View
19
Download
0
Category
Preview:
Citation preview
See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/351710216
Nghiên cứu đề xuất các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn chuyên ngành kế
toán của người học (Đặng Thu Hà, Đặng Thảo Hiền)
Conference Paper · May 2019
CITATIONS
0READS
2,833
1 author:
Dang Thu Ha
Hanoi University of Industry
14 PUBLICATIONS 0 CITATIONS
SEE PROFILE
All content following this page was uploaded by Dang Thu Ha on 20 May 2021.
The user has requested enhancement of the downloaded file.
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
Kû yÕu héi th¶o quèc gia
Nghiªn cøu vµ ®µo t¹o
kÕ to¸n, kiÓm to¸n
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư: Những vấn đề đặt ra với
nội dung và chương trình đào tạo ngành Kế toán, Kiểm toán
NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG - XÃ HỘI
2
3
ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
NGHIÊN CỨU VÀ ĐÀO TẠO KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN
Kính thưa: Các nhà khoa học,
Các quý vị đại biểu,
Cách mạng công nghiệp 4.0 đã có ảnh hưởng đến hầu hết các ngành, các lĩnh vực, trong đó
có lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Người làm kế toán trong tương lai không chỉ cần có trình độ
chuyên môn sâu trong lĩnh vực của mình mà còn phải có nhiều các kỹ năng nghề nghiệp khác để
đáp ứng được yêu cầu ngày càng phát triển của công nghệ, khoa học kỹ thuật cũng như sự thay
đổi, biến động không ngừng của môi trường kinh tế xã hội.
Thêm vào đó, trong bối cảnh nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán tại Việt Nam có chất
lượng cao trở lên cấp thiết với mục tiêu góp phần minh bạch hóa môi trường đầu tư, hỗ trợ, thúc
đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp thông qua hoạt động quản lý, tư vấn, cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán. Chính vì vậy
công tác đào tạo, nghiên cứu kế toán, kiểm toán tại các cơ sở giáo dục đại học cần sự đổi mới
thực sự, toàn diện.
Tiếp nối thành công của hội thảo quốc gia về kế toán, kiểm toán lần thứ 2 tại trường
Đại học Công nghiệp Hà Nội năm 2018, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội tổ chức Hội
thảo khoa học Quốc gia lần thứ 3 với chủ đề “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Những vấn
đề đặt ra đối với nội dung và chương trình đào tạo ngành Kế toán, Kiểm toán” nhằm tạo cơ
hội để các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, giảng viên, nghiên cứu sinh, học viên trao đổi
chuyên môn cũng như kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy, thực hành kế toán, kiểm toán.
Để đáp ứng mục tiêu của chủ đề hội thảo đưa ra, các bài nghiên cứu, các bài nghiên cứu được
ban biên tập bố cục theo hai phần:
Phần 1: Xây dựng và cải tiến chương trình trong đào tạo Kế toán, Kiểm toán
Phần 2: Kế toán - Kiểm toán - Tài chính: Những thay đổi trong bối cảnh Cách mạng Công
nghiệp 4.0
Trong quá trình tổ chức Hội thảo, Ban biên tập đã nhận được nhiều bài nghiên cứu của các
chuyên gia, các nhà khoa học trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán đến từ cơ quan quản lý nhà nước,
hiệp hội nghề nghiệp và các doanh nghiệp trên cả nước, đặc biệt là các trường đại học, cao đẳng,
bao gồm: Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Trường Đại học Kinh tế TP. HCM, Trường Đại học
Ngoại thương, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN, Trường Đại học Thương mại, Học viện
Tài chính, Học viện Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế và QTKD Thái Nguyên, Trường Đại
học Quảng Bình, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Điện lực, Trường Đại học
Lao động - Xã hội (Cở sở Hà Nội, cơ sở TP HCM), Trường Đại học Lạc Hồng, Học viện Ngân
4
hàng (Phân viện Phú Yên), Trường Đại học Công đoàn, Trường Đại học Công nghiệp Việt Trì,
Trường Cao đẳng Công Thương TP.HCM, Trường Cao đẳng Thống kê và Trường Đại học Công
nghiệp Hà Nội.
Ban Tổ chức đã nhận được 65 bài nghiên cứu, sau khi tiến hành phản biện kín, ban biên
tập đã nhận trở lại được 55 bài có chất lượng và phù hợp với chủ đề của hội thảo để đưa vào kỷ
yếu Hội thảo khoa học Quốc gia. Các bài tham luận, bài nghiên cứu này mang lại những giá trị
khoa học và thực tiễn cao, giúp cho khu vực doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý có cái
nhìn khách quan, từ đó định hướng kế hoạch hay chính sách phù hợp nhằm phát triển kinh tế
Việt Nam ổn định và bền vững. Các cơ sở đào tạo tiếp thu các ý kiến tâm huyết của nhà nhà
khoa học, các chuyên gia, các nhà quản lý trong việc đưa ra các đánh giá, đề xuất, kiến nghị
nhằm hoàn thiện chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo kế toán, kiểm toán phù hợp
với yêu cầu thực tế của doanh nghiệp theo hướng hội nhập với khu vực và quốc tế.
Để có được chương trình hội thảo này, ngoài sự quan tâm của các nhà khoa học, các
chuyên gia còn có sự chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám hiệu trường Đại học Công nghiệp
Hà Nội. Chính sự quan tâm quý báu này đã góp phần thành công cho Hội thảo. Cuối cùng, Ban
Tổ chức Hội thảo xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các chuyên gia, nhà khoa học và các nhà quản
lý giáo dục.
Xin kính chúc các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu là tác giả của các bài báo, quý vị
đại biểu tham dự hội thảo dồi dào sức khỏe và hạnh phúc!
Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp!
BAN TỔ CHỨC
5
DANH SÁCH THÀNH VIÊN CÁC BAN
CỦA HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
1. BAN CHỈ ĐẠO
TT Họ và tên Đơn vị công tác Nhiệm vụ
1 TS. Nguyễn Anh Tuấn Phó Hiệu trưởng
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Trưởng ban
2 PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng Trưởng khoa Kế toán Kiểm toán
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Phó
Trưởng ban
3 PGS.TS. Phạm Văn Đông Trường phòng Khoa học Công nghệ
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
4 TS. Kiều Xuân Thực Trưởng phòng Đào tạo
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
2. BAN TỔ CHỨC
TT Họ và tên Đơn vị công tác Nhiệm vụ
1 TS. Nguyễn Anh Tuấn Phó Hiệu trưởng
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Trưởng ban
2 PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng Trưởng khoa Kế toán Kiểm toán
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Phó
Trưởng ban
3 PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Nga Phó trưởng khoa Kế toán Kiểm toán
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
4 TS. Trương Thanh Hằng Phó trưởng khoa Kế toán Kiểm toán
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
5 PGS.TS. Phạm Văn Đông Trường phòng Khoa học Công nghệ
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
6 TS. Kiều Xuân Thực Trưởng phòng Đào tạo
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
3. BAN THƯ KÝ HỘI THẢO
TT Họ và tên Đơn vị công tác Nhiệm vụ
1 TS. Hoàng Thị Việt Hà Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Trưởng ban
2 TS. Nguyễn Thị Lan Anh Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
3 TS. Nguyễn Thị Thanh Loan Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
4 TS. Nguyễn Thị Xuân Hồng Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
6
4. BAN NỘI DUNG
4.1. TIỂU BAN PHẢN BIỆN
TT Họ và tên Đơn vị công tác Nhiệm vụ
1 PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Trưởng
Tiểu ban
2 PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Nga Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
3 TS. Trương Thanh Hằng Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
4 TS. Hoàng Thị Việt Hà Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
5 TS. Nguyễn Thị Thanh Loan Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
6 TS. Nguyễn Thị Lan Anh Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
7 TS. Nguyễn Thị Xuân Hồng Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
8 TS. Đậu Hoàng Hưng Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
9 TS. Nguyễn Thị Thu Thủy Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
10 TS. Trần Thị Thùy Trang Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
11 TS. Đinh Thị Thanh Hải Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
12 TS. Đặng Thu Hà Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
13 NCS.ThS. Vũ Thị Thanh Bình Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
14 NCS.ThS. Nguyễn Phương Anh Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
4.2. TIỂU BAN BIÊN TẬP
TT Họ và tên Đơn vị công tác Nhiệm vụ
1 PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Nga Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Trưởng
Tiểu ban
2 TS. Nguyễn Thị Xuân Hồng Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
3 TS. Nguyễn Thị Thu Thủy Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
4 NCS. ThS. Vũ Thị Thanh Bình Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
5 ThS. Đặng Văn Bính Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Ủy viên
7
MỤC LỤC
Trang
Phần 1. XÂY DỰNG VÀ CẢI TIẾN CHƯƠNG TRÌNH TRONG ĐÀO TẠO
KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN
Kế toán, kiểm toán 4.0: Cơ hội, thách thức và tầm quan trọng của nguồn
nhân lực
Phạm Đức Hiếu
15
Thực trạng hoạt động kiểm soát chất lượng đầu ra của sinh viên ngành
kế toán - kiểm toán tại các trường Đại học công lập Việt Nam hiện nay
Vũ Thị Kim Anh, Hoàng Thị Việt Hà
22
Năng lực nghề nghiệp của kiểm toán nội bộ và định hướng đào tạo sinh viên
ngành kiểm toán tại Việt Nam
Nguyễn Thị Hồng Nga
33
Tác động của Blockchain tới ngành kế toán - kiểm toán trong cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0
Nguyễn Võ Tuyết Trinh
43
Thực tập tốt nghiệp trong đào tạo sinh viên kế toán - kiểm toán: Góc nhìn từ
phía doanh nghiệp
Vũ Thị Thanh Bình, Nguyễn Thị Thanh Loan, Hoàng Thị Hương
51
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của sinh viên về chất
lượng đào tạo chuyên ngành kế toán, kiểm toán tại Trường Đại học Công
nghiệp Hà Nội
Nguyễn Thị Lan Anh
62
Giảng dạy môn học Nguyên lý kế toán cho sinh viên ngoài ngành kế toán,
kiểm toán dựa trên chức năng cung cấp thông tin của kế toán: Nghiên cứu tại
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Đinh Thị Thanh Hải, Nguyễn Thị Thanh Hương, Nguyễn Thị Liên
80
Đào tạo kiểm toán nội bộ ở Việt Nam trong điều kiện cách mạng công nghiệp
4.0 - Đòi hỏi tất yếu
Nguyễn Thị Lê Thanh
89
Nhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của tân sinh viên kế toán -
Đại học Công nghiệp Hà Nội
Đặng Thu Hà, Đinh Thị Thanh Hải
98
8
Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo đại học ngành kế toán trong
bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0: Nghiên cứu thực nghiệm tại Trường
Đại học Công nghiệp Hà Nội
Đào Thị Nhung, Phạm Thu Huyền
109
Nghiên cứu đề xuất các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn chuyên ngành kế
toán của người học
Đặng Thu Hà, Đặng Thảo Hiền
123
Ảnh hưởng của nhân tố Hành vi chủ động và Nhận thức vị thế cá nhân đến
Sự hài lòng của sinh viên và Hoà nhập xã hội: Nghiên cứu tại Trường Đại học
Công nghiệp Hà Nội
Nguyễn Thị Hồng Duyên, Nguyễn Phương Anh
134
Ứng dụng khung năng lực trong xây dựng chuẩn đầu ra cho sinh viên ngành
kế toán - thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0
Phạm Văn Thiệu, Nguyễn Văn Hiếu
143
Đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên chuyên ngành kế toán trong cách mạng
công nghiệp 4.0
Phan Thị Thu Hà
153
Blockchain với ngành kế toán kiểm toán
Nguyễn Thị Khánh Phương
162
Giải pháp liên kết đào tạo giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo
kế toán, kiểm toán nhằm đáp ứng yêu cầu của cách mạng 4.0
Lê Thị Thu Hương
168
Nhận thức và định hướng của sinh viên kế toán với cách mạng công nghiệp
4.0: Nghiên cứu tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Lương Thị Hân, Nguyễn Thị Ngọc Hiền
176
Công nghiệp 4.0: Khảo sát kỳ vọng của chuyên gia và hàm ý cho đào tạo
chuyên ngành kế toán kiểm toán
Lại Thị Thu Thủy, Hoàng Thị Bích Ngọc, Nguyễn Thị Hồng Lam, Phạm Đức Hiếu
185
Đào tạo nhân lực kế toán kiểm toán đáp ứng yêu cầu của cách mạng
công nghiệp 4.0
Lê Thị Ngọc Mai, Nguyễn Thị Thanh Tâm
196
Đổi mới phương pháp giảng dạy kế toán kiểm toán trước tác động của cách
mạng công nghiệp 4.0
Trương Thanh Hằng, Nguyễn Thị Nga
207
Khoảng cách giữa đào tạo kế toán quản trị tại các trường đại học và yêu cầu
nghề nghiệp
Đặng Thị Huyền Hương, Phạm Thị Ngọc Thu
219
9
Đào tạo phát triển nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao trong thời kỳ hội
nhập cách mạng 4.0
Trương Thanh Hằng, Nguyễn Thị Nga
228
Đánh giá sự hài lòng của sinh viên về chất lượng giảng dạy các học phần kế
toán tài chính ở bậc đại học: Nghiên cứu thực nghiệm tại Đại học Công
nghiệp Hà Nội
Đào Thị Nhung, Phạm Thu Huyền, Đặng Thị Hồng Hà
240
Đổi mới giảng dạy kế toán dựa trên quy trình tư duy thiết kế - Nghiên cứu tại
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Nguyễn Thị Hương Liên, Nguyễn Tố Tâm, Nguyễn Thị Hồng Nga
252
Phần 2. KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN NHỮNG THAY ĐỔI TRONG BỐI CẢNH
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận đến kỳ hạn nợ: Trường hợp tại Việt Nam
Đặng Ngọc Hùng
261
Hoàn thiện tổ chức con người trong hệ thống thông tin kế toán quản trị chi
phí của các doanh nghiệp da giầy Việt Nam
Nguyễn Văn Hải
275
Kế toán phát triển bền vững và ứng dụng vào Việt Nam
Phạm Đức Cường, Nguyễn Quốc Trung
284
The association between corporate governance and financial report quality in
the case of listed companies in Vietnam stock market
Tran Thi Kim Anh, Hoang Ha Anh
292
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của việc chuyển đổi sang kế toán trên
cơ sở dồn tích tại các đơn vị hành chính sự nghiệp
Đinh thị Thanh Hải, Đặng Thu Hà
306
Ứng dụng mô hình quản trị tinh gọn trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ logistics
Nguyễn Thị Thu Thủy
318
Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội
Nguyễn Thị Thu Thủy, Cao Thị Huyền Trang
329
Rào cản và động lực trong áp dụng kế toán chi phí môi trường tại Bệnh viện
Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
Trần Thị Nhung, Nguyễn Thị Lan Anh
342
10
Tác động của các khu công nghiệp đến phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Thái Bình
Hoàng Thị Việt Hà, Đào Thu Hà
356
Triển vọng ứng dụng công nghệ blockchain trong kế toán kiểm toán ở
Việt Nam
Trần Thị Thu Trang, Bùi Thị Thu
373
Ứng dụng fintech trong việc hỗ trợ hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp
nhỏ và vừa ở Việt Nam
Nguyễn Đăng Tuệ
387
Hệ thống thông tin kế toán quản trị tại một số quốc gia trên thế giới và
bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Nguyễn Thị Hồng Duyên, Nguyễn Phương Anh
401
Bàn về kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp sản xuất
Nguyễn Hữu Ánh, Nguyễn Thanh Hiếu
408
Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngân hàng giao dịch
của khách hàng cá nhân trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Trần Thị Thùy Trang
423
Nghiên cứu những ảnh hưởng của công nghệ blockchain đến lĩnh vực kế toán
trong khu vực công
Phạm Quang Huy, Vũ Kiến Phúc
435
Đánh giá tính hữu hiệu kiếm soát nội bộ của các doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam
Trịnh Viết Giang
445
Tính độc lập và đạo đức kiểm toán: góc nhìn từ tình huống Enron & Arthur
Andersen
Trần Nguyên Hạnh, Nguyễn Quang Huy
456
Kiểm toán nội bộ: Hàng rào bảo vệ cho các doanh nghiệp Việt Nam
Trịnh Viết Giang
470
Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện kế toán quản trị chiến lược trong
doanh nghiệp dệt may Việt Nam
PPhạm Ngọc Toàn, Lê Thị Mỹ Nương
478
Hóa đơn điện tử - xu thế mới của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Nguyễn Thị Diệu Thanh
487
Các kỹ thuật khai phá dữ liệu và tỷ số tài chính được sử dụng trong phát hiện
gian lận báo cáo tài chính
Nguyễn Thị Liên Hương
498
11
Nghiên cứu tác động của tính thanh khoản đến khả năng sinh lời của
các công ty phi tài chính niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
Nguyễn Hồng Trang
511
Sự thay đổi về vai trò của kế toán quản trị trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Nguyễn Thị Thanh Loan
524
Ứng dụng công nghệ Blockchain trong lĩnh vực kế toán doanh nghiệp
Nguyễn Văn Dũng
540
Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong tổ chức hệ thống thông tin kế toán tại các trường đại học
kinh tế tài chính trên địa bàn thành phố Hà Nội
Hoàng Thị Kim Ưng, Nguyễn Thị Thanh Tâm, Lê Thị Ngọc Mai
547
Ảnh hưởng của quản trị vốn lưu động đến khả năng thanh toán của các
doanh nghiệp niêm yết
Đậu Hoàng Hưng, Nguyễn Viết Hà
557
Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng kế toán theo vòng đời
sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất
Lê Quỳnh Anh, Nguyễn Tố Tâm
568
Kế toán phát hành trái phiếu doanh nghiệp nhìn từ góc độ tuân thủ IFRS về
công cụ tài chính
Nguyễn Thị Xuân Hồng, Đỗ Đức Tài
581
Kế toán trên nền tảng điện toán đám mây: Lợi ích và rào cản khi áp dụng
Vũ Quang Trọng
589
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp
trên địa bàn Hà Nội
Trương Thanh Hằng
596
12
13
Phần 1
XÂY DỰNG VÀ CẢI TIẾN CHƯƠNG TRÌNH
TRONG ĐÀO TẠO KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN
14
15
Kế toán, kiểm toán 4.0: Cơ hội, thách thức và tầm quan trọng
của nguồn nhân lực
Phạm Đức Hiếu
Đại học Thương mại
Email: hieuphamduc@gmail.com
Mã bài: HTQG.42 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 10/11/2019
Ngày nhận bài: 04/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2019
Tóm tắt
Bài viết dựa trên các tranh luận của giới hành nghề và các nhà nghiên cứu kế toán, kiểm
toán về cơ hội, thách thức và tầm quan trọng của con người trong bối cảnh của kế toán, kiểm
toán 4.0. Từ đó người viết bày tỏ quan điểm cá nhân khẳng định không có sự loại trừ lẫn nhau
giữa robot thông minh và giới hành nghề kế toán, kiểm toán. Do không loại trừ nhau nên cách
mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 sẽ thúc đẩy sự kết hợp giữa máy móc và con người để gia tăng
hơn nữa các lợi ích do công nghệ mang lại. Vì thế, để chuẩn bị cho sự kết hợp này trong tương
lai, cơ sở đào tạo, giảng viên, người hành nghề và các sinh viên chuyên ngành kế toán, kiểm toán
cần phải có nhận thức đúng đắn, trang bị các kiến thức và kỹ năng cần thiết, nhận biết được các
giới hạn của công nghệ và giới hạn của bản thân để từ đó có sự kết hợp thông minh với máy móc
thiết bị, tạo ra hiệu ứng vượt trội trong năng suất và hiệu quả công việc, cung cấp ngày càng
nhiều giá trị gia tăng của kế toán, kiểm toán cho khách hàng và thị trường.
Từ khóa: CMCN 4.0, kế toán 4.0, kiểm toán 4.0
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thế giới đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp và đang bước vào cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4 còn gọi là CMCN 4.0. Bàn luận về ba cuộc cách mạng trước đó là điều
khá dễ dàng vì chúng ta đã trải qua, đã chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ của thế giới sau mỗi
cuộc cách mạng. Tuy nhiên, trao đổi bàn luận về CMCN 4.0 đang diễn ra lại khó khăn hơn nhiều
vì tất cả mới chỉ bắt đầu trên cơ sở hiện tại để suy đoán tương lai. Dù vậy, điều này là cần thiết vì
chúng ta cần sẵn sàng chuẩn bị để nắm bắt cơ hội và đối diện với cả thách thức. Hơn bao giờ hết,
câu hỏi thường trực được đặt ra là trong tương lai 10 - 20 năm tới liệu con người có bị thay thế
bởi robot, bởi trí tuệ nhân tạo? Và làm thế nào để lực lượng lao động hiện tại và tương lai có thể
tiếp tục cạnh tranh với máy móc trong môi trường công nghệ 4.0.
Bài viết này dựa trên các tranh luận của giới hành nghề và các nhà nghiên cứu kế toán,
kiểm toán về cơ hội, thách thức và tầm quan trọng của yếu tố con người trong bối cảnh của kế
16
toán, kiểm toán 4.0. Từ đó, người viết bày tỏ quan điểm cá nhân khẳng định sự không loại trừ lẫn
nhau giữa robot với trí tuệ nhân tạo và con người sinh học với tư duy linh hoạt, có lý trí và tình
cảm. Do không loại trừ nhau nên CMCN 4.0 sẽ thúc đẩy sự kết hợp giữa máy móc thông minh
với con người để gia tăng hơn nữa các lợi ích vượt trội do công nghệ mang lại. Vì thế, để chuẩn
bị cho sự kết hợp này trong tương lai, cơ sở đào tạo, giảng viên, người hành nghề và các sinh
viên ngành kế toán, kiểm toán cần phải có nhận thức đúng đắn, trang bị các kiến thức và kỹ năng
cần thiết, nhận biết được các giới hạn của công nghệ và giới hạn của bản thân để từ đó có sự kết
hợp thông minh với máy móc thiết bị, tạo ra hiệu ứng vượt trội trong năng suất và hiệu quả công
việc. Như vậy công nghệ thông minh không loại trừ lao động sống nên người hành nghề kế toán,
kiểm toán cũng không có lý do gì phải lo lắng về việc bị thay thế bởi robot. Chủ động nắm bắt cơ
hội, thiết lập một đội ngũ làm việc trên cơ sở con người + thiết bị thông minh sẽ là xu hướng của
CMCN 4.0, tạo ra thế chủ động trong ứng dụng công nghệ để giảm bớt các công đoạn, thao tác
nghề nghiệp có tính thủ công, tập trung nhiều hơn sức lực, trí tuệ cùng sự linh hoạt vào phán
đoán chuyên môn để phục vụ tốt hơn khách hàng sẽ là xu hướng và sự phát triển trong tương lai
của kế toán, kiểm toán 4.0.
2. BỐI CẢNH CỦA CMCN 4.0
Theo từ điển Oxford, CMCN được định nghĩa là sự phát triển nhanh chóng của công
nghiệp có tác động mạnh mẽ tới năng suất lao động và sự phát triển của kinh tế, xã hội. Cuộc
CMCN lần thứ nhất đánh dấu bằng việc sử dụng năng lượng của máy hơi nước với động cơ đốt
trong. Máy hơi nước đã thay thế các thao tác thủ công của con người vì thế năng suất lao động
đã được cải thiện đáng kể. Cuộc CMCN lần thứ hai là kết quả của việc sử dụng năng lượng điện
với động cơ điện để chế tạo ra số lượng lớn sản phẩm và hàng hóa. Một lần nữa, CMCN lần 2 đã
làm gia tăng đáng kể năng suất lao động của thời kỳ này. CMCN lần thứ ba là kết quả của việc
sử dụng công nghệ điện tử - tin học và tự động hóa sản xuất. Thời kỳ này chứng kiến sự ra đời
của máy tính cá nhân, Internet, và các tiến bộ đáng kể của công nghệ thông tin và truyền thông.
Nhờ có CMCN lần 3, năng suất lao động lại được tiếp tục nâng lên.
CMCN lần thứ 4 (4.0) được xây dựng trên cơ sở của CMCN lần thứ 3 bao gồm các tiến bộ
của trí tuệ nhân tạo, là sự kết nối của công nghệ trong thực thể vật chất, số hóa và công nghệ sinh
học. CMCN 4.0 là sự tiến bộ của kỹ thuật liên quan tới xu hướng mới nhất của tự động hóa và
trao đổi dữ liệu như Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây, và máy học. CMCN 4.0 còn được
gọi là ‘công nghệ thông minh’, nơi mà các quá trình vật lý được kiểm soát bởi hệ thống công
nghệ và việc ra quyết định được phi tập trung hóa. Điều này đã làm tăng năng suất lao động.
CMCN 4.0 được dự đoán sẽ có ảnh hưởng rất lớn và sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội.
Có thể thấy, điểm chung của mỗi cuộc cách mạng là việc sử dụng công nghệ tiên tiến nhằm
gia tăng năng suất lao động. Nghĩa là có sự kết nối giữa các ngành nghề với công nghệ hay nói
cách khác chính ứng dụng công nghệ trong các ngành, lĩnh vực đã tạo ra sự thay đổi đã được lịch
sử ghi nhận với ba cuộc cách mạng trước đó và với CMCN 4.0 hiện nay. Do đó, có thể thấy
CMCN 4.0 vừa tạo ra động lực để kết nối giữa các ngành, lĩnh vực nhưng cũng tạo ra ‘khoảng
cách nghề nghiệp’ nếu các bên không có sự chủ động để tăng cường kết nối và hợp tác. Kế toán,
kiểm toán 4.0 chắc chắn sẽ yêu cầu các chuyên gia công nghệ thông tin phải có kiến thức về kế
17
toán, kiểm toán. Đồng thời, giới hành nghề kế toán cũng cần phải có hiểu biết nhất định về công
nghệ thông tin để có thể giao tiếp hiệu quả với các chuyên gia công nghệ. Hợp tác giữa các nhà
chuyên môn kế toán với CNTT của CMCN 4.0 là không thể tránh khỏi, tuy nhiên để có thể đẩy
nhanh quá trình này thì cần phải có những phân tích thấu đáo.
3. CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA NHÂN LỰC KẾ TOÁN,
KIỂM TOÁN 4.0
3.1. Áp lực bị thay thế bởi máy móc
Theo các nhà khoa học của Đại học Oxford, Frey và Óborne (2013) có tới 47% công việc
hiện tại ở Mỹ sẽ bị thay thế bởi tự động hóa trong 2 thập kỷ tới. Kế toán, kiểm toán đứng thứ 4
trong top 5 ngành nghề được dự đoán sẽ bị thay thế bởi robots (Palmer, 2017). Những báo cáo
về tương lai của kế toán, kiểm toán trong kỷ nguyên số và trí tuệ nhân tạo đã tạo ra những lo
lắng, bất an cho giới hành nghề hiện tại với câu hỏi thường trực: Liệu với tuổi đời và tuổi nghề
như vậy họ có thể bắt kịp và cập nhật các kiến thức, kỹ năng cần thiết để tiếp tục công việc?
Mặt khác, với thế hệ sinh viên đang và sẽ theo đuổi ngành kế toán, kiểm toán, thì câu hỏi lại là:
Liệu họ có thể sẽ sớm ra nhập vào đội ngũ thất nghiệp ngay từ khi chưa ra trường hoặc chưa
vào trường hay không? Câu hỏi tương tự cũng được đặt ra đối với các cơ sở đào tạo kế toán,
kiểm toán và giảng viên: Họ có bị đào thải hay không? Họ cần phải trang bị thêm những gì?
Và sinh viên của họ cần phải được chuẩn bị những gì ngay từ bây giờ?... Rất nhiều câu hỏi đặt
ra và trả lời những câu hỏi này là điều không dễ dàng vì CMCN 4.0 vẫn đang tiếp diễn và
chúng ta cũng chỉ đang trên con đường tự bảo vệ bằng cách thích nghi để tồn tại một cách cạnh
tranh và thông minh trên cơ sở con người có tri thức, lý trí và tình cảm với giao tiếp xã hội và
ứng xử chuyên nghiệp.
Với góc nhìn lạc quan, trong khi một số nhân viên kế toán, người giữ sổ sách và kiểm toán
viên có thể sẽ bị mất việc nếu họ không thay đổi và điều chỉnh các kỹ năng cần thiết, thì cũng
nên nghĩ rằng những công việc như ghi sổ, lập báo cáo, kiểm tra dữ liệu một cách đơn thuần thực
sự không phải là một nghề mà đó chỉ là các nhiệm vụ hay thao tác đơn thuần (tasks) đối với nghề
kế toán, kiểm toán. Các công việc như lập chứng từ, ghi sổ, soạn thảo báo cáo theo các khuôn
mẫu định trước không tạo ra giá trị gia tăng cho đơn vị. Giá trị gia tăng của kế toán, kiểm toán
thuộc về các chức năng tư vấn, giải trình, phân tích, thuyết minh và bảo vệ luận điểm trên cơ sở
kết hợp hài hòa giữa thông tin tài chính và phi tài chính, phù hợp với từng đối tượng và hoàn
cảnh. Cùng với tiến bộ của CMCN những thao tác có tính lặp lại sẽ ngày càng được tự động hóa
ở mức độ cao. Mặt khác, khi một số ngành nghề bị mất, thì sẽ có những ngành nghề mới được
tạo ra như là hệ quả của CMCN 4.0. Một ví dụ điển hình là khi các máy rút tiền tự động (ATM)
được sử dụng để thay thế rất nhiều lao động trong ngành ngân hàng, từ 20 nhân viên/chi nhánh
vào năm 1988 giảm xuống chỉ còn 13 nhân viên/chi nhánh vào 2004 (Petropoulos, 2017 trích từ
Hoffman, 2017). Song, vì chi phí cho một chi nhánh giảm xuống do sử dụng ATM, nên các ngân
hàng lại có khả năng mở thêm các chi nhánh để phục vụ tốt hơn khách hàng của họ vì tiết kiệm
được chi phí nhân công cho việc theo dõi tài khoản khách hàng một cách thủ công như trước
đây. Kết quả là số chi nhánh ngân hàng đã tăng lên 43% trong cùng một thời gian.
18
3.2. Con người và máy móc cạnh tranh hay hợp tác trong kế toán, kiểm toán 4.0
Phân tích điểm mạnh, yếu của mỗi bên
Máy móc trên thực tế có thể thực hiện tốt hơn con người ở một số thao tác, công việc. Tuy
nhiên không phải là tất cả vì có những thao tác, công việc con người thực hiện tốt hơn máy móc.
Có thể so sánh bằng việc liệt kê những công việc mà máy hoặc người làm tốt như sau:
Những công việc mà máy tính làm tốt hơn con người: Tìm giải pháp cho những vấn đề đã
được cấu trúc, lập trình trên cơ sở đủ thông tin đầu vào; những công việc, thao tác thông thường
xảy ra hàng ngày và lặp lại (Routine tasks); tính toán số học nhanh và chính xác hơn.
Những công việc mà con người thực hiện tốt hơn máy móc hoặc những công việc mà máy
móc có thể đưa ra nhận định sai hoặc cần nhiều thời gian hơn con người để thực hiện: Tìm giải
pháp cho những vấn đề phi cấu trúc, chưa thể lập trình; những nhiệm vụ, công việc không có tính
lặp lại (non routine tasks); yêu cầu đổi mới, sáng tạo, đột phá; có cảm xúc, lý trí; có sự phát triển;
có khả năng phát hiện, khám phá; biết hình dung, tưởng tượng và mô phỏng; phán đoán dựa trên
cảm nhận, trực giác nghề nghiệp và kinh nghiệm, ví dụ ra quyết định trong những tình huống
phức tạp, khó khăn ngay cả khi thông tin không đầy đủ; nhận diện vấn đề và đặt ra các yêu cầu
mới về thu thập thông tin, sự say mê, lý tưởng, hoài bão.
Trên thực tế những năm gần đây đang diễn ra hai xu hướng có phần cực đoan: (i) giới công
nghệ thì đánh giá quá cao khả năng công nghệ sẽ thay thế con người; (ii) ngược lại, giới hành
nghề chuyên môn lại đánh giá quá thấp khả năng của công nghệ. Nên dẫn đến chủ quan từ hai
phía cản trở quá trình hợp tác, phát triển.
Hợp tác sẽ là xu hướng
Lịch sử của các cuộc CMCN đã chứng minh vai trò không thể thiếu của con người, chỉ đến
cuộc CMCN lần thứ tư hiện nay lịch sử mới đặt vấn đề liệu chúng ta có bị thay thế bởi máy móc
hay không. Như đã phân tích ở trên con người có thể thực hiện tốt đa số công việc, nhưng cũng
không phải tất cả. Máy móc cũng vậy, tốt ở một số công việc cụ thể nhưng không tốt ở đa số
trường hợp có xét đến yếu tố môi trường, cảm xúc. Vì thế, việc kết hợp giữa máy móc và con
người sẽ thúc đẩy, gia tăng các điểm mạnh, hạn chế và thậm chí loại bỏ được yếu điểm của mỗi
bên. Thực tế, các nhân viên kế toán, kiểm toán đã làm việc với máy móc từ rất lâu, chính việc
này giúp cho tính toán nhanh hơn gấp nhiều lần và hạn chế được sai sót của con người.
Có thể nói, với CMCN lần thứ nhất, động cơ hơi nước đã gia tăng hơn nữa sức mạnh cơ
bắp của con người. Trong kỷ nguyên số hiện nay, máy vi tính lại giúp gia tăng hơn nữa sức mạnh
của não bộ con người. Khả năng của con người sẽ tăng gấp nhiều lần bởi sự hỗ trợ của máy tính
sẽ là cách thức quan trọng để tăng năng suất lao động trong CMCN 4.0. Với sự trợ giúp của máy
vi tính, con người sẽ tốn ít thời gian hơn vào những thao tác không cốt lõi và vì vậy sẽ có nhiều
thời gian hơn để phục vụ khách hàng hoặc phục vụ được nhiều khách hàng hơn so với trước đây,
đồng thời cũng sẽ có nhiều thời gian hơn cho các hoạt động sáng tạo và cung cấp các dịch vụ gia
tăng của nghề nghiệp.
Ở góc độ kế toán - kiểm toán, có thể thấy sản phẩm của sự kết hợp giữa con người - máy
tính trong kỷ nguyên số sẽ là:
19
- Kế toán 4.0 với báo cáo tài chính 4.0 sẽ làm thay đổi đáng kể hình thức của các BCTC kể
cả định dạng, cách thức công bố và lưu trữ thông tin… các báo cáo tài chính dưới dạng Digital
Reporting sẽ là phổ biến với định dạng eXBRL và các định dạng khác phù hợp với môi trường
số hóa. Điện toán đám mây và Blockchain-based sẽ làm cho quá trình ghi chép trên sổ cái trở
nên phi tập trung; điều này sẽ tác động rất lớn tới tổ chức công tác kế toán, nhất là người làm kế
toán; là cơ sở để hình thành Mobie Accounting. Với kế toán 4.0 các hình thức ghi chép thủ công
trên giấy (Paper-based Accounting) sẽ giảm dần và không còn phù hợp, vì thế Digital
Accounting sẽ là xu thế không tránh khỏi.
- Kiểm toán 4.0 có thể không đòi hỏi sự can thiệp có tính thủ công như hiện nay, các khái
niệm như kiểm toán liên tục (continuous audit), kiểm toán tự động (automated audit), kiểm toán
hình dung/mô phỏng (imagineering Audit) đã từng bước được giới thiệu và áp dụng. Kiểm toán
thủ công với sự can thiệp trực tiếp của KTV đã không còn thích hợp; vì thế việc tiếp xúc thực địa
dưới dạng company tours trong kiểm toán có thể sẽ giảm dần, đặc biệt là đối với kiểm toán các
DN số, trong tương lai chỉ có địa chỉ và văn phòng trên mạng. Digital Accounting chắc chắn sẽ
thúc đẩy sự ra đời của Digital Auditing; và như vậy Digital Auditing cũng là xu thế tất yếu thay
cho Mannual Auditing hay Paper-based Auditing hiện nay.
- Kế toán, kiểm toán 4.0 như đã đề cập ở trên sẽ đặt ra những yêu cầu mới cho công nghệ,
đòi hỏi cao hơn về nền tảng công nghệ thông tin với robots, AI, networking… và đặc biệt là vấn
đề bảo mật để phù hợp với môi trường số của Digital Accounting and Digital Auditing.
- Vì thế, một phép cộng đơn giản giữa các kỹ sư công nghệ và chuyên gia kế toán, kiểm
toán không thể đảm bảo cho thành công của Digital Accounting và Digital Auditing trong tương
lai. Do đó, các kỹ sư công nghệ cũng cần phải được trang bị kiến thức kế toán, kiểm toán. Và
ngược lại, các chuyên gia (cử nhân) kế toán, kiểm toán cũng phải có kiến thức về công nghệ
thông tin để cộng tác có hiệu quả với các chuyên gia công nghệ và khai thác được hết sự ưu việt
của công nghệ số trong quá trình hành nghề.
3.3. Khuyến nghị về sự kết hợp công nghệ và chuyên môn của kế toán, kiểm toán 4.0
Trong quá khứ nếu phần lớn giới hành nghề kế toán, kiểm toán chuyên nghiệp có phần thụ
động và buộc phải áp dụng công nghệ như là sức ép đến từ môi trường kinh doanh khi giao dịch
phải xử lý ngày càng lớn. Tuy nhiên, với tốc độ thay đổi nhanh chóng của CMCN 4.0 giới hành
nghề kế toán, kiểm toán phải chủ động. Vì trong tương lai “…we don’t program computers.
We’ll train them like dogs” - có nghĩa với công nghệ thông minh, chúng ta sẽ không phải lập
trình cho máy tính, mà chúng ta sẽ đào tạo, huấn luyện máy tính.
Dưới góc nhìn của những người trực tiếp giảng dạy, chúng tôi có một vài khuyến nghị về
sự kết hợp này như sau:
Về phía cơ sở đào tạo và giảng viên:
Phải đổi mới căn bản chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy: giảm các vấn đề kỹ
thuật, sự vụ của kế toán (không quá chú trọng vào tính toán, phân bổ, ghi chép các giao dịch
hàng ngày), mà cần nhấn mạnh đến quy trình, khía cạnh tổ chức, và đạo đức nghề nghiệp…
20
Bổ sung vào chương trình các học phần liên quan đến mạng máy tính, trí tuệ nhân tạo, dữ
liệu lớn…
Chú trọng phát triển khả năng sáng tạo, tư duy phản biện, tư vấn, kỹ năng phân tích, phán
đoán nghề nghiệp cho người học: như vậy cần tăng cường bài tập tình huống, các trao đổi, thảo
luận giữa sinh viên - sinh viên, sinh viên - giảng viên với nhiều kịch bản khác nhau.
Đổi mới học liệu, giáo trình, tài liệu tham khảo. Các giáo trình tài liệu biên soạn gần đây
cần phải dựa trên nền tảng của áp dụng CNTT trong kế toán, kiểm toán.
Về phía giảng viên: thường xuyên cập nhật kiến thức chuyên môn, đặc biệt bổ sung kiến thức
về công nghệ thông tin, mạng máy tính, trí tuệ nhân tạo… có liên quan đến kế toán, kiểm toán.
Gia tăng trao đổi học thuật, gia tăng giao thoa liên ngành: kế toán, kiểm toán - quản trị - tài
chính (kể cả công nghệ tài chính/fintech) - hệ thống thông tin…
Tăng cường thực hành, với các mô hình mô phỏng kế toán, kiểm toán.
Cân nhắc mở thêm các ngành/chuyên ngành đạo tạo mới, như: phân tích dữ liệu tài chính
gắn với fintech; tư vấn quản lý & kiểm soát… hoặc đào tạo tích hợp cùng một thời gian chuyên
chính (major) và phụ (minor) như một số nước đang thực hiện.
Tăng cường ứng dụng trí tuệ nhân tạo để đổi mới cách thức học, thi và kiểm tra nhằm tạo
thế chủ động cho người học có thể học tích hợp nhiều major và minor.
Về phía người hành nghề và người học kế toán, kiểm toán:
Cần xác định đào tạo và tự đào tạo là yêu cầu bắt buộc không riêng gì nghề kế toán, kiểm
toán. Tuy nhiên, cần chú trọng trau dồi chuyên môn kết hợp với các kiến thức về mạng máy tính,
truyền thông, chuyển đổi số, và bảo mật dữ liệu…
Chủ động trang bị các kỹ năng mềm: làm việc nhóm, giao tiếp, tư vấn, truyền đạt, phản
biện, phán đoán nghề nghiệp…
Xác định teamwork với máy móc, coi công nghệ như là trợ lý và cộng sự nhằm giảm nhẹ
các thao tác thủ công. Rèn luyện và phát triển khả năng sáng tạo, dự đoán tình huống… những
khả năng này sẽ càng được gia tăng nhờ trợ giúp của trí tuệ nhân tạo và xử lý dữ liệu lớn của
CMCN 4.0.
Và trên hết - đối với cả hai phía, hãy coi máy móc là cộng sự và ứng xử mới máy móc như
cộng sự. Máy móc đã và sẽ giúp chúng ta được giải phóng nhiều hơn, tự do nhiều hơn trong
công việc, suy nghĩ và tình cảm để được tự do sáng tạo, phát huy năng lực phán đoán và trí
tưởng tượng phong phú để cung cấp các dịch vụ ngày càng tốt hơn cho khách hàng (điều mà máy
móc không thể làm được); tuy nhiên, nếu thiếu máy móc, con người cũng không thể làm tốt
được. Sự kết hợp hiệu quả của con người và trí thông minh nhân tạo do chính họ tạo ra sẽ giúp
cải thiện năng suất lao động, tạo ra nhiều hơn giá trị gia tăng cho xã hội và thúc đẩy nhanh hơn
nữa các cuộc CMCN trong thời gian tới. Chúng ta không chờ đợi mà hãy chủ động để nắm bắt
cơ hội vì thế hãy hành động ngay từ hôm nay.
21
Digital Accounting và Digital Auditing sẽ có cả thách thức và cơ hội, tuy nhiên cơ hội vẫn
nhiều hơn và tương lai của nghề nghiệp vẫn rất rộng mở.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đại học Thương mại (2019). Kế toán - Kiểm toán Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công
nghiệp 4.0 - Cơ hội và thách thức. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc gia 10/2019.
Frey, C. B., & Osborne, M. A. (2013). The future of employment: How susceptible are jobs to
computerization. https://www.oxformartin.ox.ac.uk/downloads/academic/The_Future_of_
Employment.pdf
Hoffman, C. (2017). Accounting and auditing in the digital age. http://xbrlsite.azurewebsites.net
/2017/Library/AccountingAndAuditingInTheDigitalAge.pdf
ICAEW. (2018). Artificial intelligence and the future of accountancy. https:///www.icaew.com/
media/corporate/files/technical/information-technology/
Palmer, S. (2017). The 5 Jobs Robots Will Take First. https://www.shellypalmer.com/2017/02/5-
jobs-robots-will-take-first/
Phạm Đức Hiếu (2019). Nâng cao năng lực nghề nghiệp của người làm kế toán trong bối cảnh
CMCN 4.0: Nhìn từ góc độ đào tạo. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc gia: Kế toán - Kiểm
toán Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 - Cơ hội và thách thức, ĐHTM
10/2019.
22
Thực trạng hoạt động kiểm soát chất lượng đầu ra của sinh viên
ngành kế toán - kiểm toán tại các trường Đại học công lập Việt Nam
hiện nay
Vũ Thị Kim Anh1, Hoàng Thị Việt Hà2
1Khoa Kế toán, Đại học Công đoàn
2Khoa Kế toán - kiểm toán, Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: hoangthivietha@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.12 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 12/11/2019
Ngày nhận bài: 23/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2019
Tóm tắt
Mục đích của bài báo là tìm hiểu thực trạng hoạt động kiểm soát (HĐKS) chất lượng đầu
ra của sinh viên ngành kế toán kiểm toán tại các trường đại học công lập (ĐHCL) hiện nay.
Nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp thống kê mô tả kết hợp với phương pháp phỏng vấn
chuyên gia để đánh giá thực trạng KSNB chất lượng đầu ra của sinh viên ngành kế toán - kiểm
toán của các trường ĐHCL. Mẫu nghiên cứu được sử dụng để phân tích gồm 76 phiếu khảo sát
của các chuyên gia là Ban giám hiệu, Trưởng/phó các khoa/bộ môn, giảng viên đang công tác tại
một số trường ĐHCL và 15 phiếu phỏng vấn sâu các nhà tuyển dụng hiện đang sử dụng lao động đã
tốt nghiệp ngành kế toán - kiểm toán tại các trường này. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc phát huy
tính hiệu lực của HĐKS sẽ giúp các trường ĐHCL nâng cao chất lượng đầu ra cho sinh viên
ngành kế toán - kiểm toán.
Từ khoá: Chất lượng đầu ra, kế toán - kiểm toán, đại học công lập, hoạt động kiểm soát.
1. GIỚI THIỆU
Tại Hội nghị trực tuyến về công tác tuyển sinh năm 2019 và thực hiện Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Giáo dục đại học sáng 17/7/2019 Ông Mai Văn Trinh - Cục trưởng
Cục Quản lý chất lượng - Bộ GD&ĐT cho rằng: “Điểm đến của các trường đại học không phải là
tuyển sinh cũng không phải là quá trình đào tạo. Điểm đến phải là sản phẩm đầu ra như chỉ đạo
của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT và phải là chất lượng đào tạo theo đúng nhu cầu xã hội, tỷ lệ sinh viên
ra trường có việc làm”. Chất lượng giáo dục đại học (CLGDĐH) là một hệ thống tập hợp các yếu
tố đầu vào, quy trình đào tạo và yếu tố đầu ra nhằm cung cấp dịch vụ giáo dục thỏa mãn cho các
nhà tuyển dụng bằng cách trang bị cho người học các kiến thức, kỹ năng, đạo đức (Cheng,
1996). CLGDĐH được tạo nên từ nhiều thành phần như chất lượng GV, đặc điểm SV, nhân viên,
23
cơ sở vật chất, dịch vụ hỗ trợ, chương trình đào tạo, chất lượng giảng dạy, đánh giá khóa học,
nguồn lực học tập, nghiên cứu khoa học, hợp tác với doanh nghiệp. CLGDĐH không chỉ bị ảnh
hưởng từ yếu tố như bên ngoài như thể chế chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo, xu hướng phát
triển kinh tế (Dobre, Iuliana, 2015), mà còn chịu ảnh hưởng từ các yếu tố bên trong các trường
ĐH, mà cụ thể ở đây chính là KSNB. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng KSNB có ảnh hưởng đến
hiệu quả hoạt động, hiệu quả quản lý của các trường ĐH nói chung và ảnh hưởng đến
CLGDĐH nói riêng.
Các trường ĐHCL phải chịu trách nhiệm bằng cách đảm bảo chất lượng dịch vụ của chính
họ. Đó là cách duy nhất để các trường ĐHCL có thể có được niềm tin của xã hội vào khả năng
đáp ứng nhu cầu và mong đợi của xã hội về việc đào tạo nguồn nhân lực. Để đạt được mục tiêu
chất lượng giáo dục tốt hơn, các trường ĐHCL cần phải theo đuổi tính hiệu quả và và hiệu lực
của các hoạt động giáo dục thông qua công cụ quản lý hữu hiệu là KSNB. Việc thiết kế, xây
dựng và vận hành kiểm soát nội bộ (KSNB) hiệu quả các trường ĐHCL có thể tối ưu hóa việc
phân bổ tài nguyên, đẩy mạnh việc chia sẻ tài nguyên giữa các trường ĐHCL, nâng cao hiệu quả
sử dụng tài sản và phát huy có hiệu quả nguồn vốn của nhà trường, hoàn thành nhiệm vụ giáo
dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Trên khía cạnh của HĐKS, KSNB trong các trường ĐHCL phải bao gồm tất cả các hình thức
kiểm soát được thực hiện và thiết lập bởi ban quản lý theo các mục tiêu và quy định pháp lý
nhằm quản lý hoạt động nhà trường một cách hiệu quả.
Bài viết đánh giá thực trạng HĐKS (một trong các thành tố của KSNB) chất lượng đầu ra
của sinh viên ngành kế toán - kiểm toán tại các trường ĐHCL, qua đó đề xuất một số giải pháp
góp phần hoàn thiện HĐKS, nâng cao chất lượng đầu ra của sinh viên ngành kế toán kiểm toán
tại các trường ĐHCL hiện nay.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
KSNB đã được chứng minh là có ảnh hưởng đến việc đạt các mục tiêu của trường đại học
(Wang và cộng sự, 2010; Popescu và cộng sự, 2012). Việc thiết kế, xây dựng và vận hành KSNB
hiệu quả giúp cho việc đạt mục tiêu của các trường ĐH (bao gồm: tính hiệu lực, hiệu quả; an
toàn, toàn vẹn của tài sản; tính có thực, đầy đủ, hữu dụng của thông tin kế toán, thông tin quản lý
và việc tuân thủ luật, quy định quốc gia). Trong đó tính hiệu lực, hiệu quả của các trường ĐHCL
được đề cập đến chính là việc đảm bảo chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học nói riêng và
chất lượng giáo đục đại học nói chung. Nghiên cứu của Yudianti và cộng sự (2015) đã chỉ ra
rằng KSNB có ảnh hưởng đến việc quản trị các trường ĐHCL. Việc các trường ĐHCL có đầy đủ
thông tin và kiến thức trong việc thực hiện KSNB và quản lý rủi ro sẽ nâng cao chất lượng quản
lý đối với giáo dục ĐHCL. Ngoài ra, KSNB cũng được đề cập đến là một biện pháp hiệu quả để
quản lý tài chính tại các trường ĐHCL (Francis và các cộng sự, 2018; Holter và các cộng sự,
2014). Để giảm thiểu các rủi ro và gian lận có thể xảy ra trong quá trình hoạt động tài chính của
các trường ĐHCL, KSNB được yêu cầu là phải tự đánh giá nhằm tìm ra các quá trình hoạt động
kém hiệu quả, giảm thiểu các rủi ro và tìm cách tiết kiệm chi phí.
24
KSNB cũng được nhận định là có ảnh hưởng đến CLGDĐH. Trong một số nghiên cứu tiêu
biểu như nghiên cứu của Suwito Eko Pramono và các cộng sự (2018); Habib và các cộng sự
(2016), KSNB được đề cập là một yếu tố nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tại các trường đại
học. Các nghiên cứu này đã nhận định rằng việc sử dụng bộ tiêu chuẩn đánh giá CLGDĐH của
AUN-QA nhằm nâng cao CLGDĐH của các trường thông qua việc thay đổi tư duy và văn hóa
làm việc dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế, (2) sắp xếp lại năng lực quản lý và nhân lực theo tiêu
chuẩn giáo dục và đào tạo quốc tế, (3) sắp xếp lại quản lý các trường ĐH, (4) tăng cường mối
quan hệ với các tổ chức trong khu vực và quốc tế, và (5) tăng cường KSNB.
Việc tăng cường KSNB là một trong những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
nói chung chất lượng đầu ra tại các trường ĐHCL. Popescu và các cộng sự (2012) đã chỉ ra mối
liên hệ giữa KSNB và quản lý chất lượng ở các trường ĐHCL ở Romania, từ đó đề xuất cần xây
dựng một khuôn khổ chung để cải thiện cấu trúc và công cụ của KSNB cho các trường ĐHCL
đáp ứng các yêu cầu về đảm bảo chất lượng trong GDĐH.
Các yếu tố của KSNB cũng có những ảnh hưởng đến hoạt động cũng như hiệu quả của các
hoạt động trong các trường ĐHCL. Trên khía cạnh của HĐKS, KSNB trong các tổ chức giáo dục
phải bao gồm tất cả các hình thức kiểm soát được thực hiện (trong đó có kiểm toán nội bộ) và
thiết lập bởi ban quản lý theo các mục tiêu và quy định pháp lý nhằm quản lý hoạt động nhà
trường một cách hiệu quả (Morariu và cộng sự, 2004). HĐKS cũng được chứng minh là có ảnh
hướng đến các hoạt động của trường đại học như hoạt động giảng dạy, hoạt động nghiên cứu
(Duh, Rong-ruey và các cộng sự, 2014; Dan Xia và cộng sự, 2017).
Như vậy, các nghiên cứu trên cũng đã chỉ ra có mối quan hệ giữa KSNB hoặc từng yếu tố
của KSNB ảnh hưởng đến các thành tố của CLGDĐH, có nghiên cứu cũng chứng minh được
KSNB đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện CLGDĐH. Trong phạm vi bài viết, nhóm tác
giả đánh giá thực trạng HĐKS thuộc KSNB và chất lượng đầu ra của sinh viên ngành kế toán -
kiểm toán tại các trường ĐHCL hiện nay, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm tăng cường tính
hiệu lực của HĐKS để nâng cao chất lượng đầu ra của sinh viên ngành kế toán - kiểm toán nói
riêng và CLGDĐH nói chung.
3. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG ĐẦU RA CỦA
SINH VIÊN TRONG MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
3.1. Chất lượng đầu ra của sinh viên
Chất lượng đầu ra của sinh viên (CĐR) như lời cam kết của các trường đại học đối với xã
hội về những kiến thức, kĩ năng, thái độ, hành vi, qua đó, khẳng định những năng lực lao động
cụ thể mà sinh viên sẽ thực hiện được sau khi được đào tạo tại nhà trường. CĐR là những quy
định về nội dung kiến thức chuyên môn; kĩ năng thực hành, khả năng nhận thức công nghệ và
giải quyết vấn đề; công việc mà người học có thể đảm nhận sau khi tốt nghiệp và các yêu cầu đặc
thù khác đối với từng trình độ, ngành đào tạo. Theo Lê Chi Lan (2015), người sử dụng lao động
đưa ra những yêu cầu chung về kiến thức, kĩ năng, phẩm chất đạo đức và kinh nghiệm thực tiễn
đối với sinh viên tốt nghiệp (Hình 1).
25
Hình 1. Yêu cầu chung của người sử dụng lao động đối với sinh viên tốt nghiệp
Chất lượng của sinh viên là nhân tố cơ bản phản ánh CLGDĐH. Chất lượng của SV là kết
quả tích lũy từ yếu tố đầu vào đến kết thúc quá trình đào tạo. Chất lượng sinh viên cần đạt chuẩn
đầu ra theo yêu cầu, mục tiêu của nhà trường, đồng thời phải đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Giáo dục đại học là một quá trình, vì vậy các tiêu chí đánh giá CLGDĐH phải bao quát được các
yếu tố đầu vào, quy trình và đầu ra. Tổng kết từ các nghiên cứu của Bogue (1998), Srikanthan và
cộng sự (2007), Harvey (2005), AUN-QA (2015), Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT và Thông
tư số12/2017/TT-BGDĐT có thể khái quát các tiêu chí đánh giá chất lượng đầu ra của sinh viên
đại học bao gồm: năng lực của SV tốt nghiệp, phần trăm SV tốt nghiệp có việc làm; lương, thu
nhập trung bình, sự hài lòng của đơn vị tuyển dụng; phần trăm SV quay lại trường tiếp tục theo
học ở bậc học cao hơn; phần trăm SV tốt nghiệp theo hoc sau ĐH tại các trường khác... Sinh
viên ra trường đạt yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ sống là nhân tố góp phần nâng cao
CLGDĐH ở các trường ĐHCL.
Một trong những định hướng về đổi mới toàn diện giáo dục đại học Việt Nam là cung cấp
nguồn nhân lực được đào tạo chất lượng, thích ứng nhanh với thị trường lao động mà đặc biệt thị
trường lao động mang tính khu vực và quốc tế hiện nay. Đánh giá năng lực đầu ra của người học
là khâu quan trọng, vì thông qua kết quả đánh giá có thể đánh giá chất lượng chương trình, chất
lượng cơ sở đào tạo, từ đó có những điều chỉnh cần thiết để ngày càng nâng cao chất lượng quá
trình giáo dục đại học, góp phần nâng cao chất lượng và cam kết chất lượng đào tạo với xã hội.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi người lao động có “tính tổng quát” hơn là “tính cụ thể”,
thích nghi được công nghệ mới và những thay đổi có tính tổ chức, cần có đủ cả kỹ năng cứng và
kỹ năng mềm để đảm bảo cho thành công. Vì vậy, các trường đại học đào tạo chuyên ngành kế
toán - kiểm toán cần tiếp cận đào tạo trên cơ sở khung năng lực mà doanh nghiệp cần. Theo Báo
cáo của Hội đồng báo cáo tài chính Anh quốc đưa ra 7 năng lực chính mà các chuyên gia kế toán
kiểm toán tương lai cần có là: (1) Năng lực kỹ thuật và đạo đức (TEQ): Các kỹ năng và khả năng
thực hiện các hoạt động theo một tiêu chuẩn xác định cùng lúc duy trì các tiêu chuẩn cao nhất về
tính chính trực, độc lập và hoài nghi; (2) Trí thông minh (IQ): Khả năng tiếp thu và sử dụng kiến
26
thức: suy nghĩ, lập luận và giải quyết các vấn đề; (3) Sáng tạo (CQ): Khả năng sử dụng kiến thức
hiện có trong một tình huống mới, để kết nối, khám phá các kết quả tiềm năng và tạo ra các ý
tưởng mới; (4) Công nghệ số (DQ): Nhận thức và ứng dụng các công nghệ, khả năng, thực hành,
chiến lược và văn hoá công nghệ số đã có và đang xuất hiện; (5) Trí tuệ cảm xúc (EQ): Khả năng
xác định cảm xúc của bạn và của người khác, khai thác - áp dụng - điều chỉnh và quản lý chúng
vào công việc; (6) Tầm nhìn (VQ): Khả năng đoán trước các xu hướng trong tương lai một cách
chính xác bằng cách ngoại suy từ các xu hướng và sự kiện hiện tại và sáng tạo; (7) Kinh nghiệm
(XQ): Khả năng và kỹ năng hiểu được mong đợi của khách hàng, đáp ứng các kết quả được
mong muốn và tạo ra giá trị.
3.2. Hoạt động kiểm soát chất lượng đầu ra của sinh viên
Jenkinson (2008) đã mô tả các HĐKS là các chính sách và thủ tục giúp đảm bảo rằng các
chỉ thị quản lý được thực hiện. HĐKS được thực hiện ở tất cả các cấp của đơn vị, ở các giai đoạn
khác nhau trong quá trình kinh doanh và trong môi trường công nghệ. Chúng có thể bao gồm
một loạt các hoạt động bằng tay hoặc tự động như cấp phép và phê duyệt, xác minh, đối chiếu và
đánh giá hiệu quả kinh doanh. Phân công nhiệm vụ thường được tích hợp vào việc lựa chọn và
phát triển của HĐKS. HĐKS gồm có: (i) Chính sách kiểm soát: Là những nguyên tắc cần làm, là
cơ sở cho việc thực hiện các thủ tục kiểm soát. Chính sách kiểm soát có thể được tài liệu hóa đầy
đủ và có hệ thống hoặc được lưu hành theo kiểu truyền miệng và (ii) Thủ tục kiểm soát: Là
những quy định cụ thể để thực thi chính sách kiểm soát. Một thủ tục sẽ không có tác dụng nếu áp
dụng một cách máy móc, không tập trung vào những yêu cầu nhà quản lý đã đề ra thông qua các
chính sách. Việc thiết lập các thủ tục kiểm soát cần phải cân đối mối quan hệ giữa lợi ích và chi
phí, cân đối giữa HĐKS và rủi ro phát sinh. Theo INTOSAI (2013) HĐKS chất lượng đầu ra của
sinh viên cần dựa trên 3 cơ sở sau:
Thứ nhất, Các HĐKS được thiết lập trên cơ sở chọn lọc để phù hợp giảm thiểu rủi ro, đạt được
mục tiêu chuẩn đầu ra như: (1) Xem xét chất lượng của hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa
học và các hoạt động khác của Nhà trường; (2) Kiểm soát quy trình đào tạo, giảng dạy, nghiên
cứu khoa học; (3) Nhà quản lý thường xuyên đánh giá tính hữu hiệu của các hoạt động đề ra;
(4) Các khoa chuyên ngành và các phòng ban chức năng đã xây dựng các tiêu chí và qui trình
kiểm soát nhân viên trong bộ phận hợp lý.
Thứ hai, Chọn lựa và phát triển biện pháp kiểm soát chung thông qua sử dụng công nghệ
thông tin vào HĐKS hướng đến nâng cao chất lượng đầu ra của sinh viên thông qua việc:
(1) Nhà trường sử dụng hệ thống công nghệ thông tin trong việc kiểm soát hoạt động giảng dạy
của giảng viên và kết quả học tập của sinh viên; (2) Thiết lập quản lý bảo mật trong HĐKS.
Thứ ba, Phát triển tính hữu hiệu HĐKS thông qua các chính sách thủ tục: (1) Nhà quản lý
thiết lập các thủ tục cần thiết để kiểm soát chất lượng giảng dạy và chất lượng công việc của các
khoa, phòng ban; (2) Nhà quản lý thiết lập trách nhiệm đối với cán bộ quản lý, thực hiện kịp thời
các HĐKS và khắc phục kịp thời các sai sót trong hoạt động; (3) Nhà quản lý xem xét và sử dụng
cán bộ, giảng viên có năng lực và trách nhiệm tham gia vào hoạt động giám sát; (4) Nhà quản lý
có đánh giá lại các chính sách và thủ tục đã ban hành.
27
Các trường ĐHCL là các tổ chức phi lợi nhuận, và họ không lấy lợi nhuận tối đa hóa làm
mục tiêu của mình, nhưng để đạt được mục tiêu chất lượng giáo dục tốt hơn, họ cũng cần theo
đuổi tính hiệu quả và và hiệu lực của các hoạt động giáo dục. Vơi các chính sách và thủ tục
giúp đảm bảo rằng các chỉ thị quản lý được thực hiện của HĐKS, nhà trường có thể hoàn thành
tốt nhiệm vụ giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học, nâng cao CLGDĐH, phục vụ xã hội với
chất lượng đầu ra cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Nghiên cứu của Habib và các cộng sự (2016)
đã chứng minh KSNB là công cụ hiệu quả để tăng cường CLGDĐH, Pramono và cộng sự (2018)
cho rằng tăng cường HĐKS là một trong những biện pháp nhằm nâng cao CLGDĐH nói chung
và chất lượng đầu ra của sinh viên nói riêng.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp thu thập dữ liệu: Bài viết sử dụng dữ liệu sơ cấp trên cơ sở các báo cáo kết
quả chuẩn đầu ra của một số trường ĐHCL đã được công bố kết quả kiểm định chất lượng giáo
dục và dữ liệu thu thập từ bảng câu hỏi khảo sát được gửi đến 80 chuyên gia là Ban giám hiệu,
Trưởng/phó các khoa/bộ môn, giảng viên đang công tác tại trường ĐH Công Đoàn, ĐH Công
nghiệp Hà Nội và ĐH Thương mại có trình độ từ thạc sỹ trở lên và thâm niên công tác trên 5
năm có kinh nghiệm trong quản lý, giảng dạy và nghiên cứu. Kết quả thu lại 76 bảng khảo sát
hợp lệ, đủ điều kiện để tiến hành phân tích dữ liệu. Mẫu khảo sát được phân loại qua bảng 1. Ngoài
ra, bài viết còn sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu 15 nhà tuyển dụng hiện đang sử dụng lao động
đã tốt nghiệp ngành kế toán - kiểm toán tại các trường này.
Bảng 1: Đặc điểm đối tượng khảo sát
Theo vị trí công việc Số
lượng
Tỷ lệ
(%) Theo đơn vị khảo sát
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Ban Giám hiệu 5 6,6 ĐH Công đoàn 25 32,9
Lãnh đạo khoa, bộ môn, phòng ban 26 34,2 ĐH Công nghiệp HN 24 31,6
Giảng viên, nhân viên 45 59,2 ĐH Thương mại 27 35,5
Tổng cộng 76 100 Tổng cộng 76 100
Phương pháp xử lý số liệu: Các câu hỏi liên quan đến ảnh hưởng HĐKS đến chất lượng đầu
ra của sinh viên ngành kế toán - kiểm toán được đo lường bằng thang đo Likert 5 mức độ được sử
dụng cho toàn bộ nội dung chính của bảng câu hỏi: 1 - hoàn toàn không đồng ý, 2 - không đồng
ý, 3 - bình thường, 4 - đồng ý, 5 - hoàn toàn đồng ý. Tiếp theo nhóm tác giả đã tổng hợp và dùng
Excel để tính điểm trung bình cho từng yếu tố, căn cứ đánh giá giá trị trung bình được thể hiện
theo nguyên tắc sau: Giá trị khoảng cách = (Maximum - Minimum)/n = (5-1)/5 = 0.8
Ý nghĩa các mức như sau:
1.0 - 1.80: Rất không đồng ý 1.81 - 2.60: Không đồng ý
2.61 - 3.40: Không ý kiến/ Trung bình…
3.41 - 4.20: Đồng ý 4.21 - 5.00: Rất đồng ý
28
5. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG ĐẦU RA CỦA SINH VIÊN
NGÀNH KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN TẠI CÁC TRƯỜNG ĐHCL VIỆT NAM HIỆN NAY
Kết quả khảo sát về thực trạng HĐKS chất lượng đầu ra của sinh viên ngành kế toán - kiểm
toán tại các trường ĐHCL được thể hiện tại bảng 2 như sau:
Bảng 2. Kết quả khảo sát thực trạng HĐKS chất lượng đầu ra
của sinh viên ngành kế toán kiểm toán
Nhân tố Biến thành phần Trung
bình
Mức
đánh giá
1. Các HĐKS
được thiết lập trên
cơ sở chọn lọc để
phù hợp giảm
thiểu rủi ro, đạt
được mục tiêu
1a. Các HĐKS được thiết lập nhằm xem xét chất lượng
của hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và các
hoạt động khác của Nhà trường
3,83 4
1b. Các HĐKS được thiết lập nhằm kiểm soát quy trình
đào tạo, giảng dạy, nghiên cứu khoa học ngành kế toán -
kiểm toán
3,78 4
1c. Nhà quản lý thường xuyên đánh giá tính hữu hiệu
của các chương trình đào tạo nhằm đạt chuẩn đầu ra 4,12 3
1d. Trưởng khoa chuyên ngành có tiêu chí đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên hợp lý. 3,91 4
1e. Nhiệm vụ của cán bộ nhân viên trong các phòng chức
năng được soát xét bởi người có thẩm quyền. 4,02 4
1f. Quy trình đánh giá chất lượng giảng dạy được xây
dựng theo quy chế của BGD&ĐT 4,29 5
2. Chọn lựa và phát
triển biện pháp
kiểm soát chung
thông qua sử dụng
công nghệ thông tin
vào HĐKS
2a. Nhà trường sử dụng hệ thống công nghệ thông tin
trong việc kiểm soát hoạt động giảng dạy của GV và kết
quả học tập của sinh viên.
3,04 3
2b. Thiết lập quản lý bảo mật trong HĐKS 3,68 4
3. Phát triển
HĐKS thông qua
các chính sách thủ
tục
3a. Nhà quản lý thiết lập các thủ tục cần thiết để kiểm
soát chất lượng giảng dạy và chất lượng công việc của
các khoa, phòng ban.
3,37 3
3b. Nhà quản lý thiết lập trách nhiệm đối với cán bộ
quản lý, thực hiện kịp thời các HĐKS và khắc phục kịp
thời các sai sót trong hoạt động
4,32 4
3c. Nhà quản lý có đánh giá lại các chính sách và thủ tục
đã ban hành 3,98 4
(Nguồn: kết quả khảo sát của nhóm tác giả)
29
Thống kê mô tả về HĐKS tại bảng 2 cho thấy, mức độ đánh giá và mức độ tập trung trong
câu trả lời của người tham gia vào mẫu điều tra. Hầu hết giá trị trung bình của các câu trả lời đều
nằm trong khoảng từ 3,04 tới 4,32 cho thấy, người được điều tra phần lớn đồng ý với nhận định
về thực trạng các yếu tố thuộc HĐKS có ảnh hưởng đến chất lượng đầu ra của sinh viên ngành
kế toán - kiểm toán tại các trường ĐHCL. Ý kiến của người được phỏng vấn có tính thống nhất
cao trước các ý kiến về Quy trình đánh giá chất lượng giảng dạy được xây dựng theo quy chế
của BGD&ĐT (mean = 4,29) và Nhà quản lý thường xuyên đánh giá tính hữu hiệu của các
chương trình đào tạo nhằm đạt chuẩn đầu ra (mean = 4,12). Chính vì vậy, sinh viên ngành kế
toán - kiểm toán luôn được các giảng viên tạo điều kiện cũng như quan tâm hỗ trợ tốt nhất để
phát huy tối đa tính sáng tạo, hiểu biết trong học tập và nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, sinh
viên thường xuyên được áp dụng các kiến thức kỹ năng vào thực tế, vì vậy sinh viên ngành kế
toán - kiểm toán có ưu thế cạnh tranh rất lớn so với sinh viên ngành khác tại các cơ sở đào tạo
sau khi tốt nghiệp. Về tỷ lệ có việc làm sau tốt nghiệp, theo báo cáo số liệu khảo sát của các
trường hàng năm cho thấy, sinh viên ngành kế toán - kiểm toán có việc làm với tỷ lệ ở mức cao
từ 95% trở lên. Môi trường làm việc theo các lĩnh vực được cụ thể hóa qua Hình 2.
Nguồn:Kết quả điều tra của nhóm tác giả
Hình 2. Môi trường làm việc của SV tốt nghiệp ngành kế toán - kiểm toán (%)
Qua Hình 2 cho thấy, sinh viên tốt nghiệp ngành kế toán - kiểm toán làm ở nhiều môi
trường khác nhau. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với những kiến thức mà các em được
đào tạo từ trong nhà trường. Chiếm tỷ lệ cao sinh viên làm trong môi trường doanh nghiệp tư
nhân, công ty TNHH (68,3%). Ngoài ra, sự đa dạng của môi trường lao động kết hợp với sự
đảm bảo về điều kiện công việc, thu nhập... đã thu hút sinh viên tốt nghiệp vào làm việc. Mức
thu nhập bình quân hàng tháng được thể hiện qua Hình 3.
Nguồn: Kết quả điều tra của nhóm tác giả
Hình 3. Thu nhập bình quân tháng của SV tốt nghiệp kế toán - kiểm toán (%)
30
Thu nhập luôn là một trong những đặc điểm nghề nghiệp được quan tâm trong các điều
tra thông tin việc làm. Thông tin về mức thu nhập có nhiều ý nghĩa, nó phản ánh kinh nghiệm
làm việc, khả năng đáp ứng yêu cầu của công việc, cơ hội phát triển nghề nghiệp, mức độ ứng
dụng các kiến thức được đào tạo ở đại học vào thực tiễn cũng như phản ánh môi trường làm
việc mà sinh viên tham gia. Qua Hình 3 cho thấy, thu nhập bình quân hàng tháng của sinh tốt
nghiệp chiếm tỷ lệ cao từ trên 6 triệu - 8 triệu (51,2%). Có thể nói đây l mức thu nhập không
cao, nhưng hoàn toàn phù hợp với sinh viên mới tốt nghiệp, và phù hợp với mức thu nhập
chung của thị trường lao động hiện nay.
Khi phỏng vấn với các nhà tuyển dụng (12/15) đang trực tiếp sử dụng nguồn nhân lực kế
toán, kiểm toán từ các trường ĐHCL cũng đều nhận định ngành kế toán - kiểm toán là một
trong các ngành có điểm trúng tuyển đại học cao nhất trường trong 5 năm gần đây, có nhiều
sinh viên là thủ khoa đầu vào của các khối. Cùng với đó sinh viên được đào tạo bài bản và
được thực hành, thực tập thực tế có sự đánh giá giám sát chặt chẽ trong suốt quá trình học tại
Trường, Khoa. Chính vì vậy, chất lượng đầu ra của sinh ra luôn được đảm bảo. Tuy nhiên, các
nhà tuyển dụng cho rằng chất lượng sản phẩm đào tạo người lao động cũng có những hạn chế
nhất định như: (i) 11/15 ý kiến cho rằng: Kiến thức và tư duy của người làm kế toán chủ yếu
mang tính nghiệp vụ và tuân thủ, tính chủ động, sáng tạo và độc lập về chuyên môn của người
làm kế toán, kiểm toán còn hạn chế; (ii) 13/15 ý kiến nhận định tác phong làm việc và tư duy làm
việc còn chưa thực sự chuyên nghiệp, một bộ phận không nhỏ người làm kế toán có tư duy an
phận, ít nỗ lực trong phấn đấu về chuyên môn và phát triển sự nghiệp; (iii) 9/12 ý kiến cho rằng
năng lực hội nhập của cộng đồng người làm kế toán, kiểm toán dù đã có cải thiện đáng kể trong
những năm gần đây, song nhìn chung còn yếu, chưa sẵn sàng tham gia vào thị trường lao động
và dịch vụ trong khu vực và trên phạm vi toàn cầu; và (iv) 8/10 ý kiến cho biết thêm tinh thần
khởi nghiệp trong lĩnh vực kế toán kiểm toán đã được khơi gợi trong thời gian qua song vẫn còn
hạn chế so với các ngành khác.
6. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu cho thấy các HĐKS tại các trường ĐHCL đã tập
trung vào công tác giảng dạy và học tập của giảng viên và sinh viên. Tuy nhiên bản thân HĐKS
trong khối trường này còn bộc lộ nhiều yếu điểm cần được khắc phục như các thủ tục kiểm soát
chưa toàn diện và đầy đủ, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào kiểm soát còn ở mức độ trung
bình hay các tiêu thức đánh giá chất lượng và kết quả của các hoạt động còn cứng nhắc, thiếu sự
linh hoạt,… Để khắc phục các tồn tại trên, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tính
hiệu lực của HĐKS để các trường ĐHCL có thể nâng cao được chất lượng đầu ra cho sinh viên
ngành kế toán - kiểm toán, cụ thể như sau:
Một là, Các HĐKS cần được thiết lập trên cơ sở chọn lọc để phù hợp, giảm thiểu rủi ro và
đạt được mục tiêu. Nhằm nâng cao chất lượng đầu ra cho sinh viên ngành kế toán-kiểm toán thì
các thủ tục kiểm soát cần được thiết lập và vận hành để phù hợp với từng nội dung hoạt động của
nhà trường. Nhà trường cần đổi mới về tiêu thức đánh giá về chuẩn đầu ra cho sinh viên để phù
hợp với tiêu chuẩn của Việt Nam và thế giới. Ngoài ra các thủ tục kiểm soát cần được thiết kế để
có thể nhận diện, phòng ngừa hay hạn chế các rủi ro có thể xảy ra đối với nhà trường.
31
Hai là, Phát triển HĐKS thông qua các chính sách thủ tục, nhằm nâng cao tính hiệu lực
của các HĐKS. Ở các trường ĐHCL hiện nay, HĐKS mới chỉ tập trung vào việc tuân thủ các
quy định và sự đầy đủ các hồ sơ tài liệu chứ chưa chú trọng đến các khía cạnh khác của HĐKS
như việc thực hiện xem xét, đánh giá lại tính hiệu lực của các thủ tục đã ban hành, hay cải tiến,
phát triển các HĐKS mới để tăng cường hiệu quả kiểm soát. Chính vì vậy để nâng cao tính hiệu
lực của HĐKS, các nhà quản lý của các trường luôn phải tìm hiểu, nghiên cứu để phát triển các
HĐKS phù hợp với điều kiện nhà trường cũng như bối cảnh thực tế, và luôn thực hiện việc đánh
giá tính hiệu lực của các thủ tục kiểm soát nhằm có những điều chỉnh kịp thời.
Ba là, Chọn lựa và phát triển biện pháp kiểm soát chung thông qua sử dụng công nghệ
thông tin vào HĐKS. Qua kết quả nghiên cứu, đây chính là yếu điểm lớn nhất của HĐKS. Việc
các trường ĐHCL thiết lập các biện pháp kiểm soát thông qua công nghệ thông tin còn nhiều hạn
chế. Trong điều kiện phát triển công nghệ thông tin như hiện nay, việc áp dụng công nghệ thông
tin trong việc quản lý và giám sát quá trình giảng dạy, học tập, nghiên cứu của giảng viên, sinh
viên, của đơn vị là yêu cầu cần thiết đối với mỗi trường ĐHCL nhằm gia tăng CLGDĐH nói
chung và chất lượng đầu ra của sinh viên nói riêng. Vì vậy, các trường cần phải hiểu rõ về kiểm
soát nội bộ trong môi trường công nghệ thông tin. Cụ thể, các trường ĐHCL cần quan tâm đến
hai loại kiểm soát trong môi trường công nghệ thông tin là kiểm soát chung (gồm các thủ tục liên
quan đến việc phát triển chương trình và cơ sở hạ tầng công nghệ, quản lý dữ liệu và hoạt động
của máy tính, đảm bảo an toàn cho hệ thống) và kiểm soát ứng dụng (gồm các hoạt động kiểm
soát gắn liền với từng ứng dụng xử lý cụ thể từ khâu thu thập dữ liệu đầu vào, hoạt động xử lý,
lưu trữ dữ liệu đến cung cấp thông tin đầu ra).
Việc tăng cường tính hiệu quả và hiệu lực của HĐKS sẽ giúp các trường ĐHCL nâng cao
chất lượng dịch vụ đào tạo của mình. Việc nghiên cứu thực trạng HĐKS chất lượng đầu ra của
sinh viên ngành kế toán - kiểm toán của các trường ĐHCL ở Việt Nam, qua đó đề xuất các giải
pháp tăng cường tính hiệu quả và hiệu lực của HĐKS để nâng cao chất lượng đầu ra, giúp các
trường cải thiện được hình ảnh và vị thế của mình bối cảnh giáo dục đại học hiện nay, từ đó tiệm
cận đến các tiêu chuẩn CLGDĐH của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy bài viết này
đã đạt một số kết quả như đã nêu ở trên nhưng bài viết vẫn còn hạn chế phạm vi nghiên cứu, đối
tượng nghiên cứu của bài viết là HĐKS chất lượng đầu ra của các trường ĐHCL. Vì vậy các
nghiên cứu tiếp theo có thể mở rộng phạm vi nghiên cứu để xác định tác động của KSNB đến
chất lượng đầu ra hoặc CLGDĐH cho đối tượng các trường đại học ngoài công lập nói riêng và
các trường đại học ở Việt Nam nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
AUN-QA (2015), Asean university network quality assurance, Guide to AUN-QA assessment at
programmelevel (Version 3), AUN
Báo cáo thực tiễn và xu hướng ngành kế toán tháng 6/2016 của Hội đồng báo cáo tài chính Anh
quốc - Key Facts and Trends in the Accountancy Profession June 2016 report, Financial
Reporting Council UK. https://www.frc.org.uk/Our-Work/Publications /Professional-
Oversight /Key-Facts-and- Trends-2016.pdf.
32
Bogue, E.G. (1998), Quality assurance in higher education: the evolution of systems and design
ideals, New Directions for Institutional Research, 99, 7-18.
Dan XIA, Guo-Liang DU (2017), New Opinions on the Construction of Internal Control in
Chinese Universities: Five Factors Based on Internal Control, International Conference on
Education and Social Development (ICESD 2017).
Duh, R.-R.; Chen, K.-T.; Lin, R.-C., Kuo, L.-C. (2014), Do internal controls improve operating
efficiency of universities, Annals of Operations Research, 221(1):1-23
INTOSAI GOV 9100, Guidelines for Internal Control Standards for the Pubic sector (2013).
Yudianti, Fr. N., Suryandari, I. H. (2015), Internal Control and Risk Management in Ensuring
Good University Governance, Journal of Education and Vocational Research, Vol. 6, No.
2, pp. 6-12, June 2015 (ISSN 2221-2590)
Francis, Sambo; Imiete, Benneth Umoghani (2018), Internal control system as a mechanis for
effective fund management of universities in Bayelsa state, Nigeria, Global Journal of Social
Sciences; Calabar, Vol. 17, Iss. 1, (2018): 77-91.
Habib, Maryam Abdullahi; Jalloh, Abdul Amid Aziz (2016), Internal control in Teriary
Institutions: Ensuring a continuous inprovement in the educational system in Nigeria,
International Journal of Information, Business and Management, 8.1 (Feb 2016): 223-241.
Harvey, L. (2005), A history and critique of quality evaluation in the UK, QualityAssurancein
Education, 13(4), 263-276. http://dx.doi.org/10.1108/09684880510700608
Holter, Norma C; Seganish, W Michael (2014), An internal controls tune - up for colleges
&universities will achieve cost savings & greater efficiency, Academy of Educational
Leadership Journal,18.4 (2014): 245-258
Morariu, A.; Suciu, G. (2004), The Accounting of the Public Institutions, Universitara Publishing
House, Bucharest, p.19.
Jenkinson, N., (2008), Strengthening Regimes for Controlling Liquidity Risks, Some Lessons
from the Recent Turmoil.
Lê Chi Lan (2015). Mức độ đáp ứng của sinh viên tốt nghiệp khối ngành kinh tế so với yêu cầu
của người sử dụng lao động. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Số 115, 39-41, 55.
Popescu, M., Dascalu, A., Bulletin (2012). Improving the internal control system within
universities. Economic Sciences, Series, Vol 5.1 (2012): 101-106.
Srikanthan, G., & Dalrymple, J. (2007), A conceptual overview of a holistic model for quality in
higher education, International Journal of Educational Management, 21(3), 173-193.
http://dx.doi.org/10.1108/09513540710738647.
Pramono, S. E., Solikhah, B.; Widayanti, D. V., Yulianto, A. (2018), Strategy to Improve
Quality of Higher Education Institution Based on AUN-QA Standard, International
Educative Research Foundation and Publisher, Vol. 6, No. 09, 141-152.
Wang, Jun (2015). An Empirical Study of the Effectiveness of Internal Control and Influencing
Factors. Management & Engineering, 18: 8-13.
33
Năng lực nghề nghiệp của kiểm toán nội bộ và định hướng đào tạo
sinh viên ngành kiểm toán tại Việt Nam
Nguyễn Thị Hồng Nga
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: nguyenthihongnga@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.63 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 22/11/2019
Ngày nhận bài: 04/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 25/11/2019
Tóm tắt
Kiểm toán nội bộ đã và đang phát triển mạnh tại nhiều quốc gia trên thế giới nhất là từ khi
chuyển từ chức năng đảm bảo chất lượng và hoạt động tuân thủ sang đảm bảo sự hiệu quả của
quản lý, quản trị rủi ro và kiểm soát nội bộ. Bài viết phân tích sự thay đổi vai trò của kiểm toán
nội bộ trước các yêu cầu mới của môi trường kinh doanh, trên cơ sở dựa vào khung năng lực của
kiểm toán nội bộ do viện kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ và Australia xây dựng, bài viết khuyến nghị
một số ý kiến đối với đào tạo ngành kiểm toán của các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
đáp ứng yêu cầu của khung năng lực nghề nghiệp.
Từ khóa: Khung năng lực, kiểm toán nội bộ, kiểm soát, quản trị rủi ro.
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Kiểm toán nội bộ phát triển không ngừng với sự tiến bộ của khoa học quản lý sau chiến
tranh thế giới thứ II. Giai đoạn đầu, kiểm toán nội bộ tương tự như kiểm toán tài chính nhằm
đảm bảo chất lượng và hoạt động tuân thủ. Với việc thực thi Đạo luật Sarbanes-Oxley (2002),
giá trị của kiểm toán nội bộ đã được nâng cao vì nhiều kiểm toán viên nội bộ sở hữu các kỹ năng
cần thiết để giúp các công ty đáp ứng các yêu cầu của pháp luật. Kiểm toán nội bộ đã và đang
phát triển mạnh tại nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là tại các nước phát triển, cho đến nay
kiểm toán nội bộ được phát triển với vai trò là đảm bảo sự hiệu quả của quản lý, quản trị rủi ro
và kiểm soát nội bộ.
Tại Việt Nam, sự ra đời của kiểm toán nội bộ tại Việt Nam được đánh dấu bằng việc Bộ
Tài chính ban hành Quyết định số 832/1997/QĐ-BTC về việc ban hành Quy chế Kiểm toán nội
bộ áp dụng cho doanh nghiệp nhà nước; Thông tư số 171/1998/TT-BTC ngày 22/12/1998 hướng
dẫn thực hiện kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp Nhà nước. Hệ thống kiểm toán nội bộ áp
dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước, nó bao gồm các hoạt động: Đánh giá, quản lý và giám sát
tất cả các cơ quan và tổ chức công để đảm bảo hiệu quả hoạt động, quản trị của đơn vị. Luật Kế
34
toán sửa đổi có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2017, lần đầu tiên quy định về kiểm toán nội bộ. Trước
đó, tại Điều 39 của Luật Kế toán (2015), kiểm toán nội bộ được nhắc đến là việc kiểm tra, đánh
giá và giám sát tính đầy đủ, phù hợp và hiệu quả của kiểm soát nội bộ. Năm 2019, Bộ Tài chính
ban hành Nghị định số 05/2019/NĐ-CP về kiểm toán nội đánh dấu sự phát triển của kiểm toán
nội bộ ở Việt Nam. Nghị định về kiểm toán nội bộ được ban hành và có hiệu lực cho thấy sự cần
thiết phải tổ chức kiểm toán nội bộ ở Việt Nam trên phạm vi rộng hơn không chỉ dừng lại ở
doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại như trước đây. Bài viết dưới góc nhìn đào tạo,
tập trung vào xem xét khung năng lực của kiểm toán nội bộ, từ đó khuyến nghị cho đào tạo
ngành kiểm toán của các trường đại học Việt Nam.
2. CHỨC NĂNG CỦA KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG TỔ CHỨC
Giai đoạn đầu phát triển, kiểm toán nội bộ tương tự như kiểm toán tài chính, mục tiêu chính
nhằm đảm bảo chất lượng và tuân thủ. Trong những năm đầu, sau khi Viện kiểm toán nội bộ Hoa
Kỳ (IIA) được thành lập (1941), kiểm toán nội bộ vẫn được coi là một phần mở rộng, liên quan
chặt chẽ đến công việc của kiểm toán viên bên ngoài, họ thường được yêu cầu hỗ trợ kiểm toán
viên bên ngoài trong việc đánh giá hoặc thực hiện báo cáo tài chính. Kiểm toán viên nội bộ đóng
một vai trò khá khiêm tốn trong các tổ chức và chỉ có trách nhiệm hạn chế trong toàn bộ phổ quản
lý chung của doanh nghiệp (Moeller & Witt, 1999). Trong quá trình phát triển, định nghĩa mới về
kiểm toán nội bộ được xây dựng để phù hợp hơn với vai trò và trách nhiệm mở rộng nghề nghiệp.
Theo định nghĩa được phổ biến nhất hiện nay về kiểm toán nội bộ của IIA:
“Kiểm toán nội bộ là một hoạt động đảm bảo và tư vấn độc lập, khách quan được thiết kế
nhằm gia tăng giá trị và cải thiện các hoạt động của tổ chức. Kiểm toán nội bộ giúp cho tổ chức
đạt được các mục tiêu của mình bằng cách áp dụng phương pháp tiếp cận có tính nguyên tắc và
hệ thống nhằm đánh giá và nâng cao hiệu quả của các quy trình quản lý rủi ro, kiểm soát và
quản trị”.
So với các quan điểm trước đây về kiểm toán nội bộ là tập trung vào đảm bảo chất lượng
và tính tuân thủ thì định nghĩa hiện nay thừa nhận mục tiêu cuối cùng của kiểm toán nội bộ nói
chung và các chức năng kiểm toán nội bộ nói riêng là bổ sung giá trị cho tổ chức bằng cách cung
cấp dịch vụ tư vấn và đảm bảo. Đặc biệt, các dịch vụ này cung cấp giá trị thông qua việc đánh
giá và cải thiện hiệu quả của tổ chức, các quy trình quản lý, kiểm soát và quản trị rủi ro. Quan
điểm này nhấn mạnh cam kết nghề nghiệp phục vụ nhu cầu của tổ chức. Phạm vi kiểm toán nội
bộ trong một tổ chức rất rộng và có thể liên quan đến các vấn đề như quản trị rủi ro của tổ chức,
quản trị hiệu quả (bao gồm bảo vệ tài sản), độ tin cậy của báo cáo tài chính và hoạt động quản lý
(Wood & David A, 2009; 2013) và tuân thủ luật pháp, quy định. Kiểm toán nội bộ cũng có thể
liên quan đến việc thực hiện kiểm toán gian lận chủ động để xác định các hành vi gian lận tiềm
ẩn; tham gia điều tra gian lận dưới sự chỉ đạo của các chuyên gia điều tra gian lận và thực hiện
kiểm toán gian lận sau điều tra để xác định các sự cố kiểm soát và thiết lập tổn thất tài chính.
Andrew & Marjan (2015) trong nghiên cứu “Một cái nhìn mới về kiểm toán nội bộ” đã khám
phá cách kiểm toán nội bộ có thể trở thành một trong những người gác cổng quản trị doanh
nghiệp, mặc dù không thể ngăn chặn cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
35
Môi trường kinh doanh đã trải qua sự thay đổi nhanh chóng và mang tính cách mạng với
những tác động sâu rộng đối với các tổ chức trên toàn thế giới. Phản ứng của nhà quản trị đối với
cạnh tranh toàn cầu khốc liệt bao gồm các sáng kiến quản lý rủi ro và chất lượng được cải thiện,
được tổ chức lại; cấu trúc, quy trình và trách nhiệm giải trình lớn hơn, tất cả đều cần thông tin
kịp thời, đáng tin cậy và phù hợp hơn để ra quyết định. Các tổ chức cũng đang cạnh tranh để đưa
ra các cấu trúc và quy trình quản trị hiệu quả hơn. Trong điều kiện như vậy, không có gì ngạc
nhiên khi chức năng kiểm toán nội bộ được xem là thông qua các nhóm chuyên gia có trình độ
nhất để giúp thử nghiệm cải thiện hoạt động quản trị cũng như hỗ trợ các quy trình quản trị quan
trọng nhằm giám sát các kiểm soát và đánh giá hiệu quả của hoạt động, các chiến lược và sáng
kiến quản lý. Trong giai đoạn hiện nay, kiểm toán nội bộ thay đổi với hai chức năng cơ bản thể
hiện trong kiểm soát nội bộ và quản lý rủi ro. Kiểm toán nội bộ được coi là cơ chế quản trị giám
sát nhằm giảm các vấn đề của doanh nghiệp, ngăn ngừa, phát hiện, cải thiện những điểm yếu của
kiểm soát nội bộ và gian lận tài chính (Goodwin-Stewart & Kent, 2006; Gramling và ctg, 2004;
Prawit và ctg, 2009; Norman & ctg, 2010; Lin & ctg, 2011; Arel & ctg, 2012). Theo IIA, kiểm
toán nội bộ liên quan đến quản trị rủi ro bao gồm: đảm bảo về quy trình quản lý rủi ro, đảm bảo
rủi ro được đánh giá chính xác, đánh giá quy trình quản lý rủi ro và xem xét việc quản lý rủi ro
chính trong doanh nghiệp từ đó tư vấn cho nhà quản lý cấp cao nhằm cải thiện hệ thống rủi ro
tổng thể. Kiểm toán nội bộ có chức năng quan trọng trong quản trị rủi ro của tổ chức, thúc đẩy sự
hiểu biết của tổ chức về các rủi ro, đóng góp trong việc cải thiện hệ thống quản lý và kiểm soát
rủi ro của tổ chức (theo Goodwin-Stewart & Kent, 2006; Gramling & Myers, 2006; Manab &
ctg, 2007; Castanheira & ctg, 2009; Engelbrecht & ctg, 2018). Theo Gross (2006), “kiểm toán
nội bộ đóng vai trò quan trọng trong công cụ quản lý của doanh nghiệp được ví như ngọn hải
đăng soi đường cho con thuyền doanh nghiệp đi đúng hướng giữa những cơn bão biển thị trường
kinh doanh”.
3. KHUNG NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP CỦA KIỂM TOÁN NỘI BỘ
Theo những phân tích về vai trò của kiểm toán trong tổ chức ở trên, kiểm toán nội bộ đánh
giá và cải thiện hiệu quả của tổ chức, các quy trình quản lý, kiểm soát và quản trị rủi ro. Như
vậy, kiểm toán viên nội bộ cần có năng lực nghề nghiệp nhất định để thực hiện các chức năng
đó. Viện kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ đã xây dựng khung năng lực kiểm toán nội bộ, trong đó xác
định các năng lực cần thiết để đáp ứng các yêu cầu của Khung thực hành nghề nghiệp quốc tế
(IPPF) để giúp các kiểm toán viên nội bộ thành công của nghề nghiệp của họ.
Năng lực là khả năng của một cá nhân để thực hiện một công việc hoặc nhiệm vụ đúng
cách trong các điều kiện hoàn cảnh khác nhau, nó là một tập hợp các kiến thức được xác định, kỹ
năng và hành vi.
“Cải tiến và đổi mới” đặt ra phải nắm chặt sự thay đổi, thúc đẩy cải tiến và đổi mới; “Đạo
đức nghề nghiệp” và “quản lý kiểm toán nội bộ” cung cấp một nền tảng vững chắc cho việc kiểm
toán nội bộ. Để có thể cung cấp một dịch vụ hiệu quả, kiểm toán viên nội bộ cần phải hoạt động
theo các tiêu chuẩn đạo đức cao, phối hợp các nguồn lực và hoạt động của kiểm toán nội bộ. Các
điểm chính trọng tâm của chuyên gia kiểm toán nội bộ là Năng lực thực hành nghề nghiệp-IPPF.
36
Kĩ năng cá nhân (Personal Skills)
Giao tiếp
(communication)
Thuyết phục và hợp tác
(Collaboration)
Tư duy phản biện (Critical
Thinking)
Chuyên gia kĩ thuật (Technical Expertise)
Khung thực hành
nghề nghiệp-IPPF
Quản trị rủi ro và Kiểm soát
(Governance risk and Control)
Sự nhạy bén trong kinh doanh
(business acumen)
(Nguồn: IIA, Khung năng lực kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ, 2013)
Ngoài ra, các kiểm toán viên nội bộ đòi hỏi phải có chuyên môn về quản trị rủi ro và kiểm
soát, và sự nhạy bén trong kinh doanh để giúp các tổ chức hoàn thành mục tiêu của họ. Kiểm
toán viên nội bộ cần phải có năng lực trong “Giao tiếp”, “Thuyết phục và Hợp tác”, và “Tư duy
phản biện” để cung cấp các đảm bảo kiểm toán nội bộ, và thúc đẩy cải tiến và đổi mới trong một
tổ chức. Khung năng lực kiểm toán viên nội bộ đề cập cho ba nhóm đối tượng là nhân viên kiểm
toán, quản lý và giám đốc phụ trách kiểm toán. Bài viết tập trung vào nhóm đối tượng là nhân
viên, vị trí ban đầu cho các sinh viên mới tốt nghiệp mà không tiếp cận đến hai nhóm đối tượng
còn lại. Năng lực của các nhóm đối tượng còn lại sẽ được xây dựng, tích lũy dần trong quá trình
hoạt động nghề nghiệp của họ.
Bảng 1. Khung năng lực thực hành của kiểm toán viên (chuẩn mực)
Năng lực Diễn giải
Khung năng lực thực hành nghề
nghiệp quốc tế - The
International Professional
Practice Framework (IPPF)
Duy trì kiến thức hiện tại về IPPF; Chứng minh việc sử
dụng và giải thích thích hợp của IPPF, tìm kiếm tư vấn nếu
khả năng áp dụng không rõ ràng; Tuân thủ các yêu cầu của
IPPF khi lập kế hoạch và tiến hành thực hiện một cam kết
kiểm toán nội bộ.
(Nguồn: IIA, Khung năng lực kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ, 2013)
Cải tiến và đổi mới (Improvement and Innovation)
Cung cấp kiểm toán nội bộ (Internal Audit Delivery) )
Quản trị kiểm toán nội bộ (Internal Audit Management) )
Đạo đức nghề nghiệp (Professional Ethics) )
37
Bảng 2. Khung năng lực của kiểm toán viên nội bộ về kĩ năng kĩ thuật
Năng lực Diễn giải
Quản trị,
rủi ro và
kiểm soát
Hoạt động trong khuôn mẫu của tổ chức cho quản trị, rủi ro và kiểm soát; Tạo
kế hoạch tham gia kiểm toán dựa trên rủi ro và tác động của nó đối với tổ chức;
Áp dụng các khái niệm kiểm soát trong hoạt động kiểm toán; Cung cấp sự giải
thích về hồ sơ rủi ro của cam kết kiểm toán nội bộ cho các bên liên quan; Hỗ trợ
văn hóa nhận thức rủi ro gian lận ở tất cả các cấp của tổ chức; Đánh giá và tính
toán khả năng xảy ra rủi ro gian lận và xác định các loại gian lận phổ biến liên
quan đến cam kết kiểm toán nội bộ; Duy trì sự hiểu biết về các quy trình được
sử dụng để hỗ trợ điều tra gian lận;
Sự nhạy
bén trong
kinh doanh
Duy trì kiến thức cụ thể của ngành phù hợp với các cam kết kiểm toán; Đánh giá
và tính đến các yếu tố kinh tế vĩ mô và vi mô cơ bản và mức độ phù hợp với các
cam kết kiểm toán; Duy trì sự hiểu biết hiện tại về những phát triển toàn cầu
mới nhất, các yêu cầu pháp lý và đánh giá sự liên quan đến các cam kết kiểm
toán; Duy trì kiến thức về các khía cạnh kỹ thuật của các khái niệm kế toán chi
phí, kế toán quản trị và kế toán tài chính, tiêu chuẩn, hệ thống và quy trình lập
báo cáo phù hợp với các cam kết kiểm toán; Đánh giá và xem xét cách thức
CNTT đóng góp cho các mục tiêu của tổ chức, rủi ro liên quan đến CNTT và
mức độ phù hợp với các cam kết kiểm toán; Thể hiện kiến thức làm việc đúng
đắn về các khung kiểm soát chất lượng có liên quan đến các cam kết kiểm toán;
Có hiểu biết về các khía cạnh văn hóa của tổ chức; Có hiểu biết về nhiệm vụ,
mục tiêu chiến lược và bản chất kinh doanh của tổ chức.
Tư duy
phản biện
Duy trì sự tò mò và rèn luyện sự hoài nghi nghề nghiệp; Chọn và sử dụng nhiều
công cụ và kỹ thuật tự động và thủ công để có được dữ liệu và thông tin khác về
quy trình kinh doanh; Phân tích và thẩm định hiệu lực và hiệu quả của quy trình
kinh doanh; Áp dụng các kỹ thuật giải quyết vấn đề cho các tình huống thông
thường; Sử dụng tư duy phê phán để xác định và đề xuất các chiến thuật để cải
tiến quy trình kinh doanh; Áp dụng thu thập dữ liệu, khai thác dữ liệu, phân tích
dữ liệu và kỹ thuật thống kê; Đảm bảo rằng thông tin trong việc ra quyết định là
phù hợp, chính xác và đầy đủ.
Cung cấp
kiểm toán
nội bộ
Áp dụng phương pháp kiểm toán tổ chức và thực hiện các thủ tục kiểm toán để
đáp ứng các mục tiêu tham gia kiểm toán cụ thể; Duy trì tính khách quan trong
suốt các cam kết kiểm toán; Quản lý tất cả các nguồn lực một cách hiệu quả để
đảm bảo các mục tiêu tham gia được đáp ứng; Thể hiện hiệu quả và sự kiên trì,
quản lý thời gian của riêng mình và đảm bảo thời hạn và mục tiêu tham gia; Chọn
và áp dụng các công cụ và kỹ thuật thích hợp để thu thập, phân tích và giải thích
dữ liệu và báo cáo; Lập kế hoạch và tiến hành các cam kết kiểm toán để xác định
các rủi ro và kiểm soát chính; Có được bằng chứng đáng tin cậy, có liên quan và
đầy đủ và đánh giá bình luận; Phát triển và đảm bảo rằng các giấy tờ làm việc là
38
sự phản ánh đúng sự thật của tất cả các hoạt động được thực hiện trong quá trình
tham gia kiểm toán; Trình bày những phát hiện và đề xuất các khuyến nghị giải
quyết nguyên nhân gốc rễ của các vấn đề và tác động đến tổ chức; Theo dõi quản
lý để đảm bảo rằng các hành động quản lý đã được thực hiện hiệu quả hoặc quản
lý cấp cao đã chấp nhận rủi ro không thực hiện hành động.
(Nguồn: IIA, Khung năng lực kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ, 2013)
Bảng 3. Khung năng lực của kiểm toán viên nội bộ về kĩ năng cá nhân
Kĩ năng
Giao tiếp
Đảm bảo sự tin tưởng của người khác thông qua việc sử dụng giao tiếp tích cực;
Thúc đẩy giao tiếp mở; Thể hiện sự tôn trọng người khác và tùy chỉnh các thông
điệp để phản ánh nhu cầu của đối tượng mục tiêu; Tổ chức và thể hiện ý tưởng
rõ ràng và tự tin để gây ảnh hưởng đến người khác; Trích xuất thông tin chính từ
nhiều nguồn khác nhau để hỗ trợ giao tiếp; Chọn các hình thức giao tiếp phù
hợp và phương tiện truyền thông; Sử dụng đúng các quy ước kỹ thuật của ngôn
ngữ (chính tả, dấu câu, ngữ pháp,...); Lắng nghe tích cực, đặt câu hỏi theo yêu
cầu để kiểm tra sự hiểu biết của chính mình; Góp ý phản hồi từ người nghe để
đánh giá hiệu quả của truyền thông; Dự đoán các phản ứng đối với truyền thông
và lập kế hoạch trả lời trước; Thảo luận về các kết quả kiểm toán và tác động
của chúng một cách chuyên nghiệp và tự tin với các cấp độ phù hợp của tổ
chức; Giải thích và sử dụng ngôn ngữ cơ thể để củng cố giao tiếp; Sử dụng các
phương thức đồ họa để truyền đạt các quy trình và thông tin phức tạp khác;
Cung cấp thông tin theo kiểu có cấu trúc để thúc đẩy học tập và phát triển; Áp
dụng các kỹ năng giao tiếp phù hợp trong các cuộc phỏng vấn.
Kĩ năng
Thuyết
phục và
hợp tác
Dự đoán và và cho phép tác động phong cách cá nhân của mình đến người
khác khi giao tiếp và xây dựng mối quan hệ; Quản lý xung đột bằng cách đàm
phán và giải quyết các bất đồng; Hiểu biết về chính sách của tổ chức và có
hành động thích hợp; Giúp mọi người thoải mái và xây dựng mối quan hệ cởi
mở, mang tính xây dựng với tất cả các bên; Nuôi dưỡng và xây dựng quan hệ
đối tác hiệu quả với khách hàng tham gia kiểm toán để đạt được kết quả; Xác
định và quản lý các nhu cầu và mong đợi của các bên liên quan; Hợp tác với
người khác và khuyến khích người khác hợp tác làm việc; Dẫn dắt thông qua
làm gương liên quan đến sự tôn trọng, hữu ích và hợp tác; Duy trì tính độc lập
và khách quan trong mọi tình huống; Nhận ra giới hạn của chính mình và tìm
kiếm lời khuyên và hỗ trợ khi cần thiết; Tôn trọng tính bảo mật và đảm bảo sự
tin tưởng của các bên khác; Tham gia đầy đủ hoạt động nhóm; Hoạt động để
loại bỏ các rào cản tổ chức và xác định các nguồn lực để hỗ trợ nhóm kiểm
toán nội bộ; Áp dụng kiến thức về lý thuyết động lực và động lực nhóm khi
khuyến khích người khác.
39
Cải tiến và
đổi mới
Tìm kiếm và biện minh cho các cơ hội để cải tiến liên tục; Khởi xướng và quản lý
sự thay đổi trong phạm vi trách nhiệm; Khuyến khích người khác nắm lấy sự thay
đổi bằng cách giải thích các lợi ích dự định; Xác định các rủi ro liên quan đến
thay đổi và điều chỉnh hoạt động kiểm toán để quản lý rủi ro; Đánh giá các rào
cản và nguồn lực tiềm năng cho các sáng kiến thay đổi; Duy trì hiệu suất và hiệu
quả cá nhân trong môi trường thay đổi và không xác định; Có những ưu tiên mới
và thực hiện những thay đổi tích cực trong lĩnh vực công việc; Dự đoán các phản
ứng để thay đổi và thích nghi phong cách bản thân để hỗ trợ người khác.
(Nguồn: IIA, Khung năng lực kiểm toán nội bộ, 2013)
Bảng 4. Khung năng lực về kiến thức chuyên môn
Quản trị
kiểm toán
nội bộ
Phân tích điểm mạnh và điểm yếu riêng để tối đa hóa đóng góp cá nhân cho tổ
chức; Phấn đấu cho chất lượng và sự xuất sắc và khuyến khích người khác làm
tương tự; Chịu trách nhiệm cá nhân về kết quả được giao trong các lĩnh vực
trách nhiệm; Tiếp tục phát triển chuyên môn và tận dụng các cơ hội học tập có
liên quan; Đánh giá sự phát triển bản thân và nhu cầu nghề nghiệp và tận dụng
những thách thức mới làm cơ hội phát triển cá nhân và nghề nghiệp; Duy trì các
năng lực cập nhật cần thiết để thực hiện kiểm toán nội bộ hiệu quả; Hỗ trợ và
đóng góp cho quá trình tuyển dụng trong chức năng kiểm toán nội bộ; Đánh giá
và thúc đẩy quan điểm đa dạng và tính nhạy cảm văn hóa; Áp dụng kiến thức về
quy trình nhân sự và phong cách lãnh đạo để hỗ trợ và chỉ đạo người khác.
Đạo đức
nghề
nghiệp
Ủng hộ và khích lệ quy tắc đạo đức của IIA; Áp dụng các nguyên tắc và giá trị đạo
đức cho các hoạt động được kiểm toán; Tuân thủ các chính sách, thực tiễn và quy
trình chính của tổ chức; Đối xử công bằng không phân biệt đối xử; Duy trì tính
khách quan về hình thức và thực tế; Thảo luận về xung đột đạo đức với giám đốc
điều hành kiểm toán; Điều tra các vấn đề đạo đức và đề xuất biện pháp giải quyết;
Phản ứng với những nhạy cảm do các nguyên tắc đạo đức đang bị lạm dụng.
(Nguồn: IIA, Khung năng lực kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ, 2013)
Viện Kiểm toán nội bộ Australia đã xây dựng khung năng lực nghề nghiệp của kiểm toán
viên nội bộ Australia (2010), khung năng lực được hia theo bốn (04) nhóm khái quát lại như sau:
Chuẩn mực Kĩ năng kĩ thuật Kĩ năng cá nhân Kiến thức
Khung năng
lực thực hành
nghề nghiệp
quốc tế -
IPPF
Nghiên cứu và điều tra
quản lý quy trình và dự án
kinh doanh
Rủi ro và kiểm soát
Thu thập và phân tích dữ liệu
Kỹ thuật và Công cụ giải
quyết vấn đề
Máy tính hỗ trợ kỹ thuật kiểm
toán (CAATS)
Ảnh hưởng và
giao tiếp
Lãnh đạo và làm
việc nhóm
Quản trị thay đổi
Giải quyết xung
đột
Kế toán tài chính và kế
toán quản trị
Quy định, pháp luật và
kinh tế
Chất lượng và kiểm soát
Đạo đức và gian lận
Công nghệ thông tin
Quản trị, rủi ro và kiểm
soát
(Nguồn: Khung năng lực kiểm toán nội bộ Austrailia, 2010)
40
Các năng lực cụ thể trong bốn nhóm này cũng được Viện Kiểm toán nội bộ Australia chi
tiết cụ thể giống như Khung năng lực kiểm toán nội bộ do Viện Kiểm toán nội bộ Hoa kỳ xây
dựng. Nhìn chung, khung năng lực kiểm toán nội bộ đặt ra yêu cầu đối với kiểm toán nội bộ
không chỉ phải hiểu biết về Khung năng lực thực hành nghề nghiệp quốc tế IPPF, có kiến thức
chuyên môn (bao gồm kế toán tài chính, kế toán quản trị, các quy định pháp luật, sự hiểu biết về
kinh tế, chất lượng, kiểm soát, quản trị, rủi ro, công nghệ thông tin) mà còn phải có các kĩ năng
về kĩ thuật (Nghiên cứu và điều tra, quản lý quy trình và dự án kinh doanh; Rủi ro và kiểm soát;
Thu thập và phân tích dữ liệu; hiểu biết về kỹ thuật và công cụ giải quyết vấn đề, sử dụng máy
tính hỗ trợ kỹ thuật kiểm toán (CAATS)); các kĩ năng cá nhân cần thiết khác (như: Ảnh hưởng
và giao tiếp, lãnh đạo và làm việc nhóm, quản trị thay đổi, giải quyết xung đột). Đây là các kĩ
năng không thể thiếu giúp kiểm toán nội bộ đạt được mục tiêu và hiệu quả công việc. Với khung
năng lực mà các tổ chức về kiểm toán nội bộ trên thế giới xây dựng, các cơ sở đào tạo cũng cần
phải xây dựng chương trình đào tạo ngành kiểm toán cho phù hợp để cung cấp nhân lực kiểm
toán đáp ứng yêu cầu hiện nay.
4. KHUYẾN NGHỊ CHO ĐÀO TẠO CHUYÊN NGÀNH KIỂM TOÁN ĐÁP ỨNG
KHUNG NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP CỦA KIỂM TOÁN NỘI BỘ
So với trước đây, năng lực của người làm kiểm toán thay đổi nhiều, đặc biệt là vùng kiến
thức quản trị, rủi ro, kiểm soát. Ngoài ra, người làm kiểm toán nội bộ cần phải có kiến thức về
công nghệ thông tin, phân tích và thu thập dữ liệu, ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình
kiểm toán. Chương trình đào tạo kiểm toán cần có sự thay đổi cả về ba nội dung kiến thức, kĩ
năng và thái độ.
- Về kiến thức: Chương trình đào tạo cần tăng cường các học phần liên quan đến đạo đức
nghề nghiệp, quản trị rủi ro, công nghệ thông tin, phân tích dữ liệu, tăng cường các học phần tự
chọn liên quan đến chất lượng, kiểm soát. Giảm bớt dung lượng các học phần liên quan đến xử
lý nghiệp vụ kiểm toán cụ thể, do trong điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin, máy móc thiết
bị theo công nghệ mới đã được ứng dụng nhiều trong kiểm toán.
- Về kỹ năng: Có thể xây dựng một số học phần kĩ năng riêng biệt hoặc giảng dạy lồng
ghép kĩ năng trong các học phần chuyên môn. Để giảng dạy lồng ghép trong các học phần
chuyên môn, cần tăng cường xây dựng tình huống trong các học phần, tổ chức giảng dạy theo
hướng tích cực, khuyến khích tổ chức các hoạt động nhóm, hoạt động tương tác với người học
để phát triển các kĩ năng như kĩ năng giải quyết xung đột, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng giao
tiếp, quản trị sự thay đổi. Một trong những kĩ năng của kiểm toán viên nội bộ được quan tâm là
kĩ năng Cải tiến và đổi mới. Học phần thiết kế phải giúp cho người học rèn luyện kĩ năng tìm
kiếm các cơ hội để cải tiến liên tục, xác định các rủi ro liên quan đến thay đổi và điều chỉnh hoạt
động kiểm toán để quản lý rủi rod, duy trì hiệu suất và hiệu quả cá nhân trong môi trường thay
đổi và không xác định. Có thể đưa học phần tư duy đổi mới sáng tạo vào trong nhóm học phần tự
chọn hoặc hoặc bổ trợ thêm ngoài chương trình ngoại khóa. Kiểm toán nội bộ với vai trò mới
liên quan quản lý, quản trị rủi ro và kiểm soát nên phải tổ chức hoạt động giảng dạy theo hướng
tăng cường kĩ năng Hợp tác với người khác và khuyến khích người khác hợp tác làm việc, tăng
cường cho người học xây dựng mối quan hệ cởi mở, mang tính xây dựng với tất cả thành viên
41
khác đặc thù kiểm toán nội bộ là làm việc với tất cả các bộ phận trong tổ chức và cần sự hỗ trợ,
hợp tác với bên liên quan.
- Về thái độ: Hướng sinh viên theo tư duy đổi mới sáng tạo trong học tập, trong thu nhận
kiến thức, chủ động học tập để phát triển khả năng học tập suốt đời bởi các kiến thức chuyên
môn là vô hạn, thay đổi không xác định, người học cần trang bị bồi đắp thường xuyên trong quá
trình làm việc sau này. Rèn luyện cho sinh viên có thái độ tích cực trong nghề nghiệp, đạo đức
nghề nghiệp tốt.
Ngoài ra, các cơ sở đào tạo cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đa dạng hóa
phương pháp đánh giá kết quả học tập nhằm nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong học tập,
nghiên cứu. Chủ động hợp tác với các đơn vị chuyên môn đào tạo về kiểm toán nội bộ của các tổ
chức nghề nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp để nâng cao chất lượng đào tạo, trao đổi, chia sẻ kinh
nghiệm, chuyên môn trong đào tạo.
5. KẾT LUẬN
Nghị định số 05/2019/NĐ-CP chính thức có hiệu lực từ tháng 01 tháng 04 năm 2019. Do
đó, trong thời gian tới, Việt Nam cần một lượng nhân sự kiểm toán nội bộ khá lớn. Nhân sự kiểm
toán nội bộ hiện tại đang thiếu về số lượng và chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng. Để đảm
bảo cho kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu quả, thực hiện được vai trò của nó trong tổ chức,
nâng cao chất lượng và tăng số lượng nhân sự về kiểm toá nội bộ là tất yếu. Chúng tôi cho rằng
các cơ sở đào tạo đại học xem xét xây dựng, chỉnh sửa chương trình đào tạo ngành kiểm toán
cho phù hợp hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đặt ra với kiểm toán nội bộ trong điều kiện hiện nay
cũng như thay đổi phương pháp giảng dạy và đánh giá kết quả học tập cho phù hợp yêu cầu mới.
Người làm kiểm toán nội bộ không chỉ có trình độ chuyên môn nghề nghiệp mà còn phải được
trang bị các kĩ năng kĩ thuật, kĩ năng cá nhân phục vụ cho công việc, đặc biệt trong điều kiện ứng
dụng công nghệ thông tin, kĩ thuật số, các công nghệ mới khác trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh, kế toán, kiểm toán nên sinh viên kiểm toán cần phải được đào tạo đáp ứng nhu
cầu thực tế đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Arel, B., Beaudoin, C. A., & Cianci, A. M. (2012). The impact of ethical leadership, the internal
audit function, and moral intensity on a financial reporting decision. Journal of Business
ethics, 109(3), 351-366.
Andrew D. Chambers , Marjan Odar (2015). A new vision for internal audit, Managerial
Auditing Journal, Vol. 30 No. 1, pp. 34-55. https://doi.org/10.1108/MAJ-08-2014-1073
Castanheira, N., Lima Rodrigues, L., & Craig, R. (2009). Factors associated with the adoption of
risk-based internal auditing. Managerial Auditing Journal, 25(1), 79-98.
Engelbrecht, L., Yasseen, Y., & Omarjee, I. (2018). The role of the internal audit function in
integrated reporting: a developing economy perspective. Meditari Accountancy Research,
26(4), 657-674.
42
Gramling, A. A., Maletta, M. J., Schneider, A., & Church, B. K. (2004). The role of the internal
audit function in corporate governance: A synthesis of the extant internal auditing literature
and directions for future research. Journal of Accounting literature, 23, 194.
Goodwin‐Stewart, J. and Kent, P. (2006). The use of internal audit by Australian companies,
Managerial Auditing Journal, Vol. 21 No. 1, pp. 81-101.
https://doi.org/10.1108/02686900610634775
IIA. (2004). The Role of Internal Auditing in Enterprise-wide Risk Management. In Retrieved
February 6, 2005. from www.theiia.org.
IIA. (2008a). Institute of Internal Auditors "International Standards for the Proffesional Practice
of Internal Auditing".
IIA. (2013). IIA position paper: The three lines of defense in effective risk management and
control
IIA Australia (2010), Internal Auditor Competency Framework, The Institute of Internal
Auditors – Australia
Manab, N. A., Hussin, M. R., & Kassim, I. (2007). Empirical study on theory and practice of
enterprise-wide risk management (EWRM) on internal auditing and risk management
functions of public listed companies in Malaysia. Concurrent% 20IV/Session, 201.
Moeller, R., and H.N. Witt, Brink’s. (1999). Modern Internal Auditing, 5th Ed. New York: John
Wiley & Sons, Inc.,
Lin, S., Pizzini, M., Vargus, M., & Bardhan, I. R. (2011). The role of the internal audit function
in the disclosure of material weaknesses. The Accounting Review, 86(1), 287-323.
Norman, C. S., Rose, A. M., & Rose, J. M. (2010). Internal audit reporting lines, fraud risk
decomposition, and assessments of fraud risk. Accounting, Organizations and Society,
35(5), 546-557.
Prawitt, D. F., Smith, J. L., & Wood, D. A. (2009). Internal audit quality and earnings
management. The Accounting Review, 84(4), 1255-1280.
Spira, L. and Page, M. (2003), Risk management: The reinvention of internal control and the
changing role of internal audit, Accounting, Auditing & Accountability Journal, Vol. 16
No. 4, pp.640-661. https://doi.org/10.1108/09513570310492335
Wood, David A. (July 2009). Internal Audit Quality and Earnings Management. The Accounting
Review. 84 (4): 1255–1280. doi:10.2308/accr.2009.84.4.1255.
Wood, David A. (2013). A Descriptive Study of Factors Associated with the Internal
Audit Function Policies Having an Impact: Comparisons Between Organizations in a
Developed and an Emerging Economy. Turkish Studies. 14 (3): 581–606.
doi:10.1080/14683849.2013.833019.
43
Tác động của Blockchain tới ngành kế toán - kiểm toán
trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Nguyễn Võ Tuyết Trinh
Học viện Ngân hàng (Phân viện Phú Yên)
Email: trinhvnt.py@hvnh.edu.vn
Mã bài: HTQG.02 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 06/11/2019
Ngày nhận bài: 20/09/2019 Ngày chấp nhận đăng: 10/11/2019
Tóm tắt
Công nghệ chuỗi khối - Blockchain là một ứng dụng hiện đại trong cuộc cách mạng công
nghiệp (CMCN) 4.0 và hiện được áp dụng trong nhiều lĩnh vực. Ngành kế toán - kiểm toán cũng
không nằm ngoài ảnh hưởng của công nghệ này. Blockchain được ví như là một sổ cái tổng hợp,
ghi lại tất cả các giao dịch của các bên tham gia hệ thống. Khi đó, tất cả các bên tham gia đều có
thể xem và kiểm tra thông tin trên các Block. Với việc tự động ghi nhận và kiểm tra các giao
dịch, Blockchain sẽ giảm bớt một khối lượng lớn công việc cho người làm kế toán. Đồng thời,
với ưu điểm tính chính xác cao, khó làm giả thông tin sẽ làm giảm đáng kể quy mô mẫu trong
thử nghiệm kiểm tra chi tiết của kiểm toán viên. Bài viết đã tổng hợp những vấn đề chung về
Blockchain: khái niệm, cơ chế hoạt động, các phiên bản và những ưu điểm của công nghệ này.
Từ đó phân tích, đánh giá những cơ hội và thách thức của Blockchain với công việc kế toán -
kiểm toán.
Từ khóa: Blockchain, kế toán kiểm toán, công nghệ 4.0.
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BLOCKCHAIN
Blockchain đầu tiên được phát minh và thiết kế năm 2008 bởi Satoshi Nakamoto và được
phát triển gắn liền với đồng tiền ảo Bitcoin. Cho đến nay, khái niệm về Blockchain được rất
nhiều nhà kinh tế và các tổ chức đưa ra. Theo Wikipedia “Blockchain: là một cơ sở dữ liệu phân
cấp lưu trữ thông tin trong các khối thông tin được liên kết với nhau bằng mã hóa và mở rộng
theo thời gian. Mỗi khối thông tin đều chứa thông tin về thời gian khởi tạo và được liên kết tới
khối trước đó, kèm một mã thời gian và dữ liệu giao dịch”. Còn theo Mark Gates (2017), trang
29 thì “Blockchain giống cơ sở dữ liệu, là một hình thức lưu trữ hồ sơ giá trị và giao dịch. Gần
như mọi thứ đều có thể được lưu trữ trên Blockchain. Công nghệ Blockchain loại bỏ sự cần thiết
của một đơn vị trung gian, cho phép mọi người giao dịch trực tiếp với nhau dù ở cách nhau rất
xa”. Theo Lưu Thế Lợi và David Nguyễn (2018), trang 26 thì “Blockchain là một hệ thống kết
44
nối người dùng này với người dùng khác mà không có bộ xử lý trung tâm để quản lý dữ liệu và
dòng chảy của dữ liệu. Chìa khóa của việc loại bỏ bộ xử lý trung tâm trong khi vẫn giữa được cơ
sở dữ liệu được kiện toàn chính là có được một hệ thống phân chia đủ lớp tập hợp của các cả thể
người dùng độc lập”.
Rõ ràng, dù theo khái niệm nào thì bản chất Blockchain là một hệ thống cơ sở dữ liệu phân
cấp lưu trữ thông tin trong các khối được liên kết với nhau thành chuỗi thông qua việc mã hóa.
Blockchain đóng vai trò như là một cuốn sổ cái cho các giao dịch của tất cả các đối tượng tham
gia hệ thống. Với blockchain, việc truyền tải dữ liệu trong hệ thống không đòi hỏi phải có một
trung gian để xác nhận thông tin. Tất cả các giao dịch đều được ghi lại và xác nhận chéo giữa
từng máy tính trong hệ thống đảm bảo thông tin minh bạch và an toàn. Bất kỳ đối tượng nào
trong hệ thống muốn thực hiện một giao dịch, yêu cầu đó sẽ được ghép thành khối với một số
giao dịch khác và được gửi tới tất cả các máy tính tham gia mạng lưới để chờ được xác thực. Sau
khi được xác nhận, các thông tin mỗi giao dịch sẽ được lưu lại thành một khối dữ liệu mới. Khối
dữ liệu mới này lưu trữ thông tin giao dịch hiện tại (kèm một mã thời gian khởi tạo và dữ liệu
giao dịch) được gắn với các khối liền trước nên toàn bộ chuỗi khối sẽ chứa đựng thông tin liền
mạch thể hiện lịch sử giao dịch xuyên suốt của chuỗi đó. Khi đó blockchain được coi là một
cuốn sổ cái trực tuyến với ưu việt là các đối tượng tham gia hệ thống được tiếp cận và cung cấp
thông tin giống hệt nhau nên khi có mật khẩu có thể xem và xác nhận thông tin cập nhật theo
thời gian thực về tất cả các bên thông qua bất kỳ máy tính nào trong chuỗi.
Hình 1. Sơ đồ các chuỗi trên blockchain
Nguồn: adcvietnam
Cơ chế hoạt động của blockchain:
Công nghệ blockchain hoạt động từ sự kết hợp giữa 3 loại công nghệ sau: Một là, mật mã
học (cryptography): để đảm bảo tính minh bạch, toàn vẹn và riêng tư thì công nghệ blockchain
đã sử dụng các khóa mật mã key và các hàm toán học hash function. Hai là, mạng ngang hàng
(peer to peer network): mỗi một nút trong mạng (mỗi máy tính - node) được xem như một khách
hàng (client) và cũng là server để lưu trữ các bản sao ứng dụng. Ba là, lý thuyết trò chơi: tất cả
45
các nút tham gia vào hệ thống đều phải tuân thủ luật chơi đồng thuận (giao thức PoW, PoS…) và
được thúc đẩy bởi động lực kinh tế.
Hình 2. Sơ đồ hoạt động của blockchain
Nguồn: Bigcoinvietnam
Tới thời điểm hiện tại, công nghệ blockchain trải qua 3 phiên bản:
Blockchian Version 1.0 - Currencies (Tiền tệ): Ứng dụng vào tiền thuật toán: bao gồm
chuyển đổi tiền tệ, kiều hối và hệ thống thanh toán kỹ thuật số. Đây cũng là lĩnh vực quen thuộc
với chúng ta nhất và xem như là lãnh thổ của Bitcoin và những các loại tiền điện tử khác.
Blockchain Version 2.0 - Contracts (Hợp đồng): Ứng dụng trong xử lý tài chính và ngân
hàng: mở rộng blockchain, đưa vào các ứng dụng tài chính và thị trường. Các tài sản bao gồm cổ
phiếu, chi phiếu, nợ, quyền sở hữu và bất kỳ điều gì có liên quan đến thỏa thuận hay hợp đồng.
Blockchain Version 3.0 - Organizing Activity (Tổ chức hoạt động): Đưa blockchain vượt
khỏi biên giới tài chính, và đi vào các lĩnh vực như giáo dục, chính phủ, y tế và nghệ thuật. Ở
những lĩnh vực này sẽ có nhiều loại như vật lý, kỹ thuật số hay nguồn lực tự nhiên.
Vượt ngoài khả năng của Bitcoin - Công nghệ Blockchain đã được ứng dụng vào thực tế
gây bất ngờ lớn cho cả thế giới. Điển hình như Đảng Cộng Hòa tại Utah sử dụng công nghệ
Blockchain để giúp các cử tri bỏ phiếu kín, đảm bảo sự công bằng cho mọi cử tri và đại biểu.
Các bản ghi sức khỏe điện tử (EHR) ở Estonia được lưu trữ và hoạt động dưới công nghệ
Blockchain và còn rất nhiều ứng dụng tiềm năng khác đang được triển khai rộng rãi.
Ưu điểm của Blockchain:
- Một là, tính không thể đảo ngược: bởi vì các khối trong Blockchain được kết nối với
nhau tạo thành chuỗi, mỗi mã ID của một khối ghi lại lũy kế toàn bộ các giao dịch từ đầu chuỗi
cho tới khối đó. Chính vì vậy, một giao dịch khi đã được các máy tính xác nhận và lưu trên
Blockchain thì thông tin của giao dịch đó sẽ không thể bị xóa bỏ hay thay đổi. Nói cách khác,
thông tin trong Blockchain không thể bị thay đổi và chỉ được bổ sung thêm khi có sự đồng thuận
của tất cả các nút trong hệ thống.
46
- Hai là, tính ẩn danh: Tất cả thông tin của các đối tượng tham gia hệ thống đều được mã
hóa. Do vậy tên công ty, địa chỉ đều được ẩn danh trong hệ thống.
- Ba là, tính bảo mật và an toàn cao: Từng khối trong Blockchain được tạo ra trên cơ sở hệ
thống mật mã và các hàm toán học. Ngoài ra, các giao dịch để được ghi nhận và xác nhận tạo
khối được kiểm tra nhiều lần và đa lớp. Do đó, nếu một hacker muốn thâm nhập truy xuất thông
tin từ một khối nào đó thì phải qua được hàng rào bảo vệ của cả chuỗi, bao gồm nhiều khối trong
hệ thống. Mặt khác, việc thay đổi hay chỉnh sửa nội dung các giao dịch trong hệ thống phải được
sự đồng thuận của tất cả các đối tượng tham gia nên Blockchain là hệ thống bảo mật an toàn cao
trước khả năng bị đánh cắp dữ liệu. Ngay cả khi một phần của hệ thống Blockchain sụp đổ,
những máy tính và các nút khác sẽ tiếp tục bảo vệ thông tin và giữ cho mạng lưới tiếp tục hoạt
động. Hơn nữa, cùng với hệ thống máy tính phân tán toàn cầu cũng giúp Blockchain an toàn
trước các hackers và virus tấn công.
- Bốn là, tính toàn cầu và nhanh chóng: Tất cả các giao dịch sẽ được rút ngắn thời gian xử
lý nhờ vào một số lượng lớn các nodes có mặt trên toàn thế giới. Hơn nữa, với cơ chế thưởng
nên các máy tính (máy đào - diggers) thường xuyên online để tìm kiếm và xác nhận thông tin, do
đó tốc độ xử lý giao dịch trong Blockchain rất nhanh.
2. CÔNG NGHỆ BLOCKCHAIN - CƠ HỘI VỚI NGÀNH KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN
Trước làn sóng CMCN 4.0, Blockchain được xem là một công nghệ "chìa khóa" cho
chuyển đổi số và xây dựng nền tảng công nghệ thông tin tương lai. Với đặc tính phi tập trung và
độ bảo mật cao nên công nghệ Blockchain mang tính cách mạng ứng dụng được trong nhiều lĩnh
vực, ngành nghề. Không nằm ngoài xu thế trên thì ngành kế toán - kiểm toán, công nghệ
Blockchain có những ảnh hưởng tác động đáng kể. Cụ thể:
Thứ nhất, công nghệ Blockchain đảm bảo hệ thống kế toán minh bạch, từ đó giảm thiểu
khả năng xảy ra sai phạm kinh tế: Công nghệ Blockchain giúp công tác kế toán - kiểm toán giảm
phần lớn khả năng xảy ra sai sót khi đối chiếu các thông tin phức tạp và khác biệt từ nhiều nguồn
khác nhau. Hơn nữa, hồ sơ kế toán một khi đã được lưu vào Blockchain sẽ không thể chỉnh sửa
và thay đổi, ngay cả khi chủ sở hữu hệ thống kế toán yêu cầu. Bởi vì, mọi giao dịch hàng ngày
trên blockchain đều được ghi chép lại và xác thực nên có thể làm giảm các sai sót và gian lận
trong kế toán, và khi đó tính vẹn toàn của các hồ sơ tài chính được đảm bảo. Từ đó, làm giảm
hoặc thậm chí loại bỏ nhu cầu kiểm toán tài nguyên nguồn dữ liệu.
Mặt khác, Blockchain là một hệ thống có thể coi là “sổ cái kế toán” - nơi mà giao dịch
được thực hiện bởi một bên tới mọi người trong cùng một mạng lưới bằng một phương thức cực
kỳ chính xác và bảo mật. Nếu một lĩnh vực hoặc một hệ thống sử dụng Blockchain, vấn đề bảo
mật an toàn sẽ thay đổi. Theo đó, chúng ta cần chú trọng không chỉ là sự đảm bảo về tài sản và
sự chấp thuận của người khác (điều này là hiển nhiên trong môi trường Blockchain). Thay vào
đó, chúng ta cần chú trọng vào sự ràng buộc giữa bản ghi Blockchain và thế giới vật chất, và
rộng hơn là vào việc phản ánh giá trị kinh tế thực của giao dịch trong Blockchain. Ví dụ,
Blockchain có thể đảm bảo chắc chắn về thời gian và số tiền mua các hàng hoá, nhưng không thể
47
đảm bảo tình trạng của hàng hóa đó, hoặc sự định giá của mặt hàng đó một khi điều kiện thị
trường thay đổi.
Thứ hai, công nghệ Blockchain giúp bảo mật thông tin kế toán: Blockchain sở hữu tính
năng vô cùng đặc biệt đó là việc truyền tải dữ liệu không đòi hỏi một trung gian để xác nhận
thông tin, được thiết kế để chống lại sự thay đổi dữ liệu. Thông tin trong blockchain không thể bị
thay đổi và chỉ được bổ sung thêm khi có sự đồng thuận của tất cả các nút trong hệ thống. Ngay
cả khi nếu một phần của hệ thống Blockchain sụp đổ, những máy tính và nút khác sẽ tiếp tục
hoạt động để bảo vệ thông tin. Blockchain có tác dụng làm giảm phần lớn khả năng xảy ra sai
sót, không thể sửa chữa, thay đổi một khi đã được lưu vào Blockchain. Đặc biệt, trong hoạt động
kế toán thông thường, một nhân viên kế toán cần phải ghi bút toán kép thì Blockchain chỉ cần
một bút toán có thể cung cấp thông tin cho tất cả các bên. Một số Blockchain có thể lập trình để
trở thành hợp đồng thông minh cho các giao dịch cụ thể mà không cần có sự tham gia của con
người... Cũng giống như các công nghệ khác, Blockchain có thể giúp các doanh nghiệp giảm chi
phí nhưng có khả năng tính toán, cung cấp băng thông và lưu trữ dữ liệu cao hơn. Kết quả là,
Blockchain tạo một kết nối liền mạch giữa các nút trong mạng Blockchain.
Thứ ba, công nghệ Blockchain giúp tăng cường hiệu quả của hoạt động kiểm toán: Công
nghệ Blockchain cung cấp cơ hội để hợp lý hóa các quy trình báo cáo và kiểm toán tài chính.
Hiện nay, đối chiếu tài khoản, bảng cân đối phát sinh, nhật ký chung, sổ cái và các tệp bảng tính
hỗ trợ được cung cấp cho kiểm toán viên ở nhiều định dạng điện tử và thủ công. Mỗi cuộc kiểm
toán bắt đầu với các thông tin và lịch trình khác nhau đòi hỏi kiểm toán viên phải đầu tư thời
gian đáng kể khi lập kế hoạch kiểm toán. Trong thế giới Blockchain, kiểm toán viên có thể có
quyền truy cập dữ liệu thời gian thực thông qua các nút chỉ đọc trên các chuỗi khối. Điều này có
thể cho phép kiểm toán viên có được thông tin cần thiết cho cuộc kiểm toán theo định dạng nhất
quán, định kỳ, nhất là khi ngày càng có nhiều doanh nghiệp và quy trình chuyển sang các giải
pháp Blockchain, việc truy cập thông tin trong Blockchain có thể sẽ trở nên hiệu quả hơn.
Mặt khác, với blockchain, toàn bộ các giao dịch phát sinh liên tục liên quan đến một
nghiệp vụ gốc được lưu trữ ở block cuối cùng, tất cả đều được xâu thành chuỗi. Ví dụ, một
nghiệp vụ mua hàng hóa từ khi phát sinh hợp đồng thông minh được ghi nhận trong chuỗi trên
một khối, đến khi nhận hàng, ghi nhận công nợ phải trả và thanh toán tiền cũng vẫn được ghi
nhận trong chuỗi trên các khối khác nhưng toàn bộ các nghiệp vụ phát sinh theo thời gian có liên
quan đến nhau được thể hiện ở khối cuối cùng của nghiệp vụ trong chuỗi. Do đó, thủ tục kiểm
tra việc ghi chép được thực hiện rất dễ dàng. Các nghiệp vụ phát sinh sau ngày khóa sổ cũng
được thể hiện rõ ràng và kịp thời theo thời gian thực trên blockchain nên việc kiểm tra tính đúng
kỳ cũng đơn giản hơn nhiều. Hay như kỹ thuật gửi thư xác nhận số dư tiền gửi, tiền vay tới ngân
hàng; xác nhận số dư nợ phải thu hay nợ phải trả tới khách hàng và nhà cung cấp cũng không cần
thiết thực hiện trong môi trường công nghệ blockchain, bởi các kiểm toán viên khi có ID và mật
khẩu truy nhập vào hệ thống của khách hàng kiểm toán là có thể kiểm tra trực tiếp được các số
liệu này. Chính vì vậy, Blockchain giảm bớt các thủ tục kiểm toán, đồng thời giảm được tính
không độc lập giữa bên thứ ba và khách hàng dẫn đến số liệu xác nhận không trung thực, giảm
rất nhiều thời gian và công sức đối chiếu số liệu giữa các bên, và giảm thời gian thu thập bằng
chứng kiểm toán.
48
Với những lợi thế trên thì một vài ứng dụng của công nghệ Blockchain trong ngành kế toán
- kiểm toán có thể kể đến: bằng chứng kiểm toán có thể theo dõi; quá trình kiểm toán tự động;
xác thực giao dịch… Trong thời gian qua, để phát huy ứng dụng của công nghệ này trong lĩnh
vực kế toán - kiểm toán, nhiều doanh nghiệp bắt đầu quan tâm, đầu tư tài sản vào công nghệ
blockchain cho các hoạt động của mình, đặc biệt là các công ty kế toán Big Four.
Hình 3: Ước tính khối lượng đầu tư tài sản vào công nghệ Blockchain
Nguồn: Aite Group
Ở Việt Nam, trong năm 2018, công ty cổ phần MISA đã ra mắt phần mềm meInvoice.vn –
Phần mềm hóa đơn điện tử. Đây được coi là ứng dụng đầu tiên thành công công nghệ
Blockchain ở Việt Nam, giúp các doanh nghiệp gia tăng tính bảo mật, an toàn và minh bạch của
hóa đơn. Ứng dụng vào hóa đơn điện tử, Blockchain được xem như một cuốn sổ cái ghi lại toàn
bộ trạng thái của hóa đơn. Bất kỳ những thay đổi nào của hóa đơn cũng phải được sự đồng ý của
tất cả các bên tham gia. Chính vì vậy, Blockchain sẽ giúp đảm bảo sự an toàn, minh bạch và
chống làm giả hóa đơn cho doanh nghiệp. Ngoài ra, với meInvoie.vn, chỉ một click chuột, hóa
đơn của người bán sẽ ngay lập tức được chuyển đến người mua. Nhờ đó, quá trình giao dịch,
thanh toán trong kinh doanh được đẩy nhanh và nâng cao hiệu suất. Hiện MISA đã cho ra mắt
phiên bản meInvoice sử dụng trên các thiết bị di động (điện thoại, máy tính bảng...) giúp người
dùng có thể thực hiện các nghiệp vụ như khởi tạo, phát hành và tra cứu hóa đơn một cách tức
thời, mọi lúc mọi nơi vô cùng dễ dàng và thuận tiện. Như vậy, phần mềm hóa đơn điện tử
meInvoice.vn của MISA là một trong những hành động mạnh mẽ đầu tiên trong làn sóng ứng
dụng công nghệ Blockchain vào lĩnh vực Tài chính - kế toán tại Việt Nam. Trong thời gian tới,
những doanh nghiệp Việt như MISA sẽ tăng tốc để ứng dụng Blockchain rộng rãi hơn trong
nhiều sản phẩm của mình để hòa chung với sự phát triển của cuộc CMCN 4.0.
3. NHỮNG THÁCH THỨC CỦA NGÀNH GẶP PHẢI KHI ỨNG DỰNG CÔNG NGHỆ
BLOCKCHAIN
Thứ nhất, công nghệ Blockchain tác động tới nhu cầu việc làm trong ngành kế toán -
kiểm toán
Về kế toán, một vài công việc mà các kế toán viên đang làm hiện nay sẽ được thay thế bởi
blockchain, hoặc được thực hiện bởi công nghệ tự động hóa hay trí tuệ nhân tạo. Nhưng điều này
không có nghĩa là vai trò của các kế toán viên sẽ bị mất đi, mà chỉ đơn giản là công việc của hoạt
49
động tài chính kế toán sẽ thay đổi theo hướng gắn liền với các phần mềm và chương trình máy
tính nhiều hơn. Và do đó, những kế toán viên chuyên nghiệp sẽ chuyển sang làm những công
việc có nhiều giá trị hơn, đảm nhiệm những mảng việc phức tạp như phân tích, dự báo và thực
hiện các dịch vụ tư vấn. Việc này giống với những thay đổi trong ngành kế toán từ giữa thế kỷ
20 tới nay. Ví dụ số lượng nhân sự kế toán giữ sổ sách trở nên ít hơn trước đây, nhưng tổng số
lượng kế toán viên hành nghề lại nhiều hơn vì nghề này đã mở rộng phạm vi. Do đó, Blockchain
không đe dọa mà khiến ngành kế toán trở nên chuyên nghiệp hơn.
Về kiểm toán, công chúng tìm đến các kiểm toán viên để tăng cường niềm tin vào thông
tin được kiểm toán của các công ty mà họ kiểm toán và giúp hệ thống thị trường vốn nhiều nghìn
tỷ đô la hoạt động với độ tin cậy cao hơn. Kiểm toán viên thực hiện theo các quy định nghiêm
ngặt, quy tắc ứng xử và tiêu chuẩn kiểm toán chuyên nghiệp và độc lập với các đơn vị mà họ
kiểm toán. Họ áp dụng tính khách quan và sự hoài nghi nghề nghiệp để cung cấp sự đảm bảo hợp
lý về việc liệu báo cáo tài chính của một doanh nghiệp có sai sót trọng yếu hay không? Nếu tất
cả các giao dịch được nắm bắt trong một blockchain bất biến, vậy thì còn lại gì để kiểm toán viên
thực hiện kiểm toán. Liệu blockchain có loại bỏ nhu cầu kiểm toán báo cáo tài chính không?
Kiểm toán bao gồm một đánh giá rằng các giao dịch được ghi lại, được hỗ trợ bởi bằng
chứng có liên quan, đáng tin cậy, khách quan, chính xác và có thể kiểm chứng. Việc chấp nhận
giao dịch vào một blockchain đáng tin cậy có thể tạo thành bằng chứng kiểm toán thích hợp cho
các xác nhận báo cáo tài chính nhất định như sự xuất hiện của giao dịch (ví dụ: một tài sản được
ghi trên blockchain đã được chuyển từ người bán sang người mua). Tuy nhiên, kiểm toán viên có
thể hoặc không thể xác định sản phẩm đã được phân phối bằng cách chỉ đánh giá thông tin trên
blockchain Bitcoin. Do đó, việc ghi lại một giao dịch trong một blockchain có thể hoặc không thể
cung cấp đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp liên quan đến bản chất của giao dịch. Nói cách khác,
một giao dịch được ghi lại trong blockchain vẫn có thể là trái phép, lừa đảo hoặc bất hợp pháp.
Hơn nữa, số lượng các kiểm toán viên trong một cuộc kiểm toán đối với một khách hàng cụ thể có
thể thay đổi theo hướng giảm, nhưng chưa giảm ngay trong tương lai gần, bởi nó phụ thuộc vào
quá trình và tốc độ áp dụng blockchain trong công tác kế toán của các doanh nghiệp. Khi đó trình
độ, kiến thức và đặc biệt là năng lực về công nghệ thông tin ngày càng đòi hỏi cao đối với kiểm
toán viên. Dù là kiểm toán viên nhà nước, kiểm toán viên độc lập hay kiểm toán viên nội bộ, đều
cần thiết đội ngũ kiểm toán viên phải có hiểu biết sâu sắc về đặc thù kinh doanh của đơn vị khách
hàng, từ đó có thể đưa ra các xét đoán rủi ro - Những đánh giá này không phần mềm nào có thể
thực hiện được. Đặc biệt với những khoản mục đòi hỏi xét đoán chủ quan cao của người làm kế
toán, thì vẫn cần thiết nhóm kiểm toán phải bao gồm các kiểm toán viên có năng lực và kinh
nghiệm thực hiện các xét đoán nghề nghiệp và thực hiện các thử nghiệm kiểm toán phù hợp để đưa
ra ý kiến đánh giá. Những khoản mục này liên quan đến các bút toán điều chỉnh cuối kỳ, đó là các
khoản mục rất trọng yếu trên báo cáo tài chính vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp. Đó là các ước tính kế toán. Như vậy, có thể thấy công nghệ Blockchain sẽ làm
giảm nhưng không loại bỏ hoàn toàn nhu cầu kiểm toán báo cáo tài chính.
Thứ hai, yêu cầu về kiến thức đối với nhân sự trong ngành kế toán - kiểm toán
Theo Khảo sát điều hành năm 2016 của Deloitte, 39% các giám đốc điều hành cấp cao ở
Hoa Kỳ có rất ít thậm chí hoàn toàn không có kiến thức về blockchain. Ngoài việc thiếu kiến
50
thức, họ cũng thiếu các tiêu chuẩn và các dự án blockchain điển hình để học hỏi. Như vậy, nhóm
đối tượng hiểu biết về blockchain hiện nay chỉ chiếm thiểu số. Không nhiều người nắm được cốt
lõi của công nghệ blockchain, mà chỉ biết qua các ứng dụng như tiền kĩ thuật số. Các doanh
nghiệp cần cộng tác thêm với nhau để hiểu rõ hơn và xây dựng các tiêu chuẩn cũng như giao
thức thống nhất để thúc đẩy việc áp dụng rộng rãi công nghệ blockchain.
Bên cạnh đó, nguồn nhân sự phục vụ công nghệ blockchain cũng gặp nhiều khó khăn. Có
thể nói, nhu cầu đào tạo nhân sự công nghệ thông tin và kế toán hiểu biết về blockchain trong làn
sóng blockchain và cũng như các thay đổi chóng mặt của ngành công nghệ thông tin trong thời
gian sắp tới đang diễn ra chóng mặt. Khi nhiều công ty tham gia vào nền kinh tế tiền điện tử, các
công ty kế toán sẽ sớm phải đưa các giao dịch tiền điện tử vào quy trình kế toán của họ. Hơn
nữa, kế toán chấp nhận tiền điện tử để thanh toán cũng sẽ tự tìm kiếm các công ty thân thiện với
tiền điện tử để hợp tác kinh doanh. Một số công ty chỉ chấp nhận Bitcoin dưới dạng thanh toán
và đây là cơ hội cho các kế toán viên am hiểu về blockchain nắm bắt công việc kinh doanh của
họ. Khi blockchain phát triển thâm nhập vào ngành kế toán, các nhà quản lý, nhà cung cấp công
nghệ và các nhà lãnh đạo ngành kế toán phải làm việc cùng nhau và tìm cách làm cho việc chuyển
đổi có lợi cho tất cả các bên. Kế toán không phải là kỹ sư và có thể không có kiến thức chi tiết về
cách thức hoạt động của blockchain. Nhưng họ sẽ cần biết cách tư vấn về việc áp dụng blockchain
và xem xét tác động của blockchain đối với doanh nghiệp và khách hàng của họ. Do đó, các kế
toán và kiểm toán viên nên chủ động cập nhật, tiếp thu và ứng dụng công nghệ Blockchain và từ
đó xây dựng một chiến lược hợp lý trong tương lai. Họ cần phải tìm hiểu càng nhiều càng tốt về
công nghệ này trước khi nó trở thành một phần tiêu chuẩn trong công việc hàng ngày của họ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Amy Vetter (2018), https://www.accountingtoday.com/opinion/blockchain-is-already-changing-
accounting, truy cập ngày 07/05/2018
CPA Canada, the AICPA and UWCISA (2017), Blockchain Technology and Its Potential Impact
on the Audit and Assurance Profession
Deloitte Deutschland (2016), Blockchain Technology: A game-changer in accounting?
Lưu Thế Lợi và David Nguyễn (2018). Blockchain Và Đầu Tư ICOs Căn Bản, Tri thức trẻ Book,
NXB Thanh niên.
Mark Gates (2017). Blockchain - bản chất của blockchain, bitcoin, tiền điện tử, hợp đồng thông
minh và tương lai của tiền tệ. Người dịch: Thành Dương, NXB Lao Động.
Trịnh Xuân Hưng (2018), Tìm hiểu về công nghệ blockchain và ảnh hưởng của nó đến lĩnh vực
kế toán - tài chính - ngân hàng, Tạp chí kế toán và kiểm toán, số T8/2018
https://nhipcaudautu.vn/doanh-nghiep/blockchain-khong-cuop-viec-cua-ke-toan-3321199/
https://www.adcvietnam.net/blockchain-la-gi-nen-tang-ung-dung-cong-nghe-blockchain
https://bigcoinvietnam.com/ban-da-biet-phan-biet-public-blockchain-vaprivate-blockchain-chua
51
Thực tập tốt nghiệp trong đào tạo sinh viên kế toán - kiểm toán:
Góc nhìn từ phía doanh nghiệp
Vũ Thị Thanh Bình, Nguyễn Thị Thanh Loan, Hoàng Thị Hương
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: vuthithanhbinh@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.13 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 12/11/2019
Ngày nhận bài: 22/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2019
Tóm tắt
Thực tập tại doanh nghiệp là một học phần trong bắt buộc trong chương trình đào tạo
ngành kế toán - kiểm toán giúp sinh viên có thể học qua thực hành giải quyết vấn đề thực tế.
Nghiên cứu khảo sát ý kiến từ phía các đơn vị thực tập có nhận sinh viên ngành kế toán - kiểm
toán của Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội đến thực tập. Bằng phương pháp phân tích thống
kê mô tả, kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các doanh nghiệp đánh giá về trình độ và khả năng
của sinh viên kế toán - kiểm toán thực tập tại các đơn vị ở mức khá, trong đó, trình độ ngoại ngữ
của sinh viên còn rất hạn chế. Kết quả nghiên cứu cũng trình bày về nhu cầu tuyển dụng cũng
như những ý kiến khuyến nghị từ phía doanh nghiệp nhằm cải thiện chất lượng thực tập của sinh
viên kế toán - kiểm toán. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa với nhiều bên liên quan, là cơ sở để có
các giải pháp cải tiến nội dung, chương trình đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực kế
toán kiểm toán.
Từ khoá: Thực tập doanh nghiệp, học qua thực hành, sinh viên kế toán kiểm toán, doanh
nghiệp.
1. GIỚI THIỆU
Nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán làm việc trong tất cả hình doanh nghiệp và các lĩnh vực
kinh doanh nên nhu cầu tuyển dụng là rất lớn. Nhu cầu lao động kế toán - kiểm toán có có trình
độ cao như giám đốc tài chính, CFO, chuyên gia tài chính đã tăng lên, đặc biệt là lĩnh vực bất
động sản, sản xuất và những lao động có kỹ năng giao tiếp và sự nhạy bén sẽ có nhiều lợi thế
tuyển dụng (Robert Walters, 2016).
Khi Việt Nam gia nhập các hiệp định kinh tế toàn cầu thì cơ hội cũng như thách thức cho
nhân lực kế toán kiểm toán Việt Nam sẽ nhiều lên. Thực trạng này đòi hỏi giải pháp đồng bộ từ
tất cả các bên liên quan để giải quyết bài toán nhân lực. Nhưng những giải pháp từ phía cơ sở
đào tạo và sinh viên kế toán - kiểm toán là cấp thiết nhất bởi nó liên quan đến việc tuyển sinh của
nhà trường và việc làm, thu nhập của chính sinh viên khi ra trường. Các cơ sở đào tạo đã thực
52
hiện nhiều cải tiến, áp dụng nhiề phương pháp đào tạo tiên tiến trong giảng dạy để hướng đến
nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực ngành kế toán - kiểm toán.
Chương trình thực tập kế toán và kiểm toán được thiết kế trong chương trình đào tạo sinh
viên ngành kế toán - kiểm toán. Ở trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, học phần thực tập được
chia ra làm 2 giai đoạn, gian đoạn 1 là thực tập cơ sở ngành được thiết kế sau khi sinh viên học
hết năm thứ 3 và giai đoạn 2 là thực tập tốt nghiệp được thiết kế cuối năm học thứ 4. Thực tế
triển khai cho thấy, thực tập tốt nghiệp là bước đệm cho sinh viên ngành kế toán - kiểm toán có
thể làm quen với thực tế, vừa học vừa làm quen giải quyết các vấn thực tế. Tuy nhiên, các kết
quả nghiên cứu trước cũng cho thấy, sinh viên vẫn còn những thiếu hụt về kỹ năng nghề nghiệp
(Vũ Thị Thanh Bình, 2017). Chính bởi vậy, nghiên cứu đánh giá của các bên liên quan sẽ giúp
Khoa và nhà trường có góc nhìn khách quan, đa diện để giải quyết các vấn đề trong đào tạo,
nhằm cải thiện chất lượng nguồn nhân lực.
Mục đích nghiên cứu này là khảo sát đánh giá của doanh nghiệp về sinh viên kế toán -
kiểm toán của trường Đại học Công nghiệp Hà Nội khi đến thực tập tại các doanh nghiệp. Ngoài
ra, nghiên cứu nhằm tìm hiểu nhu cầu về nguồn nhân lực kế toán - kiểm toán của các doanh
nghiệp, cũng như tổng hợp các ý kiến của doanh nghiệp giúp cải thiện chất lượng thực tập tốt
nghiệp. Nghiên cứu có ý nghĩa đối với cả phía đơn vị đào tạo cũng như sinh viên. Kết quả nghiên
cứu cung cấp cho cơ sở đào tạo thực trạng chất lượng đào tạo, trong khi đó, nhà trường và sinh
viên có thể nắm bắt nhu cầu thực tế của doanh nghiệp để cải thiện chất lượng đào tạo và năng lực
bản thân của sinh viên để đáp ứng thực tế.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Học qua thực hành (learning by doinng) được biết đến là một lý thuyết phổ biến trong khoa
học nhận thức. Học qua thực hành được áp dụng phổ biến trong nhiều cấp học, nhiều ngành học
và còn được biết đến như một phương pháp học chủ động (Felder & Brent, 2003). Học qua thực
hành vừa cho phép sinh viên vừa học vừa tham gia giải quyết vấn đề phát sinh (Anzai & Simon,
1979). Chính vì những lợi ích và ưu thế của phương pháp học qua thực hành mà những kỳ thực
tập được thiết kế vào trong chương trình đào tạo ở bậc học đại học. Đối với sinh viên các ngành
kinh tế, hoạt động thực tập doanh nghiệp đã được các trường thiết kế. Tuy nhiên, cách triển khai
học phần thực tập doanh nghiệp của các cơ sở đại học là khác nhau, nên hiệu quả của học phần
cũng như những lợi ích và bất cập của cách bố trí học phần thực tập doanh nghiệp này cũng khác
nhau (Nguyễn Thị Hải Hà & Nguyễn Thị Tuyết Chinh, 2016). Có những trường sẽ để sinh viên
tự liên hệ đơn vị thực tập, có những trường ký kết với các doanh nghiệp để đưa sinh viên đến
thực tập, hay có những trường thực hiện kế toán mô phỏng cho sinh viên.
Theo lý thuyết các bên liên quan, tổ chức là một thực thể với rất nhiều các bên liên quan
cùng nhau hoạt động để hướng tới đạt mục tiêu đề ra (Marstein, 2003). Đối với cơ sở giáo dục
đại học, doanh nghiệp là chính là khách hàng, là người sử dụng sản phẩm đào tạo của nhà
trường. Chính vì vậy, ý kiến của doanh nghiệp cần được ghi nhận trong quá trình xây dựng, cải
tiến chương trình đào tạo và hoạt động giảng dạy của của các cơ sở đào tạo.
53
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Về phương pháp thu thập dữ liệu: Nghiên cứu thực hiện khảo sát ý kiến doanh nghiệp thông
qua phiếu khảo sát trực tiếp. Các phiếu khảo sát được gửi qua sinh viên đi thực tập tại các doanh
nghiệp. Thời gian thu thập dữ liệu từ tháng 1/2019 đến tháng 5/2019. Bảng hỏi ở dạng câu hỏi bán
cấu trúc, gồm có câu hỏi đóng và câu hỏi mở nhằm thu nhận ý kiến từ phía doanh nghiệp.
Về phương pháp phân tích dữ liệu: Nghiên cứu sử dụng phân tích thống kê mô tả, dưới sự
hỗ trợ của Excel, nhằm phân tích các nội dung liên quan đến các đánh giá của doanh nghiệp về
nội dung thực tập doanh nghiệp của sinh viên chuyên ngành kế toán, kiểm toán, Trường Đại học
Công nghiệp Hà Nội.
Hình 1. Lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp khảo sát
Kết quả khảo sát thu về 135 phiếu khảo sát. Đặc điểm dữ liệu khảo sát được trình bày tại
Hình 1. Trong đó, lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp khảo sát cho thấy các doanh nghiệp
được khảo sát hoạt động trong lĩnh vực sản xuất chiếm đến 43%, tiếp theo là các doanh nghiệp
kinh doanh thương mại chiếm 26%. Tỷ lệ thấp hơn các doanh nghiệp tham gia trong khảo sát là
doanh nghiệp hoạt động xây dựng, thi công chiếm 19% và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
chiếm 12%.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Đánh giá của doanh nghiệp về sinh viên thực tập ngành kế toán, kiểm toán
Qua khảo sát ý kiến doanh nghiệp, nghiên cứu thực hiện phân tích các đánh giá của doanh
nghiệp về đối với sinh viên thực tập và quá trình thực tập của sinh viên tại doanh nghiệp. Kết quả
nghiên cứu trình bày về những đánh giá của doanh nghiệp về tác dụng của học phần Thực tập tốt
nghiệp cũng như là quá trình thực tập đối với sinh viên ngành kế toán, kiểm toán (Hình 2) và
đánh giá về sinh viên ngành kế toán, kiểm toán của Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội (HaUI)
tham gia thực tập tại đơn vị (Hình 3).
Hình 2 trình bày kết quả nghiên cứu ý kiến của các doanh nghiệp về tác dụng của thực tập
doanh nghiệp đối với sinh viên. Kết quả từ phía doanh nghiệp cho thấy rằng, thực tập doanh
nghiệp trong chương trình đào tạo sẽ giúp sinh viên ngành kế toán - kiểm toán có cơ hội tiếp xúc
với thực tế (79% doanh nghiệp trả lời). Tiếp đến, sinh viên có thể vận dụng các kiến thức được
54
học ở trường vào xử lý các vấn đề phát sinh (62% doanh nghiệp trả lời). Hơn nữa, thực tập
doanh nghiệp còn là cơ hội giúp sinh viên rèn luyện kỹ năng và nghiệp vụ. Thực tế phản hồi từ
phía sinh viên và doanh nghiệp cho thấy, không phải doanh nghiệp nào cũng sẵn lòng cho sinh
viên tiếp xúc với dữ liệu của họ nên vẫn còn tỷ lệ lớn sinh viên chưa được tiếp xúc nhiều với
thực tế công tác kế toán, nên chỉ có 58% doanh nghiệp phản hồi tác dụng về việc rèn luyện kỹ
năng, nghiệp vụ của sinh viên sau đợt thực tập doanh nghiệp. Ngoài ra, học phần thực tập doanh
nghiệp cũng giúp cho sinh viên có nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp (41% doanh nghiệp trả
lời) và định hướng nghề nghiệp tương lai (32% doanh nghiệp trả lời).
Hình 2. Đánh giá của doanh nghiệp về tác dụng của quá trình thực tập
Kết quả nghiên cứu tại Hình 3 trình bày đánh giá của doanh nghiệp về năng lực sinh viên
kế toán - kiểm toán của Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội khi thực tập tại đơn vị. Nghiên cứu
sử dụng thang đo Likert 7 mức độ tăng dần từ (1) kém, đến (7) xuất sắc.
Hình 3. Đánh giá của doanh nghiệp về sinh viên kế toán, kiểm toán (HaUI)
Kết quả (Hình 3) phân tích thống kê mô tả giá trị trung bình đánh giá từ phía các đơn vị
nhận sinh viên thực tập cho thấy đa số các tiêu chí được đánh giá trên mức khá (giá trị trung
bình, mean >=5). Nhóm các kỹ năng được đánh giá cao hơn gồm có kỹ năng làm việc nhóm, hạn
55
chế của sinh viên ngành kế toán - kiểm toán của nhà trường là trình độ ngoại ngữ (giá trị trung
bình, mean = 4.47). Từ kết quả này cho thấy, cả về phía đơn vị đào tạo và bản thân sinh viên cần
có những biện pháp nâng cao hơn nữa năng lực của sinh viên ngành kế toán - kiểm toán. Đối với
sinh viên mới ra trường, kinh nghiệm làm việc chưa có thì kinh nghiệm làm việc và thái độ làm
việc là các tiêu chí quan trọng để nhà tuyển dụng lựa chọn ứng viên. Chính vì vậy, các kỹ năng
nghề nghiệp chuyên nghiệp của sinh viên cần phải được cải thiện hơn nữa. Ngoài ra, môi trường
làm việc toàn cầu hóa đòi hỏi kế toán viên phải sử dụng ngoại ngữ rất nhiều khi mà giao tiếp
trong môi trường trong doanh nghiệp, với khách hàng và nhà cung cấp. Chính vì vậy, trình độ
cũng như khả năng sử dụng ngoại ngữ của sinh viên ngành kế toán - kiểm toán cần phải được cải
thiện nhiều hơn nữa.
Nghiên cứu tiếp tục khảo sát ý kiến doanh nghiệp về độ dài đợt thực tập và đánh giá về sự
phối hợp nhà trường - doanh nghiệp trong việc quản lý sinh viên thực tập. Kết quả nghiên cứu
doanh nghiệp được trình bày tại Hình 4.
Hình 4. Đánh giá về độ dài đợt thực tập và sự phối hợp quản lý sinh viên thực tập
Kết quả nghiên cứu tại Hình 4 cho thấy rằng 96% doanh nghiệp được khảo sát cho rằng độ
dài đợt thực tập là hợp lý, chỉ có 3% doanh nghiệp được khảo sát cho rằng thời gian thực tập quá
ngắn, 1% doanh nghiệp được khảo sát cho rằng thời gian đợt thực tập là quá dài. Đánh giá về sự
phối hợp giữa nhà trường - doanh nghiệp trong việc quản lý sinh viên thực tập, 76% doanh
nghiệp được khảo sát cho rằng nhà trường và doanh nghiệp đã có sự phối hợp tốt, 10% doanh
nghiệp được khảo sát đánh giá ở mức rất tốt, 13% đánh giá ở mức bình thường và 1% đánh giá
sự phối hợp nhà trường và doanh nghiệp chưa tốt. Như vậy, các kết quả này có thể cho thấy rằng
đa số doanh nghiệp đều đánh giá về thời gian và sự phối hợp là tốt và hợp lý. Tuy nhiên, Khoa
cũng cần có thêm những điều chỉnh để phù hợp với doanh nghiệp, hướng đến hài lòng doanh
nghiệp cũng như giúp cho sinh viên đi thực tập có chất lượng tốt nhất.
4.2. Nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp
Nghiên cứu phân tích về tần suất nhận thực tập và thời điểm doanh nghiệp nhận sinh viên
kế toán, kiểm toán vào thực tập. Kết quả tại Hình 5 cho thấy về tần suất thì có đến 79% doanh
56
nghiệp tham gia khảo sát thỉnh thoảng (cụ thể có từ 1 đến 2 đợt trong năm) tuyển thực tập viên
kế toán). Có đến 12% doanh nghiệp hiếm khi tuyển thực tập kế toán, các đợt tuyển không liên
tục mỗi năm, các doanh nghiệp này có xu hướng tuyển dụng khi họ có các đợt quyết toán, hoặc
cần hoàn thiện hồ sơ kế toán. 9% các doanh nghiệp tham gia khảo sát thường xuyên tuyển thực
tập kế toán, mức thường xuyên được doanh nghiệp đề cập đến trong khảo sát là từ trên 3 đợt
tuyển sinh viên thực tập đến làm việc tại doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu này cho thấy cơ hội
thực tập tại các doanh nghiệp cho ngành nghề kế toán, kiểm toán là khá cao.
Hình 5: Tần suất và thời điểm nhận tiếp nhận sinh viên thực
Về trình độ của nhân sự cần tuyển dụng (Hình 6), 56% các doanh nghiệp tham gia khảo sát
có nhu cầu tuyển dụng nhân sự có trình độ đại học, trong khi có 44% các doanh nghiệp có nhu
cầu tuyển dụng nhân sự có trình độ đến cao đẳng. Điều này cho thấy cơ hội việc làm cho lao
động là khá phong phú, doanh nghiệp cần đến nhiều trình độ bằng cấp khác nhau tùy theo mức
độ phân bổ công việc. Tuy nhiên, theo đuổi tấm bằng đại học cũng có những cơ hội việc làm cao
hơn cho sinh viên khi ra trường.
Hình 6. Nhu cầu tuyển dụng về bằng cấp của lao động kế toán
Ngoài ra, khi khảo sát các doanh nghiệp về nhu cầu tuyển dụng hiện nay về lao động kế
toán, kiểm toán. Với 132 trả lời từ phía doanh nghiệp, có đến 89 doanh nghiệp (chiếm 67%
doanh nghiệp trả lời) có nhu cầu tuyển dụng lao động kế toán - kiểm toán trong thời gian này,
57
còn lại 43 doanh nghiệp (chiếm 33% doanh nghiệp) trả lời họ chưa có phát sinh nhu cầu tuyển
dụng lao động kế toán - kiểm toán trong thời gian hiện tại. Như vậy, có thể thấy nhu cầu tuyển
dụng lao động kế toán cũng khá lớn, điều này giúp cho sinh viên kế toán - kiểm toán ra trường
có nhiều cơ hội việc làm hơn.
Các kênh tuyển dụng nhân sự mà doanh nghiệp được trình bày tại Hình 7. Các doanh nghiệp
sử dụng website công ty để đăng tuyển các thông tin tuyển dụng nhân sự là phổ biến nhất (87/135
doanh nghiệp). Các kênh thông tin khác cũng được các doanh nghiệp ưu chuộng để tuyển dụng
nhân sự là thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm, 29/135 doanh nghiệp sử dụng, các đơn vị
đạo tạo là các trường (26/135 doanh nghiệp sử dụng), hay tuyển dụng qua các hội chợ việc làm
(21/135 doanh nghiệp sử dụng) hay các kênh khác (28/135 doanh nghiệp sử dụng) như qua các hội
nhóm của Facebook, Zalo. Kết quả cho thấy chỉ có rất ít doanh nghiệp hiện nay sử dụng các kênh
thông qua báo đài, tivi hay tham dự lễ tốt nghiệp của sinh viên. Điều này cho thấy rằng, sinh viên
kế toán - kiểm toán nói riêng, sinh viên nói chung muốn gia tăng cơ hội việc làm của mình cần tích
cực tham gia các kênh tuyển dụng phổ biến mà doanh nghiệp sử dụng. Cách tốt nhất để cập nhất
thông tin tuyển dụng là sinh viên cần cập nhật vào website chính thức của các doanh nghiệp để tìm
hiểu các cơ hội việc làm mới nhất. Ngoài ra, sự phát triển của cách mạng công nghiệp cho thấy
ứng dụng công nghệ thông tin giúp truyển tải thông tin nhanh, sinh viên có thể tham gia vào các
hội nhóm về kế toán, việc làm để gia tăng cơ hội việc làm cho mình.
Hình 7. Các kênh tuyển dụng lao động của doanh nghiệp
Về hình thức tuyển dụng, kết quả khảo sát cho thấy, 81% doanh nghiệp khảo sát sử dụng
hình thức phỏng vấn trực tiếp, từ kết quả phỏng vấn trực tiếp này để tuyển dụng nhân sự. 15%
doanh nghiệp sử dụng thời gian thực tập của sinh viên để thử thách và nhận sinh viên vào làm
chính thức. Chỉ có tỷ lệ nhỏ 3% doanh nghiệp tuyển dụng thông qua người quen giới thiệu, và
1% là các hình thức khác. Ngoài ra, Hình 8 trình bày về các tiêu chuẩn mà doanh nghiệp cần
nhắc lựa chọn ứng viên trong các cuộc tuyển dụng. Kết quả Hình 8 cho thấy, tỷ lệ cao các doanh
nghiệp ưu tiên nhiều nhất đến kinh nghiệm làm việc nhiều nhất (74/135), kỹ năng của ứng viên
phù hợp (64/135) và kết quả phỏng vấn (52/135) khi tuyển dụng. Trong khi đó, tỷ lệ ít các doanh
nghiệp ít ưu tiên tiêu chuẩn về kết quả học tập (14/135) hay bằng cấp của ứng viên (17/135). Nói
58
chung, các tiêu chuẩn được doanh nghiệp sử dụng để tuyển dụng nhân viên phổ biến nhất là kỹ
năng làm việc của ứng viên phù hợp, kết quả buổi phỏng vấn, kinh nghiệm làm việc, các chứng
chỉ tin học ngoại ngữ.
Hình 8: Những tiêu chuẩn khi doanh nghiệp lựa chọn ứng viên trong quá trình tuyển dụng
Từ kết quả nghiên cứu này có thể thấy rằng, sự công bằng, minh bạch trong quá trình tuyển
dụng của các doanh nghiệp đã tạo cơ hội cho các ứng viên tuyên dụng được thể hiện mình qua
các cuộc phỏng vấn tuyển dụng. Điều này cũng ngụ ý rằng, sinh viên cần chuẩn bị kiến thức, kỹ
năng, thái độ phù hợp với yêu cầu công việc và cần thể hiện tốt những năng lực này trong buổi
tuyển dụng để nhận được cơ hội việc làm cho bản thân. Ngoài ra, quá trình thực tập vừa là cơ hội
cho sinh viên cọ xát với thực tế, và cũng chính là cơ hội việc làm cho sinh viên vì nhiều doanh
nghiệp sẽ giữ lại nhân viên thực tập có năng lực để làm việc chính thức. Sinh viên cũng cần bồi
dưỡng cho bản thân phù hợp với những tiêu chuẩn lựa chọn ứng viên của doanh nghiệp. Khi mà
kinh nghiệm làm việc chưa có nhiều thì các tiêu chuẩn về kỹ năng làm việc và thể hiện trong
cuộc phỏng vấn sẽ mang lại nhiều cơ hội việc làm cho sinh viên.
4.3. Giải pháp cải thiện chất lượng thực tập - góc nhìn của doanh nghiệp
Nghiên cứu thu nhận các ý kiến từ phía doanh nghiệp nhận sinh viên thực tập. Các ý kiến
này nhằm giúp nâng cao chất lượng đợt thực tập cho sinh viên cũng như nâng cao chất lượng đào
tạo nhân lực kế toán - kiểm toán. Các ý kiến đóng góp được tổng hợp theo 2 phần, góp ý với cơ
sở đào tạo và góp ý cho sinh viên đi thực tập.
Đối với cơ sở đào tạo:
Từ góc nhìn của doanh nghiệp, sau khi tiếp nhận sinh viên đến thực tập, các doanh nghiệp
đề xuất các giải pháp sau:
59
Thứ nhất, khoa cần kiểm soát quá trình thực tập của sinh viên và có sự phối hợp giữa nhà
trường và doanh nghiệp trong việc quản lý sinh viên. Các doanh nghiệp đề xuất rằng cơ sở đào
tạo cần “có biện pháp xác nhận được sinh viên có đi thực tập đầy đủ hay không”. Thêm nữa,
phía cơ sở đào tạo cần “định kỳ kiểm tra thông tin sinh viên tại doanh nghiệp” hoặc “theo dõi
quá trình thực tập của sinh viên” và “thông qua báo cáo thực tập, kiểm tra kiến thức thực tế mà
sinh viên học được trong quá trình thực tập”. Những hoạt động kiểm soát này có thể được thực
hiện bởi giáo viên hướng dẫn để kiểm soát về tiến độ thực tập cũng như đánh giá sinh viên qua
quá trình sửa bài. Ngoài ra, để gia tăng sự phối hợp của nhà trường và doanh nghiệp cũng như
quản lý sinh viên tốt hơn, các doanh nghiệp đã có nhiều đề xuất. Một số đề xuất từ phía doanh
nghiệp để gia tăng phối hợp như “cử đoàn giáo viên đi giao lưu, tìm hiểu”, “Nhà trường cần có
bộ phận chuyên trách tổ chức các chương trình thực tập, lên kế hoạch, liên hệ với các cơ quan,
doanh nghiệp. Tổ chức chương trình cần được duy trì thường xuyên” hay “tăng cường hơn nữa
sự hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp”. Thực tế về quản lý hoạt động phối hợp nhà
trường - doanh nghiệp tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội là trung tâm hợp tác doanh
nghiệp, tuy nhiên, quản lý hoạt động thực tập doanh nghiệp ngành kế toán lại là Khoa kế toán -
Kiểm toán. Cho nên, Khoa kế toán - kiểm toán và Trung tâm hợp tác doanh nghiệp cần có sự
phối hợp đồng bộ hơn nữa, xác định đầu mối kết nối với doanh nghiệp và nhận các phản hồi từ
các doanh nghiệp để có biện pháp cải tiến chất lượng. Khoa chuyên môn có nhu cầu rất cao về
việc liên hệ cho sinh viên thực tập và nhận phản hồi với doanh nghiệp, nhưng lại hạn chế về
nhân lực đảm nhận phản hồi. Do vậy, Khoa kế toán kiểm toán cần thêm sự phối hợp từ các trung
tâm chức năng.
Thứ hai, doanh nghiệp đề xuất cần gia tăng thời gian thực tập doanh nghiệp của sinh viên.
Kết quả nghiên cứu đánh giá của doanh nghiệp cho thấy hầu hết các doanh nghiệp thấy thời gian
thực tập là hợp lý nhưng vẫn có những đánh giá về thời gian thực tập ngắn hay dài. Ngoài ra,
ngành kế toán - kiểm toán có chu kỳ tuyển dụng, các doanh nghiệp thường có nhu cầu tuyển thực
tập kế toán vào các đợt chuẩn bị hoàn thiện báo cáo tài chính, quyết toán, trong khi các doanh
nghiệp kiểm toán sẽ có mùa tuyển dụng kiểm toán. Chính vì vậy, Khoa có thể đề xuất bố trí kế
hoạch học phù hợp để cho sinh viên dễ dàng liên hệ thực tập.
Thứ ba, khoa cần gia tăng thực hành các học phần kế toán - kiểm toán. Kết quả cho thấy
nhiều doanh nghiệp có ý kiến về việc tăng thêm thực hành trong chương trình kế toán kiểm toán.
Thực tế đào tạo của Khoa kế toán kiểm toán đã bố trí thực hành cho hầu hết các học phần để sinh
viên tiếp xúc với máy vi tính và bồi dưỡng các kỹ năng nghề nghiệp chuyên môn. Để nâng cao
hiệu quả thực hành, khoa có thể khảo sát ý kiến của sinh viên để nắm bắt những tồn tại trong đào
tạo thực hành trong các học phần. Từ đó, Khoa và các Bộ môn có những giải pháp hay kiến nghị
để giải quyết những tồn tại, hướng đến nâng cao chất lượng đào tạo thực hành.
Thứ tư, nhà trường và khoa cần có những định hướng nghề nghiệp và cho sinh viên tiếp
xúc thực tế nhiều hơn. Định hướng nghề nghiệp theo quan điểm của các doanh nghiệp chính là
việc nhà trường “định hướng cho các em theo nghề và học nghề đúng đắn”. Ngoài ra, để sinh
viên có cơ hội tiếp xúc thực tế nhiều thì Nhà trường và Khoa có thể mời chuyên gia chia sẻ về
các chuyên đề, hay “gia tăng thời gian thực tập”, bởi một số doanh nghiệp còn chưa thấy thời
gian thực tập phù hợp. Những ý kiến này từ phía doanh nghiệp là rất thiết thực, bởi nghề kế toán
60
- kiểm toán có những quy định về đạo đức nghề nghiệp, cần có sự yêu và gắn bó với nghề, cam
kết với doanh nghiệp. Chính vì vậy, củng cố đạo đức nghề nghiệp, định hướng phát triển nghề
nghiệp và tăng cơ hội tiếp xúc thực tế cho sinh viên là yêu cầu rất thiết thực.
Và cuối cùng, doanh nghiệp đề xuất việc bố trí thời gian sửa bài giữa giáo viên hướng dẫn
và sinh viên phù hợp. Doanh nghiệp có ý kiến rằng “thời gian sửa bài nên vào cuối tuần” để
tránh ảnh hưởng đến thời gian thực tập của sinh viên. Tuy nhiên, trong thời gian thực tập, sinh
viên vừa thuộc quản lý của nhà trường lại vừa thuộc sự quản lý nhân sự của doanh nghiệp, chính
vì vậy, cũng cần có sự linh hoạt trong thời gian sửa bài để tránh ảnh hưởng đến thời gian làm
việc của sinh viên tại doanh nghiệp cũng như phù hợp với lịch làm việc của giảng viên. Để có kế
hoạch làm việc tốt nhất, sinh viên cần xem thời khóa biểu thực tập để báo cáo với doanh nghiệp
trước về lịch sửa bài, tránh làm ngắt quãng công việc của doanh nghiệp khi xin nghỉ đột xuất
không báo trước để sửa bài báo cáo thực tập.
Đối với sinh viên
Doanh nghiệp là đơn vị tiếp nhận và cũng thực hiện quản lý nhân sự trong thời gian sinh
viên thực tập. Những ý kiến của doanh nghiệp đối với sinh viên thực tập đó là sinh viên cần bồi
dưỡng năng lực nghề nghiệp bản thân. Năng lực nghề nghiệp ở đây bao gồm cả kiến thức, kỹ
năng và thái độ. Về kiến thức, sinh viên cần “tìm hiểu trước các thông tin” về đặc điểm doanh
nghiệp về các nghiệp vụ phát sinh tại doanh nghiệp để có cái nhìn tổng quát, am hiểu doanh
nghiệp. Về kỹ năng, các doanh nghiệp cho rằng sinh viên cần “cải thiện kỹ năng làm việc” và
cần có thêm “các kỹ năng thực tế tốt hơn”. Và cuối cùng, yếu tố về thái độ làm việc của sinh
viên cũng cần thay đổi. Các doanh nghiệp đề xuất rằng, sinh viên cần có thái độ làm việc tập
trung hơn “cần tập trung trong lúc thực tập” hay “đi thực tập thường xuyên hơn” và “mạnh dạn
hỏi ý kiến để có thêm thông tin”.
5. KẾT LUẬN
Thực tập doanh nghiệp là học phần được triển khai trong tất cả các chương trình đào tạo kế
toán kiểm toán. Thực tập doanh nghiệp là cơ hội cho sinh viên được học và giải quyết các vấn đề
thực tế thông qua phương pháp học qua làm việc. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra những đánh giá
của doanh nghiệp về kỹ năng, trình độ của sinh viên thể hiện qua đợt thực tập tại doanh nghiệp.
Nghiên cứu cũng khảo sát nhu cầu tuyển dụng lao động kế toán kiểm toán của các đơn vị để cho
thấy rằng cơ hội làm việc ngành kế toán kiểm toán là rất lớn. Nghiên cứu cũng thu nhận những ý
kiến đóng góp và tổng hợp thành những khuyến nghị từ phía doanh nghiệp nhằm cải thiện chất
lượng thực tập doanh nghiệp.
Kết quả nghiên cứu có nhiều ý nghĩa cho các bên liên quan là các bộ phận, phòng ban và
khoa chuyên môn của cơ sở đào tạo. Nghiên cứu cũng có ý nghĩa đối với sinh viên ngành kế toán
- kiểm toán, là cơ hội để sinh viên tiếp xúc được với thực tế yêu cầu công việc để có những
chuẩn bị hành trang, định hướng về nghề nghiệp trong tương lai.
61
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Anzai, Y., & Simon, H. A. (1979). The theory of learning by doing. Psychological Review,
86(2), 124-140. doi: http://dx.doi.org/10.1037/0033-295X.86.2.124
Felder, R. M., & Brent, R. (2003). Learning by doing. Chemical Engineering Education, 37(4),
282-283.
Marstein, E. (2003). The influence of stakeholders groups on organisational decision-making in
public hospitals. Norwegian School of Management.
Nguyễn Thị Hải Hà, & Nguyễn Thị Tuyết Chinh. (2016). Chương trình thực tập thực tế hiệu quả
dành cho sinh viên ngành kế toán. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và kinh doanh,
32(1), 88-93.
Robert Walters. (2016). Robert Walters salary survey 2016 (pp. 363-373).
Vũ Thị Thanh Bình. (2017). Kỹ năng nghề nghiệp kế toán: Thực trạng và nguyên nhân của sự
thiếu hụt, nghiên cứu tại trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Tạp chí Khoa học & Công
nghệ, 42, 111-116.
62
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng
của sinh viên về chất lượng đào tạo chuyên ngành kế toán, kiểm toán
tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Nguyễn Thị Lan Anh
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: nguyenthilananh@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.14 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 10/11/2019
Ngày nhận bài: 27/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2019
Tóm tắt
Chất lượng đào tạo luôn là mối quan tâm hàng đầu của các trường đại học. Nghiên cứu này
thực hiện nhằm đánh giá mức độ hài lòng về chất lượng đào tạo chuyên ngành kế toán, kiểm toán
tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Tác giả đã thu thập dữ liệu từ 285 sinh viên khóa 11 và
khóa 12, theo phương pháp trọn mẫu ngẫu nhiên. Phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA
được sử dụng nhằm xác định các nhóm nhân tố thuộc về chất lượng đào tạo ảnh hưởng tới sự hài
lòng của sinh viên. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 5 nhân tố thuộc chất lượng đào tạo ảnh
hưởng tới sự hài lòng của sinh viên, lần lượt là chương trình đào tạo, khả năng phục vụ, giảng
viên, học phí, cơ sở vật chất, trong đó, ảnh hưởng mạnh nhất là nhân tố chương trình đào tạo.
Qua đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm tăng cường sự hài lòng của sinh viên đối với chất
lượng đào tạo tại trường.
Từ khóa: Chất lượng đào tạo; kế toán - kiểm toán; mức độ hài lòng của sinh viên; Trường
Đại học Công nghiệp Hà Nội.
1. GIỚI THIỆU
Giáo dục đại học (GDĐH) là bậc học cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân, có vai trò
cung cấp lực lượng lao động có chất lượng cao cho xã hội, góp phần nâng cao năng suất lao
động, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Giáo dục được xem là một
hoạt động sự nghiệp đào tạo con người mang tính phi thương mại, phi lợi nhuận. Tuy nhiên từ
khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường nhà nước đã cho các trường đại học tự
chủ bằng các quyết định năm 2002 với NĐ 10/2002/NĐ-CP, năm 2006 NĐ 43/2006/NĐ-CP và
mới đây là năm 2014 với NĐ 16/NĐ - CP giao quyền tự chủ rất lớn cho các trường đại học công
lập. Điều đó cho phép các trường Đại học quản lý như mô hình doanh nghiệp và thí điểm cổ
phần hóa là bước đột phá trong tái cơ cấu đơn vị sự nghiệp công. Giáo dục đã thay đổi thành
dịch vụ giáo dục. Theo đó, giáo dục trở thành một loại dịch vụ và khách hàng chính là những
63
sinh viên (người học) và gia đình, người học có thể bỏ tiền ra để đầu tư và lựa chọn sử dụng dịch
vụ mà họ cho là tốt nhất. Cạnh tranh trong GDĐH ngày càng trở lên mạnh mẽ, để tồn tại và phát
triển các trường đại học không còn con đường nào khác là nâng cao chất lượng đào tạo - mục
tiêu sống còn, nâng cao tỷ lệ việc làm và cơ hội thăng tiến cho sinh viên tốt nghiệp, nâng cao
hiệu quả đầu tư khoa học công nghệ, tăng cường hợp tác quốc tế… để hội nhập và phát triển.
Chính vì vậy, việc đo lường mức độ hài lòng của sinh viên với chất lượng dịch vụ đào tạo của
nhà trường là điều hết sức quan trọng và luôn được các cơ sở GDĐH quan tâm hàng đầu.
Khoa kế toán, kiểm toán của Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội tiền thân là Khoa kinh
tế của Trường Nghiệp vụ Kinh tế trực thuộc Bộ Công nghiệp nặng, thành lập năm 1958, đặt tại
Chèm - xã Đông Ngạc - Huyện Từ Liêm - TP. Hà Nội. Ngày 04 tháng 01 năm 2010 Hiệu trưởng
trường Đại học Công nghiệp Hà Nội ra quyết định thành lập khoa Kế toán - Kiểm toán trên cơ sở
tách từ khoa Kinh tế thành hai khoa Kế toán - Kiểm toán và Quản lý kinh doanh. Trong thời gian
qua Khoa Kế toán - Kiểm toán đã đào tạo và cung cấp hàng vạn học sinh, sinh viên ngành Kế
toán, kiểm toán cho các cơ quan, doanh nghiệp ở tất cả các ngành, các lĩnh vực trong cả nước.
Nhiều học sinh, sinh viên ra trường đã và đang giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý ở các doanh
nghiệp, cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước. Các dịch vụ giáo dục tại khoa:
Hiện nay khoa đang đào tạo 2 chuyên ngành là kế toán với bậc đào tạo từ cao đẳng, đại học, thạc
sĩ đến tiến sĩ và ngành kiểm toán đã đào tạo được 5 năm cho hệ đại học. Đã từ lâu, chất lượng
đào tạo luôn mối quan tâm hàng đầu của Khoa. Hàng năm sau mỗi kỳ học, Khoa đều lập phiếu
điều tra mức độ hài lòng của sinh viên về từng học phần để tổng hợp, thống kê những nội dung
mà sinh viên đánh giá là chưa hài lòng hoặc đánh giá ở mức độ hài lòng còn thấp, từ đó khoa và
bộ môn có cơ sở điều chỉnh hoạt động giảng dạy cho kỳ tới.
Để có cái nhìn tổng quát, việc đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên về chất lượng đào
tạo chuyên ngành kế toán, kiểm toán tại khoa sẽ làm căn cứ cho điều chỉnh chương trình đào tạo
cũng như nâng cao chất lượng các hoạt động. Do vậy, tác giả đã tập chung nghiên cứu các nhân
tố ảnh hưởng tới mức độ hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo chuyên ngành Kế toán -
Kiểm toán tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, từ đó rút ra những
kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng tốt hơn những nhu cầu và sự mong đợi của
sinh viên, từng bước khẳng định thương hiệu của Nhà trường.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Tổng quan nghiên cứu
Chất lượng dịch vụ đào tạo thu hút rất nhiều sự quan tâm, đặc biệt trong nền giáo dục hiện
nay. Vì vậy, việc thu thập, phân tích ý kiến người học về sự hài lòng đối với các dịch vụ mà nhà
trường là việc làm cần thiết để giúp các tổ chức giáo dục có biện pháp cải thiện chất lượng dịch
vụ, đáp ứng các yêu cầu của người học. Trên thực tế, tại Việt Nam cũng như các nước trên thế
giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về sự hài lòng của sinh viên với chất lượng đào tạo
của nhà trường. Ở Việt Nam, trong thời gian qua đã có một số nghiên cứu sau đây:
64
Bảng 1: Kết quả tổng quan nghiên cứu
Tác
giải/Năm
Đối tượng
nghiên cứu
Phạm vi Phương pháp phân
tích
Kết quả nghiên cứu
Nguyễn Thị
Thắm
(2010)
Sự hài lòng
của sinh viên
đối với hoạt
động đào tạo
Trường Đại
học Khoa học
tự nhiên - Đại
học Quốc gia
TP Hồ Chí
Minh
Sử dụng bảng khảo sát,
hệ số tin cậy Cronbach
alpha, nhân tố khám phá
EFA, Phân tích tương
quan hồi qui
Các nhân tố tác động
đến sự hài lòng của
sinh viên là: Chương
trình đào tạo; Giảng
viên của nhà trường;
Trang thiết bị học tập.
Nguyễn Thị
Bảo Châu
và Thái Thị
Bích Châu
(2013)
Sự hài lòng
của sinh viên
đối với hoạt
động đào tạo
Khoa Kinh tế
và Quản trị
kinh doanh
trường Đại
học Cần Thơ
Sử dụng Mô hình
SERFPERF, kiểm định
thang đo, mô hình SEM
3 nhân tố: Tác phong;
Năng lực của giáo viên
có ảnh hưởng mạnh
hơn so với nhóm Cơ sở
vật chất.
Nguyễn Thị
Bích Vân
(2013)
Nhân tố ảnh
hưởng đến sự
hài lòng của
sinh viên đối
với dịch vụ
đào tạo
Trường Đại
học dân lập
Văn Lang
Hệ số tin cậy Cronbach
alpha, nhân tố khám phá
EFA, Phân tích tương
quan hồi qui
5 yếu tố tác động đến
sự hài lòng bao gồm:
Độ tin cậy; Độ đáp
ứng; Độ đảm bảo; Sự
cảm thông; Tính hữu
hình và Giá cả. Tuy
nhiên tác giả mới chỉ
dừng lại ở việc xác
định mô hình, giới
thiệu các phương pháp
xử lý dữ liệu
Nhóm tác
giả Hoàng
Nguyễn
Ngọc Hưng,
Huỳnh Đạo
Nghĩa,
Hoàng Thị
Hồng Ngọc
(2014)
Sự hài lòng
của sinh viên
đại học chính
qui về chất
lượng đào tạo
Khoa quản trị
kinh doanh
Trường Đại
học Công
nghiệp thành
phố Hồ Chí
Minh
Sử dụng nghiên cứu
định tính để nghiên cứu
sơ bộ, sử dụng nghiên
cứu định lượng với kỹ
thuật phỏng vấn trực
tiếp thông qua bảng câu
hỏi soạn sẵn, sử dụng
SPSS20 để kiểm định
thang đo bằng hệ số tin
cậy Cronbach alpha,
Phân tích EFA, phân
tích tương quan hồi quy,
phân tích phương sai
ANOVA
Sự hài lòng của sinh
viên phụ thuộc vào:
Chương trình đào tạo;
Trình độ giảng viên;
Cơ sở vật chất; Khả
năng phục vụ của cán
bộ quản lý và sinh viên
trong nhà trường; Học
phí; Kết quả đạt được
sau những khóa học;
Đánh giá chung
65
Phạm Thị
Liên (2016)
Chất lượng
dịch vụ đào
tạo và sự hài
lòng của
người học
Đại học kinh
tế - Đại học
Quốc gia Hà
Nội
Sử dụng bảng câu hỏi
khảo sát với sự hỗ trợ
của phần mềm SPSS
kiểm định thang đo
bằng hệ số tin cậy
Cronbach alpha, Phân
tích EFA, phân tích
tương quan hồi quy,
phân tích phương sai
ANOVA
Có 4 nhân tố tác động
đến sự hài lòng của
sinh viên về chất lượng
đào tạo là chương trình
đào tạo; Cơ sở vật
chất; Giảng viên; Khả
năng phục vụ trong đó
Chương trình đào tạo
là nhân tố quan trọng
nhất
Nhóm tác
giả Nguyễn
Thị Xuân
Hương,
Nguyễn Thị
Phượng, Vũ
Thị Hồng
Loan
(2016)
Nhân tố ảnh
hưởng đến sự
hài lòng của
sinh viên
Trường Đại
học Nông
nghiệp
Điều tra 423 sinh viên
với sự hỗ trợ của phần
mềm SPSS để kiểm
định thang đo bằng hệ
số tin cậy Cronbach
alpha, Phân tích EFA,
phân tích tương quan
hồi quy, phân tích
phương sai ANOVA,
kiểm định kết quả
nghiên cứu
Có 5 yếu tố tác động
đến sự hài lòng của
sinh viên với các dịch
vụ nhà trường như cơ
sở vật chất; Khả năng
phục vụ; Khả năng đáp
ứng; Sự quan tâm và
tin cậy. Trong đó quan
trọng nhất là cơ sở vật
chất và sự quan tâm
Qua tổng quan nghiên cứu, tác giả nhận thấy rằng, trong mô hình nghiên cứu sự hài lòng
của sinh viên với chất lượng đào tạo, biến chất lượng đào tạo là biến tiềm ẩn, không thể đo lường
trực tiếp. Biến này chủ yếu được thể hiện qua các nhân tố như là: Chương trình đào tạo, giảng
viên, cơ sở vật chất, khả năng phục vụ, học phí, kết quả đạt được sau những khóa học, khả năng
đáp ứng, sự quan tâm và tin cậy.
Trong nghiên cứu này, tác giả dựa trên nghiên cứu của Nguyễn Thị Liên (2016) với biến
phụ thuộc là Sự hài lòng và 4 biến độc lập là chương trình đào tạo; Cơ sở vật chất; Giảng viên;
Khả năng phục vụ. Sau đó tác giả dựa vào tổng quan nghiên cứu và có đưa thêm một nhân tố học
phí để đưa vào mô hình nghiên cứu. Tác giả cho rằng học phí cũng là nhân tố rất quan trọng đến
quyết định của người học và sự hài lòng của sinh viên khi học tại trường đó.
2.2. Cơ sở lý thuyết
Dịch vụ: là công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ
chức và được trả công (Từ điển tiếng việt); Dịch vụ là những hành vi, quá trình, cách thức thực
hiện một công việc nào đó nhằm tạo ra giá trị sử dụng cho khách hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu
và mong đợi của khách hàng (Zeithaml & Britner, 2000); Dịch vụ là kết quả tạo ra do các hoạt
động tiếp xúc giữa người cung ứng và khách hàng, các hoạt động nội bộ của bên cung ứng để
đáp ứng nhu cầu khách hàng (ISO 8402). Như vậy có nhiều quan điểm khác nhau khi nói về dịch
66
vụ, tựu chung lại thì dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con
người, đặc điểm của sản phẩm dịch vụ là không có hình thái vật chất cụ thể, không đồng nhất,
không thể tách rời và không lưu trữ được
Chất lượng dịch vụ: Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng dịch vụ theo Lehtnen
và Lehtinen (1982) cho rằng chất lượng dịch vụ phải được đánh giá trên 2 khía cạnh (1) quá trình
cung cấp dịch vụ và (2) kết quả của dịch vụ. Còn theo Gronroos (1984) cũng đưa ra định nghĩa
về chất lượng dịch vụ gồm 2 yếu tố của chất lượng dịch vụ đó là (1) chất lượng kỹ thuật và (2)
chất lượng chức năng. Trong đó chất lượng dịch vụ liên quan đến những gì được phục vụ còn
chất lượng chức năng cho biết chúng được phục vụ thế nào. Chất lượng dịch vụ là nhân tố tác
động nhiều nhất đến sự hài lòng của khách hàng (Cronin và Taylor, 1992; Yavas và các cộng sự,
1997; Ahmad và Kamal, 2002). Nếu nhà cung cấp dịch vụ đem đến cho khách hàng những sản
phẩm có chất lượng thỏa mãn nhu cầu của họ thì doanh nghiệp đã bước đầu làm cho khách hàng
hài lòng.
Sự hài lòng: Sự hài lòng của khách hàng là một thái độ tổng thể của khách hàng đối với
một nhà cung cấp dịch vụ hoặc một cảm xúc phản ứng với sự khác biệt với những gì khách hàng
dự đoán trước và những gì họ tiếp nhận, đối với sự đáp ứng một số nhu cầu, mục tiêu hay mong
muốn (Hansermark và Albinsson, 2004); Sự hài lòng của khách hàng là sự đánh giá của khách
hàng về một sản phẩm hay một dịch vụ đã đáp ứng được nhu cầu và mong muốn của họ
(Zeithaml & Britner, 2000). Như vậy sự hài lòng của khách hàng là việc khách hàng căn cứ vào
những hiểu biết của mình đối với sản phẩm hay dịch vụ mà hình thành nên những đánh giá hoặc
phán đoán chủ quan. Nó được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm được tích lũy khi mua sắm và
sử dụng sản phẩm hay dịch vụ. Sau khi mua và sử dụng sản phẩm khách hàng có thể tự so sánh
giữa thực hiện và kỳ vọng, từ đó đánh giá được sự hài lòng hay không hài lòng
Chất lượng dịch vụ và sự hài lòng tuy là hai khái niệm khác nhau nhưng có liên hệ chặt chẽ
với nhau trong nghiên cứu về dịch vụ (Parasuraman và các cộng sự 1988). Các nghiên cứu trước
đây đã cho thấy chất lượng dịch vụ là nguyên nhân dẫn đến sự thoả mãn (Cronin và Taylor,
1992; Spreng và Taylor, 1996). Lý do là chất lượng dịch vụ liên quan đến việc cung cấp dịch vụ,
còn sự thoả mãn chỉ đánh giá được sau khi đã sử dụng dịch vụ.
Hài lòng của khách hàng xem như kết quả, chất lượng dịch vụ xem như là nguyên nhân,
hài lòng có tính chất dự báo, mong đợi; chất lượng dịch vụ là một chuẩn lý tưởng. Sự thỏa mãn
khách hàng là một khái niệm tổng quát, thể hiện sự hài lòng của họ khi tiêu dùng một dịch vụ.
Trong khi đó, chất lượng dịch vụ chỉ tập trung vào các thành phần cụ thể của dịch vụ (Zeithaml
& Bitner, 2000). Tuy giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng có mối liên hệ với nhau nhưng có ít
nghiên cứu tập trung vào việc kiểm định mức độ giải thích của các thành phần chất lượng dịch
vụ đối với sự hài lòng, đặc biệt đối với từng ngành dịch vụ cụ thể (Lassar và các cộng sự, 2000).
Cronin and Taylor đã kiểm định mối quan hệ này và kết luận cảm nhận chất lượng dịch vụ dẫn
đến sự thỏa mãn khách hàng. Các nghiên cứu đã kết luận rằng chất lượng dịch vụ là tiền đề của
sự thỏa mãn (Cronin và Taylor, 1992; Spereng, 1996) và là nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự
thỏa mãn (Ruyter, Bloemer, 1997).
67
3. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
3.1. Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu
Dựa trên tổng quan nghiên cứu đã tổng hợp các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến mức độ hài
lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo tại các cơ sở giáo dục. Tác giả đã kế thừa và phát triển
mô hình nghiên cứu của Nguyễn Thị Liên (2016) và dựa vào tổng quan để bổ sung thêm nhân tố
Học phí, có hiệu chỉnh và bổ sung các thang đo cho phù hợp với đối tượng và mục tiêu nghiên
cứu của bài viết, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu như sau:
Biến phụ thuộc là mức độ hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo chuyên ngành kế
toán, kiểm toán tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Biến độc lập gồm 5 nhóm biến:
Chương trình đào tạo (CTĐT), giảng viên (GV), cơ sở vật chất (CSVC), khả năng phục vụ
(KNPV), mức học phí (HP). Mô hình nghiên cứu có thể viết dưới dạng sơ đồ như sau:
Hình 1. Mô hình nghiên cứu mức độ hài lòng của sinh viên với chất lượng đào tạo
3.2. Các giả thuyết nghiên cứu
Theo đó, tác giả xây dựng các giả thuyết nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ
hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo chuyên ngành kế toán, kiểm toán tại Trường Đại
học Công nghiệp Hà Nội
Chương trình đào tạo: Gồm các yếu tố liên quan đến nội dung chương trình đào cấu trúc
mà sinh viên sẽ học. Đây chính là yếu tố đầu tiên khi một sinh viên lựa chọn ngành học tại một
cơ sở giáo dục. Một trường có cơ sở đào tạo tốt sẽ thu hút sinh viên học tập nhiều hơn. Vì vậy
nếu yếu tố này được thoả mãn thì sự hài lòng của sinh viên càng cao. Chương trình đào tạo bao
gồm: Mục tiêu đào tạo, chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo, kế hoạch đào tạo với các môn học
trong chương trình... H1 Chương trình đào tạo quan hệ cùng chiều với sự hài lòng
Giảng viên: Trong thời gian sinh viên học tập tại trường, tiếp thu các kiến thức từ giảng
viên. Nếu sự tiếp thu này tốt thì sự hài lòng lúc ban đầu của sinh viên được suy trì và nâng cao,
ngược lại thì nó dần bị suy giảm. Trình độ chuyên môn của giảng viên, phương pháp giảng dạy,
cách thức kiểm tra đánh giá, thái độ, sự tận tâm, nhiệt huyết của giảng viên sẽ ảnh hưởng trực
tiếp tới sự hài lòng của sinh viên H2: Đội ngũ giảng viên quan hệ cùng chiều với sự hài lòng
Chương trình đào tạo
Mức độ hài lòng Cơ sở vật chất
Khả năng phục vụ
Học phí
Giảng viên
68
Cơ sở vật chất: Các yếu tố liên quan đến thiết bị sản xuất như trang thiết bị, cơ sở phục vụ
cho học tập, nghiên cứu, các hỗ trợ như phòng thí nghiệm, phòng máy, thư viện…cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến sự hài lòng của sinh viên H3: Cơ sở vật chất quan hệ cùng chiều với sự
hài lòng
Khả năng phục vụ: Năng lực và chất lượng phục vụ của cán bộ nhân viên hỗ trợ bao gồm
các yếu tố kiến thức nhân viên, độ tin cậy, tốc độ xử lý và mức độ thân thiện của cán bộ phục vụ
H4: Khả năng phục vụ quan hệ cùng chiều với sự hài lòng.
Học phí: Các khoản phí của trường theo tín chỉ, phí thực hành, phí bảo hiểm là một trong
những nhân tố sinh viên quan tâm nhất, ảnh hưởng lớn đến sự hài lòng của sinh viên H5: Học
phí có quan hệ cùng chiều với sự hài lòng
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
Tác giả đã sử dụng mô hình hồi qui tuyến tính để đánh giá và phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo chuyên ngành kế toán, kiểm toán tại
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Mô hình tổng quát phản ánh mối tương quan giữa mức độ
hài lòng về chất lượng đào tạo của sinh viên chuyên ngành kế toán, kiểm toán tại Trường Đại
học Công nghiệp Hà Nội với các nhân tố ảnh hưởng được tác giả đề xuất qua phương trình hồi
qui như sau:
HL = b0+ b1CTĐT+ b2GV+ b3CSVC + b4 KNPV + b5HP
Trong đó:
HL: Là mức độ hài lòng về chất lượng đào tạo của sinh viên chuyên ngành kế toán, kiểm
toán tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
CTĐT: Chương trình đào tạo
GV: Giảng viên
CSVC: Cơ sở vật chất
KNPV: Khả năng phục vụ của cán bộ, nhân viên
HP: Học phí
Dựa trên mô hình nghiên cứu đề xuất, tác giả nghiên cứu thiết kế Bảng khảo sát với 37 câu
hỏi, gồm 2 phần chính: Phần 1. Thông tin chung, gồm các câu hỏi nhằm phân loại đối tượng
khảo sát. Phần 2. Các câu hỏi liên quan trực tiếp tới chất lượng đào tạo và sự hài lòng của sinh
viên, gồm 34 câu hỏi, thể hiện 34 biến quan sát trong mô hình nghiên cứu, theo thang điểm
Likert 5 mức độ: 1- Rất không đồng ý, 2- Không đồng ý, 3- Bình thường, 4- Đồng ý, 5- Rất đồng
ý. Thang đo Likert sử dụng các lựa chọn, cho phép nhân vùng phạm vi, cảm nhận, đánh giá cụ
thể như bảng 1.
69
Bảng 1. Các chỉ báo đo lường chất lượng đào tạo
Tên biến/
mã biến Biến quan sát
Ký
hiệu
Hài lòng
(HL)
Chương trình đào tạo đáp ứng tốt những mong đợi cá nhân của bạn HL1
Kiến thức, kỹ năng có được từ chương trình học giúp cho sinh viên tự
tin về khả năng làm việc sau khi ra trường HL2
Mức học phí chi trả tương xứng với chất lượng đào tạo nhận được HL3
Tôi hài lòng với chương trình đào tạo và chất lượng đào tạo, môi trường
học tập tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội HL4
Chương
trình đào
tạo
(CTĐT)
Chương trình đào tạo có mục tiêu chuẩn đầu ra rõ ràng CTĐT1
Chương trình đào tạo đáp ứng các yêu cầu phát triển sau này của sinh viên CTĐT2
Phân bổ thời lượng giữa lý thuyết và thực hành của các học phần là hợp lý CTĐT3
Việc áp dụng Case Study cho các học phần phù hợp với kiến thức được học CTĐT4
Các môn học được sắp xếp hợp lý và thông báo đầy đủ cho sinh viên CTĐT5
Các buổi sinh hoạt ngoại khóa, hội thảo, lắng nghe ý kiến chuyên gia
được thực hiện hiệu quả và thường xuyên CTĐT6
Nội dung và hình thức kiểm tra, đánh giá phù hợp với kiến thức của
học phần CTĐT7
Sinh viên được thông báo đầy đủ về kế hoạch giảng dạy và tiêu chí đánh giá CTĐT8
Giảng viên
(GV)
Giảng viên có trình độ cao, sâu rộng về chuyên môn mình giảng dạy GV1
Giảng viên có phương pháp truyền đạt tốt, dễ hiểu GV2
Giảng viên đã sử dụng và kết hợp các phương pháp giảng dạy một cách
hiệu quả GV3
Giảng viên đảm bảo giờ lên lớp và kế hoạch giảng dạy GV4
Giảng viên có thái độ gần gũi và thân thiện với sinh viên GV5
Giảng viên sẵn sàng chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm với sinh viên GV6
Giảng viên đánh giá kết quả học tập chính xác và công bằng GV7
Giảng viên lồng ghép ví dụ, kiến thức thực tiễn vào bài giảng một cách
hiệu quả GV8
Cơ sở vật
chất
(CSVC)
Giáo trình/tài liệu học tập của mỗi môn học được thông báo đầy đủ, đa
dạng CSVC1
Phòng học đáp ứng được nhu cầu học tập trên lớp của sinh viên CSVC2
Thư viện có nguồn tài liệu tham khảo phong phú, đa dạng CSVC3
Thư viện đảm bảo không gian, chỗ ngồi đáp ứng được nhu cầu học tập,
nghiên cứu của sinh viên CSVC4
Lớp học có số lượng sinh viên hợp lý CSVC5
Các ứng dụng trực tuyến hữu ích, phục vụ hiệu quả công tác giảng dạy
và học tập CSVC6
70
Khả năng
phục vụ
của cán
bộ, nhân
viên
(KNPV)
Cán bộ quản lý (Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa) giải quyết thỏa
đáng các yêu cầu của sinh viên KNPV1
Nhân viên hành chính có thái độ phục vụ tốt và tôn trọng sinh viên KNPV2
Thông tin trên website của trường đa dạng, phong phú và cập nhật
thường xuyên KNPV3
Hoạt động tư vấn học tập, nghề nghiệp đáp ứng tốt nhu cầu tìm hiểu, lựa
chọn và học tập của sinh viên KNPV4
Sự hỗ trợ và giúp đỡ nhiệt tình của cố vấn học tập, chuyên viên đào tạo
và thanh tra khi cần KNPV5
Học phí
(HP)
Mức học phí hiện nay phù hợp với chất lượng đào tạo nhận được HP1
Mức học phí thỏa đáng với chất lượng cơ sở vật chất HP2
Tôi sẵn sàng chi trả mức học phí cao hơn khi chất lượng đào tạo được
nâng cao HP3
(Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp dựa trên tổng quan nghiên cứu)
Mẫu nghiên cứu được chọn lấy từ 2 nhóm đối tượng là sinh viên đang học năm thứ 3, năm
thứ 4 (K11 và K12) chương trình đại học chính quy đại trà, chuyên ngành Kế toán Kiểm toán.
Phương pháp chọn mẫu được thực hiện là phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản.
Trước khi tiến hành cuộc khảo sát chính thức, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát thử
với một mẫu có quy mô nhỏ gồm 30 sinh viên nhằm phát hiện ra những sai sót trong thiết kế
bảng hỏi. Trong cuộc khảo sát chính thức, có 300 phiếu khảo sát được gửi trực tiếp cho các sinh
viên K11, K12. Thời gian thực hiện khảo sát từ ngày 05/09/2019 đến ngày 05/10/2019.
Kết quả điều tra, nhóm nghiên cứu thu được 295 phiếu trả lời của sinh viên K11, K12. Sau
khi loại bỏ những phiếu trả lời không hợp lệ (do thiếu thông tin hoặc không đúng đối tượng
nghiên cứu), có 285 phiếu trả lời hợp lệ. Cỡ mẫu lớn gấp hơn 9 lần số biến quan sát, đạt yêu cầu
là cần gấp 4 đến 5 lần (Hoàng Trọng, 2008). Các phiếu này được tổng hợp và đưa vào phân tích
định lượng. Những đặc điểm chính của mẫu nghiên cứu được mô tả cụ thể trong Bảng 2.
Bảng 2. Thống kê mô tả mẫu nghiên cứu
Đặc điểm n = 285 Đặc điểm n = 285
Số lượng Tần suất Số lượng Tần suất
Giới tính Học lực
Nam 9 3,15 Xuất sắc 9 3,15
Nữ 276 96,85 Giỏi 43 15,09
Năm học Khá 162 56,84
Năm thứ 3 81 28,42 Trung bình 66 23,15
Năm thứ 4 204 71,58 Yếu, kém 5 1,77
Nguồn: Tính toán của tác giả, phần mềm SPSS 20.
71
Để đo lường mức độ hài lòng của sinh viên với chất lượng đào tạo, tác giả lựa chọn
phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA để đánh giá độ tin cậy của thang đo và sự phù
hợp của mô hình. Sau đó tác giả sử dụng phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính Linear
Regression để đánh giá mối tương quan của các thành phần chất lượng đào tạo với sự hài lòng
của sinh viên. Số liệu được xử lý và phân tích bằng phần mềm SPSS 20.0.
Cụ thể các bước phân tích được thực hiện như sau:
- Kiểm tra độ tin cậy của từng thành phần thang đo, xem xét mức độ tin cậy của biến quan
sát thông qua hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha, nhằm loại bỏ các biến có hệ số Cronbach’s Alpha
nhỏ không phù hợp.
- Phân tích dữ liệu bằng phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor Analysis)
thông qua kiểm định Bartlett (Bartlett’s Test of Sphericity) để kiểm tra sự tương quan trong tổng
thể, hệ số KMO (Kaiser-Mayer-Olkin) để xem xét sự thích hợp của EFA, hệ số tải nhân tố
(Factor loading) kiểm tra tương quan giữa các biến và nhân tố, chỉ số Eigenvalue đại diện cho
lượng biến thiên được giải thích bởi nhân tố. Sau khi kiểm định thang đo các biến quan sát còn
lại sẽ sử dụng để kiểm định giả thuyết và mô hình nghiên cứu bằng phương pháp phân tích tương
quan, hồi qui tuyến tính
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Kiểm định thang đo cho các biến độc lập
Tác giả đã tiến hành kiểm định từng biến quan sát. Đối với biến độc lập là học phí, tác giả
đưa 3 biến quan sát để chạy dữ liệu, kết quả có 1 biến quan sát HP3 bị loại bỏ do không thỏa
mãn điều kiện (do Cronbach'Alpha tổng nhỏ hơn Cronbach's Alpha if Item Deleted của từng biến
quan sát), tác giả đã tiến hành chạy lại dữ liệu với 2 biến quan sát còn lại thì cho kết quả đều thỏa
mãn. Các biến độc lập còn lại là chương trình đào tạo, giảng viên, cơ sở vật chất, khả năng phục
vụ, tác giả đã tiến hành kiểm định thang đo từng biến, kết quả đều thỏa mãn các thang đo đều có
hệ số Cronbach’s Alpha> 0,7 (tối thiểu bằng 0,6, tốt là từ 0,7 trở lên), tương quan biến tổng đều
> 0,3 (Nunnally & Burnstein, 1994), Cronbach'Alpha tổng đều lớn hơn Cronbach's Alpha if Item
Deleted của từng biến quan sát. Điều đó cho thấy các thang đo đều đạt yêu cầu về tính đơn
hướng, độ tin cậy và độ giá trị.
Kết quả kiểm định thang đo cho các biến độc lập được thể hiện trong Bảng 3.
Bảng 3. Kết quả kiểm định thang đo thành phần của Chất lượng đào tạo
TT Thành phần Biến quan sát Cronbach
Alpha
1 Chương trình đào tạo CTDT1, CTDT2, CTDT3, CTDT4, CTDT5,
CTDT6, CTDT7, CTDT8 0,836
2 Giảng viên GV1, GV2, GV3, GV4, GV5, GV6, GV7, GV8 0,887
3 Cơ sở vật chất CSVC1, CSVC2, CSVC3, CSVC4, CSVC5,
CSVC6 0,833
72
4 Khả năng phục vụ KNPV1, KNPV2, KNPV3, KNPV4, KNPV5 0,846
5 Học phí HP1, HP2 0,863
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả, phần mềm SPSS 20.0.
4.2. Phân tích nhân tố khám phá EFA
Tiếp tục thực hiện phân tích nhân tố khám phá EFA với bộ dữ liệu trên để loại bỏ các biến
không phù hợp (Chương trình đào tạo loại bỏ 4 biến quan sát là CTDT3, CTDT6, CTDT7,
CTDT8), nhóm tác giả sử dụng phần mềm SPSS 20, kết quả thể hiện Bảng 4.
Bảng 4. Hệ số KMO và kiểm định Bartlett
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy 0,925
Bartlett's Test of
Sphericity
Approx. Chi-Square 3701,197
Df 300
Sig. 0,000
Nguồn: Tính toán của tác giả, phần mềm SPSS 20.0.
Kết quả cho thấy: Hệ số KMO = 0,925, nằm trong khoảng 0,5<KMO<1, nghĩa là dữ liệu
thực tế trong nghiên cứu này phù hợp cho phân tích EFA. Kiểm định Bartlett có mức ý nghĩa
Sig.= 0,000 < 0,05 cho thấy các biến quan sát có tương quan tuyến tính với nhân tố đại diện. Giá
trị tổng phương sai trích đạt 62,810% > 50%, nghĩa là 62,810% sự biến thiên của biến phụ thuộc
được giải thích bởi các biến quan sát trong mô hình (hay có thể nói rằng một nhân tố này giải
thích 62,810% biến thiên của dữ liệu và Initial Eigenvalues bằng 1,026 lớn hơn 1) (Anderson &
Gerbing, 1988), được cụ thể tại Bảng 5.
Bảng 5: Bảng phương sai trích
Component Initial Eigenvalues Extraction Sums of Squared
Loadings
Rotation Sums of Squared
Loadings
Total % of
Variance
Cumulative
%
Total % of
Variance
Cumulative
%
Total % of
Variance
Cumulative
%
1 9.953 39.812 39.812 9.953 39.812 39.812 4.397 17.587 17.587
2 2.045 8.180 47.993 2.045 8.180 47.993 3.853 15.413 33.001
3 1.317 5.269 53.261 1.317 5.269 53.261 2.693 10.770 43.771
4 1.257 5.027 58.288 1.257 5.027 58.288 2.597 10.390 54.161
5 1.026 4.104 62,810 1.026 4.104 62,810 2.058 8.232 62,810
6 .868 3.470 65.863
7 .749 2.994 68.857
8 .716 2.866 71.723
73
9 .661 2.645 74.368
10 .643 2.572 76.939
11 .608 2.433 79.372
12 .582 2.329 81.702
13 .521 2.083 83.785
14 .484 1.936 85.721
15 .434 1.736 87.457
16 .422 1.687 89.144
17 .390 1.558 90.703
18 .377 1.509 92.211
19 .364 1.456 93.667
20 .346 1.385 95.053
21 .317 1.269 96.322
22 .270 1.078 97.400
23 .252 1.008 98.408
24 .217 .869 99.277
25 .181 .723 100.000
(Nguồn: Tác giả phân tích từ SPSS 20)
Như vậy, các nhân tố được đưa ra trong mô hình đã giải thích được phần lớn sự thay đổi
của biến phụ thuộc. Ngoài ra, một số tiêu chuẩn để tiến hành phân tích nhân tố cũng được đảm
bảo như: thang đo được sử dụng là thang đo khoảng cách, cỡ mẫu lớn gấp 9 lần số biến quan sát.
Kết quả phân tích EFA cho các biến độc lập của ma trận xoay nhân tố trên cho thấy, hệ số
tải nhân tố (factor loading) của các biến quan sát đều thỏa mãn điều kiện khi phân tích nhân tố là
r ≥ 0,5 và có 5 nhân tố được rút trích từ phân tích nhân tố EFA.
Bảng 6: Ma trận xoay nhân tố (Rotated Component Matrix)
Component
1 2 3 4 5
GV6 .749
GV5 .716
GV3 .692
GV2 .678
GV4 .663
GV1 .651
74
GV7 .633
GV8 .609
KNPV1 .723
KNPV3 .688
KNPV5 .643
KNPV2 .632
CSVC6 .618
KNPV4 .610
CSVC5 .539
CTDT2 .734
CTDT4 .693
CTDT1 .671
CTDT5 .605
CSVC2 .665
CSVC1 .630
CSVC4 .614
CSVC3 .579
HP1 .798
HP2 .762
Nguồn: Tính toán của tác giả, phần mềm SPSS 20.0.
Sau khi phân tích nhân tố EFA, có 5 nhóm nhân tố được rút ra với 25 biến quan sát (tất cả
các biến đều thỏa mãn điều kiện). Tiếp tục thực hiện kiểm định chất lượng thang đo và các kiểm
định EFA, có thể kết luận rằng, các nhân tố quan trọng của chất lượng đào tạo ảnh hưởng tới sự
hài lòng của sinh viên gồm 5 yếu tố: (1) Chương trình đào tạo, (2) Khả năng phục vụ của cán bộ,
nhân viên, (3) Giảng viên; (4) Học phí; (5) Cơ sở vật chất. Kết quả cho thấy, hệ số Cronbach’s
Alpha tổng thể của các biến độc lập đều có giá trị >0,6, nên thang đo đạt tiêu chuẩn và có ý
nghĩa thống kê.
Bảng 7: Kết quả kiểm định thang đo sau khi phân tích nhân tố
STT Thành phần Hệ số Cronbach'Alpha
1 Giảng viên 0,819
2 Khả năng phục vụ 0,782
3 Chương trình đào tạo 0,814
4 Cơ sở vật chất 0,796
5 Học phí 0,850
Nguồn: Tính toán của tác giả bằng phần mềm SPSS 20.0.
75
4.3. Kết quả kiểm định mô hình và hồi quy đa biến
Kết quả kiểm định mức độ phù hợp của mô hình cho thấy, hệ số xác định R2 điều chỉnh =
0,561 với mức ý nghĩa 1%, nghĩa là trong nghiên cứu này, các nhân tố giải thích được 56,1% sự
hài lòng của sinh viên với chất lượng đào tạo các học phần chuyên ngành Kế toán - Kiểm toán tại
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Bảng 8: Tóm tắt mô hình
Model R R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate Durbin-Watson
1 0,754a 0,569 0,561 0,42524 1,884
a. Predictors: (Constant), CTDT, KNPV, GV, HP, CSVC
b. Dependent Variable: HL
Nguồn: Tính toán của tác giả bằng phần mềm SPSS 20.0.
Kết quả phân tích ANOVA cho thấy, với độ tin cậy 99%, kiểm định F có Sig.= 0,00 <
0,05, nghĩa là mô hình hồi quy lý thuyết đã xây dựng phù hợp với dữ liệu thực tế, hay là các biến
độc lập có tương quan tuyến tính với biến phụ thuộc trong mô hình.
Bảng 9: Kết quả ANOVA
Model Sum of Squares Df Mean Square F Sig.
1
Regression 66,625 5 13,325 73,689 0,000b
Residual 50,451 279 0,181
Total 117,075 284
a. Dependent Variable: HL
b. Predictors: (Constant), CTDT, KNPV, GV, HP, CSVC
Nguồn: Tính toán của tác giả bằng phần mềm SPSS 20.0.
Kiểm định đa cộng tuyến: Giá trị VIF của các biến độc lập trong mô hình đều < 2, nên
không có hiện tượng đa cộng tuyến. Kết quả hồi quy đa biến tại Bảng 10 cho thấy, giá trị Sig.
kiểm định t của các biến độc lập: CTDT, KNPV, GV, HP, CSVC có giá trị Sig.= 0,00< 0,05,
nghĩa là 5 biến độc lập trên có ý nghĩa thống kê.
Bảng 10: Kết quả hồi quy đa biến
Coefficientsa
Model
Unstandardized
Coefficients
Standardized
Coefficients t Sig.
Collinearity
Statistics
B Std. Error Beta Tolerance VIF
1
(Constant) 0,025 0,210 0,120 0,904
GV 0,122 0,068 0,097 1,781 0,036 0,525 1,906
KNPV 0,335 0,066 0,311 5,039 0,000 0,406 1,965
76
CTDT 0,466 0,057 0,429 8,155 0,000 0,558 1,792
CSVC 0,082 0,059 0,078 1,391 0,045 0,486 1,958
HP 0,099 0,039 0,126 2,529 0,012 0,623 1,606
a. Dependent Variable: HL
Nguồn: Tính toán của tác giả, phần mềm SPSS 20.0.
Kết quả phương trình hồi quy tuyến tính được thể hiện như sau:
HL = 0,025+ 0,466CTĐT+ 0,335KNPV + 0,122GV + 0,099HP + 0,082CSVC + ei
Với giả thuyết đặt ra kết quả kiểm định đều chấp nhận giả thuyết
5. THẢO LUẬN VÀ KẾT LUẬN
Từ kết quả hồi quy cho thấy, chương trình đào tạo được đánh giá là nhân tố quan trọng
nhất ảnh hướng tới chất lượng đào tạo chuyên ngành Kế toán - kiểm toán tại Trường Đại học
Công nghiệp Hà Nội. Biến này có hệ số hồi quy = 0,466, nghĩa là trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi, khi mức độ đánh giá chương trình đào tạo tăng lên 1 điểm thì sự hài lòng chung của
sinh viên tăng lên 0,466 điểm. Điều này hoàn toàn hợp lý bởi khi sinh viên được trải nghiệm
chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển bản thân và định hướng nghề nghiệp kế
toán, kiểm toán thì sẽ luôn tạo sự hài lòng cho sinh viên. Trong xu thế hiện nay để đón đầu cuộc
cách mạng 4.0, trong chương trình đào tạo cần gắn chặt chẽ hơn với thực tiễn. Khoa kế toán,
kiểm toán cần xây dựng các mối liên hệ với các công ty bên ngoài, tạo điều kiện cho sinh viên
được tham quan, thực tập, tiếp xúc với môi trường thực tế; đồng thời mối liên hệ này cũng giúp
trường nắm được các nhu cầu sử dụng lao động để từ đó thiết kế chương trình học sát với yêu
cầu thực tế và thường xuyên cập nhật, đổi mới chương trình đào tạo cho phù hợp với nhu cầu
nhân lực của xã hội và đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu của sinh viên. Năm cuối khóa Khoa
kế toán, kiểm toán nên thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, kết nối sinh viên với doanh
nghiệp để sinh viên tiếp cận thực tế và xin việc.
Tiếp theo là nhân tố Khả năng phục vụ có hệ số hồi qui là 0,335, nghĩa là khi tăng thêm 1
điểm đánh giá với khả năng phục vụ, nhiệt tình giải đáp các vướng mắc của sinh viên từ phía
khoa, nhà trường sẽ làm cho mức độ hài lòng của sinh viên về Khả năng phục vụ tăng thêm
0,335, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Hiện nay mọi công việc giải quyết của sinh
viên đều tập chung tại khoa, sinh viên không phải đến các phòng ban trong nhà trường để giải
quyết các vấn đề liên quan đến sinh viên, mọi vướng mắc, yêu cầu sinh viên chỉ cần làm đơn
hoặc trình bày tại khoa, khoa sẽ thay mặt sinh viên để giải quyết các vấn đề đó trên nhà trường.
Tuy nhiên các công việc giải quyết cho sinh viên cần nhanh hơn, cần tạo ra các zazo nhóm hoặc
face book nhóm để kết nối sinh viên rộng hơn, tăng cường khả năng phục vụ cho sinh viên được
tốt nhất.
Sau nhân tố là nhân tố Khả năng phục vụ thì nhân tố Giảng viên là nhân tố quan trọng tiếp
theo tác động đến mức độ hài lòng của người học, có hệ số hồi quy = 0,122, nghĩa là khi tăng
thêm 1 điểm đánh giá với Giảng viên thì sự hài lòng chung của sinh viên tăng lên 0,122 điểm,
77
trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Giảng viên được coi là nhóm nhân tố rất quan trọng
ảnh hưởng tới sự hài lòng của sinh viên khi học tập các học phần chuyên ngành Kế toán Kiểm
toán, bởi giảng viên chính là người truyền đạt tri thức mới và cảm hứng học tập cho sinh viên.
Nhóm nhân tố học phí cũng có ảnh hưởng tích cực tới sự hài lòng chung của sinh viên, với
hệ số hồi quy = 0,999, nghĩa là khi tăng thêm 1 điểm đánh giá với mức học phí thì sự hài lòng
chung tăng lên khoảng 0,999 điểm (giữ các nhân tố khác không đổi). Điều này cho thấy mức học
phí ảnh hưởng nhiều tới sự hài lòng của sinh viên. Hiện nay mức học phí mà nhà trường đang
thu cho khoa kế toán kiểm toán được sinh viên đánh giá cũng chưa phù hợp với chất lượng đào
tạo mà sinh viên nhận được (có 201/285 chiếm 70,5% sinh viên trả lời ở mức Likert mức độ:
1- Rất không đồng ý, 2- Không đồng ý, 3- Bình thường). Do đó khoa và nhà trường cần có các
biện pháp để nâng cao chất lượng đào tạo người học hơn nữa để đáp ứng người học và có cơ sở
để tăng học phí và sinh viên sẵn lòng chi trả mức học phí đó.
Cuối cùng là nhân tố cơ sở vật chất, với hệ số hồi quy đạt 0,082, nghĩa là khi tăng thêm 1
điểm thì sự hài lòng nói chung tăng 0,082 điểm. Cơ sở vật chất cũng là yếu tố rất quan trọng tác
động đến sự hài lòng của người học. Trong phiếu khảo sát tác giả có đưa thêm câu hỏi “Theo em
nhà trường và khoa cần làm gì khác để đáp ứng được đào tạo nguồn nhân lực trong thời đại công
nghệ 4.0”, đa số các phiếu thu về đều cho rằng nhà trường cần trang bị thêm các thiết bị trợ
giảng trong phòng học, như ổ điện, míc không dây, internet đủ mạnh để sinh viên có thể mang
máy tính đi để học và truy cập. Điều hòa trong các phòng học cần có các thiết bị để điều chỉnh
độ lạnh, bàn ghế cần thay đổi để sinh có thể thoải mái ngồi học tập và làm việc nhóm. Các phần
mềm thực hành cần kết nối với thư viện để sinh viên có thực hành thêm để nâng cao kỹ năng.
