15
TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014 GIẢI PHÁP HỮU ÍCH ĐỀ TÀI VẬN DỤNG KIẾN THỨC LỊCH SỬ THẾ GIỚI VÀO DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM Ở LỚP 8 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài : Lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc vốn là hai bộ phận riêng biệt, mỗi phần có những đặc điểm riêng. Tuy nhiên đây lại là hai bộ phận không tách rời nhau. Những sự kiện lịch sử xảy ra ở mỗi quốc gia ít nhiều cũng ảnh hưởng tới sự phát triển của lịch sử thế giới và những chuyển biến của lịch sử thế giới sẽ tạo nên xu hướng phát triển chung cho các quốc gia. Mối quan hệ tác động qua lại giữa lịch sử thế giới với lịch sử dân tộc là điều không ai có thể phủ nhận. Vì vậy, nếu chúng ta hiểu rõ được tình hình đang diễn ra trên thế giới thì chúng ta có thể giải thích được các sự kiện đang xảy ra trong nước tại thời điểm đó và sẽ dự đoán được một phần tương lai phát triển của một quốc gia, dân tộc mình. Hiểu rõ tầm quan trọng trong mối quan hệ qua lại giữa hai bộ phận lịch sử: thế giới và dân tộc nên trong các bộ sách giáo khoa lịch sử phổ thông (cả THCS và THPT) các nhà biên soạn sách đã sắp xếp phần lịch sử thế giới học trước phần lịch sử Việt Nam, nhằm giúp cho các em có một cách nhìn tổng quan trước khi đi tìm hiểu lịch sử dân tộc. Theo tôi đây là một cách sắp xếp khoa học và hợp lý có tính chất định hướng tư duy cho cả giáo viên và học sinh. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều em học sinh và một số giáo viên vẫn luôn coi lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam là hai bộ phận tách biệt. Các em học sang phần lịch sử Việt Nam thì quên lịch sử thế giới. Vì thế, khi học đến lịch sử Việt Nam, các em không hiểu Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường 1

Skkn mon lich su chon

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Skkn mon lich su chon

TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014

GIẢI PHÁP HỮU ÍCH

ĐỀ TÀI

VẬN DỤNG KIẾN THỨC LỊCH SỬ THẾ GIỚIVÀO DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM Ở LỚP 8

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài:

Lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc vốn là hai bộ phận riêng biệt, mỗi phần có những

đặc điểm riêng. Tuy nhiên đây lại là hai bộ phận không tách rời nhau. Những sự kiện lịch

sử xảy ra ở mỗi quốc gia ít nhiều cũng ảnh hưởng tới sự phát triển của lịch sử thế giới và

những chuyển biến của lịch sử thế giới sẽ tạo nên xu hướng phát triển chung cho các quốc

gia.

Mối quan hệ tác động qua lại giữa lịch sử thế giới với lịch sử dân tộc là điều không

ai có thể phủ nhận. Vì vậy, nếu chúng ta hiểu rõ được tình hình đang diễn ra trên thế giới

thì chúng ta có thể giải thích được các sự kiện đang xảy ra trong nước tại thời điểm đó và

sẽ dự đoán được một phần tương lai phát triển của một quốc gia, dân tộc mình.

Hiểu rõ tầm quan trọng trong mối quan hệ qua lại giữa hai bộ phận lịch sử: thế giới

và dân tộc nên trong các bộ sách giáo khoa lịch sử phổ thông (cả THCS và THPT) các nhà

biên soạn sách đã sắp xếp phần lịch sử thế giới học trước phần lịch sử Việt Nam, nhằm

giúp cho các em có một cách nhìn tổng quan trước khi đi tìm hiểu lịch sử dân tộc. Theo tôi

đây là một cách sắp xếp khoa học và hợp lý có tính chất định hướng tư duy cho cả giáo

viên và học sinh.

Tuy nhiên trên thực tế, nhiều em học sinh và một số giáo viên vẫn luôn coi lịch sử

thế giới và lịch sử Việt Nam là hai bộ phận tách biệt. Các em học sang phần lịch sử Việt

Nam thì quên lịch sử thế giới. Vì thế, khi học đến lịch sử Việt Nam, các em không hiểu

Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường1

Page 2: Skkn mon lich su chon

TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014được sự phát triển của các sự kiện cũng như không tìm thấy được nguyên nhân sâu xa tác

động từ tình hình thế giới đến Việt Nam.

