100
Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018 Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 1 PHẦN I: CÂU HỎI DỰ THI Câu hỏi Nội dung Câu hỏi 1 Trong 320 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa Đồng Nai, nhân dân Đồng Nai đã trải qua những cuộc kháng chiến nào? Hãy trình bày cảm nhận của anh(chị) về truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Biên Hòa-Đồng Nai? Câu hỏi 2 Hãy cho biết và nêu cảm nhận về những tập quán, tín ngưỡng của nhân dân Biên Hòa-Đồng Nai, từ đó giới thiệu một hoạt động tập quán, tín ngưỡng của dân gian gắn với cộng đồng xã hội mà anh(chị) từng biết hoặc tham gia? Để phát huy và bảo tồn văn hóa bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay anh(chị) sẽ làm gì?

PHẦN I - dost-dongnai.gov.vn · Những cuộc khởi nghĩa đó đã thu hút đông đảo lực lượng quần chúng tham gia, tạo sức mạnh quật khởi trên địa

  • Upload
    others

  • View
    10

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 1

PHẦN I:

CÂU HỎI DỰ THI

Câu hỏi Nội dung

Câu hỏi 1

Trong 320 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa

– Đồng Nai, nhân dân Đồng Nai đã trải qua những cuộc kháng

chiến nào? Hãy trình bày cảm nhận của anh(chị) về truyền

thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Biên Hòa-Đồng Nai?

Câu hỏi 2

Hãy cho biết và nêu cảm nhận về những tập quán, tín

ngưỡng của nhân dân Biên Hòa-Đồng Nai, từ đó giới thiệu một

hoạt động tập quán, tín ngưỡng của dân gian gắn với cộng đồng

xã hội mà anh(chị) từng biết hoặc tham gia? Để phát huy và bảo

tồn văn hóa bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay anh(chị) sẽ

làm gì?

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 2

PHẦN II

TRÌNH BÀY CÂU HỎI Trong 320 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, nhân

dân Đồng Nai đã trải qua 3 cuộc kháng chiến: BÀI VIẾT: CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP LẦN THỨ NHẤT

CHƯƠNG 1: TRƯỚC SỰ NHU NHƯỢC, BẤT LỰC CỦA TRIỀU ĐÌNH PHONG KIẾN. NHÂN DÂN BIÊN HÒA - ĐỒNG NAI KIÊN CƯỜNG, BẤT KHUẤT ĐẤU TRANH CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC PHÁP DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC

VĂN THÂN, SĨ PHU YÊU NƯỚC (1858 - 1918) I. Bối cảnh lịch sử.

Ngày 31-8-1858, thực dân Pháp nổ súng tiến công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc ta phải đương đầu với họa xâm lăng từ một nước phương Tây, hoàn toàn chiếm ưu thế về tiềm lực kinh tế, quân sự, nhất là về vũ khí, công nghệ quân sự. Trong gần 30 năm tiếp theo, quân Pháp lần lượt đánh chiếm Nam Kỳ, Bắc Kỳ rồi tiến công vào kinh đô Huế (1883), buộc triều đình nhà Nguyễn từng bước phải nhượng bộ, lần lượt ký các hiệp ước Nhâm Tuất (1862), Giáp Tuất (1874), Quý Mùi (1883) và cuối cùng là Hiệp ước Giáp Thân (1884), thừa nhận nền thống trị của thực dân Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Từ nhà nước phong kiến độc lập, triều đình Huế trở thành chính quyền bù nhìn, tay sai cho ngoại bang.

Mặc dù, thực dân Pháp khuất phục được triều đình nhà Nguyễn, nhưng không thể đè bẹp tinh thần kháng chiến của dân tộc Việt Nam. Trong thời kỳ đầu, nhân dân ta phối hợp với quân đội triều đình anh dũng chiến đấu chống quân xâm lược Pháp ở những nơi chúng đánh chiếm, như: Đà Nẵng, Biên Hòa, Gia Định, Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Đồng thời, xuất hiện các cuộc nổi dậy chống quân xâm lược ở các vùng địch chiếm đóng, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân, v.v. Sau khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng, phong trào đấu tranh chống quân xâm lược của nhân dân ta lại bước sang giai đoạn mới, với quy mô rộng lớn và khí thế mạnh mẽ hơn. Đó là phong trào Cần Vương do các văn thân, sĩ phu yêu nước lãnh đạo, diễn ra sôi nổi trong cả nước và kéo dài hơn 10 năm từ 1885 đến 1896. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Hương Khê (1885 - 1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo; Ba Đình (1886 - 1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng đứng đầu; Bãi Sậy (1885 - 1889) do Nguyễn Thiên Thuật chỉ huy; cuộc nổi dậy ở Hưng Hóa (1885 - 1889) của Nguyễn Quang Bích, v.v…

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 3

Cùng với đó là các cuộc đấu tranh tự phát của nhân dân các địa phương trung du miền núi, nổi bật nhất là khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884 - 1913). Những cuộc khởi nghĩa đó đã thu hút đông đảo lực lượng quần chúng tham gia, tạo sức mạnh quật khởi trên địa bàn tương đối lớn, vận dụng nhiều cách đánh sáng tạo, phù hợp,… nên cũng giành được một số thắng lợi, nhưng cuối cùng vẫn bị dập tắt. Nguyên nhân bao trùm là do triều Nguyễn không thể đại diện, dẫn dắt dân tộc đứng lên chống lại sự xâm lăng của thực dân Pháp; các văn thân, sĩ phu hay các lãnh tụ nông dân với lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc nhưng không vượt qua hạn chế của giai cấp và thời đại nên chưa thể phát huy hết sức mạnh của dân tộc. Các cuộc khởi nghĩa diễn ra lẻ tẻ, lúc bùng lên nơi này, lúc rộ lên nơi khác, thiếu một sự liên kết chung, có quy mô trong cả nước, nên dù hết sức oanh liệt nhưng không đi đến thành công, mà “chỉ có thể dấy lên rồi tắt, chính vì thiếu lực lượng lãnh đạo đủ năng lực”. II. Các cuộc đấu tranh tiêu biểu của nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai thời kỳ 1958 - 1918. Ngày 31-8-1858, chiến thuyền của Rigault de Grenouilly nã súng vào Đà Năng mở đầu cuộc xâm lược chính thức nước ta. Gặp sức kháng cự của quân triều đình, binh lính bị dịch tả, sốt rét chết nhiều, thực dân phải chuyển hướng tấn công vào Gia Định. Ngày 4-2-1959, De Grenouilly tập trung 2.000 quân Pháp và Tây Ban Nha ở Vũng Tàu. Ngày hôm sau, quân Pháp từ biển tiến công đồn Phúc Thắng (núi Ghềnh Rái, Biên Hòa), vị trí tiền tiêu của Gia Định. Các ngày sau, chúng lần lượt hạ các đồn khác như Lương Thiện (vùng thuộc Phú Mỹ). Nhân dân Biên Hòa – Đồng Nai tiến hành kháng chiến chống sự xâm lăng của thực dân Pháp ở nhiêu nơi. Tiêu biểu có các phong trào:

• Biên Hòa trong cuộc khởi nghĩa Trương Định. Trong khi quân triều đình ở Gia Định do Tôn Thất Hiệp "án binh bất động",

quân Trương Định đã tung ra đánh du kích trong nội ngoại vi thành Gia Định. Ngày 4-2-1861, sau khi kết thúc chiến tranh với Trung Quốc, 500 liên quân

Pháp và Tây Ban Nha tiến công đồn Chí Hòa do Nguyễn Tri Phương chỉ huy. Chỉ trong một ngày, đại đồn Chí Hòa bị đánh chiếm. Nguyễn Tri Phương rút quân về Biên Hòa để phòng thủ.

Tháng 1-1861, Bonard, chuẩn đô đốc, thay Charner đến Sài Gòn tuyên bố: "Chúng ta sẽ tiến công Biên Hòa, nếu cần sẽ tiến công Huế". Tỉnh Biên Hòa lúc này bao gồm cả tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu và tỉnh Bình Dương ngày nay. Tỉnh thành Biên Hòa do tuần phủ Nguyễn Đức Hoan phụ trách, có khâm sai đại thần Nguyễn Bá Nghi, được vua Tự Đức phái vào tiếp viện phòng thủ Biên Hòa sau khi Nguyễn Tri Phương bị thương phụ trách. Từ Sài Gòn lên Biên Hòa có hai đường

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 4

thủy và bộ. Trên đường bộ có hai đồn án ngữ là Mỹ Hòa và Gò Công Trao Trảo. Căn cứ Mỹ Hòa cách Biên Hòa 8 km có khoảng gần 3.000 quân đóng giữ. Sông Đồng Nai đã bị ngăn bởi một kè đá và 9 vật cản bằng gỗ rất chắc. Ngoài ra, hai bên bờ sông còn được bố trí nhiều đồn nhỏ để hỗ trợ lẫn nhau.

Ngày 13-12-1861, tướng Bonard, chỉ huy trưởng quân Pháp ở Sài Gòn đã ký huấn lệnh về kế hoạch đánh chiếm Biên Hòa. Theo huấn lệnh này, lực lượng đánh chiếm Biên Hòa gồm đại đội khinh binh, do đại tá Foucault chỉ huy; đạo quân trù bị gồm 300 lính thủy quân lục chiến, 100 quân Tây Ban Nha và hai đại bác do đại tá Domenech Diego chỉ huy, đạo quân thứ ba gồm hạm thuyền (2 hạm thuyền) và lực lượng đổ bộ do thiếu tá Lebris chỉ huy. Trong kế hoạch, địch chia làm ba bước, trong đó có việc đánh chiếm Bến Gỗ để làm bàn đạp tiến quân về Biên Hòa.

Ngày 14-12-1861, quân Pháp tiến đánh tỉnh Biên Hòa bằng cả đường bộ và đường thủy. 7 giờ 30 cùng ngày, Gò Công Trao Trảo rơi vào tay giặc. Ngày 15-12-1861, quân Pháp do Comte và Diego tiến lên đồn Mỹ Hòa, quân triều đình rút chạy. Trên đường sông Đồng Nai, hai cánh quân do Lebris và Harel chỉ huy gặp sự chống trả khá quyết liệt của quân triều đình. Tàu Alarme trúng 54 phát thần công, gẫy cả cột buồm. Phá được cản, quân Pháp tiến đánh phá các pháo đài ven sông, quân triều đình chống trả đến giữa đêm thì rút chạy.

Sáng ngày 17-12-1861, quân thủy bộ của Pháp đã đến trước tỉnh thành Biên Hòa. Đích thân đô đốc Bonard theo chiến hạm Ondine chỉ huy trận tấn công. Chỉ sau ba loạt đạn pháo bắn rất quyết liệt, tuần phủ Nguyễn Đức Hoan và án sát Lê Khai Cẩn đã bỏ thành rút chạy, khâm sai đại thần Nguyễn Bá Nghi mang quân chạy ra Bình Thuận.

Như vậy chỉ sau 4 ngày, chỉ với 1.000 quân, thực dân Pháp đã dễ dàng chiếm lấy tỉnh thành Biên Hòa, trong lúc quan quân triều đình nhà Nguyễn ở Biên Hòa có đến 15.000 quân phòng giữ. Và đến 7-1-1862, Pháp chiếm được Bà Rịa.

Trên thực tế, Pháp chỉ chiếm đóng được ở các tỉnh lỵ Biên Hòa, Bà Rịa, Long Thành, Vũng Tàu. Nhân dân gần chỗ Pháp đóng quân ở Bình An, Nghĩa An, Long Thành đã bỏ đi đến 74 thôn (bằng 1/3 tổng số làng xã lúc đó)

Số quân của triều đình còn lại ở Biên Hòa do Hiệp tán quân vụ Thân Văn Nhiếp và Khâm phái quân vụ Nguyễn Túc Trưng theo lệnh triều đình rút về Tân Hòa để hiệp cùng quân Trương Định. Nhưng do Túc Trưng sợ giặc không dám mở rộng chiến đấu ngoài Tân Hòa, nên Trương Định đưa nghĩa quân ra hoạt động vượt khỏi căn cứ.

Tháng 2 Nhâm Tuất 1862, thế lực của nghĩa quân Trương Định phát triển mạnh và được nhân dân Biên Hòa, miền Đông ủng hộ tích cực. Một số văn thân ở Biên Hòa

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 5

như Tri phủ Phước Tuy Nguyễn Thành Ý, Tùy phái Phan Trung, mỗi người đã mộ được 2.000 quân kéo đến hợp tác với nghĩa quân Trương Định.

Đỗ Trình Thụy, nguyên là tri huyện Long Thành đã bị triều đình cách chức, mộ được 300 nghĩa quân, cùng nghĩa quân Trương Định tấn công đồn Thuận Tắc (Gò Công). Ông và 18 nghĩa quân đã hy sinh tại mặt trận.

Ngày 5-6-1862, triều đình Huế nhu nhược đã ký hòa ước Nhâm Tuất nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông (Biên Hòa-Gia Định-Định Tường). Nhân dân Biên Hòa và miền Đông kiên quyết chống Pháp đã tôn Trương Định làm "Bình Tây đại nguyên soái" để tiếp tục kháng Pháp. Trong bài hịch truyền đi cho nhân dân kêu gọi kháng chiến, ông viết:

"Tưởng có lời ca rằng: Nước có nguồn, cây hoa có gốc Huống chi người sinh ra có da có tóc, Mà sao

không biết chúa biết cha, Huống chi người sinh có nóc có gia, Mà sao không biết trung, biết hiếu...

Hai vai nặng trĩu: gánh chi bằng gánh cương thường! Tấc dạ trung lương: gồng chi bằng gồng xã tắc.... Làm người sao khỏi thác Thác trung thần thác cũng thơm danh Làm người ai chẳng ham danh Lòng địch khái xin cho rõ hết." Với lời hịch này, Trương Định đã thể hiện ý nguyện của toàn dân miền Đông

quyết chiến đấu để giành độc lập, không đầu hàng giặc Pháp. Ba lần Phan Thanh Giản gởi thư dụ ông buông súng, không chống thực dân Pháp đều bị ông thẳng thắn từ chối.

Trương Định nhận kiếm phong soái

Tượng đài Trương Định (Tiền Giang)

Đêm 17-12-1862 rạng sáng 18-12-1862, nghĩa quân Trương Định cùng với 1200 tay súng chia làm hai mũi đánh chiếm đồn Đồng Môn (Long Thành), tên tri huyện tay sai của thực dân Pháp bị bắt sống.

Từ đầu tháng 1-1863, nghĩa quân ở Biên Hòa gồm cả người Việt và người dân tộc liên tục tiến công các vị trí quân Pháp ở đông bắc Biên Hòa, thực sự gây khó

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 6

khăn và nhiều thiệt hại cho chúng. Đặc biệt, phong trào toàn dân kháng chiến ở Biên Hòa rất phát triển.

Đầu tháng 1-1863, nghĩa quân ở Biên Hòa đã phá hoại, cắt đứt đường dây điện thoại Biên Hòa - Bà Rịa - Sài Gòn - Cap Saint Jacques. Hạ tuần tháng 1-1863, nghĩa quân Biên Hòa gồm cả người Việt, người dân tộc đã liên tục tiến công các căn cứ giặc Pháp, làm cho chúng không dám ra khỏi đồn lũy. Tinh thần gan dạ đoàn kết chiến đấu của đồng bào Kinh và Thượng thể hiện rất cao trong kháng chiến.

Ngày 20-8-1864, do tên đội Huỳnh Công Tấn phản bội, địch đánh úp căn cứ nghĩa quân Trương Định ở Tân Phước; không để bị bắt, ông đã dùng gươm tự sát. Khi đó ông mới 44 tuổi.

Sau khi Trương Định mất, Phan Chỉnh rút về Giao Loan (Rừng Lá, ranh giới Biên Hòa - Bình Thuận) xây dựng căn cứ. Con trai Trương Định là Trương Quyền, 20 tuổi, cũng đưa nghĩa quân về phối hợp với Phan Chỉnh. Ngoài căn cứ Giao Loan, nghĩa quân Biên Hòa còn xây dựng căn cứ Bàu Cá (Trảng Bom). Nhân dân Biên Hòa và các tỉnh miền Đông đã về đây để tham gia chiến đấu, thường xuyên tấn công địch ở Biên Hòa - Gia Định.

Đầu năm 1865, quân Pháp tấn công vào căn cứ Giao Loan. Phó tướng Lê Quang Quyền tử trận. Địch phải khó khăn vì các chướng ngại do nghĩa quân xây dựng và chịu nhiều tổn thất. Căn cứ Giao Loan bị thất thủ. Đồng thời một cánh quân Pháp khác cũng đánh chiếm căn cứ Bàu Cá. Phan Chỉnh rút chạy, một thời gian sau ra hàng giặc Pháp. Trương Quyền đưa nghĩa quân về Tây Ninh phối hợp cùng nghĩa quân của Pô-Cam-Pô tiếp tục kháng chiến. Cuộc kháng chiến ở Biên Hòa do các văn thân lãnh đạo tạm thời lắng lại.

Trong lúc triều đình Huế đã ký hiệp ước Nhâm Tuất 1864, nhân dân Biên Hòa và miền Đông vẫn kiên quyết chiến đấu. Điều này cho thấy tinh thần và ý chí độc lập của nhân dân Biên Hòa và nhân dân ba tỉnh miền Đông là rất cao.

Năm 1884, triều đình Huế lại ký hòa ước Pa-tơ-nốt, biến nước ta thành thuộc địa của Pháp; mở đầu cho thời kỳ khai thác, bóc lột thuộc địa của tư bản Pháp ở Việt Nam. Nhân dân Biên Hòa và miền Đông Nam bộ bước vào một giai đoạn đấu tranh giành độc lập trong điều kiện triều đình Huế đã trở thành vương triều bù nhìn. Trong điều kiện đó, các tổ chức hội kín đã ra đời và phát triển ở Biên Hòa.

• Khởi nghĩa Đoàn Văn Cự. Lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt của dân tộc Việt Nam đã tạo nên biết bao

nhiêu đền thờ, tượng đài anh hùng liệt sĩ, mà mỗi một đền đài, tượng đài lại gắn bó với bao tên tuổi, cuộc đời cao cả sáng ngời.

Đoàn Văn Cự (1835-1905)- người con anh hùng của quê hương Biên Hòa là một trong những nghĩa sĩ tiêu biểu trong phong trào chống thực dân Pháp ở Nam bộ đầu thế kỷ 20.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 7

Đoàn Văn Cự sinh năm 1835, quê ở làng Bình An (Thủ Đức). Cha cụ là một bậc túc nho có chí khí và lòng yêu nước nồng nàn. Gia đình cụ luôn bị thực dân Pháp theo dõi, cụ phải rời quê hương đến trú ngụ tại rừng Bưng Kiệu, thôn Vĩnh Cửu (nay thuộc phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa).

Tiếp nối truyền thống của gia đình, Đoàn Văn Cự theo nghề cha dạy học và làm thuốc để giúp đỡ dân nghèo. Chính vì thế, cụ đã tạo được uy tín và điều kiện để tiếp xúc tuyên truyền, khơi dậy lòng yêu nước trong các tầng lớp nhân dân lao động. Lợi dụng địa thế rừng, cụ xây dựng Bưng Kiệu thành căn cứ để mưu cầu đại sự.

Là người thông minh, tài trí, cụ đã khéo léo dùng hình thức hoạt động tôn giáo để thu phục nhân tâm, qua đó tuyên truyền thức tỉnh lòng yêu nước, tinh thần xả thân vì đại nghĩa của dân tộc. Các tín đồ và đồng chí của cụ có mặt khắp miền Đông, nhưng đông nhất là vùng Bình An, Chợ Chiếu cho tới khu vực núi Nứa. Tổ chức Hội kín do cụ thành lập quy tụ nhiều danh tài hảo hán, tinh thông võ nghệ, coi việc nghĩa là việc đại sự, một lòng vì nước, vì dân. Lực lượng nghĩa quân phát triển ngày một lớn mạnh; lương thực, khí giới được tích trữ chuẩn bị cho việc dấy binh.

Nhưng hoạt động của cụ không còn giữ được bí mật, giặc Pháp đã nắm được tin. Ngày 8-4 âm lịch (tức ngày 11-5-1905), chính quyền thực dân cho một tiểu đội lính bí mật đến bao vây thôn Vĩnh Cửu.

Được tin, Đoàn Văn Cự đã triệu tập hàng trăm nghĩa quân tổ chức mai phục sẵn sàng đánh địch. Phục kích cả ngày không thấy địch đến, tưởng địch đã rút lui, đến tối, cụ cho nghĩa quân rút về căn cứ ăn cơm. Lúc này giặc mới ập đến, vây chặt căn cứ Bưng Kiệu. Tên đại úy chỉ huy quân Pháp dẫn một tốp lính xông thẳng vào nhà cụ. Biết khó lòng thoát hiểm, cụ điềm tĩnh vận bộ trang phục uy nghi, đầu chít khăn lụa điều, mình buộc thắt lưng màu hồng, giắt đoản đao đầu hổ, làm lễ trước bàn thờ tổ chờ địch đến. Khi toán lính bước vào nhà, cụ vung thanh đoản đao sáng loáng chém bị thương tên chỉ huy. Hắn bắn trả một loạt đạn. Cụ Đoàn Văn Cự trúng đạn, ngã xuống trước bàn thờ tổ.

Lăng mộ quốc Công Đoàn Văn Cự và đình thờ Cụ cùng 16 nghĩa binh Thiên Địa Hội

Quân Pháp tấn công vào doanh trại của nghĩa quân và đốt phá kho lương thực. Rừng Bưng Kiệu ngập khói lửa kín cả một góc trời. Mười sáu nghĩa quân anh dũng

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 8

hy sinh. Số còn lại đều chạy thoát vào rừng. Hôm sau, giặc Pháp bắt nhân dân khiêng xác tử sĩ và chôn chung vào một hầm lớn. Cụ Đoàn Văn Cự cùng 16 nghĩa quân hy sinh anh dũng và nằm chung một ngôi mộ. Hôm nay và mãi mãi về sau, họ vẫn còn đó, lung linh khói hương tưởng niệm của các thế hệ con cháu Biên Hòa- Đồng Nai.

Hiện nay, ngôi mộ của cụ cùng 16 nghĩa quân nằm yên nghỉ tại Bưng Kiệu thuộc phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa. Đền thờ cụ ở phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa.

• Phong trào khởi nghĩa Trại Lâm Trung. Trại Lâm Trung là một tổ chức yêu nước nằm trong hình thái Hội kín rất phổ

biến và phát triển ở Nam bộ đầu thế kỷ 20. Mục đích của các Hội kín này là tập hợp nhân dân, xây dựng lực lượng để kháng chiến chống thực dân Pháp.

Tại Biên Hòa, một nhóm người yêu nước đã thành lập ra Trại Lâm Trung, căn cứ đóng tại xã Thiện Tân (huyện Vĩnh Cửu). Trại thành lập trong lúc chiến tranh thế giới lần thứ nhất đang diễn ra quyết liệt; thực dân Pháp càng ra sức bóc lột, vơ vét tài nguyên bằng sưu thuế nặng nề để trang trải chiến phí và tăng cường bắt thanh niên Việt Nam đi lính để "hy sinh cho mẫu quốc" Pháp. Trại do các nhân vật yêu nước tinh thông võ nghệ như: Năm Hy, Tư Hổ, Ba Hầu, Hai Lực, Bảy Đen, Ba Vạn, Hai Cầm... Trại tổ chức luyện tập võ nghệ, trại viên được trang bị vũ khí thô sơ như gậy, dao, gươm và một ít súng điểu thương.

Trại đã được nhân dân Vĩnh Cửu, Tân Uyên ủng hộ giúp đỡ, tích trữ lương thực. Hoạt động của Trại Lâm Trung bí mật, các đội viên liên lạc với nhau đều bằng mật hiệu, khẩu hiệu.

Đầu năm 1916, Trại Lâm Trung đề ra kế hoạch hoạt động với hai mục tiêu: Tiến đánh thành Săng Đá để tiêu diệt quân Pháp. Tiến đánh khám đường Biên Hòa, giải thoát các người yêu nước và thanh niên

bị Pháp bắt đi lính. Đêm 12-1 Âm lịch năm 1916 (nhằm đêm 16-2-1916), Trại phát động tấn công.

Trong đêm, trống mõ trong các làng đồng loạt nổi lên, thúc giục trại viên xuống đường tiến công các mục tiêu: Nhà làng Tân Trạch, Tân Lương, Tân Khánh, Bến Cá... Một số thanh niên đã được giải thoát.

Các ông Mười Sót, Mười Tiết chỉ huy mũi tiến đánh khám Biên Hòa. Tuy có bất ngờ, nhưng vì vũ khí thô sơ, địch lại được lính từ thành Săng đá tiếp viện nên việc không thành. Hai ông Mười Sót, Mười Tiết bị bắt sống, các trại viên còn lại chạy thoát. Một số đông phạm nhân bên trong nhân cơ hội nổi dậy phá khám chạy thoát được.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 9

Giặc Pháp ở Biên Hòa đã tổ chức lùng sục vào các làng tìm bắt các lãnh tụ Trại Lâm Trung. Chúng dùng cả thủ đoạn bắt cha mẹ, vợ con các vị để buộc các ông phải ra hàng.

Nhờ có bọn tay sai chỉ điểm, tháng 3-1916, các ông cầm đầu Lâm Trung Trại đã sa vào tay giặc Pháp như: Năm Hy, Hai Lựu, Lào Lọt, Hai Sở, Ba Vạn, Bảy Phát, Hai Danh, Hai Hầu...

Khoảng tháng 6-1916, thực dân Pháp đã xử bắn 9 người lãnh đạo Trại Lâm Trung tại ngã ba Dốc Sỏi (xóm Bình Thành), trước sự chứng kiến của hàng trăm bà con xung quanh vùng. Cả 9 ông đều bị trói chặt hai tay vào một cột trụ. Trước cái chết, ông Hương hào Hầu dõng dạc: "Ta sinh làm tướng, chết làm thần, chào bà con ở lại mạnh giỏi ". Anh Hai Sở hiên ngang: " Cứ bắn ta đi ! Sở này không sợ đâu. Cái chết ta thị như quy tân gia ".

Bửu Hưng Tự (Chùa Cô Hồn) nơi thờ các nghĩa sĩ trong phong trào Trại Lâm Trung

Thực dân Pháp đưa thi thể 9 lãnh tụ của Trại Lâm Trung chôn chung một nấm mồ tại " Cây Gõ cụt " cách nơi hành hình khoảng 50 mét.

Năm 1918, nhân dân đã xây dựng một miếu thờ dưới gốc đa ở ngã ba Dốc Sỏi, hàng ngày nhang khói để cầu siêu và tưởng nhớ gương nghĩa liệt của các ông. Đến năm 1920, ngôi miếu chuyển về phía đông và được xây cất lại thành ngôi chùa với tên "Bửu Hưng Tự". nhưng nhân dân Biên Hòa vẫn thường gọi là "Chùa Cô Hồn".

Thất bại của triều Nguyễn cũng như của các cuộc khởi nghĩa yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX đã bộc lộ rõ sự lỗi thời, bất lực của ý thức hệ phong kiến, cũng như tình trạng khủng hoảng lãnh đạo, thiếu đường lối dẫn dắt để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đây chính là bài học sâu sắc về vai trò lãnh đạo, về huy động sức mạnh toàn dân tộc cho sự nghiệp đấu tranh giữ nước. Các cuộc khởi nghĩa của văn thân sĩ phu ở Biên Hòa - Đồng Nai tiêu biểu cho tinh thần yêu nước bất khuất của nhân dân ta trước sự xâm lang của kẻ thù.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 10

CHƯƠNG II: PHONG TRÀO KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN BIÊN HÒA - ĐỒNG NAI DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VÀ SỰ RA ĐỜI, LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN

VIỆT NAM (1918 -1945) I. Tình hình quốc tế và trong nước.

Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1918 đã tác động to lớn đến cục diện thế giới. Nó làm thay đổi vị trí và tương quan lực lượng giữa các nước đế quốc đồng thời còn đưa đến một hệ quả ngoài ý muốn của tất cả các nước tư bản: đó là sự bùng nổ cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năng 1917 dẫn đến sự ra đời của Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới

Dưới sự ảnh hưởng trực tiếp của cách mạng tháng Mười Nga và cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào công nhân và cuộc đấu tranh chống đế quốc của nhân dân các nước trên thế giới đã dấy lên mạnh mẽ, sôi nổi.

Sự thành lập Quốc tế Cộng sản (3-1919) đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới.

Sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản như: Đảng Cộng sản Pháp (1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921),... tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. => Những sự kiện này đã tác động mạnh mẽ đến sự lựa chọn con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.

Ở Việt Nam, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp đã khiến cho cơ cấu xã hội Việt Nam thay đổi. Các giai cấp cũ như địa chủ, nông dân tiếp tục phân hoá. Một số giai cấp và tầng lớp mới ra đời (như công nhân, tư sản; tiểu tư sản),

Ách thống trị và bóc lột của thực dân Pháp đã khiến cho mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp trong xã hội Việt Nam ngày càng trở nên sâu sắc.

Đông đảo các tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh. Từ trong phong trào đã xuất hiện những tổ chức chính trị của tư sản và tiểu tư sản như Đảng Lập Hiến, Hội Phục Việt, Đảng Thanh niên, trong đó, Đảng Lập Hiến của giai cấp tư sản có tư tưởng cải lương rõ rệt.

Phong trào dân tộc dân chủ việt Nam những năm sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã tạo điều kiện cho những trào lưu tư tưởng mới, nhất là tư tưởng của chủ nghĩa Mac-Lênin, truyền vào nước ta.

Ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu Trung Quốc để trực tiếp đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lý luận cách mạng giải phóng dân tộc vào Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc lựa chọn một số thanh niên trong Tâm tâm xã để tổ chức thành nhóm Cộng sản đoàn (2/1925) làm nòng cốt để thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (6-1925) nhằm chuẩn bị điều kiện tiến tới thành lập Đảng Cộng sản;

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 11

xuất bản báo Thanh niên để tuyên truyền tư tưởng cách mạng cho quần chúng. Nguyễn Ái Quốc mở nhiều lớp huấn luyện đào tạo cán bộ. Từ năm 1925 đến năm 1927 đã đào tạo được 75 người. Những bài giảng của Người được xuất bản thành cuốn Đường kách mệnh (1927).

Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vàoViệt Nam gắn liền với những hoạt động Của Nguyễn Ái Quốc. Nhờ có ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin chiếu rọi, phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam có bước phát triển mới. Vào những năm 1925-1927, các tổ chức. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, sau đó là Tân Việt cách mạng Đảngđ ược thành lập.

Đến năm 1929, trước yêu cầu khách quan của lịch sử, ba tổ chức Đông Dương Cộng sản, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn nối tiếp nhau ra đời.

Sự xuất hiện ba tổ chức cộng sản đã thúc đẩy phong trào dân tộc, dân chủ ở nước ta tiếp tục nâng cao, nhưng đồng thời, tình trạng phân biệt của ba tổ chức này cũng gây tổn hại không nhỏ cho sự phát triển của phong trào cách mạng nói chung. Yêu cầu cấp thiết lúc này là phải thống nhất về hành động, tiến tới thành lập một tổ chức cộng sản duy nhất có đủ sức lãnh đạo phong trào công nông Việt Nam đang diễn ra quyết liệt, đồng thời đấu tranh có hiệu quả chống lại những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tàn bạo của kẻ thù.

Đúng vào thời điểm đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện như một vị cứu tinh của cách mạng nước ta.

Đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam tại Cửu Long (Hồng Kông,Trung Quốc). “Hội nghị hợp nhất họp vào ngày 6-1-1930 và chỉ có các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng tham dự... Công việc thống nhất thực sự chỉ tiến hành vào tháng 2-1930 và kéo dài trong nhiều tuần lễ”.

Hội nghị đã nhất trí hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, mở ra một thời kì mới trong lịch sử dân tộc, ngày 24 tháng 2 năm 1930, theo đề nghị của Đông Dương Cộng sản liên đoàn, Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấp thuận kết nạp tổ chức này vào Đảng.

Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. “Thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn. Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 12

và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình”.

Theo Cương lĩnh đó, Đảng đã phát cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, qua đó đã khẳng định trong thực tiễn vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng và sức mạnh của khối liên minh công nông. Sau cuộc đấu tranh đầy gian khổ để bảo vệ Đảng, duy trì tổ chức quần chúng, khôi phục phong trào cách mạng những năm 1932-1933, Đảng đã biết chuyển ngay sang đấu tranh đòi dân sinh dân chủ thời kì 1936-1939 khi tình hình trong nước và thế giới có sự biến chuyển mới. Phong trào đấu tranh những năm 1936-1939 đã làm cho ảnh hưởng của Đảng ăn sâu, lan rộng trong quảng đại quần chúng, sự giác ngộ chính trị của quần chúng được nâng cao.

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng ta đã chuyển hướng chiến lược cách mạng, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tập trung vào mục tiêu giành độc lập, giành chính quyền về tay nhân dân, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang nhằm đảnh đuổi mọi kẻ thù ngoại xâm bất luận da trắng hay da vàng. Chính từ sự chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc những năm 1939-1945 và nắm bắt thời cơ lịch sử một cách chuẩn xác và kịp thời khi Nhật đã đầu hàng quân Đồng Minh, Đảng đã phát động cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.

Cách mạng tháng Tám thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản tuyên ngôn độc lập

khai sinh ra nước Việ Nam dân chủ cộng hòa

Bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân gần 90 năm và chế độ quân chủ chuyên chế để lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỉ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - kỉ nguyên độc lập tự do, dân chủ nhân dân, đi lên chủ nghĩa xã hội.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 13

II. Các cuộc đấu tranh tiêu biểu của nhân dân Biên Hòa – Đồng Nai giai đoạn 1918 - 1945

• Phú Riềng đỏ - Điểm sáng trong phong trào vô sản đầu thế kỷ XX Từ những năm 1925, 1926 trở đi, tỉnh Biên Hòa cũng như nhiều địa phương

khác ở Nam bộ bắt đầu một phong trào yêu nước mang một sắc thái mới. Phong trào đó được soi sáng bởi một đường lối cách mạng tiên tiến: Con đường cách mạng vô sản do Nguyễn Ái Quốc, người con ưu tú, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc ta, tiếp thu và truyền bá vào Việt Nam.

Tháng 6-1924, tổ chức "Thanh niên cách mạng đồng chí hội" được thành lập tại Quảng Châu, Trung Quốc. Đây là một tổ chức tiền thân chuẩn bị cho sự ra đời của một đảng Mác-xít - Lênin-nít ở Việt Nam. Nhiều hội viên sau khi được học tập huấn luyện đã trở về nước hoạt động. Tại Biên Hòa, một số đồng chí đã về hoạt động và xây dựng cơ sở ở các đồn điền cao su Phú Riềng, đề pô xe lửa Dĩ An, nhà máy cưa BIF... Một trong số những hội viên tiêu biểu là đồng chí Nguyễn Văn Vĩnh (tức Nguyễn Xuân Cừ) được cử đi "vô sản hóa" ở đồn điền cao su Phú Riềng, Biên Hòa (nay thuộc huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước).

