42
E-mail: [email protected] Website: www.trungtammucvudcct.com ĐỪNG SỢ ! "Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Ðức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Chúc anh em được bình an !" ( Ga 20, 19 ). Bài Tin Mừng cho Chúa Nhật II Phục Sinh bắt đầu bằng một trình thuật về sự hiện ra của Chúa Giêsu, tác giả ghi chú rất rõ về nỗi lo sợ của các môn đệ, và tình trạng đóng kín cửa của những người đang sống trong sợ hãi. Chúa Giêsu Phuc Sinh vượt qua giời hạn của con người, Ngài hiện diện giữa các môn đệ cho dù cửa đóng kín, để ban Bình An cho các ông. Sau đó là cánh cửa căn phòng được mở ra, và cả cánh cửa lòng cũng được mở ra nữa, nỗi sợ hãi không còn và Bình An ở cùng các ông cho đến ngày vào Thiên Quốc. Sợ hãi là thuộc tính của con người, kể từ khi rời khỏi chốn Bình An là vườn địa đàng, con người mang lấy sự bất lực của thân phận, sợ hãi xuất hiện cư ngụ trong cuộc sống từ sự bất lực, mãnh lực của sự dữ lợi dụng nỗi sợ hãi để tung hoành. Sự Bình An đến do sự có mặt của Đấng Phục Sinh, không do bất cứ một yếu tố nào khác. Vẫn những con người đấy, vẫn với những bộ óc, con tim và da thịt đấy, nhưng nỗi sợ hãi không còn, Bình An cư ngụ vĩnh viễn. Bình An của Đấng Phục Sinh ban tặng giải thoát con người. Hôm nay, Chúa Nhật II Phục Sinh, Hôi Thánh tuyên phong hai vị Thánh của thế kỷ vừa qua, rất gần gũi thân quen với chúng ta, mới hôm qua đây còn nghe các ngài nói, cười, di chuyển, chúc lành, dạy dỗ, cử hành Bí Tích, viếng thăm… Hôm nay cửa nướ trời mở ra, chúng ta được chiêm ngắm hai vị tươi cười bên Đấng Phục Sinh. Thật là một sự trùng hợp kỳ diệu, cả hai vị xuất hiện giữa thế gian đếu mang theo sự Bình An của Đấng Phục Sinh. Giữa sóng gió của nhân loại và của chính Hội Thánh, chỉ trong vài năm ngắn ngủi, Đức Gioan XXIII đã mang lại bầu khí bình an cho nhân loại, cho thế giới và cho 1 NĂM THỨ 14 – SỐ 607 – CHÚA NHẬT

Ephata 607

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Trân trọng giới thiệu Tuần báo điện tử EPHATA của Trung Tâm Mục Vụ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam

Citation preview

Page 1: Ephata 607

E-mail: [email protected] Website: www.trungtammucvudcct.com

ĐỪNG SỢ !"Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi

các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Ðức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Chúc anh em được bình an !" ( Ga 20, 19 ).

Bài Tin Mừng cho Chúa Nhật II Phục Sinh bắt đầu bằng một trình thuật về sự hiện ra của Chúa Giêsu, tác giả ghi chú rất rõ về nỗi lo sợ của các môn đệ, và tình trạng đóng kín cửa của những người đang sống trong sợ hãi. Chúa Giêsu Phuc Sinh vượt qua giời hạn của con người, Ngài hiện diện giữa các môn đệ cho dù cửa đóng kín, để ban Bình An cho các ông. Sau đó là cánh cửa căn phòng được mở ra, và cả cánh cửa lòng cũng được mở ra nữa, nỗi sợ hãi không còn và Bình An ở cùng các ông cho đến ngày vào Thiên Quốc.

Sợ hãi là thuộc tính của con người, kể từ khi rời khỏi chốn Bình An là vườn địa đàng, con người mang lấy sự bất lực của thân phận, sợ hãi xuất hiện cư ngụ trong cuộc sống từ sự bất lực, mãnh lực của sự dữ lợi dụng nỗi sợ hãi để tung hoành. Sự Bình An đến do sự có mặt của Đấng Phục Sinh, không do bất cứ một yếu tố nào khác. Vẫn những con người đấy, vẫn với những bộ óc, con tim và da thịt đấy, nhưng nỗi sợ hãi không còn, Bình An cư ngụ vĩnh viễn. Bình An của Đấng Phục Sinh ban tặng giải thoát con người.

Hôm nay, Chúa Nhật II Phục Sinh, Hôi Thánh tuyên phong hai vị Thánh của thế kỷ vừa qua, rất gần gũi thân quen với chúng ta, mới hôm qua đây còn nghe các ngài nói, cười, di chuyển, chúc lành, dạy dỗ, cử hành Bí Tích, viếng thăm… Hôm nay cửa nướ trời mở ra, chúng ta được chiêm ngắm hai vị tươi cười bên Đấng Phục Sinh.

Thật là một sự trùng hợp kỳ diệu, cả hai vị xuất hiện giữa thế gian đếu mang theo sự Bình An của Đấng Phục Sinh. Giữa sóng gió của nhân loại và của chính Hội Thánh, chỉ trong vài năm ngắn ngủi, Đức Gioan XXIII đã mang lại bầu khí bình an cho nhân loại, cho thế giới và cho Hội Thánh. Đầu nhiệm kỳ Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II tuyên bố “Đừng sợ !” và ngài làm hết cách để cho con người không còn sợ các thế lực trần gian, can đảm đứng lên đối diện với thử thách. Ngài đã đi dọc lịch sử nhân loại trong nhọc nhằn nhưng Bình An, con người xuyên thế kỷ ấy luôn là người kiến tạo sự Bình An.

Chúng ta đang sống trong tình trạng bấp bênh của thân phận, quyền lực sự dữ bủa vây “rảo quanh tìm mồi cắn xé”. Lời Chúa và hành ảnh của hai vị Thánh có làm cho chúng ta vững tin không ? Tại sao chúng ta cứ mãi giam mình trong sợ hãi mà không can đảm bước ra hít thở bầu khí tự do ? Phải chăng sợ hãi khu trú trong ta như là dấu hiệu hiển nhiên tố cáo không có sự hiện diện của Đấng Phục Sinh ? Tại sao nói cái gì cũng sợ, làm cái gì cũng sợ, sợ cái không đáng sợ ?

Lạy Đấng Phục Sinh, xin đến ban Bình An cho chúng con.

Lm. VĨNH SANG, DCCT, Chúa Nhật 27.4.2014

1

NĂM THỨ 14 – SỐ 607 – CHÚA NHẬT 27.4.2014

Page 2: Ephata 607

MỤC LỤC TÌM BÀI:ĐỪNG SỢ ! ( Lm. Vĩnh Sang ) ................................................................................................................ 01TIN ĐỂ ĐƯỢC XÓT THƯƠNG ( Vincente Nguyễn Văn Hà ) ................................................................. 02ĐỪNG SỢ, THẦY LUÔN XÓT THƯƠNG ( Lm. Lê Quang Uy ) ............................................................. 03CHÚA KITÔ VINH QUANG VÀ CỘNG ĐOÀN GIAO ƯỚC MỚI ( Lm. Nguyễn Công Đoan ) ................ 03LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT THẬT BÁT CÔNG ? ( PM. Cao Huy Hoàng ) .......................................... 06TIN ĐỂ ĐƯỢC THƯƠNG XÓT ( Trầm Thiên Thu ) ................................................................................ 08ĐỂ ĐƯỢC CHÚA XÓT THƯƠNG ( AM. Trần Bình An ) ........................................................................ 11LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA ĐỐI VỚI THẾ GIỚI… ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) ......... 12TÔMA, VỊ TÔNG ĐỒ ĐA NGHI ( Fx. Trần Duy Nhiên ) ......................................................................... 13CHÚA NHẬT PHỤC SINH 2014 TẠI ANSAN, HÀN QUỐC ( Nguyễn Trung ) ........................................ 17DI CHÚC CỦA THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ 2 ( Trầm Thiên Thu ) ..................................... 19NĂM GIA ĐÌNH, ĐỌC TÔNG HUẤN GIA ĐÌNH… ( Bs. Nguyễn Đăng Phấn ) ....................................... 22NHỮNG ĐỨA TRẺ ĐƯỢC NUÔI DẠY BẰNG LỜI NÓI DỐI ( Minh Anh ) ............................................. 24LÀM NGƯỜI VIỆT, KHÓ LẮM ! THẬT VẬY SAO ? ( Một du học sinh người Nhật ) .............................. 25CHƯƠNG TRÌNH NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ VÀ QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ( TTMV DCCT ) .. . 27

ĐẠI LỄ KÍNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓTTIN ĐỂ ĐƯỢC XÓT THƯƠNG

Chúa Nhật II Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, ngày nay gọi là Đại Lễ kính Lòng Chúa Thương Xót, được cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chính thức thiết lập vào ngày 30.4.2000, ngày tuyên Thánh Nữ Tu Faustina Kowalska ( 1905 – 1938 ).

Chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh Nữ Faustina, vị Tông Đồ tiên khởi của Lòng Chúa Thương Xót, về ước muốn của Ngài: “Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại Lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó” ( Nhật Ký, số 341 ).

Chúa Giêsu hứa: “Ta muốn ban ơn tha thứ hoàn toàn cho các linh hồn nào xưng tội và rước lễ trong ngày lễ kính

Lòng Thương Xót của Ta” ( Nhật Ký, số 1109 ). Ơn tha thứ hoàn toàn đó là Ơn Toàn Xá mà Người Trộm Lành Dimas đã được lãnh nhận ngay trước khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng, lúc 3 giờ chiều ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày 3 tháng 4 năm 33.

Cũng từ Giờ Cứu Độ đó, Nguồn Mạch Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đã tuôn trào chan hòa mãi đến muôn đời cho mọi người, chỉ với một điều kiện đơn giản là thật lòng SÁM HỐI và TIN TƯỞNG vào Lòng Chúa Thương Xót.

ƠN TOÀN XÁ NGÀY KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã quyết định các tín hữu có thể được hưởng ơn toàn xá trong ngày Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa vào Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh. Quyết định trên đây được công bố trong sắc lệnh của Tòa Ân Giải Tối Cao đăng trên báo Quan Sát Viên Rôma của Tòa Thánh.

Sắc lệnh khẳng định rằng Ơn Toàn Xá được ban với những điều kiện thường lệ là xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha cho những tín hữu nào trong Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh tức là Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa tại bất kỳ Nhà Thờ nào có lòng quyết tâm từ bỏ mọi quyến luyến tội lỗi kể cả tội nhẹ và tham dự vào các việc đạo đức tôn vinh lòng từ bi Chúa hay ít là đọc Kinh Lạy Cha và Kinh Tin Kính cùng với sự kêu cầu Chúa Giêsu từ bi trước sự hiện diện của Mình Thánh Chúa được trưng bày công khai hoặc giữ trong nhà tạm.

Vincente NGUYỄN VĂN HÀ

2

CÙNG THÔNG TIN

Page 3: Ephata 607

CHÚA KITÔ VINH QUANG VÀ CỘNG ĐOÀN GIAO ƯỚC MỚI

Mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh là hai thì của một mầu nhiệm: Chúa Giêsu được tôn vinh: thì thứ nhất là tôn vinh trên thập giá, thì thứ hai là Chúa tỏ Vinh Quang cho cộng đoàn của Giao Ước Mới.

Trong thì thứ nhất, chúng ta đã thấy cả Lịch Sử Cứu Độ trong Cựu Ước được làm mới: Tạo Dựng mới, Ixaac mới, Xuất Hành mới, Giao Ước mới và Điều Răn mới, Đền Thờ mới, Đất Hứa mới… tất cả trong Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu: Khởi Đầu Mới ( Phụng Vụ Vọng Phục Sinh có các bài đọc Cựu Ước tương ứng với các chủ đề trên: tạo dựng, Ixaac, Xuất Hành, Giao Ước, Giao Ước mới ).

Không có sách Tin Mừng nào kể việc Chúa sống lại, vì đâu có ai ở trong mộ mà thấy ! Tất cả bốn sách Tin Mừng và lời rao giảng của các Tông Đồ chỉ kể lại kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh. Gioan kể những cuộc gặp tại Giêrusalem ( chương 20 ) và tại Biển Hồ ( chương 21 ). Chúng ta sẽ lần lượt đọc hai chương này.

Trước hết nên chú ý tới lối viết của Gioan, rất giống nghệ thuật điện ảnh hiện đại, vì điện ảnh là kể chuyện bằng hình ảnh, kể chuyện thì dùng lời. Điện ảnh thì người xem phải “nối” các hình hoặc chuỗi hình với nhau. Nghe kể chuyện thì phải để cho lời kể vào qua lỗ tai, tác động trên trí tưởng tượng và tình cảm của mình. Con nít nghe kể chuyện thì thấy như mọi sự đang xảy ra trước mắt, và phản ứng bằng vui, buồn, lo, sợ… Tin Mừng theo Thánh Gioan không chỉ súc tích, nhiều tầng ý nghĩa, nhiều cách qui chiếu với Cựu Ước như chúng ta đã thấy trong cuộc Thương Khó; nhưng còn là bậc thầy trong nghệ thuật kể chuyện. Ta cần nghe với tâm tình và thái độ trẻ thơ.

Ngày thứ nhất trong tuần tức là Chúa Nhật của chúng ta bây giờ. Người Do Thái nghỉ ngày thứ bảy để tham dự vào sự nghỉ ngơi

3

CÙNG SUY NIỆM

Page 4: Ephata 607

của Thiên Chúa ( Xh 20, 11 ) và để nhớ Chúa đã giải thoát khói ách khổ sai bên Ai Cập ( Đnl 5, 14 – 15 ). Ngày thứ nhất bắt đầu khi mặt trời lặn buổi chiều ngày thứ bảy. Ngày thứ nhất là ngày Thiên Chúa bắt đầu tạo dựng. “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm” ( St 1, 1 – 2 ).

“Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” ( Ga 20, 1 – 2 ).

Tôi xin phép đọc đoạn mở đầu này như xem một đoạn phim để giúp bạn đọc làm quen với cách đọc này. Câu mở đầu của Gioan 20 và câu mở đầu của sách Sáng Thế có nhiều yêu tố giống nhau: trời còn tối thì đâu đã thấy được hình dạng rõ ràng, cửa mộ mở toang như vực thẳm. Cái chưa có hình dạng và bóng tối xâm nhập tâm trí bà Maria Macđala. Chúng ta nghe tiếng động đầu tiên: bước chân phụ nữ chạy. Tiếng gõ cửa. Hai người đàn ông thò đầu ra. Giọng phụ nữ hốt hoảng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”: người ta là ai ? Bà đã vô mộ đâu mà biết người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ ? Dĩ nhiên làm sao biết họ để Người ở đâu ! Bà lại gọi Người là “Chúa” nữa ! Là Chúa thì ai mà đem đi được ? Trong cái hoang vu của ngôi mộ mở toang giữa bóng đêm, tất cả đều hoang mang. Nhưng câu thứ hai của bà gợi lại câu hỏi đầu tiên của hai môn đệ: “Rabbi, Thầy ở đâu ?” ( Ga 1, 38 ). Maria Macđala trong bối cảnh này cũng gợi lại hình ảnh và lời các bà đỡ chống chế với Pharaô về việc để cho con trai Hipri sống: “Chúng tôi đến chưa kịp thì họ đã sanh rồi”. “Ađam mới” nằm trong mộ như bào thai trong lòng mẹ, bà đỡ tới thì đã ra rồi và “Họ đã đem đi rồi”.

Tuy nhiên bà “phản” đạo diễn, vì đạo diễn ra lệnh cho trên màn hình cho thấy chỉ có mình bà đi ra mộ, thế mà bà lại nói “Chúng tôi không biết”. Chúng tôi là những ai ? Tại sao “đạo diễn” lại cho thấy một mình bà Maria Macđala ? Chúng ta sẽ phải chú ý đặc biệt tới nhân vật này. Xin nhớ lại cảnh đứng gần thập giá, ta chỉ thấy thân mẫu, Dì Maria và bà Maria Macđala, cho tới khi máy quay phim đưa hình từ tầm mắt của Chúa Giêsu chúng ta mới thấy người môn đệ Chúa Giêsu thương mến đứng bên thân mẫu. Bây giờ thì chúng ta thấy hai người đàn ông, Simon Phêrô ( đã biến khỏi màn hình từ lúc gà gáy cái đêm trong dinh thượng tế ) và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến đã “đón Đức Mẹ về nhà mình” từ trên Núi Sọ, sau khi được “sinh làm con” của thân mẫu Chúa Giêsu, có Dì Maria và bà Maria Macđala chứng kiến. Chúng ta chờ Dì Maria tới gọi, nhưng không phải. “Bà đỡ” tới báo tin vui: “Sanh rồi, mà không biết họ để ở đâu”.

Bây giờ thì hai người đàn ông vọt ra khỏi cửa, chạy đi xác minh và làm chứng. Một người “nhà”: “người môn đệ Chúa Giêsu thương mến”, đứa “con mới” của thân mẫu đã trở thành Evà mới; và một người đã trở thành “xa lạ” vì ba lần chối không biết, không có liên hệ gì với Chúa Giêsu. Tiếng bước chân hai người đàn ông cùng chạy. Người môn đệ kia nhanh chân hơn, tới trước. Ông không vào, chỉ cúi nhìn vào, thấy các băng vải còn đó… Ông Phêrô tới sau, chạy thẳng vào bên trong và thấy rõ hơn: khăn che đầu cuốn riêng ra một nơi, không để lẫn với các băng vải. Người tới trước vào theo, và cũng thấy như vậy. “Ông đã thấy và ông đã tin”. Thế là hai nhân chứng kiểm tra đúng phương pháp: người tới trước đứng chờ, nhìn vào đã thấy, tuy chưa hoàn toàn rõ. Ông chứng kiến ông Phêrô đi vào, rồi ông vào sau. Như vậy không ai làm xáo trộn hiện trường, và hai người thấy như nhau. Ông “người nhà” thấy và tin, nhưng không nói tin cái gì. “Thực ra, trước đó hai ông chưa hiểu rằng theo lời Kinh Thánh thì Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết”; vậy nếu như đã hiểu Kinh Thánh thì khỏi cần chạy ra mộ kiểm chứng ! Rồi cả hai ông lững thững ra về.