Nguyên nhân của tình trạng trên có phần trách nhiệm thuộc về các giáo viên trực

tiếp giảng dạy môn lịch sử ở các trường phổ thông. Chính giáo viên đã không khắc sâu

cho các em các sự kiện thế giới có liên quan đến lịch sử dân tộc.

Qua 6 năm kinh nghiệm đứng lớp và trực tiếp giảng dạy lịch sử lớp 8 tại trường

THCS – THPT Tà Nung, bản thân tôi đã rút ra một số kinh nghiệm trong việc vận dụng

kiến thức lịch sử thế giới vào dạy học lịch sử Việt Nam. Đó là lí do vì sao tôi lại chọn đề

tài: “Vận dụng kiến thức lịch sử thế giới vào dạy học lịch sử Việt Nam ở lớp 8” làm đề

tài sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm học 2013 - 2014

2. Đối tượng và phạm vi của đề tài.

- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Việc vận dụng kiến thức lịch sử thế giới vào dạy

học lịch sử Việt Nam ở lớp 8.

- Phạm vi Nghiên cứu:

+ Về không gian: Là phần lịch sử Việt Nam (bao gồm 7 bài, từ bài 24 đến bài 30) của

sách giáo khoa lịch sử 8 - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

+ Về thời gian: Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến năm 1918.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:

- Mục đích: Qua đề tài này, tác giả mong muốn sẽ giúp cho đồng nghiệp cũng như

học sinh thấy rõ mối quan hệ khăng khiết giữa hai bộ phận: lịch sử thế giới và lịch sử Việt

Nam; từ đó vận dụng kiến thức đã học ở phần thế giới lý giải và làm sáng tỏ các sự kiện ở

lịch sử Việt Nam.

- Nhiệm vụ: Vận dụng có hiệu quả vào việc giảng dạy lịch sử.

4. Đóng góp của đề tài.

Đề tài hoàn thành sẽ là nguồn tài liệu giúp cho các giáo viên đang trực tiếp giảng

dạy lịch sử bậc THCS nói chung và lịch sử lớp 8 nói riêng hiểu rõ mối quan hệ qua lại

giữa hai bộ phận: lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam; từ đó có phương pháp riêng bản

Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường2

Page 3: Skkn mon lich su chon

TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014thân để vận dụng linh hoạt hai kiến thức này với nhau tạo ra hứng thú học tập môn sử cho

các em học sinh.

5. Phương pháp nghiên cứu:

Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đường lối chính sách của Đảng và Nhà

nước; trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã sử dụng hai phương pháp chuyên ngành chủ

yếu là phương pháp lịch sử và lôgic. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp bổ sung như

so sánh, thống kê, phân tích…

6. Nguồn tài liệu

- Đây là bản sáng kiến trình bày một số kinh nghiệm thực tế của bản thân. Do đó cơ

sở chính để hoàn thành bản sáng kiến này chủ yếu là những ý kiến chủ quan của bản thân

đã được tích lũy và kiểm nghiệm thực tiễn qua 6 năm giảng dạy.

- Ngoài ra để hoàn thành bản sáng kiến này, tôi cũng đã tham khảo một số cuốn

sách chuyên ngành có liên quan như:

+ Sách giáo khoa lịch sử các lớp 6, 7, 8, 9, NXB Giáo dục.

+ Đại cương lịch sử (tập 3), NXB Giáo dục, 2001.

+ Sách giáo viên lịch sử 8, NXB Giáo dục,2003

+ Sách: Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Lịch sử THCS, NXB

Giáo dục Việt Nam, 2009

7. Bố cục của đề tài:

Đề tài bao gồm 16 trang, ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung chính của đề tài gồm:

I. Cơ sở lý luận của đề tài.

II. Thực trạng việc vận dụng kiến thức lịch sử thế giới trong dạy học lịch sử Việt

Nam ở lớp 8 trường THCS – THPT Tà Nung - Đà Lạt – Lâm Đồng.

III. Những kinh nghiệm trong việc vận dung kiến thức lịch sử thế giới vào dạy học

lịch sử Việt Nam ở lớp 8

Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường3

Page 4: Skkn mon lich su chon

TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014B. PHẦN NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

Bước vào lớp 6, các em học sinh sẽ được học một môn khoa học độc lập đó là môn

Lịch sử. Theo một cấu trúc định sẵn ở bậc THCS thường học hết phần lịch sử thế giới mới

đến phần lịch sử Việt Nam. Và niên đại của các sự kiện thế giới bao giờ cũng tồn tại song

song hoặc gần với thời gian diễn ra các sự kiện trong lịch sử dân tộc.