Tượng đài Phú Riềng Đỏ tại xã Thuận Phú (Đồng Phú –

Bình Phước) Trước đây là tỉnh Biên Hòa.

Tháng 4-1928, chi bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội đồn điền cao su Phú Riềng được thành lập gồm 5 hội viên, do Nguyễn Xuân Cừ làm bí thư. Đây là một trong 19 chi bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Nam kỳ lúc bấy giờ.

Từ những hạt giống đỏ này, đội ngũ cán bộ, cơ sở cách mạng ở Biên Hòa ngày một tăng thêm. Họ là những nhân cốt tổ chức, vận động đông đảo quần chúng lao động bước vào một thời kỳ đấu tranh mới có sự lãnh đạo của tổ chức cách mạng. Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh dấy lên ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào đấu tranh của công nhân ở các đồn điền cao su.

Tháng 10-1929, trên cơ sở tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội, chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng đồn điền cao su Phú Riềng được thành lập. Chi bộ gồm 6 đảng viên, do đồng chí Nguyễn Xuân Cừ làm bí thư.

Ngày 3-2-1930, tại Cửu Long - Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức cộng sản đã hình thành trong nước trước đó

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 14

là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.

Ở Biên Hòa, nhiều thanh niên công nhân, trí thức tiến bộ đã nhanh chóng tiếp thu tư tưởng mới, ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Một số sớm giác ngộ cách mạng đã đứng vào hàng ngũ của Đảng, làm người chiến sĩ tiền phong đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.

Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Biên Hòa, đặc biệt là phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân diễn ra sôi động trong những tháng đầu năm 1930.

Ngay những ngày thành lập Đảng (từ 30-1-1930 đến 6-2-1930) dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, 5.000 công nhân cao su đồn điền Phú Riềng đã nổi dậy đấu tranh với các yêu sách: Đòi thực hiện đúng hợp đồng giao kèo giữa chủ sở với công nhân; cấm đánh đập, cúp phạt; miễn sưu thuế; trả lương thai sản cho nữ công nhân; thực hiện ngày làm 8 giờ, kể cả thời gian đi và về; bồi thường cho công nhân bị tai nạn lao động; ốm đau phải được trị bệnh và được hưởng lương cùng một số kiến nghị khác. Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ và áp lực của đông đảo quần chúng công nhân, giám đốc sở buộc phải chấp nhận các yêu sách. Biên bản được ký tại chỗ giữa đại biểu công nhân và chủ đồn điền. Việc chủ tư bản hạ bút ký "cam kết" thực hiện những kiến nghị của công nhân là một thắng lợi vô cùng to lớn ở đồn điền cao su Phú Riềng từ trước cho đến thời điểm này.

Thế nhưng do chưa có kinh nghiệm đấu tranh, quá say sưa với thắng lợi bước đầu, một số cán bộ công đoàn nảy sinh tư tưởng "manh động ", tiếp tục tổ chức bạo động đấu tranh. Chi bộ Đảng từ chỗ hoạt động bí mật lại chuyển ra hoạt động công khai. Hầu hết các đồng chí đảng viên trong chi bộ và cơ sở cốt cán đều bị địch phát hiện. Sau đó chúng lần lượt bắt hơn 100 người đưa về Biên Hòa giam giữ.

Ở nhà lao Biên Hòa, anh em công nhân đã tuyệt thực nhiều ngày, hò hét đấu tranh phản đối nhà cầm quyền thực dân đánh đập, tra tấn dã man công nhân, đòi cải thiện chế độ lao tù, đòi phải có chiếu nằm, nước tắm cho tù nhân...

Tên giám đốc đề lao, vốn là tên khét tiếng gian ác, đã phải khiếp phục và giải quyết một số yêu sách của anh em. Trước tòa án Biên Hòa, các đồng chí đảng viên: Trần Tử Bình, Nguyễn Mạnh Hồng, các đồng chí Tạ, Doanh... bằng những phát biểu hùng hồn, lý lẽ sắc bén đã vạch trần sự bóc lột dã man của bọn tư bản thực dân, làm cho các quan tòa Pháp tỏ ra lúng túng, bị động phải vội vàng tuyên án và chuyển vụ án về tòa đại hình ở Sài Gòn.

Như vậy, mặc dù có một số tổn thất, cuộc đấu tranh của công nhân cao su Phú Riềng đã giành được thắng lợi. Đây là cuộc đấu tranh lớn nhất trong số các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam lúc bấy giờ, tạo được tiếng vang trong cả nước.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 15

Tiếng vang của "Phú Riềng đỏ" lan nhanh đến các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền, tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh của công nhân, , các tầng lớp nhân dân lao động ở Biên Hòa và miền Đông Nam bộ.

• Chi bộ Bình Phước - Tân Triều và Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa ra đời bước ngoặt trong trào cách mạng ở Biên Hòa

Trước sự phát triển của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo trong những tháng đầu năm 1930, thực dân Pháp và tay sai đã tập trung mọi lực lượng khủng bố, đàn áp khốc liệt. Chúng thẳng tay tàn sát những chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước. Từ tháng 10-1930, nhiều cơ sở Đảng ở Nam kỳ bị phá vỡ, nhiều đảng viên ưu tú bị giặc giết hại, tù đày. Phong trào cách mạng nói chung và phong trào ở Biên Hòa nói riêng bước vào giai đoạn "thoái trào", tạm thời lắng xuống.

Đầu năm 1935, đồng chí Hoàng Minh Châu quê ở Tiền Giang, được Liên Tỉnh ủy miền Đông cử về hoạt động ở Biên Hòa. Đồng chí xin vào làm thợ ở nhà máy cơ khí Trường Tiền (tỉnh lỵ Biên Hòa). Từ đây, đồng chí đã bước đầu xây dựng được một số cơ sở trong nhà máy, đồng thời thăm dò liên lạc với nhóm cơ sở Đảng do đồng chí Lưu Văn Viết tổ chức xây dựng trước đó. Sau khi đã móc nối và thống nhất lại với nhau, đồng chí Hoàng Minh Châu đã vận động thành lập chi bộ Đảng lấy tên là chi bộ Bình Phước - Tân Triều.

Đài tưởng niệm

Giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ

Di tích lịch sử địa điểm thành lập Chi bộ Cộng sản Bình Phước - Tân Triều và Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa.

Sự ra đời của chi bộ Bình Phước-Tân Triều và các cơ sở của Đảng giữa năm 1935 đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng, một bước phát triển mới của phong trào cách mạng tỉnh Biên Hòa. Đây là chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên đã được thành lập trên địa bàn tỉnh Biên Hòa (Đồng Nai hiện nay), là hạt nhân lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương và là nòng cốt để hình thành tổ chức Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa sau này. Từ giữa năm 1936, trong phong trào mặt trận Dân chủ Đông Dương, phong trào cách mạng ở Biên Hòa phát triển lại ngày càng mạnh mẽ.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 16

Tháng 8-1939, Ủy ban trù bị Đông Dương đại hội được thành lập tại Sài Gòn và các ủy ban hành động của các tỉnh ở Nam kỳ cũng nhanh chóng được tổ chức.

Xứ ủy Nam kỳ và ủy ban trù bị Đông Dương đại hội cử các đồng chí Dương Bạch Mai và Nguyễn Văn Nghĩa về Biên Hòa trực tiếp tổ chức và chỉ đạo phong trào cách mạng ở địa phương.

Trở về Biên Hòa, quê hương của mình, đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa đã móc nối liên lạc ngay với các đảng viên trong chi bộ Bình Phước - Tân Triều và một số đồng chí thân quen như: Huỳnh Văn Lũy, Nguyễn Văn Ký, Phạm Văn Khoai, Phạm Văn Thuận, Hồ Văn Đại, Lưu Văn Văn...để tổ chức vận động cách mạng.

Ủy ban hành động tỉnh Biên Hòa được thành lập, do đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa làm chủ tịch. Ủy ban hành động của các quận: Châu Thành, Xuân Lộc, Tân Uyên, Long Thành cũng được tổ chức và hoạt động công khai, thu hút đông đảo các tầng lớp dân chúng tham gia, nhất là giới nhân sĩ, trí thức, thanh niên, học sinh và công nhân.

Nhiều cuộc mít tinh, tuần hành được tổ chức khắp nơi, hàng vạn truyền đơn, tài liệu của Đảng được phát hành rộng rãi trong nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đòi dân sinh dân chủ của các tầng lớp nhân dân lao động ở Biên Hòa nổ ra liên tục, mạnh mẽ, nhất là phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, điểm tập trung sôi động là nhà máy cưa BIF, ga xe lửa Biên Hòa và các đồn điền cao su ở Xuân Lộc.

Đầu năm 1937, Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa được thành lập do đồng chí Trương Văn Bang trực tiếp làm bí thư. Các đồng chí Tỉnh ủy khác gồm có: Trần Minh Triết, Huỳnh Văn Phan, Lê Văn Tôn, Huỳnh Liễng, Nguyễn Hồng Kỳ.

Nhiều đồng chí đảng viên ở các nơi khác cũng lần lượt về Biên Hòa móc nối liên lạc hoạt động, tổ chức các chi bộ Đảng cơ sở. Công tác xây dựng Đảng từ đây có những bước phát triển mới, một số chi bộ được thành lập. Tại nhà máy cưa BIF, có hai chi bộ Đảng được thành lập là chi bộ khối nhà máy và chi bộ khối lao động đơn giản, mỗi chi bộ có 3 đảng viên. Ở xã Bửu Long cũng hình thành một chi bộ. Hai xã Tân Phong và Bình Ý, chi bộ liên xã cũng được thành lập trong thời kỳ này.

Ở quận Xuân Lộc, đến tháng 2-1937, thành lập được một chi bộ do đồng chí Nguyễn Văn Lắm (Ba Nghệ) công nhân cao su làm bí thư. Một số sở cao su dọc liên tỉnh lộ số 2 (Xuân Lộc-Bà Rịa) cũng tổ chức được chi bộ Đảng như: đồn điền Cuộc-tơ-nay (Cẩm Mỹ).

Ngoài ra, Tỉnh ủy còn chỉ đạo thành lập các tổ chức bí mật, hợp pháp, bán hợp pháp để tập hợp lực lượng, tuyên truyền giác ngộ cách mạng, phát động quần chúng đấu tranh. Tổ chức Công hội đỏ được bí mật xây dựng ở nhà máy cưa BIF, ga xe lửa Biên Hòa, các sở cao su ở Long Thành, Xuân Lộc.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 17

Ở các xã Bình Phước, Bình Ý, Bình Thạnh... (quận Châu Thành) một số tiểu tổ Công hội đỏ cũng được thành lập. Phổ biến nhất là các hội ái hữu như: hội chùa, hội miễu, hội đá bóng, hội lân, hội cày, hội cấy được tổ chức ở nhiều nơi, thu hút hàng vạn người tham gia.

Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa, phong trào đấu tranh cách mạng của các tầng lớp nhân dân tiếp tục diễn ra sôi nổi trong các năm 1937, 1938,1939.

Qua phong trào đấu tranh cách mạng, nhiều công nhân, nông dân, thanh niên, trí thức ưu tú được kết nạp vào Đảng, trở thành những nhân tố cốt cán trong việc tuyên truyền, vận động phát triển phong trào cách mạng ở các địa phương trong tỉnh.

Sự ra đời của Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa và những thành quả đã giành được trong cao trào cách mạng 1936-1939 của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Biên Hòa, đánh dấu một bước phát triển quan trọng, tạo cơ sở vững chắc cho phong trào dấu tranh cách mạng trong những năm kế tiếp, nhất là cao trào Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945.

III. Cách mạng tháng Tám thành công. Trang sử đấu tranh mới của nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai.

Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật đảo chánh thực dân Pháp để độc chiếm Đông Dương. Ở Biên Hòa, ngay sáng ngày 10-3-1945, bộ máy thống trị của thực dân Pháp lọt vào tay phát xít Nhật.

Ngay trong đêm Nhật đảo chánh Pháp, Ban thường vụ Trung ương Đảng triệu tập hội nghị mở rộng tại Đình Bảng, tỉnh Bắc Ninh. Hội nghị đề ra nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân lúc này là phát động phong trào chống Nhật cứu nước, đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Tháng 5-1945, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam kỳ, tổ chức thanh niên Tiền phong được thành lập tại Sài Gòn, do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, đảng viên Đảng Cộng sản làm thủ lĩnh.

Ở Biên Hòa, tổ chức Thanh niên Tiền Phong do Huỳnh Thiện Nghệ làm thủ lĩnh, đã phát triển nhanh chóng từ tỉnh đến cơ sở làng, xã xí nghiệp, đồn điền cao su, nhà máy.

Cũng trong tháng 5-1945, tại ấp Vĩnh Cửu, xã Tam Hiệp, quận Châu Thành, Biên Hòa, Liên Tỉnh ủy miền Đông triệu tập cuộc họp cán bộ Đảng toàn miền Đông để phổ biến chủ trương của Trung ương về tình hình nhiệm vụ mới, trọng tâm là vấn đề chuẩn bị lực lượng để tham gia cuộc tổng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc.

Tiếp đó, tháng 7-1945 tại chùa Tân Mai, quận Châu Thành, đồng chí Hà Huy Giáp đại diện Xứ ủy Nam kỳ đã họp với các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Biên Hòa để phổ biến chủ trương của Xứ ủy là gấp rút xây dựng phát triển lực lượng cách mạng. Hội nghị nhấn mạnh việc khẩn trương phát triển các tổ chức đoàn thể Việt

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 18

Minh, nắm chắc lực lượng Thanh niên Tiền phong, chuẩn bị phát động quần chúng nhân dân trong toàn tỉnh nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 15-8-1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Tin Nhật đầu hàng lan truyền nhanh chóng. Bọn sĩ quan và binh lính Nhật ở Biên Hòa hoang mang, rệu rã. Ngọn lửa cách mạng bùng lên mạnh mẽ. Bầu không khí tiền khởi nghĩa sôi động khắp thành thị và nông thôn. Ngày cũng như đêm, trên khắp các nẻo đường, xóm ấp ở Biên Hòa rộn rã tiếng hát, lời ca cách mạng. Những ca khúc "Tiếng hát thanh niên", "Bạch Đằng giang", "Chi Lăng" giục giã lòng người, bừng bừng khí thế vùng dậy đấu tranh để cởi bỏ gông xiềng nô lệ.

Ngày 19-8-1945, cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội đã giành được thắng lợi rực rỡ. Ngày 20-8, Xứ ủy Nam kỳ họp hội nghị tại Chợ Đệm để phổ biến kế hoạch

khởi nghĩa ở Nam bộ. Ngày 3-8-1945, tại căn nhà số 2 dãy phố Sáu Sử, xã Bình Trước, quận Châu

Thành, Biên Hòa, đồng chí Hoàng Minh Châu chủ trì cuộc họp với các đồng chí cán bộ trong tỉnh để bàn kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền, trọng điểm là tỉnh lỵ Biên Hòa. Hội nghị đã bàn bạc thống nhất và quyết định một số việc cấp bách chuẩn bị cho khởi nghĩa.

Ngay trong đêm 23 rạng sáng ngày 24-8-1945, trong nội thành thị xã Biên Hòa, nhân dân đã treo cờ đỏ sao vàng, cờ búa liềm, cờ vàng sao đỏ (cờ Thanh niên Tiền phong), dán khẩu hiệu khắp các phố thị...Trụ sở ủy ban khởi nghĩa đặt gần ga xe lửa Biên Hòa luôn tấp nập các đoàn cán bộ ở các địa phương về nhận chỉ thị khởi nghĩa. Lúc này, hầu hết các tầng lớp nhân dân đều sục sôi cách mạng, tinh thần quyết tâm giành độc lập dâng cao hơn bao giờ hết.

Sáng sớm ngày 24-8, dưới sự lãnh đạo của chi bộ nhà máy cưa BIF, chi bộ ga xe lửa Biên Hòa, công nhân và nhân dân các ấp Tân Mai, Lân Thành, Vĩnh Thị đã nổi dậy làm chủ các cơ sở trên, đồng thời lập lực lượng xung kích làm lực lượng nòng cốt cho cuộc khởi nghĩa ở Biên Hòa.

Đêm 24-8, tại rạp hát Trần Điển (thị xã Biên Hòa), một cuộc mít tinh lớn được tổ chức với hàng trăm quần chúng tham gia. Các đồng chí trong Ủy ban khởi nghĩa đã diễn thuyết, kêu gọi đồng bào tham gia Mặt trận Việt Minh, tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền.

Suốt đêm 24-8, lực lượng Thanh niên xung kích rầm rập đi tuần tra trên các đường phố thị xã. Lực lượng cách mạng đã làm chủ nội thành và ngoại thành Biên Hòa. 1 giờ sáng ngày 25-8, chuyến xe lửa đầu tiên trong ngày do ông Ba Miều lái từ ga Biên Hòa đã đưa hơn 500 người, bao gồm đại diện công nhân các nhà máy, nhân dân các ấp thuộc xã Bình Trước, quận Châu Thành về Sài Gòn cùng tham gia giành chính quyền. Thắng lợi Sài Gòn càng làm nức lòng cán bộ, nhân dân Biên Hòa. Lực lượng xung kích đã chiếm giữ hầu hết các công sở trong thị xã Biên Hòa.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 19

Sáng sớm ngày 26-8-1945, đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa đã tập họp hàng trăm quần chúng tiến thẳng vào Tòa bố Biên Hòa, treo lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên tại dinh tỉnh trưởng. Đông đảo đồng bào tập trung trước Tòa bố reo hò vang dậy.

Đến 11 giờ trưa cùng ngày, các đồng chí Hoàng Minh Châu, Huỳnh Văn Hớn và một số đồng chí trong Ủy ban khởi nghĩa tiếp tục đến Tòa bố buộc tỉnh trưởng Nguyễn Văn Quý cùng các viên chức đứng đầu các công sở trong tỉnh bàn giao chính quyền cho cách mạng.

Ngay chiều hôm đó, lực lượng cách mạng đã bắt giữ tên cò Phướcchỉ huy lực lượng cảnh sát tỉnh Biên Hòa, tịch thu 40 khẩu súng các loại của bọn lính mã tà tại cửa tiền (khám lớn). Lực lượng xung kích nhanh chóng chiếm lĩnh, tiếp quản các cơ quan, công sở còn lại ở quận Châu Thành. Sáng sớm ngày 27-8-1945, tại quảng trường Sông Phố, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức. Gần một vạn người từ khắp các huyện về tham dự. Sau lễ chào quốc kỳ, đồng chí Dương Bạch Mai, cán bộ Xứ ủy Nam kỳ đại diện Mặt trận Việt Minh ở Nam bộ, diễn thuyết được quần chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Tiếp đó, đồng chí Hoàng Minh Châu, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa, đọc diễn văn tuyên bố chính quyền về tay nhân dân và công bố thành phần Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa.

Kết thúc cuộc mít tinh là lễ tuyên thệ, gần một vạn người thay mặt cho hơn 15 vạn đồng bào trong tỉnh đã long trọng đưa cao nắm tay thề sẵn sàng hy sinh tính mạng, tài sản, kiên quyết bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc, bảo vệ những thành quả của cách mạng vừa giành được. Đến 12 giờ trưa, cuộc mít tinh kết thúc. Quần chúng phấn khởi hô vang các khẩu hiệu: "Việt Nam độc lập muôn năm","Việt Minh muôn năm"... tiếp tục diễu hành tỏa về các địa phương biểu dương lực lượng. Tỉnh Biên Hòa từ thị xã đến nông thôn, nhà máy, đồn điền thực sự là một ngày hội lớn. Khắp các nẻo đường, đâu đâu cũng sôi động cả một rừng người và cả một rừng cờ, ai ai cũng hân hoan cảm động đến trào nước mắt.

Sau khi giành chính quyền ở tỉnh, chính quyền ở các quận, xã còn lại ở các quận Châu Thành, Xuân Lộc, Tân Uyên cũng nhanh chóng về tay nhân dân vài ngày sau đó. Từ thân phận nô lệ lầm than, nhân dân tỉnh Biên Hòa dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cùng cả nước vùng dậy, đập tan bộ máy thống trị của thực dân, giành lấy độc lập tự do cho Tổ quốc.

Phấn khởi tự hào trước thắng lợi giành được, Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa đã đoàn kết một lòng, khắc phục những khó khăn trở ngại, tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 20

BÀI VIẾT: CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP LẦN THỨ HAI

NHÂN DÂN BIÊN HÒA - ĐỒNG NAI CÙNG NHÂN DÂN CẢ NƯỚC ĐÁNH ĐUỔI THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 -1954)

I. Cả nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược(1945 – 1954)

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, cách mạng cả nước đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước vô vàn những khó khăn trong việc chống ngoại xâm và nội phản, cũng như cải tạo, xây dựng nền kinh tế, văn hóa, xã hội.

Lúc này Miền Bắc 20 vạn quân Tưởng lấy cớ giải giáp quân Nhật tiến vào nước ta theo con đường Móng Cái, Lào Cai, đằng sau Tưởng là đế quốc Mỹ với âm mưu đặt Đông Dương dưới chế độ uỷ trị. Theo sau quân Tưởng là tổ chức Việt gian phản động Việt Quốc, Việt Cách về chống phá cách mạng. Việt Quốc, Việt Cách lập chính quyền ở Móng Cái, Hồng Gai, Lào Cai. Lực lượng quân Tưởng vào Việt Nam thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng thành lập chính quyền tay sai nguy cơ rất lớn đe doạ nền độc lập của nước ta. Đầu tháng 9/1945, ở phía Nam có khoảng 1 vạn quân Anh vào rải rác, quân đội Nhật đã đồng loã với thực dân Pháp xâm lược nước ta. Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp được sự giúp đỡ của Anh xâm lược trở lại nước ta. Ngoài ra, ta còn có 6 vạn quân Nhật đang chờ rải rác sẵn sàng thực hiện theo lệnh của Tưởng và Anh chống phá cách mạng của ta.

Mặc dù đế quốc mâu thuẫn nhau về quyền lợi nhưng chúng đều thống nhất ở mục tiêu diệt cách mạng Đông Dương bóp chết chính quyền non trẻ ngay trong thời kỳ còn trứng nước.

Về quân sự: Lực lượng quân đội chưa có đủ thời gian và điều kiện phát triển lực lượng vũ trang và quân đội chính quy. Sau Cách mạng tháng Tám, lực lượng quân đội chính quy của ta chỉ có khoảng 5 nghìn người với vũ khí thô sơ.

Tài chính- kinh tế: Do chính sách cai trị khắc nghiệt của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã để lại hậu quả hết sức nặng nề: Ruộng đất hoang hoá, Công thương nghiệp đình đốn, công nhân không có việc làm, hàng hoá khan hiếm, nhân dân ta vừa trải qua nạn đói 1945. Nguy cơ nạn đói mới đe doạ, sản xuất nông nghiệp chưa được phục hồi, năm 1946 lại xảy ra hạn hán đe doạ đời sống nhân dân. Tài chính cạn kiệt, ngân khố trống rỗng, thuế chưa thu được.

Về văn hoá xã hội: Do chính sách ngu dân của thực dân Pháp nên sau cách mạng nước ta có hơn 95% dân số mù chữ, đồng thời tàn dư của chế độ cũ hết sức lỗi thời các hủ tục lạc hậu diễn ra phổ biến.

Như vậy: Sau cách mạng tháng 8 đất nước ta, dân tộc ta đứng trước tình thế vô cùng hiểm nghèo, ta vừa giành được chính quyền lại đứng trước nguy cơ mất chính quyền vận mệnh dân tộc chẳng khác nào “Ngàn cân treo sợi tóc”, giữ vững chính

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 21

quyền là điều không tưởng nhưng bằng tài năng sáng suốt Đảng, Bác Hồ đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những khó khăn này.

Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính :

Chính trị : Trên mặt trận chính trị, chúng ta đã thành công với việc tổ chức cuộc tổng tuyển cử tự do đầu tiên trong cả nước, bầu ra chính quyền Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ Trung ương đến địa phương. Ngày 06/01/1946, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu bầu Quốc hội. Ngày 02/03/1946, Quốc hội thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, lập ra Ban dự thảo Hiến pháp. Ngày 09/11/1946: Ban hành Hiến pháp đầu tiên. Các địa phương thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ bầu cử hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã) theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu.

Quân sự: Lực lượng vũ trang được xây dựng. Việt Nam giải phóng quân đổi thành Vệ quốc đoàn (9/1945), rồi Quân đội quốc gia Việt Nam (22/5/1946). Cuối năm 1945, lực lương dân quân tự vệ tăng lên hàng chục vạn người.

Để giải quyết nạn đói: Hồ Chủ tịch kêu gọi “Nhường cơm sẻ áo”, lập “Hũ gạo cứu đói”, tổ chức“Ngày đồng tâm”. Quyên góp, điều hòa thóc gạo giữa các địa phương trong cả nước, nghiêm trị những kẻ đầu cơ tích trữ, không dùng gạo, ngô, khoai, sắn để nấu rượu. Biện pháp lâu dài là tăng gia sản xuất “Tấc đất, tấc vàng”, “Không một tấc đất bỏ hoang”. Giảm tô, thuế ruộng đất 25 %, chia lại ruộng đất công. Vì vậy, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi, nạn đói bị đẩy lùi.

Giải quyết nạn dốt: Ngày 8/ 9/1945, Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh lập Nha bình dân học vụ, kêu gọi nhân dân xóa nạn mù chữ. Đến ngày 8/9/1946, trên toàn quốc gần 76 nghìn lớp học, xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người. Trường học các cấp phổ thông và đại học sớm khai giảng, nội dung và phương pháp giáo dục được đổi mới theo tinh thần dân tộc dân chủ.

Trên mặt trận kinh tế, để giải quyết nạn đói ta đẩy mạnh tăng gia sản xuất, giảm tô thuế, bãi bỏ những loại thuế vô lí,… đã động viên toàn dân tích cực sản xuất giải quyêt đẩy lùi bước đầu nạn đói. Để giải quyết những khó khăn về tài chính Chính phủ đã động viên nhân dân đóng góp bằng các hình xây dựng các loại quỹ: “quỹ độc lập”, “quỹ đảm phụ quốc phòng”, “quỹ kháng chiến”, tổ chức “tuần lễ vàng”. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, vì độc lập tự do của Tổ quốc, nhân dân Việt Nam không phân biệt giai cấp, tôn giáo, người có nhiều góp nhiều, người có ít góp ít để ủng hộ chính phủ. Nhân dân đã tự nguyện đóng góp được 370kg vàng, 20 triệu đồng vào quỹ độc lập và 40 triệu đồng vào quỹ đảm phụ quốc phòng, những khó khăn về tài chính bước đầu được giải quyết.

Trên mặt trận quân sự ngoại giao, chúng ta đã thực hiện sách lược “hòa Pháp, đuổi Tưởng” đồng thời kéo dài thời gian hòa hoãn để chuẩn bị cho công cuộc kháng

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 22

chiến. Đại diện chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí với Pháp Hiệp định sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14/9, bước đầu loại hơn 20 vạn quân Tưởng ra khỏi Việt Nam, kéo dài thời gian cho công cuộc chuẩn bị kháng chiến.

Sau khi thay thế quân Tưởng ở miền Bắc, thực dân Pháp trắng trợn bội ước, thể hiện dã tâm biến nước ta thành thuộc địa một lần nữa. Trước tình thế cấp bách, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp và quyết định phát động kháng chiến trong toàn quốc. Đúng 20 giờ ngày 19/12/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên toàn quốc bắt đầu.

Trong giai đoạn đầu của công cuộc toàn quốc kháng chiến, cách mạng nước ta đúng trước muôn vàn khó khăn, thử thách. Các cơ quan đầu não của kháng chiến phải rút lên căn cứ địa Việt Bắc trong tình thế bị thực dân Pháp bao vây, cô lập, gần như không có sự liên lạc với cách mạng thế giới. Sự nghiệp kháng chiến phải “tự lực cánh sinh” là chính.

Phát lệnh toàn quốc kháng chiến(19 -12 – 1946)

Từ năm 1947 đến năm giữa 1950, bên cạnh việc xây dựng và củng cố hậu phương vững mạnh về mọi mặt, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Quân dân ta đã đánh bại âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của địch ở chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, tiếp đó chuyển dần từ thế phòng ngự sang “phòng ngự tích cực” bằng việc mở nhiều chiến dịch có quy mô vừa và nhỏ như chiến dịch Nghĩa Lộ (3/1948), chiến dịch Đông Bắc (10/1948), chiến dịch sông Đà (1/1949), chiến dịch Lê Lợi (11/1949), chiến dịch Lê Hồng Phong (1-1950),… Tạo thế và lực chuẩn bị đưa kháng chiến sang giai đoạn phản công và tổng phản công.

Ngày 16/9/1950, ta chủ động mở Chiến dịch Biên Giới Thu - Đông tấn công vào tuyến phòng thủ của địch dọc theo biên giới Việt - Trung, mở đầu bằng trận tấn

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 23

công vào cứ điểm Đông Khê. Tiếp đó, đánh địch phản công và rút chạy. Sau 29 ngày đêm chiến đấu, quân ta dành thắng lợi hoàn toàn, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn với đuờng biên giới dài 750km diệt và bắt sống 8000 tên địch. Thắng lợi của chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950 đã tạo ra một chuyển biến cơ bản cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta, đưa cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới, giai đoạn quân đội ta nắm quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, chủ động tiến công và phản công.

Tháng 2/1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được diễn ra đánh dấu sự lớn mạnh vượt bậc của cách mạng nước nhà, Đảng quyết định đưa ra hoạt động công khai, đổi tên thành Đảng lao động Việt Nam. Bước sang các năm từ 1951-1953, quân ta mở hàng loạt các chiến dịch tấn công vào vùng trung du, đồng bằng gồm chiến dịch trung du (chiến dịch Trần Hưng Đạo), chiến dịch đường số 18 (chiến dịch Hoàng Hoa Thám), chiến dịch đồng bằng (chiến dịch Quang Trung) song kết quả đạt được chưa cao. Rút kinh nghiệm, ta chuyển địa bàn chiến lược tấn công địch ở vùng thượng du, đồng thời đẩy mạnh hoạt độngsau lưng địch. Ta mở các chiến dịch: chiến dịch Hòa Bình (12/1951 đến tháng 2/1952), chiến dịch Tây Bắc thu - đông 1952, chiến dịch Thượng Lào (từ tháng 4/1952 đến tháng 5/1953) dành được những thắng lợi chiến lược to lớn, buộc địch phải co cụm lực lượng phòng ngự ở đồng bằng sông Hồng, Điện Biên Phủ và một số nơi.

Trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ (từ ngày13/3 đến 7/5/1954), quân ta đã tiêu diệt và bắt sống hoàn toàn lực lượng quân địch ở đây (tổng số 16200 tên địch), đập tan, đè bẹp ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải kí vào hiệp định Giơ-ne-vơ (21/7/1954) lập lại hòa bình ở Đông Dương.

II. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai (1945 – 1954)

Cùng với cả nước, nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai bước vào công cuộc trường kì kháng chiến ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công.

1. Thành lập trường huấn luyện Vĩnh Cửu. Tháng 9-1945, Tỉnh ủy Biên Hòa đã thành lập trường huấn luyện cán bộ quân

sự đầu tiên ở Miền Đông, bấy giờ gọi là trại Du kích Vĩnh Cửu. Lãnh đạo tổ chức trại gồm: Phan Đình Công - Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hòa

phụ trách quân sự, Nguyễn Xuân Diệu, Nguyễn Trí Định, giáo sư Phạm Thiều, Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Đình Ưu, Huỳnh Văn Hớn Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Biên Hòa.

Địa điểm được chọn để mở trường huấn luyện là ấp Vĩnh Cửu thuộc xã Tam Hiệp, quận Châu Thành, Biên Hòa (nay là phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa). Ấp Vĩnh Cửu chỉ cách thành phố Biên Hòa khoảng 6 km theo đường kiểm đất đỏ, ra quốc lộ 15 chỉ 800 mét. Vĩnh Cửu (lúc này) có địa hình rừng chồi, rừng già chỉ cách 2

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 24

km, trong ấp có khoảng vài chục căn nhà lợp lá của dân. Ngôi nhà ngói duy nhất của ấp Vĩnh Cửu là nhà thầy giáo Hồ Văn Thể, dựa lưng rừng chồi và Suối Linh. Ông giáo Thể đã nhường ngôi nhà này để làm văn phòng Ban chỉ huy của trại. Trước nhà là mảnh ruộng lớn dùng làm bãi tập quân sự. Học viên của trại được bố trí ăn ở ngay trong nhà dân. Hàng ngày Ủy ban nhân dân tỉnh đều có hai xe ca chở lương thực tiếp tế cho trại.

Ngày 26-9-1945, trại mở khóa học đầu tiên. Trường không chỉ tập hợp thanh niên ưu tú ở các địa phương trong tỉnh, mà còn thu hút nhiều tổ chức, cá nhân từ các địa phương khác:

- Phân đội nhà máy cưa Biên Hòa (BIF). - Phân đội Tân Phong do Nguyễn Chức Sắc chỉ huy (ông nguyên là công chức

Sở Đạc điền Biên Hòa) - Một tiểu đội lính Nhật theo kháng chiến 10 người từ Tân Vạn lên tham gia.

20 người, gồm cả đảng viên cộng sản ở hộ 6 Sài Gòn. Công nhân xe lửa Sài Gòn (7 người).Thanh niên các xã và nhiều công, tư chức ở Biên Hòa, Sài Gòn...

Giảng viên chính của trại gồm: Nguyễn Xuân Diệu, Nguyễn Trí Định (dạy quân sự). Nguyễn Xuân Diệu nguyên là Bí thư chi bộ hộ 6 ở Sài Gòn; còn Nguyễn Trí Định (quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh) là đảng viên chi bộ Hòa Hưng (Sài Gòn), được đào tạo ở trường Thiếu sinh quân của Pháp (Enfants de troupe), đã từng làm đội cho Pháp trong đồn Chí Hòa. Tham gia huấn luyện quân sự còn có nhóm "Việt Nam mới".

Nội dung huấn luyện quân sự gồm: huấn luyện đội ngũ, chiến thuật chiến đấu cá nhân, chiến đấu tiểu đội, trung đội; cách sử dụng các loại vũ khí (súng trường, trung liên, lựu đạn, phóng lựu). Đặc biệt, học viên còn được dạy cách đánh xe tăng bằng mìn chống tăng do Hòa Xang, nguyên là lính lái xe tăng trước đây của Nhật hướng dẫn. Học viên còn được học võ Judo, kỹ thuật đánh cận chiến bằng lưỡi lê.

Trường đã mở được hai khóa huấn luyện, mỗi khóa 15 ngày. Tuy thời gian huấn luyện ngắn nhưng những chiến sĩ tốt nghiệp tại trường du kích Vĩnh Cửu vừa biết chiến đấu, chỉ huy chiến đấu, quản lý đơn vị, biết làm công tác chính trị, binh vận, dân vận... Đó chính là những cán bộ quân đội kiểu mới. Hầu hết các học viên sau này đều là những cán bộ nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang ở các tỉnh miền Đông Nam bộ.

