRD cúp vàng cùng với danh hiệu “Đơn vị điển hình tiên tiến xuất sắc” trong công tác phát triển các mô hình sản xuất bền vững và bảo vệ môi trường.

• Hiện nay ở các địa phương (Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Hà Nội, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Thái Bình, Nam Định, Bình Dương, Đắc Lắc...) đều đã triển khai áp dụng quy trình sản xuất và sử dụng phân hữu cơ vi sinh hộ gia đình, thu được kết quả rất khả quan.

2.2. Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED)

• Từ năm 2007, PED đã đưa tiến bộ kỹ thuật này vào dự án “Hỗ trợ đồng bào tái định cư thủy điện Bản Vẽ ổn định cuộc sống” (dự án do OHK tài trợ). Đến nay hơn 90% hộ gia đình trong tổng số gần 2.000 hộ tái định cư thường xuyên sử dụng tiến bộ kỹ thuật này. Kết quả, đến nay người dân vùng tái định cư đã phục hồi toàn bộ đất vườn (đất mới khai hoang) để có thể trồng trọt.

• Từ năm 2009, PED đã phối hợp với Hội Phụ nữ Thái Nguyên mở rộng sử dụng phân hữu cơ vi sinh tại các vùng chè trọng điểm của tỉnh.

• PED đã lập 13 đại lý bán men ủ phân tại 13 bản tái định cư, đã bán được hơn 1.500 gói men.

• PED đã chuyển giao kỹ thuật và cung ứng men cho Hội Nông dân huyện Anh Sơn (Nghệ An), bước đầu có hơn 200 hộ sử dụng.

2.3. Trung tâm Phát triển Cộng đồng Bền vững (S-CODE)

• Sau gần 2 năm thực hiện dự án tại 3 xã Thanh Hà, Thanh Tuyền, Liêm Tuyền tại Hà Nam, do tổ chức DANIDA tài trợ (2008 - 2012), hơn 500 tấn phân hữu cơ vi sinh được sản xuất và đưa vào đồng ruộng cho kết quả tốt.

• Đối với trồng lúa năng suất tăng từ 20 đến 30%.• Giải quyết được ô nhiễm rác thải nông thôn, góp phần xử lý rác hữu cơ, tận

dụng phế phụ phẩm nông nghiệp.• Tại các địa phương dự án chia sẽ phổ biến kinh nghiệm như ở Tiền Hải (Thái

27

Bình) và Thanh Sơn (Phú Thọ) đều có phản hồi chất lượng phân tốt và có nhiều ưu điểm so với các quy trình làm phân khác.

3. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN

3.1. Điều kiện đối với hộ gia đình

• Để sản xuất 1 tấn phân HCVS , hộ gia đình cần có 1 lán che mưa nắng và nền cao để ủ các nguyên liệu với khối lượng sau:

STT Nguyên liệu Khối lượng

1Phế thải nông nghiệp, rác thải sinh hoạt (trấu, rơm rạ, cỏ dại, bèo tây, thân cây ngô, đậu, cỏ voi, lá mía, bã mía...)

2 - 2,5 m3

2 Bã thải từ hầm biogas (nếu có) 500 - 600 lít

3 Phân gia súc, gia cầm 300 - 400 kg trở lên

4 Men ủ (theo từng loại men) 500 gr5 Chất xúc tác sinh học BiCAT (khi dùng BiOVAC) 0,5 lít

3.2. Điều kiện đối với các tổ chức/dự án

Kinh nghiệm cho thấy, để phát triển bền vững công nghệ này cần phải: • Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức tại địa phương (hội Phụ nữ, Hội Nông dân,

trạm Khuyến nông...) để đưa tiến bộ kỹ thuật đến tận người dân.

• Tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho cộng đồng về các vấn đề liên quan. • Nâng cao năng lực cho cộng đồng bằng cách tổ chức tập huấn chuyển giao

công nghệ, kết hợp xây dựng các mô hình trình diễn để “mắt thấy - tai nghe” và tham quan học tập. Sau đó cộng đồng tự phát triển công nghệ theo cơ chế thị trường.

28

• Cần mở các đại lý cung ứng men về tận xã, thậm chí tận thôn xóm.• Các đại lý tiến hành các hoạt động quảng cáo và tiếp thị.

4. LỢI ÍCHPhân HCVS sử dụng kết hợp với các loại phân hoá học (đạm, lân, kali hay NPK)

theo một tỷ lệ hợp lý sẽ có nhiều tác dụng tích cực. Những tác dụng cơ bản khi sử dụng phân bón HCVS là:

• Giảm được 35 - 40% lượng phân hoá học mà vẫn đảm bảo được năng suất cho cây trồng, qua đó giảm được chi phí mua phân hoá học hàng năm.

• Làm cho cây trồng khoẻ mạnh và cứng cáp hơn trong quá trình sinh trưởng, giảm các loại nấm bệnh và sâu bệnh, qua đó giảm được các loại thuốc trừ sâu và nâng cao chất lượng cây trồng.

• Sản xuất các mặt hàng nông sản an toàn, qua đó nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.

• Làm cho đất canh tác tăng thêm độ mùn, độ mầu mỡ trong mỗi vụ trồng trọt và vì vậy đất trồng trọt sẽ ngày càng tốt hơn, không bị chai cứng như khi ta chỉ sử dụng phân hoá học.

• Sử dụng kết hợp giữa phân bón HCVS và phân hóa học là giải pháp tích cực phát triển NNBV.

5. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC THỰC HIỆN

• Phối hợp với chính quyền, các tổ chức quần chúng, cơ quan khuyến nông địa phương để tuyên truyền phổ biến công nghệ và lợi ích mang lại từ công nghệ này.

• Hỗ trợ các “Nhóm sở thích” xây dựng các mô hình đối chứng, tổ chức “Hội nghị đầu bờ” để nhân rộng mô hình.

• Tổ chức mạng lưới cung cấp men vi sinh đến tận xã, thôn.• Kết hợp mở rộng thị trường các loại rau sạch/rau an toàn (bước đầu từ các

siêu thị) để xây dựng thương hiệu “Rau sạch” và nâng cao thu nhập.

6. ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ

Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng Nông thôn (CCRD)

Số 28 phố Phạm Tuấn Tài, P. Nghĩa Tân, Q. Cầu Giấy, Hà Nội. Điện thoại: (04)3 793 0380 Fax: (04) 3 793 0306; Email: [email protected]; www.ccrd.com.vn

Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED)

Số 58, ngõ 162, Nguyễn Văn Cừ, P. Bồ Đề, Q. Long Biên, Hà NộiĐiện thoại: (04) 38724509 Fax: (04) 38724508Email: [email protected]; [email protected];

29

Văn phòng dự án Môi Trường và Cộng đồng

Cầu Gừng, Mậu Chử, Thanh Hà, Thanh Liêm, Hà NamĐiện thoại: (0351) 3774376 Fax: (0351) 3774377Website: http://www.greenhanam.com

SUMMARYPRODUCTION AND USE OF BIO-FERTILIZER

AT A HOUSEHOLD-SCALE Center for Rural Communities Research and Development (CCRD)

Population, Environment and Development Centre (PED)Center for Sustainable Community Development (S-CODE)

INTRODUCTIONBio-fertilizer produced at a household-scale is the fertilizer that farmers can

produce by recycling agricultural waste such as: cattle dung, pig or chicken manure, straw, weeds, corn stalks, beans, peanuts, sugar cane, composted using micro-organisms in a bio-additive (called BIOVAC) which acts as a bio-accelerator.

Using bio-fertilizer produced at a houshold scale in combination with chemical fertilizers (at a suitable rate) has the following advantages:

- Increasing the efficency of uptake N,P and K as nutrients.- Decreasing environmental pollution.- Humus content by increasing organic content and the activity of useful

micro-organisms. - Increasing plant tolerance to external factors and improving plant resistance

to pests and diseases, improving crop quality and yield.- Reducing production cost.

RESULTS

1. Center for Rural Communities Research and Development (CCRD)

• Production of microorganic accelerator named BiOVAC by CCRD. This accelerator contains a group of effective microorganisms helping to decompose raw material into bio-fertilizer with high nutritional value for crop plants after only 45 - 50 days.

2. Population, Environment and Development Center (PED)

• PED has been using this technical advance since 2007 in the project “Supporting the people resettled by the Ban Ve Hydroelectric project to stabilize

30

their living” (funded by Oxfam HK). Up to now more than 90% of the nearly 2,000 resettled households have used this technical innovation. The main result is that all farming lands of resettled zone have been restored for cultivation.

3. Center for Sustainable Community Development (S-CODE)

• After almost 2 years of project implementation in the 3 communes Thanh Ha, Thanh Tuyen, Liem Tuyen of Ha Nam, more than 500 tons of Micro organic compost have been produced and put on the fields giving good results.

31

BẾP ĐUN CẢI TIẾN ĐK PHƯƠNG THỨC THƯƠNG MẠI HÓA

Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED)

1. LỜI GIỚI THIỆU

Từ năm 2007 đến nay, mô hình “Phát triển bếp đun cải tiến ĐK theo phương thức thương mại hóa” đã được triển khai nhân rộng, trong đó địa bàn chính là Thanh Hóa và Thái Nguyên.

• Bếp đun cải tiến ĐK là những loại bếp đun do Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED) thiết kế, cải tiến dựa trên bếp đun đang có và tập quán đun nấu, nguồn chất đốt ở nông thôn và miền núi.

• Bếp đun cải tiến ĐK hiện gồm có 4 dòng sản phẩm chính: 1) Bếp ĐK xây cố định; 2) Bếp ĐK xách tay; 3) Lò ĐK sao chè cải tiến; 4) Lò ĐK sấy nông sản và thuốc lá cải tiến.

• Bếp đun cải tiến ĐK, giải pháp đơn giản nhưng hữu ích cho BĐKH: Giảm 40 - 50% lượng khí phát thải, tiết kiệm từ 40 - 50% lượng chất đốt, có thể áp dụng cho khoảng 10 triệu hộ dân từ thành thị đến nông thôn và miền núi.

• Bếp đun cải tiến ĐK, giải pháp đơn giản và hữu ích cho NNBV và nông lâm kết hợp. Bởi bếp ĐK tiết kiệm chất đốt; chuyển trấu, rơm rạ thành phân bón hữu cơ; giảm chặt phá rừng và chống xói mòn, sa mạc hóa đất trồng trọt.

2. ĐIỂM ĐẶC BIỆT CỦA MÔ HÌNH

Phát triển theo cơ chế thị trường và thương mại hóa. Đặc điểm này quyết định đến toàn bộ phương thức thực hiện mô hình. Cụ thể:

• Không tài trợ cho người sử dụng mà thay vào đó là các hoạt động tiếp thị, quảng cáo, khuyến mại.

• Đối tác chính là Hội Phụ nữ, nhưng Hội Phụ nữ chỉ đóng vai trò “ Khách hàng lớn”. Điều này có nghĩa rằng kỹ thuật viên bếp ĐK xem Hội Phụ nữ là đại lý, là đại diện cho nhóm khách hàng và chia sẻ lợi ích với Hội Phụ nữ.

• Tất cả các kỹ thuật viên đều hoạt động theo cơ chế thị trường, tự tìm kiếm thị trường, tự tìm kiếm khách hàng và tự tổ chức sản xuất.

• Các kỹ thuật viên đều được trợ giúp để khởi nghiệp, tạo dựng thương hiệu cho riêng mình và quản lý khách hàng.

• Đa dạng hóa sản phẩm để khách hàng có quyền lựa chọn sản phẩm mà họ ưng ý, tiện dụng và phù hợp với khả năng, tập quán của chính gia đình họ.

• Mỗi dòng sản phẩm đều có nhiều sản phẩm, mỗi sản phẩm đều có tên - mã số sản phẩm để thuận tiện cho người tiêu dùng lựa chọn (ví dụ: ĐK 3 - 2K; ĐK - XC1; ĐK 2 - 1NG...).

32

• Thực hiện phương châm 5 tại chỗ: 1) Kỹ thuật viên tại chỗ; 2) Vật liệu tại chỗ; 3) Chất đốt tại chỗ; 4) Tập quán đun nấu tại chỗ; và 5) Sản phẩm/dịch vụ/bảo hành áp sát tại chỗ.

3. LỢI ÍCH CỦA BẾP ĐUN CẢI TIẾN ĐK

Bếp ĐK - Đỡ Khói

• Tất cả bếp ĐK làm chất đốt dễ cháy và cháy kiệt, nên ít khói, ít bụi, từ đó giảm nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu; không có mồ hóng - giảm bệnh về mắt và phổi cho người sử dụng bếp.

Bếp ĐK - Đỡ Khổ

• Bếp đun cải tiến ĐK sử dụng được nhiều loại chất đốt khác nhau: Thân ngô, củi, rơm rạ, rác...

• Bếp đun cải tiến ĐK tiết kiệm được 40% - 50% lượng chất đốt - Hạn chế chặt phá rừng - góp phần hạn chế nguyên nhân và tác hại của BĐKH.

Bếp ĐK - Đoàn Kết trong gia đình và cộng đồng

• Bếp đun cải tiến ĐK tiết kiệm được 50% thời gian đun nấu.• Bếp đun cải tiến ĐK dễ sử dụng - bất kỳ ai cũng có thể sử dụng.• Bếp đun cải tiến ĐK an toàn hơn trong việc phòng chống hỏa hoạn.

Bếp ĐK - Điều Kiện để làm rất đơn giản

• PED có đội ngũ thợ chuyên nghiệp tại vùng dự án, có thương hiệu và địa chỉ liên hệ rõ ràng.

• Vật liệu làm bếp ĐK có sẵn ở các địa phương như: gạch, cát, xi măng, sỏi đá, đá mạt...

• Bếp ĐK có nhiều dòng sản phẩm - đáp ứng mọi nhu cầu sử dụng ở thị trấn, thị xã, nông thôn và miền núi.

33

Tập huấn xây bếp sao chè Bếp sao chè ĐK - XC1Bếp sao chè ĐK - XC1Tôn sao chè

Đáp ứng nhu cầu số lượng ĐK 2 - 1NG đun ngoài trờiVận chuyển bếp đi các nơiKhảo nghiệm ĐK 2 - 1K

4. NHỮNG THÀNH CÔNG

• Đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tạo cho họ nhiều cơ hội lựa chọn:

- PED đã đưa ra 4 dòng sản phẩm, trong đó mỗi dòng sản phẩm lại có nhiều sản phẩm để người dân có quyền được lựa chọn.

- Dòng bếp xây cố định: Có 7 sản phẩm, trong đó có 5 sản phẩm được thị trường ưa chộng và chấp nhận là: ĐK 3 - 2K; ĐK 2 - 1K; ĐK 1 - 1; ĐK 2 - 1 NS1; ĐK 2 - 1 NS2...

- Dòng bếp xách tay: 2 cơ sở sản xuất bếp xách tay đầu tiên đã được thành lập tại Thái Nguyên và Thanh Hóa. Bếp xách tay có thể sử dụng chất đốt là củi, than tổ ong và than cám. Dòng bếp xách tay có 5 sản phẩm, trong đó có 4 sản phẩm được thị trường ưa chuộng và chấp nhận: ĐK 2 - 1NG; ĐK 2 - 1 XT; ĐK 3 - 1 NG. ĐK 2 - 1 GR.

- Lò sao chè cải tiến: Hiện tại có 2 sản phẩm và rất được ưa chuộng là ĐK - XC1 và ĐK - XC2.

- Lò sấy nông sản và thuốc lá cải tiến: Hiện đang chuẩn bị triển khai.

• Đội ngũ kỹ thuật viên được đào tạo gồm hơn 50 người đã hoạt động theo cơ chế thị trường thành công.

• Hai cơ sở sản xuất bếp xách tay được tạo lập với công suất khoảng 200 bếp/tháng, đã bán ra thị trường hơn 1.000 bếp.

• Cách tiếp cận 5 tại chỗ thể hiện đầy đủ tính ưu việt và tạo tiền đề vững chắc cho việc thương mại hóa bếp ĐK.

• Mạng lưới phân phối, tiếp thị được hình thành và đang góp phần mở rộng thị trường.

• Mô hình bếp đun cải tiến ĐK đã trở thành thương hiệu, được nhiều dự án, tổ chức lựa chọn và đưa vào ứng dụng.

• Hình thành được các gói dịch vụ: Dịch vụ trọn gói; Dịch vụ tư vấn kỹ thuật; Dịch vụ vật tư thiết yếu; và Dịch vụ bảo hành.

• Kỹ thuật viên bếp đun cải tiến ĐK tại 10 xã của huyện Hậu Lộc và huyện Hà Trung (tỉnh Thanh Hóa) đã hoạt động theo cơ chế thị trường thành công (Dự án “Phát triển bếp đun cải tiến ĐK theo cơ chế thị trường tại Thanh Hóa” của PED do EASE/ETC tài trợ).

• Kỹ thuật viên bếp đun cải tiến và lò sao chè cải tiến ĐK của 13 xã thuộc huyện Phú Lương, Đồng Hỉ, Võ Nhai, thị xã Sông Công, thành phố Thái Nguyên (tỉnh Thái Nguyên) đã hoạt động theo cơ chế thị trường thành công (Dự án “Phát triển bếp đun cải tiến ĐK theo cơ chế thị trường tại Thái Nguyên” của PED do EASE/ETC tài trợ).

34

5. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN MÔ HÌNHPhát triển bếp đun cải tiến ĐK theo cơ chế thị trường, trong đó kỹ thuật viên

tự thu thông qua các hoạt động tập huấn, tư vấn về kỹ thuật và tổ chức dịch vụ là mô hình mới và rất khó. Do vậy cần có các điều kiện sau:

Về phía dự án/tổ chức

• Có định hướng và bước đi rõ ràng, phù hợp ngay từ đầu dự án. Đây là điều kiện quan trọng vì có như vậy thì việc chọn đối tượng đào tạo/nội dung đào tạo, hỗ trợ khởi nghiệp mới có thể thực hiện được.

• Có kinh nghiệm đào tạo và hỗ trợ khởi nghiệp: Đây là đầu vào quan trọng nhất đảm bảo cho mô hình thành công. Điểm khác biệt cốt yếu là: Không chỉ đào tạo kỹ thuật đơn thuần như các dự án thường làm trước đây. Điều quan trọng là họ cần phải được đào tạo về kiến thức và kỹ năng tiếp thị, kinh doanh, dịch vụ; kiến thức và kỹ năng khởi nghiệp và mở rộng quan hệ đối tác, tạo mạng lưới.