Nhìn hai ông quay lưng đi, ta bỗng nghe tiếng phụ nữ thút thít. Bà Maria Macđala trở lại từ hồi nào và đang khóc bên mộ. Trở lại cảnh bà Maria Macđala một mình ra mộ lúc trời còn tối rồi chạy về la hoảng, ta lại nhớ sách Diễm Ca, đã được gợi lên từ chuyện xức dầu ở Bêtania.

“Suốt đêm trên giường ngủ, tôi tìm người lòng tôi yêu dấu, tôi đi tìm chàng mà đâu có gặp. Vậy tôi sẽ đứng lên, đi rảo quanh khắp thành, nơi đầu đường cuối phố, để tìm người yêu dấu của lòng tôi… Bọn lính gác gặp tôi, tôi hỏi họ: “Các anh có thấy chăng người lòng tôi yêu dấu ?” Vừa rời họ, tôi đã gặp người lòng tôi yêu dấu. Tôi vội níu lấy chàng và chẳng chịu buông ra cho đến khi đưa vào nhà thân mẫu, tới khuê phòng người đã cưu mang tôi” ( Dc 3, 1 – 4 ).

Ở chương 5, người yêu gõ cửa giữa đêm khuya, nàng không chịu mở. Đến khi nghĩ lại và mở thì người yêu đã bỏ đi rồi. “Chàng đi rồi hồn tôi như đã mất, tôi đi tìm chàng mà đâu có gặp, tôi mãi gọi chàng, không một tiếng đáp… Bọn lính gác gặp tôi, chúng đánh tôi đến mang thương tích. Này thiếu nữ Giêrusalem, tôi van nài các bạn:

4

Page 5: Ephata 607

gặp người tôi yêu dấu các bạn sẽ nói gì ? Xin cho nhắn rằng: tôi đang ốm tương tư” ( 5, 4 – 8 ). Cuối cùng nàng cũng biết người yêu đang ở đâu: “Người tôi yêu đã xuống vườn nhà” ( 6, 2 ).

Sách Diễm Ca nói về những giai đoạn khác nhau trong Giao Ước giữa Thiên Chúa và Dân. Cuộc tìm kiếm thứ nhất gợi lại biến cố Xuất Hành và vào Đất Hứa, cuộc tìm kiếm thứ hai gợi lại biến cố lưu đầy và trở về.

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Phục Sinh với Maria Macđala được diễn tả bằng nhiều lời và hình ảnh gợi lại hai lần mất, tìm và gặp trong sách Diễm Ca. Maria đi ra mộ lúc trời còn tối. Sau khi la hoảng, hoang mang, lại thơ thẩn đứng khóc bên mộ Chúa. Hai người đàn ông chạy ra mộ, vào kiểm tra rồi đi về, gợi hình ảnh lính canh đi tuần. Bà cúi nhìn vào như tìm lại trong mộ lần nữa thì lại thấy hai thiên thần canh giữ hai đầu nơi Chúa đã nằm. Thiên thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc ?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !” Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu. Đức Giêsu hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?” Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để người ở đâu, tôi sẽ đem người về". Đức Giêsu gọi bà: "Maria !" Bà quay lại và nói bằng tiếng Hipri: "Rapbuni !", nghĩa là "Lạy Thầy !" Đức Giêsu bảo: "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha, nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: "Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng là Cha của anh em, cùng Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh em".

Thế là vừa rời bọn lính gác, tôi đã gặp người lòng tôi yêu dấu ! Câu hỏi của thiên thần tạo dịp cho bà nói lên nỗi lòng. Chúa Giêsu hỏi cùng một câu, nhưng thêm: "Bà tìm ai ?"; chúng ta nghe gợi lại câu hỏi đầu tiên Chúa đặt cho hai môn đệ ( 1, 38 ). Hai lần trả lời bà lặp lại cùng một nội dung bà đã báo động cho hai môn đệ. Thấy Chúa Giêsu bà lại tưởng ông làm vườn; gợi lời trong Diễm Ca: "người yêu tôi đã xuống vườn nhà". Chúa gọi tên bà; gợi lại lời Chúa nói về mình như mục tử: "Anh gọi tên từng con chiên" ( Ga 10, 3 ) và Diễm Ca: "Xin đặt em như chiếc ấn trên trái tim anh, như chiếc ấn trên cánh tay anh" ( 8, 6 ).

Ta giật mình vì không thấy nói bà níu lấy Chúa, nhưng đã nghe Chúa bảo: "Thôi, đừng giữ Thầy lại…" Có bản dịch là "đừng chạm đến Thầy", nhưng cách dùng động từ trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là bảo người kia ngưng việc gì đã bắt đầu rồi. Diễm Ca: "Tôi vội níu lấy chàng và chẳng chịu buông ra cho đến khi đưa vào nhà thân mẫu". Khi Ixaac cưới Rebecca, dù bà Sara không còn nữa nhưng "cậu Ixaac đưa Rebecca vào lều của bà Sara, mẹ cậu. Cậu lấy cô làm vợ" ( St 21, 67 ). Lý do Chúa Giêsu bảo Maria đừng níu Người lại là “vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha”. Giao ước Chúa Giêsu đã lập là cho chúng ta được đến với Chúa Cha, nên Chúa Giêsu đóng vai chủ động: chờ Thầy lên cùng Chúa Cha đã ! Nhưng trong khi chờ đợi thì Maria nhận được nhiệm vụ phải thi hành ngay: “nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ”.

Chúng ta lại ngạc nhiên vì Chúa sai bà Maria "đi tìm gặp anh em của Thầy" chứ không phải "các môn đệ của Thầy" ! Sau tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu đi xuống Capharnaum cùng với thân mẫu, anh em của Chúa và các môn đệ. Đến chương thứ bảy thì Chúa tách khỏi anh em: “Thời của tôi chưa đến, nhưng thời của các anh lúc nào cũng thuận tiện. Thế gian không thể ghét các anh, nhưng tôi thì nó ghét… Các anh cứ lên dự lễ đi.” ( 7, 6 – 8 ). Từ trên thập giá Chúa cho người môn đệ yêu dấu thành con của thân mẫu, tức là em của mình. Như đã giải thích, người môn đệ ấy tiêu biểu cho tất cả các môn đệ: “Ai đón nhận, tức là tin vào Người thì Người cho họ trở nên con Thiên Chúa, sinh ra do bởi Thiên Chúa” ( Ga 1, 12 ). Bây giờ không còn môn đệ, chỉ còn anh em, những người anh em sinh trên Núi Sọ.

Tại sao Chúa lại sai bà Maria đi tìm anh em ? Bà Maria đã đóng vai "bà đỡ” trên Núi Sọ và sáng sớm nay hốt hoảng đi báo tin “sanh rồi” ! “Bà đỡ” thì biết anh em mới sanh của Chúa ! Bản tin nhắn bà phải đem là: ”Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng là Cha của anh em, cùng Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh em”. Bà đỡ cho biết ai là Cha của những người anh em. Với tin nhắn này thì Chúa công bố là Giao Ước đã thành tựu: Cha của Thầy cũng là Cha của anh em; Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh em.

Bà nói với các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa” hoàn chỉnh những lời tuyên xưng của họ từ ban đầu; Anrê: “Chúng tôi đã thấy Đấng Kitô”, Nathanaen: “Thầy là Con Thiên Chúa, là vua Itraen”. Từ lúc hoàn tất mọi sự trên thập giá thì vinh quang Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu đã biểu lộ trọn vẹn: Đức Giêsu đã được tôn vinh là Chúa; Đức Giêsu nằm trong mộ với tư cách là Chúa. Trong cái hoang mang giữa đêm tối, bà Maria còn lẫn lộn nên nói “người ta đã đem Chúa đi khỏi mồ”, nhưng về mặt khác thì lại đúng, chính là Chúa Cha đã tôn vinh Con, đem Con đi khỏi mộ, như Chúa Giêsu đã cầu xin.

Trước khi đi xa hơn, cần nói riêng về nhân vật Maria Macđala này vì có những sự lẫn lộn trong hình ảnh quen thuộc về bà. Trong ba sách Phúc Âm Nhất Lãm bà đều đứng đầu danh sách các bà đứng xa xa nhìn Chúa Giêsu trên thập giá và đi ra mộ ( Mt 27, 55 – 56 và 28, 1 // Mc 15, 40 và 16, 1 // Lc 24, 10 ). Riêng Luca cho danh sách các bà đi theo Chúa Giêsu từ Galilê ( 8, 2 ) thì cũng kể tên bà đầu tiên; và cũng chỉ có Luca cho biết thêm: “Bà Maria gọi là Maria Macđala, là người đã được giải thoát khỏi bảy

5

Page 6: Ephata 607

quỷ”. Khi kể về các bà đứng xa xa nhìn Chúa Giêsu trên thập giá thì Luca chỉ nói “tất cả những người quen biết Đức Giêsu cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Galilê”.

Trong câu chuyện thông thường và có khi cả trong các bài giảng, người ta hay đồng hóa bà với người phụ nữ tội lỗi vào xức dầu cho Chúa khi Chúa đang ăn ở nhà một người Pharisêu ( Lc 7, 36 – 50 ). Chẳng có gì cho phép đồng hóa hai nhân vật này.

Trong Tin Mừng theo Thánh Gioan thì ta thấy bà xuất hiện trên Núi Sọ, tên bà đứng sau thân mẫu Chúa Giêsu và Dì Maria, rồi bà là người đi ra mộ, cũng chẳng đem theo dầu thơm như trong Luca 23, 56 – 24, 1. Vậy ta hãy tôn trọng các “thông tin” của mỗi sách Tin Mừng, đừng “xào chung” các nhân vật hay các sách tin Mừng, vì sẽ gây lẫn lộn và không hiểu được ý nghĩa. Đừng “vẽ rắn thêm chân”. Tin Mừng theo Thánh Gioan không cho thêm thông tin riêng về bà Maria Macđala ngoài cái tên và vị trí của bà trên Núi Sọ: sau thân mẫu và Dì Maria thôi, và hai lần bà ra mộ một mình.

Như vậy có nghĩa là trong Tin Mừng thứ tư, về phía phụ nữ ngoài họ hàng của Chúa Giêsu thì bà Maria Macđala là người gần Chúa Giêsu nhất. Phía đàn ông thì Người Môn Đệ yêu dấu trong bản văn không có tên gọi, trở thành biểu tượng của mọi người được Chúa yêu mến và thí mạng cho. Maria Macđala thì có tên riêng, là người ngoài gia đình ruột thịt của Chúa Giêsu, trở thành hình ảnh của cộng đoàn Dân của Giao Ước mới đi tìm Chúa của mình. [ Những suy diễn ngoại đạo và phạm thượng về tương quan giữa nhân vật này với Chúa Giêsu trong các tiểu thuyết từ cổ chí kim, không đáng chúng ta quan tâm, ví đó chỉ là suy diễn của kẻ không hiểu gì về Lời Chúa mà chỉ biết những chuyện phàm tục, chỉ đáng chúng ta xóa bỏ tức

thì như bao nhiêu cái nhảm nhí chui vào hộp thư điện tử mỗi ngày ].

Gợi hình ảnh của sự đi tìm và gặp được người yêu trong sách Diễm Ca để nói về việc cộng đoàn của Giao Ước mới đi tìm Chúa của mình quả là tuyệt vời. Cả lịch sử Hội Thánh, cộng đoàn của Giao Ước mới cũng như đời sống của mỗi Kitô hữu là một lịch sử xoay vần theo bốn thì: có, mất, tìm và gặp Chúa, cũng giống như Dân Chúa trong Cựu Ước. Vì thế mà Chúa Giêsu bảo “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa” ( Lc 12, 31 ). Chừng nào được ở với Chúa Giêsu tại nơi Chúa ở ( x. Ga 17, 24 ), tức là trong lòng Chúa Cha thì mới hết phải đi tìm, vì lúc đó “tôi thuộc trọn về người tôi yêu và người tôi yêu thuộc trọn về chàng” ( Dc 8, 3 ).

Trong Diễm Ca, nàng là thửa vườn của chàng: “Gió bấc nổi lên đi và gió nam hãy ùa tới, thổi mát vườn của tôi cho hương thơm lan tỏa ! Người tôi yêu cứ vào vườn của chàng mà thưởng thức hoa thơm trái ngọt. Này em gái của anh, người yêu anh sắp cưới, vườn của anh, anh đã vào rồi, đã hái mộc dược, hái cỏ thơm…” ( Dc 4, 26 – 5, 1 ).

Khi Maria Macđala tưởng Chúa Giêsu là người làm vườn thì hóa ra là đúng rồi. Chúa Giêsu vừa là người yêu trong sách Diễm Ca vừa là Ađam mới. Sách Sáng Thế chép: "Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Eđen để cầy cấy và canh giữ đất đai" ( St 2, 15 ). Chúa chết nằm ở mộ trong vườn, Chúa sống lại cũng xuất hiện trước tiên trong vườn. Hội Thánh là thửa vườn của Chúa. Mỗi người là thửa vườn của Chúa. Maria đóng vai "nàng" trong sách Diễm Ca tượng trưng cho Hội Thánh, trong khi người môn đệ yêu dấu tượng trưng cho mỗi người đã tin vào Chúa để lãnh Ơn Cứu Độ và được tái sinh làm con Thiên Chúa.

Trên bình diện Hội Thánh thì ông Phêrô và người môn đệ yêu dấu lại tượng trưng cho hai khía cạnh không thể tách rời: cơ cấu và lòng tin yêu. Những trình thuật tiếp theo trong hai chương 20 – 21 sẽ diễn tả hai khía cạnh này. Tôi sẽ viết tiếp, xin đón đọc phần tiếp theo.

Mừng Chúa Phục Sinh, Halleluia !

Lm. NGUYỄN CÔNG ĐOAN, Dòng TênGiêrusalem, Thứ Bảy Tuần Thánh 2014

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT THẬT BẤT CÔNG ?“Em Đạo dòng. Đạo từ đời ông cố, ông sơ. Ông nội em là ông trùm cả 20 năm liền. Bà nội em

không từ nan một việc gì khi giúp các Đấng. Đến thời cha mẹ em cũng đóng góp không biết bao nhiêu là thời gian cho việc Nhà Chúa. Vợ chồng em cũng theo gương ấy mà cộng tác đủ các việc Nhà Thờ…. Nhưng, lắm lúc buồn lắm anh ạ. Nhìn lại cái cảnh nhà mình, không giống ai. Ông xã em với

6

Page 7: Ephata 607

chiếc xe cánh én hơn 20 năm rồi, cọc ca cọc cạch đi Lễ đi làm việc Nhà Thờ. Có mấy lần bị "thiên hạ" mời đến trụ sở để "làm việc" và bị hỏi: “Làm ở Nhà Thờ lương tháng bao nhiêu mà hăng vậy ?” Thấy mà thương ! Mấy đứa nhỏ đi học ở Sàigòn, đứa nào cũng phải tự bươn trải, vừa học vừa làm kiếm tiền học phí, tiền ăn, tiền nhà trọ… Tội nghiệp !

Mấy hôm nay chuẩn bị Lễ Lòng Chúa Thương Xót, có vài người đến nói với chồng em xin cho họ được làm chứng về Lòng Chúa Thương Xót trong Đại Hội. Nghe chuyện vài người kể với nhà em, người thì được ơn chữa lành, người trúng đất, người mới mua được đất, người mua được xe…, đủ các thứ mà người ta cho là Lòng Chúa Thương Xót đã… thương xót họ ! Hầu hết đó là những người mà trong con mắt em, họ chẳng ra chi, hoặc là người tân tòng mới theo Đạo vài năm mà ra vẻ, hoặc là người đã từng tội lỗi công khai, giang hồ, tai tiếng, mà nay đi đâu cũng bô bô Chúa Xót Thương, Chúa Thương Xót…

Trong số những người xin làm chứng, đáng kể nhất là một người tân tòng: một chị, lấy chồng Đạo được 9 năm nay, kể rằng: Ban đầu, chị đến với Lòng Chúa Thương Xót nhờ mấy chị bạn rủ đi đọc kinh và chị đã kêu cầu Chúa như vái tứ phương, cầu may, hên xui. Không ngờ Chúa đã ban cho chị được như ý. Ông bố của chị, vốn là người vô thần, ghét đạo kinh khủng, đến mức đã không cho chị theo đạo, rồi khi chị có đứa con trai là thằng cu Bin, vợ chồng chị đem con đi rửa tội và mời ông ngoại sang ăn đầy tháng. Ổng không đến, không cho bà ngoại đến, cấm các cậu các dì đến, còn chửi em thậm tệ: “Mới đẻ, nó có tội gì mà đè nó ra xối nước rửa ?” Từ đó, ổng từ chị luôn. Đến với Lòng Chúa Thương Xót, chị chỉ xin là “Nếu bố con có ghét Chúa thì kệ ổng, chỉ ráng xin cho ổng đừng ghét con thôi”.

Thế rồi hơn sáu tháng chị van vái cầu may, chị thấy bố thay đổi. Chiều Thứ Năm Tuần Thánh năm ấy, tự động ổng đến thăm Cu Bin, nay đã 7 tuổi rồi, cho cu Bin 100 ngàn. Ổng nói: “Mai là ngày Chúa tụi mày chết, rồi nghe nói được vài hôm thì ổng sống lại. Tao qua thăm tụi mày. Cho Cu Bin 100 ngàn nè. Nói với ổng nếu tao có chết, thì cho tao sống lại với nghen”. Thế là chị nghĩ Lòng Chúa Thương Xót đã thương xót chị. Chuyện ba với Chúa thì chưa biết, nhưng ít là ba của chị đã đến thăm con, thăm cháu…

Anh nghĩ xem, có phải thấy mà phát ghét, nghe mà phát ganh, nhìn mà phát điên tiết không ! ? ! Chúa có Lòng Thương Xót như vậy sao ? Thiệt bất công quá đi ! Em Đạo dòng… Xin Chúa hoài mà chẳng thấy Chúa ban cho điều gì. Còn mấy cái thứ người kia…”

Vậy đó, chợt nghĩ, trong chúng ta không ít người có lòng ganh tỵ như người kể chuyện trên đây. Có khi phản ứng bất bình với Chúa còn hơn như vậy nữa. Phát ghét, còn đỡ hơn là không ít kẻ thấy người khác được Chúa xót thương mà đâm ra thù hận, tìm cách hại người ta mới ghê !