Ngoài huấn luyện quân sự, chính trị, tăng cường cán bộ cho các địa phương, trường còn phối hợp với lực lượng quân Nam tiến đánh chiếm cầu Bình Lợi, ngăn chận quân Pháp mở rộng lấn chiếm ra ngoài Sài Gòn (20-10-1945).

Ngày 25-10-1945, quân Pháp đánh chiếm tỉnh lỵ Biên Hòa, một lần nữa, trường phải chuyển về khu vực Suối Linh (Vĩnh Cửu).

Hơn hai tháng thành lập, huấn luyện, trại Du kích Vĩnh Cửu, trường quân chính đầu tiên của Biên Hòa và miền Đông đã đào tạo trên 100 cán bộ quân sự, chính trị.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 25

Đây là lực lượng nòng cốt để phát động phong trào du kích ở Biên Hòa và một số tỉnh miền Đông. Đây cũng là những cán bộ quân đội nòng cốt của nhiều đơn vị vũ trang như chi đội 10, trung đoàn 310 Biên Hòa, chi đội 16, trung đoàn 307 Bà Rịa, trung đoàn 812 Bình Thuận...

Trường huấn luyện du kích Vĩnh Cửu, Bình Đa, chính là tiền thân của trường Quân chính Quân khu 7 trong kháng chiến chống Pháp. Thực chất trại Vĩnh Cửu, trại huấn luyện du kích Vĩnh Cửu là một tổ chức quân sự tập trung có quân số khá đông (4 phân đội 100 người), có tổ chức chỉ huy. Đó là một đội quân có quy củ, được trang bị mạnh ngay từ những ngày đầu kháng chiến, có sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh. Trại là một trong những lực lượng quan trọng hợp thành chi đội 10 Biên Hòa sau này.

2. Trận tập kích đầu tiên vào tỉnh lỵ Biên Hòa (2-1- 1946). Nhân dân Biên Hòa chỉ được hưởng độc lập từ ngày 26-8-1945 đến ngày 24-

10-1945, tức chỉ được 1 tháng 28 ngày. Trong gần hai tháng đó, Tỉnh ủy lâm thời mới được thành lập (qua hội nghị Bình Trước), chính quyền mới ra đời còn rất non trẻ, vừa phải lo ổn định đời sống, sản xuất cho dân, vừa tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, sẵn sàng chống thực dân Pháp trở lại cướp nước ta lần thứ hai như lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, bằng bất cứ giá nào cũng phải giữ lấy độc lập tự do...

Thực dân Pháp âm mưu xâm lược lại nước ta lần nữa, khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Lợi dụng danh nghĩa Đồng Minh, tháng 8-1945 quân Pháp theo chân quân Anh đổ bộ vào Sài Gòn và liên tục gây hấn. Rạng sáng ngày 23-9-1945, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn. Cuộc kháng chiến ở Nam bộ đã bùng nổ. Lời kêu gọi kháng chiến của Xứ ủy, Ủy ban Kháng chiến Nam bộ đã thể hiện rõ quyết tâm của toàn dân ta nói chung và nhân dân Nam bộ nói riêng "Hỡi đồng bào! Từ giờ phút này, nhiệm vụ của chúng ta là tiêu diệt giặc Pháp, tiêu diệt tay sai của chúng. Hỡi anh em binh sĩ, dân quân tự vệ ! Hãy nắm chặt vũ khí trong tay, xông lên đánh đuổi thực dân Pháp cứu nước".

Cuối tháng 10-1945, Pháp phá vỡ vòng vây ở Sài Gòn. Và mục tiêu lấn chiếm kế tiếp là Biên Hòa, tỉnh có vị trí quan trọng để mở đường chiếm các tỉnh miền Đông Nam bộ, ra cực Nam Trung bộ và Tây Nguyên.

Trước đó, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Biên Hòa một mặt xây dựng lực lượng vũ trang, đưa lực lượng vũ trang Kinh-Thượng xuống cùng nhân dân Sài Gòn Gia Định chống Pháp; vừa phát động vườn không nhà trống, phát lệnh toàn dân "tiêu thổ kháng chiến". Các cơ quan lãnh đạo và các đoàn thể đều rút ra vùng căn cứ Tân Uyên và vùng ven thị xã, xây dựng căn cứ du kích như Bình Đa, Hố Cạn (Tân Phong).

Ngày 24-10-1945, thực dân Pháp với quân Anh hỗ trợ đánh chiếm tỉnh lỵ Biên Hòa. Chúng đưa quân trấn giữ các đầu mối giao thông, các đội du kích, tự vệ chiến

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 26

đấu và xung phong cảm tử Châu Thành vẫn liên tục hoạt động, đột nhập thị xã và các xã ven, các xã dọc lộ 1, 15 diệt tề trừ gian, gây cho địch nhiều thiệt hại về người.

Trong lúc đó, tại Biên Hòa, từ cuối tháng 10-1945, nhiều lực lượng vũ trang đã về đứng chân. Thị xã Biên Hòa lúc này được thực dân Pháp xây dựng, tổ chức thành một trung tâm chỉ huy đánh phá phong trào cách mạng ở miền Đông với nhiều cơ quan quân sự quan trọng.

Cơ quan tuyên truyền của địch không ngớt ca ngợi "thành quả" lấn chiếm, mở rộng của Pháp nằm trong chiến lược "đánh nhanh, chiếm nhanh và bình định nhanh" Nam bộ.

Để đập tan luận điệu tuyên truyền của thực dân Pháp, khẳng định sự tồn tại và phát triển của lực lượng kháng chiến ở miền Đông, cổ vũ tinh thần kháng chiến của nhân dân, Tư lệnh chiến khu 7 Nguyễn Bình quyết định tổ chức trận tập kích đầu tiên vào tỉnh lỵ Biên Hòa. Đây là một chủ trương táo bạo và cần thiết.

Công tác trinh sát, nghiên cứu địch trong thị xã được giao cho Vệ quốc đoàn Biên Hòa. Phân đội 4 do Nguyễn Chức Sắc chỉ huy. Phân đội trưởng phân đội 5 là Lê Thoa cùng các chiến sĩ công tác thành nhiều lần hóa trang, bí mật lọt vào nội ô tỉnh lỵ để nghiên cứu các mục tiêu, lên sơ đồ các điểm đóng quân của Pháp, các công sở của địch, trọng điểm là thành Săng Đá, sở hiến binh, bưu điện, nhà ga Biên Hòa, cầu Gành, hãng dầu...

Cuối tháng 12-1945, công tác tổ chức và phương án tiến công đã được thông qua. Các lực lượng vũ trang đã được điều về áp sát thị xã trên các hướng Hóa An, Tân Phong, Bình Đa... Thời gian được chọn là sau ngày tết dương lịch, ngày địch ít phòng bị nhất.

Đêm 1 rạng sáng ngày 2-1-1946, các lực lượng nổ súng tiến công vào thành Săng Đá, các tua gác ở đầu cầu Gành, nhà máy cưa BIF, các công sở của địch trong tỉnh lỵ Biên Hòa, nhà ga Biên Hòa.

Tiếng súng của các lực lượng kháng chiến trong nội ô tỉnh lỵ Biên Hòa như đánh thức ngay lòng người dân đang bị địch kìm kẹp trong nội ô. Thực dân Pháp hoàn toàn bị bất ngờ. Chúng không thể tin rằng quân kháng chiến ở Biên Hòa lại có khả năng tập hợp, di chuyển nhanh chóng sau khi rút khỏi thị xã. Đồng chí Nguyễn Văn Quãng (Năm Phòng), chiến sĩ phân đội 4 nhớ lại khung cảnh trận đánh như sau: "Khắp bầu trời thị xã như sôi lên ùng ục pha lẫn sấm sét. Lửa cháy sáng rực. Súng nổ rền trời. Lựu đạn đệm theo tiếng nổ ùng ình như pháo đại. Những nơi ta định đến đều đến được, trừ một số hầm nhà cố thủ của bọn địch. Ta kiểm soát gần hết thị xã. Gần sáng, quân ta rút về. Khói đen còn dựng cột giữa lòng thị xã. Tiếng súng còn lại lác đác nổ. Một đám tù binh Việt gian được trói dẫn lếch thếch theo đoàn quân..."

Trận đánh vào tỉnh lỵ Biên Hòa đêm 1 rạng sáng 2-1-1946 là trận đột kích đầu tiên của Vệ quốc đoàn Biên Hòa có sự phối hợp của nhiều lực lượng vào một đô thị ở

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 27

Nam bộ khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Tuy không chiếm giữ được một mục tiêu nào trong thị xã, nhưng trận đánh đã gây tiếng vang rất lớn. Đứng về mặt chiến lược, lời tuyên truyền là đã "bình định xong Nam kỳ" của thực dân Pháp hoàn toàn bị đập tan. Lực lượng vũ trang Biên Hòa, miền Đông tuy mới thành lập, nhưng có đủ khả năng đánh hợp đồng khá xuất sắc. Và điểm quan trọng hơn là "Tiếng súng Biên Hòa" có sức cổ vũ, động viên rất lớn tinh thần kháng chiến của nhân dân miền Đông, nhất là nhân dân trong vùng địch còn kiểm soát, kêu gọi được các tầng lớp nhân dân yêu nước từ mọi nơi về Biên Hòa, về chiến khu Đ tham gia kháng chiến.

3. Trận La Ngà (1-3-1948)- Niềm tự hào của quân dân Đồng Nai. La Ngà là tên một dòng sông, một chi lưu của sông Đồng Nai, mà Pháp ghi

tên trên bản đồ là Lagna, cũng là một địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc và lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt từ cầu La Ngà lên Định Quán, ngày 1-3-1948, chi đội 10 Biên Hòa đã đánh trận giao thông La Ngà thắng lợi.

Chi đội 10 là lực lượng vũ trang của tỉnh Biên Hòa, thành lập vào tháng 6- 1946. Đơn vị có 1.100 quân với 3 đại đội A, B, C hoạt động ở các huyện Tân Uyên, Châu Thành, Xuân Lộc và Long Thành.

Từ tháng 4-1947 đến tháng 7-1947, Chi đội 10 đã tổ chức một loạt trận đánh giao thông đường sắt Biên Hòa-Nha Trang thu nhiều thắng lợi như: Gia Huynh, Trảng Táo, Bảo Chánh 1,2, Bàu Cá. Tháng 12-1947, chi đội đánh trận giao thông Đồng Xoài trên quốc lộ 14. Tháng 2-1948, chi đội đánh bại trận càn của thực dân Pháp vào chiến khu Đ. Một loạt trận đánh vũ trang thắng lợi cho thấy đơn vị đã trưởng thành cả về chỉ huy, chiến đấu, có đủ khả năng thực hiện những trận đánh tập trung có quy mô lớn.

Đầu tháng 2-1948, Ban chỉ huy Chi đội 10 nhận được tin quân báo từ nội thành cho hay cuối tháng 2 hoặc đầu tháng 3, thực dân Pháp sẽ tổ chức một cuộc hội nghị quân chính ở Đà Lạt. Một đoàn công voa sẽ hộ tống các sĩ quan, công chức cao cấp của thực dân và ngụy quyền tay sai từ Sài Gòn đi dự hội nghị Đà Lạt.

Cân nhắc khá kỹ các điều kiện cần thiết, Ban chỉ huy chi đội quyết định tổ chức trận phục kích giao thông trên quốc lộ 20 để đánh đoàn công vo này.

Đêm 26-2-1948, Chi đội 10 cùng liên quân 17 của Quân khu 7 hành quân từ Chiến khu Đ lên Quốc lộ 20. Một bộ phận khác từ Xuân Lộc cũng hành quân lên Định Quán. Đêm 28-2, lực lượng đến điểm tập kết và bố trí trên ba trận địa. Sở chỉ huy trận đánh đặt trên đồi 100 ở km 107. Bộ phận hậu cần phục vụ y tế, ăn uống ở tả ngạn sông Đồng Nai cách 6 km. Đồng chí Bùi Cát Vũ, Giám đốc Binh công xưởng và các chiến sĩ quân giới chi đội đã có sáng kiến chôn địa lôi trên đường nhựa, dùng phân voi nghi trang bên trên. Quốc lộ 20 khúc khuỷu, hai bên là rừng, voi thường qua lại, phân voi rừng rất quen mắt với các đoàn công voa, địch ít chú ý.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 28

Sáng 1 -3-1948, trên toàn tuyến trận địa, các chiến sĩ Chi đội 10 Biên Hòa đã sẵn sàng chiến đấu trong trạng thái căng thẳng chờ đợi địch.

Cùng sáng ngày đó, đoàn công voa 70 chiếc của Pháp có xe thiết giáp đi đầu khởi hành từ Sài Gòn. Khi đến Hố Nai, du kích quận Châu Thành bắt đầu hoạt động, bắn tỉa, quấy rối, ngã cây ra đường... Đoàn xe địch phải thường xuyên dừng lại để lính hộ tống dọn đường, rà mìn, bắn trả lại du kích. Tinh thần địch hết sức căng thẳng, mỏi mệt. Quá 12 giờ, đoàn xe địch mới đến được ngã ba Dầu Giây rẽ vào Quốc lộ 20. Đến 14 giờ 20 phút, đoàn xe mới đến La Ngà. Trung úy Jeffrey, chỉ huy đại đội bảo vệ đoàn xe liên lạc với bót La Ngà. Tên sếp bót cho hay tình hình không có gì lạ. Jeffrey lại gọi điện cho đại tá Talès Chỉ huy trưởng khu vực Đồng Nai thượng đề nghị cho nghỉ lại hoặc cho thêm quân hộ tống. Talès trả lời dứt khoát: Đây là khu vực đã bình định, đoàn xe cứ đi, vừa đi vừa bắn mạnh vào hai bên đường. Cả đoàn xe lại lăn bánh vào trận địa trong tiếng súng nổ liên tục hai bên đường. Chiến sĩ chi đội 10 vẫn im lặng, kiên nhẫn chờ đợi.

15 giờ 02 phút, chiếc thiết giáp đi đầu bị trúng mìn ở trận địa A, tung bổng lên khỏi mặt đất, lao thêm hơn 10 mét rồi bốc cháy, nằm bẹp dí trên đường. Đoàn xe địch phía sau vẫn tiến vào trận địa.

15 giờ 17 phút, mìn ở trận địa C lại nổ khóa đuôi đoàn xe địch. Cả đoàn công voa bị cắt làm ba khúc. Chi đội 10 và liên quân 17 từ các điểm cao dọc lộ xung phong mãnh liệt. Đại liên, trung liên, lựu đạn... của bộ đội làm cháy cả chục xe địch ngay phút đầu. Một số xe còn lại phía sau hốt hoảng quay đầu rút chạy về hướng cầu La Ngà.

Đoàn công voa của giặc như con rồng uốn khúc trên Quốc lộ 20, vật vã lồng lộn, oằn oại, bốc cháy ngả nghiêng. Xác quân Pháp ngổn ngang trên xe, dưới đường.

Trận đánh diễn ra quyết liệt và nhanh chóng trong vòng 55 phút. 150 lính lê dương bỏ mạng, 25 sĩ quan Pháp bị chết, trong đó có đại tá De Sérigné chỉ huy bán lữ đoàn lê dương thứ 13 của Pháp, đại tá Patrius Phó tham mưu trưởng quân Pháp ở Nam Đông Dương. Trận đánh đã kết thúc mà trên đoạn đường dài 9 km vẫn còn khói lửa ngút trời, tiếng nổ của đạn, bánh xe thỉnh thoảng lại vang lên giữa núi rừng.

Xác xe địch trong trận chiến La Ngà

50 hành khách gồm người lớn tuổi, trẻ em sau khi được giải thích đường lối kháng chiến của cách mạng, được phóng thích ngay buổi chiều để về Sài Gòn. Hơn

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 29

200 hành khách còn lại và binh lính Pháp bị thương được bộ đội đưa vào khu rừng Suối Cát, cách Quốc lộ 20 trên 5 km về phía tây.

Sáng ngày 2-3-1948, tất cả các hành khách sau một đêm sống trong vùng kháng chiến được bộ đội đưa ra Quốc lộ 20 để về Sài Gòn.

Chiến thắng La Ngà không chỉ thu thắng lợi lớn về quân sự, mà thực tế lời kể của hàng trăm hành khách khi trở về Sài Gòn đã làm các tầng lớp trung lưu, tư sản ở Sài Gòn hiểu được chính nghĩa cách mạng.

Từ vùng tạm chiếm ngày càng có nhiều người thoát ly ra khu kháng chiến, giúp đỡ, ủng hộ, tiếp tế cho kháng chiến. La Ngà là chiến thắng giao thông lớn nhất ở miền Đông bấy giờ; trận đánh đồng thời thể hiện được chính nghĩa và chủ nghĩa nhân đạo của cách mạng Việt Nam.

4. Biên Hòa - Nơi sản sinh cách đánh đặc công và những cuộc tấn công phá vỡ đồn bốt địch

Bị thất bại ở chiến trường Việt Bắc thu đông 1947-1948, thực dân buộc phải chuyển hướng chiến lược từ đánh nhanh thắng nhanh sang bình định Nam bộ, "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt giết người Việt".

Trên chiến trường miền Đông và Biên Hòa, tướng De Latour đã cho thực hiện chiến thuật "điểm và đường". Địch cho xây dựng một hệ thống đồn bót, tháp canh dọc các Quốc lộ 1, 15, 20, Tỉnh lộ 24, 16, nhằm bảo vệ giao thông của chúng, cắt đứt giao thông vận chuyển của kháng chiến.

Tính đến tháng 6-1949, ở miền Đông (cả Sài Gòn, Chợ Lớn, Khu 8), địch đã xây dựng được 200 tháp canh.

Hệ thống tháp canh của Pháp gây cho ta nhiều khó khăn, việc di chuyển qua lại trên đường của ta bị địch khống chế.

Trên chiến trường miền Đông, theo sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh khu 7, nhiều tỉnh như Thủ Dầu Một, Bà Rịa... đều tổ chức nghiên cứu đánh tháp canh. Có nơi dùng vũ trang kết hợp binh vận; có nơi dùng hỏa công bằng cách dùng bùi nhùi cột vào đuôi trâu đốt cháy rồi lùa vào tháp canh; có nơi đào hào cho nước vào đồn..., nhưng tất cả đều không thành công. Đánh hạ tháp canh trở thành bài toán khó.

Trong lúc đó, đội du kích huyện Tân Uyên do Trần Công An chỉ huy, dựa vào cơ sở nhân dân đã điều nghiên khá kỹ tháp canh cầu Bà Kiên trên tỉnh lộ số 16 và nhận thấy:

Muốn đánh được tháp canh phải lọt vào tiếp cận tháp canh, bằng cách lợi dụng sơ hở của địch khi đổi gác, đốt thuốc... Phải hóa trang cho tiệp với màu đất xung quanh tháp, mắt không hướng lên khi địch soi đèn.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 30

Sử dụng thang để lên tháp canh ném lựu đạn vào lỗ châu mai. Ông chọn một cây độc mộc trong căn cứ, cho vài du kích leo lên cây soi đèn xuống các hướng, bên dưới du kích tập bò vào, rút kinh nghiệm làm lại nhiều lần đến khi người ngồi trên cây không phát hiện được người phía dưới khi đã vào sát tường.

Đêm 18 rạng 19-3-1948, tổ du kích Tân Uyên do Trần Công An, Hồ Văn Lung, Trần Văn Nguyên lên đường đánh tháp canh, vũ khí gồm 1 súng trường, 8 lựu đạn (l của Mỹ, 7 tự tạo) và một chiếc thang cây (dùng để hái trầu, mượn của nhân dân). Cả ba du kích ở trần, dùng bùn non bôi lên người. Các anh vượt qua hàng rào quanh tháp, áp thang vào tường (hai đầu thang có bọc vải để không gây tiếng động ).

Cả ba anh đều leo lên thang, dùng lựu đạn đánh vào cả ba tầng tháp canh. Toàn bộ 11 tên lính trong tháp đều bị chết, ta thu 8 súng và 20 lựu đạn.

Trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên của du kích Tân Uyên gây tiếng vang lớn. Lần đầu tháp canh Đờ La-tua bị đánh hạ. Với lối đánh bí mật, tiếp cận, lợi dụng sơ hở của địch để tiến công mục tiêu, du kích Tân Uyên, Biên Hòa đã mở ra một cách đánh mới để hạ tháp canh. Cách đánh đó đòi hỏi lòng gan dạ, dũng cảm, trí thông minh, sáng tạo biết khắc phục khó khăn, biết tìm sơ hở của địch mà đánh.

Tháng 11-1949, Bộ Tư lệnh khu 7 mở hội nghị quân sự toàn khu tại Tân Hòa để bàn về chuyên đề đánh tháp canh. Từ kinh nghiệm trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên của du kích Tân Uyên, hội nghị đã rút ra nhiều kinh nghiệm quý để từng bước hoàn thiện kỹ thuật nghiên cứu, tiếp cận mục tiêu, hóa trang và vượt các chướng ngại... Đồng thời Bộ tư lệnh chỉ đạo cho Binh công xưởng nghiên cứu, chế tạo thành công mìn FT có khả năng phá được tường tháp canh. Công tác huấn luyện cách đánh tháp canh được tiến hành tại chiến khu Đ với du kích Tân Uyên làm chiến sĩ mẫu.

Đêm 22-3-1950, ba trăm chiến sĩ, du kích chia làm 50 tổ đánh cùng lúc 50 tháp canh trên các Quốc lộ 1, 16, liên tỉnh 16, 24... Các tháp canh đều bị đánh thủng một lỗ to từ 0,8 mét đến 1,5 mét.

Sau trận đánh, Bộ Tư lệnh khu 7 tiếp tục rút kinh nghiệm, chỉ đạo cải tiến vũ khí bằng cách đánh bồi thêm một quả mìn bê-ta khi tường tháp bị đánh thủng.

Đêm 19-4-1950, tổ đánh tháp canh của Tân Uyên do Trần Công An chỉ huy với FT và bê-ta, đánh sập hoàn toàn tháp canh cầu Bà Kiên lần thứ hai. Sau đó, tháng 5-1950, tổ lại đánh sập tháp canh Vàm Giá (Quốc lộ 14). Với trận Vàm Giá, kỹ thuật đánh tháp canh đã hoàn thiện.

Hội nghị quân sự Khu 7 năm 1950 đã kết luận cách đánh tháp canh bằng cách tiếp cận mục tiêu, dùng mìn FT+bê-ta là cách đánh đặc công. Ngày 25-5- 1950, đại đội Nguyễn Văn Nghĩa được thành lập, được công nhận là đại đội đặc công đầu tiên ở Nam bộ. Kỹ thuật đặc công từ Biên Hòa được phổ biến ra khắp miền Đông, góp phần

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 31

đánh bại chiến thuật Đờ La-tua của Pháp. Từ 1952, cách đánh đặc công được phổ biến về miền Tây Nam bộ....

Như vậy từ Biên Hòa, cách đánh đặc công đã ra đời, đó là kết quả của phong trào du kích phát triển cao với tinh thần sáng tạo trong chiến đấu và chế tạo vũ khí thích hợp. Biên Hòa cũng là nơi xây dựng đơn vị đặc công đầu tiên ở Nam bộ. Ngày 19-3-1948 sau này được lấy làm ngày truyền thống của binh chủng Đặc công. 5. Sự ra đời và hoạt động của Chiến khu Đ trong kháng chiến chống Pháp- Cái nôi nuôi dưỡng cách mạng Miền nam.

Suốt chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, câu "Chiến khu Đ còn - Sài Gòn mất" là lời đánh giá của kẻ thù với một vùng căn cứ cách mạng ở Biên Hòa, thể hiện rõ vai trò, vị trí và sự lợi hại của căn cứ này với toàn bộ cuộc kháng chiến ở miền Đông và Nam bộ.

Khởi phát của căn cứ địa cách mạng Chiến khu Đ là các xã Mỹ Lộc, Tân Hòa, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An của huyện Tân Uyên (nay thuộc tỉnh Bình Dương). Nơi đây từ năm 1940, đã hình thành đội du kích Nam kỳ khởi nghĩa của tỉnh Biên Hòa. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, đội du kích do ông Nguyễn Văn Quỳ (Chín Quỳ) chỉ huy rút vào khu vực rừng Tân Uyên, bảo toàn được lực lượng cho đến khi Cách mạng tháng Tám thành công.

Khi thực dân Pháp chiếm tỉnh lỵ Biên Hòa (25-10-1945), một bộ phận của Ủy ban kháng chiến miền Đông do Huỳnh Văn Nghệ chỉ huy về Tân Tịch, kết hợp cùng đội du kích Nam kỳ khởi nghĩa và trại du kích Vĩnh Cửu, hình thành Vệ quốc đoàn Biên Hòa.

Tháng 12-1945, Chiến khu 7 ra đời do Nguyễn Bình làm Tư lệnh về đóng tại Lạc An. Tháng 2-1946, sau hội nghị quân sự khu Đông, Bộ tư lệnh quyết định xây dựng căn cứ địa và đặt tên là Chiến khu Đ (theo thứ tự vùng căn cứ A, B, C, Đ) trung tâm là xã Lạc An. Từ tháng 3-1946, Bộ tư lệnh Khu 7 dời về Đông Thành, Chiến khu Đ trở thành căn cứ địa kháng chiến của tỉnh Biên Hòa. Phạm vi Chiến khu Đ gồm 5 xã, nam giáp sông Đồng Nai, bắc giáp sông Bé, tây giáp Tỉnh lộ 16.

Chiến khu Đ là nơi đóng cơ quan lãnh đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban Kháng chiến hành chánh tỉnh Biên Hòa, Thủ Biên; các cơ quan Dân, Chính, Đảng của tỉnh, của huyện Tân Uyên; Chi đội 10, Trung đoàn 310, liên trung đoàn 301-310 cùng các cơ quan Binh công xưởng, Quân nhu với một hệ thống sản xuất gồm các nông trường ở Lạc An, vàm Sông Bé, Giáp Lạc...

Từ Chiến khu Tân Uyên, đêm 1-1-1946, các lực lượng vũ trang Biên Hòa, miền Đông tổ chức tiến công đầu tiên vào các công sở, nơi đóng quân của thực dân Pháp trong tỉnh lỵ Biên Hòa. Đòn tiến công bất ngờ này gây tiếng vang lớn ở Nam bộ.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 32

Cuộc kháng chiến nơi chiến khu Đ đã làm nên những nhân vật sống mãi với lịch sử: Huỳnh Văn Nghệ, nhà thơ - chiến sĩ; Nguyễn Văn Quỳ - người giữ rừng miền Đông suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp và suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ đến năm 1968.

Từ căn cứ địa chiến khu Đ, Chi đội 10 Biên Hòa đã mở hàng loạt trận đánh giao thông đường bộ, đường sắt ngoài căn cứ phối hợp nhịp nhàng với chiến trường chung đánh bại cuộc hành quân của thực dân Pháp đánh vào Chiến khu Việt Bắc thu đông 1947. Đó là các trận Gia Huynh, Trảng Táo, Bảo Chánh, Bàu Cá, Đồng Xoài, nhất là trận giao thông chiến nổi tiếng La Ngà.

Chiến khu Đ là nơi sản sinh ra cách đánh đặc công, lực lượng đặc công và phổ biến kỹ thuật tác chiến mới ra cả nước, cơ sở để hình thành binh chủng Đặc công sau này.

Chỉ huy trưởng Vệ Quốc đoàn Biên Hòa

Huỳnh Văn Nghệ trong Chiến khu Đ

Chiến khu Đ xưa

Trong kháng chiến 9 năm, Biên Hòa ở phía đông Sài Gòn, là nơi đóng các cơ quan đầu não của địch ở miền Đông, Chiến khu Đ tồn tại là mối đe dọa lớn cho thực dân Pháp ở Biên Hòa và Sài Gòn. Kẻ thù khiếp sợ Chiến khu Đ chính là vì thế trận "thiên la địa võng" của căn cứ. Làng kháng chiến đã hình thành khắp nơi trong căn cứ với hàng trăm loại cạm bẫy: chông tre, chông đinh, lựu đạn gài, mìn gài, đạp lôi... để đánh bại bao cuộc hành quân càn quét lớn của địch vào căn cứ. Kẻ thù lấn chiếm, phong tỏa, bao vây, đánh phá chiến khu bằng bom đạn, triệt phá kinh tế, biệt kích, gián điệp... hòng tiêu diệt cơ quan đầu não, dự trữ kinh tế kháng chiến nhưng đều bị thất bại, lại hao binh tổn tướng. Trận càn tháng 2-1948 với 2.000 quân của Pháp có hải quân, pháo binh, máy bay yểm trợ đã bị thất bại ê chề. Phương tiện chiến lợi phẩm ta tịch thu của Pháp trong trận này lại góp phần tăng thêm sức mạnh để bộ đội Biên Hòa làm nên chiến thắng La Ngà.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 33

Chiến khu Đ trải qua không ít khó khăn, nhất là bão lụt tháng 10 năm Nhâm Thìn 1952. Địch càn quét liên tục 52 ngày đêm vào căn cứ, lực lượng ta chặn đánh gây cho địch thương vong nặng phải rút lui. Ta tuy có khó khăn trong cơn bão lụt nhưng bộ đội đã chủ động tấn công bức rút đồn Rạch Đông, phá sập hệ thống tháp canh của địch ven căn cứ từ Rạch Đông đến Cây Đào.

Địch có thể phá hoại một vài cơ sở sản xuất lương thực, hậu cần trong căn cứ nhưng không thể làm chùn bước lực lượng kháng chiến. Đặc biệt, Chiến khu Đ lại là nơi thể hiện cao tinh thần và ý chí bám trụ chiến đấu kiên cường của bộ đội Cụ Hồ

Chiến khu Đ là hình ảnh một xã hội mới trong kháng chiến 9 năm. Nơi đây, dân quân đoàn kết một lòng chống giặc. Các phong trào văn hóa như nếp sống mới, xóa mù chữ, bổ túc văn hóa, lao động sản xuất thu hút nhân dân từ các vùng. Cuộc sống mới ở căn cứ đã biến Chiến khu Đ thành biểu tượng của lòng tin vào cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta.

Kết hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ (đông xuân 1953-1954), từ Chiến khu Đ, các lực lượng vũ trang chủ lực, địa phương, du kích mở đợt tấn công địch, bao vây, bức rút các đồn bót địch ở Thường Lang, Tân Tịch, Tân Hòa, Mỹ Lộc (huyện Tân Uyên), các đồn bót ven chiến khu như: Phước Hòa, Tân Định, Đại An, Rạch Đông, vây lấn địch mở rộng Chiến khu Đ ra giáp sông Đồng Nai, đường 16 lên giáp Sông Bé.

Tại Nhà Nai tháng 8-1954, Tỉnh ủy Thủ Biên tổ chức cuộc mít tinh lớn mừng thắng lợi cuộc kháng chiến. Các lực lượng vũ trang chia tay nhân dân để lên đường tập kết ra miền Bắc, hẹn hai năm sau gặp lại. Chiến khu Đ đã góp phần hoàn thành nhiệm vụ kháng chiến chống thực dân Pháp. Rừng chiến khu Đ còn đó để chuẩn bị vào cuộc đấu tranh mới. Như vậy sau 9 năm kháng chiến trường kì, gian khổ. Với chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu” của quân dân cả nước, đã buộc thực dân Pháp kí Hiệp định Giơ - ne –vơ rút quân về nước, trao trả hòa bình cho các nước Đông Dương. Nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền, sự nghiệp dành “Độc lập, tự do” của dân tộc mới chỉ thắng lợi một nửa. Trong thắng lợi đó có những đóng góp không nhỏ của quân và dân Đồng Nai.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 34

BÀI VIẾT: CUỘC KHÁNG CHIÊN CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC NHÂN DÂN BIÊN HÒA - ĐỒNG NAI CÙNG CẢ NƯỚC “ĐÁNH CHO MỸ CÚT,

ĐÁNH CHO NGỤY NHÀO”, BẮC NAM XUM HỌP MỘT NHÀ(1954 – 1975) I. Cả nước trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975)

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ của quân và dân ta, buộc thực dân Pháp phải kí hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 21/7/1954 trao trả hòa bình cho Việt Nam. Tuy nhiên, đế quốc Mỹ đã thay thế chân Pháp từ vĩ tuyến 17 trở vào với âm mưu biến nước ta thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Chúng dựng lên ở miền Nam cái gọi là “Việt Nam cộng hòa” với chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện chính sách “chiến tranh một phía”, “tố cộng, diệt cộng”, lê máy chém khắp miền Nam, ra sức khủng bố phong trào cách mạng ở miền Nam, chúng hò hét “Bắc tiến”, “lấp sông Bến Hải”,…chuẩn bị đánh ra miền Bắc. Đất nước tạm thời chia cắt làm 2 miền.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng lao động Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, quân dân ta từng bước đánh bại âm mưu của kẻ thù. Trong các năm 1959-1960, toàn miền Nam tiến hành “Đồng khởi”, bóc từng mảng chính quyền địch, tạo thế và lực mới trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960).

Tháng 9/1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Hà Nội đã xác định rõ nhiệm vụ của cách mạng nước là: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà. Miền Bắc là căn cứ địa chung của cả nước, cách mạng XHCN ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà; Cách mạng miền Nam có tác dụng

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 35

quyết định trực tiếp với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước.

Dưới sự lãnh đạo kịp thời của Đảng, Bác Hồ nhân dân cả nước “lên đường đánh Mỹ”, thực hiện khát vọng hòa bình, độc lập và thống nhất nước nhà. Miền Bắc vừa tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, ra sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, đồng thời đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ.

Ở miền Nam cuộc cách mạng dân tộc dân chủ dưới sự lạnh đạo của “Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam” diễn ra hết sức cam go quyết liệt, quân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh lớn của Mỹ-Ngụy ở miền Nam bao gồm: Chiến tranh đơn phương(1954-1960); Chiến tranh đặc biệt (1961-1965); Chiến tranh cục bộ (1965-1968); Việt Nam hóa chiến tranh (1969-1973). Đồng thời miền Bắc vừa sản xuất vừa đánh bại chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mĩ. Bị thua đau ở cả hai miền, buộc Mỹ phải kí vào hiệp định Pa-ri ngày 27/1/1973 về chấm rứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Với thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, kết thúc là thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ngày 30/4/1975, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn âm mưu chia cắt đất nước biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mĩ. Bắc - Nam thống nhất một nhà.

Như vậy, trong suốt 20 năm dân tộc ta, nhân dân ta phải đối đầu với một tên đế quốc lớn nhất, sừng sỏ nhất trong số các nước đế quốc, có tiềm lực kinh tế - quân sự hùng mạnh, có đầy đủ các phương tiện chiến tranh và vũ khí hiện đại. Tuy vậy, với ý chí kiên cường của một dân tộc yêu chuộng “hòa bình, độc lập, tự do”, với tinh thần đoàn kết của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một lòng, với sự thông minh sáng tạo, mưu trí dũng cảm chúng ta đã đánh bại hoàn âm mưu và hành động xâm lược của đế quốc Mĩ cùng bè lũ tay sai. 5 đời tổng thống Mỹ với 4 chiến lược chiến tranh lớn của đế quốc Mỹ bị đánh bại, sức mạnh của vũ khí hiện đại và đồng đôla Mỹ đã thất bại trước ý trí kiên cường và khát vọng độc lập tự do của nhân dân ta, dân tộc ta. Đây cũng là thất bại lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ từ trước tới nay.