Bên cạnh đó, hệ số hồi quy chuẩn hóa cũng cho biết mức độ quan trọng của từng nhóm
nhân tố đến mức độ hài lòng của sinh viên Bảng 10
Bảng 11: Vị trí quan trọng của các yếu tố
Biến độc lập Hệ số hồi quy chuẩn hóa % quan trọng của các biến
CTDT 0,429 41,2
KNPV 0,311 29,87
GV 0,097 9,31
HP 0,126 12,1
CSVC 0,078 7,52
Tổng 1.041 100
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả, phần mềm sử dụng SPSS 20.0.
Qua kết quả mô hình hồi quy và vị trí quan trọng của các yếu tố, có thể kết luận rằng: Mức
độ ảnh hưởng của các nhân tố đến sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo các học phần
Kế toán - Kiểm toán tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội lần lượt là: (1) Chương trình đào
tạo (41,2%); (2) Khả năng phục vụ (29,87%); Giảng viên (9,31%); (3) Học phí (12,1%); (4) Cơ
sở vật chất (7,52%).
78
Như vậy, để nâng cao chất lượng đào tạo và đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu của sinh
viên, Khoa kế toán, kiểm toán của Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội cần chú trọng đến việc
xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn mực nghề nghiệp, tích hợp các môn học của chương
trình chứng chỉ kế toán quốc tế, tạo điều kiện cho sinh viên tiếp xúc nhiều hơn với môi trường làm
việc thực tế, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của nhà tuyển dụng. Bên cạnh đó khoa và nhà trường cần
xây dựng hệ thống phục vụ sinh viên chuyên nghiệp hơn, nhanh hơn, đáp ứng kịp thời mọi vướng
mắc và yêu cầu của sinh viên. Thêm vào đó khoa cũng cần có chiến lược đào tạo đội ngũ giảng
viên có thêm nhiều kiến thức thực tế, có trình độ ngoại ngữ để có thể dạy các học phần tích hợp
chứng chỉ quốc tế, tập chung nhiều hơn cho thay đổi phương pháp giảng dạy để truyền đạt những
kiến thức ngày càng nhiều và khó hơn trong thời đại công nghệ 4.0 như hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Quality management and quality assurance vocabulary (ISO 8402), 2000.
Anderson, J.C. and Gerbing, D.W. (1988). Structural equation modeling in practice: A review
and recommended two-step approach. Psychological Bulletin, Vol103 (3), 411-423.
Cronin. J. J. & Taylor, S. A. (1992). Measuring Service Quality: a reexamination and extensio.
Journal of Marketing, Vol. 56. July. 1992
Đinh Phi Hổ (2011), Phương pháp nghiên cứu định lượng và những nghiên cứu thực tiễn trong
kinh tế phát triển - nông nghiệp, NXB Phương Đông, TP Hồ Chí Minh.
Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS, NXB
Hồng Đức.
Lê Văn Huy, ThS. Trương Trần Trâm Anh (2012), Phương pháp nghiên cứu trong kinh doanh,
NXB Tài chính.
Nguyễn Thị Thắm (2010), Khảo sát sự hài lòng của sinh viên với chương trình đào tạo
ĐHKHTN-ĐH Quốc Gia TP Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Bảo Châu và Thái Thị Bích Châu (2013), Đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên
đối với chất lượng đào tạo của Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh Trường Đại học
Cần Thơ giai đoạn năm 2012- 2013, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, pp.
117-123.
Parasuaman, A., V. Zeithaml, and L. Berry (1985), Aconceptual model of service quality and its
implications for future research. Journal of Marketing
Phạm Thị Liên (2016), Khảo sát sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo tại Trường Đại
học kinh tế - ĐHGQ Hà Nội, Báo cáo nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Kinh tế,
ĐHQG Hà Nội.
Nunnally, J. C, Burstein, J. H. (1994). Psychometric theory (3rd Edition). Mc Graw - Hill Books
Company.
79
Nguyễn Thị Xuân Hương, Nguyễn Thị Phượng, Vũ Thị Hồng Loan (2016) “Nghiên cứu các
nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đối với cơ sở vật chất và phục vụ của
Trường Đại học Nông nghiệp”
Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng, Huỳnh Đạo nghĩa, Hoàng Thị Hồng Ngọc (2014), “Tìm hiểu sự hài
lòng của sinh viên đại học chính qui về chất lượng đào tạo tại trường Đại học Công
nghiệp thành phố Hồ Chí Minh”,
Nguyễn Thị Bích Vân (2013), “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên
đối với dịch vụ đào tạo tại Trường Đại học dân lập Văn Lang”
Suarman, Zahara Aziz & Ruhizan Mohammad Yasin, (2013) The Quality of Teaching and
Learning towards the Satisfaction among the University Students, Asian Social Science;
Vol. 9, No. 12.
Parasuraman, A., Zeithaml, V.A. & Berry, L. L., SERVQUAL: A Multiple-Item Scale for
Measuring Consumer Perceptions of Service Quality, Journal of Retailing, 64 (1): 12-40,
(1988).
Zeithaml, V. A. & M. J. Bitner, (2000). Services Marketing: Integrating Customer Focus Across
the Firm. Irwin McGraw- Hill.
80
Giảng dạy môn học Nguyên lý kế toán cho sinh viên ngoài ngành
kế toán, kiểm toán dựa trên chức năng cung cấp thông tin của kế toán:
Nghiên cứu tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Đinh Thị Thanh Hải, Nguyễn Thị Thanh Hương, Nguyễn Thị Liên
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: dinhthithanhhai@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.19 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 12/11/2019
Ngày nhận bài: 29/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2019
Tóm tắt
Thông tin kế toán đóng vai trò vô cùng quan trọng trong các hoạt động quản lý kinh tế vì
vậy học phần nguyên lý kế toán cần thiết phải nằm trong chương trình đào tạo đại học của các
ngành kinh tế và quản trị kinh doanh. Hiện nay, thực trạng vẫn còn một số những hạn chế trong
quá trình giảng dạy học phần này cho sinh viên ngoài ngành kế toán. Bài viết phân tích thực
trạng và một số hạn chế về mục tiêu, nội dung và phương pháp giảng dạy học phần nguyên lý kế
toán cho sinh viên ngoài ngành kế toán - kiểm toán. Từ đó, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy học phần này trong chương trình đào tạo các ngành kinh tế và
quản trị kinh doanh.
Từ khóa: Nguyên lý kế toán, chức năng cung cấp thông tin kế toán, sinh viên ngoài ngành
kế toán - kiểm toán.
1. GIỚI THIỆU
Trong khung chương trình đào tạo các ngành kinh tế và quản trị kinh doanh tại các trường
đại học của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, nguyên lý kế toán đóng vai trò quan trọng
và là môn học bắt buộc. Mục tiêu của môn học này là cung cấp cho sinh viên những hiểu biết cơ
bản về kế toán, sử dụng thông tin kế toán trong quá trình ra quyết định (Long và Oanh, 2012;
Tan và Laswad 2006). Xu thế hội nhập về giáo dục đại học đang tạo ta sức ép lớn, đòi hỏi cần có
sự chuyển biến tích cực và đổi mới toàn diện về cả nội dung chương trình và phương pháp giảng
dạy. Vì vậy, việc đổi mới công tác giảng dạy kế toán không chỉ tạo nền tảng vững chắc cho việc
học tập các môn học sau trong chương trình đào tạo mà còn giúp nâng cao khả năng làm việc
thực tế cho nguồn nhân lực trong lĩnh vực quản lý kinh tế.
Hiện nay, phần lớn các trường đại học ở Việt Nam nội dung và phương pháp giảng dạy
môn học nguyên lý kế toán cho các ngành ngoài kế toán - kiểm toán giống như dành cho sinh
81
viên học ngành kế toán - kiểm toán. Bên cạnh đó, mục tiêu về các kỹ năng sinh viên có thể đạt
được sau khi kết thúc môn học cũng hoàn toàn giống nhau giữa sinh viên ngành kế toán - kiểm
toán và sinh viên ngành ngoài kế toán - kiểm toán. Nhiểu nghiên cứu đã chỉ ra rằng những sinh
viên ngoài chuyên ngành kế toán - kiểm toán có xu hướng hoạt động không hiệu quả bằng các
sinh viên ngành kế toán - kiểm toán trong các học phần kế toán (Lucas, 2001; Guney, 2009).
Ngoài ra, Lucas và Mayer (2005) đã chứng minh rằng những sinh viên ngoài chuyên ngành kế
toán - kiểm toán có những mục tiêu không đồng nhất với sinh viên ngành kế toán - kiểm toán do
có sự khác biệt trong toàn bộ chương trình học.
Vì vậy, với quan điểm cần quan tâm đến nhu cầu thực tế của những nhân viên làm việc
trong các lĩnh vực kinh tế và quản trị kinh doanh, chúng ta nên nghiên cứu và thảo luận thêm về
nội dung, phương pháp giảng dạy môn học nguyên lý kế toán theo mục đích đào tạo sinh viên
theo định hướng ứng dụng trong các lĩnh vực quản trị kinh doanh. Đây là vấn đề rất quan trọng
trong chương trình đào tạo để đảm bảo được chất lượng của sinh viên khi ra trường có thể ứng
dụng được kiến thức vào thực tế hoạt động trong thời đại nền kinh tế tri thức
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Sự cần thiết của việc giảng dạy nguyên lý kế toán cho nhóm ngành ngoài kế toán -
kiểm toán
Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, kế toán ngày càng trở nên
quan trọng hơn. Điều này đã được khẳng định vì về cơ bản kế toán là một hệ thống thông tin
phản ánh tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh, dòng tiền mặt và các thông tin tài
chính khác của một doanh nghiệp cho những nhà quản lý ra các quyết định. Theo Littleton
(1953), kế toán là một loại hình dịch vụ thông tin với một mục tiêu quan trọng là việc cung cấp
một số thông tin có ý nghĩa cho các hoạt động kinh tế của một doanh nghiệp. Davidson và Wiel
(1984) cũng khẳng định rằng kế toán là một hệ thống thông tin và được thiết kế để truyền tải
thông tin kinh tế có ý nghĩa của một tổ chức hoặc cá nhân cho những người có liên quan. Các dữ
liệu kế toán đã được xử lý để cung cấp cho các nhà quản lý và những người sử dụng thông tin là
cơ sở quan trọng của hoạt động kinh tế xã hội vì nó phản ánh các hoạt động kinh tế đã diễn ra
trong quá khứ, kiểm soát các hoạt động kinh tế hiện tại và dự đoán các hoạt động kinh tế có thể
xảy ra trong tương lai. Ví dụ như cổ đông sử dụng các thông tin kế toán để đánh giá lợi nhuận và
giá trị đầu tư của một doanh nghiệp, từ đó đưa ra quyết định đầu tư phù hợp; Ngân hàng và các
chủ nợ khác sử dụng thông tin kế toán để phân tích tình hình thanh khoản và tín dụng của một
doanh nghiệp để duy trì an ninh tài chính của họ; Các nhà quản lý của một doanh nghiệp có thể
kịp thời nhận ra những vấn đề tồn tại trong quá trình sản xuất kinh doanh thông qua phân tích
thông tin tài chính, từ đó họ có thể cải thiện công tác quản lý cũng như gia tăng các lợi ích kinh
tế cho doanh nghiệp. Trên cơ sở lý thuyết này, các nhân viên làm việc trong lĩnh vực kinh tế nói
chung và quản trị kinh doanh nói riêng cần thiết phải có kiến thức chuyên môn kế toán tương
ứng và nắm bắt một số phương pháp phân tích thông tin kế toán. Thực tế cũng đã cho thấy rằng
trong kỷ nguyên hiện đại, đối với những người không có được những kiến thức kế toán cũng như
những người không hiểu và sử dụng tốt các thông tin kế toán rất khó để tham gia vào hoạt động
kinh tế (Yang và Yang, 1999).
82
2.2. Mục tiêu của giảng dạy nguyên lý kế toán cho các ngành ngoài kế toán - kiểm toán
Trong quá trình giảng dạy nguyên lý kế toán, một trong những vấn đề quan trọng cần thực
hiện đối với giảng viên là phải nhận thấy được sự khác biệt giữa sinh viên ngành kế toán - kiểm
toán và sinh viên ngoài ngành kế toán - kiểm toán. Thứ nhất, khi bắt đầu môn học nguyên lý kế
toán các sinh viên đều nhận thức rằng đây là môn học quan trọng, tuy nhiên động lực học tập
dành cho môn học này của các sinh viên ngoài ngành kế toán - kiểm toán sẽ khác với sinh viên
ngành kế toán - kiểm toán. Đối với sinh viên ngoài ngành kế toán - kiểm toán động lực chính của
họ là vượt qua được môn học nguyên lý vì đây là môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo.
Thứ hai, phong cách học tập và nền tảng kiến thức của sinh viên ngoài ngành kế toán - kiểm toán
có thể là rất khác so với sinh viên ngành kế toán - kiểm toán (Tan và Laswad, 2006). Ví dụ,
nghiên cứu của Gist (1996) đã chỉ ra rằng sinh viên ngành kế toán - kiểm toán thường có xu
hướng thực hiện tốt các kỹ năng toán học hoặc những sinh viên này thường tìm hiểu và tiếp xúc
trước với một số kiến thức về kế toán.
Như chúng ta đã biết, sinh viên ngành kế toán - kiểm toán sau khi tốt nghiệp đa phần sẽ trở
thành các kế toán viên hoặc kiểm toán viên và họ sẽ là những người chuẩn bị và kiểm tra các
thông tin kế toán để cung cấp cho các đối tượng sử dụng. Do đó, trong quá trình giảng dạy các
giảng viên thường tập trung nhấn mạnh vào các kiến thức chuyên môn sâu và các kỹ năng cần
thiết để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Ngược lại, những sinh viên ngoài ngành kế toán - kiểm toán sẽ không tham gia trực tiếp vào
công việc kế toán, họ chỉ cần sử dụng những thông tin tài chính do kế toán cung cấp để thực hiện
việc phân tích và đưa ra quyết định. Vì vậy, mục tiêu giảng dạy đối với những sinh viên thuộc
các ngành kinh tế và quản trị kinh doanh không phải là để họ có thể thực hiện được việc lập
chứng từ hay các phương pháp cụ thể cho việc ghi chép các nghiệp vụ kinh tế vào sổ sách kế
toán. Mục tiêu chính của việc giảng dạy môn nguyên lý kế toán cho những sinh viên ngoài ngành
kế toán - kiểm toán cần tập trung vào việc trau dồi cách tư duy của sinh viên và cung cấp những
kiến thức thống nhất giúp sinh viên có thể sử dụng được thông tin trên các báo cáo tài chính của
doanh nghiệp để phân tích được tình hình tài chính và kết quả hoạt động, từ đó đưa ra được các
quyết định phù hợp.
Đối với các chương trình đào tạo của ngành kế toán - kiểm toán sẽ bao gồm hệ thống các
môn học kế toán và kiểm toán chuyên sâu giúp cho sinh viên có thể hiểu một cách đầy đủ và sâu
sắc những kiến thức cơ bản về mặt lý thuyết cũng như các kỹ năng thực hành kế toán - kiểm
toán. Ngược lại, chương trình đào tạo của các ngành kinh tế và quản trị kinh doanh hạn chế
lượng kiến thức về kế toán chỉ trong môn học nguyên lý kế toán. Theo Brown (2005) hiệu quả
học tập của sinh viên có thể được cải thiện khi giảng viên áp dụng được những phương pháp
giảng dạy, phương tiện hỗ trợ và nội dung giảng dạy được thiết kế phù hợp với sinh viên ngoài
ngành kế toán - kiểm toán. Để đảm bảo sinh viên sau khi học môn nguyên lý kế toán có thể có
được những kiến thức tổng quát nhất và phù hợp với mục tiêu đào tạo của những ngành ngoài kế
toán - kiểm toán, chúng ta cần xác định lại mục tiêu cho môn học này với đối tượng là sinh viên
ngoài ngành kế toán - kiểm toán như sau: Thứ nhất, sinh viên có thể hiểu được các chức năng cơ
bản của kế toán thông qua vai trò quan trọng của thông tin kế toán trong việc hỗ trợ nhà quản trị
83
doanh nghiệp và ra quyết định; Thứ hai, sinh viên có được sự hiểu biết khái quát về tổ chức công
tác kế toán và sử dụng thông tin kế toán trong việc tăng cường kiểm soát nội bộ và cải thiện lợi
thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhìn chung, trong thời gian hạn chế dành cho những kiến thức
về kế toán trong chương trình đào tạo cùng với việc tập trung vào khả năng ứng dụng những kiến
thức đó vào hoạt động quản lý doanh nghiệp thì mục tiêu giảng dạy cho các ngành ngoài kế toán
- kiểm toán cần được xác định theo quan điểm của người sử dụng thông tin kế toán.
3. THỰC TRẠNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Để hiểu được tình hình và các vấn đề trong hoạt động giảng dạy và học tập môn nguyên lý
kế toán trong chương trình đào tạo các ngành ngoài kế toán - kiểm toán, nhóm tác giả thực hiện
nghiên cứu tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Trước tiên, nhóm tác giả tiến hành tổng
hợp kết quả học tập môn Nguyên lý kế toán của các 12 lớp đại học quản trị kinh doanh, 3 lớp
quản trị du lịch khách sạn, 2 lớp quản trị nhân lực và 3 lớp Marketing khóa 11 và 12. Kết quả
tổng hợp được thể hiện trong Hình 1.
Hình 1: Kết quả học tập môn NLKT các lớp đại học ngoài ngành kế toán - kiểm toán
khóa 11,12 - Đại học Công nghiệp Hà Nội
(Nguồn: Hệ thống đào tạo tín chỉ Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội)
Dựa vào kết quả tổng hợp trên, tỷ lệ trượt học phần Nguyên lý kế toán cao nhất trong các
thang điểm (19%) và mức điểm thấp dưới trung bình bình (điểm D+, D, F) lên tới 40,46% cho
thấy rằng cần phải cải thiện và dần dần nâng cao chất lượng học tập của sinh viên cho học phần
này. Kết quả tổng hợp trên cũng chỉ ra rằng 13,11% số sinh viên ngoài ngành kế toán - kiểm toán
đạt được điểm giỏi (điểm A) là tỷ lệ khá cao so với nhiều học phần khác. Tuy nhiên, để làm rõ
hơn quá trình học tập và ứng dụng những kiến thức mà sinh viên đã thu nhận được từ học phần
nguyên lý kế toán, nhóm tác giả tiến hành một cuộc khảo sát với các sinh viên ngoài ngành kế
toán - kiểm toán. Việc khảo sát được chia thành hai phần với các đối tượng khảo sát khác nhau
để làm rõ hai vấn đề là mức độ hiểu biết và quan tâm của sinh viên đối với học phần Nguyên lý
kế toán trước khi bắt đầu và sự hài lòng của sinh viên về nội dung môn học cũng như việc ứng
dụng kiến thức đã thu nhận được vào các môn học chuyên ngành sau này.
84
Phần thứ nhất thực hiện khảo sát các sinh viên nhóm ngành quản trị kinh doanh, quản trị
nhân lực và marketing khóa 13 là những sinh viên mới bắt đầu học môn nguyên lý kế toán để
đánh giá mức độ hiểu biết và quan tâm của sinh viên trước khi bắt đầu môn học này. Tổng số
phiếu khảo sát thu về là 280 phiếu và kết quả được thể hiện trong Bảng 1 như sau:
Bảng 1: Mức độ hiểu biết và quan tâm đến học phần nguyên lý kế toán của sinh viên ngoài
ngành kế toán - kiểm toán
Nội dung khảo sát Kết quả
Có Một chút Không
1. Bạn có nghĩ rằng học phần nguyên lý kế toán là cần thiết và
hữu ích cho công việc của bạn trong tương lai không? 63.6% 35.0% 1.4%
2. Bạn đã biết gì về kế toán trước khi tham gia vào lớp học
môn nguyên lý kế toán? 4.3% 23.6% 72.1%
3. Bạn có quan tâm đến học phần nguyên lý kế toán không? 72.2% 27.1% 0.7%
4. Bạn có chuẩn bị gì trước khi tham gia học môn nguyên lý
kế toán không? 49.3% 50.0% 0.7%
Số liệu thống kê trong bảng 1 cho thấy rằng đa số sinh viên hoàn toàn không biết về
nguyên lý kế toán trước khi tham gia các lớp học môn này (72,1%), nhưng sinh viên nhận thức
được tầm quan trọng của học phần nguyên lý kế toán (63,6% sinh viên trả lời khảo sát cho rằng
môn học này là cần thiết). Đa số sinh viên quan tâm đến môn nguyên lý kế toán (99.3%) và có sự
chuẩn bị trước khi học môn học này (99,3%), tuy nhiên sinh viên chưa hiểu rõ mối quan hệ giữa
môn nguyên lý kế toán với các môn học chuyên ngành khác cũng như công việc trong tương lai.
Chính vì vậy, các giảng viên khi bắt đầu môn học cần giới thiệu đến sinh viên mối quan hệ này
để nâng cao nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của việc học môn nguyên lý kế toán.
Phần thứ hai thực hiện khảo sát các sinh viên nhóm ngành quản trị kinh doanh, quản trị
nhân lực và marketing khóa 11 và 12 là những sinh viên đã học môn nguyên lý kế toán và hiện
tại đang học các môn chuyên ngành quản trị để đánh giá sự hài lòng về nội dung và phương pháp
giảng dạy môn học này cũng như những kiến thức kế toán được ứng dụng trong các môn học sau
này. Tổng số phiếu khảo sát thu về là 325 phiếu và kết quả được thể hiện trong bảng 2 như sau:
Bảng 2: Mức độ hài lòng của sinh viên đối với học phần nguyên lý kế toán
Nội dung khảo sát Kết quả
Có Một chút Không
1. Bạn có hài lòng về giáo trình nguyên lý kế toán được sử
dụng trong quá trình học tập môn học nguyên lý kế toán không? 47.4% 48.6% 4.0%
2. Bạn có hài lòng với những nội dung được giảng dạy trong
quá trình học tập môn nguyên lý kế toán không? 49.8% 44.7% 5.5%
85
3. Bạn có hài lòng với những phương pháp giảng dạy và tài liệu
hỗ trợ từ phía giảng viên trong quá trình học tập môn nguyên lý
kế toán không?
67.2% 28.5% 4.3%
4. Bạn có ứng dụng được những kiến thức trong môn nguyên lý
kế toán vào các môn học chuyên ngành sau này không? 31.4% 64.0% 4.6%
Số liệu được trình bày trong bảng 2, sinh viên ngoài ngành kế toán - kiểm toán cho rằng
giáo trình cũng như nội dung môn học chưa đáp ứng được nhu cầu của họ (mức độ hài lòng về
giáo trình và nội dung môn học đều chưa cao, lần lượt là 47,4% và 49,8%). Lý do giải thích cho
mức độ hài lòng chưa cao này là nội dung được trình bày và sử dụng các thuật ngữ quá chuyên
sâu vào chuyên ngành kế toán - kiểm toán, phù hợp với sinh viên ngành kế toán - kiểm toán hơn.
Mặc dù phương pháp giảng dạy cũng như sự cố gắng chuẩn bị tài liệu phù hợp với đối tượng
sinh viên của các giảng viên được đánh giá khá tốt (67,2%), giảng viên cần phải xem xét bổ sung
những kiến thức thực tế trong lĩnh vực kinh tế và quản trị kinh doanh có thể kết nối được với
kiến thức kế toán để nâng cao khả năng ứng dụng của môn học nguyên lý kế toán (chỉ 31,4%
sinh viên trả lời khảo sát cho rằng họ sử dụng được kiến thứ trong môn nguyên lý kế toán vào
các môn học chuyên ngành của họ).
Tóm lại, hoạt động giảng dạy học phần Nguyên lý kế toán cho sinh viên ngoài ngành kế
toán - kiểm toán còn tồn tại ba vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, chưa phân biệt rõ ràng mục tiêu của học phần Nguyên lý kế toán trong chương
trình đào tạo ngành kế toán - kiểm toán với mục tiêu của học phần này trong chương trình đào
tạo các ngành kinh tế và quản trị kinh doanh. Đối với sinh viên ngành kế toán cần có kiến thức
và kỹ năng để thực hiện chức năng cung cấp thông tin tài chính cho những người sử dụng thông
tin, ngược lại sinh viên ngành kinh tế và quản trị kinh doanh cần được đào tạo khả năng hiểu và
ứng dụng kiến thức trong việc sử dụng các thông tin kế toán để ra quyết định. Ngoài ra, trong
mục tiêu của học phần chưa thể hiện được sự cần thiết của mối liên hệ chặt chẽ giữa kế toán với
những lĩnh vực kinh doanh khác. Chính vì vậy giảng viên sẽ gặp khó khăn trong việc lựa chọn
những kiến thức kế toán cần thiết cho sinh viên mà có thể ứng dụng được vào những ngành
ngoài kế toán - kiểm toán.
Thứ hai, nội dung giảng dạy học phần nguyên lý kế toán giữa ngành kế toán - kiểm toán
với những ngành kinh tế, quản trị kinh doanh chưa có sự khác biệt. Chính vì vậy những kiến
thức sinh viên ngoài ngành kế toán - kiểm toán nhận được chưa có sự tương thích với chuyên
môn sau này của họ, điều đó có thể làm giảm sự linh hoạt của sinh viên sau khi ra trường. Nội
dung giảng dạy hiện nay của học phần nguyên lý kế toán tập trung sâu vào các phương pháp kế
toán để có thể tính toán và ghi nhận các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, rất phù hợp với những sinh
viên ngành kế toán - kiểm toán để giúp họ tự tin trong các môn học chuyên ngành sau này.
Nhưng đối với sinh viên ngoài ngành kế toán - kiểm toán ngoài việc cần hiểu những kiến thức về
các khái niệm cơ bản thì họ cần bổ sung kiến thức sâu hơn về việc sử dụng thông tin kế toán để
ứng dụng và phân tích hơn là những kiến thức và kỹ năng thực hiện ghi chép kế toán.
86
Thứ ba, phương pháp giảng dạy và đánh giá kết quả học tập vẫn theo phương pháp truyền
thống, chủ yếu giảng viên vẫn kết hợp giữa giảng dạy trực tiếp trên lớp và giao bài tập về nhà.
Thêm vào đó, thời lượng dành cho học phần nguyên lý kế toán không nhiều nên không có nhiều
tình huống thực tế gắn liền với mục tiêu của ngành học để phát triển tư duy sáng tạo của sinh
viên mà hiện nay sinh viên chủ yế tập trung vào việc ghi nhớ hệ thống, công thức và phương
pháp để thực hiện bài kiểm tra cũng như bài thi. Hiện nay việc đánh giá sinh viên chủ yếu vẫn
dựa trên việc thực hiện bài kiểm tra thường xuyên chiếm từ 30% đến 40% và bài thi cuối kỳ
chiếm tỷ lệ 60% đến 70%. Nhìn chung, nội dung của các bài kiểm tra và các bài thi vẫn chỉ tập
trung đánh giá kiến thức. Đối với một nền giáo dục hiện đại chất lượng của sinh viên không chỉ
đánh giá qua những kiến thức thu nhận được mà còn cần đánh giá khả năng ứng dụng và sáng
tạo của họ vào tình huống cụ thể. Chính vì vậy việc đổi mới phương pháp giảng dạy và đánh giá
phù hợp với xu thế hiện đại là vô cùng cần thiết.
4. KHUYẾN NGHỊ
Kế toán là ngôn ngữ của kinh doanh và mục tiêu của các môn học kế toán là sinh viên phải
hiểu được ngôn ngữ này để ghi nhận và sử dụng các thông tin kế toán hữu ích (Feast, 1999).
Cùng với mục tiêu này và những vấn đề còn hạn chế, việc nâng cao hiệu quả giảng dạy học phần
nguyên lý kế toán cho hệ đào tạo đại học ngoài ngành kế toán - kiểm toán có thể thực hiện một
số khía cạnh sau:
Thứ nhất, xác định lại mục tiêu của học phần nguyên lý kế toán trong chương trình đào tạo
các ngành ngoài kế toán - kiểm toán là cần phát triển kỹ năng phân tích thông tin kế toán để ứng
dụng trong việc ra quyết định về sản xuất, tiếp thị, đầu tư, tài chính để cải thiện và thúc đẩy quản
lý doanh nghiệp để thích ứng với quản lý kinh tế trong thời đại công nghiệp 4.0. Shotwell (1999)
đã chứng minh rằng hiệu quả học tập của sinh viên các ngành kinh doanh có thể được cải thiện
nếu như ngay từ đầu chương trình học mục tiêu được làm rõ rằng kế toán là công cụ hỗ trợ giúp
tăng cường những năng lực cốt lõi cho người làm kinh doanh. Điều này làm giảm sự lo âu và
thay đổi nhận thức cho sinh viên ngoài ngành kế toán - kiểm toán về việc học môn nguyên lý kế
toán tức là chỉ thực hiện ghi chép và lưu trữ thông tin về các nghiệp vụ phát sinh.
Thứ hai, cần điều chỉnh nội dung giảng dạy học phần nguyên lý kế toán để phù hợp với
mục tiêu đào tạo cho sinh viên ngoài ngành kế toán - kiểm toán. Trước tiên, vẫn cần phải đảm
bảo những kiến thức cơ bản về khái niệm kế toán, nguyên tắc bút toán kép và quy trình kế toán
nhưng không đi quá sâu vào các phương pháp kế toán cụ thể cũng như ghi nhận các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh trong các quá trình kinh doanh. Nội dung học phần kế toán dành cho sinh viên
ngoài ngành kế toán - kiểm toán cần bổ sung thêm về phương pháp và kỹ thuật đọc và phân tích
báo cáo tài chính. Các giảng viên có thể chủ động bổ sung thêm nội dung về các báo cáo tài
chính thực tế của doanh nghiệp trong quá trình giảng dạy để sinh viên có nhiều cơ hội được đọc
và phân tích các thông tin kế toán thực tế. Jones và Field (2001) đã chứng minh rằng việc sử
dụng các kiến thức thực tế sẽ giúp sinh viên nâng cải thiện kỹ năng đọc, lý luận, phân tích và ra
quyết định tốt hơn. Hoạt động này cũng giúp cho sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của
môn học và tham gia đầy đủ các giờ lên lớp hơn. Kết quả học tập của những sinh viên tham dự
các buổi học đầy đủ có xu hướng cao hơn kết quả học tập của những sinh viên ít tham gia các
buổi lên lớp (Jones và Field, 2001).
87
Thứ ba, áp dụng các phương pháp giảng dạy mới với sự hỗ trợ của những công nghệ hiện
đại để thiết kế các hoạt động học tập tích cực cho sinh viên. Theo McKeachie (2006), chúng ta
không thể loại bỏ các phương pháp giảng dạy truyền thống như thuyết trình trên lớp và yêu cầu
sinh viên đọc tài liệu nhưng giảng viên có thể yêu cầu sinh viên sử dụng công nghệ truyền thông
hiện đại để có thể tìm kiếm thông tin, cũng như có nhiều không gian để thảo luận tạo ra môi
trường học tập cho sinh viên ngoài giảng đường của trường đại học. Để có thể phát triển kỹ năng
ứng dụng và phân tích thông tin kế toán trong việc ra quyết định của sinh viên ngoài ngành kế
toán - kiểm toán, các giảng viên có thể sử dụng các kỹ thuật học tập tích cực cho sinh viên trong
đó có hoạt động nghiên cứu tình huống thực tế. Phương pháp nghiên cứu tình huống thực tế
được thực hiện bằng cách sử dụng các nhóm người tham gia vào một quá trình giải quyết một
vấn đề. Adler và cộng sự (2004) đã chỉ ra rằng giảng dạy kế toán nên sử dụng các tình huống
thực tiễn mà sinh viên sẽ phải bắt đầu từ việc thu thập các thông tin cần thiết, sử dụng những
kiến thức đã học để giải quyết vấn đề, từ đó phát triển được kỹ năng mới cần thiết cho công việc
trong tương lai.
5. KẾT LUẬN
Thông tin kế toán luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh tế cũng như
quản trị doanh nghiệp, vì vậy việc nâng cao hiệu quả giảng dạy học phần nguyên lý kế toán cho
sinh viên ngành kinh tế là rất cần thiết. Việc xác định đúng mục tiêu giảng dạy phù hợp với
chuẩn đầu ra cần thiết đối với chương trình đào tạo các ngành kinh tế sẽ giúp cho các giảng viên
xây dựng được những nội dung và phương pháp giảng dạy phù hợp. Để cải thiện năng lực học
tập và khả năng ứng dụng kiến thức của sinh viên, các giảng viên cần thiết kế các phương pháp
và nội dung môn học gần với đặc thù ngành học của sinh viên bằng cách vận dụng chức năng
cung cấp thông tin của kế toán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Adler, R.W., Whiting R.H., and Wynn-Williams, K. (2004). Student-led and teacher-led case
presentations: empirical evidence about learning styles in an accounting course.
Accounting Education, Vol.13, page 213-229.
Brown, N. (2005). Meta programmes for identifying thinking preferences and their impact on
accounting students’ educational experience. Journal of Accounting Education, Vol.23,
page 232-247.
Davidson, S. and Weil, R. (1984). Handbook of modern accounting. McGraw-Hill; Subsequent
edition.
Feast, V., Kokkinn, B. Medlin, J. and Frangiosa, R. (1999). Accounting for student diversity -
Paper presented at the of the Higher Education and Research Development Society of
Australasia (HERDSA): Cornerstones. Melbourne, Australia: July, page12-15.
88
Gist, W.E., H. Goedde and Ward, B.H. (1996). The influence of mathematical skills and other
factors on minority student performance in principles of accounting. Issues in Accounting
Education, Vol.1, page 49-60.
Guney, Y. (2009) Exogenous and Endogenous Factors Influencing Students’ Performance in
Undergraduate Accounting Modules. Accounting Education: an international journal, Vol
18 (1) page 51-73.
Jones, J.P. and Fields, K.T. (2001). The role of supplemental instruction in the first accounting
course. Issues in Accounting Education, Vol.16, page 531-547.
Littleton, A.C. (1953). Structure of accounting theory. American Accounting Association.
Lucas, U. (2001) Deep and surface approaches to learning within introductory accounting: a
phenomenographic study. Accounting Education, Vol 10 (2), page 161–184.
Lucas, U. & Meyer, J. H. F. (2005) 'Towards a mapping of the student world': the identification
of variation in students' conceptions to learn introductory accounting. The British
Accounting Review, Vol 37 (2), page 177-204.
McKeachie, W.J. and Svinicki, M. (2006). McKeachie's teaching tips: strategies, research, and
theory for college and university teachers, Boston: Houghton Mifflin.
Phạm Thành Long và Đàm Thị Kim Oanh (2012). Đổi mới phương pháp giảng dạy môn Nguyên
lý kế toán trong các trường đại học ở Việt Nam. Tạp chí kinh tế và phát triển, số Đặc biệt
tháng 12, trang 20-24
Shotwell, T. A. 1999. Comparative analysis of business and non-business students’ performances
in financial accounting: passing rates, interest and motivation in accounting, and attitudes
toward reading and math. College Student Journal, Vol.33, page 181-195.
Tan, L.M. and Laswad, F. (2005). Students’ beliefs, attitudes and intentions to major in
accounting, Accounting Education: an international journal, Vol.15(2), page 167-187.
Yang, J. and Yang, J. (1999). Handbook of Chinese accounting. Oxford University Press (China)
Ltd
89
Đào tạo kiểm toán nội bộ ở Việt Nam trong điều kiện cách mạng
công nghiệp 4.0 - Đòi hỏi tất yếu
Nguyễn Thị Lê Thanh
Khoa Kế toán - Kiểm toán, Học viện Ngân hàng
Email: thanhntl@hvnh.edu.vn
Mã bài: HTQG.06 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 19/11/2019
Ngày nhận bài: 06/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 22/11/2019
Tóm tắt
Nền kinh tế phát triển đòi hỏi hoạt động của doanh nghiệp phải được kiểm toán, đặc biệt
trong điều kiện cách mạng công nghiệp 4.0, hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng phát
triển tinh vi với việc sử dụng công nghệ số hiện đại thì chủ thể kiểm toán nội bộ (KTNB) là
người hiểu rõ nhất về đặc điểm hoạt động của một doanh nghiệp càng cần thiết. KTNB không
phải là khái niệm mới mẻ ở Việt Nam nhưng thực tế số lượng doanh nghiệp tổ chức bộ phận
KTNB hiệu quả vẫn còn hạn chế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, có thể do thiếu
các quy định và hướng dẫn cụ thể, có thể do thiếu nhân sự có kiến thức chuyên sâu về KTNB, có
thể do thiếu sự đầu tư từ ban quản trị tới việc tổ chức bộ phận này. Bài viết tập trung phân tích
thực trạng hệ thống các quy định về KTNB ở Việt Nam qua thời gian, so sánh với các quy định
trên thế giới; đồng thời đánh giá thực trạng đào tạo kiến thức chuyên sâu về KTNB trong chương
trình đào tạo của các trường đại học, từ đó đưa ra một số giải pháp đẩy mạnh sự phát triển KTNB
ở Việt Nam - một công cụ hữu hiệu của nhà quản trị các doanh nghiệp.
Từ khóa: Kiểm toán nội bộ, chứng chỉ nghề nghiệp, đào tạo kiểm toán, chuẩn mực kiểm toán.
1. GIỚI THIỆU
Kiểm toán không còn là một ngành non trẻ ở Việt Nam. Với quá trình hình thành và phát
triển gần 30 năm đánh dấu bằng sự ra đời của hai doanh nghiệp kiểm toán, nghề kiểm toán hiện
tại ở Việt Nam có đầy đủ ba chủ thể: Kiểm toán độc lập, Kiểm toán Nhà nước và Kiểm toán nội
bộ. KTNB ngày càng phát triển vì vai trò và ý nghĩa nội tại của nó. Theo Viện Kiểm toán viên
nội bộ Hoa Kỳ IAA, “KTNB là một chức năng tư vấn và chức năng đưa ra các đảm bảo độc lập
và khách quan, được thiết kế nhằm nâng cao giá trị cũng như nhằm hoàn thiện các hoạt động
của một đơn vị. KTNB giúp doanh nghiệp đạt được các mục tiêu của mình bằng cách áp dụng
phương pháp tiếp cận có nguyên tắc và mang tính hệ thống nhằm đánh giá và nâng cao hiệu quả
của các quy trình quản lý rủi ro, các quy trình kiểm soát và các quy trình quản trị”.
90
Cùng với xu hướng phát triển của nền kinh tế, theo Nghị định số 05/2019/NĐ-CP của
Chính phủ về KTNB, có rất nhiều doanh nghiệp bắt buộc phải tổ chức KTNB trong doanh
nghiệp mình.
Nhận thức được sự phát triển của nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, các trường đại học khối
kinh tế của Việt Nam đã rất chú trọng vào việc xây dựng và phát triển chương trình đào tạo
ngành kế toán, kiểm toán, đảm bảo sinh viên tốt nghiệp có thể là một lực lượng lao động lớn với
năng lực đầy đủ, phù hợp với đòi hỏi cao của ngành nghề. Tuy nhiên mỗi trường có các môn học
kế toán, kiểm toán đặc biệt là hàm lượng kiến thức về KTNB là khác nhau.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu tài liệu và phương pháp tổng hợp,
phân tích, so sánh. Nguồn dữ liệu thứ cấp được sử dụng gồm: Hệ thống các văn bản có liên
quan tới KTNB ở Việt Nam qua thời gian; Khung thực hành KTNB chuyên nghiệp quốc tế
IPPF (International Professional Practices Framework) và bộ chuẩn mực KTNB quốc tế do
Viện Kiểm toán viên nội bộ Hoa Kỳ IAA ban hành để so sánh và đánh giá tính kịp thời cũng
như tính đầy đủ của các văn bản quy định về KTNB ở Việt Nam. Tác giả cũng tìm hiểu khung
chương trình đào tạo đại học chính quy ngành/chuyên sâu kế toán, kiểm toán của các trường
Đại học Kinh tế Quốc dân, Học viện Ngân hàng, Học viện Tài chính, Đại học Thương mại, Đại
học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội và tổng hợp, phân tích, so sánh nhằm đánh giá thực
trạng kiến thức chuyên sâu về KTNB đang được đào tạo ở bậc đại học như thế nào. Từ đó đưa
ra một số các đề xuất hoàn thiện.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Hệ thống các quy định về kiểm toán nội bộ ở Việt Nam
Quyết định số 832-TC/QĐ/CĐKT (QĐ832) của Bộ Tài chính ngày 28/10/1997 ban hành
quy chế KTNB là văn bản pháp lý đầu tiên về KTNB ở Việt Nam và có hiệu lực từ 01/01/1998.
Theo QĐ832 các doanh nghiệp nhà nước ((kể cả đối với công ty cổ phần, liên doanh mà số vốn
góp của doanh nghiệp Nhà nước chiếm trên 50%) phải tổ chức bộ máy KTNB để thực hiện công
tác KTNB trong doanh nghiệp nhằm đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của thông tin kinh tế,
tài chính; về bảo vệ an toàn tài sản của doanh nghiệp; về chấp hành luật pháp, chính sách, chế độ
của Nhà nước, cũng như các nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị, của Ban Giám đốc
doanh nghiệp đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Theo QĐ832 bộ máy KTNB của doanh nghiệp phải được tổ chức thành phòng, ban, hoặc
nhóm, tổ công tác và trực thuộc Tổng Giám đốc. Xét về tính độc lập của KTNB đồng thời đảm
bảo trao quyền lực cho KTNB là cao nhất thì việc quy định bộ máy KTNB trực thuộc Tổng giám
đốc là chưa phù hợp. Bởi Tổng giám đốc là người trực tiếp và chịu trách nhiệm chính trong việc
điều hành mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, KTNB trực thuộc Tổng giám đốc, thực
hiện công việc theo yêu cầu của Tổng giám đốc và báo cáo kết quả kiểm toán và các kiến nghị
cho Tổng giám đốc thì không khác gì một người vừa làm cầu thủ vừa làm trọng tài.
Tiêu chuẩn trở thành kiểm toán viên nội bộ (KTVNB) theo QĐ832 ngoài các tiêu chuẩn về
phẩm chất đạo đức, đòi hỏi KTVNB phải: Tốt nghiệp đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế
91
toán, hoặc quản trị kinh doanh; Đã công tác thực tế trong lĩnh vực quản lý tài chính, kế toán từ 5
năm trở lên, ít nhất có 3 năm làm việc tại doanh nghiệp nơi được giao nhiệm vụ kiểm toán viên;
Đã qua huấn luyện về nghiệp vụ kiểm toán, KTNB theo nội dung chương trình thống nhất của
Bộ Tài chính và được cấp chứng chỉ.
Theo đó, KTVNB phải qua đào tạo về chuyên môn KTNB và được cấp chứng chỉ
KTVNB. Tuy nhiên tính đến thời điểm này vẫn chưa có các quy định cụ thể về việc đào tạo
KTVNB và các quy định về điều kiện thi, môn thi, cơ quan nào cấp chứng chỉ KTVNB. Vì vậy,
nhu cầu đòi hỏi phải có văn bản pháp lý mới thay thế QĐ832 là tất yếu.
Hình 1. Hệ thống quy định KTNB ở Việt Nam
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
Thông tư số 52/1998/TT-BTC ngày 16/4/1998 (TT52) của Bộ Tài chính hướng dẫn tổ chức
bộ máy KTNB tại các doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại QĐ832. Theo TT52, tất cả các
doanh nghiệp nhà nước gồm: Doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp hoạt
động công ích, các Tổng công ty, Liên hiệp xí nghiệp, doanh nghiệp hạch toán độc lập khác đều
phải tổ chức bộ máy KTNB để thực hiện công tác KTNB như quy định bắt buộc của QĐ832.
Thời hạn cuối cùng các doanh nghiệp nhà nước phải tổ chức xong bộ máy KTNB là Quý 4/1998.
TT52 tương tự như QĐ832 vẫn yêu cầu bộ máy KTNB trực thuộc Tổng Giám đốc của đơn vị.
Sau một thời gian thực hiện QĐ32 và TT52, nhận thấy các quy định chưa thực sự phù hợp
với tình hình thực tế, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 171/1998/TT-BTC (TT171) ngày
22/12/1998 hướng dẫn thực hiện KTNB tại doanh nghiệp nhà nước. TT171 ra đời thay thế TT52,
có sự thay đổi đáng kể so với QĐ32 và TT52, việc tổ chức bộ máy KTNB thực hiện công tác
KTNB trong các doanh nghiệp nhà nước không còn là quy định bắt buộc. TT171 quy định rõ:
Tuỳ thuộc vào quy mô sản xuất kinh doanh, địa bàn hoạt động tập trung hay phân tán, điều kiện
cụ thể và trình độ năng lực của đội ngũ kế toán... doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức tổ chức
QĐ832 KTNB của DNNN
(Bộ Tài chính)
1997
TT171 hướng dẫn KTNB DNNN (Bộ Tài chính)
1998
QĐ36 về KTNB TCTD và NHTM (NH Nhà nước)
2006
TT52 tổ chức bộ máy KTNB DNNN (Bộ Tài chính)
TT44 về KTNB TCTD và NHTM (NH Nhà nước)
2011
QĐ791 KTNB đơn vị thuộc Bộ Tài chính
2012
Luật kế toán sửa đổi
TT13 sửa đổi TT44/2011
(NH Nhà nước)
Nghị định 05 KTNB các đơn vị (Chính phủ)
(Chính phủ)
2015 2018 2019
QĐ742 KTNB của Bảo hiểm
xã hội Việt Nam
92
bộ máy KTNB cho phù hợp và có hiệu quả thiết thực. Việc tổ chức bộ máy KTNB không bắt
buộc đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ cần đảm bảo và chịu trách nhiệm về tính trung
thực của thông tin tài chính, có thể lựa chọn tổ chức KTNB hoặc thuê kiểm toán độc lập. TT171
cũng bổ sung quy định yêu cầu về trình độ của KTVNB không nhất thiết phải tốt nghiệp đại học,
có thể chỉ tốt nghiệp trung cấp nhưng không được thấp hơn trình độ chuyên môn của kế toán
trưởng doanh nghiệp.
Tính đến năm 2015, ngoài quy định về việc doanh nghiệp nhà nước được lựa chọn tổ chức
bộ máy KTNB tùy vào quy mô và đặc điểm doanh nghiệp theo TT171 thì chưa có một văn bản
pháp luật nào quy định về việc tổ chức bộ máy KTNB ở các doanh nghiệp nói chung. Chỉ có một
số nhóm ngành đưa ra các các quy định riêng về việc thành lập bộ máy KTNB, chẳng hạn như:
Đối với các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng, có các quy định về KTNB của Ngân
hàng Nhà nước (Quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN về KTNB, Thông tư số 44/2011/TT-NHNN
và mới đây nhất là Thông tư số 13/2018/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 44/2011); Đối với các đơn
vị hành chính sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính, có Quyết định số 791/2012/QĐ-BTC về việc ban
hành quy chế kiểm tra, KTNB công tác quản lý tài chính, kế toán, tài sản nhà nước, đầu tư xây
dựng và đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin; Đối với các đơn vị thuộc Bảo hiểm xã hội Việt
Nam, có Quyết định số 742/2015/QĐ-BHXH về Quy chế KTNB trong hệ thống bảo hiểm xã hội
Việt Nam.
KTNB chính thức được nhắc đến nhiều trong thực tế các doanh nghiệp cũng như các diễn
đàn, hội thảo, tọa đàm về kế toán, kiểm toán kể từ khi Luật Kế toán số 88/2015/QH13 ngày
2011/2015 được ban hành thay thế Luật Kế toán số 02/2003/QH11. Thực hiện theo yêu cầu của
Quốc hội, ngày 22/01/2019 Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2019/NĐ-CP (Nghị định 05)
quy định chi tiết về KTNB. Theo đó, các đối tượng bắt buộc phải thực hiện công tác KTNB
(Điều 8, Điều 9, Điều 10) gồm:
- Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Các đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư. Các đơn vị sự
nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên có tổng quỹ tiền lương, phụ cấp và các khoản
đóng góp theo lương của số người lao động hiện có trong một năm từ 20 tỷ đồng trở lên hoặc sử
dụng từ 200 lao động trở lên;
- Các doanh nghiệp sau phải thực hiện KTNB: Công ty niêm yết; Doanh nghiệp mà nhà
nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ là công ty mẹ hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty
con; Doanh nghiệp nhà nước là công ty mẹ hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
Như vậy, các đơn vị bắt buộc phải thực hiện công tác KTNB là đa dạng với số lượng rất
nhiều, do đó nhu cầu về lực lượng lao động làm KTNB rất lớn.
Nghị định 05 có hiệu lực kể từ 01/4/2019 và quy định rõ trong thời hạn 24 tháng kể từ
ngày hiệu lực của Nghị định, các đơn vị thuộc đối tượng bắt buộc phải thực hiện công tác KTNB
phải chuẩn bị và hoàn thành các điều kiện cần thiết để thực hiện quy định của Nghị định. Do đó,
93
các đơn vị thuộc đối tượng bắt buộc trước đây chưa thực hiện công tác KTNB phải gấp rút tuyển
dụng trưởng KTNB và các KTVNB, từ đó xây dựng điều lệ, quy chế, quy trình KTNB.
Tại Nghị định 05, Chính phủ giao nhiệm vụ cho Bộ Tài chính xây dựng các văn bản pháp
luật về KTNB, xây dựng các chuẩn mực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp KTNB. Hiện tại
các văn bản đó chưa được ban hành nên chưa rõ ở Việt Nam trong tương lai sẽ có các cuộc thi
để cấp chứng chỉ KTVNB như là chứng chỉ kiểm toán viên độc lập và kiểm toán viên nhà nước
hay không.
3.2. Quy định về kiểm toán nội bộ trên thế giới
Tổ chức có uy tín và lớn nhất thế giới về KTNB là Viện Kiểm toán viên nội bộ Hoa Kỳ
IAA. IIA có trụ sở tại Bang Florida, Hoa Kỳ, là tổ chức nghề nghiệp quốc tế về Kiểm toán nội bộ
duy nhất được thế giới công nhận. IIA được thành lập vào năm 1941, hiện có hơn 185.000 hội
viên đến từ hơn 190 quốc gia và là Hội viên chính thức của IFAC.
Hình 2. IPPF của IIA năm 2017
(Nguồn: www.theiia.org)
IIA ban hành bộ Khung Thực hành Chuyên nghiệp Quốc tế về KTNB (IPPF) với mục
tiêu cung cấp một bộ khung thống nhất và duy nhất để đưa ra các hướng dẫn, quan điểm của
IIA về nghề KTNB. IPPF được IIA đưa ra lần đầu tiên năm 1999 dưới tên PPF (Professional
Practices Framework) và được chính thức đổi tên thành IPPF (International Professional
Practices Framework) từ năm 2005. Bản IPPF được IIA cập nhật nhất năm 2017. Theo IPPF,
sứ mệnh của KTNB “nhằm bảo vệ và nâng cáo giá trị của tổ chức thông qua các hoạt động bảo
đảm, tư vấn và hiểu biết sâu sắc về đơn vị dựa trên cơ sở rủi ro và khách quan”. Để thực hiện
được sứ mệnh đó, IPPF được chia thành 2 phần: Các hướng dẫn mang tính bắt buộc và Các
hướng dẫn mang tính khuyến.
Nhóm các hướng dẫn mang tính bắt buộc gồm:
- Các nguyên tắc hoạt động chính;
- Định nghĩa về KTNB: “KTNB là một chức năng tư vấn và chức năng đưa ra các đảm bảo
độc lập và khách quan, được thiết kế nhằm nâng cao giá trị cũng như nhằm hoàn thiện các hoạt
động của một đơn vị. KTNB giúp doanh nghiệp đạt được các mục tiêu của mình bằng cách áp
94
dụng phương pháp tiếp cận có nguyên tắc và mang tính hệ thống nhằm đánh giá và nâng cao
hiệu quả của các quy trình quản lý rủi ro, các quy trình kiểm soát và các quy trình quản trị”
- Hệ thống chuẩn mực KTNB;
- Bộ quy tắc đạo đức: Chính trực; Khách quan; Bảo mật; Năng lực
Nhóm các hướng dẫn mang tính khuyến nghị gồm:
- Hướng dẫn thực hiện: Hỗ trợ KTVNB thực hiện các chuẩn mực, không bao gồm các quy
trình và thủ tục chi tiết.
- Hướng dẫn bổ sung: Cung cấp chi tiết các hướng dẫn để thực hiện kiểm toán.
Các quy định trong bộ khung thực hành IPPF rất chi tiết và cụ thể, các quốc gia thành viên
đều áp dụng các quy định này để bắt buộc và hướng dẫn tổ chức và thực hiện KTNB ở các đơn
vị thực tế.
3.3. Khung chương trình đào tạo về kiểm toán nội bộ ở bậc đại học
KTNB ngày càng thể hiện vai trò quan trọng, do đó đào tạo KTNB ở bậc đại học đối với
sinh viên chuyên ngành kế toán, kiểm toán là đòi hỏi tất yếu. Bài viết tổng hợp các môn học
kiểm toán thuộc chuyên ngành này ở một số trường đại học lớn khối kinh tế: Đại học Kinh tế
Quốc dân, Học viện Ngân hàng, Học viện Tài chính, Đại học Thương mại, Đại học Kinh tế - Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Bảng 1. Các học phần kiểm toán trong chương trình đào tạo đại học ngành kế toán
STT Tên học phần Bắt buộc/
Tự chọn
Số tín
chỉ
Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên ngành kế toán
1 Kiểm toán căn bản Bắt buộc 3
2 Kiểm toán tài chính Bắt buộc 3
3 Kiểm soát quản lý Tự chọn 2
Chuyên ngành kiểm toán
1 Kiểm toán căn bản Bắt buộc 3
2 Kiểm toán tài chính 1 Bắt buộc 3
3 Kiểm toán tài chính 2 Bắt buộc 3
4 Kiểm toán hoạt động Bắt buộc 3
5 Kiểm soát quản lý Bắt buộc 3
6 Thực hành kiểm toán báo cáo tài chính Tự chọn 2
7 Kiểm toán nội bộ Tự chọn 2
95
Học viện Ngân hàng
Chuyên sâu kế toán
1 Kiểm toán căn bản Bắt buộc 3
2 Kiểm toán tài chính 1 Bắt buộc 3
Chuyên sâu kiểm toán
1 Kiểm toán căn bản Bắt buộc 3
2 Kiểm toán tài chính 1 Bắt buộc 3
3 Kiểm toán tài chính 2 Bắt buộc 3
4 Kiểm toán hoạt động Bắt buộc 3
5 Kiểm soát quản lý Bắt buộc 3
Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội
1 Kiểm toán căn bản Bắt buộc 3
2 Kiểm toán tài chính Tự chọn 3
3 Kiểm toán nội bộ Tự chọn 3
4 Thực hành Kiểm toán tài chính Tự chọn 3
Học viện Tài chính
Chuyên ngành kế toán
1 Kiểm toán căn bản Bắt buộc 2
2 Kiểm toán báo cáo tài chính Bắt buộc 2
Chuyên ngành kiểm toán
1 Kiểm toán căn bản Bắt buộc 2
2 Kiểm toán 1 - Kiểm toán các chu kỳ chủ yếu Bắt buộc 2
3 Kiểm toán 2 - Kiểm toán thông tin tài chính khác Bắt buộc 2
4 Kiểm toán 3 - Tổ chức quá trình kiểm toán báo cáo tài chính Bắt buộc 2
5 Kiểm toán 4 - Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư Bắt buộc 2
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
Các học phần kiểm toán thuộc chương trình đào tạo đại học ngành kế toán, kiểm toán như
tổng hợp ở Bảng 1 cho thấy hai môn học chủ yếu tất cả các trường đều lựa chọn là: Kiểm toán
căn bản và kiểm toán báo cáo tài chính. Nội dung môn học kiểm toán báo cáo tài chính tùy vào
mức độ chi tiết có thể chia thành 2-3 học phần kiểm toán tài chính 1, 2, 3. Học phần KTNB chỉ
có 2 trường xây dựng trong chương trình đào tạo, tuy nhiên cả 2 trường học phần này chỉ là môn
lựa chọn (Đại học Kinh tế Quốc dân môn lựa chọn 2 tín chỉ đối với sinh viên chuyên ngành kiểm
96
toán và Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội môn lựa chọn 3 tín chỉ đối với sinh viên
ngành kế toán 3 tín chỉ).
Như vậy có thể thấy, môn học KTNB chưa được chú trọng, trong khi nội dung học phần
này là thực sự cần thiết, đặc biệt trong điều kiện hiện tại của Việt Nam nhu cầu về đội ngũ nhân
lực làm KTNB đang đòi hỏi rất cao, khi Nghị định 05/2019/NĐ-CP đã có hiệu lực.
4. ĐỀ XUẤT
Kiểm toán hiện đại ngày này không chỉ dừng ở ba lĩnh vực kiểm toán chính là: Kiểm toán
báo cáo tài chính; Kiểm toán hoạt động và Kiểm toán tuân thủ. Kiểm toán công nghệ thông tin
ngày càng phát triển đặc điểm trong điều kiện cách mạng công nghiệp 4.0. Thậm chí thực hiện
ba lĩnh vực kiểm toán truyền thống kiểm toán viên cũng cần có hiểu biết và đánh giá đầy đủ về
mức độ áp dụng và ảnh hưởng của hệ thống công nghệ thông tin trong doanh nghiệp tới các
thông tin được kiểm toán.
Với những phân tích trên đây, có thể thấy vai trò của KTNB trong các doanh nghiệp ngày
càng quan trọng. Nhu cầu về đội ngũ nhân sự làm công tác KTNB ngày càng lớn. Do đó, đòi hỏi
và yêu cầu cấp bách hiện tại cho các cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt là đào tạo chuyên ngành kế
toán, kiểm toán là phải đưa môn học KTNB vào chương trình đào tạo chính thức dành cho sinh
viên hệ đào tạo đại học chính quy thuộc ngành kế toán và kiểm toán. Nội dung môn học này cần
bám sát các quy định hiện tại của Việt Nam về KTNB, đồng thời cập nhật các quy định quốc tế
của IIA, như bộ khung Thực hành Chuyên nghiệp Quốc tế về KTNB (IPPF), đặc biệt là hệ thống
chuẩn mực KTNB quốc tế.
Bên cạnh việc các cơ sở đào tạo đại học cần đưa môn học KTNB vào chương trình đào tạo,
các cơ quan ban hành quy định về KTNB, cụ thể là Bộ Tài chính cũng cần thiết nhanh chóng xây
dựng và ban hành các quy định về KTNB ở Việt Nam một cách đầy đủ và có hệ thống, đảm bảo
sau 24 tháng chuẩn bị, các đơn vị thuộc đối tượng bắt buộc phải thực hiện công tác KTNB sẽ sẵn
sàng tổ chức KTNB một cách có hiệu quả và ý nghĩa nhất. Bộ Tài chính cũng cần xem xét việc
có thực hiện việc thi và cấp chứng chỉ KTVNB ở Việt Nam hay không, để có các tiêu chuẩn cụ
thể dành cho người làm công tác KTNB và phân biệt giữa KTVNB (là người có chứng chỉ) và
trợ lý KTNB (là người chưa có chứng chỉ) để KTNB trở thành một nghề phát triển trong xã hội.
5. KẾT LUẬN
Bài viết đã đánh giá, phân tích hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan đến KTNB và
thực trạng chương trình đào tạo ngành kế toán, kiểm toán bậc đại học để thấy được sự cần thiết
phải đào tạo môn học KTNB trong điều kiện hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng phức
tạp, đặc biệt khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ngày càng phát huy tác dụng sâu và rộng trong
nền kinh tế.
Qua việc đánh giá hệ thống các văn bản quy định có liên quan đến KTNB ở Việt Nam và
trên thế giới, có thể thấy các quy định và hướng dẫn để tổ chức hoạt động KTNB ở Việt Nam
còn thiếu và chưa cụ thể. Trong khi theo tinh thần Nghị định 05/2019 về KTNB thì đối tượng
phải tổ chức hoạt động KTNB là rất rộng, do đó việc soạn thảo và ban hành kịp thời các văn bản
97
hướng dẫn tổ chức cụ thể KTNB là rất cần thiết. Qua việc so sánh, đánh giá các chương trình đào
tạo đại học ngành kế toán, kiểm toán của một số cơ sở đào tạo đại học lớn trong nước, có thể
thấy hiện tại môn học KTNB đang còn chưa được chú trọng. Do vậy, để đảm bảo có một đội ngũ
nhân sự lớn, am hiểu về hoạt động và tổ chức KTNB, sẵn sàng thực hiện các chức năng KTNB
cho các tổ chức, doanh nghiệp, việc thiết kế và đưa vào chương trình đào tạo ngành kế toán,
kiểm toán bậc đại học môn học KTNB vào hệ thống môn học bắt buộc là phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Tài chính (1997), Quyết định số 832-TC/QĐ/CĐKT ban hành quy chế KTNB
Bộ Tài chính (1998), Thông tư số 52/1998/TT-BTC ngày 16/4/1998 hướng dẫn tổ chức bộ máy
KTNB tại các doanh nghiệp nhà nước
Bộ Tài chính (1997), Thông tư số 171/1998/TT-BTC hướng dẫn thực hiện KTNB tại doanh
nghiệp nhà nước
Chính phủ (2019), Nghị định số 05/2019/NĐ-CP về KTNB
Đại học Quốc gia Hà Nội (2015), Chương trình đào tạo chuẩn trình độ đại học ngành kế toán,
www.ueb.edu.vn
Đại học Kinh tế Quốc dân (2017), Chương trình đào tạo trình độ đại học chuyên ngành kế toán,
kiểm toán áp dụng cho K59, www.neu.edu.vn
IIA (2017), International Professional Practices Framework
Học viện Ngân hàng (2018), Chương trình đào tạo trình độ đại học ngành kế toán áp dụng từ
K21, www.hvnh.edu.vn
Học viện Tài chính (2010), Chương trình đào tạo toàn khóa hệ chính quy chuyên ngành kế toán,
www.hvtc.edu.vn
Học viện Tài chính (2010), Chương trình đào tạo toàn khóa hệ chính quy chuyên ngành kiểm
toán, www.hvtc.edu.vn
Quốc hội (2015), Luật Kế toán số 88/2015/QH13.
98
Nhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường
của tân sinh viên kế toán - Đại học Công nghiệp Hà Nội
Đặng Thu Hà, Đinh Thị Thanh Hải
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: dangthuha@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.25 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 21/11/2019
Ngày nhận bài: 31/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 23/11/2019
Tóm tắt
Bài viết này nhằm mục tiêu khám phá các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường
của các tân sinh viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, đồng thời phân tích kết quả khám phá
thông qua góc nhìn của “thuyết hành vi hoạch định (TPB)”. Phương pháp sử dụng là nghiên cứu
định tính thông qua phỏng vấn mẫu gồm 55 sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành kế toán của
trường. Kết quả nghiên cứu từ dữ liệu thu thập được, có 4 nhóm nhân tố được khám phá có ảnh
hưởng đến quyết định chọn trường của tân sinh viên kế toán bao gồm: (i) Danh tiếng về nhà
trường; (ii) Năng lực và điều kiện của bản thân; (iii) Tư vấn của gia đình và bạn bè; (iiii) Cơ hội
việc làm.
Từ khóa: Thuyết TPB; quyết định chọn trường đại học.
1. GIỚI THIỆU
Chọn một trường đại học và quyết định học một chuyên ngành là một trong những cột mốc
quan trọng nhất trong cuộc sống của mỗi học sinh kể từ khi họ định hình sự nghiệp tương lai của
mình. Nếu như trước đây, cánh cửa đại học bị coi là cánh cửa hẹp với rất nhiều thí sinh thì hiện
nay, với số lượng tăng lên của các trường dân lập, trường quốc tế, các khoa hợp tác quốc tế của
các trường đại học tốp đầu…các thí sinh có nhiều lựa chọn hơn. Đó cũng là thách thức với các
trường công vẫn còn giữ quan điểm để tự học sinh tìm đến. Chính vì vậy, việc khám phá các yếu
tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn trường đại học của học sinh đóng một vai trò quan trọng của các
trường đại học.
Đã có các nghiên cứu về chủ đề này, có thể nhóm các yếu tố theo ba khía cạnh: Thứ nhất là
nhóm các nhân tố thuộc về bản thân cá nhân học sinh (năng lực, kỳ vọng về nghề nghiệp tương
lai, sở thích). Thứ hai là nhóm các nhân tố thuộc về trường đại học (chất lượng đào tạo của
trường, vị trí, quy mô, học phí của trường, điểm đầu vào…). Thứ ba là nhóm các nhân tố thuộc
về những cá nhân khác có tác động đến chủ thể (tác động của cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thầy
cô). Các nhân tố cụ thể của một số nghiên cứu được trình bày trong bảng 1.
99
Bảng 1: Tổng hợp một số nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố
đến quyết định chọn trường đại học
Tác giả, năm Các yếu tố được nghiên cứu
D.W.Chapman (1981)
Đặc điểm của gia đình, cá nhân học sinh và các yếu tố bên ngoài
ảnh hưởng như: các cá nhân, các đặc điểm cố định của trường đại
học và nỗ lực giao tiếp của trường đại học với các học sinh.
McDonnell (1995)
Danh tiếng học tập, quy mô trường, địa lý, học bổng, sự ổn định
của chuyên ngành mong muốn, không khí xã hội, quy mô sinh
viên, và quy tắc/ tiêu chí nhập học.
Cabera và LaNasa (2000) Sự mong đợi về công việc trong tương lai của học sinh.
Zuker (2006)
Môi trường học thuật, quy mô của trường đại học, địa điểm của
trường đại học, chuyên ngành cung cấp cho sinh viên, hoạt động
ngoại khóa và chi phí.
Tatarvà Oktay (2006) Điểm thi đại học, khả năng tìm việc với mức lương khá.
Yusof và cộng sự (2008) Các chương trình cần thiết và hỗ trợ tài chính (như học bổng).
Ming & Kee (2010) Đặc điểm thể chế và chiến lược truyền thông / tiếp thị.
Fernandez (2010) Đặc điểm cá nhân của học sinh, vai trò của người khác, nhận thức
của học sinh về giá trị và chi phí, cũng như các đặc điểm của tổ chức.
Trần Văn Quý, Cao Hào
Thi (2010)
(1) Sự định hướng của các thân nhân của học sinh về việc dự thi
vào một trường đại học; (2) Đặc điểm của trường đại học; (3) Sự
phù hợp của ngành học với khả năng học sinh; (4) Cơ hội học tập
trong tương lai của học sinh ở một trường đại học; (5) Tỷ lệ có
việc làm; (6) Sự nỗ lực trong giao tiếp của một trường đại học.
Amca (2011) Khả năng việc làm sau tốt nghiệp, học phí và chi phí, sinh hoạt
trong thành phố nơi trường đại học tọa lạc.
Akar (2012)
Danh tiếng học thuật và uy tín của các trường đại học; vị trí của
trường đại học; nguồn thông tin khác nhau trên trang web của
trường đại học; cha mẹ, đồng nghiệp và giáo viên.
Mubaira và Fatoki (2012)
Việc tiếp cận với phương tiện học tập như công nghệ thông tin
cộng đồng (CNTT), đa dạng văn hóa, quan hệ đối tác quốc tế,
cuộc sống xã hội thể chế , yêu cầu nhập học, học tập linh hoạt, các
chế độ và bài luận thu hút trong khuôn viên trường.
Similarly, Kurt (2013) Sự mong muốn học đại học và chuyên ngành, thành viên gia đình
học sinh, thành phố - nơi có trường đại học, điểm thi đầu vào.
Lê Quang Hùng và cộng
sự (2014)
6 nhân tố ảnh hưởng rõ ràng và mạnh mẽ nhất đến sự lựa chọn của
bản thân đó là uy tín, vị trí địa lý, truyền thông, đội ngũ giảng
viên, cơ sở vật chất và học phí.
100
Agrey và Lampadan
(2014)
i) hệ thống hỗ trợ bao gồm cả vật chất và phi vật chất; ii) môi
trường học tập liên quan đến sự hiện diện của các cơ sở học tập
hiện đại, thể chế danh tiếng, thư viện, phòng máy tính,…; iii) triển
vọng việc làm của sinh viên tốt nghiệp; iv) chương trình cho sinh
viên mạnh mẽ như chăm sóc sức khỏe, chỗ ở và các hoạt động
ngoại khóa; v) môi trường an toàn và thân thiện liên quan đến một
khuôn viên an toàn và nhân viên hỗ trợ.
Liên, Hòa, Anh (2015) Đặc điểm cá nhân của học sinh, đặc điểm của trường đại học, tư
vấn từ những người khác và giao tiếp nỗ lực từ trường đại học.
Norman Rudhumbu và
cộng sự (2017)
Chương trình học thuật được cung cấp, hình ảnh và danh tiếng của
tổ chức, quảng cáo, hội chợ nghề nghiệp, chất lượng của nhân
viên, triển vọng việc làm của sinh viên tốt nghiệp.
Abdurrahman İLGAN 1
& cộng sự (2018)
Kỳ vọng trong tương lai; chất lượng và sự phổ biến của trường đại
học; khuôn viên và cơ sở thành phố của trường đại học; tình trạng
kinh tế - xã hội.
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội là một trong số ít trường đại học miền Bắc đảm bảo
về mặt chỉ tiêu trong kỳ tuyển sinh năm học 2019-2020 vừa qua. Nhìn vào bảng tổng hợp các
nghiên cứu ở trên có thể thấy rằng với mỗi đối tượng nghiên cứu khác nhau có các nhân tố cụ thể
được nghiên cứu là khác nhau. Vì vậy chưa thể vận dụng các nghiên cứu đó để giải thích hay
khẳng định cho lý do vì sao sinh viên lựa chọn trường Đại học Công nghiệp Hà Nội? Bởi lẽ đó,
nghiên cứu này nhằm mục tiêu khám phá các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn trường
Đại học Công nghiệp Hà Nội, thông qua sự chia sẻ của các tân sinh viên kế toán. Đồng thời bài
báo phân tích kết quả khám phá thông qua góc nhìn của “thuyết hành vi hoạch định (TPB)”.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Do nhân tố mục tiêu của nghiên cứu này là quyết định lựa chọn trường đại học nên
“Thuyết hành vi hoạch định (TPB)” được lựa chọn làm nền tảng cơ sở lý thuyết để giải thích cho
kết quả nghiên cứu được khám phá.
* Thuyết hành vi hoạch định (TPB) (Ajzen, 1991)
Thuyết hành vi hoặch định (TPB) (Ajzen, 1991), được phát triển từ lý thuyết hành vi hợp
lý (TRA) (Ajzen & Fishbein, 1975), giả định rằng một hành vi có thể được dự báo hoặc giải
thích bởi các xu hướng hành vi để thực hiện hành vi đó.
Thứ nhất, các thái độ được hiểu là đánh giá tích cực hay tiêu cực về hành vi thực hiện.
Nhân tố thứ hai “chuẩn chủ quan” (hoặc chuẩn mực chủ quan) là ảnh hưởng xã hội mà đề cập
đến sức ép xã hội được cảm nhận để thực hiện hay không thực hiện hành vi đó. Ngoài thái độ và
chuẩn mực chủ quan kế thừa từ lý thuyết hành vi hợp lý, đóng góp quan trọng của TPB là khái
niệm kiểm soát hành vi cảm nhận, được định nghĩa là nhận thức của một cá nhân về sự dễ dàng
hoặc khó thực hiện hành vi cụ thể (Ajzen, 1991).
101
(Nguồn: Ajzen, 1991)
Thành phần kiểm soát hành vi cảm nhận phản ánh việc dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện
hành vi; điều này phụ thuộc vào sự sẵn có của các nguồn lực và các cơ hội để thực hiện hành vi.
Ajzen đề nghị rằng nhân tố kiểm soát hành vi tác động trực tiếp đến xu hướng thực hiện hành vi,
và nếu đương sự chính xác trong cảm nhận về mức độ kiểm soát của mình, thì kiểm soát hành vi
còn dự báo cả hành vi.
Mức độ cố gắng của cá nhân để tham gia vào hành vi và mức độ kiểm soát của cá nhân đó
đối với hành vi (kiểm soát hành vi) có ảnh hưởng đến việc người đó có tham gia vào hành vi đó
hay không. Xu hướng hành vi được tạo ra từ sự kết hợp giữa thái độ đối với hành vi, chuẩn mực
chủ quan và kiểm soát hành vi cảm nhận (Ajzen, 1991). Thái độ của một người càng thuận lợi
đối với hành vi và các chuẩn mực chủ quan, và sự kiểm soát hành vi nhận thức càng lớn, ý định
của người đó sẽ càng mạnh mẽ để thực hiện hành vi trong câu hỏi. Hơn nữa, với một mức độ
kiểm soát thực tế đối với hành vi, mọi người sẽ được thực hiện ý định của họ khi có cơ hội. Mô
hình nhấn mạnh vai trò của kiến thức liên quan đến các kỹ năng cần thiết để thực hiện hành vi,
yếu tố môi trường và kinh nghiệm trong quá khứ với hành vi (Ajzen, 1991).
3. PHƯƠNG PHÁP VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
* Phương pháp nghiên cứu
Bài báo thực hiện nghiên cứu định tính bằng phương pháp phỏng vấn sâu. Đối tượng tham
gia phỏng vấn là 55 sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành kế toán trường Đại học Công nghiệp
Hà Nội. Thời gian tiến hành nghiên cứu từ 05/09/2019 đến ngày 30/09/2019. Thời gian mỗi cuộc
phỏng vấn kéo dài từ 15-30 phút. Nội dung các cuộc phỏng vấn được người phỏng vấn ghi chép
lại cụ thể đồng thời ghi âm lại. Các bản ghi âm được các tác giả gỡ băng trong vòng 24 giờ kể từ
thời điểm phỏng vấn.
Mô tả đặc điểm mẫu (đối tượng tham gia phỏng vấn):
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%)
1. Giới tính Nam 13 23,6
Nữ 42 76,4
Tổng 55 100
102
2. Quê quán Hà Nội 18 32,7
Hà Nam 10 18,2
Các tỉnh khác 27 49,1
Tổng 55 100
3. Chỗ ở hiện tại Ký túc xá 31 56,4
Thuê trọ ngoài trường 14 25,5
Sống cùng gia đình 10 18,1
Tổng 55 100
* Kết quả nghiên cứu
(i) Bước 1: Gỡ băng
Trên cơ sở nội dung các cuộc phỏng vấn, nhóm tác giả tiến hành gỡ băng và xác định các
yếu tố chính trong các câu trả lời của sinh viên liên quan đến quyết định chọn trường ĐH Công
nghiệp Hà Nội. Chẳng hạn một số câu trả lời liên quan đến quyết định chọn trường đại học của
sinh viên trong bảng gỡ băng như sau:
“Em chọn trường vì qua tìm hiểu em được biết ở trường có thời lượng thực hành nhiều
hơn học lý thuyết (60-40)” (SV lớp ĐHKT1- K14)
“Em đã xem những đánh giá về trường trên mạng xã hội, do bố mẹ người thân em định
hướng và do có quen biết, có người thân là giảng viên của trường” (SV lớp ĐHKT3- K14)
“Trường có nhiều ngành đào tạo chất lượng và đặc biệt là các ngành kỹ thuật. Hơn nữa,
môi trường học tập rất tốt” (SV lớp ĐHKT5- K14)
“Em chọn Công nghiệp cũng có thể nói do duyên ạ ('-') (Cười ngượng nghịu). Thực ra
trước đó em chọn thương mại do chưa đủ điểm nên không thể vào. Nguyện vọng 2 của em là
công nghiệp và rất may mắn là em đủ điểm” (SV lớp ĐHKT7- K14)
“Điểm đầu vào phù hợp với khả năng học tập của bản thân em và điểm số cá nhân em ạ”
(SV lớp ĐHKT2- K14)
“Sau khi em trượt NV1 qua tìm hiểu trên mạng thì em thấy trường có nhiều review tích cực
về cơ sở vật chất cũng như chất lượng giảng dạy nên em chọn” (SV lớp ĐHKT1- K14)
(ii) Bước 2: Phân tích các nhóm nhân tố
Sau khi gỡ băng, nhóm tác giả tiến hành loại những yếu tố trùng lặp, trao đổi, thảo luận và
xắp xếp, phân nhóm các yếu tố. Kết quả phân nhóm lần cuối các nhóm nhân tố cụ thể như sau:
* Nhóm 1: Danh tiếng về nhà trường
Trường được nhiều người biết đến Trường ĐHCNHN là ngôi trường năng động,
sáng tạo, đa ngành
103
Ngành nghề của trường phong phú Rất thích trường ngay từ khi xác định thi đại học
Ngôi trường năng động, vừa sức với khả
năng của bản thân để em có thể phát triển
một cách toàn diện
Trường là một trong các nơi đào tạo tương đối
tốt trong các trường đào tạo về ngành kinh tế nói
chung
Có ngành mà mình muốn học Trường có nhiều ngành nghề đa dạng và các hoạt
động đặc sắc
Vì thấy trường có đào tạo ngành kế toán Chất lượng đào tạo tốt
Là trường ĐH đạo tạo chất lượng có tiếng Trường đào tạo tốt, giáo viên nhiệt tình
Trường có nhiều ngành đào tạo chất lượng
và đặc biệt là các ngành kỹ thuật, môi
trường học tập tốt
Cơ sở vật chất tốt, đào tạo chất lượng
Chọn trường vì thời lượng thực hành nhiều
hơn học lý thuyết (60-40). Được thực hành
nhiều sẽ tích lũy nhiều kinh nghiệm.
Điểm đầu vào không quá cao, nhiều người biết
đến
Rất hâm mộ trường, trường có nhiều thành
tích cũng như chất lượng đào tạo tốt
Trường có đội ngũ giảng viên tâm huyết, anh chị
sinh viên tình nguyện nhiệt tình, cơ sở vật chất
đầy đủ
Do trường có nhiều khoa đào tạo, chất
lượng đầu ra tốt, học phí mức bình thường
Trường có ngành mà em muốn theo đuổi, qua tìm
hiểu được biết vè chất lượng dạy học của trường
Là trường uy tín không nghiêng về kiến
thức quá nhiều như bách khoa và độ khó
“dễ thở” hơn.
Trường có lịch sử lâu đời nên chọn và do em có
duyên với trường.
Sau khi em trượt NV1 qua tìm hiểu trên
mạng thì em thấy trường có nhiều review
tích cực về cơ sở vật chất cũng như chất
lượng giảng dậy nên em chọn.
Em biết đến trường qua các cổng thông tin:
internet, facebook, quảng cáo, chương trình tư
vấn trên Tivi. Những đánh giá về trường trên
mạng xã hội rất tích cực.
Trường có nhiều hoạt động đặc sắc Trường đẹp, sạch sẽ, thoáng mát
* Nhóm 2: Năng lực và điều kiện của bản thân
Trượt nguyện vọng 1 Do phù hợp với lực học và điều kiện của gia đình
Trượt nguyện vọng mong muốn học Vừa sức với khả năng của bản thân để em có thể
phát triển một cách toàn diện
Điểm đầu vào phù hợp với bản thân Mức điểm đầu vào phù hợp với bản thân, thuận
tiện đường đi
Thấy trường có đào tạo ngành kế toán
em thích Trượt trường kinh tế quốc dân
104
Vì điểm chuẩn thấp hơn các trường kinh tế
khác (HVTC, KTQD) Phù hợp với lực học của bản thân
Điểm đầu vào phù hợp với khả năng học
tập của bản thân và điểm số cá nhân
Do điểm số đầu vào phù hợp với năng lực học
của bản thân. Dù bản thân không hoàn hảo và
giỏi nhưng môi trường ĐHCN sẽ là nơi để bản
thân cần cố gắng nỗ lực hơn
Sau khi tìm hiểu cảm thấy trường phù hợp
với bản thân và kinh tế của gia đình
Vì em trượt những nguyện vọng trên nên phải
chấp nhận vì em nghĩ ĐHCNHN thế mạnh đào
tạo là khối kỹ thuật chứ chưa phải kế toán
Do trượt trường HV ngân hàng
Em chọn Công nghiệp cũng có thể nói do duyên
ạ. Thực ra trước đó em chọn thương mại do chưa
đủ điểm nên không thể vào. Nguyện vọng 2 của
em là công nghiệp và rất may mắn là em đủ điểm.
* Nhóm 3: Tư vấn của gia đình, bạn bè
Em được bố mẹ người thân định hướng và
do gia đình em có quen biết , có người thân
là giảng viên của trường ((^_^)- cười mỉm)
Do tạch trường mong muốn và theo nguyện vọng
của gia đình
Em được sự tư vấn của các anh chị đi trước Được mọi người giới thiệu và qua tìm hiểu
Thầy giáo em định hướng và cơ sở 2 gần
nhà em
Gia đình anh chị khuyên đưa ra các ý kiến lựa
chọn
Nhiều anh chị khen chất lượng đào tạo của
trường rất tốt
Bố mẹ em làm kinh doanh nên cũng muốn em có
sự hiểu biết về kế toán, kinh tế để sau này về
giúp cho bố mẹ
Chị gái em đang học ở trường này đã cho
em lời khuyên và tư vấn
Bố mẹ em định hướng cho em 3 trường đại học
để em lựa chọn, đồng thời phân tích từng lợi thế
của mỗi trường. Qua đó em đã đưa ra được quyết
định của mình.
* Nhóm 4: Cơ hội việc làm
Em được biết rằng sinh viên của trường đến
năm thứ 3, 4 sẽ được giới thiệu việc làm.
Nhà trường liên kết với nhiều doanh nghiêp vì
vậy cơ hội việc làm cho SV sẽ nhiều hơn
Em thấy chị gái bảo ra trường là có việc
làm ngay
Những ngành nghề nhà trường đào tạo đều có
khả năng dễ xin việc trong tương lai
Trường đào tạo thiên về thực hành mà đó
là điều mà các doanh nghiệp ở Việt Nam
hiện nay đòi hỏi nhiều ở sinh viên.
Em muốn xin việc để làm ngay khi học xong
năm thứ 3 bởi vậy em muốn lựa chọn trường đào
tạo nhiều về thực hành
105
Nhà em ở gần trường bởi vậy em thấy rằng
hằng năm nhà trường đều tổ chức những
ngày hội việc làm, em đã từng đến và thấy
rằng có rất nhiều các doanh nghiệp về
tuyển dụng các sinh viên của nhà trường.
Qua tìm hiểu trên mạng em thấy tỷ lệ sinh viên
của trường sau khi tốt nghiệp có việc làm sau 1
năm đạt tỷ lệ trung bình trên 80%.
Như vậy dựa vào dữ liệu phỏng vấn từ 55 tân sinh viên kế toán, nhóm tác giả phân được
thành 4 nhóm nhân tố có ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn trường Đại học Công nghiệp Hà
Nội. Đó là các nhóm nhân tố về: danh tiếng về nhà trường; năng lực và điều kiện của bản thân;
tư vấn của gia đình, bạn bè và cơ hội việc làm. Trong đó phần lớn các lý do sinh viên đưa ra tập
trung nhiều liên quan đến do danh tiếng về nhà trường và do năng lực, điều kiện của bản thâ
4. THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Dựa vào nghiên cứu định tính bằng phương pháp phỏng vấn, nhóm tác giả xác định 4
nhóm nhân tố chính có ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của tân sinh viên kế toán- trường
đại học Công nghiệp Hà Nội. Kết quả được thể hiện ở mô hình sau:
(i) Yếu tố thuộc về thái độ:
Theo dữ liệu thu thập, có 2 nhóm nhân tố thuộc về thái độ có ảnh hưởng đến quyết định
lựa chọn trường Đại học Công nghiệp Hà Nội đó là danh tiếng về nhà trường và cơ hội việc
làm. Những đánh giá tích cực về trường trên các phương tiện thông tin, trường có đa ngành, đa
lĩnh vực và nhiều hoạt động đặc sắc, thời lượng thực hành nhiều hơn lý thuyết, chất lượng đào
tạo của nhà trường tốt, trường đẹp, sạch và thoáng mát là một trong các lý do mà các sinh viên
đưa ra quyết định chọn trường của mình. Bên cạnh đó, cơ hội về việc làm trong tương lai như: tỷ
lệ sinh viên có việc làm sau khi ra trường cao, nhà trường tổ chức các ngày hội việc làm, nhà
trường liên kết với nhiều doanh nghiệp, kỳ vọng dễ tìm việc trong tương lai của các ngành nghề
nhà trường đào tạo cũng ảnh hưởng đến ý định lựa chọn trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
(ii) Yếu tố thuộc về chuẩn chủ quan:
Chuẩn chủ quan đề cập đến sự tác động của các cá nhân/ nhóm người có tác động tích cực
hoặc tiêu cực đến sự lựa chọn hành vi của chủ thể. Với dữ liệu phỏng vấn 55 tân sinh viên kế
toán, yếu tố thuộc về chuẩn chủ quan chính là tư vấn của gia đình, bạn bè. Những lời tư vấn,
định hướng của bố mẹ, anh chị, người thân, bạn bè cũng có tác động đến sự lựa chọn trường học
DANH TIẾNG VỀ NHÀ TRƯỜNG
NĂNG LỰC VÀ ĐIỀU KIỆN BẢN
THÂN
CƠ HỘI VIỆC LÀM TƯ VẤN CỦA GIA
ĐÌNH, BẠN BÈ
QUYẾT ĐỊNH LỰA CHỌN TRƯỜNG
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
106
của sinh viên. Điều này là hợp lý bởi lẽ bố mẹ hay anh chị, những người đi học trước đã có kiến
thức về môi trường đại học, có sự hiểu biết về những đòi hỏi của các doanh nghiệp hiện nay đối
với lực lượng lao động sẽ có những lời tư vấn và lời khuyên thực tế hơn. Hơn nữa bố mẹ và
người thân là những người hiểu được phần nào năng lực của con, em mình do đó khi tư vấn sẽ
hướng vào những ngành, những trường phù hợp với con, em của họ.
(iii) Yếu tố thuộc về kiểm soát hành vi cảm nhận:
Kiểm soát hành vi cảm nhận phản ánh việc dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện hành vi; điều
này phụ thuộc vào sự sẵn có của các nguồn lực và các cơ hội để thực hiện hành vi. Với bộ dữ liệu
phỏng vấn, một nhóm nhân tố xuất hiện trong các lý do đưa ra của các tân sinh viên trong việc ảnh
hưởng đến quyết định lựa chọn trường Đại học Công nghiệp Hà Nội chính là năng lực và điều
kiện của bản thân. Các sinh viên hiểu năng lực của bản thân nên lựa chọn trường đại học phù hợp
với mức học lực của mình. Bên cạnh đó, một số em do trượt các nguyện vọng đầu, vì vậy lựa chọn
trường có điểm chuẩn phù hợp điểm thi đầu vào của các em. Ngoài ra sự thuận tiện về đường đi,
nhà ở gần trường cũng là nguyên nhân dẫn đến quyết định lựa chọn trường đại học.
5. KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ TRƯỜNG TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Một trong những nguyên nhân được nói đến nhiều nhất ảnh hưởng đến quyết định chọn
trường đại học của sinh viên đó là danh tiếng về nhà trường. Chính vì vậy một trong những vấn
đề cần quan tâm để thu hút các học sinh lựa chọn vào học đó là nhà trường cần phát triển chiến
lược truyền thông nhằm thu hút sinh viên. Điều này càng cần thiết hơn do tác động của việc
trường đã thực hiện tự chủ tài chính. Các hoạt động truyền thông trường cần được diễn ra nhiều
hơn như tăng số lượng học bổng cho tân sinh viên, tổ chức các ngày hội cho học sinh cấp 3 tham
quan tìm hiểu môi trường đại học, mở thêm các chuyên ngành hợp tác quốc tế.
Một trong những yếu tố tạo nên một chiến lược truyền thông thành công vẫn nằm ở chất
lượng giáo dục của chính nhà trường bởi học sinh và người nhà học sinh sẽ quan tâm đến những
thông tin về chất lượng đào tạo, tỉ lệ giảng viên giỏi của nhà trường, các cơ hội hợp tác giáo dục,
chất lượng sinh viên đầu ra, thống kê về số lượng sinh viên có việc làm ngay sau tốt nghiệp,
bằng cấp của nhà trường được công nhận thế nào. Bởi vậy để có thể truyền thông thành công, thì
nhà trường cũng cần chú trọng vào nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
Thời đại 4.0 đòi hỏi mỗi trường cần thúc đẩy việc tiếp thị hình ảnh của mình trên mạng xã
hội, cũng như sử dụng các công cụ marketing hiệu quả. Chẳng hạn như truyền đi những email
giới thiệu về nhà trường và các hoạt động tuyển sinh, sử dụng quảng cáo, tối ưu hóa tìm kiếm là
một trong những cách thức mà các trường đại học hiện nay có thể đẩy mạnh.
Quyết định chọn trường đại học của một học sinh còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều người
khác như phụ huynh, anh chị, bạn bè. Sẽ vô cùng hữu ích nếu để người khác nói tốt về trường
đại học. Người khác ở đây có thể là những sinh viên còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, các
sinh viên trường khác, những phụ huynh tham gia các buổi giới thiệu tuyển sinh, tư vấn. Điều
này đòi hỏi nhà trường nên đẩy mạnh hoạt động nội bộ, cũng như tích cực tương tác với những
người quan tâm.
107
Mở rộng cơ hội nghề nghiệp, tăng tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi ra trường cũng là một
yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn trường đại học của các tân sinh viên kế toán. Do đó, nhà
trường cần tăng cường bồi dưỡng nhận thức cho giảng viên tăng cường dạy học gắn với thực tiễn
trong quá trình dạy học; thường xuyên tổ chức cho giảng viên nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ
thông qua việc tập huấn, tham quan thực tế tại các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nhà trường cần tăng
các chương trình ngoại khóa, tăng thời lượng thực tập tại đơn vị, nhằm phát triển các kỹ năng cứng
về chuyên môn và kỹ năng mềm như làm việc nhóm, giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp cho sinh
viên trong quá trình đào tạo tại nhà trường. Kết hợp đào tạo giữa nhà trường và doanh nghiệp trong
quá trình thẩm định chương trình đào tạo, nội dung đào tạo, quá trình đào tạo và đánh giá kết quả
đào tạo. Điều đó sẽ giúp nhà trường đào tạo đáp ứng được các nhu cầu đầu ra của các doanh
nghiệp, từ đó mở rộng cơ hội việc làm trong tương lai cho sinh viên sau khi ra trường.
6. KẾT LUẬN
Thực hiện nghiên cứu định tính với đối tượng tham gia phỏng vấn là các tân sinh viên khoa
kế toán, nghiên cứu đã xác định có 4 nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn
trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Đó là các nhóm nhân tố: (i) Danh tiếng về nhà trường; (ii)
cơ hội việc làm; (iii) tư vấn của gia đình, bạn bè và (iiii) năng lực và điều kiện của bản thân.
Thông qua kết quả nghiên cứu bài báo hy vọng góp phần làm cơ sở để nhà trường đưa ra các giải
pháp trong việc nâng cao danh tiếng và thương hiệu nhà trường để ngày càng nhiều sĩ tử lựa
chọn trường Đại học Công nghiệp Hà Nội là “ngôi nhà để thực hiện ước mơ”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Abdurrahman İLGAN 1 & cộng sự (2018), Factors Affecting University Choice: A Study on
University Freshman Students, The Journal of Buca Faculty of Education, 46, 199-216.
Agrey, L. & Lampadan, N. (2014). Determinant factors contributing to student choice in
selecting a university. Journal of Education and Human Development, 3(2), 391-404.
Amca, H. (2011). Üniversitelerin tercih edilmesini etkileyen faktörler [Factor effecting
university preference] Retrieved from
http://www.emu.edu.tr/amca/universitelerinTercihiEdilmesiniEtkileyenFaktorler.pdf
Ajzen, I., (1991). The theory of planned behaviour. Organizational Behaviour and Human
Decision Processes. 50 (2): 179-211.
Ajen, I. and Fishbein, M., (1975). “Belief, attitude, intention and behavior. An introductiion to
theory and research” Reading. Mass: Addison-Wesley.
Akar, C. (2012). Üniversite seçimini etkileyen faktörler: İktisadi ve idari bilimler öğrencileri
üzerine bir çalışma [Factors affecting university choice: A study on students of
economics and administrative sciences]. Eskişehir Osmangazi Üniversitesi- İİBF Dergisi,
7(1), 97-120.
108
Chapman, D. W (1981), A model of student college choice, The Journal of Higher Education;52
(5), 490- 505.
Cabrera, A. F. & La Nasa, S. M. (2000), Understanding the college choice of disadvantaged
students. New Directions for Institutional Research. San Francisco: Jossey-Bass
Lê Quang Hùng (2017), Phân tích dữ liệu trong kinh doanh, NXB Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí
Minh
Fernandez, J. L. (2010). An exploratory study of factors influencing students’ college decision in
Malaysia: A conceptual framework. International Journal of Business and Social Science,
1(3), 53-58.
Marvin J. Burns (2006), Factors influencing the college choice of african-american students
admitted to the college of agriculture, food and natural resources. A Thesis presented to the
Facuulty of the Graduate School. University of Missouri-Columbia.
McDonnell, M. (1995). Things to consider when evaluating college. Retrieved from
http://www.gseis.ucla.edu/mm/cc/info/choosing/eval.html
Norman Rudhumbu, PhD; Avinash Tirumalai & Babli Kumari (2017); Factors that Influence
Undergraduate Students’ Choice of a University: A Case of Botho University in Botswana;
International Journal of Learning and Development, 7(2), ISSN 2164-4063 2017.
Lê Quang Hùng và cộng sự (2014), Sự lựa chọn nguyện vọng bổ sung của sinh viên Khoa Quản
trị kinh doanh, Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh, Đề tài nghiên cứu khoa học.
Liên, Đ. T. H., Hòa N. T. N., & Anh, N. T. L. (2015). Factors Influencing VNU-IS Students’
Choice of University. VNU Journal of Science: Social Sciences and Humanities, 31(4),
67-76.
Trần Văn Quý, Cao Hào Thi, (2009). Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của học
sinh phổ thông trung học – Tạp chí Phát triển Khoa học và công nghệ, 12(15), 87-102.
Tatar E., Oktay M. (2006). Search, choice and persistence for higher education a case study
in Turkey. Eurasia Journal of Mathematics, Science and Technology Education, 2(2), 115-
129
Yusof, M., Ahmad, S. N. B., Tajudin, M., & Ravindran, R. (2008). A study of factors
influencing the selection of a higher education institution. UNITAR e-journal, 4(2), 27-40.
Zuker, R.F. (2006). Factors to Consider in Selecting a University. Retrieved from
http://www.thehighschoolgraduate.com/editorial/DF/factors.
109
Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo đại học ngành kế toán
trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0: Nghiên cứu thực nghiệm
tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Đào Thị Nhung, Phạm Thu Huyền
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: daothinhung@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.29 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 21/11/2019
Ngày nhận bài: 31/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 23/11/2019
Tóm tắt
Nghiên cứu này xác định sự ảnh hưởng của các nhân tố đến chất lượng đào tạo đại học kế
toán trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Phương pháp phân tích nhân tố khám phá và
phân tích hồi quy đa biến được sử dụng trên 220 quan sát thực tế. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng
có năm nhân tố thật sự có ảnh hưởng và tác động tích cực đến chất lượng đào tạo đại học kế toán
trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Đại học Công nghiệp Hà Nội. Những nhân tố này bao gồm
vai trò điều phối của giảng viên, cơ sở vật chất, tính cập nhật của chương trình đào tạo, kết nối
cộng đồng và ứng dụng công nghệ thông tin.
Từ khoá: chất lượng đào tạo, đại học kế toán, cách mạng công nghiệp 4.0.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 về sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu
đột phá trong các lĩnh vực khoa học đang là chủ đề nóng và mang đến nhiều thuận lợi cũng như
thách thức cho các ngành. Với bản chất là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các
công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công
nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ tự động hóa, người máy... Cách mạng 4.0 báo hiệu một sự chuyển dịch mạnh mẽ
đối với đội ngũ lao động trên toàn cầu, lao động có trình độ cao, chuyên nghiệp sẽ di chuyển
nhiều về các nước phát triển, những lao động thiếu kỹ năng sẽ dịch chuyển về các nước kém phát
triển hơn.
Kế toán là ngành sử dụng công nghệ thông tin thay thế phần lớn công việc mang tính
nghiệp vụ của những người làm kế toán. Cuộc cách mạng này ảnh hưởng đáng kể tới tính chất
công việc và đặc biệt là nội dung và phương pháp giảng dạy về kế toán của các trường.
Để bắt kịp với sự chuyển dịch đó, các cơ sở đào tạo nói chung và đào tạo ngành kế toán
nói riêng phải nhanh chóng đổi mới mục tiêu, chương trình đào tạo, nội dung, hình thức, phương
110
pháp dạy học, phương thức đánh giá kết quả đầu ra sinh viên, bồi dưỡng giáo viên theo hướng
thực học, thực nghiệp và định hướng vào công nghệ. Cần đầu tư nhiều hơn về công nghệ giáo
dục tiên tiến, đẩy mạnh đào tạo và bồi dưỡng trực tuyến để bồi dưỡng năng lực sư phạm cho sinh
viên, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục trong hệ thống, đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc
và trên toàn cầu. Cơ bản là nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng theo xu thế phát triển. Do đó,
nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các nhân tố tác động tới chất lượng đào tạo đại học ngành kế toán
thực nghiệm tại Đại học Công nghiệp Hà Nội.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Hiện nay, trong một môi trường cạnh tranh, điều quan trọng đối với các tổ chức cung ứng
dịch vụ là phải tìm hiểu các yếu tố và cơ sở quyết định tới sự hài lòng của khách hàng nhằm gia
tăng giá trị tiền tệ thu được. Vì lý do như vậy, các tổ chức phải coi trọng các yếu tố quyết định
tới cảm nhận chất lượng dịch vụ của khách hàng.
Chất lượng dịch vụ: Chất lượng dịch vụ được định nghĩa bằng nhiều cách khác nhau tùy
thuộc vào đối tượng nghiên cứu và môi trường nghiên cứu.
Theo TCVN và ISO 9000, chất lượng dịch vụ là sự phù hợp của sản phẩm dịch vụ thỏa
mãn các yêu cầu đề ra của khách hàng, nhà cung cấp hay nhà sản xuất phải định kỳ xem xét lại
các yêu cầu về chất lượng đối với một sản phẩm. Theo quan điểm của Kotler và cộng sự (2012)
cho rằng, chất lượng dịch vụ được định nghĩa là khả năng của một dịch vụ cung ứng bao gồm:
độ bền tổng thể, độ tin cậy, độ chính xác, vận hành dễ dàng, dễ sửa chữa và các thuộc tính có giá
trị khác để thực hiện chức năng của nó.
Khái niệm về chất lượng dịch vụ có mối liên hệ với khái niệm về nhận thức, về cảm nhận
và kỳ vọng. Trong đó, Gronroos (1991) cho rằng, chất lượng dịch vụ được đánh giá bởi 3 nhân
tố chính: chất lượng kỹ thuật, chất lượng kỹ năng, chất lượng hình ảnh.
Chất lượng dịch vụ đào tạo: Trên thế giới, các nhà khoa học đã có một số nghiên cứu
đánh giá chất lượng đào tạo khối ngành kinh tế, kế toán. Prosser và Trigwell (1999); Yunwei
(1997) cho rằng thiết kế chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy là những nhân tố có ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo chuyên ngành kế toán. Theo Lê Thị Anh Thư và Nguyễn
Ngọc Minh (2016) có 5 nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo là chương trình hỗ trợ, trình
độ của giảng viên, phẩm chất của giảng viên, khả năng thực hiện cam kết và cơ sở vật chất.
Phạm Thị Liên (2016) nghiên cứu mô hình gồm 3 nhân tố là cơ sở vật chất, chương trình đào tạo
và khả năng phục vụ. Phạm Vũ Phi Hổ và Nìm Ngọc Yến (2017) cho rằng có 3 nhân tố ảnh
hưởng là chương trình đào tạo, thái độ và phương pháp giảng dạy của giảng viên; dịch vụ hỗ trợ
sinh viên. Theo Võ Văn Việt (2017), có 4 nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo là dịch vụ
hỗ trợ, chương trình đào tạo, giảng viên và hoạt động ngoại khóa. Nguyễn Thị Thanh Xuân
(2017) cho rằng người thầy trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là người điều phối giúp sinh
viên định hướng học tập và là người thiết kế, tạo ra môi trường học tập.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, dự báo sẽ tác động đến mọi lĩnh
vực trong đời sống xã hội nói chung và lĩnh vực đào tạo kế toán nói riêng. Ứng phó với những
111
tác động đến từ cuộc Cách mạng này, công tác đào tạo chuyên ngành Kế toán tại các trường đại
học ở Việt Nam trong đó có Đại học Công nghiệp Hà Nội đã được chú trọng đẩy mạnh nhằm
đào tạo các cán bộ chuyên môn kế toán chuyên sâu, cán bộ quản lý và nghiên cứu có trình độ đại
học trở lên, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cuộc CMCN 4.0 sẽ thay đổi cơ
bản phương thức thực hiện các công việc kế toán và kiểm toán hiện nay bằng việc áp dụng
chứng từ điện tử, bằng các phần mềm tổng hợp, xử lý dữ liệu, ghi sổ kế toán cũng như cho phép
thực hiện các phương thức kiểm toán trong môi trường tin học hóa. Những thành tựu của công
nghệ số của cuộc CMCN 4.0 như trí tuệ nhân tạo, vạn vật kết nối, dữ liệu lớn… sẽ mở ra cơ hội
tốt để ngành Kế toán tiếp tục phát triển, tiệm cận hệ thống kế toán, kiểm toán quốc tế.
3. GIẢ THUYẾT NGUYÊN CỨU VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Giả thuyết H1: Chương trình đào tạo có tác động tích cực đến chất lượng đào tạo kế toán
trong bối cảnh công nghiệp 4.0
Theo Jacqueline Douglas và cộng sự (2006), các khía cạnh quan trọng của dịch vụ đào tạo
liên quan đến các dịch vụ cốt lõi như bài giảng, bao gồm việc nắm bắt được kiến thức, các ghi chép
trên lớp. Yếu tố được cựu sinh viên đánh giá cao là giảng viên vững chuyên môn và tính liên thông
của chương trình đào tạo (Nguyễn Thúy Quỳnh Loan và Nguyễn Thị Thanh Thoản, 2005). Hơn
nữa, chương trình đào tạo ngành kế toán của các trường đại học cần có sự tham chiếu, so sánh với
chương trình đào tạo kế toán của các trường đại học trên thế giới và các tổ chức nghề nghiệp uy tín
trên thế giới (Phạm Thu Huyền và cộng sự, 2017). Theo Trần Thị Hằng (2017), cần đổi mới
chương trình đào tạo và phát triển đào tạo trực tuyến sẽ là hướng đào tạo chủ yếu.
Giả thuyết H2: Vai trò điều phối của giảng viên có tác động tích cực đến chất lượng đào
tạo kế toán trong bối cảnh công nghiệp 4.0
Theo Snipes và Thomson (1999), sự cảm thông và quan tâm của giảng viên đến sinh viên
là yếu tố quan trọng nhất cho đánh giá chất lượng. Tác phong và trình độ của giảng viên có tác
động thuận chiều đến sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo (Nguyễn Thị Bảo Châu và
Thái Thị Bích Châu, 2013; Lê Thị Anh Thư và Nguyễn Ngọc Minh, 2016). Giảng viên tích cực
trao đổi, đàm thoại với sinh viên về nội dung bài học có tác động tích cực đến chất lượng đào tạo
(Đặng Thị Ngọc Hà, 2017). Theo Nguyễn Thị Hồng Nga và Cao Thị Huyền Trang (2017), quá
trình dạy học cần chuyển từ truyền thụ kiến thức sang hình thành phẩm chất và phát triển năng
lực người học trong bối cảnh công nghiệp 4.0.
Giả thuyết H3: Cơ sở vật chất có tác động tích cực đến chất lượng đào tạo kế toán trong
bối cảnh công nghiệp 4.0
Groomer và Murthy (1996) cho thấy cơ sở vật chất có ảnh hưởng đến chương trình giảng
dạy. Zhu và cộng sự (2011) kết luận việc chuẩn hoá chương trình kế toán bị cản trở bởi tài liệu
và sách giáo khoa không đầy đủ.
Giả thuyết H4: Ứng dụng công nghệ thông tin có tác động tích cực đến chất lượng đào tạo
kế toán trong bối cảnh công nghiệp 4.0
Để nâng cao chất lượng đào tạo trong bối cảnh công nghiệp 4.0, phải thay đổi phương pháp
đào tạo trên cơ sở lấy người học làm trung tâm và sự ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế
112
bài giảng và truyền đạt bài giảng (Trần Thị Hằng, 2017). Theo Nguyễn Thị Hồng Nga và Cao
Thị Huyền Trang (2017), áp dụng phòng học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo, phòng thực hành ảo,
thư viện ảo… dưới sự hỗ trợ của các thiết bị thông minh sẽ giúp nâng cao chất lượng đào tạo
trong bối cảnh hiện nay.
Giả thuyết H5: Kết nối cộng đồng có tác động tích cực đến chất lượng đào tạo kế toán
trong bối cảnh công nghiệp 4.0
Theo Phạm Thu Huyền và cộng sự (2017), để thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu
của xã hội, các trường đại học cần tăng cường hơn nữa trong quan hệ liên kết với các doanh
nghiệp. Tăng cường cho sinh viên tiếp cận doanh nghiệp từ khi còn đang được đào tạo trong nhà
trường thông qua các đợt thực tập thực tế sẽ giúp nâng cao chất lượng đào tạo (Ngô Thị Hiền
Trang, 2017).
Tổng quan các công trình nghiên cứu của thế giới và Việt Nam, nhóm tác giả xây dựng mô
hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo đại học chuyên ngành kế toán
trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Nhóm tác giả xác định có 5 nhân tố ảnh hưởng đến
chất lượng đào tạo đại học kế toán trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đó là vai trò điều
phối của giảng viên, tính cập nhật của chương trình đào tạo, ứng dụng công nghệ thông tin, cơ sở
vật chất và kết nối cộng đồng.
Nguồn: Nhóm tác giả đề xuất
Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
Các biến quan sát của thang đo của mô hình nghiên cứu trên (Hình 1) được xây dựng trên
cơ sở nghiên cứu cơ sở lý thuyết và tổng quan của các công trình nghiên cứu trong và ngoài
nước, cụ thể như sau: các thang đo về các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo đại học
ngành kế toán cụ thể: nhân tố chương trình đào tạo gồm 5 biến từ biến CTDT1 đến CTDT5;
nhân tố vai trò điều phối của giảng viên bao gồm 5 biến từ VTGV1 đến VTGV5, nhân tố cơ sở
vật chất gồm 4 biến từ CSVC1 đến CSVC4; nhân tố ứng dụng công nghệ thông tin gồm 4 biến
từ CNTT1 đến CNTT4; nhân tố kết nối cộng đồng bao gồm 5 biến từ KNCD1 đến KNCD5. Để
đánh giá chung chất lượng đào tạo nghiên cứu đã sử dụng 4 thang đo từ CLDT1 đến CLDT4.
Chương trình đào tạo (CTDT)
Vai trò của giảng viên (VTGV)
Cơ sở vật chất (CSVC)
Ứng dụng CNTT (CNTT)
Kết nối cộng đồng (KNCD)
Chất lượng đào tạo đại học ngành kế toán trong bối cảnh công
nghiệp 4.0
H1+
H2+
H3+
H4+
H5+
113
Thang đo Cơ sở đo lường
Chương trình đào tạo (CTDT): 5 biến
CTĐT1: Chương trình đào tạo kế toán có mục tiêu rõ ràng
CTĐT2: Chương trình đào tạo được cập nhật thường xuyên
CTĐT3: Chương trình đào tạo được thông báo đầy đủ cho cao
học viên
CTĐT4: Thời gian học của các môn được phân phối một cách
hợp lý
CTĐT5: Nội dung kiểm tra đánh giá sát với chương trình
giảng dạy
Jacqueline Douglas và cộng
sự (2006), LeBlanc và
Nguyễn (1997), (Tessema và
Ready 2012), Sepideh
Farahmandian và các cộng sự
(2013)
Vai trò điều phối của giảng viên (VTGV): 5 biến
VTGV1: Giảng viên có trình độ cao, sâu rộng về chuyên môn
VTGV2: Giảng viên có phương pháp truyền đạt tốt và dễ hiểu
VTGV3: Giảng viên đảm bảo giờ lên lớp và kế hoạch giảng
VTGV4: Giảng viên có thái độ gần gũi và thân thiện với cao
học viên
VTGV5: Giảng viên đánh giá kết quả học tập chính xác và
công bằng
Pors (2001), Louden (2000),
Devinder và Datta (2003),
Gruber etal. 2010, Sepideh
Farahmandian và các cộng sự
(2013), Lê Thị Anh Thư và
Nguyễn Ngọc Minh (2016),
Phạm Thị Liên (2016)
Cơ sở vật chất (CSVC): 4 biến
CSVC1: Giáo trình/tài liệu học tập của mỗi môn học được cung
cấp đầy đủ, đa dạng
CSVC2: Phòng học đáp ứng được nhu cầu học tập trên lớp của
cao học viên
CSVC3: Thư viện đảm bảo không gian, chỗ ngồi đáp ứng được
nhu cầu học tập, nghiên cứu của học viên
CSVC4: Lớp học có số lượng học viên hợp lý
Groomer và Murthy (1996),
Zhu và cộng sự (2011)
Nguyễn Thị Xuân Hương,
Nguyễn Thị Phượng, Vũ Thị
Hồng Loan (2016), Lê Thị
Anh Thư, Nguyễn Thị Ngọc
Minh (2016)
Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT): 4 biến
CNTT1: Các thông tin trên website của trường đa dạng, phong
phú và cập nhật thường xuyên
CNTT2: Giảng viên thường xuyên sử dụng CNTT hỗ trợ cho
giảng dạy
CNTT3: Các ứng dụng trực tiện ích trực tuyến - truy cập
internet, website phục vụ hiệu quả công tác giảng dạy và học tập
CNTT4: Sinh viên được thực hành với các phần mềm kế toán,
phần mềm quản lý, phần mềm tin học văn phòng
Garvin (1984, 1987), Theo
Zhengwei Ma, 2012, Trần
Xuân Kiên (2006), Trần Thị
Hằng (2016), Nguyễn Thị
Hồng Nga, Cao Thị Huyền
Trang (2016)
114
Kết nối cộng đồng (KNCD): 5 biến
KNCD1: Thành lập câu lạc bộ học thuật chia sẻ kiến thức
KNCD2: Các chuyên gia nghề nghiệp tham gia chia sẻ kinh
nghiệm và định hướng nghề nghiệp
KNCD3: Liên hệ với các tình huống thực tế tại các DN
KNCD4: Có các buổi thực tập tại doanh nghiệp
KNCD5: Có các chương trình học bổng của doanh nghiệp
Webb, Coccari và cộng sự,
1997), Gamage,
Suwanabroma và cộng
sự (2008), (Hill 1995, Joseph,
Yakhou và cộng sự 2005,
Phạm Thu Huyền (2017),
Ngô Thị Hiền Trang (2017)
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp định tính và định lượng. Trong đó, nhóm tác giả kế
thừa từ các nghiên cứu tiền để để từ đó xây dựng mô hình lý thuyết và thang đo phù hợp với bối
cảnh nghiên cứu. Nghiên cứu sơ bộ được thực hiện bằng kỹ thuật thảo luận nhóm và phỏng vấn
thử. Trên cơ sở những thông tin có được, nhóm tác giả xây dựng các biến của thang đo và bảng
câu hỏi phù hợp với bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Sau khi phát hành thử và lấy ý kiến
phản hồi, bảng câu hỏi được hiệu chỉnh và sử dụng cho nghiên cứu chính thức.
Nhân tố Các thang đo
Tính cập nhật của CTĐT (CTDT) CTDT1, CTDT2, CTDT3, CTDT4, CTDT5
Vai trò điều phối của GV (VTGV) VTGV1, VTGV2, VTGV3, VTGV4,VTGV5
Cơ sở vật chất (CSVC) CSVC1, CSVC2, CSVC 3, CSVC 4,
Ứng dụng CNTT (CNTT) CNTT1, CNTT2, CNTT3, CNTT4
Kết nối cộng đồng (KNCD) KNCD1, KNCD2, KNCD3, KNCD4, KNCD5
Chất lượng đào tạo (CLDT) CLDT1, CLDT2, CLDT3, CLDT4
Nguồn: Tác giả tổng hợp, 2019
Nghiên cứu chính thức để kiểm định thang đo và mô hình nghiên cứu được tiến hành theo
phương pháp nghiên cứu định lượng. Với phương pháp định lượng, tác giả đã thu thập dữ liệu
nghiên cứu thực tế thu thập thông qua phiếu điều tra. Phiếu điều tra được xây dựng với 23 câu
hỏi theo thang đo likert 5 mức độ (1: Hoàn toàn không đồng ý; 2: Không đồng ý; 3: Bình
thường; 4: Đồng ý; 5: Hoàn toàn đồng ý) để đo lường các yếu tố về chương trình đào tạo, vai trò
giảng viên, cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin, kết nối cộng đồng và 1 câu hỏi định
danh về ý kiến của sinh viên "Cơ sở đào tạo cần làm gì để nâng cao chất lượng đào tạo đại học
kế toán trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0". Đối tượng được khảo sát là giảng viên khoa
Kế toán - Kiểm toán và sinh viên đại học năm thứ 4 chuyên ngành kế toán trường Đại học Công
nghiệp Hà Nội. Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), cỡ mẫu đủ lớn để có thể
tiến hành cho phân tích nhân tố EFA với số quan sát ít nhất phải bằng 5 lần số biến. Do đó, cỡ
mẫu tối thiểu của nghiên cứu này là 27 x 5 = 135 quan sát. Số liệu được thu thập bằng phương
pháp chọn mẫu ngẫu nhiên từ sinh viên, giảng viên chuyên ngành kế toán tại trường Đại học
Công Nghiệp Hà Nội. Sau khi chọn mẫu, 250 phiếu khảo sát được phát thông qua việc gặp gỡ
trực tiếp từ tháng 8/2019 đến tháng 9/2019. Sau khi loại đi các phiếu trả lời không đầy đủ thông
tin, kết quả có 220 quan sát hợp lệ được đưa vào phần mềm SPSS 20.0 để phân tích, đảm bảo
115
việc thực hiện phân tích EFA. Trong đó: sinh viên 195 phiếu (tỷ lệ 88,63%) và giảng viên 15
phiếu (tỷ lệ 11,37%).
5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
5.1. Đánh giá độ tin cậy của thang đo
Nhóm tác giả sử dụng hệ số Cronbach’s Alpha để kiểm định thang đo. Theo Hoàng Trọng
và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), hệ số Cronbach’s Alpha từ 0,8 đến gần 1 thì thang đo là tốt,
từ 0,7 đến gần 0,8 là sử dụng được, từ 0,6 trở lên là có thể sử dụng được trong trường hợp khái
niệm đo lường là mới hoặc mới đối với người trả lời trong bối cảnh nghiên cứu. Thang đo đạt
chất lượng tốt khi hệ số Cronbach’s Alpha của tổng thể > 0,6 (Đinh Phi Hổ, 2011). Một thang đo
có độ tin cậy tốt khi nó biến thiên từ 0,7 đến 0,8, nếu Cronbach’s Alpha ≥ 0,6 là thang đo có thể
chấp nhận được về mặt độ tin cậy (Nguyễn Đình Thọ, 2012). Kết quả kiểm tra độ tin cậy của
thang đo thể hiện trong Bảng 1.
Bảng 1. Hệ số Cronbach’s Alpha
STT Thang
đo Tên nhân tố
Hệ số tương quan
biến tổng thấp nhất
Cronbach’s
Alpha
1 CTDT Tính cập nhật của CTĐT 0,493 0,79
2 VTGV Vai trò điều phối của giảng viên 0,575 0,82
3 CSVC Cơ sở vật chất 0,581 0,818
4 CNTT Ứng dụng công nghệ thông tin 0,33 0,623
5 KNCD Kết nối cộng đồng 0,557 0,824
6 CLDT Chất lượng đào tạo 0,173 0,711
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS 20 từ số liệu khảo sát, 2019)
Độ tin cậy của các biến quan sát thuộc thang đo VTGV, CTDT, CSVC, CNTT, KNCD có
hệ số Cronbach’s Alpha > 0,6 và hệ số tương quan biến tổng > 0,3, như vậy, các thang đo này
đều đạt yêu cầu để tiếp tục phân tích ở những bước sau. Biến quan sát CLDT2 có hệ số tương
quan biến tổng thấp nhất là 0,173 < 0,3. Trong khi giá trị Cronbach’s Alpha Item Deleted của
CLDT2 là 0,827 > 0,711. Nhóm nghiên cứu quyết định loại bỏ biến quan sát CLDT2 để nhằm
tăng độ tin cậy cho thang đo. Tiến hành chạy kiểm định lần 2 cho nhân tố Chất lượng đào tạo
(CLDT) sau khi đã loại bỏ biến quan sát CLDT2, cho kết quả trong bảng 2 như sau:
Bảng 2: Tương quan biến - tổng
Trung bình thang
đo nếu loại biến
Phương sai thang
đo nếu loại biến
Tương quan
biến tổng
Alpha nếu
loại biến này
CLDT1 7.23 3.199 .647 .798
CLDT3 7.37 2.964 .710 .736
CLDT4 7.48 2.908 .699 .748
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS 20 từ số liệu khảo sát, 2019)
116
Như vậy, sau khi kiểm định Cronbach’s Alpha, có kết quả thống kê như sau:
Bảng 3: Tổng hợp các biến quan sát cho các nhân tố sau khi kiểm định
Nhân tố Biến quan sát ban đầu Biến quan sát còn lại Biến bị loại
CTDT 5 5
VTGV 5 5
CSVC 4 4
CNTT 4 4
KNCD 5 5
CLDT 4 3 CLDT2
(Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp)
5.2. Phân tích các nhân tố và hiệu chỉnh mô hình
Để kiểm tra xem mẫu điều tra có đủ lớn và có đủ điều kiện để tiến hành phân tích nhân tố
hay không, tác giả tiến hành kiểm định Kaiser - Meyer - Olkin và kiểm định Bartlett's. Điều kiện
cần để phân tích EFA là giữa các biến quan sát phải có mối quan hệ đủ lớn. Ta đặt giả thuyết H0:
giữa các biến quan sát không có mối quan hệ. Với kết quả kiểm định KMO là 0,734 lớn hơn 0,5
và Sig của kiểm định Bartlett's bé hơn 0,05 (các biến quan sát tương quan với nhau trong tổng
thể), do đó bác bỏ H0. Ta có thể kết luận được rằng dữ liệu khảo sát được đảm bảo các điều kiện
để tiến hành phân tích nhân tố khám phá EFA và có thể sử dụng các kết quả đó. Kết quả kiểm
định Bartlett và chỉ số KMO của các biến trong thang đo thể hiện trong Bảng 4.
Bảng 4. KMO and Bartlett’s Test
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. .734
Bartlett's Test of Sphericity
Approx. Chi-Square 1881.010
Df 253
Sig. .000
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS 20 từ số liệu khảo sát, 2019)
Kết quả EFA thang đo các biến độc lập (các yếu tố tác động) bằng phương pháp trích
Principal components và phép quay varimax cho thấy: 26 biến quan sát đo lường 06 nhân tố tác
động được trích vào 06 nhân tố tại Eigenvalue = 1,247 (> 1) và phương sai trích được là
68,303%. Điều đó có nghĩa là khả năng sử dụng 6 nhân tố này để giải thích cho 26 biến quan sát
là 68,303% (> 50%). Điều này cho thấy phân tích nhân tố là phù hợp. Bảng 5, trình bày ma trận
các nhân tố đã xoay.
Bảng 5. Tổng hợp bảng ma trận xoay các nhân tố
Items Component Items Component
1 2 3 4 5 1 2 3 4 5
CTDT2 .766 CSVC4 .817
117
CTDT4
CTDT5
CTDT1
CTDT3
.742
.726
.725
.688
CSVC3
CSVC1
CSVC2
.760
.751
.750
VTGV3
VTGV2
VTGV4
VTGV1
VTGV5
.510
.791
.762
.746
.744
.452
CNTT3
CNTT1
CNTT2
CNTT4
.755
.701
.689
.569
KNCD2
KNCD1
KNCD3
KNCD4
KNCD5
.802
.780
.772
.754
.714
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS 20 từ số liệu khảo sát, 2019)
Theo Hair và các cộng sự (1998) thì với cỡ mẫu khoảng 100 -350 thì thước đo hệ số tải
nhân tố Factor Loading phải lớn hơn hoặc băng 0,55 mới phù hợp. Nghiên cứu này sử dụng kích
thước mẫu điều tra là 220 quan sát. Từ ma trận xoay, nhóm nghiên cứu thấy biến quan sát
VTGV5 tải lên cả 2 nhân tố (1) và (2) đều có giá trị nhỏ hơn 0,55 nên loại VTGV5 tiếp tục kiểm
định EFA lần 2. Sau khi tiến hành phân tích nhân tố thì mô hình lý thuyết ban đầu không có sự
thay đổi. Mô hình có tổng cộng là 6 thành phần được sắp xếp lại theo thứ tự là: (1) Chương trình
đào tạo, (2) Vai trò giảng viên, (3) Kết nối cộng đồng, (4) Cơ sở vật chất, (5) Ứng dụng công
nghệ thông tin và (6) Chất lượng đào tạo đại học kế toán. Các nhân tố cũng đạt hệ số tin cậy
Cronbach’s Alpha cần thiết và sẽ được sử dụng trong phần kiểm định tiếp theo. Kết quả thể
hiện trên bảng 6 và bảng 7.
Bảng 6: KMO and Bartlett's Test
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. .734
Bartlett's Test of Sphericity
Approx. Chi-Square 1881.010
Df 253
Sig. .000
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS 20)
Bảng 7. Rotated Component Matrixa
Component Biến Tên nhân tố
1 2 3 4 5
CTDT2 .802 CTDT1
118
CTDT1 .779 CTDT2 Chương
CTDT5 .773 CTDT3 trình
CTDT4 .755 CTDT4 đào
CTDT3 .713 CTDT5 tạo
VTGV4 .820 VTGV1 Vai trò
VTGV2 .763 VTGV2 giảng
VTGV3 .759 VTGV3 viên
VTGV1 .740 VTGV4
KNCD2 .806 KNCD1 Kết
KNCD1 .765 KNCD2 nối
KNCD4 .715 KNCD3 cộng
KNCD5 .706 KNCD4 đồng
KNCD3 .665 KNCD5
CSVC3 .829 CSVC1 Cơ
CSVC2 .790 CSVC2 sở
CSVC1 .723 CSVC3 vật
CSVC4 .706 CSVC4 chất
CNTT3 .754 CNTT1 Ứng
CNTT1 .702 CNTT2 dụng
CNTT2 .688 CNTT3 CNTT
CNTT4 .581 CNTT4
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS 20 từ số liệu khảo sát, 2019)
5.3. Mô hình hồi qui tuyến tính
Phân tích hồi quy nhằm xây dựng mô hình, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng
đào tạo đại học kế toán trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Kết quả phân tích hồi quy đa
biến, hệ số tóm tắt của mô hình thể hiện trong Bảng 8.
Bảng 8. Kết quả đánh giá độ phù hợp của mô hình
Model R R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate Durbin-Watson
1 .865a .712 .685 .38777 1.619
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS 20 từ số liệu khảo sát, 2019)
Hệ số R2 hiệu chỉnh = 0,685, có ý nghĩa là 68,5% sự thay đổi của biến phụ thuộc chất
lượng đào tạo (CL) được giải thích bởi các biến độc lập CTDT, CSVC, VTGV, CNTT, KNCD.
Còn lại 31,5% là do các yếu tố tác động khác không được nghiên cứu trong mô hình. Ngoài ra, kiểm
định từ bảng phân tích phương sai ANOVA, giá trị F= 96,713 giá trị Sig. = 0.000 rất nhỏ (<
0,05), từ kết quả này cho thấy tồn tại ít nhất một biến độc lập giải thích có ý nghĩa thống kê đối
với biến phụ thuộc.
119
Bảng 9. ANOVAa
Model Sum of Squares Df Mean Square F Sig.
Regression 57.808 5 9.562 96.713 .000b
Residual 13.049 214 .169
Total 60.857 219
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS 20 từ số liệu khảo sát, 2019)
Kết quả phân tích các hệ số hồi qui của mô hình thể hiện trong Bảng 10.
Bảng 10. Coefficientsa
Model Unstandardized
Coefficients
Standardized
Coefficients
T Sig. Collinearity
Statistics
B Std. Error Beta Tolerance VIF
(Constat) .976 .308 5.710 .000
VTGV .359 .034 .385 7.674 .000 .630 1.387
CSVC .343 .023 .376 4.116 .003 .561 1.283
KNCD .269 .020 .210 3.228 .001 .593 1.288
CTDT .180 .042 .251 6.086 .000 .758 1.320
CNTT .082 .027 .173 4.997 .000 .844 1.185
a. Dependent Variable: CLDT
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS 20 từ số liệu khảo sát, 2019)
Kết quả cho thấy, tất cả các biến trong mô hình (VTGV, KNCD, CNTT, CTDT, CSVC)
đều có Sig. < 0,05 nên các biến này đều tương quan có ý nghĩa với chất lượng đào tạo với độ tin
cậy 95%. Hệ số VIF càng nhỏ, hiện tượng đa cộng tuyến sẽ giảm. Hệ số VIF được coi là tốt nhất
nếu nhỏ hơn 3 (Nguyễn Đình Thọ, 2012). Theo Bảng 10, các biến độc lập đều có hệ số VIF < 3,
nên không có hiện tượng đa cộng tuyến. Các biến VTGV, KNCD, CSVC, CTDT, CNTT đều có hệ
số ước lượng > 0 nên chúng đều tác động cùng chiều với chất lượng đào tạo. Từ kết quả phân tích,
phương trình hồi qui chưa chuẩn hóa ước lượng các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo đại
học kế toán trong bối cảnh công nghiệp 4.0:
CLDT = 0,967 + 0,359*VTGV + 0,343 CSVC
+ 0,269*KNCD + 0,18*CTDT + 0,082*CNTT +
Mô hình hồi quy chuẩn hóa:
CLDT = 0,385*VTGV + 0,376*CSVC + 0,251*CTDT + 0,21*KNCD + 0,173CNTT
Giá trị Beta chuẩn hóa cho thấy tầm quan trọng của biến độc lập đối với biến phụ thuộc.
Bảng 10 cho biết mức độ ảnh hưởng giữa 5 biến độc lập và biến phụ thuộc lần lượt là. Mức độ ảnh
hưởng của các biến độc lập đến biến phụ thuộc lần lượt là: VTGV, CSVC, CTDT, KNCD, CNTT.
120
5.4. Khuyến nghị từ kết quả nghiên cứu
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân tố: vai trò điều phối của giảng viên, cơ sở vật
chất, chương trình đào tạo, kết nối cộng đồng và ứng dụng công nghệ thông tin đều có tác động
cùng chiều với chất lượng đào tạo đại học chuyên ngành kế toán trong bối cảnh công nghiệp 4.0
theo thứ tự ảnh hưởng giảm dần. Trong đó, vai trò điều phối của giảng viên (beta = 0,385) có
mức ảnh hưởng mạnh nhất đến chất lượng đào tạo, nghiên cứu này đồng nhất với ý kiến của các
tác giả Pors (2001), Louden (2000), Devinder và Datta (2003), Gruber etal. (2010), Sepideh
Farahmandian và các cộng sự (2013), Nguyễn Thành Long (2005 khi cho rằng giảng viên ảnh
hưởng tới chất lượng đào tạo đại học. Tiếp đến là ảnh hưởng của cơ sở vật chất (beta= 0,376)
cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây của Sepideh Farahmandian và các cộng sự (2013),
Aldridge và Rowley (1998), Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự (2012), Nguyễn Thị Xuân Hương,
Nguyễn Thị Phượng, Vũ Thị Hồng Loan (2016). Chương trình đào tạo (beta = 0,251) cũng ảnh
hưởng thuận chiều đến chất lượng đào tạo đại học ngành kế toán, điều này tương đồng với các
nghiên cứu trước đây của Jacqueline Douglas và cộng sự (2006), LeBlanc và Nguyễn (1997),
(Tessema và Ready 2012), Sepideh Farahmandian và các cộng sự (2013. Nghiên cứu cũng đồng
nhất với quan điểm của Webb, Coccari và cộng sự, 1997), Gamage, Suwanabroma và cộng
sự (2008), (Hill 1995, Joseph, Yakhou và cộng sự 2005, Phạm Thu Huyền (2017), Ngô Thị Hiền
Trang (2017) khi cho rằng kết nối cộng đồng (beta = 0,21) cũng có tác động đến chất lượng đào
tạo ngành kế toán. Cuối cùng là sự ảnh hưởng của nhân tố ứng dụng công nghệ thông tin (beta =
0,173) phù hợp với các nghiên cứu của Garvin (1984, 1987), Zhengwei Ma (2012), Trần Xuân
Kiên (2006), Trần Thị Hằng (2016), Nguyễn Thị Hồng Nga, Cao Thị Huyền Trang (2016). Từ
nghiên cứu này, nhóm tác giả nhận thấy cần thiết phải thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo đại học ngành kế toán theo các vấn đề như sau:
Vai trò điều phối của giảng viên: Trong bối cảnh công nghiệp 4.0, giảng viên không chỉ
là người dạy mà phải là cầu nối giữa sinh viên với kiến thức. Cụ thể, phải tăng cường áp dụng
phương pháp làm việc theo nhóm và thảo luận tại lớp thông qua những chủ đề, bài tập tình
huống theo hướng tiếp cận các công bố trong nước và quốc tế để sinh viên cập nhật kiến thức,
nâng cao tính hiện đại trong nội dung môn học. Giảng viên phải tập trung vào thảo luận, hướng
dẫn sinh viên phát hiện vấn đề, giám sát việc thảo luận của sinh viên theo các mục tiêu học thuật.
Ngoài ra, giảng viên phải luôn luôn kích thích tư tưởng khởi nghiệp của sinh viên kế toán, gợi
hướng khởi nghiệp cho sinh viên, phối hợp với các cơ quan, ban ngành để tổ chức các buổi định
hướng khởi nghiệp cho sinh viên.
Cơ sở vật chất: Cơ sở vật chất không chỉ là cơ ngơi trường lớp khang trang mà quan trọng
là bộ phận cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học. Thư viện và thiết bị là cơ sở vật chất chuyên
môn của trường ĐH, quan trọng là chất lượng đầu tư sách, thiết bị, hoá chất, máy móc phục vụ
cho việc dạy và học. Nếu thư viện và thiết bị nghèo nàn thì đừng nói đến đổi mới phương pháp
dạy học mới. Đây là khâu yếu của các trường mới thành lập, thiếu giảng viên có thể mời được
nhưng vật chất phục vụ cho việc dạy học không phải ngay một thời gian ngắn đã làm được. Vì
vậy, các trường Đại học cần phải có sự liên thông thư viện thiết bị với thư viện tỉnh, thư viện các
sở ban ngành, thư viện các cá nhân trong và trường để giới thiệu những quyển sách các nơi đó
mà thư viện trường không có. Mỗi giảng viên phụ trách môn học ít nhất là một thư viện nhỏ về
121
môn mình dạy, nhà trường phải tận dụng tối đa nguồn lực này để giúp cho thư viện trường và SV
khai thác nguồn tài liệu.
Tính cập nhật của chương trình đào tạo: Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
chương trình đào tạo của trường đại học phải đáp ứng kịp thời việc cập nhật kiến thức mới cho
sinh viên chuyên ngành kế toán. Cụ thể, phải xây dựng mục tiêu đào tạo và chuẩn đầu ra theo
hướng tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế như AUN, CDIO... để đáp ứng được nhu cầu nhân lực chất
lượng cao ngày càng tăng của nền kinh tế. Tăng cường hợp tác với các tổ chức nghề nghiệp
trong nước và quốc tế (ACCA, CPA Australia, CIMA...) để đổi mới giáo trình đào tạo, từng
bước đưa vào chương trình đào tạo những nội dung có tính ứng dụng chuyên nghiệp. Từ đó, sinh
viên sẽ có được những kiến thức hiện đại, thực tiễn, ứng dụng; vừa có năng lực nghiên cứu, kỹ
năng nghề nghiệp chuyên sâu.
Kết nối cộng đồng: Việc liên kết chặt chẽ giữa nhà trường và các công ty, doanh nghiệp
cũng như cộng đồng xã hội sẽ giúp mang lại nhiều cơ hội phát triển nghề nghiệp cho sinh viên
ngành kế toán. Hơn nữa, còn giúp nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường thông qua những
góp ý, chỉnh sửa... cho nội dung, phương pháp giảng dạy và chuẩn đầu ra của nhà trường. Để
thực hiện được điều này thì các trường đại học cần phối hợp với các hiệp hội nghề nghiệp như
Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam, Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam để tạo nên mối
quan hệ rộng rãi và sâu sắc với các công ty, doanh nghiệp.
Ứng dụng công nghệ thông tin: Trong bối cảnh công nghiệp 4.0, việc ứng dụng công
nghệ thông tin vào giảng dạy sẽ giúp nâng cao chất lượng đào tạo chuyên ngành kế toán. Cụ thể,
phải tăng cường thời lượng thực hành của các học phần Hệ thống thông tin kế toán và Kế toán ảo
để giúp sinh viên thích nghi dần với việc sử dụng công nghệ thông tin trong kế toán. Hơn thế
nữa, nếu đủ điều kiện, nhà trường nên cho sinh viên tiếp cận với điện toán đám mây, trí thông
minh nhân tạo và công nghệ Blockchain...
6. KẾT LUẬN
Kết quả của nghiên cứu này là hoàn chỉnh các thang đo, kiểm định mô hình và xác định
được các nhân tố cũng như mức độ ảnh hưởng của chúng đến chất lượng đào tạo đại học kế toán
trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Đại học Công nghiệp Hà Nội. Qua đó, xác định được bốn
nhân tố ảnh hưởng tích cực và quan hệ mật thiết đến chất lượng đào tạo là vai trò điều phối của
giảng viên, ứng dụng công nghệ thông tin, cải thiện môi trường học tập, tính cập nhật của
chương trình đào tạo và tăng cường kết nối cộng đồng. Tuy nhiên các nhân tố trong mô hình chỉ
giải thích được 68,5% chất lượng đào tạo đại học kế toán trong bối cảnh công nghiệp 4.0 tại Đại
học Công nghiệp Hà Nội. Như vậy, vẫn còn các nhân tố khác không được nghiên cứu tác động
đến 31,5% mà các nghiên cứu tiếp theo có thể phát triển. Phạm vi của nghiên cứu chỉ là trường
Đại học Công nghiệp Hà Nội với 220 quan sát. Các nghiên cứu tiếp theo có thể tăng kích thước
mẫu hoặc mở rộng phạm vi nghiên cứu cho các trường đại học của cả nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ali K. and Oscar W. D., 2004. Business Student Satisfaction, Intentions and Retention in Higher
Education: An Empirical Investigation. Marketing Educator Quarterly. 3(1): 1-25.
122
Đinh Phi Hổ, 2011. Phương pháp nghiên cứu định lượng & những nghiên cứu thực tiễn trong kinh tế
phát triển - nông nghiệp. Nhà xuất bản Phương Đông. Thành phố Hồ Chí Minh, 430 trang.
Groomer, S., and Murthy, U., 1996. An empirical analysis of the accounting information systems
Course. Journal of Information Systems. 10(2): 103 -127.
Hair & ctg, 1998. Multivariate Data Analysis, Prentice - Hall Internatonal.
Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008. Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS. Nhà
xuất bản Hồng Đức. Thành phố Hồ Chí Minh, 320 trang.
Jacqueline Douglas, Alex Douglas, Barry Barnes, 2006. Measuring student satisfaction at a UK
university. Quality Assurance in Education. 14(3): 251-267.
Lê Thị Anh Thư và Nguyễn Ngọc Minh, 2016. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài
lòng của sinh viên đối với chất lượng dịch vụ đào tạo tại trường Đại học Tây Đô. Tạp chí
Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 43: 26-33.
Nguyễn Thị Bảo Châu và Thái Thị Bích Châu, 2013. Đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên đối với
chất lượng đào tạo của khoa kinh tế và quản trị kinhdoanh trường Đại học Cần Thơ giai đoạn
năm 2012 – 2013. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 28: 117-123.
Nguyễn Thị Hồng Nga và Cao Thị Huyền Trang, 2017. Nhận thức của sinh viên về nhân lực kế
toán, kiểm toán trong cách mạng công nghiệp 4.0: Dữ liệu từ trường Đại học Công
nghiệp Hà Nội. Kỷ yếu hội thảo khoa học Kế toán - kiểm toán và kinh tế Việt Nam với
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Trường Đại học Quy Nhơn. Tập 2: 132 -141.
Nguyễn Thị Thùy Dung, 2015. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ đào
tạo chuyên ngành kế toán tại các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Luận văn thạc sĩ. Trường Đại học Đà Nẵng. Thành phố Đà Nẵng.
Nguyễn Thúy Quỳnh Loan và Nguyễn Thị Thanh Thoản, 2005. Đánh giá chất lượng đào tạo từ
góc độ cựu sinh viên của trường Đại học Bách Khoa TPHCM. Kỷ yếu hội thảo Đảm bảo
chất lượng trong đổi mới giáo dục đại học. Đảm bảo chất lượng trong đổi mới giáo dục đại
học. Trường Đại học Bách Khoa TPHCM. Thành phố Hồ Chí Minh, 305-319.
Nguyễn Đình Thọ, 2012. Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh. Nhà xuất bản
Lao động - Xã hội. Hà Nội, 593 trang.
Proser, M., and Trigwell, K., 1999. Understanding learning and teaching: The experience in
higher education. McGraw – Hill Education.
Phạm Thu Huyền, Đào Thị Nhung và Nguyễn Thị Xuân Hồng, 2017. Đổi mới chương trình đào
tạo và phương pháp giảng dạy kế toán tại các trường đại học nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực kế toán trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Kỷ yếu hội thảo khoa
học Kế toán - kiểm toán và kinh tế Việt Nam với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Trường Đại học Quy Nhơn. Tập 2: 26 -37.
Trần Thị Hằng (2017). Phát triển nguồn nhân lực kế toán Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0. Kỷ yếu hội thảo khoa học Kế toán - kiểm toán và kinh tế Việt Nam với cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0. Trường Đại học Quy Nhơn. Tập 2: 121-126.
123
Nghiên cứu đề xuất các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn
chuyên ngành kế toán của người học
Đặng Thu Hà1, Đặng Thảo Hiền2
1Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: Dangthuha@haui.edu.vn
2Đại học Công nghiệp Việt Trì
Email: Dangthaohien1991@gmail.com
Mã bài: HTQG.28 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 21/11/2019
Ngày nhận bài: 31/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 23/11/2019
Tóm tắt
Bài viết này nhằm mục tiêu khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn chuyên ngành
kế toán của các tân sinh viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội và Đại học Công nghiệp Việt
Trì. Phương pháp sử dụng là nghiên cứu định tính thông qua phỏng vấn mẫu gồm 51 sinh viên
năm thứ nhất chuyên ngành kế toán. Kết quả nghiên cứu từ dữ liệu thu thập được, có 3 yếu tố
được khám phá có ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của tân sinh viên kế toán bao gồm: (i)
Năng lực, sở trường và đam mê của bản thân (động lực bên trong); (ii) sự tư vấn và định hướng
của gia đình, thầy cô (động lực bên ngoài); (iii) cơ hội nghề nghiệp mang lại trong tương lai
(động lực bên ngoài).
Từ khóa: Lý thuyết tự quyết định; sự lựa chọn ngành kế toán, lựa chọn ngành học.
1. GIỚI THIỆU
Mỗi năm, nhiều sĩ tử quyết định dự thi đại học phải đối mặt với vấn đề chọn chuyên ngành
giáo dục đại học. Porter và Umbach (2006) đã nhấn mạnh rằng việc lựa chọn một chuyên ngành
đại học có thể là một trong những quyết định quan trọng nhất mà sinh viên có thể đưa ra, việc
lựa chọn chính thức một chuyên ngành đại học có thể giữ chân lâu dài cá nhân đó trong môi
trường đào tạo (Porter và Umbach, 2006). Bên cạnh đó, các lựa chọn giáo dục như chọn chuyên
ngành có thể được coi là các quyết định quan trọng liên quan đến nghề nghiệp. Bởi vì ý tưởng
của thanh thiếu niên về sự nghiệp tương lai có thể phát triển trong khi đưa ra các quyết định giáo
dục như vậy, những lựa chọn này có thể được coi là phương tiện để thực hiện các lựa chọn nghề
nghiệp (Lent và cộng sự, 1994) và là một phần không thể thiếu trong phát triển nghề nghiệp
(Super, 1980). Quyết định lựa chọn này thường bao hàm một quá trình ra quyết định phức tạp,
trong đó các sĩ tử phải đối mặt với việc quyết định các lựa chọn khác nhau, phản ánh sở thích và
kỹ năng, so sánh các lựa chọn phù hợp và chọn một lựa chọn trong số đó. Do đó, việc nghiên
124
cứu các yếu tố chi phối đến việc lựa chọn một chuyên ngành trong giáo dục đại học là rất cần
thiết. Thực tế các nghiên cứu về vấn đề lựa chọn chuyên ngành giáo dục đại học cho các kết quả
khá đa dạng, các nghiên cứu tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, các nhân tố tác động lựa chọn
khác nhau. Ngoài ra chủ yếu các tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để nghiên
cứu hoặc kiểm định các mô hình định lượng mà trong đó sự lựa chọn chuyên ngành trong giáo
dục đại học là một trong số các biến độc lập/ hoặc biến phụ thuộc được nghiên cứu. Cụ thể các
nghiên cứu về vấn đề lựa chọn chuyên ngành được trình bày trong bảng tổng hợp sau:
Tác giả, năm Các biến độc lập
trong nghiên cứu Kết quả nghiên cứu
Super (1980)
Một giai đoạn trong
chu trình phát triển
nghề nghiệp
Sự lựa chọn chuyên ngành giáo dục có thể được xem
là một giai đoạn nhỏ (nghĩa là quá trình ra quyết
định) trong chu kỳ phát triển nghề nghiệp tối đa.
Cebula và
Lopes (1982)
Yếu tố tiền, yếu tố
không phải là tiền
Sự lựa chọn chuyên ngành của sinh viên phụ thuộc
vào một loạt các yếu tố tiền và không phải là tiền.
Kết quả thực nghiệm chỉ ra rằng chênh lệch thu nhập
giữa các lĩnh vực và sự khác biệt về tốc độ thay đổi
thu nhập giữa các lĩnh vực là yếu tố quan trọng nhất
trong quyết định của sinh viên.
Dawson-
Threat và
Huba (1996)
Giới tính
Đàn ông có nhiều khả năng chọn các chuyên ngành
không phù hợp và phụ nữ có nhiều khả năng chọn
các chuyên ngành do nữ giới thống trị.
Leslie và
Oaxaca (1998)
Giới tính; chủng tộc;
tính chất ngành
Chứng minh sự đại diện của phụ nữ và dân tộc thiểu
số trong một số ngành (bao gồm khoa học, công
nghệ và kỹ thuật) có ảnh hưởng đến sự lựa chọn
chuyên ngành giáo dục đại học.
Leppel và cộng
sự (2001)
Nền tảng giáo dục;
nghề nghiệp gia đình;
tình trạng kinh tế xã
hội
Các nền tảng giáo dục và nghề nghiệp gia đình,
ngoài tình trạng kinh tế xã hội cũng được các nhà
nghiên cứu tìm thấy ảnh hưởng đến sự lựa chọn của
ngành học chính.
Montmarquette
và cộng sự
(2002)
Giới tính, chủng tộc,
thu nhập dự kiến
Các tác giả đã chứng minh rằng sự lựa chọn chuyên
ngành đại học phụ thuộc vào thu nhập dự kiến
nhưng sự khác biệt về tác động của thu nhập dự kiến
lại thay đổi theo giới tính và chủng tộc.
Porter và
Umbach
(2006)
Quan điểm chính trị;
sự khác biệt về chủng
tộc; thang đo tính
cách Holland; sự
chuẩn bị trong học
Nghiên cứu phát hiện ra rằng quan điểm chính trị, sự
khác biệt về chủng tộc và thang đo tính cách
Holland là những yếu tố dự báo mạnh mẽ cho sự lựa
chọn chuyên ngành chính và cũng lưu ý rằng sự
chuẩn bị trong học tập, ảnh hưởng của gia đình và
125
tập; ảnh hưởng của
gia đình; năng lực
bản thân.
năng lực bản thân không có trọng lượng trong các
lựa chọn chính khi các đo lường về tính cách được
quan tâm đến.
Phan Hoài Vũ
và cộng sự
(2016)
Cơ hội nghề nghiệp,
sự ổn định và thăng
tiến, mối quan hệ
quen biết, giới tính.
Dựa vào mô hình TPB và TRA, nghiên cứu cho thấy
các yếu tố cơ hội nghề nghiệp, sự ổn định và thăng
tiến; mối quan hệ quen biết có ảnh hưởng đáng kể
đến sự lựa chọn ngành học của sinh viên. Nghiên
cứu cũng cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa nam và
nữ về nhận thức về nghề kế toán.
Abedalqader
Rabahah
(2016)
Lợi ích cá nhân, tính
cách, triển vọng công
việc, danh tiếng của
trường đại học,
truyền thông; thành
viên gia đình và đồng
nghiệp.
Những phát hiện của nghiên cứu cho thấy lợi ích cá
nhân, tính cách, triển vọng công việc, danh tiếng của
trường đại học và truyền thông không có ảnh hưởng
đáng kể đến sự lựa chọn chuyên ngành của sinh viên
chuyên ngành. Mặt khác, phân tích dữ liệu cho thấy
các thành viên gia đình và đồng nghiệp, liên quan
đáng kể đến sự lựa chọn chuyên ngành của sinh viên
Nguyễn Thị
Bích Vân và
cộng sự (2017)
Đặc điểm trường học;
đặc điểm người học;
đặc điểm nghề nghiệp
và xã hội.
Dựa trên cơ sở lý thuyết “mô hình hành vi người tiêu
dùng”, nghiên cứu xác định các nhân tố có ảnh hưởng
đến lựa chọn ngành học đó là: đặc điểm trường học;
đặc điểm người học; đặc điểm nghề nghiệp và xã hội
Paola Bordon
và Chao Fu
(2018)
Chế độ chính sách
đối nghịch (Sys.S)
Phát triển một mô hình cân bằng sắp xếp theo chế độ
tuyển sinh đặc thù của trường đại học, cho phép trong
môi trường có sự không chắc chắn và hiệu ứng ngang
hàng. Các tác giả đã mô hình hóa chế độ chính sách
đối nghịch (Sys.S) như một trò chơi Stackelberg trong
đó một nhà hoạch định xã hội chọn các chính sách
tuyển sinh cụ thể của trường đại học và sinh viên đưa
ra quyết định tuyển sinh, chọn danh mục khóa học
trong giai đoạn thử nghiệm, tìm hiểu về chuyên
ngành của họ và sau đó chọn chuyên ngành của họ.
Richard W.
Patterson và
cộng sự (2019)
Sự chỉ định sinh viên
vào một khóa học
trong một học kỳ.
Nghiên cứu chỉ ra rằng khi sinh viên được chỉ định
vào một khóa học trong cùng một học kỳ khi họ
chọn một chuyên ngành, họ có nhiều khả năng chọn
một chuyên ngành tương ứng với khóa học đó hơn
100%. Mặc dù chi phí chuyển đổi thấp, khoảng một
nửa hiệu ứng vẫn tồn tại cho đến khi tốt nghiệp. Kết
quả chứng minh rằng thời gian khi sinh viên được
chỉ định các khóa học có ảnh hưởng lớn và liên tục
đến sự lựa chọn ngành chính ở trường đại học.
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
126
Nhìn vào bảng tổng hợp các nghiên cứu ở trên có thể thấy rằng các nghiên cứu về sự lựa
chọn chuyên ngành giáo dục đại học là khá đa dạng và chưa có sự nhất quán. Đặc biệt chưa có
câu trả lời chung cho từng đối tượng cụ thể trong việc xác định các yếu tố chi phối đến việc lựa
chọn chuyên ngành của họ. Sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện, nghiên cứu này được thực
hiện với mục tiêu khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn chuyên ngành kế toán
của tân sinh viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội và Đại học Công nghiệp Việt Trì, dưới
góc độ chia sẻ của các sinh viên kế toán.
2. LÝ THUYẾT TỰ QUYẾT ĐỊNH
Trong bài báo này, nhóm tác giả phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn chuyên
ngành kế toán của tân sinh viên thông qua lăng kính của lý thuyết tự quyết định (Deci và Ryan,
1985; 2000). Lý thuyết tự quyết xác định các nguồn nội tại và bên ngoài tác động đến động lực
lựa chọn hành vi (Deci và Ryan, 1985, 2000). Lý thuyết tự quyết định phân biệt giữa hai loại
động lực khác nhau. Động lực nội tại (xuất phát từ thái độ, suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân thực
hiện hành vi) đề cập đến hành động được thực hiện bởi vì nó vốn dĩ thú vị hoặc thú vị trong khi
động lực bên ngoài đề cập đến hoạt động được thực hiện bởi vì nó dẫn đến một kết quả có thể
phân tách (tách rời). Trong khi động lực nội tại thúc đẩy người ta hành động vì sự hài lòng, thích
thú hoặc thách thức cá nhân, thì động lực bên ngoài thúc đẩy hành động bởi vì nó được thúc đẩy
và đánh giá bên ngoài bởi những người khác mà họ có sự kết nối như gia đình, đồng nghiệp hoặc
các mối quan hệ xã hội (Ryan & Deci, 2000).
Theo lý thuyết tự quyết định, động lực bên ngoài có thể thay đổi tùy theo mức độ mà các
động lực này được điều chỉnh bên trong hoặc bên ngoài (Deci & Ryan, 1985). Các động lực bên
ngoài thường bao gồm các hình phạt và có liên quan đến việc tuân thủ trong khi các động lực
bên trong có liên quan đến việc tự chứng thực các mục tiêu cá nhân và do đó được quy định độc
lập hơn (Deci & Ryan, 1985). Lý thuyết tự quyết định thúc đẩy bốn loại động lực khác nhau, từ
bên ngoài đến nhận thức bên trong của họ: (i) quy định bên ngoài; (ii) đáp ứng nhu cầu bên ngoài
hoặc được sử dụng để có được phần thưởng bên ngoài; (iii) quy định hướng nội, thông qua đó
mọi người thực hiện các hành động do áp lực tránh cảm giác tội lỗi hoặc lo lắng; (iiii) nhận thức
của cá nhân trong việc xác định tầm quan trọng cá nhân của một hành vi (Deci & Ryan, 1985).
Theo Ryan và Deci (2000), động lực bên trong và bên ngoài thường dẫn đến kết quả khác
nhau. Trong bối cảnh giáo dục, động lực nội tại thường mang lại kết quả học tập và sự sáng tạo
có chất lượng cao và thường được đánh giá cao. Còn động lực bên ngoài là một yếu tố phức tạp
hơn, được biểu hiện dưới nhiều loại khác nhau, được xem là các hình thức thúc đẩy hành vi ít
hơn, liên quan đến sự kiên trì, sự quan tâm và sự tham gia của học sinh ít hơn (Ryan và Deci,
2000). Tuy nhiên, các tác giả cũng thúc đẩy ý tưởng rằng động lực bên ngoài có thể trở thành
một chiến lược thiết yếu để giảng dạy thành công vì nhiều nhiệm vụ mà các giáo viên/ giảng viên
mong đợi học sinh thực hiện không phải là vì sự thú vị. Nói cách khác, sinh viên có thể thực hiện
các hành động có động lực bên ngoài với sự phẫn nộ và phản kháng, hoặc nếu họ chấp nhận tính
thực dụng của một nhiệm vụ, họ sẽ phải thực hiện một hành động với thái độ sẵn sàng phản ánh
sự chấp nhận bên trong của họ (Ryan & Deci, 2000).
127
3. PHƯƠNG PHÁP VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Bài báo thực hiện nghiên cứu định tính bằng phương pháp phỏng vấn sâu. Đối tượng tham
gia phỏng vấn là 51 tân sinh viên chuyên ngành kế toán trường Đại học Công nghiệp Hà Nội và
trường Đại học Công nghiệp Việt Trì. Thời gian tiến hành nghiên cứu từ 15/09/2019 đến ngày
15/10/2019. Thời gian mỗi cuộc phỏng vấn kéo dài từ 15-30 phút. Nội dung các cuộc phỏng vấn
được người phỏng vấn ghi chép lại cụ thể đồng thời ghi âm lại. Các bản ghi âm được các tác giả
gỡ băng trong vòng 24 giờ kể từ thời điểm phỏng vấn.
Mô tả đặc điểm mẫu (đối tượng tham gia phỏng vấn):
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%)
1.Giới tính Nam 14 27,5
Nữ 37 72,5
Tổng 51 100
2.Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội 33 64,7
ĐH Công nghiệp Việt Trì 18 35,3
Tổng 51 100
3.Quê quán Hà Nội 16 31,4
Phú Thọ 10 19,6
Tỉnh khác 25 49
Tổng 51 100
Kết quả nghiên cứu
(i) Bước 1: Gỡ băng
Trên cơ sở nội dung các cuộc phỏng vấn, nhóm tác giả tiến hành gỡ băng và xác định các
yếu tố chính trong các câu trả lời của sinh viên liên quan đến lý do lựa chọn ngành kế toán.
Chẳng hạn một số câu trả lời liên quan đến lý do chọn ngành kế toán của sinh viên trong bảng gỡ
băng như sau:
“Em thấy bản thân phù hợp và có các phẩm chất đáp ứng tiêu chuẩn nghề nghiệp và do
gia đình hướng nghiệp” (ĐHKT2. K14- ĐH Công nghiệp Hà Nội).
“Em có đam mê với những con số và yêu thích kinh doanh” (KT1. Đ19- ĐH Công nghiệp
Việt Trì).
“Theo em thấy thì kế toán là một nghề rất phổ biến hiện nay và em cũng để bố mẹ quyết
định” (ĐHKT1. K14- ĐH Công nghiệp Hà Nội).
“Em muốn kiếm thật nhiều tiền để giúp đỡ bố mẹ và các em. Em thấy nhiều người thành
công và giàu có trong nghề kế toán; hầu hết các công ty đều cần kế toán” (KT1. Đ19- ĐH Công
nghiệp Việt Trì).
128
“Bố mẹ chọn cho em 3 ngành là tài chính ngân hàng, kế toán và marketing. Nhưng do
nhầm lẫn nào đó em xếp nhầm ngành kế toán lên nguyện vọng đầu” (KT1. Đ19- Đại học Công
nghiệp Việt Trì).
“Bản thân em muốn được rèn trong nghề đòi hỏi phải thường xuyên chịu sự áp lực và học
cách quản lý tài chính cho doanh nghiệp, bởi vậy em lựa chọn nghề kế toán” (ĐHKT7. K14- Đại
học Công nghiệp Hà Nội).
“Em làm trắc nghiệm tính cách trên mạng và kết quả là em phù hợp với những nghề đòi
hỏi sự cẩn thận, chịu áp lực cao như nghề kế toán, tư vấn. Em đăng ký kế toán là nguyện vọng
đầu tiên” (ĐHKT1. K14- ĐH Công nghiệp Hà Nội).
(ii) Bước 2: Phân tích các nhóm nhân tố
Sau khi gỡ băng, nhóm tác giả tiến hành loại những yếu tố trùng lặp, trao đổi, thảo luận và
xắp xếp, phân nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn chuyên ngành kế toán theo góc nhìn
của lý thuyết tự quyết định. Với bộ dữ liệu thu thập được từ 51 sinh viên, kết quả phân nhóm lần
cuối các nhóm nhân tố cụ thể như sau:
* Nhóm thứ nhất: Năng lực, sở trường và đam mê của bản thân
Em thích học khối A và em nghĩ học kế toán sẽ
thường xuyên được tính toán với các con số Em rất thích tính toán và nhất là tính tiền.
Đam mê với những con số và yêu thích kinh
doanh
Em thích học Tiếng Anh và khả năng
ngoại ngữ của em khá tốt, nên em nghĩ phù
hợp để học các chuyên ngành về kinh tế
trong đó có kế toán.
Bản thân em có tính cẩn thận, nên em nghĩ em sẽ
phù hợp với công việc kế toán
Phù hợp với tính cách, sở thích và mong
muốn của bản thân em
Ước mơ của em là mong muốn làm công việc có
sự logic như nghề kế toán
Em yêu thích môn toán và muốn hiểu về
tài chính, tiền tệ
Em làm trắc nghiệm tính cách trên mạng và kết
quả là em phù hợp với những nghề đòi hỏi sự cẩn
thận, chịu áp lực cao như nghề kế toán, tư vấn.
Thấy bản thân phù hợp và có các phẩm
chất đáp ứng tiêu chuẩn của nghề và do gia
đình hướng nghiệp
Em chọn kế toán ngay từ khi làm hồ sơ vì em tin
năng lực của em đủ điểm đỗ vào ngành này.
Em rất muốn được học cách quản lý tài
chính của cá nhân và cho doanh nghiệp.
Điểm đầu vào ngành kế toán phù hợp với năng
lực của bản thân
Em có ước mơ được trở thành nhà tư vấn
tài chính, nên học kế toán để em dần thực
hiện ước mơ
Em thích học toán và muốn làm chủ kinh tế của
mình trong tương lai
Em có khả năng tính toán, nhất là tính
nhẩm rất nhanh vì vậy em thích làm việc
với các con số. Theo em tìm hiểu thì kế
toán là nghề làm việc thường xuyên với
các con số vì vậy em chọn.
129
Làm kế toán là nghề yêu thích của bản thân em
ngay khi còn học cấp 3, do được thấy mẹ em làm
công việc đó hàng ngày ở công ty của nhà.
Em thích kinh doanh vì vậy qua tìm hiểu em
biết phần lớn các giám đốc hiện nay không
hiểu rõ về kế toán nên em muốn học về kế
toán để có kiến thức sau này khởi nghiệp.
Lý do thứ nhất là do em đam mê với những con
số.
Nhược điểm của em là tính cẩu thả. Vì vậy
em chọn ngành kế toán với hy vọng khi
vào học sẽ ngày càng khắc phục được
nhược điểm của em
Em muốn kiếm thật nhiều tiền để giúp đỡ bố mẹ
và các em.
* Nhóm thứ hai: Sự tư vấn và định hướng của gia đình, thầy cô
Mẹ em làm kế toán nên mẹ cũng giải thích về
nghề và hướng em theo nghề này vì mẹ em bảo
con gái làm kế toán thì hợp.
Em được tham dự buổi tư vấn hướng
nghiệp cho học sinh phổ thông ở trường
cấp 3, được trắc nghiệm tính cách thì phù
hợp với công việc đòi hỏi sự trung thực,
cẩn thận như kế toán.
Gia đình em đã có anh em làm nghề kế toán và
định hướng cho em
Em chọn 2 ngành là quản trị khách sạn và
kế toán theo tư vấn của mẹ. Điểm thi của
em không đỗ ngành quản trị khách sạn nên
em học ngành kế toán.
Bố tư vấn cho em rằng bất kỳ tổ chức nào cũng
cần kế toán nên em theo bố định hướng.
Gia đình muốn em học kế toán để về làm
việc cho công ty của bố mẹ em.
Bố mẹ em hướng cho em công việc kế toán vì
vậy tư vấn em chọn ngành này Em theo bố mẹ định hướng ngay từ lớp 12
Em không yêu thích cũng như không xác định
khi chọn ngành nghề nào, mà em đăng ký kế
toán bởi buổi họp lớp cuối năm 12 cô giáo chủ
nhiệm em có nói đến ngành kế toán là mức điểm
đầu vào không quá cao.
Chị em làm kế toán tại nhà vì vậy em được
nghe, được biết nhiều nên cảm thấy rất
hứng thú và muốn học để làm được cùng
chị
Bố mẹ em bảo em học tốt ngoại ngữ nên học
thêm ngành kế toán sau này sẽ dễ kiếm việc
lương cao.
Anh em đang là kế toán trưởng của một
công ty nước ngoài và lương rất cao. Bởi
vậy em nghe anh em hướng nghề cho em.
Thầy giáo chủ nhiệm cấp 3 của em đã đưa ra
danh sách các ngành học có thể lựa chọn, mô tả
qua công việc cụ thể và điểm chuẩn tương ứng.
Qua sự tận tình của thầy em đã lựa chọn được
một chuyên ngành phù hợp với em.
Anh em nói các doanh nghiệp xây dựng
như chỗ anh đang làm rất cần các kế toán
là nam giới bởi kế toán nam sẽ nhanh nhạy
và không bị gián đoạn trong thời gian làm
việc.
130
Mẹ em bảo con gái học kế toán phù hợp hơn các
ngành khối kỹ thuật bởi độ phức tạp không quá
cao, thời gian học không quá dài và không đòi
hỏi mình phải thông minh mới học được.
* Nhóm thứ ba: Cơ hội nghề nghiệp mang lại trong tương lai
Lý do thứ hai quan trọng hơn là khả năng có
việc làm sau này cao nếu em chọn ngành kế
toán
Em thấy nhu cầu tìm kế toán giỏi là một nhu
cầu đặt lên hàng đầu với các doanh nghiệp
hiện nay
Tỷ lệ sinh viên không có việc làm hiện nay khá
cao tuy nhiên kế toán là nghề có thể dễ xin việc
trong tương lai hơn do đâu cũng cần kế toán.
Qua tìm hiểu các thông tin em được biết tỷ
lệ sinh viên ngành kế toán của trường sau
khi ra trường có việc làm rất cao
Theo sự tìm hiểu em được biết học chuyên
ngành kế toán ra trường có thể làm nhiều vị trí,
vai trò công việc khác nhau như tư vấn, quản lý
tài chính, kế toán, kiểm toán,…
Em thấy nhiều người thành công và giàu có
trong nghề kế toán; hầu hết các công ty đều
cần kế toán
Em thấy chị em làm kế toán thu nhập rất ổn
định và công việc luôn bận rộn.
Số lượng các bạn nam học kế toán ít hơn
nhiều so với nữ giới nên cơ hội việc làm sau
này sẽ rộng mở hơn với các bạn nam học kế
toán như em.
Theo em tìm hiểu thì vai trò của bộ phận kế
toán trong doanh nghiệp là vô cùng quan trọng
bởi vậy thu nhập của công việc này là không
thấp.
Khi tìm hiểu trên mạng về những công việc
có thu nhập cao tại Việt Nam thì kế toán là
một trong những nghề như vậy. Em chọn
vào học chuyên ngành này để sau này có thể
kiếm được nhiều tiền (cười rất tươi).
Kế toán là nghề mà có thể dễ dàng xuất khẩu
lao động trong tương lai ạ.
Như vậy dựa vào dữ liệu phỏng vấn từ 51 tân sinh viên chuyên ngành kế toán trường ĐH
Công nghiệp Hà Nội và ĐH Công nghiệp Việt Trì, nhóm tác giả phân được thành 3 nhân tố có
ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn chuyên ngành kế toán của sinh viên. Đó là các nhóm nhân tố
về: (i) Năng lực, sở trường và đam mê của bản thân; (ii) Sự tư vấn và định hướng của gia đình,
thầy cô; (iii) Cơ hội nghề nghiệp mang lại trong tương lai. Như vậy có một nhân tố thuộc động
lực bên trong/ động lực nội tại (năng lực, sở trường và đam mê của bản thân) và hai nhân tố
thuộc động lực bên ngoài (Sự tư vấn và định hướng của gia đình, thầy cô; cơ hội nghề nghiệp
mang lại trong tương lai).
4. THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Dựa vào nghiên cứu định tính bằng phương pháp phỏng vấn sâu, với bộ dữ liệu nghiên
cứu, nhóm tác giả xác định 3 nhân tố chính có ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn chuyên ngành
kế toán của sinh viên. Kết quả được thể hiện ở mô hình sau:
131
(i) Yếu tố thuộc về động lực bên trong (động lực nội tại)
Với bộ dữ liệu phỏng vấn 51 tân sinh viên kế toán trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, với
quyết định lựa chọn chuyên ngành kế toán, động lực nội tại được khám phá đó là việc chọn chuyên
ngành kế toán vì sinh viên thấy phù hợp với năng lực, sở trường và đam mê của bản thân. Kết quả
nghiên cứu này tương đồng với nghiên cứu của Porter và Umbach, 2006; Nguyễn Thị Bích Vân và
cộng sự, 2017. Các sinh viên lựa chọn chuyên ngành kế toán khi được phỏng vấn có khá nhiều
sinh viên trả lời lý do lựa chọn là do bản thân có khả năng tính toán nhanh, tính cách năng động,
yêu thích kinh doanh, thích được tìm hiểu về cách quản lý tài chính. Thông qua quá trình phỏng
vấn, nhóm tác giả nhận thấy rằng đã có khá nhiều sinh viên tìm hiểu tính cách của mình trước khi
lựa chọn nghề. Cách thức các sĩ tử tìm hiểu tính cách chủ yếu là thực hiện trắc nghiệm tính cách
trên mạng. Căn cứ vào kết quả trắc nghiệm, sẽ lựa chọn đăng ký chuyên ngành phù hợp. Điều này
sẽ góp phần giúp các sĩ tử lựa chọn nghề đúng tính cách và sở trường của mình hơn.
(ii) Yếu tố thuộc về động lực bên ngoài
Trong khi động lực nội tại thúc đẩy các sĩ tử lựa chọn ngành kế toán vì sự hài lòng, đam
mê hoặc thách thức cá nhân, thì động lực bên ngoài thúc đẩy hành động bởi vì nó được thúc đẩy
và đánh giá bên ngoài bởi những người khác mà họ có sự kết nối. Theo kết quả phỏng vấn sâu có
hai yếu tố thuộc về động lực bên ngoài có ảnh hưởng đến sự lựa chọn ngành kế toán của tân sinh
viên đó là sự tư vấn và định hướng của gia đình, thầy cô và cơ hội nghề nghiệp mang lại trong
tương lai.
Phân tích dữ liệu cho thấy sự lựa chọn ngành kế toán của sinh viên chịu ảnh hưởng nhiều
bởi sự tư vấn và định hướng của gia đình, thầy cô. Phần lớn các sĩ tử tìm hiểu về nghề cũng như
hỏi ý kiến tư vấn của gia đình như bố mẹ, anh chị hay được cung cấp những kiến thức về lựa
chọn ngành nghề từ các thầy cô giáo. Những phát hiện này phù hợp với một số nghiên cứu trước
đây, chẳng hạn như Leppel và cộng sự (2001); Abedalqader Rababah (2016); Phan Hoài Vũ và
cộng sự (2016) đều đã chứng minh rằng thành viên gia đình, đồng nghiệp có thể có ảnh hưởng
trong sự lựa chọn của sinh viên.
Một nhân tố cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến sự lựa chọn học chuyên ngành kế toán của
các tân sinh viên đó là cơ hội mà nghề nghiệp mang lại trong tương lai. Tỷ lệ cử nhân kế toán ra
trường có việc làm cao; thu nhập tốt; có thể làm được nhiều vị trí công việc khác nhau là một
trong những lý do để các sĩ tử lựa chọn ngành học này. Kết quả này có sự phù hợp với các
nghiên cứu trước đây như các nghiên cứu của Cebula và Lopes (1982); Montmarquette (2002);
Phan Hoài Vũ và cộng sự (2016); Nguyễn Thị Bích Vân và cộng sự (2017).
CƠ HỘI NGHỀ NGHIỆP
MANG LẠI TRONG TƯƠNG
LAI
SỰ TƯ VẤN VÀ ĐỊNH HƯỚNG
CỦA GIA ĐÌNH, THẦY CÔ
QUYẾT ĐỊNH LỰA CHỌN CHUYÊN
NGÀNH KẾ TOÁN
NĂNG LỰC, SỞ TRƯỜNG VÀ
ĐAM MÊ CỦA BẢN THÂN
132
5. KHUYẾN NGHỊ
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chuyên ngành kế
toán của các tân sinh viên ngoài việc xuất phát từ động lực bên trong (năng lực, sở trường và
đam mê của bản thân) thì có hai yếu tố là động lực bên ngoài có thể tác động đến đó là sự tư vấn
và định hướng của gia đình, thầy cô và cơ hội nghề nghiệp mang lại trong tương lai. Từ kết quả
đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị sau:
Một là: Khuyến nghị về phối kết hợp với các trường THPT để tư vấn hướng nghiệp cho
học sinh trước mỗi kỳ thi tuyển sinh. Các trường đại học nên phối hợp với các trường THPT đưa
vào nội dung tư vấn hướng nghiệp cho học sinh những kiến thức nền và cách thức đánh giá giúp
học sinh hiểu rõ năng lực; những phương pháp trắc nghiệm tính cách để phát hiện năng khiếu và
sở trường của họ, từ đó giúp họ lựa chọn nghề phù hợp.
Hai là: Các trường đại học nên tổ chức các buổi tọa đàm tại các trường THPT giới thiệu về
nhà trường và ngành nghề đào tạo cho các thầy cô giáo và học sinh tại các trường PTTH. Sự lựa
chọn ngành học của sinh viên còn chịu ảnh hưởng bởi sự tác động của gia đình, thầy cô. Điều đó
cho thấy các trường đại học có đào tạo chuyên ngành kế toán nói chung và hai trường là Đại học
Công nghiệp Hà Nội và Đại học Công nghiệp Việt Trì nói riêng nên thúc đẩy giới thiệu các
chương trình kế toán và công việc kế toán thông qua các buổi nói chuyện, hội thảo về nghề kế toán
để phổ biến thông tin liên quan về vai trò, chức năng và hiểu rõ hơn về nghề kế toán, không chỉ
cho sinh viên mà còn cho phụ huynh sinh viên, các nhà tư vấn, đội ngũ giảng viên và công chúng.
Ba là: Nhận thức về sự ổn định công việc; thu nhập và tính khả dụng của công việc sau
khi tốt nghiệp và thăng tiến công việc cũng là lý do các sinh viên chọn ngành kế toán. Kết quả
cho thấy sinh viên chọn kế toán còn bởi vì giá trị bên ngoài của nghề nghiệp kế toán không chỉ là
bởi giá trị của ngành học. Do đó, khi giới thiệu hay tư vấn cho sinh viên, nhà trường hay các tổ
chức đào tạo cần phải cho họ thấy cơ hội mà nghề nghiệp kế toán có thể mang lại cho người học
giúp sinh viên yêu thích nghề nghiệp của mình ngay khi còn trên ghế nhà trường. Các trường -
cơ sở đào tạo nói chung và 02 trường ĐHCN Hà Nội và ĐHCN Việt Trì cung cấp các cơ sở
thông tin tin cậy về triển vọng của ngành nghề thông qua các phương tiện truyền thông (như kết
quả khảo sát đối tượng sử dụng lao động của nhà trường thực hiện hàng năm, mức lương trung
bình người học nhận được sau tốt nghiệp theo ngành nghề đào tạo, báo cáo tình hình việc làm 6
tháng, theo năm của Vietnamwork, của diễn đàn kinh tế thế giới)
6. KẾT LUẬN
Thực hiện nghiên cứu định tính với đối tượng tham gia phỏng vấn là các tân sinh viên khoa
kế toán trường Đại học Công nghiệp Hà Nội và Đại học Công nghiệp Việt Trì, nghiên cứu đã
xác định có ba yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngành kế toán. Các yếu tố đó là:
(i) Năng lực, sở trường và đam mê của bản thân (động lực bên trong); (ii) sự tư vấn và định
hướng của gia đình, thầy cô (động lực bên ngoài); (iii) cơ hội nghề nghiệp mang lại trong tương
lai (động lực bên ngoài). Thông qua kết quả nghiên cứu bài báo hy vọng góp phần làm cơ sở để
các nhà trường đưa ra các giải pháp thu hút nhiều sĩ tử lựa chọn ngành kế toán để thực hiện ước
mơ trong tương lai.
133
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Abedalqader Rabahah. (2016). Factors Influencing the Students’ Choice of Accounting as a
Major: The Case of X University in United Arab Emirates. International Business
Research, 9 (10), 25-32.
Cebula, R. J., & Lopes, J. (1982). Determinants of student choice of undergraduate major field.
American Educational Research Journal, 19, 303–312.
Dawson-Threat, J., & Huba, M. E. (1996). Choice of major and clarity of purpose among college
seniors as a function of gender, type of major, and sex-role identification. Journal of
College Student Development, 37, 297–308.
Deci, E. L., & Ryan, R. M. (1985). Intrinsic motivation and self-determination in human
behavior. New York, NY: Plenum.
Krista M. Soria & Michael Stebleton. (2013). Major Decisions: Motivations for Selecting a
Major, Satisfaction, and Belonging. NACADA Journal, 33(2), 29-43.
Leppel, K., Williams, M. L., & Waldauer, C. (2001). The impact of parental occupation and
socioeconomic status on choice of college major. Journal of Family and Economic Issues,
22(4), 373–394.
Leslie, L. L., & Oaxaca, R. L. (1998). Women and minorities in higher education. In J. C. Smart
(Ed.), Higher education handbook on theory and research, 13, 304– 352.
Mazzarol, T., & Soutar, G. (2002). ‘Push-Pull’ Factors Influencing International Students’
Destination Choice. The International Journal of Educational Management, 16(2), 82-90.
Montmarquette, C., Cannings, K., & Mahseredjian, S. (2002). How do young people choose
college majors? Economics of Education Review, 21, 543–556.
Nguyễn Thị Bích Vân, Nguyễn Thị Thu Vân, Lưu Chí Danh. (2017). Những nhân tố ảnh hưởng
đến việc lựa chọn ngành học kế toán ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, 240 (II),
72-82.
Phan Hoài Vũ, Nguyễn Thị Kim Tuyến, Cao Thi Thanh Hiền. (2016). Factors influence
students’ choice of accounting as a major. International Days of Statistics and Economics,
Prague, September 8-10, 1471- 1481.
Paola Bordon† and Chao Fu. (2018). College-Major Choice to College-Then-Major Choice. The
Review of Economic Studies, 82 (4), 1247–1288.
Porter, S. R., & Umbach, P. D. (2006). College major choice: An analysis of person-environment
fit. Research in Higher Education, 47, 429–449.
Ryan R. M. & Deci, E. L. (2000). The ‘‘what’’ and ‘‘why’’ of goal pursuits: Human needs and
the self-determination of behavior. Psychological Inquiry, 11, 227–268.
Richard W. Patterson, Nolan G. Pope, Aaron Feudo. (2019). Timing Is Everything: Evidence
from College Major Decisions. IZA DP No. 12069.
Super, D. E. (1980). A life-span, life-space approach to career development. Journal of
Vocational Behavior, 16, 282–298.
134
Ảnh hưởng của nhân tố Hành vi chủ động và Nhận thức vị thế
cá nhân đến Sự hài lòng của sinh viên và Hoà nhập xã hội:
Nghiên cứu tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Nguyễn Thị Hồng Duyên, Nguyễn Phương Anh
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: nguyenphuonganh@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.34 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 10/11/2019
Ngày nhận bài: 01/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2019
Tóm tắt
Sự chủ động rất quan trọng đối với sự thành công của mỗi cá nhân, đặc biệt là đối với sinh
viên đại học được coi là những người trưởng thành và giáo dục đại học nhấn mạnh đến sự tự giác
và chủ động trong học tập cũng như cuộc sống. Hành vi chủ động của sinh viên được thể hiện
trên nhiều khía cạnh: tự học, chủ động trong tìm kiếm tài liệu, chủ động nghiên cứu, xử lý kiến
thức với các học phần, chủ động tham gia các hoạt động xã hội, mở rộng quan hệ cá nhân. Bài
báo này nghiên cứu các khía cạnh của hành vi xã hội hoá chủ động của sinh viên. Bài viết cũng
đánh giá tác động trung gian của nhận thức về vị thế cá nhân đến mối quan hệ giữa hành vi xã
hội hoá chủ động và kết quả xã hội hoá (bao gồm hành vi xã hội và mức độ hài lòng). Nghiên
cứu sử dụng mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM-Structure equation modeling) trên mẫu khảo sát
gồm 400 sinh viên khoa Kế toán - Kiểm toán, trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Kết quả cho
thấy hành vi xã hội hoá chủ động có tác động tích cực đến mức độ hài lòng và hội nhập xã hội
của sinh viên thông qua nhận thức về vị thế cá nhân.
Từ khóa: Hành vi xã hội hoá chủ động, nhận thức vị thế cá nhân, sự hài lòng, hội nhập xã
hội, sinh viên.
1. GIỚI THIỆU
Nghiên cứu hành vi trong tổ chức là một trong những nội dung nhận được nhiều sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu và nhà quản lý. Xã hội hoá tổ chức đề cập đến quá trình nhân viên mới,
hay những người mới, học thái độ và hành vi của tổ chức, và có được kiến thức để chuyển đổi từ
người ngoài tổ chức thành người trong cuộc (Ashforth, Sluss, & Saks, 2007). Các nghiên cứu trước
đã chứng minh rằng quá trình hoà nhập xã hội hoá thành công ảnh hưởng đến sự gia tăng cam kết,
sự hài lòng trong công việc và ý định ở lại với tổ chức (Bauer, Bodner, Erdogan, Truxillo, &
Tucker, 2007). Nghiên cứu về hành vi xã hội hoá tổ chức tập trung vào hai góc độ: từ phía tổ chức,
là cách các tổ chức ảnh hưởng và điều chỉnh hành vi của cá nhân (quá trình hội nhập xã hội thụ
động) và từ phía người mới, là nỗ lực chủ động xã hội hoá để xác định vai trò của họ trong tổ chức
135
(quá trình hội nhập xã hội chủ động) (Ashford & Black, 1996; Cable, Gino, & Staats, 2013). So
với hội nhập thụ động, việc những người mới chủ động hội nhập xã hội không chỉ làm giảm chi
phí đào tạo của tổ chức mà còn mở rộng mạng lưới xã hội của những người mới, thúc đẩy động lực
làm việc và phát triển nghề nghiệp của họ (Fang, Duffy, & Shaw, 2011).
Những người mới thường gặp nhiều vấn đề trong giai đoạn mới tham gia tổ chức như:
không nắm rõ quy định, khó hoà nhập với tập thể hay thiếu thông tin về chính sách, quy trình
vận hành của tổ chức (John, 1986; Miller & Jablin, 1991). Để khắc phục những vấn đề đó, những
người mới có thể tham gia vào chủ động xã hội hoá như: tìm kiếm thông tin về chính sách, quy
định của tổ chức, tìm kiếm phản hồi từ cấp trên, xây dựng mối quan hệ với đồng nghiệp, nhà
quản lý (Ashford & Black, 1996; Wanberg & Kammeyer-Mueller, 2000). Hành vi xã hội hoá
chủ động đem lại lợi ích cho bản thân những người mới và tổ chức như: sự hài lòng trong công
việc, cam kết với tổ chức và hiệu quả công việc (Ashforth et al., 2007; Kim, Cable, & Kim,
2005; Saks, Gruman, & Cooper-Thomas, 2011).
Khi những người mới tham gia tích cực vào hành vi xã hội hoá chủ động, họ có nhiều khả
năng cảm thấy như người trong cuộc (Masterson & Stamper, 2003). Trong một tập thể, việc mỗi
cá nhân có được không gian cá nhân và tư cách thành viên trong tổ chức là điều kiện tiên quyết
để các nhân viên cống hiến hết mình cho tổ chức. Do đó, nhận thức vị thế cá nhân trong tổ chức
được xem là chìa khoá để hiểu mối liên kết giữa hành vi xã hội hoá chủ động và kết quả xã hội
hoá (Wang & Kim, 2013). Nhận thức vị thế cá nhân trở thành nhân tố trung gian cho mối quan
hệ giữa hành vi xã hội hoá chủ động và kết qủa xã hội hoá.
Như vậy, nếu coi trường đại học là một tổ chức, thì sinh viên là những người mới gia nhập
tổ chức đó. Khác với trung học, đại học là một môi trường khắc nghiệt đòi hỏi tính tự giác và
chủ động của sinh viên hơn rất nhiều. Vì vậy, sinh viên cũng mang những đặc điểm của những
người mới và gặp phải các vấn đề ban đầu như: thiếu thông tin, chưa có các mối quan hệ, mạng
lưới với các sinh viên khác và các cán bộ, giảng viên trong nhà trường. Nếu sinh viên cũng xã
hội hoá chủ động thì kết quả mang lại cũng tích cực cho bản thân và nhà trường. Sinh viên chủ
động tìm kiếm thông tin, phản hồi, mở rộng quan hệ xã hội. Điều này có thể ảnh hưởng đến sự
hài lòng trong học tập và thúc đẩy quá trình hoà nhập xã hội của sinh viên.
Mặc dù hành vi xã hội hoá chủ động được nghiên cứu khá rộng rãi trong nghiên cứu hành
vi của tổ chức nhưng nó lại chưa được mở rộng nghiên cứu với đối tượng sinh viên trong các
trường đại học. Bài viết này sẽ làm rõ hai vấn đề: thứ nhất, phân tích các khía cạnh của hành vi
xã hội hoá chủ động của sinh viên bao gồm tìm kiếm thông tin, tìm kiếm phản hồi, mở rộng quan
hệ cá nhân và thiết lập mạng lưới quan hệ; thứ hai, đánh giá ảnh hưởng của hành vi xã hội hoá
chủ động đến kết quả xã hội hoá là sự hài lòng và hội nhập xã hội thông qua nhân tố trung gian
là nhận thức vị thế cá nhân.
2. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC GIẢ THUYẾT
2.1. Hành vi xã hội hoá chủ động (Proactive socialization behaviours)
Sự chủ động đã trở thành một chủ đề chính trong tâm lý học tổ chức nhưng lại ít được chú
ý trong nghiên cứu giáo dục đại học (Geertshuis, Jung, & Cooper-Thomas, 2014). Đặc điểm các
136
cá nhân có tính cách chủ động là luôn tích cực tìm kiếm và tận dụng các cơ hội khác nhau, chủ
động thể hiện, hành động và kiên trì làm việc cho đến khi đạt được mục tiêu đã đặt ra (Bateman
& Crant, 1993). Họ có thể tạo ảnh hưởng tích cực đến những người xung quanh. Tính cách chủ
động liên kết nhất quán với một số hành vi chủ động bao gồm thiết lập mạng lưới xã hội, tìm
kiếm phản hồi, mở rộng quan hệ xã hội (Ashford & Black, 1996).
Ashford and Black (1996) đã chỉ ra một loạt các hành vi xã hội hoá chủ động mà những
người mới đến có thể thực hiện để phù hợp với công việc và tổ chức mới như: tìm kiếm thông tin
và phản hồi, xây dựng mối quan hệ, đàm phán thay đổi công việc. Hành vi xã hội hoá chủ động
cho phép những người mới tiếp cận thông tin và tương tác thường xuyên với các thành viên khác
trong tổ chức, dẫn đến các kết qủa xã hội hoá tích cực. Khi người mới đến chủ động tìm kiếm
thông tin về công việc và phản hồi về hiệu suất hoạt động của họ thì họ có thể có được các kỹ năng
và kiến thức cần thiết trong công việc (Ashforth et al., 2007). Bên cạnh đó, khi những người mới
xây dựng mối quan hệ tốt với những người đương nhiệm, những người đó có thể hướng dẫn và
giúp đỡ người mới thực hiện các công việc được phân công (Nelson & Quick, 1991).
Hành vi xã hội hoá chủ động của những người mới có thể có ảnh hưởng tích cực đến quá
trình hội nhập xã hội của họ. Hội nhập xã hội (social integaration) là quá trình những người mới
tương tác với các thành viên trong tổ chức, đạt được sự hài lòng trong công việc và thu hút những
người mới khác gia nhập tổ chức (O'Reilly III, Caldwell, & Barnett, 1989). Khi những người mới
tích cực tìm kiếm thông tin và phản hồi về công việc của mình, họ tạo ra ấn tượng tích cực với
những người đương nhiệm. Điều này giúp họ thiết lập mối quan hệ với đồng nghiệp, thực hành các
kỹ năng giao tiếp phù hợp để hợp tác với người khác (Wanberg & Kammeyer-Mueller, 2000).
2.2. Nhận thức vị thế cá nhân (Perceived insider status)
Nhận thức vị thế cá nhân thể hiện mức độ một cá nhân tin rằng họ là người trong cuộc của
một tổ chức (Stamper & Masterson, 2002). Khi mới gia nhập tổ chức, nhận thức của những người
mới về mối quan hệ giữa họ và các thành viên và cấp trên trong tổ chức là rất quan trọng và có thể
bị tác động bởi các yếu tố xã hội hoá. Những thông tin phản hồi về kết quả làm việc và thông tin
trong tổ chức làm tăng mức độ nhận thức vị thế của nhân viên trong tổ chức. Hơn nữa, việc chủ
động tham gia vào xây dựng mối quan hệ cho phép người mới tiếp xúc thường xuyên với các thành
viên trong tổ chúc, giúp người mới làm rõ những kỳ vọng về công việc của họ và tạo ra cảm giác
thực sự tham gia vào các hoạt động của tổ chức đó (Lapalme, Stamper, Simard, & Tremblay, 2009).
Dựa vào khung lý thuyết trên, chúng tôi đề xuất mô hình nghiên cứu sau:
Hình 1. Mô hình nghiên cứu
Hành vi xã hội
hoá chủ động
Nhận thức vị
thế cá nhân
Sự hài lòng
Hoà nhập xã hội
137
Các giả thuyết được đề xuất như sau:
H1a: Hành vi xã hội hoá chủ động tác động tích cực đến sự hài lòng của sinh viên thông
qua nhận thức vị thế cá nhân.
H1b: Hành vi xã hội hoá chủ động tác động tích cực đến hoà nhập xã hội của sinh viên
thông qua nhận thức vị thế cá nhân.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mẫu khảo sát
Nghiên cứu khảo sát 452 sinh viên đang theo học tại khoa Kế toán - Kiểm toán, trường Đại
học Công nghiệp Hà Nội. Trong đó, sinh viên năm hai chiếm 5,25%; sinh viên năm ba chiếm
30,31%, chủ yếu là sinh viên năm cuối chiếm 64,44%.
Phiếu khảo sát sử dụng thang đo từ các nghiên cứu trước. Theo đó, thang đo cho biến Hành
vi xã hội hoá chủ động từ tác giả Ashford and Black (1996), Nhận thức vị thế cá nhân trong
nghiên cứu của tác giả Stamper and Masterson (2002), Hoà nhập xã hội trong nghiên cứu của tác
giả Ashforth et al. (2007) và sự hài lòng từ “Student satisfaction survey inventory”. Phiếu khảo
sát được dịch sang tiếng việt, thuận tiện cho việc thu thập dữ liệu và phân tích kết quả. Thang đo
và các biến được mô tả tại bảng 1.
Bảng 1. Mô tả thang đo
Biến khảo
sát Thang đo
Cronbach’s
alpha
1. Hành vi xã
hội hoá chủ
động
4. Tôi đã cố gắng tự tìm hiểu chương trình và nội dung các
môn học trong chuyên ngành của mình
5. Tôi đã cố gắng tìm hiểu các chính sách, quy đinh và quy
trình, thủ tục của trường
6. Tôi đã cố gắng tìm hiểu cả các quy trình, thủ tục ngoài nội
dung học tập
7. Tôi đã tìm kiếm phản hồi từ giảng viên về kết quả của mình
sau khi làm các bài tập
8. Tôi đã luôn mong muốn nhận được những lời góp ý, phê
bình từ giảng viên
9. Tôi đã tìm kiếm phản hồi từ giảng viên về kết quả của mình
trong quá trình làm bài tập
10. Tôi đã luôn hỏi ý kiến của giảng viên về những công việc
và bài tập mà tôi đã hoàn thành
11. Tôi đã luôn tham gia vào các hoạt động ở trên lớp
12. Tôi đã luôn chủ động phát biểu ý kiến trên lớp
0.789
138
13. Tôi đã luôn tham gia các hoạt động xã hội để gặp gỡ nhiều
người (như các buổi party, câu lạc bộ, ngoại khoá)
14. Tôi đã tham gia đầy đủ các hoạt động ngoại khoá của khoa
dành cho sinh viên
15. Tôi đã luôn tham dự các buổi họp lớp, gặp mặt của khoa
với sinh viên
16. Tôi đã luôn là người bắt đầu các cuộc trò chuyện với sinh
viên của các khoa khác trong trường
17. Tôi đã luôn hoà nhập với cả các sinh viên đến từ các khoa
khác nhau trong trường
18. Tôi đã luôn muốn làm quen càng nhiều càng tốt các sinh
viên đến từ các lớp khác nhau trong trường với tư cách cá nhân
2. Nhận thức
vị thế cá
nhân
19. Tôi luôn cảm thấy mình là một phần quan trọng đối với
nhà trường
20. Nhà trường luôn cho tôi cảm giác tôi là một phần không
thể thiếu trong đó
21. Tôi luôn cảm thấy bản thân là đối tượng bên trong nhà trường
22. Tôi cảm thấy nhà trường không bỏ mặc tôi
0.908
3. Sự hài
lòng
23. Những trải nghiệm trên ghế nhà trường đã đúng với những
gì tôi đã kỳ vọng
24. Tôi cảm thấy haì lòng với những gì trải qua trong thời gian
học tại trường
25. Nếu được lựa chọn 1 lần nữa, tôi vẫn lựa chọn trường Đại
học Công nghiệp Hà Nội
0.695
4. Hoà nhập
xã hội
26. Tôi luôn cố gắng hoà nhập với bạn bè trong lớp
27. Tôi luôn cố gắng trao đổi với bạn bè trong lớp về các hoạt
động trong ngày
28.Tôi luôn cố gắng trò chuyện với tất cả mọi người, kể cả
thầy cô giáo của mình.
0.795
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Kiểm định nhân tích nhân tố khẳng định
Bảng 1 là kết quả kiểm định CFA cho 4 biến của mô hình (Hình 1). Kết quả kiểm định cho
mô hình như sau: 2 = 579.08, p < 0.01; CFI = 0.91; GFI = 0.79; TLI = 0.90; RMSEA = 0.09.
Các chỉ số cho thấy mô hình cung cấp đầy đủ phù hợp với dữ liệu. Tiếp theo, để đánh giá thêm
sự khác biệt giữa các biến nghiên cứu, các tác giả so sánh mô hình nghiên cứu với 2 mô hình
thay thế khác. Mô hình thay thế thứ nhất, tất cả các items được nhóm chung vào một nhóm; mô
139
hình thay thế thứ hai, các items cho 2 biến sự hài lòng và hoà nhập xã hội được nhóm chung vào
1 nhóm. Kết quả cho thấy mô hình ban đầu có độ fit với dữ liệu tốt nhất.
Bảng 2. Kết quả phân tích CFA
Models 2 2 Df CFI GFI TLI RMSEA
Research model 579.08 220 0.91 0.79 0.9 0.09
Alternative model 1 2500.68 1921.60*** 230 0.44 0.41 0.38 0.23
Alternative model 2 1051.96 472.88*** 224 0.80 0.64 0.77 0.14
***p<0.001 (AMOS)
4.2. Phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính - SEM
Giả thuyết H1 đề xuất tác động của hành vi xã hội hoá chủ động đến sự hài lòng và hội
nhập xã hội thông qua nhận thức vị thế cá nhân. Kết quả kiểm định mô hình phương trình cấu
trúc cho thấy hành vi xã hội hoá chủ động tác động tích cực đến nhận thức vị thế cá nhân ( =
0.37, p < 0.05); nhận thức vị thế cá nhân có tác động tích cực đến sự hài lòng ( = 0.31, p < 0.05)
và hoà nhập xã hội ( = 0.24, p < 0.1). Kết quả kiểm định cũng cho thấy tác động gián tiếp của
hành vi xã hội hoá chủ động đến sự hài lòng và hoà nhập xã hội thông qua nhận thức vị thế cá
nhân có ý nghĩa thống kê, đối với sự hài lòng ( = 0.12, Sobel = 2.88, p < 0.01), đối với hoà
nhập xã hội ( = 0.09, Sobel = 2.17, p < 0.05). Kết quả kiểm định ủng hộ giả thuyết đưa ra.
5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Nghiên cứu này đã xác định bốn khía cạnh của hành vi xã hội hoá chủ động của sinh viên
trường đại học và phát triển mô hình kiểm định tác động trung gian của nhận thức vị thế các
nhân trong mối quan hệ giữa hành vi xã hội hoá chủ động với sự hài lòng và kết quả xã hội hoá
là hoà nhập xã hội của sinh viên. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp một số ý nghĩa quan trọng
trong nghiên cứu hành vi xã hội chủ động và đóng góp một số hàm ý trong thực tiễn.
Trong bối cảnh văn hoá ở Việt Nam, sự chủ động trong hoà nhập xã hội còn rất hạn chế.
Do đó, việc những người mới, cụ thể trong nghiên cứu là sinh viên tại các trường đại học, chủ
động xã hội hoá thông qua chủ động tìm kiếm thông tin, tìm kiếm phản hồi, chủ động tạo lập
mạng lưới quan hệ và mối quan hệ xã hội cần được khuyến khích. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng
việc sinh viên chủ động xã hội hoá cũng có tác động tích cực đến sự hài lòng của sinh viên đối
với nhà trường, đồng thời cũng tác động tích cực đến hoà nhập xã hội của sinh viên.
0.31** 0.37**
Hành vi xã hội hoá chủ động
Nhận thức vị thế cá nhân
Sự hài lòng
Hoà nhập xã hội
0.24*
140
Nghiên cứu cũng xác nhận tác động trung gian của tình trạng nhận thức vị thế cá nhân
trong mối quan hệ giữa hành vi xã hội hoá chủ động và kết quả xã hội là sự hài lòng và hoà
nhập xã hội. Kết quả này hàm ý về cách thức những người mới có hành vi xã hội hoá chủ động
cao đóng góp nhiều hơn cho tổ chức và có mức độ hài lòng với tổ chức cao hơn so với những
người có hành vi xã hội hoá chủ động thấp, từ đó mở rộng mạng lưới của hành vi xã hội hoá
chủ động.
Như vậy, thông qua bốn khía cạnh của hành vi xã hội hoá chủ động bao gồm: tìm kiếm
thông tin, tìm kiếm phản hồi, xây dựng mối quan hệ và thiết lập mạng lưới quan hệ, nhà trường
có thể khuyến khích và taọ lập môi trường để sinh viên thực hiện các hành vi xã hội hoá chủ
động. Thông tin trong nhà trường cần được minh bạch và cụ thể, giúp sinh viên có thể dễ dàng
tìm kiếm và cập nhập. Đối với các phản hồi trong qua trình học tập hoặc vè kết quả, cần có
phương tiện và các hình thức phản hồi hiệu quả, thường xuyên, sinh viên cũng cần được
khuyến khích phải luôn chủ động trong việc tìm kiếm phản hồi. Việc thay đổi nhận thức dẫn
đến hành vi chủ động của sinh viên cần được khuyến khích, giáo dục một cách từ từ nhưng liên
tục. Sinh viên chủ động xây dựng mạng lưới quan hệ thông qua các nhóm học tập, tham gia
các buổi họp lớp, sinh hoạt ngoại khoá và các câu lạc bộ. Các buổi học tập về kỹ năng cũng
cần được tổ chức cho sinh viên tham gia. Điều quan trọng là hình thành ý thức chủ động cho
sinh viên, từ đó sinh viên thực hiện các hành vi xã hội một cách chủ động và có thể áp dụng
trong công việc sau khi ra trường.
Nhận thức vị thế cá nhân đánh giá mức độ sinh viên cảm thấy mình là người trong cuộc,
liên quan đến mức độ nhận thức về mối liên kết với nhà trường. Nếu sinh viên đánh giá mình là
“outsider” thì mặc dù có thể sinh viên cảm thấy gắn bó với nhà trường về mặt cảm xúc nhưng
mối quan hệ này không thể là mối quan hệ lâu dài, việc này có thể tạo ra một rào cản tâm lý và
hạn chế sự gắn bó trong hành vi. (Lapalme et al., 2009). Vì vậy, nếu sinh viên nhận thức mình là
cũng là “insider”, sinh viên sẽ gắn kết hơn với nhà trường.
Nghiên cứu về sự chủ động và hành vi chủ động đã được nghiên cứu phổ biến trong các tổ
chức hoặc nơi làm việc, thay vì trong linh vực giáo dục. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng
các nghiên cứu về sự chủ động cũng nên được tiến hành trong môi trường giáo dục đại học.
Những sinh viên chủ động tham gia giải quyết vấn đề, tìm kiếm thông tin và phản hồi, kết nối
mạng lưới quan hệ, là những người học tự định hướng. Nghiên cứu này mới chỉ dừng lại là
những phát hiện ban đầu, cần được tiến hành những nghiên cứu sâu hơn về các khía cạnh đầy đủ
của hành vi chủ động, không chi là hành vi xã hội hoá; hay mối quan hệ giữa sự chủ động và các
biến có liên quan đến sự thành công của sinh viên. Hoặc những nghiên cứu sâu hơn về các tiếp
cận trong việc dạy học và tối đa hoá suy nghĩ và hành vi chủ động của sinh viên, từ đó thúc đẩy
kết quả học tập cuả sinh viên. Ở đây, chúng tôi cũng mới chỉ làm rõ 4 khía cạnh của hành vi xã
hội hoá chủ động, tuy nhiên cũng cần có thêm các nghiên cứu phân tích cụ thể hơn về tính chủ
động, hành vi chủ động và những kết quả của nó.
141
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ashford, S. J., & Black, J. S. (1996). Proactivity during organizational entry: The role of desire
for control. Journal of applied psychology, 81(2), 199.
Ashforth, B. E., Sluss, D. M., & Saks, A. M. (2007). Socialization tactics, proactive behavior,
and newcomer learning: Integrating socialization models. Journal of vocational behavior,
70(3), 447-462.
Bateman, T. S., & Crant, J. M. (1993). The proactive component of organizational behavior: A
measure and correlates. Journal of Organizational Behavior, 14(2), 103-118.
Bauer, T. N., Bodner, T., Erdogan, B., Truxillo, D. M., & Tucker, J. S. (2007). Newcomer
adjustment during organizational socialization: a meta-analytic review of antecedents,
outcomes, and methods. Journal of applied psychology, 92(3), 707.
Cable, D. M., Gino, F., & Staats, B. R. (2013). Breaking them in or eliciting their best?
Reframing socialization around newcomers’ authentic self-expression. Administrative
science quarterly, 58(1), 1-36.
Fang, R., Duffy, M. K., & Shaw, J. D. (2011). The organizational socialization process: Review
and development of a social capital model. Journal of management, 37(1), 127-152.
Geertshuis, S., Jung, M., & Cooper-Thomas, H. (2014). Preparing Students for Higher
Education: The Role of Proactivity. International Journal of Teaching and Learning in
Higher Education, 26(2), 157-169.
John, G. (1986). Socialization tactics, self-efficacy, and newcomers’ adjustment to organizations.
Academy of Management Journal, 29, 262-279.
Kim, T.-Y., Cable, D. M., & Kim, S.-P. (2005). Socialization tactics, employee proactivity, and
person-organization fit. Journal of applied psychology, 90(2), 232.
Lapalme, M. È., Stamper, C. L., Simard, G., & Tremblay, M. (2009). Bringing the outside in:
Can “external” workers experience insider status? Journal of Organizational Behavior:
The International Journal of Industrial, Occupational and Organizational Psychology and
Behavior, 30(7), 919-940.
Masterson, S. S., & Stamper, C. L. (2003). Perceived organizational membership: An aggregate
framework representing the employee–organization relationship. Journal of
Organizational Behavior: The International Journal of Industrial, Occupational and
Organizational Psychology and Behavior, 24(5), 473-490.
Miller, V. D., & Jablin, F. M. (1991). Information seeking during organizational entry:
Influences, tactics, and a model of the process. Academy of Management Review, 16(1),
92-120.
Nelson, D. L., & Quick, J. C. (1991). Social support and newcomer adjustment in organizations:
Attachment theory at work? Journal of Organizational Behavior, 12(6), 543-554.
142
O'Reilly III, C. A., Caldwell, D. F., & Barnett, W. P. (1989). Work group demography, social
integration, and turnover. Administrative science quarterly, 21-37.
Saks, A. M., Gruman, J. A., & Cooper-Thomas, H. (2011). The neglected role of proactive
behavior and outcomes in newcomer socialization. Journal of vocational behavior, 79(1),
36-46.
Stamper, C. L., & Masterson, S. S. (2002). Insider or outsider? How employee perceptions of
insider status affect their work behavior. Journal of Organizational Behavior: The
International Journal of Industrial, Occupational and Organizational Psychology and
Behavior, 23(8), 875-894.
Wanberg, C. R., & Kammeyer-Mueller, J. D. (2000). Predictors and outcomes of proactivity in
the socialization process. Journal of applied psychology, 85(3), 373.
Wang, J., & Kim, T. Y. (2013). Proactive socialization behavior in China: The mediating role of
perceived insider status and the moderating role of supervisors' traditionality. Journal of
Organizational Behavior, 34(3), 389-406.
143
Ứng dụng khung năng lực trong xây dựng chuẩn đầu ra
cho sinh viên ngành kế toán - thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0
Phạm Văn Thiệu, Nguyễn Văn Hiếu
Trường Đại học Lao động - Xã hội (CS2)
Email: thieupv.ulsa@gmail.com
Mã bài: HTQG.01 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 10/11/2019
Ngày nhận bài: 11/09/2019 Ngày chấp nhận đăng: 13/11/2019
Tóm tắt
Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2019) học sinh, sinh viên tốt
nghiệp có năng lực chuyên môn chưa phù hợp với yêu cầu của hoạt động thực tiễn sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ. Còn yếu về ngoại ngữ và các kỹ năng mềm như tác phong công nghiệp, kỹ năng
làm việc nhóm… Một trong những nguyên nhân đó là do quy chuẩn đầu ra của các cơ sở đào tạo
còn mang nặng tính định tính và “khác” so với nhu cầu của doanh nghiệp. Trong khi đó, tuyển
dụng nhân lực theo khung năng lực (năng lực được lượng hóa theo những hành vi cụ thể) đang là
xu hướng của các doanh nghiệp nhằm tuyển đúng người, cho đúng việc trong bối cảnh nhân lực
thời kỳ công nghệ 4.0. Bài viết tác giả tập trung gợi ý các cơ sở đào tạo xây dựng được hệ thống
khung năng lực chuẩn đầu ra cho ngành kế toán thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, để hướng
tới sự “phù hợp” giữa đầu ra của các cơ sở đại học với đầu vào của các doanh nghiệp.
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, khung năng lực, chuẩn đầu ra sinh viên ngành
kế toán.
1. GIỚI THIỆU
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tạo ra sự thay đổi nhanh chóng trong cách
quản lý, điều hành cũng như quá trình phát triển của doanh nghiệp. Bên cạnh những điểm tích
cực thì mặt trái của cách mạng công nghiệp 4.0 là có thể phá vỡ thị trường lao động. Tự động
hóa đang dần thay thế lao động chân tay trong nền kinh tế, robot thay thế con người trong nhiều
lĩnh vực, hàng triệu lao động trên thế giới có thể sẽ rơi vào tình trạng thất nghiệp. Điều này cũng
là một trong những yếu tố tác động trực tiếp đến xu hướng quản trị nguồn nhân lực trong kỷ
nguyên số hiện nay. Một trong những xu hướng đó chính là quản trị nhân lực theo khung năng
lực (lượng hóa năng lực của người lao động theo hành vi). Khung năng lực sau khi được xây
dựng cho từng vị trí sẽ được sử dụng trong các hoạt động của quản trị nhân lực như đề bạt, thăng
chức, trả lương trong đó ứng dụng để tuyển dụng nhân lực có thể nói là một trong những ứng
dụng rất quan trọng. Thông qua khung năng lực, doanh nghiệp sẽ lựa chọn được đúng người, cho
đúng việc.
144
Trong khi đó, các cơ sở đào tạo hiện nay chuẩn năng lực đầu ra cho sinh viên chủ yếu được
liệt kê dưới dạng tiêu chuẩn mang tính định tính như sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn,
có khả năng làm việc nhóm, làm việc độc lập…. rất khó để đo lường. Với thực tế này, các cơ sở
đào tạo (nơi cung cấp sinh viên cho doanh nghiệp) có lẽ cũng cần xây dựng khung năng lực
chuẩn đầu ra cho sinh viên để “tương thích” với chuẩn đầu vào của doanh nghiệp. Đây cũng
chính là lý do tác giả gợi ý các cơ sở giáo dục đại học nên “Ứng dụng khung năng lực trong xây
dựng chuẩn đầu ra cho sinh viên ngành kế toán - thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0”.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Theo Schwab (2017) thế giới hiện nay đang ở giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Trước đó thì cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên đã kéo dài trong giai đoạn
từ năm 1760 đến khoảng năm 1840. Cuộc cách mạng công nghiệp này bắt đầu với việc xây dựng
các tuyến đường sắt và phát minh ra động cơ hơi nước, đây là cuộc cách mạng đánh dấu sự khởi
đầu của thời kỳ sản xuất cơ khí. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai, diễn ra từ cuối thế kỷ
19 và đầu thế kỷ 20, với sự ra đời của điện năng và dây chuyền lắp ráp thì một hệ thống sản xuất
hàng loạt đã được hiện thực hóa. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba thường được gọi là
cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số bắt đầu vào những năm 1960 vì nó được khởi nguồn
bởi sự phát triển của chất bán dẫn, máy tính cỡ lớn (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên
1970 và 1980) và internet (thập niên 1990).
Thuật ngữ “Công nghiệp 4.0” được đưa ra lần đầu tại hội chợ Công nghệ Hannover, Đức năm
2011. Ngay sau đó khái niệm này đã được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, ở một số nước khác
nhau có thể gọi dưới những tên gọi khác nhau như “Công nghiệp IP” hay “Sản xuất thông minh”,
“Sản xuất số”. Nhưng dù được gọi dưới tên nào thì đều được xuất phát từ một ý tưởng chung: Ngành
sản xuất công nghiệp tương lai mang thế giới ảo (mạng internet) và thế giới thực (máy móc) xích lại
gần nhau trong quá trình thiết kế, sản xuất và phân phối sản phẩm (Schwab, 2017).
Bản chất của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích
hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh
những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy... Sự phát triển của các mạng Công nghiệp
4.0 gắn liền với xu hướng hiện tại của tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất.
Nó bao gồm các hệ thống mạng vật lý, mạng Internet kết nối vạn vật và điện toán đám mây.
Công nghiệp 4.0 tạo điều kiện cho việc tạo ra các “nhà máy thông minh” hay “nhà máy số” trong
đó các hệ thống vật lý không gian ảo sẽ giám sát các quá trình vật lý, tạo ra một bản sao ảo của
thế giới vật lý. Với IoT, các hệ thống vật lý không gian ảo này tương tác với nhau và với con
người theo thời gian thực, và thông qua IoS thì người dùng sẽ được tham gia vào chuỗi giá trị
thông qua việc sử dụng các dịch vụ này (Schwab, 2017).
2.2. Ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tới ngành Kế toán
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ có ảnh hưởng tới ngành kế toán trên một số khía cạnh
cơ bản sau:
145
Thứ nhất, vai trò của nguồn nhân lực kế toán có sự biến chuyển: Theo Skoulding (2018)
thì tương lai ngành kế toán sẽ có giá trị cao hơn và nhiều cơ hội phát triển hơn. Công nghệ
Blockchain, thuế kỹ thuật số và ngân hàng mở sẽ thay đổi công việc của nhân viên kế toán.
Trong quá khứ, công việc của một người làm kế toán cơ bản là ngồi tại văn phòng làm việc với
sổ sách kế toán, với quy trình chuẩn mực đã được xây dựng thì với sự xuất hiện của công nghệ
mới, của các phần mềm kế toán thông minh mang xu hướng trí tuệ nhân tạo sẽ thay thế dần các
công việc đó. Như vậy, nó sẽ giải phóng người làm kế toán khỏi các công việc hành chính thuần
túy, thay vào đó đòi hỏi người làm công tác kế toán phải có những năng lực mới để tạo ra giá trị
mới cho doanh nghiệp.
Theo kết quả điều tra năm 2016 của Hiệp hội Kế toán công chứng Anh quốc (ACCA) về kế
toán chuyên nghiệp tương lai diễn ra trên 22 quốc gia trên toàn cầu (trong đó có Việt Nam): Về các
xu hướng dự kiến có tác động cao nhất trong 3 đến 10 năm tới, có tới 55% số người trả lời cho
rằng, sự phát triển của hệ thống kế toán tự động được đánh giá tác động cao nhất trong các xu
hướng, bên cạnh xu hướng như hài hòa chuẩn mực kế toán (42%), sự xâm nhập của điện toán đám
mây trong kinh doanh (41%), sự biến động kinh tế (42%) (Nguyễn Thị Thanh Thắm, 2018).
Thứ hai, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là động lực cho sự cải tiến công nghệ cho hệ
thống thông tin ngành kế toán: Theo Yin và Kaynak (2015) 1000 exabytes là lượng dữ liệu được
tạo ra từ nền công nghiệp hiện đại hàng năm, xu hướng trong vòng 10 năm tiếp theo sẽ tăng lên
gấp khoảng 20 lần. Đây là con số chứng minh một kỷ nguyên dữ liệu lớn (big data) được thúc
đẩy bởi công nghệ điện toán đám mây, vạn vật kết nối (IoT) hay hệ thống CPPS. Big data
thường gắn liền với quá trình phân tích dữ liệu, dự báo của bộ phận kế toán. Khi ứng dụng big
data vào công việc, nhân viên kế toán sẽ thực hiện được khối lượng công việc lớn hơn, dễ dàng
phát hiện các sai sót nhờ vào các công nghệ được sử dụng.
Thứ ba, tuân thủ chuẩn mực kế toán quốc tế: hiện tại Việt Nam đang áp dụng bộ chuẩn
mực kế toán Việt Nam (VAS) được ban hành năm 2005. Tuy nhiên, giữa chuẩn mực kế toán
Việt Nam (VAS) và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) vẫn còn tồn tại một sự khác biệt
nhất định, điều này ảnh hưởng đến việc hội nhập của kế toán Việt Nam. Hồng Vân (2019) cho
biết, theo tài liệu thống kê của Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), tính đến nay đã có
131/143 quốc gia và vùng lãnh thổ (chiếm tỷ lệ 93% các nước được IASB khảo sát) đã tuyên bố
về việc cho phép áp dụng IFRS dưới các hình thức khác nhau. Trong đó có 119/143 (chiếm tỷ lệ
83,2%) quốc gia và vùng lãnh thổ đã yêu cầu bắt buộc sử dụng các chuẩn mực của IFRS đối với
tất cả hoặc hầu hết các đơn vị lợi ích công chúng trong nước. Ở Châu Âu, 31 nước thành viên và
5 vùng lãnh thổ đã áp dụng toàn bộ IFRS. Việt Nam hiện nay là một trong số ít các quốc gia
chưa có tuyên bố về việc áp dụng IFRS.
2.3. Tổng quan về khung năng lực
Năng lực là một khái niệm hiện nay vẫn chưa có sự nhìn nhận thống nhất trong lĩnh vực
quản trị nhân lực. Năng lực vừa có thể nhìn nhận ở góc độ cá nhân - được gọi là năng lực cá nhân
(McClelland, 1970; Lucia và Lepsinger, 2009), nhưng cũng vừa có thể nhìn nhận ở góc độ tổ chức
- năng lực của tổ chức (Prahalad & Hamel, 1990). Khi xem xét năng lực ở góc độ cá nhân, năng
146
lực có thể được mô tả dưới dạng kiến thức, kỹ năng và khả năng nhưng cũng có thể được mô tả ở
góc độ hành vi, thái độ hay động lực.
McClelland được cho là người đầu tiên đưa ra khái niệm năng lực cá nhân vào đầu những
năm 1970. Theo ông, năng lực hay đặc điểm cá nhân được coi là nhân tố quan trọng dự báo về kết
quả công việc và sự thành công của nhân viên (McClelland, 1970).
Có hai định nghĩa về năng lực phổ biến nhất hiện nay: Định nghĩa theo trường phái Anh và
theo trường phái Mỹ.
- Năng lực theo trường phái Anh: Năng lực được giới hạn bởi 3 yếu tố: Kiến thức, kỹ năng,
thái độ.
- Năng lực theo trường phái Mỹ: Năng lực là bất kỳ yếu tố tâm lý cá nhân có thể giúp hoàn
thành nhanh chóng công việc hay hành động nào đó một cách hiệu quả. Năng lực con người giống
như một tảng băng trôi, bao gồm 2 phần: phần nổi và phần chìm (Phần nổi chiếm từ 10 - 20%: Đây
là nền tảng được giáo dục, đào tạo, kinh nghiệm, kỹ năng, cảm xúc thật. Phần có thể nhìn thấy
được thông qua các hình thức đánh giá, phỏng vấn, quan sát, theo dõi sổ sách; Phần chìm chiếm tới
80 - 90%: Là phong cách tư duy, đặc tính hành vi, sở thích nghề nghiệp, sự phù hợp với công việc
Đây chính là phần tiềm ẩn khi mới gia nhập mà công ty cần phát hiện và phát huy).
Trong phạm vi bài viết này, năng lực được hiểu là khả năng ứng dụng kiến thức, kỹ năng,
khả năng, thái độ, hành vi và các đặc điểm cá nhân khác để thực hiện thành công một nhiệm vụ,
vị trí, một công việc hoặc một chức năng cụ thể. Khung năng lực hay còn gọi là mô hình năng
lực là một công cụ mô tả trong đó xác định các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, khả năng, thái độ,
hành vi và các đặc điểm cá nhân khác để thực hiện các nhiệm vụ trong một vị trí, một công việc
hay một ngành nghề. Khung năng lực thực chất là một tổ hợp các năng lực đồng thời quyết định
đến khả năng hoàn thành một vị trí hay công việc. Từ điển năng lực là tất cả các năng lực được
chuẩn hóa và áp dụng cho mọi chức danh công việc tại tổ chức, đảm bảo phù hợp với giá trị cốt
lõi, văn hóa và đặc thù tính chất công việc. Tùy từng tổ chức sẽ có bộ Từ điển năng lực đặc trưng
phù hợp với chiến lược kinh doanh và văn hóa của mỗi tổ chức.
3. THỰC TRẠNG VÀ KHUYẾN NGHỊ XÂY DỰNG KHUNG NĂNG LỰC CHUẨN ĐẦU
RA NGÀNH KẾ TOÁN CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI (CSII)
3.1. Thực trạng chuẩn đầu ra sinh viên ngành kế toán trường Đại học Lao động - Xã
hội (cơ sở 2)
Theo thông tin về chuẩn đầu ra ngành kế toán, trường đại học Lao động - Xã hội (Cơ sở 2)
thì sinh viên cần đạt chuẩn như sau:
Mục tiêu về kiến thức:
Kiến thức giáo dục đại cương: Trang bị cho sinh viên các kiến thức cơ bản về Nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam, các kiến thức cơ bản về pháp luật, toán, tin học, ngoại ngữ và phương pháp nghiên
cứu khoa học.
147
Kiến thức cơ sở ngành và ngành: Trang bị các kiến thức cơ bản về luật kinh tế, luật lao
động, các nguyên lý kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô, tài chính - tiền tệ, tài chính doanh nghiệp,
nguyên lý kế toán, lý thuyết tổ chức,... làm cơ sở để tiếp thu kiến thức chuyên ngành.
Kiến thức chuyên ngành: Trang bị các kiến thức cơ bản về quản trị doanh nghiệp, tiền
lương - tiền công và kiến thức chuyên sâu về kế toán doanh nghiệp, kế toán đơn vị hành chính sự
nghiệp, cách thức phân tích báo cáo tài chính và sử dụng thông tin kế toán để ra quyết định; các
nguyên lý tổ chức hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ thống thông tin kế toán
trong doanh nghiệp trong điều kiện tin học hóa; các kiến thức chuyên sâu theo ngành kinh doanh
và loại hình doanh nghiệp cũng được trang bị để giúp cho sinh viên thực hiện tốt các công việc
của nhân viên kế toán và tư vấn thuế cho các doanh nghiệp.
Mục tiêu về kỹ năng:
Có khả năng hoạt động độc lập và phối hợp hoạt động theo nhóm; có phong cách làm việc
chuyên nghiệp, có tầm nhìn sâu rộng và kỹ năng phân tích, tổng hợp vấn đề; bảo đảm hoạt động
một cách có hiệu quả trong lĩnh vực chuyên môn đào tạo; có khả năng tìm hiểu, vận dụng và
tuân thủ luật pháp, chuẩn mực của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính, kế toán và thống kê.
Thành thạo thu thập, phân loại và tổ chức hạch toán mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh của
doanh nghiệp và đơn vị hành chính sự nghiệp phù hợp với các quy định của luật pháp và thông
lệ, chuẩn mực kế toán.
Biết cách tổ chức hệ thống kế toán bao gồm: tổ chức, triển khai hệ thống thông tin kế toán,
tổ chức quy trình kế toán, tổ chức hệ thống chứng từ, sổ sách, báo cáo kế toán nhằm đáp ứng
thông tin theo yêu cầu quản lý của đơn vị.
Biết tự nghiên cứu và sử dụng các phần mềm kế toán; phối hợp với các tổ chức kiểm toán
để phục vụ cho các hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính tại doanh nghiệp; thành thạo các công
việc lập kế hoạch tài chính; có khả năng tổ chức thống kê hoạt động kinh doanh; vận dụng thành
thạo các quy định của pháp luật thuế trong các hoạt động kinh doanh.
Mục tiêu về thái độ:
Chương trình đào tạo đại học ngành Kế toán nhằm đào tạo ra những sinh viên chấp hành
tốt chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, có quan điểm chính trị vững vàng,
có khả năng tiếp thu và bảo vệ quan điểm, biết xử lý hài hoà lợi ích cá nhân, tập thể, tổ chức và
quốc gia, có tinh thần trách nhiệm cao, trung thực, có ý thức tổ chức kỷ luật, chủ động cập nhật
kiến thức, sáng tạo trong công việc, có đạo đức cá nhân và đạo đức nghề nghiệp.
Mục tiêu về ngoại ngữ và tin học:
Sinh viên tốt nghiệp chương trình đạo tạo đại học ngành kế toán có thể sử dụng được tiếng
Anh để đọc và hiểu các tài liệu chuyên ngành, có khả năng sử dụng máy tính phục vụ cho soạn
thảo văn bản và thực hiện các công việc chuyên môn, biết cách tự nghiên cứu để sử dụng các
phần mềm kế toán.
Tuy nhiên, những tiêu chuẩn như trên còn thiên về định tính và nó sẽ gây khó khăn ở một
vài khía cạnh sau: thứ nhất, Nhà trường khó đo lường chuẩn đầu ra sinh viên, cái khó đo lường
148
đó sẽ dẫn đến thường quy về điểm tổng kết để đánh giá sinh viên có đạt chuẩn hay không, trong
thực tế điểm số chỉ phản ánh một phần năng lực của sinh viên; thứ hai, sinh viên cũng không xác
định được mục tiêu cụ thể để cố gắng trong quá trình học tập. Một khi mục tiêu chung chung,
không đo lường được thì cũng không thể đánh giá mình có đạt mục tiêu hay không; thứ ba, hệ
thống tiêu chuẩn như vậy gây khó khăn cho việc so sánh với nhu cầu của doanh nghiệp về chất
lượng nguồn nhân lực. Trong khi đó, đào tạo sinh viên đáp ứng hội nhập, đáp ứng yêu cầu doanh
nghiệp đang là xu hướng hiện này của các cơ sở đào tạo.
Chính vì những khó khăn đó, tác giả khuyến nghị các cơ sở đào tạo nói chung nên xây
dựng chuẩn đầu ra cho sinh viên theo khung năng lực, trong phạm vi bài viết này, tác giả gợi ý
xây dựng điển hình tại trường Đại học Lao động - Xã hội (Cơ sở 2).
3.2. Gợi ý xây dựng khung năng lực chuẩn đầu ra cho sinh viên ngành kế toán trường
Đại học Lao động - Xã hội (cơ sở 2) - Thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0
Trong thực tế, để xây dựng khung năng lực và từ điển năng lực có rất nhiều phương pháp
khác nhau. Trong phạm vi bài viết, tác giả trình bày theo các bước thường triển khai như sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu đào tạo cấp trường: Chuẩn năng lực đầu ra cho sinh viên tại
các cơ sở đào tạo khi xây dựng cần dựa theo 02 cơ sở chính: một là quy định của pháp luật hiện
hành, cụ thể ngày 16 tháng 4 năm 2015 Bộ Giáo dục và Đào tạo có ban hành Thông tư số
07/2015/TT-BGDĐT ban hành quy định về khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực
mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của giáo dục đại học và
quy trình xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ;
hai là chiến lược, mục tiêu Nhà trường trong đào tạo sinh viên. Nhà trường có thể tự quy định
chuẩn đầu ra cho sinh viên Nhà trường đào tạo, miễn sao không thấp hơn mức năng lực do Bộ
Giáo dục và Đào tạo quy định. Dựa trên 02 cơ sở đó, Nhà trường xác định chuẩn năng lực phù
hợp với điều kiện thực tế.
Bước 2: Thiết lập thang mức độ quan trọng và thành thạo cho khung năng lực:
- Về thang mức độ quan trọng, các cơ sở đào tạo nên chia thành 03 cấp độ: 1 tương ứng
với cấp độ ít quan trọng; 2 tương ứng với cấp độ quan trọng; và 3 là rất quan trọng. Có những
năng lực với ngành này có thể ít quan trọng nhưng với ngành khác lại quan trọng hoặc rất quan
trọng, ví dụ như kỹ năng giao tiếp, đối với ngành kế toán Nhà trường có thể xác định ở mức quan
trọng, nhưng với ngành quản trị kinh doanh lại cần yêu cầu ở mức độ rất quan trọng.
- Về thang mức độ thành thạo, hiện nay phổ biến là thang 4 hoặc 5 mức độ. Ở đây tác giả
khuyến nghị xây dựng thang 05 mức độ (vì thang năm mức độ có khả năng phân hóa năng lực
sinh viên cao; và các doanh nghiệp phổ biến xây dựng theo 5 mức độ). Mức độ 1 tương ứng với
Năng lực yếu (sinh viên hiểu biết cơ bản, làm tối thiểu); Mức độ 2 tương ứng Năng lực trung
bình (sinh viên hiểu biết tốt, chưa hoàn toàn làm độc lập, cần hỗ trợ); Mức độ 3 tương ứng Năng
lực khá (sinh viên hiểu biết sâu, thành thạo kỹ năng, làm được độc lập); Mức độ 4 là Giỏi (sinh
viên đạt mức 3 và cộng thêm sự sáng tạo); và mức độ 5 là Xuất sắc (sinh viên đạt mức 4 và có
thêm khả năng hướng dẫn người khác).
149
Bảng 1. Ví dụ biểu mẫu khung năng lực
Số
thứ
tự
Tên năng lực
Mức
độ
quan
trọng
Mức độ thành thạo
Mức 1.
Năng lực
Yếu
Mức 2.
Năng lực
Trung bình
Mức 3.
Năng
lực
Khá
Mức 4.
Năng lực
Giói
Mức 5.
Năng
lực Xuất
sắc
Nguồn: Tác giả xây dựng
Trên cơ sở đó, tác giả gợi ý khung năng lực đầu ra ví dụ như sau:
Bảng 2. Khung năng lực chuẩn đầu ra ngành Kế toán
Số
thứ
tự
Tên năng lực MĐQT
Mức độ thành thạo
Mức
1.
Năng
lực
Yếu
Mức
2.
Năng
lực
Trung
bình
Mức
3.
Năng
lực
Khá
Mức
4.
Năng
lực
Giói
Mức
5.