Ví dụ:

Phần lịch sử lớp 6: các em được học 4 bài (từ bài 3 đến bài 6), là những kiến thức

khái quát nhất về sự tiến hóa của loài người trên trái đất và những quốc gia đầu tiên trên

thế giới. Sang phần lịch sử Việt Nam các em học trong 20 bài (từ bài 8 đến bài 27) là toàn

bộ phần lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc (sự xuất hiện của con người trên đất nước ta) đến

thế kỷ X.

Phần lịch sử lớp 7: Các em được học về lịch sử thế giới trung đại trong 7 bài đầu

và phần lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỷ XIX cũng là thời kì phong kiến giai

đoạn trung đại ở Việt Nam

Phần lịch sử 8: Với 23 bài các em được học phần lịch sử thế giới cận đại và 8 bài

lịch sử Việt Nam (từ năm 1858 đến năm 1918) tương ứng với thời kì cận đại trên thế giới.

Lớp 9: Phần thế giới 13 bài là toàn bộ lịch sử xảy ra ở thời hiện đại, và 21 bài lịch

sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay.

Khi nhìn vào cơ cấu sách như vậy có người sẽ đặt ra một câu hỏi: Tại sao không

học lịch sử Việt Nam trước lịch sử thế giới? Nếu bỏ qua phần lịch sử thế giới mà chỉ học

mình phần lịch sử Việt Nam thì có được không?

Có thể nói rằng: Đây không phải là một sự sắp xếp ngẫu nhiên tùy hứng của các nhà

biên soạn sách giáo khoa, mà là một nghiên cứu khá khoa học và lôgic theo sự phát triển

của tư duy con người nói chung và của khoa học lịch sử nói riêng.

Về mặt lôgic thì chúng ta thấy khi đánh giá một sự kiện, hiện tượng thì con người

thường có hai kiểu tư duy: Nhìn cái tổng quát để hiểu cái cụ thể hoặc ngược lại (nhìn từ

cái cụ thể để thấy được cái tổng quát). Trong lịch sử thì: mỗi quốc gia là một phần của thể

Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường4

Page 5: Skkn mon lich su chon

TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014giới vì thế các sự kiện sảy ra ở các quốc gia tạo ra xu thế phát triển của thế giới và chính

phần lịch sử thế giới cũng đã tác động đến xu hướng phát triển của từng quốc gia.

Vì thế có thể nói: trong việc dạy và học lịch sử Việt Nam thì phần lịch sử thế giới là

rất quan trọng. Việc vận dụng linh hoạt các kiến thức cơ bản của phần lịch sử thế giới vào

dạy học lịch sử Việt Nam sẽ giúp các em có được cachs lý giải khoa học nhất các sự kiện

đang diễn ra của dân tộc mình tại thời điểm đó.

II. THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG KIẾN THỨC LỊCH SỬ THẾ GIỚI TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM Ở LỚP 8 TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG.

Nhìn chung việc dạy và học lịch sử ở trường THCS – THPT Tà Nung luôn đảm

bảo chương trình, theo đúng tiến độ và thực hiện nghiêm túc theo phân phối chương trình

mà Sở GD – ĐT Lâm Đồng đã đề ra. Tuy nhiên, việc học và dạy là quá trình động, phụ

thuộc vào nhiều yếu tố mà trực tiếp là người dạy (giáo viên) và người học (học sinh), kết

quả cuối cùng là người học đã hiểu, vận dụng được gì từ cái học trước vào phân tích cái

đang học cũng như vận dụng vào cuộc sống hàng ngày của các em.

Thực tế, hầu hết các em học sinh đều chưa hiểu hết mối quan hệ qua lại giữa phần

lịch sử thế giới với phần lịch sử Việt Nam. Do đó, trong tư duy của các em đây là hai phần

độc lập, học hết phần lịch sử thế giới thì có thể bỏ qua theo kiểu (song thì cất đi), các em

chưa có một sự vận dụng nhất định trong quá trình tư duy và học phần lịch sử Việt Nam.

Ví dụ: Ở bài 24: “Cuộc kháng chiến từ năm 1958 đến năm 1873” (SGK Lịch sử 8)

các em học về quá trình xâm lược của thực dân Pháp vào Việt Nam tại Đà Nẵng (1858),

Gia Định (1859)…các em sẽ không thể lý giải được các câu hỏi của lịch sử đề ra như: Tại

sao mãi đến năm 1858 thực dân Pháp mới chính thức xâm lược Việt Nam? Quá trình này

có phải là một tất yếu hay không?. Nếu như các em không còn nhớ kiến thức lịch sử thế

giới đã học ở bài 2 (Cách mạng tư sản Pháp) và bài 3 (Chủ nghĩa tư bản xác lập trên

phạm vi toàn thế giới).