Trong những ngày tháng gian khổ mà hào hùng đó, là một địa phương có diện tích lớn và dân số đông ở miền Nam. Với tinh thần đoàn kết, yêu nước quật cường của mình quân và dân Đồng Nai, có chiến khu Đ làm bàn đạp, đã có nhiều đóng góp to lớn vào thắng lợi chung trong cuộc cách mạng thống nhất đất nước. II. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai (1954 - 1975)

Trong những ngày sục sôi chống Mỹ cứu nước, nhân dân đồng Nai đã kiên cường, anh dũng góp nhiều chiến công to lớn cùng nhân dân cả nước đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 36

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cùng lúc đối đầu với nhiều kẻ thù: đế quốc Mỹ, chư hầu Úc, Thái Lan, Tân Tây Lan, ngụy quân, ngụy quyền tay sai, truyền thống đoàn kết chiến đấu và sáng tạo của quân dân Đồng Nai đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của cách mạng toàn miền Nam: trận diệt Mỹ đầu tiên ở Tân Mai (Biên Hoà) ngày 7-7-1958; chiến thắng Bình Giã (1964 - 1965) mở đầu cho sự sụp đổ của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

Kẻ thù càng đánh phá ác liệt, quân dân Đồng Nai càng vững vàng, kiên cường đấu tranh. Nhiều nơi, quân dân ta bám trụ “một tấc không đi, một ly không rời”, xây dựng mạng lưới thông tin, hậu cần góp phần cho lực lượng cách mạng giành thắng lợi như Bình Sơn, tam An, Long Mỹ, Thiện Tân… Đặc biệt căn cứ Minh Đạm (Long Đất) hơn 2.000 ngày đêm trong vòng vây của kẻ thù, vẫn đừng vững hiên ngang, là nơi các lực lượng cách mạng bám trụ đánh bại nhiều chiến thuật thâm độc của Mỹ, Úc làm thất bại mọi âm mưu bình định của chúng.

Bằng lực lượng tinh nhuệ, tự tạo được nhiều loại vũ khí, cách đánh mới, quân ta nhiều lần tấn công vào sân bay chiến lược Biên Hoà, kho liên hợp Long Bình… và nhiều căn cứ, hậu cứ khác của Mỹ ngụy, chư hầu diệt hàng ngàn sỹ quan, phá hủy hàng ngàn máy bay, hàng trăm xe tăng, hàng chục tấn bom, đạn và nhiều phương tiện chiến tranh của địch, chi viện cho chiến trường toàn miền. Với chiến thắng Xuân Lộc (từ ngày 9 đến 21 - 4 - 1975) quân dân Đồng Nai đã góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Những chiến công tiêu biểu của Đồng Nai trong kháng chiến chống Mỹ có thể kể đến:

* Cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp: Cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phóng dân tộc của nhân dân ta đã kết thúc

hơn hai thập kỷ qua. Trong cuộc chiến đấu này, kẻ thù Mỹ ngụy đã dùng mọi thủ đoạn dã man để đánh phá phong trào, sát hại những người con yêu nước ở miền Nam. Nhưng dù trong những hoàn cảnh đen tối nào, quân dân miền Nam vẫn giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc, giữ vững ý chí cách mạng và giữ trọn niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng tiền phong.

Trong huyền thoại những năm tháng đánh Mỹ ấy, cuộc nổi dậy phá ngục của các chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước ở nhà tù Tân Hiệp Biên Hòa là một minh chứng hùng hồn về ý chí gang thép, hành động dũng cảm quật cường, quyết chiến đấu và hy sinh vì độc lập và tự do của Tổ quốc.

Ngay sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ vừa được ký kết (tháng 7-1954), đế quốc Mỹ đã công khai phá hoại. Chúng thiết lập ngay bộ máy cai trị, lập chính phủ bù nhìn, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và tiền đồn chống cộng của chúng ở Đông Nam Á. Với sự chỉ đạo của quan thầy, ngụy quyền Ngô Đình Diệm liên tục mở các chiến dịch "tố cộng, diệt cộng", mở rộng hệ thống nhà tù để giam cầm, đày ải, truy

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 37

bức cán bộ, đảng viên và đồng bào yêu nước ở miền Nam. Hàng trăm, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ cách mạng bị địch bắt đưa về giam giữ ở các nhà tù khắp miền Nam, trong đó có nhà tù Tân Hiệp, Biên Hòa.

Nhà tù Tân Hiệp được chúng gọi là "Trung tâm huấn chính" Biên Hòa có diện tích 3.600 mét vuông nằm cạnh Quốc lộ I (đối diện với Bệnh viện Tâm thần Biên Hòa, thuộc phường Tân Tiến), cách trung tâm thành phố Biên Hòa khoảng 2 km về phía đông. Đây là một trong 6 nhà tù lớn của địch ở miền Nam lúc bấy giờ. Đến thời điểm tháng 12-1956, số lượng tù nhân bị địch giam giữ ở đây là 1.872 người trong đó có nhiều nhân sĩ trí thức yêu nước nổi tiếng như: Kỹ sư Lê Văn Thả; nhà văn, nhà báo Dương Tử Giang, Trần Ngọc Sơn, Lý Văn Sâm, Nguyễn Văn Mại, Phạm Thị Lạng...

Nhà lao Tân Hiệp nơi diễn ra cuộc phá khám, vượt ngục lịch sử ngày 2/12/1956

Đến tháng 11-1956, kế hoạch nổi dậy phá khám Tân Hiệp cơ bản đã hình thành. Đảng ủy nhà tù do đồng chí Nguyễn Duy Đán (Nguyễn Trọng Tâm, nay là Anh hùng lực lượng vũ trang) làm Bí thư, hạ quyết tâm thực hiện kế hoạch đã đề ra. Công tác tiến hành được chuẩn bị tuyệt đối bí mật, chặt chẽ và chu đáo. Đội xung kích gồm những đồng chí khoẻ mạnh, có kinh nghiệm chiến đấu do đồng chí Nguyễn Văn Cội, nguyên là Huyện đội phó huyện Củ Chi làm đội trưởng; Lê Minh Toàn chính trị viên. Tổ liên lạc dẫn đường có 6 người do đồng chí Ngô Văn Quảng, nguyên Bí thư huyện ủy Vĩnh Cửu làm tổ trưởng. Đồng chí Nguyễn Văn Chuộng được Đảng ủy cử làm trưởng đoàn vượt ngục trở về căn cứ. Giờ G nổi dậy phá khám được Đảng ủy quyết định vào chiều ngày chủ nhật 2-12-1956.

17 giờ 40 phút, tất cả các đồng chí trong lực lượng xung kích đều đã ở trong tư thế sẵn sàng. Các tổ áp sát các mục tiêu đã được phân công. Mọi hoạt động của lực lượng chủ công đến giờ phút này vẫn giữ được bí mật hoàn toàn.

Trời vào mùa đông, thời tiết se lạnh. Mới 17 giờ 45 phút mà trời đã nhá nhem tối. Một số đồng chí trong các tổ xung kích mình trần, mặc quần đùi đi lại bên ngoài sân trại. Số các tù nhân ở các trại D, E, G là những anh em đã được phổ biến trước

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 38

đều đứng hoặc ngồi trước cửa, thấp thỏm chờ giờ hành động. 17 giờ 50 phút, khi tên lính trực vừa đánh kẻng báo cho tù nhân vô trại, thì tiếng hô "xung phong" vang dậy khắp nơi. Các mũi xung kích nhanh chóng tiến thẳng đến các mục tiêu đã được phân công. Khi lệnh được phát ra, anh em tù nhân từ các trại D, E, G ồ ạt chạy về phía cổng. Trước làn sóng người tuôn ra như nước vỡ bờ, tên lính gác bên ngoài cổng chính giương súng bắn một phát, lập tức bị một đồng chí quật ngã và đoạt lấy súng. Dòng người tuôn ra cửa mỗi lúc một đông. Cả một không gian sôi động trong tiếng hô xung phong vang dội, tiếng gọi nhau, tiếng chân rầm rập của hàng trăm người. Chỉ trong 15 phút đầu, lực lượng xung kích hoàn toàn làm chủ tình hình.

Bọn chỉ huy trại giam và toàn bộ lính canh gác bị bất ngờ và vô cùng hốt hoảng, chỉ lo bảo toàn tính mạng nên chưa có hành động nào chống trả.

Theo chủ trương của Đảng ủy là không giết một tên lính nào nhằm hạn chế việc khủng bố, trả thù của địch đối với những anh em còn ở lại hoặc không ra được. Từ đó, hơn 15 phút sau bọn chúng mới hoàn hồn, vội vã nổ súng và truy đuổi.

Trước các làn đạn phản kích, bắn xối xả của địch, một số anh em ta chạy ra sau bị trúng đạn hy sinh (22 người) và bị thương khá nhiều, nằm trước cổng trại, sân banh và ven bờ suối.

Cuộc nổi dậy phá khám diễn ra trong vòng 40 phút. Đến 18 giờ 30 phút, toàn bộ số tù nhân còn lại đều bị gom vào lại các trại. Do điện thoại ở nhà tù bị cắt đứt ngay phút đầu, tên phó giám đốc trại giam phải luồn lách hốt hoảng chạy bộ đến Bộ Tư lệnh sư đoàn dã chiến số 4 (cách đó khoảng 1 km) để cấp báo và xin cứu viện. Vì vậy một giờ sau cuộc nổi dậy, địch mới báo động được các nơi trong thị xã. 19 giờ, bọn lính Sư đoàn 4 dã chiến mới tới được trại giam cùng với bọn bảo an, hiến binh lo ổn định tình hình và nhận lệnh truy đuổi.

Sau khi thoát khỏi trại giam, các đồng chí đã chia làm nhiều đoàn để tìm về căn cứ và các cơ sở cách mạng ở các địa phương trong toàn miền. Mặc dù địch tăng cường lực lượng truy đuổi bố ráp gắt gao, một số đồng chí đã anh dũng hy sinh hoặc kiệt sức trên đường chạy, nhưng nhờ sự đùm bọc che chở của nhân dân, sự chuẩn bị của tổ chức Đảng cơ sở bên ngoài, không một ai nản lòng thoái chí. 462 đồng chí thoát được, đã trở về được với Đảng, với dân.

Cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956 là một nét son chói lọi, là sự tiếp nối truyền thống đấu tranh kiên cường của Đảng và của nhân dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy bí mật nhà tù, gần 500 đảng viên cộng sản và đồng bào yêu nước bị kẻ thù giam giữ ở đây đã lập nên kỳ tích anh hùng: Với tay không, tự nổi dậy phá khám, cướp súng địch để trở về với Đảng, với dân.

Trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, đây là cuộc nổi dậy phá khám để tự giải phóng có quy mô lớn nhất, đưa được số lượng lớn cán bộ cốt cán của Đảng về với cách mạng và cướp được một số lượng vũ khí khá lớn. Thắng lợi của

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 39

cuộc nổi dậy phá khám ở Tân Hiệp là nguồn bổ sung to lớn và vô cùng quý báu đối với lực lượng cách mạng miền Nam nói chung và các tỉnh miền Đông Nam bộ nói riêng trong những ngày đầu chuẩn bị cho phong trào khởi nghĩa vũ trang tiến lên Đồng khởi ở miền Nam.

Đài tưởng niệm tại nhà lao Tân Hiệp ngày nay

Cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp mãi mãi là niềm tự hào của những thế hệ chiến sĩ cách mạng đã qua và các thế hệ trẻ của Biên Hòa - Đồng Nai hôm nay và mai sau, đã và đang nối tiếp cha anh viết tiếp trang sử hào hùng của quê hương "Miền Đông gian lao mà anh dũng" trong đấu tranh và xây dựng tổ quốc.

* Trận đầu diệt Mỹ. Ít có đất nước nào mà lịch sử dân tộc lại gắn liền với lịch sử anh dũng chống

ngoại xâm như đất nước Việt Nam. Ở đây, mỗi tên đất, tên làng đều trở thành những địa danh gắn liền với nhiều chiến công chói lọi. Từ buổi các vua Hùng dựng nước cho đến khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, dân tộc Việt Nam đã viết nên bao trang sử hào hùng. Thế kỷ XX khép lại bằng cuộc chiến thắng oanh liệt của dân tộc Việt Nam, một cuộc chiến đấu và chiến thắng kỳ diệu, góp phần đập tan chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ. Trong cuộc chiến đấu đó, trên mảnh đất Biên Hòa - Đồng Nai cũng đã làm nên nhiều chiến công xuất sắc, mà trận mở màn thắng Mỹ là trận đánh vào phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ tại văn phòng ở nhà máy cưa BIF ngày 07-07-1959.

Đánh Mỹ, diệt cố vấn Mỹ, ý định táo bạo đó bắt đầu hình thành trong suy nghĩ của một số cán bộ lãnh đạo Liên Tỉnh ủy miền Đông từ những tháng đầu năm 1959.

Tháng 2-1959, đồng chí Nguyễn Văn Hoa (Năm Hoa) đại đội phó C250, nguyên là Thị ủy viên thị xã Biên Hòa cùng một số chiến sĩ trong đơn vị được Liên Tỉnh ủy miền Đông cử vào thị xã Biên Hòa để nắm tình hình đoàn cố vấn quân sự Mỹ. Sau khi bắt liên lạc và trao đổi nhiệm vụ với đồng chí Trương Văn Lễ, Bí thư Thị

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 40

ủy Biên Hòa, các đồng chí thống nhất chọn mục tiêu tiến công là đoàn cố vấn Mỹ ở BIF.

Đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến (Tám Kiến Quốc) Trưởng ban Quân sự miền Đông viết thư và giao nhiệm vụ cho đồng chí Năm Hoa phối hợp với Thị ủy Biên Hòa, đồng thời phân công đồng chí Lâm Quốc Đăng, Phó ban Quân sự miền Đông trực tiếp chuẩn bị, tổ chức trận đánh. Công tác chuẩn bị được tiến hành hết sức khẩn trương và tuyệt đối bí mật cả bên trong thị xã và bên ngoài căn cứ.

Cuối tháng 6-1959, Liên Tỉnh ủy và Ban Quân sự miền Đông thông qua phương án trận tập kích vào cư xá bọn cố vấn quân sự Mỹ ở Biên Hòa. Thời gian được ấn định vào 19 giờ ngày 7-7-1959.

Chiều tối ngày 5-7-1959, từ căn cứ Chiến khu Đ, phân đội đặc công gồm 6 đồng chí Hưng, Huề, Bé, Phú, Sắc do Nguyễn Văn Hoa chỉ huy nhận lệnh xuất phát. Ngay đêm hôm đó, đơn vị đã về đến gò Cây Trâm Muối, rừng Tân Phong - khu căn cứ của Thị ủy Biên Hòa.

Khoảng 19 giờ, trời nhá nhem tối, phân đội hóa trang như một toán lính đi tuần từ Gò Me dọc theo bờ ruộng tiến thẳng vào khu cư xá. Các ám hiệu, tín hiệu của cơ sở cho thấy bí mật vẫn đảm bảo.

Khi bọn lính đến phiên đổi gác, các chiến sĩ đặc công nhanh chóng theo lối cổng phụ tiến vào áp sát khu cư xá. Hai đồng chí bí mật núp sau cửa sổ chĩa súng vào bên trong sẵn sàng nhả đạn. Hai đồng chí Sắc và Huề mang mìn theo lối cửa hông (lối xuống nhà ăn), lợi dụng lúc địch tắt đèn xem phim, đưa mìn vào đặt sẵn trong phòng.

Nhưng khi các anh mới vào phòng, đèn bỗng bật sáng. Cuốn phim thứ nhất đã kết thúc, tên trung sĩ Ovmand mở công tắc đèn để thay phim. Trước tình huống bất ngờ, đồng chí Năm Hoa ra lệnh nổ súng. Mấy loạt tiểu liên từ hai phía cửa sổ bắn thẳng vào phòng. Thiếu tá Buis mới tới Biên Hòa hai ngày và trung sĩ Ovmand trúng đạn chết tại chỗ, đại úy Boston bị thương. Cùng lúc, đồng chí Huề ôm quả mìn bước lên bậc tam cấp cửa hông thì đụng phải tên bồi bàn đang hốt hoảng chạy xuống.Tiếp đó, một tên Mỹ khác cũng nhảy xuống trườn qua phòng bên để tắt đèn. Không để cho địch kịp thời phản ứng và nhận rõ thời cơ diệt địch, đồng chí Huề đã chấp nhận hy sinh. Anh hô to: “chấm điện". Đồng chí Sắc ở phía sau chập mạch hai đầu dây khối pin. Một quầng lửa chớp sáng kèm theo một tiếng nổ lớn làm rung chuyển cả khu vực cư xá. Hệ thống đèn điện trong phòng phụt tắt. Đồng chí Huề đã anh dũng hy sinh, đồng chí Sắc bị thương. Bốn đồng chí còn lại xông vào nhà quét vài loạt đạn vào nơi có tiếng kêu gào, rên la của bọn Mỹ và nhanh chóng dìu đồng chí Sắc, đưa tử sĩ rút ra ngoài.

Ngay lúc trận đánh diễn ra, đồng chí Nguyễn Thành Long, tự vệ mật đã kịp thời nổ súng diệt tên lính gác cổng. Một số tự vệ mật khác cũng nhanh chóng cho nổ thủ

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 41

pháo ở khu nhà tên chỉ huy lính bảo vệ và trại lính, làm nhiệm vụ kềm chân địch, không cho chúng phản công đánh vào sau lưng phân đội đặc công.

Trận đánh diễn ra chưa đầy 15 phút. Tất cả các đơn vị địch đều không kịp phản ứng, kể cả bọn lính bảo vệ nằm sát cư xá. Theo phương án định sẵn, các chiến sĩ đặc công vượt lỗ hổng hàng rào, qua sân banh, băng lộ 15 hướng suối Sơn Máu rút về chiến khu an toàn. Các chiến sĩ tự vệ nhanh chóng cất giấu vũ khí, thay đổi trang phục, trở lại cuộc sống bình thường của người dân phố thị.

Thế là sau mấy tháng âm thầm chuẩn bị với bao công sức của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân miền Đông, trực tiếp là phân đội đặc công C250 và Đảng bộ nhân dân thị xã Biên Hòa, trận tập kích vào trụ sở phái đoàn quân sự Mỹ ở BIF (nhân dân thường gọi là Nhà Xanh) đã giành được thắng lợi.

Trận đánh ở "Nhà Xanh" đêm 7 rạng 8-7-1959 là trận đánh Mỹ đầu tiên của lực lượng vũ trang miền Đông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngày nay, tại thủ đô nước Mỹ Oa-sinh-tơn (Washington) trên bức tường đá ghi tên những quân nhân Mỹ chết trận tại Việt Nam theo thứ tự thời gian thì Dale. R. Buis và Chester. M. Ovmand là hai lính Mỹ đầu tiên trong danh sách.

* Trận đánh đầu tiên vào sân bay Biên Hòa. Sân bay Biên Hòa là một căn cứ quân sự do thực dân Pháp xây dựng trước năm

1945. Ban đầu chỉ là một sân bay dân dụng của Pháp. Đến năm 1943 phát xít Nhật xây dựng thành sân bay quân sự, đồng thời là xưởng sửa chữa máy bay thuộc xã Tân Phong. Năm 1958, Mỹ bắt đầu mở rộng xây dựng thành một sân bay quân sự lớn ở miền Nam. Đến năm 1964, thành sân bay quân sự thuộc loại tối tân nhất ở Đông Nam Á bấy giờ.

Sân bay quân sự Tân Phong Biên Hòa nằm ở tả ngạn sông Đồng Nai, cách thành phố Biên Hòa 1 km về phía bắc, cách Sài Gòn 30 km hướng đông bắc, diện tích 40 km vuông với hai đường băng dài 1.000 mét và 3.600 mét có trang thiết bị hiện đại, đảm bảo cho các loại máy bay cất cánh hạ cánh bất cứ ngày đêm, bất cứ thời tiết.

Từ tháng 4-1964, Bộ Tư lệnh Miền đã có chủ trương mở trận tập kích vào sân bay Biên Hòa để tạo điều kiện mở một chiến dịch vào cuối năm. Tổ điều nghiên của đoàn pháo binh Miền do Huỳnh Thành Đồng chỉ huy lên đường làm nhiệm vụ từ tháng 4. Biệt động thị xã Biên Hòa đã hỗ trợ rất tích cực để đội trinh sát hoàn thành nhiệm vụ.

Tháng 9-1964, đồng chí Lương Văn Nho, Đoàn trưởng pháo binh U80 Miền và bộ phận trinh sát về Chiến khu Đ trực tiếp làm việc cùng Tỉnh ủy, Tỉnh đội Phước Thành chuẩn bị cho trận đánh.

Đêm 31-10-1964, 7 khẩu đội cối 81 ly, 2 khẩu đội ĐKZ 75 ly, 2 khẩu pháo bộ binh 70 ly với 176 quả đạn đã bí mật chiếm lĩnh, xây dựng trận địa. 23 giờ 20 phút

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 42

ngày 31-10-1964, các loạt pháo nổ đồng loạt vào các mục tiêu trong sân bay Biên Hòa.

Sân bay Biên Hòa bị bao trùm bởi tiếng nổ và khói lửa. Tiếng nổ làm chấn động cả thị xã Biên Hòa và thành phố Sài Gòn. Khi máy bay địch từ Tân Sơn Nhất lên bắn chi viện xuống các đường băng, các chiến sĩ pháo binh đã rút về Chiến khu Đ an toàn.

Kết quả ta bắn cháy, làm hư hại nặng 59 máy bay các loại, trong đó có 21 máy bay ném bom chiến lược B57 Mỹ vừa đưa sang, 11 phóng pháo cơ Xca-rai- đơ, một máy bay do thám U2, 3 máy bay lên thẳng, 1 kho đạn pháo 105 ly, 1 dài quan sát sân bay... Nhiều sĩ quan kỹ thuật, binh lính bị chết.

Trận tập kích bằng pháo vào sân bay Biên Hòa là đòn đánh bất ngờ gây choáng váng cho địch. Tổng thống Mỹ đang đi vận động tranh cử phải vội vã quay về Nhà Trắng để nghe báo cáo về sân bay Biên Hòa bị quân ta tiến công.

Sân bay Biên Hòa bị tấn công đêm 31/10 rạng ngày 1/11/1964

Taylor, đại sứ Mỹ ở miền Nam khi đến sân bay sáng ngày 1-11-1964, trước cảnh hoang tàn đổ nát khủng khiếp đã phải than vãn: "Rõ ràng Việt cộng đã làm một việc mà trước đây họ chưa hề làm, tôi không thích những chuyện như thế". Các báo chí phương Tây đều đưa tin về trận đánh với nội dung: Nếu Việt cộng đã đánh được sân bay Biên Hòa, thì họ có thể đánh bất cứ đâu khi họ muốn.

Trên báo Nhân Dân số ra ngày 12-11-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài bình luận, kết thúc bằng 4 câu thơ:

"Uy danh lừng lẫy khắp năm châu Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu Thành đồng trống thắng lay Nhà Trắng Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu" Đoàn pháo binh U80 của Miền đã được Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng

miền Nam Việt Nam tặng thưởng huân chương Quân công giải phóng hạng nhất.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 43

Chiến thắng sân bay Biên Hòa lần này có ý nghĩa quan trọng, góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ, cũng là trận mở đầu cho hàng loạt trận tiến công vào sân bay chiến lược Biên Hòa sau này của các lực lượng vũ trang quân giải phóng miền Nam. Từ năm 1965 đến khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, các lực lượng vũ trang quân giải phóng ở Biên Hòa đã liên tục tiến công sân bay với mức độ hỏa lực mạnh hơn, tiêu diệt nhiều sinh lực, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của Mỹ và ngụy quyền, hỗ trợ đắc lực cho chiến trường toàn miền Nam giành thắng lợi hoàn toàn.

* Đặc công đánh căn cứ, kho tàng Mỹ ngụy ở Biên Hòa. Từ năm 1965, đế quốc Mỹ đã tiến hành san ủi rừng lập Tổng kho Long Bình

để đảm bảo hậu cần cho lực lượng quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam. Long Bình là kho hậu cần vào loại lớn nhất của Mỹ ở miền Nam, cung ứng bom đạn và các thiết bị chiến tranh cho quân đội Mỹ ở miền Nam.

Kho liên hợp hậu cần Long Bình chiếm diện tích khoảng 24 km vuông, cách thành phố Biên Hòa 7 km, Sài Gòn 30 km về hướng đông, phía bắc có một dãy đồi gồm 16 mỏm nối tiếp nhau chạy dài từ bắc xuống nam theo hình cánh cung. Phía nam có sông Đồng Nai chảy từ thành phố Biên Hòa xuống tây nam căn cứ Long Bình đổ ra sông Lòng Tàu. Phía đông có sông Buông chảy từ đông sang tây. Phía bắc có đường Quốc lộ 1 và đường sắt đi Long Khánh. Phía tây giáp xa lộ Biên Hòa Sài Gòn. Kho liên hợp Long Bình là khu kho dự trữ quan trọng, ngoài bom đạn, xăng dầu, còn tập trung nhiều loại thiết bị và phương tiện chiến tranh khác. Long Bình còn là nơi đóng các bộ chỉ huy của Mỹ như: Bộ Tư lệnh hậu cần số 1, Bộ Tư lệnh lục quân, Bộ Tư lệnh dã chiến 2... Lực lượng chiếm đóng và bảo vệ thường xuyên tại đây có 2.000 tên Mỹ, chủ yếu là nhân viên kỹ thuật, lực lượng bảo vệ, vận tải, sửa chữa.

Từ cuối năm 1965, đặc công U1 (Biên Hòa) đã tiến hành nghiên cứu Tổng kho Long Bình. Nhiều lần đột nhập vào bên trong kho để trinh sát, lên sơ đồ, đặc biệt là kho đồi 53 và đồi 50. Bom đạn chất thành từng dãy, cách nhau một con đường hẹp, chỉ cần nổ một kho sẽ gây chấn động làm nổ lan ra các kho khác trong khu vực.

Ngày 22-6-1966, sáu đặc công gồm: Nguyễn Tấn Vàng (Ba Vàng) mũi trưởng, Nguyễn Văn Thái (Tư Già) mũi phó, Bùi Văn Hòa, Trịnh Văn Thoàn, Phạm Văn Hòa, Nguyễn Văn Rô vào được mục tiêu, chia làm 3 tổ do Nguyễn Văn Vàng, Nguyễn Văn Thái, Bùi Văn Hòa làm tổ trưởng. Ba tổ bí mật vượt qua các lớp rào, lọt vào khu kho đồi 53. Theo kế hoạch, cứ cách 1 hoặc 2 kho các anh đặt một quả mìn.

Đêm 22-6, khi các chiến sĩ đã đặt trái xong, rút khỏi mục tiêu, khu kho đồi 53 bắt đầu nổ tung. Tiếng nổ làm chấn động cả Biên Hòa và Sài Gòn. Lửa khói từ trong kho Long Bình cuộn lên thành hình cây nấm khổng lồ. Tiếng nổ liên tục đến ngày hôm sau. Bốn mươi ngàn quả đạn đại bác ở khu kho đồi 53 bị phá hủy.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 44

Báo chí của địch ở Sài Gòn đã đưa tin Tổng kho Long Bình bị Việt cộng tấn công. Sáng 23-6, tên tướng Tư lệnh hậu cần Mỹ lên hiện trường đã chứng kiến cảnh đổ nát hoang tàn của khu kho 53. Khi được hỏi có biết Việt cộng tấn công kho không, hắn trả lời: "Nếu tôi biết Việt cộng đánh kho, tôi đã là họ rồi".

Tổng kho Long Bình bốc cháy Quang cảnh sau cuộc tấn công

Đây là trận tiến công đầu tiên vào Tổng kho Long Bình của Mỹ, phá hủy và gây thiệt hại nặng cho địch, ta giành thắng lợi lớn, mở đầu cho hàng loạt trận tiến công sau này của đặc công Biên Hòa. Đặc công Biên Hòa đã được Trung ương Cục, Quân ủy Miền tặng Huân chương Quân công hạng 3 cho đơn vị và 4 Huân chương Chiến công hạng 3 cho các chiến sĩ đã lập công đầu.

Nét nổi bật của đặc công Biên Hòa là sẵn sàng chiến đấu phối hợp kịp thời, nhịp nhàng cùng chiến trường miền Nam theo chỉ đạo của Bộ chỉ huy Miền. Trong 3 tháng 10, 11, 12-1966, để hỗ trợ toàn miền đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ 2 của Mỹ, đặc công U1 đã ba lần tấn công kho Long Bình, phá hủy 353.000 quả đạn pháo 105, 155, 175 ly.

Tháng 2-1967, khi đế quốc Mỹ chuẩn bị mở trận càn Gian-xơn-xi-ty (Junction City) vào căn cứ bắc Tây Ninh, các lực lượng đặc công, biệt động Biên Hòa đã liên tục tấn công vào hai mục tiêu sân bay Biên Hòa và kho Long Bình.

Cùng lúc đội 1 đặc công tấn công sân bay Biên Hòa, đêm 3-2-1967, đội 2 đặc công U1 đánh vào khu kho đồi 53 với 4 quả mìn hẹn giờ. 2 giờ 45 phút ngày 4- 2, khu kho đồi 53 lại bị nổ tung, tiếng nổ kéo dài suốt 30 giờ đồng hồ. Ta phá hủy 40 dãy kho với 800.000 quả dạn đại bác của Mỹ.

Địch chưa hết bàng hoàng trước các trận đánh của đặc công thì đầu tháng 3-1967, biệt động thị xã Biên Hòa do hai chiến sĩ Sáu Châu, Sáu An chỉ huy đã đánh vào kho xăng dầu Biên Hòa nằm cách cầu Gành 200 mét, dùng mìn hẹn giờ làm nổ tung 2 bồn chứa xăng dầu và 200 phuy xăng, thiêu hủy hàng triệu lít xăng dầu.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 45

Đợt đánh của đặc công, biệt động Biên Hòa cuối năm 1966, đầu năm 1967 đã thực sự đánh thủng "dạ dày" của Mỹ, phá hủy một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của chúng, hỗ trợ đắc lực cho chiến trường toàn miền. Thắng lợi lớn của đặc công Biên Hòa chào mừng một sự kiện lớn: "Binh chủng Đặc công Quân đội nhân dân Việt Nam chính thức thành lập ngày 19-3-1967"

Trong cuộc tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, Tiểu đoàn 2 đặc công Biên Hòa đánh vào khu kho đồi 53, phá hủy 127 dãy kho bom đạn. Đặc công Biên Hòa (tiểu đoàn l) cùng Sư đoàn 5(chủ lực Miền), Trung đoàn DKB pháo binh Miền tiến công vào sân bay quân sự Biên Hòa, phá hủy 120 máy bay các loại. Chiến dịch xuân Kỷ Dậu 1969, đại đội 9 Tiểu đoàn 2 đặc công Biên Hòa đánh khu kho đồi 50, 53, bom pháo bị phá hủy, nổ liên tục trong 7 ngày đêm.

Mùa xuân 1972, chiến dịch toàn miền, chiến dịch Nguyễn Huệ nổ ra ở miền Đông Nam bộ. Tiểu đoàn 1 và 2 đặc công Biên Hòa được Bộ chỉ huy Miền quyết định điều động làm nòng cốt để xây dựng đoàn đặc công 113.

Trên cơ sở điều nghiên trước đó của đặc công Biên Hòa, ngày 12-8-1972, tiểu đoàn 9 đặc công Đoàn 113 gồm 57 chiến sĩ chia làm 3 mũi đột nhập vào khu kho đồi 53. Thuận lợi là trong đêm đó, địch mở cửa kho để xả hơi, do đó đặc công ta vào được trong kho đặt mìn vào các dãy kho. Từ 1 giờ 40 phút đến 4 giờ 30 phút ngày 13-8-1972, khu kho đồi 53 bị nổ tung, phá hủy 5.430 tấn bom đạn, 200 tấn thuốc nổ và một số kho tàng, nhiên liệu khác, phá hủy 17 gian nhà lính, 300 lính Mỹ ngụy đền tội.

Các đơn vị tham gia trận đánh đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công giải phóng hạng 3, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng 2, 16 Huân chương Chiến công giải phóng cho các chiến sĩ.

* Tấn công kho Thành Tuy Hạ và đánh tàu trên sông Lòng Tàu. Thành Tuy Hạ là kho dự trữ bom đạn lớn của Mỹ ở miền Nam, có tính chất

trung chuyển đi các nơi. Kho đạn Thành Tuy Hạ do Pháp xây dựng, được Mỹ sửa chữa, nâng cấp và mở rộng.

Kho nằm về phía đông nam Sài Gòn khoảng 18 km, kẹp giữa hai con lộ 25 và 19 thuộc huyện Nhơn Trạch, Biên Hòa (cũ). Kho có chiều dài 1,5 km, rộng l km. Phía bắc, sát hàng rào kho có lộ 25 từ cảng Cát Lái xuống kho Long Bình. Con sông Sâu song song với lộ 17 từ Cát Lái chảy vào sông Đồng Nai, chiều rộng 400 mét, sâu 13 mét, nước chảy xiết, bờ nam sông có 3 cảng cách nhau từ 200 đến 250 mét. Tàu trọng tải 6.000 tấn ra vào cảng dễ dàng. Phía đông, kho giáp rừng cao su, rừng chồi Phú Hội, có nhiều trảng trống. Phía nam có nhiều khoảng rừng trống, ruộng và các ấp chiến lược: Soài Minh, Ông Kèo ven lộ 19. Phía tây có ấp chiến lược Phước Lý và lộ 19.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 46

Bao bọc quanh kho là 14 lớp hàng rào kẽm gai tổng hợp, chia làm 3 tuyến phòng thủ. Mỗi tuyến đều có hệ thống lô cốt, hầm hào và nhiều chướng ngại vật.Lực lượng địch bảo vệ kho có một tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn quân cụ, một trung đội cảnh sát và khoảng 100 chó béc giê, một số xe jép có gắn đại liên để cơ động tuần tiễu quanh kho. Kho còn được yểm trợ của lực lượng giang thuyền (18 chiếc) từ Nhà Bè, Cát Lái đến kho Long Bình.

Từ năm 1965, sông Lòng Tàu trở thành đường vận chuyển chiến lược của Mỹ để đưa thiết bị chiến tranh vào miền Nam. Hàng ngày có đến 30 tàu vận tải quân sự 6.000 đến 13.000 tấn ra vào sông Lòng Tàu.

Tháng 6-1966, đặc khu Rừng Sác được thành lập, sau này gọi là Đoàn 10 đặc công Rừng Sác. Đặc khu là một khu vực quân sự đặc biệt rộng 60.000 hecta.

Nhiệm vụ của Đoàn 10 đặc khu Rừng Sác là: đánh tàu chở hàng quân sự trên sông Lòng Tàu, đảm bảo một hướng tiến công vào đầu não, sào huyệt cuối cùng của địch và đánh cảng quân sự nhằm phá hủy các phương tiện chiến tranh, nhiên liệu của địch; hỗ trợ phong trào cách mạng địa phương; xây dựng bàn đạp hành lang, tạo thế vững chắc để có thể hoạt động trong mọi điều kiện...