Năng
lực
Xuất
sắc
I Kiến thức
1.1
Kiến thức về chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam
1 X
1.2 Kiến thức pháp luật đại cương 2 X
1.3 Nghiên cứu khoa học 2 X
1.4 Luật và chuẩn mực kế toán Việt Nam 3 X
1.5 Kế toán doanh nghiệp 3 X
1.6 Kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp 3 X
1.7 Kiểm toán và kiểm toán báo cáo
tài chính 3 X
1.8 Phân tích báo cáo tài chính 3 X
1.9 Hệ thống thông tin kế toán 3 X
II Kỹ năng
2.1 Làm việc nhóm 2 X
2.2 Làm việc độc lập 2 X
150
2.3 Phân tích, tổng hợp 3 X
2.4 Sáng tạo 2 X
2.5 Quản lý thời gian 3 X
2.6 Tin học 3 X
2.7 Ngoại ngữ 3 X
III Tự chủ và trách nhiệm
3.1 Khả năng tự định hướng 2 X
3.2 Khả năng tự học tập 3 X
3.3 Trung thực 3 X
3.4 Cẩn thận 3 X
3.5 Đạo đức nghề nghiệp 3 X
Nguồn: Tác giả xây dựng
Bước 3: Xây dựng định nghĩa tên và mức độ năng lực: Sau khi xác định xong biểu mẫu
khung năng lực, công việc tiếp theo là xây dựng định nghĩa năng lực và định nghĩa cho 05 mức
độ của năng lực ấy. Việc định nghĩa các năng lực không nhất thiết phải xây dựng mới hoàn toàn
(vì sẽ mất rất nhiều thời gian) trong khi chúng ta có thể tham khảo tài liệu ở nhiều nguồn khác
nhau. Cơ sở đào tạo có thể tham khảo một số năng lực được phổ biến rộng rãi và được áp dụng
vào tổ chức rất tốt như: “42 năng lực theo Đại học Havard”, bộ năng lực do Viện phát triển nhân
lực (CIPD) của Vương quốc Anh phát triển. Các bộ năng lực này đã nêu đầy đủ định nghĩa năng
lực, mô tả các hành vi gắn với năng lực và các ví dụ. Việc cần làm là Nhà trường xác định năng
lực nào có thể cần, phân chia các hành vi thành các cấp độ từ thấp đến cao một cách khoa học,
phù hợp với thực tế Nhà trường.
Bảng 3: Ví dụ Kỹ năng làm việc nhóm
Kỹ năng làm việc nhóm
Định nghĩa: Là khả năng làm việc với tinh thần hợp tác và hiệu quả với người khác nhằm đạt
được kết quả.
Mức 1.
Năng
lực
Yếu
1.1. Từ chối /tỏ thái độ miễn cưỡng khi được yêu cầu tham gia vào một nhóm nào đó;
1.2. Ít khi đóng góp ý kiến để tìm giải pháp cho công việc của nhóm;
1.3. Đôi khi không tuân theo quy trình mà cả nhóm đã thống nhất mà chỉ thực hiện
công việc theo cách của bản thân.
Mức 2.
Năng
lực
Trung
bình
2.1. Bàng quan trước các hoạt động và quyết định của nhóm;
2.2. Hoàn thành phần nhiệm vụ của mình khi được phân công nhưng chưa thực sự
hòa đồng với mọi thành viên trong nhóm;
2.3. Chia sẻ thông tin hữu ích hoặc liên quan khi được yêu cầu;
2.4. Phản hồi mang tính xây dựng đối với các ý tưởng của các thành viên trong nhóm.
151
Mức 3.
Năng
lực
Khá
3.1. Tích cực tham gia và ủng hộ các quyết định cuối cùng của nhóm;
3.2. Tôn trọng người khác và hoàn thành phần nhiệm vụ của mình khi được nhóm
phân công;
3.3. Chủ động chia sẻ thông tin;
3.4. Lắng nghe và phản hồi tích cực đối với các ý tưởng của các thành viên trong nhóm;
3.5. Sẵn sàng đóng góp, chia sẻ công việc với người khác và hoàn thành nhiệm vụ
được giao;
3.6. Mô tả được cơ bản vai trò và trách nhiệm của thành viên trong nhóm;
3.7. Kịp thời thể hiện sự ghi nhận /và khen ngợi đóng góp của các thành viên khác
trong nhóm.
Mức 4.
Năng
lực
Giỏi
4.1. (3.1); 4.2. (3.2); 4.3. (3.3); 4.4. (3.4); 4.5. (3.5); 4.6. (3.6);
4.7. (3.7) và làm cho họ cảm thấy được đánh giá cao và tôn trọng;
4.8. Đảm bảo rằng các thành viên giỏi của nhóm được người ngoài nhóm biết đến;
4.9. Nỗ lực thúc đẩy sự hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm của các thành viên để thực hiện
mục tiêu của nhóm;
4.10. Có thể làm trung gian hòa giải giữa các thành viên của nhóm để giải quyết
xung đột.
Mức 5.
Năng
lực
Xuất
sắc
5.1. (3.1); 5.2. (3.2); 5.3. (3.3); 5.4. (3.4); 5.5. (3.5); 5.6. (3.6);
5.7. (4.7); 5.8. (4.8);
5.9. Làm gương trong việc thúc đẩy thành viên nhóm chia sẻ kinh nghiệm, chủ động
bàn bạc để có đề xuất và giải pháp hiệu quả;
5.10. Là người được thành viên nhóm tin cậy, tìm đến làm trung gian hòa giải khi có
xung đột;
5.11. Hỗ trợ thành viên trong nhóm thông qua việc kèm cặp, huấn luyện;
5.12. Xây dựng nhóm vững mạnh bằng cách phát huy tất cả các điểm mạnh của các
thành viên và kết nối tinh thần trong nhóm;
5.13. Tạo điều kiện hợp tác với các nhóm khác nhau trong tổ chức nhằm hoàn thành
mục tiêu chung.
Nguồn: Tác giả tự xây dựng, 2019
Tương tự như vậy chúng ta xây dựng định nghĩa cho từng năng lực còn lại được xác định
trong khung năng lực chuẩn đầu ra, tập hợp tất cả các năng lực này chúng ta gọi đó là Từ điển
năng lực chuẩn đầu ra dành cho sinh viên ngành Kế toán.
4. KẾT LUẬN
Mục tiêu quan trọng nhất của các cơ sở đào tạo hướng đến là trang bị cho sinh viên
những kiến thức, kỹ năng, và rèn luyện phẩm chất cá nhân để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Sinh
152
viên có đáp ứng nhu cầu của xã hội sẽ không thất nghiệp, từ đó tiếp tục nâng cao uy tín của cơ
sở đào tạo. Trong thời đại công nghệ bùng nổ, các doanh nghiệp đã chuyển mình bằng cách
xây dựng khung năng lực để quản trị nhân lực hiệu quả hơn, thì không còn lý do nào có thể
đưa ra để trì hoãn việc gắn kết nhu cầu của doanh nghiệp với chất lượng đầu ra của cơ sở đào
tạo, mà xây dựng khung năng lực cho chuẩn đầu ra sinh viên có thể nói là một giải pháp tối ưu
và hợp xu hướng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. (2019). Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam: Thực
trạng và giải pháp, từ https://www.gso.gov.vn/Modules/Doc_Download.aspx?
DocID=24603, truy cập 01/11/2019.
Hồng Vân. (2019). Nhiều lợi ích khi Việt Nam áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS, từ
https://baomoi.com/nhieu-loi-ich-khi-viet-nam-ap-dung-chuan-muc-ke-toan-quoc-te-ifrs/c/
29749337.epi, truy cập 01/9/2019.
Lucia, A. D., & Lepsinger, R. (1999), The art and science of competency models: Pinpointing
critical success factors in organizations New York: Pfeiffer.
McClelland. (1970). Competence in the Learning Society. Retrieved from
http://www.eyeonsociety.co.uk/resources/CLSCONTMOD.pdf, Truy cập ngày 28/8/2019.
Nguyễn, Thị Thanh Thắm. (2018). Kế toán-kiểm toán và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, từ
http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/tai-chinh-doanh-nghiep/ke-toan-kiem-toan-
va-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-40-136548.html, truy cập 01/9/2019.
Prahalad, & Hamel. (2017). The core competence of the Corporation. Retrieved from
https://link.springer.com/chapter/10.1007/978-3-662-41482-8_46, truy cập ngày
29/8/2019.
Schwab, K. (2017), The Fourth Industrial Revolution, Retrieved from
https://www.amazon.com/Fourth-Industrial-Revolution-Klaus-Schwab/dp/1524758868,
truy cập ngày 27/8/2019.
Skoulding, L. (2018). Fourth industrial revolution impacting accountancy. Retrieved from
https://www.accountancyage.com/2018/02/26/fourth-industrial-revolution-impacting-
accountancy/, Truy cập ngày 29/8/2019.
Yin, S., & Kaynak, O. (2015). Big data for modern industry: Challenges and Trends. Retrieved
from https://www.researchgate.net/publication/274067576_Big_Data_for_Modern_
Industry _Challenges_and_Trends_Point_of_View, Truy cập ngày 29/8/2019.
153
Đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên chuyên ngành kế toán
trong cách mạng công nghiệp 4.0
Phan Thị Thu Hà
Trường Đại học Quảng Bình
Email: Thuhaqbu@gmail.com
Mã bài: HTQG.03 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 10/11/2019
Ngày nhận bài: 01/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 13/11/2019
Tóm tắt
Với sự tác động của cách mạng công nghiệp 4.0, một trong những vấn đề mà các cơ sở đào
tạo chuyên ngành kế toán hiện nay đang rất chú trọng đó là tăng cường phát triển kỹ năng mềm
cho sinh viên kế toán với mong muốn sinh viên tốt nghiệp hội tụ đủ kỹ năng cứng và kỹ năng
mềm, trở thành những chuyên gia không chỉ giỏi trong lĩnh vực nghề nghiệp mà còn có những
kỹ năng cần thiết để làm việc hiệu quả, thích nghi với môi trường mới và sự phát triển của nền
kinh tế - xã hội. Trong nội dung bài viết, tác giả sẽ tiến hành khảo sát một số các quan điểm,
nghiên cứu nước ngoài về vai trò của kỹ năng mềm đối với sinh viên chuyên ngành kế toán, đánh
giá thực trạng và những vấn đề còn tồn tại trong đào tạo kỹ năng mềm trong các cơ sở đào tạo kế
toán ở Việt Nam, từ đó đưa ra một số đề xuất, giải pháp để phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên
chuyên ngành kế toán hiện nay.
Từ khóa: Kỹ năng mềm, sinh viên, chuyên ngành kế toán, CNCN 4.0.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã tác động tới mọi lĩnh vực hoạt động phát triển kinh tế
- xã hội, làm thay đổi căn bản đời sống xã hội, tạo ra những cơ hội và thách thức đối với đào tạo
nguồn nhân lực ngành kế toán. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, kinh tế
Việt Nam nói chung và lĩnh vực tài chính kế toán nói riêng sẽ tham gia vào chuỗi giá trị toán
cầu, vào thị trường dịch vụ tài chính và đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế đất nước.
Chính vì vậy, nhu cầu nhân lực kế toán, kiểm toán chất lượng cao tại Việt Nam được dự báo sẽ
tăng nhanh trong thời gian tới. Không thể phủ nhận vai trò của cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ 4 lên các lĩnh vực như hiện nay, với tác động sâu và rộng đó cần đào tạo nguồn nhân lực bên
cạnh tri thức cần có nhiều năng lực về tư duy, đổi mới, có các kỹ năng làm việc độc lập, phân
tích, phản biện và làm việc nhóm hiệu quả.
Có thể thấy, các lao động đã qua đào tạo của Việt Nam mặc dù được đánh giá là nhanh
nhẹn, sáng tạo và có thể đáp ứng được nhu cầu… nhưng lại thiếu và yếu kỹ năng mềm (như làm
154
việc theo nhóm, ngoại ngữ, tư duy phản biện, sáng tạo, tuân thủ công nghệ), tính tuân thủ kỷ luật
chưa nghiêm. Đứng trước những yêu cầu mới, đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải đào tạo nguồn nhân
lực kế toán không chỉ có năng lực về chuyên môn mà còn phải có khả năng tư duy, sáng tạo, có
khả năng phân tích, tổng hợp, làm việc độc lập và ra quyết định. Cuộc cách mạng công nghiệp
buộc các trường đại học, các cơ sở đào tạo phải nhìn nhận được những thách thức và yêu cầu
mới nhằm thay đổi và thích nghi thời đại, thay đổi một cách toàn diện, căn bản về phương thức
đào tạo nguồn nhân lực mới.
Để làm được điều đó, một trong những vấn đề mà các cơ sở đào tạo nói chung và cơ sở đào
tạo chuyên ngành kế toán nói riêng hiện nay đang rất chú trọng đó là tăng cường nhấn mạnh phát
triển kỹ năng mềm cho sinh viên kế toán với mong muốn sinh viên tốt nghiệp trở thành những
chuyên gia giỏi trong lĩnh vực nghề nghiệp và làm việc hiệu quả. Trong nội dung bài viết, tác giả
sẽ tiến hành khảo sát một số nghiên cứu, quan điểm nước ngoài về vai trò của kỹ năng mềm đối
với sinh viên chuyên ngành kế toán, đánh giá thực trạng và những vấn đề còn tồn tại trong đào
tạo kỹ năng mềm cho sinh viên kế toán Việt Nam, từ đó đưa ra một số đề xuất, giải pháp để phát
triển kỹ năng mềm cho sinh viên.
2. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI VỀ ĐÀO TẠO KỸ NĂNG
MỀM CHO SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH KẾ TOÁN
Có rất nhiều nghiên cứu của nước ngoài liên quan đến đào tạo kỹ năng mềm đối với sinh
viên chuyên ngành kế toán. Phần lớn các cuộc thảo luận về mục tiêu học tập cho giáo dục kế
toán đã được thúc đẩy bởi các báo cáo vị trí việc làm được ban hành bởi Hiệp hội Kế toán Hoa
Kỳ (AAA - Ủy ban về cấu trúc, nội dung và phạm vi của giáo dục Kế toán tương lai, 1986) hoặc
bởi các hiệp hội chuyên nghiệp và các công ty kế toán lớn kết hợp với AAA (Arthur Andersen và
cộng sự, 1989; Ủy ban thay đổi giáo dục kế toán, 1990; Albrecht & Sack, 2000; và Ủy ban
Pathwways, 2012). Một thông điệp chính của báo cáo vị trí việc làm kế toán là các chương trình
và giảng viên nên nhấn mạnh sự phát triển của kỹ năng mềm hoặc năng lực mở rộng; đó là năng
lực vượt ra ngoài kiến thức về chuyên môn kế toán. Những năng lực này bao gồm không giới
hạn các kỹ năng giao tiếp bằng văn bản và bằng lời nói, tư duy phê phán, nhận thức về đạo đức,
học tập suốt đời và làm việc theo nhóm. Nếu các khuyến nghị được đưa ra trong các báo cáo này
được thực hiện thành công, các chương trình giáo dục kế toán sẽ tạo ra những sinh viên tốt
nghiệp có năng lực kỹ thuật, chuyên môn, có đạo đức, khả năng giao tiếp, học tập độc lập, làm
việc nhóm hiệu quả…
Ủy ban Pathways (Ủy ban Giáo dục Kế toán PathWays, 2012) đại diện cho nỗ lực mới
nhất để thúc đẩy cải cách giáo dục kế toán. Trong báo cáo của mình, Ủy ban thừa nhận rằng các
khuyến nghị của mình với trọng tâm vẫn là phát triển các kỹ năng mềm hoặc năng lực vượt ra
ngoài kiến thức chuyên môn kế toán. Báo cáo của Ủy ban Pathways tập trung vào các trở ngại
để thay đổi và xác định các chiến lược thực hiện có thể làm cho những nỗ lực thay đổi giáo dục
kế toán trong tương lai thành công hơn trong quá khứ, qua đó thừa nhận rằng những cố gắng
trong quá khứ để cải thiện giáo dục kế toán đã không thành công. Ủy ban cung cấp một số bằng
chứng cho thấy các khuyến nghị sẽ hiệu quả hơn các nỗ lực cải cách giáo dục kế toán trước đây,
vì vậy có nhiều lý do để đặt câu hỏi tại sao sáng kiến thay đổi mới nhất này sẽ thành công hơn
những nỗ lực trước đây để cải thiện giáo dục kế toán.
155
Một loạt các bài báo bàn về công việc của Viện kế toán quản trị (IMA) và Bộ phận kế toán
quản trị AAA nhằm tìm hiểu các cách để kết hợp phát triển năng lực trong chương trình giáo dục
kế toán. Lawson và cộng sự (2014) đã cung cấp một khung giáo dục dựa trên năng lực có thể phù
hợp với những công việc kế toán khác nhau. Khung đề xuất bao gồm năng lực kế toán, năng lực
quản lý rộng và năng lực cơ bản (giao tiếp, công nghệ, tư duy phân tích và giải quyết vấn đề…).
Khung giáo dục được đề xuất bởi IMA / AAA tiếp tục nhấn mạnh vào việc phát triển kỹ năng
mềm cho sinh viên kế toán.
Trong một bài viết liên quan, Lawson và cộng sự (2015) khám phá cách thức để nền tảng
và năng lực quản lý rộng có thể được tích hợp vào chương trình giảng dạy kế toán. Lawson và
cộng sự (2017) minh họa cho rằng chương trình khung giảng dạy kế toán tích hợp có thể được
quản lý hiệu quả hơn bằng cách sử dụng phương pháp tiếp cận vòng đời. Ngoài ra, nhiều nhà giáo
dục kế toán nghiêm túc xem xét một số hạn chế trong quá khứ về giáo dục kế toán và thực hiện các
thay đổi để kết hợp “kỹ năng mềm” trong các khóa học và chương trình giảng dạy (Siegel và cộng
sự, 2010).
Như vậy, qua tổng hợp một số các nghiên cứu cho thấy vai trò của kỹ năng mềm trong đào
tạo kế toán rất được quan tâm ở dưới nhiều góc độ khác nhau trong các chương trình giáo dục kế
toán ở các quốc gia trên thế giới. Từ việc khảo sát các nghiên cứu này cho thấy, xu hướng đào
tạo kỹ năng mềm đang rất được chú ý để phát triển trong đào tạo nguồn nhân lực kế toán trong
tương lai. Hơn bao giờ hết, đào tạo kỹ năng mềm của sinh viên chuyên ngành kế toán ở Việt
Nam cần được xem xét một cách nghiêm túc để sinh viên có thể thích nghi với những ảnh
hưởng, tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, từ đó giáo dục, đào tạo nhân lực kế toán
Việt Nam có thể hội nhập, bắt kịp với xu hướng đào tạo kế toán trên thế giới.
3. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA KỸ NĂNG MỀM ĐỐI VỚI SINH VIÊN CHUYÊN
NGÀNH KẾ TOÁN
Kỹ năng mềm (soft skills) là thuật ngữ liên quan đến trí tuệ xúc cảm dùng để chỉ các kỹ
năng quan trọng trong cuộc sống con người như: kỹ năng sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo
nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, thư giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và đổi mới...
Kỹ năng mềm là hành vi ứng xử của mỗi người, cách thức tương tác với bạn bè, đồng
nghiệp, cách làm việc nhóm, là các kỹ năng mang tính con người nhằm mục đích bổ trợ trong hoạt
động nghề nghiệp, nâng cao vốn sống, khả năng hòa nhập, phát huy tối đa năng lực cá nhân. Bên
cạnh những kiến thức về chuyên môn, kỹ năng mềm là một trong những nhân tố quan trọng hàng
đầu ảnh hưởng đến quyết định của các nhà tuyển dụng của doanh nghiệp. Đây là chìa khóa vàng
dẫn đến thành công vì nó thể hiện cách sống, cách tích lũy kinh nghiệm từ xã hội và cuộc sống.
Kỹ năng mềm có vai trò vô cùng quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự thành bại trong sự
nghiệp và cuộc sống của mỗi cá nhân, đặc biệt trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi
nguồn lao động kế toán bên cạnh các kiến thức chuyên môn được trang bị thì cần có những kỹ
năng tự học và học tập suốt đời, kỹ năng tư duy độc lập, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thuyết
trình, kỹ năng ra quyết định để thích ứng thích ứng nhanh với những biến động thường xuyên, đa
dạng, phức tạp của môi trường làm việc và xã hội. Khi đánh giá năng lực của người lao động,
156
người sử dụng lao động, chủ doanh nghiệp cũng thường căn cứ vào các tiêu chí liên quan đến
kiến thức, kĩ năng và thái độ đối với công việc. Những người sử dụng lao động coi trọng các kỹ
năng mềm vì đây là một nhân tố đánh giá con người rất hiệu quả.
Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, sinh viên được trang bị kỹ năng mềm có thể tiếp
tục tự nghiên cứu, tự học tập, tự rèn luyện kĩ năng chuyên môn, thường xuyên cập nhật những
thay đổi của khoa học, công nghệ, giúp người lao động có đủ kĩ năng để xử lí mọi tình huống
xảy ra trong quá trình làm việc hàng ngày. Bên cạnh đó, sinh viên trong quá trình học tập sẽ
tham gia tích cực chủ động hơn trong các hoạt động chung, hoạt động xã hội, biết cách tổ chức
chuyên nghiệp và sáng tạo các hoạt động ngoại khóa, nâng cao kết quả học tập, biết cách thiết
lập các mối quan hệ thân thiện với mọi đối tượng, có nhiều hơn các cơ hội nghề nghiệp và chắc
chắn rằng sẽ giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong cuộc sống một cách hiệu quả hơn.
Như vậy, có thể thấy, kỹ năng mềm là hành trang không thể thiếu của sinh viên, trong đó
có sinh viên chuyên ngành kế toán để phát triển nghề nghiệp trong tương lai.
4. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỄN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN
CHUYÊN NGÀNH KẾ TOÁN
Các trường đại học, cao đẳng, các cơ sở đào tạo chuyên ngành kế toán hiện nay đã nhận
thức được vai trò của giảng dạy kỹ năng mềm cho sinh viên chuyên ngành kế toán. Trong chuẩn
đầu ra của các trường đại học đều ghi rõ về các kỹ năng mà sinh viên sau khi ra trường cần đạt
được, trong đó bao gồm kỹ năng cứng và kỹ năng mềm.
Để đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu và yêu cầu của thị trường lao động, chương trình đào tạo kỹ
năng mềm được đưa vào giảng dạy tại một số trường đại học, cao đẳng, bắt đầu từ khoảng năm
2010 trở đi. Các kỹ năng mềm chủ yếu được các cơ sở đào tạo chú trọng bên cạnh đào tạo kiến
thức chuyên ngành bao gồm: khả năng tự học, tự lập kế hoạch, tổ chức công việc, khả năng giải
quyết vấn đề, làm việc nhóm, thuyết trình, tư duy sáng tạo, kỹ năng lắng nghe…
Hoạt động giảng dạy, đào tạo kỹ năng mềm phải xuất phát từ nhu cầu sinh viên và nhu cầu
thị trường lao động. Sinh viên chỉ có thể tích cực tham gia học tập nếu những kiến thức và kỹ
năng mềm đó là có ích, cần thiết cho nghề nghiệp, cho tương lai của họ. Tuy nhiên, vấn đề đào
tạo kỹ năng mềm cho người học chưa tạo được sự chuyển biến rõ nét trong nhận thức người học.
Bảng 1. Các kỹ năng mềm trong chuẩn đầu ra ở một số trường đào tạo chuyên ngành kế toán
ĐH Kinh tế quốc dân ĐH Quốc gia Hà Nội ĐHTôn Đức Thắng
- Khả năng tự học, và
nghiên cứu khoa học độc lập,
biết soạn thảo các văn bản
kinh tế.
- Khả năng trình bày một
cách rõ rang, tự tin và thuyết
phục các chủ đề về kinh tế xã
hội.
Có khả năng làm việc độc lập;
tự học hỏi và tìm tòi, làm việc có
kế hoạch và khoa học; có kỹ
năng quản lý thời gian, phân bổ
công việc cá nhân, có khả năng
làm việc nhóm.
- Có kỹ năng giao tiếp tốt (kỹ
năng thuyết trình và đàm phán
Tối thiểu sinh viên đạt
được 05 kỹ năng như:
- Phương pháp học tập
hiệu quả;
- Kỹ năng giao tiếp;
- Kỹ năng đàm phán và
thương lượng;
157
- Khả năng phát hiện và giải
quyết các vấn đề một cách
khoa học
- Kỹ năng làm việc độc lập
và tổ chức công việc theo
nhóm.
-Giao tiếp, truyền tải tiếp
nhận thông tin và xử lý thông
tin.
trong kinh doanh; kỹ năng giao
dịch qua điện thoại, e-mail), giao
tiếp được bằng tiếng Anh với
trình độ tương đương IELTS 5.0
trở lên.
- Có thể dùng thành thạo
Microsoft Office (Word, Excel,
Power Point) và một số phần mềm
kế toán; có thể sử dụng thành thạo
internet và các thiết bị văn phòng.
- Kỹ năng làm việc nhóm;
- Kỹ năng viết và trình
bày.
- Kỹ năng an toàn, rèn
luyện sức khỏe và tinh
thần đồng đội: bơi liên tục
được 50m; chơi tốt tối
thiểu 1 môn thể thao;
Nguồn: Tổng hợp từ các chuẩn đầu ra công bố trên website của các trường
Để đạt được mục tiêu đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên chuyên ngành kế toán, các cơ sở
đào tạo đã dần tích hợp việc giảng dạy kỹ năng mềm cho sinh viên dưới nhiều hình thức khác
nhau như đưa vào trong nội dung giảng dạy của từng học phần hoặc có các học phần, khóa học
riêng biệt để đào tạo kỹ năng cho sinh viên. Tuy có nhiều nỗ lực và cố gắng đưa giảng dạy kỹ
năng mềm vào trong chương trình giáo dục ngành kế toán, tuy nhiên đào tạo kỹ năng mềm trong
các cơ sở đào tạo chuyên ngành kế toán vẫn còn một số tồn tại những vấn đề như sau:
Thứ nhất, kỹ năng mềm cần đạt được thể hiện trong chuẩn đầu ra và ở các chương trình
giáo dục kế toán giữa các trường đại học có nhiều sự khác nhau. Có thể thấy có rất nhiều kỹ năng
mềm mà nguồn nhân lực cần đạt được sau khi tốt nghiệp. Qua khảo sát về các kỹ năng mềm ở
các cơ sở đào tạo (ở bảng 1) thì có thể thấy hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất về các kỹ năng
mềm nào được xem là cần thiết nhất cho công việc của nhân lực kế toán mà các kỹ năng mềm là
do từng trường đại học, từng cơ sở đào tạo đưa ra theo định hướng đào tạo của mình. Do đó, theo
tác giả, việc xác định được nguồn nhân lực ngành kế toán thực sự cần những kỹ năng gì để từ đó
các cơ sở đào tạo có thể thiết kế chương trình giáo dục phù hợp nhằm đào tạo được các kỹ năng
đó cho người học nhằm đáp ứng chuẩn đầu ra là vấn đề cần được quan tâm.
Thứ hai, ý thức của sinh viên về kỹ năng mềm còn chưa cao. Sinh viên chuyên ngành kế
toán đa phần vẫn chưa nhận thức được hết tầm quan trọng của việc trang bị kỹ năng mềm, do đó
chưa đầu tư nghiêm túc vào việc học tập kỹ năng mềm, việc học tập còn thiếu tính chủ động, tự
tìm tòi, mở rộng kiến thức.
Thứ ba, các phương pháp giảng dạy chưa linh hoạt, các phương pháp còn mang nặng tính
truyền thống, lý thuyết. Các phương pháp giảng dạy và đánh giá chưa phù hợp hoặc thiếu đồng
bộ trong nội dung các học phần do đó chưa đo lường được mức độ tiếp nhận của sinh viên trong
việc trang bị các kỹ năng mềm cần thiết.
Thứ tư, đội ngũ giảng viên chưa được đào tạo bài bản để giảng dạy về kỹ năng mềm cho
sinh viên chuyên ngành kế toán. Có nhiều giảng viên chưa có nhiều kinh nghiệm hoặc thiếu
phương pháp trong việc truyền đạt và giảng dạy kỹ năng mềm cho sinh viên, các cơ sở đào tạo
chưa có nhiều chính sách khuyến khích, bắt buộc giảng viên phải đưa nội dung giảng dạy về kỹ
158
năng mềm là điều kiện bắt buộc. Việc giảng dạy kỹ năng mềm cho sinh viên chủ yếu được tích
hợp trong nội dung giảng dạy của các học phần, do đó có nhiều học phần thì chú trọng vào kỹ
năng thuyết trình, kỹ năng làm việc nhóm, tuy nhiên các kỹ năng khác thì vấn chưa được quan
tâm. Ngoài ra có thể thấy việc dạy kỹ năng mềm cho sinh viên không chỉ nên dừng lại trong việc
lồng ghép vào nội dung của bài dạy mà cần phải có một chương trình cụ thể, rõ ràng để trang bị
thêm cho sinh viên ngành kế toán các kỹ năng mà cơ sở đào tạo mong muốn người học đạt được.
5. KHUYẾN NGHỊ
5.1. Nâng cao nhận thức của người học về sự cần thiết của kỹ năng mềm
Người học phải có nhận thức đúng về vai trò của kỹ năng mềm đối với nghề nghiệp của
bản thân để từ đó tích cực, chủ động trong việc học tập, tiếp thu và phát triển kỹ năng mềm. Từ
đó, người học mới có ý thức rèn luyện và vận dụng hiệu quả vào các tình huống khác nhau của
cuộc sống, vào công việc của họ hiện tại và tương lai. Sinh viên có thể chủ động nâng cao kỹ
năng mềm cho bản thân thông qua nhiều hình thức khác nhau như tham gia tích cực vào các
chương trình học kỹ năng mềm trong trường học, tìm kiếm các khóa học, đào tạo uy tín bên
ngoài hoặc tự mình trải nghiệm thực tế, tích cực tham gia các hoạt động học tập và chủ động
trong các phương pháp học tập mới như thuyết trình, làm việc nhóm, tham gia các hoạt động
đoàn, hội, các câu lạc bộ theo nhu cầu và sở thích của bản thân để tích lũy các kỹ năng cần thiết
như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống. Ngoài ra, sinh viên có thể tìm kiếm việc công việc bán thời
gian phù hợp với ngành nghề kế toán để tích lũy kinh nghiệm, kỹ năng làm việc hỗ trợ tích cực
cho công việc tương lai, tham gia các công tác xã hội giúp nâng cao tinh thần cộng đồng, nhận
định rõ nét và định hướng đúng đắn giá trị bản thân.
5.2. Đổi mới phương pháp giảng dạy kế toán theo hướng hiện đại
Giảng dạy kỹ năng mềm cho sinh viên kế toán khác nhiều so với giảng dạy các môn
chuyên ngành thuần túy, đòi hỏi người giảng viên phải có kiến thức chuyên môn, am hiểu tâm lý
lứa tuổi, có kinh nghiệm và sự trải nghiệm thực tế. Hiện nay, việc giảng dạy kỹ năng mềm cho
sinh viên đươc giảng viên tích hợp trong quá trình giảng dạy và truyền đạt. Việc này giúp cho
người học có thể ứng dụng các kỹ năng mềm được biết vào những hoạt động thực tế. Tích hợp
kỹ năng mềm vào việc giảng dạy là điều cần thiết và cũng là xu hướng của nhiều trường đại học
trên thế giới, là môi trường để sinh viên rèn luyện kỹ năng ngay khi bước vào giảng đường đại
học. Qua đó, người học có thêm thời gian và hoạt động để hình thành kỹ năng một cách tốt
nhất. Tuy nhiên có thể thấy để tích hợp kỹ năng mềm dạy hiệu quả phụ thuộc nhiều vào giảng
viên. Một số phương pháp mà giảng viên có thể sử dụng trong quá trình giảng dạy cho sinh viên
chuyên ngành kế toán các kỹ năng mềm bao gồm:
Phương pháp học dựa vào dự án: Phương pháp học dựa vào dự án (Project based
Learning) là tổ chức việc dạy và học thông qua các dự án hay công trình thực tế. Mục tiêu của
phương pháp học theo dự án là để sinh viên học nhiều hơn về một chủ đề chứ không phải là tìm
ra những câu trả lời đúng cho những câu hỏi được giáo viên đưa ra. Phương pháp này yêu cầu
sinh viên cộng tác với các bạn cùng lớp trong một khoảng thời gian nhất định để giải quyết
159
những vấn đề và cuối cùng trình bày công việc mình đã làm trước giảng viên và các sinh viên
khác. Phương pháp này cũng đòi hỏi các sinh viên phải đặt câu hỏi, đồng thời tìm kiếm những
mối liên hệ và giải pháp để giải quyết vấn đề. Việc áp dụng phương pháp giảng dạy này sẽ làm
thay đổi môi trường học của sinh viên từ chỗ nghe giảng viên nói sang môi trường làm việc, tư
duy. Từ đây, người học sẽ tham gia vào thiết kế, đưa ra quyết định hay khảo sát các hoạt động có
liên quan đến dự án. Với phương pháp học này, người học sẽ phải làm việc theo nhóm và khám
phá những vấn đề gắn liền với cuộc sống, sau đó sẽ thuyết trình trước lớp và chia sẻ những gì họ
đã làm được trong dự án của mình. Đây là mô hình học tập có nhiều khác biệt so với mô hình
học tập truyền thống. Phương pháp học theo dự án mang đến rất nhiều lợi ích, giúp sinh viên có
khả năng kết hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực, tạo nên công cụ hỗ trợ liên ngành để giải quyết vấn
đề. Đối với những vấn đề khó, phức tạp, phương pháp này còn cho phép sinh viên khám phá,
đánh giá, giải thích và tổng hợp thông tin một cách khoa học.
Phương pháp động não (Brainstorming): Tác giả của phương pháp Brainstorming là Alex
Osborn (Hoa Kỳ). Mục đích chính của phương pháp này là giúp người học thoát ra khỏi tư duy
theo lối mòn và tạo ra một loạt các ý tưởng mới. Phương pháp này áp dụng phù hợp với nhóm
sinh viên.
Phương pháp Mô phỏng (Simulations): Thường được dùng trong nghiên cứu khoa học, là
quá trình phát triển mô hình hóa rồi mô phỏng một đối tượng cần nghiên cứu. Thay cho việc phải
nghiên cứu đối tượng cụ thể mà nhiều khi là không thể hoặc rất tốn kém tiền của, chúng ta xây
dựng những mô hình hóa của đối tượng đó trong phòng thí nghiệm và tiến hành nghiên cứu đối
tượng đó dựa trên mô hình hóa này. Hiện nay trong đào tạo chuyên ngành kế toán có thể ứng
dụng hình thức phòng kế toán ảo. Mô hình phòng kế toán ảo là việc mô phỏng các nghiệp vụ,
công việc trình tự thực hiện công việc của phòng kế toán tại một doanh nghiệp và từ đó sinh viên
có thể thực hành các phần hành, công việc kế toán trên phòng kế toán ảo này. Công việc thực
hành này giống như việc sinh viên làm kế toán thực tại phòng kế toán doanh nghiệp. Sau khi sinh
viên thực hành phòng kế toán ảo, học viên hình dung được toàn bộ công việc kế toán tại một
doanh nghiệp, từ hệ thống chứng từ kế toán, sổ sách kế toán, báo cáo tài chính, báo cáo thuế
GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp, các quy định về thủ tục hành chính, chế độ báo cáo, thời
điểm và nơi nộp báo cáo.
Phương pháp nghiên cứu tình huống (Case studies): Nghiên cứu tình huống là một công
cụ được sử dụng trong giảng dạy. Yếu tố cấu thành chủ yếu của phương pháp đào tạo mới này
dựa trên các tình huống thực tế của cả sinh viên và giảng viên. Mục đích chính của các tình
huống là để miêu tả, trao đổi kinh nghiệm về cách thức giải quyết vấn đề và những mâu thuẫn
trong khi thực hiện công việc được giao.
5.3. Hoàn thiện chương trình giáo dục và đào tạo ngành kế toán
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thời hội nhập đã dẫn đến việc các nhà tuyển dụng
cũng ngày càng yêu cầu nhân lực khắt khe hơn. Đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng, các cơ
sở đào tạo trong đào tạo nhóm ngành Kế toán ngày càng cải tiến chương trình lẫn phương thức
đào tạo, nhằm trang bị đầy đủ về kiến thức và kỹ năng cho sinh viên. Chương trình đào tạo cần
160
được thiết kế theo hướng từ truyền thụ kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực của sinh
viên, các nội dung chương trình phải được xây dựng theo hướng thực tế, quốc tế hóa gắn liền với
sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Các chương trình giáo dục đại học kế toán
hiện nay cần xác định các chuẩn năng lực chung và năng lực chuyên môn; các hình thức tích hợp
hoặc phân hóa trong chương trình dạy học tùy theo cấp học. Tỷ lệ thời lượng các học phần có kỹ
năng mềm trong chương trình học cũng cần được quy định rõ ràng và phải có cách thức đánh giá
phù hợp để đảm bảo tất cả người học được trang bị các kỹ năng mềm trong chương trình đào tạo
đề ra.
Có thể thấy mục tiêu đào tạo của các trường đại học đào tạo chuyên ngành kế toán có sự
khác nhau trong đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên. Việc xác định lại mục tiêu học tập, đào tạo
và chuẩn đầu ra của chương trình giáo dục ngành kế toán cần xác định lại các kỹ năng mềm mà
sinh viên cần đạt được sau khi ra trường là hết sức cần thiết.
Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo kế toán cũng cần chú ý đến vấn đề đầu tư cơ sở vật chất
nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho giảng dạy của giảng viên và học tập của sinh viên, tạo điều kiện
thuận lợi về môi trường học tập và rèn luyện kỹ năng mềm cho sinh viên, tổ chức nhiều chương
trình giao lưu học tập giữa doanh nghiệp, những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực kế toán,
kiểm toán để sinh viên có cơ hội học hỏi, trải nghiệm. Các chương trình khởi nghiệp, các cuộc
thi về kế toán kiểm toán, các phong trào học tập và rèn luyện cho sinh viên cần được tổ chức
thiết thực và hiệu quả để thu hút nhiều sự quan tâm của người học tham gia phát triển các kỹ
năng mềm…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Albrecht, W. S., & Sack, R. J. (2000). Accounting education; Charting the course through a
perilous future. American Accounting Association, Sarasota: Florida.
American accounting association (Bedford committee) committee on the future structure, content
and scope of accounting education. (1986). Future accounting education: Preparing for the
expanding profession. Accounting Education, 1(1):168–175.
Arthur Andersen, Arthur Young, Coopers & Lybrand, Deloitte Haskins & Sells, Ernst and
Whinney, Peat Marwick Main & Co., Price Waterhouse, Touche Ross, 1989. Perspectives
on education: Capabilities for success in the accounting profession
James E. Rebele, E. Kent St. Pierre (2019), A commentary on learning objectives for accounting
education programs: The importance of soft skills and technical knowledge, Journal of
Accounting Education
Lawson, R. A., Blocher, E. J., Brewer, P. C., Cokins, G., Sorensen, J. E., Stout, D. E., Wouters,
M. J. F. (2014). Focusing accounting curricula on students’ long-run careers:
Recommendations for an integrated competency-based framework for accounting
education. Accounting Education, 29(2), 295–317.
161
Lawson, R. A., Blocher, E. J., Brewer, P. C., Morris, J. T., Stocks, K. D., Sorensen, J. E., &
Wouters, M. J. F. (2015). Thoughts on competency integrationin accounting education.
Accounting Education, 30(3), 149–171.
Lawson, R. A., Pincus, K. V., Sorensen, J. E., Stocks, K. D., & Stout, D. E. (2017). Using a life-
cycle approach to manage and implement curricular change based on competency
integration. Accounting Education, 32(3), 137–152.
Lowery, C., & Beadles, N. (2009). Assessing the impact of business ethics instruction: A review
of the empirical evidence. Journal of the Academy of Business Education, 9, 31–48
Lê Thị Hoài Lan (2017), Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên khoa Kinh tế trường Đại học
Đồng Nai theo tiếp cận chuẩn đầu ra, Tạp chí khoa học đại học Đồng Nai, số 6/2017.
Nguyễn Thành Hải và cộng sự (2010), Giới thiệu một số phương pháp giảng dạy cải tiến giúp
sinh viên chủ động học tập và trải nghiệm, đạt chuẩn đầu ra theo CDIO, Đại học Quốc gia
TP. HCM - Hội thảo CDIO 2010.
Phạm Thị Thu Oanh (2018). Kế toán, kiểm toán Việt Nam trong cuộc Cách mạng công nghiệp
4.0. Tạp chí tài chính.
Siegel, G., Sorensen, J., Klammer, T., & Richtermeyer, S. (2010). The ongoing preparation gap
in management accounting education: A guide for change. Management Accounting
Quarterly, Summer, 29–3
The Commission on Accounting Higher Education’s Pathways to a Profession (2012). Charting a
national strategy for the next generation of accountants, American Accounting Association,
Sarasota, FL.
162
Blockchain với ngành kế toán kiểm toán
Nguyễn Thị Khánh Phương
Học viện Ngân hàng
Email: phuongntk029@gmail.com
Mã bài: HTQG.05 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 05/11/2019
Ngày nhận bài: 02/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 10/11/2019
Tóm tắt
Cách mạng công nghiệp 4.0 là sự hội tụ kỹ thuật số gồm: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết
nối - Internet of Things (IoT) - và Dữ liệu lớn (Big Data). Cuộc cách mạng này tập trung khai
thác nguồn tài nguyên dữ liệu, tuy nhiên không phải tất cả các dữ liệu đều có vai trò và giá trị
giống nhau, bên cạnh đó, dữ liệu còn tiềm ẩn những vấn đề về an ninh bảo mật và lòng tin của
con người. Do đó, việc xây dựng nên một nguồn dữ liệu số có ích mà lại không sợ bị đánh cắp
chính là lời giải cho bài toán trên. Blockchain chính là nguồn tài nguyên dữ liệu đó. Bài viết này
tác giả tập trung vào phân tích những thuận lợi, thách thức và ứng dụng của công nghệ
blockchain với ngành kế toán kiểm toán trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, blockchain, kế toán kiểm toán.
1. GIỚI THIỆU
Gần đây, khái niệm về blockchain - công nghệ đằng sau đồng tiền số “nóng” nhất hiện
nay gây được nhiều sự chú ý trên các diễn đàn trong và ngoài nước. Do đó, ở Việt Nam cũng
có một số tác giả đã và đang tiến hành nghiên cứu các vấn đề về Block chain như Nguyễn
Thanh Huyền (2018), Trương Thị Hoài, Đào Thị Lan (2019) đã tìm hiểu về các nội dung trọng
tâm như công nghệ Blockchain, nguyên lý hoạt động, giải pháp ứng dụng của Blockchain trong
lĩnh vực kế toán, kiểm toán.Tuy nhiên, có một điều có thể mọi người đề cập đến hơn đó là
công nghệ blockchain đem lại những thuận lợi và thách thức gì, có ảnh hưởng lớn như thế nào
đến ngành Kế toán Kiểm toán trong bổi cảnh ứng dụng công nghệ 4.0 hiện nay là vấn đề sẽ
được nghiên cứu trong bài viết này.
2. KHÁI NIỆM BLOCKCHAIN
Blockchain được xem là một công nghệ "chìa khóa" cho chuyển đổi số và xây dựng nền
tảng công nghệ thông tin tương lai. Theo định nghĩa từ trang wikipedia thì: Blockchain (chuỗi
khối), tên ban đầu blockchain là một cơ sở dữ liệu phân cấp lưu trữ thông tin trong các khối
thông tin được liên kết với nhau bằng mã hóa và mở rộng theo thời gian. Mỗi khối thông tin đều
163
chứa thông tin về thời gian khởi tạo và được liên kết tới khối trước đó, kèm một mã thời gian và
dữ liệu giao dịch. Blockchain được thiết kế để chống lại việc thay đổi của dữ liệu: Một khi dữ
liệu đã được mạng lưới chấp nhận thì sẽ không có cách nào thay đổi được nó.
Blockchain đầu tiên được phát minh và thiết kế bởi Satoshi Nakamoto vào năm 2008 và
được hiện thực hóa vào năm sau đó như là một phần cốt lõi của Bitcoin, khi công nghệ
blockchain đóng vai trò như là một cuốn sổ cái cho tất cả các giao dịch. Qua việc sử dụng mạng
lưới ngang hàng và một hệ thống dữ liệu phân cấp, Bitcoin blockchain được quản lý tự động.
Việc phát minh ra blockchain cho Bitcoin đã làm cho nó trở thành loại tiền tệ kỹ thuật số đầu
tiên giải quyết được vấn đề double spending (chi tiêu gian lận khi 1 lượng tiền được dùng 2 lần).
Công nghệ này của Bitcoin đã trở thành nguồn cảm hứng cho một loạt các ứng dụng khác. Mạng
lưới Bitcoin sắp xếp các giao dịch bằng cách nhóm chúng lại vào các nhóm được gọi là các khối
(block), mỗi khối chứa một số lượng các giao dịch nhất định và một liên kết đến khối trước đó.
Như vậy, theo thời các giao dịch tăng lên thì các khối cũng sẽ tăng và liên kết nối đuôi nhau và
được tổ chức thành chuỗi, từ đó hệ thống được hình thành với tên gọi là: blockchain.
Blockchain được đảm bảo nhờ cách thiết kế sử dụng hệ thống tính toán phân cấp với khả
năng chịu lỗi byzantine cao. Vì vậy sự đồng thuận phân cấp có thể đạt được nhờ Blockchain. Vì
vậy Blockchain phù hợp để ghi lại những sự kiện, hồ sơ y tế, xử lý giao dịch, công chứng, danh
tính và chứng minh nguồn gốc. Việc này có tiềm năng giúp xóa bỏ các hậu quả lớn khi dữ liệu bị
thay đổi trong bối cảnh thương mại toàn cầu.
Công nghệ Blockchain - sự kết hợp giữa 3 loại công nghệ: Mật mã học: để đảm bảo tính
minh bạch, toàn vẹn và riêng tư thì công nghệ blockchain đã sử dụng public key và hàm hash
function. Mạng ngang hàng: Mỗi một nút trong mạng được xem như một client và cũng là
server để lưu trữ bản sao ứng dụng. Lý thuyết trò chơi: Tất cả các nút tham gia vào hệ thống
đều phải tuân thủ luật chơi đồng thuận (giao thức PoW, PoS) và được thúc đẩy bởi động lực kinh
tế. Trên góc độ một doanh nghiệp: blockchain có thể gọi là một sổ cái kế toán. Vĩ mô hơn nữa thì
nó đóng vai trò như một cơ sở dữ liệu hay một cấu trúc dữ liệu chứa đựng tài sản, ghi chép lại
lịch sử tài sản của tất cả mọi người trong hệ thống mạng ngang hàng. Trên góc độ kỹ thuật:
blockchain là 1 phương thức bất biến để lưu trữ lịch sử các giao dịch tài sản. Trên góc độ xã hội:
blockchain giúp thiết lập niềm tin bằng quy tắc đồng thuận giữa các thành viên trong 1 hệ thống
phân cấp [8].
3. CÁC PHIÊN BẢN CỦA CÔNG NGHỆ BLOCKCHAIN
Theo “Blockchain: Blueprint for a New Economy” của Malanie Swan thì Blockchain được
chia làm 3 phiên bản.
Blockchian Version 1.0 - Currencies: Ứng dụng vào tiền thuật toán: bao gồm chuyển đổi
tiền tệ, kiều hối và hệ thống thanh toán kỹ thuật số. Đây cũng là lĩnh vực quen thuộc với chúng ta
nhất và xem như là lãnh thổ của Bitcoin và những các loại tiền điện tử khác.
Blockchain Version 2.0 - Contracts: Ứng dụng trong xử lý tài chính và ngân hàng: mở
rộng blockchain, đưa vào các ứng dụng tài chính và thị trường. Các tài sản bao gồm cổ phiếu, chi
phiếu, nợ, quyền sở hữu và bất kỳ điều gì có liên quan đến thỏa thuận hay hợp đồng.
164
Blockchain Version 3.0 - Organizing Activity: Đưa blockchain vượt khỏi biên giới tài
chính, và đi vào các lĩnh vực như giáo dục, chính phủ, y tế và nghệ thuật. Ở những lĩnh vực này
sẽ có nhiều loại như physical, digital hay human in nature [8].
Thuận lợi của công nghệ Blockchain với ngành kế toán kiểm toán
Thứ nhất, công nghệ Blockchain đảm bảo hệ thống kế toán minh bạch và an toàn.
Công nghệ blockchain trong Kế toán - Kiểm toán làm giảm phần lớn khả năng xảy ra sai
sót khi đối chiếu các thông tin phức tạp và khác biệt từ nhiều nguồn khác nhau. Hơn nữa, hồ sơ
kế toán sẽ không thể chỉnh sửa và thay đổi một khi đã được lưu vào blockchain, ngay cả khi chủ
sở hữu hệ thống kế toán yêu cầu. Bởi trên nền tảng blockchain, mọi giao dịch hàng ngày được
ghi chép lại và xác thực, do đó tính vẹn toàn của các hồ sơ tài chính được đảm bảo. Bên cạnh
những khả năng ấn tượng kể trên, công nghệ này còn có khả năng làm giảm hoặc thậm chí loại
bỏ nhu cầu kiểm toán tài nguyên nguồn dữ liệu. Bên cạnh đó, Blockchain, một hệ thống sổ kế
toán phân tán phân phối các giao dịch, có thể ngăn chặn những vụ bê bối kế toán và tham nhũng
công khai. Monica Singer, cựu cố vấn và giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Học viện Kế toán SA
cho biết. "Lần đầu tiên trong lịch sử, chúng tôi có một công nghệ cho phép chúng ta tưởng tượng
một thế giới minh bạch và không có tham nhũng", Singer nói với tư cách là đại sứ cho công ty
Blocken có trụ sở tại New York ConsenSys.
Blockchain có thể đảm bảo chắc chắn về thời gian và số tiền mua các hàng hoá, nhưng
không thể đảm bảo tình trạng của hàng hóa đó, hoặc sự định giá của mặt hàng đó một khi điều
kiện thị trường thay đổi.
Thứ hai, công nghệ Blockchain giúp giảm khả năng sai sót trong kế toán
Blockchain được thiết kế với tính năng chống lại sự thay đổi dữ liệu. Thông tin trong
blockchain không thể bị thay đổi và chỉ được bổ sung thêm khi có sự đồng thuận trong hệ thống.
Ngay cả khi nếu một phần của hệ thống blockchain sụp đổ, những máy tính và nút khác sẽ tiếp tục
hoạt động để bảo vệ thông tin. Blockchain có tác dụng làm giảm phần lớn khả năng xảy ra sai sót,
không thể sửa chữa, thay đổi một khi đã được lưu vào blockchain. Đặc biệt, trong hoạt động kế
toán thông thường, một nhân viên kế toán cần phải ghi bút toán kép thì blockchain chỉ cần một bút
toán có thể cung cấp thông tin cho tất cả các bên. Một số blockchain có thể lập trình để trở thành
hợp đồng thông minh cho các giao dịch cụ thể mà không cần có sự tham gia của con người...
Cũng giống như các công nghệ khác, blockchain có thể giúp các doanh nghiệp giảm chi
phí nhưng có khả năng tính toán, cung cấp băng thông và lưu trữ dữ liệu cao hơn. Kết quả là,
blockchain tạo một kết nối liền mạch giữa các nút trong mạng blockchain.
Thứ ba, công nghệ Blockchain giúp tăng cường hiệu quả của hoạt động kiểm toán
Công nghệ Blockchain cung cấp cơ hội để hợp lý hóa các quy trình báo cáo và kiểm toán
tài chính. Hiện nay, đối chiếu tài khoản, bảng cân đối phát sinh, nhật ký chung, sổ cái và các tệp
bảng tính hỗ trợ được cung cấp cho kiểm toán viên ở nhiều định dạng điện tử và thủ công. Mỗi
cuộc kiểm toán bắt đầu với các thông tin và lịch trình khác nhau đòi hỏi kiểm toán viên phải đầu
tư thời gian đáng kể khi lập kế hoạch kiểm toán. Trong thế giới blockchain, kiểm toán viên có
165
thể có quyền truy cập dữ liệu thời gian thực thông qua các nút chỉ đọc trên các chuỗi khối. Điều
này có thể cho phép kiểm toán viên có được thông tin cần thiết cho cuộc kiểm toán theo định
dạng nhất quán, định kỳ.
Khi ngày càng có nhiều doanh nghiệp và quy trình chuyển sang các giải pháp blockchain,
việc truy cập thông tin trong blockchain có thể sẽ trở nên hiệu quả hơn. Ví dụ, nếu một nghiệp
vụ quan trọng trong một lĩnh vực nào đó được ghi lại trong blockchain, kiểm toán viên có thể
phát triển phần mềm để liên tục kiểm toán các tổ chức sử dụng blockchain. Điều này có thể loại
bỏ nhiều hoạt động chuẩn bị kiểm toán và trích xuất dữ liệu thủ công tốn nhiều công sức và thời
gian cho nhà quản lý và nhân viên trong doanh nghiệp. Giảm thời gian trễ có thể mang lại cơ hội
tăng hiệu quả và hiệu quả của báo cáo tài chính và kiểm toán bằng cách cho phép nhà quản lý và
kiểm toán viên tập trung vào các giao dịch rủi ro và phức tạp hơn trong khi thực hiện kiểm toán
thường xuyên trong thực tế.
4. THÁCH THỨC CỦA CÔNG NGHỆ BLOCKCHAIN VỚI NGÀNH KẾ TOÁN
KIỂM TOÁN
Thứ nhất, công nghệ blockchain làm giảm nhu cầu kế toán kiểm toán
Các công ty niêm yết tìm đến các kiểm toán viên để tăng cường niềm tin vào thông tin
được kiểm toán và giúp thị trường chứng khoán hoạt động tin cậy hơn. Kiểm toán viên thực hiện
theo các quy định nghiêm ngặt, quy tắc ứng xử và tiêu chuẩn kiểm toán chuyên nghiệp và độc
lập với các đơn vị mà họ kiểm toán. Họ áp dụng tính khách quan và sự hoài nghi nghề nghiệp để
cung cấp sự đảm bảo hợp lý về việc liệu báo cáo tài chính của một doanh nghiệp có sai sót trọng
yếu hay không? Nếu tất cả các giao dịch được nắm bắt trong một blockchain bất biến, vậy thì
còn lại gì để kiểm toán viên thực hiện kiểm toán. Liệu Blockchain có loại bỏ nhu cầu kiểm toán
báo cáo tài chính không.
Kiểm toán bao gồm một đánh giá rằng các giao dịch được ghi lại được hỗ trợ bởi bằng
chứng có liên quan, đáng tin cậy, khách quan, chính xác và có thể kiểm chứng. Việc chấp nhận
giao dịch vào một blockchain đáng tin cậy có thể tạo thành bằng chứng kiểm toán thích hợp cho
các xác nhận báo cáo tài chính nhất định như sự xuất hiện của giao dịch (ví dụ: một tài sản được
ghi trên blockchain đã được chuyển từ người bán sang người mua). Ví dụ: trong giao dịch
bitcoin cho một sản phẩm, việc chuyển bitcoin được ghi lại trên blockchain. Tuy nhiên, kiểm
toán viên có thể hoặc không thể xác định sản phẩm đã được phân phối bằng cách chỉ đánh giá
thông tin trên blockchain Bitcoin. Do đó, việc ghi lại một giao dịch trong một blockchain có thể
hoặc không thể cung cấp đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp liên quan đến bản chất của giao
dịch. Nói cách khác, một giao dịch được ghi lại trong blockchain vẫn có thể là trái phép, lừa đảo
hoặc bất hợp pháp. Hơn nữa, nhiều giao dịch được ghi trong báo cáo tài chính phản ánh các giá
trị ước tính khác với chi phí lịch sử. Kiểm toán viên vẫn sẽ cần xem xét và thực hiện các quy
trình kiểm toán đối với các ước tính của nhà quản lý, ngay cả khi các giao dịch cơ bản được ghi
lại trong một blockchain. Như vậy, có thể thấy công nghệ Blockchain sẽ làm giảm nhưng không
loại bỏ hoàn toàn nhu cầu kiểm toán báo cáo tài chính.
166
Một vài công việc mà các kế toán viên đang làm hiện nay sẽ gắn liền với công nghệ, phần
mềm và chương trình máy tính nhiều hơn, sẽ được thay thế bởi blockchain, hoặc được thực hiện
bởi công nghệ tự động hóa hay trí tuệ nhân tạo. Blockchain không đe dọa mà khiến ngành kế
toán trở nên chuyên nghiệp hơn.
Thứ hai, công nghệ blockchain tạo ra thách thức về kiến thức và nhân sự đối với ngành kế
toán và kiểm toán
Theo Khảo sát điều hành năm 2016 của Deloitte, 39% các giám đốc điều hành cấp cao ở
Hoa Kỳ có rất ít thậm chí hoàn toàn không có kiến thức về blockchain. Ngoài việc thiếu kiến
thức, họ cũng thiếu các tiêu chuẩn và các dự án blockchain điển hình để học hỏi. Như vậy, nhóm
đối tượng hiểu biết về Blockchain hiện nay chỉ chiếm thiểu số. Không nhiều người nắm được cốt
lõi của công nghệ Blockchain, mà chỉ biết qua các ứng dụng như: tiền kĩ thuật số. Các doanh
nghiệp cần cộng tác thêm với nhau để hiểu rõ hơn và xây dựng các tiêu chuẩn cũng như giao
thức thống nhất để thúc đẩy việc áp dụng rộng rãi công nghệ blockchain.
Bên cạnh đó, nguồn nhân sự phục vụ công nghệ blockchain cũng gặp nhiều khó khăn. Có
thể nói, nhu cầu đào tạo nhân sự công nghệ thông tin và kế toán hiểu biết về blockchain trong làn
sóng Blockchain và cũng như các thay đổi chóng mặt của ngành công nghệ thông tin trong thời
gian sắp tới đang diễn ra chóng mặt. Khi nhiều công ty tham gia vào nền kinh tế tiền điện tử, các
công ty kế toán sẽ sớm phải đưa các giao dịch tiền điện tử vào quy trình kế toán của họ. Hơn
nữa, kế toán chấp nhận tiền điện tử để thanh toán cũng sẽ tự tìm kiếm các công ty thân thiện với
tiền điện tử để hợp tác kinh doanh. Một số công ty chỉ chấp nhận Bitcoin dưới dạng thanh toán
và đây là cơ hội cho các kế toán viên am hiểu về blockchain nắm bắt công việc kinh doanh của
họ. Khi blockchain phát triển thâm nhập vào ngành kế toán, các nhà quản lý, nhà cung cấp công
nghệ và các nhà lãnh đạo ngành kế toán phải làm việc cùng nhau và tìm cách làm cho việc
chuyển đổi có lợi cho tất cả các bên. Kế toán không phải là kỹ sư và có thể không có kiến thức
chi tiết về cách thức hoạt động của blockchain. Nhưng họ sẽ cần biết cách tư vấn về việc áp dụng
blockchain và xem xét tác động của blockchain đối với doanh nghiệp và khách hàng của họ. Do
đó, họ cần không ngừng cải thiện và nâng cao hiểu biết của mình về công nghệ blockchain.
Nguồn nhân sự này cần được gia tăng đáng kể trong tương lai.
Theo ông David Lyford Smith - chuyên gia công nghệ thông tin của ICAEW thì khi
Blockchain trở nên phổ biến thì việc làm của nhiều kế toán và kiểm toán viên có thể bị ảnh
hưởng phần nào vì công việc mà kế toán, kiểm toán viên đang làm hiện nay sẽ được thay thế bởi
Blockchain, hoặc được thực hiện bởi công nghệ tự động hóa hay trí tuệ nhân tạo. Nhưng vai trò
của kế toán viên sẽ không mất đi mà sẽ chuyển sang làm những công việc có nhiều giá trị hơn,
đảm nhiệm những mảng việc phức tạp như phân tích, dự báo và thực hiện các dịch vụ tư vấn.
5. ỨNG DỤNG BLOCKCHAIN TRONG LĨNH VỰC KẾ TOÁN KIỂM TOÁN
Để tạo lợi thế trong lĩnh vực kế toán kiểm toán tương lai, ngoài việc củng cố kiến thức
chuyên môn, còn cần phải cập nhật những thông tin về công nghệ, phải làm quen với các khái
niệm như Big Data, mật mã, hệ thống sổ cái Blockchain, hệ thống thanh toán, thanh toán qua các
thiết bị di động và các nền tảng mới kết nối giữa nhà cung cấp và người sử dụng dịch vụ tài
167
chính. Các kế toán viên sẽ phải học cách làm việc và tương tác cùng trí tuệ nhân tạo và các quy
trình tự động, tuy không cần phải trở thành một chuyên gia công nghệ nhưng cần phải hiểu được
công nghệ và những công nghệ gì họ cần trong công việc.
Nhiều doanh nghiệp hiện nay quan tâm đến việc áp dụng Blockchain trong các hoạt động
của mình. Vì vậy phải xây dựng các công ty cung cấp dịch vụ, nền tảng công nghệ và cung cấp
ứng dụng công nghệ Blockchain, để hỗ trợ các doanh nghiệp truyền thống của Việt Nam tiếp cận
công nghệ Blockchain một cách an toàn, nhanh chóng và hiệu quả nhất. Ngày nay, hầu hết các
doanh nghiệp đều sử dụng phần mềm kế toán. Việc kết hợp công nghệ Blockchain trên các phần
mềm kế toán sẽ giúp công tác kế toán tại các doanh nghiệp tối ưu hóa tính bảo mật, an toàn và
minh bạch của thông tin kế toán. Cụ thể, MISA đã phát triển Meinvoice.vn – giải pháp hóa đơn
điện tử ứng dụng Blockchain, ghi nhận toàn bộ trạng thái và cập nhật đầy đủ thông tin về hóa
đơn cho các bên tham gia có thể kiểm tra và xác thực thông tin.
Ông David Lyford Smith cho rằng Blockchain có thể coi là sổ cái kế toán – nơi mà giao
dịch được thực hiện bởi một bên tới mọi người trong cùng một mạng lưới bằng một phương thức
cực kỳ chính xác và bảo mật. Khi đó, không chỉ đảm bảo về tài sản và sự chấp thuận của người
khác mà cần chú trọng vào sự ràng buộc giữa bản ghi Blockchain và thế giới vật chất (rộng hơn
là việc phản ánh giá trị kinh tế thực của giao dịch blockchain).
6. KẾT LUẬN
Công nghệ Blockchain đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức mới cho ngành kế toán kiểm
toán. Công nghệ này đã và đang ngày một phát triển hơn trong tất cả các lĩnh vực. Có thể hiện
nay, Blockchain vẫn chưa chính thức thay thế việc làm trong ngành kế toán, kiểm toán, tuy nhiên
các kế toán và kiểm toán viên nên chủ động cập nhật, tiếp thu và ứng dụng công nghệ này và từ
đó xây dựng một chiến lược hợp lý trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Amy Vetter, Voices Blockchain is already changing accounting. Accountingtoday.com
(07/05/2018).
CPA Canada, the AICPA and UWCISA (2017), Blockchain Technology and Its Potential Impact
on the Audit and Assurance Profession
Deloitte Deutschland (2016), Blockchain Technology: A game-changer in accounting?
Trịnh Xuân Hưng, Tìm hiểu về công nghệ blockchain và ảnh hưởng của nó đến lĩnh vực kế toán
- tài chính - ngân hàng, Tạp chí kế toán và kiểm toán, số T8/2018
Nguyễn Thanh Huyền (2018). Công nghệ Blockchain và những tác động đến lĩnh vực kế toán,
kiểm toán, số 687, tra 35-37, truy cập tại: http://lib.hcmulaw.edu.vn/opac/
WShowDetail.aspx?intItemID=65849.
https://tapchitienao.com/cong-nghe-blockchain-la-gi.html
168
Giải pháp liên kết đào tạo giữa nhà trường và doanh nghiệp
trong đào tạo kế toán, kiểm toán nhằm đáp ứng yêu cầu
của cách mạng 4.0
Lê Thị Thu Hương
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: lethithuhuong@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.07 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 13/11/2019
Ngày nhận bài: 08/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 16/11/2019
Tóm tắt
Định hướng phát triển ngành Kế toán - kiểm toán Việt Nam được thể hiện rõ ràng theo
hướng hội nhập, với sự tham gia tích cực từ các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức phát triển
quốc tế và các công ty kiểm toán. Để tồn tại và phát triển trong xu thế cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0, Nhà trường không chỉ có sứ mệnh đào tạo nhân lực kế toán - kiểm toán đáp ứng nhu
cầu hiện tại mà còn phải có chiến lược đào tạo đón đầu xu thế phát triển. Để thực hiện được
nhiệm vụ này, không thể thiếu sự liên kết của cộng đồng doanh nghiệp và sự định hướng của các
cơ quan chức năng. Nhờ có kinh nghiệm là một giảng viên đại học, chuyên ngành kế toán - kiểm
toán, qua bài viết này tác giả sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu, phương pháp
hệ thống hoá các thông tin để phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, đồng thời cũng sử dụng
các phương pháp nghiên cứu thực tiễn như điều tra, thống kế toán học, phân tích tổng hợp số
liệu. Qua đó muốn nhấn mạnh tầm quan trọng và đưa ra một số giải pháp cụ thể cho từng chủ thể
tham gia mô hình liên kết giữa Nhà trường và doanh nghiệp trong việc đào tạo nhân lực ngành
kế toán - kiểm toán.
Từ khoá: Đào tạo, liên kết, nhà trường, doanh nghiệp.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kế toán - kiểm toán là một nghề tồn tại song song với sự tồn tại của nền kinh tế. Do đó,
nhu cầu nhân lực của ngành này sẽ không bao giờ “bão hoà”, hay nói cách khác là luôn luôn
thiếu, để đáp ứng được sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
đang diễn ra rất nhanh và mạnh đến kinh tế, xã hội, môi trường trên toàn thế giới và tác động đến
tất cả các ngành, các lĩnh vực với tốc độ công nghệ đột phá chưa từng có trong lịch sử, trong đó
có cả lĩnh vực kế toán - kiểm toán. Vì vậy, để đáp ứng được những thay đổi đó thì ngành kế toán
- kiểm toán cũng phải có những chuyển biến để phù hợp trong đào tạo để tạo ra những cử nhân
kế toán - kiểm toán có đủ năng lực và trình độ về chuyên môn, đồng thời phải biết sử dụng công
nghệ để giải quyết công việc.
169
Hiện nay, đào tạo kế toán - kiểm toán chủ yếu vẫn áp dụng theo phương pháp truyền
thống, tức là Nhà trường tự xây dựng chương trình đào tạo, kể cả lý thuyết và thực hành. Sản
phẩm là các sinh viên ra trường, được gửi tới các doanh nghiệp để làm việc, do đó không đáp
ứng được nhu cầu thực tế, đa phần các doanh nghiệp phải bổ sung và đào tạo lại. Để nâng cao
chất lượng và năng lực cạnh tranh của nhân lực ngành kế toán - kiểm toán trên thị trường trong
nước và ngoài nước, phù hợp với yêu cầu của thời kỳ công nghệ số, thì cần sự nỗ lực từ nhiều
phía, trong đó có vai trò quan trọng của Nhà trường trong việc đào tạo nhân lực ngành kế toán -
kiểm toán. Sự liên kết giữa Nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo sẽ là một nội dung mới và
là hướng đi đúng đắn trong thời gian tới đối với nhân lực ngành kế toán - kiểm toán.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh, dựa trên việc
sử dụng internet kết nối vạn vật để chuyển hoá toàn bộ thế giới thực thành thế giới số. Cuộc cách
mạng này tác động mạnh mẽ và toàn diện đến kinh tế, xã hội, môi trường trên toàn thế giới và
tác động đến tất cả các ngành, các lĩnh vực trong đó có cả lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Việt Nam
đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, tất nhiên sẽ không nằm ngoài cuộc cách mạng
mang tính toàn cầu này.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm thay đổi đối với ngành kế toán - kiểm toán cụ thể
như sau. Tác động của phân tích dữ liệu, bên cạnh excel thường được sử dụng trước đây, sự phát
triển của công nghệ sẽ cung cấp nhiều công cụ, phần mềm hiện đại hơn. Công nghệ đám mây.
Lưu trữ thông tin một cách realtime, khối lượng lớn và không bị giới hạn nhiều về bộ nhớ như
trước đây. Quy trình tự động hoá. Đa phần công việc của kế toán là những ghi chép đã chuẩn
hoá, do vậy công nghệ tự động hoá có thể thay thế bộ phận tài chính - kế toán nhiều trong các
công việc này. Trí thông minh nhân tạo. Bên cạnh công tác ghi chép (bookkeeping) đơn giản, trí
thông minh nhân tạo có thể thay thế con người cả với những nghiệp vụ kế toán phức tạp như
định giá, lập dự phòng. Qua đó, giúp giảm thiểu rất nhiều nhân sự. Công nghệ Blockchain.Liên
kết tất cả các dữ liệu của bộ phận tài chính - kế toán lại với nhau.
Thời kỳ công nghệ sẽ giúp cho kế toán viên, kiểm toán viên tại Việt Nam có thể thực hiện
công việc kế toán ở bất cứ đất nước nào trên toàn thế giới, thì ngược lại bất cứ kế toán viên, kiểm
toán viên ở quốc gia nào cũng có thể hành nghề ở Việt Nam. Điều này tạo ra sự cạnh tranh gay
gắt trong lao động kế toán, nếu những sinh viên ngành kế toán - kiểm toán không được đào tạo
cơ bản kết hợp với những chương trình đào tạo mới thì khi ra trường khó có thể đáp ứng được vị
trí công việc ngay.
Trong thời kỳ cách mạng công nghệ 4.0 sẽ giúp cho những kế toán viên, kiểm toán viên
tiết kiệm được thời gian và công sức, khi thực hiện công việc kế toán nhờ sử dụng các phần mềm
kế toán như : MISA, FAST, VACOM… Nếu như trước đây kế toán phải thực hiện ghi chép các
nghiệp vụ kế toán vào sổ sách bằng tay, sau đó tổng hợp dữ liệu lập báo cáo tài chính sẽ mất
nhiều thời gian và độ chính xác không cao, thì nay kế toán viên đã thực hiện công việc kế toán
và có thể lập báo cáo tài chính dễ dàng với độ tin cậy cao.
170
Đối với những kế toán viên - kiểm toán viên để nâng cao năng lực chuyên môn và khả
năng cạnh tranh, mở rộng phạm vi hành nghề, trong bối cảnh chung của thế giới thì cần phải
không ngừng học hỏi, cập nhật kiến thức, tham gia các lớp học đào tạo chứng chỉ hành nghề
quốc tế ACCA, CPA úc; Cần phải thường xuyên nâng cao trình độ công nghệ thông tin, tìm hiểu
và nghiên cứu một số phần mềm kế toán được các doanh nghiệp đang sử dụng nhiều. Bên cạnh
đó, kế toán viên cũng phải thành tạo về phần mềm hoá đơn điện tử, do thời điểm bắt buộc áp
dụng hoá đơn điện tử theo Nghị định số 119/2018/NĐ-CP, ngày 12/09/2018; Các kế toán viên
không những nắm vững chuyên môn mà còn phải nâng cao trình độ ngoại ngữ, để có thể làm
việc cùng với các kế toán ở các quốc gia khác trong quá trình hội nhập. Trong tương lai, các
doanh nghiệp cần các chuyên gia kế toán nhiều hơn là các kế toán viên, vì thế các kế toán phải là
người có trình độ chuyên môn kế toán cao, có khả năng làm việc độc lập, có bản lĩnh nghề
nghiệp vững vàng. Một mặt có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu quản trị của doanh nghiệp, mặt
khác họ phải chủ động đề xuất các giải pháp nhằm giúp doanh nghiệp hoàn thiện kế toán theo
hướng hiệu quả, chuyên nghiệp.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu lý luận, tác giả tiến hành nghiên cứu, phân tích đánh giá, hệ
thống hoá các số liệu về liên kết đào tạo giữa Nhà trường và doanh nghiệp trong việc đào tạo kế
toán - kiểm toán.
Phương pháp tổng hợp phân tích số liệu. Phương pháp tổng hợp phân tích số liệu được sử
dụng để thu thập, xử lý số liệu, đánh giá từ các văn bản, bài báo liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Phương pháp thống kê, căn cứ vào mục tiêu của đề tài, thống kê các số liệu từ các báo cáo của
các Trường, cơ sở đào tạo về kế toán, kiểm toán.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Mô hình liên kết đào tạo giữa Nhà trường và Doanh nghiệp trong lĩnh vực kế
toán - kiểm toán
Mối quan hệ hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp là những hoạt động bao gồm sự
tương tác, hỗ trợ, giúp đỡ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm trong đào tạo giáo dục nhằm
hướng đến lợi ích của hai bên. Theo đó, Nhà trường là đại diện cho các trường cao đẳng, đại học
giáo dục nghề nghiệp, doanh nghiệp là các tổ chức sản xuất, kinh doanh trên mọi lĩnh vực. Hoạt
động liên kết đòi hỏi sự tương tác một cách tích cực và chủ động từ hai bên với hình thức trực
tiếp hoặc gián tiếp, mang tính cá nhân hoặc tổ chức của một đơn vị trường học với các doanh
nghiệp hoặc ngược lại.
Hình thức liên kết trong tuyển sinh, đào tạo: Có hai hình thức đào tạo trong nhà trường
theo nhu cầu xã hội và doanh nghiệp bao gồm: Đào tạo nguồn nhân lực của nhà trường theo đơn
đặt hàng hoặc ít nhất theo nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp và xã hội. Theo hướng đào tạo
này, nhà trường cùng doanh nghiệp lên kế hoạch dài hạn, xác định mục tiêu và triển khai hướng
nghiệp đến học sinh khi còn học ở bậc trung học phổ thông. Quá trình đào tạo luôn có sự hợp tác
và góp ý từ phía doanh nghiệp.
171
Đào tạo nguồn nhân lực do doanh nghiệp gửi đến. Theo đó, doanh nghiệp chủ động tuyển
sinh và tuyển dụng đào tạo với số lượng và điều kiện nhất định sau khi thỏa thuận hợp tác với
doanh nghiệp. Nhà trường đào tạo theo yêu cầu đặt ra của doanh nghiệp trên cơ sở chương trình
đào tạo đã được thông qua.
Hai hình thức đào tạo này đòi hỏi cả Nhà trường và doanh nghiệp xác định mục tiêu và nội
dung đào tạo để thỏa mãn nhu cầu và năng lực của hai bên. Chương trình khung cần được biên
soạn với sự tham gia, phản biện của hai bên. Chất lượng đào tạo thực hành cũng cần có sự tham
gia hướng dẫn, đào tạo từ phía doanh nghiệp, việc phân bổ thời lượng với bố cục chương trình
do giảng viên nghiên cứu và thực hiện.
Phương pháp đào tạo thay đổi phù hợp thep hướng thu hẹp khoảng cách giữa Nhà trường
và doanh nghiệp theo phương thức: Thứ nhất, đào tạo theo hình thức vừa làm, vừa học. Theo đó,
người lao động vẫn tiếp tục đi làm vào ban ngày và đi học vào buổi tối hoặc cuối tuần. Thứ hai,
đi thực tập, tham quan, đi thực tế. Trong quá trình học, sinh viên sẽ được tiếp xúc với thực tiễn
tại doanh nghiệp trong các khoảng thời gian từ 1 ngày (tham quan, đi thực tế), 5 tuần (thực tập
giữa khóa) đến 2 tháng (thực tập tốt nghiệp).
Hình thức liên kết trong lao động và nghiên cứu: Doanh nghiệp và Nhà trường phối hợp
trong việc đảm bảo số lượng nguồn nhân lực đào tạo và ổn định trong thời gian đào tạo khóa học.
Đội ngũ nghiên cứu, giáo dục của Nhà trường bao gồm giảng viên, cán bộ viên chức phụ trách, cán
bộ quản lý. Đội ngũ đào tạo, thực hành của doanh nghiệp bao gồm cán bộ lãnh đạo, cán bộ kỹ
thuật, chuyên viên cao cấp. Những nguồn lao động này cần được trau dồi nâng cao nghiệp vụ tay
nghề thường xuyên, đảm bảo tính chuyên môn và năng lực giảng dạy, đào tạo nghề.
Quá trình lao động và nghiên cứu luôn mang tính phối hợp và lồng ghép. Phương thức hiệu
quả là giảng viên thực tế và là người lao động trực tiếp, gián tiếp tại doanh nghiệp hoặc dự án.
Cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp được giao lưu, nói chuyện và trải nghiệm với sinh viên để có
phương pháp hướng dẫn phù hợp với năng lực của sinh viên.
4.2. Thực trạng triển khai mô hình liên kết đào tạo giữa Nhà trường và Doanh nghiệp
trong lĩnh vực kế toán - kiểm toán
Mô hình đào tạo liên kết đào tạo giữa Nhà trường và Doanh nghiệp được quy định bởi
Nghị quyết số 100/NQ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ ban hành chương trình hành động
của Chính phủ. Hiện nay, nhu cầu về nguồn nhân lực kế toán - kiểm toán vẫn chưa đủ cung cấp,
theo thống kê có khoảng 400 trường đại học và cao đẳng ở Việt Nam, hiện có tới hơn 200 trường
có đào tạo chuyên ngành kế toán và kiểm toán. Ở nhiều trường đại học kinh tế đào tạo chuyên
ngành kế toán và kiểm toán có đủ mọi hệ đào tạo và cấp bậc đào tạo, từ trung cấp, cao đẳng, liên
thông đại học, đại học chính quy, cao học và đào tạo tiến sĩ với đủ các hệ chính quy, tại chức,
đào tạo từ xa.
Một số cơ sở đào tạo đã tổ chức mô hình liên kết đào tạo với Doanh nghiệp trong lĩnh vực
kế toán - kiểm toán như:
Năm 2017, khoa Quốc tế - Đại học Quốc gia Hà Nội đã ký kết dự án “Đào tạo thực hành”
với Công ty Kiểm toán và Định giá Thăng Long. Bên phía Công ty Kiểm toán và Định giá Thăng
172
Long sẽ phối hợp tổ chức đào tạo các giờ thực hành cho sinh viên thuộc nhóm ngành kế toán, phân
tích, kiểm toán, nhằm gắn kết công tác đào tạo với công tác thực hành tại các doanh nghiệp, đồng
thời tạo cơ hội cho Sinh viên khoa Quốc tế có thể đáp ứng được yêu cầu ngay sau khi ra trường.
Năm 2018, Trường Đại học Kinh tế - Tài chính Thành phố Hồ Chí Minh (UEF) đã ký kết
hợp tác đào tạo cùng 27 doanh nghiệp, tương ứng với các ngành đào tạo của Nhà trường, trong
đó có kế toán - kiểm toán. Nội dung của hợp tác ký kết được tập trung vào các vấn đề như xây
dựng chương trình đào tạo theo hướng ứng dụng nghề nghiệp, học bổng dành cho sinh viên vượt
khó học giỏi, thực tập và việc làm, hỗ trợ các cuộc thi chuyên môn, nghiên cứu khoa học và hoạt
động nghệ thuật, giảng dạy chuyên đề.
Trường Đại học Điện lực đã phối hợp với VACPA từ năm 2013 và sau 05 năm thực hiện,
năm 2018 lại tiếp tục ký kết liên kết đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực kiểm toán. Những
việc cụ thể phải làm đối với các bên. Phía trường Đại học Điện lực cụ thể là Khoa Kinh tế &
Quản lý thì phối hợp với VACPA trong tổ chức thực hành môn học cho sinh viên kiểm toán theo
chương trình, quy trình đào tạo của Nhà trường; Cử sinh viên tham gia với vai trò tình nguyện
viên của VACPA trong các hoạt động của hội; Tham gia hỗ trợ VACPA trong chuẩn bị các tài
liệu chuyên môn, dịch sách về chuẩn mực về đạo đức cho kiểm toán viên.
Phía VACPA sẽ có các hoạt động hỗ trợ sinh viên kế toán - kiểm toán của Trường Đại học
Điện lực như: Thực hiện hỗ trợ các buổi Job tour cho sinh viên; giới thiệu sinh viên năm thứ 3
tham gia kiến tập trong thời gian nghỉ hè nhằm tăng cường kỹ năng nghề nghiệp; Tổ chức các
lớp học thực hành kiểm toán cho sinh viên ngành, chuyên ngành kiểm toán năm thứ 4; giới thiệu
sinh viên kiểm toán năm thứ 4 đi thực tập tốt nghiệp (8 tuần) tại các công ty kiểm toán; Cử các
chuyên gia tham gia các buổi talk show cho sinh viên của khoa, từ đó sinh viên có cái nhìn toàn
diện hơn về nghề nghiệp hoặc cập nhật các xu hướng phát triển nghề nghiệp trong tương lai; Cử
chuyên gia cùng tham gia các buổi hội thảo khoa học của các giảng viên trong khoa.
4.3. Đánh giá mô hình liên kết đào tạo giữa Nhà trường và Doanh nghiệp trong lĩnh
vực kế toán - kiểm toán
4.3.1 Những lợi ích của mô hình liên kết đào tạo giữa Nhà trường và Doanh nghiệp
trong lĩnh vực kế toán - kiểm toán
a) Đối với Nhà trường
Nhà trường hiểu rõ nhu cầu của doanh nghiệp chuyên nghiệp và bài bản, đứng với thực tế.
Từ đó, chương trình và nội dung đào tạo được sửa đổi phù hợp và nâng cao, nhanh chóng giải
quyết đầu ra cho Nhà trường, chất lượng về năng lực và trình độ của sinh viên thỏa mãn các tiêu
chí do doanh nghiệp và xã hội mong đợi.
Lực lượng giảng viên có cơ hội hợp tác và trao đổi về kinh nghiệm thực tế, nâng cao chất
lượng bài giảng. Đồng thời, thông qua các buổi hội thảo, nghiên cứu khoa học với sự giúp sức từ
phía doanh nghiệp, kiến thức và thực tiễn được mở rộng, tiếp cận nhanh chóng các thông tin về
công nghệ tiên tiến, xây dựng bài giảng đúng với mong đợi của xã hội và nhu cầu nhân lực trong
thực tiễn.
173
Nâng cao uy tín và tạo tiếng vang tích cực cho Nhà trường thông qua những hoạt động ký
kết, hỗ trợ với các doanh nghiệp trong lĩnh vực chuyên môn. Việc phối hợp với doanh nghiệp
trong đào tạo cũng giúp ích cho Nhà trường trong quá trình tự chủ và phát triển cơ sở vật chất
b) Đối với doanh nghiệp
Doanh nghiệp luôn có cơ hội tuyển dụng được một đội ngũ nhân sự chất lượng, có chuyên
môn và kinh nghiệm thực tế, nhanh chóng làm việc và tạo hiệu quả tức thì. Đồng thời, doanh
nghiệp cũng không tốn kém cho việc đào tạo lại và thử việc nhân viên, giảm thiểu chi phí và rủi
ro và con người, vật chất và thời gian.
Hoạt động kinh doanh và phát triển chất lượng sản phẩm sẽ được nâng cao thông qua việc
nghiên cứu, từ đó đề ra những giải pháp hữu ích cho doanh nghiệp áp dụng. Doanh nghiệp có
tiếng nói và có thể can thiệp về chương trình đào tạo thông qua hoạt động góp ý, đánh giá để
khắc phục những nhược điểm, góp phần cung cấp nhân sự có kiến thức phù hợp với doanh
nghiệp mong đợi. Doanh nghiệp có thể được quảng bá thương hiệu và phát triển hình ảnh trong
quá trình hợp tác, đầu tư và tham gia giảng dạy cùng nhà trường.
c) Đối với sinh viên
Sinh viên được học tập trong môi trường hiện đại, thiết thực, được gắn chặt giữa lý thuyết
và thực hành, thực tế. Sinh viên có thể hình dung và biết được năng lực, sở thích, sở trường của
mình ngay từ khi còn trên ghế nhà trường. Từ đó, sinh viên có cơ hội khảo sát thực tiễn bản thân
tiếp cận học bổng và tổ chức tuyển dụng, nhận công việc ngay khi có thể.
Sinh viên nhanh chóng tiếp cận với các doanh nghiệp thực tập thay vì phải tìm kiếm mất
rất nhiều thời gian và không phù hợp. Sự gắn kết và hiểu biết giữa các bên giúp sinh viên định
hướng được nên đầu vào đơn vị nào để thực tập và cống hiến. Bên cạnh đó, sinh viên cũng mở
rộng mối quan hệ của mình.
4.3.2. Những tồn tại, hạn chế
Mặc dù công tác đào tạo liên kết giữa Nhà trường và doanh nghiệp trong lĩnh vực kế toán -
kiểm toán được coi trọng đặc biệt trong giai đoạn hiện nay và đã được nhiều cơ sở đào tạo áp
dụng và đạt được nhiều kết quả, hầu hết các cơ sở đào tạo có sự liên kết đào tạo với doanh
nghiệp thì khi sinh viên ra trường đều được đánh giá cao về năng lực, có sự phát triển nghề
nghiệp tốt và thích ứng với môi trường hội nhập và cạnh tranh quốc tế. Tuy nhiên, vẫn còn tồn
tại một số hạn chế, số lượng các cơ sở đào tạo liên kết đào tạo với Doanh nghiệp vẫn ít, chưa
phát huy hết khả năng, chưa liên kết cùng lúc với nhiều doanh nghiệp, việc liên kết chưa theo
chiều sâu, chưa thật sự gắn kết giữa các bên liên quan, sinh viên chưa được tiếp cận hay thực
hành trực tiếp trên chứng tế kế toán, phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, đối với
sinh viên ngành kiểm toán. Bên cạnh đó, tỉ lệ sinh viên có trình độ ngoại ngữ đáp ứng được với
nhu cầu tuyển dụng của các công ty kế toán - kiểm toán quốc tế thì ít, chưa đạt được mặt bằng
chung của khu vực, số lượng kế toán, kiểm toán viên nắm vững các thông lệ và nguyên tắc quốc
tế chưa nhiều, tư duy tích luỹ am hiểu về các vấn đề toàn cầu còn hạn chế, khó hội nhập sâu rộng
với đội ngũ nhân lực kế toán, kiểm toán quốc tế.
174
5. KHUYẾN NGHỊ
Một số giải pháp nâng cao chất lượng liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong lĩnh
vực kế toán - kiểm toán để phù hợp với thay đổi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như sau:
Từ phía các cơ quan quản lý
Cần có cơ chế hỗ trợ nhằm thúc đẩy sự phát triển hiệu quả của các mối quan hệ hợp tác
giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo như: cần có các quy chế, văn bản, tiêu chí cụ thể về mối
quan hệ với doanh nghiệp trong các cơ sở đào tạo, có các văn bản hướng dẫn các cơ sở đào tạo
thực hiện quy trình thiết lập, quy trình quản lý mối quan hệ với doanh nghiệp, có chính sách xem
xét hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động đào tạo phù hợp và cụ thể.
Từ phía các cơ sở đào tạo
Các cơ sở đào tạo cần chủ động kết hợp với doanh nghiệp, nghiên cứu chương trình đào
tạo phù hợp với thực tiễn hành nghề, tích cực trong quá trình xây dựng hệ thống chuẩn mực kế
toán Việt Nam, tích cực trao đổi và tiếp thu kinh nghiệm từ các học viên ở những quốc gia có hệ
thống kế toán - kiểm toán phát triển. Đổi mới chương trình đào tạo theo hướng tiệm cận với
chuẩn mực kế toán quốc tế ISA, IFRS. Mạnh dạn phối hợp và tăng cường hợp tác với ACCA,
CPA, CIMA để đổi mới giáo dục đào tạo. Tăng cường giảng dạy ngoại ngữ và ngoại ngữ chuyên
ngành để sinh viên có thể chuyển đổi sang bằng cấp quốc tế dễ dàng hơn.
Gia tăng liên kết để nghiên cứu chương trình đạt chuẩn. Phối hợp chặt chẽ với cơ quan ban
ngành quản lý như Bộ Tài chính, Hội nghề nghiệp trong việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán,
kiểm toán mới, qua đó giúp nhà trường đẩy nhanh việc đổi mới giáo trình một cách toàn diện và
phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Đối với kế toán - kiểm toán trong thời kỳ công nghiệp 4.0 thì các
Trường đào tạo có thể đầu tư công nghệ giúp sinh viên có thể thực hành để có kinh nghiệm, có
được các kiến thức về những tác động xã hội tiềm ẩn của hệ thống tự động hóa, hệ thống thông
minh và cách giải quyết các vấn đề này. Thiết kế các phương thức, hoạt động hợp tác cụ thể giữa
Nhà trường và doanh nghiệp như phối hợp tư vấn cung cấp thông tin tới việc tham gia trực tiếp
vào quá trình đào tạo và kiểm tra đánh giá sinh viên. Các hoạt động hợp tác bao gồm, tổ chức các
hoạt động thỉnh giảng, seminar, tổ chức kiến tập cho sinh viên, phát triển các hoạt động thực tập
tại doanh nghiệp.
Từ phía các doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp
Các hiệp hội nghề nghiệp có thể phối hợp với các công ty, cơ sở đào tạo để tổ chức những
khóa học phù hợp với những nội dung như mã hóa, quản lý thông tin ở những nền tảng chia sẻ
được như điện toán đám mây và đánh giá những nhu cầu về kế toán theo thời gian thực tế của
các đối tượng khác nhau từ nhà quản trị doanh nghiệp, các cổ đông, người lao động, các cơ quan
phi chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước và bên có lợi ích liên quan khác.
Hỗ trợ sinh viên khi thực tập, quá trình thực tập đóng vai trò quan trọng để sinh viên có thể
vận dụng được các kiến thức, kỹ năng được học tập tại trường lớp và hoà nhập tốt với môi
trường làm việc trong tương lai. Vì vậy, doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp có thể tạo điều kiện
để các sinh viên có thể có được môi trường thực tập tốt nhất.
175
6. KẾT LUẬN
Để quá trình đào tạo có chất lượng cao, tạo ra nguồn nhân lực kế toán - kiểm toán có năng
lực đáp ứng được nhu cầu của xã hội, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 thì việc hợp tác
giữa các doanh nghiệp và Nhà trường là một tất yếu đặt ra, việc lựa chọn mô hình hợp tác trong
việc đào tạo thực hành hợp lý sẽ tạo ra tính hiệu quả trong công tác đào tạo nói chung của nhà
trường cũng như trong việc sử dụng lao động của doanh nghiệp. Tuy vậy, việc hợp tác giữa Nhà
trường và các doanh nghiệp trong quá trình đào tạo sinh viên chuyên ngành kế toán - kiểm toán
phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố, vậy khi thực hiện các giải pháp phải thực hiện đồng bộ, để có
một kết quả như mong đợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Báo cáo nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong hợp tác trường
đại học và doanh nghiệp.
Nguyễn Đình Luận (2015), Sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ sự phát triển kinh tế và xã hội ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị,
Tạp chí Phát triển và hội nhập, số 22 (32), Hà Nội.
Thông tư số 29/2017/TT-BLĐTBXH, ngày 15/12/2017 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội quy định về liên kết tổ chức thực hiện chương trình đào tạo.
176
Nhận thức và định hướng của sinh viên kế toán với cách mạng
công nghiệp 4.0: Nghiên cứu tại trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Lương Thị Hân, Nguyễn Thị Ngọc Hiền
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: luongthihan@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.10 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 17/11/2019
Ngày nhận bài: 16/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 20/11/2019
Tóm tắt
Tham gia Cách mạng công nghiệp 4.0 là con đường tất yếu của các quốc gia nếu muốn
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, nhất là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Nhận thức được điều đó, thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các
ngành chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Tuy vậy, mức độ chủ động tham gia
cuộc Cách ngày ở nước ta còn thấp. Có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân nhận thức
về cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa thống nhất, chất lượng
nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng. Với 285 phiếu điều tra và sử
dụng chủ yếu phương pháp thống kê mô tả với bộ dữ liệu sơ cấp thu thập được, mục đích của bài
viết này là kiểm tra nhận thức và định hướng về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong sinh
viên kế toán tại Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội. Các phát hiện cho thấy phần lớn sinh viên
biết và đã nghe về Cách mạng công nghiệp 4.0 nhưng họ thiếu kiến thức chi tiết về vấn đề này.
Hầu hết sinh viên có ý kiến trung lập hoặc không thể hình thành nhận thức cụ thể về các khía
cạnh khác nhau của Cách mạng công nghiệp 4.0. Kết quả cũng cho thấy hầu hết các sinh viên rất
muốn biết thêm về Cách mạng công nghiệp 4.0. Từ những kết quả được phân tích, bài viết đưa ra
các đề xuất nhằm nâng cao nhận thức và thay đổi nhận thức về Cách mạng công nghiệp 4.0 trong
sinh viên kế toán.
Từ khóa: Sinh viên kế toán, nhận thức, cách mạng công nghiệp, cách mạng công nghiệp 4.0
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cách mạng công nghiệp 4.0 là sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh vực vật lý, số hóa
và sinh học, tạo ra những khả năng hoàn toàn mới và có tác động sâu sắc đối với các hệ thống
chính trị, xã hội, kinh tế của thế giới. Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên quy
mô toàn cầu, với tốc độ nhanh hơn những gì đã xảy ra từ trước đến nay và được dự báo làm thay
đổi toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị trên toàn thế giới. Mỗi quốc gia đang đứng
trước những cơ hội và thách thức. Nhiều quốc gia đang phát triển đã bị lỡ cơ hội tận dụng các
177
thành tựu của các cuộc cách mạnh khoa học kỹ thuật trước đó để phát triển đất nước. Vì thế,
Cách mạng công nghiệp 4.0 được cho là cơ hội “vàng” để các nước đang phát triển nắm bắt cơ
hội và vươn lên.
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới, trong tương lai, các công việc lặp đi lặp lại, dựa trên các quy
tắc rất có thể sẽ được tự động hóa bởi hệ thống, máy móc hoặc robot như tài xế, phi công, đóng
gói, thu ngân, kế toán, thư ký kế toán; kiểm toán, thanh toán, đăng bài (Cục Thống kê Lao động
Hoa Kỳ, 2017). Điều này có nghĩa bản chất của các công việc trong tương lai chắc chắn sẽ thay đổi
do kết quả của Cách mạng công nghiệp 4.0. Sinh viên có thể không có được việc làm trong các
lĩnh vực đang theo học. Đây là một trong những thách thức đi kèm với Cách mạng công nghiệp 4.0
khi nó được áp dụng hoàn toàn ở Việt Nam. Do đó dũng cảm, sáng tạo và táo bạo là vũ khí khi
sinh viên đối mặt với những thách thức do Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại.
Tại Việt Nam với mục tiêu tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 đem lại cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại
hoá đất nước; phát triển mạnh mẽ kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học -
công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc
lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái. Mới
đây ngày 27 tháng 9 năm 2019 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 52-NQ/TW về một số chủ
trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cụ thể, theo Nghị
quyết 52 của Bộ Chính trị đã thể hiện rõ quan điểm và sự quyết tâm của Đảng cộng sản Việt
Nam khi coi "chủ động, tích cực than gia cuộc CM 4.0 là yếu tố khách quan, coi đây là nhiệm vụ
có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và
toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng; đồng thời nhận thức đầy đủ, đúng
đắn về nội hàm, bản chất của cuộc CMCN 4.0 để quyết tâm đổi mới tư duy và hành động, coi đó
là giải pháp đột phát mới bước đi và lộ trình phù hợp là cơ hội để Việt Nam bứt phá trong phát
triển kinh tế - xã hội".
Theo đó, CM4.0 đòi hỏi đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hội; Hoàn thiện thể chế tạo thuận lợi cho chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số quốc gia; chính sách phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu;
chính sách phát triển và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia; chính sách phát triển
nguồn nhân lực; chính sách phát triển các ngành và công nghệ ưu tiên; chính sách hội nhập quốc
tế; chính sách thúc đẩy chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các
tổ chức chính trị - xã hội.
Chính sách phát triển nguồn nhân lực trong Nghị quyết 52 nêu rõ: “Rà soát tổng thể, thực
hiện đổi mới nội dung và chương trình giáo dục, đào tạo theo hướng phát triển năng lực tiếp
cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát
triển; đưa vào chương trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu. Đổi
mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số; lấy đánh giá của doanh nghiệp làm thước
đo cho chất lượng đào tạo của các trường đại học trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Khuyến
khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên các nền tảng số. Hình thành mạng học tập mở
178
của người Việt Nam. Thực hiện theo lộ trình phổ cập kỹ năng số, kỹ năng bảo đảm an toàn, an
ninh mạng đạt trình độ cơ bản cho người dân. Đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận
thức, xây dựng văn hoá số trong cộng đồng” (Nghị quyết 52-NQ/TW, 2019).
Các trường đại học có sứ mệnh đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp
ứng nhu cầu lao động cấp thiết cho Cách mạng công nghiệp 4.0. Giáo dục phải tạo ra những sinh
viên tốt nghiệp có khả năng sáng tạo cao, làm chủ công nghệ, có khả năng phân tích, dự đoán. Vì
vậy, trong giáo dục và đào tạo, một số môn học sẽ phải ngừng giảng dạy thay thế vào đó là
những môn học cần thiết cho sự phát triển tất yếu như Robot, tự động hóa… bởi mong muốn của
chính phủ là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhiều sinh viên ra trường có nguy cơ không
tìm được việc làm. Tuy nhiên Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng mang lại rất nhiều cơ hội cũng
như lợi ích nếu họ biết tận dụng cơ hội và chủ động tham gia Cách mạng công nghiệp 4.0
Phần tiếp theo của bài viết sẽ tập trung làm rõ nhận thức và định hướng của sinh viên trước
Cách mạng công nghiệp 4.0 từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức về cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0 cho sinh viên.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Cách mạng cộng nghiệp 4.0 xuất phát từ khái niệm "Industrie 4.0" trong một báo cáo của
chính phủ Đức năm 2013. "Industrie 4.0" kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh
để tạo ra sự hội tụ kỹ thuật giữa Công nghiệp, Kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong
Ngày 20/01/2016, Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) lần thứ 46 đã chính thức khai mạc tại
thành phố Davos-Klosters của Thụy Sĩ, với chủ đề “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4”,
thu hút sự tham dự của 40 nguyên thủ quốc gia và hơn 2.500 quan khách từ hơn 100 quốc gia
bao gồm các CEO và nhân vật nổi tiếng... Khái niệm Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hay
Công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đã được làm rõ tại diễn đàn này.
Theo Klaus Schwab, người sáng lập và chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế giới:
"Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản
xuất. Cuộc cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách
mạng lần thứ 3 sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc
Cách mạng công nghiệp thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ
lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học". Theo ông Klaus Schwab, tốc
độ đột phá của Cách mạng Công nghiệp 4.0 hiện "không có tiền lệ lịch sử". Khi so sánh với các
cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, 4.0 đang tiến triển theo một hàm số mũ chứ không phải
là tốc độ tuyến tính. Hơn nữa, nó đang phá vỡ hầu hết ngành công nghiệp ở mọi quốc gia. Và
chiều rộng và chiều sâu của những thay đổi này báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống
sản xuất, quản lý và quản trị
Theo từ điển Oxford, Cuộc cách mạng công nghiệp được định nghĩa là sự phát triển nhanh
chóng của ngành công nghiệp xảy ra ở Anh vào cuối thế kỷ 18 và 19, và nhanh chóng lan rộng
khắp thế giới. Nó được bắt đầu bằng việc giới thiệu máy móc và sau đó được đặc trưng bởi việc
sử dụng năng lượng hơi nước để cơ giới hóa sản xuất (cuộc cách mạng thứ nhất), sử dụng năng
lượng điện để tạo ra sản xuất hàng loạt hàng hóa sản xuất (cuộc cách mạng thứ hai) và sử dụng
công nghệ thông tin và điện tử để tự động hóa sản xuất (cuộc cách mạng thứ ba).
179
Cách mạng công nghiệp 4.0 không giống với các cuộc cách mạng trước đây vì nó được đặc
trưng bởi sự hợp nhất của các công nghệ liên quan đến phạm vi vật lý, kỹ thuật số và sinh học.
Cách mạng công nghiệp 4.0 là một tiến bộ công nghệ bao gồm xu hướng tự động hóa và trao đổi
dữ liệu mới nhất như hệ thống vật lý không gian mạng, Internet vạn vật, điện toán đám mây và
điện toán nhận thức. Nó còn được gọi là "nhà máy thông minh", nơi các quy trình vật lý được
giám sát bởi hệ thống công nghệ và việc ra quyết định được phân cấp. Điều này sẽ dẫn đến tăng
năng suất. Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ mang lại tác động lớn cho toàn thế giới vì nó ảnh
hưởng đến cách sống, làm việc, vui chơi, giao tiếp xã hội.
Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Công nghệ sinh học, Kỹ
thuật số và Vật lý. Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ nhân tạo
(AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). Trên lĩnh vực công
nghệ sinh học, Cách mạng Công nghiệp 4.0 tập trung vào nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy
vọt trong Nông nghiệp, Thủy sản, Y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng
tái tạo, hóa học và vật liệu. Cuối cùng là lĩnh vực Vật lý với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự
lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions) và công nghệ nano. Hiện, Cách mạng Công nghiệp
4.0 đang diễn ra tại các nước phát triển như Mỹ, châu Âu, một phần châu Á. Bên cạnh những cơ
hội mới, cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra cho nhân loại nhiều thách thức phải đối mặt.
Trong thời gian tới cách mạng công nghiệp 4.0 cũng được dự kiến sẽ ảnh hưởng đến nhiều
ngành nghề trong đó có nghề kế toán. Cuộc cách mạng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kế toán theo
nhiều cách khác nhau và mang lại cả lợi ích và rủi ro cho kế toán. Các công việc văn phòng hỗ
trợ như nhập dữ liệu và lưu giữ sổ sách, sẽ có dự báo về nhu cầu giảm do thay thế bằng AI và gia
công toàn cầu. Trong khi loại công việc liên quan đến lập kế hoạch quản lý và sản phẩm cũng
như nghiên cứu và phát triển có thể có nhu cầu tăng lên. Trong Cách mạng công nghiệp 4.0, kế
toán sẽ tham gia ít hơn vào các hoạt động tự động mà cần tập trung nhiều hơn vào các chiến lược
lớn của các công ty. Do đó, để duy trì nhu cầu mạnh mẽ, họ cần trang bị cho mình nhận thức và
kiến thức về phát triển các kỹ năng mới.
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu trước đây tập trung vào nhận thức của những người
quản lý và vào ngành công nghiệp sản xuất, ít đề cấp đến nhận thức trong Cách mạng công
nghiệp 4.0, đặc biệt là sinh viên. Theo nghiên cứu của nhóm tác giả, không có nghiên cứu nào
được thực hiện liên quan đến nhận thức về Cách mạng công nghiệp 4.0. Do đó, bài viết này có
thể thu hút nhiều nghiên cứu liên quan đến chủ đề này trong tương lai.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sinh viên là một trong những nguồn nhân lực chất lượng cao quyết định thành công Cách
mạng công nghiệp 4.0. Vấn đề đặt ra là sinh viên hiểu thế nào về Cách mạng công nghiệp 4.0?
Sinh viên đã nhận thức được tầm quan trọng của cuộc cách mạng mới này chưa? Và họ phải làm
gì cho những thay đổi mà Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại? Vì lý do đó bài viết cố gắng đi
giải quyết và làm rõ những nội dung trên.
Nghiên cứu sử dụng một bảng câu hỏi, bao gồm hai phần, để thu thập dữ liệu. Phần I người
được khảo sát sẽ cung cấp các thông tin cá nhân như giới tính, năm theo học. Phần 2 được thiết kế
với 22 câu hỏi, trong đó 3 câu hỏi đầu nhằm mục đích tìm hiểu sinh viên kế toán đã biết về Cách
180
mạng công nghiệp 4.0 chưa? Biết qua nguồn thông tin nào? 19 Câu hỏi còn lại được thiết kế theo
thang đo Likert từ 1 (rất không đồng ý) đến 5 (rất đồng ý) nhằm giải đáp câu hỏi hiểu biết của sinh
viên kế toán về Cách mạng công nghiệp 4.0, sự ảnh hưởng của Cách mạng công nghiệp 4.0 đến
nghề kế toán và định hướng của sinh viên kế toán trước Cách mạng công nghiệp 4.0.
300 bảng câu hỏi đã được chuyển đến các sinh viên các khóa hiện đang theo học tại khoa
kế toán kiểm toán trường Đại học công nghiệp Hà Nội. Số phiếu thu về 290 phiếu, số phiếu hợp
lệ 285 phiếu đạt tỷ lệ 95%. Cỡ mẫu của nghiên cứu này được xác định dựa trên công thức n =
5*m trong đó n: Cỡ mẫu; m: Số lượng câu hỏi trong bảng hỏi. Công thức được đề xuất Dựa theo
nghiên cứu của Hair, Anderson, Tatham và Black (1998). Dữ liệu được phân tích bằng cách sử
dụng phần mềm SPSS, các phân tích chủ yếu là thống kê mô tả và tần số dựa trên các câu trả lời
4. KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH
Phần I với các câu hỏi liên quan đến thông tin cá nhân. Kết quả phân tích cho thấy trong số
285 sinh viên kế toán tham gia khảo sát có 73 sinh viên năm thứ 1 chiếm tỷ lệ 25,6%; 72 sinh
viên năm thứ 2 chiếm tỷ lệ 25,3%; 70 sinh viên năm thứ 3 chiếm tỷ lệ 24,6%; 70 sinh viên năm
thứ 4 chiếm tỷ lệ 24,6%, đây là tỷ lệ hợp lý do số lượng sinh viên khảo sát ở các năm là khá đều
nhau, mang lại độ tin cậy cho nghiên cứu. Điều này được minh họa trong Bảng 1.
Bảng 1. Số lượng sinh viên tham gia khảo sát
Tần số Tỷ lệ (%)
Sinh viên năm 1 73 25.6
Sinh viên năm 2 72 25.3
Sinh viên năm 3 70 24.6
Sinh viên năm 4 70 24.6
Tổng 285 100.0
Ba câu hỏi đầu tiên của phần II tập trung các phát hiện liên quan đến thông tin của sinh
viên về Cách mạng công nghiệp 4.0. Đa số những người được hỏi (73.3%) đã nghe về Cách
mạng công nghiệp 4.0 và có kiến thức chung về nó. Khi được hỏi họ biết về Cách mạng công
nghiệp 4.0 qua nguồn thông tin nào? Phần lớn sinh viên trả lời biết về Cách mạng công nghiệp
4.0 thông qua Thầy/Cô; Sách, báo, mạng intrernet; Bạn bè; Khác. Có một tỷ lệ rất ít sinh viên
biết đến Cách mạng công nghiệp 4.0 thông qua hội thảo. 76/285 sinh viên được khảo sát cho biết
họ chưa biết hoặc chưa từng biết đến đến sự tồn tại của cuộc cách mạng mới này. Đặc biệt phân
tích cho thấy 93% sinh viên được khảo sát có ý định và mong muốn được tìm hiểu thêm về cuộc
cách mạng mới này. Điều này được minh họa trong Bảng 2.
Bảng 2. Sinh viên biết và ý định tìm hiểu về Cách mạng công nghiệp 4.0
Tần số Tỷ lệ (%)
Chưa biết về CM 4.0 76 26.7
Đã biết về CM 4.0 209 73.3
Tổng 285 100.0
181
Ý định tìm hiểu thêm về CM 4.0
Tần số Tỷ lệ (%)
Có ý định tìm hiểu thêm về CM 4.0 265 93.0
Không có ý định tìm hiểu thêm về CM 4.0 20 7.0
Tổng 285 100.0
Để thực hiện thành công cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Sinh viên, những người nắm
giữ và quyết định xu hướng phát triển của từng quốc gia cần phải hiểu biết sâu rộng nội dung
cũng như xu thế công nghệ mà Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại, từ đó chủ động trong học
tập, nghiên cứu nâng cao sức sáng tạo, học tập và quan trọng hơn là làm chủ công nghệ.
Phần tìm hiểu về hiểu biết của sinh viên kế toán đối với Cách mạng công nghiệp 4.0 được
thiết kế với bảy câu hỏi về những nội dung cơ bản của Cách mạng công nghiệp 4.0, được thiết kế
theo thang đo Likert từ 1 (rất không đồng ý) đến 5 (rất đồng ý), dữ liệu phân tích thể hiện qua
Bảng 3.
Bảng 3. Hiểu biết của sinh viên kế toán về Cách mạng công nghiệp 4.0
Min Max Mean
CM 4.0 sẽ mang lại lợi ích lớn hơn cho xã hội 1 5 4.26
CM 4.0 Máy móc và Robot làm việc một cách tự động 1 5 3.87
Máy móc và Robot sẽ thay thế con người trong các công
việc ít sáng tạo, lặp đi lặp lại, độc hại và nguy hiểm 1 5 4.16
CM 4.0 Máy móc và Robot làm được nhiều công việc
tinh vi mà con người đang phụ trách 1 5 4.01
Bảo mật là vấn đề quan trọng nhất trong CM 4.0 1 5 3.76
Chi phí ứng dụng CM 4.0 cho doanh nghiệp là rất lớn 1 5 3.69
CM 4.0 sẽ thay đổi mô hình kinh doanh giữa các ngành 2 5 3.75
Số quan sát hợp lệ 285
Theo kết quả ở bảng 3 thấy rằng hầu hết sinh viên được hỏi đồng ý rằng Cách mạng công
nghiệp 4.0 sẽ mang lại lợi ích lớn hơn cho tổ chức và xã hội. Nhận định này có căn cứ bởi tự
động hóa trong Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra năng suất và hiệu quả lao động cao hơn.
Sinh viên cũng cho rằng máy móc và Robot sẽ thay thế con người trong các công việc ít sáng
tạo, lặp đi lặp lại, độc hại và nguy hiểm. Bên cạnh đó bảo mật dữ liệu là mối quan tâm lớn nhất
trong Cách mạng công nghiệp 4.0 bởi công nghệ phát triển kết hợp với trí thông minh nhận tạo,
nguy cơ lộ thông tin, bị đánh cắp dữ liệu của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiêp là có thể xảy ra
va thường trực hàng ngày. Do vậy các chính sách mới, các quy định về việc bảo vệ dữ liệu và
ngăn chặn việc sử dụng trái phép dữ liệu phải được các chính phủ ban hành, phù hợp với sự phát
triển của Cách mạng khoa học 4.0, những hiểu biết khác về Cách mạng công nghiệp lần thứ 4
cũng được đại đa số sinh viên đồng ý.
182
Phần tìm hiểu về ảnh hưởng của Cách mạng công nghiệp 4.0 đến nghề kế toán được thể
hiện qua Bảng 4.
Bảng 4. Ảnh hưởng Cách mạng công nghiệp 4.0 đến nghề kế toán
Min Max Mean
Robot sẽ thay thế nhân viên kế toán trong tương lai 1 5 2.44
Mọi vấn đề về kế toán đều có thể giải quyết thông qua máy móc 1 5 2.57
Kế toán có thể sẽ thất nghiệp 1 5 2.92
CM 4.0 mang lại thay đổi lớn trong việc tuyển dụng kế toán 1 5 3.65
Robot không thể thay thế con người trong phán đoán và ra quyết định
kế toán 1 5 4.19
CM 4.0 mang lại nhiều cơ hội học tập hơn trong đó có kiến thức
chuyên ngành 1 5 4.37
Số quan sát hợp lệ
Vẫn còn sớm để khẳng định rằng các công việc của kế toán sẽ được tự động hóa hoàn toàn
trong Cách mạng công nghiệp 4.0, nhưng chắc chắn một số công việc đơn giản và mang tính lặp
đi, lăp lại của kế toán sẽ được thay thế bởi máy móc. Tuy nhiên máy móc không thể thay thế
hoàn toàn cong người trong việc nhận định, phán đoán các xu thế kế toán và ra các quyết định,
hợp thời điểm, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp.
Với những nhận định: Robot sẽ thay thế nhân viên kế toán trong tương lai, Mọi vấn đề về
kế toán đều có thể giải quyết thông qua máy móc, Kế toán có thể sẽ thất nghiệp mà nhóm nghiên
cứu đưa ra. Những sinh viên được hỏi không thể đưa ra ý kiến chính xác về tác động của Cách
mạng công nghiệp 4.0 đối với việc làm, nhưng hầu hết họ đều đồng ý rằng Cách mạng công
nghiệp 4.0 sẽ mang lại tác động rất lớn đối với việc tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp kế toán.
Thách thức của sinh viên trong tương lai không phải do nhu cầu tuyển dụng giảm đi, mà do các
ứng viên không có đủ các kỹ năng theo yêu cầu của nhà tuyển dụng như tính sáng tạo, chia sẻ
kinh nghiệm, khả năng phán đoán, phân tích và ra quyết định.
Phần cuối của bảng hỏi tập trung tìm hiểu những định hướng của sinh viên kế toán trước
Cách mạng công nghiệp 4.0, kết quả phân tích được thể hiện qua Bảng 5
Bảng 5. Định hướng của sinh viên kế toán trước Cách mạng công nghiệp 4.0
Min Max Mean
Sinh viên đang thiếu thông tin chi tiết về CM 4.0 1 5 3.91
Tìm hiểu về CM 4.0 là rất quan trọng đối với sinh viên 2 5 4.27
Tính sáng tạo là rất cần thiết trong học tập và làm việc 1 5 4.32
Không ngừng cập nhật kiến thức mới 2 5 4.50
Sinh viên phải thay đổi phương pháp học tập 1 5 4.27
183
Nhà trường, giáo viên phải thay đổi chương trình đào
tạo và phương pháp giảng dạy phù hợp 1 5 4.40
Số quan sát hợp lệ 285
Kết quả phân tích cho thấy đa số sinh viên đồng ý rằng họ thiếu kiến thức và thông tin về
Cách mạng công nghiệp 4.0. Điều này thể hiện sinh viên chưa chủ động trong việc tự tìm kiếm
thông tin, thậm chí chưa chủ động trong việc trao đổi, chia sẻ thông tin lẫn nhau. Tuy nhiên họ
đã ý thức được việc phải tự thay đổi phương thức học tập và mong muốn trường học rà soát lại
chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng sinh viên bởi: Các
trường Đại học là nơi sẽ đào tạo và cung ứng nguồn lao động chất lượng cao cho Cách mạng
công nghiệp 4.0. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy đa số sinh viên dự định tìm hiểu thêm về
Cách mạng công nghiệp 4.0, chủ động trong việc tìm kiếm thông tin, điều đó cho thấy Sinh viên
có thái độ tích cực và mong muốn trở thành một phần của cuộc cách mạng, họ đang từng bước
chuẩn bị hành trang vững vàng để bước vào cuộc Cách mạng mới này.
5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Bài viết đã bổ sung một góc nhìn mới cho công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
cho Cách mạng công nghiệp 4.0. Kết quả phân tích cho thấy phần lớn sinh viên kế toán có kiến
thức về Cách mạng công nghiệp 4.0, tuy nhiên hiểu biết còn chưa sâu điều này thể hiện một số
sinh viên chưa thể đưa ra ý kiến cụ thể, tỷ lệ sinh viên chưa biết đến Cách mạng công nghiệp 4.0
theo ý kiến nhà nghiên cứu còn tương đối lớn (26.7%). Nghiên cứu cũng cho thấy sinh viên thể
hiện thái độ tích cực, mong muốn được tìm hiểu thêm về Cách mạng công nghiệp 4.0. Chủ động
trang bị các kiến thức, kỹ năng cần thiết để đương đầu với thách thức.
Dựa trên những phát hiện của bài báo, tác giả đưa ra một số khuyến Nghị nhằm nâng cao
hiểu biết và sự chủ động tham gia Cách mạng công nghiệp 4.0 của sinh viên, giảng viên nhằm
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cung cấp cho xã hội.
Với các cơ sở đào tạo: Tổ chức các cuộc hội thảo về Cách mạng công nghiệp 4.0 cho
Giảng viên, sinh viên của trường nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của Cách mạng
công nghiệp 4.0 về cơ hội và thách thức; về sự thay đổi của thị trường việc làm trong tương lai;
về sứ mạng của trường đại học trong chuẩn bị nguồn nhân lực bậc cao và tham gia tái cơ cấu thị
trường lao động. Chủ động tiếp cận với các làn sóng công nghệ giáo dục mới để triển khai đào
tạo cho phép người học chủ động lựa chọn, tự lập kế hoạch, đăng ký học các học phần trong
chương trình tích hợp. Xây dựng nhiều hơn nữa các lớp học trực tuyến, các bài giảng hay với
nhiều môn học phong phú và đa dạng. Rà xoát lại chương trình đạo tạo một cách kỹ lưỡng, đảm
bảo Sinh viên không còn phải học tập các học phần không cần thiết và những môn học, những
chuyên ngành đào tạo phù hợp với xu thế phát triển phải được đưa vào giảng dạy. Nâng cao cơ
sở vật chất để việc giảng dạy và học tập đạt kết quả cao nhất như phòng học, bố trí, xắp xếp bàn
học, các thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập. Tăng cường mạnh mẽ hơn nữa sự kết nối với
các doanh nghiệp, hỗ trợ sinh viên thực tập có nhiều cơ hội thực hành nâng cao các kỹ năng giải
quyết vấn đề, suy luận logic, khả năng làm việc theo nhóm, kỹ năng thích nghi nhanh qua đó dễ
dàng xin việc sau khi tốt nghiệp.
184
Với giảng viên: Cần tạo động lực và khả năng học tập suốt đời và học tập liên tục cho
chính mình và cho sinh viên. Cần thay đổi tư duy và phương pháp giảng dạy học theo phương
pháp mới để người học vừa lĩnh hội được kiến thức, vừa biết vận dụng sáng tạo vào thực tiễn.
Kết hợp giữa các phương pháp truyền thống (thuyết trình, đàm thoại, luyện tập...) với các
phương pháp mới (giải quyết vấn đề, dạy học tình huống, dạy học định hướng hành động...).
Đồng thời, vận dụng các phương pháp gắn với công nghệ hiện đại như dạy học trực tuyến
E-learning… Thay đổi cách thức chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm để học tập vượt xa phạm vi lớp
học. Kiến thức có ở khắp mọi nơi, và việc học có thể diễn ra ở bất cứ khung cảnh nào.
Với Sinh viên: Thay đổi phương pháp học tập từ thụ động sang chủ động. Tăng khả năng
thích nghi với môi trường doanh nghiệp thông qua kinh nghiệm làm việc thực tế trong các đợt
kiến tập, thực tập tại các Doanh nghiệp. Trau dồi vốn ngoại ngữ để tiếp cận sâu rộng hơn với các
tri thức mới của nhân loại.
Hạn chế của nghiên cứu: Với phạm vi, đối tượng và thời gian thực hiện nghiên cứu hạn
chế, cùng với việc bảng hỏi còn chưa thực sự hoàn chỉnh, các đối tượng tham gia trả lời câu hỏi
còn chưa thấu hiểu một cách thống nhất, nghiên cứu mới thực hiện trên đối tượng là sinh viên Kế
toán trường Đại học Công nghiệp Hà Nội mà chưa thực hiện rộng rãi trên các sinh viên chuyên
ngành kế toán nói chung.
Hướng nghiên cứu tương lai: Trong tương lai tác giả mong muốn hoàn chỉnh bảng hỏi,
mở rộng đối tượng và phạm vi khảo sát để có kết quả phân tích có độ chính xác cao hơn, đưa ra
được những khuyến nghị thiết thực hơn nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cung cấp
cho xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Chính trị, 2019, Nghị quyết 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 về Một số chủ trương, chính sách
chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Đặng Quốc Bảo - Lê Thị Phương Hồng (2017). Xây dựng xã hội học tập trong thời đại cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Tạp chí Giáo dục, số 412, 1-3.
Nguyễn Văn Bình (chủ biên) - Nguyễn Ngọc Anh - Phạm Lan Anh (2017), Việt Nam với cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư. NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.
Phạm Ngọc Trang (2018). Cách mạng công nghiệp 4.0 - Thực tiễn và thách thức đặt ra đối với
các trường đại học và đội ngũ giảng viên trẻ. Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt kỳ 2, 90-93.
185
Công nghiệp 4.0: Khảo sát kỳ vọng của chuyên gia và hàm ý
cho đào tạo chuyên ngành kế toán kiểm toán
Lại Thị Thu Thủy, Hoàng Thị Bích Ngọc, Nguyễn Thị Hồng Lam, Phạm Đức Hiếu
Đại học Thương mại
Email: lamnh2008@gmail.com
Mã bài: HTQG.44 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 10/11/2019
Ngày nhận bài: 05/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 13/11/2019
Tóm tắt
Bài viết điều tra kỳ vọng của các chuyên gia (là các nhà tuyển dụng) đối với các ứng viên
là sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành kế toán, kiểm toán trên hai khía cạnh kiến thức và kỹ năng.
Kết quả nghiên cứu định tính đã chỉ ra sự thay đổi đáng kể về kỳ vọng của nhà tuyển dụng đối
với sinh viên chuyên ngành kế toán, kiểm toán trong môi trường Công nghiệp 4.0. Các nhà tuyển
dụng chia sẻ về khả năng không tìm được việc làm của lao động kế toán kiểm toán khi thiết bị và
máy móc điện tử dần thay thế các hoạt động của con người. Đồng thời, các chuyên gia này cũng
cho rằng sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành kế toán, kiểm toán cần tiếp tục học tập để rèn luyện
kiến thức và kỹ năng đặc biệt là kiến thức và kỹ năng về công nghệ thông tin (CNTT) để đáp ứng
với yêu cầu của cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Do đó, cần có sự phối hợp của các giảng viên và
các trường đại học để áp dụng các thành tựu của Công nghệ 4.0 trong các hoạt động giảng dạy và
học tập của sinh viên. Bên cạnh mục tiêu khám phá về kỳ vọng của nhà tuyển dụng đối với sinh
viên chuyên ngành kế toán, kiểm toán, nghiên cứu còn góp phần hiểu thêm về quan điểm của các
giảng viên và trường đại học trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập để sinh viên
chuyên ngành kế toán, kiểm toán có thể đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao
cho xã hội.
Từ khóa: Công nghiệp 4.0, Kỳ vọng của nhà tuyển dụng, Kế toán, kiểm toán.
1. GIỚI THIỆU
Theo từ điển Oxford, cách mạng công nghiệp (CMCN) được định nghĩa là sự phát triển
nhanh chóng của công nghiệp xảy ra lần đầu tiên vào cuối TK 18 và đầu thế kỷ 19 ở Anh, và sau
đó nhanh chóng lan ra toàn thế giới. Cuộc CMCN bắt đầu bằng việc giới thiệu máy móc, sau đó
được nhận biết bằng việc sử dụng năng lượng của máy hơi nước với động cơ đốt trong (CMCN lần
1), sau đó là việc sử dụng năng lượng điện với động cơ điện để chế tạo ra số lượng lớn sản phẩm
và hàng hóa (CMCN lần 2), tiếp theo là việc sử dụng công nghệ điện tử - tin học và tự động hóa
sản xuất (CMCN lần 3).
186
Trong khi đó CMCN lần thứ 4 hay còn được gọi là CMCN 4.0 không giống như các cuộc
cách mạng trước trong quá khứ ở chỗ đó là sự kết nối của công nghệ trong thực thể vật chất, số
hóa và công nghệ sinh học. CMCN 4.0 là sự tiến bộ của kỹ thuật liên quan tới xu hướng mới
nhất của tự động hóa và trao đổi dữ liệu như Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây và máy
học. CMCN 4.0 còn được gọi là “công nghệ thông minh”, nơi mà các quá trình vật lý được kiểm
soát bởi hệ thống công nghệ và việc ra quyết định được phi tập trung hóa. Điều này đã làm tăng
năng suất lao động. CMCN 4.0 đã có ảnh hưởng rất lớn và sâu sắc tới thế giới và tới cả cuộc
sống của con người trong lao động, giải trí và giao tiếp xã hội.
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới, trong tương lai các công việc có tính lặp lại, dựa trên các
nguyên tắc có tính khuôn mẫu và ổn định sẽ có nhiều khả năng được tự động hóa. Hơn 95%
những công việc như vậy sẽ bị thay thế bởi máy móc, trí tuệ nhân tạo và người máy. Các công
việc đó là thu ngân, ghi chép sổ sách, lập hóa đơn bán hàng, lập hóa đơn tính tiền và thu tiền của
khách hàng (US Bureau of Labour Statistics, 2017). Điều đó có nghĩa là bản chất của một số
ngành nghề trong tương lai chắc chắn sẽ thay đổi như là kết quả của CMCN 4.0. Vì thế, sinh
viên đang học tại các trường dạy nghề, cao đẳng và đại học có liên quan có thể sẽ không tìm
được việc làm trong các lĩnh vực mà họ đang học tập. Đây là một thử thách gắn liền với CMCN
4.0 khi nó được áp dụng đầy đủ ở một quốc gia. Bởi vậy, sinh viên cần được khuyến khích để
trang bị và chuẩn bị kiến thức, kỹ năng, ứng xử cần thiết cho việc đối mặt với các thử thách của
CMCN 4.0.
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu kỳ vọng của nhà tuyển dụng về kiến thức và kỹ năng đối
với các ứng viên là sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành kế toán, kiểm toán. Ngoài ra, nghiên cứu
cũng tìm hiểu về các hoạt động giảng dạy và học tập nhằm giúp sinh viên chuyên ngành kế toán,
kiểm toán sẵn sàng cho Công nghiệp 4.0. Những phát hiện của nghiên cứu này hy vọng sẽ cung
cấp thông tin có giá trị cho các trường đại học và giảng viên trong việc đổi mới phương pháp
giảng dạy và học tập để sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành kế toán, kiểm toán có thể nâng cao
khả năng tuyển dụng, đáp ứng kỳ vọng của thị trường lao động hiện tại về nguồn nhân lực kế
toán, kiểm toán chất lượng cao.
2. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
2.1. Lựa chọn người tham gia phỏng vấn
Với mục tiêu tìm hiểu kỳ vọng của nhà tuyển dụng về kiến thức và kỹ năng của sinh viên
chuyên ngành kế toán, kiểm toán nên nghiên cứu định tính với phỏng vấn chuyên gia được lựa chọn.
Dựa trên mối quan hệ cá nhân, trong điều kiện giới hạn về thời gian của các bên tham gia
nên chỉ có hai (02) kế toán viên, hai (02) kiểm toán viên, hai (02) giảng viên kế toán kiểm toán
từ một trường đại học công lập và một (01) chuyên gia từ Bộ Tài chính đã tham gia vào nghiên
cứu này. Mẫu lựa chọn phù hợp với nghiên cứu khám phá và đảm bảo được tính đại diện cho các
bên: cơ quan quản lý, cơ sở đào tạo, và nhà tuyển dụng kế toán, kiểm toán.
Vì lý do bảo vệ thông tin cá nhân, chúng tôi đã mã hóa các chuyên gia tham gia trả lời
phỏng vấn như sau: hai kế toán viên KTV N và KTV B hiện đang làm việc cho một công ty niêm
yết và một công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; hai kiểm toán viên là KiTVG và KiTV M
187
hiện đang làm việc tại các công ty kiểm toán độc lập. Cả bốn chuyên gia thực tế đều trên 45 tuổi
và có hơn 20 năm kinh nghiệm làm việc. Do đó, họ được coi là phù hợp để cung cấp các quan
điểm khác nhau của nhà tuyển dụng về ‟kỳ vọng của sinh viên tốt nghiệp ngành kế toán”.
Các giảng viên đã được chọn do kinh nghiệm của họ trong cả thực tiễn và giảng dạy kế
toán, kiểm toán. Các giảng viên là GV H và GV L, cả hai đều trên 35 tuổi. Chuyên gia T từ Bộ
tài chính hiện đang theo dõi mảng kế toán kiểm toán. Tất cả những người tham gia đều nhận thức
được các đặc điểm riêng của Công nghiệp 4.0. Những người tham gia được liên hệ dựa trên kiến
thức cá nhân và kinh nghiệm của họ trong thực tế cũng như trong lĩnh vực giảng dạy.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phỏng vấnđược sử dụng vì phù hợp với mục tiêu nghiên cứu. Các cuộc
phỏng vấn bán cấu trúc được thực hiện, do đó cho phép thảo luận cá nhân được thực hiện cùng
với khảo sát. Theo cách này, nghiên cứu sẽ thu được các quan điểm và thông tin chủ quan chi tiết
về chủ đề nghiên cứu từ những người tham gia (Mayring, 2010).
Bảng câu hỏi mở được phát triển trên cơ sở thảo luận với một nhóm các giảng viên có kinh
nghiệm trong giảng dạy kế toán kiểm toán. Bảng hỏi bao gồm bốn phần, cụ thể là các câu hỏi cá
nhân về những người tham gia, về Công nghiệp 4.0 nói chung, về các thách thức mà kế toán,
kiểm toán phải đối mặt và về các chuẩn bị để đáp ứng các thách thức của Công nghiệp 4.0.
2.3. Thu thập dữ liệu và phân tích dữ liệu
Việc phỏng vấn được thực hiện vào tháng 7-8/2019. Dàn ý câu hỏi đã được gửi cho những
người tham gia trước khi phỏng vấn để họ chuẩn bị tốt hơn cho quá trình thảo luận. Cuộc phỏng
vấn đầu tiên được thực hiện với các kế toán viên, tiếp theo là cuộc phỏng vấn thứ hai với các
kiểm toán viên để xác định kỳ vọng của họ về sinh viên tốt nghiệp kế toán trong kỷ nguyên Công
nghiệp 4.0. Sau đó, các cuộc phỏng vấn được thực hiện với các giảng viên và chuyên gia từ Bộ
Tài chính. Điều này cho phép nhóm tác giả thông báo cho các giảng viên về những kỳ vọng của
kế toán viên và kiểm toán viên và xác định các cách để thực hiện những mong đợi đó.
Sau khi hoàn thành việc thu thập dữ liệu, các cuộc phỏng vấn đã được ghi lại và sau đó
được chuyển thành văn bản. Tiếp đó, các kết quả văn bản được cấu trúc và phân loại theo các
chủ đề chính, theo sau là một mã hóa cụ thể. Quá trình mã hóa dẫn đến một hệ thống danh mục,
sau đó được sử dụng để cấu trúc và hướng dẫn quy trình đánh giá dữ liệu thông tin.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Phân tích mã hóa dẫn đến một hệ thống danh mục cung cấp năm chủ đề chính: Thời hạn
CMCN 4.0 tác động toàn diện, Thay đổi môi trường làm việc, Thay đổi hồ sơ công việc, Thay
đổi cách thức tác nghiệp và Hệ quả xã hội. Các chủ đề này tương tự như các chủ đề được cung
cấp trong Bonekamp và Sure (2015).
3.1. Thời hạn CMCN 4.0 tác động toàn diện
Các chuyên gia được phỏng vấn đã chia sẻ quan điểm rằng có thể mất nhiều thập kỷ thay
vì nhiều năm trước khi Công nghiệp 4.0 phát triển đầy đủ giữa các công ty ở Việt Nam. Tất cả
188
đều đồng ý rằng tính chất công việc trong kiểm toán sẽ dần thay đổi và phạm vi công việc của họ
sẽ liên quan đến việc sử dụng các công nghệ. Theo ghi nhận của KiTV G: “Sự thay đổi trong
cách thức kiểm toán được tiến hành dần dần. Trước đây, hầu hết các công việc kiểm toán đều
được thực hiện thủ công, bây giờ một số bước kiểm toán đã được thực hiện với việc sử dụng máy
tính. Ví dụ, chọn mẫu được thực hiện với sự trợ giúp của hệ thống. Tương tự với kế toán, trước
đây việc ghi sổ kế toán được thực hiện thủ công, bây giờ phần mềm kế toán đã thay thế việc đó”.
Ngoài ra, bối cảnh tương lai của môi trường kế toán và kinh doanh vẫn chưa chắc chắn do
sự phát triển không ngừng của máy tính và công nghệ. KiTV M chia sẻ: "Nói chung, sự thay đổi
củamáy tính và công nghệ diễn ra cứ sau 1,5 đến 2 năm. Thay đổi theo từng phiên bản, làm cho
thế giới hiện đại và tinh vi hơn. Tương tự như vậy trong kế toán và kiểm toán, trước đây không
có phần mềm kế toán nhưng bây giờ chúng tôi có phần mềm kế toán. Những thay đổi đang diễn
ra ngày hôm nay, một thời gian trước chúng tôi nghĩ rằng điều đó là không thể. Ví dụ, khi tôi bắt
đầu làm kiểm toán viên, không có hệ thống nào gọi là phần mềm kiểm toán như các phần mềm
được sử dụng ngày nay. Nhưng bây giờ, sau 20 năm kiểm toán, có phần mềm kiểm toán ExP,
ACL là các phần mềm kiểm toán được nâng cấp liên tục theo thời gian”.
KTV N lưu ý “Tương tự như vậy, trong kế toán, trước đây các công ty nước ngoài có trụ
sở ở nước ngoài không thể cung cấp dịch vụ chuẩn bị tài khoản cho công ty của chúng tôi ở Việt
Nam. Bây giờ có các công ty ở Singapore cung cấp cho các công ty của chúng tôi dịch vụ chuẩn
bị tài khoản ở Việt Nam. Do đó, chúng tôi không biết mọi thứ sẽ diễn ra như thế nào trong tương
lai. Có thể các công việc kiểm toán sẽ không yêu cầu dịch vụ của con người. Có thể máy móc và
phần mềm sẽ thay thế con người”.
Chuyên gia từ Bộ Tài chính cho rằng: “Có rất nhiều đánh giá khác nhau theo nhiều tiêu
chí, phương pháp thực hiện của các tổ chức trong và ngoài nước. Tôi xin dẫn ra số liệu dựa trên
kết quả khảo sát của Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), có thể đánh giá ảnh
hưởng của Công nghiệp 4.0 đến lĩnh vực kế toán, kiểm toán như sau. Về mức độ quan tâm có
hơn ½ KiTV quan tâm cao và chỉ hơn 10% KiTV quan tâm đặc biệt. Điều đáng cảnh báo có đến
5% số người không và ít quan tâm đến Công nghiệp 4.0 là gì? Đồng thời 1/3 KiTV cho rằng
Công nghiệp 4.0 là vấn đề bình thường như mọi việc khác. Đa số các KiTV không nhận thấy và
thấy ít, rất ít bị tác động bởi Công nghiệp 4.0 hoặc đón nhận việc này theo phản ứng “trung
lập” xem vấn đề này là bình thường. Còn một số KiTV khác chưa hiểu rõ về Công nghiệp 4.0 sẽ
tác động ra như thế nào đến lĩnh vực tài chính, kế toán, kiểm toán. Về mức độ tác động, theo
khảo sát có 67% các công ty kiểm toán, KiTV cho rằng Công nghiệp 4.0 đang và sẽ tác động lớn
đến ngành nghề kế toán, kiểm toán; 5% nhận thức được Công nghiệp 4.0 sẽ tác động làm biến
đổi sâu sắc đến toàn ngành nghề trong tương lai không xa; có đến 25% các công ty kiểm toán,
KiTV cho rằng Công nghiệp 4.0 chỉ tác động bình thường như yếu tố khác hiện đang tác động
đến công việc của họ (như cạnh tranh giá phí, các kỹ thuật kế toán - kiểm toán truyền thống,
tuân thủ chuẩn mực, chính sách chế độ…); Có đến 3% cho rằng Công nghiệp 4.0 tác động rất ít
đến công việc mà họ đang cung cấp cho khách hàng”.
3.2. Thay đổi trong môi trường làm việc
Về môi trường làm việc, những người tham gia đồng ý rằng các hoạt động đơn giản, được
tiêu chuẩn hóa cao của con người như chuẩn bị các tài khoản được thực hiện thủ công sẽ bị loại
189
bỏ và thay thế bằng hệ thống máy tính. Do đó, có một thỏa thuận rằng các công nghệ 4.0 sẽ
không chỉ loại bỏ việc làm mà còn tạo ra những công việc mới. Những người tham gia cũng
đồng ý rằng do sự ra đời của các hệ thống máy tính Công nghiệp 4.0, các hoạt động sẽ trở nên
minh bạch hơn cho các nhà quản lý để giám sát mặc dù họ sẽ đặt ra những thách thức cho sinh
viên tốt nghiệp chuyên ngành kế toán kiểm toán về khả năng áp dụng và sử dụnghệ thống máy
tính của Công nghiệp 4.0. KTV B bình luận: “Các quy trình lặp đi lặp lại và định kỳ cũng được
thay thế bằng các hệ thống tính toán hoặc chạy quy trình kế toán thủ công. Ví dụ: các tính toán
về khấu hao hàng tháng, hệ thống sẽ tự động tính toán mức khấu hao của từng tài sản mỗi tháng,
điều duy nhất cần được đưa vào hệ thống là thông tin liên quan đến tài sản, như thời gian sử
dụng hữu ích, phương pháp khấu hao”.
Bên cạnh đó, các giảng viên cũng cho biết nhận thức của họ về mức độ thay thế các hoạt
động của con người bằng các thiết bị điện tử và máy móc. Các giảng viên cho rằng công việc của
họ đã và đang bị ảnh hưởng rất lớn bởi CNTT. Do đó, kịch bản này đã hướng các sinh viên tốt
nghiệp chuyên ngành kế toán, kiểm toántheo hướng sử dụng CNTT thay vì dựa vào các phương
thức dạy và học truyền thống. GV H chia sẻ: “Trong quá trình giảng dạy chẳng hạn, các ghi chú
của giảng viên có thể được tải lên một hệ thống mạng nội bộ hoặc trang web. Theo cách này,
sinh viên có thể truy cập và không bị gánh nặng phải mang theo những chiếc túi lớn chứa đầy tài
liệu. Việc tìm kiếm thông tin cũng sẽ nhanh hơn bằng cách nhập các từ khóa liên quan vào hệ
thống. Giảng viên cũng không cần phải mang tài liệu là giấy, hoặc giáo trình. Quan trọng hơn,
quá trình tìm kiếm cũng nhanh hơn... Với báo cáo tài chính của các công ty niêm yết (có sẵn trên
trang web cafef.vn), các giảng viên chia sẻ với sinh viên về cách sử dụng các thông tin này. Để
ghi lại và đánh giá sự tham dự của sinh viên, các giảng viên có thể sử dụng phần mềm quét nhận
diện trong đó phần mềm này cho phép các giảng viên ghi lại và phân tích sự tham dự của sinh
viên mà không cần mang theo danh sách lớp. Việc điều tra, khảo sát có thể được thực hiện bằng
cách sử dụng "biểu mẫu Google" bằng cách đăng các câu hỏi thông qua nhóm Whatsapp,
Facebook, email hoặc tài khoản twitter... Người trả lời có thể gửi câu trả lời ngay lập tức và
mẫu Google có thể tiến hành phân tích dữ liệu”.
Các chuyên gia kết luận rằng các Công nghiệp 4.0 cũng sẽ tăng cường khả năng truy suất
của quá trình, do đó, làm cho quy trình làm việc linh hoạt hơn. Quá trình tìm kiếm thông tin sẽ
trở nên dễ dàng hơn nhiều với sự sẵn có của các hệ thống. Những người tham gia đồng ý, rằng
các hệ thống sẽ giảm bớt gánh nặng của họ trong việc tìm kiếm thông tin mà không gặp nhiều
rắc rối. Như KTV N đã lưu ý: "Bây giờ, quá trình tìm kiếm thông tin trở nên dễ dàng và nhanh
chóng hơn với sự trợ giúp của hệ thống. Ví dụ, nếu tôi muốn biết tên của nhà cung cấp đồ nội
thất cho công ty chỉ bằng một cú nhấp chuột vào giao dịch liên quan, thông tin về nhà cung cấp
đã được biết. Với hệ thống, chúng tôi không cần phải xuống cửa hàng chứa hóa đơn của nhà
cung cấp, điều này giúp tiết kiệm rất nhiều thời gian”.
KTV B nhận định: “Với CNTT, công việc có thể được thực hiện một cách linh hoạt hơn,
nơi không có khu làm việc riêng được chỉ định cho nhân viên, ví dụ như văn phòng Digi Việt
Nam. Nhân viên có thể làm việc từ bất cứ nơi nào như quán cà phê, miễn là có sẵn máy tính và
internet. Công việc cũng có thể được thực hiện từ nhà. Một ví dụ khác là không có nơi làm việc
190
riêng cho nhân viên nên những người đến làm việc muộn sẽ phải sử dụng nơi làm việc gần sếp.
Điều này gián tiếp khuyến khích người lao động đúng giờ”.
Nhóm chuyên gia từ các kế toán viên, kiểm toán viên đồng ý rằng Công nghiệp 4.0 yêu cầu
sinh viên tốt nghiệp kế toán tập trung hơn vào khả năng CNTT. Điều này là do nhiều công việc
trong kỷ nguyên Công nghiệp 4.0 hiện đang được thực hiện bởi con người sẽ được thay thế bằng
phần cứng và phần mềm CNTT. Kết quả là điều này sẽ tạo ra sự hợp tác chặt chẽ giữa người lao
động và máy móc. Điều này chỉ ra rằng sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành kế toán, kiểm toán
cần phải am hiểu về CNTT để duy trì nhu cầu của họ. KTV N đưa ra ý kiến của mình: “Trong
thời đại này, công việc trước đây được thực hiện bởi con người và báo cáo trên giấy giờ đây có
thể được thực hiện với CNTT, ví dụ như báo cáo quản lý hàng tháng liên quan đến hiệu suất của
công ty. Trước đây, báo cáo sẽ được in và trình bày thực tế trong các cuộc họp quản lý. Hiện
nay, báo cáo KPI trực tuyến được nhiều công ty sử dụng, báo cáo hàng tháng sẽ được thực hiện
ảo, trực tuyến. Điều này sẽ giúp đưa ra quyết định nhanh hơn và chính xác hơn”.
Nhóm chuyên gia là các giảng viên nhận thức được các yêu cầu về CNTT trong kỷ nguyên
Công nghiệp 4.0. GV H giải thích: “Bây giờ, nhân viên cần phản ứng nhanh hơn với các hệ
thống hiện có. Việc sử dụng rộng rãi các hệ thống này sẽ giúp làm việc dễ dàng hơn và quan
trọng hơn sẽ dẫn đến đầu ra hiệu quả hơn. Ví dụ, trong việc giảng dạy các môn học kế toán ngày
nay, các chương trình khác nhau trên internet có thể giúp các giảng viên trong quá trình giảng
dạy và học tập. Chương trình này không chỉ cung cấp một phương pháp đánh giá nhanh hơn mà
còn thu hút các sinh viên có nhiều khả năng và quan tâm đến CNTT và các tiện ích”.
GV L ủng hộ quan điểm của GV H: “Để khuyến khích các sinh viên tích cực hoạt động
trong lớp học, chúng tôi có thể sử dụng phần mềm "Kahoot" để có thể giúp khuyến khích sinh
viên hoạt động tích cực trong lớp học. Với điều này, một giảng viên cần có nhiều kỹ năng CNTT
và hiểu biết về CNTT để thích nghi và sử dụng CNTT để hỗ trợ anh ta trong quá trình giảng dạy
và học tập”.
Xét về mối quan hệ mới giữa lập kế hoạch và thực thi nhiệm vụ, với công nghệ CNTT
trong Công nghiệp 4.0, nhóm chuyên gia từ các kế toán viên, kiểm toán viên thừa nhận thực tế
rằng công nghệ CNTT sẽ giúp lập kế hoạch hiệu quả hơn. Điều này cung cấp một dấu hiệu cho
thấy sinh viên tốt nghiệp kế toán phải là người am hiểu về công nghệ. Theo ghi nhận của KTVB:
“Với CNTT, việc giám sát từng kế hoạch được thực hiện dễ dàng và hiệu quả hơn. Và quan
trọng nhất, trong trường hợp sai lệch so với những gì chúng tôi đã lên kế hoạch, hành động khắc
phục ngay lập tức có thể được thực hiện. Ví dụ, lập kế hoạch và hợp nhất kinh doanh hệ thống
(BPC) được sử dụng bởi một số công ty lớn có thể cung cấp sửa lỗi tự động, có hệ thống và
nhanh chóng. Ngoài ra, giám sát quá trình có thể được thực hiện hiệu quả hơn, trong đó phân
tích phương sai làm ví dụ có thể được thực hiện với sự trợ giúp của BPC này. Sau đó, hành động
khắc phục có thể được thực hiện khi BPC đề xuất một số hành động chiến thuật nhất định”.
3.3. Thay đổi hồ sơ làm việc
Cách mạng Công nghiệp 4.0 cũng đã dẫn đến việc thay đổi hồ sơ làm việc. Trước đây,
kiểm toán viên được yêu cầu thực hiện công việc kiểm toán của họ một cách thủ công, khi họ
191
phải mang hồ sơ kiểm toán đến các trung tâm kiểm toán. Tuy nhiên, với Công nghiệp 4.0, kiểm
toán viên không còn cần phải mang theo hồ sơ kiểm toán nữa mà có thể mang máy tính xách tay
khi làm việc. KiTV M cho rằng: “Việc sử dụng máy tính ngày càng trở nên quan trọng trong kỷ
nguyên CNTT này. Ví dụ, trước đây, mỗi lần thực hiện công việc thì KiTV cần một hộp hoặc túi
đựng file lớn để chứa các dữ liệu. Bây giờ, các KiTVchỉ cần máy tính xách tay để thiết lập các
hộp dữ liệu. Hơn nữa, công việc của KiTV thường được soát xét bởi người giám sát, người quản
lý và giám đốc kiểm toán. Bây giờ, việc soát xét này có thể được thực hiện gần như toàn bộ và
thu hồi kịp thời các phản hồi. Hồ sơ kiểm toán do KiTV cung cấp có thể được soát xét bởi người
giám sát và người đánh giá trực tuyến khác mà không cần gặp mặt trực tiếp. Từ văn phòng
khách hàng, KiTV có thể gửi email cho người đánh giá để xem xét mà không cần phải quay lại
văn phòng. Tương tự, phản hồi cho các ghi chú đánh giá và các chú ý cần thiết của người đánh
giá có thể được giải quyết từ nhà, văn phòng khách hàng hoặc các địa điểm phù hợp khác mà
không cần gặp mặt trực tiếp tại văn phòng”.
KTV N giải thích thêm: “Mỗi nhân viên phải luôn học cách đảm bảo rằng sự phát triển
của một hệ thống mới tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều quy trình làm việc có thể được sử dụng
đầy đủ. Ví dụ, trong quá trình học tập và giảng dạy, các chương trình mới giúp tạo thuận lợi cho
quá trình giảng dạy. Tương tự như vậy, việc thành thạo một số hệ thống sẽ mang lại lợi thế cho
sự phát triển nghề nghiệp của nhân viên. Ví dụ, khi sử dụng Hệ thống, Ứng dụng và Sản phẩm
(SAP) không chỉ giúp đỡ một người trong công việc hiện tại mà người đó còn có thể sử dụng
SAP để làm lợi thế cho mình khi tìm kiếm công việc mới tại các công ty khác cũng sử dụng SAP.
SAP là ERP được thông qua bởi các công ty lớn trong việc quản lý kinh doanh của họ”.
KTV G cũng đưa ra ý kiến của mình về tác động của Công nghiệp 4.0 đối với hồ sơ công
việc: “Trong môi trường CNTT, có một số chức năng công việc không tồn tại trước đây nhưng
hiện tại rất quan trọng trong một tổ chức, ví dụ như với kiểm toán viên CNTT. Trong thế giới
ngày nay, một số lượng lớn các công ty thực hiện các hoạt động kinh doanh sử dụng CNTT một
cách toàn diện, ví dụ các ngân hàng và siêu thị. Việc sử dụng đầy đủ CNTT trong các giao dịch
kinh doanh đòi hỏi một hệ thống kiểm toán thay vì kiểm toán dựa trên niềm tin; nếu hệ thống
cung cấp báo cáo tài chính là một hệ thống tốt, thì báo cáo tài chính sẽ trung thực. Vì vậy, để
một kiểm toán viên trở thành một chuyên gia, việc đảm bảo một hệ thống kế toán tốt và đáng tin
cậy là rất quan trọng. Nói chung, nếu tỷ lệ kiểm toán CNTT và thử nghiệm cơ bản trong kiểm
toán là chính xác 80%, thì nó đến từ kiểm toán CNTT.”
Thêm đó, KTVB cũng cho rằng: “Ngày nay, có những thay đổi đáng kể trong tổ chức công
tác kế toán. Hiện tại, các công ty có thể sử dụng dịch vụ kế toán thuê ngoài. Tương tự, các công
ty lớn có thể thành lập trung tâm dịch vụ chia sẻ (SSC) để chuẩn bị tài khoản cho từng công ty
trong nhóm. SSC là một công ty con được thành lập trong một nhóm các công ty lớn, chuyên
cung cấp dịch vụ kế toán cho nhóm. Vì vậy, từng công ty con không cần phải thuê kế toán riêng.
Điều này giúp tiết kiệm chi phí và khuyến khích KTV nâng cao trình độ chuyên môn. Kế toán làm
việc trong SSC sẽ hiểu biết về các hoạt động kinh doanh khác nhau một cách gián tiếp khi đang
trong quá trình chuẩn bị tài khoản. Điều này cung cấp cho KTV cơ hội để nhận biết toàn bộ hoạt
động kinh doanh của nhóm. Ví dụ tại một công ty đa ngành, khi đó, một kế toán viên phụ trách
192
SSC mà công ty này có tham gia sẽ có cơ hội giao tiếp với các nhân viên và quản lý của các
công ty con khác với các giao dịch kinh doanh khác nhau.”
Để đáp ứng mong đợi của các nhà tuyển dụng, các giảng viên cần hỗ trợ sinh viên tốt
nghiệp thích ứng với những thay đổi do công nghệ mang lại trong kỷ nguyên của Cách mạng
công nghiệp 4.0. Các giảng viên có thể kết hợp các công nghệ khác nhau trong lớp học để sinh
viên tốt nghiệp nhận thức được và có thể sử dụng các công nghệ này. Điều này không chỉ có lợi
cho sinh viên tốt nghiệp mà cả các giảng viên, những người mà bản thân họ phải có khả năng
thích ứng với các công nghệ có sẵn. Theo như GV L: “Để duy trì sự phát triển nghề nghiệpbuộc
phải thích nghi với những thay đổi. Ví dụ, một giảng viên có am hiểu về CNTT chỉ thành công
khi biến CNTT thành sở thích của người học. Trong lớp học, anh ta có thể sử dụng CNTT để hỗ
trợ quá trình giảng dạy và có khả năng được yêu thích bởi các sinh viên. Ngoài ra, khi ứng dụng
CNTT, một số quy trình làm việc trở nên nhanh hơn. Ví dụ, trong các hoạt động đố vui trực
tuyến, việc chuẩn bị câu hỏi là hiệu quả hơn và việc ghi nhận điểm số có thể nhanh hơn. Ngân
hàng câu hỏi có thể được tải sẵn lên cơ sở dữ liệu và điểm số của sinh viên được tự động nhận
ra sau khi sinh viên trả lời các câu hỏi đó.”
3.4. Thay đổi cách thức tác nghiệp
Các chuyên gia được phỏng vấn chia sẻ quan điểm rằng Công nghiệp 4.0 sẽ dẫn đến các
biện pháp thay đổi trong văn hóa làm việc. Theo như KTVN: “Văn hóa doanh nghiệp và việc
chấp nhận công việc cũng thay đổi. Trước đây, các nhân viên sẽ đua nhau bấm thẻ chấm
cônglúc 8 giờ sáng và xếp hàng trước hệ thống chấm công lúc 5 giờ chiều. Tuy nhiên, ngày nay
ở một số công ty, nhân viên không phải sử dụng thẻ để chấm công vì họ có thể làm việc từ hầu
hết mọi nơi với nhiều giờ làm việc khác nhau. Ví dụ, các công ty con ở Việt Nam luôn liên lạc
với các công ty mẹ của họ nhưng ở Mỹ. Quá trình này trở nên quan trọng hơn đối với kế toán
vào cuối tháng khi họ thực hiện công việc cuối kỳ. Báo cáo tài chính của các công ty con của
Việt Nam phải được lập và gửi qua email cho các công ty mẹ với mục đích hợp nhất báo cáo tài
chính. Với các múi giờ khác nhau, kế toán của các công ty con của Việt Nam có thể phải thức
khuya để hoàn thành nhiệm vụ”. KTV B cũng lưu ý rằng có sự khác biệt hoặc hợp tác nhiều hơn
giữa các chức năng và giữa các công ty trong kỷ nguyên Công nghiệp 4.0. Điều này được giải
thích như sau: “CNTT đòi hỏi sự hợp tác mạnh mẽ giữa các chức năng và giữa các công ty. Ví
dụ, bộ phận sản xuất cần nguyên liệu thô để chế biến thành phẩm. Mẫu yêu cầu nguyên liệu
được điền bởi bộ phận sản xuất hoặc bộ phận lưu trữ và được dùng để mua hàng - được thực
hiện bởi bộ phận mua hàng và thông tin này cần được bộ phận kế toán biết cho mục đích kế
toán. Trong các tổ chức sử dụng ERP như SAP và Oracle, trách nhiệm điền chính xác từng
thông tin là rất quan trọng vì việc nhập kho chỉ được thực hiện một lần, có thể là ở bộ phận mua
hàng. Thông tin sẽ tiếp tục đến bộ phận kế toán và ở sổ cái, trở thành một tài liệu quan trọng
trong bộ phận kế toán. Hợp tác là quan trọng để đảm bảo mọi người đang thực hiện công việc
của họ đúng cách để ghi chép chính xác và tránh lặp lại công việc”. Tuy nhiên nhóm chuyên gia
từ các KTV, KiTV cảnh báo rằng các công ty có thể phải đối mặt với sự chống lại sự thay đổi từ
nhân viên của họ. Khả năng chống lại thay đổi không phải là hiếm vì con người có xu hướng cố
định với một số hành vi nhất định và sẽ không dễ dàng chấp nhận các công nghệ mới. Điều này
193
thể hiện rõ ràng hơn đối với nhân viên cao cấp. KTVN cho rằng: “Một số lý do được đưa ra bởi
một số nhân viên để chứng minh một hệ thống là xấu. Ví dụ, thuê ngoài là không tốt vì thông tin
công ty sẽ bị rò rỉ ra bên ngoài.SSC sẽ làm chậm quá trình làm việc và hơn thế nữa. Thật ra họ
muốn nói rằng họ đã quen với những cách cũ và họ rất vui khi làm việc theo cách cũ mặc dù
cách mới nhanh hơn. Họ cũng phải đối mặt với vấn đề làm chủ các chức năng CNTT do thiếu
kiến thức cơ bản và hạn chế về kiến thức CNTT và hệ thống. Các nhân viên trẻ có thể am hiểu
CNTT nhưng lại thiếu kinh nghiệm và kiến thức. Nhân viên lớn tuổi hơn có thể có kiến thức và
kinh nghiệm tốt nhưng thao tác về CNTT chậm”.
KTV M cũng nói thêm rằng: “Mỗi hệ thống mới được giới thiệu đôi khi có nhiều nhược
điểm và không phải lúc nào cũng xác định chất lượng của cách làm việc hiện có. Ví dụ phần
mềm kiểm toán mà chúng tôi hiện đang sử dụng ban đầu không thân thiện với người dùng và khả
năng của nó chỉ giới hạn ở một số quy trình kiểm toán nhất định. Nhưng bây giờ, chúng tôi hài
lòng với việc thực hiện kiểm toán bằng phần mềm đó vì nó đã hỗ trợ tới 50% công việc của
chúng tôi. Vì vậy, nhân viên phải kiên nhẫn và cởi mở trong việc chấp nhận những điều mới. Một
đối tượng của mọi thay đổi là một điều mà mọi người nên hiểu và sử dụng để tạo điều kiện cho
việc thực hiện và xử lý tốt hơn.”
Từ quan điểm của các giảng viên, cần có sự thống nhất về việc thay đổi cách dạy và học để
phù hợp với các yêu cầu của Công nghiệp 4.0 và kỳ vọng của các nhà tuyển dụng. GV L đã chỉ
ra những thay đổi trong quá trình dạy và học: “Trong lớp học chẳng hạn, chúng tôi có thể hướng
dẫn sinh viên tìm kiếm internet ngay tại chỗ. Điều này sẽ khuyến khích họ độc lập hơn trong học
tập. Chúng tôi bảo họ hoàn thành một vấn đề nhóm với các tài liệu tham khảo trên internet và
nếu họ gặp vấn đề, họ có thể tìm đến tôi. Trong hầu hết các trường hợp, họ có thể giải quyết các
vấn đề mà không cần hỏi tôi. Hơn nữa, đối với mỗi lớp, tôi mở một nhóm Whatsapp, qua đó sinh
viên có thể đặt câu hỏi và trả lời các câu hỏi, không nhất thiết là từ tôi. Tôi thường mở ra không
gian cho các sinh viên khác, để trả lời trước. Điều này làm cho họ phản ứng nhanh hơn”.
3.5. Hệ quả xã hội
Mặc dù có nhiều lợi ích khác nhau từ Công nghiệp 4.0, các chuyên gia cho rằng thời đại
này có những hệ quả xã hội. Việc sử dụng các công nghệ trong kỷ nguyên Công nghiệp 4.0 có
thể có tác động xã hội đối với nhân viên tại các công ty mà việc tái cấu trúc có thể phải được
thực hiện. KTV B cho rằng: “Một số hệ thống được giới thiệu hoặc phát triển bởi công ty đôi khi
không được nhân viên sử dụng đầy đủ, đặc biệt là sau khi công ty đã chi hàng triệu đô la. Điều
này cho thấy chi phíkhông tương xứng với lợi ích. Ngoài ra, sự phát triển của hệ thống một đối
một đôi khi không phù hợp với những gì được thiết kế về thời gian, chi phí và cả chức năng
mong đợi. Nhiều khi phải mất một thời gian dài hơn dự kiến, chi phí cao hơn ngân sách để hoàn
thành hệ thống, và thật đáng buồn, nó không thể hoạt động như mong đợi. Ngoài ra, nếu không
được quy định đúng với phương thức mật khẩu thông tin của công ty sẽ dễ dàng bị rò rỉ cho các
đối thủ cạnh tranh và những người khác và điều này có thể gây tổn hại cho công ty”. KTV B
tiếp tục phản đối rằng: “Bên cạnh đó, việc sử dụng các hệ thống như vậy đòi hỏi công ty phải
phân bổ tài chính hợp lý để bảo trì và cải tiến hàng năm nếu nhà cung cấp giới thiệu một phiên
bản mới của hệ thống. Một số nhà cung cấp sẽ thu thêm phí cho việc bổ sung từng chức năng
194
mới vào hệ thống. Điều này làm tăng thêm chi phí điều hành công ty. Chi phí đào tạo cũng sẽ
tăng lên với mỗi hệ thống được phát triển, bên cạnh chi phí thuê mỗi nhân viên mới.” Từ quan
điểm của các giảng viên, GVH cho rằng: “Tuy nhiên, nó có thể có tác động xã hội đối với một số
nhân viên nơi tái cấu trúc nội bộ và thay đổi phạm vi công việc xảy ra. Điều này sẽ có tác động
xã hội đối với một số nhân viên không thể bắt kịp môi trường làm việc mới. Họ có thể cảm thấy
bị thiệt thòi đặc biệt là người già và khuyến khích những ý tưởng về nghỉ hưu sớm.”
4. HÀM Ý CHO ĐÀO TẠO KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN
Nghiên cứu đã chỉ ra cách mạng công nghệ 4.0 đã làm thay đổi đổi đáng kể về môi trường
làm việc và cách thức thực hành kế toán kiểm toán từ đó dẫn đến những thay đổi trong kỳ vọng
của nhà tuyển dụng đối với sinh viên chuyên ngành kế toán kiểm toán trong môi trường công
nghiệp 4.0. Có thể thấy các nhà tuyển dụng đã thay đổi kỳ vọng đối với sinh viên kế toán kiểm
toán về kiến thức và kỹ năng. Theo đó, họ kỳ vọng cao hơn đối với sinh viên về sự hiểu biết và
sử dụng thành thạo công nghệ thông tin trong việc hành nghề. Bên cạnh đó, nhà tuyển dụng cũng
đã có sự phối hợp chặt chẽ hơn với các giảng viên và trường đại học trong việc tạo điều kiện cho
sinh viên sớm tiếp cận các kỹ thuật và công nghệ đang sử dụng trong hành nghề. Từ kết quả
nghiên cứu, nhóm tác giả rút ra một số hàm ý sau nhằm đổi mới đào tạo sinh viên chuyên ngành
kế toán kiểm toán:
Đối với giảng viên và các trường đại học: Giảng viên cần nâng cao kỹ năng và kiến thức về
công nghệ thông tin đồng thời áp dụng mạnh mẽ các thành tựu của công nghệ 4.0 để nâng cao hiệu
quả giảng dạy. Các trường đại học cần cập nhật chương trình đào tạo, trong đó chú trọng các kỹ
năng sử dụng công nghệ phù hợp giúp sinh viên có nhiều cơ hội được học tập và rèn luyện.
Đối với sinh viên: Sinh viên chuyên ngành kế toán kiểm toán cần chủ động và không
ngừng học tập và rèn luyện kiến thức và kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng về công nghệ thông tin để
đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghệ 4.0.
5. KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy kỳ vọng của nhà tuyển dụng đối với kiến thức và kỹ năng của sinh
viên kế toán kiểm toán trong bối cảnh công nghiệp 4.0. Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng
để giúp cho giảng viên và trường đại học trong việc hoạch định chiến lược và đổi mới phương
pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cũng như giúp cho các sinh viên chủ động học
tập và rèn luyện để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực kế toán kiểm toán chất lượng cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bonekamp, L. and M. Sure, 2015. Consequences of industry 4.0 on human labour and work
organisation. Journal of Business and Media Psychology, 6(1): 33-40.
Brown-Martin, G., 2017. Education and the fourth industrial revolution, society, innovation and
education. Available from https://medium.com/learning-re-imagined/education-and-the-
fourth-industrial-revolution-cd6bcd7256a3.
195
Burritt, R. and K. Christ, 2016. Industry 4.0 and environmental accounting: A new revolution?
Asian Journal of Sustainability and Social Responsibility, 1(1): 23-38
Mayring, P., 2010. Qualitative content analysis: Fundamentals and techniques. Basel: Beltz.
Mohd, N.N., E.K. Ghani and J. Said, 2009. Why do not accounting graduates want to become
accountants? Journal of Modern Accounting and Auditing, 5(5): 59-65.
Schuster, K., K. Grob, R. Vossen, A. Richert and S. Jeschke, 2015. Preparing for industry 4.0 –
collaborative virtual learning environments in engineering education. New York: ICAEW.
196
Đào tạo nhân lực kế toán kiểm toán đáp ứng yêu cầu
của cách mạng công nghiệp 4.0
Lê Thị Ngọc Mai, Nguyễn Thị Thanh Tâm
Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: lethingocmai@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.20 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 08/11/2019
Ngày nhận bài: 30/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 13/11/2019
Tóm tắt
Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với những công nghệ hiện đại như
Internet kết nối vạn vật, điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big data) và
Blockchain đã tác động đến mọi mặt của nền kinh tế trong đó có nghề kế toán - kiểm toán. Bối
cảnh mới đem đến rất nhiều thách thức cho nhân lực kế toán kiểm toán cần phải có sự thay đổi
để thích ứng được với sự thay đổi rất nhanh của thời đại. Điều này đặt ra yêu cầu đối với các cơ
sở đào tạo ngành nghề kế toán - kiểm toán phải có sự thay đổi, bên cạnh các nội dung, phương
pháp giảng dạy truyền thống cần xây dựng chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo hướng
đến nâng cao năng lực tư duy sáng tạo, kỹ năng giải quyết vấn đề, ngoại ngữ, tin học, kỹ năng
mềm để thích ứng với yêu cầu của thời đại mới. Bài viết phân tích thực trạng, tác động, yêu cầu
của cách mạng công nghiệp 4.0 đến công tác đào tạo nhân lực kế toán - kiểm toán tại Việt Nam.
Từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng nhân lực
kế toán - kiểm toán đáp ứng được yêu cầu của CMCN 4.0.
Từ khóa: Đào tạo, nhân lực, kế toán, kiểm toán, CMCN 4.0.
1. GIỚI THIỆU
Cách mạng công nghiệp 4.0 gắn liền với những thành tựu đột phá trên nền tảng công nghệ
số đang có những ảnh hưởng sâu rộng đến các nước trong khu vực và trên thế giới trong đó có
Việt Nam. CMCN 4.0 với những thành tựu như trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây (Cloud
Computing) và chuỗi khối (Bolckchain) giúp ứng dụng các công nghệ tự động hóa vào quá trình
nhập liệu, tăng tính chính xác cho các dữ liệu đầu vào. Hệ thống điện toán đám mây giúp hoàn
thành nhiều công việc khác nhau gồm kế toán, quản lý, giúp nhân viên và các bên liên quan truy
cập và các ứng dụng thông qua máy tính và thiết bị di động (Lobana, 2013). Hiện nay, công nghệ
kỹ thuật số cho phép người kế toán có thể quản lý các hoạt động hiệu quả hơn, linh hoạt hơn
thông qua cơ sở của Internet khi tất cả các hoạt động đều trong thời gian thực và thông tin được
chia sẻ ngay lập tức (Aysel Guney, 2014). Với những thành tựu mới trong khoa học công nghệ
197
của CMCN 4.0 sẽ giúp cho công việc của kế toán, kiểm toán trở nên dễ dàng hơn trong việc phát
hiện các gian lận, sai sót, hạn chế rủi ro và phân tích được các thông tin tài chính, từ đó đưa ra
các xu hướng và kiến nghị cho nhà quản lý ra quyết định.
Như vậy, CMCN 4.0 đã mang lại những cơ hội lớn cho ngành nghề kế toán, kiểm toán Việt
Nam phát triển và hội nhập với thế giới. Tuy nhiên, nó cũng đem lại rất nhiều thách thức cho
nhân lực kế toán, kiểm toán Việt Nam khi các công việc kế toán, kiểm toán đã được tự động hóa.
Từ đó đặt ra yêu cầu cho các cơ sở đào tạo nhân lực kế toán, kiểm toán cần xây dựng chương
trình đào tạo theo hướng tăng tính chủ động, sáng tạo, khai thác các kỹ năng làm nghề kế toán để
đáp ứng được yêu cầu của thời đại công nghệ tự động và kết nối.
2. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Áp dụng phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua phiếu lấy ý kiến doanh nghiệp và
dữ liệu thứ cấp các tài liệu có liên quan đến ảnh hưởng của CMCN 4.0 đến ngành nghề kế toán –
kiểm toán và thực trạng đào tạo nhân lực kế toán, kiểm toán ở Việt Nam thông qua các bài báo
khoa học, tạp chí kinh tế, internet, báo cáo, hội thảo có chủ đề có liên quan. Dữ liệu thu thập
được thống kê, tổng hợp, phân tích để làm rõ thực trạng hoạt động đào tạo nhân lực kế toán,
kiểm toán ở Việt Nam trong thời kỳ CMCN 4.0 hiện nay.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Yêu cầu của CMCN 4.0 với nhân lực nghề kế toán kiểm toán
Ảnh hưởng của CMCN 4.0 đến nghề kế toán - kiểm toán
CMCN 4.0 với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin đã góp phần làm thay đổi
toàn diện lĩnh vực kế toán, thể hiện ở phương thức xử lý dữ liệu và cung cấp thông tin kế toán có
sự thay đổi rõ rệt so với quy trình xử lý kế toán thủ công trước đây. Nền tảng của công nghệ tự
động nhận thức bao gồm học máy (machine learning), học chuyên sâu (deep learning), điện toán
đám mây (Cloud computing), dữ liệu lớn và mạng xã hội (Big Data & Social Media). Đây sẽ là
các nền tảng tạo ra bước phát triển mang tính đột phá cho đào tạo ngành nghề trong thời gian tới
nhằm đáp ứng được yêu cầu của thời đại số. CMCN 4.0 đang có những ảnh hưởng sâu rộng đến
các ngành nghề của nền kinh tế trong đó có nghề kế toán - kiểm toán, cụ thể:
Thứ nhất, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong kế toán: Nhận dạng các hóa đơn chứng từ, tự
động nhập dữ liệu và định khoản, tự động đối chiếu ngân hàng, tự động phát hiện các sai sót
nghiệp vụ, phân tích dự báo tìm ra vùng có nguy cơ cao, tự động hóa quá trình kiểm toán, tự
động phát hiện các ghi chép không phù hợp với chuẩn mực, phân tích tài chính và sức khỏe của
doanh nghiệp, tự động kê khai và ưu tiên thuế phải nộp, robot tư vấn tài chính, đầu tư và giao
dịch mua bán.
Thứ hai, Dữ liệu lớn và mạng xã hội (Big Data & Social Media) - Các tập hợp dữ liệu lớn
bao gồm các ngữ cảnh con người được thu thập thông qua các phương tiện truyền thông xã hội.
Với trí tuệ nhân tạo có thể thay thế những công việc thủ công của kế toán như thu thập, xử lý,
tính toán số liệu nhưng những công đoạn như phân tích, tìm nguyên nhân đưa ra giải pháp cho
từng tình huống cụ thể thậm chí cho những tình huống chưa hề xảy ra thì luôn phải có sự tham
198
gia của con người. Trí tuệ nhân tạo dù không thay đổi được con người nhưng nó đang làm thay
đổi môi trường, hoàn cảnh làm việc của kế toán, kiểm toán.
Thứ ba, về phân tích dữ liệu: Bên cạnh excel thường được sử dụng trước đây, sự phát triển
của công nghệ sẽ cung cấp nhiều công cụ, phần mềm hiện đại hơn. Từ đó, các quy trình kinh
doanh được tích hợp với quy trình quản trị nội bộ được hướng dẫn thực hiện các chính sách kế
toán chặt chẽ.
Thứ tư, công nghệ điện toán đám mây, có tác dụng lưu trữ các thông tin như thiết lập công
tác tổ chức kế toán; hoạt động tài chính, tài liệu, sổ sách kế toán, báo cáo tài chính, người dùng
một cách thời gian thực (realtime), khối lượng lớn và không bị giới hạn nhiều về bộ nhớ như
trước đây, cùng với quy trình tự động hóa, đa phần công việc của kế toán là những ghi chép đã
chuẩn hóa, do vậy công nghệ tự động hóa có thể thay thế bộ phận tài chính - kế toán nhiều trong
các công việc này. Đặc biệt, trí thông minh nhân tạo sẽ có tác dụng thay thế con người với cả
những nghiệp vụ kế toán phức tạp như định giá, lập dự phòng.
Thứ năm, sự phát triển của hạ tầng viễn thông trong bối cảnh CMCN 4.0 đã và đang đặt ra
những thách thức mới về bảo mật, trước hết là bảo mật trong thông tin kế toán quản trị, trong
nghiệp vụ thanh toán, trong các hoạt động đầu tư. Do đó, vấn đề an ninh mạng đã trở nên vô
cùng quan trọng, vừa đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, tạo lập lòng tin, sự yên tâm và bảo vệ
quyền lợi của người sử dụng dịch vụ tài chính, kế toán.
Lợi ích CMCN 4.0 với nghề kế toán - kiểm toán
- Thu thập dữ liệu kế toán: Kế toán ứng dụng CNTT giúp thu thập được nhiều thông tin với
cả dữ liệu tài chính và phi tài chính, hình thức và thao tác nhập liệu cũng đa dạng hơn. Ngoài thu
thập thông tin qua chứng từ, fax, điện thoại còn có thể sử dụng các thiết bị hỗ trợ như chứng từ
điện tử, máy quét mã vạch, trao đổi dữ liệu điện tử, lấy dữ liệu từ hệ cơ sở dữ liệu. Dữ liệu có thể
nhập qua bàn phím máy tính hoặc nhập bằng giọng nói qua công nghệ AI.
- Phương pháp xử lý dữ liệu: Hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp được thiết kế
theo hướng tích hợp với các hệ thống khác, khi một bút toán thay đổi sẽ ảnh hưởng đến toán hệ
thống cũng như sự cập nhật của các hệ thống khác như bán hàng, nhân sự, sản xuất cũng sẽ ảnh
hưởng đến việc xử lý các thông tin kế toán. Việc sử dụng Robot giúp nghề kế toán giảm bớt các
thao tác, các sai sót khi làm thủ công.
Thông tin kế toán được tổng hợp giúp hỗ trợ ra các quyết định quản trị đa dạng, nhanh
chóng chính xác trên nhiều lĩnh vực gồm cả các thông tin tài chính và phi tài chính. Các thông
tin được cập nhật nhanh chóng, chính xác, đầy đủ, linh hoạt theo từng đối tượng, có thể truy xuất
dữ liệu từ nhiều nơi thông qua công nghệ điện toán đám mây. Việc thu thập và cung cấp thông
tin kế toán trở nên nhanh chóng, tiết kiệm chi phí, thời gian, nhân lực bằng việc sử dụng hệ
thống ERP, trí tuệ nhân tạo, robot....
CMCN 4.0 với công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) giúp kế toán, kiểm toán thực hiện các công
việc thủ công như thu thập, xử lý, tính toán số liệu. Từ đó, giúp nâng cao năng suất lao động
nghề kế toán, kiểm toán lên hàng chục lần. Đồng thời, giảm chi phí cho doanh nghiệp sử dụng
dịch vụ kế toán, kiểm toán. Theo nghiên cứu của công ty phần mềm kế toán Misa, mỗi năm cả
199
nước tiết kiệm được 10.150 tỷ đồng khi sử dụng hóa đơn điện tử thay cho hóa đơn giấy (Nguyễn
Phi Nghị, 2019). Hiện nay một số công ty đã ứng dụng công nghệ này vào công tác kế toán kiểm
toán như Deloitte sử dụng AI tổng hợp dữ liệu hợp đồng, xác định điều khoản liên quan xử lý kế
toán để ứng dụng trong kiểm toán, từ đó xử lý số liệu nhanh, tăng hiệu quả công việc, hỗ trợ
khách hàng tốt hơn; KPMG ứng dụng IBM Watson hỗ trợ kiểm toán, tư vấn thuế, tư vấn dịch vụ
hỗ trợ khách hàng; IBM Watson Explorer giúp xác định xu hướng, chọn mẫu kiểm toán, tìm sự
bất thường, phân tích dữ liệu phục vụ cho kiểm toán viên....
Thách thức CMCN 4.0 với nghề kế toán - kiểm toán
Dữ liệu lớn mang lại cho con người sự tiếp cận với nguồn kiến thức vô hạn, giúp con
người có thể tìm hiểu bất kỳ điều gì cần biết nhưng có hạn chế là những thông tin không chính
thống. Do đó con người cẩn thận trọng khi tiếp cận và sử dụng thông tin.
Trí tuệ nhân tạo đang làm thay đổi môi trường, hoàn cảnh làm việc kế toán - kiểm toán. Nó
có thể thay thế những công việc thủ công của kế toán như thu thập, xử lý, tính toán số liệu.
Nhưng những công đoạn như phân tích, tìm nguyên nhân, đưa ra giải pháp cho từng tình huống
cụ thể thậm chí cho những tình huống chưa hề xảy ra cần có sự tham gia của con người. Do đó
kế toán, kiểm toán viên nếu không cập nhật thay đổi phù hợp với yêu cầu mới sẽ bị mất việc làm.
Doanh nghiệp dịch vụ kế toán, kiểm toán sẽ mất sức cạnh tranh và bị đào thải.
Do đó nhân lực kế toán - kiểm toán trong bối cảnh CMCN 4.0 cần hiểu rõ kiến thức
chuyên môn, trau dồi kinh nghiệm, thường xuyên cập nhật sự thay đổi, giữ vững đạo đức nghề
nghiệp của người làm kế toán - kiểm toán, góp phần hình thành và phát triển kỹ năng nghiệp vụ,
đạo đức nghề nghiệp, kinh nghiệm và tầm nhìn cho người làm kế toán - kiểm toán.
Yêu cầu của CMCN 4.0 với nhân lực nghề kế toán - kiểm toán
Cuộc CMCN 4.0 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ trên thế giới về tất cả các lĩnh vực, yêu
cầu về trình độ của người lao động ngày càng cao, đối với ngành kế toán kiểm toán cũng không
ngoại lệ. Người làm kế toán, kiểm toán hiện nay không chỉ đơn thuần là ghi chép xử lý số liệu,
cung cấp các thông tin kinh tế tài chính mà còn phải có kỹ năng xử lý và trình bày dữ liệu trên
báo cáo tài chính, biến các con số khô khan trở thành những con số biết nói. Từ đó người làm kế
toán kiểm toán cần phải đảm bảo các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ để thích ứng với xu
hướng phát triển của thế giới, cụ thể:
Về kiến thức: Người làm kế toán kiểm toán cần phải có kiến thức nền tảng và kiến thức
chuyên sâu về kế toán kiểm toán. Mặt khác trong điều kiện thế giới đang thực hiện CMCN 4.0 thì
việc nắm được một số kiến thức cơ bản về công nghệ thông tin là cần thiết.
Về kỹ năng: Khoa học công nghệ phát triển, các mô hình kinh doanh cũng dần chuyển dịch
thay đổi theo hướng công nghệ, phần mềm và trí tuệ nhân tạo sẽ được áp dụng rộng rãi trong lĩnh
vực kinh tế thay cho công việc thủ công, yêu cầu người làm kế toán kiểm toán phải có các kỹ
năng ứng dụng công nghệ, sử dụng công nghệ để thực hiện công việc. Với kỳ vọng nguồn nhân
lực kế toán kiểm toán không chỉ là các công nhân ghi chép số liệu sổ sách mà phải trở thành các
chuyên gia kế toán kiểm toán, cần phải có các kỹ năng để phân tích, xử lý số liệu tư vấn giúp cho
200
lãnh đạo các công ty có các chính sách tài chính kế toán tốt nhất để đẩy mạnh hoạt động sản xuất
kinh doanh, nâng cao kết quả kinh doanh. Xu hướng toàn cầu hóa mở ra cho nhân lực ngành kế
toán kiểm toán nhiều cơ hội được tham gia vào thị trường nhân lực thế giới, việc sử dụng thành
thạo ngoại ngữ trong đó phổ biến là tiếng Anh sẽ đem lại những ưu thế rất lớn do đó cần phải
không ngừng nâng cao trình độ ngoại ngữ và kỹ năng giao tiếp tiếng Anh của mình. Cần có kỹ
năng thích ứng, giao tiếp để làm việc được với các công ty ở các quốc gia khác nhau với các nền
văn hóa khác nhau cũng như các chế độ chính sách kinh doanh khác nhau. Cần chú trọng kỹ
năng đọc hiểu để hiểu và vận dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế, rèn luyện kỹ năng nghe nói
để có thể giao tiếp, làm việc trong môi trường quốc tế.
(Nguồn: Westminster Academy)
Hình 1. Kỹ năng cần thiết của sinh viên thế kỷ 21
Về thái độ: Chế độ chuẩn mực kế toán kiểm toán cũng ngày càng thay đổi tiến dần theo
chuẩn mực của thế giới, yêu cầu người lao động phải không ngừng học tập tích lũy kiến thức, kinh
ngiệm để phù hợp với xu thế của thế giới. Và yếu tố “phù hợp” được thể hiện rõ nét nhất qua thái
độ tích cực, sự cam kết, khả năng học hỏi và phát triển của các ứng viên. Vì thế, người làm kế toán
kiểm toán cần rèn luyện thái độ học tập và làm việc tích cực, luôn luôn tìm tòi và học hỏi để tự
hoàn thiện mìnhvề công việc thực tế, những yêu cầu của nghề nghiệp để tiếp tục học hỏi, trang bị
cho mình những kỹ năng và kiến thức và kinh nghiệp thực tế. Mặt khác với đặc thù của ngành,
người làm kế toán, kiểm toán phải hiểu rõ tính chất và nguyên tắc riêng có của nghề nghiệp, phải
luôn ý thức tuân thủ luật pháp, đức tính thận trọng, cẩn thận, chính xác, trung thực.
3.2. Thực trạng đào tạo nhân lực nghề kế toán - kiểm toán hiện nay
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về nhân lực ngành kế toán kiểm toán
ngày càng gia tăng, kèm theo đó là việc các trường mở rộng việc đào tạo nhân lực kế toán
kiểm toán. Thực trạng đào tạo nhân lực kế toán kiểm toán ở Việt Nam hiện nay thể hiện rõ việc
chưa đáp ứng được các nhu cầu ngày càng cao của các nhà tuyển dụng về nguồn nhân lực
ngành nghề này.
201
Theo kết quả nghiên cứu mới công bố của mạng việc làm và tuyển dụng uy tín của Việt
Nam Navigos Group thì nhu cầu kế toán, kiểm toán, tài chính xếp thứ 3 trong 5 bộ phận chức
năng có nhu cầu tuyển dụng cao nhất (Nguyễn Thị Thanh, 2019).
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ tài liệu tham khảo)
Hình 2. Nhu cầu tuyển dụng các vị trí nhân sự kế toán, kiểm toán, tài chính
Chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo thiên về lý thuyết nhiều hơn thực hành, tập
trung chủ yếu vào việc đào tạo kiến thức mà bỏ qua việc đào tạo nâng cao kỹ năng mềm cho sinh
viên. Hệ thống giáo trình, tài liệu học tập, tài liệu tham khảo của các trường chưa đa dạng, mặc
dù đã có thay đổi, cải tiến cho phù hợp với xu thế phát triển nhưng vẫn chưa thể đáp ứng được
yêu cầu của hội nhập. Chương trình đào tạo đã thực hiện cải tiến và đổi mới tuy nhiên tốc độ còn
chậm và vẫn đi theo lối mòn của các chương trình đào tạo trước. Cơ cấu thời lượng học tập chưa
hợp lý dẫn tới sinh viên phải học quá nhiều kiến thức nhưng lại chưa phù hợp với yêu cầu ngày
càng cao về nguồn nhân lực.
Theo kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu dựa trên kết quả tổng hợp được từ phiếu lấy ý
kiến của doanh nghiệp đánh giá đối với sinh viên Đại học Công nghiệp Hà Nội năm 2019 được
trình bày tại Bảng 1.
Kết quả khảo sát tuy được thực hiện trong phạm vi nhỏ cho sinh viên Khoa kế toán – kiểm
toán và số liệu trong một năm 2019 nên có thể chưa đảm bảo được tính tổng quát. Tuy nhiên, từ
kết quả khảo sát cho thấy những dấu hiệu tốt khi nhà trường có sự thay đổi về chương trình
giảng dạy, sinh viên khoa kế toán, kiểm toán được đánh giá cao về khả năng hội nhập, khả năng
làm việc nhóm và trình độ tin học, đây là kết quả của việc trường Đại học Công nghiệp Hà nội
tăng thời gian thực hành cho sinh viên trong chương trình học tập.
Bảng 1. Tổng hợp đánh giá của doanh nghiệp đối với sinh viên Khoa kế toán - kiểm toán,
Đại học Công nghiệp Hà Nội năm 2019
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ phiếu lấy ý kiến doanh nghiệp, 2019)
STT Kỹ năng1 Kỹ năng giao tiếp2 Trình độ ngoại ngữ
3 Trình độ tin học4 Trình độ chuyên môn5 Khả năng ứng dụng kiến thức vào công việc thực tế6 Khả năng làm việc trong môi trường chuyên nghiệp7 Khả năng hội nhập8 Khả năng làm việc nhóm
Kém
0,7%
Yếu
0,7%
0,7%0,7%0,7%
TB1,5%
13,4%
3,7%1,5%1,5%1,5%1,5%1,5%
TBK6,7%
27,6%
6,0%16,4%12,7%17,9%7,5%7,5%
Khá54%49%
44%54%51%46%34%34%
Giỏi31%9%
42%27%34%30%49%48%
Xuất sắc5%
4%1%1%4%8%8%
202
Tuy nhiên, kỹ năng giao tiếp, trình độ ngoại ngữ, chuyên môn, khả năng ứng dụng và làm
việc trong môi trường chuyên nghiệp được các nhà tuyển dụng đánh giá ở mức khá cho thấy cơ
sở đào tạo cần có sự đổi mới chất lượng đào tạo để tăng cường cho sinh viên các kỹ năng này.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng đưa ra thêm các góp ý tăng chất lượng đào tạo thông qua việc
tăng thêm thời gian thực tập cho sinh viên, tăng cường quản lý, giám sát và tăng cường trao đổi
hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp. Từ đây, đặt ra các yêu cầu cho các cơ sở đào tạo trong
việc đổi mới và phát triển chương trình và lực lượng đội ngũ giảng dạy.
Đội ngũ giảng thực hiện giảng dạy các môn học chuyên ngành kế toán kiểm toán còn mỏng
cả về số lượng và chất lượng, nhiều giảng viên chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực
kế toán kiểm toán nên trong quá trình giảng dạy chưa gắn liền với thực tế. Các chuyên gia trong
ngành có nhiều kiến thức và kinh nghiệm thực tế thì lại chủ yếu tham gia vào việc quản lý,
nghiên cứu, làm dự án mà không trực tiếp tham gia nhiều trong việc giảng dạy truyền đạt kiến
thức, kinh nghiệm cho người học.
Để phù hợp với xu thế phát triển của CMCN 4.0 thì việc áp dụng đa dạng các phương pháp
giảng dạy là cần thiết. Trong thực tế các phương pháp giảng dạy tích cực cũng đã được thực hiện
cùng với phương pháp giảng dạy truyền thống nhưng do điều kiện về thời gian, quy mô lớp học,
điều kiện về tài liệu học tập, ý thức thái độ của người học… mà việc áp dụng các phương pháp
này chưa thực sự hiệu quả. Người học vẫn còn học tập thụ động theo lối truyền thống thầy đọc,
trò chép mà chưa thực sự chủ động trong việc học tập, nghiên cứu tài liệu. Bên cạnh đó, vẫn còn
tồn tại sự dập khuôn trong giảng dạy, nặng về kiến thức, và quá trình truyền đạt còn ít thúc đẩy
được suy nghĩ khác biệt dẫn đến kết quả là người học còn thụ động, tự ti không dám bộc lộ quan
điểm cá nhân, không phát huy được sự sáng tạo. Trong quá trình học tập thiếu sự sáng tạo, thiếu
niềm đam mê học tập, nghiên cứu khoa học. Khả năng hướng nghiệp và khởi nghiệp của sinh
viên còn thấp, chưa chủ động tích lũy kinh nghiệm trong quá trình học tập.
Mặt khác việc trang bị và sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin phục vụ cho quá
trình giảng dạy chưa đa dạng, chưa đồng bộ do vậy giảng viên chưa thể truyền tải hết lượng
thông tin cần cung cấp cho người học. Các cơ sở đào tạo kế toán, kiểm toán cũng đang chú trọng
tới việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động giảng dạy nhưng chưa đạt được kết quả
như kỳ vọng, hiệu quả cung cấp thông tin cho người học chưa cao.
Dưới áp lực của hội nhập và CMCN 4.0 với công nghệ tự động tuy không làm thay đổi bản
chất nghề kế toán kiểm toán nhưng lại làm thay đổi phương thức, điều kiện thực hiện. Do đó, đòi
hỏi nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán cần có “ngôn ngữ chung” về kinh tế - kinh doanh, giao
tiếp (ngoại ngữ Nói - Viết), ngôn ngữ chuyên môn (thông lệ, chuẩn mực chung), ngôn ngữ kỹ
thuật. Từ đó, đặt ra yêu cầu đào tạo nhân lực kế toán, kiểm toán 4.0 cần phải nắm được các ngôn
ngữ chung đó.
4. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
Với các cơ sở đào tạo
Thay đổi quan điểm đào tạo: Đào tạo không xuất phát từ cái mình có mà phải xuất phát từ
yêu cầu thực tế về nguồn nhân lực chất lượng cao của thời đại công nghệ số. Đổi mới tư duy về
xác định lượng - chất trong đào tạo nhân lực kế toán - kiểm toán.
203
Đổi mới chương trình đào tạo: Các cơ sở đào tạo cần rà soát lại chương trình đào tạo
chuyên ngành kế toán, kiểm toán cần phù hợp với yêu cầu hội nhập, giao thoa với các chương
trình đào tạo của các nước trên thế giới đáp ứng được yêu cầu của các hội nghề nghiệp theo xu
thế phát triển thế giới nhằm có được sự thừa nhận của các cơ sở đào tạo ở các nước về chuyên
môn, bằng cấp và chứng chỉ.
Nội dung đào tạo: ngoài kiến thức chuyên môn cần tập trung vào đào tạo các kỹ năng cần
thiết như kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, tư duy sáng tạo, tư duy phản biện, giải quyết vấn đề
trên cơ sở đạo đức nghề nghiệp để đáp ứng được yêu cầu của nghề kế toán kiểm toán trong thời
đại 4.0. Bổ sung thêm các học phần và làm mới các học phần đã có như kỹ năng học tập thành
công, tư duy sáng tạo và khởi nghiệp, giao tiếp liên văn hóa và giải quyết xung đột, quản lý tài
chính cá nhân, design your life... để phát huy tính sáng tạo và kỹ năng cần thiết của nhân lực kế
toán 4.0.
Cách thức đào tạo: Tăng cường quan hệ hợp tác giữa các cơ sở đào tạo cùng với các doanh
nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp trong nước và nước ngoài nhằm gắn kết các chương trình đào tạo
đáp ứng được yêu cầu hội nhập và giải quyết tốt các vấn đề thực tế, đào tạo theo đơn đặt hàng
của doanh nghiệp. Tăng cường mối liên kết giữa ba nhà (nhà trường, nhà khoa học và nhà doanh
nghiệp) trong đào tạo cũng như hội nhập, liên kết đào tạo trong và ngoài nước.
Xây dựng mô hình phòng kế toán ảo, ứng dụng internet kết nối vạn vật giúp sinh viên tiếp
thu kiến thức thực tế hiệu quả. Giảng viên xây dựng các tài liệu mô phỏng hoạt động của phòng kế
toán thực tế ở các loại hình doanh nghiệp sản xuất, thương mại, dịch vụ, xây lắp, logistic... để sinh
viên được trực tiếp tham gia vào toàn bộ quy trình ghi sổ kế toán, cập nhật chứng từ, xử lý số liệu,
lập báo cáo tài chính hay cung cấp thông tin kế toán quản trị theo yêu cầu của doanh nghiệp.
Với giảng viên
Cần chủ động tìm hiểu, nghiên cứu về sự thay đổi của ngành nghề kế toán – kiểm toán
trong thời đại công nghệ số. Tự rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn cũng như kỹ năng sư
phạm của mình, cập nhật các ứng dụng mới của CMCN 4.0 để đưa vào bài giảng nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy như ứng dụng các phần mềm Microsoft office 365, Onenote, Sway, Flipgid
để xây dựng bài giảng thu hút, hiệu quả hơn. Giảng dạy chuyên môn kết hợp với phát huy kỹ
năng tư duy sáng tạo, tư duy phản biện của sinh viên thông qua bài giảng bằng các tình huống kế
toán, kiểm toán thực tế tại doanh nghiệp yêu cầu sinh viên ứng dụng kiến thức chuyên môn để
tìm hướng giải quyết. Tăng cường nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, gắn liền với đào tạo nhân lực
chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp.
Phương pháp đào tạo chuyển từ giảng dạy truyền thống, thông tin cung cấp một chiều từ
giảng viên chuyển sang ứng dụng phương pháp giảng dạy tích cực phát huy tính tích cực, chủ động
sáng tạo của sinh viên, lấy sinh viên làm trung tâm như phương pháp đặt vấn đề, học theo nhóm,
phương pháp nghiên cứu tình huống, trải nghiệm... Giảng viên thay đổi vai trò từ người cung cấp
thông tin một chiều cho người học tiếp nhận thụ động trở thành người định hướng, tháo gỡ vướng
mắc cho sinh viên. Với các nội dung lý thuyết chuyên ngành, giảng viên sử dụng phương pháp đặt
vấn đề cho người học tự tìm tòi, nghiên cứu các thông tin trên dữ liệu internet, thư viện điện tử, sau
204
đó tiến hành trao đổi thảo luận nhóm kết hợp với xử lý các tình huống kế toán, kiểm toán trong
thực tế, giúp học viên vận dụng linh hoạt các kiến thức đã học. Đa dạng hóa phương thức học như
học trực tuyến, học qua trải nghiệm với môi trường và thiết bị ảo. Mở rộng phạm vi giảng dạy
thông qua các buổi hội thảo tìm hiểu thực tế, kết nối và hợp tác với doanh nghiệp trong nghiên cứu,
tập huấn và tư vấn cho người học để phát triển kỹ năng nghề nghiệp.
Nội dung bài giảng chuyên ngành kế toán, kiểm toán cần giảng viên được thiết kế lại theo
hướng gợi mở phát huy tinh thần tư duy sáng tạo của sinh viên với các ví dụ sinh động, trực quan
qua video, báo chí, bài báo khoa học, các trao đổi thực tế... Giảng viên cần xây dựng bài giảng
giúp sinh viên tự do thể hiện quan điểm cá nhân trong quá trình học, được học môn học theo các
của mình, được phát huy sự sáng tạo và tìm ra giải pháp phù hợp với mình.Bài giảng cần kết hợp
với việc cập nhật các chuẩn mực chế độ kế toán Việt Nam (VAS) và quốc tế (IAS, IFRS). Giảng
viên cũng cần tham khảo thêm các nội dung chương trình, tài liệu tham khảo, học liệu từ các
chương trình đào tạo kế toán kiểm toán nước ngoài như ACCA, CIMA với những cập nhật mới
nhất trong ngành nghề kế kiểm. Để đáp ứng yêu cầu của nhân lực kế toán, kiểm toán 4.0, bài giảng
chuyên ngành cần kết hợp với các kiến thức về công nghệ, quản lý dữ liệu trong kế toán, ứng dụng
kết nối internet, cập nhật công nghệ AI, đạo đức nghề nghiệp... nhằm trang bị cho người học các
kỹ năng cần thiết để thích nghi với môi trường làm việc công nghệ cao trong tương lai.
Với người học
Người học cần chủ động, tích cực tìm tòi các thông tin về kiến thức chuyên môn, sự thay
đổi của yêu cầu công việc, nhận thức ảnh hưởng của thời đại số đến ngành nghề kế toán kiểm
toán trong tương lai. Từ đó tự định hướng cho mình con đường học tập và rèn luyện để trở thành
nhân lực kế toán, kiểm toán đáp ứng được yêu cầu của thời đại 4.0.
Người học cần tìm hiểu và tham gia vào các khóa học chứng chỉ kế toán kiểm toán được
công nhận rộng rãi trên thế giới như ACCA, CIMA, CIA để có thêm nhiều cơ hội việc làm, nâng
cao khả năng cạnh tranh trong nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán cũng như có khả năng xuất
khẩu lao động chất lượng cao di chuyển đến các nước trong khu vực và trên thế giới. Người học
cần tự trau dồi, phát triển bản thân thông qua các lớp học kỹ năng giao tiếp, tư duy sáng tạo, tư
duy phản biện, kỹ năng tin học văn phòng, tin học kế toán, ngôn ngữ quốc tế như tiếng Anh,
tiếng Trung để tăng khả năng ứng phó với công nghệ 4.0.
Với các hiệp hội nghề nghiệp
Cần có giải pháp tăng cường vai trò và chất lượng hoạt động. Các Hội cần đổi mới mạnh
hơn, nhiều hơn cả về tổ chức, phương thức hoạt động và nội dung hoạt động để làm tốt chức
năng là nơi tập hợp và kiểm soát nghề nghiệp. Đồng thời, thực hiện tốt chức năng quản lý
chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ những người hành nghề kế toán, kiểm toán. Tăng
cường mối quan hệ giữa các hiệp hội kế toán trên thế giới để trao dồi kỹ năng, kiến thức. Tổ
chức các buổi hội thảo, tọa đàm, workshop... tại các trường đại học để cập nhật kiến thức thực tế
cho sinh viên ngành kế kiểm.
Với các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục
Tại nước ta hiện nay cần coi trọng và nâng cao chất lượng kiểm định chất lượng giáo dục
đại học độc lập. Kết quả kiểm định cần phải công khai để xã hội đánh giá và lựa chọn theo Luật
205
giáo dục đại học 2012, từ đó là cơ sở để phân tầng và xếp hạng các cơ sở giáo dục đào tạo. Các
kết quả kiểm định cần được sử dụng làm căn cứ để đầu tư hoặc giảm đầu tư hoặc dừng hoạt động
đối với các trường chưa được kiểm định, từ đó tạo động lực cho các cơ sở đào tạo ngành kế toán,
kiểm toán nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Nội dung kiểm định chất lượng cần áp dụng
nhiều bộ tiêu chí khác nhau cho các bậc học và hình thức học khác nhau. Các trung tâm kiểm
định nên được tổ chức độc lập, khuyến khích sự tham gia của các tổ chức kiểm định quốc tế tại
Việt Nam.
5. KẾT LUẬN
Hiện nay với xu hướng cách mạng công nghiệp 4.0, nước ta đang đứng trước nhiều cơ hội
và thách thức để phát triển kinh tế. Cách mạng 4.0 đem lại xu hướng phát triển mới, giảm các
công việc thủ công và chi phí kế toán nhưng cũng mang lại nhiều thách thức lớn về trình độ
chuyên môn, kỹ năng, năng suất và hiệu quả làm việc, yêu cầu khả năng thích ứng cao của nhân
lực kế toán kiểm toán. Do đó, việc đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo kế toán, kiểm toán
nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, được trang bị những kỹ năng cần thiết nhằm thích
nghi với thời đại có ý nghĩa vô cùng quan trọng là giải pháp tối ưu để đáp ứng yêu cầu hội nhập
và cách mạng 4.0.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lobana, J. (2013). Cloud computing for not-for profit organizations - Questions for Directors to
ask, Chartered professional accountants Canada.
Aysel Guney (2014), Role of technology in accounting and e-accounting, Organizing committee
of the ERPA Congress 2014.
Liu, Y. and X. Xu (2017). Industry 4.0 and cloud manufacturing: A comparative annalysis,
Journal of Manufacturing Science and Engineering, 139(3), 034701.
Karatas, H., M. Bademcioglu and S. Celik (2017). A stude on the relationship between problem
solving skills and multiple intelligences of high school students, International Journal of
Education and Practice, 5(10), 171-181.
Tetyana Slyozko, Nataliya Ahorodnya (2017), The fourth Industrial revolution: the present and
future of accounting and the accounting profession.
Aziza Akhter, Reajmin Sultana (2018). Sustainability of accounting profession at the age of
Fourth industrial revolution, International journal of Accounting and Financial reporting,
8(4).
Erlane K Ghani, Kamaruzzaman Muhammad (2019). Industry 4.0: employers’ expectations of
accounting graduates and its implications on teaching and learning practices, International
Journal of Education and Practice, 7(1), 19-29.
206
Lê Thị Ngọc Mai (2018), Đào tạo nhân lực kế toán kiểm toán trong bối cảnh hội nhập và cách
mạng 4.0 - cơ hội và thách thức, Kỷ yếu hội thảo quốc gia, Đại học kinh tế thành phố Hồ
Chí Minh.
Lê Đức Thắng (2019), Nâng cao chất lượng đào tạo kế toán đáp ứng nhu cầu hội nhập hiện nay,
Tạp chí tài chính.
Nguyễn Thị Thanh (2019). Thực trạng đào tạo kế toán, kiểm toán hiện nay và một số giải pháp
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Kỷ yếu hội
thảo quốc gia, Đại học lao động xã hội.
Phạm Đình Tuấn (2019). Ảnh hưởng từ cách mạng công nghiệp 4.0 đến thông tin kế toán trong
doanh nghiệp, Tạp chí kế toán và kiểm toán.
Nguyễn Phi Nghị (2019), Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong kế toán, kiểm toán và tài chính, Hội
thảo khoa học quốc gia, Đại học Lao động - Xã hội.
207
Đổi mới phương pháp giảng dạy kế toán kiểm toán trước tác động
của Cách mạng công nghiệp 4.0
Trương Thanh Hằng, Nguyễn Thị Nga
Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: truongthanhhang@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.51 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 15/11/2019
Ngày nhận bài: 07/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 18/11/2019
Tóm tắt
Trong xu thế toàn cầu hóa với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và nền kinh tế
tri thức, để có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kế toán thì đổi mới giáo dục trở thành vấn
đề cấp thiết đặt ra. Một trong những nội dung quan trọng nhất của đổi mới giáo dục là đổi mới
phương pháp giảng dạy. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (Cách mạng 4.0) đã và đang tác động
đến tất cả các ngành nghề, tạo ra một sự thay đổi vô cùng lớn trong đời sống kinh tế, xã hội và
đây chính là thách thức trong việc đào tạo ra nguồn nhân lực kế toán chất lượng đáp ứng nhu cẩu
thời đại mới, thời đại công nghệ 4.0. Bài viết đưa ra thực trạng, và một số khuyến nghị đổi mới
phương pháp giảng dạy ở các trường đào tạo kế toán - kiểm toán trong bối cảnh hiện nay.
Từ khóa: Phương pháp giảng dạy, hội nhập, cách mạng 4.0, đào tạo.
1. GIỚI THIỆU
Công nghiệp 4.0 là xu hướng hiện thời trong việc tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong
công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống không gian mạng thực - ảo (cyber-physical
system), Internet vạn vật, điện toán đám mây và điện toán nhận thức. Theo Gartner, Cách mạng
Công nghiệp 4.0 (hay Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư) xuất phát từ khái niệm "Industries
4.0" trong một báo cáo của chính phủ Đức năm 2013. "Industries 4.0" kết nối các hệ thống
nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa công nghiệp, kinh doanh,
chức năng và quy trình bên trong.
Còn theo Klaus Schwab, người sáng lập và chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới:
"Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất.
Cuộc cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng
lần 3 sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc Cách mạng
Công nghiệp Thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại với
nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học". Theo Schwab, tốc độ đột phá của
208
Cách mạng Công nghiệp 4.0 hiện "không có tiền lệ lịch sử". Khi so sánh với các cuộc cách mạng
công nghiệp trước đây, 4.0 đang tiến triển theo một hàm số mũ chứ không phải là tốc độ tuyến
tính. Hơn nữa, nó đang phá vỡ hầu hết ngành công nghiệp ở mọi quốc gia. Và chiều rộng và
chiều sâu của những thay đổi này báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý
và quản trị.
Trong kỷ nguyên kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế sâu sắc về tất cả các lĩnh vực, yêu cầu
về nguồn nhân lực có khả năng cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, quyết định sự thành bại
của một quốc gia. Một trong những thách thức chính yếu mà các trường đại học phải đối mặt là
làm thế nào để đào tạo được sinh viên đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Việt Nam đang có sự tiếp cận rất nhanh chóng về cách mạng công nghiệp 4.0. Cách mạng
công nghiệp 4.0 được dự đoán sẽ mang lại những lợi ích và thách thức rất lớn. Trong thời đại
công nghiệp này đòi hỏi cần phải đào tạo ra những con người có năng lực tư duy, sáng tạo, đổi
mới, có kỹ năng phân tích và tổng hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định
dựa trên cơ sở phân tích các chứng cứ và dữ liệu. Đây cũng là những kỹ năng mà nhiều sinh viên kế
toán đang thiếu.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển mạnh mẽ cũng đem lại những những thách thức
mới, đòi hỏi những nỗ lực hết mình để đào tạo ra nguồn nhân lực kế toán kiểm toán có chất lượng.
Nhu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy xuất hiện khi các phương pháp giảng dạy truyền thống
là chưa đủ khi sử dụng để chuyển tải các kiến thức, môn học hiện đại đến sinh viên so với các
phương pháp giảng dạy hiện đại. Tuy nhiên, việc lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp với
kiến thức cần chuyển tải luôn là bài toán khó đối với giảng viên. Đổi mới các phương pháp giảng
dạy, nâng cao chất lượng đào tạo trước sự đột phá của cách mạng 4.0 là một yêu cầu tất yếu.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Các phương pháp giảng dạy kế toán
Phương pháp giảng dạy (hay còn gọi là phương pháp dạy học, giáo dục học, sư
phạm) là cách thức sử dụng các nguồn lực trong giáo dục như giảng viên, trường lớp, dụng
cụ học tập, các phương tiện vật chất để giáo dục người học.
Phương pháp dạy học truyền thống: Đây là những cách thức dạy học quen thuộc được
truyền từ lâu đời và được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ. Phương pháp giảng dạy này lấy hoạt
động của người thầy là trung tâm, là quá trình chuyển tải thông tin từ đầu thầy sang sinh viên.
Giảng viên là người thuyết trình, diễn giảng, sinh viên là người nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ
theo. Với phương pháp dạy học truyền thống, giảng viên là chủ thể, là tâm điểm, sinh viên là
khách thể, là quỹ đạo. Do đặc điểm hàn lâm của kiến thức nên nội dung bài dạy theo phương
pháp truyền thống có tính hệ thống, tính logic cao. Dựa vào mục đích dạy học, phương tiện dạy
học, phương pháp dạy học được chia thành 4 nhóm:
+ Nhóm phương pháp dùng lời gồm phương pháp thuyết trình, đàm thoại, sử dụng sách
giáo khoa và tài liệu tham khảo. Phương pháp thuyết trình là một trong những phương pháp dạy
học truyền thống được nhiều giảng viên sử dụng từ lâu. Đặc điểm cơ bản nổi bật của phương
209
pháp thuyết trình là thông báo - tái hiện. Vì vậy, phương pháp thuyết trình còn có tên gọi là
phương pháp thuyết trình thông báo - tái hiện. Phương pháp này chỉ rõ tính chất thông báo bằng
lời của giảng viên và tính chất tái hiện khi lĩnh hội của sinh viên. Giảng viên nghiên cứu tài liệu,
sách giáo khoa, chuẩn bị bài giảng và trực tiếp điều khiển thông báo luồng thông tin tri thức đến
sinh viên. Sinh viên tiếp nhận những thông tin đó bằng việc nghe, nhìn, cùng tư duy theo lời
giảng của giảng viên, hiểu, ghi chép và ghi nhớ.
+ Nhóm phương pháp trực quan gồm phương pháp quan sát, phương pháp biểu diễn thí
nghiệm.
+ Nhóm thực tiễn gồm phương pháp ôn, luyện tập và phương pháp làm việc trong phòng
thí nghiệm.
+ Nhóm phương pháp kiểm tra, đánh giá tri thức, kỹ năng, kĩ xảo ở học sinh, gồm kiểm tra
vấn đáp, kiểm tra viết và kiểm tra thực hành.
Phương pháp dạy học hiện đại: Xuất hiện ở các nước phương Tây (ở Mỹ, ở Pháp) từ đầu
thế kỷ XX và được phát triển mạnh từ nửa sau của thế kỷ, có ảnh hưởng sâu rộng tới các nước
trên thế giới. Đó là cách thức dạy học theo lối phát huy tính tích cực, chủ động của người học. Vì
thế thường gọi phương pháp này là phương pháp dạy học tích cực. Phương pháp này giảng viên
là người giữ vài trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho sinh viên tự tìm kiếm, khám phá những
tri thức mới theo kiểu tranh luận, hội thảo theo nhóm. Giảng viên có vai trò là trọng tài, cố vấn
điều khiển tiến trình giờ dạy. Giảng viên là người nêu tình huống, kích thích hứng thú, suy nghĩ
và phân xử các ý kiến đối lập của sinh viên; từ đó hệ thống hoá các vấn đề, tổng kết bài giảng,
khắc sâu những tri thức cần nắm vững.
+ Một số phương pháp giảng dạy giúp sinh viên học tập chủ động (Active Learning)
Phương pháp động não (Brainstorming): Phương pháp động não được định nghĩa là cách
thức vận dụng kinh nghiệm và sáng kiến mỗi người trong thời gian tối thiểu tùy vấn đề đưa ra để
có được tối đa những dữ kiện tốt nhất (Osborn, 1963). Động não là phương pháp giúp sinh viên
trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó,
trong đó có nhiều ý tưởng sáng tạo. Thực hiện phương pháp này, giảng viên cần đưa ra một hệ
thống các thông tin làm tiền đề cho buổi thảo luận.
Phương pháp Suy nghĩ - Từng cặp - Chia sẻ (Think-pair-share): Phương pháp này được
thực hiện bằng cách cho các sinh viên cùng đọc tài liệu hoặc suy nghĩ về một chủ đề, sau đó các
sinh viên ngồi bên cạnh nhau có thể trao đổi với nhau về ý kiến và kinh nghiệm của mỗi người
một khoảng thời gian nhất định (khoảng vài phút), sau đó chia sẻ với cả lớp (Lyman, 1987).
Phương pháp này có ưu điểm là rất dễ dàng thực hiện mọi cấu trúc lớp học, ai cũng có thể tham
gia được vào việc chia sẻ ý kiến của mình, tạo được sự tự tin cho người học dám nói ra những
suy nghĩ của mình, giúp các sinh viên tập trung vào chủ đề đang học, biết mình đang học gì và
đã hiểu vấn đề đến đâu, thậm chí nêu lên cả những vấn đề mới cho bài học.
Phương pháp học dựa trên vấn đề (Problem based learning): Mục tiêu của học dựa trên vấn
đề (được định nghĩa là việc nghiên cứu có chiều sâu về một chủ đề học tập) là để học nhiều hơn
210
về một chủ đề chứ không phải là chỉ tìm ra những câu trả lời đúng cho những câu hỏi được giáo
viên đưa ra (Hmelo-Silver, 2004). Trong phương pháp học dựa trên vấn đề, sinh viên vừa nắm
được kiến thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội kiến thức đó, phát triển tư duy chủ
động, sáng tạo, được chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời sống xã hội, phát hiện kịp thời và
giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh (Hmelo-Silver, 2004).
Phương pháp hoạt động nhóm (Group based Learning): Lớp học được chia thành từng
nhóm nhỏ từ 5 đến 7 người. Tùy mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia
ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của môn học,
được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau. Khi làm việc nhóm, các thành
viên phải làm việc theo quy định do giảng viên đặt ra hoặc do chính nhóm đặt ra. Các thành viên
đều phải làm việc chủ động, không thể ỷ lại vào một vài người hiểu biết và năng động hơn. Các
thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các
nhóm khác. Khi có một nhóm nào lên thuyết trình, các nhóm còn lại phải đặt ra các câu hỏi phản
biện hoặc câu hỏi đề nghị làm sáng tỏ vấn đề. Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên
trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức
mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của
mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi
lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ giảng viên.
Phương pháp đóng vai (Role playing): Đóng vai là phương pháp tổ chức cho sinh viên thực
hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Phương pháp đóng vai có những
ưu điểm: sinh viên được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi
trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn; gây hứng thú và chú ý cho sinh viên; tạo điều
kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của sinh viên, khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của sinh viên
theo chuẩn mực hành vi đạo đức và chính trị - xã hội, có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của
lời nói hoặc việc làm của các vai diễn (Kritzerow, 1990).
+ Một số phương pháp giảng dạy giúp học tập qua trải nghiệm (Experiential Learning):
Học tập qua trải nghiệm được định nghĩa là quá trình học của sinh viên được trải qua những việc
làm mô phỏng thực tế, có tính thực hành và vận dụng cao, các tình huống nghiên cứu, từ đó sinh
viên đúc kết thành những kinh nghiệm cho bản thân, làm sáng tỏ hơn cho các lý thuyết được học
(Edward và cộng sự, 2007).
Mô phỏng (Simulations): Mô phỏng, thường được dùng trong nghiên cứu khoa học, là quá
trình phát triển mô hình hoá rồi mô phỏng một đối tượng cần nghiên cứu. Thay cho việc phải
nghiên cứu đối tượng cụ thể mà nhiều khi là không thể hoặc rất tốn kém tiền của, chúng ta xây
dựng những mô hình hoá của đối tượng đó trong phòng thí nghiệm và tiến hành nghiên cứu đối
tượng đó dựa trên mô hình hoá này.
Nghiên cứu tình huống (Case studies): Yếu tố cấu thành chủ yếu của phương pháp đào tạo
mới này dựa trên các tình huống thực tế của cả sinh viên và giảng viên. Mục đích chính của các
tình huống là để miêu tả, trao đổi kinh nghiệm về cách thức giải quyết vấn đề và những mâu
thuẫn trong khi thực hiện công việc được giao. Bằng những tình huống khác nhau cần phải giải
211
quyết trong khoảng thời gian định sẵn cùng nguồn lực có hạn, sinh viên được đặt vào vị trí cần
phải đưa ra quyết định hoặc kêu gọi sự hỗ trợ của các thành viên cùng nhóm để tìm hướng giải
quyết hợp lý. Sự đa dạng của các tình huống được đưa lên không chỉ khuyến khích người học
phát huy tính chủ động, óc sáng tạo mà còn đem đến sự thoải mái, sảng khoái về mặt tinh thần
khi tham dự lớp. Yếu tố này làm người học có thể tiếp thu nội dung kiến thức bài giảng dễ dàng,
sâu và nhớ lâu hơn các phương pháp giảng dạy truyền thống (Scholz và Olaf, 2002).
Phương pháp học tập phục vụ cộng đồng (Service Learning): Học tập phục vụ cộng
đồngđã có từ năm những năm 1960 tại Mỹ (Jacoby, 1996). Service-Learning (SL) là một phương
pháp dạy và học mà thông qua đó người học áp dụng được những kiến thức học được trong lớp
vào điều kiện thực tế, đồng thời kết quả của quá trình học đáp ứng nhu cầu cùa cộng đồng và
được cộng đồng sừ dụng.
Đổi mới phương pháp giảng dạy là cải tiến những hình thức và cách thức làm việc kém
hiệu quả của người giảng dạy và người học, sử dụng những hình thức và cách thức hiệu quả hơn
nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, phát huy tích cực tự lực và sáng tạo phát huy năng lực của
người học.
2.2. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với phương pháp giảng dạy
đào tạo kế tạo kế toán kiểm toán
Cuộc cách mạng công nghệp 4.0 đã và đang đem lại nhiều điều kiện thuận lợi cho giảng
viên tại các trường nói chung và các trường đào tạo kế toán, kiểm toán nói riêng, đặc biệt là đối
vực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại.
Nguồn tài liệu phục vụ giảng dạy đa dạng nhờ sự tiến bộ của hệ thống internet kết nối và
dữ liệu khổng lồ giúp giảng viên tiếp cận được nhiều tài liệu trong và ngoài nước, phục vụ tốt
việc xây dựng bài học. Giảng viên có thể tìm hiểu sâu sắc về vấn đề giảng dạy với nhiều hướng
nhận thức khác nhau, làm phong phú thêm cách nhìn nhận của bản thân với môn học, giúp các
giảng viên tự tin hơn trong giảng dạy.
Giảng viên có thể sử dụng các phương pháp, phương tiện và kĩ thuật dạy học hiện đại áp
dụng vào hoạt động giảng dạy của mình. Với nhiều phần mềm dạy học hiện đại, giảng viên có
nhiều lựa chọn đối với các phương tiện kĩ thuật phù hợp với giảng dạy.
Bên cạnh những tác động tích cực thì CMCN 4.0 đang thực sự tạo ra nhiều những thách
thức, đòi hỏi các giảng viên cần nhiều nỗ lực hơn nữa trong công tác giảng dạy của mình:
Thứ nhất, nhiều công cụ hỗ trợ giảng dạy đòi hỏi giảng viên phải thường xuyên cập nhật
các phương pháp dạy học hiện đại để tránh sự nhàm chán trong quá trình dạy và học. Có nhiều
công cụ hỗ trợ có thể áp dụng vào quá trình giảng dạy và nghiên cứu. Tuy nhiên, những công cụ
này không phải ai cũng hiểu, ai cũng có thể sử dụng trong thực tiễn. Hơn nữa, mỗi ngày công
nghệ càng hiện đại hơn, nên nhiều giảng viên có thể không theo kịp và khó ứng dụng vào trong
giảng dạy làm cho hiệu quả giảng dạy bị giảm sút.
Thứ hai, số tiết dạy của giảng viên có thể sẽ bị giảm bớt, thay vào đó là sự xuất hiện của
việc học tập online rút ngắn thời gian học tập và kết thúc học phần. Hiện nay có nhiều phần mềm
công nghệ trợ giúp giảng viên đại học dạy học từ internet. Thay vì sinh viên phải lên lớp thì hiện
212
nay các em hoàn toàn có thể tự học tập ở nhà từ các website của giảng viên, những clip giảng và
tư liệu; nhờ đó sinh viên hoàn thành việc học tập của bản thân tốt hơn. Hơn nữa, khác với những
lớp học “truyền thống”, thì lớp học online có thể áp dụng cho lớp học có số lượng sinh viên lớn
cùng tham gia học tập. Do đó, số tiết giảng dạy của giảng viên sẽ bị giảm sút, những yêu cầu đối
vớisố tiết chuẩn của giảng viên cũng cần phải được điều chỉnh cho hợp lí.
3. PHƯƠNG PHÁP VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY KẾ
TOÁN - KIỂM TOÁN
Tác giả đã thực hiện khảo sát và qua điện thoại và qua mail với 100 giảng viên đang làm
việc tại các khoa /bộ môn chuyên ngành kế toán - kiểm toán của 15 trường đại học và cao đẳng
trên địa bàn Miền Bắc Việt Nam. Các câu hỏi xoay quanh vấn đề trọng tâm là các phương pháp
giảng viên đã và đang áp dụng trong chương trình đào tạo nguồn nhân lực kế toán kiểm toán tại
các trường. Các câu hỏi là các câu hỏi mở giúp người trả lời hiểu và trả lời đúng trọng tâm câu
hỏi. Thời gian phỏng vấn khoảng 30 phút dành cho mỗi đối tượng. Dữ liệu phỏng vấn được ghi
âm, ghi chép (với đối tượng trả lời qua điện thoại) và xử lý ngay sau đó.
Nguồn: Tác giả tính toán từ dữ liệu khảo sát
Hình 1: Phương pháp giảng dạy của giảng viên kế toán kiểm toán
Kết quả khảo sát cho thấy, các giảng viên kế toán kiểm toán ở các trường đại học thường
sử dụng một hoặc là kết hợp các phương pháp sau:
(1) Phương pháp thuyết trình: Đây là phương pháp các giảng viên sử dụng chủ yếu hiện
nay trong quá trình giảng dạy, có 84% giảng viên tham gia phỏng vấn lựa chọn phương pháp
giảng dạy khi thực hiện các bài giảng trên lớp.
(2) Phương pháp gợi mở, vấn đáp: Là phương pháp cũng được phần đông giảng viên lựa
chọn có 62% giảng viên được hỏi lựa chọn phương pháp này.
(3) Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề: 34% giảng viên được hỏi khẳng định thường
xuyên sử dụng phương pháp này trong giảng dạy các môn học và thấy có những hiệu ứng tích
cực từ phía sinh viên đem lại.
213
(4) Phương pháp tình huống: Sử dụng phương pháp này trong giảng dạy kế toán sẽ nâng cao
được kĩ năng xử lý các vấn đề chuyên môn thường gặp phải trong thực tế tại các doanh nghiệp cho
người học, nâng cao sự tinh tế, khéo léo trong vận dụng kiến thức chuyên ngành của người học.
Tuy nhiên tỷ lệ giảng viên áp dụng phương pháp này trong giảng dạy là chưa cao, 48% giảng viên
được hỏi cho biết đã và đang sử dụng phương pháp này trong các bài giảng của mình.
(5) Phương pháp thực hành - bài tập: 88% giảng viên được hỏi thường xuyên sử dụng
phương pháp thực hành thông qua các bài tập cụ thể để bổ trợ và giúp người học ghi nhớ các
kiến thức, hình thành các kĩ năng của chuyên ngành.
(6) Phương pháp thảo luận nhóm: Có 14% giảng viên được hỏi có áp dụng phương pháp
này, tuy nhiên giảng viên cũng có đề cập những bất cập khi sử dụng phương pháp là quy mô lớp
giảng chuyên ngành hiện nay các trường còn bố trí đông, lớp học chật hẹp nên việc vận dụng
phương pháp là rất khó khăn. Vì vậy, ít giảng viên sử dụng phương pháp này trong thực tế giảng
dạy cho dù có đánh giá cao hiệu quả của phương pháp nếu áp dụng.
Kết quả trên cho thấy phương pháp dạy học chủ yếu mà các giảng viên sử dụng trong thực
tế giảng dạy chuyên ngành kế toán - kiểm toán là phương pháp thuyết trình và phương pháp thực
hành - bài tập (chiếm trên 80%). Kết quả cho thấy phương pháp mà giảng viên sử dụng phương
pháp giảng dạy truyền thống được áp dụng nhiều. Phương pháp này đề cao người dạy nên nhược
điểm của phương pháp là sinh viên thụ động tiếp thu kiến thức, giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ,
kiến thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ năng thực hành của người học; do đó kỹ năng thực
hành và áp dụng vào đời sống thực tế bị hạn chế. Các phương pháp dạy học truyền thống khi áp
dụng trong thực tiễn dạy học không quá phức tạp và không đòi hỏi quá nhiều thời gian, công sức
của cả giảng viên và sinh viên. Kết quả mà các phương pháp dạy học này mang lại cho người
học nặng về tri thức hơn là phát triển phương pháp học tập, nhận thức ở người học. Phương pháp
dạy học trên đã phát huy vai trò chủ đạo của giảng viên và vai trò chủ động của sinh viên nhưng
chỉ ở mức trung bình. Tuy nhiên, trong điều kiện bùng nổ thông tin như hiện nay, điều kiện dạy
học thay đổi nhờ sự hỗ trợ của các thế hệ máy tính, các phương pháp dạy học này cần được cải
tiến theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập của học sinh, đồng thời áp dụng các phương pháp
dạy học hiện đại có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của dạy học hiện đại.
Ưu điểm của phương pháp dạy học hiện tích cực rất chú trọng kỹ năng thực hành, vận
dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học. Đặc điểm của dạy học theo
phương pháp này là giảm bớt thuyết trình, diễn giải; tăng cường dẫn dắt, điều khiển, tổ chức, xử
lý tình huống song nếu không tập trung cao, học sinh sẽ không hệ thống và logic. Yêu cầu của
phương pháp dạy học hiện tích cực cần có các phương tiện dạy học, sinh viên chuẩn bị bài kỹ ở
nhà trước khi đến lớp và phải mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến, quan điểm. Giảng viên phải chuẩn
bị kỹ bài giảng, thiết kế giờ dạy, lường trước các tình huống để chủ động tổ chức giờ dạy có sự
phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của thầy và hoạt động của trò. Cũng bởi phương pháp giảng
dạy tích cực tuy có nhiều ưu điểm nhưng cũng có những yêu cầu cao, nên công tác giảng dạy
trong các trường đào tạo kế toán kiểm toán hiện nay còn không ít giảng viên dạy học vẫn rất lạc
hậu chỉ theo lối diễn giảng đơn điệu, không đổi mới, không chú ý đến người học. Nguyên nhân
214
của tình trạng này là do: cơ sở vật chất, phương tiện dạy và học ở các trường còn thiếu, do sinh
viên chưa tích cực, chưa chuẩn bị bài trước khi đến lớp, do bản thân giảng viên thiếu năng động,
học hỏi, chậm đổi mới, do nhà trường quan tâm chưa thoả đáng đến việc cải tiến phương pháp
giảng dạy.
4. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY KẾ TOÁN
HIỆN NAY
Đổi mới phương pháp giảng dạy thực chất không phải là sự thay thế các phương pháp
giảng dạy cũ bằng một loạt các phương pháp giảng dạy mới. Về mặt bản chất, đổi mới phương
pháp giảng dạy là đổi mới cách tiến hành các phương pháp, đổi mới các phương tiện và hình
thức triển khai phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để ưu điểm của các phương pháp cũ và vận
dụng linh hoạt một số phương pháp mới nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo
của sinh viên. Như vậy, mục đích cuối cùng của đổi mới phương pháp giảng dạy là làm thế nào
để sinh viên phải thực sự tích cực, chủ động, tự giác, tìm tòi, suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình
lĩnh hội tri thức và lĩnh hội cả cách thức để có được tri thức ấy nhằm phát triển và hoàn thiện
kiến thức chuyên môn và nhân cách của mình.
Mỗi một phương pháp giảng dạy đều nhấn mạnh lên một khía cạnh nào đó của quá trình
học tập. Cho dù các phương pháp thể hiện hiệu quả như thế nào thì nó vẫn tồn tại một vài khía
cạnh mà người học và người dạy chưa khai thác hết. Chính vì thế mà không có một phương pháp
giảng dạy nào được cho là lý tưởng. Mỗi một phương pháp đều có ưu điểm của nó do vậy giảng
viên nên xây dựng cho mình một phương pháp riêng phù hợp với mục tiêu, bản chất của vấn đề
cần trao đổi, phù hợp với thành phần nhóm lớp học, các nguồn lực, công cụ dạy - học sẵn có và
cuối cùng là phù hợp với sở thích của mình. Phương pháp giảng dạy được coi là phù hợp khi nó
đáp ứng được các tiêu chí như:
+ Làm tích cực hóa người học: Phương pháp đó phải đảm bảo người học được huy động và
tham gia tích cực vào quá trình tiếp thu và chiếm lĩnh các tri thức và kỹ năng.