• Có kinh nghiệm tổ chức và liên kết kỹ thuật viên với kỹ thuật viên (tạo lập nhóm) và với khách hàng. Điều mấu chốt ở đây là kỹ thuật viên luôn coi đối tượng phục vụ của mình là “Cộng đồng - là khách hàng”. Một khi kỹ thuật viên coi người dân là khách hàng thì toàn bộ mối quan hệ của họ thay đổi hoàn toàn.

• Có kinh nghiệm trong việc xây dựng mối quan hệ dọc và ngang: Kinh nghiệm này sẽ cho phép dự án/tổ chức tạo dựng tính bền vững về tổ chức để hoạt động theo cơ chế thị trường nhưng không phải là hoạt động tự do vô tổ chức.

6. LỢI ÍCH TỪ VIỆC XÂY DỰNG MÔ HÌNH

6.1. Lợi ích kinh tế

• Kỹ thuật viên có thu nhập từ các hoạt động phát triển bếp ĐK, do vậy họ hăng hái và cộng đồng được hưởng lợi.

• Cộng đồng áp dụng nhanh và thành công bếp đun cải tiến ĐK nhờ giảm chất đốt, giảm khí phát thải và thực hành NNBV.

35

Khách hàng tiềm năng Đào tạo thợ Thành lập cơ sở sản xuất

6.2. Lợi ích xã hội

• Kỹ thuật viên bếp đun cải tiến ĐK hoạt động theo cơ chế thị trường đã góp phần giải quyết vấn đề cơ bản nhất, khó khăn nhất, vướng mắc nhất trong phát triển bếp đun cải tiến từ trước đến nay là “thiếu kinh phí hoạt động”, là ”không có phụ cấp”. Mô hình này đã tạo ra tính bền vững về kinh phí.

• Mạng lưới dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ vật tư về đến tận thôn bản, áp sát khách hàng.

• Cơ chế cạnh tranh, chọn lọc tự nhiên sẽ làm cho các dịch vụ ngày càng tốt hơn, rẻ hơn và hiệu quả hơn.

7. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC THỰC HIỆN

7.1. Kinh nghiệm

• Định hướng rất rõ ràng, rất cụ thể về cơ chế này, đồng thời thảo luận với người dân và kỹ thuật viên ngay từ đầu.

• Nên chọn Hội Phụ nữ làm đối tác, nhưng cần xác định rõ vai trò nhiệm vụ và quyền lợi của họ trong dự án cũng như trong cơ chế thị trường phát triển bếp đun ĐK.

• Tìm các bước đi, mô hình phù hợp để thăm quan học tập trước khi tiến hành chọn người đào tạo và trước khi tiến hành đào tạo.

• Chọn người đào tạo và chủ đề đào tạo dựa trên đánh giá tiềm năng thị

36

Phụ nữ với củi - với rừng! Một tay đôi ba việc Phụ nữ với vấn đề củi và...

Bận rộn Phái yếu - làm việc mạnh Phụ nữ, nón và khẩu trang trong bếp đun truyền thống

trường, phạm vi thị trường và nhóm/đối tượng khách hàng mục tiêu.• Tìm được nội dung và giáo viên đào tạo phù hợp và có chất lượng. Kinh

nghiệm của PED chỉ ra rằng đây là việc rất khó, bởi đây là lĩnh vực mới, đối tượng mới và họ chỉ học theo cách học mới - Cách học mà họ học xong có thể làm chứ không phải “Lý thuyết suông”.

• Chấp nhận cạnh tranh, chấp nhận chọn lọc bởi thị trường và chấp nhận rủi ro thị trường. Đây là bài học kinh nghiệm rất đắt giá.

7.2. Kết quả của mô hình

• Hơn 1.000 bếp xách tay đã được bán.• 27 trường học, trường mẫu giáo, trạm y tế đã được PED tài trợ để sử dụng

bếp ĐK. Đây vừa là hoạt động từ thiện xã hội của PED, vừa là mô hình để quảng cáo/tiếp thị.

• Gần 1.000 lò sao chè cải tiến ĐK đã được làm. Mỗi lò tiết kiệm từ 2 - 3 triệu đồng tiền chất đốt.

• Hơn 2.000 bếp cố định đã được xây và đưa vào sử dụng.• Hơn 50 kỹ thuật viên bếp đun cải tiến, lò sao chè cải tiến ĐK tại Thanh Hóa

và Thái Nguyên hoạt động theo cơ chế thị trường thành công; triển khai nhân rộng ở Hà Nam trong dự án” Phát triển bền vững dựa vào cộng đồng vùng ven đô”; tại Sóc Trăng trong dự án “Bảo tồn tài nguyên ven biển tỉnh Sóc Trăng”; Dự án của tổ chức CSEED... . Mô hình này được 7 nước từ Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ La tinh đến học tập.

8. ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ

LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM (VUSTA)

Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED)

Số 58, ngõ 162, Nguyễn Văn Cừ, Q. Long Biên, Hà Nội Điện thoại: (04) 3872 4509 Fax: (04) 3872 4508 Email: [email protected]; [email protected]; [email protected]; Liên hệ: ThS. Đỗ Đức Khôi - Giám đốc PED(DĐ: 0913 540 129; Email: [email protected]);

37

SUMMARYTHE COMMERCIAL ĐK ADVANCED COOKER-STOVE

Population, Environment and Development Centre (PED)

INTRODUCTION

Since 2007, the model of developing the ĐK advanced cooker-stove under commercialization method has been widely implemented, in the major areas of Thanh Hoa and Thai Nguyen provinces.

The ĐK advanced cooker-stove range has been designed and improved by the Population, Environment and Development centre (PED) based on traditional cooker-stoves, cooking customs and fuel sources in Rural and Mountainous areas.

Currently, ĐK advanced cooker-stoves are available in 4 main product lines: 1) Fixed ĐK cook-stove; 2) Portable ĐK cook-stove; 3) Advanced ĐK furnace for drying tea leaves; 4) Advanced ĐK furnace for drying Agricultural products and Tobacco.

RESULTS• More than 1,000 portable cooker-stoves have been sold.• 27 schools, kindergartens and medical clinics have been sponsored by PED

to use ĐK cooker-stove. This is a charitable social activity of PED and a model for advertisement/promotion.

• Nearly 1,000 advanced ĐK furnaces for drying tea leaves have been built. Each furnace saves 2 - 3 million dong of fuel cost.

• Over 2,000 fixed cooker-stoves have been built and put in use.• More than 50 technicians of advanced cooker-stove and advanced ĐK

furnace for drying tea leaves in Thanh Hoa province have successfully applied the market mechanism to business. The model has been followed by 7 countries from Asia, Africa and Latin America; and has been widely deployed in Ha Nam province: Project “Sustainable development based on the suburban community”; in Soc Trang - Project “Preserving resources in coastal zone of Soc Trang province”; by CSEED.

38

39

KHAI THÁC THỦY HẢI SẢNBẰNG LƯỚI RÊ HỖN HỢP

Hội nghề cá Việt Nam

1. LỜI GIỚI THIỆU

Lưới rê là ngư cụ bị động, dạng tường lưới chắn ngang đường đi của cá và đối tượng thủy sản khác. Lưới rê hoạt động theo nguyên lý đóng, lưới tạo như một bức tường, vì vậy cá, tôm, ghẹ, mực... đi đến mắc phải hoặc quấn vào lưới.

Lưới rê là một nghề truyền thống đã được sử dụng lâu đời và phổ biến ở Việt Nam. Hiện nay nghề lưới rê vẫn giữ một vai trò quan trọng trong các loại nghề khai thác thủy sản của người dân.

Ngư trường của nghề này hoạt động trên khắp cả nước, trong vùng nước mặn cũng như trong vùng nước ngọt. Có thể đánh bắt ở nhiều tầng nước khác nhau, đối tượng khai thác chính của nghề lưới rê là các loài cá, tôm, tôm hùm, ghẹ, mực nang...

Cấu tạo lưới đơn giản, chế tạo thuận lợi dễ dàng, vốn ít, quy mô nhỏ có thể sản xuất được, đơn vị tấm lưới thường là hình chữ nhật, nhiều tấm lưới ghép với nhau thành vàng lưới. Lưới rê khai thác được ở nhiều tầng nước khác nhau, đánh bắt được ở những nơi có cồn, rạn, đá ngầm mà các loại lưới khác không hoạt động được. Lưới rê khai thác được những loài hải sản có giá trị kinh tế cao đồng thời lưới này hoạt động có tính chọn lọc, lưới rê đòi hỏi công nghệ và phương tiện khai thác không cao, cách đan và điều khiển thao tác đơn giản, lực lượng lao động ít.

Năm 2009, Hội nghề cá Việt Nam phối hợp với Sở NN& PTNT, Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Hội nghề cá tỉnh Nghệ An đưa nghề lưới rê hỗn hợp vào mô hình thử nghiệm ở hộ ông Hoàng Văn Tánh ở xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An trên tàu xa bờ công suất 105 CV.

2. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN

2.1. Đối với chủ tàu cá

Các chủ tàu khai thác thủy hải sản đều có thể sử dụng mô hình này khi có các điều kiện sau:

• Phải có tàu công suất 105 CV, trang thiết bị đi khai thác như tời thủy lực, máy phụ loại DDP15 CV.

• Tiền vốn đầu tư mô hình 983 triệu đồng bao gồm tàu và các thiết bị vật tư ngư lưới cụ, dầu diezen, nhân công...

40

• Chi phí cho mỗi chuyến biển từ 5 ngày chủ mô hình phải bỏ chi phí khoảng 7 - 10 triệu đồng.

• Liên hệ với Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư; Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản của tỉnh để có thêm thông tin về pháp lý, kỹ thuật...

2.2. Đối với các chương trình/dự án

Các chương trình dự án đang làm việc với ngư dân khai thác thủy hải sản; Bảo vệ nguồn lợi thủy sản; Chuyển đổi nghề hay tạo việc làm cho ngư dân... đều có thể áp dụng mô hình này với các điều kiện sau:

• Trao đổi với Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư; Chi cục khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản của tỉnh để có thêm thông tin về pháp lý, kỹ thuật...

• Trao đổi với Hội nghề cá theo địa chỉ dưới đây để có thêm thông tin, kinh nghiệm và cách làm phù hợp.

3. LỢI ÍCH

3.1. Lợi ích kinh tế

• Đánh bắt hải sản xa bờ bằng lưới rê hỗn hợp khai thác cá thu, cá ngừ có tính chọn lọc cao, phù hợp với điều kiện ngư trường vịnh Bắc Bộ, trình độ của ngư dân và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trung bình 1 chuyến biển doanh thu từ 27 - 28 triệu đồng, lợi nhuận từ 17 - 18 triệu đồng.

• Chi phí cho 1 chuyến đi biển thấp (trung bình từ 7 - 10 triệu đồng), thời gian hoạt động của máy chính ít, vì vậy máy hoạt động được bền, lâu dài.

3.2. Lợi ích xã hội

• Nghề lưới rê hỗn hợp khai thác cá thu, cá ngừ có tính chọn lọc, tỷ lệ sản phẩm có giá trị xuất khẩu tiểu ngạch cao, không ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy sản, góp phần từng bước chuyển dịch nghề cá ven bờ ra khai thác xa bờ; Phân bố lại các nghề khai thác trên một vùng biển và góp phần bảo vệ quốc phòng biển đảo Tổ quốc.

• Một tàu khi đi khai thác sử dụng lưới rê hỗn hợp tạo công ăn việc làm cho từ 5 - 8 lao động.

4. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC THỰC HIỆN

4.1. Kinh nghiệm

• Để thực hiện tốt mô hình trên phải tạo được sự đồng thuận, giúp đỡ của Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư; Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản ở tỉnh để chọn được những chủ tàu nhiệt tình tham gia và có nhu cầu chuyển đổi nghề làm đơn xin thực hiện mô hình.

• Chọn hộ có đủ các điều kiện thuận lợi nhất để làm mô hình đã ký hợp đồng làm mô hình điểm.

• Hội nghề cá Việt Nam cũng đã ký hợp đồng với cán bộ kỹ thuật để theo dõi

41

giám sát từ khâu chọn lựa ngư lưới cụ cho phù hợp, đúng chủng loại theo yêu cầu kỹ thuật của nghề lưới rê hỗn hợp và tiến hành lắp đặt xuống tàu để thực hiện các chuyến khai thác biển.

• Cùng đi các chuyến biến với chủ tàu, cán bộ kỹ thuật hướng dẫn chủ tàu các kỹ thuật đánh và thu lưới rê đạt hiệu quả, đánh được nhiều cá thu, cá ngừ từ đó thu được lợi nhuận cao.

4.2. Kết quả mô hình

• Nghề lưới rê hỗn hợp đã được triển khai ở các tỉnh Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An... Riêng mô hình lưới rê hỗn hợp Hội nghề cá Việt Nam hỗ trợ, phối hợp với Hội nghề cá, Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Thanh Hóa xây dựng ở thị xã Sầm Sơn, huyện Hoằng Hóa (tỉnh Thanh Hóa) các năm 2007, 2008 đã mang lại hiệu quả kinh tế và từ mô hình đó đã nhân rộng ra các huyện như Tĩnh Gia, Hậu Lộc...

• Kết quả 05 chuyến đi biển (mỗi chuyến khoảng 7 ngày) thu được 1.973 kg cá, trong đó cá thu 1.528 kg và 445 kg cá khác. Tổng doanh thu 132.400.000 VND, trừ chi phí 46.700.000 VND, lợi nhuận 85.700.000 VND.

TT Thời gian khai thác

Tổng số

ngày

Sản lượng (kg)Tổng

doanh thu

(1000 đ)

Chi phí (1.000 đ)Thu

nhập bình

quân LĐ (1.000đ)

Lợi nhuận ròng

(1.000đ)Tổng Cá thu Cá khác Tổng Trực

tiếpLao

động

1 15/6 - 22/6/09 8 397 303 94 26.485 9.100 4.900 4.200 525 17.385

2 25/6 - 3/7/09 9 420 325 95 28.175 10.600 5.100 5.500 687,5 17.575

3 6/7 - 12/7/09 7 361 285 76 24.415 9.300 4.850 4.450 556,25 15.115

4 16/7 - 20/7/09 5 380 305 75 25.875 7.200 3.950 3.250 406,25 18.675

5 23/7 - 31/7/09 9 415 310 105 27.450 10.500 4.800 5.700 712,50 16.950

Cộng - 38 1.973 1.528 445 132.400 46.700 23.600 23.100 2.887,5 85.700

• Từ mô hình này đã nhân rộng ra nhiều hộ xung quanh xã Quỳnh Phương và các xã khác như Quỳnh Lập, Tiến Thủy, Diễn Châu, Diễn Ngọc... Cụ thể đã có 8 chủ tàu khác học tập và chuyển đổi theo nghề lưới rê hỗn hợp này vì đã thấy rõ được hiệu quả kinh tế.

Mô hình đã phổ biến tập huấn cho 30 chủ hộ tham gia nghề lưới rê.

42

5. ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ

Hội nghề cá Việt Nam

Số 10 Nguyễn Công Hoan, Q. Ba Đình , Hà NộiĐiện thoại và Fax : (04) 37717739Email: [email protected]

SUMMARYEXPLOITING SEAFOOD BY COMBINED DRIFT NETS

Vietnam Fisheries Association

INTRODUCTION

In 2009, the Vietnam Fishery Association cooperated with the Department of Agriculture and Rural Development, the Department of Exploitation and Protection of Fisheries Resources, Nghe An Fisheries Association, to introduce a pilot model of combined driftnetting in Mr. Hoang Van Tanh’s household, in Quynh Phuong commune, Quynh Luu district, Nghe An province, with an offshore vessel of 105 HP.

RESULTS• Combined driftnetting has been implemented in provinces Nam Dinh, Thanh

Hoa, and Nghe An. In 2007 and 2008, The Vietnam Fisheries Association supported and cooperated with Thanh Hoa Fisheries Association and Thanh Hoa Fisheries Extension Centre to build this model in Sam Son city, Hoang Hoa district, Thanh Hoa province, with economic effects which have spread to other districts such as Tinh Gia, and Hau Loc.

• The results collected from 5 seatrips (7 day trips) have been 1,973 kgs of fish (mackerel 1,528 kgs and other fish 445 kgs). Total revenue 132,400,000 VND less the costs 46,700,000 VND gave a profit of 85,700,000 VND.

• This model has been expanded to neighbouring households in Quynh Phương commune and others as Quynh Lap, Tien Thuy, Dien Chau, and Dien Ngoc. An extra 8 shipowners came to learn experience and changed to combined driftnetting due to its economic efficiency.

NUÔI GIUN QUẾ LÀM THỨC ĂN CHO GIA SÚC, GIA CẦM

Trung tâm Tư vấn Chất lượng sản phẩm thuộc Viện Tư vấn Phát triển Kinh tế Xã hội

Nông thôn và Miền núi (CISDOMA)

1. LỜI GIỚI THIỆUMô hình “Nuôi giun Quế làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, tạo việc làm và thu

nhập cho người dân” hiện đang được Trung tâm Tư vấn Chất lượng sản phẩm thuộc Viện Tư vấn Phát triển Kinh tế Xã hội Nông thôn và Miền núi (CISDOMA) triển khai tại Võng La, Đông Anh, Hà Nội, do tổ chức ActionAid tại Việt Nam (AAV) tài trợ.

Điểm chính của mô hình:• Dùng giống giun Quế để nuôi ở quy mô gia đình. Tận dụng phế phụ phẩm

nông nghiệp, rác thải, phân gia súc để nuôi giun. • Dùng giun để nuôi gia súc, gia cầm (lợn, gà, vịt, cá, lươn...).• Dùng phân giun cho trồng trọt.

43

Như vậy, việc nuôi giun Quế ở quy mô gia đình, vừa tận dụng được phế thải nông nghiệp, chế biến phân gia súc cho hoai mục, đỡ hôi, vừa làm thức ăn cho chăn nuôi gia súc, gia cầm.

2. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN

Để thực hiện việc nuôi giun Quế, hộ gia đình cần có các điều kiện sau:

2.1. Điều kiện ban đầu

• Có nhu cầu và có chỗ để nuôi giun (khoảng 20 - 30m2).• Chọn giống giun Quế ở Việt Nam. Giống giun này đã được chọn lọc và nhân

giống. Gia đình có thể liên hệ với trạm Khuyến nông huyện để hỏi địa chỉ cung cấp giống giun.

• Việc nuôi giun được thực hiện ở qui mô các gia đình có nghề chăn nuôi, trồng trọt.

• Vốn ban đầu chỉ 400.000đ - 500.000đ.• Một lượng giun giống để nuôi gồm có: Giun giống, phân giun và một phần

thức ăn của giun.

2.2. Vị trí và môi trường sống của giun

• Diện tích: 20 - 30m2.• Mặt nền nuôi giun phải láng lớp xi măng để ngăn cách với đất.• Diện tích nuôi giun nên phân chia thành luống nuôi.• Nhiệt độ thích hợp nhất cho giun: 18 - 250C; nhiệt độ sống bình thường:

15 - 350C. Độ ẩm thích hợp nhất: 20% - 30%; pH thích hợp nhất: 6,8 - 7,2 (Đo pH của thức ăn trước khi cho ăn. Cần hướng dẫn đo pH, nếu không đây sẽ là kiến thức CHẾT - rất nguy hiểm).

• Giun ưa ẩm ướt, yên tĩnh, ấm áp, ngọt, chua, sống chung cùng thế hệ.• Giun sợ: ánh sáng, chấn động, ngập nước, oi bức, hoá chất, kiềm.

2.3. Cách làm luống nuôi giun

• Luống nuôi giun được làm trên nền đất láng xi măng cát.• Dùng gạch xếp xây xung quanh luống, để giữ cho phân không tràn ra

ngoài.• Chiều cao của luống: 0,3 - 0,35m.• Chiều rộng của luống: 1m.• Chiều dài của luống: từ 3m đến 5m.• Xếp gạch còn có tác dụng khi bà con tưới nước quá nhiều, nước được thoát

ra ngoài qua kẽ hở, không bị ứ đọng trong luống.• Không sợ giun bỏ đi qua kẽ hở của gạch. Vì giun là loài sống quần thể, chỗ

nào có nhiều phân giun là giun ở lì luôn tại đó.

44

• Khoảng 6 tháng thì thay luống giun mới một lần.

2.4. Mái che và vật liệu dùng

Giun sống ở độ ẩm rất cao, nhưng lại không chịu được nước mưa xối xả vào luống nuôi; Nếu mưa to tạt vào nơi ở của giun, giun sẽ bỏ trốn. Do đó cần làm mái che.

• Mái che làm bằng rơm rạ, bằng lá mía, giấy dầu, bằng nilon... nếu có điều kiện lợp bằng fibrô xi măng.

• Mái che cách mặt luống khoảng 1m (nếu cao quá mưa có thể hắt vào, nếu thấp quá khó thao tác chăm sóc và thu hoạch).

2.5. Thức ăn của giun

• Giun ăn tất cả các loại phân gia súc, gia cầm: trâu, bò, lợn, gà, dê, ngựa, thỏ, chim cút...

• Giun ăn tất cả các loại chất hữu cơ: giấy vụn, bìa mục, thân và lá các loại cây họ đậu, rau thừa, vỏ, củ, các loại bèo băm nhỏ, bã sắn dây, lá dong giềng...

• Có thể dự trữ phân trong các bể chứa có mái che, không cho nắng chiếu và nước mưa ngấm vào, để cho giun ăn dần.

2.6. Cách thu hoạch giun

Tùy theo thu cầu sử dụng giun hàng ngày (với số lượng khác nhau) mà ta có cách thu hoạch cho phù hợp.Cách 1: Thu hoạch giun trực tiếp trên mặt luống

• Giun bò lên mặt luống dưới tấm phủ để quấn nhau.• Nhẹ nhàng nâng đầu tấm phủ lên, giun nằm la liệt trên mặt luống, ta nhanh

chóng vơ lấy giun cho vào chậu. Cứ tiến hành như vậy đủ lượng giun cần thiết thì thôi.

Cách 2: Thu hoạch bằng phương pháp nhử mồi

Khi luống nuôi đã hết thức ăn, ta dùng cách thu hoạch này.• Đặt rổ đựng thức ăn của giun vào luống giun. Dùng các tấm phủ trùm kín

rổ và tưới nước lên tấm phủ.• Giun đang đói thì tìm ngay đến nguồn thức ăn, chui vào trong rổ. Một, hai

ngày sau ta chỉ việc bốc giun ra chậu để sử dụng.Cách 3: Thu hoạch bằng đe dọa

Khi cần thay luống nuôi, cần thu hoạch nhiều giun ta dùng cách này.• Giun rất nhát, sợ ánh sáng, tiếng động và kích thích cơ học. Ta sử dụng ngay

tác nhân này cho việc bắt giun.• Dùng chậu lớn, hoặc bàn xúc toàn bộ phân giun và giun vào chậu hoặc trên

mặt bàn, gom lên thành ngọn. Gõ nhẹ lên thành chậu, hoặc chân bàn. Giun gặp ánh sáng chui vào giữa đống. Khi có tiếng động giun chui xuống dưới.

45

• Ta gạt phân trên mặt đống, khi đó giun lộ ra và tiếp tục gõ, rồi lại gạt phân ra. Cứ tiến hành như vậy, lặp đi lặp lại nhiều lần, cuối cùng giun chui xuống đáy chậu, mặt bàn có cả đống giun, lúc này chỉ có việc vơ giun cho vào chậu.

3. LỢI ÍCH

3.1. Lợi ích môi trường

• Trên thực tế tại thôn Võng La, lượng phân chăn nuôi thải ra là trên 1tấn/ngày. Mô hình nuôi giun triển khai đã xử lý triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường.

3.2. Lợi ích kinh tế

• Nuôi giun cho hiệu quả kinh tế rất cao: giun và phân giun được sử dụng thay thế thức ăn chăn nuôi và trồng trọt (bột cá, cám, phân bón hữu cơ...) sẽ làm giảm chi phí đầu vào, do đó sẽ hạ giá thành sản phẩm. Nếu đổi ra ngày công tại thôn Võng La, hiện nay tiền công là 100.000 đ/ngày, nếu nuôi giun thì tiền công lao động này sẽ tăng lên gấp đôi với trên cùng một diện tích và nhân lực (trong hộ gia đình).

3.3. Lợi ích về mặt xã hội

• Mô hình nuôi giun triển khai nhân rộng sẽ tạo ra một nghề mới mà nhà nước cũng như người nông dân không phải đầu tư lớn, tạo ra nhiều công ăn việc làm có thu nhập bình quân 50.000 - 100.000 đ/ngày công và ổn định, tạo đà cho người nông dân phát triển sản xuất ngay chính quê hương mình mà không cần phải đi đâu, làm cho trật tự xã hội được tốt hơn.

4. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC THỰC HIỆN

4.1. Kinh nghiệm khi thực hiện mô hình

• Có sự liên kết giữa địa phương và một số tổ chức khoa học, tổ chức phát triển, khuyến nông...

• Tập huấn kỹ thuật nhân, nuôi giun Quế.• Thành lập “Hội những hộ cùng sở thích chăn nuôi, trồng trọt” với tinh thần tự

nguyện tương thân, tương ái giúp đỡ nhau phát triển kinh tế.• Làm thí điểm từ 2 hộ nuôi giun thành công tiến tới 4, 8, 16 hộ trong Hội.• Xây dựng quy chế, gây quỹ cho Hội và hỗ trợ nhau trong việc cung cấp giun

giống, kinh nghiệm...• Hội cũng đóng vai trò tích cực trong việc mở rộng thị trường, điều phối việc

bán giun giống trong các thành viên.

4.2. Kết quả của mô hình

• Hình thành một nghề mới: “Nghề nhân, nuôi giun Quế” cho hàng chục hộ gia đình.

46

• Tạo công ăn việc làm cho hàng chục hộ lao động - với giá trị ngày công trung bình 100.000 đ/ngày.

• Liên tục mở rộng diện tích nuôi giun (ở Võng La, đầu năm 2006 chỉ từ vài chục mét vuông đến nay đã có trên 1.000m2 nuôi giun thâm canh).

• Hình thức nuôi giun đã được cải tiến: từ chỗ chỉ nuôi trên nền nhà nay nuôi cả trên giàn, trong chậu xi măng... để khắc phục diện tích nhà, vườn có hạn.

• Tại Võng La, với trên 1.000m2 đang nuôi giun đã tiêu thụ, xử lý 2 - 3 tấn phân trâu, bò, lợn/ngày. Do vậy góp phần tạo đường làng, ngõ xóm thanh quang, sạch sẽ không mùi xú uế...

• Nhiều hộ nuôi giun để cung cấp giun, phân giun cho gà, vịt, cá, lợn, ngan, lươn ăn thấy hiệu quả rõ rệt:

- Tăng trọng nhanh hơn 20 - 30%. - Giảm thời gian nuôi. - Ít bệnh tật. - Tiết kiệm được 25 - 35% lượng thức ăn tinh. - Chất lượng thực phẩm đạt tiêu chuẩn thực phẩm an toàn (đã có phân

tích từ Quatest Việt Nam).• Cung cấp hàng tấn giun giống và quy trình nuôi giun Quế cho hàng trăm trang

trại, hộ gia đình ở địa bàn nhiều tỉnh trên khắp 3 miền Bắc - Trung - Nam.

47

• Từ mô hình nuôi giun ở Võng La, cho thấy qua lao động thực tiễn người dân đã có nhiều sáng kiến đáng trân trọng.

Ví dụ: - Ủ thêm phân giun vào phân tươi để nhanh chóng phân hủy và giảm mùi

hôi của phân tươi, giun ăn hợp khẩu vị hơn. - Sáng tạo ra cách vận chuyển giun đi xa đảm bảo an toàn (dùng thùng

xốp có chất nền, phủ bèo tây ở phía trên...).• Người dân đã tự tạo ra liên kết gắn bó nhau trong cộng đồng làng xã qua

việc liên kết giữa nhà có phân nhưng không nuôi giun, người có nhân lực thu gom phân bán với giá rẻ cho người nuôi giun, từ đó tăng công ăn việc làm trong cộng đồng.

• Qua mô hình nuôi giun ở Võng La, người dân ngày càng thấy rõ lợi ích của sự liên kết giữa nhà nông, nhà khoa học, nhà quản lý - phân phối và tổ chức gây dựng phong trào.

5. ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ

Trung tâm Tư vấn Chất lượng sản phẩm thuộc Viện Tư vấn Phát triển Kinh

tế Xã hội Nông thôn và Miền núi (CISDOMA)

58 Nguyễn Khang, Yên Hoà, Cầu Giấy, Hà NộiĐiện thoại: (04) 37843681; Fax: (04) 37843681Liên hệ: Mr Tám - Giám đốc Trung tâm. DĐ: 0912265944Email: trongphu [email protected]; [email protected]

48

SUMMARYFARMING EARTHWORMS FOR RAISING POULTRY

The Consulting Center for Product Quality belonging to CISDOMA

INTRODUCTIONThe model “Farming earthworms to provide food for poultry and create jobs

generating income for the people” is being implemented in Vong La, Dong Anh, Hanoi.

RESULTS• Formation of a new profession: “Earthworm breeding and propagation” for

dozens of households. • Creation of job opportunities for dozens of households - with a daily value

of 50,000 - 100,000 VND. • Continuous expansion of worm farming area from a few dozen square

meters in 2006 to 1,000m2 for actual intensive worm farming area.• Through the worm breeding model in Vong La, people step by step realize

the benefits of collaboration between farmers, scientists, managers- distributors and organizers.

49

Nuôi ong lấy mậtTĂNG THU NHẬP CHO NGƯỜI NGHÈO DÂN TỘC

XÃ MIỀN NÚI

Quỹ Phát triển Nông thôn và Giảm nghèo huyện Quảng Ninh, Quảng Bình (RDPR)

Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa

1. LỜI GIỚI THIỆU

Ong là loài côn trùng, rất nhạy cảm với các loại thuốc hóa chất. Ong có tập tính sinh hoạt sống theo bầy đàn. Trong đàn có ong chúa, ong thợ, ong đực. Ong có tính tổ chức rất cao, chúng phân công công việc theo chức năng cụ thể như: ong chúa chuyên sinh sản, ong thợ chuyên xây tổ, ong đực duy trì nòi giống.

Sản phẩm của ong (mật, phấn hoa, sữa chúa, nọc ong, sáp ong, keo) có rất nhiều tác dụng, có thể là thức ăn bổ dưỡng sức khỏe, là dược liệu quý hoặc là

50

nguyên liệu cần cho công nghiệp dược phẩm, điện thông, quốc phòng...Nuôi ong không tốn đất, đầu tư vốn và công ít, chóng thu hoạch, góp phần

giảm đói nghèo và làm giàu cho nhiều hộ gia đình.Nuôi ong phù hợp với sức khỏe các lứa tuổi, mọi giới và trình độ dân trí khác

nhau ở nông thôn, thành thị, đồng bằng, miền núi.

2. KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC

2.1. Tại Thanh Hóa: Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa

Hiện nay, Thanh Hóa có trên 700.000 hecta rừng và đất nông nghiệp, trong đó có 90.000 hecta rừng đặc dụng và khoảng 25.000 hecta diện tích trồng cây ăn quả (chủ yếu nhãn, vải). Từ tiềm năng thực tế về diện tích đất rừng, đất trồng cây ăn quả và đất nông nghiệp mà phong trào nuôi ong ở Thanh Hóa trong những năm gần đây đang được khôi phục và phát triển khá mạnh. Đây là hoạt động được VUSTA tài trợ và nằm trong chương trình vận động nuôi ong hộ gia đình.

Vừa qua Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa phối hợp với các huyện Hội Làm vườn, vườn trang trại cơ sở khảo sát một số huyện. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ toàn tỉnh hiện có 15.582 thùng ong/10 huyện.

Riêng Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa bắt đầu nuôi 10 đàn từ tháng 4/2009 đến tháng 12/2009, nhân lên thành 15 đàn và cũng đã khai thác được mật.

Với lợi ích thiết thực của nghề nuôi ong, Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa xây dựng chương trình nội dung, tổ chức cuộc hội thảo chia sẻ kinh nghiệm nuôi ong, có sự tham gia của các chủ trang trại nuôi ong, nhằm động viên, khuyến khích các hội viên VAC phát triển nuôi ong thành phong trào rộng khắp trong toàn tỉnh. Được sự hỗ trợ kinh phí của dự án ENABLE, ngày 18/9/2009, Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức thành công hội thảo chia sẻ KN nuôi ong với sự tham dự của trên 100 đại biểu.

2.2. Tại Quảng Bình: Quỹ Phát triển Nông thôn và Giảm nghèo huyện

Quảng Ninh, Quảng Bình (RDPR)

Trường Xuân là xã miền núi của huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình có diện tích đất rừng tự nhiên và rừng trồng rộng rất thuận lợi cho việc phát triển nghề nuôi ong lấy mật. Từ những thuận lợi về tự nhiên và đề xuất của cộng đồng, từ năm 2001 Dự án “Nâng cao năng lực giảm nghèo cho cộng đồng” của huyện Quảng Ninh do tổ chức ICCO Hà Lan tài trợ đã thực hiện mô hình phát triển nuôi ong lấy mật cho nhiều hộ gia đình nghèo dân tộc tại địa phương.

Ban đầu Dự án thực hiện mô hình thành công tại xã Trường Xuân, nay được Quỹ Phát triển Nông thôn và Giảm nghèo huyện Quảng Ninh (RDPR) tiếp tục mở rộng mô hình sang xã Trường Sơn cũng là xã miền núi của huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

51

Mô hình nuôi ong xã Trường Xuân được nhiều tổ chức, dự án từ nhiều tỉnh khác đến tham quan học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm, như dự án WWF Quảng Nam, Tổ chức Y tế Hà Lan, Trung tâm Phát triển Cộng đồng Hà Tĩnh.

3. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN

3.1. Điều kiện đối với hộ gia đình: Để nuôi được 5 - 10 thùng ong, hộ gia

đình cần có các điều kiện sau

• Có ít nhất 5 - 10 loại cây ăn quả, hoặc gần khu vườn đồi có nhiều loài hoa.• Tiền vốn ban đầu 3 - 5 triệu đồng, để đầu tư 5 - 10 thùng ong.• Phải có niềm say mê với nghề, cần cù chịu khó.• Ham học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, giao lưu tiếp cận tiến bộ kỹ thuật mới.

3.2. Điều kiện đối với tổ chức Hội

• Tổ chức các cuộc tập huấn kỹ thuật, hội thảo, tham quan.• Tuyên truyền phổ biến kinh nghiệm về tổ chức thành lập Câu lạc bộ nuôi ong. • Giới thiệu tiêu thụ sản phẩm ngành ong.

4. LỢI ÍCH TỪ VIỆC NUÔI ONG LẤY MẬT

4.1. Lợi ích môi trường

• Phát triển nuôi ong nhằm bảo vệ rừng và làm cho môi trường trong sạch, tránh sự rủi ro do bão, lũ lụt, gây hậu quả nghiêm trọng về đời sống kinh tế của nhân dân.

• Đặc biệt nuôi ong không ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên thiên nhiên, trái lại con ong với vai trò thụ phấn chéo cho các loại cây trồng và cây tự nhiên, góp phần làm tăng năng suất, chất lượng mùa màng, bảo vệ tính đa dạng sinh học của các loài thực vật và bảo vệ môi trường sinh thái.

4.2. Lợi ích kinh tế

• Nuôi ong không tốn đất, đầu tư vốn và công ít, chóng thu hoạch, góp phần giảm đói nghèo và làm giàu cho nhiều hộ gia đình.

• Với vốn đầu tư ban đầu 3 - 5 triệu đồng cho 5 - 10 thùng ong, 3 - 4 tháng đã có sản phẩm. Mỗi thùng thu được 15 - 20 kg mật/năm, nếu nuôi tốt có thể nhân thêm 1 - 2 đàn/thùng/năm.

• Như vậy mỗi năm thu sản phẩm mật ong 15 - 20 kg/thùng, lợi nhuận thu được 1,5 - 2 triệu đồng/thùng.

4.3. Lợi ích khác

• Tạo việc làm cho mọi lao động, lao động không quá vất vả, nhưng thu được hiệu quả kinh tế cao, nhiều gia đình nông thôn nuôi con ăn học thành đạt bằng thu nhập từ nuôi ong.