Đoàn 10 đặc công Rừng Sác hoạt động ở địa hình sông nước, phức tạp, thường xuyên thiếu nước ngọt, lương thực, lại phải liên tục chống địch càn quét. Đoàn phải bám dân xây dựng cơ sở cách mạng, phát huy tinh thần tự lực tự cường, ngoài vũ khí được trang bị, Đoàn 10 còn phải tự sáng tạo vũ khí để đánh địch. Đoàn 10 đã rèn luyện thành thục, giỏi bơi lặn, nhờ vậy đã đánh được tàu địch đang di chuyển trên sông, tàu địch cập cảng, các kho tàng (mục tiêu trên bộ), các bến bãi (mục tiêu dưới nước), đánh giao thông đồn bót và pháo kích, áp sát các mục tiêu, đánh sâu vào nội thành.

Đặc công rừng Sác - Nỗi khiếp sợ của kẻ thù Tấn công kho xăng Nhà Bè

Trên địa bàn Biên Hòa, hai trận đánh kho Thành Tuy Hạ của Đoàn 10 đặc công Rừng Sác phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 47

Đêm 11-11, lực lượng đặc công do Nguyễn Hữu Hòa chỉ huy đã vượt qua các lớp rào kẽm gai với nhiều bãi mìn, lựu đạn. Mười sáu khối thuốc nổ hẹn giờ được gắn vào các kho bom, chất nổ. Kho bom Thành Tuy Hạ nổ tung, gây thành đám cháy lớn. Hơn 10.000 tấn bom đạn, 33 nhà kho bị hủy diệt.

16 giờ ngày 10-12, chiến sĩ đặc công Đoàn 10 do đội trưởng Quyết chỉ huy lên đường từ khu lòng chảo (Nhơn Trạch) đến bàn đạp thị trấn. 23 giờ ngày 11-12, đội đặc công với 24 khối chất nổ C4 hẹn giờ và dụng cụ chiến đấu thả người theo dòng nước. Cả tổ đến khu kho vào lúc 3 giờ ngày 12-12 và ém lại trong kho. 19 giờ, đội trưởng Quyết vận động về phía nam 500 mét đã tìm thấy kho bom. Anh quay trở lại đưa cả tổ vào khu vực đánh.

Mỗi dãy kho cách nhau từ 15 đến 20 mét. Các chiến sĩ đặt khối thuốc nổ theo cách nổ lan truyền từ trong ra với các dãy 1,3,5,7,9. 2 giờ 55 phút ngày 13-12- 1972, kho bom Thành Tuy Hạ lại nổ tung.

Tiếng nổ làm chấn động cả Sài Gòn. Tiếng nổ và cháy liên tục đến ngày 14-12 mới chấm dứt. Ta đã phá hủy 8 dãy nhà (80 gian) gồm 47 gian kho đạn pháo 105 ly chiếm 109.557 mét khối; 14 gian kho bom CBU chiếm 33.937 mét khối, 19 gian kho chứa bom khác chiếm 60.192 mét khối. Tính về trọng lượng, đặc công đã phá hủy 18.057 tấn, bằng 80% số lượng bom đạn của khu kho.

Bộ chỉ huy Miền đã tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng 3 cho tổ chiến đấu và 5 Huân chương Chiến công cho 5 chiến sĩ đặc công.

Đặc công ra đời ở Biên Hòa thời kỳ chín năm đã phát huy tác dụng chiến đấu lấy ít đánh nhiều, thắng to, ta ít thương vong. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc công Biên Hòa tiếp tục phát huy đánh sân bay Biên Hòa, kho liên hợp Long Bình, Thành Tuy Hạ, làm thiệt hại tiềm lực chiến tranh của địch ở miền Nam, hạn chế khả năng chi viện hỏa lực của chúng, tạo điều kiện cho các chiến trường bạn đánh thắng địch. Những chiến thắng ở sân bay Biên Hòa, Tổng kho Long Bình, Thành Tuy Hạ mãi mãi ghi truyền sử sách.

* Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, cuộc tiến công và nổi dậy xuân Mậu

Thân 1968 là một sự kiện quan trọng có ý nghĩa chiến lược, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ngồi vào bàn hội nghị tại Pa-ri và từng bước rút quân viễn chinh Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Tháng 10-1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã có Nghị quyết mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy, tiến công vào toàn bộ các đô thị của địch ở miền Nam Việt Nam. Nghị quyết của Bộ Chính trị đã được Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 14 thông qua vào tháng 1-1968.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 48

Cùng với quân dân toàn miền Nam, trong cuộc tiến công và nổi dậy xuân 1968, quân và dân Đồng Nai đã tiến công đồng loạt vào các thị xã, thị trấn làm chủ được địa bàn. Tuy nhiên, thắng lợi và ác liệt nhất là ở thành phố Biên Hòa.

Thị xã Biên Hòa, một trọng điểm của chiến trường miền Đông, các mục tiêu tiến công quan trọng là: sân bay Biên Hòa, Tổng kho Long Bình, Bộ Tư lệnh 2 dã chiến Mỹ (trong khu vực Long Bình), Quân đoàn 3 ngụy, Nha cảnh sát miền Đông...

2 giờ sáng ngày 31-1-1968 (đêm 30 tết Mậu Thân), trận địa pháo Trung đoàn DKB tại Hiếu Liêm đúng giờ G ngày N đã bắn cấp tập vào sân bay Biên Hòa, làm hiệu lệnh cho cuộc tiến công và nổi dậy ở Biên Hòa. Ngay phút đầu, đoàn pháo 724 đã bắn trên 120 viên đạn pháo tên lửa trúng khu nhân viên kỹ thuật, Sở chỉ huy sân bay, kho xăng, kho đạn trong sân bay Biên Hòa

Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 1 đặc công Biên Hòa, Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 4 có biệt động dẫn đường đã dùng bộc phá đánh bung các lớp rào kẽm gai, tiến vào sân bay, dùng B40, thủ pháo tiến công các khu vực chứa máy bay, phá hủy 120 máy bay các loại. Máy bay Mỹ từ sân bay Tân Sơn Nhất đã lên phản kích ác liệt, xe tăng địch từ Hóc Bà Thức tấn công vào sườn của Tiểu đoàn 1, bịt kín lối ra sân bay. Đại đội 1 đã kiên cường bám trụ đánh trả máy bay, xe tăng, bộ binh của địch. Đại đội 1 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đồng thời phát triển vào khu cư xá của giặc lái và chuyên viên kỹ thuật, diệt và làm bị thương hàng trăm tên.

Đặc công Sư 5 và Biệt động thị xã đã tiến công phía tây Sở chỉ huy Quân đoàn 3. Lực lượng đã bám trụ đánh địch phản kích ác liệt, kiên quyết giữ bàn đạp để hỗ trợ Tiểu đoàn 1 ở sân bay. Lực lượng tuy có bị thương vong, nhưng đã chiến đấu kiên cường.

Cùng thời gian, Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 5 Sư 5 và đặc công sư đoàn tiến công vào Bộ Tư lệnh Dã chiến II của Mỹ ở Long Bình. Đại đội 6 tiến công vào sân bay phá hủy nhiều máy bay trực thăng. Máy bay địch từ sân bay Tân Sơn Nhất lên bắn rốc kết ngay vào đội hình và triển khai xe tăng bao vây tiểu đoàn. Tiểu đoàn 2 bị thương vong. Ở khu ngoại vi kho Long Bình, Đại đội C92 pháo mặt đất chống trả quyết liệt với Lữ đoàn 199 Mỹ, anh dũng chiến đấu đẩy lùi 5 đợt phản kích của địch. Tiểu đoàn 2 đặc công U1 do đồng chí Nguyễn Văn Thái (Tư Già) chỉ huy đột nhập khu kho đồi 53, đặt trái đã phá hủy 127 kho chứa bom đạn của Mỹ. Tiếng nổ kéo dài đến mấy ngày sau chưa dứt.

Tại các vùng ngoại và nội ô như: Hiệp Hòa, ấp Bình Đa, Lân Thành, Tân Thành... cơ sở tại chỗ nổi dậy treo cờ, rải truyền đơn kêu gọi nhân dân, diệt một số tên tay sai ác ôn. Sáng mùng 3 Tết (2-2-1968), Bộ chỉ huy Mặt trận cho các lực lượng rút khỏi thị xã để củng cố đội hình tiếp tục đánh địch phản kích và chuyển hướng đánh địch ở khu vực Định Quán (đường 20).

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 49

Xuân Mậu Thân 1968, lần đầu tiên lực lượng quân giải phóng đã xuất hiện và tiến công địch tại thị xã Biên Hòa và các thị trấn, huyện lỵ trong tỉnh. Cuộc tiến công đồng loạt cho thấy tinh thần dũng cảm của quân giải phóng. Nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm của bộ đội được nhân dân khâm phục. Tấm lòng của nhân dân thị xã Biên Hòa thể hiện rõ trong việc tiếp tế lương thực, che giấu chiến sĩ, chỉ đường cho bộ đội về căn cứ.

Cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân ta ở Biên Hòa đã cùng với toàn miền Nam giáng một đòn nặng nề vào kẻ thù, đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh.

*Chiến dịch Xuân Lộc đập tan cánh cửa thép của Mỹ ngụy. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Xuân Lộc - Long Khánh

luôn luôn là một trong những trọng điểm "bình định" của Mỹ ngụy ở miền Đông Nam bộ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Đảng bộ địa phương, quân dân Xuân Lộc - Long Khánh đã lập nên những chiến công xuất sắc, đặc biệt trong trận quyết chiến chiến lược mùa xuân 1975, đập tan cánh cửa thép của Mỹ ngụy ở phía đông bắc Sài Gòn, góp phần to lớn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Cuối tháng 3-1975, trước sức mạnh tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trên khắp chiến trường miền Nam, Quân đoàn I và II của ngụy bị đập tan, các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên được giải phóng, chế độ tay sai ở Sài Gòn đang đứng trước nguy cơ sụp đổ. Để cứu vãn tình hình, ngày 28-3-1975, trung tướng Mỹ Uây- en, đại sứ Mỹ Mác-tin cùng phái đoàn quân sự cao cấp của Nhà Trắng đến Sài Gòn bàn định việc cứu nguy cho chế độ ngụy ở Sài Gòn.

Địch cho xây dựng"Tuyến phòng thủ thép Xuân Lộc" với hàng ngàn lính thuộc các đơn vị tinh nhuệ nhất của chúng ở Quân đoàn 3 như: Sư đoàn 18, Lữ đoàn dù số 1, Liên đoàn 7 biệt động quân, Lữ đoàn 3 thiết giáp... Nguyễn Văn Thiệu đã hứa hẹn với quan thầy: "Dù có chết, tôi cũng quyết giữ cho được Xuân Lộc".

Nhận thức rõ tính chất quan trọng và vị trí chiến lược của thị xã Long Khánh, Hội nghị của Khu ủy miền Đông (từ 31-1-1975 đến 8-2-1975) đã xác định: "Thị xã Long Khánh là một trong những nơi ta dứt điểm cuối cùng, nơi Đảng bộ miền Đông hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân của mình"

Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Khu ủy và Tỉnh ủy, Thị ủy Long Khánh đã hạ quyết tâm: Dùng ba mũi chính trị, binh vận kết hợp với vũ trang và cơ sở mật bên

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 50

trong để bức hàng, bức rút các đồn, bót địch ở các xã vùng ven, tạo bàn đạp cho chủ lực (Quân đoàn 4) tiến công tiêu diệt địch ở thị xã Long Khánh.

Đến cuối tháng 3-1975, bằng lực lượng tại chỗ, thị xã Long Khánh đã giải phóng 4 ấp phía bắc thị xã: Bảo Vinh A, Bảo Vinh B, Suối Chồn, Bình Lộc. Trong lúc đó, bộ đội tỉnh, huyện tiến công giải phóng Suối Cát, ngã ba Ông Đồn đến Trà Tân 2 (lộ 3), đồn điền cao su Ông Quế, bức rút đồn Nam Hà, Mai Thọ Bích, tua Mã Trắng, bộ đội khu giải phóng Định Quán, làm chủ lộ 20.

Như vậy, trước chiến dịch Xuân Lộc, các lực lượng vũ trang Long Khánh đã giải phóng các vùng ven thị xã, tạo bàn đạp đứng chân cho chủ lực Quân đoàn

Mặt khác, nhân dân thị xã Long khánh đã chuẩn bị lương thực, thực phẩm cung cấp cho chiến dịch. Nhân dân đã đưa vào các kho dự trữ 7.500 tấn gạo, 17.000 ống thuốc cầm máu, 43.000 lọ thuốc kháng sinh, 4.000 kg bột ngọt, hàng chục triệu đồng và nhiều hàng hóa khác phục vụ chiến dịch.

Thắng lợi của Đảng bộ, quân dân Long Khánh trước chiến dịch Xuân Lộc đã được Bộ Tư lệnh Quân khu 7 đánh giá cao: “Việc áp sát của quân khu chung quanh thị xã đã tạo điều kiện cho Miền quyết định đánh chiếm tiểu khu Long Khánh”.

Từ ngày 4-4-1975, đội biệt động và trinh sát vũ trang thị xã Long Khánh đã bí mật dẫn đường cho trinh sát Sư đoàn 1, Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4) vượt qua các hàng rào, tua, chốt gác của địch vào thị xã điều nghiên, nắm tình hình và lên phương án tác chiến. Hàng ngàn lá cờ Mặt trận đã được Thị ủy Long Khánh chuyển vào cho các cơ sở bí mật bên trong. Truyền đơn binh vận được rải nhiều nơi, đánh vào tư tưởng, làm rệu rã thêm tinh thần của binh lính ngụy.

Sáng ngày 9-4-1975, chiến dịch Xuân Lộc bắt đầu. Sau các loạt pháo bắn cấp tập vào những mục tiêu trong thị xã, các cánh quân của ta nổ súng tiến công trên hai hướng đông bắc và tây bắc. Chỉ sau một giờ chiến đấu, quân ta đã chiếm được căn cứ biệt động quân, trụ sở tình báo CIA Mỹ ở nội ô thị xã.

Trên hướng tây thị xã, Sư đoàn 6 vẫn làm chủ lộ 1 từ đèo Mẹ Bồng Con đến ấp Phan Bội Châu. Hướng bắc thị xã, Tiểu đoàn 445 bộ đội địa phương tỉnh và K8 - bộ đội huyện đánh tan Liên đoàn 936 tại Bình Phú, Suối Cát, bắt sống 117 tên. Từ ngày 11 đến 13-4, các lực lượng du kích và bộ đội địa phương bao vây căn cứ Núi Thị, giải phóng các xã và các đồn điền cao su.: Hàng Gòn, Cẩm Mỹ, Suối Râm... mở rộng bàn đạp đứng chân cho các đơn vị bộ đội chủ lực.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 51

Ngày 12-4, địch cho máy bay oanh kích dữ dội xuống các vị trí trong nội ô thị xã Long Khánh và khu vực phía bắc chi khu Tân Phong. Lữ đoàn dù ngụy số 1 được máy bay đổ xuống ngã ba Tân Phong phối hợp cùng Sư đoàn 18 bên trong đánh ra để giải tỏa áp lực của quân ta.

Để tránh thiệt hại cho dân, Bộ chỉ huy chiến dịch chỉ đạo tập trung hóa lực mạnh, sử dụng pháo binh cấp tập diệt các cứ điểm quân sự bên trong thị xã, kéo địch ra ngoài thị xã từ cống ngã ba Dầu Giây lên giáp với Lâm Đồng. Ngày 15-4, Sư đoàn 6 diệt gọn Chiến đoàn 52 thuộc Sư 18 ngụy ở ngã ba Dầu Giây, giải phóng hoàn toàn lộ 20, làm chủ phía tây thị xã. Địch đưa bộ chỉ huy nhẹ Quân đoàn 3 lên Trảng Bom để chỉ huy cuộc hành quân giải tỏa, nhưng các mũi ứng cứu của địch trên quốc lộ 1 đều bi đập tan.

Quân ta tiến công và giải phóng Xuân Lộc 21-4-1975

Liên tục trong các ngày từ 16 đến 19-4, quân ta bắn hàng ngàn quả đạn pháo

vào các mục tiêu quân sự của địch trong thị xã. Đảng viên, cơ sở cốt cán và quần chúng đã vận động làm tan rã hàng trăm binh lính địch.

Trong cơn tuyệt vọng, địch càng tỏ ra điên cuồng, chúng cho máy bay trút bom đạn vào thị xã và vùng ven (trong đó có hai quả bom hơi ngạt CBU). Thế cùng, bọn đầu sỏ chỉ huy lập kế hoạch rút chạy. Ngày 18-4, Lữ đoàn dù số 1 nhận lệnh rút về phía nam chi khu Tân Phong để yểm trợ cho hướng rút chạy trên liên tỉnh lộ 2. Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 ngụy ra lệnh "tùy nghi di tản".

22 giờ ngày 20-4-1975, hơn 220 xe quân sự của địch chen nhau rút chạy về hướng lộ 2. Quân ta tổ chức chốt chận và truy kích, bắt sống tên đại tá Tỉnh trưởng Phạm Văn Phúc và đám tùy tùng. Rạng sáng ngày 21-4-1975, tuyến phòng thủ cuối cùng của địch tại thị xã Long Khánh ở phía đông bắc Sài Gòn hoàn toàn bị phá vỡ. Chiến dịch Xuân Lộc toàn thắng. Thị xã Long Khánh hoàn toàn được giải phóng.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 52

Ngay trong đêm 21-4, khi phòng tuyến Xuân Lộc hoàn toàn sụp đổ, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã phải tuyên bố từ chức, tìm đường trốn chạy ra nước ngoài. Cùng trong thời điểm này, bên kia bờ đại dương, tổng thống Mỹ cũng công khai nhìn nhận: Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã kết thúc với Mỹ.

Chiến dịch Xuân Lộc toàn thắng khẳng định sự sáng suốt lựa chọn điểm yếu của địch; chỉ đạo mở chiến dịch tiến công có ý nghĩa quyết định toàn cuộc của Trung ương Đảng, Trung ương Cục, Bộ Tư lệnh Miền; giúp Trung ương hạ quyết tâm mở chiến dịch mang tên Bác Hồ "chiến dịch Hồ Chí Minh" giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Đây là một điểm son chói lọi ghi đậm dấu ấn lịch sử trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Long Khánh, Đồng Nai, là tài sản vô giá của quê hương, là niềm tự hào của thế hệ hôm nay và mai sau.

* Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam trong đó có tỉnh Đồng Nai.

Ngày 10-3-1975, trận đánh chiếm Buôn Ma Thuột mở đầu cho chiến dịch mùa xuân l975 trong tháng 3-1975, Tây Nguyên được hoàn toàn giải phóng. Kế tiếp sau đó là chiến dịch Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, ta giải phóng hoàn toàn Quân khu 1 và 2 của ngụy, giải phóng một vùng rộng lớn ở miền Trung và duyên hải miền Trung. Trong cơn hoảng loạn, địch phải thực hiện chiến thuật "tùy nghi di tản", rút bỏ hàng loạt vị trí để xây dựng tuyến phòng thủ phía đông cố giữ cho được Sài Gòn, miền Đông và miền Tây Nam bộ, hy vọng tìm một giải pháp chính trị hòng duy trì chế độ tay sai ở Sài Gòn.

Trước thời cơ cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chỉ thị cho các lực lượng tiến công giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Tuyến phòng thủ thép Xuân Lộc bị đập tan, thị xã Biên Hòa là tuyến phòng thủ án ngữ cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Biên Hòa cũng là cửa ngõ của đại quân ta vào Sài Gòn.

Chiến dịch Hồ Chí Minh đã triển khai trên hướng Biên Hòa với quân đoàn 2 và quân đoàn 4.

Quân đoàn 2 từ lộ 2 Xuân Lộc tiến về Long Thành, Nhơn Trạch để về Sài Gòn. Quân đoàn 2 đã đánh dứt điểm các cứ điểm mạnh của địch ở Suối Râm, Nước

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 53

Trong, một phần kho Long Bình, chi khu Long Thành, Nhơn Trạch, giải phóng hoàn toàn hai huyện này vào ngày 7-4-1975.

Quân đoàn 4 từ Sở cao su Bình Lộc bắt đầu đánh địch vào ngày 25-4- 1975, triển khai lực lượng đánh dứt điểm địch tại ngã ba Dầu Giây, Sông Thao, chi khu Trảng Bom... Quân đoàn đánh địch, giải phóng đến đâu, chính quyền đỉa phương tiếp quản đến đó. Quân đoàn đánh chiếm Quân đoàn III ngụy, sân bay Biên Hòa, Tổng kho Long Bình. Sư đoàn 6 ở lại cùng địa phương tiếp quản giữ sân bay Biên Hòa, kho Long Bình, Quân đoàn III vào 10 giờ sáng ngày 30-4-1975. Bộ phận Quân đoàn 4 gồm xe tăng, pháo binh, bộ binh tiến về Sài Gòn tiếp quản dinh Độc Lập và các cơ quan đầu não của ngụy quyền.

Cùng lúc đó lực lượng cán bộ, đảng viên tại Biên Hòa cắm cờ ở Tòa hành chánh Biên Hòa lúc 6 giờ sáng ngày 30-4-1975; sau đó là dinh Trung tướng Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III, Nha cảnh sát miền Đông, Quân đoàn III, Ty cảnh sát Biên Hòa, Quận Đức Tu.

Sở chỉ huy tiền phương và lực lượng vũ trang Trung đoàn 5, lực lượng chính trị chiếm Tòa hành chánh Biên Hòa vào lúc 10 giờ 30 ngày 30-4-1975.

Sư đoàn 6 chiếm giữ sân bay, Quân đoàn III vào 10 giờ 30 cùng ngày. Ban An ninh T1 chiếm giữ Nha cảnh sát miền Đông, Ty cảnh sát Biên Hòa Ban An ninh thành phố Biên Hòa, chiếm giữ Quận Đức Tu. Lực lượng Trung đoàn 5 triển khai chốt canh gác các ngã ba trong thành phố và

giữ khu Kỹ nghệ Biên Hòa. Kết thúc thăng lợi công cuộc giải phóng Biên Hòa – Đồng Nai

Ba mươi năm chiến tranh giải phóng, mùa xuân 1975 đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại của nhân dân Biên Hòa Đồng Nai. Lần đầu tiên trong lịch sử cận hiện đại đất nước ta không còn bóng quân xâm lược. Thắng lợi to lớn mở ra một thời kỳ mới cho dân tộc và nhân dân Biên Hòa Đồng Nai: Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 54

BÀI VIẾT: NHỮNG CẢM NHẬN VỀ TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN BIÊN HÒA – ĐỒNG NAI

Qua phần tìm hiểu về lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân Biên Hòa –

Đồng Nai, cá nhân tôi đã có những cảm nhận sâu sắc, đó là:

Nhân dân Đồng Nai là một bộ phận của dân tộc Việt Nam, thừa hưởng được

truyền thống đánh giặc của ông cha ta từ 4000 năm, có tinh thần yêu nước nồng nàn,

có kết cấu làng xã bền chặt, đoàn kết chống ngoại xâm và liên tục chống ngoại xâm

trong nhiều thời đại, là vùng đất “gian lao mà anh dũng”.

Ngay từ khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta, nhân dân Đồng Nai đã

đứng lên chống chống giặc bất chấp sự thỏa hiệp của triều đình. Các phong trào đấu

tranh tuy thất bại do còn hạn chế về đường lối và tổ chức lãnh đạo song đã thể hiện ý

chí hiên ngang, tinh thần không chịu khuất phục của nhân dân Đồng Nai trước sự xâm

lăng của kẻ thù.

Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược

sau này, Đảng bộ và quân dân Đồng Nai đã vận dụng đường lối kháng chiến toàn dân,

toàn diện và lâu dài của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Cộng sản Việt Nam đoàn kết một lòng, tập hợp các tầng lớp nhân dân không phân biệt

thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo hướng vào mục tiêu lý tưởng đấu tranh chung là

giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thực hiện tốt chính sách dân vận, Đảng

bộ đã xây dựng được cơ sở cách mạng sâu rộng trong nhân dân, do đó đã vượt qua

nhiều thử thách quyết liệt, đặc biệt trong những giai đoạn lịch sử 1945 – 1959, 1969 –

1971 cực kỳ khó khăn.

Với tinh thần bám trụ kiên cường, tổ chức lực lượng cách mạng tại chỗ phù hợp

tùng vùng, từng địa bàn; với cách đánh, phương thức đấu tranh kết hợp lực lượng tại

chỗ với lực lượng cấp trên, đấu tranh vũ trang gắn chặt với đấu tranh chính trị và binh

vận, Đảng bộ Biên Hòa – Đồng Nai đã phát huy được sức mạnh của nhân dân, lập nên

nhiều chiến công vang dội.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 55

Truyền thống đấu tranh kiên cường của Đảng Bộ và nhân dân Đồng Nai được

phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc chống thực dân, đế

quốc vì sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước. Truyền thống đó thể hiện

rõ nét nhất qua các sự kiện lịch sử tiêu biểu, đó là trận chiến thắng La Ngà

(01/3/1948), chiến dịch Xuân Lộc giải phóng thị xã Long Khánh, mở “cánh của thép”

phía Đông tiến vào giải phóng Sài Gòn (từ ngày 09/4/1975 đến 21/4/1975)…

Trong kháng chiến chống Pháp: Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta

lần thứ nhất (1858), đặc biệt khi Gia Định thành thất thủ (1861), Biên Hòa trở thành

nơi đứng chân xây dựng lực lượng nghĩa quân chống Pháp của nhiều lực lượng yêu

nước. Nhân dân Biên Hòa cùng các dân tộc anh em dưới ngọn cờ khởi nghĩa của

“Bình Tây Đại Nguyên Soái” Trương Định đã xây dựng căn cứ kháng chiến Bàu Cá,

Giao Loan chống nhau với giặc Pháp rất anh dũng. Những phong trào kháng Pháp sau

đó như Đông Du, Duy Tân, các phòng trào Hội kín như Đoàn Văn Cự, Trại Lâm

Trung… những năm đầu thế kỷ XX, từ những năm này các tầng lớp nhân dân Biên

Hòa – Đồng Nai đã thể hiện rõ lòng yêu nước và ý chí quật cường.

Đồng Nai, cũng là nơi giai cấp công nhân hình thành khá sớm, tiếp thu chủ

nghĩa Mác - Lênin, trở thành lực lượng nòng cốt lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa

phương. Một trong những tổ chức Đảng đầu tiên được thành lập trong giai cấp công

nhân ở Đồng Nai và miền Đông Nam bộ đã được thành lập ở đồn điền cao su Phú

Riềng vào tháng 10/1929. Chi bộ Đảng Phú Riềng là nơi tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu

tranh vào ngày 03/02/1930 của 5.000 công nhân cao su đình công, chiếm sở mở đầu

cho phong trào 1930 – 1931 trong toàn miền.

Tháng 02/1935, chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương Bình Phước – Tân Triều

được thành lập, trở thành hạt nhân lãnh đạo phong trào Mặt trận Dân chủ Đông

Dương ở Biên Hòa, làm nòng cốt hình thành Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa vào năm

1937. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa, phong trào 1936 – 1939, phong trào

này là bước tập dợt rất quan trọng của Đảng bộ và nhân dân, tạo niềm tin để cách

mạng vượt qua mọi khó khăn gian khổ khi thực dân Pháp khủng bố trắng từ cuối năm

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 56

1939, khôi phục phong trào và phát động cao trào giải phóng dân tộc vào những năm

1944 – 1945.

Hòa cùng phong trào đấu tranh chung của cả nước, ngày 26/8/1945 chỉ với 40 đảng viên cộng sản và chi bộ đảng sở Trường Tiền Biên Hòa làm nòng cốt lãnh đạo, nhân dân Biên Hòa đã nhất tề đứng lên giành lấy chính quyền từ tay phát xít Nhật, đập tan chế độ thực dân nửa phong kiến, giành độc lập cho dân tộc.

Từ khi có Đảng, quân dân Đồng Nai đã giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Suốt 30 năm đánh Pháp đuổi Mỹ, lập nên những sự tích oai hùng, tinh thần bất khuất kiên cường của quân dân Đồng Nai càng làm sáng ngời chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.

Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945 -1954) quân và dân Biên Hòa -Đồng Nai đã anh dũng kiên cường chống giặc, lập nên nhiều chiến công vang dội góp phần cùng cả nước đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.

Truyền thống yêu nước, ý chí chiến đấu bất khuất, tinh thần tự lực tự cường với quyết tâm cao, tinh thần vượt khó, chủ nghĩa nhân đạo cách mạng, sự gắn bó keo sơn giữa quân và dân Biên Hòa – Đồng Nai tiếp tục được phát huy trong những năm kháng chiến chống Mỹ.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhân dân Đồng Nai đã vô cùng anh dũng, hết lòng tham gia kháng chiến, ủng hộ kháng chiến, bảo vệ các cơ quan lãnh đạo của Liên Tỉnh ủy miền Đông, Khu ủy miền Đông, Xứ ủy Nam bộ, Trung ương Cục miền Nam. Cuộc chiến tranh nhân dân của quân dân Biên Hòa – Đồng Nai trong suốt 30 năm kháng chiến cực kỳ gian khổ, ác liệt nhưng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ địa phương đã phối hợp rất nhịp nhàng, kịp thời cùng chiến trường toàn miền Nam, góp phần đánh bại 05 chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai, lập nên nhiều chiến công vang dội.

Tuy đứng trước những khó khăn lớn, nhưng quân và dân Đồng Nai cũng có nhiều thuận lợi. Đó là truyền thống tốt đẹp lâu đời vừa được tôi luyện qua đấu tranh cách mạng, với niềm tin sắt đá vào Đảng, mặt trận, Chính phủ mà trung tâm là Bác

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 57

Hồ kính yêu. Đây là những động lực, là sức mạnh tinh thần để quân và dân Đồng Nai vượt qua những khó khăn, gian khổ, ác liệt, giữ vững ý chí chiến đấu và tinh thần tiến công cách mạng, lập nên nhiều chiến công vang dội, góp phần vào thắng lợi chung của toàn Miền và cả nước cho đến ngày toàn thắng. Tháng 12 năm 1956, cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp của hơn 400 cán bộ, đảng viên và đồng bào yêu nước; tháng 7 năm 1959 trận tiến công trụ sở đoàn cố vấn quân sự (MAAG) ở Nhà Xanh, Tân Mai diệt hai tên cố vấn Mỹ đầu tiên trên chiến trường miền Nam. Những trận đánh bằng pháo binh, bằng đặc công vào sân bay Biên Hòa, vào kho bom đạn Long Bình, kho bom Thành Tuy Hạ phá hủy hàng trăm máy bay các loại, hàng triệu tấn bom đạn, tiêu diệt hàng ngàn tên lính Mỹ, chiến thắng Rừng Sác, đặc biệt bằng chiến dịch Xuân Lộc, giải phóng thị xã Long Khánh tháng 4 năm 1975…

Mùa xuân 1975, cuộc tiến công và nổi dậy thần tốc của quân chủ lực ta cùng với Đảng bộ, quân và dân Xuân Lộc đã thực hiện thắng lợi chiến dịch Xuân Lộc – Long Khánh. Có thể nói, chiến dịch Xuân Lộc là một trận quyết chiến chiến lược trên con đường giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam. Trong cơn giãy chết, Mỹ - ngụy dồn hết lực lượng từ miền Trung chạy vào, các lực lượng trù bị của Sài Gòn và quân đoàn, dựng “cách của thép” quyết giữ cho được Long Khánh – Xuân Lộc, tuyến phòng thủ cuối cùng ở phía đông Sài Gòn với hy vọng chặn các mũi tiến công của quân giải phóng để tạo điều kiện tìm một giải pháp chính trị cuối cùng.

Sáng ngày 21/4/1975 “tuyến phòng thủ thép” của địch Xuân Lộc bị đập tan. Thị xã Long Khánh hoàn toàn được giải phóng. Có thể khẳng định, chiến thắng Xuân Lộc có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, đã đập tan tuyến phòng thủ cuối cùng của kẻ thù ở phía Đông, thúc đẩy nhanh quá trình suy sụp, tan rã của ngụy quân, ngụy quyền ở Biên Hòa, Sài Gòn, mở một cục diện mới cho các binh đoàn bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Truyền thống đấu tranh kiên cường của Đảng bộ và nhân dân Đồng Nai được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc chống thực dân, đế quốc vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất tổ quốc, đưa đất nước bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 58

Như vậy, lịch sử đấu tranh của nhân dân Biên Hòa – Đồng Nai sau các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nổi lên những nét tiêu biểu sau:

Một là: Nhân dân Biên Hòa – Đồng Nai với tinh thần yêu nước nồng nàn, bền bỉ, xuyên suốt qua các cuộc kháng chiến là tiêu biểu cho một vùng đất “gian lao mà anh dũng”.

Hai là: Nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai có tinh thần chiến đấu kiên cường đã lập nên nhiều chiến công vang dội làm khiếp sợ mọi kẻ thù, tô thắm thêm trang sử vàng trong lịch sử đấu tranh vệ quốc của dân tộc.

Ba là: Là nơi có giai cấp công nhân hình thành và đấu tranh cách mạng khá sớm dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đặc biệt là kể từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, giai cấp công nhân đã trở thành lực lượng tiên phong trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.

Bốn là: Tinh thần yêu nước bất khất, ý trí đấu tranh kiên cường của nhân dân Biên Hòa – Đồng Nai được phát huy cao độ kể từ khi có Đảng và Bác Hồ kính yêu lãnh đạo. Tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết, cùng nhân dân cả nước tiến hành hai cuộc kháng chiến thần thành, lần lượt đánh đuổi hai đế quốc to dành lại độc lập, thống nhất đất nước. Tinh thần bất khuất kiên cường của quân dân Đồng Nai càng làm sáng ngời chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.

Năm là: Qua thực tiễn đấu tranh, nhân dân tin theo sự lãnh đạo của Đảng, Đảng tiến hành sự nghiệp cách mạng dựa vào nhân dân và vì nhân dân, phát huy được sức mạnh từ nhân dân. Những thắng lợi to lớn trong các giai đoạn cách mạng ở Biên Hòa – Đồng Nai là minh chứng hùng hồn cho mối quan hệ khăng khít đó. Thực tế đó cũng tạo ra niềm tin và sức mạnh to lớn để các tầng lớp nhân dân Đồng Nai hôm nay vững tin, đoàn kết dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, đưa Đồng Nai trở thành tỉnh đi đầu công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cùng cả dân tộc đi lên trong kỉ nguyên mới: Kỷ nguyên Độc lập dân tộc gắn với Chủ nghĩa xã hội.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 59

Qua tìm hiểu tôi có một số cảm nhận về văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân Biên Hòa – Đồng Nai như sau:

BÀI VIẾT: BIÊN HÒA - ĐỒNG NAI NƠI GẶP GỠ, GIAO THOA, TÍCH HỢP CỦA NHIỀU NỀN VĂN HÓA, TẬP QUÁN, TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO.