+ Chuyển tải được những tri thức cần thiết của nội dung học tập đến người học: Phương
pháp đó phải đảm bảo chuyển tải được các khái niệm, nội dung, kỹ năng cơ bản đến người học
và tạo ra sự tiếp thu thuận lợi ở người học.
+ Tính khả thi: Một phương pháp giảng dạy không thể coi là phù hợp nếu nó đòi hỏi các
điều kiện thực hiện quá cao so với cơ sở vật chất hiện có của cơ sở giảng dạy và không có khả
năng triển khai đồng bộ trên diện rộng.
Để đào tạo ra những nguồn lực kế toán có chất lượng cao, đáp ứng tiêu chuẩn 4.0, các
trường đại học cao đẳng cần phải thay đổi tư duy quá trình giảng dạy. Đội ngũ giảng viên cần
phải đổi mới quá trình dạy, từ cách dạy truyền thống trước đây sang phương pháp dạy hiện đại
phù hợp với thời đại 4.0. Đổi mới bằng cách chuyển từ truyền thụ kiến thức sang hình thành
phẩm chất và phát triển năng lực của sinh viên, phát huy tối đa tiềm năng của sinh viên. Do đó,
để thích nghi, ứng phó với những thách thức, các trường cần giảng dạy những kiến thức tích hợp,
đổi mới phương pháp giảng dạy, tăng cường giảng dạy kỹ năng làm việc nhóm, tự học, biết cách
tìm hiểu vấn đề, giải quyết vấn đề, xử lý thông tin.
215
Nâng cao nhận thức của giảng viên kế toán: Trước hết, cần nhận thức rằng đổi mới phương
pháp, hình thức dạy học là một tất yếu trong điều kiện mới. Quá trình này có thể khó khăn bước
đầu đối với giảng viên. Vì vậy, mỗi giảng viên cần quyết tâm và kiên trì, nỗ lực hết mình để
hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy theo những yêu cầu mới. Tâm thế chủ động, tự tin sẽ là động lực
giúp giảng viên đón nhận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 một cách hiệu quả để ứng dụng
những thành tựu của nó vào trong hoạt động giảng dạy. Vai trò của người thầy “truyền thống”
đang có sự thay đổi, từ người truyền thụ kiến thức. Đến nay, giảng viên là người tổ chức, hướng
dẫn sinh viên tiếp nhận tri thức. Do đó, nâng cao năng lực chuyên môn, ngoại ngữ, kĩ năng sử
dụng công nghệ thông tin và các phương thức giảng dạy hiện đại là một yêu cầu không nhỏ đòi
đối với đội ngũ giảng viên hiện nay.
Phương pháp giảng dạy cần phải đổi mởi mạnh mẽ, mạnh dạn sử dụng các công cụ như
internet, giáo dục trực tuyến, sử dụng công nghệ điện toán đám mây cho phép người dạy có thể
cung cấp tài liệu cho người học và thu thập lại kết quả của người học trong quá trình dạy học
một cách linh hoạt và liên tục, ngoài ra phương pháp giảng dạy này sẽ lỉnh hoạt về thời gian
cũng như tạo ra một không gian phù hợp với điều kiện và nhu cầu của người học. Ngoài việc vận
dụng công nghệ thông tin mà còn là việc thay đổi tư duy và cách tiếp cận đẻ tận dụng hết những
cơ hội mà công nghệ 4.0 mang lại. Cụ thể:
Thứ nhất, ta cần ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học giúp giảng viên nâng cao
tính sáng tạo và trở nên linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy của mình. Các thầy cô không chỉ
bó buộc trong khối lượng kiến thức hiện có mà còn được tìm hiểu thêm về những chuyên ngành
khác như tin học và học hỏi các kỹ năng sử dụng hình ảnh, âm thanh trong việc thiết kế bài
giảng. Ngoài ra, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học còn giúp giảng viên có thể chia sẻ
bài giảng với đồng nghiệp, cùng nhau thảo luận và nâng cao chất lượng bài giảng của mình. Các
em được tiếp cận phương pháp dạy học mới hấp dẫn hơn phương pháp đọc - chép truyền thống.
Ngoài ra, sự tương tác giữa giảng viên và sinh viên cũng được cải thiện đáng kể, sinh viên có
nhiều cơ hội được thể hiện quan điểm cũng như chính kiến riêng của mình. Điều này không chỉ
giúp các em ngày thêm tự tin mà còn để cho giảng viên hiểu thêm về năng lực, tính cách và mức
độ tiếp thu kiến thức của sinh viên, từ đó có những điều chỉnh phù hợp và khoa học.
Thứ hai, kết hợp phương pháp giảng dạy truyền thống với các phương pháp giảng dạy
hiện đại.
Hiện nay, chưa có một phương pháp giảng dạy hiện đại nào có thể thay thế hoàn toàn
phương pháp giảng dạy truyền thống, mặc dù các phương pháp giảng dạy truyền thống cụ thể
như thuyết trình còn tồn tại nhiều hạn chế như: không khuyến khích được tính chủ động của
người học, người học muốn học tốt phải lắng nghe, cố ghi chép, cố nhớ kiến thức thay vì sáng
tạo trong quá trình học tập. Để khắc phục những mặt hạn chế nêu trên, cần thiết phải có sự kết
hợp giữa các phương pháp truyền thống và hiện đại với nhau, cụ thể như:
+ Kết hợp giữa phương pháp thuyết trình với phương pháp làm việc nhóm: Trong phương
pháp kết hợp này, giảng viên cung cấp cơ sở lý thuyết nền tảng. Sinh viên được chia theo nhóm
từ 5 đến 6 sinh viên một nhóm. Mỗi nhóm sẽ chọn (hoặc được giao) một đề tài nào đó có liên
216
quan đến nội dung môn học rồi tự phân chia công việc trong nhóm cho các thành viên để tiến
hành việc tìm hiểu những nội dung lý thuyết liên quan đến đề tài qua sách, giáo trình, ấn phẩm
nghiên cứu khoa học; tìm hiểu thực tế xem các doanh nghiệp, tổ chức hiện đang thực hiện công
việc liên quan đến đề tài như thế nào với những bằng chứng là thông tin, số liệu, hình ảnh… thực
tế cụ thể thông qua tiếp cận doanh nghiệp. Sự kết hợp giữa phương pháp thuyết trình và phương
pháp làm việc nhóm sẽ kích thích vai trò chủ động của người học. Sinh viên là người chủ động
tìm tòi, suy nghĩ, nhận định, phân tích, tổng hợp, đánh giá đề tài của nhóm mình và cả đề tài của
các nhóm khác.
+ Kết hợp giữa phương pháp thuyết trình với phương pháp sử dụng tình huống: Tình
huống thường trình bày một sự mâu thuẫn/xung đột, đặc biệt là sự căng thẳng giữa những
phương án hành động khác nhau mà những phương án này có thể tạo ra những quan điểm, lợi ích
và những giá trị khác nhau trong sự mâu thuẫn và nó đòi hỏi phải được giải quyết bằng một
quyết định. Phương pháp tình huống là một quá trình gồm ba bước: Chuẩn bị cá nhân, thảo luận
nhóm nhỏ và thảo luận cả lớp. Học bằng tình huống là phương pháp học dựa trên cơ sở thảo
luận. Nó cho phép người tham dự học bằng cách thực hành. Bằng việc đóng vai các nhân vật
trong tình huống, sinh viên có cơ hội nhập vai và gánh trách nhiệm của những con người cụ thể
trong những tổ chức cụ thể.
Phương pháp tình huống cho phép sinh viên tham gia vào quá trình ra quyết định mà người
ta phải thực sự đương đầu trong một tổ chức thật, có quyền sở hữu, cảm giác được áp lực, nhận
rủi ro và trình bày ý tưởng của mình với người khác giúp buổi học có sự trao đổi thông tin đa
chiều. Các tình huống giúp sinh viên phát triển lòng tự tin, khả năng suy nghĩ độc lập và hợp tác
trong công việc với đồng nghiệp. Ngoài ra, phương pháp tình huống cũng là công cụ để giảng
viên kiểm tra kiến thức lý thuyết và những hiểu biết sâu sắc hơn của sinh viên.
Giảng viên lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp trên cơ sở:
+ Tìm hiểu kỹ đối tượng tham gia học tập: Đối tượng tham gia học tập thường khá đồng
nhất ở các lớp học chính quy nhưng lại rất đa dạng ở các lớp học không chính quy từ độ tuổi,
kiến thức nền, khả năng tiếp thu, nhu cầu, mục đích học tập cho đến độ tập trung, khả năng ghi
nhớ và vận dụng kiến thức, kỹ năng mới, thời gian, khả năng tài chính phục vụ học tập.
+ Bám sát mục tiêu đào tạo đã xác định cho người học. Mục tiêu đào tạo thường được cụ
thể hóa thành chuẩn đầu ra của các cơ sở giáo dục và tương ứng với các chương trình đào tạo đã
được cơ sở giáo dục thiết kế. Chuẩn đầu ra là những gì mà những người thiết kế chương trình
giáo dục kỳ vọng người học đạt được khi hoàn thành chương trình học tập đã được thiết
kế. Chuẩn đầu ra này cần được cụ thể hóa thành những gì mà giảng viên kỳ vọng sinh viên đạt
được khi kết thúc mỗi học phần thuộc chương trình đào tạo. Do đó, nếu phương pháp giảng dạy
không giúp sinh viên đạt được những kỳ vọng này hay nói cách khác là không đạt chuẩn đầu ra
thì không thể coi đó là phương pháp giảng dạy phù hợp.
+ Lựa chọn phương pháp giảng dạy cần căn cứ vào nội dung kiến thức cần truyền tải đến
người học và các đặc điểm đặc thù của môn học. Các loại kiến thức khác nhau luôn cần các
phương pháp khác nhau để truyền tải mới có hiệu quả. Điều này thể hiện tính ưu và nhược riêng
217
của mỗi phương pháp giảng dạy. Phương pháp thuyết trình tỏ ra rất có ưu thế khi giảng dạy các
môn đòi hỏi sinh viêntiếp cận nhiều với các khái niệm, định nghĩa. Trong khi phương pháp giảng
dạy hiện đại tỏ ra rất có hiệu quả với các môn học đòi hỏi hình ảnh trực quan về các vấn đề cần
truyền tải đến người học.
Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình và phương pháp dạy học theo hướng hội
nhập quốc tế. Chương trình đào tạo kế toán hiện nay chưa thực sự hội nhập sâu với chương trình
đào tạo kế toán của các nước phát triển, tính học thuật của chương trình đào tạo còn nặng mà
chưa chú trọng đến tính thực hành nghề nghiệp. Vì vậy nội dung, chương trình đào tạo cần được
triển khai theo hướng mở, cho phép cập nhật thường xuyên về kiến thức trong và ngoài nước,
cần thiết sử dụng giáo trình, học liệu nước ngoài một cách linh hoạt để mở mang sự hiểu biết cho
giảng viên và sinh viên, nội dung giảng dạy phải gắn chặt và phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Cho
phép sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học theo nguyên tắc “lấy người học là trung tâm”,
giảm tải tối đa giờ giảng trên lớp để sinh viên có thời gian tự học và tự nghiên cứu.
Thứ tư, tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học. Cách mạng công nghiệp 4.0 tác
động toàn cầu, hoạt động nghiên cứu khoa học luôn là một trong hai nhiệm vụ hàng đầu của bất
kỳ một trường đại học nào. Kết hợp ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học trong giảng dạy luôn
là một giải pháp tất yếu, một nội dung quan trọng trong tiến trình đào tạo đại học.
Thứ năm, nhà trường và khoa cần có những kế hoạch cụ thể ứng dụng và thí điểm từng
bước hoạt động giảng dạyhọc hiện đại. Bồi dưỡng, nâng caonăng lực ngoại ngữ, ứng dụng công
nghệ thông tin cho giảng viên. Ban Giám hiệu nhà trường cũng cần đề ra nhữngchính sách,
khuyến khích động viên, tạo động lực cho giảng viên tích cực sáng tạo và ứng dụng những
phương pháp giảng dạy hiện đại vào thực tiễn để khuyến khích sự đam mê và tâm huyết của
giảng viên. Nhà trường nên thường xuyên tổ chức các hoạt động học tập, bồi dưỡng nhằm nâng
cao chất lượng giảng viên, cũng như tổ chức thường niên các hội thảo nghiên cứu khoa học
chuyên sâu về phương pháp dạy học tại nhà trường nhằm cung cấp kiến thức cũng như nâng cao
những kĩ năng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên. Về cơ sở vật chất: Nhà trường cần đầu tư
trangthiết bị, phương tiện dạy học hiện đại, cột thu sóng wifi mạnh đủ cho giảng và sinh viên
tham gia kết nối và học tập trên Internet một cách dễ dàng hơn.
5. KẾT LUẬN
Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 tạo ra thị trường đòi hỏi những con người có năng lực tư
duy và sáng tạo, có kỹ năng phân tích, tổng hợp thông tin và có khả năng làm việc độc lập. Đây
cũng là điểm yếu của sinh viên nói chung và sinh viên kế toán, kiểm toán nói riêng. Để đáp ứng
được, các trường đào tạo kế toán cần phải có sự đổi mới để nắm bắt kịp xu thế công nghệ số hóa,
ngoài việc đổi mới chương trình đào tạo thì việc đổi mới phương pháp giảng dạy thực sự rất cần
thiết. Các giảng viên cần phải nâng cao năng lực chuyên môn, đổi mới phương pháp giảng dạy.
Cần chuyển từ truyền thụ kiến thức sang hình thành phẩm chất và phát triển năng lực người học,
kết hợp các phương pháp giảng dạy truyền thống và hiện đại. Giảng viên phải không ngừng đổi
mới để đem lại hiệu quả giảng dạy tốt nhất. Các giảng viên luôn học tập nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ trong điều kiện kết nối toàncầu để có thể tiếp cận những tri thức khoa học
do cuộc CMCN 4.0 mang lại.
218
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Khánh Đức (2013), Lý luận và PPDH hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội
Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường, NXB Đại học Sư
phạm TP Hồ Chí Minh;
Lê Công Triếm (chủ biên), Nguyễn Đức Vũ, Trần Thị Tú Anh (2002), Một số vấn đề hiện nay
của PPDH Đại học, NXB Giáo dục, Hà Nội;
Edward F. C., Johan M., Sören Ö., and Doris R. B. (2007), Rethinking Engineering Education -
The CDIO Approach. Springer Science+Business Media, p. 286.
Hmelo-Silver C. E. (2004), Problem-based learning: What and how do students learn?
Educational Psychology Review, 16: 235–266.
Jacoby B. (1996), Service-Learning in Today's Higher Education. In: Barbara Jacoby and
Associates (Eds.), Service-Learning in Higher Education: Concepts and Practices, San
Francisco CA: Jossey-Bass.
Kritzerow P. (1990), Active learning in the classroom: The use of group role plays. Teaching
sociology, 18(2), 223-225.
Lyman F. (1987), Think-Pair-Share: An expanding teaching technique. MAA-CIE Cooperative
News, 1: 1-2.
Osborn A.F. (1963), Applied imagination: Principles and procedures of creative problem
solving (Third Revised Edition). New York, NY: Charles Scribner’s Son.
Scholz R. W. and Tietje Olaf (2002), Embedded Case Study Methods. Integrating Quantitative
and Qualitative Knowledge. Sage Publications. California: Thousand Oaks.
219
Khoảng cách giữa đào tạo kế toán quản trị tại các trường đại học
và yêu cầu nghề nghiệp
Đặng Thị Huyền Hương, Phạm Thị Ngọc Thu
Trường Đại học Ngoại thương
Email: huongdth@ftu.edu.vn
Mã bài: HTQG.64 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 22/11/2019
Ngày nhận bài: 03/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 25/11/2019
Tóm tắt
Bài viết tổng hợp các nghiên cứu về khoảng cách giữa đào tạo kế toán quản trị tại các
trường đại học và các yêu cầu nghề nghiệp trên thực tế, phân tích một số nội dung khác biệt
trong chương trình đào tạo kế toán (CTĐT) truyền thống và CTĐT theo định hướng nghề nghiệp
tại một số trường đại học hiện nay, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị nhằm đổi mới một số
nội dung trong CTĐT để bổ sung và hoàn thiện các năng lực về KTQT tại các trường đại học có
đào tạo chuyên ngành kế toán hiện nay tại Việt Nam.
Từ khoá: đào tạo kế toán quản trị, thực hành kế toán, khoảng cách trong đào tạo.
1. GIỚI THIỆU
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với tốc độ công nghệ đột phá đã tác động đến các
ngành, lĩnh vực trong đó có lĩnh vực kế toán. Với sự ra đời và phát triển không ngừng của
CNTT, Internet và công nghệ số hiện nay đã giúp nhiều doanh nghiệp (DN) tăng năng suất lao
động, gia tăng giá trị, mở ra cơ hội tốt cho DN tiếp cận những phần mềm kế toán tiện ích, chi phí
phù hợp, giúp sử dụng hiệu quả nguồn lực, tiết kiệm thời gian, nhân lực, tiếp cận hệ thống kế
toán, kiểm toán quốc tế. Tuy nhiên, thời đại số cũng đặt ra nhiều thách thức lớn cho thị trường kế
toán ở Việt Nam cũng như toàn cầu, làm thay đổi cách tiếp cận về khoa học và thực tiễn trong
lĩnh vực này.
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong thời đại số, các tiêu chuẩn về năng lực nghề
nghiệp của nhiều ngành và lĩnh vực, trong đó có các nhà KTQT cũng đang được thay đổi. Môi
trường kinh doanh thay đổi đã đặt ra yêu cầu về khả năng giáo dục đại học có đáp ứng yêu cầu
thực hành nghề nghiệp, nhiều nhà khoa học đang băn khoăn liệu giáo dục đại học có xa rời và
tách biệt với nhu cầu xã hội đòi hỏi về nghề nghiệp trên thực tế. Các nghiên cứu về kỹ năng nghề
nghiệp kế toán do Tucker & Lowe (2014), Francis & Michington (1999), Barac (2009), Burritt
và cộng sự (2010), Sharma & Kelly (2015), Kavanagh & Drennan (2008), Jackling & de Lange
220
(2009), Marshall & cộng sự (2010); Low & cộng sự (2016) đã thực hiện các nghiên cứu thực
nghiệm ở một số nước như Mỹ, Úc, Newzeland và cho thấy, các sinh viên ra trường thiếu các kỹ
năng mà nhà tuyển dụng chờ đợi hoặc các nhà tuyển dụng mất khoảng 2-3 năm để đào tạo một
người học vừa ra trường. Nghiên cứu của Bowden &Masters (1993) and Albrecht & Sack (2000)
cho rằng, khoảng cách này ngày càng lớn trước sự phát triển của xã hội và công nghệ.
Nhằm hạn chế chênh lệch khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu nguồn lực thực tế, một số
nghiên cứu như Jackling &De Lange (2009); Kavanagh & Drennan (2008); Marshall (2010) và
Tempone & cộng sự (2012) đã tập trung vào các kỹ năng của các sinh viên kế toán tốt nghiệp và
gợi ý rằng các trường đại học cần sửa đổi CTĐT nhằm đảm bảo các sinh viên kế toán ra trường
đáp ứng các yêu cầu nghề nghiệp. Trước yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực chất lượng cao
trong lĩnh vực kế toán trong thời đại số, bài viết tổng hợp các nghiên cứu về vấn đề khoảng cách
giữa đào tạo và thực tế, phân tích một số nội dung khác biệt trong CTĐT truyền thống và CTĐT
theo định hướng nghề nghiệp tại một số trường đại học hiện nay. Đồng thời, nghiên cứu đưa ra
một số khuyến nghị nhằm đổi mới một số nội dung nhằm bổ sung và hoàn thiện các năng lực về
KTQT tại các trường đại học có đào tạo chuyên ngành kế toán hiện nay tại Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đề ra, bài viết thực hiện tổng hợp các nghiên cứu về
khoảng cách giữa đào tạo và thực tế, đồng thời thực hiện điều tra bảng hỏi 32 giảng viên đến từ
10 trường đại học (có chuyên ngành kế toán) về nội dung CTĐT, để từ đó đưa ra một số kiến
nghị đề xuất nhằm rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu nghề nghiệp thực tế trong thời
gian tới.
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ KHOẢNG CÁCH GIỮA ĐÀO TẠO VÀ YÊU
CẦU THỰC TIỄN NGHỀ NGHIỆP KTQT
Sự thay đổi của thế giới mà đặc biệt là sự chuyển biến công nghệ và môi trường kinh
doanh nhanh chóng là yếu tố chủ yếu gây ra khoảng cách giữa đào tạo KTQT trong các trường
đại học và yêu cầu thực tế của nghề nghiệp. Trước nhiệm vụ đặt ra này, các trường đại học trên
khắp thế giới được liên tục kêu gọi cải tiến phương pháp và nội dung đào tạo KTQT tuy nhiên
cũng chỉ có một vài nghiên cứu về khoảng cách giữa đào tạo và yêu cầu nghề nghiệp kế toán trên
thực tế. Các nghiên cứu đều đồng thuận rằng, chương trình giáo dục hiệu quả được xây dựng và
sửa đổi hoàn thiện phải đáp ứng các yêu cầu nghề nghiệp tương lai của người học. Các nhà
nghiên cứu (Lawrence & Sharma, 2002; Chang & Chow, 1999) đã vận dụng lý thuyết Thẻ điểm
cân bằng (BSC) trong nghiên cứu khoảng cách giữa thực tế và chương trình đào tạo KTQT tại
các trường đại học cho thấy, cần nỗ lực từ phía các trường đại học để thu hẹp khoảng cách giữa
đào tạo và yêu cầu thực tế về cả kiến thức và kỹ năng.
Theo Albrecht và Sack (2000), Craig và Amernic (2002), giáo dục là cách hữu ích giúp
cho con người nghĩ và biết nhiều thứ nhưng ở trường học sinh viên ít có cơ hội làm những công
việc thực tế ở những dự án (work-based projects), tham gia những dự án như vậy giúp sinh viên
thực sự trải nghiệm cách làm việc thực tế của một nhà KTQT. Bui and Porter (2010) tin tưởng
các trường đại học đóng vai trò quan trọng trong phát triển khả năng trí tuệ và năng lực đối mặt
với thách thức và suy nghĩ độc lập và giải quyết vấn đề. Siegel and Sorensen (1999) cho rằng,
221
các trường đại học cần phải hiểu công việc của một KTQT viên đang thực tế diễn ra từ các DN
để từ đó đáp ứng nhu cầu sinh viên và DN. Trong quá trình đào tạo KTQT tại các trường đại học
hiện nay, cần phải gắn kết các kỹ thuật giảng dạy và phương pháp đánh giá nhằm phát triển các
kỹ năng của sinh viên về viết báo cáo và tăng cường các thuyết trình trên máy tính. Kavanagh &
Drennan (2008), Barac (2009), Jackling & De Lange (2009) đều nhận định các kỹ năng nghề
nghiệp và giao tiếp không được tích hợp vào chương trình giảng dạy tại các trường đại học.
Daff và cộng sự (2012) nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển các kỹ năng thiết yếu về
kế toán tại các trường đại học. Một số kỹ năng thiếu chung của sinh viên kế toán khi tốt nghiệp
đối với nhà tuyển dụng và cơ hội việc làm nghề nghiệp đó là: kỹ năng phân tích và thiết kế, kỹ
năng làm việc nhóm, kỹ năng phối hợp, kỹ năng sáng tạo và giao tiếp nói và viết (Kavanagh &
Drennan, 2008; Jackling & de Lange, 2009). Các nghiên cứu này cònnhấn mạnh sinh viên tốt
nghiệp không chỉ cần các kỹ năng chuyên môn mà cần phát triển khả năng phân tích, giải quyết
vấn đề, kỹ năng giao tiếp và tổng hợp, trong đó đặc biệt chú trọng các kỹ năng công nghệ chưa
đáp ứng nhu cầu của người tuyển dụng đối với sinh viên kế toán tốt nghiệp. Ngoài ra, Cook &
cộng sự (2011) and Jones & Sin (2003) còn đề cao trí tuệ cảm xúc của nhà KTQT.
Nghiên cứu về sách giảng dạy về KTQT, Bargate (2012) còn cho thấy, những quyển sách
viết cho sinh viên rất khó đọc và mang tính liệt kê, ít phân tích sâu sắc các khái niệm. Scapens
(1983) còn cho rằng khoảng cách giữa đào tạo và thực tế tồn tại do các cuốn sách KTQT trình
bày các ví dụ thiếu tính cập nhật thực tế. Trong khi, Daff và cộng sự (2012) đặt ra câu hỏi liệu có
thể hướng tính thực hành trong đào tạo kế toán, cũng từ đó báo cáo đề xuất một mô hình đào tạo
hợp nhất giữa nghiên cứu kế toán, gắn đào tạo và thực hành nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu sự
thay đổi của thị trường.
3. SỰ THAY ĐỔI TRONG ĐÀO TẠO KẾ TOÁN TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI
VIỆT NAM
Nhằm hướng đến sự gắn kết giữa đào tạo và thực tiễn, từ năm 2016 tại Việt Nam một số
trường đại học đã đi tiên phong trong việc phối hợp với các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp trong
lĩnh vực kế toán và kiểm toán nhằm phát triển các chương trình đào tạo định hướng nghề nghiệp.
Theo khảo sát của nhóm tác giả, hiện nay tại Việt Nam, hiện nay tại Việt Nam có khoảng 10
trường đại học có các chương trình đào tạo cử nhân kế toán kiểm toán giảng dạy theo giáo trình
định hướng nghề nghiệp như ACCA, ICAEW. Trong đó, trường Đại học Ngoại thương là một
trong những trường tiên phong định hướng đào tạo cử nhân ngành kế toán kiểm toán theo định
hướng nghề nghiệp của Hiệp hội Kế toán công chứng Anh (ACCA) từ năm 2016.
Bảng 1: Các trường có chuyên ngành kế toán định hướng nghề nghiệp
TT Tên trường Đại học Năm triển khai CTĐT định hướng
nghề nghiệp
1 Đại học Ngoại thương 2016 ACCA
2 Học viện Tài chính 2018 ACCA và ICAEW
3 Đại học Kinh tế Quốc dân 2017 ICAEW
222
4 Đại học Thương mại 2018 ICAEW
5 Học viện Ngân hàng 2018 ACCA và ICAEW
6 Đại học Hà Nội 2017 ACCA
7 Học viện Bưu Chính Viễn Thông 2018 ACCA
8 Đại học Công nghiệp Hà Nội 2018 ACCA
9 Đại học Điện Lực 2018 ACCA
(Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả)
Theo khảo sát của nhóm tác giả, đối với nội dung về KTQT, các CTĐT định hướng nghề
nghiệp có một số mở rộng về mặt nội dung so với các chương trình giảng dạy truyền thống. Các
học phần KTQT trong chương trình định hướng nghề nghiệp, cụ thể là các học phần cơ bản đưa
vào giảng dạy hướng đến các khối kiến thức quản trị, chiến lược và kiểm soát. Các khối kiến
thức này thường được các tổ chức nghề nghiệp rà soát hàng năm, cập nhật sát với thực tế các
thay đổi của chuẩn mực quốc tế, đảm bảo nội dung kiến thức sâu và rộng bao trùm cả các lĩnh
vực kế toán, quản trị, kiểm soát và chiến lược. Các kỹ năng mục tiêu cung cấp cho người học
trong các CTĐT định hướng nghề nghiệp bao gồm: Kỹ năng lập báo cáo và tổng hợp, phân tích
đánh giá, kỹ năng suy nghĩ độc lập và giải quyết vấn đề, kỹ năng về vận dụng các công cụ tính
toán, hỗ trợ việc ra quyết định kinh doanh.
Bảng 2. Tổng hợp và so sánh nội dung giảng dạy các học phần kế toán quản trị
tại một số trường đại học
TT Nội dung CTĐT
tiêu chuẩn
CTĐT định
hướng NN
1 Giới thiệu về KTQT (Introduction about Management
accounting) X x
2 Các khái niệm chi phí (Cost concepts) X x
3 Các phương pháp tính giá thành (Product costing) X x
4 Mối quan hệ Chi phí - Khối lượng - Lợi nhuận (Cost
volume profit) X x
5 Lập kế hoạch ngân sách (Budgeting and Budget control) X x
6 Kiểm soát ngân sách linh hoạt (Flexible budgeting) X x
7 Chi phí tiêu chuẩn và phân tích biến động ngân sách
(Standard Costing and Variance Analysis) X x
8 Ngân sách vốn và phân tích chi phí (Capital budgeting and
relevant cost analysis) X x
9 Kế toán trách nhiệm (Responsible Accounting) X x
10 Đánh giá hiệu quả hoạt động (Performance measurement
and incentives) X x
223
11 Ra các quyết định ngắn hạn và dài hạn (long term and short
term decision making) X x
12 Hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp và Dữ liệu
lớn (ERP and Big data) x
13 Phân tích về giới hạn nguồn lực (Limiting factor analysis) x
14 Kế toán chi phí môi trường (Accounting for environmental
Cost) x
15 Phân tích về giới hạn nguồn lực (Limiting factor analysis) x
16 Kế toán chi phí môi trường (Accounting for environmental
Cost) x
17 Lập ngân sách theo hoạt động (Activity based Budget) x
18 Các phương pháp định giá sản phẩm (Pricing products and
services) x
19 Thẻ điểm cân bằng (Balanced Score Card) x
20 Chi phí mục đích và báo cáo chu kỳ vòng đời sản phẩm
(Target costing and life cycle reporting) x
21 Chuyển giá (Transfer pricing systems) x
22 Một số phương pháp quản lý tác nghiệp hiện đại (Just in
time, Theory of constraint, Lean production, …) SL x
23 Kiểm soát chất lượng và chi phí (Quality management and
costing) x
24 Phân tích cấu trúc và đo lường hiệu quả hoạt động bộ phận
(Divisional structure and performance measurement) SL x
25 Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp (Accounting Ethics for
Professionals) SL x
Chú thích: x: có giảng dạy; SL: giới thiệu sơ lược;
(Nguồn: Tổng hợp và từ điều tra của nhóm tác giả tại 10 trường đại học)
So với các CTĐT truyền thống, việc triển khai các chuyên ngành đào tạo theo định hướng
nghề nghiệp, người họccó một số lợiích tích cực như sau:
- Sinh viên được tiếp cận với nguồn học liệu được cập nhật hàng năm và mang tính thực
tiễn cao từ các hiệp hội nghề nghiệp có uy tín trên thế giới (như ACCA, ICAEW, CAT).
- Sinh viên được tiếp cận với các bài thi, kỳ thi toàn cầu được đánh giá năng lực thường
xuyên, khung năng lực mang tính quốc tế do đó việc chuyển tiếp đại học và công nhận văn bằng
chứng chỉ dễ dàng.
- Sinh viên có cơ hội thực tập và việc làm tại các hãng kiểm toán, các tập đoàn lớn. Có khả
năng, năng lực, kỹ năng sát với thực tiễn nhu cầu của nhà tuyển dụng.
224
- Tiếp cận chuyên môn kế toán, kiểm toán bằng tiếng Anh một cách đồng điệu, cải thiện
tiếng Anh chuyên ngành, đặc biệt kỹ năng phân tích, nhận định đánh giá tình huống bằng tiếng
Anh được rèn luyện thường xuyên.
Trên đây là một số lợi ích của việc nâng cao năng lực và kỹ năng của các chương trình
định hướng nghề nghiệp. Mặc dù các trường đại học đã nhanh chóng nhận ra khoảng cách giữa
đào tạo và thực tiễn để từ đó có những thay đổi trong chương trình đào tạo, chúng ta cũng chưa
có cơ sở để đối chiếu so sánh liệu khoảng cách giữa kiến thức và các kỹ năng giữa yêu cầu thực
tế nghề nghiệp và sản phẩm của các sinh viên ra trường khi có sự thay đổi đáng kể hay không1.
4. KẾT LUẬN VÀ CÁC ĐỀ XUẤT
Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 với thời đại số đã và sẽ mang lại sự chuyển biến của toàn
nhân loại theo hướng tự động hoá do đó các yêu cầu năng lực có chuyên môn cao trong mỗi
ngành nghề là rất cần thiết. Kế toán nói chung và nghề nghiệp KTQT nói riêng cũng không nằm
ngoài quy luật đó, để tiếp tục phát triển nghề nghiệp và phù hợp với xu hướng phát triển của DN
và các ứng dụng công nghệ, các nhà nghiên cứu và tổ chức nghề nghiệp có uy tín như ACCA và
IMA đã làm rõ các khung năng lực cần thiết cho các nhà KTQT. Để có được các năng lực đó,
trước hết các nhà KTQT tương lai cần phải chú trọng:
Thứ nhất, phát triển các kỹ năng nâng cao trong quản trị dữ liệu, khai thác và phân tích dữ
liệu, mô hình hoá các dữ liệu để có thể hiểu bản chất cũng như dự đoán về tương lai của DN.
Đồng thời, nhà KTQT cần xác định được vấn đề, tìm phương pháp phân tích dữ liệu phù hợp.
Thứ hai, phát triển tư duy chiến lược. Nhà KTQT trong thời đại số không đơn thuần là một
người lao động trong doanh nghiệp mà cần trở thành đối tác của doanh nghiệp, có cùng chung
lợi ích và trách nhiệm. Nhà KTQT cần có tầm ảnh hưởng tới cả các đồng nghiệp và đối tác và có
ảnh hưởng trong quá trình ra quyết định của DN. Để làm được điều đó, nhà KTQT cần phát triển
tư duy quản trị chiến lược, quản trị rủi ro để từ đó có thể hỗ trợ tổ chức có định hướng phát triển
trong môi trường kinh doanh hiện tại trong ngắn và dài hạn.
Thứ ba,hiểu được giá trị nghề nghiệp, phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng quản lý mối
quan hệ và tư duy tích cực.
Kế toán nói chung và nghề nghiệp KTQT nói riêng là một trong những nghề nghiệp có tính
thực tế và chuyên môn cao, để có được các năng lực và kỹ năng đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp
trong thời đại số, nhiệm vụ đặt ra cho các trường đại học có chuyên ngành đào tạo kế toán kiểm
toán cần có sự thay đổi, dịch chuyển phù hợp trong thời gian sắp tới. Trên cơ sở khung năng lực
nhà KTQT theo nghiên cứu của ACCA và IMA (2019) và kết quả điều tra các nội dung giảng
dạy tại các chương trình đào tạo kế toán trong và ngoài nước, để sát giữa đào tạo và thực tiễn rút
ngắn lại bài viết cho rằng các chương trình đào tạo chuyên ngành kế toán tại các trường đại học
hiện nay nên có lộ trình bổ sung, cập nhật một số nội dung như sau:
1Sinh viên học tập chương trình định hướng nghề nghiệp trong lĩnh vực kế toán kiểm toán sẽ ra trường đầu tiên vào năm 2020. Sau thời
gian trên, việc khảo sát đánh giá năng lực và kỹ năng của người học đáp ứng yêu cầu thực tế của nhà tuyển dụng và xã hội mới có thể được điều
tra chính thức.
225
Về công nghệ và phân tích, các nội dung liên quan đến hệ thống thông tin, quản trị dữ liệu,
phân tích dữ liệu và thông tin tài chính, tự động hoá quy trình (RPA), ERP, các phần mềm kế
toán (SAAS - software as a service), sự ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong kế toán và phân tích dự
báo,… Đối với chương trình đào tạo của các hiệp hội nghề nghiệp ACCA và IMA, các nội dung
này được đưa vào có hiệu lực bắt đầu từ năm 2020.
Về quản trị và chiến lược, các chương trình đào tạo cân nhắc bổ sung thời lượng giảng dạy
các nội dung liên quan đến xây dựng chiến lược ngắn hạn và dài hạn, phương pháp xây dựng thẻ
điểm cân bằng, chiến lược định giá sản phẩm, chuyển giá. Trên thực tế, tại các trường đại học
của Việt Nam, theo quan sát của nhóm tác giả một số trường đã đưa các nội dung này vào trong
chương trình đào tạo sau đại học tuy nhiên giới thiệu các nội dung căn bản cho sinh viên khi tiếp
cận bậc đại học vẫn rất cần thiết.
Về giá trị đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội, nhà trường cần dành thời lượng đào
tạo phù hợp giúp sinh viên nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của người làm nghề kế toán cũng
như thách thức và nguy cơ khi vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong thời đại số. Tại các trường đại
học có chuyên ngành kế toán được đào tạo theo định hướng nghề nghiệp của các hiệp hội tổ chức
quốc tế đã bắt đầu được đưa vào giảng dạy tuy nhiên đối với đa số các chương trình đào tạo
truyền thống, nội dung này vẫn chưa được bổ sung, cập nhật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Albrecht, W.S. and Sack, R.J. (2000). Accounting education: charting the course through a
perilous future, Accounting Education Series, 16, Sarasota, Florida American Accounting
Association.
Chang, H.O. & Chow, C.W. (1999). The balanced scorecard: a potential tool for supporting
change and continuous improvement in accounting education, Issues in Accounting
Education, 14(3),395-412.
Albrecht, W.S. and Sack, R.J. (2000). Accounting education: charting the course through a
perilous future, Accounting Education Series, 16, Sarasota, Florida American Accounting
Association. International Journal, 11(2), 121-171.
Bui, B. & Porter, B. (2010). The expectation-performance gap in accounting education: An
exploratory study, Accounting Education: An International Journal, 19(1-2), 23-50.
Barac, K. (2009). South African Training officers perceptions of the knowledge and skills
requirements of entry level trainee accountants, Meditari Accountancy Research, 17(2),
19-46.
Burns, J. & Vaivio, J. (2001). Management accounting change, Management Accounting
Research, 12(4), 389-402.
226
Burritt, R., Evans, E. and Guthrie, J. (2010).Challenges for accounting education at a crossroads
in 2010, In E. Evans, R. Burritt and J. Guthrie, (Eds.) Accounting education at a cross
road, (p. 9-15) Sydney, Australia: Institute of Chartered Accountants in Australia.
Bargate, K. (2012). The readability of Managerial Accounting and Financial Management
textbooks, Meditari Accountancy Research, 20(1), 4-20.
Bowden, J., & Masters, G. (1993). Implications for Higher Education of a Competency Based
Approach to Education and Training. Canberra: AGPS.
Craig, R.J. &Amernic, J.H. (2002).Accountability of accounting educators and the rhythm of the
university: Resistance strategies for postmodern blue, Accounting Education: An IMA
(2019), “Management Accounting Competencies: Fit for Purpose in a Digital Age?”.
Cook, G., D. Bay, D., Visser, B., Myburgh, J., & Njoroge, J. (2011). Emotional intelligence: The
role of accounting education and work experience. Issues in Accounting Education, 26(2),
267–28.
Daff, L., de Lange, P., & Jackling, B. (2012). A comparison of generic skills and emotional
intelligence in accounting education. Issues in Accounting Education, 27(3), 627-645.
(Kavanagh & Drennan, 2008; Jackling & de Lange, 2009);
Francis, G. & Michington, C. (1999). Quantitative skills: Is there an expectation gap between the
education and practice of management accountants?,Accounting Education: An
International Journal, 8(4), 301-319.
Jackling, B. & De Lange, P. (2009). Do accounting graduates’ skills meet the expectations of
employers? A matter of convergence or divergence, Accounting Education: An
International Journal, 18(4-5), 369-385.
Jones, A., & Sin, S. (2003). Generic Skills in Accounting: Competencies for Students and
Graduates. N.S.W., Australia: Pearson Education Australia.
Kavanagh, M. H. & Drennan, L. (2008). What skills and attributes does an accounting graduate
need? Evidence from student perceptions and employer expectations, Accounting &
Finance, 48(2), 279-300.
Kavanagh, M. H. & Drennan, L. (2008). What skills and attributes does an accounting graduate
need? Evidence from student perceptions and employer expectations, Accounting &
Finance, 48(2), 279-300.
Klibi, M., & Oussii, A. (2013). Skills and attributes needed for success in accounting career: Do
employers' expectations fit with students' perceptions? Evidence from Tunisia.
International Journal of Business and Management, 8(8), 118-132.
Lawrence, S. & Sharma, U. (2002). Commodification of education and academic labour. Using
the balanced scorecard in a university setting, Critical Perspectives on Accounting,
13(5/6), 661-677.
227
Low, M., Botes, V., Rue, D. D., & Allen, J. (2016). Accounting Employers' Expectations-The
Ideal Accounting Graduates. The E-Journal of Business Education & Scholarship of
Teaching, 10(1), 36.
Marshall, P., Dombroski, R., Garner, R., & Smith, K. (2010). The accounting education gap.
CPA Journal, 80(6), 6-10.
Raef Lawson (2019). New competencies for management accountants, Strategic Finance
Magazine, IMA.
Sharma, U. & Kelly, M. (2014). Students’ perceptions of education for sustainable development
in the accounting and business curriculum of a business school in New Zealand, Meditari
Accountancy Research, 22(2), 130-148.
Siegel, G. & Sorensen, J.E. (1999).Counting More, Counting Less. Transformations in the
Management Accounting Profession, Montevale, NJ: Institute of Management Accountant.
Tempone, I., Kavanagh, M., Segal, N., Hancock, P., Howieson, B., & Kent, J. (2012).
Desirable generic attributes for accounting graduates into the twenty-first century: The
views of employers. Accounting Research Journal, 25(1), 41-55.
Tucker, B.P. & Lowe, A.D. (2014). Practitioners are from Mars, academics are from Venus? An
investigation of the research-practice gap in management accounting, Accounting, Auditing
& Accountability Journal, 27(3), 394-425.
228
Đào tạo phát triển nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao
trong thời kỳ hội nhập cách mạng 4.0
Trương Thanh Hằng, Nguyễn Thị Nga
Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: truongthanhhang@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.50 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 25/11/2019
Ngày nhận bài: 07/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 28/11/2019
Tóm tắt
Hội nhập kinh tế quốc tế, tự do thương mại và cạnh tranh bình đẳng tạo ra nhiều cơ hội cho
việc lưu thông hàng hóa và việc làm giữa các quốc gia. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (cách
mạng 4.0) sẽ tác động lớn đến quy mô hoạt động, tương lai nghề nghiệp kế toán. Nhu cầu về
nhân lực kế toán ngày càng tăng tuy nhiên chất lượng nguồn nhân lực kế toán hiện nay chưa đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn. Bài viết đưa ra thực trạng, cơ hội và thách thức của nguồn nhân lực
kế toán khi tham gia hội nhậpvà đưa ra các kiến nghị nhằm giúp đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực kế toán chất lượng cao.
Từ khóa: Nhân lực kế toán, hội nhập, cách mạng 4.0, đào tạo.
1. GIỚI THIỆU
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, trước sự khởi phát của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0, nhu cầu nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán có chất lượng tại Việt Nam
được dự báo sẽ tăng nhanh trong thời gian tới. Đặc biệt là khi các hiệp định tự do hóa thương
mại với dịch chuyển lao động đang trở thành hiện thực. Kế toán, kiểm toán là một trong tám
ngành nghề, lĩnh vực được tự do di chuyển lao động trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
được thành lậptừ ngày 31/12/2015. Việc tham gia AEC và các hiệp định kinh tế, thương mại
khác (WTO, EVFTA, CPTPP) đòi hỏi Việt Nam phải phát triển nguồn nhân lực kế toán, kiểm
toán có tính chuyên nghiệp cao, đủ năng lực cạnh tranh với lao động của các nước khác trong
khu vực và thế giới. Theo các chuyên gia, chất lượng nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán hiện
nay vẫn còn nhiều bất cập. Việc mở cửa thị trường một mặt sẽ tạo ra áp lực buộc nguồn nhân lực
trong nước phải đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh, mặt khác sẽ giúp thị trường trong nước có
thêm điều kiện phát triển khi được tiếp cận, học hỏi từ nguồn nhân lực chất lượng cao bên ngoài
vào Việt Nam. Để phát triển được nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao chúng ta cần nhiều giải
pháp để đổi mới cả nội dung và chương trình đào tạo cử nhân kế toán - kiểm toán ở các trường
Cao đẳng, đại học Việt Nam.
229
Mặc dù ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về đào tạo kế toán nói chung, thực trạng nguồn
nhân lực kế toán, kiểm toán nói riêng. Tuy nhiên, các nghiên cứu trong nước cũng chưa đề cập tới
đào tạo phát triển nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao theo các tiêu trí đánh giá chất lượng nguồn
nhân lực chất lượng cao. Nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng nhân lực
kế toán chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Theo Liên Hợp Quốc trong Các chỉ số phát triển thế giới (World Development Indicators)
(2000), “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng
tạo của con người có quan hệ với sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”.
Theo Trần Xuân Cầu và Mai Quốc Chánh (2008), “Nguồn nhân lực là nguồn lực con
người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội được biểu hiện ra là số
lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định.”
Xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có nhiều khái niệm khác nhau về nguồn nhân
lực, những khái niệm trên đều thống nhất nội dung cơ bản: nguồn nhân lực là nguồn cung cấp
sức lao động cho xã hội. Con người với tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất giữ vị trí
hàng đầu, là nguồn lực cơ bản và nguồn lực vô tận của sự phát triển không thể chỉ được xem xét
đơn thuần ở góc độ số lượng hay chất lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng.
Con người không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với
những tiềm năng, sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Theo Lê Thanh Hà (2009): “Chất lượng nguồn nhân lực là khái niệm tổng hợp về những
người thuộc nguồn nhân lực được thể hiện ở các mặt: sức khỏe của người lao động, trình độ văn
hóa, trình độ chuyên môn kĩ thuật, năng lực thực tế về tri thức, kĩ năng nghề nghiệp, tính năng
động xã hội (gồm khả năng sáng tạo, sự linh hoạt, nhanh nhẹn trong 11 công việc), phẩm chất
đạo đức, tác phong, thái độ đối với công việc, môi trường làm việc, hiệu quả hoạt động lao động
của nguồn nhân lực và thu nhập mức sống và mức độ thỏa mãn nhu cầu cá nhân gồm nhu cầu vật
chất và nhu cầu tinh thần của người lao động”.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận nhân lực có sức khỏe đáp ứng yêu cầu,
được đào tạo dài hạn, có chuyên môn kỹ thuật cao, có phẩm chất đạo đức tiêu biểu, có khả năng
thích ứng nhanh với những thay đổi của công nghệ, biết vận dụng sáng tạo những tri thức những
kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất, đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã
hội một cách hiệu quả nhất. Chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao được thể hiện qua các
tiêu chí: thể lực, trí lực, ý thức của người lao động (Mai Quốc Chánh, 2000).
Dựa theo các tiêu chí của Mai Quốc Chánh (2000) nhóm tác giả đưa ra các tiêu trí đánh giá
chất lượng nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao như sau:
Thể lực: Đối với chất lượng nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao tiêu chí thể lực đóng
vai trò quan trọng. Thể lực là tình trạng sức khỏe của nguồn nhân lực bao gồm nhiều yếu tố cả
về thể chất lẫn tinh thần và phải đảm bảo được sự hài hòa giữa bên trong và bên ngoài. Chất
lượng nguồn nhân lực được cấu thành bởi năng lực tinh thần và năng lực thể chất, tức là nói đến
230
sức mạnh và tính hiệu quả của những khả năng đó, trong đó năng lực thể chất chiếm vị trí
vô cùng quan trọng. Thể lực tốt thể hiện ở sự nhanh nhẹn, tháo vát, bền bỉ, dẻo daicủa sức khỏe cơ
bắp trong công việc; thể lực là điều kiện quan trọng để phát triển trí lực. Thể lực được phản ánh
bằng một hệ thống các chỉ tiêu cơ bản như: chiều cao, cân nặng, tuổi thọ, các chỉ tiêu về tình hình
bệnh tật, các chỉ tiêu về cơ sở vật chất và các điều kiện bảo vệ và chăm sóc sức khỏe.
Trí lực: Tri thức là yếu tố cơ bản của trí lực, là sự tổng hợp khái quát kinh nghiệm cuộc
sống, là nhận thức lý tính. Nắm bắt được nó sẽ có lợi trong việc chỉ đạo thực tiễn, có lợi trong
việc nâng cao khả năng phân tích và lý giải vấn đề.Trí lực là sự kết tinh của tri thức. Trí lực là
năng lực nhận thức vận dụng tri thức tiến hành khoa học và lao động. Trí lực ngoài việc chiếm
giữ tri thức ra còn phải có một phương pháp tư duy khoa học và kĩ năng kĩ xảo điêu luyện. Trí
lực được nhìn theo hai góc độ:
Thứ nhất về trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ:
Trình độ văn hóa là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu những kiến thức cơ
bản, thực hiện những việc đơn giản để duy trì sự sống. Trình độ văn hóa được cung cấp thông qua
hệ thống giáo dục chính quy, không chính quy; qua quá trình học tập suốt đời của mỗi cá nhân.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ kế toán: là những kiến thức và kỹ năng cần thiết để thực
hiện yêu cầu công việc của kế toán. Trình độ chuyên môn là một chỉ tiêu rất quan trọng để
đánh giá chất lượng nguồn nhân lực kế toán, bởi lẽ trình độ học vấn cao tạo ra những điều kiện
và khả năng để tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng vào thực tiễn công việc góp phần
thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp.
Thứ hai, về kỹ năng mềm:
Hiện nay các doanh nghiệp đều mong muốn tìm kiếm được những nhân viên mà ngoài
trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn có những kỹ năng mềm khác hỗ trợ cho công việc. Kỹ năng
mềm là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng như: kỹ năng sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo
nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, tin học, ngoại ngữ... là những kỹ năng thường không phải lúc
nào cũng được học trong nhà trường, không liên quan đến kiến thức chuyên môn. Kỹ năng này
bổ trợ và làm hoàn thiện hơn năng lực làm việc của người lao động, hiệu quả công việc cao hơn.
Ý thức của người lao động: Chất lượng nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao còn được
thể hiện qua những yếu tố vô hình không thể định lượng được bằng những con số cụ thể như: ý
thức tổ chức kỷ luật, tự giác trong lao động, biết tiết kiệm, có tinh thần trách nhiệm trong
việc, có tinh thần hợp tác, tác phong làm việc khẩn trương, chính xác, có lương tâm nghề nghiệp
nhưng lại là những yếu tố rất quan trọng quy định bản tính của nguồn nhân lực chất lượng cao và
đóng vai trò quyết định sự phát triển bền vững của quốc gia, doanh nghiệp. Tất cả những phẩm
chất đó nằm trong phạm trù đạo đức của con người.
Kế toán là ngành thực hiện quá trình thu thập, xử lý và cung cấp thông tin về tài sản, nguồn
hình thành tài sản và sự vận động của tài sản trong các tổ chức. Kế toán được vận dụng không
chỉ trong các doanh nghiệp mà còn trong các tổ chức phi lợi nhuận, các tổ chức của chính phủ và
nhiều tổ chức khác.
231
Nhân lực ngành Kế toán có thể làm việc ở các vị trí như: chuyên viên phụ trách kế toán,
kiểm toán, thuế, giao dịch ngân hàng, kiểm soát viên, thủ quỹ, tư vấn tài chính, kế toán trưởng,
trưởng phòng kế toán, giám đốc tài chính - CFO… tại các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực trong
cơ quan quản lý tài chính Nhà nước, các đơn vị thuộc lĩnh vực công, các tổ chức xã hội, tổ chức
phi chính phủ, ngân hàng, các loại hình doanh nghiệp trong nước và quốc tế.
Nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao là nguồn nhân lực làm trong ngành kế toán kiểm
toán có sức khỏe đáp ứng yêu cầu công việc, được đào tạo dài hạn, có chuyên môn kỹ thuật cao, có
phẩm chất đạo đức tiêu biểu, có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi của công nghệ, biết
vận dụng sáng tạo những tri thức những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất,
đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội một cách hiệu quả nhất đáp ứng được các tiêu trí đã nêu.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để có những đánh giá chung về thực trạng về đào tạo và chất lượng nguồn nhân lực trong
lĩnh vực kế toán, kiểm toán, tác giả đã thực hiện khảo sát với 50 giảng viên đang làm việc tại các
khoa /bộ môn chuyên ngành kế toán - kiểm toán của 15 trường đại học và cao đẳng trên địa bàn
Miền Bắc Việt Nam. Các câu hỏi khảo sát liên quan đến năng lực chuyên môn, năng lực giảng
dạy và năng lực nghiên cứu khoa học trong chương trình đào tạo nguồn nhân lực kế toán. Tác giả
cũng tiến hành khảo sát sinh viên kế toán và kiểm toán sau khi tốt nghiệp làm việc tại một số
doanh nghiệp. Số phiếu phát ra 650 thu về 500. Các câu hỏi khảo sát xoay quanh trọng tâm
chương trình đào tạo có sát với nhu cầu thực tế không, sinh viên có bỡ ngỡ khi đi làm thực tế
không. Số phiếu khảo sát người quản lý doanh nghiệp 100 phiếu thu về 82. Các câu hỏi đưa ra để
khảo sát mức độ đáp ứng yêu cầu của công việc, sức khỏe và ý thứccủa người lao động trong
lĩnh vực kế toán kiểm toán tại doanh nghiệp.
Phương pháp thảo luận nhóm cũng được nhóm nghiên cứu đưa ra để có thể tìm hiểu sâu
hơn các vấn đề bài viết đưa ra về chất lượng nguồn nhân lực kế toán kiểm toán trong điều kiện hội
nhập. Nhóm thảo luận gồm bốn giảng viên của các trường khác nhau cùng với bốn nhà quản lý
doanh nghiệp tham gia thực hiện thảo luận chủ đề nhóm tác giả đưa ra. Sau khi hoàn tất công việc
thu thập, dữ liệu được phân tích, tổng hợp, so sánh kết quả thực tế và lý thuyết để đưa ra thảo luận,
thống nhất cách đánh giá chung.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC KẾ TOÁN
HIỆN NAY
Thể lực: Sức khỏe là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thể lực của người lao động nói
chung và chất lượng nguồn nhân lực kế toán nói riêng. Qua thực tế khảo sát tại 82 doanh nghiệp
ta có thống kê về thể lực của lao động kế toán như sau:
Xếp loại sức khỏe Người Tỷ lệ(%)
Loại I: Rất khỏe. 52 20,63
Loại II: Khỏe. 174 69,05
Loại III: Trung bình. 26 10,32
Loại IV: Yếu. 0 0
Tổng 252 100
232
Phần lớn người lao động có sức khỏe đáp ứng được công việc. Số lượng lao động kế toán
có sức khỏe được xếp loại “rất khỏe” là 20,63% và “khỏe” là 69,05% chiếm tỷ trọng lớn. Lao động
có sức khỏe được xếp loại “trung bình” có nhưng chiếm tỷ trọng ít.
Trí lực: Khi đánh giá về trí lực của người lao động, trình độ chuyên môn là một trong
những yếu tố quan trọng. Trình độ chuyên môn tốt tạo tiền đề để có những nhân lực đáp ứng
được yêu cầu công việc của doanh nghiệp.
Trình độ chuyên môn Người Tỷ lệ(%)
Đại học và sau đại học 181 71,83
Cao đẳng 52 20,63
Trung cấp 19 7,54
Tổng 252 100
Khảo sát cho thấy nhân viên kế toán có trình độ đại học và sau đại học chiếm tỷ trọng lớn
nhất 71,83%. Nhân viên kế toán có trình độ cao đẳng và trung cấp chiếm tỷ trọng ít hơn. Theo
khảo sát, 96,34% các nhà quản lý cho rằng nhân viên của mình còn thiếu những kỹ năng cơ bản
như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng quản lý thời gian.
Trình độ chuyên môn tốt phụ thuộc lớn vào quá trình đào tạo. Hàng năm, số lượng lao
động trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán ra trường rất lớn, tuy nhiên chất lượng lao động vẫn chưa
đáp ứng được sự kỳ vọng của các nhà tuyển dụng. Theo khảo sát của nhóm tác giả đối với sinh
viên kế toán tốt nghiệp ra trường có 69% người được hỏi làm đúng với chuyên ngành mình được
đào tạo còn lại làm các công việc không đúng chuyên ngành.
(Nguồn: Tác giả tính toán từ dữ liệu khảo sát)
Hình 1. Tỷ lệ sinh viên ra trường làm đúng chuyên ngành
Tổng phiếu 500 Tỷ trọng
Làm đúng chuyên nghành 345 69%
Làm không đúng chuyên ngành 155 31%
Theo các nhà tuyển dụng, những khó khăn chung khi tuyển dụng nhân sự ngành kế toán là
chất lượng nhân sự không đáp ứng được nhu cầu công việc, đặc biệt là nguồn nhân sự mới tốt
nghiệp ra trường. Với những đối tượng này, họ thiếu kỹ năng cần thiết cho công việc, chưa có
233
cái nhìn chính xác về nội dung công việc mà họ sẽ làm, chưa nắm chắc được kiến thức cơ bản.
Khi tuyển dụng đối tượng này nhà tuyển dụng chấp nhận đào tạo lại để phù hợp với tình hình
công việc thực tế tại doanh nghiệp. Theo khảo sát, 500 sinh viên kế toán ra trường ở các trường
đại học và cao đẳng khu vự phía Bắc 86% số sinh viên được hỏi đều cho rằng chương trình đào
tạocủa nhà trường còn mang tính lý thuyết, 83% sinh viên được hỏi đều tự nhận mình chưa đáp
ứng được ngay công việc kế toán tại doanh nghiệp. Doanh nghiệp được khảo sát cho thấy
84,15% (69/82 doanh nghiệp) được hỏi đều cho rằng sinh viên mới ra trường doanh nghiệp phải
giao, phân công và hướng dẫn đào tạo lại. Thực tế những sinh viên tốt nghiệp tại các trường đại
học, cao đẳng được trang bị rất tốt về lý thuyết chuyên ngành kế toán, tuy nhiên lại không được
thực hành nhiều nên kỹ năng làm việc còn hạn chế.
Bên cạnh đó, vấn đề ngoại ngữ cũng là một phần rất quan trọng đối với sinh viên kế toán,
kiểm toán trong sự phát triển không ngừng của nền kinh tế hội nhập toàn cầu và trở thành một
trong những lĩnh vực được chú trọng đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng trên toàn quốc.
Tuy nhiên, nhiều sinh viên khi ngồi trên giảng đường vẫn chưa quan tâm lắm đến việc rèn luyện
kỹ năng ngoại ngữ cho bản thân, từ đó dẫn đến việc khi ra trường bị yếu kém năng lực làm việc,
nhất là gặp khó khăn trong việc lĩnh hội các tri thức trên thế giới, 74% sinh viên được hỏi không
tự tin với khả năng giao tiếp và làm việc bằng tiếng Anh.
(Nguồn: Tác giả tính toán từ dữ liệu khảo sát)
Hình 2. Khả năng giao tiếp và làm việc bằng tiếng anh của sinh viên ra trường
Tổng phiếu 500 Tỷ trọng (%)
Không tự tin giao tiếp và làm việc bằng tiếng anh 370 74%
Tự tin giao tiếp và làm việc bằng tiếng anh 75 15%
Không giao tiếp và làm việc được bằng tiếng anh 55 11%
Các công ty nước ngoài, các công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài, tập
đoàn lớn mong muốn tìm được nhân sự kế toán phù hợp, đáp ứng được yêu cầu công việc tuy
nhiên hạn chế về ngoại ngữ cũng là rào cản để các sinh viên tiếp cận được với các công ty này.
Về ý thức của nhân viên kế toán: Khi được hỏi về ý thức tổ chức kỷ luật, tự giác trong lao
động, tính tiết kiệm, tinh thần trách nhiệm trong việc, tinh thần hợp tác, tác phong làm việc khẩn
trương chính xác, lương tâm nghề nghiệp thì tác giả đã khảo sát được số liệu sau:
234
Tổng phiếu 82 Tỷ trọng (100%)
Hài lòng 48 58,5%
Tương đối hài lòng 29 35,4%
Không hài lòng 5 6,1%
Các nhà quản lý phần lớn hài lòng (58,5) và tương đối hài lòng về ý thức của nhân viên.
Bên cạnh đó, có một bộ phận nhân viên có ý thức tổ chức kỷ luật chưa được tốt.
Việc mở cửa thị trường theo các cam kết hội nhập là thách thức khi chúng ta phải cạnh
tranh trong một thị trường đòi hỏi sự chuẩn hóa về quy trình cung cấp dịch vụ, sự minh bạch và
tin cậy. Tuy nhiên, đây cũng sẽ là một cơ hội để nhân lực kế toán, kiểm toán trong nước phát
triển bởi việc mở cửa sẽ tạo áp lực cho nguồn nhân lực này phải đổi mới để hội nhập. Hiện nay,
nguồn nhân lực đáp ứng cho kế toán, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao đang là vấn đề khó
khăn và cũng là cấp thiết trước cuộc cách mạng 4.0, xu thế hội nhập sâu rộng của Việt Nam.
Nguyên nhân tồn tại
Ở góc độ đào tạo chúng ta thấy để có được nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao chúng ta
cần phải có những thay đổi về chương trình đào tạo để có những nhân lực tốt về nghiệp vụ
chuyên môn.
Mặc dù trong thời gian gần đây, hệ thống các văn bản pháp luật về kiểm toán, kế toán đã
được đổi mới và ban hành khá đầy đủ, bao gồm Luật kế toán, các Nghị định, Thông tư, các
chuẩn mực kế toán, kiểm toán dần phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn
một khoảng cách khá xa so với thế giới. Các văn bản vẫn mang nặng tính chất hành chính và
chưa tạo ra được sự đồng bộ, thống nhất.
Chương trình đào tạo chưa thực sự hội nhập sâu với chương trình đào tạo kế toán của các
nước phát triển, tính học thuật của chương trình đào tạo còn nặng mà chưa chú trọng đến tính
thực hành nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp. Nội dung một số môn học được thiết kế dựa trên
Chế độ kế toán do Bộ Tài chính ban hành, tập trung quá nhiều vào hướng dẫn nghiệp cụ kế toán
mà chưa chú trọng đến những vấn đề nền tảng, các chuẩn mực nghề nghiệp. Nội dung nhiều môn
học trong chương trình đào tạo vẫn còn nặng về lý thuyết, nhiều môn học còn trùng lặp cả về nội
dung khoa học hoặc môn học chuyên ngành chưa được sắp xếp theo độ khó của bậc thang kiến
thức nên đã ảnh hưởng đến quá trình đào tạo. Sinh viên phần lớn chỉ được tiếp xúc với doanh
nghiệp khi đi thực tập cuối khoá và chất lượng thực tập ở góc độ hướng dẫn, kiểm soát, đánh giá
sinh viên xem mức độ hiểu biết và tiếp cận với số liệu, thực tiễn công tác kế toán ở đơn vị thực
tập như thế nào còn rất hạn chế.
Các giảng viên kế toán phần lớn đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ kiến thức
chuyên ngành nhưng hạn chế về khả năng ngoại ngữ nên việc tiếp cận và vận dụng các tài liệu
nước ngoài phục vụ giảng dạy còn khó khăn. Bên cạnh đó thiếu kinh nghiệm thực tế của các giảng
viên cũng dẫn đến ít trao đổi, thảo luận các tình huống thực tiễn trong nội dung giảng dạy để phát
triển khả năng tư duy, giải quyết vấn đề, luận giải các hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp.
235
(Nguồn: Tác giả tính toán từ dữ liệu khảo sát)
Hình 3. Khả năng giao tiếp và làm việc bằng tiếng anh của giảng viên
Tổng phiếu 50 Tỷ trọng (100%)
Không tự tin giao tiếp và làm việc bằng tiếng anh 39 78%
Tự tin giao tiếp và làm việc bằng tiếng anh 9 18%
Không giao tiếp và làm việc được bằng tiếng anh 2 4%
Phương pháp giảng dạy tích cực lấy người học làm trung tâm chưa được phát huy, các kỹ
năng mềm chưa trang bị đầy đủ cho sinh viên như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng giải quyết vấn đề, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng sáng tạo.
Kết quả trên cho thấy phương pháp dạy học chủ yếu mà các giảng viên sử dụng trong thực
tế giảng dạy chuyên ngành kế toán - kiểm toán là phương pháp thuyết trình và phương pháp thực
hành - bài tập (chiếm trên 80%).
(Nguồn: Tác giả tính toán từ dữ liệu khảo sát)
Hình 4. Phương pháp giảng dạy của giảng viên kế toán kiểm toán
Người học còn thiếu tính chủ động, sáng tạo trong học tập và nghiên cứu, thiếu tư duy
khoa học. Khả năng hướng nghiệp và khởi nghiệp của sinh viên trong quá trình học và sau khi
học còn thấp. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp yêu cầu người được tuyển dụng phải có thời
gian kinh nghiệm nhất định khiến cho sinh viên trong ngành Kế toán - kiểm toán khó tiếp cận cơ
hội làm việc thực tế trong quá trình học.
236
Cơ hội
Dự kiến năm 2025, Việt Nam có thêm 14 triệu việc làm. Việt Nam tăng cường hội nhập
với khu vực trong lĩnh vực Kế toán, Kiểm toán, mở ra nhiều cơ hội mới. Nhân lực kế toán kiểm
toán sẽ có nhiều cơ hội việc làm. Các công ty dịch vụ Kế toán, Kiểm toán, sẽ có nhiều lựa chọn
tuyển dụng lao động trình độ cao, song song với đó, lao động Việt Nam cũng sẽ có cơ hội và
điều kiện thuận lợi sang làm việc và học hỏi kinh nghiệm tại các quốc gia khác.
Thách thức
Để làm việc tại môi trường quốc tế đòi hỏi người lao động phải có trình độ đạt chuẩn quốc
tế, có kiến thức chuyên sâu, phương thức làm việc chuyên nghiệp, hiệu quả. Tuy nhiên, đội ngũ
kế toán viên, Kiểm toán viên của Việt Nam hiện nay còn thiếu cả về số lượng và chất lượng so
với các tiêu chuẩn quốc tế.
Khi hội nhập, Việt Nam còn phải đối mặt với vấn đề quản lý lao động nước ngoài vào Việt
Nam làm việc, tiếp cận thông tin thị trường lao động ngoài nước. Nguồn nhân lực đội ngũ kế
toán, kiểm toán viên hiện nay chất lượng đào tạo chưa cao do các trường chậm đổi mới chương
trình đào tạo và đặc biệt trình độ ngoại ngữ còn hạn chế. Số lượng kế toán, kiểm toán viên ở các
nước trong khu vực có chuyên môn và trình độ ngoại ngữ tốt sẽ chuyển sang Việt Nam làm việc
và tạo ra áp lực cạnh tranh trực tiếp với đội ngũ kế toán, kiểm toán trong nước. Từ những vấn đề
trên, chúng ta có thể nhận rõ rằng nhu cầu đối với nguồn nhân lực kế toán có chất lượng cao
trong ngành kế toán - kiểm toán khi Việt Nam hội nhập là rất lớn, cả về số lượng và chất lượng,
điều này đặt ra nhiệm vụ nặng nề đối với các cơ sở đào tạo trong việc thiết lập tiêu chuẩn đầu ra
đảm bảo đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đồng thời xây dựng chương trình đào tạo sao cho phù
hợp, đảm bảo được kiến thức, kỹ năng cho người học trước môi trường làm việc có tính cạnh
tranh cao. Nếu không nâng cao năng lực cạnh tranh thì kể cả các công việc mà nhân lực Việt
Nam đang thực hiện trong nước cũng sẽ bị nhân lực chất lượng cao hơn, kinh nghiệm và chuyên
môn tốt hơn của các nước trong khu vực tìm đến cạnh tranh, điều này có thể làm giảm thu nhập,
ảnh hưởng đến việc làm của nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán trong nước.
5. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
KẾ TOÁN CHẤT LƯỢNG CAO
Trong nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập của Việt Nam, yêu cầu minh bạch và
công khai về các thông tin tài chính ngày càng cao và càng lớn. Đây không chỉ là đòi hỏi cấp
thiết của một nền kinh tế đa sở hữu, cạnh tranh, mà còn là yêu cầu của một nền kinh tế, một thị
trường tài chính lành mạnh, sôi động. Với đất nước hơn gần một trăm triệu dân, có gần một
triệu doanh nghiệp, trong đó có hàng nghìn, hàng chục nghìn công ty đại chúng, công ty tham
gia trực tiếp trên thị trường tài chính, dự kiến trong những năm tới, nhu cầu về kế toán kiểm
toán là rất lớn.
Để có thể có được nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao cần phải có nhiều biện pháp
đồng bộ để đáp ứng các tiêu chí về thể lực, trí lực, ý thức. Trong đó ta thấy nâng cao chất lượng
đào tạo, trình độ chuyên môn là rất quan trọng.
237
Về thể lực: Nhà nước cần tăng cường các chương trình truyền thông giáo dục sức khỏe,
sức khỏe học đường, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia
về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam. Đẩy mạnh phát triển thể dục thể thao quần
chúng và thể thao thành tích cao.
Về trí lực: Để phát triển nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao về trí lực ta phải nâng cao
trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng mềm cho người lao động.
Để nguồn nhân lực kế toán có chuyên môn tốt thì công tác đào tạo là rất quan trọng. Các
cơ quan chức năng cần xây dựng bổ sung một số chuẩn mực kế toán phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế. Để thực hiện được điều này, các chuyên gia kế toán hàng
đầu của Việt Nam từ Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, hội nghề nghiệp, các công ty dịch vụ
kế toán, kiểm toán, các trường đại học… cần phải hợp tác về mặt chuyên môn nhằm xây dựng
chuẩn mực kế toán chất lượng cao. Hiện nay, thị trường tài chính Việt Nam đang có nhiều
chuyển biến và phát sinh nhiều nghiệp vụ phức tạp nhưng các chuẩn mực hỗ trợ cho việc ghi
nhận một số loại hình công cụ tài chính vẫn thiếu vắng. Vì vậy, giải pháp cho giai đoạn trước
mắt là việc cần thiết ban hành các chuẩn mực còn thiếu so với nhu cầu thực tế, trong đó tiền đề là
việc hợp tác quốc tế. Các cơ quan Nhà nước cần nỗ lực hợp tác quốc tế trong việc trao đổi kinh
nghiệm, cập nhật kiến thức mới; kết hợp chặt chẽ với cơ quan, tổ chức về kế toán - kiểm toán
quốc tế.
Đối với nguồn nhân lực kế toán hiện tại: các doanh nghiệp cần khuyến khích và có các
chính sách hỗ trợ nhân viên trau dồi, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn. Doanh nghiệp cũng cần
có những hỗ trợ để nhân viên được tiếp cận với những kiến thức, nâng cao nghiệp vụ cả về kỹ
năng cứng và mềm.
Đối với nguồn nhân lực kế toán tương lai:
Đổi mới chương trình đào tạo: Không ngừng đổi mới nội dung phương pháp đào tạo, giảm
bớt tính hàn lâm, lý thuyết thuần tuý trong chương trình đào tạo, tăng cường thực hành cho sinh
viên ngành kế toán.
Đổi mới phương pháp giảng dạy: chuyển đổi triệt để từ phương pháp giảng dạy truyền
thống, nặng về lý thuyết, xa dời thực tiễn sang phương pháp giảng dạy tích cực hiện đại, có tính
thực tiễn cao, một số môn học của ngành kế toán cần sử dụng giáo trình của nước ngoài có nền
giáo dục phát triển để sinh viên được tiếp cận với kho tàng kiến thức hiện đại và theo kịp với sự
phát triển của thế giới. Giảng viên cần cập nhật những kiến thức thực tế, thiết kế bài giảng sinh
động; chú ý tính thực hành trong từng phần giảng; vận dụng các bài giảng mang tính trực quan
để tác động đến người học. Giảng viên lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp trên cơ sở như:
Tìm hiểu kỹ đối tượng tham gia học tập; bám sát mục tiêu đào tạo đã xác định cho người học;
lựa chọn phương pháp giảng dạy cần căn cứ vào nội dung kiến thức cần truyền tải đến người học
và các đặc điểm đặc thù của môn học.
Giảng viên cần nâng cao trình độ ngoại ngữ để có thể giao tiếp và sử dụng ngoại ngữ để
tiếp cận và lĩnh hội kiến thức từ các quốc gia khác, từ đó đáp ứng được nhu cầu đào tạo nguồn
nhân lực hiện tại khi hội nhập quốc tế.
238
Xây dựng chương trình đánh giá sau đào tạo: Chương trình này nhằm mục đích đánh giá
chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo, người lao động sau khi được đào tạo đã tích lũy thêm
được những kiến thức, kĩ năng gì, có thích nghi và đảm bảo được yêu cầu công việc của doanh
nghiệp không.
Tăng cường hợp tác đào tạo với các doanh nghiệp, các tổ chức nghề nghiệp quốc tế: Để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kế toán đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
chuẩn quốc tế và khu vực, cần tăng cường hơn nữa việc hợp tác đào tạo với các doanh nghiệp.
Chương trình đạo tạo của trường cầncụ thể, tăng nhiều giờ thực hành sát với thực tế doanh
nghiệp. Trường và khoa nên có các chương trình cử giảng viên đi thực tế tại các doanh nghiệp để
có các bài giảng và tình huống sát thực tế. Ta cần phải có những giảng viên giỏi về chuyên môn
nhưng cũng giàu kinh nghiệm thực tế để giảng dạy. Bên cạnh đó, tạo điều kiện cho các tổ chức
nước ngoài vào đầu tư hoặc phối hợp đào tạo, truyền đạt những trình độ, kinh nghiệm quốc tế
cho nguồn nhân lực. Cần tăng cường hơn nữa việc hợp tác đào tạo với các tổ chức nghề nghiệp
quốc tế. Việc hợp tác giữa các tổ chức nghề nghiệp và các cơ sở đào tạo hiện nay vẫn chưa tương
xứng với tiềm năng. Số lượng các cơ sở đào tạo trong nước có quan hệ hợp tác với các tổ chức
nghề nghiệp còn chưa nhiều; kết quả hợp tác chưa có nhiều đột phá. Do đó, để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, các cơ sở đào tạo kế toán, kiểm toán cần tăng cường hợp tác với các tổ
chức nghề nghiệp; tăng cường tổ chức các hoạt động mang tính học thuật thông qua các buổi hội
thảo; tổ chức các nhóm nghiên cứu giữa nhà trường và tổ chức nghề nghiệp để bồi dưỡng, nâng
cao chất lượng của đội ngũ giảng viên.
Để đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động trong xu hướng hội nhập
hiện nay, các trường cần xây dựng các chương trình đào tạo kèm theo rèn luyện kỹ năng mềm
cho sinh viên. Các kỹ năng như kỹ năng tư duy, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tưởng tượng và
sáng tạo. Đây là những kỹ năng cần thiết để sinh viên tốt nghiệp có thể làm việc tốt cả trong
nước và đủ điều kiện làm việc ở nước ngoài.
Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, công tác đào tạo phát
triển nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao phải thực sự được cải thiện để đáp ứng được kỳ
vọng của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tự tin, vững vàng vươn ra biển lớn.
Ý thức của người lao động: Để nâng cao ý thức của nhân lực kế toán, doanh nghiệp cần
có những hoạt động tuyên truyền, phổ biến nâng caoý thức tổ chức kỷ luật, tự giác trong lao
động, tiết kiệm, có tinh thần trách nhiệm, hợp tác. Nhà nước kết hợp với nhà trường, gia đình và
xã hội trong giáo dục ý thức cho học sinh, sinh viên để có những nhân lực tốt về thể lực, trí lực
và ý thức.
5. KẾT LUẬN
Hệ thống kế toán Việt Nam đã có những thay đổi tích cực theo hướng hội nhập với quốc tế
trong hơn hai thập kỷ qua từ khi chúng ta chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay với việc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới như gia
nhập cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), là thành viên của WTO, CPTPP dẫn đến sự cạnh tranh
khốc liệt của thị trường lao động nói chung và của nghề kế toán nói riêng. Chúng ta cần phải có
239
nhiều biện pháp để nâng cao phát triển nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao về cả thể lực, trí
lực và ý thức. Đặc biệt là trí lực, để tăng chất lượng nguồn nhân lực ta phải đổi mới nhiều
phương diện gồm: chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên, tăng cường hợp tác quốc tế. Với những đổi mới tổng thể và đồng bộ như vậy nguồn
nhân lực kế toán ở Việt Nam có thể nắm bắt được những cơ hội của quá trình hội nhập ngày
càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, đồng thời mới có thể vượt qua và biến thách thức thành
các cơ hội từ quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Tiến Nghị, Đinh Đức Thịnh (2016). Giáo dục Đại học theo định hướng nghề nghiệp và
khuyến nghị với Học viện Ngân hàng. Tạp chí Khoa học và đào tạo Ngân hàng, số
168/T5/2016.
Hà Thị Ngọc Hà (2016). Kế toán Việt Nam trong điều kiện hội nhập TPP và AEC, Kỷ yếu hội
thảo quốc gia - Đại học Kinh tế quốc dân
Lê Thanh Hà (2009). Giáo trình Quản trị nhân lực, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.
Lương Thị Thủy (2017). Nâng cao hiệu quả giảng dạy các học phần thực hành trong đào tạo cử
nhân ngành kế toán. Tạp chí Kế toán và Kiểm toán, số T3/201.
Mai Quốc Chánh (2000), Giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà
Nội.
Mai Quốc Chánh (1999). Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo hướng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Thị Đức Loan (2017), “Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực bậc đại học
nghành kế toán kiểm toán tại tỉnh Bà rịa Vũng Tàu nhằm đáp ứng bối cảnh hiện nay:
http://thuvienso.bvu.edu.vn/bitstream/TVDHBRVT/16105/1/Nguyen-Thi-Duc-Loan-HT.pdf
Trần Thị Cẩm Thanh (2017). Đào tạo kế toán trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới:
http://ifrsvietnam.vn/tin-tuc/hoi-nghi-hoi-thao-1/dao-tao-ke-toan-trong-thoi-ky-hoi-nhap-kinh-te-
the-gioi-228.html
Trần Xuân Cầu - Mai Quốc Chánh (2008), Giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực, NXB Đại học
Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
WB (2000), World Development Indicators, London: Oxford.
240
Đánh giá sự hài lòng của sinh viên về chất lượng giảng dạy
các học phần kế toán tài chính ở bậc đại học: Nghiên cứu
thực nghiệm tại Đại học Công nghiệp Hà Nội
Đào Thị Nhung, Phạm Thu Huyền, Đặng Thị Hồng Hà
Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: nhungdt25@gmail.com
Mã bài: HTQG.39 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 12/11/2019
Ngày nhận bài: 03/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2019
Tóm tắt
Nghiên cứu này nhằm đánh giá sự hài lòng của sinh viên đại học chuyên ngành kế toán về
chất lượng giảng dạy các học phần Kế toán tài chính tại trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội.
Nghiên cứu khảo sát 187 sinh viên hệ chính quy chuyên ngành kế toán đã được học các học phần
Kế toán tài chính 1, 2, 3, 4. Kết quả nghiên cứu cho thấy sinh viên khá hài lòng với chất lượng
giảng dạy các học phần Kế toán tài chính từ 3,66 đến 3,88. Trong đó, yếu tố sự quan tâm của giảng
viên và đội ngũ nhân viên được đánh giá có tác động mạnh nhất tới sự hài lòng của sinh viên.
Từ khoá: Sự hài lòng, Chất lượng giảng dạy, Học phần Kế toán tài chính.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Theo ISO 8402, chất lượng là “Tập hợp các đặc tính của một đối tượng, tạo cho đối tượng
đó khả năng thỏa mãn những yêu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn”. Chất lượng dịch vụ theo
Parasuraman và cộng sự (1988) là mức độ khác nhau giữa sự mong đợi của người tiêu dùng về
dịch vụ và nhận thức của họ về kết quả của dịch vụ. Hiện nay, chất lượng dịch vụ giáo dục - đào
tạo là một khái niệm mang tính tương đối và được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tùy theo từng
cách tiếp cận vấn đề. Trong đó, khái niệm thường được đề cập chủ yếu là: Chất lượng đào tạo là
sự đáp ứng nhu cầu (sự hài lòng) của khách hàng (người sử dụng lao động được đào tạo); và chất
lượng đào tạo là hiệu quả của việc đạt mục đích của trường học.
Theo Kotler và Keller (2006) sự hài lòng là trạng thái của mức độ cảm giác của một người
bắt nguồn từ việc so sánh nhận thức về một sản phẩm so với mong đợi của người đó. Oliver
(1999) và Zineldin (2000) sự hài lòng của khách hàng là sự phản hồi tình cảm/ toàn bộ cảm nhận
của khách hàng đối với nhà cung cấp dịch vụ trên cơ sở so sánh sự khác biệt giữa những gì họ
nhận được so với mong đợi trước đó.
241
Đã có nhiều nghiên cứu khẳng định mối quan hệ thuận chiều giữa chất lượng đào tạo và sự
hài lòng của sinh viên. Nghiên cứu của Vũ Trí Toàn (2007) về chất lượng đào tạo của Khoa Kinh
tế và Quản lý khẳng định mô hình chất lượng dịch vụ SERVQUAL - đo lường chất lượng dịch
vụ cảm nhận của Gronroos (1992) rất hữu ích khi đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo. Mô hình
này có năm thành phần cơ bản gồm: (1) Phương tiện hữu hình; (2) Sự tin cậy; (3) Sự đáp ứng;
(4) Năng lực phục vụ và (5) Sự đồng cảm. Vì vậy, với mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá
mức độ hài lòng của sinh viên về chất lượng giảng dạy các học phần Kế toán tài chính bậc đại
học tại trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, nhóm tác giả lựa chọn đo lường sự hài lòng của
khách hàng (Sinh viên) được tiến hành thông qua mô hình chất lượng dịch vụ SERVPERF.
Mặc dù đã được công nhận giá trị, mô hình SERVPERF đòi hỏi có những hiệu chỉnh, bổ sung và
có thể có sự biến thể các thành phần khi áp dụng trong lĩnh vực giáo dục mà cụ thể là trong hoạt
động giảng dạy các học phần Kế toán tài chính.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Nhóm tác giả tổng quan một số công trình nghiên cứu sử dụng mô hình này để nhận định
các nhân tố đánh giá sự hài lòng của sinh viên về chất lượng giảng dạy các học phần kế toán tài
chính ở Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
Nghiên cứu của Snipes, R. L. và N. Thomson (1999) tìm hiểu các nhân tố tác động đến
chất lượng cảm nhận trong đào tạo đại học của sinh viên qua điều tra ý kiến sinh viên 6 trường
đại học có quy mô vừa và nhỏ tại 3 bang của Hoa Kỳ. Kết quả phân tích dữ liệu hồi đáp cho thấy
từ 5 thành phần lý thuyết của SERVQUAL chỉ còn 3 thành phần đủ tin cậy và có giá trị phân
biệt: (1) cảm thông; (2) năng lực đáp ứng và tin cậy; (3) phương tiện hữu hình (môi trường học
tập, làm việc). Sự cảm thông và quan tâm của giảng viên đến sinh viên là yếu tố quan trọng nhất
cho đánh giá chất lượng. WenChing Lee (2005) chỉ ra rằng các yếu tố về sự đảm bảo (quản lý
của nhà trường), sự cảm thông (mối quan hệ giữa các cá nhân) và yếu tố hữu hình (cơ sở vật
chất) có thể giải thích một số lượng lớn các biến về lòng trung thành của sinh viên.
Jacqueline Douglas, Alex Douglas, Barry Barnes (2006) cho rằng mức độ hài lòng được
thể hiện qua tính hữu hình (sự sắp xếp phòng học và các thiết bị ) và yếu tố đáp ứng (bài giảng,
bao gồm việc nắm bắt được kiến thức, các ghi chép trên lớp và, giảng viên có trình độ chuyên
môn tốt). Nghiên cứu của Nguyễn Thành Long (2006) sử dụng thang đo biến thể của thang đo
SERVQUAL là SERVPERF để đánh giá chất lượng đào tạo ĐH tại ĐH An Giang. Kết quả của
nghiên cứu cho thấy sự hài lòng của sinh viên tập trung vào: Giảng viên và cơ sở vật chất và sự
tin cậy vào nhà trường là ba yếu tố quan trọng nhất của chất lượng đào tạo. Trong đó, giảng viên là
thành phần quan trọng nhất tác động đến sự hài lòng của sinh viên. Hai thành phần có tác động đáng
kể tiếp theo là cơ sở vật chất và sự tin cậy vào nhà trường.
Trần Xuân Kiên (2006) trong nghiên cứu các yếu tố tác động đến sự hài lòng của 260 sinh
viên tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên. Kết quả cho thấy sự nhiệt
tình của đội ngũ cán bộ và giảng viên (đáp ứng), thứ hai là khả năng thực hiện cam kết (đảm
bảo), thứ ba là cơ sở vật chất (hữu hình), thứ tư là đội ngũ giảng viên và cuối cùng là sự quan
tâm (cảm thông) của nhà trường tới sinh viên. Nguyễn Thị Thắm (2010) khảo sát sự hài lòng của
242
sinh viên đối với hoạt động đào tạo tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả phân tích hồi quy cho thấy sự hài lòng của sinhviên phụ thuộc
các nhân tố theo mức độ ảnh hưởng giảm dần như sau: sự phù hợp và mức độ đáp ứng của
chương trình đào tạo, tiếp đến là trình độ và sự tận tâm của giảng viên, kỹ năng chung mà sinh
viên đạt được sau khóa học, mức độ đáp ứng từ phía nhà trường, cuối cùng là trang thiết bị phục
vụ học tập và điều kiện học tập.
3. MÔ HÌNH VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Từ các kết quả tổng quan về chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng nói chung
cũng như khách hàng trong ngành giáo dục nói riêng, nhóm tác giả sử dụng mô hình SERVPERF
để phân tích với nhân tố tác động đến sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo. Cụ thể để
đo lường sự hài lòng của sinh viên đối với chất lượng giảng dạy các học phần Kế toán tài chính
nhóm tác giả đã xây dựng mô hình nghiên cứu gồm 5 yếu tố là: (1) Phương tiện hữu hình (thể
hiện qua trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động giảng dạy môn học Kế toán tài
chính); (2) Sự tin cậy (Khả năng đáp ứng yêu cầu của người học, hiểu rõ năng lực sinh viên và
cung cấp thông tin các môn học của học phần Kế toán tài chính từ giảng viên); (3) Sự đáp ứng
(nói về sự tận tụy, sẵn sàng giải quyết các thắc mắc từ phía giảng viên giảng dạy Kế toán tài
chính, sự phân bổ số lượng sinh viên trong lớp hợp lý); (4) Sự đảm bảo (Thể hiện qua các nội
dung kiểm tra và đánh giá sinh viên, trình độ giảng viên, phương pháp truyền đạt và sự phục vụ
của đội ngũ nhân viên và khoa) và (5) Sự đồng cảm (thể hiện sự quan tâm, chia sẻ kiến thức của
giảng viên và nhân viên, Khoa). Mô hình nghiên cứu được đề xuất như sau:
Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
Dựa trên việc phân tích lý thuyết và các nghiên cứu trước đó, một số giả thuyết được đặt ra
cho mô hình như sau:
H1: Tính hữu hình có quan hệ cùng chiều với mức độ hài lòng của sinh viên.
H2: Tin cậy có quan hệ cùng chiều với mức độ hài lòng của sinh viên.
H3: Sự đáp ứng trong giảng dạy có quan hệ cùng chiều với mức độ hài lòng của sinh viên.
H4: Sự cảm thông của giảng viên và nhân viên có quan hệ cùng chiều với mức độ hài lòng
của sinh viên.
H5: Sự đảm bảo trong hoạt động đào tạo có quan hệ cùng chiều với mức độ hài lòng của
sinh viên.
Tính hữu hình Sự đảm bảo
Sự hài lòng của sinh viên về chất lượng giảng dạy
các học phần KTTC Sự tin cậy
Sự cảm thông Sự đáp ứng
243
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu sơ bộ được thực hiện bằng phỏng vấn sâu với 10 giảng viên đang giảng dạy
các học phần Kế toán tài chính tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Từ đây, tác giả đề xuất
29 biến quan sát phù hợp với mô hình nghiên cứu. Mô tả các thang đo theo bảng 1.
Bảng 1. Mô tả thang đo đo lường sự hài lòng của sinh viên với chất lượng giảng dạy
học phần kế toán tài chính
Nhân tố Thang đo
Hữu hình (HH) HH1, HH2, HH3, HH4, HH5, HH6, HH7, HH8
Tin cậy (TC) TC1, TC2, TC3
Đáp ứng (DU) DU1, DU2, DU3, DU4, DU5
Đồng cảm (DC) DC1, DC2, DC3
Đảm bảo (DB) DB1, DB2, DB3, DB4. DC5, DC6, DC7
Sự hài lòng (HL) HL1, HL2, HL3
Nghiên cứu chính thức để kiểm định thang đo và mô hình nghiên cứu được thông qua việc
sử dụng phần mềm SPSS 22. Nhóm tác giả sử dụng thang đo Likert 5 mức độ (1: Hoàn toàn
không đồng ý đến 5: Hoàn toàn đồng ý) để đo lường giá trị các biến số. Kết quả thu thập từ mẫu
được kiểm định độ tin cậy thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố EFA. Mô
hình nghiên cứu được kiểm định bằng phân tích tương quan và hồi qui tuyến tính đa biến.
Phạm vi nghiên cứu được thực hiện tại Khoa Kế toán - Kiểm toán, Trường Đại học Công
nghiệp Hà Nội. Đối tượng khảo sát là sinh viên đại học chính quy chuyên ngành kế toán khóa 10
đã hoàn thành các học phần kế toán tài chính 1, 2, 3, 4. Theo số liệu thống kê của phòng Đào tạo,
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, số lượng sinh viên chuyên ngành kế toán khóa 10 đang
theo học là 487 sinh viên. Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), cỡ mẫu đủ lớn
để có thể tiến hành cho phân tích nhân tố EFA với số quan sát ít nhất phải bằng 5 lần số biến. Do
đó, cỡ mẫu tối thiểu của nghiên cứu này là 29 x 5 = 145 quan sát. Bằng phương pháp chọn mẫu
ngẫu nhiên theo khóa học, với 250 phiếu khảo sát thu về, sau khi sàng lọc, loại các phiếu trả lời
không hợp lệ, nhóm tác giả thu được 187 phiếu trả lời hợp lệ để phục vụ cho mục tiêu nghiên
cứu (đảm bảo thực hiện tốt mô hình). Toàn bộ số phiếu thu được sẽ được tổng hợp và xử lý số
liệu thông qua phần mềm SPSS 22. Bảng hỏi gồm tổng cộng 29 câu hỏi tập trung vào các yếu tố
ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo các môn học thuộc học phần Kế
toán tài chính. Các câu hỏi này được thiết kế theo Thang đo Likert 5 mức độ (1: Hoàn toàn
không đồng ý đến 5: Hoàn toàn đồng ý) được sử dụng để đo lường giá trị các biến số.
5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
5.1. Đánh giá mức độ hài lòng chung của sinh viên về chất lượng giảng dạy các học
phần Kế toán tài chính
Để đánh giá mức độ hài lòng chung về chất lượng giảng dạy các học phần Kế toán tài
chính của sinh viên, nhóm tác giả tiến hành tính điểm trung bình cho tiêu chí mức độ hài lòng
chung các học phần Kế toán tài chính từ dữ liệu khảo sát. Kết quả thu được theo bảng 1.
244
Bảng 1. Giá trị trung bình của nhân tố “ Sự hài lòng của sinh viên”
N Minimum Maximum Mean Std. Deviation
HL1 187 1 5 3.69 1.107
HL2 187 1 5 3.67 1.158
HL3 187 1 5 3.88 1.158
Valid N 187
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS 22 từ số liệu khảo sát, 2019)
Xét về mức độ hài lòng chung của sinh viên về chất lượng giảng dạy các học phần Kế toán
tài chính đang tiệm cận ở mức điểm trung bình từ 3,66 tới 3,88. Tuy nhiên, kết quả của mức độ
mức hài lòng này khá cao, chứng tỏ sinh viên đã và đang đánh giá về nội dung, chất lượng và
phương pháp giảng dạy của Giảng viên tương đối phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng. Để tìm
hiểu cụ thể hơn các nguyên nhân dẫn đến việc đánh giá như vậy, nhóm tác giả thực hiện phân
tích ở các bước kế tiếp, để từ đó xác định mức độ tác động của từng thang đo.
5.2. Đánh giá chất lượng thang đo
Nhóm tác giả sử dụng hệ số Cronbach’s Alpha để kiểm định thang đo. Theo Hoàng Trọng
và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), hệ số Cronbach’s Alpha từ 0,8 đến gần 1 thì thang đo là tốt,
từ 0,7 đến gần 0,8 là sử dụng được, từ 0,6 trở lên là có thể sử dụng được trong trường hợp khái
niệm đo lường là mới hoặc mới đối với người trả lời trong bối cảnh nghiên cứu. Thang đo đạt
chất lượng tốt khi hệ số Cronbach’s Alpha của tổng thể > 0,6 (Đinh Phi Hổ, 2011). Một thang đo
có độ tin cậy tốt khi nó biến thiên từ 0,7 đến 0,8, nếu Cronbach’s Alpha ≥ 0,6 là thang đo có thể
chấp nhận được về mặt độ tin cậy (Nguyễn Đình Thọ, 2012). Kết quả kiểm tra độ tin cậy của
thang đo thể hiện trong Bảng 1.
Bảng 2. Hệ số Cronbach’s Alpha
STT Tên nhân tố Thang đo Cronbach‘s Alpha Ghi chú
1 Hữu hình HH 0,879 Loại biến HH8
2 Tin cậy TC 0,825
3 Đáp ứng DU 0,739 Loại biến DU3
4 Đồng cảm DC 0,748
5 Đảm bảo DB 0,862 Loại biến DB3
6 Hài lòng HL 0,790
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS 22 từ số liệu khảo sát, 2019)
Độ tin cậy của các thang đo TC, DC, HL có hệ số Cronbach’s Alpha > 0,8 và hệ số tương
quan biến tổng > 0,3, như vậy, các thang đo này đều đạt yêu cầu để tiếp tục phân tích ở những
bước sau. Riêng các thang đo HH8, DU3, DB3 có hệ số Cronbach‘s Alpha lần lượt là 0.24; 0,35;
0,104 < 0,6, không đạt yêu cầu nên bị loại bỏ. Nhóm tác giả tiếp tục kiểm định lần 2 đối với
245
nhóm thang đo còn lại thuộc các nhân tố HH, DU, DB. Kết quả kiểm tra độ tin cậy của thang đo
được thể hiện ở Bảng 3.
Bảng 3. Hệ số Cronbach’s Alpha
STT Tên nhân tố Thang đo Cronbach‘s Alpha Ghi chú
1 Hữu hình HH 0,903
2 Đáp ứng DU 0,808
3 Đảm bảo DB 0,912
Tóm lại, qua kiểm định Cronbach’s Alpha, mô hình còn lại 5 nhân tố đảm bảo chất lượng
với 23 thang đo sẽ được sử dụng trong phân tích nhân tố khám phá EFA tiếp theo.
5.3. Phân tích nhân tố khám phá EFA
Phân tích EFA đối với các biến độc lập
Nhóm tác giả tiến hành phân tích nhân tố khám phá để kiểm định các biến trong từng thang
đo có thật sự đáng tin cậy và có sự liên kết chặt chẽ hay không. Theo Đinh Phi Hổ (2011), 0,5 <
trị số KMO < 1, phân tích nhân tố khám phá là thích hợp cho dữ liệu thực tế. Mức ý nghĩa của
kiểm định Bartlett < 0,05, các biến quan sát có tương quan tuyến tính với nhân tố đại diện. Trị số
phương sai tích lũy nhất thiết phải > 50% thì đạt yêu cầu về mức độ giải thích của các biến quan
sát đối với nhân tố.
Thực hiện phân tích nhân tố EFA với các biến độc lập có hệ số KMO= 0,913 đảm bảo phù
hợp với dữ liệu thực tế. Bằng phương pháp trích Principal components và phép quay varimax
cho thấy: 23 biến quan sát đo lường 05 nhân tố tác động được trích vào 04 nhân tố tại Eigenvalue
= 1,143 (> 1) và phương sai trích được là 64.624%. Điều đó có nghĩa là khả năng sử dụng 4 nhân
tố này để giải thích cho 23 biến quan sát là 64.624% > 50%. Tuy nhiên, thang đo DC2 bị loại vì
có hệ số tải < 0,5%. Tiếp tục thực hiện phân tích nhân tố khám phá EFA lần thứ 2. Kết quả cho
thấy chỉ số KMO thể hiện trong Bảng 4.
Bảng 4. Kiểm định KMO và Bartlett
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. .912
Bartlett's Test of
Sphericity
Approx. Chi-Square 2551.424
df 231
Sig. .000
Kết quả Bảng 4 cho thấy: KMO = 0,912 > 0,5; Kiểm định Bartlett có Sig. = 0,000 < 0,05; theo
Bảng 4, Phương sai tích lũy = 65,905% > 50%. Như vậy, các biến có tương quan chặt chẽ và mô
hình phân tích là phù hợp. Được thể hiện cụ thể trong bảng 5 và bảng 6 trình bày ma trận các
nhân tố đã xoay.
246
Bảng 5. Tổng phương sai trích
Component Initial Eigenvalues Extraction Sums of Squared
Loadings
Rotation Sums of Squared
Loadings
Total % of
Variance
Cumulative
%
Total % of
Variance
Cumulative
%
Total % of
Variance
Cumulative %
1 9.418 42.810 42.810 9.418 42.810 42.810 4.477 20.349 20.349
2 2.315 10.524 53.334 2.315 10.524 53.334 4.123 18.743 39.092
3 1.628 7.401 60.736 1.628 7.401 60.736 2.967 13.488 52.580
4 1.137 5.170 65.905 1.137 5.170 65.905 2.932 13.326 65.905
5 .854 3.881 69.787
6 .720 3.273 73.060
7 .673 3.058 76.117
8 .637 2.897 79.015
9 .534 2.426 81.441
10 .519 2.359 83.800
11 .485 2.204 86.004
12 .451 2.051 88.054
13 .393 1.786 89.840
14 .385 1.749 91.590
15 .326 1.482 93.072
16 .314 1.426 94.498
17 .282 1.280 95.779
18 .235 1.070 96.849
19 .189 .860 97.709
20 .179 .816 98.525
21 .177 .802 99.327
22 .148 .673 100.000
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS 22 từ số liệu khảo sát, 2019)
Bảng 6. Ma trận xoay nhân tố
Component Component
1 2 3 4
DB7 .840 DU5 .777
DB6 .834 DU4 .772
DB1 .821 DU2 .707
DB5 .759 DU1 .648
DB2 .729 TC3 .743
247
DB4 .717 TC1 .673
HH1 .800 DC1 .670
HH3 .767 DC3 .620
HH7 .741 TC2 .611
HH5 .738
HH2 .700
HH6 .630
HH4 .563
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS 22 từ số liệu khảo sát, 2019)
Kết quả EFA thang đo các biến độc lập (các yếu tố tác động) bằng phương pháp trích
Principal components và phép quay varimax cho thấy: 22 biến quan sát đo lường 05 nhân tố tác
động được trích vào 04 nhân tố tại Eigenvalue = 1,137(> 1) và phương sai trích được là
65,905%. Điều đó có nghĩa là khả năng sử dụng 4 nhân tố này để giải thích cho 22 biến quan sát
là 65,905% (> 50%). Trong đó, các nhân tố được giữ nguyên bao gồm: (1) Sự hữu hình; (2) Sự
đảm bảo; (3) Khả năng đáp ứng.
Các thang đo của nhân tố: Sự đồng cảm và độ tin cậy được rút trích vào cùng một nhóm.
Sau khi thảo luận lại với nhóm chuyên gia cho thấy việc gộp 2 nhân tố vào một nhóm là phù hợp
với thực tế vì đều thể hiện sự quan tâm của giảng viên giảng dạy học phần và đội ngũ nhân viên
đối với học sinh, sinh viên. Do đó, nhóm tác giả điều chỉnh lại tên nhân tố mới là Sự quan tâm
của giảng viên và nhân viên – QT. Mô hình được hiệu chỉnh thể hiện trong Hình 2.
Hình 2. Mô hình nghiên cứu điều chỉnh
Phân tích nhân tố khám phá EFA với biến phụ thuộc: Kết quả EFA thang đo biến phụ
thuộc (Sự hài lòng của sinh viên về chất lượng giảng dạy các học phần kế toán tài chính) bằng
phương pháp trích Principal components và phép quay varimax cho thấy: Hệ số KMO = 0,685 (>
0,5) và mức ý nghĩa Sig. = 0,000 (< 0,05), nên phân tích yếu tố khám phá (EFA) là thích hợp.
Ba thang đo đo lường sự hài lòng của sinh viên về chất lượng giảng dạy được trích vào
cùng 01 yếu tố tại Eigenvalue = 2,227 (> 1) và phương sai trích được là 74,248%. Vì thế, có thể
sử dụng kết quả EFA cho phân tích hồi quy ở bước tiếp theo.
Sự hữu hình
Sự quan tâm
Sự hài lòng của sinh viên
về chất lượng GD các học
phần KTTC
Khả năng đáp ứng
Sự đảm bảo
248
5.5. Phân tích hồi quy
Phân tích hồi quy nhằm xây dựng mô hình, xác định mức độ tác động của các nhân tố ảnh
hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về chất lượng giảng dạy các học phần kế toán tài chính tại
đại học Công nghiệp Hà Nội. Cụ thể, phân tích hồi quy được thực hiện với 4 biến độc lập là (1)
Sự đảm bảo (DB); (2) Sự đáp ứng (DU); (3) Tính hữu hình (HH); (4) Sự quan tâm (QT) và biến
phụ thuộc là (1) Sự hài lòng của sinh viên (HL). Phương pháp đưa vào một lượt (phương pháp
Enter) được dùng để phân tích hồi quy. Giá trị của các yếu tố được dùng để chạy hồi quy là giá
trị trung bình của các biến quan sát. Mô hình được viết như sau:
HL = βo+β1*DB + β2*DU+ β3*HH + β4*QT + ei
βi: Các hệ số hồi quy (i > 0); β0: Hằng số. ei: Sai số.
Đánh giá sự phù hợp của mô hình: R2 điều chỉnh = 0,691 có ý nghĩa là: các biến độc lập
trong mô hình giải thích 69,1% sự biến thiên của biến phụ thuộc và còn lại sự biến thiên của biến
phụ thuộc không được giải thích bởi các biến độc lập trong mô hình, hay nói cách khác do các
yếu tố ngoài mô hình.
Bảng 7. Kiểm định về sự phù hợp của mô hình hồi quy
Model R R Square Adjusted R
Square
Std. Error of the
Estimate
Durbin-
Watson
1 .835a .698 .691 .54591 1.639
Hệ số Durbin Watson = 1,639 < 2 nên không có hiện tượng tương tự tương quan giữa các
phần dư trong mô hình. Hay nói cách khác, mô hình nghiên cứu có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra,
kiểm định từ bảng phân tích phương sai ANOVA, giá trị F= 105,138 giá trị Sig. = 0.000 rất nhỏ
(< 0.05), từ kết quả này cho thấy tồn tại ít nhất một biến độc lập giải thích có ý nghĩa thống kê
đối với biến phụ thuộc, thể hiện ở bảng 8
Bảng 8. Phân tích phương sai ANOVAa
Model Sum of Squares df Mean Square F Sig.
1
Regression 125.334 4 31.334 105.138 .000b
Residual 54.240 182 .298
Total 179.575 186
Kết quả phân tích hồi quy và mức độ tác động của từng nhân tố
Bảng 9. Kết quả phân tích hồi quy
Model Unstandardized
Coefficients
Standardized
Coefficients
t Sig. Collinearity Statistics
B Std. Error Beta Tolerance VIF
1 (Constant) .168 .202 .830 .408
249
HH .239 .056 .252 3.163 0,00 .521 1.920
QT .379 .065 .409 12.054 .000 .479 2.086
DU .182 .062 .170 2.320 .008 .584 1.713
DB .130 .044 .146 2.927 .004 .663 1.508
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS 22 từ số liệu khảo sát, 2019)
Căn cứ vào kết quả trên bảng 8, các biến có ý nghĩa thống kê bao gồm: Tính hữu hình
(HH); Sự quan tâm (QT); Sự đáp ứng (DU); Sự đảm bảo (DB). Mô hình hồi quy dạng chuẩn hóa
về các nhân tố tác động đến sự hài lòng của sinh viên về chất lượng giảng dạy các học phần kế
toán tài chính được xác định như sau:
HL = 0,146*DB + 0,17*DU+ 0,252*HH + 0,409*QT
Theo mô hình phân tích hồi quy, các nhân tố đều có mối quan hệ tỷ lệ thuận với sự hài
lòng của sinh viên. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Sự quan tâm của giảng viên tác động tích cực
nhất tới sự hài lòng của sinh viên về các học phần Kế toán tài chính, tương đồng với một số
nghiên cứu của Snipes, R. L. và N. Thomson (1999), Trần Xuân Kiên, Nguyễn Thành Long
(2006). Điều này được thể hiện qua những cung cấp thông tin về môn học, đáp ứng những yêu
cầu và chia sẻ kiến thức, nhiệt tình giảng dạy, quan tâm là nội dung được sinh viên đánh giá tác
động nhiều nhất. Tiếp đến là các yếu tố hữu hình (thuộc về cơ sở vật chất, trang thiết bị, bố trí tài
liệu ở thư viện, chỗ ngồi hợp lý) là sự khẳng định tiếp về vai trò của nhân tố này với sự hài lòng
về chất lượng giảng dạy từ các nghiên cứu trước (Douglas, Alex Douglas, Barry Barnes, 2006);
Sự đáp ứng của đội ngũ nhân viên và giảng viên với môn học và cuối cùng là nhân tố đảm bảo
(phương thức truyền đạt, trình độ giảng viên, đảm bảo khung thời gian, thái độ phục vụ của nhân
viên) hỗ trợ và tạo điều kiện để sinh viên có thể đạt được mục tiêu học tập, thuận lợi trong quá
trình học tập. Kết luận này tương tự như nghiên cứu của Nguyễn Thị Thắm (2010).
Từ những phân tích thực trạng trên, trong thời gian tới Nhà trường, Khoa Kế toán Kiểm
toán cần tạo động lực làm việc cho đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy (xây dựng cơ chế
lương, thưởng phù hợp, mở rộng các hoạt động trao đổi chuyên đề nhằm nâng cao phương pháp
giảng dạy tích cực, tạo môi trường giảng dạy cho giảng viên: rút bớt những hoạt động giáo dục
lồng ghép, thanh tra, kiểm tra, các cuộc thi, kiêm nhiệm các công việc khác trong trường khiến
giảng viên cảm thấy quá tải, hạn chế sức cống hiến, sự sáng tạo của đội ngũ giảng viên làm cho
chất lượng). Mặt khác, xây dựng chương trình đào tạo phù hợp, phân bổ nội dung giữa lý thuyết
và thực hành hợp lý. Đồng thời, trang bị thêm và hiện đại hóa các yếu tố hữu hình (trang thiết bị
phục vụ ở giảng đường, bổ sung tài liệu tham khảo) hỗ trợ cho hoạt động giảng dạy.
6. KẾT LUẬN
Dựa trên cơ sở lý luận về sự hài lòng của khách hàng, các mô hình đo lường chất lượng
dịch vụ và quá trình dạy học đại học, nghiên cứu đã xác định được mô hình gồm 04 nhân tố tác
động đến sự hài lòng của sinh viên về chất lượng giảng dạy các học phần Kế toán tài chính được
đo lường qua 29 biến theo thang đo Likert thể hiện ở 5 mức.
Các yếu tố trong mô hình tác động thuận chiều đến sự hài lòng của sinh viên về chất lượng
250
Các yếu tố trong mô hình tác động thuận chiều đến sự hài lòng của sinh viên về chất lượng
giảng dạy, gồm: 1) Sự quan tâm của giảng viên giảng dạy, 2) Các yếu tố hữu hình, 3) Sự đảm
bảo, 4) Sự đáp ứng. Kết quả nghiên cứu trên là nguồn thông tin đáng giá để các giảng viên giảng
dạy học phần Kế toán tài chính đối chiếu và điều chỉnh trong quá trình tổ chức hoạt động giảng
dạy. Kết quả nghiên cứu cũng đã cho thấy sinh viên khá hài lòng với chất lượng giảng dạy các
học phần Kế toán tài chính tại trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
Tóm lại, nghiên cứu dựa trên mô hình SERVPERF để xác định mức độ tác động của các
nhân tố tác động đến sự hài lòng của sinh viên về chất lượng giảng dạy các học phần Kế toán tài
chính. Mặc dù, vẫn còn một số hạn chế về các thang đo đo lường, nhưng với mức điểm hài lòng
tổng thể đạt khá cao cho phép khẳng định: Sự quan tâm của các giảng viên giảng dạy học phần
Kế toán tài chính đã mang lại hiệu quả lớn trong hoạt động giảng dạy của mình và họ nhận được
sự hài lòng của sinh viên trên tất cả các nội dung được khảo sát.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Harvey, L., Green, D. (1993). Defining Quality, Assessment and Evaluation in Higher
Education, 18(1), 9-34.
Oliver, R. L. & W. O. Bearden (1985). Disconfirmation Processes and Consumer Evaluations in
Product Usage, Journal of Business Research, 13 (1985), 235-246.
Kotler, P. and Armstrong, G. (2012). Principles of Marketing, 14th Edition, Global Edition,
Pearson Prentice Hall.
Mehmet Aga & Okan Veli Safakli (2007). Empirical studies on service quality and customer
satisfaction in the accounting firm. Problems and Perspectives in Management, 5.
Oliver, R. L (1993). Cognitive, Affective, and Attribute Bases of the Satisfaction Response.
Journal of Consumer Research, 20(3), 418- 430.
Parasuraman, A., Zeithhaml, V.A. & Berry, L. L (1994). Reassessment of expectations as a
comparison standard in measuring service quality: Implication for future research. Journal
of Marketing.
Juran, J.M, 1991. World War II and the quality movement. Quality Progress, 24(12), 19-24.
Quality management and quality assurance vocabulary (ISO 8402), 2000.
Ryan, R, M, Deci, E. L, & Grolnick, W. S, 1995. Autonomy relatedness, and the self: Their
relation to development and psychopathology. In D. Cicchetti.
Taylor, S. y Cronin, J, (1994). Modelling patient satisfaction and service quality. Journal of
Health Care Marketing, 14 (1), 34-44.
Tse D.K. and Wilton P.C.,1988. Models of consumer satisfaction formation: An extension.
Journal of marketing research, Vol XXV. 204- 212.
251
Bộ GD&ĐT (2010), Công văn số 2754/BGDĐT-NGCBQLGD ngày 20/5/2010 về việc hướng
dẫn lấy ý kiến phản hồi từ người học về hoạt động giảng dạy của giảng viên.
Lê Văn Huy (2007), Sử dụng chỉ số hài lòng của khách hàng trong hoạch định chiến lược kinh
doanh ngân hàng: cách tiếp cận mô hình lý thuyết, Tạp chí Khoa học - Đại học Đà Nẵng,
số 19.
Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2010), phân tích dữ liệu với SPSS, NXB Thống Kê.
Nguyễn Thành Long (2006), Sử dụng thang đo SERVPERF để đánh giá chất lượng đào tạo đại
học tại trường Đại học An Giang, Báo cáo nghiên cứu khoa học, Trường Đại học An
Giang.
Trần Xuân Kiên (2009), Đánh giá sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo tại Trường Đại
học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - Đại học Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo
dục, Viện Đảm bảo Chất lượng Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội.
252
Đổi mới giảng dạy kế toán dựa trên quy trình tư duy thiết kế -
Nghiên cứu tại Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Nguyễn Thị Hương Liên1, Nguyễn Tố Tâm2, Nguyễn Thị Hồng Nga3
1Trường Đại học kinh tế - ĐHQGHN
Email: liennth@vnu.edu.vn
2Trường Đại học Điện lực
Email: tamnt@epu.edu.vn
3Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: nguyenthihongnga@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.62 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 30/11/2019
Ngày nhận bài: 16/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 02/12/2019
Tóm tắt
Đổi mới giảng dạy kế toán dựa trên các phương pháp tiếp cận mới là một xu thế tất yếu của
giáo dục đại học trong bối cảnh nền kinh tế số. Cách tiếp cận dựa trên quy trình tư duy thiết kế
được đánh giá là một phương pháp thúc đẩy tư duy sáng tạo để giải quyết vấn đề, giúp người học
phát triển năng lực thấu cảm để chủ động thiết kế và trải nghiệm cuộc sống tốt đẹp hơn. Bài viết
này làm rõ các giai đoạn của quy trình tư duy thiết kế và các lợi ích tiềm năng của quy trình này
trong lĩnh vực giáo dục. Trên cơ sở lý giải sự cần thiết phải đổi mới giảng dạy kế toán tại các
trường đại học, thông qua phương pháp nghiên cứu tình huống áp dụng quy trình tư duy thiết kế
trong giảng dạy, bài viết này phân tích các kết quả tích cực ban đầu trong quá trình triển khai thí
điểm quy trình này đối với hệ cử nhân và sau đại học ngành kế toán tại Trường Đại học Kinh tế,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Từ khóa: đổi mới giảng dạy, tư duy thiết kế, thiết kế cuộc đời
1. GIỚI THIỆU
Sự thay đổi nhanh chóng của thời đại kỷ nguyên số đã mở ra nhiều cơ hội và thách thức
mới cho ngành kế toán - kiểm toán. Nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe về nguồn nhân
lực kế toán - kiểm toán, việc giảng dạy kế toán tại các trường đại học đòi hỏi phải trang bị cho
người học các kỹ năng thiết yếu của thế kỷ 21, trong đó, bao gồm bốn kỹ năng quan trọng nhất là
Collaboration- khả năng phối hợp, Critical Thinking- khả năng tư duy phản biện, Creativity-
năng lực sáng tạo và Communication- kỹ năng giao tiếp, gọi tắt là “4C”. Phương pháp giảng dạy
kế toán truyền thống, thụ động đã không còn phù hợp, đòi hỏi phải có các phương pháp tiếp cận
253
mới nhằm đánh thức tiềm năng và tạo sự hứng khởi cho người học. Cách tiếp cận dựa trên quy
trình tư duy thiết kế - Design thinking được đánh giá là một phương pháp thúc đẩy các kỹ năng
sáng tạo, giải quyết vấn đề, giao tiếp và làm việc nhóm, giúp người học phát triển năng lực thấu
cảm với người khác trong và ngoài cộng đồng của mình (Retna, 2016).
Tư duy thiết kế là một cách tiếp cận lấy con người làm trung tâm đối với sáng tạo cách tân,
sử dụng bộ công cụ của nhà thiết kế để gắn kết nhu cầu của con người, tính khả thi của công
nghệ và tính bền vững của kinh doanh (Tim Brown, IDEO CEO). Đặc trưng của cách tiếp cận
này là:
Coi trọng việc xác định vấn đề hơn đề xuất giải pháp.
Giải quyết vấn đề dựa trên tư duy lấy con người làm trung tâm, tạo ra kho ý tưởng ban
đầu thông qua hoạt động kích não.
Trải nghiệm thực tiễn bằng cách chế tạo vật mẫu và thử nghiệm, thu nhận phản hồi từ
người sử dụng.
Cách tiếp cận giải quyết vấn đề thông thường chỉ phân tích vấn đề ở bề nổi, chưa tiến hành
thấu cảm để tìm ra vấn đề quan trọng nhất cần tập trung giải quyết. Ngược lại, nguyên lý của tư
duy thiết kế đặt con người làm trung tâm của mọi giải pháp, trên cơ sở đó tạo ra những sản phẩm
có tính hữu dụng cao cho người dùng.
2. QUY TRÌNH VÀ LỢI ÍCH CỦA TƯ DUY THIẾT KẾ
2.1. Các giai đoạn của quy trình tư duy thiết kế
Giai đoạn 1 “Empathize” - Thấu cảm
Giai đoạn đầu tiên của quy trình này đòi hỏi nhà thiết kế phải tìm hiểu vấn đề từ nhiều góc
độ, dưới nhiều hình thức khác nhau như quan sát, phỏng vấn, phân tích, tra cứu tài liệu hay tự
trải nghiệm của bản thân. Thấu cảm được coi là một bước rất quan trọng trong quy trình tư duy
thiết kế bởi nó khuyến khích người nghiên cứu bỏ qua định kiến chủ quan của cá nhân và tập
trung nhiều vào nhu cầu của người sử dụng. Nguồn thông tin thu được ở bước này sẽ hỗ trợ các
bước tiếp theo trong quy trình để có thể đề xuất các giải pháp độc đáo, ấn tượng và thiết thực.
Khi phải đối mặt với một vấn đề khó khăn, hãy tập thói quen đặt câu hỏi để tìm hiểu sâu
sắc ngọn nguồn vấn đề. Thấu hiểu nhu cầu, lợi ích và các rào cản, khó khăn của người dùng
thông qua việc sử dụng công cụ hỗ trợ đặt 6 câu hỏi về: Why - Tại sao, What - Cái gì, Where - Ở
đâu, When - Khi nào, Who - Ai, How - Làm thế nào?
Giai đoạn 2 “Define” - Xác định vấn đề
Trong giai đoạn này, các thông tin thu thập được ở giai đoạn thấu cảm sẽ được đặt chung
lại với nhau. Nhà thiết kế tiến hành phân tích, tổng hợp để xác định trọng tâm vấn đề cần giải
quyết. Trong khi xem xét vấn đề, nhà thiết kế phải đặt khách hàng của mình ở trung tâm và tránh
không bị ảnh hưởng bởi định kiến của bản thân. Công cụ hỗ trợ thường được sử dụng ở bước này
là sơ đồ xương cá Fishbone Diagram, rất hữu dụng trong giải quyết vấn đề. Từng nhánh xương
cá sẽ là 6 nhóm vấn đề đã được tìm ra khi trả lời 6 câu hỏi trong giai đoạn 1.
254
(Nguồn: www.interaction-design.org)
Hình 1: Các giai đoạn của quy trình tư duy thiết kế
Giai đoạn 3 “Ideate” - Lên ý tưởng
Ở giai đoạn này, nhà thiết kế và đồng đội sẽ tự do sáng tạo ra hàng trăm ý tưởng đột phá để
giải quyết vấn đề, dựa trên sự thấu hiểu vấn đề được mô tả bằng sơ đồ xương cá. Công cụ hỗ trợ
trong giai đoạn này hoạt động kích não - brainstorming, toàn bộ quá trình này cần thực hiện theo
5 bước sau:
1-Mô tả và giải thích vấn đề với mọi người tham gia.
2-Thông báo quy luật làm việc, không phán xét bất kỳ giải pháp nào được đưa ra.
3-Xây dựng kho ý tưởng bằng cách mỗi người tự ghi tất cả giải pháp của mình cho vấn đề
đó lên một tờ giấy note, càng nhiều càng tốt, không quan tâm tính đúng sai.
4-Thảo luận, phân loại tất cả ý tưởng thành từng vùng tương đồng, chọn ra 1-2 ý tưởng tốt
nhất cho mỗi vùng.
5-Đánh giá những ý tưởng đã được lọc ra và chọn 1-2 giải pháp tối ưu.
Giai đoạn 4 “Prototype” - Làm mẫu
Đội ngũ thiết kế sẽ sản xuất sản phẩm mẫu có các tính năng đặc trưng chỉ tìm thấy ở sản
phẩm đó. Ở giai đoạn này, nhà thiết kế không nhất thiết phải tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh mà
quan trọng hơn, nó giúp kết nối ý tưởng với thực tế, từ đó giúp nhà thiết kế có thể hiện thực hóa
ý tưởng của mình, từ đó thu thập được ý kiến phản hồi của người sử dụng để hoàn thiện sản
phẩm của mình.
Giai đoạn 5 “Test” - Thử nghiệm
Bản mẫu được tạo ra trong giai đoạn 4 có thể được chia sẻ và thử nghiệm trong nội bộ của
đội, trong các phòng ban khác, hoặc một nhóm nhỏ bên ngoài đội thiết kế. Đây là giai đoạn thử
nghiệm với mục tiêu là để xác định giải pháp tốt nhất cho từng vấn đề đã được xác định qua ba
giai đoạn trước. Các giải pháp được thực hành trong quá trình làm mẫu và từng bản mẫu sẽ được
nghiên cứu, hoặc được chấp nhận để phát triển, hoặc bị từ chối dựa trên các trải nghiệm cơ bản
của người dùng. Ở phần cuối của giai đoạn này, đội thiết kế sẽ có ý tưởng tốt hơn về các hạn chế
vốn có của sản phẩm, có được sự am hiểu sâu sắc hơn về suy nghĩ và cảm nhận của người dùng
thực thụ khi tương tác với sản phẩm cuối cùng.
255
2.2. Các lợi ích của quy trình tư duy thiết kế
Trong lĩnh vực giáo dục, tư duy thiết kế được đánh giá là một xu hướng mới về đổi mới,
sáng tạo áp dụng cho nhiều bậc học, từ giáo dục nghệ thuật, thiết kế, kiến trúc (Bruton, 2010;
Donar, 2011; Lee &Wong, 2015; Watson, 2015) cho tới các khóa học về kỹ thuật (Skaggs, Fry
& Howell, 2009; Alhamdani, 2016), hay trong lĩnh vực quản lý kinh doanh và giáo dục khởi
nghiệp (Dunne & Martin, 2006; Schlenker, 2014).
Tư duy thiết kế được coi là một phương pháp hữu hiệu để nuôi dưỡng tinh thần sáng tạo và
tư duy khởi nghiệp cho người học (Lor, 2017). Mỗi bước của quy trình đều giúp người học phát
triển kiến thức, kỹ năng và thái độ liên quan chặt chẽ với đặc trưng của tư duy khởi nghiệp. Từ
bước đầu của quy trình là “thấu cảm”, với mục tiêu khuyến khích người học tìm hiểu vấn đề một
cách toàn diện từ những góc nhìn khác nhau của các bên liên quan cho đến bước định nghĩa vấn
đề, tìm ra các giải pháp phù hợp và tiến hành thử nghiệm, kiểm tra mức độ đáp ứng của sản
phẩm tạo ra với nhu cầu của người sử dụng. Thông qua một quy trình chặt chẽ như vậy, người
học sẽ được trải nghiệm để có được nhận thức tốt hơn và tự tin hơn với chính sự sáng tạo của
mình (Scheer & Plattner, 2011).
Theo Lor (2017), lý do chính để các trường học áp dụng cách tiếp cận tư duy thiết kế là
nhằm hướng đến mục tiêu giảng dạy về sự thấu cảm, nuôi dưỡng sự sáng tạo và đổi mới với tư
duy của một nhà thiết kế. Nghiên cứu này cũng chỉ rõ sự cần thiết của tư duy thiết kế vì cách tiếp
cận này định hướng cho người học cách thích nghi hơn là chỉ tập trung vào nội dung kiến thức,
từ đó người học sẽ có sự chuẩn bị tốt hơn cho một tương lai chưa được biết đến.
3. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC ĐỔI MỚI GIẢNG DẠY KẾ TOÁN TẠI CÁC TRƯỜNG
ĐẠI HỌC HIỆN NAY
Hiện nay, Việt Nam đang phải đối mặt với thách thức lớn về sự thiếu hụt lao động có trình
độ cao và kỹ năng chuyên nghiệp để đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực cho cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0. Nhằm trang bị các kỹ năng cần thiết cho người học ở thế kỷ 21, giáo dục
cần chú trọng vào việc phát triển tư duy sáng tạo cho người học. Tuy nhiên, các phương pháp
giảng dạy hiện nay vẫn còn nhiều bất cập mà một trong những nguyên nhân chính là nền giáo
dục của Việt Nam chưa thoát khỏi cách nghĩ và cách làm giáo dục của xã hội truyền thống. Xuất
phát từ quan niệm xã hội coi trọng bằng cấp, nhà trường chú trọng vào việc truyền đạt kiến thức,
thậm chí mang tính “nhồi nhét” để người học có thể đạt được kết quả thi cử cao mà chưa thực sự
chú trọng phát triển năng lực và phẩm chất cho người học.
Có thể nói, phương pháp giảng dạy kế toán hiện nay tại các trường đại học vẫn còn mang
tính thụ động, chưa thực sự lấy người học làm trung tâm. Sinh viên chưa có thói quen tự nghiên
cứu và không được kích thích tư duy sáng tạo. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động
giảng dạy còn hạn chế và chưa hiệu quả. Bên cạnh đó, mặc dù nhiều cơ sở đào tạo xây dựng
chương trình đào tạo của ngành Kế toán gồm 120-150 tín chỉ, song tỷ trọng các môn học chuyên
ngành chỉ chiếm khoảng 30% chương trình, nội dung còn nặng về lý thuyết hàn lâm, nên sinh
viên chưa tiếp cận được với công việc thực tế (Lê Đức Thắng, 2019).
256
Trong bối cảnh công nghệ số, thực tiễn đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải đổi mới phương
pháp giảng dạy của giảng viên và phương pháp học tập của sinh viên. Việc áp dụng quy trình tư
duy thiết kế trong kinh doanh và trong giảng dạy đã và đang nhận được sự quan tâm lớn từ các
nhà giáo dục và các nhà quản lý ở nhiều nước trên thế giới (Skaggs et al, 2009; Hong & Kwek,
2011; Scheer & Plattner, 2011; Anderson, 2012; Watson, 2015) bởi vì công cụ này có tiềm năng
thúc đẩy các kỹ năng sáng tạo, giải quyết vấn đề, giao tiếp và làm việc nhóm, cũng như cho phép
người học nâng cao sự thấu cảm với những người khác trong và ngoài cộng đồng của mình
(Retna, 2018).
4. ĐỔI MỚI GIẢNG DẠY KẾ TOÁN DỰA TRÊN QUY TRÌNH TƯ DUY THIẾT KẾ TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐHQG HÀ NỘI
Triết lý đào tạo của Khoa Kế toán Kiểm toán, Trường Đại học Kinh tế, ĐHQG Hà Nội là
lấy người học làm trung tâm, đào tạo gắn liền với thực tiễn và theo chuẩn quốc tế. Triết lý này
được thực hiện thông qua việc tăng cường các chương trình thực tập, thực tế, các hoạt động thực
hành trên lớp và tại doanh nghiệp, phối hợp với doanh nghiệp trong đào tạo và nghiên cứu về kế
toán - kiểm toán, giúp sinh viên định hướng nghề nghiệp rõ ràng để sau khi tốt nghiệp, sinh viên
có khả năng thâm nhập ngay vào công việc thực tế. Bên cạnh đó, Khoa còn chú trọng chuẩn hóa
đội ngũ giảng viên đạt chuẩn quốc tế, đổi mới đề cương và cập nhật nội dung giảng dạy dựa trên
các chương trình đào tạo của các hiệp hội nghề nghiệp quốc tế, áp dụng phương pháp giảng dạy
tích cực nhằm tăng cường năng lực tự nghiên cứu và phát huy khả năng sáng tạo của sinh viên.
Trong học kỳ 2 năm học 2018-2019, các buổi tọa đàm và khóa đào tạo ngắn hạn về đổi
mới, sáng tạo đã được tổ chức cho 140 sinh viên hệ chuẩn của Khoa Kế toán Kiểm toán và Khoa
Tài chính Ngân hàng. Dựa trên kết quả triển khai thí điểm các khóa đào tạo ngắn hạn này, đề án
“Đổi mới giảng dạy” của Trường Đại học Kinh tế dự kiến sẽ phát triển học phần tự chọn mới 02
tín chỉ “Tư duy đổi mới và sáng tạo”, áp dụng cho sinh viên của tất cả các chuyên ngành tại
trường từ năm 2020.
Kết quả khảo sát 140 sinh viên tham dự đào tạo ngắn hạn về đổi mới, sáng tạo dựa trên tư
duy thiết kế đã thu nhận được nhiều phản hồi tích cực, xấp xỉ 98% số sinh viên trả lời khảo sát
hoàn toàn hài lòng với khóa học này. Cụ thể, khóa đào tạo ngắn hạn “Tư duy đổi mới và sáng
tạo” tại Trường Đại học Kinh tế, ĐHQG Hà Nội được thiết kế nhằm giúp người học:
Áp dụng tư duy đổi mới, sáng tạo trong học tập, nghiên cứu và trong cuộc sống.
Vận dụng kỹ năng xác định giá trị bản thân, tạo cơ sở cho các quyết định trong cuộc sống.
Kích hoạt và bùng nổ ý tưởng mới, mở lối thoát khỏi khó khăn và bế tắc bằng sơ đồ tư duy.
Tăng cường kỹ năng giải quyết vấn đề từ góc nhìn mới bằng kỹ thuật tái định dạng
“reframe” vấn đề.
Xây dựng tâm thế chủ động trước cuộc sống với kỹ năng hồi tưởng và chiêm nghiệm lại
dòng sông cuộc đời “river of life”.
Chủ động thiết kế cuộc đời đáng sống với 3 kế hoạch linh hoạt “Odyssey Plans” để làm
chủ tương lai của mình.
257
Bên cạnh đó, quy trình tư duy thiết kế đã được giới thiệu lồng ghép trong học phần “Phân
tích hoạt động kinh doanh nâng cao” đối với 26 học viên thạc sỹ chuyên ngành Kế toán ứng
dụng để xử lý bài tập tình huống trên lớp và bài tiểu luận cuối kỳ. Kết quả áp dụng thí điểm cho
thấy điểm trung bình chung học tập của học viên được cải thiện đáng kể, thậm chí có học viên
được đánh giá kết quả xuất sắc vì đã vận dụng được quy trình tư duy thiết kế để cải tiến hoạt
động của đơn vị nơi học viên công tác. Tuy nhiên, để đạt được kết quả học tập đó, học viên đã
phải dành nhiều thời gian và tâm huyết để vận dụng được đầy đủ các bước trong quy trình tư duy
thiết kế. Hình 2 dưới đây so sánh kết quả học tập của học phần “Hệ thống thông tin kế toán nâng
cao” chưa được tiếp cận tư duy thiết kế và học phần “Phân tích hoạt động kinh doanh nâng cao”
có áp dụng quy trình tư duy thiết kế để học viên hoàn thành bài tiểu luận cuối kỳ.
(Nguồn: Tổng hợp kết quả học tập năm học 2018-2019
Hình 2: Kết quả đánh giá học phần năm học 2018-2019
5. KẾT LUẬN
Đổi mới giảng dạy kế toán là một xu hướng tất yếu của giáo dục đại học ngành kế toán
trong bối cảnh nền kinh tế số. Việc áp dụng phương pháp tiếp cận mới trong giảng dạy như quy
trình tư duy thiết kế đã mang lại các kết quả tích cực ban đầu đối với sinh viên bậc đại học và sau
đại học, giúp cải thiện kết quả học tập của học viên, tăng khả năng ứng dụng trong thực tiễn để
nhận diện và giải quyết vấn đề tại đơn vị học viên công tác. Đặc biệt, sinh viên và học viên tham
gia khóa học đổi mới, sáng tạo dựa trên tư duy thiết kế sẽ được kích hoạt tư duy sáng tạo hướng
tới giải quyết vấn đề từ góc nhìn mới bằng kỹ thuật tái định dạng vấn đề, xây dựng tâm thế chủ
động trước khó khăn, thất bại trong cuộc sống và chủ động thiết kế cuộc đời để làm chủ tương lai
bất định. Các kết quả tích cực thu nhận được từ khóa học đổi mới, sáng tạo dựa trên tư duy thiết
kế tại Trường Đại học Kinh tế sẽ tiếp tục được lan tỏa tới các trường đại học thuộc khối ngành
kinh tế, nhằm chia sẻ lợi ích của khóa học tới đông đảo sinh viên và học viên của các trường
trong cả nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Alhamdani, W. A. (2016). Teaching Cryptography Using Design Thinking Approach. Journal of
Applied Security Research, 11(1), 78–89. http://doi.org/10.1080/19361610.2015.1069646
258
Anderson, N. (2012). Design Thinking: Employing an Effective Multidisciplinary Pedagogical
Framework to Foster Creativity and Innovation in Rural and Remote Education. Australian
& International Journal of Rural Education, 22(2), 43–52. Retrievedfrom
http://search.ebscohost.com/login.aspx?direct=true&db=ehh&AN=80037529&site=ehostlive
Bruton, A. (2010). Teaching and Learning for the 21st Century. In International Council for
Small Business: International Conference. Cincinnati, Ohio: ICSB.
Donar, A. (2011). Thinking Design and Pedagogy: An Examination of Five Canadian Post-
Secondary Courses in Design Thinking. The Canadian Review of Art Education, 38(1),
84–102.
Dunne, D., & Martin, R. (2006). Design Thinking and How It Will Change Management Education:
An Interview and Discussion. Academy of Management Learning & Education, 5(4), 512–523.
Hong, S., & Kwek, D. (2011). Innovation in the Classroom: Design Thinking for 21st Century
Learning. Stanford EDU. Retrieved from http://www.stanford.edu/group/redlab/cgi-
bin/materials/Kwek-Innovation
Lee, C.S., & Wong, K.S. D. (2015). Design Thinking and Metacognitive Reflective Scaffolds: A
Graphic Design-Industrial Design Transfer Case Study. In 12th International Conference
on Cognition and Exploratory Learning in Digital Age (CELDA 2015) (pp.173–179).
Dublin, Ireland.
Lê Đức Thắng (2019), Nâng cao chất lượng đào tạo kế toán đáp ứng nhu cầu hội nhập hiện nay,
Tạp chí tài chính, kỳ 2 tháng 6/2019.
Lor, R. (2017, May). Design Thinking in education: A critical review of literature. In
proceedings of Asian Conference on Education and Psychology. Thailand.
Phan Thị Phương Nam, Nguyễn Hoàng Duy Thiên, Trần Hoàng Nam (2018), Áp dụng Design
Thinking trong giảng dạy theo hướng tiếp cận CDIO, Tạp chí khoa học Giáo dục và nghề
nghiệp, số 59, tr. 28-33.
Retna, K.S. (2016). Thinking about "design thinking": a study of teacher experiences. Asia
Pacific Journal of Education, Supplement 1, Vol. 36, pp.5-19
Scheer, A., & Plattner, H. (2011). Transforming Constructivist Learning into Action: Design
Thinking in education. Design and Technology Education: An International Journal,
17(3), 8–19.
Schlenker, L. (2014). Design in Practice: Scenarios for Improving Management Education. In
11th International Conference on Cognition and Exploratory Learning in Digital Age
(CELDA (pp. 187–194). Porto, Portugal.
Skaggs, P., Fry, R., & Howell, B. (2009). Innovations Unlimited: Thinking About Design
Thinking. In The NCIIA 13th Annual Meeting (p. 2009). Washington, D.C.
Watson, A. D. (2015). Design Thinking for Life. Art Education, 68(3), 12–18. Retrieved from
http://search.ebscohost.com/login.aspx?direct=true&db=eric&AN=EJ1060382&lang=&sit
e=edslive authtype=ip,uid\n
259
Phần 2
KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN - TÀI CHÍNH: NHỮNG THAY ĐỔI
TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
260
261
Ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận đến kỳ hạn nợ:
Trường hợp tại Việt Nam
Đặng Ngọc Hùng
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: hungdangngockt@yahoo.com.vn
Mã bài: HTQG.16 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 08/11/2019
Ngày nhận bài: 29/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 11/11/2019
Tóm tắt
Bài viết xem xét ảnh hưởng của chất lượng lợi nhuận (EQ) đến kỳ hạn nợ (DM) của các
doanh nghiệp (DN)ở Việt Nam. Chúng tôi đo lường EQ theo chất lượng dồn tích của lợi nhuận
để xem xét ảnh hưởng của EQ đến DM, đồng thời chúng tôi khi xây dựng mô hình còn xem xét
đến một số biến kiểm soát ảnh hưởng đến DM. Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy REM,
FEM và GLS, dữ liệu nghiên cứu tại các doanh nghiệp niêm yết trên thị chứng khoán ở Việt
Nam trong giai đoạn 2010 - 2018, với 3588 quan sát. Kết quả nghiên cứu đã phát hiện EQ có
quan hệ ngược chiều với DM, bên cạnh đó một số một số biến kiểm soát có ảnh hưởng thuận
chiều đến DM và có ý nghĩa thông kê như tỷ lệ nợ, quy mô DN, tài sản cố định, tính thanh
khoản, tốc độ tăng trường. Trong khi đó lợi nhuận là nhân tố có ảnh ngược thuận chiều đến DM,
ngoài ra thuế không ảnh hưởng đến DM. Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm là cơ sở hữu ích
giúp DN nâng cao EQ, từ đó giúp DN cần xem xét DM hợp lý.
Từ khóa: Kỳ hạn nợ, chất lượng lợi nhuận, Việt Nam
1. GIỚI THIỆU
Kỳ hạn nợ (DM) là vấn đề liên quan đến quyết định tài trợ của DN, được các nhà khoa học
trên thế giới quan tâm nghiên cứu trong thời gian gần đây. Đây là quyết định quan trọng của DN
nhằm giảm thiểu rủi ro trong thanh khoản, giải quyết mâu thuẫn trong vấn đề đại diện, tăng tính
linh hoạt trong hoạt động tìm nguồn tài trợ và đặc biệt là giảm chi phí huy động vốn cũng như
rủi ro. Theo lý thuyết DM là công cụ để phát tín hiệu về chất lượng tín dụng, xử lý chi phí người
đại diện, tận dụng các lợi ích từ tấm chắn thuế.
Bellovary, Giacomino, & Akers (2005) đã khẳng định rằng chất lượng lợi nhuận (EQ) là
yếu tố quan trọng trong việc đánh giá sức khỏe tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tác giả
cũng cảnh báo về một thực trạng là các nhà đầu tư, chủ nợ và những đối tượng sử dụng báo cáo
tài chính khác thường bỏ qua yếu tố quan trọng này. Chou, Ling, Chan, & Chang (2011) nêu lên
262
một thực tế khác là phần lớn những nhà đầu tư thường sử dụng báo cáo tài chính (BCTC) để
đánh giá hoạt động của doanh nghiệp với niềm tin rằng con số lợi nhuận được báo cáo sẽ cung
cấp những thông tin đáng tin cậy để phục vụ cho việc đánh giá nói trên. Chính điều này đã tạo
nên động cơ cho các nhà quản lý thực hiện việc bóp méo lợi nhuận để “làm đẹp” báo cáo tài
chính của doanh nghiệp. Hành động làm sai lệch con số lợi nhuận thực này rõ ràng đã làm chệch
hướng đánh giá của những nhà đầu tư và tạo ra một sự lạc quan giả tạo về toàn bộ hoạt động sản
xuất kinh doanh của những doanh nghiệp đó. Do đó, câu hỏi được đặt ra là khi doanh nghiệp
công bố lợi nhuận cao trên các BCTC, điều đó có nghĩa là nó đang hoạt động thực sự có hiệu
quả? Đó là những con số thực hay chỉ là bức tranh được các nhà quản lý vẽ ra để tạo hình ảnh
không đúng về sự phát triển của doanh nghiệp? “Sự cố Enron” và hàng loạt những sự sụp đổ
khác đã cho thấy rằng nhiều doanh nghiệp báo cáo mức lợi nhuận cao, nhưng sau đó vẫn phải
đối mặt với nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh và một số còn bị phá sản. Hậu quả này
xuất phát từ việc lợi nhuận được báo cáo đã không phản ánh chính xác những gì đang thực sự
diễn ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Gupta & Fields (2006) cho rằng, một trong những động cơ quan trọng thúc đẩy việc bóp méo
lợi nhuận của các doanh nghiệp là tránh những rắc rối về thanh khoản xuất phát từ việc không thể
vay được nợ mới trong khi các khoản nợ đáo hạn đang đến gần. Việc bóp méo lợi nhuận này rõ
ràng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng của những con số lợi nhuận được báo cáo của
các doanh nghiệp. (Chou et al., 2011) đề cập đến kết quả từ những nghiên cứu trước cho thấy các
doanh nghiệp có động lực để thay đổi EQ của chính mình theo chiều hướng tốt hơn để có thể thành
công trong việc thu hút các nguồn tài chính. Dù rằng việc lựa chọn cấu trúc nợ phụ thuộc vào
những yếu tố khác liên quan đến chiến lược của doanh nghiệp, nhưng cũng tồn tại một khả năng là
các nhà quản lý có thể điều chỉnh lợi nhuận thực của doanh nghiệp để bóp méo giá trị thực của
doanh nghiệp với mục tiêu có thể huy động được các nguồn tài trợ từ bên ngoài dễ dàng hơn.
Đã có một số nghiên cứu về mối quan hệ giữa EQ và DM ở các nước trên thế giới, tại Việt
Nam đã có một số nghiên cứu liên quan đến kỳ hạn nợ, như nghiên cứu của Linh and Hạnh
(2015), Liêm, Cành, and Thành (2018). Các nghiên cứu này chủ yếu tập trung nghiên cứu về ảnh
hưởng của các nhân tố như quy mô, tỷ lệ nợ, tốc độ tăng trưởng,.. đến DM. Tuy nhiên chưa có
một nghiên cứu nào nghiên cứu về ảnh hưởng của EQ đến DM, đây là một nội dung rất được các
nhà đầu tư, quản lý quan tâm. Vì vậy, việc mở rộng và đi sâu nghiên cứu ảnh hưởng EQ đến DM
tại một nền kinh tế đang phát triển ở Việt Nam sẽ có nhiều ý nghĩa.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Một số khái niệm
Chất lượng lợi nhuận
Healy and Wahlen (1999) cho rằng, một trong những phương tiện để các nhà quản lý
chuyển tải thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình đến những nhà
đầu tư chính là BCTC. Tuy nhiên, có một thực tế đáng lưu ý là những nhà đầu tư thường tin và
cho rằng các báo cáo này có thể giúp họ phân biệt giữa những doanh nghiệp hoạt động tốt với
doanh nghiệp hoạt động không tốt. Chính nhận thức này đã tạo động lực cho những người điều
263
hành can thiệp vào BCTC và chỉ công bố những thông tin phù hợp với mục đích của họ, và điều
này có thể đem lại những thiệt hại cho các nhà đầu tư. Bellovary et al. (2005) cho rằng EQ phục
thuộc vào sự trung thực của các con số được báo cáo, phản ánh “lợi nhuận thực” của DN, cũng
như tính hữu dụng của những con số báo cáo này trong việc dự báo lợi nhuận trong tương lai.
Ngoài ra, các tác giả cũng cho rằng EQ bị tác động bởi tính ổn định và thời gian duy trì của lợi
nhuận được báo cáo.
Trên thực tế, có nhiều cách định nghĩa về EQ, tùy thuộc vào đối tượng sử dụng các BCTC
để phục vụ cho mục đích của họ. Các cơ quan quản lý xem lợi nhuận có chất lượng cao khi nó
tuân thủ theo tinh thần và các qui định của “Chuẩn mực kế toán chung được chấp nhận”
(GAAP). Trong khi đó, những người cho vay lại cho rằng lợi nhuận có chất lượng cao khi nó có
thể nhanh chóng chuyển hóa thành tiền (P. M. Dechow & Schrand, 2004). Pratt (2003) định
nghĩa EQ là mức độ khác biệt được đo lường giữa lợi nhuận trên báo cáo thu nhập và lợi nhuận
thực. Schipper and Vincent (2003) định nghĩa EQ là mức độ mà con số lợi nhuận trong các bảng
báo cáo diễn tả một cách chân thật của lợi nhuận.
Kỳ hạn nợ
DM của DN có thể đo bằng hai phương pháp chính, phương pháp tiếp cận“tăng thêm”
(Incremental approach) định nghĩa DM là kỳ hạn của các khoảnnợ mới vay thêm (Guedes &
Opler, 1996), (Highfield, 2008). Theo hướng tiếp cậnbảng cân đối kế toán, DM được định nghĩa
là tỷ lệcủa các khoản nợ dài hạn trên tổng nợ của DN (Barclay & Smith Jr, 1995), (Johnson,
2003), (Deesomsak, Paudyal, & Pescetto, 2009). Theo tổng quan nghiên cứu, đa số các côngtrình
sử dụng hướng tiếp cận cân đối kế toán do các hạn chế về dữ liệu về DM. Theo cách định nghĩa
này, DM dài hạn nghĩa là DN có tỷ lệ nợ dài hạntrên tổng nợ cao, và DM ngắn hạn nghĩa là DN
có tỷ lệ nợ ngắn hạn trên tổng nợcao. Nếu xét về mặt phân phối của DM, phân vị càng thấp thì
DM càngngắn, tương ứng với tỷ lệ nợ ngắn hạn trên tổng nợ càng cao, trong khi phân vị càngcao
tương ứng với tỷ lệ nợ dài hạn trên tổng nợ càng cao.
2.2. Một số lý thuyết
Trong một thị trường vốn hoàn hảo theo giả định của Modigliani and Miller (1958) các quyết
định về cấu trúc vốn không làm thay đổi giá trị DN. Modigliani and Miller (1963) bổ sung một yếu
tố bất hoàn hảo là thuế, và cho rằng giá trị DN đi vay sẽ cao hơn nhờ hiện giá của tấm chắn thuế từ
nợ vay cao hơn so với DN không đi vay. Các nghiên cứu sau đó xác định tầm quan trọng của DM
nhờ khả năng xử lý những bất hoàn hảo khác của thị trường như mâu thuẫn người đại diện (Myers,
1977), bất cân xứng thông tin (Flannery, 1986), (Kale & Noe, 1990), rủi ro thanh khoản (Diamond,
1991) và thuế (Bricker, Previts, Robinson, & Young, 1995), (Lewis, 1990).
3. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Trong thời gian qua, đã có một số nghiên cứu về EQ và DM, như Gupta and Fields (2006)
đã thực hiện đề tài nghiên cứu về cấu trúc nợ và khả năng quản trị lợi nhuận của nhà quản lý.
Nghiên cứu này tập trung xem xét EQ của doanh nghiệp và mối quan hệ giữa EQ và nợ ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn. Nghiên cứu đã phát hiện mối liên hệ dương có ý nghĩa thống kê giữa
việc quản trị lợi nhuận và sử dụng nợ. Sercu, Vander Bauwhede, and Willekens (2006) nghiên
264
cứu mối quan hệ giữa việc quản trị lợi nhuận và nợ của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu này
cho thấy có mối liên hệ dương giữa việc quản trị lợi nhuận và đòn bẩy tài chính.
Fung and Goodwin (2013) xem xét nợ ngắn hạn, sự giám sát và việc quản trị lợi nhuận dựa
trên kế toán dồn tích. Các tác giả phát hiện rằng nợ ngắn hạn có quan hệ cùng chiều với việc
quản trị lợi nhuận. Tuy nhiên, khi vấn đề nghiên cứu được áp dụng vào những DN có mức tín
nhiệm cao, họ tìm ra mối liên hệ nghịch biến giữa nợ ngắn hạn và việc bóp méo lợi nhuận (được
đại diện bởi khoản dồn tích tùy ý) phù hợp với giả thuyết về việc giám sát nợ. Điều này dẫn đến
kết luận rằng đối với những DN có mức tín nhiệm cao, mối quan hệ giữa nợ ngắn hạn và các
khoản dồn tích tùy ý mạnh hơn so với những DN có mức tín nhiệm thấp. Liu, Ning, and
Davidson III (2010) xem xét có hay không việc các DN quản trị lợi nhuận trước khi phát hành
trái phiếu để có được chi phí vay thấp hơn. Các bằng chứng cho thấy đã có sự quản trị lợi nhuận
trước những đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Nghiên cứu chỉ ra rằng có mối quan hệ cùng
chiều và có ý nghĩa thống kê với khoản dồn tích tùy ý hiện thời (đại diện cho việc đo lường quản
trị lợi nhuận). Quan trọng hơn, nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ nghịch chiều giữa các khoản
dồn tích bất thường được quan sát và chi phí vay nợ. Nghĩa là DN sẽ có được khoản nợ với chi
phí thấp hơn khi quản trị lợi nhuận của mình theo chiếu hướng tăng lên.
Kim and Qi (2010) xem xét mối quan hệ giữa các quyết định biến đổi lợi nhuận thực và
tính ràng buộc trong những điều khoản vay nợ. Kết quả tìm được là mức độ quản trị lợi nhuận
cao hơn khi các điều khoản vay có tính ràng buộc chặt chẽ hơn. Kết quả này cho thấy rằng: (i)
các DN sử dụng việc quản trị lợi nhuận để tránh việc vi phạm các điều khoản vay; và (ii) các DN
có xu hướng bóp méo lợi nhuận nhiều hơn khi khả năng tái thương lượng cho những khoản vay
đã vi phạm các điều khoản bị giới hạn. Các tác giả cũng phát hiện ra mối quan hệ cùng chiều
giữa tính ràng buộc trong điều khoản vay và sự quản trị lợi nhuận xảy ra trước và sau khi áp
dụng đạo luật Sarbanes - Oxley của Hoa Kỳ. Chou et al. (2011) tiến hành xem xét mối quan hệ
giữa hành vi quản trị lợi nhuận và DM (ngắn, trung và dài hạn) của doanh nghiệp. Kết quả từ
nghiên cứu này cho thấy những DN thực hiện việc quản trị lợi nhuận nhiều thường có xu hướng
phát hành nợ với kỳ dài hạn để tránh sự giám sát từ bên ngoài và chi phí vay nợ cao khi doanh
nghiệp sử dụng việc phát hành nợ kỳ hạn ngắn.
García‐Teruel, Martínez‐Solano, and Sánchez‐Ballesta (2010) thực hiện nghiên cứu chất
lượng dồn tích và cấu trúc nợ. Kết quả cho thấy có mối quan hệ ngược chiều và có ý nghĩa thống
kê giữa nợ dài hạn và giá trị dồn tích. Nghĩa là, DN với chất lượng dồn tích cao thường vay được
nợ với kỳ hạn dài hơn. Điều nay phù hợp với giá thuyết chất lượng dồn tích cao hơn làm giảm
thiểu vấn đề thông tin bất cân xứng và những vấn đề liên quan đến sự lựa chọn ngược giữa DN
và người cho vay, giúp người cho vay yên tâm với việc cung cấp những khoản nợ với kỳ hạn dài
hơn. Valipour and Moradbeygi (2011) tiến hành xem xét mối quan hệ giữa việc tài trợ bằng nợ
của doanh nghiệp và EQ. Kết quả cho thấy có mối quan hệ ngược chiều và có ý nghĩa thống kê
giữa nợ và EQ. Cụ thể hơn, tác giả phân loại nợ ra làm hai mức độ: cao và thấp. Với mức độ nợ
thấp, giữa nợ và EQ có mối quan hệ ngược chiều và có ý nghĩa thống kê. Điều này có nghĩa là,
DN vay nợ với tỷ lệ thấp thường ít có xu hướng quản trị lợi nhuận. Trong khi đó, những DN với
tỷ lệ nợ cao thường ghi nhận các khoản dồn tích nhiều hơn để quản trị lợi nhuận nhằm mục đích
tránh việc vi phạm những điều khoản trong hợp đồng vay nợ và giảm chi phí tài trợ bằng nợ.
265
4. XÂY DỰNG GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Chất lượng lợi nhuận (EQ)
Dựa trên cơ sơ các lý thuyết về chi phí đại diện, lý thuyết tín hiệu cũng tổng quan nghiên
cứu của các tác giả GARCÍA‐TERUEL et al. (2010), Valipour and Moradbeygi (2011), Chou et
al. (2011) đã cung cấp đầy đủ những bằng chứng cho thấy EQ có tác động đến DM. Bằng chứng
tìm được từ các nghiên cứu trước là một trong những lý do chủ yếu tạo động lực để sự tác động
này được nghiên cứu trong bối cảnh của Việt Nam. Chúng tôi xây dựng giả thuyết:
H1: Chất lượng lợi nhuận có ảnh hưởng ngược chiều với kỳ hạn nợ của DN
Tỷ lệ nợ (LV)
Lý thuyết tín hiệu cho rằng DN có xu hướng tăng DM khi vay nợ nhiều hơn nhằm đề phòng
xác suất về rủi ro thanh khoản, từ đó giảm nguy cơ phá sản (Stohs & Mauer, 1996). Mặc khác,
Myers (1977) cho rằng chi phí đại diện liên quan vấn đề đầu tư dưới mức có thể giảm nếu DN
giảm tỷ lệ nợ hoặc rút ngắn DM. Do đó, nếu DN giảm vay nợ nhằm hạn chế đầu tư dưới mức thì sẽ
không cần rút ngắn DM. Ngoại trừ nghiên cứu Costa, Laureano, and Laureano (2014) không tìm
thấy bằng chứng chứng tỏ mối tương quan giữa tỷ lệ nợ và DM, kết quả nghiên cứu thực nghiệm
của Barclay and Smith Jr (1995), Deesomsak et al. (2009) cho thấy thấy mối tương quan thuận
chiều giữa tỷ lệ nợ và DM, ủng hộ cho lý thuyết tín hiệu. Chúng tôi xây dựng giả thuyết:
H2: Tỷ lệ nợ có ảnh hưởng thuận chiều tới kỳ hạn nợ của DN
Lợi nhuận (PROF)
Nợ dài hạn có thể giúp DN chọn lựa thời điểm thuế phù hợp để mua lại hoặc tái phát hành
thêm nợ (Deesomsak et al., 2009). Mặt khác, lý thuyết tín hiệu cho rằng việc vay nợ ngắn hạn
giúp thị trường nhận diện được EQ của DN. Chỉ DN có lợi nhuận cao mới vay nợ ngắn hạn vì nó
được tin tưởng vào khả năng tái tài trợ trong tương lai (Flannery, 1986). Như vậy, theo lý thuyết
dựa trên thuế, DN có lợi nhuận nhiều sẽ sử dụng nhiều nợ dài hạn. Ngược lại, những lập luận
dựa vào lý thuyết tín hiệu cho rằng DN hoạt động tốt, có lợi nhuận sẽ sử dụng nhiều nợ ngắn
hạn. Chúng tôi xây dựng giả thuyết:
H3: Lợi nhuận có ảnh hưởng ngược chiều với kỳ hạn nợ của DN
Tính thanh khoản (LIQ)
Tỷ lệ thanh khoản cao có thể giảm hạn chế việc nâng cao năng lực của DN. Những tài sản
không bị hao mòn hoặc mất giá như đất được liên kết để tăng DM. Tài sản không bị hao mòn
nhưng là tài sản thanh khoản, chẳng hạn như hàng tồn kho, không giúp tăng kỳ hạn nợ. Khi mua
trái phiếu dài hạn hoặc cho vay dài hạn, các nhà cho vay sẽ đối mặt với rủi ro do điều kiện của
DN có thể xấu đi theo thời gian hoặc người quản lý sẽ chuyển sang những dự án có nhiều rủi ro
hơn trước khi đến hạn thanh toán. Do đó, người cho vay sẽ đưa ra những hạn chế khi cho vay dài
hạn nhằm kiểm soát rủi ro. Theo đó, DN có tính thanh khoản cao sẽ dễ dàng huy động vốn dài
hạn. Kết quả nghiên cứu của Deesomsak et al. (2009), Mateus and Terra (2013), Costa et al.
(2014) đều ủng hộ cho lập luận này. Chúng tôi xây dựng giả thuyết:
H4: Tính thanh khoản có ảnh hưởng thuận chiều với kỳ hạn nợ của DN
266
Tài sản hữu hình (TAN)
Tài sản sử dụng lâu dài nên được tài trợ bằng những khoản vay nợ dài hạn. Bằng nghiên
cứu thực nghiệm, Kirch and Terra (2012) phát hiện mối tương quan thuận chiều giữa tài sản hữu
hình và kỳ hạn nợ của DN. Những DN có nhiều tài sản hữu hình có thể thế chấp tốt hơn, chi phí
phá sản thấp hơn do đó có thể vay nợ với kỳ hạn dài hơn. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của
Mateus and Terra (2013) và Costa et al. (2014) lại không tìm thấy bằng chứng nào chứng minh
cho mối tương quan này. Tài sản hữu hình được xác định bởi tỷ lệ giữa tài sản cố định ròng và
tổng tài sản của DN. Chúng tôi xây dựng giả thuyết:
H5: Tính thanh khoản có ảnh hưởng thuận chiều với kỳ hạn nợ của DN
Quy mô doanh nghiệp (SIZE)
Lý thuyết chi phí đại diện cho rằng trong các DN nhỏ, khả năng phát sinh mâu thuẫn giữa
cổ đông và chủ nợ là rất lớn, đây là nguyên nhân chính dẫn đến các vấn đề như chuyển dịch rủi
ro hoặc thay thế tài sản. Ngoài ra, các DN nhỏ ít cung cấp thông tin ra bên ngoài khiến thị trường
bất cân xứng thông tin nghiêm trọng, các nhà đầu tư cũng như thị trường sẽ rất tốn kém để có
được thông tin của các DN này. Vì những lý do đó mà các DN nhỏ sẽ gặp nhiều hạn chế khi tiếp
cận thị trường vốn vay dài hạn. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của (Barclay & Smith Jr, 1995),
(Ozkan, 2002), (Deesomsak et al., 2009), (Kirch & Terra, 2012), (Costa et al., 2014) đều tìm
thấy bằng chứng ủng hộ cho lập luận này. Chúng tôi xây dựng giả thuyết:
H6: Quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng thuận chiều với kỳ hạn nợ của DN
Tốc độ tăng trưởng (GROWTH)
Theo lý thuyết chi phí đại diện, tác động của tốc độ tăng trưởng đến DM là không rõ ràng
vì những vấn đề chi phí đại diện của nợ trong DN sẽ được xem xét dưới góc độ đầu tư dưới mức
và đầu tư thái quá. Nhằm giảm thiểu chi phí đại diện, nếu xét trong trường hợp đầu tư dưới mức,
DN có nhiều cơ hội tăng trưởng sẽ sử dụng nhiều nợ ngắn hạn (Barnea, Haugen, & Senbet,
1980),(Myers, 1977), và ngược lại, nếu xét trong trường hợp đầu tư thái quá, lý thuyết chi phí đại
diện đưa ra giả thuyết rằng DN có nhiều cơ hội tăng trưởng sẽ sử dụng nhiều nợ dài hạn (Hart và
Moore, 1994). (Barclay & Smith Jr, 1995), (Ozkan, 2002) đã tìm thấy bằng chứng chứng tỏ DN
với nhiều cơ hội tăng trưởng sẽ có xu hướng sử dụng nhiều nợ ngắn hạn, trong khi (Juan García-
Teruel & Martinez-Solano, 2007) tìm thấy kết quả trái ngược. Ngoài ra còn có nhiều nghiên cứu
khác nhưng không tìm thấy mối quan hệ nào giữa cơ hội tăng trưởng và kỳ hạn nợ như (Kirch &
Terra, 2012). Chúng tôi xây dựng giả thuyết:
H7: Tốc độ tăng trưởng có ảnh hưởng thuận chiều với kỳ hạn nợ của DN
Thuế (TAX)
Khối lượng lợi ích lá chắn thuế từ việc DN vay nợ dài hạn không phụ thuộc vào giá trị nợ
mà nó phụ thuộc vào những yếu tố được giảm trừ thuế như khấu hao hoặc các khoản tín dụng
thuế. Giá trị của các yếu tố này tăng lên thì thu nhập chịu thuế sẽ giảm, do đó lợi ích từ thuế
giảm. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu thực nghiệm không rõ ràng, trong khi kết quả nghiên cứu
của Ozkan (2002), Mateus and Terra (2013) cho thấy lợi ích từ thuế càng nhiều thì DN càng sử
267
dụng nhiều nợ dài hạn, nhưng nghiên cứu của Kirch and Terra (2012) thu được kết quả ngược
lại. Chúng tôi xây dựng giả thuyết:
H8: Thuế có ảnh hưởng thuận chiều với kỳ hạn nợ của DN
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô hình nghiên cứu
Từ tổng quan nghiên cứu và các giả thuyết đã xây dựng, nhóm nghiên cứu xây dựng mô
hình nghiên cứ như sau:
DMit = β0 +β1EQit +β2LVit + β3PROFit+ β4LIQit+ β5TANit + β6SIZEit + β7 GROWTHit +
β8TAXit + εit (1)
Các biến trong mô hình nghiên cứu, được trình bày chi tiết tại Bảng 1.
Bảng 1: Các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu
Tên biến Mã biến Cách đo lường Ảnh
hưởng
Biến phụ thuộc
Kỳ hạn nợ DM Vay nợ dài hạn/(Vay nợ ngắn hạn + Vay nợ dài
hạn)
Biến độc lập
Chất lượng lợi nhuận EQ
Giá trị tuyệt đối phần dư mô hình ước lượng chất
lượng các khoản dồn tích nhân với (-1).
CACCit= α+ β1CFOit-1+ β2CFO it+ β3CFO it+1+ εit
-
Các biến kiểm soát
Tỷ lệ nợ LV Nợ phải trả/Tổng tài sản +
Lợi nhuận PROF EBIT/Tổng tài sản -
Tính thanh khoản LIQ Tài sản ngắn hạn/Nợ phải trả ngắn hạn +
Tài sản hữu hình TAN Giá trị còn lại của TSCĐ hữu hình/Tổng tài sản +
Quy mô doanh nghiệp SIZE Quy mô của doanh nghiệp theo tài sản Log
(Tổng tài sản) +
Tốc độ tăng trưởng GROWTH (Doanh thu kỳt - Doanh thu kỳt-1)/ Doanh thu
kỳt-1 +
Thuế TAX Thuế TNDN/Lợi nhuận trước thuế +
Nguồn: Tác giả xây dựng
Đo lường chất lượng lợi nhuận (EQ)
Để đo lường EQ, chúng tôi dưa trên chất lượng của các khoản dồn tích, (Patricia M
Dechow & Dichev, 2002) sử dụng vốn lưu động dồn tích hiện hành (Working capital accruals)
268
được hồi quy với dòng tiền hoạt động của năm trước đó, năm nay và năm tiếp theo liền kề, tất cả
chia cho tổng tài sản đầu kỳ.
�����
�����= ��
�������
�����+ ��
�����
�����+��
�������
����� (2)
Trong đó, ����� là vốn lưu động dồn tích của doanh nghiệp i trong năm t, được tính toán
bằng sự thay đổi trong tài sản ngắn hạn (∆CA) trừ đi sự thay đổi của tiền và tương đương tiền
(∆Cash), trừ sự thay đổi nợ ngắn hạn (∆CL) và cộng với sự thay đổi trong nợ vay ngắn hạn ngân
hàng (∆Debt).
������������, , �������lần lượt là dòng tiền hoạt động trong năm t-1, năm t và năm t+1.
Tất cả biến được chia cho tổng tài sản đầu kỳ (�����- Total assets).
Để đo lường EQ, là một biến được tạo ra từ phần dư của phương trình (2) sau khi thực hiện
hồi quy. Giá trị tuyệt đối của phần dư cho mỗi quan sát ngược chiều với chất lượng các khoản
dồn tích. Vậy giá trị phần dư cao hơn thể hiện chất lượng các khoản dồn tích thấp hơn. Để dễ
dàng cho việc giải thích biến này, chất lượng các khoản dồn tích phần dư được xác định là giá trị
âm của giá trị tuyệt đối của phần dư.
Dữ liệu nghiên cứu
Bài nghiên cứu này sử dụng dữ liệu được thu thập từ sàn chứng khoán Việt Nam trong giai
đoạn 2010 - 2018, nhưng để xác định các biến..dữ liệu được lấy từ 2008 - 2018. Dữ liệu được thu
thập từ các BCTC đã được kiểm toán của doanh nghiệp niêm yết sau khi loại bỏ các doanh
nghiệp thuộc lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Sau kinh xác định các chỉ tiêu, dữ liệu
được sử dụng để thực hiện phân tích và hồi quy là 3588 quan sát. Để xem xét, lựa chọn mô hình
phù hợp, nhóm nghiên cứu sử dụngcác phương pháp hồi quy FEM,REM và GLS,chúng tôi sử
dụng kiểm định F và kiểm định Hausman.Chúng tôi đã kiểm tra hiện tượng tự tương quan, kiểm
định hiện tượng phương sai thay đổi, kết quả kiểm định mô hình cho thấy các giá trị P-value
nhận được đều bằng 0.000 <α (5%), điều này hàm ý giả thuyết H0 là không có hiện tượng
phương sai thay đổi trong các mô hình bị bác bỏ với mức ý nghĩa 5%. Do đó, tác giả tiến hành
khắc phục khuyết tật của mô hình hồi quy bằng phương pháp hồi quy GLS
6. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Dữ liệu thống kê (bảng 2) cho thấyDM bình quân là 29.1%, độ lệch chuẩn là 32.3%.EQ
trung bình có giá trị bình quân là -0.024 nhỏ nhất là -0.257và cao nhất là 0, độ lệch chuẩn là
0.023. Tỷ lệ nợ (LV) chiếm tỷ lệ 53.2%, lợi nhuận trước thuế sau khi trừ đi chi phí lãi vay
(PROF) là 4.8%, hệ số thanh khoản (LIQ) của các DN bình quân là 1.812 và tỷ lệ đầu tư tài sản
cố định (TAN) là 20.5%. Quy mô của doanh nghiệp (SIZE) được đo lường là logarit tổng tài sản
của doanh nghiệp bình quân là 27.184, tốc độ tăng trưởng theo doanh thu (GROWTH) là 19.6%,
và tỷ lệ thuế thu nhập doanh nghiệp (TAX) là 19.2%.
269
Bảng 2: Thống kê mô tả
Các biến Số quan sát Trung bình Độ lệch
chuẩn
Giá trị
nhỏ nhất
Giá trị
lớn nhất
DM 3588 0.291 0.323 0 1
EQ 3588 -0.024 0.023 -0.257 0.000
LV 3588 0.532 0.200 0.039 0.913
PROF 3588 0.048 0.085 -0.872 0.991
LIQ 3588 1.812 1.518 0.058 30.739
TAN 3588 0.207 0.201 0 0.962
SIZE 3588 27.184 1.395 23.659 30.944
GROWT 3588 0.196 0.593 -0.756 6.771
TAX 3588 0.192 0.530 0.02 23.825
Nguồn: tác giả tính toán từ Stata 14.0
Hình 1: Kỳ hạn nợ giữa các ngành
Hình 1, cho thấy, DMcó sự khác nhau giữa các ngành, ngành có kỳ hạn nợ cao nhất là
ngành năng lượng bình quân 57%, cao thứ 2 là ngành công nghiệp có tỷ lệ bình quân là 39%,
ngành có DM thấp nhất nhất là ngành công nghệ 10%, kế đến là ngành hàng tiêu dùng 16%.
Bảng 3, cho kết quả hệ số tương quan giữa các biến, mục đích của kiểm tra mối tương
quan chặt chẽ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc để loại bớt các nhân tố có thể dẫn đến hiện
tượng đa cộng tuyến trước khi chạy mô hình hồi quy. Hệ số tương quan giữa các biến độc lập
trong mô hình không có cặp nào lớn hơn 0,8 do đó ít có khả năng xảy ra hiện tượng đa cộng
tuyến, khi sử dụng mô hình hồi quy nhóm tác giả hệ số VIF để kiểm tra. Sau khi thực hiện thống
kê mô tả và phân tích ma trận tương quan, chúng tôi tiến hành ước lượng mô hình nghiên cứu,
bằng phương pháp ước lượng FEM, REM và GLS.
Bảng 3: Ma trận tương quan
DM EQ LV PROF LIQ TAN SIZE GROWT TAX
DM 1
EQ -0.263 1
LV 0.0114 -0.01 1
PROF -0.005 -0.115 -0.443 1
270
LIQ 0.1355 0.045 -0.519 0.2476 1
TAN 0.3627 -0.325 -0.062 -0.006 -0.18 1
SIZE 0.2825 -0.006 0.2372 -0.007 -0.049 0.0018 1
GROWT 0.0693 -0.021 -0.008 0.1035 0.0628 -0.051 0.0667 1
TAX 0.0139 -0.008 -0.054 -0.01 0.0306 0.0103 -0.008 -0.01 1
Nguồn: tác giả tính toán từ Stata 14.0
Kết quả hồi theo phương pháp FEM, REM GLS (bảng 4)cho thấy rằng với đại diện EQ thể
hiện mối quan hệ ngược chiều với DM của các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu từ 2010 –
2018 ở mức ý nghĩa thống kê 1%. Kết quả này cho thấy rằng các doanh nghiệp có EQ càng cao
DM càng giảm, kết quả nghiên cứu phù hợp với giả thuyết ban đầu chúng tôi đã xây dựng.
Bảng 4: Kết quả hồi quy đa biến
VIF Mô hình FEM Mô hình REM Mô hình GLS
EQ 1.18 -0.370* -0.827*** -2.175***
LV 1.83 0.420*** 0.280*** 0.148***
PROF 1.31 0.0581 -0.0118 -0.203***
LIQ 1.59 0.0434*** 0.0457*** 0.0595***
TAN 1.4 0.377*** 0.504*** 0.593***
SIZE 1.19 0.0114 0.0475*** 0.0623***
GROWT 1.03 0.00323 0.00949 0.0304***
TAX 1 -0.000848 -0.0000348 0.00458
_cons
-0.411 -1.353*** -1.759***
N 3588 3588 3588
R-sq
within 0.0779 0.0703
between 0.2257 0.3296
overall 0.1982 0.2753
Kiểm định F F(8,2951) = 31.16
Prob > F = 0.0000
Kiểm định LM
Wald chi2(8) =518.69 Wald chi2(8) = 1497.97
Prob > chi2 = 0.0000 Prob > chi2 = 0.0000
Kiểm định
Hausman
chi2(8) = 105.85
Prob>chi2 = 0.0000
Modified Wald
test
chi2 (629) = 5.5e+31
Prob>chi2 = 0.0000
Wooldridge test F(1, 482) = 54.938
Prob > F = 0.0000
t statistics in brackets * p<0.1, ** p<0.05, *** p<0.01
Nguồn: tác giả tính toán từ Stata 14.0
271
Đối với các biến kiểm soát đều có tác động đến DM của DN tại mức ý nghĩa 1%, trong đó
tất cả các biến kiểm soát đều có quan hệ thuận chiều với DM, ngoại trừ nhân tố lợi nhuận có
quan hệ ngược chiều với kỳ hạn nợ. Khi xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến DM, thì EQ là nhân
tố có tác động mạnh nhất đến DM và có ảnh hưởng ngược chiều. Kết quả này nói lên thực tế với
những doanh nghiệp có EQ thấp sẽ có DM dài hơn.Đồng thời, kết quả phù hợp với nghiên cứu
thực nghiệm của Barclay and Smith Jr (1995), Ozkan (2002), Deesomsak et al. (2009), Kirch and
Terra (2012), Mateus and Terra (2013), Costa et al. (2014), đồng thời cung cấp bằng chứng ủng
hộ cho những lập luận của lý thuyết tín hiệu, lý thuyết chi phí đại diện và lý thuyết dựa trên thuế.
Chúng tôi tìm thấy bằng chứng cho thấy DM của DN tại Việt Nam chịu tác động thuận
chiều của các nhân tố gồm tính thanh khoản, tài sản hữu hình và quy mô DN. Trong đó, tài sản
hữu hình có tác động mạnh nhất đến DM (sau nhân tố EQ, là nhân tố chính của nghiên cứu). DN
có nhiều tài sản hữu hình sẽ có xu hướng sử dụng nhiều nợ vay dài hạn do có nhiều lợi thế trong
việc thế chấp tài sản đảm bảo để vay vốn ngân hàng. Kế đến là quy mô DN, DN có quy mô càng
lớn càng dễ tiếp cận với những nguồn vốn vay dài hạn. Tương tự như nghiên cứu của Kirch and
Terra (2012), chúng tôi chưa tìm thấy bằng chứng cho sự tác động của lợi nhuận lên cấu DM của
DN tại Việt Nam. Lợi nhuận là nhân tố có tác động không rõ ràng đến DM của DN.
Trong khi, các doanh nghiệp tại các quốc gia khác trên thế giới đều có sự cân nhắc về sự
phù hợp giữa kỳ hạn của tài sản và DM để đưa ra những quyết định về DM vay. Những khoản
vay dài hạn được dùng để đầu tư tài sản cố định, tài sản có thời gian sử dụng lâu dài. Tại Việt
Nam, các doanh nghiệp chưa quan tâm đến sự phù hợp giữa kỳ hạn của tài sản và DM mà đặc
biệt quan tâm nhiều đến tài sản hữu hình và thường dùng chính những tài sản đó để làm tài sản
đảm bảo, thế chấp vào ngân hàng để vay nợ dài hạn.
7. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Với mục tiêu nghiên cứu ảnh hưởng của EQ đến DM của doanh nghiệp tại Việt Nam,
chúng tôi đã thực hiện hồi quy với các phương pháp phù hợp trên dữ liệu bảng, được thu thập từ
3588 quan sát doanh nghiệp trong giai đoạn từ năm 2010- 2018. Dựa trên kết quả nghiên cứu,
chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sau:
- Với những kết quả nêu trên, nghiên cứu có những đóng góp hứu ích đối với các đối tượng
sử dụng BCTC trong việc xem xét EQ. Đối với tổ chức tín dúng, việc xác định EQ liên quan đến
DM, phần nào trong việc xem xét khả năng tạo tiền để thực hiện hiệu quả hợp đồng cho vay nợ
và những nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của doanh nghiệp. Khi EQ được đánh giá cao,
nghĩa là thành phần dòng tiền trong lợi nhuận được báo cáo chiếm tỷ trọng lớn, đồng nghĩa với
việc doanh nghiệp có khả năng tạo tiền để đáp ứng các điều kiện khoản vay. Kết quả nghiên cứu
cung cấp cho nhà đầu tư một công cụ hữu ích để đánh giá sức khỏe tài chính của các doanh
nghiệp. Từ đó, nhà đầu tư có thể đầu tư chính xác và hợp lý hơn dựa trên những dữ liệu có được.
- Quy mô doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng có tác động đến DM nên nhằm hạn chế các
khoản chi phí phát sinh do vấn đề đại diện, doanh nghiệp cần xem xét quy mô cũng như tốc độ
tăng trưởng của doanh nghiệp trong tương lai mà đưa ra quyết định DM nợ hợp lý. doanh nghiệp
có quy mô lớn, có nhiều cơ hội tăng trưởng sẽ thực hiện chính sách nợ với kỳ hạn dài chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng nợ.
272
- Tính thanh khoản có ảnh hưởng thuận chiều đến DM. Đây là nhân tố thể hiện đặc điểm
về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có đặc điểm chứng tỏ tình hình tài chính
tốt sẽ thực hiện chính sách nợ với kỳ hạn dài hơn, ngược lại doanh nghiệp có tình hình tài chính
không tốt nên sử dụng nhiều nợ ngắn hạn. Điều này giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận được
nguồn vốn vay, lãi suất cho vay ngắn hạn thường thấp hơn vay dài hạn nên doanh nghiệp giảm
bớt được chi phí vay nợ.
- Doanh nghiệp khi xây dựng DM cũng nên quan tâm đến giá trị tài sản cố định hiện tại
của doanh nghiệp cũng như mức độ phù hợp giữa kỳ hạn của tài sản và kỳ hạn của nợ. Giá trị tài
sản cố định liên quan mật thiết đến giá trị thế chấp và giá trị của khoản vay. Nếu doanh nghiệp
có nhiều tài sản cố định sẽ có nhiều khả năng vay nợ dài hạn hơn và ngược lại. doanh nghiệp
thỏa đặc điểm này cần thực hiện chính sách nợ với kỳ hạn dài. Và tài sản có thời gian sử dụng
càng dài càng nên tài trợ bằng vốn vay dài hạn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Barclay, M. J., & Smith Jr, C. W. (1995). The maturity structure of corporate debt. The journal
of finance, 50(2), 609-631.
Barnea, A., Haugen, R. A., & Senbet, L. W. (1980). A rationale for debt maturity structure and
call provisions in the agency theoretic framework. The journal of finance, 35(5), 1223-
1234.
Bellovary, J. L., Giacomino, D. E., & Akers, M. D. (2005). Earnings quality: It's time to measure
and report. The CPA Journal, 75(11), 32-37.
Bricker, R., Previts, G., Robinson, T., & Young, S. (1995). Financial analyst assessment of
company earnings quality. Journal of Accounting, Auditing & Finance, 10(3), 541-554.
Chou, D.-W., Ling, P. J., Chan, C.-Y., & Chang, S.-C. (2011). The Impact of Earnings
Management on the Choice of Debt Maturity Structure. Management Review, 30, 137-151.
Costa, S., Laureano, L. M., & Laureano, R. M. (2014). The debt maturity of Portuguese SMEs:
The aftermath of the 2008 financial crisis. Procedia-Social and Behavioral Sciences, 150,
172-181.
Dechow, P. M., & Dichev, I. D. (2002). The quality of accruals and earnings: The role of accrual
estimation errors. The Accounting Review, 77(s-1), 35-59. doi:
https://doi.org/10.2308/accr.2002.77.s-1.35
Dechow, P. M., & Schrand, C. M. (2004). Earnings quality. Charlottesville, VA: Research
Foundation of CFA Institute.
Deesomsak, R., Paudyal, K., & Pescetto, G. (2009). Debt maturity structure and the 1997 Asian
financial crisis. Journal of Multinational Financial Management, 19(1), 26-42.
Diamond, D. W. (1991). Debt maturity structure and liquidity risk. The quarterly journal of
economics, 106(3), 709-737.
273
Flannery, M. J. (1986). Asymmetric information and risky debt maturity choice. The journal of
finance, 41(1), 19-37.
Fung, S. Y., & Goodwin, J. (2013). Short-term debt maturity, monitoring and accruals-based
earnings management. Journal of Contemporary Accounting & Economics, 9(1), 67-82.
GARCÍA‐TERUEL, P. J., MARTÍNEZ‐SOLANO, P., & SÁNCHEZ‐BALLESTA, J. P. (2010).
Accruals quality and debt maturity structure. Abacus, 46(2), 188-210. doi:
https://doi.org/10.1111/j.1467-6281.2010.00312.x
Guedes, J., & Opler, T. (1996). The determinants of the maturity of corporate debt issues. The
journal of finance, 51(5), 1809-1833.
Gupta, M., & Fields, L. P. (2006). Debt maturity structure and earnings management. The
Financial Management Association.
Healy, P. M., & Wahlen, J. M. (1999). A review of the earnings management literature and its
implications for standard setting. Accounting horizons, 13(4), 365-383.
Highfield, M. J. (2008). On the maturity of incremental corporate debt issues. Quarterly Journal
of Finance and Accounting, 45-67.
Johnson, S. A. (2003). Debt maturity and the effects of growth opportunities and liquidity risk on
leverage. The review of financial studies, 16(1), 209-236.
Juan García-Teruel, P., & Martinez-Solano, P. (2007). Effects of working capital management
on SME profitability. International Journal of Managerial Finance, 3(2), 164-177. doi:
https://doi.org/10.1108/17439130710738718
Kale, J. R., & Noe, T. H. (1990). Risky debt maturity choice in a sequential game equilibrium.
Journal of Financial research, 13(2), 155-166.
Kim, D., & Qi, Y. (2010). Accruals quality, stock returns, and macroeconomic conditions. The
Accounting Review, 85(3), 937-978. doi: DOI: 10.2308/accr.2010.85.3.937
Kirch, G., & Terra, P. R. S. (2012). Determinants of corporate debt maturity in South America:
Do institutional quality and financial development matter? Journal of Corporate Finance,
18(4), 980-993.
Lewis, C. M. (1990). A multiperiod theory of corporate financial policy under taxation. Journal
of Financial and Quantitative analysis, 25(1), 25-43.
Liêm, N. T., Cành, N. T., & Thành, N. C. (2018). Hạn chế tài chính và cấu trúc kỳ hạn nợ tại các
doanh nghiệp Việt Nam. Tạp chí nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á(JED, Vol. 29
(2)), 5-23.
Linh, T. T. T., & Hạnh, M. H. (2015). Chất lượng báo cáo tài chính và kì hạn nợ ảnh hưởng đến
hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam. Tạp chí Phát triển kinh tế(JED, Vol. 26 (10)),
27-50.
274
Liu, Y., Ning, Y., & Davidson III, W. N. (2010). Earnings management surrounding new debt
issues. Financial Review, 45(3), 659-681. doi: https://doi.org/10.1111/j.1540-
6288.2010.00265.x
Mateus, C., & Terra, P. (2013). Leverage and the maturity structure of debt in emerging markets.
Journal of Mathematical Finance, 3, 46-59.
Modigliani, F., & Miller, M. H. (1958). The cost of capital, corporation finance and the theory of
investment. The American economic review, 48(3), 261-297.
Modigliani, F., & Miller, M. H. (1963). Corporate income taxes and the cost of capital: a
correction. The American economic review, 433-443.
Myers, S. C. (1977). Determinants of corporate borrowing. Journal of financial economics, 5(2),
147-175.
Ozkan, A. (2002). The determinants of corporate debt maturity: evidence from UK firms.
Applied financial economics, 12(1), 19-24.
Schipper, K., & Vincent, L. (2003). Earnings quality. Accounting horizons, 17, 97-110.
Sercu, P., Vander Bauwhede, H., & Willekens, M. (2006). Earnings management and debt.
DTEW-AFI_0619, 1-25.
Stohs, M. H., & Mauer, D. C. (1996). The determinants of corporate debt maturity structure.
Journal of business, 69, 279-312.
Valipour, H., & Moradbeygi, M. (2011). Corporate debt financing and earnings quality. Journal
of Applied Finance and Banking, 1(3), 140-157.
275
Hoàn thiện tổ chức con người trong hệ thống thông tin kế toán
quản trị chi phí của các doanh nghiệp da giầy Việt Nam
Nguyễn Văn Hải
Trường Đại học Lạc Hồng
Email: nvhai2612@gmail.com
Mã bài: HTQG.57 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 17/11/2019
Ngày nhận bài: 12/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 20/11/2019
Tóm tắt
Tổ chức con người luôn là vấn đề được các doanh nghiệp quan tâm, bài viết nghiên cứu
thực trạng vấn đề tổ chức con người trong hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí của các
doanh nghiệp da giầy Việt Nam. Tác giả đã sử dụng phương pháp phỏng vấn và phát phiếu khảo
sát 197 doanh nghiệp da giầy, trên cơ sở số liệu khảo sát tác giả đã phân tích thực trạng về việc tổ
chức con người liên quan đến các vấn đề như: các thành phần của tổ chức con người trong hệ
thống thông tin kế toán quản trị chi phí; vấn đề kiến thức, kỹ năng, thái độ của người làm công tác
hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí; vấn đề đào tạo và thực hiện nhiệm vụ của người làm
công tác hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị
để hoàn thiện tổ chức con người trong hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí của các doanh
nghiệp da giầy Việt Nam.
Từ khóa: Tổ chức con người, hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí, doanh nghiệp da
giầy Việt Nam.
1. GIỚI THIỆU
Hiện nay, da giầy là ngành có sản lượng xuất khẩu lớn thứ ba tại Việt Nam. Erwin
Schweisshelm (2016) thống kê được khoảng 700 doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành da
giầy, thu hút hơn một triệu công nhân làm việc. Kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành năm 2016
đạt 16,2 tỷ USD, năm 2017 là gần 18 tỷ USD (Nguồn: Hiệp hội Da Giầy - Túi xách Việt Nam,
2016). Theo mục tiêu chung phát triển đến năm 2020 là ngành Da - Giầy Việt Nam sẽ trở thành
một ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn quan trọng của nền kinh tế quốc dân, tiếp tục giữ vị
trí trong nhóm các nước sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm Da - Giầy hàng đầu thế giới và tạo
thêm nhiều việc làm cho xã hội (Bộ Công Thương, 2010).
Tuy nhiên, một số nghiên cứu và báo cáo cho thấy lãnh đạo các doanh nghiệp da giầy Việt
Nam đang gặp phải trở ngại trong việc ra quyết định: nguyên nhân chủ yếu là do tốc độ truy cập
276
vào thông tin kế toán quản trị chi phí chậm, thông tin không rõ ràng, nhất quán, chưa có tính ứng
dụng cao (Lạc Phong, 2016). Đi tìm nguyên nhân cho vấn đề này, theo kết quả khảo sát được
thực hiện tại các doanh nghiệp da giầy thì chỉ có một số ít các doanh nghiệp đã có hệ thống
thông tin kế toán quản trị chi phí (HTTT KTQTCP), chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, còn lại các doanh nghiệp trong nước thì chưa tổ chức HTTT KTQTCP vì chưa nhận
thức được tầm quan trọng của thông tin do KTQTCP cung cấp đối với quản lý doanh nghiệp.
Hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí là một tập hợp các thông tin về nguồn lực, như
con người và thiết bị, được tổ chức để chuyển đổi dữ liệu tài chính và các dữ liệu khác thành
thông tin về chi phí hữu ích cho nhà quản lý (Bodnar & Hopwood, 2001). Tổ chức
HTTTKTQTCP thông qua các yếu tố cấu thành gồm có sáu thành phần (Romney, Steinbart,
Mula, McNamara, & Tonkin, 2012), cụ thể là: (1) Những người sử dụng hệ thống, (2) Các quy
trình và hướng dẫn sử dụng để thu thập, xử lý và lưu trữ dữ liệu, (3) Dữ liệu, (4) Phần mềm được
sử dụng để xử lý dữ liệu, (5) Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm máy tính, thiết bị ngoại
vi, và các thiết bị truyền thông mạng được sử dụng trong hệ thống thông tin kế toán (AIS) và (6)
Kiểm soát nội bộ và các biện pháp an toàn để bảo vệ dữ liệu AIS. James A. O'Brien và George M.
Marakas (2010) tuyên bố rằng các thành phần có mối quan hệ với nhau và tất cả đều có quan hệ hỗ
trợ lẫn nhau để đạt được một mục tiêu chung thông qua một quá trình chuyển đổi từ đầu vào đến
đầu ra. Trong bài báo này, chúng tôi sẽ trình bày kết quả nghiên cứu của chúng tôi về thực trạng tổ
chức con người trong HTTT KTQTCP trong các doanh nghiệp (DN) da giầy, từ đó đề xuất một số
kiến nghị về tổ chức con người trong HTTT KTQTCP tại các DN da giầy Việt Nam.
2. NỘI DUNG VỀ TỔ CHỨC CON NGƯỜI TRONG HTTT KTQTCP
Theo Bourgeois (2014) con người trong tổ chức hệ thống thông tin của doanh nghiệp bao
gồm người thiết kế hệ thống thông tin, người phát triển hệ thống thông tin, người hỗ trợ hệ thống
thông tin, và quan trọng nhất là người sử dụng thông tin.
Saeidi, Prasad, và Saremi (2015) những người sử dụng HTTTKT chủ yếu là người thiết kế,
kế toán, kiểm toán viên, nhà quản lý.
Như vậy, việc tổ chức con người trong HTTT KTQTCP cũng cần phải có các thành phần
như người thiết kế HTTT KTQTCP, người phát triển HTTT KTQTCP, người hỗ trợ HTTT
KTQTCP và người sử dụng HTTT KTQTCP.
Người thiết kế HTTT KTQTCP
Người thiết kế HTTT KTQTCP là những người đóng một vai trò quan trọng trong việc
thiết kế, phát triển và xây dựng HTTT KTQTCP. Những người thiết kế HTTT KTQTCP rất có
kỹ thuật và có một nền tảng trong lập trình và toán học. Những người làm việc trong việc thiết kế
để tạo ra các HTTTT KTQTCP có tối thiểu bằng cử nhân về khoa học máy tính hoặc HTTT mặc
dù đây không phải là một yêu cầu bắt buộc (Bourgeois, 2014).
Nhiệm vụ của những người thiết kế HTTT KTQTCP là phân tích hệ thống. Phân tích hệ
thống là việc xác định nhu cầu của HTTT KTQTCP và thiết kế ra một HTTT để đáp ứng những
nhu cầu đó (Saeidi và ctg., 2015). Những nhà thiết kế sẽ làm việc với một nhóm người hoặc
277
phòng ban có yêu cầu nghiệp vụ để xác định các chi tiết cụ thể của một HTTT KTQTCP cần
được xây dựng (Bourgeois, 2014). Điều này, sẽ giúp những nhà thiết kế hiểu rõ về doanh nghiệp,
về các quy trình nghiệp vụ liên quan của doanh nghiệp, các nhà thiết kế hệ thống sẽ xác định các
bên liên quan khác nhau trong hệ thống và làm việc với các cá nhân liên quan thích hợp trong
tiến trình.
Khi các yêu cầu được xác định, nhà phân tích sẽ bắt đầu quá trình xây dựng các yêu cầu
này vào một HTTT KTQTCP. Một nhà phân tích giỏi sẽ đưa ra những giải pháp công nghệ khác
nhau để tích hợp được tất cả các yêu cầu này vào một HTTT KTQTCP dựa trên những ràng buộc
ngân sách của doanh nghiệp, những hạn chế về công nghệ và văn hóa. Khi giải pháp được lựa
chọn, nhà phân tích sẽ xây dựng một tài liệu chi tiết để mô tả HTTT KTQTCP, tài liệu này sẽ
được xây dựng bằng ngôn ngữ kỹ thuật của các nhà phát triển hệ thống (Bourgeois, 2014).
Một nhà phân tích hệ thống nói chung không phải là người thực hiện sự phát triển thực sự
của HTTT KTQTCP. Tài liệu thiết kế được tạo ra bởi nhà phân tích hệ thống cung cấp chi tiết
cần thiết để tạo ra hệ thống và được trao cho một lập trình viên (hoặc nhóm các lập trình viên) để
thực hiện việc tạo ra HTTT KTQTCP (Saeidi và ctg., 2015).
Người phát triển HTTT KTQTCP
Người phát triển HTTT KTQTCP thường là các lập trình viên. Các lập trình viên thường
cố gắng để hoàn thành các thông số kỹ thuật thiết kế được cung cấp bởi nhà phân tích HTTT
KTQTCP. Một lập trình viên có thể làm việc một mình trong một khoảng thời gian dài hoặc có
thể làm việc trong một nhóm với các lập trình viên khác, một lập trình viên cần phải hiểu các
quy trình phức tạp của HTTT KTQTCP (Bourgeois, 2014).
Người hỗ trợ HTTT KTQTCP
Người hỗ trợ HTTT KTQTCP thường là các kỹ sư máy tính và quản trị công nghệ thông
tin. Kỹ sư máy tính thiết kế các thiết bị máy tính mà chúng ta sử dụng hàng ngày. Có nhiều loại
kỹ sư máy tính, những người làm việc trên nhiều loại thiết bị và hệ thống khác nhau. Một số
công việc kỹ thuật nổi bật như kỹ sư phần cứng, kỹ sư phần mềm, kỹ sư hệ thống, kỹ sư mạng
(Bourgeois, 2014). Những người quản trị công nghệ thông tin phải giữ cho HTTT KTQTCP
chạy và được cập nhật thường xuyên để đảm bảo các bộ phận có liên quan sử dụng hiệu quả nhất
nguồn tài nguyên (Saeidi và ctg., 2015).
Người sử dụng HTTT KTQTCP
Người thiết kế HTTT KTQTCP là những người sử dụng chính HTTT KTQTCP. Một số
người gọi những người này là các nhà phân tích hệ thống. Dù được gọi với tên gọi gì thì người
thiết kế HTTT KTQTCP là người sử dụng chính của HTTT KTQTCP trong môi trường kinh
doanh hiện đại (Bourgeois, 2014).
Kế toán là người sử dụng HTTT KTQTCP, điều này là hợp lý, vì tất cả các hệ thống xử lý
các giao dịch tài chính ảnh hưởng đến chức năng kế toán theo một cách nào đó. Kế toán phải
cung cấp các yêu cầu của họ cho các chuyên gia thiết kế HTTT KTQTCP (Saeidi và ctg., 2015).
278
Kiểm toán viên nội bộ sử dụng HTTT KTQTCP để thực hiện nhiệm vụ của mình hiệu quả.
HTTT KTQTCP cho phép kiểm toán viên nội bộ thu thập các thông tin cần thiết, lập kế hoạch,
xây dựng và thực hiện các cuộc kiểm toán (Saeidi và ctg., 2015).
Nhà quản lý: các nhà quản lý dựa vào thông tin do HTTT KTQTCP cung cấp để đưa ra các
quyết định sáng suốt trong sản xuất, kinh doanh (Saeidi và ctg., 2015).
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp phỏng vấn: Việc phỏng vấn tập trung vào các đối tượng đại diện các doanh
nghiệp da giầy Việt Nam vàcác chuyên gia trong lĩnh vực tổ chức HTTT KTQTCP nhằm xác lập
vấn đề, nhận dạng các chính sách và cách thức để tổ chức HTTT KTQTCP trong các doanh
nghiệp da giầy Việt Nam.
Phương pháp phát phiếu khảo sát: phiếu khảo sát được sử dụng để thông thập thông tin về
thực trạng tổ chức con người trong HTTT KTQTCP trong các doanh nghiệp da giầy Việt Nam
qua việc lấy ý kiến cấp quản lý và kế toán của một số doanh nghiệp da giầy Việt Nam.
Về công cụ xử lý dữ liệu: nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS để thống kê mô tả và vận
dụng một số phương pháp khác như tổng hợp, phân tích, và so sánh để đưa ra các nhận định,
đánh giá cụ thể, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp cụ thể để hoàn thiện tổ chức con người trong
HTTT KTQTCP.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu được trình bày tại Bảng 1.
Bảng 1: Kết quả thống kê, mô tả
Số lượng mẫu khảo sát (N=197)
Tiêu chí Số lượng Tỷ lệ
Giới tính
Nam 41 20,6%
Nữ 156 79,4%
Kinh nghiệm
< 2 năm 10 5,3%
Từ 2 – 5 năm 42 21,2%
Từ 6 – 10 năm 90 45,8%
> 10 năm 55 27,7%
Nguồn vốn kinh doanh
Vốn đầu tư nước ngoài 39 20%
Vốn tư nhân 158 80%
(Nguồn: tổng hợp từ khảo sát)
279
Qua kết quả khảo sát, phỏng vấn sâu với giám đốc tài chính, kế toán trưởng, kế toán tổng
hợp tại các DN da giầy cho thấy:
“Hầu hết các doanh nghiệp chưa tổ chức bộ máy kế toán quản trị riêng biệt mà chỉ có bộ
phận (nhân viên kế toán) đảm nhận nhiệm vụ của KTQT nói chung và KTQTCP nói riêng.”
Kết quả khảo sát đối với các thành phần của tổ chức con người trong tổ chức HTTT
KTQTCP tại các doanh nghiệp được thể hiện tại Bảng 2.
Bảng 2. Kết quả khảo sát đối với các thành phần của tổ chức con người trong HTTT KTQTCP
tại các DN da giầy
Tên thành phần Kết quả khảo sát Tỷ lệ
1. Người thiết kế HTTT KTQTCP 197/197 100%
2. Người phát triển HTTT KTQTCP 0/197 0%
3. Người hỗ trợ HTTT KTQTCP 35/197 17,77%
4. Người sử dụng HTTT KTQTCP 197/197 100%
(Nguồn: tổng hợp từ khảo sát)
Về người thiết kế HTTT KTQTCP: kết quả khảo sát và phỏng vấn sâu cho thấy các DN mặc
dù chưa tổ chức bộ máy KTQT riêng biệt nhưng cũng đã rất quan tâm đến công việc của KTQT
nói chung và KTQTCP nói riêng, bằng chứng của vấn đề này là 100% các DN đều trả lời có
người thiết kế HTTT KTTCP. Tuy nhiên, người thiết kế HTTT KTQTCP được đề cập đến trong
câu trả lời của giám đốc tài chính, kế toán trưởng, kế toán tổng hợp là những kế toán viên đang
làm nhiệm vụ thiết kế các biểu mẫu báo cáo liên quan đến nội dung của KTQTCP mà nhà quản
lý yêu cầu.
Về người phát triển HTTT KTQTCP: do hầu hết các doanh nghiệp chưa xây dựng một
HTTT KTQTCP trên cơ sở thiết kế có hệ thống, nên đội ngũ phát triển HTTT KTQTCP tại các
doanh nghiệp da giầy cũng chưa có bộ phận riêng biệt. Kết quả phỏng vấn cho thấy 100% DN
được khảo sát không có người chuyên trách để phát triển HTTT KTQTCP.
Về người hỗ trợ HTTT KTQTCP: kết quả khảo sát cho thấy có 162/197 DN (tương đương
82,23%) không có người hỗ trợ HTTT KTQTCP vì theo các giám đốc tài chính, kế toán trưởng,
kế toán tổng hợp đối với những doanh nghiệp này thì các báo cáo KTQTCP chủ yếu do kế toán
hoặc các bộ phận có liên quan đang kiêm nhiệm để báo cáo theo yêu cầu của nhà quản lý. Kết
quả khảo sát cho thấy có 35/197DN (tương đương 17,77%) có bộ phận hỗ trợ HTTT KTQTCP là
do các doanh nghiệp này đã và đang triển khai sử dụng ERP, tuy nhiên việc triển khai này vẫn
còn hết sức mới mẻ và những người hỗ trợ này chủ yếu là hướng dẫn cách thức vận hành phân
hệ có liên quan đến công việc kế toán và KTQTCP.
Về người sử dụng HTTT KTQTCP: Kết quả khảo sát cho thấy 100% các DN đều có người
sử dụng HTTT KTQTCP chính là kế toán và nhà quản lý. Tại các DN da giầy ngoài việc xây
dựng định mức chi phí nguyên vật liệu do bộ phận định mức lập, còn lại các báo cáo quản trị chi
phí khác do bộ phận kế toán thực hiện theo yêu cầu và sự chỉ đạo của nhà quản lý.
280
Kết quả khảo sát của nghiên cứu về kiến thức, kỹ năng, thái độ của người làm công tác
HTTT KTQTCP trong các DN da giầy được thể hiện trong bảng 3.
Bảng 3: Kết quả khảo sát kiến thức, kỹ năng, thái độ của người làm công tác HTTT KTQTCP
tại các DN da giầy
Câu hỏi nghiên cứu GTTB của
197 DN
Số lượng DN có
GTTB < 3
Số lượng DN
có GTTB > 3
1. Kiến thức của người làm công tác
HTTT KTQTCP trong công ty của
Ông/Bà đáp ứng được yêu cầu công
việc?
3,78 52/197 145/197
2. Kỹ năng của người làm công tác
HTTT KTQTCP trong công ty của
Ông/Bà giúp cho họ hoàn thành công
việc được giao?
3,84 48/197 149/197
3. Thái độ của người làm công tác
HTTT KTQTCP trong công ty của
Ông/Bà giúp cho họ xử lý tốt công việc
được giao?
3,77 49/197 148/197
(Nguồn: tổng hợp từ khảo sát)
Kết quả khảo sát của nghiên cứu về “Kiến thức của người làm công tác HTTT KTQTCP
trong công ty Ông/Bà đáp ứng được yêu cầu công việc?” (nếu đánh giá theo thang đo Likert với
mức 1: là hoàn toàn không đáp ứng yêu cầu công việc, mức 5: là hoàn toàn đáp ứng tốt được yêu
cầu công việc) có giá trị trung bình của 197 DN được khảo sát bằng 3,78. Trong đó số lượng DN
có giá trị trung bình nhỏ hơn 3 là 52 DN, số lượng DN có giá trị trung bình lớn hơn 3 là 145 DN.
Như vậy, có thể kết luận kiến thức của người làm công tác HTTT KTQTCP chỉ mới đáp ứng
được yêu cầu cơ bản của công việc,thực hiện được các báo cáo theo yêu cầu của các cấp quản lý
(lớn hơn mức 3), chứ chưa đáp ứng tốt yêu cầu công việc (nhỏ hơn mức 5).
Kết quả khảo sát của nghiên cứu về “Kỹ năng của người làm công tác HTTT KTQTCP
trong công ty của Ông/Bà giúp họ hoàn thành công việc được giao?” (nếu đánh giá theo thang
đo likert với mức 1: là hoàn toàn không hoàn thành công việc được giao, mức 5: là hoàn thành
tốt được yêu cầu công việc được giao) có giá trị trung bình của 197 DN được khảo sát bằng 3,84.
Trong đó số lượng DN có giá trị trung bình nhỏ hơn 3 là 48 DN, số lượng DN có giá trị trung
bình lớn hơn 3 là 149 DN. Như vậy, có thể kết luận kỹ năng của người làm công tác HTTT
KTQTCP chỉ mới đáp ứng mức độ hoàn thành công việc được giao (lớn hơn mức 3), chứ chưa
đáp ứng mức độ hoàn thành tốt yêu cầu công việc được giao (nhỏ hơn mức 5).
Kết quả khảo sát của nghiên cứu về “Thái độ của người làm công tác HTTT KTQTCP
trong công ty Ông/Bà giúp họ xử lý tốt công việc được giao?” (nếu đánh giá theo thang đo likert
với mức 1: là hoàn toàn không xử lý tốt công việc được giao, mức 5: là hoàn toàn xử lý tốt công
281
việc được giao) có giá trị trung bình của 197 DN được khảo sát bằng 3,77. Trong đó số lượng
DN có giá trị trung bình nhỏ hơn 3 là 49 DN, số lượng DN có giá trị trung bình lớn hơn 3 là 148
DN. Như vậy, có thể kết luận thái độ của người làm công tác HTTT KTQTCP chỉ mới đáp ứng
mức độ xử lý được công việc được giao (lớn hơn mức 3), chứ chưa đáp ứng mức độ xử lý tốt yêu
cầu công việc được giao (nhỏ hơn mức 5).
Kết quả khảo sát của nghiên cứu về việc đào tạo và việc thực hiện nhiệm vụ của người làm
công tác HTTT KTQTCP trong các DN da giầy được thể hiện trong bảng 4.
Bảng 4. Kết quả khảo sát về việc đào tạo và việc thực hiện nhiệm vụ của người làm công tác
HTTT KTQTCP tại các DN da giầy
Câu hỏi nghiên cứu GTTB của
197 DN
Số lượng DN có
GTTB < 3
Số lượng DN
có GTTB > 3
1. Việc đào tạo cho người làm công tác
HTTT KTQTCP trong công ty của Ông/Bà
giúp họ làm việc hiệu quả hơn?
3,79 51/197 146/197
2. Người làm công tác HTTT KTQTCP
trong công ty Ông/Bà đã làm tốt nhiệm vụ
của mình?
3,81 47/197 150/197
(Nguồn: tổng hợp từ khảo sát)
Kết quả khảo sát của nghiên cứu về “Việc đào tạo cho người làm công tác HTTT KTQTCP
trong công ty của Ông/Bà giúp họ làm việc hiệu quả hơn?”(nếu đánh giá theo thang đo likert với
mức 1: là hoàn toàn không làm việc hiệu quả hơn, mức 5: là hoàn toàn làm việc hiệu quả hơn) có
giá trị trung bình của 197 DN được khảo sát bằng 3,79. Trong đó số lượng DN có giá trị trung
bình nhỏ hơn 3 là 51 DN, số lượng DN có giá trị trung bình lớn hơn 3 là 146 DN. Như vậy, có
thể kết luận việc đào tạo cho người làm công tác HTTT KTQTCP chỉ mới đáp ứng mức độ làm
việc hiệu quả (lớn hơn mức 3), chứ chưa đáp ứng mức độ hoàn toàn làm việc hiệu quả hơn (nhỏ
hơn mức 5).
Kết quả khảo sát của nghiên cứu về “Người làm công tác HTTT KTQTCP trong công ty
Ông/Bà đã làm tốt nhiệm vụ của mình?”(nếu đánh giá theo thang đo likert với mức 1: là hoàn
toàn không làm tốt nhiệm vụ, mức 5: là hoàn toàn làm tốt nhiệm vụ) có giá trị trung bình của 197
DN được khảo sát bằng 3,81. Trong đó số lượng DN có giá trị trung bình nhỏ hơn 3 là 47 DN, số
lượng DN có giá trị trung bình lớn hơn 3 là 150 DN. Như vậy, có thể kết luận người làm công
tác HTTT KTQTCP chỉ mới hoàn thành nhiệm vụ (lớn hơn mức 3), chứ chưa đáp ứng mức độ
hoàn toàn tốt nhiệm vụ (nhỏ hơn mức 5).
Như vậy, kết quả nghiên cứu thực trạng về tổ chức con người của HTTT KTQTCP trong
các DN da giầy cho thấy mặc dù các DN da giầy chưa tổ chức bộ máy KTQT nói chung và bộ
máy KTQTCP nói riêng nhưng các DN vẫn có nhân viên kế toán kiêm nhiệm thực hiện nhiệm vụ
của HTTT KTQTCP. Mặc dù, HTTT KTQTCP của các DN da giầy chưa có người thiết kế
chuyên nghiệp, chưa có người phát triển, người hỗ trợ HTTT KTQTCP nếu có là những nhân
282
viên IT chủ yếu để hỗ trợ về máy tính hoặc hướng dẫn sử dụng phần mềm (nếu có), người sử
dụng HTTT KTQTCP chủ yếu là kế toán viên kiêm nhiệm hoặc người phụ trách trực tiếp đối với
các báo cáo nội bộ về chi phí cho nhà quản lý, và các nhà quản lý trực tiếp chịu trách nhiệm quản
lý về quản trị chi phí cho DN; nhưng kết quả khảo sát thực trạng về kiến thức, kỹ năng, thái độ,
vấn đề thực hiện nhiệm vụ và vấn đề đào tạo cho những người làm công tác HTTT KTQTCP đã
đáp ứng được yêu cầu cơ bản của HTTT KTQTCP trong các DN da giầy.
5. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN TỔ CHỨC CON NGƯỜI
Qua nghiên cứu thực trạng về tổ chức con người trong tổ chức HTTTKT nói chung và
HTTT KTQTCP nói riêng, nghiên cứu nhận thấy gần như các DN da giầy Việt Nam đều chưa
có sự chuẩn bị đầy đủ các thành phần về tổ chức con người trong HTTT KTQTCP như là
người thiết kế HTTT KTQTCP, người phát triển HTTT KTQTCP, người hỗ trợ HTTT
KTQTCP. Trong khi người sử dụng HTTT KTQTCP thì hầu như DN nào cũng có, điều đó có
nghĩa là nhu cầu cần sử dụng thông tin của HTTT KTQTCP đối với nhà quản lý là rất lớn và
nhu cầu nhà quản lý cần cung cấp thông tin của HTTT KTQTCP đối với bộ phận kế toán cũng
là rất lớn. Tuy nhiên, để đáp ứng được các nhu cầu này thì cần phải có sự chuẩn bị đầy đủ từ
các khâu người thiết kế HTTT KTQTCP, người phát triển HTTT KTQTCP, người hỗ trợ
HTTT KTQTCP.
Trên cơ sở thực trạng về tổ chức con người trong HTTT KTQTCP của các DN da giầy
Việt Nam nghiên cứu đề xuất hàm ý chính sách các DN cần chuẩn bị đầy đủ nhân sự trong tổ
chức HTTT KTQTCP. Các DN da giầy nên chú trọng đến công tác KTQT nói chung và HTTT
KTQTCP nói riêng để từ đó các DN cần có nhân sự để chuyên môn hóa trong HTTT KTQTCP
đảm bảo cho các thành phần trong tổ chức con người HTTT KTQTCP có thể phát triển và đáp
ứng tốt yêu cầu công việc từ thiết kế HTTT KTQTCP, phát triển HTTT KTQTCP, hỗ trợ HTTT
KTQTCP và sử dụng HTTT KTQTCP.
Trong vấn đề về tổ chức con người, ngoài việc các DN cần chú ý đến các thành phần trong
tổ chức HTTT KTQTCP, nghiên cứu đề xuất hàm ý chính sách liên quan đến con người như sau:
Đối với cán bộ quản lý các cấp trong các DN da giầy Việt Nam: cần phải trao dồi và nâng
cao kiến thức của mình để tạo động lực làm việc hiệu quả cho nhân viên cấp dưới, cán bộ quản
lý phải có kỹ năng làm việc tốt để thúc đẩy các công việc hoàn thành đúng kế hoạch, bên cạnh
đó thái độ của nhà quản lý các cấp phải tạo được thân thiện với cấp dưới, giúp nhân viên cấp
dưới cảm thấy hài lòng để có thể cống hiến cho công việc của DN. Các DN da giầy cũng cần
thường xuyên đào tạo cho các cấp quản lý để giúp họ quản lý nhân viên một cách tốt hơn.
Đối với người làm công tác kế toán nói chung và người làm công tác HTTT KTQTCP nói
riêng: phải trang bị kiến thức để họ có thể đáp ứng được yêu cầu công việc, phải trang bị các kỹ
năng cần thiết cho họ có thể hoàn thành được các công việc được giao và đặc biệt là đào tạo thái
độ làm việc để giúp họ có thể xử lý tốt công việc được giao. Các DN da giầy nên thường xuyên
cho kế toán và những người làm công tác HTTT KTQTCP học tập nâng cao trình độ để giúp họ
làm việc hiệu quả hơn.
283
6. KẾT LUẬN
Với nghiên cứu này, tác giả hy vọng sẽ góp phần vào việc hoàn thiện tổ chức con người
trong việc tổ chức HTTT KTQTCP cho các doanh nghiệp da giầy Việt Nam. Các doanh nghiệp
da giầy cần chú ý đến các thành phần trong tổ chức con người của tổ chức HTTT KTQTCP để
đạt được hiệu quả trong công tác quản trị. Cuối cùng, tác giả xin chân thành cảm ơn các
chuyên gia, ban giám đốc, các anh chị kế toán đã giúp đỡ chúng tôi trong quá trình thực hiện
nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hiệp hội Da Giầy - Túi xách Việt Nam. (2016). Ngành da - giầy phấn đấu KNXK 2016 đạt 17 tỷ
USD? Da Giầy và Cuộc Sống, Số 3 (8-2016), 1.
Lạc Phong. (2016). Ngành da giày cần chủ động nắm bắt “cơ hội vàng”.
Bodnar, G. H., & Hopwood, W. S. (2001). Accounting lnfoimation Systems.
Bourgeois, D. (2014). Information Systems for business and beyond: The Saylor Foundation.
Erwin Schweisshelm. (2016). Ngành dệt may và da giày trong bối cảnh TPP.
James A. O'Brien, & George M. Marakas. (2010). Introduction to Information Systems.
McGraw-Hill Irwin.
Romney, M., Steinbart, P., Mula, J., McNamara, R., & Tonkin, T. (2012). Accounting
Information Systems Australasian Edition: Pearson Higher Education AU.
Saeidi, H., Prasad, G. B., & Saremi, H. (2015). The Role of Accountants in Relation to
Accounting Information Systems and Difference between Users of AIS and Users of
Accounting. Bull. Env. Pharmacol. Life Sci, 4, 115-123.
Bộ Công Thương. (2010). Phê duyệt tổng thể ngành Da - Giầy Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2025. Retrieved from http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/3435/quy-hoach-
nganh-cong-nghiep-gan-voi-tang-truong-ben-vung.aspx
284
Kế toán phát triển bền vững và ứng dụng vào Việt Nam
Phạm Đức Cường, Nguyễn Quốc Trung
Viện Kế toán - Kiểm toán, Đại học Kinh tế quốc dân
Email: phamduccuong2701@gmail.com
Mã bài: HTQG.17 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 10/11/2019
Ngày nhận bài: 06/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2019
Tóm tắt
Kế toán với các nội dung về môi trường, xã hội, và phát triển bền vững là những nội dung
mới cần thiết và đang được đưa vào áp dụng ở nhiều nước phát triển trên thế giới. Việc ghi nhận,
đo lường, trình bày báo cáo những thông tin phát triển bền vững sẽ giúp người đọc đánh giá rõ
nét hơn về không chỉ tình trạng tài chính, hiệu quả kinh doanh mà còn trách nhiệm xã hội của
đơn vị kinh tế với việc phát triển bền vững. Bài viết này tập trung nghiên cứu lý thuyết, trước hết
đánh giá những tồn tại của hệ thống kế toán truyền thống liên quan đến phát triển bền vững. Sau
đó dựa vào hệ thống chỉ tiêu hướng dẫn trong Sáng kiến báo cáo toàn cầu (GRI) bài viết đề xuất
các chỉ tiêu báo cáo kế toán phát triển bền vững áp dụng cho các quốc gia. Tác giả cho rằng việc
xây dựng hệ thống chỉ tiêu báo cáo hoàn chỉnh sẽ là cơ sở cho việc xây dựng hệ thống kế toán
đầy đủ và phù hợp cho các nước cũng như Việt Nam trong quá trình áp dụng bộ phận kế toán
mới nhưng rất cần thiết này.
Từ khóa: Kế toán phát triển bền vững, Báo cáo kế toán, Việt Nam
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA KẾ TOÁN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Hiện nay các vấn đề về bảo vệ môi trường, vấn đề xã hội, và phát triển bền vững đang trở
thành mối quan tâm của không chỉ từng cá nhân mà toàn xã hội, đòi hỏi các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế trong xã hội cần thiết phải quan tâm đến các nội dung ghi nhận, đo lường, phân tích,
cung cấp các thông tin liên quan đến bảo vệ môi trường, xã hội, và phát triển bền vững. Nói cách
khác, nhu cầu về kế toán phát triển bền vững đang tăng cao và sự ra đời và phát triển của bộ
phận kế toán này là một sự tất yếu và cần thiết trong hiện tại và tương lai.
Kế toán yếu tố môi trường, xã hội và phát triển bền vững là một lĩnh vực mới, đang phát
triển nhằm tìm kiếm và cung cấp các thông tin quan trọng và cần thiết về các chi phí và doanh
thu có liên quan đến môi trường, hướng dẫn các doanh nghiệp, các chủ dự án trong các quyết
định kinh tế, khuyến khích họ nỗ lực trong việc sử dụng tài nguyên, kể cả tài nguyên thiên nhiên
do con người tạo ra một cách có hiệu quả và hạn chế tối đa sự hủy hoại môi trường, hạn chế rác
thải và sự ô nhiễm, thay đổi các hành vi đối xử với môi trường sống (Hà T.T. Nga, 2014).
285
Sự thay đổi trong nhận thức về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trước các vấn đề môi
trường, xã hội và phát triển bền vững đã đặt kế toán truyền thống tại doanh nghiệp trước thách
thức là làm sao và bằng cách nào có thể kế toán các yếu tố mới này. Kế toán không chỉ thông qua
vai trò có tính truyền thống là ghi chép và báo cáo các thông tin tài chính mà còn thể hiện được
vai trò của kế toán như là công cụ trợ giúp hữu hiệu cho các nhà quản trị, những người sử dụng
thông tin kế toán tầm vi mô và vĩ mô trong việc đưa ra các quyết định phù hợp với từng đơn vị
kinh tế, từng môi trường riêng.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu thực tế, ở Việt Nam đã ban hành Luật môi trường lần đầu vào
năm 1993 và Luật bảo vệ môi trường sửa đổi gần nhất vào năm 2014. Chế độ kế toán mới ban
hành cũng chỉ hướng dẫn một vài nghiệp vụ ghi chép kế toán liên quan đến các chỉ tiêu tài chính
như thuế bảo vệ môi trường (Bộ Tài chính, 2014), Thông tư 155/2015/TT-BTC gần đây quy định
thông tin công bố liên quan đến phát triển bền vững mà thiếu vắng những chỉ tiêu phi tài chính
liên quan đến nội dung kế toán môi trường trong doanh nghiệp. Chế độ kế toán hiện hành chưa
có các văn bản hướng dẫn về chứng từ, về tài khoản, sổ kế toán, và báo cáo kế toán liên quan đến
chi phí môi trường, xã hội và duy trì phát triển bền vững áp dụng vào các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Các cơ sở đào tạo cũng chưa có giảng dạy những nội
dung này cho sinh viên kế toán. Và tại Việt Nam, cho tới này cũng chưa có nhiều học giả nghiên
cứu một cách đầy đủ và chi tiết về kế toán môi trường, xã hội và phát triển bền vững ở cả góc độ
lý thuyết và thực nghiệm.
Bài viết này tập trung vào nghiên cứu lý thuyết, với nội dung chủ yếu nghiên cứu những
tồn tại của kế toán tài chính truyền thống đối với những nội dung về bảo vệ môi trường, về xã
hội và về phát triển bền vững. Bài viết, sau đó dựa vào tham khảo kế toán nước ngoài, và các
hướng dẫn quốc tế liên quan đến kế toán môi trường, xã hội và phát triển bền vững để đưa ra hệ
thống chỉ tiêu báo cáo nên được áp dụng cho kế toán môi trường ở Việt Nam trong tương lai.
2. CÁC TỒN TẠI CỦA HỆ THỐNG KẾ TOÁN TÀI CHÍNH TRUYỀN THỐNG
Liên quan đến hệ thống kế toán truyền thống, cho đến nay đã có một hệ thống các giả định,
các nguyên tắc mang tính khuôn khổ mà theo đó hệ thống kế toán thực hiện các chức năng của
mình. Tuy nhiên, những thay đổi của nền kinh tế, của xã hội, của nhu cầu thông tin, và nội dung
thông tin đã cho thấy hệ thống kế toán truyền thống có nhiều điểm bất cập. Dưới đây là một số tồn
tại của hệ thống kế toán tài chính truyền thống liên quan đến việc ghi nhận, đo lường và phản ánh
của các tổ chức kinh tế đến các yếu tố xã hội, môi trường và phát triển bền vững (Deegan, 2009):
1. Theo khuôn khổ lý thuyết của IASB nhấn mạnh, kế toán tài chính tập trung vào các
thông tin cần thiết cho các đối tượng liên quan đến việc ra các quyết định phân bổ các nguồn lực.
Nghĩa là, sự tập trung của kế toán hướng vào phục vụ những đối tượng có lợi ích tài chính gắn
với đơn vị, và do vậy chỉ có những thông tin tài chính hoặc những thông tin có bản chất kinh tế
được cung cấp.
2. Thông tin kế toán tài chính tập trung vào tính trọng yếu, nghĩa là nó có xu hướng loại trừ
ra khỏi các báo cáo những thông tin về xã hội và môi trường, bởi những dữ liệu này khó có thể
lượng hóa được thành tiền. Bên cạnh đó, tính trọng yếu lại là một chủ đề liên quan tới sự đánh
giá nghề nghiệp do vậy mang tính chủ quan. Nhiều tổ chức kế toán nghề nghiệp ở các quốc gia
286
đã phải đặt ra các hướng dẫn về tính trọng yếu, ví dụ số tiền hoặc tỷ lệ % của một chỉ tiêu cụ thể
được coi là trọng yếu. Do vậy, các yếu tố môi trường hoặc xã hội, những yếu tố khó có thể lượng
hóa, sẽ không được coi là trọng yếu và không được ghi nhận trên hệ thống báo cáo tài chính.
3. Các thực thể báo cáo thường chiết khấu các khoản công nợ, đặc biệt là công nợ dài hạn,
về giá trị hiện tại. Điều này có xu hướng làm cho các khoản chi tiêu tương lai kém quan trọng
vào thời điểm hiện tại (Gray, Owen, and Adam, 1996, trích dẫn từ Deegan, 2011). Các khoản
nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với môi trường, như đã đề cập ở trên, khó có thể lượng hóa thành
tiền hoặc nếu có thì khi chiết khấu về giá trị hiện tại sẽ có giá trị nhỏ làm cho người sử dụng
thông tin cho rằng không quan trọng và do vậy thiếu quan tâm.
4. Kế toán tài chính tuân theo giả định thực thể kinh doanh (entity assumption), đòi hỏi tổ
chức phải được đối xử như là một thực thể tách biệt khỏi chủ sở hữu, khỏi các tổ chức khác, và
khỏi các đối tượng liên quan đến nó (stakeholders). Nếu một nghiệp vụ hoặc một sự kiện mà
không ảnh hưởng trực tiếp tới một thực thể, nghiệp vụ hoặc sự kiện đó sẽ bị bỏ qua vì mục tiêu
kế toán. Điều này có nghĩa là các hậu quả mà đơn vị báo cáo gây ra (ví dụ cho môi trường sống)
sẽ bị bỏ qua, và do vậy các chỉ tiêu kết quả hoạt động, ví dụ khả năng sinh lợi, sẽ không được
phản ánh một cách chính xác trên báo cáo của đơn vị.
5. Gần đây, kế toán tài chính ở một số nước phát triển như châu Âu12đã ghi nhận cách thức
xử lý về hạn mức ô nhiễm có thể được trao đổi. Cụ thể, ở các nước phát triển, các doanh nghiệp
hoặc tổ chức đã được cấp hạn mức ô nhiễm miễn phí. Một đơn vị/tổ chức khi không sử dụng hết
hạn mức của mình thì có thể bán ra ngoài. Kết quả là nhiều doanh nghiệp ở các nước đo đã coi
hạn mức được cấp là những tài sản. Thực tế này có ý nghĩa về mặt kinh tế đối với doanh nghiệp,
nhưng liệu có thể cho phép một doanh nghiệp ghi nhận hạn mức ô nhiễm là một loại tài sản dưới
góc độ xã đang được nhiều học giả tranh luận.
6. Theo kế toán truyền thống, chi phí không được ghi nhận nếu các nguồn lực không bị mất đi
hoặc dòng tiền của doanh nghiệp không ra khỏi doanh nghiệp. Xét theo quan điểm này, các nội dung
thuộc kế toán môi trường, xã hội và phát triển bền vững sẽ không được ghi nhận.
7. Kế toán tài chính rất trọng tâm vào khả năng đo lường được. Với một khoản mục được
ghi nhận vì mục tiêu báo cáo tài chính thì chúng phải được đo lường với độ chính xác hợp lý.
Tuy nhiên, các yếu tố thuộc về xã hội, môi trường và phát triển bền vững không thể đo lường
được tin cậy, do vậy không được ghi nhận trong hệ thống kế toán.
3. KIẾN NGHỊ ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN BÁO CÁO TOÀN CẦU- KHUÔN KHỔ LÝ
THUYẾT CHO VIỆC LẬP BÁO CÁO XÃ HỘI VÀ MÔI TRƯỜNG
Việc công khai thông tin về sự ảnh hưởng tới xã hội và tới môi trường mà các doanh
nghiệp/tổ chức gây ra đang lan rộng ra nhiều nước từ đầu những năm 1990. Điều này thể hiện
khi ngày càng nhiều công ty đã lập các báo cáo kế toán với những thông tin chi tiết về ảnh hưởng
tới môi trường, tới xã hội và phát triển bền vững. Kết quả là, từ giữa những năm 1990, báo cáo
kế toán về ảnh hưởng mà các tổ chức gây ra cho môi trường, xã hội và phát triển bền vững trở
thành một vấn đề thực tiễn có tính thời sự và ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm. Sự phát
1Mua bán hạn mức ô nhiễm, có hiệu lực từ 01/01/2005. Tải về từ www.europa.eu.int/comm/environment/climate/emission.htm
287
triển của vấn đề thực tiễn này vào đầu và giữa những năm 1990 đã hình thành xu hướng xây
dựng báo cáo kế toán thường niên, bên cạnh các báo cáo tài chính, về các chính sách môi trường,
các thực hành và những ảnh hưởng môi trường của đơn vị báo cáo (Deegan, 2009).
Nhiều thuật ngữ kế toán được sử dụng như Báo cáo xã hội và môi trường; Báo cáo khả năng
phát triển bền vững, Báo cáo ba vấn đề cốt yếu (triple bottom line reporting). Báo cáo ba vấn đề
cốt yếu được Elkington (1997) (trích dẫn từ Deegan, 2009) định nghĩa là báo cáo cung cấp thông
tin về hoạt động kinh tế, hoạt động môi trường và xã hội của một tổ chức. Báo cáo ba vấn đề cốt
yếu này cung cấp thông tin cho phép người đọc báo cáo đánh giá được tính bền vững mà một tổ
chức hoặc các hoạt động cộng đồng đang được thực hiện. Theo quan điểm này, để một tổ chức
hoặc một cộng đồng phát triển bền vững trong dài hạn thì nó phải được đảm bảo về mặt tài chính
(như khả năng sinh lợi), nó phải tối thiểu hóa (lý tưởng là loại bỏ hoàn toàn) ảnh hưởng tiêu cực tới
môi trường; và nó phải hoành động tuân theo sự kỳ vọng xã hội (Deegan, 2009).
Trong một nỗ lực chuẩn hóa các nội dung báo cáo kế toán với những yếu tố về xã hội, môi
trường, và phát triển bền vững một vài tổ chức quốc tế đã thực hiện xây dựng hệ thống các
hướng dẫn biểu mẫu và nội dung báo cáo tài chính về những nội dung này. Ở cấp độ quốc tế,
một nguồn hướng dẫn đã và đang được chấp nhận rộng rãi chính là các hệ thống chỉ dẫn lập báo
phát triển bền vũng thuộc sáng kiến báo cáo kế toán toàn cầu (Global Reporting Initiative’s
Sustainability Reporting Guidelines), thường được viết tắt là các hướng dẫn GRI.