Bài 25: “Kháng chiến lan rộng ra toàn quốc (1873 – 1884)”, kết thúc bài là hiệp

ước Pa-tơ-nốt đánh dấu sự đầu hàng hoàn toàn của triều đình nhà Nguyễn. Nước ta từ một

nước độc lập trở thành nước: thuộc địa nửa phong kiến. Vậy câu hỏi được đặt ra là: Việc

Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường5

Page 6: Skkn mon lich su chon

TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014nhà Nguyễn để mất nước vào tay thực dân Pháp ở cuối thế kỷ XIX có phải là một tất yếu

lịch sử không? Để lý giải vấn đề này buộc học sinh phải vận dụng kiến thức đã học ở bài

10 (Trung Quốc giữa thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX) và bài 12 (Nhật Bản giữa thế kỷ XIX đầu

thế kỷ XX).

Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Ánh đã cõng rắn cắn gà nhà? Đánh giá công và tội thực

sự của nhà Nguyễn với nước ta như thế nào? …

Các em sẽ thật sự lúng túng và thậm chí sẽ không thể có được câu trả lời nếu các

em không nhớ và nắm được phần lịch sử thế giới cận đại nhất là giai đoạn cuối thế kỷ

XIX, khi mà các nước tư bản phương Tây như: Anh, Pháp, Ý, Mỹ… lần lượt chuyển sang

giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.

Bài 28: “Trào lưu cải cách duy tân ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX”. Các em sẽ lý

giải như thế nào về vấn đề: Tại sao nhà Nguyễn lại không chấp nhận cải cách, canh tân đất

nước mà vẫn duy trì đường lối bảo thủ để nước ta phải rơi vào tay thực dân Pháp?

Bài 29: “Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và những chuyển biến

về kinh tế, xã hội ở Việt Nam”. Các em sẽ được tìm hiểu về quá trình xây dựng bộ máy

thực dân kiểu cũ của thực dân Pháp ở Việt Nam, sự khai thác bóc lột của Pháp về kinh tế,

sự nô dịch về văn hóa, giáo dục…Câu hỏi đặt ra là: Tại sao khi thực dân Pháp tiến hành

khái thác thuộc địa ở Việt Nam chúng lại rất chú ý đến khai thác nông nghiệp?...Câu hỏi

này sẽ được trả lời nếu các em nhớ lại kiến thức bài 6 (Các nước Anh, Pháp, Đức Mĩ cuối

thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX).

Ở Bài 30: “Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX đến năm 1918”, câu

hỏi đặt ra cần các em giải thích là: Tại sao trong con đường cứu nước của Nguyễn Ái

Quốc lại khác hẳn về hướng đi so với các sĩ phu yêu nước trước đó như Phan Bội Châu,

Phan Châu Trinh?....

Có thể nói rằng: để trả lời các câu hỏi được đặt ra như trên không phải dễ dàng nhất

là khi các em chưa nắm chắc được các sự kiện lịch sử thế giới đã xảy ra trong khoảng thời

gian tương đương ấy. Ngược lại thì các em sẽ có được cái nhìn sâu sắc, toàn diện và giải

Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường6

Page 7: Skkn mon lich su chon

TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014thích rõ ràng các câu hỏi trên nếu các em có được kiến thức lịch sử xuyên suốt và khái

quát của phần lịch sử thế giới cận đại.

Về phía giáo viên dạy: đa số các thầy cô giáo khi lên lớp đều rất tâm huyết với nghề

nghiệp, cố gắng truyền thụ, hướng dẫn các em những kiến thức cần thiết. Tuy nhiên do

thời gian một tiết học có hạn (45 phút) trong khi đó lượng kiến thức của bài học mới

thường dài, vì thế hầu hết các giáo viên đã không có nhiều thời gian để ôn tập, củng cố và

hệ thống kiến thức cho các em. Giáo viên đã chưa thể tạo ra và khắc sâu mối liên hệ chặt

chẽ giữa phần lịch sử thế giới với phần lịch sử Việt Nam.

Tóm lại: Trong việc dạy học lịch sử ở trường THCS – THPT Tà Nung, mối quan hệ

giữa lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam hầu hết vẫn chưa được đánh giá đúng, do đó việc

vận dụng kiến thức lịch sử thế giới vào dạy và học lịch sử Việt Nam vẫn đang còn rất

nhiều hạn chế. Chính hạn chế này là một trong những nguyên nhân không tạo ra được

hứng thú học tập môn lịch sử cho các em học sinh. Các em không thể lý giải các câu hỏi

của phần lịch sử Việt Nam đặt ra do chưa nắm được quy luật vận động và phát triển của

lịch sử thế giới, từ đó gây tâm lý chán nản, khó hiểu và ngại học môn lịch ở cho các em

học sinh. Và đây cũng là lý giải cho câu hỏi: Vì sao học sinh Việt Nam lại ngại học lịch sử

dân tộc mình.

III. KINH NGHIỆM CỦA BẢN THÂN RÚT RA TỪ THỰC TẾ GIẢNG DẠY.

Tuy số năm công tác cũng chưa thực sự nhiều song bản thân tôi đã hiểu rất rõ tầm

quan trọng trong việc vận dụng các kiến thức lịch sử thế giới vào dạy và học lịch sử Việt

Nam. Vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra kinh nghiệm của bản thân trong việc “Vận dụng các

kiến thức lịch sử thế giới vào dạy học lịch sử Việt Nam ở lớp 8” như sau:

1. Giáo viên phải luôn trang bị cho học sinh những kiến thức lịch sử mang tính hệ

thống khái quát ngay từ đầu năm học, đầu chương mới hoặc một phần lịch sử mới.

Ví dụ: Ngay đầu những bài học lịch sử 8 đầu tiên giáo viên nên nhắc lại kiến thức:

- Phần lịch sử thế giới thường chia làm 4 giai đoạn:

+ Lịch sử cổ đại: từ khi loài người xuất hiện đến khoảng thế kỷ thứ V (lịch sử lớp 6).

+ Phần lịch sử trung đại: từ khoảng thế kỷ thứ V đến khoảng thế kỷ XV (lịch sử lớp 7).

Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường7

Page 8: Skkn mon lich su chon

TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014

+ Lịch sử cận đại: Từ khoảng thế kỷ XVI đến năm 1917 (lịch sử lớp 8).

+ Lịch sử hiện đại: từ khoảng năm 1917 đến nay (lịch sử lớp 9).

- Lịch sử Việt Nam cũng được chia làm các giai đoạn tương ứng như sau:

+ Giai đoạn cổ đại: từ khi con người xuất hiện đến khoảng thế kỷ X (lịch sử lớp 6).

+ Giai đoạn trung đại: từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX (lịch sử lớp 7).

+ Giai đoạn cận đại: Khoảng cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX (Lịch sử lớp 8).

+ Giai đoạn hiện đại: Từ năm 1945 đến nay (lịch sử 9).

Do sự phát triển của lịch sử dân tộc mang đặc điểm riêng nên trong cách phân chia

giai đoạn giữa lịch sử Việt Nam với phần lịch sử thế giới không tương đương nhau song

các sự kiện lịch sử dân tộc đều có liên quan đến phần lịch sử thế giới và phần lịch sử thế

giới luôn tác động đến sự phát triển của lịch sử dân tộc ta.

2. Giới thiệu cho các em biết phần lịch sử lớp 8 mà các em chuẩn bị học là nằm ở

giai đoạn chung nào: Đó là phần lịch sử thế giới cận đại (từ khoảng thế kỷ XVI đến năm

1917) và tương đương là phần lịch sử Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.

Qua phần giới thiệu khái quát đó các em mới hình dung được cái mà các em đang được

tìm hiểu là nằm ở chương, mục và giai đoạn nào.

3. Trong từng bài học của phần lịch sử Việt Nam, giáo viên cũng nên có khái quát,

liên hệ cụ thể để các em có sự hình dung, so sánh hai chiều các sự kiện đang xảy ra trong

cùng thời điểm giữa lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới. Từ đó, các em có thể hiểu và lý

giải cặn kẽ các vấn đề lịch sử đặt ra trong từng bài. Cụ thể như sau:

Bài học Nội dung lịch sử Việt Nam Kiến thức lịch sử thế giới có liên

quan, ảnh hưởng đến LSVNBài 24:

Cuôc

kháng

chiến từ

1858 đến

năm 1873

- Từ giữa thế kỷ XIX, các nước tư

bản phương Tây đẩy mạnh việc xâm

chiếm các nước phương Đông, Việt

Nam đang đứng trước nguy cơ xâm

lược của tư bản Pháp

- Ngày 1/9/1858 quân Pháp, Tây

Ban Nha tiến hành xâm lược Việt

- Năm 1789 Pháp tiến hành cuộc cách

mạng tư sản.

- Sau thắng lợi của cách mạng tư sản,

nước Pháp còn diễn ra cuộc cách

mạng công nghiệp từ giữa thế kỷ

XVIII đến giữa thế kỷ XIX với những

tiến bộ về kỹ thuật trong nhiều lĩnh Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường8

Page 9: Skkn mon lich su chon

TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014Nam.

- Ngày 17/2/1959, quân Pháp

chuyển vào đánh Gia Định và các

tỉnh miền Đông Nam Kì.

vực công nghiệp, giao thông vận tải.

- Sau cuộc cách mạng tư sản và cách

mạng công nghiệp, kinh tế Pháp phát

triển nhanh chóng, đặt ra yêu cầu cần

mở rộng lại thị trường và cung cấp

nguyên liệu, tư bản Pháp tiến hành

các cuộc chiến tranh xâm lược ở các

nước phương Đông, trong đó Việt

Nam là mục tiêu xâm lượcBài 25:

Kháng

chiến lan

rộng ta

toàn quốc

- Ngày 20/11/1873, quân Pháp đánh

thành Hà Nội, chính thức đánh

chiếm Bắc Kì. Quân triều đình dưới

sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương

cố gắng cản giặc nhưng bị thất bại.

Quân Pháp tỏa đi đánh chiếm các

tỉnh Hưng Yên, Phủ Lý….

- Quân và dân Hà Nội đứng dậy

chống Pháp mạnh mẽ và đã giành

được chiến thắng ở trận Cầu Giấy

lần thứ nhất (12/1973).

- Sau hiếp ước Giáp Tuất (1874) tư

sản Pháp phát triển mạnh, cần rất

nhiều tài nguyên khoáng sản ở Bắc

Kỳ nên chúng quyết tâm xâm chiếm

bằng được Bắc Kì.

- Nhân dân ta, nhất là ở Hà Nội đã

dũng cảm đứng dậy chống Pháp và

làm nên trận Cầu Giấy lần hai

(5/1883), quân Pháp hoang mang

- Năm 1870 chiến tranh Pháp – Phổ

nổ ra trong điều kiện không có lợi

cho Pháp.

- Năm 1871, Công xã Pa-ri nổ ra

mạnh mẽ, chính phủ tư sản Pháp rất

vất vả đối phó với tình hình trong

nước cũng như ở các nước thuộc địa.

- Do hậu quả của cuộc chiến tranh

Pháp- Phổ (1870 – 1871) mà nhịp độ

phát triển công nghiệp của Pháp chậm

lại, công nghiệp Pháp từ hàng thứ hai

trên thế giới đã tụt xuống hàng thứ tư

sau Mỹ, Đức, Anh (vào cuổi thế kỷ

XIX).

- Sau năm 1870, nền cộng hòa thứ 3

của Pháp được thành lập, chính phủ

cộng hòa thi hành các chính sách đàn

áp nhân dân, tích cực chạy đua vũ trũ

trang và tăng cường xâm lược thuộc

địa. Pháp có hệ thống thuộc địa đứng

Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường9

Page 10: Skkn mon lich su chon

TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014nhưng triều đình Huế lại chủ trương

thương lượng với Pháp

- Quân Pháp lợi dụng triều đình Huế

lục đục đã nổ súng đánh thẳng vào

Thuận An, buộc triều đình Huế kí

hiệp ước Hác-măng (1883) và hiệp

ước Pa-ta-nốt (1884).

hàng thứ hai thế giới bằng 1/3 diện

tích thuộc địa của Anh.

- Các nước Đông Nam Á từ giữa thế

kỷ XIX trở thành đối tượng xâm lược

của các nước tư bản phương Tây.

Anh xâm lược Mã Lai, Miến Điện.

Pháp chiếm Việt Nam- Lào -

Campuchia, Bồ Đào Nha thôn tính

In- đô- nê- xi-a… Chỉ có Xiêm là

thoát khỏi tình trạng nước thuộc địa

nhờ ngoại giao khôn khéo.Bài 28:

Trào lưu

cải cách

duy tân ở

Việt Nam

nửa cuối

thế kỉ XIX

- Vào những năm 60 của thế kỉ

XIX, thực dân Pháp mở rộng cuộc

chiến tranh xâm lược Nam Kì,

chuẩn bị tấn công đánh chiếm cả

nước, thì triều đình Huế thi hành

chính sách nội trị ngoại giao lỗi

thời, lạc hậu khiến cho kinh tế, xã

hội Việt Nam khủng hoảng nghiêm

tịa phương trọng.

- Bộ máy chính quyền từ trung ương

đến địa phương trở nên mục ruỗng,

mâu thuẫn dân tộc ngày càng gay

gắt. Trong bối cảnh đó, các trào lưu

cải cách Duy Tân ra đời.

- Ở Nhật Bản diễn ra cuộc cải cách

Minh Trị Duy Tân (1868). Giữa thế

kỷ XIX các nước tư bản phương Tây

(Mỹ, Nga, Anh…) ngày càng can

thiệp vào Nhật Bản đòi mở cửa. Nhật

Bản đứng trước hai con đường: hoặc

tiếp tục duy trì chế độ phong kiến

mục nát trở thành miếng mồi cho

thực dân phương Tây, hoặc canh tân

để phát triển đất nước.

- Tháng 1/1868 sau khi lên ngôi,

Thiên hoàng Minh Trị đã chọn con

đường cải cách tiến bộ nhằm đưa

Nhật Bản thoát khỏi tình trạng lạc

hậu. Đó là cuộc cải cách Minh Trị

được tiến hành trên nhiều lĩnh vực:

kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,

giáo dục, quân sự…

Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường10

Page 11: Skkn mon lich su chon

TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014Bài 29:

Chính

sách khai

thác thuộc

địa của

thực dân

Pháp và

những

chuyển

biến về

kinh tế, xã

hội ở Việt

Nam

- Sau khi căn bản hoàn thành công

cuộc bình định thuộc địa, thực dân

Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc

địa ở Việt Nam trên quy mô lớn.

a.

- ở Trung Quốc: Sau cuộc chiến tranh

Giáp Ngọ (1894 – 1895), các nước đế

quốc giành được quyền xây dựng các

xí nghiệp, mở ngân hàng kinh doanh

đường sắt, khai thác hầm mỏ…Vì vậy

các nước đế quốc đẩy mạnh đầu tư

vào Trung Quốc bằng cách cho chính

phủ Mãn Thanh vay tiền. Đồng thời,

các nước đế quốc còn trực tiếp kinh

doanh lũng đoạn quyền trên xây dựng

đường sắt, tích cực đầu tư khai thác

hầm mỏ ở Trung Quốc.

Như vậy, mỗi bài lịch sử Việt Nam trong chương trình lớp 8 đều có sự liên hệ chặt

chẽ với các bài ở phần lịch sử thế giới. Đây cũng chính là một trong những mục đích của

các nhà biên soạn sách nhằm muốn học sinh có mối liên hệ hai chiều; từ đó, có cái nhìn

tổng quát, biết lí giải các vấn đề mà lịch sử Việt Nam đặt ra một cách cặn kẽ, lôgic và

đánh giá nó đúng với sự thật khách quan. Vì vậy việc giáo viên hướng dẫn học sinh biết

vận dụng kiến thức lịch sử thế giới vào học lịch sử Việt Nam là rất quan trọng.

C. PHẦN KẾT LUẬN

1. Kết luận chung:

- Để học sinh có thể vận dụng tốt kiến thức lịch sử thế giới vào học lịch sử Việt

Nam ở bậc THCS nói chung và lớp 8 nói riêng thì bản thân giáo viên trực tiếp giảng dạy

phải có phương pháp, kĩ năng hướng dẫn học sinh học.

- Để việc vận dụng kiến thức lịch sử thế giới vào học lịch sử Việt Nam thành kĩ

năng thường xuyên của học sinh thì ngay từ đầu (đầu cấp - lớp 6, đầu năm học, đầu học kì,

đầu chương…) giáo viên phải khái quát hóa, hệ thống hóa các kiến thức lịch sử thế giới có

Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường11

Page 12: Skkn mon lich su chon

TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014liên quan đến phần lịch sử Việt Nam sắp học. Từ đó các em hình dung ra được việc học

của mình sắp tới, vị trí bài, thời gian lịch sử các em đang học và sắp học. Nếu giáo viên

dạy không làm tốt được khâu này (hệ thống hóa và khái quát hóa) thì khi vào các bài học

lịch sử Việt Nam cụ thể, học sinh sẽ bị “lạc” vào “rừng” các sự kiện lịch sử mà không biết

vị trí mình đang đứng.

- Đối với học sinh bặc THCS, do tư duy và kiến thức hiểu biết của các em chưa

rộng nên trong quá trình dạy trên lớp giáo viên nên chọn lọc các sự kiện lịch sử thế giới có

liên quan đến lịch sử Việt Nam một cách ngắn gọn để giảng. Tránh tình trạng đưa tràn lan,

quá nhiều vì như thế sẽ dẫn đến loãng hoặc rối kiến thức, học sinh khó hiểu.

Trên đây là toàn bộ những kinh nghiệm mà tôi đã nghiên cứu, tích lũy và vận dụng

trong thời gian qua và kết quả thu được từ bài thi môn lịch sử của học sinh lớp 8 trường

THCS – THPT Tà Nung qua năm học 2012-2013 với số điểm như sau:

Năm học 2012 – 2013:

Lớp Chất lượng cả năm

> =86,5 - 7,9

5,0 - 6,4

3,5 - 4,9

< 3,5 Trên TB

SL

%S

%S

%S

%S

%S

%

8A1 (36 hs )

5 1 1 4 1 3 2 5 0 0 3 94.4

8A2 ( 33 hs )

3 9 1 4 1 3 4 1 0 0 2 87.8

Qua thực tế trên lớp và bằng kết quả từ các bài kiểm lịch sử định kì, thi cuối kì,

cuối năm thì số bài đạt điểm khá giỏi được tăng lên đáng kể. Kết quả đó cho thấy: số học

sinh hiểu bài chiếm một tỷ lệ cao và việc vận dụng các kiến thức lịch sử thế giới vào dạy

học lịch sử Việt Nam ở lớp 8 đã có hiệu quả.

2. Kiến nghị và đề xuất.

- Trên đây là kinh nghiệm của bản thân tôi trong quá trình đứng lớp và trực tiếp

giảng dạy phần lịch sử lớp 8. Mong các đồng nghiệp tham khảo và góp ý kiến.

Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường12

Page 13: Skkn mon lich su chon

TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014- Rất mong các giáo viên trực tiếp giảng dạy môn lịch sử bậc THCS nói chung và

khối lớp 8 nói riêng bằng kinh nghiệm của bản thân, vận dụng linh hoạt các kiến thức lịch

sử thế giới vào dạy học lịch sử Việt Nam để tạo ra hứng thú học môn lịch sử cho học sinh.

- Nên tạo tính hệ thống, xuyên suốt giữa các phần, các chương để học sinh có thể

hiểu vấn đề một cách lôgic bởi lịch sử có tính lôgic: các sự kiện xảy ra ngày hôm nay sẽ

dự báo hướng phát triển của ngày mai.

NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

Lê Xuân Trường

Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường13

Page 14: Skkn mon lich su chon

TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014 TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ giáo dục và Đào tạo (2003), “Lịch sử lớp 6”, NXB Giáo dục.

2. Bộ giáo dục và Đào tạo (2004), “Lịch sử lớp 7”, NXB Giáo dục.

3. Bộ giáo dục và Đào tạo (2005), “Lịch sử lớp 8”, NXB Giáo dục.

4. Bộ giáo dục và Đào tạo (2010), “Lịch sử lớp 9”, NXB Giáo dục.

5. Bộ giáo dục và Đào tạo (2009), “Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn

Lịch sử - trung học cơ sở”, NXB Giáo dục Việt Nam.

6. Bộ giáo dục và Đào tạo (2004), “Lịch sử lớp 8 – Sách giáo viên”, NXB Giáo dục.

7. Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (2000), “Đại cương lịch sử Việt Nam” – tập 2, NXB Giáo

dục.

Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường14

Page 15: Skkn mon lich su chon

TRƯỜNG THCS – THPT TÀ NUNG Năm học 2013-2014 MỤC LỤC Trang

A. PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………...1

1. Lí do chọn đề tài…………………………………………………………....1

2. Đối tượng và phạm vi của đề tài……………………………………...…....2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………........2

4. Đóng góp của đề tài………………………………………………………...3

5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………...3

6. Nguồn tài liệu………………………………………………………………3

7. Bố cục của đề tài……………………………………………………………3

B. PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………………4

I. Cơ sơ lý luận của đề tài………………………………………………….......4

II. Thực trạng việc vận dụng kiến thức lịch sử thế giới trong dạy học lịch sử Việt Nam ở

lớp 8 trường THCS –THPT Tà Nung…….......................................................5

III. Kinh nghiệm của bản thân rút ra từ thực tế giảng dạy…………………….7

C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT………………………………………14

Sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử Lê Xuân Trường15