Với cộng đồng đa dân tộc, trong đó người Việt chiếm tỷ lệ đa số (trên 90% dân số) trong tỉnh, người Việt ở Biên Hòa - Đồng Nai đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội ở địa phương. Tín ngưỡng dân gian của người Việt ở Đồng Nai là một phức hệ bao gồm nhiều nhân tổ hiện gắn bó thiết thực với đời sống tinh thần của người địa phương, thể hiện trong sinh hoạt gắn với vòng đời người (việc sinh, dưỡng, tang, cưới, mừng thọ…) với sinh hoạt cộng đồng ( thờ cúng trong nhà, cúng đình, cũng miễu, lễ chùa…) Qua tìm hiểu tín ngưỡng dân gian của nhân dân sinh sống trên địa bàn Đồng Nai, tôi có những cảm nhận như sau: I. Cảm nhận về nguồn gốc và các nhân tố hợp thành nền văn hóa, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo trên vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai 1. Nền văn hóa, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo trên vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai cốt lõi là từ người Việt gốc Trung bộ . Với kinh nghiệm sản xuất và “ông bà” “thần linh” mang theo, cư dân Việt có vốn liếng để hoà nhập vào vùng đất mới, không phải bắt đầu bằng “cảm hứng thần thoại” mà bằng tài sản tinh thần đã định hình. Với tài sản ấy, người Việt đã tồn tại với tư cách là chủ thể xã hội, không phải là nô lệ của tự nhiên. Niềm tin và thần thánh mang theo được ứng dụng ngay vào đời sống mới và nhanh chóng có trú sở thích hợp. Bàn thờ gia tiên, tục thờ thần bản gia, thần độ mạng trong nhà được hình thành cùng lúc với việc tại ra mái nhà: cái đền, cái miễu cũng sớm định hình dễ dàng theo thiết chế đọng trong trí nhớ; kinh nghiệm và lễ tục về sinh dưỡng, hôn nhân, tang tế, chạp giỗ… được vận dụng cho vòng đời người mới theo bài bản cũ mang theo. Trải nghiệm qua thực tế khoảng 3 thế kỷ, tập quán, tín ngưỡng dân gian cư dân Việt ở đồng bằng Bắc bộ vẫn còn cốt lõi trong sinh hoạt của cư dân Việt ở Đồng Nai và chắc chắn ở nhiều vùng khác cũng vậy. Như vậy, tín ngưỡng dân gian truyền thống của cư dân Việt từ cái nôi là đồng bằng Bắc chuyển cư vào Đồng Nai – Gia Định đã trải qua trạm trung gian “nhuộm màu Trung bộ”. Điều này có thể được chứng minh qua những biểu hiện trong tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc Bắc bộ nhưng in đậm dấu hiệu của Trung bộ. Gói đường phèn đường phổi trên bàn thờ ông bà trong ngày Tết rõ ràng là một sự hoài niệm về xứ Quảng. Những nhân thần nguồn gốc Trung bộ như: Bùi Tá

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 60

Hán, Lương Văn Chánh, Nguyễn Phúc Diễn… thường được mời gọi trong văn cúng đình, lai lịch của nữ thần Dinh Cô, gốc tích Hát trả bạo, tục thờ cúng cá Ông, tàn tích của lễ cúng Tá thổ, uy thế của bà Chúa Ngọc, bà Chúa Động v v…cùng với âm vang của các vị thần biển khác trong tín ngưỡng dân gian chứng tỏ rằng lớp tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Trung bộ đã tác động trực tiếp đến Đồng Nai trong đó in cả dấu ấn lớp “tín ngưỡng nguồn” ở đồng bằng Bắc bộ.

Lễ hội cúng Bà ở Miễu - Đồng Nai như là điểm hội tụ đồng thời cũng là nơi khuếch tán các hệ tín ngưỡng thờ nữ

thần của miền Bắc, miền Trung, miền Tây, người Hoa và bản địa

Việc thờ Quốc tổ Hùng Vương, Lạc Long Quân, mẹ Âu Cơ, Trần Hưng Đạo và hát chầu văn ở miếu thờ Liễu Hạnh Công chúa… cũng là biểu hiện gần như nguyên dạng của tín ngưỡng dân gian truyền thống của cư dân Việt ở đồng bằng Bắc bộ nhưng là lớp văn hóa mới du nhập từ đầu thế kỷ XX đến nay, chủ yếu gắn với nhóm cư dân Việt “mộ phu” và “di cư” hiện còn da diết với cố hương. Tín ngưỡng dân gian truyền thống của cư dân Việt gồm nhiều lớp, xuất phát chung một gốc, đến với Đồng Nai qua hai hệ (Bắc bộ và Trung bộ) đã tạo ra mẫu số chung trong sinh hoạt văn hóa – tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai; đó là chất kết dính cư dân Việt ở Đồng Nai với cội nguồn, là hạt nhân, là “gien nội sinh” trong quá trình giao lưu, tích hợp văn hóa, tín ngưỡng của các tộc người khác.

2. Tập quán, tín ngưỡng của người Hoa in đậm dấu ấn trong văn hóa, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt ở Đồng Nai. Suy cho cùng, văn hóa, tập quán, tín ngưỡng dân gian truyền thống của dân tộc Việt hóa thành tài sản tinh thần của cư dân Việt từ lâu đời. Ơ đây muốn nói đến hệ tín ngưỡng của người Hoa mới nhập cư từ thế kỷ XVII trở lại đây. Ở Đồng Nai, tập đoàn người Hoa xuất hiện gần như là cùng lúc với quá trình khai phá lập làng của cư dân Việt với thế và lực chẳng thua kém, nếu không nói là hơn về

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 61

quân sự, thương mại và tiềm lực kinh tế. Người Hoa đã sớm khẳng định vai trò của mình ở địa phương, họ khuyến khích thương mại và nghề thủ công, phát huy lực lượng quân sự, thiết lập hệ thống trú sở cho mình lẫn thần linh. Người Hoa có truyền thống sống có tổ chức, biết tương trợ nhau, tín ngưỡng của mình trong quan hệ với dân tộc khác. Với những đặc điểm như thế, người Hoa ở Đồng Nai có đầy đủ điều kiện để chi phối, thậm chí làm chủ sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt ở Đồng Nai. Nhưng điều ấy đã không xảy ra. Những di sản tín ngưỡng của người Hoa mang theo hiện dễ tìm thấy trong đời sống sinh hoạt của người Đồng Nai: tục đốt nhiều vàng bạc, thờ cúng các vị thần Thiên Hậu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Quan Thánh đế quân, Ngũ phương Ngũ thổ long thần, Tiền Hậu địa chủ Tài thần, bà mẹ Thai sanh… Nhưng đó là sự bổ sung chứ không phải thay thế.

Tín ngưỡng của người Hoa nhập cư vào Đồng Nai không phải là triết lý Nho giáo mà là những yếu tố mới mẻ của nền văn minh nông nghiệp quen thuộc gắn với đám thương nhân bình dân cùng nỗi niềm tha hương của cư dân Việt, cho nên hai hệ tín ngưỡng dễ dàng chan hòa, dung hợp lẫn nhau, dần dần cư dân Việt và người Hoa chung mộ thần điện dân gian, đến mức khó phân biệt cội nguồn Hoa – Việt. Những hình tượng Phật và Quan Âm, Ngũ Hành nương nương, Thổ thần, Thổ địa, Chúa Tiên, Chúa Ngọc, Quan Công, Táo quân… cùng có sức sống ngang nhau trong tâm linh người Hoa cũng như cư dân Việt. Các vị thần Việt có họ hàng với Hoa là hiện tượng phổ biến ở Nam bộ nhưng không phải vì vậy mà phủ nhận “Việt tịch” của các vị thần ấy.

Tuy nhiên sự dung nạp yếu tố tập quán, tín ngưỡng của người Hoa vào tâm linh cư dân Việt không phải hỗn tạp mà là tiếp thu có chọn lọc và trong chừng mực nhất định. Người Hoa với tài lực dồi dào đã được trú sở bề thế cho thần thánh của mình như: Thất thủ Quan Võ miếu (thờ Quan Thánh Đế ở Cù Lao Phố, Phụng Sơn Tự (thờ Quảng Trạch Tôn vương) ở phường Quyết Thắng, chùa bà Thiên Hậu ở Bửu Long, chùa ông ở Phước Thiền… tuy nhiên không vì thế mà uy thế của các vị thần linh của họ trùm bóng lên thần điện của cư dân Việt. Những vị thần gốc Hoa ấy khi được dung nạp vào tín ngưỡng cư dân Việt, được thờ ở nhà hay ở đình, miễu đều trong sự hài hòa, bình đẳng với thần linh gốc Việt, thậm chí họ sẽ bị lẻ loi khi xa dời thần điện của cư dân Việt. Do vậy, quá trình Việt hóa các thần thánh của người Hoa nhanh chóng

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 62

trên cơ sở tín ngưỡng cư dân Việt đã có nền móng và luôn sẵn chỗ để dung nạp thành tố mới.

Mặt khác, cư dân Việt ở Đồng Nai luôn có ý thức không sao chép nguyên bản của người Hoa. Thường cải biến hay dừng lại ở một mức độ nào đó để tập quán, tín ngưỡng của mình không bị hòa tan hoặc biến dạng. Thần tài ngồi riêng một “ghế” ắt dễ nhầm với Tài Bạch tinh quân của người Hoa, nhưng kho thành một hệ với ông Địa, thì không thể nhầm “quốc tịch”. Quan niệm về tục lệ tang chế cũng na ná như nhau, nhưng nhìn hướng đầu hòm (quay đầu vào hay quay đầu ra là đủ biết Hoa hay Việt. Tương tự, xem cách xử lý chén rượu cúng (uống hay đổ ra đất cũng phân biệt đâu là cách của cư dân Việt.

Trong khi tài sản tinh thần mang theo không đủ để xử lý các tình huống mới lạ ở vùng đất mới, triều Nguyễn lại không tạo được gì thêm cho thần dân khai phá, thì tín ngưỡng của người Hoa đã đem đến cho cư dân Việt những hình ảnh mới làm phong phú thêm, đa dạng hơn những sinh hoạt văn hóa – tín ngưỡng tại Đồng Nai. Việc tiếp nhận yếu tố Hoa và sử dụng nó làm tài sản của mình đã thể hiện bản lĩnh và sức sống của tín ngưỡng dân gian truyền thống của cư dân Việt luôn bền vững trong giao lưu văn hóa và tiến trình phát triển. 3. Tập quán, tín ngưỡng của người bản địa là thành tố quan trọng trong việc hình thành tập quán, tín ngưỡng dân gian của người Việt ở Đồng Nai.

Đồng Nai là cái đuôi của dải Trường Sơn về phía Nam, là nơi giao thương giữa miền ngược với miền xuôi ắt thường xuyên diễn ra quan hệ trao đổi cũng như giao lưu văn hóa. Địa bàn trung du hiện nay ở Đồng Nai hiện nay còn có những tộc người: Mạ, Xtiêng, Châu Ro, K’ho.. những những tộc người thiểu số này còn ở trình độ thấp, sống du canh du cư, ít truyền thống văn hóa; trong đó chỉ có người Mạ để lại nhiều dấu vết có quan hệ với cư dân Việt nhiều nhất. Theo truyền thuyết, người Mạ đã từng là chủ nhân của vùng đất thượng du dọc sông Đồng Nai Thượng, từng có những cuộc buôn bán, giao tranh với người Chăm, sau đó phải nhường bước rút lên vùng cao, để lại những “Gò Mọi, Đạ Đờng, Đạ Dung…” cho cư dân người Việt làm chủ. Tàn dư tín ngưỡng của họ để lại trong cư dân Việt không nhiều lắm, chỉ thấy bóng dáng của “ó ma lai” trong kiêng kỵ của người phụ nữ sinh nở và thấp thoáng uy lực của “nữ thần lúa” trong vai trò của người phụ nữ trong việc chọn giữ bông lúc giống, “ đón mẹ lúa” vào bồ…

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 63

Di chỉ khảo cổ học lại cho thấy chủ nhân tài hoa của những mộ đá Hàng Gòn, đàn đá Bình Đa, qua đồng Long Giao, Miễu ông Chồn gần như có mặt khắp nơi nhưng là những lớp người (có thể) gắn với nền văn hóa Phù Nam chỉ còn tên gọi qua suy luận từ kết quả khai quật của các nhà khải cổ. Cho nên, hiện chưa có cơ sở để nêu ý kiến nào đó về mối quan hệ trong tín ngưỡng giữa người Phù Nam bổn địa xưa với cư dân Việt.

Người Khmer là lớp cư dân bản địa còn lưu nhiều vết tích trong sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt ở Đồng Nai. Sử sách cho thấy, người Khmer có mặt ở Nam bộ sớm hơn cư dân Việt; đến năm 1888 còn 10.673 người ở tỉnh Biên Hòa nhưng trước đó họ là chủ nhân cả một vùng rộng lớn. Không rõ Đền Ngũ Công ở đầu nguồn Băng Bột mà Trịnh Hoài Đức cho rằng “Những thần ấy là lấy tên 5 cái thác hiểm mà theo như Man ngữ đế xưng hô”có phải thuộc hệ tín ngưỡng của người Khơmer không, cứ theo tên gọi: Tà Mã quận công, Tà Môn quận công, Tà Nông quận công, Tà Việt quận công, Tà Khuông quận công thì có thể đoán định họ hàng với ông Tà (Niek Ta), một vị thần đất của người Khơmer. Với ông Tà mang lý lịch người Khơmer, cư dân Việt ở Đồng Nai có thêm một vị thần đất “Ông Địa giữ nhà, ông Tà giữ ruộng”, và khi cần thiết để phù trợ việc gì đó. Ông Tà cùng ông Địa được tin cậy, nhờ vả bằng lời khấn: “Vái ông Tà, Ông Địa”. Từ đó Niek Ta thâm nhập vào thần điện miễu Thổ thần cư dân Việt với bộ dạng là hòn đá lạ. Tàn dư tín ngưỡng của người Khơmer còn biểu hiện ở Linh Sơn Thánh Mẫu với lai lịch một nữ thần Khmau của người Khơmer, tục gọi là Bà Đen được cư dân Việt lẫn người Khơmer phụng thờ. Còn có thể nhắn đến vị thần Ả rặc chi y mế thường được mời gọi phối hưởng ở các lễ cúng đình, cũng miễu; đó là vị nữ thần coi sóc biệc hầu bóng trong thần điện của người Khơmer tuy đã mất trú sở nhưng hãy còn âm vang trong tín ngưỡng của cư dân Việt.

Yếu tố bổn địa rõ nét nhất trong tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai có lẽ là tín ngưỡng của người Chăm. Đồng Nai không nhiều vết tích cư trú của người Chăm như ở Khánh Hòa, Bình Định, Thuận Hóa. Sử sách cũng không cho thấy có sự giao lưu trực tiếp đáng kể giữa hai dân tộc Việt – Chăm trên mảnh đất Đồng Nai. Nhưng văn hóa Chăm thì in đậm dấu ấn của nó trong sinh hoạt văn hóa của cư dân Việt.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 64

Nó lắng sâu trong tâm thức và thể hiện trong đời sống hàng ngày, từ lễ thức gắn với đời người đến sinh hoạt cộng đồng, gia đình và xã hội. Có thể nó thâm nhập vào tâm linh cư dân Việt với “chiếc áo khoác” của tín ngưỡng cư dân Việt ở Trung bộ, nhánh xương rồng giữ cửa cho sản phụ chỉ có thể xuất phát từ xứ sở của tháp Chàm. Tục nằm lửa của sản phụ và chiếc vỏ lửa làm dấu hiệu vốn có nguồn gốc từ cổ tục của người Chăm. Người Chăm theo mẫu hệ nên đầu củi cháy quay vào trong là dấu hiệu sinh con gái, còn cư dân Việt thì ngược lại. Tương tự, có thể truy nguyên ra bóng dáng của tín ngưỡng Chăm qua hàng loạt sinh hoạt tín ngưỡng như: Cúng tá thổ, thờ cúng Thiên Y A Na Ngọc Diễn phi, thờ cúng cá Ông. Rõ nhất là vũ điệu “múa bóng dâng bà” của xứ sở Chăm đã được tích hợp trong Hát bóng rỗi; vị thần mang lý lịch Chăm Maha Khẩn (Cẩn) lại thường được mời gọi trang trọng ở các lễ hội đình, miễu và luôn có vị thế ngang hàng với các vị thần phối tự khác. Yếu tố Chăm hòa nhập vào tín ngưỡng cư dân Việt bền chặt đến nỗi khó có thể bóc tách ra thành một lớp văn hóa thuần chất. Chính những yếu tố Chăm này đã làm cho tín ngưỡng của cư dân Việt ở Đồng Nai nhiều mẫu sắc, hơn thế nữa, nó tạo nhịp cầu cho tâm linh của cư dân Việt gắn kết với Đất và Người ở Đồng Nai. Yếu tố bổn địa xuất hiện trong tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai không phải là phép cộng mà là một sự hòa nhập, cuối cùng tạo ra một kết quả không chỉ có lợi riêng cho phía cư dân Việt. Cư dân Việt ở Đồng Nai đối với văn hóa bản địa không phải bằng thái độ của kẻ chiến thắng, mà là bằng tâm thế cuả người chủ mới biết ơn, thủy chung, rộng mở với các chủ nhân vô danh. Đĩa rau luộc – chén mắm nêm, mâm cúng đất đai, bánh cúng bánh cấp trong lễ thí thực, cổ tục cúng Tá thổ ở vườn ruộng… đó là những nghía cử trong tín ngưỡng của cư dân Việt thể hiện lòng thành của mình đối với người bản địa, chính nó tạo ra sự chung sống hòa bình chứ không phải xung đột. 4. Các yếu tố tập quán, tín ngưỡng Việt – Hoa – Chăm – Khơmer có sự sống hòa hợp trong đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ở Biên Hòa – Đồng Nai.

Các yếu tố Việt – Hoa – Chăm – Khơmer có sự sống hòa hợp tạo thành sự “ cân bằng sinh thái tâm linh” trong tín ngưỡng dân gian của cư dân, trong đó, yếu tố tín ngưỡng dân gian truyền thống của dân tộc Việt là cái trục, là cốt lõi của sự vận hành, phát triển. Nhưng sự vận hành, phát triển ấy không phải tự thân, một chiều mà diễn ra trong ảnh hưởng chi phối của tam giáo: Phật, Nho, Lão.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 65

Tín ngưỡng dân gian truyền thống của cư dân Việt cũng như của người Hoa vốn đã có ảnh hưởng của tam giáo và định hình trong đời sống tinh thần của cư dân Việt từ lâu đời. Đến vùng đất mới, Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo lại tạo cơ sở mới bám rễ trong đời sống tâm linh của cư dân Việt, qua đó có sự ảnh hưởng qua lại giữa tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng tôn giáo. Phật giáo gần như là tôn giáo chính của cư dân Việt, có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong tín ngưỡng dân gian. Đạo Phật du nhập vào Nam bộ khá sớm, trung tâm ban đầu là Đồng Nai – Gia Định, từ đó làm bàn đạp đưa Phật giáo tiến dần vào Nam bộ và ngày càng đóng vai trò quan trọng ở vùng đất mới. Theo Trần Hồng Liên, Phật giáo truyền thừa vào Đồng Nai bằng nhiều con đường: Một bộ phận từ Thuận Quảng vào với dòng Phật giáo không còn nét chính thống, một bộ phận từ các thiền sư Trung Hoa đến lưu trú và hành đạo tại Trung bộ, Nam bộ chủ yếu thuộc hệ phái Lâm Tế dòng Bổn Ngươn, nhưng dòng Phật giáo Trung Hoa này nhanh chóng được Việt hóa qua ảnh hưởng của các thiền sư Nam bộ như Thành Đẳng, Phật ý, Tổ Tông, hải Tịnh; một bộ phận khác do các thiền sư Trung Hoa theo chân người Hoa nhập cư vào Nam bộ với dòng đạo Minh Sư, tiền thân của Thiền giáo Thiên Thai sau này. Các dòng Phật giáo chủ yếu nêu trên đến Đồng Nai có xuất phát điểm khác nhau nhưng cùng chung số phận đặc biệt là: Thành phần dân dã, thuộc tầng lớp nghèo, thân phận phiêu tán… cho nên dễ đồng cảm với cư dân Việt, dễ hòa vào dòng mạch tín ngưỡng dân gian.

Giáo lý của Phật giáo nhằm giải thoát chúng sinh cho nên đồng hành với người cùng khổ; nhưng cư dân Việt ở Đồng Nai dường như chỉ dung nạp “tâm Phật” của Phật giáo chứ ít chìm đắm vào thiên la địa võng của giáo lý và con đường tu tập khổ hạnh. Phật Thích Ca cao vời quá, người ta kính lạy ở chùa nhưng ít quen thân. Quan Âm chỉ là hàng Bồ tát nhưng có chức năng “xóa đói giảm nghèo” nên gắn với tín ngưỡng dân gian hơn, được thờ chủ yếu ở nhà, ở chùa, ở đình miễu. Nghi thức Phật giáo được vận dụng trong việc thờ cúng của cư dân Việt: cầu siêu ở đám tang, chay đàn thí thực, cúng cô hồn, cúng lễ ngày sóc – vọng hàng tháng, thậm chí sư ni cũng tham gia cúng lễ cầu an ở đình, miễu trước khi tiến hành lễ Đàn cả. Tính tích cực xã hội đậm màu sắc dân dã của cư dân Việt, đồng hành với ý nguyện hướng thiện cầu an, tôn kính ông bà, hiếu thảo với cha mẹ, cư xử tốt với mọi người vốn là truyền thống tốt đẹp của cộng đồng dân tộc Việt Nam (cũng là đạo lý của Nho gia) khiến cho khó có

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 66

thể phân định được nguồn gốc tín ngưỡng dân gian hay tín ngưỡng Phật giáo – Nho giáo. Mặt khác, chính nhờ nhanh chóng hòa vào dòng mạch tín ngưỡng dân gian, thậm chí bằng con đường tín ngưỡng dân gian mà Phật giáo bám dễ trong tâm linh của cư dân Việt. Những huyền tích về các ngôi chùa, tích Phật Mục Kiền Liên – Thành Đề, Phật thoại về kết quả tu hành của Thủ Huồng… đều được cổ tích hóa theo con đường tín ngưỡng dân gian. Cho nên tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng Phật giáo gắn kết với nhau trong quá trình phát triển xã hội, ngay cả khi đương đầu với thế lực mới là thực dân Pháp. Khi người Pháp giữ quyền cai trị, Nho giáo bị phân hóa và khủng hoảng thì tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng Phật giáo vẫn chung một trận tuyến đứng về phía dân tộc, thậm chí còn là bệ đỡ tinh thần cho các sĩ phu yêu nước.

Nho giáo – Đạo Khổng tử ít tính chất tôn giáo nhưng lại có quyền lực thực tế qua bộ máy thống trị của triều đình phong kiến. Ngoài những phẩm chất của Nho giáo đã thấm sâu vào đời sống của người Việt từ lâu đời, Nho giáo đến với vùng đất mới còn tác động đến tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai bằng hai con đường chủ yếu: Tư tưởng chính thống qua bộ máy hành chính và tri thức của nho sĩ bình dân. Ở Đồng Nai, tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt có cội rễ bền vững hơn tư tưởng Nho giáo. Thậm chí nhiều lúc, nó đã chiến thắng. Tuy nhiên với quyền lực thống trị, triều Nguyễn vẫn nén được tư tưởng chính thống vào tín ngưỡng dân gian bằng cách sắc phong cho Thành Hoàng, định điển lệ, ban hành nghi thức tế lễ, thờ cúng ở làng xã. Theo đó, nghi lễ thờ cúng ở Đồng Nai đi vào khuôn phép, phân rõ thứ bậc, tôn ti. Tín ngưỡng dân gian đã phục tùng chữ “Lễ” của Nho giáo. Nhưng chính Nho giáo cũng phải thừa nhận thần linh trong tín ngưỡng dân gian. Nếu Khổng Tử chưa chính thức thừa nhận quỷ thần thì các Chúa Nguyễn, từ Nguyễn Hoàng trở đi đều tiếp nhận và huy động các thần linh của dân gianv ào việc vun đắp và bảo vệ sự nghiệp của mình. do đó mà nhiều thần linh như thần nữ áo xanh, thần rái cá… đều có thần tích gắn với việc tôn vinh nhà Nguyễn. Đến thời Tự Đức, việc phong Thành Hoàng hàng loạt cho đình làng Nam bộ nhằm tập hợp thần linh địa phương xung quanh quyền lực “thiên tử” đã không ngăn chặn đường tàu đồng đại bác, nhưng ít nhất cũng đã tạo được hàng rào tinh thần ở nông thôn làm cản trở ý đồ thôn tính Nam bộ của thực dân Pháp.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 67

Nho giáo bằng con đường của các sĩ tử bình dân đến với tín ngưỡng dân gian êm dịu hơn. Đó là những quan niệm về đạo lý làm người đã đặc điểm hiện thực hóa trong cuộc sống mẫu mực của các nho sĩ, đặc điểm công chúng tiếp nhận nạp vào hệ giá trị của mình rồi tái hiện trong các sinh hoạt hàng ngày cũng như trong sinh hoạt văn hóa – tín ngưỡng dân gian, lâu dần thành tài sản chung của cộng đồng. Khi quyền lực của triều đình Huế suy yếu, nhất là khi họ cắt ba tỉnh miền Đông rồi Nam kỳ lục tỉnh cho thực dân Pháp, nhiều sĩ phu yêu nước tự điều chỉnh lý tưởng Nho gia, từ giã biểu tượng “ rồng chầu ngòai Huế” mà hòa nhập với dòng mạch “ngựa tế Đồng Nai” cùng với nhân dân kháng chiến chống Pháp. Qua đó, điện thờ của đình, miễu ở Đồng Nai cũng như ở Nam bộ bổ sung những nhân thần mang lý tưởng “vị quốc vong thân” của Nho giáo. Nhờ hòa nhập vào dòng mạch dân gian, dù thể chế đã suy tàn rồi mất hẳn trong xã hội Au hóa, giá trị của Nho giáo vẫn còn tác dụng trong đời sống xã hội. Ngược lại, trong khuôn phép của Nho giáo, tín ngưỡng dân gian được hệ thống và có chỗ dựa để tồn tại lâu dài. Đạo giáo ở Đồng Nai không có hệ thống cơ sở thờ cúng như nhiều nơi khác nhưng ảnh hưởng của nó rất sâu rộng trong đời sống người Đồng Nai. Trò đồng bóng người Việt ở Đồng Nai – Gia Định rất tin chuộng. Trước đó nữa, Đạo giáo phát triển ảnh hưởng sâu rộng đến mức Chúa Nguyễn lập những ti trong phủ Chúa bổ dụng các thầy pháp, đạo sĩ coi sóc việc đạo, gồm cả hai phái: Pháp lục và Đạo gian năm 1789, Chúa Nguyễn thấy các ti này không còn phù hợp nữa đã bãi bỏ nhưng không chấm dứt được vai trò của thầy pháp, đạo sĩ trong dân gian. Anh hưởng của Đạo giáo trong dân gian rõ nhất là vai trò của thầy pháp trong thờ cúng. Họ là những “ môi giới” giữa cõi người và cõi âm, có pháp thuật điều khiển âm binh âm tướng, chuyển nhận thông tin từ cõi âm đến cõi người và ngược lại. Ơ những lễ cúng: Tá thổ, cúng thế, động thổ, tống phong… thầy pháp là nhân vật chính; thầy pháp còn phối hợp cùng thầy chùa điều hành các lễ cúng cô hồn, thí thực ở đình, chùa. Do nhu cầu thực tế, trong các làng thường có một vài thầy pháp chuyên nghiệp lo việc cầu cúng. Bóng dáng của Đạo giáo còn thể hiện ở tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt qua các vi hành binh, hành khiến luân phiên cai quản cõi người trong năm, hoặc cặc ma thuật trối yếm, bùa chú... trong sinh hoạt thường ngày. Có thể nói, ảnh hưởng của Đạo giáo tuy không có chiều sâu trong nhận thức nhưng phổ biến trong sinh hoạt tín ngưỡng của dân gian.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 68

Tập quán, tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai không có hệ thống lý luận hoàn chỉnh về vũ trụ quan, nhân sinh quan, thế giới quan; ảnh hưởng của các tôn giáo đã bù đắp cho khoảng trống vắng đó. Các tâm của Phật, cái lễ của Nho và ma thuật của Đạo đã tác động làm phức tạp hóa sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian; đồng thời chính nó cũng bi thu hút trong quá trình dân gian hóa khiến cho các hình thức biểu hiện của tôn giáo cũng nương theo dòng mạch của tín ngưỡng dân gian.

Cùng với Miễu (Thờ Mẫu), Đình ở Đồng Nai thờ Thần

và các vị tiền hiền có công với dân với nước

Thiền viện Phật giáo Phước Sơn – TP Biên Hòa

Thánh đường Hồi giáo của đồng bào Chăm ở Xuân Lộc

Nhà thờ của đạo Thiên Chúa giáo – Xuân Lộc

Đồng Nai nơi gặp gỡ của nhiều nền văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng

Nói đến các yếu tố ảnh hưởng đến sinh hoạt văn hóa- tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai, không thể không kể đến Thiên Chúa giáo và văn minh Âu Tây. Thiên Chúa giáo gia nhập muộn, sự xuất hiện của nó gây lo âu cho tinh thần dân tộc, khiến tín ngưỡng dân gian và Tôn giáo nhích lại gần nhau hơn, có bước tự điều chỉnh để cùng ứng biến với vị thần dị tộc đang được chính quyền Pháp, Mỹ ưu ái. Sự thống trị của thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ tạo ra sự đứt gãy, chia cắt tín ngưỡng dân gian với thiết chế chính thống của Nho giáo. Thần linh của cư dân Việt lại quay về vị thế dân dã, vừa gánh chịu đạn bom, vừa bị tổn thất do Nho học suy tàn.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 69

Thêm một vết gãy nữa khi chín nam trường kỳ chống Pháp, nhân dân thực hiện tiêu thổ kháng chiến, trú sở của thần linh bị đột phá, tín ngưỡng dân gian bị đưa ra khỏi hệ thống mới. Những sinh hoạt văn hóa – tín ngưỡng dân gian hiện tồn chẳng qua là sự khôi phục không đầy đủ sau nhiều chục năm đứt gãy. Càng phải thừa nhận rằng, văn minh Âu Tây có khoa học và kỹ thuật hiện đại ngoài việc đẩy lùi tín ngưỡng dân gian vào quá khứ, càng có tác dụng làm cho cư dân Việt thức tỉnh, tìm cách dung hợp cái mới, cải biến sinh hoạt của mình cho phù hợp với nhịp sống mới. Như vậy, những yếu tố phi lý, hoang đường bị loại dần, còn lại là cốt lõi của niềm tin và ''cái lý'' dễ chấp nhận. Như vậy, ta có thể cảm nhận rõ ràng là: Những sinh hoạt và hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai không phải tự nhiên có hay sẵn có mà là quá tình hình thành từ sự tích hợp của nhiều nhân tố. Việt - Hoa – bản địa trong sự tác động của tôn giáo và các nhân tố ngoại lai khiến cho sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai có nhiều màu sắc, đa hệ, hòa hợp được với các hệ văn hóa khác nhau mà không đánh mất cốt lõi của mình. II. Những tác động của văn hóa, tín ngưỡng truyền thống ở Biên Hòa – Đồng Nai đến đời sống kinh tế - xã hội của địa phương và những thách thức trong phát triển tình hình mới. Do nguồn gốc hình thành và những quan hệ tác động đến nó, sinh hoạt văn hóa – tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai bộc lộ nhiều đặc điểm; ở đây, chỉ xin nêu những đặc điểm quan trọng có liên quan mật thiết đến đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương. Thứ nhất: Sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai mang tính hỗn dung, hay nói cách khác là đa hệ trong cơ cấu cũng như trong biểu hiện. Đây không phải là đặc tính riêng của cư dân Việt ở Đồng Nai, nhưng nó thể hiện ở Đồng Nai rất đậm nét. Cơ sở kinh tế - xã hội của nó là nền nông nghiệp đa hệ sinh thái: Biển – sông rạch - vườn ruộng – bán sơn địa với nền thương nghiệp phắt triển khá sớm. Cho nên, các chủ thể tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt gồm đa thành phần, trong đó tầng lớp thương nhân và thị dân đóng vai trò quan trọng. Tất cả đều hướng lòng tin vào thần linh phù hợp với vị thế của tầng lớp mình rồi lại vươn đến hình ảnh chung nhất của cộng đông. Ví dụ, về phần Đất chẳng hạn, từ một vị thần chung chung phân hóa thành nhiều vị thần khác vị thần chung chung phân hóa

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 70

thành nhiều vị thần khác nhau có chức năng liên quan đến đất, rồi lại tích hợp thành một bộ ''ông Địa - Thần Tài'' hợp tình với cả nông dân, thương nhân và thị dân; thậm chí có sức thuyết phục cả giáo dân. Dường như, bất cứ sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian nào của cư dân Việt ở Đồng Nai cũng biểu hiện tính đa hệ ở cả ba mặt: Nguồn gốc hình thành, cơ cấu bên trong và biểu hiện bên ngoài. Chỉ riêng việc “nằm lửa” của sản phụ cũng đã thấy các hệ tín ngưỡng Hoa – Việt – Chăm đan xen, hội nhập và cùng biểu hiện.