Ước gì mỗi chúng ta đều nhận ra Lòng Chúa đang thương xót từng người, và ban ân lộc cho từng người, “như mưa xuống trên ruộng người lành, lẫn ruộng kẻ dữ". Thiên Chúa không bất công nhưng Ngài khôn ngoan và cân nhắc cho con cái Ngài từng chút một, từng việc nhỏ. Ngài luôn dành cho chúng ta những gì tốt nhất theo ý Ngài, không phải tốt nhất theo ý của chúng ta. Mà, ý tốt nhất của Thiên Chúa là “để chúng ta được cứu rỗi”, “để chúng ta được sống đời đời”, kẻo uổng công trình trút hết đến giọt máu, đến giọt nước cuối cùng để chết đi vì yêu, rồi sống lại vì yêu, sống lại để người mình yêu được sống lại.

Trở lại câu chuyện của chị Đạo dòng, thiết tưởng, chị phải nhận ra rằng Chúa đã ban cho cả họ tộc của chị, và cho chồng chị nữa một ơn đặc biệt là sống nghèo hèn thanh thoát trước của cải phù vân, sống cho Danh Thiên Chúa cả sáng, cho Nước Thiên Chúa trị đến… là đã sống trước cuộc sống phục sinh ngay trên dương thế này rồi. Như vậy, chắc hẳn sẽ khác với những người đang sống ở trần gian mà không tin có đời sau, không tin sự sống lại, không dám chắc một cuộc sống mai hậu chứ ? Hơn nữa, của cải vật chất Chúa ban cho là để chúng ta sử dụng trong việc tìm kiếm Nước Trời, để được sống đời đời, chứ nào phải để chúng ta hưởng dùng cho thoải mái ở đời này đâu !

Tôi không dám giải thích gì cho chị, người kể chuyện ấy. Nhưng bất ngờ, qua một chị bạn của chị, tôi mới hiểu một nguyên nhân vui vui là: “Người ta lên đời cả rồi, bạn chị, đứa thì Air Blade, đứa thì Atila, đứa còn có chiếc xe con 7 chỗ, còn chị, ngồi sau chiếc Honda cánh én cũ rích mà mắc cỡ…”

Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có thể giống như chị kia, luôn than thở trách móc Lòng Chúa Thương Xót bất công quá. Xin cho chúng con nhận ra lòng Chúa Xót Thương không bao giờ bất công cả, vì Chúa là Đấng Khôn Ngoan, luôn dành cho mỗi chúng con điều tốt nhất là cho chúng con được phục sinh trong Nước Thiên Chúa. Amen.

 PM. CAO HUY HOÀNG

7

Page 8: Ephata 607

TIN ĐỂ ĐƯỢC THƯƠNG XÓTChúa Nhật II Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, ngày nay gọi là Đại Lễ kính Lòng Chúa

Thương Xót, được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chính thức thiết lập vào ngày 30.4.2000, ngày tuyên Thánh Nữ tu Faustina Kowalska ( 1905 – 1938 ).

Tuy là hai cách gọi nhưng vẫn chỉ là một. Tương tự, Tình Yêu Chúa, Thánh Tâm Chúa, và Lòng Chúa Thương Xót tuy ba mà một. Chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina, vị Tông Đồ tiên khởi của Lòng Chúa Thương Xót, về ước muốn của Ngài: “Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó” ( Nhật Ký, số 341 ).

Chúa Giêsu hứa: “Ta muốn ban ơn tha thứ hoàn toàn cho các linh hồn nào xưng tội và rước lễ trong ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Ta” ( Nhật Ký, số 1109 ). Ơn tha thứ hoàn toàn đó là Ơn Toàn Xá mà Người Trộm Lành Dimas đã được lãnh nhận ngay trước khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng, lúc 3 giờ chiều ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày 3 tháng 4 năm 33. Cũng từ Giờ Cứu Độ đó, Nguồn Mạch Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đã tuôn trào chan hòa mãi đến muôn đời cho mọi người, chỉ với một điều kiện đơn giản là thật lòng SÁM HỐI và TIN TƯỞNG vào Lòng Chúa Thương Xót.

Quả thật, Đức Tin rất quan trọng. Thánh Phaolô nói: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy” ( Rm 3, 28 ). Ngoài Tám Mối Phúc, còn có Mối Phúc đặc biệt liên quan Đức Tin, có thể gọi là “mối phúc thứ chín”, do chính Chúa Giêsu xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin !” ( Ga 20, 29 ). Và chắc chắn rằng bất kỳ ai tín thác vào Ngài, Đức-Kitô-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh, sẽ không phải thất vọng” ( x. Rm 10, 11; 1 Pr 2, 16 ).

Nói tới Đức Tin trong ngày lễ kính Lòng Chúa Thương Xót, xin “mở ngoặc” nhỏ: Thấy có những người hằng ngày tới Nhà Thờ lần Chuỗi Lòng Chúa Thương Xót với cộng đoàn, nhìn bề ngoài thấy là người đạo đức lắm, thế nhưng họ vẫn tin vào tử vi. Họ lý luận rằng đó là khoa học, không có tội ( sic ). Lạy Chúa, thật “khó hiểu” quá !

Tử vi ( * ) là gì ? Tử vi cũng gọi là “tử vi đẩu số”, một hình thức bói toán để biết trước vận mệnh con người được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành, can và chi… Người ta lập lá số tử vi với Thiên bàn, Địa bàn và các Cung sao – gọi là “chấm tử vi”. Căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính để lý giải những diễn biến xảy ra trong đời người. Vậy không phải là dị đoan ư ? Miệng leo lẻo nói tin Chúa mà lòng có tin chưa ? Tương lai chúng ta phó thác trong tay Chúa hay tử vi ? Như vậy không phải là “tin bằng môi miệng” ư ?

Ngoài ra cũng thấy có những người vẫn còn “chạy đua” theo những “sự lạ” trong khi lại không để ý các phép lạ hằng ngày: Thánh Thể và không khí. Phải chăng như vậy cũng chỉ là “lẻo mép”, chúng ta đến với Lòng Chúa Thương Xót mà chưa thực sự vì yêu mến ? Thiết nghĩ, cách thể hiện Đức Tin như vậy cũng nên “xét lại” lắm !

Người Việt nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Đúng vậy, cái “phẩm” quan trọng hơn cái “lượng”. Rễ càng sâu thì cây càng vững, loại cây nào có rễ ăn nổi thì dễ đổ khi gặp mưa gió. Thực tế minh nhiên. Vấn đề Đức Tin cũng vậy, nếu không có chiều sâu thì chỉ là Đức Tin trống rỗng, hào nhoáng bề ngoài mà thôi !

Thánh Faustina nói về việc sống Đức Tin: “Tôi đã thấy rõ thánh ý Chúa đang và sẽ được thực hiện đến từng chi tiết cuối cùng. Những nỗ lực điên cuồng của kẻ thù không thể cản trở chi tiết nhỏ nhặt nhất trong những điều Chúa đã tiền định. Chẳng hề gì nếu có những lần công cuộc dường như hoàn toàn bị tiêu tan; vì chính khi ấy, công cuộc lại càng được củng cố hơn nữa” ( Nhật Ký, số 1659 ).

Tác giả Thánh Vịnh luôn vững tin: “Dẫu cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn” ( Tv 73, 26 ). Chỉ người nào có Đức Tin son sắt như vậy mới có thể nói như Thánh Phaolô: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” ( Rm 8, 39 ). Tin vào Chúa là tin vào Tình Yêu của Ngài, là tín thác vào Lòng Thương Xót của Ngài.

Trình thuật Cv 2, 42 – 47 cho biết: “Ngày xưa, các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu.

8

Page 9: Ephata 607

Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”.

Một đoạn văn ngắn gọn nhưng cho thấy rõ nét của một xã hội đại đồng, một cộng đoàn lý tưởng, luôn đầy ắp tình yêu thương, tình liên đới và sự hiệp nhất. Sống trong tình yêu thương như vậy là sống trong lòng thương xót, ai cũng thể hiện lòng thương xót với nhau ở mọi góc độ và mọi cấp độ, không chi li, không so đo, tính toán, không phe cánh, không vụ lợi, biết quên mình vì người khác... Những ai sống đúng lòng thương xót như vậy thì chắc chắn được Thiên Chúa cứu độ.

Trước sau như một, Thiên Chúa mãi là Đấng giàu lòng thương xót: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” ( Tv 118, 2 – 3 ). Thật vậy, Thiên Chúa muốn mọi người đều được hưởng Ơn Cứu Độ. Chúng ta có nhiệm vụ phải loan báo Lòng Chúa Thương Xót, chứng tỏ cho mọi người biết Ngài, và tuyên xưng: “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” ( Tv 118, 14 ).

Chúa Giêsu là “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ” nhưng lại “trở nên đá tảng góc tường” ( Tv 118, 22 ). Thật là kỳ công vô song của Thiên Chúa ! Vì thế, chúng ta hãy đồng thanh: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ !” ( Tv 118, 24 ).

Trong tâm tình hân hoan đó, Thánh Phêrô nói: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên Trời cho anh em, là những người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ, hầu được hưởng Ơn Cứu Độ Người đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra trong thời sau hết” ( 1 Pr 1, 3 – 5 ). Đó là lời chứng của người đã trải nghiệm các cung bậc sống, thực sự là lời chứng đáng tin vì hoàn toàn chính xác.

Thánh Phêrô nhắn nhủ thêm để động viên chúng ta: “Trong thời ấy, anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện Đức Tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, vàng là của phù vân mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, Đức Tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự” ( 1 Pr 1, 6 – 7 ).

Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Qua gian khổ mà vẫn trung tín thì mới chứng tỏ Đức Tin sắt son, không nao núng trước mọi cám dỗ. “Không thấy mà tin” là một Mối Phúc là vậy, chứ miệng nói tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót, thế mà lại tin vào tử vi thì hoàn toàn bất xứng. Việc lặp đi lặp lại “lời tín thác” cũng chỉ như niệm thần chú, đọc như con vẹt, chứ trong lòng chưa thực sự tin tưởng. Vô ích !

Thật vậy, Chúa Giêsu đã nói chắc chắn: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa ! lạy Chúa !’ là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” ( Mt 7, 21 ).

Về Mối Phúc “không thấy mà tin”, Thánh Phêrô giải thích rạch ròi: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của Đức Tin, là Ơn Cứu Độ con người” ( 1 Pr 1, 8 – 9 ).

Trình thuật Ga 20, 19 – 31 là đoạn Tin Mừng quen thuộc nói về việc cứng lòng tin của Tông Đồ Tôma. Trong một bộ phim hoặc cuốn truyện, nhân vật phản diện thường không được người ta có cảm tình. Thế nhưng chúng ta quên rằng, nhân vật phản diện đó lại làm “nền” để nhân vật chính diện được nổi bật. Có lẽ Thánh Tôma cũng là “đích nhắm” của chúng ta mỗi khi nói tới Đức Tin, nhất là trong Mùa Phục Sinh.

Có lẽ Tông Đồ Tôma là người thực tế nên cần cụ thể, rõ ràng. Chúng ta cứ chê ông cứng lòng, nhưng chúng ta cũng vẫn cứng lòng đó thôi, bằng chứng là chúng ta chưa tin vào Kinh Thánh và các chứng cớ của Giáo Hội, thế nên Đức Tin của chúng ta vẫn bị “lung lay” mỗi khi gặp gian khổ, và chúng ta vẫn “chạy đua” về các “sự lạ” ở chỗ này hoặc chỗ nọ vì “máu” tò mò hoặc hiếu kỳ hơn là “máu” Đức Tin. Như vậy không gọi là cứng lòng tin thì gọi là gì ?

Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa Giêsu phục sinh, các môn đệ ở trong phòng đóng kín cửa vì họ sợ người Do Thái, trong “khoảng sợ hãi” đó có thể có phần họ “ớn” vì biết đâu họ cũng bị lôi cổ ra hành hình nếu bị phát hiện. Nếu vậy thì cũng lạnh xương sống lắm chứ ! Nhưng bất ngờ Đức

9

Page 10: Ephata 607

Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em !” Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được gặp lại Thầy thật rồi. Rồi Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ”.

Nhưng chiều hôm đó không có mặt Tông Đồ Tôma, cũng gọi là Điđymô. Sau đó, các môn đệ khác nói với ông về thấy Chúa nhãn tiền, nhưng ông Tôma nói chắc nịch: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Coi bộ “căng” dữ nghen !

Tám ngày sau, các ông lại quy tụ và có cả ông Tôma. Các cửa cũng vẫn đóng kín. Đức Giêsu lại hiện đến, đứng giữa và chúc bình an cho họ. Rồi Ngài bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Ngại hết sức ! Biết rồi còn nói, Thầy kỳ ghê đi ! Ngại thì ngại lắm, ông Tôma chỉ còn biết vội sụp lạy và thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” Đó là một dạng thú tội. Ngài ôn tồn: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin !” ( Ga 20, 29 ).

Sau khi sống lại, hai lần đầu tiên Chúa Giêsu hiện ra đều vào “ngày thứ nhất trong tuần”, khi các Tông Đồ đang tụ họp nhau. Điều đó cho thấy việc thờ phượng Chúa ngày Chúa Nhật là việc quan trọng trong đời sống tâm linh của các Kitô hữu, đó cũng là ngày nhận phúc lành bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh.

Thánh sử Gioan cho biết: Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép lại. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em TIN rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Ngài. Về Đức Tin, Thánh Giacôbê cũng có cách nói tương tự: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Ngài làm chỗ nương thân” ( Gr 17, 7 ).

Chúa Giêsu là Thiên Chúa tình yêu, là Đấng giàu lòng thương xót, và đã yêu thương chúng ta đến cùng ( Ga 13, 1 ). Chính vết thương nơi Thánh Tâm Ngài là ấn tín của tình yêu vô biên và vô điều kiện, là nơi tuôn trào Máu và Nước trường sinh, là Nguồn Mạch Lòng Thương Xót, chính Máu và Nước đó đã làm cho viên đội trưởng Longinô sáng mắt ( 2 ), và rồi ông này đã phải thú nhận ngay tại chân Thập Giá vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa, là người công chính !” ( Mt 27, 59; Mc 15, 39; Lc 23, 47 ).

TIN để được Thiên Chúa thương xót là hệ lụy liên kết chặt chẽ, không thể tách rời. Chúa Giêsu được Chúa Cha trao trọn quyền, thế nên không ai có thể đến với Chúa Cha nếu không qua Đức Kitô: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ).

Trong niềm vui tưng bừng của Tin Mừng Phục Sinh, chúng ta cùng nhớ lại lời Thầy Giêsu đã nói trước khi Ngài chịu chết và sống lại: “Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” ( Ga 14, 1 – 3 ).

Lời này là lực đẩy mạnh mẽ để chúng ta tiếp tục cuộc lữ hành trần gian cho đến khi hoàn tất cuộc đời, cũng là lúc chúng ta được gặp và sống với Đức Kitô Phục Sinh mãi mãi.

Lạy Thiên Chúa hằng hữu và giàu lòng thương xót, xin giúp chúng con biết thật lòng và chỉ tín thác vào Con Chúa, Đấng đã chịu tử nạn vì thương xót chúng con và đã phục sinh để chúng con được sống dồi dào.

Xin Chúa thương xót chúng con và toàn thế giới. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng đã yêu thương chúng con đến cùng, và là Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

( 1 ) Tử vi là tên một loài hoa tím – TỬ là tím, VI là huyền diệu. Khoa Chiêm tinh Tướng mệnh Đông phương dùng loại hoa tím này để chiêm bốc.

( 2 ) Đội trưởng Longinus ( cổ ngữ Hy Lạp: Λογγῖνος, Longĩnos ) kém thị lực, khi ông cầm ngọn giáo đâm vào Trái Tim Chúa Giêsu, Máu và Nước chảy theo ngọn giáo xuống tay, ông lấy tay dụi mắt và được sáng mắt, ông đã thật lòng tin Đức Kitô là Con Thiên Chúa và ông đã nên thánh, Giáo Hội có đặt tượng Thánh Longinô ở Đền Thờ Thánh Phêrô ( Rôma ).

10

Page 11: Ephata 607

ĐỂ ĐƯỢC CHÚA XÓT THƯƠNGTokichi Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ

lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất, bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nối. Hắn tàn nhẫn hạ sát đàn ông, phụ nữ, kể cả trẻ con. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng, hắn cũng bị bắt và kết án tử hình.

Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn. Nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may động tâm. Trái lại, hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như hung thú.

Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn quyển Tân Ước, với hy vọng mong manh là hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực. Nềm hy vọng của họ đã trở thành sự thật. Ishi-I đã đọc và những câu chuyện trong Tân Ước hình như có sự thu hút mãnh liệt, khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Câu Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm,” đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó anh thuật lại: “Đọc đến câu này tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu, hay tôi phải gọi đó là lòng thương xót của Ngài ? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin.”

Nhân viên trại giam vô cùng ngạc nhiên, khi dẫn độ Ishi-I đi hành quyết. Họ đã không gặp một tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một người hòa nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh ( Lẽ Sống ).

Nhờ biết tận dụng những ngày tháng cưối cùng, tín thác vào Đức Giêsu, người tử tội Ishi-I đã nhận được Lòng Chúa Thương Xót hải hà. Hôm nay, Giáo Hội long trọng mừng lễ Lòng Chúa Thương Xót, vậy làm sao để được Chúa xót thương ? Tín hữu Đức Kitô cùng noi gương người phụ nữ tội lỗi khóc lóc, sám hối tại nhà ông Simon, tông đồ Phêrô tuôn lệ sầu ân hận, cùng người gian phi hoán cải muộn màng mà kịp thời.

Thoát khỏi bóng tối

“Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối” ( Ga 13, 30 ). Ngay trong bữa Tiệc Ly, trong khi tất cả các môn đệ đang cùng chia sẻ với Đức Giêsu hào quang Thánh Thể, ánh sáng sự sống, thì người môn đệ Giuđa lại tự tách mình khỏi cộng đoàn thánh thiện, mà đi ra ngoài, lao vào bóng tối phản bội chết chóc.

Để nhận được Lòng Chúa Thương Xót, cần thoát ra khỏi bóng tối cuộc đời, như người con hoang đàng. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói. Thôi ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, con chẳng đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.” Thế là anh ta đứng lên, đi về cùng cha. ( Lc 15, 17 – 20 )

Tước tiên, dám dứt khoát, bạo dạn thoát ra khỏi cái bóng tối của chính mình, khỏi đam mê dục vọng, khỏi tham lam, ganh ghét, đố kỵ, khỏi cám dỗ vị kỷ, bất nhân, mới có thể đi tìm và thấy được ánh sáng công chính. Bao lâu còn say mê, chìm đắm trong khoái lạc nhục dục, cậy dựa vào tấm thân mỹ miều khêu gợi, quyến rũ, thì người phụ nữ kia làm sao dám thân hành đến nhà ông Simon. Rồi chị khép nép, “đứng đàng sau, sát chân Đức Giêsu mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.” ( Lc 7, 37 – 38 )

Một khi thoát ra khỏi bóng tối môi trường xã hội duy vật, cơ hội, bon chen, đấu đá, tranh giành, đua nhau khấu đầu, tôn thờ con bò vàng, tôn vinh của cải, danh vọng, với biết bao trò tiểu xảo lừa đảo, thủ đoạn ma mãnh, âm mưu quỷ quyệt, mới tha thiết cần đến Lòng Chúa Thương Xót, để được bình an, hoan lạc và sống viên mãn.

Thành khẩn hạ mình

Tuy nhiên, biết bao người hiện nay, từ lâu đã đánh mất đi ý thức tội lỗi, vẫn công khai khẳng định chắc nịch như đinh đóng cột rằng, mình vô tội, chẳng thiết tha đến tòa cáo giải, thì họ cần chi đến Chúa xót thương ? Hay là chờ đến khi trút hơi thở cuối cùng mới thấy cần kíp ? Liệu có kịp hối, hay kịp kêu xin, khi tai ương hoạn nạn bất ngờ, khi đột tử vì nhồi máu cơ tim, hay đột quỵ tai biến mạch máu não ?

11

Page 12: Ephata 607

“Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” ( Lc 18, 13 ) Thái độ khiêm tốn, hạ mình, cúi đầu, đấm ngực, thừa nhận mình bê tha, xấu xa, tội lỗi, mới xứng đáng cho Chúa xót thương cứu giúp. Bởi vì Đức Giêsu từng phán:“Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi. ( Mc 2, 17 )

Ăn năn thống hối

Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” Và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết ( Lc 22, 61 – 62 ).

Những giọt lệ thống hối nóng hổi lã chã trên khuôn mặt người phụ nữ lầm lỡ, trên khuôn mặt ông Phêrô rắn rỏi và già dặn, đã xóa đi bao tội lỗi xấu xa, đê hèn, bất tín, bất trung, bất nghĩa.

Hoặc lời hoán cải rất nhiệt thành của người gian phi: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái !” Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !” ( Lc 23, 41 – 42 ).

Người trộm lành đã hạnh phúc, vì hy vọng ở Tình Yêu Chúa. Giuđa đã khốn nạn vì thất vọng. ( Đường Hy Vọng, số 53 ).

Lạy Chúa, Lòng Thương Xót Chúa luôn mở rộng đón chờ chúng con đi hoang trở về mọi nơi, mọi lúc, xin giải thoát chúng con khỏi bóng tối tội lỗi, chết chóc, khỏi thân xác ươn hèn, để chúng con biết khiêm cung hối cải, xứng đáng lãnh nhận ơn cứu độ.

Lạy Mẹ Maria từ bi nhân hậu, biết bao lần Mẹ đã hiện ra khuyên nhủ chúng con hồi tâm trở về với Chúa. Kính xin Mẹ luôn nhắc nhở chúng con Lòng Chúa Thương Xót vô biên, vẫn luôn rộng tay đón chờ chúng con sám hối trở về. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA ĐỐI VỚI THẾ GIỚI LÀ VÔ CÙNG VÔ HẠN

 Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa được tiếp liền sau Đại Lễ Phục Sinh, Phụng Vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta cách đặc biệt, kể từ ngày 22.4.2001 là sùng kính Lòng Thương Xót Chúa. Chính Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, hôm nay Giáo Hội tôn phong lên bậc hiển Thánh muốn đáp lại ý muốn của Thiên Chúa cách minh nhiên được truyền lại cho vị Thánh đồng hương của mình là Faustina Kowalska sứ điệp về lòng thương xót Chúa đối với thế giới là vô cùng vô hạn. Chúng ta cùng nhau thực hành lời khuyên của Chúa, để nhận được ơn tha thứ tội lỗi và mọi hình phạt, do đó, trong lời Ca nhập lễ hôm nay : " Như những trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa thiêng liêng tinh khiết, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ. Allêluia".

Tin Mừng chung cho cả ba Năm Phụng Vụ A, B, C được trích từ Tin Mừng theo Thánh Gioan ( 20, 19 – 31 ), tường thuật lại sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra gặp gỡ các Tông Đồ thật là cảm động. Cử chỉ trao ban bình an của Chúa cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại" ( Ga 20, 21 – 23 ).

Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân "tha thứ các tội lỗi" diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi Phục Sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài" ( Ga 3, 16 ). Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ đổ xuống trên toàn thế giới.

Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi, tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng . Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an. Thế giới ngày nay cần thiết biết bao lòng thương xót của Thiên Chúa !

Hôm nay, Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa chúng ta cùng nhau lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: "Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của

12

Page 13: Ephata 607

Người muôn thủa" ( Tv 117, 1 ). Quả thật: "Tình thương Chúa tồn tại muôn đời !" Cái chết và sự sống lại của Chúa Kitô đã thay đổi tận căn số phận của nhân loại nói chung và mỗi người chúng ta nói riêng. Ðây là điều kỳ diệu trong đó được thể hiện trọn vẹn tình yêu thương xót của Thiên Chúa Cha, một tình yêu không ai hiểu thấu, Ðấng vì phần rỗi chúng ta, và để cứu chúng ta, Chúa đã nộp chính Con yêu.

Chúa Giêsu Kitô bị hành hạ và chịu đau khổ vì xót thương chúng ta, thật quá mọi mức độ có thể tưởng nghĩ được. Cả sau biến cố Phục Sinh của Con Thiên Chúa, Thập Giá nói lên và không ngừng nói về Thiên Chúa là Cha, Ðấng tuyệt đối trung thành với tình thương muôn đời của Ngài đối với con nguời. Tin vào tình thương này có nghĩa là tin vào lòng nhân từ của Thiên Chúa" ( Dives in misericordia, số 7 ).

Hãy cảm tạ Chúa vì Chúa hảo tâm, một tình thương mạnh hơn sự chết và tội lỗi. Giờ đây, nhân loại vẫn đang tiếp tục được thừa hưởng tình thương và sự tha thứ của Thiên Chúa đổ ra từ những vết thương vinh hiển và từ trái tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.

Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu chuộc, ơn cứu rỗi, sự thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa tuôn tràn sự dịu dàng, Thánh nữ Faustina Kowalska thấy xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian. Theo lời Chúa giải thích cho Thánh nữ, "Hai tia sáng nầy tượng trưng cho máu và nước". Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của Thánh Gioan, làm cho ta nghĩ đến Bí Tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần ( x. Ga 3, 5; 4, 14 ), cũng như khi người lính lấy lưỡi đòng đâm sâu vào lồng ngực Chúa Giêsu đã sinh thì trên Thập Giá, "tức thì nước cùng máu chảy ra !"

Lời kinh chúng ta vẫn đọc: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa", diễn tả đúng thái độ mà

chúng ta muốn có, để chúng ta đặt niềm tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào tay Thiên Chúa, Ðấng cứu rỗi duy nhất của chúng ta ! Những tia sáng của lòng nhân từ Chúa ban lại niềm hy vọng, một cách đặc biệt, cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi.

Chúa Nhật Kính Lòng Chúa Thương Xót do chính Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiết lập. Ngài mất vào đúng vọng ngày Kính Lòng Chúa Thương Xót năm 2005, và ngài lại được tuyên phong hiển Thánh đúng Đại Lễ năm nay, ngài quả là vị Thánh Giáo Hoàng của lòng xót thương. Cùng với Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII nhân hậu hay tỏ lòng thương xót đối với mọi người, phần nào diễn tả thái độ nội tâm của ngài trước Thiên Chúa giàu lòng nhân hậu và hay thương xót.

Lạy Chúa, nhờ sự chết và sự sống lại của Chúa, Chúa đã mạc khải tình yêu của Thiên Chúa Cha cho chúng con, chúng con tin thác vào Chúa, chúng con lặp lại ngày lúc này với xác tín rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa, xin thương xót chúng con và thế giới.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ của lòng nhân từ hay thương xót, xin giúp chúng con là con cái Mẹ duy trì lòng tin vào Con Mẹ, Ðấng cứu chuộc chúng con. Lạy Thánh Gioan XXIII, Thánh Gioan Phaolô II hôm nay hiển thánh và Thánh nữ Faustina chúng con nhớ đến với hết lòng mộ mến, xin cũng trợ giúp chúng con. Xin cho chúng con được cùng với các thánh, hướng nhìn về Ðấng Cứu Chuộc, và lặp lại lời nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa". Bây giờ và mãi mãi. Amen.

Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ

TÔMA, VỊ TÔNG ĐỒ ĐA NGHI ( Ga 20, 24 – 29 )Khỏi cần phải nói, đây là vị Tông Đồ bi quan nhất. Con người luôn luôn buồn rầu, sầu thảm, và hình như không thể tin điều gì mà ông không thấy.Ông thực tế nhìn vào bề trái của vấn đề,Ông nhìn thế gian, đời sống, khổ đau qua cặp kính màu đen.Gọi ông là vị Tông Đồ đa nghi hình như chưa đủ,Phải gọi ông là vị Tông Đồ nhăn nhó, sầu thảm, cằn nhằn, càu nhàu...Ông đã làm gì với tư cách Tông Đồ Chúa Giêsu ?Vì sao ông được chọn ?

13

Page 14: Ephata 607

Câu trả lời chân thành nhất là tôi không biết.Phải chăng Chúa muốn khuyến khích tất cả mọi người,dù người đó khó tính, càu nhàu, bi quan, và trong lòng chỉ biết nghi ngờ ?Dù sao, trong sự nghi ngờ chính đáng,vẫn có nhiều Đức Tin hơn một niềm tin nửa vời.

Chúng ta gặp Tôma lần đầu tiên khi nghe tin Ladarô chết. Lúc bấy giờ Chúa đang ở ngoài vùng Giuđê. Người muốn tránh mặt một thời gian vì ở Giuđê, Người đã tranh luận với người Do Thái và nói những lời mà họ cho là phạm thượng. Hai lần họ đã muốn ném đá và bắt giữ Người. Người đã lánh đi, bỏ qua bên kia bờ sông Giođan ( Ga 10, 29 – 40 ). Bây giờ, Chúa Giêsu muốn trở lại Giuđê. Tôma thấy sự nguy hiểm, nhưng ông không tìm cách ngăn cản. Ông biết rằng Chúa can đảm và dám đối diện với tất cả.

Nhưng dù sao thì người Do Thái cũng có thể giết Chúa. Tôma bíết rõ như thế. Vả lại, Người cũng đã từng nói đến cuộc Thương Khó sắp tới của Người ( Mc 10, 33 ). Khi Chúa Giêsu nói rằng Người sẽ về Giuđê sang Bêtania, Tôma quay lại nói với các Tông Đồ: "Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng hãy cùng qua để chết với Người." ( Ga 11, 10 )

Đây là một câu nói tận hiến nhưng đồng thời cũng là tiếng nói u sầu buồn thảm của một người mà đầu óc lúc nào cũng đầy những ý tưởng bi quan, yếm thế. Ông không để ý rằng Chúa đi cứu sống Ladarô, ông chỉ nghĩ rằng mình đi chịu chết. Cách nói của ông có vẻ như không có một tí gì là hy vọng. Ông cam chịu định mệnh, tai ông nghe văng vẳng câu nói Cựu Ước: "Ngày ngươi chết thì tốt hơn ngày ngươi sinh ra, tốt hơn là đi đến một nhà tang chế hơn là một nhà mừng tiệc, vì đấy là bước cùng của mỗi người..." ( Giảng viên 7, 1 – 2 ).

Giọng nói của ông như thế đấy ! Ý nghĩ của ông như thế đấy: "Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng hãy cùng đi để chết với Người".

Chúng ta lại gặp Tôma bên bàn Tiệc Ly. Chúa Giêsu nhắn nhủ các môn đệ, họ yên lặng ngồi nghe: "Lòng anh em chớ xao xuyến, hãy tin vào Thầy. Trong Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở... Và Thầy đã dọn chỗ cho anh em, ắt Thầy sẽ đến lại mà đem anh em theo Thầy. Để Thầy ở đâu thì anh em cũng sẽ ở đó, Và Thầy đi đâu thì anh em cũng biết rõ đường rồi.” ( Ga 14, 1 – 4 ).

Tôma thấy khó hiểu. Vấn đề này có vẻ lạ. Ông biết rằng Chúa sẽ chết và ông theo để cùng chết. Nhưng bây giờ thì Người lại nói đến chỗ ở, đến nhà cửa, đến sự sống. Tôma là người bi quan, ông chỉ nghĩ đến đêm tối chứ không bao giờ nghĩ đến mặt trời. Ông không hề biết rằng có con đường đó, thế mà Chúa lại bảo: “Anh em biết rõ đường rồi..." Tôma không thể im lặng nữa. Vị Tông Đồ sầu thảm bi quan đó đã hỏi lại Chúa: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường ?" Và Chúa Giêsu trả lời: "Thầy là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống, không ai đến được với Cha Thầy mà không qua Thầy" ( Ga 14, 5 – 6 )

Anh không biết đường sao ? Hỡi Tôma, “Thầy là Đường đây..."Anh là người bi quan, anh nghĩ nhiều đến điều sai lầm, "Thầy là Sự Thật...”Anh chỉ nghĩ đến cái chết, “Thầy là Sự Sống...”

Anh không biết Nhà Cha, thì hãy đi qua Thầy...Tôma được trả lời nhiều hơn ông hỏi.

Nhưng con người thực tế, bi quan đó khó mà hiểu được ngay.Bằng chứng ?Bằng chứng là ngày Chúa sống lại, ông cũng chưa kịp hiểu. Ta gặp lại ông vào ngày thứ nhất trong tuần Phục Sinh. Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết,Người hiện ra cho Maria Mácđala,Người hiện ra cho các Tông Đồ, cho tất cả mọi Tông Đồ,chỉ trừ Giuđa, vì Giuđa đã chết,chỉ trừ Tôma, vì Tôma vắng mặt.Tại sao Tôma lại không gặp Chúa ? Lại hụt mất cơ hội ?

14

Page 15: Ephata 607

Tôma buồn rầu, bi quan, choáng váng đến độ không muốn gặp các thân hữu,Ông đóng cửa ở nhà một mình.Ông luôn ôm ấp sự bất mãn, thất vọng, buồn phiền...Thế là Tôma vắng mặt khi Chúa hiện đến với các Tông Đồ.

Thử nghĩ xem: Tôma đánh mất cơ hội gặp Chúa Kitô Phục Sinh,Tôma mất dịp thấy Sự Thật và Sự Sống,Tôma mất dây liên lạc của cộng đoàn tín hữu.Trên con đường ngắn ngủi của cuộc đời này,Chúng ta đánh mất quá nhiều cơ hội.Chúng ta bỏ lỡ mất cơ hội để tin, để hy vọng, để lớn lên trong Chúa.Chúng ta bỏ lỡ sự hiện diện của Chúa, ơn tha thứ của Chúa,lòng can đảm để chịu thử thách, niềm hy vọng tỏa lên từ những khổ đau,sự thu hút khiến ta không thất vọng, và sự chiến thắng vinh quang trên cái chết...

Phải chăng vì bỏ lỡ những cơ hội như thếmà Đức Tin của chúng ta bị già nua, tuổi tác, cằn cỗi, khô gầy,thay vì một Đức Tin tươi trẻ và sống động ?

Vì Tôma đã vắng mặt,Nên ông không tin những gì mà các bạn ông chia sẻ.Họ nói với ông rằng: Họ đã gặp Chúa Giêsu Phục Sinh, Người vẫn hằng sống !Tôma không thể tin được,Ông biết rằng các bạn ông là những người đáng tin cậy,nhưng trước một việc như thế thì ông không tin.Ông biết rằng họ là những người đáng trọng,nhưng lời nói của họ thì không thể trọng trong vụ này.Ông đã quá quen với những tin tức đen tối.

Nếu họ nói cho ông những tin tức buồn nản đau đớn, hoặc bị bách hại, thì ông sẽ tin ngay.Nhưng với tin tức đầy lạc quan kia, ông đâm ra nghi ngờ.

Không phải vì họ không đáng tin,Nhưng vì con người của ông không cho phép ông tin.

"Nếu tôi không thấy dấu đinh nơi tay Người, và tra tay tôi vào lỗ đinh và cạnh sườn Người, tôi sẽ không tin..." ( Ga 20, 25 )

Đây không phải là một người yếu Đức Tin,Đây là một người không có một chút Đức Tin nào cả.Không phải là một Tôma đa nghi nữa, mà là một Tôma đóng cửa, bịt tai và cứng lòng.Câu nói của ông xúc phạm đến Đức Kitô quá !

Tuy nhiên, ông nói "nếu" tức là ông còn cho Chúa một điều kiện.Chúa đã chấp nhận điều kiện ấy.Chúa đã chấp nhận một lời thỉnh cầu,Dù cho lời thỉnh cầu ấy xúc phạm đến đâu, miễn là chân thành.Một tuần trôi qua…

Mỗi ngày, các bạn ông đều thuyết phục ông.Vô ích, ông không nghe gì cả.Thế nhưng, sự nhiệt thành của nhóm môn đệ đã kêu gọi Tôma đến cầu nguyện với họ tám ngày sau đó.

Và Chúa Giêsu lại hiện đến.Người chịu thua sự cứng lòng của kẻ đa nghi,Người hạ mình trước một kẻ nghi ngờ và bi quan,Người hiện đến với câu nói hôm trước của Tôma,Người lập lại: "Tôma, hãy đặt ngón tay anh vào đây,Hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đưa ngón tay anh tra vào cạnh sườn Thầy,

15

Page 16: Ephata 607

Và đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy Tin" ( Ga 20, 27 ).

Đây là một việc quá sức tưởng tượng của Tôma,Trong khoảnh khắc, Tôma biến đổi từ một kẻ thờ ơ thành một người bạn,từ một kẻ chối Chúa thành một kẻ tuyên xưng Chúa,từ một kẻ hoài nghi thành một người đầy tin tưởng.

Hơn thế nữa, ông còn qua mặt tất cả các bạn khi ông tuyên xưng: "Lạy Chúa của con và là Thiên Chúa của con..." ( Ga 20, 28 )

Từ một người tối đen, ông trở nên một kẻ tin ngời sáng...Ông đã không thực hiện điều ông đòi hỏi trước đây.Ông không tự đặt tay mình vào các vết thương,Không còn cần thiết nữa rồi...Dù cho đường ông đi tràn đầy nghi ngờ và sợ hãi,Ông đã đến được vùng ánh sáng.

Bây giờ, tất cả đối với ông là chắc chắn, tất cả những gì mà trước đây ông đã nghi ngờ... Truyền thống cho thấy rằng ông đã đến rao giảng ở Ấn Độ và chịu tử đạo ở đây. Vâng, trong sự nghi ngờ chính đáng vẫn có nhiều Đức Tin hơn là một niềm tin nửa vời...

Chúa còn nói thêm với Tôma,câu Người nói với kẻ nghi ngờ giờ đây đã trở nên thành tín:"Bởi thấy Thầy, anh đã tin,Phúc cho những ai không thấy mà vẫn tin" ( Ga 20, 29 ).

Nếu tìm ý nghĩa cho câu nói ấy, thì ta phải hiểu rằng:Không phải các Tông Đồ may mắn, còn chúng ta thì thiệt thòi.Chúng ta không có quyền nói: "Như vậy là thiếu công bình...Các Tông Đồ đã thấy Người, còn chúng ta thì không được thấy.Nếu chúng ta không thấy được NgườiThì làm sao Người lại có thể chờ đợi lòng tin ở chúng ta ?”

Thế thì, Đức Tin là gì ? Tin có nghĩa là hiểu biết điều mình không trông thấy.Và quả thật, phúc cho những ai Tin vì họ sẽ thấy.Ta để ý chỉ có Gioan mới nhắc tới Tôma, nhắc tới ba lần.

Lý do là vì Gioan viết Phúc Âm cốt để nhấn mạnh về Đức Tin.Một người như Tôma sẽ cho chúng ta một bài học, một niềm hy vọng.Tôma thực tế đến như thế...Tôma bi quan đến thế,Tôma thực tế đến thế,Tôma nghi ngờ đến thế,Vậy mà cuối cùng, Tôma đã tin mà không cần phải thử nữa...

Điều này nói lên rằng: Chúng ta không thể nào sống mãi trong bóng tối,nếu chúng ta vẫn còn thắc mắc một cách chính đáng,trong khi vẫn một lòng sánh bước với Đức Kitô...

Nếu ngày nay chúng ta có đi đến Thánh Địa, chúng ta sẽ thấy nơi Chúa đã đến, đường Chúa đã đi qua, nhưng chúng ta không thể chứng kiến Chúa chữa bệnh, không thể nghe tận tai Lời Chúa giảng, không thể chiêm ngưỡng Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta chỉ thấy núi non, sông biển, sa mạc. Nhưng Chúa Giêsu thì chúng ta không thể gặp. Vậy, có đến đó hay ở nơi đây cũng chẳng khác gì...

"Phúc thay ai không thấy mà tin". Nếu chúng ta thật sự thắc mắc, thì chúng ta có thể tìm đến Chúa Kitô Phục Sinh qua Đức Tin.

Ngay cả Tôma, khi ông nói: "Lạy Chúa của con..." thì ông đã nói bằng kinh nghiệm,

16

Page 17: Ephata 607

Nhưng khi ông nói thêm: "...và là Thiên Chúa của con" thì ông đã nói bằng Đức Tin.Cái gì mắt thấy tai nghe đã cho phép ông kết luận rằng:

Thầy của ông là Thiên Chúa Hằng Sống ?"Tin là cách chiếm hữu những điều còn trong hy vọng,Tin là cách nhận thức những thực tại không trông thấy,Còn không có Đức Tin thì vô phương làm đẹp lòng Thiên Chúa,Vì ai đến gần Thiên Chúa thì phải tin là Người hiện hữu,Và Người sẽ thưởng công những ai tìm kiếm Người" ( Dt 11, 1 – 6 ).

Chúa Giêsu đã sống lại:Người đã hiện ra cho các Tông Đồ,Người đã hiện ra cho Tôma.Đó là sự kiện không thể phủ nhận.Vậy mà, điều đó chúng ta lại không có đủ chứng cứ.Kitô giáo đặt nền tảng là Chúa Kitô Phục Sinh.Vì thế, vấn đề của chúng ta là chọn lựa:

Chọn tin Người hay là phủ nhận Người mà thôi.Nhưng, dù ta tin hay là ta phủ nhận thì ... Người vẫn còn đó: Con Thiên Chúa,Người đã sống lại và Người hằng sống, Người ở giữa chúng ta...

"Ở giữa các ông có một Người mà các ông không biết" ( Ga 1, 26 )Người ở đó, trước mặt chúng ta, Tay Người đưa ra, vết thương còn rướm máu, Người bảo chúng ta: "Hãy tra tay vào đây, hãy nhìn rõ tay Thầy,Hãy đặt tay vào cạnh sườn Thầy, đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy Tin..."

Quả thật, “Phúc cho những ai không thấy mà tin..."

FX. TRẦN DUY NHIÊN, Trích "13 người đã thay đổi thế giới

CHÚA NHẬT PHỤC SINH 2014 TẠI ANSAN, HÀN QUỐCTai nạn chìm phà tại Hàn Quốc vào ngày thứ tư Tuần Thánh 16.4.2014 với 64 người tử nạn và

240 người vẫn còn mất tích ( tính đến ngày 21.4 ) đã dìm thành phố Ansan vào một bầu khí chết chóc.

Nhà Thờ Ansan Jeil chỉ cách trường trung học Danwon 20 phút đi bộ. Đây là ngôi trường đã tổ chức chuyến đi dã ngoại cho 338 em học sinh trên chuyến phà bạc mệnh Sewol.

Bài chia sẻ của Mục Sư Go được phụ họa bằng lời hát thầm thì của 130 ca viên với tiếng nhạc đệm của ban tứ tấu cello, violin, viola và sáo: “Hỡi biển ! Hỡi biển lạnh Jindo ! Tại sao ngươi lại dìm chết những đứa con trai và con gái vô tội của ta trong dòng nước của ngươi ?”

Có 10 em học sinh trong số nạn nhân còn mất tích thuộc về cộng đoàn thờ phượng này. Một em trong số đó bị mồ côi cha mẹ từ nhỏ và được bà ngoại nuôi dưỡng. Bà thường xuyên nhận được thực phẩm và sự nâng đỡ của Nhà Thờ.

Nói rằng Chúa đã Phục Sinh thì không thể diễn tả được hết bản chất của biến cố trọng đại nhất này nơi mỗi cuộc đời cá nhân cũng như toàn thể nhân loại trong toàn bộ lịch sử.

"Phục Sinh" trong tiếng Việt có nguồn gốc Hán Tự là 復生 ( fù shēng ). "Phục" có

nghĩa là đã đi rồi mà lại quay về, lập lại như trước, hoàn nguyên. Tả Truyện có câu Chiêu Vương nam chinh nhi bất phục ( Chiêu Vương đi đánh phương nam mà không trở lại ). "Khôi phục" là lấy lại cái gì đã bị mất. "Hồi phục" là khỏe mạnh trở lại. "Sinh" có nghĩa mạng sống, sự sống, đời sống như trong

17

CÙNG HIỆP THÔNG

Page 18: Ephata 607

sinh tồn, sinh hoạt, sinh sống. Luận Ngữ có câu "Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên" ( Sống chết có số, phú quý do trời ).

"Phục Sinh" chỉ có nghĩa chết rồi mà sống lại. "Tử giả bất khả phục sinh" ( Kẻ chết không thể sống lại ). Bây giờ một số người thích dùng từ "Chúa Sống Lại". Ta thấy một số Nhà Thờ có treo băng-rôn với hàng chữ "Mừng Chúa Sống Lại". Sống lại có vẻ dễ hiểu hơn nhưng cũng không khác Phục Sinh bao nhiêu.

Trong tiếng Latin là "resurrectio" mang tính cách mạnh mẽ hơn nhiều, vừa có nghĩa được sống lại sau khi đã chết nơi mỗi cá nhân, vừa có nghĩa là sự trỗi dậy từ cõi chết của toàn thể nhân loại vào thời cánh chung. Cái chết và sự trỗi dậy từ cõi chết của Đức Kitô, trọng tâm của Đạo Kitô, bao hàm sự giải thoát khỏi cái chết nơi mỗi người và của toàn thể nhân loại trong toàn bộ lịch sử. Nhờ cái chết và sự sống lại của Người, mỗi người và tất cả mọi người, đã tức thì và ngay lập tức, được mang vào trong bên trong Nước Đời Đời của Cha Người.

Điều này Philatô, đại diện cho cái thế gian không những từ khước mà còn kết án và đóng đinh Người, không thể hiểu được: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này" ( Ga 18, 36 ).

Nơi Chúa Phục Sinh, người Do Thái thời xưa đã không tìm thấy sự thỏa mãn cho khát vọng trần thế của họ. Ngay vào cận điểm của thời khắc Lên Trời của Người, tất cả các môn đệ quây quần chung quanh Người để được chứng kiến biến cố phi thường này vẫn còn rất ngô nghê trong nhãn giới tầm thường của họ về Ơn Cứu Độ.

Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ítraen không ?” Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa" ( Cv 1, 6 ).

Ngay theo sau sự Lên Trời hoành tráng đến như thế của Người là trên 300 năm Đạo Kitô bị bách hại tàn khốc trong Đế Quốc Roma. Những điều đó không tai hại cho bằng sự ngộ nhận về Ơn Cứu Độ cho đến tận ngày nay, nhất là nơi những Kitô Hữu. Người ta hồ hởi xây dựng nên những đền đài nguy nga tôn vinh Người, đổ dồn đến các Thánh Đường và trung tâm hành hương để long trọng mừng kính sự Phục Sinh của Người. Nhưng họ lại luôn mang tâm trạng muôn thưở của những người đã tận mắt chứng kiến cuộc Khổ Nạn, Phục Sinh và Lên Trời của Người, để mong mỏi Người thi hành điều duy nhất họ ấp ủ: Khôi phục vương quốc Ítraen. Đó có thể là một khát vọng vinh hoa trong đời ( và nhất là ngay cả trong đạo nữa )

mà lại không phải là sự quyết liệt dấn thân đi theo Người trong hành trình khổ nạn và phục sinh của Người.

Khi cộng đoàn Nhà Thờ Ansan Jeil đón mừng Chúa Phục Sinh trong màn nước mắt với quá nhiều mất mát đau đớn nhất như thế, họ đã nghe được tiếng của Người mà chỉ có Chiên của Người mới nhận ra được: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha ( Ga 10, 27 – 29 ).

Trong tiếng Anh để mô tả biến cố trọng đại này, người ta nói rằng Our Lord Is Risen. "Chúa của Ta đã trỗi dậy". Dịch như thế cũng chưa hoàn hảo. Người ta đã dùng động từ to rise để nói lên sự kiện này mà động từ to rise được dùng nhiều nhất dành cho mặt trời. The sun rises in the east: Mặt trời mọc lên từ phía đông.

Mặt trời mọc lên để mang lại ánh sáng và hơi ấm, nhờ thế mà muôn loài muôn vật mới có được sự sống. ( Xin mở ngoặc nói thêm, để tạo nên được một năng lượng tương đương với mặt trời tức là 3, 8 x 1026 Joule, thì trong mỗi giây phải cho nổ đến tới 4 ngàn tỷ quả bom nguyên tử tương đương với quả bom đã bỏ xuống thành phố Hiroshima nước Nhật năm 1945 ).

Sự trỗi dậy từ cõi chết của Đức Kitô chính là sự tỏa sáng của mặt trời nơi nỗi u sầu đau buồn của anh chị em Kitô Hữu tại Ansan. Khi tin như thế, mắt ta mới được nhìn thấy vinh quang của Người

18

Page 19: Ephata 607

và trong hoàn cảnh nào đi nữa, các Kitô Hữu vẫn có thể hát vang: "Giêsu khởi thắng. Giêsu vinh quang. Giêsu toàn thống trị. Halleluia."

NGUYỄN TRUNG, 4.2014

DI CHÚC CỦA THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ 2

Chúa Giêsu đã hứa qua Thánh Nữ Faustina: “Từ Ba Lan sẽ trổi lên một tia sáng để chuẩn bị cho lần trở lại thế giới thứ hai của Ta”. Tia sáng đó chính là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2, người thiết lập Đại Lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót cho toàn thế giới, mừng kính vào Chúa Nhật II sau Lễ Phục Sinh. Ngài đã được phong Chân Phước vào chính ngày Lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót, 1.5.2011, và nay được Giáo Hội tuyên Hiển Thánh, ngày 27.4.2014, cũng là Lễ Kính Lòng Chúa Thuơng Xót.

Các con thân mến !

Hiện nay các con đang sống trong thời đại đầy gian nguy và thử thách. Các con hãy cố gắng kiên tâm vững tin vào Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu đã hiện ra nói với cha, nhờ cha thông báo lại cho các con những sứ điệp này: “Các con hãy cầu khẩn Thiên Chúa giải trừ nguy nan trong thế giới sắp sụp đổ này”.

Các con thân mến, khi cha ra đi cũng chính là lúc những biến cố thảm họa sẽ đổ xuống thế giới này: chiến tranh ngày càng lan rộng, động đất khắp nơi, các cuộc đại nạn lớn lao sẽ xảy ra, tại các nước lớn như Nhật Bản, Trung Quốc, Philippines.

Các con là những người cha tin yêu nhất, những người con thuộc dòng dõi Đavít, các con hãy kêu xin Thiên Chúa bằng cách đọc kinh cầu nguyện với những lời kinh tha thiết sau đây:

Xướng: Xin Thiên Chúa dủ lòng thương xót chúng con !

Đáp: Vì Chúa đã sinh ra chúng con, và đặt chúng con trên trái đất này.

Xướng: Xin an ủi nâng đỡ chúng con trong lúc gian nguy.

Đáp: Vì Chúa là nguồn an ủi của chúng con.

Xướng: Xin xua đuổi những giặc thù xa chân chúng con.

Đáp: Vì Chúa là Đấng đã bảo vệ chúng con.

Kết: Xin phù hộ chúng con trên đường dương thế, tránh xa kẻ thù tội lỗi, để chúng con một ngày kia, sẽ được hưởng phúc vinh quang muôn đời, cùng với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.

Sau những lời nguyện trên, các con hãy đọc: Một Kinh Tin Kính, Một Kinh Chúa Thánh Thần, Một Kinh Ăn Năn Tội, và lời nguyện tắt: “Giêsu Maria Giuse con mến yêu, xin cứu rỗi linh hồn con và muôn dân muôn nước”.

Khi các con phổ biến một bản kinh này cho một người thì các con được hưởng một Ơn Tiểu Xá, cứ 100 người thì được một Ơn Đại Xá. Và khi các con rời thế gian này sẽ được các Thiên Thần đưa về Trời hưởng hạnh phúc muôn đời. Cha ban phép lành và chúc phúc cho những ai phổ biến bản kinh này.

Dưới đây là Di Chúc Tâm Linh của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tòa Thánh Vatican ấn hành ngày 7.4.2005.

DI CHÚC

Di chúc ngày 6.3.1979 ( và những lần thêm kế tiếp )

Con tùy thuộc tất cả về Mẹ ( Totus Tuus ego sum ), nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh. Amen.

“Hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào Chủ các con đến” ( x. Mt 24, 42 ). Những lời này gợi trong tôi lời gọi cuối cùng sẽ đến vào lúc mà Chúa sẽ muốn. Tôi ao ước theo Ngài và tôi ao ước tất cả những gì thuộc về đời sống trần gian của tôi đều chuẩn bị tôi cho lúc này. Tôi không biết khi nào Ngài đến, nhưng như với mọi sự, tôi cũng đặt cả giây phút này trong tay Người Mẹ của Chúa tôi: Tất cả dâng cho Mẹ ( Totus Tuus ). Trong đôi tay mẫu tử, tôi đặt hết mọi sự và tất cả những người mà đời sống cũng như ơn gọi của tôi đã có mối dây liên lạc. Trong Đôi Tay này, tôi xin trao cách đặc biệt Giáo Hội cũng như Quê Hương tôi và tất cả nhân loại. Tôi cảm tạ tất cả. Tôi xin tất cả thứ lỗi cho tôi. Tôi cũng xin một lời nguyện để Lòng Nhân Từ của Chúa tỏ hiện lớn hơn sự yếu đuối và sự bất xứng của tôi.

19

CÙNG TƯỞNG NHỚ

Page 20: Ephata 607

Trong những dịp linh thao, tôi đã đọc lại lời di chúc của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI. Bài đọc đó thúc đẩy tôi viết bản di chúc này.

Tôi không để lại sau tôi một của cải gì mà cần thiết phải giữ cả. Về những đồ vật mà tôi dùng thường ngày và hữu ích cho tôi, tôi mong sao chúng được phân phối một cách thuận tiện nhất. Những điều ghi chép bằng tay, xin được đốt đi. Về điểm này, tôi yêu cầu Lm. Stanislao lo liệu, người mà tôi cảm ơn về sự cộng tác và giúp đỡ trong suốt bao năm trường với đầy sự cảm thông. Ngược lại, tất cả những lời cảm tạ khác, tôi xin giữ trong tim tôi trước Thiên Chúa, bởi vì rất khó để diễn tả những lời đó.

Về phần mai táng, tôi lập lại những điều khoản mà Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã đặt ra. ( Ở đây có một lời ghi chú bên lề: Quan tài trong đất chứ không trong hòm đá, 13.3.1992 ).

“Vì ở nơi Chúa là lòng nhân từ, và nơi Người là ơn cứu độ chan hòa” ( kinh “Từ Vực Sâu ) – De Profundis: “Qui apud Dominum misericordia: et copiosa apud Eum redemptio”.

Ký tên: GIOAN-PHAOLÔ II

Rôma, 6.3.1979

Sau khi tôi chết, tôi xin những Thánh Lễ và lời cầu nguyện.

Ngày 5.3.1990

Tôi diễn tả với lòng trông cậy sâu xa nhất, mặc dù với tất cả sự yếu đuối của tôi, rằng Chúa sẽ cho tôi tất cả ân sủng cần thiết để đối phó, theo Thánh Ý Ngài, bất cứ công việc nào, thử thách nào và khổ đau nào mà Ngài muốn cho đầy tớ của Ngài chịu trong cuộc sống. Tôi cũng tin tưởng rằng, qua thái độ của tôi: những lời nói, những công việc và những sơ sót, Ngài sẽ không bao giờ để tôi có thể phản bội những bổn phận của tôi trên Ngai Thánh Giáo Hoàng này.

24.2 tới 1.3.1980

Cũng trong dịp linh thao này, tôi đã suy ngẫm về chân lý của Chức Vụ Linh Mục của Đức Kitô trong viễn tượng của chuyến hành trình, đối với mỗi người trong chúng ta, là chính lúc mình chết. Đối với chúng ta, Sự Phục Sinh của Đức Kitô là một dấu chỉ hùng hồn ( được viết thêm phía trên: “quan trọng” ) của lúc từ giã cõi đời này, để được sinh ra trong thế giới bên kia, thế giới tương lai.

Như thế tôi cũng đã đọc lại bản di chúc của tôi viết hồi năm ngoái, cũng vào dịp cấm phòng – tôi đã so sánh bản ấy với bản di chúc của vị vĩ đại đi trước tôi là Cha Phaolô VI, với chứng tá tuyệt vời về sự chết của một Kitô hữu và một Giáo Hoàng – và tôi đã canh tân trong tôi ý thức về những câu hỏi mà bản di chúc ngày 6.3.1979 đã đề cập mà tôi đã chuẩn bị ( đúng hơn là chỉ tạm thời ).

Hôm nay, tôi chỉ mong thêm vào bản di chúc đó điều này: Chớ gì mỗi người phải giữ trong tâm trí viễn tượng của sự chết và phải biết sẵn sàng trình diện trước Thiên Chúa là Đấng Thẩm Phán – đồng thời là Đấng Cứu Độ và Người Cha. Tôi cũng thế, tôi ý thức sự nối tiếp này, giao phó giờ quan trọng này cho Mẹ của Đức Kitô và của Giáo Hội – Người Mẹ của niềm hy vọng nơi tôi.

Thời gian mà chúng ta đang sống rất khó diễn tả, thật là khó khăn và đáng quan ngại. Con đường của Giáo Hội cũng thật khó khăn và khô cằn, bằng chứng tiêu biểu của thời đại này, vừa đối với các tín hữu cũng như các chủ chăn. Trong vài quốc gia – chẳng hạn quốc gia mà tôi đã đọc một vài điều liên quan đến trong những dịp cấm phòng, Giáo Hội lâm vào một giai đoạn của bách hại đến độ cũng chẳng kém gì những thế kỷ đầu, và còn hơn thế nữa, nó còn vượt quá bởi mức độ của sự khinh bỉ và oán ghét. “Máu các Thánh Tử Đạo – mầm giống của các Tín Hữu” ( Sanguis martyrum – semen christianorum ). Và thêm vào điều đó biết bao người vô tội mất tích, kể cả trong quốc gia mà chúng ta đang sống…

Tôi ao ước một lần nữa trao phó trọn vẹn bản thân tôi vào ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ mình Ngài sẽ quyết định khi nào và như thế nào về đời sống trần gian và chức phận mục vụ của tôi phải kết thúc. Trong cuộc sống và trong sự chết, “Tất cả dâng cho Mẹ” ( Totus Tuus ), qua Đức Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Bằng cách chấp nhận ngay từ bây giờ sự chết này, tôi hy vọng rằng Đức Kitô sẽ ban ơn cho tôi cho đoạn đường cuối cùng, nghĩa là sự phục sinh của tôi. Tôi cũng hy vọng là Ngài sẽ biến sự chết này thành hữu ích cho cả mục tiêu quan trọng hơn mà tôi hằng kiếm cách phục vụ: Sự cứu rỗi con người, sự bảo trì gia đình nhân loại, và qua nhân loại, tất cả các quốc gia và các dân tộc ( trong các quốc gia này, tôi cũng đặc biệt xin cho Quê Hương trần gian của tôi ), hữu ích cho những người mà Ngài đã giao phó cho tôi một cách đặc biệt, cho vấn đề của Giáo Hội, cho sự vinh danh của chính Chúa nữa.

20

Page 21: Ephata 607

Tôi không muốn thêm gì nữa vào điều đã được viết cách đây một năm, chỉ nhắc lại sự bộc phát tự nhiên và cùng lúc với sự tin tưởng mà tuần linh thao này đã lại khơi dậy trong tôi lần nữa.

Ký tên: GIOAN-PHAOLÔ II

“Totus Tuus ego sum”

Ngày 5.3.1982

Qua dịp linh thao của năm nay, tôi đã nhiều lần đọc bản di chúc ngày 6.3.1979. Mặc dù tôi cho rằng bản đó còn tạm thời, tôi để lại nó dưới hình thức như thế. Tôi không thay đổi gì cả ( trong lúc này ), và tôi cũng chẳng thêm gì liên quan các dự định được viết trong bản di chúc.

Vụ ám sát tôi vào ngày 13.5.1981, một hình thức nào đó, đã xác định sự chính xác của những lời đã được ghi chép trong dịp linh thao của năm 1980 ( từ 24.2 đến 1.3 ).

Tôi lại càng cảm thấy sâu xa hơn khi tôi thấy mình hoàn toàn ở trong bàn tay của Thiên Chúa – và tôi luôn sẵn sàng theo Ý Chúa, từ bỏ mình cho Ngài qua Mẹ Vô Nhiễm của Ngài.

Ký tên: GIOAN-PHAOLÔ II

5.3.1982

Liên quan câu cuối cùng của bản di chúc của tôi viết ngày 6.3.1979 ( về điều liên quan nơi chốn, nghĩa là nơi chôn cất, xin Hội Đồng Hồng Y và các đồng bào của tôi quyết định ), tôi muốn nói là Đức Tổng Giám Mục thành Cracovie hay Hội Đồng Giám Mục Ba Lan. Như thế, tôi xin Hội Đồng Hồng Y thỏa mãn, nếu có thể, những yêu cầu của những người đã được kể trên.

Ngày 1.3.1985 ( trong dịp cấm phòng )

Một lần nữa, về điều liên quan câu “Hồng Y Đoàn và các đồng hương”: “Hồng Y Đoàn” không có sự bắt buộc nào phải kêu gọi các “người đồng hương” về điều liên quan vấn đề này. Tuy nhiên, Hồng Y Đoàn có thể làm điều đó, nếu vì một lý do nào đó Hồng Y Đoàn cảm thấy điều đó phải làm.

Ký tên: GIOAN-PHAOLÔ II

Dịp Linh Thao của Năm Thánh năm 2000, từ 12 đến 18.3.2000 ( cho bản di chúc )

1. Ngày 16.10.1978, khi Hội Đồng Mật các Hồng Y chọn Gioan-Phaolô II, Vị Giáo Trưởng Giáo Hội Ba Lan, Đức Hồng Y Stefan Wyszynski nói với tôi: “Bổn phận của Đức Tân Giáo Hoàng sẽ là phải đưa Giáo Hội vào đệ tam thiên niên kỷ”. Tôi không nhớ chính xác những lời nói của ngài, nhưng đại ý là lời của Nhân Vật đã đi vào lịch sử như Vị Giáo Trưởng của thiên niên kỷ, một vị Giáo Trưởng vĩ đại. Tôi đã là nhân chứng về sứ vụ của ngài, về sự phó thác hoàn toàn của ngài, về những cuộc phấn đấu của ngài, về sự chiến thắng của ngài. “Khi nó đến, sự chiến thắng đó sẽ là sự chiến thắng qua Mẹ Maria”. Đức Hồng Y lập lại thường xuyên những lời này của vị đi trước ngài, Đức Hồng Y August Hlond.

Tôi như thế là được rồi, theo hình thức nào đó, chuẩn bị cho phận vụ mà ngày 16.10.1978 đã được trao phó cho tôi. Vào lúc mà tôi viết những lời này, Năm Thánh 2000 đã là một thực tế tác động. Đêm 24.12.1999, chúng tôi đã mở Cánh Cửa biểu tượng của Năm Thánh trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, sau đó là cửa của Đền Thờ Thánh Gioan Latêranô, rồi đến cửa của Đền Thờ Đức Bà Cả vào Năm Mới, và ngày 19 tháng 1, cánh cửa của Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành. Biến cố cuối cùng này, vì tính cách hoàn vũ của nó, được ghi ấn trong ký ức một cách đặc biệt.

2. Lần lượt theo sự tiến triển của Năm Thánh 2000, thế kỷ XX tự đóng dần, ngày này tiếp ngày nọ, sau chúng ta và thế kỷ XXI đang mở ra. Theo các dự án của Đấng Quan Phòng, tôi đã sống trong một thế kỷ khó khăn đang đi vào lịch sử, và bây giờ, năm mà tôi trở thành Bát Tuần ( octogesima adveniens – có chú thích: đây là Tông Thư của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI viết ngày 14.5.1971 dịp kỷ niệm 80 năm Thông Điệp Rerum Novum – Tân Sự của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII ), phải tự hỏi nếu không phải đã đến giờ phải lập lại lời của ông Simêon trong Kinh Thánh: “Bây giờ xin hãy cho tôi ra đi” ( Nunc dimittis ).

Ngày 13.5.1981, ngày ám sát Giáo Hoàng trong buổi yết kiến chung tại công trường Thánh Phêrô, Chúa Quan Phòng đã cứu tôi khỏi chết một cách nhiệm mầu. Đấng chính là Thiên Chúa duy nhất của sự sống và sự chết đã kéo dài đời sống tôi, một cách nào đó, Ngài đã cho lại tôi sự sống. Từ giây phút đó, đời sống tôi tùy thuộc vào Ngài nhiều hơn nữa. Tôi hy vọng Ngài sẽ giúp tôi nhìn nhận đến lúc nào tôi phải tiếp tục phận sự này mà Ngài đã gọi tôi vào ngày 16.10.1978. Tôi xin Chúa vui lòng gọi tôi về với Ngài khi Ngài muốn ( x. Rm 14, 8 ). Tôi cũng hy vọng Lòng Nhân Từ của Chúa vui lòng cho tôi những sức mạnh cần thiết để làm phận vụ này chừng nào tôi còn phải chu toàn phận vụ Giáo Hoàng trong Giáo Hội.

3. Như mỗi năm vào dịp linh thao, tôi đều đọc lại bản di chúc của tôi viết ngày 6.3.1979. Tôi tiếp tục giữ những điều khoản được ghi trong đó. Điều đã được thêm vào qua những lần cấm phòng kế tiếp, phản ảnh tình thế chung khó khăn và căng thẳng đã in hằn trong thập niên 1980. Tình huống này đã

21

Page 22: Ephata 607

thay đổi kể từ mùa thu năm 1989. Thập niên cuối cùng của thế kỷ đã qua, đã không có những căng thẳng của những thập niên trước; điều này không có nghĩa là thập niên cuối đã không có những vấn đề mới, những khó khăn. Xin ca tụng Chúa Quan Phòng một cách đặc biệt cho sự kiện là giai đoạn của “chiến tranh lạnh” đã được chấm dứt, không có tranh chấp, bạo lực hạt nhân mà sự đe dọa của nó lơ lửng trên thế giới trong suốt giai đoạn trước.

4. Đứng thẳng trước ngưỡng cửa của đệ tam thiên niên kỷ, giữa lòng Giáo Hội ( in medio Ecclesiae ), tôi ước mong lần nữa diễn tả sự biết ơn của tôi với Chúa Thánh Thần đã ban đặc ân cho Công Đồng Vatican II, mà đối với Công Đồng và toàn thể Giáo Hội, nhất là với cộng đoàn giám mục hoàn cầu, tôi mang một món nợ.

Tôi tin rằng các thế hệ tương lai còn có thể múc được sự phong phú trong thời gian lâu dài mà Công Đồng này của thế kỷ thứ XX đã ban cho chúng ta. Với cương vị của một Giám Mục đã tham dự vào Công Đồng này từ ngày đầu tiên đến ngày cuối cùng, tôi ước mong trao phó di sản vĩ đại này lại cho tất cả những vị đang và sẽ được gọi để thực hiện những quyết định của Công Đồng. Về phần tôi, tôi

cảm tạ Vị Chủ Chăn đời đời đã cho phép tôi phục vụ sự nghiệp lớn lao này trong suốt những năm tháng trên ngôi vị Giáo Hoàng của tôi.

“Giữa lòng Giáo Hội”... kể từ ngay những năm đầu của sứ vụ Giám Mục, chính xác hơn là nhờ vào Công Đồng, tôi đã thu thập được kinh nghiệm của sự thông hiệp huynh đệ của hàng Giám Mục. Là Linh Mục của Tổng Giáo Phận Cracovie, tôi đã thực nghiệm sự thông hiệp huynh đệ trong linh mục đoàn, Công Đồng đã đem lại một kích thước mới cho kinh nghiệm này.

5. Có biết bao người mà tôi phải viết ra đây ! Có lẽ Chúa đã gọi về với Ngài một số lớn trong nhóm. Về phần những người còn tại thế, ước gì những lời của bản di chúc này nhắc nhớ đến họ, tất cả và mọi nơi, dù họ ở bất cứ nơi nào.

Từ lúc tôi chu toàn bổn phận Giáo Hoàng, nghĩa là hơn 20 năm, “trong lòng Giáo Hội”, tôi đã thực hiện sự cộng tác khoan dung và cũng rất là phong phú của rất nhiều Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, rất nhiều Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ, và rất nhiều Giáo Dân, trong lòng Giáo Triều Rôma, tại Giáo Phận Rôma cũng như ngoài những nơi này.

Không thể không ôm vào lòng tất cả các hàng Giáo Phẩm trên thế giới, với sự biết ơn đáng nhớ, mà tôi đã gặp trong những lần thăm viếng mộ các Tông Đồ ( Ad limina apostolorum ).

Cũng không thể không nhớ biết bao anh em đông đúc Kitô hữu và không Công Giáo ! Vị Giáo Trưởng Do Thái Giáo thành Rôma và rất nhiều những vị đại diện các tôn giáo ngoài Kitô Giáo ! Và biết bao vị đại diện thế giới thuộc lĩnh vực văn hoá, khoa học, chính trị và các phương tiện truyền thông xã hội.

6. Dần dần mức giới hạn đời sống trần gian của tôi tăng trưởng, với ý tưởng tôi trở về thuở ban đầu, về cha mẹ tôi, về anh chị tôi ( người mà tôi đã không được biết vì đã chết trước khi tôi sinh ra ), về Giáo Xứ Wadowice, nơi tôi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, đến “thành phố này mà tôi đã từng rất yêu mến”, đến các đồng hương của tôi, các bạn bè của tôi, bạn trai và gái, trường tiểu học, trường trung học, đại học, đến giai đoạn quê hương bị chiếm giữ, lúc tôi làm việc như một thợ thuyền, và sau đó đến Giáo Xứ Niegowic, Giáo Xứ S. Floriano ở Cracovie, mục vụ các đại học, tại các nơi... tất cả mọi nơi... ở Cracovie và Rôma... đến những người đã được Thiên Chúa trao phó cho tôi một cách đặc biệt.

Cuối cùng, tôi chỉ muốn nói một điều duy nhất: “Chớ gì Thiên Chúa ban thưởng cho quý vị”. “In manus Tuas, Domine, commendo spiritum meum” ( Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn con ).

17.3.2000

( Trích dịch “Di chúc của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II”, người qua đời ngày 2.4.2005, áp lễ kính Lòng Chúa Thương Xót, theo bản tiếng Anh của Lm. Lorenso thuộc Bộ Giáo Lý Đức Tin, Rôma ).

TRẦM THIÊN THU

22

CÙNG NHẬN ĐỊNH

Page 23: Ephata 607

NĂM GIA ĐÌNH, ĐỌC TÔNG HUẤN GIA ĐÌNH CỦA VỊ "GIÁO HOÀNG CỦA GIA ĐÌNH"

Năm 2014 là Năm Gia Đình. 2014 cũng là năm Hội Thánh tuyên Thánh cho tác giả của Tông Huấn Gia Đình, Đức Gioan Phaolô II. Để tưởng nhớ vị Giáo Hoàng được mệnh danh là “Giáo Hoàng của Gia Đình”, xin hãy cùng chúng tôi đọc một số đoạn trong Tông Huấn Gia Đình, có đối chiếu với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay.

1. Gia đình đang bị bóng tối ụp xuống

Tông Huấn nói đến các bậc cha mẹ, các đôi vợ chồng và con cái trong nhà. Ba thành phần này của gia đình đều có “hoàn cảnh, vấn đề, âu lo và hy vọng”.

“Các phương tiện truyền thông xã hội đầy quyền lực [ … ] rất tinh vi có thể làm cho con người mất tự do và mất khả năng phán đoán khách quan” ( Xin bạn nhớ lại xem: tivi, radio, web, blog, facebook... có ảnh hưởng ít nhiều lên bạn và con cái bạn ) ? Tông Huấn Gia Đình nói thẳng đến ảnh hưởng tiêu cực của truyền thông: Đề nghị của truyền thông có dáng điệu hấp dẫn nhưng “không nhiều thì ít, sẽ nguy hại cho chân lý và phẩm giá con người” ( THGĐ, 4 ).

Số 6 của Tông Huấn Gia Đình sao lại “bi quan” thế nhỉ ? “Con người đang chống lại tình thương của Thiên Chúa” ( Bạn có thấy dấu hiệu “chống lại Chúa” từ ba thành phần gia đình ) không ? Tông Huấn dùng cả tới từ ngữ “thoái hóa đáng lo ngại”.

Giữa vợ chồng, đã có quan niệm sai lầm về tính độc lập ( bạn có thấy có chuyện vợ đi đằng vợ, chồng đi đằng chồng, mạnh ai nấy giữ tiền riêng, lôi thôi là sẵn sàng ly thân ly dị hay chưa ? )

Con cái không còn coi trọng uy quyền của bố mẹ nữa ( bạn có thấy bố mẹ sợ con tự tử, sợ con bỏ nhà ra đi, bố mẹ không dám mắng mỏ con như trước nữa không ? )

Gia đình đang mất những giá trị truyền thống của mình. Gia đình không chuyển tải cho con cái những giá trị của tổ tiên, dân tộc ( bạn có thấy khó mà bảo con cái mặc áo dài đi lễ, khó mà bắt chúng đi tết, đi thăm họ hàng làng mạc hay không ? ).

Gia tăng con số ly dị, phá thai, triệt sản ( bạn có biết rằng ngay cả gia đình Công Giáo bây giờ cũng không tránh nổi ba con siêu vi trùng này ). Nếu không có phá thai thì làm gì mà có xuất hiện ngày càng tăng các nhóm Bảo Vệ Sự Sống ở cả ba miền đất nước !

Trong trí óc con người ngày nay, hình thành não trạng sợ mang thai ( Tông Huấn Gia Đình đề cập đến sự “hình thành não trạng chống thụ thai” ).

Bóng tối ụp xuống gia đình là do có “suy đồi trong quan niệm và trong kinh nghiệm về tự do” ( bạn thấy vợ chồng bây giờ dễ ly thân ly dị khi họ cảm thấy họ bị mất tự do, người kia làm mình bị bó buộc, bị mất thoải mái cá nhân. Họ hiểu tự do là tự lập, tự xác định mình. Trong khi đó, Giáo Hội lại dạy tự do là khả năng thực hiện sự thật Thiên Chúa vạch ra cho hôn nhân và gia đình ).

Số 6 của Tông Huấn Gia Đình nói rất đúng về “bóng tối” Việt Nam: “Các gia đình thiếu thốn từ những phương tiện căn bản để sống còn, như thực phẩm, việc làm, nhà cửa, thuốc men, cho đến cả những tự do sơ đẳng nhất”.

Xin bạn tự bắt mạch căn bệnh gia đình Việt Nam và đối chiếu với chẩn đoán bệnh gia đình của các nước thuộc thế giới thứ ba mà Tông Huấn Gia Đình đề cập. Theo bạn, Việt Nam chúng ta thuộc thế giới nào ? Gia đình Việt Nam có lo lắng gì về thực phẩm, việc làm, nhà cửa, thuốc men, tự do ?

Số 6 hé mở cái nhìn sang gia đình các nước giàu có, “bề ngoài cười nụ nhưng bề trong khóc thầm”: “Trớ trêu thay, sự thoải mái và óc hưởng thụ ấy lại gắn liền với một thứ âu lo nào đó, cảm thấy bấp bênh trước tương lai, nên các đôi bạn mất sự quảng đại và can đảm để làm phát sinh thêm những sự sống mới: Người ta không còn coi sự sống như là một lời chúc phúc, nhưng lại coi như một sự nguy hiểm phải tránh né”.

Bạn thừa biết, bên Nhật bên Tây nay ít trẻ em lắm. Các nhà thuốc Tây bên Việt Nam nay cũng bán thoải mái các loại thuốc ngừa thai và bao cao su !?!

Số 6 tóm kết hiện tình các gia đình bằng cụm từ “cuộc chiến giữa những mối tự do đối nghịch nhau, nghĩa là, nói theo Thánh Augustinô, một cuộc xung đột giữa hai tình yêu: một bên là lòng yêu mến Thiên Chúa đến độ coi rẻ chính mình và một bên là lòng yêu mình đến độ coi rẻ

23

Page 24: Ephata 607

Thiên Chúa”: Hai quan niệm về tự do đang đối nghịch và xung đột nhau. ( bạn có bị giằng xé về tự do ? Tự do là muốn làm gì thì làm, hay là tự do tìm và thực hiện ý Chúa ? )

Số 7 của Tông Huấn Gia Đình nói là có lúc người Công Giáo đã bị truyền thông đánh bại, đã bị “lây nhiễm tình trạng các giá trị căn bản bị lu mờ”. Có vị Tu Sĩ báo động: Các bà mẹ Công Giáo hiện nay cũng triệt sản, cũng phá thai như ai ! Nếu vậy, thật đáng lo !

Số 7 nói đúng “y chang” Việt Nam ta: Ta vô cảm, ta im lặng, ta tránh nói dù truyền thông Nhà Nước nói ngược ý Chúa về gia đình: “Không phải lúc nào họ cũng biết đứng ra đóng vai ý thức phê phán đối với thứ văn hóa về gia đình”.

2. Phác thảo phương thế trị bóng tối gia đình

Số 7 cho ta tổng kết về bóng tối ụp xuống gia đình: “Có sự phủ nhận những nguyên tắc luân lý hướng dẫn và thực hành tính dục trong hôn nhân cách nhân bản và Kitô”.

Bạn có biết là Giáo hội đang thiết tha mời gọi chúng ta đi học Giáo Lý cho người trưởng thành để chúng ta sẽ không phủ nhận nguyên tắc luân lý Kitô Giáo ?

Số 9 của Tông Huấn Gia Đình tái khẳng định nguyên nhân của bóng tối gia đình, đó là tội lỗi. Nó “ăn sâu vào trong các cơ cấu thế giới, thường ngăn cản gia đình”.

Không chỉ nêu ra các thứ bệnh gia đình, Tông Huấn Gia Đình còn đề nghị 4 phương dược chữa trị:

- GIÁO DỤC LƯƠNG TÂM ( 8 )- HOÁN CẢI ( 9 )- TỪ BỎ ÍCH KỶ ( 9 )- TRỞ LẠI KẾ HOẠCH NGUYÊN THỦY CỦA THIÊN CHÚA VỀ GIA ĐÌNH ( 10 )

Đọc Tông Huấn Gia Đình, lòng ta bồi hồi, nhớ mãi không quên bóng hình Đức Gioan Phaolô II, luôn ghé mắt trông theo các bậc cha mẹ, các đôi vợ chồng, các đàn con lớn nhỏ. 

Thánh Gioan Phaolô II lúc sinh tiền muốn hậu thế sẽ nhớ đến mình như một “vị Giáo Hoàng của Gia Đình”, xin ngài hãy cứu lấy các gia đình chúng con. 

Xin bạn lắng nghe lời ngài và tìm đến các lớp Giáo Lý. Nơi ấy, bạn sẽ gặp những Tu Sĩ, Linh Mục rất thiết tha với gia đình. Bạn sẽ gặp những Giáo Dân “lo âu” cho gia đình trước bóng tối đang ụp xuống.

Chúng ta sẽ cùng nhau “lên đường, dựng lại người, dựng lại nhà, xây lại Việt Nam”. Hãy “đóng vai những người tích cực xây dựng một nền nhân bản đích thực về gia đình” ( THGĐ, 7 ), bạn nhé.

Bs. NGUYỄN ĐĂNG PHẤN

NHỮNG ĐỨA TRẺ ĐƯỢC NUÔI DẠY BẰNG LỜI NÓI DỐITôi hỏi 10 người quen cùng một câu hỏi: Anh chị có đưa con đến nhà thầy cô của cháu dịp

20/11, hay ngày lễ khác nhau không ? Có hai phụ huynh trả lời rằng không đến nhà thầy cô bao giờ. Một người trả lời rằng anh chị để cháu ở nhà và tự đi.

Còn bảy người nói rằng họ đưa con đi cùng. Cử chỉ này thoạt nhìn rất thông thường. Đưa con đi cùng để “cô có dặn dò gì thì bảo cháu”, hay cẩn thận hơn là để cô nhớ mặt cháu. Nhưng thực ra, ai cũng hiểu là các cuộc “đến nhà thầy cô giáo” ngày 20 tháng 11 có tính chất như thế nào. Không hẳn là hối lộ, chạy chọt gì, nhưng cũng có tý quà, cái phong bì mỏng mỏng, là một dạng thức sơ đẳng của cơ chế xin cho. Và trẻ con ngồi chứng kiến tất cả những chuyện ấy. Có thể chứng kiến cả đoạn bố mẹ ngồi nhẩm tính, cho tiền vào phong bì, đi chọn cân hoa quả hay hộp bánh.

Cái hạt giống “móc ngoặc tỷ số” đã luôn được cấy vào đầu thế hệ trẻ từ rất sớm.

Khi người ta đang xôn xao vì những cầu thủ The Vissai Ninh Bình bán độ, thì cần nhớ lại rằng những chàng trai trẻ ấy đã trưởng thành trong một môi trường như thế nào. Bao nhiêu năm giải bóng đá

24

CÙNG TRĂN TRỞ

Page 25: Ephata 607

Nhi đồng tổ chức là bấy nhiêu năm canh cánh nạn gian lận tuổi. Hơn 10 năm trước, đã có lúc ông Vũ Quang Vinh, Trưởng ban tổ chức giải Nhi đồng toàn quốc phải thốt lên rằng báo Nhi đồng muốn bỏ, không tổ chức giải đấu này nữa.

Cái câu hỏi: “Cháu mấy tuổi rồi ?” là câu hỏi quen thuộc đến mức thiêng liêng, xứng đáng đại diện cho cả một thời thơ ấu vậy mà trẻ con mới đá bóng cũng đã bị bắt trả lời sai.

Rồi đến khi lớn hơn một chút, thì học được một kiểu đá bóng rất đáng sợ, một lối chơi với những pha vào bóng có thể khiến đối phương “mất nghiệp”.

Mới hôm trước, tôi tìm xem cầu thủ Oduwa của đội U19 Tottenham bây giờ đang thi đấu ra sao. Oduwa bị phạm lỗi và dính chấn thương nặng khi sang Việt Nam “giao hữu”. Cũng may mà tìm được và biết Oduwa vẫn khỏe mạnh và vẫn đang tỏa sáng ở giải trẻ nước Anh, chứ nếu vì sang nước ta đá “giao hữu” mà một ngôi sao của bóng đá thế giới có thể vĩnh viễn không ra đời, thì quả thực là áy náy.

Tinh thần của một cuộc bon chen hình như đã được đặt cao hơn tinh thần thể thao và những nguyên tắc đạo đức cơ bản từ lúc họ bắt đầu khởi nghiệp.

Rồi đến khi tham gia vào thi đấu chuyên nghiệp, những chàng trai lại đối mặt với một sự bất hợp lý khác. Đó là việc các ông bầu bóng đá chơi một cuộc chơi ngẫu hứng, có thể giải tán đội bóng và bỏ giải, khiến cầu thủ thất nghiệp bất cứ khi nào.

Nếu như ngày mai, cầu thủ không biết có rời sân với cái chân lành lặn hay đã bị đạp què, có đi về với tư cách một người còn thu nhập hay đội đã bị giải thể, thì có thể lý giải vì sao họ liều.

Không một nhà báo, cảnh sát hay cầu thủ nào hiểu về thế giới cá độ bằng chính các nhà cái. Mà các nhà cái thì đã “đọc vị” được bóng đá nước ta từ lâu rồi. Suốt nhiều năm, các nhà cái nước ngoài không làm độ cho bóng đá Việt Nam. Một vài năm trở lại đây, độ của V-League quay trở lại trên các trang nước ngoài, nhưng các “tổng” trong nước cũng rất ít người cho phép khách đặt cửa và thanh toán tiền cho các trận đấu bóng đá Việt Nam.

Ai chẳng biết rằng nếu để cho V-League tham gia vào thị trường cá độ thì chuyện sẽ như thế nào. Và cái sự “biết tỏng” ấy tất nhiên không xuất phát từ cá nhân cầu thủ, mà là kết quả của hệ thống.

Bóng đá phản ánh xã hội. Nếu thu hẹp tầm nhìn lại, nhìn cách những đứa trẻ bắt đầu chơi bóng và phát triển trong môi trường bóng đá, thì cũng tưởng tượng được hành trình phát triển của những đứa trẻ khác trong xã hội, bắt đầu từ những cuộc bố mẹ dắt tay đến nhà thầy cô. Những đứa trẻ được nuôi dạy bằng những lời nói dối thì chúng cũng sẽ phải tìm cách bon chen để tồn tại.

Ở đội U17 Đà Nẵng năm ngoái có một cầu thủ người dân tộc thiểu số tên là Bá Đăng Ti Vốt. Cái tên rất lạ. Em được ba đặt tên theo huyền thoại Berti Vogts, đánh dấu sự kiện huấn luyện viên này đưa tuyển Đức đến chức vô địch châu Âu năm 1996. Khi biết sự tích ấy, tôi thú vị một phần, nhưng trong lòng bỗng thấy nhẹ nhõm, như một tiếng thở phào. Vì cái tên ấy nói rằng nhiều phần là em sinh năm 1996, tức là U17 thật.

Chẳng biết chúng ta nên đặt tên con cái thế nào, để thể hiện ước mong rằng chúng sẽ sống thật thà ?

MINH ANH

LÀ MỘT NGƯỜI VIỆT, KHÓ LẮM ! THẬT VẬY SAO ?Cách đây không lâu, một lá thư được phổ biến từ Việt Nam và nói rằng tác giả là một “du học

sinh người Nhật” đưa ra những nhận xét ngay thẳng về đất nước và con người Việt Nam ngày nay. Lá thư không dài, với nội dung như sau:

Tôi đang là một du học sinh Nhật, có hơn 4 năm sinh sống tại Việt Nam. Với ngần ấy thời gian, tôi đã kịp hiểu một đạo lý giản đơn của người Việt: “Sự thật mất lòng”. Song không vì thế mà tôi sẽ ngoảnh ngơ trước những điều chưa hay, chưa đẹp ở đây. Hy vọng những gì mình viết ra, không gì ngoài sự thật, như một ly cà phê ngon tặng cho mảnh đất này, tuy đắng nhưng sẽ giúp người ta thoát khỏi cơn ngủ gục – ngủ gật trước những giá trị ảo và vô tình để những giá trị thật bị mai một.

25

Page 26: Ephata 607

Tôi có một nước Nhật để tự hào

Tôi tự hào vì nơi tôi lớn lên, không có rừng vàng biển bạc. Song, “trong đêm tối nhất, người ta mới thấy được, đâu là ngôi sao sáng nhất". Thế đấy, với một xứ sở thua thiệt về mọi mặt, nghèo tài nguyên, hàng năm gánh chịu sự đe dọa của hàng trăm trận động đất lớn nhỏ lại oằn mình gánh chịu vết thương chiến tranh nặng nề, vươn lên là cách duy nhất để nhân dân Nhật tồn tại và cho cả thế giới biết “có một nước Nhật như thế”.

Tôi tự hào vì đất nước tôi không có bề dày văn hiến lâu đời nên chúng tôi sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận tinh hoa mà các dân tộc khác “chia sẻ”. Từ trong trứng nước, mỗi đứa trẻ đã được học cách cúi chào trước người khác. Cái cúi chào ấy là đại diện cho hệ tư tưởng của cả một dân tộc biết trọng thị, khiêm nhường nhưng tự trọng cao ngời.

Tôi tự hào vì đất nước tôi được thử thách nhiều hơn bất kỳ ai. Khi thảm họa động đất sóng thần kép diễn ra, cả thế giới gần như “chấn động”. Chấn động vì giữa hoang tàn, đổ nát, đói khổ và biệt lập, người ta chỉ nhìn thấy từng dòng người kiên nhẫn xếp hàng nhận cứu trợ và cúi đầu từ tốn cảm ơn. Không có cảnh hôi của, lên giá, cướp bóc, bạo lực nào diễn ra giữa sự cùng khổ.

Chỉ chưa đầy một năm sau khi hàng loạt thành phố bị xóa sổ hoàn toàn, sự sống lại bắt đầu hồi sinh như chưa từng có biến cố nào đã xảy ra. Thế đấy, không có những thành tích to lớn để nói về nước Nhật nhưng thương hiệu “made in Japan”, là thương hiệu

uy tín vượt trên mọi khuôn khổ, tiêu chuẩn khắt khe, được toàn cầu tôn trọng nhất mà tôi từng biết.

Bạn cũng có một nước Việt để tự hào

Nói Việt Nam là một “nhà giàu”, quả là không ngoa. Giàu tài nguyên, giàu truyền thống, giàu văn hóa… Nhưng con cháu của nhà giàu, sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải của nhà giàu. Và không phải ai cũng biết cách sống có trách nhiệm trong sự giàu có ấy.

Thật đáng tự hào nếu bạn được lớn lên ở một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc. Đáng xấu hổ nếu xem đó là khoản thừa kế kếch xù, không bao giờ cạn. Thật tiếc đó lại là những gì tôi thấy. Tại các thành phố, chỉ cần nhà mình sạch sẽ là được, ngoài phạm vi ngôi nhà, bẩn đến đâu, không ai quan tâm. Ở các nhà máy, nếu không biết dồn rác thải ở đâu, họ sẽ cho chúng ra ngoài đường, sông suối, biển cả vì đó là “tài sản quốc gia” – đã có quốc gia lo, không phải việc của mỗi người dân.

Tại một đất nước mà 80% dân số sống bằng nghề nông, đất đai, nước ngầm hầu như đã bị nhiễm độc, đến nỗi, người ta nói vui trong năm nữa thôi sẽ là thời đại của ung thư vì ăn gì cũng độc, không ít thì nhiều, không thể khác. Vì sao nên nỗi ?

Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4.000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4.000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày.

Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy Bird đã không phải chết yểu đau đớn; người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách balô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; người Việt vẫn còn luyến tiếc văn hóa làng xã, giai cấp nếu không phải thế thì họ đã không đứng thẳng người chửi đổng và cúi rạp mình trước quyền lực bất công mà chẳng dám lên tiếng; người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mung, lọc lừa.

Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sĩ, phi công, thuyền trưởng… mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi… Vì đâu nên nỗi ?

26

Page 27: Ephata 607

Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy, chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi ?

Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt – khó lắm ! Thật vậy sao ?"

Một du học sinh người Nhật ( ? )

CHƯƠNG TRÌNH NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ

TRỢ GIÚP HAI CHỊ EM CHÁU HẢI UYÊN – THUÝ HẰNG Ở BÌNH DƯƠNG, CÙNG BỊ UNG THƯ MÁU

Lm. Tôma Trương Hoàng Phúc, Giáo Xứ Lai Uyên, Giáo Hạt Bến Cát, Giáo Phận Phú Cường, giới thiệu hai cháu bé, chị là Catarina Huỳnh Nguyễn Hải Uyên, 12 tuổi và em là Anna Huỳnh Thị Thuý Hằng, 5 tuổi, con anh Đa Minh Huỳnh Hiền,

và chị Maria Nguyễn Thị Thuỳ Dương, điện thoại số 01692.854.040, hiện ngụ tại tổ 7, ấp Cây Sắn, xã Lai Uyên, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Hai chị em cháu bé đều bị ung thư máu, mỗi tháng phải về Sàigòn, truyền máu tại Bệnh Viện Truyền Máu Huyết Học, chi phí mỗi lần đã trừ Bảo Hiểm Y Tế là 2,5 đến 3 triệu đồng. Chúng tôi xin trợ giúp gia đình hai cháu bé số tiền 1.000.000 VND trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 5 biên lai ).

TRỢ GIÚP CHI PHÍ MAI TÁNG ÔNG ĐẶNG THANH HIẾU Ở SÀIGÒN

Lm. Giuse Lê Quang Uy, Trung Tâm Mục Vụ DCCT, giới thiệu ông Phêrô ĐẶNG THANH HIẾU, sinh 1953, ngụ tại 23/41H Nguyễn Thông, P. 9, Q. 3, Sài gòn. Ông Hiếu trước kia làm bốc vác ở ga Sàigòn, vợ ông làm nghề quét rác. Ông bị bệnh lao phổi, xơ gan, xuất huyết bao tử. Ngày 5.4.2014, ông nhập viện cấp cứu vì ho ra máu, đến ngày 8.5.2014, bác sĩ trả về và ông đã từ trần lúc 17g30 cùng ngày. Chúng tôi xin trợ giúp 5.000.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 1 biên lai ).

TRỢ GIÚP BÀ HOÀNG THỊ HỮU Ở SÀIGÒN, BỊ TAI BIẾN

Ông Vinh Sơn Maria NGUYỄN VĂN KHIÊN, cộng tác viên Trung Tâm Mục Vụ DCCT, giới thiệu bà HOÀNG THỊ HỮU, sinh 1965, ngụ tại hẻm 75 Trần Văn Đang, P. 9, Q. 3, Sàigòn, điện thoại: 01282.212.509. Bà Hữu ở nhà mướn, chồng đã bỏ đi, bà sống với con gái ở Sàigòn, còn một người con khác ở ngoài Hà Nội. Bà Hữu bị tai biến, não có mủ và nước, phải nhập viện và mổ. Chúng tôi xin trợ giúp 3.000.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 6 biên lai ).

TRỢ GIIÚP ANH LÊ HOÀNG Ở BÌNH PHƯỚC, BỊ BƯỚU HẬU MÔN

Ông Nguyễn Ngọc Thương, cộng tác viên Trung Tâm Mục Vụ DCCT, giới thiệu anh LÊ HOÀNG, sinh năm 1976, ngụ tại ấp 9, xã Tân Hiệp, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước, điện thoại: 01267.049.589. Anh Hoàng làm nghề lấy mật ong trên rừng, vợ thì khù khờ làm nghề bắt ốc hái rau, thi thoảng đào mì đem ra chợ bán, hai anh chị chưa có con. Anh Hoàng bị bướu hậu môn, nguyên cả tầng sinh môn lở loét, anh nhập viện và mổ tại Bệnh Viện Bình Dân, Sàigòn. Bà con lối xóm đã gom góp giúp anh có tiền đóng tạm ứng chi phí mổ. Chúng tôi xin trợ giúp 3.500.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 3 biên lai ).

TRỢ GIÚP ANH PHẠM NHÂN HIẾN Ở LONG AN, MỔ RUỘT THỪA

Cô Isave Nguyễn Thị Nỡ, cộng tác viên TTMV DCCT, giới thiệu anh Tôma PHẠM NHÂN HIẾN, sinh năm 1981, ngụ tại 229 khu vực 5, thị trấn Hiệp Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, điện thoại: 0984.559.407. Anh Hiến lập gia đình, có 2 con nhỏ, vợ anh ở nhà trông con, làm nội trợ, anh Hiến là tài xế xe tải, chở rau quả thuê, lương mỗi tháng 3 triệu đồng. Ngày

27

CÙNG TƯƠNG TRỢ

Page 28: Ephata 607

10.3.2014 anh được vào cấp cứu mổ ruột thừa, do bị áp xe lại thêm bệnh lao phổi nên phải mổ đi mổ lại nhiều lần tại Bệnh Viện Bình Dân, Sàigòn. Gia đình phải vay mượn 10 triệu đồng để lo viện phí cho anh. Hiện tại sức khỏe của anh vẫn chưa hồi phục, về nhà dưỡng sức để sẽ mổ thêm lần nữa. Chúng tôi xin trợ giúp 5.000.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 2 biên lai ).

TRỢ GIÚP BÀ LƯƠNG THỊ HÒA Ở BÀ RỊA, MẮT BỊ CƯỜM KHÔ

Cô Isave Nguyễn Thị Nỡ, cộng tác viên Trung Tâm Mục Vụ DCCT, giới thiệu bà LƯƠNG THỊ HÒA, sinh 1937, ngụ tại ấp Đồng Tâm, xã Cù Bị, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, điện thoại: 0932.000.329. Bà Hòa có 3 người con đã có gia đình và ở xa, cũng có phụ lo cho ông bà nhưng tháng có tháng không vì cuộc sống cũng khó khăn. Hai ông bà đi lượm ve chai và chăm sóc lẫn nhau. Mắt bà Hòa bị cườm khô, đã bị mù 1 con mắt vì không có tiền để chữa trị, nay tiếp tục mờ con mắt còn lại. Chúng tôi xin trợ giúp 5.000.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 4 biên lai ).

459. HOÀN TẤT QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP PHẪU THUẬT CẮT BỎ CHÂN TRÁI BỊ HOẠI TỬ

CHO CHỊ NGUYỄN ÁNH TUYẾT Ở TÂY NINHCô Anna Nguyễn Thị Thành, cộng tác viên Trung Tâm Mục Vụ DCCT, điện thoại:

0903.175.762, giới thiệu chị Maria NGUYỄN ÁNH TUYẾT, sinh năm 1979, điện thoại: 01692.683.347. Chị Ánh Tuyết quê gốc ở Tây Ninh, mồ côi cha mẹ khi mới 3 tuổi, ở với bà ngoại cho tới khi bà mất thì lưu lạc mưu sinh lên tới tỉnh Đồng Nai. Năm 2010, chị tìm đến xã Tân Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, để xin việc làm, không may bị mất cắp tất cả hành trang và giấy tờ tuỳ thân, chỉ biết một mình tha phương đi làm thuê, phụ việc lặt vặt, không thể về quê được nữa.

Đầu năm 2014, chị Ánh Tuyết phát bệnh tiều đường, bị hoại tử chi dưới. Ngày 29.1.2014 được đưa vào Bệnh Viện Đa Khoa Đà Lạt chữa trị nhưng không ổn, phải chuyển về Bệnh Viện Chợ Rẫy, Sàigòn, để các bác sĩ đã cắt bỏ 2 ngón chân giữa. Khi phát hiện bị thêm chứng lao phổi, chị được đưa sang Bệnh Viện Phạm Ngọc Thạch để trị lao, nằm tại khu Bằng, lầu 1, phòng 11, giường 28, sau đó chị sẽ phải quay trở lại Bệnh Viện Chợ Rẫy để cắt bỏ trọn chi dưới bên trái với chi phí 30 triệu đồng. Chị tứ cố vô thân, sức cùng lực kiệt, hoàn toàn sống nhờ hảo tâm của những người nuôi bệnh nhân cùng phòng, khoản tiền các ân nhân Hội Vinh Sơn ở Đà Lạt gom góp chia sẻ cũng đã cạn hết từ lâu.

Ngày 13.4.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp phẫu thuật cắt bỏ chân trái cho chị Nguyễn Ánh Tuyết với số tiền là 30.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Lê Quang Uy, TTMV DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Hội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VNDChuyển từ Quỹ giúp cha con anh Thân Văn Ba: 400.000 VNDBà Nguyễn Thị Thảo ( Sàigòn ): 500.000 VNDMột ân nhân ở quận Phú Nhuận ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDCô Hoàng Mai ( Sàigòn ): 2.000.000 VNDBốn người dự Lễ Xa Quê DCCT ( Sàigòn ): 1.400.000 VNDTrích chia sẻ của anh chị T. Anh – K. Oanh ( Sàigòn ): 10.000.000 VNDAnh chị Tuấn Trinh, Gia Đình Halleluya ( Sàigòn ): 900.000 VNDHai người ẩn danh ( Tiền Giang ): 1.000.000 VNDMột bạn trẻ ở Gx. Vườn Xoài ( Sàigòn ): 200.000 VNDHai người ẩn danh ( Phú Quốc ): 200.000 VNDHai cô Maria Magđala và Isave ( Sàigòn ): 5.000.000 VNDCô Vân Anh ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDCô Liêu Nguyễn Thuý Thu Thảo ( Sàigòn ): 500.000 VNDÔng Nguyễn Thanh Thiery ( Hoa Kỳ ): 50 USDMột người ẩn danh ( Sàigòn ): 200.000 VNDCô Trinh ở quận Bình Thạnh ( Sàigòn ): 2.000.000 VND

28

Page 29: Ephata 607

Tổng kết đến 6g30 sáng thứ năm 17.4.2014: 30.300.000 VND + 50 USD = 31.350.000 VND

Như vậy sau 5 ngày quyên góp, chúng ta đã có được 30 triệu đồng giúp chị Nguyễn Ánh Tuyết. Số tiền 1.350.000 VND dôi ra xin chuyển sang cho trường hợp ngặt nghèo kế tiếp là anh Nguyễn Đình Văn ở Đăk Nông, bị tai nạn chấn thương sọ não. Xin tạ ơn Chúa, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần xa. 

460. HOÀN TẤT QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO

CHO ANH NGUYỄN ĐÌNH VĂN Ở ĐĂK NÔNG Chị Têrêsa Lê Thị Ngọc Miên, cộng đoàn Điểm Tim Sàigòn, giới thiệu anh NGUYỄN ĐÌNH

VĂN, sinh 1985, ngụ tại thôn Đức Hoà, xã Đức Mạnh, huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông, điện thoại: 0974.988.257. Anh Văn đã lập gia đình và có hai con nhỏ. Gia đình trồng cà phê.

Anh Văn lái xe tải đang ở đầu con dốc, xe mất thắng, anh lại cố gắng tránh một người băng qua đường nên lao cả xe xuống vực. Anh hoàn toàn hôn mê, được đưa vào cấp cứu tại Bệnh Viện tỉnh Đak Nông. Anh đã được mổ để lấy máu bầm do chấn thương sọ não. Hiện anh đã tỉnh và bắt đầu hồi phục dần, nhưng vẫn phải theo dõi thêm một thời gian nữa. Chi phí gia đình phải đóng cho bệnh viện đã hơn 47 triệu đồng mà gia đình chỉ lo được 8 triệu đồng, số còn lại phải đi vay mượn khắp nơi.

Ngày 17.4.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp điều trị chấn thương sọ não cho anh NGUYỄN ĐÌNH VĂN với số tiền là 35.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Giuse Lê Quang Uy, TTMV DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Hội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VNDChuyển từ Quỹ giúp chị Ánh Tuyết: 1.350.000 VNDÔng bà Vũ Bá Hải ( Canada ): 5.000.000 VNDGia đình Nho - Na ( Sàigòn ): 1.500.000 VNDAnh Công, Gx. Mẫu Tâm ( Sàigòn ): 500.000 VNDAnh Vũ Đức Huy ( Sàigòn ): 500.000 VNDÔng bà Thành Bích ( Nam Úc ): 300 AUDChị Lê Thị Xuân Đào ( Sàigòn ): 2.000.000 VNDCô Phụng, Gx. Vĩnh Hội, Q. 4 ( Sàigòn ): 500.000 VNDBốn người dự Lễ Xa Quê ( các tỉnh ): 6.700.000 VNDDì Maria Hoà, Hiện Diện và Sống ( Sàigòn ): 300.000 VNDÔng Thinh Phuc Nguyen ( Hoa Kỳ ): 100 USD Một cô ẩn danh ( Sàigòn ): 2.000.000 VNDMột nhạc sĩ ở Paris ( Pháp ): 200 EUR

Tổng kết đến 9g30 sáng thứ ba 22.4.2014: 24.350.000 VND + 300 AUD + 100 USD + 200 EUR = 36.250.000 VND

Như vậy sau 6 ngày quyên góp, chúng ta đã có được 35 triệu đồng giúp anh Nguyễn Đình Văn. Số tiền 1.250.000 VND dôi ra xin chuyển sang cho em Hồ Thị Bích Đào ở Khánh Hoà bị bệnh ngặt nghèo. Xin tạ ơn Chúa, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần xa. 

461. ĐANG QUYÊN GÓP QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ĐIỀU TRỊ BỆNH TRỰC TRÀNG CHO

EM HỒ THỊ BÍCH ĐÀO Ở KHÁNH HÒAÔng Hồ Sĩ Thương, trưởng Nhóm Samaritano ở Khánh Hòa, điện thoại: 0984.219.419, giới thiệu

em HỒ THỊ BÍCH ĐÀO, sinh năm 1998, con ông Hồ Thế Tưởng và bà Nguyễn Thị Nga, hiện ngụ tại tổ 2, Vạn Giã, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, điện thoại: 01693.861.439, hoàn cảnh gia đình hết sức khó khăn.

Em Bích Đào là con thứ ba trong gia đình. Mẹ em cũng bị căn bệnh tương tự, đã mổ nhiều lần và cũng đã được Trung Tâm Mục Vụ DCCT quyên góp trợ giúp chi phí mổ là 40 triệu đồng. Ba em không có công việc ổn định, phải đi làm thuê. Bản thân em đã nghỉ học để đi làm phụ ba mẹ.

Em Bích Đào bị đa polyp trực tràng, bệnh ngày càng trở nặng, những cơn đau không dứt, máu tươi ra ngày càng nhiều khi đại tiểu tiện, sức khỏe ngày càng yếu. Bác sĩ khuyên gia đình cố

29

Page 30: Ephata 607

gắng cho em mổ sớm, để lâu sẽ biến chứng nguy hiểm đến tính mạng và có nguy cơ chuyển qua ung thư. Bác sĩ đã lên lịch mổ 2 lần, chi phí mổ khoảng 50 triệu đồng, nhưng gia đình quá khó khăn, không có tiền để trang trải chi phí. Lịch mổ mới là ngày 6.5.2014.

Ngày 22.4.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp điều trị trực tràng cho em Hồ Thị Bích Đào với số tiền là 30.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Lê Quang Uy, Trung Tâm Mục Vụ DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:Hội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VNDChuyển từ Quỹ giúp anh Nguyễn Đình Văn: 1.250.000 VNDAnh chị Tuấn Anh – Kim Oanh ( Sàigòn ): 10.000.000 VNDCô Lê Nhất Thảo Phương, San Hose ( Hoa Kỳ ): 200 USDMột nhạc sĩ ở Paris ( Pháp ): 100 EURMột người đi Lễ Xa Quê ở DCCT ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDCác bạn Nhóm Fiat ( các tỉnh ): 200.000 VND Hai người ẩnh danh ( Phú Yên ): 250.000 VNDMột ân nhân ẩn danh ( Sàigòn ): 2.000.000 VNDBạn Quy, Nhà Ephata ( Hà Tĩnh ): 500.000 VNDMột ân nhân ẩn danh ( An Giang ): 300.000 VNDNăm ân nhân ( Sàigòn ) qua cha Hồ Đắc Tâm: 4.600.000 VND Bà Maria Kim Ngọc ( Sàigòn ) qua cha Hồ Đắc Tâm: 1.000.000 VND 

Tổng kết đến 9g45 sáng thứ sáu 25.4.2014: 

25.100.000 VND + 200 USD + 100 EUR = 32.400.000 VND

Như vậy sau 5 ngày quyên góp, chúng ta đã có được 30 triệu đồng giúp em Hồ Thị Bích Đào. Số tiền 2.400.000 VND dôi ra xin chuyển sang cho trường hợp ngặt nghèo kế tiếp là hai vợ chồng ông bà Hồ Đình Hớn và Nguyễn Thị Có ở Kon Tum. Xin tạ ơn Chúa, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần.

462 – 463. ĐANG QUYÊN GÓP QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ĐIỀU TRỊ CHO HAI VỢ CHỒNG Ở KONTUM,

ÔNG HỒ ĐÌNH HỚN BỊ ĐAU KHỚPVÀ BÀ NGUYỄN THỊ CÓ BỊ ĐAU GAN

Lm. Giuse Đỗ Hiệu, Giáo Xứ Tân Hương, Giáo Phận Kon Tum, giới thiệu đôi vợ chồng ông Phêrô HỒ ĐÌNH HỚN, 75 tuổi, và bà Maria NGUYỄN THỊ CÓ, 74 tuổi. Ông bà không có con cháu, sống neo đơn trong một căn nhà diện tích có 25m2 trên nền đất của Giáo Xứ Tân Hương.

Ông Hớn bị bệnh sưng phù và đau các khớp rất nặng, mới đây lại bị té nứt xương mông. Còn bà Có thì bị bệnh gan ở giai đoạn 1, không có người chăm sóc. Các bà mẹ trong Giáo Xứ đã cắt cử người thay nhau đến chăm sóc và giặt giũ cho ông bà.

Ngày 25.4.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp điều trị cho Phêrô Hồ Đình Hớn và bà Nguyễn Thị Có với số tiền là 40.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Giuse Lê Quang Uy, Trung Tâm Mục Vụ DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Hội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 8.000.000 VNDChuyển từ Quỹ giúp em Bích Đào: 2.400.000 VNDChị Têrêsa Thanh Tuyền ( Sàigòn ): 500.000 VNDMột ca viên ẩn danh ở Xóm 3 ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDMột người ẩn danh ( gốc Hà Nội ): 100.000 VNDÔng Trần Tử Thanh, Seatle ( Hoa Kỳ ): 200 USDCô Lê Hoài Thu ( Sàigòn ): 5.000.000 VND

30

Page 31: Ephata 607

Một bạn trẻ ( Sàigòn ): 700.000 VNDCô Hồ Mỹ Linh ( Sàigòn ): 1.000.000 VND

Sơ kết đến 13g30 trưa Chúa Nhật 27.4.2014: 18.700.000 VND + 200 USD

31