Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trước đổi mới (1986), ý thức sáng tác của các nhà văn trong đó có các nhà tiểu
thuyết lịch sử đều chịu sự chi phối bởi quan niệm thẩm mĩ của hệ hình hiện thực xã hội
chủ nghĩa với một số nguyên tắc về khuynh hướng nghệ thuật được đề cao như những
chuẩn mực mang tính pháp quy, coi trọng tính tương đồng với những mô hình, khuôn
mẫu nghệ thuật có sẵn mang tính độc tôn, khép kín. Tính khác biệt ít được coi trọng. Sau
1986, tiểu thuyết Việt Nam từng bước đổi mới không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi, lạ hoá
mà còn là sự thay đổi quan niệm về thể loại nhằm vươn tới tầm vóc của tiểu thuyết và tầm
đón đợi của người đọc đương đại. Sự đổi mới tiểu thuyết, vì thế vừa hướng tới chủ thể
sáng tạo vừa hướng tới chủ thể tiếp nhận. Những nỗ lực cách tân của người viết đòi hỏi
người đọc phải chủ động với cách đọc, cách cảm thụ tác phẩm, tránh tình trạng quen với
lối đọc của hệ hình cũ.
1.2. Khắc phục những hạn chế mang tính lịch sử của các thời kỳ trước, tiểu thuyết
lịch sử sau 1986, đặc biệt là thập niên đầu thế kỉ XXI đã từng bước cách tân, đáp ứng nhu
cầu của người đọc cũng như đảm bảo sự sống còn của thể loại. Các tác giả tiểu thuyết lịch
sử đã có cách xử lí linh hoạt mối quan hệ giữa lịch sử và hư cấu để đảm bảo đặc trưng thể
loại và chuyển tải được nhiều vấn đề về cuộc sống hiện đại. Lịch sử dưới ngòi bút của họ
là kết quả của sự nhận thức lại một cách sâu sắc bằng những kiến giải giàu tính thuyết
phục. Trong thực tiễn sáng tác, nhất là mười năm đầu thế kỉ XXI, các cây bút tiểu thuyết
lịch sử đã có ý thức tìm tòi, đổi mới nghệ thuật và kỹ thuật tiểu thuyết trên cơ sở gắn nó
với nội dung nhân bản, xã hội để thúc đẩy thể loại phát triển, góp phần cách tân và hiện
đại hóa văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sự đổi mới ấy vừa phản ánh sự đổi mới chung vừa
có những đóng góp riêng vào nghệ thuật tự sự của văn học. Từ đó, tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam nói chung và tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn thập niên đầu thế kỉ XXI nói
riêng không chỉ đóng góp cho nền tiểu thuyết dân tộc thêm phong phú mà còn tạo dựng
một vị thế xứng đáng trên văn đàn và trong lòng độc giả bằng những tác phẩm lớn ở cả
phương diện nội dung lẫn nghệ thuật biểu hiện.
1.3. Trong mười năm đầu thế kỉ XXI, với sự thay đổi ý thức thẩm mĩ của người viết,
tiểu thuyết lịch sử đã đạt những thành tựu đáng trân trọng với những tác phẩm tiêu biểu
1
như: Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Mạc Đăng Dung (Lưu Văn
Khuê), Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Hội thề
(Nguyễn Quang Thân), Tây Sơn bi hùng truyện (Lê Đình Danh), Tám triều vua Lý (Hoàng
Quốc Hải), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn), Minh sư
(Thái Bá Lợi), Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam),…
Lịch sử trong quan niệm của các nhà tiểu thuyết đương đại không đơn thuần là tái tạo lại
không khí thời đại mà đã có nhiều biến chuyển theo hướng đối thoại, luận giải, nhận thức
lại lịch sử, gắn liền với cảm thức văn hóa và sự thức nhận về hiện thực đời sống đương đại.
1.4. Nhìn chung, tiểu thuyết lịch sử vẫn đang tiếp diễn và qua những chặng đường
phát triển, rất cần có những công trình khoa học tổng kết, nhận diện những đặc trưng của
nó. Do đó, đi sâu tìm hiểu Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên
đầu thế kỉ XXI là để hiểu rõ hơn những nỗ lực tìm kiếm trong tư duy nghệ thuật mới mẻ
của các tác gia viết tiểu thuyết lịch sử giai đoạn đầu thế kỉ XXI nói riêng và các nhà
tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói chung. Từ đó, chúng ta sẽ có những đánh giá thỏa
đáng về những đóng góp thật sự của thể loại này trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt
Nam đương đại.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án khảo sát toàn diện đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử giai đoạn thập
niên đầu thế kỉ XXI. Do số lượng tiểu thuyết lịch sử giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI rất
lớn nên luận án chỉ tập trung vào những tác phẩm nổi bật cho từng khuynh hướng và mang
những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này (luận án xác định thể loại dựa
trên nội hàm khái niệm về tiểu thuyết lịch sử được giới thuyết trong từ trang 10 - 12). Bên
cạnh đó, luận án khảo sát một số tác phẩm xuất bản sau 2010 nhưng được sáng tác trong
giai đoạn này như: Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh) (2011), Huyền Trân (Nguyễn
Hữu Nam) (2011), Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn) (2012). (Phụ lục 1)
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận án Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử giai đoạn thập niên đầu thế
kỉ XXI, chúng tôi tập trung tìm hiểu những đặc trưng cơ bản thể loại trên các phương diện:
2
dạng thức, xu hướng thể loại, thế giới nhân vật; một số phương thức tự sự như người kể
chuyện, điểm nhìn trần thuật và diễn ngôn trần thuật.
3. Cơ sở lý thuyết
Luận án sử dụng lý thuyết thi pháp học, tự sự học và lý thuyết về thể loại tiểu thuyết
lịch sử và lý thuyết tân lịch sử để nghiên cứu. Trên cơ sở lý thuyết, chúng tôi xác định các
vấn đề cần giải quyết trong luận án như sau:
1. Thông qua việc tổng quan tài liệu, các lý thuyết và các công trình nghiên cứu có
liên quan mật thiết đến đề tài nghiên cứu, luận án chỉ ra những điểm tương đồng cũng như
sự khác biệt, những thành công cũng như hạn chế của các công trình nghiên cứu trước
đây để kế thừa hay khắc phục trong luận án, đồng thời, đưa ra quan điểm để giải quyết
vấn đề nghiên cứu của đề tài mà tác giả đã xác định.
2. Luận án làm sáng tỏ quan niệm về thể loại, xác định những dạng thức, xu hướng
thể loại, thế giới nhân vật và phương thức tự sự trên cơ sở đối sánh với tiểu thuyết lịch sử
giai đoạn trước đây. Từ đó, luận án có thể xác định những đổi mới cũng như những đóng
góp của thể loại vào tiến trình phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong giai đoạn
mười năm đầu thế kỉ XXI.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
– Phương pháp loại hình: Luận án đặt các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử trong cùng
một hệ thống nhằm xác định những đặc trưng của thể loại với cái nhìn tổng thể trên các
phương diện nội dung và hình thức phản ánh. Từ đó, luận án xác định danh tính và ý
nghĩa của chúng trong một hệ thống, đồng thời nhận dạng cấu trúc của hệ thống đó.
– Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Giải mã cấu trúc văn bản tiểu thuyết lịch sử
từ các góc độ: Tự sự học, Thi pháp học, Tân lịch sử. Từ đó, thiết lập và sắp xếp các vấn
đề một cách logic, khoa học; xem xét, đánh giá trong tính chỉnh thể của chúng.
– Phương pháp so sánh: Phương pháp này được vận dụng để tìm hiểu những nét
tương đồng và dị biệt trong tư duy tự sự lịch sử và các phương thức nghệ thuật của tiểu
thuyết lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXI so với giai đoạn trước đó nhằm khẳng định tư duy
nghệ thuật mới mẻ của các nhà văn đương đại trong tiến trình phát triển của tiểu thuyết
Việt Nam đương đại.
3
- Phương pháp liên ngành: Luận án sử dụng kiến thức của các ngành khoa học xã
hội khác như: sử học, dân tộc học, triết học, văn hóa học, tâm lý học,... để khai thác, bổ
sung, nhấn mạnh những phương diện văn hóa – lịch sử nào đó trong tác phẩm.
Ngoài ra, luận án cũng thường xuyên sử dụng một số thao tác nghiên cứu như
thống kê phân tích, tổng hợp nhằm đưa ra những luận chứng cụ thể, sinh động chứng
minh cho những luận điểm được tác giả trình bày trong luận án.
5. Đóng góp khoa học của luận án
Với đề tài này, luận án hy vọng sẽ đóng góp được những vấn đề có ý khoa học sau:
Thứ nhất, thông qua việc khảo sát và hệ thống hóa tư liệu về tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI, luận án cung cấp cái nhìn tổng quan về diện mạo của
tiểu thuyết lịch sử giai đoạn thập niên đầu thế kỉ XXI.
Thứ hai, trên cơ sở chỉ ra sự đổi mới quan niệm thể loại trong bối cảnh mới, luận án
dựa vào khung chủ đề và kết cấu của tác phẩm để xác định một số xu hướng và dạng thức
tiêu biểu (mang tính tương đối) của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn thập niên đầu thế kỉ XXI.
Thứ ba, từ góc độ loại hình, luận án phân loại và đưa ra một số kiểu nhân vật và
phương thức xây dựng nhân vật theo đặc trưng của thể loại, đồng thời chỉ ra sự vận động
của thể loại thông qua quan niệm nghệ thuật về con người.
Thứ tư, luận án đi vào làm rõ ba phương thức tự sự mang tính đặc trưng của tiểu
thuyết lịch sử: người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, diễn ngôn trần thuật trong cái nhìn
đối sánh với tiểu thuyết lịch sử giai đoạn trước đó nhằm khẳng định sự đổi mới và đóng
góp của thể loại tiểu thuyết lịch sử trong nền văn học Việt Nam đương đại.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài Mở đầu trình bày những vấn đề chung có tính trường quy như: Lý do chọn
đề tài, Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, Cơ sở lý thuyết, Phương pháp nghiên cứu; Kết
luận; Tài liệu tham khảo, Phụ lục; Nội dung chính của luận án được cấu trúc thành bốn
chương, cụ thể:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu: Luận án trình bày một cách khái quát
về tình hình nghiên cứu thể loại tiểu thuyết lịch sử hiện đại ở Việt Nam nói chung và tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI nói riêng. Trên cơ sở đó, luận án tìm ra
những “khoảng trắng” trong việc xác định danh tính và ý nghĩa của thể loại tiểu thuyết
4
lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXI trong một hệ thống thể loại, đồng thời nhận dạng những
đặc trưng cấu trúc của hệ thống đó.
Chương 2. Đặc trưng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI - nhìn
từ các xu hướng và dạng thức thể loại: Luận án tập trung phân loại thể loại tiểu thuyết
lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXI nhìn từ các xu hướng và dạng thức thể loại. Đồng thời,
luận án tập trung khảo sát, so sánh, từ đó, chỉ ra những đổi mới về tư duy, xu hướng thể
loại và sự đa dạng về dạng thức của thể loại so với giai đoạn trước đây.
Chương 3. Đặc trưng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI – nhìn
từ thế giới nhân vật: Luận án tập trung phân loại nhằm xác định loại hình nhân vật có
cùng những đặc trưng cơ bản trong tiểu thuyết lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXI: nhân vật
sử thi hóa, nhân vật huyền thoại hóa, nhân vật thế tục hóa. Đồng thời, luận án chỉ ra
phương thức nghệ thuật xây dựng nhân vật thông qua nghệ thuật khắc họa ngoại hình,
hành động và tâm lý nhân vật.
Chương 4. Đặc trưng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI – nhìn
từ phương thức tự sự: Luận án tập trung khảo sát, phân tích, so sánh đối tượng trên một số
phương diện trần thuật như người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật và diễn ngôn trần thuật
nhằm chỉ ra những hình thức đổi mới về tư duy thể loại trên cấp độ tự sự, đặc biệt, luận án
nhận diện những hình thái diễn ngôn mới về lịch sử trong việc mở rộng biên độ sáng tạo
trong tiến trình vận động của thể loại.
5
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết lịch sử ở Việt NamThuật ngữ tiểu thuyết lịch sử (TTLS) xuất hiện khá sớm từ phương Tây, được sử
dụng phổ biến trên thế giới và đã có nhiều quan niệm khác nhau của những nhà TTLS nổi
tiếng về đặc trưng của thể loại này như A.Dumas, H.S.Haasse, P.Louis – Rey, Lucacs,
D.Brewster và J.Burell… Chẳng hạn, trong công trình Tiểu thuyết hiện đại, hai nhà
nghiên cứu D.Brewster và J.Burell đã chỉ ra vai trò của hư cấu nghệ thuật, cá tính sáng tạo
của nhà văn trong việc thể hiện hiện thực lịch sử và nhiệm vụ của TTLS: “Tiểu thuyết
lịch sử có thể thoát thai từ ước ao của một tác giả muốn đào thoát khỏi hiện tại, đồng thời
thỏa mãn ước ao tương tự của độc giả. Nhưng tiểu thuyết lịch sử còn nhiều tác dụng nữa.
Nó có thể soi sáng những thời kì quá khứ con người đã trải qua, với những mục đích rõ
ràng là gạn lọc những tình trạng tiến thoái lưỡng nan của hiện tại” [19, 62]. Trương Đăng
Dung trong bài Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm mỹ học của Lucacs trình bày quan
niệm của G.Lucacs về thể loại: “Tiểu thuyết lịch sử phản ánh và mô tả sự phát triển hiện
thực của lịch sử một cách nghệ thuật, vì thế nó phải lấy kích thước nội dung và hình thức
từ chính cái hiện thực đó” [139, 455]; nhiệm vụ của nhà văn viết TTLS là “phải chứng
minh sự tồn tại của hoàn cảnh và các nhân vật lịch sử bằng công cụ nghệ thuật” và
“nhiệm vụ của nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử là phải tạo dựng được một cách phong phú
các tác động tương hỗ, cụ thể khớp với hoàn cảnh lịch sử mô tả” [139, 451].
Ở Việt Nam, thuật ngữ tiểu thuyết lịch sử cũng được tường giải khá rõ. Theo Từ
điển Thuật ngữ văn học thì TTLS là “Các tác phẩm viết về đề tài lịch sử có chứa đựng các
nhân vật và các chi tiết hư cấu, tuy nhiên nhân vật chính và sự kiện chính thì được sáng
tạo trên các sử liệu xác thực trong lịch sử,… Tác phẩm văn học lịch sử thường mượn
chuyện xưa để nói chuyện đời nay, hấp thu những bài học của quá khứ, bày tỏ sự đồng
cảm với những con người và thời đại đã qua…” [51, 109]. Ngoài ra, rất nhiều tác giả
trong những bài viết của mình đã đưa ra khái niệm cũng như nhiệm vụ của thể loại. Theo
Hải Thanh thì “Tiểu thuyết lịch sử là sự sáng tạo, hư cấu trên cái nền đã ổn định của sự
kiện lịch sử và nhân vật lịch sử. Nhà tiểu thuyết lịch sử có thể tha hồ bay lượn trong không
gian tưởng tượng sáng tạo nhưng phải nhằm mục đích làm sáng tỏ hơn lịch sử, đem đến
những cảm hứng, làm giàu thêm vốn thẩm mĩ mới cho bạn đọc về lịch sử” [116]. Trong bài
Mã lịch sử và mã văn hóa trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986, Nguyễn Văn Hùng 6
đã nêu lên cách hiểu về thể loại “Tiểu thuyết lịch sử là loại hình tiểu thuyết lấy đề tài lịch
sử làm nội dung chính. Viết về quá khứ đã qua, công việc của nhà viết tiểu thuyết lịch sử
là làm sống lại lịch sử bằng việc phục hiện lại các sự kiện, biến cố lịch sử, khám phá
những bí ẩn, khuất lấp, lí giải lịch sử từ số phận cá nhân và tìm ra sợi dây liên hệ giữa quá
khứ với đời sống hiện tại” [62]. Bùi Văn Lợi trong luận án Tiểu thuyết Việt Nam từ những
năm đầu thế kỷ XX đến 1945 – diện mạo và đặc điểm đưa ra khái niệm: "Tiểu thuyết lịch
sử là những tác phẩm mang trọn đặc trưng tiểu thuyết nhưng lại lấy nội dung lịch sử làm
đề tài, làm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật" [83, 23]. Tác giả Nguyễn Thị Tuyết Minh với
đề tài Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay là công trình mang tính khái quát,
tổng hợp và tiếp nối những thành tựu của tác giả Bùi Văn Lợi nhằm khu biệt về các loại
hình nhân vật lịch sử, các khuynh hướng tái tạo lịch sử cùng các phương thức tự sự của
TTLS sau 1945 đến những năm đầu thế kỉ XXI. Trong đó, tác giả đưa ra định nghĩa: “lịch
sử là những gì đã qua, đã thuộc về quá khứ, đã khuất lấp bởi một khoảng thời gian dài mà
về văn hóa, đời sống đã khác với con người hiện đại.” [88, 27]. Nhìn chung, trên cơ sở so
sánh với các tiểu thuyết giao thoa, cả hai tác giả đã khu biệt kiểu viết về lịch sử mới của
tiểu thuyết và những đặc điểm của nó, tuy vậy vấn đề khái niệm TTLS đưa ra vẫn chưa cụ
thể và chưa đáp ứng được yêu cầu của thể loại. Đỗ Hải Ninh quan niệm rằng: “Tiểu
thuyết lịch sử là sự phản ánh chân thực các sự kiện, nhân vật lịch sử trong quá khứ đã
được tiếp nối bằng đối thoại với lịch sử, siêu hư cấu lịch sử, giả lịch sử” [103]. Đặc biệt,
nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng TTLS không gì khác hơn chính là “sáng tạo nhân
vật và đời sống của một thời kì lịch sử cụ thể không lặp lại”. Nhiệm vụ của TTLS “không
phải là kể lại, tái hiện sự thật lịch sử… mà là sáng tạo ra diễn ngôn mới về lịch sử, nêu ra
cách nói mới, góc nhìn mới, phán xét mới, gợi mở khả năng mới” [112, 455].
Ngoài ra, rất nhiều công trình nghiên cứu về bản chất, đặc trưng cơ bản của TTLS
khi phân biệt sự khác nhau giữa nhà viết sử học với nhà viết TTLS, sự đồng cảm của nhà
văn với các nhân vật lịch sử và thời đại lịch sử, các kiểu TTLS trong kinh nghiệm sáng tác
của các nhà văn, đổi mới quan niệm xem TTLS như là diễn ngôn về lịch sử... Trong tuyển
tập Phan Cự Đệ, tập 1, nhà nghiên cứu đã dành một phần quan trọng nghiên cứu về thể
loại này. Trong đó, ông khái quát tiến trình phát triển của TTLS hiện đại, đưa ra quan
niệm đồng thời chỉ ra những đặc trưng cơ bản của TTLS hiện đại trên cơ sở so sánh, dẫn
giải quan niệm về thể loại của các nhà nghiên cứu thế giới và Việt Nam. Nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Điệp trong buổi tọa đàm Lịch sử và văn hóa qua tự sự nghệ thuật của
Nguyễn Xuân Khánh cho rằng: “Khác với truyền thống coi lịch sử là đại lịch sử (đã xong 7
xuôi), lý thuyết hiện đại, hậu hiện đại khẳng định lịch sử là quá trình chưa hoàn tất mà
đang được cấu tạo lịch sử theo quan điểm cá nhân. Tại đấy, lịch sử được hình dung như
những mảnh vỡ… Có người khẳng định, nhà văn có quyền tưởng tượng đến vô hạn và tác
phẩm của họ thực chất là cách cấu tạo lịch sử theo quan điểm cá nhân. Tại đó, có một thứ
lịch sử khác (ngoại vi) so với lịch sử được thừa nhận (trung tâm), và lịch sử, khi đi vào
lãnh địa tiểu thuyết, phải được tổ chức trên cơ sở hư cấu và nguyên tắc trò chơi vốn là
một đặc trưng của nghệ thuật” [40, 5 – 8].
Mối quan hệ giữa sự khách quan, chân xác của lịch sử và vai trò của hư cấu nghệ
thuật trong TTLS là một trong những vấn đề quan trọng được các nhà nghiên cứu cũng như
nhiều nhà văn như Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Khánh, Nam Dao, Võ Thị Hảo,
Nguyễn Quang Thân, Hoàng Quốc Hải, Thái Bá Lợi, Bùi Anh Tấn, Nguyễn Thế Quang,
Phạm Ngọc Cảnh Nam… đặc biệt quan tâm. Trong bài phỏng vấn của nhà văn Trung
Trung Đỉnh Về nghệ thuật viết tiểu thuyết (Báo Văn nghệ, (38), 2001) tác giả Nguyễn
Xuân Khánh quan niệm rằng: “tiểu thuyết lịch sử tạo ra hiện thực làm sao để gây cho
người đọc một ảo tưởng là nó có thật. Tiểu thuyết lịch sử phải dựng nên bối cảnh không
khí của thời đại… Tiểu thuyết phải có đời sống, bi hài trữ tình” [41, 3] và “Lịch sử chỉ là
cái cớ để tôi bám vào. Điều quan trọng là người viết tiểu thuyết phải biết vận dụng tổng
thể đời sống của mình vào cuốn tiểu thuyết ấy. Người viết không hẳn đã dựng lại được
lịch sử ngày xưa, điều cốt yếu là thuyết phục được người đọc”. Trong bài Vài suy nghĩ về
tiểu thuyết lịch sử, Nguyễn Xuân Khánh cũng cho rằng khi đánh giá lịch sử đòi hỏi nhà
văn phải xem “Lịch sử diễn ra với các sự kiện và nhân vật nhất định. Nó diễn ra chỉ một
lần và không lặp lại. Ta cứ tưởng như nó hoàn toàn cố định, song không phải. Dưới con
mắt của nhiều người khác nhau và những cái nhìn ở những thời đại khác nhau, sẽ có
nhiều ý kiến khác nhau” [70]. Vậy nên, ông cho rằng TTLS nào cũng đều có ánh xạ của
đời sống hiện tại. Tiểu thuyết do một người hiện tại viết, cho những người hiện tại đọc.
Vậy những vấn đề cuốn sách đặt ra không chỉ cần đúng với lịch sử mà còn phải là những
vấn đề được người hiện tại quan tâm.
Trần Vũ với bài Lịch sử trong tiểu thuyết – một tuỳ tiện ý thức cũng đã đặt ra vấn
đề về mối quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Trong cuộc đối thoại bằng
email với nhà văn Nguyễn Mộng Giác về TTLS, nhà văn Nam Dao đã nói về cách viết
tiểu thuyết Gió lửa của mình: "cái khung lịch sử đó được sử dụng như phương tiện cấu
tạo tiểu thuyết và sau đó thì tiểu thuyết là phương tiện để tác giả thể hiện những tư duy,
biện minh và dự phóng cho chủ đề lịch sử..." [26]. Rõ ràng ở đây nhà văn Nam Dao chú 8
trọng vào hai vấn đề chính: cái khung lịch sử được dùng làm phương tiện cấu tạo, chủ đề
lịch sử được tái hiện trên ba không gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Ngược lại,
Nguyễn Mộng Giác tự bạch: “Khi viết Sông Côn mùa lũ, tôi chú trọng phần tiểu thuyết
hơn phần lịch sử. Nhưng trong phần lịch sử, tôi không dám mạnh tay gạt phăng những gì
còn ghi lại trong tài liệu lịch sử” [26]. Trong khi đó, nhà văn Nguyễn Quang Thân (Đọc
tiểu thuyết lịch sử để lấy lại niềm tin) tự hào rằng chúng ta đọc TTLS không phải để biết
lịch sử mà là để lấy lại niềm tin vào những gì đang chới với, đang “thấp thoáng” như giấc
mơ trong não trạng của những thế hệ chưa từng biết, từng qua chiến tranh nhưng lại đang
cảm thấy sắp sửa phải đi tiếp con đường gian nan không kém cha ông để thực hiện “giấc
mơ hòa bình”. Người đọc và tác giả gặp nhau đã nuôi dưỡng lâu bền cảm xúc và sự
trường tồn của TTLS và chiến tranh.
Trong bài phỏng vấn “Tôi không định mê hoặc…” của Minh Đức trên báo Người
Đại biểu Nhân dân (2005), Võ Thị Hảo đã trả lời cho câu hỏi “Thông điệp của Giàn thiêu
là gì?” rằng điều mà chị muốn gửi gắm qua tiểu thuyết này chính là khát vọng tự do và
tình yêu. Chị cũng khẳng định: sức sống của Giàn thiêu sẽ quyết định sự mê hoặc hay
không mê hoặc người đọc. Trong bài phỏng vấn của báo Sài Gòn Giải phóng, ngày
25/08/2013, Hoàng Quốc Hải cũng cho rằng: “lịch sử đối với nhà văn chỉ là cái cớ” do đó,
“tiểu thuyết lịch sử phải lấy hư cấu làm phương tiện nghệ thuật”. Vấn đề là phải hư cấu
như thế nào đạt đến chân thực lịch sử và chân thực cuộc sống. Chân thực đến mức người
đọc phải thừa nhận đây mới là lịch sử. Cũng không có nghĩa là sự bịa tạc, mà là sự tìm tòi
đi đến chân thực”. Do đó, nhiệm vụ của nhà văn viết về lịch sử là giải mã lịch sử chứ
không lặp lại các thông tin lịch sử. Các thông tin lịch sử và ngay cả các nhân vật lịch sử
cũng chỉ là chất liệu, là phương tiện để nhà văn xây dựng tác phẩm…” [49]. Nhà văn
Hoàng Minh Tường trong bài viết Tiểu thuyết lịch sử và thông điệp của nhà văn quan
niệm rằng: nhà văn không thay thế được sử gia nhưng có thể bù lấp những khoảng trống
của lịch sử. Nhà văn bằng thiên tư của mình chiếu rọi vào lịch sử cái nhìn nhân văn làm
cho lịch sử được tái tạo lại với một tầm vóc vũ trụ như nó vốn có. Trong một ý kiến khác
cho rằng nhà văn viết về lịch sử có quyền hư cấu, tưởng tượng, thậm chí sáng tạo thêm
nhân vật, sự kiện để làm sáng tỏ lịch sử, soi rọi lịch sử nhưng không thể bóp méo hay bịa
tạc lịch sử một cách phi logic, theo ngẫu hứng riêng của mình. Nhìn chung, mặc dù có
nhiều quan niệm khác nhau, tuy nhiên, quan niệm về sự thật lịch sử và hư cấu của các tác
giả vẫn có điểm tương đồng: họ đều tôn trọng sự thật lịch sử và phát huy vai trò của hư
cấu nghệ thuật. Hư cấu nghệ thuật đã tạo ra hướng tiếp cận mới, phù hợp với tư duy của 9
con người hiện đại, gợi cho người đọc cái nhìn mới thực sự khác so với những nhà viết
tiểu thuyết trước đây.
Xét về mặt đặc trưng, TTLS là một “loại” thuộc thể loại tiểu thuyết nên tất yếu nó
cũng mang những tố chất mĩ học của tiểu thuyết. Song bên cạnh đó, xét về nội hàm khái
niệm thì TTLS còn mang những đặc trưng riêng biệt so với các loại hình tiểu thuyết khác:
- TTLS lấy đối tượng lịch sử làm nội dung và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.
Nghĩa là, TTLS lấy đề tài và cảm hứng từ lịch sử của một dân tộc hay một quốc gia nào
đó. Có thể là các sự kiện, các nhân vật hoặc các giai đoạn trong lịch sử nhưng TTLS đích
thực phải là tác phẩm kể về câu chuyện có thật của một dân tộc, một cộng đồng người đã
từng tồn tại trong lịch sử và được cộng đồng đó thừa nhận. Bối cảnh, con người, không
gian và thời gian trong TTLS phải thuộc về thế giới của quá khứ được chính sử ghi chép
lại và được bảo lưu trong kho tàng lịch sử dân tộc.
- Nhân vật trong TTLS vừa là nhân vật lịch sử vừa là nhân vật văn học. TTLS là
tiểu thuyết mà ở đó nhân vật phải là nhân vật có thật trong lịch sử và đảm nhận vai trò
nhân vật trung tâm, nhân vật chính của câu chuyện, đồng thời được các nhà văn làm sống
dậy từ quá khứ nên nhân vật trong tác phẩm có tính cách, có số phận, có tâm hồn. Nói
như G.Lucacs thì các nhân vật của TTLS phải sinh động hơn các nhân vật lịch sử, vì các
nhân vật của TTLS được trao cho sự sống còn các cá nhân lịch sử thì đã sống. Tiểu thuyết
còn phải phục dựng lại thời đại mà nhân vật lịch sử sinh sống, do đó, bên cạnh những
nhân vật lịch sử, nhà văn buộc phải hư cấu thêm nhiều những nhân vật khác. Theo quan
niệm truyền thống, nhân vật trong TTLS thường là các ông hoàng bà chúa, các bậc anh
hùng, những người thuộc hàng trí tướng, huân tướng lỗi lạc. Họ đóng vai trò quan trọng
trong việc thiết lập một đế chế, một triều đại hay là lãnh tụ của phong trào nông dân khởi
nghĩa, công cuộc chống giặc ngoại xâm. Ngoài ra, hệ thống nhân vật hư cấu được nhà văn
sáng tạo chỉ làm “nền” cho nhân vật có thật trong lịch sử (giữ vai trò chính yếu, đảm nhận
nhiệm vụ chủ đạo trong tác phẩm). Tuy nhiên, theo quan niệm hiện đại, không phải ông
hoàng bà chúa hay các vị danh tướng lỗi lạc mới là đối tượng của TTLS, mà nhân vật
trong TTLS có thể là những con người bình thường, những hạ quan, những binh lính,
người phụ nữ, người nông dân, người hầu,… thậm chí những nhân vật hư cấu đều có thể
trở thành nhân vật chính trong tác phẩm: An (Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác),
Cả Hinh (Thế kỉ bị mất của Phạm Ngọc Cảnh Nam),…
- Hư cấu – phương thức tồn tại của TTLS. Trong quá trình sáng tác, các nhà TTLS
vừa phải tôn trọng các sự kiện lịch sử, vừa phải phát huy cao độ vai trò của hư cấu, sáng 10
tạo nghệ thuật. Bản chất sáng tạo trong lao động nghệ thuật đòi hỏi người viết tiểu thuyết
không được sao chép lịch sử một cách giản đơn, xơ cứng, một chiều mà cần dựng lại bức
tranh hiện thực quá khứ một cách sinh động, đủ sức chinh phục tâm hồn, trí tuệ người
đọc. Lê Thành Nghị khẳng định: “Hư cấu trong TTLS không phải là sự sao chép các sự
kiện lịch sử mà là sự tái tạo, sự nhào nặn, sự chưng cất đặc biệt từ sự kiện lịch sử ấy theo
tiêu chuẩn của cái đẹp. Nghệ sĩ sáng tạo hình tượng nghệ thuật, hiện thực lịch sử dưới ánh
sáng của lý tưởng thẩm mĩ, công chúng lĩnh hội những thành quả nghệ thuật ấy theo kinh
nghiệm cá nhân của mỗi người tiếp nhận”[93]. Hư cấu trong TTLS là để bổ khuyết những
gì mà lịch sử không ghi chép, che lấp những “khoảng trống”, mở ra những “vùng mờ” của
lịch sử và đem lại sự sống cho thế giới đã thuộc về quá khứ: “hư cấu không phải là bỏ qua
sự thật lịch sử, mà là tưởng tượng lại sự kiện, nhân vật lịch sử theo những khả năng mà tài
liệu mách bảo, hoặc là đặt một nhân vật hư cấu vào trong một bối cảnh lịch sử để khám
phá tư tưởng, tình cảm hành động của một thời kì cụ thể”[112, 456]. Hư cấu trong TTLS
được thể hiện ra ở nhiều cấp độ: chi tiết, nhân vật, sự kiện, không gian, thời gian,… Trên
cấp độ hư cấu nhân vật, nhà văn đã phải hư cấu rất nhiều từ lời ăn tiếng nói đến hành
động, từ nét sinh hoạt đời thường đến đời sống tâm lý, chiều sâu tâm hồn của họ sao cho
người đọc khi thưởng thức tác phẩm như đang được nhìn thấy họ đi đứng, nói năng và
thậm chí có thể đối thoại cùng họ. Với nhân vật không có thực trong lịch sử thì nhà văn
phải hư cấu hoàn toàn để họ thành những con người thật, cũng có cá tính, tâm hồn, diện
mạo riêng. Quan trọng hơn, những nhân vật có thật hay không có thật trong lịch sử ấy
phải được kết hợp với nhau một cách hài hòa tạo nên một thế giới nhân vật trong tác
phẩm thật thống nhất, để từ đó làm sáng lên tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Nhân vật
Nguyễn Mại, Bảo Kim trong Đêm hội Long Trì, Trần Văn, Trinh, Quốc Vinh và rất nhiều
nhân vật đại diện cho tầng lớp nhân dân thủ đô trong Sống mãi với thủ đô của Nguyễn
Huy Tưởng đều là nhân vật hư cấu nghệ thuật của nhà văn. Trong Hồ Quý Ly, không kể
những nhân vật không có tên trong lịch sử như Sử Văn Hoa, Phạm Sinh, Thanh Mai, ngay
cả Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương, Trần Nghệ Tôn,… cũng là những
nhân vật được tác giả hư cấu, sáng tạo, đặc biệt xây dựng nhân vật Quỳnh Hoa nhằm mô
tả những trắc ẩn của Hồ Nguyên Trừng trước sự thăng trầm của cuộc đời. Minh sư của
Thái Bá Lợi đã xây dựng thành công hình tượng những nhân vật hư cấu như Đỗ Chiêu,
Nguyễn Thiệu, Chế Mô, Phạm Dữ,…chung quanh Nguyễn Hoàng để nêu bật sức hút
mãnh liệt của ông đối với quần chúng nhân dân, một trong trong những phẩm chất đưa
ông đến thành công trong sự nghiệp. Nhìn chung, hư cấu nghệ thuật không hề vi phạm 11
đến chân lý lịch sử, ngược lại, thông qua hư cấu nghệ thuật, lịch sử được nhìn nhận và tôn
vinh, người đọc càng nhận thức sâu sắc hơn bản thân lịch sử, làm cho sự sáng tạo của
người nghệ sĩ trở nên bay bổng hơn, tự do hơn trong lao động nghệ thuật, TTLS vì vậy
càng mang nhiều hình tượng thẩm mĩ nhằm đối thoại với cuộc sống hiện tại hơn.
- TTLS dùng quá khứ làm phương tiện để đối thoại với hiện tại. TTLS không coi
trọng việc miêu tả quá khứ như một mục đích tự tại mà chủ trương nối liền quá khứ với
hiện tại, từ lịch sử đặt ra những vấn đề cho hiện tại và tương lai. Trần Đình Sử khẳng
định: “TTLS nào cũng mang trong mình hai lần lịch sử: lịch sử thời đã qua và lịch sử thời
người viết đang sống”[112, 457]. Nhà văn kể một câu chuyện về quá khứ nhưng các động
từ vẫn được chia ở thì hiện tại, họ muốn rút ra từ quá khứ những bài học cho hôm nay.
Thông qua thế giới nghệ thuật, người viết TTLS muốn gửi gắm cách nhìn, cách cảm, cách
nghĩ của mình về con người và cuộc sống hiện đại trên “mối quan hệ sinh động với hiện
tại thể hiện ngay chính trong sự vận động được mô tả của lịch sử, và tự nó sẽ nói
lên”[139, 192].
Tóm lại, TTLS hiện đại là những tác phẩm mang đậm những đặc trưng của thể loại
tiểu thuyết (yếu tố hư cấu, yếu tố phản ánh toàn vẹn hiện thực, yếu tố con người cá nhân,
yếu tố thẩm mĩ…) nhưng lấy lịch sử làm đề tài, làm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật nhằm
giải mã lịch sử, sáng tạo ra diễn ngôn mới về lịch sử, đem lại cho người đọc cái nhìn mới,
những cảm xúc thẩm mĩ mới về lịch sử, từ đó, giúp độc giả biết thêm nhiều mặt khác
nhau của đời sống con người, của những mặt sinh hoạt mang tính chất đời tư của con
người trong quá khứ nhằm soi sáng những vấn đề của hiện tại. Những đặc điểm này của
thể loại TTLS đòi hỏi nhà văn phải vừa là nghệ sĩ vừa là nghiên cứu, có vốn sống và hiểu
biết phong phú, có quan điểm lịch sử đúng đắn và tiến bộ.
1.2. Tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXITrong những năm gần đây, TTLS thực sự trở thành một vấn đề thu hút sự quan
tâm của giới nghiên cứu và phê bình trong nước. Với rất nhiều bài viết và công trình lớn
nhỏ cùng sự đầu tư nghiên cứu nghiêm túc, các nhà nghiên cứu mong tìm ra những lời
giải xác đáng cho thể loại tiểu thuyết còn nhiều tranh cãi. Nội dung các bài viết thường
tranh luận xoay quanh một số vấn đề như: Quan niệm về TTLS? Mối quan hệ giữa sự
thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật? Những thành tựu của TTLS đương đại trên các phương
diện nội dung và hình thức thể hiện.
TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI có nhiều nét đổi mới so với trước đây từ tư duy
nghệ thuật, xu hướng thể loại, khuynh hướng tư tưởng, loại hình nhân vật đến phương 12
thức trần thuật, điều đó đã thu hút nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu và độc giả. Tác
giả Thu An trong bài viết ngắn Tiểu thuyết lịch sử: thành tựu và triển vọng đã đánh giá
một cách khái quát khi nhận định TTLS trong một thập kỉ vừa qua có nhiều đóng góp về
tư tưởng và nghệ thuật. Những tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn
Quang Thân… đã giúp cho độc giả có “những khoảnh khắc đào thoát khỏi hiện tại, tìm về
quá vãng để kiếm tìm một sự đồng vọng hoặc tri âm nào đó… hoặc để xoa dịu chính nỗi
đau của mình trong thực tại… hoặc để giải quyết những vấn đề thiết thân của cá nhân,
cộng đồng đang trong thời khắc tiến thoái lưỡng nan”[1]. Trong bài viết Khuynh hướng
tiểu thuyết hóa lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975 tác giả Nguyễn Thị
Tuyết Minh khảo sát TTLS Việt Nam sau 1975 (đặc biệt là những tác phẩm ra đời sau
2000) theo khuynh hướng tiểu thuyết hóa lịch sử trên các cấp độ thể hiện: phục diện kiểu
tiểu thuyết khiến lịch sử trở nên sinh động; Hình dung lịch sử như một giả định; Nối liền
quá khứ với hiện tại, suy tư về những vấn đề của hiện tại. Từ đó, tác giả nhận xét:
“Khuynh hướng tiểu thuyết hóa lịch sử gắn với quan niệm sáng tác và phong cách của
mỗi nhà văn. Nhà văn có thể đề xuất một cách nhìn mới về một sự kiện lịch sử đã qua,
cũng có thể mượn lịch sử để trình bày những vấn đề của hiện tại” [89, 64]. Trong bài Mấy
xu hướng chủ yếu trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại Nguyễn Văn Dân đã chỉ
ra ba xu hướng trong TTLS đương đại như: TTLS chương hồi khách quan (Ngô Văn Phú
và Lê Đình Danh), TTLS giáo huấn (Hoàng Quốc Hải) và TTLS luận giải (Nguyễn Xuân
Khánh và Nguyễn Quang Thân). Tuy nhiên, trong dòng chảy của văn học, thể loại này
còn dung chứa nhiều xu hướng khác mà bài viết chưa có dịp đề cập đến. Đây cũng là
điểm cần trao đổi mà chúng tôi sẽ trình bày trong luận án này. Thái Phan Vàng Anh trong
bài viết Các khuynh hướng tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI đã gọi TTLS giai đoạn
này là tiểu thuyết tân lịch sử – sự phản tư lịch sử và tác giả đã đưa ra những luận điểm
nhằm chứng minh sự cách tân về mặt thể loại so với cách viết, cách gọi truyền thống:
“Tiểu thuyết tân lịch sử tiếp cận quá khứ bằng quan điểm, thái độ chủ quan của người
sáng tác. Nhìn lại lịch sử, luận giải lịch sử từ những góc nhìn khác được chú ý hơn so với
việc tìm kiếm sự thật, khôi phục lại chân tướng lịch sử” bởi vì tiểu thuyết giai đoạn này
“không nhằm kể lại lịch sử và giáo huấn, không tuân thủ mô hình của tiểu thuyết lịch sử
truyền thống theo kiểu chương hồi khách quan” mà “hướng đến luận giải quá khứ trên
tinh thần đối thoại, giải thiêng cùng với những hoài nghi về những “đại tự sự” của lịch sử
(các tư tưởng, học thuyết, tôn giáo, tín ngưỡng, các huyền thoại, cổ mẫu…)” [6]. Vấn đề
hư cấu và giải thiêng trong tiểu thuyết lịch sử của Bình Nguyên đã đưa ra một số kiến giải 13
mới về mối quan hệ giữa hư cấu nghệ thuật và tính chân thực lịch sử, đặc biệt, tác giả
cũng chỉ ra tác dụng của việc các nhà văn đương đại sử dụng bút pháp giải thiêng lịch sử:
“đã mang lại nhiều cách tiếp cận, cách kiến giải lịch sử… giúp đẩy lùi khuynh hướng ca
ngợi một chiều, thần thánh hóa quá mức, khiến cho các nhân vật lịch sử trở nên xơ cứng,
ít mang ý nghĩa giáo dục hay người đọc có thể hoài nghi về sự tồn tại của chính các nhân
vật đó.” [96]
Nhiều công trình, bài viết đã cho chúng ta thấy sự vận động của loại hình nhân vật
cùng những phương thức xây dựng nhân vật trong TTLS giai đoạn mười năm đầu thế kỉ
XXI so với trước đây. Nguyễn Thị Kim Tiến với bài viết Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam với
quan niệm nghệ thuật về con người đã cho rằng để giải quyết mối quan hệ sự thật và hư
cấu phần đông các nhà văn đã lựa chọn giải pháp lấy tâm điểm là con người để tiếp cận,
soi chiếu qua quan niệm nghệ thuật về con người, biến con người làm mục đích chuyển
tải giá trị tư tưởng dưới “lớp bọc” của đường viền lịch sử, giúp họ có cơ hội chất vấn,
nhận thức cái tưởng như đã là chân lý của lịch sử nhưng vẫn đảm bảo quyền toàn bích của
việc sáng tạo hư cấu: con người đối thoại với lịch sử, kết nối với cuộc sống hiện tại. Lê
Văn Dương trong bài viết Vấn đề thể loại và nghệ thuật xây dựng nhân vật qua một số
tiểu thuyết lịch sử sau 1985 về phong trào Tây Sơn đã nêu lên một số thành tựu mà TTLS
Việt Nam đạt được sau 1985, đặc biệt là mười năm đầu thế kỉ XXI như: cách tân cả về nội
dung và hình thức thể hiện, thành tựu về số lượng và chất lượng tác phẩm,… Bên cạnh
đó, tác giả đi sâu phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật qua một số TTLS giai đoạn sau
1985 viết về phong trào Tây Sơn như: nghệ thuật soi chiếu nhân vật từ nhiều bình diện
khác nhau, khả năng thể hiện “phép biện chứng tâm hồn”, thể hiện tâm lý, tính cách nhân
vật, khắc họa ngoại hình nhân vật dưới cái nhìn cận cảnh, sự đa dạng điểm nhìn trần
thuật. Nguyễn Văn Hùng với bài viết Nhân vật lịch sử và những biên độ sáng tạo sau đổi
mới đã có một cái nhìn khái quát về sự sáng tạo nhân vật của các nhà văn sau 1986 đặc
biệt là những năm đầu thế kỉ XXI: Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Quang
Thân, Nam Dao, Trần Thu Hằng, Phạm Ngọc Cảnh Nam, Thái Bá Lợi,… Trong bài viết,
tác giả chỉ ra một số đổi mới trong phương thức xây dựng nhân vật như dựa trên những
hình tượng nhân vật lịch sử đã “cũ” nhưng được các tác giả “làm mới, làm khác” bằng
việc tiếp cận và xử lý theo một cách riêng, mang đến cho tác phẩm những diện mạo hoàn
toàn khác biệt (Hội thề - Nguyễn Quang Thân). Bên cạnh đó, nhân vật trong các tác phẩm
giai đoạn này được mở rộng về biên độ hư cấu nhằm “thể hiện tinh thần nhận thức lại lịch
sử”, trên nguyên tắc “thiên về luận giải, phân tích, đối thoại hơn là mô tả, minh họa lịch 14
sử…” [66]. Bài viết chỉ ra hiệu quả của sự mở rộng biên độ hư cấu đã “cho phép các nhà
văn lựa chọn tái hiện cùng một giai đoạn, một thời điểm lịch sử lấy cảm hứng từ một
nguyên mẫu chung, lại có thể có những cách tiếp cận, cái nhìn, sự luận giải và lối viết
khác biệt”. Nhìn chung, bài viết khá nghiêm túc trong việc tiếp cận tác phẩm và có cách
đánh giá mới mẻ so với nhiều bài viết trước đây.
Ngoài ra, rất nhiều công trình cùng những cuộc tranh luận cho thấy nhiều hướng
nghiên cứu và tiếp cận TTLS như phương thức lựa chọn hiện thực lịch sử, hư cấu nghệ
thuật, đổi mới diễn ngôn lịch sử, nghệ thuật kể chuyện, cách thức tổ chức sắp xếp không
gian, thời gian, kết cấu,... Cụ thể, Phạm Xuân Thạch trong tham luận Quá trình cá nhân
hóa hư cấu (Tự sự đương đại Việt Nam về đề tài lịch sử - truyền thống và hiện đại) tại
Hội thảo quốc tế về Việt Nam học lần thứ II (14-16/7/2004, Thành phố Hồ Chí Minh)
đánh giá sự vận động của tự sự lịch sử đương đại từ cấu trúc hình thức thể loại đến nội
dung tư tưởng và tư duy nghệ thuật: sự tan vỡ và quá trình phân rã cốt truyện trong tự sự,
quá trình chủ quan hóa mô thức tự sự, đổi mới phương thức xây dựng hình tượng nhân
vật (từ thân phận cá nhân đến cái nhìn cá nhân), đổi mới mục đích sáng tạo nghệ thuật (từ
lịch sử như một mục đích đến lịch sử như một chất liệu). Tác giả khẳng định người viết
đã nỗ lực vượt thoát ra khỏi những “huyền thoại” cộng đồng về quá khứ để hoặc trở thành
một sự bổ sung cho chính sử, hoặc vượt khỏi sự ràng buộc của lịch sử để sáng tạo một
“huyền thoại” cá nhân về hiện thực mà lịch sử được sử dụng như một chất liệu. Ngô Thị
Quỳnh Nga trong bài viết Sự đan cài các lớp ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử sau 1975
đã nhận định đề tài lịch sử giai đoạn sau 1975 và đặc biệt sau 1986 đến nay đã có những
đổi mới mang tính đột phá tạo nên sức hút mạnh mẽ bởi sự biến ảo kì diệu của ngôn ngữ:
lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính giúp tác giả phục dựng lại được không khí của thời
đại làm sống dậy “những xác chết biên niên sử”; lớp ngôn ngữ đời sống giản dị, nhiều
màu sắc nhằm giúp cho tác phẩm rút ngắn khoảng cách sử thi, giúp người đọc khám phá
lịch sử ở bề sâu, bề xa của nó, sinh động và tươi nguyên; đặc biệt, lớp ngôn ngữ mang
màu sắc triết luận nhằm giúp nhà văn chuyển tải những quan điểm của mình về quá khứ
và hiện tại. Đỗ Hải Ninh với bài viết Vấn đề ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
đương đại cho rằng ngôn ngữ trong TTLS đương đại đã có sự dung hợp và dung chứa
nhiều màu sắc khác nhau. Tác giả khẳng định sự thành công nổi bật của TTLS đương đại
là đã kết hợp được những yếu tố văn hóa, lịch sử, tôn giáo, trong một hệ ngôn ngữ tiểu
thuyết thống nhất và đa dạng. Đồng thời, các nhà văn cũng đã tận dụng triệt để ngôn ngữ
cô đọng súc tích, cung cấp nhiều thông tin của phương pháp viết sử truyền thống. Bài viết 15
Hệ biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại của Nguyễn Đức Toàn
khái quát nên một số biểu tượng nghệ thuật như một phương thức chuyển nghĩa trong tiểu
thuyết Việt Nam đương đại, trong đó có TTLS: nước – lửa (Giàn thiêu – Võ Thị Hảo),
bức tượng đá (Hồ Quý Ly – Nguyễn Xuân Khánh), Mẫu, đêm, đất, rừng, trăng, cây đa, rắn
thần (Mẫu Thượng Ngàn – Nguyễn Xuân Khánh)… Tác giả nhấn mạnh những biểu tượng
này tham gia trực tiếp vào kết cấu hình tượng, kết cấu tác phẩm và là hệ quả của quan
niệm “tính trò chơi” của văn chương hiện đại. Nhìn chung, tác giả bài viết chỉ khái quát
một vài biểu tượng trong ba quyển TTLS nhưng sẽ mở ra hướng nghiên cứu mới mẻ, hấp
dẫn về hệ biểu tượng trong TTLS giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI. Đặc biệt, với luận
án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 từ góc nhìn tự sự học, Nguyễn Văn Hùng
nghiên cứu các phương thức tự sự như người kể chuyện, điểm nhìn tự sự, thời gian tự sự,
kết cấu tự sự và diễn ngôn tự sự. Trên cơ sở đó, tác giả có cái nhìn đối sánh với giai đoạn
trước đó để chỉ ra sự đổi mới trong tư duy và phương thức tự sự lịch sử trên nguyên tắc
đối thoại, luận giải của TTLS sau 1986. Đây là một trong những công trình quan trọng
góp phần khẳng định vị trí, vai trò và những đóng góp mới của thể loại trong tiến trình
phát triển của văn học Việt Nam đương đại.
Ngoài ra, còn rất nhiều buổi tọa đàm, công trình nghiên cứu, bài viết về các tác
phẩm và tác giả TTLS riêng lẻ. Theo khảo sát và thống kê tư liệu, chúng tôi nhận thấy
phần lớn các công trình và bài viết thường xoay quanh tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh
dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Dưới đây là một số công trình và bài viết đáng chú ý:
Đầu thế kỉ XXI, tiểu thuyết Hồ Quý Ly được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt
Nam thật sự thu hút sự quan tâm của độc giả và giới phê bình trong cả nước. Báo Văn
nghệ số 44/2000 có bài Hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly, trong đó có nhiều ý kiến, đánh
giá của các nhà nghiên cứu xoay quanh tác phẩm. Hoàng Quốc Hải nhận xét đây là TTLS
viết rất nghiêm túc, bám sát chính sử, văn chương mượt mà, có sức cuốn hút. Châu Diên
đưa ra ba ưu điểm của cuốn tiểu thuyết: không né tránh vấn đề gay cấn, xử lý vấn đề tài
tình, sự ảo tưởng tích cực của tác giả thể hiện trong tác phẩm. Nhà văn Hồ Anh Thái nhận
xét cuốn sách là sự kết hợp thành công hai yếu tố của thể loại là tiểu thuyết và lịch sử…
Hoàng Cát trong bài Tiểu thuyết Hồ Quý Ly, thưởng thức và cảm nhận đánh giá đây là
một tiểu thuyết bề thế, sâu sắc, hấp dẫn về một giai đoạn phức tạp của dân tộc và nhân vật
Hồ Quý Ly. Trung Trung Đỉnh trong bài Hồ Quý Ly và những giải pháp mới cho tiểu
thuyết lịch sử nước nhà cho rằng tác phẩm mở ra một hướng đi mới cho TTLS Việt Nam
từ tài năng và bản lĩnh của người viết. Lại Nguyên Ân trong bài Hồ Quý Ly (Tạp chí Nhà 16
văn số 6/2000) khẳng định tác phẩm có những nét mới trong việc xử lý chất liệu lịch sử
và xây dựng nhân vật. Trong bài viết Vấn đề xây dựng nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết
Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh Nguyễn Thị Thu Hương nhận diện một số loại hình
nhân vật trong Hồ Quý Ly: hệ thống nhân vật có thật trong lịch sử và hệ thống nhân vật
hư cấu. Nhà văn chứng tỏ bản lĩnh của một “nhà văn có tài khi đứng vững ở ranh giới,
giữa nhiệm vụ của một nhà tiểu thuyết và một nhà tiểu thuyết lịch sử khi xây dựng nhân
vật và sự việc; ở ranh giới giữa sự thực và hư cấu khi thể hiện nhân vật lịch sử. Và nhà
văn chọn cách ứng xử nghệ thuật hợp lý khi hòa hợp cả hai yếu tố ấy trong cùng một sự
việc, một con người để làm nên một thế giới nhân vật sống động, phong phú”. [67]
Mẫu Thượng Ngàn (2006) – một tiểu thuyết viết về văn hóa – phong tục ra đời thật
sự đã mang đến cho thể loại một cách nhìn hoàn toàn khác biệt so với trước đây. Nhà
nghiên cứu Châu Diên cho rằng đây là “cuốn tiểu thuyết mang tầm khái quát văn hóa,
nhân vật không còn là những thân phận riêng lẻ mà là cả một cộng đồng” (Nguyễn Xuân
Khánh và cuộc giành lại bản sắc). Trong khi đó, Phạm Xuân Nguyên trong cuộc trả lời
phỏng vấn của VTC News đã khẳng định “Mẫu Thượng Ngàn là nhân vật quần chúng
nhưng lại mang tính đại diện tiêu biểu cho dân tộc Việt” và “Đạo Mẫu trong tiểu thuyết
(được thể hiện trong tiểu thuyết qua nhân vật bà Tổ Cô bí ẩn, bà Ba Váy đa tình, cô đồng
Mùi, mõ Hoa khốn khổ, trinh nữ Nhụ…) vừa là tín ngưỡng, vừa thể hiện tính phồn thực
và sự trường tồn của dân tộc Việt.” Ngoài ra, Phạm Xuân Nguyên còn đề cập đến vai trò
của nhà văn trong việc phản ánh văn hóa “Nhà văn rất cần phải làm văn hóa, nói về văn
hóa” (Mẫu Thượng Ngàn – Nội lực văn chương của Nguyễn Xuân Khánh, VTC News,
13/7/2006). Nhìn nhận về tác phẩm, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh cũng khẳng định
những gì ông muốn thể hiện trong tác phẩm, đó chính là nét đẹp của nền văn hóa Việt
Nam và “ông tận dụng tất cả kinh nghiệm về làng quê, văn hóa của mình để viết” và
“Mẫu Thượng Ngàn nói về Mẫu, cũng có nghĩa là nói về người đàn bà” (Nhà văn Nguyễn
Xuân Khánh nói về Mẫu Thượng Ngàn – Có những nhân vật từ trong ký ức bước ra). Bàn
về vẻ đẹp của nền văn hóa Việt Nam được thể hiện thông qua nguyên lý tính Mẫu của tác
phẩm, báo Văn hóa Văn nghệ Công An còn lý giải về sự giao thoa văn hóa Đông - Tây
trong tác phẩm “tác giả (Nguyễn Xuân Khánh) muốn chứng minh cuộc giao thoa ấy có
tiếp nhận, có đào thải và trải nghiệm đớn đau” đồng thời khẳng định một trong những
thành công của cuốn tiểu thuyết là “xây dựng tâm lý Việt, cách sống và phong tục Việt
trong xã hội qua từng thời kỳ” (Nguyễn Xuân Khánh tuổi 74 và cuốn tiểu thuyết mới, Văn
hóa văn nghệ Công An, 14/9/2006). Nhà văn Nguyên Ngọc cũng đã có bài viết nói lên 17
những suy nghĩ của mình về Mẫu Thượng Ngàn trên báo Tuổi Trẻ “nếu đi tìm một nhân
vật chính cho cuốn tiểu thuyết này, thì hẳn có thể nói nhân vật chính đó là nền văn hóa
Việt, cái thực tại vừa chứa đựng hiện thực, vừa rất hư ảo, bền chặt xuyên suốt mà cũng lại
biến hóa khôn lường, rất riêng và rất chung, rất bản địa mà cũng rất nhân loại” (Một cuốn
tiểu thuyết thật hay về nền văn hóa Việt, Báo Tuổi trẻ online, ngày 12/7/2006).
Tác giả Nguyễn Thanh Lâm khi đọc Đội gạo lên chùa vô cùng xúc động: “nhà văn
Nguyễn Xuân Khánh đã nhìn rõ tính minh triết của Phật giáo Việt Nam. Tu trong đời
thường “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên” và gieo vào nhân gian những hạt mầm ánh sáng –
những hạt mầm thiền” [tr.94] (Cảm nhận đọc Đội gạo lên chùa của nhà văn Nguyễn Xuân
Khánh, Tạp chí Nhà văn, Số 8.2011). Mai Anh Tuấn với bài Tiểu thuyết như một tham
khảo Phật giáo cho rằng Đội gạo lên chùa hiển thị trước hết như một tham khảo về Phật
giáo và điều đó đã được thể hiện ngay từ tiêu đề, đã tiết lộ một dấu chỉ Phật giáo. Đồng
thời, “chọn Phật giáo làng quê làm đối tượng triển khai, Nguyễn Xuân Khánh, một lần
nữa sau Hồ Quý Ly và đặc biệt là Mẫu Thượng Ngàn, tiếp tục khảo sát các lớp lang và giá
trị văn hóa Việt với một cảm quan dân tộc chủ nghĩa đắm đuối. Cảm quan này sẽ chi phối
cách ông biện luận, trong Đội gạo lên chùa, những phạm trù nổi bật của Phật giáo Việt”
[137, 95].
Trong Một số biểu tượng mang tâm thức Mẫu trong Đội gạo lên chùa của Nguyễn
Xuân Khánh tác giả Hoàng Thị Huế cho rằng: Đội gạo lên chùa là một minh chứng mặc
nhiên cho sự níu kéo, giăng mắc của tâm thức dân tộc ở sự xuất hiện dày đặc không khí
huyền ảo, cổ tích, không gian phi thực, các biểu tượng, môtíp, hình ảnh, các phức cảm,
mặc cảm… Từ đó, tác giả khái quát một số biểu tượng được hình thành từ trong tâm thức
dân tộc được chuyển hóa thành những hình ảnh rất cụ thể như: rừng (là nơi ẩn náu vĩ đại
của con người làng Sọ); phái nữ (biểu tượng cho sự sinh sản và hiện thực hóa những ước
vọng của con người); không gian và thời gian (không – thời tâm thức, không gian phi
thực). Trong khi đó, tác giả Lã Nguyên với bài viết Về những cách tân nghệ thuật trong
Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh cho rằng
nguồn cội sức sống lâu bền trong lịch sử văn học của ba TTLS mà Nguyễn Xuân Khánh
đã dày công trong việc đổi mới nguyên tắc truyện kể theo xu hướng tiểu thuyết hóa, cách
tân trong ngôn ngữ kết cấu và chiều sâu không gian truyện kể nhằm mang lại cho chúng
những nét nghĩa mới mẻ. Nguyễn Xuân Khánh chuyển từ tiểu thuyết vạch trần thực tại
sang tiểu thuyết luận đề lịch sử nhằm biến nhân vật thành một hệ thống điểm nhìn phát
ngôn cho tư tưởng tác giả, cản trở nhà văn trong việc sử dụng khẩu ngữ và lớp ngôn từ 18
đậm chất văn xuôi. Tuy nhiên, tác giả vẫn khẳng định rằng dẫu có nhiều cách tân nghệ
thuật thế nào, Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa vẫn không vượt ra ngoài
khuôn khổ của “lối viết cổ điển”. Nguyễn Văn Hùng đã chỉ ra Một số phương thức lựa
chọn và thể hiện hiện thực lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh như: phương thức
lựa chọn giai đoạn, thời điểm lịch sử, phương thức thể hiện lịch sử và luận giải những vấn
đề lịch sử, văn hóa, cùng sự thể nghiệm phương thức tư duy và tự sự lịch sử độc đáo, mới
lạ. Nguyễn Thị Thu Hương với bài viết Yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân
Khánh trình bày các dạng thức yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh
bắt nguồn từ tín ngưỡng cộng đồng và truyện kể dân gian (Mẫu Thượng Ngàn); Yếu tố
huyền thoại gắn với sự kiện và nhân vật lịch sử (Hồ Quý Ly); Yếu tố huyền thoại bắt
nguồn từ tôn giáo (Đội gạo lên chùa). Tác giả kết luận rằng, chính những dạng thức
huyền thoại đã góp phần tạo nên bản sắc riêng trong phong cách nghệ thuật đầy sức hấp
dẫn của Nguyễn Xuân Khánh. Tác giả Trịnh Thị Mai trong bài viết Trường từ vựng về
Phật giáo trong hai tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân
Khánh chỉ ra các trường từ vựng trong hai tác phẩm: trường từ vựng về tôn giáo (Đạo
Phật, Đạo Thiên Chúa, Đạo Mẫu), trong đó, trường từ vựng về Phật giáo được nói đến
nhiều nhất (681 từ với 2665 lần xuất hiện). Từ kết quả thống kê, tác giả bài viết nhận xét
rằng Đội gạo lên chùa thực sự là cuốn tiểu thuyết viết về Phật giáo Việt Nam và như thế
Nguyễn Xuân Khánh xứng đáng được xem là một “đệ tử của Phật giáo” từ trong tình
cảm, tâm thức của ông.
Đặc biệt, tháng 10/2012 đã diễn ra buổi tọa đàm về tiểu thuyết Nguyễn Xuân
Khánh, do Viện Văn học và Nhà xuất bản Phụ nữ tổ chức. Mở đầu buổi toạ đàm, với bài
viết Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh, một diễn ngôn về lịch sử và văn hóa, tác giả
Nguyễn Đăng Điệp chỉ ra rằng “Nguyễn Xuân Khánh đã trải qua một quá trình lựa chọn
và điều chỉnh. Thứ nhất, lựa chọn vị thế phát ngôn. Thứ hai, Nguyễn Xuân Khánh lựa
chọn ngón chơi hợp lý. Ông không chạy theo kiểu tự sự hiện đại, hậu hiện đại mà lựa
chọn lối viết gần với truyền thống để tiểu thuyết không rơi vào nệ thực và ghi chép.”[40,
15]. Trong một nhận định khác, tác giả bài viết cho rằng tính hấp dẫn của diễn ngôn nghệ
thuật Nguyễn Xuân Khánh chủ yếu nằm ở tính đối thoại”. Đồng thời, tác giả khẳng định
“cảm thức và suy tư về tinh thần dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc trực tiếp quy định diễn
ngôn nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh” [40, 23].
Nhìn chung, các tham luận tập hợp trong Lịch sử và văn hóa, cái nhìn nghệ thuật
Nguyễn Xuân Khánh chủ yếu xoay quanh một số phương diện chính trong tiểu thuyết 19
Nguyễn Xuân Khánh: diễn ngôn lịch sử và tư duy nghệ thuật; những chiến lược tự sự và
các hướng tiếp cận. Trong đó, Lại Nguyên Ân cho rằng sự ra đời của Hồ Quý Ly, Mẫu
Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa, Nguyễn Xuân Khánh được đánh giá là “tiểu thuyết
gia hàng đầu của văn xuôi Việt Nam đầu thế kỉ XXI. Các sáng tác của anh đã trở thành
trung tâm của đời sống văn học” [40, 43]. Bùi Việt Thắng khẳng định: “hợp xướng nhiều
bè” là cách gọi khác của kết cấu đa tuyến có tầm khái quát rộng lớn như một đặc điểm tiểu
thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Thái Phan Vàng Anh chỉ ra những dạng thức đối thoại trong
TTLS của Nguyễn Xuân Khánh: đối thoại về tư tưởng, quan niệm; huyền thoại và giải
huyền thoại – đối thoại với lịch sử – văn hóa; tính đối thoại trong diễn ngôn trần thuật.
Nguyễn Hoài Nam nhận định rằng trọng tâm cảm hứng của Nguyễn Xuân Khánh chính là
văn hóa – phong tục, thứ văn hóa – phong tục được sinh thành và được tỏa ra, lan thấm
vào đời sống từ những hệ tư tưởng tôn giáo lớn: Đạo Mẫu và Đạo Phật. Phan Tuấn Anh
cho rằng Nguyễn Xuân Khánh đã cả gan “phạm thượng” đến hầu hết những “cái vảy
ngược” của các con rồng tư tưởng đầy quyền uy tại Việt Nam: đạo Mẫu, Nho giáo, Phật
giáo, Đạo giáo, Kito giáo, vai trò và vị thế lịch sử của triều Trần, người Hoa, người
Chăm, người Pháp, trong lịch sử Việt Nam. Phạm Xuân Thạch nhận xét tiểu thuyết
Nguyễn Xuân Khánh thể hiện một khuynh hướng bền vững giải thể tính lưỡng phân trong
cấu trúc ngữ nghĩa của tiểu thuyết để đạt đến sự phức tạp hóa của những cấu trúc nội tại.
Đằng sau cấu trúc thi pháp này chính là một hệ cấu trúc tư tưởng với tinh thần dân tộc chủ
nghĩa là yếu tố mang tính ý thức hệ bền vững nhất, nằm ở lõi của các TTLS của Nguyễn
Xuân Khánh. Đoàn Ánh Dương nhận thấy Nguyễn Xuân Khánh đã mở ra con đường của
hư cấu lịch sử cùng với cách thức mà nhà văn gửi gắm cái nhìn cuộc đời của mình vào
trong tác phẩm đã xác lập ông vào vị trí nhà văn hàng đầu của mười năm đầu thiên niên
kỷ mới. Mai Anh Tuấn cũng chỉ ra ảnh hưởng của văn hóa vào trong các tác phẩm của
nhà văn như dấu ấn của Nho, Phật, Đạo giáo cùng văn hóa tín ngưỡng của người Việt
được chuyển hóa vào tác phẩm như “một hồi đáp về/với vô thần”. Dấu ấn văn hóa còn là
những biểu tượng “hồn nước” “hồn đất” hay là tinh thần dân tộc đắm đuối. Tất cả được
hòa hợp như một tư tưởng kiến tạo văn hóa trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Bên
cạnh đó, một số tác giả tham luận mở ra nhiều hướng lý giải và khám phá mới mẻ về tiểu
thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Chẳng hạn, khi tiếp cận Hồ Quý Ly, Phạm Phú Phong lý giải
tác phẩm từ tư duy tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, trong khi đó, Lê Tú Anh tiếp cận
Hồ Quý Ly từ thuyết Nho giáo, Đỗ Ngọc Yên khai thác phương thức xây dựng nhân vật.
Mẫu Thượng Ngàn được lý giải từ nhiều điểm nhìn khác nhau: màu sắc huyền thoại (Lê 20
Thị Bích Thủy), từ tín ngưỡng dân gian (Trần Thị An), lý thuyết Cổ mẫu (Nguyễn Quang
Huy), văn hóa dân tộc (Nguyễn Văn Long – Lê Thị Thủy). Đội gạo lên chùa được các tác
giả nhìn từ góc nhìn văn hóa Phật giáo.
Thành tựu của TTLS mười năm đầu thế kỉ XXI, bên cạnh TTLS của Nguyễn Xuân
Khánh, văn học đương đại còn ghi nhận rất nhiều những tác phẩm có giá trị như: Giàn
thiêu (Võ Thị Hảo), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Tám triều
vua Lý (Hoàng Quốc Hải), Tây Sơn bi hùng truyện, Nẻo về Vạn Kiếp (Lê Đình Danh),
Oan khuất, Bức huyết thư, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Bí mật hậu cung (Bùi Anh
Tấn), Minh sư (Thái Bá Lợi), Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Thế kỉ bị mất (Phạm
Ngọc Cảnh Nam),… Dưới đây là một số bài viết, công trình nghiên cứu về các tác phẩm
tiêu biểu:
Sự ra đời của tiểu thuyết Giàn thiêu đã giúp “Võ Thị Hảo bứt phá khỏi lối đi đã
quen chân” và trở thành một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi đương đại.
Ngay trang đầu của tiểu thuyết Giàn thiêu, người đọc bắt gặp lời giới thiệu: “đã có tới
mấy chục bài báo và rất nhiều trang web nói về Giàn thiêu”. Điều đó, minh chứng rằng,
Giàn thiêu đã thật sự thu hút sự quan tâm của độc giả trong cả nước. Phạm Xuân Nguyên
trong lời giới thiệu Giàn thiêu nhận xét: “văn Võ Thị Hảo không chỉ là những dòng chữ,
không chỉ là những truyện ngắn hay tiểu thuyết mà văn Võ Thị Hảo có nhiều tầng hình
tượng… đó là lối văn được tác giả thổi linh hồn, tạo những câu văn huyền ảo, mê hoặc
thậm chí ma quái”… “Có người nói rằng Võ Thị Hảo đã quá bạo gan khi dám lật ngược
lại nhân vật Ỷ Lan nguyên phi. Ý kiến và sự so sánh rất nhiều, song lại khá thống nhất khi
cầm “Giàn thiêu” trên tay, đa số người đọc phải đọc một mạch. Nhiều người đã thức trắng
một đêm để đọc bằng xong hơn 500 trang của cuốn tiểu thuyết này” [98]. Trong bài
viết Những thông điệp từ lửa và nước, Trần Khánh Thành (Báo Văn nghệ (16), 2004) bày
tỏ sự xúc động khi tiếp cận Giàn thiêu: “…Mở trang đầu đã gặp hai chữ “Giàn thiêu” - ấn
tượng chói và bỏng rát, ngột và xót xa đã xâm chiếm lòng người… Viết với Võ Thị Hảo
là truyền lửa từ trái tim đến bạn đọc…”. Trong Buổi toạ đàm về sáng tác của Võ Thị Hảo
(19/10/2005, Hà Nội), các nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên, Hoàng Ngọc Hiến cùng
ngợi khen: “Giàn thiêu là một tiểu thuyết, trước hết là một tiểu thuyết, nghĩa là Giàn
thiêu trước hết không phải là một “truyện lịch sử”, không phải là minh hoạ lịch sử, mà là
một tiểu thuyết tư duy lại lịch sử bằng phương pháp tiểu thuyết”. Đồng thời nhấn mạnh
rằng “tác giả Võ Thị Hảo đã khá thành công trong cấu trúc của cuốn tiểu thuyết”.
21
Nguyễn Hoài Nam trong bài Giàn thiêu – một nghệ thuật làm tan khối băng lịch sử
(Báo Người đại biểu nhân dân, 2005) đã nhấn mạnh đến những đặc sắc về nghệ thuật của
tác phẩm này: “Tiểu thuyết lịch sử Giàn thiêu (Võ Thị Hảo) là một nghệ thuật làm tan
khối băng lịch sử mà chị đã gặp phải khi dựng lên một giàn thiêu với rất nhiều lửa của
mình…Võ Thị Hảo đã làm tan khối băng nhận thức về Ỷ Lan – với tư cách là một nhân
vật lịch sử, một khối băng vốn đã cố kết vững chắc”. Như vậy, tác giả bài viết đã đánh giá
Giàn thiêu trên cả hai phương diện: Giàn thiêu – một TTLS và Giàn thiêu – cuốn sách
làm tan khối băng lịch sử, kéo quá khứ về hiện tại, đặt quá khứ – hiện tại trong một dòng
chảy liên tục của thời gian. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân có bài viết Tiểu thuyết và lịch
sử (nhân đọc Giàn thiêu (Võ Thị Hảo)) bàn về vấn đề khai thác lịch sử trong tiểu thuyết
hiện đại, cụ thể là Giàn thiêu (Võ Thị Hảo). Ông cho rằng sử liệu và truyền thuyết xưa đã
được tác giả Giàn thiêu khai thác theo đúng cung cách của tiểu thuyết chứ không lạc sang
hướng của các kiểu truyện có hơi hám sử thi. Phương hướng làm việc của tác giả tiểu
thuyết Giàn thiêu cố nhiên không quá đơn độc, trái lại, thậm chí đang cùng một số tác giả
khác làm nên một chuyển động bên trong dòng sáng tác về văn xuôi lịch sử hiện nay.
Nguyễn Văn Hùng với bài viết Yếu tố liên văn bản trong tiểu thuyết Giàn thiêu (Văn học
hậu hiện đại – diễn giải và tiếp nhận, Nxb Văn học, 2013) đã chỉ ra một số yếu tố liên
văn bản được thể hiện trong tác phẩm như: Mã lịch sử, mã văn hóa (cổ mẫu Lửa và nước,
tôn giáo, tín ngưỡng dân gian), cùng sự tương tác các văn bản thể loại. Tác giả Nguyễn
Quang Huy nghiên cứu về cổ mẫu lửa, nước và máu trong Giàn thiêu với bài viết Đọc
Giàn thiêu vủa Võ Thị Hảo – chơi với người chơi lửa. Tác giả rất tỉ mỉ, công phu khi
thống kê toàn bộ sự xuất hiện của các cổ mẫu lửa, nước và máu. Tác giả cho rằng không
phải ngẫu nhiên mà Võ Thị Hảo mơ mộng về nước và lửa một cách say sưa trong Giàn
thiêu đến thế. Bài học từ con thiêu thân lao một cách không hề dè dặt vào lửa là biểu hiện
bậc nhất của tín niệm hợp nhất.
Trong bài giới thiệu tác phẩm Đàn đáy, tác giả Trần Nhã Thụy khẳng định: “trong
cuốn Đàn đáy, Trần Thu Hằng không chọn cách xây dựng nhân vật điển hình, cũng không
bám sát mô tả sự kiện cùng các cột mốc thời gian. Thế nhưng, với một sự kỹ lưỡng, sâu
sắc và chi tiết về kiến thức lịch sử (cũng như văn hóa) cây bút nữ này đã biết “lẩy” ra
những “mẩu sống” sinh động, kỳ lạ, tạo cho cuốn tiểu thuyết những cảm thức lịch sử
mang giá trị nhân văn.” Trong Đàn đáy, Trần Thu Hằng đã đem đến cái nhìn toàn diện,
mới mẻ hơn, khi nhà văn đặt những nhân vật nghệ sĩ của mình trong một kiếp nhân sinh
và bối cảnh lịch sử cụ thể. Đó là cách khai thác tác phẩm của tác giả Nguyễn Thị Kim 22
Tiến trong bài viết Bi kịch của người nghệ sĩ trong tiểu thuyết Đàn đáy của Trần Thu
Hằng. Tác giả bài viết đã giải mã những ẩn số của tác phẩm thông qua cách cảm nhận và
lý giải về bi kịch tình yêu, tài năng của người nghệ sĩ như Bạch Vĩ, Bạch Dung, Bạch Vân
đặt trong mối quan hệ với những nhân vật lịch sử như Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Khản,
Hoàng Tố Lý, Lê Chiêu Thống… Qua đó, tác giả cho rằng Trần Thu Hằng đã cho thấy cái
nhìn mới mẻ nhưng đầy cảm thông của một kẻ tri âm với người nghệ sĩ, bậc tiền nhân
cách đây hơn ba thế kỉ.
Kể từ khi ra đời và đặc biệt, ngay sau khi tiểu thuyết Hội thề (Nguyễn Quang
Thân) đoạt giải A trong cuộc thi tiểu thuyết lần thứ III (2006 – 2009) của Hội Nhà văn,
một cuộc tranh luận dữ dội đã nổ ra, làm xáo động văn đàn cả nước. Những tranh luận
thường xoay quanh hai vấn đề chính: cách xây dựng hình tượng nhân vật (Lê Lợi và
Nguyễn Trãi) và nghệ thuật sáng tác TTLS. Những bài viết mang tính phản biện, tranh
luận quanh tác phẩm Hội thề có thể kể đến như: Hội thề - tiểu thuyết lịch sử hay phản lịch
sử, Nguyễn Quang Thân cho các tướng lĩnh Lam Sơn theo Mao khí sớm của Trần Mạnh
Hảo, Đọc Hội thề của Phạm Viết Đào, Kinh ngạc khi Hội Nhà văn tôn vinh cuốn tiểu
thuyết Hội thề của Từ Quốc Hoài, Thẩm bình Hội thề của Vương Quốc Hoa, Về Hội thề
của Trần Hoài Dương,… Chẳng hạn, nhà thơ Từ Quốc Hoài bức xúc khi cho rằng: tác giả
Hội thề đã đẩy Nguyễn Trãi, một anh hùng kiệt xuất vào thế cô độc, chỉ trang trải lòng
mình được với Thái phúc, một viên bại tướng nhà Minh đã đầu hàng nghĩa quân. Nhà văn
Hà Văn Thùy phản biện: “tiêu chuẩn vàng để định giá một tiểu thuyết lịch sử, đó là tính
chân thực lịch sử… Đem chuẩn mực kinh điển này soi vào Hội thề, ta thấy rất rõ tác phẩm
thiếu tính chân thực lịch sử ở phương diện phản ánh không chân thực tinh thần của một
thời đại lịch sử. Cái tâm thức kình chống, coi khinh trí thức của nghĩa quân Lam Sơn
trong Hội thề cũng không thực,…”. Trần Mạnh Hảo gay gắt hơn khi cho rằng nhà văn
Nguyễn Quang Thân đã hư cấu những chi tiết phi lịch sử… Trong khi đó, nhà văn Trần
Hoài Dương băn khoăn: “Tôi không hiểu nổi, sao anh Thân lại viết tác phẩm này?”
Ngược lại, trước những ý kiến trái chiều về giá trị của tác phẩm, nhiều tác giả đã
lên tiếng bảo vệ Hội thề, cụ thể như: Hội thề, một cách nhìn về lịch sử của Hoài Nam, Trớ
trêu trí thức, bẽ bàng tình nhân của Văn Hồng, Đọc Hội thề của Trần Thanh Giảng, Hội
thề - đau đáu thế sự, tình đời của V. Minh, Trong tiếng người xưa vẫn vọng về của Ngô
Thị Kim Cúc, Hội thề: Lịch sử và tiểu thuyết của Lê Thành Nghị, Hội thề của Đỗ Ngọc
Thạch, Mấy vấn đề chủ yếu trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại của Nguyễn Văn
Dân,… Trong các bài viết trên các tác giả đều thống nhất quan điểm khi đánh giá: chức 23
năng của TTLS là không phải minh họa về lịch sử đã được xác lập mà là bằng những con
đường đặc trưng riêng của nó để làm thế nào có thể phá vỡ những điều đã được coi là
niềm tin chắc chắn, các quan niệm về thế giới đã được thiết lập…, do đó, “trong biên độ
mở của Hội thề mà mỗi người đọc, theo cách của mình có thể cảm nhận, điều đó cũng
chứng tỏ sự thành công của tiểu thuyết,… Nhà văn Nguyễn Quang Thân đã rất dày công
trước tư liệu, trước câu chữ, trước mối quan hệ giữa lịch sử - những vấn đề còn khuất lấp
trong màn sương thời gian và nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại.”[93]
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết của các học viên cao học và nghiên cứu sinh trong
cả nước được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: Phan Trọng Hoàng Linh với bài
viết Ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Hội thề của Nguyễn Quang Thân (Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, số 4, 2012) đã trình bày khái quát một số điểm độc đáo trên phương
diện ngôn ngữ trần thuật như ngôn ngữ người kể chuyện (ngôi thứ ba) và ngôn ngữ nhân
vật, giọng điệu trần thuật. Trong bài viết Hình tượng nhân vật Lê Lợi trong tiểu thuyết
lịch sử Hội thề của Nguyễn Quang Thân Nguyễn Văn Hùng cho rằng một trong những
điểm thành công trong tiểu thuyết Hội thề chính là việc Nguyễn Quang Thân đã xây dựng
nên bức chân dung nhân vật lịch sử sinh động, độc đáo và mới lạ – Lê Lợi. Nguyễn Thị
Hương Quê trong bài viết Bi kịch về nỗi cô đơn của người trí thức trong tiểu thuyết lịch
sử Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh và Hội thề của Nguyễn Quang Thân đã đề cao tài
năng của Nguyễn Quang Thân trong việc xây dựng thành công chân dung Nguyễn Trãi
với tấn bi kịch về nỗi cô đơn của người trí thức với lý tưởng nhân nghĩa giữa những viên
tướng võ biền của nghĩa quân Lam Sơn.
Trong lời giới thiệu Tây Sơn bi hùng truyện, nhà văn Hoàng Minh Tường khẳng
định đây là cuốn tiểu thuyết hấp dẫn và bổ ích. Tác giả đã đặt các nhân vật của Tây Sơn
trong bối cảnh rộng lớn, trong mối quan hệ trực diện đối nghịch để làm nổi bật tính cách
nhân vật, thể hiện rõ nét chủ đề tác phẩm. Ngoài ra, một số bài viết tranh luận xoay quanh
việc xây dựng chân dung các nhân vật Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân trong Tây Sơn
bi hùng truyện là những quan niệm và cách nhìn nhận khác nhau về nghệ thuật hư cấu của
tác giả. Nguyễn Hòa trong bài Lại bàn về chuyện đọc sử, đọc văn yêu cầu cần phải thận
trọng khi định vị ranh giới giữa đọc sử và đọc văn, người đọc không thể từ sự nhầm lẫn
giữa chính sử với truyền thuyết để so sánh sự thật lịch sử với hư cấu nghệ thuật rồi khẳng
định hoặc phủ định. Và nghệ thuật hư cấu của Lê Đình Danh là hoàn toàn có thể chấp
nhận. Hoàng Quốc Hải trong bài Đôi điều về Tây Sơn bi hùng truyện đánh giá đây là bộ
24
tiểu thuyết bề thế và có sức hấp dẫn. Tác giả cho rằng thuộc tính của TTLS là phải hư cấu
và khi tiếp cận lịch sử, các nhà văn có cách tiếp cận khác nhau.
Ra đời năm 2009, đến nay, tác phẩm Minh sư của Thái Bá Lợi đã đạt được một số
giải thưởng danh giá như: giải thưởng văn học Đông Nam Á (2013), giải nhất Văn học
nghệ thuật Đà Nẵng (5/2016), thành công đó đã gây chú ý trên văn đàn. Hai tác giả Phan
Ngọc Thu và Huỳnh Thu Hậu cùng tỏ thái độ ngưỡng vọng, cảm phục, khiêm cung, sinh
động khi khám phá hình tượng Nguyễn Hoàng. Hai tác giả cùng nhận định thành công
của Minh sư không chỉ ở bình diện nội dung mà còn ở những đặc sắc nghệ thuật: nghệ
thuật trần thuật, kết cấu, kết hợp giữa hiện thực và hư cấu. Tác giả Trần Xuân An trong bài
viết Minh sư nào trong “chuyện Nguyễn Hoàng mở cõi?” đã lý giải: “Minh sư không ai
khác, mà chính là những ai đã nói đúng sự thật”, đồng thời, qua tác phẩm nhà văn còn
muốn gửi gắm đến người đọc những băn khoăn về những vấn nạn lịch sử như xung đột
Chiêm – Việt để góp phần hóa giải. Vấn đề này cũng được tác giả Văn Chinh đề cập trong
bài viết Vấn đề hòa giải hòa hợp dân tộc trong tiểu thuyết chiến tranh gần đây: “Nhờ tài
đức và trí lực, Nguyễn Hoàng đã cố kết được lòng dân, muôn người như một, biến ước
mơ khai khẩn cho riêng mình một cõi thành hiện thực chói lọi”. Vì thế, nhân vật Nguyễn
Hoàng hiện lên trong tác phẩm là con người đức độ, có tài năng chính trị lẫn quân sự,
luôn bình tĩnh, sống chan hòa với mọi người, kể cả thuộc cấp và nhân dân. Chính nhờ
những phẩm chất đó mà Nguyễn Hoàng thu phục được lòng dân để bắt đầu cho công
nghiệp khai hóa, mở mang bờ cõi. Bài viết Biện chứng của một giai đoạn lịch sử bi hùng
của tác giả Tấn Phong khẳng định: Tiểu thuyết Minh sư không đi sâu vào miêu tả những
tranh giành ngôi vị, những tranh chấp phe nhóm mà chủ yếu đi vào tập trung khắc họa
tính cách nhân vật Chúa Tiên. Thái Bá Lợi hết lòng đi tụng ca Nguyễn Hoàng và thẳng
thắng biện chứng, không ngại nói những điều khó nói của một thời kỳ lịch sử đất nước.
Tóm lại, mặc dù những bài viết về Minh sư không nhiều, còn mang tính nhỏ, lẻ song một
thực tế cho ta thấy rằng, tác phẩm thật sự có nhiều cách tân trên cả hai phương diện nội
dung và hình thức thể hiện, điều đó góp phần rất lớn vào sự nỗ lực đổi mới thể loại TTLS
Việt Nam đương đại.
Mặc dù, Tám triều vua Lý không vượt qua được sự thành công của Bão táp triều
Trần nhưng với sự nghiêm túc trong sáng tạo nghệ thuật, Hoàng Quốc Hải đã giúp độc
giả khám phá những thăng trầm của một triều đại huy hoàng bậc nhất trong lịch sử. Trong
bài viết Vương triều Lý dưới góc nhìn của tiểu thuyết gia Hoàng Quốc Hải tác giả Đặng
Văn Sinh đã giới thiệu tương đối đầy đủ và chi tiết về bộ tiểu thuyết Tám triều vua Lý của 25
Hoàng Quốc Hải. Tác giả cũng đã nhận định về tư tưởng của tác phẩm: “trong lịch sử văn
học Việt Nam chưa bao giờ có một tác phẩm dưới dạng tiểu thuyết lịch sử mà lại thấm
nhuần tinh thần tôn giáo sâu sắc như Tám triều vua Lý” [109, 78]. Từ đó, tác giả đi sâu
khai thác phương thức xây dựng nhân vật của Hoàng Quốc Hải dưới sự chi phối của nhãn
quan Phật giáo “tư tưởng Thiền quán xuyến đạo trị nước ít nhất bốn triều vua Lý… Tâm
linh Phật đã chuyển hóa vào máu thịt của các bậc quân vương” [109, 79]. Tác giả bài viết
khẳng định rằng: “Tính sử thi của Tám triều vua Lý không chỉ giới hạn ở những đặc trưng
lý thuyết như hệ thống nhân vật, không gian, thời gian nghệ thuật, tính liên thông giữa các
sự kiện và khuynh hướng tư tưởng, mà nó còn được bao hàm cả không gian văn hóa và
các sinh hoạt tôn giáo… Phật giáo trong Tám triều vua Lý chính là thứ tôn giáo nhân đạo
hóa con người” [109]. Trong bài viết tiểu thuyết lịch sử về Tám triều vua Lý tác giả Thanh
Loan nhận xét rằng trong bộ tiểu thuyết, Hoàng Quốc Hải nhấn mạnh tới sự phát triển của
văn hóa, dân sinh và tam giáo đồng nguyên. Trong đó, nhà văn nhấn mạnh những câu
chuyện, chi tiết lịch sử đề cập trong bộ tiểu thuyết không chỉ giúp phổ cập lịch sử mà còn
mang tới những bài học quý giá cho hậu thế. Mặc dù tôn trọng các sự kiện lịch sử, dùng
lịch sử như một chất liệu, nhưng nhà văn không lệ thuộc vào lịch sử mà trên cơ sở đó hư cấu
để tái hiện triều Lý cách đây 1000 năm, gắn với thân phận lịch sử của mỗi vị vua đứng đầu
mỗi giai đoạn.
Với những tác phẩm Nguyễn Trãi, quyển 1: Oan khuất, quyển 2: Bức huyết thư,
Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Bí mật hậu cung, nhà văn Bùi Anh Tấn là một trong
những nhà viết TTLS luôn có ý thức tìm tòi, đổi mới đề tài, tư duy nghệ thuật nhằm làm
mới một thể loại đang hấp dẫn độc giả đương đại. Có thể nói, Bùi Anh Tấn là một trong
những nhà văn mở đường cho dòng văn học đề tài đồng tính. Ông viết khá đa dạng đề tài
nhưng viết về đồng tính chiếm đến 50%. Trong bài phỏng vấn tác giả trên báo Sài Gòn giải
phóng (25/6/2012), Bùi Anh Tấn khẳng định “Bí mật hậu cung là một tiểu thuyết lịch sử
nghĩa là yếu tố văn chương là chính, lịch sử chỉ là cái nền để nhà văn sáng tác.”. Tác phẩm
là cách tác giả lý giải nhân vật Lý Thường Kiệt theo cách nhìn đời thường nhất: để được
sống trọn vẹn với tình yêu, ông chấp nhận từ bỏ công danh rạng rỡ, vợ đẹp, vào cung làm
thái giám bên cạnh Lý Thánh Tông. Trong bài Khuynh hướng ngoại biên hóa trong tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 (trường hợp Bùi Anh Tấn) Nguyễn Văn Hùng nhận
định: “từ những đề tài, chủ đề có khuynh hướng “ngoại biên hóa” (đồng tính, võ hiệp),
các hình tượng nhân vật mang gương mặt xa lạ, cô đơn giữa đám đông, đến cơ chế diễn
ngôn biến đổi…. Bùi Anh Tấn và tác phẩm của anh đã tạo thành những “dòng nước ngược” 26
trong nguồn chung của đời sống văn học đương đại”. Tác giả cũng chỉ ra những yếu tố
ngoại vi đã xâm nhập vào trong tác phẩm Bùi Anh Tấn như sự kết hợp đề tài lịch sử và đề
tài đồng tính hay TTLS pha màu sắc võ hiệp huyền ảo. Trong bài Bùi Anh Tấn “Đàm đạo
về Điều Ngự Giác Hoàng” tác giả bài viết nhận xét đây là một tác phẩm TTLS thú vị, tác
phẩm sẽ giúp cho độc giả hiểu rõ hơn về dân tộc Việt Nam dưới sự trị vì của triều đại nhà
Trần. Nhà văn Trần Quốc Toàn nghĩ rằng đây là một tác phẩm “tiểu thuyết lịch sử luận đề”
vì nó đã khơi gợi ra được nhiều vấn đề cần suy nghĩ. Nhìn chung, các công trình nghiên
cứu về TTLS của Bùi Anh Tấn chưa nhiều nhưng đã phần nào chứng minh được sức
nóng của một bút lực dồi dào, sức sáng tạo của một nhà văn chiến sĩ công an trong nỗ
lực cách tân thể loại.
Với sự thành công của ba cuốn tiểu thuyết: Nguyễn Du (2010, giải A giải thưởng
Văn học nghệ thuật Hồ Xuân Hương, Khúc hát những dòng sông (2013, giải Ba cuộc thi
Sáng tác, quảng bá tác phẩm Văn học, Nghệ thuật và Báo chí về chủ đề Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh), Thông reo ngàn hống (2015, giải A giải thưởng
của Hội Nhà văn Việt Nam) nhà văn Nguyễn Thế Quang đã trở thành một hiện tượng
“mới” trong dòng TTLS đương đại. Tác giả Yến Nhi với bài viết Đọc Nguyễn Du – tiểu
thuyết lịch sử đã đánh giá tác phẩm của Nguyễn Thế Quang vẽ lên nỗi buồn lớn của
Nguyễn Du không dừng lại ở cái nguyên nhân bé nhỏ là vì đồng sự ghen ghét hay mặc cảm
về cái sự “tôi trung không thờ hai chúa” mà ở cái nỗi niềm lớn lao hơn. Đó là tấm lòng yêu
thương con người, là phẩm cách của một tâm hồn cao thượng, cảm thấy những nghịch lý,
những nghịch cảnh tồn tại ở mọi thời, mọi nơi, như là một định mệnh không tài nào thay
đổi được. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh: “Nguyễn Thế Quang đã thành công khi tái tạo nỗi
niềm tâm sự khá phức tạp của Nguyễn Du”. Thành công của Nguyễn Thế Quang không chỉ
tái tạo một thời biến động của lịch sử… mà còn “biến lịch sử thành những cái cớ để gửi đến
con người hiện tại những thông điệp về giá trị đạo đức tinh thần.”
Trong bài viết Nguyễn Du – Lịch sử và tiểu thuyết tác giả Bùi Công Thuấn đã có
một số ý kiến trái chiều về tác phẩm. Tác giả hoài nghi trước những chi tiết được nhà văn
hư cấu trong Nguyễn Du như: lời tụng ca của Nguyễn Văn Thành dành cho Nguyễn, lời
miệt thị Lê Văn Duyệt, con đường riêng của Nguyễn Du trong việc giải quyết bế tắc về tư
tưởng, mục đích Nguyễn Du viết Truyện Kiều, sự tán thưởng của Gia Long dành cho
Truyện Kiều,… Trong đoạn khác, tác giả bài viết khẳng định: Nguyễn Thế Quang không có
cách tân gì trong nghệ thuật viết tiểu thuyết”, từ đó, tác giả dẫn một số kĩ thuật viết như tư
duy nghệ thuât, cách kể truyện, kết cấu, nghệ thuật khắc họa nhân vật,… của nhà văn đều 27
“lúng túng và thiếu hẳn một triết lý đủ vững khả dĩ làm nền tảng tư tưởng cho ngòi bút. Tác
giả kết luận: “điều quan trọng hơn là tác giả muốn sáng tạo một Nguyễn Du với khát vọng
viết tiếp một “Đoạn trường tân thanh” nữa về bi kịch của người trí thức trước cường quyền
thời đó mà không thể viết được”. Ngược lại, hai tác giả Lê Thái Phong, Nguyễn Sĩ Đại
trong bài viết Nguyễn Du – Từ cuộc đời đến tiểu thuyết đã có những lời nhận xét có cánh:
Đọc Nguyễn Thế Quang, độc giả có được một nhận thức thẩm mĩ toàn vẹn về hình tượng
Nguyễn Du… Con người được tự do; Cái đẹp được tôn thờ và không ai hủy diệt. Đó chính
là Nguyễn Du, là xã hội ông mong muốn và khẳng định”.
Nhà văn Nguyễn Khắc Phê trong bài viết Nguyễn Thế Quang và ba cuốn tiểu thuyết
lịch sử vừa xuất bản cho rằng Nguyễn Thế Quang đã chọn một lối đi giữa hai quan niệm
TTLS: hư cấu tùy hứng, tùy luận đề tác giả muốn gửi gắm và bám chắc vào các sự kiện,
vào tiến trình lịch sử. Theo Nguyễn Thế Quang thì TTLS là “sự khám phá bản chất của lịch
sử, là sự đối thoại với lịch sử, đối thoại với hiện thực.” Tác giả bài viết còn mở ra nhiều
hướng tiếp cận ba tác phẩm, đặc biệt với Nguyễn Du: “Nguyễn Thế Quang vẫn trung thành
với nguyên tắc “bám vào hiện thực” đương thời, “sự việc lớn không thay đổi” nhưng lựa
chọn những thời điểm, những hoàn cảnh làm nổi bật tính cách nhân vật và thể hiện rõ ý đồ
của tác giả... Tác giả đánh giá giá trị mà ba tác phẩm mang lại thật sự to lớn, chúng có sức
ảnh hưởng đến sự phát triển thể loại trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, còn rất nhiều luận văn của các học viên cao học nghiên cứu từng tác
phẩm, tác giả riêng biệt về TTLS đương đại. Hầu hết các luận văn thường tập trung khai
thác và làm sáng tỏ quan niệm về thể loại và quan niệm sáng tác của nhà văn cùng những
đặc trưng nghệ thuật trong TTLS của các tác giả như: cảm quan và tư duy tự sự lịch sử,
lằn ranh giữa hiện thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật, phương thức thể hiện hiện thực lịch
sử từ góc độ trần thuật, diễn ngôn lịch sử…
1.3. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu và hướng nghiên cứu của luận án1.3.1. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu
Qua những công trình nghiên cứu như trên, chúng tôi rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, mười năm đầu thế kỉ XXI, với số lượng tác phẩm phong phú cũng như
sự “chín” trong kĩ thuật tiểu thuyết của các tác giả, TTLS thực sự là một đối tượng quan
tâm rộng rãi của giới phê bình. Qua các công trình nghiên cứu, các nhà phê bình đã góp
phần chỉ ra những thay đổi trong quan niệm về thể loại từ truyền thống đến hiện đại, đồng
thời, nhận diện một số đặc trưng cơ bản về thể loại TTLS hiện đại.
28
Thứ hai, nhiều chuyên luận, tiểu luận và bài viết đã đề cập đến một số đặc trưng cơ
bản của TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI như khả năng hư cấu, tưởng tượng trong việc tái
hiện hiện thực lịch sử, tư duy nghệ thuật, khuynh hướng tư tưởng, mở rộng biên độ loại
hình nhân vật, đổi mới phương thức trần thuật, đồng thời, nghiên cứu sâu, rộng một số
phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật các tác phẩm của một số tác gia cụ thể như:
Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, Võ Thị Hảo, Nguyễn Quang Thân, Nam Dao,
Thái Bá Lợi, Nguyễn Thế Quang, Bùi Anh Tấn…
Thứ ba, mặc dù các các công trình, bài báo nghiên cứu về TTLS đầu thế kỷ XXI đã
cảm nhận được sự thay đổi trong lối viết của các nhà văn nhưng chưa có công trình
chuyên sâu về đặc trưng thể loại và càng thiếu vắng các công trình nghiên cứu tiểu thuyết
lịch sử từ góc độ loại hình.
1.3.2. Hướng nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở kế thừa và đối thoại những công trình đi trước, luận án vận dụng một số
lý thuyết thể loại, lý thuyết thi pháp học, tự sự học, lý thuyết tân lịch sử và phương pháp
nghiên cứu loại hình để tập trung khảo sát đặc trưng thể loại của TTLS thập niên đầu thế
kỉ XXI trên các bình diện như xu hướng, dạng thức thể loại (theo dạng thức đề tài, kết
cấu), tương tác thể loại; thế giới nhân vật (xác định một số kiểu nhân vật đặc trưng của
thể loại, đồng thời, chỉ ra những phương thức nghệ thuật đặc sắc trong việc khắc họa hình
tượng nhân vật); phương thức tự sự (người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, diễn ngôn
trần thuật)… trong cái nhìn đối sánh với TTLS giai đoạn trước. Từ đó, luận án chứng
minh sự vận động, đổi mới trong quan niệm về thể loại, tư duy nghệ thuật của các nhà
TTLS đương đại.
29
Chương 2ĐẶC TRƯNG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỈ XXI
– NHÌN TỪ CÁC XU HƯỚNG VÀ DẠNG THỨC THỂ LOẠI
2.1. Đổi mới ý thức nghệ thuật và quan niệm về thể loạiCùng với sự ra đời và phát triển của TTLS là sự hình thành những quan niệm về
tính hư cấu và tính chính xác của TTLS. Giữa sự kiện, nhân vật lịch sử và hư cấu nghệ
thuật có quan hệ ra sao vẫn đang là vấn đề có tính chất mở, chưa thống nhất. Trong TTLS,
sự kiện, nhân vật lịch sử và sự kiện, nhân vật hư cấu trộn lẫn vào nhau, khó đảm bảo sự
chính xác lịch sử tuyệt đối. Chẳng thế mà nhà văn N.Mitchison nói rằng không nên hy
vọng vào một sự chính xác lịch sử tuyệt đối; H.Hasse cũng xác định rằng sự chính xác
lịch sử tuyệt đối là không có được vì sự kiện và nhân vật lịch sử đã được soi sáng bằng hệ
quy chiếu của thế kỷ XX và cuốn TTLS nào cũng ít nhiều phản chiếu cái thế giới tâm hồn
của tác giả ở một thời điểm nhất định trong quá trình sáng tác của họ. Nhìn chung, sự vận
động thể loại luôn luôn bắt nguồn từ sự vận động tư duy và quan niệm về thể loại. Nhìn
vào tiến trình phát triển của TTLS Việt Nam, có thể nhận thấy việc sử dụng chất liệu lịch
sử trong tác phẩm, mỗi nhà văn có một cách riêng, mục đích riêng, thể hiện quan niệm
riêng về thể loại.
2.1.1. Từ quan niệm truyền thống “trung thành với lịch sử”
TTLS ở Việt Nam xuất hiện khá muộn và chịu chi phối mạnh mẽ bởi ý thức hệ văn
chương trung đại: Hoan Châu ký của Nguyễn Cảnh Thi, Nam triều công nghiệp diễn chí
của Nguyễn Khoa Chiêm, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, Hoàng Việt
long hưng chí của Ngô Giáp Đậu… Nhìn chung, TTLS thời kỳ trung đại thường hướng
tới đề tài chống ngoại xâm, ca ngợi những anh hùng dân tộc hoặc phản ánh những biến
cố, bước ngoặt trong lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Tuy nhiên, do sự chi
phối của quan niệm văn triết sử bất phân nên chất văn trong TTLS vẫn còn hòa quyện với
chất sử. TTLS thời kỳ này thường lấy việc mô tả thực là chính, trọng tâm của tác phẩm là
bám sát vào sự thực lịch sử (hư cấu nghệ thuật đã có nhưng còn ít và còn mờ nhạt). Các
tác gia TTLS là “những nhà thư ký trung thành của thời đại”, thường đứng trên lập trường
của sử gia để sáng tác nên tính chính xác, trung thực luôn được đề cao. Tiểu thuyết đối
với họ chỉ được coi là phần chí truyện, bổ sung một phần nào đó cho quốc sử. Bởi vậy bút
pháp nghệ thuật của tiểu thuyết thời trung đại về cơ bản chưa thoát khỏi lối viết của các
nhà viết sử, yếu tố tiểu thuyết chưa đậm nét. Hầu hết các TTLS thời kỳ này đều viết theo 30
kết cấu chương hồi, đề cao sự thực lịch sử, trần thuật theo mạch thời gian tuyến tính, nhân vật
đơn chiều, phiến diện, nghệ thuật khắc họa nhân vật mang nhiều tính ước lệ, yếu tố cá nhân,
đời tư con người ít được chú trọng.
Bước sang đầu thế kỉ XX đến 1945, TTLS Việt Nam bắt đầu phát triển mạnh mẽ
hơn với tư cách là một thể loại mới của văn học. Trước yêu cầu hiện đại hóa văn học,
trước đòi hỏi của ngôn ngữ văn học mới, quan niệm văn học mới, TTLS viết bằng chữ
Hán đã không còn là thể loại trung tâm nữa. Văn xuôi quốc ngữ đang độ hình thành và
TTLS viết bằng chữ quốc ngữ đã xuất hiện những tác phẩm có giá trị, tiêu biểu như Giọt
máu chung tình (Tân Dân Tử), Tiếng sấm đêm đông, Thanh chiến sử (Nguyễn Tử Siêu),
Lê triều Lý thị (Phạm Minh Kiên), Nam cực tinh huy (Hồ Biểu Chánh),…Tuy nhiên, về
cơ bản, TTLS giai đoạn này vẫn chịu sự chi phối bởi quan niệm của văn học truyền thống.
Lịch sử trong cái nhìn của nhà văn là “ngôi đền thiêng bất khả xâm phạm”. Nhà văn chưa
có sự bứt phá mạnh mẽ để vượt qua rào cản của nhãn quan “trung thành với lịch sử”, với
họ, yêu cầu tái hiện lịch sử là nguyên tắc hàng đầu. Về bút pháp, có nhà văn vẫn chịu ảnh
hưởng của lối viết tiểu thuyết cổ điển (tiểu thuyết chương hồi), sử dụng lối văn biền ngẫu
có đối có vần lưu loát, kết thúc có hậu, người kể chuyện thứ ba toàn tri. Tuy nhiên, một số
nhà văn đã bắt đầu đổi mới cách viết theo kiểu của những cuốn TTLS hiện đại phương
Tây lúc bấy giờ đã ít nhiều có mặt ở Việt Nam, điển hình là Nguyễn Triệu Luật với Bà
Chúa Chè, Loạn kiêu binh, Chúa Trịnh Khải…
Từ sau 1945 - 1985, hiện thực kháng chiến là đối tượng chính của văn học. Cảm
hứng lịch sử hòa vào cảm hứng sử thi, TTLS có sứ mệnh ngợi ca truyền thống anh hùng
của dân tộc, khắc họa một thời đại anh hùng. Những tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng,
Thái Vũ, Chu Thiên,… thật sự đã đem đến cho độc giả cái nhìn toàn diện về những thời
đại lịch sử đã qua với kĩ thuật “chép sử bằng văn chương”. Tuy nhiên, tư duy hiện đại dần
thay thế cho tư duy truyền thống, TTLS bắt đầu thoát khỏi lối viết chương hồi cổ điển,
xóa bỏ câu văn biền ngẫu, chú trọng đến diễn ngôn hiện đại. Thể loại bắt đầu chuyển
động mạnh mẽ, nguồn sử liệu trở thành đối tượng phản ánh, phát huy vai trò của hư cấu
nghệ thuật trong việc kiến tạo nên những diễn ngôn lịch sử mới.
Nhìn chung, TTLS trước 1986, trên cơ sở cái nhìn tĩnh tại về cái đã qua, các nhà
văn thường coi trọng việc tái hiện chính xác sự kiện lịch sử, không khí lịch sử, tính chất
hư cấu chỉ được xem như những đường viền trang trí nhằm tô điểm thêm sự sinh động
cho các sự kiện và nhân vật lịch sử. Lịch sử vì vậy luôn được khai thác chủ yếu dựa trên
những nhân vật hoặc những sự kiện có thật. TTLS trong tay họ thường được viết đúng 31
như những sự kiện đã lưu lại trong những bộ chính sử hoặc sách giáo khoa lịch sử. Cái
nhìn của nhà văn trùng khớp với cách đánh giá của các sử gia hoặc các quan điểm đã
được thống nhất từ trước đến nay. Khuynh hướng “lịch sử hóa” tiểu thuyết thúc đẩy nhà
văn dùng khả năng tưởng tượng của mình để lấp đầy chỗ trống giữa những sử biên niên
khô khan để tăng thêm tính sống động cho những chân lý đã “rạng rỡ trong sử sách” theo
cảm hứng khẳng định và ngợi ca. Lúc này, TTLS thiên về chất truyện kể mà ít chất tiểu
thuyết. Tác giả Thái Vũ khẳng định: “Khi tôi nói, tôi viết tiểu thuyết lịch sử sự thật là tôi
không viết tiểu thuyết mà tôi viết lịch sử. Trước hết phải trung thực với mọi chi tiết lịch
sử mà biên niên sử có ghi. Hư cấu không phải là bịa mà tôn trọng tính chính xác của lịch
sử”, “Theo tôi viết tiểu thuyết lịch sử không phải là bịa đặt tùy tiện, bóp méo lịch sử theo
ý đồ riêng của tác giả” [141]; Nguyễn Tử Siêu quan niệm: “bồi đắp chút đỉnh về quan
niệm đối với tổ quốc, nhắc nhở cái nghĩa vụ đối với dân, với nước”; Nguyễn Triệu Luật
phát biểu: “Tôi chỉ là người thợ vụng có thế nào làm nên thế, gốc tre già cứ để là gốc tre
già, chứ không thể hun khói lấy màu, vẽ văn cho thành gốc trúc hóa long”. Khuynh hướng
này chiếm ưu thế trong giai đoạn văn học đầu thế kỉ XX đến trước đổi mới 1986 với
những tác gia tiêu biểu: Tân Dân Tử (Giọt máu chung tình, Gia Long tẩu quốc, Gia Long
phục quốc), Trúc Khê (Trăm lạng vàng), Nguyễn Trọng Thuật (Quả dưa đỏ, Cô gái hái
dâu), Nguyễn Huy Tưởng (Lá cờ thêu sáu chữ vàng, An Tư), Nguyễn Tử Siêu (Đinh Tiên
Hoàng, Lê Đại Hành), Nguyễn Triệu Luật (Bà Chúa Chè, Chúa Trịnh Khải), Chu Thiên
(Bóng nước Hồ Gươm)… Dòng sáng tác này vẫn tiếp tục phát triển và có được những
thành công nhất định qua các sáng tác của Hoàng Công Khanh (Vằng vặc sao Khuê), Vũ
Ngọc Đĩnh (Bắn rụng mặt trời, Anh hùng Lam Sơn), Lê Đình Danh (Tây Sơn bi hùng
truyện, Nẻo về Vạn Kiếp), Hàn Thế Dũng (Lê Lợi), Hữu Mai (Không phải huyền thoại)…
Nhà văn Hoàng Quốc Hải nhận định: “Muốn phổ cập hóa lịch sử thì không gì bằng văn
chương hóa lịch sử”, “Tiểu thuyết lịch sử phải lấy hư cấu làm phương tiện nghệ thuật”, hư
cấu nhưng không vo tròn, bóp méo lịch sử: “Vấn đề là phải hư cấu như thế nào đạt đến
chân thực lịch sử và chân thực cuộc sống. Chân thực đến mức người đọc phải thừa nhận
đây mới là lịch sử. Cũng không có nghĩa là sự bịa tạc, mà là sự tìm tòi đi đến chân thực.”
[49]. Như vậy, ở khuynh hướng này, nhà văn chỉ có thể đưa vào những tưởng tượng
tương thích nhằm mục đích tăng thêm tính phong phú và sinh động cho tác phẩm. Tiểu
thuyết gần như được viết đúng với những gì đã được lưu lại trong tài liệu lịch sử. Tính hư
cấu, tưởng tượng chủ yếu để thêm gia vị cho các sự kiện, trận đánh, nhằm tạo ra sự cuốn
hút, hấp dẫn người đọc. Cái nhìn lịch sử vẫn lất át cái nhìn về con người. Sự đánh giá của 32
nhà văn trung thành với quan điểm của các sử gia hoặc các quan niệm đã được thống nhất
từ xưa đến nay. Và do vậy, nhân vật lịch sử chủ yếu được nhìn nhận ở phía con người
cộng đồng với tính cách được khám phá phần nhiều qua cử chỉ, hành động.
2.1.2. Đến quan niệm hiện đại “luận giải, đối thoại, phản biện lại lịch sử”
Khi quan niệm về văn chương thay đổi, dẫn tới quan niệm hiện đại về TTLS cũng
thay đổi. Với quan niệm mới, lịch sử sau 1986, đặc biệt từ những năm đầu thế kỉ XXI đến
nay đã “khác với truyền thống coi lịch sử là đại lịch sử (đã xong xuôi), lý thuyết hiện đại,
hậu hiện đại khẳng định lịch sử là quá trình chưa hoàn tất mà đang được cấu tạo lại với sự
xuất hiện của các tiểu thuyết lịch sử” [40, 5]. Lịch sử không phải là một quá trình đã hoàn
tất, xong xuôi, “tĩnh tại” mà thực chất lịch sử vẫn đang chuyển động. Quá trình đó đã tạo
nên mảnh đất màu mỡ để các nhà văn kiến tạo lại lịch sử, lấp đầy những “khoảng trắng”
của lịch sử. Theo đó, lý thuyết của các nhà tân lịch sử quan niệm lịch sử chỉ là “diễn
ngôn”, là “văn bản”, là “một tự sự”. H.White cho rằng có bốn phương thức tu từ của tự sự
lịch sử: lãng mạn, bi kịch, hài kịch và châm biếm. Theo cách lập luận như trên, có thể
thấy rằng có sự trùng khớp giữa diễn ngôn lịch sử và diễn ngôn tiểu thuyết lịch sử. Lý
thuyết đó người ta gọi là “thi pháp học văn hóa”. Các nhà tân lịch sử như P.Valery,
M.Heidegger, J.P.Sartre, C.L.Strauss, M.Foucault quan niệm “tiểu thuyết lịch sử nhiều
khi còn có khả năng đạt đến chân lý lịch sử sâu sắc hơn và chính xác hơn bản thân sử
học.” [113]. Họ đã hoài nghi vai trò của lịch sử, xem lịch sử như một khoa học khách
quan và kết luận của họ là chân lí. Chân lí của sử học là chân lí tương đối, có tính chủ thể
và liên chủ thể. Tuy nhiên, thời đại phát triển của tiểu thuyết lịch sử thì nó “được mở
rộng, đào sâu thậm chí cạnh tranh chân lí lịch sử với chính sử góp phần khắc phục những
định kiến hẹp hòi” [113]. Với tân lịch sử, hình thức của tiểu thuyết lịch sử được nới lỏng
dần. Lịch sử không chỉ đơn thuần là các sự kiện lịch sử mà được mở rộng biên độ sang
địa hạt của “chính trị, chiến dịch, trận đánh hoặc là lịch sử phong tục, tập quán (như đa
thê), lịch sử một trò chơi (như chơi diều), tục hành hình tàn nhẫn (lăng trì),… sự kiện lớn
với các ông lớn có thể cần nhưng không nhất thiết phải là nền tảng của tiểu thuyết lịch
sử.”[113]. Ngay từ đầu thế kỉ XIX A.Dumas đã quan niệm rằng sự kiện lịch sử chỉ là cái
đinh để nhà văn mắc cái áo. Nghĩa là sự kiện lịch sử chỉ đóng vai trò đánh dấu, làm phông
nền chứ không phải nội dung chủ yếu của tiểu thuyết. Theo lý thuyết tân lịch sử, khoảng
cách giữa lịch sử với thời gian viết không nhất thiết phải có độ lùi nhất định, mà “chuyện
xảy ra chỉ mới vừa qua, trong phạm vi đời người, nhưng chúng cũng đã là lịch sử”[113].
Trần Đình Sử cho rằng những tác phẩm như “Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Ba 33
người khác của Tô Hoài, Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh tuy không có nhân
vật lịch sử nổi tiếng nhưng sự kiện nền tảng là sự kiện lịch sử có thật, tác phẩm tái hiện
diện mạo, không khí, nhịp độ của lịch sử hay nói cách khác lịch sử là nhân vật chính…
Còn một loại viết dường như muốn tổng kết cả một giai đoạn lịch sử đương đại như Thời
của thánh thần của Hoàng Minh Tường, Dưới chín tầng trời của Dương Hướng… cũng
được coi là tiểu thuyết lịch sử”[113]. Theo quan niệm tân lịch sử, lịch sử chỉ là sự trần
thuật về lịch sử vì thế ít nhiều mang tính chủ quan trong lựa chọn và phán đoán. Quan
điểm đó làm nảy sinh thể loại mới: “loại tiểu thuyết trở về với văn hóa dân gian, hệ thống
nhiều điểm nhìn của người dân thường, diễn ngôn trần thuật của con người đời thường,
loại bỏ diễn ngôn của nhà viết sử, diễn ngôn chính trị.”[112, 450]. Từ đó, nội hàm của thể
loại được nới lỏng: “tiểu thuyết lịch sử ngày nay thay đổi khuynh hướng tự sự vĩ mô chủ
yếu gồm vĩ nhân và quốc gia đại sự bằng tự sự mảnh ghép, gia tộc, cá nhân, từ lịch đại
chuyển sang đồng đại,…”[112, 450]. Xem lịch sử là diễn ngôn, các nhà tân lịch sử xem
nhu cầu của TTLS trước hết là nhu cầu diễn ngôn, là nhu cầu đối thoại, phản biện lại với
lịch sử, nhu cầu đi tìm những khả năng đã mất, những góc nhìn mới. TTLS chỉ là một loại
diễn ngôn đặc thù về sự thật lịch sử, không phải bản thân sự thật lịch sử.”[112, 454]. Do
đó, để tạo nên lớp diễn ngôn mới này TTLS cần sử dụng những chất liệu nhất định như sự
kiện, nhân vật, phong tục, tập quán, đồ dùng, trang sức, bài hát, trò chơi,… nhưng không
phải “hoàn nguyên lịch sử”. Và nhiệm vụ của TTLS như trên đã nói là “sáng tạo ra những
diễn ngôn mới về lịch sử, nêu ra cách nói mới, góc nhìn mới, phán xét mới, gợi mở khả
năng mới”[112, 455]. Có thể lấy trường hợp Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên
chùa của Nguyễn Xuân Khánh làm minh chứng cho lý thuyết trên khi trong ba tác phẩm
này, nhà văn đã thể hiện một diễn ngôn mới về lịch sử, “đó là những suy tư của ông về
lịch sử và văn hóa, trong đó, văn hóa là cốt lõi của lịch sử, là chiều sâu quy định sự hằng
tồn của quốc gia, dân tộc.”[40, 8]. Cảm hứng lý giải lịch sử trong ba tác phẩm của
Nguyễn Xuân Khánh đã tạo nên sự nhất quán của một diễn ngôn về dân tộc – lịch sử –
văn hóa.
Nhìn lại diện mạo của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại, đặc biệt những năm
đầu thế kỉ XXI, những người cầm bút như Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn
Mộng Giác, Nguyễn Khắc Phục, Nguyễn Quang Thân, Bùi Anh Tấn, Nguyễn Thế Quang,
… đã coi lịch sử là chất liệu, thậm chí là phương tiện để viết tiểu thuyết, mạch cảm hứng
chính là “phân tích và giải mã” hay “tiểu thuyết hóa” lịch sử. Lịch sử không chỉ được tái
hiện một cách chính xác như nó vốn có trên bề mặt các sự kiện mà còn được soi chiếu ở 34
nhiều góc nhìn, ở cả “bề sâu, bề xa”, những góc khuất, thâm cung bí sử của lịch sử, những
bí ẩn và xung đột của lịch sử được “giải mã”, để rồi lịch sử ngưng tụ, phản chiếu ở chiều
sâu số phận con người. Những tư liệu chính xác của lịch sử được chuyển hóa thành tiểu
thuyết, thành sản phẩm hư cấu và mang đậm dấu ấn cá nhân của nghệ sĩ. Nhà tiểu thuyết
vừa làm sống lại lịch sử, vừa tạo cho nó một sức sống mới để lịch sử có thể song hành
cùng hiện tại. Hiện thực trong tác phẩm phải là hiện thực về con người, được phản ánh
một cách đa chiều, đa diện, được nhào nặn, chế tác lại theo cảm quan của người viết.
Nguyễn Xuân Khánh quan niệm rằng: “Tiểu thuyết lịch sử tạo ra hiện thực làm sao để gây
cho người đọc một ảo tưởng là nó có thật. Tiểu thuyết lịch sử phải dựng nên bối cảnh
không khí của thời đại… Tiểu thuyết phải có đời sống, bi hài trữ tình.” [70]. Có thể nói,
quan niệm của Nguyễn Xuân Khánh về TTLS có thể khu biệt thành ba vấn đề: thứ nhất,
viết TTLS không chỉ để mô tả lại lịch sử, mà “viết về lịch sử chính là hành trình đi tìm vẻ
đẹp của tâm hồn dân tộc và cao hơn thế là tìm những bài học lịch sử của dân tộc”; thứ hai,
nhà văn quan niệm “lịch sử chỉ là chất liệu, là phương tiện để nhà văn sáng tạo nghệ
thuật”, “Lịch sử chỉ là cái cớ để tôi bám vào. Điều quan trọng là người viết tiểu thuyết
phải biết vận dụng tổng thể đời sống của mình vào cuốn tiểu thuyết ấy. Người viết không
hẳn đã dựng lại được lịch sử ngày xưa, điều cốt yếu là thuyết phục được người đọc.”; thứ
ba, nhà văn quan niệm viết TTLS để “cho bạn đọc hôm nay thưởng thức, chiêm nghiệm,
viết về những gì bạn đọc hôm nay còn quan tâm chứ không phải những gì đã chết trong
quá khứ. Đồng quan niệm sáng tạo TTLS với Nguyễn Xuân Khánh, nhà văn Nam Dao
cho rằng: “Một tác phẩm viết về đề tài lịch sử được công nhận là một tác phẩm nghệ
thuật, một cuốn tiểu thuyết hay không, tùy thuộc vào mức độ hư cấu và khả năng tưởng
tượng của nhà văn trên cơ sở những sự kiện và nhân vật lịch sử theo đúng đặc trưng và
nguyên tắc thể loại” [26]. Nhiệm vụ đặt ra cho các nhà văn khi viết về lịch sử là hết sức
quan trọng: “với một nhà văn, lịch sử không là những xác chết và những sự cố biên niên ù
lì. Trong TTLS, quá khứ và lịch sử nhìn bởi nhà văn, nhà văn như chủ thể. Đó là quá khứ
tái chiếm hữu và tái tạo từ vị thế, hiện tại của chủ thể” [26]; Ngô Văn Phú khẳng định:
“Phần sử như cái khung của ngôi nhà. Nhưng ngôi nhà có đẹp hay không còn tùy thuộc ở
bàn tay thợ. Ở đây tôi muốn nói chất tiểu thuyết phải thổi được vào hồn của lịch sử” [26];
Nguyễn Mộng Giác quan niệm “Tiểu thuyết lịch sử phải là tiểu thuyết, là thế sự, là chất
văn xuôi, là cuộc sống muôn màu muôn vẻ của con người và thiên nhiên” [39, 202]; Bùi
Anh Tấn lại thích những đề tài hiếm người viết, với nhà văn viết về TTLS thì phải tôn
trọng sự thật lịch sử song cũng cần phải minh xác ở đây là viết tiểu thuyết chứ không phải 35
là chép sử. Nguyễn Quang Thân đồng quan điểm với các nhà nghiên cứu ở xu hướng đề
cao khả năng hư cấu của người viết và cho rằng viết TTLS không “để buôn dưa lê” mà
nhằm hướng đến những vấn đề của thực tại, hoàn toàn do những con người đang sống giải
mã, rút ra bài học và vững bước tiến đến tương lai, do đó, nhà viết TTLS không phải vẽ
một bức tranh mới mà sáng tạo, nhào nặn và tái hiện một bức tranh 3D trên nền chính sử
nhưng phong phú, đa dạng hơn đã đành mà còn có cái khác biệt rất lớn với những bức
trướng chính sử. Nhìn chung, quan niệm của các nhà văn đều tôn trọng sự thật lịch sử
nhưng phát huy vai trò của hư cấu nghệ thuật. Hư cấu nghệ thuật đã tạo ra hướng tiếp cận
mới, phù hợp với tư duy của con người hiện đại, gợi cho người đọc cái nhìn mới thực sự
khác so với những nhà viết tiểu thuyết trước đây.
Sự chuyển động mạnh mẽ của văn học và sự thay đổi tư duy phản ánh nghệ thuật,
TTLS đương đại đã tiếp cận với cảm quan mới, có những cách tân táo bạo trong lối kể
chuyện, thủ pháp xây dựng hình tượng, mở rộng biên độ sáng tạo, kể chuyện lịch sử bằng
một phong cách hiện đại nhằm khơi mở những bí ẩn và xung đột của lịch sử theo hướng đa
dạng hóa và phong cách hóa. Điểm đáng chú ý là TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI đã vượt
qua mô hình cũ và tạo ra nhiều hướng phát triển với nhiều phong cách sáng tác đa dạng.
Có thể nhận thấy, TTLS giai đoạn này phát triển theo nhiều xu hướng đa dạng khác nhau:
có hướng “văn chương hóa lịch sử” như Hoàng Quốc Hải với hai bộ trường thiên; hướng
nghiêng về phương diện văn hóa, đối thoại với văn hóa như Nguyễn Xuân Khánh. Có
hướng diễn giải lịch sử như Nguyễn Thị Lộ (Hà Văn Thùy); hướng phi huyền thoại hóa
lịch sử như Hội thề (Nguyễn Quang Thân); hướng đối thoại với chính sử như Mạc Đăng
Dung (Lưu Văn Khuê)...
Mười năm đầu thế kỉ XXI, TTLS đã bước vào cỗ máy vận hành trong cơ chế vận
động và đổi mới của văn xuôi đương đại. Nhìn từ góc độ lực lượng sáng tác, đây là một
sự tiếp nối không ngừng của thế hệ các nhà văn trẻ về tuổi đời lẫn tuổi nghề với những tác
phẩm ít nhiều gây sự chú ý bởi tính chất mới lạ, đột phá của nó. Sự mở rộng giao lưu văn
hóa đa chiều đem tới nhiều kinh nghiệm nghệ thuật mới lạ và TTLS cũng có những
chuyển động ngày càng hấp dẫn hơn. Số lượng nhiều (gần 200 tác phẩm) và đa dạng về
phong cách sáng tác, đề tài phong phú, TTLS đã trở thành thể loại có sức hấp dẫn mãnh
liệt với nhiều cây bút chuyên lẫn không chuyên (gần 60 tác giả). Nhiều tác phẩm đã bỏ xa
TTLS trước đó về số trang và dung lượng: Tám triều vua Lý (4 tập) (Hoàng Quốc Hải),
Tây Sơn bi hùng truyện (2 tập) (Lê Đình Danh), Đất Việt trời Nam (3 tập) (Đan Thành),
Thăng Long ký (3 tập) (Nguyễn Khắc Phục), Anh hùng Đông A (2 tập), Anh hùng Tiêu 36
Sơn (4 tập) (Trần Đại Sỹ), Mười hai sứ quân (2 tập), Bắn rụng mặt trời (8 tập) (Vũ Ngọc
Đĩnh),… Ở những tác phẩm này, lịch sử được tái hiện với quy mô bề thế, rộng lớn, bắt đầu
từ việc gây dựng một triều đại cho đến khi vương triều sụp đổ. TTLS giai đoạn này thực sự
mở ra một lộ trình mới, một hướng khám phá nghệ thuật độc đáo và lý thú cho những ai
quan tâm đến lịch sử dân tộc và nền tiểu thuyết nước nhà.
TTLS thời kỳ này có sự phối hợp, lồng ghép các chủ đề trong một tác phẩm; mở
rộng hệ chủ đề về phía thế sự, đời tư - hiện tại và đề cao cá tính sáng tạo của người viết,
rút ngắn khoảng cách sử thi trong khi tiếp cận lịch sử. Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh)
đã đề cập đến vấn đề xung đột giữa bảo thủ và đổi mới. Bên cạnh đó, tác phẩm còn đề cập
đến chủ đề tình yêu, khát vọng đổi thay, thân phận người trí thức, sự chi phối của thời đại
đến thành bại của con người,… Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa đã cho thấy sức
sống mãnh liệt của văn hóa dân tộc trong mối tương quan với tín ngưỡng, tôn giáo, thể
hiện sự trường tồn của dân tộc Việt. Lê Lợi của Hàn Thế Dũng xây dựng một cách sống
động chân dung của những anh hùng dân tộc với những vinh quang và bi kịch. Giàn thiêu
(Võ Thị Hảo) lôi cuốn người đọc bởi nét độc đáo riêng. Dựa trên những câu chuyên dã sử
về nhân vật, với rất nhiều yếu tố hư cấu mang tính chất hoang đường kỳ ảo, nhà văn đã tái
hiện chân dung nhân vật Lý Thần Tông và bức tranh xã hội triều Lý bàng bạc màu sắc
huyền thoại, đầy sức hấp dẫn mà vẫn không làm mất đi nội dung hiện thực của tác phẩm.
Hội thề (Nguyễn Quang Thân) đề cập đến tinh thần yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo của
dân tộc Việt. Đồng thời, tác giả xây dựng những xung đột giữa hai phe chủ chiến và chủ
hòa nhằm lý giải những biến cố lịch sử sẽ tiếp diễn không lâu sau đó. Lưu Văn Khuê
trong Mạc Đăng Dung lại đặt ngòi bút trong cảm hứng phản đề lịch sử khi ông lý giải
việc lên ngôi của Mạc Đăng Dung là một tất yếu. Thái Bá Lợi trong Minh sư lấy cảm
hứng từ ý chí hơn người của chúa Nguyễn Hoàng với những năm tháng đầy gian truân
trong hành trình mở cõi. Tây Sơn bi hùng truyện (Lê Đình Danh) tái hiện một giai đoạn
lịch sử đầy biến động từ những cuộc tranh giành quyền lực thời vua Lê – chúa Trịnh,
những cuộc tranh chấp Trịnh – Nguyễn, sự lớn mạnh của phong trào Tây Sơn đến lúc Gia
Long lên ngôi hoàng đế năm 1802. Đàn đáy (Trần Thu Hằng) viết về thời kì Lê – Trịnh,
dựng lại chân dung những nhân vật đã đi vào sử sách: Lê Chiêu Thống, Nguyễn Hữu
Chỉnh, Trịnh Sâm,… với những khám phá bất ngờ, thú vị. Đàm đạo về Điều Ngự Giác
Hoàng (Bùi Anh Tấn) tái hiện toàn bộ lịch sử nhà Trần trong giai đoạn đầu dựng nước và
giữ nước. Nhà văn đã dùng lối viết đối thoại để làm nổi bật Trần Nhân Tông, vừa sinh
động ở con người lịch sử vừa sâu sắc ở con người tôn giáo… Đặc biệt, với Bí mật hậu 37
cung, Bùi Anh Tấn đã khéo léo thử nghiệm trong việc kết hợp hai đề tài lịch sử và đồng
tính, tạo nên hiệu ứng thẩm mĩ đặc biệt. Tác phẩm không chỉ thể hiện sinh động và sâu
sắc mối tình trớ trêu giữa hai con người tài hoa lỗi lạc vào bậc nhất nhà Lý: Lý Thường
Kiệt và Lý Thánh Tông mà còn gắn kết với những biến động lớn lao của cả một triều đại.
Nhiều chủ đề đan xen khiến các tác phẩm này thực sự là những khám phá, kiến giải mới về
lịch sử, tạo được ấn tượng dư ba trong lòng người đọc. Tóm lại, từ sự thay đổi về tư duy
thể loại mà chúng tôi đã xác định như trên, luận án tiến hành khảo sát, phân loại và khu
biệt để xác định một số xu hướng và dạng thức TTLS đặc trưng của thể loại trong giai
đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI nhìn từ chủ đề, kết cấu tác phẩm và từ góc nhìn tương tác
thể loại.
2.2. Các xu hướng và dạng thức tiểu thuyết lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXITTLS thập niên đầu thế kỉ XXI vận động theo nhiều xu hướng mới khi có sự đa
dạng về phong cách sáng tác; chủ đề, đề tài, cảm hứng sáng tác mở rộng theo hướng đa
dạng, phức tạp; đổi mới dạng thức kết cấu trên tinh thần kết hợp giữa truyền thống và
hiện đại… Vì thế, hiện thực trong tác phẩm không chỉ được phản ánh theo thái độ ngợi ca
một chiều mà được luận giải, đối thoại nhằm khơi mở những vùng bí ẩn trong mối quan
hệ giữa số phận con người và lịch sử. Nguyễn Văn Dân chia TTLS Việt Nam đương đại
thành ba xu hướng chính: TTLS chương hồi khách quan (nhìn từ dạng thức kết cấu),
TTLS giáo huấn, TTLS luận giải (nhìn từ dạng thức chủ đề). Tác giả Nguyễn Thị Bình
khái quát xu hướng vận động của TTLS Việt Nam đương đại trong nội hàm của khái niệm
“tiểu thuyết theo phong cách lịch sử hóa”. Tác giả Nguyễn Thị Tuyết Minh phân chia
TTLS Việt Nam từ 1945 đến nay thành hai khuynh hướng chính: lịch sử hóa tiểu thuyết
và tiểu thuyết hóa lịch sử… Đến những năm đầu thế kỉ XXI, với tư duy tân lịch sử, tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam phân hóa thành nhiều xu hướng và dạng thức đa dạng hơn trước
đây. Trần Đình Sử cho rằng bên cạnh những tác phẩm TTLS “chính hiệu” còn có hàng
loạt TTLS chỉ có sự kiện lịch sử lớn, mà không có nhân vật lịch sử nổi tiếng như Ba
người khác (Tô Hoài), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Thời của thánh thần (Hoàng
Minh Tường), Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh)... hoặc “Có cách tra vấn và đối
thoại với lịch sử một cách riết róng, táo bạo của Nguyễn Huy Thiệp; có hướng làm sinh
động lịch sử trên cơ sở tôn trọng các sự kiện lịch sử và tâm thức cộng đồng trong tiểu
thuyết Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Mộng Giác; có cách viết xen lẫn thực ảo với cấu trúc hai
38
thế giới hư thực của Võ Thị Hảo; có cách miêu tả lịch sử gần và chuyện họ tộc gia đình
kiểu Hoàng Minh Tường, Nguyễn Phan Hách,…”[40,15]. Trên thực tế, xu hướng và dạng
thức TTLS Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI vô cùng đa dạng và phức tạp, đôi khi có sự
chồng chéo giữa các xu hướng và dạng thức thể loại. Do đó, chúng tôi căn cứ vào loại
hình thể loại đề xuất cách phân chia mang tính chất tương đối như sau: tiểu thuyết lịch sử
nhìn từ dạng thức đề tài (tiểu thuyết lịch sử sự kiện, tiểu thuyết lịch sử nhân vật, tiểu
thuyết lịch sử luận giải, tiểu thuyết lịch sử văn hóa – phong tục); tiểu thuyết lịch sử nhìn
từ dạng thức kết cấu (tiểu thuyết lịch sử kết cấu theo lối tuyến tính, tiểu thuyết lịch sử kết
cấu theo lối lắp ghép, đồng hiện).
2.2.1. Tiểu thuyết lịch sử nhìn từ dạng thức đề tài
2.2.1.1. Tiểu thuyết lịch sử sự kiện
Một trong những đặc trưng của thể loại TTLS là lấy đối tượng lịch sử làm nội dung
và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Nghĩa là, TTLS lấy đề tài và cảm hứng từ lịch sử của
một dân tộc hay một quốc gia nào đó. Có thể là các sự kiện, các nhân vật hoặc các giai
đoạn trong lịch sử. Bối cảnh, con người, không gian và thời gian trong TTLS phải thuộc
về cái thế giới của quá khứ. Do đó, cảm hứng lịch sử chi phối toàn bộ hệ thống đề tài, chủ
đề của TTLS. Nhưng TTLS không phải là kể lại lịch sử, tái hiện lại “sự thật lịch sử” một
cách cứng nhắc mà là sáng tạo ra diễn ngôn mới về lịch sử, nêu ra cách nói mới, góc nhìn
mới, phán xét mới, gợi mở khả năng mới. D.Brewseter và J.A.Burrell đã nhận xét: “Tác
giả TTLS sử dụng quá khứ như một khí cụ để vẽ lên những điểm tương đồng giữa quá
khứ và hiện tại và do đó làm sáng tỏ hiện tại.” [19, 132]. Nếu như các tiểu thuyết khác có
quyền sáng tạo theo quan điểm thẩm mĩ của nhà văn, thì TTLS chỉ được sáng tạo dựa trên
những cứ liệu lịch sử có sẵn, sáng tạo trong giới hạn của các “hằng số lịch sử”. Đồng thời,
nhà văn phải dùng tài năng của mình để xâu chuỗi, tái cơ cấu chúng, bồi da đắp thịt cho
chúng, tạo nên một tác phẩm tự sự hoàn chỉnh nhằm giúp độc giả lý giải lịch sử thông qua
một câu chuyện trọn vẹn về một giai đoạn, một số phận nào đó đã từng hiện hữu trong
quá khứ.
TTLS sự kiện là những tác phẩm viết về những sự kiện lịch sử trên cơ sở kết hợp
giữa hiện thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật nhằm làm sống lại lịch sử, không khí lịch sử,
khám phá những bí ẩn, khuất lấp, lý giải lịch sử từ hằng số sự kiện và tìm ra sợi dây liên
39
hệ giữa quá khứ với đời sống hiện tại. Trong dạng thức này, sự kiện đóng vai trò trung
tâm chi phối cấu trúc tự sự của tác phẩm. Nhân vật làm phông nền góp phần lý giải hiện
thực lịch sử. Trong đó, tái hiện chính xác các sự kiện lịch sử, không khí lịch sử là mục
tiêu hướng đến của Vũ Ngọc Đĩnh, Ngô Văn Phú, Trần Cư Sỹ, Lê Đình Danh,… Sự kiện
trong các sáng tác của họ được xác định cụ thể, chính xác bởi các mốc thời gian sự kiện
trùng khớp trong chính sử. Chẳng hạn, tiểu thuyết Tây Sơn bi hùng truyện (Lê Đình
Danh) đã cho thấy cuộc khởi nghĩa Tây Sơn hiện lên với tất cả tính chất phong phú, rộng
lớn và sinh động của nó. Đó là bức tranh chân thực về hiện thực lịch sử - xã hội Đại Việt
những năm thế kỉ XVIII - XIX. Những sự kiện chính như những cuộc tranh giành quyền
lực giữa hai thế lực Trịnh – Nguyễn, cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, sự sụp đổ của tập đoàn
phong kiến nhà Nguyễn và sự lên ngôi của Nguyễn Ánh,… mang đến cho người đọc bối
cảnh không gian và thời gian, những chân dung lịch sử tiêu biểu và chân thực.
Tuy nhiên, một số nhà văn tôn trọng cái bất biến của hằng số lịch sử nhưng không
dùng nguyên khối lịch sử để đặt vào trong tác phẩm mà đem sự trải nghiệm của bản thân
để bồi đắp cho căn cốt lịch sử trở thành đời sống với tất cả sự sinh động vốn có của nó.
Những tác phẩm của Nam Dao, Phạm Ngọc Cảnh Nam, Nguyễn Khắc Phục,… đã phát
huy tài năng hư cấu nghệ thuật của mình trên nền tảng kiến thức đầy đặn của hệ thống các
công trình chính sử. Sự kết hợp giữa hiện thực và hư cấu, những sự kiện lịch sử được ghi
trong sử sách hiện lên trùng trùng điệp điệp những tình tiết, sự kiện hư cấu “không bao
giờ kể hết được”. Trong những tác phẩm này, sự kiện lịch sử là đối tượng trung tâm,
nhiệm vụ của nhà văn là tìm cách giải mã nó theo cách nhìn của cá nhân mình. Vì thế, hầu
hết các sự kiện lớn vẫn được lựa chọn và giữ nguyên như trong chính sử, chỉ có điều cách
giải thích nguyên nhân cũng như bản chất của nó thì lại là những kiến giải mới mẻ ở
những vấn đề thế sự mà tác giả gắn vào cho nó. Thế kỉ bị mất được sáng tạo trên nền lịch
sử một trăm năm trước, gắn liền với phong trào cách mạng Duy Tân đất Quảng Nam.
Cuộc cách mạng khởi phát từ Quảng Nam sau đó lan rộng sang nhiều vùng miền trong cả
nước. Khả năng liên hệ quốc tế, sớm tiếp cận được tư tưởng dân chủ, dân quyền của
Montesquieu, Jean Jacques Rousseau hay hình thành mối quan hệ giữa Phan Châu Trinh
với Liên minh Nhân quyền và cá nhân Alfreud Ernest Babut… Tất cả các sự kiện trong
giai đoạn lịch sử này đều được tác giả nghiền ngẫm, xử lý theo cách riêng của mình thông
40
qua điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ ba và người kể chuyện xưng tôi – Cả Hinh. Đặc
biệt, với điểm nhìn của nhân vật Cả Hinh, sự kiện trong tác phẩm được tái hiện bằng nhãn
quan đương thời của chính người trong cuộc trở nên hiện thực, sinh động và khả tín hơn.
2.2.1.2. Tiểu thuyết lịch sử nhân vật
TTLS nhân vật là tiểu thuyết viết về nhân vật lịch sử trên cơ sở kết hợp giữa hiện
thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật nhằm làm sống lại lịch sử, khám phá những bí ẩn, khuất
lấp, lý giải lịch sử từ số phận cá nhân và tìm ra sợi dây liên hệ giữa quá khứ với đời sống
hiện tại. Một trong những đặc điểm nhận dạng dạng thức TTLS nhân vật thể hiện ngay
tiêu đề của tác phẩm: Hồ Quý Ly, Mạc Đăng Dung, Huyền Trân, Nguyễn Du, Lê Lợi, Bà
Triệu, Trương Vĩnh Ký – bi kịch muôn đời, Nguyễn Trãi (quyển 1: Oan khuất, quyển 2:
Bức huyết thư), Công ngữ Ngọc Vạn,… Nhân vật trong TTLS nhân vật vừa là nhân vật
chính vừa là nhân vật trung tâm. Loại hình nhân vật này không chỉ là nhân vật đóng vai
trò chủ chốt, xuất hiện nhiều, giữ vị trí then chốt của cốt truyện hoặc tuyến cốt truyện, là
cơ sở để tác giả triển khai chủ đề cơ bản của tác phẩm mà còn là “nơi quy tụ các mối mâu
thuẫn của tác phẩm, là nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm” [85, 283]. Đó là nhân
vật Hồ Quý Ly (Hồ Quý Ly), Lê Lợi (Lê Lợi), Lý Công Uẩn, Lý Thái Tông, Lý Thánh
Tông, Lý Nhân Tông, Lý Minh Tông, Lý Thần Tông, Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông
(Tám triều vua Lý), Nguyễn Du (Nguyễn Du), Nguyễn Trãi (Oan khuất); Trần Nguyên
Hãn (Người con trang Sơn Đông), Huyền Trân (Huyền Trân), Ngọc Vạn (Công nữ Ngọc
Vạn),…
TTLS nhân vật lấy nhân vật lịch sử làm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Đó là nhân
vật được xây dựng trên cơ sở nguyên mẫu lịch sử và chúng được sáng tạo do trí tưởng
tượng của nhà văn. Vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là sản phẩm sáng tạo của văn
chương, nhân vật của TTLS nằm trong khu vực tiếp xúc với cái hiện tại chưa hoàn tất và
những “khuôn mặt đời” ấy, sự kiện ấy hiện ra sinh động trên cái nền bức tranh lịch sử của
các triều đại. Tùy nhu cầu tái hiện đời sống và việc thể hiện giá trị thẩm mĩ khác nhau mà
mỗi nhà văn sẽ lựa chọn cho mình phương thức tổ chức tác phẩm riêng. Có nhà văn xây
dựng nhân vật bằng cách trung thành với nguyên mẫu lịch sử. Dấu ấn lịch sử được đánh
giá qua việc xây dựng hình tượng nghệ thuật, tôn trọng sự chính xác nguyên mẫu đến đâu.
Nguyên mẫu thường là nhân vật có thật mà tác giả lấy làm hình mẫu ban đầu để xây dựng
nhân vật văn học của mình. Nguyên mẫu lịch sử là con người có tên tuổi thật ngoài đời, là
người có bản lĩnh, trí tuệ, khát vọng và chiến công to lớn được lưu danh trong chính sử.
41
Với đời sống tinh thần của dân tộc, họ hiện diện như những tượng đài bất tử, chất chứa
tầm vóc và ước ao của cả tập thể cộng đồng. Họ được lịch sử ngợi ca theo cảm hứng sử
thi anh hùng: người anh hùng chống giặc ngoại xâm (Lê Lợi, Bà Triệu, Đinh Bộ Lĩnh
(Hàn Thế Dũng), Người con trang Sơn Đông (Nguyễn Anh Đào), Ứng vận thần vũ Lê Đại
Hành – Hoàng đế phá Tống (Vũ Ngọc Đĩnh), Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông
(Trần Đại Sỹ)); người anh hùng dựng nước, khai mở nền văn hiến Đại Việt (Tám triều
vua Lý (Hoàng Quốc Hải), Lý Công Uẩn (Ngô Văn Phú), Minh sư (Thái Bá Lợi); người
phụ nữ có công mở rộng bờ cõi Đại Việt (Huyền Trân (Nguyễn Hữu Nam), Công nữ
Ngọc Vạn (Ngô Viết Trọng)). Hoàng Quốc Hải từng khẳng định rằng ông chỉ muốn qua
tác phẩm của mình làm sống lại trang sử hào hùng của dân tộc. Ông kính phục tiền nhân,
họ không chỉ anh hùng ngoài chiến trận mà còn sống rất hào hoa, lịch lãm và trí tuệ. Đọc
tác phẩm của ông, ta thấy được dòng chảy của lịch sử, hiểu biết thêm những giá trị nhân
văn, phẩm giá, tài năng của cha ông ta và tự đáy lòng tự hào với lịch sử của dân tộc. Tuy
nhiên, nhân vật điển hình trong TTLS đương đại bắt nguồn từ những nguyên mẫu có thực
trong lịch sử, song không phải là bản sao chép khô khan mà trong quá trình khái quát hóa
nghệ thuật, nhà văn thường chọn lọc, đánh giá các tài liệu lịch sử theo cảm quan lịch sử
và nhận thức riêng, thể hiện ý đồ nghệ thuật của mình.
Khi ý thức nghệ thuật thay đổi, nhà văn có nhu cầu nhận thức lại lịch sử, giải mã
những góc khuất, những vùng bí ẩn, lấp đầy những khoảng trắng của lịch sử. Nhân vật
trong các sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh, Lưu Văn Khuê, Nguyễn Thế Quang, Thái Bá
Lợi, Bùi Anh Tấn… không đơn thuần là mô tả, minh giải lịch sử mà đưa ra luận giải,
phân tích, đối thoại với cảm hứng “giải thiêng”, từ đó, nhân vật được soi rọi dưới nhiều
góc độ khác nhau: tính cách, số phận, tâm hồn: “Các nhân vật của TTLS phải sinh động
hơn các nhân vật lịch sử, vì các nhân vật của TTLS được trao cho sự sống còn các cá
nhân lịch sử thì đã sống” [39, 176]. Biên độ sáng tạo nhân vật mở rộng theo nhiều chiều
kích, cho phép nhà văn nhìn nhận, đánh giá nhân vật ở tính “đa diện, lưỡng trị, nhiều
chiều”. Nhà văn khai phá con người ở góc độ đời tư – thế sự với cái nhìn đầy nhân bản,
nhân văn. Những vùng mờ, khuất lấp, bí ẩn trong tâm hồn của nhân vật như khát vọng
tình yêu (Huyền Trân, Lý Thường Kiệt, Lý Thánh Tông, Dương Vân Nga), khát vọng tự
do, bi kịch tâm hồn (Hồ Quý Ly, Mạc Đăng Dung, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn,
Nguyễn Du),… đều được các nhà văn đưa ra minh giải, luận bàn một cách thuyết phục và
sâu sắc. Đặc trưng khu biệt TTLS với các thể loại khác chính là cách tái hiện và tái tạo cái
lõi lịch sử vốn đã khắc sâu trong tâm thức cộng đồng. Thử thách đặt ra cho nhà văn là làm 42
sao vừa thể hiện quan niệm cá nhân vừa thuyết phục đông đảo độc giả. Cách xử lý chất
liệu lịch sử đầy sáng tạo sẽ hỗ trợ đắc lực cho nhà văn tạo dựng thế giới hình tượng độc
đáo, nêu bật những bài học có giá trị và ý nghĩa đối với cuộc sống hiện tại của con người.
2.2.1.3. Tiểu thuyết lịch sử văn hóa - phong tục
Với quan niệm xem lịch sử có một mối quan hệ gắn kết chặt chẽ với văn hóa, nói
như A. Poxxe: “Đối với tôi, một nhà văn, các sự kiện lịch sử quan trọng phải có tính chất
tự thân, mà là sự phản ánh những hiện tượng văn hóa. Tôi khai thác các vấn đề lịch sử và
“trá hình hóa” chúng theo cách của nói của Bakhtin, qua chúng khám phá ra các tầng văn
hóa”[105], các nhà TTLS Việt Nam đương đại ý thức sâu sắc về sự gắn kết giữa hai yếu
tố lịch sử và văn hóa trong sáng tạo của mình. Lịch sử với những biến cố, sự kiện hiện
diện trên bề nổi là những tầng giá trị ẩn ngầm như một hằng số quyết định sự thịnh suy
của một thời đại, một giai đoạn lịch sử. Tiêu biểu cho xu hướng này là tác phẩm Mẫu
Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Đất trời (Nam Dao),… Tuy
nhiên, xét trong từng tác phẩm cụ thể, cội nguồn văn hóa luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chi
phối toàn bộ tinh thần của tác phẩm như Phật giáo trong Tám triều vua Lý (Hoàng Quốc
Hải), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân
Khánh); phong tục tập quán của người Việt như ma chay, cưới hỏi, trò chơi dân gian, tập
quán sinh hoạt và trồng trọt; những nghi lễ, lễ hội… hiện diện như những dấu chỉ văn hóa
dân tộc, như một lớp diễn ngôn mới về lịch sử mà tân lịch sử gọi là “thi pháp học văn
hóa”. Sự hiện hữu của mô hình lịch sử mới khi đi vào những mảnh vụn đời sống, bỏ xa
các lịch sử chính trị, các cuộc đấu tranh mà đi vào lịch sử sinh hoạt, phong tục, bỏ qua các
lịch sử vĩ mô chuyển thành các lịch sử vi mô, nhỏ bé, bỏ qua ý thức hệ quan phương để
chọn điểm nhìn dân gian, văn hóa là cách làm của tư duy tân lịch sử.
Thực tế sáng tạo đã chứng minh rằng nhà văn Nguyễn Xuân Khánh xem văn hóa là
cội nguồn, sức sống trường tồn của dân tộc: “Lịch sử là cái kho tàng chứa đựng những mơ
ước ẩn ngầm của cái vô thức tập thể của cộng đồng dân tộc. Viết về lịch sử, ta có thể tìm
hiểu dân tộc ta sâu hơn. Văn hóa Việt cũng nằm trong dòng ấy, nhất là văn hóa làng xã”.
Nếu Hồ Quý Ly, yếu tố lịch sử, xã hội nổi bật hơn yếu tố văn hóa thì đến Mẫu Thượng
Ngàn và Đội gạo lên chùa, người đọc cảm nhận văn hóa Việt đã trở thành tâm điểm. Điều
đặc biệt làm nên sự nhất quán ở hai tiểu thuyết này là sự hòa trộn giữa lịch sử và văn hóa.
Từ Mẫu Thượng Ngàn đến Đội gạo lên chùa, nhà văn đã tạo cho tác phẩm của mình hình
ảnh những văn hóa làng xã trong quá trình tiếp biến văn hóa với những thay đổi lớn lao
của thời cuộc. Văn hóa làng gắn với những tín ngưỡng, phong tục tập quán, tôn giáo là sợi 43
chỉ đỏ xuyên suốt trong gần một thế kỉ của đời sống tinh thần cư dân Việt. Nguyễn Xuân
Khánh đã khám phá, lý giải cội nguồn bản sắc văn hóa Việt qua tín ngưỡng thờ Mẫu đậm
chất bản địa trong Mẫu Thượng Ngàn. Đạo Mẫu có sức mạnh cố kết cộng đồng, đồng thời
là nơi an ủi, xoa dịu và cứu rỗi những số phận bất hạnh, những thân phận nghiệt ngã của
những người phụ nữ (Bà tổ Cô, Ba Váy, Nhụ, Hoa,…). Nguyễn Xuân Khánh đã cố gắng
tái hiện sắc thái văn hóa tâm linh của người Việt cổ trong mỗi trang viết của Mẫu Thượng
Ngàn. Chính con người đã tạo ra văn hóa, tạo ra phong tục từ những nếp sinh hoạt hằng
ngày, từ những ước vọng tốt đẹp về một cuộc sống hoàn mỹ. Đội gạo lên chùa tiếp tục
mạch tự sự về văn hóa – lịch sử với những kiến giải về sức sống nội tại dân tộc Việt qua
những thăng trầm, bi thương của số phận người nông dân và văn hóa làng trong hình ảnh
Chùa Sọ. Đạo Phật luôn hiện tồn trong tâm thức của cư dân Việt. Trong tác phẩm, nhà
văn đã gắn lòng yêu thương con người như một bản tính Việt vào tinh thần từ bi hỷ xả ở
đạo Phật và coi đây như một tư tưởng chủ đạo xuyên suốt của tác phẩm. Đội gạo lên chùa
không chỉ lấy Phật giáo soi rọi, suy ngẫm các vấn đề về văn hóa, xã hội, triết lý nhân sinh
mà còn chạm đến những vấn đề muôn thuở của kiếp người. Tác phẩm hướng độc giả tìm
về nguồn cội, tìm lại những giá trị đáng quý trong tâm thức con người hiện đại.
Tư tưởng Thiền, tâm linh Phật với phương châm từ bi, hỷ xả, bác ái, yêu thương
con người còn xuất hiện rất nhiều trong những TTLS của Hoàng Quốc Hải, Võ Thị Hảo
và đặc biệt bộ ba tác phẩm Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Oan khuất, Bức huyết thư
của Bùi Anh Tấn. Tuy nhiên, trong những tác phẩm này, văn hóa trở thành điểm tựa để
nhà văn luận giải về các vấn đề nhân sinh, thế sự. Dưới cái nhìn văn hóa, nhà văn để cho
một số nhân vật có sự am hiểu về lĩnh vực tôn giáo như Đại sư Bảo Sát, Đạo trưởng An
Kỳ Sinh bàn bạc về “đạo”, về sự ra đời và vai trò “giáo hóa chúng sinh” của Đạo gia hay
mối quan hệ giữa Nho gia và Đạo gia, đặc biệt, tác giả đã làm rõ ảnh hưởng của tư tưởng
Phật giáo tới đạo trị nước, dựng nước, giữ nước và bảo vệ đất nước của các vị vua nhà
Trần từ Trần Thái Tông đến Trần Nhân Tông, đem đạo vào đời theo tinh thần “phụng sự
chúng sinh cúng dường chư Phật”. Phật giáo còn hiện hữu thông qua những địa danh văn
hóa như núi Yên Tử, nơi đặt xá lợi đức Điều Ngự Giác Hoàng hoặc văn hóa Chămpa với
nhiều màu sắc của xứ đất Phật gắn với đền đài, chùa miếu, ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng
Phật giáo của Điều Ngự Giác Hoàng trong quá trình tu tập.
Nhấn mạnh đến cội nguồn văn hóa thông qua việc khám phá, truy tìm hằng số lịch
sử và văn hóa trên tinh thần nhân văn, nhà viết TTLS không ngừng khai thác thân phận
con người đặc biệt là người nghệ sĩ trong cơn giông lốc cuộc đời. Đất trời của Nam Dao 44
đặt ra mẫu hình văn hóa của dân tộc thông qua hình tượng nhân vật Nguyễn Trãi. Bi kịch
cuộc đời của nhà văn hóa, quân sự - Nguyễn Trãi là xung đột văn hóa giữa người Kinh
(người quyết tâm Nho giáo hóa nền văn hiến) với người Mường (các võ tướng Lam Sơn),
lòng tận trung xung đột với sự hoài nghi, đố kỵ của chủ tướng. Tóm lại, văn hóa truyền
thống với những biểu hiện phong phú của nó vừa là “nội lực cố kết cộng đồng” vừa là
“phản lực tự vệ của dân tộc”. Các tác giả TTLS đương đại đã đi tìm “cái nhân dạng dân
tộc, cái bản sắc dân tộc” trong đề tài lịch sử, khơi sâu vào nguồn mạch để tìm cái sức sống
mãnh liệt của nền văn hóa Việt. Nhìn chung, sáng tác theo xu hướng này chiếm số lượng
tác phẩm không nhiều nhưng nó đã mở ra một triển vọng mới cho thể loại TTLS Việt
Nam đương đại.
2.2.1.4. Tiểu thuyết lịch sử luận giải
Nhu cầu khơi mở những bí ẩn và xung đột của lịch sử nhằm lý giải số phận của
con người trong dòng chảy lịch sử là những đặc điểm lớn của TTLS đương đại. Nguyễn
Xuân Khánh từng nhận định TTLS phải đi sâu khai thác các yếu tố như luận đề, tâm lý,
lựa chọn những giai đoạn lịch sử và sự kiện có tầm phổ quát để khai thác và luận giải gắn
với thân phận con người. Trong Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh đã đưa ra luận giải về
vai trò và ý nghĩa thời thế của nhân vật Hồ Quý Ly trong thời đại suy tàn của triều Trần.
Hơn thế, vấn đề xung đột giữa đổi mới và bảo thủ là chủ đề xuất hiện trở đi trở lại như
một cách nhà văn lý giải về lịch sử, gắn liền quá khứ và hiện tại. Để luận giải lịch sử, nhà
văn đã hiện đại hóa bút pháp trần thuật khi xây dựng thời gian đa chiều, hiện tại đan xen
quá khứ, vì thế, vấn đề cần luận giải được nhìn nhận từ nhiều góc độ và cung bậc khác
nhau. Vấn đề luận giải trong Hội thề (Nguyễn Quang Thân) là sự xung đột giữa quyền lực
võ biền với trí thức Thăng Long (giữa các võ tướng Lam Sơn và Nguyễn Trãi). Nguyễn
Quang Thân đã đưa ra một giả định về mối xung đột này khi đặt nó vào trong cuộc chiến
giữa quân ta và giặc Tống. Phải chăng đó là cách nhìn nhận của nhà văn khi lý giải các võ
tướng luôn mong mỏi đến chiến thắng để chiếm đoạt những thành quả của mình, ngược
lại, các trí thức Thăng Long, đứng đầu là Nguyễn Trãi, không màng đến danh lợi mà đặt
lợi ích hòa bình của dân tộc lên hàng đầu. Bên cạnh đó, việc tranh đoạt quyền lực giữa hai
phái phò Thái tử giữa võ quan với hoàng tử Nguyên Long và các trí thức Thăng Long với
công tử Tư Tề đã thúc đẩy mâu thuẫn lên đỉnh điểm, mà hậu quả của nó là cái chết bi
thương của gia tộc Nguyễn Trãi mãi về sau. Nhà văn đã sử dụng một lát cắt trong cuộc
chiến chống quân Minh để lý giải về lịch sử, góp phần khơi mở bí mật và những xung đột
của lịch sử bằng những kiến giải rất riêng của mình.45
TTLS đương đại không chỉ đưa ra những giả định để phân tích lịch sử mà còn
được lý giải gắn với thân phận con người trong sự biến chuyển của thời đại. Những thân
phận người dù anh hùng, tài hoa, lỗi lạc (Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Trần Nguyên
Hãn, Hoàng Hoa Thám…) hay những phận liễu yếu mỏng manh (Lý Chiêu Hoàng,
Nguyễn Thị Lộ, Ngọc Trần, Thanh Mai,…) đều chịu cơn địa chấn của lịch sử. Họ luôn cô
đơn, lạc loài, luôn nhận lấy những bi kịch do thời thế mang lại. Chính điều này khiến tâm
hồn độc giả luôn cảm thấy da diết và ám ảnh. Nguyễn Trãi trong Hội thề, Đất trời luôn
thể hiện là con người dấn thân vì khát khao nhân nghĩa, khát khao đem lại hòa bình cho
đất nước. Lòng ngay thẳng, cương trực đã khiến ông luôn phải nhận lấy biết bao thiệt
thòi, sự căm ghét của những võ tướng Lam Sơn, lòng hoài nghi của Lê Lợi. Ông luôn
dùng tài trí của mình để tìm lối thoát cho dân tộc nhưng những tư tưởng của ông lại đi
ngược với quyền lợi của nhà Lam Sơn, do đó, kết thúc bi thảm mà ông phải nhận lấy, phải
chăng là một tất yếu. Lịch sử mà tác giả kể và cố tái tạo qua tác phẩm với những yếu tố
mới hoặc được tư duy lại, thẩm định lại theo cách của người tiếp nhận hôm nay.
Xem lịch sử như một văn bản có nhiều khoảng trắng, một loại diễn ngôn hoặc đầy
thiên kiến sai lạc, hoặc có những lầm lẫn, lấp lửng, nhà tiểu thuyết cần “đọc lại” lịch sử,
“viết lại” lịch sử. Trong khi “đọc lại”, “viết lại” như vậy, nhà tiểu thuyết có thêm nhiều cơ
hội tỏ thái độ trước thưc tại. Nguyễn Xuân Khánh quay về quá khứ để suy tư những vần đề
hiện tại, ông không chủ quan phán xét lịch sử mà để cho nhân vật tự lên tiếng, để họ sống
lại một lần nữa và phán xét lịch sử. Điều này cũng là điểm gặp gỡ của những người cùng tư
tưởng như Võ Thị Hảo, tuy nhiên, Võ Thị Hảo đã sử dụng rất nhiều yếu tố hư cấu mang
tính chất hoang đường, kỳ ảo, bàng bạc màu sắc huyền thoại trong tác phẩm Giàn thiêu.
TTLS viết về lịch sử trong sự nhìn nhận, đánh giá lại lịch sử. Cảm hứng chủ đạo
trong các tiểu thuyết này là sự đánh giá lại một số nhân vật, sự kiện lịch sử còn gây nhiều
tranh cãi: Hồ Quý Ly trong tác phẩm cùng tên của Nguyễn Xuân Khánh, Mạc Đăng Dung
trong Mạc Đăng Dung (Lưu Văn Khuê), Lê Lợi trong Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Lý
Thường Kiệt trong Bí mật hậu cung, Trần Thủ Độ trong Đàm đạo về Điều Ngự Giác
Hoàng (Bùi Anh Tấn), vua Gia Long trong Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang),… Trong
những TTLS này, các nhân vật hay sự kiện lịch sử hiện lên với những nét mới mẻ theo
quan niệm cá nhân của người viết chứ không hoàn toàn lệ thuộc vào chính sử. TTLS theo
khuynh hướng này thể hiện “những ấn tượng và những suy tư cá nhân về các vấn đề của
lịch sử, nó nêu ra các vấn đề lịch sử và phản chiếu những suy tư cá nhân về những vấn đề
46
đó” [115]. Chẳng hạn, theo quan điểm chính thống, thì Trần Thủ Độ, Hồ Quý Ly và Mạc
Đăng Dung được xem là những loạn thần, tặc tử, giết vua để tiếm đoạt ngai vàng, triều đại
họ dựng lên bị coi là ngụy triều. Nhưng trong cách nhìn của Bùi Anh Tấn, Nguyễn Xuân
Khánh và Lưu Văn Khuê, hành động của họ được xem là “hợp lẽ trời”. Sự xuất hiện của
họ để mang đến không khí mới, thay đổi một triều đại đã trở nên thối nát, mục ruỗng,
không còn cách cứu chữa. Trong Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, nhà văn đã chọn
những sự kiện lịch sử quan trọng có liên quan đến nhân vật để luận giải, bằng cách để cho
các nhân vật bàn luận, nhận xét, đánh giá nhằm làm sáng tỏ vấn đề một cách khách quan
và công bằng nhất. Ví dụ, sự kiện thay triều đổi ngôi giữa nhà Lý vào tay nhà Trần dưới
bàn tay sắp đặt của Trần Thủ Độ hay việc ép vua Thái Tông từ bỏ Lý Chiêu Hoàng để lấy
chị dâu Thuận Thiên bị các nhà sử học lên án gay gắt. Thế nhưng trong nhu cầu đối thoại
để tìm ra chân lý chứ không dễ dàng chấp nhận sự phán xét của quá khứ, Bùi Anh Tấn đã
đưa cái nhìn khách quan công bằng cho tiền nhân thông qua cuộc bàn luận của nhân vật
học trò với Đạo trưởng An Kỳ Sinh, những cuộc tự vấn của Trần Thái Tông và Trần Thủ
Độ. Trong ván bài chính trị ấy, Trần Cảnh chỉ là con rối trong “tấn trò đời” quyền lực.
Trần Thủ Độ một mặt là con người tội lỗi, vì đam mê quyền lực mà vượt qua luân thường,
đạo lý, mặt khác, ông lại hết lòng vì dòng họ, đất nước, nhân dân. Phải chăng, đánh giá về
cuộc đời của ông, thế hệ hôm nay nên luận bàn cả tội lẫn công.
Có thể nói, viết về các nhân vật trên các nhà văn cũng đã trình bày, lý giải và đánh
giá lại những nhân vật lịch sử, mang đến cho người đọc cái nhìn toàn diện hơn với sức
thuyết phục lớn. Trong những TTLS này thì nhà văn vẫn coi lịch sử là đối tượng trung
tâm, và nhiệm vụ của nhà văn là tìm cách giải mã nó theo cách nhìn của cá nhân mình.
Tác giả dựa trên những cứ liệu lịch sử để đưa ra những kiến giải mới mẻ ở những vấn đề
thế sự mà tác giả gắn vào cho nó. Từ việc khai thác tâm lý nhân vật, các nhân vật lịch sử
không còn bị xa cách, không còn bị khô cứng, ước lệ nữa mà trở thành những con người
theo đúng nghĩa của nó. Đôi khi một anh hùng cũng là một nạn nhân của lịch sử. Ở
khuynh hướng này, lịch sử không được nhìn nhận như lịch sử của một đất nước, một dân
tộc, một vùng miền mà được nhìn nhận như lịch sử của cá nhân người viết. Lịch sử được
nhìn nhận theo quan niệm cá nhân, người viết có thể lật lại, xét lại, đánh giá lại lịch sử
47
theo quan điểm riêng của mình, có thể gắn vào lịch sử những vấn đề của thời đại mình
nhưng lịch sử vẫn phải là trung tâm của tác phẩm.
2.2.2. Tiểu thuyết lịch sử nhìn từ dạng thức kết cấu
2.2.2.1. Tiểu thuyết lịch sử kết cấu theo lối tuyến tính
Một trong những cách tân nghệ thuật mang lại thành công cho TTLS thập niên đầu
thế kỉ XXI chính là kết cấu. “Khung” là bình diện kết cấu dễ nhận biết dạng thức của tác
phẩm nghệ thuật. Chúng ta nhận diện khung của tác phẩm thông qua điểm mở đầu và kết
thúc của nó. TTLS với nhiệm vụ tái hiện tuần tự các sự kiện lịch sử theo một bút pháp
khách quan; các nhân vật và sự kiện lịch sử được kể theo mạch trật tự tuyến tính của thời
gian kể, người kể chuyện ngôi thứ ba toàn tri. Thời gian văn bản trong tác phẩm được
đóng khung trong những sự kiện. Nhân vật được kể và vận động theo trật tự tuyến tính
của niên biểu. Nhà văn dựa vào những sự kiện xác thực của lịch sử để tái tạo lại lịch sử, vì
vậy, thời gian văn bản trong TTLS mang tính cố định, cụ thể. Tương ứng với mỗi thời
điểm lịch sử, người kể không xáo trộn, không phân chia lại thời gian là để sự kiện lịch sử
vận động theo một trật tự thời gian nhất định và có hệ thống của lịch sử.
Một số TTLS giai đoạn này tiếp tục triển khai theo lối kết cấu tuyến tính, theo đó
cốt truyện được xây dựng trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt trình tự thời gian sự kiện, nghĩa
là sự việc nào có trước kể trước, sự việc nào có sau kể sau. Căn cứ vào điểm mở đầu và
kết thúc của văn bản tác phẩm, chúng ta dễ dàng nhận diện “quy mô bộ khung” của tác
phẩm: Lê Lợi, Bà Triệu (Hàn Thế Dũng), Trương Vĩnh Ký, bi kịch muôn đời (Hoàng Lại
Giang), Đất trời (Nam Dao), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Sắc đẹp khuynh thành (Kiều
Thanh Tùng), Tám triều vua Lý (Hoàng Quốc Hải), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh
Nam), Người con trang Sơn Đông (Nguyễn Anh Đào), Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang),
Huyền Trân (Nguyễn Hữu Nam),… Tuy nhiên, kết cấu tuyến tính trong tiểu thuyết hiện
đại và đương đại có những khác biệt so với truyện kể thời trung đại, do sự đan xen các
mảnh đoạn tâm lý của nhân vật, làm đảo tuyến cục bộ. Trong Đất trời, Nam Dao chia tác
phẩm thành hai phần: Đất cao và Trời thấp, mỗi phần, tác giả chia thành các chương theo
một trật tự thời gian tuyến tính của khung truyện kể với những sự kiện quan trọng: nhà
Hồ mất nước vào tay giặc Minh và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi (từ chương 1 đến
chương 6); Lê Lợi củng cố quyền lực, xây dựng đất nước cùng những hệ lụy sau chiến
tranh (từ chương 7 đến chương 11). Đan xen trong mạch tuyến tính của truyện là những
dòng độc thoại nội tâm, những hồi ức, những giấc mơ của Nguyễn Trãi khiến cho mạch
48
trần thuật bị gián đoạn. Tương tự như vậy, trong Nguyễn Du, Nguyễn Thế Quang cũng
chia tác phẩm thành 4 phần, mỗi phần chia thành nhiều chương nhỏ theo mạch chuyện về
cuộc đời “bắt buộc” làm quan cùng những khát khao tự do của người nghệ sĩ Nguyễn Du:
Nguyễn Du cáo quan về quê sống ẩn dật (Phần 1: Ra Bắc gồm 5 chương); vua Gia Long
triệu Nguyễn về kinh, giữ chức quan nhằm giám sát hoạt động của Nguyễn (Phần 2: Bó
thân với triều đình gồm 12 chương); thời gian Nguyễn xin về nghỉ ngơi, trốn chạy những
tranh đấu quyền lực để sáng tác Truyện Kiều (Phần 3: Đoạn trường tân thanh gồm 4
chương); những tranh đoạt quyền lực trong triều đình, Nguyễn tìm cách từ quan xin về ở
ẩn lần hai (Phần 4: Sóng gió cung đình gồm 8 chương); Nguyễn trở lại quê nhà, sống
cuộc đời bình lặng, sáng tác văn chương (Phần 5: Kết gồm 4 chương). Song song đó,
chúng ta thấy xuất hiện nhiều những mảnh đoạn tâm lý của Nguyễn Du, Gia Long như
độc thoại, dòng ý thức, hồi ức hay những dự báo về tương lai, làm đảo tuyến cục bộ mạch
tuyến tính của tác phẩm.
Tính chất tuyến tính của truyện kể thể hiện rõ trong việc xử lý các mốc thời gian sự
kiện theo lối biên niên sử. Thời gian trong Tám triều vua Lý cũng được đóng khung bằng
những sự kiện. Nhân vật được kể và vận động theo trật tự tuyến tính của dòng thời gian
có tính niên biểu. Nhà văn đã dựa vào những sự kiện xác thực của lịch sử để tái tạo lại
lịch sử, vì vậy, luôn có sự trật tự, không bị đảo lộn về thời gian cốt truyện và diễn biến
các sự kiện được trình bày khá rõ ràng, đôi khi chính xác đến từng ngày tháng. Ví dụ,
trong Thiền sư dựng nước, sự kiện Lý Công Uẩn dời đô về Đại La và đổi tên thành thành
Thăng Long diễn ra theo mốc thời gian tác phẩm (Giờ Dần, 10/7/1010) và thời gian trong
chính sử (Mùa thu, 7/1010) trùng khít nhau; sự kiện Thái tổ băng hà, Lý Phật Mã dẹp loạn
tam vương, lên ngôi hoàng đế (Giờ Sửu, ngày Mậu Tuất, tháng 3/1028) trùng khít với thời
gian trong chính sử (Ngày Mậu Tuất, 3/1028)…
Đổi mới tư duy thể loại được các nhà văn đương đại thực hiện thông qua kĩ thuật
tự sự như đa dạng hóa vai người kể chuyện, di động điểm nhìn, thủ pháp độc thoại nội
tâm, kĩ thuật dòng ý thức… Những tác phẩm tiêu biểu như Hội thề (Nguyễn Quang
Thân), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam), Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Bí mật
hậu cung (Bùi Anh Tấn), Đàn đáy (Trần Thu Hằng) không đơn thuần được trần thuật theo
kết cấu tuyến tính đơn phiến mà luôn được mở rộng khung truyện kể theo hướng đa
chiều: khách quan – chủ quan, đời tư – thế sự, dân tộc – cá nhân. Lúc này, lịch sử không
chỉ được luận giải theo trục thẳng về thời gian mà luôn có sự xáo trộn thời gian theo
49
hướng đảo thuật hay dự thuật. Lúc này, lịch sử không chỉ được luận giải theo trục thẳng
về thời gian mà luôn có sự xáo trộn thời gian theo hướng đảo thuật hay dự thuật. Ngoài
các sự kiện được kể theo mạch tuyến tính của thời gian truyện kể, còn có nhiều sự kiện
được tái hiện thông qua điểm nhìn của NKC hay nhân vật với những hồi ức hay dự báo về
tương lai. Do đó, lịch sử không chỉ là kênh diễn giải về quá khứ mà lịch sử trở thành đối
tượng chiêm nghiệm, luận giải dưới nhiều góc độ khác nhau: lịch sử với văn hóa, lịch sử
với tôn giáo, tín ngưỡng, lịch sử với văn hóa folklore, lịch sử với dân tộc,…
Ngoài ra, kết cấu theo lối chương hồi là một dạng thức của kiểu kết cấu tuyến tính
truyền thống khi dựa vào khung lịch sử của các triều đại để dựng khung truyện kể. Mặc
dù vận dụng kĩ thuật kết cấu chương hồi truyền thống nhưng TTLS thập niên đầu thế kỉ
XXI có nhiều đổi mới hiện đại về ngôn ngữ, về cách khắc họa nhân vật. Nhân vật là các
danh nhân nổi tiếng nhưng nội hàm tư tưởng lại hướng về các hiện trạng đương đại. Tiêu
biểu là những cuốn TTLS: Mười hai sứ quân, Hào kiệt Lam Sơn, Bắn rụng mặt trời của
Vũ Ngọc Đĩnh, Nam quốc sơn hà, Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông của Cư sĩ Yên
Tử Trần Đại Sỹ, Uy Viễn tướng công, Lý Công Uẩn của Ngô Văn Phú, Tây Sơn bi hùng
truyện của Lê Đình Danh, Thăng Long ký của Nguyễn Khắc Phục… Đặc điểm dễ nhận
thấy của TTLS chương hồi là mở đầu mỗi hồi đều có hai câu văn biền ngẫu tóm tắt nội
dung của hồi đó và kết thúc mỗi hồi đều có một câu: “Dục tri hậu sự như hà, thả kiến hạ
hồi phân giải” nghĩa là “Muốn biết sự việc xảy ra như thế nào, xem hồi sau sẽ rõ”. Mặc
dù sáng tác theo xu hướng này nhưng nhiều nhà văn không rập khuôn máy móc mà đã có
sự biến cải hiện đại hơn. Ví dụ, nếu TTLS của Vũ Ngọc Đĩnh và Trần Đại Sỹ tuân thủ
nghiêm ngặt công thức xây dựng tác phẩm theo kết cấu chương hồi truyền thống khi phân
tác phẩm thành các “hồi” thì TTLS của Ngô Văn Phú không đặt ra các “hồi” như tiểu
thuyết cổ điển Trung Quốc mà đặt thành các “chương”, không lặp lại các câu mở đầu đối
ngẫu và mẫu lời dẫn và lời kết mở nhưng lối kể chuyện ở ngôi thứ ba. Không sử dụng câu
văn biền ngẫu mà thay bằng những câu cách ngôn, châm ngôn, ca dao, thơ… làm đề từ,
với chức năng gợi mở ở đầu mỗi chương. Trong khi đó, mặc dù ra đời sau nhưng Tây Sơn
bi hùng truyện (Lê Đình Danh) lại tuân thủ khá nghiêm ngặt mô hình TTLS chương hồi
cổ điển: đặt ra các chương (thay cho các hồi) (5 phần với 70 chương), đặt hai câu đối
ngẫu đầu mỗi chương, sử dụng lối chuyển đoạn nhưng trên cơ sở cách tân nhằm mang sắc
thái riêng. Ví dụ, đầu Chương 1, tác giả đề dẫn:
Tại Đàng Ngoài, Tĩnh Đô Vương lộng hành giết chết Thái tử
50
Ở Đàng Trong, Trương Phúc loan lập mưu đoạt quyền Đô Thống
Hoặc đầu Chương 3:
Thành Phú Xuân hoàng tộc tranh quyền
Đất Quy Nhơn anh hùng hội tụ
Về phương diện tự sự, hầu hết các tác phẩm sử dụng lối kết cấu này thường có
dung lượng đồ sộ (Mười hai sứ quân (1847 trang), Hào kiệt Lam Sơn (1181 trang) của Vũ
Ngọc Đĩnh, Nam quốc sơn hà (1300 trang) của Trần Đại Sỹ, Thăng Long ký (862 trang)
của Nguyễn Khắc Phục, Tây Sơn bi hùng truyện (1200 trang) của Lê Đình Danh,…) và
được trần thuật theo phương thức NKC ngôi thứ ba với điểm nhìn toàn tri. Điều này đã
giúp nhà văn bao quát toàn bộ sự kiện lịch sử, nhân vật, không gian và thời gian lịch sử
rộng lớn. Chẳng hạn, Tây Sơn bi hùng truyện là tác phẩm thiên về các sự kiện, các chi tiết
ly kì, các cuộc giao tranh quyết liệt, tập trung đầu tư cho hành động và ngôn ngữ nhân
vật, chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại, nặng về kể và bình. Nhìn chung, kiểu kết cấu cổ điển
sẽ giúp người đọc dễ dàng nắm bắt cốt truyện của tác phẩm thông qua các phần, các
chương, mục, tạo nên mối liên kết chặt chẽ giữa các diễn biến nội dung của câu chuyện.
Tuy nhiên, kiểu kết cấu này dường như chưa đáp ứng được nhu cầu của độc giả hiện đại,
do đó, trong nỗ lực làm mới thể loại, kĩ thuật hiện đại ghi nhận thêm nhiều dạng thức kết
cấu lắp ghép, đồng hiện, phân mảnh, đa tầng bậc.
2.2.2.2. Tiểu thuyết lịch sử kết cấu theo lối lắp ghép, đồng hiện
Tiểu thuyết hiện đại phá vỡ hệ hình cũ với những kĩ thuật, thủ pháp riêng, định
hình những kiểu kết cấu mới. Xu hướng giảm nhẹ cốt truyện, nới lỏng độ căng của cốt
truyện đã làm cho tiểu thuyết hiện đại có cấu trúc phức tạp hơn với tính chất mở trên trục
thời gian và đường biên thể loại. Kĩ thuật lắp ghép của điện ảnh được các nhà tiểu thuyết
vận dụng như một “kĩ thuật giữ bí mật” nhằm đưa tiểu thuyết vào “những mê cung đầy
những ổ khóa”, chạy theo “tiếng gọi của trò chơi” luôn vận động và biến chuyển không
ngừng. Kiểu kết cấu này khiến cho cốt truyện lỏng lẻo, mơ hồ, co giãn, khó nắm bắt. Cấu
trúc tác phẩm được chắp nối từ những mảnh vụn của hiện thực. Trong dòng chảy đó, các
tiểu thuyết gia lịch sử mười năm đầu thế kỉ XXI tiếp tục phát huy kiểu lắp ghép (montage)
quá khứ và hiện tại của nhân vật, hành động luôn chuyển từ thời gian này sang thời gian
khác. Sử dụng kết cấu lắp ghép thông qua dòng chảy ký ức của nhân vật, hiện thực được
tiếp cận từ nhiều chiều: thời gian, không gian, điểm nhìn, các biến cố lịch sử gắn liền với
số phận con người, được phối hợp chặt chẽ tạo nên tính liên tục và ổn định cho tác phẩm.
51
Các tác phẩm tiêu biểu: Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn Xuân
Khánh), Minh sư (Thái Bá Lợi), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn),...
Giàn thiêu (Võ Thị Hảo) tiêu biểu cho kiểu kết cấu lắp ghép với sự phá vỡ trật tự
tuyến tính thông thường của thời gian sự kiện khiến quá khứ, hiện tại và tương lai xuất
hiện cùng một lúc, không bị ngăn cách, liên tục như một dòng chảy. Độ lệch giữa thời
gian truyện kể và thời gian kể chuyện thể hiện sự cách tân trên phương diện kết cấu cho
thể loại. Câu chuyện nhuốm màu sắc huyền thoại, kết cấu vòng tròn với khung thời gian
và không gian vô hạn định. Câu chuyện về cuộc đời của ba nhân vật nhưng sự thật là một
nhân vật với ba cuộc đời: Từ Lộ – Từ Đạo Hạnh – Lý Thần Tông. Theo mạch tuyến tính,
câu chuyện phải được bắt đầu từ lúc trẻ của Từ Lộ, biến cố gia đình đẩy Từ Lộ đến con
đường trả thù và tu hành đắc đạo thành Từ Đạo Hạnh, hóa kiếp thành Lý Dương Hoán để
trở thành Lý Thần Tông. Tuy nhiên, Giàn thiêu lại được trần thuật lắp ghép các sự kiện:
Lý Thần Tông lên ngôi (1127) – cuộc đời Từ Lộ với mối tình Nhuệ Anh (1088) – câu
chuyện về Lý Thần Tông làm vua và hóa hổ - Câu chuyện về Từ Lộ tu luyện thành Từ
Đạo Hạnh. Hai mảng hiện tại và quá khứ kết nối vào nhau, lý giải duyên nghiệp của nhân
vật Từ Lộ - Lý Thần Tông: một kiếp khổ nạn, một kiếp đế vương.
Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn Xuân Khánh) có sự lắp ghép nhiều mảng không gian
khác nhau: không gian văn hóa cộng đồng của làng Cổ Đình, không gian của cá nhân của
các nhân vật, không gian thờ cúng (thờ Mẫu), không gian tính dục, không gian xâm
chiếm, khai thác thuộc địa của thực dân Pháp… Thời gian truyện kể có sự biến chuyển
phi tuyến tính, song hành, đồng hiện, huyễn hoặc soi chiếu vào nhau. Hiện thực và huyền
ảo, ánh sáng và bóng tối, quá khứ và hiện tại luôn đan xen, trộn lẫn vào nhau tạo nên màu
sắc huyền thoại cho làng Cổ Đình vừa hư vừa thực, vừa gần vừa xa. Tác phẩm còn là sự
lồng ghép các câu chuyện với nhau một cách chặt chẽ: câu chuyện về làng Cổ Đình trong
cuộc chiến đấu chống lại Pháp xâm lược, sự giao thoa văn hóa Đông – Tây; câu chuyện
về cuộc đời và số phận của những nhân vật: Nhụ, Điều, bà Tổ cô, bà Ba Váy,…tất cả tạo
nên một cấu trúc hoàn chỉnh cho tác phẩm.
Minh sư (Thái Bá Lợi) sử dụng kết cấu hiện đại, lắp ghép, đồng hiện đan xen giữa
hiện tại và quá khứ khá độc đáo và mới lạ. Trong tác phẩm, những hồi ức về chiến tranh
1954 – 1975 của Đoàn Minh Thành và câu chuyện về chị Tư Trà là đầu mối dẫn chuyện.
Những ký ức về chiến tranh và lịch sử vùng Thuận – Quảng luôn ám ảnh Thành, nó thôi
thúc anh tìm về quá khứ: hành trình mở cõi của chúa Nguyễn Hoàng. Có thể thấy, kết cấu
tiểu thuyết Minh sư có sự phân mảnh, lắp ghép liên tục nhiều câu chuyện khác nhau ở 52
những mảng thời gian xa – gần nối nhau liên tục: câu chuyện về lịch sử mở cõi xuống
phương Nam của chúa Nguyễn Hoàng (thế kỉ XVI – XVII); câu chuyện về Đoàn Minh
Thành với những suy ngẫm, hồi tưởng, ghi chép và đi đến các địa danh trong lịch sử, xen
lẫn câu chuyện của chị Tư Trà với hiện thực chiến tranh chống Mĩ. Xét về dung lượng,
tương quan của các tuyến truyện, câu chuyện về chúa Nguyễn Hoàng chiếm phần lớn, tuy
nhiên nhìn từ bên ngoài là câu chuyện của Thành và chị Tư Trà như là cách dẫn nhập vào
nội dung của tuyến truyện về Chúa Nguyễn. Đây là một dạng kết cấu “truyện lồng
truyện”, “sử lồng truyện”. Hai tuyến truyện đan cài vào nhau tạo thành các lớp sóng hồi
cố, nối hiện tại vào quá khứ bằng sự suy nghĩ đương thời của các nhân vật.
Khai thác cuộc sống góc cạnh, nhiều chiều, cuộc sống như những mảnh vỡ được
lắp ghép, cắt dán, các nhà văn còn lựa chọn lối kết cấu dựa trên những nỗ lực sáng tạo
tiểu thuyết đương đại. Kết cấu đồng hiện góp phần mở rộng biên độ thể hiện hiện thực
lịch sử nhằm xóa nhòa khoảng cách giữa quá khứ và hiện tại, tạo nên cái nhìn đa chiều về
cuộc sống và con người. Lịch sử trong cái nhìn hiện đại không đơn thuần là lịch sử của
các sự kiện liên quan đến sự tồn vong của một quốc gia mà còn được mở rộng biên độ
sang địa hạt của văn hóa, phong tục, tín ngưỡng (Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn Xuân
Khánh), Oan khuất (Bùi Anh Tấn)), dã sử, huyền thoại, kỳ ảo (Giàn thiêu (Võ Thị Hảo),
Đất trời, Gió lửa (Nam Dao), Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn)), gia tộc, dòng họ, thậm chí
lịch sử gắn liền với đời tư, thế sự, nhân sinh (Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Nguyễn Du
(Nguyễn Thế Quang))… Nhìn chung, với việc tiếp cận những kĩ thuật điện ảnh (lắp ghép,
đồng hiện) TTLS đương đại đã thể hiện những cách tân đầy sáng tạo, đa dạng, chứa đựng
những quan niệm mới của nhà văn về hiện thực, phản ánh nhiều vấn đề của cuộc sống, gia
tăng tính đối thoại và luận giải của tiểu thuyết, làm thay đổi cách tiếp nhận của độc giả.
Tóm lại, đổi mới dạng thức TTLS kết cấu theo hướng hiện đại thể hiện những nỗ lực của
các nhà văn đương đại. Tùy vào mục đích, ý đồ nghệ thuật và tư tưởng của nhà văn mà
các tác gia lựa chọn một phương thức kết cấu tối ưu trong việc xây dựng cốt truyện, hệ
thống sự kiện, nhân vật, không – thời gian nhằm giải mã, chiếm lĩnh và khơi mở lịch sử,
văn hóa và con người trong quá khứ.
2.3. Các xu hướng và dạng thức tiểu thuyết lịch sử nhìn từ tương tác thể loạiTheo Bakhtin, lịch sử văn học trước hết là sự hình thành, phát triển, tương tác giữa
các thể loại: “Một vấn đề rất quan trọng và lý thú nữa là sự tác động qua lại giữa các thể
loại trong tổng thể thống nhất của văn học từng thời kỳ” [11, 25]. Với Bakhtin, mỗi thời
kỳ trong lịch sử văn học được đánh dấu bằng một thể loại chủ đạo, có vai trò chi phối và 53
quán xuyến toàn bộ sự đổi thay và những cung bậc cụ thể của tấn kịch văn học. Khi tiểu
thuyết thống ngự ở trung tâm, nó lôi kéo tất cả các thể loại khác vào vòng biến động, tiến
trình tương tác thể loại thực sự bắt đầu diễn ra ngay trong bản thân mỗi thể loại và trong
toàn bộ hệ thống thể loại. Bakhtin cho rằng: “Tiểu thuyết cho phép đưa vào, lắp ghép vào
trong nó nhiều thể loại khác nhau, cả những thể loại nghệ thuật (truyện ngắn, thơ trữ tình,
những trường ca, những màn kịch nói…) lẫn những thể loại phi nghệ thuật (các thể văn
đời sống hằng ngày, văn hùng biện, khoa học, tôn giáo…), về nguyên tắc bất cứ thể loại
nào cũng có thể được đưa vào cấu trúc tiểu thuyết và trên thực tế rất khó tìm được một thể
loại nào chưa bao giờ và chưa được ai đưa vào tiểu thuyết” [11, 131]. Kundera có quan
niệm đồng nhất với khái niệm liên văn bản của Bakhtin khi đưa ra khái niệm cách kể đa
âm: là “sự sáp nhập những thể loại phi tiểu thuyết (truyện ngắn, phóng sự, thơ, tiểu luận,
…) vào tiểu thuyết” [74,79]
Các nhà hình thức luận Nga, M.Bakhtin, G.Genette xem sự pha trộn thể loại chính
là những biểu hiện của tính liên văn bản. Tương tác thể loại là “hiện tượng hai hay nhiều
thể loại của một giai đoạn, một thời kì, một nền văn học, thuộc về một hay nhiều hệ thống
thể loại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, xâm nhập vào nhau, mô phỏng nhau,… để cùng
biến đổi hoặc hình thành thể loại mới (với cấu trúc ít nhiều thay đổi về “tố chất thẩm mĩ
chủ đạo”, “giọng điệu”, “dung lượng và cấu trúc chung của tác phẩm.”” [120, 5]. Tương
tác thể loại diễn ra trên các loại quan hệ khác nhau: giữa loại với loại, giữa thể với loại,
giữa thể với thể, giữa yếu tố với yếu tố. Tương tác thể loại có thể diễn ra theo các hình
thức chính: tổng hợp thể loại, đổi ngôi – tiếp sức giữa các thể loại, loại bỏ, thay thế thể
loại. Với TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI, chúng tôi nhận thấy không chỉ lịch sử trở thành
cảm hứng chủ đạo mà nó còn pha trộn cả thơ, truyện ngắn, những đối thoại đầy tính chất
kịch, cổ tích, truyền thuyết, huyền thoại… để mở rộng biên độ thể loại.
2.3.1. Sự xâm nhập của truyện ngắn trong tiểu thuyết lịch sử
Trước khi bàn luận đến sự tương tác giữa truyện ngắn và TTLS, cần đề cập đến
những vấn đề nòng cốt, đặc trưng của hai thể loại. Truyện ngắn và TTLS đều là những
hình thức hư cấu tự sự bằng văn xuôi. Hai thể loại này đều nằm trong khu vực tiếp xúc
với cái hiện thực đang vận động và phát triển, đều huy động kinh nghiệm sống và từng
trải của chính tác giả, đều sử dụng một thứ ngôn ngữ văn xuôi giàu chất tạo hình và đa
thanh. Trong quá trình phát triển, TTLS cũng như truyện ngắn sẽ thâu nạp thêm những
đặc điểm mới do sự tác động qua lại giữa các thể loại, do sự chi phối của các trào lưu và
phương pháp sáng tác, của các phương tiện đọc và cách đọc, nghe, nhìn qua các thế kỉ. 54
Tuy nhiên, TTLS là một hình thức tự sự cỡ lớn, hình thức kể chuyện cỡ lớn, khác với
truyện ngắn là một hình thức tự sự nhỏ, hình thức kể chuyện cỡ nhỏ. Lịch sử xuất hiện
trong truyện ngắn không phải là những sự kiện có tầm quy mô, hoành tráng với trường độ
thời gian mà chỉ là những “khoảnh khắc”, “lát cắt” của lịch sử. Nếu nhân vật trong tiểu
thuyết là một thế giới thì nhân vật trong truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới.
Truyện ngắn không nhằm tới việc khắc họa những tính cách điển hình có cá tính đầy đặn,
nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật truyện ngắn thường là hiện thân cho
một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người. Trong
truyện ngắn, tính cách điển hình chỉ được nêu lên ở một phút sáng chói nào đó, nhưng
trong tiểu thuyết thì đó là toàn bộ lịch sử của con người được miêu tả trong sự vận động
và phát triển của nó. Cốt truyện của truyện ngắn thường tự giới hạn về thời gian và không
gian nhưng chức năng của nó là để nhận ra một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người
trong cuộc sống. Truyện ngắn thường chọn một sự kiện quan trọng nào đó, còn trong tiểu
thuyết có nhiều sự kiện, nhiều tuyến cốt truyện đan chéo, chồng chất lên nhau. Trong
truyện ngắn, hành động cơ bản được bắt đầu ngay một cách mau lẹ chứ không phải được
dắt dẫn từ từ như trong tiểu thuyết. Kết cấu của truyện ngắn thường gồm nhiều tầng truyện
và thường được dựng theo kiểu tương phản, liên tưởng. Bút pháp trần thuật thường là
chấm phá. Yếu tố có ý nghĩa quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là chi tiết có dung
lượng lớn và hành văn ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.
Với tư duy tiểu thuyết, truyện ngắn có độ nén, tính vấn đề, tính mở, tính đa âm rất
cao. Do đó, tương tác giữa truyện ngắn và TTLS là sự xâm nhập của hình thức tự sự cỡ
nhỏ vào trong cấu trúc tự sự cỡ lớn. Nhìn từ góc độ thể loại có thể thấy TTLS giai đoạn
này có sự nới rộng cấu trúc thể loại, “mở rộng trường nhìn”, góp phần tạo nên nhiều tiếng
nói khác nhau trong tiểu thuyết. Tính liên thể loại thể hiện qua hai hình thức chính: truyện
lồng truyện và lắp ghép truyện.
Một trong những tìm tòi, sáng tạo nhằm đổi mới tư duy thể loại là việc các tác giả
sử dụng kĩ thuật “lồng truyện”. Theo đó, các nhà văn đưa một hoặc nhiều truyện ngắn vào
tiểu thuyết tạo nên hiện tượng truyện ngắn trong tiểu thuyết với ranh giới tác phẩm rõ
ràng nhưng vẫn có mối liên hệ chặt chẽ với cấu trúc chỉnh thể tác phẩm. Trong những tác
phẩm của mình, các nhà văn như Võ Thị Hảo, Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải,
Nam Dao, Nguyễn Thế Quang, Bùi Anh Tấn thiết kế một cách linh hoạt, kín đáo khi thể
hiện cấu trúc “lồng” những truyện truyền thuyết, truyện cổ tích, những truyện huyền thoại
vào tiểu thuyết một cách đa dạng tạo nên sự cộng hưởng giữa hai thể loại, mở rộng đường 55
biên cho TTLS đương đại. Trong đó, Võ Thị Hảo đưa vào trường tự sự Giàn thiêu những
mảnh ghép truyện về cuộc đời huyền thoại của nữ sĩ Lê Thị Đoan, Ngạn La, huyền tích về
Dã Nhân, Cá Bơn; Hoàng Quốc Hải đưa vào Tám Triều vua Lý những câu chuyện truyền
thuyết về Lý Công Uẩn, thiền sư Vạn Hạnh, Định Hương, câu chuyện phò trợ vua Lý
Thánh Tông của Bà Triệu, truyền thuyết về hai vị tướng Trương Hống, Trương Hát,
những cổ tích về cuộc đời của thôn nữ Lê Thị Khiết; Nam Dao lồng vào tác phẩm Đất
trời câu chuyện truyền kì về sự báo oán của rắn mẹ thông qua việc hóa thân thành
Nguyễn Thị Lộ, câu chuyện về thanh gươm báu của Thần Kim Quy, truyền thuyết về vụ
án Lệ Chi Viên; Hội thề bổ sung cho cốt truyện những thiên truyền thuyết về sự nổi giận
của Thần Sông,… những câu chuyện ngắn tuy tách biệt nhưng lại lặn sâu trong cấu trúc
tác phẩm tạo nên sự hòa hợp một cách khéo léo.
Lồng truyện hay lắp ghép truyện đều là những biểu hiện của tính chất liên văn bản
trong nỗ lực mở rộng đường viền của thể loại. Đó là “tổng thể các quan hệ với những văn
bản khác được tìm thấy bên trong văn bản” [73]. Tuy nhiên, xét từ góc nhìn thể loại, kĩ
thuật lắp ghép thể hiện rõ ý thức nghệ thuật của nhà văn trong việc đưa những câu chuyện
do chính mình sáng tạo nhằm hướng đến mục đích, ý đồ nghệ thuật nào đó. Trần Viết
Thiện gọi đó chính là “trò chơi rubic mà sự cố tình đặt bên cạnh nhau những mảng màu
khác nhau đã tạo cho tác phẩm một bức tranh nhiều màu sắc trong tiểu thuyết đương đại”
[121, 60]. Ưu điểm của thể loại tự sự cỡ nhỏ đã được các nhà TTLS đương đại sử dụng
trong việc lắp ghép những câu chuyện rời rạc tạo thành trường tự sự cỡ lớn nhằm đạt tới
khả năng bao quát hiện thực lịch sử rộng lớn, phù hợp với đặc trưng thể loại. Có thể kể
đến những tác phẩm tiêu biểu như: Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn
Xuân Khánh), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Minh sư (Thái Bá Lợi), Đàm đạo về Điều Ngự
Giác Hoàng, Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn),…
Giàn thiêu (Võ Thị Hảo) lắp ghép hai câu chuyện: câu chuyện về vua Lý Thần
Tông (từ chương IX đến chương XV), câu chuyện về Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh (từ chương
XVI đến chương XXI). Mỗi chương là một câu chuyện ngắn nhỏ có thể tách thành một
truyện ngắn hoàn chỉnh về mặt nội dung và hình thức của thể loại. Theo dõi mạch thời
gian cốt truyện, người đọc dường như bị đánh lừa bởi hai câu chuyện về hai nhân vật
hoàn toàn khác nhau, tuy nhiên, đến gần cuối tác phẩm, chỉnh thể tác phẩm hiện rõ, giải
thích cho duyên nghiệp của nhân vật: Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh chính là Dương Hoán - Lý
Thần Tông. Tương tự, Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn) không chỉ thể hiện sinh động và
sâu sắc mối tình trớ trêu giữa hai con người tài hoa lỗi lạc vào bậc nhất nhà Lý: Lý 56
Thường Kiệt và Lý Thánh Tông mà còn lắp ghép, đan xen vào tác phẩm mối tình éo le và
đầy oan trái giữa Gia Tân và Dương Đức Vệ, Gia Tân và Ngô Minh. Nhìn vào cấu trúc
tác phẩm, mặc dù câu chuyện về Lý Thường Kiệt và Lý Thánh Tông thể hiện đầy đủ nhan
đề của tác phẩm nhưng chỉ chiếm 112/394 trang (28.4%), trong khi đó, câu chuyện về Gia
Tân lại chiếm phần lớn dung lượng tác phẩm 282/394 trang (71.6%). Như vậy, trò chơi
mà tác giả tạo ra khi sáng tạo phần phụ lớn hơn phần chính, chuyện ngoài trung tâm lớn
hơn chuyện trung tâm. Nhìn vào bề mặt văn bản, người đọc dường như cảm thấy tác
phẩm là sự hời hợt, lỏng lẻo hay sự lan man, sa đà của tác giả trong việc tạo lập giá trị cho
tác phẩm. Tuy nhiên, nhìn vào chỉnh thể cấu trúc tác phẩm, chúng ta nhận ra rằng việc
xây dựng hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau nhưng tác giả lại đặt chúng trong một bối
cảnh lịch sử, có sự gắn kết về mặt thời gian và không gian thể hiện rõ ý đồ nghệ thuật
nhằm làm sáng rõ chủ đề của tác phẩm: thân phận con người trong quá khứ khi mang tình
yêu nghịch dị.
Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng với hình thức tự sự mới lạ khi sáng tạo nên
phương thức đa chủ thể trần thuật. Trong lời kể của 6 nhân vật người kể chuyện là sáu câu
chuyện được lắp ghép, kết dính vào nhau tạo nên một mạch tự sự về triều đại nhà Trần:
người kể chuyện hàm ẩn (NKC1), Trần Thái Tông (NCK2), Trần Thủ Độ (NKC 3), Trần
Tung (NKC 4), Thiền sư Bảo Sát (NKC 5), Trần Nhân Tông (NKC 6). NKC hàm ẩn kể
về sự kiện nhà Trần thay nhà Lý và vai trò của Trần Thủ Độ, những thịnh suy và hưng
vong của hai triều đại cùng thân phận của những người phụ nữ trong toan tính chính trị
của các triều đại. NKC 2 – vua Trần Thái Tông đã kể về chính cuộc đời cùng những đớn
đau, dằn vặt trong mối tình chính trị đầy bi kịch với Lý Chiêu Hoàng. NKC 3 – Trần Thủ
Độ trong cơn hấp hối với những biện minh, sám hối của một con người nhuốm đầy máu
và nước mắt vì sự nghiệp dòng họ, đất nước. Bên cạnh đó, tác phẩm mang đến cho người
đọc những phần khuất lấp trong cuộc đời bi thương của Trần Liễu qua lời kể của Trần
Tung (NKC 4). Thiền sư Bảo Sát lí giải nhiều vấn đề quốc gia dân tộc khi trực tiếp luận
bàn, đàm đạo với Điều Ngự Giác Hoàng. Trần Nhân Tông xuất hiện trong vai trò NKC 6,
đồng thời cũng là chứng nhân trong các câu chuyện của Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ.
Câu chuyện về những cuộc chiến chống giặc Mông – Nguyên đầy khốc liệt và vinh
quang, những trăn trở, khoắc khoải về Đạo – Đời trong việc trị nước an dân cùng những
khát khao hòa hợp dân tộc đều hiển hiện trong từng câu chuyện của nhà vua. Nhìn chung,
TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI tận dụng triệt để ưu thế lớn nhất của mình trong việc thu
nhận và dung chứa tất cả các thể loại: thơ, kịch, truyện ngắn… để mở rộng trường nhìn, 57
biên độ sáng tạo và khả năng tiếp cận hiện thực lịch sử, từ đó, tiếp cận được cuộc sống đa
tầng bậc, đa sắc màu của con người đương đại.
2.3.2. Sự xâm nhập của thơ trong tiểu thuyết lịch sử
Thơ trong TTLS không phải là hiện tượng mới, đó là sự thể hiện cho tính chất liên
thể loại, sự xếp chồng các lớp văn bản. Thơ xuất hiện dày đặt trong TTLS, theo kết quả
khảo sát, hầu hết tác phẩm TTLS giai đoạn này đều có sự thâm nhập của thơ vào trong
cấu trúc tự sự nhưng ở mức độ đậm nhạt khác nhau. Thơ xuất hiện trong tác phẩm thực
hiện nhiều chức năng khác nhau, trong đó, thơ được dùng làm đề từ nhằm định hướng tư
tưởng cho tác phẩm hoặc gợi nguồn cảm hứng sáng tạo cho tác giả. Chẳng hạn, trong ba
tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh đều sử dụng câu thơ đề từ: Hồ Quý Ly (Thường độc
hành, thường độc bộ/Đạt giả đồng du niết bàn lộ (Thiền sư Huyền Giác); Thiên giang hữu
thủy, thiên giang nguyệt/Vạn lý vô vân, vạn lý thiên (Trần Thái Tông)); Mẫu Thượng
Ngàn (Cô Chín ngự đồng dệt gấm thêu hoa/Thêu non, thêu nước, cô thêu ra đôi rồng
chầu; Đẹp lạ đẹp lùng…/Rõ ràng cô Chín trong đền Sòng cô giá lâm (Văn Cô Chín)); Đội
gạo lên chùa (Cư trần lạc đạo thả tùy duyên/Cơ tắc san, hề khốn tắc miên/Gia trung hữu
bảo, hưu tầm mịch/Đối cảnh vô tâm, mạc vấn Thiền (Trần Nhân Tông)). Trong nhiều tác
phẩm, thơ không chỉ thể hiện chức năng minh họa cho hoạt động sáng tác, đối đáp, ngâm
vịnh, truyền dạy giáo lý giữa các nhân vật mà nó còn là phương tiện để cấu thành cốt
truyện, mở rộng đề tài, thể hiện chủ đề, nới rộng biên độ thể loại, thực hiện chức năng kết
nối liên văn bản. Giàn thiêu (Võ Thị Hảo) là trường hợp tiêu biểu. Tác phẩm có bốn phần
thì mở đầu ba phần đều là những bài thơ độc đáo: phần 2 (Ru cá bơn), phần 3 (Bài ca đầu
lâu dã nhân), phần 4 (Bài ca chu sa đỗ tễ). Dưới đây là bài thơ Ru cá bơn:
Trơn
Lạnh
Những chiếc vẩy biết khóc
À ơi…
Lời ru cá bơn
mồ côi
Lời ru cá bơn
À ơi
Ai chôn chữ trinh ba vạn
À ơi…
Ai chém chữ trinh chín ngàn58
Ru nào
Mỹ nhân đọa xoáy nước
Ngơ ngẩn đường tu
Ru nào
Cá bơn
Phơi thân cỏ rạp.
Xét về mặt kết cấu, có thể xem mỗi bài thơ như một chương văn bản khi xem xét
dấu hiệu văn bản của mỗi bài thơ được sắp xếp như một chương mặc dù không có tên
chương. Ngoài ra, trong Giàn thiêu rất nhiều lời trong kinh Phật xen kẽ trong văn bản, có
những đoạn lời kinh Phật rất dài có chức năng như một chương mở đầu tác phẩm (chương
I – Chương VIII) giống các bài thơ Ru cá bơn, Bài ca đầu lâu dã nhân, Bài ca chu sa đỗ tễ.
Ngoài ra, phần lớn thơ trong TTLS là phương thức chuyển tải tâm trạng của nhân
vật trữ tình, nhân vật bộc lộ suy nghĩ, tư tưởng, tình cảm, đồng thời là kênh chuyển tải
triết lý nhân sinh sâu sắc của tác giả. Những bài thơ như Tiểu sơn thiên (Từ Huệ), Việt
giang ngâm (Tô Dịch Giản), Nam quốc sơn hà (khuyết danh), … được lồng vào trong cấu
trúc Giàn thiêu giúp cho nhân vật thể hiện cảm xúc, phơi bày tâm trạng, tạo nên chất thi
vị, trữ tình, làm giảm độ căng cho tác phẩm. Những bài thơ chữ Hán được tập hợp thành
tập Bắc hành tạp lục ghi lại những địa danh, hình ảnh, nhân vật, cảnh vật và hoàn cảnh
mà Nguyễn Du (trong tác phẩm cùng tên) đã trải nghiệm, cùng những hoài niệm riêng tư
cảm nhận trong hành trình sứ bộ sang Trung Hoa. Đặc biệt, Đoạn trường tân thanh là
tiếng kêu thân phận cho những kiếp người chịu nhiều bất công, ngang trái, là “nỗi khát
khao tự do của người nghệ sĩ trước thực tại nghiệt ngã, bủa vây” [65, 106].
Có thể thấy rằng, sự xâm nhập của tôn giáo trong TTLS đã tạo nên bức tranh đa
sắc cho thể loại. Trong các sáng tác của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị
Hảo, Bùi Anh Tấn, thơ thiền trở thành yếu tố liên văn bản tham gia tạo dựng cấu trúc tác
phẩm. Với cảm hứng viết về hai triều đại Lý – Trần (thời đại cực thịnh của Phật giáo),
Hoàng Quốc Hải đan cài rất nhiều bài thơ thiền của các vị thiền sư như Vạn Hạnh, Đỗ
Pháp Thuận, Viên Chiếu, Huệ Năng, Thần Tú, Tịnh Giới, Mãn Giác… như là cách thể
hiện những triết lý về lẽ biến thiên xoay vần của lịch sử, vũ trụ và con người. Trong Đàm
đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn) có 15/20 bài thơ thiền được tác giả đan cài
vào mạch phát triển của những câu chuyện. Những bài thơ thể hiện đạo trị nước của Đỗ
Pháp Thuận (Vận nước như mây cuốn/Trời Nam mở thái bình/Vô vi trên các điện/ Xứ xứ
hết đao binh); niềm tin lạc quan, tự tại thấm nhuần lẽ vô thường trong triết học Phật giáo 59
của Thiền sư Bảo Sát, Tuệ Trung thượng sỹ, Điều Ngự Giác Hoàng (Suốt đời một hơi
thở/Tình đời hai biển trăng/Cung ma đâu sá kể/Cõi Phật một trời xuân.). Ngoài ra, Bùi
Anh Tấn còn đưa vào trong tác phẩm Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Oan khuất rất
nhiều bài thơ, lời thơ một cách tự nhiên, có thể là cả bài thơ hoặc vài câu thơ. Những lời
thơ thường mang tính bình và dự báo về nội dung. Phần “bàn” (phần mở đầu trong Đàm
đạo về Điều Ngự Giác Hoàng), nhà văn đưa vào một bài thơ của Nguyễn Trãi viết về vua
Trần Nhân Tông có vai trò khái quát về nội dung cho phần “bàn” về nhân vật. Trong Oan
khuất, có nhiều bài thơ đan xen như bài Cảm hoài của Đặng Dung, những lời thơ của
quan Phụ đạo đọc khi ông luyện võ, hoặc Nguyễn Trãi thể hiện tâm sự về cuộc sống, sinh
hoạt riêng tư khi sống ẩn dật ở Côn Sơn qua bài thơ Đời làm quan. Tóm lại, TTLS đương
đại thu nhận nhiều thơ, giàu chất thơ, mang lại cho thể loại một vẻ tươi mới, đưa tiểu
thuyết nói chung và TTLS nói riêng chiếm lĩnh vị thế trung tâm của đời sống văn học,
đồng thời khẳng định khả năng uyển chuyển, linh hoạt giữa các thể loại “không thể nào
thực hiện một sự phân loại hợp lý và vững chắc các thể loại” [126, 271].
2.3.3. Sự xâm nhập của kịch trong tiểu thuyết lịch sử
Theo Bakhtin, tiểu thuyết chính là những tiếng nói xã hội khác nhau, đôi khi là những
ngôn ngữ xã hội khác nhau và những tiếng nói cá nhân khác nhau được tổ chức lại một cách
nghệ thuật. Tiểu thuyết là “sự va chạm, tương tác và chồng lấn lên nhau” giữa các thể loại.
Hiện thực cuộc sống sôi động với bao bộn bề, ngổn ngang thúc đẩy nhà văn đương đại phải
đối thoại và tìm cách giải quyết thông qua những sáng tạo nghệ thuật. Heghen nhấn mạnh
rằng “tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch”. Với kịch chân lý lịch
sử là chân lý lịch sử bên trong của sự xung đột, còn xung đột trong TTLS chỉ là bộ phận của
toàn thể cái thế giới mà nó thể hiện. Tiểu thuyết đưa đến một hiện thực xã hội đã được xác
định trong một thời đại bằng toàn cục sắc thái và không khí riêng của thời đại đó. Do tiểu
thuyết mô tả cái toàn cục của các đối tượng nên nó phải đi vào các chi tiết nhỏ của đời sống
thường nhật và thời gian của hành động. Trong một thế giới nhiều mảnh vỡ, tồn tại bao nhiêu
tình thế giàu xung đột nảy sinh: xung đột giữa cái cũ và cái mới, giữa bảo thủ và đổi mới
trong Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc
Cảnh Nam); giữa tư tưởng nhân nghĩa và cướp đoạt trong Hội thề (Nguyễn Quang Thân);
giữa tình yêu và dục vọng trong Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Bí mật
hậu cung (Bùi Anh Tấn); giữa tự do và quyền lực trong Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang),
Minh sư (Thái Bá Lợi), Huyền Trân (Nguyễn Hữu Nam); giữa trí thức với quyền lực, giữa
dục vọng, bản năng với lý trí trong Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Oan khuất (Bùi Anh 60
Tấn); giữa Đạo và Đời trong Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn), Tám triều
vua lý (Hoàng Quốc Hải)… Nhiều mối xung đột nảy sinh trong đời sống hiện thực lịch sử,
trong suốt chặng đường dựng nước và giữ nước (xung đột giữa ta và địch): Bà triệu, Lê Lợi –
Hàn Thế Dũng; Tám triều vua Lý Hoàng Quốc Hải, Hội thề – Nguyễn Quang Thân, Đất trời
– Nam Dao,… được các nhà TTLS đương đại mang ra luận giải, đối thoại như là một cách
mô tả hướng vận động của hiện thực lịch sử.
Một trong những đặc trưng cơ bản của kịch là tính tập trung. Trong đó, cốt truyện phải
tập trung, phải dồn nén, chứa đựng những tình tiết thật sự tiêu biểu và cần thiết, có ý nghĩa
tượng trưng và khái quát cao. Đó là cốt truyện “thuần túy”. Do đó, cốt truyện và hành động
kịch phải thống nhất tập trung, đòi hỏi chi tiết, tình tiết, sự kiện không những phải cô đúc,
gãy gọn mà còn phải liên đới với nhau một cách chặt chẽ, logic, tất yếu, tự nhiên. Chẳng hạn,
trong Con đường định mệnh, Hoàng Quốc Hải sử dụng kĩ thuật tỉnh lược thời gian, tập trung
dồn nén rất nhiều sự kiện diễn ra trong giai đoạn lịch sử rất dài 153 năm. Trong 550 trang
đầu, người kể chuyện thuật lại câu chuyện về những năm đầu tiên trị vì của Lý Nhân
Tông diễn ra trong vòng 5 năm (trung bình 110 trang/năm). Từ đời Lý Thần tông trở về
sau, nhà văn chỉ quy về một không gian thật hẹp, tập trung vào các sự kiện chứ không đi
vào miêu tả tỉ mỉ các sự kiện ấy. Cuộc đời ngắn ngủi của Lý Huệ Tông được kể trong
vòng 46 trang sách với tốc độ trần thuật trung bình là 3.54 trang/năm. Ngắn ngủi và giản
lược nhất là giai giai đoạn cuối cùng của triều Lý, với cách kể ngắn gọn: “Lý Huệ Tông
lập công chúa Phật Kim làm hoàng thái tử Chiêu Thánh. Lại kèm thêm một chiếu nữa:
Chiếu nhường ngôi… Trần Cảnh vào chầu, nữ chúa vời vào hậu cung chơi bời cho có
bạn…thế là hai trẻ thành thân. Được mấy tháng sau ngày cưới, Trần Thủ Độ lại bày ra
chuyện nhường ngôi….Thế là nhà Lý mất ngôi nước, nhà Trần tự nhiên được ngôi nước
mà không hao tổn máu xương” [tr.979 – 980].
Tiểu thuyết đương đại ngày càng có xu hướng rút ngắn về dung lượng, đó là kết quả của sự thâm nhập các đặc tính tập trung của kịch. Lựa chọn cách viết ngắn gọn buộc nhà văn phải xây dựng tác phẩm cô đúc về dung lượng, có sức nén, phải chọn thời điểm đặc biệt, mang tính vấn đề cao. Khi sáng tạo tiểu thuyết Hội thề, Nguyễn Quang Thân đã chọn thời điểm đặc biệt (dăm bảy ngày trước sau trận Xương Giang), chọn một không gian hẹp là thành Đông Quan và vùng Kinh Bắc, những nhân vật kiệt xuất (Lê Lợi, Nguyễn Trãi), những tình huống giàu ý nghĩa xã hội. Tác phẩm là một nhát cắt của lịch sử với bao suy tư, bao gợi mở thổi về từ quá khứ 600 năm, tác phẩm có sức lay động trái tim và tư duy con người hiện đại. Nguyễn Quang Thân qua Nguyễn Trãi đặt vấn đề vị trí, tài năng và số phận của người trí thức
61
dưới chế độ phong kiến. Đối thoại và xung đột kịch có thuận lợi để tái hiện tính cách nhân vật một cách chân thực. Nhiều tác phẩm được các tác giả tái hiện trên dòng vận động lịch sử và theo sự chọn lọc giai đoạn triều chính suy tàn và lập quốc của các của triều đại: nhà Lý và nhà Trần trong Tám triều vua Lý, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng; nhà Trần và nhà Hồ trong Hồ Quý Ly; nhà Lê và nhà Nguyễn trong Tây Sơn bi hùng truyện, Minh sư… Các nhân vật Trần Thủ Độ, Thiên Cực, Chiêu Thánh, Trần Thái Tông, Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Nguyễn Hoàng… mỗi người có cá tính và bản lĩnh riêng đều muốn làm theo ý mình nhưng rồi cũng bị guồng máy chính trị chi phối phải làm những việc khác với chính mình. Tuy nhiên, TTLS còn có những yếu tố ngoài cốt truyện (miêu tả phong cảnh, khắc họa nội tâm, những đoạn triết lý, bình luận…). Cốt truyện kịch được dẫn dắt theo quy luật nhân quả, các mối liên hệ phải thật chặt chẽ, có những chỗ ngoặt, những đoạn đột biến, những bước nhảy vọt được cấu tạo bằng những sự việc bất ngờ gây hứng thú, buộc người xem phải theo dõi liên tục. Ngược lại, người đọc TTLS có thể lướt qua những đoạn mà mình không thích.
Nhân vật trong kịch là nhân vật hành động. Nhân vật kịch có suy nghĩ cũng phải thể hiện ra bằng hành động. Nhân vật thường xuyên hoạt động, thực hiện hành động này tới hành động khác dẫn đến sự chồng chất dồn nén tạo thành xung đột kịch: Từ Lộ, Ỷ Lan (Giàn thiêu), Trần Thủ Độ (Tám triều vua Lý, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng), Hồ Quý Ly (Hồ Quý Ly), Cả Hinh, Lụa (Thế kỉ bị mất), Trần Khắc Chung (Huyền Trân), Bạch Dung (Đàn đáy), Nguyễn Hoàng (Minh sư),… Nhân vật Từ Lộ trong Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), ngay từ đầu xuất hiện là một người yêu say đắm Nhuệ Anh và là chàng thư sinh, nho nhã. Cái chết oan khuất của cha đã làm thay đổi suy nghĩ và hành động của Từ. Từ quyết tâm lên đường tìm cách trả thù. Hành động từ bỏ tình yêu Nhuệ Anh, vượt qua bao khó khăn đến Thiên Trúc học phép thuật, quay về giết Đại Điên, đặc biệt khát vọng tình yêu không thực hiện được trong hiện thực luôn cháy bỏng trong lòng Từ, để đến khi trở thành thiền sư Từ Đạo Hạnh, tu hành đắc đạo nhưng Từ vẫn luôn ấp ủ thực hiện những khát vọng nhằm hưởng thụ hết những gì đã bỏ lỡ. Càng ngày Từ càng dấn sâu vào khát vọng bản năng, những tham vọng quyền lực. Càng dấn thân càng thất vọng, càng khát khao càng không được thỏa mãn. Hóa hổ là hậu quả tất yếu của lòng tham quá lớn trong Từ. Tóm lại, sự xâm nhập của kịch trong TTLS là sự tương tác giữa loại và thể theo hình thức tiếp sức, tổng hợp thể loại, là sự tương tác mang tính đồng đại, tạo nên sự dung hợp thể loại. Đây là mối tương tác trong cùng hệ thống, mang tính đồng đại tạo nên quá trình chuyển thể thể loại một cách dễ dàng. Từ đó, TTLS và kịch có thể chuyển hóa qua
62
lại, tạo nên những tác phẩm kịch lịch sử hoặc kịch bản sân khấu, kịch bản phim, điển hình là trường hợp Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Oan khuất, Bức huyết thư (Bùi Anh Tấn)…
Ngoài ra, trong TTLS còn xuất hiện rất nhiều những thể loại khác như các văn bản chính luận và các thể loại văn học trung đại như hịch, chiếu, biểu, cáo, như phú, hát nói, truyện truyền kì, quái dị… Ví dụ, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi xuất hiện trong Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Đất trời (Nam Dao); Hịch tướng sĩ, Nam quốc sơn hà trong Tám triều vua Lý (Hoàng Quốc Hải), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn), những bài hát nói trong Đàn đáy (Trần Thu Hằng),… Bên cạnh đó, chúng ta còn nhận thấy tiểu thuyết lịch sử được mở ra theo chiều hướng mới khi có sự thâm nhập của yếu tố huyền thoại tạo nên dạng thức TTLS huyền thoại, tiêu biểu là Giàn thiêu (Võ Thị Hảo). Đây là khuynh hướng xuất hiện không nhiều nhưng đã mở ra chiều kích mới trong việc tiếp cận hiện thực lịch sử theo cái nhìn hiện đại, luận giải và đối thoại với lịch sử. Nhìn chung, sự tương tác với nhiều thể loại và yếu tố ngoài hệ thống thực sự là những thể nghiệm độc đáo của tiểu thuyết lịch sử. Nhìn vào tiến trình vận động và phát triển của thể loại, có thể nhận thấy, chính sự tương tác với truyện ngắn, thơ, kịch, các yếu tố huyền thoại, tôn giáo, tín ngưỡng… theo chiều đổi ngôi, tiếp sức, tổng hợp thể loại tạo nên sự đa dạng về xu hướng và dạng thức tiểu thuyết lịch sử, thậm chí sinh thành nhiều thể loại mới: tiểu thuyết lịch sử văn hóa – phong tục, tiểu thuyết lịch sử huyền thoại, truyện ngắn lịch sử, kịch lịch sử... Bên cạnh đó, tương tác theo chiều tổng hợp thể loại tạo điều kiện cho TTLS giai đoạn này phát huy tối đa trường phản ánh hiện thực và con người trong thời đại mới. Sự thay đổi tư duy thể loại đặt con người trong sự quan sát từ góc nhìn cá nhân, kéo con người sử thi trở về đời thường với hành trình đi bản thể, tìm lại chính mình hoặc thậm chí nhìn vào sâu thẳm trái tim mình để tự thú, sám hối, đối thoại với chính lương tri của mình. Ví dụ, Từ Lộ trong Giàn thiêu trải qua bao kiếp người vẫn loay hoay kiếm tìm bản thể, kiếm tìm một điều gì đó mơ hồ tựa như tình yêu, tựa như cuộc sống đích thực của một con người. Khả năng tổng hợp, tiếp sức, đổi ngôi giữa các thể loại còn tạo nên sự đổi mới mạnh mẽ phương thức tự sự của thể loại TTLS. Trong đó, TTLS được đổi mới theo hướng đa dạng hóa hình tượng người kể chuyện, gia tăng vai trò, chức năng của người kể chuyện, đặc biệt, có sự chuyển hóa linh hoạt giữa các dạng thức người kể chuyện, đôi khi người kể chuyện mất đi vai trò mà nhường vai trần thuật cho nhân vật trong tác phẩm (Hồ Nguyên Trừng trong Hồ Quý Ly, Ba Váy trong Mẫu Thượng Ngàn, Cả Hinh trong Thế kỉ bị mất …); hay những nỗ lực làm mới thể loại trên cơ sở gia tăng điểm nhìn trần thuật, đổi mới diễn ngôn lịch sử, giọng điệu…tạo nên diện mạo hoàn toàn mới mẻ cho TTLS giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI.
63
Tiểu kếtCó thể thấy, với tư duy tiểu thuyết đương đại, đặc biệt, tư duy tân duy sử thúc đẩy
các nhà TTLS thời kỳ này không ngừng đổi mới phương thức tiếp cận lịch sử. TTLS tuy
mượn đề tài lịch sử nhưng không né tránh thực tại. Thông qua lịch sử, nhà văn trình bày
quan niệm của mình về lịch sử trong đó có quan niệm nghệ thuật về con người trong quá
khứ nhằm giải mã những bí ẩn của lịch sử. Đó chính là cách nhà văn mang đến cho người
đọc cái nhìn của mình về thực tại thông qua chính lịch sử của dân tộc. TTLS là tác phẩm
mang trọn đặc trưng của tiểu thuyết nhưng lại lấy nội dung của lịch sử làm đề tài, làm
cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Ở đây, tác giả dựa vào những câu chuyện trong quá khứ
cộng với hư cấu để tạo nên một tác phẩm gây hứng thú với người đọc. Mức độ hư cấu ở
mỗi tiểu thuyết là khác nhau tùy vào dụng ý nghệ thuật của tác giả. Trải qua gần một thế
kỉ, TTLS đã vận động mạnh mẽ từ quan niệm truyền thống “trung thành” với lịch sử đến
quan niệm hiện đại “luận giải, đối thoại, nhận thức lại” lịch sử’; từ đơn giản về nội dung
và nghệ thuật thể hiện đến đa dạng hóa, phong cách hóa nghệ thuật tự sự và đổi mới
phương thức xây dựng hình tượng nghệ thuật, từ đó, tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này gặt
hái được nhiều thành tựu đáng trân trọng. Sự đổi mới tư duy và quan niệm về thể loại thúc
đẩy sự phát triển và đổi mới của các xu hướng và dạng thức thể loại. TTLS giai đoạn này
thực sự đã tạo một bước đột phá khi có sự mở rộng biên độ kết cấu: từ kết cấu truyền
thống chuyển dần sang kết cấu hiện đại/ hậu hiện đại, từ cảm thức lịch sử đơn chiều
chuyển dần sang cảm thức lịch sử đa chiều, từ đó, hiện thực lịch sử được khám phá nhiều
chiều, đa dạng, phức tạp, lý giải được các vấn đề thế sự, nhân sinh. Bên cạnh đó, TTLS
đặt trong xu hướng tương tác thể loại với các thể loại khác theo hình thức tiếp sức, tổng
hợp thể loại đã làm cho TTLS giai đoạn này thực sự mở rộng tối đa biên độ sáng tạo, tạo
nên nhiều lớp diễn ngôn lịch sử mới.
64
Chương 3
ĐẶC TRƯNG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỈ XXI
– NHÌN TỪ THẾ GIỚI NHÂN VẬT
3.1. Các kiểu nhân vật
Trong tác phẩm văn học, nhân vật có mối quan hệ máu thịt với nhà văn.
Iu.M.Lotman cho rằng nhân vật là một sự lắp ghép những nét khu biệt (…), những nét
phân biệt với tính cách là một đơn vị, trong khi đó, theo G.N.Popelop thì các nhân vật
trong một tác phẩm nghệ thuật thực sự tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Chúng hình
như đều liên quan nhau không chỉ móc nối nhau bằng tiến trình sự kiện được miêu tả
(không phải bao giờ cũng thế) mà suy cho cùng còn bằng tư duy nghệ thuật của nhà văn.
Hệ thống nhân vật bộc lộ nội dung của tác phẩm, nhưng tự nó lại là một trong các phương
diện của kết cấu tác phẩm. P. Hamon dựa trên phân tích văn bản cho rằng nhân vật được
phân chia thành ba phạm trù: Phạm trù nhân vật – qui chiếu, phạm trù nhân vật – chỉ xuất,
phạm trù nhân vật trùng lặp. Theo E.M.Foster trong Diện mạo tiểu thuyết (1927) thì nhân
vật được chia theo hai xu hướng: nhân vật dẹt – không có chiều sâu và nhân vật tròn – cá
tính phức tạp. Theo Phương Lựu, nhân vật văn học được phân loại dựa trên các góc độ:
Xét trên phương diện tư tưởng, căn cứ vào phẩm chất nhân vật có thể chia nhân vật thành
ba loại: nhân vật chính diện và nhân vật phản diện và nhân vật trung gian. Dựa vào kết
cấu, ý thức hệ và cấu trúc của tác phẩm, ta có ba loại nhân vật: nhân vật chính, nhân vật
trung tâm và nhân vật phụ. Xét từ góc độ thể loại ta có nhân vật tự sự, nhân vật kịch, nhân
vật trữ tình. Trong đó, nhân vật tự sự là nhân vật được miêu tả theo phương thức tự sự và
xuất hiện trong các tác phẩm tự sự, đặc biệt là tiểu thuyết. Nhân vật tự sự được miêu tả đầy
đặn, phong phú và đa dạng nhất. Xét từ góc độ chất lượng nghệ thuật chúng ta có nhân vật
tính cách, nhân vật điển hình. Xét về cấu trúc, nhân vật được chia thành nhiều loại: nhân vật
chức năng, nhân vật “loại hình”, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng,… Những sự phân
biệt loại hình như trên mang tính chất tương đối, loại này bao hàm yếu tố của loại kia,
nhưng xét trong từng thể loại chúng ta tìm thấy nét ưu trội trong từng cấu trúc của chúng để
xem xét loại hình nhân vật. 65
Quan niệm tự sự đương đại cho thấy cái nhìn phức hợp, đa dạng hơn trong việc
phân chia kiểu loại nhân vật trong tiểu thuyết. Hoàng Cẩm Giang dựa trên góc độ loại
hình, chức năng biểu đạt và tính chất hành động, phân loại nhân vật trong tiểu thuyết Việt
Nam đầu thế kỉ XXI trên các cấp độ: Cấp độ tâm lý – tính cách (ý thức, tiềm thức, vô
thức, bản năng, tư tưởng); Cấp độ thân phận – hành động (nạn nhân, chứng nhân, chủ thể
lịch sử); Cấp độ chức năng tự sự (người kể chuyện, nhân vật, người đọc, tác giả,…). Dựa
trên góc độ loại hình nhân vật văn học, Mai Hải Oanh phân chia nhân vật trong tiểu
thuyết Việt Nam thời kì đổi mới thành các kiểu: kiểu nhân vật tự ý thức, kiểu nhân vật bi
kịch, nhân vật tha hóa và bị tha hóa, nhân vật dị biệt. Trong khi đó, Nguyễn Thị Kim
Tiến trong luận án Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới đã phân chia
nhân vật dựa trên phương diện bản chất xã hội và loại hình văn học (bình diện xã hội,
mục đích thể hiện nhân vật): con người dưới góc nhìn bản chất xã hội bao gồm người
lính, người nông dân, người tri thức; con người dưới góc nhìn loại hình văn học bao gồm
con người lịch sử - văn hóa, con người “huyền thoại”, con người “dị biệt”. Nhìn chung, sự
mở rộng trường nhìn của các nhà văn và sự đa dạng của các khuynh hướng nghệ thuật nên
việc thể hiện thế giới nhân vật trong tiểu thuyết hết sức đa dạng và phong phú. Do đó,
việc khu biệt một số loại hình nhân vật như trên dường như các tác giả đã làm nghèo đi sự
phong phú của nhân vật trong loại hình tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới.
Đối với thể loại TTLS, có nhiều quan niệm khác nhau trong việc phân loại nhân
vật. Chẳng hạn, Phạm Xuân Thạch phân loại nhân vật nhìn từ góc độ ngữ nghĩa, xuất hiện
đồng thời trong các TTLS cả ba dạng nhân vật: nhân vật – chủ thể của tiến trình lịch sử,
nhân vật – nạn nhân của lịch sử và nhân vật – kẻ quan sát lịch sử. Nguyễn Thị Tuyết
Minh dựa trên cấp độ loại hình nhân vật để phân chia nhân vật trong TTLS Việt Nam từ
1945 đến 2008 thành các kiểu: nhân vật mang khát vọng lịch sử, nhân vật số phận trong
dòng lịch sử, nhân vật biểu tượng, nhân vật lưỡng diện, đa diện.
Trong Về lý thuyết tự sự của N.Frye, tác giả Phan Thu Hiền dựa vào lý thuyết về
chức năng hành động của nhân vật của N.Frye (Giải phẫu phê bình, 1957) để phân loại
nhân vật:
1. Nếu năng lực hành động ấy siêu tuyệt hơn về loại đối với cả con người
lẫn môi trường của con người, ta có nhân vật là thần linh, và câu chuyện về
nhân vật đó là một thần thoại.66
2. Nếu năng lực hành động ấy siêu tuyệt hơn về mức độ đối với cả con
người lẫn môi trường của con người, ta có nhân vật của romance, với hành
động phi thường, kỳ diệu nhưng được nhận diện như con
người. Romance có thể bao gồm huyền thoại, truyện dân gian, những thể
loại văn chương bắt nguồn hoặc mang đặc tính cơ bản của chúng.
3. Nếu năng lực hành động ấy siêu tuyệt hơn về trình độ đối với người đồng
loại nhưng không siêu tuyệt đối với môi trường tự nhiên của nhân vật, ta có
nhân vật của thức bắt chước cao – thức này bao gồm phần lớn các sử thi và
bi kịch.
4. Nếu năng lực hành động ấy không siêu tuyệt đối cả với môi trường lẫn
người đồng loại, ta có nhân vật của thức bắt chước thấp – thức này bao gồm
phần lớn hài kịch và tự sự hiện thực chủ nghĩa.
5. Nếu năng lực hành động đó kém hơn so với chúng ta, chúng ta có cảm
giác khinh thị và nhân vật thuộc mô thức châm biếm, mỉa mai.[110, 60]
Từ lý thuyết này, soi chiếu vào trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu
thế kỉ XXI, chúng ta có thể nhận dạng một số kiểu nhân vật tương ứng với từng thức nhân
vật theo quan niệm của N.Frye: ứng chiếu với mô thức thứ 3 là kiểu nhân vật sử thi, nhân
vật anh hùng với những khát vọng lịch sử lớn lao; thức thứ 2 tương ứng với kiểu nhân vật
huyền thoại, kiểu nhân vật với hành động phi thường, kỳ diệu nhưng được nhận diện như
con người; thứ thứ 4 tương ứng với kiểu nhân vật đời tư – thế sự, khi nhân vật không siêu
tuyệt đối với môi trường lẫn người đồng loại, nhân vật là một trong chúng ta. Người đọc
tiếp nhận nhân vật bằng kinh nghiệm của mình với cảm giác về tính người bình thường
của nó và đòi hỏi tác giả về một nguyên tắc thể hiện. Nhìn chung, sự phân chia các loại
hình nhân vật chỉ mang tính chất tương đối bởi trong thực tế sáng tác chúng có sự trùng
khít lẫn nhau. Các loại nhân vật trên không xuất hiện đồng thời với lịch sử văn học nhưng
chúng có thể đồng hiện song song trong một nền văn học, đôi khi trong cùng một tác
phẩm. Bên cạnh đó, tiểu thuyết là một thể loại đang trong tiến trình vận động và biến đổi
không ngừng, điều đó sẽ kéo theo sự thay đổi của loại hình nhân vật.
67
3.1.1. Nhân vật sử thi hóa
Nằm trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, TTLS giai đoạn
1900 – 1986 mang trong mình cảm hứng sử thi, với những tác phẩm của các tác gia tiêu
biểu như: Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Triệu Luật, Hà Ân, Thái Vũ,… Có thể nói, thể
loại sử thi không lùi vào quá khứ mà nó xuất hiện trong “các sự kiện quan trọng, có ý
nghĩa quyết định đối với đời sống tinh thần và vận mệnh của dân tộc và nhân dân… thể
hiện tinh thần, trí tuệ bộ tộc và thời đại lịch sử” [72, 66]. TTLS sau 1986 đến những năm
đầu thế kỉ XXI, tiếp tục chịu nhiều ảnh hưởng của cảm hứng sử thi khi quan niệm về con
người gắn liền với hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của dân tộc. Đó là con người sử thi, con
người cộng đồng, con người sứ mệnh. Họ là những anh hùng, gánh vác sứ mạng lịch sử
thiêng liêng của dân tộc, sẵn sàng hy sinh những gì thuộc về cá nhân để hướng về cái
chung. Họ là những người anh hùng gắn liền với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu
tranh chống giặc ngoại xâm. Ngoài tầm vóc vũ trụ, nhân vật anh hùng sử thi còn sáng
ngời vẻ đẹp của đức hạnh, trí tuệ, tài năng và lòng dũng cảm. Tuy nhiên, do nhu cầu đổi
mới phản ánh hiện thực trong văn học, các nhà văn đã không còn nhìn con người anh
hùng như những người khổng lồ nữa mà thay vào đó là cái nhìn đa chiều, đa cảm xúc:
vừa tự hào yêu mến vừa đầy giả định, suy xét. Con người sử thi/anh hùng trở thành đối
tượng để suy ngẫm, chiêm nghiệm, giả định, phán xét đồng thời là đối tượng để bộc lộ cái
tôi đầy riêng biệt của nhà văn. Trong tác phẩm của những nhà văn như Vũ Ngọc Đĩnh,
Hoàng Lại Giang, Hoàng Quốc Hải, Lê Đình Danh, Hàn Thế Dũng, Trần Đại Sỹ, Ngô
Văn Phú, Nguyễn Khắc Phục hoặc một số tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn
Quang Thân, Thái Bá Lợi, Bùi Anh Tấn… cảm hứng sử thi không còn giữ vai trò chủ đạo
nhưng vẫn không thể thiếu trong việc xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng.
Theo quan niệm của những nhà TTLS trước 1986 như Nguyễn Huy Tưởng,
Nguyễn Triệu Luật, Hà Ân, Thái Vũ, Nguyễn Tử Siêu,… người anh hùng có lý tưởng cao
đẹp, lý tưởng dựng nước và giữ nước, coi khinh danh lợi, dám xả thân vì sự nghiệp của
dân tộc, có lòng căm thù giặc sâu sắc: Triệu Thị Trinh (Ngọn cờ vàng – Đinh Gia Thuyết,
Phạm Ngũ Lão, Yết Kêu, Trần Hưng Đạo (Trần Nguyên chiến kỷ – Nguyễn Tử Siêu),
Phấn (Trùng Quang tâm sử – Phan Bội Châu)…, đặc biệt sau 1945, dưới ánh sáng của
hiện thực xã hội chủ nghĩa, hình tượng người anh hùng được lý tưởng hóa thành những
68
tượng đài sử thi trong mối tương quan với tập thể, dựa trên sức mạnh của tập thể, đại diện
cho tập thể, sống và lớn lên từ trong tập thể và được tập thể xây dựng thành những người
anh hùng mang phẩm chất của quần chúng cách mạng, của cả dân tộc và thời đại. Có thể
kể đến như Nguyễn Hữu Cầu (Quận He khởi nghĩa – Hà Ân), Trần Hưng Đạo (Trên sông
truyền hịch – Hà Ân), Trần Quốc Toản (Lá cờ thêu sáu chữ vàng – Nguyễn Huy Tưởng),
Quang Trung (Kể chuyện Quang Trung – Nguyễn Huy Tưởng),… TTLS sau 1986, đặc
biệt những năm đầu thế kỉ XXI, hình tượng người anh hùng tiếp tục được xây dựng theo
cảm hứng sử thi. Đó là người anh hùng mang khát vọng lịch sử, là những con người có
tầm vóc khổng lồ về bản lĩnh, tài trí và tham vọng. Họ là người hiểu thời thế, nắm được
quy luật và vận mệnh của lịch sử. Ở những con người này, sự nhận thức chuyển dần thành
khát vọng thay đổi lịch sử như một ngọn lửa nung nấu trong tâm hồn. Đó không phải là
ngọn lửa ngẫu nhiên bùng phát mà được thắp lên từ những suy tư chiêm nghiệm sáng
suốt, sâu sắc về con người và vận mệnh của đất nước, nhân dân: Hồ Quý Ly (Hồ Quý Ly –
Nguyễn Xuân Khánh), Nguyễn Huệ (Tây Sơn bi hùng truyện – Lê Đình Danh), Lê Lợi (Lê
Lợi – Hàn Thế Dũng, Hội thề – Nguyễn Quang Thân, Đất trời – Nam Dao), Bà Triệu (Bà
Triệu – Hàn Thế Dũng), Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Bộ Lĩnh – Hàn Thế Dũng, Mười hai sứ quân –
Vũ Ngọc Đĩnh), Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt (Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc Hải), Trần
Thủ Độ (Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng – Bùi Anh Tấn),… Người anh hùng Lê Lợi (Lê
Lợi – Hàn Thế Dũng, Hào kiệt Lam Sơn – Vũ Ngọc Đĩnh) là con người đại diện cho khát
vọng đánh đuổi giặc xâm lăng của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV. Xuyên suốt tác phẩm, Lê
Lợi hiện lên trong vai trò vị chủ tướng hoạch định đường lối, đồng thời trực tiếp tổ chức thực
hiện cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Bằng tài năng chính trị và quân sự, ông
đã cùng nhân dân bảo vệ vững chắc bờ cõi đất nước. Triệu Thị Trinh kiên trinh, bất khuất
trong (Bà Triệu – Hàn Thế Dũng) với câu nói “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng
dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi giặc Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ cho
muôn dân chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”[tr.331] đã thể hiện một tính
cách anh hùng hào kiệt, là kết tinh cho tinh thần yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc muôn đời
của dân tộc Việt. Người anh hùng Lý Thường Kiệt (Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc Hải),
tựu trung cho sức mạnh và tinh thần chống giặc Tống xâm lược của quân dân nhà Lý. Nhân
vật Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Bộ Lĩnh – Hàn Thế Dũng) là người anh hùng mang trong mình khát
69
vọng độc lập. Đây là nhân vật lịch sử kiệt xuất của nước ta thế kỉ X, với khát vọng được cống
hiến tài trí, dẹp bỏ mọi bất công ngang trái, giải phóng cho muôn dân, ông đã đứng lên dẹp
loạn 12 sứ quân, làm cho đất nước thái bình, người dân được đoàn tụ, tự do. Xây dựng những
con người mang khát vọng giải phóng lịch sử là cách để nhà văn khám phá tầm vóc và ước
vọng của toàn dân tộc một cách toàn diện và sâu sắc. Đó cũng là cách khám phá những hằng
số lịch sử trong cái nhìn triết học và văn hóa.
Người anh hùng trong TTLS còn mang khát vọng lớn lao muốn nắm giữ vương quyền
để có thể xây dựng và canh tân đất nước. Kiểu nhân vật này thường xuất hiện trong thời đại
lịch sử đặc biệt. Họ luôn đặt lợi ích cá nhân song hành cùng lợi ích cộng đồng, có khả năng
tự ý thức chuyển thành khát vọng thay đổi lịch sử. Ý thức rõ lịch sử do con người tạo nên, Lý
Công Uẩn (Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc Hải) ngay sau khi lên ngôi báu đã bắt tay vào
công cuộc khôi phục đất nước trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt, với tầm nhìn xa trông rộng và
ý thức về địa thế kinh đô trong thế vững bền ngàn năm, ông đã chọn vùng đất “rồng cuộn hổ
ngồi” xây dựng kinh đô Thăng Long phồn thịnh, mở ra vận hội mới cho triều đại nhà Lý và
toàn dân tộc. Trần Thủ Độ (Tám triều vua Lý, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng – Bùi Anh
Tấn) đã sớm nhận ra vai trò lịch sử của nhà Lý đã hết, đồng thời nhận thấy vận hội nhà Trần
đã đến, dòng họ dũng mãnh của ông có thể đảm đương sứ mệnh gánh vác non sông. Vì vận
mệnh của đất nước, Trần Thủ Độ đã kiên quyết loại bỏ những đấng quân vương ngu tối đang
trị vì thiên hạ. Với bản lĩnh khác thường, ông đã “thà chịu tiếng bất trung còn hơn mang tiếng
ngu trung”, ông đã sắp đặt việc Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, làm một cuộc
đổi thay triều đại mà không hề xảy ra đổ máu. Đó là bản lĩnh của một nhà chính trị đầy táo
bạo, sáng suốt và khôn khéo. Hồ Quý Ly (Hồ Quý Ly – Nguyễn Xuân Khánh) nhận thức
được vận mệnh nhà Trần đã hết. Khát vọng nắm giữ quyền lực để cải cách, chấn hưng lại đất
nước đã thôi thúc Quý Ly “làm biến pháp”, “soán ngôi đoạt vị”, chủ trương bằng mọi cách để
làm cho đất nước “thay máu” nhanh chóng và có khả năng tự lập, tự cường. Tham vọng thay
đổi cục diện của đất nước, giữ yên giang sơn và lòng dân của Hồ Quý Ly, xét một cách tích
cực, đó là cuộc cách tân dân chủ vì lợi ích bình đẳng của trăm họ. Khát vọng của Hồ Quý Ly
là khát vọng của một nhà chính trị có tinh thần trách nhiệm, dám tranh biện với cái cũ, cái trì
trệ, và tranh biện với chính mình để củng cố niềm tin vào con đường mình đang đi. Nguyễn
Hoàng (Minh sư – Thái Bá Lợi) nhận thức được sự nguy hại nên đã dùng mưu kế thoát khỏi
70
nanh vuốt của Trịnh Kiểm. Đi về vùng đất phương Nam trù phú nhưng đầy hiểm trở là cách
để Nguyễn Hoàng gây dựng cơ đồ riêng cõi cho mình. Nguyễn Hoàng từng bước chiêu mộ
anh hùng hào kiệt như Nguyễn Thiệu, Đỗ Chiêu, Phạm Dữ, Tống Phước Trị, Mạc Cảnh
Huống, Chế Mô,… phò trợ cho mình, từng bước dựa trên “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để
tiến hành sự nghiệp mở rộng địa bàn, khai phá những vùng đất mới, gây dựng giang sơn.
Nhân vật mang khát vọng cải cách, ban đầu lịch sử lựa chọn họ, nhưng rồi họ chủ
động nắm lấy cơ hội để biến những khát vọng của mình thành hiện thực. Họ trở thành anh
hùng thời đại, gieo hạt giống lịch sử, những con người này có thể gặt hái được vinh quang, để
lại phúc lộc cho con cháu như Lý Công Uẩn, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Huệ… nhưng cũng có
khi chỉ nhận về những lời kết án, cay đắng như Hồ Quý Ly (Hồ Quý Ly – Nguyễn Xuân
Khánh), Nguyễn Trãi (Lê Lợi – Hàn Thế Dũng, Đất trời – Nam Dao, Hội thề - Nguyễn
Quang Thân), Trần Thủ Độ (Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng – Bùi Anh Tấn), tuy nhiên
kiểu nhân vật này đã chứng tỏ tầm quan trọng của cá nhân với tập thể, với dân tộc, tạo tầm tư
tưởng cho tác phẩm. Nhân vật mang khát vọng lịch sử còn thể hiện những tìm tòi sáng tạo
của nhà văn trong quá trình “giải mã” căn nguyên của lịch sử, góp phần lý giải tính tất yếu để
nhận thức sâu sắc hơn quá trình vận động của lịch sử.
Để thực hiện những khát vọng lớn lao mang tầm vóc vũ trụ, người anh hùng đòi
hỏi phải có những phẩm chất trí tuệ, tài năng và lòng dũng cảm. Đây là những con người
có bản lĩnh, khí phách phi thường và cuộc đời của họ đã để lại những triết lý nhân sinh
sâu sắc. Loại hình nhân vật này tồn tại như những tượng đài bất tử trong đời sống tinh
thần dân tộc. Người anh hùng sử thi hiện lên là những tài năng quân sự, chính trị thiên
bẩm. Đó là một Trần Thủ Độ (Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng – Bùi Anh Tấn) nắm
trong tay vận mệnh nhà Lý và cuộc xoay chuyển triều đại một cách êm thấm qua ván bài
chính trị hôn nhân; một Lý Thường Kiệt kiệt xuất (Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc Hải)
lãnh đạo toàn quân, toàn dân đánh đuổi những vó ngựa dũng mãnh của giặc Tống bằng
những chính sách sử dụng hiền tài, dựa vào sức dân, tiến – thủ chủ động, biết địch, biết ta,
đánh chắc, thắng chắc; một Lê Lợi (Đất trời – Nam Dao, Hội thề - Nguyễn Quang Thân)
trọng dụng người tài, biết cách chỉ huy, xây dựng lực lượng từ chỗ ô hợp đến chỗ thống
nhất về mặt tư tưởng để tập trung khai thác sức mạnh tối đa của lực lượng; biết lựa chọn
đúng thời cơ để tiến công nhằm bảo toàn lực lượng và đạt được kết quả tốt nhất; một
71
Nguyễn Hoàng (Minh sư – Thái Bá Lợi) đa mưu túc trí, tầm nhìn xa trông rộng, thu phục
nhân tâm, mở mang bờ cõi… Đặc biệt, Nguyễn Huệ trong Tây Sơn bi hùng truyện được
Lê Đình Danh khắc họa bằng tất cả niềm say mê, ngưỡng mộ của một người con đất Bình
Định. Đó là hình ảnh một nhà quân sự thiên tài, một vị danh tướng chỉ đánh thắng, không
có bại. Với tướng lĩnh Tây Sơn “Long Nhương thật là bậc thánh, dẫu Tôn Ngô sống lại
cũng chẳng bì kịp” [tr.549]. Với tướng giặc, Nguyễn Huệ là người “vừa mới hai mươi
mốt tuổi mà võ nghệ tuyệt luân, sức mạnh vô cùng, giỏi dùng binh, tinh thông thao lược,
lắm mưu nhiều kế lại có tài hùng biện” [tr.281]. Trong suốt hơn hai mươi năm chinh
chiến, Nguyễn Huệ chưa hề chùn bước “Bốn lần vào Nam truy chúa Nguyễn, ba lần ra
Bắc diệt vương tông” với những trận đánh thần kì; rồi trận Rạch Gầm lừng danh phá năm
vạn quân Xiêm; trận thắng Pháp đầu tiên trong lịch sử, đốt tàu chiến Pháp do Bá Đa Lộc
trợ giúp cho Nguyễn Phúc Ánh; và kì diệu nhất là trận đại phá hai mươi vạn quân Thanh,
đánh bại ý đồ xâm lược của ngoại bang phương Bắc,… Nguyễn Huệ đã trở thành người anh
hùng kiệt xuất của lịch sử Việt Nam và là thiên tài quân sự tầm cỡ thế giới.
Trong những bước ngoặt của lịch sử, thời cuộc rối ren, tao loạn, có lẽ tố chất để đo
nhân cách của những anh hùng, kẻ sĩ trước hết là lòng trung. Nhiều tác phẩm đã xây dựng
thành công những nhân vật biểu tượng cho lòng trung trinh son sắt với thiên triều, với đại
cuộc: Lê Lợi, Nguyễn Trãi (Hội thề, Đất trời), Nguyễn Huệ (Tây Sơn bi hùng truyện),
Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật (Nẻo về Vạn Kiếp), Nguyễn Hoàng
(Minh sư), Lý Công Uẩn, Lý Phật Mã (Tám triều vua Lý), Trần Khắc Chung (Huyền
Trân),… Những kẻ sĩ trong Hồ Quý Ly có cách hành xử khác nhau trước thời cuộc và
quyền lực. Với tầng lớp trí thức già như Đoàn Xuân Lôi, khi quan niệm chữ trung và nề
nếp nho học ăn sâu vào xương tủy thì cách sống cũng khá cực đoan. Những chi tiết về lối
sống, cá tính, thái độ của nhân vật này đối với sách Minh Đạo của Quý Ly gợi cho người
đọc ấn tượng về kẻ sĩ không sợ cường quyền, dũng cảm nói ra những điều mình suy nghĩ.
Nhà văn cũng dành nhiều thiện cảm cho nhân vật hư cấu Sử Văn Hoa – biểu tượng cho sự
kiên trung của nhà viết sử trước bão táp lịch sử. Tâm huyết, chí hướng trong cuộc đời con
người đặc biệt này là hoàn thành sứ mệnh chép sử. Ý thức được ý nghĩa của kinh sử đối
với vận mệnh dân tộc nên khi nước có biến, chàng nho sinh này đã cõng một bồ sử đi tìm
bậc chân mệnh thiên tử. Đọc những dòng trong Minh Đạo Luận của Sử Văn Hoa càng
72
thấy rõ vẻ đẹp và khí chất của một kẻ sĩ, một sử quan mẫu mực. Sử không hề ngần ngại
hay sợ sệt khi phê phán việc bài bác đạo Phật, bắt sư hoàn tục và bỏ hoang những ngôi
chùa làng của Hồ Quý Ly. Sử cũng không làm theo đề nghị của Khát Chân viết sai sự thật
để bôi nhọ Hồ Quý Ly. Những chi tiết ấy đủ sức tạo dựng một biểu tượng vẻ đẹp cho kẻ sĩ
ngay thẳng trung trực, không chịu khuất phục trước cường quyền mà luôn hướng đến bảo
vệ sự thật lịch sử như nó vốn có. Đọc Tây Sơn bi hùng truyện (Lê Đình Danh), độc giả
thực sự khâm phục trước nhân cách cao đẹp của những con người không tiếc tính mạng vì
trung nghĩa. Nguyễn Đăng Trường hai lần bị quân Tây Sơn bắt, dù được đối đãi rất nhân
nghĩa nhưng vẫn kiên quyết “Tôi trung không thờ hai chúa, sống làm người nhà Nguyễn,
chết làm ma nhà Nguyễn, muốn chém giết mặc lòng” [tr.221]. Tôn Thất Hương bại trận,
trước khi chết vẫn còn nghĩ kế giết Nguyễn Huệ, trừ hại cho Chúa. Nguyễn Huỳnh Đắc
khi thất thế đã noi gương Quan Vân Trường bằng lòng hàng Tây Sơn nhưng khi nghe
Nguyễn Vương còn sống thì nhất quyết tìm theo Chúa. Khi vua Quang Trung mất, quân Tây
Sơn dần tan rã, những tướng lĩnh Tây Sơn đã chọn con đường chiến đấu cho đến chết để đền
ơn Tiên đế… Họ đã nêu những tấm gương sáng thật cao đẹp về nhân cách con người.
Nguyễn Hoàng trong Minh sư là người luôn thẳng thắn dám nhìn thẳng vào sự thật
để tìm ra cho mình mục đích sống tốt hơn. Một con người đứng đầu trăm họ nhưng không
màng đến việc tụng ca, toàn tâm toàn ý cho công việc, tận hiến thân mình cho đất nước đến
hơi thở cuối cùng, biết trân trọng hiền tài, yêu thương thuộc hạ như người thân máu thịt. Tài
năng và đức độ của Chúa đã soi sáng cho cả vùng Thuận Hóa nghèo nàn dần thay da đổi
thịt. Không những thế, Nguyễn Hoàng còn là người sống giản dị, gần gũi, chan hòa, ứng xử
tinh tế, khôn khéo nhưng vẫn toát lên vẻ uy quyền khiến mọi người nể trọng và tuân phục.
Vì thế, Nguyễn Hoàng xứng đáng được mệnh danh là vị chúa Tiên, một anh hùng mở cõi,
làm rạng danh cho dáng hình đất nước khi xưa, hôm nay và mai sau. Minh sư còn là thế
giới của những anh hùng khai quốc công thần phò giúp Chúa Nguyễn gây dựng giang sơn
như Nguyễn Ư Dĩ – chỗ dựa vững chắc về tinh thần, Đỗ Chiêu – cánh tay phải đắc lực,
Phạm Dữ – cánh tay trái đáng tin cậy, Nguyễn Thiệu, Chế Mô – tinh thần hòa hợp dân tộc
Việt - Chăm, …
TTLS Việt Nam đầu thế kỉ XX đến 1945 có sự chuyển tiếp từ TTLS trung đại sang
TTLS hiện đại trong đó, quan niệm nghệ thuật về con người có nhiều chuyển biến, đổi mới
73
trên tinh thần tiếp thu luồng gió mới của văn học phương Tây: hình tượng người anh hùng
được phản ánh từ phi thường đến bình thường. Bên cạnh khắc họa phẩm chất anh hùng của
nhân vật, TTLS giai đoạn này đã chú ý kết hợp hài hòa giữa cái tôi cá nhân với cái ta, cái
chung của dân tộc, của lý tưởng. Một số nhà văn đặt người anh hùng trong mối quan hệ với
cá nhân, với gia đình. Người anh hùng được nhìn ở góc nhìn đời tư với những suy tư, trăn
trở, hoài nghi, buồn vui, hờn giận, những khát vọng cá nhân đầy nhân bản: Phạm Ngũ Lão
(Trần Nguyên chiến kỷ – Nguyễn Tử Siêu), Phùng Chính (Lê Đại Hành – Nguyễn Tử
Siêu),… Tiếp nối chặng đường văn học 1930 – 1945, TTLS 1945 – 1985 được bồi đắp tinh
thần sử thi của thời đại, con người sử thi được gắn kết giữa số phận cá nhân với số phận
cộng đồng trong công cuộc phấn đấu cho một lý tưởng chung – lý tưởng độc lập dân tộc.
Giai đoạn này, các nhà TTLS khi xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng thường chú trọng
đến tính chính xác của lịch sử, đặt nhân vật trong mối quan hệ với cộng đồng, xã hội là chủ
yếu, một số tác phẩm, các nhà văn có chú ý đi vào đời tư của nhân vật. Tuy nhiên, giống
với TTLS giai đoạn trước 1945, TTLS trước 1986 nhìn con người anh hùng ở góc độ đời
thường nhưng chỉ là những nét chấm phá, thoáng qua, thậm chí yếu tố đời thường chỉ góp
phần tôn thêm vẻ đẹp của con người cộng đồng, con người xã hội mà thôi. Trong TTLS sau
1986, đặc biệt, thập niên đầu thế kỉ XXI, tinh thần luận giải, đối thoại, nhận thức lại lịch sử
đã chi phối quan niệm nghệ thuật về con người trong thời đại mới. Theo đó, quan niệm về
người anh hùng có sự đổi mới mạnh mẽ: cảm hứng ngợi ca nhường chỗ cho cảm hứng thế
sự - đời tư. TTLS đi vào khai thác kiểu con người đời tư, con người ở góc độ cá nhân, xen
lẫn ánh sáng và bóng tối, cao cả và thấp hèn, vinh quang và đắng cay, anh hùng và gian
hùng: Hồ Quý Ly (Hồ Quý Ly – Nguyễn Xuân Khánh), Lý Thường Kiệt (Tám triều vua Lý
– Hoàng Quốc Hải, Bí mật hậu cung – Bùi Anh Tấn), Trần Thủ Độ (Đàm đạo về Điều Ngự
Giác Hoàng – Bùi Anh Tấn), Lê Lợi (Đất trời – Nam Dao, Hội thề – Nguyễn Quang
Thân), Gia Long (Nguyễn Du – Nguyễn Thế Quang), Nguyễn Hoàng (Minh sư – Thái Bá
Lợi),… Hình ảnh Trần Thủ Độ là người có công to lớn trong việc gây dựng cơ đồ cho nhà
Trần nhưng trong cái nhìn của thời đại và hậu thế, đó là một con người gian hùng, khắc bạc.
Là kẻ gian hùng, độc ác nhưng ông luôn sống có trách nhiệm với bản thân, dòng họ và dân
tộc. Trong Thủ Độ, trái tim ấm nóng vẫn luôn cháy sáng. Ông yêu thương và trọn tình với
Trần Thị Dung, giàu lòng thương và độ lượng với Lý Chiêu Hoàng, tự vấn lương tâm khi
74
nghĩ về sự ép buộc Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng phải sống ly tan. Như thế, Trần Thủ Độ
từ lịch sử đi vào tiểu thuyết với những mảng sáng và tối đã dấy lên trong lòng người đọc sự
nể trọng, ưu ái đối với một nhân vật lịch sử còn nhiều tranh cãi. Với cái nhìn “giải thiêng”
lịch sử, nhân vật Lê Lợi (Hội thề - Nguyễn Quang Thân) có những nét khác biệt so với
nguyên mẫu lịch sử. Đó là con người đầy vẻ kiêu hùng, quyết liệt, khôn khéo nhưng cũng là
con người trần tục như một kẻ nông phu. Tài năng giúp ông giành được giang sơn nhưng sự
ích kỷ, nhỏ nhen tầm thường đã đẩy ông rơi vào bi kịch gia tộc. Nhìn chung, nghệ thuật
khắc họa hai phần sáng và tối trong tính cách, phẩm chất của người anh hùng thời loạn cho
thấy TTLS đã chạm tay vào thực tế cuộc sống đương đại khi kéo lịch sử gần với đời sống
hiện thực hơn.
3.1.2. Nhân vật huyền thoại hóa
Huyền thoại luôn song hành cùng bước đi của lịch sử văn học. Huyền thoại xuất
hiện rất sớm trong các truyện thần thoại, truyền thuyết dân gian và bước vào văn xuôi
trung đại với Việt điện u linh, Lĩnh nam chích quái, Truyền kỳ mạn lục,… Sự xuất hiện
dày đặc của yếu tố huyền thoại trong văn chương đương đại đã tạo điều kiện cho chúng
bùng phát thành một khuynh hướng nổi bật: khuynh hướng huyền thoại hóa. Khuynh
hướng này được mở đầu bằng những cây bút truyện ngắn xuất sắc như Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Huy Thiệp. Tiếp theo đó là sự xuất hiện hàng loạt các nhà tiểu thuyết viết
theo khuynh hướng này như Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến tranh), Dương Hướng (Bến không
chồng), Phạm Thị Hoài (Thiên sứ), Châu Diên (Người sông mê), Nguyễn Bình Phương
(Thoạt kỳ thủy, Ngồi), Nguyễn Việt Hà (Cơ hội của chúa), Tạ Duy Anh (Đi tìm nhân vật,
Thiên thần sám hối), Hồ Anh Thái (Cõi người rung chuông tận thế, Đức Phật, nàng
Savitri và tôi),… đặc biệt, trong địa hạt của TTLS, khuynh hướng này in đậm trong các
sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh (Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa),
Nguyễn Khắc Phục (Thăng Long ký), Võ Thị Hảo (Giàn thiêu),…Từ cái nhìn đa chiều về
hiện thực đời sống, thúc đẩy các nhà TTLS đương đại luôn tìm cách đổi mới bút pháp
nghệ thuật nhằm thỏa mãn khát vọng chiếm lĩnh những chiều bí ẩn, lắng sâu, chìm khuất
trong tâm hồn con người và chiêm nghiệm triết lý về cuộc đời. Trong TTLS thập niên đầu
thế kỉ XXI, các nhà văn đã sử dụng tính chất nghịch dị, kỳ ảo để xây dựng nên hai kiểu
nhân vật mang đậm yếu tố huyền thoại, đó là: nhân vật dị thường và nhân vật huyễn ảo.
75
Khắc họa ngoại hình nhân vật, Võ Thị Hảo thường cố tình tạo ra sự ám ảnh từ
những chi tiết dị hình có phần ma quái, được biểu hiện lặp đi lặp lại trong tác phẩm. Đây
là một kiểu ảo hóa nhân vật, khiến nhân vật trở nên bí hiểm, kỳ ảo đối với người đọc. Thế
giới nhân vật dị thường, huyễn hoặc trong TTLS rất đa dạng và phong phú. Từ Lộ trong
Giàn thiêu (Võ Thị Hảo) – nhân vật trung tâm của tác phẩm – sinh ra ở hai kiếp và mang
hai hình hài, số phận khác nhau. Tính chất dị thường được thể hiện trong một hiện tượng
huyền thoại phi thực khi tác giả mô tả sự mang thai kỳ lạ của người mẹ: “đứa trẻ nằm
trong bụng mẹ hơn mười tháng vẫn không chịu ra đời; bào thai có hình thù kì dị “chồi lên
như một quả nhót khổng lồ”. Đến lúc chào đời, cậu bé Dương Hoán có hình thù kì dị “vai
trái ra trước, chìa ra một bàn tay bé xíu đỏ hỏn có ngón út như bị cháy xém; cái đầu với
đôi mắt hắt ra những tia sáng chói từ từ chồi ra” [tr.246]. Tính chất dị thường còn được
thể hiện qua đôi mắt của Từ. Đó là đôi mắt có lúc non trẻ thơ ngây, nhưng nhiều khi lại
già dặn như một người đàn ông từng trải. Đại Điên là một nhân vật kì dị hoàn toàn được
tác giả miêu tả thông qua nhiều thủ pháp phóng đại và lạ hóa. Đại Điên xuất hiện trong
tác phẩm với vai trò là kẻ giết thuê và là tay sai cho nhà Diên Thành Hầu. Dưới ngòi bút
của nhà văn, Đại Điên hiện ra với hình dạng dị thường như một loài quái thú:“vóc người
mập mạp, dưới hai vành lông mày rậm rạp, đôi mắt nửa khép nửa mở. Khi khép như mắt
mèo ngái ngủ. Khi mở thì trừng trừng dữ dội như mắt cọp. Trong con ngươi thoáng ánh
đỏ” [tr.74]; “đôi bàn tay gấu, to, thô rám, ngón tay sần sùi với những chiếc lông thô cứng
như lông lợn lòi cùng cặp môi dầy thưỡn ra ướt đẫm nhục dục”. Ngạn La mang vẻ đẹp
thuần khiết, là “viên ngọc lạc loài lẫn vào trong đá sỏi”[tr.39]. Vẻ đẹp của nàng mê hồn,
mê hoặc cả Diêm Vương, lại được thượng đế ban tặng chiếc rốn màu chu sa, “là niềm
khoái lạc vô tận và đem lại may mắn cho ngôi báu”. Mặc dù là biểu tượng của dục vọng
nhưng kì lạ thay, đến chết Ngạn La vẫn là một trinh nữ. Nhân vật Ngạn La phải chăng là biểu
tượng cho cái dục vọng mà Thần Tông không bao giờ đạt được trong suốt hành trình theo
đuổi qua hai kiếp của mình.
Với Mẫu Thượng Ngàn, Nguyễn Xuân Khánh sử dụng bút pháp huyền thoại sáng
tạo những nhân vật kì ảo: bà Tổ Cô, cô Mùi, ông hộ Hiếu. Câu chuyện huyền hoặc về
cuộc đời bà Tổ Cô sống đến 90 tuổi, qua hai lần đò với bao gian truân của kiếp hồng
nhan, nhưng trong bà vẫn toát lên sức hút mạnh mẽ, mang lại niềm tin cho mọi người. Bà
76
là Mẫu với phép nhiệm mầu chữa bệnh cho ông trưởng Cam và tái sinh ông một lần nữa.
Câu chuyện về việc bà nuôi ngựa ngài ở đền Mẫu để trừng trị những kẻ báng bổ thần
thánh. Bà còn có khả năng thông trước mọi sự, khi tiên đoán về cuộc đời cô Mùi. Cô Mùi
trải qua ba đời chồng, trở về hầu cận bên Mẫu, từ đó, cô có khả năng chữa bệnh cho moi
người bằng một thứ lá lẩu cô mang từ trong rừng ra. Cách cô chữa bệnh cũng rất kỳ lạ
như nắm lấy bàn tay người bệnh và truyền niềm tin vào từ Mẫu. Ông Hộ Hiếu từ một
người bình thường trở thành một bậc phù thủy cao tay, sau một lần bị sét đánh không
chết. Ông có khả năng trừ tà chữa bệnh điên và các bệnh hiểm nghèo khác. Bùa của
ông như linh vật chuyên chở chữ Thánh, “đó là chữ Tâm, chữ Đạo, chữ Độ của nhà
Phật” [tr.228].
Với Đội gạo lên chùa, con người kì bí đó là bà vãi Thầm. Bà là một người tốt nết,
nhà nghèo nhưng vui tính, có duyên. Chỉ khi chồng bà bị cảm lạnh chết giữa đồng, bà trở
thành con người ngơ ngẩn, dở điên, dở khùng, đêm ngày sống với cõi âm. Chạng vạng
tối, bà trở nên đờ đẫn, rồi nhắc lại những chuyện ngày xưa mà chẳng ai còn nhớ, bà nhắc
lại những kiếp người khổ đau đã được hóa kiếp thành những con đom đóm, bà gắn tên
những người thân đã khuất vào những con đom đóm hàng đêm vẫn về trò chuyện, để rồi
mỗi đêm đôi mắt của bà được ánh trăng chiếu vào trông tinh nhanh, sáng quắc, khiến
người khác nhìn vào cũng thấy rợn. Thiền sư Vô Úy tin vào năng lực cảm hóa phi thường
của lòng từ bi. Khi bị bắt vào nhà giam phòng nhì, bị tra tấn, đánh đập dã man nhưng ông
chỉ niệm câu thần chú nhà Phật. Tiếng “A di đà Phật” như một câu thần chú, đem lại sức
mạnh kì diệu để chống lại sự đau đớn thể xác, để không làm trái với những niềm tin của
cả đời mình. Chính tâm từ, niềm tin vào sức mạnh tuyệt đối của chân lý đã giúp sư cụ Vô
Úy vượt qua được nghiệp chướng của cuộc đời mình ở cái tuổi thất thập cổ lai hy, đó
chính là sức mạnh của tâm linh xuất phát từ sức mạnh tinh thần của con người. Huyền
thoại từ câu chuyện nàng Remediot của G.M.Marquez được huyền tích qua hình tượng
nhân vật Rêu của nhà văn. Rêu mang vẻ đẹp mong manh, đôn hậu, đến mức nhìn cô khiến
người ta có cảm giác đó là một thiên nữ. “Cô gái nhà trời có cánh. Những cô gái biết bay
trong không trung, rắc hương, rắc hoa của Đức Phật xuống trần thế. Cô là một thiên nữ
tán hoa”[tr.499]. Rêu là niềm vui, ánh sáng của hạnh phúc. Bất kể nơi nào cô xuất hiện
đều mang lại không khí sôi động vui tươi, là một điều diệu kỳ. Rêu có tiếng hát ma mị,
77
mê hoặc “văng vẳng mơ hồ, lúc đứt, lúc nối, véo von… trong vắt. Tiếng hát như ma trơi
chập chờn trong gió” [tr.509]. Cũng như Remediot, Rêu chọn cái chết để lưu giữ mãi vẻ
đẹp của tuổi trẻ, là sự giải thoát cho chính sự trắng trong của cuộc đời “cô vẫn như lúc
sống, vẫn đẹp như hoa”. Nỗi cô đơn và sự hoài nghi của Rêu như là điểm khúc xạ của
cuộc sống con người đương đại: loay hoay, kiếm tìm, thất vọng và đổ vỡ.
Nhân vật trong TTLS huyền thoại không chỉ méo mó, biến dạng bởi hình dáng bên
ngoài mà còn dị thường trong tâm hồn, nhân tính. Xây dựng nên loại nhân vật ấy, nhà văn
muốn hướng tới phản ánh trạng thái bất an của bản thể, cái bất ổn của thời đại với một
hiện thực lịch sử còn nhiều góc khuất tăm tối, u mê, đồng thời đi sâu vào thế giới bí ẩn
nhằm khám phá phần sáng và phần tối trong bản thể con người. Hồ Nguyên Trừng trong
Hồ Quý Ly được nhà văn xây dựng trên hai đường biên ranh giới giữa thực và ảo, giữa thế
giới thực tại và thế giới ma quỷ, thường đi lạc giữa những giấc mơ, mộng mị, ám ảnh,
siêu thường, giấc mơ của người điên với “cảm giác len lén của một vật gì hóa ra từ thân
xác ta, ta ngạc nhiên ngắm nhìn vật trăng trắng đâm chồi từ bên sườn; cái chồi ấy là một
bí ẩn, một dấu hiệu đặc biệt mà chỉ riêng ta có, rồi chồi mọc thành cánh, và ta giang cánh
ra bay vút lên trời” [tr.33] hay lạc vào thế giới của hồn ma với “con ma Ngọc Lan lững
thững bước ra ánh trăng” không xấu xí, dị hình mà là “một giai nhân” [tr.649]. Nhân cách
Từ Lộ bị tha hóa vì những khát khao, những đam mê, những dục vọng không được thỏa
mãn và khi con người ấy không hiểu những cảm giác tựa như những ký ức nào đó của
mình là gì, để rồi loay hoay đi tìm bản thể chính mình đến nỗi lâm trọng bệnh và hóa thân
thành hổ – dã nhân: “đám lông vằn vện trên người càng mọc dài ra, dài rủ cả xuống mặt
sàn đá xanh. Bây giờ, trông nhà vua là một con hổ. Mà lại mang nhác một con dã nhân”
[tr.460]. Chính sự biến dạng đó đã khiến nhân vật rơi vào bi kịch – bi kịch tham vọng quá
lớn. Như vậy, số phận của nhân vật Từ Lộ nhuốm đầy màu sắc huyền ảo và có thể coi là
một bi kịch: bi kịch do hoàn cảnh và bi kịch do chính bản thân Từ tạo ra.
Kiểu nhân vật huyễn ảo có khi hóa thân trong con người bình thường, có lúc được
mang tên gọi cụ thể rõ ràng, nhưng nhiều khi chỉ là những hồi âm, vang vọng, những cái
bóng hay những tiếng nói mơ hồ không xác định, thậm chí nó ẩn hiện trong vô vàn cỏ
cây, vật giới quanh ta. Tất cả tạo nên một không khí huyễn hoặc vừa đậm đặc, vừa bàng
bạc bao phủ lên câu chuyện. Cá Bơn xuất hiện không nhiều nhưng để lại ấn tượng sâu sắc
78
trong lòng người đọc. Cá Bơn có xuất thân u buồn. Tuổi thơ gắn liền với thác Oán, sông
Gâm. Chàng lớn lên nhờ những bát nước cốt chắt ra từ những con cá luộc. Chàng không
tên, không tuổi. Cá Bơn mang hình hài dị dạng: “dài như con cá Bơn khổng lồ”, khuôn
mặt với “nước da trắng bạc”, “gương mặt không một nếp nhăn”, “bàn tay lạnh như thân
mình một con cá” nhưng tâm hồn rất đỗi sáng trong: vẫn tôn thờ mẹ cá, vẫn một tình yêu
tha thiết với Nhuệ Anh. Cá Bơn giống như một thiên thần lạc nơi trần thế, là kết tinh
những gì đẹp đẽ và thuần khiết nhất.
Với thủ pháp lạ hóa, nhà văn đã mang đến cho tác phẩm không khí ánh sáng mới –
ánh sáng của tình yêu thương khi xây dựng nhân vật Dã Nhân. Dã Nhân hiện lên trong tác
phẩm đậm màu sắc huyền ảo khi mang hình thù một con thú nhưng lại có trái tim của một
con người. Dã Nhân hiện ra với ngoại hình kỳ lạ “đôi núm vú đen và một khuôn ngực
lông lá”, “đôi tay rậm rịt cũng đầy lông hung hung” thế nhưng người đọc không cảm
thấy khiếp sợ ngược lại rất yêu mến nhân vật này. Dã Nhân đóng vai trò như một vị cứu
tinh đã làm tái sinh ý chí sống trong Từ bằng những giọt sữa linh thiêng, màu nhiệm. Mặt
khác, Dã Nhân như một người mẹ thứ hai đã nuôi nấng chăm sóc Từ đến khi đắc đạo và
mãi theo bước chân chàng trong suốt hai kiếp đời luân lạc.
Thế giới nhân vật huyễn ảo có khi xuất hiện dưới dạng hồn ma, tiền kiếp, hậu kiếp,
sự tái sinh của linh hồn chết… và càng được làm dầy thêm bởi sự chồng chéo tầng tầng
lớp lớp các kiếp, các giới trên cùng một trục không – thời gian. Giàn thiêu như một bộ
phim kinh dị khi ở đó có quá nhiều oan hồn và ma quỷ. Đó là oan hồn Từ Vinh nhập vào
xác dựng đứng, tay trực chỉ thẳng nhà Diên Thành Hầu với đôi mắt lòi khỏi hố mắt; hay
đó còn là những oan hồn quanh miếu thổ thần, dật dờ, “mặc áo trắng và xõa tóc” bên
nách cắp con; những hài nhi chết yểu vì tên bay đạn lạc, thiếu sữa, đói khát, những hồn áo
nâu với hộp xương sọ phô màu xám xỉn; hồn oan khuất của Thái hậu Thượng Dương và
bảy mươi sáu cung nữ trong lãnh cung… Giàn thiêu còn là nơi xuất hiện của rất nhiều
quỷ sứ, lũ ngạ quỷ “được ra khỏi vạc dầu địa ngục để tái sinh trở lại thành người trong
một kiếp khác” [tr.396]. Trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh, đó là những hồn ma
thông qua những câu chuyện kể của bà cụ Thầm về “những người cõi âm, những người đã
chết”, hay câu chuyện về cô Thắm có số phận hẩm hiu, trẫm mình nơi sông nước. Thế
giới ma quỷ trong những câu chuyện đối thoại của bà với cõi âm. Bà là “sứ giả của hai
79
cõi, đã nối liền cõi dương và cõi âm”, trao đổi thông điệp của thế giới thần linh, ma quỷ
cho con người hiện tại, bà nói với Nguyệt: “ta nói cho mà biết. Hôm xưa cô đi làm đồng
về. Ta thấy con ma nam theo cô về tới cổng chùa” [tr.155]. Hồn ma người đàn bà áo tơi
mất con ma mị, hư ảo, thoắt ẩn thoắt hiện làm Nhụ hoang mang: “Rõ ràng là một người
đàn bà với mớ tóc dài để xõa và chiếc áo trắng thùng thình, tay áo thụng che kín bàn
tay… Cái bóng trắng ấy đứng lơ lửng chân không chạm đất.” [tr.794]. TTLS Việt Nam
đương đại đã có ý thức tạo ra sự ảo hóa giữa hư và thực, giữa cõi trần và cõi âm, giữa
người và ma để khám phá hiện thực đang còn dang dở, bóc trần những tầng vỉa sâu thẳm
trong vô thức con người.
Tóm lại, với việc kết hợp hai yếu tố hiện thực và huyền ảo, nhà văn đương đại
muốn kéo văn học áp sát hơn với đời sống, giúp ta tiếp cận con người ở hai chiều tốt, xấu,
miêu tả sự giằng xé đầy đau đớn của con người muốn vươn tới những khát vọng chân
chính. Những tác phẩm trên còn là bản tình ca đẹp về lòng nhân ái, khẳng định bản chất
tốt đẹp của con người, sức sống lâu bền của những giá trị chân – thiện – mĩ. Có thể nói,
việc sử dụng yếu tố huyền thoại trong việc xây dựng hệ thống nhân vật, các nhà văn đã
không ngừng nỗ lực tìm tòi khai phá theo một khuynh hướng sáng tác mới – khuynh
hướng hiện thực huyền ảo.
3.1.3. Nhân vật thế tục hóa
Đại bộ phận TTLS trước 1986 đi theo cảm hứng chiêm bái, ngưỡng vọng, ngợi ca.
Lịch sử trong các tác phẩm này được phản ánh ở tầm vĩ mô với tham vọng bao quát một
hiện thực rộng lớn, thậm chí có khả năng trở thành pho sử biên niên sống động của cả một
thời đại. Con người chủ yếu được nhìn nhận nguyên phiến, đơn chiều, phần nào tô điểm
cho “ngôi đền lịch sử” trong mối quan hệ bất khả xâm phạm với các vấn đề thế sự - đời
tư. Tuy nhiên, khi cái nhìn của nhà văn có sự chuyển biến từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu
thuyết, từ cảm hứng lịch sử dân tộc sang cảm hứng thế sự - đời tư, con người trong tiểu
thuyết là con người thế tục, con người cá thể với những khát vọng và dục vọng, con người
như những thân phận trong xã hội. Con người cá nhân được khai thác trong sự va đập với
con người xã hội trong trăm ngàn mảnh đời khác nhau “đầy những vết dập xóa trên thân
thể trong tâm hồn”. Thế giới nội tâm của con người được khám phá ở bình diện ý thức,
tiềm thức và vô thức, nói như Bakhtin thì con người trong tiểu thuyết không bao giờ trùng
80
khít với chính mình. Có thể thấy, với việc phát triển đề tài thế sự, đời tư, tiểu thuyết có thể đi
sâu vào những nơi sâu kín của tâm hồn con người, suy nghĩ cặn kẽ về các trạng thái nhân thế.
Con người đời thường được chú ý và thể hiện sâu sắc với những số phận bất hạnh, những
thân phận bi kịch. TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI đậm tính nhân văn hơn khi nhìn nhận con
người ở phần khuất lấp, khó nắm bắt ấy.
3.1.3.1. Nhân vật bản năng
TTLS giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI với việc tiếp cận ngày càng sâu sắc với
những kĩ thuật tiểu thuyết hiện đại, càng trở nên đa dạng hơn trong cách xây dựng nhân
vật. Các nhân vật trong Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân
Khánh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Nguyễn Thị Lộ (Hà
Văn Thùy), Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam), …
ngày càng được khám phá và thể hiện ở góc độ tâm lý. Với cái nhìn đầy nhân bản, các
nhà TTLS đương đại sử dụng yếu tố bản năng với một dụng ý rõ ràng, không che giấu
như một lời khẳng định nhu cầu tự nhiên của con người, giúp cho nhà văn thể hiện con
người chân thực hơn, người hơn.
Bên cạnh những trang văn đậm chất sử thi ngợi ca thì người anh hùng dân tộc còn
được soi chiếu ở phương diện đời thường với những dục vọng bản năng như bao con
người bình thường khác. Chẳng hạn, Nguyễn Quang Thân miêu tả Lê Lợi với những ham
muốn tầm thường khi ông nhìn bà Lộ “giống như ông muốn xé một con gà luộc bốc hơi
nghi ngút vừa được mụ Lý quẳng vào rá” [tr.11]. Hay những khoảnh khắc ông “không là
minh chủ… làm vội làm vàng, sợ mấy thằng thị vệ nhìn thấy, nhanh như con gà trống”
với mụ Lý, người nấu bếp, đồng thời cũng là người bạn thời thơ ấu. Đã nhiều lúc ông ao
ước mình chỉ là một con người bình thường, được thỏa mãn những điều khao khát như lời
nhận xét của Nguyễn Trãi: “người có bản năng làm người mạnh mẽ, người cũng đòi hỏi
được yêu thương, ân ái, được chiều chuộng, được chăm sóc như ai.”, thế nhưng do mang
vận mệnh của cả dân tộc, ông luôn phải kìm nén những khát khao dục vọng của mình.
Tình yêu trong TTLS giai đoạn trước đây được đưa vào trong tác phẩm như “một
tiêu chuẩn nhằm thử thách tinh thần ý chí nghị lực và đạo đức của những con người anh
hùng.”[83, 125]. Chẳng hạn, tình yêu giữa Đặng Thị Huệ với Tĩnh Đô Vương trong Bà
Chúa Chè, tình yêu giữa An Tư với Trần Thông trong An Tư, tình yêu giữa Trần Nguyên
81
công chúa với Phạm Ngũ Lão trong Trần Nguyên chiến kỷ, tình yêu giữa Quỳnh Dao và
Bảo Kim trong Đêm hội Long Trì, giữa Bích Hà với Phùng Chính trong Lê Đại Hành,…
Trong cái nhìn truyền thống, tình yêu và tính dục luôn bị chế ngự bởi các thiết chế văn
hóa – xã hội, quan niệm hà khắc, kìm hãm bản năng sống của con người. Tuy nhiên, tình
yêu trong cái nhìn của các nhà TTLS đương đại đầy nhân bản khi gắn liền tình yêu và tính
dục, tình yêu là sự hòa quyện, kết nối giữa thể xác với tâm hồn. Bằng cách khám phá khát
vọng bản năng tính dục của con người một cách thành thực, đôi khi trần trụi, một số tác
phẩm của Võ Thị Hảo, Nguyễn Xuân Khánh, Nam Dao, Hoàng Minh Tường, Phạm Ngọc
Cảnh Nam, Hà Văn Thùy đã mang đến cái nhìn chân thực về những phần khuất lấp của
con người trong quá khứ. Tình yêu có sức mạnh thôi thúc Nhuệ Anh từ bỏ gia đình, trốn
chạy cuộc hôn nhân với Lý Câu để tìm đến Từ Lộ. Trái tim Từ Lộ bị bao bọc bởi hằn thù
nhưng tình yêu mãnh liệt của Nhuệ Anh đã đưa Từ Lộ trải qua những khoảnh khắc tột
cùng sung sướng trong sự nhiệm màu hân hoan.
Ngoài ra, TTLS Việt Nam đương đại có cái nhìn hoàn toàn mới mẻ khi khai thác
mảng đề tài đồng tính, đặc biệt, Bùi Anh Tấn đã mạnh dạn mở rộng biên độ sáng tạo cho
thể loại khi đi sâu miêu tả mối tình éo le giữa hai vĩ nhân của lịch sử: Lý Thường Kiệt và
Lý Nhật Tôn. Với Bí mật hậu cung đó là tình yêu giữa hai con người cùng mang nỗi cô
đơn và mặc cảm thân phận giống nhau đã nhìn thấu trong lòng khát vọng, tâm tư, tình
cảm của nhau và hiểu được hết cùng nhau thế nào là hạnh phúc và khổ đau. Tình yêu với
họ là động lực, là mật ngọt nồng nàn, say đắm: “Cử chỉ thật thân tình âu yếm, cảm giác
thật dịu ngọt, bất giác Ngô Thuấn như muốn nhắm mắt hưởng thụ”; tình yêu giúp họ
thăng hoa vào cõi mộng để tận hưởng hết sự diệu kỳ của tạo hóa: “Nhật Tông nhắc nhẹ
đầu lên và môi chạm vào môi Ngô Thuấn, một cảm giác ngọt ngào không thể tả nổi, đến
rượu bàn đào trên cõi tiên của Tây Vương Mẫu e rằng cũng đến vậy mà thôi”. Tình yêu
khát khao cháy bỏng giúp cả hai tìm lại chính mình, cùng mơ về khung trời hạnh phúc:
“chàng sẽ cùng Ngô Thuấn đi thật xa, đến một chân trời góc bể nào đó, không ai biết
chàng lẫn Ngô Thuấn là ai, để cùng cày cấy sống cuộc sống yên bình.” Tình yêu là sự
mầu nhiệm có sức mạnh vô song mà ở đó Ngô Thuấn có thể từ bỏ tất cả để lựa chọn con
đường duy nhất được sống bên người mình yêu, chấp nhận trở thành thái giám suốt đời
sống trong hậu cung theo hầu Lý Thái Tông. Lựa chọn đó khiến trái tim chàng như xát
82
muối khi phải chấp nhận hứng chịu sự chế nhạo và cười chê của người đời, không cách
nào chuộc lỗi lầm với Thuần Khanh, đau đớn hơn, chàng phải lìa bỏ thân phận của một
người đàn ông thực thụ. Viết về mối tình đồng giới giữa Ngô Thuấn và Nhật Tông, tác giả
đã kéo họ trở về đời thường nhất với những góc khuất trong tâm hồn bằng một cái nhìn
đầy nhân bản.
Viết về người phụ nữ, các nhà văn đương đại luôn có cái nhìn cảm thông, đầy nhân
bản khi phần lớn, họ đi vào khai thác yếu tố bản thể, bản năng của người đàn bà Việt,
khẳng định vẻ đẹp Việt. Những trang viết về vẻ đẹp Mẫu tính đầy nhục cảm ở tiểu thuyết
Nguyễn Xuân Khánh đầy sức mê hoặc và toát lên vẻ đẹp sung mãn của người đàn bà
Việt. Trong Hồ Quý Ly, Thanh Mai là biểu tượng cho tính nữ đầy nhục cảm và tràn trề
sức sống làm say đắm lòng người, làm tình yêu trong con người Hồ Nguyên Trừng bùng
lên khát khao thăng hoa và hòa quyện bên nhau. Hay nét đẹp của cô cung nữ Ngọc Kiểm
khi đứng trước hình hài héo mòn của ông vua trẻ Thuận Tông, tự nhiên sống dậy. Bản
năng của người đàn bà, khiến cô quên hết tất cả: “Thị Kiểm ôm chặt lấy tấm thân gầy gò,
non tơ của Thuận Tông. Còn Thuận Tông thì đang bơi trên một dòng sông bao
la…”[tr.82]. Tình thương và sự tận hiến của người con gái này có sức mạnh tái sinh
Thuận Tôn thêm một lần nữa. Ở Mẫu Thượng Ngàn, những cuộc giao hoan của người đàn
bà Việt trong miêu tả của nhà văn là những cảnh đẹp đầy nhục cảm, lôi cuốn. Nó có sức
mạnh vô biên, khơi dậy phần dương khí trong mỗi người đàn ông. Nhân vật Ba Váy tiêu
biểu cho sức sống mãnh liệt của dân tộc với vẻ đẹp mỡ màng của da thịt, ở con mắt lóng
lánh, ở đôi vú căng tràn nảy nở. Trong đêm trăng của mùa trải ổ, Ba Váy đã dâng hiến
cho Trịnh Huyền trong ánh trăng khuya và sương đêm tắm mát. Ở con người bà, toát lên
cái hừng hực căng tràn sự sống, sinh liền năm đứa con nhưng bà không mất đi cái hấp dẫn
ma lực của bản năng. Sức mạnh của Mẫu tính trong con người bà đã trở thành liều thuốc
đưa người chồng trở về từ cõi chết. Dường như bản năng, vẻ đẹp nhục cảm của người đàn
bà luôn tiềm thức và chỉ cần đánh thức và khơi dậy nó. Cô Mùi trải qua ba đời chồng,
người nào cũng chết vì “chân khí suy kiệt” vì mắc chứng “thượng mã phong”. Sinh lực
tràn trề khiến người đàn ông lúc nào cũng thèm khát nhưng họ đâu biết rằng: “khi người
đàn bà thức dậy, thì tiềm lực của cô ta là vô cùng mãnh liệt, và cường độ càng lúc càng
tăng cho tới vô biên. Ôi! Một sức mạnh, một tinh lực ngút ngàn” [tr.248].
83
Hình tượng nhân vật Nguyễn Thị Lộ được khắc họa hoàn khác biệt cái nhìn truyền
thống theo cảm quan của Nguyễn Quang Thân, Hà Văn Thùy. Trong Hội thề và Nguyễn
Thị Lộ, nhân vật Nguyễn Thị Lộ hiện lên là một người phụ nữ bình thường với những nhu
cầu, khát khao của một con người. Nếu ở Hội thề, Thị Lộ và Nguyễn Trãi chỉ mới là hai
con người có lúc không hiểu nhau thì bước sang Nguyễn Thị Lộ lại được nhìn nhận ở
nhiều góc độ khác nhau. Trong Nguyễn Thị Lộ, nhà văn Hà Văn Thùy đã khắc họa thành
công nhân vật Nguyễn Thị Lộ với những khát khao dục vọng, bản năng mãnh liệt, trong
mối tình vụng trộm cùng vị vua trẻ Lê Thái Tông. Được vua sủng ái, vời vào cung làm
việc, sự gần gũi và nhiệt tình của vị quân vương trẻ tuổi đã làm Nguyễn Thị Lộ ngã lòng
và rơi vào vòng tay nồng ấm của người tình mới. Tác giả thực sự có cái nhìn phóng
khoáng khi “giải thiêng” nhân vật bằng cái nhìn cảm thông, chia sẻ: với Nguyễn Trãi, mối
tình của họ “không nặng về xác thịt mà phảng phất hương hoa, đạm thanh và sâu sắc”
nhưng với Lê Thái Tông, đó là cuộc tình đầy ái ân của chuỗi dài những cảm giác mãnh
liệt nóng cháy từ một cuộc tình rực lửa “Nhưng rồi sau đó những kìm nén mà nàng cố
tình gìn giữ bị phá tung, không cưỡng nổi bản thân, nàng hưởng ứng cuồng nhiệt. Cơn
khát thèm tích tụ bao ngày đã được thỏa mãn ở lần trước, lần này chàng trai trẻ từ tốn điệu
đàng dẫn nàng vào cuộc vui, đưa nàng lên cực điểm khoái lạc”. Ái ân, khoái lạc đã khiến
Nguyễn Thị Lộ tìm mọi cách giữ lửa cho hương vị tình yêu bằng cách ứng dụng Tố Nữ
Kinh khiến cho vị vua trẻ ngày càng đắm say trong hạnh phúc. Sự lầm lạc của Nguyễn
Thị Lộ đã gây ra biết bao khổ lụy cho vua trẻ, cho nàng và cho tấn bi kịch nhà chồng. Cái
đêm nhà vua cùng Nguyễn Thị Lộ tận hưởng tột cùng hoan lạc của tình yêu xác thịt cũng
là cái đêm chấm dứt cuộc đời ông vua trẻ và chấm dứt một thời vàng son của Nguyễn Thị
Lộ, để rồi sau đó bà phải bước vào cuộc sống tối tăm lạnh lẽo tù đày kéo theo nỗi oan ức
cho dòng họ Nguyễn Trãi. Tóm lại, TTLS Việt Nam đương đại mạnh dạn bóc trần những
góc khuất của lịch sử khi đi vào tận cùng bản thể người. Dưới ngòi bút của một số tác gia,
vóc dáng của những anh hùng lịch sử như Lê Lợi, Lý Thường Kiệt, Lý Nhân Tông một
lần nữa được đưa ra luận giải với góc nhìn cận cảnh, mang đến cho độc giả cái nhìn thấu
triệt về những biểu tượng của lịch sử. Trong khi đó, quan niệm nghệ thuật về con người
bản năng có sự vận động đột phá so với giai đoạn trước đây, khi một số nhà văn mạnh tay
84
khám phá phần bản năng tính trong người đàn bà Việt: ý thức giải phóng cá nhân diễn ra
càng ngày càng mãnh liệt và sâu sắc.
3.1.3.2. Nhân vật bi kịch
Xây dựng kiểu nhân vật bi kịch là một trong những đổi mới của TTLS đương đại
khi khai thác kiểu nhân vật đời tư, thế sự. Nhân vật không chỉ được đặt trong mối quan hệ
với quốc gia, dân tộc, dòng họ, mà còn được đặt trong cái nhìn cá nhân. Lúc này, nhân vật
được các nhà văn miêu tả từ điểm nhìn bên trong để nhận ra những giằng xé nội tâm,
những tiếng kêu của thân phận, những mất mát, đổ vỡ của kiếp người. Trong cơn bão táp
của thời đại, họ là nạn nhân của lịch sử, là con rối trong trò chơi của thời thế. Họ rơi vào
bi kịch, họ bị đặt vào tình cảnh trớ trêu, luôn ngơ ngác, lạc thời. Họ có thể là nạn nhân do
sự lựa chọn của lịch sử: Trần Thị Thu Ngừ, Lý Chiêu Hoàng, Trần Cảnh, Nghệ Tông,
Nguyên Trừng, Nguyễn Trãi,…; họ cũng có thể là nạn nhân của tham vọng quyền lực:
Thượng Dương thái hậu, Lý Huệ Tông, Hồ Quý Ly,…; và người phụ nữ chính là nạn
nhân đáng thương nhất trong những cơn bão thời đại ấy: Lý Chiêu Hoàng, Huyền Trân,
Nhuệ Anh, Ngạn La, Huy Ninh, Quỳnh Hoa, Thanh Mai, Nguyễn Thị Lộ, Bạch Dung,
Mùi, Ba Váy, Lụa, …
Con người – bi kịch của sự lựa chọn
Trong Hồ Quý Ly, Tám triều vua Lý, Đàm đạo về Ngự Giác Hoàng, Sắc đẹp
khuynh thành kiểu nhân vật bi kịch hiện ra dưới nhiều gương mặt khác nhau. Họ là những
ông hoàng, bà chúa, những tướng lĩnh… khổ sở trong tấm lưới cung đình. Lịch sử lựa
chọn họ, mang đến cho họ vương quyền, vinh quang nhưng cũng nhiều nỗi đắng cay và
cả những bi kịch đầy đau đớn. Trong Hồ Quý Ly, từ ông vua già Nghệ Tông đến ông vua
cuối cùng Trần Thuận Tông đều là những kẻ “bị làm vua” và cùng phải chịu một kết thúc
bi thảm. Nghệ Tông không bao giờ có ý muốn làm vua nhưng lợi ích của dòng họ buộc
ông phải gánh vác trọng trách giành lại ngôi báu. Cuộc đời “bị làm vua” của ông quả thực
nhiều cay đắng. Cuối cùng, ông vua già trao lại ngôi báu cho con như để lại một thứ
nghiệp chướng mà đứa con ông không hề muốn nhận. Và đến lúc sắp nhắm mắt xuôi tay,
ngẫm nghĩ về toàn bộ đời mình, Nghệ Tông chỉ có thể thở dài não nuột với bao mâu
thuẫn, giằng xé, đau đớn, mặc cảm tội lỗi vì “đã làm đổ vỡ cơ nghiệp nhà Trần”. Hay đó
là những đứa trẻ còn rất nhỏ như Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh trong Tám triều vua Lý
85
(Hoàng Quốc Hải), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn) bị đặt lên ngôi vua
vì nước cờ chính trị của các phe cánh. Ngồi trên ngai vàng, nữ hoàng vướng víu trong bộ
triều phục dài rộng quá khổ, lúng túng “hệt như một đứa trẻ không thuộc bài”. Trong khi
thiên hạ chém giết, giành giật nhau hầu mong chiếm đoạt ngai vàng thì với Chiêu Thánh,
nó chỉ là “một thứ đồ chơi xa xỉ”, “không bằng mấy cái vỏ hến” [tr.42]. Với Trần Cảnh,
ngôi báu cũng có khác gì một thứ “đồ chơi mới” hấp dẫn hơn mà thôi. Nhưng đã bị lựa
chọn, Trần Cảnh không còn cách nào khác phải gánh vác trách nhiệm thật nặng nề mà
trong lòng đầy nỗi đau đớn khôn nguôi về sự đổi chác tình yêu nhằm giữ vững vương
quyền. Đó có thể là Lý Nhân Tông (Con đường định mệnh – Hoàng Quốc Hải) mang
trong mình bi kịch chịu sự lựa chọn của lịch sử và bi kịch không thể thực hiện trọn vẹn
chí lớn chấn hưng đất nước. Bảy tuổi lên ngôi trong tâm thế của một đứa trẻ chỉ biết vui
chơi, chưa hiểu thấu được vai trò của bậc quân vương, để người khác mượn tay gây nên
bao vết nhơ lịch sử. Đó là Trần Nguyên Hãn trong Oan khuất, Người con trang Sơn Đông
anh dũng chiến đấu để bảo vệ giang sơn, giành ngôi báu về cho chủ tướng nhưng khi
kháng chiến thắng lợi cũng là lúc Trần Nguyên Hãn nhận về mình kết cục bi thương.
Trên bước đường mở cõi, để có được thành công Nguyễn Hoàng (Minh sư – Thái
Bá Lợi) cũng phải chấp nhận những mất mát, hy sinh lớn lao cho vận mệnh quốc gia, dân
tộc. Mặc dù những cuộc chinh chiến đều giành thắng lợi nhưng mỗi cuộc chiến đi qua là
mỗi lần trái tim ông khắc sâu thêm vết thương đau đớn: Trái tim ông tan nát khi phải tự
mình dâng người thiếp yêu quý Ngọc Lâm cho Lập Bạo: “Nguyễn Hoàng ôm chặt Ngọc
Lâm vào lòng mà nước mắt ông đầm đìa trên áo nàng. Ông đau khổ như đã hoàn toàn mất
nàng. Ông không muốn buông nàng ra khỏi vòng tay của mình vì ông biết nếu nàng rời
khỏi ông là mất nàng mãi mãi” [tr.296]; bàng hoàng, thương xót trước cái chết của hai
thuộc hạ thân tín Nguyễn Thiệu và Chế Mô; đau đớn trước sự hy sinh của hai người con
trai yêu quý. Mất mát, đau thương nhưng Đoan quận công vẫn can trường làm trụ cột
vững chắc cho giang sơn xã tắc. Có thể nói, người anh hùng mở cõi luôn đặt lợi ích,
quyền lợi của quốc gia, dân tộc lên trên hết mọi nhu cầu cá nhân.
Người trí thức – bi kịch cô đơn, lạc loài
Bên cạnh việc xây dựng nhân vật mang sứ mệnh lịch sử, các nhà TTLS đương đại
còn tái hiện cả bi kịch của những người trí thức trong cơn lốc xoáy của thời đại. Có thể kể
86
đến, Sử Văn Hoa, Phạm Sinh trong Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Nguyễn Trãi trong
Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Đất trời (Nam Dao),Trương Vĩnh Ký trong Trương Vĩnh
Ký – bi kịch muôn đời (Hoàng Lại Giang), Oan khuất (Bùi Anh Tấn), Lý Đạo Thành
trong Tám triều vua Lý (Hoàng Quốc Hải), Nguyễn Du trong Nguyễn Du (Nguyễn Thế
Quang),… chúng ta nhận thấy người trí thức đều là những “mắt bão” trong thời đại, là
những trí thức trong cơn địa chấn của lịch sử nhưng luôn chịu cô đơn, lạc loài, luôn nhận
lấy về mình những bi kịch của thời thế. Họ thể hiện những khát khao hoài bão lớn lao
đem lại cho đất nước nền hòa bình, hưng thịnh. Tuy nhiên cũng chính sự dấn thân đó đã
tạo nên bi kịch cho chính số phận của họ. Chẳng hạn, Lý Đạo Thành (Con đường định
mệnh – Hoàng Quốc Hải) là một nhân cách lớn, yêu nước, thương dân, tận tâm tận trung
với triều đình, là nhà nho am hiểu các triết lý nhân sinh, sống nhã nhặn, khiêm tốn trước
vòng danh lợi để giữ mình trong sạch. Tuy nhiên, cơn lốc tranh giành quyền lực giữa
chốn hậu cung đã đẩy ông khỏi triều đình đi trấn thủ vùng Nghệ An xa xôi. Lý Đạo Thành
hay sau đó là Lê Văn Thịnh là những nhân chứng sống đánh dấu mốc quan trọng trên con
đường suy thoái của thời đại nhà Lý. Lý Đạo Thành gặp phải biến cố khi tuổi đời và sự
nghiệp đã chín muồi, và Lê Văn Thịnh “lực bất tòng tâm”, một người khó lòng “bẻ nạng
chống trời”. Hay Nguyễn Du trong tác phẩm cùng tên là một nhân cách lớn nhưng sống
buồn bã, tâm trạng luôn u uất. Nguyễn Thế Quang đã vẽ lên nỗi buồn lớn của Nguyễn Du
không dừng lại ở nguyên nhân bé nhỏ là vì đồng sự ghen ghét hay mặc cảm về cái sự “tôi
trung không thờ hai chúa” mà ở nỗi niềm lớn lao hơn. Đó là tấm lòng yêu thương con
người, là phẩm cách của một tâm hồn cao thượng, cảm thấy những nghịch lý, những
nghịch cảnh tồn tại ở mọi thời, mọi nơi, như là một định mệnh không tài nào thay đổi
được. Nguyễn phải chứng kiến những bất công ngang trái do bọn gian thần lộng quyền ỷ
thế, bức ép dân lành, giết hại anh trai. Chốn quan trường tranh quyền đoạt lợi, sát hại lẫn
nhau, ngay đến nhà vua Gia Long thà hy sinh bậc trung thần chứ không thể để cho sự
nguy hại len lỏi quanh ngai vàng đã gây ra bao cái chết oan uổng cho các bậc khanh
tướng như Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Nguyễn Văn Thuyên, Lê Quang Định… Tấm
lòng nhân ái mênh mông với những suy tư, khoắc khoải ở ông luôn cảm thấy bất lực, đau
đáu không lời đáp. Nỗi niềm thời đại chính là điều sâu kín tạo nên nỗi u hoài day dứt
không nguôi trong đời sống và là hạt nhân trong sáng tác của Nguyễn Du. Nhìn chung,
87
viết về người tri thức, các nhà TTLS đương đại đã có thái độ trân trọng và cảm thông. Họ
xây dựng mẫu hình người trí thức với vẻ đẹp trí tuệ, giàu khát vọng sáng tạo và cống hiến
tài năng cho đất nước nhưng tâm hồn họ lại dễ bị tổn thương, bởi lẽ, con người cũng
không thể lớn hơn thân phận của chính mình.
Người phụ nữ - bi kịch trong cơn bão táp của thời đại
TTLS giai đoạn trước 1986 viết về người phụ nữ thường đề cập về nỗi xót xa của họ trên bình diện cái ta chung của dân tộc: nỗi nhục mất nước, nỗi đau mất chồng vì chiến tranh (Đặng Thị trong Trần Nguyên chiến kỷ, Lan Anh trong Ai lên Phố Cát), khát vọng được cống hiến cho đất nước (Chí trong Trùng Quang tâm sử, Triệu Thị Trinh trong Vua Bà Triệu Ẩu, Tiết Thị Huệ trong Tiếng sấm đêm đông, Ngọc Nương trong Việt Thanh chiến sử, An Tư trong An Tư…). TTLS giai đoạn này cũng đi vào khai thác đời tư của nhân vật ở góc nhìn nữ giới để nhận ra khát vọng bản năng và nhu cầu giải phóng bản thể như Đặng Thị Huệ (Bà Chúa Chè), Dương Hậu (Cái hột mận),… nhưng chưa sâu sắc và toàn diện. TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI đậm chất thế sự và mang tính nhân văn hơn khi khắc họa những hình tượng người phụ nữ từ nhiều điểm nhìn khác nhau, đặc biệt, trong đó tâm lý của nhân vật được khai thác tối đa để nhận ra những tiếng kêu của thân phận. Ám ảnh người đọc sâu sắc là số phận những người phụ nữ trong cuộc sống vương giả nhưng bất hạnh như Huy Ninh, Quỳnh Hoa (Hồ Quý Ly – Nguyễn Xuân Khánh), Lý Chiêu Hoàng, Ỷ Lan, Dương hoàng hậu (Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc Hải), Huyền Trân (Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng – Bùi Anh Tấn, Huyền Trân – Nguyễn Hữu Nam), Ngọc Vạn (Công nữ Ngọc Vạn – Ngô Viết Trọng),… hay những thường dân thấp hèn như Ngạn La (Giàn thiêu – Võ Thị Hảo), Mùi, Ba Váy (Mẫu Thượng Ngàn – Nguyễn Xuân Khánh), Bạch Dung (Đàn đáy – Trần Thu Hằng), Rêu (Đội gạo lên chùa – Nguyễn Xuân Khánh), Lụa (Thế kỉ bị mất – Phạm Ngọc Cảnh Nam), Ngọc Lâm, Tư Trà, Lộc (Minh sư – Thái Bá Lợi), Tạ Thuần Khanh, nàng Mỵ Ê, Tuất (Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc Hải)…
Trong Hồ Quý Ly, hình tượng người phụ nữ được tác giả dành ngòi bút ưu ái để xây dựng nên những nhân vật nữ như công chúa Huy Ninh, Quỳnh Hoa, Thanh Mai, Thánh Ngẫu… Nếu như Huy Ninh với cuộc đời bất hạnh, sống trong nhung lụa nhưng tâm hồn đau đớn, giằng xé về tinh thần, chìm trong những bài kinh sám hối và trong nỗi xót xa, phiền muộn và sớm ra đi về cõi Tiên Phật; hoàng hậu Thánh Ngẫu có cuộc sống hạnh phúc ngắn ngủi để rồi sau đó là chuỗi ngày sống trong buồn rầu, đau khổ, cô đơn,
88
tuyệt vọng không gì có thể bù đắp được thì với Quỳnh Hoa và Thanh Mai là nạn nhân của những mưu đồ chính trị.
Nhuệ Anh, Ngạn La, Lê Thị Đoan đều là những thân phận mỏng manh bị cơn cuồng phong vùi dập. Nhuệ Anh là tiểu thư xinh đẹp, hiều dịu, thế nhưng cuộc tình với Từ Lộ đã dẫn bước nàng vào con đường đầy bi kịch. Nàng chấp nhận trốn chạy cuộc hôn nhân với Lý Câu để đi theo tiếng gọi tình yêu. Hận thù chất ngất trong lòng Từ Lộ đã không còn chỗ cho tình yêu của nàng. Lúc tận hưởng niềm hạnh phúc tột cùng của tình yêu cũng là lúc nàng nhận sự quay lưng của Từ Lộ. Từ Lộ rời xa nàng để theo con đường tu nghiệp báo thù cho phụ mẫu. Nhuệ Anh đau khổ tìm đến sông Gâm gieo mình tự trầm. Được Cá Bơn cứu sống nhưng linh hồn nàng đã chết cùng mối tình ngang trái. Nàng đoạn tuyệt hồng trần, nương nhờ cửa Phật, mong tìm chốn bình yên. Trớ trêu thay, cuộc gặp gỡ Dương Hoán, đã khiến trái tim Nhuệ Anh càng thêm đau đớn. Những giọt nước mắt của Nhuệ Anh đã gột rửa hết lớp hổ của Lý Thần Tông và đó như là lời cảnh tỉnh sau cùng, kết thúc duyên nghiệp của hai người. Trong Giàn thiêu, cuộc đời Ngạn La là những chuỗi bất hạnh khi bị người cha ruồng bỏ, thậm chí tìm cách giết hại. Hai lần nàng trở thành cung nữ của vua Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông, bị đưa lên giàn thiêu để táng xác theo vua. Đón nhận cái chết nhưng Ngạn La vẫn mãi xinh đẹp, trong trẻo, ngây thơ và tốt bụng giữa chốn cấm cung đen tối, bẩn thỉu. Hình ảnh người phụ nữ Lê Thị Đoan giả trai đi thi, vạch trần tội ác của bọn vua quan phong kiến và nhận lãnh cái chết vinh quang đã mang đến cho tác phẩm những giá trị nhân văn sâu sắc. Như vậy, viết về các nhân vật nữ, Võ Thị Hảo thể hiện quan điểm nữ quyền sâu sắc. Tất cả mọi phụ nữ đều mang vẻ đẹp trong sáng, có tâm hồn nhân hậu, vị tha nhưng ở họ luôn ẩn tàng sức sống mãnh liệt, luôn ý thức sống vượt lên trên số phận.
Trong Hội thề, Đất trời, Oan khuất, Hoàng hậu Ngọc Trần có vẻ đẹp khuynh thành: Một người đàn bà nhan sắc tuyệt thế, một tâm hồn chan chứa tình yêu thương, tính nết cứng cỏi, mơ mộng như nhà thơ. Ngọc Trần trở thành nạn nhân trong mưu đồ chính trị của dòng họ Phạm khi buộc nàng làm vật hiến tế nhằm đưa công tử Nguyên Long kế thừa ngôi báu. Nguyễn Quang Thân không khỏi xót xa khi miêu tả cảnh bi thương ấy “Nàng rơi xuống vực thẳm như một bông hoa, xiêm áo xòe ra trong gió, giữa tiếng chiêng trống nhất loạt rộ lên như lời vĩnh biệt hoang dại một con người” [tr.224]. Như vậy, trong cơn bão táp của lịch sử thân phận người phụ nữ trở nên vô cùng nhỏ bé, mong manh. Họ bị cơn bão của lịch sử cuốn trôi, bị cướp đi sinh mạng vì mục đích chính trị của một phe cánh nào đó.
89
Trong Mẫu Thượng Ngàn, những nhân vật nữ vốn được nhà văn rất dụng công xây dựng nên càng sống động. Đặc biệt, khi viết về nỗi đau của các nhân vật, Nguyễn Xuân Khánh đã giành cho họ cả niềm yêu thương, sự cảm thông và tấm lòng trân trọng, nâng niu: Bà Tổ cô có một số phận long đong; Ba Váy – cuộc đời éo le, ngang trái của tình yêu dang dở, hạnh phúc không trọn vẹn; bà Mùi – tình duyên lận đận, trái ngang với ba cuộc hôn nhân đầy bất trắc; cô bé Nhụ - tan vỡ một giấc mộng về hạnh phúc lứa đôi của tuổi trẻ; Chị mõ Pháo – nỗi đau mất chồng con, trở nên điên dại; Cái Hoa – đẹp nhất làng nhưng suốt đời làm kiếp mõ hèn mạt, sống lay lắt cô đơn, bị đời khinh rẻ. Đội gạo lên chùa khắc họa hình ảnh cô Nguyệt bất hạnh: mồ côi cha mẹ từ nhỏ, chứng kiến cái chết oanh liệt của người chồng đầu tiên,… sau lấy anh Hạ - một quái nhân của làng. Những thân phận như cô Khoai, cô Rêu, cô Ngơ, cô Xim,… là hình bóng sống động cho cuộc đời đau khổ của con người.
Thái Bá Lợi trong Minh sư thể hiện tư tưởng nhân văn thông qua hình tượng những người phụ nữ bị chiến tranh vùi dập, hủy hoại ước mơ và hạnh phúc. Ngọc Lâm chấp nhận hy sinh, dâng mình cho giặc Lập Bạo đem lại sự bình yên cho quan dân Thuận Quảng. Người phụ nữ tài đức vẹn toàn đã phải đau đớn, nhẫn nhục để làm tròn nhiệm vụ. Cái kết cay đắng Ngọc Lâm nhận lãnh không phải là cái chết mà là sự tủi nhục trong suốt chặng đường còn lại của cuộc đời. Nhân vật chị Tư Trà là một trong những nạn nhân của chiến tranh chống Mĩ khốc liệt. Trải qua hai đời chồng với hai lần góa bụa, người phụ nữ ấy phải nếm trải mọi đắng cay, vùi dập của chiến tranh.
Giữa dâu bể của lịch sử, thân phận người phụ nữ còn là món hàng trao đổi cho tham vọng lợi danh. Những cuộc đời lắm nỗi đa truân như Bạch Dung, Tạ Thuần Khanh, nàng Mỵ Ê, Huyền Trân, Ngọc Vạn, Ngọc Trần, Ngọc Lâm,… là những tiếng kêu thống thiết, là bản cáo trạng cho những thói ích kỉ tầm thường của con người. Tình yêu của Bạch Dung đặt nhầm chỗ cho kẻ sẵn sàng bất chấp mọi thủ đoạn để đạt được dục vọng cá nhân. Nguyễn Hữu Chỉnh đã đâm từng ngọn giáo vào trái tim nàng với những lời nói chua chát “gia phong nhà ta không cho phép ta lấy một đào hát, bất luận người ấy tài sắc như nàng” [tr.150]. Lý Thường Kiệt vì sự nghiệp dòng họ đã thờ ơ, phụ bạc nghĩa tình vợ chồng khiến Tạ Thuần Khanh phải ra đi, nương nhờ cửa Phật. Lê Thánh Tông cướp nàng Mỵ Ê, chiếm đoạt thể xác nhưng người đàn bà ấy quyên sinh giữ trọn tiết hạnh trung trinh. Hoàng hậu Ngọc Trần dâng mình cho sóng dữ để giúp dòng họ giành lấy vương quyền. Bi kịch của những người phụ nữ đôi khi là nỗi đau cá nhân, đôi khi mang về lợi ích, vinh quang cho dân tộc như Huyền Trân, Ngọc Vạn. Nhìn chung, viết về những người phụ nữ, các nhà văn đã có cái nhìn đầy tính nhân văn khi thâm nhập vào thế giới
90
nội tâm của họ để nhìn, để phơi bày những mất mát, đổ vỡ, để lắng nghe tiếng thở dài của mỗi số phận.3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong TTLS Việt Nam giai đoạn 1900 - 1985 về cơ bản chưa thoát khỏi cách xây dựng nhân vật truyền thống, vẫn mang tính ước lệ, tượng trưng. Vì thế nhân vật chỉ nổi bật nét chung, thiếu cá tính và rất ít khả năng “nổi loạn”. Tuy nhiên, trong cái nhìn của TTLS sau 1986, đặc biệt đầu thế kỉ XXI, tính phức hợp, đa bình diện trở thành một đặc tính nổi bật của các nhân vật, đồng thời chi phối mạnh mẽ đến phương thức xây dựng nhân vật và một số phương thức khác của nghệ thuật tự sự và thi pháp thể loại. Vì vậy nhân vật trong TTLS giai đoạn này đã thực sự thoát khỏi hình thức “sơ đồ hóa” để hiện lên đầy đặn hơn, sống động hơn. Nhiều tiểu thuyết đi sâu vào đời sống tinh thần con người để qua đó, thấy được “hình bóng của cuộc đời”. Nói như M.Kundera: “Tiểu thuyết là một sự chiêm nghiệm về cuộc đời thông qua các nhân vật tưởng tượng” [74, 89]. Nhìn chung, các tác giả đã hội tụ được khả năng xây dựng nhân vật trong TTLS khi kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, từng bước cách tân, làm cho thể loại trở nên năng động hơn, uyển chuyển hơn, phù hợp với thị hiếu của độc giả thời hiện đại.
3.2.1. Khắc họa chân dung nhân vật3.2.1.1. Khắc họa nhân vật qua ngoại diện TTLS trước 1986, đặc biệt trong các tác phẩm của Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn Huy
Tưởng, Nguyễn Triệu Luật, Thái Vũ, Hà Ân,… chủ yếu xây dựng hình tượng nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình và hành động nhằm khắc họa tính cách nhân vật. Nhân vật hiện lên trước mắt người đọc với những tính cách một chiều, mang tính biểu tượng cao: tốt hoặc xấu, cao cả hoặc thấp hèn, anh hùng hoặc tiểu nhân, chính diện hoặc phản diện… TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI vẫn sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng trong việc khắc họa ngoại hình nhân vật. Chẳng hạn, Nguyễn Huệ trong Tây Sơn bi hùng truyện tuy còn nhỏ tuổi nhưng vóc dáng đã toát lên tố chất phi thường: “Lưng hùm vai gấu, mặt vuông tai lớn, mắt sắc như gươm, ánh nhìn như chớp”, “tiếng nói ngân như chuông” [tr.46, 140]. Đây là kiểu ước lệ quen thuộc trong các tiểu thuyết chương hồi trung đại, kiểu những người anh hùng của sử thi. Người đọc dễ hình dung và ước đoán những con người có tướng mạo phi phàm hẳn sẽ có chân mệnh đế vương hay làm nên những chuyện phi thường. Những nét chấm phá ước lệ này đã tôn thêm vẻ đẹp kì vĩ của những người anh hùng áo vải đất Tây Sơn. Trần Khâm (Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng) được nhà văn mượn yếu tố dân gian để tô điểm cho sự ra đời và ngoại hình của nhân vật: “Trần Khâm
91
sinh ra, thoạt tiên tướng mạo giống vàng rồng, tiếng khóc văng như chuông đổ, khuôn mặt khôi ngô tuấn tú lạ thường. Hai vai có nốt ruồi đỏ như son, quả là chỉ có Bồ Tát hay Thần nhân giáng thế mới có quý tướng như vậy” [tr.78]. Trong Thiền sư dựng nước, Hoàng Quốc Hải kể về sự đầu thai kỳ lạ của Lý Công Uẩn: do mẹ giao cấu với thần mà sinh ra Lý Công Uẩn. Đặc biệt, khi lên sáu, thiền sư Vạn Hạnh đã nhận thấy ở Lý Công Uẩn có ngoại hình kỳ tướng, tướng mạo đế vương: “Đích thị là bậc minh vương thánh đế trời ban cho nước ta, ban cho Đạo ta, để gỡ cho thế nước đang lâm vào trì bế, nát rối” [tr.51]. Những đặc điểm ngoại hình đó dự thuật về một bậc vua anh minh, tài giỏi, sẽ thay đổi diện mạo của lịch sử, đem lại cuộc sống ấm no, thái bình thịnh trị lâu bền cho dân tộc.
Tuy nhiên, TTLS giai đoạn này có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại khi miêu tả ngoại diện của nhân vật nhưng trên cơ sở cách tân nguyên tắc xây dựng nhân vật nhằm làm mới nhân vật, giúp độc giả cùng khám phá tính cách, lý giải số phận nhân vật đồng thời cùng đối thoại với lịch sử. Nhân vật không chỉ được khắc họa bằng vài nét chấm phá diện mạo bên ngoài mà ngòi bút của các nhà văn đương đại đã chú tâm xây dựng nhân vật một cách toàn diện hơn, chân thực hơn thông qua những đặc điểm trên cơ thể nhân vật: đôi mắt, vú, mông, làn da, rốn,... Ví dụ, khắc họa chân dung của những nhân vật phản diện, những con người có tâm địa xấu xa, độc ác, các nhà văn không chỉ miêu tả hình dáng bên ngoài mà sử dụng nhiều hơn nghệ thuật miêu tả chi tiết đôi mắt. Chẳng hạn, đôi mắt của Hồ Quý Ly sáng lên khi nói về chuyện canh tân, khi nhìn cảnh vợ con quấn quýt, long lanh giận dữ với những kẻ chống đối và lạnh lẽo khi đọc được ý nghĩ của con; nhân vật Lý Trác (Giàn thiêu), có đôi mắt “đôi con ngươi Thái Bảo vằn máu, sắc lạnh như mắt cọp bắt mồi” [tr.46], đôi mắt của Đại Điên “nửa khép nửa mở. Khi khép như mèo ngái ngủ. Khi trừng từng như mắt cọp đói, con người thoáng ánh đỏ” [tr.74]; nhân vật Lý Tài (Tây Sơn bi hùng truyện) có “đôi mắt lươn, mũi nhọn, lưỡng quyền cao” [tr.142], đó là gương mặt của hạng người nham hiểm, xảo trá. Tập Đình thì “mày xếch, mắt cú vọ, miệng thì vêu, hàm có ngạnh” [tr.143], ấy là gương mặt của kẻ hung tàn, bất nhân, là chân dung của kẻ chuyên nịnh hót, hách dịch,…
Với các nhà văn, ngoại hình luôn có tác dụng bổ trợ nhất định cho việc tạo dựng hình tượng nhân vật sinh động và chân thực. Những chi tiết của ngoại hình không chỉ tạo ấn tượng cho người đọc về “con người bên ngoài” mà còn như một cánh cửa giúp người đọc khám phá “con người bên trong” của nhân vật. Nhân vật Từ Lộ trong Giàn thiêu được phác họa bằng vài chi tiết, câu văn ngắn gọn nhưng tác giả đã làm bừng sáng lên chân dung của chàng công tử tuổi mười bảy tuấn tú, khôi ngô: “mày rậm, mắt sáng, miệng như vành trăng treo, vầng trán thanh cao, có tướng “ngưỡng nguyệt khẩu”[tr.62], học
92
rộng biết nhiều lại giỏi cầm kỳ thi họa. Khi trở thành nhà sư Từ Đạo Hạnh, bút pháp khắc họa nhân vật không được chú ý ở ngoại hình mà đã có sự dịch chuyển vào trong suy nghĩ, hành động. Thông qua điểm nhìn của Trần Cảnh nhân vật Trần Thủ Độ trong Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng hiện lên là một con người mạnh mẽ, quyết đoán, nhiều tâm cơ, luôn khát khao quyền lực, có trái tim sắt đá, tâm hồn cằn cỗi: “Ông ta đứng đó, ánh mắt trừng trừng nhìn ta thật dữ dội và dường như còn ẩn trong đó cả sự đe dọa vô hình nào đó. Sức mạnh của con người này hiển hiện qua từng ánh mắt lẫn cử chỉ của ông ta” [tr.81], “bàn tay rắn chắc, cứng và lạnh như đá”, “tia mắt sắc bén” [tr.82]. Nguyễn Hoàng trong Minh sư (Thái Bá Lợi) được nhận diện qua tướng mạo phi phàm: “Vị quận công ba mươi tư tuổi có tướng mạo khôi ngô, vai lân, lưng hổ, trán rộng, mắt phượng… đó là bậc phi thường, thông minh, tài trí, có đức rộng cảm hóa được lòng người” [tr.38]. Ngược lại, nhân vật Trịnh Kiểm gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc với tướng mạo khác thường biểu hiện là một con người đa nghi, thâm độc: “Dáng đi chắc chắn, mới trông tưởng là đi chậm, nhưng thực ra anh ta đi rất nhanh, nói năng gãy gọn khúc chiết” [tr.45]. Việc khắc họa ngoại diện là cách nhà văn xây dựng tính cách nhân vật: can đảm, mưu lược, thông minh nhưng quyết đoán, cơ mưu, tham quyền lực. Theo nhận xét của nhiều người thì có thể sống với Trịnh Kiểm lúc hoạn nạn chứ không thể sống với nhau lúc vinh quang. Thật vậy, sau khi Nguyễn Kim mất, Trịnh Kiểm lần lượt trừ khử những người cản đường ông, thậm chí muốn sát hại em vợ là Nguyễn Hoàng. Với việc thâu tóm quyền lực trong tay, Trịnh Kiểm đã nhiều lần gây ra những cuộc nội chiến đẫm máu với nhà Mạc khiến đời sống nhân dân lầm than khổ cực.
Các nhà tiểu thuyết rất chú ý đến nghệ thuật đặc tả vẻ đẹp của những người phụ nữ: những công chúa chốn vàng son, những tiểu thư đài các lại mang vẻ đẹp mảnh mai, yếu đuối Huyền Trân, Huy Ninh, Thánh Ngẫu, Quỳnh Hoa, Ngọc Vạn; vẻ đẹp lộng lẫy, khuynh thành của những bà hoàng như Dương Vân Nga, Ỷ Lan, Lê Thái hậu,… Cuộc sống của họ tựa như loài hoa trồng trong chậu cảnh, được chăm sóc tỉ mỉ, mang nét đẹp trong ngần, thánh thiện, nhưng thiếu nhựa sống. Người phụ nữ chốn nhân gian lại như những đóa hoa sinh ra và lớn lên giữa thiên nhiên bao la, trải qua mưa nắng, nên nó phải mạnh mẽ, tràn trề sinh lực. Từ cô Nhụ, cô Mùi, bà Ba Váy, bà Tổ Cô trong Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn Xuân Khánh) đến Lụa (Thế kỉ bị mất), Rêu, Nguyệt (Đội gạo lên chùa), Ngọc Lâm (Minh sư),… đều mang vẻ đẹp khỏe khoắn, mãnh liệt. Cụ thể, trong Mẫu Thượng Ngàn, Nguyễn Xuân Khánh đã cố gắng dựng lại hình ảnh những người đàn bà Việt hồn hậu, bao dung, giàu yêu thương ngay từ vẻ đẹp ngoại hình “phồn thực”, giàu tính Mẫu. Bà Tổ cô – như đóa hoa tươi của làng thời còn con gái với “khuôn mặt trái
93
xoan, mi thanh mục tú. Chẳng cần trang điểm cũng đẹp nõn nà”. Mùi có “dáng người cân đối. Đôi vú nở nang. Eo thon nhỏ. Đôi mông nẩy đều chắc nịch hứa hẹn sự đông đàn dài lũ”. Ba Váy “có gương mặt tròn vành vạnh, vai cũng tròn, những bàn tay thì bụ bẫm như tay trẻ con. Đôi mông đít mẩy, hứa hẹn sẽ rất to và tròn”. Khi xây dựng chân dung những người phụ nữ ấy, ông đều gắn cho họ những phẩm chất rất nữ tính ngay từ ngoại hình, đậm chất sắc dục – như một điểm tựa, khiến tâm hồn, phẩm cách được nâng lên, giúp họ có niềm tin vào sức mạnh của Mẫu. Trong Tám triều vua Lý, với hệ thống ngôn từ hoa mĩ, nhà văn đã phác họa nên những bức chân dung vừa sắc nét vừa sống động. Công chúa Bình Dương mang vẻ đẹp vừa mềm mại vừa mạnh mẽ: “người cao, thân lẳn mình trắm,…suối tóc dài đen nhức,… vầng trán cao, trước trán có một xoáy tóc. Mắt to, sáng với cặp mi cong, lông mày đen mướt chạy tới đuôi mắt. Đôi má hơi bầu bầu, da trắng hồng hơi nhuốm nắng,…” và “tính tình công chúa dứt khoát, mạnh mẽ như tính con trai, chứ không ủy mị thướt tha” [tr.52–53]. Lê Thị Khiết mang vẻ đẹp dân dã của cô thôn nữ: “gương mặt trái xoan thanh tú,…hàm răng đều tăm tắp, mỗi khi cười cả gương mặt bừng sáng khiến ta có cảm giác hàm răng trắng và đôi môi mọng đỏ kia tựa như cái đài hoa của một bông hoa đẹp” [tr.239]. Nhan sắc của hoàng hậu Thượng Dương là nhan sắc chim sa cá lặn, xứng danh là một trang quốc sắc thiên hương: “cặp mắt sáng, nước da mịn hồng như trứng gà bóc, đôi môi đỏ như tô son, hai hàm răng đều tăm tắp trắng như những hạt ngô nếp, cặp má bầu, gương mặt bà rực rỡ như một tấm gương sáng. Trời phú cho bà một thứ nhan sắc tự nhiên không cần bất cứ loại đồ trang sức nào, ngay cả son phấn.” [tr.62]. Nhìn chung, việc miêu tả ngoại hình vừa tạo dựng chân dung nhân vật thật sinh động vừa giúp người đọc khám phá được một phần con người bên trong của nhân vật.
3.2.1.2. Khắc họa nhân vật qua hành độngMột trong những đặc trưng cơ bản của thể loại trong việc khắc họa nhân vật là xây
dựng nhân vật thông qua hành động, hành vi, ứng xử với cộng đồng, trách nhiệm với lịch sử của nhân vật. Do đó, vấn đề hòa phối diễn ngôn lịch sử trong việc khắc họa hành động nhân vật luôn được các nhà văn đề cao. Hành động là nơi thể hiện rõ nhất tính cách và bản lĩnh của một con người. Hành động nhân vật thường nhất quán, giúp nhân vật bộc lộ tính cách. Theo cách đánh giá của cả hai phe đối lập và bảo thủ thì tất cả hành động của Hồ Quý Ly trong Hồ Quý Ly, thể hiện nhân vật vừa là hiện thân của bạo chúa, kẻ độc địa, tàn nhẫn, đa sát vừa là hiện thân của một minh chủ, một bậc đại trí. Theo điểm nhìn của những nhân vật khác như Hồ Nguyên Trừng, Phạm Sinh, Trần Khát Chân thì Hồ Quý Ly thực là một người tài ba, táo bạo và quyết đoán trong hành động. Nhân vật Từ Lộ trong Giàn thiêu hiện lên sinh động qua nghệ thuật xây dựng những tình huống để nhân vật
94
hành động, từ đó bộc lộ bản chất và tính cách nhân vật. Hình ảnh quyết tâm trả thù cho cha mẹ, được nhà văn miêu tả qua những chi tiết như viết đơn bằng máu, lao đến đánh Đại Điên, từ bỏ tất cả để tu luyện nhằm trả thù. Ở Từ Lộ hành động quyết tâm trả thù của chàng cũng có những phút như muốn quên đi để tìm đến hạnh phúc còn sót duy nhất của chàng là nàng Nhuệ Anh. Ở Từ Đạo Hạnh nổi bật nhất là hành động rũ bỏ kiếp sống hiện tại để mong được hưởng thụ những thứ mà kiếp trước đã bỏ lỡ, kể cả khi trở thành Lý Thần Tông nhưng vẫn cảm thấy thiếu vắng điều gì. Bản chất của nhân vật Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh – Lý Thần Tông rất đa diện, ở nhân vật vừa có cái cao cả xen lẫn cái thấp hèn, vừa tồn tại cái tốt vừa xen lẫn cái xấu xa, tranh đấu bên bờ thiện – ác. Nhân vật Ỷ Lan cũng được tác giả phục dựng đầy sinh động. Hành động bức chết Dương Thái hậu và 76 cung nữ trong lịch sử khiến người đọc không khỏi hoảng sợ, ngỡ ngàng. Để chuộc tội, Ỷ Lan cho xây chùa, tô tượng, đúc chuông như một cách giảm nhẹ tội lỗi cho chính mình chứ không phải để tu thiện công đức. Hành động trốn chạy hôn nhân, tự vẫn của Nhuệ Anh đều thể hiện lòng chung thủy của nàng với Từ Lộ. Hành động trốn chạy giàn thiêu của Ngạn La, hành động tố cáo tội ác của triều đình và tự sát của Lê Thị Đoan… đều thể hiện bản lĩnh, tính cách của nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo.
Thái Bá Lợi dành nhiều trang viết để khai thác nhân vật Trịnh Tùng, một con người tham vọng, lắm mưu nhiều kế. Sau khi Trịnh Kiểm mất, Trịnh Tùng lập tức mật sai Mỹ Lương lựa chọn tinh binh, chuẩn bị lương thảo, đóng thêm thuyền chiến, chọn dịp thuận lợi tập kích Đoan quận công để trừ họa. Trịnh Tùng nắm giữ binh quyền “dưới một người trên vạn người” nên luôn quyết đoán trong hành động. Nhận thấy nhiều mối nguy hại, đe dọa đến địa vị và quyền lợi của mình, Trịnh Tùng đã dùng nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo trá để kìm hãm tài năng cũng như con đường mở cõi của Nguyễn Hoàng như tìm mọi kế cách ly Nguyễn Hoàng ra khỏi Thuận Quảng và gài người thân tín của mình nắm giữ các công việc của hai xứ, đồng thời, cầm chân Nguyễn Hoàng tại Thăng Long nhằm chặt hết vây cánh của chúa Nguyễn. Hơn thế nữa, Trịnh Tùng nhiều lần dùng thủ đoạn thâm độc, đẩy Nguyễn Hoàng ra trận dẹp loạn mà mục đích cuối cùng là mượn tay giết người, diệt trừ hậu họa. Ngược lại, Nguyễn Hoàng rất khéo léo trong ứng phó với những trò nham hiểm, độc ác của cha con Trịnh Tùng. Nguyễn Hoàng đã dùng kế “giả nhũn” lui về phương Nam, bảo toàn mạng sống. Nhờ vào ý chí kiên cường, tài năng, đức độ hơn người, Đoan quận công đã thu phục được nhân tâm, thâu nạp và hòa giải những xung đột văn hóa. Trong suốt những năm trấn thủ, Đoan quận công vừa phải bình định, vừa phải chinh phạt, vừa phải củng cố, vừa phát triển đất nước. Tác giả đã dày công xây dựng nhân vật thành một vị lãnh tụ tài đức vẹn toàn, có tầm nhìn xa trông rộng, thúc đẩy
95
sự phát triển của lịch sử Đại Việt nghìn năm văn hiến. Nhìn chung, nhân vật trong TTLS đương đại thể hiện mình thông qua hành động, tuy nhiên, hành động của họ luôn gắn liền với quá trình đấu tranh tâm lý, những suy tư, trăn trở và dằn vặt để giải quyết mâu thuẫn trong hiện thực lịch sử đầy ngổn ngang, biến động.
3.2.2. Khắc họa tâm lý nhân vậtMilan Kundera đã nêu khác biệt cơ bản giữa khoa học lịch sử và TTLS chính là
những cố sự bên trong con người. Tiểu thuyết không hướng đến lịch sử xã hội mà quan tâm đến những vấn đề bức thiết và riêng tư của con người, điều mà khoa học lịch sử bỏ quên. Sức hấp dẫn của nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết chính là những xung đột, giằng xé bên trong được nhà văn khám phá bằng sự am tường đời sống nội tâm và những quy luật tâm lý. Sử dụng đối thoại và thâm nhập thế giới nội tâm nhân vật bằng độc thoại nội tâm, dòng ý thức, tiềm thức và vô thức là những phương thức hữu hiệu giúp nhà văn khám phá những bậc thang tâm trạng, những nếp suy tưởng bên trong nhân vật.
3.2.2.1. Khắc họa tâm lý nhân vật qua vô thức Vận dụng tâm lý học hiện đại, đặc biệt là phân tâm học, một số nhà văn đã đi theo
hướng thăm dò vô thức để khám phá thế giới nội tâm đầy bí ẩn của con người: Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Đất trời (Nam Dao), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Nguyễn Thị Lộ (Hà Văn Thùy), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam), Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn),…
Để khám phá phần vô thức trong con người, các nhà TTLS đương đại đã thâm nhập vào những giấc mơ, cơn mộng mị để hiểu thấu thế giới bên trong nhân vật. Theo Phân tâm học, giấc mơ là nơi ẩn giấu những khát vọng, những ẩn ức không thể thực hiện được. Khám phá giấc mơ cũng là một cách đi vào đời sống nội tâm đầy phức tạp, bí ẩn của con người. Ở Mẫu Thượng Ngàn, xuyên suốt tác phẩm ta bắt gặp nhiều cõi mơ, từ nhân vật Pierre lạc vào giấc mơ về những đóa hoa thuộc địa Đông Dương, giấc mơ của cụ Tú Cao gặp thần cây đa, Cô Mùi gặp Tổ cô, và giấc mơ của Nhụ khi ở bên xác Điều. Đến Đội gạo lên chùa ta cũng bắt gặp những giấc mơ đầy ma mị của cụ Vãi Thầm, đến giấc mơ của cô Thì thấy cụ Thầm về báo mộng. Điều đáng nói ở đây là khi xây dựng mô típ giấc mơ, đó không phải là sự trốn chạy thực tại hay đối lập với hiện thực mà là sự tiếp nối, lý giải và dự báo cho thực tại con người đang tham dự. Những biểu hiện của đời sống tâm linh ấy là một cách vượt thoát hiện thực khốn cùng, đồng thời nhen nhóm những ước vọng về một cuộc sống tốt lành. Dù tín ngưỡng hay tôn giáo, dù Đạo Mẫu hay Đạo Phật đều là những “vị thần hộ mạng” đưa con người qua những khó khăn trong tinh thần, là một
96
chỗ dựa, kiếm tìm sự bình an, thanh thản đôi khi là sức mạnh trong tâm hồn. Và hơn thế, nhà văn đã thổi vào tác phẩm của mình hơi thở văn hóa phương Đông với bao điều kì diệu của đời sống tâm linh hồn nhiên, chất phác.
Trong Đất trời, Nam Dao đã để nhân vật Nguyễn Trãi bộc lộ tâm sự thầm kín của
lòng mình bằng những giấc mơ. Nhiều lần đối mặt với Xuyến nhưng Nguyễn Trãi lại ngỡ
đó là người đàn bà áo xanh vẫn từng hiện về trong giấc mơ của ông: “Người con gái ngồi
trên giường, mớ tóc huyền bung ra đổ xuống bờ vai như thác chảy… Trãi sực đưa mắt lên
xà nhà. Mơ hay là thực đây?” Nhiều lần đối diện với Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Trãi lại
tưởng đó là Xuyến của ngày xưa: “Tôi mơ. Một giấc mơ ban hạ ở góc chợ nhốn nháo. Mở
mắt ra, nhìn đi. Tôi vẫn còn mơ ư? Nhác thấy hình hài em, ở đó, có thật” [tr.252]. Nhiều
đêm trong những giấc mơ chập chờn, Trãi nghe thấy lời dặn dò của cha: “Tai Trãi văng
vẳng lời cha “làm trai thì về mà trả ơn nước, thế mới là báo hiếu. Nợ nước trước, thù nhà
sau” [tr.91]. Giấc mơ về hình ảnh con rắn trở đi trở lại trong những cơn mộng mị của
Nguyễn Trãi. Qua những giấc mơ như thế, chúng ta nhận biết được những tầng kí ức sâu
thẳm trong tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của Nguyễn Trãi. Trong Hội thề, Nguyễn Thị Lộ
luôn mộng mị về cái chết của hoàng hậu Ngọc Trần hiến mình cho thần sông để đổi lấy
vận mệnh đế vương cho con trai mình. Giấc mơ về sự tự do, bình đẳng của Nguyễn Du
(Nguyễn Du – Nguyễn Thế Quang). Những cơn mộng mị của Trần Cảnh (Đàm đạo về
Điều Ngự Giác Hoàng – Bùi Anh Tấn) báo trước điềm xấu sắp xảy ra trong hôn nhân với
người vợ yêu quý. Và hai mươi năm sau Trần Cảnh tiễn Lý Chiêu Hoàng về nhà chồng
mà trong nhiều giấc mơ vẫn thảng thốt không yên, trái tim vẫn luôn nhói đau rỉ máu.
Tương tự, ta bắt gặp hình ảnh của Phan Châu Trinh (Thế kỉ bị mất – Phạm Ngọc Cảnh
Nam) luôn bị ám ảnh cùng những cơn mộng mị về cái chết đau thương của cha mình với
thủ cấp bị bêu trên cọc tre đã thôi thúc ông phải “bẻ ghi cho con tàu lịch sử rẽ vào con
đường khác, con đường khôn ngoan hơn của kẻ yếu, là phải tự cường trước đã” [tr.414].
Có thể thấy rằng, trong cái nhìn của thời đại mới, TTLS không ngừng biến chuyển, đổi mới
bút pháp nghệ thuật khi tiếp tục đi sâu khám phá đời sống con người ở góc độ vô thức,
nhằm phát hiện chiều sâu nhân tính thiêng liêng tiềm ẩn trong mỗi con người. Điều này góp
phần không nhỏ trong việc xây dựng một quan niệm toàn diện hơn về con người đa diện.
3.2.2.2. Khắc họa tâm lý nhân vật qua đối thoại và độc thoại nội tâm Nếu trong TTLS giai đoạn 1900 – 1945, các nhà viết TTLS ý thức cách tân bút
pháp truyền thống khi sử dụng đối thoại như: đối thoại giữa Từ Mục và Lê Hoàn trong Lê Đại Hành, đối thoại giữa Hồ Lửa và Thi Sách trong Hai Bà đánh giặc, Tiết Thị Huệ và
97
Thủ Kim trong Tiếng sấm đêm đông,…, song hình thức này vẫn còn đơn giản. Tuy nhiên, trong TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI các nhà văn không chỉ đặt nhân vật trong những cuộc đối thoại giữa nhân vật này với nhân vật kia, với những tình huống gay go, căng thẳng không chỉ tạo điều kiện để nhân vật có cơ hội tự bộc lộ mình, thể hiện mình, mà còn ẩn ngầm trong văn bản sự đối thoại các tư tưởng, quan điểm, đối thoại của các nền
văn hóa, đối thoại giữa hiện tại và quá khứ.Trong Giàn thiêu, Võ Thị Hảo xây dựng rất nhiều các cuộc đối thoại giữa các nhân
vật như cuộc đối thoại giữa Lý Trác và Lê Thị Đoan khi định đoạt số phận của những cung nữ trước giàn thiêu. Thông qua cuộc đối thoại, người đọc dễ dàng nhận diện tâm địa xấu xa của Lý Trác khi hắn luôn thúc giục nhà vua hạ lệnh giết Ngạn La, ngược lại, nhân vật Lê Thị Đoan hiện lên là một người mạnh mẽ, dũng cảm, dám chống lại cường quyền đòi quyền sống cho người cung nữ nói riêng và người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung. Đặc biệt, trong Giàn thiêu cuộc đối thoại giữa Ỷ Lan và Dương Thái hậu đã dựng lên hình ảnh con người đa diện, con người luôn phải tranh đấu với những tốt – xấu, thiện – ác, cao cả - thấp hèn trong bản thân mình. Từ cuộc đối thoại với hồn ma, những phần khuất lấp của Ỷ Lan bị vạch trần, vị thánh nhân Ỷ Lan bị “giải thiêng” trước mắt người đọc. Hành động bức hại Thái hậu Thượng Dương cùng 76 cung nữ để chiếm đoạt quyền lực, mãi mãi là vết nhơ không bao giờ thanh tẩy được.
Cuộc đối thoại giữa Nguyễn Hoàng (Minh sư – Thái Bá Lợi) với hai người lính trẻ thể hiện nhân cách cao đẹp của vị anh hùng mở cõi: thẳng thắn nhìn thẳng vào sự thật để tìm ra mục đích sống cuộc đời. Một con người không thích việc ngợi ca, không nhiễm bệnh công thần, toàn tâm toàn ý cho công việc, tận hiến cuộc đời cho đất nước, đặc biệt gần gũi, sẻ chia, trân trọng những thuộc hạ bên mình:
“Các anh không nói thì ta nói vậy. Các anh có tội là dám nói sau lưng ta. Nhưng đúng là ta sợ chết mà thoát thân vào xứ này. Nào ta có nghĩ ngay được chuyện mở cõi như giờ đâu. Nhưng gặp vận may mà không làm là có tội. Cũng như các anh quý mến ta cho ta một bữa ăn khi đang đói, nếu ta tham lam đòi ăn thật nhiều, hoặc khinh khi các anh, chê bữa ăn dở thì hai tội ấy ngang nhau. Các anh đã nhắc ta một sự thật mà ta có thể quên thì đó là Minh sư của ta” [tr.414].
Cảnh Nguyễn Du và vua Gia Long đối thoại với nhau là một trong những sáng tạo độc đáo nhất của nhà văn Nguyễn Thế Quang. Chỉ vài câu đối thoại mà bức chân dung về ông vua khai sinh triều Nguyễn hiện lên khá rõ nét. Gia Long tài năng, quyết đoán nhưng
98
xảo quyệt, cực quyền và tàn bạo, song trong một khoảnh khắc nào đó, vua cũng là con người đức độ, thấu lẽ nhân tình:
“- Này, khanh thử nói xem: Ta là người như thế nào?Quá bất ngờ, mồ hôi Nguyễn toát ra:- Tâu Hoàng thượng. Hoàng thượng là đấng thiên tử anh minh, kẻ nô tài này đâu dám có điều gì ạ.- Ấy! Không được rồi! Đừng nịnh ta. Những từ “anh minh”, “sáng suốt” ta nghe chán rồi. Ngươi cứ nói thẳng ra: ta là ông vua tàn bạo phải không?…- Có thể khanh nghĩ thế mà cũng không nghĩ thế nhưng nhiều người nghĩ thế. Ta có làm nhiều điều mà thiên hạ cho là tàn bạo, ta không muốn nhưng ta phải làm, nếu không ta sẽ chết và không có được giang sơn ngày nay” [tr.345].
Trong khi đó, Nguyễn Du rất khôn khéo, vừa giữ được nhân cách của bậc thi nhân vừa không phạm đến lòng tự ái của nhà vua:
“ – Thơ khanh viết hay lắm. Sao khanh không có bài bào ca ngợi ta nhỉ? Khanh có thể viết một bài hay một quyển thật hay ca ngợi ta và triều đại ta không?-….- Muôn tâu bệ bạ. Ơn của Bệ hạ đối với thần như trời như bể, thần đâu dám chối từ. Nhưng nghĩ công lao người từ buổi mưu nghiệp lớn ở chỗ mất, dựng nên giang sơn thế này xưa nay chưa từng có, không bút nào tả xiết. Thế nhưng Bệ hạ vốn không thích ngợi ca, giờ làm văn ngợi ca, hậu thế lại hiểu lầm người thích tô vẽ mà làm giảm công nghiệp đích thực, mà thần thì cũng…”Gia Long ngắt lời:- Không còn là Nguyễn Du chứ gì? Ngươi không chịu làm chứ gì?- Bệ hạ xin cho thần được làm điều thần nghĩ” [tr.350 – 251].
Nguyễn Thế Quang đã thành công khi tái tạo lại nỗi niềm vị vua Gia Long, không chỉ có những vinh quang mà còn có cả những nỗi niềm, những tâm trạng không tỏ cùng ai: “Ta ngồi trên ngai vàng chẳng sung sướng gì đâu. Có những việc không muốn làm mà vẫn phải làm, có những việc muốn làm mà không thể làm. Xung quanh ta phần lớn là kẻ xu nịnh và hèn nhát nhưng lại luôn cắn xé nhau. Nhiều khi cô độc lắm.”[tr.350]. Được đối thoại, được lắng nghe những tiếng lòng của người, Nguyễn Du mới hiểu thấu hết được
99
tích cách của vị hoàng đế bề ngoài sắt đá lạnh lùng mà lại hiểu việc của thi nhân, hiểu lòng người đến vậy. Một người tàn bạo, độc ác trên chính trường lại không thích ngợi ca, xu nịnh, quý trọng hiền tài: “một nhà thơ đích thực thì không được xu nịnh bất kỳ ai, kể cả quyền lực và mỹ nữ” [tr.351].
Trong tác phẩm của Bùi Anh Tấn, trong mỗi nhân vật nhà văn lựa chọn ngôn ngữ cho phù hợp với vị trí, trình độ, thành phần xuất thân và tính cách nhân vật. Những cuộc đối thoại giữa Trần Cảnh với Trần Thủ Thủ trong Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng diễn ra căng thẳng và gay gắt. Qua những cuộc đối thoại, Trần Cảnh vạch trần tội ác của Trần Thủ Độ đối với nhà Lý và cuộc hôn nhân của nhà vua với Lý Chiêu Hoàng. Trần Thủ Độ thể hiện sự quyết đoán, khát khao quyền lực đã thôi thúc ông nhẫn tâm, tàn độc để thay đổi lịch sử. Ngược lại, Trần Cảnh được khắc họa là một con người lương thiện, thủy chung, đau đớn trên ngôi cao quyền lực. Hay qua cuộc đối thoại giữa Trần Cảnh với Lý Chiêu Hoàng, cho thấy Trần Cảnh hết mực yêu thương, thủy chung trong hơn mười năm chung sống với vợ nhưng yếu đuối hèn nhát, bất lực trước cường quyền. Trong khi đó, Lý Chiêu Hoàng là một người phụ nữ yếu mềm, chân thành, thủy chung nên chấp nhận cuộc sống lay lắt cô đơn, đau khổ.
TTLS giai đoạn trước đây đã có ý thức vận dụng thủ pháp độc thoại nội tâm trong việc khắc họa tâm lý nhân vật nhưng không nhiều và chưa tạo được hiệu ứng thẩm mĩ như Cái hột mận của Lan Khai, Đêm hội Long Trì, An Tư của Nguyễn Huy Tưởng, Trần Nguyên chiến kỷ của Nguyễn Tử Siêu, Bà Chúa Chè của Nguyễn Triệu Luật,… Tuy nhiên, TTLS giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI, sự thay đổi tư duy thể loại đã kéo theo sự thay đổi phương thức kiến tạo nên lớp diễn ngôn lịch sử mới. Lúc này, nhân vật được soi chiếu từ nhiều giác độ diễn ngôn, trong đó độc thoại nội tâm và kĩ thuật dòng ý thức phát huy được hiệu quả tích cực trong việc khám phá “sự thật về tâm hồn con người”. Theo khảo sát TTLS giai đoạn này, hầu hết các tác phẩm đều sử dụng phương thức độc thoại nội tâm, khám phá tầng sâu tâm lý nhân vật: Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Tám triều vua Lý (Hoàng Quốc Hải), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam), Oan khuất, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn),… Hiệu ứng thẩm mĩ của lớp diễn ngôn mới này, luận án sẽ trình bày cụ thể thêm trong mục 4.3.2.2 để tránh trùng lặp về nội dung.
100
Tiểu kếtSau 1986, đặc biệt những năm đầu thế kỉ XXI, với sự đổi mới tư duy và quan niệm
nghệ thuật về con người của các nhà văn, đổi mới phương thức thể hiện nhân vật, các nhà
văn đã đi sâu khai phá đời sống nội tâm và diễn biến tâm lý nhân vật đem đến làn gió mới
mẻ, hiện đại cho TTLS đương đại. TTLS giai đoạn này đã có sự chuyển biến mạnh mẽ từ
việc phản ánh con người lịch sử, cộng đồng đến con người cá nhân, từ nhân vật đơn tính
cách đến nhân vật đa tính cách, từ nhân vật đơn bình diện đến nhân vật đa bình diện.
Nghĩa là kiểu nhân vật nguyên phiến, một chiều của TTLS trước đây được thay thế bằng
kiểu nhân vật có tính cách phức tạp, đan xen cả tốt lẫn xấu, cao cả lẫn thấp hèn. Nhận
diện một số kiểu nhân vật như: nhân vật sử thi hóa, nhân vật huyền thoại hóa và đặc biệt
nhân vật thế tục hóa, chúng tôi chỉ ra sự mở rộng trường nhìn của nhà văn đương đại và
sự đa dạng các khuynh hướng tái tạo lịch sử đã khiến cho nhân vật ngày càng chuyển tải
sâu sắc bài học nhân sinh của người nghệ sĩ. Điều đó thể hiện sự nỗ lực không ngừng của
các tác giả trong sáng tạo nghệ thuật, nhằm có được hình thức thể hiện không lặp lại cho
nhân vật, đáp ứng yêu cầu của độc giả hiện đại. Khai thác con người ở góc nhìn đời tư -
thế sự, TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI đi sâu miêu tả thế giới bên trong, phân tích tâm lý
nhân vật thông qua khả năng hư cấu, tưởng tượng của mình để phục sinh và thổi linh hồn
cho nhân vật, vì thế nhân vật hiện lên sống động, gần với hiện thực đời sống đương đại
hơn. Bên cạnh những thủ pháp nghệ thuật truyền thống như tập trung miêu tả nhân vật
thông qua ngoại hình, hành động, ứng xử của nhân vật thì các nhà văn hiện đại đã nỗ lực
hiện đại hóa tiểu thuyết khi tập trung xây dựng tính cách nhân vật thông qua kĩ thuật dòng
ý thức, độc thoại nội tâm và khám phá vô thức của nhân vật nhằm miêu tả tính đa diện của
nhân vật.
101
Chương 4ĐẶC TRƯNG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỈ XXI
– NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ
4.1. Hình tượng người kể chuyệnTheo T.Todorov, nhân vật kể chuyện “không chỉ mang chức năng kể, mà còn định
giá và đánh giá” [131, 262]. G.Genette lại quy chiếu người kể chuyện (NKC) về phương
diện thời gian trần thuật khi ông cho rằng: “người kể chuyện là người hiện thực hóa toàn
bộ câu chuyện”. Rõ ràng, dù nhìn ở bất kỳ phương diện nào đi chăng nữa thì vai trò và
chức năng của NKC trong văn bản tự sự không thể phủ nhận thậm chí nó còn là trung tâm
của văn bản tự sự. Bởi đến với một tác phẩm, chúng ta không thể không đặt câu hỏi: Ai là
người kể? Kể về vấn đề gì? Và kể như thế nào? Sở dĩ một câu chuyện kể cho chúng ta một
hay nhiều cách hiểu, nhìn nhận, đánh giá… là do NKC cung cấp. Nếu không có NKC thì văn
bản không tồn tại. Truyện kể chỉ diễn ra khi có sự xuất hiện của NKC cũng như quá trình
hiện đại hóa các chức năng của chúng trong một truyện kể.
Ở thể loại TTLS, chủ yếu tồn tại dạng NKC dị sự, ở ngôi thứ ba. Anh ta giấu mặt,
không đứng cùng bình diện với các nhân vật lịch sử mà đứng đằng sau “bức màn chính
trị, thời đại”, đứng trên nhân vật để kể về câu chuyện lịch sử một cách khách quan. Do
đặc trưng về mặt thể loại, NKC dị sự trong TTLS mang chức năng kể lại và phản ánh câu
chuyện lịch sử. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, hình thức kể chuyện “toàn tri” dường
như không đáp ứng được nhu cầu của độc giả. Người đọc đương đại dường như luôn chất
vấn và hoài nghi lịch sử. Do đó, cái nhìn đa chiều về lịch sử đã được thiết lập, tính đối
thoại đã tạo ra sự chuyển động quan trọng: vai trò của nhân vật ngang hàng, bình đẳng với
vai trò của NKC. Tác giả đã tin cậy trao cho nhân vật quyền phát ngôn và những phát
ngôn ấy hàm chứa cái nhìn bình đẳng với chủ thể trần thuật. NKC toàn tri đã nhường chỗ
cho NKC xưng tôi hoặc nhân vật, tạo nên sự hòa phối, đan xen, phức hợp trong hình thức
kể chuyện. Sự đan cài, tiếp sức giữa NKC toàn tri và NKC xưng tôi, NKC là nhân vật là
cách lựa chọn hiệu quả của những nhà TTLS đương đại. Mỗi dạng thức NKC đảm trách
một vai trò khác nhau trong quá trình kể chuyện, vừa tạo độ tin cậy về hiện thực lịch sử
vừa có khả năng đối thoại với hiện tại.
102
4.1.1. Đổi mới hình thức người kể chuyện ngôi thứ ba
Theo G.Genette, NKC dị sự là NKC ở ngôi thứ ba; câu chuyện được kể lại bởi một
người không phải là nhân vật trong truyện; người trần thuật nằm ngoài những biến cố, sự
kiện của câu chuyện mà được nó kể lại, đây là kiểu trần thuật giấu mặt, không công khai,
lộ diện; trần thuật theo điểm nhìn tác giả, hoặc nhân vật, tùy theo mức độ trần thuật. NKC
đứng đằng sau nhân vật để “bài trí, tổ chức, sắp xếp” câu chuyện; NKC dị sự đứng bên
ngoài quan sát và kể lại câu chuyện nên khả năng bao quát mọi biến cố, mọi thời khắc
trong câu chuyện là rất lớn. Ngoài ra, NKC dị sự còn có khả năng nhập thân vào nhân vật
để các nhân vật tự bộc lộ cảm xúc, tình cảm, thái độ, quan điểm.
TTLS trước 1986, chủ yếu tồn tại dạng NKC dị sự, ở ngôi thứ ba. NKC dị sự trong
TTLS thực hiện sự trần thuật khách quan, trần thuật từ ngôi thứ ba không nhân vật hóa
mà đằng sau là tác giả. Có thể kể đến những tác giả nổi tiếng như Nguyễn Tử Siêu,
Nguyễn Triệu Luật, Ngô Tất Tố, Hà Ân, Thái Vũ … Đến những năm sau 2000, NKC
ngôi thứ ba vẫn được một số tác giả sáng tác theo xu hướng TTLS chương hồi sử dụng
như Ngô Văn Phú, Cư sĩ Yên Tử Trần Đại Sỹ, Vũ Ngọc Đĩnh, Lê Đình Danh, Nguyễn
Khắc Phục... Tuy nhiên, đến giai đoạn này, đa phần TTLS đã có sự sáng tạo và sử dụng
NKC ngôi thứ ba không toàn tri (bên cạnh NKC toàn tri). Lúc này NKC vừa có khả năng
bao quát hiện thực rộng lớn cùng với tầm hiểu biết gần như là toàn tri của NKC ngôi thứ
ba, vừa có thể đi sâu khám phá thế giới nội tâm của nhân vật. Vai trò của NKC trở nên
năng động, khiến khoảng cách giữa quá khứ và hiện tại, NKC và nhân vật, câu chuyện và
độc giả được rút ngắn đáng kể. Có thể kể đến những tác phẩm tiêu biểu: Hồ Quý Ly, Mẫu
Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Hội thề (Nguyễn Quang Thân),
Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Mạc Đăng Dung (Lưu Văn Khuê),
Minh sư (Thái Bá Lợi), Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Sắc đẹp khuynh thành (Kiều
Thanh Tùng), Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn), Huyền Trân (Nguyễn Hữu Nam), Tám triều
vua Lý (Hoàng Quốc Hải), Người con trang Sơn Đông (Nguyễn Anh Đào), Công nữ Ngọc
Vạn (Ngô Viết Trọng), … Chức năng của NKC trong các sáng tác này không chỉ tái hiện
bức tranh toàn cảnh về một giai đoạn lịch sử đầy biến động trên “bề mặt của các sự kiện,
biến cố” mà còn bồi đắp hiện thực lịch sử thông qua những câu chuyện về cuộc đời và sự
nghiệp của nhân vật, những chân dung, những số phận cùng những tấn bi kịch trong vòng
xoáy của lịch sử như những “nỗ lực chiếm lĩnh, luận giải lịch sử” theo cảm quan mới của
con người hiện đại.
103
Trong tác phẩm Hồ Quý Ly, chúng ta thấy có sự đan xen NKC ngôi thứ 3 và NKC
ngôi thứ nhất, tạo nên sự linh hoạt trong việc sáng tạo phương thức trần thuật. Bao quát
toàn bộ tác phẩm vẫn là hình tượng của NKC ngôi thứ ba toàn tri (9/13 chương). NKC
ngôi thứ ba trong tác phẩm Hồ Quý Ly đứng đằng sau bức màn chiến sự, đứng trên nhân
vật để kể câu chuyện lịch sử một cách khách quan. NKC trong Hồ Quý Ly khái quát cho
độc giả tình hình chính trị, xã hội những năm cuối nhà Trần, đặc biệt NKC đi sâu vào
khai thác nhân vật lịch sử ở khía cạnh đời tư, tiêu biểu là nhân vật Hồ Quý Ly. Bằng lời
kể của NKC, người đọc hình dung ra triều đại nhà Trần đang trên đà suy sụp, rệu rã, một
triều đại với vô vàn những thách thức và khó khăn, mâu thuẫn bên trong và giặc ngoại
xâm bên ngoài cùng lúc vét cạn sức lực của một triều đại vốn đã già nua, suy kiệt. Trong
hoàn cảnh đó, Hồ Quý Ly nổi lên như một nhà cải cách, thay đổi những cái thối ruỗng,
mục nát bằng những cái mới tiến bộ hơn. Tuy nhiên con đường và đích đến của Hồ Quý
Ly lại không được lòng dân, ông trở thành loạn thần cướp ngôi nhà Trần. Để đạt được
tham vọng, Hồ Quý Ly đã dùng thủ đoạn và âm mưu độc ác, phế truất nhà Trần lập nên
nhà Hồ năm 1400. Bên cạnh việc kể lại câu chuyện lịch sử những năm cuối nhà Trần,
NKC còn tổ chức, lựa chọn, xử lý các cứ liệu lịch sử bằng cách xây dựng, dẫn dắt các tình
huống, chi tiết, xử lý cốt truyện, hư cấu, sáng tạo thêm các tình tiết sự kiện, tâm lý nhân vật
để làm tăng thêm tính chất tiểu thuyết hóa cho tác phẩm.
Tiểu thuyết Giàn thiêu (Võ Thị Hảo) đã kết hợp giữa lịch sử với những câu
chuyện dã sử, huyền thoại, truyền thuyết dân gian để sáng tạo nên thế giới nghệ thuật
đầy lôi cuốn. Cuộc đời của Từ Lộ – Từ Đạo Hạnh – Thần Tông gắn liền với phông nền
bức tranh lịch sử đầy biến động dưới hai triều đại nhà Lý giai đoạn cuối thế kỉ XI đầu
thế kỉ XIII. NKC đã xây dựng một bức tranh xã hội mà trong đó người phụ nữ bị khinh
thường, bị gạt bỏ tàn nhẫn ra khỏi bộ máy chính quyền như Lê Thị Đoan; chịu sự ép
uổng, sắp đặt nhân duyên bất như ý như Nhuệ Anh; hay hai lần bị mang ra giàn thiêu
như Ngạn La... NKC đã tạo dựng một xã hội phong kiến nhuốm đẫm màu sắc Phật giáo
đúng với sự thực thời vua Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông. Điểm khác biệt giữa Giàn
thiêu với tác phẩm khác ở chỗ nhà văn đã xây dựng được một thế giới nghệ thuật mang
màu sắc kỳ ảo, với các nhân vật như Từ Lộ, Nhuệ Anh, Ngạn La... có những đặc điểm
kỳ ảo về ngoại hình, tính cách, cuộc đời. Đặc biệt, qua cuộc đời kì lạ của nhân vật Từ Lộ –
Từ Đạo Hạnh – Thần Tông, NKC muốn gửi gắm đưa ra những triết lý giàu tính nhân văn.
Hội thề khai thác dăm bảy ngày kế cận trước và sau trận Xương Giang lịch sử,
những ngày cuối cùng của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Đặc biệt, NKC 104
tái hiện lại những sự kiện, biến cố to lớn và những hệ lụy của nó tới lịch sử và số phận
con người. Đó là mâu thuẫn trong nội bộ của nghĩa quân Lam Sơn ngay trong những ngày
cuối cùng của cuộc binh biến giữa những trí thức và các võ quan. Dưới con mắt của NKC
thông tỏ mọi sự, các mảng đời sống hiện thực không ngừng được mở rộng và thu hẹp một
cách linh hoạt. Bên cạnh đó, hình tượng các nhân vật trên vũ đài chính trị ấy hiện lên với
chân dung vô cùng sống động. Đó là chân dung chủ tướng Lê Lợi rất đỗi oai hùng mà
bình dị thậm chí còn có nét thô lậu, nét võ biền ở các võ tướng như Phạm Vấn, Lê Sát hay
tấm lòng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Những bi kịch của người trí thức với lý tưởng nhân
nghĩa giữa những võ tướng, những bi kịch tình yêu cùng với số phận dang dở của những
người phụ nữ hiện ra trước mắt người đọc với nhiều trang viết sinh động, hấp dẫn.
Với Mẫu Thượng Ngàn, tất cả những biến cố lịch sử và sự kiện hư cấu được tuôn
chảy theo mạch trần thuật mang tính khách quan của NKC. Quá trình thực hiện kế hoạch
đánh chiếm Bắc Kì lần hai do tướng Henri Riciere đảm trách rồi đến trận quyết chiến ở
Cầu Giấy của quân Pháp với quân cờ Đen được tái hiện bằng những trang văn giàu sức
thuyết phục. Song hành với kế hoạch đánh chiếm là chính sách khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp mà việc xây đồn điền là một sự cụ thể hóa. Ở làng quê nghèo như Cổ Đình,
cư dân phải chịu cuộc sống bị áp bức và tủi nhục, ngột ngạt trong sự kiềm tỏa của kẻ thù.
Những hiện thực lịch sử ấy hiện lên qua lời kể của NKC toàn tri một cách tường minh,
khúc chiết.
Với dung lượng đồ sộ (3509 trang), Tám triều vua Lý mang tính chất liên hoàn, tái
hiện 216 năm trị vì của vương triều nhà Lý, NKC đã cung cấp cho người đọc toàn bộ quá
trình hình thành, phát triển và tiêu vong của một triều đại. Tuy vậy, NKC đã không lựa chọn
bao quát toàn bộ các sự kiện của một triều đại mà chỉ lựa chọn một số sự kiện và nhân vật
tiêu biểu, đặc biệt, NKC chủ yếu xoay quanh cuộc đời của tám vị vua nhà Lý, trong đó, Lý
Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông được xem là một trong những vị vua
anh minh, tài giỏi lỗi lạc bậc nhất và đã để lại những dấu ấn đặc biệt trong lịch sử dân tộc.
NKC còn tập trung chủ yếu vào một số sự kiện mang tầm vóc lịch sử như: công cuộc xây
dựng đất nước và chống giặc ngoại xâm của quân dân nhà Lý.
Nhìn chung, đa dạng hóa chức năng của NKC ngôi thứ ba đã giúp các nhà văn đương
đại chuyển tải nhiều vấn đề lớn lao của lịch sử. Lịch sử được “phục sinh” không chỉ bằng các
sự kiện và nhân vật khô khan mà trong từng lời kể, NKC còn cung cấp, kiến giải đầy thuyết
phục khối tri thức về kinh tế, văn hóa, phong tục, tập quán, tín ngưỡng của thời quá khứ.
105
“Lịch sử được phục hiện không chỉ bằng cảm hứng dân tộc đắm say mà còn là chất thơ bàng
bạc, chất triết thuyết và chất nhân văn sâu sắc”[65, 42].
4.1.2. Đổi mới hình thức người kể chuyện ngôi thứ nhất
Với đặc trưng NKC hiện diện như một nhân vật trong truyện, NKC ngôi thứ nhất
có khả năng khai phá chiều sâu tâm hồn, khai mở những vùng bí mật ẩn tiềm trong tâm
thức con người. Khi đó, NKC tham gia vào câu chuyện không chỉ với tư cách là người kể
lại câu chuyện mà anh/cô ta đã từng chứng kiến, “trải nghiệm” mà qua đó, NKC cũng
chính là người bày tỏ một “thái độ”, “quan điểm” hoặc “lập trường” diễn ngôn hướng tới
nhân vật và sự kiện. Mặc dù, trong hành trình nỗ lực cách tân thể loại trên phương thức tự
sự, nhưng hình thức NKC này vẫn chiếm dung lượng rất ít trong TTLS đương đại (10%
dung lượng tiểu thuyết). Tuy nhiên, với tư cách là “cái tôi chứng nhân”, quan sát, NKC
cũng đã mang lại những hiệu ứng thẩm mĩ thú vị cho người đọc khi tham dự trực tiếp vào
câu chuyện với tư cách là một nhân vật hành động: Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn
Xuân Khánh), Oan khuất, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn), Thế kỉ bị mất
(Phan Ngọc Cảnh Nam). Với cái tôi của nhân vật tự thuật (Hồ Nguyên Trừng - Hồ Quý Ly, bà
Ba Váy - Mẫu Thượng ngàn, Nguyễn Trãi - Oan khuất, Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ,
Trần Tung, Bảo Sát thiền sư, Trần Nhân Tông - Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Cả
Hinh - Thế kỉ bị mất), giờ đây khoảng cách giữa câu chuyện và NKC, giữa NKC và các
nhân vật trong truyện được thu hẹp đáng kể. Và quan trọng hơn nữa, độc giả có một niềm
tin vô cùng lớn lao đối với câu chuyện mà cái tôi tự thuật kể, đồng thời như sống cùng
nhân vật, cùng nếm trải những cảm giác vui buồn với nhân vật.
Bằng việc sử dụng phương thức trần thuật của nhân vật, NKC đưa ra những bằng
chứng xác thực, đầy thuyết phục về các nhân vật, các vấn đề lịch sử và hé mở phần nào
nhân cách, phẩm chất, đời sống nội tâm của chính những con người ấy. Thậm chí, người
kể còn giúp người đọc cảm nhận được thái độ của các nhân vật với nhau. Với điểm nhìn
thông tỏ mọi sự, NKC hóa thân vào nhân vật Hồ Nguyên Trừng, bằng cách cho nhân vật
xưng tôi để thể hiện quan điểm của mình trước cơn bão táp thời đại (Chương II, VI, XII,
XIII với 20,5%, 165/802 trang). Hồ Nguyên Trừng rất hiểu về cha mình, lại vừa là “bạn
vong niên” với Trần Khát Chân – đại diện cho phe bảo thủ. Vì thế nhân vật am tường về
mọi âm mưu, sóng gió chốn cung đình. Cho nên, khi nhập vai Hồ Nguyên Trừng, NKC dễ
dàng thể hiện cách nhìn nhận lịch sử khách quan, không chút gượng ép. Nguyên Trừng
không chỉ là NKC, người tham gia vào câu chuyện mà nét hấp dẫn nhất của nhân vật là sự
phơi mở những nỗi niềm sâu kín phức tạp trong thế giới nội tâm của bản thân.106
Trong tác phẩm Mẫu Thượng Ngàn, nhân vật Ba Váy được tác giả trao quyền trần
thuật (chương XI, XII với 5,7%, 46/807 trang). Qua lời kể của nhân vật xưng “tôi” này,
câu chuyện gia đình, dòng tộc, làng xã cùng những mối quan hệ giữa con người với con
người hiện lên sống động như nguyên bản hiện thực tràn vào tác phẩm. Ba Váy - từ một
cô gái hồn nhiên, chất phác ngay cả khi dâng hiến tình yêu cũng không hề vụ lợi. Ba Váy
đã phải làm vợ ba nhà Lý Cỏn, chịu cái thiệt thòi trăm bề của phận lẽ mọn song người đàn
bà ấy vẫn hồn nhiên sống với tất cả sức sống ứ tràn của mình, chôn chặt trong góc khuất
tâm hồn một bóng hình, một bí mật không dễ bị chia sẻ cùng ai. Người đàn bà ấy chứng
kiến và trải nghiệm tất cả những gì diễn ra trong ngôi làng mình có những suy nghĩ, cảm
nhận và ấn tượng riêng về những người xung quanh. Nghe tiếng đàn khóc người chết của
Trịnh Huyền, cái tôi trần thuật bộc bạch: “Nó làm cho tôi rưng rưng muốn khóc. Nó làm
cho tấm lòng mộc mạc của tôi thổn thức xốn xang.”[tr.550]. Đó là tiếng lòng của người
đàn bà trải qua nhiều bi kịch, là hiện thân cho vẻ đẹp bền bỉ của người phụ nữ Việt trong
văn hóa Mẫu tính vĩnh hằng.
Với kiểu trần thuật phi tác giả, hình tượng người trần thuật được đặt ở ngôi thứ nhất.
Hình bóng nhà văn đã được ẩn giấu đằng sau NKC. NKC đã được tác giả nhân vật hóa để
thực hiện vai trò dẫn truyện và minh chứng cho sự thật lịch sử. Người trần thuật ở ngôi thứ
nhất thường được tác giả gắn với những nhân vật hướng nội, nghĩa là để cho nhân vật tự kể
chuyện của mình hoặc kể về những việc liên quan tới mình thông qua độc thoại nội tâm.
Bước vào thế giới tâm hồn của Lý Thường Kiệt (Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc Hải),
người đọc sẽ nhận ra nơi con người tài năng lỗi lạc, một dũng tướng lẫy lừng của dân tộc là
một con người luôn bị những đớn đau dằn vặt vì buồn tủi, mặc cảm và giận thân. Trong lòng
Lý Thường Kiệt luôn trỗi dậy những kỉ niệm đớn đau mà chàng cố vùi sâu như một nấm mồ
chôn trong tâm khảm để rồi cuối cùng nó “òa vỡ như một chiếc cống sập lúc triều cường”,
bão nổi. Khi gặp lại chàng thiếu niên trên cảng Vân Đồn thì tất cả những kỉ niệm xưa với
người vợ Thuần Khanh tức khắc òa vỡ như một tiếng sét đánh bất chợt, khiến những gì chôn
chặt trong lòng đều phơi ra tươi rói trong óc não ông.
Trong Thế kỉ bị mất là sự chuyển hóa linh hoạt giữa hình thức NKC ngôi thứ ba và
ngôi thứ nhất, trong đó, Cả Hinh - nhân vật chứng nhân được trao vai trần thuật với hình thức
NKC xưng tôi. Hình thức này chiếm dung lượng phần lớn của tác phẩm (255/467 trang,
55%). Đây là hình thức tự sự độc đáo chưa từng được sử dụng trong TTLS Việt Nam trước
đây. Thời gian tự sự của tác phẩm bắt đầu khi tiếng trống mời họp tổ của làng khuấy động
linh hồn Cả Hinh, đánh thức những kí ức đã chìm sâu, hiện thực quá khứ đau thương của 107
vùng đất đầu sóng, ngọn gió. Từ đó, như một chứng nhân của lịch sử, Cả Hinh thuật lại câu
chuyện trăm năm trước của quê hương mình, bắt đầu từ hình ảnh “đoàn người xin xâu dài
dằng dặc, nón cời áo rách đông nhung nhúc, nối đuôi nhau từng bước tiến lên.”[tr.23]. Cả
Hinh đi trong đoàn người đó, đã chứng kiến biết bao “thân phận rách nát, hôi hám, bừng
bừng một ý thức quay quắt sau cơn mê dài nghìn năm tăm tối”[tr.24]. Trong sự u mê của một
quê hương nghèo khó bên dòng sông Thu Bồn, luôn khao khát cái mới, sự đổi thay, vì thế,
những tư tưởng tiến bộ của phong trào Duy Tân như luồng gió mới, khai mở dân trí, ý thức
dân quyền. Trong bối cảnh đó, Cả Hinh dần được thức tỉnh, say mê khi tiếp xúc với tân thư,
tiếp thu những học thuyết tiến bộ của cụ Phan Châu Trinh: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh. Đồng thời, NKC xưng tôi còn làm sống lại chân dung của những nhà cách mạng như
Phan Châu Trinh, Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Lê Bá Trinh, Lương Văn Can, Phan Khôi,…
một cách sinh động.
Trong quá trình đổi mới phương thức tự sự, dường như các hình thức kể chuyện
ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của độc giả, vì thế, các nhà
văn đã sáng tạo ra nhiều chiến lược tự sự độc đáo, đặc biệt là tổ chức nhiều NKC đan xen
trong tác phẩm, tạo nên hình thức tự sự đa chủ thể NKC. Theo khảo sát TTLS thập niên
đầu thế kỉ XXI, chúng tôi nhận thấy chỉ duy nhất Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng
(Bùi Anh Tấn) mang hình thức tự sự đa chủ thể, với 5 NKC xưng “tôi”, bên cạnh NKC
ngôi thứ ba (NKC 1): Trần Thái Tông (NKC 2), Trần Thủ Độ (NKC 3), Trần Tung
(NKC 4), Thiền sư Bảo Sát (NKC 5), Thượng hoàng Trần Nhân Tông (NKC 6). Thông
qua sáu hình thức NKC này, lịch sử nhà Trần được phục dựng trong vẹn nguyên: từ khi
Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh đến khi cuộc chiến khốc liệt kháng chiến
chống quân Nguyên Mông của vua nhà Trần kết thúc. Đan xen trong câu chuyện dựng
nước và giữ nước là những phần khuất lấp trong cuộc đời nhân vật lịch sử được sáu NKC
đặt lại, luận bàn và lý giải một cách thấu đáo. Nhìn chung, tự sự đa chủ thể là một thể
nghiệm mới trong hình thức kể chuyện của TTLS đương đại. Với hình thức tự sự này,
NKC có khả năng phát huy hết được vai trò trong vấn đề biện giải lịch sử. Lịch sử được
nhìn nhận đa chiều hơn thông qua NKC ngôi thứ ba và nhiều NKC ngôi thứ nhất. Nhờ
vậy, những vấn đề còn nhiều khuất lấp trong quá khứ sẽ được đối thoại cùng độc giả
đương đại trên tinh thần dân chủ hơn.
108
4.2. Điểm nhìn trần thuậtĐối với một tác phẩm văn học thuộc loại hình tự sự, việc lựa chọn một phương
thức tự sự là quan trọng, đặc biệt là việc lựa chọn điểm nhìn trần thuật. Một tác phẩm văn
học phải được kể theo một thức hay một điểm nhìn nào đó. Như Iu.Lotman từng khẳng
định: “Hiếm có yếu tố nào lại liên quan trực tiếp đến việc xây dựng bức tranh thế giới như
điểm nhìn nghệ thuật” [84, 454]. Trần Đình Sử quan niệm: điểm nhìn là vị trí và trạng
thái của người trần thuật dùng để quan sát và kể chuyện. Nó liên kết tác giả, NKC và
người nghe chuyện (người đọc ẩn tàng) và người đọc thực tế thành một hệ thống. Theo
Từ điển Thuật ngữ văn học: “Điểm nhìn nghệ thuật là vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra
và miêu tả sự vật trong tác phẩm (…). Sự thay đổi của nghệ thuật bắt đầu từ sự thay đổi
điểm nhìn” [51, 113].
Khi bàn về chức năng của điểm nhìn nghệ thuật, M.Jahn cho rằng: “Điểm nhìn
mang ý nghĩa của sự lựa chọn và giới hạn thông tin trần thuật của việc nhìn các sự kiện và
cấu trúc của sự kiện từ điểm nhìn của một người nào đó và của việc tạo ra cái nhìn đồng
cảm hay mỉa mai ở người quan sát” [68, 41]. Điểm nhìn không đơn thuần chỉ sự quan sát
bằng thị giác mà điểm nhìn còn gắn với tâm lí, quan điểm, lập trường của nhà văn, thể
hiện quan niệm của nhà văn khi nhìn về cuộc sống đó như thế nào. Trong lý thuyết Tự sự
học kinh điển, G. Genette đã dùng thuật ngữ tiêu điểm (Focalisation) thay cho điểm nhìn.
Và ông đã gắn khái niệm Focalisation với người quan sát và người mang điểm nhìn.
Trong Focalisation, Genette đưa ra ba kiểu: Điểm nhìn bằng không hay điểm nhìn không
tiêu điểm hoặc không có tiêu điểm ưu tiên; điểm nhìn bên trong hay tiêu điểm bên trong và
điểm nhìn bên ngoài hay tiêu điểm bên ngoài. Như vậy, điểm nhìn nghệ thuật là “tâm điểm”
của Tự sự học, là một vấn đề then chốt của kết cấu. Đồng thời, điểm nhìn nghệ thuật còn thể
hiện và chi phối quan điểm sáng tác của từng nhà văn khác nhau vì điểm nhìn chính là hình
thức tác giả lựa chọn để dẫn dắt câu chuyện trong tác phẩm.
Các nhà TTLS đương đại đã xây dựng nhiều chủ thể trần thuật với sự gia tăng và
di động điểm nhìn. Cùng với sự đa dạng hóa trong hình thức kể chuyện, nhà văn cũng trao
cho các nhân vật nhiều điểm nhìn để nhân vật có thể quan sát, cảm nhận, đánh giá các sự
kiện, tình tiết trong tác phẩm. Trần thuật từ nhiều điểm nhìn làm cho mối quan hệ giữa tác
giả và nhân vật trở nên dân chủ, bình đẳng, mỗi nhân vật có thể có một điểm nhìn độc lập
có giá trị ngang bằng điểm nhìn của tác giả. Trần thuật từ nhiều điểm nhìn là một bằng
chứng dân chủ hóa văn học, nếu mỗi điểm nhìn thật sự mang tư cách một ý thức độc lập
thì sẽ mang lại hiệu quả thẩm mĩ phong phú hơn. Có thể thấy, việc vận dụng linh hoạt các 109
điểm nhìn trần thuật, các nhà văn viết TTLS góp phần tạo nên tính sinh động và sự hấp
dẫn đặc biệt cho tác phẩm của mình.
4.2.1. Điểm nhìn bên ngoài
Điểm nhìn bên ngoài của NKC ngôi thứ ba được phần lớn các tác giả TTLS trước
1986 sử dụng như: Sống mãi với thủ đô, Lá cờ thêu sáu chữ vàng (Nguyễn Huy Tưởng),
Quận He khởi nghĩa, Tổ quốc kêu gọi (Hà Ân), Cờ nghĩa Ba Đình (Thái Vũ), Bóng nước
Hồ Gươm (Chu Thiên), Búp sen xanh (Sơn Tùng), Núi rừng Yên Thế (Nguyên Hồng),…
Với điểm nhìn này, NKC có khả năng bao quát toàn bộ sự kiện, nhân vật lịch sử mà
không có sự tham gia của nhân vật, làm hạn chế khả năng khám phá thế giới nội tâm của
con người. Đến những năm đầu thế kỉ XXI, TTLS vẫn tiếp tục phát huy vai trò của NKC
ngôi thứ ba, do đó điểm nhìn của NKC ngôi thứ ba (điểm nhìn bên ngoài) vẫn chiếm ưu
thế, đặc biệt trong những tác phẩm thuộc dạng thức kết cấu theo lối chương hồi. Điểm
nhìn bên ngoài toàn tri, giúp NKC trong tác phẩm của Vũ Ngọc Đĩnh, Lê Đình Danh, Hàn
Thế Dũng, Nguyễn Khắc Phục, Hoàng Quốc Hải,… tái hiện hiện thực lịch sử rộng lớn
của một giai đoạn, một thời kỳ hay cả một triều đại lịch sử; những bức tranh đời sống xã
hội được tái hiện chân thực, sinh động qua điểm nhìn này.
Ưu thế của điểm nhìn bên ngoài là khả năng bao quát một hiện thực lịch sử rộng
lớn với sự mở rộng chiều kích các sự kiện, biến cố và nhân vật lịch sử. Nhờ vào điểm
nhìn bên ngoài, NKC trong Tám triều vua Lý đã thể hiện cái nhìn toàn tri về đời sống, văn
hóa xã hội, phong tục, tập quán, tín ngưỡng của xã hội Đại Việt trong 216 năm dưới triều
đại nhà Lý. Đặc biệt, NKC còn tái hiện những sự kiện, biến cố to lớn và những hệ lụy của
nó tới lịch sử và đời sống con người trong lòng xã hội phong kiến. Do đó, hầu hết các sự
kiện, nhân vật lịch sử trong tác phẩm đều được nhìn nhận và khắc họa qua điểm nhìn này.
Toàn bộ khung cảnh trong Tám triều vua Lý là sự đối lập giữa hai mảng hiện thực: đời
sống quyền quý, xa hoa nơi cung vàng điện ngọc đối lập với đời sống giản dị, yên bình
nơi thôn ấp; hiện thực đời sống thanh bình, thịnh trị đối lập hiện thực tàn khốc trong chiến
tranh. Thế giới nghệ thuật mở ra trong tác phẩm tràn ngập những ngột ngạt, chật hẹp của
chốn cung đình. Với góc nhìn này, người kể chuyện đã dựng nên bức tranh về cung điện
của các hoàng hậu, phi tần, cung nữ,… và không gian cung cấm. Cung điện nguy nga,
lộng lẫy với bao kẻ hầu, người hạ của các bà thường tĩnh lặng. Vì ở đó, ta bắt gặp những
mảnh tâm trạng cô đơn, cô đơn đến rợn ngợp của những con người sống chỉ cốt mua vui
cho lạc thú của hoàng thượng, sống nhờ vào ân sủng của Người. Đối lập với không gian
cung cấm là không gian cấm thành rộng lớn, náo động nhưng ngột ngạt với những con 110
người phải sống giấu mình, phải sống giả tạo với những lời xu nịnh, phải đối đầu với
những mưu mô xảo quyệt, tranh giành quyền lực, hãm hại lẫn nhau với nhiều biến động
dữ dội như: loạn tam vương trong Thiền sư dựng nước, cuộc chính biến năm Quý Sửu
(1073), cuộc trả thù của Đỗ Anh Vũ, cuộc tranh giành ngôi hoàng thái tử của Đỗ thái hậu,
cuộc đảo chính của Trần Thủ Độ trong Con đường định mệnh. Đối lập với đời sống hoàng
cung thâm nghiêm, huyền bí là đời sống giản dị, yên bình nơi thôn ấp. Không gian đó được
mở rộng với tất cả sự sôi động của nhịp sống con người nơi đây: không khí làm việc sôi
động của dân làng hương Tam Sơn trong những ngày đi phá rừng lập phủ của hoàng thái tử
Lý Phật Mã, những lễ hội của làng Xuân Phương, hay khung cảnh náo nhiệt trong đám cưới
của cu Sắn trong Thiền sư dựng nước; không khí nhộn nhịp, sôi động của trại dâu tằm đối
lập với không khí tĩnh lặng của làng Trích Sài ven sông Tô Lịch trong Con ngựa nhà Phật;
không gian tĩnh lặng, dân dã của hương Thỗ Lỗi trong Bình Bắc dẹp Nam… Tầm nhìn của
người kể chuyện phóng ra xa để thu vào tác phẩm những cảnh tượng kỳ vĩ của non sông
đất nước. Đó là những vùng biên ải xa xôi như Lạng Châu, lộ Hải Đông, cửa Tam Trĩ,
Mũi Ngọc, đảo Minh Châu, Đảo Sen, vùng kinh tế trọng điểm của cả nước với cảng Vân
Đồn… Nhưng đôi khi, tác giả lại thu tầm nhìn về gần hơn để người đọc được chứng kiến
cảnh dân kinh đô Đại La đón mừng vua Lý Thái tổ, cảnh tiễn đưa hoàng thái tử Lý Phật
Mã đi mở phủ, cảnh xuân lúc Nguyên phi Ỷ Lan sinh hoàng thái tử Lý Càn Đức, cảnh
hoành tráng của kinh thành Thăng Long khi tiễn đưa và đón mừng vua Lý Thánh Tông
thắng trận trở về. Đối lập với cảnh sôi động, nhộn nhịp là cảnh tang thương của kinh
thành Thăng Long sau cái chết oan ức của Hoàng thái hậu Thượng Dương và bảy mươi
hai cung nữ, hay đó còn là cảnh đám tang đau thương của Thái sư Lý Đạo Thành; cảnh
điêu tàn, loạn lạc của kinh đô Thăng Long dưới thời Lý Cao tông, Lý Huệ tông. Ngoài ra,
người kể chuyện còn hướng máy ảnh ra xa nhằm thu vào tầm mắt không gian rộng lớn,
hoành tráng của hiện thực chiến tranh với những chiến công kỳ vĩ của vua tôi nhà Lý:
những cuộc dẹp loạn người man, những cuộc chinh phạt Chiêm Thành, những cuộc kháng
chiến chống quân Tống xâm lược. Tất cả được NKC tái hiện một cách rất trọn vẹn, chân
thực và sinh động. Bên cạnh đó, điểm nhìn bên ngoài trong TTLS giai đoạn này đã có sự đổi mới ở
chức năng và cách thức tổ chức trên nguyên tắc luận giải, phân tích lịch sử nhằm chuyển
tải được tư tưởng nghệ thuật của nhà văn về lịch sử và con người. Đó là những suy tư về
vận mệnh quốc gia dân tộc trong những cuộc chiến chống giặc ngoại xâm (Nam quốc sơn
hà, Anh hùng Bắc Cương, Anh hùng Tiêu Sơn (Trần Đại Sỹ), Bà Triệu, Lê Lợi (Hàn Thế 111
Dũng); là những chiêm nghiệm về sự thay đổi triều đại (Hồ Quý Ly – Nguyễn Xuân
Khánh, Mạc Đăng Dung – Lưu Văn Khuê, Đàm đạo về Điều ngự Giác Hoàng – Bùi Anh
Tấn, Hoàng hậu hai triều Dương Vân Nga (Hoàng Công Khanh); là vấn đề thân phận con
người (Đàn đáy – Trần Thu Hằng, Oan khuất – Bùi Anh Tấn, Nguyễn Du – Nguyễn Thế
Quang, Huyền Trân–Nguyễn Hữu Nam); là những trăn trở về văn hóa, lịch sử (Mẫu
Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa – Nguyễn Xuân Khánh, Thế kỉ bị mất – Phạm Ngọc
Cảnh Nam); là những chiêm nghiệm về vấn đề mở mang bờ cõi (Huyền Trân – Phạm Hữu
Nam, Minh sư – Thái Bá Lợi, Công nữ Ngọc Vạn – Ngô Viết Trọng),… Ngoài ra, với
điểm nhìn bên ngoài, chân dung nhân vật lịch sử được khắc họa sinh động, sắc nét thông
qua ngoại hình, hành động, hành vi, ngôn ngữ, tâm lí. Từ chân dung của những nhân vật
anh hùng sử thi như Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Thủ Độ, Trần
Nhuật Nhuật, Hồ Quý Ly, Lê Lợi, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Huệ… đến những nhân vật
huyền thoại hóa như Từ Lộ, Ngạn La, Cá Bơn, Dã Nhân, Tổ Cô, Hộ Hiếu hay những
nhân vật được “giải thiêng” theo hướng thế tục hóa như Ỷ Lan, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị
Lộ, Nguyễn Du, những người phụ nữ bình dân như Mùi, Ba Váy, Nhụ, Nguyệt, Lụa,…
đều được khắc họa vô cùng đậm nét, chân thực. Nhìn chung, với điểm nhìn bên ngoài
NKC trong tác phẩm phát huy được khả năng bao quát hiện thực lịch sử rộng lớn, song bị
hạn chế trong việc khắc họa tâm lý nhân vật. Do đó, TTLS mười năm đầu thế kỉ XXI luôn
ý thức đổi mới điểm nhìn trên cơ sở dịch chuyển từ điểm nhìn bên ngoài vào bên trong
nhân vật trên nguyên tắc luận giải nhằm khai phá chiều sâu, những miền bí ẩn trong tâm
hồn con người, khơi mở những hằng số của lịch sử.
4.2.2. Điểm nhìn bên trong
Nếu TTLS trước 1986 hầu hết tác phẩm đều sử dụng phương thức tự sự ngôi thứ
ba toàn tri với điểm nhìn bên ngoài thì đến giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI bên cạnh
điểm nhìn của NKC ngôi thứ ba, nhà văn còn xây dựng và chuyển giao điểm nhìn cho các
nhân vật của mình. Khi ấy NKC đã mất đi vai trò “toàn năng” do đã trao điểm nhìn cho
nhân vật, và nhân vật lại soi rọi mọi sự kiện, tình huống bằng cái nhìn nội tâm tự thân anh
ta. Lúc này, NKC đã hướng từ điểm nhìn bên ngoài vào điểm nhìn bên trong nhân vật để
nhân vật có thể tự cảm xúc, đánh giá, nhận xét, bộc lộ về chính bản thân mình hoặc các
hiện tượng bên ngoài nó. Do đó, cả NKC ở ngôi thứ nhất và NKC ngôi thứ ba đều có thể
thực hiện được điểm nhìn bên trong. Nếu ở điểm nhìn bên ngoài, NKC đứng ngoài quan
sát câu chuyện mà không hề bình luận hay bày tỏ quan điểm một cách trực tiếp thì ở điểm
112
nhìn bên trong cho phép trần thuật qua lăng kính của một tâm trạng cụ thể, cả nhân vật và
NKC đều có thể bày tỏ thái độ, tình cảm của mình một cách trực tiếp. Điểm nhìn bên
trong xuất hiện trong những tác phẩm có sự đan xen giữa NKC ngôi thứ ba và NKC ngôi
thứ nhất như Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh (điểm nhìn của Hồ
Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng, Ba Váy), Thế kỉ bị mất của Phạm Ngọc Cảnh Nam (điểm
nhìn của Cả Hinh), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng của Bùi Anh Tấn (điểm nhìn của
Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ, Trần Tung, Trần Nhân Tông…), hay những tác phẩm sử
dụng NKC ngôi thứ ba nhưng điểm nhìn được trao cho nhân vật như Hội thề của Nguyễn
Quang Thân (Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Nguyễn Thị Lộ), Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải
(Lý Công Uẩn, Lý Thái Tông, Lý Thường Kiệt…), Giàn thiêu của Võ Thị Hảo (Từ Lộ, Từ
Đạo Hạnh, Nhuệ Anh), Bí mật hậu cung của Bùi Anh Tấn (Lý Thường Kiệt, Lý Nhật Tôn),
Nguyễn Du của Nguyễn Thế Quang (Nguyễn Du, Gia Long),… Đặc biệt, điểm nhìn bên
trong xuất hiện trong tác phẩm sử dụng NKC ngôi thứ nhất xuyên suốt như Oan khuất của
Bùi Anh Tấn. Đó là điểm nhìn của nhân vật Nguyễn Trãi trong đêm trước ngày bị xử
trảm. Với điểm nhìn của cái tôi tự thuật, Nguyễn Trãi nhớ về quá khứ, từ đó, bức tranh
lịch sử Việt Nam thế kỉ XIV - XV hiện lên một cách chân thực và sống động: sự suy tàn
của triều đại nhà Trần, sự tiếm ngôi đoạt vị của Hồ Quý Ly, sự xâm lăng của giặc Minh,
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn oanh liệt. Bên cạnh đó, với điểm nhìn bên trong của nhân vật,
hàng loạt vấn đề trở đi trở lại trong tác phẩm như sự thành bại của một triều đại, sự tranh
đoạt quyền lực, thân phận người trí thức được đưa ra luận giải, đối thoại trong suốt mạch
kể của nhân vật. Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam) cũng sử dụng hình thức NKC
ngôi thứ nhất (55% dung lượng của tác phẩm) gắn với điểm nhìn bên trong của cái tôi
“nếm trải”, cái tôi “chứng nhân”. Với điểm nhìn trao cho nhân vật vừa là chứng nhân của
lịch sử vừa là chủ thể tham gia vào mọi biến cố, sự kiện lịch sử, NKC (Cả Hinh) đã tái
hiện một giai đoạn lịch sử gắn liền với vùng đất đau thương được hấp thu những tư tưởng
đổi mới của phong trào Duy Tân đất Quảng. Thông qua điểm nhìn của Cả Hinh, hình ảnh
hai nhà cách mạng Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh hiện lên như những vị lãnh tụ kiệt
xuất, những nhà văn hóa lớn với một nhiệt huyết phi thường có sức mạnh thức tỉnh nhân
dân. Đặc biệt, mối tình đẹp nhưng nhuốm màu bi kịch giữa Cả Hinh và Lụa dường như
điểm thêm cho bức tranh hiện thực thêm thi vị, trữ tình, lãng mạn. Thông qua nhân vật
113
Lụa, Hoa người đọc còn nhìn thấy trong không khí khốc liệt của chiến tranh vẫn tồn tại
những linh hồn cao thượng, bãn lĩnh sống phi thường của người phụ nữ Việt Nam.
Với điểm nhìn bên trong, các tác giả đã dành nhiều trang sách cho các nhân vật
độc thoại nội tâm, có khi phân thân đối thoại, tự vấn với chính mình để bộc lộ chiều sâu
tinh tế của tâm hồn. Nhờ sự chuyển đổi điểm nhìn cho nhân vật, độc giả cảm nhận những
trăn trở, suy tư, cả những thái độ, lập trường của các nhân vật đối với những biến cố, sự
kiện lịch sử, đối với những người xung quanh và đối với chính bản thân mình. Chẳng hạn,
trong quan niệm của các sử gia, Hồ Quý Ly là một người tàn bạo, tiếm ngôi nhưng những
trang viết của Nguyễn Xuân Khánh với sự di chuyển điểm nhìn vào thế giới nội tâm nhân vật
để phát hiện Hồ Quý Ly còn là một người rất cô đơn, thèm được có người hiểu mình, một
người có tư tưởng cách tân, muốn đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng. Có thể Hồ
Quý Ly đã rất “thâm hiểm” khi dùng mọi thủ đoạn nhằm đạt được mục đích nhưng ông vẫn
dằn vặt, đau đớn bởi dù sao Hồ Quý Ly cũng là một con người với đầy đủ lương tri. Ông
cũng có những xúc cảm yêu thương, hờn giận, khát khao. NKC cũng di chuyển điểm nhìn
vào bên trong của từng nhân vật như Hồ Nguyên Trừng, Trần Khát Chân, Thanh Mai, Trần
Nghệ Tông,… để nhân vật có thể bày tỏ chính kiến của mình về các nhân vật khác và về
chính bản thân mình. Chính vì thế, hiện thực được đánh giá theo nhiều chiều khác nhau, dưới
các góc nhìn khác nhau, tạo nên bức tranh lịch sử đa chiều.
Nguyễn Quang Thân trong Hội thề có lúc chuyển giao điểm nhìn của mình vào bên
trong nhân vật Nguyễn Trãi để nói lên nỗi khát khao sự an dân, thuận dân của một con
người yêu nước thương dân sâu sắc. Điều này được thể hiện qua chính tâm trạng, suy
nghĩ không nên dùng binh đao để trả thù vì “lấy máu rửa máu thì bao nhiêu máu cho đủ”.
Nguyễn Trãi tự nhận thấy mình muốn hòa bình thì phải sử dụng lòng nhân, chính vì thế
ông luôn đối đầu với những tướng võ biền. Với việc chuyển giao điểm nhìn bên trong vào
chính nhân vật anh hùng lịch sử Lê Lợi để thấy cách nhân vật nhìn thời cuộc và con
người, đồng thời lý giải được nguyên nhân khi nhân vật đưa ra những quyết định của
mình trước lịch sử. Với điểm nhìn này, Lê Lợi không những không làm mất đi những nét
thô lậu của một thổ hào người Mường xứ Thanh mà còn giúp độc giả thấy được những
trăn trở suy tư, những phẩm chất khác người của một bậc đế vương.
114
Bằng cách để cho nhân vật NKC tự do bộc lộ đời sống nội tâm, phơi bày ra những
ý nghĩ thầm kín trong tâm hồn, nhà văn đã gửi gắm điểm nhìn, gửi gắm những tư tưởng,
quan điểm về lịch sử và con người nơi NKC. Qua đó, người đọc có thể thấy hết được sự
thống nhất trong điểm nhìn của NKC và tác giả. Song chúng ta phải hiểu rằng không bao
giờ có sự trùng khít hoàn toàn giữa thái độ NKC đối với câu chuyện được kể lại với quan
điểm của tác giả.
4.2.3. Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật
Đa điểm nhìn trần thuật là cùng một sự việc hay một nhân vật có rất nhiều điểm
nhìn soi chiếu vào, trong đó điểm nhìn của NKC hay tác giả cũng chỉ bình đẳng với điểm
nhìn của các nhân vật khác trong truyện. Việc phối hợp và di chuyển điểm nhìn bên ngoài
vào bên trong sẽ giúp cho nhà văn có điều kiện trổ nhiều ô cửa để khám phá đời sống từ
nhiều góc độ khác nhau. Nhà văn có đủ điều kiện để đào sâu vào cả tầng vô thức cũng
như miêu tả một cách sinh động những đường quành tâm trạng đầy tinh vi của nhân vật.
Từ phương diện đó, có thể nói, sự đan xen và dịch chuyển liên tục điểm nhìn cũng là một
cách thức tạo nên tính phức điệu của tiểu thuyết. Văn bản nghệ thuật trở thành một cấu trúc
đa tầng, có khả năng phá vỡ tính đơn âm và cùng lúc vang lên nhiều tiếng nói khác nhau.
Cùng với sự chuyển đổi điểm nhìn của NKC và nhân vật là sự chuyển đổi điểm
nhìn từ bên ngoài vào bên trong và ngược lại. Chúng ta thấy rằng, ở Hồ Quý Ly, Mẫu
Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa, Giàn thiêu, Hội thề, Thế kỉ bị mất, Nguyễn Du, Tám
triều vua Lý, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Bí mật hậu cung, Minh sư,… nhiều
phân cảnh đang là điểm nhìn bên ngoài thì ngay sau đó được thay thế bằng điểm nhìn bên
trong. Thậm chí nhờ sự luân chuyển điểm nhìn tài tình mà có những lúc độc giả có cảm
nhận rằng có sự xóa nhòa ranh giới giữa điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong của
NKC hàm ẩn. Sự luân phiên điểm nhìn có khi là sự thay đổi luân phiên nhiều nhân vật
cùng hướng về một sự kiện, một nhân vật. Chẳng hạn, Mẫu Thượng Ngàn có sự dịch
chuyển luân phiên điểm nhìn, mặc dù bao quát tác phẩm là điểm nhìn toàn tri. Chương 1
là điểm nhìn của NKC ngôi thứ 3, đến chương 2, điểm nhìn được đặt vào các nhân vật cụ
thể: Nhụ và Điều, cụ Đồ Tiết và Trịnh Huyền, Ba Váy, Phillip Messmer, Pierre Messmer,
Julien Messmer, Quản Liến, Thím Pháo và ông hộ Hiếu, cò Xuân, Nhụ và Pierre,… Mỗi
nhân vật trong điểm nhìn của mình đều phát huy năng lực quan sát và khám phá riêng đối
115
với đời sống làng quê và số nhận những con người. Bà Tổ Cô được nhìn từ nhiều phía:
phía dòng họ Vũ là cái nhìn tôn kính, phía nhân dân làng Cổ Đình là một sự sùng bái,
ngưỡng mộ, phía lớp trẻ như Nhụ, Hoa là một niềm yêu mến và quý trọng…. Cô Mùi
cũng được soi chiếu từ nhiều điểm nhìn: dưới mắt dân làng, cô vừa đáng khinh miệt vừa
đầy thiêng liêng tin cậy khi trở về với Mẫu, trong mắt của Philippe Messmer, cô là người đàn
bà có sức mạnh nội sinh, có cả sự kiêu hãnh mà hắn không bao giờ vượt qua. Trong Đội gạo
lên chùa, điểm nhìn bên trong và bên ngoài cũng được kết hợp khá khéo léo khi vừa đặt điểm
nhìn vào NKC vừa đặt điểm nhìn vào nhân vật: chú tiểu An, cụ Vô Úy, sư Vô Trần, Nguyệt,
sư Khoan Độ,… Những dòng tự sự của chú tiểu An về mình, về những xung đột mâu thuẫn
trong nội tâm và cái nhìn về thế giới xung quanh (về chiến tranh, về đạo Phật, về những nỗi
đau khổ của con người) hiện lên cảm động và chân thực. Chân dung các nhân vật khác với
muôn mặt phức tạp của đời sống như cuộc đời chìm nổi của Nguyệt, bà Nấm, sư Vô Trần,
Rêu, cô Khoai, anh Hạ,… hiện lên trong cái nhìn khách quan nhưng đầy đồng cảm của NKC
với điểm nhìn toàn tri. Có thể nói, Đội gạo lên chùa luôn được chiếu rọi dưới cái nhìn nhân
ái, khoan hòa của đạo Phật.
Từ một điểm nhìn bao quát, tùy vào sự kiện, diễn biến, tình huống của câu chuyện,
NKC sẻ chia điểm nhìn cho các nhân vật, khiến mỗi nhân vật có cái nhìn riêng về đối
tượng mình cần phán xét, nhờ đó đối tượng hiện lên trong một không gian ba chiều hoàn
hảo. Lý Thái tông dưới sự quan sát của các nhân vật trong tác phẩm hiện lên đa chiều, đầy
đủ và sinh động hơn. Qua sự quan sát và đánh giá của Mai Mạnh Minh thì Lý Phật Mã là
một con người tuấn tú, tướng mạo đàng hoàng, học hành thông tuệ lại sống giản dị, hòa
nhập với mọi người, khiến ai nấy đều cảm mến vì dễ gần. Ở ngôi cửu ngũ, Lý Thái tông
là một vị vua đại trí, có tầm nhìn xa trông rộng lại có tính nhân ái bao dung. Dưới mắt của
Thiền sư Định Hương, Lý Thái Tông tỏ rõ là người vừa thận trọng vừa nhân ái, tinh tế
nhưng không kém phần quả đoán. Trong quan hệ vợ chồng, với Mai hoàng hậu, Thái tông
là người chồng mẫu mực, đáng kính. Sau những chặng đường của lịch sử, nhìn lại cuộc
đời của vua cha, Lý Thánh tông rút ra kết luận: “Suốt cuộc đời của phụ hoàng, người chỉ
làm có hai việc lớn. Việc thứ nhất là lo cho dân nước được yên thịnh, ấm no. Việc thứ hai
là lo cho nền đạo thống nước nhà ngày càng tinh tấn, dân nước mọi người, mọi nhà đều
được đuốc tuệ của nhà Phật rọi soi tới” [tr.158].
116
Việc chuyển hóa điểm nhìn từ NKC sang nhân vật, sự đa dạng hóa điểm nhìn của
nhiều nhân vật về một nhân vật lịch sử cho phép người đọc tham dự, đối chiếu nhiều quan
điểm về một nhân vật và ngược lại, thấy được sự đa dạng, phức tạp trong hiện thực và cả
trong thế giới nội tâm của nhân vật ấy, tạo nên sự phức điệu cho tác phẩm. Theo điểm
nhìn của Đỗ Chiêu, Phạm Dữ, Nguyễn Thiệu, nhân vật Nguyễn Hoàng (Minh sư – Thái
Bá Lợi) thực sự là một minh chủ, chủ soái sáng suốt. Họ sẵn sàng hy sinh cả đời mình để
phục vụ cho sự nghiệp mở cõi của chủ tướng. Với Ngọc Lâm, người con gái hy sinh thân
mình cho sự nghiệp của Chúa vẫn một lòng ngưỡng phục và tin yêu ông: “thiếp xin vâng
lệnh tướng công, thiếp không nỡ nhìn cơ nghiệp của tướng công tan tành mà không xả
thân được.”[tr.313]. Đối với người dân vùng Ái Tử, Chúa Nguyễn luôn được tôn kính, tin
tưởng, khâm phục. Bằng tài cao đức sâu, Đoan quận công đã cảm hóa được dân chúng
ngay cả kẻ thân tín của Trịnh Tùng. Chính vì thế, Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng luôn tìm mọi
cách kiềm tỏa, cách ly, o ép nhằm diệt trừ hậu họa. Ngoài ra, nhờ có tính khách quan của
điểm nhìn trần thuật mà tác giả có thể dễ dàng gửi gắm tình cảm của mình tới nhân vật
bằng cái nhìn ngưỡng vọng, thành kính mà vẫn rất trung thực, khách quan. Qua cách đánh
giá của Đoàn Minh Thành (NKC trong thời hiện đại nhìn về quá khứ), Nguyễn Hoàng
hiện lên là một người tài ba cả về quân sự lẫn chính trị, ngoại giao. Ông là người luôn
bình tĩnh, sáng suốt, sống chan hòa với mọi người kể cả thuộc hạ và nhân dân; là người đa
mưu túc trí, cố kết được lòng dân, hóa giải mâu thuẫn dân tộc. Hơn bốn mươi năm vào
trấn thủ vùng đất mới, Nguyễn Hoàng đã tạo nên một cơ nghiệp lẫy lừng cho con cháu
muôn đời. Con người ấy đại diện cho tài năng, nhân cách và bản lĩnh của dân tộc Việt.
Tóm lại, trong TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI, sự luân chuyển giữa điểm nhìn của
NKC và nhân vật hết sức linh hoạt, đôi khi có sự luân phiên điểm nhìn của nhiều NKC
(trường hợp Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn)) giúp cho việc đánh giá,
luận giải những biến cố, sự kiện lịch sử một cách khách quan. Thông qua điểm nhìn của
nhiều NKC (NKC chứng nhân), những phần khuất lấp, những mảng tối của lịch sử: bi
kịch vương quyền và hôn nhân trong cuộc đời Trần Thái Tông; Trần Thủ Độ - một người
có công hay có tội?; mối hiềm khích giữa hai chi trưởng và thứ trong dòng họ nhà Trần;
những chính sách bang giao của vua Trần Nhân Tông,… một lần nữa được đưa ra luận
bàn, đối thoại, luận giải một cách thấu đáo. Chính sự chuyển đổi linh hoạt điểm nhìn của
117
NKC tạo sự xen kẽ những câu chuyện một cách tự nhiên, thể hiện sự đa dạng của con
người cũng như hiện thực lịch sử.
4.3. Diễn ngôn trần thuật
Trong lí luận hiện nay có ba khuynh hướng nghiên cứu diễn ngôn: một là hướng
nghiên cứu của các nhà ngữ học đại diện là F.de Sausure, hai là hướng nghiên cứu lí luận
văn học do M. Bakhtin nêu ra và ba là hướng nghiên cứu xã hội học, lịch sử tư tưởng điển
hình là Foucault. Ba cách tiếp cận khác nhau đã mở rộng nội hàm khái niệm diễn ngôn.
Trong đó, diễn ngôn là khái niệm chỉ cấu trúc, liên kết của đơn vị ngôn ngữ trên câu trong
quan niệm của các nhà ngữ học. Đối với nghiên cứu văn hóa là tìm hiểu các cơ chế tiềm
ẩn, những hạn chế lời nói trong thực tiễn giao tiếp, còn trong nghiên cứu văn học, diễn
ngôn là chỉ chiến lược phát ngôn nghệ thuật, thể hiện trong các nguyên tắc cấu tứ, xây
dựng nhân vật, sử dụng ngôn ngữ để vượt thoát khỏi các hạn chế nhằm phát ra được tiếng
nói mới, thể hiện tư tưởng mới trong chỉnh thể sáng tác.
Lý thuyết tự sự học (G.Genette, Tz.Torodov, R.Barthes, Iu.Lotman) quan niệm
diễn ngôn là cách thức cấu trúc văn bản. Mỗi văn bản tự sự là sự móc nối và luân phiên
giữa diễn ngôn của NKC và diễn ngôn của nhân vật. Theo đó, một văn bản trần thuật
thường bao gồm hai thành phần diễn ngôn: diễn ngôn của NKC và diễn ngôn của nhân
vật. Trong công trình Diễn ngôn truyện kể (Discours du récit), G.Genette cho rằng diễn
ngôn truyện kể chính là cách thức kể một câu chuyện. Luận án chọn cách tiếp cận diễn
ngôn tức góc nhìn ngôn ngữ nghệ thuật, cụ thể là diễn ngôn trần thuật, và xem mỗi lớp lời
nói của người kể chuyện, của nhân vật là một tiểu loại diễn ngôn trần thuật. Theo đó, diễn
ngôn trần thuật bao gồm diễn ngôn của người kể chuyện và diễn ngôn của nhân vật. Diễn
ngôn của người kể chuyện gồm các lớp: diễn ngôn kể, diễn ngôn tả và diễn ngôn bình
luận; Diễn ngôn của nhân vật gồm các lớp: diễn ngôn đối thoại và diễn ngôn độc thoại.
4.3.1. Diễn ngôn của người kể chuyện
Diễn ngôn trần thuật là nơi bộc lộ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của mỗi nhà
văn, thể hiện quan điểm của tác giả hay quan điểm của NKC đối với hiện thực được miêu
tả trong tác phẩm. Trong tác phẩm tự sự, diễn ngôn của NKC đóng vai trò vô cùng quan
trọng, diễn ngôn của NKC cũng là diễn ngôn của tác giả, thông qua diễn ngôn NKC có
thể thấy được quan điểm, tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Diễn ngôn của NKC có thể là
118
diễn ngôn của tác giả hay diễn ngôn của người trần thuật. “Nó bao gồm tất cả những phát
biểu trần thuật kể câu chuyện (không bằng lời) về các sự kiện, hoặc đó cũng là lời đánh
giá, diễn giải của NKC” [68, 77]. Nghĩa là phát ngôn trong tác phẩm là phát ngôn của
NKC, bao gồm việc kể và miêu tả các hành động và các biến cố trong thời gian; mô tả
chân dung, hoàn cảnh hành động, tả ngoại cảnh,…; bàn luận, lời nói bán trực tiếp (ngoại
trừ lời nói trực tiếp của nhân vật). Diễn ngôn của NKC chủ yếu tồn tại dưới dạng lời kể,
lời tả, lời bình luận hay lời gián tiếp tự do (còn gọi là lời nửa trực tiếp hay lời nói bán trực
tiếp).
Bảng 4.1. Bảng thống kê về diễn ngôn của NKC trong TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI
STT Tác phẩm
Diễn ngôn NKC
(trang/%)
Lời kể Lời tả Lời bình
1 Hồ Quý Ly 537 (67%) 89 (11%) 5 (0,6%)
2 Giàn thiêu 318 (60,3%) 48 (9,1%) 2 (0,3%)
3 Mẫu Thượng Ngàn 506 (62,7%) 61 (7,5%) 4 (0,5%)
4 Hội thề 187 (51%) 25 (6,8%) 4 (1%)
5 Đất trời 204 (51%) 41 (10,3%) 4 (1%)
6 Minh sư 289 (64,8%) 33 (7,45%) 2 (0,45%)
7 Nguyễn Du 171 (41,1%) 25 (6%) 3 (0,7%)
8Đàm đạo về Điều Ngự
Giác Hoàng104 (25,7%) 35 (8,6%) 25 (6,17%)
9 Tám triều vua Lý 634 (18%) 113 (3,2%) 6 (0,17%)
10 Thế kỉ bị mất 229 (49,5%) 36 (7,8%) 5 (1%)
4.3.1.1. Diễn ngôn kể
Lời kể là lời thuyết minh, lời dẫn truyện của NKC, giới thiệu về nhân vật, sự kiện,
bối cảnh trong truyện. Trong tiểu thuyết, lời kể/trần thuật chiếm một tỉ lệ vượt trội và có
vai trò quan trọng, giúp NKC tổ chức nên một cấu trúc tự sự hoàn chỉnh về mặt kết cấu.
NKC trong TTLS có thể kể xuôi theo trình tự logic của các sự kiện, theo một trật tự tuyến
tính về thời gian, có thể đảo trật tự thời gian theo kiểu dự thuật hay đảo thuật về các sự
kiện và nhân vật, không gian lịch sử theo ý đồ của NKC. Kiểu phát ngôn này chủ yếu tồn
tại dưới hai dạng chính đó là: lời trung tính, khách quan của NKC ngôi thứ ba giấu mặt 119
(người kể kể về người khác) và lời chủ quan của NKC ngôi thứ nhất nếm trải, chứng nhân
(người kể về mình): Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân
Khánh), Trương Vĩnh Ký – bi kịch muôn đời (Hoàng Lại Giang), Giàn thiêu (Võ Thị
Hảo), Đất trời (Nam Dao), Mạc Đăng Dung (Lưu Văn Khuê), Hội thề (Nguyễn Quang
Thân), Tây Sơn bi hùng truyện (Lê Đình Danh), Minh sư (Thái Bá Lợi), Nguyễn Du
(Nguyễn Thế Quang), Huyền Trân (Nguyễn Hữu Nam) đều sử dụng lời kể của NKC ngôi
thứ ba. Trong khi đó, Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam), Oan khuất, Đàm đạo về
Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn) sử dụng lời kể của NKC ngôi thứ nhất, đặc biệt Hồ
Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn có sự kết hợp lời kể của NKC ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất.
TTLS trước 1986 phần lớn sử dụng hình thức NKC ngôi thứ ba với cái nhìn toàn
tri, khả năng bao quát hiện thực rộng lớn của lời kể luôn chiếm ưu thế. Hơn nữa, diễn
ngôn lịch sử bị chi phối bởi cảm quan sử thi, cảm hứng ngợi ca, khẳng định niềm tự hào
về quốc gia, dân tộc, do đó, diễn ngôn trong TTLS giai đoạn này phần lớn theo khuôn
mẫu định sẵn, đồng nhất ít đổi mới. Tuy nhiên, tinh thần tân chủ nghĩa lịch sử đã giúp các
nhà văn đương đại xây dựng nhiều lớp diễn ngôn mới về lịch sử theo hướng đối thoại,
luận giải gắn liền cảm hứng thế sự - đời tư. Diễn ngôn kể của NKC không chỉ tái hiện bức
tranh lịch sử của các triều đại (Lý, Trần, Lê, Nguyễn) mà còn đi vào những thân phận
người trong sự va xiết của dòng xoay lịch sử. Diễn ngôn giai đoạn này thường chú ý đến
những bi kịch của vua chúa, quan lại (Tám triều vua Lý, Đàm đạo về Điều Ngự Giác
Hoàng, Hồ Quý Ly, Thăng Long ký); nỗi cô đơn, lạc loài của người trí thức (Hội thề, Đất
trời, Nguyễn Du, Oan khuất); số phận đáng thương của những người phụ nữ (Đàn đáy,
Sắc đẹp khuynh thành, Mẫu Thượng Ngàn, Giàn thiêu); những nạn nhân của chiến tranh,
những phận đời bất hạnh,… Đặc biệt, trong một số tác phẩm, diễn ngôn kể của NKC
được chuyển hóa vào điểm nhìn bên trong của nhân vật (Hồ Nguyên Trừng trong Hồ Quý
Ly, Ba Váy trong Mẫu Thượng Ngàn, Từ Lộ trong Giàn thiêu, Cả Hinh trong Thế kỉ bị
mất, Nguyễn Trãi trong Oan khuất, Nguyễn Du trong Nguyễn Du,…) để nhân vật có thể
tự thể hiện mình, từ đó, người đọc cảm nhận sâu sắc về cuộc đời, tài năng, tính cách, thói
quen, sở thích và thậm chí cả lối sống của những nhân vật lịch sử, làm cho nhân vật hiện
lên sinh động, đầy đặn và gần gũi hơn với đời sống hiện thực.
Hồ Quý Ly là minh chứng cho tư duy đổi mới theo cái nhìn đối thoại, luận giải và
nhận thức lại lịch sử khi tác giả trao quyền cho NKC thực hiện chức năng phục dựng quá
khứ. Trong đó, lời kể là lời chủ đạo trong tác phẩm, thông qua lời kể, NKC cung cấp một
lượng thông tin phong phú, đa dạng về các nhân vật trong tác phẩm như ông vua già Trần 120
Nghệ Tông, Trần Duệ Tông, Thuận Tông – những ông vua với bản bi ca thấm đầy nước
mắt với tấn bi kịch làm vua hay những con người với đầy đủ tài năng, trí tuệ, bản lĩnh như
nhà sử học Sử Văn Hoa, tướng Trần Khát Chân, Hồ Nguyên Trừng… những người phụ
nữ trong cơn bão táp thời đại như Huy Ninh, Thanh Mai, Quỳnh Hoa,… Không theo mạch
thời gian tuyến tính trước sau, không kể sự kiện, nhân vật trọn vẹn trong một lần, NKC đã
lồng ghép những mảnh đời nhân vật trong những khung cảnh và thời gian khác nhau. Mỗi
chương là một tên riêng, một nhân vật riêng, một sự kiện riêng nhưng NKC đã lồng vào
đó những sự kiện, nhân vật khác nhau để câu chuyện thêm phần sinh động và nối kết liền
mạch hơn. NKC dị sự trong Thăng Long ký đã thuật lại toàn bộ những câu chuyện, những
sự kiện lịch sử và những câu chuyện về cuộc đời, sự nghiệp cũng như số phận của những
nhân vật lịch sử trong hơn 200 năm. Nhờ lời kể của NKC trong Thăng Long ký mà người
đọc hiểu biết sâu sắc về một hôn quân bạo chúa Lê Long Đĩnh, người thích lấy việc giết
người và súc vật làm trò tiêu khiển. Lý Thái Tông không những là vị vua tài giỏi, một trí
tướng lão luyện trên chiến trường mà còn là người rất đỗi bình dị, đời thường. Lý Thường
Kiệt, dù được vào cung làm quan chi cục hậu nhưng vẫn muốn xông pha trận mạc, với
hoài bão lớn lao “muốn theo “Vệ Thanh, Hoắc Khứ” lo đi xa vạn dặm để lập công, lấy
được ấn phong hầu, để làm vẻ vang cho cha mẹ.
Lời kể trong tác phẩm không chỉ khắc họa nhân vật lịch sử mà còn phục dựng lại
những sự kiện lịch sử với đầy đủ chi tiết, mâu thuẫn, xung đột và những hệ lụy của chúng.
Trong Hồ Quý Ly đó là những xung đột và mâu thuẫn những năm cuối nhà Trần: đất nước
và dòng tộc, lãnh thổ và quyền lực. NKC đã khắc họa lại những cuộc xâm chiếm của Chế
Bồng Nga đánh phá Thăng Long và những mưu toan xâm lấn bờ cõi nhà Minh. Song song
đó là sự nổi loạn lên ngôi đổi họ của vua phường chèo Dương Nhật Lễ, sự nổi dậy của
giặc cỏ Phạm Sư Ôn và những toan tính bên trong hậu cung, tiêu biểu là sự thâu tóm
quyền lực của Hồ Quý Ly. Trong Minh sư lời kể của NKC dẫn dắt người đọc lần theo
những cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa những thế lực Lê - Mạc, Trịnh – Nguyễn.
Những âm mưu, toan tính của cha con Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng nhằm tiêu diệt thế lực của
những người có nguy cơ đe dọa đến ngôi cửu trùng, đặc biệt là Nguyễn Hoàng. Trong Tám
triều vua Lý là những xung đột về quyền lợi, những âm mưu ngấm ngầm trong chốn hậu
cung và những cuộc tranh giành quyền lực giữa các thế lực triều đình. Chẳng hạn, trong
Thiền sư dựng nước, đó là cuộc tranh giành quyền lực giữa các con của vua Lý Thái Tổ;
trong Con đường định mệnh, là mâu thuẫn về quyền lợi giữa Thái hậu Thượng Dương và
Hoàng thái phi Ỷ Lan. 121
Lời kể của NKC còn mang giá trị biểu cảm sâu sắc khi kiến tạo nên những sắc thái
tinh tế trong cảm xúc và tâm trạng của nhân vật. Thông qua lời kể, người đọc dễ dàng
cảm nhận được những trăn trở, suy tư, khắc khoải cùng những mất mát, đau thương, chia
lìa của nhân vật lịch sử. Đó có thể là những khát khao cháy bỏng trong tâm hồn Cả Hinh
(Thế kỉ bị mất – Phạm Ngọc Cảnh Nam) khi tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ có khả
năng thay đổi cuộc sống mỗi người; sự đấu tranh triền miên của kiếp người giữa tình yêu
và dục vọng, hận thù và đam mê của Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh – Lý Thần Tông (Giàn thiêu –
Võ Thị Hảo); là những trang đời thấm đẫm nước mắt của đôi vợ chồng trẻ Ngô Thuấn –
Tạ Thuần Khanh (Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc Hải); là mối tình đồng tính đầy trái
ngang của Lý Thường Kiệt và Lý Nhật Tôn (Bí mật hậu cung – Bùi Anh Tấn); nỗi lòng
oan khuất, bi kịch tru di tam tộc của Nguyễn Trãi (Oan khuất – Bùi Anh Tấn); những dằn
vặt, hối tiếc của Lê Lợi (Đất trời – Nam Dao); những khát khao tự do của Nguyễn Du
(Nguyễn Du – Nguyễn Thế Quang); là bi kịch cô đơn của người trí thức như Nguyễn Trãi,
Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Du; là những tiếng kêu thân phận của người phụ nữ, người vợ,
người lính trong cái khốc liệt của chiến tranh…
Ngoài ra, trong TTLS mười năm đầu thế kỉ XXI, để gia tăng sắc thái trong lời
NKC, diễn ngôn kể còn có sự kết hợp giữa ngôn ngữ thuần Việt gần gũi dễ hiểu với ngôn
ngữ dân gian. Với những tác phẩm Tám triều vua Lý (Hoàng Quốc Hải), Mẫu Thượng
Ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Sắc đẹp khuynh thành (Kiều Thanh Tùng),… các tác giả đã
sử dụng lời kể đời thường, giản dị như trong ca dao nhưng vẫn tạo được không khí lịch sử
và không làm mất đi hồn cốt của tiếng Việt. Lời kể của NKC còn có sự kết hợp những
yếu tố văn hóa, lịch sử, tôn giáo trong một hệ thống diễn ngôn vừa thống nhất vừa đa
dạng. Giàn thiêu, Tám triều vua Lý, Đàm đạo về Điều ngự Giác Hoàng, Đội gạo lên chùa
đậm màu sắc của diễn ngôn Phật giáo; Hồ Quý Ly, Hội thề, Đất trời là hệ thống diễn ngôn
kể mang màu sắc Nho giáo, Mẫu Thượng Ngàn có sự kết hợp nhiều kênh ngôn ngữ giữa
thuần Việt và Thiên Chúa giáo… Như vậy, thông qua lời kể, NKC đã xây dựng nên
những hình tượng nhân vật với đầy đủ chiều kích, đồng thời, đi sâu khám phá đời sống
nội tâm, những suy nghĩ, những chuyển biến tinh vi trong tính cách và tâm hồn nhân vật.
Từ đó, các nhân vật hiện liên không còn là những pho tượng cẩm thạch vô tri vô giác nữa
mà tất cả mang một hình hài và tính cách hết sức sinh động, sắc nét và chân thực.
122
4.3.1.2. Diễn ngôn tả
Trong tác phẩm tự sự, bên cạnh lời kể, lời tả của NKC cũng đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong việc khái quát trọn vẹn không thời gian trong tác phẩm, khiến câu
chuyện được kể sống động, hài hòa hơn. Khác với lời kể, lời tả xuất hiện nhiều hay ít phụ
thuộc vào ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Lời tả góp phần nâng cao hiệu quả trần thuật như
là một “chiến lược” trần thuật của NKC. Việc miêu tả góp phần làm cho câu chuyện kể
thêm sinh động, nhân vật trở thành có máu thịt, có môi trường sống. Miêu tả còn cho thấy
cách tổ chức thời gian của NKC. Lời tả không xuất hiện nhiều như lời kể nhưng đóng một
vai trò không thể thiếu, nói như Todorov: “Miêu tả chỉ riêng nó, không đủ để làm nên một
truyện kể, nhưng truyện kể bản thân nó lại không loại bỏ miêu tả” [4, 97]. Vì vậy, sự xuất
hiện đúng lúc của lời tả sẽ làm tăng hiệu quả trần thuật. Nếu lời kể có phần khô thì ngược
lại, lời tả lại vô cùng mượt mà, trau chuốt, có sức gợi và lay động người đọc.
Sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh và mang giá trị tạo hình sâu sắc, lời tả của
NKC trong TTLS giai đoạn này đã xây dựng nên những bức tranh sinh động về thiên
nhiên, đời sống cung đình đến những làng quê, thôn ấp, những không gian văn hóa – lịch
sử, những hội hè, đình đám cùng những cảnh sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng. Chẳng hạn,
trong Tám triều vua Lý, lời tả của NKC đã khắc họa không gian xa hoa, lộng lẫy về chốn
cung đình nhà Lý; những nét bình dị nơi làng quê thôn ấp hay đó còn là khung cảnh những
chiến trận khốc liệt, đẫm máu của vua tôi nhà Lý trong những cuộc chinh phạt Chiêm Thành
và kháng chiến chống giặc phương Bắc. Ngoài ra, NKC còn dành rất nhiều thời gian cho việc
miêu tả khung cảnh thiên nhiên làm cho bức tranh về hiện thực đời sống thêm trữ tình, thi vị.
Đó là vẻ trữ tình, lãng mạn của cảnh xuân trên đất Đại La; đêm xuân tĩnh lặng trong kinh
thành Thăng Long; mùa xuân về trên làng Xuân Phương. Đặc biệt, thiên nhiên trong Tám
triều vua Lý dường như thấu hiểu được số phận nhân vật để đồng cảm, sẻ chia với họ trước
những bão táp cuộc đời. Đó là khung cảnh buồn bã, thê lương của đất trời khi tai họa ập đến
gia đình Ngô Tuấn; kinh thành Thăng Long tang thương sau cái chết thảm khốc của Thượng
Dương thái hậu cùng bảy mươi hai cung nữ hay khung cảnh buồn bã của kinh thành sau cái
chết của Thái sư Lý Đạo Thành. Trong Hội thề, NKC đã sử dụng những tiết đoạn để miêu tả
thiên nhiên, cảnh vật, chân dung nhân vật… như cảnh trên dòng sông vắng, một chiếc thuyền
trôi chở Nguyễn Trãi và Thái Phúc, những cảnh tượng hai bên bờ sông hiện ra với nét đẹp
thơ mộng. Bức tranh nông thôn Việt Nam nhiều lúc hiện ra trước mắt người đọc với những
con sông hiền hòa, những ngọn núi sừng sững, có lúc là vùng đồng bằng với những nương
ngô, vườn dâu xanh ngắt… Bên cạnh thiên nhiên là cảnh miêu tả về cuộc sống nhân dân ở 123
nội ô và ngoại thành Đông Quan hay cảnh những đoàn người lê thê, lam lũ phải lần lượt ly
tán trong sự đói khát để tránh khỏi sự giày xéo của giặc Minh… Bằng lời kể khách quan,
NKC trong Minh sư giúp người đọc trở về khung cảnh thiên nhiên hoang sơ của vùng biên ải
xa xôi vào giữa thế kỉ XVI in từng dấu chân của vị anh hùng mở cõi. Không gian miền Thuận
Quảng với vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng và hùng vĩ dường như chuyên chở bao khoắc khoải
của con người trước vòng xoáy của lịch sử. Cảnh vật thiên nhiên như hòa chung tâm trạng
xao xuyến, bồi hồi của Nguyễn Hoàng được trở lại quê hương sau bao năm xa cách: “vẫn là
làng quê với hàng cau ven đường và cánh đồng lúa trải dài ra tận biển” [tr.238]. Vẻ đẹp cổ
kính của vùng Ái Tử với vùng đất trống trải, cát trắng, con đường làng gai góc, kinh đô Trà
Bàn oai hùng in dấu một thời vàng son của đế chế Chămpa hùng mạnh.
Sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh và mang giá trị tạo hình sâu sắc, lời tả của
người kể chuyện trong TTLS đã xây dựng nên những bức chân dung sinh động về các
nhân vật lịch sử, đặc biệt là hệ thống nhân vật nữ. Trong các tác phẩm Mẫu Thượng
Ngàn, Giàn thiêu, Mạc Đăng Dung, Đất trời, Nguyễn Thị Lộ, … các tác gia không ngần
ngại miêu tả những bộ phận nhạy cảm trên cơ thể người phụ nữ như đôi vú, làn da, mông,
đùi,… nhằm thể hiện vẻ đẹp mềm mại, gợi tình, giàu nữ tính. Đặc biệt, khám phá vẻ đẹp
thân thể của người phụ nữ, các nhà văn đương đại, đặc biệt Phạm Ngọc Cảnh Nam (Thế
kỉ bị mất) còn muốn nhấn mạnh đến yếu tố phồn thực đặt trong mối tương giao hòa hợp
đất trời, trong sự vĩnh cửu của tình yêu và tính dục: “Hai mươi lăm tuổi đời con gái, ngọn
lửa yêu đương bùng cháy lên hừng hực trong thân xác, làm nàng say ngất. Nàng nhắm
nghiền mắt lại, điên cuồng siết chặt lấy tôi, ghì đôi môi vào bầu ngực đang căng nẩy lên
như hai con chim vừa sổ lồng của nàng.”[tr.103]. Những trang miêu tả đời sống tính dục
sống động không làm mất đi vẻ đẹp mà còn tôn tạo thêm giá trị đầy nhân bản cho tác
phẩm.
Lời tả trong TTLS giai đoạn này giàu sắc thái biểu cảm thông qua các biểu tượng
nghệ thuật. Lời tả trong Giàn thiêu thể hiện qua lớp ngôn ngữ giàu sức ám gợi, day dứt
người đọc. Hình ảnh ngọn lửa như một nỗi ám ảnh đeo đuổi, khắc ghi và tâm trí người
đọc suốt từ đầu cho đến cuối tác phẩm. Theo thống kê, chúng tôi nhận thấy tần suất xuất
hiện của hình ảnh “lửa” và “máu” và những ngôn từ mang sắc thái gần nghĩa với lửa và
máu như “đỏ”, “cháy”, “thiêu”… trong tác phẩm xuất hiện rất nhiều, cụ thể: lửa (76 lần);
máu (94 lần); đỏ (98 lần); giàn thiêu (31 lần). Ngoài ra, còn xuất hiện từ cháy với tần số
trên 20 lần và sự lặp lại nhiều lần của từ: thiêu, hỏa táng, rực như than, chói chang, màu
124
tía, nến cháy, sơn son, gỗ sơn,… Như vậy, Lửa trong Giàn thiêu xuất hiện với tần số 76
lần, tần số đó không biết ngẫu nhiên hay cố ý, nhưng nó trùng khít với sinh mạng của 76
cung nữ thời Nhân Tông băng hà. Rõ ràng, hình ảnh ngọn lửa ở Giàn thiêu thể hiện sự
tiếp nhận cả hai mặt đối lập trong cái tốt và cái xấu. Ngọn lửa ấy nếu là tượng trưng cho
lực lượng siêu nhiên, là quyền lực thì hình tượng máu là tượng trưng cho nỗi đau đặc
quánh, sự mất mát, sự hủy diệt. Máu của cung nữ, lửa nơi giàn thiêu cùng với sức mạnh
siêu nhiên của trời và đất trong đàn tràng cầu mưa nơi lãnh tiếu nhân gian vừa là hình
thức rửa tội mang bóng dáng của Chúa trời, vừa thể hiện sự tôn thờ được dạy dỗ của bản
thể xã hội và sắc thái niềm tin vô thức thuộc đời Lý. Đấy là kiểu hành động và suy ngẫm,
phản xạ của sự hiểu biết tàn bạo nhất của con người về thế giới khách quan của tâm linh.
Đấng sáng tạo ra lòng ước muốn chính là con người và hình ảnh giàn thiêu (Võ Thị Hảo)
giống như một biểu tượng tự nhiên, trong vô thức, những ngọn lửa ma mị và mê hoặc ấy nói
với chúng ta về số phận của chính con người. Nhìn chung, cùng với lời tả, lời kể trong các
tác phẩm đã được NKC vận dụng khá thành công, qua lời tả người đọc có được cái nhìn chân
thực hơn về không gian cảnh vật cũng như con người trong tác phẩm. Lời tả xuất hiện đúng
lúc, hài hòa trong tác phẩm thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật của các nhà TTLS đương đại.
4.3.1.3. Diễn ngôn bình luận
Giống như lời kể và lời tả, lời bình cũng là một dạng phát ngôn của NKC. Nếu lời
kể và lời tả vẫn giữ được phần nào tính khách quan thì lời bình là lời phát biểu trực tiếp
mang tính chủ quan của NKC. Thông qua lời bình người đọc có thể đối thoại, luận giải cùng
nhà văn về các nhân vật lịch sử và các sự kiện lịch sử đã diễn ra trong quá khứ.
Trong TTLS Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI, chúng tôi nhận thấy lời bình của
NKC thường mang những triết lý, suy nghiệm về những vấn đề lớn lao của nhân sinh, thế
cuộc, đặc biệt là sức mạnh quyền lực trong triều đình phong kiến. Chẳng hạn, trong Hồ
Quý Ly, con người phải lao đao trong toan tính, sự toan tính của quyền lực là những “âm
mưu trong bóng đêm, như cái nhọt bọc càng lúc càng tấy, nhưng chẳng ai nhìn thầy cả”
[tr.156]. Trong Tám triều vua Lý sức mạnh của “chất men quyền lực” được NKC nâng lên
thành những triết lý sâu sắc: “Thế mới biết ở đời không có loại bẫy nào dụ được con
người vào tròng một cách đầy hứng khởi và tận lực dấn thân như cái bẫy quyền lực”,
“Phải chăng cuộc sống vương giả và những quyền uy tự thân nó đã làm hư hỏng một con
125
người”, “Đúng là ở đời không có chất men nào làm cho con người ta hư hỏng và sa đọa
nhanh như chất men quyền lực”. Trong Oan khuất, sức mạnh quyền lực luôn ám ảnh và
trở đi trở lại trong những trang văn: “Khi con người ta vươn lên đỉnh cao của quyền lực,
người ta không tiếc gì những âm mưu, thủ đoạn để mưu hại lẫn nhau” [tr.137]. Quyền lực
thỏa mãn được đam mê khi được xây dựng trên sự đau đớn, sự phục tùng của mọi người
dành cho nó trong Đất trời (Nam Dao). Trong Nguyễn Du, NKC đã phải thốt lên rằng:
“Ôi! Con đường quyền lực, con đường danh lợi làm cho con người càng bị tha hóa”
[tr.215].
NKC trong TTLS đương đại còn đặt ra những vấn đề về văn hóa – lịch sử nhằm
luận giải và kiếm tìm những giá trị vĩnh hằng của văn hóa dân tộc. Những luận bàn của
NKC trong Mẫu Thượng Ngàn về sức mạnh của Đạo Mẫu trong việc chở che, hóa giải và
cứu rỗi những linh hồn đang dần bị lụi tàn bởi văn hóa ngoại lai; hoặc là những trăn trở,
suy tư của một người Trung Hoa về sự kỳ lạ, bí ẩn của nền văn hóa bản địa: “Nước chúng
tôi là một nước văn hiến hơn xứ sở này, vậy tại sao rất nhiều người sang đây lại không
quay về quê cũ, để rồi trở thành người xứ này”[tr.805]; những giá trị văn hóa Phật giáo
đang trên đà tha hóa trong Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh); giá trị của văn hóa
Phật giáo trong kiến tạo nhà nước và giáo dục nhân tâm trong Đàm đạo về Điều Ngự Giác
Hoàng (Bùi Anh Tấn).
Khi cảm hứng sử thi chuyển sang cảm hứng thế sự - đời tư, dường như các nhà
TTLS đương đại quan tâm nhiều hơn đến thân phận con người, bi kịch cá nhân trong
dòng xoáy của lịch sử, như một nhu cầu cấp thiết nhằm chuyển tải những suy tư về vận
mệnh dân tộc trong tương quan với số phận con người. Trong Tám triều vua Lý, nhà văn
đã mượn lời của NKC để nêu lên triết lý về vần xoay cuộc đời trong biến thiên của lịch
sử: “mọi chuyện rồi cũng qua thôi, vì thời gian là người thầy thuốc vĩ đại làm cho ai nấy
đều dịu bớt nỗi đau và dần quên cả nỗi giận, buồn” và “ở đời chuyện gì cũng có thể xảy
ra, và người đời cũng dễ quên cả điều thiện lẫn điều ác” [tr.696]; và sự nhầm lẫn của
người đời quả là tai hại: “người đời nhầm lẫn lấy địa vị thay cho tài năng và nhân cách
đích thực” [tr.579]. Thân phận của những nàng ca nữ như Bạch Dung, Bạch Vân trong
Đàn đáy trong cuộc đời trầm luân của kiếp người: “nàng nhận ra nàng đang ở trong một
vòng xoáy hỗn độn của cuộc đời. Nàng là nàng và nàng cũng là chị em với trăm ngàn
126
nhiễu nhương và chỉ cần nàng xao nhãng một chút, tiếng hát sẽ trôi tuột đi như sương trên
đầu ngọn cỏ” [tr.67].
Lời bình luận thể hiện thái độ cảm thông, đồng tình của NKC với các sự kiện và
những vĩ nhân lịch sử. Bằng những lời bình luận, NKC trong TTLS đương đại đã thể hiện
niềm thương mến và ngưỡng mộ sự nghiệp lẫy lừng của những anh hùng lịch sử như Lý
Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt (Tám triều vua Lý, Thăng Long
ký), Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Nguyễn Hoàng (Đàm đạo về Điều Ngự Giác
Hoàng, Hội thề, Đất trời, Minh sư, Tây Sơn bi hùng truyện); niềm thương mến, cảm
thông cho thân phận của người phụ nữ như Mùi, Ba Váy, Lụa, Ngạn La (Mẫu Thượng
Ngàn, Thế kỉ bị mất, Giàn thiêu),… Đồng thời, lời bình luận còn mang sắc thái mỉa mai,
đả kích, phê phán các nhân vật lịch sử như: Lê Long Đĩnh, Ỷ Lan, Đỗ Anh Vũ, Lê thái
hậu, Lý Cao Tông, Nguyễn Thù, Trịnh Sâm, Nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống,…
Nhìn chung, sự xuất hiện đúng lúc diễn ngôn bình luận của NKC đã kiến tạo nên lớp diễn
ngôn lịch sử mới theo hướng luận giải, đối thoại. Hệ thống diễn ngôn mới này đã góp
phần thể hiện trực tiếp thái độ, tư tưởng và quan điểm mới mẻ, sâu sắc của nhà văn về các
vấn đề trong lịch sử. Lịch sử được giải phóng khỏi những quy phạm xưa cũ để mang
trong mình nó những hình thức thể hiện hoàn toàn mới, đầy sáng tạo và sức sống mới.
4.3.2. Diễn ngôn của nhân vật
4.3.2.1. Diễn ngôn đối thoại
Đối thoại là một trong những đặc trưng của ngôn ngữ tiểu thuyết. Thông qua đối
thoại trực tiếp giữa các nhân vật, tính cách nhân vật được thể hiện. Hình thức đối thoại
trực tiếp trong tác phẩm thể hiện phát ngôn chủ quan của nhân vật, nhưng là lời khách
quan của NKC, để nhân vật tự nói lên tiếng nói của mình, nhờ đó việc thể hiện nhân vật
tương đối khách quan và toàn diện. Tuy nhiên, trong tiểu thuyết, không phải mọi lời thoại
của nhân vật được giữ nguyên là lời đối đáp trực tiếp mà có khi NKC kể lại nhân vật đã
nói những gì, đối đáp ra sao. Lúc này, lời thoại của nhân vật đã được nhìn nhận dưới góc
nhìn chủ quan của NKC và trở thành lời kể đối thoại.
Các nhà tiểu thuyết đã có sự kết hợp giữa diễn ngôn của NKC với diễn ngôn của
nhân vật trong việc xây dựng thế giới hình tượng nghệ thuật, trong đó diễn ngôn đối thoại
của nhân vật chiếm số lượng lớn và là thành phần quan trọng trong diễn ngôn của tiểu
127
thuyết. Diễn ngôn đối thoại trong TTLS mười năm đầu thế kỉ XXI bao gồm đối thoại từng
cặp nhân vật (hình thức song thoại) và đối thoại giữa rất nhiều nhân vật với nhau (hình
thức đa thoại).
Bảng 4.2 Thống kê về diễn ngôn song thoại trong TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI
STT
Tên tiểu thuyếtSố
trang
Số lượt thoại
Số cuộc thoại
Số lượt trên
trang
Số lượt trên cuộc
1 Giàn thiêu 527 616 92 1.69 6.7
2 Hồ Quý Ly 802 1.108 132 1.38 8.4
3 Mẫu Thượng Ngàn 807 1.254 113 1.55 11.1
4 Thế kỉ bị mất 484 829 113 1.7 7.3
5 Đất trời 397 930 100 2.34 9.3
6 Hội thề 366 471 62 1.28 7.6
7Đàm đạo về Điều
Ngự Giác Hoàng405 983 88 2.43 11.2
8 Tám triều vua Lý 3509 3193 319 3.30 10.00
Bảng 4.3. Thống kê về diễn ngôn đa thoại trong TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI
STT
Tên tiểu thuyếtSố
trang
Số lượt thoại
Số cuộc thoại
Số lượt trên
trang
Số lượt trên cuộc
1 Giàn thiêu 527 290 50 0.55 5.8
2 Hồ Quý Ly 802 1230 123 1.53 10.0
3 Mẫu Thượng Ngàn 807 815 97 1.0 8.4
4 Thế kỉ bị mất 484 113 43 0.23 2.6
5 Đất trời 397 285 38 0.7 7.5
6 Hội thề 366 800 72 2.18 11.12
7Đàm đạo về Điều
Ngự Giác Hoàng405 1.033 154 2.55 6.7
8 Tám triều vua Lý 3509 3664 322 1.0 11.37
128
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy diễn ngôn của nhân vật chiếm ưu thế hơn diễn
ngôn của NKC, trong đó, diễn ngôn đa thoại chiếm dung lượng lớn hơn diễn ngôn song
thoại của nhân vật. Chẳng hạn, trong Thế kỉ bị mất, diễn ngôn đối thoại chiếm 156 trang
trong tổng số 484 trang của tiểu thuyết, chiếm tỉ lệ 31.8%. Phần lớn các cuộc đối thoại
của nhân vật có rất nhiều lượt lời: với diễn ngôn song thoại thì trung bình là 1.7 lượt lời/
trang và 7.3 lượt lời/cuộc thoại, trong đó, có ít nhất là 2 lượt lời/cuộc thoại và nhiều nhất
là 24 lượt lời/cuộc thoại; với diễn ngôn đa thoại thì trung bình là 0.23 lượt lời/trang và 2.6
lượt lời/cuộc thoại, trong đó, có ít nhất là 3 lượt lời/cuộc thoại và nhiều nhất là 34 lượt
lời/cuộc thoại. Phần lớn các cuộc thoại của nhân vật luôn đảm bảo nguyên tắc luân phiên
lượt lời: “Mỗi lượt lời được xây dựng trên cơ sở những lượt lời trước đó. Vậy là có sự
luân phiên lượt lời, luân phiên nói năng trong hội thoại” [21, 90]. Tuy nhiên, đôi khi lời
nhân vật không được sắp xếp theo thứ tự đối đáp mà đan xen trong lời người trần thuật.
Nghĩa là giữa những lời đối thoại, có khi có những lời phát ngôn lạc khỏi giao tiếp, đó là
những phát ngôn mang tính độc thoại của nhân vật hay lời gián tiếp tự do trong diễn ngôn
trần thuật. Cuộc đối thoại giữa Thái sư Lý Đạo Thành và Nguyên phi Ỷ Lan trong Con
đường định mệnh của Hoàng Quốc Hải có trường đoạn chen ngang cuộc hội thoại, đó là
lời của người kể chuyện nhưng mang tư tưởng của nhân vật Lý Đạo Thành, nó chen vào
lời trực tiếp của nhân vật và làm gián đoạn cuộc thoại nhằm thể hiện những trăn trở, lo
lắng bên trong của nhân vật Đạo Thành về đức tính của Ỷ Lan:
– Dạ, nhân Thái sư nói đến chữ tâm. Chữ tâm bên nhà Phật, tôi đã được
đại lão tăng thống Lâm Huệ Sinh chỉ dẫn, vậy chớ còn chữ tâm bên nhà Nho
thì nghĩa hiểu ra sao, hành như thế nào, lại nữa tâm Nho với tâm Phật có gì
khác nhau không, xin Thái sư cho được thụ giáo.
Nghe nguyên phi hỏi, Thái sư Lý Đạo Thành vừa mừng lại vừa lo. Mừng
vì chưa thấy có người đàn bà nào lại ham học, ham hiểu biết như người này.
Ham học hỏi, thành tâm tu tập để hoàn thiện nhân cách ắt sẽ trở thành người
thiện đức. Nhưng ham học hỏi để mưu cầu cho một toan tính ích kỷ mà khi
quyền lực vào tay thì đó lại là mối nguy cho xã tắc; ấy là chỗ Đạo Thành lo
ngại. Sực nhớ chưa đáp lời Ỷ Lan, Thái sư bèn lên tiếng:
– Thưa nguyên phi, theo thiển ý của tôi đã lý hội được Nho cho cái Tâm là
phần chủ tể trong con người ta…[tr.513–514].
Ngoài ra, trong một số trường hợp, cuộc thoại của nhân vật có quan hệ trao đáp rất
lỏng lẻo, không chặt chẽ, hoặc là không bảo đảm nguyên tắc luân phiên lượt lời. Chẳng 129
hạn, cuộc đối thoại giữa vua Thái tổ và Thiền sư Vạn Hạnh trong Thiền sư dựng nước từ
trang 77 – 80, có 15 lượt lời, trong đó, nguyên tắc luân phiên lượt lời được đảm bảo từ
lượt lời thứ 1 đến lượt lời thứ 5 nhưng từ lượt lời thứ 6 đến lượt lời thứ 15 đều là lượt lời
của Thiền sư Vạn Hạnh với 10 lượt lời liên tiếp mà không cần có lời đáp của Lý Công
Uẩn. Hiện tượng “cướp lời” của nhân vật trong cuộc thoại nhằm bộc lộ những tư tưởng về
đường lối xây dựng vương triều của vị thiền sư, đồng thời, tạo khoảng lặng để Công Uẩn
có điều kiện lĩnh hội, suy ngẫm để rồi tuôn trào trong dòng suy tưởng ở cuối cuộc thoại.
Đặc điểm thứ hai trong ngôn ngữ đối thoại của nhân vật là ngôn ngữ đúng nghi thức
lời nói giao tiếp. “Nghi thức lời nói trong giao tiếp thường bộc lộ qua lối xưng hô đúng “vai”
và việc sử dụng hô ngữ đúng phép tắc” [119, 208]. Với tiêu chí phục diện gương mặt lịch
sử nên ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong TTLS đương đại là ngôn ngữ mang tính
chất cổ xưa với lối nói mang tính nghi thức, chuẩn mực của ngôn từ cung đình, trong đó,
có lối xưng hô đúng vai giữa quân – thần: bệ hạ/ hoàng thượng – thần/hạ thần, phụ
vương/phụ hoàng – thần nhi/con, mẫu hậu –thần nhi /con; có lối xưng hô đúng vai giữa
thần với thần: đại nhân/theo phẩm hàm – tôi; có lối xưng hô giữa người trên và kẻ dưới:
đại nhân – kẻ hạ thần; có lối xưng hô giữa chồng và vợ: chàng – nàng, phu quân/tướng
công – phu nhân/thiếp… Ví dụ, nhân vật Trần Thuận Tôn và Hồ Nguyên Trừng (Hồ Quý
Ly) ngoài quan hệ vua tôi họ còn có quan hệ họ hàng (Thuận Tôn là em rể của Nguyên
Trừng), và là những người bạn rất thân. Thế nhưng trong cách xưng hô họ vẫn giữ trọn
đạo vua tôi nghiêm ngặt. Thuận Tôn nói với Nguyên Trừng: “Khanh vẫn đắm mình trong
rượu ư?”. Nguyên Trừng đáp: “Hạ thần bất kính. Mong bệ hạ tha lỗi nhưng kẻ tiểu thần
này không thể không say được”. Thuận Tôn cười nhếch mép trả lời: “Cũng như ta chứ
sao? Thật không thể không đi tu được” [tr.450]. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong
Hội thề, là thứ ngôn ngữ giao tiếp mang tính quy phạm của thời đại: chúa công, khanh, ta,
tiểu nhân, đại huynh, chàng, thiếp, quan ngài, kẻ học trò này… Loại ngôn ngữ này phủ
lên màu sắc lịch sử, đảm bảo tính chân thực cho tác phẩm.Thông qua hình thức đối thoại,
người đọc nhận ra địa vị xã hội, chức tước, mối quan hệ thân sơ… giữa các nhân vật. Vị
thế của Lê Lợi chắc chắn phải khác Phạm Vấn và mối quan hệ giữa Lê Lợi với Phạm Vấn
cũng không giống với mối quan hệ giữa Lê Lợi và Nguyễn Trãi.
Bên cạnh đó, diễn ngôn đối thoại còn mang tính chất quan phương cổ kính được
thể hiện qua mỗi lời nhân vật đối thoại, cho ta thấy được đời sống của mỗi triều, mỗi nếp
sống trong xã hội, cộng đồng. Chẳng hạn, trong Giàn thiêu, Tám triều vua Lý hay Lý
Công Uẩn, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng,… Võ Thị Hảo, Hoàng Quốc Hải, Ngô 130
Văn Phú, Bùi Anh Tấn đều xây dựng bối cảnh lịch sử thời Lý, Trần ghi nhận sự phát triển
thịnh trị của đạo Phật. Người đọc dễ dàng tiếp cận hàng loạt những ngôn từ Phật giáo qua
lời đối thoại của nhân vật. Trong Hồ Quý Ly xuất hiện rất nhiều lời thoại của nhân vật về
ngôn ngữ Nho giáo: “Làm tôi phải hết lòng trung, làm quan phải giữ than bạch, làm con
phải giữ tròn đạo hiếu. Nếu là con mà bất hiếu, làm tôi mà bất trung thì thần minh tru
diệt” [tr.19]. Đến Mẫu Thượng Ngàn, Thiên chúa lấn át văn hóa bản địa, con người quay
về với đạo Mẫu. Do đó, ngôn ngữ theo nguyên lý tính Mẫu được phát ngôn từ những câu
chuyện về “Thánh Mẫu, giá Mẫu, cô hầu cho đến cô Chín, cô Bé, bà Chúa Thác bờ, bà
Đà… Đàn đáy (Trần Thu Hằng) mang ngôn ngữ nho nhã của mảnh đất Thăng Long văn
vật: thánh hiền, khuyển binh, tội khiếm đài, giáo phường, cõi tịch diệt, phong lưu quân tử,
duyên tình tục lụy, bán phấn buôn hương,…
Nếu diễn ngôn đối thoại trong sáng tác của một số nhà TTLS trước 1986 (Nguyễn
Triệu Luật, Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn Huy Tưởng, Hà Ân, Thái Vũ,…) còn mang nhiều
dấu ấn của câu văn biền ngẫu, mang sắc thái trang trọng, cổ kính thì đến giai đoạn này
TTLS đã có sự cách tân đáng kể. Ngôn ngữ thường có sự kết hợp giữa ngôn ngữ quan
phương cổ kính và ngôn ngữ của đời sống hiện đại, trong đó, tính đối thoại và tính cá thể
hóa của ngôn ngữ nhân vật được biểu hiện qua khả năng lột tả tính cách và đời sống nội
tâm của nhân vật. Mỗi nhân vật được nhà văn quan niệm như một ý thức, một tiếng nói,
một chủ thể độc lập, nên ngôn ngữ đối thoại giữ vai trò quan trọng trong việc khắc họa
tính cách nhân vật. Chẳng hạn, những tranh luận về chính sự, thời cuộc bộc lộ một Hồ
Quý Ly với cá tính ngang tàng, quyết liệt, bướng bỉnh và quyết đoán. Khi giận dữ ông dùng
cả những lời nói báng bổ: “Chu Hi là cái đếch gì! Trình Di cũng là cái đếch gì! Thuần một lũ
ăn cắp văn mà thôi…” [tr.732]. Khi đối thoại với con, ông trở thành một người cha gần gũi,
hiền lành. Ông nói với con bằng những lời thân mật, dịu dàng: “Anh Trừng! Đã đến lúc cha
phải vào Tây Đô” [tr.669], “Anh Trừng đấy hả? Cha biết là anh sẽ đến” [tr.828].
Ví dụ, đoạn ông với Nguyên Trừng:
“Ít ra ta cũng muốn xem thái độ quan thái bảo đối đãi với ta ra sao… Hà! Ta muốn
Quỳnh Hoa phải là con dâu ta… Ta muốn quan thái bảo phải là thân gia của ta…
Ông ta muốn thẳng thừng với ta ư? Thì ông ta cứ việc thẳng thừng! Ông ta muốn là
kẻ trung trinh ư? Thì ông ta cứ việc là kẻ trung trinh! Ta đâu có muốn và đâu có
thể cấm được ai… Chỉ có điều, nhất thiết ông ta phải là thân gia với ta!” [tr.60].
Qua phát ngôn của mỗi nhân vật, người tiếp nhận không chỉ phát hiện ra bản chất
của chính nhân vật đó mà còn có được những nhận định từ nhiều phía đối với các sự kiện 131
cũng như các nhân vật khác trong câu chuyện. Nét nho nhã, nhân hậu, vị tha của Nguyễn
Trãi không thể lẫn vào sự dung tục, võ biền, hiếu sát và tham tàn toát lên từ những phát
ngôn mang tính “kinh điển” của Lê Ngân: “Nó chịu hàng thì tôi bú buồi cho các ông” hay
“Quân Sở tràn vào Bành Thành, trong ba ngày nấu hai mươi vạn người, tướng sĩ say
khướt, túi áo túi quần không chứa hết vàng bạc, binh lính đứa nào cũng lặc lè đi không
nổi. Thế mới xứng là con nhà võ. Còn cánh ta thì mặc giáp trụ hộ vệ mấy anh học trò tiến
vào Đông Quan như mấy thằng ăn xin sao?” [tr.174]. Tính cá thể hóa của ngôn ngữ nhân
vật còn được người viết chú ý qua những biểu hiện rất nhỏ nhưng đầy tinh tế. Cách nói
mang đặc chất miền Trung của tướng quân Đinh Lễ hay của hàng tướng Thái Phúc trong
Hội thề, của Lụa, Cái Hoa, Cả Hinh trong Thế kỉ bị mất: o ni, mần chi, ri, mô, răng, rứa,
nỏ, he,… chính lớp ngôn ngữ này càng làm cho nhân vật trở nên gần gũi và chân thực.
Một trong những đặc trưng nổi bật theo hướng đổi mới trong diễn ngôn đối thoại của
TTLS giai đoạn này so với trước đây đó là diễn ngôn mang tính đối thoại cao. Trong nhiều
tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân, Võ Thị Hảo, Bùi Anh Tấn,
Nguyễn Thế Quang, Thái Bá Lợi, Hoàng Quốc Hải, Phạm Ngọc Cảnh Nam,… nhân vật
thực hiện cuộc thoại theo hướng đối thoại, luận giải về văn hóa, tư tưởng, triết học, tôn
giáo, thậm chí, trong một vài tác phẩm như Tám triều vua Lý, Đàm đạo về Điều Ngự Giác
Hoàng, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa yếu tố tôn giáo là chủ đề nổi bật chi phối
phần lớn cuộc đối thoại của nhân vật: đối thoại giữa Lý Thái Tổ và thiền sư Vạn Hạnh về
đạo trị nước trên tinh thần kết hợp “tam giáo đồng nguyên”; đối thoại giữa thiền sư Vô Úy
và sư Vô Trần về quan niệm duyên và nghiệp trong giáo lý nhà Phật; đối thoại giữa các vị
thiền sư với Đức Giác Hoàng về đạo và đời; đối thoại giữa các nhân vật trong Mẫu Thượng
Ngàn về sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai đến nền văn hóa bản địa, mà Đạo Mẫu là hồn
cốt dân tộc Việt... Tóm lại, ngôn ngữ đối thoại trong TTLS đương đại là thứ ngôn ngữ giàu
chất triết luận nhằm giúp nhà văn chuyển tải những quan điểm của mình về quá khứ và hiện
tại, đồng thời tạo ra những khoảng trống để người đọc cùng suy ngẫm, lý giải các vấn đề
lịch sử trong sự kết nối với hiện tại. Thông qua đối thoại, TTLS mười năm đầu thế kỉ XXI
không chỉ khắc họa tính cách nhân vật, bối cảnh thời đại mà còn thể hiện tư tưởng, quan
điểm của con người trong những thời điểm lịch sử nhất định.
4.3.2.2. Diễn ngôn độc thoại
Độc thoại nội tâm là thủ pháp nghệ thuật không thể vắng mặt trong việc khám phá
“con người trong con người”, nó cho phép nhà văn và người đọc trở thành những nhà du
hành trong thế giới tâm hồn sâu kín của nhân vật. Độc thoại nội tâm “là tiếng nói bên 132
trong tâm hồn nhân vật, là lời nhân vật tự nói về mình, tự bộc lộ những suy tư thầm kín,
thể hiện trực tiếp quá trình tâm lí, nội tâm, mô tả hoạt động cảm xúc suy nghĩ của con
người trong dòng chảy trực tiếp của nó” [74,108]. Nhờ độc thoại nội tâm mà thế giới bên
trong đầy bí ẩn của con người không còn là những khối băng đông cứng, không còn xa lạ
với chúng ta.
Tinh thần đổi mới, với sự trỗi dậy của ý thức cá nhân, yếu tố đời tư được các nhà
văn quan tâm chú ý nhiều hơn giai đoạn trước đây. Vì thế, những cảm xúc, trăn trở, suy
tư, chiêm nghiệm của con người về quá khứ được nhìn nhận đa chiều hơn. TTLS giai
đoạn này đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo về mặt diễn ngôn trên cơ sở chuyển dịch đáng
kể từ diễn ngôn sử thi sang diễn ngôn đời thường với cái nhìn đầy nhân văn. Và độc thoại
nội tâm là một trong những biểu hiện sinh động cho sự chuyển dịch ấy.
Bảng 4.4. Bảng thống kê các cuộc độc thoại trong TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI (tham khảo số liệu [65, 139])
Stt Tác phẩm Số trang Lời đối thoại Lời độc thoại
1 Giàn thiêu 527 142 (27%) 17 (3.2%)
2 Hồ Quý Ly 802 256 (32%) 19 (2.4%)
3 Mẫu Thượng Ngàn 807 220 (27.3%) 11 (1.4%)
4 Đất trời 397 138 (35%) 10 (2.5%)
5 Hội thề 366 134 (36.6%) 16 (4.4%)
6Đàm đạo về Điều Ngự
Giác Hoàng405 242 (59.75%) 25 (6.2%)
7 Thế kỉ bị mất 490 156 (31.8%) 21 (4.3%)
8 Bí mật hậu cung 394 169 (42.9%) 30 (7.6%)
9 Tám triều vua Lý 3509 641 (18.2%) 64 (1.8%)
10 Nguyễn Du 416 381 (91.6%) 35 (8.4%)
Nếu như trong TTLS trong những giai đoạn trước đây diễn ngôn độc thoại ít xuất
hiện hoặc xuất hiện với hình thức giản đơn, đến giai đoạn này xuất hiện dày đặc hơn (mặc
dù không nhiều) thật sự đã mang lại những tín hiệu thẩm mĩ mới, giúp NKC dựng lại quá
trình tâm lý phức tạp gắn với sự thức tỉnh đau đớn của nhân vật, hé mở nỗi ưu tư, niềm
xót xa luôn bị che giấu sau lớp vỏ ngoài lạnh lùng của nhân vật. Một số nhà văn đã tận
dụng triệt để chức năng của độc thoại nội tâm và dòng ý thức của nhân vật như Nguyễn
133
Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Quang Thân, Phạm Ngọc Cảnh Nam, Bùi Anh Tấn,…
khám phá những phần khuất lấp, phơi bày những góc tối, giúp độc giả nhận thức lại chiều
sâu tâm lý con người trong quá khứ. Nhiều nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly thường
sống trong dòng độc thoại nội tâm như Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng, ông vua già Nghệ
Tôn, đức vua trẻ Thuận Tôn, Trần Khát Chân, Sử Văn Hoa, Phạm Sinh... Đó chính là lúc
họ đối diện với mình với những dòng ý thức, nỗi suy tư và dằn vặt, trăn trở và mâu thuẫn
giữa quyền lực – trách nhiệm, giữa khát vọng – hành động. Ở họ là những khối cô đơn
lớn, luôn thường trực và đẩy nhân vật vào những bi kịch bế tắc không dễ gì cởi thoát.
Trong Mẫu Thượng Ngàn, nhà văn cùng lúc khám phá những diễn biến nội tâm của nhân
vật và khơi sâu vào dòng suy nghĩ, khát vọng thầm kín của những người đàn bà Việt khi
để nhân vật Ba Váy thường xuyên độc thoại nội tâm. Đó là những dòng miên man suy
tưởng về kỉ niệm của nhân vật khi lần gặp lại Trịnh Huyền; hay những câu chuyện về
cuộc đời dân làng Cổ Đình, về những người vợ cả, vợ hai của Lý Cỏn, về những đứa con,
về mối tình năm xưa,… Xúc động nhất là những giây phút người phụ nữ năm con trải
lòng về khát khao hạnh phúc trọn vẹn, cái hạnh phúc bình thường, dung dị, rất đàn bà:
“Tôi như cánh đồng hạn lâu ngày… Nó chỉ chờ một cơn mưa.”[tr.528]. Tương tự, Đội
gạo lên chùa, chú tiểu An thường xuyên trôi trong suy nghĩ rất thành thực về chính mình,
về con đường khổ hạnh mà chú đang độc bộ: “Phải nó những lúc tôi không kiềm chế
được để vi phạm điều giới, tôi vẫn sám hối. Tuy nhiên, buồn thay! Cuộc đời luôn có
những cơn giông tố và dù tôi ở chùa, tôi đi tu, tôi cũng không tránh được những cơn
giông, và cũng buồn thay, tôi là kẻ đức mỏng phúc bạc…” [tr.107].
Trong Hội thề, Nguyễn Quang Thân cũng gắn liền độc thoại nội tâm với dòng ý
thức. Sự kết hợp này không còn lạ lẫm đối với kỹ thuật viết văn đương đại. Đó là lúc
NKC song hành với Lê Lợi trong những cảm xúc sâu kín, những khát khao, dục vọng bị
đè nén, hay với Nguyễn Trãi trong những khắc khoải về thân phận cá nhân lẫn những
chiêm nghiệm về nhân thế và lịch sử. Trong Tám triều vua Lý, nhà văn đã rất tinh tế khi xây
dựng nhiều chi tiết tâm lý trong việc khắc họa tính cách nhân vật. Những nhân vật, những
con người của lịch sử đi vào trang viết của ông đã trăn trở bao nỗi niềm riêng để đi tìm bản
thể của chính mình. Đó là Lý Công Uẩn, xuất thân từ nhà chùa, áp dụng Phật giáo vào quản
trị đất nước để đoàn kết toàn dân. Đó có thể là Lý Thường Kiệt đau đáu, đằng đẵng trong
suốt hành trình cuộc sống với nỗi đau ly tan vợ con và nỗi ân hận khôn nguôi khi tiếp tay kẻ
ác khuynh đảo triều chính. Qua những dòng tâm trạng bên trong của Lý Thường Kiệt và
Lý Nhật Tông trong Bí mật hậu cung, tác giả đã để cho nhân vật tự đối thoại với chính 134
mình, đấu tranh giằng xé giữa tình yêu nghịch dị với khát vọng trở thành Vệ Thanh, Hoắc
Khứ lừng lẫy chiến công, hiến dâng mình cho non sông Đại Việt. Những khoảnh khắc
phải đối diện với chính mình càng khiến Ngô Thuấn đau đớn, tuyệt vọng vì nỗi ám ảnh về
mặc cảm bị hoạn: “Tại sao cuộc đời lại buộc chàng có sự lựa chọn đau đớn như thế này?
Tại sao? Tại sao chàng không như những người đàn ông khác mà phải trở thành một thái
giám?” Có thể nói, độc giả hôm nay có cái nhìn nhân bản hơn đối với thân phận của
những con người trong dòng chảy của những cơn bão táp của lịch sử. Họ đã sống và
mang những niềm khắc khoải kiếm tìm bản thể, những ám ảnh khôn nguôi về thân phận
con người lạc loài với khuynh hướng tính dục lệch hướng, nghịch dị. Trong Đàm đạo về
Điều Ngự Giác Hoàng, nhân vật Trần Cảnh trải qua những giây phút độc thoại vô cùng
đau đớn khi bị ép buộc chia tay người vợ yêu quý Lý Chiêu Hoàng. Trong khi đó, Trần
Thủ Độ luôn cảm thấy cô đơn vì người oán nhiều hơn người yêu. Ông luôn bị dày vò, đối
diện với bản thân, tự vấn lương tâm vì đã gây ra biết bao cảnh ngang trái cho người thân,
đặc biệt là hành động chia cắt nghĩa vợ chồng của Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng. Trần
Nhân Tông cũng luôn trăn trở, dằn vặt giữa đời và đạo, giữa một bên là vua, một bên là
người tu hành. Trong Hội thề, Nguyễn Trãi được nhà văn dụng công khắc họa những
dòng độc thoại miên man trong nhiều hoàn cảnh. Nỗi cô đơn, đau khổ khi đối diện với sự
hoài nghi, đố kỵ của chủ, tướng Lam Sơn: “Con người sẵn sàng kèn cựa so đo với nhau
từng tí một, tại sao phải vậy? Ta tự hỏi mình… Lòng ta trong trắng, thành thật và ngay
thẳng. Ta đem hết sức và trí của mình ra phục vụ cho Đại Vương và mọi người, chỉ có
một mong mỏi duy nhất là đánh đuổi quân Minh…” [tr.169]. Những khoảnh khắc tâm
trạng và dòng ý thức trên đã cho thấy một Nguyễn Trãi chính trực, trong sạch, thành thật,
ngay thẳng, nhạy cảm, hết lòng vì kháng chiến, vì mọi người, không màng danh lợi và lợi
ích cá nhân nhưng cuộc đời lại đầy bi thương.
Như vậy, độc thoại nội tâm đã làm cho diện mạo tinh thần của nhân vật trở nên nổi
bật, sắc nét, đồng thời diện mạo cảm quan của tác giả cũng được thể hiện sinh động, độc
đáo và sâu sắc. Cùng với hành động và lời đối thoại, độc thoại nội tâm và quá trình tự ý
thức của nhân vật cho phép chúng ta khám phá con người tâm lý, khám phá bản thể của
con người trong hành trình của cuộc sống.
135
Tiểu kết
Sự thay đổi của tiến trình văn học, của các hệ hình văn học luôn có sự vận động
của hình tượng NKC. Từ cách kể chuyện truyền thống với NKC đóng vai trò “thượng đế”
đến sự xuất hiện của cái “tôi” kể chuyện đã tạo một bước đột phá vô cùng lớn lao của tiến
trình văn học. Các nhà TTLS đương đại đã tận dụng triệt để vai trò và chức năng của
NKC dị sự – ngôi thứ ba, ngôi thứ nhất và sự chuyển hóa vai người trần thuật một cách
linh hoạt trong cách xây dựng hình tượng NKC. Có thể thấy, đa phần TTLS giai đoạn
mười năm đầu thế kỉ XXI được kể bởi NKC ngôi thứ ba giấu mặt; NKC đứng bên ngoài
những sự kiện, biến cố của câu chuyện và khách quan kể lại câu chuyện. Đó là NKC
không toàn tri, bởi thông qua NKC mà người đọc được cung cấp những hiểu biết và một
cái nhìn tương đối toàn diện và sinh động về các sự kiện và nhân vật lịch sử. Với phương
thức trần thuật này, NKC trong TTLS vừa mang dáng dấp của NKC truyền thống khi
được nhà văn trao cho vị trí “thượng đế” trong lối kể, trong việc xây dựng nhân vật, thậm
chí trong việc “sắp xếp” số phận nhân vật nhưng lại vừa mang dáng dấp của NKC hiện
đại khi tác giả đã khéo léo trao điểm nhìn cho nhân vật tạo nên phương thức trần thuật
nhân vật hay hiện tượng nhường vai trần thuật. Sự kết hợp nhiều gương mặt NKC đã tạo
nên sự di động điểm nhìn và sự luân phiên trần thuật, từ đó, nhà văn giúp người đọc có
khả năng cảm nhận đa chiều về hiện thực cuộc sống và lịch sử mở ra cận cảnh hơn.
Thông qua điểm nhìn trần thuật từ NKC dị sự, ngôi thứ ba cũng chính là tác giả hàm ẩn
mà các sự kiện và nhân vật lịch sử đã “trở mình” sống lại trước mắt người đọc hết sức
chân thực và sinh động. Cùng với sự phức hợp, đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật và sự di
chuyển điểm nhìn vào nội tâm nhân vật, một số TTLS thập niên đầu thế kỉ XXI đã đi sâu
khám phá đời sống nội tâm nhân vật, làm cho hình tượng nhân vật hiện lên đầy đặn hơn,
đa chiều hơn. TTLS mười năm đầu thế kỉ đã có sự dịch chuyển về phương thức tự sự theo
hướng hiện đại hóa và đa dạng hóa diễn ngôn trần thuật. Theo đó, các tác phẩm giai đoạn
này có sự kết hợp hài hòa giữa diễn ngôn của NKC và diễn ngôn của nhân vật. Với lời tả,
lời kể và lời bình luận cùng sự hòa trộn giữa ba kiểu lời trong diễn ngôn của NKC, tác
phẩm đã cung cấp cho người đọc toàn bộ bức tranh toàn cảnh về hiện thực đời sống hết
sức sinh động; về chân dung của những con người đã sống và đi vào sử sách. Đặc biệt, 136
việc lựa chọn gia tăng hoặc giảm thiểu dung lượng lớp diễn ngôn tả hoặc bình luận trong
cấu trúc tự sự đã giúp cho NKC thực hiện kĩ thuật tăng tốc hoặc giảm tốc tốc độ trần
thuật. NKC tạo dựng nhịp độ kể, tả, bình luận thông qua những hoạt cảnh, lược thuật, tỉnh
lược, đoạn ngưng khi tập trung mô tả cảnh vật thiên nhiên, đời sống sinh hoạt văn hóa, trữ
tình ngoại đề, những dòng độc thoại nội tâm và dòng ý thức của nhân vật hoặc những
đoạn bình luận về sự kiện, biến cố thời đại, những quan niệm về lịch sử, nhân sinh và con
người… đã tạo ra nhịp điệu linh hoạt trong tác phẩm. Sự tương quan giữa diễn ngôn của
NKC và diễn ngôn đối thoại của nhân vật đã làm nên những nét độc đáo trong diễn ngôn
của tác phẩm. Thông qua diễn ngôn độc thoại và sự tự ý thức của nhân vật, nhà văn đã
giúp người đọc đi sâu khám phá con người tâm lý, khám phá bản thể của nhân vật trong
hành trình của cuộc sống. Từ đó, người đọc như vừa được sống lại không khí lịch sử xa
xưa, vừa thấy gần gũi, thân quen như chính cuộc sống hiện đại.
137
KẾT LUẬN
1. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ sau đổi mới, đặc biệt giai đoạn đầu thế kỉ XXI thực
sự có sự thay đổi một cách toàn diện trên bước đường tìm kiếm và thử nghiệm những
hình thức nghệ thuật mới lạ, tạo nên diện mạo mới cho thể loại. Do đó, nhận diện những
đặc trưng nghệ thuật của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI, chúng tôi
đã chỉ ra sự vận động về quan niệm thể loại: từ truyền thống “trung thành với lịch sử” đến
hiện đại “đối thoại, luận giải, nhận thức lại lịch sử”. Có thể nói, mặc dù còn có hạn chế,
song tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này thực sự đã tạo nên sự đa dạng trong phong cách cá
nhân, sự phong phú về đề tài sáng tác, đặc biệt, có sự phong phú trong phương thức thể
hiện và cách tân về bút pháp nghệ thuật. Những thành tựu này là kết quả của quá trình đổi
mới tư duy tiểu thuyết, những quan niệm mới về tư duy sáng tác thể loại: lịch sử được đặt
trong sự đối thoại với hiện tại.
2. So với tiểu thuyết lịch sử trước đây, tiểu thuyết lịch sử mười năm đầu thế kỉ XXI có
những thể nghiệm độc đáo trong việc tổ chức kết cấu và nghệ thuật xử lý những cảm thức
tự sự lịch sử. Nếu trước đây (đặc biệt trước 1986), các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử
thường tổ chức tác phẩm theo lối kết cấu truyền thống như kết cấu theo lối chương hồi và
kết cấu “khung” truyện kể theo lối tuyến tính thì đến giai đoạn này, các tác gia tiểu thuyết
lịch sử đã có ý thức tìm tòi, sáng tạo nghệ thuật kết cấu trên cơ sở kết hợp giữa truyền
thống và hiện đại. Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này, ghi nhận những thành công đáng kể
của kiểu kết cấu chương hồi truyền thống trên tinh thần đổi mới hình thức thể hiện. Đặc
biệt, kiểu kết cấu lắp ghép, đồng hiện, đa tầng bậc được sử dụng đã mang lại những hiệu
quả nhất định trong việc gia tăng tính đối thoại, luận giải lịch sử. Bên cạnh đó, tiểu thuyết
lịch sử giai đoạn này đã mở rộng biên độ sáng tạo. Lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử đương
đại không đơn thuần chỉ được chiêm bái, ngưỡng vọng, đề cao một chiều nữa mà lịch sử
được đưa raluận giải, đối thoại cùng hiện tại. Lịch sử được mở rộng trường độ tối đa sang
địa hạt của nhiều vấn đề nhân sinh thế sự như văn hóa, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín
ngưỡng,… Sự xâm nhập của các thể loại như truyện ngắn, thơ, kịch,… vào trong tiểu
thuyết lịch sử thực sự làm mới thể loại. Đó là sự tương tác đồng đại diễn ra theo hình thức
tiếp sức thể loại khiến cho tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này trở nên sinh động, đa chiều,
tạo nên nhiều tín hiệu mới của thể loại. Sự mở rộng biên độ sáng tạo của thể loại là sự mở
rộng chiều kích trong việc phản ánh hiện thực lịch sử và con người quá khứ.
138
3. Quan niệm về sáng tác thể loại thay đổi đã thúc đẩy các nhà văn thể hiện vấn đề
nhân vật một cách toàn diện và sâu sắc hơn. Nhà văn đã có cái nhìn đa dạng hơn, đầy đủ
hơn về hiện thực cuộc sống. Từ sự thay đổi về tư duy nghệ thuật, các nhà văn đã tìm ra
cách thức mới trong việc khám phá đời sống và con người ở góc độ cá nhân trong tính
toàn vẹn và tổng thể của nó. Nhân vật thực sự được nhìn nhận đa chiều, phức hợp, xen lẫn
cao cả và thấp hèn, tốt đẹp lẫn xấu xa,… Nhân vật được đặt trong nhiều mối quan hệ với
đời thực, mang nhiều màu sắc, dáng vẻ khác nhau. Có thể thấy, sự dịch chuyển từ cái nhìn
con người lịch sử sang con người cá nhân đã giúp các nhà văn khám phá con người dưới
nhiều góc độ khác nhau, vượt thoát khỏi cách nhìn truyền thống về con người đơn tuyến.
Quan niệm nghệ thuật về con người thay đổi, cho phép nhà văn khám phá con người phức
hợp, đa bình diện với nhiều khuôn mặt khác nhau, đa dạng hơn, phong phú hơn: con
người sử thi hóa, con người huyền thoại hóa, con người thế tục hóa. Các kiểu nhân vật này
luôn được đan cài và chuyển hóa lẫn nhau, tạo nên tính phức hợp của nhân vật.
4. Sự thay đổi tư duy nghệ thuật đã dẫn đến những đổi mới trong hệ hình tư duy tự sự
trên nguyên tắc luận giải và đối thoại của văn học đương đại. Các nhà văn đã tìm cách
thoát khỏi mô hình tự sự truyền thống trên tinh thần cách tân hình thức kể chuyện. Trên
cơ sở đó, một số nhà văn đã thay thế hình thức kể chuyện ngôi thứ ba truyền thống bằng
hình thức kể chuyện ngôi thứ nhất, thậm chí Bùi Anh Tấn còn thử nghiệm sử dụng hình
thức tự sự đa chủ thể trong Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, tạo nên sự độc đáo, mới
lạ và hấp dẫn người đọc đương đại. Bên cạnh đó, điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết
lịch sử giai đoạn này không thuần nhất mà đã có sự dịch chuyển linh hoạt tạo nên sự đa
dạng, phức hợp điểm nhìn. Trong đó, điểm nhìn được đặt vào nhân vật tạo nên điểm nhìn
bên trong, nhờ vậy, những vấn đề lịch sử và nhân vật lịch sử được soi chiếu dưới nhiều
góc độ khác nhau.
5. Trong tiểu thuyết lịch sử mười năm đầu thế kỉ XXI, diễn ngôn trần thuật biến ảo
linh hoạt, sự kết hợp hài hòa giữa diễn ngôn của người kể chuyện và diễn ngôn của nhân
vật tạo nên tính đa thanh trong phương thức tự sự của tác phẩm. Với lời tả, lời kể và lời
bình luận cùng sự hòa trộn giữa ba kiểu lời trong diễn ngôn của người kể chuyện, tiểu
thuyết lịch sử đã cung cấp cho người đọc toàn bộ bức tranh toàn cảnh về hiện thực đời
sống hết sức sinh động, về chân dung của những con người đã sống và đi vào sử sách. Sự
tương quan giữa diễn ngôn của người kể chuyện và diễn ngôn đối thoại của nhân vật đã
139
làm nên những nét độc đáo trong diễn ngôn của tác phẩm. Thông qua diễn ngôn độc thoại
và sự tự ý thức của nhân vật, các nhà văn đã giúp người đọc đi sâu khám phá con người
tâm lý, khám phá bản thể của nhân vật trong hành trình của cuộc sống.
6. Từ góc nhìn loại hình thể loại, luận án đã góp phần chỉ ra những đặc trưng của tiểu
thuyết lịch sử giai đoạn đầu thế kỉ XXI trên nhiều phương diện, song bên cạnh những
thành công TTLS giai đoạn này vẫn còn nhiều hạn chế. Một số tác phẩm mang hình thức
đại tự sự với dung lượng quá lớn như Mười hai sứ quân, Hào kiệt Lam Sơn của Vũ Ngọc
Đĩnh, Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải, Anh hùng Đông A dựng cờ Bình Mông, Nam
quốc sơn hà của Trần Đại Sỹ… tạo nên cảm giác nhàm chán, khi các tác giả dàn trải quá nhiều
sự kiện, nhân vật hư cấu không cần thiết, không mang lại hiệu quả nghệ thuật cao, bên cạnh đó,
tính giáo huấn cao, tập trung và trở đi trở lại nhiều lần trong cấu trúc tác phẩm, gây cảm giác
nặng nề, mệt mỏi cho độc giả. Một số nhà văn hư cấu nhân vật quá mức, lệch chuẩn quá nhiều
so với cái nhìn nhân văn trong tâm thức dân tộc như nhân vật Nguyễn Thị Lộ trong Nguyễn Thị
Lộ của Hà Văn Thùy, nhân vật Nguyễn Trãi, Lê Lợi trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân, vì
thế, ít nhiều gây sốc cho độc giả. Thể nghiệm mới trong việc đa dạng hóa đề tài sáng tác là lựa
chọn của Bùi Anh Tấn, tuy nhiên với Bí mật hậu cung, dường như tác giả tập trung phần lớn
dung lượng tác phẩm khai thác tình yêu đồng tính của nhân vật Gia Tân mà ít chú ý đến nhiều
vấn đề trong lịch sử, những trang phân tích, đối thoại thật sự chưa mang lại hiệu quả thuyết
phục cho người đọc.
7. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại vẫn đang tiếp diễn và đạt được nhiều
thành tựu đáng kể hơn nữa. Trong giới hạn của đề tài, luận án đã chỉ ra một số đặc trưng
cơ bản của thể loại trong một giai đoạn tương đối ổn định. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều
phương diện quan trọng khác mà luận án chưa tiếp cận và lý giải như: phương thức tái tạo
lịch sử, thời gian trần thuật, không gian trần thuật, kết cấu và giọng điệu,… Đồng thời,
trong quá trình nhận diện, phân tích, lý giải những đặc trưng nghệ thuật của thể loại trong
giai đoạn thập niên đầu thế kỉ XXI, luận án có so sánh với đặc trưng của tiểu thuyết lịch
sử giai đoạn trước đó nhưng vẫn chưa đặt chúng trong thế đối sánh cụ thể, sinh động bằng
các bảng số liệu, thống kê cụ thể. Thiết nghĩ, tất cả những vấn đề trên sẽ tạo điều kiện cho
chúng tôi trở lại nghiên cứu thể loại này trong những công trình tiếp theo.
140
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
I. Bài báo
1. Lê Thị Thu Trang (2011), “Hình tượng người kể chuyện trong Tám triều vua Lý của
Hoàng Quốc Hải”, Thông tin khoa học, Số 02 (12/2011), Trường Đại học Đồng Tháp.
2. Lê Thị Thu Trang (2011), “Chức năng của người kể chuyện trong Tám triều vua Lý
của Hoàng Quốc Hải”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Số 04 (20)/2011, Trường Đại học
Sư phạm Huế.
3. Lê Thị Thu Trang (2013), “Yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết lịch sử Giàn thiêu
của Võ Thị Hảo”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Yếu tố kỳ ảo và huyền thoại trong văn học,
Trường Đại học Khoa học Huế.
4. Lê Thị Thu Trang (2013), “Diễn ngôn lịch sử trong Tám triều vua Lý của Hoàng
Quốc Hải”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Trẻ lần thứ VIII, Trường Đại học Khoa học Huế.
5. Lê Thị Thu Trang (2014), “Cảm thức đồng giới trong Bí mật hậu cung của Bùi Anh
Tấn”, Hội thảo khoa học Phân tâm học và Văn học, Nxb Đại học Huế.
6. Lê Thị Thu Trang (2016), “Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
thập niên đầu thế kỉ XXI”, Tạp chí Đại học Sài Gòn, Số 17 (42), 6/2016, Trường Đại học
Sài Gòn.
7. Lê Thị Thu Trang (2016), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam hiện đại với một số thể tài
gần gũi – từ cái nhìn so sánh”, Tạp chí Khoa học, tập 122, Số 08/2016, Đại học Huế.
8. Lê Thị Thu Trang (2016), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại – nhìn chung về
thành tựu”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Số 21 (08/2016), Trường Đại học Đồng Tháp.
9. Lê Thị Thu Trang (2016), “Đổi mới tư duy thể loại trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
thập niên đầu thế kỉ XXI”, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Văn học Việt Nam trong xu hướng
toàn cầu hóa”, Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng.
10. Lê Thị Thu Trang (2017), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI –
nhìn từ xu hướng tương tác thể loại”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Số 03/2017, Trường
Đại học Khoa học Huế.
II. Đề tài nghiên cứu khoa học
1. Lê Thị Thu Trang (2011), Một số phương diện trần thuật trong Tám triều vua
Lý của Hoàng Quốc Hải, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Trường ĐH Đồng Tháp.
141
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thu An (2012), “Tiểu thuyết lịch sử: thành tựu và triển vọng”,
http://phebinhvanhoc.com.vn
2. Hoài Anh (2007), Xác và hồn tiểu thuyết, Nxb Văn học, Hà Nội.
3. Phan Tuấn Anh (2012), “Lịch sử như là hư cấu – quan điểm mới về đề tài lịch sử”,
Tạp chí Hội Nhà văn, 18/12/2012.
4. Thái Phan Vàng Anh (2010), “Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương
đại”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (2), tr.96–108.
5. Thái Phan Vàng Anh (2010), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại,
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học Xã hội.
6. Thái Phan Vàng Anh (2013), “Các khuynh hướng tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ
XXI”, http://vannghequandoi.com.vn, 15/05/2003.
7. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
8. Lại Nguyên Ân (2005), “Tiểu thuyết lịch sử (Nhân đọc Giàn thiêu của Võ Thị Hảo)”,
http://phebinhvanhoc.com.vn.
9. Lại Nguyên Ân (2010), “Mặt nạ tác giả” – một gợi ý cho việc tiếp cận một vài hiện
tượng văn học sử Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (2), tr.68-80.
10. F.Badré (2006), Tương lai văn học, Đa Huyên – Nguyễn Thanh Xuân dịch, Nxb Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
11. M.Bakhtin (2004), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch, Nxb Hội Nhà
văn.
12. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo văn bản, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
13. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
14. R.Barthes (1997), Độ không của lối viết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
15. R.Barthes (2008), Những huyền thoại, Phùng Văn Tửu dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội.
16. Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Tuyết Minh (2011), “Cách tân nghệ thuật trong tổ chức lời
văn của văn xuôi đương đại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (8), tr.102-112.
17. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
142
18. Nguyễn Thị Bình (2008), Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời điểm đổi
mới đến nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
19. D.Brewster & J.Burrell (2003), Tiểu thuyết hiện đại, Dương Thanh Bình dịch, Nxb Lao
động, Hà Nội.
20. Hoàng Cát (2000), “Tiểu thuyết Hồ Quý Ly, thưởng thức và cảm nhận”, Tạp chí
Sách, (10).
21. Đỗ Hữu Châu (2007), Giáo trình Ngữ dụng học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
22. Minh Châu và DSC (2010), Hồn sử Việt, các truyền thuyết, giai thoại nổi tiếng, Nxb
Lao động, Hà Nội.
23. Nguyễn Duy Cường (2011), “Diễn ngôn trần thuật khơi mở lịch sử - lý giải số phận
con người”, http://tapchisonghuong.com.vn, 24/6/2011.
24. Nguyễn Việt Cường (2003), “Tiểu thuyết lịch sử – những quan niệm và sự thách thức
với các nhà văn trẻ”, Văn hóa văn nghệ Công an TPHCM, (9), tr.83 – 85.
25. Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng (2000), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
26. Nam Dao và Nguyễn Mộng Giác, “Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử”,
http://nguyenmonggiac.info.
27. Nguyễn Văn Dân (2007), “Con đường phát triển của kĩ thuật tiểu thuyết hiện đại”,
Tạp chí Sông Hương, (220), tr. 70–74.
28. Nguyễn Văn Dân (2010), “Sức sống dai dẳng của kĩ thuật “dòng chảy ý thức”, Tạp
chí Nghiên cứu văn học, (8).
29. Nguyễn Văn Dân (2012), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - phác họa một số
xu hướng chủ yếu”, Tạp chí Nhà văn, (1), tr.56-67.
30. Nam Dao (2002), “Về tiểu thuyết lịch sử”, http://vanmagazine.saigonline.com,
31/3/2002.
31. Chu Xuân Diên (2006), “Nguyễn Xuân Khánh và cuộc giành lại bản sắc văn hóa dân
tộc”, Báo Tuổi trẻ, 16/7/2006
32. Chu Xuân Diên (2009), Để góp phần nghiên cứu huyền thoại và thi pháp huyền thoại
trong sáng tác văn học, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, 17/4/2009.
33. Đinh Trí Dũng và Hoàng Vĩnh Thắng (2011), “Truyện ngắn về đề tài lịch sử trong
văn học Việt Nam từ 1986 đến nay”, http://vanvn.net.
143
34. Đoàn Ánh Dương (2010), “Tự sự hậu thực dân: lịch sử và huyền thoại trong Mẫu Thượng
Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (9), tr.107–121.
35. Lê Văn Dương (2011), “Vấn đề thể loại và nghệ thuật xây dựng nhân vật qua một số tiểu
thuyết lịch sử sau 1985 về phong trào Tây Sơn”, http://vanhoanghean.com.vn.
36. Đặng Anh Đào (2006), “Vai trò của cái kì ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (8), tr.18 – 23.
37. Khai Đăng (2009), Tản mạn về tín ngưỡng và phong tục tập quán của người Việt,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
38. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
39. Phan Cự Đệ (2006), Tuyển tập Phan Cự Đệ, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Nguyễn Đăng Điệp (chủ biên) (2012), Lịch sử và văn hóa, cái nhìn nghệ thuật Nguyễn
Xuân Khánh, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
41. Trung Trung Đỉnh (2001), “Về nghệ thuật viết tiểu thuyết”, Báo Văn nghệ, (38).
42. Lê Quý Đôn (2012), Đại Việt thông sử (quyển 1 và quyển 2), Ngô Thế Long dịch, Nxb
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh và Nxb Hồng Bàng, Gia Lai.
43. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
44. S.Freud (2004), Nhập môn phân tâm học, Nguyễn Xuân Hiến dịch, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
45. Hoàng Cẩm Giang (2010), “Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ
XXI”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (4), tr.90 - 104.
46. Vũ Thanh Hà (2012), “Từ điểm nhìn sử gia đến điểm nhìn tác giả tiểu thuyết chương
hồi chữ Hán Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (8), tr. 88 - 96.
47. Lê Thị Diệu Hà (2012), “Phân biệt truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử – Một
góc nhìn”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (7), tr.94-102.
48. Đinh Hồng Hải (2012), Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt
Nam, Nxb Tri thức, Hà Nội.
49. Hoàng Quốc Hải (2004), “Lịch sử phải là những bài học soi sáng cho đương đại”,
Báo Sài Gòn giải phóng, 2/10/2004.
50. Dương Quảng Hàm (2005), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Trẻ, Hà Nội.
144
51. Lê Bá Hán (chủ biên) (2001), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
52. Uyên Hạnh (2011), “Đọc tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Thị Lộ của Hà Văn Thùy”,
http://khoahocnet.com , 27/8/2011.
53. Phạm Ngọc Hiền (2012), Tiểu thuyết Việt Nam 1945 – 1975, Nxb Văn học, Hà Nội.
54. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển văn
học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
55. Đỗ Văn Hiểu (2012), “Ba góc độ mới của phân tích diễn ngôn”,
http://dovanhieu.wordpress.com, 15/7/2012.
56. Nguyễn Hòa (2003), Phân tích diễn ngôn, một số vấn đề lý luận và phương pháp,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
57. Cao Hồng (2011), Một chặng đường đổi mới Lý luận văn học Việt Nam (1986 –
2011), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
58. Hoàng Thị Huế (2012), “Một số biểu tượng mang tâm thức Mẫu trong Đội gạo lên
chùa của Nguyễn Xuân Khánh”, http://vietvan.vn, 10/2012.
59. Phan Mạnh Hùng (2012), “Tiểu thuyết trần thuật ngôi thứ nhất ở Nam Bộ từ 1887-
1932”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (8), tr.62 - 78.
60. Nguyễn Văn Hùng (2011), “Hình tượng nhân vật Lê Lợi trong tiểu thuyết lịch sử Hội
thề của Nguyễn Quang Thân”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Số (1) (84).
61. Nguyễn Văn Hùng (2012), “Khuynh hướng “ngoại biên hóa” trong tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam sau 1986 (Trường hợp Bùi Anh Tấn)”, http://vanhoanghean.vn,
11/12/2012.
62. Nguyễn Văn Hùng (2013), “Mã lịch sử và mã văn hóa trong tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam sau 1986”, http://vannghequandoi.com.vn, 23/11/2013.
63. Nguyễn Văn Hùng (2013), “Phương thức lựa chọn và thể hiện hiện thực lịch sử trong
tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh”, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh, (44), tr.158 – 168.
64. Nguyễn Văn Hùng (2013), “Truyện ngắn về đề tài lịch sử từ đầu thế kỉ XX đến nay –
đôi nét phác thảo”, http://vannghequandoi.com.vn, 18/4/2013.
145
65. Nguyễn Văn Hùng (2014), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 từ góc nhìn tự sự
học, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học xã hội.
66. Nguyễn Văn Hùng (2016), “Nhân vật lịch sử và những biên độ sáng tạo sau đổi mới”,
Tạp chí Văn nghệ quân đội, 19/8/2016.
67. Nguyễn Thị Thu Hương (2010), “Vấn đề xây dựng nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết
Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh”, http://vannghedanang.org.vn, 02/2010.
68. M.Jahn (2005), Trần thuật học, Nhập môn lý thuyết trần thuật, Nguyễn Thị Như
Trang dịch, Tài liệu lưu hành nội bộ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
69. Phùng Văn Khai (2010), “Tám triều vua Lý – Bão táp triều Trần hai Bộ tiểu thuyết lịch
sử đầy giá trị của nhà văn Hoàng Quốc Hải”, http://vannghequandoi.com.vn, 17/9/2010.
70. Nguyễn Xuân Khánh (2012), “Vài suy nghĩ về tiểu thuyết lịch sử”, htpp://vanvn.net,
23/09/2012.
71. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (2004), Việt Nam kho tàng dã sử, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
72. Phùng Ngọc Kiếm (2000), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
73. G.K.Kosikov (2013), “Văn bản – Liên văn bản – Lý thuyết liên văn bản”, Lã Nguyên
dịch, http://www.hcmup.edu.vn , 5/7/2013.
74. M.Kundera (2001), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Văn hóa Thông
tin, Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây.
75. Cao Kim Lan (2009), “Mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả”, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, (8), tr.65 – 77.
76. Trịnh Thị Lan (2011), “Ngôn ngữ thân thể trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của
Nguyễn Xuân Khánh”, http://vanhoanghean.com.vn, 18/5/2012.
77. Huy Liên (2005), “Từ đối thoại tiểu thuyết của Bakhtin đến phê bình đối thoại của
Todorov”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, Số (1).
78. Ngô Sĩ Liên (2009), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
79. Nguyễn Trường Lịch (1996), “Thi pháp tự sự và mối quan hệ giữa lịch sử với hư cấu
trong tiểu thuyết L.Tonxtoi”, Tạp chí Văn học, (10).
146
80. Phan Trọng Hoàng Linh (2012), “Ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Hội thề
của Nguyễn Quang Thân”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (4), tr. 141 – 150.
81. Nguyễn Văn Long (2009), Văn học Việt Nam sau 1975 và việc giảng dạy trong nhà
trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
82. Nguyễn Văn Long – Lê Thị Thu Hằng (2012), “Những cách tân nghệ thuật của tiểu
thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI”, http://vannghequandoi.com.vn, 23/10/2012.
83. Bùi Văn Lợi (1998), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945 (Diện
mạo và đặc điểm), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
84. Iu.M.Lotman (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá
Đỉnh, Nguyễn Thu Thủy dịch, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
85. Phương Lựu (2006), Lý luận Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
86. Hoàng Tố Mai (2008), “Người kể chuyện và giọng điệu kể chuyện trong loạt truyện Rối
loạn tâm thần của Edgar Allen Poe”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (12), tr. 75 - 85.
87. Meletinsky (2004), Thi pháp của huyền thoại, Trần Nho Thìn - Song Mộc dịch, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
88. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2008), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay, Luận
án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học.
89. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2009), “Khuynh hướng tiểu thuyết hóa lịch sử trong tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (4), tr.56 – 64.
90. Hoài Nam (2008), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam: truyện kể hay tiểu thuyết?”,
http://vietnamnet.vn, 17/10/2008.
91. Hoài Nam (2005), “Giàn thiêu – một nghệ thuật làm tan khối băng lịch sử”, Báo
Người Đại biểu Nhân dân, 2005.
92. Hoài Nam (2008), “Bàn về tiểu thuyết lịch sử”, Văn nghệ, (45), tr.12.
93. Lê Thành Nghị (2012), “Tinh thần của lịch sử trong văn học nghệ thuật”,
http://vannghequandoi.com.vn, 27/12/2012.
94. Hồ Ngọc (1977), Xây dựng cốt truyện kịch, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
95. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
96. Bình Nguyên (2015), “Vấn đề hư cấu và giải thiêng trong tiểu thuyết lịch sử”, Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, 13/10/2015.
147
97. Lã Nguyên (2012), “Văn học Việt Nam trong bước ngoặt chuyển mình”,
htpp://vienvanhoc.wass.gov.vn.
98. Phạm Xuân Nguyên (1991), “Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết”, Tạp chí Văn học,
(2), tr.69 – 73.
99. Trương Thị Nhàn (2012), “Một số vấn đề ngôn ngữ văn chương từ góc nhìn tín hiệu
thẩm mĩ”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (4), tr. 17 – 33.
100. Trần Thị Mai Nhân (2007), “Nhân vật đa diện trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn
1986 – 2000”, Tạp chí Nhà văn, (2), tr.63 – 70.
101. Trần Thị Mai Nhân (2009), “Tìm hiểu phương thức “huyền thoại hóa” trong một số
tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn,
27/2/2009.
102. Đỗ Hải Ninh (2012), “Ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại”,
http://tapchinhavan.com.vn, 28/3/2012.
103. Đỗ Hải Ninh (2012), “Những tranh luận về văn xuôi hư cấu lịch sử và sự chuyển
biến của tư duy”, http://vannghequandoi.com.vn, 28/03/2012.
104. Mai Hải Oanh (2007), “Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trong tiểu thuyết Việt Nam
thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (10), tr.112 – 124.
105. A.Poxxe (2003), “Văn học là những mối quan hệ bí mật”, Báo văn nghệ, (44), tr.14.
106. Nguyễn Thị Hải Phương (2012), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại – Nhìn từ góc độ
diễn ngôn, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
107. Trần Huyền Sâm (2010), Những vấn đề lý luận văn học Phương Tây hiện đại (Tự sự
học kinh điển), Nxb Văn học, Hà Nội.
108. Trần Huyền Sâm (2010), “Hình tượng người mẹ - Một biểu tượng của văn hóa dân
tộc Việt Nam”, http://tapchivanhoc.com.vn, 08/03/2010.
109. Đặng Văn Sinh (2011), “Vương triều Lí dưới góc nhìn của tiểu thuyết gia Hoàng
Quốc Hải”, Tạp chí Nhà văn, (8), tr.76-85.
110. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
111. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập Trần Đình Sử, tập 1,2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
112. Trần Đình Sử (2014), Trên đường biên của lý luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
113. Trần Đình Sử (2016), “Về tiểu thuyết lịch sử”, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, 28/8/2016.
148
114. Phạm Xuân Thạch (2004), “Quá trình cá nhân hóa hư cấu (Tự sự đương đại Việt nam về đề tài lịch sử giữa truyền thống và hiện đại)”, Hội thảo quốc tế về Việt Nam học lần thứ II, Thành phố Hồ Chí Minh.
115. Phạm Xuân Thạch (2012), “Nguyễn Xuân Khánh - Từ cấu trúc nghệ thuật đến cấu trúc tư tưởng”, http://phebinhvanhoc.com.vn, 17/12/2012
116. Hải Thanh (2012), “Bàn về tiểu thuyết lịch sử”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 02/10/2012.
117. Nguyễn Thành (2012), “Khuynh hướng lạ hóa trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại – Một số bình diện tiêu biểu”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (4), tr. 5 – 15.
118. Nguyễn Thành, Hồ Thế Hà, Nguyễn Hồng Dũng (chủ biên) (2013), Văn học hậu hiện đại – Diễn giải và tiếp nhận, Nxb Văn học, Hà Nội.
119. Nguyễn Thành Thi (2005), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Nxb khoa học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.
120. Nguyễn Thành Thi (2013), ““Lược đồ” văn học quốc ngữ Việt Nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác thể loại”, Báo cáo tham luận tại Hội thảo EuroViet, Hamburg, tháng 6/2007, http://www.hcmup.edu.vn, 16/4/2013.
121. Trần Viết Thiện (2012), Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ năm 1986 đến nay, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh.
122. Ngô Đức Thịnh (2012), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
123. Bích Thu (2006), “Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (11), tr. 15 – 28.
124. Lý Hoài Thu (2006), “Lưu Quang Vũ và chặng đường kịch Việt Nam cuối thế kỉ XX”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (8), tr.87 – 97.
125. Nguyễn Khắc Thuần (2008), Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam (5 tập), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
126. Đỗ Lai Thúy (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.127. Hoàng Tiến (1999), “Đọc tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải”, Văn nghệ, (2), tr.4.128. Nguyễn Thị Kim Tiến (2012), “Bi kịch của người nghệ sĩ trong tiểu thuyết Đàn đáy của
Trần Thu Hằng”, Tạp chí Khoa học, Đại học Đồng Tháp, Số 01, tr.40 - 47.129. Nguyễn Thị Kim Tiến (2012), Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới,
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.130. Trần Mạnh Tiến (2011), “Tiểu thuyết lịch sử và người đầu tiên mở hướng cách tân”,
http://vanhoanghean.vn, 24/02/2011.149
131. Tz.Todorov (2008), Nguyên lí đối thoại, Đào Ngọc Chương dịch, Nxb Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
132. Lê Phong Tuyết (2005), “Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần thuật”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (8), 75 – 89.
133. Lý Hoàn Thục Trâm (2009), “Văn học kịch Việt Nam với đề tài lịch sử”, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, 27/2/2009.
134. Kim Trần (2012), “Thể loại diễn ca lịch sử và sự giao lưu hai dòng văn học ở tác phẩm Thiên nam ngữ lục”, http://forum.motsach.info, 01/01/2012.
135. Võ Gia Trị (2008), “Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải và thủ đô sắp nghìn năm tuổi”, Tạp chí Nhà văn, (10), tr.51–57.
136. Bùi Thanh Truyền (2006), Yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học.
137. Mai Anh Tuấn (2011), “Tiểu thuyết như một tham khảo Phật giáo”, Tạp chí Nhà văn, (8), tr.94 - 97.
138. Nguyễn Văn Tùng (2009), Lý luận tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
139. Nguyễn Văn Tùng (Tuyển chọn và biên soạn) (2008), Tuyển tập các bài viết về tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục Việt Nam.
140. Tiền Trung Văn (2006), “Những vấn đề lý thuyết của M.Bakhtin về tính phức điệu”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (6), tr. 35 – 48.
141. Thái Vũ (2001), “Tiểu thuyết lịch sử trong dòng văn hóa dân tộc”, Tạp chí Sông Hương, (6), tr.63–65.
142. Trần Vũ (2003), “Lịch sử trong tiểu thuyết, một tùy tiện ý thức”, http://hopluu.com 143. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2009), “Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam”,
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, 22/01/2009.144. R.Wellek và A.Warren (2009), Lý luận văn học, Nguyễn Mạnh Cường dịch, Nxb
Văn học, Hà Nội.
150