Đa hệ, hỗn dung nhưng không hỗn tạp, bởi cặc nhân tố hợp thành tín ngưỡng dân gian chẳng phải theo phé cộng đơn thuần mà là sự tích hợp có hệ thống. Xét ở mặt nào thì hệ thống ấy cũng bền chặt; tín ngưỡng dân gian trọn vẹn với: Vòng đời người - cộng đồng gia đình – cộng đồng xã hội, bao quát ở các cõi: Trời - Người - Đất, trải rộng ở các vùng: Sông nước - vườn ruộng - rừng núi, gồm các hệ tín ngưỡng: Truyền thống - ngoại nhập – bản địa với hệ thần linh gồm các dạng: ông bà (tổ tiên) – nhân thần - thiên thần, có giới tính: Nam - trung tính - nữ, và tên tuổi: Hữu danh - ý niệm chung - vô danh, dưới hình thức: Riêng lẻ - cặp đôi - bộ (gồm nhiều vị),thuộc các loại: Chính thống - nửa chính thống - dân dã, có quan hệ tiếp biến với: Nho giáo - Phật giáo - Đạo giáo, được phân bố vị trí thờ cúng hài hòa giữa trung tâm với trái - phái, trước- sau, trong - ngoài, trên - dưới... nó bền chặt đến mức nếu có nhân tố gia nhập mới thì đó chỉ là sự hòa nhập, thêm vào chứ không phải là sự thay thế hoặc thay đổi cơ chế. Nhưng nó không khép kín, không bảo thủ, mà chính sự đa hệ, đa dạng đã tạo ra khả năng nhạy thích ứng, dễ “làm quen” với văn hóa Đông - Tây, kim - cổ... trên cơ sở giữ được truyền thống của cư dân Việt. Từ đặc điểm này, có thể giải thích được tính quảng giáo, rộng mở, nhạy bén với cái mới nhưng không ở rời cội nguồn dân tộc của người việt ở Đồng Nai. Hai là: Sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai ít thần bí, sự lý giải về thần linh thường dựa vào lôgich hiện thực hơn là trí tưởng tượng thần thoại. Cho nên, các yếu tố phi lý bị giản lược, hủ tục không nhiều, thần linh có lý lịch và thần tích giản đơn, hợp lý, ít được cường điệu hoặc kỳ diệu hóa; từ đó gần gũi và thân thiết với cõi người hơn. Bà Ngũ Hành với ý niệm chung về sự vận hành của trời đất dần dần được thờ phụng phổ biến hơn các bà đầy huyền thoại khác. Thành Hoàng bổn cảnh cũng được biểu niệm chung gắn với vai trò 'bảo hộ và quản lý đất đai '' tại chỗ hơn là việc tìm đường nối kết với thần linh ''bề trên''

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 71

bằng con đường thần thoại hóa. Tục ''hèm'' tránh sát sanh khi cúng Phi Vân tướng quân Nguyễn Phục và những điều kiêng: Kiêng cúng Quan Công thịt gà và hơn mào gà, không cúng Võ Tánh heo quay, không cúng Tả quân Lê Văn Duyệt heo thiến… vì tế nhị chứ không phải do kiêng sợ. Thần linh trong tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai không đối lập, cũng không cách biệt vời cõi người, nhân tính nhiều hơn thiên tính, ban phúc hơn là giáng họa, hiếm thấy tà thần, dâm thần; do vậy, người Đồng Nai đối với thần linh bằng lòng thành tri ân hơn là sự sợ hãi, phục tùng; thậm chí thần linh còn bị con người hành hạ, phiền trách, bỡn cợt. Hình tượng, tính cách và chức năng của Ông Địa là ví dụ rõ nhất. Bởi vậy, sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai không xa cách với đời sống hiện thực, tính tích cực xã hội của nó được hiện thực hóa trong sinh hoạt xã hội rất rõ nét: nó thường nối kết giữa đời sống tâm linh và hoạt động xã hội: Mụ Vườn vừa trong vai trò thầy cúng thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng dân gian, vừa là thầy thuốc góp phần chăm lo việc sinh sản ở nông thôn khi hệ thống y tế cơ sở chư hoàn chỉnh; tục lệ về hôn nhân có cốt lõi là hợp đồng trách nhiệm giữa đôi vợ chồng mới với gia đình hai bên và xã hội; việc tang nghiêng về ý nghĩa báo hiếm cái chết; hội đình, hội miễu tham gia tích cực trong công tác xã hội của làng như tang tế, bốc thuốc, dạy học, hòa giải, từ thiện.... Sự nhích gần giữa sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian với đời sống hiện thực cũng là sự nhích gần giữa trú sở của thần linh với thiết chế văn hóa cơ sở. Ba là: Sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai thể hiện ý nghĩa nhân bản ở mức độ cao. Người Đồng Nai thành kính thờ phụng thần linh nhưng không lệ thuộc vào thần linh, càng không chịu đóng khung trong khuôn mẫu có sẵn. Nghi thức cúng đình thần tuân theo điển lệ nhưng thực hiện không “nghiêm túc'', như việc sử dụng cờ, lọng, lỗ bộ chẳng hạn. Triều đình Nguyễn ban hành rất nhiều qui định nhằm khuôn phép hóa việc cúng tế ở đình, nhưng ít có qui định nào được chấp hành đầy đủ; mỗi đình đều có cách làm khác đi, ở miễu càng phóng túng hơn, ở gia đình thì hoàn toàn từ tâm. Khi vương quyền Nguyễn suy yếu rồi sụp đổ, các thiết chế của phong kiến sụp đổ theo, nhưng cái đình vẫn nguyên vẹn ý nghĩa trong tín ngưỡng dân gian; đến khi thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ cai trị bằng một thiết chế khắc hẳn, cái đình vẫn vững gốc mặc dù vỏ vật chất của nó bị tổn hại nặng nề.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 72

Với số nữ thần được thờ cúng đa dạng, đa hệ; tính nhân bản trong tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai bộc lộ rõ nhất. Những nữ thần của khắp ba miền đất nước gần như hội nhập đủ mặt và khuếch đại uy lực ở Đồng Nai, nó thâm nhập vào thần điện của đình, chùa; lôi kéo cả nữ thần của Phật giáo, Thiên Chúa giáo, thậm ch lấn át cả nam thần. Ngoài các thánh mẫu thừơng phải dự phần, nhiều đình ở Đồng Nai còn có bàn thờ ''Tiên đại phụ nhân”, với nghi thức thờ cúng vượt khỏi tục giỗ hậu thông thường. Khi có một hệ thống nữ thần đầy uy lực trong tâm tưởng, sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai không chìm đắm trong khuôn khổ Nho giáo, không bị ràng buộc trong các nghi thức cổ hủ rườm rà; đã sàng lọc, loại bỏ nhiều yếu tố phi nhân bản. Cho dù có thay đổi như thế nào thì nhân tố con người vẫn là hạ nhân giữ vai trò chủ thể trong tín ngưỡng chứ không phải thần linh hay áp lực nào khác. Bốn là: Do hình thành muộn và bị đứt gãy bởi nhiều biến cố lịch sử, sinh hoạt văn hóa – tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai hiện tồn tại trong mâu thuẫn giữa miền tin và tri thức. Niềm tin ở tín ngưỡng dân gian còn cội rễ trong lòng người nhưng tri thức về nó đã rơi rụng nhiều dẫn đến sai lạc, chắp vá và sự phục hồi tùy tiện, thậm chí trăm với bản tính ban đầu. Hiện tượng tâm lý ''có thờ có thiêng', ''tứ tung linh tàng'' đang phổ biến. Đó là mảnh đất hoang để những kẻ vụ lợi gieo cấy mầm mống có hại. Việc phục cổ một cách máy móc và hành vi mua thần bán thánh tinh vi cũng có nguồn gốc từ đây. Tín ngưỡng có lòng tin mà thiếu hiểu biết rất dễ đồng hành với mê tín, dị đoan. Năm là: Sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Đồng Nai là một hiện tượng thực tế không thể phủ nhận được. Nó đã từng là “ món ăn tinh thần'' để người Việt ở Đồng Nai hình thành, phát triển, vượt qua gian khổ, chiến tranh; và nay tiếp tục gắn với đời sống tinh thần của con người trên bước đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Dù muốn hay không muốn thì vai trò, ý nghĩa của sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng dân gian vẫn tác động đến công cuộc xây dựng và phát triển xã hội. Hiệu quả tác động thế nào tùy thuộc vào thể chế xã hội ứng xử với nó. Nếu biế nuôi dưỡng, dẫn dắt, khai thác và cải biến ''hạt nhân hợp lý trong nó'' thì có thể hướng tín ngưỡng dân gian đi vào mục tiêu nhân văn, xây dựng được xã hội bình ổn đậm đà bản sắc dân tộc. Ngược lại, nếu phủ nhận hoặc bỏ rơi tín ngưỡng dân gian trong quá trình xây dựng và phát triển thì niềm tin của con người sẽ bị tổn

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 73

thương, “phần xác'' có thể đồ sộ nhưng “phần hồn”, dễ trống rỗng. Thực ra, tâm linh con người không thể trống rỗng. Khi chân lý khoa học chưa chiếm lĩnh hoàn toàn trọng tâm thức, nếu thần linh đã rời xa thì “quỉ sứ'' sẽ chui vào, rồi sự phá hoại sẽ thay chỗ của tín ngưỡng khuyến thiện. Sáu là: Việc tích hợp nhiều nền văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng tồn tai trên vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai với những nền tảng tư tưởng, quan niệm, lễ tục,…khác nhau đặt ra vấn đề hòa hơp giữa các cộng đồng cần phải được xem trọng. Mục tiêu “quốc thái, dân an” phải được tất cả dân tộc, giáo phái, tín ngưỡng, dòng văn hóa đặt lên hàng đầu. Bởi có như vậy khối đoàn kết dân tộc mới được bồi đắp, vượt qua được những âm mưu chia rẽ, chống phá của các thế lực thù địch, vì lợi ích phát triển lâu dài, bền vững của vùng đất này. Như vậy, tác động của văn hóa, tập quán, tín ngưỡng đến kinh tế - xã hội ở Biên Hòa – Đồng Nai hiện nay có tính 2 mặt. Về cơ bản những tác động tích cực đã được kiểm định trong quá trình phát triển, đồng thời những tác động tiêu cực cũng đã được nhận thấy ở mức độ nhất định. Trong thời gian tới với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội và sự hội nhập toàn cầu sẽ còn phát sinh nhiều tác động mới theo cả hai hướng. Vì vậy, tìm hiểu rõ bản chất nền tảng của văn hóa, tập quán, tín ngưỡng để lưu giữ phát triển những giá trị cốt lõi, ưu việt, loại trừ những yếu tố tiêu cực là một phần quan trọng trong chiến lược “phát triển con người” mà Đảng, Nhà nước và toàn thế nhân đang hết sức quan tâm.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 74

Trong các tập quán, tín ngưỡng dân gian gian gắn với cộng đồng xã hội trên địa bàn Biên Hòa – Đồng Nai nói riêng, trên đất nước Việt Nam nói chung tôi xin được giới thiệu một một số hiểu biết về tín ngưỡng phổ biến mà tôi đã thường xuyên tham gia trong tư cách là một chủ thể văn hóa:

BÀI VIẾT: TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN NÉT ĐẸP VĂN HÓA - THỂ HIỆN TRUYỀN THỐNG “UỐNG NƯỚC

NHỚ NGUỒN” CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT NAM I. Vài nét về tín ngưỡng thờ cúng

1. Đặc điểm của tín ngưỡng thờ cúng. Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, thiên nhiên tương

đối phong phú, đa dạng. Thời xa xưa, người Việt sống chủ yếu dựa vào việc khai thác tự nhiên. Vì vậy, việc thờ cúng các vị thần tự nhiên (nhiên thần) đã sớm gần gũi với họ. Hơn nữa, Việt Nam lại là ngã ba đường nơi giao lưu của nhiều tộc người, của nhiều luồng văn minh. Hai yếu tố đó làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng.

Tính đa thần ấy không chỉ biểu hiện ở số lượng lớn các vị thần mà điều đáng nói là, các vị thần ấy cùng đồng hành trong tâm thức một người Việt. Điều đó dẫn đến một đặc điểm của đời sống tín ngưỡng – tôn giáo của người Việt đó là tính hỗn dung tôn giáo. Trước sự du nhập của các tôn giáo ngoại lai, người Việt không tiếp nhận một cách thụ động mà luôn có sự cải biến cho gần gũi với tư tưởng, tôn giáo bản địa. Vì vậy, ở nước ta, trong khi các tôn giáo vẫn phát triển thì các tín ngưỡng dân gian vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân.

Cũng chính vì tính hỗn dung tôn giáo ấy mà người Việt thể hiện sự bàng bạc trong niềm tin tôn giáo. Đa số người Việt đều có nhu cầu tôn giáo, tuy nhiên, phần đông trong số đó không là tín đồ thành kính của riêng một tôn giáo nào. Một người vừa có thể đến chùa, vừa có thể đến phủ miễn là việc làm ấy mang lại sự thanh thản về tinh thần cho họ, có thể thoả mãn điều họ cầu xin. Vì thế, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, một đặc điểm trong đời sống tín ngưỡng - tôn giáo của người Việt là tính dụng. Tôn giáo là để phục vụ nhu cầu cần thiết, trực tiếp của họ trong cuộc sống. Tín ngưỡng thờ cúng ra đời vừa mang những đặc điểm riêng và đáp ứng những yêu cầu tâm linh như vậy.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 75

2. Các loại hình thờ cúng trên đất nước ta. * Thờ cúng trong Tín ngưỡng phồn thực Thời xa xưa, để duy trì và phát triển sự sống, ở những vùng sinh sống bằng

nghề nông cần phải có mùa màng tươi tốt và con người được sinh sôi nảy nở. Để làm được hai điều trên, những trí tuệ sắc sảo sẽ tìm các quy luật khoa học để lý giải hiện thực và họ đã xây dựng được triết lý âm dương, còn những trí tuệ bình dân thì xây dựng tín ngưỡng phồn thực (phồn nghĩa là nhiều, thực nghĩa là nảy nở). Tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam được thể hiện ở hai dạng: thờ cơ quan sinh dục của cả nam lẫn nữ (như linga, yoni) và thờ hành vi giao phối, khác biệt với một số nền văn hóa khác như Ấn Độ chẳng hạn, chỉ thờ sinh thực khí của nam mà thôi.

Vai trò của tín ngưỡng phồn thực lớn tới mức ngay cả chiếc trống đồng, một biểu tượng sức mạnh của quyền lực, cũng là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực

Thờ sinh thực khí (sinh = đẻ, thực = nảy nở, khí = công cụ) là hình thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực. Nó phổ biến ở hầu hết các nền văn hóa nông nghiệp trên thế giới. Nhưng khác với hầu hết các nền văn hóa khác là chỉ thời sinh thực khí nam, tín ngưỡng phồn thực Việt Nam thờ sinh thực khí của nam lẫn nữ. Việc thờ sinh thực khí được tìm thấy ở trên các cột đá có niên đại hàng ngàn năm trước Công nguyên.

Thờ việc sinh đẻ, ngoài việc thờ sinh thực khí, tín ngưỡng Việt Nam còn thờ hành vi giao phối, đó là một đặc điểm thể hiện việc chú trọng đến các mối quan hệ của văn hóa nông nghiệp, nó đặc biệt phổ biến ở vùng Đông Nam Á. Các hình nam nữ đang giao phối được khắc trên mặt trống đồng tìm được ở làng Đào Thịnh (Yên Bái), có niên đại 500 trước Công nguyên. Ngoài hình tượng người, cả các loài động vật như cá sấu, gà, cóc,... cũng được khắc trên mặt trống đồng Hoàng Hạ (Hòa Bình).

Vào dịp hội đền Hùng, vùng đất tổ lưu truyền điệu múa "tùng dí", thanh niên nam nữ cầm trong tay các vật biểu trưng cho sinh thực khí nam và nữ, cứ mối tiếng trống "tùng" thì họ lại "dí" hai vật đó lại với nhau. Phong tục "giã cối đón dâu" cũng là một biểu hiện cho tín ngưỡng phồn thực, chày và cối là biểu tượng cho sinh thực khí nam và nữ. Ngoài ra một số nơi còn vừa giã cối (rỗng) vừa hát giao duyên.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 76

* Tín ngưỡng thờ Mẫu - Thờ cúng Tam, Tứ phủ ở phía Bắc: Tam phủ là danh từ để chỉ ba vị thánh

thần: Bà Trời (hay Mẫu Thượng Thiên), Bà Chúa Thượng (hay Mẫu Thượng Ngàn), Bà Nước (hay Mẫu Thoải). Tứ phủ gồm ba vị Mẫu trên cộng thêm Mẫu Địa phủ. Các Mẫu cai quản những lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp. Các Thánh Mẫu được thờ chủ yếu trong các đền.

Tượng thờ Tam tòa thánh mẫu

- Ở phía Nam do sự tích hợp của nhiều nền văn hóa, đạo thờ Mẫu phát triển đa dạng với nhiều hình tượng hơn bên cạnh những hình tượng cũ, như: Bà Thiên Hậu của người Hoa, Bà chúa Ngọc, bà chúa Động,…Các mẫu được thờ trong các miễu.

* Thờ cúng động vật Trong phong tục, tín ngưỡng dân gian việc thờ cúng tự nhiên đã giữ một vai trò

quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân, và trong các tín ngưỡng dân gian đó phải kể đếnTín ngưỡng thờ động vật hay thờ thú. Người Việt Nam là dân tộc đa dạng trong việc thờ các vị thần có nguồn gốc từ động vật, họ thờ những con vật mạnh mẽ như thờ hổ, cá voi, thờ voi, thờ ngựa, thờ rắn, thì người Việt còn thờ các con vật hiềncóc, chó, cá, hạc, dơi, các con vật đó gần gũi với cuộc sống của người dân của một xã hội nông nghiệp.

Người dân còn đẩy các con vật lên thành mức biểu trưng như Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết thì tổ tiên người Việt thuộc "họ Hồng Bàng", thuộc giống "Rồng Tiên". Con rồng có đầy đủ đặc tính của lối tư duy nông nghiệp: tổng hợp của cá sấu, rắn; sinh ra ở dưới nước nhưng lại có thể bay lên trời mà không cần cánh; có thể vừa phun

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 77

nước vừa phun lửa. Có rất nhiều địa danh Việt Nam có tên liên quan đến rồng như Thăng Long, Hàm Rồng.

• Thờ cúng Tứ pháp Tứ pháp là danh từ để chỉ các bà thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp, đại diện cho các

hiện tượng tự nhiên có vai trò quan trọng trong xã hội nông nghiệp. Sau này khi Phật giáo vào Việt Namthì nhóm các nữ thần này được biến thành Tứ pháp với truyền thuyết về Phật Mẫu Man Nương. Ảnh hưởng của Tứ Pháp ở Việt Nam rất lớn, nhiều lần triều đình nhà Lý phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long để cầu mưa. Tứ pháp gồm:

Tượng thờ tứ pháp

Pháp Vân (thần mây) thờ ở chùa Bà Dâu Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu Pháp Lôi (thần sấm) thờ ở chùa Bà Tướng Pháp Điện (thần chớp) thờ ở chùa Bà Dàn * Thờ cúng cây cối Thực vật được tôn sùng nhất là cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa,... đôi

khi ta thấy còn thờ Thần Cây Đa, Cây Cau,... Các câu chuyện về ma cây cũng khá phổ biến, nhất là chuyện hồn ma quanh quẩn bên gốc cây chỗ người chết.

* Thờ cúng người. Ngoài phồn thực, tự nhiên, tín ngưỡng Việt Nam rất coi trọng con người. Họ

cũng hay thờ con người, đặc biệt là thờ cúng và phong thánh, chẳng hạn như người ta phong Trần Hưng Đạo là Đức Thánh Trần, hay thờ những người được mến trọng có công với dân, với nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp,...

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 78

Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng(Ninh Bình)

Đền Kiếp Bạc (Hải Dương) –

Thờ Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn

Đền thờ vua Lê Thái Tố (Thanh Hóa)

Đền thờ Lễ thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (Đồng Nai)

Thờ cúng Tiền hiền là một phần của tín ngưỡng thờ cúng người, tại Việt Nam có rất nhiều đền thờ các vị danh nhân có công với dân, với nước như vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Thái Tổ, Lương Thế Vinh, Trần Hưng Đạo (Tín ngưỡng Đức Thánh Trần),....

*Thờ hồn vía Người Việt xưa cho rằng con người gồm phần thể xác và phần linh hồn. Một số

dân tộc Đông Nam Á coi linh hồn gồm "hồn" và "vía". Vía được hình dung như phần trung gian giữa thể xác và hồn. Người Việt cho rằng người có ba hồn, nam có bảy vía và nữ có chín vía. Ba hồn gồm: Tinh (sự tinh anh trong nhận thức), Khí (năng lượng làm cho cơ thể hoạt động) và Thần (thần thái của sự sống). Bảy vía ở đàn ông cai quản hai tai, hai mắt, hai lỗ mũi và miệng. Chín vía ở nữ giới cai quản bảy thứ như ở nam giới cộng thêm hai vía nữa. Hai vía này có nhiều cách giải thích. Chúng có thể là núm vú có vai trò quan trọng trong nuôi con. Tuy nhiên có cách giải thích

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 79

khác. Người Việt thường có câu nói nam có "ba hồn bảy vía" còn nữ có "ba hồn chín vía", cũng là từ các quan niệm trên mà ra.

Hồn và vía dùng thể xác làm nơi trú ngụ, trường hợp hôn mê ở các mức độ khác nhau được giả thích là vía và hồn rời bỏ thể xác ở các mức độ khác nhau. Nếu phần thần của hồn mà rời khỏi thể xác thì người đó chết. Khi người chết, hồn nhẹ hơn sẽ bay sang kiếp khác còn vía nặng hơn sẽ bay là mặt đất rồi tiêu tan. Thế nên mới có những câu ngạn ngữ như: "hồn xiêu phách lạc" (phách tức là vía; ở đây muốn nói trạng thái run sợ, mất chủ động), "sợ đến mức hồn vía lên mây". Khi chết là hồn đi từ cõi dương gian đến cõi âm ty, cõi đó cũng được tưởng tượng có nhiều sông nước như ở cõi dương gian nên cần phải đi bằng thuyền nên nhiều nơi chôn người chết trong những chiếc thuyền.

*Thờ cúng Tổ tiên Người Việt là một trong những dân tộc có tục thờ cúng tổ tiên sâu đậm và sớm

nhất, nó gần như trở thành một tôn giáo: Thà đui mà giữ đạo nhà

Còn hơn sáng mắt cha ông không thờ.

Thực hiện nghi lễ trong một lễ giỗ Họ

Thực hiện nghi lễ Giỗ tổ Hùng Vương

Người phương tây coi trọng ngày sinh thì người Việt coi trọng ngày mất. Họ cho rằng người đã mất đi về nơi chín suối. Bàn thờ tổ bao giờ cũng được đặt ở nơi trang trọng nhất. Ngày xưa khi cúng lễ bao giờ cũng có nước (hoặc rượu) cùng với những đồ tế lễ khác như vàng mã. Sau khi cúng xong thì đem đốt vàng mã rồi đổ rượu hoặc nước lên đống tro tàn, khói bay lên trời, nước hòa với lửa thấm xuống đất theo

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 80

họ như thế tổ tiên mới nhận được. Hành động đó được cho là sự hòa quyện Nước-Lửa (âm dương) và Trời - Đất - Nước (tam tài) mang tính triết lý sâu sắc.

Thờ Quốc tổ Hùng Vương cũng được xem là một phần của thờ cúng Tổ tiên. Ở phạm vi quốc gia, người Việt thờ Vua tổ, đó là Vua Hùng. Nơi thờ phụng chính là ở Phong Châu, Phú Thọ. Ngày giỗ tổ là ngày 10 tháng 3 âm lịch.

* Thờ cúng Tổ nghề Tổ nghề là một hoặc nhiều người có công lớn đối với việc sáng lập và truyền bá

một nghề nào đó. Do đó được các thế hệ sau tôn trọng và suy tôn là làm người sáng lập vì đã có công tạo ra nghề, gọi là Tổ nghề (hoặc thánh sư). Tổ nghề chỉ là những con người bình thường, nhưng lại được người đời sau tôn thờ vì đã có công sáng tạo ra nghề, truyền lại cho các thế hệ sau.

Giỗ tổ nghề gốm (Hội An)

Giỗ tổ nghề may (Hà Nội)

Lế giỗ tổ nghề sân khấu (TP Hồ Chí Minh)

Giỗ tổ nghề kim hoàn (Đồng Nai)

* Thờ cúng Thành hoàng Ở phạm vi gia đình, người Việt thờ tổ tiên và Thổ Công, ở phạm vi làng xã,

người Việt thờ Thành hoàng. Giống như Thổ công, Thành hoàng cai quản và quyết

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 81

định họa phúc của một làng. Không có làng nào ở Việt Nam mà không có Thành hoàng.

Những người được thờ thường là những người có tên tuổi và địa vị, có công lao đối với làng đó. Tuy nhiên một số làng còn thờ những người lý lịch không rõ ràng gì như trẻ con, ăn xin, ăn mày, trộm cắp... nhưng họ chết vào "giờ thiêng".

* Thờ cúng Tứ bất tử Người Việt còn thờ bốn vị thánh bất tử, đó là Tản Viên, Thánh Gióng, Chử

Đồng Tử và Liễu Hạnh. Tản Viên biểu hiện cho ước vọng chiến thắng thiên tai, lụt lội; Thánh Gióng biểu hiện cho tinh thần chống giặc ngoại xâm; Chử Đồng Tử biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về vật chất; Liễu Hạnh biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về tinh thần của người dân Việt Nam.

Đền thờ Thánh Tản Viên

Thờ Thánh Gióng

Đền thờ Thánh Chử Đồng Tử

Thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh

* Thờ cúng Thần linh Tính ngưỡng thờ cúng Thần linh của người Việt rất đa dạng với số lượng đông

đảo của các vị thần như: Thổ Địa, Thần Tài, Táo Quân, Hà Bá, Môn Quan, Phúc Lộc Thọ,…

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 82

=> Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng ở nước ta rất phong phú và đa dạng, có sự khác nhau giữa các vùng miền, mỗi loại hình tín ngưỡng thờ cúng cũng có mức độ trọng thị khác nhau. Tuy nhiên, có một tín ngưỡng thờ cúng được các cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung trên khắp đất nước, cộng đồng các dân tộc trên địa bàn tỉnh Đồng Nai coi trọng đó là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên.

II. THỜ CÚNG TỔ TIÊN -NÉT ĐẸP VĂN HÓA THỂ HIỆN TRUYỀN THỐNG “UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN” CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT NAM

Trong các hình thái tín ngưỡng dân gian, thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng cổ truyền mang tính phổ quát của người Việt Nam. Là người Việt Nam thì "mọi người đều thờ cúng tổ tiên, mọi người đều thờ ông bà”.

Thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam, là một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất giản dị: tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, họ phù hộ cho con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu gặp may mắn, khuyến khích cho con cháu khi gặp điều lành và cũng quở trách con cháu khi làm những điều tội lỗi...

Ở nước ta, thờ cúng tổ tiên không chỉ là tín ngưỡng phổ biến ở người Việt - tộc người đa số - mà còn lưu giữ ở nhiều tộc người khác như người Mường, người Thái... Trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, trong khi nhiều tôn giáo, tín ngưỡng dân gian khác đã phải chịu cảnh long đong, bị kết tội “mê tín dị đoan” nhưng tín ngưỡng thờ tổ tiên đã và vẫn chiếm được vị trí thiêng liêng trong đời sống tinh thần của người Việt. Ý thức “con người có tổ, có tông” được bảo tồn trong cõi tâm linh và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, dù họ sống trên tổ quốc mình hay lưu vong nơi xứ người. Đặc biệt đây là hình thức tín ngưỡng được các thể chế chính từ xưa đến nay trân trọng thừa nhận, dù rằng với những mức độ khác nhau. Cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, nó là sự bồi lắng, kết tụ những giá trị đạo đức quý báu của con người Việt Nam.

1. Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên xuất hiện từ khi nào? Cho đến nay có khá nhiều

các giả thuyết, nó được hình thành vào thời Bắc thuộc, cùng với những ảnh hưởng của văn hóa Hán. Nhưng một số vấn đề được trao đổi: liệu thời điểm ra đời có thể sớm

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 83

hơn không, mối quan hệ giữa yếu tố bản địa và yếu tố du nhập trong việc hình thành tín ngưỡng này diễn ra như thế nào? chúng ta hãy tìm hiểu từ nền tảng văn hóa - xã hội của cộng đồng cư dân Việt.

Cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc hình thành bất cứ tôn giáo tín ngưỡng nào cũng là quan niệm tâm linh của con người về thế giới. Cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt xuất phát từ nhận thức “vạn vật hữu linh” - mọi vật đều có linh hồn, và bắt đầu từ giới tự nhiên xung quanh mình. Vì thế, loại thần cổ sơ nhất được người ta sùng là các nhiên thần, đặc biệt là thần cây, thần núi, thần sông.... Bằng cách huyền thoại hóa, các vị nhiên thần đã được mang khuôn mặt của con người (hiền hậu hay dữ tợn), tâm lý của con người (vui mừng hay giận giữ). Có thể nói việc nhân hóa các thần tự nhiên đã tạo ra một bước chuyển cho việc hình thành hệ thống nhân hóa. Đây cũng chính là giai đoạn con người bắt đầu khám phá về bản thân mình. Đến một thời điểm nào đó, mối quan hệ giữa cái hữu hình và cái vô hình, nhất là cái sống và cái chết đã làm con người bận tâm. Vẫn với quan niệm vật linh kể trên, họ tin rằng trong mỗi con người đều có phần “hồn” và “vía”.

Không có ý thức cao siêu về thiên đàng hay địa ngục của Kitô giáo hay thuyết luân hồi chuyển kiếp đầu thai của đạo Phật, trong nhận thức dân gian, thể xác và linh hồn vừa gắn bó, vừa tách biệt. Chúng gắn bó khi sống và tách biệt khi chết, thể xác đã hòa vào cát bụi nhưng phần hồn vẫn tồn tại chuyển sang sống ở một thế giới khác. Cõi âm ấy cũng có mọi nhu cầu như cuộc sống dương gian. Theo quan niệm dân gian, chết cũng là một dạng “sống”trong một môi trường khác.

Người ta cho rằng nếu người chết không được cung cấp đầy đủ sẽ trở thành “ma đói” lang thang, quấy nhiễu người sống. Các am chúng sinh lập ở cuối làng, hay lễ Vu lan (rằm tháng bẩy) dành cho “thập chúng sinh” là những biểu hiện mong muốn chia sẻ, an ủi những linh hồn bơ vơ, thiếu đói không có người cúng tế. Một hiện tượng khá bí ẩn nhưng rất được con người tin tưởng, đó là âm phủ, người chết phù trợ cho người sống

Mối quan hệ giữa những người sống và những người chết cùng chung huyết thống lại càng gắn bó hơn. Trong vòng hai, ba đời thì đó còn là những kỷ niệm rất cụ thể và sâu sắc. Ông bà, cha mẹ dù qua đời nhưng vẫn luôn hiện diện trong tâm tưởng của con cháu, và con cháu luôn cảm thấy trách nhiệm cả về vật chất lẫn tinh thần đối với họ. Niềm tin vào cái chết chẳng qua là một cuộc trở về gặp tổ tiên, ông bà và tổ

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 84

tiên có thể sẽ dõi theo, phù hộ độ trì cho con cháu, đã là cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Ở Việt Nam, mặc dù tất cả các tộc người đều có quan niệm tổ tiên và một số tộc người có những hình thức tôn thờ ở những mức độ khác nhau, theo nhiều nhà nghiên cứu, các hình thức này, hoặc tục cúng người chết trong tang lễ, cung cấp vật dụng khi chôn người chết, thờ một vài năm, hay lễ bỏ mả... không đồng nhất với hình thức thờ cúng tổ tiên truyền thống của người Việt (thờ cúng nối tiếp, lâu dài). Vì vậy, những nét tương đồng của hình thức tín ngưỡng này chỉ nhận thấy rõ nhất ở một vài nước Đông Nam Á, đặc biệt là Trung Quốc.

Xã hội cổ truyền của người Việt cũng có những cơ sở kinh tế nhất định cho việc hình thành và duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Trước hết đó là nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp. Đây chính là môi trường thuận lợi cho sự xuất hiện tín ngưỡng đa thần. Xét về phương diện kinh tế, làng xã Việt Nam đã gần như một đơn vị độc lập và tương tự như thế, là tế bào của nó - hộ gia đình nhỏ. Đây là nhân tố quan trọng gắn bó các thành viên của gia đình cùng một thế hệ và giữa các thế hệ. Mở rộng ra, các gia đình cư trú quần tụ theo họ, và nhiều họ tập hợp thành làng. Trước làng, con người không tồn tại với tư cách cá nhân mà dưới danh nghĩa gia đình dòng họ - những đơn vị huyết thống. Có thể nói nền kinh tế tiểu nông ấy là mảnh đất thuận lợi cho việc củng cố và phát triển ý thức dân tộc cũng như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở làng xã.

Trong khía cạnh kinh tế có một điểm quan trọng tạo nên nét khác biệt trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam và Trung Hoa. Do đặc trưng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, gió mùa nên Việt Nam sản xuất lúa nước theo truyền thống tiểu canh kết hợp với nuôi gia súc. Vì vậy sản xuất không đòi hỏi tập trung nhân công theo quy mô lớn như ở nơi sản xuất lúa mỳ khô, công cụ xản xuất cũng nhỏ, gọn, nhẹ, mọi thành viên trong gia đình từ phụ nữ, trẻ em đều sử dụng dễ dàng. Kết hợp tất yếu của quy trình này khiến người Việt gắn bó với gia đình, thường là gia đình hạt nhân chặt hơn với dòng họ. Hầu như gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên (dù thờ chính hay thờ vọng) nhưng không phải dòng họ nào cũng có từ đường.

Hình thức tổ chức xã hội cũng là một yếu tố quan trọng cho việc hình thành tín ngưỡng. Ở giai đoạn thị tộc phụ quyền, người đàn ông bắt đầu nắm giữ quyền hành quản lý gia đình do họ đã có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế, vợ và con cái họ tuyệt đối phục tùng và tôn trọng cái uy quyền đã được xác lập ấy, không chỉ khi họ

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 85

còn sống mà cả khi họ đã qua đời. Những đứa con mang họ cha đã kế tiếp ý thức về uy quyền, và phải chăng các nghi thức ma chay, cúng tế tổ tiên cũng chính là “hình thức phản ánh hoang đường quyền hành gia trưởng trong một gia đình”.

Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ra đời và duy trì trong những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định. Từ hình thức liên minh cộng đồng nguyên thủy đến hình thức liên kết gia đình sơ khai theo trục huyết thống nam đã là một chặng đường lịch sử khá dài. Theo con đường “ chung tộc danh về phía bố”, các gia đình nhỏ liên kết lại với nhau thành họ. Đây là loại đơn vị ngoại hôn vì các thành viên trong họ liên kết với nhau bằng sợi dây huyết thống và cùng chung một vị thủy tổ.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở người Việt đã hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở quan niệm tâm linh và một nền tảng kinh tế xã hội tư tưởng khá bền vững. Có thể nói những yếu tố tâm linh có tính bản địa và mộc mạc đã được thể chế hóa, hợp pháp hóa nhờ hệ tư tưởng Nho giáo và sự ủng hộ của các vương triều. Chính vì vậy, tín ngưỡng này đã được bảo tồn qua suốt tiến trình lịch sử nhiều biến động.

2. Vậy tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là gì? Tín ngưỡng của tục thờ cúng tổ tiên là quan niệm về sự tồn tại của linh hồn và

mối liên hệ giữa người đã chết và người sống (cùng chung huyết thống) bằng con đường hồn về chứng kiến, theo dõi hành vi của con cháu, quở trách hoặc phù hộ cuộc sống của họ. Trong tín ngưỡng này đạo lý là nội dung nổi trội. Đạo lý uống nước nhớ nguồn, một mặt con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với các bậc sinh thành, lúc họ đã chết cũng như khi còn sống. Mặt khác, nó cũng thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu đối với nhu cầu của tổ tiên. Trách nhiệm được biểu hiện không chỉ trong các hành vi sống (giữ gìn danh dự và tiếp tục truyền thống của gia đình, dòng họ, đất nước) mà còn ở trong các hành vi cúng tế cụ thể. Một học giả nước ngoài khi nghiên cứu về tín ngưỡng này ở nước ta đã nhận xét: “Các thành viên trong gia đình kính dâng các đồ cúng lễ là tuyệt đối cần thiết để cho linh hồn tổ tiên có được sự yên nghỉ thanh thản ở thế giới bên kia”.