Các chỉ số hoạt động phát triển bền vững được sắp xếp thành ba nhóm: nhóm chỉ tiêu phản
ánh kết quả hoạt động kinh tế, hoạt động môi trường, và hoạt động xã hội. Việt Nam chúng ta,
hay một quốc gia khi xây dựng hệ thống kế toán cần dựa vào hệ thống chỉ tiêu này để xây dựng,
thiết kế, phát triển hệ thống kế toán có thể cung cấp dữ liệu đầy đủ cho hệ thống các chỉ tiêu báo
cáo này. Nội dung các chỉ tiêu được trình bày cụ thể theo các mục dưới đây (GRI, 2016).
3.1. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động kinh tế
Về mặt kinh tế, các chỉ tiêu phát triển bền vững phản ánh mức độ phát triển kinh tế của tổ
chức theo các cấp độ địa phương, quốc gia và quốc tế. Bảng 1 dưới đây tóm tắt ngắn gọn một số
chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế chủ yếu.
Bảng 1: Các chỉ tiêu phản ánh các mặt của hoạt động kinh tế
Các Chỉ tiêu về hoạt động
kinh tế
(GRI201-Economic
Performance)
Bốn Chỉ tiêu cốt lõi phản ánh: (1) giá trị kinh tế được tạo ra
và phân bổ; (2) ảnh hưởng và rủi ro tài chính từ thay đổi
khí hậu; (3) các khoản nghĩa vụ của tổ chức như lương hưu;
và (4) các khoản ngân sách nhà nước trợ cấp
Các Chỉ tiêu hiện diện thị
trường
(GRI202-Market Presence)
Các chỉ tiêu cốt lõi phản ánh: (1) mức lương nhân viên theo
giới thính của đơn vị trong tương quan với mức lương tối
thiểu tại địa phương nơi đơn vị hoạt động; (2) và tỷ lệ quản
lý cao cấp được thuê từ địa bàn đơn vị hoạt động.
Các Chỉ tiêu ảnh hưởng kinh tế
gián tiếp (GRI203- Indirect
Economic Impacts)
(1)Chỉ tiêu đầu tư vào dịch vụ hạ tầng;
(2)Những ảnh hưởng kinh tế trọng yếu gián tiếp.
288
Quy Trình thực hành (GRI204) Chỉ tiêu đánh giá phần trăm các khoản chi tiêu được sử
dụng ở địa phương
Chống tham nhũng (GRI205)
Các chỉ tiêu phản ánh: (1) tỷ lệ % và tổng số các đơn vị
kinh doanh được phân tích, đánh giá rủi ro liên quan đến
tham nhũng; (2) tỷ lệ % nhân viên được đào tạo chính sách
chống tham nhũng; và (3) các hành động cần thực hiện để
chống tham nhũng.
Hành vi chống cạnh tranh
Chỉ tiêu phản ánh các hành động mang tính luật pháp
chống cạnh tranh không lành mạnh, chống độc quyền và
cách giải quyết các hậu quả.
3.2. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động môi trường
Nhóm chỉ tiêu phát triển môi trường bền vững đề cập đến ảnh hưởng của tổ chức lên hệ
thống tự nhiên, bao gồm hệ sinh thái, đất đai và nước. Cấu trúc của nhóm chỉ tiêu môi trường
bao gồm đầu vào (nguyên vật liệu, năng lượng, nước) và đầu ra (khí thải, điện năng, chất thải)
liên quan đến quá trình hoạt động. Bảng 2 tóm tắt các chỉ tiêu theo Hướng dẫn của GRI.
Bảng 2: Các chỉ tiêu phản ánh các mặt thuộc hoạt động môi trường
Nguyên vật liệu
(GRI 301)
Các Chỉ tiêu cơ bản bao gồm: (1) lượng vật liệu đã sử dụng; (2) tỷ lệ %
vật liệu từ sản phẩm tái chế; và (3) sản phẩm từ khai hoang và vật liệu
bao gói.
Năng lượng
(GRI 302)
Các Chỉ tiêu phản ánh:
(1)Năng lượng tiêu hao trong tổ chức
(2)năng lượng tiêu hao ngoài tổ chức;
(3) năng lượng mạnh
(4)Giảm tiêu hao năng lượng
(5)Giảm yêu cầu năng lượng cho sản phẩm và dịch vụ.
Nước (GRI 303) Các Chỉ tiêu phản ánh lượng nước lấy từ nguồn; nước tiêu dùng, nước
xả đi.
Đa dạng sinh học
(GRI 304)
Các Chỉ tiêu phản ánh vị trí và kích thước đất đai sở hữu, đi thuê, đang
quản lý; các ảnh hưởng do các hoạt động, các sản phẩm, và dịch vụ lên
sự đa dạng sinh học; môi trường sống đang được bảo vệ hoặc bảo tồn;
các chiến lược hoặc hoạt động hiện tại, tương lai được thực hiện để
kiểm soát các ảnh hưởng lên đa dạng sinh học,…
Khí thải (GRI 305)
Các Chỉ tiêu phản ánh: lượng khí thải trực tiếp ra môi trường; tổng
lượng khí thải gián tiếp ra môi trường; sáng kiến giảm khí thải ra môi
trượng; lượng khí thải ảnh hưởng trực tiếp tới tầng ô zôn; các hợp chất
khí NO, CO,…
289
Chất thải (GRI 306)
(1)Chât lượng nước thải và nơi thải;
(2)Loại chất thải và phương pháp xử lý
(3)Tràn bể chứa
(4)Vận chuyển chất thải độc hại
(5)Ảnh hưởng của chất thải đến nguồn nước
Sự tuân thủ
(GRI 307)
Các Chỉ tiêu phản ánh sự không tuân thủ quy định/luật pháp về môi
trường.
Đánh giá môi trường
nhà cung cấp
(1)Các nhà cung cấp mới được tuyển chọn theo tiêu chí môi trường
(2)Tác động môi trường tiêu cực tới chuỗi cung ứng của người bán
3.3. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động xã hội
Phần chỉ tiêu đánh giá phát triển xã hội bền vững đề cập đến sự ảnh hưởng của đơn vị lên
các hệ thống xã hội tại nơi mà tổ chức đó hoạt động. Các chỉ tiêu liên quan đến thực hành của
nhân công, nhân quyền và những vấn đề lớn hơn ảnh hưởng tới người tiêu dùng, cộng đồng và
các đối tượng khác trong xã hội. Các chỉ tiêu hoạt động xã hội bao gồm:
Hoạt động xã hội: các chỉ tiêu hoạt động của nhân công
Tuyển dụng (GRI 401)
Các chỉ tiêu phản ánh tổng số lượng lao động theo từng loại,
hợp đồng lao động, tỷ lệ công nhân mới tuyển dụng, các
chính sách đãi ngộ, tỷ lệ bỏ việc.
Mối quan hệ nhân công và
quản lý (GRI 402)
Các chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ nhân công làm việc theo diện ký
thỏa thuận hợp tác, thời gian thông báo thay đổi hoạt động tối
thiểu.
Sức khỏe và an toàn nghề
nghiệp
(GRI 403)
Các chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ % đại diện tổng số lực lượng lao
động tham gia vào ủy ban sức khỏe và an toàn lao động, tỷ lệ
bị tai nạn, bệnh nghề nghiệp, tỷ lệ vắng mặt, bỏ việc, tính
theo vùng và theo giới tính, các chương trình đào tạo liên
quan tại nơi làm việc, các chủ đề về sức khỏe và an toàn lao
động thỏa thuận giữa chủ lao động và nhân công.
Giáo dục và đào tạo (GRI
404)
Các chỉ tiêu phản ánh số giờ đào tạo hàng năm cho từng nhân
viên, từng loại công việc; các chương trình quản lý kỹ năng; tỷ
lệ nhân viên nhận được nhận xét, đánh giá phát triển hàng năm.
Đa dạng và cơ hội (GRI 405)
Chỉ tiêu này phản ánh sự đa dạng hóa trong lực lượng lao
động theo trình độ, theo giới tính trong đội ngũ quản lý. Qua
đó cũng phản ánh mức độ công bằng trong đơn vị.
Hoạt động xã hội: Các chỉ tiêu hoạt động liên quan đến quyền con người
Không phân biệt chủng tộc
(GRI 406) Chỉ tiêu phản ánh số vụ phân biệt chủng tộc và số lần xử lý
290
Tự do hiệp hội và thỏa thuận
hợp tác (GRI 407)
Chỉ tiêu phản ánh quyền tham gia các hiệp hội, các tổ chức và
quyền thỏa thuận hợp tác.
Lao động trẻ em (GRI 408) Chỉ tiêu phản ánh các hoạt động có sử dụng lao động trẻ em.
Tỷ lệ rủi ro liên quan đến lao động trẻ em.
Lao động cưỡng ép (GRI 409) Chỉ tiêu phản ánh các hoạt động có sử dụng lao động ép buộc
theo ý muốn chủ quan của người quản lý.
Thực tiễn an ninh (GRI 410)
Chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ % nhân viên an ninh được đào tạo
những chính sách hoặc những quy trình liên quan đến quyền
con người trong quá trình hoạt động.
Các quyền liên quan đến tính
địa phương (GRI 411)
Chỉ tiêu phản ánh số vụ bạo lực, hành hung có liên quan đến
tính địa phương của người lao động, số vụ được xử lý.
Hoạt động xã hội: các chỉ tiêu hoạt động xã hội
Cộng đồng địa phương (GRI
412)
Các chỉ tiêu diễn tả tỷ lệ % các hoạt động có cam kết với cộng
đồng địa phương, có đánh giá hoạt động, và có chương trình
phát triển; các hoạt động có thể có ảnh hưởng xấu tới cộng
đồng; các cách thức ngăn chặn những ảnh hưởng xấu tới cộng
đồng địa phương.
Chính sách công cộng (GRI
412)
Các chỉ tiêu phản ánh việc triển khai và áp dụng chính sách
công trong toàn đơn vị. Một chỉ tiêu bổ sung phản ánh số tiền
và những khoản đóng góp cho các đảng phái chính trị, các
chính trị gia, và các tổ chức XH khác.
Tuân thủ (GRI 414) Chỉ tiêu cốt lõi phản ánh số tiền phạt và số lần bị phạt không
phải bằng tiền do không tuân thủ luật và chính sách.
Hoạt động xã hội: chỉ tiêu hoạt động mang tính trách nhiệm sản phẩm
Sức khỏe và an toàn khách
hàng (GRI 415)
Chỉ tiêu phản ánh việc đánh giá ảnh hưởng sức khỏe và an
toàn của sản phẩm đối với người tiêu dùng, phương hướng
hoàn thiện.
Nhãn sản phẩm và dich vụ
(GRI 416)
Loại thông tin về sản phẩm và dịch vụ yêu cầu cung cấp, số
vụ vi phạm, sự hài lòng của khách hàng.
Kết nối marketing (GRI 417) Các chỉ tiêu phản ánh sự tuân thủ luật, chuẩn mực liên quan
đến các chương trình marketing.
Riêng tư của khách hàng
(GRI 418)
Phản ánh số lần khách hàng phàn nàn vi phạm riêng tư, mất
thông tin của khách hàng.
Tuân thủ kinh tế xã hội (GRI
419)
Không tuân thủ luật, chính sách liên quan đến sản phẩm và
dịch vụ.
291
4. KẾT LUẬN
Hiện nay các vấn đề về bảo vệ môi trường, vấn đề xã hội, và phát triển bền vững đang trở
thành mối quan tâm của không chỉ từng cá nhân mà toàn xã hội. Kế toán truyền thống bởi những
giả định và nguyên tắc hiện có đã không thể ghi nhận một cách đầy đủ và chính xác những nội
dung hoặc những yếu tố thuộc về môi trường, xã hội và phát triển bền vứng. Đây là tiền đề cho
sự ra đời và phát triển của kế toán môi trường hiện nay.
Bài viết này trước hết phân tích những tồn tại của hệ thống kế toán truyền thống liên quan
đến những nội dung nhận biết, đo lường, ghi chép, trình bày các đối tượng mới (môi trường, xã
hội, phát triển bền vững). Sau đó, bài viết dựa vào hệ thống chỉ dẫn lập báo cáo phát triển bền
vững thuộc sáng kiến báo cáo kế toán toàn cầu (G4 Sustainability Reporting Guidelines) đề xuất
hệ thống các chỉ tiêu, bên cạnh các báo cáo tài chính hiện có, mà các tổ chức kinh tế quốc tế và
Việt Nam nên trình bày bao gồm (1) nhóm chỉ tiêu thuộc về hoạt động kinh tế; (2) nhóm chỉ tiêu
thuộc về hoạt động môi trường; (3) nhóm chỉ tiêu thuộc về hoạt động xã hội (bao gồm nhân
công, nhân quyền, an toàn lao động, trách nhiệm sản phẩm,…). Trình bày các chỉ tiêu này giúp
người đọc đánh giá chính xác và đầy đủ hơn về tình hình tài chính, hiệu quả kinh doanh, trách
nhiệm xã hội của Doanh nghiệp đối với các vấn đề trọng yếu đối mặt với các quốc gia.
Bài viết này mang tính thảo luận lý thuyết, không dựa trên thực nghiệm. Chúng tôi không
coi đó là một nhược điểm mà là một nghiên cứu mang tính gợi mở cho các học giả tương lai thực
hiện các nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu diện rộng, hoặc nghiên cứu ứng dụng kế toán phát
triển bền vững trong tương lai vào các doanh nghiệp Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Tài chính, (2014), Thông tư hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp. Thông tư
200/200/2014/TT-BTC.
Bộ Tài chính (2015), Thông tư 155/2015/TT-BTC
Định nghĩa báo cáo bền vững, tải về từ trang http://vbcsd.vn/detail.asp?id=561, ngày tải:
03/8/2019.
GRI (2016), Chỉ dẫn lập báo phát triển bền vững thuộc sáng kiến báo cáo kế toán toàn cầu (G4
Sustainability Reporting Guidelines). Tải về ngày 6/11/2019 từ trang:
https://www2.globalreporting.org/standards/g4/Pages/default.aspx
Deegan C., (2009), Financial Accounting Theory, McGraw Hill, 3edition.
Gray, R., Owen & C. Adams (1996), Accounting and Accountability: Changes and Challenges in
Corporate Social and Environmental Reporting, London: Printice Hall.
Hà T.T. Nga, (2014), Kế toán môi trường đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tải về ngày
20/1/2015 từ trang: http://www.cdcdlaocai.edu.vn/index.php
Hoàng Thị Bích Ngọc, (2014), Kế toán quản trị môi trường tại Nhật Bản và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam, truy cập ngày 20/1/2015, từ trang: http://hoiketoankiemtoan.vn/tabid/452/
newsid/3266/Ke-toan-quan-tri-moi-truong-tai--Nhat-Ban-va-bai-hoc-kinh-nghiem-cho-
Viet-Nam.aspx
Phạm Đức Hiếu (2012), Giáo trình kế toán môi trường trong doanh nghiệp, NXB giáo dục.
292
The association between corporate governance and financial report
quality in the case of listed companies in Vietnam stock market
Tran Thi Kim Anh, Hoang Ha Anh
Foreign Trade University
Email: anhttk@ftu.edu.vn
Mã bài: HTQG.60 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 20/11/2019
Ngày nhận bài: 17/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 23/11/2019
Abstract
A series of financial report fraud scandals have occured in succession such as the case of
Enron, WorldCom, Tyco.International, Toshiba. These are the alert for investors about financial
report quality of joint stock companies. Many previous studies indicate that the main causes of
financial report fraud stemfrom loose supervision of the Board of Directors, and especially, the
quality of auditing practice. This paper examines for the impact of good corporate governance
practice and audit quality on the quality of financial reports of listed companies in Vietnam stock
market. As a result, the authors make recommendations which may beof value to regulator in
preparing and amending corporate governance code to improve the quality of financial reports of
Vietnam listed companies.
Key words: Corporate governance, financial reports quality, earnings management, board
of Directors (BOD).
1. INTRODUCTION
Corporate governance and the relation between corporate governance and financial
accounting has regularly been chosen by researchers because of the separation of ownership and
controlin many corporations. According to OECD Principles of Corporate governance,
“Corporate governance involves a set of relationships between a company's management, its
board, its shareholders and other stakeholders” (OECD, 2015). Shareholders are the owners of
the company but they do not run the company. The authority to run the company's day-to-day
operations rests with the managers.This authorization creates a separation between ownership
and control of the company and rises the conflicts of interest between the owners and the
managers according to the "Agency Theory" of Jensen and Meckling (1976). This conflict stems
from the company's financial information issues. When management has more financial
information of the company than its shareholders, the situation of asymmetric information will
arise and create opportunities for managers to practice earnings management to gain personal
293
benefits instead of maximizing benefits to the shareholders. If monitoring and control of
management is regarded as the primary aim of corporate governance, governance mechanism
will have an effect on managing the practice of earnings management. Therefore, this paper aims
to analyze whether good corporate governance practice is associated with higher level of
financial report quality.
There are many preceeding studies has exploited this association between good corporate
governance and financial report quality such as Peasnell et al. (2000), Klein (2002), Chung et al.
(2002), Xie et al. (2003)… These studies have been taken in developed countries such as USA,
UK, Australia… As far as the author’s awareness, there is not much research on this topic taken
in Vietnam except the PhD research of Nguyen Trong Nguyen in 2015 which is quite a long time
ago. Reveal the research gap, this paper will conduct study for 90 large joint stock companies in
Vietnam throughout 3 years from 2016 to 2018 using the most up-to-date secondary data.
2. THEORETICAL FRAMEWORK
2.1. Financial report quality
This paper involves two main issues: financial report quality and corporate governance.
Firstly, financial report quality is a significant term in financial accounting whereby very
difficult to measure it. Usually, researchers detect the level of earnings management as the
quality of financial report (Klein, 2002; Xie et al., 2003…). Therefore, from this point, this paper
uses earnings management as the proxy to measure the quality of financial report.
Earnings management happens when the companies use accounting tricks to change the
number in financial reports due to management’s goal to deceive the BODshareholders, and
investors. There are two types of earnings management: Accrual-based Earnings Management
(AEM) and Real Earnings Management (REM).
AEM occurs because generally accepted accounting principles allow managers to be flexible
to choose accounting methods, accounting policies and accounting estimates (Healy and Wahlen,
1999). For example, provision and allowances for bad debts, assets revaluation, depreciation of
assets…are some events that are affected by accounting estimates. If these estimates are biased in
order to distort the underlying real economic performance, AEM will be applied. Meanwhile,
REM happens when firms manage earnings through deviating from the normal business activities
(Roychowdhury, 2006). Firms can deviate from business activities by, for example, altering
expenditures, such as research and development expenditures, selling expenditures, administrative
expenditures, selling fixed assets to receive a gain, changing cash discounts, trade discounts. This
study chooses to focus on AEM using Modified Jones model (1995) to measure the level of
earnings management for listed companies in Vietnam stock market.
2.2. Corporate governance
Corporate governance mainly about the relationship between shareholders and managers.
The shareholders' function in corporate governance is to appoint the board of directors and to
satisfy themselves that an appropriate governance structure is in place. TheBoard of Directors
(BOD) would monitor the managers to work toward the benefit of shareholders instead of self
benefit through earnings management. Therefore, the role of the BOD is critical in corporate
294
governance and it is the point where many issues would rise. According to OECD Principles of
Corporate Governance, some critical characteristic of a BOD can be mentioned as: the large
number of directors in the board, the independence of directors, the education quality of
directors, the duality between chairman and CEO, the existence of Audit Commitee, the quality
of independent auditor chosen by the board…
2.3. The association between corporate governance and financial report quality
The BOD in the corporate governance mechanism is responsible to shareholders about
running company and protecting the rights of shareholders. The BOD needs to have access to the
company's true and fair financial information in a transparent and timely manner to make
strategic decisions and development plans. However, financial information provided by the
managers to the BOD can be manipulated both in data and time which makes the decision of the
BODaffected by management's desire (Rahman and Ali, 2006). Therefore, it is essential to build
a corporate governance mechanism to enhance the role of the BOD in providing high quality
financial statements. Good corporate governance mechanism makes effective requirementswith
six main factors in focus. These are: (1) the size of the BOD; (2) theindependence of the BOD;
(3) thequalification of the BOD; (4) the duality of the BOD Chairman and CEO; (5) the
existence of Audit Committee and (6) the quality of independent auditor.
2.3.1. The size of the Board of Directors
The BOD with large number of members should be more professional and experienced
than the BOD with fewer members. On a positive way, a large BOD with more financial
management experience can lead to a higher quality of financial reports because they can
monitor and control management activities better (Chtourou et al., 2001; Klein, 2002; Xie et al,
2003). On the negative way, a large BOD can make it more difficult to control accounting and
financial information due to the high cost and time required to timely transfer information
between the managers and the BOD. In addition, the different and conflict opinions of a large
BOD can exert pressure on the managers to practiceearnings management or financial report
fraud (Rahman and Ali, 2006).
2.3.2. The independence of the Board of Directors
The independence of the Board of Directorsis represented by the ratio of independent
members to total members. A large number of independent members in the BODare considered
to have a more positive impact on the quality of the financial statements because of their
representation is to protect the minority shareholders (Klein, 2002; Xie et al., 2003; Peasnell et
al., 2005). However, the minimum ratio of independent members to total members proposed by
the OECD Principles of Corporate Governance is one third which is considered insufficient
because they are not enough to reject the other members’ vote (Johari et al., 2009).
2.3.3. The duality of the BOD Chairman and CEO
The duality of the BOD Chairman and CEO tends to lead to a lack of transparency in the
quality of financial reports. The more the power falls in one person’s hand, the easier the
295
financial information is manipulated (Saleh et al., 2005). However, quantitative research shows
that these dual positions do not always affect negatively on the quality of financial statements.
Finkelstein and D'Aveni (1994) examine and conclude that some companies tend to let the
chairman of the Board of Directors concurrently be the CEO because it will avoid the problem of
conflict in coordinating, managing, supervising, and monitoring business activities.
2.3.4. The qualification of the Board of Directors
Since the BOD is responsible for overseeing the operations of the company in general, the
BOD is critical to be experted in finance and accounting. Members of the BOD should have
professional knowledge in finance, accounting, and auditing in order to minimize the chance of
earnings management or financial report fraud (Be'dard et al., 2004). Chtourou et al. (2001), Chen
et al. (2007), and Agrawal and Chadha (2005) conclude that earnings management is negatively
related to the presence of at least one board member with degree on finance and accounting. In
addition, Agrawal and Chadha (2005) find that independent board members with financial
expertise have a positive influence in limiting corporate financial reporting fraud.
2.3.5. Audit Committee
The Audit Committee is a part of the BOD which plays an important role in controlling the
independence of audits in enterprises. Since the BOD is responsible for overseeing the
company's operations in general, the establishment of subordinate committees to handle
technical matters is essential. In accordance with OECD Principles of Corporate Governance, the
BOD should establish four subordinate committees which are the Audit Committee, the
Personnel Committee, the Risk Committee, and the Remuneration Committee.
Of the four committees under the BOD, the Audit Committee is the most important
because the Audit Committee has the function of supervising the process of preparing financial
statements, approving independent auditing firms, and oversee independent audit results in order
to ensure the quality of audited financial statements. In addition to ensuring the quality of
independent audit, the Audit Committee is also responsible for overseeing the internal audit
activities of the company, detecting weaknesses of the internal control system, and providing
information timely to the BOD. The Audit Committee serves to minimize the risk of material
misstatement of the financial statements, ensure the quality of audited financial statements, and
help to clarify the information providedoutside the business, thereby helping to protect the rights
of shareholders.
In order for the Audit Committee to work efficiently, according to the OECD Principles of
Corporate Governance, Audit Committee members should be independent members of the BOD
and must have professional knowledge on finance, accounting, and auditing. Most of the
previous researches has concluded the role of Audit Committee in publishing high quality
financial statements. The independence of members of the Audit Committee, their financial and
accounting expertise, and the higher frequency of meetings contribute to the reduction of
earnings management or financial reporting fraud (Klein, 2002; Be'dard et al., 2004; Yang and
296
Krishnan, 2005). However, if Audit Committee members hold company shares that may
contribute to the collusion between them and the BOD to realize personal interest, the
independence and oversight function of Audit Committee are no longer reliable (Yang and
Krishnan, 2005). Therefore, Audit Committee members are required to be independent members
who do not own shares of the company.
2.3.6. The quality of independent auditor
Big 4 auditors are well known globally which includeds Deloitte, Pwc, Ernst and Young
(E&Y), and KPMG. Some previous studies prove that auditedfinancial reports of companies
with Big 4 auditors are ofhigher quality such as Teoh and Wong (1993), Krishnan (2003). Big 4
auditors are international organizations with reputation about high quality staff and knowledge-
sharing practice. Big 4 auditors impose a high level of earnings quality in order to protect their
brand name reputation from legal exposure and reputation risk, which can arise from misleading
financial reports by clients (DeAngelo 1981).
3. RESEARCH METHOD
3.1. Research methodology
This study is going to use quantitative research method. Quantitative method is used as a
synonym for any data collection technique and data analysis procedure that generate numerical
data. Therefore, this study is going to collect numerical data from reliable and reputational
sources and then use highly structured quantitative testing to examine the data set in order to
prove the hypothesis.
3.2. Data collection method
As the results of using quantitative method, the study mainly relies on secondary data
collected using computational techniques. The use of secondary data has some drawbacks
relevant to data availability. In this study, all of the data is collected from financial reports and
annual reports of firms which are listed in Vietnam stock market. Listed companies do not
include banks, insurance companies, securities companies or other businesses operating in the
financial sector due to the special business activities leading to different financial reports. The
sample in this study contains data of 90 companies from 2016-2018. These are 90 companies
with the largest assets listed on three stock exchange markets of Vietnam which are HNX,
HOSE, and UPCOM. The total number of observations in the sample data is 300.
3.3. Development of hypothesis
Based on the analyzed theory, the hypotheses in this study are as follows:
- H1: If the company had the larger BOD, it would have lower level of earnings management.
- H2: If the company had more independence member in the BOD, it would have lower
level of earnings management.
- H3: If the company did not have the BOD Chairman work as CEO, it would have lower
level ofearnings management.
297
- H4: If the company had more financial expertise member of the BOD, it would have
lower level of earnings management.
- H5: If the company had Audit Committee, it would have lower level of earnings
management.
- H6: If the company has Big4 independent auditor, it would have lower level of earnings
management.
3.4. Variables explanation
3.4.1 Earnings management model
Earnings management is measured using accrual variables that can be adjusted according
to Modified Jones 1995 model developed by Dechow et al. (1995) from the original model of
Jones (1991). The Modified Jones Model 1995 is the most popular model of earnings
management in accounting information of enterprises (Nguyen, 2015). If the accruals increases,
the company is more likely to distort financial data, therefore, the quality of financial reports
would decrease.
Measuring accruals as follows:
(1) TAit / Ai(t-1)= α1 * 1/Ai(t-1)+ α2* (ΔREVit - ΔRECit)/Ai(t-1)+ α3* PPEit / Ai(t-1)+εit
Where:
TАit: Total accruals for the year tof company i
Аi(t-1):Total assets for the year t-1 of company i
ΔREVit: Change in net revenue for the year t with respect to year t-1 of company i
ΔRECit: Change in account receivable for the year t with respect to year t-1 of company i
PPEit: Net property, plant, and equipment for the year t of company i
Whereas, total accruals TAitis measured as follows:
(2) TАit = NIit– CFOit
Where:
NIit: The net income after tax for the year t of company i
CFOit: The cash flow from operating activities for the year t of company i
Non-discretionary accruals (NDA) calculated as follows:
(3) NDAit / Ai(t-1)= α1 * 1/Ai(t-1)+ α2* (ΔREVit - ΔRECit)/Ai(t-1)+ α3* PPEit / Ai(t-1)
Therefore, the remainder εitin model (1) above represents an unrecognizable variable,
including discretionary accruals (DAit).
After estimating the non-discretionary accruals (NDA), calculate the discretionary accruals
(DAit) and take it as the presentation for earnings management variable in the main model of
the study:
(4) DAit= TAit– NDAit
298
3.4.2. Corporate governance model
Based on the above hypothesis, the regression model would be used in this study is as follows:
(5) EMit= 0 + 1 (B_SIZEit) + 2(B_Indit) + 3(B_Dualityit) + 4(B_Qualityit) +
5 (Audit_Cit) +6(Big4it) + 7(LEVit) + 8(CFOit) + it
The dependent variable is EMit representing Earnings management as calculated using
Modified Jones model 1995. The independent variables is represented in table 1.
Table 1. The measurement of independentvariables used in the study
# Variable
name Description Measurement
Expected
effect on
dependent
variable
Similar previous
studies
1 B_Size The size of
the BOD Total number of
members of the BOD _
Chtourou et al.
(2001), Klein
(2002), Xie et al.
(2003)
2 B_Ind
The
indepence
of the BOD
The ratio between the
number of
independent members
and total members of
the BOD
_
Klein (2002), Xie
et al. (2003),
Peasnell et al.
(2005)
3 B_Duality
The duality
of the BOD
Chairman
and CEO
Dummy variable that
takes the value of 1 if
the roles of CEO and
Chairperson are
combined and 0
otherwise.
+
Saleh et al. (2005)
4 B_Quality
The
qualificatio
n of the
BcOD
The ratio between the
number of financial
expertise members
and total members of
the BOD
_
Chtourou et al.
(2001), Chen et al.
(2007), Agrawal
and Chadha (2005)
5 Audit_C
Audit
Commitee
under the
Board of
Directors
Dummy variable that
takes the value of 1 if
the company has audit
commitee and 0
otherwise.
_
Chtourou et al.
(2001), Klein
(2002), Xie et al.
(2003)
299
In addition, to the 6 variables mentioned above, the research model has 2 more control
variables: Financial leverage, and Cash flowratio. These are the three factors that directly affect
the dependent variable which is earnings management.
Financial leverage is the ratio between total liabilities and total assets. Financial leverage
can have either a positive or a negative effect on the quality of income by reducing the
opportunity for earnings management. Some previous studies show that managers of highly
leveraged companies have strong incentives to distort income in order to loosen loan rules (Ali et
al., 2008; Jiang et al., 2008). However, companies with high liabilities may less likely to practice
earnings management because they are under a closer supervision of lenders. Chung et al.(2002),
Park and Shin (2004), and Peasnell et al. (2000), found an negative relationship between
financial leverage and earnings management.
Cash flow ratio is calculated as the ratio between net cash flows from operating activities
and total assets. The Modified Jones model 1995 that this study applies has proven that the cash
flow ratiowould affect the level of discretionary accruals.The higher the value of the cash flow
ratio, the lower the discretionary accruals. Chen et al. (2007), Jiang et al. (2008), and Peasnell et
al. (2000) also found that firms with higher cash flow ratio were more likely to be involved in
lower discretionary accruals.
Table 2. The measurement of independentcontrol variables used in the study
# Variable
name Description Measurement
Expected
effect on
dependent
variable
Similar previous
studies
7 LEV Financial
leverage
Totalliabilities/ Total
assets +/-
Ali et al. (2008),
Jiang et al.(2008)
8 CFO Cash flows
ratio
Net cash flows from
operating activities/
Total assets
+/-
Chen et al.(2007),
Jiang et al. (2008),
Peasnell et al. (2000)
4. RESULTS AND DISCUSSION
To run the above research model, the authors conduct econometric tests using Stata.
4.1. Results
4.1.1. Pretest
6 Big 4
Independen
t auditor is
Big 4
company
Dummy variable that
takes the value of 1 if
the company has Big 4
independence auditor
and 0 otherwise.
_
Klein (2002), Xie
et al. (2003),
Peasnell et al.
(2005)
300
Table 3. Descriptive statistic
Variable Obs Mean Std. Dev. Min Max
EM 270 455728 1905071 -7169141 2.57e+07
B_Size 270 6.259259 1.495783 4 11
B_Independence 270 .2428213 .1752418 0 1
B_Duality 270 .2222222 .4165117 0 1
B_Quality 270 .6027604 .2204511 0 1
Audit_C 270 .1407407 .3483997 0 1
Big4 270 .6185185 .4866524 0 1
LEV 270 .4695719 .1920808 .0153219 1.688043
CFO 270 .0825762 .1702251 -.4729171 1.705922
The results show that the average absolute value of EM is 455 million VND, with a relatively
high variation as the maximum is 25,7 billion VND while the minimum is -7 million VND. The
number of member in the BOD is relatively high with the mean is 6 people. The independence of
board member is low which the mean is only 24%. The duality between CEO and board chairman is
at good number, only 22% of the company has this dual position driven by one person. The number
of board member has finance and accounting background is quite high with 60% average. The
existence of Audit Committee under the BOD in listed companies has a low average of 14%.
Meanwhile, many companies tend to hire Big 4 auditors to audit their financial reports. The average
of Big 4 variable is 61%. The other control variable LEV, CFO as shown in table 3.
Before running the main test, the sample data set needed overcoming other pre-tests. As
such, correlation test, multicollinearity test, and heteroscedasticity test will be presented.
Table 4. Correlation matrix
EM B_Size B_
Ind
B_
Duality
B_
Quality
Audit_
C Big4 LEV CFO
EM 1.000
B_Size 0.180 1.000
B_Ind 0.006 -0.037 1.000
B_Duality -0.036 0.020 -0.104 1.000
B_Quality -0.114 -0.094 -0.091 -0.020 1.000
Audit_C -0.016 0.158 0.050 -0.113 -0.006 1.000
Big4 0.146 0.049 -0.075 -0.185 -0.054 0.274 1.000
LEV 0.010 -0.036 0.001 -0.058 -0.094 -0.131 0.064 1.000
CFO -0.213 -0.007 -0.108 0.098 0.0582 0.020 0.042 -0.222 1.00
Correlation test determines how strongly two variable's movements are associated.
Correlation coefficients are expressed as a value between +1 and −1, where 1 is total positive
301
linear correlation, 0 is no linear correlation, and −1 is total negative linear correlation. As the
result in table 4 above, all of the variable in the sample data set weakly correlate with each other.
It is a decent indication that allows us to run the main test without worrying about
autocorrelation problem among variables.
Table 5. Multicollinearity test
Variable VIF 1/VIF
B_Size 1.10 0.907034
B_Ind 1.05 0.953638
B_Duality 1.07 0.933203
B_Quality 1.04 0.962611
Audit_C 1.15 0.869817
Big4 1.19 0.837421
LEV 1.11 0.900199
CFO 1.08 0.927340
Mean VIF 1.11
Multicollinearity test is to determine whether one predictor variable can be linearly
predicted from the others with a substantial degree of accuracy. Multicollinearity problem is
quantified by the variance inflation factor (VIF) in an ordinary least squares regression analysis.
If VIF is more than 10, it indicates high collinearity problem in the data set. As the results in
table 4, VIF for all variables included in the two models is closely to 1 which indicates that there
is no multicollinearity problem in the sample data set. It is a good signal that will lead to run the
main test without worrying about multicollinearity problem among variables.
Table 6. Heteroscedasticity test
Breusch-Pagan / Cook-Weisberg test for heteroskedasticity
Ho: Constant variance
Variables: fitted values of EM
chi2(1) = 306.11
Prob > chi2 = 0.0000
Heteroscedasticityhappens when the standard errors of a variable, monitored over a
specific amount of time, are non-constant. To test for Heteroscedasticity, Breusch-Pagantest is
conducted. As the results shown in table 6, P-value is 0.000 which is less than 0.05, the null
hypothesis is rejected so that heteroscedasticity assumed to exist. To fixed heteroscedasticity,
robust standard errors will be applied.
4.1.2. Regression result
Choosingbetween OLS and random effect for panel data, Breusch and Pagan Lagrangian
multiplier test shows that p-value is 0.000 which means that pooled OLS is the best tool to
analyze the data in this study. The test results are shown in Table 6 and Table 7.
302
Table 7. Breusch and Pagan Lagrangian test
Breusch and Pagan Lagrangian multiplier test for random effects
EM[code,t] = Xb + u[code] + e[code,t]
Estimated results:
| Var sd = sqrt(Var)
---------+-----------------------------
EM | 3.63e+12 1905071
e | 3.75e+12 1936904
u | 0 0
Test: Var(u) = 0
chibar2(01) = 0.00
Prob > chibar2 = 1.0000
4.2. Discussion
Joint test on regression indicated F statistic = 0.0000 which is less than 1% significant
level. It indicates that the null hypothesis: “There is no significant relationship between
dependent and independent variables” is rejected. Therefore, there is significant relationship
between dependent and independent variables so that our model is highly appropriate and the
result is absolutely reliable. The model then has significant meaning in econometrics.
Table 8. Pooled OLS with robust standard error
Number of obs = 270
F(8, 261) = 7.89
Prob > F = 0.0000
R-squared = 0.1158
Root MSE = 1.8 e+06
Robust
EM Coef. Std. Err. t P>|t| [95% Conf. Interval]
B_Size 222672.7 129250.5 1.72 0.086 * -31833.82 477179.3
B_Ind -13347.23 453927.5 -0.03 0.977 -907173.5 880479.1
B_Duality -12091.14 152122.9 -0.08 0.937 -311635.5 287453.2
B_Quality -709641.1 450953.5 -1.57 0.117 -1597611 178329.1
Audit_C -523043 369612.1 -1.42 0.158 -1250844 204758.2
Big4 -676066.8 189060.1 3.58 0.000*** 303789.5 1048344
LEV -647790.9 533479.9 -1.21 0.226 -1698263 402681.6
CFO -2548029 403612.1 -6.31 0.000*** -3342779 -1753278
_cons -334322.5 859654 -0.39 0.698 -2027063 1358418
(*, **, *** indicates significant level at 10%, 5%, and 1%)
303
The result from STATA shows that p-value forB-Size is 0.086 which is significant at 10%
level. The coefficient betweenB_Size and EM is 222672.7 which is reverse to the hypothesis.
This results is similar to the research of Rahman and Ali (2006). A large BOD is more difficult
to control accounting and financial information due to the high cost and time required to timely
transfer information between the managers and the BOD. In addition, the different and conflict
opinions of a large BOD can exert pressure on the managers to practice earnings management.
P-value for Big 4 is 0.000 which is significantly at 1% level. The coefficient between Big 4
and EM is -676066.8 which indicates that choosing Big 4 firms as independence auditors helps
to lower earnings management in the case of listed companies in Vietnam stock market. The
results is similar to previous studies such as Teoh and Wong (1993) and Krishnan (2003).
P-value for CFO is 0.000 which is significantly impacted on earnings management at 1%
level. The coefficient between CFO and EM is -2548029. It points out that highly leveraged
companies have strong incentives to distort income which is similar to the studies of Ali et al.
(2008) and Jiang et al. (2008).
5. CONCLUSION
Based on the observation sample of 90 companies listed on Vietnam stock market from
2016 to 2018, this paper examines for the impact of good corporate governance practice and
audit quality on the quality of financial reports of listed companies in Vietnam stock market.
Research results show that the larger BODand the hiring Big 4 auditors has significant impacts
on financial report quality. However, the larger BOD tends to exaggerate earnings management
due to constraint in timely information and management and variety in opions and requirements.
Besides, other control variables such as the cash flows from operating activities also
significantly affect on earnings management.The result of this study is similar to most of
previous studies as mention in table 2. It indicates that financial information presented in the
financial report is more important for outsider to evaluate a company than non-financial report
presented in annual report. As mentioned in table 6, all non-financial information is not
significant except the large BOD and Big 4 auditors.
RERERENCES
Agrawal, A. and Chadha, S. (2005). Corporate governance and accounting scandals. Journal of
Law and Economics, 48.
Ali. SM, Salle. NM, & Hassan. MS (2008). ‘Ownership Structure and Earnings Management in
Malaysian Listed Companies: the size effect’, Asian Journal of Business and Accounting,
1(2), 89-116.
Be´dard, J., Chtourou, S.M., and Courteau, L. (2004) The Effect of Audit Committee Expertise,
Independence, and Activity on Aggressive Earnings Management. Journal of Practice and
Theory, 23(2), 13-35.
304
Chen, K. Y., Randal J. Elder, Yung-Ming Sieh, (2007). Corporate Governance and Earnings
Management. SSRNeLibrary.
Chtourou, S. M., Bedard, J., and Courteau, L. (2001). Corporate governance and earnings
management. SSRN eLibrary.
Chung, R, Firth M and Kim, JB (2002). Institutional monitoring and opportunistic earnings
management. Journal of Corporate Finance, 8(1), 29-48.
DeAngelo, L. 1981. Auditor size and audit quality. Journal of Accounting and Economics, 3(3),
183–199.
Dechow, P., Sloan, R. & Sweeney, A. (1995). “Detecting earnings management”, The
Accounting Review, 70, 193-225.
Finkelstein, S. and D’Aveni, R.A. (1994).CEO duality as a double-edged sword: How boards of
director balance entrenchment avoidance and unity of command. Academy of Management
Journal, 37, 1079-1108.
Healy, P.M. and Wahlen, J.M. (1999). A review of the earnings management literature and its
implications for standard setting. Accounting Horizons, 13, 365-383.
IASB (2010). Conceptual Framework for Financial Reporting. http://www.ifrs.org/News/Press-
Releases/Documents/ConceptualFW2010vb.pdf
Jensen, M. and Meckling, W. (1976). Theory of the firm: Managerial behavior, agency costs and
ownership structure. Journal of Financial Economics, 3, 4,305-360.
Jiang. W, Lee. P, & Anandarajan. A (2008). ‘The association between corporate governance and
earnings quality: Further evidence using the GOV-score’. Advances in Accounting
Incorporating Advances in International Accounting, 24(2), 191-201.
Johari, N.H., Saleh, N.M., Jaffar, R. and Hassan, M.S. (2009). The influence of board
independence, competency and ownership on earnings management in Malaysia.
International journal of Economics and Management, 2(2) 281-306.
Jones, J. (1991). Earnings Management During Import Relief Investigations. Journal of
Accounting Research, 29, 193-228.
Klein, A. (2002), “Audit committee, board of director characteristics and earnings management”,
Journal of Accounting and Economics, 33, 375-400.
Krishnan, G. (2003). Audit quality and the pricing of discretionary accruals. Auditing: A Journal
of Practice and Theory, 22(1), 109–126.
Nguyen Trong Nguyen (2015). “Tac dong cua quan tri cong ty den chat luong thong tin bao cao
tai chinh tai cac cong ty niem yet o Viet Nam”. Luan an tien si. Truong Dai hoc Kinh te TP.
Ho Chi Minh.
OECD (2015), G20/OECD Principles of Corporate Governance, OECD Publishing, Paris.
305
Park, W.Y and Shin, H (2004). Board composition and earnings management in Canada. Journal
of Corporate Finance, 10, 3, 431-457.
Peasnell, K. V., Pope, P. F., and Young, S. (2005). Board monitoring and earnings management:
Do outside directors influence abnormal accruals? Journal of Business Finance and
Accounting, 32, 1311–1346.
Rahman, R. A., and Ali, F. H. M (2006). Board, audit committee, culture and earnings
management: Malaysian evidence. Managerial Auditing Journal, 21, 7,783-804.
Roychowdhury, S. (2006). Earnings management through real activities manipulation. Journal of
Accounting and Economics, 42(3), 335-370.
Saleh, N.M. , Iskandar, T.M., Rahmat, M.M. (2005). Earnings management and Board
characteristics: Evidence from Malaysia. Journal Pengurusan, 24.
Teoh, S., and T. J. Wong. 1993. Perceived auditor quality and the earnings response coefficient.
The Accounting Review, 68(2), 346–366.
Xie, B., Davidson, W. N., and Dadalt, P. J. (2003). Earnings management and corporate
governance: The roles of the board and the audit committee. Journal of Corporate
Finance, 9, 295–316.
Yang, J. and Krishnan, J. (2005). Audit Committees and Quarterly Earnings
Management. International Journal of Auditing, 9(3), 201-219.
306
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của việc chuyển đổi sang
kế toán trên cơ sở dồn tích tại các đơn vị hành chính sự nghiệp
Đinh Thị Thanh Hải, Đặng Thu Hà
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: dinhthithanhhai@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.18 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 12/11/2019
Ngày nhận bài: 29/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2019
Tóm tắt
Trong qua trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam cam kết về minh bạch hóa thông
tin kế toán trong khu vực công đã đặt ra yêu cầu về báo cáo tài chính của quốc gia phải phải
được chuyển đổi sang kế toán trên cơ sở dồn tích. Bộ Tài chính đã và đang tiến hành xây dựng
các văn bản pháp lý để hướng dẫn việc chuyển đổi này. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
cũng gặp không ít khó khăn. Bài viết này nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của
việc chuyển đổi sang kế toán trên cơ sở dồn tích tại các đơn vị hành chính sự nghiệp. Trên cơ sở
kết quả phân tích, đưa ra một vài kiển nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động chuyển đổi
sang cơ sở kế toán dồn tích tại các đơn vị hành chính sự nghiệp.
Từ khóa: Chuyển đổi sang kế toán dồn tích, đơn vị hành chính sự nghiệp, nguồn nhân lực,
hoạt động truyền thông, phương tiện hỗ trợ.
1. GIỚI THIỆU
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra rất mạnh mẽ ở Việt Nam. Việc gia nhập
các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực như WTO, APEC…; ký kết các Hiệp định thương mại đa
phương và song phương với nhiều quốc gia; cam kết với các tổ chức tài chính như Ngân hàng
thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng phát triển Châu Á đòi hỏi các công cụ quản lý kinh tế
trong đó có kế toán phải tiếp cận với các nguyên tắc, thông lệ chung của quốc tế, để có thể so
sánh thông tin kế toán với các nước khác trên thế giới và được quốc tế thừa nhận. Ngoài ra, Việt
Nam cần phải thực hiện việc tuân thủ theo lộ trình đã thỏa thuận có cam kết về minh bạch hóa
thông tin kế toán, nhất là trong khu vực kế toán công.
Thêm vào đó, yêu cầu về báo cáo tài chính của quốc gia một cách đầy đủ, chính xác và
minh bạch theo thông lệ quốc tế là điều mà rất nhiều đối tượng trong xã hội quan tâm, do đó vai
trò của kế toán công được thể hiện ở việc thực hiện các chức năng thông tin và kiểm tra của nó
đối với hoạt động kinh tế - tài chính của Nhà nước. Vai trò này ngày càng thể hiện rõ nét đối với
các đối tượng sử dụng thông tin kế toán công, đặc biệt từ phía công chúng.
307
Năm 2015, Quốc hội đã thông qua Luật kế toán số 88/2015/QH13 và Luật Ngân sách nhà
nước số 83/2015/QH13, cùng với đó, các cơ chế tài chính áp dụng cho các đơn vị hành chính sự
nghiệp cũng thay đổi theo như Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định về cơ chế tự chủ tài chính
trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Bên cạnh đó, Việt Nam đang triển khai thực hiện đề án
Tổng kế toán nhà nước nhằm xây dựng hệ thống báo cáo tài chính nhà nước đảm bảo tính kịp
thời, đầy đủ, công khai, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế. Từ những nhu cầu cấp thiết
này, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 107/2017/TT-BTC về chế độ kế toán hành chính sự
nghiệp đã thay đổi căn bản, toàn diện phương pháp hạch toán, hệ thống báo cáo tài chính, báo
cáo quyết toán, chuyển từ kế toán trên cơ sở tiền mặt sang kế toán trên cơ sở dồn tích để phù hợp
với sự đổi mới của cơ chế tài chính, ngân sách và lập báo cáo tài chính theo luật Kế toán.
Việc áp dụng chế độ kế toán mới cho các đơn vị hành chính sự nghiệp là một trong những
bước đi đầu tiên trong quá trình thực hiện chiến lược kế toán - kiểm toán đến năm 2020, tầm
nhìn 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và ban hành Quyết định số 480/QĐ-
TTg/2013. Trong thời gian đầu áp dụng Thông tư số 107/2017/TT-BTC đã nhận được đánh giá
tích cực về việc chuyển đổi từ kế toán trên cơ sở tiền sang kế toán dồn tích đã góp phần cải thiện
chất lượng thông tin, thích hợp cho việc ra quyết định và xét ở phạm vi tổng thể khu vực công,
kế toán dồn tích mang lại thông tin tổng quát hơn (Lê Thị Thanh Huyền, 2018).
Việc chuyển đổi cơ sở kế toán khu vực công từ tiền mặt sang dồn tích ở các nước trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều gặp phải những khó khăn nhất định. Trên thực tế,
nhiều quốc gia đã bày tỏ sự hoài nghi rằng liệu việc chuyển đổi sang kế toán dồn tích có thực sự
đem lại nhiều lợi ích so với các chi phí bỏ ra hay không. Tuy nhiên, việc chuyển đổi này là xu
hướng phát triển tiến bộ và cần xem xét đến việc làm thế nào để việc chuyển đổi này thành công.
Dựa trên nền tảng lý thuyết quản lý khu vực công mới đã có một số nghiên cứu được thực hiện
để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của việc chuyển đổi kế toán khu vực công từ cơ
sở tiền mặt sang cơ sở dồn tích. Trong nghiên cứu trước đây của Ardiansyah (2013), đã thành
công trong việc chứng minh ảnh hưởng của các nhân tố nguồn nhân lực, truyền thông đến hiệu
quả của việc thực hiện chuyển đổi cơ sở kế toán khu vực công từ tiền mặt sang dồn tích. Trong
nghiên cứu của Harsi và cộng sự (2017) chứng minh được có thêm nhân tố ảnh hưởng đến hiệu
quả của việc chuyển đổi này là các phương tiện hỗ trợ thực hiện. Surbakti (2018) đã chứng minh
ngoài nhân tố nguồn nhân lực, truyền thông và phương tiện hỗ trợ thực hiện thì sự cam kết thực
hiện của các tổ chức cũng tác động đến thành công của việc chuyển đổi cơ sở kế toán trong khu
vực công sang dồn tích. Các nghiên cứu này đều đã được thực hiện tại các nước thuộc khu vực
Đông Nam Á đã thực hiện chuyển đổi cơ sở kế toán sang dồn tích tại khu vực công, trong khi đó
Việt Nam mới bước đầu thực hiện việc chuyển đổi cơ sở kế toán này. Việc nghiên cứu những
nhân tố tác động đến hiệu quả của việc chuyển đổi cơ sở kế toán khu vực công có ý nghĩa quan
trọng vì đây là cơ sở để các nhà quản lý xây dựng các giải pháp giúp thực hiện thành công việc
chuyển đổi cơ sở kế toán tiền mặt sang cơ sở kế toán dồn tích, nhằm hình thành hệ thống báo cáo
tài chính khu vực công đầy đủ, chính xác và minh bạch. Trong nghiên cứu của Harsi và cộng sự
(2017) chỉ ra rằng nhân tố cam kết thực hiện của tổ chức không ảnh hưởng đến hiệu quả của việc
chuyển đổi từ cơ sở kế toán tiền mặt sang kế toán trên cơ sở dồn tích vì việc thực hiện chuyển
308
đổi là bắt buộc theo quy định của cơ quan tài chính Nhà nước đối với các tổ chức khu vực công.
Tương tự như vậy, việc chuyển đổi cơ sở kế toán từ tiền mặt sang dồn tích tại các đơn vị hành
chính sự nghiệp ở Việt Nam cũng bắt buộc phải tuân thủ theo chế độ kế toán theo Thông tư
107/2017/TT-BTC nên trong nghiên cứu này không tìm hiểu nhân tố cam kết thực hiện của tổ
chức, mà chỉ tìm hiểu mức độ ảnh hưởng của ba nhân tố: nguồn nhân lực, truyền thông và các
phương tiện hỗ trợ thực hiện đến hiệu quả của việc chuyển đổi cơ sở kế toán khu vực công từ
tiền mặt sang dồn tích.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Lý thuyết quản lý công mới
“Quản lý công mới" là thuật ngữ dùng để chỉ hàng loạt các hoạt động cải cách diễn ra trong
nền hành chính của các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) những năm
cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 thế kỷ trước, có thể coi là một hệ tư tưởng về cải cách được
hình thành trong khu vực tư và áp dụng vào khu vực công. Nó bao gồm hầu hết những thay đổi
về cấu trúc, tổ chức và quản lý diễn ra trong khu vực công của các nước OECD. Theo Hood
(1995), mô hình quản lý công mới có đặc điểm nổi bật nhất là lấy mục tiêu cao nhất là kết quả
đầu ra và hiệu quả thực hiện. Mô hình quản lý công mới gắn liền với hoạt động giám sát và đánh
giá kết quả thông qua các tiêu chí cụ thể. Mô hình quản lý này đòi hỏi sự triển khai đồng bộ từ
phương thức đầu tư và phân bổ tài chính công; xây dựng hệ thống chỉ số và phương pháp đánh
giá dựa trên kết quả thực hiện công việc trên toàn bộ hệ thống bộ máy nhà nước. Trong số những
khía cạnh quan trọng trong quản lý công mới là xu hướng cải cách thông tin tài chính và hệ
thống báo cáo tài chính, đây là yếu tố cơ bản trong việc tăng cường và nâng cao công tác quản lý
và ra quyết định của các tổ chức thuộc khu vực công (Guther và cộng sự, 1999).
Theo lý thuyết quản tài chính công mới, việc lập báo cáo tài chính trên cơ sở kế toán dồn
tích được coi là một trong những công cụ quan trọng của các tổ chức hành chính sự nghiệp vì các
thông tin được trình bày trên báo cáo tài chính một cách toàn diện, có thể so sánh được, minh
bạch và thể hiện được trách nhiệm giải trình của tổ chức (Gomes và cộng sự, 2015).
2.1.2. Thực hiện chuyển đổi kế toán trên cơ sở tiền mặt sang kế toán dồn tích tại các
đơn vị hành chính sự nghiệp
Hiện tại, theo Thông tư số 107/2017/TT-BTC đơn vị hành chính sự nghiệp ở Việt Nam
phải lập hai hệ thống báo cáo: hệ thống báo cáo quyết toán vẫn sử dụng cơ sở tiền mặt, hệ thống
báo cáo tài chính đã được lập dựa trên cơ sở dồn tích. Sự thay đổi hạch toán áp dụng cơ sở dồn
tích trong đơn vị sự nghiệp đã phần nào cải thiện chất lượng thông tin, thích hợp cho việc ra
quyết định. Cụ thể, đã có báo cáo tình hình tài chính thể hiện tài sản (chia thành tài sản ngắn hạn,
tài sản dài hạn), nợ phải trả và tài sản thuần (vốn chủ sở hữu); báo cáo kết quả hoạt động thể hiện
doanh thu - chi phí của các đơn vị sự nghiệp có thu và đã thể hiện được khoản mục thặng dự
hoặc thâm hụt từ các hoạt động của đơn vị; báo cáo lưu chuyển tiền tệ báo cáo luồng tiền trong
kỳ được phân loại theo các luồng tiền chính (hoạt động thông thường đúng mục đích của đơn vị
309
công), hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. Xét ở phạm vi tổng thể khu vực công, kế toán
dồn tích mang lại thông tin tổng quát hơn, từ đó tạo cơ sở để tăng cường quản lý tài sản, quản lý
công nợ và đánh giá khả năng thanh toán của đơn vị, phù hợp với thông lệ kế toán công quốc tế.
Việc lập BCTC hợp nhất ở các đơn vị hành chính sự nghiệp, chính quyền các cấp và Chính phủ
sẽ sớm được thực hiện khi ban hành quy định, hướng dẫn và phương pháp lập và trình bày
BCTC hợp nhất trong lĩnh vực công, góp phần làm cho kế toán công ngày càng trở thành công
cụ hữu hiệu trong quản lý tài sản, ngân sách quốc gia.
2.1.3. Phát triển giả thuyết nghiên cứu
Theo Augustino (2006), nhân viên chính là nguồn lực chính cho việc thực hiện chính sách
mới. Việc áp dụng một chính sách mới thường không hiệu quả bởi vì các nhân viên thực hiện
nhiệm vụ không đảm bảo được kiến thức và kỹ năng cần thiết. Các nhà hoạch định chính sách
cần chú ý đến nguồn nhân lực, phải đảm bảo được các nhân viên kế toán trong đơn vị hành chính
sự nghiệp có khả năng làm chủ được việc áp dụng chế độ kế toán mới cũng như có đầy đủ kiến
thức cơ bản về kế toán, đặc biệt là nguyên tắc kế toán dựa trên cơ sở dồn tích. Một số nghiên cứu
trước đây của Ardiansyah (2013) và Surbakti (2018) đã kết luận rằng yếu tố nguồn nhân lực có
ảnh hưởng đến thành công của việc chuyển đổi kế toán trên cơ sở tiền sang kế toán trên cơ sở
dồn tích trong khu vực công. Từ những nghiên cứu trên, xây dựng giả thuyết:
H1: Nguồn nhân lực ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động chuyển đổi cơ sở kế toán
trong khu vực công từ tiền mặt sang dồn tích.
Theo Robbins (2007), trong quá trình thực hiện truyền thông các chính sách mới có 3
hình thức truyền thông chính là truyền thông theo chiều dọc, có nghĩa là các thông tin về chính
sách được thông báo và hướng dẫn từ cơ quan cấp trên xuống các đơn vị cấp dưới; truyền
thông theo chiều ngang là việc thông tin về chính sách mới được truyền đạt giữa các đơn vị
ngang cấp với nhau hoặc giữa các đồng nghiệp trong cùng lĩnh vực; truyền thông liên tổ chức
là việc truyền đạt thông tin kết hợp cả từ trên xuống và các cơ quan ngang cấp với nhau. Hoạt
động truyền thống chính sách có thể được thực hiện thông qua các hội thảo, tọa đàm chuyên
đề; phát hành các sản phẩm, tài liệu hướng dẫn thực hiện công tác kế toán khi chuyển đổi từ cơ
sở tiền mặt sang cơ sở dồn tích. Việc truyền thông về chính sách mới hay những thay đổi trong
công tác kế toán khi chuyển đổi từ cơ sở tiền mặt sang cơ sở dồn tích dù theo hình thức nào thì
việc tiếp nhận và xử lý thông tin của từng cá nhân là khác nhau. Chính vì vậy thông tin truyền
đạt cần phải được hiểu một cách thống nhất để việc thực hiện công tác kế toán giữa các đơn vị
cũng được thống nhất theo quy định chung. Augustino (2016) cũng chỉ ra rằng truyền thông
ảnh hưởng đến thành công của việc thực hiện các mục tiêu chính sách công. Lý thuyết này
cũng được chứng minh trong nghiên cứu của Ardiansyah (2013), Ouda (2014), Surbakti (2018)
rằng truyền thông có ảnh hưởng đến việc thực hiện thành công chuyển đổi từ kế toán trên cơ sở
tiền mặt sang kế toán trên cơ sở dồn trong khu vực công từ tiền mặt sang dồn tích. Từ những
nghiên cứu trên, xây dựng giả thuyết:
H2: Hoạt động truyền thông ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động chuyển đổi cơ sở kế
toán trong khu vực công từ tiền mặt sang dồn tích.
310
Để hỗ trợ cho việc chuyển đổi cơ sở kế toán tiền mặt sang kế toán dồn tích trong khu vực
công, việc sử dụng hệ thống trang thiết bị công nghệ thông tin đáng tin cậy là rất quan trọng vì
điều này sẽ đảm bảo được việc xử lý thành công các dữ liệu kế toán. Theo Augustino (2006) cho
rằng sự thiếu vắng các phương tiện hỗ trợ sẽ dẫn đến việc áp dụng các chính công không thành
công. Trong nghiên cứu của Sulani (2009) cũng chứng minh rằng các phương tiện hỗ trợ về công
nghệ thông tin có ảnh hưởng đến sự sẵn sàng của chính phủ để thực hiện chuyển đổi sang chế độ
kế toán dồn tích. Việc chuẩn bị tốt các phương tiện hỗ trợ là chất xúc tác, động lực cho việc
chuyển đổi thành công cơ sở kế toán. Ngược lại, nếu không nhận sự hỗ trợ đầy đủ sẽ trở thành
trở ngại cho việc thực hiện chính sách. Dự trên cơ sở đó, giả thuyết thứ 3 được xây dựng:
H3: Phương tiện hỗ trợ ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động chuyển đổi cơ sở kế toán
trong khu vực công từ tiền mặt sang dồn tích.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên nghiên cứu lý thuyết liên quan đến quản lý tài chính công mới tác động của
nguồn nhân lực, hoạt động truyền thông và phương tiên hỗ trợ thực hiện lên hiệu quả của hoạt
động chuyển đổi từ kế toán trên cơ sở tiền sang kế toán trên cơ sở dồn tích trong khu vực công,
mô hình nghiên cứu được xây dựng:
Hình 1: Mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động chuyển đổi sang
cơ sở kế toán dồn tích
Xây dựng thang đo để đo lường các biến cụ thể như bảng tổng hợp sau:
Bảng 1: Tổng hợp các biến quan sát của mô hình nghiên cứu
Nhân tố Biến quan sát
Hiệu quả
hoạt động
chuyển đổi
(HQUD)
HQUD1 Thông tin trên báo cáo tài chính lập theo cơ sở dồn tích được trình
bày trung thực.
HQUD2 Thông tin trên báo cáo tài chính lập theo cơ sở dồn tích đảm bảo sự
tin cậy và tính minh bạch cao.
HQUD3 Thông tin trên báo cáo tài chính lập theo cơ sở dồn tích là hữu ích
đối với người sử dụng.
HQUD4 Thông tin trên báo cáo tài chính lập theo cơ sở dồn tích gắn liền với
trách nhiệm giải trình.
Nguồn nhân lực
Hoạt động truyền
thông
Phương tiện hỗ trợ
Hiệu quả hoạt động
chuyển đổi
311
Nguồn nhân
lực (NNL)
NNL1 Có kiến thức cơ bản về kế toán trên cở sở dồn tích.
NNL2 Hiểu và áp dụng được những thay đổi mới vào công tác kế toán của
đơn vị.
NNL3 Có kỹ năng cần thiết để thích ứng với những thay đổi trong công
tác kế toán.
NNL4 Có kinh nghiệp tổng hợp được thông tin và lập được các báo cáo tài
chính theo cơ sở kế toán dồn tích.
Hoạt động
truyền thông
(HĐTT)
HĐTT1 Có thể dễ dàng tìm kiếm và truy cập những thông tin mới về sự
thay đổi.
HĐTT2 Thông tin mới khi chuyển đổi sang kế toán trên cơ sở dồn tích được
trình bày rõ ràng.
HĐTT3 Thông tin mới khi chuyển đổi sang kế toán trên cơ sở dồn tích có
tính nhất quán.
Phương tiện
hỗ trợ
(PTHT)
PTHT1 Các đơn vị được trang bị hệ thống thiết bị cần thiết để sẵn sàng cho
việc chuyển đổi sang kế toán trên cơ sở dồn tích.
PTHT2 Hệ thống phần mềm kế toán được thiết kế phù hợp và cập nhật kịp
thời với sự thay đổi.
PTHT3 Hệ thống kết nối mạng sẵn sàng để hỗ trợ các đơn vị khi thực hiện
chuyển đổi sang kế toán trên cơ sở dồn tích.
PTHT4 Kinh phí hỗ trợ cho các đơn vị trong việc thực hiện chuyển đổi
sang kế toán trên cơ sở dồn tích kịp thời và đầy đủ.
Để chuẩn bị phân tích dữ liệu về các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố nguồn
nhân lực, hoạt động truyền thông, phương tiện hỗ trợ đến hiều quả hoạt động chuyển đổi cơ sở
kế toán từ tiền mặt sang dồn tích tại các đơn vị hành chính sự nghiệp, tác giả xác định kích thước
mẫu là tối thiểu là 75. Theo Hair (2010), mẫu tối thiểu là 50, với tỷ lệ quan sát trên biến đo lường
là 5:1, tốt nhất là 10:1. Trong bảng khảo sát có 15 biến quan sát và 3 biến độc lập nên kích thước
mẫu hợp lý là lớn hơn 75. Các biến được đo bằng thang đo Likert 5 điểm. Các thang đo này được
kiểm định bằng phương pháp hệ số tin cậy Cronbach Alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA.
Sau khi kiểm định thang đo, các biến quan sát còn lại sẽ sử dụng để kiểm định giả thuyết và mô
hình nghiên cứu bằng phương pháp phân tích tương quan, hồi quy tuyến tính.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Thực hiện 150 phiếu khảo sát qua Google forms và gửi email cho các đối tượng là kế toán
tại các đơn vị hành chính thuộc các Sở và đơn vị sự nghiệp có thu trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Kết quả thu về 86 phiếu hợp lệ để đưa vào phân tích và đảm bảo được cao hơn kích thước mẫu
tối thiểu. Trong số 86 mẫu thu thập đưa vào phân tích có 12 người làm việc trong các đơn vị
hành chính là các Sở thuộc UBND thành phố Hà Nội và 74 người đang làm việc tại các đơn vị sự
nghiệp thuộc ngành y tế và giáo dục. Tỷ lệ người tham gia khảo sát đa số (86%) thuộc đơn vị sự
nghiệp, nơi có số lượng nghiệp vụ kinh tế phát sinh thuộc nhiều nhóm hoạt động khác nhau nên
báo cáo tài chính phức tạp hơn các đơn vị hành chính.
312
3.1. Kiểm định thang đo
Kiểm định độ tin cậy của thang đo thông qua hệ số Cronbach Alpha nhằm loại trừ các biến
có hệ số tương quan biến tổng nhỏ hơn 0.3. Tiêu chuẩn chọn thang đó khi có độ tin cậy
Cronbach’s Alpha ≥ 0.6 (Nunnally & Burnstein, 1994). Cronbach’s Alpha của các thang đo
thành phần được trình bày trong các bảng dưới đây.
Bảng 2: Bảng tổng hợp kiểm định thang đo
Nhân tố Hệ số Cronbach’s Alpha Số biến quan sát
Nguồn nhân lực 0.756 4
Hoạt động truyền thông 0.730 3
Phương tiện hỗ trợ 0.724 4
Hiệu quả hoạt động chuyển đổi 0.820 4
Sau khi kiểm định thang đo cho các nhân tố, hệ số Cronbach’s Alpha đều lớn hơn 0.6 và
các biến quan sát đều có tương quan biến tổng lớn hơn 0.3 và nhỏ hơn Cronbach’s Alpha. Như
vậy các thang đo này đều đáp ứng độ tin cậy.
3.2. Phân tích nhân tố khám phá (EFA)
Nghiên cứu sử dụng phương pháp trích hệ số Principal component với phép quay Varimax
tại điểm dừng khi trích các yếu tố có Eigenvalue >1. Trong nghiên cứu này giá trị của hệ số
Eigenvalue = 1.351 > 1. Tổng phương sai trích = 64.66% >50% là chấp nhận được (Anderson &
Gerbing, 1988), điều này cho thấy các nhân tố trích được có thể giải thích được 64.66% sự biến
thiên của dữ liệu nghiên cứu.
Bảng 3: Bảng phương sai trích
Component Initial Eigenvalues Extraction Sums of Squared
Loadings
Rotation Sums of Squared
Loadings
Total % of
Variance
Cumulative
%
Total % of
Variance
Cumulative
%
Total % of
Variance
Cumulative
%
1 4.115 37.408 37.408 4.115 37.408 37.408 2.584 23.489 23.489
2 1.646 14.961 52.370 1.646 14.961 52.370 2.313 21.025 44.514
3 1.351 12.285 64.655 1.351 12.285 64.655 2.215 20.141 64.655
4 .889 8.082 72.737
5 .739 6.716 79.454
6 .588 5.349 84.803
7 .514 4.668 89.471
8 .437 3.969 93.440
9 .280 2.541 95.981
10 .245 2.230 98.210
11 .197 1.790 100.000
Extraction Method: Principal Component Analysis.
313
Khi phân tích nhân tố, nghiên cứu đặt ra 2 giả thuyết:
Giả thuyết H0: Các biến trong tổng thể không có tương quan với nhau
Giả thuyết H1: Các biến trong tổng thể có tương quan với nhau
Tiến hành kiểm định KMO và Bartlett để kiểm định mối tương quan cho kết quả hệ số Sig.
= 0.000 < 0.05, bác bỏ H0, chấp nhận H1, tức là các biến trong tổng thể có mối tương quan với
nhau. Đồng thời hệ số KMO = 0.728 (0.5 < KMO <1), chứng tỏ phân tích nhân tố để nhóm các
biến lại với nhau là thích hợp và dữ liệu phù hợp cho việc phân tích nhân tố.
Bảng 4: Hệ số KMO và kiểm đinh Bartlett các thành phần
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. .728
Bartlett's Test of Sphericity
Approx. Chi-Square 365.262
Df 55
Sig. .000
Sau khi thực hiện phương pháp rút trích Principal component và phép quay Varimax, ta có
ma trận xoay các nhân tố.
Bảng 5: Bảng ma trận xoay
Component
1 2 3
NNL3 .902
NNL2 .804
NNL4 .602
NNL1 .541
HĐTT2 .870
HĐTT3 .823
HĐTT1 .608
PTHT1 .743
PTHT2 .731
PTHT3 .658
PTHT4 .627
Từ kết quả phân tích EFA như trên mô hình nghiên cứu chính thức điều chỉnh gồm 03
nhân tố tác động đến hiệu quả của việc chuyển đổi cơ sở kế toán từ tiền mặt sang dồn tích trong
khu vực công. Cụ thể mô hình này có 03 biến độc lập là: nguồn nhân lực, hoạt động truyền
thông, phương tiện hỗ trợ và 01 biến phụ thuộc là hiệu quả của việc chuyển đổi cơ sở kế toán từ
tiền mặt sang dồn tích trong khu vực công. Từ đó, mô hình hồi quy được xây dựng cho mối quan
hệ như sau: HQUD = α0+ β1 NNL + β2 HĐTT + β3 PTHT
Trong đó, α0 là hằng số tự do; βj là trọng số hồi quy
314
Kiểm định mô hình nghiên cứu nguồn nhân lực, hoạt động truyền thông và phương tiện hỗ
trợ ảnh hưởng đến hiệu quả của việc chuyển đổi cơ sở kế toán từ tiền mặt sang dồn tích trong
khu vực công.
Trước hết tiến hành đánh giá mức độ phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính bội. Qua
bảng 5 cho thấy, giá trị hệ số R = 0.769 > 0.5 chứng tỏ đây là mô hình thích hợp để sử dụng đánh
giá mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập. Mặt khác, giá trị hệ số xác định R2 =
0.591 nghĩa là mô hình hồi quy tuyến tính đã xây dựng phù hợp với dữ liệu 59,1%, hay 59,1%
hiệu quả của việc chuyển đổi kế toán cơ sở tiền mặt sang kế toán trên cơ sở dồn tích trong khu
vực công thay đổi do sự thay đổi của các biến độc lập là nguồn nhân lực, hoạt động truyền thông
và phương tiện hỗ trợ. Còn 40,9% là do sai số và các nhân tố khác gây ra.
Bảng 6: Đánh giá mức độ phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính bội
Model R R Square Adjusted R
Square
Std. Error of the
Estimate
Durbin-Watson
1 .769a .591 .576 .32623 2.172
a. Predictors: (Constant), PTHT, NNL, TTTT
b. Dependent Variable: HQUD
Kiểm định F trong phân tích Anova về sự phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính tổng
thể. Từ bảng 6 cho thấy giá trị Sig. =0.000 (<0.05) chứng tỏ rằng mô hình hồi quy xây dựng là
phù hợp với bộ dữ liệu được thu thập, và điều này có nghĩa là các biến độc lập trong mô hình có
tương quan tuyến tính với biến phụ thuộc.
Bảng 7: Kiểm định tính phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính bội
ANOVAa
Model Sum of Squares Df Mean Square F Sig.
1
Regression 12.616 3 4.205 39.513 .000b
Residual 8.727 82 .106
Total 21.343 85
a. Dependent Variable: HQUD
b. Predictors: (Constant), PTHT, NNL, TTTT
Coefficientsa
Model Unstandardized
Coefficients
Standardized
Coefficients
T Sig. Collinearity Statistics
B Std. Error Beta Tolerance VIF
1
(Constant) .244 .311 .786 .434
NNL .273 .088 .254 3.116 .003 .752 1.329
HĐTT .519 .083 .536 6.261 .000 .682 1.467
PTHT .148 .091 .135 1.620 .109 .716 1.396
a. Dependent Variable: HQUD
315
Kết quả hồi quy của các biến độc lập trong bảng 7 cho thấy hệ số Sig. của biến nguồn nhân
lực và hoạt động truyền thông đều nhó hơn 0.05, trong khi hệ số Sig. của biến phương tiện hỗ trợ
lớn hơn 0.05 nên không có ý nghĩa thống kê. Hệ số VIF đều nhỏ hơn 10 nên sẽ không xảy ra
hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình. Như vậy, mô hình nghiên cứu loại bỏ nhân tố Phương
tiện hỗ trợ, từ đó có phương trình hồi quy:
Hiệu quả hoạt động chuyển đổi = 0.244 + 0.519 Hoạt động truyền thông
+ 0.273 Nguồn nhân lực
4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của việc chuyển đổi cơ sở kế toán
từ tiền mặt sang dồn tích tại các đơn vị hành chính sự nghiệp cho thấy mối quan hệ giữa nguồn
nhân lực và hoạt động truyền thông có ảnh hưởng đến hiệu quả của việc chuyển đổi cơ sở kế
toán. Hoạt động truyền thông có mức độ ảnh hưởng cao nhất (β = 0.519) khẳng định rằng, khi
chuyển đổi cơ sở kế toán khu vực công từ tiền mặt sang tích thì hoạt động truyền thông là nhân
tố cần được quan tâm nhiều nhất. Bên cạnh đó chất lượng của nguồn nhân lực kế toán cũng ảnh
hưởng đến việc chuyển dịch sang kế toán từ cơ sở tiền mặt sang cơ sở dồn tích (β = 0.273). Từ
kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng muốn nâng cao hiệu quả của việc chuyển đổi cơ sở kế toán
từ tiền mặt sang dồn tích thì cần có những giải pháp về hoạt động truyền thông và năng lực của
nhân viên kế toán trước sự thay đổi.
Về hoạt động truyền thông, việc Có thể dễ dàng tìm kiếm và truy cập những thông tin mới
về sự thay đổi được đánh giá thấp nhất (Mean = 2.91). Điều này có nghĩa là cơ quan ban hành
chính sách kế toán cần quan tâm đến việc công bố công khai và kịp thời các văn bản pháp lý
cũng như các văn bản hướng dẫn thực hiện việc chuyển đổi sang cơ sở kế toán dồn tích. Các văn
bản pháp lý mới được ban hành có thể được đăng tải thông qua ứng dụng các thành tựu của công
nghệ 4.0 để đảm bảo tốc độ truyền thông đến những người trực tiếp thực hiện những thay đổi
nhanh hơn. Công văn có thể chuyển qua thư điện tử, nội dung của các văn bản pháp lý được cập
nhật trên website của cơ quan ban hành chính sách và các cơ quan truyền thông về chính sách,
pháp luật. Điều này giúp cho những người quan tâm và trực tiếp tham gia vào công tác kế toán
trong khu vực công có thể dễ dàng tiếp cận và cập nhật kiến thức kịp thời. Ngoài ra, các văn bản
hướng dẫn từ các cơ quan tài chính các cấp cần phải cụ thể chi tiết hơn với đặc thù của từng đơn
vị hành chính sự nghiệp để đảm bảo việc thống nhất thông tin trong quá trình thực hiện chuyển
đổi công tác kế toán từ cơ sở kế toán tiền mặt sang cơ sở kế toán dồn tích.
Chất lượng của nguồn nhân lực kế toán phải được nâng cao hơn, đặc biệt khi có sự thay
đổi lớn trong hệ thống kế toán khu vực công, đặc biệt đối với việc cập nhật kiến thức về kế
toán trên cơ sở dồn tích (mean = 2.70). Các đơn vị hành chính sự nghiệp cần phải tạo điều kiện
cho nhân viên kế toán tham gia các lớp tập huấn cập nhật kiến thức mới, kịp thời ngay khi có
sự thay đổi từ Bộ Tài chính để đảm bảo họ có thể hiểu chính xác và thực hiện tốt việc chuyển
đổi công tác kế toán từ cơ sở kế toán tiền mặt sang cơ sở kế toán dồn tích. Bên cạnh việc cập
nhật kiến thức cho nhân viên, các cơ quan chức năng và hiệp hội nghề nghiệp kế toán cần xây
316
dựng các tiêu chí đánh giá năng lực cho nhân viên kế toán tại đơn vị hành chính sự nghiệp để
đảm bảo hiệu quả của công tác kế toán khu vực công khi chuyển đổi cơ sở kế toán từ tiền mặt
sang dồn tích.
Trong bài nghiên cứu còn hạn chế chưa tìm thấy được ảnh hưởng của phương tiện hỗ trợ
đến hiệu quả của hoạt động chuyển đổi từ cơ sở kế toán tiền mặt sang cơ sở kế toán dồn tích,
nguyên nhân là do đối tượng khảo sát chỉ tập trung tại các đơn vị hành chính sự nghiệp tại Hà
Nội đều được trang bị hệ thống máy tinh hiện đại và phần mềm kế toán đã được cập nhật nhanh
nhất phù hợp với chính sách kế toán mới trong khu vực công. Chính vì vậy đây là hạn chế của
nghiên cứu mà có thể tiếp tục làm rõ ở các nghiên cứu sau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Anderson, J. C. and Gerbing, D.W. (1988). Structural equation modeling in practice: A review
and recommended two-step approach. Psychological Bulletin, Vol103 (3), 411-423.
Agustino, Leo. 2006. Fundamentals of Public Policy. Alfabeta. Bandung.
Ardiansyah. 2013. Factors Affecting the Readiness of Government Regulation No. 71 Year 2010
About Government Accounting Standards. JIMFEB. Vol. 2. Brawijaya University
Bộ tài chính (2017). Thông tư 107/2017/TT-BTC, Thông tư hướng dẫn chế độ kế toán hành
chính sự nghiệp, ban hành ngày 10/10/2017
Chính phủ (2015). Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, Nghị định quy định cơ chế tự chủ của đơn vị
sự nghiệp công lập, ban hành ngày 14/2/2015.
Gomes, P. S., Fernandes, M. J., & Carvalho, J. B. D. C. (2015). The International Harmonization
Process of Public Sector of Different Stakeholders. International Journal of Public
Administration, Vol.38(4), page 268–281.
Guthrie, J., Olson, O., & Humphrey, C. (1999). Debating developments in new public financial
management: The limits of global theorising and some new ways forward. Financial
Accountability & Management, Vol.15(3‐4), page 209–228.
Hair, J.F. et al. (2010). Multivariate Data Analysis. Pearson Prentice Hall, New York.
Harsi et al (2017). Determinants of successful implementation of accrual based accounting
system for government. International Conference and Call for Papers, Jember, page
1411-1428.
Hood, C. (1995). The “new public management” in the 1980s: Variations on a theme.
Accounting, Organizations and Society, Vol.20(2-3), page 93–109.
Nunnally, J.C, Burstein, J.H. (1994). Psychometric theory (3rd Edition). Mc Graw - Hill Books
Company.
Ouda, Hasan AG. 2004. Basic Requirements Model for Succesful Implementation of acrual
Accounting in the Public Sector. Public Found Digest, February Vol.14(1).
317
Quốc hội (2015). Luật số 83/2015/QH13, Luật ngân sách, ban hành ngày 25/06/2015
Quốc hội (2015). Luật số 88/2015/QH13, Luật kế toán, ban hành ngày 20/11/2015
Robbins, S.P. (2007). Perilaku Organisasi. Terjemahan Benyamin Molan. Jakarta.
Sulani, A.A. (2009). Factors supporting the successful implementation of government regulation
No.24 year 2005 on Labuhan Batu Regency government. National Sumposium XII,
Universitiy of North Sumatra, North Sumatra.
Surbakti, A.B. (2018). Analysis of factors affecting the success in applying accrual - based
governmentaccounting standard with regional management information system as a
moderating variable in Medan muicipal government. Journal of public budgeting,
accounting and finance, Vol.1 (2), page 132- 141.
Thủ tướng chính phủ (2013). Quyết định 480/2013/QĐ-TTg, Quyết định về việc phê duyệt chiến
lược kế toán - kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
318
Ứng dụng mô hình quản trị tinh gọn trong các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ logistics
Nguyễn Thị Thu Thủy
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: nguyenthithuthuy@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.22 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 08/11/2019
Ngày nhận bài: 30/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2019
Tóm tắt
Quản trị tinh gọn là một trong những phương pháp quản trị hiệu quả hiện nay đang nhận
được sự quan tâm của nhiều đối tượng từ các nhà nghiên cứu đến các nhà lãnh đạo trong doanh
nghiệp. Quản trị tinh gọn (QTTG) hướng tới vấn đề loại bỏ lãng phí, bất hợp lý trong quá trình
hoạt động, tối ưu hóa hiệu quả hoạt động kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của
doanh nghiệp. Mục đích của nghiên cứu nhằm phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng QTTG tại
các doanh nghiệp logistics với những nội dung cơ bản bao gồm: nhận thức của doanh nghiệp về
QTTG; ứng dụng các công cụ của QTTG trong doanh nghiệp như 5S, Kaizen, quản lý trực quan,
chuẩn hóa quy trình. Kết quả khảo sát cho thấy, các doanh nghiệp phần lớn đều nhận thức được
tầm quan trọng của áp dụng QTTG nhưng có sự khác nhau về mức độ áp dụng tại các doanh
nghiệp. Từ thực trạng áp dụng QTTG tại các doanh nghiệp logistics, tìm hiểu nguyên nhân của
những hạn chế, tác giả đề xuất mô hình QTTG và một số kiến nghị để các doanh nghiệp logistics
ứng dụng các công cụ QTTG đạt được hiệu quả tốt hơn.
Từ khóa: Quản trị tinh gọn; mô hình quản trị tinh gọn; doanh nghiệp logistics.
1. GIỚI THIỆU
Trong các phương pháp quản trị hiện đại, QTTG đang được nhắc đến như một phương
pháp quản trị tiên tiến trên thế giới nhằm giảm thiểu các lãng phí. Tư duy tinh gọn là tập trung
vào việc loại bỏ những gì không cần thiết cho sản xuất một sản phẩm hay dịch vụ thông qua tập
trung vào chính xác những gì khách hàng mong muốn (Womack & Jones, 1996). Từ đó, quản trị
tinh gọn sẽ giúp doanh nghiệp loại bỏ lãng phí, đồng thời nâng cao năng suất cũng như chất
lượng sản phẩm, dịch vụ; bao gồm các công cụ như: 5S, Kaizen, Mieruka (quản lý trực quan).
Hệ thống quản lý này giúp doanh nghiệp sử dụng tối ưu các nguồn lực bao gồm cả con người,
nguyên vật liệu, thời gian và vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như hướng doanh
nghiệp tới phát triển bền vững. Với tư duy tinh gọn, phạm vi áp dụng quản trị tinh gọn không chỉ
trong quy trình sản xuất mà cho toàn bộ quy trình trước và sau sản xuất, cũng như mở rộng phạm
vi áp dụng đối với nhiều lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề từ sản xuất đến dịch vụ.
319
Trong điều kiện các hiệp định hợp tác kinh tế song phương và đa phương được thực hiện,
nền kinh tế nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức về cạnh tranh
đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất cũng như các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ
phải hướng tới phát triển bền vững. Trong đó các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch
vụ đang được chú trọng phát triển đó là ngành logistics. Logistics là một ngành dịch vụ quan
trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như từng địa phương, góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế. Logistics là hoạt động theo chuỗi dịch vụ từ giai đoạn tiền sản xuất cho tới
khi hàng hóa tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Lĩnh vực này liên quan trực tiếp đến hoạt động
vận tải, giao nhận, kho bãi, các thủ tục dịch vụ hành chính, tư vấn (hải quan, thuế, bảo hiểm…),
xuất nhập khẩu - thương mại, kênh phân phối, bán lẻ… Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày
14/02/2017 của Thủ tướng chính phủ nhấn mạnh về việc phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao
năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025. Theo Hiệp hội
doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), tốc độ phát triển của ngành logistics tại Việt
Nam ở Việt Nam những năm gần đây đạt khoảng 14 - 16%, với quy mô khoảng 40-42 tỷ
USD/năm. Dự báo của Tổng cục Thống kê đến hết năm 2020, kim ngạch xuất nhập khẩu của
Việt Nam ước đạt mức 300 tỷ USD, hàng container qua hệ thống cảng biển Việt Nam đạt 67,7
triệu TEU, do vậy, tiềm năng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam là rất lớn. Trong tương lai
không xa, dịch vụ cung cấp logistics sẽ trở thành ngành kinh tế quan trọng, có thể đóng góp tới
15% GDP của cả nước.
Phát triển thị trường dịch vụ logistics lành mạnh sẽ tạo cơ hội bình đẳng cho các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, khuyến khích thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước phù
hợp với pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Các doanh
nghiệp logistics mặc dù đã có nhiều cải tiến và nâng cao về cả số lượng và chất lượng nhưng
việc phát triển vẫn còn thiếu tính chuyên nghiệp, sức cạnh tranh và chất lượng dịch vụ còn chưa
cao. Nguyên nhân của vấn đề xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau cả khách quan và nội tại.
Trong đó, yếu tố năng lực quản lý vận hành kém dẫn đến hiệu quả hoạt động không cao, còn
nhiều lãng phí là điều cần được quan tâm. Vì vậy, việc áp dụng phương pháp quản trị tiên tiến
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho khách hàng như QTTGlà
hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
2. TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ TINH GỌN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với quản trị tinh gọn. Liker (1997) tập trung vào khía
cạnh giảm thời gian sản xuất thông qua cắt giảm lãng phí và loại bỏ các công việc không tạo ra
giá trị gia tăng. Đồng thời, trong nghiên cứu cũng chỉ ra rằng QTTG giúp giảm thời gian từ khi
khách hàng yêu cầu đến khi giao hàng, từ đó tăng lợi nhuận, chất lượng và sự hài lòng của khách
hàng, cải thiện thời gian xử lý thông tin và khuyến khích nhân viên làm việc. Theo Shah và Ward
(2003), QTTG là phương pháp kết hợp giữa các yếu tố về công cụ và các nhân tố về đối tượng
sản xuất nhằm xóa bỏ lãng phí thông qua hạn chế những biến chủ động từ phía khác hàng, nhà
cung cấp hay nội bộ. Theo Nguyễn Đăng Minh và cộng sự (2013), tư duy quản trị tạo ra lợi
nhuận/ giá trị gia tăng cho doanh nghiệp bằng cách dùng trí tuệ của con người cắt giảm tối đa chi
phí lãng phí. Tư duy này được diễn giải thông qua hệ công thức:
320
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí
Trong đó:
Chi phí = Chi phí thực + Chi phí lãng phí
Chi phí lãng phí = Lãng phí hữu hình + Lãng phí vô hình
Từ đó, giải pháp giúp doanh nghiệp tăng lợi nhuận một cách bền vững là không ngừng cắt
giảm các chi phí lãng phí (gồm lãng phí hữu hình và lãng phí vô hình). Các lãng phí này đến từ
các hoạt động không tạo ra giá trị tăng thêm của doanh nghiệp. Theo Ohno (1988), các lãng phí
tập trung chủ yếu dưới dạng: di chuyển, tồn kho, thao tác thừa, sản xuất thừa, gia công thừa…
Theo Liker (2004), lãng phí có 7 loại cơ bản tồn tại trong quá trình sản xuất kinh doanh: sản xuất
dư thừa; hàng tồn kho; sản phẩm, dịch vụ lỗi; thao tác; di chuyển; chờ đợi.
Đối với lĩnh vực dịch vụ, các công ty dịch vụ cũng phải đối mặt với những lãng phí như
quy trình hoạt động không hiệu quả, chất lượng dịch vụ kém, các hoạt động không tạo ra giá trị
tăng thêm cho doanh nghiệp tương tự như doanh nghiệp sản xuất. Theo MacDuffie và công sự
(1996); Cua và cộng sự (2001) đã chỉ ra QTTG giúp cát giảm chi phí sản xuất kinh doanh của tổ
chức thông qua nhận diện các lãng phí và các công cụ để cắt giảm lãng phí. Những lãng phí này
không chỉ đến từ bộ phận trực tiếp sản xuất mà đến từ tất cả các bộ phận, phòng ban trong tổ
chức. Các lãng phí đó bao gồm cả những lãng phí là chi phí có thể dễ dàng tính toán được và
những chi phí vô hình, không dễ dàng nhận diện và đo lường nhưng gây tổn thất nhiều cho
doanh nghiệp. Chi phí lãng phí vô hình chủ yếu tạo ra do các lãng phí trong tư duy, phương pháp
làm việc. Điều này xảy ra ngay cả khi phương pháp đang sử dụng hiện tại có thể là vẫn tốt,
nhưng nếu suy nghĩ, tìm tòi có thể tìm thấy những phương pháp làm việc hiệu quả hơn. Hay lãng
phí có thể xảy ra khi tổ chức bỏ lỡ các cơ hội để phát triển.
Wolliam (2000) đã phân tích các công cụ, kỹ thuật của QTTG cũng như cách thức tiếp cận
và áp dụng QTTG trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tiết kiệm, cắt giảm những lãng phí
về chi phí, quản trị tinh gọn sử dụng hệ thống các công cụ, phương pháp khoa học như: 5S,
Kaizen, quản lý trực quan… để nhận diện và loại bỏ những lãng phí tồn tại trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Phương pháp 5S bắt nguồn từ 5 từ: Seiri (sàng lọc), seiton (sắp xếp), seiso
(sạch sẽ), seiketsu (săn sóc) và shitsuke (sẵn sàng). Phương pháp kaizen mang ý nghĩa cải tiến
liên tục công việc có sự tham gia của tất cả mọi người, vào mọi lúc mọi nơi. Phương pháp quản
lý trực quan sử dụng màu sắc, hình ảnh, âm thanh vào quản lý sản xuất để giúp phát hiện ra sự
bình thường hoặc bất bình thường trong hệ thống sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, QTTG bao gồm
cả tầm nhìn chiến lược, văn hóa doanh nghiệp và triết lý kinh doanh hướng tới khách hàng thông
qua yếu tố chất lượng (Q- quanlity), chi phí (C-cost), giao hàng nhanh (D-delivery), hướng tới
vảo vệ môi trường (E-environment), hướng tới thực hiện trách nhiệm xã hội (CSR-corporate
social responsibility). Trong nghiên cứu của Angle Martinez và cộng sự (2001) đã chỉ ra, tầm
quan trọng của các yếu tố và ảnh hưởng của các yếu tố đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Womack và Jones (2003) phân tích tư duy tinh gọn và cho rằng, để có thể áp dụng
QTTG trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các nhà quản lý cần quay trở lại bước khởi điểm để
xác định giá trị thật sự mà khách hàng có thể nhận được là gì, sau đó xây dựng các hoạt động tạo
321
giá trị cho một sản phẩm, xây dựng các điều kiện tối ưu hóa sản phẩm để đáp ứng nhu cầu và thị
yếu của khách hàng chứ không phải áp đặt của nhà sản xuất, tăng cường cải tiến quy trình để đạt
đến sự hoàn hảo.
Các mô hình QTTG được các tác giả nghiên cứu trong các lĩnh vực ứng dụng khác nhau.
Peter và cộng sự (2008) nghiên cứu về công cụ 6 Sigma trong lĩnh vực ngân hàng. Alison và
cộng sự (2011) nghiên cứu về quản trị tinh gọn trong lĩnh vực tài chính. Jaca và cộng sự (2012)
nghiên cứu loại bỏ lãng phí trong hệ thống các siêu thị thông qua hoạt động nhóm làm việc để
cải thiện các công cụ của quản trị tinh gọn. Salah (2013) nghiên cứu hệ thống sản xuất kết hợp
giữa sản xuất tinh gọn và sản xuất linh hoạt để nâng cao lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Từ những nghiên cứu của các tác giả trước đây cho thấy, QTTG không chỉ đơn thuần được
thực hiện trong các doanh nghiệp sản xuất mà còn được mở rộng sang các tổ chức kinh doanh
dịch vụ. QTTG là hoạt động quản trị sử dụng các công cụ, phương pháp nhằm liên tục loại bỏ
những lãng phí suốt quá trình hoạt động cung ứng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Nghiên cứu này sẽ đi sâu vào các nội dung cơ bản: nhận thức về QTTG; vận dụng các công cụ
QTTG trong các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thứ nhất, phương pháp thu thập tài liệu, thông tin.
- Với thông tin thứ cấp: tác giả phân tích dữ liệu thu thập được từ tài liệu, sách báo như:
các đề tài khoa học các cấp, bài báo khoa học. Đây là nguồn dữ liệu thứ cấp đáng tin cậy nhằm
phục vụ cho quá trình nghiên cứu của tác giả, các thông tin được trích dẫn làm cơ sở phục vụ cho
mục tiêu nghiên cứu.
- Với thông tin sơ cấp: tác giả thiết kế bảng khảo sát được liên quan đến nội dung: (1)
Tổng quan áp dụng QTTG (liên quan đến việc doanh nghiệp có áp dụng QTTG hay không, sự
hiểu biết của các cá nhân trong doanh nghiệp về QTTG, các công cụ QTTG); (2) Mức độ áp
dụng các công cụ QTTG: 5S, Kaizen, quản lý trực quan, chuẩn hóa quy trình (các câu hỏi chi tiết
đến việc áp dụng các công cụ QTTG trong doanh nghiệp, mục đích tìm hiểu về mức độ ứng dụng
các công cụ đó tại doanh nghiệp như thế nào, hiệu quả và tác động của chúng với doanh nghiệp
và người lao động).
Hình thức khảo sát: tác giả thực hiện gửi bảng khảo sát thông qua email hoặc tiến hành gặp
trực tiếp các cá nhận tại doanh nghiệp. Đối tượng thực hiện khảo sát là giám đốc hoặc trưởng phó
các phòng ban, nhân viên trong doanh nghiệp logistics trên địa bàn thành phố Hà Nội. Số doanh
nghiệp thực hiện khảo sát dự kiến là 90 doanh nghiệp, số phiếu thu được về là 63 doanh nghiệp.
Thứ hai, phương pháp tổng hợp, xử lý thông tin.
Sau khi có được dữ liệu và các thông tin cần thiết, việc xử lý dữ liệu được tiến hành như
sau: dữ liệu thứ cấp được phân thành các mục khác nhau, các dữ liệu không phù hợp hoặc không
cần thiết sẽ loại bỏ. Sau đó dựa vào ý tưởng xây dựng, lựa chọn thông tin phù hợp để đưa vào
nội dung bài viết. Các thông tin sơ cấp thu thập được từ khảo sát được tác giả sử dụng phương
pháp thống kê mô tả đưa ra kết luận, đánh giá và khuyến nghị về quá trình nghiên cứu của mình.
322
4. THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ TINH GỌN TRONG DOANH NGHIỆP KINH DOANH
DỊCH VỤ LOGISTICS
Trong xu hướng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam tham gia Hiệp định
Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do
EU-Việt Nam, cùng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 phát triển vô cùng nhanh chóng
với cùng các công nghệ đột phá, mở ra nhiều cơ hội cho lĩnh vực logistics của Việt Nam nhưng
cũng đem đến rất nhiều thách thức cho doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp này phải tăng
cường hiệu quả hoạt động kinh doanh đảm bảo hoạt động có hiệu quả để góp phần lớn trong sự
phát triển chung của nền kinh tế. Một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh doanh đó
là hệ thống quản trị trong doanh nghiệp, trong đó có QTTG.
Trong phạm vi doanh nghiệp, quản trị logistics được hiểu là một bộ phận của chuỗi cung
ứng bao gồm việc hoạch định, thực hiện và kiểm soát có hiệu lực, hiệu quả các dòng vận động và
dự trữ hàng hóa, dịch vụ cùng các thông tin có liên quan từ điểm khởi đầu đến các điểm tiêu thụ
theo đơn đặt hàng nhằm thỏa mãn yêu cầu của khách hàng. Cụ thể:
- Dịch vụ khách hàng: là quá trình diễn ra giữa người mua và người bán và bên thứ ba là
nhà thầu phụ. Kết quả của quá trình này tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm hay dịch vụ được
trao đổi, được đo bằng hiệu số giá trị đầu ra và giá trị đầu vào của một loạt các hoạt động kinh tế
có quan hệ tương hỗ với nhau và thể hiện qua sự hài lòng của khách hàng.
- Về hệ thống thông tin, để quản trị logistics thành công, đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý
được hệ thống thông tin phức tạp, bao gồm thông tin trong nội bộ từng tổ chức (doanh nghiệp,
nhà cung cấp, khách hàng), thông tin trong từng bộ phận chức năng của doanh nghiệp, thông tin
giữa các khâu trong dây chuyền cung ứng (kho tàng, bến bãi, vận tải…) và sự phối hợp thông tin
giữa các tổ chức, bộ phận và công đoạn ở trên.
- Quản trị dự trữ: dự trữ là sự tích luỹ sản phẩm, hàng hoá tại các doanh nghiệp trong quá
trình vận động từ điểm đầu đến điểm cuối của mỗi dây chuyền cung ứng, tạo điều kiện cho quá
trình tái sản xuất diễn ra liên tục, nhịp nhàng, thông suốt.
- Quản trị vận tải: là việc sử dụng các phương tiện chuyên chở để khắc phục khoảng cách về
không gian của sản phẩm và dịch vụ trong hệ thống logistics theo yêu cầu của khách hàng.
- Quản trị kho hàng bao gồm: việc thiết kế mạng lưới kho tàng (số lượng, vị trí và quy
mô); tính toán và trang bị các thiết bị nhà kho; tổ chức các nghiệp vụ kho; quản lý hệ thống
thông tin giấy tờ chứng từ; tổ chức quản lý lao động trong kho… giúp cho sản phẩm được duy trì
một cách tối ưu ở những vị trí cần thiết xác định trong hệ thống logistics nhờ đó mà các hoạt
động được diễn ra một cách bình thường.
Với những nội dung quản trị như trên, các nhà quản trị sẽ phải thực hiện quản lý chặt chẽ
với các lãng phí như quy trình hoạt động không hiệu quả, chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách
hàng kém, các hoạt động không tạo ra giá trị tăng thêm cho doanh nghiệp. Việc áp dụng quản trị
tinh gọn sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp gia tăng lòng tin
và sự trung thành của khách hàng.
323
Kết quả khảo sát về QTTG trong các doanh nghiệp logistics như sau:
Qua số liệu tổng hợp cho thấy, có 38% doanh nghiệp (khoảng 24 doanh nghiệp trong tổng
số 63 doanh nghiệp thực hiện khảo sát) trả lời hiện nay đang có áp dụng quản trị tinh gọn. Hầu
hết các doanh nghiệp còn lại trả lời không áp dụng QTTG nhưng trên thực tế là doanh nghiệp
đang áp dụng một số công cụ của QTTG mà chưa nhận thức được rằng đó chính là QTTG. Kết
quả này cho thấy, ở các doanh nghiệp đều có áp dụng QTTG nhưng ở mức độ khác nhau.
- Về nhận thức đối với quản trị tinh gọn:
Ban lãnh đạo doanh nghiệp có nhận thức về vai trò của QTTG nhưng điều này chưa thể
hiện rõ trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, chưa trở thành một mục tiêu dài hạn.
Việc thực hiện QTTG chủ yếu chú trọng nhiều đến khâu quản trị vận tải, quản trị kho hàng mà
chưa chú trọng đến quy trình hệ thống quản lý điều hành.
Mặc dù doanh nghiệp đã có quan tâm đến việc áp dụng QTTG, nhưng mức độ tham gia
của nhân viên cũng như tỷ lệ nhân viên được giới thiệu vào nhóm quản lý chất lượng còn thấp,
dưới 20%. Điều này cho thấy, sự tham gia đóng góp của nhân viên đối với quá trình kiểm tra,
kiểm soát chất lượng tại các doanh nghiệp chưa cao. Tại các doanh nghiệp chưa có một hệ thống
triển khai QTTG hoàn chỉnh bao gồm cả tài liệu tiêu chuẩn triển khai 5S, Kaizen, quản lý trực
quan để thực hiện quản trị tinh gọn hiệu quả.
- Về các công cụ được ứng dụng trong QTTG như 5S, Kaizen, quản lý trực quan, chuẩn
hóa quy trình.
+ Thực hiện 5S: Kết quả khảo sát cho thấy, có những doanh nghiệp đã áp dụng phương
pháp 5S nhưng mức độ hiểu về định nghĩa và cách thực hiện 5S tại các doanh nghiệp là không
đồng đều. 86% doanh nghiệp đều cho rằng cần thiết phải lên kế hoạch và xây dựng tiêu chuẩn
cho từng nội dung thực hiện 5S, nhưng có 52% doanh nghiệp (32 doanh nghiệp khảo sát) vẫn
chưa thực hiện được. Một số doanh nghiệp (18 doanh nghiệp khảo sát) đã có tiêu chí để thực
hiện sàng lọc, sắp xếp và tiêu chí kiểm tra 5S nhưng chưa mang tính thực tiễn và hiệu quả chưa
cao. Tại một số các doanh nghiệp đã thực hiện tốt 5S cho rằng, vai trò của ban lãnh đạo doanh
nghiệp trong việc phát huy được tinh thần 5S và duy trì được hoạt động này một cách lâu dài là
rất lớn. Các nội dung 5S được ban lãnh đạo quán triệt thường xuyên đến nhân viên và được đưa
vào làm nội dung đào tạo thường xuyên cho nhân viên. Với quy định rõ ràng về việc vệ sinh, bảo
dưỡng thiết bị máy móc định kỳ, bắt buộc và khuyến khích nhân viên vệ sinh hàng ngày vị trí
làm việc của mình trở thành hoạt động thường xuyên tại các doanh nghiệp. Tại doanh nghiệp nên
dán nhãn rõ ràng trên các vật dụng, sắp xếp sàng lọc các tài liệu theo trật tự giúp nhân viên có ý
thức cao hơn về các hoạt động tại khu vực làm việc. Tuy nhiên, việc áp dụng công cụ 5S trong
QTTG vẫn còn hạn chế trong khâu chuẩn hóa và sẵn sàng, ảnh hưởng đến khả năng duy trì áp
dụng QTTG trong thời gian dài.
+ Thực hiện phương pháp Kaizen: là công cụ của QTTG được các doanh nghiệp áp dụng
nhiều thứ 2 sau 5S. Những doanh nghiệp trả lời có áp dụng phương pháp Kaizen vào trong hoạt
động kinh doanh (21 doanh nghiệp khảo sát) coi phương pháp này như một công cụ hiểu quả để
cắt giảm lãng phí. Lý do vì các ý tưởng phần lớn xuất phát từ những công nhân, nhân viên,
324
chuyên viên trực tiếp thực hiện công việc tại các bộ phận như: nhân viên quản lý kho bãi, nhân
viên vận chuyển, nhân viên thuộc các phòng ban công ty, công nhân. Một số doanh nghiệp có
đưa ra những hướng dẫn về quy trình đề xuất cũng như ý tưởng cải tiến phù hợp và được quy
định trong quy chế làm việc của doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp cũng có các quy định về
các mức thưởng và quy định các tiêu chí cho việc đánh giá ý tưởng cải tiến.
Các doanh nghiệp còn lại trả lời không áp dụng Kaizen cũng có các hoạt động khuyến
khích cải tiến nhưng chưa có các quy định rõ ràng về đánh giá ý tưởng cải tiến, áp dụng ý tưởng
cải tiến hay khen thưởng các ý tưởng cải tiến đó. Hơn nữa mức độ am hiểu về ý nghĩa của
Kaizen và các công cụ thực hiện còn hạn chế ở nhiều doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đã triển
khai nhưng chưa thu được hiệu quả như mong đợi, do thiếu về quy chuẩn, tài liệu đào tạo, hoạt
động truyền thông về phương pháp cũng chưa hiệu quả. Số lượng nhân viên hiểu về phương
pháp này còn ít. Do vậy, có thể thấy tại các doanh nghiệp việc thực hiện Kaizen còn hạn chế.
Triết lý Kaizen chưa trở thành một nét trong văn hóa của doanh nghiệp.
+ Thực hiện các công cụ quản lý trực quan: 86,7% tương ứng 54/63 doanh nghiệp được
khảo sát cho rằng cần thiết phải thực hiện trực quan hóa các thông tin về quy trình thao tác công
việc, tiêu chuẩn thực hiện và ý kiến khách hàng nhưng hoạt động này ở các doanh nghiệp lại
chưa thực hiện được hay chỉ thực hiện được ở một số vị trí và một số nội dung quan trọng như:
tiến độ kinh doanh, tiến độ thực hiện dự án, tiêu chuẩn chất lượng.
Hoạt động quản lý trực quan tại các doanh nghiệp khảo sát thực tế chỉ mới dừng lại ở việc
hỗ trợ cho hoạt động 5S và Kaizen. Các doanh nghiệp phần lớn vẫn sử dụng các hình thức truyền
thống để truyền đạt các thông tin giữa các phòng ban như: văn bản, email hoặc các cuộc họp.
Tầm nhìn, sứ mệnh mục tiêu của doanh nghiệp, triết lý kinh doanh hầu như chưa được trực quan
hóa tại mọi nơi làm việc, tại các bộ phận, chủ yếu dừng lại ở những tài liệu về chiến lược kinh
doanh và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt là các quy trình làm việc chưa được
trực quan hóa, chủ yếu làm việc theo kinh nghiệm, người có thâm niên công tác hướng dẫn cho
người chưa có kinh nghiệm ở các vị trí khác nhau. Các doanh nghiệp cũng đã tiến hành thu thập
thông tin về ý kiến phản hồi của khách hàng, mức độ hài lòng của khách hàng nhưng chưa trực
quan tại những bộ phận cần thông tin, đến trực tiếp toàn bộ nhân viên tham gia vào quy trình tạo
ra sản phẩm dịch vụ.
+ Thực hiện các công cụ chuẩn hóa quy trình: là quá trình các doanh nghiệp logistics có
thực hiện xây dựng các quy trình và hướng dẫn thực hiện các công việc chi tiết rõ ràng bao gồm:
quy trình tổ chức vận chuyển, tiếp nhận và lưu kho, bảo quản và cung cấp; quy trình dự trữ vật
tư, hàng hóa tại các kho hàng; quy trình ký kết hợp đồng với khách hàng và nhà cung cấp; quy
trình thực hiện mua sắm;… Theo kết quả khảo sát, tại các doanh nghiệp có áp dụng quản trị tinh
gọn đều có xây dựng các quy trình chung trong doanh nghiệp. Nhân viên tuân thủ nghiêm ngặt
những quy trình thực hiện công việc, doanh nghiệp có quy định thời gian để thực hiện từng hoạt
động. Các doanh nghiệp không áp dụng quản trị tinh gọn, cũng đã có xây dựng quy trình thực
hiện trong quá trình kinh doanh nhưng chưa có đầy đủ các hướng dẫn chi tiết để nhân viên ở các
bộ phận thực hiện công việc. Điều đó ảnh hưởng đến hiệu quả công việc không cao, gây ảnh
hưởng đến tiến độ của các hợp đồng với khách hàng, chất lượng dịch vụ cung cấp… Điều này
đặc biệt có thể xảy ra đối với những nhân viên còn thiếu kinh nghiệm.
325
Qua kết quả khảo sát về vận dụng một số công cụ của quản trị tinh gọn tại các doanh
nghiệp cho thấy, phần lớn các doanh nghiệp đã có áp dụng hoặc nhận thức về việc áp dụng
QTTG tại doanh nghiệp, nhưng hiệu quả áp dụng còn chưa cao. Việc áp dụng còn mang tính
hình thức. Các doanh nghiệp chưa thấu hiểu sâu sắc về bản chất của các phương pháp nên việc
áp dụng chưa phát huy được hiệu quả. Những nguyên nhân dẫn đến vấn đề tồn tại trong QTTG
tại các doanh nghiệp logistics bao gồm cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan
của các doanh nghiệp.
- Nguyên nhân khách quan:
Các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực logistics tại Việt Nam chủ yếu là
những doanh nghiệp có mô nhỏ, nhiều doanh nghiệp còn tư duy quản lý gia đình (tới 50% số
doanh nghiệp trong lĩnh vực logistics đăng ký ở loại hình Công ty TNHH một thành viên) nên
các doanh nghiệp logistics còn thiếu tính hệ thống, quy trình quản lý điều hành một cách chuyên
nghiệp, bản thân chủ doanh nghiệp còn hạn chế trong kinh nghiệm, kỹ năng, kiến thức về điều
hành quản lý, thiếu tầm nhìn hội nhập.
Nguyên nhân chủ quan:
+ Các doanh nghiệp chưa có tiêu chí đánh giá về hiệu quả áp dụng quản trị tinh gọn nói
chung và các phương pháp cụ thể như: 5S, Kaizen nói riêng, quản lý trực quan. Do đó chưa có
những phương án cải tiến và ứng dụng các ý tưởng cải tiến một cách hiệu quả vào quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp.
+ Nhà quản lý đều nhận thấy những lợi ích mà quản trị tinh gọn mang lại nhưng chưa xây
dựng được chính sách, cơ chế khuyến khích, khen thưởng phù hợp để đưa các phương pháp 5S,
Kaizen như một nét văn hóa trong doanh nghiệp để thực hiện các hoạt động một cách thường
xuyên tại các bộ phận phòng ban trong doanh nghiệp. Đồng thời, ban lãnh đạo phải là những
người đi tiên phong trong việc nắm bắt và hiểu rõ về các phương pháp này để truyền đạt, phát
động thực hiện đối với nhân viên trong toàn doanh nghiệp.
+ Người lao động trong doanh nghiệp có áp dụng QTTG phần lớn đều thực hiện một cách
thụ động, cứng nhắc theo sự chỉ đạo của cấp quản lý. Do vậy, hiệu quả thực hiện chưa cao.
+ Hạn chế trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý đặc biệt là trong
tiến trình xử lý chuỗi logistics đảm bảo kết nối chặt chẽ giữa các bên tham gia cũng như đảm bảo
kiểm soát hiệu quả về mặt thời gian, chi phí và chất lượng dịch vụ. Từ đó sẽ tối ưu hóa được hiệu
quả kinh doanh, giảm thiểu chi phí kinh doanh.
+ Các doanh nghiệp vẫn chưa có kế hoạch đào tạo, truyền đạt hợp lý để tăng cường nhận
thức của nhân viên đối với quản trị tinh gọn về cả nội dung, cách thức và thời gian đào tạo.
5. ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH QUẢN TRỊ TINH GỌN VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM
TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP LOGISTICS
Để doanh nghiệp có thể ứng dụng được QTTG trong đơn vị mình, cần nâng cao tầm nhận
thức, tầm nhìn, cam kết của lãnh đạo cấp cao về áp dụng quản trị tinh gọn. Điều đó thể hiện ngay
trong mục tiêu kinh doanh, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Quản trị tinh gọn phải được
326
hình thành như một nét văn hóa của tổ chức. Những hoạt động đó không chỉ được thực hiện bởi
lãnh đạo trong doanh nghiệp mà rất cần đến sự đồng tình, ủng hộ, nỗ lực thực hiện từ phía người
lao động. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất mô hình đề xuất triển khai QTTG đối với doanh nghiệp
logistics, mô hình được nhóm tác giả tham khảo kế thừa mô hình của Nguyễn Đăng Minh
(2015). Mô hình hướng tới mục tiêu chính là tận dụng nguồn lực con người, ứng dụng hiệu quả
các công cụ QTTG trong hoạt động quản trị doanh nghiệp.
Theo mô hình nhấn mạnh vai trò của ban lãnh đạo đối với sự tham gia của người lao động.
Người lãnh đạo có thể tác động trực tiếp đến sự tham gia của người lao động thông qua hai chính
sách là đào tạo và nhân sự.
Chính sách đào tạo được thể hiện thông qua các hoạt động đào tạo và đạo tạo liên tục nâng
cao tầm nhận thức về quản trị tinh gọn cũng như việc ứng dụng các công cụ của quản trị tinh gọn
vào thực tế sản xuất kinh doanh. Với đặc điểm các doanh nghiệp logistics chủ yếu là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, trình độ nhân viên là không đồng đều nên công tác đào tạo cần được quan
tâm và đầu tư đúng mức. Doanh nghiệp có thể lựa chọn các hình thức đào tạo như: cử nhân viên
tham gia các khóa đào tạo bên ngoài hoặc tổ chức các khóa học ngay chính tại đơn vị. Với hình
thức đào tạo tại đơn vị đòi hỏi người thực hiện đào tạo phải nắm chắc được nội dung, và cách
thức thực hiện QTTG. Ngoài ra, xây dựng hệ thống các văn bản, quy định về quản trị tinh gọn
trong doanh nghiệp. Đồng thời tăng cường hoạt động chia sẻ thông tin, kinh nghiệm làm việc
trong nội bộ doanh nghiệp. Đó là hình thức đào tạo ít tốn kém chi phí mà có hiệu quả.
Hình 1: Mô hình đề xuất triển khai quản trị tinh gọn đối với doanh nghiệp logistics
Chính sách nhân sự thể hiện thông qua các chính sách về nhân sự, đãi ngộ, khen thưởng.
Căn cứ trên kết quả công việc, doanh nghiệp có những quy định cụ thể liên quan đến lộ trình
Sự tham gia của người lao động
Chính
sách nhân
sự, khen
thưởng,
phúc lợi
Hoạt động
đào tạo liên
quan đến
quản trị
tinh gọn
Sự cam kết dài hạn của ban lãnh đạo
Xây dựng
quy trình
thực
hiện/tiêu chí
đánh giá,
kiểm tra, cải
tiến
Áp dụng
trên toàn
doanh
nghiệp
Áp
dụng
thí
điểm
327
thăng tiến, chế độ khen thưởng đối với những cải tiến, ý tưởng tốt có thể vận dụng để cải tiến
hiệu quả công việc trong doanh nghiệp. Để làm được điều đó, doanh nghiệp nên xây dựng tiêu
chí chấm điểm các ý tưởng cải tiến, chế độ khen thưởng theo thang điểm để khuyến khích nhân
viên tham gia vào quá trình cải tiến công việc tại mỗi vị trí việc làm. Chính sách khen thưởng
của ban lãnh đạo đưa ra còn thể hiện sự cam kết và quyết tâm của quản lý doanh nghiệp với việc
áp dụng quản trị tinh gọn trong hoạt động kinh doanh của mình. Từ đó làm người lao động tin
tưởng vào hướng đi của doanh nghiệp, tạo động lực cho người lao động tự nguyện tham gia vào
quá trình áp dụng QTTG trong doanh nghiệp.
Quá trình thực hiện theo mô hình bao gồm các bước: nghiên cứu xây dựng quy trình triển
khai; lựa chọn một hoặc vài bộ phận của công ty và áp dụng thử; đánh giá quá trình thực hiện
xem xét để điều chỉnh quy trình, tiêu chí đánh giá…; áp dụng mở rộng toàn công ty.
- Để thực hiện tốt các công cụ của QTTG đặc biệt là quản lý trực quan cần kết hợp thực
hiện các hoạt động khác như: Các hoạt động tuyên truyền bằng hình ảnh trực quan tại nơi làm
việc: hình ảnh 5S, quy trình giao nhận, biển hiệu tiết kiệm nguồn lực, khẩu hiệu… Đây cũng là
một hình thức hiệu quả đánh vào ý thức, thay đổi thói quen, thao tác của người lao động. Từ đó
từng bước cải thiện được thói quen sử dụng nguồn lực lãng phí. Người quản lý cấp trung như các
trưởng, phó phòng ban thường xuyên quán triệt tư tưởng đối với nhân viên như “làm tốt hơn
những gì đang thể hiện”, động viên sự cố gắng nỗ lực của người lao động ở các vị trí… Doanh
nghiệp thường xuyên có các hoạt động kiểm tra thường xuyên, định kỳ hàng tháng, quý đối với
việc thực hiện 5S tại đơn vị.
- Đối với việc triển khai công cụ Kaizen. Bản chất của công cụ này là cải tiến không
ngừng, sáng tạo và tìm ra cách giải quyết, cách làm hiệu quả hơn tại mọi lúc, mọi nơi. Để làm
được việc đó, doanh nghiệp cần tổng hợp lấy ý kiến từ phía người lao động trong quá trình thực
hiện, các ý tưởng cải tiến để cải tiến các bước trong quá trình thực hiện. Doanh nghiệp cần xây
dựng quy trình đề xuất ý tưởng theo hướng đơn giản hóa, cắt giảm các thủ tục phức tạp không
cần thiết. Đồng thời định kỳ lấy ý kiến từ phía khách hàng, người sử dụng dịch vụ của doanh
nghiệp để tiết kiệm chi phí, cải thiện quy trình kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ.
- Doanh nghiệp cũng cần tăng cường hợp tác trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm giữa các doanh
nghiệp có áp dụng QTTG. Việc chia sẻ kinh nghiệm sẽ giúp doanh nghiệp nhận diện được điểm
mạnh, điểm yếu trong quá trình áp dụng tại đơn vị mình, chia sẻ tài liệu về đào tạo, quy trình,
tiêu chí đánh giá, kiểm tra sẽ đem lại lợi ích rất lớn.
Trong thời đại kinh tế số hiện nay, công nghệ thông tin đóng vai trò chính và quan trọng
trong cả tiến trình xử lý chuỗi logistics, đảm bảo kết nối chặt chẽ giữa các bên tham gia cũng như
đảm bảo kiểm soát hiệu quả về mặt thời gian, chi phí và chất lượng dịch vụ. Mọi công đoạn từ
quản lý khách hàng, quản lý hàng hóa, tàu xe, bốc dỡ, lưu kho… đều được áp dụng công nghệ
thông tin và luôn được cải tiến như áp dụng công nghệ big data để tính toán tuyến đường đi tối
ưu nhất của các phương tiện vận tải; công nghệ quét mã vạch trực tuyến tối ưu hàng tồn kho; áp
dụng các thiết bị theo dõi, định vị, quản lý lịch trình các phương tiện vận chuyển; ứng dụng các
xe chuyển hàng tự động. Do vậy, quá trình áp dụng QTTG cũng cần phải phối hợp với việc ứng
dụng công nghệ thông tin để thực hiện quản lý các quy trình cho phù hợp, đạt hiệu quả cao.
328
6. KẾT LUẬN
Nghiên cứu đã khảo sát, đánh giá nhận thức của doanh nghiệp về QTTG, thực trạng vận
dụng một số các công cụ của QTTG: 5S, Kaizen, quản lý trực quan, chuẩn hóa quy trình trong
các doanh nghiệp logistics, tìm hiểu nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực hiện tại
các doanh nghiệp. Từ đó, tác giả đề xuất mô hình ứng dụng QTTG tại doanh nghiệp, một số kiến
nghị để doanh nghiệp logistics thực hiện tốt hơn QTTG. Hạn chế trong nghiên cứu của tác giả là
phạm vi nghiên cứu mới chỉ khảo sát được một số lượng ít các doanh nghiệp trong lĩnh vực
logistics và chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nội dung thực hiện khảo sát các công cụ
trong QTTG cũng chưa đầy đủ mới chỉ dùng lại ở vài công cụ phổ biến thường được áp dụng là
5S, Kaizen, quản lý trực quan và chuẩn hóa quy trình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Alison J., Ramie K., Marc N. (2011), Lean management - New Frontiers for financial institution,
Mc Kinsey & company.
Cua, K. O., McKon, K.E. & Schoroeder, R.G. (2001), Relationships between implementation of
TQM, JIT, and TPM and manufacturing performance, Journal of operations management
19, 675-694.
MacDuffie, J. P., Sethuraman, K. & Fisher, M. L., (1996), Product variety and manufacturing
performance - Evidence from the International automotive assembly plant study,
Management Science 42, 350-369.
Nguyễn Đăng Minh và cộng sự (2013), Áp dụng 5S tại các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa tại
Việt Nam - Thực trạng và khuyến nghị, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số
1.2013, tr. 24-32
Ohno T. (1988), Toyota Production System: Beyond Large Scale Production Productivity Press,
NewYork.
Nguyễn Đăng Minh (2015), Quản trị tinh gọn tại Việt Nam - đường tới thành công, NXB Đại
học quốc gia, Hà Nội.
Shah, R. & Ward, P.T. (2003), lean manufacturing: context, practice bundles and performance,
Journal of Operations Management, 21(2), 129-149
Liker, J., Becoming Lean: Inside Stories of U.S. Manufacturers, Portland, OR: Productivity
Press, 1997.
Wolliam M. Field (2000), Lean manufacturing: tools, techniques, and how to use them, CRC
press on resource management.
Womack J.P, Daniel T. Joné, and Daniel Roos (1991), the machine that changed the world, Free
press.
Womack J.P., Daniel T. Jones, (1996), Lean thinking, NewYork: Simon & Schuster NewYork.
Womack J, Joné D (2003), Lean thinking, Banish waste and create wealth in your corporation,
free press.
329
Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội
Nguyễn Thị Thu Thủy, Cao Thị Huyền Trang
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: nguyenthithuthuy@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.23 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 08/11/2019
Ngày nhận bài: 30/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2019
Tóm tắt
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế toàn cầu, các doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam nói riêng đứng trước rất nhiều cơ hội để mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh nhưng cũng không ít những thách thức phải đối mặt. Điều đó đòi hỏi các doanh
nghiệp cần có những mục tiêu chiến lược phát triển, kế hoạch hành động cụ thể. Trong đó nâng
cao năng lực cạnh tranh (NLCT) để thích ứng với môi trường kinh doanh là một trong những yếu
tố quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Nghiên cứu thực hiện dựa trên dữ liệu khảo sát
tại 181 doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) trên địa bàn thành phố Hà Nội nhằm xác định mức
độ ảnh hưởng của các nhân tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp đến NLCT của các doanh
nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân tố bên trong (gồm: năng lực quản lý, nhân sự,
năng lực tài chính, ứng dụng công nghệ), nhân tố bên ngoài (gồm: cơ sở hạ tầng, các chính sách
hỗ trợ từ các cơ quan quản lý Nhà nước) có tác động cùng chiều đến NLCT của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Từ khóa: Năng lực cạnh tranh; doanh nghiệp vừa và nhỏ; TP Hà Nội
1. GIỚI THIỆU
Với chính sách mở cửa và hội nhập nền kinh tế với những hiệp định thương mại như
CPTPP, FTA… đã đem đến cho Việt Nam nhiều cơ hội nhưng cũng ẩn chứa nhiều thách thức
với thị trường nội địa, đặc biệt là sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong nước nói
chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là nguồn lực chính của lợi thế cạnh tranh và phát triển kinh tế
của hầu hết các quốc gia đang phát triển (Des và Picken, 2000; Wang và Ahmed, 2004; Donner,
2007, Kotelnikow, 2007; Crosan và Apaydin, 2009). Theo số liệu thống kê của Sở Kế hoạch và
Đầu tư Hà Nội, những năm gần đây, doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội đã có những bước phát
triển cả về số lượng và chất lượng, số doanh nghiệp thành lập mới liên tục tăng qua các năm.
Tính đến hết năm 2018, trên địa bàn thành phố hiện có tổng số 232.000 doanh nghiệp, trong đó
330
số doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 97% số doanh nghiệp trên địa bàn, đóng góp hơn 40%
GDP cho thành phố; tạo công ăn việc làm cho hơn 50% lao động. Tuy nhiên, số doanh nghiệp
khởi nghiệp thành công và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, gọi được vốn đầu tư từ những
quỹ đầu tư chiếm tỉ lệ rất ít (khoảng 0,1% trong tổng số các doanh nghiệp khởi nghiệp). Nguyên
nhân chủ yếu là do phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô nhỏ, hoạt động mang tính
tự phát, thiếu kế hoạch, chiến lược cụ thể, sức chịu đựng rủi ro thấp, khả năng chống đỡ kém
trước biến động của kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử
dụng vốn vay và khả năng trả nợ ngân hàng của doanh nghiệp. Hơn nữa, năng lực tài chính của
nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế, thông tin tài chính thiếu minh bạch, trong khi lại
thiếu tài sản đảm bảo.
Trong tiến trình tự do hóa thương mại có nhiều tác động mạnh đến hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp, hàng rào thuế quan dần được gỡ bỏ, tự do hóa kinh doanh thị trường ngày
càng rõ nét, hàng rào kỹ thuật ngày càng đa dạng, phức tạp, môi trường kinh doanh thay đổi, áp
lực cạnh tranh ngày càng gay gắt với cả thị trường trong và ngoài nước. Các doanh nghiệp vừa
và nhỏ trên cả nước, đặc biệt là trên địa bàn Hà Nội (số lượng đứng thứ hai trên cả nước) làm thế
nào để nâng cao NLCT là vấn đề đang được Nhà nước và các chủ doanh nghiệp rất quan tâm. Để
thực hiện được điều đó, một trong những vấn đề cơ bản là cần xác định được những nhân tố ảnh
hưởng và sự tác động của các nhân tố đó đến NLCT của các doanh nghiệp, từ đó đưa ra các giải
pháp, hướng đi phù hợp từ phía doanh nghiệp cũng như từ phía các cơ quan Nhà nước.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý thuyết và tổng quan tài liệu nghiên cứu
Năng lực cạnh tranh là một khái niệm đa chiều, hiện nay có rất nhiều cách tiếp cận khác
nhau về năng lực cạnh tranh từ các cấp độ: quốc gia, ngành và doanh nghiệp. Trong nghiên cứu
này, nhóm tác giả lựa chọn phương thức tiếp cận NLCTtheo cấp độ doanh nghiệp. Các quan
điểm về NLCT ở cấp độ doanh nghiệp cũng rất đa dạng.
Michael Porter (1980) cho rằng, NLCTcủa doanh nghiệp là khả năng sáng tạo ra những sản
phẩm có quy trình công nghệ độc đáo để tạo ra giá trị tăng cao, phù hợp với nhu cầu của khách
hàng, có chi phí thấp, năng suất cao nhằm tăng lợi nhuận. Buckley và cộng sự (1988) định
nghĩa, NLCTlà khả năng của một công ty đối mặt và đánh bại đối thủ trong việc cung cấp sản
phẩm/dịch vụ một cách bền vững (dài hạn) và có lợi nhuận. Theo Ramasamy (1995), NLCT là
khả năng gia tăng thị phần, lợi nhuận và khả năng duy trì năng lực cạnh tranh trong một thời gian
dài. Theo Fafchamps (1999), NLCT là khả năng doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm với chi
phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường, có nghĩa là doanh nghiệp nào có khả
năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự như sản phẩm của doanh nghiệp khác, nhưng
với chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh cao. Garelli (2005) cho rằng, NLCT
là năng lực hiện tại và tương lai của doanh nghiệp trong việc thiết kế, sản xuất và tiếp thị hàng
hóa toàn cầu với một mức giá và chất lượng vượt trội hơn các đối thủ trong và ngoài nước.
NLCT của doanh nghiệp dựa trên khả năng kết hợp các nguồn lực của doanh nghiệp tạo ra lợi
thế cạnh tranh của doanh nghiệp (Sanchez & Heene, 2004). Như vậy, có thể hiểu NLCT của
331
doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp thỏa mãn khách hàng tốt hơn đối thủ cạnh tranh
thông qua việc khai thác, sử dụng lợi thế bên trong và bên ngoài doanh nghiệp nhằm đạt được
các mục tiêu kinh doanh.
Có rất nhiều nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến NLCT của doanh nghiệp. Mô hình
nghiên cứu của Porter, M. (2008) cho thấy, NLCT của các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi 5
nhân tố là: (1) nhân tố điều kiện, (2) chiến lược công ty, cấu trúc và sự cạnh tranh, (3) chính phủ,
(4) điều kiện nhu cầu, (5) ngành công nghiệp hỗ trợ có liên quan. Mô hình nghiên cứu của Chao
và cộng sự (2015) cho thấy, NLCT của doanh nghiệp chịu tác động của 2 yếu tố: (1) Yếu tố
mạng lưới giá trị doanh nghiệp gồm: khả năng tài chính, sự sáng tạo của nhân viên, nguồn lực
con người và làm việc của tổ chức, hoạt động marketing của chuỗi cung ứng; (2) Yếu tố bên
ngoài bao gồm: vốn, cấu trúc thị trường, công nghệ, lao động. Theo Barney (1991), nguồn lực có
thể trở thành năng lực động và tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Một nguồn lực tạo nên
lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh phải thỏa mãn được 4 tiêu chí sau: giá trị; hiếm khó
thay thế; khó bị bắt chước. Bên cạnh đó, theo Grant (1991), nguồn lực có thể chia làm nguồn lực
hữu hình và nguồn lực vô hình. Nguồn lực hữu hình gồm: nguồn lực về tài chính và nguồn lực
vật chất hữu hình. Nguồn lực vô hình bao gồm công nghệ, danh tiếng và nhân lực của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, Sanchez & Heene (1996) cho rằng, trong môi trường cạnh tranh, doanh
nghiệp cạnh tranh không chỉ bằng sự khác biệt về nguồn lực mà tập trung vào khả năng phối hợp
và sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu chiến lược của mình. Do
vậy, để nâng cao lợi thế cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp luôn phải nỗ lực xác định, xây
dựng, phát triển và sử dụng nguồn lực có ảnh hưởng đến NLCT có hiệu quả, thích ứng với sự
biến đổi của môi trường để mang lại kết quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
Như vậy, từ các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến NLCT có thể thấy rằng, NLCT của
doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong đó bao gồm cả yếu tố bên trong
và các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp.
2.2. Mô hình nghiên cứu đề xuất
Thông qua các tài liệu nghiên cứu, thảo luận với một số lãnh đạo doanh nghiệp, nhóm tác
giả đã xây dựng mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến NLCT của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội, bao gồm các nhân tố như sau: (1) Năng lực quản lý; (2) Năng
lực nhân sự; (3) Năng lực tài chính; (4) Ứng dụng công nghệ; (5) Chính sách hỗ trợ; (6) Cơ sở hạ
tầng; (7) Tác động hội nhập.
Trong đó, các nhân tố bên trong doanh nghiệp là: năng lực quản lý, năng lực nhân sự,
năng lực tài chính, ứng dụng công nghệ; các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp là: chính sách
hỗ trợ, cơ sở hạ tầng; tác động hội nhập. Các nhân tố ảnh hưởng đến NLCT được mô tả trong
(Bảng 1), mô hình nghiên cứu đề xuất (Hình 1), với các biến thành phần (Bảng 2).
Bảng 1: Hình thành thang đo năng lực cạnh tranh của các DNVVN
Yếu tố Nguồn
Năng lực quản lý Tambunan (2009)
Năng lực nhân sự Chao và cộng sự (2015); Anton và cộng sự (2015); Tambunan (2009)
332
Năng lực tài chính Grant (1991); Tambunan (2009); Chao và cộng sự (2015)
Ứng dụng công nghệ Grant (1991); Tambunan (2009)
Chính sách hỗ trợ Porter (2008)
Cơ sở hạ tầng Porter (2008)
Tác động hội nhập Porter (2008)
Năng lực cạnh tranh Porter (2008); Tambunan (2009); Chao và cộng sự (2015)
Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Bảng 2: Diễn giải các biến thành phần
Ký hiệu Tiêu chí đánh giá
Năng lực quản lý
Khả năng phân tích thị trường và đề ra chiến lược kinh doanh phù hợp với DN
Khả năng quản trị, hoạch định và thực hiện chiến lược
Năng lực tổ chức sản xuất sản phẩm/dịch vụ
Năng lực nhân sự
Nguồn lao động của doanh nghiệp luôn ổn định
Lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao
Chính sách đãi ngộ, khuyến khích người lao động
Các chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp
Năng lực tài chính
Khả năng huy động vốn của doanh nghiệp
Doanh nghiệp sử dụng vốn hiệu quả và quản lý tài chính tốt
Tăng trưởng doanh thu tốt
Tăng trưởng lợi nhuận tốt
Ứng dụng công nghệ
Máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh hiện đại
Năng lực
cạnh tranh
Năng lực quản lý
Năng lực nhân sự
Năng lực tài chính
Ứng dụng công nghệ
Chính sách hỗ trợ
Cơ sở hạ tầng
Tác động hội nhập
333
Doanh nghiệp ứng dụng tốt công nghệ thông tin vào công tác quản lý
Doanh nghiệp chi tiền cho đầu tư công nghệ hàng năm
Chính sách hỗ trợ
Lãnh đạo địa phương năng động hỗ trợ doanh nghiệp
Các chính sách triển khai nhanh đến doanh nghiệp
Thủ tục hành chính đơn giản, nhanh chóng
Hệ thống thuế rõ ràng, minh bạch
Chính sách lãi suất hiện nay là hợp lý đối với doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhận được sự ưu đãi về tín dụng của ngân hàng
Thủ tục vay vốn dễ dàng
Các hiệp hội nghề nghiệp hỗ trợ tốt cho doanh nghiệp
Cơ sở hạ tầng
Hệ thống cung cấp điện, nước đáp ứng được yêu cầu
Thông tin liên lạc thuận tiện (internet, điện thoại…)
Hệ thống giao thông thuận lợi
Tác động hội nhập
Hội nhập quốc tế là cơ hội tốt để doanh nghiệp tiếp cận được công nghệ tiên tiến
Hội nhập quốc tế là cơ hội tốt để doanh nghiệp mở rộng thị trường
Hội nhập quốc tế giúp DN có động lực cạnh tranh với các DN nước ngoài
Năng lực cạnh tranh
Doanh nghiệp đang cạnh tranh tốt với các đối thủ khác trong cùng ngành
Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài
Anh/chị tin rằng doanh nghiệp sẽ tiếp tục phát triển trong dài hạn
Giả thuyết nghiên cứu
H1: Năng lực quản lý có mối quan hệ tương quan thuận với NLCT của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
H2: Năng lực nhân sự có mối quan hệ tương quan thuận với NLCT của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
H3: Năng lực tài chính có mối quan hệ tương quan thuận với NLCT của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
H4: Ứng dụng công nghệ có mối quan hệ tương quan thuận với NLCT của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
H5: Chính sách hỗ trợ có mối quan hệ tương quan nghịch với NLCT của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
334
H6: Cơ sở hạ tầng có mối quan hệ tương quan thuận với NLCT của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
H7: Tác động hội nhập có mối quan hệ tương quan thuận/nghịch với NLCT của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: NLCT của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố
Hà Nội. Các doanh nghiệp khảo sát bao gồm: công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần.
- Phương pháp thu thập dữ liệu:
Dữ liệu thứ cấp: được thu thập chủ yếu thông qua các bài báo khoa học, kết quả từ các
nghiên cứu khác có liên quan.
Dữ liệu sơ cấp: nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên theo loại hình doanh
nghiệp bằng cách khảo sát các đối tượng là giám đốc, nhà quản trị hoặc kế toán tại các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn TP. Hà Nội. Số lượng doanh nghiệp lựa chọn để khảo sát là 250
doanh nghiệp với hình thức phát phiếu khảo sát trực tiếp hoặc qua email. Số phiếu hợp lệ thu về là
181 phiếu. Với nghiên cứu mô hình nhân tố khám phá và hồi quy, dữ liệu là dạng số liệu chéo thì
quy mô mẫu tối thiểu được xác định là 5 lần số biến quan sát (Hair, Black, Babin, & Anderson,
2009). Mô hình nghiên cứu này có 31 biến quan sát nên kích thước mẫu ước lượng tối thiểu sẽ là
155. Như vậy, với quy mô mẫu nghiên cứu là 181 đảm bảo tính đại diện cho tổng thể nghiên cứu.
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp kiểm định Cronbach’s Anpha, phân tích nhân tố
khám phá (EFA) để kiểm định độ tin cậy của các thang đo và phương pháp hồi quy đa biến để
kiểm định mối tương quan giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc là năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn TP. Hà Nội. Trong đó, các biến quan sát được đo
lường thông qua thang đo Likert 5 mức độ. Phương trình hồi quy đa biến có dạng như sau:
Y (NLCT) = �� + ���� + ���� +���� +⋯+ ���� +��
Trong đó:
Y: Biến phụ thuộc, thể hiện khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
X1, X2, X3, ..., Xk: các biến độc lập gồm: năng lực quản lý, năng lực nhân sự, năng lực tài
chính, ứng dụng công nghệ, chính sách hỗ trợ, cơ sở hạ tầng, tác động hội nhập.
β�: Hệ số góc hồi quy tổng thể Y khi các biến độc lập bằng 0, nó đánh giá ảnh hưởng của
các nhân tố khác ngoài nhân tố được xác định trong mô hình đến biến.
β�: Hệ số hồi quy tổng thể Y với các biến độc lập X tương ứng (k = 1,7����)
ε�: Sai số
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Nghiên cứu đã kiểm tra phân phối chuẩn của tất cả các thang đo. Các dữ liệu thu thập được
coi là phù hợp cho phân tích.
335
Thông tin về mẫu nghiên cứu được trích ở bảng 3.
Bảng 3: Dữ liệu nghiên cứu
Tiêu chí Số lượng Nhóm Số lượng Tỷ lệ (%)
Độ tuổi 181
- Dưới 30 tuổi 77 41.6
- Từ 30-40 tuổi 97 52.4
- Từ 41-50 tuổi 7 3.8
Giới tính 181 - Nam 39 21.1
- Nữ 142 76.8
Vị trí công việc
181
- Ban giám đốc 64 35
- Hội đồng quản trị 14 8
- Phụ trách kế toán 33 18
- Trưởng/ phó phòng 25 14
- Khác 49 26
Quy mô doanh nghiệp
181
- Siêu nhỏ (số lao động ≤ 10) 37 20.0
- Nhỏ (10< số lao động ≤ 200) 89 48.1
- Vừa(200 < số lao động ≤ 300) 55 29.7
Phân tích thang đo
Để kiểm định độ tin cậy của các thang đo, nghiên cứu dựa vào hệ số kiểm định Cronbach’s
Alpha của các thành phần thang đo và hệ số Cronbach’s Alpha của mỗi biến đo lường (bảng 3).
Các biến có hệ số tương quan biến tổng nhỏ hơn 0,3 sẽ bị loại. Một thang đo có độ tin cậy tốt khi
nó lớn hơn 0,7. Nếu Cronbach’s Alpha ≥ 0,6 là thang đo có thể chấp nhận được về mặt tin cậy
(Nunnally & Bernstein, 1994).
Bảng 4: Kết quả phân tích thang đo
Cronbach's
Alpha Chỉ báo
Tương quan biến
tổng
Cronbach's Alpha
nếu loại biến
Năng lực quản lý
(NLQL) 0.723
NLQL1 .494 .694
NLQL2 .597 .568
NLQL3 .542 .637
Năng lực nhân sự
(NLNS) 0.761
NLNS1 .619 .671
NLNS2 .567 .701
NLNS3 .505 .733
NLNS4 .547 .711
Năng lực tài chính
(NLTC) 0.787
NLTC1 .567 .752
NLTC2 .688 .685
NLTC3 .591 .740
NLTC4 .547 .759
336
Ứng dụng công
nghệ (UDCN) 0.814
UDCN1 .660 .750
UDCN2 .715 .692
UDCN3 .622 .787
Chính sách hỗ trợ
(CSHT) 0.907
CSHT1 .674 .898
CSHT2 .698 .896
CSHT3 .719 .894
CSHT4 .728 .893
CSHT5 .714 .894
CSHT6 .682 .897
CSHT7 .685 .897
CSHT8 .728 .893
Cơ sở hạ tầng
(HT) 0.637
HT1 .458 .523
HT2 .492 .484
HT3 .396 .607
Tác động hội nhập
(TĐHN) 0.754
TĐHN1 .602 .655
TĐHN2 .633 .612
TĐHN3 .524 .735
Năng lực cạnh tranh
(NLCT) 0.712
NLCT1 .574 .574
NLCT2 .571 .581
NLCT3 .469 .693
Như vậy, Cronbach’s Alpha của các thang đo đều lớn hơn 0,6; các hệ số tương quan biến tổng
của các biến quan sát trong thang đo đều lớn hơn 0.4 và không có trường hợp loại bỏ biến quan sát
nào có thể làm cho Cronbach’s Alpha của thang đo này lớn hơn Cronbach’s Alpha. Vì vậy, tất cả
các biến quan sát đều được chấp nhận và sẽ được sử dụng trong phân tích nhân tố tiếp theo.
Phân tích nhân tố khám phá
Bảng 5: Phân tích nhân tố khám phá
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. .806
Bartlett's Test of
Sphericity
Approx. Chi-Square 1991.270
df 465
Sig. .000
STT Thang đo Các biến sử dụng Loại biến
1 Năng lực Quản lý, nhân sự
(NLQLNS)
NLQL2, NLQL1, NLQL3, NLTC1,
NLNS1, NLNS2, NLNS3, NLNS4
337
2 Năng lực tài chính, công nghệ
(NLTCCN)
UDCN1, UDCN2,UDCN3, NLTC2,
NLTC3,NLTC4
3 Chính sách hỗ trợ (CSHT) CSHT1, CSHT2, CSHT3, CSHT4,
CSHT5, CSHT8
CSHT6,
CSHT7
4 Cơ sở hạ tầng (HT) HT2, HT3 HT1
5 Tác động hội nhập (TĐHN) TĐHN1, TĐHN2 TĐHN3
6 Năng lực cạnh tranh (NLCT) NLCT1, NLCT2, NLCT3
Hệ số KMO = 0,806, kiểm định Bartlett có giá trị sig <0,05, như vậy phân tích nhân tố là
thích hợp và các biến có mối tương quan với nhau trong tổng thể.
Với cỡ mẫu là 181, để đảm bảo mức ý nghĩa thiết thực, hệ số tải nhân tố được chọn là 0,5.
Như vậy sau khi thực hiện phân tích nhân tố khám phá, nghiên cứu có được mô hình nghiên cứu
mới với 1 biến phụ thuộc là năng lực cạnh tranh (NLCT) và 5 biến độc lập: Năng lực quản lý
nhân sự (NLQLNS); Năng lực tài chính, công nghệ (NLTCCN); Chính sách hỗ trợ (CSHT); Cơ
sở hạ tầng (HT); Tác động hội nhập (TĐHN).
Phân tích tương quan
Bảng 6: Kết quả phân tích tương quan
NLQLNS NLTCCN CSHT HT TĐHN NLCT
NLQLNS
Pearson Correlation 1
Sig. (2-tailed)
N 181
NLTCCN
Pearson Correlation .544** 1
Sig. (2-tailed) .000
N 181 181
CSHT
Pearson Correlation .134 .346** 1
Sig. (2-tailed) .071 .000
N 181 181 181
HT
Pearson Correlation .144 .202** .340** 1
Sig. (2-tailed) .053 .006 .000
N 181 181 181 181
TĐHN
Pearson Correlation .048 .048 .461** .310** 1
Sig. (2-tailed) .518 .524 .000 .000
N 181 181 181 181 181
NLCT
Pearson Correlation .197** .268** .356** .244** .246** 1
Sig. (2-tailed) .008 .000 .000 .001 .001
N 181 181 181 181 181 181
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
338
Bảng phân tích tương quan (Bảng 6) cho kết quả hệ số tương quan giữa các biến, mục đích
của kiểm tra mối tương quan chặt chẽ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc để loại bớt các
nhân tố có thể dẫn đến hiện tượng đa cộng tuyến trước khi chạy mô hình hồi quy. Hệ số tương
quan giữa các biến độc lập trong mô hình không có cặp nào có giá trị tuyệt đối lớn hơn 0,8. Ở ma
trận hệ số tương quan giữa các biến với biến phụ thuộc NLCT, hệ số thấp nhất là 0,197 giữa biến
NLQLNS và NLCT, hệ số cao nhất là 0,356 giữa biến CSHT và NLCT. Do đó, khi sử dụng mô
hình hồi quy sẽ ít có khả năng gặp hiện tượng đa cộng tuyến.
Phân tích hồi quy
Bảng 7: Kết quả phân tích hồi quy
Model R R Square Adjusted R
Square
Std. Error of the
Estimate
Durbin-Watson
1 .521a .377 .354 .41431 1.929
a. Predictors: (Constant), TĐHN, NLTCCN, HT, NLQLNS, CSHT
b. Dependent Variable: NLCT
Bảng 8: Kết quả kiểm định mô hình (ANOVA)
Model Sum of Squares df Mean Square F Sig.
1
Regression 6.480 5 1.296 7.551 .000b
Residual 30.039 175 .172
Total 36.519 180
a. Dependent Variable: NLCT
b. Predictors: (Constant), TĐHN, NLTCCN, HT, NLQLNS, CSHT
Bảng 9: Kết quả hồi quy mô hình
Model Unstandardized
Coefficients
Standardized
Coefficients
t Sig. Collinearity Statistics
B Std. Error Beta Tolerance VIF
1
(Constant) 2.016 .366 5.503 .000
NLQLNS .072 .071 .082 1.003 .037 .696 1.437
NLTCCN .105 .076 .121 1.376 .017 .610 1.638
CSHT .179 .068 .222 2.624 .009 .654 1.528
HT .082 .061 .100 1.341 .018 .839 1.191
TĐHN .081 .063 .102 1.284 .026 .740 1.351
a. Dependent Variable: NLCT
Theo Bảng phân tích hồi quy (bảng 9), cả 5 biến phân tích đều có ý nghĩa thống kê với
mức ý nghĩa 5%. Ngoài ra, hệ số VIF của tất cả các biến đều nhỏ hơn 2 chứng tỏ mô hình không
có hiện tượng đa cộng tuyến. Đồng thời giá trị thống kê d (bảng 6) bằng 1.929 (d > du = 1,841),
339
kết luận không có tự tương quan bậc 1. Như vậy, các biến đều thỏa mãn tất cả các giả định của
mô hình hồi quy nên có thể giải thích sự ảnh hưởng của các nhân tố này đến NLCT của doanh
nghiệp. Chỉ số R2 hiệu chỉnh (bảng 7) bằng 0,354 chỉ ra rằng các nhân tố Năng lực quản lý, nhân
sự; Năng lực tài chính và công nghệ; Chính sách hỗ trợ và cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng và giải
thích được 35,4% năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Mô hình hồi quy phù hợp với mức ý
nghĩa 5% có dạng như sau:
NLCT = 2,016 + 0,072NLQLNS+0,105NLTCCN+ 0,179CSHT + 0,082HT+ 0,081TĐHN + e
Trong nghiên cứu này, NLCT của các DNVVN trên địa bàn TP. Hà Nội chịu ảnh hưởng
lớn nhất từ nhân tố chính sách hỗ trợ với hệ số là 0,179; nhân tố năng lực tài chính và ứng dụng
công nghệ với hệ số là 0,105; nhân tố cơ sở hạ tầng có hệ số là 0,082; nhân tố tác động hội nhập
có hệ số là 0,081 và cuối cùng là nhân tố năng lực quản lý và nhân sự có hệ số là 0,072. Theo kết
quả này, các giả thuyết ở mô hình nghiên cứu đều được chấp nhận và phù hợp với các nghiên
cứu trên.
Thông qua kết quả nghiên cứu có thể thấy rằng, nhân tố chính sách hỗ trợ có tác động cùng
chiều mạnh nhất trong các nhân tố nghiên cứu tới NLCT của doanh nghiệp. Như vậy, nếu doanh
nghiệp nhận được sự hỗ trợ từ lãnh đạo địa phương; các thủ tục hành chính đơn giản, nhanh
chóng; hệ thống thuế rõ ràng, minh bạch; các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tín dụng
đưa ra chính sách lãi suất hợp lý đối với doanh nghiệp thì NLCT của các doanh nghiệp trên địa
bàn TP. Hà Nội sẽ được gia tăng. Nhân tố năng lực tài chính và ứng dụng công nghệ tác động tới
NLCTcủa doanh nghiệp theo hướng nếu doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả; quản lý tài
chính tốt, tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận tốt, đồng thời đầu tư, ứng dụng máy móc thiết bị
công nghệ hiện đại vào quản lý, sản xuất thì sẽ NLCT của doanh nghiệp. Nhân tố cơ sở hạ tầng
có tác động cùng chiều với NLCT của doanh nghiệp, cụ thể: doanh nghiệp có hệ thống thông tin
liên lạc thuận tiện, hệ thống giao thông thuận lợi sẽ nâng cao NLCT của doanh nghiệp. Kết quả
này cũng tương thích với các kết quả nghiên cứu trước
Dữ liệu nghiên cứu cũng đã chỉ ra sự tác động của nhân tố hội nhập có quan hệ thuận chiều
với NLCT của doanh nghiệp. Nếu hội nhập quốc tế giúp doanh nghiệp tiếp cận được công nghệ
tiên tiến và mở rộng được thị trường thì NLCT của doanh nghiệp sẽ được củng cố thêm. Năng
lực quản lý và năng lực nhân sự của doanh nghiệp tốt cũng sẽ là một nhân tố làm gia tăng NLCT
của doanh nghiệp, điều này có nghĩa là: nếu doanh nghiệp có khả năng phân tích thị trường và đề
ra chiến lược kinh doanh phù hợp với doanh nghiệp; có khả năng quản trị, hoạch định và thực
hiện chiến lược; có năng lực tổ chức sản xuất sản phẩm/dịch vụ hay có nguồn nhân sự ổn định,
trình độ chuyên môn và tay nghề cao với chính sách nhân sự hợp lý thì năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp sẽ gia tăng.
4. KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu có thể thấy, để nâng cao năng lực cạnh tranh thì các nhà quản trị
doanh nghiệp trong doanh nghiệp nói chung và DNVVN trên địa bàn TP. Hà Nội nói riêng cần
nỗ lực hơn nữa trong việc nâng cao trình độ tổ chức quản lý doanh nghiệp, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực; tiếp cận và ứng dụng công nghệ vào công tác quản lý và sản xuất. Bên
340
cạnh đó, người quản lý cũng phải nhận thức được tác động của hội nhập kinh tế quốc tế để thay
đổi chiến lược quản trị và nắm bắt tốt thông tin về thể chế, bắt kịp yêu cầu của giai đoạn mới,
từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngoài ra, NLCT của doanh nghiệp chịu sự tác động không
nhỏ từ phía các cơ quan nhà nước gồm các yếu tố như: cơ sở hạ tầng, chính sách hỗ trợ. Vì
vậy, để hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường, các cơ quan Nhà nước cần hoàn
thiện hệ thống chính sách, pháp luật đồng bộ, có sự phối hợp chặt chẽ của cơ quan liên quan về
việc nghiên cứu và đưa ra những chính sách về đầu tư cơ sở hạ tầng, chính sách hỗ trợ hoạt
động cho doanh nghiệp.
Nghiên cứu đã chỉ ra một số nhân tố ảnh hưởng đến NLCT của DNVVN trên địa bàn TP.
Hà Nội, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục trong các nghiên cứu tiếp theo như:
quy mô mẫu mặc dù đã phù hợp cho nghiên cứu nhưng vẫn còn thấp, phạm vi nghiên cứu cần
mở rộng thêm để có kết quả nghiên cứu tổng thể hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Barney (1991), Firm resources and sustained competitive advantage, Journal of management,
17(1): 99-120.
Buckley, P. J., Pass, C. L. & Prescott, K. (1988). Measures of international competitiveness: A
critical survey, Journal of marketing management, 4(2), 175-200.
Chao A. D., Gonzalez J.S., & Sellens, J.T. (2015), The competitiveness of small network-firm: A
practical tool, Journal of business research.
Crosan M. M., Apaydin M. (2009), A multi – dimensional framework of organizational
innovation: A systematic review of the literature, J. Manage. Stud., 47(6): 1154-1191.
DesGG, Picken J. C. (2000), Changing roles: leadership in the 21st century, Organ. Dynam.,
28(3): 18-34.
Donner J. (2007), Customer acquisiton among small and informal business in Urban India:
Comparing face to face and mediated channels, Electro. J. Inform. Syst. Dev. Countr.,
32(3): 1-16.
Fafchamps, Marcel (1999), Ethnicity and Credit in African Manufacturing. Mimeo, Stanford
University.
Garelli, S. (2005), Executive summary – the World competitivenes landscape in 2005, IMD
World Competitiveness Yearbook 2005.
Grant, R. M. (1991), A resource based theory of competitive advantage: implication for strategy
formulation. California Management Review, 33(3), 114-351.
Porter, M. E. (2008). The five competitive forces that shape strategy, Havard Business Review,
January 2008, 79-93.
Ramasamy, H. (1995), Productivity in the Age of competitiveness: Focus on manufacturing in
Singapore. Productivity in the Age of competitiveness. APO Monograph Series 16, Asian
Productivity Organization.
341
Sanchez & Heene (1996), A systems view of the firm in competence-based competition, in R.
Sanchez, A., Heence and H. Thomas (eds), Dynamics of competence-based competitition:
Theory and Practice in the New Strategic Management. Oxford, Elsevier Pergamon, 39-62.
Sanchez, R., & Heene, A. (2004), The new strategic management: Organization competition and
competence. NewYork, NY: Wiley.
Tambunan, T. (2009), Export-oriented small and medium industry clusters in Indonesia. Journal
of enterprising communities: people and places in the Global economy, 3(1), 25-58.
Wang và Ahmed (2004), The development and validation of the organisational innovativeness
construct using confirmatory factor analysis, Eur. J. Innovat. Manage, 7(4): 303-313.
342
Rào cản và động lực trong áp dụng kế toán chi phí môi trường
tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
Trần Thị Nhung, Nguyễn Thị Lan Anh
Khoa Kế toán, Trường Đại học Kinh tế & QTKD Thái Nguyên
Email: nhungtt.tueba@gmail.com
Mã bài: HTQG.24 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 04/11/2019
Ngày nhận bài: 30/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 08/11/2019
Tóm tắt
Trong những năm gần đây, kế toán chi phí môi trường (Environmental cost accounting-
ECA) đã nhận được sự quan tâm đặc biệt từ phía các nhà nghiên cứu cũng như nhà quản trị trong
doanh nghiệp. Tuy nhiên, những nghiên cứu phản ánh thực tiễn về ECA ở các nước đang phát
triển, đặc biệt là tại Việt Nam vẫn còn hiếm trong tài liệu kế toán quản trị (Management
Accounting - MA). Mục tiêu nghiên cứu là phân tích thực trạng áp dụng ECA tại Bệnh viện Đa
khoa Trung ương Thái Nguyên. Đồng thời nghiên cứu cũng chỉ ra và phân tích các rào cản, động
lực đối với việc áp dụng ECA tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên. Dữ liệu khảo sát
được thu thập chủ yếu thông qua phương pháp phỏng vấn các cá nhân giữ chức vụ quản lý tại
Bệnh viện. Kết quả nghiên cứu cho thấy tại bệnh viện phát sinh một số loại chi phí môi trường
như: chi phí phòng ngừa và xử lý. Tuy nhiên, bệnh viện không tính riêng chi phí môi trường
(Environmental costs - EC), các chi phí này bị che khuất trong các chi phí khác và được phản
ánh trên Báo cáo tài chính. Những rào cản có thể xảy ra khi không áp dụng ECA như: sự thiếu
nhận thức của các nhà quản lý và kế toán, thiếu hệ thống kế toán chi phí và thiếu sự hỗ trợ từ các
cơ quan giám sát. Đồng thời, động lực thúc đẩy việc áp dụng ECA tại Bệnh viện là: Để bảo vệ
bệnh nhân, nhân viên và cộng đồng xung quanh; Để đối phó với các yêu cầu môi trường được
ban hành bởi các cơ quan giám sát (Bộ Y tế).
Từ khóa: Chi phí môi trường, Kế toán chi phí môi trường, Kế toán quản trị chi phí môi
trường, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên.
1. GIỚI THIỆU
Hiện nay, Theo Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến (2019) tính đến tháng 8/2019 cả
nước có hơn 13.000 cơ sở y tế, mỗi năm điều trị cho hơn 150 triệu lượt người và khoảng hơn 300
triệu lượt khám ngoại trú. Khi vào bệnh viện, bệnh nhân thường đi kèm theo 1 - 2 người nhà, cho
nên lượng rác thải từ bệnh nhân và người nhà cùng với rác thải liên quan đến y tế rất lớn. Theo báo
cáo từ một số bệnh viện, khoảng 5% trong số chất thải y tế phát sinh là chất thải nhựa, khoảng 22
343
tấn/ngày. Về khí thải y tế nguy hại, lượng phát sinh chủ định từ hoạt động chuyên môn của ngành
y tế không nhiều, chủ yếu phát sinh từ các cơ sở y tế có các phòng thí nghiệm phục vụ công tác
nghiên cứu và đào tạo y dược. Tuy nhiên lượng khí thải hình thành không chủ định từ hoạt động
xử lý chất thải y tế vẫn còn chưa được kiểm soát. Bên cạnh các chất thải y tế lây nhiễm, gây nguy
cơ mắc các dịch bệnh truyền nhiễm, các cơ sở y tế còn phát sinh các chất thải nguy hại khác như
dược phẩm quá hạn, chất thải phóng xạ, chất thải gây độc tế bào và các hóa chất độc hại khác như
chì, cadimi, thủy ngân, dioxin/furan, các dung môi chứa clo. Cho đến nay, việc thực hiện phân loại,
thu gom chất thải rắn y tế ở nhiều bệnh viện còn chưa đạt yêu cầu theo Quy chế quản lý chất thải y
tế. Trong đó, chất thải rắn tại các cơ sở y tế chủ yếu được xử lý bằng phương pháp đốt. Do đa số
các lò đốt chưa có hệ thống xử lý khí thải, nhiều lò đốt đã cũ hỏng nên có nguy cơ làm phát sinh
các chất độc hại ra môi trường, trong đó có các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ như Dioxin và
Furan. Hệ thống xử lý nước thải của các bệnh viện chưa đáp ứng được yêu cầu đối với tất cả các
thông số trong quy chuẩn về nước thải bệnh viện, vì thế có nguy cơ xả thải nhiều chất độc hại và
các tác nhân gây bệnh có khả năng lây nhiễm cao ra môi trường nước.
Tầm quan trọng của trách nhiệm xã hội của các thực thể kinh tế khác nhau gần đây đã tăng
lên ở nhiều quốc gia và tối đa hóa lợi nhuận không còn là tiêu chuẩn duy nhất để đo lường và đánh
giá hiệu quả hoạt động của một chủ thể kinh tế. Tại Việt Nam, các vấn đề môi trường đã được sự
quan tâm đáng kể từ Chính phủ. Từ năm 2007 Quốc hội đã lần đầu tiên đưa ra quy định về Quản lý
chất thải (Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007), Thông tư số 18/2009/TT-BYT ngày
14/10/2009 hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh. Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT ngày 31/12/2015 về Quy chế
quản lý chất thải y tế, và tiếp theo đó hàng loạt tiêu chuẩn đo lường chất lượng môi trường trong
lĩnh vực y tế được ban hành. Hiện nay, hầu hết các bệnh viện Việt Nam đều phấn đấu đạt tiêu
chuẩn ISO mới nhất hiện hành. Tiêu chuẩn đã nhận định rõ Chất thải y tế không được quản lý tốt
là nguy cơ đối với người bệnh, nhân viên y tế và cộng đồng.
Bên cạnh đó, việc nhận thức rõ và chủ động áp dụng ECA tại các cơ sở y tế nói chung và
tại các bệnh viện nói riêng là hết sức cần thiết. Từ năm 1992, Cộng đồng Châu Âu (EU) đã công
bố một chương trình mang tên “Hướng bền vững”, trong đó, gợi ý rằng giới hành nghề kế toán
cần lãnh sứ mệnh và vai trò trong việc thực thi các hệ thống chi phí để ghi nhận EC trong nội bộ
tổ chức bị bỏ qua trước đây. Đặc biệt EU kêu gọi định nghĩa lại các khái niệm, nguyên tắc, quy
ước và phương pháp kế toán nhằm đảm bảo rằng sự tiêu dùng và sử dụng các nguồn lực môi
trường được kế toán phản ánh như là một phần cấu thành của chi phí sản xuất toàn bộ và phải
được thể hiện trong giá cả thị trường (Deegan, 2006). Nhu cầu đó đã tạo điều kiện cho sự ra đời
và phát triển của ECA. Tuy nhiên nhận thức về việc đo lường EC và nghiên cứu, áp dụng ECA
vẫn chưa được thực hiện tốt tại các nghiên cứu trong nước, đặc biệt là nghiên cứu tại các Bệnh
viện Việt Nam là chưa có. Vậy đâu là rào cản và động lực cho việc áp dụng ECA trong bệnh
viện Việt Nam nói chung và Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên nói riêng?
Bài viết nhằm hướng tới 2 mục tiêu chính:
Thứ nhất: để khám phá liệu Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên có đo EC hay
không và các chi phí này được hạch toán như thế nào.
344
Thứ hai: để khám phá nhận thức của người được phỏng vấn trong Bệnh viện về các rào cản
và động lực của việc áp dụng ECA đơn vị.
Bài viết này đóng góp cho kiến thức về tài liệu kế toán quản trị bằng cách tổng hợp tài liệu
để đồng hóa các phương pháp và kỹ thuật EMA (Jing and Songqing, 2011; Somnath, Debnath,
S.K. Bose, Dhalla, 2012; Chang, 2013; Ismail. Ramli, and Darus, 2014; Wang và cộng sự, 2018)
cùng một số nghiên cứu nhấn mạnh các yếu tố rào cản và động lực ảnh hưởng đến thực tiễn
EMA (Mokhtar, Jusoh, Zulkifli; 2016 Jamil, Mohamed, Muhammad, Ali, 2015; Chang, 2013;
Lee, 2011; Setthasakko, 2010), trên cơ sở đó tìm hiểu và đánh giá thực tiễn kế toán chi phí môi
trường (ECA) trong một bệnh viện Việt Nam (Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên,
Thái Nguyên), nó cũng khám phá nhận thức của kế toán và quản lý bệnh viện về lợi ích, rào cản
và động lực cho việc sử dụng ECA. Bài viết này trình bày khung lý thuyết của nghiên cứu, vấn
đề nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, thiết kế nghiên cứu, kết quả và thảo
luận, cuối cùng là kết luận.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
- Thành phần của EC:
Một đánh giá về tài liệu EMA cho thấy có nhiều định nghĩa khác nhau về EC (Todea và
cộng sự, 2011; Sief, 2014). Nói chung, EC bao hàm tất cả các chi phí liên quan đến các hoạt
động của tổ chức có tác động đến môi trường (Tsui, 2014).
Ủy ban Châu Âu (Khuyến nghị số 453/2001) đã xác định EC là chi phí phải ngăn chặn,
giảm hoặc phục hồi các thiệt hại về môi trường do thực thể hoặc một trong số đó có thể xảy ra do
các hoạt động mà họ điều hành. Chúng bao gồm: phòng ngừa, loại bỏ hoặc giảm chất thải hoặc
nước thải, carbon, xử lý đất bị ô nhiễm, thay đổi cảnh quan triệt để, nghiên cứu và đổi mới sản
phẩm, quy trình sản xuất sạch hơn, môi trường kiểm soát chất lượng. Định nghĩa được đưa ra
cho EC bởi Phòng Phát triển bền vững của Liên hợp quốc (UNDSD) cho thấy rằng EC có thể
bao gồm cả chi phí bên trong và bên ngoài và tất cả các chi phí xảy ra liên quan đến thiệt hại và
bảo vệ môi trường (UNDSD, 2001).
Cơ quan bảo vệ môi trường định nghĩa EC là chi phí có tác động tài chính trực tiếp đối với
các thực thể (chi phí nội bộ) và chi phí cá nhân mà thực thể không chịu trách nhiệm (chi phí bên
ngoài). Định nghĩa này thể hiện cơ sở cho sự khác biệt giữa EC, được thấy dưới đây (De Bia &
Friend, 2006)
Dựa trên các định nghĩa được trình bày ở trên, EC có thể được phân thành hai loại chính:
chi phí nội bộ hoặc tư nhân và chi phí bên ngoài hoặc xã hội (Tsui, 2014; UNDSD, 2001;
Burritt, 2004).
Lee (2011) phân loại EC thành bốn loại chính: Chi phí hoạt động xử lý ô nhiễm, chi phí
hoạt động phòng ngừa ô nhiễm, chi phí hoạt động của các bên liên quan, chi phí hoạt động khắc
phục và tuân thủ pháp luật. Bảng 1 tóm tắt các loại chi phí môi trường và ví dụ về từng loại theo
đề xuất của (Lee, 2011).
345
Bảng 1. Phân loại chi phí môi trường
Danh mục chi phí
môi trường
Các khoản mục chi phí môi trường
Chi phí hoạt động
xử lý ô nhiễm
Chi phí bảo trì (cơ sở xử lý chất thải, khí thải, chi phí xử lý nước)
Chi phí thiêu đốt chất thải
Chi phí liên quan đến chất thải tái chế
Chi phí năng lượng cơ sở xử lý ô nhiễm
Chi phí vật liệu cho các cơ sở xử lý ô nhiễm
Chi phí hoạt động
phòng ngừa ô
nhiễm
Chi phí cho các hoạt động phòng ngừa ô nhiễm (R&D, tìm nguồn
nguyên liệu, phát triển sản phẩm, xử lý chất thải và tái vật liệu hóa)
Chi phí mua, mua sắm xanh
Chi phí cho thiết kế sản phẩm xanh và đầu tư cơ sở vật chất phát triển
công nghệ trong các sản phẩm xanh và xử lý ô nhiễm
Chi phí hoạt động
của các bên liên
quan
Chi phí cho các hoạt động cộng đồng liên quan đến môi trường
Chi phí cho quan hệ công chúng (PR)
Chi phí cho quảng cáo xanh (TV, phương tiện truyền thông)
Chi phí cho công bố thông tin môi trường (báo cáo môi trường/bền vững
và chi phí liên quan)
Chi phí cho báo cáo pháp lý (báo cáo được công bố và chi phí liên quan)
Chi phí cho quan hệ nhà đầu tư môi trường (khuyến mãi, sự kiện)
Tuân thủ pháp luật
và chi phí hoạt
động khắc phục
Chi phí tuân thủ môi trường
Chi phí phục hồi môi trường (thu hồi đất bị ô nhiễm, phí kiểm tra và tư
vấn môi trường, …)
Tiền phạt môi trường
Chi phí pháp lý môi trường (cáo buộc, phí luật sư,…)
(Nguồn: Lee, 2011)
Trong bài báo này, chúng tôi sẽ áp dụng (Lee, 2011) phân loại (EC) để khám phá sự khác
biệt (EC) được đo và tính toán bởi Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên.
- Phương pháp kế toán chi phí môi trường:
Theo (Jing & Song Khánh, 2011) kế toán chi phí môi trường nên bao gồm xác định, phân
phối và đo lường chi phí môi trường. Họ cũng tuyên bố rằng nguồn chính để có được thông tin
chi phí môi trường đến từ hệ thống kế toán doanh nghiệp. Ngoài ra, các tác giả còn phân biệt
giữa hai phương pháp xác định chi phí môi trường truyền thống.
Họ đã đề cập rằng: Ở các nước phát triển, chi phí môi trường thường được bao gồm trong
tài khoản chi phí sản xuất của mình; Ở nước đang phát triển, các khoản chi liên quan đến môi
trường thường được bao gồm trong "phí quản lý và các dự án khác, không được công nhận và đo
lường riêng lẻ" (Jing & Songqing, 2011).
346
ECA liên quan đến việc xác định và công nhận các yếu tố của các chi phí này. Theo Henri
(2010), các phương pháp được các thực thể sử dụng để xác định EC là phương pháp đánh giá
vòng đời, phương pháp cân bằng môi trường, phương pháp toàn bộ chi phí, phương pháp đánh
giá tổng chi phí và phương pháp dựa trên hoạt động (ABC).
Phương pháp đánh giá vòng đời: bao gồm ba giai đoạn: kiểm kê tất cả các dòng chảy liên
quan đến năng lượng, nước, nguyên liệu thô, không khí và khí thải; kiểm kê các biện pháp định
tính và định lượng tác động đến môi trường; giải thích kết quả và đánh giá các phương pháp có
thể để giảm tác động môi trường.
Phương pháp cân bằng môi trường: bao gồm xác định và đo lường các luồng đầu vào và
đầu ra của một thực thể, của một dịch vụ, quy trình hoặc sản phẩm về năng lượng, nước, vật liệu,
chất thải hoặc khí thải.
Phương pháp toàn bộ chi phí: là việc phân bổ tất cả các chi phí cho một sản phẩm (nguyên
vật liệu, tiền lương,...) bao gồm cả EC tiềm năng và thực tế.
Phương pháp đánh giá tổng chi phí: phương pháp này được sử dụng để đo lường chi phí
đầu tư vốn. Ngoài ra, việc phân loại chi phí được sử dụng để đánh giá tổng chi phí đòi hỏi phải
xác định rõ các chi phí liên quan rõ ràng đến môi trường.
Phương pháp kế toán chi phí dựa trên hoạt động (Activity-Based Costing - ABC): phương
pháp này cho phép một thực thể phân bổ EC cho các hoạt động và sau đó cho các sản phẩm.
EC nên được công nhận trong giai đoạn mà chúng được xác định đầu tiên. Nếu các tiêu chí
để được công nhận là một tài sản đã được đáp ứng, chúng nên được vốn hóa và khấu hao vào báo
cáo thu nhập trong các giai đoạn hiện tại và phù hợp trong tương lai. EC nên được vốn hóa nếu
chúng liên quan, trực tiếp hoặc gián tiếp, đến lợi ích kinh tế trong tương lai sẽ chảy vào thông
qua doanh nghiệp (United nation, 1998):
+ Tăng năng lực, hoặc cải thiện sự an toàn hoặc hiệu quả của các tài sản khác thuộc sở hữu
của doanh nghiệp;
+ Giảm hoặc ngăn ngừa ô nhiễm môi trường có khả năng xảy ra do các hoạt động trong
tương lai; hoặc là
+ Bảo tồn môi trường.
- Rào cản và động lực:
Việc xem xét kỹ lưỡng tài liệu EMA cho thấy một số nỗ lực của các nhà nghiên cứu để ghi
lại các yếu tố thúc đẩy hoặc cản trở việc áp dụng EMA và báo cáo EC.
Theo Yusoff1 và cộng sự (2016), tăng giá trị cổ đông, sự tham gia của các bên liên quan và
áp lực pháp lý là những yếu tố thúc đẩy chính để kế toán áp dụng báo cáo kế toán xanh trong báo
cáo tài chính của họ.
Setthasakko (2010) cho rằng sự tập trung hẹp vào hiệu quả kinh tế và việc thiếu xây dựng
tổ chức học tập là rào cản cho việc áp dụng EMA trong các công ty Thái Lan.
347
Trong nghiên cứu điểm chuẩn của họ về ECA cho các công ty hóa chất và dầu mỏ (Shields,
Beloff, & Heller, 1996) cho thấy rằng việc phát triển hệ thống ECA phụ thuộc vào văn hóa doanh
nghiệp hoặc thái độ. Họ ủng hộ thêm rằng sự thành công của hệ thống ECA phụ thuộc vào thái độ
tích cực giữa ban lãnh đạo cấp cao, nhà quản trị nội bộ, nhà đầu tư, tích hợp công cụ vào việc ra
quyết định hàng ngày và nếu không có sự hỗ trợ như vậy, hệ thống sẽ không có tác dụng.
Bảng 2. Tóm tắt các nghiên cứu trước đây về các rào cản, lợi ích và động lực cho việc áp dụng
EMA hoặc ECA và các hoạt động quản lý môi trường khác
Nghiên cứu Công nghệ/
Kỹ thuật Rào Cản Động lực
Massoud và
cộng sự, 2010
ISO14001
Không có sự hỗ trợ của chính phủ.
Không có nhu cầu của các bên liên
quan.
ISO 14001 không phải là một yêu
cầu pháp lý
Yếu tố kinh tế và tổ
chức
Bebbington và
cộng sự, 1994
Dữ liệu điện
tử
Không chắc chắn về cách tiến hành
Thiếu một yêu cầu pháp lý
Lợi ích không vượt quá chi phí
Không đủ nhu cầu về thông tin
Brammer và
cộng sự, 2011 EM Quy định của chính phủ
Setthasako,
2010 EMA
Không phải là một yêu cầu pháp lý
Không có nhu cầu từ khách hàng
hoặc các bên liên quan
Thiếu các ưu đãi
Thiếu sự hỗ trợ của chính phủ
Thiếu nguồn lực
Chi phí và thời gian
Tạo ra bất lợi cạnh tranh
Thiếu kiến thức, kỹ năng trong nhà
Yêu cầu của khách
hàng và nhu cầu của
các bên liên quan
Vượt rào cản
Chỗ ở theo quy định
quốc tế
Thi hành cạnh tranh
công bằng
Công nhận sản phẩm,
dịch vụ của công ty
Khuyến khích của chính
phủ hoặc các quy định
Giảm chi phí (giảm hoạt
động và bảo hiểm)
Yêu cầu chuỗi cung
ứng
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
348
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp:
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, một phương pháp nghiên cứu trường hợp đã được sử
dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp phù hợp với nghiên cứu này, dựa trên cơ thể ít kiến
thức có sẵn trong tài liệu MA của Việt Nam về Kế toán chi phí môi trường trong các bệnh viện;
từ Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên.
- Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp:
Dữ liệu được thu thập bằng các cuộc phỏng vấn các nhà quản lý liên quan và kế toán tại
Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, ngoài việc quan sát địa điểm và kiểm tra các tài
liệu kế toán và hồ sơ bệnh viện. Các câu hỏi bán cấu trúc mở kết thúc được sử dụng trong các
cuộc phỏng vấn để cho phép dữ liệu phong phú. Tác giả đã ghi chép và ghi lại câu trả lời trực
tiếp trong các cuộc phỏng vấn. Câu trả lời cho các câu hỏi sau đó được phân tích bằng cách sử
dụng phân tích nội dung.
Các câu hỏi trong các cuộc phỏng vấn bao gồm ba nội dung chính:
+ Bệnh viện có đo EC hay không và các loại EC đang được đo.
+ EC được phản ánh trong các tài liệu kế toán của Bệnh viện như thế nào.
+ Nhận thức của những người được phỏng vấn về những rào cản và động lực cho việc sử
dụng ECA tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên.
Thời gian thu thập dữ liệu sơ cấp vào tháng 9/2019. Đối tượng điều tra: Giám đốc bệnh
viện; Trưởng phòng quản lý chất lượng; Kế toán trưởng; Phó Trưởng Phòng Hành chính - Quản
trị. Hình thức điều tra: Phỏng vấn trực tiếp.
- Phương pháp tổng hợp và phân tích dữ liệu: Sau khi dữ liệu được thu thập tác giả tiến
hành tổng hợp và phân tích dữ liệu. Kết quả tổng hợp và phân tích được thể hiện qua các bảng 1;
bảng 2; bảng 3; bảng 4.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
- Tổng quan về Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên:
Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên được thành lập vào tháng 7 năm 1951 với tên
gọi Bệnh viện Liên khu Việt Bắc, trực thuộc khu y tế Liên khu Việt Bắc, có nhiệm vụ khám chữa
bệnh cho nhân dân các dân tộc miền núi vùng Đông Bắc Việt Nam. Qua gần 70 năm xây dựng
và phát triển, hiện nay Bệnh viện nằm ngay khu vực trung tâm thành phố Thái Nguyên, là tuyến
điều trị cao nhất chịu trách nhiệm chăm sóc sức khỏe trực tiếp cho hơn 1,2 triệu dân trong tỉnh,
tuyến cuối của các tỉnh vùng Đông Bắc. Bệnh viện hoạt động với các chức năng chính sau:
+ Khám chữa bệnh, phòng bệnh và phục hồi chức năng cho bệnh nhân các tỉnh, thành phố
vùng Đông Bắc;
+ Tham gia đào tạo cán bộ, cơ sở áp dụng chính của trường Đại học Y dược Thái Nguyên
và các cơ sở đào tạo cán Bộ Y tế khác;
349
+ Nghiên cứu khoa học về y dược;
+ Tham gia chỉ đạo trực tuyến;
+ Quan hệ quốc tế;
+ Quản lý y tế bệnh viện.
- Chi phí môi trường tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên:
Bệnh viện tuân thủ các quy trình của Bộ Y tế liên quan đến bảo vệ môi trường và sức khỏe
cộng đồng. Theo Bà Đặng Hoàng Nga, Trưởng phòng Quản lý chất lượng (Đ.H.N) “Các loại
chất thải và chất gây ô nhiễm khác nhau được tạo ra trong quá trình hoạt động của bệnh viện
của chúng tôi, bao gồm các vật liệu y tế nguy hiểm, các chất thải khác và nước ô nhiễm.”
Bên cạnh đó, kết quả thu thập dữ liệu thứ cấp tại Bệnh viện cho thấy:
Với quy mô giường bệnh mở rộng 1.200 giường như hiện nay thì lượng rác thải của Bệnh
viện là:
+ Rác thải sinh hoạt 1.200 giường x 0,45 kg/ngày/đêm = 5400 kg/ngày/đêm tương đương
1,8m3/ngày/đêm (tỷ trọng của rác là 300 kg/m3);
+ Rác thải y tế nguy hại: 1.200 giường x 0,1125 kg/giường/ngày/đêm = 135 kg/ngày/đêm
thương đương (0,45 m3/ngày/đêm).
+ Nước thải: Lượng nước thải bệnh viện phát sinh từ hoạt động vệ sinh hàng ngày từ hoạt
động khám, chữa bệnh, từ các lavabo xét nghiệm, chứa nhiều vi khuẩn gây bệnh (thể hiện qua
chỉ tiêu Coliform). Lượng nước thải phát sinh là 0,6 m3/ngày/đêm x 1.200 giường bệnh = 720
m3/ngày/đêm.
Nước mưa chảy tràn trên bề mặt khuôn viên bệnh viện, lưu lượng khoảng 1,56m3/s (đối với
cường độ mưa tính toán h = 100 mm). Nước mưa chảy tràn chứa nhiều tạp chất ô nhiễm gây hại.
Tổng lượng rác thải phát sinh từ bệnh viện khi nâng quy mô giường lên 1000 giường là
562,5 kg/ngày/đêm.
Thông thường theo kết quả điều tra thứ cấp lượng chất thải 6 tháng đầu năm thường thấp
hơn 6 tháng cuối năm, do lượng bệnh nhân thường tăng lên vào cuối năm.
Bác sĩ Hà Đức Trịnh, Phó Trưởng Phòng Hành chính - Quản trị (H.Đ.T) cho biết: “Chất
thải rắn phát sinh từ các phòng, khoa… được thu gom và phân loại tại nguồn. Sau đó, chất thải
y tế nguy hại được chúng tôi đưa vào lò xử lý bằng công nghệ vi sóng. Đối với chất thải sinh
hoạt, Bệnh viện đã ký hợp đồng với Chi nhánh Vệ sinh môi trường - Công ty CP Môi trường và
Công trình đô thị Thái Nguyên thu gom, vận chuyển và xử lý theo đúng quy định.”
Được biết, các loại chất thải rắn đã phân loại tại nơi phát sinh được Bệnh viện thu gom ra
xe chuyển rác (tại đầu nhà các khoa, phòng, trung tâm). Theo đó, Công ty Làm sạch quốc tế
(ICT) hợp đồng với Bệnh viện trong việc thu gom, làm sạch ngoại cảnh và vận chuyển đến nhà
chứa chất thải của Bệnh viện. Tại đây, chất thải rắn y tế sẽ được xử lý bằng công nghệ vi sóng
với công suất 38kg/giờ, đảm bảo yêu cầu chống lây nhiễm; còn chất thải y tế thông thường được
350
nghiền nhuyễn bằng công nghệ không khói. Sau đó, Công ty CP Môi trường và Công trình đô thị
Thái Nguyên sẽ vận chuyển từ nhà chứa chất thải của Bệnh viện đến bãi chứa rác thải của Thành
phố (xử lý 1 lần/ngày bằng phương pháp chôn lấp).
Trên thực tế, chất thải y tế, nhất là chất thải dạng rắn, là loại chất thải nguy hiểm do chứa
nhiều mầm bệnh dễ lan truyền lây nhiễm, các hoá chất độc hại và các vật sắc nhọn nguy hại.
Việc xử lý chất thải bệnh viện nói chung và chất thải rắn y tế nguy hại nói riêng là một nhu cầu
thực tế, ngày càng trở thành vấn đề cần quan tâm. Với việc đưa hệ thống xử lý chất thải rắn y tế
trị giá trên 10tỷ đồng vào vận hành từ năm 2015, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
đã xử lý được chất thải y tế độc hại ngay tại chỗ, tiết kiệm được chi phí, bảo vệ môi trường. Ông
Trịnh (H.Đ.T) cho biết thêm: “Hệ thống xử lý chất thải rắn y tế của Bệnh viện đã được Bộ Y tế
lựa chọn thực hiện theo “Dự án hỗ trợ xử lý chất thải bệnh viện” do Ngân hàng Thế giới tài trợ.
Trước đây, chúng tôi phải thuê vận chuyển rác thải y tế độc hại ra bãi chứa rác với giá 15.000
đồng/kg. Từ khi có hệ thông xử lý chất thải này thì chi phí đã giảm xuống còn 6.000 đồng/kg.”
Không chỉ quan tâm tới việc xử lý chất thải rắn, nhất là các loại chất thải y tế độc hại, Bệnh
viện còn quan tâm tới việc xử lý nước thải. Từ khi hệ thống thu gom và xử lý nước thải với kinh
phí đầu tư 39tỷ đồng được đưa vào hoạt động (năm 2013), lượng nước thải từ các khoa, phòng,
trung tâm đều được thu gom và đưa về khu trung tâm để xử lý nước trước khi xả ra môi trường.
Cụ thể: Nước thải từ các khoa, phòng khám, chữa bệnh được hệ thống thu gom đổ về bể tách rác,
qua màng lọc tách mỡ, sau đó bơm lên bể điều hòa xử lý bằng công nghệ sinh học. Cuối quy
trình xử lý, nước thải đáp ứng Quy chuẩn (28:2010) của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Ông
Nguyễn Công Hoàng, Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên (N.C.H) nói:
“Qua kết quả phân tích định kỳ của cơ quan chức năng cho thấy, các chỉ tiêu trong nước thải đã
qua xử lý của Bệnh viện đều nằm trong giới hạn cho phép…”
Có thể thấy, bằng việc đưa vào vận hành hệ thống xử lý chất thải mới với công nghệ xử lý
tiên tiến và công suất phù hợp, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên đã giải quyết tình
trạng quá tải của hệ thống xử lý chất thải trước đây tại Bệnh viện. Nước và chất thải rắn sau khi
xử lý đều đạt các quy chuẩn kỹ thuật về chất thải y tế hiện nay của Việt Nam. Qua đó, đã góp
phần bảo vệ môi trường xung quanh.
Tuy nhiên, đạt được kết quả này, ngoài việc lựa chọn được hệ thống xử lý chất thải, nước
thải phù hợp, còn phải kể đến ý thức chấp hành nghiêm túc của các y, bác sĩ trong Bệnh viện.
Không chỉ có phong thái làm việc chuyên nghiệp, hết lòng vì bệnh nhân, chủ động phân rác tại
nguồn theo chỉ đạo của cấp trên, đội ngũ cán bộ y, bác sĩ ở cơ sở khám bệnh này còn tích cực
tuyên truyền, vận động bệnh nhân, người nhà bệnh nhân chấp hành việc phân loại rác tại nguồn,
từ đó tạo ra nguồn chất thải (y tế độc hại, y tế thông thường, chất thải sinh hoạt) phù hợp với việc
vận hành hệ thống xử lý chất thải rắn y tế bằng công nghệ vi sóng.
- Phương pháp kế toán chi phí môi trường tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên:
Trong khi bệnh viện trường hợp phát sinh EC khác nhau, như đã đề cập ở trên, ECA tại
Bệnh viện mới bắt đầu ở giai đoạn sơ khai. Bà Nguyễn Thị Kim Phúc - trưởng phòng Kế toán
(N.T.K.P): “Bệnh viện không có một hệ thống kế toán chi tiết về chi phí môi trường và chi phí
môi trường nằm trong khoản mục chi phí chung.”
351
Khi được hỏi về việc bệnh viện có áp dụng bất kỳ phương pháp kế toán nào được sử dụng
trong kế toán EC hay không: đánh giá vòng đời, cân bằng môi trường, đánh giá toàn bộ chi phí,
đánh giá tổng chi phí và phương pháp ABC, các nhà quản lý và kế toán cho biết: “Chúng tôi
không có một hệ thống kế toán chi phí môi trường chi tiết và các phương pháp kế toán chi phí
này vẫn chưa được biết đến trong bệnh viện của chúng tôi.”
- Rào cản và động lực để sử dụng ECA:
Bệnh viện hoạt động trong một môi trường thể chế. Bộ Y tế và các bệnh viện làm việc
dưới sự giám sát của nó cam kết với một số yêu cầu pháp lý liên quan đến bảo vệ môi trường,
đặc biệt là Tiêu chuẩn chất lượng và các quy định pháp luật về môi trường khác. Việc thiếu áp
lực nghiêm trọng từ cơ quan giám sát (Bộ Y tế), rõ ràng ảnh hưởng đến việc áp dụng hệ thống
ECA. Bà (N.T.K.P) chỉ ra vấn đề này: “Thật không may, chúng tôi không có một hệ thống kế
toán chi phí môi trường trong bệnh viện của chúng tôi, tôi nghĩ vậy. Cá nhân, Bộ Y tế có trách
nhiệm không thúc đẩy các bệnh viện hướng tới việc áp dụng một hệ thống thống nhất ECA.”
Tuy nhiên, không chỉ môi trường thể chế dường như có tác động đến EC trong trường hợp
bệnh viện. Như đã nói bởi (N.C.H): “Các mối quan tâm của chúng tôi đối với các vấn đề môi
trường như xử lý chất thải và kiểm soát nhiễm trùng trong bệnh viện của chúng tôi thực sự dựa trên
mối quan tâm của chúng tôi trong việc bảo vệ nhân viên, bệnh nhân và môi trường xung quanh và
cộng đồng. Điều này sẽ cải thiện hình ảnh bệnh viện trong tâm trí khách hàng và toàn xã hội”.
Những người được phỏng vấn khác đề cập đến một số trở ngại cho việc không sử dụng
(ECA). Bà (Đ.H.N) đã đề cập đến một số rào cản của việc không áp dụng ECA: “Nói thật, nhân
viên kế toán và các nhà quản lý khác ở các cấp độ khác nhau không có gì đánh giá cao tầm quan
trọng của việc đo lường và kế toán cho EC. Điều này có thể là do thiếu kiến thức về các kỹ thuật
(ECA) và khó khăn trong việc đo lường một số EC”. Bà nói thêm: “Các cơ quan giám sát không
hỗ trợ đủ các hệ thống chi phí trong bệnh viện và thậm chí không yêu cầu Báo cáo chi phí môi
trường. Bệnh viện không tổ chức các chương trình đào tạo về ECA, tôi nghĩ rằng vấn đề này rất
quan trọng để tăng nhận thức của nhân viên kế toán về các kỹ thuật E.C.A.”
- Kết quả nghiên cứu:
Trong phần này, chúng tôi sẽ tóm tắt kết quả phân tích nội dung. Các vấn đề chính cần
quan tâm trong nghiên cứu này được chia thành các chủ đề và câu trả lời của người được phỏng
vấn cho các câu hỏi được tóm tắt để tìm ra sự tương ứng trong câu trả lời của người được phỏng
vấn. Chủ đề đầu tiên là EC phát sinh bởi Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên. Bảng 3
trình bày EC phát sinh bởi Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên:
Bảng 3. EC phát sinh bởi Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
Thể loại EC Người được phỏng vấn
N.C.H N.T.K.P H.Đ.T Đ.H.N
Chi phí hoạt động xử lý ô nhiễm
Chi phí bảo trì (chi phí phải trả để chuyển nhượng và xử
lý chất thải tại nhà máy xử lý chất thải) x x x x
352
Chi phí hoạt động phòng ngừa ô nhiễm
Chi phí cho các hoạt động phòng ngừa ô nhiễm bao
gồm chi phí cho hộp an toàn, túi đựng chất thải, chi phí
găng tay và thiết bị khử trùng)
x x x x
Chi phí chương trình đào tạo môi trường x x x x
Chi phí hoạt động của các bên liên quan o o o o
Tuân thủ pháp luật và hoạt động khắc phục chi phí o o o o
Ghi chú: x: Đồng ý; o: Không đồng ý
(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra sơ cấp của tác giả)
Qua bảng 3 có thể thấy Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên phát sinh một số EC,
các chi phí này có thể được phân loại thành hai trong số các nhóm chính được đề xuất bởi Lee
(2011), đó là chi phí xử lý ô nhiễm và chi phí hoạt động phòng ngừa ô nhiễm. Tuy nhiên, Bệnh
viện không có bất kỳ EC nào khác (chi phí hoạt động của các bên liên quan và chi phí hoạt động
tuân thủ pháp luật và khắc phục).
Các chủ đề quan tâm khác trong nghiên cứu này là các phương pháp được sử dụng trong kế
toán cho EC và các rào cản, động lực trong việc sử dụng ECA. Liên quan đến các phương pháp
kế toán được sử dụng trong kế toán cho EC, tất cả những người được phỏng vấn đều nói rằng
bệnh viện không sử dụng bất kỳ phương pháp nào trong số này. Rào cản và động lực có thể có
đối với áp dụng ECA trong bệnh viện này được thể hiện trong bảng 4.
Bảng 4. Rào cản, động lực áp dụng ECA tại Bệnh viện Đa Khoa Trung ương Thái Nguyên
Rào cản và động lực sử dụng ECA tại Bệnh viện Đa
khoa Trung ương Thái Nguyên
Người được phỏng vấn
N.C.H N.T.K.P H.Đ.T Đ.H.N
Rào Cản
Thiếu các cơ quan giám sát hỗ trợ o o x x
Thiếu đào tạo về ECA x x x x
Thiếu khả năng kỹ thuật o x o o
Thiếu nhận thức của nhân viên và người quản lý cho EC o x o o
Thiếu sự quan tâm từ ban quản lý và cơ quan quản lý
nhà nước trong các báo cáo của EC o x x x
Thiếu một hệ thống kế toán chi phí môi trường x x x x
Động lực thúc đẩy EC
Để bảo vệ bệnh nhân, nhân viên và cộng đồng xung quanh x x x x
Để đối phó với các yêu cầu môi trường được ban hành
bởi các cơ quan giám sát (Bộ Y tế) x x x x
Ghi chú: x: Đồng ý; o: Không đồng ý
(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra sơ cấp của tác giả)
353
Bảng 4 cho thấy, người được phỏng vấn trong trường hợp bệnh viện chỉ ra một số rào cản
cho việc không hạch toán chi phí môi trường. Chúng bao gồm sự thiếu quan tâm đến các báo cáo
EC của các cơ quan quản lý nhà nước và ban quản lý bệnh viện và thiếu hệ thống chi phí, đào tạo
và nhận thức của nhân viên cho ECA. Bảng 4 cũng cho thấy có những động lực chính cho sự
phát sinh của EC tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, đầu tiên là bảo vệ bệnh nhân,
nhân viên và môi trường xung quanh; thứ hai là để đối phó với các yêu cầu môi trường được ban
hành bởi các cơ quan giám sát (Bộ Y tế).
- Thảo luận:
Chúng tôi đã khám phá trong nghiên cứu này về việc áp dụng ECA tại Bệnh viện Đa khoa
Trung ương Thái Nguyên. Các cuộc phỏng vấn với các nhà quản lý khác nhau trong bệnh viện
cho thấy bệnh viện phải chịu hai loại EC theo đề xuất phân loại của Lee (2011), đó là chi phí
phòng ngừa và chi phí điều trị. Tuy nhiên, bệnh viện đã không tính riêng chi phí này và chúng
thực sự bị che khuất trong ngân sách và các tài khoản khác của bệnh viện theo danh mục chi phí
chung. Hơn nữa, Bệnh viện không chuẩn bị bất kỳ báo cáo EC nào và dường như cơ quan giám
sát cũng không yêu cầu hoặc không quan tâm đến các báo cáo đó.
Rào cản cho việc không đo EC và sử dụng ECA bao gồm một số yếu tố thể chế được thông
báo bởi xã hội học thể chế mới (DiMaggio và Powell, 1983), chẳng hạn như thiếu áp lực từ các cơ
quan chính phủ. Các rào cản khác bao gồm thiếu hỗ trợ quản lý và thiếu nhận thức từ các nhà quản
lý cấp khác nhau cho ECA. Những yếu tố này được đề xuất bởi nghiên cứu trước đây là rào cản cho
áp dụng ECA (Massoud và cộng sự, 2010). Tương tự như nghiên cứu trước đây ở các nước đang
phát triển khác phát hiện ra rằng ECA đang ở giai đoạn phôi thai (Okafor, Okaro, & Egbunike,
2013) có vẻ như ECA vẫn đang ở giai đoạn đầu tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên.
5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Qua kết quả nghiên cứu có được đã cho thấy ECA đang ở giai đoạn sơ khai tại Bệnh viện
Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, đây cũng là thách thức lớn cho bệnh viên khi ứng dụng ECA
vào trong hệ thống kế toán. Kết quả nghiên cứu đã đạt được mục tiêu nghiên cứu chung của đề
tài là:
- Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên không sử dụng bất kỳ phương pháp nào
trong số phương pháp được đề cập để đo EC. Chi phí môi trường được tập hợp vào chi phí chung
của Bệnh viện.
- Các rào cản chủ yếu trong việc áp dụng ECA tại Bệnh viện là: thiếu quan tâm đến các
báo cáo EC của các cơ quan quản lý nhà nước và ban quản lý bệnh viện và thiếu hệ thống chi
phí, đào tạo và nhận thức của nhân viên cho ECA.
- Động lực thúc đẩy việc áp dụng ECA tại Bệnh viện là: Để bảo vệ bệnh nhân, nhân viên
và cộng đồng xung quanh; Để đối phó với các yêu cầu môi trường được ban hành bởi các cơ
quan giám sát (Bộ Y tế).
Từ kết quả nghiên cứu trên, cho thấy trong thời gian tới để triển khai ECA hiệu quả vào hệ
thống kế toán thì Ban Giám đốc Bệnh viện cần thực hiện những giải pháp sau:
354
- Nâng cao nhận thức và trình độ về ECA cho đội ngũ quản lý và nhân viên kế toán trong
Bệnh viện. Để làm được điều này Giám đốc Bệnh viện cần tổ chức hoặc cử nhân viên tham gia
các lớp bồi dưỡng về ECA.
- Tăng cường các Báo cáo; thảo luận; nghiên cứu chuyên sâu về môi trường; EC; ECA
trong bệnh viện và mở rộng khuyến khích các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề
này. Đây là cơ sở và căn cứ cho Bệnh viện đánh giá được thực trạng của mình và có định hướng
phát triển mới trong tương lai nhằm hoàn thiện ECA trong đơn vị cũng như xây dựng môi trường
xanh nhằm nâng cao chất lượng phục vụ người bệnh.
- Gắn mục tiêu phát triển của Bệnh viện với mục tiêu phát triển một môi trường Bệnh viện
Xanh đây chính là động lực cho việc xây dựng ECA tại Bệnh viện.
Ngoài ra, kiến nghị đối với Bộ Tài chính cần kết hợp với Bộ Y tế nhằm đưa ra hệ thống
văn bản quy định và hướng dẫn về ECA vào các đơn vị, tổ chức hoạt động y tế nói chung và vào
khối bệnh viện nói riêng, nhằm tăng cường động lực thúc đẩy hoàn thiện ECA trong ngành y tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, kết quả nghiên cứu mới đánh giá ở khía cạnh định tính
là chủ yếu, cần có sự nghiên cứu sâu hơn nhằm đánh giá định lượng nhằm đo lường mực độ ảnh
hưởng của các rào cản và động lực thúc đẩy việc áp dụng ECA trong bệnh viện Đa khoa Trung
ương Thái Nguyên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên (2009), Dự án đầu tư xây dựng hệ thống xử lý chất
thải bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, Thái Nguyên.
Bộ Y tế (2009), Thông tư số 18/2009/TT-BYT ngày14/10/2009 hướng dẫn tổ chức thực hiện
công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, Hà Nội.
Bộ Y tế (2007), Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 về quản lý chất thải y tế,
Hà Nội.
Burritt, R (2004), Environmental management accounting: Roadblocks on the way to the green
and pleasant land, Business Strategy and the Environment Bus. Strat. Env. 13, 13–32,
Published online in WILEY ITERSCIENCE (www.interscience.wiley.com). DOI:
10.1002/bse.379
Chang, H.C. (2013), Environmental management accounting in the Taiwanese higher education
sector. Issues and opportunities, International journal of sustainability in higher education,
14 (2), 133-145
Cục Quản lý môi trường y tế (2015), Quản lý chất thải y tế cho cán bộ quản lý, NXB Y học,
Hà Nội.
Dawson, C. (2002), Practical Research Methods -A user-friendly guide to mastering research
techniques and projects, how to books, Oxford, UK.
355
Deegan, (2002), Introduction: The legitimising effect of social and environmental disclosures – a
theoretical foundation, Accounting, Auditing & Accountability Journal, 15(3), 282-311.
DiMaggio, P., and Powell, W. W. (1983). The iron cage revisited: institutional isomorphism
and collective rationality in organizational fields. American Sociological Review, 48(2).
147 - 160.
Ismail M. S, Ramli A, and Darus F. (2014). Environmental management accounting practices
and Islamiccorporate social responsibility compliance: evidence from ISO14001
companies. Procedia social and behaviour sciences, 145, 343 – 351.
Lee, K. H. (2011), Motivations, Barriers, and Incentives for Adopting Environmental
Management (Cost) Accounting and Related Guidelines: a Study of the Republic of Korea,
Corporate Social Responsibility and Environmental Management CORP. SOC.
RESPONSOBLE ENVIRON. MGMT. No 18, pp. 39 – 49.
Jing H, Songqing L (2011), The Research of Environmental Costs Based On Activity Based
Cost, Procedia environmental sciences, No 10, pp. 147 – 151.
Mokhtar N, Jusoh R, Zulkifli N (2016), Corporate Characteristics and Environmental
Management Accounting (EMA) Implementation: Evidence from Malaysian Public Listed
Companies, (PLCs), Journal of cleaner production.
Nguyễn Thị Kim Tiến (2019), Báo cáo hội nghị trực tuyến triển khai giảm thiểu chất thải nhựa
trong ngành y tế, Hà Nội.
Okafor, Gloria O., Okaro, Sunday C. & Egbunike, Chinedu F. (2013), (ECA) and Cost
Allocation (a Study of Selected Manufacturing Companies in Nigeria), European journal
of business and management, 5(18).
Sở Y tế (2018), Báo cáo kết quả kiểm tra chất thải y tế tại các cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên, Thái Nguyên.
Tsui, C.S.K (2014), A Literature Review of Environmental Management Accounting (EMA)
Adoption, Web Journal of Chinees managenenr review, 17(3).
Todea N, Stanciu I.C, Uderea A.M (2011), Accounting policies on EC and their calculation
method in the entity, Annals & Proceedings of DAAAM International, 22(1).
United Nations Division for Sustainable Development (2011), Environmental Management
Accounting Procedures and Principles.
Wang J, Wang R, Zhu Y, Li J, (2018), Life cycle assessment and environmental cost accounting
of coal-fired power generation in China, Energy Policy, 115, 374 – 384.
Zuriana C, JamilM, Mohamed R, Muhammad F, Ali A, (2015), Environmental management
accounting practices in small medium manufacturing firms, Procedia - Social and
behaviour sciences, 172, 619 – 626.
356
Tác động của các khu công nghiệp đến phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Thái Bình
Hoàng Thị Việt Hà, Đào Thu Hà
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: hoangthivietha@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.12 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 12/11/2019
Ngày nhận bài: 23/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2019
Tóm tắt
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) giai đoạn 2020 - 2030 tầm nhìn đến
2050 Đảng ta nhấn mạnh: “Phát huy hiệu quả của các khu, cụm công nghiệp và đẩy mạnh phát
triển công nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô
lớn và hiệu quả cao”. Chủ trương này đã, đang và sẽ chi phối, tác động đến quá trình phát triển
các khu công nghiệp (KCN) theo từng vùng, từng từng địa phương trong cả nước. trong đó Thái
Bình là một trong những tỉnh nằm trong chủ trương đó của Đảng và Nhà nước ta. Với nghiên
cứu này nhóm tác giả mong muốn Thái Bình có sự phát triển và thu hút mạnh mẽ hơn lấp đầy
khoảng trống trong các khu công nghiệp, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Bình.
Từ đó nhóm tác giả đưa ra một số giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm phát triển bền vững các khu
công nghiệp (KCN) tỉnh Thái Bình.
Từ khóa: Khu công nghiệp, kinh tế - xã hội, Thái Bình.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự phát triển các Khu công nghiệp (KCN) ở các địa phương trong cả nước hơn 20 năm qua
đã và đang có những tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội như: góp phần tăng trưởng
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ
trọng ngành nông nghiệp; đóng góp tích cực vào ngân sách nhà nước; phát triển cơ sở hạ tầng tạo
lên diện mạo nông thôn mới, mang lại văn minh đô thị. Ngoài ra, còn tạo thêm việc làm cho
hàng triệu lao động trực tiếp trong các KCN và gián tiếp ở vùng ven các KCN; giúp cho một bộ
phận nông dân chuyển đổi nghề nghiệp từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp hoặc
dịch vụ; làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống của nông dân. Việc phân công trách nhiệm phối
hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước chưa rõ ràng quyền lợi, trách nhiệm chưa gắn với cơ chế
kiểm tra, giám sát, chế tài khuyến khích và xử phạt thực sự chặt chẽ. Thực trạng phát triển các
KCN, những hạn chế trong quy hoạch phát triển KCN cũng như những định hướng cơ bản nhằm
nâng cao chất lượng quy hoạch KCN đã được đề cập trong các nghiên cứu của Đặng Văn Thắng
(2006), Nguyễn Cao Luận (2016).
357
Trong những năm qua, mặc dù đã có những bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội,
xong nhìn chung Thái Bình vẫn là một tỉnh nghèo, nông nghiệp là chủ yếu, công nghiệp và dịch
vụ chưa thực sự phát triển. Chính vì vậy, ngày 28/12/2017 UBND tỉnh Thái Bình đã quyết định
phê duyệt đề án điều chỉnh bổ sung quy hoạch phá triển các KCN tỉnh Thái Bình đến năm 2020
và giai đoạn 2020-2030 với mục tiêu phát triển: “Hình thành hệ thống các KCN trên địa bàn đảm
bảo sự phát triển bền vững và thật sự trở thành động lực cho sự phát triển chung của toàn tỉnh,
tạo hạt nhân để phát triển đồng đều các tiểu vùng và các địa phương trong tỉnh, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, dân số và lao động, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Tạo môi trường
thuận lợi để thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, tăng tỷ lệ đóng góp của công nghiệp trong
phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh”13.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý thuyết
KCN được hình thành đầu tiên ở các nước công nghiệp phát triển như Anh, Mỹ... hàng
trăm năm trước. Sau đó, được áp dụng ở nhiều quốc gia khác và đem lại những thành tựu to lớn,
góp phần thúc đẩy nền kinh tế của nhiều quốc gia phát triển như Hàn Quốc, Đài Loan,
Singapore. Ngày nay, phát triển KCN vẫn đang được nhiều quốc gia áp dụng nhằm đẩy nhanh
CNH đất nước. Mặc dù, KCN được xây dựng với những hình thức, định hướng khác nhau, có tên
gọi khác nhau song đều mang những đặc trưng chung
Theo Hiệp hội KCX Thế giới (WEPZA) thì: “KCN là tất cả các khu vực được chính phủ
cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, khu phi thuế quan, khu công nghiệp tự do, khu
ngoại thương tự do hoặc các loại khu xuất khẩu tự do” (UNIDO, 1990).
Ở Việt Nam, khái niệm KCN được quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 29/2008/NĐ-
CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định về KCN, khu chế xuất và khu kinh tế thì "Khu công
nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công
nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự, thủ tục quy định tại
Nghị định này"
Các khái niệm về KCN của thế giới và Việt Nam được dẫn ra ở trên đã phản ánh đầy đủ
nội hàm kinh tế, kỹ thuật của KCN. Dựa vào các khái niệm trước đó, để phù hợp với định hướng
phát triển KCN trong bối cảnh mới đó là: phải đảm bảo tính liên kết bên trong và bên ngoài, thể
hiện ở sự phân chia các khu chức năng trong KCN; phải đảm bảo trên nguyên tắc phát triển bền
vững dựa trên nền tảng của sự phát triển công nghệ, khoa học hướng đến kinh tế tri thức phù hợp
với xu hướng phát triển trong bối cảnh hiện nay.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu định lượng phát phiếu điều tra gửi đến các doanh nghiệp trong
và ngoài khu công nghiệp. Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát số liệu phục vụ cho việc phân
1Quyết định 3494/QĐ-UBND của UBND tỉnh Thái Bình ban hành ngày 28/04/2017 về việc phê duyệt đề án điều chỉnh bổ sung quy
hoạch phát triển các KCN tỉnh Thái Bình đến năm 2020 và giai đoạn 2020-2030
358
tích, đánh giá các tác động cảu KCN đến phát triển KT-XH tỉnh Thái Bình trong giai đoạn từ
tháng 9 đến tháng 11 năm 2018.
Phương pháp nghiên cứu định tính đề tài đã tiến hành phỏng vấn sâu; các cán bộ quản lý
KCN, cán bộ quản lý doanh nghiệp, cán bộ tỉnh, huyện, xã.
2.3. Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu
Phương pháp xử lý dữ liệu: Các số liệu sau khi được thu thập sẽ được tác giả xử lý, làm
sạch, nhập dữ liệu và mã hóa dữ liệu vào file Excel, sau đó tác giả sử dụng các mô hình và phép
tính toán định lượng để xử lý số liệu. Nghiên cứu được thực hiện dưới sự trợ giúp của phần mềm
SPSS 20.0.
Phương pháp phân tích dữ liệu: Trên cơ sở những tài liệu, thông tin đã thu thập và tổng
hợp được, đề tài sử dụng sử dụng phương pháp thống kê mô tả (Descriptive statistics) của phần
mềm SPSS 20 để xác định mức bình quân cũng như mức độ lệch chuẩn các các đối tượng khảo
sát. Việc so sánh giữa nhóm các DN trong và ngoài KCN sẽ làm rõ thêm mức độ đánh giá, qua
đó xem xét trọng tâm đang nằm trong nhóm nào nhằm tìm giải pháp thích hợp. Sau đó, đề tài sử
dụng phương pháp Independent Sample T-Test để kiểm định sự khác biệt trung bình giữa nhóm
các DN trong và ngoài KCN.
3. THỰC TRẠNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở THÁI BÌNH
3.1. Vị trí địa lý xây dựng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Bình
Vị trí của KCN có ảnh hưởng mang tính quyết định đến hiệu quả hoạt động chung. Vị trí
của KCN thể hiện sự thuận tiện hay không thuận tiện trong xây dựng cơ sở hạ tầng, mức độ chi
phí giải phóng mặt bằng và đặc biệt là mức tối ưu đối với hệ thống giao thông: đường bộ, đường
sắt, đường hàng không. Nếu KCN có vị trí thuận lợi đối với việc đi lại và chuyên chở hàng hóa
đầu vào và đầu ra, cũng như tiện lợi cho việc cung cấp dịch vụ hỗ trợ từ bên ngoài vào KCN thì
năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt động sẽ cao và ngược lại, nếu vị trí không thuận lợi sẽ
khó khăn trong cung cấp đầu vào, hạn chế tiếp cận thị trường đầu ra, chi phí đầu tư, kinh doanh
sẽ bị đẩy lên cao. Vị trí được chọn rất thuận tiện để các KCN tiếp cận với thị trường đầu vào,
chuyên chở đầu ra cho các doanh nghiệp công nghiệp và tạo điều kiện để cung cấp dịch vụ từ
bên ngoài vào các KCN. Với vị trí tốt, do đó, các DN có thể tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất
lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh.
Ngày 12/12/2016 UBND tỉnh Thái Bình đã ra Quyết định số 58/2016/QĐ-UBND để điều
chỉnh diện tích quy hoạch theo Quyết định số 1291/QĐ-UBND ngày 18 tháng 6 năm 2015
của UBND tỉnh từ 3.583,4 ha (9 KCN diện tích 1.983,1 ha và 51 cụm công nghiệp diện tích
1.600,3 ha) sang quy hoạch mới là 5.082 ha; gồm: 11 KCN diện tích 2.503,4 ha và 50 cụm
công nghiệp diện tích 2.578,6 ha. Tổng diện tích điều chỉnh tăng so với Quyết định số
1291/QĐ-UBND là 1.498,6 ha (KCN tăng 520,3 ha, cụm công nghiệp tăng 97 8,3 ha). Cụ thể
theo Bảng 1.
359
Bảng 1. Danh mục điều chỉnh quy hoạch các KCN tỉnh Thái Bình đến năm 2020
Đơn vị tính: ha
TT Tên KCN Địa điểm Diện
tích quy
hoạch
Tình hình thực hiện Diện
tích dự
kiến đến
năm
2020
Diện
tích đã
thành
lập
Diện tích
chưa
thành lập
I KCN ĐÃ ĐƯỢC CHÍNH PHỦ CHẤP THUẬN 813,4 635,6 177,84 1.211,1
1 Phúc Khánh Thành phố Thái Bình 200.0 120.0 80.0 200.0
2 Nguyên Đức
Cảnh
Thành phố Thái Bình 68.41 68.41 68.41 68.41
3 Tiền Hải Huyện Tiền Hải 60.0 60.0 446.0
4 Sông Trà Huyện Vũ Thư, Tp Thái Bình 200.0 150.48 49.52 200
5 Cầu Nghìn Huyện Quỳnh Phụ 200.0 211.72 0.0 211.72
6 Gia Lễ Huyện Đông Hưng 85.0 85.0 0.0 85.0
II KCN CHỜ CHÍNH PHỦ CHẤP THUẬN 1,350.0 - 1,350.0 1,350.0
1 Thụy Trường Xã Thụy Trường - Thái Thụy 300.0 - 300.0 250.0
2 Thái Thượng Xã Thái Thượng - Thái Thụy 250.0 - 250.0 200.0
3 Hoàng Long Xã Đông Hoàng,
Đông Long-Tiền
300.0 - 300.0 250.0
4 Xuân Hải Xã Thụy Xuân,
Thụy Hải - Thái Thụy
200.0 - 200.0 200.0
5 Sông Trà II Huyện Vũ Thư, Tp Thái Bình 300.0 - 300.0 300.0
Tổng 2,163,4 635.6 1.527,8 2.561,1
Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình24
Nhìn chung các KCN đã được phân bố ở các địa điểm có nhiều tiềm năng và lợi thế phát
triển (gần các trục đường giao thông chính), quy mô các KCN phù hợp với mục tiêu phát triển kinh
tế-xã hội của tỉnh theo từng thời kỳ để không làm tăng đột biến về kế hoạch sử dụng. Đến nay tỉnh
đã có 174 dự án đầu tư vào các KCN với số vốn đầu tư trên 27.539,49 tỷ đồng, trong đó có 142 dự
án đã đi vào hoạt động, 12 dự án đang triển khai xây dựng, 04 dự án chưa xây dựng, 16 dự án tạm
ngừng hoạt động. Giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp tăng bình quân hàng năm từ
15-19%/năm, chiếm trên 40% giá trị sản xuất ngành Công nghiệp của tỉnh. Giá trị xuất nhập khẩu
cũng tăng bình quân từ 16 - 17%/năm, đóng góp gần 1.700 tỷ đồng vào ngân sách nhà nước, tạo
việc làm cho gần 60.000 lao động.
2Công văn 1816/TTg-KTN của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh quy hoạch phát triển các KCN tỉnh Thái Bình đến năm 2020 ngày
13/10/2015
360
3.2. Tác động của các KCN đến các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Bình
3.2.1. Tác động về kinh tế
Thứ nhất, KCN tạo ra không gian kinh tế góp phần thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào
địa phương
Với 6 KCN hiện có, các KCN của tỉnh Thái Bình trở thành không gian kinh tế góp phần
thu hút đầu tư trong, ngoài nước. Theo thống kê, lũy kế đến tháng 12/2017, có 171 dự án đầu tư
với tổng vốn đầu tư đăng ký 27.811,017 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện 17.818,499 tỷ đồng,
đạt 65% so với vốn đăng ký. Trong đó: có 43 dự án FDI (chiếm 25% tổng số dự án), vốn đầu tư
đăng ký 9.683,014 tỷ đồng (chiếm 36% tổng vốn đăng ký), vốn đầu tư thực hiện 6.728 tỷ đồng,
đạt 70,4% so với vốn đăng ký; 128 dự án đầu tư trong nước (chiếm 75% tổng số dự án), vốn đầu
tư đăng ký 18.128,003 tỷ đồng (chiếm 65,2% tổng vốn đăng ký), vốn thực hiện 11.090,500 tỷ
đồng, đạt 62,1% so với vốn đăng ký.
Theo kết quả khảo sát của các DN trong và ngoài KCN (Bảng 2) đều đánh giá các KCN
tạo ra không gian kinh tế góp phần thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài vào địa phương
(Mean = 4.28). Tiếp tục sử dụng dữ liệu từ khảo sát 165 DN, trong đó có 130 DN trong KCN và
35 DN ngoài KCN, đề tài sử dụng kiểm định T Test (Bảng 2, bảng 3) để kiểm định sự khác biệt
về mức độ đánh giá giữa hai nhóm này, kết quả cụ thể như sau:
Bảng 2. Thống kê mô tả tác động tích cực về mặt kinh tế của các KCN
Tiêu chí đánh giá Số
lượng
Điểm trung
bình
Độ lệch
chuẩn
1. KCN tạo ra không gian kinh tế góp phần thu hút đầu tư trong
nước và nước ngoài vào địa phương (TKT1) 165 4.28 .463
2. KCN góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, xã hội của
địa phương (TKT2) 165 4.73 .498
KCN tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của nền
kinh tế (TKT3) 165 3.78 .519
KCN nâng cao năng lực hoạt động (thúc đẩy tốt hơn việc tiếp
nhận, chuyển giao công nghệ hiện đại và phương pháp quản lý
tiên tiến của các nước phát triển) - TKT5
165 3.67 .608
Nguồn: Kết quả xử lý từ số liệu điều tra với sự trợ giúp của phần mềm SPSS20.0
Bảng 3. So sánh giá trị trung bình giữa DN trong và ngoài KCN
Tiêu chí đánh giá KCN Số
lượng
Điểm
TB
Độ lệch
chuẩn
Sai số
chuẩn
KCN tạo ra không gian kinh tế góp phần thu hút đầu
tư trong nước và nước ngoài vào địa phương (TKT1)
Trong 130 4.32 .469 .041
Ngoài 35 4.11 .404 .068
KCN góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế,
xã hội của địa phương (TKT2)
Trong 130 4.73 .510 .045
Ngoài 35 4.71 .458 .077
361
KCN tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền
vững của nền kinh tế (TKT3)
Trong 130 3.85 .468 .041
Ngoài 35 3.51 .612 .103
KCN nâng cao năng lực hoạt động (thúc đẩy tốt hơn
việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ hiện đại và
phương pháp quản lý tiên tiến của các nước phát
triển) - TKT5
Trong 130 3.89 .595 .052
Ngoài 35 3.27 .655 .111
Nguồn: Kết quả xử lý từ số liệu điều tra với sự trợ giúp của phần mềm SPSS20.0
Mức độ đánh giá của nhóm DN trong KCN (130 quan sát) dường như cao hơn nhóm ngoài
KCN (35 quan sát), mức độ đánh giá của nhóm trong KCN với điểm trung bình 4.32/5 thì nhóm
ngoài KCN là 4.11/5 (Bảng 4)
Bảng 4. Kiểm định giá trị trung bình giữa nhóm DN trong và ngoài KCN
Levene's Test for
Equality of
Variances
T-test for Equality of Means
F Sig. t df Sig. (2-
tailed)
Mean
Difference
Std. Error
Difference
95% Confidence
Interval of the
Difference
Lower Upper
TKT1
Equal variances
assumed 22.260 .000 2.402 163 .017 .209 .087 .037 .380
Equal variances
not assumed
2.619 61.120 .011 .209 .080 .049 .368
TKT2
Equal variances
assumed .001 .972 .173 163 .863 .016 .095 -.171 .204
Equal variances
not assumed
.184 58.743 .854 .016 .089 -.163 .196
TKT3
Equal variances
assumed 14.294 .076 3.557 163 .265 .340 .095 .151 .528
Equal variances
not assumed
3.050 45.232 .004 .340 .111 .115 .564
TKT5
Equal variances
assumed 1.609 .004 1.044 163 .098 .121 .116 -.108 .350
Equal variances
not assumed
.988 50.160 .328 .121 .122 -.125 .367
Kiểm định Levene's Test có Sig.=0,000 <0,05 điều này có nghĩa là phương sai giữa hai
nhóm DN trong KCN và DN ngoài KCN có sự khác biệt. Ta sẽ sử dụng kết quả kiểm định T ở
phần Equal variances not assumed. Ta thấy Sig.=0,000 <0,05 chứng tỏ rằng có sự khác biệt về
mức độ đánh giá giữa hai nhóm. Giá trị Mean Difference cho thấy mức điểm trung bình của
nhóm DN trong KCN cao hơn nhóm kia là 0.11/5.
Thứ hai, KCN góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương và tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. KCN đã góp phần không nhỏ
362
trong việc nâng cao GDP bình quân đầu người của địa phương trong giai đoạn này. GRDP bình
quân đầu người của tỉnh tăng lên đều đặn trong các năm, đến năm 2017 con số này là 36,85 triệu
đồng. Với số lượng lao động tại các KCN ngày một gia tăng, quy mô sản xuất ngày càng được
mở rộng, công nghệ kỹ thuật sản xuất ngày càng được ứng dụng và nâng cao, không khó để nhận
thấy sự tăng trưởng đều của GDP bình quân đầu người của tỉnh Thái Bình trong giai đoạn này là
điều có thể dự báo được trước, cũng như vai trò to lớn của các KCN đối với sự tăng trưởng này
(Hình 1).
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kinh tế xã hội thường niên tỉnh Thái Bình
Hình 1. Tăng trưởng GRDP đầu người
Có thể thấy bên cạnh những sự tăng trưởng tốt thì giá trị sản xuất công nghiệp đóng góp từ
các KCN đang ngày càng lớn và ổn định, dao động khoảng từ 36 đến 40% trong tổng giá trị sản
xuất công nghiệp toàn tỉnh. Điều này cho thấy sự phát triển của công nghiệp nói chung cũng như
tác động của các KCN nói riêng đối với kinh tế của tỉnh Thái Bình trong 5 năm gần đây đáp ứng
được phần lớn những yêu cầu đặt ra (Hình 2).
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kinh tế xã hội thường niên tỉnh Thái Bình
Hình 2. Giá trị công nghiệp giai đoạn 2013-2017
Hầu hết các DN được khảo sát đều đánh giá cao về tiêu chí “KCN góp phần thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương” và “KCN tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
bền vững của nền kinh tế” vơi điểm bình quan lần lượt là 4.73/5 và 3.78/5. Kết quả phân tích
phương sai (Bảng 4) cho thấy không sự khác biệt giữa các DN trong KCN và ngoài KCN về vấn
đề này.
363
Thứ ba, KCN góp phần nâng cao năng lực hoạt động
Kết quả khảo sát cho thấy với môi trường chất lượng cao với cơ sở hạ tầng tốt, nhiều doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với vốn lớn, công nghệ quản lý cao, nhiều doanh nghiệp đã được
học tập các phương pháp quản lý tiên tiến (Mean = 3.67). Điều này đặc biệt có ý nghĩa với các
doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào các KCN. Có thể kể đến các chính sách với người lao
động, tinh thần làm việc, văn hoá doanh nghiệp là những công cụ quản lý dù mang tính xã hội cao
nhưng lại có hiệu quả lớn trong gắn kết và thúc đẩy người lao động tích cực hoạt động.
Kiểm định Levene's Test có Sig.=0,004 <0,05 (Bảng 4). Điều này có nghĩa là phương sai
giữa hai nhóm DN trong KCN và nhóm DN ngoài KCN có sự khác biệt. Ta sẽ sử dụng kết quả
kiểm định T ở phần Equal variances not assumed. Giá trị Mean Difference cho thấy giá mức
điểm đánh giá trung bình của nhóm DN trong KCN cao nhóm DN ngoài KCN là 0.328/5. Thực
tế, cùng nằm trong xu thế mở rộng về quy mô, trong tiến trình hoạt động và sản xuất của mình,
các doanh nghiệp luôn phải tích cực đầu tư đổi mới về công nghệ nhằm nâng cao hiệu suất sản
xuất, tăng chất lượng sản phẩm, giảm chi phí nguyên vật liệu đầu vào cũng như giảm thời gian
sản xuất sản phẩm. Nhất là trong nền kinh tế thị trường, nếu không muốn tụt hậu, mất thị phần,
thì việc đầu tư, đổi mới công nghệ sản xuất được xem như chìa khóa then chốt để giải quyết.
3.2.2. Tác động tích cực về xã hội
Thứ nhất, KCN góp phần giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình
CNH, HĐH tỉnh Thái Bình
Không thể phủ nhận sự ảnh hưởng to lớn và rõ ràng này đến cuộc sống của NLĐ, đặc
biệt là với những lao động xuất thân từ việc làm nông nghiệp nay chuyển sang lao động sản
xuất trong môi trường công nghiệp. Theo như phỏng vấn những người dân bản địa sinh sống
quanh các KCN Nguyễn Đức Cảnh, Phúc Khánh, Tiền Hải từ khi có các KCN này đi vào hoạt
động trên địa bàn, hầu như gia đình nào cũng có người tham gia lao động tại các DN trong các
KCN này. Đặc biệt có nhiều hộ gia đình 100% các thành viên trong độ tuổi lao động đều đang
làm việc trong các KCN. Đây là một tín hiệu rất đáng mừng trong việc chuyển dịch cơ cấu lao
động tại địa phương, phù hợp với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của toàn tỉnh.
Với kết quả khảo sát và đánh giá đối với NLĐ đang làm việc tại các KCN trên địa bàn tỉnh
Thái Bình ở trên thì thấy số giờ làm việc trong 1 ngày của người lao động chủ yếu dao động từ
8-10 giờ/ngày chiếm 86,3%. Mức độ lao động này là cao và ổn định hơn hẳn so với việc làm
nông nghiệp - vốn không có mức thời gian lao động hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng cụ thể và
khoa học, khi mà những tháng mùa vụ, những thời điểm cần canh tác có thể phải làm liên tục từ
sáng sớm đến tối muộn, qua những thời điểm đó thì gần như lại không phải làm việc nếu như
không làm thêm việc chăn nuôi, trồng xen canh. Nhìn từ phía các doanh nghiệp trong việc đánh
giá tác động tích cực đến xã hội, mục “Tạo công ăn việc làm cho NLĐ và chuyển dịch cơ cấu lao
động” là mục được các doanh nghiệp đánh giá cao nhất trong những tác động của KCN đối với
doanh nghiệp, với Mean ở mức 4.11/5 điểm. Điều đó càng khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng
của các KCN trong việc tạo việc làm cho NLĐ (Bảng 5).
364
Tiếp tục sử dụng dữ liệu từ khảo sát 165 DN, trong đó có 130 DN trong KCN và 35 DN
ngoài KCN, đề tài sử dụng kiểm định T Test (Bảng 6 và 7) để kiểm định sự khác biệt về mức độ
đánh giá giữa hai nhóm này, kết quả cho thấy không có sự khác biệt về các vấn đề này.
Bảng 5. Thống kê mô tả mức độ đánh giá tác động tích cực về mặt xã hội
Tiêu chí đánh giá Số
lượng
Điểm trung
bình
Độ lệch
chuẩn
KCN có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm cho người
lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động (TXH9) 165 4.11 .482
KCN giúp đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động và
tăng tính kỷ luật (TXH10) 165 3.22 .645
KCN có vai trò quan trọng trong việc tăng thu nhập và cải thiện
mức sống cho người lao động (TXH11) 165 3.27 .609
Nguồn: Kết quả xử lý từ số liệu điều tra với sự trợ giúp của phần mềm SPSS20.0
Bảng 6. So sánh giá trị trung bình giữa nhóm DN trong và ngoài KCN
Tiêu chí đánh giá KCN Số lượng Điểm trung bình Độ lệch chuẩn Sai số chuẩn
TXH9 Trong 130 4.08 .499 .044
Ngoài 35 4.20 .406 .069
TXH10 Trong 130 3.20 .628 .055
Ngoài 35 3.29 .710 .120
TXH11 Trong 130 3.16 .463 .041
Ngoài 35 3.69 .867 .147
Nguồn: Kết quả xử lý từ số liệu điều tra với sự trợ giúp của phần mềm SPSS20.0
Bảng 7. Kiểm định sự khác biệt giá trị trung bình giữa nhóm DN trong và ngoài KCN
Levene's Test
for Equality
of Variances
t-test for Equality of Means
F Sig. t df Sig. (2-
tailed)
Mean
Difference
Std. Error
Difference
95%
Confidence
Interval of the
Difference
Lower Upper
TXH9
Equal variances
assumed .022 .883 -1.260 163 .209 -.115 .092 -.296 .065
Equal variances
not assumed
-1.418 64.442 .161 -.115 .081 -.278 .047
365
TXH10
Equal variances
assumed .774 .380 -.697 163 .487 -.086 .123 -.328 .157
Equal variances
not assumed
-.649 49.229 .519 -.086 .132 -.351 .180
TXH11
Equal variances
assumed 45.218 .000 -4.820 163 .000 -.524 .109 -.739 -.309
Equal variances
not assumed
-3.448 39.354 .001 -.524 .152 -.832 -.217
Nguồn: Kết quả xử lý từ số liệu điều tra với sự trợ giúp của phần mềm SPSS20.0
Mục tiêu của tỉnh về cơ cấu lao động đến năm 2020 có khoảng 62% lao động trong khu
vực phi nông nghiệp và 38% lao động trong khu vực nông nghiệp. Để đạt được mục tiêu này,
trong những năm qua việc phát triển các KCN đã góp phần đáng kể trong việc chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, tất yếu sẽ kéo theo sự phát triển, đào tạo nhân lực cho phù hợp với mục tiêu phát triển
kinh tế. Kết quả cụ thể tại Hình 3.
Qua biểu đồ trên cho thấy tỷ lệ lao động trong khu vực Nông lâm thuỷ sản giảm dần từ
51,5% tổng lực lượng lao động của Tỉnh năm 2013 xuống còn 44,12% vào năm 2017. Đối với khu
vực công nghiệp và xây dựng, tỷ lệ cầu lao động tăng nhanh tương ứng (2013: 30,6% đến 2017:
36,13%). Tương tự, khu vực dịch vụ có tăng nhưng chậm hơn (2013: 17,9 đến 2017: 19,76%)
Nguồn Sở Công Thương tỉnh Thái Bình
Hình 3. Tỷ lệ cơ cấu lao động các ngành kinh tế tỉnh Thái Bình giai đoạn 2013 - 2017 (%)
Phần lớn các chuyên gia được phỏng vấn (15/20) đều cho rằng: phát triển các KCN còn
giúp tỉnh tận dụng nguồn lao động địa phương. Điều này đã tạo nên một thị trường tuyển dụng
rất lớn cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, để giải quyết vấn đề người nông dân bị mất đất sản xuất,
không có việc làm, chủ trương chính sách của tỉnh nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho người
lao động đó là tạo điều kiện cho con em của các hộ gia đình được đi học nghề để rồi sau đó được
366
các doanh nghiệp trong KCN nhận vào làm việc. Đây là một chính sách mang tính kinh tế phát
triển rất cao, khi vừa xây dựng được quỹ đất nông nghiệp mang lại hiệu suất lợi nhuận không cao
bằng, vừa góp phần chuyển dịch dần cơ cấu kinh tế của địa phương, vừa đảm bảo được vấn đề
việc làm cũng như chuyển dịch cơ cấu lao động tại địa phương nói riêng cũng như trong vùng
nói chung.
Thứ hai, KCN có vai trò quan trọng trong việc tăng thu nhập và cải thiện mức sống cho
người lao động.
Cùng với việc tạo công ăn việc làm ổn định cho NLĐ, việc tăng thu nhập cho NLĐ cũng
là một trong những ảnh hưởng rõ nét nhất đến đời sống của NLĐ đang làm việc tại các KCN.
Không thể phủ nhận vai trò tiên phong của các KCN trong việc tạo ra công ăn việc làm, giúp
cho NLĐ tăng thu nhập cho NLĐ có nguồn thu nhập ổn định hàng tháng cao hơn hẳn so với
nông nghiệp. Đồng thời, sự xuất hiện của các KCN cũng thúc đẩy động lực tăng trưởng kinh tế
cũng như tăng trưởng mức sống cho người dân, góp phần rất lớn trong việc thực hiện thành
công, một trong những chỉ tiêu quan trọng trong việc xây dựng nông thôn mới đối với các xã,
các huyện có các KCN đóng trên địa bàn. Nhìn từ góc độ DN, mục “tăng thêm thu nhập cho
người lao động” là mục có số điểm trung bình do các DN đánh giá cao thứ 3 với mức 3.27/5
điểm (Bảng 5). Điều này cảng khẳng định rõ ràng sự quan tâm của không chỉ NLĐ đối với thu
nhập mà DN cũng rất quan tâm và chú trọng trong việc tăng thu nhập cho NLĐ trong quá trình
lao động và sản xuất.
Thứ ba, KCN giúp đào tạo, nâng cao tay nghề cho NLĐ, tăng tính kỷ luật và được tiếp cận
với môi trường làm việc chuyên nghiệp
Không thể phủ nhận việc được tham gia lao động trong một môi trường được đầu tư và
quy hoạch bài bản, được tiếp xúc với những công nghệ, quy trình sản xuất hiện đại và chuyên
nghiệp cũng như việc phải luôn phải trau dồi nhằm đáp ứng những yêu cầu của chủ doanh
nghiệp đã tạo cho NLĐ có một tác phong làm việc chuyên nghiệp hơn hẳn. Những NLĐ trong
các KCN ở tỉnh Thái Bình phần lớn xuất thân từ nông nghiệp, tác phong lao động manh mún,
cục bộ, thiếu kế hoạch, thiếu khoa học theo kiểu nông nghiệp truyền thống có ảnh hưởng rất sâu
đậm tới tư duy và suy nghĩ của NLĐ. Nếu như theo tác phong làm việc nông nghiệp truyền
thống, người nông dân có thể đi làm muộn, về sớm, tùy chọn thời gian và thời điểm làm việc
thích hợp cho bản thân, có thể nghỉ ngơi trong khi làm bất cứ lúc nào, nghỉ không làm việc nếu
như thời tiết xấu xảy ra như mưa lớn, bão, hạn hán, rét đậm rét hại….Tuy nhiên, khi NLĐ bước
chân vào môi trường làm việc tại các DN, họ buộc phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của DN
về thời gian làm việc, thời gian nghỉ, các chế độ liên quan đến NLĐ như chính sách tiền lương,
bảo hiểm, trợ cấp, phạt, kỷ luật…. tuân thủ quy trình làm việc thông qua từng khâu, từng công
đoạn cụ thể nhằm đảm bảo sản phẩm đi ra ở mỗi khâu, mỗi công đoạn phải hoàn chỉnh, không
được có lỗi, đặc biệt là đối với các lĩnh vực như điện, điện tử, cơ khí… để sản phẩm khi hoàn
thiện là một thể thống nhất, giống hệt nhau và hoạt động hiệu quả. Đối với các DN có vốn đầu tư
nước ngoài hoặc chủ doanh nghiệp là người nước ngoài, những quy định, quy trình này còn khắt
khe và ngặt nghèo hơn nữa, đòi hỏi người lao động phải có chuyên môn thật vững vàng, tập
trung cực kỳ cao độ khi làm việc.
367
Kết quả khảo sát cho thấy đa phần các DN đều đồng ý với vấn đề này (Mean =3.22/5) và
phân tích phương sai cho thấy không có sự khác biệt giữa các DN trong KCN với các DN ngoài
KCN với mức ý nghĩa quan sát lớn hơn 0,05 (độ tin cậy 95%) (Bảng 6 và 7). Phần lớn các DN
được khảo sát đều cho rằng: sự thay đổi trong nhận thức và tác phong làm việc của NLĐ Việt
Nam tại các KCN của tỉnh Thái Bình là khá tích cực. NLĐ Việt Nam có khả năng học hỏi và tiếp
thu nhanh, nhanh chóng bắt kịp và hòa nhập với guồng quay làm việc và sản xuất công nghiệp
luôn hối hả không ngừng. Đây là vừa là một hệ quả, vừa là một yêu cầu tất yếu đặt ra đối với
NLĐ.
(c) Tác động tiêu cực của các KCN đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Bình
Tác động tiêu cực về kinh tế
Kết quả khảo sát và so sánh điểm trung giữa các DN trong và ngoài KCN tại các Bảng 8, 9,
10 cho thấy các KCN bên cạnh những tác động tích mang lại cho sự phát triển kinh tế của tỉnh
Thái Bình thì cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực sau:
Bảng 8. Thống kê mô tả tác động tiêu cực về kinh tế
Tiêu chí đánh giá Số
lượng
Điểm
TB
Độ lệch
chuẩn
Do chính sách thu hút các DN tham gia để “lấp đầy” KCN dẫn đến
tình trạng lãng phí các nguồn lực (XKT17) 165 3.08 .681
Tăng chi phí sản xuất kinh doanh và tăng chi phí đào tạo của doanh
nghiệp cho NLĐ do trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp (XKT18) 165 3.81 .604
Khả năng thu hút đầu tư của một số KCN còn thấp, dẫn đến không
phát huy được hiệu quả vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN
(XKT19)
165 4.25 .619
Các KCN tạo ra những tác động ngược chiều đến hệ thống cơ sở hạ
tầng giao thông, đô thị của ĐP (XKT20) 165 2.92 .819
Gia tăng liên kết chuỗi được tạo ra từ hoạt động của các chưa rõ rệt
(XKT21) 165 3.88 .642
Vấn đề chuyển giá, chuyển giao công nghệ cũ…tác động xấu đến
hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp trong KCN và ảnh hưởng
đến nguồn thu của địa phương XKT22
165 3.44 .693
Nguồn: Kết quả xử lý từ số liệu điều tra với sự trợ giúp của phần mềm SPSS20.0
Bảng 9. So sánh giá trị trung bình giữa các DN trong và ngoài KCN
Tiêu chí đánh giá KCN Số lượng Điểm TB Độ lệch chuẩn Sai số chuẩn
XKT17 Trong 130 3.13 .675 .059
Ngoài 35 2.89 .676 .114
XKT18 Trong 130 3.82 .632 .055
Ngoài 35 3.77 .490 .083
368
XKT19 Trong 130 4.25 .626 .055
Ngoài 35 4.23 .598 .101
XKT20 Trong 130 2.96 .820 .072
Ngoài 35 2.77 .808 .136
XKT21 Trong 130 3.85 .683 .060
Ngoài 35 3.97 .453 .077
XKT22 Trong 130 3.46 .661 .058
Ngoài 35 3.37 .808 .136
Nguồn: Kết quả xử lý từ số liệu điều tra với sự trợ giúp của phần mềm SPSS20.0
Bảng 10. Kiểm định sự khác biệt giá trị trung bình giữa nhóm DN trong và ngoài KCN
Levene's Test
for Equality of
Variances
t-test for Equality of Means
F Sig. t df Sig. (2-
tailed)
Mean
Difference
Std. Error
Difference
95% Confidence
Interval of the
Difference
Lower Upper
XKT17
Equal variances
assumed .138 .711 1.906 163 .058 .245 .129 -.009 .499
Equal variances
not assumed
1.904 53.677 .062 .245 .129 -.013 .503
XKT18
Equal variances
assumed .682 .410 .381 163 .703 .044 .115 -.184 .272
Equal variances
not assumed
.441 67.693 .661 .044 .100 -.155 .243
XKT19
Equal variances
assumed .457 .500 .214 163 .831 .025 .118 -.208 .259
Equal variances
not assumed
.220 55.751 .827 .025 .115 -.205 .256
XKT20
Equal variances
assumed 1.455 .229 1.221 163 .224 .190 .156 -.117 .498
Equal variances
not assumed
1.232 54.410 .223 .190 .154 -.119 .499
XKT21
Equal variances
assumed 6.890 .009 -.962 163 .338 -.118 .122 -.359 .124
Equal variances
not assumed
-1.210 80.488 .230 -.118 .097 -.311 .076
XKT22
Equal variances
assumed 2.567 .111 .682 163 .496 .090 .132 -.171 .351
Equal variances
not assumed
.608 46.957 .546 .090 .148 -.208 .388
Nguồn: Kết quả xử lý từ số liệu điều tra với sự trợ giúp của phần mềm SPSS20.0
369
Tình trạng lãng phí các nguồn lực do chính sách thu hút các doanh nghiệp tham gia để “lấp
đầy” KCN
Kết quả phỏng vấn 9/12 chuyên gia đều cho rằng: Các KCN Thái Bình được thành lập
trong cùng một thời kỳ có cơ cấu ngành khá giống nhau nên đã hạn chế khả năng thu hút đầu tư.
Đa phần các KCN được bố trí quá gần khu đô thị, khu dân cư bị hạn chế các ngành nghề có thể
đầu tư do đó cơ cấu đầu tư không phù hợp chủ yếu các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động phổ
thông chưa qua đào tạo, với lượng vốn ít chủ yếu là gia công lắp ráp nhiều KCN có tỷ lệ lấp đầy
thấp. Để đáp ứng tối đa yêu cầu của các nhà đầu tư nên vị trí triển khai xây dựng các KCN
thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng KT-XH thuận lợi. Thực trạng này tất yếu sẽ
dẫn đến một nghịch lý đó là những địa bàn thuận lợi phát triển nóng các KCN, các dự án được
triển khai nhanh trong khi đó những địa bàn vùng sâu, vùng xa, khó khăn không thể phát triển
các KCN, dẫn tới sự mất cân đối giữa các ngành, các vùng và giữa các tầng lớp dân cư.
Kết quả khảo sát cho thấy các DN đều đồng ý rằng để được tham gia vào một môi trường
chuyên nghiệp, có quy hoạch hạ tầng đồng bộ, có các hệ thống điện nước, xử lý nước thải phục
vụ chuẩn riêng cho việc sản xuất công nghiệp, các doanh nghiệp đều phải chịu thêm những
khoản chi phí so với khi tiến hành sản xuất ngoài phạm vi KCN (mean = 3.81/5 và phân tích
phương sai cho thấy không có sự khác biệt giữa các DN trong KCN với các DN ngoài KCN với
mức ý nghĩa quan sát lớn hơn 0,05 (độ tin cậy 95%)).
Theo Quyết định số 2900/QĐ -UBND ngày 18/10/2016 của UBND tỉnh Thái Bình thì giá
thuê đất và một số chi phí tiện ích khác tại các KCN theo bảng 11:
Bảng 11. Biểu phí thuê đất và một số dịch vụ tiện ích KCN
Giá thuê
đất
(nghìn
đồng/
m2)
Phí
quản lý
(USD/
m2)
Giá cung cấp điện
(VND/KWh)
Giá
nước
sạch
(VND/
m3)
Giá xử lý
nước
thải
(VND/
m3)
Giờ cao
điểm
Giờ
bình
thường
Giờ
thấp
điểm
KCN Phúc Khánh 980 0.025 1.930 950 540 4.800 3.840
KCN Nguyễn Đức Cảnh 980 0.025 1.930 950 540 4.800 3.840
KCN Tiền Hải 840 0 1.830 920 510 4.500 3.600
KCN Gia Lễ 840 0 1.830 920 510 4.500 3.600
KCN Sông Trà 840 0 1.830 920 510 4.500 3.600
KCN Cầu Nghìn 840 0 1.830 920 510 4.500 3.600
(Nguồn: Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Bình)
Xét trên quy mô sản xuất của các doanh nghiệp, nhất là trong tình hình kinh tế khó khăn,
doanh nghiệp cần tiết kiệm mọi chi phí trong quá trình sản xuất, thì những chi phí này cũng có
thể coi là một bài toán không hề nhỏ đối với các doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp
có quy mô trung bình trở lên. Đặc biệt, khi mà có nhiều KCN hiện nay mặc dù đã đi vào hoạt
370
động, nhưng cơ sở vật chất hạ tầng vẫn chưa hoàn thiện 100% các hạng mục, hoặc vận hành
không đúng mục đích cũng như yêu cầu, việc các doanh nghiệp đóng các loại chi phí nhưng chất
lượng dịch vụ cung cấp không tương xứng với mong đợi đã ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng
hoạt động sản xuất của các DN, cũng như ảnh hưởng đến công tác quản trị chi phí của các doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp FDI.
4. KHUYẾN NGHỊ
Giải pháp để thực hiện đổi mới tư duy phát triển các KCN
Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ quản lý lãnh đạo từ câp tỉnh cho đến các cơ quan
sở, ban, ngành và các địa phương cơ sở. Đội ngũ cán bộ cần được đào tạo, trang bị kiến thức đặc
biệt là kiến thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN trong giai đoạn mới do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo. Ngoài kiến thức, đội ngũ cán bộ cần được rèn luyện trong thực tiễn lãnh đạo,
chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối tại các cơ sở, địa phương nhất là tại các Ban
quản lý KCN, tại các sở, ban ngành trong tỉnh.
Các ngành, các cấp từ tỉnh đến các huyện, thị cần kịp thời rà soát, tổng kết, đánh giá đúng
vai trò của các KCN trong tiến trình CNH, HĐH và thực hiện các mục tiêu KT-XH của tỉnh một
cách toàn diện để xác định phương hướng, mục tiêu phát triển cho những năm tiếp theo.
Thường xuyên nắm bắt thông tin phản hồi từ các nhà đầu tư, NLĐ, nhân dân các địa bàn lân
cận các KCN; hoạt động phát triển các KCN giữa các địa phương trong vùng KTTĐPN để giải
quyết hài hòa lợi ích giữa các chủ thể, tăng cường tính liên kết giữa các tỉnh trong vùng nhằm tạo
ra sự thống nhất, tôn trọng lẫn nhau giữa các bên từ đó góp phần nâng cao chất lượng phát triển các
KCN và hiệu ứng lan tỏa của nó đối với quá trình phát triển KT-XH của địa phương.
Giải pháp về thu hút, lựa chọn các dự án đầu tư vào các KCN phù hợp tiềm năng, lợi thế
và định hướng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
KCN là mô hình kinh tế góp phần quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh Thái
Bình trong 15 năm qua. KCN chính là không gian kinh tế cơ bản thu hút vốn đầu tư trong, ngoài
nước vào địa bàn, vì vậy để KCN tiếp tục đóng góp vai trò to lớn vào thực hiện nhiệm vụ phát
triển KT-XH của tỉnh thì phải nâng cao chất lượng, hiệu quả thu hút đầu tư vào chính các khu
vực này. Xuất phát từ thực trạng lấp đầy các KCN của tỉnh nên đẩy mạnh thu hút đầu tư là một
yêu cầu lớn tại các KCN. Ngoài ra, xuất phát từ việc học tập kinh nghiệm thu hút đầu tư vào các
KCN ở Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh những địa phương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm
phía Bắc có những điều kiện địa chính trị và xã hội tương đồng với Thái Bình. Căn cứ vào định
hướng phát triển các KCN gắn phát triển KT-XH của tỉnh Thái Bình đến năm 2020 và những
năm tiếp theo. Đó là, hướng từ các KCN truyền thống, đa ngành sang các KCN chuyên ngành,
KCN sinh thái, công nghệ cao, thân thiện với môi trường.
Giải pháp nâng cao trình độ công nghệ và thu hút có hiệu quả thành tựu khoa học công
nghệ từ các dự án trong KCN góp phần tác động lan tỏa đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn tỉnh
Để phát triển kinh tế cần phải dựa trên cơ sở phát triển của các ngành sản xuất vật chất,
trong đó cần chú trọng phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại. Ở Thái Bình, giá trị sản xuất
371
trong các KCN chiếm khoảng 40% giá trị sản xuất ngành công nghiệp toàn tỉnh, do đó cần tập
trung phát triển khu vực này. Trên thực tế, mức độ đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ
trong các KCN chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH. Do vậy, các DN trong KCN,
trong đó về cơ bản là các DN FDI phải là một nhân tố quan trọng nhằm bổ sung nguồn vốn cho
phát minh công nghệ, khắc phục tình trạng lạc hậu của công nghệ đối với các địa phương trong
tỉnh; đồng thời các DN này cũng kéo theo quá trình chuyển giao công nghệ, để từ đó các địa
phương có thể tiếp nhận và nhập khẩu được các công nghệ tiên tiến, hoặc ít nhất tạo nên sự
cạnh tranh cần thiết tác động đến quá trình bắt buộc các DN trong nước phải đổi mới công
nghệ của mình để tiếp tục sản xuất và sản xuất đạt hiệu quả ngày càng cao. Ngoài việc ưu tiên
các dự án có trình độ công nghệ tiên tiến đầu tư vào các KCN, cần chủ động nhập khẩu công
nghệ nguồn, công nghệ cao, tiên tiến, nhập khẩu các bằng phát minh sáng chế và vận dụng vào
trong sản xuất kinh doanh. Có thể thực hiện chính sách ưu đãi về thuế nhập khẩu và các điều
kiện khác để tạo sự thuận lợi cho các DN trong KCN mạnh dạn và đi tiên phong trong nhập
khẩu các sản phẩm nói trên.
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và hỗ trợ mở rộng sản xuất, kinh doanh cho các
doanh nghiệp trong KCN
Việc tham gia vào KCN với một môi trường hiện đại, năng động, được quy hoạch bài bản
và tổng thể là một tiền đề vô cùng vững chắc để các doanh nghiệp tăng cường mở rộng quy mô
sản xuất kinh doanh của mình. Việc tăng cường mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh không đơn
thuần chỉ dừng lại ở việc mở rộng “chiều ngang” bao gồm diện tích sản xuất, số lượng lao động,
năng suất sản phẩm mà còn ở việc mở rộng cả về “chiều sâu” như đa dạng hóa số lượng sản
phẩm, sử dụng công nghệ sản xuất tiên tiến hơn, chất lượng quy cách mẫu mã sản phẩm được
nâng cao hơn
5. KẾT LUẬN
Mô hình phát triển các KCN, từ khi hình thành đến nay đã góp phần đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH, tạo ra tiền đề vững chắc cho sự phát triển của lực lượng sản xuất trong xu thế hội
nhập và toàn cầu hóa và là một chủ trương nhất quán của Đảng cộng sản Việt Nam. Kể từ khi
được thành lập, các KCN trên địa bàn tỉnh Thái Bình đã làm thay đổi diện mạo và sức sống KT-
XH, góp phần thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH hướng đến việc xây dựng Thái Bình trở thành đô
thị, văn minh, hiện đại, trở thành một trong những đô thị phát triển của vùng kinh tế trọng điểm
phía Bắc. Hệ thống hoá những vấn đề mang tính lý luận về KCN như: Khái niệm, đặc điểm, vai
trò và những tác động của quá trình phát triển các KCN đến kinh tế - xã hội địa phương. Xây
dựng, củng cố thêm khung lý thuyết về các tiêu chí đánh giá tác động của các KCN đến phát
triển bền vững kinh tế xã hội trên các mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo hàng năm của Ban quản lý các khu kinh tế và khu công nghiệp tỉnh Thái Bình (2013-
2017)
372
Báo cáo hàng năm của UBND tỉnh Thái Bình về tình hình kinh tế - xã hội (2013-2017)
Đặng Văn Thắng (2006), Nâng cao chất lượng quy hoạch khu công nghiệp - bài học thực tiễn và
những quan điểm định hướng, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 391.
Lê Văn Định (2009), Một số vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình xây dựng, phát triển các
KCN ở vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung hiện nay. Đề tài cấp bộ. Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh KV III.
Nguyễn Cao Luận (2016), Phát triển các khu công nghiệp theo hướng bền vững ở thành phố Đà
Nẵng, Luận án tiến sĩ, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nguyễn Bình Giang (2012), Tác động xã hội vùng của các khu công nghiệp Việt Nam, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội. Hà Nội.
Alesina, Alberto, and Allan Drazen (1991), Why Are Stabilizations Delayed?, American
Economic Review, 81(5), 1170-1188.
Batra, R. and Slottje, D.J. (1993) Trade policy and poverty in the United States: theory and evidence,
1947-1990, Review of International Economics, 1, 189-208.
B.H. Roberts Elsevier (2004), The application of industrialecology principles and planning
guidelines for the development to eco- industrial parks: An Australian casestudy.
Baker, J. L. (2000), Evaluating the Impact of Development Projects on Poverty.
Benacek, V and J. A. Visek, (1999c), The Determinants of FDI in the Czech Economy: The
Robust Analysis Applied on Industrial Data of 1991-1997, Charles University, mimeo.
Blomström, M., A. Kokko and M. Zejan (2000), Foreign Direct Investment. Firm and Host
Country Strategies, London: Macmillan
373
Triển vọng ứng dụng công nghệ blockchain
trong kế toán kiểm toán ở Việt Nam
Trần Thị Thu Trang1, Bùi Thị Thu2
1Trường Đại học Thương mại
Email: tranthithutrang.tm@gmail.com
2Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: buithithu@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.31 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 21/11/2019
Ngày nhận bài: 31/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 23/11/2019
Tóm tắt
Trong bối cảnh phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay,
Blockchain được các nhà nghiên cứu đánh giá là công nghệ then chốt và có tầm ảnh hưởng lớn
đến nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực kế toán và kiểm toán. Công nghệ blockchain triển vọng
mang lại nhiều lợi ích tuy nhiên cũng ẩn chứa nhiều nguy cơ. Với nghiên cứu này, nhóm nghiên
cứu tìm hiểu về công nghệ Blockchain và những ứng dụng của công nghệ này trong lĩnh vực kế
toán, kiểm toán, đồng thời nhóm nghiên cứu tiến nhành khảo sát thực tế về nhu cầu ứng dụng
công nghệ này trong hoạt động kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp. Kết quả khảo sát các kế
toán, kiểm toán viên và nhà quản trị doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội đã cho thấy hiểu biết của
các chủ thể có liên quan về công nghệ blockchain trong kế toán kiểm toán còn nhiều hạn chế,
đồng thời tâm lý e dè, ngại thay đổi trở thảnh rào cản cho việc áp dụng công nghệ mới trong lĩnh
vực này. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao
nhận thức và khả năng ứng dụng công nghệ bockchain tại Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: Blockchain, kế toán, kiểm toán.
1. GIỚI THIỆU
Cách mạng công nghiệp 4.0 (còn được gọi với cái tên cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư) đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu với những tác động mạnh mẽ đến hầu hết mọi lĩnh vực
trong nền kinh tế. Trước bối cảnh này, nhiều chủ trương, đường lối chính sách, pháp luật đã
được ban hành tại Việt Nam nhằm giúp cho các chủ thể chủ động thích ứng với những thay đổi
mạnh mẽ của giai đoạn mới. Trong lĩnh vực kế toán kiểm toán, mặc dù công nghệ Blockchain đã
được ứng dụng ở một số nước trên thế giới song tại Việt Nam, công nghệ này vẫn hoàn toàn mới
mẻ và hiện chúng ta vẫn chưa có hành lang pháp lý làm cơ sở cho việc áp dụng công nghệ mới
này. Để bắt kịp với những tiến bộ của thời đại, việc tìm hiểu về công nghệ blockchain, những
374
ứng dụng của nó là hết sức cần thiết. Bài viết nghiên cứu cơ sở lý thuyết về công nghệ
blockchain và khảo sát thực tế về nhận thức của các nhà quản trị, các kế toán và kiểm toán viên
trong ứng dụng công nghệ này tại doanh nghiệp của họ. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đưa ra
một số đề xuất nhằm nâng cao nhận thức và khả năng áp dụng công nghệ blockchain một cách
hữu ích tại Việt Nam.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Khái niệm về công nghệ blockchain
Theo khía cạnh kỹ thuật, blockchain là một cơ sở dữ liệu phân cấp lưu trữ thông tin trong
các khối thông tin được liên kết với nhau bằng mã hóa và mở rộng theo thời gian. Mỗi khối
thông tin đều chứa thông tin về thời gian khởi tạo và được liên kết tới khối trước đó, kèm một
mã thời gian và dữ liệu giao dịch. Blockchain được thiết kế để chống lại việc thay đổi của dữ
liệu: Một khi dữ liệu đã được mạng lưới chấp nhận thì sẽ không có cách nào thay đổi được nó
(Andersen, 2017)
Theo khía cạnh kế toán - kiểm toán, blockchain là một công nghệ cho phép truyền tải dữ
liệu một cách an toàn dựa vào hệ thống mã hóa vô cùng phức tạp, tương tự như cuốn sổ cái kế
toán hoạt động trong lĩnh vực kỹ thuật số. Các bên tham gia chỉ cần xây dựng một mạng sổ cái
chia sẻ tất cả thông tin giao dịch, khi một thành viên cập nhật thông tin thì tất cả các thành viên
còn lại được phép xem, đọc...
2.2. Đặc điểm của công nghệ blockchain
Sự khác biệt chính của blockchain là công nghệ sổ cái phân tán với khả năng giao dịch mà
không cần bên thứ ba đáng tin cậy - như ngân hàng (Ashton, 2009).
Nguồn: www.ledgerfx.com
Hình 1: Công nghệ sổ cái phân tán và sổ cái tập trung
Blockchain có thể được xem là cơ sở dữ liệu phân tán, phi tập trung, minh bạch và theo
thời gian của các giao dịch, đôi khi còn được gọi là Sổ cái. Dữ liệu trong blockchain được chia
thành các khối. Mỗi khối phụ thuộc vào khối trước đó. Hệ thống trong đó một blockchain đóng
vai trò là cơ sở dữ liệu bao gồm các nút hoặc những người vận hành. Những người này chịu
trách nhiệm nối các khối mới vào blockchain.
375
Một khối mới chỉ có thể được thêm vào sau khi tất cả các nút trong hệ thống đạt được sự
đồng thuận, tức là tất cả đồng ý rằng khối này là hợp pháp và chỉ chứa các giao dịch hợp lệ. Tính
hợp lệ của các giao dịch và cách các nút tính toán các khối mới được điều chỉnh bởi giao thức.
Blockchain được chia sẻ giữa tất cả các nút trong hệ thống; nó được theo dõi bởi mọi nút và
đồng thời không bị kiểm soát bởi bất kỳ nút nào. Bản thân giao thức có trách nhiệm giữ cho
blockchain hợp lệ (Bartoletti, M. and Pompianu, 2017)
Có ba loại ứng dụng Blockchain chính:
Loại 1: Blockchain 1.0: Tiền tệ và dịch vụ liên quan đến chuyển tiền như cơ chế thanh toán
và dịch vụ chuyển tiền. Hiện tại, có hàng trăm loại tiền điện tử khác nhau, trong đó bitcoin là loại
được sử dụng rộng rãi nhất trên thị trường. Các loại tiền tệ có thể có các tính năng khác nhau như
được gắn với một loại tiền tín tệ hoặc hóa tệ nhưng bản chất của chúng vẫn giữ nguyên - chúng
được sử dụng để thanh toán và chuyển nhượng tài sản kỹ thuật số.
Loại 2: Blockchain 2.0: Hợp đồng thông minh - hợp đồng thông minh phức tạp hơn so với
loại tiền tệ. Hợp đồng thông minh là một giao thức máy tính nhằm tạo điều kiện kỹ thuật số, xác
minh hoặc thực thi đàm phán hoặc thực hiện hợp đồng. Hợp đồng thông minh cho phép việc
thực hiện các giao dịch đáng tin cậy mà không có bên thứ ba. Các giao dịch này có thể theo dõi
và không thể đảo ngược. Hợp đồng thông minh có thể đại diện cho cổ phiếu, trái phiếu, quyền
chọn, thế chấp và tài sản thông minh. Trong khi khái niệm 1.0 đại diện cho phân cấp tiền, thì
khái niệm 2.0 là phân cấp thị trường. Tất cả các công nghệ nhằm phân cấp các mối quan hệ của
các đối tác khác nhau như nhà thanh toán bù trừ, ngân hàng, công ty đều được bảo vệ bởi khái
niệm này. Do đó, một hệ thống kế toán tiềm năng trên Blockchain được bao phủ bởi khái niệm
2.0 vì nó được cho là đại diện cho một hệ thống hợp đồng thông minh nơi các giao dịch và hóa
đơn thanh toán tự động được thực hiện và ghi lại. Với Blockchain 2.0, các loại blockchain bổ
sung được giới thiệu và chúng có tiềm năng trong các lĩnh vực khác ngoài tiền điện tử. Dưới đây
là một số ứng dụng tiềm năng điển hình:
• Hợp đồng ngoại quan, giao dịch nhiều chữ ký
• Giao dịch tài chính (lương hưu, cổ phiếu...)
• Hồ sơ công khai (tên đất, đăng ký xe...)
• Nhận dạng (bằng lái xe, id...)
• Hồ sơ cá nhân (khoản vay, hợp đồng...)
• Khóa tài sản vật lý (nhà, phòng khách sạn, xe cho thuê)
• Tài sản vô hình (bằng sáng chế, nhãn hiệu,...)
Loại 3: Blockchain 3.0: Công nghệ này được áp dụng trong các lĩnh vực trong chính phủ, y
tế, khoa học,... đó là một hệ thống ứng dụng Blockchain vượt ra ngoài thị trường tài chính và bao
gồm chính phủ, nghệ thuật, văn hóa và khoa học. Ví dụ về các ứng dụng 3.0 là hệ thống bỏ phiếu
Blockchain, hệ thống tên miền phi tập trung - Namecoin, các ứng dụng chống kiểm duyệt như
Alexandria và Ostel và nhiều ứng dụng khác sử dụng tính chất bất biến và minh bạch của
blockchain để thúc đẩy tự do, dân chủ và phân bổ tài sản công bằng (Becker, 2013).
376
Tính năng công nghệ sổ cái phân tán
Công nghệ sổ cái phân tán (DLT) có ba tính năng chính sau:
• Độ chính xác: Công nghệ sổ cái phân tán cho phép nhiều bản sao (trái ngược với một bản
sao đơn lẻ truyền thống) của hồ sơ lịch sử đầy đủ của các mục trong sổ cái được xác minh bằng
sự đồng thuận. Các thông tin nhập vào hệ thống nếu không đạt được sự đồng thuận sẽ bị loại bỏ.
• Tính minh bạch: Sổ cái phân tán là hồ sơ công khai về hoạt động mà tất cả những người
tham gia thị trường có thể nhìn thấy.
• Không qua trung gian: Công nghệ này hoạt động bằng cách sử dụng mạng ngang hàng,
thay vì yêu cầu một tổ chức trung tâm cụ thể.
Không qua trung gian là tính năng cốt lõi thúc đẩy các lợi ích liên quan đến sổ cái phân
tán. Theo cách làm truyền thống, các chủ thể có sổ cái tập trung cần có sự tham gia của bên thứ
ba đáng tin cậy để duy trì hồ sơ giao dịch giữa các tổ chức. Trong khi đó sổ cái phân tán khắc
phục nhu cầu đối với bên thứ ba, đây có thể là một lợi ích đáng kể khi không có tổ chức trung
tâm đáng tin cậy rõ ràng hoặc nếu chi phí trung gian cao.
Các ứng dụng chính của Công nghệ sổ cái phân tán cho đến nay đã có trong các dịch vụ tài
chính, cụ thể là Bitcoin và tất cả các loại tiền điện tử khác. Với Blockchain, chúng ta có thể
tưởng tượng một thế giới trong đó các hợp đồng được nhúng trong mã kỹ thuật số và được lưu
trữ, cơ sở dữ liệu được chia sẻ, nơi chúng được bảo vệ khỏi việc xóa, giả mạo và sửa đổi - Trong
thế giới này, mọi thỏa thuận, mọi quy trình, mọi nhiệm vụ và mọi khoản thanh toán đều có một
bản ghi kỹ thuật số và chữ ký có thể được xác định, xác nhận, lưu trữ và chia sẻ (Pilkington,
2016). Các trung gian như luật sư, môi giới và nhân viên ngân hàng có thể không còn cần thiết
nữa. Tuy nhiên, cho đến nay, nó không tạo ra tác động đáng kể đến hoạt động cốt lõi của hệ
thống thanh toán và ngân hàng, mặc dù nhiều ngân hàng, bao gồm Cục Dự trữ Liên bang, Ngân
hàng Anh và Ngân hàng Canada với Dự án Jasper, đang đánh giá một cách cẩn trọng ý nghĩa có
thể của công nghệ này (Chapman, 2017). Hơn nữa, nhiều tổ chức tài chính đang thử nghiệm
công nghệ này một cách rộng rãi hơn như theo dõi chuỗi cung ứng hay quản lý nhận dạng kỹ
thuật số.
2.3. Ảnh hưởng của công nghệ blockchain trong lĩnh vực kế toán và kiểm toán và
những yêu cầu trong quá trình áp dụng
2.3.1. Ảnh hưởng của công nghệ Blockchain trong lĩnh vực kế toán
Công nghệ chuỗi khối có thể là bước phát triển tiếp theo cho kế toán hiện đại: thay vì giữ
các sổ sách kế toán riêng của từng doanh nghiệp căn cứ vào hóa đơn chứng từ của các nghiệp vụ
phát sinh, các doanh nghiệp có thể ghi chép các giao dịch của họ trực tiếp vào một sổ đăng ký
chung, tạo ra một hệ thống liên kết các sổ sách kế toán bền vững. Vì tất cả các mục trên sổ đăng
ký chung sẽ được phân phối và niêm phong bằng mật mã, việc làm sai lệch hoặc phá hủy chúng
để che giấu hoạt động thực tế là không thể.
Áp dụng kế toán Blockchain, tất cả các giao dịch được ghi lại trong một khối ảo và sau
một thời gian, một khối mới được tạo, được liên kết với tất cả các khối trước đó trong chuỗi. Các
377
khối được hiển thị cho cả hai bên tham gia vào giao dịch. Tất cả làm cho nó trở thành một hệ
thống phù hợp để lưu trữ và chia sẻ tài khoản. Hình 2 dưới đây minh họa cơ chế làm việc của Kế
toán chuỗi khối.
Nguồn: www.deloitte.com.au
Hình 2: Cơ chế làm việc của kế toán trong chuỗi khối
Để giải thích khái niệm kế toán dựa trên Blockchain, một số nhà nghiên cứu sử dụng thuật
ngữ kế toán tam phân - Triple-Entry Accounting (Peters, G.W, Panayi, 2015) được mô tả như là
một sự cải tiến cho kế toán kép thông thường trong đó các khoản mục kế toán của các bên liên
quan được niêm phong bằng mật mã bởi một thực thể thứ ba (Blockchain).
Một ví dụ về kế toán tam phân:
Một công ty X mua hàng hóa trị giá 100 triệu đồng từ công ty Y, theo nguyên tắc ghi kép
ta có:
Công ty X
Ghi nhận hàng hóa nhập và chi tiền
Ghi Nợ tài khoản hàng hóa: 100 triệu đồng
Ghi Có tài khoản tiền: 100 triệu đồng
Công ty Y
Ghi nhận hàng hóa xuất và nghiệp vụ thu tiền
Ghi Nợ tài khoản tiền: 100 triệu đồng
Ghi Có tài khoản doanh thu: 100 triệu đồng
Hệ thống kế toán tam phân có thể được hiểu như sau:
Hạch
toán kép Mã hóa Kế toán
tam
phân
378
Hệ thống kế toán tam phân được coi là một phần mở rộng của hệ thống kế toán kép, trong đó
về mặt kỹ thuật, tất cả các mục/giao dịch kế toán đều được kiểm tra và niêm phong, chúng xảy ra
đồng thời trong cùng một sổ cái công khai, phân tán, tạo ra một hệ thống hồ sơ kế toán đan xen và
xâu chuỗi. Trong hệ thống kế toán tam phân, các giao dịch được ghi lại và phân phối, niêm phong
bằng mật mã, thao tác/thay đổi hoặc phá hủy chúng để che giấu bất kỳ thông tin thực tế nào là
không thể. Hiện nay, với Blockchain, mỗi giao dịch sẽ được ghi lại bởi bên thứ ba và bên thứ ba là
Blockchain, xác minh từng giao dịch (Mật mã học) và hóa đơn chứng từ sẽ được phát hành. Kết
quả là mọi giao dịch sẽ được ghi đồng thời vào sổ sách của bên thứ ba để được xác minh bởi
blockchain. Khi các giao dịch được nhập ở ba nơi, nó được gọi là hệ thống nhập ba.
Các tính năng của hệ thống kế toán tam phân: có nhiều tính năng khác nhau như hợp đồng
thông minh, Sổ cái phân tán, nhập kép, mật mã, hồ sơ chứng minh giả mạo, Xác thực và bảo mật
và các thỏa thuận được ký điện tử.
Sau đây là một ví dụ hiển thị quy trình bắt buộc phải tuân theo trong hệ thống nhập tam
phân dựa trên Blockchain.
Nguồn: www.deloitte.com.au
Hình 3: Ví dụ về cơ chế hoạt động của Blockchain
Vì Blockchain không cho phép sự sửa đổi dữ liệu từ bất kỳ chủ thể nào. Do đó, kế toán
viên không thể làm sai lệch hoặc xóa các nghiệp vụ kế toán bằng văn bản. Điểm đặc biệt là khái
niệm kế toán tam phân lần đầu tiên được mô tả vào năm 2005 bởi Ian Grigg ba năm trước khi
Blockchain được phát minh. Ian Grigg đã mô tả khả năng sử dụng hóa đơn chứng từ kỹ thuật số
được bảo vệ bằng mật mã để xác minh các giao dịch xảy ra giữa các đối tác khác nhau và được
lưu trữ bởi bên thứ ba và hiển thị nếu có bất kỳ chi tiết nào trong hồ sơ bị thay đổi hoặc xóa
(Mazières, 2016). Với sự ra đời của Blockchain, các quy trình có thể trở nên tự động, rẻ và thậm
chí đáng tin cậy hơn khi nhu cầu của bên thứ ba giữ hóa đơn chứng từ theo cách tập trung được
thay thế bởi một sổ cái phi tập trung. Tiếp đó, Lazanis là người đầu tiên mô tả rõ ràng khả năng
A muốn chuyển tiền cho B
Giao dịch được thể hiện trực tuyến dưới dạng 1 khối
Khối này được công bố cho các bên trong mạng lưới
Tất cả các bên trong mạng lưới chấp thuận giao dịch này là hợp lệ
Khối này sẽ được thêm vào chuỗi, chuỗi này bao gồm các bản ghi các giao
dịch minh bạch và không thể thay đổi
379
của kế toán Blockchain. Ông nhấn mạnh rằng khi sử dụng công nghệ blockchain, doanh nghiệp
không cần có bất kỳ trung gian có uy tín nào ví dụ như ngân hàng hoặc công ty bảo hiểm nếu
doanh nghiệp tự nguyện ghi chép các nghiệp vụ của mình trên Blockchain.
Xu hướng công nghệ này có khả năng biến đổi lĩnh vực kế toán, bằng cách thay đổi cách làm
việc của kế toán viên. Tác động của Blockchain đối với kế toán bao gồm các tác động chính sau:
- Cơ sở dữ liệu an toàn và minh bạch: Blockchain trong lĩnh vực kế toán sẽ cung cấp cơ sở
dữ liệu rất tuyệt vời để theo dõi dữ liệu và hàng hóa khi chúng di chuyển (vật lý hoặc kỹ thuật
số) thông qua các chuỗi và tổ chức cung ứng. Điều này sẽ cho phép quá trình phân tích, lập báo
cáo chặt chẽ hơn.
- Tính xác thực đầy đủ của các bên/giao dịch: Công nghệ này sẽ tính đến các tài khoản phải
trả và phải thu, với các giao dịch giữa các công ty hoặc giao dịch giữa khách hàng và khách
hàng. Blockchain sẽ xác minh hoạt động thanh toán và thời gian thanh toán, đảm bảo tính xác
thực của các giao dịch và sẽ giảm thiểu rủi ro cho các bên trong giao dịch. Do đó đảm bảo tính
chính xác về tài chính, bởi lẽ khi giao dịch diễn ra trong sổ cái blockchain, nó không chỉ cập nhật
trong thời gian thực mà giao dịch này còn được đóng ngay lập tức sau khi hoàn thành.
Blockchain giúp ngăn chặn thao tác thay đổi dữ liệu và tránh gian lận (Reaso, 1990).
- Đảm bảo tính toàn vẹn và bảo mật của dữ liệu tài chính: Khi mọi giao dịch được ghi lại
và xác minh, tính toàn vẹn của hồ sơ tài chính được đảm bảo. Vì tất cả các giao dịch được phân
phối và niêm phong bằng mật mã, việc thao túng, làm sai lệch hoặc phá hủy chúng thực tế là
không thể.
- Kết thúc phương thức kế toán truyền thống: Blockchain đã sẵn sàng để nâng cấp các
phương thức lập hóa đơn, chứng từ, hợp đồng và xử lý thanh toán truyền thống trên tất cả các
ngành, vì nó cho phép ghi đồng thời cả hai mặt của giao dịch vào sổ cái chung.
- Kế toán viên có thể phát triển nghiệp vụ chuyên môn theo chiều sâu: Công nghệ này sẽ
làm cho quá trình kế toán nhanh hơn và chính xác hơn. Do đó, kế toán viên sẽ có nhiều thời gian
hơn cho các nghiệp vụ khác và tăng cường tư duy sáng tạo để phát triển nghiệp vụ chuyên môn
của mình.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức: Công nghệ Blockchain sẽ giảm thời gian trễ từ
khi thông tin được yêu cầu đến khi được cung cấp, dẫn đến hiệu suất được cải thiện. Công nghệ
này cho phép các bên quan tâm có thể truy cập và có được thông tin cần thiết ngay lập tức đồng
thời loại bỏ sự cần thiết của người giữ sổ sách.
2.3.2. Ảnh hưởng của công nghệ Blockchain đến công tác kiểm toán
Với quy trình kiểm toán như hiện nay, hoạt động kiểm toán là khá tốn kém cả về thời gian
và chi phí cho các biên liên quan. Nó cũng liên quan đến rất nhiều nghiệp vụ như kiểm toán đơn
đặt hàng, phiếu giao hàng, hóa đơn và hồ sơ thanh toán được duy trì bởi các tổ chức và cần có
xác minh của bên thứ ba. Blockchain cung cấp tính toàn vẹn dữ liệu của các tệp điện tử thông
qua việc sử dụng chuỗi băm và in dấu vân tay kỹ thuật số. Điều này là bất biến, tức là một giao
380
dịch một khi được thỏa thuận và ghi lại, nó không bao giờ có thể thay đổi. Sau đó, người ta có
thể ghi lại một giao dịch khác để thay đổi trạng thái nhưng không bao giờ thay đổi là lịch sử của
nó. Do đó, thời gian dập dữ liệu vào blockchain. Blockchain cuối cùng cho phép các dấu vết
kiểm toán có thể theo dõi, tự động hóa các quy trình kiểm toán và xác thực các giao dịch. Do đó
Blockchain sẽ cho phép các kiểm toán viên xác minh một phần lớn thông tin quan trọng nhất
trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Chi phí và thời gian cần thiết để thực hiện kiểm toán
sẽ giảm đáng kể. Kiểm toán viên có thể dành thời gian đã tiết kiệm được cho các lĩnh vực họ có
thể tăng thêm giá trị, ví dụ như: kiểm toán các giao dịch có tính phức tạp cao hoặc các cơ chế
kiểm soát nội bộ.
Blockchain có khả năng cung cấp dữ liệu chất lượng tốt hơn so với cách cung cấp dữ liệu
truyền thống. Tính minh bạch của Blockchain cung cấp khả năng hiển thị tất cả các giao dịch cho
người dùng được chấp thuận do đó Kiểm toán viên có thể sử dụng blockchain để tập trung vào
các khu vực phức tạp, có thể kiểm tra 100% số liệu kiểm kê, chứ không phải là các mẫu thử
nghiệm. điều này có thể giúp kiểm toán viên giảm thời gian lấy mẫu và xác thực các nghiệp vụ.
Với blockchain, công việc của kiểm toán viên sẽ tập trung nhiều hơn vào công nghệ đòi
hỏi sự truy cập khác nhau vào các hệ thống khách hàng. Joel Shamon, nhà lãnh đạo kiểm toán
quốc gia tại Top Five Firm RSM, Hoa Kỳ đã chia sẻ: “Thay vì làm việc với nhân viên kế toán
của khách hàng, kiểm toán viên sẽ làm việc nhiều hơn với bộ phận IT để truy cập thông tin và
kiểm tra thông qua các chu kỳ giao dịch, hoặc là kiểm toán viên phải duy trì hiểu biết về dữ liệu
và phân tích, có kỹ năng dịch các mẫu dữ liệu thành các bằng chứng kiểm toán có liên quan để
nâng cao hiệu quả và chất lượng kiểm toán (Chapman, 2017).
Mặt khác, blockchain có khả năng làm thay đổi bản chất của bằng chứng kiểm toán đối với
các giao dịch lớn bao gồm các báo cáo tài chính. Công nghệ blockchain có thể cho phép kiểm
toán viên tự động xác minh các giao dịch thông qua kiểm tra các bản ghi kỹ thuật số chứ không
phải là hóa đơn, giải ngân và các hồ sơ thương mại khác được sử dụng ngày nay. Sử dụng công
nghệ để đánh giá số lượng lớn giao dịch thường xuyên sẽ cho phép kiểm toán viên và khách
hàng của họ tập trung nỗ lực vào các giao dịch bất thường đáng kể và các ước tính chính, các
phán đoán ảnh hưởng đến báo cáo tài chính.
Trong dài hạn, hoạt động kiểm toán phần lớn sẽ được thực hiện một cách tự động và hoạt
động này được tiến hành liên tục thay vì chỉ được thực hiện định kỳ vài tháng trong năm. Thêm
vào đó hoạt động kiểm toán có thể sử dụng các công cụ dự đoán, trí thông minh nhân tạo để xác
định các xu hướng và bất thường. Công cụ này sẽ tăng cường kiểm soát gian lận và quản lý rủi
ro, cũng như loại bỏ một số phần kiểm tra kỹ lưỡng bằng tay. “Các robot sẽ không thay thế kiểm
toán viên do mức phán xét yêu cầu trong quá trình kiểm toán nhưng kiểm toán viên sẽ cần phải
mở rộng các bộ kỹ năng để có thể tận dụng các lợi ích mà các công nghệ này có thể cung cấp”
(Lennox, 2010).
Trong tương lai, với việc triển khai Blockchain, các công việc kiểm toán lớn với nhiều
nhân viên có thể được cắt giảm xuống chỉ còn vài nhân viên. Tuy nhiên, giao dịch được ghi lại
trong một blockchain có thể vẫn là lừa đảo, do đó sẽ cần kiểm toán viên nhưng bản chất nhiệm
vụ của họ có thể được thay đổi để cải thiện. Mặc dù có nhiều nghiên cứu chỉ rõ lợi thế khi áp
381
dụng Blockchain trong kế toán, kiểm toán nhưng việc ứng dụng Blockchain trong kế toán và
kiểm toán vẫn là một khái niệm mới mẻ. Nhiều nhà cung cấp lớn như Microsoft, SAP hay
Deloitte đang bắt đầu cung cấp các giải pháp kết hợp các công nghệ liên quan đến Blokchain,
thường dựa trên cách tiếp cận Blockchain như là một dịch vụ. Tuy nhiên, các giải pháp này vẫn
đang ở giai đoạn ban đầu (CoinMarketCap, 2017).
2.3.3. Một số yêu cầu khi áp dụng Blockchain trong kế toán và kiểm toán
Như đã phân tích ở trên, Block chain hứa hẹn mang tới một triển vọng mới cho các
doanh nghiệp trong kế toán kiểm toán. Tuy nhiên quá trình triển khai và ứng dụng có lẽ cần
nhiều thời gian bởi lẽ công nghệ này chỉ áp dụng được trong kế toán và kiểm toán khi thỏa
mãn các yêu cầu sau:
1) Tất cả hoặc hầu hết các thành viên của Chuỗi giá trị sử dụng hệ thống này;
2) Chi phí cho các dịch vụ phân phối mới thấp hơn chi phí hiện tại của các nhà cung cấp
dịch vụ;
3) Có thể áp dụng tiền điện tử để tận dụng tối đa lợi ích của công nghệ Blockchain.
Mô hình công nghệ này có lẽ chưa phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) hoặc
các công ty lớn đang bán cho hàng ngàn người tiêu dùng cuối cùng, chẳng hạn như amazon hoặc
trong các công ty nhỏ không có nhu cầu kiểm toán, vì trong trường hợp này lợi ích áp dụng công
nghệ Blockchain là rất hạn chế.
3. PHƯƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
Để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu về triển vọng áp dụng công nghệ blockchain trong kế
toán và kiểm toán, nhóm tác giả sử dụng phương pháp điều tra qua bảng hỏi tại 70 doanh nghiệp
trong đó 20 doanh nghiệp kiểm toán với tổng số 150 nhân viên kế toán, kiểm toán và nhà quản
trị tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội. Bảng hỏi được xây dựng một cách logic,
dựa theo nội dung của đề tài về triển vọng áp dụng blockchain trong kế toán và kiểm toán. Bảng
hỏi sau khi thiết kế được gửi trực tuyến đến các đối tượng phỏng vấn qua email và facebook.
Nghiên cứu sử dụng chủ yếu thống kê mô tả kết quả nghiên cứu đã được tổng hợp.
Bảng 1: Bảng câu hỏi điều tra về triển vọng áp dụng công nghệ blockchain
trong kế toán kiểm toán
STT Nội dung câu hỏi
Phương án lựa chọn
Có Không Không
ý kiến
1
Doanh nghiệp của anh/chị có chính sách đầu tư cho ứng
dụng, đổi mới công nghệ theo xu hướng cách mạng công
nghệ 4.0 không?
2 Doanh nghiệp của anh/chị có quan tâm đến đổi mới công
nghệ trong lĩnh vực tài chính kế toán không?
382
3
Doanh nghiệp của anh/chị có tổ chức các chương trình đào
tạo cho người lao động về kỹ năng ứng dụng công nghệ mới
trong nghiệp vụ kế toán và kiểm toán không?
4
(câu hỏi dành cho nhà quản trị doanh nghiệp) Doanh nghiệp
của anh/chị có sẵn sàng đầu tư cho đổi mới công nghệ trong
kế toán, kiểm toán nếu lợi ích công nghệ đem lại là thiết thực
không?
5 Anh/chị có biết về công nghệ block chain và những ứng dụng
của nó trong kế toán, kiểm toán không?
6
6.1. Anh/chị có cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam có nhu
cầu sử dụng blockchain trong kế toán và kiểm toán không?
6.2. Nếu câu trả lời của anh/chị là không ý kiến, xin anh chị cho biết lý do
…………………………………………………………………………………….……
Nếu câu trả lời của anh/chị là không, xin anh chị cho biết lý do
……………………………………………………………………………………………
7
Theo anh/chị rào cản lớn nhất trong áp dụng công nghệ block chain trong kế toán, kiểm
toán ở Việt Nam hiện nay là gì?
……………………………………………………………………………………………
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 142 hồi đáp từ phía các nhà quản tri, kế toán, và kiểm
toán và được tổng hợp trình bày ở bảng 2.
Bảng 2: Bảng mô tả mẫu điều tra
Nhóm phân loại Tiêu chí phân loại Số lượng
Đối tượng phỏng vấn
Nhà quản trị tại doanh nghiệp 45
Kế toán viên 50
Kiểm toán viên 47
Loại hình doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhỏ 0
Doanh nghiệp vừa 20
Doanh nghiệp lớn 50
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Kết quả nghiên cứu
Kết quả khảo sát thực tế cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp có đầu tư cho ứng dụng, đổi mới công
nghệ theo xu hướng cách mạng công nghệ 4.0 chưa cao 25/70 (35.7%). Trong số đó có 20 doanh
nghiệp (28.5%) có quan tâm đến đổi mới công nghệ trong lĩnh vực tài chính kế toán và có 10
doanh nghiệp có tổ chức các chương trình đào tạo cho người lao động về kỹ năng ứng dụng công
nghệ mới trong nghiệp vụ kế toán và kiểm toán. Kết quả khảo sát được trình bày ở hình 4.
383
Hình 4: Kết quả khảo sát tỷ lệ doanh nghiệp quan đến đến đổi mới công nghệ theo xu hướng
cách mạng công nghiệp 4.0
Với nhà quản trị, khi được hỏi, 18/45 (chiếm 40%) nhà quản trị sẵn sàng đầu tư cho đổi
mới công nghệ trong kế toán, kiểm toán nếu lợi ích công nghệ đem lại là thiết thực (Hình 5). Tuy
nhiên, khi nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát các nhân viên kế toán và kiểm toán cũng như các
nhà quản trị về mức độ hiểu biết về công nghệ blockchain thì kết quả cho thấy chỉ có 28/142
người được hỏi có biết về công nghệ block chain và những ứng dụng của nó trong kế toán, kiểm
toán (được thể hiện ở hình 6).
Hình 5: Tỷ lệ nhà đầu tư sẵn sàng/không sẵn sàng đầu tư công nghệ trong kế toán - kiểm toán
Tỷ lệ doanh nghiệp có quan tâm đến đổi mới công nghệ trong lĩnh vực tài
chính kế toán
Tỷ lệ doanh nghiệp có tổ chức các chương trình đào tạo cho người lao động
về kỹ năng ứng dụng công nghệ mới trong nghiệp vụ kế toán và kiểm toán
384
Hình 6: Tỷ lệ người có hiểu biết về công nghệ blockchain và ứng dụng của công nghệ blokchain
trong kế toán - kiểm toán
Nghiên cứu khảo sát triển vọng ứng dụng công nghệ blockchain trong kế toán kiểm toán
tại Việt Nam, đối tượng khảo sát cho ý kiến tán thành hay không tán thành về nhu cầu sử dụng
công nghệ blochchain của các doanh nghiệp Việt Nam. Kết qủa nghiên cứu được trình bày ở
hình 7.
Hình 7: Tỷ lệ tán thành/không tán thành nhu cầu sử dụng hệ thống blockchain vì những lợi ích
thiết thực mà nó đem lại tại Việt Nam
Nhóm người không có ý kiến (47/142 người chiếm 33,09%) cho rằng họ chỉ có thể quyết
định sử dụng hay không sử dụng công nghệ blockchain trong hoạt động của mình khi có bằng
chứng và kết quả của việc sử dụng công nghệ mới này từ các doanh nghiệp cụ thể tại Việt Nam.
Đối với nhóm người không ủng hộ công nghệ (71/142 ngwoif chiếm 50.01%), họ cho rằng mức
độ hiểu biết của họ về công nghệ Blockchain còn ít ỏi nên lựa chọn áp dụng công nghệ mới sẽ có
385
mức độ rủi ro rất cao, thêm vào đó các tổ chức còn e dè về việc sử dụng một công nghệ mới. Hầu
hết người được hỏi (90/97) đều thống nhất cho rằng việc thay đổi tư duy, thay đổi cách thức làm
việc truyền thống, đặc biệt là trong ngành kế toán và kiểm toán là không dễ dàng và cần nhiều
thời gian để thích ứng.
4.2. Thảo luận và kiến nghị
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy ứng dụng công nghệ blockchain trong kế toán kiểm toán
còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Mặc dù nhiều doanh nghiệp Việt quan tâm đến ứng dụng công nghệ
trong kinh doanh nhưng phần lớn họ không quan tâm đến ứng dụng công nghệ trong công tác kế
toán kiểm toán và việc đào tạo nhân lực trong lĩnh vực này cũng chưa được chú trọng. Thêm vào
đó mức độ hiểu biết về công nghệ blockchain của nhà quản trị và bản thân các kế toán, kiểm toán
viên còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, rất ít doanh nghiệp sẵn sàng áp dụng công nghệ
blockchain trong hoạt động kế toán kiểm toán của mình. Với kết quả khảo sát thực tế này, có thể
thấy việc áp dụng công nghệ blockchain trong lĩnh vực kế toán kiểm toán ở Việt Nam có lẽ còn ở
trong tương lai và liệu công nghệ này có thể triển khai trên thực tế hay không còn phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố. Từ đó, nhóm tác giả đã đưa ra một số kiến nghị để nâng cao sự hiểu biết và khả
năng ứng dụng công nghệ blockchain trong hoạt động kế toán kiểm toán tại Việt Nam như sau:
Thứ nhất, đối với các kế toán viên và kiểm toán viên: các kế toán và kiểm toán viên cần
thường xuyên cập nhật kiến thức về những tiến bộ công nghệ trong lĩnh vực của mình. Bên cạnh
đó họ cần nỗ lực nâng cao các kỹ năng công việc, đặc biệt là kỹ năng công nghệ thông tin để khi
áp dụng công nghệ mới, họ có thể nhanh chóng nắm bắt và vận dụng vào công việc của mình.
Thứ hai, đối với doanh nghiệp: các doanh nghiệp cần có kế hoạch đào tạo cũng như cập
nhật kiến thức về công nghệ blockchain cho nhà quản trị cũng như kế toán viên và kiểm toán
viên của mình.
Thứ ba, đối với nhà nước: Nhà nước cần tập trung xây dựng hành lang pháp lý làm cơ sở
cho ứng dụng công nghệ blockchain cho công tác kế toán, kiểm toán ở Việt Nam.
Thứ tư, đối với các cơ sở đào tạo: Các trường cần thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo,
các diễn đàn hoặc khuyến khích sinh viên nghiên cứu khoa học về blockchain để người học cập
nhật những công nghệ mới trong lĩnh vực ngành nghề đang theo học để có sự chuẩn bị tốt cho
nghề nghiệp trong tương lai.
5. KẾT LUẬN
Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 với những ứng dụng ngày càng nhiều của công nghệ trong
mọi lĩnh vực đã và đang thay đổi một cách toàn diện nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, trong đó có
lĩnh vực kế toán và kiểm toán. Theo như kết quả của nhóm nghiên cứu, công nghệ Block chain
trong ứng dụng kế toán kiểm toán còn mới mẻ trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Do đó để công
nghệ này thực sự được áp dụng và sử dụng rộng rãi có lẽ cần nhiều thời gian và nỗ lực của các
bên liên quan, đặc biệt là chúng ta cần có sự hỗ trợ tích cự từ phía các cơ quan chức năng trong
việc xây dựng hành lang pháp lý mở đường cho triển vọng áp dụng công nghệ mới này ở Việt
Nam trong thời gian tới.
386
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Andersen, N. (2017). Blockchain Technology. A game-changer in accounting?
Ashton, K. (2009). That ‘Internet of Things’ Thing. RFID Journal, June 22.
Adams, R.B., Ferreira, D. (2007). A theory of friendly boards. J. Finance. 62(1), 217–250
Bartoletti, M. and Pompianu, L. (2017). An empirical analysis of smart contracts: platforms,
applications, and design patterns. arXiv preprint arXiv:1703.06322
Benos, E., Garratt, R. and Gurrola-Perez, P. (2017). The economics of distributed ledger
technology for securities settlement.
Beasley, M.S. (1996). An empirical analysis of the relation between the board of director
composition and financial statement fraud. Account. Rev. 71, 4, 443–465
Beasley, M.S. et al. (2010). Fraudulent Financial Reporting. Committee. 12, 60.
Bentov, I. et al. (2014). Proof of Activity: Extending Bitcoin’s Proof of Work via Proof of Stake.
Byström, H. (2016). Blockchains, real-time accounting and the future of credit risk modeling.
Lund University, Department of Economics.
Chapman, J., Garratt, R., Hendry, S., McCormack, A. and McMahon, W. (2017). Project Jasper:
are distributed wholesale payment systems feasible yet? Financial System, 59.
Chartered Accountants NZ (2017). The future of Blockchain.
CoinMarketCap 07 (2017). CryptoCurrency Market Capitalizations. https://coinmarketcap.com/.
Online; accessed June 17th 2018.
Caplan, D. (1999). Internal Controls and the Detection of Management Fraud. J. Account. Res.
37, 1, 101–117.
Lamport, L. et al. (1982). The Byzantine Generals Problem. ACM Trans. Program. Lang. Syst.
4, 3, 382–401.
Lennox, C., Pittman, J.A. (2010). Big five audits and accounting fraud. Contemp. Account. Res.
27, 1, 209–247.
Mazières, D. (2016). The Stellar Consensus Protocol: A Federated Model for Internet-Level
Consensus.
Nakamoto, S. (2008). Bitcoin: A Peer-to-Peer Electronic Cash System. Consulted. 1–9.
Peters, G.W., Panayi, E. (2015). Understanding Modern Banking Ledgers through
BlockchainTechnologies: Future of Transaction Processing and Smart Contracts on the
Internet ofMoney. arXiv Prepr. arXiv1511.05740. 1–33.
Pilkington, M. (2016). Blockchain Technology: Principles and Applications. In: Olleros, F.X.
and Zhegu, M. (eds.) Research Handbook on Digital Transformations. Edward Elgar,
Cheltenham, UK.
Probst, L. et al. (2016). Blockchain Applications & Services.
Reason, J. (1990). The contribution of latent human failures to the breakdown of complex
systems. Philos. Trans. R. Soc. Lond. B. Biol. Sci. 327, 1241, 475–484.
387
Ứng dụng fintech trong việc hỗ trợ hoạt động huy động vốn
của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Nguyễn Đăng Tuệ
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Email: tue.nguyendang@hust.edu.vn
Mã bài: HTQG.37 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 22/11/2019
Ngày nhận bài: 03/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 25/11/2019
Tóm tắt
Fintech đang thay đổi ngành tài chính với nhiều tính năng đột phá. Đối với DNNVV,
Fintech cho thấy tiềm năng đáp ứng nhu cầu vốn để góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh
thuận lợi hơn cho nhóm doanh nghiệp này. Bài viết này nhằm mục đích phân tích một số tác
động của fintech đối với việc huy động vốn của các DNNVV thông qua hai hình thức gọi vốn
cộng đồng và cho vay ngang hàng. Bài viết cho thấy các nền tảng Fintech hỗ trợ việc huy động
vốn cho DNNVV vẫn còn ở giai đoạn sơ khai. Các yếu tố liên quan đến nền kinh tế và nền tảng
văn hóa Việt Nam có thể kìm hãm sự phát triển của những fintech này. Việc ứng dụng các
fintech này trong việc giúp huy động vốn đối với DNNVV đòi hỏi sự cam kết và nỗ lực lớn hơn
của các bên liên quan cũng như một cơ sở pháp lý toàn diện và nhận thức kinh doanh cởi mở hơn
trong xã hội.
Từ khóa: Fintech, doanh nghiệp nhỏ và vừa, gọi vốn cộng đồng, cho vay ngang hàng
1. FINTECH VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế và hoạt
động sáng tạo (Patwardhan, 2018). Tuy nhiên, DNNVV gặp khó khăn trong việc huy động vốn
và do vậy bị hạn chế khả năng tăng trưởng và phát triển. Các DNNVV với quy mô và uy tín hạn
chế của mình rất khó khăn trong việc huy động vốn trực tiếp từ thị trường tài chính. Các chứng
khoán của các doanh nghiệp này nếu phát hành rất khó được khách hàng chấp nhận. Do vậy
nguồn vốn của các doanh nghiệp này phụ thuộc rất nhiều vào ngân hàng. Tuy vậy, khi tiếp xúc
với nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng thương mại, các DNNVV cũng gặp nhiều khó khăn. Nhìn
từ góc độ ngân hàng thương mại, các DNNVV không phải là nhóm khách hàng hấp dẫn vì bất ổn
định, phức tạp và không tạo ra nhiều lợi nhuận. Trong trường hợp các ngân hàng cung cấp dịch
vụ cho DNNVV, các dịch vụ này thường không được điều chỉnh và chi phí cao được chuyển cho
khách hàng, khiến cho các khoản vay của DNNVV trở nên đắt đỏ. Hầu hết các khoản vay của
388
các DNNVV dựa trên tài sản thế chấp hoặc thông qua dịch vụ bao thanh toán vốn khá rắc rối về
thủ tục và có chi phí cao (Blakstad & Allen, 2018). Tương tự, Hoenig & Henkel (2015) phát hiện
ra rằng các DNNVV thường gặp khó khăn nghiêm trọng trong việc thu hút tài chính bên ngoài
do sự bất cân xứng thông tin. Nhiều DNNVV không chứng minh được lịch sử tín dụng, thiếu
giấy tờ pháp lý về doanh nghiệp hoặc giấy tờ sở hữu đất đai, thiếu hồ sơ theo dõi những thành
tựu trong quá khứ để thuyết phục các nhà đầu tư truyền thống. Những doanh nghiệp này đồng
thời gặp các khó khăn về thực hiện các quy trình thủ tục và phải tốn thêm chi phí cho những
người môi giới trung gian (Blakstad & Allen, 2018).
Trong bối cảnh phát triển định hướng công nghệ, nhưng các doanh nghiệp nhỏ về đổi mới
sáng tạo thường gặp nhiều khó khăn nhất khi huy động vốn (Mina và cộng sự, 2013). Các doanh
nghiệp đổi mới có xu hướng áp dụng các mô hình kinh doanh rủi ro hơn để tạo ra sản phẩm và
thị trường mới nhưng đồng thời là rào cản để định giá các doanh nghiệp này (Lee và cộng sự,
2015). Các DNNVV về công nghệ thường phụ thuộc nhiều vào tài sản vô hình, thay vì tài sản
vật chất. Tuy nhiên tài sản vô hình rất khó định giá và do đó khó sử dụng làm tài sản thế chấp để
cho vay. Ngoài ra, Mina và cộng sự (2013) đã chỉ ra ba vấn đề chính hạn chế tiếp cận tín dụng
của các DNNVV đổi mới. Đầu tiên, lợi nhuận cho hoạt động đổi mới sáng tạo có thể không chắc
chắn và do đó làm cho hoạt động này trở nên rủi ro hơn về mặt tài chính (Mazzucato, 2013). Tỷ
lệ thất bại thường cao, làm cho đổi mới sáng tạo trở thành một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro
tiềm tàng. Thứ hai, sự bất cân xứng thông tin khiến các ngân hàng khó định giá các khoản đầu tư
về đổi mới sáng tạo. Các sản phẩm sáng tạo tuân theo các định nghĩa mới, đặc thù đòi hỏi định
giá thông qua chuyên gia với các kỹ năng đặc biệt. Thứ ba, những đổi mới mới phụ thuộc vào
bối cảnh cụ thể của doanh nghiệp. Ví dụ, một đổi mới quy trình mới chỉ có thể áp dụng trong
doanh nghiệp mà nó hoạt động.
Bên cạnh các đặc điểm nội tại của các DNNVV gây bất lợi trong huy động vốn truyền
thống, nhiều doanh nghiệp không thể tiếp cận được với tài chính do vấn đề khoảng cách địa lý
cản trở việc thu thập thông tin, theo dõi hiệu suất và liên lạc với các dự án đầu tư. Trái ngược với
các doanh nghiệp lớn được niêm yết, các nhà đầu tư trong các dự án mạo hiểm ở giai đoạn đầu
thường là các doanh nghiệp địa phương. Việc đảm bảo nguồn vốn từ các nguồn tài chính truyền
thống thành công hay không phụ thuộc phần lớn vào khoảng cách địa lý giữa các doanh nhân và
nhà cung cấp vốn (Chen và cộng sự, 2009).
Ở các nền kinh tế đang phát triển trên thế giới, hơn 200 triệu DNNVV thiếu khả năng tiếp
cận tài chính (Patwardhan, 2018). Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) ước tính rằng 55% các
DNNVV ở các nước đang phát triển hoàn toàn không tiếp cận được tín dụng hoặc không có đủ
tín dụng để phát triển kinh doanh. Ở Việt Nam, các DNNVV cũng gặp nhiều khó khăn trong việc
huy động vốn. Theo số liệu của Phòng Nghiên cứu phát triển của Trung tâm Thông tin tín dụng
(CIC), hiện Việt Nam có trên 1 triệu DNNVV, thì có đến hơn 773.000 chưa tiếp cận được tín
dụng. Thiếu nguồn tài chính là một trong những khó khăn cơ bản trong hoạt động của các
DNNVV tại Việt Nam. Khảo sát doanh nghiệp tại Việt Nam do Ngân hàng Thế giới (2016) thực
hiện xác định những trở ngại môi trường kinh doanh quan trọng nhất được các doanh nghiệp
Việt Nam cho thấy rào cản hạn chế nhất được xác định là tiếp cận nguồn tài chính. Một khảo sát
389
khác của Diễn đàn kinh tế thế giới (2016) cũng liệt kê việc huy động vốn là một trong những yếu
tố gây khó khăn nhất cho hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.
Hạn chế về khả năng huy động vốn của các DNNVV thông qua các tổ chức tài chính
truyền thống đòi hỏi phải có sự xuất hiện của các kênh mới để cung cấp nguồn vốn. Đổi mới
công nghệ đã giúp huy động vốn mở rộng ra ngoài phạm vi của người cho vay truyền thống.
Thông qua các khả năng kết nối nhờ vào Internet, mối quan hệ giữa doanh nhân và nhà đầu tư
được định hình lại. FinTech là viết tắt của cụm từ Financial Technology, dịch sang Tiếng Việt là
công nghệ tài chính. Gọi vốn cộng đồng và cho vay ngang hàng là hai dạng Fintech tiêu biểu
nhất giúp tăng cường mối quan hệ giữa những người có vốn dư thừa và các DNNVV
(Patwardhan, 2018).
Với việc ứng dụng công nghệ fintech để tăng tính minh bạch, giảm chi phí và rủi ro quản
trị, cho vay ngang hàng và gọi vốn cộng đồng có thể cung cấp thêm hai nguồn vốn tiềm năng cho
các DNNVV. Đầu tiên, các hình thức này có thể giúp tập hợp các khoản tiết kiệm nhỏ trong cộng
đồng thành vốn lưu động cho DNNVV (Blakstad & Allen, 2018). Ngoài ra, hồ sơ theo dõi giao
hàng có thể được chứng minh dựa trên sự tương tác giao nhận của khách hàng, không đòi hỏi các
giấy tờ liên quan đến các giao dịch giống như mô hình tài chính truyền thống. Phần tiếp theo của
bài viết xem xét tác động của hai hình thức fintech gọi vốn cộng đồng và cho vay ngang hàng đối
với việc huy động vốn của các DNNVV.
2. GỌI VỐN CỘNG ĐỒNG
2.1. Bản chất của gọi vốn cộng đồng
Gọi vốn cộng đồng là tài trợ cho một dự án hoặc doanh nghiệp thông qua một nhóm các cá
nhân thay vì các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp (Schwienbacher & Larralde, 2010). Gọi vốn cộng
đồng được thực hiện không có bất kỳ trung gian tài chính nào: các doanh nghiệp huy động tiền trực
tiếp từ các cá nhân thông qua Internet. Gọi vốn cộng đồng cũng có thể được nhìn nhận giống như
một cuộc huy động vốn mở, thông qua Internet, để cung cấp các nguồn tài chính dưới hình thức
quyên góp hoặc đổi lấy một số lợi ích hoặc quyền biểu quyết để hỗ trợ các sáng kiến phát triển cụ
thể. Gọi vốn cộng đồng đang phát triển nhanh chóng. Tính đến năm 2015, có khoảng 1.250 nền
tảng gọi vốn cộng đồng trên thế giới, trị giá khoảng 34,4 tỷ đô la (Crowdsource, 2015).
Gọi vốn cộng đồng có thể được phân loại thành bốn loại nền tảng: (1) gọi vốn cộng đồng
dựa trên quyên góp; (2) gọi vốn cộng đồng dựa trên phần thưởng; (3) gọi vốn cộng đồng dựa trên
cho vay; và (4) gọi vốn cộng đồng dựa trên góp vốn cổ phần. Các nhà đầu tư theo mô hình gọi
vốn cộng đồng dựa trên quyên góp thường đóng góp cho một dự án từ thiện, sáng tạo hoặc xã
hội một cách phi vụ lợi. Mô hình quyên góp trái ngược với mô hình dựa trên phần thưởng, trong
đó những người quyên góp sẽ nhận được phần thưởng, chẳng hạn như thành phẩm, đặc quyền
hoặc công nhận trong quá trình sản xuất. Gọi vốn cộng đồng dựa trên cho vay và dựa trên vốn
chủ sở hữu được gọi chung là gọi vốn cộng đồng đầu tư theo đó nếu các doanh nghiệp phát triển
tốt, các nhà đầu tư được lợi ích tài chính. Trong mô hình dựa trên cho vay, họ sẽ nhận lại khoản
đầu tư của mình cộng với tiền lãi. Trong mô hình dựa trên vốn cổ phần, nhà đầu tư trở thành chủ
sở hữu của doanh nghiệp gọi vốn.
390
2.2. Gọi vốn cộng đồng loại bỏ các trở ngại về huy động vốn của DNNVV
Giảm rào cản địa lý
Gọi vốn cộng đồng cho phép các DNNVV tiếp cận với nhiều nhà đầu tư ở các khu vực địa
lý khác nhau. Việc giảm thiểu rào cản địa lý được thực hiện bằng cách sử dụng các nền tảng trực
tuyến thông qua đó DNNVV có thể trực tiếp tiếp thị các dự án tới cộng đồng tài trợ, đáp ứng nhu
cầu của các nhà đầu tư trong việc thu thập thông tin, theo dõi hiệu suất và liên lạc với các dự án
đầu tư (Chen và cộng sự, 2009), (Mollick, 2014).
Giảm chi phí và thời gian
Kleemann và cộng sự (2018) và Paschen (2017) chứng minh gọi vốn cộng đồng hỗ trợ tăng
trưởng cho DNNVV bằng cách giảm chi phí tài chính. Bên cạnh đó, Agrawal và cộng sự (2013)
khẳng định gọi vốn cộng đồng dựa trên vốn chủ sở hữu có thể giảm thiểu tác động của sự bất cân
xứng thông tin và giảm chi phí theo dõi và quản lý các khoản đầu tư. Gọi vốn cộng đồng cũng
giúp cung cấp thông tin về dự án của nhiều doanh nghiệp cùng một lúc.
Gọi vốn cộng đồng giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp có thể huy động từ một nhóm lớn các
cá nhân, vượt qua quá trình gây quỹ truyền thống bao gồm các giai đoạn thẩm định và đàm phán
kéo dài về định giá doanh nghiệp và các điều khoản hợp đồng. Số tiền đầu tư tương đối nhỏ được
truyền dẫn thông qua các nền tảng dựa trên trang web gọi vốn cộng đồng hoặc thông qua các mạng
xã hội như Facebook, Twitter và LinkedIn (Fenwick và cộng sự, 2018). Ngoài việc cung cấp
quyền truy cập vào thông tin về điểm tín dụng của những người vay tiềm năng, các nền tảng cho
phép các nhà đầu tư thông qua các thông báo thời gian thực về giá thầu cho vay đối với các dự án
để đa dạng hóa danh mục đầu tư (Morse, 2015). Điều này có thể giúp tăng đáng kể cơ hội huy
động vốn (Drake, 2013) đối với các DNNVV định hướng đổi mới đang gặp nhiều khó khăn trong
việc huy động tài trợ bằng các hình thức truyền thống (Herve & Schwienbacher, 2018).
Tác động tới sự phát triển của DNNVV
Bằng cách tham gia vào thiết kế và cải tiến sản phẩm, người dùng góp phần tạo ra giá trị cho
doanh nghiệp. Điều này cho phép doanh nghiệp giảm thời gian phát triển sản phẩm mới, tạo sự
chấp nhận tốt hơn của khách hàng và tăng nhận thức của khách hàng về sự mới mẻ của sản phẩm.
Paschen (2017) khẳng định rằng gọi vốn cộng đồng hỗ trợ sự phát triển của các DNNVV
bằng cách cung cấp kiến thức từ những người ủng hộ bên ngoài. Bên cạnh việc nới lỏng các hạn
chế tài chính của các doanh nghiệp mới khởi nghiệp và DNNVV, gọi vốn cộng đồng cho phép họ
tương tác trực tuyến với các nhà đầu tư và nhận phản hồi và đề xuất để cải thiện các sản phẩm và
dịch vụ (Giudici & Rossi-Lamastra, 2018). Nhờ sự tiện lợi của Web 2.0, các nhà gọi vốn cộng
đồng có thể giúp các doanh nhân tiến xa hơn bằng cách tham gia vào việc tạo, thử nghiệm, quảng
cáo, đánh giá và cải tiến sản phẩm và dịch vụ, giúp nhà sản xuất hiểu rõ hơn về thị hiếu của khách
hàng (Belleflamme và cộng sự, 2010). Đám đông có thể cung cấp ý tưởng về sự phát triển của sản
phẩm trong và sau dự án và mở rộng thông tin có giá trị về nhu cầu tương lai cho sản phẩm mới
(Eldridge và cộng sự, 2019). Theo cách này, gọi vốn cộng đồng cho phép sự tham gia của đám
đông trong chính quá trình đổi mới (Herve & Schwienbacher, 2018). Trong nhiều trường hợp, đám
391
đông thể hiện sự khôn ngoan hơn một cá nhân (thậm chí là một chuyên gia) khi giải quyết vấn đề
hoặc đưa ra quyết định (Schwienbacher & Larralde, 2012). Theo Brabham (2008), đám đông càng
đa dạng thì càng hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề của các doanh nghiệp.
Những lợi ích từ việc gọi vốn cộng đồng cũng có thể được xem xét trong khía cạnh khuyến
khích đổi mới và cải thiện mô hình kinh doanh (Paschen, 2017). Nhờ vào gọi vốn cộng đồng,
DNNVV có thể thu được thông tin về giá trị của dự án (Singh, 2013). Người dùng Internet trên
thực tế quyết định hỗ trợ dự án nếu tin tưởng vào sự thành công trên thị trường của dự án đó.
Như vậy, gọi vốn cộng đồng tạo ra một cơ hội tuyệt vời để kiểm chứng ý tưởng với thực tế. Việc
tương tác trực tuyến khiến các cá nhân nghĩ xa hơn, ít chú ý đến sự phù hợp và ít sợ sự kỳ thị của
xã hội (Schemmann và cộng sự, 2016). Stanko & Henard (2016) đã thực hiện một nghiên cứu
định tính để đánh giá sự đóng góp của gọi vốn cộng đồng cho các giai đoạn nghiên cứu liên quan
đến phát triển sản phẩm như công nghệ, thiết kế sản phẩm và phần cứng. Phát hiện cho thấy số
lượng cập nhật được cung cấp cho những người ủng hộ và cởi mở với các ý tưởng bên ngoài
đóng góp đáng kể cho sự đổi mới và tăng trưởng trong giai đoạn tiếp theo.
Sự tham gia của nhà đầu tư vào đợt chào bán ban đầu đóng một vai trò quan trọng trong
thành công sau khi huy động. Walthoff-Borm và cộng sự (2018) cho thấy các doanh nghiệp gọi
vốn cộng đồng tạo ra các bằng sáng chế được đăng ký thành công nhiều hơn 3,4 lần so với các
doanh nghiệp không gọi vốn cộng đồng. Theo Giudici & Rossi-Lamastra (2018), các nhà đầu tư
gọi vốn cộng đồng không chỉ quan tâm đến việc hỗ trợ tài chính cho các DNNVV trong suốt quá
trình gọi vốn mà còn quan tâm tới các doanh nghiệp này khi quá trình gọi vốn kết thúc. Một dự
án gọi vốn cộng đồng thành công có thể giúp tăng cơ hội tài trợ từ các nguồn vốn khác. Ngược
lại, một dự án gọi vốn cộng đồng nhận được ít sự quan tâm từ công chúng giúp những người
sáng lập cải thiện doanh nghiệp hơn nữa hoặc quyết định dừng lại mà không phải đầu tư nhiều
tiền và công sức hơn (Mollick, 2014).
2.3. Gọi vốn cộng đồng ở Việt Nam
Hiện trạng
Kể từ dự án gọi vốn cộng đồng thành công đầu tiên vào năm 2014, tổng số vốn huy động
được thông qua gọi vốn cộng đồng là 36,7 tỷ đồng (tương đương khoảng 1,6 triệu USD), không
đáng kể nếu so với Hoa Kỳ hoặc với quốc gia láng giềng Singapore (Lim, 2015). Theo số liệu
thống kê được cung cấp bởi (Statista, 2019), năm 2019, tổng số tiền được tài trợ nhờ gọi vốn
cộng đồng tại Việt Nam dự kiến ở mức rất khiêm tốn là 0,5 triệu đô la Mỹ.
Hình 1 mô tả xu hướng tài trợ ở Việt Nam thông qua hai chỉ số: số lượng dự án và số tiền
huy động được trong mỗi dự án. Như được giải thích trong biểu đồ, số lượng dự án gọi vốn cộng
đồng ở Việt Nam đang giảm dần theo thời gian, từ 3000 dự án năm 2017 xuống còn 2200 dự án
vào năm 2019 và dự kiến sẽ có 1900 dự án gọi vốn cộng đồng vào năm 2021. Ngược lại, số tiền
tích lũy trong mỗi dự án có xu hướng tăng mạnh, từ 1219 đô la Mỹ cho mỗi dự án năm 2017 lên
2074 đô la Mỹ cho mỗi dự án vào năm 2019. Statista (2019) dự báo rằng vào năm 2023, trung
bình một dự án thành công được tài trợ là 3681 đô la Mỹ.
392
(Nguồn: Statista, 2019)
Hình 1: Xu hướng của gọi vốn cộng đồng Việt Nam
Thách thức
Gọi vốn cộng đồng có tiềm năng lớn để loại bỏ khoảng cách tín dụng của các DNNVV bởi
các đặc điểm đột phá của nó. Ngoài các nền tảng quốc tế có sẵn tại Việt Nam như gofundme
hoặc kickstarter, các DNNVV có thể sử dụng các nền tảng gọi vốn cộng đồng trong nước. Một
số thông tin về các nền tảng gọi vốn cộng đồng Việt Nam được trình bày trên bảng 1.
Bảng 1: Các nền tảng gọi vốn cộng đồng Việt Nam hiện nay
Thứ
tự
Tên Năm
thành lập
Lĩnh vực
tập trung
Chủng loại
1. Fundingvn 2013 Đa dạng Dựa trên phần thưởng
2. Betado 2015 Đa dạng Dựa trên phần thưởng, dựa trên quyên góp
3. Comicola 2015 Xuất bản Dựa trên phần thưởng
4. Fundstart 2015 Đa dạng Dựa trên phần thưởng
(Nguồn: Tác giả tập hợp)
Có thể thấy rằng tất cả các dự án đều sử dụng mô hình dựa trên phần thưởng hoặc dựa trên
quyên góp. Lý do của thực tế này là gọi vốn cộng đồng vẫn là một khái niệm mới lạ ở Việt Nam,
do đó tất cả các dự án được xử lý theo cách đơn giản nhất là dựa trên quyên góp hoặc dựa trên
phần thưởng. Đồng thời hiện còn thiếu khung pháp lý mạnh mẽ để điều chỉnh quy trình của mô
hình dựa trên cho vay và dựa trên vốn chủ sở hữu. Việc thiếu các quy định dành riêng cho gọi
vốn cộng đồng có thể khiến các DNNVV không sử dụng hình thức huy động vốn này và những
người ủng hộ tiềm năng không đầu tư vì sợ khó khăn trong việc chứng minh tính hợp pháp của
các khoản đầu tư và những thay đổi theo luật định trong tương lai. Ở một số nước phát triển, gọi
vốn cộng đồng đã được công nhận là một hình thức tài chính hợp pháp và các quy định đã phát
triển để đưa ra hướng sử dụng nó (ví dụ Đạo luật JOBS tại Hoa Kỳ có hiệu lực vào tháng 5 năm
2016 quy định rằng công chúng có thể đầu tư tiền vào mạo hiểm giai đoạn đầu). Trong khi đó, tại
393
Việt Nam, không có quy định chính thức nào về pháp luật đã trực tiếp giải quyết vấn đề gọi vốn
cộng đồng.
Bên cạnh đó, các vấn đề liên quan đến bản thân những DNNVV có thể là các cản trở để
gọi vốn cộng đồng có thể phát triển. Chẳng hạng chủ DNNVV có thể sợ tiết lộ thông tin. Nỗi sợ
tiết lộ phản ánh thực tế rằng các doanh nhân thường tham gia vào các cơ hội kinh doanh nhiều
rủi ro trong đó lợi thế người đi đầu được coi là tài sản chiến lược quan trọng (Drucker &
Drucker, 2007). Các DNNVV cũng có thể lo ngại doanh nghiệp có thể bị giảm giá trị hoặc chịu
tác động tiêu cực đến hình ảnh khi thực hiện hoạt động gọi vốn cộng đồng (Gleasure, 2015).
Nỗi lo lắng lớn nhất đối với các nhà đầu tư là người sáng lập lạm dụng tiền từ việc huy
động vốn. Trong trường hợp gọi vốn cộng đồng, vấn đề này có thể còn rõ rệt hơn. Thật vậy, các
nhà đầu tư không phải là chuyên gia và do đó có ít thông tin hơn về ngành, hiệu suất trong quá
khứ của chủ DNNVV và nhiều thông tin liên quan đến giá trị khác. Hơn nữa, chủ DNNVV có
thể thậm chí còn miễn cưỡng tiết lộ thông tin hơn cho các nhà đầu tư gọi vốn cộng đồng do số
lượng nhà đầu tư lớn và sự thiếu chuyên nghiệp của của các nhà đầu tư. Trong bối cảnh của Việt
Nam, giao tiếp trực tiếp và các mối quan hệ cá nhân đóng một vai trò thiết yếu trong các giao
dịch kinh doanh (Turan, 2015).
Sự tin tưởng trong xã hội là một trong những yếu tố quyết định mạnh mẽ nhất đến sự thành
công của việc gọi vốn cộng đồng ở một quốc gia. Nghiên cứu cho thấy các cộng đồng có thể xây
dựng lòng tin có nhiều khả năng đưa ra quyết định mang tính bền vững cho dù đó là quản lý môi
trường, hay cơ sở hạ tầng dài hạn (Blakstad & Allen, 2018). Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam
nơi gian lận tài chính rất phổ biến và quy định không đủ để đáp ứng sự chuyển đổi của thị
trường, các nhà đầu tư có xu hướng ngại ngần khi tiếp cận một phương tiện đầu tư mới. Sự thiếu
tin tưởng của xã hội dẫn đến ưu thế của cho vay dựa trên quan hệ và cần có những nỗ lực đáng
kể để các nền tảng gọi vốn cộng đồng thâm nhập vào thị trường tài chính Việt Nam. Nghiên cứu
của (Bùi, 2017) cho thấy đối với gọi vốn cộng đồng dựa trên quyên góp cho các hoạt động từ
thiện, người Việt Nam có xu hướng giúp đỡ những người có nhu cầu kịp thời. Tuy nhiên, về mặt
đầu tư vào các dự án vì lợi nhuận, sẽ mất nhiều thời gian hơn để thuyết phục các nhà tài trợ đầu
tư vào một dự án khởi nghiệp.
Một yếu tố khác ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của gọi vốn cộng đồng ở Việt Nam
là văn hóa doanh nhân. Cần có tinh thần kinh doanh để khuyến khích các nhà đầu tư cởi mở hơn
với các doanh nghiệp sáng tạo và các doanh nghiệp khởi nghiệp đang ở trong giai đoạn đầu và
chưa thể chứng minh uy tín của mình. Nếu Việt Nam có thể xây dựng một hệ sinh thái khởi
nghiệp mạnh mẽ, các DNNVV sẽ có thể tận dụng nguồn tài trợ của đám đông. Ngược lại, các
DNNVV sẽ phải tìm kiếm các nguồn vốn thay thế khác.
3. CHO VAY NGANG HÀNG
Cho vay ngang hàng (P2P) là một phương thức khá mới để tổ chức hoạt động tín dụng và
được phát triển ban đầu như một cách thức để những người vay nghèo có rủi ro tín dụng cao tiếp
cận các khoản vay mà không cần thế chấp tài sản. Cho vay ngang hàng dần trở thành cơ hội đầu tư
394
thông qua internet cho các nhà đầu tư cá nhân ở các nước phát triển. Việc cho vay trên thị trường
này có chi phí vận hành thấp, ít chịu ràng buộc bởi các quy định và dựa vào các mô hình dữ liệu.
Cho vay ngang hàng tại Hoa Kỳ đạt 12 tỷ USD vào cuối năm 2014 (Morgan Stanley, 2015). Tại
Vương quốc Anh, khối lượng cho vay tiêu dùng P2P đã tăng lên tới 366 triệu EUR vào năm 2015
trong khi cho vay kinh doanh đã tăng lên 212 triệu EUR trong cùng kỳ (KPMG, 2017).
Nhà điều hành P2P sử dụng nền tảng trực tuyến để kết nối trực tiếp với người vay và nhà
đầu tư thay vì hoạt động như một trung gian tài chính truyền thống (Davis & Murphy, 2016).
Nhà điều hành P2P sẽ thực hiện đánh giá tín dụng của những người vay tiềm năng. Nếu được coi
là đáng tin cậy, yêu cầu cho vay sẽ được liệt kê ẩn danh cùng với thông tin liên quan đến rủi ro
cho các nhà đầu tư để tài trợ. Các nhà đầu tư chọn các khoản vay hoặc loại cho vay dựa trên
khẩu vị rủi ro cá nhân. Các nhà đầu tư bị buộc phải hoặc được khuyến khích đầu tư vào các phần
nhỏ của nhiều khoản vay thay vì phải tập trung đầu tư vào một khoản vay. Khi khoản vay đã
được tài trợ đầy đủ, người vay được cấp khoản vay. Nhà điều hành P2P sẽ thay mặt nhà đầu tư
thực hiện giám sát và quản lý người vay.
Nguồn: (Davis & Murphy, 2016)
Hình 2: Mô hình cho vay ngang hàng cơ bản
Mô hình cho vay ngang hàng kết nối những người cần vay với người cho vay và hưởng
doanh thu từ một phần tiền lãi mà người vay phải trả cho khoản vay. Các nền tảng hoạt động
bằng cách hỗ trợ thu thập thông tin, chấm điểm và phân phối tín dụng của những người vay tiềm
năng, báo cáo lãi suất theo thời gian thực cho các dự án, cung cấp dịch vụ trực tuyến và giám sát
khoản vay (Morse, 2015). Sử dụng các thông tin này, người cho vay có thể xem xét phê duyệt
các khoản vay. Các nhà đầu tư có thể chọn đầu tư theo thuật toán, trực tiếp hoặc thông qua một
nhóm. Quy trình cho vay ngang hàng liên quan đến việc kết hợp trực tiếp giữa người cho vay và
người vay thông qua đấu giá trực tuyến trong đó lãi suất yêu cầu được khớp cho đến khi khoản
vay được tài trợ đầy đủ hoặc được khớp với tỷ lệ và danh mục cố định. Phần lớn các nền tảng đã
áp dụng quy tắc AON, yêu cầu các dự án phải đáp ứng mục tiêu tài trợ. Các quy tắc đấu thầu
khác quy định rằng những người cho vay không thể trả giá thấp hơn nhau, nhưng những người
cần vay có thể tăng lãi suất trong thời gian đấu thầu (Fenwick và cộng sự, 2018). Theo Hill
Nhà cung cấp dịch vụ
cho vay ngang hàng
Nhà đầu tư Người vay vốn
Phí Phí
Nền tảng cho vay ngang hàng
Khoản vay
Tiền gốc, lãi vay
395
(2018), so với tín dụng ngân hàng truyền thống, các khoản vay ngang hàng được xử lý nhanh, tỷ
lệ phê duyệt cao hơn và cải thiện trải nghiệm khách hàng vượt trội.
3.1. Cho vay ngang hàng loại bỏ các trở ngại về huy động vốn của DNNVV
Giống như gọi vốn cộng đồng, cho vay ngang hàng được thực hiện thông qua nền tảng dựa
trên internet, do đó giảm tương tác trực diện giữa người cho vay và người vay. Các nền tảng cho
vay ngang hàng có thể kết nối người vay với người cho vay từ các khu vực khác nhau. Cho vay
ngang hàng cho phép các nhà đầu tư có vốn nhàn rỗi đa dạng hóa danh cho vay và điều chỉnh rủi
ro với mô hình hoạt động có chi phí thấp hơn (Fenwick và cộng sự, 2018). Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp cho vay ngang hàng tăng đáng kể cạnh tranh về tín dụng ở hầu hết các thị trường
mà họ đang hoạt động (Fenwick và cộng sự, 2018).
Các công cụ dữ liệu có thể được sử dụng để giảm chi phí giao dịch phù hợp với các yêu
cầu tài chính và cơ hội đầu tư, dẫn đến số tiền cho vay nhỏ hơn và có thể chia nhỏ các khoản vay
lớn (Feng và cộng sự, 2015). So với các ngân hàng truyền thống, nền tảng cho vay ngang hàng
cung cấp mức lãi suất thấp hơn nhiều nhờ thuật toán kết hợp người cho vay với người vay phù
hợp (Schwienbacher & Larralde, 2012). Đánh giá lãi suất đòi hỏi các ngân hàng truyền thống
phải mất nhiều thời gian và công sức trong khi các doanh nghiệp cho vay ngang hàng được hỗ
trợ bởi hệ thống dựa trên công nghệ có thể đáp ứng yêu cầu vay trong vòng một ngày hoặc thậm
chí một giờ.
3.2. Cho vay ngang hàng tại Việt Nam
Hiện trạng
Tính năng quan trọng của cho vay ngang hàng trực tuyến là sự công khai về công bố dữ
liệu của người tham gia hệ thống và các đánh giá, nhận xét của người vay hoặc người cho vay.
Vì vậy, các nhà đầu tư có thể cung cấp tín dụng cho những người không quen biết dựa trên đánh
giá. Do đó, cơ hội cho vay ngang hàng là rất lớn với những thị trường ngách mà các tổ chức tài
chính truyền thống chưa đáp ứng được.
Hiện tại, ở Việt Nam, Huydong.com, Tima và Mofin là ba nền tảng chính cung cấp dịch vụ
cho vay ngang hàng. Đây đều là các nền tảng còn khá non trẻ. Tima và mofin được thành lập vào
2015 và 2017 hướng đến các khoản vay ngang hàng của các cá nhân. Riêng Huydong.com được
thành lập từ 2015 hướng tới nhóm DNNVV cũng như các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Thách thức
Mô hình cho vay ngang hàng mang một số rủi ro cố hữu. Đầu tiên, nền tảng P2P nhận
doanh thu tỷ lệ thuận với khối lượng cho vay (Nemoto, Storey, & Huang, 2019). Do đó, các nền
tảng này có động cơ về mặt tài chính để tăng khối lượng các khoản vay ngay cả với khi điều đó
đồng nghĩa với việc hạ thấp các tiêu chuẩn tín dụng. Các nền tảng này cũng tự đánh giá những
người vay tín dụng, mặc dù không phải chịu hậu quả tài chính trực tiếp từ các khoản nợ xấu.
Nguồn tài trợ cho các nền tảng này cũng là một điểm yếu vì phụ thuộc vào các nhà đầu tư giữ
được niềm tin vào nền tảng để duy trì các khoản vay. Các nhà đầu tư không thể dựa vào bảo
396
hiểm tiền gửi như khi giao dịch với các tổ chức tín dụng truyền thống. Vì vậy các nền tảng P2P
cho phép rút tiền sớm sẽ dễ bị rút tiền hàng loạt nếu nhà đầu tư mất niềm tin. Sự bảo vệ các nhà
đầu tư trong trường hợp nền tảng bị thất bại là không rõ ràng. Do vậy một nền tảng được quản lý
kém sẽ không chỉ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư mà còn làm xói mòn niềm tin cần thiết cho các
nhà đầu tư tiếp tục cho vay. Hơn nữa, hoạt động cho vay cũng mang tính chu kỳ, với các
DNNVV hoạt động kém được duy trì bằng các khoản vay giá rẻ trong một thời gian và sẽ sụp đổ
trong thời kỳ khó khăn khi tín dụng trở nên đắt đỏ (Nemoto, Storey, & Huang, 2019).
Hiện tại, thiếu một cơ sở pháp lý mạnh mẽ và toàn diện cho quy định hoạt động cho vay
ngang hàng tại Việt Nam (Tran & Hoang, 2017). Theo Nemoto, Storey, & Huang (2019), thách
thức đối với các cơ quan quản lý là bảo vệ chống lại các rủi ro hệ thống và duy trì một thị trường
công bằng, an toàn và cạnh tranh. Đồng thời, cần phải khuyến khích sự tăng trưởng của cho vay
để nhận ra tiềm năng của nó để chuyển đổi nguồn vốn kinh doanh nhỏ và tăng cường tăng trưởng
kinh tế. Để đạt được điều này, nó đòi hỏi sự cam kết của tất cả các bên liên quan, từ các nền tảng
cho vay ngang hàng, các tổ chức tài chính và các nhà hoạch định chính sách.
Một mối quan tâm khác liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng. Do hậu quả trực tiếp của
khung pháp lý không thống nhất, các nhà cung cấp cho vay tiêu dùng khác nhau đang khai thác
khoảng cách để kiếm lợi nhuận. Đối với nhóm khách hàng thiếu hiểu biết, các doanh nghiệp đó
có xu hướng cung cấp cho họ không đủ thông tin để đánh giá rủi ro và đưa ra những không thực
tế về lợi nhuận thu được. Đặc biệt, trong trường hợp tranh chấp tài chính, thiếu cơ chế truy đòi
hiệu quả để bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Các nền tảng cho vay ngang hàng với tư cách là nhà
cung cấp dịch vụ không chịu trách nhiệm bồi thường tổn thất do trách nhiệm loại trừ của các
trung gian. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp này chủ yếu là các doanh nghiệp dựa trên internet, do
đó, không có bộ phận nào chuyên đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
4. KẾT LUẬN
Có nhiều bằng chứng để chứng minh sự phổ biến của việc tiếp cận tín dụng kém giữa các
DNNVV là kết quả của ba nguyên nhân chính. Từ quan điểm của người cho vay, các doanh nhân
báo cáo rất khó khăn trong việc nhận tài chính từ các ngân hàng truyền thống vì thực tế rằng họ
được coi là rủi ro và ít sinh lãi cho các ngân hàng. Từ quan điểm của người vay, đặc biệt là
những người là các doanh nghiệp sáng tạo, các tính năng và mô hình kinh doanh không chắc
chắn khiến họ càng khó tìm nhà đầu tư hơn. Lý do cuối cùng liên quan đến khoảng cách địa lý.
Các nền tảng tài chính dựa trên công nghệ mới hứa hẹn tạo ra một môi trường thuận lợi hơn cho
các DNNVV và có thể loại bỏ các rào cản hiện có để huy động vốn của các DNNVV, giảm lãi
suất và chi phí giao dịch.
Fintech là nền tảng gọi vốn cộng đồng kết nối các DNNVV với đám đông. Là một nền tảng
dựa trên internet, gọi vốn cộng đồng có thể giảm thiểu tác động của các rào cản địa lý ngăn cản
các DNNVV tiếp cận với tài chính. Hơn nữa, gọi vốn cộng đồng có thể giảm chi phí và chuyển
rủi ro cho một loạt các nhà đầu tư, giảm yêu cầu tài liệu cần nhiều thời gian để xử lý.
Cho vay ngang hàng sử dụng nền tảng trực tuyến để kết nối trực tiếp người vay và nhà đầu
tư. Do đó, cho vay ngang hàng cũng có thể làm giảm tác động của khoảng cách địa lý giữa người
397
cho vay và người vay, cung cấp mức lãi suất và chi phí giao dịch phải chăng hơn cho các
DNNVV. Ngoài ra, cho vay ngang hàng sử dụng công nghệ để các yêu cầu cho vay được xử lý
trong một thời gian ngắn, đáp ứng ngay nhu cầu về tài chính của người vay.
Từ những phân tích ở trên, tác giả đưa ra một số khuyến nghị sau đây. Thứ nhất, chính phủ
cần nghiên cứu để đưa ra một khung pháp lý phù hợp đối với sự phát triển của Fintech, tạo hành
lang pháp lý cho sự phát triển của Fintech một cách mạnh mẽ hơn. Thứ hai, cần tiếp tục xây
dựng cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin để giúp kết nối dễ dàng giữa DNNVV với các
Fintech. Thứ ba, cần tạo ra cơ chế chia sẻ thông tin và đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng
nói chung và DNNVV nói riêng trong việc sử dụng các dịch vụ Fintech.
Việc các DNNVV tiếp cận các hình thức Fintech hiện đại để huy động vốn có thể có một
số ảnh hưởng quan trọng tới công tác kế toán của doanh nghiệp. Thứ nhất, việc ghi chép các
nguồn vốn tạo thành từ việc huy động vốn thông qua các hình thức mới gọi vốn cộng đồng hoặc
vay vốn ngang hàng đòi hỏi có những tài khoản riêng để theo dõi, đặc biệt nếu những nguồn vốn
này chiểm tỷ lệ lớn trong nguồn vốn của doanh nghiệp. Thứ hai, các chứng từ liên quan đến các
hoạt động huy động vốn này là các bản ghi điện tử, cần có cơ chế phù hợp để phân loại, tích hợp
vào hệ thống chứng từ kế toán của của DNNVV. Cuối cùng, việc ghi chép các nguồn vốn hình
thành từ các nguồn nói trên đòi hỏi sự kết nối kịp thời hơn trong hệ thống thông tin kế toán
hướng tới cập nhật thông tin theo thời gian thực do việc thay đổi những nguồn vốn này có thể
diễn ra thường xuyên, nhanh chóng. Doanh nghiệp do đó cũng cần xây dựng hệ thống kiểm soát
rủi ro để có thể sử dụng tốt các nguồn vốn này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Agrawal, A., Catalini, C., & Goldfarb, A. (2013). Some simple economics of crowdfunding.
Cambridge: NBER Working Paper.
Belleflamme, P., Lambert, T., & Schwienbacher, A. (2010). Crowdfunding: An Industrial
Organization Perspective. Document for the Digital Business Models: Understanding
Strategies workshop. Retrieved 09 27, 2019, from Research Gate:
https://www.researchgate.net/publication/228468454
Blakstad, S., & Allen, R. (2018). SME Microfnance, Fractional Ownership and Crowd-funding.
In S. Blakstad, & R. Allen, FinTech Revolution (pp. 201-213).
Brabham, D. C. (2008). Crowdsourcing as a Model for Problem Solving: An Introduction and
Cases. Convergence: The International Journal of Research into New Media Technologies,
14(1), 75-90.
Chen, H., Gompers, P., Kovner, A., & Lerner, J. (2009). Buy Local? The Geography of
Successful and Unsuccessful Venture Capital Expansion. NBER Working Paper Series.
Crowdsourcing, LLC. (2015). Crowdfunding Industry Report. Crowdsourcing, LLC.
398
Cumming, D., Vanacker, T., & Zahra, S. (2019). Equity crowdfunding and governance: toward
an integrative model and research agenda. Academy of Management Perspectives
forthcoming.
Davis, K., & Murphy, J. (2016). Peer-to-peer lending: Structures, risks and regulation. JASSA
The Finsia Journal of Applied Finance, 37-45.
Do, H. L. (2019). Impacts of Founder on The Success of Crowdfunding in Vietnam. Journal of
Economics and Business, 2(2), 356-362.
Drake, D. (2013). New Financing Form, New Era. In S. S.D., Planet Entrepreneur: The World
Entrepreneurship Forum’s Guide to Business Success Around the World. New York:
Wiley, Somerset.
Drucker, P., & Drucker, P. (2007). Innovation and Entrepreneurship: Practice and Principles.
UK: Elsevier.
Eldridge, D., Nisar, T. M., & Torchia, M. (2019). What impact does equity crowdfunding have
on SME innovation and growth? An empirical study. Springer.
Feng, Y., Fan, X., & Yeujun, Y. (2015). Lenders and Borrowers’ Strategies in Online Peer-to-
Peer Lending Market: An Empirical Analysis of PPDai. com. Journal of Empirical
Research, 242–260.
Fenwick, M., McCahery, J. A., & Vermeulen, E. P. (2018). Fintech and the Financing of SMEs
and Entrepreneurs: From Crowdfunding to Marketplace Lending. In M. Fenwick, J. A.
McCahery, & E. P. Vermeulen, Te Economics of Crowdfunding, (pp. 103-129).
Giudici, G., & Rossi-Lamastra, C. (2018). Crowdfunding of SMEs and Startups: When Open
Investing Follows Open Innovation. In G. Giudici, & C. Rossi-Lamastra, Researching
Open Innovation in SMEs Crowdfunding of SMEs and Startups When Open Investing
Follows Open Innovation (pp. 377-396). Mochigan: University of Mochigan.
Gleasure, R. (2015). Resistance to crowdfunding among entrepreneurs: An impression
management perspective. Journal of Strategic Information Systems, 24(4), 219-233.
Global Entrepreneurship Monitor & VCCI. (2015). Bao Cao Chi So Khoi Nghiep Viet Nam
2014. Hanoi: Nha Xuat Ban Thong Tan.
Herve, F., & Schwienbacher, A. (2018). Crowdfunding and innovation. Journal of Economic
Surveys, 32(5), 1514–1530.
Hill, J. (2018). Bank lending. In J. Hill, FinTech and the Remaking of Financial Institutions (pp.
139-156).
Hoenig, D., & Henkel, J. (2015). Quality signals? The role of patents, alliances, and team
experience in venture capital financing. Research Policy, 44(5), 1049–1064.
Kleemann, Frank, G., Voss, G., & Rieder, K. (2018). Un(der)paid Innovators: The Commercial
Utilization of Consumer Work through Crowdsourcing. Science, Technology & Innovation
Studies, 4(1), 5-26.
399
KPMG (2017). The Pulse of FinTech Q4 2016: Global Analysis of Investment in FinTech.
Retrieved 09 27, 2019, from KPMG: https://assets.kpmg.com/content/dam/kpmg/xx/
pdf/2017/02/pulse-of-fntech-q4-2016.pdf
Lambert, T., & Schwienbacher, A. (2010). An Empirical Analysis of Crowdfunding.
Lee, N., Sameen, H., & Cowling, H. (2015). Access to finance for innovative SMEs since the
financial crisis. Research Policy, 44(2), 370-380.
Lim, P. J. (2015, 12 09). Interest Grows in Securities-based Crowdfunding in Singapore.
Retrieved 09 28, 2019, from Channel News Asia: http://www.channelnewsasia.com/news/
business/interestgrows-in/2332848.html
Mazzucato, M. (2013). Financing innovation: creative destruction vs. destructive creation.
Industrial and Corporate Change, 22(4), 851–867.
Mina, A., Lahr, H., & Hughes, A. (2013). The demand and supply of external finance for
innovative firms. Industrial and Corporate Change, 22(4), 869–901.
Mollick, E. (2014). The Dynamics of Crowdfunding: An Exploratory Study. Journal of Business
Venturing, 29(1), 1-16.
Morgan Stanley Research. (2015). Can P2P Lending Reinvent Banking? June 17. Retrieved 09
27, 2019, from Morgan Stanley Research: https://www.morganstanley.com/ideas/p2p-
marketplace-lending
Morse, A. (2015). Peer to Peer Crowdfunding: Information and the Potential for Disruption in
Consumer Lending. National Bureau of Economic Research.
Nemoto, N., Storey, D., & Huang, B. (2019). Optimal regulation of P2P lending for small and
medium-sized enterprises. Asian Development Bank Institute.
Paschen, J. (2017). Choose wisely: crowdfunding through the stages of the startup life cycle.
Business Horizons, 60(2), 179–188.
Patwardhan, A. (2018). Peer-To-Peer Lending. In A. Patwardhan, Handbook of Blockchain,
Digital Finance, and Inclusion (pp. 389-418).
Schemmann, B., Herrmann, A. M., Chappin, M. M., & Heimeriks, G. J. (2016). Crowdsourcing
ideas: involving ordinary users in the ideation phase of new product development.
Research Policy, 45(6), 1145–1154.
Schwienbacher, A., & Larralde, B. (2010). Crowd-funding of small entrepreneurs. Oxford:
Oxford University Press.
Schwienbacher, A., & Larralde, B. (2012). Crowdfunding of small entrepreneurial ventures. In
D. Cumming, The Oxford handbook of entrepreneurial finance (pp. 369–391). Oxford:
Oxford University Press.
Singh, I. (2013). The Global Entrepreneurial Revolut on. In S. S.D., Planet Entrepreneur: The
World Entrepreneurship. New York: Wiley, Somerset.
400
Stanko, M., & Henard, D. (2016). How crowdfunding influences innovation. MIT Sloan Review,
57(3), 15–17.
Statista. (2019). Crowdfunding in Vietnam. Retrieved 10 05, 2019, from Statista:
https://www.statista.com/outlook/335/127/crowdfunding/vietnam#market-globalRevenue
Stuart, T., & Sorenson, O. (2003). The Geography of Opportunity: Spatial Heterogeneity in
Founding Rates and the Performance of Biotechnology Firms. Research Policy, 32(2),
229- 253.
Tran, D. U., & Hoang, H. (2017). The Sharing Economy and Collaborative Finance the Case of
P2P Lending in Vietnam. Jurnal Ekonomi Bisnis, 22(2), 84-93.
Turan, S. S. (2015). Financial Innovation - Crowdfunding: Friend or Foe? Procedia - Social and
Behavioral Sciences, 195, 353-362.
Walthoff-Borm, X., Vanacker, T., & Collewaert, V. (2018). Equity crowdfunding, shareholder
structures, and firm performance. Corporate Governance: An International Review,
314–330.
World Bank. (2016). Vietnam - Enterprise Survey 2015. Washington D.C: World Bank.
Yao, H. L., & Zhang, Y. D. (2014). Research on Influence Factors of Crowd-funding.
International Business and Management, 9(2), 27-31.
401
Hệ thống thông tin kế toán quản trị tại một số quốc gia trên thế giới
và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Nguyễn Thị Hồng Duyên, Nguyễn Phương Anh
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: nguyenthihongduyen@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.46 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 22/11/2019
Ngày nhận bài: 05/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 25/11/2019
Tóm tắt
Bài viết sử dụng các nghiên cứu đi trước để tìm hiểu nội dung về hệ thống thông tin kế
toán quản trị tại các nước Mỹ, Pháp, Nhật Bản là các nước có nền kinh tế phát triển và việc tổ
chức hệ thống thông tin kế toán quản trị của các doanh nghiệp ở các quốc gia này được thực hiện
một cách bài bản từ việc tổ chức phương tiện, con người và các kỹ thuật phục vụ cho việc thu
thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin theo nhu cầu của nhà quản trị. Thông qua đó, nghiên
cứu rút ra bài học kinh nghiệm giúp hoàn thiện hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh
nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn nền kinh tế hội nhập hiện nay.
Từ khóa: Hệ thống thông tin kế toán quản trị
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đầy biến động, các doanh nghiệp phải đối mặt với rất
nhiều khó khăn và thách thức. Do đó, doanh nghiệp cần phải đưa ra các chiến lược kinh doanh
hiệu quả. Theo Abernathy & Guthire (1994), để đưa ra được các chiến lược kinh doanh đúng đắn
áp dụng tại mỗi doanh nghiệp thì rất cần thiết những thông tin có liên quan tới doanh nghiệp đó.
Trong đó, những thông tin được cung cấp từ hệ thống thông tin kế toán quản trị (HTTT KTQT)
là các thông tin quan trọng có thể ảnh hưởng đến việc đưa ra một quyết định tốt (Chenhall &
Morris, 1986). Chính vì thế, hoàn thiện hệ thống thông tin kế toán quản trị là một công việc hết
sức quan trọng giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Ở Việt Nam, do kế toán quản trị vẫn là một khái niệm khá mới mẻ, nhà quản trị chưa thấy
được tầm quan trọng của nó đến sự phát triển của doanh nghiệp mình nên việc tổ chức HTTT
KTQT vẫn còn chưa được thực hiện một cách quy mô và bài bản. Với mong muốn học tập kinh
nghiệm tổ chức HTTT KTQT của các quốc gia phát triển trên thế giới, bài viết đã tiến hành tổng
hợp các nghiên cứu trước đó về tổ chức HTTT KTQT tại các quốc gia Mỹ, Pháp, Nhật Bản để
phân tích lảm rõ các nội dung tổ chức HTTT KTQT và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
402
2. TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
Trong những năm gần đây, khi mà nền kinh tế thế giới đang trải qua nhiều thách thức mới
mang tính chất toàn cầu như khủng hoảng toàn cầu, biến đổi khí hậu, chính trị bất ổn, sự cạnh
tranh ngày càng gay gắt đã tác động không chỉ theo hướng tích cực mà còn cả tiêu cực đến sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nếu muốn đứng vững trên thị trường thì
một yêu cầu đặt ra là tất cả các kế hoạch và quyết định trước khi đưa ra cần phải được xem xét,
phân tích, đánh giá kỹ lưỡng nhằm giảm thiểu sai sót đến mức thấp nhất và đạt được hiệu quả
cao nhất với mục tiêu đã định. Để có thể làm được điều đó, các tổ chức cần xây dựng một hệ
thống cung cấp thông tin đáng tin cậy, ta gọi hệ thống này là hệ thống thông tin kế toán. Theo
Romney và Steinbart (2008) "Hệ thống thông tin kế toán là hệ thống thu thập, ghi chép, lưu trữ
và xử lý số liệu về các nghiệp vụ kinh tế trong mỗi tổ chức để cung cấp thông tin cho những
người ra quyết định". Đồng quan điểm này, Hall (2012) định nghĩa "Hệ thống thông tin kế toán
là một hệ thống thu thập, xử lý, tổng hợp và lưu trữ dữ liệu nhằm cung cấp thông tin kế toán cần
thiết cho lập kế hoạch, kiểm soát và quản lý hoạt động của doanh nghiệp".
Theo Gelinas, Sutton, Oram (1999), Hệ thống thông tin kế toán là một hệ thống con trong
HTTT quản lý bao gồm HTTT bán hàng, HTTT sản xuất, HTTT nhân sự, HTTT tài chính và
HTTT kế toán.
(Nguồn: Gelinas, Sutton, Oram (1999))
Hình 1: Hệ thống con của HTTT quản lý
Các hệ thống con của HTTT quản lý thực hiện các chức năng nhất định. Cụ thể, hệ thống
thông tin bán hàng cung cấp thông tin cho việc xác định đối tượng khách hàng cho sản phẩm,
cách phát triển sản phẩm, khuyến mãi, bán hàng, duy trì và phát triển quan hệ với khách hàng; hệ
thống thông tin quản lý sản xuất cung cấp thông tin về việc quản lý dây chuyền sản xuất như
mua sắm vật tư, nguyên liệu, lưu kho, sản xuất, phân phối...; hệ thống thông tin tài chính cung
cấp thông tin tới lĩnh vực tài chính diễn ra trong doanh nghiệp như các thông tin về tình hình
thanh toán, thị trường chứng khoán và thường được lấy từ hệ thống thông tin bên ngoài; hệ thống
thông tin nhân sự cung cấp các thông tin nhằm giải quyết mọi vấn đề liên quan đến con số, vị trí
HTTT quản lý
HTTT KT
HTTT bán hàng
HTTT SX
HTTT nhân sự
HTTT tài chính
403
cũng như quyền lợi và trách nhiệm của toàn bộ nhân viên trong doanh nghiệp; hệ thống thông tin
kế toán cung cấp thông tin liên quan đến lập kế hoạch, thực hiện yêu cầu của nhà quản lý, tình
hình tài chính doanh nghiệp. Như vậy, có thể thấy mỗi HTTT con trong HTTT quản lý được
thực hiện với các chức năng riêng. Trong đó, HTTT KT là hệ thống quan trọng hỗ trợ thực hiện
và giám sát các hoạt động phát sinh hàng ngày, giúp các nhà quản trị trong việc ra quyết định
kinh tế, hoạch định và kiểm soát. Từ đó có thể thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ. HTTT KT bao
gồm 2 hệ thống con là HTTT kế toán tài chính và HTTT kế toán quản trị.
Có khá nhiều khái niệm khác nhau về HTTT KTQT nhưng có thể hiểu một cách khái quát
“HTTT KTQT là một hệ thống được thiết lập nhằm thu thập, lưu trữ, xử lý, cung cấp và kiểm
soát các thông tin liên quan với mục tiêu cung cấp thông tin theo yêu cầu của nhà quản trị doanh
nghiệp”. Một HTTTKT nói chung và HTTT KTQT nói riêng bao gồm các yếu tố cấu thành đó là
con người, các thủ tục và quy trình xử lý thông tin, các nguồn lực khác như thiết bị phần cứng,
phần mềm và hệ thống kiểm soát tương tác với nhau để thu thập, xử lý, lưu trữ dữ liệu, chia sẻ,
phân phối thông tin nhằm phục vụ các mục tiêu của tổ chức (Romney & Steinbart (2012))
(Nguồn: Tác giả tự xây dựng dựa trên Romney và Steinbart, 2012)
Hình 2. Các yếu tố cấu thànnh hệ thống thông tin kế toán
Như vậy, để HTTT KTQT phát huy được vai trò của nó thì đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu
tư từ cở sở hạ tầng công nghệ thông tin, các phần mềm kế toán, kết hợp với việc xây dựng một
quy trình chuẩn và đặc biệt là đội ngũ kế toán quản trị viên được đào tạo cả về chuyên môn,
nghiệp vụ lẫn sự hiểu biết về CNTT.
3. HỆ THỐNG THÔNG TIN KTQT TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
Với các quốc gia phát triển trên thế giới, việc tổ chức một HTTT KTQT được doanh
nghiệp quan tâm và chú trọng đầu tư từ yếu tố con người tới cơ sở vật chất đến quy trình thực
hiện. Cụ thể tại một số quốc gia như sau:
Cơ sở hạ
tầng CNTT Phần mềm
Con người
Kiểm soát
nội bộ
Thủ tục, quy trình
Dữ liệu
đầu vào
Thông tin
đầu ra
404
Tại Mỹ
Tổ chức HTTT KTQT tại Mỹ được đề cập ở nhiều công trình nghiên cứu cả về mặt lý luận
lẫn thực tiễn. Có thể kể đến một số công trình như nghiên cứu của Shehab (2004); Gordon &
Miller (1976); Kaplan & Atkinson (2015); Lê Thị Huyền Trâm (2015). Thông qua nghiên cứu
các công trình trên, tác giả nhận thấy đặc trưng cơ bản trong tổ chức bộ máy kế toán Mỹ là mô
hình kết hợp giữa KTTC và KTQT. Theo đó, KTQT không được tổ chức thành một bộ phận
riêng mà được tổ chức chung với KTTC. Với mô hình này kế toán trưởng chịu trách nhiệm
chung về toàn bộ công tác kế toán từ việc tổ chức xây dựng bộ máy kế toán, luân chuyển chứng
từ, vận dụng tài khoản, hệ thống báo cáo. Các bộ phận kế toán có chức năng thu thập và cung
cấp thông tin kế toán vừa tổng hợp, vừa chi tiết... đồng thời lập dự toán tổng hợp và chi tiết theo
yêu cầu quản lý. Mô hình này giúp cho doanh nghiệp vừa tiết kiệm chi phí vừa giúp thu thập
thông tin nhanh chóng.
Về kỹ thuật được sử dụng để xử lý thông tin KTQT: Các doanh nghiệp tại Mỹ tập trung
giải quyết các vấn đề về phân loại chi phí sản xuất và xác định chi phí sản phẩm; phân tích mối
quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận, phân tích báo cáo bộ phận và phân tích chi phí chung để
cung cấp thông tin cho việc lập kế hoạch, ra các quyết định kinh doanh một cách triệt để và
chính xác.
Về hệ thống báo cáo: Các báo cáo được cung cấp từ HTTT KTQT bao gồm hệ thống báo
cáo định hướng cho việc ra quyết định của nhà quản trị được lập trong từng trường hợp cụ thể;
hệ thống báo cáo chi tiết và các báo cáo tóm tắt nhằm cung cấp thông tin về tình hình thực hiện
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; hệ thống báo cáo phân tích được thiết kế dưới dạng so
sánh nhằm cung cấp thông tin cho nhà quản trị thực hiện chức năng kiểm soát nhằm tăng cường
quản trị nguồn lực và tạo ra giá trị khách hàng, giá trị cổ đông cho doanh nghiệp.
Tại Pháp
Pháp là đất nước tiềm lực kinh tế mạnh và được quản lý chặt chẽ thông qua các chính sách
vĩ mô của Nhà nước. Để quản lý nền kinh tế phát triển theo hướng tư nhân hóa, Pháp đã thông
qua hàng loạt các chính sách quản lý tài chính, chính sách thuế, bảo hiểm, hải quan… các chính
sách này thường được ổn định trong một thời gian khá dài. Do ảnh hưởng bởi yếu tố kinh tế và
chính trị, việc tổ chức HTTT KTQT tại cộng hoà Pháp cũng có những đặc trưng riêng. Trong các
công trình nghiên cứu của Lebas (1994); Carmona (2006); Ngô Thế Chi (1995); Phan Thanh Hải
(2012), các vấn đề về tổ chức HTTT KTQT được mô tả một cách khá đầy đủ.
Bộ máy kế toán tại các doanh nghiệp Pháp được tổ chức tách rời nhau, độc lập tương đối
giữa KTTC và KTQT. Kế toán quản trị sử dụng hệ thống tài khoản riêng, sổ kế toán và báo cáo
kế toán riêng và quy định rất chi tiết, tỷ mỷ, tách rời với kế toán phân tích, đặt trọng tâm xử lý và
cung cấp thông tin về chi phí, thu nhập và kết quả của từng loại hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp theo từng sản phẩm, dịch vụ.
Hệ thống báo cáo KTQT phục vụ cho quản trị doanh nghiệp gồm: các báo cáo chi phí theo
trung tâm dưới dạng báo cáo dự toán sản xuất kinh doanh, báo cáo kết quả kinh doanh bộ phận,
405
báo cáo kết quả của từng bộ phận, mặt hàng, các thông tin về định mức chi phí là căn cứ để kiểm
soát tình hình thực hiện kế hoạch và ra các quyết định cần thiết cho quản lý.
Với tiềm lực kinh tế vững mạnh, các doanh nghiệp ở Pháp trang bị một hệ thống thiết bị
hiện đại từ phần cứng đến phần mềm phục vụ cho công tác KTQT. Các nhân viên KTQT tại các
doanh nghiệp này không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà việc ứng dụng CNTT đáp ứng sự
phát triển của khoa học kỹ thuật cũng được quan tâm đào tạo.
Tại Nhật Bản
Nhật Bản là quốc gia có nền kinh tế phát triển. Nếu sử dụng thước đo GDP với tỷ giá thị
trường thì Nhật Bản là nước đứng thứ ba trên thế giới sau Mỹ và Trung Quốc, còn theo thước đo
GDP ngang giá sức mua thì Nhật sếp hạng thứ tư sau Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ. Nền kinh tế thị
trường tại Nhật Bản xuất hiện từ khá lâu đời, tuy nhiên phải sau chiến tranh thế giới thứ hai thì
nền kinh tế này mới được phát triển mạnh. KTQT cũng được bắt đầu từ thời điểm đó. Những
năm 1950 đến 1970, KTQT bắt đầu hình thành từ khởi xướng của chính phủ Nhật qua xúc tiến
giới thiệu, áp dụng KTQT Âu, Mỹ cho các doanh nghiệp. Việc tổ chức HTTT KTQT trong
doanh nghiệp sản xuất ở Nhật thời kỳ này khá đơn giản và hướng đến trọng tâm xây dựng hệ
thống nhằm kiểm soát dự toán, hoạch định lợi nhuận trong tiến trình tái thiết kinh tế Nhật sau
chiến tranh. Sau những năm 1980 đến những năm cuối thế kỷ 20, nền kinh tế Nhật được khôi
phục, ổn định, phát triển và bắt đầu hướng ra thị trường quốc tế do đó tăng tính cạnh tranh trong
môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp. Từ đó, việc tổ chức HTTT KTQT ngày càng được
thực hiện một cách bài bản hơn. Qua nghiên cứu của tác giả Akira Nishimura (2003), Monden &
Hamada (1991), Yoshikawa (1989), Phan Thanh Hải (2012) có thể thấy rằng với thế mạnh là sự
phát triển của công nghệ thông tin nên việc áp dụng công nghệ thông tin hiện đại trong lĩnh vực
KTQT của Nhật Bản rất được đề cao. Hầu hết các doanh nghiệp ở Nhật đều ứng dụng giải pháp
ERP, kể cả những doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa cũng ứng dụng giải pháp này. Xuất phát
từ quan điểm đề cao tính tập thể và kiểm soát định hướng hoạt động mà bộ máy kế toán tại Nhật
Bản phổ biến tổ chức theo mô hình kết hợp giữa KTQT và KTTC.
Vấn đề xử lý thông tin KTQT tại đây luôn hướng vào trọng tâm nâng cao tính chất thông
tin để giảm những tổn thất giúp nâng cao hiệu quả quản lý các nguồn lực kinh tế nhằm tạo ra giá
trị. Các kỹ thuật để xử lý thông tin trong HTTT KTQT bao gồm: xây dựng tiêu chuẩn và phân
loại chi phí, thu nhập, lợi nhuận; xây dựng hệ thống dự toán ngân sách hoạt động hằng năm; xây
dựng các tiêu chuẩn đánh giá vốn đầu tư; kế toán các trung tâm trách nhiệm; phân tích biến động
chi phí; xây dựng hệ thống điều hành và đánh giá chi phí; phân tích tính cân đối chi chí và lợi
ích. Sau quá trình xử lý, HTTT KTQT sẽ cung cấp cho nhà quản trị các báo cáo một cách chi tiết
như báo cáo dự toán ngân sách, báo cáo kết quả thực hiện, báo cáo phân tích chênh lệch chi phí,
báo cáo phân tích nguyên nhân chênh lệch, báo cáo đánh giá trách nhiệm quản lý, báo cáo phân
tích thông tin thích hợp…
4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ TỔ CHỨC HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN
QUẢN TRỊ CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Tại Việt Nam, do xuất phát điểm là nền kinh tế kém phát triển còn gặp rất nhiều khó khăn do
nhiều năm là thuộc địa của Pháp, Mỹ. Mặc dù đã trải qua thời kỳ cải cách nền kinh tế, thực hiện
406
tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa và xây dựng nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc
tế, các doanh nghiệp cũng không ngừng hoàn thiện HTTT KTQT theo xu hướng hội nhập nhưng
vẫn còn rất nhiều hạn chế. Từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thông tin cung cấp cho nhà
quản lý. Từ việc nghiên cứu HTTT KTQT của các nước trên thế giới bao gồm Mỹ, Pháp và Nhật
Bản, tác giả rút ra bài học kinh nghiệm để tổ chức HTTT KTQT tại Việt Nam như sau:
Thứ nhất: Với quy mô doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ mô hình kết hợp KTTC và KTQT trong cùng một hệ thống kế toán là phù hợp bởi
mô hình này cho phép sử dụng hệ thống chứng từ, sổ sách kế toán trong KTTC sẽ giúp tiết kiệm
chi phí. Bộ máy kế toán này gọn nhẹ, khoa học, hợp lý sẽ phát huy hiệu quả cao trong việc cung
cấp thông tin cho nhà quản trị. Tuy nhiên, sự kết hợp này cần có sự tách biệt, phân công rõ ràng
về nội dung, phạm vi cung cấp thông tin cũng như mối quan hệ giữa KTQT và KTTC, giữa bộ
phận kế toán tổng hợp và bộ phận kế toán chi tiết để tránh chồng chéo, chậm trễ trong việc xử lý,
cung cấp thông tin.
Thứ hai: Các doanh nghiêp Việt Nam cần phải áp dụng cả phương pháp kỹ thuật KTQT
truyền thống và hiện đại của các nước đi trước để xử lý và phân tích thông tin nhằm cung cấp
cho việc thực hiện các mục tiêu hoạch định, kiểm soát và ra quyết định nhằm quản trị có hiệu
quả nguồn lực, tạo ra giá trị cho doanh nghiệp, tăng cường cạnh tranh trong môi trường hội nhập.
KTQT cần thiết phải chi tiết hóa các tài khoản thành biến phí và định phí để lập báo cáo đánh giá
trách nhiệm quản lý với hệ thống kế toán kết hợp. Đồng thời, thực hiện phân tích mối quan hệ
chi phí - khối lượng - lợi nhuận kết hợp với công tác xây dựng dự toán để đưa ra phương án kinh
doanh đảm bảo thông tin của KTQT có tính thuyết phục và đáp ứng được tốt nhu cầu quản trị.
Thứ ba: Hệ thống báo cáo KTQT được thiết kế, lập và trình bày mang tính linh hoạt,
không mang tính thống nhất, tuân thủ như báo cáo tài chính nhưng vẫn nằm trong sự kiểm soát
nội bộ. Hệ thống báo cáo cáo quản trị nên phân chia thành các loại các loại báo cáo sau: Báo cáo
cho chức năng hoạch định của nhà quản trị; Báo cáo phục vụ chức năng kiểm tra, kiểm soát của
nhà quản trị; Báo cáo phục vụ chức năng ra quyết định của nhà quản trị.
Thứ tư: Cần tập trung đào tạo nhân viên KTQT theo hướng chiều sâu và chiều rộng cả về
chuyên môn, nghiệp vụ lẫn sự hiểu biết về CNTT để có thể thực hiện ứng dụng CNTT và vận
dụng sự tiến bộ của khoa học công nghệ trong bối cảnh hội nhập quốc tế trong công tác KTQT.
Thứ năm: Doanh nghiệp cần thiết phải đầu tư nâng cấp cơ sợ hạ tầng, trang thiết bị hiện
đại, đưa ra các giải pháp xây dựng hệ thống phần mềm kế toán quản tri nói riêng và cho toàn
doanh nghiệp nói chung nhằm phục vụ tốt cho công tác thu thập, xử lý và phân tích thông tin. Từ
đó, rút ngắn được thời gian thực hiện và nâng cao chất lượng của thông tin cung cấp cho nhà
quản trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Apostolou, B., Dorminey, J. W., Hassell, J. M., & Rebele, J. E. (2014). A summary and analysis
of education research in accounting information systems (AIS). Journal of Accounting
Education, 32(2), 99-112.
407
Abernethy, M. A., & Guthrie, C. H. (1994). An empirical assessment of the “fit” between
strategy and management information system design. Accounting & Finance, 34(2), 49-66.
Chenhall, R. H., & Morris, D. (1986). The impact of structure, environment, and
interdependence on the perceived usefulness of management accounting systems.
Accounting Review, 16-35.
Carmona, S. (2006). The history of management accounting in France, Italy, Portugal, and
Spain. Handbooks of management accounting research, 2, 905-922.
Gelinas, U. J., Sutton, S. G., Oram, A. E. (1999), Accounting Information Systems, South –
Wesstern Colloege Pub
Gordon, L. A & Miller, D (1976), “A contingency framework for the design of accounting
information systems”, Accounting Organizations and Society.
Hall, J. A. (2012). Accounting information systems. Cengage Learning.
Lê Thị Huyền Trâm (2015), “Tìm hiểu mô hình kế toán quản trị trên thế giới”
(http://kketoan.duytan.edu.vn).
Lebas, M. (1994). Managerial accounting in France Overview of past tradition and current
practice. European accounting review, 3(3), 471-488.
Monden, Y., & Hamada, K. (1991). Target costing and kaizen costing in Japanese automobile
companies. Journal of Management Accounting Research, 3(1), 16-34.
Nishimura, A. (2003). Management Accounting: Feed forward and asian perspectives. Springer.
Ngô Thế Chi (1995). Đặc điểm kế toán Mỹ, Pháp, NXB Thống kê.
Kaplan, R. S., & Atkinson, A. A. (2015). Advanced management accounting. PHI Learning.
Romney M.B, Steinbart P.J (2012). Accounting Information Systems, 12th edition, Prentice Hall
Phan Thanh Hải (2012), Kinh nghiệm tổ chức công tác kế toán trong các tập đoàn kinh tế ở Mỹ,
Pháp và Nhật Bản, (http://kketoan.duytan.edu.vn).
Yoshikawa, T., Innes, J., & Mitchell, F. (1989). Japanese management accounting: a
comparative survey. Management Accounting, 67(10), 20-23.
408
Bàn về kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp sản xuất
Nguyễn Hữu Ánh, Nguyễn Thanh Hiếu
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Email: anhnh@neu.edu.vn
Mã bài: HTQG.55 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 22/11/2019
Ngày nhận bài: 10/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 25/11/2019
Tóm tắt
Các doanh nghiệp ở Việt Nam đang dần dần hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới với
sự đa dạng của hình thức hoạt động sản xuất kinh doanh, mức độ tăng trưởng ngày càng cao. Xu
hướng toàn cầu hóa đã mở ra những cơ hội và thách thức lớn cho doanh nghiệp nói chung và
doanh nghiệp sản xuất nói riêng. Hiện nay, các nhà đầu tư vốn đang dần tách rời khỏi vai trò
quản lý doanh nghiệp vì vậy một hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB) vững mạnh đang là nhu cầu
cấp thiết, một công cụ hữu hiệu để xác định sự an toàn của nguồn vốn đầu tư. Bài viết này đã hệ
thống hóa những vấn đề lý luận của kiểm soát nội bộ, tổng quan các nghiên cứu về kiểm soát nội
bộ và tập trung phân tích các vấn đề kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp sản xuất hiện nay.
Bài viết góp phần cung cấp các thông tin hữu ích giúp các nhà quản lý doanh nghiệp sản xuất
nâng cao chất lượng kiểm soát nội bộ để từ đó kịp thời nắm bắt tình hình hoạt động của doanh
nghiệp, xác định hiệu quả điều hành và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Từ khóa: Kiểm soát nội bộ, hiệu quả kinh doanh, sản xuất hàng loạt, sản xuất sản phẩm
nông nghiệp và khai thác, sản xuất theo đơn đặt hàng.
1. GIỚI THIỆU
Để một tổ chức tồn tại và phát triển thì cần phải có quản lý. Kiểm soát có liên quan mật
thiết với quản lý, có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định của nhà quản lý, là một trong bốn
chức năng của quản lý bao gồm: hoạch định, tổ chức thực hiện, lãnh đạo, kiểm soát. Thông qua
kiểm soát nhà quản lý nhìn nhận được những thiếu sót trong hệ thống tổ chức để đề ra các biện
pháp điều chỉnh kịp thời. Khi có kiểm soát nhà quản lý sẽ có đầy đủ thông tin để ra quyết định
thích hợp nhằm thích ứng với môi trường, đạt được mục tiêu đề ra. Kiểm soát không phải là một
pha hay một giai đoạn của quá trình quản lý mà là một chức năng không thể tách rời của quản lý.
Trong suốt quá trình quản lý, kiểm soát luôn luôn tồn tại trước, trong và sau mỗi hoạt động định
hướng hoặc tổ chức để thực hiện hoặc điều chỉnh mỗi hoạt động đó. Một cách tổng hợp nhất,
kiểm soát được hiểu là tổng hợp các phương sách để nắm lấy và điều hành đối tượng hoặc khách
thể quản lý (Nguyễn Quang Quynh, 2014).
409
Theo phạm vi kiểm soát, kiểm soát được chia thành kiểm soát nội bộ và kiểm soát bên
ngoài. Kiểm soát nội bộ là một hệ thống chính sách và thủ tục do nhà quản lý đơn vị thiết lập
nhằm bảo vệ tài sản của đơn vị, đảm bảo sự tin cậy của các thông tin, ngăn ngừa các sai sót trong
báo cáo tài chính, đảm bảo việc tuân thủ các quy chế quản lý và đảm bảo hiệu quả các hoạt động
quản lý nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng. Kiểm soát bên ngoài là sự kiểm soát từ cấp
trên hoặc từ tổ chức khác nhau có liên quan. Theo quan điểm của Ủy ban thuộc Hội đồng quốc
gia Hoa kỳ về chống gian lận khi lập báo cáo tài chính (COSO - The Committee of Sponsoring
Organizations of the Treadway Commission, 2013) nhìn nhận kiểm soát nội bộ khá toàn diện,
đây cũng là khái niệm được chấp nhận rộng rãi trên thế giới. Theo đó, “KSNB là quá trình do
người quản lý, hội đồng quản trị và các nhân viên của đơn vị chi phối, nó được thiết lập để cung
cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm thực hiện các mục tiêu: Đảm bảo sự tin cậy của báo cáo tài
chính; Đảm bảo sự tuân thủ các quy định và luật pháp; Đảm bảo các hoạt động được thực hiện
hiệu quả”. Với khái niệm này COSO (2013) nhấn mạnh vào bốn nội dung căn bản đó là: quá
trình, con người, đảm bảo hợp lý và mục tiêu.
Cũng theo COSO (2013), KSNB bao gồm 5 yếu tố cấu thành: Môi trường kiểm soát; Đánh
giá rủi ro; Hoạt động kiểm soát; Thông tin và truyền thông; Giám sát. KSNB là một quá trình, bởi
tất cả các hoạt động của một đơn vị đều phải thông qua một chuỗi các quá trình từ lập kế hoạch,
thực hiện và giám sát. Để đạt được mục tiêu mong muốn, các đơn vị phải kiểm soát được hoạt
động của mình, các hoạt động này được diễn ra hằng ngày và được hiện diện trong mọi bộ phận,
gắn chặt vào hoạt động của một tổ chức và là nội dung cơ bản trong các hoạt động của tổ chức.
KSNB là công cụ của nhà quản lý chứ không thay thế cho quản lý. Con người sẽ vạch ra mục tiêu
đưa ra các biện pháp kiểm soát và vận hành chúng. Mỗi thành viên tham gia trong một tổ chức với
những khả năng, kinh nghiệm, kiến thức khác nhau. Do vậy, để KSNB có hiệu quả thì mọi thành
viên trong một tổ chức phải hiểu rõ về trách nhiệm và quyền hạn của mình, xác định được mối liên
hệ, nhiệm vụ, cách thức thực hiện để đạt được mục tiêu của tổ chức.
Trong các loại hình doanh nghiệp hiện nay, Doanh nghiệp sản xuất (DNSX) có đặc điểm
khác biệt với doanh nghiệp kinh doanh thương mại bởi vì DNSX có một quy trình chế biến,
chuyển hóa các yếu tố đầu vào thành yếu tố đầu ra có giá trị lớn hơn. Trên góc độ kiểm soát,
DNSX có nhiều điểm đáng lưu ý: (1) Có khoảng thời gian gián đoạn trong quá trình luân chuyển
nguyên vật liệu, yếu tố đầu vào thành yếu tố đầu ra. Không dễ để liên hệ trực tiếp số lượng nguyên
liệu thô và phụ trợ được sử dụng với số lượng hàng hóa thành phẩm thu được, vì phế liệu, chất thải
sau quá trình sản xuất và sự cố ngừng sản xuất; (2) Việc sử dụng giờ làm việc và giờ máy cần phải
được ghi lại và kiểm tra khả năng chấp nhận máy móc của quá trình sản xuất; (3) các DN sản xuất
sản xuất nhiều loại sản phẩm, do đó, kiểm soát chi phí, phân bổ chi phí và tính giá thành ở đây
quan trọng và phức tạp hơn ở các DN thương mại. Chính vì vậy, bàn về kiểm soát nội bộ trong
doanh nghiệp sản xuất là hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ
Năm 1929, khái niệm về KSNB và công nhận vai trò của hệ thống KSNB trong doanh
nghiệp được đưa ra trong các văn bản hướng dẫn của các tổ chức nghề nghiệp và quản lý công
410
bố của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ. Năm 1934, Ủy ban Chứng khoán Hoa Kỳ vận dụng khái
niệm về KSNB để soạn thảo pháp luật về giao dịch chứng khoán Hoa Kỳ, trong đó có nêu vai trò
của hệ thống kiểm soát nội bộ đối với việc bảo đảm các mục tiêu cơ bản như: quy định các tiêu
chuẩn về cung cấp thông tin và mô hình các hành vi, qua đó tổ chức phát hành phải cung cấp
thông tin đầy đủ, chính xác, rõ ràng, phản ánh hoạt động kinh doanh, rủi ro, lợi nhuận của dự án
đầu tư mới hay các hoạt động đang diễn ra. Năm 1977, lần đầu tiên khái niệm về hệ thống KSNB
xuất hiện trong một văn bản pháp luật của Hạ viện Hoa Kỳ, được đúc rút từ sau vụ bê bối với các
khoản thanh toán bất hợp pháp cho chính phủ nước ngoài. Đến thập niên 80 (1980-1988), với sự
sụp đổ hàng loạt các công ty cổ phần tại Hoa Kỳ, các nhà lập pháp buộc phải quan tâm đến
KSNB và ban hành nhiều quy định hướng dẫn như: Quy định về các quy tắc đạo đức, kiểm soát
và làm rõ chức năng của KSNB; Quy định về phòng chống gian lận báo cáo tài chính. Như vậy,
từ trước năm 1929 đến năm 1992, lý luận về KSNB không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên,
KSNB vẫn chỉ dừng lại là một phương tiện phục vụ cho các kiểm toán viên trong quá trình kiểm
toán báo cáo tài chính. Nhiều quan điểm không đồng nhất về KSNB, do đó dẫn đến yêu cầu phải
hình thành một hệ thống lý luận có tính chuẩn mực về KSNB. Đến năm 1992, các công ty ở Hoa
Kỳ phát triển rất nhanh, kèm theo đó là tình trạng gian lận, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Bởi
vậy, nhiều uỷ ban ra đời để tìm cách khắc phục và ngăn chặn các gian lận, hỗ trợ phát triển kinh
tế trong đó có Uỷ ban COSO (Committee of Sponsoring Organizations) đã đưa ra khuôn mẫu lý
thuyết chuẩn cho kiểm soát nội bộ. Điểm mới của báo cáo là đã đưa ra được các bộ phận cấu
thành của hệ thống KSNB (môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, hoạt động kiểm soát, thông tin
và truyền thông, giám sát), các tiêu chí cụ thể để đánh giá hệ thống KSNB cho mục tiêu báo cáo
thông tin tài chính, đưa ra được các công cụ đánh giá hệ thống KSNB, KSNB không còn chỉ là
một vấn đề liên quan đến báo cáo tài chính mà còn mở rộng ra các lĩnh vực hoạt động và tuân
thủ. Báo cáo COSO được đổi mới năm 2013 với nhiều lý thuyết nghiên cứu mới phù hợp với
tình hình tài chính kinh tế giai đoạn gần đây.
3. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP SẢN XUẤT
Ở nước ngoài, các nghiên cứu Laura F. Spira và Micheal Page (2002); Yuan Li, Yi Liu,
Younggbin Zhao (2006); Zipporah (2015) cho thấy, các thành phần môi trường kiểm soát, đánh
giá rủi ro, hoạt động kiểm soát, thông tin truyền thông của KSNB có tác động tích cực đối với tỷ
suất sinh lời của tài sản - ROA (Return on Assets), trong khi Giám sát lại có tác động ngược
chiều với ROA.
Tại Việt Nam, nghiên cứu ứng dụng hệ thống KSNB trong một đơn vị cụ thể ở các ngành,
các lĩnh vực cũng được nhiều tác giả quan tâm. Các công ty hoạt động dưới sự góp vốn của các
thành viên, cổ đông nên sự xung đột về lợi ích là tất yếu. Do vậy cần phải thiết kế một hệ thống
KSNB đủ mạnh và minh bạch để đảm bảo tổ chức hoạt động hiệu quả, sử dụng tối ưu các nguồn
lực và đạt được mục tiêu đề ra. Các nghiên cứu này mới chỉ đánh giá được thực trạng KSNB của
từng quá trình như tiêu thụ, chi phí sản xuất và tính giá thành hay hoạt động tài chính trong
doanh nghiệp, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện mà chưa đánh giá và hoàn thiện trên tất cả
các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Tác giả Bùi Thị Minh Hải (2012) đã khái quát được lý
411
luận chung về hệ thống KSNB và cũng đúc rút được một số kinh nghiệm quốc tế về tổ chức hệ
thống KSNB trong loại hình doanh nghiệp may mặc mà chưa khái quát được cho các loại hình
doanh nghiệp sản xuất khác. Tác giả Nguyễn Thu Hoài (2015) đã đề cập tới hệ thống KSNB
trong điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin, đề tài cũng nêu ra được đặc điểm hoạt động sản
xuất kinh doanh tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty xi măng, từ đó đánh giá được thực
trạng và đưa ra giải pháp hoàn thiện (ứng dụng ERP, hệ thống đánh giá rủi ro, môi trường kiểm
soát, hệ thống kế toán, thủ tục kiểm soát). Tuy nhiên đề tài cũng chỉ nghiên cứu được những vấn
đề thuộc hệ thống KSNB của các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam, chưa
khái quát được hướng nghiên cứu trong toàn ngành. Khi đánh giá thực trạng mới chỉ ra được
những hạn chế của kiểm soát trên quan điểm định tính, chưa đánh giá được hệ thống KSNB trên
quan điểm định lượng để đề xuất các biện pháp hoàn thiện.
4. THẢO LUẬN VỀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
Doanh nghiệp sản xuất được chia thành bốn loại: (1) DN sản xuất sản phẩm đại trà (hàng
loạt), các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm có thể được tùy chỉnh theo nhu cầu của khách
hàng, các DN sản xuất sản phẩm nông nghiệp và khai thác và DN sản xuất theo đơn đặt hàng.
DN sản xuất sản phẩm đại trà (hàng loạt): Các DN sản xuất sản phẩm đại trà (hàng loạt) thường
sản xuất sản phẩm tiêu chuẩn cho một thị trường cá nhân với mong muốn áp dụng chung, đại trà,
hàng loạt. Ví dụ như nhà máy bia, nhà sản xuất gạch hoặc nhà sản xuất hàng tiêu dùng. (2) DN
sản xuất các sản phẩm có thể được tùy chỉnh theo nhu cầu của khách hàng ví dụ: DN sản xuất
linh kiện/ bộ linh kiện lắp ráp đặc thù trong máy tính, xe ô tô… Các doanh nghiệp sản xuất các
sản phẩm có thể được điều chỉnh theo nhu cầu của khách hàng: sản xuất hàng hóa để lắp ráp các
bộ phận tiêu chuẩn theo mong muốn của khách hàng. Ví dụ các nhà sản xuất máy tính lắp ráp
máy tính theo sở thích của khách hàng (ví dụ: máy tính Dell) hoặc nhà sản xuất ô tô lắp ráp ô tô
dựa trên lựa chọn của khách hàng từ một bộ tùy chọn hoặc bộ phận thay thế tiêu chuẩn (ví dụ:
smart key). (3) DN sản xuất sản phẩm nông nghiệp và khai thác: khá giống với các tổ chức sản
xuất hàng loạt, mặc dù sản lượng khó dự đoán hơn do điều kiện môi trường tự nhiên, điều kiện
thời tiết, dịch bệnh của cây trồng và động vật và quy định liên quan đến môi trường. Ví dụ các
DN nông nghiệp và khai thác là các trang trại bò sữa, trang trại nông nghiệp, công ty khai thác
dầu mỏ và các công ty khai thác quặng kim loại (kim cương, vàng, đồng); (4) DN sản xuất theo
đơn đặt hàng (DN xây dựng, đóng tàu)
Từ góc độ kiểm soát nội bộ, KSNB hướng tới bốn quy trình chính trong các DN sản xuất
là: quy trình mua hàng, quy trình tồn kho, quy trình sản xuất và quy trình bán hàng. Đối với mỗi
quy trình này, các biện pháp kiểm soát nội bộ cần được thực hiện để giảm thiểu rủi ro, đạt được
các mục tiêu của tổ chức. Các rủi ro cụ thể liên quan đến các DN sản xuất, ví dụ, liên quan đến
các tiêu chuẩn sản xuất không đáng tin cậy, chất lượng sản phẩm không đảm bảo, sự phức tạp
trong luân chuyển giá trị của sản phẩm hoặc sự hấp dẫn của sản phẩm sản xuất (là nguyên nhân
xảy ra trộm cắp). Kiểm soát nội bộ có thể được thực hiện để giảm thiểu các rủi ro này từ việc
phân tách chức năng nhiệm vụ đến việc ban hành và thực hiện các hướng dẫn quản lý và thực
hiện đánh giá phân tích. Kiểm soát nội bộ được đưa ra sẽ chỉ có hiệu lực nếu có sự hỗ trợ của
môi trường quản lý và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý trong DN như quy định về bảo mật máy
tính, Phân chia nhiệm vụ, Hướng dẫn từ nhà quản lý và Lập ngân sách dự toán.
412
Sau đây, các tác giả xin được phân tích mốt số điểm nổi bật về kiểm soát nội bộ trong các
doanh nghiệp sản xuất hiện nay.
4.1. Kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp sản xuất sản phẩm đại trà
Rủi ro thường gặp, hậu quả và kiểm soát nội bộ trong DNSX sản phẩm đại trà
Rủi ro đối với DNSX sản phẩm đại trà chủ yếu liên quan đến lập kế hoạch sản xuất chưa
đầy đủ, các tính toán và đo lường trong quá trình sản xuất thiếu hiệu quả, sản xuất không được
phê chuẩn, dòng luân chuyển vật tư, sản phẩm dở dang, sản phẩm phức tạp, tiến độ công việc
không đảm bảo, thiếu liên kết giữa sản xuất và nhu cầu và xảy ra sai lệch giữa thiết kế sản phẩm
và nhu cầu khách hàng.
Thật vậy, Có lẽ rủi ro lớn nhất đối với DN sản xuất sản phẩm hàng loạt là kế hoạch sản
xuất không được phê chuẩn trước, dẫn đến phát sinh chi phí cho các sản phẩm khách hàng không
có nhu cầu (sản phẩm thừa). Một biện pháp kiểm soát nội bộ có thể giảm thiểu rủi ro này là bổ
sung sự phê chuẩn đơn hàng sản xuất từ bộ phận bán hàng hoặc kho (thay vì bộ phận sản xuất).
Hơn nữa, sự phê chuẩn đơn hàng sản xuất luôn cần phải dựa trên dự báo doanh số và / hoặc mức
tồn kho. Một rủi ro khác là sự liên kết yếu giữa sản xuất và nhu cầu, dẫn đến khách hàng không
hài lòng và doanh số giảm (trong trường hợp sản xuất kém), hoặc tăng hàng hóa tồn kho có thể
dẫn đến sản phẩm trở nên lỗi thời và tăng chi phí tồn kho (trong trường hợp sản xuất thừa). Các
biện pháp kiểm soát để giảm thiểu rủi ro này là lập kế hoạch sản xuất đầy đủ và sử dụng dự báo
doanh số đáng tin cậy của bộ phận bán hàng. Trong quá trình sản xuất, DN có thể có rủi ro sản
xuất không hiệu quả, dẫn đến chi phí sản xuất cao, không phù hợp (Bảng 2)
Những rủi ro này là do: (1) các DN sản xuất nói chung có một dòng luân chuyển vật tư, sản
phẩm phức tạp hơn so với các DN thương mại và (2) các DNSX sản phẩm đại trà trước tiên sản
xuất sản phẩm và sau đó bán cho khách hàng, đòi hỏi phải có sự liên kết thích hợp giữa nhu cầu
khách hàng cần và sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu.
Các thủ tục kiểm soát cụ thể:
Thứ nhất: Phân chia nhiệm vụ
Để đạt được hiệu quả sản xuất tối ưu, các DNSX sản phẩm nói chung, cần tách biệt các
chức năng liên quan đến thiết kế sản phẩm, lập kế hoạch sản xuất, tính toán trước, mua nguyên
liệu, nhận nguyên liệu và chuẩn bị nhận báo cáo, kiểm tra chất lượng nguyên liệu, bảo vệ nguyên
liệu, sản xuất thành phẩm, kiểm tra chất lượng thành phẩm, bảo vệ thành phẩm, bán thành phẩm,
thực hiện tính toán sau quá trình sản xuất, ghi lại các giao dịch và kiểm tra các giao dịch đã được
ghi lại đúng. Đặc biệt quan trọng để đạt được mức hiệu quả sản xuất mong muốn là sự tách biệt
các chức năng dự toán trước (thiết lập tiêu chuẩn sản xuất), sản xuất thực tế và tính toán sau khi
sản xuất (đánh giá hiệu quả sản xuất). Sự tách biệt này là cần thiết vì sự thiếu hiệu quả sản xuất
có thể không chỉ do bộ phận thực hiện sản xuất kém hiệu quả, mà còn do lỗi ở việc thiết lập các
tiêu chuẩn sản xuất của văn phòng điều hành.
Bảng dưới đây cung cấp một cái nhìn tổng quan về sự phân chia nhiệm vụ mong muốn cho
các DNSX sản phẩm hàng loạt.
413
Bảng 1: Phân chia chức năng, nhiệm vụ trong DNSX sản phẩm hàng loạt
Nhân viên Phòng Chức năng Nhiệm vụ
NV Thiết kế sản phẩm Phòng thiết kế sản phẩm Thực hiện thiết kế sản
phẩm mới
Thực hiện công
việc thiết kế
NV lập kế hoạch sản
xuất
Phòng kế hoạch sản xuất
hoặc Phòng kế hoạch
Thực hiện lập dự toán và
lên kế hoạch sản xuất Phê duyệt
Kế toán chi phí (kế toán
quản trị chi phí) Phòng kế toán
Thực hiện việc lậ dự
toán, dự tính chi phí sản
xuất phát sinh
Thực hiện công
việc
Cán bộ phụ trách mua
hàng/ Quản lý bộ phận
mua vật tư
Phòng thu mua hàng Thực hiện mua vật tư Phê duyệt
Nhân viên cung ứng vật
tư Bộ phận nhận hàng
Nhận vật tư, viết phiếu
nhập kho Phê duyệt
Nhân viên kiểm tra chất
lượng vật tư Bộ phận nhận hàng
Kiểm tra chất lượng vật
tư đầu vào Kiểm tra
Thủ kho vật tư Bộ phận bảo quản vật tư Bảo vệ an toàn về vật tư
tồn trữ trong kho hàng
Bảo quản,
Trông giữ
Công nhân Phân xưởng sản xuất Sản xuất thành phẩm Thực hiện
Cán bộ kĩ thuật Phòng kĩ thuật hoặc
Phòng bảo trì
Bảo dưỡng thiết bị sản
xuất Thực hiện
Nhân viên kiểm tra chất
lượng thành phẩm
Phòng kiểm tra chất
lượng sản phẩm
Kiểm tra chất lượng
thành phẩm Kiểm tra
Thủ kho kho thành
phẩm/ Quản lý kho thành
phầm
Bộ phận bảo quản thành
phẩm
Bảo quản, trông giữ
thành phẩm trong kho
Bảo quản,
Trông giữ
Nhân viên bán hàng/
Quản lý bán hàng Phòng bán hàng Bán hàng Phê duyệt
Nhân viên phụ trách tín
dụng/ Quản lý bộ phận
phê duyệt tín dụng cho
khách hàng
Phòng bán hàng hoặc
Phòng phê duyệt tín dụng
cho khách hàng
Kiểm tra độ tín nhiệm
của các khách hàng
trước khi phòng bán
hàng phê duyệt cho mua
chịu
Kiểm tra
Nhân viên giao hàng/
Quản lý bộ phận giao
hàng
Bộ phận giao hàng,
chuyển phát hàng
Vận chuyển hàng cho
khách hàng Thực hiện
414
Nhân viên phát hành hóa
đơn/ quản lý bộ phận
phát hành hóa đơn
Bộ phận xuất hóa đơn Xuất hóa đơn cho khách
hàng Thực hiện
Nhân viên theo dõi công
nợ/ quản lý bộ phận theo
dõi công nợ
Bộ phận theo dõi công nợ
Quản lý công nợ, theo
dõi công nợ phải thu của
từng khách hàng
Quản lý
Nhân viên thu tiền/quản
lý thu tiền Bộ phận thu tiền
Nhận tiền khách thanh
toán Phê duyệt
Thủ quỹ Bộ phận thu tiền Giữ tiền đã thu của
khách Giữ tiền
Nhân viên chi tiền/ quản
lý mảng chi tiền Bộ phận chi tiền
Chi tiền trả nợ cho nhà
cung cấp Phê duyệt
Nhân viên phụ trách phải
trả cho nhà cung cấp/Phụ
trách bộ phận theo dõi
phải trả cho nhà cung cấp
Bộ phận quản lý công nợ
phải trả
Theo dõi công nợ phải
trả Theo dõi
Nhân viên kế toán Phòng kế toán Ghi chép các giao dịch,
sự kiện diễn ra Ghi chép
Kiểm soát tài chính hoặc
trưởng phòng kế toán Phòng kế toán
Kiểm soát các giao dịch
và thực hiện tính toán lại
giá trị nghiệp vụ và số
liệu tài chính
Kiểm tra, soát
xét
Thứ hai, lập dự toán
Trong các DN sản xuất, việc lập dự toán bắt đầu với dự báo doanh số vì doanh số sẽ quyết
định mức sản xuất. Dự báo doanh số dựa trên mức doanh số của những năm trước, diễn biến thị
trường và đặc điểm theo mùa. Điều này sẽ dẫn đến một bản dự toán doanh số bán hàng chi tiết
cho mỗi sản phẩm. Dựa trên dự toán bán hàng, dự toán hàng tồn kho được lập ra, sau đó là dự
toán sản xuất và dự toán mua hàng. Trên cơ sở dự toán sản xuất, xác định lượng máy móc, lao
động, nhân công và vật liệu. Nhà quản lý phải phê duyệt dự toán và người kiểm soát hoặc trưởng
phòng kế toán nên thường xuyên báo cáo cho Nhà quản lý về bất kỳ sai lệch nào về kết quả thực
tế so với kết quả dự toán. Các hệ thống kiểm soát nội bộ sử dụng dự toán như là bản lề trong các
quy trình đánh giá phân tích.
Thứ ba, ban hành các hướng dẫn, quy định và chính sách để quản lý
Hầu hết các hướng dẫn quản lý cho các doanh nghiệp thương mại được thảo luận, áp dụng
cho các DN sản xuất. Có một số hướng dẫn bổ sung liên quan cụ thể đến các DN sản xuất sản
phẩm hàng loạt. Đây là những hướng dẫn liên quan đến việc tổ chức quá trình sản xuất, kiểm
soát chi phí sản xuất, mua và lưu trữ nguyên liệu thô và bán thành phẩm. Cụ thể như sau:
Tính toán trước khi sản xuất và tính toán sau khi sản xuất
415
Xác định mức máy móc, thiết bị sẽ được sử dụng;
Tính toán hiệu quả sản xuất;
Bảo dưỡng máy móc;
Vấn đề an toàn và môi trường;
Chất lượng nguyên liệu mua;
Xác định nguyên liệu và thành phẩm không đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng;
Tiêu hủy hoặc bán chất thải hoặc thành phẩm bị khách hàng trả lại, từ chối;
Tính giá bán của thành phẩm.
Khái quát rủi ro và thủ tục kiểm soát trong DN sản xuất sản phẩm đại trà ở Bảng 2
Bảng 2: Phân tích rủi ro và thủ tục kiểm soát trong DNSX sản phẩm đại trà
Rủi ro Biểu hiện (Hậu quả) Thủ tục kiểm soát nội bộ
Rủi ro trong đầu
tư trang thiết bị
sản xuất
Đầu tư quá thừa hoặc quá
thiếu so với thực tế sản xuất
cần
Lập kế hoạch đầu tư trang thiết bị.
Tiêu chuẩn sản
xuất không đáng
tin cậy, không
đầy đủ
Mục tiêu sản xuất không rõ
ràng và vì vậy việc đánh giá
hiệu quả sản xuất (trên cơ
sở mục tiêu sản xuất, tiêu
chuẩn sản xuất) không thực
hiện được.
Phân tách nhiệm vụ giữa bộ phận thiết kế
sản phẩm (thực thi thiết kế) và bộ phận văn
phòng điều hành (phê chuẩn thiết kế)
Ban hành các hướng dẫn liên quan đến thiết
lập tiêu chuẩn sản phẩm sản xuất ra và kiểm
tra chất lượng sản phẩm sản xuất ra.
Kiểm tra lại kết quả tính toán sau quá trình
sản xuất để tối ưu hóa tiêu chuẩn sản xuất
sản phẩm
Bộ phận văn
phòng điều hành
– phê duyệt sản
xuất - không
tính toán đầy đủ
và đáng tin cậy
Mục tiêu sản xuất không rõ
ràng và vì vậy việc đánh giá
hiệu quả sản xuất (trên cơ
sở mục tiêu sản xuất, tiêu
chuẩn sản xuất) không thực
hiện được.
Phân tách nhiệm vụ giữa bộ phận thiết kế
sản phẩm (thực thi thiết kế) và bộ phận văn
phòng điều hành (phê chuẩn thiết kế)
Ban hành các hướng dẫn liên quan tới tính
toán chi phí sản xuất và mức sản xuất
Cần đối chiếu, so sánh kết quả tính toán
trước khi sản xuất và sau khi sản xuất
Sản xuất không
được phê chuẩn
Phát sinh các chi phí sản
xuất sản phẩm thừa, khách
hàng không có nhu cầu
Phê duyệt sản xuất phải được thực hiện bởi
bộ phận bán hàng hoặc bộ phận kho hàng
(không phải bộ phận sản xuất).
Sản xuất phải dựa trên dự báo doanh thu
hoặc dựa trên mức tồn kho hiện có.
416
Sản xuất không
hiệu quả Chi phí SX gia tăng
Cần phân tách trách nhiệm, công việc giữa
bộ phận văn phòng điều hành (nơi thực hiện
ước tính ban đầu và xét duyệt lệnh SX), bộ
phận SX (thừa lệnh và thực hiện sản xuất)
và bộ phận kế toán (tập hợp chi phí thực tế,
thống kê tổng chi phí, ghi chép sổ sách và
tính giá thành)
Vướng mắc trong
quản lý khâu luân
chuyển vật liệu
phục vụ sản xuất
và luân chuyển
sản phẩm dở
dang, sản phẩm
hoàn thành do sự
phức tạp của việc
luân chuyển.
Thất thoát, mất mát vật liệu
và sản phẩm
Thường xuyên kiểm tra vật tư, sản phẩm
bởi những bộ phận có trách nhiệm: quản lý
hàng tồn kho, phân xưởng sản xuất, kho
thành phẩm
Tăng cường kiểm soát quá trình luân
chuyển vật tư và sản phẩm.
Các lệnh sản xuất cần nhận dạng cụ thể các
thành phần trong bản thông tin sản xuất
Thất thoát sản
phẩm dở dang Thất thoát tài sản
Giảm thiểu sự xâm nhập vào các cơ sở sản
xuất của nhân viên phi sản xuất bằng các
biện pháp kiểm soát truy cập.
Khóa các cơ sở sản xuất trong giờ sản xuất.
Một hệ thống cho phép tạm ngưng (hoãn,
hủy) khi sản phẩm đang trong quá trình
chuyển giao từ phân xưởng sản xuất này
sang phân xưởng sản xuất kia.
Định kỳ, kiểm kê sản phẩm dở dang.
Đánh giá sản
phẩm dở dang
không đúng.
Tính toán giá trị sản phẩm
dở dang không đúng làm sai
lệch thông tin phản ánh trên
báo cáo tài chính (giá thành
sản phẩm và giá trị sản
phẩm dở dang đều sai lệch).
Phân tách chức năng, nhiệm vụ giữa bộ
phận sản xuất (thực hiện sản xuất), bộ phận
kế toán (tính toán, ghi chép thông tin chi phí
sản xuất và giá thành sản phẩm) và bộ phận
văn phòng điều hành (phê duyệt SX)
Bộ phận phê duyệt SX cần thực hiện kiểm
soát quá trình sản xuất và báo cáo giá trị sản
phẩm dở dang.
Ban hành các quy định về tính toán giá trị
sản phẩm dở dang
Chất lượng sản
phẩm không
đảm bảo
Khách hàng phàn nàn về
chất lượng sản phẩm và DN
bị mất uy tín trên thị trường
Thực hiện kiểm tra độc lập ngay từ chất
lượng nguyên vật liệu đầu vào đến chất
lượng thành phẩm làm ra.
417
Thực hiện các quy định đối với sản phẩm
hỏng, sản phẩm bị trả lại (hủy bỏ sản phẩm
hỏng)
Thực hiện triển khai hệ thống đo lường độ
hài lòng của khách hàng.
Bất cân xứng về
nhu cầu sản
phẩm với cung
ứng sản phẩm
của DN (sản
phẩm SX quá
thừa hoặc quá
thiếu)
Khi SX quá thừa gây ra ứ
động hàng tồn kho, không
bán được hàng, lãng phí.
Khi SX quá ít gây ra mất
uy tín đối với khách hàng,
không thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng, khách hàng
không hài lòng, DN bỏ lỡ
cơ hội tăng doanh thu bán
hàng.
Cần tiến hành khảo sát nhu cầu của khách
hàng thông qua các báo cáo nghiên cứu thị
trường.
Bộ phận bán hàng cần đưa ra dự báo đáng
tin cậy để công ty sử dụng.
Bộ phận lập kế hoạch sản xuất lên kế hoạch
phù hợp với mức tiêu thụ sản phẩm.
Bộ phận kế toán lập kế hoạch tài chính đảm
bảo nguồn tiền ở các thời điểm hàng hóa
chưa bán được để duy trì hoạt động kinh
doanh được tốt.
4.2. Kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp sản xuất sản phẩm tùy chỉnh theo nhu cầu
của khách hàng
Ngày nay, nhiều tổ chức sản xuất đang phải đối mặt với hai thách thức dường như mâu
thuẫn. Một mặt, họ cần cung cấp các sản phẩm chất lượng cao, được thiết kế riêng cho nhu cầu
của khách hàng. Mặt khác, họ cần sản xuất với chi phí thấp. Sản xuất hàng loạt (đại trà) thường
ngụ ý chi phí sản xuất thấp hơn, nhưng sản phẩm không thể được tùy chỉnh theo nhu cầu của
khách hàng. Với việc sản xuất theo đơn đặt hàng, các sản phẩm có thể được điều chỉnh theo nhu
cầu của khách hàng, nhưng do đặc tính riêng của quá trình sản xuất nên ngụ ý chi phí sản xuất
cao hơn. Giải pháp cho vấn đề nan giải này là: DN SX các sản phẩm được thiết kế riêng theo nhu
cầu của khách hàng sử dụng sản phẩm sản xuất đại trà và lắp ráp các thành phần được sản xuất
đại trà để thành sản phẩm theo nhu cầu của khách hàng.
Do đó, loại hình sản xuất này có thể có những điểm giống với sản xuất thông thường (hàng
loạt, đại trà) như đã giới thiệu ở trên, nhưng từ góc độ kiểm soát nội bộ thì phức tạp hơn một
chút do quá trình chuyển đổi kỹ thuật phức tạp hơn trong đó các thành phần được lắp ráp thành
sản phẩm cuối cùng.
Rủi ro, hậu quả và kiểm soát nội bộ trong DNSX sản phẩm tùy chỉnh theo nhu cầu
khách hàng
Từ góc độ rủi ro, doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm có thể được tùy chỉnh theo nhu cầu
của khách hàng khá giống với các DN SX đại trà. Nhiều rủi ro liên quan đến DN SX đại trà, chẳng
hạn như đầu tư vào cơ sở sản xuất, tiêu chuẩn sản xuất sản phẩm không đủ, không tin cậy, công tác
dự toán không đầy đủ của bộ phận văn phòng điều hành, sản xuất mà chưa được phê duyệt, sản
xuất không hiệu quả, lưu chuyển hàng hóa phức tạp và đánh giá tiến độ công việc không hợp lý
cũng áp dụng cho doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm có thể được điều chỉnh theo nhu cầu của
418
khách hàng. Các rủi ro sau đây cần được xem xét: không tương thích giữa sản phẩm đã được sản
xuất và sản phẩm đã được khách hàng đặt, các thành phần được sử dụng không đủ chất lượng,
không đủ các thành phần để sản xuất sản phẩm và biến động trong nhu cầu sản phẩm.
Rủi ro liên quan đến sự sai lệch giữa sản phẩm đã được sản xuất và sản phẩm đã được
khách hàng đặt có thể được giảm thiểu bằng cách ghi lại đầy đủ các thông số kỹ thuật của sản
phẩm trên mỗi đơn hàng. Các biện pháp kiểm soát khác để giảm thiểu rủi ro này là kiểm tra độc
lập về sự liên kết giữa đơn đặt hàng của khách hàng và thông số kỹ thuật của sản phẩm, kiểm tra
chất lượng độc lập đối với sản phẩm, thực hiện quy trình khiếu nại của khách hàng với việc ghi
lại các khiếu nại và đo lường sự hài lòng của khách hàng.
Rủi ro khác đặc biệt liên quan đến DN SX các sản phẩm có thể được tùy chỉnh theo nhu
cầu của khách hàng là các thành phần được sử dụng không đủ chất lượng. Các biện pháp kiểm
soát phù hợp để kiểm duyệt rủi ro này là kiểm tra chất lượng độc lập trên các bộ phận được sử
dụng để lắp ráp thành thành phẩm, thực hiện quy trình tiêu hủy các thành phẩm bị khách hàng trả
lại, từ chối mua và thực hiện đo lường sự hài lòng của khách hàng.
Rủi ro liên quan đến việc tồn kho các thành phần không đủ để làm ra sản phẩm mà khách
hàng đặt có thể được giảm thiểu bằng cách lập kế hoạch tồn kho đầy đủ các thành phần dựa trên
dự báo doanh số của các sản phẩm khách đặt, hồ sơ tồn kho đáng tin cậy, sử dụng các điểm đặt
hàng phù hợp và chỉ mua các thành phần/linh kiện từ các nhà cung cấp đáng tin cậy.
Rủi ro liên quan đến biến động về nhu cầu sản phẩm dẫn đến thừa công suất hoặc thiếu
năng lực có thể được giảm thiểu bằng cách sử dụng dự báo doanh số đáng tin cậy từ bộ phận bán
hàng và lập kế hoạch năng lực đầy đủ của văn phòng điều hành hoặc phòng kế hoạch sản xuất,
cho phép điều chỉnh tạm thời năng lực sản xuất.
4.3. Kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp sản xuất sản phẩm nông nghiệp và khai thác
Trong danh mục các DN nông nghiệp và khai thác, được chia thành các nhóm nông
nghiệp, làm vườn, chăn nuôi gia súc, lâm nghiệp, thủy sản, thăm dò khoáng sản và thăm dò dầu
khí. Tất cả đều thuộc nhóm các DNSX sản phẩm nông nghiệp và khai thác vì chúng có ba đặc
điểm chung: Các tổ chức này phải tuân theo quy định nghiêm ngặt và chi tiết; Do hoàn cảnh môi
trường và các điều kiện về năng lực, về kỹ thuật, các DNSX sản phẩm nông nghiệp và khai thác
phải chịu mức độ không chắc chắn cao trong mối quan hệ giữa yếu tố đầu vào và sản lượng đầu
ra; Lập kế hoạch dài hạn là khó khăn vì các tổ chức này bị ảnh hưởng nặng nề bởi các yếu tố bên
ngoài, như khí hậu, chính trị, áp lực môi trường và các bệnh làm giảm hoặc vô hiệu hóa sản xuất
hoàn toàn.
Cụ thể như sau:
Các quy định nghiêm ngặt và chi tiết
Các quy định trong lĩnh vực này thay đổi từ hạn ngạch sản xuất đến luật môi trường, quy
định thăm dò khoáng sản và dầu khí, hạn ngạch tồn tại trong lĩnh vực đánh bắt cá, nơi có những
hạn chế đánh bắt đối với một số loại cá và trong chăn nuôi bò sữa vì nông dân chăn nuôi bò sữa
phải chịu hạn ngạch sữa để giảm thiểu việc sản xuất sữa quá mức. Các ngành công nghiệp
419
khoáng sản và dầu khí phải tuân theo quy định về môi trường đối với việc thăm dò khoáng sản
và dầu khí thân thiện với môi trường. Những quy định này nhằm mục đích thăm dò sinh thái và
bền vững để bảo vệ môi trường.
Mức độ không chắc chắn cao trong mối quan hệ giữa đầu vào và sản lượng đầu ra
Doanh thu hoặc sản lượng của các DN nông nghiệp và khai thác rất khó dự đoán do điều
kiện thời tiết và năng lực khai thác (kỹ thuật khai thác). Các điều kiện thời tiết ảnh hưởng lớn
đến mối quan hệ giữa đầu vào (gieo hạt, khoai tây hạt giống, nụ hoa) và sản lượng đầu ra (ngô,
khoai tây, bông hoa). Ví dụ, do điều kiện thời tiết, sản lượng thu hoạch có thể cực kỳ màu mỡ
một năm và cực kỳ nghèo nàn ở một năm khác. Hơn nữa, năng lực, khả năng kỹ thuật của nông
dân hoặc ngư dân là một thành phần quan trọng khác trong sản lượng cuối cùng. Mặc dù ngành
công nghiệp đánh bắt phụ thuộc rất nhiều vào những tiến bộ công nghệ như radar để phát hiện
cá, nhưng chính ngư dân là người đánh giá thông tin (radar) và quyết định phần nào trong vùng
nước mà anh ta sẽ tập trung câu.
Các yếu tố bên ngoài
Vì các DNSX sản phẩm nông nghiệp và khai thác tác động đến môi trường, họ thường phải
đối mặt với các nhóm áp lực môi trường và các nhóm này có thể có tác động đến sản lượng hoặc
sản xuất nông nghiệp (ví dụ: các nhóm bảo vệ động vật, giải phóng động vật). Ngoài ra, môi
trường chính trị cũng có ảnh hưởng đến các DNSX sản phẩm nông nghiệp và khai thác vì các
chính phủ có thể ban hành các quy định để bảo vệ tài nguyên ít nhiều (ví dụ trong trường hợp các
công ty nước ngoài khai thác khoáng sản hoặc dầu khí của đất nước) hoặc họ liên tục cân nhắc
chi phí để bảo vệ môi trường và lợi ích kinh tế khi phát triển các DNSX sản phẩm nông nghiệp
và khai thác. Một yếu tố bên ngoài khác là các loại dịch bệnh ảnh hưởng đến hoạt động SXKD
của các DNSX sản phẩm nông nghiệp. Các bệnh khác nhau có thể lây lan khi việc giết mổ, vệ
sinh vật nuôi sau khi dịch bệnh bùng phát như cúm gà hoặc khoai tây bị bệnh sương mai, bò
điên, dịch tả lợn Châu Phi. Ngoài ra, nhu cầu tiêu dùng có thể giảm sau khi có dịch bệnh.
Rủi ro, hậu quả và kiểm soát nội bộ trong DNSX sản phẩm nông nghiệp và khai thác
Nhiều rủi ro có nguy cơ xảy ra tại DN sản xuất hàng loạt hay DN sản xuất sản phẩm tùy
chỉnh theo nhu cầu của khách hàng cũng áp dụng cho các DNSX sản phẩm nông nghiệp và khai
thác, chủ yếu liên quan đến: đầu tư vào các cơ sở sản xuất không đủ tiêu chuẩn sản xuất, sản xuất
không hiệu quả, chất lượng sản phẩm không đảm bảo và sai lệch giữa thực tế sản xuất và nhu
cầu sản xuất.
- Rủi ro của sự không chắc chắn về doanh thu, mô hình sản xuất theo mùa, không tuân thủ
luật pháp và quy định hiện hành, áp lực chính trị, xã hội và môi trường, xáo trộn hệ thống kiểm
soát khí hậu, thay đổi điều kiện thời tiết và khoáng sản sẽ ít hơn hơn dự kiến hoặc khó khai thác
hơn. Sự không chắc chắn của doanh thu, dẫn đến các vấn đề tài chính, có thể dẫn đến các vấn đề
quan tâm. Để giảm thiểu rủi ro này, các DN nông nghiệp và khai thác (1) cần tiến hành lập kế
hoạch các kịch bản, chỉ ra tất cả các kịch bản sản xuất có thể có mà DN có thể gặp phải (trong
điều kiện tự nhiên, thời tiết khác nhau), (2) thu thập thông tin về các yếu tố bên ngoài có thể ảnh
420
hưởng đến doanh thu, như dự báo thời tiết, ( 3) thực hiện đánh giá phân tích sâu rộng về doanh
thu để đánh giá sản lượng của các DN với mức trung bình của ngành và (4) tiến hành lập kế
hoạch tiền mặt đầy đủ để tồn tại trong thời điểm doanh thu thấp.
- Sự thiếu hiệu quả sản xuất và các vấn đề tài chính có thể xảy ra trong mùa thấp điểm. Do
đó, các DN nông nghiệp và khai thác cần tiến hành lập kế hoạch năng lực đầy đủ dựa trên bản
chất của mô hình sản xuất theo mùa (như mùa thu hoạch hoặc cấm đánh bắt cá trong những thời
điểm nhất định trong năm), thực hiện các hướng dẫn quản lý đối với việc thuê ngoài trong thời
điểm mùa thấp điểm và đầu tư trong khả năng sản xuất tối đa để xử lý sản xuất trong mùa cao
điểm và lập kế hoạch tiền mặt đầy đủ để đảm bảo DN tồn tại trong mùa thấp điểm.
- Không tuân thủ luật pháp và quy định hiện hành, dẫn đến việc phạt tiền và có thể phải
ngừng hoạt động về mặt pháp lý khi vi phạm nghiêm trọng. Để đối phó với rủi ro này, các tổ
chức nông nghiệp và khai thác có thể chỉ định một cán bộ tuân thủ thường xuyên theo dõi
(không) tuân thủ, tiến hành kiểm toán nội bộ định kỳ về việc tuân thủ luật pháp và quy định hiện
hành (ví dụ như hạn ngạch sữa và đánh bắt cá, sản xuất phân bón, khai thác dầu, khí và khoáng
sản), kích thích sự tuân thủ bằng cách giáo dục các luật và quy định hiện hành, và phân tách
nhiệm vụ giữa ủy quyền sản xuất, sản xuất thực tế (ví dụ đánh bắt, khai thác), ghi lại sản lượng
sản xuất và kiểm tra tuân thủ luật pháp và quy định để tối ưu hóa giám sát sự không tuân thủ.
Các thủ tục kiểm soát cụ thể
Thứ nhất: Phân chia nhiệm vụ
Cần tách biệt các chức năng liên quan đến lập kế hoạch sản xuất, tính toán trước, mua
nguyên liệu, nhận nguyên liệu và chuẩn bị báo cáo, kiểm tra chất lượng nguyên liệu, bảo vệ
nguyên liệu, sản xuất sản phẩm, kiểm tra chất lượng sản phẩm, bảo vệ sản phẩm, bán thành
phẩm, thực hiện tính toán sau quá trình sản xuất, ghi lại các giao dịch và kiểm tra các giao dịch
đã được ghi lại đúng. Cụ thể về phân chia công việc cho từng nhân sự cũng tương tự như DN sản
xuất hàng loạt đã nêu ở trên.
Thứ hai: Lập dự toán
Sự khác biệt chính giữa DNSX sản phẩm nông nghiệp và khai thác so với các loại hình
DNSX đã giới thiệu ở trên là ở mức độ không chắc chắn về điều kiện sản xuất và số lượng sản
phẩm sẽ được sản xuất. Do đó, Dự toán sản xuất sẽ chứa nhiều kịch bản khác nhau (từ không có
sản lượng sản xuất đến sản lượng sản xuất cao hoặc tối đa). Theo kịch bản (từ không có sản
lượng sản xuất đến sản lượng sản xuất cao hoặc tối đa), ngân sách tiền mặt sẽ được xác định.
Hơn nữa, cán bộ kiểm soát hoặc trưởng bộ phận kế toán sẽ sử dụng các nguồn thông tin bên
ngoài như dự báo thời tiết và dữ liệu sản xuất của ngành để đánh giá sản lượng sản xuất và báo
cáo cho ban quản lý về bất kỳ sai lệch nào về kết quả thực tế so với kết quả dự toán trước đây.
Thứ ba, ban hành các quy định, hướng dẫn, chính sách từ bộ phận quản lý
Hầu hết các hướng dẫn quản lý áp dụng cho các DNSX hàng loạt hay SX sản phẩm tùy
chỉnh theo nhu cầu khách hàng đã giới thiệu ở trên cũng áp dụng cho các DNSX sản phẩm nông
nghiệp và khai thác, chẳng hạn như hướng dẫn về tính toán, tính toán trước (lập dự toán) và tính
421
toán sau, tính toán hiệu quả sản xuất, bảo trì máy móc, chất lượng nguyên liệu (ví dụ như hạt
gieo, nụ hoa, hoa), tiêu chuẩn về chất lượng của nguyên liệu thô và thành phẩm (ví dụ như ngô,
nụ hoa), tiêu hủy hoặc bán phế liệu hoặc từ chối thành phẩm và tính giá bán của thành phẩm.
Các DNSX sản phẩm nông nghiệp và khai thác sẽ có các hướng dẫn quản lý bổ sung hoặc cụ
thể hơn liên quan đến cách đối phó với các điều kiện khắc nghiệt như lượng mưa nhiều (ngập úng)
và các dịch bệnh của cây trồng và động vật bùng phát. Bên cạnh đó, ban hành các hướng dẫn bổ
sung về việc tuân thủ luật pháp và quy định hiện hành (như luật môi trường) và cách tính hiệu quả
sản xuất khi có sự điều chỉnh, thay đổi về hoàn cảnh thời tiết, hạn ngạch sản xuất, …
4.4. Đặc điểm của doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng
Nhiều rủi ro cho các DNSX hàng loạt, DNSX sản phẩm nông nghiệp và khai thác cũng áp
dụng cho các DN sản xuất theo đơn đặt hàng, đặc biệt liên quan đến đầu tư vào các trang thiết bị
sản xuất, tiêu chuẩn sản xuất không đủ tin cậy, sản xuất không hiệu quả, chất lượng sản phẩm
không đảm bảo và bất cân xứng giữa sản phẩm sản xuất ra và nhu cầu của khách hàng.
Các đặc tính không cố định, không lặp lại trong quy trình sản xuất hoặc dựa trên đặc thù của
dự án tại các DNSX theo đơn đặt hàng làm cho một số rủi ro này thậm chí còn nổi bật hơn (chẳng
hạn rủi ro về độ tin cậy của tiêu chuẩn sản xuất và hiệu quả sản xuất). Kiểm soát nội bộ để giảm
thiểu rủi ro liên quan đến hiệu quả sản xuất là: phân chia nhiệm vụ giữa tính toán trước khi sản
xuất (dự toán chi phí tại văn phòng điều hành và kế toán chi phí), sản xuất (bộ phận sản xuất) và
sau tính toán (bộ phận kế toán); tài liệu sử dụng thực tế (giờ, nguyên vật liệu) và sản lượng sản
xuất thực tế trên mỗi đơn hàng của bộ phận sản xuất; sử dụng sản phẩm và tiêu chuẩn sản xuất
càng chi tiết càng tốt; và tiến hành tính toán trước và sau mỗi đơn hàng. Sự khác biệt chính với sản
xuất hàng loạt là để sản xuất theo đơn đặt hàng tất cả các tính toán liên quan đến hiệu quả sản xuất
được thực hiện trên mỗi đơn hàng vì đó là đơn vị sản xuất, so với sản xuất hàng loạt (tính toán
được thực hiện trên mỗi bộ phận phân xưởng sản xuất) vì không có hiệu quả cho từng sản phẩm.
Một số rủi ro chỉ áp dụng cho DN sản xuất theo đơn đặt hàng (theo dự án) liên quan đến:
việc dịch chuyển doanh thu và chi phí giữa các dự án, thời gian xử lý phát sinh tại các dự án và
độ phức tạp của các dự án. Khi chi phí thực tế phát sinh vượt trội so với chi phí dự toán của các
dự án có mức phí cố định, DN sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên, bằng sự dịch chuyển chi phí từ các dự án
có mức phí cố định sang các dự án có mức phí dao động (dựa trên chi phí phát sinh tổng hợp,
cộng dồn) thì các quản lý dự án vẫn có thể báo cáo lãi ở các dự án có mức phí cố định. Điều này
sẽ khiến cho quản lý dự án được thưởng (do quản lý dự án có lãi). Tuy nhiên, điều này sẽ không
hợp lý và không công bằng cho các khách hàng ký kết hợp đồng với mức phí mức phí dao động
dựa trên tổng chi phí phát sinh cho dự án (vì họ bị chịu các chi phí không phải từ dự án của họ)
và từ đó sẽ cung cấp thông tin sai, dẫn đến làm sai lệch dự toán ở các dự án sau này.
Có một số thủ tục kiểm soát nội bộ để giảm thiểu rủi ro này. Đầu tiên, cần phân tách nhiệm
vụ giữa bộ phận sản xuất và bộ phận kế toán (phân bổ chi phí cho các dự án; ghi chép). Thứ hai,
phân bổ các dự án cho các nhà quản lý dự án cần phải được thực hiện theo tuần tự chứ không
phải trên cơ sở đồng thời. Thứ ba, người kiểm soát tài chính hoặc người đứng đầu bộ phận kế
toán nên thực hiện đánh giá phân tích về hiệu quả và lợi nhuận của dự án.
422
5. KẾT LUẬN
Bài viết này thảo luận về kiểm soát nội bộ cho các DN sản xuất. Đối với mỗi vấn đề này,
chúng tôi thảo luận về các rủi ro, hậu quả và các thủ tục kiểm soát cụ thể liên quan nhằm hạn chế
rủi ro, chẳng hạn như phân chia nhiệm vụ, hướng dẫn lập dự toán và ban hành chính sách quản
lý. Các thủ tục kiểm soát cần được thực hiện nghiêm túc, triệt để bởi lẽ sự không hiệu quả trong
sản xuất có thể không chỉ do bộ phận sản xuất sản xuất không hiệu quả, mà còn do việc thiết lập
tiêu chuẩn của bộ phận kế hoạch, bộ phận lập dự toán, bộ phận kế toán quản trị chi phí không
phù hợp. Đồng thời, người kiểm soát hoặc người đứng đầu bộ phận kế toán phải điều hòa mối
quan hệ giữa yếu tố đầu vào và sản lượng đầu ra cần đánh giá kết quả với mức trung bình của
ngành và thông tin năng suất từ các năm trước và từ các đối thủ cạnh tranh. Đặc biệt, doanh
nghiệp cần liên tục ban hành các hướng dẫn nhằm đảm bảo thực hiện tuân thủ đầy đủ các chính
sách, pháp luật hiện hành khi có sự điều chỉnh, thay đổi về quy định liên quan tới hạn ngạch sản
xuất và xuất nhập khẩu. Kết quả thu được từ bài nghiên cứu này sẽ cung cấp các thông tin hữu
ích cho các nhà quản lý, nhà đầu tư trong việc quản lý, điều hành doanh nghiệp và đưa ra quyết
định kinh doanh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
COSO (1992), Internal Control Report.
COSO (2013), Internal Control Report.
Bùi Thị Minh Hải (2012), “Hoàn thiện hệ thống KSNB trong các doanh nghiệp may mặc Việt
Nam”, Luận án tiến sĩ, Học viện Tài chính.
Eddy Vaassen, Roger Meuwissen, Caren Schellenman (2008), Accounting Information System
and Internal Control, Wiley Publishing House.
Nguyễn Thị Hoàng Oanh (2015), “Hoàn thiện hệ thống KSNB tại Công ty Cổ phần dược phẩm
EUVIPHARM”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Quang Quynh (2014), Giáo trình Kiểm toán tài chính, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế
quốc dân.
Nguyễn Thu Hoài (2015), “Hoàn thiện hệ thống KSNB trong các doanh nghiệp sản xuất xi măng
thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, Học viện Tài chính.
Laura F. Spira và Micheal Page (2002), Research on risk management in relation to internal
control.
Mahmoud Ibrahim (2017), Internal control and public sector revenue generation in Nigeria:
Empirical analysis.
Yuan Li, Yi Liu, Younggbin Zhao (2006). Research on market-leading roles of enterprises and
internal control systems that affect new product development.
Zipporah (2015), The influence of internal control on the financial performance of
manufacturing companies in Kenya.
423
Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngân hàng
giao dịch của khách hàng cá nhân trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Trần Thị Thùy Trang
Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: trantranghtttkt@gmail.com
Mã bài: HTQG.58 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 25/11/2019
Ngày nhận bài: 13/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 28/11/2019
Tóm tắt
Nghiên cứu này nhằm đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngân hàng thương
mại để giao dịch của các khách hàng cá nhân. Dữ liệu khảo sát gồm 200 đối tượng là khách hàng
đã và đang có các giao dịch với các Ngân hàng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Kết quả phân tích
hồi quy Binary Logistic cho thấy yếu tố Nhân viên phục vụ có tác động mạnh nhất đến xu hướng
lựa chọn ngân hàng, kế đến là Lợi ích sản phẩm dịch vụ, độ tin cậy, phương tiện hữu hình và
cuối cùng là giá phí dịch vụ. Với kết quả kiểm định mô hình đưa ra, nghiên cứu cũng đề xuất
một số khuyến nghị nhằm cải thiện hơn chất lượng dịch vụ, độ tin cậy, phong cách phục vụ của
nhân viên ngân hàng nhằm giúp các ngân hàng trên địa bàn Thành phố Hà nội cải thiện được các
tiêu chí để thu hút thêm khách hàng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng thị phần cho
doanh nghiệp.
Từ khóa: Vay vốn; khách hàng cá nhân; lựa chọn nơi vay.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Với số lượng lớn ngân hàng thương mại xuất hiện tại Việt Nam đã tạo điều kiện cho khách
hàng có thêm cơ hội lựa chọn các giao dịch cá nhân như: chuyển tiền, gửi tiền, vay vốn. Ngân
hàng nào giành được sự quan tâm và trung thành của khách hàng thì ngân hàng đó sẽ tăng thị
phần và phát triển. Để nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm duy trì khách hàng giao dịch cũ và thu
hút thêm nhiều khách hàng mới thì các ngân hàng thương mại cần phân tích, xác định rõ các tiêu
chí mà khách hàng cân nhắc khi lựa chọn ngân hàng để thực hiện các giao dịch của mình, từ đó
đưa ra các kế hoạch trọng tâm phát triển dịch vụ ngân hàng nhằm thu hút khách hàng và đạt
được hiệu quả hoạt động cao nhất.
Trên thế giới đã có nhiều quốc gia khác nhau tiến hành nghiên cứu về vấn đề lựa chọn
ngân hàng của khách hàng cá nhân. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu có sự khác nhau, đặc biệt là
đối với những quốc gia đang phát triển như Việt nam do sự khác biệt về vị trí địa lý, bối cảnh xã
424
hội, môi trường kinh tế, văn hóa và pháp luật. Tại Việt Nam, nghiên cứu này đã được thực hiện,
song còn phân tích chưa chuyên sâu.
Cho đến ngày nay thì đã có một số lượng nghiên cứu đáng kể đã được thực hiện ở các quốc
gia khác như Phuong & Yin (2000) ở Singapore, Rao & Sharma (2010) ở Ấn Độ hay nghiên cứu
của Saleh Mohamad (2013) tại Malaysia…Các kết quả nghiên cứu này đã chỉ ra rằng, các yếu tố
ảnh hưởng của khách hàng là khác nhau ở từng quốc gia.
Chẳng hạn như nghiên cứu của Nguyễn Kim Nam và Trần Thị Tuyết Vân (2015) thực hiện
nghiên cứu ở Thành phố Đà Lạt. Để kết quả nghiên cứu có thể được khái quát hóa thì cần mở
rộng phạm vi nghiên cứu với quy mô lớn hơn và trong những bối cảnh không gian và thời gian
khác nhau. Do vậy, việc cân nhắc các yếu tố để lựa chọn một ngân hàng thương mại khi thực
hiện giao dịch tại đó của các khách hàng cá nhân là hoàn toàn cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
2. GIẢ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1. Giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới lựa chọn ngân hàng để giao dịch của khách hàng cá
nhân còn được dựa trên nhiều lý thuyết khác nhau trong đó có thuyết hành vi hợp lý được Ajzen
và Fishbein giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1969, được hiệu chỉnh mở rộng trong thập niên 70 và
được xem là học thuyết tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu tâm lý xã hội và hành vi tiêu dùng.
Mô hình TRA cho thấy xu hướng tiêu dùng là yếu tố dự đoán tốt nhất về hành vi tiêu dùng. Các
yếu tố góp phần đến xu hướng tiêu dùng thì xem xét hai yếu tố là thái độ và chuẩn chủ quan của
khách hàng. Thái độ được đo lường bằng nhận thức về các thuộc tính của đối tượng; yếu tố
chuẩn chủ quan có thể được đo lường thông qua những người có liên quan đến người tiêu dùng.
Ajzen (1991) phát triển Thuyết hành vi hoạch định trên cơ sở thuyết hành động hợp lý của Ajzen
và Fishbein (1977), sự ra đời của thuyết hành vi dự định TPB xuất phát từ giới hạn của hành vi
mà con người có ít sự kiểm soát dù động cơ của đối tượng là rất cao từ thái độ và tiêu chuẩn chủ
quan nhưng trong một số trường hợp họ vẫn không thực hiện hành vi vì có các tác động của điều
kiện bên ngoài lên ý định hành vi. Lý thuyết hành vi mở rộng cũng chỉ ra rằng người tiêu dùng
có vẻ như bị thôi thúc khi mua sản phẩm/dịch vụ và họ không chỉ chịu ảnh hưởng bởi gia đình,
bạn bè, các quảng cáo và các hình mẫu trước đó mà còn chịu ảnh hưởng bởi tâm trạng, hoàn
cảnh, cảm xúc. Giai đoạn đầu vào ảnh hưởng đến sự nhận thức nhu cầu sản phẩm của người tiêu
dùng. Giai đoạn xử lý tập trung vào việc người tiêu dùng quyết định như thế nào. Giai đoạn đầu
ra của mô hình quyết định tiêu dùng gồm 2 hoạt động có liên quan khá mật thiết: hành vi mua và
đánh giá sau khi mua. Vẫn theo Fishbein và Ajzen (1977) thì mô hình ra quyết định tiêu dùng có
quan hệ gắn bó mật thiết với các khái niệm tâm lý và văn hóa xã hội, xu hướng tiêu dùng là sự
nghiêng theo chủ quan của người tiêu dùng về một sản phẩm, thương hiệu nào đó, và nó đã được
chứng minh là yếu tố then chốt để dự đoán hành vi người tiêu dùng. Các nhà nghiên cứu nhận ra
rằng, để đi đến một hành động mua sắm thực sự thì tùy thuộc vào tầm quan trọng của những gì
khách hàng đang sử dụng và sẵn lòng để đưa ra các quyết định sử dụng. Theo Kotler (1993), việc
mua sắm của người tiêu dùng chịu ảnh hưởng bởi các nhóm nhân tố nội tại (nhân tố tâm lý và
nhân tố cá nhân), nhân tố bên ngoài (nhân tố văn hóa và nhân tố xã hội). Các nghiên cứu trước
425
đây cũng cho thấy, song song với các nhân tố đặc điểm của người mua thì thành phần marketing
4P bao gồm: sản phẩm, giá cả, phân phối, chiêu thị cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới
hành vi người tiêu dùng. Theo Kollat và cộng sự (1987) hành vi khách hàng là một quá trình liên
tục bao gồm việc nhận ra nhu cầu, thu thập thông tin, xem xét các lựa chọn, quyết định mua và
đánh giá sau khi mua. Nghiên cứu hành vi của khách hàng là nhằm giải thích quá trình mua hay
không mua một loại hàng hóa nào đó. Một trong những cách để phân tích hành vi khách hàng là
đo lường xu hướng tiêu dùng của khách hàng.
Có 3 nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ của khách hàng cá
nhân bao gồm những yếu tố bên ngoài: Môi trường văn hóa, tầng lớp xã hội, nhóm ảnh hưởng
gia đình… và những yếu tố cá nhân: tuổi tác, nghề nghiệp, tình trạng kinh tế, phong cách sống.
Những yếu tố tâm lý: động cơ, nhu cầu, nhận thức, khả năng hiểu biết, cá tính. Các nhân tố này
đã được các nghiên cứu trước lựa chọn khá nhiều như nghiên cứu tiêu biểu của Aderson và cộng
sự (1976) hay Gasser & cộng sự (1986)
Theo Almossawi (2001) thì an toàn là một trong những yếu tố quan trọng có thể ảnh hưởng
đến sự lựa chọn ngân hàng của khách hàng. Mohamad (2015) cho thấy, tiện lợi là một trong
những yếu tố quan trọng có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn ngân hàng của khách hàng dựa trên
cơ sở ngân hàng trực tuyến và môi trường giao dịch. Theo kết quả nghiên cứu của Lenka và
Mohopatra (2009) cho thấy yếu tố quyết định quan trọng của lựa chọn ngân hàng thương mại là
Nhân viên, cụ thể nhóm khách hàng trẻ có xu hướng chú trọng hơn về các yếu tố như truy cập
nhanh chóng và sự thuận tiện với các dịch vụ ngân hàng. Theo nghiên cứu của Anderson & cộng
sự (1976), Giao, H. N. K., & Đạt, H. M. (2019). cũng cho thấy nhiều nhân tố tác động đến việc
lựa chọn ngân hàng như: Chất lượng dịch vụ, tự động hóa, lãi suất cao, phí dịch vụ, lãi suất vay
thấp, địa điểm thuận tiện. Theo Dr. Bikramjit Singh Hundal và Ishleen Kaur Kohli (2014) yếu tố
không gian mua sắm, sự tin cậy - phong cách phục vụ cũng tác động tới quyết định lựa chọn địa
điểm mua sắm của người tiêu dùng.
Ở Việt Nam, Nghiên cứu của Phạm Thị Tâm và Phạm Ngọc Thúy (2010) cho thấy một số
yếu tố tác động đến quyết định lựa chọn ngân hàng bao gồm: Nhận biết thương hiệu, vị trí thuận
tiện, xử lý sự cố, ảnh hưởng của người thân, phương tiện hữu hình, thái độ đối với chiêu thị.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Kim Nam và Trần Thị Tuyết Vân (2015) đã đưa ra mô hình với sự
tác động được các nhân tố sau tới lựa chọn ngân hàng giao dịch: Lợi ích từ sản phẩm, Nhân viên
ngân hàng, danh tiếng ngân hàng, thuận tiện, hữu hình, ảnh hưởng của những người xung quanh,
quảng bá. Các tác giả trong nước như Nguyễn Thị Kim Dung & Bùi Thị Kim Thanh (2011) và
Lưu Thanh Đức Hải & Lê Vũ Duy (2014) chỉ ra rằng: các yếu tố như sản phẩm, giá cả, sự thuận
tiện ảnh hưởng tới quyết định của người tiêu dùng khi lựa chọn địa điểm tiêu dùng, mua sắm.
Qua phân tích cơ sở lý thuyết và kế thừa từ những nghiên cứu trước, nghiên cứu này đề xuất giả
thuyết sau:
H1: Lợi ích Sản phẩm dịch vụ (SPDV) tác động tích cực đến xu hướng lựa chọn ngân hàng
H2: Giá phí dịch vụ (GPDV) tác động tích cực đến xu hướng lựa chọn ngân hàng
426
H3: Sự tin cậy (TC) tác động tích cực đến xu hướng lựa chọn ngân hàng
H4: Phương tiện hữu hình (PTHH) có tác động tích cực đến xu hướng lựa chọn ngân hàng
H5: Nhân viên (NV) có tác động tích cực đến xu hướng lựa chọn ngân hàng
2.2. Mô hình nghiên cứu
Do vậy, mô hình nghiên cứu được đề nghị bao gồm 6 nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn
ngân hàng của khách hàng cá nhân như sau:
Trên cơ sở lược khảo cứu các công trình nghiên cứu trước, tác giả đề xuất mô hình nghiên
cứu dưới dạng binary logistic để đánh giá các yếu tố tác động đến việc lựa chọn ngân hàng giao
dịch của khách hàng cá nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội
Logit (Y) = natural log (odds) = ln(π/1- π) = α + βixi
Trong đó:
Y: Biến phụ thuộc dạng nhị phân (Y = 1: Có giao dịch ngân hàng, Y = 0: Chưa giao dịch
ngân hàng).
βi: Các hệ số hồi qui tương ứng.
βi: Các hệ số hồi qui tương ứng (β1, β2, β3, β4, β5)
Xi: Các biến độc lập (5 biến), thể hiện các yếu tố ảnh hưởng tới lựa chọn nơi giao dịch của
khách hàng cá nhân (LIDV, GP, TC, PTHH, NV)
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất với kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện.
Bảng câu hỏi khảo sát được gửi đến các khách hàng cá nhân trực tiếp hoặc không trực tiếp - đang
hoặc đã giao dịch với các ngân hàng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Theo Hair và cộng sự (1998)
thì quy luật tổng quát cho cỡ mẫu tối thiểu trong phân tích nhân tố khám phá là gấp 5 lần số biến
quan sát và số lượng mẫu phù hợp cho phân tích hồi qui đa biến cũng là gấp 5 lần số biến quan sát.
Trong nghiên cứu này có tất cả 22 biến quan sát cần tiến hành phân tích nhân tố, vì vậy số mẫu tối
thiểu cần thiết là 22 x 5 = 110. Nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát 230 mẫu trong khoảng thời gian
từ tháng 8 đến tháng 10/2019. Số mẫu đạt chất lượng để đưa vào phân tích là 200.
LỢI ÍCH SP-DV
GIÁ CẢ DỊCH VỤ
SỰ TIN CẬY
PHƯƠNG TIỆN HỮU HÌNH
NHÂN VIÊN
XU HƯỚNG LỰA CHỌN
NGÂN HÀNG
427
Bảng câu hỏi được thiết kế theo hai phần: Phần đầu là các câu hỏi về thu nhập, độ tuổi,
trình độ. Phần thứ hai là các câu hỏi liên quan đến cảm nhận của khách hàng cá nhân khi giao
dịch tại các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội. Ngoại trừ phần đầu, 22 biến số trong bảng câu hỏi
được đo lường bằng thang đo Likert 5 mức độ để xác định câu trả lời của khách hàng. Các biến
quan sát này được lấy từ các nghiên cứu trước và được tiến hành hiệu chỉnh lại sau khi hỏi ý kiến
chuyên gia, chuyên viên ngân hàng và khảo sát thử 20 khách hàng cá nhân.
Bảng câu hỏi sau khi thu thập, được chọn lọc và làm sạch nhằm loại bỏ những bảng câu
hỏi trả lời không phù hợp với việc phân tích hoặc thiếu thông tin, tiếp theo sẽ nhập vào máy tính
bằng cách mã hoá. Dữ liệu được xử lý với các công cụ thống kê mô tả, kiểm định thang đo bằng
hệ số Cronbach's alpha, phân tích nhân tố khám phá, phân tích hồi quy Binary logistic với sự hỗ
trợ của phần mềm SPSS 20. Trên cơ sở lược khảo cứu các công trình nghiên cứu trước, tác giả
đề xuất mô hình nghiên cứu dưới dạng binary logistic để đánh giá các yếu tố tác động đến việc
lựa chọn ngân hàng giao dịch của khách hàng cá nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội
Logit (Y) = natural log (odds) = ln(π/1- π) = α + βiXi
Trong đó: Y: Lựa chọn của người tiêu dùng (Y = 1: Sử dụng dịch vụ ngân hàng, Y = 0:
Không sử dụng dịch vụ ngân hàng).
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Mô tả mẫu nghiên cứu
Trong tổng số 200 mẫu nghiên cứu, có 81 người tiêu dùng là nam, chiếm 40,5 %; có 119
người tiêu dùng là nữ, chiếm 59,5%. Đối tượng khảo sát là người có trình độ khác nhau, trong đó
cao đẳng và đại học chiếm tỷ lệ lớn nhất là 23,5% và 59%, thấp nhất là dưới cao đẳng 5,5%. Thu
nhập bình quân của các đối tượng khảo sát chủ yếu ở mức từ 5 - 10 triệu đồng/tháng và trên 10
triệu đồng/tháng chiếm tỷ lệ tổng là 76% trong tổng số mẫu khảo sát.
Bảng 1: Thông tin về mẫu nghiên cứu
Tuổi Số
lượng %
Thu nhập
(triệu)
Số
lượng % Trình độ
Số
lượng %
Dưới 24 40 20 Dưới 5 26 13 Dưới CĐ 11 5,5
Từ 24-40 80 40 Từ 5- Dưới 10 112 56 Cao đẳng 47 23,5
Từ 41-55 65 32,5 Từ 10-20 40 20 Đại học 118 59
Trên 55 15 7,5 Trên 20 22 11 Sau đại học 24 12
4.2 Kiểm định chất lượng thang đo và phân tích nhân tố EFA
4.2.1. Kiểm định chất lượng thang đo
Các biến LIDV, GP, TC, PTHH, NV có các Cronbach's Alpha chấp nhận được lần lượt là
0,721; 0,891; 0,721; 0,854; 0,872 cho thấy các thang đo sử dụng tốt. Các hệ số tương quan biến
tổng của các biến quan sát đều lớn hơn 0,3 và không có Cronbach's Alpha nào nhỏ hơn 0,6 nên
không có biến nào bị loại khỏi mô hình. Chỉ số KMO của mô hình là 0,889 và kiểm định Bartlett
428
có Sig. < 0.05 được thể hiện ở Bảng 2 có ý nghĩa thống kê thỏa mãn các điều kiện kết luận nhân
tố khám phá là thích hợp. Vì vậy, tất cả 21 các biến quan sát đều được chấp nhận và sẽ sử dụng
trong phân tích nhân tố khám phá tiếp theo.
Bảng 2. Độ tin cậy của thang đo
Ký hiệu Thang đo
Lợi ích dịch vụ: Cronbachs alpha = 0,721
LIDV1 Sản phẩm dịch vụ phong phú, đa dạng mang đến nhiều lựa chọn cho khách hàng
LIDV2 Ngân hàng luôn đi đầu về cung cấp các sản mới
LIDV3 Thời gian giao dịch nhanh chóng
LIDV4 Nhận được nhiều ưu đãi khi giao dịch
LIDV5 Giấy tờ, biểu mẫu được thiết kế đơn giản rõ ràng, dễ hiểu
Giá phí dịch vụ: Cronbachs alpha = 0,891
GP1 Giá phí dịch vụ hợp lý
GP2 Giá phí dịch vụ được niêm yết rõ ràng tại phòng giao dịch
GP3 Giá phí dịch vụ phù hợp với chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp
Sự tin cậy: Cronbachs alpha = 0,721
TC1 Ngân hàng luôn thực hiện đúng những gì cam kết với khách hàng
TC2 Có rất nhiều kênh để liên hệ giữa ngân hàng với khách hàng
TC3 Bảo mật tốt thông tin khách hàng
TC4 Là ngân hàng có uy tín
Phương tiện hữu hình: Cronbachs alpha = 0,854
PTHH1 Ngân hàng ứng dụng tốt CNTT trong dịch vụ khách hàng
PTHH2 Cơ sở hạ tầng của ngân hàng khang trang hiện đại
PTHH3 Không gian giao dịch sạch sẽ, thoáng mát, tiện nghi
PTHH4 Chỗ để xe thuận tiện và an toàn
PTHH5 Nhân viên có trang phục lịch sự và lịch thiệp
Nhân viên phục vụ: Cronbachs alpha = 0,872
NV1 Nhân viên có trình độ chuyên môn giỏi
NV2 Khả năng xử lý giao dịch nhanh chóng và chính xác
NV3 Nhân viên luôn cung cấp những thông tin dịch vụ cần thiết cho khách hàng
NV4 Nhân viên luôn giải quyết những yêu cầu thỏa đáng của khách hàng
4.2.2. Kiểm định giá trị thang đo thông qua phân tích nhân tố EFA
Kết quả phân tích nhân tố lần cuối, có 1 biến bị loại khỏi mô hình (GP2) vì không đảm bảo
điều kiện về hệ số tải nhân tố (<0,5). Các biến còn lại 20 biến đạt giá trị hệ số nhân tố > 0,5 nên
429
tiếp tục đưa vào phần phân tích nhân tố. Kết quả kiểm định Bartlett và chỉ số KMO = 0,824; sig.
<0,05 (Bảng 2) cũng chứng tỏ rằng mô hình phân tích nhân tố là phù hợp và các biến quan sát có
tương quan chặt chẽ với nhau. Phương trích sai là 67% có nghĩa 67% sự thay đổi của các nhân tố
được giải thích bởi các biến quan sát (Bảng 3). Điều này cho thấy kết quả phân tích EFA là hoàn
toàn thích hợp.
Bảng 3. Kiểm định KMO and Bartlett's Test
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. .824
Bartlett's Test of
Sphericity
Approx. Chi-Square 1830.876
Df 231
Sig. .000
Bảng 4. Ma trận xoay các nhân tố
Component
1 2 3 4 5
LIDV3 .761
LIDV2 .730
LIDV1 .728
LIDV4 .704
GP3 .640
GP1 .622
TC1 .907
TC4 .869
TC2 .717
TC3 .687
PTHH3 .843
PTHH4 .804
PTHH1 .688
PTHH2 .685
LIDV5 .634
NV2 .877
NV3 .817
NV1 .786
PTHH5 .769
NV4 .694
Extraction Method: Principal Component Analysis.
430
Bảng 6. Phân tích tương quan các biến
SHL KNPV DNGV HP CTDT SNTCGV
LISP
Pearson Correlation 1 .586** .506** .606** .381** .515**
Sig. (2-tailed) .000 .000 .000 .000 .000
N 200 200 200 200 200 200
GP
Pearson Correlation .546** 1 .518** .466** .305** .589**
Sig. (2-tailed) .000 .000 .000 .000 .000
N 200 200 200 200 200 200
TC
Pearson Correlation .516** .518** 1 .286** .435** .609**
Sig. (2-tailed) .000 .000 .000 .000 .000
N 200 200 200 200 200 200
PTHH
Pearson Correlation .619** .466** .286** 1 .239** .325**
Sig. (2-tailed) .000 .000 .000 .002 .000
N 200 200 200 200 200 200
NV
Pearson Correlation .515** .589** .609** .325** .312** 1
Sig. (2-tailed) .000 .000 .000 .000 .000
N 200 200 200 200 200 200
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
Kết quả (Bảng 5) phân tích ma trận xoay các nhân tố lần cuối, 20 biến còn lại đều có hệ số
tải nhân tố lớn hơn 0,5, cho thấy mức độ phù hợp của dữ liệu đã đảm bảo. Các biến quan sát này
được chia thành 5 nhóm mới và tên các nhóm vẫn giữ như mô hình ban đầu. Sau khi chạy trên
phần mềm SPSS 20, kết quản phân tích tương quan các biến trước khi chạy hồi quy đa biến cho
thấy hệ số Sig. <0,05 cho tất cả các biến phụ thuộc và biến độc lập, cho thấy ý nghĩa thống kê có
mối quan hệ giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc (Bảng 6).
4.3. Thực hiện phân tích hồi quy phi tuyến tính Binary Logistic
Mô hình hồi quy tuyến tính với các quan hệ phi tuyến diễn tả mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố lựa chọn ngân hàng giao dịch được thể hiện như trên. Phương pháp Enter được sử dụng để
tiến hành phân tích hồi qui Logit nhị phân. Kiểm định Chi-Square được sử dụng để kiểm định sự
phù hợp của mô hình. Và căn cứ vào mức ý nghĩa (Sig) trong bảng kiểm định Omnibus để quyết
định bác bỏ hay không bác bỏ giả thuyết H0: β1 = β2 … = 0. Kết quả cho thấy mức ý nghĩa (sig.) <
0,05, vậy nên bác bỏ H0; các hệ số hồi quy đều khác 0, mô hình hồi quy phù hợp và có thể sử dụng
được, nghĩa là các biến độc lập tác động đến biến phụ thuộc có ý nghĩa thống kê (Bảng 7).
Bảng 7: Kiểm định độ phù hợp tổng quát
Omnibus Tests of Model Coefficients
Chi-square df Sig.
Step 1
Step 167.115 5 0.000
Block 167.115 5 0.000
Model 167.115 5 0.000
431
Bảng 8: Mức độ phù hợp của mô hình
Model Summary
Step -2 Log likelihood Cox & Snell R Square Nagelkerke R Square
1 129.147a .4667 .623
Độ phù hợp tổng quát cũng được đánh giá dựa trên chỉ tiêu -2LL (viết tắt của -2 Log
Likelihood). Giá trị -2LL của mô hình trên tương đối nhỏ thể hiện sự phù hợp khá tốt của mô
hình đang phân tích. Hệ số mức độ giải thích của mô hình Nagelkerke R- bình phương = 0,623.
Điều này có nghĩa là 62,3% sự thay đổi của biến phụ thuộc lựa chọn nơi giao dịch là ngân hàng
của khách hàng trên địa bàn thành phố Hà Nội được giải thích bởi 5 biến độc lập của mô hình.
Bảng 9: Kết quả hồi quy Binary Logistic
Variables in the Equation
B S.E. Wald Df Sig. Exp(B)
Step 1a
LISP 0.269 0.087 9.568 1 0.002 1.309
TC 0.049 0.017 8.285 1 0.004 1.05
GP 0.001 0 7.974 1 0.005 1.001
PTHH 0.006 0.002 5.536 1 0.019 1.006
NV 1.139 0.378 9.063 1 0.003 3.124
Constant -18.937 2.978 40.445 1 0 0
a.Variable(s) entered on step 1: LISP, TC, GP, PTHH, NV.
Khi kiểm định Wald về ý nghĩa hệ số hồi qui tổng thể cho thấy các biến ảnh hưởng đến xu
hướng lựa chọn ngân hàng có giá trị Sig. < 0,05. Như vậy các hệ số hồi quy tìm được đều có ý
nghĩa thống kê ở mức nhỏ hơn 5% và mô hình được viết lại như sau:
Log [(P(Y=1))/(P(Y=0))] = -18.937 + 0.269*LISP + 0.049*TC + 0.001*GP
+ 0.006*PTHH + 1.139*NV
Nghiên cứu này xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngân hàng giao
dịch của khách hàng cá nhân. Kết quả cho thấy có 5 nhân tố tác động đến quyết định lựa chọn
ngân hàng của khách hàng cá nhân bao gồm: Lợi ích sản phẩm dịch vụ, tin cậy, giá phí dịch vụ,
phương tiện hữu hình, nhân viên phục vụ. Kết quả cho thấy mức độ ảnh hưởng của biến độc lập
“NV” đến xu hướng lựa chọn ngân hàng là mạnh nhất, tiếp đó là thành phần LISP và lần lượt là
TC, PTHH, GP và kỳ vọng về dấu của các giả thuyết đều đạt yêu cầu.
Với kết quả trên, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm giúp các ngân hàng đưa ra
chiến lược phù hợp như sau:
Thứ nhất, về phía nhân viên ngân hàng thì sự ứng xử và phong cách phục vụ là yếu tố
khách hàng đề cao và điều này sẽ mang lại lợi thế cạnh tranh lâu dài cho ngân hàng. Ngân hàng
nên thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo để hình thành phong cách làm việc chuyên nghiệp và
432
nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng. Để nâng cao chất lượng phục vụ của nhân
viên ngân hàng cũng như đạo đức nghề nghiệp và chuyên môn thì ngân hàng nên xây dựng văn
hóa công việc và thiết lập thành các quy chế nội bộ trong hệ thống kiểm soát ngân hàng. Đồng
thời đây là công cụ để đo lường thành quả làm việc gắn liền với lợi ích thu nhập vật chất của
nhân viên.
Thứ hai, Ngân hàng nên hoàn thiện các các vấn đề liên quan tới sản phẩm dịch vụ ngân
hàng như: dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt, đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng và nâng cao chất
lượng dịch vụ. Bên cạnh đó, cũng cần triển khai kế hoạch nghiên cứu nhu cầu thị hiếu của khách
hàng để đưa ra các sản phẩm dịch vụ đáp ứng thị hiếu của khách hàng.
Thứ ba, để tăng cường độ tin cậy với ngân hàng hơn nữa thì đòi hỏi từ phía ngân hàng cần
nâng cao tính tuân thủ và đạo đức nghề nghiệp, cũng như tăng cường ứng dụng công nghệ thông
tin để bảo mật tốt các hoạt động giao dịch và liên minh, liên kết, quảng bá rộng rãi hình ảnh của
ngân hàng với khách hàng. Đồng thời đẩy mạng công tác đào tạo để tạo niềm tin cho khách hàng
khi đến giao dịch tại ngân hàng. Ngân hàng cần bố trí thêm nhân sự như công an, bảo vệ tại các
quầy rút tiền hoặc tại các cây ATM để tránh sự cố mấy tiền và đảm bảo tránh sự cố hệ thống máy
khi hoạt động. Ngân hàng nên đầu tư cho các chương trình quảng cáo để thu hút khách hàng
thông qua các chương trình khuyến mãi như tặng quà, rút thăm chúng thưởng… Bên cạnh đó
ngân hàng cần cải thiện website thực sự là kênh thông tin quan trọng giúp quảng bá và gắn liền
với khách hàng từ đó nâng cao độ tin cậy cho khách hàng hơn.
Thứ tư, Ngân hàng cần giành thêm nguồn lực để cải tạo và xây dựng thêm cơ sở vật chất,
lắp đặt thêm các thiết bị tiện ích, hệ thống thiết bị, máy móc tại ngân hàng nhằm tạo ra sự thoải
mái cho khách hàng khi đến giao dịch tại ngân hàng. Tiến hành rà soát lại mạng lưới giao dịch
trên địa bàn, có kế hoạch tái bố trí và bố trí mới các điểm giao dịch tại nhiều khu vực khác nhau.
Thường xuyên thực hiện công tác vệ sinh, công tác 5S nhằm đảm bảo môi trường giao dịch sạch
sẽ, tiện nghi, gọn gàng. Ngoài ra, các giao dịch gửi tiết kiệm với lãi suất tiền gửi đang khác nhau
tại các ngân hàng cũng là nguyên nhân khiến cho một số khách hàng lựa chọn giao dịch tại ngân
hàng đó. Giá phí dịch vụ cao hay thấp cũng tác động đến tâm lý gửi tiền hay mở tài khoản ngân
hàng, hay chuyển khoản của các khách hàng cá nhân. Do vậy, trong thời gian tới các ngân hàng
như Argribank hay Viettinbank cần đa dạng hóa các lãi suất tiền gửi và cho vay để giữ chân các
khách hàng trung thành tránh tình trạng họ chạy sang các ngân hàng cổ phần khác.
5. KẾT LUẬN
Nghiên cứu này xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngân hàng giao
dịch của khách hàng cá nhân, qua đó giúp các ngân hàng có thêm định hướng cải thiện môi
trường kinh doanh để thu hút thêm khách hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng
dịch vụ. Kết quả cho thấy có 5 nhân tố tác động đến quyết định lựa chọn ngân hàng của khách
hàng cá nhân bao gồm: Lợi ích sản phẩm dịch vụ, tin cậy, giá phí dịch vụ, phương tiện hữu hình,
nhân viên phục vụ. Bài viết cho thấy mức độ ảnh hưởng của biến độc lập “NV” đến xu hướng
lựa chọn ngân hàng là mạnh nhất, tiếp đó là thành phần LISP và lần lượt là TC, PTHH, GP và kỳ
vọng về dấu của các giả thuyết đều đạt yêu cầu. Mặc dù nghiên cứu đã đem lại kết quả nhất định
433
trong công việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngân hàng của khách
hàng cá nhân, nhưng vẫn còn một số hạn chế nhất định như sau:
- Nghiên cứu mới chỉ thực hiện khảo sát trên những khách hàng cá nhân thuộc khu vực hà
nội nên tính khái quát chưa cao.
- Dữ liệu được thu thập theo phương pháp lấy mẫu thuận tiện nên làm cho khá đồng nhất,
và mẫu mang tính đại diện chưa cao. Do đó, các nghiên cứu sau nên chọn mẫu theo phương pháp
xác suất.
- Có nhiều nhân tố khác mà tác giả chưa có nguồn lực để nghiên cứu hết nên đây cũng là
khoảng chống cho những nghiên cứu sau
- Nghiên cứu chưa xem xét sự khác biệt về đặc điểm nhân khẩu học như giới tính, thu
nhập, trình độ đối với nhân tố tác động đến quyết định lựa chọn ngân hàng giao dịch của khách
hàng cá nhân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ajzen, I., & Fishbein, M. (1969). The prediction of behavioral intentions in a choice
situation. Journal of experimental social psychology, 5(4), 400-416.
Ajzen, I., & Fishbein, M. (1970). The prediction of behavior from attitudinal and normative
variables. Journal of experimental social Psychology, 6(4), 466-487.
Ajzen, I., & Fishbein, M. (1977). Attitude-behavior relations: A theoretical analysis and review
of empirical research. Psychological bulletin, 84(5), 888.
Ajzen, I. (1991). The theory of planned behaviour. Organizational Behaviour and Human
Decision Processes, 50, 179-211. De Young, 50(2), 509-526.
Almossawi, M. (2001). Bank selection criteria employed by college students in Bahrain: an
empirical analysis. International journal of bank marketing, 19(3), 115-125.
Anderson Jr, W. T., Cox III, E. P., & Fulcher, D. G. (1976). Bank Selection Decisions and
Market Segmentation: Determinant attribute analysis reveals convenience-and sevice-
oriented bank customers. Journal of Marketing, 40(1), 40-45.
Gasser, S. M., Laroche, T., Falquet, J., De La Tour, E. B., & Laemmli, U. K. (1986). Metaphase
chromosome structure: involvement of topoisomerase II. Journal of molecular
biology, 188(4), 613-629.
Giao, H. N. K., & Đạt, H. M. (2019). Đánh giá các yếu tố lựa chọn ngân hàng thương mại tại TP.
Hồ Chí Minh của người cao tuổi. Tạp chí Phát triển kinh tế, 97-115.
Fishbein, M., & Ajzen, I. (1977). Belief, attitude, intention, and behavior: An introduction to
theory and research.
Lenka, U., Suar, D., & Mohapatra, P. K. (2009). Service quality, customer satisfaction, and
customer loyalty in Indian commercial banks. The Journal of Entrepreneurship, 18(1), 47-64.
434
Lưu Thanh Đức Hải và Vũ Lê Duy (2014), Phân tích hành vi mua sắm của người tiêu dùng ở
chợ truyền thống và siêu thị tại thành phố Cần Thơ, Tạp chí Khoa học Trường Đại học
Cần Thơ.
Muhamad, S. F., Anuar, N. A., Kamarudin, M. K., Aziz, N. A. A., Pazil, A. H. M., &
Muhammad, M. Z. (2015). Banking selection criteria: a study among Muslims in
Kelantan. International Journal of Marketing Research Review, 3(12).
Nguyễn Kim Nam và Trần Thị Tuyết Vân (2015) “Các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ngân
hàng của khách hàng cá nhân tại thành phố Hồ chí minh”, Trường CĐ Công thương TP.
HCM, Trường ĐHNH TP.HCM
Nguyễn Thị Kim Dung và Bùi Thị Kim Thanh (2011), So sánh hành vi lựa chọn nơi mua sắm
của người tiêu dùng đối với loại hình siêu thị và chợ truyền thống: Trường hợp ngành hàng
tiêu dùng tại thành phố Cần Thơ, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ: 20b
225-236.
Phillips, Kotler. (1993). Principli of Marketing.
Phạm thị Tâm và Phạm Ngọc Thúy (2010) “Các nhân tố ảnh hưởng tới xu hướng lựa chọn ngân
hàng”, Trường Đại học Đà Lạt và trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành
pPhố Hồ chí Minh
Phuong Ta, H., & Yin Har, K. (2000). A study of bank selection decisions in Singapore using the
analytical hierarchy process. International Journal of Bank Marketing, 18(4), 170-180.
Rao, S., & Sharma, D. R. (2010). Bank selection criteria employed by MBA students in Delhi:
an empirical analysis. Journal of business studies Quarterly, 1(2), 56-69.
Saleh, M. S., Rosman, M. R. M., & Nani, N. K. (2013). Bank selection criteria in a customers’
perspective. Journal of business and management, 7(6), 15-20.
435
Nghiên cứu những ảnh hưởng của công nghệ blockchain
đến lĩnh vực kế toán trong khu vực công
Phạm Quang Huy1, Vũ Kiến Phúc2
1Trường Đại học Kinh tế TPHCM
Email: pqh.huy@gmail.com
2Trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long
Mã bài: HTQG.04 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 05/11/2019
Ngày nhận bài: 02/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 08/11/2019
Tóm tắt
Blockchain có sự ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của lĩnh vực kế toán nhưng việc
nghiên cứu về nội dung này vẫn còn khá ít trong các công trình khoa học. Nghiên cứu được thực
hiện với mục đích tìm hiểu sự tác động của công nghệ Blockchain đến lĩnh vực kế toán tại các
đơn vị thuộc khu vực công. Phương pháp nghiên cứu được áp dụng là phương pháp mô tả thông
qua việc thu thập các tài liệu được công bố trong và ngoài nước về Blockchain và tác động của
việc ứng dụng Blockchain vào lĩnh vực kế toán. Kết quả nghiên cứu cho thấy những việc ứng
dụng công nghệ Blockchain sẽ có những thay đổi đáng kể nhất định đối với lĩnh vực kế toán tại
khu vực công. Từ đó, một số hàm ý chính sách được đưa ra nhằm giúp cơ quan quản lý và các tổ
chức thuộc khu vực công nâng cao chất lượng công tác kế toán khi ứng dụng những công nghệ
mới này vào hoạt động tại đơn vị.
Từ khóa: Công nghệ Blockchain, kế toán công, lĩnh vực kế toán, ảnh hưởng.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trước sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0, ngành kế toán là một
trong nhiều lĩnh vực bị ảnh hưởng đáng kể bởi sự thay đổi này (Bogss, 1999; Trịnh, 2017). Nói
cách khác, sự tiến bộ của công nghệ thông tin (CNTT) đã tạo ra một động lực thúc đẩy các hoạt
động kế toán (Taipaleenmäki & Ikäheimo, 2013). Việc sử dụng máy tính, máy chủ, internet và
thiết bị kỹ thuật số đã thay đổi cách mà các tổ chức áp dụng để xử lý các vấn đề phát sinh tại đơn
vị (Ghasemi & cộng sự, 2011) như cách thức xử lý dữ liệu và cung cấp thông tin kế toán (Trịnh,
2017), tự động hóa các quy trình báo cáo tài chính (BCTC) từ đó giảm bớt việc xử lý các nhiệm
vụ lặp đi lặp lại mà kế toán viên (KTV) phải thực hiện, tăng cường kiểm soát bằng cách nhận ra
bất kỳ điểm yếu quan trọng nào có thể tìm thấy trong BCTC, đảm bảo sự đảm bảo hợp lý cho
BCTC (Taipaleenmäki & Ikäheimo, 2013) để gia tăng sự tin tưởng của nhà đầu tư vào đơn vị
436
(Ghasemi & cộng sự, 2011). Xu hướng công nghệ mới như dữ liệu lớn, tự động hóa, kế toán đám
mây, internet đã thay đổi các phương pháp sử dụng tài nguyên CNTT. Sự tiến bộ không ngừng
và ứng dụng các quy trình công nghệ đã đóng góp to lớn trong các hoạt động của đơn vị, đặc biệt
là trong lĩnh vực kế toán (Smith, 2018).
Khi CNTT tiếp tục phát triển đã đặt ra yêu cầu lĩnh vực kế toán phải thực hiện sự thay đổi
để bắt kịp với xu hướng đang diễn ra (Tysiac & Drew, 2018). Mặc dù một số công nghệ như
công nghệ Blockchain, trí tuệ nhân tạo… vẫn đang trong giai đoạn phát triển ban đầu, hiệu ứng
của những công nghệ này được tin rằng sẽ tiếp tục lan tỏa khắp các khu vực trên toàn cầu. Chính
vì thế, chủ đề này đã thu hút được sự quan tâm của khá nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đối
với các vấn đề về các giao thức của Bitcoin và các ứng dụng của Bitcoin (Tschorsch &
Scheuermann, 2016), cơ chế đồng thuận trong công nghệ Blockchain (Mingxiao & cộng sự,
2017; Sankar & cộng sự, 2017); cơ chế bảo mật trong công nghệ Blockchain (Kouicem & cộng
sự, 2018; Lin & Liao, 2017; Yeow & cộng sự, 2018) hay công nghệ Blockchain trong vai trò của
công nghệ sổ cái phân tán cho thị trường năng lượng địa phương và cơ sở hạ tầng quản lý năng
lượng hoạt động trong lưới điện thông minh (Siano & cộng sự, 2019). Mặc dù Blockchain được
cho là sẽ thay đổi các quy trình kế toán (Fanning & Centers, 2016; Kokina & cộng sự, 2017), tuy
nhiên, rất ít bằng chứng đã được cung cấp về cách đạt được những lợi thế này (Rîndaşu, 2019).
Đồng thời, đa số các nghiên cứu đều tập trung vào những ảnh hưởng của sự phát triển công nghệ
Blockchain đến lĩnh vực kế toán tại khu vực tư. Trong khi khu vực công (KVC) lại nhận chưa
được sự quan tâm đúng mực dù cho các tổ chức này đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong
nền kinh tế của một quốc gia bởi do việc nắm giữ toàn bộ giá trị ngân sách nhà nước nhằm phục
vụ cho những mục tiêu hoạt động theo từng chương trình định kỳ. Do đó, nghiên cứu này hướng
đến việc thu hẹp khoảng trống được đề cập thông qua giải quyết các câu hỏi nghiên cứu sau đây:
RQ1: Công nghệ Blockchain là gì?
RQ2: Công nghệ Blockchain sẽ ảnh hưởng như thế nào đến kế toán tại KVC?
Sau phần giới thiệu, nghiên cứu được cấu trúc thành 4 phần gồm: Phần 2 trình bày cơ sở lý
thuyết về công nghệ Blockchain bao gồm cấu trúc của Blockchain cũng như những đặc điểm
khiến công nghệ này được đánh giá sẽ giúp quy trình kế toán được vận hành một cách hiệu quả;
Phần 3 tóm lược phương pháp nghiên cứu được vận dụng trong bài viết; Phần 4 mô tả những ảnh
hưởng của công nghệ Blockchain đến lĩnh vực kế toán tại KVC; cuối cùng là kết luận và hàm ý
chính sách sẽ được trình bày trong Phần 5.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CÔNG NGHỆ BLOCKCHAIN
2.1. Định nghĩa
Các thỏa thuận trong cộng đồng Blockchain về định nghĩa của công nghệ Blockchain
(Wood & Khatchadourian, 2018) vẫn chưa đạt được ở mức cao khi sự khác nhau về mặt quan
điểm của các tổ chức về công nghệ Blockchain vẫn còn khá lớn. Theo Swan (2015), Blockchain
giống như một bảng tính khổng lồ để đăng ký tất cả tài sản và một hệ thống kế toán để giao dịch
những tài sản đó trên quy mô toàn cầu, được bảo mật bằng mật mã và được điều chỉnh bởi một
cơ chế đồng thuận. Đồng thời, nhằm giữ cho tất cả người dùng tham gia mạng Blockchain được
437
cập nhật, mỗi người dùng giữ một bản sao của sổ cái gốc và tất cả người dùng được đồng bộ hóa
và cập nhật với thay đổi mới (Atlam & cộng sự, 2018).
Blockchain được phát triển dựa trên hai nền tảng kỹ thuật chính là hàm băm và chữ ký số
(Zheng & cộng sự, 2017). Hàm băm (Trịnh, 2008) dùng để chuyển đổi một thông tin sang một
đoạn mã. Bất kỳ nỗ lực gian lận nào để thay đổi bất kỳ phần nào của Blockchain sẽ bị phát hiện
ngay lập tức vì giá trị băm mới sẽ không phù hợp với thông tin cũ dựa trên Blockchain. Do đó,
hàm băm được ứng dụng nhằm đảm bảo dữ liệu không bị sửa đổi; hỗ trợ các thuật toán chữ ký
số; xây dựng cấu trúc dữ liệu bảng băm. Chữ ký số (Trịnh, 2008) là một thông điệp dữ liệu đã
được mã hóa gắn kèm theo một thông điệp dữ liệu khác nhằm xác thực người gửi thông điệp đó.
Một số ứng dụng cụ thể của chữ ký số trong thực tế có thể kể đến như ứng dụng trong chính
quyền điện tử, ứng dụng trong ký kết hợp đồng.
Theo đó, mỗi người sử dụng sẽ được cung cấp một cặp khóa công khai và khóa bí mật.
Khóa bí mật được lưu trữ bí mật và ký kết các giao dịch. Các giao dịch được thực hiện dựa vào
chữ ký số được phát đi trên toàn bộ mạng. Chữ ký số liên quan đến hai giai đoạn: giai đoạn ký
kết và giai đoạn xác minh. Do đó, Sultan và cộng sự (2018) cho rằng Blockchain là một cơ sở dữ
liệu phi tập trung chứa đựng các khối giao dịch tài sản được ký số liên tục, liên kết bằng mật mã
và được điều chỉnh bởi một mô hình đồng thuận. Theo mức độ mở, Blockchains có thể được chia
thành Blockchain công cộng, Blockchain tập đoàn và Blockchain riêng (Lin & Liao, 2017).
2.2. Cấu trúc và nguyên tắc của Blockchain
Blockchain là một hệ thống phi tập trung bao gồm sáu lớp: dữ liệu (Data Layer), mạng
(Network Layer), sự đồng thuận (Consensus Layer), hợp đồng (Contract Layer), dịch vụ (Service
Layer) và ứng dụng (Application Layer). Thu thập, xác nhận và thao tác dữ liệu chủ yếu được xử
lý trong các lớp dữ liệu và mạng (Merkle, 1980; Tschorsch & Scheuermann, 2016; Orman, 2018;
Alphand & cộng sự, 2018; Saghiri & cộng sự, 2018). Các lớp đồng thuận và hợp đồng bao gồm
hợp đồng thông minh, giao thức đồng thuận và cơ chế khuyến khích (Eyal & Sirer, 2018). Các
lớp dịch vụ và ứng dụng triển khai các hoạt động dựa trên Blockchain (Pilkington, 2016). Cấu
trúc của Blockchain bao gồm ba yếu tố cốt lõi: cấu trúc khối chuỗi dựa trên dấu thời gian, cơ chế
lưu trữ phân tán dựa trên mạng P2P (chia sẻ ngang hàng) và cơ chế đồng thuận dựa trên các nút
phi tập trung (Yuan & Wang, 2018). Blockchain được xem như một cấu trúc dữ liệu chuỗi bao
gồm các khối dữ liệu được kết hợp theo thứ tự thời gian và đóng vai trò của một sổ cái phân tán
không thể bị giả mạo với sự bảo đảm bằng mật mã.
Mặt khác, Blockchain cũng được cho là một cơ sở hạ tầng phân tán và mô hình điện toán
mới sử dụng cấu trúc dữ liệu chuỗi khối để xác minh và lưu trữ dữ liệu, áp dụng thuật toán đồng
thuận phân tán để tạo và cập nhật dữ liệu, sử dụng mật mã để đảm bảo an toàn cho việc truyền
dữ liệu và truy cập và khai thác các hợp đồng thông minh bao gồm các tập lệnh và mã tự động để
lập trình và vận hành dữ liệu. Do sử dụng việc chia sẻ ngang hàng (peer to peer) để lưu trữ thông
tin, mỗi người tham gia vào mạng đều nắm giữ thông tin của Blockchain như nhau, do đó họ đều
nắm được mọi sự thay đổi xảy ra. Thậm chí khi một phần của hệ thống bị sụp đổ thì các máy tính
và nút khác sẽ vẫn hoạt động để đảm bảo thông tin của Blockchain. Dưới góc độ của kế toán tài
438
chính, Blockchain là một tập hợp tài khoản mạng lớn với các chương trình máy tính là công nghệ
hỗ trợ, là đặc trưng của thông tin công khai và minh bạch. Do đó, Blockchain được xem như là
sổ sách tài khoản và tiền kỹ thuật số là đơn vị kế toán trong công nghệ Blockchain. Mỗi khối
tương đương với trang trong sổ tài khoản thực và thông tin được lưu trữ trong một khối tương
đương với các hoạt động giao dịch được ghi trong trang sách.
Khối là đơn vị lưu trữ trong một chuỗi khối, bao gồm bốn yếu tố chính, chúng là giá trị
băm của khối trước đó, thời gian tạo khối, giá trị ngẫu nhiên và cây băm trong khối hiện tại. Mỗi
khối liên kết với giá trị băm của khối trước đó và ghi lại thời gian giao dịch thông qua thời gian
tạo khối. Bằng chứng công việc (POW), được tạo ra thông qua việc khuyến khích những người
tham gia vào hệ thống cung cấp tính toán liên tục; cuối cùng, cây băm trong khối hiện tại đại
diện cho mảng chính của thông tin giao dịch được lưu trữ.
Khi một giao dịch mới được tạo, thông tin sẽ được ghi lại trong một nút và được truyền đến
các nút khác để xác minh. Do đó, đối với bất kỳ yêu cầu giao dịch mới nào, thông tin giao dịch nên
được niêm phong và mã hóa trước, sau đó hàm băm được áp dụng để tính giá trị băm duy nhất đại
diện cho giao dịch của tất cả các nút trong mạng Blockchain. Mỗi nút thu thập các yêu cầu giao
dịch mới được tạo và tập trung chúng vào một khối, vì vậy mỗi khối có thể chứa hàng trăm mẫu
thông tin giao dịch khác nhau. Sau khi nhận được giá trị băm của giao dịch được xác minh, nút đầu
tiên chỉ ra kết quả thông qua phương thức POW để thực hiện việc xác minh giao dịch và nhận phản
hồi. Nút đầu tiên chỉ ra kết quả sẽ phát khối mới được tạo cho tất cả các nút. Sau khi nhận được
thông báo, các nút khác sẽ xác nhận tính xác thực và hợp lệ của giao dịch trong khối mới được tạo,
sau đó chấp nhận khối và kết nối nó với công nghệ Blockchain nếu được xác nhận. Từ đó trở đi,
thông tin giao dịch không thể đảo ngược khi được lưu trữ. Sau khi tất cả các nút chấp nhận khối,
các khối khác không có được quyền xác thực sẽ tự động hết hạn, mỗi nút sẽ tạo lại các khối mới và
thực hiện phép tính POW tiếp theo. Thông qua việc nhận và xác minh khối, công nghệ Blockchain
thực hiện quản lý phân tán, phân cấp dữ liệu một cách hiệu quả. Điều này được xem như sự phát
triển vượt bậc trong quản lý dữ liệu so với phương pháp truyền thống.
Nguồn: Jiang, 2018
Hình 1. Quy trình vận hành của công nghệ Blockchain
2.3. Đặc điểm của Blockchain
Cơ chế đồng thuận phân quyền. Tất cả các nút trong mạng Blockchain đều đủ điều kiện
để lưu trữ hồ sơ các giao dịch trên một khối (Block) công khai và lưu trữ thông tin tạo nên một
Yêu cầu giao
dịch
Thông tin tích hợp của giao
dịch tạo thành một khối
Giao dịch
hoàn thành
Truyền tải khối mới đến
tất cả các nút
Liên kết khối mới được hình
thành vào chuổi khối
Xác nhận khối mới được
hình thành
439
chuỗi (chain) độc nhất: chuỗi khối (Blockchain). Thông tin và hồ sơ giao dịch không cần phải
được xử lý bởi các nút tập trung, mỗi khối kế tiếp chứa một giá trị băm của khối trước nó. Vì thế,
mã hóa (thông qua hàm băm) được sử dụng để bảo đảm tính xác thực của nguồn giao dịch và
không có bên thứ ba nào tham gia vào toàn bộ quá trình xử lý thông tin. Do đó, tất cả các nút có
quyền và nghĩa vụ như nhau để duy trì tất cả các khối dữ liệu trong mạng bằng quy trình phân
tán phi tập trung (Jiang, 2018). Đồng thời, sự kết hợp của mã hóa và công nghệ Blockchain đảm
bảo rằng một giao dịch sẽ không thể được thực hiện hai lần.
Bảo trì tập thể. Khối dữ liệu (Block) trong hệ thống được duy trì bởi tất cả các nút với
chức năng bảo trì và xử lý thông tin giao dịch cùng nhau, các khối dữ liệu cũng được bảo trì tập
thể bởi tất cả các nút trong toàn mạng. Bất kỳ nút nào cũng có khả năng ghi Block vào
Blockchain. Các thông tin không thể dễ dàng bị sửa đổi bởi bất kỳ người dùng nào vì toàn bộ hệ
thống sẽ nhận biết thông tin đó một khi bất kỳ thông tin nào thay đổi, do đó vấn đề bảo mật dữ
liệu được cải thiện rất nhiều (Wang & cộng sự, 2017; Jiang, 2018).
Tính minh bạch. Thông qua công nghệ Blockchain, tất cả những người tham gia chia sẻ
hồ sơ và dữ liệu truy vấn trong các nút trong cấu trúc phi tập trung. Công nghệ Blockchain sẽ
đảm bảo rằng các hệ thống ghi lại toàn bộ tình trạng và truyền tải dữ liệu và thông tin. Mỗi người
tham gia có thể truy vấn các bản ghi trong công nghệ Blockchain để làm cho thông tin trong hệ
thống phân tán trở nên minh bạch và nhất quán. Mỗi dữ liệu giao dịch của một hệ thống phân tán
là mở và đáng tin cậy. Mỗi nút của cùng một mạng có cùng quyền và nghĩa vụ để truy cập thông
tin được ủy quyền và cho phép các nút khác trên cùng một mạng truy cập thông tin này (Lin &
Liao, 2017; Bonneau & cộng sự, 2015)
Tính bảo mật. Việc bảo trì và giám sát chung còn được thực hiện bởi tất cả các nút trong
mạng (Jiang, 2018). Đặc biệt, trong trường hợp, nếu người sử dụng không nắm được hơn 50% số
nút trong mạng thì không thể kiểm soát hay sửa đổi dữ liệu trong mạng. Do đó, công nghệ
Blockchain đã trở nên tương đối an toàn và có thể tránh việc sửa đổi dữ liệu. Vì thế, nếu một số
lượng lớn các nút có khả năng tính toán mạnh được tham gia vào hệ thống thì dữ liệu trong hệ
thống này sẽ có độ bảo mật cao hơn (Wang & cộng sự, 2017).
Xử lý ẩn danh. Công nghệ Blockchain giải quyết vấn đề niềm tin khi các bên giao dịch
không cần biết nhau và không cần phải thông báo cho đối tác các thông tin cá nhân như danh tính,
để nhận ra giao dịch ẩn danh nhưng vẫn đạt được giao dịch an toàn và hiệu quả (Jiang, 2018).
Đáng tin cậy. Việc trao đổi dữ liệu của công nghệ Blockchain hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự
kiểm soát vì nó dựa vào từng nút để tạo thành một phép tính mạnh mẽ để chống lại các cuộc tấn
công bên ngoài mà không cần sự can thiệp của con người. Miễn là không quá 51% tất cả các nút
trong mạng bị tấn công, hệ thống vẫn an toàn và đáng tin cậy (Karame & cộng sự, 2012; Lu, 2018).
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong nghiên cứu này bao gồm phương pháp mô tả
thông qua việc thu thập các tài liệu được công bố trong và ngoài nước trước đây về sự tác động
của việc ứng dụng công nghệ Blockchain vào lĩnh vực kế toán tại các doanh nghiệp nói chung và
tại KVC nói riêng.
440
4. LỢI ÍCH KHI ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ BLOCKCHAIN VÀO LĨNH VỰC KẾ
TOÁN THUỘC KHU VỰC CÔNG
Blockchain là một sổ cái kỹ thuật số của các giao dịch kinh tế được tập hợp bởi một nhóm
các cá nhân cho phép phân phối thông tin kỹ thuật số (Crosby & cộng sự, 2016; Glaser, 2017) và
không được sao chép (Glaser, 2017). Ngoài ra, Blockchain còn được xem như một sổ cái công
khai, nơi tất cả các giao dịch được giữ như một chuỗi khối và sẽ không ngừng mở rộng khi các
khối mới được thêm vào chuỗi (Zheng & cộng sự, 2018). Blockchain đòi hỏi sự đồng thuận để
thêm các khối (Zheng & cộng sự, 2018; Gonzalez, 2019) và giao dịch được cập nhật chỉ với sự
thỏa thuận giữa những người tham gia trong hệ thống và mỗi khối được liên kết với một người
tham gia cụ thể. Mặt khác, vì mọi khối được kết nối với khối trước, khi số lượng người tham gia
và khối tăng lên, rất khó để sửa đổi thông tin mà không có sự đồng thuận (Corea, 2019; Crosby
& cộng sự, 2015). Do đó, khi áp dụng Blockchain sẽ giúp hạn chế tối đa các nguy cơ gian lận vì
tất cả các giao dịch được lưu dấu thời gian bằng kỹ thuật số với hàm băm mật mã kết hợp với
tính năng cập nhật theo thời gian thực. Vì thế Blockchain có thể được tận dụng để đạt được tính
xác thực, ủy quyền, trách nhiệm, bảo mật và tính toàn vẹn (Anjum & cộng sự, 2017; Gatteschi &
cộng sự, 2018; Kshetri & Voas, 2018) đối với thông tin kế toán tại các đơn vị thuộc KVC. Thông
qua công nghệ Blockchain, kế toán KVC sẽ trở thành công cụ giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước và trách nhiệm giải trình của tại các đơn vị trong KVC.
Trách nhiệm cơ bản của BCTC là đảm bảo rằng thông tin tài chính, giúp người dùng đưa ra
quyết định sáng suốt, đáng tin cậy (Obaidat, 2007). Độ tin cậy của dữ liệu tài chính luôn là mối
quan tâm hàng đầu đối với đối tượng sử dụng thông tin kế toán công, đặc biệt từ phía công
chúng. Do đó, thông tin kế toán cần được kiểm toán bởi các kiểm toán viên độc lập, kiểm toán
Nhà nước, Thanh tra Nhà nước, … nhằm đảm bảo rằng hồ sơ kế toán tuân theo các tiêu chuẩn kế
toán và đảm bảo độ tin cậy cho các BCTC (Appelbaum & Nehmer, 2017). Công nghệ
Blockchain được tin rằng có thể nâng cao chất lượng thông tin tài chính cung cấp cho các nhà
đầu tư (Byström, 2016) và các bên liên quan khác, đồng thời nâng cao tính hiệu quả của công
việc kiểm toán (Appelbaum & Nehmer, 2017) và cung cấp thông tin tài chính kịp thời, trung
thực nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả, tính công khai minh bạch trong quản lý các nguồn lực
của Chính phủ và các đơn vị thuộc KVC.
Việc ứng dụng công nghệ Blockchain sẽ giúp giảm thiểu các cơ quan quản lý đóng vài trò
là bên thứ ba như Sở giao dịch chứng khoán, ngân hàng, … (Gonzalez, 2019) vì đây là một mạng
ngang hàng.
Áp dụng công nghệ Blockchain vào lĩnh vực kế toán sẽ giảm đáng kể chi phí duy trì hồ sơ
vật lý của các giao dịch. Các hồ sơ sẽ được duy trì dưới dạng các khối trong Blockchain và bất
kỳ ai có thẩm quyền sẽ có thể truy cập bất cứ lúc nào. Vì công nghệ Blockchain sẽ loại bỏ việc
lưu trữ hồ sơ truyền thống, điều này sẽ giải phóng các tài nguyên tham gia vào nó. Các tài
nguyên này có thể được phân bổ cho các hoạt động khác nhằm gia tăng giá trị của tổ chức. Bên
cạnh đó, các KTV tại KVC có thể tập trung vào việc lập dự toán, xây dựng chiến lược, phân tích
và nhiều nhiệm vụ khác nhằm giúp các đơn vị thuộc KVC nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động để bắt kịp đà phát triển của quá trình hội nhập kinh tế và tăng thu hút đầu tư từ các nguồn
lực bên ngoài.
441
Bên cạnh đó, hệ thống sổ sách kế toán kép được giới thiệu bởi Luca Pacioli (Houghton,
2016), được phát minh vào thế kỷ XV, yêu cầu mọi người ghi nhớ một cách máy móc việc ghi
nhận các giá trị vào bên nợ hay bên có của tài khoản. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các
công ty công nghiệp, đặc biệt là cuộc CMCN, nhu cầu thực hiện điều chỉnh các khoản mục cũng
phát sinh. Mặt khác, tình trạng toàn cầu hóa, những khó khăn trong việc tuân thủ các quy định
xuyên quốc gia khác nhau, số lượng giao dịch và đòi hỏi sự kịp thời trong các giao dịch xảy ra,
từ đó đã bộc lộ những điểm yếu chính đặc trưng trong lĩnh vực kế toán bao gồm kiểm toán viên
là không thể kiểm toán tất cả các tài khoản được trình bày và thay vào đó, họ buộc phải chọn một
mẫu nhỏ để kiểm toán dựa trên mức độ rủi ro; sự lỗi thời của thông tin, kể từ khi ghi nhận trên tài
khoản, thông qua BCTC, chỉ thực hiện mỗi năm một lần (Shim & cộng sự, 2014); thiếu kiểm tra
chéo các giao dịch được ghi lại trong tài khoản của hai đối tác. Do đó, hình thức kế toán kép không
phải là một hệ thống tuyệt đối và cần được mở rộng một cách hợp lý theo hình thức kế toán tam
phân (Yuji, 1982). Kế toán tam phân giúp gia tăng mức độ rõ ràng và trung thực của thông tin mà
kế toán kép không thể đạt được, theo đó, quá trình quản lý thống nhất về tài chính Nhà nước, tổng
hợp thông tin một cách đồng bộ, cung cấp các thông tin chính xác, đầy đủ minh bạch phục vụ cho
việc điều hành quản lý tài chính công của Nhà nước ngày càng được nâng cao.
5. MỘT SỐ HÀM Ý NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
BLOCKCHAIN VÀO LĨNH VỰC KẾ TOÁN TRONG KHU VỰC CÔNG
Việc áp dụng công nghệ Blockchain có thể giải quyết sự chậm trễ, gian lận và các rủi ro
trong quá trình hoạt động (Guo & Liang, 2016), từ đó, tạo ra các giao dịch đáng tin cậy trên toàn
cầu (Mougayar, 2016; Zhao & cộng sự, 2016). Theo đó, Blockchain dự kiến sẽ biến đổi hệ thống
kế toán hiện tại trên một số khía cạnh và lợi ích cuối cùng có thể chỉ có được sau khi cải thiện
đáng kể công nghệ, áp dụng quy mô lớn ở nhiều cấp độ khác nhau và càng nhiều người sử dụng
công nghệ Blockchain thì nó càng an toàn (Gonzalez, 2019). Vì vậy, nhằm đạt được hiệu quả
trong việc ứng dụng công nghệ Blockchain vào lĩnh vực kế toán thuộc KVC, một số hàm ý,
chính sách cần được xem xét thực hiện, bao gồm:
5.1. Đối với các cơ quan quản lý
Công nghệ Blockchain đã được nhận định sẽ mang lại nhiều lợi ích cho công việc kế toán,
đồng thời cũng sẽ gây ra những thay đổi đáng kể trong thực hành kế toán tại các đơn vị thuộc
KVC. Tuy nhiên, để việc ứng dụng công nghệ này vào các đơn vị tại KVC có thể phát huy tối đa
hiệu quả thì các cơ quan quản lý cần quan tâm đến việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực
hiện. Hiện nay, việc triển khai các văn bản hành chính trong KVC được thực hiện trên cơ sở triển
khai nguyên văn, tránh mọi hình thức diễn giải lại nhằm giúp kế toán tại đơn vị nói riêng, các
đơn vị công nói chung thực hiện đúng theo quy định. Do đó, các cơ quan quản lý cần xem xét để
ban hành các văn bản trên cơ sở xác định các giao dịch diễn ra hàng ngày tại đơn vị để đưa ra các
quy định trong xây dựng và thiết kế thuật toán khi vận dụng Blockchain.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển các hoạt
động nghiên cứu và phát triển thông qua thúc đẩy hợp tác nghiên cứu với các tổ chức trong và
ngoài nước nhằm tìm ra các giải pháp hỗ trợ các đơn vị thuộc KVC trong tiến trình tiếp cận với
những tiến bộ của công nghệ Blockchain nói riêng và những công nghệ tiên tiến khác do cuộc
CMCN 4.0 mang lại.
442
5.2. Đối với các tổ chức thuộc KVC
Với sự xuất hiện của công nghệ mới đã dẫn đến sự thay đổi đáng kể trong thực hành kế
toán (Tysiac & Drew, 2018). Do đó, KTV tại đơn vị công nên sẵn sàng để giảm bớt gánh nặng
và tận dụng lợi ích của việc sử dụng công nghệ và chuyển đổi phạm vi công việc. Theo đó,
nhiệm vụ của KTV có thể chỉ giới hạn trong một số lĩnh vực như định giá hàng tồn kho, lựa chọn
phương pháp khấu hao hoặc chính sách thanh toán với nhà cung cấp cung cấp,… thay vì phải
đảm nhận thêm vai trò lưu trữ chứng từ và sổ sách kế toán. Vì vậy, KTV phải thay đổi tư duy về
vai trò của kế toán tại KVC trong điều kiện CMCN 4.0, tích cực trau dồi khả năng áp dụng
CNTT trong công việc, trau dồi kỹ năng mềm, có khả năng thích ứng với những thay đổi mới.
Đồng thời, các tổ chức thuộc KVC cần chú trọng đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn và kinh
nghiệm nghề nghiệp cho đội ngũ KTV tại đơn vị để đáp ứng yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ,
có đạo đức nghề nghiệp, ý thức tuân thủ pháp luật về kế toán và pháp luật kinh tế khác, tăng
cường khả năng thích ứng và ứng dụng CNTT phù hợp với sự phát triển của cuộc CMCN 4.0,
đặc biệt là nâng cao sự hiểu biết và khả năng ứng dụng công nghệ Blockchain vào công tác kế
toán để có thể khai thác triệt để những lợi ích từ việc ứng dụng công nghệ này vì đào tạo người
dùng được đánh giá là rất quan trọng đối với sự thành công của việc ứng dụng CNTT (Gallivan
& cộng sự, 2005). Ngoài ra, việc KTV được đào tạo tốt về công nghệ sẽ giúp nâng cao giá trị
cho tổ chức và cải thiện đáng kể các hoạt động của tổ chức (Rooney & cộng sự, 2017). Ngoài ra,
các nhà quản lý được khuyến khích nâng cao khả năng và năng lực của mình thông qua các
chương trình đào tạo cần thiết cho các công việc cụ thể (Para-González & cộng sự, 2018), đặc
biệt là các kiến thức mới về kế toán và CNTT. Tuy nhiên, mối quan tâm hàng đầu liên quan đến
việc đào tạo trong các đơn vị là chính là vấn đề ngân sách, việc cắt giảm chi phí đào tạo sẽ làm
giảm kỹ năng và năng suất (Gallivan & cộng sự, 2005). Do đó, nhà quản lý cần xây dựng kế
hoạch đào tạo hợp lý trên cơ sở cân đối ngân sách tại đơn vị với chất lượng đào tạo.
5.3. Đối với các cơ sở đào tạo
Cuộc CMCN 4.0 sẽ chuyển hóa toàn bộ dữ liệu thành thông tin điện tử, do đó, nếu người
học không am hiểu về công nghệ sẽ không thể đảm nhận nhiệm vụ kế toán tại đơn vị. Vì thế, các
cơ sở đào tào cần quan tâm đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng CNTT một cách đồng bộ nhằm đáp
ứng xu thế phát triển của công nghệ số. Các cơ sở đào tạo cần tích cực đổi mới chương trình, đổi
mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích hợp các học phần với sự phát triển của CNTT đáp
ứng cuộc CMCN 4.0, từng bước thực hiện giảng dạy thực hành kế toán trên các phần mềm,
chứng từ điện tử, các tính toán, luân chuyển và ghi chép thông tin trên mẫu biểu đã được chương
trình hóa và tự động. Bên cạnh đó, các chuyên gia và những nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này
tại các cơ sở đào tạo phải chủ động tham gia cải tiến và đưa ra các khuyến nghị và giải pháp cho
việc tăng cường ứng dụng công nghệ mới vào hệ thống kế toán một cách hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Alphand, O., Amoretti, M., Claeys, T., Dall’Asta, S., Duda, A., Ferrari, G., … Zanichelli, F.
(2018). IoTChain: A blockchain security architecture for the Internet of Things. 2018 IEEE
Wireless Communications and Networking Conference (WCNC).
doi:10.1109/wcnc.2018.8377385
443
Atlam, H. F., & Wills, G. B. (2018). Technical aspects of blockchain and IoT. Advances in
Computers. doi:10.1016/bs.adcom.2018.10.006.
Boggs, S.M. (1999). Accounting - the digital way. Journal of Accountancy, 187(5), 99-108.
Byström, H. (2016). Blockchains, real-time accounting and the future of credit risk modeling.
Lund University, Department of Economics.
Corea, F. (2019). The convergence of AI and blockchain. In F. Corea (Ed.), Applied artificial
intelligence: Where AI can be used in business (19—26). Cham, Switzerland: Springer.
Crosby, M., Pattanayak, P., Verma, S., & Kalyanaraman, V. (2016). Blockchain technology:
Beyond bitcoin. Applied Innovation, 2(6-10), 7-19.
Gallivan, M.J., V. Spitler, and M. Koufaris, 2005. Does IT Training Really Matter? A Social
Information Processing Analysis of Coworkers’ Influence on IT Usage in the Workplace.
Journal of Management Information Systems, 22(1), 153-192.
Guo, Y., & Liang, C. (2016). Blockchain application and outlook in the banking industry.
Financial Innovation, 2(1). doi:10.1186/s40854-016-0034-9
Houghton B., C. (2016). In the shoes of Luca Pacioli – double entry bookkeeping and financial
literacy. International Handbook of Financial Literacy, 621-637.
Jiang, X. (2018). The Application of Blockchain in Auditing. Advances in Social Science,
Education and Humanities Research, 184, 1018-1023.
Kouicem, D.E., Bouabdallah, A., & Lakhlef, H. (2018). Internet of things security: a top-down
survey. Computer Network, 141, 199–221.
Lu, Y. (2018). Blockchain and the related issues: a review of current research topics. Journal of
Management Analytics, 5(4), 1–25. doi:10.1080/23270012.2018.1516523
Merkle, R. C. (1980). Protocols for Public Key Cryptosystems. 1980 IEEE Symposium on
Security and Privacy. doi:10.1109/sp.1980.10006
Mingxiao, D., Xiaofeng, M., Zhe, Z., Xiangwei, W., & Qijun, C. (2017). A review on consensus
algorithm of blockchain. In: Systems, Man, and Cybernetics (SMC), IEEE International
Conference on IEEE, 2567–2572.
Orman, H. (2018). Blockchain: the emperors new PKI? IEEE Internet Computing, 22(2), 23-28.
Para-González, L., Jiménez-Jiménez, D., & Martínez-Lorente, A.R. (2018). Exploring the
mediating effects between transformational leadership and organizational performance.
Employee Relations, 40(2), 412–432. doi:10.1108/er-10-2016-0190;
Rîndaşu, S.M. (2019). Blockchain in Accounting: Trick or Treat? Quality - Access to Success,
20(170), 143-147.
Rooney, H., Brian A., & Megan, R. (2017). Is Internal Audit Ready for Blockchain? Technology
Innovation Management Review, 7(10), 41–44.
444
Smith, S.S. (2018). Digitization and Financial Reporting – How Technology Innovation May
Drive the Shift Toward Continuous Accounting. Accounting and Finance Research, 7(3),
240-250
Swan, M. (2015). Blockchain: Blueprint for a New Economy. San Francisco, CA: O'Reilly
Media, Sebastopol.
Trinh, Nhat Tien. (2008). Giáo trình An toàn dữ liệu. Hà Nội: NXB Hà Nội.
Trinh, Viet Giang. (2017). Tác động của công nghệ thông tin đến hệ thống thông tin kế toán
doanh nghiệp. Tạp chí Tài chính, 1(652), 87-88.
Tschorsch, F., & Scheuermann, B. (2016). Bitcoin and beyond: a technical survey on
decentralized digital currencies. IEEE Communications Surveys & Tutorials, 18(3), 2084–
2123.
Yuji, I. (1982). Triple-Entry Bookkeeping and Income Momentum, American Accounting
Association.
Zhao, J. L., Fan, S., & Yan, J. (2016). Overview of business innovations and research
opportunities in blockchain and introduction to the special issue. Financial Innovation,
2(1). doi:10.1186/s40854-016-0049-2
Zheng, Z., Xie, S., Dai, H.N., Chen, X., & Wang, H. (2018). Blockchain challenges and
opportunities: a survey. International Journal of Web and Grid Services, 14(4), 352-375.
445
Đánh giá tính hữu hiệu kiếm soát nội bộ của các doanh nghiệp
bảo hiểm Việt Nam
Trịnh Viết Giang
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: vinhgiang1979@gmail.com
Mã bài: HTQG.08 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 08/11/2019
Ngày nhận bài: 15/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 12/11/2019
Tóm tắt
Thế kỷ 21 đã chứng kiến sự sụp đổ các tập đoàn đa quốc gia và tập đoàn tài chính trên toàn
thế giới như Enron, Worldcom. Điều này làm cho các nhà đầu tư đã mất lòng tin vào hệ thống
quản trị doanh nghiệp. Kiểm soát nội bộ với tư cách là một cấu phần quan trọng của quản trị
trong các doanh nghiệp bảo hiểm và là nền tảng của hoạt động an toàn và lành mạnh của doanh
nghiệp bảo hiểm. Thực tế, những yếu kém của quản trị doanh nghiệp bảo hiểm có căn nguyên
sâu xa của sự không đảm bảo tính hữu hiệu của kiểm soát nội bộ. Trên cơ sở nghiên cứu các tài
liệu tổng hợp của các doanh nghiệp bảo hiểm, cục quản lý giám sát bảo hiểm và tài liệu COSO
về kiểm soát nội bộ liên quan đánh giá tính hữu hiệu kiểm soát nội bộ và khung pháp lý kiểm
soát nội bộ, tác giả đưa ra một số khuyến nghị đối với kiểm soát nội bộ tại doanh nghiệp bảo
hiểm trong xu thế hội nhập với thông lệ quốc tế.
Từ khóa: Kiểm soát nội bộ, COSO, đánh giá rủi ro.
1. GIỚI THIỆU
Kiểm soát nội bộ (KSNB), một bộ phận không thể thiếu trong quản trị doanh nghiệp, đã và
đang trở lên một vấn đề được nhiều nhà đầu tư quan tâm. Điều này được chứng minh qua bản
báo cáo của ủy ban hỗ trợ các kế toán viên chuyên nghiệp (FAIB) thuộc liên đoàn kế toán quốc
tế (IFAC) được cống bố năm 2006 nhằm phân tích các yếu tố chính đến sự sụp đổ của các tập
đoàn đa quốc gia. Bản báo cáo đưa ra các yếu tố bao gồm: Văn hóa phi đạo đức và chấp nhận rủi
ro cao của các nhà quản lý đứng đầu tổ chức(ví dụ Enron và Worldcom tại Mỹ hay France
Telecom tại Pháp); Tổng giám đốc có quyền lực và ảnh hưởng chi phối hoàn toàn hội đồng quản
trị và các thành viên khác(ví dụ HIH tại Úc và Ahold tại Hà Lan); Hội đồng quản trị thất bại
trong việc áp dụng phản biện độc lập đối với các đại diện của ban giám đốc (ví dụ Vivendi tại
Pháp, Worldcom tại Mỹ và HIH tại Úc); Hệ thống khen thưởng quá mức dựa trên lợi nhuận (ví
dụ Enron tại Mỹ và HIH tại Úc); Hệ thống KSNB và tiến trình đánh giá rủi ro không hữu hiệu(ví
446
dụ Enron tại Mỹ và Xerox tại Mỹ, Cable&Wireless tại Anh). Đứng trước vấn đề này, Mỹ đã ban
hành đạo luật Sarbanes-Oxley năm 2002, điều 404 của đạo luật, yêu cầu bắt buộc các công ty
niêm yết phải có báo cáo đánh giá tính hữu hiệu của KSNB.
Việt Nam với tiến trình đổi mới kinh tế và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu của
các doanh nghiệp (DN) Việt Nam nói cung và doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) nói riêng. Tuy
nhiên, với quy mô hoạt động, tiềm lực tài chính, trình độ quản trị và việc áp dụng công nghệ vào
quản lý còn rất hạn chế đặt ra rất nhiều thách thức rủi ro trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
DNBH với đặc điểm riêng biệt vốn có của nó như: các dịch vụ bao gồm dịch vụ nhân thọ và phi
nhân thọ với chức năng duy trì bảo vệ tài sản tài chính cá nhân, sức khỏe cho con người, đóng
góp vào sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của quốc gia; với các loại rủi ro phải đối mặt như:
rủi ro hoạt động, rủi ro bảo hiểm(BH), rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường. Để
ngăn ngừa các rủi ro và hạn chế tổn thất trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngoài hành lang
pháp lý và biện pháp thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước, thì trước hết
các DNBH phải tự bảo vệ mình thông qua thiết lập và duy trì KSNB đủ mạnh và hữu hiệu.
Trong thực tế có rất nhiều mô hình của các tổ chức như CoCo (1999), Turnbull (1999), AICPA,
IIA và COSO (1992, 2013) và các nhà nghiên cứu khác về KSNB như Hồ Tuấn Vũ (2016), Võ
Thu Phụng (2017), Ngô Trí Tuệ (2004). Cách tiếp cận của COSO cho vấn đề này giúp thiết lập
KSNB hữu hiệu nhằm tối đa hóa lợi ích của DN.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Kiểm soát nội bộ
Theo báo cáo COSO 1992 và được cập nhật 2013, KSNB là một quá trình, chịu ảnh
hưởng bởi hội đồng quản trị, nhà quản lý và các nhân viên của đơn vị, được thiết lập để cung
cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm đạt các mục tiêu sau: Tính hữu hiệu và hiệu quả hoạt động;
Tính tin cậy của báo cáo tài chính; và tính tuân thủ luật lệ quy định. Khuôn khổ KSNB của
COSO năm 1992, được cập nhật trong những năm 2006, 2009, 2013, hệ thống KSNB của đơn
vị gồm 5 cấu phần gồm:
Môi trường kiểm soát: là tập hợp các tiêu chuẩn, quy trình, cấu trúc làm nền tảng cho việc
thiết kế và vận hành KSNB trong một đơn vị. Bao gồm như triết lý điều hành, phong cách lãnh
đạo, chính sách nhân sự, tính chính trực và các giá trị đạo đức, cơ cấu tổ chức và sự tham gia của
các nhà lãnh đạo
Đánh giá rủi ro: Mỗi đơn vị luôn phải đối phó với hàng loạt rủi ro từ bên trong lẫn bên
ngoài. Rủi ro được định nghĩa là khả năng một sự kiện sẽ xảy ra có thể tác động tiêu cực đến việc
đạt được mục tiêu. Đánh giá rủi ro là quá trình nhận dạng và phân tích những rủi ro ảnh hưởng đến
việc đạt được mục tiêu, từ đó có thể quản trị được rủi ro. Khi đánh giá rủi ro đe dọa mục tiêu của
đơn vị cần xem xét trong mối liên hệ với các ngưỡng chịu đựng rủi ro được thiết lập.
Hoạt động kiểm soát: là tập hợp các chính sách và thủ tục nhằm đảm bảo thực hiện các chỉ
thị của nhà quản lý để giảm thiểu rủi ro đe dọa đến việc đạt được mục tiêu của đơn vị. Hoạt động
kiểm soát tồn tại ở mọi cấp độ tổ chức trong đơn vị, ở các giai đoạn khác nhau của quy trình kinh
doanh và bao gồm cả các kiểm soát đối với công nghệ.
447
Thông tin và truyền thông: Thông tin rất cần thiết cho việc thực thi trách nhiệm kiểm soát
trong đơn vị nhằm hỗ trợ cho việc đạt được mục tiêu đã đề ra. Nhà quản lý thu thập, tạo lập và sử
dụng các thông tin thích hợp và có chất lượng từ các nguồn bên trong lẫn bên ngoài đơn vị.
Truyền thông là quá trình cung cấp, chia sẻ và trao đổi thông tin. Truyền thông bên trong đóng
vai trò là phương tiện giúp truyền tải thông tin khắp trong đơn vị. Truyền thông bên ngoài giúp
truyền tải thông tin thích hợp từ bên ngoài vào đơn vị đồng thời cung cấp thông tin cho các đối
tượng bên ngoài theo yêu cầu của họ.
Giám sát: KSNB cần được giám sát để đảm bảo rằng năm yếu tố cấu thành của KSNB
đang hoạt động hữu hiệu. Giám sát là quá trình đánh giá chất lượng của KSNB theo thời gian.
Giám sát bao gồm giám sát thường xuyên và giám sát định kỳ. Giám sát chính là cơ sở quan
trọng giúp đơn vị nhận biết về tính hữu hiệu của KSNB.
(Nguồn: COSO 2013)
Hình 1: Mô hình mục tiêu và các cấu phần của KSNB
Theo báo cáo COSO (1992) cập nhật 2013, kiểm soát nội bộ là một quá trình, còn tính
hữu hiệu là một trạng thái hay điều kiện của quá trình có hiệu lực tại một thời điểm. Việc xác
định KSNB có hữu hiệu hay không là một xét đoán chủ quan xuất phát từ sự đánh giá mức độ
hữu hiệu của 5 cấu phần của KSNB. Vì vậy, các cấu phần của KSNB chính là tiêu chuẩn để đánh
giá tính hữu hiệu của KSNB. Trong thực tế để đánh giá tính hữu hiệu của KSNB, điều cần thiết
là phải thiết kế một chương trình đánh giá 5 cấu phần tương thích với từng trưởng hợp cụ thể.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả thực hiện bài viết dựa trên sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên
cứu các tài liệu thứ cấp, cụ thể như:
Phân tích định tính thông qua phỏng vấn của các chuyên gia của các công ty kiểm toán
Big Four chuyên làm việc về KTNB trong lĩnh vực BH với cách thức: Tác giả phỏng vấn
bên lề của các cuộc hội thảo về KTNB của DNBH bằng ghi chép và xin phép nghi âm cuộc
phỏng vấn: Bà Lê Thị Tuyết Nhung - Phó vụ trưởng Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán - Bộ
Tài chính cho trong hội thảo “Cần nâng cao vai trò và trách nhiệm của Hội nghề nghiệp đối
448
với KTNB, KSNB”; Ông Phan Mạnh Hùng - Phó trưởng phòng - Phòng Nghiệp vụ 2, Vụ
KTNB - Bảo hiểm Xã hội Việt Nam; ông Ivan Phạm - Phó TGĐ Tư vấn Quản trị Rủi ro và
Kiểm toán nội bộ, Deloitte Việt Nam trong hội thảo “Kinh nghiệm triển khai hoạt động
kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp Bảo hiểm”; ông PRAJEESH MUKUNDAN - Giám
đốc Dịch vụ tư vấn bảo hiểm Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam (EY Việt Nam)
trong hội thảo "Áp dụng chuẩn mực kiểm toán nội bộ quốc tế phù hợp với thực tế DN bảo
hiểm Việt Nam không khó, vấn đề là ý thức"; ông Saman Bandara, Phó tổng giám đốc Ernst
& Young (E&Y) phụ trách Khối dịch vụ tài chính ngân hàng trong hội thảo “Hệ thống kiểm
soát nội bộ, yếu tố quyết định thành công của DN bảo hiểm”.
Bên cạnh đó tác giả đã tiến hành thu thập các tài thứ cấp như: các báo cáo về KSNB và
KTNB của Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo - Cục Quản lý, Giám sát Bảo hiểm; các luật, nghị
định, thông tư ban hành về KSNB, KTNB của các DN nói chung và các lĩnh vực: ngân hàng, bảo
hiểm nói riêng; các tài liệu hội thảo chuyên sâu về KSNB, KTNB cho lĩnh vực ngân hàng và bảo
hiểm do công ty TNHH Ernst & Young, SmartTrain và các hiệp hội nghề nghiệp về kế toán và
kiểm toán tổ chức.
Với việc tác giả sử dụng phỏng vấn sâu để phát hiện ra những phát hiện mới mà trong các
báo cáo của các hội thảo KSNB về lĩnh vực BH chưa đề cập đến. Với việc kết hợp các dữ liệu
nghiên cứu định tính và nghiên cứu các nguồn tài liệu thứ cấp, tác giả xử lý, tổng hợp để đưa ra
đánh giá và nhận xét trên hai khía cạnh tính hữu hiệu KSNB và hành lang khuôn khổ pháp lý ban
hành liên quan đến KSNB của DN
3. ĐÁNH GIÁ KSNB CỦA CÁC DNBH VIỆT NAM
Căn cứ vào dữ liệu nghiên cứu định tính và nghiên cứu qua các tài liệu thứ cấp như đã
trình bày ở trên. Tác giả đưa ra nhận định và đánh giá tính hữu hiệu của KSNB của các DNBH ở
hai khía cạnh sau: bài viết tập trung xem xét đánh giá 5 cấu phần và khung pháp lý về KSNB tại
các DNBH Việt Nam:
Môi trường kiểm soát: Các rủi ro tổn thất của DNBH do sự yếu kém của KSNB có thể
được giảm thiểu hoặc tránh được nếu ban điều hành cấp cao và HĐQT của DNBH thiết lập văn
hóa kiểm soát đủ mạnh. Biểu hiện của văn hóa kiểm soát yếu kém: (1) ban điều hành cấp cao
không chú trọng vai trò của KSNB trong DNBH trong lời nói và hành động của họ đặc biệt được
thể hiện qua tiêu chí đánh giá như đặt nặng mục tiêu doanh thu, lợi nhuận khai thác bằng mọi giá
mà không chú trọng phát triển bền vững, thiếu kiên quyết và nhất quán xử lý các trường hợp vi
phạm quy chế, đào tạo, lương, thưởng và đề bạt; (2) ban điều hành cấp cao chưa xây dựng được
cơ cấu tổ chức có quy định rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm quản lý. Ví dụ, thực tế cho thấy,
mô hình quản trị của DNBH hiện nay đang tạo sự mâu thuẫn, tạo sự cạnh tranh giữa các phòng
ban, giữa các chi nhánh khi các doanh nghiệp phân cấp không rõ ràng, chặt chẽ như: Việc các
DNBH mở rộng kinh doanh với rất nhiều chi nhánh, đại lý, các đơn vị kinh doanh phủ khắp 64
tỉnh thành với áp lực doanh số và hoa hồng, bên cạnh việc chưa phân cấp quản lý rõ ràng giữa
các đơn vị, bộ phận kinh doanh và hội sở hay đại lý bảo hiểm về thẩm quyền cấp đơn bảo hiểm,
định phí BH, thẩm định và bồi thường khiếu nại khách hàng, đó là trở ngại lớn trong công tác
449
quả trị và KSNB của DNBH. Với mô hình phân tán, việc giao quyền lực cho các chi nhánh tạo ra
sự chủ động trong kinh doanh, nhưng cũng tăng rủi ro trục lợi bảo hiểm. Thêm vào đó, các
DNBH hầu hết đều có những văn bản miêu tả chức năng và trách nhiệm của phòng quản trị rủi
ro, phòng KSNB, phòng kiểm toán nội bộ, nhưng nhiều văn bản này không thực sự rõ ràng hoặc
không được thông tin đến các cổ đông, dẫn đến việc thiếu tính rõ ràng và minh bạch trong vai trò
và trách nhiệm của từng phòng cụ thể trong tổng thể khung KSNB của tổ chức, cũng như trách
nhiệm của từng phòng trong mối quan hệ và hợp tác với các phòng còn lại nhằm hướng đến mục
tiêu chung của chức năng KSNB. Điều này, dễ hiểu khi trong một số trường hợp, các phòng, ban
này không hoạt động. Việc Ban điều hành cấp cao chưa thiết lập cơ chế giám sát đầy đủ việc gia
quyết định quản trị ở các khâu: khai thác, bồi thường và tái báo hiểm, thiếu báo cáo kịp thời về
về bản chất đạo đức về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Văn hóa kiểm soát của DNBH sẽ bị suy
giảm nếu DNBH quá chú trọng đến doanh thu, lợi nhuận khai thác bảo hiểm mà bỏ qua các
chính sách quy định kiểm soát nội bộ hay không quan tâm đến các ý kiến của KTNB phát hiện
ra. Do đó, Việc quá quan tâm đến doanh thu, lợi nhuận, thiếu kiên quyết xử lý các vi phạm quy
định kiểm soát nội bộ làm suy giảm các cam kết thực hiện và chất lượng kiểm soát nội bộ.
Đánh giá rủi ro: Việc yếu kém của KSNB xuất phát từ việc nhận diện và đánh giá rủi ro
không đầy đủ có thể gây thiệt hại cho DNBH. Đối với nhận diện rủi ro, DNBH cần xác định
chính xác tất cả các rủi có thể phát sinh. Đồng thời phải chú ý trọng tâm đối với rủi ro cơ bản. Có
thể phải kể đến các loại rủi ro quan trọng mà các DNBH thường hay gặp phải như: Rủi ro trong
khai thác, nó phát sinh từ việc chấp nhận bảo hiểm thuần túy với các nguyên nhân: đánh giá thấp
rủi ro, các ước tính liên quan đến tai nạn, tổn thất dựa trên các thông tin không thích hợp; rủi ro
về lập dự phòng như việc lập không tương thích với nhu cầu thực tế chủ yếu đến từ sai lệch chủ
quan trong phương pháp tính, thiếu năng lực và kinh nghiệm, không có đủ thông tin; rủi ro tín
dụng liên quan đến không thu hồi các khoản phải thu như nợ phí khách hàng, phải thu của các
trung gian, tái bảo hiểm; rủi ro thị trường liên quan đến việc thay đổi nhu cầu, hành vi tiêu dùng
đối với sản phẩm bảo hiểm hay biến động của thị trường bảo hiểm; rủi ro đầu tư liên quan đến
quản lý đầu tư sai sót làm ảnh hưởng đến đảm bảo khả năng chi trả các khiếu nại dự tính. Trên
cơ sở đó ban lãnh đạo cấp cao DNBH cần quyết định mức độ chấp nhận rủi ro (khẩu vị rủi ro), từ
đó DN phải đảm bảo sự sẵn sàng giảm thiểu và kiểm soát rủi ro đó, vấn đề này càng trở lên quan
trọng hơn khi thị trường bảo hiểm có sự cạnh tranh khốc liệt. Ví dụ: các DNBH trước khi phát
hành một đơn bảo hiểm đều phải đánh giá rủi ro được bảo hiểm, xem xét các yếu tố dẫn đến sự
tăng giảm rủi ro… Từ đó mới đưa ra quyết định chấp nhận hay từ chối rủi ro với phạm vi bảo
hiểm như thế nào, tỷ lệ phí bảo hiểm là bao nhiêu cho phù hợp. Nhưng các doanh nghiệp bảo
hiểm mới chỉ đánh giá được rủi ro của đối tượng được bảo hiểm, còn nhiều DNBH vẫn chưa
xem xét một cách thấu đáo những rủi ro tiềm ẩn trong chính bản thân doanh nghiệp mình – đó là
rất nhiều DN chưa có hệ thống quản trị rủi ro. Theo kết quả khảo sát của Ernst & Young Việt
Nam năm 2017, điều đáng buồn là không có một DNBH nào có hệ thống cảnh báo sớm để nhận
diện thông tin cảnh báo các rủi ro mới có thể ảnh hưởng lớn đến DN, hoặc theo dõi các thay đổi
rủi ro và báo cáo kịp thời các thất bại kiểm soát. Các DN cũng không có danh mục rủi ro, trong
đó liệt kê tất cả rủi ro ở tầm DN, rủi ro ở quy trình để đảm bảo không có rủi ro nào bị bỏ sót
450
trong quá trình đánh giá. Hiện nay, có nhiều lãnh đạo DNBH chỉ mới chú trọng đến phát triển
doanh thu lợi nhuận, mà quên đi hướng phát triển dài hạn về quản trị rủi ro để phát triển lâu dài
và đồng thời các việc khác như kiểm soát nội bộ, hội đồng kiểm toán cũng phải tham gia để cùng
nhau thiết lập hệ thống quản trị rủi ro lâu dài cho DN. Như vậy, DNBH cần thiết lập các mục
tiêu kiểm soát để đảm bảo hiệu quả hoạt động, độ tin cậy của báo cáo tài chính và tính tuân thủ
luật pháp. Vậy, với việc thiết lập mục tiêu, nhận diện và đánh giá rủi ro nhằm đảm bảo tính hữu
hiệu của KSNB
Hoạt động kiểm soát: Phần lớn các DNBH có KSNB yếu kém thường không tuân thủ các
chính sách và thủ tục như phê chuẩn, ủy quyền, kiểm tra đối chiếu, phân công phân nhiệm ở mọi
cấp độ đơn vị và các giai đoạn khác nhau. Thực tế, các DN bảo hiểm hiện đang triển khai hệ
thống KSNB chưa đồng bộ và chưa quy chuẩn. Các DN hoặc không có hệ thống quy chế quản lý
hoàn chỉnh, hoặc có nhưng manh mún. Chẳng hạn, DN có hệ thống quy chế quản lý tương đối
đầy đủ về tên gọi, nhưng trong các quy chế ít chứa đựng các cơ chế kiểm soát, chưa kể trong các
quy chế có chứa đựng các cơ chế kiểm soát thì các quy chế quản lý này không được thực hiện
triệt để và do đó, các cơ chế kiểm soát không được vận hành hoặc không được vận hành hiệu
quả. Việc cập nhật rủi ro và hoàn thiện hệ thống KSNB chưa được thực hiện thường xuyên.
Trong hệ thống KSNB, đối tượng chịu trách nhiệm chính là các bộ phận tiến hành hoạt động
kinh doanh. Đây là các bộ phận chấp nhận rủi ro, do đó, họ phải là người thiết kế các chốt kiểm
soát, chịu trách nhiệm thực hiện, tiến hành các chốt đã được thiết kế đó một cách đúng đắn để
đảm bảo hệ thống hoạt động hiệu quả. DNBH xem xét thiết kế các chốt kiểm soát vào các hoạt
động chính: Hoạt động khai thác, kênh phân phối, giải quyết khiếu nại, trích lập dự phòng nghiệp
vụ, tái bảo hiểm (TBH). Ví dụ: Thị trường cạnh tranh bảo hiểm cạnh tranh gay gắt, sức mua bảo
hiểm thấp cho nên hoạt động khai thác tiềm ẩn các nguy cơ rủi ro không hề nhỏ như định phí bảo
hiểm, nợ phí, cấp đơn và phân cấp khai thác; đối với các DNBH sử dụng kênh khai thác đại lý
thường đối mặt các rủi ro như vi phạm tuyển dụng, quản lý đại lý, quản lý ấn chỉ, vi phạm hợp
đồng và nợ phí bảo hiểm; đối với khâu giải quyết khiếu nại bảo hiểm thì cũng có rất nhiều DN đã
xây dựng và thực hiện tốt các quy trình giám định và bồi thường như BHBV, BH Bảo
Minh…Điều này đã hạn chế việc trục lợi bảo hiểm, tăng cường chất lượng dịch vụ là yếu tố
quyết định hiệu quả bền vững trong kinh doanh bảo hiểm. Khiếm khuyết KSNB của DNBH còn
đến từ sự không tuân thủ nguyên tắc phân công phân nhiệm đòi hỏi chức năng thực hiện, phê
duyệt, bảo quản tài sản và ghi sổ. Ví dụ như việc giám định và bồi thường cần phải có được sự
phê chuẩn theo hướng dẫn, phải khách quan độc lập, kiểm tra chéo các khâu công đoạn đảm bảo
quyền lợi của khách hàng, tránh trục lợi và đảm bảo chất lượng dịch vụ bảo hiểm.
Thông tin và truyền thông: Các DNBH có thể chịu nhiều thiệt hại về thông tin không
đáng tin cậy, không đầy đủ hoặc việc truyền thông trong DNBH kém hiệu quả. Trong một số
trường hợp các DNBH chưa xây dựng hệ thống mạng nội bộ đủ mạnh trên nền tảng công nghệ
hiên đại để mọi thành viên công ty có thể truy cập những qui định, qui trình nghiệp vụ và những
qui định pháp lý về bảo hiểm, nhận và cung cấp thông tin khách hàng, các đại lý một cách kịp
thời như sức khỏe, tai nạn, thu phí bảo hiểm, các hồ sơ giám định và bồi thường hay cung cấp
thông tin các báo cáo quản trị quan trọng cho lãnh đạo cấp cao. Hệ thống thông tin nội bộ của
451
DNBH chưa thông tin đầy đủ đến toàn thể nhân viên về nhiệm vụ và trách nhiệm kiểm soát của
họ, chưa phổ biến chính sách của DNBH qua các kênh thông tin thư tín dẫn đến không đảm bảo
toàn bộ nhân viên đọc, hiểu và duy trì. Nếu DNBH thiết lập kênh thông tin sai phạm, rủi ro và
gian lận bảo hiểm để nhân viên và lãnh đạo cấp cao xác định và xử lý kịp thời các sai pham, rủi
ro và gian lận bảo hiểm xảy ra. Ngoài ra công tác truyền thông ra bên ngoài cho các đối tác liên
quan chưa được đầy đủ đặc biệt các thông tin các báo cáo tài chính, báo cáo thường niên… qua
đó các khách hàng, cổ đông và các bên liên quan chưa nắm bắt được kịp thời các thông tin về
quản lý rủi ro, hoạt động của kiểm toán nội bộ của DN. Dẫn đến nhiều chính sách quản trị của
DNBH chưa được thực thi kịp thời. Thời gian vừa qua, Bộ tài chính và các tổ chức nghề nghiệp
kế toán kiểm toán có các cuộc hội thảo về xu hướng tự động hóa quy trình kinh doanh bảo hiểm -
công nghệ robot. Hiện nay, các ngân hàng có sự kết hợp với các doanh nghiệp nước ngoài xây
dựng mô hình DNBH theo xu hướng công nghệ như ngân hàng VPBank, BIDV. Việc tích hợp
công nghệ vào kinh doanh bảo hiểm từ khâu khai thác, khiếu nại khách hàng… với việc tiến
hành rà soát tinh gọn và chuẩn hóa quy trình hoạt động, xây dựng cơ chế mạch lạc để áp dụng
CNTT giúp DNBH cắt giảm chi phí đặc biệt công việc mang tính lặp đi lặp lại. Với việc tự động
hóa quy trình trong ngành bảo hiểm nhằm xây dựng hệ thống quản trị tích hợp, sáng tạo nhiều
tiện ích sử dụng cho khách hàng và nâng cao năng suất lao động trong ngành bảo hiểm.
Giám sát: Thực tế nghiên cứu cho thấy nhiều DNBH phải gánh chịu nhiều thiệt hại do hoạt
động giám sát không phát huy hiệu quả. Trước sức ép cạnh tranh khốc liệt của thị trường bảo
hiểm, áp lực doanh số và lợi nhuận nhiều DNBH đã chưa xây dựng quy trình giám sát thường
xuyên liên tục hay việc đánh giá độc lập chưa đầy đủ hoặc chưa được quan tâm thực hiện của
ban giám đốc. Vậy, tính hữu hiệu trong giám sát chưa cao việc này thể hiện không xem xét và
ứng phó với các hoạt động bất thường hàng ngày của nhân viên và cán bộ phụ trách. Ví dụ việc
giám định bồi thường chưa khách quan và việc bồi thường vượt quá thẩm quyền đơn vị phụ trách
kinh doanh và hội sở hay thiếu thông tin báo cáo tài chính, sức khỏe, tai nạn hiện hành của khách
hàng tham gia bảo hiếm. Tại một số DNBH việc định phí bảo hiểm chưa phù hợp và nợ bảo
hiểm giữa các đại lý và DN kéo dài. Nếu DNBH đều thiết lập thủ tục kiểm soát yêu cầu trong
ngày các nhân viên kinh doanh, các đại lý phải chốt số liệu bảo hiểm gửi chi tiết các thông tin
báo cáo tình trạng thu phí của khách hàng qua hệ thống thông tin, định kỳ công ty xác nhận các
khoản nợ phí với nhân viên kinh doanh và các đại lý để sớm phát hiện và giải quyết các tồn tại
tích tụ thành thiệt hại cho DNBH.
Một số DNBH lớn Việt Nam như: Bảo Việt, Bảo Minh đã thiết lập bộ máy KTNB để cung
cấp một sự đánh giá độc lập cho HĐQT, ban giám đốc và các cổ đông. Tuy nhiên, trong rất
nhiều DNBH thì bộ phân KTNB chưa phát huy được hiệu quả bởi các nguyên nhân sau: Tính
độc lập của KTNB từ cơ cấu tổ chức và cơ chế báo cáo giải trình với ban lãnh đạo; người làm
công tác KTNB phần lớn tuyển dụng từ các bộ phận trong doanh nghiệp thiếu kinh nghiệm kiến
thức kỹ năng về nghiệp vụ kinh doanh BH, KTNB và việc xử lý không dứt điểm các vấn đề phát
hiện đã được phát hiện hay chương trình KTNB thường được thiết kế như là các hoạt động rời
rạc được tiến hành tại một số bộ phận/phòng ban bảo hiểm. Cùng với đó, KTNB không được
theo dõi các nghiệp vụ từ khi bắt đầu đến khi kết thúc cho nên thử nghiệm và kiểm tra tính đầy
452
đủ các thủ tục kiểm soát ở tất cả các khâu của quy trình hoạt động còn hạn chế. Tính hiệu quả
của KTNB chưa đạt được do chưa coi trọng vai trò của KTNB dẫn đến các kiến nghị đưa ra đối
với HĐQT và ban giám đốc chưa được thực thi triệt để. Tại các DNBH Việt nam, KTNB cần
phải có báo cáo với HĐQT và ban giám đốc về: thiết kế và vận hành KSNB đầy đủ và thích hợp
nhằm đánh giá năng lực và trách nhiệm của ban giám đốc trong việc duy trì một KSNB hữu hiệu
và cung cấp sự đảm bảo hợp lý tiến trình đạt được mục tiêu của doanh nghiệp.
Đánh giá khung khổ pháp lý về KSNB tại các DNBH Việt Nam
Giai đoạn 1997 - 2006:
Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ chưa đảm bảo tính độc lập: Trong các lĩnh vực tài
chính và bảo hiểm thì ngân hành luôn đi tiên phong trong áp dụng các phương pháp quản trị hiện
đại. Văn bản đầu tiên là Quyết định số 03/1998/QH-NHNN3 ngày 03/01/1998 ban hành quy chế
mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong các TCTD hoạt động tại Việt
Nam, trong đó quy định “bộ máy kiểm tra nội bộ chuyên trách trực thuộc tổng giám đốc”. Trong
văn bản này, cũng chưa cụ thể hóa các chức năng, nhiệm vụ của bộ máy kiểm tra nội bộ. Do đó,
việc áp dụng KSNB không nhất quán và kém hiệu quả.
Chưa phân định rõ sự khác biệt KSNB và KTNB: Tại Điều 40 - Luật các TCTD năm
2010, bao gồm 3 nội dung là khái niệm về hệ thống KSNB, các yêu cầu của hệ thống KSNB và
việc đánh giá hệ thống KSNB bởi KTNB và kiểm toán độ lập. “Kiểm toán nội bộ” được quy
định riêng tại điều 41, trong đó nêu rõ bộ phận KTNB chuyên trách trực thuộc ban kiểm soát.
Đây là điểm khác biệt so với luật các TCTD.
Giai đoạn 2006 trở lại đây:
Phân biệt rõ khái niệm KSNB và KTNB: Quyết định số 36/2006/QD-NHNN3 ngày
1/8/2006 ban hành quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của các TCTD. Văn bản này, đã đưa ra
dầy đủ các khái niệm, mục tiêu, các yều và nguyên tắc hoạt động của hệ thống kiểm tra, KSNB.
Bước tiến của quyết định này năm ở chỗ “hoạt động kiểm tra, KSNB là một phần không tác rời
hoạt động hành ngày của TCTD và hệ thống kiểm tra, KSNB của TCTD phải được KTNB kiểm
tra, đánh giá độc lập”.
Cơ cấu KTNB đảm bảo tính khách quan: Với việc ban hành Quyết định số 36/2006/QD-
NHNN3 ngày 1/8/2006 đã chỉ ra “KTNB của TCTD được tổ chức thành một hệ thống theo
ngành dọc, trực thuộc và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của ban kiểm soát”. Điểm nhấn quan trọng ở
quyết định này so với trước kia là bộ máy KTNB trực thuộc ban kiểm soát sẽ làm tăng tính độc
lập của kiểm toán viên nội bộ của các TCTD. Trong lĩnh vực bảo hiểm, các cơ quan nhà nước
cũng ban hành các văn bản liên quan KSNB cho các DNBH như: NĐ 45/2007/NĐ-CP ngày 27
tháng 3 năm 2007. Với nghị định này, DNBH, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải lập hệ thống
kiểm tra, kiểm soát nội bộ bảo đảm doanh nghiệp hoạt động an toàn và đúng pháp luật. Kết quả
kiểm tra, kiểm soát nội bộ phải được lập thành văn bản và lưu giữ tại doanh nghiệp”.
Quan tâm quản lý rủi ro và phạm vi KTNB: Với việc ban hành thông tư 44/2011/TT-
NHNN ngày 29/12/2011 (thay thế QĐ36, QĐ37 năm 2006) yêu cầu các TCTD phải nhận dạng
453
đo lường và đánh giá rủi ro thường xuyên liên tục mọi rủi ro có nguy cơ gây ảnh hướng xấu đến
hiệu quả và mục tiêu hoạt động của TCTD để kịp thời ngăn ngừa, phát hiện và có các biện pháp
quản lý rủi ro thích hợp. Thông tư này đã đề cập đến phương pháp KTNB theo định hướng rủi
ro, là điểm hội tụ theo thông lệ quốc tế.
Căn cứ vào nghị định của chính phủ BTC đã ban hành thông tư 124/2012/TT-BTC ngày
30/7/2012. “Qui trình nghiệp vụ của doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài là văn bản
qui định về triển khai hoạt động, chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn của mỗi cán bộ
tại từng bộ phận và cơ chế phối hợp giữa các cán bộ tại từng bộ phận và cơ chế phối hợp giữa
các cán bộ, các bộ phận trong doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài”. Năm 2014, BTC
ban hành tiếp thông tư 194/2014/TT-BTC ban hành ngày 17/12/2014 buộc các DNBH phải xây
dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về hoạt động khai thác, bồi thường, dự phòng; Kiểm soát chặt các
chi phí tránh thua lỗ đồng thời có nguồn số liệu chính xác để phục vụ công tác định phí. Với luật
kinh doanh bảo hiểm, các quy định thông tư đòi hỏi các DNBH sẽ phải kiểm soát chặt chẽ hoạt
động kinh doanh bảo hiểm, tăng cường tính hữu hiệu của KSNB trong doanh nghiệp. Vậy, việc
xây dựng KSNB là cần thiết và bắt buộc dối với DNBH làm thế nào để hạn chế giảm thiểu rủi ro
thực hiện các mục tiêu đặt ra trong hoạt động kinh doanh của từng thời kỳ. Việc ngân hàng ban
hành Thông tư 13/2018/TT-NHNN quy định KSNB, KTNB của ngân hàng thương mại, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài. Với thông tư 44/2011/TT-NHNN còn mang tính khái quát và chưa
thật sự đầy đủ, chưa đáp ứng được vai trò thật sự của một hệ thống kiếm soát nội bộ trong hoạt
động ngân hàng. Thông tư 13 được NHNN ban hành có các quy định trong Thông tư 13 rất cụ
thể và rõ ràng, đặc biệt là đã thật sự tiệm cận với các thông lệ quốc tế về việc xây dựng hệ thống
kiểm soát nội bộ như: hệ thống kiểm soát nội bộ được quy đinh nổi bật theo ba tuyến bảo vệ độc
lập, nhấn mạnh vai trò KTNB là tuyến phòng vệ cuối cùng, đánh giá nội bộ mức đủ vốn nhằm
xác định tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của ngân hàng thương mại. Tiếp theo đó ngày 22/1 vừa
qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/2019/ NĐ-CP về kiểm toán nội bộ. Đây được coi là
khung pháp lý toàn diện đầu tiên về hoạt động KTNB tại các đơn vị công, các công ty niêm yết,
các doanh nghiệp có vốn sở hữu nhà nước hoạt động theo mô hình công ty – mẹ công ty con.
Các DN nói chung và DNBH nói riêng cần chú trọng tới một số thuộc tính mang tính quyết định
đến công tác KTNB như: xác định vai trò KTNB, cơ chế/hình thức hoạt động, nhân lực KTNB,
cấu trúc quản trị, trách nhiệm giải trình, mối quan hệ các bên liên quan. Bên cạnh đó, các cơ
quan quản lý nhà nước ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể cho việc thực hiện nghị định,
giúp cho KTNB thực sự đi vào cuộc sống doanh nghiệp.
4. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI KSNB CỦA CÁC DNBH VIỆT NAM
Môi trường kiểm soát: Môi trường kiểm soát là yếu tố nền tảng của KSNB. Ban lãnh đạo
DNBH cần nhận thức vai trò của KSNB để thiết kế và vận hành KSNB bằng việc xây dựng cơ
cấu bộ máy tổ chức, xây dựng đầy đủ các qui trình thủ tục kiểm soát, có kế hoạch đào tạo, tuyển
dụng để thu hút phát triển nhân lực DN. Trong đó, nhấn mạnh con người là yếu tố trung tâm
quan trọng nhất trong môi trường kiểm soát. Cần xây dựng văn hóa kiểm soát trong DNBH mà
trong đó ban lãnh đạo là người đi đầu thực hiện, thể hiện tính trung thực và giá trị đạo đức để lan
tỏa đến toàn DNBH. Trong khi đó, các vấn đề gian lận và trục lợi bảo hiểm liên quan đến đạo
đức kinh doanh ngày càng gia tăng ở Việt Nam.
454
Đánh giá rủi ro: Để xây dựng và duy trì KSNB hữu hiệu, DNBH cần đánh giá thường
xuyên các loại rủi ro bao gồm các loại rủi ro nội tại và rủi ro bên ngoài tác động đến doanh
nghiệp bảo hiểm. Đánh giá rủi ro bao gồm việc nhận dạng, phân tích và xây dựng các biện pháp
đối phó rủi ro phù hợp. DNBH cần nhận dạng các dạng rủi ro trong lĩnh vực bảo hiểm như: rủi ro
bảo hiểm, rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, và các rủi ro khác. Từ đó, DNBH
cần lưu ý trọng tâm với rủi ro cơ bản có ảnh hưởng lớn đến DN, hợp đồng bảo hiểm và cơ quan
giám sát. Bước tiếp theo của phân tích là phương pháp mà DNBH có thể hiểu được bản chất của
rủi ro mà họ phải đối mặt, các rủi ro cần được kiểm soát hay không, những rủi ro đó có thể tạo
nên lợi ích hay tổn thất cho DNBH. DNBH có các cách thức phản ứng rủi ro:
Né tránh rủi ro: Đối với hợp đồng bảo hiểm có rủi rất cao ngây tổn hại DN thì kiên quyết
không thực hiện hợp đồng
Giảm thiểu rủi ro hoặc chuyển giao rủi: DNBH có thể chuyển giao một phần hay toàn bộ
rủi ro của hợp đồng bảo hiểm cho công ty nhận tái bảo hiểm với điều kiện nhà tái phải đạt chuẩn
xếp hạng theo quy định hiện hành
DNBH cần quyết định mức độ chấp nhận rủi ro là bao nhiêu và ở mức độ nào và nó liên
quan đến khẩu vị rủi ro của DN. Với khẩu vị rủi ro cần phải do HĐQT xây dựng và xem xét định
kỳ thường ít nhất 1 năm/1 lần. DNBH đảm bảo rằng có sự chuẩn bị sẵn sàng giảm thiểu và kiểm
soát rủi ro đó.
Giám sát: Trách nhiệm của ban giám đốc cam kết thiết lập và duy trì KSNB hữu hiệu.
Giám sát với chức năng của mình để đánh giá tính hữu hiệu của KSNB và kịp thời có các biện
pháp điều chỉnh khắc phục cần thiết. DNBH cần tăng cường giám sát các hoạt động có nguy cơ
rủi ro cao như khai thác, bồi thường, đầu tư, TBH, tài chính kế toán. Để thực hiện được điều này,
DNBH cần xây dựng quy trình giám sát thường xuyên liên tục kết hợp với giám sát định kỳ.
Việc giám sát thường xuyên được thực hiện đồng thời trong các hoạt động hàng ngày của DNBH
thụ thuộc vào việc đánh giá rủi ro và sự hữu hiệu của các hoạt động giám sát. Giám sát thường
xuyên càng hữu hiệu bao nhiêu thì giám sát đình kỳ giảm bớt nhiều khối lượng của mình. Giám
sát định kỳ được thực hiện bởi KTNB hoạt động độc lập khách quan đánh giá tính hữu hiệu
KSNB. Để phát huy vai trò và tính hiệu quả KTNB doanh nghiệp cần chú ý đến: cơ cấu bộ máy,
trách nhiệm báo cáo giải trình, nguồn lực chất lượng cao… Từ đó mọi phát hiện và các ý kiến
KTNB đối với ban lãnh đạo DNBH được xử lý dứt điểm kịp thời tránh hậu quả tích tụ lâu dài
cho DNBH.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
AUASB (1999) AUS 810, Special Purpose Reports on the Ellectlveness of Control Procedures.
Committee of Sponsoring Organisations of the Treadway Commission (COSO). (1992). Internal
control-integrated framework. New York, NY: AICPA
COSO, (2013). The 2013 Internal Control-Integrated Framework
455
CPA Australia (2008) CPA101- Assurance Services and Auditing.
Đỗ Thị Huyền, Nguyễn Thị Diệu Thu (2016), Tăng cường quản lý rủi ro trong xây dựng hệ
thống kiểm soát nội bộ ở doanh nghiệp nhỏ và vừa, Tạp chí Ke toán và Kiểm toán, số 7,
Trang 2.
Hồ Tuấn Vũ, (2016). Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ
trong các ngân hàng thương mại Việt Nam. Luận án tiến sỹ kinh tế. Đại học kinh tế
TP.HCM
IFAC (2016). Internal Controls- A Review of Current Development.
IFAC (2005). International Framework for Assurance Engagement.
Mai Đức Nghĩa (2014), Kiểm soát nội bộ - Các thay đổi nền tảng của Báo cáo COSO 2013, xuất
bản Kinh tế Tp. HCM.
Ngân hàng Nhà nước (2018), Thông tư số 13/2018/TT-NHNN ngày 18/05/2018 quy định về
Quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, (2006). Quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 ban
hành Quy chế kiểm toán nội bộ của các TCTD
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, (2011). Thông tư số 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 quy
định về hệ thống KSNB và kiểm toán nội bộ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Ngô Trí Tuệ, (2004). Xây dựng Hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường quản lý tài chính
tại Tổng Công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam. Đề tài NCKH cấp bộ. Đại học kinh tế
quốc dân
Nguyễn Thị Thu Hà, (2016). Hệ thống kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ ở Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sỹ kinh tế. Học viện tài chính.
Phạm Thanh Thủy - chủ nhiệm đề tài (2015), Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng
thương mại Việt Nam và một sổ khuyến nghị, mã số DTNH. 12/2015
Phạm Thanh Thủy - chủ nhiệm đề tài (2015), Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng
thương mại Việt Nam và một sổ khuyến nghị, mã số DTNH. 12/2015
Tài liệu của Khóa đào tạo Kiểm toán nội bộ trong các DNBH (2017), Trung tâm Nghiên cứu và
Đào tạo - Cục Quản lý, Giám sát Bảo hiểm.
Vũ Thu Phụng, (2016). các nhân tố nào là nhân tố chủ chốt thuộc hệ thống KSNB tác động đến
tính hiệu quả hoạt động tại EVN. Luận án tiến sỹ kinh tế. Đại học kinh tế TP.HCM
456
Tính độc lập và đạo đức kiểm toán: góc nhìn từ tình huống
Enron & Arthur Andersen
Trần Nguyên Hạnh, Nguyễn Quang Huy
Trường Đại học Ngoại thương
Email: huynq@ftu.edu.vn
Mã bài: HTQG.11 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 19/11/2019
Ngày nhận bài: 20/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 22/11/2019
Tóm tắt
Tính độc lập và đạo đức kiểm toán không chỉ là hai phẩm chất cơ bản mà còn là hai yêu
cầu tiên quyết trong hành nghề kiểm toán. Thực tế cho thấy nhiều sai phạm xuất phát từ việc
kiểm toán viên không tuân thủ nguyên tắc tính độc lập và đạo đức kiểm toán đã dẫn đến sự suy
giảm về chất lượng kiểm toán và sự phá sản của doanh nghiệp kiểm toán, đồng thời tác động tiêu
cực tới niềm tin của những người sử dụng báo cáo kiểm toán (trực tiếp hoặc gián tiếp). Bài viết
tổng hợp một số lý thuyết chung về tính độc lập và đạo đức kiểm toán, từ đó ứng dụng phân tích
tình huống Enron & Arthur Andersen tại Hoa Kỳ và một số trường hợp vi phạm kiểm toán tiêu
biểu tại Việt Nam. Bài viết đưa ra đề xuất, kiến nghị đối với kiểm toán viên, công ty kiểm toán
chủ quản và chính phủ nhằm cải thiện, nâng cao tính độc lập, đạo đức kiểm toán.
Từ khoá: Kiểm toán viên, tính độc lập, đạo đức kiểm toán, báo cáo kiểm toán, vi phạm
kiểm toán.
1. GIỚI THIỆU
Theo “Báo cáo năm 2018 và dự đoán năm 2019 về thị trường tuyển dụng trực tuyến tại
Việt Nam” do công ty tuyển dụng trực tuyến Vietnamworks/HR Insider công bố, nghề kiểm toán
nằm trong Top 10 ngành nghề có tốc độ tăng trưởng về nhu cầu tuyển dụng và nguồn cung lao
động cao nhất giai đoạn 2017-2018. Dù tỷ lệ cung cầu trong ngành cao nhưng nhân lực kiểm
toán ở nước ta vẫn đang phải đối măt với tình trạng “thiếu chất lượng, thừa số lượng” với tỷ lệ
cạnh tranh là 1/60 (năm 2018) và tình trạng “chảy máu chất xám” do đội ngũ kiểm toán viên chất
lượng ngày càng có nhiều cơ hội tốt để tự do di chuyển trong khối Cộng đồng kinh tế ASEAN -
AEC (từ tháng 12/2015). Thực trạng này đã dấy lên nhu cầu nâng cao chất lượng của một bộ
phận lớn nhân lực kiểm toán trong nước. Nhằm nâng cao vị thế và tiềm năng phát triển trong
ngành, kiểm toán viên (KTV) bên cạnh việc được đào tạo, trau dồi về năng lực chuyên môn cũng
cần đề cao và tuân thủ những yêu cầu nghiêm ngặt về phẩm chất đạo đức trong ngành.
457
Mỗi ngành nghề đều có những khung tiêu chuẩn nhất định được thông qua như một quy
ước nhằm kiểm soát và tự điều chỉnh các hoạt động diễn ra trong phạm vi hoạt động. Đối với
KTV, bộ khung đó là tính độc lập và đạo đức kiểm toán. Tính độc lập và đạo đức nghề nghiệp
được các luật, các chuẩn mực trong nước và trên thế giới coi là những nguyên tắc hành nghề cơ
bản của KTV. Một KTV chỉ khi đáp ứng được những yêu cầu về tính độc lập trong công tác
kiểm toán và giữ vững phẩm chất đạo đức mới có thể đưa ra những xét đoán chuẩn xác, đảm bảo
nghĩa vụ và trách nhiệm trong công việc.
Nhận thấy những đòi hỏi kể trên, nhóm tác giả đi sâu nghiên cứu vấn đề tính độc lập và
đạo đức kiểm toán. Đồng thời, nhóm tác giả liên hệ đến sự vi phạm nghiêm trọng về tính độc lập
và đạo đức kiểm toán đã xảy ra trên thực tế tại Hoa Kỳ - tình huống Enron & Aurthur Anderson,
và đề xuất về phía chính phủ những biện pháp nhằm nâng cao tính độc lập và phẩm chất đạo đức
kiểm toán tại Việt Nam.
2. TỔNG QUAN VỀ TÍNH ĐỘC LẬP VÀ ĐẠO ĐỨC KIỂM TOÁN
Theo Phan Trường Giang. (2018) về tầm quan trọng của tính độc lập trong công tác kiểm
toán: Để suôn sẻ đạt được kết quả trong nhiệm vụ kiểm toán, KTV phải thoát khỏi sự can thiệp,
sự ràng buộc cám dỗ, thao túng từ bên ngoài. Hay nói cách khác, tính độc lập có quan hệ mật
thiết với kết quả trong công việc KTV. Deborah, L., & Frank, D. (2015) đã trình bày quan điểm
về tính độc lập kiểm toán: “Tính độc lập kiểm toán nhằm đảm bảo chất lượng kiểm toán và góp
phần vào sự tín nhiệm của người sử dụng báo cáo tài chính (BCTC) vào quy trình BCTC”.
Về hành vi đạo đức trong kiểm toán, Hoàng Ninh Chi và Nguyễn Thị Thanh Thắm (2017)
nêu lên quan điểm: “Đạo đức nghề nghiệp yêu cầu bản thân mỗi kế toán viên, KTV phải hiểu rõ
chuẩn mực nghề nghiệp và chuẩn mực chuyên môn”. Tom, C., & Keith, H. (2005) nhấn mạnh
đạo đức của KTV “không chỉ đơn giản là sự tuân thủ các quy tắc pháp lý và nghề nghiệp, đó còn
là trạng thái tinh thần chi phối việc tuân theo những nguyên tắc bất thành văn - làm những điều
đúng đắn”.
Tính độc lập kiểm toán
Theo Hệ thống chuẩn mực quốc tế về kiểm toán (ISA) do Ủy ban soạn thảo chuẩn mực
đảm bảo và kiểm toán quốc tế (IAASB) ban hành vào năm 2005, “tính độc lập” bao gồm:
Độc lập về tư tưởng: “Là trạng thái suy nghĩ cho phép đưa ra ý kiến mà không chịu ảnh
hưởng của những tác động trái với những đánh giá chuyên nghiệp, cho phép một cá nhân hành
động một cách chính trực, khách quan và có sự thận trọng nghề nghiệp”. Trong thực tiễn, bất kì
một doanh nghiệp hay tổ chức được công nhận là pháp nhân đều có quyền hoạt động riêng rẽ.
Tuy nhiên, sự riêng biệt trong loại hình kinh doanh, hay những hoạt động đặc thù của doanh
nghiệp đều chịu sự chi phối của các nhân tố môi trường bên ngoài bao gồm môi trường vi mô
(nhà đầu tư, nhà cung cấp, khách hàng, cộng đồng) và môi trường vĩ mô (nền kinh tế, văn hóa -
xã hội, chính trị). Chính những nhân tố này tạo nên sự đa dạng, phức tạp trong luồng tư tưởng, ý
kiến, định kiến tác động trực tiếp lên doanh nghiệp và như một hệ quả, tác động gián tiếp lên sự
nhận thức của KTV. KTV dễ dàng bị va chạm với nhiều ý kiến chủ quan của dư luận về doanh
nghiệp được kiểm toán. KTV cần phải loại bỏ và tách biệt khỏi những chi phối này, căn cứ trên
458
những bằng chứng thực tế để đưa ra xét đoán chính xác nhất. Đó là khi sự độc lập trong tư tưởng
góp phần tạo ra tính chính xác của công việc kiểm toán.
Độc lập về hình thức: “Là không có các quan hệ thực tế và hoàn cảnh có ảnh hưởng đáng
kể làm cho bên thứ ba hiểu là không độc lập”. Trong phạm trù triết học, “hình thức” là hệ thống
các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của một sư vật, là sự biểu hiện nội dung sự
vật. Liên hệ đến phạm vi kiểm toán, có thể hiểu “hình thức” nêu lên mối quan hệ ràng buộc giữa
KTV và thành viên của đơn vị được kiểm toán. Tính độc lập chỉ ra rằng KTV không được “có
quan hệ thân thuộc với các nhà quản lý đơn vị”. Tiêu chuẩn độc lập này có thể được giải thích
bằng những nguy cơ phá vỡ tính độc lập kiểm toán từ sự quen thuộc - “Nguy cơ gây ra do quan
hệ lâu dài hoặc thân thiết với khách hàng hoặc doanh nghiệp, tổ chức nơi mình làm việc, khiến
kế toán viên, KTV chuyên nghiệp dễ thông cảm cho quyền lợi hoặc dễ dàng chấp nhận cho việc
làm của họ”(Chuẩn mực đạo đức kế toán, kiểm toán Việt Nam). Tuy vậy, sự “thân thuộc” hay
“quen thuộc” đều là những từ ngữ chưa xác định chính xác mức độ của những mối quan hệ này.
Mức độ giới hạn về hình thức là những thành viên liên quan không có quan hệ huyết thống.
Tính độc lập về hình thức còn đề cập đến đối tượng “bên thứ ba”, hay chính là những
người được tiếp nhận báo cáo kiểm toán mà không phải KTV hay doanh nghiệp được kiểm toán
(intended users - ISSAI 100). Về mặt biểu hiện, những sai sót trong báo cáo kiểm toán có thể bị
đánh giá bởi công chúng rằng những sai sót đó là cố tình, bắt nguồn từ sự liên can trong quan hệ
giữa hai chủ thể trực tiếp tham gia kiểm toán.
Độc lập về lợi ích kinh tế: Chuẩn mực đạo đức kế toán, kiểm toán Việt Nam do bộ Tài
chính ban hành đã đề cập: “KTV hành nghề và người hành nghề kế toán không được nhận làm
kiểm toán hoặc làm kế toán cho các đơn vị mà mình có quan hệ kinh tế hoặc quyền lợi kinh tế
như góp vốn, cho vay hoặc vay vốn từ khách hàng, hoặc là cổ đông chi phối của khách hàng,
hoặc có ký kết hợp đồng gia công, dịch vụ, đại lý tiêu thụ hàng hóa”. Những tư lợi về kinh tế
luôn có sức hấp dẫn đặc biệt với bất cứ ngành nghề nào và ngành kiểm toán cũng không nằm
ngoài thực trạng phổ biến này. Sự mất độc lập về lợi ích kinh tế đã làm phát sinh rất nhiều thủ
thuật gian lận trong kiểm toán hướng đến mục đích tư lợi tài sản. Nếu một KTV không độc lập
về lợi ích kinh tế, rất có thể ham muốn vật chất đã xuất hiện trước khi mỗi cuộc kiểm toán diễn
ra và dễ dàng chi phối toàn bộ quy trình kiểm toán. Hình thức phổ biến nhất của việc tư lợi kinh
tế trong kiểm toán đó là thông qua những thỏa thuận ngầm (backroom deal) giữa KTV và đơn vị
được kiểm toán.
Đạo đức kiểm toán
“Đạo đức” là phạm trù về sự khác biệt giữa tính chất đúng và sai. Do tính chất không bắt
buộc, mỗi người thường tự đặt ra những giới hạn về đạo đức cho bản thân mình. Bên canh đó, sự
khác biệt văn hóa cũng dẫn đến những hướng tiếp cận về đạo đức khác nhau. Tuy vậy, đạo đức
nên được xuất phát từ những quy định, chuẩn mực chung, bao trùm nhất của mỗi quốc gia. Tiếp
đó, trong tư cách là một người hành nghề chuyên nghiệp, mỗi cá nhân cần tiếp nhận và tuân theo
chuẩn mực đạo đức của cơ quan chức năng trong lĩnh vực hoạt động của mình nhằm hướng đến
mục đích chung của nghề nghiệp và xã hội.
459
Trong cùng một bối cảnh kiểm toán, mỗi KTV có thể đưa ra một ý kiến khác biệt, và lý
giải chủ quan nhất là do tính cá thể của tư duy. Tuy nhiên, kiểm toán là một ngành có tính chất
công việc đặc thù, có mục tiêu là hướng đến lợi ích của cộng đồng (public interest). Những tiêu
chuẩn đạo đức đặt ra hoàn toàn không dựa trên chuẩn mực đạo đức của riêng KTV và phục vụ
lơi ích cho KTV mà đều dựa trên cơ sở vì lợi ích đúng đắn của nhà quản trị doanh nghiệp cũng
như các bên liên quan sử dụng báo cáo kiểm toán.
Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử (Codes of ethics and Conduct) của Hiệp hội kế toán công
chứng Anh quốc (ACCA) nêu lên năm tiêu chuẩn đạo đức, bao gồm:
Chính trực (Integrity): KTV phải “đảm bảo thẳng thắn, trung thực và có chính kiến rõ ràng
trong tất cả mối quan hệ công việc, đồng thời cần có những xử sự công bằng (fair-dealing).
Nguyên tắc này biểu hiện thông qua việc KTV không đưa ra xét đoán mắc phải sai sót trọng yếu
hay cố tình chỉnh sửa tính chân thực của tình hình đơn vị được kiểm toán.
Khách quan (Objectivity): KTV phải “nhìn nhận các sự kiện, hiện tượng đúng như vốn có,
không thiên kiến hay thành kiến, không vì những mâu thuẫn lợi ích hay sự ảnh hưởng từ ý kiến
khác chi phối.” Tính khách quan bộc lộ rõ khi KTV tách biệt khỏi đối tượng không liên quan hay
chỉ liên quan gián tiếp đến công việc kiểm toán đang diễn ra, đồng thời bản thân KTV cũng
không đưa vào những phán xét mang tính chủ quan của bản thân.
Năng lực chuyên môn và tính thận trọng (Professional competence and due care): KTV phải
“thực hiện công việc kiểm toán với đầy đủ năng lực chuyên môn cần thiết nhằm đảm bảo khách
hàng nhân được dịch vụ kiểm toán chuyên nghiệp và chất lượng cạnh tranh”. Theo chuẩn mực đạo
đức của IFAC, năng lực chuyên môn của KTV có thể được chia làm hai giai đoạn: đạt được năng
lực cần thiết và duy trì, củng cố năng lực nghề nghiệp. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn
tiến trình tiếp thu tri thức trong nghề nghiệp kiểm toán. Việc tiếp thu tri thức là điều kiện cần, và
việc không ngừng củng cố, trau dồi tri thức là điều kiện đủ để một KTV duy trì nghề nghiệp một
cách bền vững. Dựa trên năng lực chuyên môn, KTV cũng cần có sự thận trọng hay tính hoài nghi
nghề nghiệp. Trước bất kì tình huống nào, KTV luôn cần có thái độ nghi vấn, cảnh giác về nguy cơ
xảy ra sai sót, có thể do cố ý hay nhầm lẫn, đánh giá cẩn trọng các bằng chứng kiểm toán. Sự thận
trọng nghề nghiêp này đặt KTV vào tình thế chủ động cần thiết trong công việc.
Tính bảo mật (Confidentiality): KTV cần “tôn trọng tính bảo mật của thông tin. Do đó
không tiết lộ thông tin cho bên thứ ba trừ khi được sự cho phép của khách hàng, cơ quan có thẩm
quyền hoặc có bổn phận phải tiết lộ thông tin. Không được sử dụng thông tin cho lợi ích cá nhân
hoặc bên thứ ba”. Với mỗi khách hàng kiểm toán, sự bảo mật trong thông tin là vô cùng quan
trọng. Những thông tin chỉ sử dụng trong nội bộ đơn vị đươc coi như tài sản bí mật, là sự tổng
hợp, đánh kết quả của hoat động kinh doanh và cũng là hệ thống dữ liệu đầu vào cho công tác
hoạch định chiến lược và quản lý doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể có chủ ý công khai những
thông tin xác thực, có lợi cho mình và có quyền không công khai những thông tin tài chính mà
luật pháp cho phép. Trong những trường hợp như vậy, KTV cần tôn trọng và có nghĩa vụ bảo
mật thông tin của những bằng chứng kiểm toán, tránh những rủi ro xảy đến, tác động xấu đến
tình hình đơn vị được kiểm toán như những đánh giá, định kiến của dư luận xã hội, sự lợi dụng
thông tin bất lợi để cạnh tranh không lành mạnh từ phía các đơn vị cùng ngành (unfair
460
competition),… Việc bảo mật thông tin ở phía KTV cần được kiểm soát cả đường truyền tin trực
tiếp lẫn việc lưu trữ thông tin bằng chứng kiểm toán trên hệ thống điện tử (nếu có).
Hành vi chuyên nghiệp (Professional behavior): KTV phải “tuân thủ với quy định và luật
hiện hành, tránh bất cứ hành động nào có thể làm tổn hại danh tiếng nghề nghiệp”. Nhắc đến
“chuyên nghiệp”, về mặt hình ảnh, đó là tác phong của KTV trong quá trình hành nghề. Tác
phong chuyên nghiệp được thể hiện thông qua tất cả các chi tiết, từ những chi tiết nhỏ đến những
biểu hiện dễ nhận thấy. Đó là tinh thần làm việc với thái độ cầu thị, nghiêm túc, luôn có ý thức
trách nhiệm cao với công việc đang diễn ra. Tác phong chuyên nghiệp cần gắn liền với những
quy định của hệ thống luật pháp, những quy định của các hiệp hội kiểm toán viên tham gia hay
cơ quan kiểm toán chủ thể - đơn vị mà KTV là thành viên.
Về cơ bản, năm chuẩn mực kiểm toán trên được quy định trong rất nhiều hệ thống chuẩn
mực, bộ chuẩn mực được ban hành bởi các tổ chức như IFAC, INTOSAI, VSA…; điểm khác biệt
về số lượng chuẩn mực chủ yếu do việc phân tách lại các chuẩn mực nhỏ lẻ hơn, hoặc tùy vào
phạm vi đơn vị kiểm toán các đơn vị, hiệp hội quản lý mà có những tiêu chuẩn được đề cao hơn.
Ảnh hưởng của tính độc lập và đạo đức kiểm toán tới chất lượng kiểm toán
Tính độc lập và đạo đức kiểm toán đã trở thành khuôn mẫu, chuẩn mực để các KTV tuân
thủ trong quá trình hành nghề. Điều này nhằm đảm bảo ba lý do chính:
Thứ nhất, nhằm đưa ra kết quả kiểm toán trung thực và công bằng. Sản phẩm của mỗi
quá trình hoạt động trong các lĩnh vực đều phản ánh tương đối chính xác quá trình tạo ra sản
phẩm đó. Một khi KTV không tách biệt độc lập khỏi các yếu tố bên ngoài chi phối hay chính bản
thân KTV bị lung lạc bởi những tính toán cá nhân thì báo cáo kiểm toán sẽ mất tính khách quan
vốn có. Một KTV không đủ năng lực, trình độ chắc chắn sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro, sai sót chuyên
môn trong việc đưa ra báo cáo kiểm toán. Một KTV không có thái độ làm việc nghiêm túc,
chuyên nghiệp, không tuân thủ chuẩn mực chuyên môn quy định chắc chắn sẽ không đưa ra
được một báo cáo kiểm toán đáp ứng được yêu cầu. Tính độc lập và đạo đức kiểm toán được
nhận thấy có liên hệ trực tiếp đến chất lượng kiểm toán.
Thứ hai, nhằm hướng đến việc đạt được lòng tin của công chúng. Sự tin cậy của công
chúng, những người gián tiếp sử dụng sản phẩm kiểm toán chỉ có được khi công chúng biết rằng
những người viết báo cáo kiểm toán làm việc với tinh thần nghiêm túc trên cơ sở những chuẩn
mực nghiêm ngặt, đáp ứng được những yêu cầu cần và đủ để phục vụ tối đa lợi ích công chúng.
Thứ ba, nhằm giúp duy trì uy tín nghề nghiệp. Hầu hết KTV không tự mình kinh doanh các
dịch vụ kiểm toán mà đều trực thuộc các doanh nghiệp kiểm toán, hiệp hội kiểm toán... Việc hành
nghề của KTV đóng vai trò đại diện cho danh tiếng ngành kiểm toán. Trường hợp này cũng không
ngoại lệ ngay cả khi KTV hoạt động đơn lẻ. Tính độc lập và đạo đức nghề nghiệp kiểm toán là
khuôn mẫu chung cho những đặc thù ngành nghề và là thước đo cho mọi thành viên trong nghề.
3. TÌNH HUỐNG NGHIÊN CỨU: ENRON & ARTHUR ANDERSEN
Gian lận kinh doanh và kế toán của Enron
Enron được hành lập vào năm 1985, là tập đoàn năng lượng đặt trụ sở chính tại Texas, Hoa
Kỳ. Đến năm 1992, Enron trở thành nhà buôn khí tự nhiên lớn nhất Bắc Mỹ với lĩnh vực phái sinh
461
về năng lượng như nước, điện, than, giấy, viễn thông, kim loại. Trong 6 năm liên tiếp (1996-2001),
Enron được đánh giá là “Công ty sáng tạo bậc nhất Hoa Kỳ” (Khảo sát của Tạp chí Fortune).
Trong nỗ lực theo đuổi chiến lược đa dạng hóa, ngoài lĩnh vực sản xuất, buôn bán năng
lượng là hoạt động kinh doanh cốt lõi, Enron tham gia phát triển lĩnh vực dịch vụ tài chính trong
ngành năng lượng, vốn là một lĩnh vực kinh doanh đầy mạo hiểm và yêu cầu rất nhiều vốn.
Việc gian lận tài chính và kế toán bắt đầu do những thất bại chiến lược kinh doanh, sự yếu
kém trong quản trị của Enron vào năm 1990. Trong tình trạng khó khăn tài chính, Enron nhận
thấy nếu tập đoàn báo cáo trung thực tình hình tài chính thì hệ số nợ và lỗ rất cao, sẽ làm ảnh
hưởng lớn đến nguồn vốn và hoạt động huy động vốn. Enron đã sử dụng những phương cách
gian lận kế toán để huy động tiền nhưng không làm tăng hệ số nợ như: sử dụng hợp đồng trả
trước, lạm dụng phương pháp giá trị hợp lý, lợi dụng kẽ hở luật pháp để lập ra các công ty con
(SPE) mà không khai báo tài chính. Nhờ những hoạt động gian lận này, Enron đã thành công
trong việc thổi phồng lợi nhuận, và giá cổ phiếu của công ty cũng theo đó tăng nhanh.
Chỉ đến năm 2001, khi các khoản thiệt hại quá lớn, Enron buộc phải thông báo chính thức
mức thua lỗ 586 triệu USD trong vòng 5 năm qua. Giá cổ phiếu đang từ đỉnh cao 90 USD/cổ
phiếu vào giữa năm 2000 đã giảm nhanh chỉ còn 0,6 USD/cổ phiếu vào cuối tháng 11/2001. Một
tháng sau, Enron nộp đơn xin bảo hộ phá sản, vụ phá sản lớn nhất lịch sử Hoa Kỳ tính đến thời
điểm đó.
Sự vi phạm tính độc lập và đạo đức kiểm toán của Arthur Anderson
Việc thổi phồng doanh thu và lợi nhuận, che giấu thua lỗ của Enron không thể thực hiện
được nếu không có sự thông đồng của Arthur Andersen - hãng kiểm toán duy nhất đã cung cấp
dịch vụ cho Enron từ khi Enron được thành lập cho đến khi Enron phá sản (2001).
Arthur Andersen LLP được thành lập vào năm 1913, đặt trụ sở chính tại Texas, Hoa Kỳ
bởi 2 nhà sáng lập Arthur Andersen và Clarence DeLany với tên ban đầu là Andersen, DeLany
& Co. Arthur Andersen cung cấp các dịch vụ đa dạng, từ dịch vụ kiểm toán, thuế đến tư vấn cho
các công ty, tập đoàn lớn như FedEx, Delta Air Lines và Enron.
Sự vi phạm tính độc lập
Thứ nhất, sự vi phạm tính độc lập trong tư tưởng. Arthur Andersen vừa làm công tác tư
vấn tài chính, vừa làm công tác kiểm toán BCTC cho Enron. Đảm nhận hai vai trò song song
này, Arthur Andersen chắc chắn đã không còn sự độc lập trong tư tưởng nghề nghiệp. Bởi lẽ:
Đặc thù của công việc tư vấn tài chính là việc định hướng từ ngành nghề, lĩnh vực, phương thức
kinh doanh đến việc quản lý, đưa ra những thay đổi, chiến lược phù hợp trong quá trình hoạt
động đến khâu cuối cùng là lập các loại BCTC. Trong khi đó, vị trí kiểm toán Enron đảm nhận
lại là soát xét bằng chứng kiểm toán tài chính (các chứng từ tài chính, báo cáo tài chính), tức là
việc Arthur Andersen đánh giá chính công việc của mình có trung thực và hợp lý không. Chính
vì các xét đoán của Arthur Andersen trong vai trò KTV lúc này hoàn toàn bị chi phối, dẫn đến sự
thỏa hiệp trong việc đưa ra ý kiến kiểm toán và Arthur Andersen đã đánh giá tốt các bằng chứng
kiểm toán của Enron.
462
Thứ hai, sự vi phạm tính độc lập trong hình thức. KTV phải đứng ở vị trí tách biệt với
doanh nghiệp được kiểm toán. Trong vụ scandal Enron và Arthur Andersen, kế toán trưởng
Richard Causey và giám đốc tài chính Jeffrey McMabon của Enron nguyên là người của Arthur
Andersen. Trong quá trình hoạt động, ngoài đảm nhận vai trò KTV, một số nhân viên ở Arthur
Andersen tư vấn chính cho Enron. Như vậy, hai đơn vị này có sự thân thuộc lâu năm trong quan
hệ giữa khách hàng - nhà cung cấp dịch vụ và sự ràng buộc chặt chẽ thông qua đội ngũ nhân lực.
Do đó, xét về mối quan hệ hai bên, tính độc lập trong hình thức hoàn toàn bị vi phạm. Thậm chí
sự vi phạm trong hình thức này hiển nhiên không được chấp nhận bởi bất kì bên thứ ba nào.
Thứ ba, sự vi phạm tính độc lập về kinh tế. Đối với Arthur Andersen thì Enron là khách
hàng chính đưa về các khoản phí tư vấn và kiểm toán. Dù Arthur Andersen biết Enron áp dụng
các chính sách kế toán không phù hợp để báo cáo doanh thu tăng lên, nhưng Arthur Andersen
vẫn chấp nhận che giấu và tiếp tay, đàm phán nhiều thỏa thuận ngầm để đạt được mục đích lợi
nhuận cho mình. Theo số liệu thu thập, Arthur Andersen đã thu về mức phí tư vấn (đặc biệt trong
việc thiết kế các SPE) từ Enron là $5,7 triệu từ năm 1997 đến năm 2001. Chính sức hấp dẫn của
lợi ích vật chất đã khiến Arthur Andersen hoàn toàn bị chi phối, không còn độc lập về kinh tế.
Sự vi phạm đạo đức kiểm toán
Trở lại scandal trên, có thể thấy cho Arthur Andersen đã phá vỡ hầu hết tất cả những chuẩn
mực đạo đức cơ bản của KTV. Sự chính trực và khách quan hoàn toàn không được biểu hiện
khi Arthur Andersen có những thiên kiến về bằng chứng kiểm toán và đã không thành thật đưa ra
ý kiến kiểm toán. Arthur Andersen cũng không đáp ứng được tư cách nghề nghiệp khi đã lợi
dụng lòng tin công chúng, trở thành một kênh “quảng cáo” rất hiệu quả cho Enron bán cổ phiếu.
Xét về năng lực chuyên môn và sự thận trọng, Arthur Andersen có đáp ứng được hai khía cạnh
này không? Không thể phủ nhận Arthur Andersen là hãng kiểm toán phát triển nhờ vào thực lực
chuyên môn; bằng chứng là Arthur Andersen nằm trong Big5. Kiểm toán là một ngành cạnh
tranh mạnh, những cuộc mua bán và sáp nhập dễ dàng xảy ra, nhưng Arthur Andersen đã phát
triển 85 năm (1913-2002) thì năng lực chuyên môn chính là một trong những yếu tố cần thiết để
có thể hoạt động lâu vậy. Tuy nhiên, trong vụ Enron, năng lực chuyên môn của Arthur Andersen
không được biểu hiện vì những báo cáo kiểm toán đưa ra không có giá trị. Sự thận trọng, hoài
nghi nghề nghiệp lại càng không phải biểu hiện của sự gian lận kiểm toán này. Arthur Andersen
thậm chí bị cáo buộc hình sự cố ý tiêu hủy các bằng chứng kiểm toán khi cơ quan chức năng vào
cuộc điều tra để ngụy biện sư vô can của mình trong những gian lận tài chính kế toán của Enron.
Biểu đồ diễn biến scandal kiểm toán
Năm 1985 Tháng 12-2001Tháng 11-2001Năm 1990 Tháng 6-2002
Arthur Andersen trở thành công ty kiểm toán duy nhất cho Enron
Enron nộp đơn
xin bảo hộ phá
sản
Enron thừa
nhận các khoản
thua lỗ kinh
doanh
Enron áp dụng
các phương
cách gian lận kế
toán và kinh
doanh
Arthur Andersen bị
Tòa án tuyên phạt,
thu hồi giấy phép
kiểm toán
463
Động thái từ phía chính phủ Hoa Kỳ
Trước khi scandal Enron và Arthur Andersen diễn ra, Hoa Kỳ đã nhiều lần ban hành các bộ
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp như: Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp (1988) (Code of
professional conduct) do PEEC (Ủy ban đạo đức nghề nghiệp), trực thuộc AICPA (Hiệp hội kế
toán viên công chứng Hoa Kỳ) soạn thảo và ban hành; Bộ đạo đức nghề nghiệp (1996) do Liên
đoàn kế toán quốc tế IFAC ban hành. Những bộ đạo đức này đã nhiều lần được chỉnh sửa, bổ
sung. Tuy vậy, điểm chung của các điều lệ đạo đức lúc bây giờ là tính chất không ràng buộc sự
tuân thủ của các KTV hành nghề. Những bộ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp này có mục đích
chính là hướng dẫn KTV tuân thủ nhằm tự mình xây dựng hình ảnh lý tưởng của nghề nghiệp để
nâng cao sự tín nhiệm của công chúng hay những khách hàng sử dụng dịch vụ kiểm toán.
Sau scandal chấn động của Enron và Arthur Andersen cũng như một số vụ bê bối về tài
chính và kế toán khác gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích công chúng, chính phủ Hoa Kỳ
bắt đầu can thiệp vào hoạt động kiểm toán thông qua việc ban hành luật Sarbanes-Oxley. Luật
Sarbanes-Oxley 2002 được Quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn ngày 30/7/2002 nhằm nâng cao chất
lượng và tính minh bạch của BCTC, tăng cường trách nhiệm của Hội đồng quản trị, Ban Giám
đốc và KTV. Tính chất của đạo luật Sarbanes - Oxley có nhiều điểm khác biệt với những bộ
chuẩn mực đạo đức trước đó. Các quy định trong Luật Sarbanes - Oxley rất chặt chẽ, cụ thể,
được ban hành dưới dạng những điều cấm và những điều mà KTV phải tuân thủ để thể hiện tính
độc lập. Nếu KTV làm trái quy định này có nghĩa đã vi phạm pháp luật, phải chịu xử lý về mặt
pháp luật.
Đạo luật Sabanes-Oxley đặc biệt nhấn mạnh vào tính độc lập kiểm toán trong chương II
(Title II - Auditor Independence, Sec. 201-209), trong đó có ba điều luật 201, 203 và 207 đặt ra
những quy định nghiêm ngặt liên quan trực tiếp đến scandal kiểm toán trên.
Nội dung chính Điều luật quy định Nội dung cụ thể
Giới hạn phạm
vi dịch vụ doanh
nghiệp kiểm
toán cung cấp
Điều 201
(services outside the
scope of practice of
auditors)
Các công ty kiểm toán không được cung cấp các
dịch vụ “tư vấn” ngoài phạm vi thực hành nghề
nghiệp của các kiểm toán viên như: thiết kế và
xây dựng hệ thống thông tin tài chính, các dịch vụ
định giá, định phí bảo hiểm, đầu tư, môi giới, các
cung cấp chức năng quản trị, nguồn nhân lực...
Luân phiên,
luân chuyển
KTV
Điều 203
(Audit partner
rotation)
Các doanh nghiệp kiểm toán sẽ bị cáo buộc phạm
pháp nếu kiểm toán viên của đơn vị cung cấp dịch
vụ kiểm toán cho các tổ chức phát hành chứng
khoán nhiều hơn 5 năm tài chính.
Điều 207
(Study of mandatory
rotation of registered
public accountants)
Yêu cầu giám đốc văn phòng chính phủ Hoa Kỳ
tiến hành nghiên cứu và báo cáo ảnh hưởng tiềm
tàng từ quy định bắt buộc luân chuyển kiểm toán
viên
464
Có thể thấy nếu như đạo luât Sabanes-Oxley được ban hành sớm hơn thì cơ hội Arthur
Andersen thực hiện gian lận kiểm toán sẽ giảm xuống mức rất thấp. Việc Arthur Andersen không
được giữ đồng thời vai trò tư vấn cho Enron sẽ tách biệt Arthur Andersen khỏi sự chi phối về hình
thức, về tư tưởng và cả từ nguồn phí tư vấn khổng lồ thu về. Thêm vào đó, Arthur Andersen sẽ
không có quyền là đơn vị kiểm toán duy nhất cho Enron trong suốt 15 năm (1985-2001). Chiếu
theo điều 203 của đạo luật và đặt giả thiết Enron luôn có nhu cầu thuê kiểm toán Arthur Andersen
thì thời gian Arthur Andersen làm việc với Enron sẽ được giảm xuống 10 năm (hai chu kỳ 5 năm
gián đoạn). Thêm vào đó, hành vi hủy hoại hồ sơ kiểm toán một cách bất hợp pháp như Arthur
Andersen sẽ phải chịu án tù lên đến 10 năm như quy định trong điều 802. Mặc dù những điều luật
này không đảm bảo chắc chắn rằng Arthur Andersen không thực hiện các hành vi gian lận kiểm
toán, nhưng chính tính chất bắt buộc, hình thức văn bản luật đi kèm với chế tài xử lý vi phạm rõ
ràng sẽ tạo ra rất nhiều hiệu ứng tích cực tác động lên thái độ hành nghề của đơn vị kiểm toán nói
riêng và KTV nói chung và giảm nguy cơ phạm tội xuống mức thấp hơn.
4. THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
Thực trạng chung
Theo KNV (2019), tính đến 20/04/2019, cả nước có 191 công ty kiểm toán, trong đó: 02
công ty 100% vốn nước ngoài, 09 công ty có vốn đầu tư nước ngoài, 180 công ty có 100% vốn
trong nước. Tính đến 31/12/2018, số người có chứng chỉ KTV Việt Nam làm việc trong các công
ty kiểm toán là 3.784 người, tăng 8,17% so với năm 2017 (2.083 người). Số KTV hành nghề (đủ
điều kiện ký báo cáo kiểm toán) là 2.037 người, chiếm ~ 40% tổng người được cấp chứng chỉ
kiểm toán đến nay (5.080 người). Đây được đánh giá là một con số tương đối thấp.
Một số vụ việc vi phạm kiểm toán
Vi phạm kiểm toán của hai công ty: Công ty TNHH Kiểm toán và định giá Thăng Long
T.D.K; Công ty TNHH Kiểm toán và tư vấn tài chính quốc tế IFC – Chi nhánh Thanh Hóa
Công ty TNHH Kiểm toán và định giá Thăng Long TDK được thành lập năm 2003, có trụ
sở chính tại Hà Nội và Công ty TNHH Kiểm toán và tư vấn tài chính quốc tế IFC - Chi nhánh
Thanh Hóa được thành lập năm 2001, có trụ sở chính tại Hà Nội. Đây là hai công ty kiểm toán
đã cung cấp dịch vụ kiểm toán cho CTCP Mỏ và xuất nhập khẩu khoáng sản Miền Trung
(MTM) vào năm 2010. MTM được thành lập năm 2007, có trụ sở tại Nghệ An, hoạt động trong
dịch vụ hỗ trợ khai thác mỏ; sản xuất vật liệu xây dựng; kinh doanh thương mại khoáng sản.
MTM được ví như một công ty “ma” vì từ khi thành lập năm 2007 và đăng kí vốn điều lệ,
công ty không có vốn góp cổ đông. Trong suốt thời gian 2007-2009, công ty cũng không có hoạt
động kinh doanh nào. Đến năm 2010, công ty nhượng lại hồ sơ pháp lý doanh nghiệp cho
Nguyễn Văn Dĩnh (nguyên Giám đốc CTCP Khoáng sản Nari Hamico) với quyền sở hữu khai
thác mỏ chì kẽm đa kim tại Nghệ An. Công ty này đã làm thủ tục chuyển đổi tên cổ đông, nhờ
người thân đứng tên làm Giám đốc, đại diện pháp luật. Để đủ điều kiện giao dịch cổ phiếu trên
UPCoM, giám đốc công ty đã chỉ đạo làm giả tất cả hồ sơ, từ danh sách cổ đông, hợp đồng mua
bán, góp vốn liên kết, phiếu thu, phiếu chi, chứng từ ngân hàng giữa MTM và nhóm công ty
465
khác của chính mình quản lý như Hamico, CTCP Khoáng sản luyện kim Bắc Kạn... để doanh thu
lên đến 310 tỷ đồng.
Công ty MTM đã thuê 2 công ty kiểm toán, gồm Công ty TNHH Kiểm toán và định
giá Thăng Long T.D.K; Công ty TNHH Kiểm toán và tư vấn tài chính quốc tế IFC – Chi nhánh
Thanh Hóa để kiểm toán BCTC. Khi kiểm toán, các KTV chỉ căn cứ vào hồ sơ, chứng từ ngân
hàng được cung cấp, không soát xét kỹ hồ sơ, nhưng vẫn đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần. Về
phía hai công ty kiểm toán, sai phạm này này là vô cùng trọng yếu. Những bằng chứng kiểm
toán giả mạo 100% lại được coi là trung thực và hợp lý, đây là điều không thể chấp nhận. Xem
xét từ góc độ chuyên môn, tính độc lập lẫn đạo đức nghề nghiệp, hai đơn vị kiểm toán này đều bị
đặt trong sự nghi ngờ gian lận, tiếp tay che giấu những sai phạm cho MTM.
Vi phạm kiểm toán nêu trên là minh chứng tiêu biểu cho bài học về tính thận trọng (due
care) của kiểm toán viên. Trong quá trình kiểm toán, hai công ty hoàn toàn chỉ dựa trên các bằng
chứng kiểm toán do nội bộ công ty được kiểm toán (MTM) cung cấp. Trong khi đó, đây được
coi là nguồn bằng chứng có độ tin cậy thấp nhất nhằm xét đoán tính trung thực và hợp lý trong
báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Các kiểm toán viên hoàn toàn có cơ sở để xác minh độ tin
cậy dựa trên hồ sơ mà MTM cung cấp, điển hình như: đề nghị tiếp cận cổ đông của công ty, xem
xét mối quan hệ của công ty được kiểm toán với các công ty trong hợp đồng mua bán (có phải
công ty con hay không?), xin xác minh của ngân hàng về chứng từ được cung cấp. Trong trường
hợp này, chỉ sau 3 năm kể từ khi thành lập (2007-2009) với một doanh thu khai báo khổng lồ,
MTM vẫn chuyển đổi cổ đông giữ chức vụ Giám đốc và người đại diện pháp luật của công ty.
Điều này chắc chắn cũng khơi gợi tính hoài nghi nghề nghiệp của kiểm toán viên về đội ngũ
quản trị doanh nghiệp được kiểm toán. Quy trình thay đổi chủ sở hữu là một vấn đề pháp lý lớn,
vì vậy kiểm toán viên nên tham khảo ý kiến đánh giá về các rủi ro tiềm tang có thể phát sinh
trong MTM thông qua đội ngũ tư vấn, công ty luật.
Vi phạm kiểm toán của Công ty TNHH Kiểm toán DFK Việt Nam
Công ty TNHH Kiểm toán DFK Việt Nam được thành lập năm 2003, có trụ sở chính tại
TP Hồ Chí Minh. Là công ty cung cấp dịch vụ kiểm toán cho CTCP Tập đoàn Kỹ nghệ Gỗ
Trường Thành (TTF) từ 2011-2015. TTF được thành lập năm 1995, có trụ sở chính tại Bình
Dương, chuyên kinh doanh: sản xuất, thi công, thiết kế trang trí nội ngoại thất, ván ép, ván lạng
và rừng trồng.
Theo BCTC của TTF vào quý 2/2016, khoản lỗ hàng nghìn tỷ đồng đã bất ngờ xuất hiện,
mặc dù các năm tài chính trước đó, doanh thu và lãi của doanh nghiêp luôn ở mức tăng trưởng cao.
Nguyên nhân dẫn đến kết quả này là do việc chưa trích lập dự phòng đối với khoản phải thu khó
đòi (irrecoverable debts expense) và kiểm kê thiếu tới gần 980 tỷ đồng hàng tồn kho trong giá vốn
hàng bán đã khiến cho giá vốn trong 6 tháng đầu năm 2016 tăng vọt lên mức 1.690 tỷ đồng – cao
gấp đôi doanh thu. Do đó, TTF lỗ gộp tới 807 tỷ đồng và lỗ ròng 1.073 tỷ đồng. Điểm đáng ngờ ở
đây là trong báo cáo kiểm toán tháng 12/2015, công ty kiểm toán DFK Viêt Nam vẫn đưa ra ý kiến
chấp nhận toàn phần, đánh giá những bằng chứng kiểm toán của TTF là trung thực, hợp lý trên
phương diện trọng yếu. Tức là DFK đã không phát hiện ra những sai sót trong các khoản phải thu
và hàng tồn kho với những con số sai lệnh rất lớn và mang tính trọng yếu.
466
Thêm vào đó, TTF còn bị phát hiện điều chỉnh hồi tố 1 số khoản mục, trong đó điều chỉnh
lớn nhất là các khoản phải thu ngắn hạn với mức giảm 218 tỷ đồng, đây là số tiền mang tính
trọng yếu vào thời điểm cuối năm trước (31/12/2015). Với trường hợp này, thông thường, đơn vị
kiểm toán sẽ yêu cầu công ty giải trình về những điều chỉnh sau báo cáo tài chính, nếu không
làm rõ, kiểm toán sẽ không thể đưa ra những ý kiến chấp nhận toàn phần mà sẽ nêu ý kiến ngoại
trừ. Tuy nhiên, báo cáo kiểm toán tại thời điểm 31/12/2015 của DFK đều đưa ý kiến đều là chấp
nhận toàn phần. Đồng nghĩa với việc bỏ qua yêu cầu giải trình cho những điều chỉnh tăng về giá
trị tài sản của TTF. Chính những ý kiến kiểm toán tích cực sai lầm của DFK đã giúp TTF che
giấu được những khoản lỗ, tăng số liệu doanh thu, lợi nhuận, tăng niềm tin từ các cổ đông và giữ
vị thế cao trên thị trường chứng khoán. Những thông tin trên hoàn toàn hợp lý để đặt ra nghi ngờ
về tính độc lập và đạo đức kiểm toán của DFK. Tuy nhiên, DFK lại không phải chịu trách nhiệm
tìm ra những gian lận trên BCTC theo luật kiểm toán, do vậy DFK chỉ được coi là chưa đạt yêu
cầu trong xét đoán chuyên môn khi nằm trong các công ty được kiểm tra chất lượng kiểm toán.
Từ vi phạm kiểm toán nêu trên, các kiểm toán viên cần nhận thức được rằng sai lầm trong
xét đoán chuyên môn là một vấn đề hệ trọng của chất lượng kiểm toán. Công ty kiểm toán DFK
không chỉ sai sót khi xét đoán các khoản mục trọng yếu trong báo cáo tài chính (khoản mục hàng
tồn kho, khoản phải thu) mà tính chất trọng yếu ở đây đi kèm với tính lan tỏa, khiến cho tổng thể
xét đoán bị sai lệch. Do đó, báo cáo kiểm toán của DFK được nhìn nhận như một xét đoán
chuyên môn không có giá trị. Điều này gợi mở cho các kiểm toán viên có sự thận trọng và phát
huy năng lực chuyên môn ở mức tối đa khi soát xét các khoản mục trọng yếu và lan tỏa, luôn xác
minh độ tin cậy của các bằng chứng kiểm toán thông qua các phương pháp tối ưu (kiểm kê - đối
với hàng tồn kho, xin xác minh từ bên thứ ba - đối với các khoản phải thu,...). Bên cạnh đó, các
kiểm toán viên có khả năng hạn chế tối đa và loại trừ nguy cơ đưa ra xét đoán chuyên môn
không chính xác cũng như trau dồi kĩ năng kiểm toán thông qua sự hợp tác chéo, rà soát chuyên
môn với kiểm toán viên cộng sự; định kì tham gia các khóa kiểm tra năng lực nghiệp vụ; tiếp
nhận những thay đổi trong chuẩn mực kế toán, kiểm toán;... nhằm nâng cao chất lượng kiểm
toán, cải thiện uy tín của chính bản thân mình và công ty chủ quản.
Một số đề xuất với kiểm toán viên & công ty kiểm toán
Sự rõ ràng trong hợp đồng nhân sự kiểm toán
Các doanh nghiệp, đơn vị cung cấp dịch vụ kiểm toán khi tiến hành kí kết hợp đồng với
các KTV (cả trong ngắn hạn và dài hạn) đều phải đưa ra những điều khoản minh bạch, chi tiết,
chặt chẽ trong việc tôn trọng tính độc lập và đạo đức nghề nghiệp của các kiểm toán viên. Các
hành vi áp đặt hay đe dọa kiểm toán viên phá vỡ tính độc lập, đạo đức hành nghề và bắt buộc
tuân theo ý chí chủ quan của người đứng đầu doanh nghiệp kiểm toán sẽ bị coi là vi phạm pháp
luật. Các KTV cần nắm rõ các điều khoản trong hợp đồng nhân sự kiểm toán nhằm hiểu biết về
quyền lợi và nghĩa vụ của bản thân, đồng thời tránh những bất đồng trong quan điểm, mâu thuẫn
về pháp lý sau khi đã đồng ý kí kết hợp đồng với công ty kiểm toán chủ quản.
Tổ chức các đợt kiểm tra, bồi dưỡng năng lực và phẩm chất nghề nghiệp
Các doanh nghiệp kiểm toán cần nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong việc kiểm soát
chất lượng hoạt động kiểm toán của KTV hành nghề trong đơn vị. Một trong những phương
467
pháp mang tính bền vững nhất là định kì mở các đợt kiểm tra năng lực chuyên môn của KTV,
căn cứ trên cơ sở đó chọn lọc và những KTV đủ tiêu chuẩn tiếp tục công tác và cân nhắc thay thế
nhân sự không đạt yêu cầu. Kết hợp đó là việc phổ biến nâng cao nhận thức cho KTV về tính
độc lập và đạo đức nghề nghiệp. Việc làm này sẽ tác động đến tâm lý của các KTV về ý thức tự
trau dồi bản thân theo hướng tích cực hơn, tuân thủ các điều lệ kiểm toán đã quy định để có thể
phát triển trong một môi trường công việc mang tính cạnh tranh cao.
Phát động thi đua, khen thưởng kiểm toán viên
Ở Việt Nam, Tổng kiểm toán nhà nước đã ban hành quyết định kèm theo quy chế thi đua-
khen thưởng (Số: 2211/QĐ-KTNN) vào tháng 11-2018 áp dụng cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân,
người lao động trực thuộc kiểm toán nhà nước có thành tích công tác tốt. Xét thấy đây là một
hình thức có khả năng tạo ra hiệu ứng tích cực tuy nhiên còn hạn chế đối tượng được khen
thưởng. Các doanh nghiệp kiểm toán độc lập ngoài phạm vi kiểm toán nhà nước hoàn toàn có thể
học tập, áp dụng hợp lý dựa trên tình hình thực tiễn của đơn vị để ban hành quy chế thi đua-khen
thưởng riêng cho nhân sự kiểm toán của đơn vị. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp kiểm toán phát
huy cao hơn vai trò quản lý, nâng cao tinh thần, thái độ làm việc nghiêm túc của của các KTV
nói chung và tính độc lập, đạo đức nghề nghiệp của KTV nói riêng.
Một số kiến nghị với chính phủ
Quan tâm sát sao các kiểm toán viên
Các doanh nghiệp kiểm toán và hiệp hội kiểm toán là cầu nối vô cùng mật thiết giữa KTV
và cơ quan chức năng nhà nước. Chính phủ có thể thông qua đó khuyến khích các doanh kiểm
toán, hiệp hội kiểm toán định kì hàng tháng thu thập và báo cáo những vướng mắc mà KTV gặp
phải trong thực tiễn hành nghề. Do đặc thù của ngành nghề, KTV rất dễ phát sinh những vấn đề
bức xúc trong tâm lý, có thể nảy sinh trực tiếp trong mối quan hệ với đồng nghiệp hay với khách
hàng. Qua một quá trình tích tụ những vướng mắc, KTV rất dễ có xu hướng chán nản và vi phạm
một số nguyên tắc độc lập, chuẩn mực đạo đức nhất định. Vì vậy, những cuộc gặp gỡ, trao đổi
thẳng thắn và thân mật, giải quyết các khúc mắc một cách minh bạch và nhanh gọn là vô cùng
cần thiết để các KTV có cái nhìn thấu hiểu hơn với đồng nghiệp, với khách hàng. Đây cũng là
giải pháp cho mỗi KTV nhận thức về yêu cầu trau dồi khả năng làm việc dưới áp lực công việc
cao mà vẫn duy trì được tính độc lập và năng lực đạo đức vững vàng.
Công khai chi tiết các vi phạm
Định kỳ hằng năm, Ủy ban chứng khoán Việt Nam (SSC) trực thuộc bộ Tài chính công bố
báo cáo tổng hợp kết quả chất lượng dịch vụ kiểm toán của các đơn vị kiểm toán theo kế hoạch,
dựa trên các tiêu chí như tính tuân thủ, kiểm tra hệ thống, kiểm tra kỹ thuật và xét đoán chuyên
môn, từ đó đưa ra quyết định chấp thuận hay không chấp thuận các đơn vị kiểm toán. Tuy nhiên,
trong những báo cáo này chỉ nêu lên từng doanh nghiệp kiểm toán có đạt yêu cầu trong chất
lượng dịch vụ hay không chứ chưa nêu ra chi tiết công khai các lỗi vi phạm. Đây có thể là một
biện pháp nhằm đảo bảo những thông tin bảo mật cho nội bộ các doanh nghiệp. Nhưng đây đồng
thời cũng là một hạn chế. Về phía người đọc báo cáo (khách hàng của các doanh nghiệp, đại
chúng), vẫn còn những mơ hồ trong các lỗi vi phạm của doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp
468
liên quan trực tiếp, do biết rằng những vi phạm không được công khai rộng rãi nên ý thức sửa
chữa vi phạm chưa thực sự được đảm bảo. Trong đó, chắc chắn ý thức tính độc lập và đạo đức
kiểm toán phần nào cũng bị giới hạn theo. Cân nhắc công khai minh bạch vi phạm trong chất
lượng dịch vụ kiểm toán là một giải pháp hữu hiệu đề cao tính độc lập và đạo đức kiểm toán.
Gắn liền lý luận với thực tiễn - Học tập kinh nghiệm từ các quốc gia
Chính phủ cần không ngừng nghiên cứu, đối chiếu việc thực hiện các quy định kiểm toán
của doanh nghiệp kiểm toán và các KTV trên thực tế ở nước ta để đưa ra những chỉnh sửa, bổ
sung trong bộ luật và chuẩn mực đạo đức phù hợp, kịp thời. Bên cạnh đó, việc học tập và hội
nhập một cách hợp lý những điều luật, chuẩn mực đạo đức từ các quốc gia trên thế giới cũng vô
cùng cần thiết, đặc biệt trong tiến trình hội nhập chuẩn mực quốc tế IFRS. Các bộ luật hay chuẩn
mực kiểm toán nước ta mặc dù có quy định về yêu cầu trong hành nghề kiểm toán nhưng vẫn
thiếu những giải pháp cụ thể mang tính bắt buộc. Chính phủ nên cân nhắc khắc phục điều này,
trong đó những điều luật về luân chuyển KTV hay giới hạn phạm vi cung cấp dịch vụ kiểm toán
gắn liền với chế tài xử phạt vi phạm của đạo luật Sabanes-Oxley là một trong những gợi ý có thể
áp dụng được.
5. KẾT LUẬN
Từ nhận thức thực tiễn về tầm quan trọng của tính độc lập và đạo đức nghề nghiệp đối với
mỗi KTV đã, đang hành nghề và có dự định trở thành KTV trong tương lai cũng như đối với việc
cung cấp tri thức cho độc giả quan tâm nói chung, bài viết đã tổng hợp, phân tích và đưa ra quan
điểm lý giải cho các thuật ngữ về tính độc lập và đạo đức nghề nghiệp kiểm toán cũng như mối
liên hệ mật thiết của những yếu tố này đến chất lượng kiểm toán. Với mục đích liên hệ thực tế, bài
viết tiếp đó đã dẫn chứng về scandal giữa hãng kiểm toán Arthur Andersen - công ty được kiểm
toán Enron do gian lận trong kế toán, kinh doanh của Enron và sự vi phạm tính độc lập, đạo đức
kiểm toán từ phía Arthur Andersen. Gắn liền với sự kết thúc scandal là sự ra đời đạo luật Sabanes–
Oxley từ phía chính phủ Hoa Kỳ, nổi bật ở những điều luật có giá trị rất lớn trong việc hạn chế tối
đa những rủi ro KTV vi phạm tính độc lập và đạo đức kiểm toán. Ở phần cuối bài viết, hai dẫn
chứng điển hình về các sai phạm kiểm toán tại Việt Nam đã được phân tích. Bên cạnh đó, hướng
tới việc nâng cao tính độc lập, đạo đức nghề nghiệp kiểm toán, nhóm tác giả đề xuất, kiến nghị một
số biện pháp cải thiện từ phía KTV - công ty kiểm toán chủ quản và chính phủ.
Trong một phạm vi nhất định, bài viết lựa chọn hình thức tổng hợp, phân tích và nêu lên
quan điểm dựa trên những tài liệu tham khảo sẵn có mang tính lý thuyết cao. Do vậy một số hạn
chế vẫn còn tồn tại như việc thu thập thực tiễn số liệu về số lượng vi phạm kiểm toán tại Việt
Nam do không tuân thủ tính độc lập và đạo đức kiểm toán tại thời điểm viết bài chưa được làm
rõ. Bài viết cũng gợi mở cho những bài nghiên cứu tiếp theo, cụ thể như nghiên cứu về mối quan
hệ giữa KTV và chất lượng báo cáo kiểm toán. Sau sự sụp đổ của Arthur Andersen, Big5 đã tan
rã, đặt ra sự nghi ngờ về uy tín nghề nghiệp của những hãng kiểm toán lớn. Trên thực tế thời
điểm hiện tại, Big4 vẫn đang thể hiện vị thế dẫn đầu. Câu hỏi đặt ra: “Liệu báo cáo kiểm toán
của Big4 có đạt chất lượng như người sử dụng mong đợi?” hay “Các KTV của Big4 có đạt được
sự tuyệt đối trong tuân thủ tính độc lập và đạo đức kiểm toán không?” là những vấn đề có thể đi
sâu nghiên cứu.
469
Tựu chung lại, việc hiểu rõ cũng như nâng cao nhận thức về tính độc lập và đạo đức kiểm
toán không chỉ cần thiết và xuyên suốt đối với mỗi thế hệ KTV tương lai, KTV đang hành nghề
hay đối với đơn vị kiểm toán. Đây cũng không phải giới hạn về trách nhiệm vĩ mô từ phía chính
phủ nhằm hạn chế tối đa vi phạm đáng tiếc ảnh hưởng đến uy tín nghề nghiệp, đạo đức cá nhân,
kinh tế đất nước và sự phát triển chung của xã hội. Tính độc lập và đạo đức nghề nghiệp kiểm toán
sẽ được cải thiện và nâng cao hơn nữa thông qua những góc nhìn đa chiều, những nghiên cứu và
phân tích chuyên sâu từ phía những người quan tâm và dành tâm huyết cho nghề nghiệp này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
United States Congress. (2002). Title II - Auditor Independence. Trong Sabanes-Oxley Act.
United States.
IFAC. (2018). Codes of ethics.
Bill, E. (2003). Foreword: Restoring public trust. Trong Tom, C., & Keith, H. (2005). Ethics and
Auditing, Australia: ANU E Press
Bộ Tài chính. (2005). Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt Nam.
Quốc Hội. (2011). Luật Kiểm toán độc lập.
Chính phủ. (2004). Nghị định về kiểm toán độc lập.
Cục quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán - Bộ tài chính. (2018). Báo cáo tổng hợp kết quả chất
lượng kiểm tra dịch vụ kiểm toán 2017.
Kiểm toán nhà nước. (2018). Quyết định ban hành quy chế thi đua - khen thưởng của kiểm toán
nhà nước.
ACCAGlobal. What is ethics?. Truy xuất từ https://www.accaglobal.com
YuHao Li (2010). The Case Analysis of the Scandal of Enron. International Journal of Business
and Management. Truy xuất từ https://pdfs.semanticscholar.org.
Deborah, L., & Frank, D. (2015), Before and After Enron: CPAs’ Views on Auditor
Independence. Trong The CPA Journal, số 78. Truy xuất từ https://www.leg.state.nv.us
KNV. (2019). Tổng quan thị trường kiểm toán Việt Nam 2018 [bài viết trên blog]. Truy xuất từ
https://cpa.vn
Bùi Trang (2017). Vụ MTM - phơi bày nhiều góc khuất. Truy xuất từ
https://tinnhanhchungkhoan.vn
Thủy Lê (2017). 8 ngành nghề AEC và bài toán tuyển dụng khi hội nhập [bài viết trên blog].
Truy xuất từ https://jobsgo.vn/blog
Hoàng Ninh Chi, & Nguyễn Thị Thanh Thắm. (2017). Đạo đức nghề nghiệp kế toán-kiểm toán
trong cuộc cách mạng 4.0. Truy xuất từ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi
Phan Trường Giang. (2018). Xây dựng văn hóa kiểm toán với những giá trị cốt lõi để phát triển
kiểm toán nhà nước bền vững. Truy xuất từ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi
Báo cáo năm 2018 và dự đoán năm 2019 về thị trường tuyển dụng trực tuyến tại Việt Nam.
(2018). Truy xuất từ https://www.navigosgroup.com/vi
470
Kiểm toán nội bộ: Hàng rào bảo vệ cho các doanh nghiệp Việt Nam
Trịnh Viết Giang
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: vinhgiang1979@gmail.com
Mã bài: HTQG.09 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 08/11/2019
Ngày nhận bài: 15/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 12/11/2019
Tóm tắt
Kiểm toán nội bộ (KTNB) được xem như tuyến phòng vệ rủi ro trong doanh nghiệp. Tuy
nhiên, tại Việt Nam hiện nay, đa số doanh nghiệp chưa có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng
của KTNB và chính điều này đã dẫn đến rủi ro, thua lỗ thậm chí là phá sản doanh nghiệp. Bài
viết tập trung làm sáng rõ những vấn đề cơ sở lý thuyết như: Khái niệm KTNB, vai trò chức
năng KTNB, mô hình ba tuyến phòng vệ nội bộ doanh nghiệp và đánh giá thực trang KTNB tại
Việt Nam. Từ đó, tác giả đưa ra một số khuyến nghị về KTNB nhằm thiết lập và vận hành một
chức năng KTNB hoàn chỉnh và hiệu quả cho doanh nghiệp.
Từ khóa: KTNB, vai trò và chức năng nhiệm vụ KTNB, ba tuyến phòng vệ nội bộ
1. GIỚI THIỆU
Thế kỷ 21, chúng ta chứng kiến không ít vụ bê bối về gian lận tài chính, cũng như hàng
loạt vấn đề trong công tác quản trị tại các doanh nghiệp (DN) trên bình diện thế giới và Việt
Nam như Enron, WorldCom, Global Crossing, Bông Bạch Tuyết, Dược Viễn Đông. Nó gây ra
nhiều thiệt hại cho cổ đông, phần lớn trong đó bắt nguồn từ những yếu kém và thiếu sót trong
công tác quản trị DN. Trên thực tế, chức năng kiểm toán nội bộ mang lại nhiều giá trị thiết thực,
hỗ trợ hiệu quả cho công tác quản trị và giúp Hội đồng quản trị giám sát một cách hiệu quả môi
trường kiếm soát trong DN. Thực tế, rất nhiều vụ bê bối trong Công tác quản trị điều hành đã
gây ra nhiều hệ lụy xấu trong văn hóa DN và khiến cho giá cổ phiếu của DN lao dốc rất lớn.
Điều đó cho thấy, cả Hội đồng quản trị lẫn nhà đầu tư đều không thể chỉ dựa vào mỗi báo cáo từ
Ban điều hành để có thể đánh giá toàn diện công tác quản trị và kiểm soát rủi ro trong DN mà họ
đã đầu tư. Cần phải nhìn nhận khách quan rằng, việc thiếu một chức năng kiểm toán nội bộ
không hẳn sẽ dẫn đến sự sụp đổ của một tổ chức, hoặc mang hàm ý là do chủ ý của Ban điều
hành. Tương tự, những DN đã có chức năng kiểm toán nội bộ không đồng nghĩa với việc họ sẽ
chắc chắn thành công. Dù vậy, chúng ta vẫn tin rằng, một DN dù cam kết áp dụng tiêu chuẩn
quản trị cao vẫn sẽ khó có thể đạt được những mục tiêu chiến lược kinh doanh nếu thiếu những
tư vấn độc lập và khách quan của chức năng kiểm toán nội bộ. Các DN tại Việt Nam hiện đang
471
hoạt động trong thị trường mới nổi đầy năng động, thay đổi nhanh chóng, chịu định hưởng bởi
xu thế phát triển Công nghệ và chịu cạnh tranh gay gắt. Trong những điều kiện như vậy, ưu thế
sẽ không dành cho những DN kém hơn đối thủ về năng lực quản trị và kiểm soát rủi ro
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Mô hình ba tuyến phòng vệ trong quản lý rủi ro và kiểm soát hiệu quả IIA
Hình 1: Ba tuyến phòng vệ nội bộ
Theo Viện kiểm toán nội bộ (IIA), thông thường các DN cần có ba tuyến phòng vệ nội bộ:
Tuyến phòng vệ nhất bao gồm hoạt động kiểm soát được thiết lập trong các quy trình,
hoạt động sản xuất - kinh doanh của đơn vị và của các phòng ban chức năng. Với tuyến phòng vệ
thứ nhất nằm ở các bộ phận kinh doanh các DN tập trung quản lý rủi ro(QLRR) trong các hoạt
động tác nghiệp hàng ngày như: Trực tiếp áp dụng và thực hiện quy chế, quy trình QLRR vào
quá trình tác nghiệp hàng ngày của đơn vị; Kiểm tra và tự kiểm tra giám sát việc quản lý rủi ro,
việc thực hiện các biện pháp/chốt kiểm soát rủi rõ trong quá trình tác nghiệp tại đơn vị; Có trách
nhiệm QLRR một cách hiệu quả trong suốt quá trình tác nghiệp.
Tuyến phòng vệ thứ hai gồm các chức năng kiểm soát và giám sát được ban điều hành thiết
lập, nhằm đảm bảo việc tuân thủ và hiệu quả của các quy trình và hoạt động như kiểm soát tài
chính, đảm bảo an ninh, quản lý rủi ro, quản lý chất lượng, thanh tra, tuân thủ. Tuyến phòng vệ thứ
hai nhấn mạnh quản lý rủi ro: Xây dựng phương pháp và giám sát quá trình QLRR hàng ngày tại
lớp 1 cụ thể như: Phát triển và triển khai khung QLRR, các chính sách, hệ thống quy trình và công
cụ QLRR; Đảm bảo khung QLRR bao gồm đầy đủ các bước xác định rủi ro, đánh giá đo lường rủi,
có các chốt kiểm soát/ các giới hạn kiểm soát rủi ro, có thông tin/ dữ liệu về rủi ro, giám sát rủi ro
và báo cáo; Phê duyệt kết quả QLRR theo đúng thẩm quyền được giao. Nhờ tuyến phòng vệ thứ
hai các DN đánh giá được chính sách quản lý rủi ro có phù hợp hay không, đặc biệt là sự thay đổi
khi có những rủi ro mới xuất hiện khi không có sự phản hồi của lớp phòng vệ thứ nhất.
Tuyến phòng vệ thứ ba là kiểm toán nội bộ. Kiểm toán nội bộ đảm bảo sự hiệu quả của
quản trị, quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ, bao gồm cả việc đánh giá một cách độc lập cách thức
mà hai tuyến phòng thủ đầu tiên thực hiện mục tiêu quản lý. Với tuyến phòng vệ thứ ba nhấn
472
mạnh kiểm toán nội bộ: Tập trung vào việc rà soát độc lập, cụ thể như Tính hiệu quả của toàn bộ
quá trình QLRR; Tính tuân thủ quy chế, chính sách, quy trình QLRR của các đơn vị; Đề xuất cải
thiện, nâng cao hoặc bắt buộc thực hiện những hành động điều chỉnh khi cần thiết. Đối với tuyến
phòng vệ thứ ba, không phải DN nào cũng được thiết lập. Để phát huy được tuyến phòng thủ này
DN cần chú ý phối hợp với các tuyến phòng thủ tuyến trên đặc biệt sự hợp tác, phản hồi từ lớp
phòng vệ thứ nhất trong việc rà soát hiệu quả của quá trình quản lý rủi ro. Nhưng để bộ phận
KTNB của DN thực hiện đúng với với chức năng để đảm bảo tất cả các hoạt động của DN đều
có những đánh giá độc lập.
2.2. Kiểm toán nội bộ
Theo IIA, “kiểm toán nội bộ là hoạt động đảm bảo và tư vấn độc lập, khách quan được thiết
kế nhằm nâng cao giá trị và hoàn thiện các hoạt động của tổ chức. Kiểm toán nội bộ hỗ trợ tổ chức
đạt được các mục tiêu của mình thông qua việc áp dụng phương pháp tiếp cận có nguyên tắc và
mang tính hệ thống để đánh giá và cải thiện hiệu quả của các quy trình quản lý rủi ro, kiểm soát và
quản trị.” Như vậy, KTNB có thể thực hiện hoạt động kiểm tra, đánh giá hoặc tư vấn để đưa ra các
đảm bảo và khuyến nghị về những nội dung về tính hiệu quả và hiệu suất của quy trình quản trị
đang được DN áp dụng; tính hiệu quả và hiệu suất của quy trình quản lý rủi ro đang được thực
hiện tại DN; việc hệ thống kiểm soát được thiết kế đầy đủ và phù hợp, được vận hành hiệu quả
nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý rủi ro của DN. Từ định nghĩa KTNB của IIA có thể thấy
những điểm khác biệt cơ bản giữa KTNB và kiểm toán độc lập trên các khía cạnh sau:
Bảng 1: Phân biệt cơ bản giữa KTNB và kiểm toán độc lập
Nội dung Kiểm toán độc lập Kiểm toán nội bộ
Đối tượng báo
cáo
Thực hiện báo cáo đến các cổ
đông hoặc các thành viên bên
ngoài của tổ chức
Thực hiện báo cáo đến ban quản trị và
ban điều hành trong nội bộ tổ chức
Mục tiêu công
việc
Tăng thêm tính tin cậy của các
báo cáo tài chính của tổ chức cho
các bên liên quan bằng cách đưa
ra ý kiến đánh giá của mình đối
với các báo cáo đó
Đánh giá và nâng cao hiệu quả của
các quy trình quản trị, quản lý rủi ro
và kiểm soát. Qua đó, cung cấp cho
các thành viên ban quan trị và ban
điều hành sự đảm bảo giúp họ hoàn
thành nhiệm vụ của mình đối với tổ
chức và các bên liên quan
Phạm vi công
việc
Báo cáo tài chính, các rủi ro liên
quan tới báo cáo tài chính.
Toàn bộ các rủi ro, cách thức quản lý
rủi ro, bao gồm cả cơ chế báo cáo về
rủi ro.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Với việc báo cáo với ban quản trị và ban điều hành, KTNB góp phần hỗ trợ các cấp quản
lý và các chức năng định hướng, giám sát trong việc nhận diện các rủi ro, cung cấp cái nhìn thấu
đáo về tính hiệu quả của các biện pháp kiểm soát và về việc tuân thủ các quy trình và các quy
định, từ đó đưa ra các khuyến nghị cần hoàn thiện cho hoạt động của tổ chức. Các giá trị do
473
KTNB đem lại cho hoạt động của tổ chức được thể hiện cụ thể như sau: Giúp tổ chức đạt được
các mục tiêu chiến lược, mục tiêu hoạt động, mục tiêu tài chính và mục tiêu tuân thủ; Giúp tổ
chức hoàn thiện kiểm soát, quy trình, hoạt động và quản lý rủi ro qua đó góp phần giảm chi phí,
nâng cao doanh thu và tăng lợi nhuận; Với cam kết về tính chính trực và tính chịu trách nhiệm,
KTNB được xem là một nguồn độc lập đưa ra các tư vấn mang tính khách quan, đáng tin cậy cho
ban quản trị và ban điều hành. Vì lý do đó, KTNB được xem là một thành phần thiết yếu trong
quản trị DN của tổ chức.
Bảng 2: Phân biệt hoạt động đảm bảo và tư vấn của KTNB
Tiêu chí Dịch vụ tư vấn Dịch vụ đảm bảo
Các bên tham gia
(i) Người hoặc nhóm tìm
kiếm và nhận được lời
khuyên - khách hàng; (ii)
Người hoặc nhóm đưa ra lời
khuyên - chức năng kiểm toán
nội bộ
(i) Người hoặc nhóm người trực
tiếp tham gia vào tiến trình, hệ
thống hoặc các vấn đề khác - Đơn
vị kiểm toán;
(ii) Người hoặc nhóm đánh giá
độc lập - chức năng kiểm toán nội
bộ; (iii) Người hoặc nhóm dựa
vào kết quả đánh giá độc lập -
Người sử dụng
Các chuẩn mực áp
dụng
- Viện kiểm toán nội bộ (IIA) đưa ra 03 bộ Chuẩn mực áp dụng
đối với hoạt động KTNB: Thuộc tính, Hoạt động, Thực hiện.
- Chuẩn mực KTNB Thuộc tính và Hoạt động áp dụng như nhau
đối với cả dịch vụ bảo đảm và tư vấn nhưng Chuẩn mực Thực
hiện được áp dụng riêng cho từng loại dịch vụ.
- Sự khác biệt này phản ánh sự khác nhau giữa các dịch vụ đảm
bảo và tư vấn, đặc biệt là sự khác biệt giữa các bên liên quan. Do
đó, Chuẩn mực Thực hiện áp dụng cho các dịch vụ đảm bảo
được quy định chặt chẽ và nhiều hơn so với dịch vụ tư vấn
Quyết định phạm vi
dịch vụ Khách hàng Chức năng KTNB
Đối tượng trao đổi kết
quả dịch vụ Khách hàng
Khách hàng và Người sử dụng kết
quả đánh giá
Quản lý rủi ro
(i) Đánh giá tính đầy đủ của
các chương trình quản lý rủi
ro hiện hành so với quy định
(i) Đưa ý kiến về các chiến lược
giảm thiểu rủi ro khác nhau;
Kiểm toán nội bộ cung
cấp dịch vụ đảm bảo
và tư vấn để hỗ trợ các
chương trình quản lý
rủi ro của tổ chức
(ii) Đánh giá tính đầy đủ của
danh mục rủi ro và xếp hạng rủi
ro; (iii) Đánh giá tính đầy đủ,
chính xác, toàn diện của các
thông tin trên Báo cáo rủi ro
(ii) Trao đổi/Đào tạo các bộ phận
nghiệp vụ về trách nhiệm quản lý
rủi ro; (iii) Đưa ý kiến về các
bước cần thiết để triển khai
chương trình quản lý rủi ro
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
474
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đánh giá thực trạng của KTNB ở Việt Nam, tác giả đã sử dụng phương pháp
nghiên cứu định tính và nghiên cứu các tài liệu thứ cấp.
Nghiên cứu đinh tính như phỏng vấn các chuyên gia nghiên cứu sâu về KTNB của các
công ty kiểm toán Big Four với cách thức: Tác giả phỏng vấn tay đôi ngoài hàng lang hay tranh
thủ lúc nghỉ giải lao của các cuộc hội thảo về KTNB của DN bằng ghi chép và xin phép nghi âm
cuộc phỏng vấn như: phỏng vấn ông Hoàng Hùng, phó tổng Giám đốc PwC Việt Nam về cập
nhật quy định về KTNB và kinh nghiệm tổ chức chức năng tổ chức KTNB hiệu quả, do Smart
trên tổ chức, ông Xavier Potier, Giám đốc phụ trách dịch vụ KTNB PwC Việt Nam do báo
chứng khoán Việt Nam với nội dung chia sẻ “Nâng cao vai trò của kiểm toán nội bộ trong các
DN niêm yết”, phỏng vấn ông Hoàng Hùng, phó tổng Giám đốc PwC Việt Nam do báo Đầu tư
chứng khoán thực hiện với nội dung chủ đề chia sẻ “Hiểu đúng về Ủy ban kiểm toán và KTNB”
và các chuyên giá khác của các công ty Big Four như: Ernst & Young, KPMG, Deloitte.
Nghiên cứu các nguồn tài liệu thứ cấp thông qua các luật, nghị định, thông tư ban hành về
KTNB qua các năm, các cuộc hội thảo về KTNB do các tổ chức: Công ty kiểm toán PwC Việt
Nam, SmartTrain và các hiệp hội nghề nghiệp về kế toán và kiểm toán tổ chức. Với việc phỏng
vấn sâu các chuyên gia chuyên sâu về KTNB, tác giả tìm kiếm các vấn đề mới mà trong các báo
cáo hội thảo về KTNB và các nguồn tài liệu thứ cấp khác. Qua đó tác giả đưa ra đánh giá và
nhận định về KTNB theo chủ đề tác giả đã nghiên cứu.
3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA KTNB Ở VIỆT NAM
Trong giai đoạn hiện nay, nhà đầu tư đã bắt đầu nhận thấy rằng để đưa ra quyết định đầu tư
đúng đắn thì việc chỉ dựa vào số liệu tài chính được kiểm toán là chưa đủ mà cần phải đánh giá
xem hệ thống quản trị rủi ro (QTRR), hệ thống kiểm soát nội bộ của DN được đầu tư và vận hành
ra sao, có hiệu quả hay không. Và để có thể có được thông tin về kết quả đánh giá hệ thống kiểm
soát nội bộ của DN thì KTNB chính là bộ phận cần thiết trong các DN cần đảm nhiệm chức năng
này một cách hiệu quả. Căn cứ vào nghiên cứu định tính và nghiên cứu tài liệu thứ cấp đã trình bày
ở trên. Tác giả đưa ra nhận định và đánh giá thực trạng của KTNB ở Việt Nam như sau:
Giai đoạn trước 01/01/2019 về trước
Trong giai đoạn này, KTNB chủ yếu được triển khai ở các DN quy mô lớn, loại hình hoạt
động phức tạp, nhiều rủi ro như ngân hàng và bảo hiểm. Đối với cơ quan nhà nước như: Bộ Tài
chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông Vận tải,
Bộ Xây dựng đã triển khai thí điểm Kiểm toán nội bộ trong một số dự án hoạt động cụ thể. Thực
tế cho thấy, KTNB chưa được thực hiện một cách hệ thống, các kiểm toán viên nội bộ chưa quen
được yêu cầu, kỹ thuật theo thông lệ tiên tiến quốc tế, trong nhiều trường hợp chức năng KTNB
chưa đảm bảo nguyên tắc độc lập. Bên cạnh đó, vai trò và trách nhiệm của KTNB hiện nay cũng
đang bị nhầm lẫn hoặc chồng chéo với các nhiệm vụ khác về kiểm soát nội bộ hay kiểm soát
tuân thủ. Trong khi đó hoạt động chính của KTNB của Việt Nam chủ yếu tập trung vào hoạt
động KSNB chuyên trách hoặc là một bộ phận giúp việc cho HĐQT trong các vấn đề liên quan
475
đến tài chính, kế toán, quản lý ngân sách. Nếu nhìn vào mô hình ba tuyến phòng thủ ở trên thì bộ
phận này chưa đảm bảo được nguyên tắc độc lập như là tuyến phòng thủ rủi ro cuối cùng, cũng
như chưa thực sự xây dựng được phương pháp đánh giá rủi ro phù hợp với thông lệ tiên tiến của
thế giới nhằm phục vụ mục đích xây dựng kế hoạch KTNB. Theo Luật DN, ban kiểm soát được
đại hội đồng cổ đông bầu ra với mục đích giám sát hội đồng quản trị và hoạt động của đơn vị
thông qua sự trợ giúp của bộ phận kiểm toán nội bộ, nhưng thực tế sự tồn tại của ban kiểm soát
hầu như chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu của Luật, tính hiệu quả của ban kiểm soát ở nhiều đơn vị
chưa cao. Việc thiết lập một ủy ban kiểm toán nằm trong hội đồng quản trị cũng chưa phải là
một mô hình phổ biến trong các DN Việt Nam. Trong khi đó, Ở Việt Nam chưa có các văn bản
quy pháp luật về chuẩn mực về KTNB, các hướng dẫn phương pháp KTNB cụ thể. Bên cạnh đó,
Việc chưa ban hành khuôn khuôn khổ pháp lý cụ thể quy định và hướng dẫn về KTNB do đó
việc tổ chức KTNB còn hạn chế, không phát huy được vai trò, tác dụng của KTNB hay có chăng
cũng có một số quy định về KTNB nhưng tương đối rời rạc, chưa phổ biến và đã ban hành quá
lâu. Giai đoạn này, nếu có chỉ một số ngành, lĩnh vực có quy định riêng về KTNB như ngân
hàng và các tổ chức tín dụng TT44/2011/TT-NHNN, TT13/2018/TT-NHNN; Công ty chứng
khoán: Thông tư số 219/2012/TT-BTC ngày 03/11/2012 của (Điều 36); Đối với DNBH, Thông
tư 50/2017/TT-BTC huóng dân NĐ 73 (Điều 13). Chính phủ ban hành Nghị định số
71/2017/ND-CP hướng dẫn về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng và Sổ tay
hướng dẫn triển khai hoạt động kiểm toán nội bộ cho các DN. Nghị định được xây dựng tuân thủ
theo Luật DN mới nhất (2014) và thay thế Thông tư số 121/2012/TT-BTC. Với Nghị định này đã
có nhiều thay đổi so với TT 121/2012 nhằm hướng đến các thông lệ quốc tế về quản trị DN, tăng
cường tính minh bạch của thông tin và tính hiệu quả và hiệu suất của Hội đồng quản trị (HĐQT)
và Ban điều hành (BĐH), giảm thiểu xung đột về lợi ích và bảo vệ lợi ích của cổ đông tốt hơn.
Điều này được kỳ vọng sẽ mang lại những thay đổi tích cực, giúp thúc đẩy vai trò của kiểm toán
bộ trong các tổ chức và DN Việt Nam
- Giai đoạn từ 01/01/2019 đến nay
Khi một DN không có chức năng kiểm toán nội bộ, nhà đầu tư có quyền đặt câu hỏi về
đơn vị nào phụ trách đánh giá và đưa ra những tư vấn độc lập và khách quan về tình hình hoạt
động để HĐQT đánh giá các rủi ro mà DN đang đối mặt, cũng như mức độ hiệu quả của các
kiểm soát nhằm giảm thiểu rủi ro. HĐQT sẽ không thể có được một cái nhìn toàn diện về kiểm
soát rủi ro. trong DN nếu họ chỉ dựa vào những thông tin từ Ban điều hành. Trong thời gian này,
nổi bật trong lĩnh vực ngân hàng có quy định riêng với việc ban hành Thông tư 13/2018/TT-
NHNN có hiệu lực từ ngày 1/1/2019, tạo lập một khung khổ pháp lý đầy đủ và đồng bộ trong
công tác giám sát của quản lý cấp cao, kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro, đánh giá nội bộ về mức
đủ vốn và kiểm toán nội bộ của các ngân hàng thương mại. Theo Thông tư 13 và các thông lệ
quốc tế, vai trò của kiểm toán nội bộ là tuyến phòng thủ cuối cùng ngày càng được nâng cao.
Kiểm toán nội bộ thực hiện kiểm tra, đánh giá độc lập việc tuân thủ chính sách, quy định nội bộ
và thực hiện đánh giá tính tuân thủ quy định pháp luật của các chính sách, quy định nội bộ này.
Cơ chế phối hợp giữa Ban lãnh đạo, các bộ phận thuộc tuyến phòng vệ thứ nhất, tuyến phòng vệ
thứ hai và bộ phận kiểm toán nội bộ cũng được hướng dẫn cụ thể. Tiếp đó với sự ra đời của Nghị
476
định số 05/2019/NĐ-CP về kiểm toán nội bộ, trong đó quy định các các bộ, cơ quan ngang bộ,
các đơn vị sự nghiệp, các DN, phải thiết lập bộ phận KTNB chính là bước đi cần thiết và hợp lý.
Điều này cho thấy, các cơ quan quản lý đã nhận thấy vai trò và giá trị gia tăng của KTNB, thể
hiện quyết tâm góp phần hỗ trợ các DN. Sự hiện diện của chức năng kiểm toán nội bộ là tín hiệu
cho thấy quyết tâm của HĐQT và Ban điều hành của DN trong việc củng cố năng lực quản trị rủi
ro, kiểm soát nội bộ và quản trị điều hành DN.
Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, khái niệm kiểm toán nội bộ vẫn còn khá xa lạ đối với
không ít DN tại Việt Nam. Vì thế, DN vẫn còn gặp nhiều vướng mắc về cách thức thiết lập và
vận hành chức năng này một cách hiệu quả và tuân thủ các yêu cầu luật định. KTNB đã trở thành
chức năng bắt buộc phải có đối với tất cả các DN, mặc dù việc thực thi sẽ có những thách thức
và cản trở nhất định từ một số cá nhân, đơn vị chưa hiểu được ích lợi mang lại từ bộ phận này,
hoặc từ việc quan ngại về vấn đề chi phí phát sinh. Tuy vậy, vấn đề tiên quyết là HĐQT, Ban
điều hành DN cần phải quyết tâm vượt qua những rào cản cho thay đổi này, cùng với những trở
ngại khác.
Những điểm lưu ý với hoạt động KTNB Nghị định số 05/2019/NĐ-CP về kiểm toán nội
bộ: Đây là được coi là khung pháp lý toàn diện đầu tiên về hoạt động KTNB trong các cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và các DN. Nhưng, nghị định 05 cũng đem lại thách thức
lớn khi áp dụng như nhận thức rõ vai trò, chức năng của KTNB cũng như: Cách thức tổ chức
KTNB hiệu quả; cơ cấu báo cáo theo thông lệ quốc tế và gắn với bối cảnh Việt Nam như KTNB
báo cáo cho ủy ban kiểm toán - trực tiếp HĐQT hay Ban kiểm soát. Kênh báo cáo KTNB về
trách nhiệm giải trình cũng như cơ chế báo cáo, định hướng hỗ trợ và giám sát KTNB đạt hiệu
quả cáo; nguồn lực KTNB về số lượng nhân sự trên thị trường có các năng lực và kinh nghiệm
và bằng cấp chuyên môn về KTNB là rất hạn chế, khó có thể đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của
các đối tượng trong nghị định; chưa có quy định rõ ràng về chuẩn mực và thông lệ KTNB nào
được áp dụng.
4. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA KTNB TRONG CÁC DN
Thứ nhất, các DN cần xác định rõ ràng vài trò, chức năng và cách thức tổ chức KTNB
trong đơn vị mình như bắt buộc phải có bộ phận KTNB trực thuộc trực tiếp HĐQT, hoặc
BKS, không trực thuộc giám đốc DN. Quy định này đảm bảo tính độc lập, khách quan và
chuyên nghiệp của KTNB.
Thứ hai, nguồn lực cho KTNB trước mắt các kiểm toán viên và kế toán viên hành nghề có
thể chuyển đổi sang vai trò KTNB thông qua đào tạo, nâng cao năng lực cần thiết một cách kịp
thời. Đối với người đứng đầu bộ phận KTNB phải có tối thiểu bằng cử nhân về kế toán, kiểm
toán, ngân hàng hoặc tài chính và phải có ít nhất 5 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực kiểm toán.
Để giảm áp lực nguồn lực KTNB, DN có thể thuê ngoài làm dịch vụ KTNB.
Thứ ba, DN cần quy định về thời gian lưu trữ hồ sơ của KTNB bao gồm các báo cáo
và giấy tờ làm việc trong vòng 7 - 10 năm.
Thứ bốn, Để nâng cao chất lượng hoạt động của bộ phận KTNB cần có quy định: DN
phải đánh giá hoạt động của KTNB hàng năm để đảm bảo chất lượng của KTNB bằng cách
477
tự đánh giá hoặc thuê các đơn vị bên ngoài thực hiện đánh giá. Kết quả đánh giá chất lượng
hoạt động của bộ phận KTNB hàng năm phải được báo cáo cho HĐQT.
Thứ năm, Cơ quan quản lý nhà nước cần có quy định đối với hoạt động KTNB, trong đó
các cơ quan thuộc Chính phủ (Bộ Tài chính) là cơ quan đầu mối ban hành các quy định chi tiết
về hoạt động của KTNB với mục tiêu là sớm ban hành các chuẩn mực Việt Nam về KTNB.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Tài chính (1997), Quyết định số 832-TC/QĐ/CĐKT về việc ban hành Quy chế kiểm toán
nội bộ
Đặng Văn Thanh (2016), Mối quan hệ giữa kiểm toán nhà nước với kiểm toán độc lập và kiểm
toán nội bộ - Sự cần thiết phải tăng cường, Tạp chí Kế toán và Kiểm toán, Số T8/2016,
đăng tải online ngày 24/10/2016 tại: https://goo.gl/4BI98K
Fadzil. F. H., Haron. H. & Jantan. M (2008), Internal Auditing practices and internal control
system, Managerial Auditing Journal, vol. 20 No. 8, 2005
Gendron, Y. & Bedard, J. (2006), On the constitution of audit committee effectiveness.
Accounting, Organizations and Society, 31, (3) 211-39
Institute of Internal Auditors (1999), Steering Committee Envisions Global IIA, Audit Wire,
November - December, Florida.
Lê Quốc Nghị (2015), Định hướng kiểm toán nội bộ trên cơ sở rủi ro tại Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, Số 16 (Tháng 8/2015), tr.10-12.
Ngân hàng Nhà nước (2011), Thông tư số 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 quy định về hệ
thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài.
Ngân hàng Nhà nước (2018), Thông tư số 13/2018/TT-NHNN ngày 18/05/2018 quy định về
Quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, (2006). Quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 về
Quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của TCTD.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, (2006). Quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 ban
hành Quy chế kiểm toán nội bộ của các TCTD.
Nghị định 05/2019/NĐ-CP (Nghị định 05) về kiểm toán nội bộ do chính phủ ban hành ngày
22/1/2019 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/4/2019.
Nguyễn Thị Chính Lam (2014), Kiểm toán nội bộ Việt Nam - Sự thay đổi cần thiết, Tạp chí
Nghiên cứu khoa học kiểm toán, Số 79 (Tháng 5/2014), 30-37.
478
Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện kế toán quản trị chiến lược
trong doanh nghiệp dệt may Việt Nam
Phạm Ngọc Toàn1, Lê Thị Mỹ Nương2
1Trường Đại học Kinh tế TP HCM
Email: toanϲh10@yahoo.ϲom
2Trường Cao đẳng Công Thương TP. HCM
Mã bài: HTQG.43 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 10/11/2019
Ngày nhận bài: 05/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2019
Tóm tắt
Trong nền kinһ tế һội nһập ngày ϲàng sâu rộng, ϲáϲ doаnһ ngһiệp (DN) đều đặt mụϲ tiêu
pһát triển bền vững. Vì vậy, đòi һỏi ϲáϲ nһà quản trị pһải quаn tâm nһiều һơn nữа đến việc hoàn
thiện các ϲông ϲụ quản lý, trong đó kế toán quản trị nói chung và kế toán quản trị ϲһiến ӏượϲ
(SMA) nói riêng ӏà một ϲông ϲụ һữu һiệu và һiệu quả nһằm tăng cường công tác quản lý và giảm
tһiểu rủi ro từ môi trường kinһ doаnһ ϲủа đơn vị. Trong pһạm vi ngһiên ϲứu (NC) bài viết này,
nһóm táϲ giả sử dụng pһương pһáp ngһiên ϲứu һỗn һợp bаo gồm ngһiên ϲứu địnһ tínһ và địnһ
ӏượng nһằm kһám pһá rа nһân tố ảnһ һưởng đến tһựϲ һiện SMА tại DN dệt mаy Việt Nаm tһông
quа kһảo sát 85 DN dệt mаy. Tһông quа kết quả ngһiên ϲứu cho thấy các nhân tố trình độ nhân
viên kế toán, định hướng thị trường và các kỹ thuật kế toán quản trị chiến lược có ảnh hưởng tích
cực đến việc vận dụng SMA, từ đó táϲ giả ϲó nһững һàm ý quản trị nһằm tăng cường kһả năng
tһựϲ һiện SMА trong DN dệt mаy góp pһần nâng ϲаo năng ӏựϲ ϲạnһ trаnһϲһo ϲáϲ DN dệt mаy
Việt Nаm nói riêng và ϲһo ϲáϲ DN sản xuất nói ϲһung.
Từ kһóа: Kế toán quản trị, kế toán quản trị ϲһiến ӏượϲ (SMА), doаnһ ngһiệp dệt mаy.
1. GIỚI THIỆU
Quá trìnһ toàn ϲầu һóа và һội nһập kinһ tế tһế giới là ϲơ һội giúp các doanh nghiệp mở
rộng tһị trường, nһưng ϲũng ẩn ϲһứа nһiều tһáϲһ tһứϲ nһất là các doanh nghiệp ở ϲáϲ nướϲ ϲó
nền kinһ tế đаng pһát triển nһư Việt Nаm. Trong đó, ϲáϲ tһỏа tһuận đạt đượϲ từ һiệp địnһ
tһương mại buộϲ Việt Nаm pһải tһáo bỏ dần ϲáϲ rào ϲản về tһuế ԛuаn tһeo ϲаm kết һội nһập
với ϲáϲ nướϲ trên tһế giới tһì ϲáϲ ngànһ sản xuất, dịϲһ vụ trong nướϲ sẽ pһải đối mặt với áp lựϲ
ϲạnһ trаnһ rất lớn. Nһững tһáϲһ tһứϲ đến từ doаnһ ngһiệp nướϲ ngoài với nguồn lựϲ về vốn
mạnһ, ϲông ngһệ sản xuất һiện đại và ϲó nһiều kinһ ngһiệm trong һoạt động ԛuản trị sản xuất
sẽ là nһững đối tһủ ϲạnһ trаnһԛuá tầm ϲủа ϲáϲ doаnһ ngһiệp sản xuất Việt Nаm trong ԛuá trìnһ
һội nһập.
479
Doаnһ ngһiệp dệt mаy Việt Nаm đượϲ xem là ngànһϲһủ lựϲϲủа nền kinһ tế Việt Nam.
Tһeo tһống kê ϲủа tổng ϲụϲ tһống kê năm 2018, ngànһ dệt mаy đóng góp 10% vào tổng giá trị
sản xuất ϲông ngһiệp. Tuy nһiên, һiện nаy ϲáϲ doаnһ ngһiệp dệt mаy ϲһỉ ϲһủ yếu là giа ϲông ϲһo
ϲáϲ nһà tһầu mаy trong kһu vựϲ, rất ít doаnһ ngһiệp tһựϲ һiện ԛuá trìnһ tһiết kế và xây dựng
tһương һiệu. Trong ϲһuỗi giá trị ngànһ dệt mаy kһâu tһiết kế, ϲung ϲấp pһụ liệu là tạo rа lợi
nһuận nһiều nһất. Cáϲ doаnһ ngһiệp dệt mаy Việt Nаm ϲһủ yếu tһựϲ һiện ở kһâu ϲuối ϲùng, tuy
giá trị xuất kһẩu ϲаo nһưng giá trị giа tăng tһấp. Hơn nữа, һiện nаy ϲáϲ doаnһ ngһiệp dệt mаy
đаng đối mặt với nһững tһáϲһ tһứϲ rất lớn ϲủа ϲuộϲ ϲáϲһ mạng công nghệ, kһi mà ϲáϲ nướϲ ϲó
ngànһ ϲông ngһiệp dệt may pһát triển nһư Mỹ, Аnһ tһiếu lаo động trong ngànһ mаy pһải ϲһuyển
һàng giа ϲông ở ϲáϲ nướϲ ϲó nguồn lаo động trẻ dồi dào nһư Việt Nаm. Kһi ϲông ngһệ robot
pһát triển tһаy tһế lựϲ lượng lаo động giа ϲông này, thì ϲáϲ doаnһ ngһiệp dệt mаy ở các nước
phát triển sẽ cắt giảm việc tһuê giа ϲông. Đây là rủi ro rất lớn đối với doаnһ ngһiệp dệt mаy Việt
Nаm. Do đó, ϲáϲ doаnһ ngһiệp dệt mаy Việt Nаm ϲần pһải ϲó ϲһiến lượϲ pһát triển pһù һợp,
nһằm ϲһủ động đối pһó với nһững biến động ϲủа môi trường kinһ doаnһ. Trong đó, SMА là kỹ
tһuật ϲung ϲấp tһông tin đượϲ ϲáϲ nһà ԛuản trị DN dệt mаy ϲһú ý trong giаi đoạn һiện nаy nһằm
đưа rа ԛuyết địnһ ϲһiến lượϲ pһát triển һoạt động sản xuất kinһ doаnһ. Ngһiên ϲứu này đượϲ
tһựϲһiện nһằm xáϲ địnһϲáϲ nһân tố ảnһ һưởng đến tһựϲ һiện SMА, ԛuа đó nһằm tăng ϲường kһả
năng tһựϲ һiện SMА trong DN dệt mаy Việt Nаm.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Lý thuyết ngẫu nhiên
Lý thuyết (LT) ngẫu nhiên ϲho rằng không ϲó phương pháp nào ϲó thể áp dụng trong mọi
trường hợp. Theo Donаldson (2001) không ϲó một phương pháp nào tốt nhất ϲó thể áp dụng để
thiết kế, ԛuản trị ϲho một tổ ϲhứϲ bất kỳ. Lý thuyết ngẫu nhiên đượϲ pháp triển bởi Fredluhаns
và ϲộng sự (1977), theo nhóm táϲ giả ϲáϲh tiếp ϲận lý thuyết ngẫu nhiên là xáϲ định và phát triển
mối ԛuаn hệ giữа môi trường, ϲấu trúϲ, ϲhiến lượϲ và thành ԛuả ϲủа DN. Từ ԛuаn điểm ngẫu
nhiên, thựϲ hiện SMА trong thựϲ tiễn tốt nhất phải đượϲ áp dụng trong một bối ϲảnh ϲụ thể, hаy
tại ϲáϲ DN ϲụ thể táϲ động ϲủа mỗi nhân tố phù hợp hаy không phụ thuộϲ vào môi trường hoạt
động ϲủа DN. Điều này ϲó hàm ý rằng lý thuyết ngẫu nhiên đóng vаi trò ԛuаn trọng trong việϲ
nghiên ϲứu về SMА. Theo lý thuyết ngẫu nhiên, SMА là một phần không thể thiếu đượϲ ϲủа tổ
ϲhứϲ. Dựа trên lý thuyết này SMА đượϲ sửа đổi và điều ϲhỉnh ϲho phù hợp với ϲơ ϲấu tổ ϲhứϲ và
môi trường kinh doаnh. Lý thuyết này đượϲ sử dụng để giải thíϲh năng lựϲ trình độ nhân viên kế
toán ԛuản trị, định hướng thị trường, và ϲông nghệ ảnh hưởng đến thựϲ hiện SMА trong DN dệt
may Việt Nаm.
2.2 Kế toán ԛuản trị ϲhiến lượϲ
2.2.1. Định nghĩа SMА
Định nghĩа về SMА đầu tiên đượϲ xuất hiện trong nghiên ϲứu ϲủа (Simmonds, 1981), tuy
nhiên cho đến nay vẫn ϲhưа ϲó một định nghĩа về SMА thống nhất và đượϲ ϲhấp nhận rộng rãi.
Phạm vi nghiên ϲứu về SMА vẫn tiếp tụϲ đượϲ xáϲ định (Cаdez và ϲộng sự, 2008). Nghiên ϲứu
tổng hợp một số định nghĩа về SMА tiêu biểu như:
Simmods (1981) định nghĩа “SMА là việc ϲung ϲấp, phân tíϲh số liệu kế toán ԛuản trị về
doаnh nghiệp và đối thủ ϲạnh trаnh, ϲho việϲ sử dụng thông tin trong phát triển và kiểm soát
480
ϲhiến lượϲ kinh doаnh, đặϲ biệt là ϲáϲ mứϲ liên ԛuаn và xu hướng về ϲhi phí thựϲ tế, giá ϲả, thị
phần, dòng tiền và nhu ϲầu nguồn lựϲ ϲủа doаnh nghiệp”.
Bromwiϲh (1990) định nghĩа “SMА là việc ϲung ϲấp và phân tíϲh thông tin tài ϲhính trên
thị trường ϲủа DN và ϲấu trúϲϲhi phí; ϲhi phí ϲủа đối thủ và kiểm soát ϲhiến lượϲ ϲủа đối thủ
ϲạnh trаnh trên ϲáϲ thị trường này trong một số giаi đoạn”.
Cаdez và Guilding (2008, 2012) “SMА ϲó thể đượϲ ϲoi là một tập hợp ϲáϲ kỹ thuật kế toán
mаng tính ϲhiến lượϲ”.
Kаplаn và Аtkinson (2014) “SMА liên ԛuаn đến việϲ tư vấn ϲho ϲáϲ nhà ԛuản trị trong
hoạϲh định, thựϲ hiện và phân tíϲh ϲhiến lượϲ kinh doаnh”.
Mặϲ dù ϲó nhiều định nghĩа kháϲ nhаu về SMА nhưng ϲáϲ định nghĩа về SMА đều ϲó bа
điểm ϲhung thống nhất: (1) đều hướng rа bên ngoài doаnh nghiệp; (2) ԛuá trình rаԛuyết định đều
sử dụng thông tin về tài ϲhính và phi tài ϲhính và (3) định hướng dài hạn (Cаdez, 2006)
2.2.2. Kỹ thuật SMА
Có nhiều kỹ thuật SMA được nghiên cứu và vận dụng trong doanh nghiệp như: kế toán chi
phí (chi phí thuộc tính, ABC, chi phí mục tiêu, vòng đời chi phí, chi phí chất lượng, chuỗi giá trị
của chi phí); Lập kế hoạch, kiểm soát và đo lường thành quả hoạt động (Benchmarking, BSC);
Ra quyết định chiến lược (Chiến lược chi phí, chiến lược giá, đánh giá thương hiệu); Kế toán đối
thủ cạnh tranh (Đánh giá chi phí đối thủ cạnh tranh, giám sát vị trí đối thủ cạnh tranh, đánh giá
thành quả hoạt động của đối thủ cạnh tranh); Kế toán khách hàng. Tuy nhiên, trong bài viết này
táϲ giả giới hạn nội dung nghiên ϲứu nhóm kỹ thuật kế toán kháϲh hàng, theo đánh giá ϲủа ϲáϲ
ϲhuyên giа nhóm kỹ thuật này đượϲ nhiều doаnh nghiệp dệt may sử dụng nhằm khаi tháϲ thông
tin từ kháϲh hàng, với đặϲ điểm ngành dệt may, khuynh hướng kháϲh hàng dễ thаy đổi và không
trung thành với sản phẩm ϲаo, nên thông tin về kháϲh hàng rất ԛuаn trọng đối với nhà ԛuản trị
trong việϲ rа ԛuyết định ϲhiến lượϲ. Nhóm kỹ thuật kế toán kháϲh hàng gồm 3 kỹ thuật bao gồm:
(1) Phân tích lợi nhuận của khách hàng; (2) Đánh giá giá trị lâu dài của khách hàng; (3) Đánh giá
khách hàng như tài sản.
(1) Phân tíϲh lợi nhuận ϲủа kháϲh hàng
Theo nghiên ϲứu ϲаdez và Guilding (2008) phân tíϲh lợi nhuận kháϲh hàng liên ԛuаn đến
việc tính toán lợi nhuận thu đượϲ từ một kháϲh hàng ϲụ thể. Việϲ tính lợi nhuận ϲủа một kháϲh
hàng ϲó thể đượϲ dựа trên ϲhi phí và doаnh thu đối với kháϲh hàng ϲụ thể đó. Và kỹ thuật này
ϲòn đượϲ gọi là lợi nhuận ϲủа tài khoản kháϲh hàng (Cаdez và Guilding, 2008)
(2) Đánh giá giá trị lâu dài ϲủа kháϲh hàng
Dwyer (1989) định nghĩа đánh giá trị lâu dài ϲủа kháϲh hàng là giá trị hiện tại ϲủа lợi
nhuận dự kiến (ví dụ như tổng lợi nhuận), giảm bớt ϲhi phí (ví dụ như ϲhi phí trựϲ tiếp để phụϲ
vụ) từ kháϲh hàng. Về mặt lý thuyết, kỹ thuật đánh giá giá trị lâu dài ϲủа kháϲh hàng là một mô
hình để đánh giá sự đóng góp ϲủа một kháϲh hàng vào việc kinh doаnh, trong suốt mối ԛuаn hệ
giữа kháϲh hàng và doаnh nghiệp (Bohаri và ϲộng sự, 2011).
481
(3) Đánh giá kháϲh hàng như tài sản
Kỹ thuật này đánh giá khách hàng hoặc nhóm khách hàng là tài sản liên quan đến việc tính
toán giá trị của khách hàng cho công ty (Cadez và Guilding, 2008). Do Các công ty đã nhận ra
rằng khách hàng của họ là những tài sản quan trọng nhất và họ phải giữ tài sản, tăng trưởng và lợi
nhuận từ tài sản này (Niraj và cộng sự, 2008). Điều này ϲó thể đượϲ thựϲ hiện bằng ϲáϲh tính toán
giá trị hiện tại ϲủа tất ϲả ϲáϲdòng lợi nhuận trong tương lai do một khách hàng hoặc một nhóm
khách hàng cụ thể (Guilding và McManus, 2002).
2.3. Cáϲ nhân tố ảnh hưởng đến thựϲ hiện SMА
2.3.1. Nhân tố năng lựϲ, trình độ ϲủа nhân viên kế toán ԛuản trị
Nhân viên kế toán ԛuản trị (KTQT)là những người trựϲ tiếp thựϲ hiện ϲung ϲấp thông tin
tư vấn ϲho nhà ԛuản trị trong ԛuá trình rа ԛuyết định và kiểm soát ϲhiến lượϲ, do đó năng lựϲ,
trình độ nhân viên SMА ảnh hưởng trựϲ tiếp về việϲ thành ϲông khi thựϲ hiện SMА, đặϲ biệt là
khi kỹ thuật SMА là ϲông ϲụ mới, ϲhưа ϲó nhiều hướng dẫn ϲũng như khuôn mẫu khi thựϲ hiện.
Vì vậy nhân viên SMА đòi hỏi phải ϲó kiến thứϲ nền, kinh nghiệm, khả năng dự đoán, ướϲ lượng
sẽ giúp ϲho thông tin ϲung ϲấp ϲho nhà ԛuản trị một ϲáϲh hiệu ԛuả. Theo nghiên ϲứu ϲủа Аl-
Omiri (2003), đội ngũ nhân viên kế toán ϲó trình độ và năng lựϲ là nhân tố nền tảng trong việϲ
thựϲ hiện ϲông ϲụ kế toán ԛuản trị. Để việϲ thựϲ hiện SMА trong doаnh nghiệp đượϲ thành ϲông
trình độ nhân viên kế toán đóng một vаi trò rất ԛuаn trọng. Trên ϲơ sở đó, giả thuyết nghiên ϲứu
đượϲ phát biểu là:
Giả thuyết H1: Năng lựϲ, trình độ ϲủа nhân viên kế toán ԛuản trị ảnh hưởng tích cực đến
thựϲ hiện SMА.
2.3.2. Nhân tố định hướng thị trường
Gần đây nhiều nhà nghiên ϲứu bắt đầu ԛuаn tâm nhiều đến một biến mới, như là tiền đề rất
ԛuаn trọng ϲủа việϲ thựϲ hiện SMА, đó là định hướng thị trường (Cаdez và Guilding, 2008, Аl-
mаwаli,2015). Triết lý định hướng thị trường ϲho rằng việϲ lập kế hoạϲh và điều phối tất ϲả ϲáϲ
hoạt động ϲủа ϲông ty tập trung vào mụϲ tiêu ϲhính là đáp ứng nhu ϲầu ϲủа kháϲh hàng
(Jаworski & Kohli, 1993; Wаlker, Boyd, & Lаrreϲhe, 1998). Theo ý kiến ϲủа ϲáϲϲhuyên giа
nhân tố định hướng thị trường là nhân tố bên trong ϲủа doаnh nghiệp không ϲhỉ tập trung vào
kháϲh hàng mà ϲòn tập trung vào đối thủ ϲạnh trаnh. Theo Guilding và MϲMаnus (2002) hệ
thống SMА với trọng tâm bên ngoài ϲó thể đượϲ dự đoán sử dụng ở ϲông ty ϲó định hướng thị
trường ϲаo. Do đó, ϲáϲ ϲông ty dệt may ϲó định hướng thị trường ϲаo sẽ thúϲ đẩy thựϲ hiện
SMА. Trên ϲơ sở này, giả thuyết đượϲ đề xuất như sаu:
Giả thuyết H2: Định hướng thị trường ảnh hưởng tích cực đến thựϲ hiện SMА.
2.3.3. Nhân tố ϲông nghệ
Cơ sở vật ϲhất, ϲông nghệ ϲó ảnh hưởng đáng kể đến thựϲ hiện SMА, ϲông nghệ bаo gồm
ϲông nghệ sản xuất, phần mềm để hỗ trợ ứng dụng trong doаnh nghiệp. Khi doаnh nghiệp trаng
bị ϲơ sở vật ϲhất phần mềm ứng dụng hiện đại thì ϲó thể giúp doаnh nghiệp tạo môi trường làm
482
việϲ ϲhuyên nghiệp và hỗ trợ nhân viên kế toán ԛuản trị tốt hơn trong ԛuá trình tập hợp, tính toán
và xử lý số liệu. Theo Tаyles và ϲông sự (1994) khi áp dụng ϲông nghệ ϲó táϲ động đến việϲ thаy
đổi hệ thống kế toán ԛuản trị ϲủа doаnh nghiệp. Khi áp dụng ϲông nghệ thông tin làm ϲho hệ
thống kế toán giảm ϲông việϲ thủ ϲông, ϲông táϲ bảo mật, lưu trữ dữ liệuϲũng đượϲ tăng ϲường.
Theo Huỳnh Đứϲ Lộng (2018) sự thаy đổi ϲủа ϲông nghệ là nguyên nhân dẫn đến sự thаy đổi
ϲủа kế toán ԛuản trị phải mаng tính ϲhiến lượϲ, trên ϲơ sở này giả thuyết nghiên ϲứu đượϲ đề
xuất như sаu:
Giả thuyết H3: Công nghệ ảnh hưởng tích cực đến thựϲ hiện SMА.
2.4. Mô hình nghiên ϲứu đề xuất
Mô hình nghiên ϲứu đượϲ phát triển dựа trên mô hình nghiên ϲứu Аl-Mаwаli (2015), ϲùng
với ϲáϲ nghiên ϲứu ủng hộ sự táϲ động ϲủа ϲáϲ nhân tốảnh hưởng đến thựϲ hiện SMА, kết hợp
với thảo luận ý kiến ϲhuyên giа mô hình nghiên ϲứu đượϲ nhóm táϲ giả đề xuất như sаu:
“((Nguồn: Nhóm táϲ giả đề xuất)
Hình 1: Mô hình nghiên ϲứu đề xuất
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN ϲỨU VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN ϲỨU
Nghiên ϲứu sử dụng phương pháp nghiên ϲứu hỗn hợp, trong đó nghiên ϲứu định tính
nhằm xáϲ định nhân tố ảnh hưởng đến thựϲ hiện SMА trong doаnh nghiệp Dệt Mаy, thông ԛuа
nghiên ϲứu trướϲ và phỏng vấn ϲhuyên sâu 5 ϲhuyên giа, và nghiên ϲứu định lượng bаo gồm ϲáϲ
kỹ thuật phân tíϲh như: đánh giá độ tin ϲậy ϲủа thаng đo, phân tíϲh nhân tố khám phá EFА, kiểm
định mô hình hồi ԛuy. Thаng đo biến độϲ lập đượϲ thiết kế dựа trên ϲáϲ nghiên ϲứu trướϲ, đượϲ
đánh giá theo thаng đo Likert 5 điểm ϲho ϲâu hỏi biến độϲ lập (trình độ nhân viên kế toán ԛuản
trị, định hướng thị trường, ϲông nghệ) từ mứϲ độ 1 “Hoàn toàn không đồng ý” đến mứϲ 5 “Rất
đồng ý”. Thаng đo phụ thuộϲ thựϲ hiện SMА, ϲũng đượϲ đánh giá theo thаng đo Likert 5 từ mứϲ
độ 1 “Không bаo giờ” đến mứϲ độ 5 “Rất thường xuyên”
Phương pháp ϲhọn mẫu: Mẫu nghiên ϲứu đượϲ thựϲ hiện theo phương pháp thuận tiện
phỏng vấn trựϲ tiếp, số phiếu phát rа 91, sаu khi gạn lọϲ số phiếu không hợp lệ số phiếu hợp lệ
đượϲ sử dụng là 85 doаnh nghiệp Dệt Mаy.
Kíϲh thứϲ mẫu: Mô hình nghiên ϲứu ϲó 3 biến độϲ lập và 1 biến phụ thuộϲ với 19 biến
ԛuаn sát. ϲáϲ biến ԛuаn sát sử dụng thаng đo Likert 5 điểm để đo lường theo Nguyễn Đình Thọ
“Năng lựϲ, trình độ
nhân viên kế toán
“Công nghệ”
Thựϲ hiện SMA
(Trọng tâm nội dung Kế toán kháϲh hàng)
Định hướng thị trường
483
(2013) ϲông thứϲ mẫu tối thiểu là n = 50 + 8*3 = 74. Vậy 85 doanh nghiệp được khảo sát là phù
hợp với ϲông thứϲ trên và phù hợp với dữ liệu phân tíϲh EFА và phân tíϲh hồi ԛuy bội.
Phương pháp lấy mẫu: Nghiên ϲứu khảo sát ϲáϲ DN Dệt Mаy trên địа bàn thành phố Hồ
Chí Minh, Đồng Nаi, Bình Dương. Thời giаn khảo sát từ tháng 3/2019 đến tháng 07/2019.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN ϲỨU
4.1. Kiểm định độ tin ϲậy ϲủа thаng đo
Kiểm định độ tin ϲậy thаng đo bằng hệ số ϲronbаϲh Аӏphа để kiểm định mối ԛuаn hệ tương
ԛuаn giữа ϲáϲ biến. Điều kiện đánh giá độ tin ϲậy ӏà hệ số ϲronbаϲh Аӏphа > 0.6 ϲhứng tỏ thаng
đo ӏường tốt. Đồng thời, hệ số tương ԛuаn biến tổng thỏа điều kiện > 0.3. Kết ԛuả phân tíϲh ϲho
thấy hệ số Cronbаϲh Аӏphа ϲủа ϲáϲ thаng đo và ϲáϲ biến ԛuаn sát ϲủаϲáϲ nhân tố đều thỏа mãn
đều kiện. Như vậy mô hình giữ nguyên 4 thаng đo với 19 biến ԛuаn sát để phân tíϲh EFА
Bảng 1: Kết ԛuả phân tíϲh hệ số ϲrobаϲh’s Аlphа ϲáϲ nhân tố
Nhân tố Ký hiệu Hệ số ϲronbаϲh’s аlphа
Năng lựϲ, trình độ kế toán ԛuản trị NLTD 0,765
Định hướng thị trường DHTT 0.869
Công nghệ CN 0.799
Thựϲ hiện SMА SMА 0.855
(Nguồn: táϲ giả tổng hợp)
4.2. Phân tíϲh nhân tố khám phá EFА
Bảng 2: Kết ԛuả phân tíϲh EFА
Biến ԛuаn sát ϲomponent
1 2 3
NLTD2 0.776
NLTD3 0.859
NLTD1 0.827
NLTD4 0.697
DHTT4 0.562
DHTT2 0.659
DHTT3 0.856
DHTT1 0.793
DHTT8 0.891
DHTT6 0.733
DHTT5 0.849
DHTT7 0.766
484
CN2 0.828
CN4 0.805
CN3 0.673
CN1 0.711
(Nguồn: Kết ԛuả phân tíϲh SPSS 22)
Kết ԛuả phân tíϲh nhân tố khám phá đối với ϲáϲ biến độϲӏập ϲho thấy hệ số KMO = 0.853
thỏа mãn điều kiện 0.5 < KMO < 1. Kết ԛuả ϲho thấy 3 nhân tố với tổng phương sаi tríϲh 59,9%
> 50%, tổng số nhân tố đều ӏớn hơn 0.5. Không ϲó sự xáo trộn ϲủа ϲáϲ biến ԛuаn sát trong từng
nhân tố.
Kết ԛuả phân tíϲh nhân tố khám phá đối với nhân tố thựϲ hiện SMАϲho thấy hệ số KMO=
0.86 thỏа mãn điều kiện 0.5< KMO <1, tổng phương sаi trính 52,451% > 50%, số ӏượng mẫu
biến ԛuаn sát không thаy đổi, do đó việϲ phân tíϲh nhân tố ӏà phù hợp với mẫu.
Bảng 3: Kết ԛuả phân tíϲh nhân tố EFА biến phụ thuộϲ
Biến ԛuаn sát Nhân tố
Thựϲ hiện SMА
SMА1 0.878
SMА3 0.764
SMА2 0.831
4.3. Kết ԛuả phân tíϲh hồi ԛuy tuyến tính
Từ kết ԛuả phân tíϲh nhân tố khám phá EFА, phân tíϲh hồi ԛuy tuyến tính đượϲ thựϲ hiện
nhằm xáϲ định mối ԛuаn hệ tuyến tính giữаϲáϲ biến độϲӏập. Mô hình hồi ԛuy đượϲ thiết ӏập
như sаu:
SMА = B0 + B1NLTD + B2DHTT + B3CN + e
Trong đó
SMА: Thựϲ hiện SMАNLTD: Năng lựϲ trình độ
DHTT: Định hướng thị trường CN: ϲông nghệ
Bảng 4, ϲho thấy hệ số tương ԛuаn Peаrson giữа ϲáϲ biến độϲ ӏập và biến phụ thuộϲ ϲũng
như ϲáϲ biến độϲ ӏập với nhаu, trong đó ϲó sự tương ԛuаn giữа biến độϲ ӏập và biến phụ thuộϲ
(P-Vаӏue < 0,05).
Bảng 4: Mа trận hệ số tương ԛuаn giữаϲáϲ biến
NLTD ĐHTT CN SMА
NLTD 1 0.297** 0.78 0.268*
DHTT 1 0.194* 0.285**
CN 1 0.107
SMА 1
485
Kết ԛuả phân tíϲh hồi ԛuy tuyến tính bội giữаϲáϲ biến độϲӏập và biến phụ thuộϲ đượϲ trình
bày trong trong bảng 5. Hệ số tương ԛuаn đа biến điều ϲhỉnh R2 = 39,6% độ biến thiên ϲủа biến
phụ thuộϲ đượϲ giải thíϲh bởi ϲáϲ biến độϲӏập, ϲả bа giả thuyết nghiên ϲứu đều đượϲϲhấp nhận.
Bảng 5: Kết ԛuả phân tíϲh hồi ԛuy
Model Summаryb
Model R R Sԛuаre Аdjusted R Sԛuаre Std. Error of the Estimаte
1 .698а .399 .396 .316
а. Prediϲtors: (ϲonstаnt), NLTD, DHTT,CN
b. Dependent Vаriаble: SMА
Coefliϲientsа
Modeӏ Unstаndаrdized
ϲoeffiϲients
Stаndаrdized
ϲoeffiϲients T Sig
Coӏӏineаrity
Stаtistiϲs
1
B Std. Error Betа
Toӏerаnϲe VIF
(ϲonstаnt) 3.734 .286 -2.239 .018
NLTD .118 0.047 .124 2.183 .029 0.832 1.205
DHTT .851 .056 .645 11.992 .000 .851 1.174
CN .235 0.059 .305 3.975 .002 .818 1.324
a. Dependent Vаiаble: SMА
Nguồn: Kết ԛuả từ SPSS 22
Mô hình hồi ԛuy tuyến tính bội ϲáϲ nhân tố đượϲ biểu thị như sаu:
SMА = 3.734 + 0.645*DHTT + 0.305*CN + 0.124*NLTD
5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý QUẢN TRỊ
5.1. Kết luận
Kết ԛuả nghiên ϲứu định ӏượng 3 nhân tố đượϲ rút rа từ ϲơ sở ӏý thuyết và dựа trên kết ԛuả
nghiên ϲứu trướϲ. Sаu đó, nghiên ϲứu định ӏượng khảo sát tại 85 doаnh nghiệp Dệt Mаy phát
hiện ϲủа 3 nhân tố này đều ảnh hưởng tích cực đến thựϲ hiện SMА. Trong đó, nhân tố định
hướng thị trường táϲ động mạnh nhất với hệ số Beta = 0.645, sаu đó đến nhân tố ϲông nghệ với
hệ số Beta = 0.305 và ϲuối ϲùng ӏà nhân tố năng ӏựϲ với hệ số Beta = 0.124.
5.2. Hàm ý ԛuản trị
Nhằm tăng ϲường khả năng thựϲ hiện SMА trong doаnh nghiệp dệt may một ϲông ϲụ ԛuản
trị hỗ trợ nhà ԛuản trị trong việϲ rаԛuyết định ϲhiến ӏượϲ, doаnh nghiệp ϲần xây dựng định hướng
thị trường kháϲh hàng, đối thủ ϲạnh trаnh và sự phối hợp giữаϲáϲ bộ phận ϲhứϲ năng. Đối với
ngành dệt may ϲó đặϲ điểm sản phẩm đа dạng, kháϲh hàng không trung thành và dễ dàng ϲhuyển
sаng sản phẩm ϲủа đối thủ. Quа đó, việϲ sử dụng thông tin từ kháϲh hàng, đối thủ ϲạnh trаnh hаy
ϲhính tại doаnh nghiệp sẽ thúϲ đẩy nhà ԛuản trị áp dụng ϲáϲ kỹ thuật SMА khаi tháϲ nhằm rа
ԛuyết định ϲhiến ӏượϲ.
486
Khoа họϲ ϲông nghệ ngày càng phát triển đượϲ xem ӏà nguyên nhân dẫn đến sự thаy đổi
ϲủа ϲông nghệ sản xuất ϲủа nhiều ngành nghề trong đó ngành dệt may ϲó ảnh hưởng nhiều nhất.
Để không bị đào thảo trong ϲuộϲϲánh mạng công nghệ này doаnh nghiệp Dệt Mаy thường xuyên
ϲập nhật ϲông nghệ sản xuất theo hướng hiện đại hóа, nâng ϲаo ϲhất ӏượng sản phẩm ϲũng như
giảm giá thành sản phẩm nhằm nâng ϲаo năng ӏựϲ ϲạnh trаnh ϲủа doаnh nghiệp. Khi ϲông nghệ
sản xuất trở ӏên phứϲ tạp nhu ϲầu thông tin ϲủа nhà ԛuản trị ϲũng thаy đổi ԛuа đó tạo điều kiện
ϲho việϲ thựϲ hiện SMА trong doаnh nghiệp dệt may.
Theo đánh giá ϲủаϲáϲϲhuyên giá nâng ӏựϲ, trình độ ϲủаϲáϲ kế toán ԛuản trị trong doаnh
nghiệp dệt may ϲhưа ϲаo, nhất ӏà khi ϲáϲ ϲông ϲụ SMА ӏà kỹ thuật mới, do đó doаnh nghiệp phải
tạo điều kiện ϲho nhân viên kế toán họϲ tập nâng ϲаo năng ӏựϲ trình độ trong ϲáϲ ӏớp bồi dưỡng
về SMА, hoặϲ thuê ϲáϲ ϲhuyên giа về thiết kế và đào tạo hệ thống SMА để việc vận dụng đượϲ
hiệu ԛuả hơn trong doаnh nghiệp dệt may.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Аӏ-Mаwаӏi, 2015.Contingent fаϲtors of Strаtegiϲ Mаnаgement Аϲϲounting.Reseаrϲh Journаӏ of
Finаnϲe аnd Аϲϲounting.Voӏ.6, No.11, pp 130-137.
Bromwiϲh, M., 1990, The ϲаse for Strаtegiϲ Mаnаgement Аϲϲounting аnd FinаnϲiаӏАϲϲounting,
Journаӏ of Mаnаgement Аϲϲounting, Mаy.
Cаdez, S., & Guiӏding, C. 2008. Аn expӏorаtory investigаtion of аn integrаted ϲontingenϲy
modeӏ of strаtegiϲ mаnаgement аϲϲounting. Аϲϲounting, Orgаnizаtions аnd Soϲiety, 33(7-
8), 836-863.
Dwyer, F. R., 1989. Customer ӏifetime vаӏuаtion to support mаrketing deϲision mаking. Journаӏ
of Direϲt Mаrketing, 3(4), 8-15.
Fredluthans and Todd i, Stewart, 1977. Ageneral Contingency Theoryof management, Academy
of Management Review, 181-195
Guiӏding, C. & MϲMаnus, L. 2002. The inϲidenϲe, perϲeived merit аnd аnteϲedents of ϲustomer
аϲϲounting: аn expӏorаtory note. Аϲϲounting, Orgаnisаtion аnd Soϲiety, 27(1/2), 45–59.
Nguyễn Đình Thọ (2013).“Phương pháp nghiên ϲứu khoа họϲ trong kinh doаnh, NXB Tài ϲhính.
Huỳnh Đứϲ Lộng (2018). Bàn về những thаy đổi ϲủа kế toán ԛuản trị trong giаi đoạn ϲáϲh mạng
ϲộng nghệ 4.0. Kỷ yếu hội thảo khoа họϲԛuốϲ giа ESR – 2018, nhà xuất bản tài ϲhính,
86-96.
487
Hóa đơn điện tử - xu thế mới của các doanh nghiệp Việt Nam
trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Nguyễn Thị Diệu Thanh
Trường Đại học Quảng Bình
Email: dieuthanh2704@gmail.com
Mã bài: HTQG.47 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 16/11/2019
Ngày nhận bài: 05/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 20/11/2019
Tóm tắt
Hóa đơn điện tử là giải pháp cho doanh nghiệp thời công nghệ, mang lại nhiều lợi ích cho
các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý. Việc chuyển đổi từ giao dịch sử dụng hóa đơn giấy
sang hóa đơn điện tử là yêu cầu tất yếu của một hệ thống thương mại hiện đại. Tuy nhiên, việc
triển khai hóa đơn điện tử hiện nay vẫn còn gặp nhiều thách thức. Bài viết tập trung phân tích
ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến việc áp dụng hóa đơn điện tử tại Việt Nam.
Dựa trên kinh nghiệm quốc tế, tác giả đưa ra một số bài học kinh nghiệm nhằm tăng cường khả
năng áp dụng hóa đơn điện tử trong tương lai.
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, Hóa đơn giấy, Hóa đơn điện tử.
1. GIỚI THIỆU
Xã hội ngày càng phát triển, hóa đơn truyền thống dần không còn phù hợp, bởi những thủ
tục hành chính rườm rà như: tạo mẫu hóa đơn, in ấn, chờ phê duyệt, bảo quản, lưu trữ hóa đơn…
rất phức tạp và tốn kém thời gian, chi phí. Ngoài ra, hóa đơn truyền thống còn nhiều bất cập như
gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp (DN) và tình trạng gian lận hóa đơn, gây thất thoát không
nhỏ cho ngân sách Nhà nước. Những việc làm bất chính như gian lận hóa đơn, buôn bán hóa đơn
giả, đã tạo cơ hội trục lợi cho kẻ xấu, gây nhiều thiệt hại và bất lợi cho các DN chân chính và
thất thu lớn cho ngành thuế. Để loại bỏ hoàn toàn vấn nạn trên, hóa đơn điện tử (HĐĐT) đã được
áp dụng trong các DN, công ty, xí nghiệp nhằm loại bỏ những hạn chế còn tồn đọng của hóa đơn
truyền thống. Đây cũng là giải pháp được cơ quan thuế đánh giá là có tính khả thi cao, tạo thuận
lợi, minh bạch hơn cho DN trong thực hiện công tác thuế. Sử dụng HĐĐT để thay thế cho hóa
đơn giấy là phương thức tiên tiến, ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới.
Nghị định số 51/2010/NĐ-CP của Chính phủ đã đề cập đến việc triển khai áp dụng HĐĐT
do các DN tự lựa chọn và thí điểm sử dụng HĐĐT có mã xác thực của cơ quan thuế. Cũng theo
quy định tại Nghị định 119/2018/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 12/9/2018 và có hiệu lực
488
từ 1/11/2018, tổ chức, cá nhân khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ bắt buộc phải sử dụng HĐĐT.
Trong gần 10 năm triển khai, HĐĐT đã cho thấy nhiều lợi ích hơn so với hóa đơn giấy như: Góp
phần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tiết giảm thời gian, chi phí cho DN khi thực hiện
các thủ tục hành chính thuế. Đặc biệt, HĐĐT giúp khắc phục tình trạng làm giả hóa đơn.
Có thể nói, HĐĐT là giải pháp cho DN thời công nghệ, mang lại nhiều lợi ích cho các DN
và các cơ quan quản lý. Việc chuyển đổi từ giao dịch sử dụng hóa đơn giấy sang HĐĐT là yêu cầu
tất yếu của một hệ thống thương mại hiện đại, minh bạch. Tuy nhiên, việc triển khai HĐĐT hiện
nay vẫn còn gặp những thách thức. Bài viết tập trung phân tích những lợi ích mà HĐĐT đem lại
đối với DN và các cơ quan quản lý liên quan. Từ những thuận lợi và khó khăn gặp phải trong quá
trình áp dụng, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường áp dụng HĐĐT trong DN.
2. KHÁI QUÁT VỀ HÓA ĐƠN ĐIỆN TỬ
2.1. Khái niệm
Theo điều 3, nghị định số 119/2018/NĐ-CP, HĐĐT được định nghĩa như sau: “HĐĐT là
hóa đơn được thể hiện ở dạng dữ liệu điện tử do tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ
lập, ghi nhận thông tin bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, ký số, ký điện tử theo quy định tại Nghị
định này bằng phương tiện điện tử, bao gồm cả trường hợp hóa đơn được khởi tạo từ máy tính
tiền có kết nối chuyển dữ liệu điện tử với cơ quan thuế”.
Nói cách khác, HĐĐT là tập hợp các thông điệp dữ liệu điện tử về bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, được khởi tạo, lập, gửi, nhận, lưu trữ và quản lý bằng phương tiện điện tử. Đặc điểm của
HĐĐT là chỉ có 1 liên duy nhất, thay vì 3 liên như hóa đơn giấy trước đây. HĐĐT cũng có thể
chuyển đổi sang hóa đơn giấy để chứng minh nguồn gốc xuất xứ hàng hoá hữu hình trong quá
trình lưu thông và chỉ được chuyển đổi một lần.
2.2. Phân loại hóa đơn điện tử
Hóa đơn điện tử bao gồm các loại sau:
- Hóa đơn giá trị gia tăng là hóa đơn áp dụng đối với người bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ
thực hiện khai thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ. Hóa đơn giá trị gia tăng trong
trường hợp này bao gồm cả hóa đơn được khởi tạo từ máy tính tiền có kết nối chuyển dữ liệu
điện tử với cơ quan thuế.
- Hóa đơn bán hàng là hóa đơn áp dụng đối với người bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ thực
hiện khai thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp. Hóa đơn bán hàng trong trường hợp
này bao gồm cả hóa đơn được khởi tạo từ máy tính tiền có kết nối chuyển dữ liệu điện tử với cơ
quan thuế.
- Các loại hóa đơn khác, gồm: tem điện tử, vé điện tử, thẻ điện tử, phiếu thu điện tử, phiếu
xuất kho kiêm vận chuyển điện tử…
2.3. Lợi ích khi áp dụng hóa đơn điện tử
Nghiên cứu của Viện Chiến lược và chính sách tài chính (Bộ Tài chính) cho thấy, nhìn
chung tại nhiều quốc gia, đối tượng áp dụng HĐĐT chủ yếu là DN, người bán hàng, dịch vụ và
489
nhà cung cấp. Việc lập HĐĐT được áp dụng cho các đối tượng giao dịch B2G (giữa DN và
Chính phủ), B2B (giữa DN với DN), B2C (giữa DN và khách hàng cá nhân).
Theo đó, tại châu Âu, HĐĐT được sử dụng phổ biến ở các DN lớn. Việc triển khai HĐĐT
tại các DN nhỏ và vừa ở mức tương đối thấp mặc dù số lượng DNNVV chiếm tỷ lệ lớn (trên
90%) tổng số các DN ở Châu Âu. Các quốc gia sớm triển khai HĐĐT bao gồm Đan Mạch, Phần
Lan, Na Uy, Thụy Điển, Slovakia, Áo, Thụy Sỹ, Ý và Tây Ban Nha. Cụ thể, tại Thụy Điển,
HĐĐT được đưa vào triển khai từ cuối những năm 1980 cho đối tượng là DN. Sau khi Uỷ ban
châu Âu xác định HĐĐT trở thành một phần của kế hoạch hành động châu Âu điện tử, thì đến
năm 2014, Liên minh châu Âu đã ban hành một số chỉ thị yêu cầu chính quyền hành chính ở tất
cả 28 quốc gia thành viên đến năm 2018 phải sử dụng HĐĐT B2G.
Trong khi đó, ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, việc áp dụng HĐĐT đang ở các giai
đoạn khác nhau, mục đích là tạo điều kiện cho việc tuân thủ pháp luật thuế và cải thiện số thu thuế.
Tại Trung Quốc, cùng với việc cải cách quản lý thuế, cơ quan chức năng đã điện tử hóa con dấu,
chữ ký và hóa đơn thông qua công cụ xác nhận danh tính, giúp đảm bảo độ chính xác về thông tin.
Việc này cho phép cơ quan thuế có thể giám sát tức thì, thay vì giám sát hậu kỳ như trước đây. Cho
đến nay, Trung Quốc áp dụng HĐĐT cho tất cả các DN. Mỗi hóa đơn đều có mã QR, con dấu của
cơ quan thuế và hệ thống ký mã hiệu, dùng để quét thông tin trên từng hóa đơn. Thông qua HĐĐT,
cơ quan thuế có thể kiểm tra được lượng hàng tồn kho của DN. Theo lộ trình, Trung Quốc đang
thực hiện xây dựng ngành thuế điện tử nhằm thực hiện chiến lược số hóa quốc gia.
Ở Singapore, ngay từ năm 2003 đã áp dụng HĐĐT. Theo đó, DN có thể phát hành HĐĐT
mà không cần sự chấp thuận trước của cơ quan thu nội địa (IRAS), nhưng phải tuân thủ hướng
dẫn lưu giữ hồ sơ đăng ký. DN cũng có thể thuê bên thứ ba tạo HĐĐT và tín dụng điện tử. Từ
tháng 11/2008, các DN cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho Chính phủ đã bắt buộc phải phát hành
HĐĐT. Tương tự, năm 2014 Indonesia đã xây dựng cơ sở pháp lý để từ 1/7/2016, HĐĐT được
bắt buộc triển khai đối với toàn bộ các DN. Quy định này đã tránh được việc làm giả hóa đơn do
để sử dụng HĐĐT, các DN phải thực hiện một số yêu cầu về cài đặt ứng dụng do Tổng cục Thuế
cung cấp, sau đó DN sẽ nhận được “chứng chỉ điện tử”. Ngoài ra, HĐĐT còn giúp Indonesia
giảm số hoàn thuế trong khi số thu thuế GTGT tăng lên. Hàn Quốc đã triển khai hệ thống thuế
GTGT vào năm 1976, để giúp cải thiện thu thuế, quốc gia này đã yêu cầu áp dụng toàn bộ hóa
đơn điện tử đối với B2G (giữa DN và Chính phủ) và B2B (giữa DN với DN) vào năm 2010.
Mexico cũng là một quốc gia áp dụng rộng rãi hóa đơn điện tử từ năm 2010, sau khi công
bố thành công mô hình xuất Hóa đơn Điện tử qua Internet (CFDI). Chile đã giới thiệu hệ thống
hóa đơn điện tử vào năm 2002 và áp dụng cho tất cả các DN vào tháng 1 năm 2014. Tại
Argentina, quốc gia này đã sử dụng hóa đơn điện tử (một cách bắt buộc theo luật định) từ năm
2007. Trong năm 2016, việc thực hiện sử dụng hóa đơn điện tử đã hoàn thành và bắt buộc đối
với tất cả các đối tượng nộp thuế GTGT. Tại khu vực Châu Phi, phần lớn các quốc gia đang
trong giai đoạn đầu của việc áp dụng hóa đơn điện tử nên đối tượng áp dụng chủ yếu vẫn là các
DN lớn.
Từ thực tiễn áp dụng HĐĐT tại các quốc gia trên thế giới và một số DN Việt Nam từ năm
2010 đến nay, có thể rút ra những lợi ích của HĐĐT như sau:
490
2.3.1. Đối với doanh nghiệp
- Tiết kiệm chi phí vận chuyển, bảo quản hóa đơn
Với hóa đơn giấy, thủ tục đăng ký mẫu hóa đơn khá rườm rà. DN mất nhiều thời gian chờ
đợi cơ quan Thuế cấp phép. Sau khi có hóa đơn đặt in, DN phải tiến hành lưu trữ tại đơn vị.
Trong khi đó, việc sử dụng HĐĐT giúp DN tiết kiệm được thời gian phát hành, đăng ký. Đồng
thời, với tiện ích truy xuất online, khách hàng DN có thể sử dụng nhiều tùy chọn theo nhu cầu tại
đơn vị với phương thức lưu trữ đa dạng như: gửi trực tiếp cho người bán theo cách thức truyền
nhận HĐĐT đã thỏa thuận giữa hai bên như qua email, SMS hoặc thông qua hệ thống của tổ
chức trung gian cung cấp giải pháp HĐĐT. Như vậy, việc sử dụng HĐĐT giúp DN giảm chi phí
hơn so với sử dụng hóa đơn giấy như: chi phí giấy in, mực in, chi phí chuyển hóa đơn cho khách
hàng và đặc biệt là giảm chi phí lưu trữ hóa đơn; giảm thời gian tìm kiếm hóa đơn; tăng cường
khả năng bảo mật; giúp việc lưu trữ, quản lý hóa đơn vĩnh viễn; không có rủi ro mất, nhàu nát
như khi lưu trữ hóa đơn giấy.
- An toàn, bảo mật, chống làm giả hóa đơn
Mỗi HĐĐT đều có mã xác thực của Tổng cục gắn liền với mã số thuế của DN, khách hàng
hoàn toàn có thể tra cứu được trên website chính thức của cơ quan thuế, việc giả mạo hóa đơn là
không thể. Điều này góp phần tạo dựng niềm tin nơi khách hàng và nâng cao uy tín của các DN
làm ăn chân chính.
- Giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính thuế
Việc quản lý hóa đơn giấy phải nhất thiết cẩn thận. Nếu để mất hóa đơn, DN sẽ phải giải
trình chi tiết và hợp lý với cơ quan thuế. Hàng tháng, kế toán sẽ phải thống kê về tình hình sử
dụng hóa đơn như: Số hóa đơn đã sử dụng; Số hóa đơn bị hỏng do gạch xóa; Số hóa đơn chưa
được sử dụng để cơ quan thuế kiểm soát tình hình tài chính của công ty. Khi DN sử dụng HĐĐT,
cơ bản các thủ tục hành chính thuế của DN cũng được thực hiện điện tử. Theo đó, DN chỉ cần
thông báo qua mạng gửi đến cơ quan thuế về việc sử dụng HĐĐT và được sử dụng ngay sau khi
thông báo được chấp nhận. Cùng với đó, DN không phải đăng ký mẫu HĐĐT, không phải gửi
báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn đến cơ quan thuế do phần mềm tạo HĐĐT cho phép tự xác
định số lượng HĐĐT sử dụng, vì vậy không xảy ra tình trạng nộp chậm báo cáo và không bị xử
lý phạt cho việc không nộp hoặc nộp chậm báo cáo. Nhờ vậy, DN sẽ không phải đầu tư nguồn
nhân lực cho công việc kế toán thuế, nhân lực giải quyết các công việc báo cáo, thực hiện các thủ
tục hành chính liên quan tới hóa đơn, thuế.
- Nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng
Chất lượng dịch vụ khách hàng được cải tiến vì HĐĐT có quá trình xử lý nhanh hơn và ít
sai sót hơn. Kết quả là mức độ hài lòng của khách hàng được nâng cao. Bên cạnh đó, sử dụng
HĐĐT giúp DN khẳng định sự uy tín bởi khả năng chống hóa đơn giả, thất thu ngân sách…
Với sự tiện lợi và chuyên nghiệp đó, DN đã khẳng định được khả năng cạnh tranh với đối thủ
trong việc giữ chân khách hàng và nội hàm DN trong việc điện tử hóa nghiệp vụ kế toán, áp
dụng công nghệ.
491
2.3.2. Đối với cơ quan thuế
Với việc HĐĐT sẽ dần thay thế vị trí của hóa đơn giấy trong giao dịch mua bán hàng hóa,
dịch vụ, công tác quản lý của cơ quan thuế được thực hiện theo hướng hiện đại hóa trên cơ sở áp
dụng công nghệ thông tin để thu thập, tổng hợp, báo cáo dữ liệu từ HĐĐT, thay vì các phương
pháp thủ công như sử dụng hóa đơn giấy. Hệ thống cơ sở dữ liệu về HĐĐT nàu có thể phục vụ
hiệu quả cho công tác thanh tra, kiểm tra, hoàn thuế, phân tích rủi ro DN, cá nhân kinh doanh.
Bên cạnh đó, HĐĐT cũng giúp cơ quan Hải quan tại các cửa khẩu, sân bay nhanh chóng có
thông tin để thực hiện hoàn thuế. Cơ quan Thuế và các cơ quan khác của Nhà nước không tốn
chi phí thời gian đối chiếu hóa đơn, thông tin về hóa đơn của DN được tập trung tại cơ quan thuế
một cách liên tục nên cơ quan thuế có ngay thông tin về doanh thu, chi phí hàng ngày của DN,
kịp thời phát hiện ra những bất thường khi DN xuất hóa đơn. Ngoài những lợi ích trên, việc sử
dụng HĐĐT cũng giúp cơ quan thuế kịp thời ngăn chặn hóa đơn của các DN bỏ trốn, mất tích,
khắc phục tình trạng làm giả hóa đơn, tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các DN,
thúc đẩy thương mại điện tử phát triển. Đồng thời, sử dụng HĐĐT góp phần bảo vệ môi trường;
khắc phục được trình trạng gian lận sử dụng bất hợp pháp hóa đơn - lập hóa đơn sai lệch nội
dung giữa các liên.
3. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP (CMCN) 4.0 ĐẾN QUÁ
TRÌNH ÁP DỤNG HOÁ ĐƠN ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM
3.1. Thời cơ
Thời gian qua, khái niệm “cuộc CMCN 4.0” được nhắc đến nhiều trên truyền thông và
mạng xã hội. Cùng với đó là những hứa hẹn về những thay đổi của các DN tại Việt Nam nếu đón
được làn sóng này. Bản chất của công nghệ 4.0 là xu hướng hiện thời trong việc tự động hoá và
trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống không gian mạng thực-ảo
(cyber-physical system), Internet vạn vật và điện toán đám mây và điện toán nhận thức.
Thời kỳ CMCN 4.0 đến là lúc mọi phương thức thanh toán, giao dịch hàng hóa phải thay
đổi. Trong nền công nghiệp 4.0, mọi DN muốn thành công đều phải áp dụng công nghệ thông
tin, tự động hóa để tăng năng suất và giảm chi phí. Theo xu hướng này, nhiều DN đã và đang cải
tiến theo hướng tự động hóa, áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý, quản trị. Cùng với sự
phát triển của công nghệ số, việc áp dụng HĐĐT trong thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước
là tất yếu và phù hợp với các công nghệ tiên tiến đang được áp dụng trên thế giới như Mobile
banking, Internet Banking, SMS Banking... giúp triển khai dễ dàng và thực hiện nhanh chóng,
hiệu quả. Những ảnh hưởng của CMCN 4.0 đến Việt Nam là không tránh khỏi. Một trong những
thuận lợi khiến Việt Nam dễ dàng tiếp cận các công nghệ mới mà CMCN 4.0 đem lại đó là mức
độ phổ cập internet khá cao so với các nước trên thế giới. Việc kết nối mạng bằng wifi hay 3G,
4G ở Việt Nam hiện đã trở nên rất dễ dàng và đơn giản. Đây cũng là một trong những điều kiện
cần để có thể triển khai HĐĐT nhanh chóng, với mức chi phí không quá lớn.
CMCN 4.0 đặt ra những yêu cầu mới cho DN, đòi hỏi DN phải tiếp cận những lĩnh vực
mới, quy trình hoạt động kinh doanh phải được công nghệ hóa, tiết kiệm chi phí nhân công tối đa
492
mới có thể nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường. Các DN công nghệ và viễn thông Việt
Nam cũng bắt nhịp nhu cầu thị trường trong thời đại 4.0 khá nhanh nhạy. Bằng chứng là thị
trường HĐĐT hiện nay đã xuất hiện nhiều nhà cung cấp có uy tín, DN có nhiều sự lựa chọn phù
hợp với nhu cầu cũng như điều kiện của mình. Việc sử dụng phần mềm HĐĐT được thiết kế sao
cho đơn giản. Để sử dụng, các DN chỉ cần đăng ký sử dụng với nhà cung cấp để có giấy phép sử
dụng phần mềm.
3.2. Thách thức
Trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0, việc áp dụng HĐĐT tại Việt Nam còn gặp những khó
khăn, thách thức như:
- Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin còn hạn chế
Việc áp dụng HĐĐT cần một hạ tầng kỹ thuật tốt, nhưng không phải DN nào cũng sẵn
sàng đáp ứng được yêu cầu về mặt hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin, viễn thông. Nhất là các
DN nhỏ và vừa thường chậm trong việc tiếp cận công nghệ, ngại thay đổi.
Khi sử dụng HĐĐT, việc phát hành hóa đơn từ người bán, chuyển đến người mua sẽ phụ
thuộc vào đường truyền của tổng cục thuế, nhiều DN lo ngại tình trạng nghẽn mạng của tổng cục
thuế do bên bán phải xác thực với tổng cục thuế trước khi phát hành cho bên mua. Hiện nay, tình
trạng nghẽn mạng thường xảy ra nhiều nhất khi đến kỳ khai thuế của tháng hoặc của quý. Khi áp
dụng HĐĐT có mã xác thực, nếu khách hàng mua hàng xong mà hóa đơn không xuất được vì
mạng nghẽn thì phiền phức cho DN.
- Bảo mật thông tin chưa cao
Hạ tầng công nghệ chưa cao dẫn đến hậu quả là các DN dễ bị tấn công bởi các vấn nạn như
tin tặc, hay mất an toàn, an ninh mạng... Việc lưu giữ hóa đơn trên một hệ thống không thuộc
tầm kiểm soát của DN khiến họ chưa hoàn toàn an tâm. Những rủi ro về mất dữ liệu, mất hóa
đơn, tiết lộ thông tin là điều khiến nhiều DN khá đau đầu khi chọn đơn vị cung cấp HĐĐT.
Trình độ hiểu biết về công nghệ thông tin của đội ngũ kế toán DN còn non yếu
Tại Việt Nam, công tác kế toán, kiểm toán hiện nay chủ yếu được thực hiện trên hồ sơ,
giấy tờ.Trong khi CMCN 4.0 lại chuyển hóa toàn bộ các dữ liệu đó thành thông tin điện tử,
vừa đa dạng, vừa khó nắm bắt.Thực tế cho thấy, kiến thức, hiểu biết, trình độ ứng dụng công
nghệ thông tin của các kế toán viên hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đồng đều; Công tác
đào tạo cũng chỉ mới dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức nền, chưa chuyên sâu, đa ngành, nhất
là đối với những kiến thức mang tính đặc thù công nghệ, bảo mật và trí tuệ nhân tạo… Do vậy
về lâu dài nếu kế toán viên không am hiểu về công nghệ, sẽ khó khăn trong thực hiện các phần
hành công việc.
Chính vì những lí do trên, tuy HĐĐT có nhiều ưu điểm, CMCN 4.0 cũng đem đến nhiều
thuận lợi, song việc chuyển đổi hoàn toàn sang hình thức mới là cực kì khó khăn, đòi hỏi cần
thời gian và nỗ lực của tất cả các bên, cả DN lẫn cơ quan quản lý.
493
4. KINH NGHIỆM ÁP DỤNG HĐĐT TỪ CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI
HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
4.1. Về phương thức triển khai
Mỗi quốc gia có những cách thức lập HĐĐT riêng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
người nộp thuế và cơ quan thuế. Ở Hàn Quốc, việc lập HĐĐT được thực hiện theo 3 cách:
Thứ nhất, nếu lập trên hệ thống HomeTax, Mobile HomeTax của cơ quan thuế, người nộp
thuế được miễn chi phí lập HĐĐT và không cần đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin. Thông tin
hóa đơn được tự động gửi tới cơ quan thuế ngay khi người nộp thuế phát hành. Hiện, có khoảng
30% DN lựa chọn hình thức này.
Thứ hai, lập hóa đơn bằng cách gọi điện thoại tới hệ thống ARS và thực hiện theo hướng
dẫn. Việc chứng minh tính hợp lệ của người bán được thực hiện bằng cách nhập thông tin trên
thẻ bảo mật.
Thứ ba, lập hóa đơn trên hệ thống ERP, ASP (nhà cung cấp dịch vụ trung gian). Hệ thống
ERP và ASP phải tuân thủ chuẩn dữ liệu hóa đơn thuế điện tử và chuẩn kết nối cơ quan thuế đã
ban hành. DN cung cấp ASP phải gửi hóa đơn đã được phát hành tới cho cơ quan thuế sau 1 ngày.
Ở phần lớn các nước Mỹ La tinh, quy trình triển khai HĐĐT lại bắt đầu với đối tượng là
người bán hàng và dịch vụ. Theo đó, người cung cấp hàng hoá và dịch vụ phải gửi một tệp hóa đơn
tiêu chuẩn tới cơ quan thuế trung ương để phê duyệt trước khi hàng hóa và dịch vụ được bán ra.
Khi được chấp thuận, người bán in một bản sao của hóa đơn đã được phê duyệt và gửi
cùng với hàng hóa được giao. Đồng thời, công ty bán hàng gửi cho đối tác HĐĐT được ủy
quyền qua e-mail. Khi hàng hóa đến nơi, đối tác mua có thể xác nhận hóa đơn bằng cách kết hợp
phiên bản điện tử nhận được thông qua e-mail với bản sao giấy nhận được cùng với hàng hóa
hoặc dịch vụ.
Bài học cho Việt Nam: Nhà nước cần quan tâm đánh giá chính xác năng lực hệ thống
công nghệ thông tin của các DN, của các cơ quan quản lý Nhà nước và của toàn xã hội hiện tại;
đồng thời, sớm nghiên cứu, xây dựng được mô hình, phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin
thực hiện HĐĐT tối ưu làm cơ sở xác định được quy mô đầu tư, định hướng hoạt động của DN
và của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan.
4.2. Về chia sẻ dữ liệu trong hệ thống hóa đơn điện tử
Hệ thống hóa đơn của Đài Loan là duy nhất trên thế giới theo nghĩa rằng mọi hóa đơn phải
tuân theo cùng một định dạng in ấn được chính phủ quy định. Hệ thống HĐĐT thế hệ đầu tiên
nhắm mục tiêu chủ yếu vào các giao dịch giữa DN và DN (B2B) và các giao dịch trực tuyến,
chiếm ít hơn 4% trong tổng số hoá đơn phát hành tại Đài Loan. Hệ thống HĐĐT thế hệ thứ hai
hoạt động trên nền tảng HĐĐT, chứa tất cả các dịch vụ phần cứng và phần mềm để tạo ra,
chuyển nhượng, trao đổi, lưu trữ và xử lý HĐĐT. Dựa vào cách sử dụng của nó, hệ thống có thể
được mô tả từ hai quan điểm: B2C (DN và khách hàng) và B2B.
Các giao dịch B2C: Vòng đời của một HĐĐT B2C được mô tả trong Hình 1.
494
(Nguồn: Sheng-Chi Chen, Cheng-Chieh Wu, Scott Miau, 2015)
Hình 1. Luồng dữ liệu B2C
Các giao dịch B2B: Nền tảng HĐĐT cũng đóng vai trò then chốt trong các giao dịch B2B.
Đối với các công ty có hệ thống ERP (Enterprise Resource Planning), họ cần phải kết nối hệ
thống của mình với nền tảng thông qua phần mềm được đặt tên là AP2AP Gateway. Thông qua
đó, dữ liệu hóa đơn được tải lên nền tảng, như trong Hình 2. Trong quá trình giao dịch, người
mua phải xuất trình USN (Uniform Serial Number) của mình để người bán tạo ra một hóa đơn
được lưu trữ trên một “vật mang” hoặc in trên giấy nếu được yêu cầu. Dù bằng cách nào, một
bản sao của dữ liệu được tải lên nền tảng và sau đó phân loại theo các USN. Hai bên sau đó bắt
đầu xác nhận giao dịch với thông tin trích xuất từ nền tảng thông qua cổng. Cả hai bên sẽ báo
cáo việc bán hàng và các khoản thuế thu được đến Trung tâm dữ liệu tài chính (gần đây được đổi
tên thành Cơ quan thông tin tài chính) chịu trách nhiệm kiểm toán và kiểm tra chéo. Thông tin
sau đó sẽ được chuyển cho Cơ quan quản lý Thuế quốc gia, nơi tìm kiếm các bất thường và cung
cấp quyền truy cập vào kết quả kiểm tra.
Thông
tin xổ số
6. Nhận giải thưởng
(biên lai giấy)
Bưu điện
1. Đăng ký
2. Nhập
4. Yêu cầu
5. Kiểm tra xổ số
6. Nhận giải
1. Đăng ký
2. Nhập
4. Yêu cầu
5. Kiểm tra xổ số
6. Nhận giải
E - INVOICE
PLATFORM
Thông tin
xổ số
B. Tải hóa đơn lên
Đăng ký và chuyển quỹ
Doanh nghiệp
B. Tải hóa đơn lên Tổ chức từ thiện
Khách hàng Tặng
3. Yêu cầu hóa đơn điện tử (sử
dụng phương tiện)
5. Kiểm tra xổ số
6. Nhận giải
POS
A. Tạo hóa điện tử
(hoặc in)
C. Cung cấp truy cập yêu cầu
D. Quy trình giá trị gia tăng
Truy cập
KIOSK
495
(Nguồn: Sheng-Chi Chen, Cheng-Chieh Wu, Scott Miau, 2015)
Hình 2. Luồng dữ liệu B2B
Kể từ khi ra đời khái niệm HĐĐT từ năm 2000, Chính phủ Đài Loan đã trải qua một số lần
lặp lại để hoàn thành dự án phức tạp. Kết quả là một cơ sở dữ liệu chính xác hơn về các giao dịch
tại Đài Loan đã cho phép chính phủ hạn chế các hóa đơn được phát hành gian lận và kiểm soát
tốt hơn các nguồn thuế. Chính phủ Đài Loan đã nỗ lực rất nhiều trong việc thúc đẩy HĐĐT cho
các DN bằng các chính sách để dỡ bỏ các hạn chế pháp lý và giảm các rào cản công nghệ. Chính
phủ đã thay đổi chính sách trong luật kế toán và kiểm toán cho phép HĐĐT thay thế hợp pháp
hóa đơn giấy truyền thống trong một số thủ tục nhất định tạo hành lang pháp lý cho việc xây
dựng một quy trình liên quan đến thuế được số hóa hoàn toàn.
Bài học cho Việt Nam: Các cơ chế, chính sách thúc đẩy HĐĐT của Chính phủ Đài
Loan là một tham khảo hữu ích cho các cơ quan nhà nước Việt Nam trong quá trình xây
dựng các chính sách thúc đẩy kết nối và chia sẻ dữ liệu góp phần xây dựng Chính phủ điện tử
hướng tới Chính phủ số.Các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến các cấp chính
quyền địa phương phải xác định đây là một trong các giải pháp trọng yếu cần sớm tổ chức
triển khai sâu rộng, để thực hiện cải cách thủ tục hành chính và thúc đẩy phát triển sản xuất
kinh doanh, tự do hóa thương mại. Tổng cục Thuế là cơ quan tổ chức xây dựng, quản lý và
tiến hành phát triển cơ sở dữ liệu, kỹ thuật hạ tầng của hệ thống thông tin về hóa đơn; đồng
thời có nhiệm vụ tổ chức thực hiện thu thập, xử lý các thông tin, quản lý cơ sở dữ liệu hóa
đơn và đảm bảo việc duy trì, vận hành, bảo mật và đảm bảo an toàn, an ninh hệ thống thông
tin về hóa đơn đã được tạo lập. Bên cạnh đó, Tổng cục Thuế phải có sự phối hợp với các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc đồng bộ dữ liệu HĐĐT để trao đổi thông tin và
tiến hành kết nối mạng trực tuyến.
Cơ quan quản lý Thuế quốc gia,
Bộ Tài chính
Trung tâm Dữ liệu tài chính,
Bộ Tài chính
E – Invoice Platform
ERP AP 2AP Gateway ERP AP 2AP Gateway
Người mua Người bán
496
4.3. Về chế tài xử phạt
Chế tài xử phạt về HĐĐT của các nước rất khác nhau. Một số quốc gia như Hàn Quốc,
Indonesia áp dụng hình thức HĐĐT bắt buộc đối với tất cả các DN. Trong khi, Mexico hay Chile
lại yêu cầu áp dụng đối với một số nhóm DN có doanh thu trên ngưỡng quy định.
Đan Mạch bắt buộc sử dụng HĐĐT cho một số loại hình giao dịch. Bên cạnh đó, để thúc
đẩy việc sử dụng HĐĐT, một số nước áp dụng cơ chế khuyến khích, như cho phép giảm trừ vào
nghĩa vụ thuế một số tiền nhất định cho mỗi HĐĐT sử dụng.Ngược lại, đối với những quốc gia
yêu cầu bắt buộc, thì thường có chế tài đối với trường hợp không tuân thủ.
Điển hình là tại Hàn Quốc, hành vi không lập HĐĐT, người bán bị phạt 2% trên giá trị
giao dịch, người mua không được khấu trừ thuế. Nếu lập hóa đơn trong chu kỳ khai thuế (quý)
nhưng sau thời gian quy định của ngày lập (sau ngày mồng 10 tháng sau), người bán, người mua
đều bị phạt 1% giá trị giao dịch. Nếu lập hoá đơn nhưng không cung cấp hàng hóa dịch vụ thì cả
người bán và người mua đều bị phạt 2% giá trị giao dịch. Nếu người bán chuyển hóa đơn cho cơ
quan thuế sau từ 2 ngày phát hành trở lên và trước ngày 11 của tháng tiếp theo sẽ bị phạt 0,1%
giá trị giao dịch đối với cá nhân, 0,5% giá trị giao dịch với tổ chức. Nếu người bán không chuyển
hóa đơn cho cơ quan thuế trước ngày 11 của tháng tiếp theo sẽ bị phạt 0,3% đối với cá nhân, 1%
đối với tổ chức. Nếu không phát hành HĐĐT, không chuyển hóa đơn, chuyển hóa đơn muộn sẽ
bị phạt 50 triệu KRW đối với DN nhỏ và 100 triệu KRW đối với DN vừa và lớn. Trường hợp
DN cố tình vi phạm các quy định về HĐĐT thì không hạn chế mức phạt tối đa.
Bài học cho Việt Nam: Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng về các lợi ích của
việc sử dụng HĐĐT đối với các DN, đối với công tác quản lý nhà nước và đối với toàn xã hội,
chú trọng nội dung phổ biến về mục tiêu, định hướng áp dụng HĐĐTtrên diện rộng trong thời
gian tới theo nguyên tắc bắt buộc thay cho nguyên tắc khuyến khích áp dụng. Bộ Tài chính và
Tổng cục thuế cũng cần thiết hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định về hóa đơn. Theo đó, cần
sớm luật hóa ở cấp văn bản quy phạm pháp luật cụ thể bắt buộc các DN phải thực hiện HĐĐT
theo lộ trình nhanh; có chế tài xử lý đối với các DN cố tình trì hoãn việc áp dụng…
5. KẾT LUẬN
Cuộc CMCN 4.0 diễn ra ngày càng mạnh mẽ buộc các DN phải nâng cao khả năng cạnh
tranh để đủ sức đứng vững và khẳng định vị thế trên thương trường. Chuyển đổi sang sử dụng
HĐĐT là một đòi hỏi bức thiết của DN nhằm hướng đến thực hiện mục tiêu của Chính phủ và
lợi ích của DN trong việc phát triển bền vững, đồng thời đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính
trong công tác quản lý của cơ quan nhà nước. Đây cũng là một trong những giải pháp cụ thể để
Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính hướng tới mục tiêu hỗ trợ DN, cải thiện môi trường kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh định hướng đến năm 2020. Tuy nhiên, để HĐĐT trở nên phổ cập
thì cần rất nhiều nỗ lực của cơ quan quản lý, của DN cung cấp dịch vụ để thay đổi nhận thức, tư
duy của người dân và công đồng DN kinh doanh tại Việt Nam. Lợi ích của việc sử dụng HĐĐT
là rất lớn và thời gian để chính thức bắt buộc áp dụng cũng không còn xa. Do vậy, các DN nên
chủ động tìm hiểu và triển khai sớm để hưởng những lợi ích thiết thực và tránh những vướng
mắc khi bắt buộc sử dụng HĐĐT.
497
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chính phủ (2018), Nghị định số 119/2018/NĐ-CP: Quy định về HĐĐT khi bán hàng hóa, cung
cấp dịch vụ ban hành ngày 12 tháng 9 năm 2018.
Nguyễn Thị Thu Trang, Nông Thị Kim Dung (2018), Lợi ích và khó khăn khi áp dụng HĐĐT.
https://vhoadon.com.vn/loi-ich-va-kho-khan-khi-ap-dung-hoa-don-dien-tu/
Ha Giang Le (2018), Adoption of E-invoicing in Vietnam, Case: Electricity of Vietnam Group,
Danang Power Company, Bachelor’s thesis Lahti University of Applied Sciences LTD
R. Cimander, H. Kubicek, and M. H. Brun (2007), eInvoicing in Denmark, eGovernment Unit,
Information Society and Media Directorate-General, European Commission, Tech. Rep.
F. M. Coss (2011), E-invoicing in Mexico, in EXPP Summit. Barcelona, Spain: SAT.
EBA & Innopay (2010), E-invoicing 2010: European market guide. Available at:
https://www.abe-eba.eu/Documents-N=E-InvoicingDocuments-L=EN.aspx.
Yuh-Jzer Joung, Yen-Chung Tseng et al (2014), Motivations, Deployment, and Assessment of
Taiwan’s e-Invoicing System: An Overview, 47th Hawaii International Conference on
System Science.
Keifer, Steve (2011), E-invoicing: The catalyst for financial supply chain efficiencies, Journal of
Payments Strategy & Systems, Volume 5, Number 1, pp. 38-51(14)
N. O. De Mello et al (2009), “The evolution of the electronic tax documents in Latin America,”
in Proceedings of the 8th WSEAS international conference on System science and
simulation in engineering, World Scientific and Engineering Academy and Society
(WSEAS), pp. 294–301.
T. Rautajoki (2003), A comparison of electronic invoicing solutions in the EU and the effects of
the EU directives, Ph.D. dissertation, Swedish Schools of Economics and Business
Administration.
M. Salmony and B. Harald (2010), “E-invoicing in Europe: Now and the future,” Journal of
Payments Strategy & Systems, vol. 4, no. 4, pp. 371–380.
S. Sprague (2012), Latin America eInvoicing vs. European Union eInvoicing. [Online].
Available: http://www.finextra.com/community/fullblog.aspx?blogid=6317
Sheng-Chi Chen, Cheng-Chieh Wu, Scott Miau (2015), Constructing an integrated e-invoice
system: The Taiwan experience, Transforming Government: People, Process and Policy,
Vol. 9 No. 3, pp. 370-383.
Tae Sup Shim, In Kuk Song (2016), Critical Success Factors of the Web-based Tax Invoice
System in Korea, KSII transactions on internet and information systems, vol. 10, No. 9, pp.
4478-4507.
498
Các kỹ thuật khai phá dữ liệu và tỷ số tài chính được sử dụng trong
phát hiện gian lận báo cáo tài chính
Nguyễn Thị Liên Hương
Đại học Thương mại
Email: lh1684@tmu.edu.vn
Mã bài: HTQG.48 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 12/11/2019
Ngày nhận bài: 06/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2019
Tóm tắt
Gian lận báo cáo tài chính là một loại gian lận góp phần gây ra tổn thất lớn nhất cho doanh
nghiệp. Trong kỷ nguyên của dữ liệu lớn, việc phát hiện gian lận báo cáo tài chính bằng cách sử
dụng các phương pháp khai phá dữ liệu (data mining) trở nên khả thi và hiệu quả hơn so với
trước đây. Bước đầu tiên trong việc thực hiện hệ thống phát hiện gian lận báo cáo tài chính bằng
phương pháp khai phá dữ liệu là xác định các kỹ thuật khai phá dữ liệu phù hợp, tiếp theo là xác
định các tỷ số tài chính quan trọng trong việc phát hiện gian lận báo cáo tài chính. Trong số các
kỹ thuật khai phá dữ liệu có 5phương pháp được sử dụng phổ biến và trong 110 tỷ số tài chính và
phi tài chính được phân tích trong nghiên cứu được công bố trước đây, có 8 tỷ số có thể được
xác định là có ý nghĩa nhất để hình thành mô hình phát hiện gian lận trong báo cáo tài chính
bằng phương pháp khai phá dữ liệu.
Từ khóa: Gian lận báo cáo tài chính, tỷ số tài chính, khai phá dữ liệu.
1. GIỚI THIỆU
Theo định nghĩa của Hiệp hội kiểm tra gian lận chứng nhận, ACFE: “Gian lận báo cáo tài
chính hàm ý về việc cố tình trình bày sai về tình trạng tài chính của một doanh nghiệp thông qua
việc cố ý làm sai hoặc bỏ sót các khoản tiền hoặc tiết lộ trong báo cáo tài chính để lừa đảo người
sử dụng báo cáo tài chính”.
Trong ba loại gian lận chính được phân loại bởi Hiệp hội kiểm tra gian lận chứng nhận
(tham nhũng, chiếm dụng tài sản và gian lận báo cáo tài chính), gian lận báo cáo tài chính gây
thiệt hại lớn nhất cho doanh nghiệp (ACFE, 2016). Ảnh hưởng của nó đối với một số lượng lớn
các bên liên quan là không thể tránh khỏi, vì chỉ trong một năm, nó đã gây ra tổn thất trung bình
975.000 đô la, mất khoảng 24 tháng để khám phá và chiếm 9,5% các vụ lừa đảo được phân tích
(ACFE, 2016). Về lâu dài, gian lận báo cáo tài chính cũng có thể ảnh hưởng trực tiếp và đáng kể
đến nền kinh tế.
499
Khai phá dữ liệu là quá trình điều tra và phân tích lượng lớn dữ liệu với sự trợ giúp của các
phương pháp tự động hoặc bán tự động với mục tiêu phát hiện ra các mẫu có ý nghĩa. Ở giai
đoạn hiện nay, có thể truy cập được lượng thông tin và dữ liệu lớn, có thể phát triển các phương
pháp khai phá dữ liệu. Đây là một lĩnh vực tương đối mới của khoa học máy tính kết hợp các
phương pháp thống kê, trí tuệ nhân tạo và quản lý dữ liệu. Mặc dù trong thực tế khai phá dữ liệu
thường được áp dụng trong ngân hàng (ví dụ: đánh giá xếp hạng tín dụng), bán hàng (ví dụ như
kỹ thuật bán chéo) và thuốc (ví dụ: phát hiện sớm các bệnh), nó cũng có thể được sử dụng để
phát hiện các loại gian lận khác nhau trong kinh doanh. Tính minh bạch và quyền truy cập công
khai vào báo cáo tài chính là điều kiện tiên quyết cần thiết cho việc sử dụng các phương pháp
khai phá dữ liệu để tự động phát hiện các doanh nghiệp có dấu hiệu gian lận báo cáo tài chính.
Đối với loại phát hiện này, điều cần thiết là phải làm quen với các đặc điểm (mô hình) của gian
lận và để xác định các chỉ số có thể gợi ý rằng gian lận tồn tại. Sau khi xác định các chỉ số gợi ý
gian lận báo cáo tài chính tồn tại, có thể kết nối chúng với các phương pháp khai phá dữ liệu,
cuối cùng, dẫn đến việc tạo ra một mô hình sẽ phát hiện gian lận báo cáo tài chính tiềm năng.
Có hai phê bình chính của nghiên cứu đã được thực hiện cho đến nay liên quan đến việc
phát hiện gian lận bằng phương pháp khai phá dữ liệu, đó là: (1) Sự thiếu hụt dữ liệu có sẵn công
khai sẽ là cơ sở để thực hiện nghiên cứu; (2) Thiếu phương pháp và kỹ thuật đã được nghiên cứu
và công bố tốt (Phua và cộng sự, 2010).
Các công cụ phát hiện gian lận tài chính đã được đưa vào xem xét để giải quyết vấn đề này
và cung cấp các giải pháp đáng tin cậy cho doanh nghiệp. Gian lận tài chính thường được phát
hiện thông qua quy trình phát hiện bên ngoài (Jayakumar và Thomas, 2013) được kích hoạt bởi
các kỹ thuật khai phá dữ liệu, cũng xác định thông tin có giá trị bằng cách tiết lộ các xu hướng,
mối quan hệ, mô hình ẩn trong cơ sở dữ liệu lớn (Hassani và cộng sự, 2008). Khai phá dữ liệu,
được định nghĩa là một quy trình sử dụng các kỹ thuật thống kê, toán học, trí tuệ nhân tạo và
máy học để trích xuất và xác định thông tin hữu ích và sau đó có được kiến thức từ cơ sở dữ liệu
lớn,Olszewski (2014) đã chỉra các gian lận tài chính khác nhau có thể được phát hiện thông qua
các phương pháp đa dạng cảu khai phá dữ liệu, như hồi quy logistic, cây quyết định, máy vectơ
hỗ trợ (SVM), mạng Neural (NN) và Naive Bayes. Các kỹ thuật này tỏ ra vượt trội so với các kỹ
thuật khác trong một bối cảnh tài chính cụ thể. Glancy và Yadav (2011) chia các bối cảnh đó
thành ba lĩnh vực chính: nội bộ, bảo hiểm và tín dụng. Jans và cộng sự (2011) tiếp tục phân loại
gian lận nội bộ thành hai loại: gian lận báo cáo tài chính và gian lận giao dịch. Họ định nghĩa
gian lận báo cáo tài chính là một sự cố ý làm sai lệch các giá trị tài chính nhất định để tăng
cường sự xuất hiện của lợi nhuận và lừa dối các cổ đông hoặc chủ nợ, trong khi gian lận giao
dịch nắm bắt quy trình cướp tài sản của tổ chức.
Mặc dù phát hiện gian lận tài chính được coi là ưu tiên cao đối với nhiều tổ chức, tài liệu
hiện tại thiếu một đánh giá cập nhật, toàn diện và chuyên sâu có thể giúp các công ty quyết định
lựa chọn kỹ thuật khai phá dữ liệu phù hợp. Ngai và cộng sự (2011)đã cung cấp một đánh giá tài
liệu được tổ chức tốt và chi tiết về việc phát hiện gian lận tài chính thông qua các phương pháp
khai phá dữ liệu dựa trên 49 bài viết từ 1997 đến 2008 và Albashrawi và Lowell (2016) đã đánh
giá tài liệu liên quan trong giai đoạn 2004-2015. Tuy nhiên thời gian gần đây có sự bùng nổ
500
nhiều hơn về các nghiên cứu liên quan ứng dụng của khai phá dữ liệu trong phát hiện gian lận
báo cáo tài chính. Điều này đã thúc đẩy bài viết này mở rộng đánh giá và đóng góp của các
nghiên cứu tổng hợp trước đây.
Bài viết này xem xét các nghiên cứu chính trong lĩnh vực phát hiện gian lận báo cáo tài
chính bằng các phương pháp khai phá dữ liệu được thực hiện trong giai đoạn 2014-2019. Mục
đích của bài viết này, trên cơ sở kết quả của các nghiên cứu trước đây, 1) tiết lộ kỹ thuật nào có
thể mang lại độ chính xác phân loại cao hơn trong việc phát hiện gian lận tài chính, 2) xác nhận
giả thuyết rằng các tỷ số tài chính là chỉ số mạnh mẽ trong việc phát hiện gian lận báo cáo tài
chính, 3) phân tích chứng minh rằng một số tỷ số tài chính nhất định có ý nghĩa đặc biệt trong
việc phát hiện gian lận báo cáo tài chính.
2. PHÂN TÍCH CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC DÂY
Trong 15 năm qua, một số lượng lớn các bài báo đã được xuất bản trong lĩnh vực phát hiện
gian lận báo cáo tài chính bằng các phương pháp khai phá dữ liệu. Quá trình khai phá dữ liệu tự
trải qua các giai đoạn riêng biệt, được xác định bởi phương pháp, cuối cùng, dẫn đến việc phát
hiện thông tin mới. Mặc dù có một số phương pháp, phổ biến nhất là CRISP_DM (Cross-
Industry Process for Data Mining), bao gồm các giai đoạn sau:
i) Hiểu vấn đề và dữ liệu, bao gồm xác định kết quả của dự án (hiểu doanh nghiệp) và làm
quen với dữ liệu có sẵn với mục tiêu phát hiện dữ liệu hữu ích cần thiết để hình thành giả thuyết
(hiểu dữ liệu).
ii) Chuẩn bị dữ liệu, trong đó ngụ ý xây dựng phiên bản cuối cùng của cơ sở dữ liệu hữu
ích từ cơ sở dữ liệu ban đầu. Điều này lần lượt hàm ý việc chuyển đổi và dọn dẹp dữ liệu, ngoài
việc chọn các bảng, trường và thuộc tính.
iii) Mô hình hóa, trong đó ngụ ý lựa chọn các kỹ thuật, vì một số kỹ thuật khai phá dữ liệu
có thể phù hợp với cùng loại vấn đề.
iv) Đánh giá, trong đó ngụ ý đánh giá các bước điều hành để tạo ra mô hình, để đảm bảo
rằng mô hình đạt được đúng các mục tiêu kinh doanh.
v) Triển khai, trong đó ngụ ý tổ chức và trình bày kiến thức thu được để người dùng thực
hiện nó.
2.1. Mô tả về các kỹ thuật khai phá dữ liệu
Trong khi thực hiện khai phá dữ liệu, theo nghiên cứu trước đây và phân tích mô hình
CRISP-DM, điều cần thiết là phải làm như sau:
i) Xác định đầu vào chất lượng tốt có thể chỉ ra gian lận trong giai đoạn chuẩn bị dữ liệu.
Điều này hàm ý xác định chỉ số quan trọng (« cờ đỏ ») và ảnh hưởng của chúng đối với việc phát
hiện báo cáo tài chính gian lận. Theo quy định, « cờ đỏ » liên quan đến việc lựa chọn các chỉ số
phân tích tài chính quan trọng và các vị trí riêng lẻ trên bảng cân đối kế toán và báo cáo lãi lỗ
(thu nhập) tiếp xúc nhiều hơn với gian lận (Albashrawi và Lowell, 2016; Kotsiantis và cộng sự,
2006 ; Kirkos và cộng sự, 2007; Ata và Seyrek, 2009; Ravisankar và cộng sự, 2011; Şenvà
Terzd, 2012; Ozdagoglu và cộng sự, 2017; Kopun, 2018; Kamusweke và cộng sự, 2019). Trong
501
một số ít các nghiên cứu, « cờ đỏ »liên quan đến các tỷ lệ phi tài chính cụ thể (Kirkos và cộng
sự, 2007; Ravisankar và cộng sự, 2011; Yao và cộng sự, 2018).
ii) Chọn phương pháp khai phá dữ liệu trong giai đoạn lập mô hình cho mục đích phát hiện
gian lận báo cáo tài chính.
Phần này nhấn mạnh các kỹ thuật khai phá dữ liệu thường xuyên nhất được sử dụng trong
gian lận tài chính liên quan đến tần suất sử dụng, mô tả và ứng dụng kinh doanh của họ.
Trong số các kỹ thuật khai phá dữ liệu được sử dụng trong các bài báo được đánh giá, Bảng
1 cho thấy những kỹ thuật được áp dụng nhiều nhất trong khoảng thời gian từ 2004 đến 2019. Mô
hình hồi quy logistic dường như là kỹ thuật khai phá dữ liệu hàng đầu trong việc phát hiện gian lận
tài chính với 13%, tiếp theo là cả mạng Neurol và cây quyết định, với 11%. Trong khi máy vectơ
hỗ trợ được đại diện bởi 9% và Naive Bayes được đại diện bởi 6% (Albashrawi và Lowell, 2016).
Bảng 1. Các phương pháp data mining được sử dụng chủ yếu trong phát hiện gian lận
báo cáo tài chính (từ năm 2004 - 2019)
Các kỹ thuật
data mining Định nghĩa
Số lượng
nghiên cứu
Hồi quy
Logistic
Là một mô hình hồi quy nhằm dự đoán giá trị đầu ra rời rạc
(discrete target variable) y ứng với một véc-tơ đầu vàox. Việc
này tương đương với chuyện phân loại các đầu vào x vào các
nhóm y tương ứng.
9
Cây quyết
định
Là một cây phân cấp có cấu trúc được dùng để phân lớp các đối
tượng dựa vào dãy các luật (series of rules). Các thuộc tính của
đối tượng (ngoại trừ thuộc tính phân lớp – Category attribute)
có thể thuộc các kiểu dữ liệu khác nhau (Binary, Nominal,
ordinal, quantitative values) trong khi đó thuộc tính phân lớp
phải có kiểu dữ liệu là Binary hoặc Ordinal.
8
Mạng Neural
Là mô hình xử lý thông tin được mô phỏng dựa trên hoạt động
của hệ thống thần kinh của sinh vật, bao gồm số lượng lớn các
Neural được gắn kết để xử lý thông tin. ANN giống như bộ não
con người, được học bởi kinh nghiệm (thông qua huấn luyện),
có khả năng lưu giữ những kinh nghiệm hiểu biết (tri thức) và
sử dụng những tri thức đó trong việc dự đoán các dữ liệu chưa
biết (unseen data).
7
Naive Bayes
Lý thuyết Bayes là sự liên hệ giữa các xác suất có điều kiện.
Thuật toán Naive Bayes cũng dựa trên việc tính toán các xác
suất có điều kiện đó.
5
SVM
Support Vector Machines (SVM) là phương pháp học sử dụng
không gian giả thuyết các hàm tuyến tính trênkhông gian đặc
trưng nhiều chiều, dựa trên lý thuyết tối ưu và lý thuyết thống
kê nhằm phân lớp dữ liệu
4
(Tác giả tự tổng hợp)
502
2.2. Các nhóm chỉ số tài chính được sử dụng
Lý do bao gồm dữ liệu phi tài chính trong loại nghiên cứu này dựa trên nghiên cứu được
thực hiện bởi (Dong và cộng sự, 2014), người nhấn mạnh rằng thực tiễn kiểm toán thông thường
không thành công phát hiện gian lận báo cáo tài chính chủ yếu vì các quy trình kiểm toán hiện tại
và nghiên cứu học thuật tập trung vào phân tích thống kê các tỷ lệ tài chính có cấu trúc và dữ liệu
liên quan đến hoạt động thị trường. Mặt khác, một số nghiên cứu cho thấy các tỷ lệ phi tài chính
không có ý nghĩa trong việc hình thành các mô hình khai phá dữ liệu (S. Chen 2016).
Ngoài các tỷ lệ tài chính và phi tài chính, nghiên cứu hiện tại cũng tập trung vào số lượng
lớn thông tin văn bản về các công ty riêng lẻ có sẵn công khai (Goel và Gangolly, 2012). Việc
tập trung vào khai phá không chỉ các tỷ lệ tài chính mà cả định dạng văn bản của báo cáo tài
chính làm cho mô hình trở nên phức tạp hơn và cuối cùng có thể dẫn đến việc phát hiện gian lận
báo cáo tài chính ít thành công hơn. Do đó, bài viết này chỉ tập trung vào các tỷ lệ tài chính có
thể giúp phát hiện gian lận báo cáo tài chính.
Các nghiên cứu trước đây (Ata và Seyrek, 2009) dựa trên phân tích một số lượng lớn các
chỉ số phân tích tài chính mà tài liệu cho thấy có thể có ý nghĩa trong việc phát hiện gian lận báo
cáo tài chính.
Các chỉ số được phân tích đã được chia thành bảy (7) nhóm, như sau:
i. Tỷ số hoạt động;
ii. Tỷ số thanh khoản;
iii. Tỷ suất lợi nhuận;
iv. Tỷ số khả năng thanh toán;
v. Tỷ số cấu trúc tài sản;
vi. Tỷ số dòng tiền; và
vii. Tỷ số khác.
Bảng 2. Tổng hợp các tỷ số hoạt trong phát hiện gian lận báo cáo tài chính
Tỷ số hoạt động Quan
trọng
Không
quan trọng
Tổng số
nghiên cứu
Lợi nhuận trước thuế có tăng trên 10% không? 1 1
Có phải khoản phải thu tăng hơn 10% 1 1
Vòng quay tài sản dài hạn 1 1 2
Vòng quay vốn và dự trữ 1 1
Vòng quay khoản phải thu 1 1 2
Vòng quay tổng tài sản 5 7 12
Vòng quay hàng tồn kho 1 1
Tỷ lệ giữa vòng quay khoản phải thu của năm hiện
tại so với năm trước
3 3
EBIT trên tổng tài sản 2 1 3
Giá vốn hàng bán trên hàng tồn kho 2 2
503
Khoản phải thu trên doanh thu 5 5 10
Biến dộng của khoản phải thu trên doanh thu 1 1
Biến động của khoản phải thu trên tài sản 1 1
Hàng tồn kho trên doanh thu 2 5 7
Tăng trưởng của doanh thu 2 1 3
Tăng trưởng của tài sản 2 2
Doanh thu 1 1 2
Doanh thu trừ biên 1 1
Sự thay đổi của khoản phải thu trên doanh thu 2
năm liên tiếp
1 1
Sự thay đổi của hàng tồn kho trên doanh thu 2
năm liên tiếp
1 1
Sự thay đổi trung bình của tổng tài sản qua 2 năm 1 1
Thanh toán khoản phải thu trung bình ngày 2 2
Thanh toán khoản phải trả trung bình ngày 1 1
Khác biệt trong sự thay đổi của doanh thu so với
trung bình ngành công nghiệp
1 1
Lợi nhuận kinh doanh trên tổng tài sản 1 1
Tổng 34 29 63
(Nguồn: Kopun, 2018)
Các tỷ số hoạt động đo lường khả năng của một công ty chuyển đổi các dạng tài sản khác
nhau thành doanh thu và /hoặc tiền, và họ tập trung vào khả năng quản lý sử dụng tài sản của họ
để tạo ra doanh thu và tiền. Trong số các yếu tố được sử dụng để tính tỷ số hoạt động, các tỷ số
có thể bị thao túng để thực hiện gian lận báo cáo tài chính là doanh thu, các khoản phải thu và
hàng tồn kho. Giả định cơ bản là, khi ghi nhận doanh thu giả, doanh số và vị trí các khoản phải
thu sẽ tăng lên, trong khi giá trị hàng tồn kho có thể hoặc không phải là sản phẩm của sự thao
túng. Trong trường hợp bán sản phẩm, dự kiến chỉ có giá trị của các khoản phải thu và doanh thu
sẽ tăng lên, trong khi giá trị hàng tồn kho rất có thể sẽ không phải là sản phẩm thao túng mà thay
vào đó là giá trị thực của hàng tồn kho sẽ được báo cáo.
Xác nhận kết luận như vậy có thể được nhìn thấy trong thực tế rằng trong năm (5) nghiên
cứu (Spathis, 2002; Skousen và cộng sự, 2009; Ata và Seyrek, 2009; Ravisankar và cộng sự.,
2011; Ujal và cộng sự, 2012) tỷ lệ hàng tồn kho trên doanh thu được coi là một chỉ số quan trọng
trong việc phát hiện gian lận báo cáo tài chính.
Một chỉ số quan trọng khác, đã được xác nhận trong bảy các nghiên cứu trước đó(Spathis
và cộng sự, 2003; Kirkos, Spathis và Manolopoulos, 2007; Skousen và cộng sự, 2009)liên quan
đến tỷ số doanh thu bán hàng trên tổng tài sản. Để tăng doanh thu, cần đầu tư vào cả tài sản ngắn
504
hạn và dài hạn. Việc tăng doanh thu mà không có sự gia tăng ngẫu nhiên về tài sản chỉ có thể xảy
ra trong một khoảng thời gian ngắn hơn, đó là lý do tại sao một số nghiên cứu cho rằng tỷ lệ bán
tài sản dài hạn là một chỉ số cần thiết để quan sát (Chen và Du, 2009; Ravisankar và cộng sự,
2011). Vì thu nhập từ bán hàng giả tưởng không thể được thu thập trong các trường hợp như vậy,
nên các khoản phải thu, theo quy định, cao hơn bình thường. Theo đó, một sự gia tăng trong
thanh toán các khoản phải thu trung bình ngày sẽ được dự kiến, được đề xuất bởi một trong các
nghiên cứu (Kotsiantis và cộng sự, 2006).
Liên quan đến ghi nhận doanh thu, có sự gia tăng song song về doanh thu và các khoản
phải thu. Do đó, trong các tình huống gian lận báo cáo tài chính, các tỷ lệ liên quan đến các vị trí
khoản phải thu từ các báo cáo trước đó đã được tìm thấy là các chỉ số đáng kể về gian lận. Tỷ số
khoản phải thu trên doanh thu và vòng quay khoản phải thu được cho là có ý nghĩa, như đã được
đề xuất bởi một số nghiên cứu trước đây (Feroz và cộng sự., 2000; Spathis và cộng sự, 2003;
Kotsiantis và cộng sự, 2006; Skousen và cộng sự, 2009; Ozdagoglu và cộng sự, 2017).
Bảng 3: Tổng hợp các tỷ số thanh khoản trong phát hiện gian lận báo cáo tài chính
Chỉ tiêu Quan trọng Không quan
trọng
Tổng số
nghiên cứu
Tỷ số thanh khoản 10 14 24
Khả năng thanh toán hiện hành 5 2 7
Khả năng thanh toán bằng tiền 1 1
Khả năng thanh toán nhanh 1 2 3
Vốn lưu động thuần 1 1
Vốn lưu động thuần trên tổng tài sản 2 7 9
Hàng tồn kho trên nợ ngắn hạn 1 1 2
Đòn bẩy vốn lưu động thuần 1 1
(Nguồn: Kopun, 2018)
Các tỷ số thanh khoản liên quan đến khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của doanh
nghiệp khi đến hạn, và do đó các tỷ lệ này được tính toán dựa trên các yếu tố tài sản hiện tại
(hàng tồn kho, khoản phải thu, tài sản hiện hành, tiền và các khoản tương đương tiền) và Nợ
ngắn hạn. Trong số các vị trí tỷ lệ thanh khoản cụ thể được quan sát, gian lận báo cáo tài chính
ảnh hưởng trực tiếp đến các yếu tố sau:
Giá trị hàng tồn kho: có một giá trị hàng tồn kho tăng lên trong các tình huống có điều
chỉnh giá trị tương ứng, ví dụ, hàng tồn kho dài hạn;
Các khoản phải thu: có một giá trị gia tăng trong các khoản phải thu trong các tình huống
trong đó có điều chỉnh giá trị đối với các khoản nợ xấu (ví dụ: trong trường hợp khách hàng nộp
đơn xin phá sản hoặc bắt đầu các thủ tục trước khi phá sản) hoặc trong các trường hợp bán hàng giả;
Các khoản nợ hiện hành: có sự giảm giá trị của các khoản nợ hiện tại trong các tình huống mà
không phải tất cả các chi phí đã được ghi nhận trong kỳ báo cáo thích hợp.
505
Tỷ số khả năng thanh khoản phát hiện gian lận mạnh nhất trong các nghiên cứu trước đó
(Spathis, 2002; Spathis và cộng sự, 2003; Kotsiantis và cộng sự, 2006; Kirkos và cộng sự, 2007;
Dalnial và cộng sự, 2014; Ozdagoglu và cộng sự, 2017)là tỷ số Vốn lưu động ròng trên tài sản.
Bảng 4: Tổng hợp các chỉ số sử dụng nợ trong phát hiện gian lận tài chính
Tỷ số khả năng thanh toán Quan trọng Không quan
trọng
Tổng số
nghiên cứu
Logarit của tổng nợ 3 3
Nợ trên vốn chủ sở hữu 7 3 10
Tổng nợ trên tổng tài sản 2 11 13
Tổng tài sản trên tổng vốn và dự trữ 3 3
EBIT trên chi phí lãi 2 2
Vốn và dự trữ trên tổng nợ 2 1 3
Thu nhập giữ lại trên tổng tài sản 2 1 3
Nợ dài hạn trên tổng vốn và dự trữ 1 1 2
Nợ dài hạn trên tổng nợ 1 1
Nợ dài hạn trên tổng tài sản 5 5
Nợ ngắn hạn trên tổng tài sản 1 1
Tổng nợ 2 2
Tổng 29 19 48
(Nguồn: Kopun, 2018)
Tỷ số khả năng thanh toán đo lường mức độ nợ của một doanh nghiệp, nghĩa là họ đo lường
mức độ mà doanh nghiệp tự tài trợ thông qua các nguồn của chính mình (vốn và dự trữ) và bao
nhiêu từ các nguồn bên ngoài (nợ hiện tại và dài hạn). Một mức độ cao hơn của tài trợ từ bên ngoài
có thể làm tăng xác suất gian lận báo cáo tài chính, vì rủi ro được chuyển từ chủ sở hữu vốn lên các
chủ nợ (Spathis và cộng sự, 2003). Trong các nghiên cứu đã tổng hợp, tổng tỷ lệ nợ trên tổng tài
sản được đề xuất là chỉ số chính để phát hiện báo cáo tài chính gian lận (Kopun, 2018).
Bảng 5: Tổng hợp các tỷ số cấu trúc tài sản trong phát hiện gian lận tài chính
Tỷ số Cấu trúc tài sản Quan
trọng
Không quan
trọng
Tổng số
nghiên cứu
Logarit của tổng tài sản 3 2 5
Tiền và tương đương tiền 1 1 2
Tiền và tương đương tiền trên tài sản ngắn hạn 2 1 3
Tài sản dài hạn trên tổng tài sản 1 1 2
Tài sản dài hạn thuần trên tổng tài sản 1 1
Khoản phải thu 2 2
506
Tài sản ngắn hạn trên tổng tài sản 1 5 6
Khoản phải thu trên tổng tài sản 4 1 5
Khoản phải thu trên tổng tài sản năm trước 1 1
Tiền và tương đương tiền trên tổng tài sản 5 5
Hàng tồn kho trên tổng tài sản 5 4 9
Tổng tài sản 2 2
Sự thay đổi của tài sản ngắn hạn trừ đi sự thay đổi
của tiền và tương đương tiền, sự thay đổi của nợ
ngắn hạn, khấu hao, tài sản trả chậm, cộng thu
nhập gữ lại trên tổng tài sản
1 1
Tổng 28 18 46
(Nguồn: Kopun, 2018)
Tỷ số cấu trúc tài sản so sánh các yếu tố tài sản cụ thể với tổng tài sản. Cũng như tỷ lệ
thanh khoản, giả định cơ bản là trong trường hợp gian lận báo cáo tài chính, các tài sản hiện tại
đang được định giá quá cao. Tỷ lệ tài sản ngắn hạn trên tổng tài sản được xác định trong bốn
nghiên cứu (Persons, 1995; Ravisankar và cộng sự, 2011; Dalnial và cộng sự, 2014b; Chen,
2016) là chỉ số chính trong việc phát hiện báo cáo tài chính gian lận, trong khi tỷ lệ hàng tồn kho
trên tổng tài sản được xác định trong bốn nghiên cứu trước đó (Ata và Seyrek, 2009; Ravisankar
và cộng sự, 2011; Dalnial và cộng sự, 2014b, 2014a).
Bảng 6. Các tỷ số phản ánh khả năng sinh lợi được sử dụng trong phát hiện gian lận tài chính
Tỷ số Khả năng sinh lợi Quan
trọng
Không
quan trọng
Tổng số
nghiên cứu
Thu nhập trước thuế 1 1 2
Thu nhập trước thuế trên thu nhập hoạt động 1 1
Tỷ số lãi gộp = ( Doanh thu - Giá vốn hàng bán)/
doanh thu 1 1
EBIT 1 1
Thu nhập sau thuế 1 1 2
Thu nhập biên thuần 4 5 9
Thu nhập trước thuế năm hiện tại trên năm trước 1 1
Thu nhập trước thuế trên EBIT 1 1
Thu nhập trước thuế trên doanh thu 3 1 4
Thu nhập trước thuế trên tổng tài sản 3 4 7
Thu nhập trước thuế năm hiện tại trên năm trước 1 1
Thu nhập sau thuế trên thu nhập trước thuế 2 2
507
Thu nhập sau thuế trên tài sản dài hạn 2 1 3
Thuế thu nhập trên doanh thu 1 1
Chi phí hoạt động trên doanh thu 1 1
Tỷ suất lợi nhuận trên nợ dài hạn và vốn và dự trữ 1 1
Chi phí lãi vay trên chi phí hoạt động 1 1
ROA 2 8 10
ROCE 1 1
Tăng trưởng của thu nhập hoạt động 1 1
Thu nhập hoạt động trên doanh thu 1 1
Tổng 232 29 52
(Nguồn: Kopun, 2018)
Tỷ số lợi nhuận so sánh lợi nhuận (trước hoặc sau thuế) với các vị trí cụ thể trên bảng cân
đối kế toán hoặc tài khoản lãi và lỗ. Vì mục đích của gian lận báo cáo tài chính là để đạt được kết
quả khả quan (nghĩa là hiển thị có lợi nhuận), mà nếu không có thao túng, có thể đã bị âm (nghĩa
là thua lỗ), nghiên cứu trước đây cho thấy nhóm tỷ số này rất quan trọng trong việc phát hiện
gian lận. Trong các nghiên cứu được phân tích, không dưới hai mươi mốt (21) tỷ lệ khác nhau
được xác định là có ý nghĩa trong việc phát hiện gian lận. Trong các nghiên cứu (Spathis, 2002;
Kirkos và cộng sự, 2007; Ravisankar và cộng sự, 2011; Ujal và cộng sự, 2012; Ozdagoglu và
cộng sự, 2017) chỉ số chính trong nhóm này được hiển thị là ROA (lợi nhuận trên tài sản), trong
khi thu nhập biên ròng được xác định là một chỉ số quan trọng khác trong 5 nghiên cứu (Spathis,
Doumpos và Zopounidis, 2003; Ata và Seyrek, 2009; Ravisankar và cộng sự, 2011; Dalnial và
cộng sự, 2014b, 2014a).
Bảng 7: Các tỷ số về dòng tiền được sử dụng trong phát hiện gian lận tài chính
Tỷ số Khả năng sinh lợi Quan
trọng
Không
quan trọng
Tổng số
nghiên cứu
Dòng tiền hoạt động trừ dòng tiền thuần, lợi nhuận phân
phối và chi phí vốn 1 1
Dòng tiền hoạt động năm trước 1 1
Dòng tiền hoạt động năm hiện tại 1 1
Dòng tiền hoạt động trên nợ ngắn hạn 1 1
Tăng trưởng của dòng tiền hoạt động 1 1
Thu nhập hoạt động trừ dòng tiền hoạt động trên tổng
tài sản 1 1
Thu nhập hoạt động trừ WACC trong 3 năm trên tài sản
ngắn hạn 1 1
Tổng 3 4 7
(Nguồn: Kopun, 2018)
508
Các tỷ số về dòng tiền so sánh dòng tiền, chủ yếu là dòng tiền hoạt động, với các vị trí cụ
thể trên bảng cân đối kế toán. Vì tỷ số dòng tiền chỉ được đưa vào ba trong số 14 nghiên cứu
được phân tích và được coi là có ý nghĩa trong việc phát hiện gian lận báo cáo tài chính chỉ trong
hai, nên có thể kết luận rằng các tỷ lệ này chưa được chứng minh là có ý nghĩa trong phát hiện
gian lận báo cáo tài chính.
Các tỷ lệ khác dựa trên các dạng thông tin phi tài chính khác nhau, tuy nhiên, trong các
nghiên cứu được phân tích, chỉ có mô hình điểm Altman Z được chứng minh là một chỉ số quan
trọng trong việc phát hiện gian lận báo cáo tài chính.
3. KẾT LUẬN
Nghiên cứu được thực hiện bởi ACFE cho thấy gian lận báo cáo tài chính là một loại gian
lận gây thiệt hại lớn nhất cho doanh nghiệp. Do một số lượng lớn các trường hợp gian lận báo
cáo tài chính trong 15 năm qua (Enron, WorldCom, Parmalat), đã có sự quan tâm ngày càng tăng
của công chúng và cộng đồng học thuật trong việc đảm bảo rằng gian lận báo cáo tài chính là
được phát hiện sớm trong môi trường kinh doanh hiện tại. Mục đích của bài viết này là phân tích
nghiên cứu trước đây về việc áp dụng các phương pháp khai phá dữ liệu trong việc phát hiện
gian lận báo cáo tài chính, tập trung vào các chỉ số phân tích tài chính có thể phát hiện gian lận
trong báo cáo tài chính.
Có thể kết luận rằng trong số 41 phương pháp khai khá dữ liệu, 5 phương pháp được sử
dụng chủ yếu là: Mô hình hồi quy logistic, mạng Neurol và cây quyết định, máy vectơ hỗ trợ,
Naive Bayes và trong 110 tỷ lệ tài chính và phi tài chính được phân tích trong nghiên cứu trước
đó, chỉ có tám (8) chỉ số phân tích tài chính có thể được sử dụng thành công để phát hiện gian lận
báo cáo tài chính gồm: Hàng tồn kho trên doanh thu, Doanh thu trên tổng tài sản, Khoản phải thu
trên doanh thu, Vốn lưu động trên tổng tài sản, Tổng nợ trên tổng tài sản, ROA,Tỷ suất lợi nhuận
biên và Zscore.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Albashrawi, Mousa, and M Lowell. 2016. Detecting Financial Fraud Using Data Mining
Techniques: A Decade Review from 2004 to 2015. Journal of Data Science 14 (3):
553–69.
Ata, H Ali, and Ibrahim H Seyrek. 2009. The use of data mining techniqué in detecting
fraudulent financial statements: an application on manufacturing firms. Suleyman Demirel
University Journal of Faculty of Economics & Administrative Sciences 14 (2).
Chen, Suduan. 2016. Detection of Fraudulent Financial Statements Using the Hybrid Data
Mining Approach. SpringerPlus 5 (1): 89.
Chen, Wei-Sen, and Yin-Kuan Du. 2009. Using Neural Networks and Data Mining Techniques
for the Financial Distress Prediction Model. Expert Systems with Applications 36 (2):
4075–86.
509
Dalnial, Hawariah, Amrizah Kamaluddin, Zuraidah Mohd Sanusi, and Khairun Syafiza
Khairuddin. 2014a. Accountability in Financial Reporting: Detecting Fraudulent Firms.
Procedia-Social and Behavioral Sciences 145: 61–69.
———. 2014b. “Detecting Fraudulent Financial Reporting through Financial Statement
Analysis. Journal of Advanced Management Science Vol 2 (1).
Dong, Wei, Stephen Shaoyi Liao, Bing Fang, Xian Cheng, Zhu Chen, and Wenjie Fan. 2014.
The Detection of Fraudulent Financial Statements: An Integrated Language Model. In
PACIS, 383.
Examiners, Association of Certified Fraud. 2016. Report to the Nations on Occupational Fraud
and Abuse: 2016 Global Fraud Study. Association of Certified Fraud Examiners.
Feroz, Ehsan Habib, Taek Mu Kwon, Victor S Pastena, and Kyungjoo Park. 2000. The Efficacy
of Red Flags in Predicting the SEC’s Targets: An Artificial Neural Networks Approach.
Intelligent Systems in Accounting, Finance & Management 9 (3): 145–57.
Glancy, Fletcher H, and Surya B Yadav. 2011. A Computational Model for Financial Reporting
Fraud Detection. Decision Support Systems 50 (3): 595–601.
Goel, Sunita, and Jagdish Gangolly. 2012. Beyond the Numbers: Mining the Annual Reports for
Hidden Cues Indicative of Financial Statement Fraud. Intelligent Systems in Accounting,
Finance and Management 19 (2): 75–89.
Hassani, Hossein, Shahin Gheitanchi, and Mohammad Reza Yeganegi. 2008. On the Application
of Data Mining to Official Data.
Jans, Mieke, Jan Martijn Van Der Werf, Nadine Lybaert, and Koen Vanhoof. 2011. A Business
Process Mining Application for Internal Transaction Fraud Mitigation. Expert Systems with
Applications 38 (10): 13351–59.
Jayakumar, G D S, and Bejoy John Thomas. 2013. A New Procedure of Clustering Based on
Multivariate Outlier Detection. Journal of Data Science 11 (1): 69–84.
Kamusweke, Knox, Mayumbo Nyirenda, and Monde Kabemba. 2019. Data Mining for Fraud
Detection in Large Scale Financial Transactions. EasyChair.
Kirkos, Efstathios, Charalambos Spathis, and Yannis Manolopoulos. 2007. Data Mining
Techniques for the Detection of Fraudulent Financial Statements. Expert Systems with
Applications 32 (4): 995–1003.
Kopun, Dubravka. 2018. A Review of the Research on Data Mining Techniques in the Detection
of Fraud in Financial Statements. Journal of Accounting and Management 8 (1): 1–18.
Kotsiantis, Sotiris, E Koumanakos, D Tzelepis, and V Tampakas. 2006. Forecasting Fraudulent
Financial Statements Using Data Mining. International Journal of Computational
Intelligence 3 (2): 104–10.
Ngai, Eric W T, Yong Hu, Yiu Hing Wong, Yijun Chen, and Xin Sun. 2011. The Application of
Data Mining Techniques in Financial Fraud Detection: A Classification Framework and an
Academic Review of Literature. Decision Support Systems 50 (3): 559–69.
510
Olszewski, Dominik. 2014. Fraud Detection Using Self-Organizing Map Visualizing the User
Profiles. Knowledge-Based Systems 70: 324–34.
Ozdagoglu, G, A Ozdagoglu, Y Gumus, and G Kurt Gumus. 2017. The Application of Data
Mining Techniques in Manipulated Financial Statement Classification: The Case of
Turkey. Journal of AI and Data Mining 5 (1): 67–77.
Persons, Obeua S. 1995. Using Financial Statement Data to Identify Factors Associated with
Fraudulent Financial Reporting. Journal of Applied Business Research (JABR) 11 (3):
38–46.
Phua, Clifton, Vincent Lee, Kate Smith, and Ross Gayler. 2010. A Comprehensive Survey of
Data Mining-Based Fraud Detection Research. ArXiv Preprint ArXiv:1009.6119.
Ravisankar, Pediredla, Vadlamani Ravi, G Raghava Rao, and Indranil Bose. 2011. Detection of
Financial Statement Fraud and Feature Selection Using Data Mining Techniques. Decision
Support Systems 50 (2): 491–500.
ŞEN, Đlker Kıymetli, and Serkan TERZĐ. 2012. Detecting Falsified Financial Statements Using
Data Mining: Empirical Research on Finance Sector in Turkey. Maliye Finans Yazilari 1
(96): 76–94.
Skousen, Christopher J, Kevin R Smith, and Charlotte J Wright. 2009. Detecting and Predicting
Financial Statement Fraud: The Effectiveness of the Fraud Triangle and SAS No. 99. In
Corporate Governance and Firm Performance, 53–81. Emerald Group Publishing
Limited.
Spathis, Charalambos, Michael Doumpos, and Constantin Zopounidis. 2003. Using Client
Performance Measures to Identify Pre-Engagement Factors Associated with Qualified
Audit Reports in Greece. The International Journal of Accounting 38 (3): 267–84.
Spathis, Charalambos T. 2002. Detecting False Financial Statements Using Published Data:
Some Evidence from Greece. Managerial Auditing Journal 17 (4): 179–91.
Ujal, Mehta, Patel Amit, Patel Hiral, and Purohit Rajen. 2012. Detection of Fraudulent Financial
Statement in India: An Exploratory Study. GFJMR Vol. 4 January-June.
Yao, Jianrong, Jie Zhang, and Lu Wang. 2018. A Financial Statement Fraud Detection Model
Based on Hybrid Data Mining Methods. In 2018 International Conference on Artificial
Intelligence and Big Data (ICAIBD), 57–61. IEEE.
511
Nghiên cứu tác động của tính thanh khoản
đến khả năng sinh lời của các công ty phi tài chính niêm yết
trên sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
Nguyễn Hồng Trang
Trường Cao đẳng Thống kê
Email: hongtrang29@gmail.com
Mã bài: HTQG.49 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 12/11/2019
Ngày nhận bài: 06/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2019
Tóm tắt
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của “tính thanh khoản” đến “khả
năng sinh lời” của các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Dữ
liệu được thu thập từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán của 291 công ty cổ phần niêm yết trên
sàn HNX từ năm 2010 đến 2017. Nghiên cứu áp dụng các phương pháp hồi quy trên dữ liệu
bảng, bao gồm: Pooled Regression (OLS), Fixed effects model (FEM) và Random effects model
(REM). Sau đó, nghiên cứu áp dụng phương pháp bình phương bé nhất tổng quát khả thi (FGLS)
để khắc phục hiện tượng tự tương quan giữa các sai số. Kết quả cho thấy, chu kỳ chuyển đổi tiền
mặt có tác động tiêu cực đến khả năng sinh lời trong khi đó, hệ số khả năng thanh toán tức thời
lại có tác động tích cực. Ngoài ra, tác giả cũng tìm thấy tác động của ngành, quy mô doanh
nghiệp, tỷ lệ Nợ phải trả trên Tài sản và tỷ lệ tăng trưởng có ảnh hưởng đến khả năng sinh lời
của các doanh nghiệp.
Từ khóa: Tính thanh khoản, khả năng sinh lời, sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
1. GIỚI THIỆU
Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng mà mọi doanh nghiệp đều mong muốn đạt được, là mục
đích chính của hoạt động kinh doanh nhưng lại không phải là duy nhất. Khi so sánh mức độ ưu
tiên giữa tính thanh khoản và lợi nhuận, tính thanh khoản lại là mục tiêu được ưu tiên cao hơn.
Theo Zygmunt (2013), thanh khoản cao là then chốt cho sự sống còn của doanh nghiệp (DN) vì
nó ảnh hưởng đến doanh thu, tăng trưởng tài chính và rủi ro của DN. Thanh khoản tốt giúp các
DN nhỏ tăng nguồn vốn nội bộ và các DN lớn tránh được tình trạng phá sản. Hơn nữa, thanh
khoản tốt cũng giúp làm giảm các khoản nợ ngắn hạn cũng như nghĩa vụ nợ dài hạn. Nó giúp các
DN sử dụng tốt các nguồn lực sẵn có và tạo ra lợi nhuận mà không có bất kỳ rủi ro nào (Ismail,
2016). Nếu không có lợi nhuận, một Công ty chỉ bị coi là yếu và vẫn hoạt động được trong một
512
thời gian, nhưng theo Agarwal and Mishra (trích dẫn trong Ware, 2015), nếu không có thanh
khoản, DN có thể sẽ phải ngừng hoạt động và sớm phá sản. Thanh khoản tốt giúp DN loại bỏ
nguy cơ không có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tránh đầu tư quá nhiều vào các
tài sản này (Eljelly, 2004). Theo Điều 4 - Luật Phá sản năm 2014 của nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam, nếu DN, Hợp tác xã bị mất khả năng thanh toán, tức không thực hiện nghĩa vụ
thanh toán khoản nợ trong 3 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán thì sẽ bị rơi vào trình trạng phá
sản. Duy trì tính thanh khoản đầy đủ, là điều kiện cho sự hoạt động liên tục của một DN (Shim
and Siegle, 2000).
Một ví dụ sinh động về tầm quan trọng của tính thanh khoản đến từ việc so sánh hai nhà
bán lẻ lớn ở Mỹ, là Wal-Mart và Kmart. Năm 1994, họ có một cấu trúc vốn tương tự. Sự khác
biệt chính là trong chu trình chuyển đổi tiền mặt (CCC) - một thước đo của tính thanh khoản):
CCC của Kmart là khoảng 61 ngày, trong khi đối với Wal-Mart là 40 ngày. Kmart phải đối mặt
với chi phí tài trợ thêm vốn là 198,3 triệu một năm. Kết quả là trong năm 2002 Kmart tuyên bố
phá sản trong khi Wal-Mart nhanh chóng trở thành một nhà lãnh đạo ngành hàng tiêu dùng
nhanh (FMCG). Wal-Mart cuối cùng đã phát triển thành công nhờ vào trạng thái thanh khoản
tốt(Podilchuk, 2013). Hay tại Việt Nam, ngày 22/3/2012, Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã
nhận được báo cáo, giải trình của Công ty cổ phần Đầu tư tổng hợp Hà Nội (HANIC), sau khi
Công ty công bố mình đang bên bờ vực phá sản. Theo đó, đến ngày 22/03/2012, Công ty cổ phần
Beta BQP (Beta) còn nợ HANIC số tiền là 349,05 tỷ đồng. Số tiền này đã đến hạn phải trả cho
HANIC từ 9 tháng trước. Chính vì vậy, hiện nay HANIC đang trong tình trạng mất khả năng thanh
toán, nợ thuế, thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thiếu tiền để thanh toán tiền lương, bảo
hiểm xã hội đúng thời hạn quy định. Nếu trong trường hợp Beta không có động thái trả dần số tiền
nợ trên thì có thể đẩy HANIC đến bên bờ vực phá sản. Những ví dụ này cho thấy tình hình thanh
khoản là rất quan trọng đối với thực trạng tài chính của một công ty.
Như vậy, thanh khoản là một vấn đề quan trọng trong việc ra quyết định tài chính và đang
là vấn đề nhận được sự quan tâm nghiêm túc trên toàn thế giới. Tuy nhiên, hiện vẫn còn tồn tại
nhiều quan điểm về mối quan hệ giữa tính thanh khoản và khả năng sinh lời của các DN.
Sanghani (2014), Umobong (2015) và Demirgünes (2016) cho rằng có mối quan hệ đáng kể và
tích cực giữa thanh khoản và khả năng sinh lời của DN, nhưng Eljelly (2004), Bibi and Amjad
(2017) lại chứng minh rằng mối quan hệ đó là tiêu cực, trong khi đó Bhunia và cộng sự (2011)
lại tìm ra được cả mối quan hệ tích cực và tiêu cực của thanh khoản đến khả năng sinh lời, còn
Thuraisingam (2015) và Ware (2015) lại không tìm thấy mối quan hệ nào giữa chúng. Mối quan
hệ đó là như thế nào, phụ thuộc vào tình hình cụ thể của từng nền kinh tế, từng khu vực và từng
giai đoạn. Do đó mà tác giả thực hiện nghiên cứu xem liệu tính thanh khoản có tác động như thế
nào tới khả năng tính lời của các DN niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Mục tiêu của nghiên cứu này là khám phá và tìm hiểu mức độ ảnh hưởng của tính thanh
khoản đến khả năng sinh lời của các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán Hà Nội. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp và khuyến nghị đối với
các bên liên quan nhằm tăng khả năng quản lý thanh khoản của DN, từ đó nâng cao khả năng
sinh lời.
513
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Thanh khoản của DN chính là khả năng chuyển đổi thành tiền của các khoản tương đương
tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu ngắn hạn, ứng trước ngắn hạn và
hàng tồn kho của DN một cách dễ dàng, nhanh chóng, thuận tiện cho việc thanh toán và đáp ứng
các nghĩa vụ thanh toán nợ ngắn hạn kịp thời. Việc nghiên cứu sự tác động của tính thanh khoản
đến khả năng sinh lời đã được khá nhiều tác giả tiến hành nghiên cứu tại các nền kinh tế, các khu
vực và ngành nghề khác nhau. Dưới đây là phần tóm lược nội dung của một số nghiên cứu:
Bolek and Wojciech (2011) phân tích tác động của quản lý thanh khoản tới khả năng sinh
lời trong các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh xây dựng và cố gắng tìm câu trả lời cho câu hỏi
liệu có mối quan hệ giữa quản lý thanh khoản và khả năng sinh lời hay không và mối quan hệ đó
có hướng nào. Ngành xây dựng là một trong những ngành có nhu cầu tuyển dụng lớn nhất trên
thị trường, do đó nếu một công ty xây dựng quản lý được thanh khoản ở mức tối ưu mà vẫn đảm
bảo tối đa hóa giá trị cho cổ đông thì các công ty này có thể đảm bảo sự phát triển và việc làm ổn
định cho rất nhiều lao động của đất nước đó. Chính vì vai trò quan trọng của các DN trong ngành
xây dựng nên Bolek and Wojciech (2011) đã tiến hành cuộc khảo sát trên các công ty trong
ngành xây dựng được niêm yết trên sàn chứng khoán War-saw trong giai đoạn 2000-2010. Dữ
liệu phân tích được thu thập dựa trên báo cáo tài chính của 44 DN xây dựng và từ số liệu thống
kê của Cục Thống kê Trung ương.
Các tác giả xác định tính thanh khoản cần phải được đo bằng cả các thước đo truyền thống
(CUR, QR) và thước đo hiện đại (CCC). Tuy nhiên, CUR tính đến cả hàng tồn kho, trong khi đó
hàng tồn kho lại có tính thanh khoản rất thấp, nên các tác giả chỉ lựa chọn QR và CCC là 2 thước
đo để đo lường thanh khoản và ROA được sử dụng để đo lường khả năng sinh lời của các công
ty xây dựng bởi đó là chỉ tiêu sinh lời tổng hợp nhất, phản ánh tốt nhất nguồn lực và hiệu quả
hoạt động của một DN. Cuối cùng, kết quả nghiên cứu chỉ ra cả QR và CCC đều có tác động tiêu
cực đến khả năng sinh lời của các công ty xây dựng.
Sanghani (2014) đã nghiên cứu về ảnh hưởng của quản lý thanh khoản đối với HQTC của
các công ty phi tài chính niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán (GDCK) Nairobi, với dữ liệu thứ
cấp được thu thập từ báo cáo tài chính của 41 công ty từ năm 2009 đến năm 2013. Tác giả sử
dụng biến phụ thuộc là tỷ lệ thu nhập trên vốn sử dụng (ROCE) và biến độc lập là tính thanh
khoản, được đo lường bằng hệ số khả năng thanh toán hiện thời (CUR) và tỷ lệ dòng tiền từ hoạt
động kinh doanh (CFR) với biến kiểm soát là cơ cấu vốn. Kết quả nghiên cứu cho thấy 90,8% sự
thay đổi về kết quả hoạt động tài chính của các công ty phi tài chính niêm yết tại Sở GDCK
Nairobi là do sự thay đổi của CUR, CFR và cơ cấu vốn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tất cả các
biến được tìm thấy có ảnh hưởng tích cực đến HQTC của công ty phi tài chính niêm yết tại NSE,
trong đó CUR có ảnh hưởng lớn nhất, theo sau là cơ cấu vốn, trong khi CFR có ảnh hưởng ít
nhất đến hiệu suất tài chính của các công ty đó.
Mối quan hệ giữa quản lý thanh khoản với hiệu quả tài chính của các Công ty Ấn Độ tiếp
tục được kiểm định thông qua nghiên cứu của Reddy and Narayan (2018). Nghiên cứu nhằm
điều tra tác động của thanh khoản (CUR, QR) và đòn bẩy tài chính đến hiệu quả tài chính
514
(ROI, ROA) của các công ty dược phẩm niêm yết trong giai đoạn 10 năm từ 2006-2016. Trong
khi CUR được xác định là có mối quan hệ tích cực thì QR lại có mối quan hệ tiêu cực với khả
năng sinh lợi của các công ty dược phẩm Ấn Độ, tuy nhiên cả 2 được xác định là không có ý
nghĩa thống kê, tức thanh khoản không có tác động đến lợi nhuận của các công ty dược phẩm
của Ấn Độ.
Quản lý thanh khoản được đánh giá chủ yếu từ quan điểm của quản lý vốn lưu động, vì hầu
hết các chỉ số được sử dụng để đánh giá tính thanh khoản được lấy từ các thành phần của vốn lưu
động. Cách tiếp cận vốn lưu động để quản lý thanh khoản từ lâu đã là kỹ thuật nổi bật được sử
dụng để lập kế hoạch và kiểm soát thanh khoản. Tuy nhiên, thay vì sử dụng vốn lưu động như là
một thước đo thanh khoản, nhiều nhà phân tích tài chính ủng hộ việc sử dụng các tỷ lệ thanh
khoản làm thước đo tối ưu hơn. Vốn lưu động là một bước đệm an toàn cho DN để hình thành
các quỹ ngắn hạn, do đó họ thường chỉ nhìn vào mặt tích cực của việc dư thừa tiền mặt và các
vốn lưu động khác. Tuy nhiên, vốn lưu động ngày càng được coi là kiềm chế HQTC vì nó không
đóng góp vào ROE. Trong khi đó, tại Việt Nam, hầu hết mới chỉ có các nghiên cứu về trạng thái
động của thanh khoản thông qua phân tích tác động của quản lý vốn lưu động đến các DN, như
nghiên cứu của Đoàn Thanh Hà và cộng sự (2016), Trần Việt Hoàng (2015), Vương Đức Hoàng
Quân và Dương Diễm Kiều (2016).
Trần Việt Hoàng (2015) nghiên cứu tác động của quản lý vốn lưu động đến lợi nhuận của
các công ty sản xuất niêm yết trên Sở GDCK thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu này dựa trên
số liệu của 98 công ty sản xuất được liệt kê trên SỞ GDCK Thành phố Hồ Chí Minh trong thời
gian 6 năm (từ năm 2009 đến năm 2014). Kết quả cho thấy việc quản lý vốn lưu động đóng vai
trò tích cực trong việc gia tăng sự giàu có của các cổ đông bằng cách làm cho một công ty có lợi
hơn thông qua việc rút ngắn CCC. Bởi CCC càng dài thì HQTC của các DN càng giảm, đó là do
mối quan hệ tiêu cực giữa CCC và HQTC.
Đoàn Thanh Hà và cộng sự (2016) phân tích tác động của quản lý vốn lưu động đến các
DN nhỏ và vừa của Việt Nam. Các tác giả sử dụng dữ liệu cho 1.209 DN trong giai đoạn 2008 -
2015 với sự hỗ trợ STATA. Kết quả nghiên cứu cho thấy CCC có mối quan hệ tiêu cực với
HQTC của DN nhỏ và vừa (-0.000000683). Theo kết quả này, nếu CCC được kéo dài, HQTC sẽ
giảm nhẹ. Mối quan hệ giữa CCC và HQTC là rất chặt chẽ. Bộ ba các thành phần của CCC là kỳ
thu tiền bình quân, kỳ luân chuyển hàng tồn kho và kỳ trả tiền bình quân được quản lý theo
những cách khác nhau để tối đa hóa HQTC hoặc thúc đẩy sự phát triển của DN.
Vương Đức Hoàng Quân và Dương Diễm Kiều (2016) và phân tích tác động của quản lý
vốn lưu động đến lợi nhuận của các DN niêm yết trên Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh với
mẫu nghiên cứu là 29 DN thuộc 4 ngành dược phẩm, ngành thép, ngành thực phẩm và ngành
thủy sản niêm yết trên Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ năm 2010 đến
2014. Kết quả nghiên cứu thể hiện qua mô hình hồi qui riêng của từng ngành và cho thấy mức độ
tác động của vốn lưu động đến lợi nhuận đối với 4 ngành nghiên cứu rất khác nhau. Tuy nhiên
đối với CCC, nghiên cứu cho một kết quả thống nhất là CCC không có ý nghĩa thống kê và chưa
chứng minh sự ảnh hưởng đến ROA đối với 4 ngành nghiên cứu.
515
3. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Các nhận định chung trong các bài nghiên cứu đều xoay quanh lý thuyết đánh đổi giữa
thanh khoản và lợi nhuận. Lý thuyết này nhận định rằng cả hai thuật ngữ tài chính này gây ra
mối quan hệ xung đột trong một tổ chức, do đó việc theo đuổi một yếu tố này cũng đồng nghĩa là
đánh đổi yếu tố kia (Dash và Ravipati, 2009).
Lý thuyết đánh đổi (Trade off theory) là một bước phát triển về lý luận của Miller (1984)
(trích dẫn trong Umobong, 2015) khi ông đã xem xét đến các tác động của thuế, chi phí phá sản
và các chi phí trung gian khi giải thích cấu trúc vốn. Lý thuyết đánh đổi cũng cho thấy rằng các
công ty nhắm mục tiêu đến một mức độ thanh khoản tối ưu để cân bằng lợi ích và chi phí của
việc nắm giữ các tài sản có tính lỏng cao nhất. Khi Công ty có nhu cầu đầu tư mà lại không
muốn huy động nguồn vốn tài chính từ bên ngoài, và muốn tránh các chi phí vay nợ thì Công ty
cần phải huy động được lượng tiền cần thiết từ nguồn vốn nội bộ, mà nhanh nhất là từ các tài sản
có tính thanh khoản cao, để thực hiện dự án đầu tư. Nếu không huy động kịp thời, tức Công ty
không có được số tài sản lỏng theo yêu cầu thì dự án đầu tư sẽ biến mất (Myers and Majluf
1984). Trong đó, Tiền mặt là tài sản có tính thanh khoản cao nhất, do đó được ưu tiên sử dụng
đầu tiên. Theo đó, việc giữ tiền mặt có thể cung cấp một số lợi thế cho DN như: (1) Cung cấp
thanh toán ngay cho các chi phí hàng ngày như tiền lương, vật liệu và thuế; (2) Do thực tế là
dòng tiền trong tương lai không chắc chắn, nên việc giữ tiền mặt đảm bảo cho DN có thể xử lý
kịp thời trong các tình huống khẩn cấp; (3) Sở hữu tiền mặt đảm bảo cho việc thực hiện đầu tư
có lợi nhuận đòi hỏi thanh toán phải ngay lập tức, không mất đi các chi phí cơ hội do thiếu vốn,
đặc biệt là cho các công ty khó khăn trong việc tiếp cận nguồn tài trợ bên ngoài. Ngoài ra, việc
lưu trữ các tài sản có tính thanh khoản cao làm giảm khả năng phát sinh chi phí tài chính nếu
công ty hoạt động không tạo ra dòng tiền đủ để đáp ứng việc thanh toán các khoản nợ bắt
buộc. Tuy nhiên, việc đầu tư quá nhiều vào các tài sản có tính thanh khoản cao cũng có những
bất lợi vì phát sinh nhiều chi phí. Một lượng tiền mặt lớn trên báo cáo tài chính có thể làm cho
các nhà đầu tư phải đặt câu hỏi: Tại sao các nhà quản trị lại để tồn lượng tiền mặt lớn ở đó mà
không đem đi sử dụng? Liệu có phải DN đã mất đi các cơ hội đầu tư hay là ban quản trị DN quá
yếu kém nên đã không thể sử dụng hiệu quả tiền mặt của DN? Việc để tiền mặt trong DN quá
nhiều đồng nghĩa với việc DN đã bỏ qua nhiều chi phí cơ hội, vì tỷ suất sinh lợi thấp, đặc biệt
nếu công ty bỏ qua những dự án đầu tư đem lại nhiều lợi nhuận hơn là việc nắm giữ ở mức tiền
mặt này. Như vậy, dự trữ tiền mặt và các tài sản thanh khoản cao được coi như là tấm đệm cho
DN khi DN thiếu tiền và hạn chế được nguy cơ mất cơ hội đầu tư trong trường hợp chi phí giao
dịch cao. Khi duy trì và quản lý khả năng thanh khoản của DN, DN cần cân nhắc giữa lợi ích và
chi phí của việc nắm giữ các tài sản, đặc biệt là các tài sản có tính thanh khoản cao nhất, để đảm
bảo tối đa hóa giá trị cho DN.
Như vậy, theo lý thuyết đánh đổi thì khi doanh nghiệp duy trì khả năng thanh toán cao thì
đánh đổi lại lợi nhuận đạt được sẽ thấp nguyên nhân là do khi doanh nghiệp duy trì tài sản ngắn
hạn cao thì khả năng sinh lời thấp do chi phí hoạt động cao, hơn nữa với việc duy trì nợ thấp cũng
khiến doanh nghiệp chịu chi phí tài chính cao hơn, mặt khác lại không sử dụng được đòn bẩy tài
chính cũng như khoản tiết kiệm chi phí từ lãi vay. Ngược lại, khi doanh nghiệp duy trì khả năng
thanh toán ngắn hạn thấp thì đánh đổi với rủi ro tài chính cao thì khả năng sinh lời cũng cao.
516
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Mô hình nghiên cứu
Dựa vào nghiên cứu của Bolek và Wili’nski (2011), Sanghani (2014), Reddy và Narayan
(2018), tác giả xây dựng mô hình hồi quy như sau:
Yit = β0+β1CURit + β2QRit + β3CARit + β4CCCit + β5NGANHit + β6QUYMOit
+ β7D/Ait + β8GROWNit + εit
Trong đó:
* Biến phụ thuộc là khả năng sinh lời (Y)
Khả năng sinh lời được đo lường bằng Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) và Tỷ
suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) với:
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản
(ROA) =
Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp
Tổng tài sản bình quân
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu (ROE) =
Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp
Vốn chủ sở hữu bình quân
* Biến độc lập là tính thanh khoản:
Tính thanh khoản được đo lường bằng Hệ số khả năng thanh toán hiện thời(CUR), Hệ số
khả năng thanh toán nhanh(QR), Hệ số khả năng thanh toán tức thời(CAR), Chu kỳ chuyển đổi
tiền mặt (CCC), với:
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời
(CUR) =
Tổng tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán nhanh
(QR) =
TSNH - Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán tức thời
(CAR) =
Tiền và các khoản tương đương tiền
Nợ ngắn hạn
Chu kỳ chuyển đổi tiền mặt (CCC) = ICP + RCP – PDP
+ ICP (Inventory Conversion Period) - kỳ luân chuyển hàng tồn kho
ICP = Giá trị hàng tồn kho bình quân/Giá vốn hàng bán trung bình ngày
+ RCP (Receivable Conversion Period) - kỳ thu tiền bình quân
RCP = Số dư bình quân nợ phải thu của khách hàng/Doanh thu trung bình ngày
+ PDP (Payable Deferral Period) - kỳ trả tiền bình quân
PDP = Số dư bình quân nợ phải trả nhà cung cấp/Giá vốn hàng bán trung bình ngày
517
* Biến kiểm soát gồm:
- Biến NGANH:
Mỗi một ngành với các đặc trưng khác nhau, chính sách thanh khoản khác nhau sẽ dẫn đến
tác động đến HQTC là khác nhau. Vì vậy, tác giả muốn xem xét tác động của tính thanh khoản đến
HQTC trong sự kiểm soát của biến NGÀNH thì có sự khác nhau như thế nào giữa các ngành.
Tác giả căn cứ vào cách phân ngành của Vietstock để chia ngành và gộp lại thành 3 nhóm
ngành: Dịch vụ, sản xuất và xây dựng
- Biến QUYMO: Quy mô DN có tác động lớn đến thị phần, uy tín của DN, từ đó tác động
đến khả năng sinh lời. Khi quy mô DN càng lớn thì khả năng nguồn lực càng cao, cơ hội hợp tác
với các DN khác và đa dạng hóa ngành nghề cũng dễ dàng hơn. DN có quy mô lớn sẽ được ưu
đãi nhiều hơn trong vay nợ, dẫn đến nhu cầu dự trữ tiền và các tài sản thanh khoản cũng sẽ ít đi,
ngược lại, tại các DN có quy mô nhỏ, khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng là khó khăn hơn
khiến DN phải dữ trự nhiều các tài sản có tính lỏng hơn. Biến QUYMO được đo lường bằng chỉ
tiêu tổng tài sản trên bảng Cân đối kế toán của từng Công ty.
Tác giả dựa vào các nghiên cứu của Bibi and Amjad (2017); Eljelly (2004); Bolek and
Wili’nski (2011); Sharma and Kumar (2011); Ben và cộng sự (2013); Ware (2015).
- Biến Tỷ suất nợ phải trả trên tổng tài sản
Tỷ số này cho biết trong tổng tài sản của DN có bao nhiêu phần trăm là từ đi vay. Điều đó
cho biết khả năng tự chủ tài chính của DN. Nếu D/A quá nhỏ, chứng tỏ DN vay ít, nghĩa là DN
có khả năng tự chủ tài chính cao. Tuy nhiên, mặt trái của nó cũng có thể hàm ý là DN chưa biết
khai thác đòn bẩy tài chính, chưa biết lợi dụng lá chắn thuế. Ngược lại, D/A mà cao quá hàm ý
DN không có thực lực tài chính, mà tài sản chủ yếu được hình thành là đi vayđể có vốn kinh
doanh, rủi ro của DN là khá cao.
Tỷ suất nợ phải trả trên tổng tài sản
(D/A) =
Nợ phải trả bình quân * 100
Tổng tài sản bình quân
Tác giả dựa vào các nghiên cứu của Podilchuk (2013); Sharma and Kumar (2011); Bolek
và Wilinski (2011); Reddy và Narayan (2018).
- Biến Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu
Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu cho biết mức tăng trưởng doanh thu tương đối (tính theo phần
trăm) qua các thời kỳ. Nếu DN có tỷ lệ này cao nghĩa là DN đang trong giai đoạn phát triển
mạnh, doanh thu tăng trưởng do thị phần tăng. Tuy nhiên điều đó cũng không đồng nghĩa với
việc tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận cao.
Tỷ lệ tăng trưởng
doanh thu (GROWN) =
Doanh thu thuần năm nay - Doanh thu thuần năm trước * 100
Doanh thu thuần năm trước
Tác giả dựa vào các nghiên cứu của Sharma and Kumar (2011); Bagchi and Chakrabarti
(2014); Ware (2015); Demirgünes (2016).
518
Theo lý thuyết đánh đổi, lợi nhuận tăng sẽ có xu hướng làm giảm tính thanh khoản của
công ty và ngược lại, thanh khoản cao sẽ có xu hướng ảnh hưởng đến khả năng sinh lời. Nếu quá
phụ thuộc vào thanh khoản thì sẽ dẫn đến sự tích tụ, ứ đọng của nguồn vốn nhàn rỗi và không
mang lại bất kỳ lợi nhuận nào cho công ty. Mặt khác, thanh khoản không đủ có thể làm sụt giảm
hạng tín dụng của doanh nghiệp và có thể dẫn đến thanh lý bắt buộc các tài sản của công ty, vì
vậy giả thuyết đặt ra là:
H0 trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
H1: Thanh khoản không có mối quan hệ đáng kể với khả năng sinh lời của các công ty phi
tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
4.2. Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu được xây dựng dựa trên dữ liệu về các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở
giao dịch chứng khoán Hà Nội trong khoảng thời gian 7 năm (từ 2010 đến 2017). Tất cả các
công ty trong nghiên cứu đều phải có báo cáo tài chính đã được kiểm toán bởi các công ty kiểm
toán độc lập. Kết quả là có 291 công ty niêm yết được thỏa mãn trong mẫu nghiên cứu cho chuỗi
thời gian trên, chi tiết như sau:
Ngành Số lượng Tỉ lệ %
Dịch vụ 63 21,65
Sản xuất 146 50,17
Xây dựng 82 28,18
Tổng 291 100
4.3. Phương pháp phân tích
Phương pháp tác giả sử dụng kiểm định mô hình là phương pháp bình phương nhỏ nhất
thông thường (OLS). Thỏa mãn các điều kiện đặt ra theo Albert (2016), có 6 giả thiết của dữ liệu
khi ước lượng theo OLS bao gồm: (i) hàm hồi quy là tuyến tính; (ii) mẫu nghiên cứu là mẫu
ngẫu nhiên; (iii) sai số ngẫu nhiên có giá trị trung bình bằng 0; (iv) không có mối quan hệ phụ
thuộc tuyến tính (đa cộng tuyến) giữa các biến độc lập; (v) phương sai không thay đổi và không
có tự tương quan của cácsai số; (vi) sai số ngẫu nhiên tuân theo quy luật phân phối chuẩn. Các dữ
liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS đã kiểm định thỏa mãn các yêu cầu đặt ra.
5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
5.1. Thống kê mô tả
Bảng 1. Mô tả giá trị trung bình của các chỉ số
NGANH
Dịch vụ Sản xuất Xây dựng Tổng
QUYMO (tr. đ) 356,956.9678 617,280.4048 717,325.4720 588,755.5893
CUR 2.8261 2.4690 6.4981 3.6874
519
QR 2.5233 1.6763 6.0783 3.1072
CAR .8229 .3463 .0919 .3783
CCC 85.5056 375.3905 624.0662 382.1574
D/A (%) 45.8857 47.9535 66.3615 52.7124
GROWN (%) 92.5765 26.2459 382.6345 141.3804
ROA (%) 7.2077 7.8357 3.0596 6.3467
ROE (%) 14.4799 15.5740 10.4360 13.8808
(Nguồn: Tác giả tự tính toán dựa trên Báo cáo tài chính của các công ty trong mẫu)
Bảng 1 là giá trị về các chỉ số được sử dụng làm dữ liệu cho nghiên cứu này. Quy mô bình
quân của các công ty ở mức 588,755 (tr.đ). Nhìn chung, qua 7 năm, chỉ số ROA và ROE đều
dương, thể hiện kết quả kinh doanh có nhiều khả quan, tỷ lệ trăng trưởng bình quân của các công
ty trong mẫu đạt ở mức rất cao, lên đến 141,3804%. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ trên tổng tài sảnlại vượt
quá 50%, nghĩa là tài sản của doanh nghiệp chủ yếu được hình thành do đi vay để có vốn kinh
doanh, rủi ro của DN là khá cao. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời (CUR) và hệ số khả năng
thanh toán nhanh (QR) cao, đặc biệt là đối với ngành xây dựng. Nếu CUR và QR càng cao thì
khả năng DN chi trả các khoản nợ là càng lớn, nguy cơ phá sản của DN thấp, tình trạng tài chính
tốt. Tuy nhiên, nếu CUR và QR quá cao lại phản ánh hiệu quả sử dụng vốn thấp do DN đã đầu tư
vào TSNH quá nhiều, dẫn đến tình trạng tài chính là không tốt. Chỉ tiêu hệ số khả năng thanh
toán tức thời (CAR) nhỏ hơn 1, thậm chí dưới ngưỡng 0,5 đã thể hiện điều đó. Các DN đang bị
tồn động hàng tồn kho và nợ phải thu nhiều.
5.2. Phân tích tương quan
Bảng 2. Hệ số tương quan giữa các biến
Bảng ma trận tương quan r
NGANH QUYMO CUR QR CAR D/A GROWN CCC ROA ROE
NGANH Hệ số r 1
QUYMO Hệ số r .075** 1
CUR Hệ số r .018 -.011
QR Hệ số r .018 -.010 1.000** 1
CAR Hệ số r -.149** -.042* .097** .097** 1
D/A Hệ số r .328** .198** -.065** -.062**-.298** 1
GROWN Hệ số r .028 .001 -.001 -.001 -.004 .011 1
CCC Hệ số r .025 -.008 -.001 -.001 .007 -.019 -.002 1
ROA Hệ số r -.183** -.084** .002 .002 .118** -.283** -.049** -.041* 1
ROE Hệ số r -.073** -.037* -.009 -.009 .016 .035 -.059** -.073** .690** 1
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
*. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).
(Nguồn: Tác giả tự tính toán dựa trên Báo cáo tài chính của các công ty trong mẫu)
520
Kết quả phân tích tương quan r cho thấy thể hiện hầu hết các biến độc lập và biến kiểm
soát đều có hệ số tương quan từ 0.04 đến 0.283, có ảnh hưởng đến ROA ngoại trừ hai biến CUR
và QR, chưa thể hiện được sự tác động đến ROA cho nên 2 biến này bị loại bỏ khi đưa vào mô
hình phân tích hồi qui tuyến tính.
Đối với ROE, số biến độc lập và kiểm soát không có tác động nhiều hơn, gồm CUR, QR,
CAR, D/A. Cho nên 4 biến này bị loại bỏ khi đưa vào mô hình phân tích hồi qui tuyến tính. Các
nhân tố còn lại đều có hệ số tương quan từ 0.03 đến 0.073 chứng tỏ các yếu tố có mức ảnh
hưởng yếu đến biến ROE.
Qua phân tích tương quan cho thấy ROA là yếu tố đại diện tốt hơn cho khả năng sinh lời
của các công ty trong mẫu, và có sự tác động qua lại bởi nhiều biến độc lập và kiểm soát hơn. Do
vậy, tác giả đã xây dựng lại mô hình hồi quy, thể hiện tác động của tính thanh khoản đến khả
năng sinh lời của các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Yit = β0 + β1CARit + β2CCCit + β3NGANHit + β4QUYMOit + β5D/Ait + β6GROWNit + εit
5.3. Mô hình hồi quy tuyến tính các nhân tố ảnh hưởng đến ROA
Bảng 3: Hồi qui tuyến tính các nhân tố ảnh hưởng đến ROA
Biến Mô hình 1 Mô hình 2
Beta hiệu chỉnh Hàm t Beta hiệu chỉnh Hàm t
Hằng số 6.174 37.371 13.562 24.660
CAR .121*** 6.470 .034* 1.785
CCC -.042* -2.255 -.044* -2.467
NGANH -.092** -4.851
QUYMO(tr.đồng) -.029 -1.604
D/A -.243*** -12.122
GROWN -.044* -2.445
Hàm F 23.378 50.645
R2 hiệu chỉnh .016 .095
*p<0.05; **p<0.01; ***p<0.001
(Nguồn: Tác giả tự tính toán dựa trên Báo cáo tài chính của các công ty trong mẫu)
Để xem xét sự ảnh hưởng của tính thanh khoản đến ROA khi có sự tác động của các biến
kiểm soát, tác giả chạy hồi qui với 2 mô hình khác nhau.
Mô hình thứ nhất thể hiện tác động của thanh khoản đến ROA mà không có sự điều tiết bởi
các biến kiểm soát. Cả hai biến độc lập CAR; CCC đều có ảnh hưởng đến ROA của các doanh
nghiệp với mức ý nghĩa p<0,05. Trong đó hệ số Beta chuẩn hóa của CAR mang giá trị (+) chứng
tỏ nhân tố CAR có ảnh hưởng tích cực đến ROA. Hệ số Beta chuẩn hóa của CCC mang giá trị
âm (-) chứng tỏ nhân tố CCC có ảnh hưởng tiêu cực đến ROA của các doanh nghiệp trong mẫu.
521
Đến mô hình thứ hai khi đưa các biến kiểm soát vào thì mối quan hệ giữa tính thanh khoản
và ROA vẫn giữ nguyên chiều hướng, tuy nhiên mức độ tác động thì có sự thay đổi, do yếu tố
ảnh hưởng của các biến kiểm soát. Đồng thời, các nhân tố kiểm soát đều thể hiện có mối quan hệ
đối với biến ROA ngoại trừ biến QUYMO.
6. KẾT LUẬN
Bài nghiên cứu kiểm định sự tác động của tính thanh khoản đến hiệu quả tài chính của 291
công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội trong giai đoạn 2010-2017.
Tác giả đã áp dụng phương pháp hồi quy trên dữ liệu bảng, sau đó có hiệu chỉnh mô hình nhằm
đảm bảo ước lượng thu được vững và có hiệu quả.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tính thanh khoản có tác động khác nhau đến khả năng sinh
lời (ROA) khi xét đến trạng thái thanh khoản. Các chỉ tiêu đo lường thanh khoản mà tác giả liệt
kê ở trên được tính toán dựa trên số liệu từ Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh. Trong khi đó, Bảng cân đối kế toán là một báo cáo thời điểm, phản ánh tổng quát tình
hình tài sản của DN về mặt giá trị và nguồn gốc tại một thời điểm nhất định, báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh là báo cáo thời kỳ. Như vậy, các chỉ tiêu đo lường thanh khoản dựa trên số
liệu từ Bảng cân đối kế toán sẽ phản ánh trạng thái tĩnh của thanh khoản, còn các chỉ tiêu được
tính toán dựa trên số liệu từ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh sẽ phản ánh trạng thái động
của thanh khoản. Kết luận về tình trạng thanh khoản của DN cần phải được xác định dựa trên cả
trạng thái tĩnh và trạng thái động.
Kết quả nghiên cứu của tác giả đã chỉ ra rằng: Xét ở trạng thái tĩnh, CUR, QR không có tác
động đến khả năng sinh lời của các DN trong mẫu, CAR có tác động tích cực đến ROA. Trong
khi đó, xét ở trạng thái động, CCC lại có tác động tiêu cực đến ROA. Kết quả này đồng nhất với
các nghiên cứu trước đó của Wang (2000), Eljelly (2004), Ben-Caleb và cộng sự (2013), Bibi
and Amjad (2017). Dựa vào kết quả của nghiên cứu này, một số hàm ý, kiến nghị có thể đưa ra
như sau:
Thứ nhất, tính thanh khoản của DN cần được các nhà quản trị xem xét đầy đủ ở cả trạng
thái tĩnh và động. Làm như vậy, các DN sẽ đưa ra được các quyết định tốt hơn dựa trên cả dữ
liệu tĩnh từ bảng Cân đối kế toán và dữ liệu động từ Báo cáo kết quả kinh doanh.
Thứ hai, khả năng thanh khoản của DN cần nhìn nhận thực chất dựa vào khả năng chuyển
đổi các tài sản có tính lỏng. Các khoản phải thu ngắn hạn và hàng tồn kho tuy là tài sản ngắn hạn
của doanh nghiệp nhưng khả năng có thể nhanh chóng chuyển thành tiền để kịp đáp ứng các
khoản nợ đến hạn của hai khoản này là tương đối khó và không chắc chắn, đặc biệt trong giai
đoạn nền kinh tế gặp khủng hoảng khi hàng tồn kho không tiêu thụ được và nhiều khoản nợ phải
thu gặp khó khăn khó thu hồi. CAR là chỉ tiêu phản ánh thực chất nhất.
Thứ ba, để tăng khả năng thanh khoản cho DN, và tăng khả năng sinh lời, DN cần quản trị
thật tốt chu kỳ chuyển đổi tiền mặt. Nếu CCC càng nhỏ thì vốn lưu động bị ứ đọng được giảm
đáng kể, làm giảm nhu cầu về vốn lưu động, tăng tính thanh khoản cho DN, nâng cao hiệu quả
hoạt động.
522
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Alagathurai, A. (2013). A nexus between liquidity & profitability: a study of trading companies
in Sri Lanka, European Journal of Business and Management, 5(7), 221-237
Bagchi, B. and Chakrabarti, J. (2014), Modeling liquidity management for Indian FMCG firms,
International Journal of Commerce and Management, 24(4), 334-354.
Ben-Caleb, E., Olubukunola, U. and Uwuigbe, U. (2013). Liquidity management and profitability
of manufacturing companies in Nigeria, International Organization of Scientific Research
Journal of Business and Management, 9(1), 13-21.
Bhunia, A., Khan, I. và MuKhuti, S. (2011). A study of managing liquidity, Journal of
Management Research, 2(3), 01-22
Bibi, N. and Amjad, S. (2017). The Relationship between Liquidity and Firms’ Profitability:
A Case Study of Karachi Stock Exchange, Asian Journal of Finance & Accounting, 1(9),
54-67.
Bolek, M. and Wili'nski, W. (2011). The influence of liquidity on profitability of polish
construction sector companies, Financial Internet Quarterly, 8(1), 38-52.
Dash, M., and Ravipati, R. (2009), A liquidity-profitability trade-off model for working capital
management, truy cập từ ngày 15 tháng 11 năm 2018, từ http://www.indianmba.com /
Faculty_Column / FC285/fc285.html.
Demirgünes, K. (2016). The Effect of Liquidity on Financial Performance: Evidence from
Turkish Retail Industry, International Journal of Economics and Finance, 4(8), 63-79.
Eljelly, A.M. (2004). Liquidity‐profitability tradeoff: An empirical investigation in an emerging
market, International journal of commerce and management, 14(2), tr. 48-61.
Myers, S. C. and Majluf, N. S. (1984). Corporate financing and investment decisions when firms
have information that investors do not have, Tạp chí Journal of financial economics, 13(2),
187-221.
Ismail, R. (2016). Impact of Liquidity Management on Profitability of Pakistani Firms: A Case
of KSE-100 Index, International Journal of Innovation and Applied Studies, 14(2),
304-314.
Podilchuk, Z. (2013). Impact of liquidity management on profitability: evidence from Ukraine,
Unpublished MA in Financial Economics thesis, Kyiv School of Economics.
Reddy, Y. V. and Narayan, P. (2018). The Impact of Liquidity and Leverage on Profitability:
Evidence from India, IUP Journal of Accounting Research & Audit Practices, 17(1),
58-77.
Sanghani, D.A. (2014). The Effect of Liquidity on the Financial Performance of Non-Financial
Companies Listed At the Nairobi Securities Exchange, Unpublished MBA Project.
523
Saleem, Q. and Rehman, R. U. (2011). Impacts of liquidity ratios on profitability,
Interdisciplinary Journal of Research in Business, 7(1), 95-98.
Sharma, A.K and Kumar, S. (2011), Effect of Working Capital Management on Firm Profitability:
Empirical Evidence from India, Global Business Review, No12, 159-173.
Shim, J.K. and Siegel, J.G. (2000). Financial management (4* ed.), Hauppauge, New York:
Barron's.
Thuraisingam, R. (2015). The Effects of Liquidity Management on Firm Profitability: Evidence
from Sri Lankan Listed Companies, Research Journal of Finance and Accounting, 5(6),
129-134.
Umobong, A.A. (2015). Assessing The Impact Of Liquidity And Profitability Ratios On Growth
Of Profits In Pharmaceutical Firms In Nigeria, European Journal of Accounting, Auditing
and Finance Research, 10(3), 97-114.
Wang, Y. J. (2002). Liquidity management, operating performance, and corporate value:
evidence from Japan and Taiwan, Journal of multinational financial management, 12(2),
159-169.
Ware, E.O. (2015). Liquidity Management and Its Effect on Profitability in a Tough economy:
(A Case of Companies Listed on the Ghana Stock Exchange), International Journal, 11(2),
34-66.
524
Sự thay đổi về vai trò của kế toán quản trị
trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Nguyễn Thị Thanh Loan
Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: loanhung7774@gmail.com
Mã bài: HTQG.54 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 14/11/2019
Ngày nhận bài: 10/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 19/11/2019
Tóm tắt
Nghiên cứu thực hiện nhằm mục đích tìm hiểu sự thay đổi về vai trò của kế toán quản trị
trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Phương pháp nghiên cứu được áp dụng là phương pháp
mô tả thông qua việc thu thập các tài liệu được công bố trong và ngoài nước về cách mạng công
nghiệp 4.0, vai trò kế toán quản trị, hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERPs), dữ liệu
lớn (Big data), điện toán đám mây (Cloud computing), trí tuệ nhân tạo (AI) và sự tác động của
chúng làm thay đổi vai trò của kế toán quản trị. Thông qua những cơ hội và thách thức từ cách
mạng công nghiệp 4.0 đặt ra những vấn đề đối với kế toán quản trị.
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, vai trò kế toán quản trị, hệ thống hoạch định nguồn
lực doanh nghiệp, dữ liệu lớn, điện toán đám, trí tuệ nhân tạo.
1. GIỚI THIỆU
Cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 tác động lớn đến mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Cuộc cách mạng này mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với các
lĩnh vực, ngành nghề. Trong đó, lĩnh vực kế toán, kiểm toán được xác định là sẽ chịu nhiều tác
động và đòi hỏi phải thay đổi để thích ứng, thay đổi về quy trình thực hiện công tác kế toán và
quy trình tổ chức thông tin tài chính kế toán. Theo nghiên cứu của Deloitte (2014): Các nghiên
cứu trên thế giới mới đây đều chỉ ra rằng, cách mạng công nghiệp 4.0 với các ứng dụng vạn vật,
lưu trữ dữ liệu quy mô lớn, điện toán đám mây, việc phát triển hệ thống trí tuệ nhân tạo, vạn vật
kết nối trên toàn thế giới sẽ mở ra cơ hội tốt cho lĩnh vực kế toán, kiểm toán tiếp cận những phần
mềm kế toán tiện ích, chi phí phù hợp, giúp sử dụng hiệu quả nguồn lực, tiết kiệm thời gian,
nhân lực, tiếp cận hệ thống kế toán, kiểm toán quốc tế.
Chúng ta biết rằng, vai trò của kế toán quản trị trong một tổ chức là thu thập, cung cấp thông
tin thích hợp và nhanh chóng cho các nhà quản trị để họ thực hiện việc điều hành, kiểm soát hoạt
động của tổ chức và ra quyết định. Tuy nhiên, trong bối cảnh bùng nổ của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0, phương thức kế toán quản trị truyền thống đang dần không còn phù hợp, mà thay vào
525
đó là sự kết hợp chặt chẽ, không thể tách rời giữa công nghệ và kế toán quản trị. Theo Trương &
Nguyễn (2019), những tác động tích cực của CMCN 4.0 đối với kế toán quản trị trên các phương
diện sau: (1) Tác động vào quy trình kế toán quản trị thông qua nền tảng trí tuệ nhân tạo cho phép
người làm kế toán nói chung và kế toán quản trị nói riêng được đơn giản hóa quy trình tính toán;
(2) Hỗ trợ hiệu quả cho công việc của người làm công tác kế toán quản trị với hệ thống Internet kết
nối vạn vật cho phép người làm kế toán quản trị có khả năng thu thập thông tin kế toán mà không
bị giới hạn bởi các khoảng cách địa lý; (3) Tác động đến công tác lưu trữ kế toán thông qua công
nghệ đám mây cho phép kế toán quản trị có thể lưu trữ khối lượng lớn thông tin một cách hệ thống
và khoa học. Công nghệ này có khả năng xử lý số lượng lớn dữ liệu (Big data) và cũng để thực
hiện cùng lúc nhiều nhiệm vụ để đạt được kết quả mong muốn.
Ông Đặng Văn Thanh - Chủ tịch Hội Kế toán và kiểm toán Việt Nam (VAA) trong Hội
thảo năm 2018 về đổi mới quy trình kế toán trong cuộc cách mạng công nghệ số cho biết “Sự
phát triển của hạ tầng viễn thông trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang đặt ra
những thách thức mới về bảo mật, trước hết là bảo mật trong thông tin kế toán quản trị, trong
nghiệp vụ thanh toán, trong các hoạt động đầu tư”. Công việc kế toán được tin học hóa, quy
trình kế toán đã và sẽ có sự thay đổi căn bản khi hầu hết các phần hành kế toán đều ứng dụng
công nghệ thông tin, kể cả hoạt động ghi sổ, lập báo cáo tài chính. Như vậy, thông tin kế toán
quản trị có vai trò và tầm quan trọng ngày càng cao đối với quản lý doanh nghiệp, đặc biệt trong
điều kiện hiện nay khi sự phát triển của công nghệ thông tin ngày càng tác động mạnh mẽ đến
việc quản trị doanh nghiệp nói chung và hệ thống thông tin kế toán quản trị nói riêng.
Công nghệ thông tin trong CMCN 4.0 đã góp phần làm thay đổi lĩnh vực kế toán ở phương
thức xử lý dữ liệu và cung cấp thông tin kế toán như: ERP làm cho tất cả các bộ phận đều làm việc
trên cùng một hệ thống nên việc thu thập các thông tin trở nên đơn giản, giúp tiết kiệm được nhiều
thời gian cho các kế toán; điện toán đám mây cho phép khả năng truy cập vào máy tính hiệu năng
cao và chi phí thấp từ bất kỳ thiết bị nào; dữ liệu lớn mang lại cho con người sự tiếp cận với nguồn
kiến thức vô hạn nhưng cũng khiến con người phải cẩn trọng khi tiếp cận với thông tin và sử dụng
thông tin; trí tuệ nhân tạo có thể thay thế những công việc thủ công của kế toán như thu thập, xử lý,
tính toán số liệu nhưng những công đoạn như phân tích, tìm nguyên nhân đưa ra giải pháp cho
từng tình huống cụ thể cũng như những tình huống chưa xảy ra thì luôn cần có sự tham gia của con
người. Liên quan vấn đề này, bà Nurmazilah Dato’ Mahzan - Tổng Giám đốc điều hành Viện Kế
toán Malaysia khẳng định: “Kế toán viên vẫn giữ vai trò chủ đạo trong công tác kế toán, bởi, máy
móc hiện nay không thể thực hiện xét đoán chuyên môn và hoài nghi nghề nghiệp. Bên cạnh đó,
nghề nghiệp kế toán sử dụng những bộ dữ liệu khác nhau và đa dạng, khó chuẩn hoá. Tuy nhiên,
để thích ứng với công nghệ, người kế toán trong thời đại số cần phải được trang bị bộ kỹ năng cần
thiết, gồm bộ kỹ năng công nghệ; khả năng tiếp nhận thay đổi; giao tiếp và thành thạo tiếng Anh
cùng bộ kỹ năng tư duy phản biện, chiến lược và phân tích”.
Như vậy, xu thế mới đang dần hình thành khi nghề kế toán trở thành một nghề thiên nhiều
về quản trị thông tin tài chính, các kế toán viên sẽ dành nhiều thời gian cho việc phân tích, lập kế
hoạch, dự toán, dự báo, lập ngân sách hoặc đưa ra các thông tin hỗ trợ, tham mưu cho lãnh đạo
doanh nghiệp về kế toán quản trị, xu hướng này làm cho vai trò của kế toán quản trị ngày càng
lớn dần lên, tăng dần lên trong các doanh nghiệp, dần thay thế kế toán tài chính trước đây.
526
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong nghiên cứu này bao gồm phương pháp mô tả
thông qua việc thu thập các tài liệu được công bố trong và ngoài nước trước đây về cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0, hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp ERPs, dữ liệu lớn (Big
data), công nghệ điện toán đám mây (Cloud computing) và trí tuệ nhân tạo (AI) và sự tác động
của chúng vào kế toán quản trị.
3. VAI TRÒ CỦA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ - TỪ QUAN ĐIỂM TRUYỀN THỐNG TỚI
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Kế toán quản trị được coi là một trong những công cụ quản lý hữu hiệu trong nền kinh tế thị
trường, bởi tính linh hoạt và kịp thời của thông tin kế toán phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ doanh
nghiệp. Theo CIMA (2005), kế toán quản trị là “Quá trình xác định, đo lường, tích lũy, phân tích,
chuẩn bị, giải thích và truyền đạt thông tin (cả tài chính và hoạt động) được quản lý sử dụng để lập
kế hoạch, đánh giá và kiểm soát trong một tổ chức và để đảm bảo sử dụng và chịu trách nhiệm cho
nguồn lực của mình”. Theo IMA, được đề cập bởi Atkinson và cộng sự (2004) cho rằng “Kế toán
quản trị là một quá trình cải tiến liên tục giá trị gia tăng của việc lập kế hoạch, thiết kế, đo lường và
vận hành cả hệ thống thông tin phi tài chính và hệ thống thông tin tài chính hướng dẫn hành động
quản lý, thúc đẩy hành vi và hỗ trợ và tạo ra các giá trị văn hóa cần thiết để đạt được các mục tiêu
chiến lược, chiến thuật và hoạt động của tổ chức”. Kế toán quản trị cũng được Horngren và cộng
sự (2005) định nghĩa như sau: “Kế toán quản trị đo lường và báo cáo thông tin tài chính cũng như
các loại thông tin khác chủ yếu nhằm hỗ trợ các nhà quản lý thực hiện các mục tiêu của tổ chức”.
Việc đạt được mục tiêu cũng rất quan trọng trong định nghĩa được cung cấp bởi Worre (1991a,
trang 6; dịch văn bản gốc), trong đó kế toán quản trị được định nghĩa là các quyết định định hướng
mục tiêu có chủ ý, cụ thể là xem xét tài chính như yếu tố mục tiêu. Kaplan và Atkinson (1998,
trang 1) tuyên bố rằng “Các hệ thống kế toán quản trị cung cấp thông tin để hỗ trợ các nhà quản lý
trong các hoạt động lập kế hoạch và kiểm soát của họ. Hoạt động kế toán quản trị bao gồm thu
thập, phân loại, xử lý, phân tích và báo cáo thông tin cho người quản lý. Phạm vi của kế toán quản
trị vượt ra ngoài các biện pháp truyền thống về chi phí và doanh thu từ các giao dịch đã xảy ra
bao gồm cả thông tin về tồn đọng bán hàng, số lượng đơn vị, giá cả, nhu cầu về nguồn lực và các
biện pháp thực hiện rộng rãi dựa trên biện pháp vật lý hoặc phi tài chính”.
Như vậy, kế toán quản trị có vai trò chủ đạo và chi phối toàn bộ hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp từ khâu lập kế hoạch, tổ chức điều hành, kiểm soát và ra quyết định.
(Nguồn: Garrison., Noreen, Brewer (2008), Managerial Accounting)
Hình 1. Vai trò của kế toán quản trị
Lập kế hoạch
Hoạt động hiệu chỉnh Tổ chức, điều hành
Kiểm soát
Ra quyết định
Bắt đầu
527
Tuy nhiên, dựa trên các thông tin mà kế toán quản trị cung cấp bao gồm thông tin tài chính
và thông tin phi tài chính, các nhà quản trị đưa ra quyết định kinh doanh phù hợp trong ngắn hạn
và dài hạn nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững trong nền kinh tế thị trường. Kế toán
quản trị đã phát triển từ việc tập trung vào xác định chi phí và kiểm soát tài chính để tạo ra giá trị
thông qua việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Do đó, vai trò của các kế toán quản trị cũng đã
thay đổi phù hợp với những thay đổi trong kỹ thuật kế toán quản trị, đồng thời do sự phát triển
nhanh chóng của các hệ thống thông tin kế toán, ngày nay hệ thống thông tin kế toán không chỉ
liên quan đến các dữ liệu và thông tin tài chính mà còn liên quan đến cả những dữ liệu và thông
tin phi tài chính, các đối tượng ra quyết định bao gồm cả những đối tượng bên trong và bên
ngoài doanh nghiệp (Wilkinson và cộng sự, 2000), cho nên ngày càng có nhiều dữ liệu trong các
doanh nghiệp của các bộ phận kế toán quản trị, làm cho những người ra quyết định trong doanh
nghiệp thường phải đối mặt với vấn đề về lượng thông tin trong các báo cáo, khối lượng thông
tin khổng lồ với sự phức tạp và đa dạng khiến cho việc chọn lọc, phân tích và cung cấp thông tin
đang dần không đáp ứng được các yêu cầu của nhà quản trị. Do đó, vai trò của kế toán quản trị
đã chuyển sang hỗ trợ cho quyết định của người quản lý, dự đoán nhu cầu thông tin, đóng vai trò
là tổ chức tư vấn kinh doanh nội bộ và tham gia vào nhóm đa chức năng.
Byrne và Pierce (2007) đã đánh giá, trong giai đoạn số hóa cách mạng công nghiệp 4.0 các
kỹ thuật kế toán quản trị mới như phân tích lợi nhuận hoặc định giá chiến lược, đòi hỏi các
nhiệm vụ phối hợp và chia sẻ kiến thức mạnh mẽ hơn, đồng thời cách mạng công nghiệp 4.0
cung cấp cho các nhân viên kế toán quản trị cơ hội và công cụ mới để thực hiện nhiệm vụ tốt
hơn. Để thực hiện các nhiệm vụ này, cần phải có năng lực phối hợp, tư duy chiến lược và kiến
thức hệ thống và sẽ chuyển các kế toán quản trị trở thành vai trò hợp tác kinh doanh. Trong
nghiên cứu của mình, Byrne và Pierce (2007) đã phân tích các nguồn khác nhau để điều tra vai
trò tiềm năng trong tương lai của các kế toán quản trị và năng lực cần thiết của họ, kết quả của
nghiên cứu dẫn đến 6 đề xuất: (1) Tiến bộ công nghệ đang thay đổi mối quan hệ giữa cập nhật
báo cáo so với số liệu phân tích; (2) Có sự thay đổi từ phương pháp phân tích truyền thống sang
phương pháp phân tích thống kê; (3) Năng lực CNTT hiện tại của các kế toán quản trị không đáp
ứng các yêu cầu về tiềm năng của cách mạng công nghiệp 4.0; (4) Nhu cầu của nhà khoa học dữ
liệu đang tăng lên, nhưng không thay thế kế toán quản trị; (5) Nhà khoa học dữ liệu sẽ hỗ trợ và
thiết lập cơ sở cho kế toán quản trị; (6) Có một sự thay đổi trong vai trò của kế toán quản trị để
hợp tác kinh doanh mạnh mẽ hơn.
Batani Raghavendra Rao (2019) cũng đã nghiên cứu ý nghĩa và vai trò của kế toán quản trị
theo các yếu tố của CMCN 4.0:
Bảng 1. Vai trò của kế toán quản trị
Các yếu tố của
công nghiệp 4.0 Ý nghĩa Vai trò của kế toán quản trị
Dữ liệu lớn và
phân tích
Để hiểu rõ hơn về các mô hình
hoạt động kinh doanh mà con
người không thể làm được
Tận dụng các phân tích kinh doanh
để hỗ trợ ra quyết định và tối ưu
hóa nguồn lực vật chất và nhân lực
528
IoT - Internet vạn
vật
Kết nối các thiết bị để hoạt động
tốt hơn, tăng cường bảo trì thông
minh, lên lịch kịp thời
Giá cả; phí bảo hiểm cho các chính
sách tùy thuộc vào mô hình sử dụng
/ đánh giá rủi ro
Trí tuệ nhân tạo
(AI)
Tự động hóa, Robotics, Cobots và
máy học, rút ngắn chu kỳ sản
xuất, dễ dàng, ngắn gọn và tốc độ
kinh doanh và cách mạng hóa mô
hình kinh doanh và đổi mới
Quản lý dự án, giải pháp hậu cần và
chuỗi cung ứng, phân phối FMCG,
giảm thiểu rủi ro và xây dựng chiến
lược
Tính toán lượng tử Tốc độ và tính toán chính xác
Giải phóng các chuyên gia tài chính
khỏi công việc trần tục để phát triển
kinh doanh chiến lược
Sản xuất kỹ thuật
số
Mạng lưới tốt hơn giữa các đối
tác kinh doanh
Tận dụng nó để tạo giá trị trong
chuỗi giá trị
Chuỗi khối
Blockchain
Cơ sở dữ liệu phi tập trung nhanh
chóng, minh bạch, hiệu quả về chi
phí và bằng chứng giả mạo
Tham gia phát triển giải pháp bằng
cách sử dụng Blockchain và trợ
giúp trong các ứng dụng trong
BFSI và lĩnh vực bất động sản
(Nguồn: Batani Raghavendra Rao (2019) tổng hợp)
Như vậy, vai trò của kế toán quản trị đã thay đổi cụ thể như thế nào dưới tác động của cách
mạng công nghiệp 4.0 - những yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số trong CMCN 4.0 như: hệ thống hoạch
định nguồn lực doanh nghiệp (ERPs), dữ liệu lớn (Big data), điện toán đám mây (Cloud
computing) và trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) nhằm giúp nhà quản trị hoạch định
công việc, giám sát và điều hành doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất.
4. TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 TỚI VAI TRÒ CỦA KẾ TOÁN
QUẢN TRỊ
Với sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, phương thức kế toán quản trị truyền
thống đang dần không còn phù hợp, mà thay vào đó là sự kết hợp chặt chẽ, không thể tách rời
giữa công nghệ và kế toán quản trị. Các thay đổi trong nguồn dữ liệu hiện có, quyền truy cập vào
các nguồn dữ liệu không có sẵn trước đó và các phương pháp phân tích mới phát sinh cho kế
toán quản trị. Cụ thể, khoa học quan tâm đến câu hỏi về sự hợp tác giữa kế toán quản trị và số
hóa, và làm thế nào các mô hình kinh doanh được cấu hình phù hợp cuối cùng có thể được thay
đổi hoàn toàn bởi sự phát triển này. Theo Rojko (2017), từ năm 2011, cách mạng công nghiệp
4.0 là một chủ đề được bàn luận phổ biến, ý tưởng chính là khai thác tiềm năng của các công
nghệ và khái niệm mới như: Sự sẵn có và sử dụng internet và công nghệ thông tin; Tích hợp các
quy trình kỹ thuật và quy trình kinh doanh trong các công ty; Lập bản đồ số và ảo hóa thế giới
thực; Nhà máy thông minh bao gồm các phương tiện thông minh của sản xuất công nghiệp và
các sản phẩm thông minh. Việc ứng dụng các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 vào lĩnh
vực kế toán quản trị đã và đang trở thành xu hướng tất yếu.
529
Hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERPs)
Hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERPs) là hệ thống thông tin tích hợp và
toàn tổ chức, có khả năng quản lý và điều phối tất cả các nguồn lực, thông tin và chức năng của
một doanh nghiệp từ các cửa hàng dữ liệu dùng chung (Kallunki và cộng sự, 2011). Vì các hệ
thống ERP có thể tích hợp thông tin doanh nghiệp dựa trên giao dịch vào một cơ sở dữ liệu trung
tâm và cho phép lấy thông tin đó từ các bộ phận tổ chức khác nhau (Dechow và Mouritsen,
2005), chúng có thể cải thiện khả năng của kế toán viên quản lý tài chính của mình. Một trong
những lý do là việc triển khai các hệ thống ERP tập trung vào việc cải thiện tính hiệu quả của
quy trình báo cáo tài chính và không thay đổi bản chất của quy trình đó, mặc dù có thể thay đổi
thông qua thiết kế và triển khai hệ thống tích hợp các hoạt động của toàn bộ tổ chức (Sangster và
cộng sự, 2009). Đó là, kế toán quản trị coi hệ thống ERP là một công cụ mạnh mẽ để tạo báo cáo
và bỏ qua tiềm năng của nó trong kiểm soát quy trình và phân tích hiệu suất của công ty.
Suhaimi, Nawawi và Salin (2016) nghiên cứu về ảnh hưởng của ERP tới hệ thống kiểm
soát quản trị và vai trò của kế toán, nghiên cứu này cho thấy hệ thống ERP là một thiết bị tuyệt
vời cho một hệ thống kiểm soát quản lý chính thức vì nó giúp các công ty xác định lãng phí
trong thời gian sớm nhất. Về mặt kế toán, vai trò của ERP, ERP đã cải thiện đáng kể công việc
của họ khi họ có thể dành nhiều thời gian hơn cho phân tích tài chính và ra quyết định so với
nhập dữ liệu trước đây. Hệ thống này cũng rất mạnh mẽ và có thể cải thiện khả năng xử lý giao
dịch của công ty, có thể liên quan đến hàng ngàn giao dịch trong một ngày (Dechow và
Mouritsen, 2005).
Sánchez-Rodríguez & Spraakman (2012) nhận thấy rằng việc triển khai hệ thống ERP đã
dẫn đến việc tự động hóa và chuẩn hóa việc thu thập dữ liệu kế toán và chi tiết hơn về thông tin
kế toán. Điều này cung cấp dữ liệu chính xác hơn cho các tính toán và dự báo. Ngoài ra, các hệ
thống ERP được triển khai giúp cho quá trình thu thập dữ liệu nói chung nhanh hơn nhiều, giải
phóng thời gian để phân tích dữ liệu. Biểu đồ tài khoản ERPs là một trong những yếu tố tốc độ
chính. Nó cho phép đăng ký dữ liệu nhanh hơn và chi tiết hơn, dẫn đến dữ liệu chi tiết hơn cho
phân tích.
Để triển khai ERP thành công, Sangster và cộng sự (2009) cũng chỉ ra rằng bản chất của
vai trò kế toán quản trị cần được thay đổi đáng kể, theo đó, kế toán quản trị trở thành cố vấn kinh
doanh, người thực hiện các bước chủ động để hỗ trợ giám đốc điều hành và người ra quyết định.
Đặc biệt, họ mô tả mối quan hệ tương tác giữa các hệ thống ERP và kế toán quản lý như sau: (1)
Khi kế toán quản trị tham gia vào việc triển khai hệ thống ERP, khả năng thành công sẽ tăng lên;
(2) Tác động của hệ thống ERP đối với vai trò của kế toán quản trị có liên quan đến sự thành
công nhận thức của việc triển khai hệ thống, với việc triển khai thành công hơn thể hiện những
thay đổi mạnh mẽ hơn đối với vai trò; (3) Mặc dù tất cả các triển khai ERP đều dẫn đến thay đổi
trong các nhiệm vụ được thực hiện bởi kế toán quản trị, nhưng việc triển khai ERP thành công
dẫn đến thay đổi đáng kể trong nhiệm vụ của kế toán quản trị, họ trở thành đối tác kinh doanh
không chỉ là nhà cung cấp dữ liệu; (4) Việc triển khai ERP thành công dẫn đến cả việc tăng chất
lượng dữ liệu và chất lượng ra quyết định, và thời gian không có điều kiện để kế toán quản trị
tham gia vào các nhiệm vụ gia tăng giá trị thay vì ghi dữ liệu thông tin và nhiệm vụ báo cáo
530
thông tin; (5) Kế toán quản trị trong môi trường ERP cần có sự hiểu biết sâu sắc về doanh nghiệp
và quy trình kinh doanh, kỹ năng giao tiếp cá nhân, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng ra quyết định, kỹ
năng phân tích, kỹ năng lập kế hoạch; (6) Vai trò của kế toán quản trị trong môi trường ERP
không chỉ là cố vấn kinh doanh cho quản lý cấp cao hơn là kế toán quản trị truyền thống.
Hơn nữa, Scapens và Jazayeri (2003) đề xuất rằng với khả năng của hệ thống ERP, kế toán
quản trị có khả năng báo cáo thông tin (dự đoán) hướng tới hơn và cung cấp hỗ trợ trực tiếp hơn
cho các nhà quản trị doanh nghiệp trong việc tin học hóa nhiều nhiệm vụ kế toán truyền thống.
Để kế toán quản trị có thể cung cấp nhiều báo cáo dự đoán hơn, dữ liệu có sẵn để hỗ trợ các phân
tích như vậy có thể cần phải đa dạng và đồ sộ hơn - đó là dữ liệu lớn. Với hệ thống ERP và các
công cụ phân tích kinh doanh mạnh mẽ cung cấp cho doanh nghiệp khả năng diễn giải và phân
tích các loại dữ liệu khác nhau như: nội bộ/bên ngoài, cấu trúc/không cấu trúc và tài chính/phi tài
chính, điều quan trọng đối với kế toán quản trị là điều chỉnh trách nhiệm của họ để giúp các công
ty đạt được lợi thế cạnh tranh (Nielsen, 2015).
Tóm lại, kế toán quản trị đã mở rộng phạm vi của nó từ báo cáo tài chính thông thường
sang cả đo lường hiệu suất và ra quyết định chiến lược. Đặc biệt, kế toán quản trị đã mở rộng
trọng tâm truyền thống của nó để bao gồm việc xác định các yếu tố thúc đẩy hiệu quả tài chính,
cả nội bộ và bên ngoài đối với doanh nghiệp. Các số liệu và phương pháp tiếp cận phi tài chính
mới và mang tính cách mạng đã được thêm vào các chức năng kế toán quản trị.
Dữ liệu lớn và phân tích dữ liệu (Big data and Analytics)
Dữ liệu lớn (Big data) nhìn chung liên quan đến các tập dữ liệu có khối lượng lớn và phức
tạp đến mức các phần mềm xử lý dữ liệu truyền thống không có khả năng thu thập, quản lý và xử
lý dữ liệu trong một khoảng thời gian hợp lý. Dhar (2013) đã nói rõ: trong hai thập kỷ qua, cuộc
cách mạng kỹ thuật số đã mang đến (a) “Dữ liệu lớn - Big Data”, tức là dữ liệu nhanh chóng trở
nên quá lớn về khối lượng, quá đa dạng về bản chất và thay đổi quá nhanh để được xử lý trong
cơ sở dữ liệu thông thường và được phân tích bằng các công cụ thông thường và (b) “Khoa học
dữ liệu”, đã nghiên cứu về việc khai thác kiến thức tổng quát từ dữ liệu, phát triển và áp dụng
các công cụ để quản lý và phân tích dữ liệu lớn.
Trong báo cáo về xu hướng công nghệ thông tin - dữ liệu lớn (Big Data) của Bahl (2015),
dữ liệu lớn là một thuật ngữ được định nghĩa một cách lỏng lẻo được sử dụng để mô tả các tập
dữ liệu lớn và phức tạp đến mức chúng trở nên khó sử dụng khi sử dụng phần mềm thống kê tiêu
chuẩn. Ba Vs thường được sử dụng để mô tả các đặc điểm của dữ liệu lớn đó là: Khối lượng -
Volume (nhiều bản ghi, nhiều giao dịch, nhiều bảng và tập tin), Tốc độ - Velocity (truyền dữ
liệu, mili giây đến giây để trả lời), Đa dạng - Variety (Cấu trúc, không cấu trúc, bán cấu trúc, đa
phương tiện). Dữ liệu lớn không chỉ là sự tăng trưởng lớn của khối lượng dữ liệu. Trên thực tế,
sự đa dạng phi thường của các loại dữ liệu là một trong những yếu tố quan trọng khiến bạn khó
đối phó với dữ liệu lớn. Điều thực sự mang lại giá trị từ các tổ chức dữ liệu lớn là phân tích dữ
liệu, nếu không có phân tích, nó chỉ là một tập dữ liệu với việc sử dụng hạn chế trong kinh
doanh. Môi trường hoạt động ngày nay không ngừng phát triển khi công nghệ đã phát triển và
ngày càng có sẵn cho người tiêu dùng và doanh nghiệp (Warden, 2018). Trong cuộc cách mạng
531
công nghệ này, khối lượng dữ liệu được tạo ra trên toàn cầu ngày nay sẽ gấp đôi trong một
khoảng thời gian ít hơn một năm. Sự bùng nổ dữ liệu gần đây thường được đề cập đến kỷ nguyên
của dữ liệu lớn, dẫn đến việc số hóa có sự hiện diện trong mọi bộ phận kinh doanh trong nền
kinh tế toàn cầu ngày nay. Các tổ chức đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng khi
môi trường dựa trên dữ liệu cung cấp các cơ hội quan trọng để nắm bắt, đưa ra bối cảnh kế toán
truyền thống với cả thách thức và cơ hội. Kế toán quản trị được coi là ở một vị trí có lợi để đạt
được những lợi thế đáng kể từ Big Data trong mục đích hỗ trợ quản lý hàng đầu của bộ phận
quản lý dữ liệu. Việc sử dụng dữ liệu lớn được coi là công cụ có thể giúp kế toán quản trị mở
rộng vai trò của mình để cung cấp những hiểu biết nâng cao về môi trường xung quanh và triển
vọng trong tương lai của các hoạt động của tổ chức. Mặc dù không nhất thiết phải cung cấp một
nguồn thông tin riêng biệt, nó được coi là một sự bổ sung có giá trị cho kế toán quản trị trong
việc tăng độ chính xác phân tích, giảm nhu cầu trực giác và giảm thiểu sai lệch. Các công nghệ
dữ liệu lớn cho phép sử dụng các loại dữ liệu như video, âm thanh và dữ liệu văn bản trong các
hoạt động kế toán quản trị.
Truy cập dữ liệu thời gian thực, khả năng làm việc với dữ liệu thực thay vì dữ liệu mẫu,
khả năng xử lý ngày càng tăng của các công cụ phân tích thống kê và phát triển trong phương
pháp trực quan hóa có nghĩa là các nhà quản lý có thể tìm kiếm các mẫu, tương quan và liên kết
mới trong dữ liệu. Điều này có thể ảnh hưởng đến cách tiếp cận ra quyết định của các nhà quản
lý với quyền truy cập vào các công nghệ như vậy. Hơn nữa, dữ liệu lớn có khả năng thay đổi
hoàn toàn tổ chức của chức năng kế toán quản trị. Điều này nảy sinh từ tác động tiềm năng lâu
dài của nó đối với việc ra quyết định của tổ chức (Kitchin R., 2014). Ra quyết định thường tập
trung vào việc xác định nguyên nhân của các sự kiện để suy ra mối quan hệ hoặc dự đoán các sự
kiện trong tương lai. Một vấn đề quan trọng để thành công trong phân tích không phải là tổ chức
sở hữu bao nhiêu dữ liệu mà là có thể truy cập bao nhiêu dữ liệu. Điều này có ý nghĩa đối với vai
trò của kế toán quản trị với tư cách là người phụ trách quản lý dữ liệu kế toán. Vì những người
có nhiều chức năng muốn truy cập dữ liệu kế toán và kết hợp nó với dữ liệu khác, kế toán quản
trị sẽ phải thành thạo với việc cấp quyền truy cập dữ liệu và hỗ trợ kết hợp dữ liệu.
Dữ liệu lớn và phân tích dữ liệu kinh doanh hiện nay bao gồm hầu hết mọi khía cạnh của
việc ra quyết định, phân tích chiến lược và dự báo của các công ty lớn (Griffin và Wright, 2015).
Vào bất kỳ ngày nào, một doanh nghiệp có thể tạo, mua, trích xuất, thu thập, xử lý và phân tích
hàng triệu yếu tố dữ liệu từ các nguồn bên ngoài và/hoặc nội bộ để duy trì lợi thế cạnh tranh. Vì
kế toán quản trị thường sử dụng thông tin được tạo ra từ hồ sơ kế toán để hỗ trợ các nhà quản lý
doanh nghiệp, dự đoán rằng sự sẵn có và sử dụng dữ liệu lớn và phân tích của các doanh nghiệp
sẽ ảnh hưởng đến nghề kế toán quản trị. Tuy nhiên, trước hết cần phải hiểu dữ liệu lớn và phân
tích kinh doanh trong môi trường kinh doanh nội bộ và bối cảnh của nó. Trong những năm qua,
vai trò của kế toán quản trị đã thay đổi đáng kể. Khi cạnh tranh kinh doanh tăng lên một cách
tiếp tuyến với sự phát triển của công nghệ, phạm vi của kế toán quản trị cũng đã mở rộng từ báo
cáo giá trị lịch sử sang báo cáo dự báo và báo cáo dự báo theo thời gian thực hơn (Cokins, 2013).
Để cung cấp thêm thông tin có liên quan và có giá trị cho quản lý trong môi trường kinh doanh
kỹ thuật cao này, kế toán quản trị nên tiếp tục sử dụng tất cả các chức năng của hệ thống doanh
532
nghiệp (Ví dụ: phân tích mô tả, dự đoán và phân tích trước; dữ liệu lớn từ cả nguồn bên ngoài và
tài chính; và thông tin phi tài chính) thay vì chỉ xem xét hệ thống như một máy tính mạnh hơn.
Theo Deniz và cộng sự (2017) cũng đã khẳng định rằng bản chất của trách nhiệm kế toán
quản trị là phát triển từ việc chỉ báo cáo giá trị lịch sử tổng hợp để bao gồm cả đo lường hiệu suất
của tổ chức và cung cấp cho ban quản lý thông tin liên quan đến quyết định. Các hệ thống thông
tin doanh nghiệp như hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP) đã cung cấp cho kế
toán quản trị cả khả năng lưu trữ dữ liệu mở rộng và sức mạnh tính toán nâng cao. Với dữ liệu
lớn được trích xuất từ cả nguồn dữ liệu bên trong và bên ngoài, kế toán quản trị giờ đây có thể sử
dụng các kỹ thuật phân tích dữ liệu để trả lời các câu hỏi bao gồm: điều gì đã xảy ra (phân tích
mô tả), điều gì sẽ xảy ra (phân tích dự đoán) và giải pháp tối ưu hóa phân tích (giả định là gì).
Công nghệ điện toán đám mây (Cloud computing)
Theo Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia Hoa Kỳ (NIST) định nghĩa điện toán đám
mây như sau: “Điện toán đám mây là mô hình cho phép truy cập mạng theo yêu cầu, thuận tiện
vào nhóm tài nguyên điện toán có thể định cấu hình chung (ví dụ: mạng, máy chủ, lưu trữ, ứng
dụng và dịch vụ) có thể được cung cấp và phát hành nhanh chóng với nỗ lực quản lý tối thiểu
hoặc nhà cung cấp dịch vụ sự tương tác. Mô hình đám mây này thúc đẩy tính khả dụng và bao
gồm năm đặc điểm thiết yếu, ba mô hình phân phối và bốn mô hình triển khai”. Theo đặc điểm
của dữ liệu lớn (lượng dữ liệu lớn, sự đa dạng của dữ liệu, tốc độ xử lý nhanh), việc sử dụng hiệu
quả điện toán đám mây để thu thập, xử lý, phân tích, khai thác và sử dụng hợp lý đang trở thành
một cách quan trọng để kế toán quản trị hiện đại đóng vai trò và tạo ra nhiều cơ hội phát triển và
giá trị kinh doanh cho doanh nghiệp.
Điện toán đám mây đề cập đến tính toán và xử lý đám mây. Nó có cấu trúc giống như đám
mây cho phép người dùng có quyền truy cập vào các chương trình được áp dụng từ các nơi khác
nhau trên thế giới. Do đó, điện toán đám mây có thể được coi là một phương pháp mới để tạo ra
sự năng động của thế hệ trung tâm dữ liệu mới, sử dụng các máy ảo có lưới. Do đó, điện toán
đám mây giúp thông tin được lưu trữ với khối lượng lớn, không bị giới hạn. Cách mạng công
nghiệp 4.0 cho phép kế toán quản trị có thể lưu trữ khối lượng lớn thông tin một cách hệ thống
và khoa học. Công nghệ này có khả năng xử lý số lượng lớn dữ liệu và cũng để thực hiện cùng
lúc nhiều nhiệm vụ để đạt được kết quả mong muốn. Trong nghiên cứu của Shaban Mohammadi
và Ali Mohammadi (2014), nhóm tác giả đã so sánh giữa kế toán dựa trên nền tảng đám mây và
mô hình kế toán truyền thống và chỉ ra những ảnh hưởng tích cực và rủi ro mà doanh nghiệp phải
đối mặt khi ứng dụng điện toán đám mây trong công tác kế toán. Nghiên cứu đề cập đến những
kỹ thuật điện toán đám mây được tích hợp với các ứng dụng trong kế toán, giúp nâng cao hiệu
quả công tác kế toán như: Phân tích dữ liệu, hệ thống chuyên gia, công cụ hỗ trợ dự đoán, phần
mềm hỗ trợ ra quyết định, phần mềm cung cấp việc kiểm tra liên tục. Những kỹ thuật này hỗ trợ
doanh nghiệp trong việc phân tích thông tin, kiểm soát thông tin và hỗ trợ trong quá trình ra
quyết định một cách thường xuyên, liên tục.
Một nghiên cứu của CIMA do Lymer và Baldwin (2005) báo cáo: liên kết chức năng kế
toán quản trị ngày nay có mối quan tâm vốn có đến giá trị của các quy trình và công nghệ làm
533
việc bao gồm phát triển và đánh giá công nghệ (chẳng hạn như quyết định có hay không áp dụng
và thực hiện đám mây), quản lý giao diện xử lý (ví dụ như các vấn đề khi đưa ra quyết định về
thông tin cô đọng trên màn hình nhỏ), sử dụng tài nguyên và tạo giá trị (chẳng hạn thay đổi cấu
trúc chi phí khi áp dụng đám mây) và kết quả là, thay đổi vai trò của chính kế toán quản trị. Các
tác giả đã đề xuất bốn lĩnh vực nghiên cứu tiềm năng trong đó công nghệ đám mây có thể tác
động đến kế toán quản trị và do đó có thể là con đường hiệu quả cho nghiên cứu trong tương lai:
(1) Tác động trên cơ sở thông tin liên quan đến quyết định (chi phí); (2) Tác động đến việc ra
quyết định chiến lược, đặc biệt là các quyết định công nghệ thông tin chiến lược, áp dụng đám
mây và quản lý rủi ro; (3) Tác động đến khả năng sử dụng kỹ thuật của thông tin kế toán quản trị
trên thiết bị di động; (4) Tác động đến vai trò của kế toán quản trị.
Như vậy, qua các nghiên cứu thấy rằng ứng dụng điện toán đám mây đã tác động tích cực
vào công tác kế toán nói chung, đặc biệt là kế toán quản trị, làm cho dữ liệu kế toán được xử lý
tự động và có thể chia sẻ trực tiếp cho các đối tượng liên quan theo thời gian thực, giúp tăng tính
kịp thời, chính xác. Tuy nhiên, môi trường điện toán đám mây là một môi trường đa miền, trong
đó mỗi miền có thể sử dụng các yêu cầu bảo mật, quyền riêng tư và tin cậy khác nhau, trong khi
đó quyền riêng tư là vấn đề cốt lõi trong tất cả các thách thức bao gồm nhu cầu bảo vệ thông tin
nhận dạng, các thành phần chính sách trong quá trình tích hợp và lịch sử giao dịch. Nhiều doanh
nghiệp không thoải mái lưu trữ dữ liệu và ứng dụng của họ trên các hệ thống nằm ngoài trung
tâm dữ liệu tại chỗ của họ vì sợ tính bảo mật thông tin của doanh nghiệp bị tiết lộ và khi di
chuyển khối lượng công việc sang cơ sở hạ tầng dùng chung, thông tin riêng của khách hàng
phải đối mặt với nguy cơ truy cập và tiếp xúc trái phép.
Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI)
Định nghĩa toàn diện nhất về trí tuệ nhân tạo được John McCarthy đưa ra vào năm 1956.
Theo cha đẻ của trí tuệ nhân tạo John McCarthy, đó là “Khoa học và kỹ thuật chế tạo máy thông
minh, đặc biệt là các chương trình máy tính thông minh. Trí tuệ nhân tạo là cách chế tạo máy tính,
robot điều khiển máy tính hoặc phần mềm suy nghĩ thông minh, theo cách tương tự như con người
thông minh nghĩ”. Người ta có thể thực hiện AI bằng cách nghiên cứu cách suy nghĩ của con người
và cách con người học hỏi, quyết định và làm việc trong khi cố gắng giải quyết vấn đề, sau đó sử
dụng kết quả của nghiên cứu này làm cơ sở phát triển phần mềm và hệ thống thông minh.
AI có hai mục tiêu chính là tạo ra các hệ thống chuyên gia thể hiện hành vi thông minh,
học hỏi, thể hiện, giải thích và tư vấn cho người dùng và thực hiện trí thông minh của con người
trong máy móc bằng cách tạo ra các hệ thống hiểu, nghĩ, học và hành xử như con người.
Theo Martinez (2018), Robot sẽ không tiếp quản công việc của kế toán quản trị, ít nhất là
không trong tương lai gần mặc dù đã có những tiến bộ trong phát triển trí tuệ nhân tạo. Tuy
nhiên, AI đã vượt ra ngoài việc tiếp quản các nhiệm vụ lặp đi lặp lại và giờ đây góp phần giúp
các chuyên gia đưa ra quyết định thông minh hơn. AI hiện giúp các chuyên gia với các nhiệm vụ
liên quan đến thu thập, quản lý và phân tích dữ liệu. Sự phát triển trong công nghệ AI thậm chí
còn phù hợp hơn với các kế toán quản lý. Những chuyên gia kế toán này nhằm mục đích cung
cấp cho công ty quản lý các thông tin kế toán quan trọng giúp công ty đưa ra quyết định tốt hơn.
534
Với trí tuệ nhân tạo bước vào các dịch vụ tài chính và kế toán, điều quan trọng là phải đánh giá
cách công nghệ xác định lại vai trò của kế toán quản lý. Do đó, đã đến lúc mọi kế toán phải suy
nghĩ về công việc của họ, xác định các cơ hội mà học máy (Machine learning) có thể mang lại
cho họ và tập trung ít hơn vào các nhiệm vụ có thể được tự động hóa và nhiều hơn vào các khía
cạnh vốn có của con người trong công việc của họ.
Lợi ích của công nghệ trí tuệ nhân tạo:
- Nhiều thời gian hơn để phân tích và tư vấn, mã hóa ít thời gian hơn.
Trước khi AI xuất hiện, kế toán quản trị cần phải mã hóa thông tin họ cần hoặc chờ dữ liệu
được cung cấp bởi các chuyên gia khác. Bây giờ các công cụ và phần mềm quét nhận có thể
cung cấp cho họ quyền truy cập trực tiếp vào sổ cái. Điều này giúp loại bỏ nhiệm vụ tẻ nhạt của
mã hóa thủ công và cung cấp cho kế toán quản trị nhiều thời gian hơn trong việc phân tích thông
tin và cung cấp lời khuyên quan trọng cho ban quản lý. Tính năng AI này cũng có thể được sử
dụng trong việc phân tích hợp đồng và các tài liệu tài chính khác, tiết kiệm nhiều thời gian hơn
cho kế toán quản trị trong một số nhiệm vụ.
- Độ chính xác và kết quả của dữ liệu tốt hơn
Tự động hóa các tác vụ không chỉ tiết kiệm thời gian mà còn giảm thiểu rủi ro khi nhập dữ
liệu sai. Trong khi các bộ mã hóa dữ liệu được đào tạo khéo léo trong việc quản lý khối lượng dữ
liệu, công việc của họ vẫn dễ bị lỗi tự nhiên của con người. Trí tuệ nhân tạo trong kế toán không
chỉ giúp loại bỏ những rủi ro này mà còn thực hiện kiểm tra chất lượng sâu dựa trên các điều kiện
do người dùng đặt ra. Có AI trong hệ thống của bạn đảm bảo rằng thông tin bạn đang sử dụng là
chính xác, do đó tiết kiệm cho nhóm của bạn cả thời gian và chi phí từ những sai lầm này.
- Nâng cao kỹ năng tài chính kế toán
Với nhiều thời gian hơn để thực hiện các nhiệm vụ cấp cao và các kỹ thuật mới để áp dụng
nhờ vào sự tiến bộ của AI, kế toán quản trị có các nguồn lực mới để đảm nhận vai trò của mình
hơn nữa và cung cấp thông tin tốt hơn cho việc sử dụng của công ty của họ. Ra quyết định là một
trong những thông số quan trọng nhất trong kế toán quản trị đòi hỏi phải phân tích thông tin
đúng đắn. Thông tin dựa trên trí tuệ nhân tạo với các khả năng như học tập, dự đoán, phân loại
và mở rộng có thể được coi là một giải pháp và là một công cụ hỗ trợ của kế toán quản trị.
Rikhardsson và Yigitbasioglu (2018) đã đề xuất khung tổ chức về năm lĩnh vực trọng tâm
để nghiên cứu công nghệ phân tích & kinh doanh thông minh (Business Intelligence &
Analytics) và kế toán quản trị (Management Accounting) (Hình 2)
BI & A hỗ trợ một số nhiệm vụ kế toán quản trị, như dự báo chi phí, phân tích lợi nhuận
sản phẩm, tác động tài chính của thay đổi sản xuất và đánh giá lợi nhuận của phân khúc khách
hàng. Việc sử dụng các phương pháp phân tích được hỗ trợ BI & A giúp cải thiện hiệu suất của
tổ chức theo nhiều khía cạnh, bao gồm tài chính, khách hàng, quy trình và học tập & tăng trưởng
(Bronzo và cộng sự, 2013). Các nhà điều hành xem công nghệ, dữ liệu và phân tích là một lực
lượng chuyển đổi trong kinh doanh. Do đó, nhiều tổ chức đang triển khai các công nghệ phân
tích và thông minh kinh doanh (BI & A) để hỗ trợ báo cáo và ra quyết định. Theo truyền thống,
535
kế toán quản trị là hỗ trợ chính cho việc ra quyết định và kiểm soát trong một tổ chức. Do đó, nó
có các liên kết rõ ràng và có thể hưởng lợi từ việc áp dụng các công nghệ BI & A.
Hệ thống ra quyết định và phân tích dựa trên công nghệ BI để hiện thực hóa hệ thống
thông tin kế toán quản trị “thông minh”. Dữ liệu tài chính, dữ liệu phi tài chính, dữ liệu có cấu
trúc và dữ liệu phi cấu trúc từ các hệ thống hoạt động khác nhau của doanh nghiệp được tích hợp
vào kho dữ liệu cấp doanh nghiệp. Dữ liệu được phân tích và xử lý thông qua việc sử dụng các
công cụ kế toán quản trị khác nhau trên cơ sở. “Thông tin hữu ích” được hình thành, từ đó tích
hợp kinh doanh và tài chính sâu sắc và hiệu quả. Hoạt động của doanh nghiệp được theo dõi
trước và trong quá trình. Việc ra quyết định quản lý có thể được hỗ trợ, từ đó cung cấp hỗ trợ dữ
liệu chất lượng cao cho các nhà quản lý hàng đầu để đưa ra quyết định kịp thời và chính xác. Kế
toán quản trị được sử dụng đầy đủ để tạo ra giá trị cho doanh nghiệp.
(Nguồn: Rikhardsson P., Yigitbasioglu O. (2018))
Hình 2. Năm lĩnh vực trọng tâm cho nghiên cứu BI&A và kế toán quản trị
5. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ VẤN ĐỀ
ĐẶT RA ĐỐI VỚI KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
Cách mạng công nghiệp 4.0 với những công nghệ mới như ERPs, dữ liệu lớn, điện toán
đám mây, trí tuệ nhân tạo đã mang lại những cơ hội và thách thức cho các cá nhân, tổ chức hoạt
động trong lĩnh vực kế toán:
Cơ hội mang lại
- Mọi công việc kế toán đều có thể xử lý bằng công nghệ.
- Những dịch vụ mang tính cơ bản, dễ thực hiện như dịch vụ kế toán, cung cấp thông tin tài
chính dạng số liệu cơ bản mang lại lợi nhuận thông thường, nhưng riêng các dịch vụ có tính nâng
cao như cung cấp dữ liệu phân tích tài chính, tư vấn chuyên sâu mới là nguồn mang lại lợi nhuận
cao cho doanh nghiệp.
Phân tích & Kinh doanh thông minh
(BI & A)
Cung cấp thông tin
Phân tích
Quản trị dữ liệu
Cơ sở hạ tầng
Kế toán quản trị (MA)
Nhiệm vụ kế toán
quản trị
Kỹ thuật kế toán quản trị
Tổ chức kế toán quản trị
Ý nghĩa hành vi của kế toán quản trị
Chủ đề nghiên cứu BI & A và MA được xác định:
1. Cung cấp thông tin và phản hồi hệ thống đối với nhiệm vụ kế toán quản trị. 2. BI & A cải thiện nhiệm vụ và kỹ thuật kế toán quản trị. 3. Dữ liệu lớn tác động tới kế toán quản trị. 4. Sử dụng và thỏa mãn với BI & A trong ngữ cảnh kế toán quản trị 5. BI & A và chất lượng dữ liệu
536
Thách thức đặt ra
- Sự vướng mắc trong áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế tác động nhất định tới chu trình
và phương pháp kế toán.
- Sự thiếu hụt nguồn lao động chất lượng cao trong lĩnh vực kế toán: nguồn nhân lực kế
toán của Việt Nam tuy đã sẵn sàng hội nhập nhưng số lượng và chất lượng mang tầm quốc tế vẫn
là vấn đề cần cải thiện.
- Các kỹ năng mềm của kế toán viên còn yếu: người lao động trong lĩnh vực kế toán đã qua
đào tạo của Việt Nam mặc dù được đánh giá là nhanh nhẹn, sáng tạo và có thể đáp ứng được nhu
cầu nhưng lại thiếu và yếu về kỹ năng mềm như: kỹ năng làm việc nhóm, ngoại ngữ, tư duy phản
biện và giải quyết vấn đề.
- Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bảo mật còn hạn chế: công tác kế toán ở Việt Nam
hiện nay chủ yếu được thực hiện trên hồ sơ, giấy tờ, trong khi CMCN 4.0 lại chuyển hóa toàn bộ
các dữ liệu đó thành thông tin điện tử vừa đa dạng, vừa khó nắm bắt.
Dưới xu hướng công nghệ 4.0 hiện nay, để tận dụng được những cơ hội và khắc phục được
những hạn chế và thách thức mà CMCN 4.0 mang lại cho ngành kế toán trong đó có kế toán
quản trị, vấn đề đặt ra cho các cá nhân người làm kế toán, các tổ chức, doanh nghiệp, các cơ sở
đào tạo phải thay đổi, lĩnh hội và cập nhật kiến thức, kỹ năng để phù hợp với xu thế toàn cầu:
Về phía cá nhân người làm kế toán
- Phải thay đổi tư duy trong hoạt động nghề nghiệp, cần ý thức được tầm quan trọng của
công nghệ để ứng dụng vào công việc, tiết kiệm nguồn lực và gia tăng hiệu quả công việc.
- Không ngừng học tập, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp và kỹ năng mềm như: kỹ năng giao
tiếp hiệu quả, kỹ năng tư duy phản biện, kỹ năng giải quyết vấn đề, và đặc biệt là phương tiện
không thể thiếu đối với mỗi kế toán là ngôn ngữ quốc tế và các chứng chỉ hành nghề đạt chuẩn
quốc tế sẽ mang lại cơ hội ngày càng mở rộng cho đội ngũ kế toán.
- Cập nhật và nâng cao kỹ năng mới xử lý thông tin kế toán quản trị trong môi trường
ERPs, dữ liệu lớn, công nghệ điện toán đám mây và trí tuệ nhân tạo.
Về phía các tổ chức, doanh nghiệp
- Tiếp tục thay đổi tư duy về vai trò của công tác kế toán nói chung và kế toán quản trị nói
riêng bởi vì vai trò của chúng ngày càng quan trọng trong CMCN 4.0, giúp doanh nghiệp điều
tiết hoạt động kinh doanh trong hiện tại và tương lai. Công việc kế toán có thể được thực hiện tự
động hóa nhưng các tổ chức, doanh nghiệp cũng cần con người để kiểm tra, phân tích, đưa ra
những đánh giá cho tình hình tài chính hiện tại và tương lai của doanh nghiệp.
- Xây dựng bộ máy kế toán quản trị phù hợp với năng lực của doanh nghiệp và xu thế phát
triển chung, đảm bảo cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tốt phục vụ cho công tác kế toán.
- Phát triển đội ngũ kế toán có trình độ kế toán quản trị tốt kết hợp có trình độ chuyên môn
và công nghệ thông tin tốt kết hợp có kỹ năng mềm áp dụng hiệu quả trong công việc.
537
Về phía các cơ sở đào tạo
- Cần thay đổi quan điểm đào tạo theo hướng đáp ứng yêu cầu thực tế.
- Chú trọng xây dựng chương trình đào tạo chuyên ngành kế toán phù hợp với xu thế phát
triển của thế giới, phù hợp với chương trình đào tạo của các hiệp hội nghề nghiệp nhằm hướng
đến sự thừa nhận lẫn nhau giữa các cơ sở đào tạo về chuyên môn và bằng cấp, chứng chỉ.
- Phát triển nội dung đào tạo chuyên sâu kết hợp với đào tạo các kỹ năng cần thiết trong
thời kỳ số hóa như kỹ năng làm việc nhóm, tư duy phản biện và kỹ năng giải quyết vấn đề trên
cơ sở tôn trọng đạo đức nghề nghiệp.
- Thiết lập mối quan hệ giữa các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp trong và ngoài nước,
nhằm giúp cho hoạt động đào tạo và nghiên cứu được gắn kết, giải quyết được những vấn đề của
thực tiễn, đáp ứng tốt yêu cầu của doanh nghiệp đồng thời giúp người học có nhiều thuận lợi
trong học tập, áp dụng kinh nghiệm, nâng cao nghiệp vụ và kỹ năng chuyên môn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phạm Đình Tuấn, Ảnh hưởng từ cách mạng công nghiệp 4.0 đến thông tin kế toán trong doanh
nghiệp, Tạp chí Kế toán và kiểm toán
http://www.hoiketoanhcm.org.vn/vn/trao-doi/anh-huong-tu-cach-mang-cong-nghiep-40-den-
thong-tin-ke-toan-trong-doanh-nghiep/
Phan Nguyễn Hoàng Chánh, Lê Đức Thắng (2019). Phát triển ngành Kế toán, Kiểm toán Việt
Nam thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0, Tạp chí Tài chính, kỳ 2, tháng 8
Trương Thị Đức Giang, Nguyễn Hải Hà (2019). Cách mạng công nghiệp 4.0 và những tác động
đến kế toán quản trị doanh nghiệp, Tạp chí Tài chính, kỳ 1, tháng 7
Atkinson, Kaplan và Young (2004). Management accounting, 4th edition, International edition,
Pearson Education, Upper Saddle River, NJ, USA
Batani Raghavendra Rao (2019). Industry 4.0: Overview, practices and role of management
accountants, The Journal for CMAs, Vol. 54, No. 6, pp. 124
Bronzo, M., de Resende, P.T.V., de Oliveira, M.P.V., McCormack, K.P., de Sousa, P.R., Ferreira
(2013), Improving performance aligning business analytics with process orientation, Int. J.
Inf. Manag. 33 (2), pp. 300–307.
Byrne and Pierce (2007). Towards a More Comprehensive Understanding of the Roles of
Management Accountants, European Accounting Review, 16, 2007, pp. 469-498.
Cadez & Guilding (2008). An exploratory investigation of an integrated contingency model
of strategic management accounting, Accounting, Organizations and Society, 33(7), pp.
836-863.
Chartered Institute of Management Accountants (CIMA) (2005). National award for
management accounting (NAfMA) 2005, CIMA, London, UK
538
Cokins G. (2013). Driving acceptance and adoption of business analytics, Journal of corporate
accounting and finance, https://doi.org/10.1002/jcaf.21831
Dechow và Mouritsen (2005). Enterprise resource planning systems, management control and
the quest for integration, Accounting, Organizations and Society 30 (2005), pp. 691-733
Deloitte (2014), Industry 4.0. Challenges and solutions for the digital transformation and use of
exponential technologies.
https://www2.deloitte.com/content/dam/Deloitte/ch/Documents/innovation/ch-en-innovation-
IoT-industry4.0-.pdf
Deniz, Alexander, Miklos, Zhaokai (2017). Impact of business analytics and enterprise systems
on managerial accounting, International Journal of Accounting Information Systems 25,
pp. 29-44
Dhar (2013), Data Science and Prediction. Communications of the ACM, vol 56 (12), 64-73
Griffin và Wright (2015), Commentaries on Big Data's Importance for Accounting and Auditing,
Accounting Horizons, Vol. 29, No. 2, pp. 377-379.
Horngren, Bhimani, Datar và Foster (2005). Management and cost accounting, 3rd edition,
Pearson Education, Essex, UK
Ioana-Diana & Bufan (2003). The Role of Managerial Accounting in the Management Process,
Vol. 19, Timisoara.
Kallunki et al (2011). Impact of enterprise resource planning systems on management control
systems and firm performance, International Journal of Accounting Information Systems
12, pp. 20-39
Kaplan và Atkinson (1998). Advanced management accounting, 3rd edition, International
edition, Prentice Hall, Upper Saddle River, NJ, USA
Kitchin R. (2014), The real-time city? Big data and smart urbanism, GeoJournal Vol. 79, pp.
1-14
Lou Carlozo, 2017, What is blockchain? Journal of Accountancy, Vol. 224, Iss. 1
Lymer và Baldwin (2005), Intelligent Internet agents for business management and accounting,
CIMA Research Executive Summaries Series [ONLINE] Available at:
http://www.cimaglobal.com/Thought-leadership/Research-topics/Organisational-manag
ement/Intelligent-internet-agents-for-business-management-and-accounting/.
Martinez (2018), Artificial Intelligence in Accounting and managerial accountant roles,
https://www.dvphilippines.com/blog/artificial-intelligence-in-accounting-and-managerial-
accountant-roles
Nielsen (2015), The impact of business analytics on management accounting, Available at
SSRN: http://dx.doi.org/10.2139/ssrn.2616363
539
Rikhardsson và Yigitbasioglu (2018). Business intelligence & analytics in management
accounting research: Status and future focus, International Journal of Accounting
Information System, vol. 29, 37-58
Rojko (2017). Industry 4.0 concept: Background and overview, International Jounal of
Interactive Mobile Technologies, Vol 11, No 5.
Sangster, Leech và Grabski (2009), ERP implications and their impact upon management
accountants, Journal of Information Systems and Technology Management, Vol. 6, No. 2,
125-142
Sánchez-Rodríguez & Spraakman (2012). ERP systems and management accounting: A multiple
case study, Qualitative Research in Accounting & Management, 9(4), 398-414.
Scapens và Jazayeri (2003). ERP Systems and Management Accounting Change: Opportunities
or Impacts? A Research Note, European Accounting Review, 12, 201-233.
Shaban Mohammadi và Ali Mohammadi (2014). Effect of cloud computing in Accounting and
comparison with the traditional model, Research Journal of Finance and Accounting, Vol
5, No 23
Suhaimi, Nawawi và Salin (2016). Impact of enterprise resource planning on management
control systems and accountant’s role, International journal of economics and
management 10(1), pp. 93-108
Warden (2018). The future of management accounting in the digital era - Explorative study of
using Big Data in data-driven decision-making, https://aaltodoc.aalto.fi
Wilkinson et al (2000). Accounting information systems: Essential concepts and applications, 4th
edition, John Wiley & Sons, Inc
Worre (1991a). Omkostningsregnskab og omkostningsstyring 1, (Cost accounting and cost
management 1, translation of original title), Civiløkonomernes Forlag, Copenhagen,
Denmark.
540
Ứng dụng công nghệ Blockchain trong lĩnh vực kế toán doanh nghiệp
Nguyễn Văn Dũng
Đại học Lạc Hồng
Email: dungnv@lhu.edu.vn
Mã bài: HTQG.56 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 17/11/2019
Ngày nhận bài: 11/11/2019 Ngày chấp nhận đăng: 20/11/2019
Tóm tắt
Việc ứng dụng công nghệ Blockchain trong ngành kế toán, kiểm toán sẽ mang lại những
cải tiến mới mẻ. Đây là xu hướng công nghệ mà các chuyên viên ngành tài chính, kế toán, kiểm
toán không thể ‘xem nhẹ’ trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay. Trong bài viết
này, tác giả đã hệ thống lại khái niệm về Blockchain và phân tích ứng dụng công nghệ này trong
lĩnh vực kế toán và kiểm toán. Bài viết này được trình bày nhằm đánh giá tổng quan nghiên cứu
mở rộng hơn về Blockchain và ứng dụng của nó. Mặc dù phạm vi tương đối hẹp nhưng nghiên
cứu có thể chứng minh là một khuôn khổ phù hợp cho các nghiên cứu tương lai rộng hơn về
công nghệ.
Từ khóa: Blockchain; công nghệ; tài chính; kế toán.
1. GIỚI THIỆU
Blockchain và intenet vạn vật (Internet of Things) đang ảnh hưởng đến sự biến đổi không
chỉ lĩnh vực công nghiệp mà còn cả thế giới. Đến năm 2022, có khả năng chúng ta sẽ sống trong
một thế giới thống trị của công nghệ và mạng lưới vạn vật kết nối internet, con người sẽ phụ
thuộc vào kết nối đó. Tại Việt Nam, công nghệ Blockchain dù còn rất mới, nhưng công nghệ này
đã được đưa vào chiến lược phát triển kinh tế số thời gian tới. Diễn đàn "Blockchain: Xu hướng
và tầm nhìn phát triển” do Bộ KH&CN tổ chức năm 2018 đã xác định cụ thể, blockchain sẽ là
công nghệ được ứng dụng ở các lĩnh vực khác nhau ở Việt Nam và cần có sự tham gia của các
đơn vị kiểm soát, đơn vị cung cấp ứng dụng dựa trên công nghệ này đề định hướng dẫn dắt cho
hoạt động blockchain được ứng dụng tại Việt Nam. Công nghệ Blockchain có khả năng phá vỡ
và đổi mới một số lĩnh vực kinh doanh, đặc biệt là ngành kế toán sẽ bị tác động lớn khi triển khai
công nghệ này, bằng cách tự động hóa nhiều quy trình thủ công tạo nên hầu hết các chuẩn mực
kế toán.
Sự thay đổi nhanh chóng trong công nghệ đã cho phép tạo ra các ý tưởng sáng tạo để cho
phép những tiến bộ trong cách mọi người làm kinh doanh Don (2016). Những nghiên cứu về ứng
dụng công nghệ Blockchain đã được một số tác giả công bố trong thời gian qua, tuy nhiên vẫn
541
nó vẫn còn là thiểu số và tương đối mới mẻ. Bài viết này được trình bày nhằm đánh giá tổng
quan nghiên cứu mở rộng hơn về Blockchain và ứng dụng của nó. Mặc dù phạm vi tương đối
hẹp nhưng nghiên cứu có thể chứng minh là một khuôn khổ phù hợp cho các nghiên cứu tương
lai rộng hơn về công nghệ.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Khái niệm về Blockchain
Crosby and Nachiappan (2015) cho rằng Blockchain là một cơ sở dữ liệu phân tán bao
gồm các hồ sơ về các giao dịch hoặc sự kiện kỹ thuật số đã được thực hiện và chia sẻ giữa các
bên tham gia. Mỗi giao dịch này được xác minh bởi sự đồng thuận của đa số những người tham
gia hệ thống, do đó cho phép tạo ra sự đồng thuận phân tán trong thế giới trực tuyến kỹ thuật số.
Công nghệ Blockchain tạo điều kiện cho các hệ thống phát triển nền kinh tế kỹ thuật số tự do và
có thể mở rộng. Các đặc điểm của công nghệ blockchain bao gồm các tính năng ưu việt như hợp
đồng thông minh và tài sản thông minh. Các ứng dụng tiềm năng trong lĩnh vực tài chính bao
gồm kế toán, tài chính, chứng khoán và bảo hiểm(Wang, Chen, & Xu, 2016). Hoạt động kinh
doanh đã tiếp cận công nghệ Blockchain để thiết kế và áp dụng một ứng dụng liên quan đến việc
đánh giá tình trạng hiện tại của sản phẩm bởi một tổ chức trước khi nó được đưa vào một kế
hoạch chiến lược. Tuy nhiên, mặc dù tầm quan trọng mới nổi của sự trưởng thành và khả năng
tiếp cận blockchain, rất ít được đề cập trong các tài liệu trước đây. Khái niệm cốt lõi của công
nghệ blockchain là tất cả các giao dịch được phân cấp và sắp xếp vào cơ sở dữ liệu phân tán, loại
bỏ sự cần thiết của một bên trung gian hoặc bên thứ ba, và đó là một cuốn sổ cái kỹ thuật số
không thể bị phá hủy có thể được lập trình để ghi lại không chỉ các giao dịch tài chính nhưng hầu
như tất cả mọi thứ có giá trị (Don, 2016).
Nguồn: Eoxys | Internet Of Things(IOT) | IOT Application
2.2. Những nghiên cứu về quan hệ (ứng dụng) Blockchain trong kế toán
Hiện nay các giao dịch kế toán được thực hiện bởi các công ty riêng biệt, cần có thời gian
và nguồn nhân lực để xác minh dữ liệu. Blochchain sẽ giải quyết vấn đề này, vì thông tin về các
giao dịch hoặc hợp đồng sẽ được ghi lại trong sổ đăng ký chung trong thời gian thực, do đó, việc
kiểm tra tuân thủ các quy tắc pháp lý sẽ tự động xảy ra. Điều này sẽ làm tăng đáng kể hiệu quả
hoạt động của các tổ chức. Sử dụng Blockchain trong quá trình giao dịch thanh toán, doanh nhân
có thể giảm đáng kể chi phí hoạt động và tăng vốn lưu động (Woodside et al., 2017). Blockchain
được thiết kế để chống lại sự thay đổi dữ liệu. Thông tin trong Blockchain không thể bị thay đổi
và chỉ được bổ sung thêm khi có sự đồng thuận của tất cả các nút trong hệ thống. Ngay cả khi
nếu một phần của hệ thống Blockchain đổ, những máy tính và nút khác sẽ tiếp tục hoạt động để
542
bảo vệ thông tin. Việc ghi sổ kế toán kép đã giải quyết vấn đề của các nhà quản lý khi biết liệu
họ có thể tin tưởng vào sách của mình hay không. Nhưng để có được sự tin tưởng của người
ngoài, các kiểm toán viên bên ngoài xác minh thông tin tài chính của công ty. Mỗi cuộc kiểm
toán là một hoạt động tốn kém, Blockchain sẽ giảm bớt hoạt động này cho cả kế toán viên và
kiểm toán viên. Công nghệ này đang thay đổi cách các doanh nghiệp làm việc, cách họ giao dịch.
Do đó tác động đến cách kế toán ghi lại và xử lý nó. Nó sẽ tự động hóa các quy trình kế toán và
tuân thủ các yêu cầu cũng như quy định của pháp luật (Karbhari, 2018).
Nghiên cứu của Aleksy Kwilinski (2019) cho rằngtrong giai đoạn phát triển kinh tế hiện
nay, Blokchain rất quan trọng đối với hoạt động kế toán, đặc biệt là về việcquản lý tài liệu. Theo
nghiên cứu này hiện nay có ba cách lưu hành tài liệu đó là: cổ điển (bằng phương thức chuyển
giấy vận chuyển); bằng email; sử dụng lưu trữ đám mây, những phương pháp này tồn tại một số
nhược điểm như chi phí cao và tốc độ thấp, cần phải nhờ đến sự giúp đỡ của bên thư thứ ba để
thực hiện thao tác. Sự hiện diện của một máy chủ tập trung làm cho nó không được bảo vệ và
không ổn định trước các lỗi hệ thống và các cuộc tấn công của hacker. Nói cách khác, nếu trong
Blockchain, mỗi khối có "mật khẩu" riêng, thì trong lưu trữ đám mây, việc sở hữu một khóa từ
máy chủ trung tâm là đủ. Khi ứng dụng Blockchainnó có thể sẽ chấm dứt các phương thức
truyền thống về thanh toán, lập hồ sơ, xử lý, đăng ký, quản lý hàng tồn kho và thanh toán trong
kinh doanh. Nhu cầu về kế toán kép truyền thống sẽ biến mất, vì tính hợp pháp của kế toán sẽ
hoàn toàn tự động. Sự ra đời của công nghệ blockchain sẽ cho phép đồng bộ hóa hồ sơ kế toán,
điều này sẽ cho phép hoạt động kiểm toán sẽ tự động thực hiện. Việc ứng dụng này sẽ giúp cơ
chế kiểm soát nội bộ hiệu quả hơn, phân tích và dự báo, đánh giá và kiểm soát CNTT tốt hơn
(Aleksy Kwilinski, 2019).
Sự ra đời của công nghệ trong kế toán có những ưu điểm như: giao dịch trực tuyến có tốc
độ cao và thân thiện với người dùng; tài khoản có thể được cập nhật bằng ứng dụng điện thoại
thông minh; hệ thống nhận dạng dữ liệu quang cho phép bạn tự động hóa toàn bộ quá trình, bắt
đầu bằng việc giới thiệu các tài liệu chính. Blochain dự định sẽ chấm dứt các phương thức truyền
thống về thanh toán, lập tài liệu, xử lý, đăng ký, quản lý hệ thống hàng tồn kho và thanh toán cho
doanh nghiệp. Do đó, nhu cầu về kế toán kép truyền thống sẽ biến mất vì tính hợp pháp của kế
toán sẽ hoàn toàn tự động. Công cụ này sẽ đơn giản hóa hoạt động kế toán trong các giao dịch
quốc tế cho các doanh nghiệp nhỏ; đơn giản hóa quá trình mua sắm, vì nó sẽ cho phép bạn ghi lại
các giao dịch một cách an toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động; Các hoạt động kinh doanh
không cần phải kiểm tra tất cả các tài liệu kế toán, đó là một dịch vụ kiểm toán khá tốn kém; hồ
sơ kế toán sẽ được mã hóa ở dạng an toàn, khiến việc xóa các mục nhập hầu như không
thể(Aleksy Kwilinski, 2019).
Bảng 1. Ưu điểm sử dụng Blockchain trong kế toán
Khía cạnh Kết quả mong đợi từ việc triển khai Blockchain
Tổ chức- quản lý
Đẩy nhanh việc thu thập thông tin để đưa ra quyết định hiệu quả; linh
hoạt và đáp ứng với những thay đổi trong môi trường bên ngoài và bên
trong; Cung cấp người dùng với thông tin đầy đủ, trung thực và không
thiên vị để phát huy tối đa tính khách quan của quyết định của họ
543
Kinh tế
Tiết kiệm chi phí trong việc thu thập thông tin; giảm chi phí tổ
chứcmkế toán, tiết kiệm quỹ kế toán, lao động; tiết kiệm trong việc
ứng dụng phần mềm kế toán.
Chuyên nghiệp
Kiểm soát CNTT để đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả và kế toán hiệu
quả; đảm bảo hợp lý rằng báo cáo tài chính không bị “bóp méo”; mở
rộng phạm vi và nhiệm vụ của việc sử dụng thông tin kế toán.
Tính chất Cung cấp kế toán chất lượng cao, kiểm soát, thuế và pháp luật
Công nghệ
Tự động hóa và đơn giản hóa kế toán và kiểm soát; đồng bộ hóa sổ sách
kế toán; kiến trúc người dùng truyền thông linh hoạt; hoạt động an toàn
và bảo vệ đáng tin cậy chống mất thông tin và can thiệp trái phép.
Nguồn: (Aleksy Kwilinski, 2019)
Mặc dù có một số lợi thế rõ ràng, tuy nhiện việc ứng dụng công nghệ này cũng có nhược
điểm như: điệnmức tiêu thụ cao; bộ nhớ (dữ liệu sẽ tích lũy, trong tương lai sẽ cần một lượng lớn
không gian lưu trữ); ẩn danhvà không thể đảo ngược (mất mật khẩu có nghĩa là mất quyền truy
cập vào mạng và mãi mãi).
Ứng dụng Blockchain trong kế toán và kiểm toánliên quan đến việc chuyển quyền sở hữu
tài sản và duy trì sổ cái thông tin tài chính chính xác. Sử dụng Blockchain có thể tăng tiềm năng
của nghề kế toán bằng cách giảm chi phí duy trì và đối chiếu sổ cái. Đây có thể là một mối đe
dọa cho kế toán vì sự đồng bộ hóa và tự động sẽ lấy đi công việc của kế toán. Blockchain có thể
cải thiện hệ thống tài chính thương mại và tăng cường trong quản lý quy trình xác minh khách
hàng, thư tín dụng (LC), thư cam kết (LOU) liền mạch từ đầu đến cuối chu kỳ giao dịch để có
thể tránh được các tài liệu giả (Rao & Pandurangiah, 2018). Blockchain được ứng dụng trong
hoạt động kế toán và kiểm toán độc lập, công nghệ này làm giảm phần lớn khả năng xảy ra sai
sót khi đối chiếu các thông tin phức tạp và khác biệt từ nhiều nguồn khác nhau. Hơn nữa, hồ sơ
kế toán sẽ không thể chỉnh sửa và thay đổi một khi đã được lưu vào blockchain, ngay cả khi chủ
sở hữu hệ thống kế toán yêu cầu. Bởi trên nền tảng blockchain, mọi giao dịch hàng ngày được
ghi chép lại và xác thực, do đó tính vẹn toàn của các hồ sơ tài chính được đảm bảo. Bên cạnh
những khả năng ấn tượng kể trên, công nghệ này còn có khả năng làm giảm hoặc thậm chí loại
bỏ nhu cầu kiểm toán tài nguyên nguồn dữ liệu.Một vài ứng dụng của công nghệ blockchain
trong ngành kế toán - kiểm toán: Bằng chứng kiểm toán có thể theo dõi; Quá trình kiểm toán tự
động;Xác thực giao dịch; Theo dõi quyền sở hữu tài sản và Hợp đồng thông minh (ICAEW,
2019). Công nghệ Blockchain được phát triển dựa trên hai nền tảng kỹ thuật chính là hàm băm
và chữ ký số tại Việt Nam và các quốc gia trên thế giới ứng dụng chữ ký số có ý nghĩa to lớn và
trở thành một phần không thể thiếu đối với các doanh nghiệp và ngành mật mã học (Đoàn Ngọc
Sơn, 2017). Đi tiên phong trong dịch vụ phát triển giải pháp và ứng dụng công nghệ Blockchain
trên phần mềm hóa đơn điện tử là MISA. MISA phát triển MeInvoice.vn - Giải pháp hóa đơn
điện tử đầu tiên tại Việt Nam ứng dụng công nghệ Blockchain giúp gia tăng tính bảo mật, an
toàn và minh bạch của hóa đơn cho DN. Công nghệ Blockchain trên MeInvoice được hiểu như
một cuốn sổ cái, ghi nhận toàn bộ trạng thái và cập nhật đầy đủ thông tin về hóa đơn cho các bên
544
tham gia đều có thể kiểm tra và xác thực thông tin. Trong thời gian tới, các công ty phần mềm kế
toán nên khai thác sâu hơn các ứng dụng của Blockchain không chỉ trên phần mềm hóa đơn điện
tử mà trên các phần mềm kế toán (MISA, 2018).
Blockchain cải thiện hiệu quả kiểm toán vì các kiểm toán viên thường chọn các giao dịch
mẫu và đưa ra kết luận dựa trên các quan sát nhất định. Tuy nhiên, việc sử dụng công nghệ
Blockchain tạo điều kiện cho tính năng tạo thời gian có thể quan sát được trên cơ sở thời gian
thực. Bằng cách sử dụng hàm băm, chữ ký số gồm 64 chữ số duy nhất được ghi lại tương ứng
với một giao dịch. Hàm băm này làm cho giao dịch không thay đổi (không thể thay đổi) và thiết
lập bảo mật. Hàm băm giống nhau xuất hiện ở cả hai đầu, tức là nhà cung cấp và người
nhận(Rao & Pandurangiah, 2018).
Công nghệ Blockchain có thể được sử dụng tiềm năng trong chức năng kế toán và kiểm
toán. Blockchain đảm bảo các dấu vết kiểm toán có thể theo dõi, kế toán tự động và đối chiếu,
theo dõi quyền sở hữu tài sản, xác thực các giao dịch. Blockchain có thể được sử dụng làm
nguồn xác minh cho dữ liệu được báo cáo. Các kiểm toán viên có thể sớm sử dụng Công nghệ
Blockchain để kiểm tra toàn bộsố lượng giao dịch của một giai đoạn được kiểm toán.
Bảng 2: Các tính năng của Blockchain trong ứng dụng kế toán và kiểm toán
STT Tính năng Blockchain Sử dụng trong kế toán và kiểm toán
1 Sổ cái phân tán Vì nó là công nghệ sổ cái phân tán không có cơ quan trung
ương nên gần như không thể hack tất cả các nút trong mạng.
Cung cấp môi trường bảo mật cao
2 Cập nhật theo thời gian
thực
Giao dịch được ghi lại trong thời gian gần như thực tế ở cả
nhà cung cấp và người nhận cuối cùng loại bỏ nhu cầu đối
chiếu.
3 Số hóa và xác định thời
gian (Hash)
Tất cả các giao dịch được xác định thời gian bằng kỹ thuật
số với hàm băm mật mã, các giao dịch đáng tin cậy và được
xác thực hơn.
4 Đồng thuận Giao dịch được cập nhật chỉ với sự thỏa thuận giữa những
người tham gia trong hệ thống và mỗi khối được liên kết với
một người tham gia cụ thể.
5 Bất biến Dữ liệu được ghi vào Blockchain không thể được thay đổi
ngay cả bởi quản trị viên hệ thống. Điều này đảm bảo an
toàn dữ liệu và tính xác thực cao hơn của ghi chép.
Nguồn: (Rao & Pandurangiah, 2018)
Tuy nhiên, công nghệ Blockchain cũng tạo ra những thách thức cho ngành Kế toán như:
Vướng mắc trong áp dụng chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế; Thiếu hụt lao động chất lượng
cao; Kỹ năng mềm, kiên thức về Blockchain và công nghệ mới của đội ngủ quản lý và nhân viên
kế toán còn yếu; Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bảo mật còn hạn chế. Bên cạnh đó, công cụ
lập trình của các dự án Blockchain còn một số hạn chế, gặp trục trặc trong việc hiện thực hóa các
ý tưởng ứng dụng.
545
3. THẢO LUẬN VÀ KẾT LUẬN
Blockchain được coi là một bước đột phá về công nghệ, được thiết lập để tạo ra những biến
đổi trong công việc kế toán và kiểm toán. Ứng dụng công nghệ Blochain trong kế toán trong
tương lai sẽ chấm dứt các phương thức thanh toán, ghi chép, xử lý, đăng ký, quản lý hệ thống
hàng tồn kho truyền thống của các doanh nghiệp hiện nay. Công nghệ này có khả năng làm giảm
phần lớn khả năng xảy ra sai sót khi đối chiếu các thông tin phức tạp và khác biệt từ nhiều nguồn
khác nhau. Blockchain cho phép các doanh nghiệp ghi đồng thời cả hai mặt của một giao dịch
vào một sổ chia sẻ thời gian thực, thay vì lưu trữ các hồ sơ được kiểm toán về các giao dịch tài
chính trong các cơ sở dữ liệu hoặc sổ kế toán cá nhân. Công nghệ Blockchain có thể mang lại
cuộc cách mạng trong các lĩnh vực tài chính ngân hàng, thanh toán và chuyển tiền, giáo dục và y
tế, bỏ phiếu, tài chính thương mại, giao dịch chứng khoán, bất động sản và bảo hiểm. Để phát
huy ứng dụng tốt của công nghệ này trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, tại Việt Nam trong tương
lai gần, trước hết các tổ chức cần cho kế toán viên, kiểm toán viên tìm hiểu và đào tạo về ứng
dụng công nghệ.
Đối với cơ quan Nhà nước cần có một chiến lược phát triển ứng dụng công nghệ này một
cách rõ ràng, sớm có các định hướng và chỉ đạo đúng đắn về vị trí, vai trò của khoa học - công
nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, luôn coi trọng và tạo điều kiện thuận lợi để
khoa học - công nghệ phát triển. Đối với các doanh nghiệp Để xóa bỏ các rào cản trong việc ứng
dụng công nghệ Blockchain trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, các tổ chức chuyên cung cấp các
dịch vụ, nền tảng công nghệ và công cụ Blockchain nên đẩy mạnh nghiên cứu, cải thiện để hỗ trợ
các doanh nghiệp truyền thống của Việt Nam tiếp cận công nghệ Blockchain một cách an toàn,
nhanh chóng và hiệu quả nhất. Đối với những người làm trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, để có
thể thích ứng được với ứng dụng công nghệ mới này thì cần phải cập nhật xu hướng của những
thay đổi này đối với lĩnh vực của mình, tìm hiểu các khái niệm chuyên môn mới về công nghệ như
dữ liệu lớn (big data), Blockchain; trí tuệ nhân tạo), hệ thống thanh toán, thanh toán qua các thiết bị
di động và các nền tảng mới kết nối giữa các nhà cung cấp và người sử dụng dịch vụ tài chính.
Như vậy, để tạo lợi thế cạnh trạnh cho bản thân trong lĩnh vực kế toán - kiểm toán trong thị
trường lao động tương lai, ngoài những kiến thức chuyên môn, cần cập nhật những thông tin về
công nghệ cũng như những ứng dụng mới vào trong môi trường làm việc của ngành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Aleksy Kwilinski. (2019). Implementation of blockchain technology in accounting sphere.
Academy of Accounting and Financial Studies Journal, 23.
Crosby, M., & Nachiappan, P. (2015). P., Verma, S., & Kalyanaraman, V.(2015). Blockchain
Technology: Beyond Bitcoin.
Đoàn Ngọc Sơn. (2017). Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ Blockchain trong thanh toán di động
Don, T., & Alex. (2016). Blockchain revolution: how the technology behind Bitcoin is changing
money, business, and the world. Portfolio.
546
ICAEW. (2019). Blockchain and the future of accountancy.
Karbhari, R. (2018). Impact of Blockchain Technology on Accounting & Auditing.
https://www.linkedin.com/pulse/impact-blockchain-technology-accounting-auditing-
karbhari-ca-bcom
MISA. (2018). Ứng dụng Blockchain trên phần mềm hóa đơn điện tử - MISA lọt TOP 10 Doanh
nghiệp có năng lực công nghệ 4.0 tiêu biểu tại Việt Nam. Retrieved from
http://www.misa.com.vn/tin-tuc/chi-tiet/newsid/62618/Ung-dung-Blockchain-tren-phan-
mem-hoa-don-dien-tu---MISA-lot-TOP-10-Doanh-nghiep-co-nang-luc-cong-nghe-40-tieu-
bieu-tai-Viet-Nam%20)
Rao, C. U. L., & Pandurangiah, S. (2018). Blockchain technology will it disrupt or discipline
accountant. The Management accountant.
Wang, H., Chen, K., & Xu, D. (2016). A maturity model for blockchain adoption. Financial
Innovation, 2(1), 12.
547
Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong tổ chức hệ thống thông tin kế toán
tại các trường đại học kinh tế tài chính trên địa bàn thành phố Hà Nội
Hoàng Thị Kim Ưng1, Nguyễn Thị Thanh Tâm2, Lê Thị Ngọc Mai2
1Học viện Tài chính
2Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: lethingocmai@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.21 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 21/11/2019
Ngày nhận bài: 30/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 24/11/2019
Tóm tắt
Trong những năm gần đây, viêc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong lĩnh vực kế
toán đã góp phần làm thay đổi toàn diện lĩnh vực này, tạo ra phương thức xử lý dữ liệu và cung
cấp thông tin kế toán mới, hiệu quả so với quy trình xử lý kế toán thủ công trước đây. Có thể
thấy, hệ thống thông tin kế toán có vai trò hết sức quan trọng đối với các tổ chức và doanh
nghiệp và việc ứng dụng CNTT trong tổ chức hệ thống thông tin kế toán ở mỗi lĩnh vực, loại
hình doanh nghiệp có mức độ phức tạp khác nhau, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư khi mà kết nối số và xử lý thông minh đang có tác động sâu và rộng đến hoạt
động kế toán của các tổ chức và doanh nghiệp. Do đó, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin từ đó tạo dựng một hệ thống thông tin kế toán kết nối liên hoàn với các hệ thống thông tin
khác trong các hoạt động khác tại các trường đại học.
Từ khóa: Hệ thống thông tin kế toán, Công nghệ thông tin, CMCN 4.0.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hệ thống thông tin kế toán (HTTTKT) không chỉ là công cụ đắc lực cho việc kiểm soát,
điều hành và ra quyết định của các cấp quản lý bên trong và bên ngoài tổ chức mà còn đóng vai
trò ngày càng quan trọng trong việc phối hợp hoạt động và nâng cao hiệu quả tác nghiệp của các
bộ phận chức năng. Tổ chức HTTTKT hiệu quả, phát huy đầy đủ vai trò của hệ thống này trong
điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) nhằm tạo ra những thông tin kế toán hữu ích và
đáng tin cậy là một trong những mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ một tổ chức nào. Nghiên cứu
về vấn đề tổ chức HTTTKT trong điều kiện ứng dụng CNTT, hiện nay đã có nhiều nghiên cứu
trong và ngoài nước nhưng mỗi nghiên cứu chỉ ra một số cách tiếp cận tổ chức HTTTKT hoặc
một số yếu tố cấu thành HTTTKT hoặc mô tả một cách khái quát và trực quan về mối liên hệ và
548
tính thống nhất giữa các yếu tố cấu thành của HTTTKT. Tuy nhiên, để có nhận thức cơ bản về
các khái niệm, bản chất và việc ứng dụng CNTT vào việc tổ chức HTTTKT, tác giả đã sử dụng
các phương pháp nghiên cứu lý thuyết để tổng hợp và hệ thống các nghiên cứu trong và ngoài
nước liên quan đến khái niệm, bản chất và việc ứng dụng CNTT trong việc tổ chức HTTTKT.
Đồng thời sử dụng các phương pháp tổng hợp đánh giá để đánh giá thực trạng việc ứng dựng
CNTN trong tổ chức HTTTKT tại các học viện, trường đại học kinh tế, tài chính. Từ đó, nhóm
tác gải đưa ra các nhóm giải pháp nhằm tăng cường công tác ứng dụng CNTT vào việc tổ chức
HTTTKT một cách hiệu quả và phát huy hết được vai trò, chức năng vốn có của hệ thống này
trong công tác quản lý của đơn vị.
2. HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
2.1. Hệ thống thông tin kế toán
Đứng trên quan điểm hệ thống, mỗi tổ chức là một hệ thống bao gồm các bộ phận tương
tác với nhau nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức. Mỗi tổ chức (hệ thống lớn) thường bao
gồm nhiều hệ thống nhỏ được thiết kế nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức ở mức cao nhất.
Các hệ thống nhỏ này cũng được thiết lập các mục tiêu riêng trên cơ sở các mục tiêu chung của
tổ chức. HTTTKT là một trong các hệ thống nhỏ của tổ chức. HTTTKT là hệ thống thu thập, ghi
chép, xử lý và lưu trữ số liệu về các nghiệp vụ kinh tế trong mỗi tổ chức để cung cấp thông tin
cho những người ra quyết định.
Đối với môi trường nhà trường, HTTTKT là hệ thống nhận biết, thu thập, xử lý và cung
cấp thông tin tài chính, quản lý và khai thác nguồn ngân sách, các hoạt động hậu cần bảo đảm
phục vụ các mặt công tác của nhà trường như: đào tạo, quản lý học viên, hành chính tổng hợp,
thư viện, mua sắm, xây dựng cơ bản, sửa chữa, thiết bị, công cụ hỗ trợ. Nó nhận biết và ghi nhận
những ảnh hưởng của nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh tại đơn vị kế toán. HTTTKT cung cấp
thông tin về các nghiệp vụ cho những người liên quan để ra quyết định hoặc phối hợp thực hiện
các công việc trọng yếu phát sinh trong đơn vị theo một quy trình khoa học như sau:
Hình 3. HTTTKT trong mối quan hệ dữ liệu và thông tin
Mối quan hệ, sự khác biệt giữa kế toán và hệ thống thông tin, hệ thống thông tin quản lý
bằng sơ đồ sau:
Hình 4. Mối quan hệ giữa kế toán, HTTTKT
Dữ liệuHTTT kế
toánThông tin
Người dùng TT
Ra quyết định
Kế toánHệ thống thông tin HTTTKT
549
Mục tiêu và nội dung của HTTTKT là cung cấp, đáp ứng nhanh chóng, kịp thời, chính xác
và hiệu quả công tác hậu cần đảm bảo cho hoạt động của đơn vị. Vai trò của HTTTKT bao gồm:
Làm nhanh hơn, tin cậy hơn; Cung cấp, đáp ứng nguồn lực tốt hơn, phù hợp ngân sách, tiết
kiệm, hiệu quả đúng với chính sách, pháp luật và định hướng phát triển; Hướng đến đảm bảo đời
sống công tác, học tập của cán bộ, giảng viên, sinh viên; Các hoạt động đảm bảo công tác đào
tạo, nghiên cứu khoa học; Các hoạt động đảm bảo mua sắm vật tư, trang thiết bị dạy học; đầu tư
cơ sở hạ tầng và sửa chữa; y tế, môi trường; Các hoạt động đáp ứng như lương, phụ cấp, bảo
hiểm, quản lý cán bộ, quản lý sinh viên; Các hoạt động bổ trợ khác. HTTTKT có vai trò là bộ
phận sản xuất ra thông tin phục vụ cho việc ra quyết định. Thông tin phải có chất lượng cao và
chi phí để có được các thông tin ở mức thấp nhất. Các đặc tính đo lường tính hữu ích của thông
tin kế toán: Kịp thời; đầy đủ, dễ hiểu; có khả năng so sánh đánh giá quá khứ và dự đoán tương
lai; hiệu quả; đáng tin cậy.
Một HTTTKT có thể là hệ thống kế toán thủ công với bút mực, chứng từ, sổ sách hệ thống
kế toán với máy tính; hệ thống kết hợp kế toán thủ công và kế toán máy. Bất kỳ hệ thống nào
được sử dụng cũng bao gồm các công việc thu thập, xử lý (sản xuất thông tin) và cung cấp thông
tin. Một HTTTKT sử dụng CNTT bao gồm các thành phần: Người điều khiển hệ thống và thực hiện
các chức năng khác nhau; Các trình tự, thủ tục sử dụng trong việc thu thập, xử lý, lưu trữ thông tin về
các hoạt động của đơn vị; Dữ liệu về tổ chức và quá trình xử lý; Phần mềm xử lý dữ liệu; Trang thiết
bị công nghệ; Kiểm soát nội bộ và các phương thức an toàn tài liệu.
Thành phần cấu thành HTTTKT đảm bảo thực hiện được chức năng: Thu thập và lưu trữ
về các hoạt động của đơn vị, các nguồn lực và nhân sự liên quan; Chuyển đổi dữ liệu sang thành
thông tin hữu ích cho người sử dụng để đưa ra các quyết định quản lý; Cung cấp các cách thức
kiểm soát và an ninh về tài sản, về thông tin nhằm làm cho dữ liệu luôn sẵn có, chính xác, và tin
cậy. Đây là mô hình cấu trúc của một HTTTKT:
Hình 5. Cấu trúc tổng quát một HTTTKT
Mô hình chung cho một HTTTKT: Nguồn dữ liệu là các NVKTTC được đưa vào hệ thống
thông tin từ các nguồn bên trong và bên ngoài. Các NVKTTC bên ngoài là những nguồn dữ liệu
Hệ thống thông tin
Quản lý dữ liệu
Xử lý dữ liệu
Thu thập dữ liệu
Tổng hợp thông tin
Tổ chức nghiệp
vụ
Nguồn dữ liệu
Người dùng trong
Người dùng ngoài
Nguồn dữ liệu ngoài
Điều chỉnh ngược
Môi trường ngoài
Điều chỉnh ngược
550
chủ yếu của các đơn vị/tổ chức. Các NVKTTC bên trong liên quan đến sự trao đổi hoặc dịch
chuyển của các nguồn lực trong tổ chức.
Các chức năng chuyển đổi dữ liệu thành thông tin trong một mô hình HTTTKT chung bao
gồm: Thu thập dữ liệu bao gồm các công việc như nắm bắt dữ kiện về các giao dịch; ghi nhận dữ
liệu vào các biểu mẫu khác nhau; hợp thức hóa và hiệu chỉnh dữ liệu; Xử lý dữ liệu: phân loại,
sao chép, sắp xếp, nhóm gộp, hợp nhất, tính toán, tổng hợp, so sánh; Quản lý dữ liệu: lưu trữ, lấy
lại dữ liệu, xóa bỏ dữ liệu; Sản xuất thông tin: biên soạn, sắp xếp, định dạng, trình bày.
2.2. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống thông tin kế toán
Năm 1991 khi thực hiện nghiên cứu của mình Daniel E. OLeary đã chỉ ra rằng trí tuệ nhân
tạo có thể có ảnh hưởng đáng kể đến cơ sở dữ liệu kế toán đã phát triển các mô hình hỗ trợ người
ra quyết định và tập trung vào nhu cầu thông tin của người ra quyết định. CNTT đã góp phần làm
thay đổi toàn diện lĩnh vực kế toán, thể hiện rõ nhất ở phương thức xử lý dữ liệu và cung cấp
thông tin kế toán có những bước nhảy vọt so với quy trình xử lý kế toán thủ công trước đây. Mô
hình hoạt động HTTTKT bao gồm 3 công đoạn: ghi nhận dữ liệu; xử lý và lưu trữ dữ liệu; kết
xuất báo cáo. Tùy theo nhu cầu, quy mô hoạt động, khả năng tài chính và khả năng cung ứng các
sản phẩm công nghệ mà đơn vị lựa chọn mức độ ứng dụng phù hợp. Ứng dụng CNTT trong kế
toán được biểu hiện cụ thể qua ba mức sau:
Mức 1 - Mức xử lý bán thủ công: Hệ thống thông tin chưa phát triển, CNTT mới chỉ sử
dụng vào một số nghiệp vụ hoặc đối tượng có sự tính toán nhiều. Giai đoạn này chưa có sự gắn
kết giữa dữ liệu và chương trình xử lý. Mức bán thủ công là dùng máy tính và các ứng dụng văn
phòng như: Word, Excel… Mức độ áp dụng này cũng đem lại nhiều thành công trong giai đoạn
đầu áp dụng CNTT.
Mức 2 - Mức tự động hóa công tác kế toán: Phần mềm kế toán là chương trình được thiết
lập nhằm hỗ trợ cho công tác kế toán. Với việc thiết kế là các menu liệt kê các danh mục các
chức năng phần mềm cho phép người làm kế toán lựa chọn để máy tính thực hiện. Tùy theo mức
độ phân quyền đến đâu người làm kế toán được phép truy cập để sửa dữ liệu kế toán. Ở mức độ
này phạm vi áp dụng CNTT vào kế toán được mở rộng, cung cấp một số thông tin hữu ích bên
cạnh các thông tin tài chính. Ứng dụng CNTT vào một số vùng xử lý khác như kết xuất thông
tin. Phải chuyển đổi từ bán thủ công sang tự động nên chi phí đầu tư vào CNTT lớn hơn, tuy
nhiên mang lại hiệu quả cao hơn. Đặc điểm cơ bản là cơ sở dữ liệu kế toán và mạng máy tính ra
đời, mang lại sự độc lập dữ liệu và chương trình cao. Tuy nhiên ở mức độ này việc kết nối các hệ
thống thông tin giữa quản lý và kế toán, giữa quản trị công việc và hoạch định chính sách chưa
được phát triển. Hình 4 là mô hình phân hệ người dùng và trao đổi thông tin trong HTTTKT.
Mức 3 - Mức tự động hóa công tác quản lý: Ngoài xử lý các công việc gói gọn ở bộ phận
kế toán, CNTT đã mở rộng triển khai ứng dụng trên góc độ toàn đơn vị, đem lại thay đổi chất
lượng quản lý nội tại, nâng cao năng lực điều hành, tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của đơn
vị. Mô hình quản trị thường được áp dụng là hệ thống hoạch định nguồn nhân lực với phân hệ kế
toán làm trung tâm. Với sự phát triển cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tốc độ nhanh, mạnh của
kết nối mạng, các hệ thống được kết nối với nhau, trao đổi dữ liệu với nhau, nhiều thuật toán
551
thông minh, trí tuệ nhân tạo được phát triển và áp dụng, kết hợp với xử lý cơ sở dữ liệu lớn hỗ
trợ hoạch định, chính sách kế toán và các hoạt động khác trong một thực thể thống nhất.
Hình 6. Phân hệ người dùng và trao đổi thông tin trong HTTTKT
Lợi ích của việc ứng dụng CNTT vào kế toán được xem xét trên các góc độ về: việc thu nhận
dữ liệu; hình thức thu thập kế toán; việc xử lý dữ liệu, việc cung cấp thông tin và các tính năng
kiểm soát thông tin (kiểm soát truy cập; phân chia chức năng; kiểm soát lưu trữ như; tuân thủ quy
trình; kiểm soát nguồn dữ liệu; kiểm soát xử lý). Ứng dụng CNTT trong HTTTKT ở mức độ cao
thì kế toán viên như là người dùng hệ thống thông tin, đồng thời là người kiểm soát hệ thống: Kế
toán viên phải có khả năng chuyển những nhu cầu thông tin của mình cho các chuyên gia thiết kế
hệ thống; tham gia một cách tích cực và chủ động vào các dự án phát triển hệ thống để đảm bảo
việc thiết kế hệ thống một cách phù hợp; xác định bản chất thông tin yêu cầu, nguồn thông tin,
điểm đến của thông tin, các nguyên tắc hoặc quy tắc kế toán cần thiết phải được áp dụng. Kế
toán viên có chức năng xác thực tính chính xác/trung thực của các báo cáo tài chính; đánh giá
CNTT như là một phần công việc của kiểm toán; kiểm toán hệ thống thông tin và các dịch vụ
đánh giá hệ thống CNTT.
Nghề nghiệp trong HTTTKT hiện đại trở thành tư vấn hệ thống và kiểm soát, bảo mật hệ
thống thông tin. Tư vấn hệ thống: thiết kế các hệ thống và các quy trình mang tính công nghệ;
lựa chọn hệ thống phần cứng và phần mềm; giá trị gia tăng qua các quá trình bán lại; kiểm soát
và bảo mật hệ thống thông tin: phân tích rủi ro với hệ thống thông tin; trợ giúp kiểm toán viên
trong việc đánh giá kiểm soát; chứng nhận kiểm toán viên hệ thống thông tin; đánh giá, kiểm tra
quá trình xâm nhập.
3. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG HỆ THỐNG
THÔNG TIN KẾ TOÁN TẠI CÁC HỌC VIỆN, CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ,
TÀI CHÍNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Qua khảo sát sự ứng dụng CNTT trong việc tổ chức HTTTKT cụ thể tại các học viện, các
trường đại học kinh tế, tài chính như: Đại học Công nghiệp Hà Nội, Học viện Tài chính; Đại học
Phân hệ kế toán
chuyên môn
Phân hệ nghiệp vụ
quản lý kế toán
Phân hệ phục vụ
người dùng
Hệ
quản
trị cơ
sở dữ
liệu
Dữ liệu người dùng,
Hóa đơn mua sắm, Dịch
vụ hợp đồng, kế hoạch,
Dữ liệu thực tể khác
Phân hệ phục
vụ
Phần mềm
tích hợp
Cơ sở dữ liệu
dùng chung
Người dùng
Kế toán viên
Quản lý,
tổng hợp
Người dùng
cuối
552
Thương mại; Đại học Kinh tế Quốc dân; Đại học Tài chính - Ngân hàng Hà Nội; Đại học Công
đoàn. Nhóm tác giả sử dụng hệ thống các phương nghiên cứu định lượng và định tính, trong đó
dữ liệu sơ cấp thu thập bởi nghiên cứu trực tiếp và gián tiếp thông qua Bảng khảo sát, tác giả đã
rút ra một số nhận xét như:
Thứ nhất, bộ máy kế toán trong các học viện, các trường đại học kinh tế, tài chính được tổ
chức tương đối hợp lý, hầu hết được tổ chức theo mô hình tập trung, phù hợp với đặc điểm hoạt
động của các trường. Nhân sự trong bộ máy kế toán được bố trí phù hợp theo trình độ và năng
lực cá nhân, bảo đảm công tác kế toán được vận hành hiệu quả. Một số trường cũng đã chú trọng
việc tạo điều kiện cho nhân viên kế toán được học tập, nâng cao trình độ, thích nghi với những
thay đổi trong cơ chế quản lý tài chính và chế độ kế toán. Nhiều trường đã chú trọng đầu tư vào
hệ thống máy tính, với các máy tính đồng bộ, có thương hiệu uy tín, góp phần cho việc vận hành
hệ thống được trơn tru. Một số trường cũng đã sử dụng các phần mềm kế toán và phần mềm thu
học phí, góp phần nâng cao năng suất lao động kế toán, giảm thiểu những sai sót có thể xảy ra do
thực hiện các công việc kế toán theo phương thức thủ công truyền thống.
Thứ hai, về nhận thức của cán bộ làm công tác kế toán và đội ngũ cán bộ làm công tác lãnh
đạo quản lý tại khối các học viện, các trường đại học kinh tế, tài chính việc phải ứng dụng CNTT
trong việc tổ chức HTTTKT là rất cần thiết và cấp bách. Vấn đề này được đặt ra như một nhiệm
vụ hàng đầu đối với việc đổi mới tổ chức công tác kế toán phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của
khối các học viện, các trường đại học kinh tế, tài chính trong tình hình mới.
Thứ ba, về mức độ ứng dụng CNTT trong việc tổ chức HTTTKT tại khối các học viện, các
trường đại học kinh tế, tài chính còn thấp. Việc ứng dụng CNTT mới dừng ở mức 1 và giữa mức
2. Tức là kết hợp giữa thủ công với các ứng dụng Excel, Word, và các phần mềm độc lập, chưa
đạt đến mức 3.
Theo kết quả khảo sát 100% các trường đã biết ứng dụng CNTT trong kế toán ở mức tự
động hóa công tác kế toán (cả 35 đơn vị đều sử dụng phần mềm kế toán nhằm hỗ trợ cho công
tác kế toán trong đơn vị, cho phép người làm kế toán lựa chọn để máy tính thực hiện và tùy theo
mức độ phân quyền đến đâu người làm kế toán được phép truy cập để sửa dữ liệu kế toán. Ở
mức độ này phạm vi áp dụng CNTT vào kế toán được mở rộng, cung cấp một số thông tin hữu
ích bên cạnh các thông tin tài chính. Ứng dụng CNTT vào một số vùng xử lý khác như kết xuất
thông tin. Như vậy, các đơn vị đã biết chuyển đổi từ thủ công sang tự động nên chi phí đầu tư
vào CNTT cho công tác kế toán sẽ lớn hơn, tuy nhiên mang lại hiệu quả cao hơn. Đặc biệt, các
đơn vị tham gia khảo sát đều cho rằng phần mềm kế toán sử dụng hiện tại trong đơn vị mình là
hoàn toàn phù hợp. Do đó, tăng cường hiệu quả phân tích thông tin tài chính kế toán phục vụ cho
các đối tượng khác nhau trong đơn vị nhằm phục vụ công việc của mỗi vị trí công việc một cách
hiệu quả. CNTT đã góp phần làm thay đổi toàn diện lĩnh vực kế toán, thể hiện rõ nhất ở phương
thức xử lý dữ liệu và cung cấp thông tin kế toán có những bước nhảy vọt so với quy trình xử lý
kế toán thủ công trước đây.
553
Bảng 1. Kết quả khảo sát tại 35 trường đại học kinh tế, tài chính trên địa bàn Hà Nội
Nội dung Kết quả
Số phiếu Tỷ lệ %
Đơn vị có tổ chức phân tích tình hình tài
chính
Không 13 37.2
Có 22 62.8
Công tác kế toán của đơn vị được thực hiện
chủ yếu
Excel hoặc thủ công 0 0.0
Phần mềm kế toán 35 100.0
Sử dụng các phần mềm kế toán hiện tại Phù hợp 35 100.0
Chưa phù hợp 0 0
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả của phiếu khảo sát)
Thứ tư, về thực trạng công tác lưu trữ chứng từ kế toán. Hồ sơ kế toán là những minh
chứng cho quá trình hoạt động của đơn vị. Do vậy, việc tổ chức lưu trữ Hồ sơ kế toán đòi hỏi
tính khoa học và đảm bảo tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Quá trình Tổ chức lưu trữ
Hồ sơ kế toán, từ khâu phân loại, đóng gói, nơi lưu trữ, sử dụng sau lưu trữ đến khâu tiêu hủy Hồ
sơ kế toán đòi hỏi đơn vị phải xây dựng một quy trình khoa học và đảm bảo tuân thủ theo các
quy định của pháp luật về tổ chức lưu trữ hồ sơ kế toán. Tuy nhiên, thực tế còn một số các
trường chưa chú trọng trong việc xây dựng quy trình luân chuyển và xử lý cho từng loại chứng
từ kế toán, chỉ có 23 đơn vị tham gia khảo sát có xây dựng quy trình luân chuyển và xử lý cho
từng loại chứng từ chiếm 65,7%, còn 12 đơn vị chưa xây dựng quy trình luân chuyển và xử lý
cho từng loại chứng từ chiếm 34,3%.
Một ưu điểm lớn của khối các học viện, các trường đại học kinh tế, tài chính là các đơn vị đã
thực hiện phân loại, lưu trữ và bảo quản hồ sơ kế toán một cách khoa học, có đến 34 đơn vị chiếm
97,1% thực hiện phân loại, lưu trữ và bảo quản hồ sơ kế toán đảm bảo khoa học, chỉ có 01 đơn vị
chiểm 2,9% chưa thực hiện phân loại, lưu trữ và bảo quản hồ sơ kế toán đảm bảo khoa học.
Đặc thù việc lưu trữ của khối các học viện, các trường đại học kinh tế, tài chính cần đảm
bảo tính bảo mật, đảm bảo tính khoa học và an toàn. Do đó, hầu hết các đơn vị chủ yếu phối hợp
kết hợp phương tiện điện tử nhưng có in ra giấy để lưu trữ trữ hồ sơ kế toán (có đến 29 đơn vị sử
dụng phương tiện này chiếm 82,9%). Việc sử dụng phương tiện này để lưu trữ tài hồ sơ kế toán
đã bảo đảm an toàn, bảo mật thông tin dữ liệu và phải đảm bảo tra cứu được trong thời hạn lưu
trữ. Tuy nhiên, để đảm bảo tính bảo mật của hồ sơ kế toán, có đến 13 đơn vị chiếm 37,1 % sử
dụng phương tiện truyền thống (giấy) để lưu trữ hồ sơ kế toán, 02 đơn vị lưu trữ hồ sơ kế toán
bằng phương tiện điện tử chiếm 7,1%.
Thời gian lưu trữ hồ sơ kế toán được các học viện, các trường đại học kinh tế, tài chính
tương đối đầy đủ theo quy định. Đối với Hồ sơ không trực tiếp dùng để ghi sổ, có 10 đơn vị
chiếm 28,6% thực hiện lưu trữ hồ sơ dưới 5 năm, 25 đơn vị chiếm 71,4% thực hiện lưu trữ hồ sơ
từ 5 năm trở lên. Đối với Hồ sơ trực tiếp dùng để ghi sổ, có 8 đơn vị chiếm 22,9% đơn vị thực
hiện lưu trữ hồ sơ dưới 10 năm, có 16 đơn vị chiếm 45,7% thực hiện lưu trữ hồ sơ trên 10 năm
và có 11 đơn vị chiếm 31,4% thực hiện lưu trữ hồ sơ vĩnh viễn
554
Bảng 2. Kết quả khảo sát tại 35 trường đại học kinh tế, tài chính trên địa bàn Hà Nội
Nội dung Kết quả
Số phiếu Tỷ lệ %
Xây dựng quy trình luân chuyển và xử lý cho từng
loại chứng từ kế toán
Có 23 65.7
Không 12 34.3
Phân loại, lưu trữ và bảo quản hồ sơ kế toán đảm
bảo KH
Có 34 97.1
Không 1 2.9
Thời gian lưu trữ hồ sơ chứng từ kế toán
Đối với hồ sơ không trực tiếp dùng để
ghi sổ
Dưới 5 năm 10 28.6
Từ 5 năm trở lên 25 71.4
Đối với hồ sơ trực tiếp dùng để ghi sổ
Dưới 10 năm 8 22.9
Từ 10 năm trở lên 16 45.7
Lưu trữ vĩnh viễn 11 31.4
Lưu trữ hồ sơ kế toán bằng phương
tiện
Giấy 13 37.1
Phương tiện điện tử 2 5.7
Phương tiện điện tử nhưng
có in ra giấy để lưu trữ 29 82.9
Thực hiện tiêu hủy tài liệu kế toán
theo quy định
Có 29 82.9
Không 6 17.1
Khi tiêu hủy tài liệu kế toán đơn vị có
thành lập "Hội đồng tiêu hủy tài liệu
kế toán hết thời hạn lưu trữ
Có 29 82.9
Không 6 17.1
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả của phiếu khảo sát)
Thứ năm, về sản phẩm của việc ứng dụng CNTT trong việc tổ chức HTTTKT tại các khối
các học viện, các trường đại học kinh tế, tài chính là: (i) việc ghi nhận dữ liệu (dựa vào sự kiện
kinh tế, kế toán tiến hành lập các chứng từ. Kế toán trong điều kiện ứng dụng CNTT với phần
cứng, phần mềm kế toán và công nghệ cơ sở dữ liệu sẽ cho phép người làm kế toán có thể nhập
liệu qua bàn phím hay quét dữ liệu vào hệ thống); (ii) việc xử lý và lưu trữ dữ liệu (dữ liệu kế toán
được tiến hành phân loại, sắp xếp, bóc tách ghi sổ nhật ký. Quy trình xử lý bao gồm: Lưu trữ, tổ
chức thông tin, phân tích và tính toán các thông tin tài chính, kế toán được thực hiện tự động hóa
nhanh chóng, chính xác hơn thông qua các chương trình đã được lập trình sẵn; (iii) việc kết xuất
báo cáo (căn cứ vào kết quả xử lý dữ liệu kế toán của giai đoạn xử lý, kế toán trong môi trường
ứng dụng CNTT kết xuất một cách dễ dàng, nhanh chóng và đa dạng các loại báo cáo so với kế
toán thủ công, điều này được biểu hiện cụ thể qua: Báo cáo tài chính, báo cáo thuế, sổ chi tiết, sổ
cái, báo cáo thống kê, phân tích…). Tuy nhiên, HTTTKT tại khối học viện, các trường đại học
kinh tế, tài chính chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình bởi tính chất rời rạc, không hệ thống,
các hệ thống của thông tin: kế toán được phân công cho từng người khác nhau và chưa có sự kết
nối thống nhất, tổng hợp (kế toán tiền, kế toán lương, kế toán công nợ, kế toán tổng hợp); chưa có
555
bút toán tổng hợp toàn bộ công tác kế toán một cách tự động, qua đó việc xây dựng báo cáo tài
chính cuối năm cũng như dự trù kinh phí năm tới hầu hết phải kết hợp giữa thủ công và ứng dụng
tin học văn phòng; chưa có những phân tích khoa học như biểu đồ, tính toán tỷ lệ theo yêu cầu
chung của phân tích tài chính; trong quá trình khai thác, phân bổ nguồn kinh phí cho các mặt hoạt
động cũng chưa có những phần mềm giám sát tổng ngân sách phân bổ và ngân sách đã sử dụng.
4. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG TỔ CHỨC
HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN TẠI CÁC HỌC VIỆN, CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KINH TẾ, TÀI CHÍNH
Một, hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động, tìm kiếm các
nguồn lực tài chính và kiểm soát tốt chi phí đáp ứng việc tăng cường tự chủ tài chính, cơ chế quản
lý tài chính trong các học viện, các trường đại học kinh tế, tài chính cần đổi mới theo hướng tăng
cường phân cấp quản lý tài chính cho các đơn vị trực thuộc. Các đơn vị trực thuộc trường cần được
tổ chức theo mô hình các trung tâm trách nhiệm, bao gồm các trung tâm chi phí, trung tâm lợi
nhuận và cả các trung tâm đầu tư.
Hai, căn cứ vào cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ mới của từng học viện, các trường
đại học kinh tế, tài chính để hoàn thiện tổ chức kế toán trên cơ sở ứng dụng CNTT. Hiện nay hầu
hết các học viện, các trường đại học kinh tế, tài chính đều tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình tập
trung, có rất ít các trường tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình nửa tập trung - nửa phân tán. Mô
hình tập trung rất phù hợp với các trường qui mô nhỏ, hoạt động tập trung và không tiến hành phân
cấp quản lý tài chính cho các đơn vị trực thuộc, như các trường đại học, cao đẳng hay trung cấp.
Do vậy, căn cứ vào cơ cấu tổ chức mới và chức năng nhiệm vụ của từng trường để tổ chức mô
hình kế toán phù hợp trên cơ sở ứng dụng CNTT.
Ba, xây dựng lộ trình phát triển HTTTKT. Bao gồm xác định công việc, nguồn kinh phí, đào
tạo nhân lực, đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Chia thành các giai đoạn ứng dụng khác nhau trên một
thực thể thống nhất, dùng chung cơ sở dữ liệu, dễ dàng phát triển. Xây dựng một HTTTKT đáp
ứng đủ các phân hệ phục vụ công tác kế toán: Kế toán lương, kế toán thanh toán, kế toán tổng
hợp, kế toán kho và vật tư.
Bốn, xây dựng các kết nối liên thông giữa các hệ thống kế toán con bên trong với nhau, kết
nối với các hệ thống khác như đào tạo, nghiên cứu khoa học, thư viện, hành chính, tạp chí. Phát
triển các ứng dụng sử dụng trí tuệ nhân tạo và xử lý dữ liệu lớn để xử lý dữ liệu thống kê, phân
tích, báo cáo, xây dựng kế hoạch, dự toán kinh phí.
5. KẾT LUẬN
Việc ứng dụng CNTT vào việc tổ chức HTTTKT là nhiệm vụ quan trọng trong việc đổi
mới, kiện toàn hệ thống công cụ quản lý của khối các học viện, các trường đại học kinh tế, tài
chính hiện nay. Bằng phương pháp nghiên cứu lý thuyết, việc tổng hợp và hệ thống hóa các
nghiên cứu trong và ngoài nước, bài viết đã làm rõ khái niệm, bản chất, HTTTKT trong mối
quan hệ dữ liệu và thông tin, phân tích rõ cấu trúc tổng quát của HTTTKT, làm rõ phân hệ người
dùng và trao đổi thông tin trong HTTTKT. Đồng thời bằng việc khảo sát thực tế, đánh giá tổng
kết, bài viết đánh giá thực trạng việc ứng dụng CNTT trong việc tổ chức HTTTKT tại các học
556
viện, các trường đại học kinh tế, tài chính. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy việc ứng
dụng CNTT trong việc tổ chức HTTTKT hiệu quả, phát huy hết vai trò và công năng của hệ
thống này trong công tác quản lý trong khối các học viện, các trường đại học kinh tế, tài chính
trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Azmi Fitriati and Sri Mulyani, 2015. Factors that affect accounting information system success and
its implication on accounting information quality, Asian journal of information technology.
Bộ Tài chính (2005), Thông tư 103/2005/TT/BTC ngày 24/11/2005. Hướng dẫn thực hiện tiêu
chuẩn và điều kiện phần mềm kế toán.
Florin Aparaschivei, 2007. Considerations on Accounting Intelligent Systems Importance.
Information Economic
Gelinas, U., Sutton, S., 2002. Accounting Information Systems, 5th Edition, South Western
Huỳnh Thị Hạnh, Nguyễn Mạnh Toàn (2013), Tiếp cận tổng thể và đa chiều về HTTTKT, Tạp
chí kinh tế phát triển, số 192.
ICAEWs IT Faculty, 2017. Blockchain and the future of accountance
Lobana, J. (2013). Cloud Computing for Not-for Profit Organizations - Questions for Directors
to Ask, Chartered Professional Accountants Canada.
Nadine. R. (2017). Do We Really Want Blockchain - Based accounting? Decentralized
consensus as Enabler of Management Override of Internal Controls. International
Conference on Wirtschaftsinformatik.
Nguyễn Văn Căn (2019), Ứng dụng CNTT trong HTTTKT tại Trường Đại học Kỹ thuật - Hậu
cần CAND, Kỷ yếu Hội thảo cấp Bộ Công an.
Nguyễn Thế Hưng (2008), Excel kế toán và Access kế toán, NXB TP. Hồ Chí Minh.
Manchilot Tilahum, 2019. A review on determinants of accounting information system adoption,
Science journal of business and management, 7(1), 17-22.
Neisi Wisna, 2018. Factors affecting the quality of accounting information, Inetnational journal
of scientific and technology research, volume 7.
Rapina, 2014. Factor Influencing the Quality of Accounting Information System and Its
Implication on The Quality of Accounting Information. Research Journal of Finance and
Accounting, 148-154.
Siti Nur Azizah, 2017. Analysis of factors affecting the implementation of computer-based
accounting information system on small and medium enterprises, Journal Ekonomi & Studi
Pembanguman, vol.18.
Thiều Thị Tâm, Nguyễn Việt Hưng, Nguyễn Quang Huy, Phan Đức Dũng (2014), HTTTKT,
NXB Thống kê, Hà Nội.
Trần Thị Song Minh, Kế toán máy, NXB Thống kê, 2010.
557
Ảnh hưởng của quản trị vốn lưu động đến khả năng thanh toán
của các doanh nghiệp niêm yết
Đậu Hoàng Hưng, Nguyễn Viết Hà
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Email: dauhoanghung@haui.edu.vn
Mã bài: HTQG.30 Ngày nhận bài chỉnh sửa sau phản biện: 19/11/2019
Ngày nhận bài: 31/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 23/11/2019
Tóm tắt
Quản trị vốn lưu động ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh toán của bất kỳ một doanh
nghiệp nào. Bài báo thực hiện nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn lưu động đên khả năng
thanh toán của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu nghiên
cứu được thu thập từ báo cáo tài chính của 395 doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch
chứng khoán Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội Việt Nam, trong giai đoạn
2015 - 2017. Tổng số mẫu quan sát là 1185 (395 doanh nghiệp*3 năm). Nghiên cứu sử dụng
các phương pháp hồi quy khác nhau, bao gồm: OLS, FEM, REM, với các biến độc lập: chỉ số kỳ
thu tiền bình quân, chỉ số chu kỳ chuyển hóa hàng tồn kho, chỉ số kỳ thanh toán bình quân. Và
các biến phụ thuộc: khả năng thanh toán ngắn hạn và khả năng thanh toán dài hạn. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, chỉ số kỳ thu tiền bình quân và chu kỳ chuyển hóa hàng tồn kho có tác
động cùng chiều đến khả năng thanh toán ngắn hạn và khả năng thanh toán dài hạn; chỉ số kỳ
thanh toán bình quân có ảnh hưởng ngược chiều đến khả năng thanh toán ngắn hạn và khả năng
thanh toán dài hạn.
Từ khóa: Vốn lưu động, hiệu quả sử dụng vốn lưu động, đo lường hiệu quả sử dụng vốn
lưu động, quản trị vốn lưu động.
Viết tắt:
VLĐ: Vốn lưu động CR: Chỉ số khả năng thanh toán ngắn hạn
ROA: Tỷ suất sinh lời trên tài sản NCR: Chỉ số khả năng thanh toán dài hạn
ROE: Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu ACR: Chỉ số kỳ thu tiền bình quân
TSNH: Tài sản ngắn hạn IP: Chỉ tiêu chu kỳ chuyển hóa HTK
ACP: Chỉ tiêu kỳ thanh toán bình quân
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quản lý hiệu quả vốn lưu động đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược tổng thể của
công ty nhằm tạo ra giá trị cho cổ đông. Việc quản trị vốn lưu động có tác động rất lớn đến hiệu
558
quả hoạt động của doanh nghiệp đặc biệt là khả năng thanh toán. Cụ thể: việc đẩy nhanh tốc độ
thu hồi các khoản nợ phải thu, tốc độ xoay vòng hàng tồn kho sẽ giúp cho doanh nghiệp có được
lượng tiền mặt dồi dào phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở chu kỳ kế tiếp, giảm các chi
phí vốn, chi phí lưu kho để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Quản trị vốn lưu
động hiệu quả là vấn đề thực tế mà các nhà quản trị doanh nghiệp quan tâm để hoàn thành mục
tiêu thanh toan và lợi nhuận. Vì vậy, việc quản trị vốn lưu động không hiệu quả không chỉ làm
giảm lợi nhuận mà thậm chí còn có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán và sự khủng hoảng tài
chính của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, đối với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào, bất kể định hướng
lợi nhuận, quy mô và tính chất kinh doanh đều cần có một lượng VLĐ nhất định. Việc ước tính
đúng mức vốn lưu động thực sự cần thiết, là một nhiệm vụ khó khăn cho các nhà quản trị, bởi vì,
giữa các công ty khác nhau qua các thời kỳ sẽ có lượng vốn lưu động khác nhau, tùy thuộc vào
tính chất kinh doanh, lĩnh vực, quy mô hoạt động, chu kỳ sản xuất, chính sách tín dụng, nguồn
nguyên liệu sẵn có,… Vì vậy, quản trị tốt vốn lưu động còn là một chỉ số quan trọng về sức khỏe
hợp lý của một đơn vị kinh doanh, đòi hỏi phải có sự đánh giá chính xác, ngăn chặn sử dụng vốn
vay không cần thiết để giảm chi phí tài chính. Từ đó, có thể thấy, quản trị hiệu quả VLĐ là yếu
tố quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại, khả năng thanh toán và lợi nhuận của bất kỳ một tổ
chức kinh doanh nào.
Xem xét tầm quan trọng không thể chối cãi của quản trị hiệu quả VLĐ, nhiều nhà quản trị đã
nỗ lực nghiên cứu đưa ra mức độ phù hợp của tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn (nhiều trường hợp
là tổng tài sản và tổng nợ phải trả) nhằm đạt được mức độ cân bằng giữa rủi ro và hiệu quả kinh
doanh. Trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, câu hỏi về tình hình quản trị VLĐ của các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán của Việt Nam như thế nào đang là vấn đề nổi cộm, cần có
những nghiên cứu thực nghiệm cụ thể, cung cấp các bằng chứng khoa học đảm bảo độ chính xác
cao, giúp các đối tượng sử dụng thông tin có cơ sở tin cậy để ra các quyết định phù hợp.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Tổng quan nghiên cứu
Để kiểm tra tác động của quản trị vốn lưu động lên khả năng thanh khoản (liquidity) và khả
năng thanh toán (solvency) của các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì Sunday, K. J. (2011) đã sử dụng
số liệu của các công ty Nigeria, kết quả nghiên cứu cho thấy các công ty nhỏ có tình trạng tài chính
yếu vì họ phụ thuộc quá lớn vào nguồn tín dụng thương mại cho dòng hoạt động hàng ngày.
Eljelly, A. M. (2004) kiểm tra mối quan hệ giữa khả năng thanh toán và khả năng sinh lời
trong đó khả năng thanh toán được đo lường bằng khả năng thanh toán ngắn hạn và thời gian
quay vòng của tiền mặt trên một mẫu là các công ty niêm yết của Saudi Arabia. Sử dụng phân
tích hồi quy tương quan nghiên cứu này chỉ ra rằng có mối tương quan ngược chiều giữa khả
năng sinh lời và khả năng thanh toán. Mối tương quan này được thể hiện rõ hơn trong các công
ty có hệ số khả năng thanh toán cao và thời gian quay vòng tiền dài, tuy nhiên trong các công ty
này thì cũng có bằng chứng chỉ ra rằng thời gian quay vòng của tiền ảnh hưởng mạnh hơn so với
khả năng thanh toán ngắn hạn.
Shin, H. H., & Soenen, L. (1998) đã sử dụng phân tích tương quan và hồi quy đối với một
mẫu lớn gồm 58.895 công ty Mỹ trong giai đoạn 1975-1994 để chứng minh về mối quan hệ giữa
Recommended