• Sản phẩm của ong không chỉ tiêu dùng nội địa mà còn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao.

52

• Nuôi ong còn góp phần nâng cao năng suất cho cây trồng (thụ phấn chéo qua hút nhụy hoa).

5. CÁC KẾT QUẢ CỤ THỂ

5.1. Tại Thanh Hóa

• Hiện nay ở hầu khắp các huyện và cả thành phố đều đã có mô hình nuôi ong, tại khu vườn của UBND tỉnh Thanh Hóa, Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa đang nuôi 15 thùng. Số lượng nuôi nhiều (4 - 5.000 đàn) ở các huyện Thọ Xuân, Cẩm Thủy, Thạch Thành.

• Nếu nuôi 10 thùng ong/năm, cũng nhân thêm được ít nhất 5 thùng ong giống (giá bán 500.000 đ/thùng), trừ chi phí thức ăn bổ sung, thuốc phòng, chữa bệnh, mua thùng và cầu ong (1,5 triệu), còn lại lãi thu được 9 - 10 triệu đồng.

• Đến nay, nhiều hộ ban đầu chỉ nuôi 10 - 20 thùng, sau một năm đã tăng lên hàng trăm thùng, và thu nhập trên dưới 100 triệu đồng/năm.

• Gây dựng quỹ, mỗi Câu lạc bộ có tới 3 - 4 triệu đồng.• Tổ chức 4 lớp tập huấn kỹ thuật về ong và 1 cuộc hội thảo chia sẻ kinh

nghiệm nuôi ong.• Khảo sát được 10 huyện nuôi ong, có tổng số 15.582 thùng ong.• Tỉnh Hội cũng đã nuôi 10 thùng và nhân thêm được 5 thùng, thu được 20

kg mật ong.

5.2. Tại Quảng Bình

• Thành lập được một câu lạc bộ nuôi ong, cho tới nay số thành viên phát triển lên tới 48 người, trong đó chiếm hơn 30% là người dân tộc Vân Kiều.

• Câu lạc bộ nuôi ong đã xây dựng nội quy, quy chế làm cơ sở cho hoạt động quản lý của tổ chức. Mỗi thành viên đóng góp 100.000 đồng để làm nguồn vốn quay vòng giúp các thành viên nghèo có nhu cầu vay phát triển đàn ong.

• Tổ chức 5 khoá tập huấn kỹ thuật nuôi ong cơ bản và tập huấn nâng cao cùng với sự hỗ trợ của khuyến nông địa phương.

• Lựa chọn ra các thành viên nòng cốt, để các thành viên này tư vấn và tập huấn lại kỹ thuật nuôi ong cho cộng đồng.

• Tăng từ 13 đàn năm 2001 lên khoảng 420 đàn tính đến năm 2009. Lượng mật thu được hàng năm khoảng từ 2,5 tấn đến 2,8 tấn mật. Số tiền thu được từ nghề nuôi ong của địa phương khoảng 350 đến 400 triệu đồng/năm.

• Người dân nghèo dân tộc đã có thêm thu nhập mới từ nghề nuôi ong lấy mật ổn định. Có nhiều hộ gia đình là thành viên câu lạc bộ có thu nhập từ nghề nuôi ong hàng năm lên tới hơn 30 triệu đồng.

• Hoạt động của Câu lạc bộ tạo cơ hội để hội viên có thêm thông tin và được chia sẻ các kinh nghiệm hữu ích.

53

• Dự án đào tạo được các nông dân nòng cốt có khả năng tự hướng dẫn lại cho nông dân khác trong cộng đồng giúp cho mô hình dự án ngày càng được phát triển bền vững.

6. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC THỰC HIỆN

• Thành lập được Câu lạc bộ nuôi ong với số thành viên tham gia ban đầu là 15 - 29 người/câu lạc bộ, chương trình thực hiện và nội dung sinh hoạt thiết thực (như trao đổi kinh nghiệm về phòng, chữa bệnh, trao đổi cho nhau về ong chúa khi cần thiết, giới thiệu tiêu thụ sản phẩm...) nên thành viên phát triển ngày một đông. Các thành viên tham gia tự nguyện đóng hội phí sinh hoạt, đồng thời giúp các hộ có nhu cầu vay vốn để phát triển đàn ong.

• Câu lạc bộ nuôi ong xây dựng nội quy, quy chế làm cơ sở cho hoạt động quản lý của tổ chức. Sau khi thành lập, hàng tháng mỗi hội viên tham gia câu lạc bộ đều đóng góp hội phí 1.000 đồng để duy trì sinh hoạt định kỳ cho câu lạc bộ. Ngoài ra mỗi thành viên có trách nhiệm đóng góp mỗi người 100.000 đồng vào quỹ của câu lạc bộ để làm nguồn vốn quay vòng giúp các thành viên nghèo trong câu lạc bộ có nhu cầu vay phát triển đàn ong.

• Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật nuôi ong.• Tổ chức sinh hoạt các câu lạc bộ và các lớp tập huấn tạo điều kiện cho các

thành viên trao đổi kỹ thuật và chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau. Đến nay ở những nơi đã thành lập câu lạc bộ, hầu hết các thành viên đều đã áp dụng thành thạo kỹ thuật và nuôi ong có hiệu quả.

7. ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ

Quỹ Phát triển Nông thôn và Giảm nghèo huyện Quảng Ninh, Quảng Bình

(RDPR)

Tiểu khu 3, TT Quán Hàu, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng BìnhĐiện thoại: (052) 3872465 Fax: (052) 3872465Email: [email protected] ; [email protected]ên hệ: Ông Phạm Mậu Tài - Giám đốc RDPR(DĐ: 0912414863)

Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa

Số 47 Mai An Tiêm, phường Lam Sơn, Tp.Thanh HóaĐiện thoại: (037) 3850935; Fax: (037) 3850935 Email: [email protected]; [email protected];

54

SUMMARYBEEKEEPING TO INCREASE THE INCOME

OF POOR ETHNIC PEOPLE

Rural Development and Poverty Reduction Fund (RDPR) in Quang Ninh - Quang Binh

Thanh Hoa Gardening and Farming Association

INTRODUCTION

Bee products (Honey, pollen, royal jelly, bee-venom, bee-wax, glue) are varied and have many uses including as a nutritious health food, a rare medicine or a necessary raw material. Beekeeping is suitable for people of any health status, age, gender and educational level whether in rural, urban, plain or mountainous areas.

RESULTS

In Thanh Hoa: Thanh Hoa Gardening and Farming Association (GFA)

• This model is present currently in most districts and the city of Thanh Hoa province; in the garden of Thanh Hoa People’s Committee, GFA has bred bees in 15 hives. There are larger numbers of breeders (4,000 to 5,000 hives) in the districts of Tho Xuan, Cam Thuy, Thach Thanh.

• If initially many households breed bees in 10 - 20 hives, now, after a year, they get an increase of hundreds of hives and an income of more or less 100 million VND per year.

• Fund Raising (3 - 4 million VND per Club).• 4 training courses organized on beekeeping techniques and 1 workshop to

share experience on beekeeping.• surveys in 10 districts breeding bees, finding a total of 15,582 hives.• The provincial GFA has bred 10 hives and multiply into 5 more hives,

harvesting 20kgs of honey.

In Quang Binh: The Rural Development and Poverty Reduction Fund

(RDPR) in Quang Ninh

• 5 training courses organized with the support of agricultural extension staff in the locality on beekeeper basic techniques and TOT.

• Core members selected to advise and re-train beekeeping techniques to the community.

• Increase from 13 hives in 2001 to around 420 hives by 2009. Annual quantity of honey collected: from 2.5 tons to 2.8 tons. Amount collected from bee farming in the locality: around 350 to 400 million VND per year.

55

• Poor people have more stable income from bee farming. Many households of club members get an income more than 30 million VND per year.

• Club activities provide opportunities for the poor to have more information and share useful experiences.

• The project has trained core farmers capable of training other farmers in the community making the project model more sustainable.

56

57

Trung tâm Hành động vì Sự phát triển Đô thị

1. LỜI GIỚI THIỆURau hữu cơ là loại rau được trồng mà không sử dụng phân hóa học, thuốc

bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học hay bất kỳ chất gây biến đổi gen nào. Đặc điểm chính của mô hình này là:

• Một số hộ có đất trồng rau liên kết lại, hợp tác với nhau để tạo thành vùng sản xuất rau hữu cơ.

• Giữa vùng trồng rau hữu cơ và vùng lân cận có hành lang (vùng bảo vệ) để tránh lây bệnh và ô nhiễm lan sang.

• Rau được bón bằng phân hữu cơ, phân hữu cơ này dân có thể tự làm.• Chỉ dùng các chất bảo vệ thực vật khi cần thiết và các chất này phải có

nguồn gốc thiên nhiên.• Cơ cấu cây trồng được bố trí luân canh và xen canh để hạn chế thấp nhất

sâu bệnh hại. Hiện nay nhà nước Việt Nam chưa có chứng nhận cho các sản phẩm hữu cơ

nói chung và rau hữu cơ nói riêng. Tuy nhiên, dự án “Nông nghiệp hữu cơ” giữa

TRỒNG RAU HỮU CƠ ĐỂ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

58

ADDA (Tổ chức Phát triển nông nghiệp Đan Mạch) và Hội Nông dân Việt Nam đã và đang tiến hành chứng nhận sản phẩm hữu cơ cho các nhóm nông dân theo Hệ thống đảm bảo có sự tham gia PGS. Các sản phẩm rau của dự án “Trồng rau hữu cơ để xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường tại Sóc Sơn, Hà Nội” đều nằm trong quy trình cấp giấy chứng nhận này.

Được sự tài trợ của Cơ quan phát triển Quốc tế Ôxtrâylia, Trung tâm Hành động vì Sự phát triển Đô thị đã tổ chức thực hiện dự án tại thôn Bái Thượng, xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn, Hà Nội trên diệ n tí ch 700m2 và có 10 hộ dân tham gia sả n xuấ t.

2. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆNĐiều kiện đối với các nhóm nông dân/cơ quan /tổ chức:• Rất khó để thực hiện tại các hộ riêng lẻ.• Phải là 1 nhóm nông dân có diện tích ruộng tập trung thành 1 vùng.• Nông dân phải được học qua lớp đào tạo về trồng rau hữu cơ.• Làm vùng đệm: để bảo vệ khỏi nguy cơ bị nhiễm các hóa chất từ ruộng

bên cạnh bay sang. Giữa vùng sản xuất rau hữu cơ và vùng ruộng không sản xuất hữu cơ phải đảm bảo 1 khoảng cách thích hợp, ít nhất là 1 mét, được tính từ bờ ruộng đến rìa của tán cây trồng hữu cơ. Nếu xuất hiện nguy cơ ô nhiễm bay theo đường không khí thì sẽ phải trồng 1 loại cây để ngăn

59

chặn sự bay nhiễm. Loại cây này sẽ phải khác với cây trồng hữu cơ. Nếu sự ô nhiễm theo đường nước thì sẽ phải tạo 1 bờ đất hoặc đào rãnh thoát nước.

• Phân ủ hữu cơ: phân ủ phần lớn được làm từ các nguyên liệu thực vật và phân động vật (50% nguyên liệu cây xanh còn tươi, 25 - 30% rơm rạ và trấu, 20 - 25% phân động vật sẽ cho phân ủ có chất lượng tốt). Các nguyên liệu hữu cơ này được gom lại, đánh thành đống và luôn được che phủ để mưa không chảy vào bên trong. Đống ủ này phải nóng lên sau thời gian ủ. Tiến trình nóng lên này rất quan trọng để giết chết các mầm bệnh không mong muốn và tăng tốc độ phân hủy nguyên liệu thực vật. Đống ủ có thể được đảo lên để giữ cho quá trình ủ hoạt động tốt. Sản phẩm sau khi kết thúc quá trình ủ sẽ là 1 hỗn hợp giống như đất.

• Ngoài ra trong quá trình trồng cần sử dụng phân bón dung dịch, dung dịch bổ sung dinh dưỡng và dung dịch trừ sâu từ nguyên liệu tự nhiên.

• Không được trồng song song: tất cả những loại cây trồng trong ruộng hữu cơ phải khác với trong ruộng thông thường.

• Áp dụng kỹ thuật trồng xen canh và luân canh để phòng trừ sâu bệnh và đa dạng sinh học.

3. LỢI ÍCH

3.1. Lợi ích môi trường

• Đa dạng sinh học: Nông nghiệp hữu cơ khuyến khích các sinh vật và thực vật sống cùng nhau, không chỉ ở cùng trên một đồng ruộng mà kể cả các vùng phụ cận. Càng có nhiều các loài thực vật, động vật và các sinh vật đất khác nhau sống trong hệ thống canh tác thì càng giúp duy trì độ phì nhiêu của đất và ngăn cản sâu bệnh hại.

• Tạo độ phì nhiêu cho đất.

3.2. Lợi ích kinh tế

• Giảm chi phí vật tư đầu vào do không phải mua thuốc trừ sâu, phân bón hóa học, sử dụng phân bón hữu cơ và dung dịch trừ sâu tự nhiên.

• Tăng thu nhập cho người nông dân.• Giảm các chi phí cho sức khỏe: do việc sản xuất hữu cơ nông dân sẽ không

phải tiếp xúc với các chất hóa học độc hại vì vậy sẽ giảm được một số bệnh.

3.3. Lợi ích khác

• Tăng sức khỏe cho nông dân cũng như người sử dụng sản phẩm.

4. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC THỰC HIỆN

4.1. Kinh nghiệm khi thực hiện mô hình

• Cần phải tập huấn rất kỹ cho nông dân về kỹ thuật trồng rau hữu cơ.• Vì làm việc theo nhóm nên sau quá trình thực hiện sẽ có thể xảy ra mâu

60

thuẫn trong nhóm, cần tập huấn về công tác quản lý nhóm.• Cán bộ dự án nên bám sát với nhóm nông dân ngay từ thời gian đầu, nếu

có cán bộ ngay tại địa phương thì tốt.• Các chi phí cần có sự phối hợp đóng góp từ nông dân, không nên tài trợ hết

cho họ.• Việc cán bộ dự án hỗ trợ và hướng dẫn marketing sản phẩm cho nông dân

là rất quan trọng vì từ trước đến giờ nông dân thường quen với việc chỉ tập trung vào sản xuất.

4.2. Kết quả của mô hình

• Số lượ ng nông dân đượ c hưở ng lợ i từ dự á n: - 60 nông dân đượ c tham gia cá c khó a họ c về dinh dưỡ ng củ a rau quả , kỹ

năng tiế p thị . - 33 nông dân đượ c tham gia cá c khó a họ c về kỹ thuậ t canh tá c hữ u cơ. 10

nông dân đượ c trự c tiế p sả n xuấ t và bá n sả n phẩ m trên ruộ ng củ a họ . - Thu nhậ p từ trồng rau củ a 10 hộ gia đì nh trong nhó m tăng khoả ng

300%.• Số lượ ng khá ch hà ng đượ c hưở ng lợ i từ dự á n:

- 4 trườ ng họ c vớ i khoả ng 150 họ c sinh xuố ng thăm quan vườ n rau, đượ c trang bị kiế n thứ c về rau hữ u cơ, đặ t mua và sử dụ ng sả n phẩ m.

- Khoả ng 400 khá ch hà ng bao gồ m cả ngườ i lớ n và trẻ em sử dụ ng sả n phẩ m rau hữ u cơ.

5. ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ

Trung tâm Hành động vì Sự phát triển Đô thị

1 Phạm Ngũ Lão, Q. Hoàn Kiếm, Hà NộiĐiện thoại: (04) 62700184Email: [email protected]: www.vidothi.org

61

SUMMARYSAFE VEGETABLE GROWING FOR POVERTY REDUCTION AND

ENVIRONMENTAL PROTECTION Action for the City

INTRODUCTION

Organic vegetables are vegetables grown without any chemical fertilizer, pesticide with chemical origins or genetically modified (GM) substances.

Vietnam currently has no state certification for organic produce in general or for organic vegetables in particular. However, in the project “Organic Agriculture”, ADDA (Agricultural Development Denmark Asia) and the Vietnam Farmers’ Association has been conducting the certification of organic produce by farmer groups. Vegetable products from this project are in the process of getting this certification.

Supported by ADDA, Action for the City has implemented this project in Bai Thuong village, Thanh Xuan commune, Soc Son district, Ha Noi, on an area of 700m2 with 10 households participating in production.

RESULTS

Farmers

• 60 farmers participated in training courses on the nutrition of vegetables and marketing skills and 33 farmers participated in training courses on organic farming techniques.

• 10 farmers directly produce and sell their products from their farms. The income from growing vegetables of 10 households in the group increases approximately 300% .

Customers

• About 150 students visited the vegetable garden, received basic knowledge on organic vegetables, ordered and used products.

• About 400 customers including adults and children used organic vegetables.

DI ƯƠNG NUÔI CÁ RÔ PHI VUA ĐƠN

TÍNH ĐÀI LOAN, CÁ LÓC, CÁ RÔ ĐỒNG

Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa

1. LỜI GIỚI THIỆUCá rô phi vua đơn tính Đài Loan (RPVĐTĐL) là con lai đời F1 giữa hai loài cá

rô phi O. Aureus (cá bố) và O. Niloticus (cá mẹ) có nguồn gốc từ Đài Loan (Trung Quốc). Loại cá rô phi này có tỷ lệ đực rất cao, tới 95 - 100%, tỷ lệ thịt nhiều, chiếm 35% trọng lượng cơ thể, thịt thơm ngon có giá trị xuất khẩu. Tốc độ sinh trưởng và đạt sản lượng cao nhất so với cá rô phi nuôi thông thường hiện nay.

Cá lóc và cá rô đồng (CRĐ) là những loại cá gần gũi với nông dân, là loại thực phẩm mà phần đông người dân đều ưa thích trong bữa cơm hàng ngày. Do phương thức canh tác nông nghiệp và môi trường hiện nay, nên cá lóc và CRĐ tự nhiên ngày càng ít dần trong đồng ruộng, ao đầm.

Ba loại cá trên, từ năm 2007 về trước, ở Thanh Hóa chưa có người nuôi và hiện nay tỉnh cũng chưa tự sản xuất được các loại giống cá này. Nhận thấy lợi ích và khả năng phát triển, từ đầu năm 2008, Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức cho một số hội viên di ương và nuôi cá RPVĐTĐL, cá lóc, CRĐ.

62

Điểm nổi bật của mô hình là:

• Di được 1,02 triệu bột cá giống RPVĐTĐL từ trại giống cá Đài Loan (Trung Quốc) ở Đông Triều (tỉnh Quảng Ninh), ương thành 738.000 con cá giống thương phẩm cung ứng cho các hộ trong tỉnh nuôi thương phẩm đạt hiệu quả.

• Di ương giống cá lóc, CRĐ từ Nam Bộ ra bằng đường hàng không, đã cung ứng cho các hộ nuôi 747.398 con cá lóc giống và 841.500 con CRĐ giống.

• Phát triển nuôi thương phẩm các loại cá trên đạt hiệu quả kinh tế cao. Tại Thanh Hóa, năm 2008 có 30 hộ nuôi cá RPVĐTĐL, cá lóc, CRĐ, sang năm 2009 đã có 150 hộ nuôi ở các huyện: Nga Sơn, Tĩnh Gia, Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Hà Trung, Nông Cống, Quảng Xương, Đông Sơn, Thiệu Hóa, Yên Định, Triệu Sơn, Thạch Thành, Thọ Xuân, Ngọc Lặc và thành phố Thanh Hóa.

Mô hình này là một trong những mô hình thành công của Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa thuộc chương trình “Khoa học nông nghiệp“ do Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ. Cùng với mô hình này, Hội cũng đã hỗ trợ được một số hội viên phát triển kinh tế như: trồng cam canh, bưởi diễn, nuôi gà, vịt an toàn sinh học, nuôi giun Quế, nuôi ong lấy mật, xây dựng hầm biogas VACVINA cải tiến theo định hướng thị trường... đạt được kết quả tốt đẹp.

2. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN

2.1. Điều kiện đối với hộ gia đình

Đối với mô hình di ương cá giống và mô hình nuôi cá thương phẩm, hộ gia đình cần có các điều kiện sau:

• Có diện tích tối thiểu là 500 - 1.000m2.• Có cơ sở vật chất và kiến thức kỹ thuật về di ương cá giống.• Có khả năng tài chính đảm bảo cho việc nhập giống, công lao động và chi

phí thức ăn trong quá trình di ương.

2.2. Điều kiện đối với các chương trình, dự án

• Tìm cơ sở sản xuất giống cá bột, cá hương chuẩn để các hộ tiếp cận.• Tư vấn kỹ thuật, giúp các hộ theo dõi ghi chép đầu vào để hạch toán kinh tế.• Phối hợp với các hộ kiểm tra, đánh giá chất lượng giống thương phẩm và

giới thiệu tuyên truyền giống thương phẩm tới các hộ nông dân và hội viên VAC.

3. LỢI ÍCH TỪ MÔ HÌNH

3.1. Lợi ích kinh tế

• Di ương 3 giống cá năng suất chất lượng cao đã đem lại hiệu quả kinh tế cho các hộ nhân giống và hộ nuôi giống thương phẩm.

63

3.2. Lợi ích xã hội

• Đến nay, nuôi cá RPVĐTĐL, cá lóc, CRĐ đã tương đối phổ biến trong tỉnh, việc cung ứng giống và kỹ thuật đã có những hội viên của Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa chuyên lo.

• Giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho hàng trăm hộ gia đình vươn lên làm giàu.

• Giảm tệ nạn xã hội.

4. MỘT SỐ MINH CHỨNG ĐIỂN HÌNH

4.1. Mô hình di ương cá giống

• Ông Lê Đình Hanh xã Quảng Thắng, thành phố Thanh Hóa.• Ông Nguyễn Mạnh Hùng, thị trấn Còng, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa.

4.2. Mô hình nuôi cá thương phẩm

• Ông Lại Văn Nghĩa xã Nga Văn, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.• Ông Ngô Thọ Thanh, xã Nga Hưng, huyện Nga Sơn nuôi cá lóc bông xen cá

RPVĐTĐL năng suất đạt từ 19,2 - 30,8 tấn/hecta.

5. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC THỰC HIỆN

5.1. Kinh nghiệm

• Tìm hiểu kỹ thị trường: Thị trường đang cần cá RPVĐTĐL có trọng lượng từ 0,4 - 0,5 kg/con, cá lóc từ 0,9 - 1,1 kg/con, CRĐ từ 10 - 12 con/kg. Phần đông người nội trợ đều có khả năng tiêu dùng các loại cá này. Thị trường Hà Nội người tiêu dùng ưa chuộng cá lóc bông hơn cá lóc đen, còn ở Thanh Hóa thích cá lóc đen hơn cá lóc bông. Tóm lại thị trường cần gì thì hướng cho nông dân đáp ứng yêu cầu đó.

• Nông dân làm kinh tế thì phải có lãi. Mọi người làm việc gì cũng phải có hiệu quả, nói đến kinh tế, trước hết phải nói đến lỗ, lãi. Những người tham gia mô hình nuôi cá đều có lãi, đây là động lực thúc đẩy họ, năm sau làm nhiều, làm tốt hơn năm trước. Hai năm qua, gia súc, gia cầm bị dịch bệnh nhiều, giá thức ăn tăng, giá thịt lợn giảm, nhiều chủ trang trại chăn nuôi lợn thua lỗ, đàn lợn giảm sút. Những trang trại nuôi lợn vừa có nuôi cá RPVĐTĐL, cá lóc thì đỡ khó khăn hơn.

• Không những giới thiệu cho nông dân những nông phẩm thị trường yêu cầu, mà còn gợi ý cho nông dân tự quyết định lựa chọn đối tượng sản xuất phù hợp với trình độ và khả năng vốn liếng của họ với mức cố gắng có thể.

• Trước khi thực hiện, bắt buộc phải hỗ trợ nông dân nắm vững được quy trình kỹ thuật theo tiêu chuẩn sản phẩm sạch, biết lập kế hoạch hành động

64

có các bước cụ thể, đưa họ đến xem trực tiếp nơi đã làm có hiệu quả. Sau hướng dẫn, ai không hiểu biết được thì chưa nên để họ tham gia, hãy tìm cho họ cơ hội khác.

• Sau mỗi công đoạn mỗi chu kì sản xuất và trước, sau mỗi mùa vụ phải tổ chức cho nông dân tự đánh giá sơ kết, tổng kết, tham quan đầu bờ, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với nhau, thấy được nguyên nhân vì sao năng suất, chất lượng, hiệu quả chưa đạt, từ đó đưa ra biện pháp giải quyết để sản xuất của mình được tốt hơn.

• Bằng các phương tiện thông tin đại chúng, truyền thông đến cho nông dân biết được những người, những địa chỉ làm ăn có hiệu quả có lòng nhân ái, để họ có điều kiện tự đến đó mà tìm hiểu và học hỏi. Cách làm này, chi phí ít nhưng hiệu quả cao và bền vững.

• Hỗ trợ nông dân phát triển kinh tế là vận động nông dân tự tin vào khả năng, phát huy được tiềm năng sẵn có, tạo điều kiện để họ nâng cao được những hiểu biết về kỹ thuật, về kinh tế, tạo dựng được môi trường và cơ chế làm ăn thuận lợi cho nông dân.

• Nông dân còn thiếu thốn trăm bề, cái gì cũng cần, nhưng cái cần hỗ trợ hơn cả, đó chính là công nghệ.

5. 2. Kết quả của mô hình

• Toàn tỉnh, năm 2008 có 30 hộ nuôi cá RPVĐTĐL, cá lóc, CRĐ, sang năm 2009 đã có 150 hộ nuôi ở các huyện: Nga sơn,Tĩnh Gia, Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Hà Trung, Nông Cống, Quảng Xương, Đông Sơn, Thiệu Hóa, Yên Định, Triệu Sơn, Thạch Thành, Thọ Xuân, Ngọc Lặc và thành phố Thanh Hóa.

Mô hình di ương cá giống:• Di ương 1,02 triệu bột cá giống RPVĐTĐL từ trại giống cá Đài Loan (Trung

Quốc) ở Đông Triều tỉnh Quảng Ninh, ương thành 738.000 con cá giống cung ứng cho các hộ trong tỉnh nuôi thương phẩm đạt hiệu quả. Với việc cung ứng cá giống và nuôi thương phẩm cá RPVĐTĐL, mỗi năm ông Hanh thu lãi được 50 triệu đồng.

• Di ương giống cá lóc, CRĐ từ Nam bộ ra bằng đường hàng không, đã cung ứng cho các hộ nuôi 747.398 con cá lóc giống và 841.500 con CRĐ giống. Ông Hùng nuôi cá lóc đạt năng suất 32 tấn/hecta, CRĐ đạt 13 tấn/hecta. Trên 700m2 ao nuôi cá lóc, ông Hùng thu lãi được 68 triệu đồng/năm.

Mô hình nuôi cá thương phẩm:• Ông Nghĩa nuôi cá lóc bông xen cá RPVĐTĐL thương phẩm trên diện tích

2.500 m2 ao, lãi 62,8 triệu đồng/năm.• Ông Thanh nuôi cá lóc bông xen cá RPVĐTĐL trên diện tích 4.000 m2 ao,

năng suất đạt từ 19,2 - 30,8 tấn/hecta, lãi 172 triệu đồng/năm.

65

6. ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ

Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa

47 Mai An Tiêm, phường Lam Sơn, T.p Thanh Hóa

Điện thoại: (037) 385 0935; Fax: (037) 385 0935;

Email: [email protected]; [email protected]

66

SUMMARYSUPPORTING ECONOMIC DEVELOPMENT OF FARMERS BY

TRANSFERING SPAWN AND RAISING TAIWAN MONO-SEX

TILAPIA (TMT), SNAKEHEAD FISH (SF), AND PERCH (ANABAS

TESTUDINEUS) The Horticulture and Farming Association in Thanh Hoa province

INTRODUCTIONTaiwan mono-sex Tilapia are F1 hybrids from species of O. Aureus (father fish)

and O. Niloticus Tilapia species (mother fish) originated from Taiwan (China). They are almost exclusively males (95 - 100%) with high meat content accounting for 35% of their body weight, and fragrant meat quality with high nutritional and export value. Their growth rate reaches the highest output compared to that of conventional tilapia.

RESULTS• In 2008, in the whole province, there were 30 households raising TMT, SF,

perch; in 2009, 150 households in the districts: Nga sơn, Tinh Gia, Hoang Hoa, Hau Loc, Ha Trung, Nong Cong, Quang Xuong, Dong Son, Thieu Hoa, Yen Dinh, Trieu Son, Thach Thanh, Tho Xuan, Ngoc Lac, Thanh Hoa city.

Model of transferring eggs to raise fish:• TMT: Transferred 1.02 million of TMT eggs from Taiwan (China) hatcheries to

Dong Trieu, Quang Ninh province, to raise and get 738,000 commercial eggs to supply to households for raising in the province to ensure commercial efficiency. With this supply, each year, Mr. Hanh has a profit of 50 million VND.

• SF and perches: Transfered SF and perch eggs from South Vietnam by air and, providing 747,398 SF eggs and 841,500 perch eggs to households. SF and perch productivity of Mr. Hung reached respectively 32 tons/hecta and 13 tons/hecta. On a SF pond’s area of 700m2, Mr. Hung gained a profit of 68 million VND per year.

Model of commercial fish raising (2 representative households): • Raising Striped SF alternating with TMT, with a productivity from 19.2 -

30.8 tons/hecta, Mr. Nghia gained a profit of 62.8 million VND/2,500m2 per pond/year.

• Mr. Thanh gets a profit of 172 million VND/4,000m2.

67

MÔ HÌNH KHUYẾN NÔNG VIÊN, KỸ

THUẬT VIÊN TRỢ GIÚP NÔNG DÂN

HOẠT ĐỘNG THEO CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG

Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED)

1. LỜI GIỚI THIỆU Từ năm 2005 đến nay, mô hình khuyến nông viên, kỹ thuật viên hỗ trợ

nông dân, nhưng hoạt động theo cơ chế thị trường đã được PED tư vấn cho nhiều chương trình dự án trong nước và quốc tế tại Việt Nam và cho các dự án của PED.

Mô hình khuyến nông viên/kỹ thuật viên hoạt động theo cơ chế thị trường

68

là một mô hình đặc biệt, bởi nó đã khắc phục được tình trạng mà nhiều dự án đang mắc phải là: Đào tạo khuyến nông viên thôn bản nhiều, nhưng hiệu quả hoạt động kém, thậm trí có người học xong về không làm gì. Do vậy họ không giúp được gì nhiều cho cộng đồng, cho nhân dân.

2. ĐIỂM NỔI BẬT CỦA MÔ HÌNH• Khuyến nông viên, kỹ thuật viên là từ nông dân, từ cộng đồng. Đây là những

người có khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, có điều kiện và mong muốn

làm dịch vụ vật tư, dịch vụ kỹ thuật. Họ cũng là người sản xuất giỏi, nhiệt tình tham gia các hoạt động khuyến nông và được người dân giới thiệu, lựa chọn.

• PED trực tiếp phỏng vấn, kiểm tra để chọn những người đáp ứng được yêu cầu về hoạt động khuyến nông theo cơ chế thị trường (làm dịch vụ vật tư và dịch vụ kỹ thuật).

69

• PED thực hiện các hoạt động nâng cao năng lực về 3 nội dung cơ bản: i) Kiến thức và kỹ năng về kỹ thuật; ii) Kiến thức và kỹ năng tiếp thị, kinh doanh, dịch vụ; và iii) Kiến thức, kỹ năng khởi nghiệp và mở rộng quan hệ đối tác, tạo mạng lưới.

• Tùy theo điều kiện, dự án có thể hỗ trợ khởi nghiệp và tư vấn trực tiếp để những bước đi ban đầu của họ thành công, sau đó họ đi tiếp.

3. NHỮNG MÔ HÌNH THÀNH CÔNG

• Khuyến nông viên, thú y viên 16 bản tái định cư thủy điện Bản Vẽ tại huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An (dự án “Hỗ trợ đồng bào tái định cư thủy điện Bản Vẽ ổn định cuộc sống và sinh kế bền vững” của PED do OHK tài trợ 2007 - 2010). Đây là cộng đồng dân tộc Thái và Khơ Mú từ vùng sâu vùng xa thuộc huyện Tương Dương (Nghệ An) về tái định cư tại 2 xã thuộc huyện Thanh Chương (Nghệ An) do việc nhà nước xây dựng thủy điện Bản Vẽ. Trong dự án này, PED đã chọn lọc và đào tạo mỗi bản 2 khuyến nông viên (1 về trồng trọt, 1 về chăn nuôi - thú y).

• Kỹ thuật viên bếp đun cải tiến ĐK tại 10 xã của huyện Hậu Lộc và huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (dự án “Phát triển bếp đun cải tiến ĐK theo cơ chế thị trường tại Thanh Hóa“ của PED do EASE/ETC tài trợ).

• Kỹ thuật viên bếp đun cải tiến và lò sao chè cải tiến ĐK của 13 xã thuộc huyện Phú Lương, Đồng Hỉ, Võ Nhai, thị xã Sông Công, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (dự án “Phát triển bếp đun cải tiến ĐK theo cơ chế thị trường tại Thái Nguyên” của PED do EASE/ETC tài trợ).

• Khuyến nông viên chương trình dân sinh của tổ chức ChildFund thực hiện tại huyện Cao Phong và Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình; huyện Bạch Thông và Na Rì, tỉnh Bắc Kạn.

• Khuyến nông viên dự án phát triển cộng đồng của tổ chức AFAP tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

4. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN MÔ HÌNH

Khuyến nông viên/kỹ thuật viên hoạt động theo cơ chế thị trường, tự thu thông qua các hoạt động tập huấn, tư vấn kỹ thuật và tổ chức dịch vụ là mô hình mới và rất khó. Do vậy cần có các điều kiện sau:

Về phía dự án/tổ chức:• Có định hướng và bước đi rõ ràng, phù hợp ngay từ đầu dự án. Đây là điều

kiện quan trọng vì có như vậy thì việc chọn đối tượng đào tạo/nội dung đào tạo, hỗ trợ khởi nghiệp mới có thể thực hiện được.

• Có kinh nghiệm đào tạo và hỗ trợ khởi nghiệp: Đây là đầu vào quan trọng nhất đảm bảo cho mô hình thành công. Điểm khác biệt cốt yếu là: Không chỉ đào tạo khuyến nông viên/kỹ thuật viên về kỹ thuật đơn thuần như các

70

dự án thường làm trước đây. Điều quan trọng là họ cần phải được đào tạo về kiến thức và kỹ năng tiếp thị, kinh doanh, dịch vụ; kiến thức, kỹ năng khởi nghiệp và mở rộng quan hệ đối tác, tạo mạng lưới.

• Có kinh nghiệm tổ chức và liên kết giữa các khuyến nông viên cũng như khuyến nông viên với khách hàng. Điều mấu chốt ở đây là khuyến nông viên/kỹ thuật viên luôn coi đối tượng phục vụ của mình là cộng đồng - là khách hàng. Một khi khuyến nông viên/kỹ thuật viên coi người dân là khách hàng thì toàn bộ mối quan hệ của họ thay đổi hoàn toàn.

• Có kinh nghiệm trong việc xây dựng mối quan hệ dọc và ngang: Kinh nghiệm này sẽ cho phép dự án/tổ chức tạo dựng tính bền vững về tổ chức để khuyến nông viên hoạt động theo cơ chế thị trường nhưng không phải là hoạt động tự do vô tổ chức.

5. LỢI ÍCH TỪ VIỆC XÂY DỰNG MÔ HÌNH

5.1. Lợi ích kinh tế

• Khuyến nông viên/kỹ thuật viên có thu nhập từ các hoạt động khuyến nông, do vậy họ hăng hái và cộng đồng được hưởng lợi.

• Cả cộng đồng và khuyến nông viên đều sử dụng đồng tiền rất có hiệu quả.

• Cơ chế cạnh tranh, chọn lọc tự nhiên sẽ làm cho các dịch vụ ngày càng tốt hơn, rẻ hơn và hiệu quả hơn.

5.2. Lợi ích xã hội

• Cộng đồng áp dụng nhanh và thành công các tiến bộ kỹ thuật nhờ giảm cơ chế trợ cấp, xin cho.

• Mô hình khuyến nông viên/kỹ thuật viên hoạt động theo cơ chế thị trường đã góp phần giải quyết vấn đề cơ bản nhất, khó khăn nhất, vướng mắc nhất trong khuyến nông từ trước đến nay là “thiếu kinh phí hoạt động”, là ”khuyến nông viên không có phụ cấp”. Mô hình này đã tạo ra tính bền vững về kinh phí.

• Mạng lưới dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ vật tư về đến tận thôn bản, khoa học kỹ thuật áp sát với sản xuất, với đời sống của người dân và với người sử dụng.

6. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC THỰC HIỆN

6.1. Kinh nghiệm

• Định hướng rất rõ ràng, rất cụ thể về cơ chế này, đồng thời thảo luận với người dân và khuyến nông viên/kỹ thuật viên ngay từ đầu.

• Tìm các bước đi và tìm mô hình để thăm quan học tập trước khi tiến hành chọn người đào tạo và trước khi tiến hành đào tạo.

• Chọn người đào tạo và chủ đề đào tạo dựa trên đánh giá tiềm năng thị trường, phạm vi thị trường và nhóm/đối tượng khách hàng mục tiêu.

71

• Tìm được nội dung và giáo viên đào tạo phù hợp và có chất lượng. Kinh nghiệm của PED chỉ ra rằng đây là việc rất khó, bởi đây là lĩnh vực mới, đối tượng mới và họ chỉ học theo cách học mới, cách học mà họ học xong có thể làm chứ không phải “lý thuyết suông”.

• Chấp nhận cạnh tranh, chấp nhận chọn lọc bởi thị trường và chấp nhận rủi ro thị trường. Đây là bài học kinh nghiệm rất đắt giá.

6.2. Kết quả của mô hình

• Hơn 50 kỹ thuật viên bếp đun cải tiến và lò sao chè cải tiến ĐK tại Thanh Hóa và Thái Nguyên đã hoạt động theo cơ chế thị trường thành công. Mô hình này được triển khai nhân rộng ở Hà Nam trong dự án” Phát triển bền vững dựa vào cộng đồng vùng ven đô”; tại Sóc Trăng với dự án “Bảo tồn tài nguyên ven biển tỉnh Sóc Trăng”; Dự án của tổ chức CSEED... và đã được 7 nước từ Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ La tinh đến học tập.

• 10 khuyến nông viên tại 2 xã tái định cư thủy điện Bản Vẽ tại huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An đã bước đầu hoạt động theo cơ chế thị trường và tạo lập 7 cơ sở dịch vụ vật tư nhỏ lẻ. Mô hình này đang được Hội Nông dân huyện Anh Sơn (Nghệ An) học tập và áp dụng.

• Mạng lưới khuyến nông viên tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ sau 3 năm vẫn hoạt động tốt và đã được nhiều dự án đến thăm quan học hỏi.

7. ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ

LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM (VUSTA)

Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED)

Số 58 Ngõ 162, đường Nguyễn Văn Cừ, Q. Long Biên, Hà Nội Điện thoại: (04) 3872 4509 Fax: (04) 3872 4508 Email: [email protected]; [email protected]; [email protected]; Liên hệ: ThS. Đỗ Đức Khôi - Giám đốc PED (DĐ: 0913 540 129; Email: [email protected]);

72

SUMMARYIMPROVING EXTENSION SUPPORT FOR FARMERS

FOLLOWING MARKET MECHANISMPopulation, Environment and Development Centre (PED)

INTRODUCTIONSince 2005, the model of agricultural extension workers and technicians

operating under market mechanism to support farmers has been used by PED for domestic and international projects in Vietnam and for PED projects.

RESULTS

The model has been successfully applied as follows:

• Over 50 technicians of advanced ĐK cooker-stove and tea drying furnace in Thanh Hoa and Thai Nguyen provinces have successfully operated their business using market mechanisms.

• This model has been widely deployed in Ha Nam province.• 10 agricultural extension workers at 2 resettlement communes of Ban Ve

hydroelectric plant in Thanh Chuong district of Nghe An province have initially operated their business using market mechanisms and established 7 small and discrete facilities for material services. This model is being followed and applied by Anh Son Farmer Association.

• Agricultural extension workers and veterinary workers in 16 resettlement mountain villages of Ban Ve hydroelectric plant in Thanh Chuong district, Nghe An province. They are Thai and Kh Mu ethnic communities from remote areas of Tuong Duong district (Nghe An) resettling in 2 communes of Thanh Chuong (Nghe An).

• Agricultural extension workers for the Livelihood Program of Child Fund organization carried out in Cao Phong and Ky Son districts of Hoa Binh province; Bach Thong and Na Ri districts of Bac Kan province.

• The agricultural extension network in Thanh Son district of Phu Tho province has been efficiently operated for 3 years as well as visited and learned from by participants of many other projects.

73

NHÓM NÔNG DÂN CÙNG SỞ THÍCH

Trung tâm Phát triển Nông thôn Miền Trung (CRD)

1. LỜI GIỚI THIỆU Từ năm 1999, Trung tâm Phát triển Nông thôn Miền Trung (CRD) thuộc Trường

Đại học Nông Lâm Huế đã triển khai thực hiện dự án ”Phát triển cộng đồng thôn Đức Phú” do ICCO Hà Lan tài trợ.

Trong dự án này, mô hình nhóm nông dân cùng sở thích được xây dựng và đi vào hoạt động. Sau 8 năm thực hiện, mô hình nhóm nông dân cùng sở thích đã thu được nhiều thành công.

Điểm chính của mô hình này là:• Thành lập các nhóm nông dân có cùng sở thích, ví dụ: nhóm trồng sắn nuôi

heo, nhóm nuôi cá, nhóm trồng rau sạch và nhóm nuôi bò...• Các nhóm tự lập quy chế và quản lý nhóm.• Dự án hỗ trợ các hoạt động nâng cao năng lực: Lập kế hoạch, tập huấn kỹ

thuật, thăm quan, hội thảo đầu bờ... và cho vay vốn tín dụng nhỏ thông qua nhóm sở thích. Vốn do Hội Phụ nữ thôn quản lý.

Trong mô hình này, trước hết, Ban phát triển thôn đã tập hợp những người

74

nông dân nòng cốt, thành lập các nhóm sở thích. Sau đó đã thành lập 4 nhóm sở thích: i) nhóm trồng sắn nuôi heo; ii) nhóm nuôi cá; iii) nhóm trồng rau sạch và iv) nhóm nuôi bò.

Các nhóm tự bầu nhóm trưởng và xây dựng quy chế hoạt động của nhóm. Trong quá trình hoạt động các thành viên trong nhóm thường xuyên trao đổi, thảo luận và giúp đỡ nhau về mọi mặt, đặc biệt là kinh nghiệm trong sản xuất.

2. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN VÀ TÍNH ƯU VIỆT CỦA MÔ HÌNH

2.1. Điều kiện đối với hộ gia đình

• Các hộ gia đình phải thành lập theo các nhóm sở thích như nhóm trồng sắn nuôi heo, nhóm nuôi cá, nhóm trồng rau sạch và nhóm nuôi bò...

• Các thành viên phải thường xuyên trao đổi, thảo luận và giúp đỡ nhau về mọi mặt.

2.2. Điều kiện đối với các chương trình, dự án

Các chương trình, dự án đều có thể tham khảo và xây dựng mô hình nhóm nông dân cùng sở thích khi có các điều kiện sau:

• Có trưởng nhóm, cán bộ đứng ra phụ trách từng mô hình cụ thể.• Có nguồn kinh phí hỗ trợ.• Khuyến khích bà con nông dân bằng cách tạo điều kiện đi giao lưu học hỏi

các mô hình trong và ngoài tỉnh.• Có kinh phí hỗ trợ cho thôn một tủ sách với nhiều đầu sách hướng dẫn kỹ

thuật cụ thể từng loại cây trồng, vật nuôi, thú y, phân bón... để cho cộng đồng có thể nghiên cứu và áp dụng.

• Tạo ra được sự hỗ trợ của các chuyên gia có kinh nghiệm về khuyến nông, về các đối tượng cây con mà các nhóm sở thích lựa chọn.

3. LỢI ÍCH CỦA MÔ HÌNH

3.1. Lợi ích kinh tế

• Tăng năng suất và hiệu quả kinh tế.

3.2. Lợi ích xã hội

• Người dân cơ bản đã biết tiếp thu và ứng dụng được các kỹ thuật tiến bộ vào các công việc cụ thể.

• Nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ lãnh đạo thôn, nhóm nông dân nòng cốt và năng lực sản xuất cho người dân.

4. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC THỰC HIỆN

4.1. Kinh nghiệm

Từ quá trình xây dựng thôn khuyến nông tự quản Đức Phú có thể rút ra những bài học kinh nghiệm như sau:

75

• Chọn địa bàn dân cư để xây dựng thôn khuyến nông tự quản phải là thôn nghèo, đại diện cho vùng, chuyên sản xuất nông, lâm nghiệp. Ở đó người dân có tinh thần đoàn kết, lao động cần cù, đang khao khát vươn lên, mong muốn sớm xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống.

• Phải đánh giá đúng, đầy đủ tình hình thực trạng của thôn, những tiềm năng chưa được khai thác, những thuận lợi và khó khăn trở ngại, những nhu cầu bức xúc của người dân cần giải quyết. Từ đó xây dựng dự án phát triển thôn theo hướng thôn khuyến nông tự quản. Điều quan trọng nhất là người dân phải tham gia một cách chủ động, tích cực vào mọi hoạt động của dự án.

• Phải biết thành lập các nhóm hộ cùng sở thích trên cơ sở mục tiêu và các hoạt động phát triển của thôn. Trong một thôn có thể có nhiều nhóm hộ sở thích theo từng chủ đề kỹ thuật cụ thể được lồng ghép trong toàn bộ kế hoạch phát triển của thôn. Mỗi nhóm có trưởng nhóm do các thành viên bầu lên để liên hệ với Ban phát triển thôn và theo dõi, giám sát các hoạt động. Các nhóm hộ sở thích cần xây dựng quy chế hoạt động riêng của nhóm mình.

• Dự án nên có một phần kinh phí đầu tư ban đầu để xây dựng cơ sở vật chất cho thôn, nhưng phải kết hợp huy động được sự đóng góp của người dân. Phần quản lý vốn tín dụng cho người dân vay để phát triển sản xuất nên giao cho Chi Hội Phụ nữ thôn đảm trách là tốt nhất. Phải kết hợp vừa cho vay vốn sản xuất, vừa tổ chức tập huấn cách thức làm ăn. Có như vậy, khoa học kỹ thuật mới được áp dụng, đồng vốn vay mới phát huy được hiệu quả thiết thực, năng suất lao động, năng suất cây trồng, vật nuôi mới được tăng cao, đời sống mới được cải thiện.

• Việc tổ chức tập huấn cho cán bộ và người dân là nội dung hoạt động hết sức cần thiết. Nhưng cần phải tiến hành đánh giá nhu cầu trước khi tập huấn để xác định được những chủ đề cần thiết. Đối tượng tham gia tập huấn phải thích hợp, là những người thực sự quan tâm và tự nguyện, đặc biệt chú ý tới chị em phụ nữ. Cán bộ tập huấn phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện, phương tiện cần thiết và phải có kỹ năng tập huấn cho người lớn tuổi. Thời gian tập huấn không nên kéo dài và phải thông báo trước. Không tổ chức tập huấn vào lúc thời vụ căng thẳng, mà phải tổ chức vào lúc nông nhàn.

• Việc tổ chức tham quan những mô hình tiên tiến nhằm giúp cho nông dân học tập, chia sẻ kinh nghiệm với nhau, qua đó thuyết phục họ làm theo cái mới cũng là một hoạt động cần được quan tâm trong quá trình xây dựng thôn khuyến nông tự quản. Nhưng phải chú ý là chọn nơi tham quan có những điều kiện, hoàn cảnh tương tự với địa phương. Để đảm bảo chuyến tham quan có hiệu quả thì phải chuẩn bị chu đáo trước về nội dung cần trao đổi học tập. Sau những chuyến tham quan cần tổ chức rút kinh nghiệm và xây dựng chương trình hành động cụ thể nhằm triển khai những điều học tập được.

76

• Một phương pháp hỗ trợ nông dân về kỹ thuật thành công, đó là tổ chức hội thảo đầu bờ. Mục đích của hội thảo đầu bờ là để phổ biến một cách làm ăn mới hoặc kết quả của một mô hình trình diễn cho nhiều nông dân biết, nhằm thuyết phục họ áp dụng. Hội thảo loại này có đặc điểm là tổ chức ngay tại các điểm trình diễn như: ruộng, vườn, chuồng trại... của nông dân và phải do chính người nông dân đó báo cáo. Để tổ chức hội thảo đầu bờ thành công, phải chuẩn bị chu đáo về mục đích, nội dung cuộc hội thảo, đối tượng tham gia, thời gian tiến hành và những điều kiện cần thiết khác.

• Trong việc tổ chức sản xuất, đổi mới cơ cấu cây trồng và vật nuôi, áp dụng các kỹ thuật tiến bộ để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm là rất cần thiết, song phải hết sức chú ý đến thị trường tiêu thụ (đầu ra) của sản phẩm. Tránh tình trạng khi một hộ làm thì có lãi, nhưng khi nhiều hộ cùng làm thì lại lỗ. Xu hướng hiện nay là chuyển dần từ kiểu thúc đẩy sản xuất bằng kỹ thuật công nghệ sang lôi kéo bằng thị trường.

4.2. Kết quả của mô hình

Sau 8 năm thực hiện dự án Phát triển cộng đồng theo hướng thôn khuyến nông tự quản, Đức Phú đã đổi mới trên nhiều mặt:

• Về sản xuất, người dân cơ bản đã biết tiếp thu và ứng dụng được các kỹ

77

thuật tiến bộ vào các công việc cụ thể. Cách làm ăn theo lối sản xuất lạc hậu trước đây dần dần bị xóa bỏ. Trên từng mảnh đất cụ thể, bây giờ trồng cây gì, nuôi con gì đều kèm theo biện pháp kỹ thuật để nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế. Có những con từ trước đến nay chưa có trên vùng cát như giống bò lai Sind, lợn siêu nạc, các loài cá rô phi, trắm cỏ, trê lai, nay về với Đức Phú đã đứng vững và phát triển tốt. Cây lạc, cây ngô, cây cỏ voi, cây sắn nguyên liệu, nay đã gắn bó với Đức Phú, đặc biệt cây lạc đối với vùng cát hiệu quả kinh tế rất cao, cho năng suất bình quân 120 kg/sào. Trước đây, mỗi gia đình chỉ nuôi từ 1 đến 2 con lợn giống địa phương, thời gian nuôi 1 năm mới xuất chuồng, trọng lượng trung bình chỉ đạt 50 kg, không may rủi ro, dịch bệnh thì mất trắng. Bây giờ mỗi hộ gia đình nuôi ít nhất 6 con lợn, chủ yếu là lợn lai theo hướng siêu nạc, thời gian 5 - 6 tháng xuất chuồng, trọng lượng trung bình mỗi con đạt 70 đến 80 kg. Cách đây 5 năm cả thôn chỉ có 5 con lợn nái, đến nay đã có 92 con. Hiện tại toàn thôn có 27 hộ có ao nuôi cá và 8 hộ nuôi bò lai Sind. Nhờ vậy thu nhập của người dân tăng lên nhiều so với trước. Điều quan trọng đối với nông dân Đức Phú là không có ngày nông nhàn, lúc nào cũng có việc làm và có thu nhập.

• Về cơ sở hạ tầng: 100% số hộ trong thôn đã được dùng điện, hầu hết dùng nước hợp vệ sinh bằng giếng bơm tay. Nhiều gia đình đã có xe gắn máy, có ti vi, đài, điện thoại. Phần lớn đường nội bộ trong thôn đã được đổ sỏi cấp phối. Thôn đã có hội trường để làm việc và hội họp, có trường tiểu học và nhà mẫu giáo đủ chỗ ngồi khang trang, sạch đẹp cho con em học tập.

• Về đời sống, đến nay trong tổng số 88 hộ của thôn Đức Phú không còn hộ đói, chỉ còn lại 2 hộ nghèo và đang phấn đấu để trong một thời gian ngắn nữa xóa hết hộ nghèo. Phải nói rằng, qua 5 năm thực hiện dự án, đời sống của nhân dân Đức Phú đã được cải thiện một bước đáng kể. Thấy đâu có cái mới, cái hay là tự tổ chức cho nông dân đi học tập rồi xây dựng mô hình để triển khai thực hiện. Khi mô hình áp dụng thành công thì tổ chức hội thảo để chia sẻ kinh nghiệm và sau đó nhân rộng đại trà.

5. ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ

Trung tâm Phát triển nông thôn miền Trung (CRD)

102 Phùng Hưng, Tp. Huế Điện thoại: (054) 529749 Fax: (054) 530000Email: [email protected]

78

SUMMARYFARMERS’ SAME-INTEREST GROUPS

The Center for Rural Development (CRD)

INTRODUCTION

The Center for Rural Development in Central Vietnam (CRD) which belongs to Hue University of Agriculture and Forestry has implemented the project ”Community Development in Duc Phu village”, funded by ICCO Netherlands since 1999.

In this project, the model of same-interest groups of farmers has been set up and put into operation. After eight years of implementation, this model has achieved considerable success.

RESULTS

After eight years of implementation of the project, Duc Phu has been renewed in many ways:

• Related to production, people basically have acquired knowledge of advanced techniques and can apply them practically.

• Old-fashioned ways of production have been gradually abolished. Now, for each specific piece of land, decisions on what crop to plant, what animal to raise, are combined together with technical measures to improve productivity and economic efficiency.

• Peanuts, corn, elephant grass, raw material tapioca, are now part of the with Duc Phu scene. Particularly peanuts in sandy land gives great economic efficiency with an average yield of 120kgs/sào(1).

• Previously, each family only fed one to two local breed pigs, and waited for one year to release them for sale with an average weight of 50 kgs per pig; whenever people faced risk of disease it would be a total loss. Now each household raises at least six pigs, mainly cross - bred super - lean pigs with breeding duration from 5 to 6 months for sale release, the average weight of each pig reaches 70 to 80 kgs. 5 years ago in the whole village, there were only 5 sows, and now there are 92.

On infrastructure: 100% of households in the village have access to electricity, most people use hygienic water from hand - pumped wells. Many families have

(1) sào = 360m2

79

motorcycles, television, radio, telephone. Most of the rural roads have been gravelled schools and kindergartens for children.

In term of living standards, curently there are 88 households in Duc Phu village with none in hunger, only two poor households, and the village is striving to get rid of poverty soon.

80

81

MÔ HÌNH KHUYẾN NÔNG THEO TIẾP CẬN NÔNG DÂN VỚI NÔNG DÂN ĐỂ

XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈOTrung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (RDSC)

1. LỜI GIỚI THIỆU

Trong sáu tháng năm 2009, dự án “Tăng cường sự tham gia của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội/giai đoạn II ở Phú Thọ”, do tổ chức ICCO Hà Lan tài trợ, Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (RDSC) và Mạng lưới khuyến nông - thú y Phú Thọ đã thống nhất hợp tác để hỗ trợ cộng đồng người nghèo về kỹ năng chăn nuôi và trồng trọt dựa trên năng lực được cải thiện mạnh của đội ngũ khuyến nông và thú y viên các xã.

Mô hình khuyến nông trong dự án này được thực hiện theo cách tiếp cận nông dân với vông dân.

Điểm nổi bật của mô hình này là:• Khuyến nông viên là từ nông dân. Đây là những người sản xuất giỏi, nhiệt tình

tham gia các hoạt động khuyến nông và được tổ khuyến nông xã lựa chọn.• Dự án thực hiện các hoạt động nâng cao năng lực chuyên môn (kỹ thuật) và

năng lực khuyến nông cho họ.• Các khuyến nông viên nông dân thực hiện các hoạt động khuyến nông

ngay trong thôn bản của họ.

82

• Các khuyến nông viên nông dân cũng chính là những người nông dân sản xuất thực thụ, do vậy họ luôn mong muốn làm tốt và hướng dẫn lại cho nông dân khác theo cách của nông dân với nông dân nên rất hiệu quả.

Trong mô hình hợp tác, các tổ khuyến nông với các thành viên là các nông dân giỏi ở các thôn bản đóng vai trò nòng cốt. Các khuyến nông viên đều là những người nông dân dân tộc thiểu số sống ngay trong xã, hay ở các thôn. Họ được RDSC đào tạo sâu hơn về chuyên môn kỹ thuật, về phương pháp phát triển cộng đồng và kỹ năng truyền thông để thay đổi hành vi. Nhưng trước hết họ là những người sản xuất giỏi, là thành viên tích cực của Mạng lưới khuyến nông - thú y. Họ đã được tổ khuyến nông xã lựa chọn và đề xuất trong những cuộc thảo luận với RDSC.

Mô hình hiện đang thực hiện tại: • Thôn 1, thôn 7, thôn Bồ Xồ, thôn Quất thuộc xã Yên Lương. • Thôn Mít 1, thôn Mít 2, thôn Chủng và thôn Hạ Thành xã Tân Lập (huyện

Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ). • Thôn Chiềng 2, thôn Tân Lập, thôn Cón, thôn Mỹ Á xã Thu Cúc (huyện Tân

Sơn tỉnh Phú Thọ).

2. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN MÔ HÌNH

Các chương trình, dự án về khuyến nông, sinh kế cho nông dân đều có thể ứng dụng mô hình này, tuy nhiên cần có các điều kiện sau:

• Có kinh nghiệm chọn và đào tạo nông dân nòng cốt để họ trở thành khuyến nông viên nông dân.

• Có nguồn kinh phí và hỗ trợ truyền thông, tập huấn các kỹ năng lao động cho người dân.

• Có đánh giá kết quả khuyến nông vào cuối vụ thu hoạch, ghi chép các bài học về kỹ thuật nông nghiệp và tổ chức khuyến nông ở cộng đồng để phổ biến qua trạm truyền thanh thôn, xã, huyện.

• Có cơ chế phù hợp để có kinh phí hỗ trợ khuyến nông viên nông dân thực hiện các hoạt động khuyến nông tại thôn bản.

3. LỢI ÍCH TỪ VIỆC XÂY DỰNG MÔ HÌNH

3.1. Lợi ích kinh tế

• Tăng năng suất lúa và thu nhập cho người dân.• Giảm gia súc bị dịch bệnh nhờ tăng tỉ lệ tiêm phòng.

3.2. Lợi ích xã hội

• Xây dựng mạng lưới khuyến nông viên ngay tại thôn bản.• Cải thiện an toàn lương thực cho cộng đồng.

83

• Nâng cao kỹ năng về trồng trọt (cây lương thực, hoa màu, lâm nghiệp), kỹ năng chăn nuôi gia súc nhỏ và đại gia súc cho cộng đồng các hộ nghèo và dân tộc thiểu số trong các thôn.

4. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC THỰC HIỆN

4.1. Kinh nghiệm

• Đánh giá nhu cầu và tiềm năng sinh kế của cộng đồng thông qua các cuộc khảo sát theo tiếp cận có sự tham gia.

• Tăng cường truyền thông, tập huấn giới thiệu mô hình trong các cuộc họp thôn, họp đoàn thể, trong sinh hoạt của các nhóm sở thích.

• Chỉ đạo kỹ thuật và thực hiện các truyền thông, tập huấn, làm mẫu theo mô hình tại trạm thực nghiệm thôn 7 và thôn Quất.

• Đánh giá kết quả khuyến nông vào cuối vụ thu hoạch, ghi chép các bài học

84

về kỹ thuật nông nghiệp và tổ chức khuyến nông ở cộng đồng để phổ biến qua trạm truyền thanh thôn, xã, huyện.

4.2. Kết quả của mô hình

• Các cộng đồng tham gia chương trình này là các nhóm hộ nghèo dân tộc thuộc các thôn 1, thôn 7, thôn Bồ Xồ, thôn Quất thuộc xã Yên Lương, thôn Mít 1, thôn Mít 2, thôn Chủng và thôn Hạ Thành xã Tân Lập (huyện Thanh Sơn) và các thôn Chiềng 2, thôn Tân Lập, thôn Cón (chỉ làm chăn nuôi), thôn Mỹ Á xã Thu Cúc, huyện Tân Sơn tỉnh Phú Thọ.

• Các kết quả của mô hình chuyển giao kỹ thuật nông dân với nông dân đã tỏ ra rất đáng khích lệ.

• Các thú y viên ghi nhận ở các thôn dự án, tỷ lệ tiêm phòng gia súc đợt hai năm nay đã tăng gần 4 lần so với đợt đầu năm. Trong vụ gặt mùa này, nhiều bà con hộ nghèo cho biết năng suất lúa của họ đã đạt tới 180 - 200 kg/sào (so với cùng vụ này năm trước chỉ đạt 80 - 120 kg/sào).

• Những người khuyến nông nông dân đã rất tự tin thảo luận tại các diễn đàn quốc gia về những thành công và những điểm bất cập trong hợp phần phát triển nông nghiệp của các chương trình quốc gia, như chương trình 135 ở địa phương mình.

• Trong giai đoạn tới, RDSC và Mạng lưới Khuyến nông - Thú y tỉnh Phú Thọ đang lên kế hoạch thực hiện mở rộng hơn mô hình này sang nhiều xã mới.

• Phổ biến các chủ trương hoặc chương trình nông nghiệp, nông thôn, khuyến nông, chăn nuôi của ngành nông nghiệp với xã.

5. ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ

Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (RDSC)

Số 2, Nhà D, Ngõ 45/39, Phố Hào Nam, quận Đống Đa, Hà NộiĐiện thoại: (04) 35121175Email: [email protected]

85

SUMMARYAGRICULTURAL EXTENSION BY FARMERS ACCESSING

FARMERS FOR POVERTY REDUCTIONThe Rural Development Services Centre (RDSC)

INTRODUCTION

In 2009, The Rural Development Services Centre (RDSC) and Phu Tho Agricultural Extension-Veterinary Network cooperated to support the poor community on farming and cultivation skills through empowered agricultural extension staff and vets in communes in the project “Strengthening participation of citizens in socio - economic planning/2nd phase in Phu Tho”.

The extension model of this project uses the principle of access by farmers to farmers.

RESULTS• The results of transferring technology model from farmers to farmers seem

very encouraging.• Veterinary staff noted that in project sites the rate of cattle vaccination in

the second stage of this year has been quadruple that of the first. In this harvest season, many poor households declare their rice yield has increased to 180 - 200 kgs/sào(1) as compared to only 80 - 120 kgs/sào in the previous year.

• Agricultural extension farmer staff have been confident in national seminar discussions on the successes and shortcomings of the agricultural development components of national programmes such as the 135 programme in their locality.

• In the next period, RDSC and Phu Tho Agricultural Extension Network are planning to expand this model into many other new communes.

(1) 1 sào = 360m2.

MÔ HÌNH CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN

HỆ THỐNG GIỐNG LÚA NÔNG DÂN

Trung tâm Phát triển Nông thôn Bền vững (SRD)

1. LỜI GIỚI THIỆU

Đây là mô hình nông dân tự phục tráng các giống lúa thuần địa phương đã bị thoái hóa thành giống tốt, sử dụng các giống này trong sản xuất lúa thay cho việc phải mua giống lai và giống nhập ngoại.

Mô hình được thực hiện theo 2 giai đoạn:Giai đoạn 1 (2005 - 2007): Dự án “Nâng cao năng lực cho các nhóm nông dân

trong sử dụng, phát triển và bảo tồn đa dạng nguồn giống gen cây lúa” tại tỉnh Bắc Kạn.

Giai đoạn 2 (2008 - 2011): Dự án “Củng cố và phát triển hệ thống giống lúa của nông dân”. Dự án giai đoạn 2 nhằm mục đích củng cố và phát triển bền vững các giống lúa địa phương và tìm kiếm sự hỗ trợ từ các tổ chức chính quyền cho hệ thống giống lúa của người nông dân.

Các bên thực hiện dự án: Trung tâm SRD và Chi cục Bảo vệ Thực vật tỉnh Bắc Kạn. Tài trợ: Tổ chức CORDAID.

Kết quả chính: • Hai giống lúa là Khang Dân đột biến và D108 do nông dân chọn lựa đã

chính thức được chấp nhận đưa vào cơ cấu giống lúa của tỉnh Bắc Kạn.• Hơn 10 tấn lúa giống đã được sản xuất bởi các hộ nông dân trong dự án.• 18 hộ nông dân đã tự làm ra 8 tấn thóc giống, và bán cho Công ty cổ phần

vật tư giống Bắc Kạn, giúp người nông dân tăng thu nhập tới 40%.• Ngoài ra, khi tham gia các hoạt động dự án, người nông dân còn được

hướng dẫn về phương pháp canh tác lúa cải tiến SRI.Gần đây, việc nông dân sử dụng giống lúa lai và mua giống của các công ty

giống đã đem đến một thực tế là tình trạng bộc phát của sâu bệnh nhiều hơn, tỉ lệ phân hóa học được sử dụng nhiều hơn, một số giống lúa bản địa tại nông hộ giảm dần và chỉ được sử dụng phục vụ nhu cầu của từng hộ gia đình.

Do tự bảo quản và duy trì các giống lúa bản địa tại nông hộ, vì vậy các giống này đã dần bị mất đi, trung bình có khoảng 3 - 5 loại giống đã mất hẳn trong giai đoạn 10 năm qua.

Bên cạnh đó nông dân lại không có các kiến thức kỹ thuật cũng như các kỹ năng để bảo tồn và duy trì các giống lúa bản địa, trong khi đặc tính gen của các loại giống này chưa ổn định với các điều kiện cụ thể của từng địa phương, điều

86

này đã dẫn đến tình trạng thoái hóa giống. Mua giống từ các công ty giống, đôi lúc làm người dân bị lãng phí tiền bạc do phải mua giống kém chất lượng. Từ năm 2005 đến 2007, dự án nâng cao năng lực cho các nhóm nông dân nhằm phát triển bền vững các giống lúa cộng đồng đã được thực hiện tại 20/122 xã của tỉnh Bắc Kạn.

2. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN VÀ TÍNH ƯU VIỆT

2.1. Điều kiện đối với hộ gia đình

Hộ gia đình hoàn toàn có thể tự phục tráng giống địa phương khi có các điều kiện sau:

• Nhận ra vấn đề cần phải tự có giống lúa để không phụ thuộc các công ty giống Trung Quốc; Họ mong ước bảo tồn, phát triển các giống lúa của địa phương để đảm bảo an ninh lương thực và duy trì nguồn giống lúa tại địa phương.

• Được tập huấn để có đủ kiến thức, kỹ năng cơ bản về kỹ thuật sản xuất giống và sản xuất lúa như phục tráng giống, nhân giống, chọn dòng phân ly, canh tác lúa cải tiến.

• Sẵn sàng liên kết với các nông dân khác khi có điều kiện và có nhu cầu.

2.2. Điều kiện đối với các chương trình, dự án

Các chương trình/dự án hoàn toàn có thể thực hiện mô hình này với các điều kiện chính sau:

• Có mong muốn thực hiện, có ngân sách và nguồn nhân lực để thực hiện.• Trao đổi và học hỏi thêm kinh nghiệm với SRD, với các dự án tương tự.• Có khả năng tạo ra sự đồng thuận và hợp tác với ngành chủ quản, ngành

Bảo vệ thực vật, công ty giống ở địa phương...• Có khả năng tạo lập nhóm nông dân sản xuất lúa giống.

3. LỢI ÍCH

3.1. Lợi ích môi trường

• Dự án đã góp phần củng cố và đa dạng hóa các giống lúa thuần của địa phương. Người nông dân tham gia vào dự án đã áp dụng các kiến thức được học của họ để sản xuất hạt giống cũng như sản xuất lúa, trên cơ sở đó năng suất lúa đã gia tăng và đã giúp cho người nông dân bớt lệ thuộc vào các nguồn giống lúa bên ngoài.

• Bên cạnh đó, sự hợp tác trong cộng đồng đã được củng cố thông qua hoạt động trao đổi hạt giống giữa các nhóm nông dân.

3.2. Lợi ích kinh tế

• Kết quả đạt 8 tấn thóc giống, giúp người nông dân tăng thu nhập tới 40%.• Hơn 10 tấn lúa giống đã được sản xuất bởi các hộ nông dân trong dự án.

87

3.3. Lợi ích xã hội

• Bên cạnh việc năng lực của người dân được nâng lên, năng lực của cán bộ Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Bắc Kạn cũng tiếp tục được cải thiện về quản lý, điều hành và hợp tác với các cơ quan, ban ngành khác tại địa phương nhằm hỗ trợ nông dân sản xuất và phát triển hệ thống giống lúa nông dân.

• Mô hình bảo tồn và phát triển đa dạng giống lúa địa phương trong dự án đã thực sự tác động đến cách nhìn nhận về vai trò của nông dân trong sản xuất giống lúa. Cán bộ quản lý và ngành chức năng đã nhận thức được vai trò, khả năng tự sản xuất và phát triển giống lúa của nông dân, nhằm giảm sự lệ thuộc vào nguồn cung cấp giống lúa từ bên ngoài cho nông dân tỉnh Bắc Kạn.

• Đây thực sự là một mô hình hiệu quả giúp người nông dân tiết kiệm chi phí đầu vào, bảo tồn và phát triển đa dạng giống lúa địa phương nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng đa dạng và bền vững.

4. MỘT SỐ MINH CHỨNG ĐIỂN HÌNH

Kế thừa những thành tựu của dự án “Nâng cao năng lực cho các nhóm nông dân trong sử dụng, phát triển và bảo tồn đa dạng nguồn giống gen cây lúa” giai đoạn 2005 - 2007 tại tỉnh Bắc Kạn. Được sự tài trợ của tổ chức CORDAID, Trung tâm SRD

88

cùng với đối tác dự án là Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh đã tiếp tục hỗ trợ nông dân Bắc Kạn sản xuất, phục tráng các giống lúa địa phương, qua dự án: “Củng cố và phát triển hệ thống giống lúa của nông dân” giai đoạn hai 2008 - 2011 nhằm mục đích củng cố và phát triển bền vững các giống lúa địa phương và tìm kiếm sự hỗ trợ từ các tổ chức chính quyền cho hệ thống giống lúa của người nông dân. Tại 8 huyện thị, các lớp hướng dẫn nông dân chọn tạo, bảo tồn giống lúa địa phương được tổ chức theo từng vụ Xuân, Mùa. Tại hai trung tâm học tập cộng đồng, mỗi trung tâm đều tiến hành 04 nghiên cứu khảo nghiệm về nhân giống, chọn lọc, phục tráng giống nhằm chọn lựa những giống lúa phù hợp tại địa phương và được người dân yêu thích.

5. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC THỰC HIỆN

5.1. Kinh nghiệm

• Nâng cao năng lực về sản xuất giống lúa cho nông dân • Hỗ trợ nông dân các kiến thức kỹ thuật cũng như các kiến thức khác nhằm

giúp họ có đủ năng lực đáp ứng những yêu cầu khi Việt Nam gia nhập WTO. Đặc biệt là khi sự trợ giá hạt giống của Chính phủ hoàn toàn không còn và nông dân sẽ phải quản lý hạt giống của chính họ dưới áp lực của thị trường quốc tế, trong nước và địa phương.

• Vận động thay đổi chính sách để Chính phủ thừa nhận vai trò của người nông dân trong sản xuất giống lúa, hỗ trợ họ trong việc sản xuất giống để phục vụ nhu cầu của địa phương và đồng thời vận động tỉnh công nhận một số giống lúa phù hợp với điều kiện địa phương đã được chọn bởi chính người nông dân.

5.2. Kết quả của mô hình

• Trong giai đoạn từ tháng 4 - 2008 đến tháng 12 - 2009, dự án đã đem lại những thành quả nhất định như 750 nông dân tại 12 xã trên toàn tỉnh Bắc Kạn đã được hỗ trợ các kiến thức cơ bản về kỹ thuật sản xuất giống và sản xuất lúa như phục tráng giống, nhân giống, chọn dòng phân ly, canh tác lúa cải tiến.

• Tại hai trung tâm học tập cộng đồng, 4 khảo nghiệm về kỹ thuật sản xuất giống và phục tráng lúa đã được giới thiệu cho người dân tại các hội nghị đầu bờ. Sáu loại giống lúa địa phương do nông dân lai tạo và chọn lọc, kết quả của giai đoạn đầu, được tiếp tục kiểm chứng theo quy trình đăng ký giống quốc gia. Bên cạnh đó, hình thành liên kết nông dân - nhà doanh nghiệp cũng được thử nghiệm với 18 hộ nông dân có hợp đồng sản xuất lúa giống với Công ty cổ phần vật tư giống Bắc Kạn, sản xuất hơn 8 tấn giống lúa Khang Dân đột biến với diện tích trên 2 hecta.

• Cũng trong giai đoạn này, Sở NN & PTNT tỉnh Bắc Kạn và các ban ngành địa phương như Trung tâm Khuyến nông khuyến ngư, Công ty cổ phần vật tư

89

kỹ thuật nông nghiệp đều cam kết và có các hoạt động hỗ trợ nhằm nhân rộng các kết quả, hoạt động dự án.

• Cuối năm 2009, hai giống lúa là Khang Dân đột biến và D108 do nông dân chọn lựa đã chính thức được chấp nhận đưa vào cơ cấu giống lúa của tỉnh Bắc Kạn. Ngoài ra, khi tham gia các hoạt động dự án, người nông dân còn được hướng dẫn về phương pháp canh tác lúa cải tiến SRI trong sản xuất lúa giống.

• Phương pháp này đem lại những hiệu quả thiết thực như giảm đầu vào, tăng năng suất, chất lượng đầu ra, tăng thu nhập và góp phần bảo vệ môi trường do giảm phát thải khí nhà kính.

• Dự tính trong vụ mùa năm 2010, diện tích cấy lúa giống theo kỹ thuật SRI tại địa bàn Bắc Kạn sẽ tăng gấp ba lần so với năm 2008.

6. ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ

Trung tâm Phát triển Nông thôn Bền vững (SRD)

Số 56 ngách 19/9 Kim Đồng, Hoàng Mai, Hà Nội. Điện thoại: (04) 39436678 Fax: (04) 9436449. Website: www.srd.org.vn Email [email protected]

90

SUMMARYSTRENGTHENING AND DEVELOPING

FARMERS’ RICE SEED SYSTEM The Center for Sustainable Rural Development (SRD)

INTRODUCTIONIn this model farmers select good rice seeds for planting from local pure rice

seeds instead of buying hybrids and imported seeds. Implementing partners: SRD and Bac Kan Sub-Department of Plantation

Protection. Sponsor: CORDAID

RESULTS• From April 2008 to December 2009, the project provided 750 farmers in

12 communes of Bac Kan with basic knowledge on techniques of seed production and rice production such as seed rehabilitation, cross-breeding, line selection, intensive rice farming.

• In each of the two Community Learning Centres, 4 progammes of experimental research on seed production and revigoration have been introduced to field conferences. 6 local varieties cross-bred and selected by farmers in phase 1 have been verified based on the national registration process.

• A farmer - businessmen linkage has been tested with 18 farmer households contracting with Bac Kan Joint Stock Company for seed production with a result of more than 8 tons of Khang Dan variety on an area of over 2 hecta.

• By the end of 2009, the two varieties (mutated Khang dan and D108) selected by farmers have been officially recognized for integration into the Bac Kan seed system. Moreover, in participating in project activities, farmers have been guided on SRI farming methods for rice production.

• This model offers practical effects such as: reducing input costs, increasing productivity, output quality, income and helps protect the environment by reducing greenhouse gas emissions.

• In Bac Kan, seed rice cultivation area under SRI techniques in 2010 is estimated to be triple that of 2008.

91

MÔ HÌNH VƯỜN - AO - CHUỒNG (VAC)

CÁCH TIẾP CẬN MỚI CỦA MẠNG CIFPEN

Hội Làm vườn Việt Nam (VACVINA)Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng Nông thôn (CCRD)

Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED)

1. LỜI GIỚI THIỆU

VAC tên viết tắt của 3 từ Vườn - Ao - Chuồng, VAC là hình thái sản xuất nông hộ thâm canh sinh học trong đó nghề vườn, nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi gia súc, gia cầm bổ trợ lẫn nhau qua việc sử dụng tối ưu đất canh tác, nguồn nước và năng lượng mặt trời để đạt được hiệu quả kinh tế cao với vốn đầu tư thấp. Nhờ đó nông dân có thể đảm bảo được an ninh lương thực, giảm nghèo tiến tới làm giàu.

Mô hình VAC không chỉ có tác dụng huy động được sự tham gia của các thành viên nông hộ trong thời gian nông nhàn mà còn góp phần bảo vệ môi trường và phát triển nông nghiệp bền vững qua sử dụng sản phẩm phụ và chất thải của thành phần này để sử dụng cho thành phần khác của hệ thống.

Trong những năm qua các tổ chức của CIFPEN đã có nhiều cố gắng và nỗ lực trong việc triển khai các mô hình VAC theo phương thức mới, cách tiếp cận mới.

Cách tiếp cận mới và phương thức mới trong mô hình VAC của CIFPEN:• Thực hiện mô hình VAC ở các vùng sinh thái khác nhau (Vùng đất đồi núi

mới khai hoang: PED thực hiện tại vùng tái định cư thủy điện Bản Vẽ; Vùng cát ven biển: Hội Làm vườn Việt Nam thực hiện tại Tam Kỳ, Quảng Nam; Vùng núi cao: Bạch Thông - Bắc Kạn, tỉnh Sơn La.... )

• Sử dụng tối đa công nghệ sinh học cho từng khâu, từng công đoạn sản xuất của V-A-C để giảm ô nhiễm, không sử dụng chất thải trực tiếp của từng thành phần trong hệ thống. Đây là một trong những thành công rất đáng kể mà các thành viên mạng CIFPEN đã làm được. Sử dụng men vi sinh để làm phân hữu cơ vi sinh, nuôi giun Quế... là những minh chứng cho cách làm mới này.

• Sự tương tác V-A-C không chỉ dừng lại trong từng hộ mà đã cải tiến để sự tương tác V-A-C xảy ra trong từng khu vực, trong nhóm hộ có liên kết và hình thành sự hợp tác Nông dân - Nông dân. Đây là một hướng đi rất mới. Hướng đi này đã mở ra sự hợp tác mới, một mô hình VAC mới trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp dần chuyển sang tập trung hóa và thâm canh.

• Hướng nông dân đến việc quản lý và hạch toán dựa trên toàn hệ thống

92

V-A-C mà không tách rời từng thành phần của hệ thống. Phương thức quản lý và hạch toán mới này đã giúp nông dân đánh giá đúng và đầy đủ lợi ích kinh tế, môi trường và lợi ích xã hội của mô hình VAC để từ đó chấp nhận sự thay đổi và duy trì sự thay đổi (Mô hình được duy trì và nhân rộng).

• Khai thác và sử dụng tối đa kiến thức bản địa và thực hiện phương châm 5 tại chỗ: 1) Quyền làm chủ và quản lý tại chỗ; 2) Thị trường tại chỗ; 3) Cán bộ hỗ trợ tại chỗ; 4) Cung ứng, dịch vụ đầu vào tại chỗ; 5) Lựa chọn và cơ cấu cây - con dựa vào kiến thức bản địa. Phương châm 5 tại chỗ đã giúp nông dân giải quyết thỏa đáng các vấn đề phi kỹ thuật và kỹ thuật đối với từng loại mô hình, trên từng vùng sinh thái.

Với 5 cách tiếp cận trên, các mô hình VAC của CIFPEN đã có được những thành công mới và đặc biệt đã đóng góp rất quan trọng, rất giá trị cả về lý luận và thực tiễn của mô hình VAC trong điều kiện mới, trong bối cảnh mới và thích ứng, phát huy được hiệu quả trên nhiều vùng sinh thái khác nhau.

2. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN

2.1. Điều kiện đối với hộ gia đình

• Có mong muốn làm mô hình VAC theo phương thức mới (Quy mô gia đình và nhóm liên kết).

• Có đất canh tác và lao động.• Nhiệt tình lao động và có ý thức vươn lên thoát nghèo.• Có ý thức cộng đồng và phải sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm làm ăn.

2.2. Điều kiện đối với các tổ chức/dự án

• Cán bộ có hiểu biết và mong muốn thực hiện mô hình VAC theo phương thức mới.

93

• Có nguồn kinh phí giúp dân sản xuất thoát nghèo.• Cán bộ địa phương có ý thức và nhiệt tình với xóa đói giảm nghèo, có kiến

thức nông nghiệp và phương pháp vận động quần chúng tốt.

3. THÀNH CÔNG VÀ LỢI ÍCH MANG LẠI

3.1. Mô hình VAC trên vùng sinh thái cát ven biển

Mô hình đã được Hội Làm vườn Việt Nam thực hiện tại vùng cát ven biển xã Tam Thăng, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.3.1.1. Kết quả cụ thể

• Vườn cam, chanh trồng từ 2004 đến nay đã ra quả cho thu nhập 10 - 15 triệu/năm; chăn nuôi vịt, gà ngoài tăng nguồn trứng, thịt cho gia đình còn cho thu nhập thêm 3 - 5 triệu đồng/năm. Đào được ao trữ nước kết hợp nuôi cá cung cấp thêm thực phẩm cho gia đình.

• Tạo đa dạng sinh học vùng cát ven biển Miền Trung (rừng phi lao, các hệ thống canh tác VAC).

• Góp phần hạn chế lốc cát lấn đất liền.• Tạo được công ăn việc làm cho các lao động trong nông hộ khi nông

nhàn.• Gắn kết giữa các thành viên tham gia trong cộng đồng.• Sức khỏe của các thành viên trong nông hộ được cải thiện do được bổ sung

dinh dưỡng trong các bữa ăn.3.1.2. Kinh nghiệm tổ chức thực hiện

• Lựa chọn các thành viên nhóm nòng cốt tham gia tích cực vào các hoạt động.

• Sự tham gia của mọi thành viên vào các hoạt động từ lúc lập kế hoạch đến triển khai, giám sát đánh giá chính là yếu tố thành công của dự án tại địa phương.

94

• Gắn kết các hoạt động dự án với các hoạt động của địa phương nhằm thu hút sự ủng hộ của chính quyền địa phương.

• Đảm bảo diện tích rừng đầu nguồn không bị tàn phá.• Hạn chế sạt lở, lũ quét ở những đồi núi có độ dốc lớn.• Không bị mùi hôi thối quanh nhà.

3.2. Mô hình VAC ở miền núi

Mô hình đã được Hội Làm vườn Việt Nam thực hiện tại bản Hùn, xã Chiềng Cọ, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La và bản Mún, xã Dương Phong, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. Đây là hai vùng núi phía Bắc với các thành phần dân tộc là người Dao, Nùng, Tày và Thái.

3.2.1. Kết quả cụ thể

• Đa dạng hóa nguồn thu nhập của hơn 100 hộ gia đình tại 02 địa phương;• Phát triển được 3 vườn ươm cộng đồng, tạo nội lực phát triển cây lâm

nghiệp trong địa bàn;• Giúp hơn 96% số hộ gia đình thoát nghèo nhờ đa dạng hóa canh tác.• Kinh tế hộ gia đình được cải thiện trong thời gian ngắn nhờ các hoạt động

chăn nuôi;• Đa dạng hóa nguồn thu nhập của hộ gia đình xuất phát từ việc đa dạng hóa

canh tác như chăn nuôi, trồng cây ăn quả, khai thác lâm sản phụ...• Tạo các sản phẩm nông nghiệp có giá trị kinh tế cao nhờ lệch mùa vụ, tăng

chất lượng và mẫu mã sản phẩm.• Gắn kết các thành viên trong cộng đồng;• Phát huy nội lực cộng đồng về lao động, vật lực giúp cho cộng đồng phát

triển một cách bền vững.

95

3.2.2. Kinh nghiệm khi thực hiện mô hình

• Lựa chọn các thành viên nhóm nòng cốt tham gia tích cực vào các hoạt động.

• Sự tham gia của mọi thành viên vào các hoạt động từ lúc lập kế hoạch đến triển khai, giám sát đánh giá chính là yếu tố thành công của dự án tại địa phương.

• Gắn kết các hoạt động dự án với các hoạt động của địa phương nhằm thu hút sự ủng hộ của chính quyền địa phương.

3.3. Mô hình VAC trên vùng đất đồi núi mới khai hoang

Mô hình do Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED) thực hiện trong khuôn khổ dự án “Sinh kế bền vững cho đồng bào tái định cư thủy điện Bản Vẽ” do OHK tài trợ.3.3.1. Kết quả cụ thể

• Đã có hơn 260 hộ và 12 nhóm hộ thực hiện mô hình.• Toàn bộ lượng phân chuồng, cỏ rác, sản phẩm phụ từ vườn của các hộ đã

được xử lý bằng ủ phân hữu cơ vi sinh trước khi dùng cho cải tạo ao nuôi cá và cải tạo đất mới khai hoang.

• Đất mới khai hoang được cải tạo bằng phân hữu cơ vi sinh đã được trồng cây ăn quả, rau xanh, cỏ voi, cỏ VA06 để phục vụ chăn nuôi.

96

• Ao cá trở thành nguồn nước tưới quan trọng cho cây trồng trên vườn, đặc biệt trong những tháng khô hạn. Toàn bộ bùn đáy ao đã được dùng để cải tạo vườn.

• Toàn bộ vườn của hơn 1.000 hộ tái định cư đã được cải tạo từ đất mới khai hoang trở thành đất trồng có giá trị; đã trồng cây ăn quả, rau và cỏ cho chăn nuôi.

• 13 điểm bán men hữu cơ vi sinh đã được lập tại khu tái định cư và 13 cán bộ khuyến nông bản đã được đào tạo về VAC theo phương thức mới và hoạt động theo cơ chế thị trường.

3.3.2. Bài học kinh nghiệm

• Mô hình VAC theo phương thức mới, vừa mới và vừa khó đối với cán bộ, nhân dân địa phương, ngay cả với các cán bộ khuyến nông cấp tỉnh và huyện. Điều này là một thách thức không nhỏ. Kinh nghiệm của PED chỉ ra rằng việc tập huấn, tổ chức thực hành theo phương pháp FFS (Lớp học hiện trường) là một yếu tố đảm bảo thành công.

• Việc thực hiện phương châm 5 tại chỗ sẽ rất khó khăn khi mà bản thân cán bộ dự án hoặc cơ quan thực hiện dự án chưa có kinh nghiệm hoặc hiểu biết đầy đủ về vấn đề này. Kinh nghiệm của PED chỉ ra rằng việc lựa chọn tư vấn bên ngoài là rất khó khăn bởi các phương thức mới này cũng còn mới đối với cả tư vấn, do vậy hầu hết các hoạt động liên quan đến phương thức mới đều phải do PED thực hiện.

• Việc huấn luyện người dân làm quen và thích ứng với phương thức mới, phương châm 5 tại chỗ là việc không thể diễn ra nhanh chóng và do vậy đòi hỏi phải có người huấn luyện giỏi, giỏi về phát triển cộng đồng và giỏi về khuyến nông. Kinh nghiệm của PED đã chỉ ra rằng phương châm 5 tại chỗ là một cuộc cách mạng sâu sắc không chỉ trong mô hình VAC mà còn trong công tác khuyến nông.

4. ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ

Hội Làm vườn Việt Nam

Số 15, 71/14 Hoàng Văn Thái, Q. Thanh Xuân, Hà NộiĐiện thoại: (04) 35665476/77Email: vacvina - [email protected]: www.vacvina.org.vn

Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng Nông thôn (CCRD)

Số 28 Phố Phạm Tuấn Tài, P. Nghĩa Tân, Q. Cầu Giấy, Hà Nội. Điện thoại: (04) 37930380 Fax: (04) 37930306; E - mail: [email protected]; www.ccrd.com.vn

97

Trung tâm Dân số, Môi trường và Phát triển (PED)

Số 58 Ngõ 162, đường Nguyễn Văn Cừ, Q. Long Biên, Hà Nội Điện thoại: (04) 3872 4509 Fax: (04) 3872 4508 Email: [email protected]; [email protected]; [email protected]; Liên hệ: ThS. Đỗ Đức Khôi - Giám đốc PED (DĐ: 0913 540 129; Email: [email protected]);

98

SUMMARYVAC INTEGRATED SYSTEM

A NEW APPROACH BY CIFPENVietnam Gardeners’ Association (VACVINA)

Center for Rural Communities Research and Development (CCRD)Population, Environment and Development Centre (PED)

INTRODUCTIONVAC is the Vietnamese acronym for Vườn (Garden)-Ao (Pond)-Chuồng (Stable).

VAC is a production method based on household biological intensive farming. The new approach of the CIFPEN VAC model:• Applying the VAC model in various bioregions (newly reclaimed land in hilly

and mountainous area, sand areas near the sea, mountainous areas)• Making full use of biotechnology for every phase and stage of V-A-C

production to reduce pollution and use no direct waste of each system component.

• V-A-C interaction has been improved to apply not only to every household but also to the whole areas, in groups of many households and farmers.

• Guiding the farmers to management and accounting based on the whole VAC system not on separate system components.

• Developing and making full use of local knowledge and implementing the “5 on-site” motto: 1) On-site ownership and management; 2) On-site market; 3) On-site assistance; 4) On-site supply and input services; 5) Selecting and organising plants and livestock based on local knowledge.

RESULTS

1. VAC model on the bioregion of coastal sand

The model has been pilotted by Vietnam Garderners’ Association in coastal sand area of Tam Thang commune, Tam Ky city, Quang Nam province.2. VAC model in mountainous area

The model has been implemented by Vietnam Gardeners’ Association in Hun village, Chieng Co commune, Son La City (Son La Province) and Mun village, Duong Phong commune, Bach Thong district (Bac Kan province). These are two villages of Northern mountainous area with the ethnic minorities of Dao, Nung, Tay and Thai people.3. VAC model on newly reclaimed land of hilly and mountainous areas

The model is implemented by Population, Environment and Development Centre (PED) within the framework of the project “Sustainable livelihood for Resettlement residents in Ban Ve hydroelectric power plant”, sponsored by OHK.

99

100

In tại: Công ty TNHH Dịch vụ Thương mại Đầu tư VTG. Số lượng: 1.000 cuốn. Khuôn khổ: 16 x 24cm, Đăng ký KHXB số: 865 - 2010/CXB/1 - 344/VHDTQuyết định XB số: 197 - 10/QĐ - VHDTIn xong và nộp lưu chiểu tháng 11 năm 2010.

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA DÂN TỘC19 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hà Nội

ĐT: 04. 3826 3070 - 04. 3943 4239 - Fax: 04. 3943 4237email: [email protected]

Chi nhánh: số 7 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.1, Tp. Hồ Chí Minh. ĐT: 08. 3822 2895

Một số mô hình nông nghiệp bền vững cho hộ sản xuất quy mô nhỏ