Ở đây cũng cần nhắc tới đặc trưng “duy tình” hơn “duy lý” của người Việt. Mặc dù nhiều dân tộc phương Đông có tâm lý ứng xử duy tình, nhưng ở người Việt, thái độ này biểu hiện rất rộng và thể hiện rất sâu sắc (không chỉđối với người đang sống mà cả với những người sắp chào đời hoặc đã chết). Người ta luôn luôn chịu sự chi phối của quan niệm vừa mong được nhận “phúc ấm của tổ tiên”, “sống vì mồ mả,

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 86

ai sống vì bát cơm”, vừa lo trách nhiệm để phúc lộc cho con cháu “phúc đức tại mẫu”, “đời cha ăn mặn đời con khát nước”. Khi cúng lễ tổ tiên, một mặt con người hướng về quá khứ, định hướng cho hiện tại (giáo dục truyền thống gia đình, đạo lý làm người cho con cháu) và mặt khác đã chuẩn bị cho tương lai. Đường dây thế hệ mà cũng là đường dây đạo lý sẽ luôn liên tục nối tiếp, phát triển.

Thờ cúng tổ tiên còn là hình thái tín ngưỡng có ý nghĩa lớn về mặt tổ chức cộng đồng trong xã hội truyền thống. Sống trong xã hội, xét theo cả trục dọc và trục ngang, con người không thể sống biệt lập, đơn độc. Theo trục dọc phụ hệ, thờ cúng tổ tiên là sự nối tiếp liên tục các thế hệ: ông bà - cha mẹ - bản thân. Mỗi con người phải có trách nhiệm thờ phụng bốn đời trước: cao, tằng, tổ, khảo (kỵ, cụ, ông, bố) và họ cũng tin rằng sẽ được con cháu bốn đời kế tiếp cúng giỗ. Theo trục ngang, thờ cúng tổ tiên đã gắn bó con người trong mối liên kết dòng họ: họ cha, họ mẹ, họ vợ (hoặc chồng). Với tư cách một tập thể - gồm cả người đang sống và người đã chết gắn bó với nhau về huyết thống và thờ chung một thủy tổ, dòng họ có sức mạnh đảm bảo giá trị tinh thần cho mỗi thành viên của nó trong làng xã

Vai trò tổ chức liên kết cộng đồng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn rõ hơn khi ta xem xét vấn đề thờ quốc tổ. Cả cộng đồng cư dân Việt Nam được củng cố bởi niềm tin chung một cội nguồn “đồng bào”, đều là “con Lạc cháu Hồng”. Và đó cũng chính là sức mạnh giúp cho dân tộc ta vững vàng trước mọi sự đe dọa của giặc ngoại xâm “các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”.(Hồ Chủ Tịch). Suốt từ thế kỷ XV, XVI đến nay, khi Hùng Vương được coi là quốc tổ, ý thức này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống tâm linh của dân tộc Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có nội dung bình dị và giàu tính thực tiễn, không cực đoan như nhiều tôn giáo khác. Bởi thế nó dễ dàng được thế tục hóa trở thành nếp sống, phong tục, bám rễ sâu trong tiềm thức của mỗi người. Bằng việc thờ cúng tổ tiên, thế hệ trước nêu gương cho thế hệ sau không chỉ vì trách nhiệm đối với các bậc sinh thành mà còn để giáo dục dạy dỗ con cháu lưu truyền nòi giống. Giáo sư Đào Duy Anh cho rằng: “tế tự tổ tiên là lấy sự duy trì chủng tộc làm mục đích”. Trong khi tế lễ, lời khấn vái của họ cũng thật giản dị, rất thực tiễn: lời cầu xin che chở, phù trợ cho cuộc sống hàng ngày của họ được bình yên, suôn sẻ. Không biết sự cầu xin ấy hiệu quả như thế nào, nhưng trước hết, con người cảm thấy thanh thản về mặt tâm linh, điểm tựa tinh thần quan trọng cho cuộc sống. Trong sự thờ cúng này đã

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 87

thực sự nảy sinh mối quan hệ hai chiều: người chết cần đến sự cúng lễ của người sống để có thể yên ổn ở thế giới bên kia, không thành “ma đói” lang thang, còn người sống chỉ có thể an bình, thanh thản khi được che chở, phù trợ một cách bí ẩn của người chết. Linh hồn các bậc tiền bối luôn luôn bên cạnh con cháu, mách bảo cho họ và giúp đỡ họ có một cuộc sống tốt đẹp thuận hòa. Với những mong muốn bình dị và niềm tin nguyên thủy chất phát, thờ tổ tiên được coi là thứ tín ngưỡng “vừa tầm” với mọi lớp người cả về mặt nội dung đạo lý và nghi thức thực hiện. Do đó, khả năng phổ biến trong không gian và thời gian của tín ngưỡng này cũng là một điều dễ hiểu.

Các tôn giáo ngoại lai, để tồn tại được ở Việt Nam, đã buộc phải dung hòa với thứ tín ngưỡng bản địa cắm rễ sâu trong tâm thức người Việt – thờ cúng tổ tiên. Còn các tôn giáo xuất hiện nội sinh trong nước như Cao Đài, Hòa Hảo ở miền Nam cũng đã biết dựa trên cơ sở của đạo thờ cúng ông bà. Không chỉ các tôn giáo, mà ngay cả trong các tín ngưỡng dân gian khác như tín ngưỡng thờ thành hoàng, thờ Mẫu…, ta cũng thấy dấu vết tác động của tín ngưỡng thờ tổ tiên ở sự biết ơn cội nguồn, biết ơn các đấng sinh thành. Bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ thần, người dân Việt thờ Mẫu (thờ mẹ) với mong muốn kéo vị thần này gần với tín ngưỡng gia tộc, từ đó có mối đồng cảm gắn bó như giữa người mẹ luôn che chở với đàn con của mình.

Có thể nói, thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng dân gian của dân tộc có nguồn gốc từ xa xưa và mang đạo lý nhân ái uống nước nhớ nguồn trong tiến trình lịch sử, nó đã được các hệ tư tưởng tôn giáo khác bổ sung hoàn chỉnh để thể chế hóa thành một thứ đạo: Đạo tổ tiên - Đạo Ông Bà.

3. Về nghi thức thờ cúng tổ tiên Tổ tiên theo quan niệm của người Việt Nam, trước hết là những người cùng

huyết thống, như cha, mẹ, ông, bà, cụ, kỵ v.v... là người đã sinh ra mình. Tổ tiên cũng là những người có công tạo dựng nên cuộc sống hiện tại như các vị "Thành hoàng làng" các "Nghệ tổ". Không chỉ thế, tổ tiên còn là những người có công bảo vệ làng xóm, quê hương, đất nước khỏi nạn ngoại xâm như Trần Hưng Đạo đã thành "Cha" được tổ chức cúng, giỗ vào tháng 8 âm lịch hàng năm. "Tháng 8 giỗ cha" ở rất nhiều nơi trong cộng đồng người Việt. Ngay cả "Thành hoàng" của nhiều làng cũng không phải là người đã có công tạo dựng nên làng, mà có khi là người có công, có đức với nước được các cụ xa xưa tôn thờ làm "thành hoàng". Tổ tiên trong tín ngưỡng của người Việt Nam còn là "Mẹ Âu Cơ", còn là "Vua Hùng", là người sinh ra các dân tộc

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 88

trong đại gia đình Việt Nam. Sự biết ơn và tưởng nhớ công lao là thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn" đối với tổ tiên.

Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mà thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập "mối liên hệ" giữa người sống với người chết, giữa người ở thế giới hiện tại và thế giới tâm linh. Là sự thể hiện quan niệm về nhân sinh của người Việt Nam: "sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn". Với người Việt Nam, chết chưa phải là hết, tổ tiên lúc nào cũng ở bên cạnh người sống, "như tại" trên bàn thờ mỗi gia đình, động viên, trợ giúp cho con cháu trong cuộc sống thường ngày. Nếu như tôn giáo thường tuyệt đối hóa đời sống tinh thần, hướng con người về thế giới siêu thoát, thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tuy có hướng con người về với quá khứ, song lại rất coi trọng hiện tại và tương lai.

Nhân dân đến dâng hương tại Đền Hùng – Phú Thọ

Dâng hương tại Đền thờ Quốc Tổ vua Hùng tại

TP Biên Hòa– Đồng Nai

Đạo lý biết ơn và tiếp tục nối dõi truyền thống tổ tiên chỉ trở thành nội dung bên trong của tín ngưỡng khi đạo lý được bộc lộ thông qua các nghi thức có tính chất huyền bí, thiêng liêng. Các nghi thức thờ cúng tổ tiên ở nước ta tuy phần lớn phỏng theo nghi lễ Nho giáo, nhưng lại có những yếu tố rất gần gũi với Phật giáo hay Đạo giáo. Mặt khác với tính chất một tín ngưỡng dân dã, các hành vi lễ thức thường được thực hiện theo tâm thức dân gian và cũng không hoàn toàn thống nhất ở các gia đình, các địa phương.

Thời gian cúng giỗ là những ngày húy kỵ của tổ tiên, những ngày lễ, tết trong năm. Ngoài ra, việc cúng giỗ tổ tiên cũng được tổ chức vào những ngày trong gia đình có sự kiện quan trọng như lấy vợ, làm nhà, tậu trâu, thi cử, đi xa, nhà có người ốm đau... Thông qua nghi lễ thờ cúng, người Việt Nam gửi gắm tình cảm biết ơn đối với

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 89

tổ tiên. "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" và vì "Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu". Trong mỗi gia đình tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dần dần trở thành đạo lý "uống nước nhớ nguồn", thành "đạo hiếu". Đạo hiếu là cái gốc của mỗi con người. Công cha, nghĩa mẹ như núi cao, nước nguồn cho nên phải hiếu thảo với cha, mẹ khi còn sống, thành kính, biết ơn, tiếc thương khi cha, mẹ khuất núi về với tổ tiên. Lòng hiếu thảo là giá trị đạo đức quý báu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam.

* Thờ cúng tổ tiên trong gia đình và gia tộc Mang đặc tính của cư dân nông nghiệp đa thần giáo, trong gia đình người ta

thường thờ phụng nhiều vị thần. Bên cạnh việc thờ tổ tiên, thờ Phật, người ta còn thờ bà Cô, ông Mãnh là những người thân thích, chết trẻ, hoặc chết vào giờ linh thiêng. Ở một số gia đình, vị trí bàn thờ được sắp xếp theo quy định, ví dụ thờ Thánh sư ở góc nhà, thờ Tiền chủ ở bàn thờ đặt ngoài sân, thờ bà Cô, ông Mãnh ở cạnh thấp hơn bàn thờ tổ tiên.... Trong các vị thần được thờ tại gia, thường không có vị thần nào được sắp xếp ngang hàng với tổ tiên. Thông thường ban thờ được đặt cao ở vị trí trang trọng nhất, gian chính giữa của nhà trên. Đây là điểm khác biệt với một số dân tộc khác ở Đông Á. Ở Hàn Quốc người ta chỉ lập bàn thờ và dán bài khi có việc cúng giỗ, ở Nhật Bản, vị trí trang trọng nhất trong nhà dành thờ Thần đạo (Shinto) còn ban thờ tổ tiên lại lập ở gian phụ.

Bàn thờ gia tiên được đặt ở vị trí trang trọng trong nhà

Việc bài trí bàn thờ gia tiên thường không giống nhau, điều này phụ thuộc vào quan niệm tâm linh và cả điều kiện kinh tế của gia chủ. Nhìn chung bàn thờ gia tiên nào cũng có một số đồ thờ chủ yếu sau: bài vị, bát hương, đĩa đèn, bình hoa, chén rượu, mâm đựng hoa quả…. Các gia đình bình dân, đồ thờ thường được làm bằng gỗ

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 90

hoặc sành sứ, còn các gia đình giàu có thế nào cũng có đồ thờ tự bằng đồng. Bàn thờ gia tiên của ngành trưởng phức tạp hơn ngành thứ, của chi trưởng phức tạp hơn chi thứ, gia đình con thứ, con út chỉ thờ vọng nên bài trí bàn thờ cũng đơn giản hơn con trưởng.

Mâm ngũ quả và bánh trưng ngày tết thờ cúng tổ tiên

Với trách nhiệm thờ phụng nhiều đời: cao, tằng, tổ, khảo, bàn thờ các gia đình chi trưởng, ngành trưởng có đặt các tấm thần chủ được làm bằng gỗ táo (với ý nghĩa cây táo sống nghìn năm) ghi rõ tên tuổi các vị tổ. Trên bàn thờ ở các từ đường dòng họ còn có bài vị Thủy tổ của họ, bài vị có sự chuyển dịch. Khi thờ cúng đến đời thứ năm thì thần chủ của đời này được đem chôn, vì thế mới có câu “Ngũ đại mai thần chủ”. Các thần chủ đời sau được chuyển lên bậc trên, và tấm thần chủ của ông mới nhất được thay vào vị trí “khảo”. Như vậy, các gia đình chi thứ, ngành thứ, các vị tổ đời thứ tư, thứ ba chỉ được thờ vọng, mà chủ yếu thờ hai đời gần nhất (ông bà, cha mẹ).

Việc thờ cúng tổ tiên tại gia đình thường được tiến hành quanh năm, xuất phát từ quan niệm dù đã khuất nhưng linh hồn họ vẫn luôn ở bên cạnh con cháu. Không chỉ cúng lễ trong các dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp, cưới xin…, không chỉ trong những ngày lễ tiết như Tết nguyên đán, Thanh minh, Hàn thực, Đoan ngọ…, các ngày Sóc(ngày mồng một), Vọng (ngày rằm) theo chu kỳ tuần trăng, mà các vị tổ tiên còn được con cháu kính cáo mọi chuyện vui buồn: sinh nở, ốm đau, thi cử, đỗ đạt, kiện cáo, bất hòa, dựng vợ gả chồng… Con cháu còn kính mời các vị về hưởng thụ hoa trái đầu mùa, lễ tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc. Có thể nói trong tâm thức những người sống tổ tiên là bất tử. Người Việt dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công. Bản chất việc thờ cúng

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 91

tổ tiên của người Việt là từ niềm tin người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền nhân. Tổ tiên thì che chở, dẫn dắt hậu thế nên việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lưu giữa cõi dương và cõi âm.

Đồ lễ trên bàn thờ cũng không quy định chặt chẽ lắm, tùy tâm nhưng điều cơ bản phải là những thứ thanh khiết và được dành riêng. Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt ở trên cao, tại nơi trang trọng nhất trong nhà (gian giữa đối với nhà một tầng, tầng trên cùng đối với nhà tầng). Trên bàn thờ bày bát hương, chân đèn, bài vị hay hình ảnh người quá cố. Bàn thờ được coi là những dấu vết còn lại của tín ngưỡng thờ mặt trời và thần lửa. Chén nước trắng tinh khiết cũng được giải mã từ tục thờ thần nước xa xưa. Có thể một triết lý quen thuộc của phương Đông cũng đã xuất hiện ở đây: sự giao hòa âm dương. Bên cạnh chén nước, bình rượu (âm) cần đến sự có mặt của hương lửa (dương). Cũng như khi hóa vàng (đốt mã), người ta cho rằng phải đổ chén rượu hoặc nước lên đống tro thì người âm mới nhận được lễ. Theo quan niệm dân dã, nén hương là chiếc cầu nối giữa tổ tiên và con cháu, nó có khả năng chuyển tải lời thỉnh cầu của những người sống và chính mùi thơm thanh cao của hương, hoa đã tạo ra được sự giao hòa giữa người hai cõi. Sau khi cúng giỗ, gia đình thường dọn thức ăn vừa cúng xong để cùng ăn, coi như hưởng lộc của tiền nhân. Bạn bè thân thuộc cũng được mời đến dùng bữa, tức là đi ăn giỗ.

Lễ thức trong tang ma được coi là lễ thức quan trọng bậc nhất để đưa ông bà, cha mẹ vừa mất về gặp tổ tiên và gia nhập vào hàng các vị tổ tiên (những người vừa mới mất được lập bàn thờ riêng cho tới khi giỗ hết, cải táng sạch sẽ mới được phép thờ chung với tổ tiên. Sau lễ tang ma, lễ giỗ là nghi thức rất được chú trọng trong tâm lý người Việt.

Một biến thể của việc cúng giỗ là tục thờ "hậu" do nhà chùa hay đình làng đảm nhiệm. Trong trường hợp này người quá cố đã cúng tiền hay ruộng vào chùa hay đình để được hưởng lễ vật vào những ngày kỵ nhật.

Vì kính trọng tổ tiên, người Việt coi việc tang ma là trọng sự, gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 92

Mâm cỗ cúng gia tiên

Ngày giỗ (kỵ nhật) là ngày kỷ niệm ngày mất của người thân trong gia đình hàng năm thường được tính theo âm lịch (hay còn gọi là ngày ta). Trong các ngày giỗ có ba ngày chú ý nhất: tiểu tường (giỗ đầu), đại tường (giỗ hết), trừ phục (lễ cởi bỏ đồ tang). Các ngày giỗ thường kỳ trong các năm sau được coi là cát kỵ (giỗ lành). Trước lễ Tiểu tường, nhiều gia đình còn làm lễ Tiên thường (cáo giỗ) nhằm xin phép Thổ công để linh hồn người đã mất trở về gia đình nhận giỗ. Đồ lễ cúng trong giỗ đầu và giỗ hết phải chuẩn bị rất chu đáo. Theo quy định xưa, vào ngày giỗ đầu, trang phục tang lễ mũ gậy, áo xô lại được con cháu mang ra mặc. Đồ mã được gửi cho người chết cũng theo quy định: ở lễ tiểu đường đó là “mã biếu” vì người chết phải sử dụng để biếu các ác thần mong tránh sự quấy nhiễu (dân gian quan niệm cõi âm như cõi trần), ở lễ Đại tường và lễ Trừ phục (một ngày tốt được chọn sau lễ Đại tường để đốt bỏ tang phục) đồ mã còn cần nhiều hơn: mọi vật dụng sinh hoạt cho người chết ( quần áo, giầy dép, xe cộ), thậm chí cả các hình nhân bằng giấy để xuống cõi âm phục vụ cho họ. Sau khi hóa (đốt) những đồ mã này, đổ một chén rượu lên đống tàn vàng để vật mã trở thành vật thật, tiền thật dưới cõi âm. Người ta còn hơ một chiếc đòn gánh, gậy trên ngọn lửa hóa vàng, hoặc dựng một cây mía bên cạnh với lời giải thích “để các cụ gánh vác về”.

Gia tộc cũng có những qui định tín ngưỡng cho việc thờ cúng Thủy tổ dòng họ. Mặc dù đã qua nhiều đời nhưng ngày giỗ họ vẫn được lưu truyền nhờ việc ghi chép gia phả. Trong ngày giỗ Thủy tổ, tất cả con cháu trưởng các chi, ngành, nhánh buộc phải có mặt. Các con cháu khác tùy vào hoàn cảnh mà mang đồ tới góp giỗ. Lễ giỗ Tổ được tổ chức chu đáo và duy trì đều đặn hàng năm.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 93

Tảo mộ và nghi thức cúng tế là phần không thể thiếu trong thờ cúng tổ tiên

Bên cạnh các nghi lễ cúng tế trong gia đình và gia tộc còn phải kể thêm vào hệ thống nghi thức tế lễ tổ tiên một hình thức Tảo mộ. Ngoài việc đắp thêm mộ trong ba ngày (sau khi người thân chết), các gia đình, dòng họ thường đi thăm mộ, cúng tế sửa sang mồ mả vào dịp Tết Thanh minh tháng ba. Việc cúng tế tại mộ thường diễn ra đơn giản hơn nhiều so với cúng tại nhà, nhưng trước khi cúng trước mộ người thân người ta phải khấn cáo xin phép thổ công. Thăm nom sang sửa mồ mả tổ tiên, một mặt là hình thức thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu, mặt khác bởi quan niệm mồ mả vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của cả gia đình, gia tộc. Người Việt cho rằng, nếu vị trí đặt mồ mả không tốt, hướng không đúng thì con cháu làm ăn sẽ lụi bại, không thể nào phát triển được. *Lễ giỗ tổ Hùng vương

Nghi thức tế tự của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên gồm ba bộ phận, thứ nhất là tế tự tại gia đình, thứ hai tế tự tại làng xóm (chủ yếu là tín ngưỡng thờ Thành hoàng) và thứ ba tế tự quốc gia. Người Việt luôn tôn thờ công đức của cha ông, tộc họ, những người đã khuất cùng huyết thống, đồng thời tôn thờ tất cả những người có công với nước, với xóm làng, những anh hùng dân tộc, anh hùng văn hóa. Cũng trong hệ thống ấy, với người Việt Nam tự bao đời nay ngày giỗ tổ Hùng vương luôn được coi trọng, đó là sự tưởng nhớ, là sự trở về với cội nguồn của dân tộc. Từ truyền thuyết bào thai trăm trứng đến sự tích Hùng Vương, người Việt đã dựng lên cho ông Tổ của mình một lý lịch hoàn chỉnh, có cả ngày mất (kỵ). Theo Toan Ánh, “trước đây hàng năm tại đền vua Hùng ở làng Cổ tích, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, có tổ chức quốc tế và có đại diện của triều đình tới đứng chủ tế trong ngày giỗ. Dân chúng các nơi kéo về đền

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 94

Hùng lễ tổ và ngay cả các tỉnh cũng có tế vọng vua Hùng”. Vì thế, đó là ngày giỗ quan trọng nhất của người Việt Nam:

Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba

Lễ giỗ tổ Hùng Vương tại Đền Hùng – Phú Thọ

Mùng Mười tháng Ba hàng năm đã trở thành ngày giỗ của vua Hùng, thành ngày hội tụ con cháu khắp mọi miền đất nước hướng về đất Tổ. Có thể nói ngày giỗ tổ Hùng Vương là sự phát triển cao có tính chất trìu tượng hóa ý thức về cội nguồn, bắt rễ sâu xa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở làng xã, trong gia đình và gia tộc. Triết lý cội nguồn trên phạm vi quốc gia ấy cũng đã đóng góp một phần quan trọng trong việc củng cố về mặt lý luận cho sự liên kết các quan hệ máu mủ thân tộc. Nhà và nước, nước và nhà, nước mất thì nhà tan, nước giàu thì dân mạnh. Chính vì thế tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam từ gia đình, dòng họ đến Tổ quốc đã không ngừng được giữ gìn bảo tồn qua các bước thăng trầm của lịch sử, bất chấp mọi mưu đồ, xâm lược đồng hóa của giặc ngoại xâm. Hiện nay, Vua Hùng được nhân dân các địa phương lập đền thờ vọng xong vẫn lấy ngày quốc giỗ là ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm.

Trong các hệ thống tín ngưỡng tôn giáo bản địa của nước ta thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được coi là quan trọng bậc nhất. Ở đó ta thấy được niềm tin của con người vào một thế giới bên kia, nơi có một cuộc sống giống như thế giới mà chúng ta đang sống. Thông qua các nghi lễ thờ cúng con người mong muốn có được sự che trở, giúp đỡ của tổ tiên, lúc nào trong tâm tưởng họ tổ tiên cũng luôn theo sát. Chính niềm tin đó đã giúp họ sống tốt hơn, có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, đồng thời cũng giúp mọi người xích lại gần nhau hơn. Mỗi dịp giỗ chạp là lúc những người trong gia đình dòng họ có điều kiện để gặp gỡ thăm hỏi nhau, tạo thêm sự thân thiết đoàn kết, gắn bó.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 95

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam trong quá trình hình thành, tồn tại của nó đã góp phần tạo ra những giá trị đạo đức truyền thống như lòng hiếu thảo, lòng nhân ái, tính cộng đồng, tính cần cù, sáng tạo, lòng hiếu học, lòng yêu nước. Vì thế tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên như đã khái quát trên có thể nói là vĩnh hằng cùng với sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Hiếu với tổ tiên, ông, bà, cha, mẹ còn được nâng lên cao hơn, đẹp hơn, đó là "hiếu với dân, với nước". Trong đời sống xã hội hiện đại, đã có thời kỳ người ta.

Giỗ tổ Hùng Vương tại TP Hồ Chí Minh

Giỗ tổ Hùng Vương tại Lâm Đồng

Dâng hương lên Quốc tổ Hùng Vương ở Cần Thơ

Giỗ tổ Hùng Vương ở Bà Rịa – Vũng Tàu

Vào ngày mùng 10 tháng 3 hàng năm nhân dân khắp mọi miền trên đất nước đều tiến hành giỗ Tổ Hùng Vương

Trong đời sống xã hội hiện đại, đã có thời kỳ người ta nghĩ đơn giản rằng xã hội càng phát triển, khoa học kỹ thuật càng tiến bộ thì con người càng bớt đi niềm tin vào thế giới vô hình, con người sẽ sống tỉnh táo hơn, khoa học hơn. Có lẽ điều này chỉ đúng một phần, vì thế khi thế giới càng chia nhỏ rành mạch, con người càng mở rộng tầm nhìn thì những khoảng trống, những điều chưa thể giải thích càng lớn. Đó là điều bí ẩn của thế giới tâm linh, đặc biệt là mối liên hệ ràng buộc vô hình nào đó giữa những người cùng dòng máu. Vì thế càng ngày tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên càng có

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 96

vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của mỗi người Việt Nam, nó là một trong những nhân tố góp phần quan trọng để bảo tồn và duy trì văn hóa truyền thống. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tập tục mang đậm nét văn hoá của người Việt.

Công viên Văn hóa Hùng Vương (Trảng Bom) được xây dựng là 1

địa điểm tưởng niệm và thờ vọng các Vua Hùng

Đoàn thanh niên Trung tâm Văn miếu Trấn Biên làm bánh chưng

dâng ngày giỗ Tổ

Lễ dâng Bánh Chưng, Bánh Dày của nhân dân Đồng Nai trong

ngày giỗ tổ Hùng Vương

Đại diện chính quyền địa phương và TP.Biên Hòa dâng hương lên

Quốc Tổ Hùng Vương.

Cũng như con dân Việt ở các địa phương khác trên cả nước, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được nhân dân Đồng Nai lưu giữ, bảo tồn duy trì như một nét đẹp văn hóa trong đời sống. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ăn sâu vào tâm khảm, nếp sống của mỗi người. Trong mỗi gia đình người dân ở Đồng Nai đều có bàn thờ tổ tiên thể hiện lòng nhớ ơn công lao của ông bà, cha mẹ, dòng tộc. Trên phương diện cộng đồng dân cư có nghi lễ cúng đình tưởng nhớ đến các vị tiền hiền có công với dân, với nước. Trên phương diện quốc gia, dân tộc thì Quốc tổ Hùng Vương được toàn thể nhân dân, Đảng bộ, chính quyền các cấp tỉnh Đồng Nai đặc biệt quan tâm bằng việc xây dựng nhiều công trình tưởng niệm, thờ vọng. Giỗ Quốc tổ Hùng Vương cũng được tổ chức trọng thể ở Đồng Nai vào ngày mùng 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm. Đây là nét đẹp truyền thống cần được bảo lưu, gìn giữ, phát huy. Đấy nguồn lực nhân văn vô cùng to lớn để giáo dục lòng yêu kính, biết ơn tổ tiên, lòng yêu quê hương, đất nước, dân tộc.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 97

BÀI VIẾT:

LÀ MỘT CÔNG DÂN VIỆT NAM TÔI LUÔN Ý THỨC ĐƯỢC VIỆC GIỮ GÌN, BẢO TỒN, PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG TỐT ĐẸP CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM

NIỀM TỰ HÀO VÀ TRÁCH NHIỆM LỚN LAO CỦA MỖI NGƯỜI DÂN.

Bản sắc văn hóa dân tộc là giá trị cốt lõi nhất của nền văn hóa, thể hiện tâm hồn, cốt cách, tình cảm, lý trí, sức mạnh của dân tộc, tạo nên chất keo kết nối các cộng đồng người gắn bó, đoàn kết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Những giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những động lực to lớn đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của quốc gia dân tộc.

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước, giữ nước. Bản sắc đó thể hiện ở nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, được bao thế hệ vun đắp, hun đúc tạo nên sức sống mãnh liệt giúp cộng đồng các dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách để tồn tại, không ngừng lớn mạnh và phát triển bền vững. Nó là niềm tự hào của mọi người dân Việt Nam, là nguồn sức mạnh vô địch bảo đảm cho dân tộc Việt Nam trường tồn, phát triển trong mọi thời đại. Trong chiến tranh giải phóng dân tộc, các thế hệ cha ông chúng ta đã kế thừa, phát huy cao độ bản sắc văn hóa dân tộc, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thấm nhuần lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, khắc phục mọi khó khăn, chiến đấu và chiến đấu thắng lợi mọi kẻ thù.

Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa diễn ra trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với những biến động phức tạp khó lường đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi chúng ta không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng, mà còn phải tinh thông về văn hóa, tham gia giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng hòa những giá trị văn hóa bền vững, phản ánh diện mạo, sắc thái, cốt cách, tâm hồn, tâm lý… của một dân tộc, được thường xuyên hun đúc, bổ sung và lan tỏa trong lịch sử dân tộc, trở thành tài sản tinh thần đặc sắc, tạo nên sức mạnh gắn kết cộng đồng và để phân biệt sự khác nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác trong cộng đồng nhân loại.

Bản sắc văn hóa dân tộc được biểu hiện ở lòng yêu nước nồng nàn, ý trí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc. Lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù,

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 98

sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống, trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế thì sự ảnh hưởng của nó đến việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là tất yếu khách quan và sự tác động đó tạo điều kiện cho nước ta trong việc mở rộng giao lưu giữa các nền văn hóa, sáng tạo ra giá trị mới, trực tiếp bổ sung, làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc, thông qua sự hội nhập đó cũng kiểm chứng tính bền vững của giá trị bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, nâng cao vị thế của đất nước trong khu vực và trên thế giới, hiện đại hóa các phương tiện văn hóa thông tin trong toàn xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực còn có mặt tiêu cực của nó đó là nguy cơ xói mòn, phai nhạt và biến dạng hệ thống giá trị trong bản sắc văn hóa dân tộc, sự ru nhập các dòng văn hóa mới. Mỗi người dân chúng ta đều có vai trò quan trọng to lớn trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, chính nhân dân là người trực tiếp tham gia bảo vệ, giữ gìn, bổ sung, phát triển và quảng bá những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc thông qua việc thực hiện nội dung, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Vì vậy, để phát huy vai trò của một chủ thể văn hóa đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay cá nhân tôi đã và đang thực hiện những công việc sau:

Một là, tăng cường học tập nâng cao nhận thức và năng lực giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho bản thân, đây là cách cơ bản nhằm nâng cao nhận thức, năng lực và hiệu quả hoạt động của bản thân trong việc tham gia giữ gìn bẳn sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế hiện nay. Việc thực hiện giải pháp này giúp cho cá nhân tôi nhận thức sâu sắc và đầy đủ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Năng lực và hiệu quả giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc phụ thuộc rất lớn vào nội dung lĩnh hội chính trị, tư tưởng, giáo dục truyền thống và giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc.

Chính trong quá trình tự học, tự giáo dục sẽ giúp tôi lĩnh hội được hệ thống các tri thức khoa học trên mọi lĩnh vực, cùng các giá trị và chuẩn mực văn hóa, đạo đức xã hội, bảo đảm cho sự hình thành, phát triển và hoàn thiện những phẩm chất nhân cách cần thiết đáp ứng với những yêu cầu, chức trách, nhiệm vụ và sự phát triển xã hội. Trên cơ sở đó, tôi sẽ xác định rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của mình đối với sự nghiệp cách mạng nói chung, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng, từ

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 99

đó ra sức tu dưỡng, rèn luyện nâng cao tinh thần yêu nước, tự tôn, tự hào dân tộc, không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm, trình độ chuyên môn, đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, giữ vững bản chất truyền thống của ông cha đã dày công vun đắp, tạo dựng nên, cống hiến thật nhiều cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế hiện nay.

Hai là, Với tư cách là một đoàn viên thanh niên tôi sẽ phát huy vai trò xung kích, sáng tạo thông qua các phong trào của đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh: Với thế mạnh thích tìm tòi, khám phá, để khẳng định mình, tôi sẽ tích cực tham gia vào hoạt động thực tiễn để tôi luyện, thử thách bản lĩnh, nâng cao phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Phát huy hết vai trò của mình đối với quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tổ chức thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, góp phần quyết định việc giữ vững, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Ba là, tôi sẽ thực hiện tốt các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng, ở địa phương, tham gia đầy đủ có hiệu quả các chương trình quảng bá văn hóa, tích cực nâng cao hiệu quả giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, một việc làm rất quan trọng tạo nên sức mạnh to lớn góp phần quyết định làm nên những thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong lịch sử đấu tranh giành và giữ độc lập dân tộc. Giúp đỡ vận động gia đình, người thân, đồng nghiệp có nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của họ đối với việc bảo tồn, phát triển các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp ở địa phương.

Bốn là, với tư cách là một Đảng viên tôi sẽ nỗ lực xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đấu tranh phòng, chống và làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta. Môi trường văn hóa có vai trò quan trọng to lớn, trực tiếp nuôi dưỡng, phát triển những giá trị của bản thân tôi và cộng đồng trong thời kỳ mới, nó góp phần nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tình cảm cách mạng, xây dựng nhân cách con người mới vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, vừa phát huy bản chất truyền thống, góp phần giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế. Môi trường văn hóa phải được coi như là “phên dậu”, như “rào chắn” có tác dụng phòng ngừa, ngăn chặn và “miễn dịch” trước những tác động, ảnh hưởng, xâm nhập và phá hoại của các hiện tượng phản văn hóa của âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình.

Hội thi: tìm hiểu giá trị văn hóa - lịch sử Đồng Nai 2018

Người dự thi: Hoàng Nhật Linh 100

Năm là, riêng cá nhân tôi có một niềm tự hào rất riêng là được sinh ra, lớn lên, học tập rèn luyện trên vùng đất Thanh Hóa “Địa linh nhân kiệt”, nơi phát tích của dòng họ Nguyễn, dòng họ đã có công lao rất lớn trong việc mở rộng bờ cõi về phương nam, trong đó có vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai ngày nay.

Hiện nay, tôi lại có may mắn được đến sinh sống, làm việc, rồi lập gia đình,…trên vùng đất cha ông mình góp công khai phá - vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai, với tôi là một niềm tự hào, một sự kế thừa vô cùng to lớn. Mỗi bước chân của cuộc đời, tự hào thay tôi như đang đi qua những bước chân khai phá, mở cõi mà tiền nhân đã đi trong suốt gần 500 năm lịch sử, tính từ khi Chúa Tiên Nguyễn Hoàng khai phá đất Đàng Trong (năm 1558). Với niềm tự hào to lớn đó, tôi cũng ý thức được trách nhiệm vô cùng lớn lao đó là: Những giá trị tinh hoa văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam nói chung, vùng đất Biên Hòa xưa – Đồng Nai ngày nay được xây dựng và ghi nhận bởi những chiến công hy sinh thầm lặng của biết bao thế hệ người dân Việt Nam. Nó là kết tinh những gì là tinh túy nhất của dân tộc, của vùng đất, để rồi chính những giá trị đó lại lung linh tỏa sáng, soi sáng con đường chúng ta đi. Không chỉ bây giờ mà mãi mãi về sau những giá trị tinh hoa văn hóa của dân tộc sẽ là hành trang, động lực để cho tôi - cũng như mọi công dân Việt Nam chúng ta tiến vào kỷ nguyên mới tô thắm nên truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc.