Upload
others
View
4
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRẦN XUÂN HIỆP
QUAN HỆ CAMPUCHIA - VIỆT NAM
(1993 - 2010)
Chuyên ngành : LỊCH SỬ THẾ GIỚI
Mã số : 62 22 03 11
Cán bộ hướng dẫn: PGS.TS Hoàng Thị Minh Hoa
PGS.TS Hoàng Văn Hiển
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HUẾ, NĂM 2013
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực, được các đồng
tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ một
công trình nào khác.
Huế, tháng 12 năm 2013
Tác giả luận án
iii
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu nặng tới PGS.TS
Hoàng Thị Minh Hoa và PGS.TS Hoàng Văn Hiển. Người Cô và người Thầy không
chỉ trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ và sẻ chia cùng tôi mọi khó khăn trong thời gian học
tập, mà còn là chỗ dựa tinh thần quan trọng để tôi có thể hoàn thành bản luận án này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới quý Thầy Cô giáo của Khoa Lịch sử
trường Đại học Khoa học và Đại học Sư phạm - Đại học Huế đã dành sự quan tâm
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng và có những ý kiến quý báu cho tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu và viết luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Phòng Đào tạo Sau đại học trường Đại học Khoa
học, Ban Đào tạo Sau đại học - Đại học Huế, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Thông
tấn xã Việt Nam, Học viện Ngoại giao, Đại học Sư phạm I Hà Nội… Đặc biệt, tôi
xin được dành lời cảm ơn chân thành tới các Phòng ban, các Vụ trực thuộc các Bộ
ngành Trung ương đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho tôi có thể tiếp cận và tham
khảo những tài liệu quý giúp tôi viết luận án tốt hơn.
Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu nặng tới Gia Đình cùng những người
thân, đặc biệt là Cha và Mẹ của tôi đã luôn động viên, ân cần và chăm lo để tôi có
được ngày hôm nay.
Huế, tháng 12 năm 2013
Tác giả luận án
Trần Xuân Hiệp
iv
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ................................................................................................................. i
Lời cam đoan ................................................................................................................ ii
Lời cảm ơn .................................................................................................................. iii
Mục lục ........................................................................................................................ iv
Những chữ viết tắt trong luận án .................................................................................. v
Danh mục bảng ............................................................................................................ vi
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................... 3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 12
4. Phạm vi nghiên cứu và nguồn tư liệu .................................................................. 13
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................................. 14
6. Đóng góp của đề tài ............................................................................................. 14
7. Bố cục luận án ..................................................................................................... 15
Chương 1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI QUAN HỆ CAMPUCHIA -
VIỆT NAM (1993 - 2010) ......................................................................................... 16
1.1. Nhân tố lịch sử, văn hóa và địa chiến lược ...................................................... 16
1.1.1. Khái quát quan hệ Campuchia - Việt Nam trước năm 1993 ..................... 16
1.1.2. Nhân tố địa văn hóa và địa chiến lược ...................................................... 25
1.2. Bối cảnh quốc tế và khu vực ............................................................................ 35
1.3. Nhu cầu và chính sách đối ngoại của Campuchia và Việt Nam ...................... 39
1.3.1. Nhu cầu hợp tác của hai nước ................................................................... 39
1.3.2. Chính sách đối ngoại của Campuchia ....................................................... 42
1.3.3. Chính sách đối ngoại của Việt Nam .......................................................... 47
Chương 2. QUAN HỆ CAMPUCHIA - VIỆT NAM TRÊN CÁC LĨNH VỰC
(1993 - 2010) ............................................................................................................... 53
2.1. Trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao ................................................................... 53
2.2. Trên lĩnh vực an ninh ....................................................................................... 63
v
2.2.1. Vấn đề biên giới lãnh thổ .......................................................................... 63
2.2.2. Hợp tác đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống .............. 71
2.3. Vấn đề người Việt tại Campuchia .................................................................... 76
2.4. Trên lĩnh vực kinh tế ........................................................................................ 81
2.4.1. Quan hệ thương mại .................................................................................. 81
2.4.2. Hợp tác đầu tư ........................................................................................... 93
2.4.3. Hợp tác giao thông vận tải ....................................................................... 108
2.5. Trên một số lĩnh vực khác .............................................................................. 117
2.5.1. Hợp tác về giáo dục và đào tạo ............................................................... 117
2.5.2. Hợp tác về du lịch .................................................................................... 125
2.5.3. Hợp tác về y tế ......................................................................................... 135
2.6. Trong khuôn khổ hợp tác đa phương ............................................................. 143
2.6.1. Trong tổ chức ASEAN ............................................................................ 143
2.6.2. Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực Tam giác Việt Nam -
Lào - Campuchia .............................................................................................. 150
2.6.3. Trong sự phát triển Tiểu vùng sông Mekong .......................................... 160
Chương 3. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ QUAN HỆ CAMPUCHIA - VIỆT NAM
(1993 - 2010) ............................................................................................................... 168
3.1. Tổng quan về thành tựu và hạn chế trong quan hệ hai nước ......................... 168
3.2. Một vài đặc điểm trong quan hệ Campuchia - Việt Nam giai đoạn 1993 - 2010 ...... 172
3.3. Những tác động của quan hệ Campuchia - Việt Nam đến chủ thể hai nước và
khu vực .................................................................................................................. 176
3.3.1. Đối với Campuchia .................................................................................. 176
3.3.2 Đối với Việt Nam ..................................................................................... 182
3.3.3 Đối với khu vực ........................................................................................ 187
3.4. Triển vọng của quan hệ Campuchia - Việt Nam ............................................ 191
3.4.1. Những thuận lợi ....................................................................................... 191
3.4.2 Những khó khăn, thách thức ................................................................... 198
3.4.3. Dự báo triển vọng quan hệ ...................................................................... 200
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 207
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 211
PHỤ LỤC
vi
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Chữ viết tắt tiếng Anh
ACMECS
Ayeyarwady - Chao Praya - Mekong Economic Cooperation Strategy:
Tổ chức Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyarwady - Chao Phraya -
Mekong
ADB Asian Development Bank: Ngân hàng phát triển châu Á
AFTA ASEAN Free Trade Area: Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á
ASEAN
AIA ASEAN Investment Area: Khu vực đầu tư ASEAN
APEC Asia Pacific Economic Cooperation: Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương
ARF ASEAN Regional Forum: Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN
ACMECS
Ayeyarwady - Chao Praya - Mekong Economic Cooperation Strategy:
Tổ chức Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyarwady - Chao Phraya -
Mekong
ADB Asian Development Bank: Ngân hàng phát triển châu Á
AFTA ASEAN Free Trade Area: Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á
ASEAN
AIA ASEAN Investment Area: Khu vực đầu tư ASEAN
APEC Asia Pacific Economic Cooperation: Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương
ARF ASEAN Regional Forum: Diễn đàn khu vực ASEAN
ASEAN Association of Southeast Asian Nations: Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
ASEM The Asia-Europe Meeting: Diễn đàn hợp tác Á - Âu
BRICS Nhóm các nước Barazin - Nga - Ấn Độ - Trung Quốc - Nam Phi
CDC The Council for Development of Cambodia: Hội đồng Phát triển
Campuchia
CEPT Common Effective Preferential Tariff: Chương trình ưu đãi thuế quan
có hiệu lực chung
vii
CIB Cambodian Investment Board: Ủy ban Đầu tư Campuchia
CLVM Cambodia - Laos - Myanmar - Vietnam Summit: Hợp tác Campuchia -
Lào - Myanmar - Việt Nam
CNRP Đảng Cứu quốc Campuchia
CPP Cambodia People’s Party: Đảng Nhân dân Campuchia
FUNCINPEC Đảng Mặt trận thống nhất dân tộc vì một nước Campuchia Độc lập,
Trung lập, Hòa bình và Thống nhất
GDP Gross Domestic Product: Tổng sản phẩm quốc nội
GMS Greater Mekong Subregion: Hợp tác tiểu vùng sông Mekong mở rộng
NAFTA The North American Free Trade Agreement: Hiệp định thương mại tự
do Bắc Mỹ
NAM Non-Aligned Movement: Phong trào Không liên kết
UN United Nations: Liên Hợp Quốc
UNTAC United Nations Transitional Authority in Cambodia: Cơ quan quyền
lực lâm thời Liên Hợp Quốc ở Campuchia.
USD United States dollar: Đồng đô la Mỹ
WTO World Trade Organization: Tổ chức Thương mại thế giới
Chữ viết tắt tiếng Việt
CA-TBD Châu Á - Thái Bình Dương
CHDCND Cộng hòa dân chủ nhân dân
CHND Cộng hòa nhân dân
CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CNH - HĐH Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
ĐBTQ Đại biểu toàn quốc
LHS Lưu học sinh
NDCM Nhân dân cách mạng
TBCN Tư bản chủ nghĩa
XHCN Xã hội chủ nghĩa
viii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Xuất khẩu của Campuchia ............................................................................. 30
Bảng 2.1. Tổng hợp kết quả hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam qua biên giới
với Campuchia giai đoạn 1993 - 2000 ........................................................................ 86
Bảng 2.2. Thống kê kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương
mại hàng hóa giữa Việt Nam và Campuchia giai đoạn 2006 - 2010 .......................... 88
Bảng 2.3. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Campuchia (2000 - 2006) ... 91
Bảng 2.4. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Campuchia (2000 - 2006) ...... 92
Bảng 2.5. Xuất khẩu của Campuchia .......................................................................... 93
Bảng 2.6. Nhập khẩu của Campuchia ......................................................................... 93
Bảng 2.7. Đầu tư của Việt Nam sang Campuchia tính đến năm 2010 ....................... 95
Bảng 2.8. Đầu tư của Việt Nam sang Campuchia tính đến 23/2/2011 theo lĩnh vực ...... 99
Bảng 2.9. Đầu tư trực tiếp của Campuchia vào Việt Nam tính đến 14/3/2011
phân theo ngành ....................................................................................................... 104
Bảng 2.10. Đầu tư trực tiếp của Campuchia vào Việt Nam tính đến 14/3/2011
phân theo hình thức.................................................................................................. 105
Bảng 2.11. Đầu tư trực tiếp của Campuchia vào Việt Nam tính đến 14/3/2011
phân theo địa phương .............................................................................................. 105
Bảng 2.12. Thống kê số lượng lưu học sinh Campuchia giai đoạn 1980 - 1992 ...... 118
Bảng 2.13. Học bổng đào tạo lưu học sinh Campuchia ............................................ 120
Bảng 2.14. Thống kê lưu học sinh Campuchia giai đoạn 1994 - 2003 ..................... 121
Bảng 2.15. Tổng lượng khách trong năm của Campuchia - Việt Nam (2003 - 2007) ....... 127
Bảng 2.16. Lượng khách từ các nước ASEAN sang Campuchia ............................. 134
Bảng 2.17. Lượng khách từ các nước ASEAN sang Việt Nam ................................ 134
Bảng 2.18. Lưu học sinh Campuchia đào tạo tại Trường Đại học Y Thái Bình ...... 141
Bảng 3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Campuchia giai đoạn 1995 - 2004 ............ 180
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Campuchia và Việt Nam là hai nước có mối quan hệ lâu đời. Trải qua
nhiều thời kỳ lịch sử, vận mệnh của hai quốc gia luôn gắn kết với nhau chặt chẽ, điều
này đã được thực tế chứng minh: Nếu một giai đoạn nào đó, quan hệ hai nước trục
trặc thì đều tổn hại đến lợi ích của cả Campuchia và Việt Nam. Ngược lại, nếu quan
hệ giữa hai nước tốt đẹp thì tạo cơ hội và sự ổn định cho sự phát triển của hai bên.
Mặt khác, sự gần gũi về mặt địa lý và sự gắn bó, tương đồng về lịch sử khiến cho
nhân dân hai nước luôn có sự hiểu biết, thông cảm và chia sẻ, đồng thời là điều kiện
thuận lợi để thúc đẩy quan hệ hai nước trong tình hình mới.
Trong suốt quá trình phát triển của quốc gia, dân tộc, đặc biệt trong thời kỳ
hiện đại, Campuchia và Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của hoà
bình, ổn định và hợp tác phát triển ở khu vực Đông Nam Á. Khu vực này có ý nghĩa
chiến lược đối với cả hai nước xét trên nhiều phương diện, là một bộ phận quan trọng
trong chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại và “láng giềng hữu
nghị” của mỗi nước. Vì vậy, việc củng cố, thúc đẩy các mối quan hệ song phương,
nhất là quan hệ với các nước láng giềng, khu vực cũng như giữa hai nước có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội
nhập quốc tế của cả Campuchia và Việt Nam.
1.2 Từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc, xu thế đối thoại, hợp tác trở thành dòng
mạch chủ đạo trong quan hệ quốc tế giữa các quốc gia trên thế giới. Điều này đã tạo ra
cơ hội rất lớn cho hợp tác khu vực Đông Nam Á nói chung và quan hệ giữa ba nước
Đông Dương nói riêng có bước phát triển tốt đẹp hơn. Trong bối cảnh mới đó, quan hệ
Campuchia - Việt Nam cũng được tăng cường và thúc đẩy theo hướng hợp tác tích cực.
Năm 1993, tình hình đất nước Campuchia dần đi vào ổn định đã tạo điều kiện cho quan
hệ hai nước ngày càng được củng cố và phát triển trên mọi lĩnh vực: chính trị, ngoại
giao, kinh tế, an ninh, khoa học - kỹ thuật, hợp tác trong đa phương.
Trong những năm gần đây, đứng trước những biến đổi sâu sắc, khó lường của
tình hình thế giới và khu vực, vì nhu cầu phát triển của mỗi nước, của Tiểu vùng
Mekong và cả khu vực Đông Nam Á, Campuchia và Việt Nam đều phải xác định
một chiến lược phát triển quốc gia thích hợp. Trong đó, từng mối quan hệ song
2
phương hay đa phương đều có một vị trí, vai trò riêng và cần được xem trọng trong
chính sách đối ngoại của mỗi nước. Quan hệ hợp tác hai nước hiện nay đang đứng
trước những thuận lợi cơ bản cũng như những thách thức, khó khăn mới, nhưng nếu
biết khai thác tốt thuận lợi và hạn chế một cách hiệu quả những thách thức, khó
khăn, hợp tác Campuchia - Việt Nam sẽ có những bước phát triển có lợi cho mỗi
nước, góp phần vì hòa bình, ổn định, hợp tác ở khu vực. Do đó, việc nghiên cứu quan
hệ Campuchia - Việt Nam ngày càng có ý nghĩa quan trọng.
1.3 Quan hệ Campuchia - Việt Nam không chỉ tồn tại và phát triển một cách
thuận chiều mà còn trải qua nhiều biến động, thăng trầm của lịch sử. Những mâu
thuẫn, tồn tại trong quan hệ hai nước cũng như sự tác động sâu sắc của nhân tố bên
ngoài, nhất là sức ép từ phía các nước lớn, đặc biệt là Trung Quốc đã có ảnh hưởng
rất lớn đến mối quan hệ này. Tính thiếu ổn định trong hệ thống chính trị và những
mặt trái trong chính sách đối ngoại của Campuchia, hay nói cách khác tính đa diện
trong chính sách đối ngoại và sự tranh giành ảnh hưởng, đấu tranh phe phái trong nội
bộ Campuchia đã không ít lần gây tác động xấu đến quan hệ giữa hai nước. Đồng
thời, những tác động trái chiều của các nhân tố bên ngoài, nhất là từ phía Trung
Quốc đã ảnh hưởng trực tiếp lên đường lối đối ngoại của Campuchia và tác động sâu
sắc tới mối quan hệ Campuchia - Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài còn nhằm
góp phần hiểu thêm những biến động về chính trị, kinh tế và đường lối ngoại giao
của Campuchia, qua đó có thể gợi mở cho Việt Nam những đối sách phù hợp trong
quan hệ với nước láng giềng ở vùng biên giới Tây Nam của đất nước.
1.4. Đề tài quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010) là đề tài mới chưa
từng được công bố trước đó. Vì thế, qua nghiên cứu đề tài, chúng tôi mong muốn
đóng góp một tài liệu tham khảo quan trọng cho công tác giảng dạy và nghiên cứu
lịch sử (kể cả giảng dạy lịch sử quan hệ quốc tế) trong các trường đại học, cho các
nhà hoạt động chính trị, ngoại giao, nhất là những người hiện nay đang trực tiếp quan
hệ, giao dịch, tiếp xúc với Campuchia.
Từ thực tế nói trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề: “Quan hệ Campuchia
- Việt Nam (1993 - 2010)” làm đề tài luận án tiến sĩ với hy vọng góp phần nghiên
cứu quan hệ quốc tế của nội bộ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) nói
chung và quan hệ Campuchia - Việt Nam nói riêng.
3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Việc nghiên cứu của các học giả Việt Nam
Campuchia là một nước láng giềng thân thuộc đối với nhân dân Việt Nam, do
vậy, từ lâu quan hệ hai nước đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học
giả, cơ quan nghiên cứu của Việt Nam. Đặc biệt, trong những năm gần đây, việc đẩy
mạnh nghiên cứu về đất nước Campuchia và mối quan hệ Campuchia - Việt Nam
được nhiều nhà nghiên cứu, nhà lãnh đạo, quản lý Việt Nam nhìn nhận, đánh giá trên
nhiều phương diện, phản ánh sự phát triển không ngừng mối quan hệ giữa hai quốc
gia, dân tộc.
2.1.1. Những công trình viết chung về lịch sử quan hệ giữa ba nước Đông Dương
Công trình “Về lịch sử văn hóa ba nước Đông Dương” (1983) do Phạm
Nguyên Long, Đặng Bích Hà chủ biên là một tác phẩm được xuất bản khá sớm. Đây
là công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, trong đó, tác giả Nguyễn Hào
Hùng với bài viết “Lịch sử một thế kỷ liên minh đoàn kết chiến đấu và toàn thắng
của nhân dân ba nước Đông Dương” đã dựng lại bức tranh toàn cảnh về mối quan
hệ giữa Việt Nam - Campuchia - Lào từ trong lịch sử đấu tranh cho đến đầu thập
niên 80 của thế kỷ XX. Tác giả nhìn nhận mối quan hệ khăng khít của ba nước Đông
Dương dựa trên nền tảng về văn hóa, lịch sử, xã hội từ thời kỳ thực dân Pháp xâm
lược cho đến kết thúc thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ. Tác giả đã đi sâu phân tích cơ sở hình thành mối quan hệ thiết thân giữa
nhân dân ba nước Đông Dương, khẳng định đây không chỉ là mối quan hệ láng giềng
truyền thống mà còn là mối quan hệ của các quốc gia cùng chung nguồn cội văn hóa,
lịch sử và điều kiện phát triển trong một khu vực “thống nhất nhưng đa dạng”. Tuy
không đề cập riêng về quan hệ Campuchia - Việt Nam, nhưng qua đó vẫn thấy được
rất nhiều điểm tương đồng tạo nên nền tảng của mối quan hệ này.
Nguyễn Văn Cường trong luận văn thạc sĩ “Hợp tác kinh tế giữa Việt Nam
với Lào và Campuchia (1991 - 2006)” (2007) trên cơ sở trình bày và phân tích
những nhân tố tác động đến quan hệ ba nước đã đề cập đến quan hệ hợp tác
Campuchia - Việt Nam trên các lĩnh vực đầu tư, thương mại và giao thông vận tải
cũng như dự báo triển vọng hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới. Tuy nhiên, do
đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là ba chủ thể Việt Nam - Lào -
4
Campuchia trong hợp tác kinh tế, nên công trình chưa đi sâu tìm hiểu, khai thác và
phân tích cụ thể mối quan hệ Campuchia - Việt Nam trên các lĩnh vực khác và chỉ
dừng lại năm 2006.
Phạm Đức Thành và Vũ Công Quý trong công trình “Những khía cạnh dân
tộc, tôn giáo, văn hóa trong Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia”
(2009) đã đi vào nghiên cứu những điểm tương đồng nổi bật trên những khía cạnh
dân tộc, tôn giáo và văn hóa. Các tác giả đã chỉ ra rằng Việt Nam với Campuchia và
Lào đều có những điểm chung, tạo nền tảng vững chắc cho mối quan hệ trong lịch
sử. Những điểm chung đó không chỉ giúp ba nước Đông Dương đoàn kết đánh thắng
kẻ thù chung mà còn tạo lập vị thế để cả ba quốc gia cùng vươn lên phát triển trong
giai đoạn hiện nay.
Trong luận văn thạc sĩ “Hợp tác Việt Nam - Lào - Campuchia ở khu vực Tam
giác Phát triển (1999 - 2009)” (2011), Nguyễn Duy Hùng đã bước đầu nêu bật được
những thành tựu hợp tác giữa Việt Nam, Campuchia và Lào ở vùng giáp ranh biên
giới phía Tây. Tuy nhiên, do đối tượng và phạm vi nghiên cứu khá rộng nên tác giả
chưa đi sâu phân tích quan hệ Campuchia - Việt Nam.
2.1.2. Những công trình nghiên cứu về Campuchia hoặc Việt Nam
Phạm Đức Thành là người có nhiều công trình nghiên cứu về đất nước và con
người Campuchia, cũng như mối quan hệ giữa Campuchia với Việt Nam trong nhiều
giai đoạn lịch sử khác nhau. Tác phẩm “Lịch sử Campuchia” (1995) của tác giả là
một công trình biên soạn công phu, có tính khái quát về đất nước Khmer. Tuy nhiên,
do phạm vi và đối tượng nghiên cứu quá rộng nên tác giả ít đề cập đến mối quan hệ
Campuchia - Việt Nam và nếu có cũng chỉ dừng lại vào đầu những năm 90 của thế
kỷ XX. Mặc dù vậy, công trình này đã mô tả khái quát đất nước, con người, lịch sử,
văn hóa Campuchia từ thời kỳ khởi nguyên đến trước năm 1995, qua đó cho thấy
được những điểm tương đồng giữa hai quốc gia, dân tộc là cơ sở cho mối quan hệ
Campuchia - Việt Nam ngày nay.
Lê Thị Ái Lâm trong đề tài nghiên cứu “Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội
Campuchia từ thập kỷ 90 đến nay” (2006) đã trình bày thực tiễn phát triển kinh tế -
xã hội của Campuchia trong giai đoạn đầu cải cách và xây dựng kinh tế thị trường
(1994 - 2004), với các nội dung liên quan đến tăng trưởng kinh tế, vấn đề dân số,
5
nguồn nhân lực, thị trường lao động, các vấn đề xã hội… ít nhiều có liên quan đến
hướng nghiên cứu của đề tài.
Vũ Dương Huân (chủ biên) trong “Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp
đổi mới (1975 - 2000)” (2002) đã khái quát chính sách đối ngoại của Việt Nam trong
thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội với bối cảnh mới trong nước và thế giới. Do đối
tượng nghiên cứu khá rộng, cho nên tác giả chỉ mới đề cập một vài nét cơ bản nhất
của quan hệ Việt Nam - Campuchia về chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa - khoa
học - kỹ thuật và một số vấn đề còn tồn tại trong quan hệ hai nước như vấn đề biên
giới lãnh thổ, vấn đề người Việt tại Campuchia.
2.1.3. Những công trình đề cập chung đến quan hệ Campuchia - Việt Nam
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam là cơ
quan chuyên trách nghiên cứu về các nước Đông Nam Á, cũng như quan hệ giữa
Việt Nam với các quốc gia trong khu vực. Viện đã cho xuất bản nhiều tài liệu liên
quan đến quan hệ Campuchia - Việt Nam, trong đó có nhiều bài nghiên cứu chuyên
sâu đi vào phân tích, lý giải thực trạng cũng như xu hướng của mối quan hệ hai nước.
Có thể dẫn ra một số công trình tiêu biểu như: Báo cáo chuyên đề “Quan hệ Việt
Nam - Campuchia: thực trạng và triển vọng”; Đề tài cấp Viện “Quan hệ Việt Nam -
Campuchia: Hiện trạng và giải pháp” (2006); Hội thảo Khoa học “Quan hệ Việt
Nam - Campuchia trong bối cảnh mới: Hợp tác toàn diện cùng phát triển” (2007)
quy tụ các nhà khoa học, các chuyên gia có thâm niên nghiên cứu về quan hệ
Campuchia - Việt Nam trong rất nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, giáo dục và đào
tạo, du lịch, y tế… Mặc dù góc độ nhìn nhận khác nhau, thể hiện trên nhiều lĩnh vực,
song các học giả đều cho rằng quan hệ Campuchia - Việt Nam đã đạt được rất nhiều
thành tựu lớn lao, ngày càng phát triển đi lên phù hợp với tình hình chung của khu
vực và thế giới, cũng như nguyện vọng chính đáng của nhân dân hai nước. Tuy
nhiên, nhiều tác giả cũng chỉ ra do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, quan
hệ Campuchia - Việt Nam trên nhiều lĩnh vực chưa tương xứng với tiềm năng của
hai nước, còn gặp nhiều khó khăn cần phải giải quyết, đồng thời cũng đưa ra một số
dự báo khá lạc quan về xu hướng phát triển giữa hai quốc gia trong vài năm.
Công trình “Những vấn đề chính trị, kinh tế nổi bật của Campuchia giai đoạn
2011 - 2020 và tác động chủ yếu đến Việt Nam”, Đề tài cấp Bộ - Viện Nghiên cứu
6
Đông Nam Á (2010) của Nguyễn Thế Hà và cộng sự đã có những phân tích sâu sắc
về những biến động của nội tình đất nước Campuchia trên phương diện kinh tế,
chính trị. Qua việc biện giải một số vấn đề liên quan đến thể chế chính trị, tình hình
kinh tế của Campuchia cũng như sự gia tăng ảnh hưởng của các nước lớn, đặc biệt là
Trung Quốc và Mỹ đối với Campuchia, các tác giả đã cho thấy tính hai mặt (thuận và
trái chiều) trong mối quan hệ Campuchia - Việt Nam và bước đầu đưa ra những giải
pháp mang tính gợi mở cho mối quan hệ này. Tuy nhiên, do xuất phát từ đối tượng
nghiên cứu nên các tác giả chưa chú trọng đến phân tích, đánh giá những thành tựu
của mối quan hệ Campuchia - Việt Nam cũng như những tác động của vấn đề này
đến hai chủ thể và khu vực.
Công trình “Một số giải pháp nhằm phát triển thương mại hàng hóa Việt Nam
- Campuchia qua biên giới trên bộ thời kỳ đến năm 2005” (2002) do Doãn Kế Bôn
làm chủ nhiệm cho rằng hoạt động thương mại hàng hóa qua biên giới trên bộ giữa
Việt Nam với Campuchia đã có những diễn biến rất phức tạp và tuy đạt được những
thành tựu nhất định, song trên thực tế còn nhiều điều bất cập, từ quản lý đến tổ chức
vận hành… Trên cơ sở phân tích, đánh giá những số liệu, sự kiện, các tác giả đưa ra
một số giải pháp nhằm phát triển tình hình thương mại giữa hai nước đến năm 2005.
Nguyễn Thanh Đức trong luận văn thạc sĩ “Nhân tố kinh tế trong phát triển
quan hệ đối tác chiến lược với Campuchia” (2008) đã trình bày tổng quan về quan
hệ kinh tế Việt Nam - Campuchia giai đoạn 1991 - 2008, trong đó tác giả đánh giá
cao nhân tố kinh tế trong mối quan hệ hai nước, khẳng định đây là nhân tố góp phần
rất lớn trong sự hình thành và phát triển đối tác chiến lược Việt Nam - Campuchia.
Tác giả cũng nêu lên những triển vọng và kiến nghị phương hướng, giải pháp trong
việc phát triển quan hệ hai nước dựa trên cơ sở thực tế đã phân tích, trong đó thấy
được tiềm năng và quá trình phát triển đi lên của quan hệ Việt Nam - Campuchia là
một tất yếu, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế.
Lâm Ngọc Uyên Trân trong luận văn thạc sĩ “Hợp tác du lịch giữa Việt Nam
và Campuchia: Thực trạng và giải pháp” (2008) nghiên cứu hợp tác du lịch giữa hai
nước trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đó tập trung đề xuất các giải pháp phát
triển hợp tác du lịch giữa hai bên.
7
Nguyễn Sĩ Tuấn trong đề tài cấp Nhà nước “Cơ sở lịch sử, chính trị, xã hội và
pháp lý của vùng biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia và đề xuất giải pháp ổn
định, phát triển vùng biên giới hai nước” (2006) đã nhìn nhận vấn đề từ khía cạnh
lịch sử, chính trị, xã hội và pháp luật trong quan hệ biên giới lãnh thổ Campuchia -
Việt Nam. Trên cơ sở phân tích và biện dẫn những tài liệu khoa học, tác giả đã đề
xuất một số giải pháp nhằm phát triển vùng biên giới đất liền giữa hai nước.
Lê Thị Trường An trong luận văn thạc sĩ “Quan hệ Việt Nam - Campuchia
trong giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ” (2006) khẳng định việc giải quyết biên
giới Việt Nam - Campuchia đã có những bước tiến tốt đẹp trong xu thế quan hệ hai
nước trên nhiều lĩnh vực ngày càng phát triển mạnh mẽ. Mặc dù còn nhiều khó khăn,
phức tạp do lịch sử để lại cùng với những biến động về chính trị, nội bộ của
Campuchia, nhưng tác giả vẫn tin tưởng vào triển vọng tốt đẹp của việc giải quyết
vấn đề này trong tương lai. Dưới góc độ Luật quốc tế, tác giả đã nhìn nhận, đánh giá
quan hệ biên giới Việt Nam - Campuchia trên góc độ pháp lý, với những dẫn chứng
cụ thể và xác thực để từ đó đi vào phân tích bản chất, triển vọng giải quyết vần đề
này trong thời gian sắp tới. Tuy nhiên, do giới hạn nghiên cứu, tác giả chỉ mới đề cập
đến hoạch định biên giới trên đất liền.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Vùng biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia:
Cơ sở lịch sử, chính trị, xã hội, pháp lý và các giải pháp phát triển bền vững, hài
hòa” (2009) của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đã quy tụ nhiều bài nghiên cứu của
các học giả uy tín trong nước. Nhìn chung, các tác giả đều đánh giá cao vai trò, vị thế
của vùng biên giới Việt Nam - Campuchia. Trên cơ sở phân tích, lý giải những khía
cạnh hợp tác, các tác giả tại hội thảo đã đề ra nhiều giải pháp phát triển bền vững khu
vực biên giới hai nước dưới nhiều góc độ khác nhau.
Công trình tập thể “Thực trạng việc phân định vùng biển giữa Việt Nam -
Campuchia” của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (Mã TL1586) đã góp phần bổ sung
cho những nghiên cứu đi trước. Các tác giả đã chỉ rõ, hiện nay vấn đề biên giới trên
biển giữa hai nước còn gặp nhiều vướng mắc, chưa thể giải quyết, quan điểm hai bên
còn trái chiều nhau. Các tác giả chỉ rõ “diện tích chồng lấn trong vùng biển giữa hai
nước Việt Nam và Campuchia là không lớn nhưng do vị trí của vùng biển, yếu tố lịch
sử và nguồn lợi hải sản nên đây là vấn đề mà hai bên rất khó giải quyết” [176; 22].
8
Ngoài ra, một số tạp chí chuyên ngành như Nghiên cứu Đông Nam Á, Nghiên cứu
quốc tế, Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Cộng sản… có những bài viết đề cập đến quan hệ
Campuchia - Việt Nam. Có thể kể đến như: Bùi Thị Thu Hà có bài “Cuộc khởi nghĩa
N’Trang Lơng - một biểu tượng liên minh chiến đấu chống Pháp của nhân dân Việt Nam
và Campuchia”, Phạm Đức Thành có bài “Campuchia với Hành lang kinh tế Đông -
Tây”, Nguyễn Minh Ngọc có bài “Quan hệ Việt Nam - Campuchia và vấn đề phân định
biên giới biển tại Vịnh Thái Lan”, Trần Văn Tùng có bài “Quan hệ kinh tế biên giới Việt
Nam - Campuchia”… đã đề cập đến một vài khía cạnh nào đó trong một giai đoạn lịch sử
của quan hệ hai nước.
2.2. Việc nghiên cứu của các học giả Campuchia
Các học giả người Campuchia luôn quan tâm, xem xét quan hệ Campuchia -
Việt Nam trên nhiều lĩnh vực và đánh giá dưới nhiều góc độ.
Quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao Campuchia Kao Kim Hourn là một trong
những người có nhiều công trình nghiên cứu về Campuchia trong giai đoạn hiện nay
trên nhiều lĩnh vực, nhất là quan hệ quốc tế của Campuchia với khu vực, thế giới,
trong đó có Việt Nam, ông chú ý nêu lên những thách thức, triển vọng quan hệ
Campuchia với các nước khác trong tương lai không xa. Có thể kể đến một số công
trình như: Kao Kim Hourn (1998), “Cambodia - From Crisis to Promise: Building
the future”. Kao Kim Hourn (2004), “Cambodia's ASEAN policy: Cambodia's
contribution to Peace and Stability in region”… Những công trình của Kao Kim
Hourn tuy chủ yếu đề cập quan hệ của Campuchia trong cộng đồng ASEAN, quá
trình Campuchia trở thành thành viên chính thức của ASEAN vào năm 1999 và sự
thay đổi chính sách đối ngoại trong quá trình thực thi quan hệ quốc tế của
Campuchia nhưng đã góp phần phân tích những vấn đề liên quan đến quan hệ của
Campuchia với các nước khác, trong đó có Việt Nam. Việc nhìn nhận lại con đường
đi đầy gian khó của đất nước để tiến lên xây dựng một quốc gia phồn thịnh của các
nhà lãnh đạo và nhân dân Campuchia, từ bỏ “khủng hoảng” để “xây dựng tương
lai” chính là điều quan trọng nhất khi Campuchia trở thành thực thể mới trong cộng
đồng Đông Nam Á.
Tác giả Camaphon trong “Cambodia - Vietnam Political Relations 1979 -
1989” (2003) đã cho thấy một giai đoạn khá phức tạp trong quan hệ hai nước. Đề tài
9
tập trung vào “các mối quan hệ giữa hai nước vào thời điểm đó chỉ để phục hồi của
nền kinh tế Campuchia, chính trị và tái thiết lập quan hệ Campuchia và Việt Nam
một lần nữa, sau khi mối quan hệ này bị cắt đứt, trong năm 1975 - 1979” cũng như
những vấn đề liên quan đến cuộc nội chiến tại Campuchia.
Roy Rasmey trong luận văn thạc sĩ “Mâu thuẫn giữa các đảng phái chính trị ở
Campuchia: Tác động đối với quan hệ Campuchia - Việt Nam” (2005) đã trình bày
một số vấn đề khó khăn, phức tạp do lịch sử để lại trong quan hệ hai nước như vấn đề
biên giới lãnh thổ, vấn đề người Việt tại Campuchia… Roy Rasmey cũng nói rõ thực
chất quan hệ Campuchia - Việt Nam theo xu hướng tốt đẹp hay xấu đi, một phần là do
sự tranh giành nắm quyền lãnh đạo tại Campuchia, chính mâu thuẫn giữa các đảng
phái, lực lượng chính trị trong nội bộ đất nước Campuchia đã gây ảnh hưởng sâu sắc
đến tình hình biên giới giữa hai nước. Tuy nhiên, trên bình diện sâu rộng của mối quan
hệ Campuchia - Việt Nam, tác giả khẳng định “những mâu thuẫn và những tác động
đó về lâu dài không thể làm thay đổi mối quan hệ truyền thống anh em giữa hai dân
tộc Việt Nam - Campuchia được. Đó ngoài là một quy luật ra thì nó cũng có những hệ
quả tích cực mà tất cả chúng ta cùng có thể cảm nhận được” [109;76].
Sok Dareth trong luận văn thạc sĩ “Chính sách của Vương quốc Campuchia
đối với Việt Nam từ 1993 đến nay” (2008) đã cho thấy được chính sách đối ngoại của
Campuchia đối với Việt Nam là nhằm đảm bảo quan hệ hòa bình, ổn định tạo môi
trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, hợp tác đôi bên cùng có lợi, đảm bảo an ninh
và lợi ích của hai dân tộc. Do nhận thức được tầm quan trọng về vai trò của Việt
Nam đối với môi trường hòa bình, thịnh vượng của đất nước cũng như của khu vực
nên Campuchia đã luôn đặt Việt Nam trong ưu tiên chính sách đối ngoại của mình.
Tác giả cũng đã nêu ra bốn nguyên tắc và ba phương châm trong quan hệ của
Campuchia đối với Việt Nam. Trong đó, Sok Dareth khẳng định Việt Nam là một
nước láng giềng vô cùng quan trọng, trải qua nhiều thăng trầm lịch sử nhưng phương
châm của Campuchia đối với Việt Nam vẫn là “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền
thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”
Sun Sothiarat trong luận văn thạc sĩ “Đường lối phát triển quan hệ hữu nghị
truyền thống Campuchia - Việt Nam từ 1998 đến nay” (2010) đã khái quát quan hệ
Campuchia - Việt Nam (1991 - 1998) và phân tích sự phát triển của mối quan hệ hai
10
nước từ năm 1998 đến nay. Qua đó đưa ra triển vọng hợp tác và kiến nghị, những
định hướng, mục tiêu cụ thể của Campuchia và Việt Nam trong quan hệ song
phương. Bên cạnh đó, Sun Sothiarat cũng chỉ ra quan hệ Campuchia - Việt Nam còn
những khó khăn thách thức cần phải vượt qua để thúc đẩy quan hệ hai nước ngày
càng phát triển vững chắc hơn trong tương lai.
Trên bình diện rộng hơn, Kong Sokea trong phân tích, đánh giá “Chính sách
đối ngoại Campuchia với ASEAN từ năm 1967 đến nay” (2005) đã cho thấy được
chính sách ngoại giao tổng thể của Campuchia đối với khu vực Đông Nam Á, bao
gồm cả Việt Nam. Theo tác giả, chính sách ngoại giao của Campuchia đã có nhiều
tác động sâu sắc tới hòa bình, ổn định, hợp tác của khu vực cũng như quan hệ song
phương Campuchia với mỗi nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam vì
Campuchia và Việt Nam là hai thực thể không tách rời của Đông Nam Á và đều là
thành viên của ASEAN.
IM.Reachany trong luận văn thạc sĩ “Quan hệ Mỹ - Campuchia sau Chiến
tranh lạnh” (2005) đã phân tích, đánh giá mối quan hệ Campuchia với các nước lớn,
qua đó cho thấy sự tác động của Mỹ đối với Campuchia trong hầu hết các lĩnh vực,
kể cả chính sách ngoại giao của Campuchia trong khoảng thời gian nói trên. Với góc
nhìn này, tác giả đã cho thấy được sự phức tạp trong quan hệ quốc tế liên quan đến
chính sách ngoại giao của Campuchia. Suy cho cùng, sự phụ thuộc vào kinh tế và
viện trợ nước ngoài đã làm cho Chính phủ Campuchia phải có những đường hướng
đối ngoại phù hợp, nhất là đối với các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc... Bên cạnh đó,
mâu thuẫn nội bộ, tranh giành quyền lực giữa các phe phái ở Campuchia đã làm sự lệ
thuộc vào bên ngoài càng tăng lên, do nhiều lực lượng chính trị muốn dựa vào sức
mạnh bên ngoài gia tăng sức ép lên chính phủ đối lập hiện thời. Điều này đã tác động
không nhỏ đến quan hệ Campuchia với các nước khác, kể cả Việt Nam.
2.3. Nghiên cứu quan hệ Campuchia - Việt Nam ở các nước khác
Quan hệ giữa Campuchia và Việt Nam được nhiều học giả nước ngoài quan
tâm nghiên cứu từ rất sớm với nhiều đánh giá nhìn nhận vấn đề khác nhau. Mối quan
hệ này đã một thời là tâm điểm chú ý khai thác của những nhà nghiên cứu quan tâm
đến cuộc chiến tại Đông Dương và quá trình hòa giải dân tộc ở Campuchia những
năm 50 đến đầu thập niên 90 của thế kỷ XX.
11
Leiglton Marian Kirsh (1978) trong “Perspectives on the Vietnam - Cambodia
border conflict”, Asian Survey Vol XVIII, No 5 (p.448 - 457). Lau Teik Soon (1982)
“Asian and the Cambodia Problem”, Asian Survey Vol XXII, No 6 (p.548-561) và
“Cambodia - Vietnamese Relations” (1986), Asian Survey Vol XXII, No 6 (p.440 -
451)… Những bài viết này đã tập trung đi sâu vào các sự kiện, trên cơ sở đó phân
tích, đánh giá tình hình Campuchia từ thập niên 70 đến giữa thập niên 80 của thế kỷ
XX. Các tác giả nhận định Vấn đề Campuchia là một vấn đề phức tạp khó khăn trong
quan hệ quốc tế giai đoạn này. Đó là sự căng thẳng trong quan hệ giữa các nước
ASEAN và ba nước Đông Dương về Vấn đề Campuchia, cũng như sự can thiệp của
các thế lực bên ngoài. Các tác giả cũng đề cập đến quan hệ Campuchia - Việt Nam
những năm cuối thập niên 70 đến giữa thập niên 80 với những thăng trầm trong từng
thời kỳ lịch sử nhất định.
Năm 1989, Dike & Douglas trong bài “The Cambodia Peace Process:
Summer of 1989”, Asian Survey, 1989, Vol XXIX, No 9 (p.842 - 852) khẳng định
việc rút quân tình nguyện Việt Nam ra khỏi Campuchia đã mở đường cho bước
ngoặt quan hệ trong khu vực, giữa ASEAN với ba nước Đông Dương, mở ra trang
mới trong quan hệ Việt Nam - Campuchia. Tuy nhiên, do bị chi phối bởi hoàn cảnh
lịch sử nên quan điểm đánh giá Vấn đề Campuchia và quan hệ Việt Nam -
Campuchia, ASEAN - Đông Dương của tác giả có những điểm cần phải trao đổi, bàn
luận thêm.
Bên cạnh đó, có thể kể đến Hal Kosut trong “Cambodia and the Vietnam
war”, New York, 1971. Area Handbook Series, “Cambodia, A Country Study”, DA
pam 550-50, Washington, 1987… Những công trình này chủ yếu tập trung xem xét
mối quan hệ Campuchia - Việt Nam trong bối cảnh cuộc chiến tranh Đông Dương và
nội chiến ở Campuchia.
Một số học giả lại tiếp cận về mối quan hệ Campuchia - Việt Nam trong bối
cảnh lịch sử khu vực. Chang Pao Min trong công trình“Kampuchea between China
and Viet Nam”, Singapore University Presses, 1987 đã đề cập đến một thời điểm
nhạy cảm của lịch sử Campuchia và khu vực, qua đó cho thấy Campuchia trong quan
hệ quốc tế luôn chịu sự tác động từ bên ngoài, đặc biệt là sự ảnh hưởng của Trung
Quốc đối với chính sách ngoại giao của Campuchia.
12
Trên bình diện rộng hơn, tác giả Cunha, Derk da (ed) trong “Southeast Asian
Perspectives on Security”, Insititute of Southeast Asian Studies, Singapore, 2000.
Tan, Andrew T.H and Boutin, J.D KenNeth (ed) trong “Non - Traditional Security
Issues in Southeast Asia”, Institute of Defence and Strategic Studies, Singapore,
2001… chủ yếu đề cập đến sự hợp tác đa phương của các nước trong khu vực Đông
Nam Á và ít nhiều có liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài.
Qua việc trình bày tình hình nghiên cứu về mối quan hệ Campuchia - Việt
Nam, có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Thứ nhất, số lượng công trình, bài viết nghiên cứu về mối quan hệ hai nước
khá phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, do mục đích, góc độ và thời điểm nghiên cứu
nên có thể thấy cho đến nay trong phạm vi Việt Nam vẫn chưa có một công trình
chuyên sâu nghiên cứu hệ thống và toàn diện về quan hệ Campuchia - Việt Nam
trong giai đoạn 1993 - 2010 dưới góc độ sử học.
- Thứ hai, do bối cảnh khu vực Đông Nam Á và Campuchia trong hai thập
niên cuối thế kỷ XX rất phức tạp nên có khá nhiều công trình, bài viết tập trung
nghiên cứu về quan hệ chính trị, ngoại giao Campuchia - Việt Nam; các lĩnh vực
quan hệ khác tuy có đề cập, nhất là trong những năm gần đây nhưng nhìn chung vẫn
chưa nhiều, chưa tương xứng với thực tiễn quan hệ giữa hai nước.
- Thứ ba, do bị chi phối bởi điều kiện lịch sử cả trong và sau Chiến tranh lạnh
nên các công trình nghiên cứu về quan hệ Campuchia - Việt Nam thể hiện rất nhiều
quan điểm khác nhau, thậm chí có phần khác biệt nên cần có sự phân tích, đánh giá
thêm để đưa ra những kết luận khách quan, khoa học và toàn diện hơn.
Trên cơ sở tham khảo, kế thừa có chọn lọc những công trình, bài viết đi trước,
trong việc thực hiện đề tài Quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010) chúng
tôi mong muốn góp phần làm rõ hơn vấn đề này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài sẽ tái hiện bức tranh toàn cảnh về quan hệ Campuchia - Việt Nam trong
những năm 1993 - 2010 đi từ cơ sở hình thành, thực trạng quan hệ đến tác động của
mối quan hệ này đối với hai chủ thể, khu vực và bước đầu dự báo xu hướng vận
động của quan hệ Campuchia - Việt Nam trong thời gian tới.
13
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Trình bày những nhân tố tác động đến mối quan hệ Campuchia - Việt Nam,
trong đó có cả những nhân tố khách quan và chủ quan.
- Tập trung nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển quan hệ Campuchia -
Việt Nam (1993 - 2010) trên các mặt chính trị, ngoại giao, kinh tế, an ninh, khoa học
- kỹ thuật, hợp tác trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, để làm rõ quan hệ
Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010), chúng tôi có đề cập tới quan hệ này trước năm
1993, bởi đây là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới quan hệ giữa hai nước giai
đoạn sau đó.
- Rút ra những đặc điểm, tính chất của quan hệ Campuchia - Việt Nam cũng
như phân tích, đánh giá tác động của mối quan hệ này đối với sự phát triển của mỗi
nước và đối với hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực. Qua đó, nhìn
nhận, đánh giá về xu hướng vận động của mối quan hệ Campuchia - Việt Nam trong
thời gian sắp tới.
4. Phạm vi nghiên cứu và nguồn tư liệu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian, đề tài nghiên cứu hai chủ thể chính trị ở khu vực Đông
Nam Á là Campuchia và Việt Nam - hai quốc gia có nhiều điểm tương đồng về lịch
sử, văn hóa, xã hội sau Chiến tranh lạnh.
- Về mặt thời gian, đề tài tập trung nghiên cứu quan hệ Campuchia - Việt Nam
trong những năm 1993 - 2010. Đây là giai đoạn quan hệ hai nước có những chuyển
biến to lớn, toàn diện và đã có những tác động lẫn nhau, nhất là sau khi Vương quốc
Campuchia được tái lập vào năm 1993 và Chính phủ Liên hiệp dân tộc Campuchia đi
vào hoạt động, đã mở ra giai đoạn phát triển mạnh mẽ của quan hệ hai nước. Năm 2010
được chúng tôi chọn làm giới hạn nghiên cứu vì đây là một đề tài sử học, do đó cần có
một khoảng lùi nhất định về thời gian trong việc nhìn nhận và đánh giá vấn đề.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính logic của đề tài, các giai đoạn quan hệ giữa hai
nước trước năm 1993 và từ sau năm 2010 cũng được đề cập ở mức độ nhất định.
14
- Về mặt nội dung, đề tài tập trung nghiên cứu quan hệ Campuchia - Việt Nam
trên các lĩnh vực chủ yếu: chính trị, ngoại giao, kinh tế, an ninh, khoa học - kỹ thuật,
hợp tác trong khu vực Đông Nam Á.
4.2. Nguồn tài liệu
Nguồn tư liệu chủ yếu được khai thác phục vụ cho đề tài này bao gồm:
- Các văn kiện của Đảng, Nhà nước Việt Nam và của Nhà nước Campuchia,
các bài viết và tác phẩm của các nhà lãnh đạo cấp cao hai nước, các báo cáo văn
kiện, Hiệp định, Hiệp ước, Tuyên bố chung, Nghị định thư… của các bộ, ban ngành
có quan hệ hợp tác, các văn kiện liên quan của tổ chức ASEAN.
- Các công trình chuyên khảo, bài viết, báo cáo khoa học tại các cuộc hội thảo
khoa học của các nhà nghiên cứu Campuchia và Việt Nam đã công bố.
- Các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài liên quan đến đề tài,
chủ yếu bằng tiếng Anh.
- Một số luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ ở Campuchia hoặc Việt Nam.
- Báo chí Campuchia, Việt Nam và của Thông tấn xã Việt Nam, của Bộ Ngoại
giao. Các thông tin khai thác có chọn lọc và xử lý các nguồn tư liệu cập nhật thường
xuyên trên mạng Internet bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Quán triệt phương pháp luận sử học Mác-xít, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong nghiên cứu lịch sử
quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại.
- Phương pháp nghiên cứu: Vì đề tài thuộc về khoa học lịch sử nên việc sử dụng
phương pháp lịch sử và phương pháp logic trong sự kết hợp được xem là phương pháp
chủ đạo trong nghiên cứu đề tài. Mặt khác, trong chừng mực nhất định, tác giả luận án
còn sử dụng các phương pháp khoa học liên ngành như phân tích, tổng hợp, đối chiếu,
so sánh, thống kê, dự báo… trong từng nội dung cụ thể của đề tài.
6. Đóng góp của đề tài
6.1 Về phương diện khoa học
- Trên cơ sở khái quát toàn bộ lịch sử quan hệ Campuchia - Việt Nam trước
năm 1993, luận án khôi phục lại bức tranh toàn cảnh về quá trình phát triển của mối
15
quan hệ Campuchia - Việt Nam trên các mặt chính trị, ngoại giao, kinh tế, an ninh,
khoa học kỹ thuật, hợp tác trong khu vực Đông Nam Á từ năm 1993 đến năm 2010.
- Phân tích, luận giải những vấn đề liên quan trong từng lĩnh vực quan hệ hợp
tác Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010), từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá và
kết luận mang tính độc lập.
- Luận án là công trình nghiên cứu có hệ thống đầu tiên về quan hệ song
phương Campuchia - Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị - ngoại giao, an ninh, kinh
tế thương mại và các lĩnh vực khác giai đoạn 1993 - 2010 từ góc nhìn của nhà nghiên
cứu Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận án làm rõ tính chất, đặc điểm cũng như xu thế
phát triển của mối quan hệ này.
- Luận án có thể là tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy
về quan hệ quốc tế, lịch sử Campuchia và Việt Nam thời hiện đại.
6.2. Về phương diện thực tiễn
- Nghiên cứu đề tài giúp hiểu sâu sắc hơn mối quan hệ Campuchia - Việt
Nam cùng những tác động nhiều chiều từ mối quan hệ này đối với chủ thể mỗi nước
cũng như tình hình chung của khu vực.
- Dựa vào kết quả nghiên cứu của đề tài, tác giả mong muốn góp phần cung
cấp thêm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chiến lược của Việt Nam vận
dụng vào lĩnh vực đối ngoại, nhất là trong quá trình mở rộng và phát triển quan hệ
hợp tác với các nước ở khu vực Đông Nam Á.
7. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được
kết cấu làm 3 chương:
Chương 1. Những nhân tố tác động tới quan hệ Campuchia - Việt Nam
(1993 - 2010)
Chương 2. Quan hệ Campuchia - Việt Nam trên các lĩnh vực (1993 - 2010)
Chương 3. Nhận xét, đánh giá về quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010)
16
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI QUAN HỆ CAMPUCHIA - VIỆT NAM
(1993 - 2010)
1.1. Nhân tố lịch sử, văn hóa và địa chiến lược
1.1.1. Khái quát quan hệ Campuchia - Việt Nam trước năm 1993
Quan hệ Campuchia - Việt Nam trước năm 1975
Từ lâu trong lịch sử, Campuchia đã có quan hệ với Việt Nam. Từ đầu thiên
niên kỷ thứ II trở đi, khuynh hướng tăng cường giao lưu với Đại Việt, Lạn Xạng và
các nước láng giềng Đông Nam Á khác ngày càng rõ nét. Trong những thế kỷ tiếp
theo, nhân dân Campuchia và Việt Nam cùng các dân tộc anh em trong khu vực đã
đoàn kết với nhau chống lại những cuộc xâm lăng của phong kiến phương Bắc. Đặc
biệt, chiến thắng đế chế Mông Nguyên (Trung Quốc) của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ
XIII không chỉ là sự kiện mang tầm vóc Á - Âu, mà còn thể hiện sức mạnh đoàn kết
đấu tranh của các dân tộc Đông Nam Á.
Vào thời điểm chế độ phong kiến ở Campuchia cũng như Việt Nam bước vào
giai đoạn khủng hoảng, suy yếu, giai cấp phong kiến từ chỗ chống lại chủ nghĩa thực
dân phương Tây xâm lược cuối cùng chấp nhận sự bảo hộ của ngoại bang và bước vào
con đường thỏa hiệp, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc, tạo điều kiện cho thực dân
Pháp đặt ách cai trị lên toàn cõi Đông Dương. Năm 1887, thực dân Pháp lập ra “Liên
bang Đông Dương” (Union Indochinoise) gồm hai nước Campuchia và Việt Nam, năm
1893 bao gồm cả Lào. Kết quả là thực dân Pháp đã khai sinh ra một thực thể chính trị
mới đầu tiên mang tên “Indochine française” (Đông Dương thuộc Pháp).
Đứng trước hoàn cảnh đó, nhân dân hai nước Campuchia và Việt Nam đã kề
vai sát cánh bên nhau cùng chống lại kẻ thù chung. Tiêu biểu cho mối quan hệ này là
liên minh chiến đấu của nghĩa quân Achar Soa (Campuchia) với nghĩa quân Đề đốc
Huân những năm 1864 - 1866; liên minh chiến đấu Trương Quyền - Pukumbor (1866
- 1867) trên địa bàn biên giới Campuchia - Việt Nam, là sự ủng hộ của nhân dân Việt
Nam đối với cuộc khởi nghĩa của Hoàng thân Shivotha (1855 - 1891), ngược lại
trong một số cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam có sự tham gia đông đảo của
nhân dân Khmer. Những hành động lịch sử trên đây mở đầu cho quá trình liên minh,
đoàn kết chiến đấu chặt chẽ và bền bỉ giữa hai dân tộc Campuchia và Việt Nam.
17
Từ những năm 30 của thế kỷ XX, nhân dân Campuchia và Việt Nam đã đoàn
kết trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và thống trị. Tiêu biểu cho
sự liên minh này là cuộc khởi nghĩa của N’Trang Lơng (1909 - 1933) ở cao nguyên
Tây Nguyên Việt Nam đã có sự tham gia của các tộc người vùng Đông Bắc
Campuchia. Cuộc khởi nghĩa này có ý nghĩa quan trọng không chỉ “đóng góp cho sự
nghiệp đấu tranh chung giành độc lập, đưa lại chiến thắng vẻ vang trong cách mạng
tháng Tám 1945 và 30 năm gìn giữ độc lập thống nhất tổ quốc, cuộc khởi nghĩa
Trang Lơng còn là một biểu tượng của tinh thần đoàn kết chiến đấu (dân tộc và quốc
tế)” [41;63]. Tháng 11/1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ, thực dân Pháp âm
mưu đưa lính từ biên giới Campuchia - Thái Lan về đàn áp nhân dân Việt Nam.
Công nhân lái xe ở Phnom Penh đã tổ chức bãi công, không chịu chở binh lính về
đàn áp những người anh em Việt Nam của mình [59;40]. Hội nghị Trung ương VIII
của Đảng Cộng sản Đông Dương (5/1941) còn giao nhiệm vụ cho Đảng bộ Nam Kỳ
(Việt Nam) phải giúp đỡ việc xây dựng cơ sở Đảng tại Campuchia, cách mạng Việt
Nam có nghĩa vụ giúp đỡ cách mạng Campuchia, ngược lại cách mạng Campuchia
phát triển sẽ là sự hỗ trợ to lớn và trực tiếp đối với cách mạng Việt Nam. Đây là một
biểu hiện mới của tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân hai nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Đông Dương và minh chứng sâu sắc rằng “Chủ nghĩa yêu nước
triệt để không thể nào tách rời khỏi Chủ nghĩa quốc tế vô sản” [74;125], “giúp bạn
là tự giúp mình” của nhân dân Campuchia và Việt Nam.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Campuchia và
Việt Nam đã có sự đoàn kết và liên minh chiến đấu. Đáp ứng yêu cầu của cách
mạng, quân và dân thuộc các tỉnh giáp biên hai nước đã liên hệ, phối hợp và giúp đỡ
nhau đẩy mạnh đấu tranh. Vào đầu năm 1949, Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương, quyết định “mở rộng Mặt trận Miên - Lào”, trong đó yêu cầu mở rộng
Mặt trận Kháng chiến Campuchia và Lào, củng cố lực lượng Việt Nam làm nhiệm vụ
quốc tế tại hai nước này, tăng cường thêm cán bộ, xây dựng và mở rộng căn cứ tại
Campuchia… Trong những năm 50 của thế kỷ XX, được sự giúp đỡ của Việt Nam,
nhân dân Campuchia đã không ngừng mở rộng phong trào kháng chiến chống Pháp
và tiến hành Hội nghị toàn quốc để thành lập Ủy ban Mặt trận dân tộc thống nhất
toàn quốc gọi là “Samakhum Khmer Issarak” do Sơn Ngọc Minh làm Chủ tịch
18
(19/4/1950). Ông Nguyễn Thanh Sơn nguyên Xứ ủy Nam Kỳ (1939 - 1940) và
Trưởng ban quân sự kiêm ngoại giao thuộc Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam
Bộ (1947) được Trung ương cử sang Campuchia giúp xây dựng lực lượng kháng
chiến Issarak Khmer [114;2080]. Có thể nói, sự phối hợp, giúp đỡ, liên minh đoàn
kết chiến đấu giữa Campuchia và Việt Nam (cùng với Lào) đã góp phần đưa lại
những thắng lợi căn bản cho sự nghiệp cách mạng của hai nước, tạo tiền đề, điều
kiện quan trọng buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán và ký các hiệp định
về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), khi đế quốc
Mỹ dùng vũ trang xâm lược hòng đặt ách thống trị chủ nghĩa thực dân kiểu mới lên
bán đảo Đông Dương thì “nhân dân Campuchia lại một lần nữa kề vai, sát cánh với
nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào, được sự ủng hộ của các nước Xã hội chủ nghĩa
(XHCN) anh em và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, đã nhất tề đứng lên
kháng chiến” [128] nhằm mục đích đánh đuổi đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc.
Giai đoạn 1954 - 1970, Campuchia dưới sự dẫn dắt của cựu Quốc vương
N.Shihanouk đã thực hiện đường lối hòa bình, trung lập và thể hiện quan điểm ngoại
giao thân thiện trong quan hệ với cách mạng Việt Nam, “có thái độ tích cực trong sự
ủng hộ cách mạng Việt Nam, lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, tuyên bố nhận đại diện của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
(1966), công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam”
[166; 264]. Có thể thấy rằng, trong thời gian này, Campuchia đã tạo nhiều điều kiện
thuận lợi cho quân giải phóng Việt Nam, nhất là cho phép bộ đội giải phóng mượn
đường qua đất Campuchia để tiến công vào sào huyệt của chế độ Cộng hòa miền
Nam Việt Nam. Ngược lại, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ủng hộ
đường lối phát triển trung lập, độc lập và hòa bình của Campuchia. Có thể nói, ở thời
điểm này, nhân dân Campuchia và Việt Nam đều có chung một kẻ thù là đế quốc Mỹ
đang tìm mọi cách triệt phá chế độ trung lập của Campuchia, cũng như đang trực tiếp
xâm lược Việt Nam. Tuy nhiên, cần phải nhận thấy rằng, do điều kiện của bối cảnh
bên trong và ngoài nước, tổ chức Cộng đồng Xã hội Bình dân (Sangkum Reastr
Nlyum, thành lập năm 1955) do Cựu vương Shihanouk lãnh đạo vẫn chưa hoàn toàn
đoạn tuyệt với đế quốc Mỹ và chưa thực sự công khai chống Mỹ, tiếp tục “nhận viện
19
trợ Mỹ và không kiên quyết trấn áp bọn thân Mỹ” [166; 265]. Điều này ít nhiều đã
ảnh hưởng tiêu cực tới công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước của nhân dân Việt
Nam, đồng thời dẫn đến nguy cơ đổ vỡ nhanh chóng nền hòa bình, độc lập và trung
lập của Campuchia.
Giai đoạn 1970 - 1975, tình bạn chiến đấu sắt son của hai dân tộc càng được
bồi đắp và trở nên gắn bó hơn, chính điều đó đã tạo nên những chiến thắng vang dội,
với hàng loạt chiến dịch giữa quân đội hai nước như “Chen La I”, “Chen La II”,
“Lam Sơn 719”… góp phần đập tan nhiều chiến lược quân sự quy mô của Mỹ như
“Việt Nam hóa chiến tranh”, “Khmer hóa chiến tranh” nói riêng và “Đông Dương
hóa chiến tranh” nói chung. Trên đà thắng lợi, với sự giúp đỡ hết mình của Việt
Nam, nhân dân Campuchia đã tấn công quyết liệt vào chế độ Lon Nol thân Mỹ, buộc
đế quốc Mỹ phải rút quân khỏi Campuchia, giành thắng lợi quyết định cuối cùng vào
năm 1975. Thắng lợi này, ngược lại đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho cách
mạng Việt Nam hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc.
Có thể khẳng định, tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa Campuchia và Việt
Nam trước năm 1975, đã tạo điều kiện cần thiết cho hai nước thoát khỏi những âm
mưa chia cắt và ý định chiếm đóng lâu dài của thực dân và đế quốc. Mặc dù vẫn còn
những trở ngại xuất phát từ điều kiện chủ quan và khách quan, nhưng quan hệ
Campuchia và Việt Nam ở thời kỳ này nhìn chung tốt đẹp. Đây chính là nền tảng
quan trọng góp phần làm nên thắng lợi đối với sự nghiệp cách mạng mỗi nước cũng
như của nhân dân trên toàn bán đảo Đông Dương. Hơn nữa, sự gắn bó tích cực về
mặt lịch sử giữa hai nước cũng được xem như là một tiền đề không thể thiếu để
Campuchia và Việt Nam tiếp tục tăng cường hơn nữa mối quan hệ trong giai đoạn
tiếp theo.
Quan hệ Campuchia - Việt Nam (1975 - 1993)
Mùa xuân 1975, miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng, từ thời điểm này
trở đi, nhân dân Việt Nam được hưởng hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất đi lên
xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH). Riêng Campuchia, con đường hòa bình và tự
do còn gặp nhiều chông gai trắc trở do sự phản bội lại dân tộc, nhân dân của tập đoàn
phản động Polpot - Ieng Sary (Khmer Đỏ), tập đoàn này tự xưng là “lực lượng cách
mạng theo chủ nghĩa Marx - Lenin” nhưng thực chất là những tên độc tài phát xít
20
được che đậy dưới danh nghĩa “cách mạng chân chính”. Khmer Đỏ đã tiến hành
cuộc thanh trừng cách mạng và đẩy đất nước Campuchia vào vực thẳm của họa diệt
vong. Chỉ trong gần 4 năm cầm quyền (1975 - 1979), Khmer Đỏ “đã xóa sạch mọi
thành quả cách mạng, giết hại hàng triệu dân vô tội, xóa bỏ nền kinh tế, xã hội và
văn hóa của đất nước Campuchia tươi đẹp. Chúng còn cam tâm đem quân xâm lấn
Việt Nam, giết hại những người láng giềng anh em đã cùng nhân dân Campuchia
chung một chiến hào cùng làm nên chiến thắng vẻ vang chống đế quốc Mỹ” [128].
Đứng trước họa diệt chủng của dân tộc Khmer và để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia trước hành động xâm lược của tập đoàn Polpot gây ra, quân đội tình nguyện Việt
Nam đã được cử sang giúp nhân dân Campuchia theo yêu cầu khẩn cấp của phía
cách mạng bạn, phối hợp toàn diện với quân và dân Campuchia tấn công tiêu diệt
hoàn toàn chế độ diệt chủng tàn bạo. Thắng lợi có tính quyết định đó đã tạo điều kiện
thuận lợi cho sự ra đời nhà nước Cộng hòa Nhân dân (CHND) Campuchia năm 1979.
Trên tinh thần quốc tế vô sản và thể theo nguyện vọng của phía bạn, quân tình
nguyện Việt Nam tiếp tục ở lại Campuchia trong 10 năm (1979 - 1989) làm nghĩa vụ
quốc tế. Trong thời gian này, theo đề nghị của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước và
Chính phủ cách mạng lâm thời Campuchia, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã cử hàng
ngàn cán bộ cao cấp, trung cấp, gồm đủ mọi ngành từ Trung ương đến địa phương
sang làm chuyên gia giúp Campuchia thực hiện công cuộc hồi sinh dân tộc (chuyên
gia kinh tế, quân sự, chính trị, chuyên gia Thành phố Phnom Penh dưới sự lãnh đạo
của Tổng đoàn chuyên gia Việt Nam giúp Campuchia trực thuộc Trung ương Đảng
và Chính phủ Việt Nam). Trong “10 năm giúp bạn (1979 - 1989), chuyên gia Việt
Nam giúp Campuchia đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử quốc tế trọng đại,
chưa có tiền lệ trên thế giới. Chuyên gia Việt Nam đã giúp bạn đi từ con số không
thực hiện một cuộc hồi sinh dân tộc kỳ diệu, xây dựng Campuchia thành một đất
nước hoàn chỉnh, có chính quyền đủ sức chăm lo đời sống nhân dân, bảo vệ độc lập,
chủ quyền, có nền kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế… ngày càng phát triển”
[3;13]. Trên cơ sở đó, cùng với sự nỗ lực cố gắng của mình, Chính phủ và Nhà nước
Campuchia được cộng đồng thế giới tin tưởng công nhận, từng bước được khẳng
định vai trò, vị thế trên trường quốc tế.
21
Hiệp ước Hòa bình, hữu nghị và hợp tác Campuchia - Việt Nam được ký ngày
8/2/1979 (ngay sau khi Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng) đã mở ra một thời kỳ
mới, thời kỳ phát triển toàn diện mối quan hệ đoàn kết chiến đấu và hợp tác hữu nghị
đặc biệt Campuchia - Việt Nam. Sự kiện này đã được lãnh đạo cả hai nước Việt Nam
và Campuchia đánh giá rất cao. Thủ tướng Phạm Văn Đồng nêu rõ: “Đó là sự kiện
chính trị vô cùng trọng đại khẳng định quyết tâm của nhân dân và chính phủ hai
nước bảo vệ và phát triển mối quan hệ thắm thiết, tạo điều kiện cho nhân dân hai
nước từ thế hệ này sang thế hệ khác mãi mãi kề vai sát cánh trong hòa thuận quý
mến, và tôn trọng lẫn nhau” [127]. Chủ tịch Campuchia Heng Sam Rin cũng khẳng
định việc ký kết Hiệp định hòa bình và hữu nghị đã “đánh dấu một bước phát triển
mới vượt bậc, toàn diện trong quan hệ đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác hữu nghị
Campuchia - Việt Nam vì lợi ích dân tộc chân chính của mỗi nước, vì hòa bình, hữu
nghị và ổn định ở Đông Nam Á và trên thế giới” [127].
Trong thời gian này, quan hệ Campuchia - Việt Nam được thể hiện rõ nét tình
cảm đồng chí, anh em nồng ấm. Nhân dân Việt Nam dù trong điều kiện hết sức khó
khăn nhưng vẫn ra sức giúp đỡ nhân dân Campuchia ổn định cuộc sống, xây dựng chế
độ mới. Trong giai đoạn đầu, Việt Nam đã hỗ trợ thiết thực cho Campuchia hàng chục
ngàn tấn hàng hóa, lương thực thực phẩm để cứu đói và nhiều công cụ lao động nhằm
góp phần vào việc nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân Campuchia.
Đi đôi với sự giúp đỡ về nông nghiệp, Việt Nam cũng tận tình giúp
Campuchia khôi phục và duy trì các hoạt động của thủ công nghiệp, công nghiệp.
Cùng với việc hỗ trợ vật tư, thiết bị, Việt Nam còn cử cán bộ, công nhân sang
Campuchia tập trung khôi phục lại hệ thống điện, nước ở Thủ đô Phnom Penh; nhiều
nhà máy, xí nghiệp đều được Việt Nam giúp khôi phục trở lại hoạt động bình
thường. Chỉ sau 2 năm (1979 - 1981), những cán bộ, công nhân Việt Nam đã sát
cánh, đồng cam cộng khổ với lao động Campuchia, cùng với sự giúp đỡ về nguyên
vật liệu, kỹ thuật, 80% nhà máy, xí nghiệp, hàng trăm cơ sở sản xuất thủ công nghiệp
bước đầu tái đi vào hoạt động. Về y tế, Việt Nam đã cử hơn 400 cán bộ y tế, trong đó
có hơn 100 bác sĩ, dược sĩ cùng nhiều dụng cụ y tế sang giúp đỡ Campuchia khám
chữa bệnh, đào tạo bồi dưỡng nhân viên y tế cho Campuchia. Việt Nam còn tạo điều
kiện giúp đỡ Campuchia trên nhiều lĩnh vực quan trọng khác như giáo dục, giao
22
thông vận tải, quân sự; Việt Nam và Campuchia cũng đã ký Hiệp định viện trợ
không hoàn lại của Việt Nam cho Campuchia vào năm 1980 nhằm đẩy nhanh công
cuộc ổn định đời sống nhân dân nước bạn. Có thể khẳng định, sự giúp đỡ toàn diện
của Việt Nam cho Campuchia trong công cuộc khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội
giai đoạn này là một minh chứng mới của tình đoàn kết chiến đấu, tình hữu nghị anh
em thắm thiết giữa nhân dân hai nước.
Từ năm 1983, hợp tác giữa hai nước càng đi vào chiều sâu và có kế hoạch. Hai
nước đã thành lập Ủy ban Hợp tác kinh tế - văn hóa, các bộ, các tỉnh có phân ban hợp
tác, hàng năm triển khai nhiệm vụ và ký kết các chương trình hợp tác mới. Sự hợp tác
kinh tế, văn hóa Campuchia - Việt Nam trong nửa đầu thập niên 80 phát triển không
ngừng về quy mô, tăng nhanh nhịp độ, mở rộng phạm vi trong các lĩnh vực, bao quát
toàn diện trong các ngành kinh tế quốc dân. Hai nước đã ký kết khôi phục và xây dựng
thêm hàng trăm công trình công - nông, lâm nghiệp, trong đó rất nhiều công trình đã
được đưa vào sử dụng có hiệu quả. Bên cạnh đó, giữa các tỉnh Campuchia và Việt Nam
cũng đã thực hiện kết nghĩa, hợp tác chặt chẽ giúp đỡ lẫn nhau (21 tỉnh, thành phố kết
nghĩa giữa hai nước). Các tỉnh kết nghĩa của Việt Nam đã giúp đỡ Campuchia chống
nạn đói, cụ thể là 63.000 tấn gạo, bột mì, 4.000 tấn thực phẩm, 1000 tấn thuốc, 100.000
mét vải, 500.000 cuốn vở học trò, khoảng 60.000 tấn giống lúa, ngô, đỗ, lạc, gần
500.000 con giống gia súc, gia cầm [80]. Các công ty vận tải biển, vận tải sông, công ty
vận tải hàng hóa Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa hàng chục ngàn tấn phương tiện vận
tải các loại cùng với lực lượng vận tải của nước bạn tham gia các chiến dịch vận chuyển
hàng trăm tấn hàng hóa, lương thực, thực phẩm góp phần vào việc nhanh chóng ổn định
đời sống và sản xuất của nhân dân Campuchia. Đồng thời, các công ty giao thông vận
tải Đồng Tháp, Tây Ninh, Sông Bé… tập trung nhiều cán bộ, công nhân có tay nghề
cao, sử dụng nhiều loại thiết bị thi công và phương tiện vận chuyển tốt để chi viện cho
các công trường, đẩy nhanh tiến độ thi công của các công trình trọng điểm; bên cạnh đó
còn giúp đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho hàng trăm cán bộ kỹ thuật, công nhân lái xe
Campuchia [126].
Sự giúp đỡ có hiệu quả của Việt Nam đã minh chứng rõ hơn về tình đoàn kết
của hai dân tộc Campuchia và Việt Nam, nhất là trong giai đoạn đầy gian nan thử
thách, phù hợp với lợi ích cách mạng của nhân dân hai nước và của cả khu vực. Như
23
lời khẳng định của Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng (NDCM) Campuchia
“Hợp tác toàn diện với Việt Nam là tư tưởng, chiến lược của Đảng, là yêu cầu tất
yếu của lịch sử, là vấn đề quyết định vận mệnh, tương lai của Campuchia, là tình
cảm cách mạng trong sáng, là lập trường kiên định của con người mới Campuchia”
[81]. Trên đà thắng lợi ấy, một sự kiện đặc biệt quan trọng đã được thực hiện, đó là
việc ký Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia hai nước năm 1985. Hiệp ước về
biên giới được ký kết không chỉ đánh dấu một bước phát triển cao hơn nữa mối quan
hệ hai nước, mà còn là biểu hiện sinh động quyết tâm của hai Đảng, hai Nhà nước về
giải quyết vấn đề biên giới trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, hoàn toàn vì lợi ích thiết thực của mỗi quốc gia và phù hợp với
luật pháp quốc tế.
Năm 1986, Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện nhằm đưa đất
nước tiến nhanh hơn nữa trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Cũng chính từ thời điểm này,
quan hệ với Campuchia càng được đẩy mạnh và phát triển lên tầm cao mới. Việt Nam tích
cực ủng hộ lập trường của Campuchia, một mặt kêu gọi đối thoại giữa ASEAN và ba
nước Đông Dương, mặt khác ủng hộ một đất nước Campuchia hòa bình, độc lập, dân chủ.
Trả lời phỏng vấn báo chí ngày 1/10/1981, Vụ trưởng Vụ Thông tin báo chí, Bộ Ngoại
giao Việt Nam Trịnh Xuân Lãng khẳng định lập trường trước sau như một về tình hình
đất nước Campuchia, “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn cho rằng những
vẫn đề nội bộ Campuchia phải do nhân dân Campuchia tự giải quyết, các bên Campuchia
cần gặp nhau để bàn bạc giải quyết những vấn đề của đất nước mình” [82] và kêu gọi
cộng đồng quốc tế chung tay góp phần sớm xây dựng hòa bình, ổn định đất nước
Campuchia. Đánh giá những công lao to lớn của Việt Nam trong sự nghiệp hồi sinh đất
nước, dân tộc Campuchia, Tiến sĩ Chhay Yiheng, Cố vấn Chính phủ Hoàng gia
Campuchia, thành viên lực lượng đặc trách Viện Hàn lâm Hoàng gia Campuchia khẳng
định: “Sau ngày giải phóng khỏi chế độ diệt chủng, Việt Nam là lực lượng tích cực giúp
Campuchia hồi sinh dân tộc, xây dựng lại cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, chống
lại sự tái diễn của nạn diệt chủng. Việt Nam cử các chuyên gia sang Campuchia trợ giúp
tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, quân sự, công tác giáo dục, văn hóa và y tế. Tất
cả những sự giúp đỡ ấy đều là cơ sở quan trọng cho cuộc sống hiện tại của chúng tôi.
Tình hữu nghị Campuchia - Việt Nam ngày càng được củng cố và phát triển vì lợi ích của
24
nhân dân hai nước. Việc nhân dân, Chính phủ và Quân tình nguyện Việt Nam giúp đỡ
nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng Polpot và hồi sinh dân tộc là một sự
nghiệp cao cả sáng ngời chính nghĩa trong thế kỷ 20” [95]. Cũng với tình cảm chân thành
ấy, ngày 7/1/1989, trong buổi gặp gỡ chuyên gia Việt Nam chuẩn bị về nước, Chủ tịch
nước Campuchia Heng Sam Rin nhấn mạnh: “Tổ quốc và nhân dân Campuchia đã khắc
sâu vào trái tim mình, lịch sử đất nước Campuchia sẽ mãi mãi khắc bằng chữ vàng công
ơn to lớn của các đồng chí chuyên gia, cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đã
hoàn thành thắng lợi nghĩa vụ quốc tế cao cả trên đất nước Campuchia” [91].
Về an ninh - quốc phòng, Campuchia và Việt Nam tiếp tục phối hợp nhằm đối
phó với những khó khăn thách thức trước mắt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM
Campuchia và sự giúp đỡ to lớn của quân đội Việt Nam, quân và dân Campuchia đã liên
tục tiến công, đập tan những căn cứ quan trọng cuối cùng của bọn phản cách mạng, tiêu
diệt hoàn toàn lực lượng tàn tích của Polpot, đánh tan nhiều đợt tiến công quấy rối của
lực lượng thù địch từ biên giới Thái Lan - Campuchia. Cho đến thời điểm năm 1989, khi
quân tình nguyện rút hết về nước, Việt Nam đã giúp Campuchia xây dựng được một lực
lượng quân sự đủ sức đảm đương vai trò bảo vệ thành quả cách mạng và hòa bình cho
nhân dân Campuchia, hoàn thành sứ mệnh quốc tế trên đất bạn.
Sau khi Hiệp định Paris về lập lại hòa bình tại Campuchia được ký kết (1991),
Campuchia tạm thời được điều hành bởi cơ quan quyền lực lâm thời của Liên Hợp
Quốc ở Campuchia (UNTAC) và Hội đồng Dân tộc tối cao Campuchia có đại diện
bốn phái ở Campuchia. Đây là thời gian khó khăn trong quan hệ Campuchia - Việt
Nam, Đảng NDCM Campuchia đổi tên thành Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) và
bước vào thời kỳ đấu tranh mới; nhiều đảng phái mới tại Campuchia được thành lập
và đi theo nhiều hướng với mục tiêu chính trị khác nhau. Do đó, quan hệ Campuchia
- Việt Nam thời kỳ này bị gián đoạn trên nhiều lĩnh vực, quan hệ kinh tế bị chững lại,
chỉ trừ một số buôn bán tiểu ngạch, nhiều chính sách quan hệ kinh tế bị bãi bỏ.
Tháng 1/1992, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm sang thăm
Campuchia theo lời mời của Quốc trưởng N.Shihanouk. Trong Thông cáo chung, hai
bên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc “xây dựng mối quan hệ láng giềng hữu nghị
giữa hai quốc gia trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe
25
dọa dùng vũ lực, giải quyết mọi vấn đề trong quan hệ hai nước bằng con đường hòa
bình, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi và cùng tồn tại hòa bình” [11;240].
1.1.2. Nhân tố địa văn hóa và địa chiến lược
Sự gần gũi về mặt địa lý
Hai nước Campuchia và Việt Nam nằm trong một thực thể địa lý thống nhất
thuộc khu vực Đông Nam Á. Đây là mặt đông của bán đảo Trung Ấn và thềm lục địa
biển Đông tiếp cận nằm trọn trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu với chế độ hoàn
lưu gió mùa Đông Nam Á. Trên bản đồ, cả hai quốc gia đều nằm trên bán đảo Đông
Dương, có mối quan hệ mật thiết về địa lý: núi liền núi, sông liền sông, cùng chung
dãy Trường Sơn và có dòng sông Mekong trải dài trên lãnh thổ hai quốc gia;
Campuchia và Việt Nam còn có vùng biển chung phía Nam giúp giao lưu, cùng khai
thác hải sản, phát triển ngư nghiệp. Mặt khác, cùng với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
(CHDCND) Lào, Campuchia và Việt Nam là ba quốc gia tạo thành khối thống nhất,
nằm án ngữ cửa ngõ Đông Nam Á và có vị trí trung tâm ở khu vực. Trên đất liền,
Campuchia giáp Việt Nam ở phía Tây Nam với đường biên giới 1.137 km. Chính sự
gắn bó mật thiết về địa lý cùng với vị trí chiến lược quan trọng như vậy mà từ lâu
quan hệ giao thương hai nước đã được hình thành, với hàng chục tuyến đường bộ và
nhiều cửa khẩu qua lại thuận lợi giữa hai nước. Không những thế, nằm ở khu vực
Đông Nam Á, một trong những khu vực có nền kinh tế phát triển năng động nhất thế
giới hiện nay, lợi thế tiếp giáp với các quốc gia, vùng lãnh thổ có trình độ phát triển
cao như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan… tạo điều kiện vô cùng thuận
lợi cho việc hợp tác giao lưu, học hỏi giữa ba nước Đông Dương với các nước khác.
Bên cạnh những mặt tích cực do nhân tố địa lý mang lại thì sự phức tạp, khó
khăn do sự gần kề về biên giới trên bộ và trên biển giữa hai nước cũng cần được xem
xét. Việc có chung đường biên giới đã làm cho quan hệ hai nước từ trước đến nay
nhiều lần xảy ra tranh chấp, căng thẳng và hiểu lầm, nhiều phe phái chính trị ở
Campuchia và các thế lực bên ngoài thường dựa vào lý do lịch sử về biên giới để gây
sức ép lên hai chủ thể nhà nước, gây chia rẽ và hiểu lầm giữa hai dân tộc. Hơn nữa,
biên giới Campuchia - Việt Nam lại là nơi hội tụ nhiều tệ nạn xã hội, buôn lậu, nơi
trú ngụ của các tội phạm xuyên quốc gia, các phần tử thù địch với cách mạng Việt
Nam. Do đó, Campuchia và Việt Nam cần hợp tác với nhau để giải quyết những vấn
26
đề còn tồn đọng cũng như thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước trong
thời kỳ mới.
Mặc dù còn những khó khăn phức tạp nêu trên, song cần khẳng định nhân tố
địa lý đóng vai trò quan trọng thúc đẩy mối quan hệ Campuchia - Việt Nam, cũng
như góp phần vào quá trình mở rộng hợp tác và liên kết giữa hai nước với các đối tác
bên ngoài.
Nét tương đồng về văn hóa
Như nhiều quốc gia Đông Nam Á khác, nền văn hóa của Campuchia và Việt
Nam đều mang đậm dấu ấn bản sắc phương Đông với những đặc trưng riêng. Trải
qua hàng ngàn năm từ khởi nguyên đến nay, những cộng đồng tộc người sống trên
đất Campuchia và những cư dân vùng đất Nam Bộ và Tây Nguyên của Việt Nam đã
có quan hệ gắn bó với nhau, cùng chung sống và có những đặc điểm chung về lối
sống, lối làm ăn, nếp nghĩ, phong cách ăn mặc… điều này đã tạo nên một nền văn
hóa với hai trung tâm chính là Tonlesap và Đồng Nai, mà nhiều nhà nghiên cứu gọi
đó là nền “Văn minh sông Mekong”. Từ khi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược,
thống trị Đông Dương, Campuchia và Việt Nam đều có quá trình “tiếp biến” văn
hóa phương Tây ở những mức độ khác nhau.
Về mặt tôn giáo, Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người dân
Campuchia và Việt Nam. Có thể thấy được điều này qua hệ thống chùa chiền rất
nhiều ở mỗi nước. Cho đến ngày nay, Phật giáo vẫn luôn hiện diện sâu sắc trong đời
sống tâm linh của người dân hai nước, đồng thời là tôn giáo có nhiều tín đồ nhất ở
hai quốc gia này.
Về phương diện ngôn ngữ, Đông Dương là địa bàn cộng cư của nhiều dân tộc
người cổ ở Đông Nam Á. Cả Campuchia và Việt Nam đều thuộc ngữ hệ Nam Đảo
(Malayo Polinésien). Sự có mặt của các nhóm ngôn ngữ ở Đông Dương có chung
quan hệ nguồn gốc là ngôn ngữ Nam Á (Astroasiatie) và các quan hệ tiếp xúc giữa
các nhóm ngôn ngữ này với nhau phản ánh tính đồng nhất trong đa dạng của các
ngôn ngữ ở đây [59;15].
Về phương diện vật chất, từ rất sớm, cư dân Đông Dương đã là chủ nhân của các
nền văn minh sớm và phát triển liên tục trong lịch sử, đó là thời kỳ hội tụ của nền văn
hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Đông Sơn. Canh tác lúa nước hay còn có tên gọi “nền văn hóa
27
trồng lúa” là một nét đặc trưng cơ bản. Ngoài ra, cư dân Campuchia và Việt Nam còn
có nhiều điểm tương đồng văn hóa như nhà ở, phong tục, lễ hội, trang phục; sự tồn tại
của tín ngưỡng vạn vật hữu linh (animisme) và tục thờ cúng tổ tiên cũng như hệ thống tư
duy biện chứng nguyên thủy, sự bảo lưu rộng rãi các tập tục và sinh hoạt văn hóa dân
gian. Chẳng hạn, người dân Campuchia vẫn đón tết cổ truyền vào dịp tháng tư dương
lịch giống như người Khmer Nam Bộ, điều này tạo nên sự đan xen hòa quyện giữa nền
văn hóa hai nước trên cái nền chung của văn hóa khu vực.
Tóm lại, quá trình phát sinh, phát triển của mối quan hệ Campuchia - Việt
Nam được bắt nguồn từ cội nguồn văn hóa có những điểm tương đồng trên bán đảo
Đông Dương. Quan hệ đó được thể hiện sinh động, phong phú trong ngôn ngữ và
trong nhiều lĩnh vực văn hóa khác. Chính sự tương đồng về văn hóa, gần gũi về địa
lý đã tạo nên một tiềm năng to lớn, một bản lĩnh cần có cho Campuchia và Việt Nam
khi tiếp biến hai nền văn minh lớn của thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ và về sau là
phương Tây, tạo thêm cơ sở vững chắc và lâu bền trong quan hệ hợp tác giữa hai
quốc gia dân tộc.
Tác động từ một số nước lớn (Trung Quốc và Mỹ)
Trong điều kiện thế giới hiện nay, khi quá trình hội nhập ngày càng được xúc
tiến nhanh, ngoại giao đa phương ngày càng giữ một vị trí quan trọng, góp phần nâng
cao vị thế mỗi nước trên trường quốc tế. Ý thức được vấn đề này, Campuchia và Việt
Nam đều thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, độc lập tự chủ, hữu nghị với cộng
đồng các quốc gia dân tộc. Một mặt phát huy nội lực, mặt khác tận dụng lợi thế quốc
tế để đẩy nhanh quá trình đổi mới xây dựng đất nước. Bên cạnh đó, Campuchia và
Việt Nam đã tích cực tham gia vào các tổ chức khu vực và quốc tế: Liên Hợp Quốc
(UN), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Phong trào không liên kết (NAM),
ASEAN,… Ngoài ra, cùng với các nước Đông Nam Á khác, Campuchia và Việt
Nam còn tham gia đề xuất việc thành lập các tổ chức khu vực và là thành viên của
các tổ chức tiểu khu vực như: Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia, Hợp
tác Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS), Hợp tác bốn nước Campuchia - Lào -
Việt Nam - Myanmar (CLVM), Tổ chức Chiến lược hợp tác kinh tế giữa ba dòng
sông (ACMECS). Những hợp tác này một mặt củng cố, nâng cao vị thế quốc tế của
mỗi nước, tạo ra thế cơ động linh hoạt trong quan hệ quốc tế, có lợi cho việc bảo vệ
28
độc lập tự chủ cũng như công cuộc xây dựng đất nước. Mặt khác, sự hợp tác đa
phương cũng tạo cơ hội cho Campuchia và Việt Nam có thêm tiếng nói và những
cam kết chung trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu và khu vực, qua đó tăng
cường hơn nữa quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia láng giềng, là một trong
những động lực thúc đẩy hợp tác toàn diện Campuchia với Việt Nam.
Hiện nay, việc tăng cường vai trò ảnh hưởng của các nước lớn trong khu vực
đang làm gia tăng những mối lo ngại cho quan hệ song phương giữa các quốc gia,
trong đó có quan hệ Campuchia - Việt Nam. Bên cạnh việc tạo ra “luồng gió mới”
thúc đẩy nền kinh tế các nước Đông Nam Á phát triển mạnh hơn, thì mặt trái của vấn
đề đó là làm cho nhiều quốc gia trong khu vực buộc phải chịu sự chi phối rất lớn từ
các nước này. Campuchia, một trong những quốc gia chậm phát triển nhất khu vực
lại là nước chịu nhiều tác động chi phối từ bên ngoài, nhất là của Mỹ, Trung Quốc và
các nước phương Tây. Điều này lại tác động rất lớn đến việc hoạch định và thực thi
chiến lược ngoại giao của Campuchia, cũng như ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ
Campuchia với các nước trong khu vực.
Với Mỹ, châu Á - Thái Bình Dương (CA-TBD) từ lâu đã trở thành địa bàn
chiến lược quan trọng trong chính sách ngoại giao toàn cầu của Mỹ. Trong Báo cáo
chiến lược Đông Á năm 1998 nêu rõ chiến lược an ninh khu vực CA-TBD, Mỹ sẽ
tiếp tục duy trì sự hiện diện ở vùng tiền tuyến CA-TBD, coi đó như là “một nhân tố
cơ bản trong bố trí lực lượng của Mỹ”. Tiếp đó, vào năm 2010, Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ Robert Gates cũng đã từng phát biểu rằng “Hoa Kỳ muốn có một sự hiện
diện quân sự lớn hơn ở châu Á” [205]. Ngoài ra, để thực hiện chiến lược hướng về
châu Á, Mỹ đang và sẽ thực hiện các biện pháp quan tâm rộng rãi đến an ninh khu
vực, từ Đông Bắc Á, Đông Nam Á đến Ấn Độ Dương. Đây là một trong những yếu
tố giúp Mỹ có thể phản ứng nhanh đối với những khủng hoảng mang tính toàn cầu,
ngăn chặn sự phát sinh của chủ nghĩa bá quyền khu vực, tăng cường ảnh hưởng tại
khu vực, trong đó gồm cả mục tiêu ngăn ngừa ảnh hưởng của Trung Quốc, Iran. Từ
những mục tiêu đề ra, Mỹ tiếp tục duy trì những mối liên hệ chính thức và phi chính
thức đối với khu vực này. Riêng Đông Nam Á, “Lợi ích chiến lược của Mỹ ở Đông
Nam Á là tập trung vào việc phát triển các quan hệ kinh tế, an ninh song phương và
29
khu vực, hỗ trợ ngăn chặn và giải quyết xung đột, tăng cường sự tham gia vào tiến
trình phát triển kinh tế của khu vực” [223].
Đối với Campuchia, “nếu nhìn nhận Campuchia như một thành viên đầy đủ
của ASEAN - một đối tác kinh tế lớn của Mỹ thì mối quan hệ song phương này giữ
một vai trò quan trọng trong việc giúp Mỹ duy trì sự dính líu toàn diện với ASEAN
nhằm đảm bảo tiếp cận với khu vực thị trường quan trọng này, một việc làm ngày
càng khó khăn đối với các quốc gia ngoài khu vực như Mỹ” [198;26]. Qua đó, có thể
nói Campuchia có tầm quan trọng trong chiến lược khu vực của Mỹ, đặc biệt là ý đồ
đưa ASEAN vào khu vực ảnh hưởng của Mỹ. Washington cũng đã thành lập nhóm
“Những người bạn của Campuchia” nhằm tạo ra sự ủng hộ quốc tế đối với chính
sách “can thiệp linh hoạt” của ASEAN. Một minh chứng cụ thể cho chiến lược này,
đó là sau sự kiện đảo chính tại Campuchia tháng 7/1997, chính quyền B.Clinton tuy
lên án việc loại trừ ông Ranarit (thuộc Đảng Mặt trận thống nhất dân tộc vì một nước
Campuchia Độc lập, Trung lập, Hòa bình và Thống nhất - FUNCINPEC) nhưng
không gọi đó là cuộc đảo chính, không công nhận Uong Hort là Thủ tướng thứ nhất
nhưng cũng không đòi trả lại chức vụ cũ cho Ranarit. Qua đó có thể thấy trọng tâm
chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Campuchia là tập trung vào việc giữ cho đất
nước này hòa bình, ổn định, dân chủ và phát triển trong khu vực. Quan trọng hơn là
không để Campuchia rơi vào “ốc đảo” của bất cứ một quốc gia nào trong khu vực.
Về kinh tế, Campuchia dựa nhiều vào viện trợ quốc tế, chiếm hơn một nửa
ngân sách nhà nước. Mỹ là nước viện trợ cho Campuchia lớn thứ ba sau Nhật Bản và
Australia. Năm 1992, Mỹ xóa bỏ lệnh cấm vận đối với Campuchia và thực hiện bình
thường hóa quan hệ với nước này. Đồng thời, Mỹ cho phép các công ty Mỹ ký hợp
đồng với Campuchia, mở văn phòng đại diện, ký Hiệp định thương mại với
Campuchia. Năm 1996, Tổng thống B.Clinton đã ký một đạo luật chính thức cho
Campuchia hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) [63;40-41], Mỹ cũng kêu gọi các tổ
chức tài chính quốc tế và Ngân hàng thế giới viện trợ cho Campuchia. Đồng thời,
Campuchia và Mỹ đã kí thỏa thuận song phương 3 năm về lĩnh vực công nghiệp dệt
may (ngày 21/1/1997), đem lại một hạn ngạch xuất khẩu cho Campuchia gồm 12 loại
sản phẩm trong lĩnh vực chủ lực này. Điều đó tạo ra động lực quan trọng cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của Campuchia, đặc biệt là đối với ngành dệt may - một ngành
kinh tế mũi nhọn của Vương quốc Campuchia. Trong 10 nước và vùng lãnh thổ có
30
vốn đầu tư lớn nhất vào Campuchia từ năm 1994 đến năm 1999 thì có đến 7 nước
châu Á, Mỹ là quốc gia đứng thứ hai về lượng vốn đầu tư vào Campuchia, chỉ sau
Malaysia, xếp trước Đài Loan, Singapore và Trung Quốc [201]. Theo báo cáo của
Ủy ban Tiếp nhận viện trợ quân sự nước ngoài trực thuộc Chính phủ Campuchia,
trong năm 1995, Mỹ là nước viện trợ quân sự nhiều nhất cho Campuchia, nhưng viện
trợ của Mỹ chỉ tập trung vào học thuật, hội thảo khoa học quân sự ở nước ngoài và
một số mặt hàng phục vụ hậu cần khoảng 12 triệu USD. Từ năm 1998 đến 2002, Mỹ
là thị trường lớn nhất đối với Campuchia và giá trị xuất khẩu hàng hóa từ Campuchia
sang Mỹ ngày càng tăng trong giai đoạn này
Bảng 1. Xuất khẩu của Campuchia (đơn vị tính: triệu USD)
Năm Tổng
XK
Hoa
Kỳ
Việt
Nam Singapore UK
CHLB
Đức
Thái
Lan
Trung
Quốc Pháp
Hồng
Kông
Hà
Lan
1998 933,5 292,9 175,9 133,0 24,9 71,8 77,0 42,2 12,2 26,8 6,7
1999 1040,2 235,8 106,8 181,7 53,4 40,4 18,5 8,9 20,7 38,3 9,5
2000 1222,6 739,7 19,4 18,0 81,6 66,0 22,9 23,8 27,7 7,3 20,5
2001 1295,8 832,2 24,5 28,0 126,3 98,7 7,6 16,7 35,0 4,5 25,7
2002 1697,7 1041,7 26,6 76,8 122,1 151,8 9,6 17,7 38,8 5,7 29,1
Nguồn: Key Indicators of Developing asian and Pacific Countries, ADB, 2003
Như vậy, quan hệ với Mỹ, Campuchia đã và đang được hưởng nhiều lợi ích,
đặc biệt mối quan hệ đó đã góp phần thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, nhận
được nhiều viện trợ từ bên ngoài, tạo điều kiện cho Campuchia mở rộng quan hệ đa
phương và song phương. Thế nhưng, quan hệ với Mỹ cũng sẽ đi liền với những áp
lực của việc đòi hỏi về cải cách chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, thực thi dân
chủ và đảm bảo nhân quyền ở trong nước. Hơn nữa, Mỹ cũng là nước thường xuyên
ủng hộ cho các đảng phái đối lập như Đảng Cứu quốc (CNRP), FUNCINPEC trong
cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đất nước với CPP. Do đó, dù muốn hay không,
Campuchia vẫn sẽ phụ thuộc rất nhiều vào Mỹ trên cả hai phương diện kinh tế và
chính trị. Và hiện nay, mặc dù có những nước vượt Mỹ trong việc cải thiện quan hệ
với Campuchia, nhưng do có sự phụ thuộc nhất định hoặc có quan hệ chặt chẽ với
Mỹ nên mức độ quan hệ của các đối tác trên với Campuchia cũng phải dựa vào
những động thái của Mỹ. Chính điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến chính sách đối
nội cũng như đối ngoại của Campuchia, nhất là trong điều kiện đấu tranh giữa các
phe phái chính trị tại Campuchia vẫn chưa chấm dứt, họ thường lấy yếu tố bên ngoài
31
để gây áp lực với Chính phủ lãnh đạo hiện tại, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ
ngoại giao của Campuchia với các nước trong khu vực, kể cả với Việt Nam.
Với Trung Quốc, sự phụ thuộc và chịu ảnh hưởng từ quốc gia này đối với
Campuchia lại càng lớn hơn trong bối cảnh Trung Quốc đang trỗi dậy và thực thi
chính sách ngoại giao nước lớn tại khu vực. Trong chính sách đối ngoại của mình,
Trung Quốc tuyên bố đối với CA-TBD là tạo lập môi trường hòa bình, ổn định nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho những nỗ lực phát triển và củng cố nội lực Trung Quốc, bởi
môi trường bên ngoài là một trong hai yếu tố cơ bản để Trung Quốc thực hiện thành
công công cuộc cải cách mở cửa. Nói cách khác, sự phát triển của Trung Quốc không
thể tách rời thế giới, sự phồn vinh và ổn định của thế giới cũng không thể tách rời
Trung Quốc. Vì vậy, mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực có ý nghĩa lớn đối
với mục tiêu đối ngoại “nước lớn có trách nhiệm” của Trung Quốc, thông qua những
phản ứng với cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997 - 1998, viện trợ và hợp
tác kinh tế, đề xuất sáng kiến về “an ninh mới” mà hạt nhân của khái niệm mới này
bao gồm sự tin tưởng lẫn nhau, các bên cùng có lợi, bình đẳng và hợp tác.
Hiện tại, Trung Quốc là nước có ảnh hưởng rất lớn ở Campuchia. Quốc gia
này liên tục duy trì ảnh hưởng tại đây bằng việc ủng hộ Chính phủ Liên hiệp và
tăng cường quan hệ với CPP do Thủ tướng S.Hunsen đứng đầu. Hành động này
chứng tỏ ý đồ của Trung Quốc là muốn lôi kéo Campuchia đi vào quỹ đạo của
mình, chi phối giới lãnh đạo Campuchia và buộc Campuchia phải phụ thuộc vào
Bắc Kinh trên mọi phương diện. Trong khi Mỹ đang cố gắng thực hiện nhiều biện
pháp nhằm lôi kéo Campuchia thì Trung Quốc đã triển khai các khoản viện trợ để
giành ảnh hưởng tại đây. Mặc dù chậm chân hơn Nhật Bản nhưng Trung Quốc với
những lợi thế khu vực và bằng sự khéo léo và linh hoạt trong các hoạt động ngoại
giao đã giúp nước này có chỗ đứng khá vững chắc tại một số nước trong khu vực
như Myanmar, Campuchia, Lào và kể cả Thái Lan... Cũng nằm trong chiến lược
thâm nhập Đông Nam Á thông qua sức hút kinh tế và gia tăng “quyền lực mềm”,
Bắc Kinh đã tuyên bố xóa khoản nợ 1 tỷ USD cho Phnom Penh, từ năm 2002,
Trung Quốc quyết định giảm hoặc miễn thuế cho 600 mặt hàng từ ba nước
Campuchia, Lào và Myanmar [164]. Quyết định này của Bắc Kinh nhằm mục tiêu
32
cải thiện quan hệ song phương với Campuchia - một điều vốn không dễ dàng bởi
lâu nay Trung Quốc chẳng mặn mà gì với chính quyền Phnom Penh.
Tính đến năm 2006, Trung Quốc đã cấp khoảng 600 triệu USD viện trợ về kinh
tế cho Campuchia, chủ yếu là để xây dựng đường sá, cầu cống và đập thủy điện. Riêng
năm 2008, Chính phủ Trung Quốc cam kết giúp điện khí hóa khu vực nông thôn của
Campuchia với khoản đầu tư 1 tỷ USD vào dự án xây dựng hai nhà máy thủy điện, khai
thác quặng mỏ trị giá khoảng 2 tỷ USD. Giai đoạn 2003 - 2007, Trung Quốc liên tục là
nhà đầu tư số 1 vào Campuchia. Cho đến tháng 12/2006, đã có hơn 230 doanh nghiệp
Trung Quốc đầu tư vào Campuchia, tập trung trong các lĩnh vực may mặc, điện lực,
khoáng sản, khách sạn… Để xúc tiến thương mại, Chính phủ Trung Quốc có chính sách
khuyến khích xuất khẩu hàng hóa sang Campuchia và đồng thời cũng tạo điều kiện cho
Campuchia xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc, đến nay Trung Quốc đã miễn giảm
với thuế suất bằng 0% cho 48 mặt hàng của Campuchia xuất khẩu sang Trung Quốc
[117]. Hiện nay, mối quan hệ giữa Campuchia với Trung Quốc được hai bên quan tâm
và đã nâng quan hệ từ “Đối tác tin cậy” lên “Đối tác chiến lược toàn diện”. Đầu tư của
Trung Quốc vào Camphuchia khoảng 8 tỷ USD, Trung Quốc đã cung cấp cho
Campuchia những khoản tài trợ không hoàn lại cùng với những khoản cho vay trị giá
hơn 2 tỷ USD và là nước tài trợ nhiều nhất cho Campuchia [17;13]. Có thể thấy, sự hiện
diện ảnh hưởng của Trung Quốc trong mọi lĩnh vực hoạt động từ kinh tế, văn hóa, xã
hội, quân sự... tại Campuchia là quá rõ ràng. Mặt khác, số lượng người nhập cư từ Trung
Quốc sang Campuchia ngày càng lớn. Theo ước tính, có khoảng 50 - 300.000 người mới
nhập cư vào Campuchia trong vai trò những người lao động, buôn bán nhỏ, chưa kể tới
con số không thể tính được ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa. Trung Quốc cũng hỗ trợ cho
Campuchia trong việc đào tạo giáo viên dạy tiếng Trung ở nước này mà theo báo cáo có
đến 75 trường ở Campuchia dạy tiếng Hoa với khoảng 40.000 học sinh. Các nhà quan
sát nước ngoài cho rằng, cùng với sự gia tăng đầu tư và viện trợ cho Campuchia, Trung
Quốc sẽ tiếp tục gia tăng ảnh hưởng về chính trị và tư tưởng [42;96-97]. Thực tế đó càng
chứng minh vai trò và sự tác động sâu sắc của nhân tố Trung Quốc đối với Campuchia
trên nhiều phương diện, kể cả trong đối nội lẫn đối ngoại.
Như vậy, quan hệ giữa Mỹ - Campuchia, Trung Quốc - Campuchia đã tác
động rất lớn đến nền ngoại giao của Campuchia. Sự cạnh tranh giữa các nước lớn tại
33
địa bàn này là một thách thức không nhỏ đối với chính quyền Campuchia. Nhiều nhà
lãnh đạo cho rằng Trung Quốc có quan hệ chặt chẽ với Campuchia hơn Mỹ. Chẳng
hạn “sự hợp tác của Hunsen đối với những sáng kiến chống khủng bố của Mỹ lại phụ
thuộc vào nổ lực của Chính phủ Campuchia trong việc tăng cường đầu tư và thương
mại của Trung Quốc. Mặc dù Mỹ cố gắng làm chệch nền ngoại giao thương mại của
Trung Quốc, song Bắc Kinh liên tục vạch ra những biện pháp thống nhất về mặt kinh
tế và văn hóa với Campuchia, kể cả việc thông qua các nhà thầu có thế lực của
người Trung Quốc. Hiện nay tại Campuchia số người nói tiếng Anh giảm hơn so với
số người nói tiếng Trung Quốc. Campuchia là nước có trường dạy tiếng Trung Quốc
lớn nhất khu vực Đông Nam Á” [156]. Như vậy, sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung
Quốc cũng như chính sách ngoại giao toàn cầu và khu vực của hai nước lớn này đã
ảnh hưởng sâu sắc không chỉ đối với nền kinh tế Campuchia, mà còn tác động lớn
đến việc đưa ra chính sách đối ngoại của Campuchia.
Có thể thấy rằng “Hơn bất kỳ quốc gia Đông Nam Á nào, Campuchia tự thấy
mình đang bị kẹp giữa nước Mỹ đang cạnh tranh và những đề nghị ngoại giao của
Trung Quốc. Với việc Oasinhton đưa ra những sáng kiến chiến lược song phương và
sự giúp đỡ đầy hào phóng về tài chính của Bắc Kinh, Thủ tướng Campuchia Hunsen
đã khéo léo cân bằng nền ngoại giao của mình giữa hai siêu cường nhằm mang lại
lợi thế chính trị cho đất nước” [4]. Điều này thực sự ảnh hưởng đến nền ngoại giao
của Campuchia và ảnh hưởng đến mối quan hệ của Campuchia với các nước láng
giềng, trong đó có Việt Nam.
Trong những năm gần đây, Campuchia ưu tiên phát triển kinh tế đối ngoại với
Mỹ, Trung Quốc và các nước phương Tây, Nhật Bản nên cũng rất khó để thúc đẩy
quan hệ kinh tế với Việt Nam. Chẳng hạn, Tập đoàn dầu khí Việt Nam đã tiếp cận
với Campuchia từ năm 2004 về khả năng hợp tác thăm dò khai thác dầu khí nhưng
Campuchia vẫn tỏ ra thờ ơ trong khi lại ký kết các hợp đồng hợp tác với các công ty
của Mỹ và Trung Quốc. Cụ thể, Công ty Dầu mỏ Thần Châu (Trung Quốc) đã giành
được quyền thăm dò khai thác dầu khí ở lô D với diện tích 360 km2 biển Campuchia
và theo kết quả thăm dò công bố tháng 4/2007 lô D có trữ lượng 226 triệu 880 nghìn
thùng dầu và 140,5 triệu m3 khí đốt. Thần Châu đã trở thành công ty sở hữu lô D kế
tiếp sau Công ty Chevron của Mỹ (lô A), Công ty Dầu khí Hải Dương (Trung Quốc)
34
cũng giành được quyền thăm dò khai thác lô F. Một thực tế nữa là trong lúc ngoài
biển Đông, Trung Quốc làm cho các nước trong khu vực, đặc biệt là Philippines và
Việt Nam lo ngại về tấm hải đồ tự vẽ “hình chữ U” thì “trên bộ, sát biên giới phía
Tây của Việt Nam, Trung Quốc lại từng bước tiến hành chiến lược nắm chính quyền
chi phối các nước từng nằm trong vòng ảnh hưởng của Việt Nam là Lào và
Campuchia. Ngoài lợi ích trong thương mại và khai thác tài nguyên, Trung Quốc
đến Campuchia vì mục tiêu chiến lược. Do vì khi tranh chấp giữa Việt Nam và Trung
Quốc trên vùng biển Đông giàu dầu khí, Trung Quốc muốn Campuchia trở thành
một quốc gia phục tùng Trung Quốc, Trung Quốc coi Campuchia như một vành đai
an ninh trong vùng” [213].
Với những tuyên bố và hành động đang hiện hữu, thì xu hướng tiến xuống
Tây Nam của Trung Quốc dần rõ ràng hơn, quá trình “lấy lòng” nhiều nước trong
khu vực và “phô trương” sức mạnh khổng lồ đang thực sự trở thành “mối đe dọa”
đối với tất cả các nước, làm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới các mối quan hệ
song phương, đa phương tại khu vực.
Từ thực tế trên cho thấy, CA-TBD nói chung và Đông Nam Á nói riêng sẽ tiếp
tục là địa bàn chiến lược tranh chấp ảnh hưởng giữa các nước lớn, đặc biệt là Trung
Quốc, và Mỹ. Ngoài ra, còn có những tác động của một số cường quốc khác như Ấn Độ,
EU… kể cả Thái Lan và ASEAN nhưng mức độ không đáng kể. Riêng đối với
Campuchia, mặc dù sự gia tăng ảnh hưởng của Mỹ, Nhật Bản đối với nước này có tăng
lên nhưng không đủ lớn để có thể áp đảo Trung Quốc do những thuận lợi mà Trung
Quốc có được về điều kiện địa lý, tiềm lực kinh tế, chiến lược ngoại giao… Dù muốn
hay không, Campuchia vẫn nằm trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc trên mọi
phương diện. Và như vậy, quan hệ giữa Campuchia với Việt Nam không thể tách rời
những ảnh hưởng của các nhân tố nước lớn, đặc biệt là Trung Quốc và Mỹ.
Nói tóm lại, nhân tố Mỹ và Trung Quốc có ảnh hưởng trái chiều, cả tích cực
lẫn tiêu cực. Một mặt, có tác dụng thúc đẩy quan hệ Campuchia - Việt Nam phát
triển hơn nữa nhằm đối phó với sự áp đặt thách thức từ bên ngoài, mặt khác làm cho
mối quan hệ này trở nên khó khăn hơn từ những tác động không mong muốn. Những
chính sách đối nội hay đối ngoại của chính quyền Phnom Penh đều chịu một phần sự
chi phối của các nước lớn không chỉ đơn thuần về kinh tế mà cả chính trị, nhất là từ
35
phía Mỹ và Trung Quốc. Điều này càng làm phức tạp thêm tình hình chính trị nội tại
và trở thành một thách thức không hề nhỏ trong quá trình hoạch định cũng như thực
thi chiến lược ngoại giao của Campuchia, trong đó có chính sách đối ngoại dành cho
Việt Nam.
1.2. Bối cảnh quốc tế và khu vực
Bối cảnh quốc tế: Chiến tranh lạnh kết thúc và sự sụp đổ trật tự hai cực Yalta
(1991) đã tác động to lớn đến quan hệ quốc tế, các cường quốc tìm kiếm con đường
để từng bước xác lập vị thế của mình. Mỹ - siêu cường duy nhất còn lại vẫn cố gắng
duy trì sức mạnh hàng đầu thế giới, các cường quốc còn lại muốn vươn lên nắm giữ
vai trò lớn hơn trong quan hệ quốc tế, một trật tự thế giới “nhất siêu đa cường” từng
bước được hình thành. Điều cần nhấn mạnh là trật tự này được xây dựng dựa trên cơ
sở kinh tế - chính trị chứ không phải dựa trên sự đối đầu về sức mạnh quân sự giữa
hai siêu cường Xô - Mỹ như trước đây, trong đó lấy phát triển kinh tế làm chiến lược
trọng tâm của mỗi quốc gia trở thành xu thế chủ đạo. Trong trật tự thế giới mới, các
nước đang và sẽ chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hòa hoãn, bình thường hóa, đa
dạng hóa và đa phương hóa quan hệ quốc tế phù hợp với xu thế mới trên thế giới.
Bên cạnh đó, xu thế liên kết quốc tế, khu vực hóa, toàn cầu hóa đang ngày càng trở
thành xu thế áp đảo trong quan hệ kinh tế quốc tế. Minh chứng cho điều này là quá
trình mở rộng và phát triển mạnh mẽ của hàng loạt tổ chức quốc tế, khu vực như:
Liên minh châu Âu (EU), Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA); Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế CA-TBD (APEC), Nhóm
BRICS (Barazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi)… Tính liên kết chặt chẽ hơn,
phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng về nhiều mặt.
Rõ ràng là với việc tham gia hàng loạt các thể chế hợp tác khu vực và quốc tế của
Campuchia và Việt Nam như ASEAN, APEC... đã có vai trò quan trọng thúc đẩy và mở
rộng quan hệ giữa hai nước. Hay nói cách khác, những cơ chế hợp tác trong đa phương
có khi lại mang tính ràng buộc lớn hơn những ký kết song phương, và như vậy, quan hệ
Campuchia - Việt Nam cũng được đặt trong những mối ràng buộc lợi ích của quan hệ
khu vực và liên khu vực và nằm trong chuỗi mắt xích của quan hệ đa chiều trong bối
cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa. Do đó, quan hệ Campuchia - Việt Nam đã và đang chịu
tác động sâu sắc bởi hàng loạt các nhân tố chính trị, kinh tế và quan hệ quốc tế.
36
Mặt khác, thế giới ngày nay đang bước vào kỷ nguyên số, một “thế giới
phẳng” đang từng bước được hình thành và phát triển nhanh hơn, nơi mà các dịch vụ
điện tử viễn thông, công nghệ vũ trụ, sóng điện từ đã đưa loài người kết nối lại gần
nhau, các quốc gia trên thế giới liên kết với nhau bằng mạng lưới thông tin dày đặc
đã tạo nên tần suất quan hệ quốc tế rộng mở và không có giới hạn. Hoạt động mạnh
mẽ của các công ty xuyên quốc gia, công ty đa quốc gia đã làm cho quá trình luân
chuyển hàng hóa trên thế giới diễn ra một cách nhanh chóng, với quy mô và tốc độ
lớn đã làm cho các nền kinh tế dù lớn hay nhỏ đều phụ thuộc chặt chẽ vào nhau, quy
định, chi phối lẫn nhau trong các mối quan hệ đa chiều, phức tạp. Điều này đã mở ra
cơ hội to lớn cho quá trình hội nhập và phát triển của các quốc gia, dân tộc trên khắp
thế giới, nhất là các nước đang phát triển, tiến hành cải cách, đổi mới như
Campuchia và Việt Nam cũng như làm cho quan hệ hai nước được mở rộng dưới
nhiều hình thức, đa dạng trên các lĩnh vực hợp tác.
Tuy nhiên, bên cạnh những dấu hiệu lạc quan về một thế giới mới với nhiều
tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại, “các nhà tương lai học phân tích tình hình
toàn cầu không khỏi lo ngại về những về những bất ổn đang và sẽ xảy ra. Sự thiếu
hụt về thực phẩm, nước uống, ô nhiễm các xung đột chính trị gay gắt, nạn bùng nổ
dân số hoặc hiện tượng đô thị hóa một cách mất trật tự… là những mối lo hàng đầu
đối với nhiều chính phủ” [106;9]. Nền an ninh - chính trị thế giới vẫn diễn tiến trong
trạng thái phức tạp khó lường, nhiều điểm nóng trên thế giới ngày càng xuất hiện và
lan rộng. Sau chiến tranh Afghanistan, Iraq là cuộc cách mạng “Mùa xuân Ả rập”
diễn ra tại châu Phi đã kéo một loạt quốc gia tại lục địa đen vào vòng xoáy chiến
tranh đẫm máu như ở Lybia, Ai Cập,… Ở châu Âu, cuộc khủng hoảng nợ công của
nhiều quốc gia thuộc khu vực đồng tiền chung EURO (Hy Lạp, Bồ Đào Nha,…) đã
đẩy tình hình kinh tế “lục địa già” vào sự khủng hoảng, khó khăn và làm ảnh hưởng
sâu sắc đến tình hình kinh tế thế giới. Nước Mỹ, siêu cường duy nhất cũng có những
dấu hiệu của sự sụt giảm về kinh tế, theo sau đó là Nhật Bản, nền kinh tế được xem
là vững mạnh cũng gặp nhiều khó khăn sau động đất sóng thần, Trung Quốc đang
phát triển mạnh mẽ nhưng có những dấu hiệu không bền vững của nền kinh tế. Khu
vực Đông Nam Á đang trên đà phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những khu
vực năng động nhất thế giới. Tuy nhiên, sự bất ổn trong lòng các quốc gia tại khu
37
vực này không phải là nhỏ, ví dụ các cuộc bạo động ở Philippines, sự bất ổn chính trị
tại Thái Lan, tranh chấp biên giới giữa các quốc gia… tất cả điều đó đã kéo theo
những nguy cơ bất ổn của nền kinh tế toàn cầu khó đoán định trước. Bên cạnh đó,
vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên và quan hệ hai miền Nam - Bắc Triều vẫn
chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, căng thẳng xung quanh chương trình hạt nhân của Iran có
thể bùng lên thành cuộc chiến tranh giữa phương Tây với quốc gia Hồi giáo này. Vấn
nạn khủng bố hiện nay cũng được xem là một nguy cơ nghiêm trọng đối với nền an
ninh của nhân loại, mặc dù cộng đồng quốc tế đã ra sức loại bỏ các nhóm khủng bố
cực đoan, song con số đó là rất nhỏ bé so với thực tế tồn tại của mạng lưới này.
Ngoài ra, xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, liên minh quốc tế bên cạnh những
tác động tích cực cũng đã tạo ra những hệ quả tiêu cực cho cộng đồng thế giới, nhất
là các quốc gia chậm phát triển. Đói nghèo, bệnh tật, hủy hoại môi trường là những
tác hại to lớn mà loài người đang phải đối mặt trong tiến trình vừa đẩy mạnh phát
triển kinh tế - xã hội nhưng lại không tính đến việc cân đối hài hòa môi trường sống.
Vấn đề an ninh quốc gia càng trở nên khó khăn hơn khi việc ngăn chặn các luồng tội
phạm, hạn chế sự gia tăng của nguy cơ an ninh phi truyền thống trong một môi
trường mà ở đó những quyền cơ bản của con người và lợi ích số đông không được
tôn trọng và đảm bảo.
Như vậy, cục diện thế giới chủ yếu do các nước lớn chi phối, song các nước
đang phát triển vẫn tiếp tục tăng cường hợp tác trong nhiều diễn đàn để bảo vệ lợi ích
chung. Xu thế của một thế giới mà tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày
càng đậm nét, quá trình toàn cầu hóa đi đôi với khu vực hóa diễn biến với nhịp độ
ngày càng nhanh. Tình hình đó đặt ra cho các nước vừa cả cơ hội lẫn thách thức,
trong đó các nước đang phát triển và chậm phát triển phải chịu nhiều thách thức gay
gắt hơn. Rõ ràng sự phát triển của thế giới nằm trong một tổng thể với mối liên quan
chặt chẽ và sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chủ thể này với chủ thể khác. Trong
điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ đạt được những thành tựu vượt bậc
“không ai có thể phủ nhận vai trò của các nước công nghiệp phát triển cao, nhưng
sự phát triển của nền kinh tế thế giới như một tổng thể có được nếu không có sự
tham gia tích cực của các nước đang phát triển chiếm số đông trong cộng đồng các
quốc gia dân tộc” [85].
38
Trước những biến đổi sâu sắc của thế giới và khu vực, Campuchia và Việt
Nam cũng không nằm ngoài xu thế phát triển chung và cũng chịu những tác động
thuận chiều cũng như trái chiều của tình hình quốc tế. Vì vậy, phát triển quan hệ láng
giềng hữu nghị Campuchia - Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm nhằm đáp ứng yêu cầu
đổi mới và xây dựng đất nước trong thời kỳ mới.
Bối cảnh khu vực: “Thế kỷ XXI là thế kỷ của CA-TBD” là nhận định của
nhiều nhà nghiên cứu chiến lược đã chứng tỏ rằng khu vực này trong thế kỷ XXI sẽ
trở thành đầu tàu trong phát triển kinh tế quốc tế. Sau Chiến tranh lạnh, các quốc
gia trong khu vực, kể cả nước lớn và nhỏ đều từng bước điều chỉnh chính sách đối
ngoại nhằm đem lại lợi ích cho bản thân mỗi nước. Cần thấy rằng, sau khi CNXH
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, nước Nga bị rơi vào khủng hoảng và chưa thể cải
thiện một cách đầy đủ sức mạnh của mình. Điều này đã góp phần tạo nên một
“khoảng trống quyền lực” và sự tranh giành “ảnh hưởng” giữa các quốc gia. Sau
Mỹ, các cường quốc như Trung Quốc, Nhật Bản đã nhân cơ hội này muốn lấp vào
“lỗ hổng” đó để xây dựng vị thế và khẳng định sức mạnh của mình. Tuy nhiên, dù
ở mức độ tham gia như thế nào và có thể còn tồn tại những bất đồng, mâu thuẫn thì
các cường quốc ở khu vực CA-TBD vẫn phải tính đến lợi ích của quốc gia - dân
tộc, và như thế cần đảm bảo sự ổn định, hòa bình của khu vực để tạo đà cho phát
triển kinh tế. Chính những mối quan hệ song phương hay đa phương mang tính xây
dựng giữa các nước và giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình đã mang
lại cho CA-TBD điều kiện để phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Đối
với Đông Nam Á, trong thời gian gần đây, tốc độ tăng trường kinh tế và sự ổn định
về mọi mặt của các quốc gia thành viên đóng vai trò chủ đạo, tạo động lực quan
trọng thúc đẩy ASEAN trở thành một liên kết khu vực năng động và hiệu quả. Mặc dù
còn nhiều khó khăn phải giải quyết, song nhìn chung khu vực Đông Nam Á hiện nay
vẫn là khu vực có sự phát triển hài hòa, hữu nghị và ổn định.
Tuy nhiên, khu vực CA-TBD nói chung và Đông Nam Á nói riêng vẫn tiềm
ẩn nhiều nguy cơ có thể gây ra khủng hoảng chính trị và làm bất ổn định trong khu
vực. Sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc với việc phô trương sức mạnh ra bên
ngoài đã làm cho tình hình biển Đông trở nên căng thẳng, điều đó khiến các quốc gia
trong khu vực thực hiện biện pháp bảo vệ chủ quyền lãnh hải bằng quá trình hiện đại
39
hóa nền an ninh quốc phòng, tăng cường tiềm lực quân sự, nhất là sức mạnh hải quân
nhằm đối phó với Trung Quốc ở biển Đông. Vấn đề Triều Tiên có xu hướng căng
thẳng và tiềm ẩn nguy cơ đe dọa an ninh, ổn định khu vực. Tại một số quốc gia Đông
Nam Á như Thái Lan, Philippines, Myanmar, Campuchia… nền chính trị cũng có
dấu hiệu không ổn định, nhiều phong trào đấu tranh giữa các phe phái chính trị diễn
ra liên tục đã dấy lên sự lo ngại cho toàn khu vực, làm gia tăng nguy cơ sụp đổ của
một số chính quyền. Không những thế, khu vực này đang ngày càng bộc lộ sự cạnh
tranh quyền lực hết sức gay gắt của các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc.
Ngoài ra, sự đa dạng về thể chế chính trị, tôn giáo, văn hóa càng làm cho quan hệ
giữa các nước thêm phần phức tạp. Chính những nhân tố này có thể gây bất ổn tình
hình chính trị, an ninh tại khu vực trong tương lai gần.
Có thể khẳng định, Campuchia và Việt Nam là những quốc gia nằm trong khu
vực và với việc tham gia các diễn đàn đa phương ở khu vực, quan hệ hai nước phải
được xem xét trong mối quan hệ tác động nhiều chiều từ khu vực CA-TBD nói
chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng. Các xu hướng hợp tác và cạnh tranh quốc
tế, nhất là cạnh tranh Mỹ - Trung, Nhật - Trung... ở Đông Nam Á đã kéo theo nhiều
hệ lụy, trong đó Campuchia và Việt Nam là những điểm xoáy của những tranh chấp
này. Do đó, quan hệ Campuchia - Việt Nam không thể vượt ra ngoài sự tác động và
chi phối về mọi mặt của bối cảnh quốc tế và khu vực.
1.3. Nhu cầu và chính sách đối ngoại của Campuchia và Việt Nam
1.3.1. Nhu cầu hợp tác của hai nước
Thế giới đang đứng trước những thay đổi và thách thức khó lường. Xu thế hòa
bình hợp tác đang và sẽ trở thành xu hướng cơ bản của thời đại, song trong quan hệ
quốc tế vẫn không tránh khỏi những va chạm và căng thẳng giữa hai quốc gia hay
nhiều quốc gia, kể cả khu vực. Do đó, hợp tác song phương và đa phương không chỉ
đem lại lợi ích kinh tế thiết thực cho mỗi nước mà còn góp phần đảm bảo chắc chắn
hơn về an ninh - quốc phòng cho các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Thấu
hiểu được vấn đề này, Campuchia và Việt Nam luôn xem hợp tác toàn diện hai nước
là nhu cầu cấp thiết và quan trọng hàng đầu nhằm củng cố an ninh - chính trị, ổn định
để phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới.
40
Nhu cầu quan hệ hợp tác Campuchia - Việt Nam được hình thành trong lịch
sử, nhất là trong các thời kỳ cả hai dân tộc bị ngoại bang xâm lược và cai trị, nhân
dân hai nước đã chủ động liên minh trong chiến đấu bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh
thổ. Có những thời kỳ Campuchia và Việt Nam đã bị các thế lực lợi dụng gây chia
rẽ. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược Đông Dương thường sử dụng lãnh thổ
của nước này làm bàn đạp tấn công xâm lược nước kia, kích động nước này chống
lại nước khác. Chẳng hạn, ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ mà thực dân Pháp chiếm năm
1862 đã trở thành bàn đạp để Pháp tấn công xâm lược Campuchia (1863). Và từ
Campuchia, thực dân Pháp đã tiếp tục mở rộng xâm lược và hoàn thành thôn tính
Việt Nam (1884). Hoặc việc Mỹ lật đổ chính phủ trung lập ở Campuchia và đưa
quân đội Việt Nam Cộng hòa (miền Nam Việt Nam) sang đánh chiếm mở rộng chiến
tranh tại Campuchia và tiến tới thực hiện chiến lược “Đông Dương hóa chiến tranh”
cũng là một âm mưa nguy hiểm nhằm chia rẽ người Campuchia và Việt Nam.
Đến thời kỳ Khmer Đỏ, giới cầm quyền Bắc Kinh giật dây lực lượng này
chống lại người anh em Việt Nam trước đó đã đồng cam cộng khổ bằng việc “kích
động Campuchia và Lào chống lại Việt Nam, biến Campuchia thành một thuộc địa,
một bàn đạp để tấn công xâm lược Việt Nam, thực hiện kế hoạch dùng “người Đông
Dương đánh người Đông Dương” hơn thế nữa “đánh Việt Nam đến người Khơme
cuối cùng” [97;46-47]. Những sự kiện trên đã để lại tổn thất nặng nề cho nhân dân
hai nước, làm cho hai dân tộc có những hiểu lầm đáng tiếc. Nhưng cũng chính thời
kỳ này lại cho thấy nhu cầu hợp tác và đoàn kết chặt chẽ của hai dân tộc đã đem lại
những thắng lợi và thành quả lớn lao cho cách mạng mỗi nước và toàn bán đảo Đông
Dương. Chiến thắng thực dân Pháp xâm lược (1945 -1954), đánh bại hoàn toàn đế
quốc Mỹ (1954 - 1975) và xóa bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng Polpot - Ieng Sary là
biểu hiện cao đẹp của tình đoàn kết “giúp bạn là tự giúp mình” giữa hai nước
Campuchia - Việt Nam. Việc thành lập khối liên minh chiến đấu Campuchia - Việt
Nam - Lào có một ý nghĩa lớn lao, khẳng định sự “thất bại sâu cay của đế quốc xâm
lược trong chính sách lừa phỉnh, gây thù hằn dân tộc của chúng. Nhưng đó lại là
một thắng lợi chính trị trọng yếu của ba dân tộc, đẩy thêm một đà mới cho cuộc
kháng chiến Việt - Miên - Lào đến toàn thắng” [79].
41
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, đứng trước những thuận
lợi và khó khăn của tình hình khu vực và thế giới, nhu cầu hợp tác Campuchia - Việt Nam
càng trở nên thiết thực hơn nhằm bảo vệ và phát huy những thành quả đã đạt được.
Về phương diện kinh tế, là hai quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, có vị trí
địa lý liền kề, do đó, hợp tác kinh tế giữa hai nước đã đưa lại những lợi ích quan trọng.
Campuchia với dân số khoảng 14,31 triệu người, Việt Nam có gần 87,84 triệu dân (theo
WB năm 2011) với mức sống, phong tục tập quán khá tương đồng sẽ tạo điều kiện cho
việc mở rộng giao lưu buôn bán giữa hai nước. Trong mối quan hệ kinh tế này,
Campuchia rất cần sự hỗ trợ, hợp tác và kinh nghiệm của Việt Nam, nhất là tranh thủ
những lợi thế của Việt Nam về thị trường, vốn đầu tư, vận chuyển hàng quá
cảnh…Ngược lại, mặc dù không phải là đối tác kinh tế lớn của Việt Nam, song
Campuchia là thị trường giàu tiềm năng có thể khai thác, sự gần kề về mặt địa lý sẽ giúp
Việt Nam tận dụng những lợi thế của Campuchia về đất đai, khoáng sản, tài nguyên
thiên nhiên, thủy điện… Hơn nữa, nhu cầu hợp tác kinh tế giữa hai nước không chỉ bó
hẹp trong khuôn khổ song phương mà còn mở rộng ra trong đa phương, nhất là trong
khu vực ASEAN, GMS, Tam giác Phát triển ba nước Đông Dương… Vì vậy, sự cân
nhắc về lợi ích kinh tế không tể tách rời quan hệ Campuchia - Việt Nam.
Về phương diện an ninh - chính trị, lịch sử đã chứng minh Campuchia và Việt
Nam có lợi ích căn bản và sống còn trong việc duy trì và phát triển quan hệ với nhau.
Là hai quốc gia có biên giới liền kề, Campuchia và Việt Nam hiểu được giá trị “môi
hở răng lạnh”, nếu một nước bất ổn thì sẽ kéo theo nước kia không được ổn định và
ngược lại. Thêm vào đó, vấn đề hợp tác an ninh - chính trị có tác động trực tiếp đối
với mỗi nước, nhất là các địa phương giáp ranh. Trong quan hệ an ninh - chính trị
với Việt Nam, Campuchia nhận được rất nhiều lợi ích của việc chia sẻ, giúp đỡ từ
phía Việt Nam, đặc biệt đây là chỗ dựa quan trọng để Campuchia cân bằng chiến
lược trong quan hệ với các nước khác. Đối với Việt Nam, Campuchia là địa bàn
chiến lược quan trọng trên cả ba mặt chính trị, an ninh quốc phòng, kinh tế.
Campuchia là nơi tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn, cũng là nơi các thế lực
phản động thường lợi dụng để chống phá Việt Nam, vì vậy, xây dựng quan hệ tốt đẹp
về an ninh - chính trị với Campuchia góp phần to lớn vào sự nghiệp bảo vệ và xây
dựng tổ quốc. Mặt khác, việc tăng cường quan hệ hợp tác an ninh - chính trị là nhu
42
cầu tất yếu để nâng cao vị thế của mỗi nước trên trường quốc tế cũng như duy trì môi
trường hòa bình, ổn định trong toàn khu vực.
Như vậy, cả Campuchia và Việt Nam đều có nhu cầu duy trì một môi trường
hòa bình, ổn định để tập trung xây dựng và phát triển kinh tế. Những yếu tố về địa lý,
lịch sử, văn hóa - xã hội và sự song trung về lợi ích đã thúc đẩy hai nước xích lại gần
nhau và cần có nhau trong một kỷ nguyên hội nhập và phát triển bền vững.
1.3.2. Chính sách đối ngoại của Campuchia
Giải pháp chính trị năm 1993 đã đưa lại cục diện tương đối ổn định cho đất
nước Campuchia sau một thời gian dài bị chia rẽ sâu sắc. Cuộc bầu cử Quốc hội
(1993) dưới sự giám sát của UNTAC và cộng đồng quốc tế đã mang lại kết quả khả
quan, FUNCINPEC và CPP giành thắng lợi đã dẫn tới việc Chính phủ Liên hiệp
Hoàng gia Campuchia nhiệm kỳ I (1993 - 1998) được thành lập và đi vào hoạt động .
Đây cũng chính là sự kiện đánh dấu việc khôi phục của nhà nước quân chủ lập hiến
Campuchia và một Hiến pháp mới được ra đời.
Về đối nội, Hiến pháp Campuchia quy định “Vương quốc Campuchia thực
hiện chế độ chính trị dân chủ, tự do, đa đảng”. Trong chiến lược đối ngoại, điều 53
của Hiến pháp mới ghi rõ: “Vương quốc Campuchia luôn giữ vững chính sách trung
lập, thường xuyên không liên kết, cùng chung sống hòa bình với các nước láng giềng
và với tất cả các nước trên thế giới, tuyệt đối không xâm lược bất cứ nước nào,
không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác bằng cách trực tiếp hoặc
gián tiếp, giải quyết mối bất đồng bằng con đường hòa bình và tôn trọng lợi ích lẫn
nhau” [56;53]. Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Liên hiệp Hoàng gia
Campuchia nhiệm kỳ I, trong giai đoạn đầu sau cuộc bầu cử, tình hình xã hội
Campuchia về cơ bản đã được ổn định. Chính điều này đã tạo nền tảng quan trọng
giúp Campuchia từng bước thực thi chính sách ngoại giao hòa bình, nâng cao vị thế
quốc gia trên trường quốc tế. Nói chung, sau nhiều năm phải chịu cảnh chiến tranh
và bất đồng sâu sắc, nhân dân Campuchia hiểu rõ cần phải làm gì để đưa đất nước
thoát khỏi sự bất ổn và đói nghèo, hội nhập vào đời sống quốc tế. Vì vậy “thực hiện
chính sách trung lập, không liên kết vĩnh viễn, không xâm lược hoặc không can thiệp
vào công việc nội bộ của các nước khác”, đồng thời “Campuchia chú trọng quan hệ
43
với các nước lớn, các nhà tài trợ và các nước láng giềng” [222] là phù hợp với
mong muốn của nhân dân Campuchia.
Bước sang nhiệm kỳ II (1998 - 2003) của Chính phủ Hoàng gia Campuchia,
về cơ bản Campuchia vẫn duy trì, khẳng định và thực thi những nội dung chính sách
của Chính phủ nhiệm kỳ I. Trong nhiệm kỳ III (2003 - 2008), chính sách đối ngoại
của Chính phủ là tiếp tục nhiệm vụ thời kỳ trước đó và nâng cao một bước chính
sách đối ngoại hợp tác thân thiện của Campuchia với cộng đồng quốc tế. Trọng tâm
nhiệm vụ về đối nội của Campuchia là “ổn định chính trị, phát triển kinh tế, giữ
vững chính sách hòa bình, trung lập” [98;559 ]. Cũng trong chương trình hành động
73 điểm và “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội”, Hội đồng Bộ trưởng Campuchia
đã nêu lên nhiệm vụ chủ chốt của Campuchia trong thời gian tới là “Tăng trưởng,
việc làm, công bằng và hiệu quả” coi đây là “kim chỉ nam hành động trong nhiệm kỳ
III nhằm “xây dựng một nước Campuchia phát triển thịnh vượng, đem lại hòa hợp
dân tộc và hạnh phúc cho mọi người dân” [155]. Về đối ngoại, chiến lược ngoại giao
nhất quán của Campuchia là nâng cao hơn nữa uy tín quốc gia trên trường quốc tế,
tăng cường tham gia vào các công việc chung của khu vực và cộng đồng quốc tế.
Cương lĩnh chính trị của Chính phủ Hoàng gia Campuchia nhiệm kỳ III nhấn mạnh:
“phát huy ưu tiên trong yếu tố quốc tế để thúc đẩy việc phát triển kinh tế, xã hội và
nâng cao đời sống của nhân dân ngày càng phồn vinh, thịnh vượng, hiện đại và tăng
cường bảo vệ tổ quốc bằng việc ra sức củng cố, phát triển hợp tác quốc tế trên cơ sở
song phương và đa phương, đặc biệt là các nước trong Hiệp hội ASEAN. Chính phủ
giữ vững chính sách đối ngoại độc lập, trung lập, không liên kết và cố gắng củng cố
quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới, không can thiệp
vào công việc nội bộ, tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi bên, để
hai bên cùng có lợi và để phát triển kinh tế, kỹ thuật, khoa học của mỗi nước” [225].
Tiếp đó, trong chương trình hành động “Chiến lược tứ giác” phát triển của Chính
phủ Hoàng gia Campuchia nhiệm kỳ IV, giai đoạn II (từ năm 2008 đến năm 2013) đã
khẳng định: “Chính phủ Hoàng gia sẽ tiếp tục hợp tác hữu hảo với cộng đồng quốc
tế để bảo vệ và gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế, ngoài ra ngăn chặn và bắt giữ
khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia như buôn người và ma túy” [26;12]. Qua đó
cho thấy chính sách đối ngoại của Vương quốc Campuchia thời kỳ đổi mới đi lên
44
mang dấu hiệu tích cực của một quốc gia đang trên đà phát triển, không ngừng hoàn
thiện để hội nhập với khu vực và quốc tế một cách toàn diện hơn.
Đối với Việt Nam, quốc gia láng giềng của Campuchia, đất nước đã từng giúp
đỡ Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng Khmer Đỏ, sau cuộc Tổng tuyển cử năm
1993, Nhà nước và nhân dân Campuchia luôn dành cho Việt Nam một vị trí quan
trọng trong chính sách đối ngoại của mình. Phát huy tình đoàn kết cách mạng trước
đây, trong giai đoạn mới, Campuchia hết sức coi trọng quan hệ với nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam, coi đó là một phần tất yếu nhằm giữ vững ổn
định và phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. Mục tiêu của Campuchia trong chính
sách đối với Việt Nam là đảm bảo quan hệ hòa bình, ổn định tạo môi trường thuận
lợi cho phát triển kinh tế, hợp tác hữu nghị đôi bên cùng có lợi, giữ vững an ninh
quốc phòng vì lợi ích của mỗi nước và khu vực.
Trong phát biểu của Quốc vương Shihanouk ngày 8/8/1995 nhân chuyến thăm
hữu nghị chính thức của Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam Lê Đức Anh, có
đoạn nhấn mạnh “Tình hữu nghị anh em và rất lâu đời gắn bó hai nước chúng ta
phục vụ lợi ích cao cả và sinh tử của nhân dân hai nước và là một nhân tố thiết yếu
của sự ổn định, hòa bình và thịnh vượng cho cả khu vực rộng lớn, nơi chúng ta vĩnh
viễn ở sát bên nhau” [84]. Lời phát biểu đó cho thấy quan hệ với Việt Nam trong
chính sách ngoại giao của Campuchia vô cùng quan trọng nếu không nói là một
trong những ưu tiên hàng đầu.
Mặc dù còn nhiều khó khăn và thách thức, nhất là khuynh hướng chính trị hai
bên khác nhau, đồng thời nhiều đảng phái tại Campuchia vẫn có thái độ thù địch với
Việt Nam, nhưng vượt lên trên tất cả vẫn là đường lối đối ngoại tích cực và hữu nghị
của lãnh đạo và nhân dân Campuchia dành cho Việt Nam. Trong Tuyên bố chung
Campuchia - Việt Nam (11/6/1999), đã nêu rõ: “Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, không cho phép bất cứ lực lượng chính trị - quân sự nào
dùng lãnh thổ của nước mình để chống nước kia và hợp tác bình đẳng cùng có lợi. Hai
bên thỏa thuận cùng nhau ngăn ngừa những mưu toan phá hoại quan hệ hữu nghị
truyền thống giữa hai dân tộc, và trực tiếp cùng nhau giải quyết mọi vấn đề nảy sinh
bằng thương lượng hòa bình vì lợi ích của nhân dân hai nước” [88]. Điều này một lần
45
nữa khẳng định lập trường của chính sách ngoại giao của Campuchia đối với Việt
Nam là gắn bó, ủng hộ lẫn nhau và mong muốn thiết lập quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu
dài với Việt Nam. Trên đà thắng lợi của công cuộc đổi mới và phát triển của mỗi
nước, Campuchia tiếp tục đưa ra chiến lược quốc gia về đối ngoại, đó là quan hệ hợp
tác tốt với các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam. Các nhà lãnh đạo cấp cao
Campuchia như Chủ tịch Thượng viện Samdech Chea Sim, Chủ tịch Quốc hội
Samdech Samrin và Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Samdech Hunsen đều khẳng
định quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống tốt đẹp giữa hai nước là tài sản vô giá
của hai dân tộc, cần phải gìn giữ và phát huy truyền thống tốt đẹp đã có từ trước đó,
thúc đẩy nâng tầm quan hệ hai nước từ “hợp tác nhiều mặt” lên “hợp tác toàn diện”
giữa hai nước trong thời gian tới.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã nêu, trong chính sách ngoại giao
của Campuchia đối với Việt Nam vẫn tồn tại tính hai mặt, không nhất quán. Hiện
nay, nội bộ Campuchia xảy ra nhiều bất ổn và tranh giành ảnh hưởng chính trị lẫn
nhau, cho nên trong chính sách đối ngoại của Campuchia đối với Việt Nam có nhiều
hạn chế, thậm chí là trái chiều. Mặc dù Đảng CPP nắm quyền chủ yếu lãnh đạo đất
nước, là đảng có quan hệ tốt với nhân dân Việt Nam từ lâu đời và mong muốn có
được sự hậu thuẫn từ Việt Nam, song trong đường lối chỉ đạo của CPP vẫn luôn tính
đến những lợi ích và các yêu cầu về đối nội và đối ngoại linh hoạt, trung lập và cân
bằng chiến lược trong quan hệ quốc tế. Trên thực tế, Campuchia dùng Việt Nam để
cân bằng với Thái Lan, dùng Trung Quốc để cân bằng với Việt Nam... Mặt khác,
CPP cũng nhiều lần tỏ ra thực dụng, muốn Việt Nam phải nhân nhượng một số vấn
đề để nâng cao uy tín cho CPP. Do đó, trong các cuộc đàm phán công khai về biên
giới, kiều dân, các vấn đề kinh tế, các thành viên thuộc CPP vẫn nhiều lần kiên quyết
đấu tranh với Việt Nam.
Một thực tế đặt ra nữa là hiện nay một số đảng phái đối lập tại Campuchia
đang ngày càng phát triển và nhận được sự hậu thuẫn rất lớn từ bên ngoài, nhất là từ
Mỹ và Trung Quốc. Trong đó, đáng chú ý là Đảng Cứu quốc của Sam Rainsy
(CNRP) dần thể hiện vai trò của mình trên chính trường Campuchia và được sự ủng
hộ mạnh mẽ của tầng lớp thị dân, trí thức và thanh niên Campuchia. CNRP trở thành
đảng đối lập lớn nhất trong quốc hội Campuchia và nhiều lần thể hiện quan điểm
46
chống Việt Nam và từng tuyên bố nếu giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử quốc
hội, CNRP sẽ xem xét việc xóa bỏ các hiệp ước, hiệp định về biên giới đã ký với
Việt Nam trước đây... Có thể thấy rằng, nếu CPP nắm quyền lãnh đạo đất nước, quan
hệ Campuchia - Việt Nam trong vài năm tới vẫn sẽ theo chiều hướng thuận như thời
gian qua, nhưng nếu CNRP thay thế CPP, quan hệ Campuchia - Việt Nam có thể sẽ
diễn tiến theo chiều hướng ngược lại, nếu không muốn nói là xấu đi hơn trước rất
nhiều. Do đó, trong chính sách đối ngoại của Campuchia đưa ra thường xuyên có
mối liên hệ chặt chẽ với những biến động trên chính trường Campuchia. Nói đúng
hơn, những mặc cả chính trị giữa các phe phái không chỉ gây nên tình trạng thiếu ổn
định của đất nước, mà còn làm cho chính sách ngoại giao của Campuchia thiếu tính
nhất quán, đa diện và dễ thay đổi. Điều này tác động sâu sắc tới quan hệ giữa
Campuchia với các nước, kể cả với Việt Nam.
Tuy nhiên, nhìn trên tổng thể, nền ngoại giao của Campuchia trong thời kỳ
mới nói chung đều nhằm vào phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và giữ
vững an ninh - quốc phòng, ổn định đất nước. Đối với Việt Nam, Campuchia vẫn
dành cho nước này một vị trí ưu tiên trong chính sách đối ngoại của mình. Năm
2007, kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Campuchia - Việt Nam (1967 -
2007), Thủ tướng Campuchia S.Hunsen đã một lần nữa tái khẳng định “cùng nhau
chúng ta sẽ hành động để thúc đẩy quan hệ giữa hai dân tộc lên mức cao hơn vì lợi
ích của nhân dân hai nước cũng như của đại gia đình ASEAN nói chung” [37;16].
Tóm lại, mặc dù trải qua nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử nhưng giữa
Campuchia và Việt Nam đã từng tồn tại mối quan hệ khá mật thiết, quan hệ đó ngày
càng trở nên quan trọng hơn trước những biến đổi phức tạp của tình hình thế giới và
khu vực. Hơn nữa, Campuchia không thể tự dựa vào sức mình để xây dựng đất nước
mà cần hướng tới hội nhập khu vực và quốc tế, nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực bên
ngoài, kết hợp nội lực để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong điều kiện và quá trình đó, Việt Nam trở thành người bạn không thể thiếu của
Campuchia, và do đó, Việt Nam luôn chiếm vai trò, vị trí vô cùng quan trọng trong
chính sách đối ngoại của Campuchia.
47
1.3.3. Chính sách đối ngoại của Việt Nam
Trong quá khứ cũng như hiện tại, ngoại giao Việt Nam có nhiệm vụ góp phần
bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc, đồng thời tạo ra thế đứng ổn định lâu bền và có
lợi ích nhất cho đất nước trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, hợp tác và
đấu tranh đan xen nhau. Xuất phát từ mục tiêu đó, Việt Nam luôn thực thi chính sách
đối ngoại hòa bình, hòa hiếu, chính nghĩa và thủy chung, với quan điểm thêm bạn,
bớt thù của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả mọi nước dân
chủ và không thù oán với ai” [75;593]. Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
ngày nay Việt Nam đang thực thi một đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, linh hoạt,
vì lợi ích dân tộc và cùng chung sống hòa bình với nhân dân thế giới. Năm 1975 đất
nước bước ra khỏi chiến tranh và đi lên CNXH từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu.
Sau 10 năm (1976 - 1986), Việt Nam lại rơi vào khủng hoảng do chậm đổi mới cơ
chế, chính sách, khó khăn chồng chất khó khăn. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai
(1976 - 1980), GDP tăng bình quân chỉ đạt 0,4%/năm, trong khi dân số gia tăng
2,3%/năm, lạm phát thường xuyên ở mức độ ba con số vào các năm 1981: 313,7%,
năm 1986: 774,7%; năm 1987: 223,1%; năm 1988: 393,8% [103;86]. Hàng hóa khan
hiếm, đời sống dân cư giảm sút, các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội xuống
cấp nghiêm trọng. Đặc biệt, về đối ngoại, Mỹ và các lực lượng thù địch đã thực hiện
chính sách bao vây, cấm vận và chống phá cách mạng Việt Nam.
Đối mặt trước những nguy cơ khủng hoảng nêu trên, Việt Nam đã có những
tìm tòi, thử nghiệm và đi đến quyết định đổi mới trên mọi lĩnh của đời sống đất nước,
nhất là trên lĩnh vực kinh tế - xã hội nhằm thay đổi căn bản và nâng cao một bước
đời sống nhân dân, tăng cường sức mạnh quốc gia trong bối cảnh quốc tế có nhiều
biến chuyển trái chiều, nhất là sự khủng hoảng rồi đi đến sụp đổ CNXH của Liên Xô
và các nước Đông Âu. Hơn nữa, Việt Nam nhận thấy rằng không thể tự độc lập xây
dựng phát triển đất nước mà cần phải mở rộng hợp tác quốc tế, kêu gọi sự hỗ trợ,
giúp đỡ của cộng đồng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
đẩy nhanh công cuộc hiện đại hóa đất nước.
Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc (ĐBTQ) lần thứ VI của Đảng (1986), Việt
Nam đã thi hành chính sách đối ngoại rộng mở: “Đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ quốc tế nhằm chủ động tạo ra những điều kiện thuận lợi để dần dần phá bỏ
48
thế bị bao vây và cấm vận” [32]. Đồng thời, không ngừng mở rộng quan hệ hữu
nghị, hợp tác tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN. Tiếp nối phương châm đối ngoại từ Đại hội VI, Đại hội ĐBTQ lần thứ
VII của Đảng (6/1991) tiếp tục nhấn mạnh tư tưởng cơ bản và nhất quán, đó là: “Việt
Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển” [33;147].
Như vậy, ngay từ giữa những năm 80, trước những biến đổi mau lẹ của bối
cảnh quốc tế và khu vực, Việt Nam đã từng bước điều chỉnh chính sách đối ngoại để
vượt qua khó khăn, thách thức. Đây là một quyết định hết sức táo bạo, góp phần
quan trọng giúp Việt Nam tiếp tục tồn tại và phát triển, đồng thời hội nhập nhanh
hơn vào đời sống quốc tế, khẳng định chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp
tác cùng phát triển với cộng đồng các dân tộc, quyết tâm xây dựng một thế giới thực
sự hòa bình và thịnh vượng.
Bước vào thế kỷ XXI, kế thừa chính sách ngoại giao đúng đắn đó, Đại hội
ĐBTQ lần thứ IX của Đảng (2001), một lần nữa nêu rõ: “Nhiệm vụ đối ngoại là tiếp
tục giữ vững môi trường hòa bình và tạo các điều kiện quốc tế để đẩy mạnh phát
triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [35;119-120]. Trước
những thay đổi có tính chất căn bản của thời cuộc, nhất là quá trình hình thành và
phát triển của các tổ chức đa phương và liên kết song phương, sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học và công nghệ trên toàn thế giới, văn kiện ĐBTQ lần thứ X của Đảng
tiếp tục tái khẳng định và đưa hoạt động đối ngoại lên tầm cao mới nhằm đa dạng
hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, đưa quan hệ quốc tế song phương và đa
phương đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy,
là thành viên tích cực và xây dựng của các nước trong cộng động quốc tế, phấn đấu
vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững; tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác
quốc tế và khu vực” [36;112]. Có thể nói, quan điểm này là sự kế tục chính sách căn
bản của đường lối đối ngoại ở những thời kỳ trước và được nâng lên một bước cao
hơn, đánh dấu sự chuyển hướng cơ bản trong đường lối đối ngoại của Việt Nam trên
con đường xây dựng CNXH. Điều đó một lần nữa nhấn mạnh Việt Nam luôn tha
thiết muốn chung sống hòa bình với các nước. Hay nói cách khác, hòa bình, ổn định
là một trong những yếu tố quyết định để tiến hành đổi mới thành công của Việt Nam.
49
Để đưa đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước đi vào thực
tiễn đời sống, việc triển khai thực hiện các biện pháp đúng đắn, linh hoạt, kịp thời
được đặc biệt chú trọng. Tính đến tháng 4/2010, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với 178 nước ở tất cả các châu lục, có quan hệ bình thường với tất cả các nước
lớn, các Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Việt Nam tham
gia tích cực vào nhiều tổ chức quan trọng của khu vực và thế giới: UN, WTO, NAM,
APEC, ASEAN… điều đó chứng tỏ chính sách đối ngoại của Việt Nam đã đi đúng
hướng và gặt hái được nhiều thành tựu to lớn, khẳng định vai trò và vị thế quốc gia
ngày càng lớn trên trường quốc tế.
Trong triển khai đường lối đối ngoại, Việt Nam luôn coi trọng và ưu tiên thúc
đẩy quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, chủ động, tích cực hợp tác hữu nghị đôi
bên cùng có lợi. Đối với Campuchia, Việt Nam thực hiện xây dựng mối quan hệ láng
giềng thân thiện giữa hai nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, không dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực, giải quyết mọi vấn đề
trong quan hệ hai nước bằng con đường hòa bình, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi và
cùng tồn tại hòa bình [11;340-345]. Chính sách đối ngoại này được nêu rõ tại Đại hội
ĐBTQ lần thứ VI của Đảng (12/1986): “Không ngừng củng cố và phát triển liên minh
đặc biệt với hai nước Lào và Campuchia, coi đó là nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng, là
nhiệm vụ có tầm quan trọng chiến lược gắn liền với lợi ích sống còn của độc lập, tự do
và Chủ nghĩa xã hội của ba nước anh em trên bán đảo Đông Dương” [32;214]. Chủ
trương này đã góp phần tăng cường mối quan hệ giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông
Dương, tạo điều kiện gắn kết, nương tựa lẫn nhau giữa Việt Nam với Campuchia trong
bối cảnh quốc tế vô cùng phức tạp và nội tình đất nước còn nhiều khó khăn. Chủ trương
nhất quán “coi trọng các nước láng giềng, khu vực” vẫn luôn được giữ vững và quán
triệt trong mọi hành động ngoại giao của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Trong chính sách “coi trọng các nước láng giềng” này, Campuchia có một vị
trí đặc biệt quan trọng. Việt Nam và Campuchia cùng thuộc Đông Nam Á, nằm trong
khu vực phát triển kinh tế năng động. Ngoài sự tương đồng về văn hóa, phong tục, tập
quán… hai nước còn có những lợi thế so sánh có thể bổ sung cho nhau. Đặc biệt, sự
giúp đỡ thân tình, đoàn kết gắn bó giữa Việt Nam và Campuchia đã có từ rất sớm,
chính điều này là nền tảng quan trọng để hai nước tiếp tục nương tựa vào nhau cùng
50
phát triển trong bối cảnh mới. Nhận thức rõ vai trò vị trí của Campuchia cũng như các
quốc gia lân bang, Nghị quyết Trung ương VIII (7/2003) một lần nữa nhấn mạnh “ưu
tiên hàng đầu cho việc củng cố quan hệ với các nước láng giềng”. Có thể nói, trong tất
cả các kỳ Đại hội Đảng, các văn kiện Đảng, Nhà nước Việt Nam đều coi trọng quan hệ
hợp tác với các nước láng giềng do xuất phát từ mối quan hệ lâu đời trong lịch sử cũng
như nhu cầu tất yếu trong xây dựng và củng cố hòa bình, phát triển đất nước. Chính
sách đối ngoại đó ngày càng được bổ sung và hoàn thiện với việc khẳng định mạnh mẽ
tính nhất quán, đó là “tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, củng cố và hoàn thiện
khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với các nước, nhất là láng giềng khu vực”
[36;112]. Với Campuchia, chính sách ngoại giao tốt đẹp giữa hai nước được nâng lên
thành 16 chữ vàng “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền
vững lâu dài”. Đây chính là tâm điểm trong chính sách đối ngoại của Việt Nam đối
với Campuchia trong giai đoạn hiện nay cũng như về lâu dài.
Cùng với bản lĩnh chính trị vững vàng và nhạy bén với thời cuộc, Việt Nam
đã có nhiều thành công với nền ngoại giao của mình, trong đó chính sách đối ngoại
với các nước láng giềng, kể cả Campuchia luôn chiếm vị trí và vai trò đặc biệt. Với
những điều đã khẳng định và thực hiện trong thời gian qua, Việt Nam tiếp tục duy trì
và phát huy đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng quan hệ hữu nghị với tất cả
các quốc gia trên thế giới, góp phần tạo môi trường thuận lợi cho hòa bình, ổn định
lâu dài và phát triển của dân tộc, đảm bảo cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH - HĐH) đất nước được tiến hành thông suốt, an ninh quốc phòng được giữ
vững. Trên nền tảng đó, Việt Nam sẽ tạo được cho mình vị thế xứng đáng trong cộng
đồng quốc tế và khu vực. Là một quốc gia láng giềng với nhiều điểm tương đồng về
lợi ích, do đó Campuchia luôn nhận được sự quan tâm và có vị trí quan trọng trong
chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Tiểu kết chương 1
Nhìn chung, quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010) được hình thành trên
cơ sở những điều kiện chủ quan và khách quan, từ những tiền đề làm nền tảng ban đầu
cho đến những nhân tố mới xuất hiện trong suốt quá trình của mối quan hệ hai nước.
Trong đó, nhân tố nội tại vẫn là nhân tố hàng đầu và có vai trò quyết định chi phối, nhân
tố khách quan đóng vai trò hỗ trợ, góp phần làm tăng thêm mối quan hệ này.
51
Quan hệ Campuchia - Việt Nam được hình thành, củng cố và phát triển từ rất
sớm trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Thời kỳ đầu thực dân Pháp xâm lược,
nhân dân Campuchia và Việt Nam đã có những mối liên hệ tự phát trong các cuộc
khởi nghĩa chống lại kẻ thù chung, đến những năm 30 của thế kỷ XX, nhất là khi
Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân ba nước Đông Dương đã chuyển từ đấu tranh tự phát lên thành tự giác, từ
riêng lẻ lên thành liên minh chiến đấu Việt - Miên - Lào. Trong giai đoạn kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975), nhân dân Campuchia và
Việt Nam đã có những phối hợp giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau để giành chiến thắng
trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Năm 1975, Việt Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất và đi lên xây dựng Chủ
nghĩa xã hội. Trong khi đó, Campuchia rơi vào họa diệt chủng do sự phản bội cách
mạng của tập đoàn Pon Pot - Ieng Sary. Được sự giúp đỡ của quân đội tình nguyện Việt
Nam, quân và dân Campuchia đã tiêu diệt chế độ diệt chủng và thành lập nên nước
Cộng hòa Nhân dân Campuchia (1979). Trong 10 năm (1979 - 1989), Việt Nam với sứ
mệnh quốc tế của mình đã giúp nhân dân Campuchia từng bước ổn định đời sống, bảo
vệ vững chắc thành quả cách mạng của Campuchia. Đây là giai đoạn được đánh giá là
thực sự nồng ấm trong quan hệ hai nước của những người anh em vô sản.
Năm 1991, Hiệp định Paris về lập lại hòa bình tại Campuchia được ký kết,
nhân dân Campuchia bước vào thời kỳ hòa hợp và hòa giải dân tộc. Năm 1993, cùng
với sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, cuộc tổng tuyển cử thành công cho ra đời
Chính phủ liên hiệp dân tộc Campuchia và Vương quốc Campuchia được chính thức
tái lập. Trong thời kỳ này, quan hệ Campuchia - Việt Nam gặp những khó khăn nhất
định, nếu không muốn nói là có những bước lùi so với thời kỳ trước đó do tình hình
chính trị bất ổn kéo dài của đất nước Campuchia.
Kể từ năm 1993 trở đi, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của đất nước cũng như
những tác động mới của bối cảnh quốc tế và khu vực theo xu thế hòa bình, hợp tác
đã tạo điều kiện cho quan hệ Campuchia - Việt Nam xích lại gần nhau và tiếp tục tạo
tiền đề cho quan hệ hai nước trong giai đoạn mới. Ngoài ra, quá trình phát sinh, phát
triển của mối quan hệ Campuchia - Việt Nam còn được bắt nguồn từ những nhân tố
về địa lý, lịch sử, văn hóa, xã hội và được tăng cường bởi chính sách đối ngoại láng
52
giềng hữu nghị giữa hai dân tộc. Mặc dù vậy, những nhân tố này không chỉ mang
mang tính thuận chiều, tức là tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ hai nước phát triển,
mà còn gây ra những tác động tiêu cực, nhất là những vấn đề do lịch sử để lại, sự
tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc tại khu vực và thái độ không nhất quán
trong chính sách đối ngoại của Campuchia dành cho Việt Nam.
Có thể nói, quan hệ Campuchia - Việt Nam trước năm 1993 chưa thực sự toàn
diện và còn thể hiện tính chất một chiều, tức Việt Nam là nước hỗ trợ, còn
Campuchia là nước nhận viện trợ. Cũng trong thời kỳ này, quan hệ hai nước tập
trung chủ yếu vào lĩnh vực an ninh - chính trị, quan hệ kinh tế chưa có gì đáng kể,
nếu không nói là đang còn nằm ở vạch xuất phát cho đến đầu những năm 1990. Tuy
nhiên, không thể phủ nhận những thành quả đạt được trong quan hệ hai nước ở thời
kỳ này đã có ý nghĩa hết sức quan trọng, đặt nền tảng cho quan hệ Campuchia - Việt
Nam trong những giai đoạn kế tiếp.
53
Chương 2
QUAN HỆ CAMPUCHIA - VIỆT NAM TRÊN CÁC LĨNH VỰC
(1993 - 2010)
2.1. Trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao
Hiệp định Paris được ký kết ngày 23/10/1991 đã mở ra cơ hội cho nhân dân
Campuchia đi đến một giải pháp hòa bình, hòa hợp dân tộc. Tuy nhiên, sau sự kiện
chính trị quan trọng này, đất nước Campuchia vẫn rơi vào bế tắc do cuộc đấu tranh
phe phái, nhất là sự chống phá của lực lượng Khmer Đỏ và cuộc dàn xếp giữa các
nước lớn chưa ngã ngũ. Đầu năm 1992, Liên Hợp Quốc đã quyết định triển khai các
bước cần thiết để giải quyết dứt điểm Vấn đề Campuchia, nhiệm vụ hàng đầu lúc này
là chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tiến hành cuộc bầu cử vào tháng 5/1993
nhằm tái thiết Campuchia. Với sự hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ của các bên liên quan,
cuộc bầu cử đã diễn ra ngày 23-28/5/1993 trên toàn đất nước Campuchia với kết quả
90% cử tri tham gia đã bầu ra quốc hội lập hiến gồm 120 đại biểu. Trên cơ sở thắng
lợi của cuộc bầu cử, Hiến pháp mới của Campuchia được thông qua vào tháng
9/1993, khẳng định “Campuchia là một nước dân chủ tự do, một chế độ chính trị đa
nguyên, hoàn toàn tự do báo chí. Một hệ thống kinh tế “thị trường” và “tự do doanh
nghiệp”, hoàn toàn tôn trọng quyền con người và các công ước khác về quyền con
người, quyền phụ nữ và trẻ em”, trong đó nhấn mạnh đường lối đối ngoại
“Campuchia đang và sẽ là bạn của tất cả các nước và dân tộc nào trên thế giới
tôn trọng chủ quyền, nền độc lập nền trung lập, tính chất không liên kết và toàn vẹn
lãnh thổ của Campuchia” [104;22-23].
Thời gian đầu sau cuộc tổng tuyển cử, Chính phủ Liên hiệp dân tộc
Campuchia đã có những nỗ lực nhằm hàn gắn dân tộc và khôi phục kinh tế. Tuy
nhiên, lực lượng còn lại của Khmer Đỏ với sự hậu thuẫn của một số thế lực bên
ngoài đã ra sức chống phá và không chịu đi vào hòa hợp và hòa giải dân tộc. Khmer
Đỏ liên tiếp mở các đợt tiến công lấn chiếm, giết hại nhiều nhân viên của Liên Hợp
Quốc và Việt kiều đang sinh sống và làm nhiệm vụ tại Campuchia. Đứng trước tình
hình đó, nhằm phá vỡ thế bế tắc nội bộ, nhất là việc hướng dư luận ra bên ngoài và
tái thúc đẩy quan hệ với các quốc gia láng giềng, trước hết là với Việt Nam, ngày
23/8/1993, hai đồng Thủ tướng Chính phủ lâm thời Campuchia N.Ranarit và Hunsen
54
đã thăm chính thức Việt Nam và đạt được thỏa thuận thành lập Ủy ban hỗn hợp
chuẩn bị thúc đẩy quan hệ và giải quyết các vấn đề tồn tại giữa hai nước. Đây là
chuyến thăm Việt Nam đầu tiên trên cương vị mới của hai nhà lãnh đạo đứng đầu
Campuchia sau tổng tuyển cử. Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh tình hình
Campuchia còn nhiều bất ổn đã cho thấy được vị trí của Việt Nam trong nhãn quan
của các nhà lãnh đạo láng giềng.
Về phía Việt Nam, trước tình hình diễn biến theo chiều hướng phức tạp của
đất nước Campuchia, Việt Nam vẫn kiên định và luôn dành cho Campuchia sự ủng
hộ, giúp đỡ tích cực. Trong đó, tái thúc đẩy quan hệ hợp tác với Campuchia trong
điều kiện khó khăn này không chỉ bày tỏ thiện chí của Việt Nam mong muốn thực
hiện chính sách ngoại giao láng giềng hòa bình, hữu nghị, nhất là tạo được lòng tin
vào mối quan hệ đã có từ trước giữa hai dân tộc, mà nó còn là bước đi quan trọng để
khai thông trở lại quan hệ Việt Nam - Campuchia vốn không mấy hiệu quả trong thời
gian dài. Điều này không chỉ đem lại lợi ích tốt đẹp cho Việt Nam mà còn góp phần
giúp Campuchia sớm đi vào ổn định tình hình.
Với mong muốn đó, trong những năm 1993 - 1996, nhiều đoàn lãnh đạo cấp
cao Việt Nam đã sang thăm Campuchia, có thể kể đến đó là chuyến thăm của Thủ
tướng Võ Văn Kiệt, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm... Đặc biệt, trong buổi
chiêu đãi trọng thể Chủ tịch nước Lê Đức Anh tại Campuchia ngày 8/8/1995, Quốc
vương N.Shihanouk nhấn mạnh: “Tình hữu nghị anh em rất lâu đời gắn bó hai nước
chúng ta phục vụ lợi ích cao cả và sinh tử của nhân dân hai nước và là một nhân tố
thiết yếu của sự ổn định, hòa bình và thịnh vượng cho cả khu vực rộng lớn, nơi hai
nước chúng ta vĩnh viễn ở sát bên nhau” [84]. Về phía Campuchia, trong giai đoạn
này đáng ghi nhận là chuyến thăm Việt Nam của Quốc vương N.Shihanouk (14-
16/12/1996), đồng Thủ tướng Ung Huort và Hunsen dự Hội nghị Cấp cao các nước
có sử dụng tiếng Pháp tại Hà Nội tháng 11/1997.
Tiếp đó, chuyến thăm của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đến
Campuchia vào ngày 26-28/2/1997 đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Trong các
cuộc tiếp xúc với lãnh đạo Campuchia, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm khẳng định
đường lối trước sau như một của Việt Nam là củng cố tình hữu nghị truyền thống và
hợp tác láng giềng tốt đẹp với Campuchia. Hai bên cũng nhấn mạnh cố gắng giải
55
quyết sớm vấn đề biên giới và Việt kiều, bày tỏ lòng tin vào mối quan hệ đang được
củng cố và phát triển giữa hai nước và mọi vấn đề tồn tại nảy sinh sẽ được giải quyết
thỏa đáng [129].
Sự kiện được đánh giá làm thay đổi sâu sắc diện mạo quan hệ Campuchia -
Việt Nam là chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng S.Hunsen vào ngày 13-
14/12/1998. Việc lựa chọn Việt Nam làm điểm đến đầu tiên trên cương vị Thủ tướng
Chính phủ Liên hiệp mới của S.Hunsen đã tạo ra triển vọng mới trong quan hệ hai
nước vốn trước đó không mấy sáng sủa và tái khẳng định sự ưu tiên đối với Việt
Nam trong chính sách ngoại giao của Campuchia. Trong cuộc hội đàm tại Hà Nội,
Thủ tướng Phan Văn Khải và Thủ tướng Hunsen đã trao đổi nhiều vấn đề nhằm tăng
cường quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật,
nông nghiệp, giáo dục đào tạo, du lịch… Thủ tướng Hunsen cũng không quên cảm
ơn sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu của các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam về
việc ủng hộ Campuchia sớm gia nhập ASEAN [7]. Sự kiện chính trị này đã tạo ra
phản ứng dây chuyền tốt đẹp cho các cuộc viếng thăm Việt Nam sau đó như Bộ
trưởng Ngoại giao Campuchia Hor Nam Hong, Chủ tịch Hạ viện Campuchia Ranarit,
Chủ tịch Thượng viện Chea Sim… Trong các cuộc hội kiến với những người đồng
cấp Việt Nam, các nhà lãnh đạo Campuchia đã cảm ơn Chính phủ Việt Nam về sự
ủng hộ tích cực, có ý nghĩa quyết định trong việc Campuchia trở thành thành viên
chính thức của ASEAN. Hai bên tập trung trao đổi một số vấn đề quan hệ hợp tác
song phương trong bối cảnh tình hình mới, đặc biệt là đẩy mạnh các cuộc thăm viếng
lẫn nhau giữa lãnh đạo cấp cao hai nước nhằm đưa quan hệ hai nước phát triển lên
tầm cao mới [133].
Có thể nói, thông qua những cuộc gặp gỡ, thăm viếng giữa lãnh đạo cấp cao
hai nước đã giúp tăng cường sự thông cảm, tin tưởng và hỗ trợ lẫn nhau, góp phần
củng cố khối đoàn kết hai nước và hai dân tộc Việt Nam - Campuchia trong tình hình
mới. Và đỉnh cao đánh dấu sự phát triển tốt đẹp quan hệ giữa hai nước chính là
chuyến thăm Campuchia của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu
vào tháng 6/1999 đã mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ. Đồng thời, đánh dấu
việc tăng cường trở lại các hoạt động ngoại giao hai bên sau một năm bị ngừng trệ do
phía Campuchia tập trung tiến hành tổng tuyển cử nhiệm kỳ II (1998 - 2003).
56
Sự kiện Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tới Campuchia là biểu hiện cơ bản nâng
tầm quan hệ hợp tác ngoại giao giữa hai nước sau cuộc tổng tuyển cử tháng 7/1998
tại Campuchia. Trong Tuyên bố chung, hai bên khẳng định đưa quan hệ hai nước
phát triển theo phương châm “Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền
thống, ổn định lâu dài”, trên cơ sở đẩy mạnh hơn nữa “Mối quan hệ tốt đẹp sẵn có
giữa hai nước và khẳng định quyết tâm củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác láng
giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài trên cơ sở các nguyên
tắc đã được nêu rõ trong các Thông cáo chung Campuchia - Việt Nam năm 1992 và
1995 là tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, không
cho phép bất cứ lực lượng chính trị quân sự nào dùng lãnh thổ nước này để chống
nước kia, hợp tác bình đẳng cùng có lợi...” [88].
Trong tình hình nền chính trị đa đảng ở Campuchia, Việt Nam chủ trương duy
trì, củng cố quan hệ Nhà nước, Chính phủ và với hai đảng cầm quyền là Đảng CPP
và Đảng FUNCINPEC. Với CPP, Việt Nam xác định mối quan hệ giữa hai Đảng là
nền tảng cho mối quan hệ tốt đẹp giữa hai Chính phủ và nhân dân hai nước. Sự kiện
nổi bật có thể kể đến là ngày 16/1/2005, đoàn Đại biểu cấp cao Đảng CPP do ông Sai
Chum - Trưởng ban Thường trực Ban Thường vụ Trung ương dẫn đầu đã có chuyến
đi thăm Việt Nam và hội kiến với Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, CPP bày tỏ mong
muốn không ngừng củng cố và phát triển mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác
truyền thống giữa hai Đảng và giữa hai nước Campuchia và Việt Nam [139]. Với
FUNCINPEC, Việt Nam đã có quan hệ chính thức với đảng này từ tháng 6/1995.
Mối quan hệ này ngày càng có những bước phát triển thông qua các chuyến viếng
thăm của những người đứng đầu hai đảng, trong đó Đoàn Đại biểu Đảng Cộng sản
Việt Nam do ông Vũ Mão - Ủy viên Trung ương Đảng dẫn đầu đã tham dự Đại hội
Đảng FUNCINPEC ngày 20-21/3/2001 và được đánh giá là sự kiện quan trọng trong
quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Đảng FUNCINPEC và Đảng Cộng sản Việt Nam, góp
phần thúc đẩy quan hệ láng giềng hữu nghị giữa nhân dân hai nước [134]. Tiếp đó,
ngày 5-9/9/2005, đoàn Đại biểu Đảng FUNCINPEC do Hoàng thân Norodom
Shirivut dẫn đầu đã sang thăm Việt Nam. Trong lời phát biểu, Hoàng thân khẳng
định Đảng FUNCINPEC sẽ làm hết sức mình để không ngừng củng cố tăng cường
57
mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác truyền thống giữa nhân dân hai nước [141].
Còn đối với Đảng Cứu quốc là đảng đối lập lớn ở Campuchia, có đường lối không
thân thiện với Việt Nam, song tháng 7/2001, Chủ tịch Đảng Sam Rainsy cũng đã
sang sang thăm Việt Nam với tư cách là Nghị sĩ Quốc hội, khách mời của Quốc hội
Việt Nam. Sau khi về nước, S.Rainsy cũng đã cam kết không chống Việt Nam, tạo
điều kiện cho quan hệ hai nước phát triển hơn nữa. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng mở
rộng tìm hiểu quan hệ với các tổ chức quần chúng, xã hội khác của Campuchia, đặc
biệt với các phe phái lực lượng chính trị nhằm thể hiện rõ thiện chí của Việt Nam,
góp phần đẩy lùi các thế lực thù địch chống Việt Nam.
Bước sang thế kỷ XXI, những chuyến viếng thăm lẫn nhau giữa Campuchia
và Việt Nam ngày càng được tăng cường. Một loạt chuyến công du của các nhà lãnh
đạo Việt Nam đến đất nước Campuchia đã gây nhiều chú ý và có tác động sâu sắc
đến quan hệ hai nước. Đáng chú ý nhất có thể nhắc đến là chuyến đi của Chủ tịch
Quốc hội Việt Nam Nguyễn Văn An vào ngày 23-26/12/2002. Trong các cuộc tiếp
xúc với các vị lãnh đạo cấp cao Campuchia, Chủ tịch Nguyễn Văn An khẳng định
chính sách nhất quán của Việt Nam không ngừng củng cố và tăng cường quan hệ với
Campuchia theo phương châm mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã thỏa thuận trước đó
và tái nhấn mạnh mối quan hệ này được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, giải quyết các vấn đề giữa hai nước bằng thương lượng hòa
bình, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi, không cho phép bất cứ lực lượng chính trị,
quân sự nào dùng lãnh thổ của nước này chống nước kia và chia rẽ tình hữu nghị,
hợp tác giữa nhân dân hai nước [137]. Chuyến viếng thăm Campuchia lần này không
chỉ thúc đẩy sự hợp tác hữu nghị truyền thống giữa hai nước mà còn là sự gia tăng
hợp tác, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau giữa hai Quốc hội. Nhiều nhà nghiên
cứu cho rằng, việc mở rộng quan hệ giữa hai cơ quan lập pháp sẽ là cơ sở cho Chính
phủ Việt Nam và Chính phủ Campuchia giải quyết tốt hơn một số vấn đề mà hai bên
cùng quan tâm.
Với nhận định Campuchia là nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong chính
sách đối ngoại của Việt Nam không chỉ tại thời điểm hiện tại mà còn mang tính chất
chiến lược lâu dài, vì vậy, trong đường lối ngoại giao, Việt Nam luôn dành cho
58
Campuchia sự quan tâm đặc biệt. Trong bài trả lời phỏng vấn báo “Tia sáng
Campuchia” về quan hệ của Việt Nam với Campuchia ngày 18-19/12/2006, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ chính sách nhất quán của Việt Nam là luôn coi trọng
việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng trong đó có Campuchia, vì lợi ích
của nhân dân mỗi nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và
trên thế giới [148]. Điều đó tiếp tục được khẳng định trong cuộc hội kiến giữa Chủ
tịch nước Nguyễn Minh Triết cùng các nhà lãnh đạo cấp cao Vương quốc
Campuchia vào ngày 1/3/2007 với quan điểm bày tỏ mong muốn nâng quan hệ lên
tầm cao mới, toàn diện hơn. Chủ tịch Nguyễn Minh Triết nhấn mạnh:“Quan hệ
chính trị giữa Việt Nam và Campuchia được duy trì qua các chuyến thăm trao đổi
thường xuyên giữa lãnh đạo hai nước, quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại cũng
đang có những bước phát triển khả quan dù chưa tương xứng với quan hệ chính trị.
Thời gian tới, hai nước sẽ tập trung đưa quan hệ kinh tế, thương mại phát triển
mạnh mẽ hơn nữa. Tình đoàn kết hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện làm
cho hai nước tin nhau hơn, chân tình với nhau hơn. Những vấn đề khó khăn, vướng
mắc sẽ được trao đổi một cách thẳng thắn, cởi mở và nhờ vậy sự hợp tác phát triển
sẽ hiệu quả hơn” [149]. Trong lời đáp từ, Thủ tướng Campuchia S.Hunsen cho rằng
không có sự giúp đỡ của Việt Nam thì sẽ không có đất nước Campuchia ngày hôm
nay, Việt Nam đã giúp đất nước Campuchia hồi sinh [71;7].
Những cuộc viếng thăm dồn dập sau đó của quan chức Việt Nam sang
Campuchia đã đánh dấu sự khởi sắc trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Trong
năm 2009, Campuchia đã đón tiếp rất nhiều đoàn lãnh đạo cấp cao Việt Nam sang
thăm chính thức, có thể ghi nhận là chuyến thăm của Phó Thủ tướng Trương Vĩnh
Trọng vào tháng 7/2009, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 12/2009... Những cuộc
tiếp kiến đã diễn ra trong bầu không khí thân mật và cởi mở, nhiều vấn đề về quan hệ
hai nước đã được quan tâm xem xét. Tại cuộc hội đàm diễn ra vào ngày 17/12/2009,
hai bên đều hài lòng trước sự phát triển tốt đẹp của mối quan hệ hai nước và khẳng
định quyết tâm củng cố và tăng cường hơn nữa mối quan hệ láng giềng hữu nghị
truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài Campuchia - Việt Nam, xem đây là
tài sản vô giá của hai dân tộc, là một trong những nhân tố tạo nên sức mạnh của hai
nước và là sự bảo đảm vững chắc cho hai dân tộc mãi mãi được sống thái bình và
59
hạnh phúc. Trong không khí của tình hữu nghị, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh bày tỏ
“cảm ơn sâu sắc về sự ủng hộ và giúp đỡ đầy nghĩa tình của Campuchia dành cho
Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước
đây cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày nay” [92].
Ngay sau đó, hai bên đã ra Tuyên bố chung, trong đó nhấn mạnh việc thúc
đẩy “các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc cấp cao nhằm tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn
nhau; thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng sự hợp tác năng động
giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, các tổ chức nhân dân và chính quyền địa
phương, nhất là các địa phương có chung biên giới của hai nước, thúc đẩy quan hệ
hữu nghị, đoàn kết giữa nhân dân hai nước, đặc biệt là thế hệ trẻ, và tăng cường sự
hiểu biết về mối quan hệ truyền thống hữu nghị và đoàn kết giữa Việt Nam và
Campuchia” [93].
Có thể nói, chuyến thăm của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam mang ý
nghĩa chính trị quan trọng, góp phần đưa quan hệ hai nước lên một giai đoạn phát
triển cao hơn và đóng góp tích cực trong việc củng cố hòa bình, ổn định, hợp tác và
phát triển của Đông Nam Á và trên thế giới.
Năm 2006 là năm bản lề cho những hoạt động ngoại giao hai nước tiến đến
chào mừng 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Campuchia - Việt Nam (1967 -
2007) đã chứng kiến nhiều chuyến thăm hữu nghị của lãnh đạo cấp cao Campuchia
đến Việt Nam trong bối cảnh đi lên của quan hệ hai nước. Có thể kể đến hàng loạt
chuyến thăm chính thức Việt Nam như Quốc vương N.Shihamoni (3/2006), Chủ tịch
Đảng CPP - Chủ tịch Thượng viện Chea Sim (11/2008), Chủ tịch Quốc hội Heng
Sam Rin (1/2009). Trong số đó, nổi bật nhất là chuyến thăm của người đứng đầu
Vương quốc Campuchia - Quốc vương N.Shihamoni ngày 16-18/3/2006, đây là
chuyến thăm chính thức Việt Nam đầu tiên của Quốc vương N.Shihamoni kể từ khi
đăng quang (10/2004). Trong lời phát biểu, Quốc vương nhấn mạnh tình đoàn kết
hữu nghị lâu đời bền vững giữa Campuchia với Việt Nam, bày tỏ mong muốn và
quyết tâm của Campuchia không ngừng vun đắp quan hệ láng giềng tốt đẹp, hợp tác
toàn diện, bền vững lâu dài giữa nhân dân hai nước Campuchia - Việt Nam. Qua đó,
khẳng định mong muốn và quyết tâm của lãnh đạo và nhân dân Campuchia đưa mối
60
quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện với Việt Nam sang trang mới,
phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu, đáp ứng lợi ích của hai dân tộc [143].
Tiếp nối sự kiện trên, chuyến thăm đặc biệt của Hoàng tộc Campuchia (Thái
Thượng hoàng N.Shihanouk và Hoàng Thái hậu N.Moniniet Shihanouk, Quốc vương
N.Shihamoni) đến Việt Nam ngày 22-25/6/2010 như một hành động nhằm tái khẳng
định những quyết tâm đã nêu. Kể từ khi Quốc vương N.Shihamoni lên nối ngôi, đây
là lần đầu tiên Hoàng gia Campuchia thực hiện chuyến viếng thăm nước ngoài với sự
góp mặt đầy đủ những người đứng đầu Hoàng tộc, do đó chuyến đi lần này nhận
được sự quan tâm sâu sắc của hai nước và thực sự gây nhiều chú ý đến dư luận trong
và ngoài nước. Trong các cuộc hội kiến, hai bên đã dành cho nhau những tình cảm
nồng thắm và trân trọng những tình cảm sâu sắc vốn có giữa hai dân tộc. Trong buổi
tiếp Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Quốc vương N.Shihamoni đã khẳng định:
“sẽ tiếp nối Cựu Quốc Vương N.Shihanouk trong tiếp tục củng cố và phát triển hơn
nữa tình hữu nghị và sự hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài giữa hai nước láng
giềng anh em Campuchia và Việt Nam” [94].
Việc Đại gia đình Hoàng gia Campuchia lần đầu tiên đến thăm Việt Nam
cùng với những chuyến thăm cấp cao trước đó của nhiều nhà lãnh đạo lãnh đạo
chứng tỏ chính sách ngoại giao ưu tiên của Campuchia dành cho Việt Nam. Sự kiện
này một lần nữa tái khẳng định chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị giữa các dân
tộc trên bán đảo Đông Dương, là biểu hiện cụ thể của sự nâng tầm quan hệ
Campuchia - Việt Nam trong thời kỳ mới.
Như vậy, trong quan hệ chính trị, hai nước không chỉ dừng lại ở những cuộc
gặp xã giao thông thường mà thực sự đã tiến tới các thỏa thuận mang tính chiến lược
ở cấp quốc gia, tăng cường trao đổi, phối hợp trong các vấn đề liên quan giữa hai
nước vốn có nhiều khía cạnh phức tạp và nhạy cảm. Thông qua các chuyến viếng
thăm, giới lãnh đạo Campuchia và Việt Nam đã có những trao đổi, học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau, từng bước nâng cao năng lực đối ngoại “đa phương hóa và đa
dạng hóa” trong quan hệ quốc tế và khu vực.
Song song với quan hệ chính thức giữa hai Chính phủ, kênh “ngoại giao nhân
dân” giữa hai nước thời kỳ này cũng tiếp tục được tăng cường. Giao lưu hợp tác giữa
các tổ chức hữu nghị của nhân dân hai nước cũng có những bước phát triển như sự ra
61
đời của Liên minh xã hội dân sự vì an ninh con người, đoàn kết nhân dân hai nước vì sự
phát triển của đất nước Campuchia… Đáng chú ý là những hoạt động tích cực của Hội
Hữu nghị Việt Nam - Campuchia đã góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa
nhân dân hai nước và thúc đẩy sự gắn kết giữa hai dân tộc láng giềng. Các hoạt động
ngoại giao này rất phong phú, đa dạng, nhiều loại hình. Riêng trong năm 2006, hai nước
đã trao đổi 106 đoàn, trong đó Việt Nam có 62 đoàn và Campuchia có 44 đoàn các cấp
sang thăm viếng lẫn nhau. Những cuộc gặp mặt này không chỉ giúp tăng cường sự hiểu
biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước, mà còn góp phần củng cố vững chắc mối quan hệ
truyền thống vốn có từ trước đến nay giữa Campuchia và Việt Nam.
Nằm trong chuỗi hoạt động kỷ niệm 40 ngày thiết lập quan hệ ngoại giao hai
nước (1967 - 2007), ngày 22-26/6/2007, Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị Việt Nam
do Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam - Campuchia Vũ Mão dẫn đầu đã sang thăm
Campuchia. Chuyến đi này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm khẳng định giá trị
của mối quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống giữa nhân dân hai nước, quyết tâm
tiếp tục tăng cường và phát huy mối quan hệ quý báu này trong thời gian tới [54].
Tiếp nối sự kiện trên, hàng loạt các sự kiện sau đó được diễn ra, có thể nhắc đến
chuyến thăm Campuchia của Đoàn đại biểu Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt
Nam, đoàn Hội Hữu nghị Campuchia - Việt Nam sang thăm và là việc tại Việt Nam
vào năm 2009.
Đáng chú ý, ngày 4/1/2010, Hội nghị lần thứ V của Ban Chấp hành Trung
ương Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia đã được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Tham dự Hội nghị, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã nhấn mạnh tầm quan
trọng của Hội và nêu rõ: “Hội các cấp cần phải được củng cố và phát triển, trước
hết ở các tỉnh biên giới Campuchia và các thành phố lớn. Hoạt động của Hội cần tập
trung vào việc góp phần giáo dục tình đoàn kết hữu nghị và truyền thống giữa hai
dân tộc Việt Nam - Campuchia”. Chủ tịch nước cũng nhắc các doanh nghiệp Việt
Nam mà trước hết là những doanh nghiệp là thành viên của câu lạc bộ doanh nghiệp
Việt Nam - Campuchia, khi đầu tư hợp tác với doanh nghiệp bạn phải hết sức giữ
chữ tín, mất tín nhiệm là mất lòng tin mà mất lòng tin là mất hết [55].
Các hoạt động thiết thực nêu trên không những đánh dấu sự khôi phục quan
hệ giữa các tổ chức hữu nghị của hai nước sau gần 15 năm gián đoạn, tác động tích
62
cực đối với dư luận và nhiều tổ chức của Campuchia, mà còn minh chứng tầm quan
trọng và sự hợp tác đầy ý nghĩa sâu rộng mà nhân dân hai nước là chủ thể của cả quá
trình hoạt động.
Bên cạnh đó, các địa phương giáp giới giữa hai nước cũng tăng cường trao
đổi, giao lưu hợp tác với nhau trên nhiều lĩnh vực. Hội nghị về phát triển các tỉnh
giáp biên giới chung thường xuyên được tổ chức đã tạo ra sự hợp tác toàn diện và
hiệu quả, nhất là trên lĩnh vực kinh tế, đầu tư và giữ gìn an ninh ổn định biên giới vì
lợi ích các địa phương liên quan cũng như sự phồn vinh của hai nước. Trong Thông
cáo chung Hội nghị lần thứ 2 về Hợp tác và Phát triển giữa các tỉnh biên giới Việt
Nam - Campuchia ngày 29/9/2005, có đoạn viết: “Hội nghị về hợp tác và phát triển
giữa các tỉnh biên giới Việt Nam - Campuchia đã chứng tỏ là một cơ chế hợp tác cần
thiết và có hiệu quả, góp phần tăng cường và củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác mọi
mặt giữa hai nước. Hai bên nhất trí các tỉnh biên giới hai nước cần tổ chức các cuộc
họp định kỳ giữa lãnh đạo chính quyền và lãnh đạo các ngành ở cấp tỉnh, huyện và
xã để kiểm tra, đánh giá về kết quả hợp tác, tìm kiếm những lĩnh vực hợp tác mới,
thảo luận, thống nhất nội dung kế hoạch hợp tác cho thời gian tiếp theo và báo cáo
lên Chính phủ hai nước” [124]. Tuy nhiên, trên thực tế, do hệ thống chính trị của
Campuchia là hệ thống đa đảng phái, thường xuyên kiềm chế và đấu tranh để giành
ưu thế và quyền lực trong chính giới cũng như trong công luận, nên những cuộc giao
lưu với nhân dân Việt Nam đa phần nằm trong nội bộ Đảng CPP, mà chưa được sự
hưởng ứng nhiệt thành của đông đảo các thành phần chính trị xã hội khác tại đất
nước Chùa Tháp. Vì vậy, sự lan tỏa và diện tiếp xúc của các hoạt động ngoại giao
quần chúng phần nào bị hạn chế, gây ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình trao đổi,
giao lưu giữa nhân dân Campuchia - Việt Nam.
Tóm lại, với các hoạt động phong phú theo các kênh chính phủ và phi chính
phủ, Campuchia đã triển khai tối đa việc đa dạng hóa các mối quan hệ với Việt Nam
nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi để cùng nhau bảo vệ và xây dựng đất nước. Mặc dù
còn những trở ngại do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhất là thể chế và
xu hướng chính trị khác biệt giữa hai quốc gia, nhưng với những nỗ lực từ hai phía
đã góp phần vào quá trình mở rộng giao lưu hợp tác trên lĩnh vực chính trị, ngoại
63
giao hai nước phát triển đi vào chiều sâu, mang lại lợi ích thiết thực cho mỗi nước
cũng như toàn khu vực.
2.2. Trên lĩnh vực an ninh
2.2.1. Vấn đề biên giới lãnh thổ
Campuchia và Việt Nam có chung đường biên giới trên đất liền dài 1.137 km
đi qua 10 tỉnh biên giới của Việt Nam và 9 tỉnh biên giới của Campuchia, toàn tuyến
biên giới có 10 cửa khẩu quốc tế, 12 cửa khẩu chính và nhiều cửa khẩu phụ khác tạo
điều kiện cho việc thông thương hàng hóa, qua lại giữa nhân dân hai nước. Do đó,
vấn đề biên giới luôn được hai bên quan tâm và tạo mọi điều kiện để giải quyết ổn
thỏa, nhằm phát triển kinh tế - xã hội mỗi nước và của cả khu vực.
Sau khi Nhà nước CHND Campuchia ra đời, ngày 18/2/1979, Chính phủ
CHND Campuchia và Chính phủ CHXHCN Việt Nam đã ký Hiệp ước hòa bình, hữu
nghị và hợp tác giữa hai nước, tại Điều 4 đã thỏa thuận: “Hai bên cam kết sẽ giải
quyết bằng thương lượng hòa bình tất cả những bất đồng có thể nảy sinh trong quan
hệ hai nước. Hai Bên sẽ đàm phán để ký một hiệp định hoạch định biên giới quốc gia
giữa hai nước trên cơ sở đường biên giới hiện tại; quyết tâm xây dựng biên giới này
thành biên giới hòa bình, hữu nghị lâu dài giữa hai nước” [50]. Đây là mốc mở đầu
đánh dấu sự tiếp xúc trực tiếp giữa hai bên về việc giải quyết vấn đề biên giới dựa
trên nguyên tắc cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau. Trên cơ sở đó, Campuchia và Việt Nam tiến hành những cuộc gặp gỡ, trao đổi
về vấn đề biên giới và ngày 20/7/1983 tại Phnom Penh, Chính phủ hai nước đã chính
thức ký Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa nước CHXHCN Việt
Nam và nước CHND Campuchia và Hiệp định về quy chế biên giới nhằm duy trì sự
ổn định ở vùng biên giới. Tại Điều 1 Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên
giới nêu rõ: “Trên đất liền, hai bên coi đường biên giới hiện tại giữa hai nước được
thể hiện trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương, thông dụng trước
năm 1954 hoặc gần năm 1954 nhất (kèm theo 26 mảnh bản đồ đã được hai bên xác
nhận), là đường biên giới quốc gia giữa hai nước” [51]. Bên cạnh Hiệp ước này,
Hiệp định về quy chế biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước
CHND Campuchia cũng đã tái khẳng định lập trường, quan điểm của hai nhà nước
về việc giải quyết vấn đề biên giới bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc
64
lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và
sự giúp đỡ lẫn nhau. Đặc biệt, hai bên thống nhất nguyên tắc “Khi xảy ra những
tranh chấp biên giới, chính quyền địa phương hai bên tùy theo mức độ, cần kịp thời
gặp nhau bàn bạc giải quyết trên tinh thần hữu nghị và quan hệ đặc biệt giữa hai
nước. Trường hợp tranh chấp về lãnh thổ thì chính quyền địa phương mỗi bên phải
báo cáo lên Chính phủ nước mình giải quyết. Trong khi chờ đợi, hai bên đều cố gắng
giữ quan hệ bình thường không làm cho tình hình phức tạp thêm” [44].
Với những kết quả đạt được, ngày 27/12/1985, Campuchia và Việt Nam đã ký
Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước
CHND Campuchia gồm 5 điều khoản chính liên quan đến biên giới hai nước, trong
đó có các quy định chi tiết về tỷ lệ, các vấn đề liên quan đến sông suối, rạch biên
giới, thỏa thuận thành lập Ủy ban Liên hợp phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc
giới giữa hai nước, điều khoản thi hành Hiệp ước. Việc ký Hiệp định biên giới năm
1985 đã tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho việc hoạch định và cắm mốc biên giới
giữa Việt Nam và Campuchia trên cơ sở thực sự bình đẳng, hữu nghị, tôn trọng lẫn
nhau và có tinh thần xây dựng. Dựa vào Hiệp ước, từ năm 1986 đến năm 1988,
Campuchia và Việt Nam đã tiến hành phân giới được hơn 200km trong tổng số
1.137km đường biên giới và cắm được 72 mốc trong tổng số 322 mốc giới dự kiến
[5;63]. Tuy nhiên, từ năm 1989 đến năm 1993, do tình hình nội bộ Campuchia có sự
chia rẽ, nhiều lực lượng ở Campuchia còn đặt vấn đề xét lại hiệu lực của Hiệp ước
hoạch định biên giới năm 1985, do đó về quá trình phân giới cắm mốc trên bộ giữa
hai nước không tiếp tục tiến triển được.
Bước sang năm 1994, cùng với sự ổn định tương đối của nền chính trị và việc
tái lập Vương quốc Campuchia sau tổng tuyển cử năm 1993, vấn đề biên giới hai
nước được tái đề cập trong các chuyến thăm của lãnh đạo hai nước, hai bên đã từng
bước đặt vấn đề cải thiện mối quan hệ về biên giới lãnh thổ. Trong Thông cáo chung
ngày 3/4/1994, Campuchia và Việt Nam đã “thỏa thuận thành lập một nhóm làm
việc cấp chuyên viên để thảo luận và giải quyết vấn đề phân giới đường biên giới
giữa hai nước và thảo luận những biện pháp cần thiết để duy trì an ninh và ổn định
trong khu vực biên giới hòa bình và hữu nghị lâu dài giữa hai nước” [83]. Tiếp đó,
ngày 17/1/1995, Thủ tướng thứ nhất Chính phủ Hoàng gia Campuchia Ranarit thăm
65
hữu nghị chính thức Việt Nam. Nhân dịp này, Thủ tướng Chính phủ hai nước đã ký
Thông cáo báo chí Việt Nam - Campuchia, tại Điều 8 ghi rõ: “Hai bên thỏa thuận
trong khi chờ đợi giải quyết những vấn đề còn tồn tại về biên giới thì duy trì sự quản
lý hiện nay... không thay đổi, xê dịch các cột mốc biên giới, giáo dục không để nhân
dân xâm canh, xâm cư và hợp tác giữ gìn trất tự an ninh biên giới” [113;9].
Sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong việc giải quyết vấn đề biên giới hai nước đó
là việc ký Tuyên bố chung ngày 1/6/1998, nhân dịp Thủ tướng thứ nhất Chính phủ
Hoàng gia Campuchia Ung Hourt thăm hữu nghị chính thức Việt Nam. Tuyên bố nêu
rõ: “Về biên giới, hai bên bày tỏ lòng mong muốn xây dựng đường biên giới chung hòa
bình, hữu nghị và hợp tác. Hai bên khẳng định tiếp tục tôn trọng các Hiệp ước, Hiệp
định về biên giới trên bộ và trên biển mà hai bên đã ký vào các năm 1982, 1983 và
1985” và “nhất trí tiến hành các cuộc họp giữa hai bên để tiếp tục giải quyết các vấn đề
tồn tại về biên giới giữa hai nước” [169;3]. Mặc dù chưa phải là văn bản cuối cùng về
giải quyết biên giới hai nước, song Tuyên bố chung đã đặt nền tảng quan trọng để
Campuchia và Việt Nam nối lại đàm phán về biên giới bị gián đoạn thời kỳ trước đó.
Căn cứ vào những thỏa thuận nêu trên, kể từ năm 1999, Ủy ban Liên hợp về
biên giới Campuchia - Việt Nam được hai bên thống nhất thành lập đã xúc tiến các
đàm phán song phương. Qua các cuộc họp, hai bên thống nhất các nguyên tắc chung
giải quyết các vấn đề biên giới giữa hai nước dựa trên cơ sở những Hiệp ước, Hiệp
định về biên giới lãnh thổ đã được ký kết vào các năm 1982, 1983, 1985 và theo các
tiêu chuẩn và nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Đồng thời, hai bên đồng ý giải quyết
6 điểm do phía Campuchia nêu ra (trong đó có 3 điểm do sai sót kỹ thuật bản đồ và 3
điểm do Hiệp ước hoạch định năm 1985 khác với thực tế quản lý), thống nhất áp
dụng nguyên tắc luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế để điều chỉnh đường biên giới
trên sông suối khác với quy định của Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985. Hai
bên cũng thống nhất xem xét việc rà soát chuyển đường biên giới từ bản đồ Bonne tỷ
lệ 1/100.000 sang bản đồ UTM tỷ lệ 1/50.000 đính kèm Hiệp ước 1985 và thỏa thuận
một số vấn đề khác liên quan đến quản lý biên giới [6;54].
Như vậy, với những cơ sở pháp lý nêu trên và trong bối cảnh mới của hai
nước đã tạo điều kiện cho quan hệ Campuchia - Việt Nam không ngừng phát triển
trên tinh thần hợp tác hữu nghị. Những thành tựu khả quan mà Campuchia và Việt
66
Nam đạt được trên nhiều lĩnh vực trong khuôn khổ hợp tác của Ủy ban Hỗn hợp
(thành lập năm 1995) đã góp phần mở đường thúc đẩy cho tiến trình đàm phán, phân
giới cắm mốc biên giới lãnh thổ hai nước từng bước đi vào thực chất. Căn cứ vào kết
quả đàm phán giữa hai bên từ các năm 1999 - 2002, nhất là sau chuyến thăm
Campuchia của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 3/2005, hai bên đã thường xuyên
gặp nhau để hoàn thiện văn bản để bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới 1985. Kết
quả sau những nỗ lực của cả hai bên, ngày 10/10/2005, tại Hà Nội, Thủ tướng
Hunsen và Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký kết Hiệp ước giữa nước CHXHCN Việt
Nam và Vương quốc Campuchia bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia
năm 1985. Hiệp ước gồm 6 điều khoản, với 3 nội dung chính: thống nhất điều chỉnh
6 điểm trên tuyến biên giới ở các tỉnh Kon Tum, Gia Lai giáp với tỉnh Rattanakiri,
Đắc Lăk giáp với Mondunkiri, An Giang giáp Kandan và Tà Keo; điều chỉnh đường
biên giới trên sông suối biên giới theo nguyên tắc pháp luật quốc tế và thực tiễn quốc
tế; cam kết hoàn thành công việc phân giới cắm mốc trước tháng 12/2008. Tại Điều 1
của Hiệp ước còn khẳng định:“Trong trường hợp nảy sinh khó khăn trong việc áp
dụng các quy định nêu trên, hai bên sẽ trao đổi hữu nghị nhằm tìm ra một giải pháp
mà hai bên có thể chấp nhận được” [53].
Sau khi ký Hiệp ước bổ sung, trong bài diễn văn của mình, Thủ tướng
S.Hunsen đã phát biểu: “Hiệp ước bổ sung về biên giới Việt Nam - Campuchia là
một thắng lợi lớn của cả hai nước. Hiệp ước khẳng định giá trị hiệu lực của Hiệp
ước hoạch định biên giới năm 1985, cho thấy sự thuỷ chung, vô tư của Việt Nam
không ép buộc Campuchia ký kết các Hiệp ước bất bình đẳng. Việc làm của Việt
Nam là đáng khâm phục. Việc ký Hiệp ước bổ sung đã làm thất bại âm mưu của các
thế lực thù địch đòi xoá bỏ các Hiệp ước, Hiệp định biên giới hai nước đã ký trong
những năm 80 của thế kỷ trước” [122;69]. Hiệp ước bổ sung hoạch định biên giới
Việt Nam - Campuchia ký ngày 10/10/2005 đặt mục tiêu sẽ hoàn thành công tác
phân giới cắm mốc trước cuối năm 2008, đây là lần đầu tiên hai bên đặt ra một mục
tiêu cụ thể như vậy. Ý nghĩa lớn nhất của Hiệp ước bổ sung là hai bên cùng tái khẳng
định giá trị hiệu lực của Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985, nối lại tiến trình
phân giới cắm mốc, nhằm xây dựng đường biên giới hữu nghị, hòa bình, ổn định và
hợp tác cùng phát triển giữa hai dân tộc. Việc ký Hiệp ước bổ sung đã một lần nữa
67
khẳng định giá trị pháp lý của các Hiệp định biên giới hai nước đã ký trong những
năm 80 của thế kỷ trước, đáp ứng mối quan tâm của chính quyền và nhân dân các địa
phương hai bên biên giới [90]. Theo đánh giá của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam
Nguyễn Văn An thì đây là sự kiện quan trọng, làm cơ sở pháp lý để hai nước cùng
nhau xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị.
Sau khi ký Hiệp ước, hai bên đã nhanh chóng thông qua kế hoạch tổng thể
phân giới cắm mốc gồm ba giai đoạn: Từ ngày 1/8/2006 tiến hành công tác tổ chức
chính trị song phương và đơn phương; từ tháng 9/2006 đến tháng 6/2008 triển khai
công tác phân giới cắm mốc trên thực địa và từ ngày 6/12/2008 hoàn thiện hồ sơ văn
bản và xây dựng Nghị định thư phân giới cắm mốc.
Ngày 27/9/2006, cột mốc 171 - cột mốc đầu tiên được cắm tại cửa khẩu quốc
tế Mộc Bài - Bà Vẹt trước sự chứng kiến của Thủ tướng Hunsen và Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng. Đây là sự kiện đặc biệt quan trọng mở ra thời kỳ hợp tác mới về
biên giới lãnh thổ giữa hai nước. Phát biểu tại buổi lễ khánh thành, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh: “Việc khánh thành cột mốc cửa khẩu quốc tế Mộc
Bài - Bà Vẹt sau chưa đầy một năm kể từ khi Việt Nam và Campuchia ký Hiệp ước
bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985 thể hiện nỗ lực của hai bên trong
việc cụ thể hóa Hiệp ước bổ sung...” [209]. Đài truyền hình Apsara Campuchia ngày
28/9/2006 cũng đã bình luận: “...Việc cắm cột mốc biên giới là một minh chứng hùng
hồn cho thành quả hợp tác to lớn giữa hai Chính phủ Việt Nam và Campuchia trong
việc giải quyết vấn đề biên giới chung chung và được dư luận trong và ngoài nước
đánh giá cao” [204].
Với sự nỗ lực lớn của hai nước, đến tháng 12/2006, hai bên đã đàm phán và
giải quyết cơ bản vị trí mốc tại 6 cửa khẩu quốc tế, tạo điều kiện để cùng thỏa thuận
mở rộng, nâng cấp một số cửa khẩu quốc tế ở Xà Xía (Kiên Giang), Hoa Lư (Bình
Phước), Lệ Thanh (Gia Lai), Dinh Bà (Đồng Tháp)... Về tổng thể, công tác phân giới
cấm mốc năm 2006 đã đạt được các mục tiêu đề ra nhưng vẫn còn một số khó khăn
về cả khách quan và chủ quan. Năm 2007 là năm bản lề để thực hiện mục tiêu hoàn
thành công tác phân giới cắm mốc trước cuối năm 2008. Trong cuộc họp của Ủy ban
Liên hợp phân giới cắm mốc tại Phnom Penh ngày 3-6/4, hai bên đã thống nhất tiến
độ phân giới cắm mốc năm 2007: Từ đầu tháng 5 đồng loạt phân giới cắm mốc từ
68
Bắc xuống Nam; ưu tiên cắm xong mốc ở nơi có đường giao thông và các của khẩu
để phục vụ phát triển kinh tế, cắm thí điểm một số mốc vùng ngập lụt để rút kinh
nghiệm, quyết tâm hoàn thành việc cắm 100 cột mốc trong năm 2007. Từ năm 2007
đến năm 2010, Chính phủ Campuchia và Việt Nam đã giao cho các địa phương giáp
giới thực hiện phân giới cắm mốc trên thực địa phù hợp với tinh thần của Hiệp ước
được ký năm 2005 giữa hai bên. Đáng chú ý là Campuchia và Việt Nam đã triển khai
nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy tiến độ phân giới cắm mốc với Campuchia như lập
Ủy ban đặc biệt nghiên cứu giải pháp, lập thêm nhóm phân giới cắm mốc, tăng
cường các tổ công tác hỗ trợ trực tiếp xuống các đội phân giới cắm mốc tại thực
địa… Với hàng loạt các hoạt động tích cực nêu trên, hai bên đã đạt được những kết
quả đáng khâm phục. Năm 2009, hai bên xác định được 49 vị trí mốc và năm 2010 là
83 vị trí, hai bên cũng đã giải quyết dứt điểm được một số vị trí mốc tồn đọng [115].
Tính đến thời điểm hiện nay, Campuchia và Việt Nam đã cắm được 238 vị trí tương
ứng với 287 cột mốc (đạt khoảng 76% khối lượng công việc) phân giới được khoảng
653 km đường biên giới (đạt khoảng 51% khối lượng công việc), đặc biệt các cột
mốc có tính chất quan trọng đã được ưu tiên hoàn thành [211].
Hai nước cũng đã tiến hành nhiều Hội nghị quốc tế như Hội nghị quốc tế
“Xây dựng đường biên giới Campuchia - Việt Nam 2009” được tổ chức tại Svay
Rieng (Campuchia) ngày 9/4/2009, và “Hội nghị quốc tế xây dựng đường biên giới
hòa bình, hữu nghị Việt Nam - Campuchia 2010” tại tỉnh Tây Ninh (Việt Nam) ngày
31/7/2010, giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Mặt trận Đoàn kết phát triển Tổ quốc
Campuchia và 10 tỉnh của Việt Nam và 9 tỉnh của Campuchia có chung đường biên
giới. Thông qua các Hội nghị và Thông cáo chung được đưa ra, Campuchia và Việt
Nam đã thống nhất tiến hành phân giới cắm mốc đúng theo lộ trình đã ký kết, chỉ đạo
các địa phương giáp giới phải hoàn thành phân giới cắm mốc vào năm 2012 theo tinh
thần thỏa thuận giữa Chính phủ hai nước.
Riêng về đường biên giới biển giữa Campuchia và Việt Nam là vùng nước
lịch sử còn chưa được phân định. Cả hai bên rất quan tâm vấn đề này và đã cố gắng
đưa ra nhiều phương thức giải quyết. Trong những năm 1995 - 1999, phía Việt Nam
đã đề nghị giải quyết qua hai vòng đàm phán nhưng phía Campuchia chưa đồng ý.
Có thể thấy lịch sử của vấn đề này như sau:
69
Phía Campuchia muốn lấy đường do Toàn quyền Brévié vạch ra tháng 1/1939
làm đường biên giới biển của hai nước. Phía Việt Nam không chấp nhận vì việc
chuyển đường Brévié không phù hợp với luật pháp quốc tế, thực tiễn quốc tế, bất lợi
cho Việt Nam và không thể giải quyết được vấn đề phân định lãnh hải theo quan
điểm hiện nay và phân định vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa. Do vậy, Việt
Nam đề nghị hai bên thỏa thuận áp dụng luật biển quốc tế, tham khảo thực tiễn quốc
tế, tính đến mọi hoàn cảnh hữu quan trên vùng biển hai nước để đi đến giải pháp
công bằng trong việc phân định vùng nước lịch sử, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế,
thềm lục địa của hai bên.
Năm 1982, Hiệp định về vùng nước lịch sử giữa CHXHCN Việt Nam và
CHND Campuchia được ký kết ngày 7/7/1982 tại Thành phố Hồ Chí Minh và là một
giải pháp tạm thời cho những vấn đề tồn tại về đường biên giới trên biển giữa hai
nước. Trong đó, thỏa thuận “lấy đường gọi là đường Brévié được vạch ra năm 1939
làm đường phân chia các đảo trong khu vực này” (Điều 3) và "sẽ thương lượng vào
thời gian thích hợp trên tinh thần bình đẳng, hữu nghị, tôn trọng độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của nhau để hoạch định đường biên giới trên biển giữa hai
nước trong vùng nước lịch sử” [43]. Trên tinh thần đó, Hiệp ước về nguyên tắc giải
quyết vấn đề biên giới giữa nước CHND Campuchia và CHXHCN Việt Nam ký
ngày 20/7/1983 tiếp tục nhấn mạnh “Hai bên sẽ thương lượng vào thời gian thích
hợp để hoạch định đường biên giới trên biển giữa hai nước trong vùng nước lịch sử
đã được hai bên thỏa thuận theo tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, vì lợi ích
của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Campuchia, phù hợp với luật pháp quốc tế và
thực tiễn quốc tế”(Điều 2) [51]. Để giải quyết vấn đề này, tại Điều 3 của Hiệp ước
hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHND Campuchia và CHXHCN Việt Nam
ký ngày 27/12/1985 đề cập đến một số nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới biển
hai nước căn cứ vào những điều khoản quy định đã nêu tại Hiệp định 1983 và Hiệp
ước 1983, trong đó khẳng định “Đường biên giới quốc gia trên biển tiếp tục đi theo
một đường mà hai bên sẽ thỏa thuận bảo đảm việc chia đảo đúng như Hiệp định về
vùng nước lịch sử của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng
hòa Nhân dân Campuchia đã quy định” và giao cho “Ủy ban liên hợp tiến hành
càng sớm càng tốt việc khảo sát thực địa, hoạch định biên giới quốc gia trên biển và
70
soạn thảo Hiệp ước về hoạch định biên giới quốc gia trên biển giữa nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia” [52]. Tuy
nhiên, do những yếu tố chủ quan và khách quan, nhất là sự bất ổn về chính trị - xã
hội tại Campuchia đã làm cho vấn đề phân định biên giới vùng biển giữa hai bên
không được đề cập trong những năm sau đó.
Trong chuyến thăm Việt Nam tháng 1/1995 của Thủ tướng thứ nhất Vương
quốc Campuchia N.Ranarit, phía Campuchia đưa ra đề nghị bàn về hợp tác khai thác
chung vùng chồng lấn giữa hai nước. Mặc dù vậy, trong đàm phán giải quyết vấn đề
nêu trên Campuchia vẫn giữ lập trường cứng rắn về phương án phân định biên giới
biển theo đường Brévié, coi đây là lập trường chính thức của lãnh đạo cao nhất
Campuchia. Tại cuộc đàm phán cấp chuyên viên tháng 6/1998 và cuộc đàm phán của
Ủy ban Liên hiệp, Việt Nam thể hiện rõ quan điểm của mình là phải phân định biên
giới biển theo nguyên tắc công bằng, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế,
trong đó có Công ước về Luật biển năm 1982. Việt Nam chính thức đề nghị áp dụng
phương pháp phân định theo đường trung tuyến có tính tới các hoàn cảnh địa lý và
các yếu tố có liên quan khác để điều chỉnh thích hợp đi tới một giải pháp phân định
công bằng cho cả hai bên. Phía Campuchia vẫn đề nghị lấy đường Brévié làm đường
biên giới biển, nhưng Việt Nam không chấp nhận nên Campuchia đề nghị Việt Nam
vạch đường trung tuyến trong vùng nước lịch sử để nghiên cứu và xem xét.
Tháng 3/1999, tại cuộc họp vòng 1 của Ủy ban Liên hiệp, Việt Nam đã đưa ra
sơ đồ đường trung tuyến trong vùng nước lịch sử để hai bên lấy đường này làm cơ sở
đàm phán, điều chỉnh làm đường phân định biển giữa hai nước. Tuy vậy, đến vòng 2
cuộc họp của Ủy ban Liên hiệp (8/1999) về phía Campuchia vẫn chưa có câu trả lời
về đường trung tuyến mà Việt Nam đã vạch ra ở vòng 1. Việt Nam vẫn kiên trì giải
thích rõ hơn về tính hợp lý của việc sử dụng đường trung tuyến trong phân định, coi
đây là điểm khởi đầu khách quan nhất để hai bên cùng bàn bạc điều chỉnh hợp lý, hy
vọng đi tới một con đường phân định công bằng cho cả hai bên [78;69]. Từ đó tới
nay, phía Campuchia vẫn chưa có một động thái cụ thể nào để đi tới kết quả phân
định biên giới biển giữa hai nước. Ngay cả Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định
biên giới quốc gia năm 1985 ký ngày 10/10/2005 giữa Vương quốc Campuchia và
CHXHCN Việt Nam cũng không có nội dung nào liên quan đến việc giải quyết việc
71
phân định vùng biển giữa hai quốc gia láng giềng. Chính điều này đã gây khó khăn
không nhỏ tới quá trình hợp tác khai thác tài nguyên thiên nhiên biển, đặc biệt là khai
thác nguồn thủy sản, trữ lượng dầu khí cũng như công tác tuần tra phòng chống tội
phạm giữa nhân dân cũng như các lực lượng chức năng của hai nước.
Như vậy, công việc hoạch định và phân định biên giới giữa Campuchia và Việt
Nam đã tiến một bước rất dài. Tuy nhiên, công việc còn lại vẫn không ít. Tình hình
chính trị nội bộ của Campuchia vẫn tiếp tục đặt ra nhiều thách thức cho vấn đề hoạch
định và phân định đường biên giới trên biển giữa hai nước. Trong bối cảnh hợp tác an
ninh - chính trị giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu, Campuchia và Việt Nam đang
cố gắng giải quyết đầy đủ và hợp lý, công bằng và khách quan về vấn đề hoạch định và
phân định đường biên giới, đặc biệt là phân định đường biên giới trên biển, trên cơ sở
bình đẳng, hữu nghị, tôn trọng lẫn nhau, vì hòa bình và phát triển.
2.2.2. Hợp tác đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống
Kế thừa truyền thống và những thành tựu của các thời kỳ trước, những năm
cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, Campuchia và Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh việc
hỗ trợ, tìm kiếm hình thức hợp tác giữa hai nước phù hợp với tình hình mới, đó là
bảo vệ đi đôi với xây dựng đất nước, liên kết trong hội nhập và phát triển với khu
vực, quốc tế. Cơ sở của quá trình hợp tác trên lĩnh vực này được tiếp cận theo quan
điểm an ninh tương hỗ. Sự ổn định an ninh ở nước này là điều kiện quan trọng để
đảm bảo ổn định an ninh ở nước kia và ngược lại.
Trong giai đoạn 1993 - 2010, Việt Nam và Campuchia đã có những hợp tác
chặt chẽ nhằm đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng xuất
hiện nổi trội với những khái niệm an ninh toàn diện như an ninh kinh tế, an ninh
lương thực, an ninh môi trường, an ninh con người, an ninh tiền tệ, an ninh thông
tin... Hai nước tiếp tục tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực trao đổi thông tin, kinh
nghiệm, đào tạo phối hợp bảo vệ biên giới, ngăn chặn sự xâm nhập và phá hoại của
các thế lực thù địch, chống âm mưu diễn biến hoà bình, phòng chống tội phạm…
Kể từ những năm 90 của thế kỷ XX trở đi, nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em và
buôn lậu qua biên giới Campuchia - Việt Nam ngày càng gia tăng, mỗi năm có
khoảng 10.000 người bị buôn bán qua biên giới hai nước. Một thực tế đặt ra là tuyến
biên giới giữa hai nước dài 1.137km, tiếp giáp 10 tỉnh của Việt Nam với 9 tỉnh của
72
Campuchia, toàn tuyến có 114 chợ biên giới và 8 khu kinh tế cửa khẩu, với đặc điểm
địa hình sông ngòi chằng chịt, giao thông qua lại giữa hai nước thuận tiện, đặc biệt
quan hệ họ tộc giữa hai bên có từ lâu đời nên bọn tội phạm thường lợi dụng việc đi
lại làm ăn, buôn bán lao động, sản xuất, thăm thân, du lịch để lừa đảo đưa phụ nữ, trẻ
em qua Campuchia ép buộc làm nhiều việc phi pháp, đặc biệt là hoạt động mại dâm,
cưỡng bức lao động, lấy chồng trái phép… Đứng trước tình hình diễn biến phức tạp,
Việt Nam và Campuchia đã có nhiều biện pháp phối hợp chống tội phạm buôn
người. Ngày 14/3/1997, Hiệp định giữa Bộ Nội vụ Vương quốc Campuchia và Bộ
Nội vụ CHXHCN Việt Nam về hợp tác phòng chống tội phạm đã được ký kết, nội
dung của Hiệp định chủ yếu tập trung vào các vấn đề phòng, chống tội phạm xuyên
quốc gia, đặc biệt là sự phối hợp giữa lực lượng an ninh hai bên trong quá trình điều
tra, bắt giữ và tiêu diệt các phần tử phạm pháp, gây nguy hiểm tới sự ổn định nền
kinh tế - xã hội, an ninh - chính trị của mỗi nước. Đây là sự kiện đánh dấu sự mở đầu
trong quan hệ an ninh giữa hai nước.
Sau nhiều biện pháp tích cực của cả hai bên trong giải quyết vấn đề thách thức
an ninh phi truyền thống, ngày 10/10/2005, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và
chính phủ Hoàng gia Campuchia đã ký Hiệp định hợp tác song phương nhằm loại trừ
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em và giúp đỡ nạn nhân bị buôn bán. Trong những
năm 2004 - 2008, Chính phủ hai nước ban hành nhiều văn bản pháp lý phê duyệt,
triển khai thực hiện có hiệu quả Hiệp định song phương. Ngày 22/2/2007, Ban Chỉ
đạo phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em của Việt Nam đã xây dựng kế hoạch thực
hiện Hiệp định song phương. Hai nước cũng đã tổ chức các cuộc họp xây dựng kế
hoạch hành động chung về phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em. Đại biểu hai
nước thống nhất công tác phòng ngừa, thực hiện Điều 4 và Điều 15 trong Hiệp định
song phương và một số hoạt động như: Thành lập Tiểu ban tham vấn là đầu mối liên
lạc giữa hai nước mà đại diện là Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Bộ phụ nữ
Campuchia; tiến hành điều tra khảo sát để thu thập thông tin về buôn bán phụ nữ, trẻ
em; xây dựng kế hoạch truyền thông, đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ các tỉnh
chung biên giới; họp sơ kết điểm lại kết quả thực hiện, chia sẻ kinh nghiệm, bàn
kế hoạch thực hiện thời gian tới (Hội thảo bàn triển khai Hiệp định song phương
73
Việt Nam - Campuchia về phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em được tổ chức
tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 13/1/2007) [208].
Sau 3 năm thực hiện Hiệp định song phương Campuchia - Việt Nam (2005 -
2007), hai bên đã phát hiện 95 vụ với hơn 300 đối tượng có hành vi lừa bán 331 phụ
nữ, trẻ em qua 10 tỉnh biên giới phía Nam. Qua hợp tác điều tra, các cơ quan chức
năng Campuchia - Việt Nam khám phá 75 vụ, bắt 240 đối tượng, giải cứu 38 nạn
nhân, tiếp nhận hỗ trợ, tái hoà nhập cộng đồng 215 phụ nữ, trẻ em bị buôn bán trở về
Việt Nam [219]. Ban Chỉ đạo 130/CP của Việt Nam đã phối hợp với cơ quan chức
năng Campuchia đi đến việc xây dựng thống nhất quy trình chuẩn về xác minh, tiếp
nhận và hồi hương nạn nhân bị buôn bán trở về. Theo đó, hai bên xúc tiến thành lập
nhóm công tác chung Việt Nam - Campuchia để thúc đẩy và thực hiện quy trình hồi
hương các nạn nhân. Từ năm 2006 đến năm 2007, Campuchia và Việt Nam đã nhiều
lần phối hợp ngăn chặn nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em, giải cứu được 1.092 nạn
nhân, khám phá 639 vụ do 1.287 đối tượng thực hiện, trong đó nhiều vụ được phát
hiện tại các tỉnh biên giới hai nước. Các lực lượng an ninh Campuchia đã phối hợp
chặt chẽ với lực lượng an ninh các tỉnh của Việt Nam. Chẳng hạn, lực lượng biên
phòng Campuchia đã phối hợp với tỉnh Kiên Giang điều tra khám phá 1 vụ đã buôn
bán 11 phụ nữ sang Campuchia làm mại dâm, giải cứu 3 nạn nhân; tỉnh Tây Ninh
phát hiện, điều tra 3 vụ, bắt 5 đối tượng vận chuyển 48 trẻ em bán sang Campuchia,
giải cứu 11 em, tiếp nhận 4 phụ nữ bị bán do Campuchia trao trả.
Ở Campuchia, tình hình phụ nữ, trẻ em vượt biên sang Việt Nam ăn xin, làm
thuê, sống lang thang cũng khá phổ biến. Trong hai năm 2005 và 2006, Thành phố
Hồ Chí Minh đã kiểm tra, tiếp nhận 1.997 trẻ em Campuchia, trao trả 21 đợt về quê,
nhưng vẫn có tới 40 - 50% em vẫn trở lại Việt Nam [220]. Phía Việt Nam đã thực
hiện đối xử nhân đạo và từng bước trao trả cho Campuchia những đối tượng vi phạm.
Campuchia và Việt Nam cũng đã tiến hành tổ chức các hội nghị quan trọng có sự
tham dự của nhiều cấp bộ ngành của hai nước. Đặc biệt, Hội nghị Hợp tác - Phát
triển, Xây dựng và Bảo vệ an ninh giữa các tỉnh biên giới Việt Nam - Campuchia
được hai nước phối hợp tổ chức hàng năm, tại các hội nghị này hai nước đã cùng
nhau trao đổi, tham khảo ý kiến nhằm tăng cường hơn nữa quan hệ an ninh - quốc
phòng trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Hai bên đánh giá cao những kết quả đạt được
74
trong thời gian qua, những thành tựu đạt được góp phần quan trọng đưa kinh tế - xã
hội phát triển, nâng cao đời sống cho cộng đồng các dân tộc, nhất là đảm bảo ổn định
an ninh - xã hội các tỉnh dọc biên giới hai nước. Trên cơ sở đó, hai bên nhất trí tăng
cường hơn nữa sự hợp tác toàn diện giữa các bộ, ban ngành, các cơ quan, đoàn thể và
các địa phương liên quan, nhất là trên các địa bàn trọng yếu và có tính nhạy cảm cao,
nhằm bảo đảm an ninh - quốc phòng chung cho khu vực biên giới, tạo điều kiện thúc
đẩy quan hệ hợp tác hành lang phía Tây ngày càng mở rộng, nhân dân hai bên thuận
lợi trao đổi buôn bán [70;2].
Một thách thức, khó khăn mà Campuchia và Việt Nam phải đối mặt nữa là
tình trạng sản xuất, buôn bán, vận chuyển, lạm dụng ma tuý kéo theo nhiều loại tội
phạm khác làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định an ninh - chính trị, kinh tế -
xã hội, cũng như sự phát triển bền vững của từng quốc gia. Để giải quyết vấn đề này,
hai bên luôn có các cuộc tiếp xúc gặp mặt, ngoài việc thông báo tình hình tội phạm
ma tuý của mỗi nước, trao đổi kinh nghiệm về kiểm soát ma tuý, nhất là công tác cai
nghiện, thống nhất tăng cường hơn nữa việc phối hợp phòng, chống ma tuý giữa hai
nước, đồng thời tăng cường khả năng hợp tác đào tạo, huấn luyện cho các lực lượng
phòng chống ma tuý.
Ngoài ra, Campuchia và Việt Nam tích cực hỗ trợ lẫn nhau trong việc điều tra,
bắt giữ, xác minh tội phạm ma tuý liên quan đến hai nước, đặc biệt là phối hợp đấu
tranh chống mua bán, vận chuyển ma tuý qua đường bộ, đường biển và đường hàng
không. Hai nước phối hợp với Lào đã tổ chức các hội nghị về hợp tác phòng chống
ma tuý giữa ba nước (giai đoạn 2001 - 2010, Việt Nam với Campuchia và Lào đã tổ
chức 10 lần Hội nghị về hợp tác phòng, chống ma tuý). Tại Hội nghị lần thứ V
(2005), ba nước đã ra Thông cáo chung, trong đó nhấn mạnh cần tăng cường hơn nữa
hoạt động hợp tác phòng chống ma tuý từ cấp trung ương đến cấp tỉnh và huyện có
chung đường biên giới. Hội nghị khẳng định lại các cam kết chính trị mạnh mẽ và rõ
ràng của ba chính phủ về việc giải quyết vấn đề ma tuý cũng như những nỗ lực lớn
lao và sự đóng góp tích cực đã đạt được trong hoạt động kiểm soát chất kích thích
Amphetamin (ATS) thông qua các cơ chế hợp tác song phương, tiểu vùng, khu vực
và quốc tế phòng chống ma tuý [221]. Tại Hội nghị lần thứ VIII diễn ra ngày
25/12/2008, các đại biểu tiếp tục thông báo cho nhau về tình hình kiểm soát ma túy ở
75
mỗi nước; đánh giá kết quả hợp tác kiểm soát ma túy giữa ba nước; tập trung tìm
kiếm các biện pháp hữu hiệu nhằm tăng cường hơn nữa sự hợp tác kiểm soát ma túy
dọc biên giới ba nước; nhất trí tăng cường hợp tác và trao đổi thông tin giữa các cơ
quan thực thi pháp luật dọc biên giới ba nước nhằm ngăn chặn và kiểm soát tình
trạng vận chuyển trái phép các chất gây nghiện qua khu vực biên giới ba nước. Hội
nghị cũng nhất trí sẽ thực hiện một cách hiệu quả thỏa thuận hợp tác trong các khuôn
khổ song phương, đa phương, khu vực và quốc tế nhằm biến ASEAN và Trung Quốc
thành một khu vực không ma túy vào năm 2015 [157]. Bên cạnh đó, Campuchia và
Việt Nam chủ động phối hợp ngăn chặn các tệ nạn buôn lậu qua biên giới, nhất là nạn
buôn lậu thuốc lá từ Campuchia sang Việt Nam và buôn lậu xăng dầu từ Việt Nam
sang Campuchia.
Hai nước cũng có nhiều hoạt động hợp tác an ninh thông qua các diễn đàn khu
vực như ASEAN, ARF, GMS, Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia…
nhằm tạo điều kiện cho nhau phát triển, đặc biệt là việc thống nhất đẩy mạnh tuyên
truyền và ngăn chặn những âm mưu phá hoại sự nghiệp xây dựng đất nước của mỗi
bên, đập tan âm mưu “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù
địch trong và ngoài nước. Trong đó, Campuchia và Việt Nam khẳng định nguyên tắc
không cho phép lực lượng phản động sử dụng lãnh thổ của nước này để chống phá
nước kia và ngược lại. Về vấn đề người Tây Nguyên vượt biên trái phép sang
Campuchia, hai bên đã rất tích cực phối hợp để cùng giải quyết. Phía Campuchia đã
thực hiện tốt các cam kết với Việt Nam, đó là không cho Cao uỷ về người tị nạn của
Liên Hiệp Quốc (UNHCR) thành lập trại tị nạn để đón người Tây Nguyên vượt biên
trái phép sang Campuchia, mặt khác Campuchia tuyên bố sẽ trả về Việt Nam những
người Tây Nguyên vượt biên trái phép nếu không có nước thứ ba nào chấp nhận họ
đến tị nạn, đồng thời Campuchia không công nhận người Tây Nguyên vượt biên trái
phép sang Campuchia là tị nạn, vì ở Việt Nam không có chiến tranh. Ngoài ra,
Campuchia còn tiếp tục ủng hộ các hoạt động của Hội Việt kiều ở Campuchia, bác
bỏ các đề nghị của “Liên minh dân chủ” về việc mở chi hội ở 19 tỉnh thành; bác bỏ
việc đòi xóa bỏ các Hiệp định biên giới với Việt Nam do FUNCINPEC đưa ra và bác
bỏ đề nghị của “Cộng đồng Khmer Campuchia Krom” về việc nhập quốc tịch cho
người dân Khmer Nam Bộ sang Campuchia sinh sống [70;3-4]. Những việc làm này
76
của phía Campuchia đã góp phần quan trọng vào việc gìn giữ hòa bình, ổn định nền
an ninh - chính trị mỗi nước, củng cố niềm tin của nhân dân hai nước và mối quan hệ
truyền thống Campuchia - Việt Nam.
Nhìn chung, trong vấn đề hợp tác đối phó với những thách thức an ninh phi
truyền thống, Campuchia và Việt Nam đều nhận thức rằng đây là vấn đề cực kỳ phức
tạp và nhạy cảm. Vì vậy, giải quyết vấn đề này cần phải có sự chỉ đạo sát sao của
lãnh đạo hai nước và sự nỗ lực kề vai, sát cánh hỗ trợ nhau mới giải quyết thành
công. Đặc biệt, sau Chiến tranh lạnh, cả Campuchia và Việt Nam đều là đối tượng
chống phá của các thế lực phản động trong và ngoài nước thông qua “diễn biến hoà
bình”. Sự hợp tác chặt chẽ giữa hai nước đã từng bước đập tan được những âm mưu
toan tính ngày càng thâm hiểm của các lực lượng này. Những thách thức an ninh phi
truyền thống cũng đặt ra yêu cầu hai nước cần phải thắt chặt hơn nữa công tác phòng
chống tội phạm, triển khai hệ thống an ninh - chính trị vững chắc vì hai nước có
đường biên giới khá dài với địa hình phức tạp. Rõ ràng, hợp tác đối phó với những
thách thức an ninh phi truyền thống giữa Campuchia và Việt Nam trong khoảng hai
thập niên qua kể từ khi đất nước Campuchia đi vào hòa hợp dân tộc đến nay đã đạt
những thành tựu khả quan, tạo điều kiện tiền đề vững chắc cho cả hai nước hợp tác
sâu rộng hơn nữa trong thời gian tới.
2.3. Vấn đề người Việt tại Campuchia
Người Việt sinh sống ở Campuchia từ rất sớm, nhất là trong thời kỳ thuộc
Pháp và đã trở thành những công dân Campuchia thực sự, đóng góp tích cực vào xây
dựng đất nước như bao nhiêu người dân Khmer khác. Tuy nhiên, hiện nay, ở một số
nơi, trong một số trường hợp Việt kiều vẫn bị cấm đoán, chèn ép, là mục tiêu của
một số phần tử có thái độ thù hằn dân tộc và trở thành chủ đề “nóng bỏng” trong các
cuộc mặc cả chính trị tại Campuchia. Mâu thuẫn giữa các đảng phái chính trị có ảnh
hưởng không nhỏ đến cuộc sống của những người Việt Nam tại Campuchia và tác
động rất lớn đến mối quan hệ toàn diện Campuchia - Việt Nam.
Người Việt Nam nhập cư vào Campuchia có thể được chia thành một số nhóm.
Nhóm thứ nhất gồm những người đã sinh sống tại Campuchia từ nhiều thế hệ, nhưng
bị trục xuất về Việt Nam trong những năm 70 của thế kỷ XX. Trong những năm 80,
nhiều người dần dần trở lại Campuchia. Nhóm thứ hai, gồm những người nhập cư từ
77
Việt Nam là người Khmer Campuchia Krom - những người gốc Khmer đã sống nhiều
thế hệ tại Việt Nam. Vào đầu những năm 90, một nhóm người Việt Nam thứ ba bắt
đầu tới Campuchia nhằm tìm kiếm cơ hội làm giàu và phát triển kinh tế.
Số lượng người Việt di cư sang Campuchia chưa có con số chính xác. Theo số
liệu của Bộ Nội vụ Campuchia, có hơn 100.000 người Việt hầu hết chưa được cấp
quốc tịch Campuchia. Theo Đại sứ quán Việt Nam tại Campuchia, có khoảng
160.000 người Việt Nam đang sinh sống làm ăn tại Campuchia, Tổng hội người
Campuchia gốc Việt đưa ra con số khoảng 300.000 người. Phần lớn là người dân
nghèo trong nước sang Campuchia tìm kế sinh nhai, đa số sống dọc sông Mekong và
trên Biển Hồ, sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh cá, thợ nề, thợ mộc, một số ít buôn
bán nhỏ, trình độ văn hóa người Việt rất thấp và mù chữ Khmer [2;2]. Hầu hết đa số
người Việt ở Campuchia là những người làm ăn lương thiện, tôn trọng luật pháp
nước sở tại, đã có những đóng góp nhất định vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất
nước Campuchia. Tuy nhiên, cộng đồng người Việt phải đối diện với nhiều khó
khăn, thách thức. Một trong những khó khăn đó là việc hội nhập vào đời sống chính
trị, kinh tế, xã hội Campuchia nhìn từ góc độ địa vị pháp lý sau khi Chính phủ
Vương quốc Campuchia công bố các luật và sắc lệnh về ngoại kiều và luật quốc tịch
[168;48]. Chính vấn đề Việt kiều là một trong những vấn đề quan trọng ảnh hưởng
đến quan hệ chính trị giữa hai nước, vì vấn đề Việt kiều thường được một số đảng
phái Campuchia sử dụng vào mục đích chính trị. Điều này tác động lớn đến mối
quan hệ hai nước vì mỗi khi nói đến quan hệ Campuchia - Việt Nam, các đảng phái
lại đưa vấn đề Việt kiều ra tranh luận, đặc biệt là các đảng phái đối lập, không mong
muốn xây dựng quan hệ thân thiện với Việt Nam. Hay nói cách khác, kiều dân trở
thành một vấn đề khá nhạy cảm trong quan hệ giữa hai nước.
Xung đột đảng phái, cùng với những hệ lụy của nó đã đẩy đất nước
Campuchia trong thời gian dài rơi vào tình trạng bất ổn, làm gia tăng sự thù hằn và
phân biệt chủng tộc. Một số đảng phái chính trị ở Campuchia thường lấy thái độ
chính trị phức tạp của mình để đối xử với những người Việt đang làm ăn sinh sống
trên đất nước này. Trong vài năm gần đây, lãnh đạo cao nhất của đảng đối lập CNRP,
chủ tịch Đảng Sam Rainsy cho rằng “cần phải chặn đứng việc để người Việt nhập cư
bất hợp pháp tham gia bầu cử, ngăn chặn việc cho những người Việt quyết định vận
78
mệnh của người Khmer”, trong khi đó, Hoàng thân Norodom Chakrapong - Chủ tịch
Đảng Norodom Chakrapong - Linh hồn Khmer nói rằng: “thật là một điều vô lý và
bất công khi hàng vạn, hàng triệu người Việt nhập cư bất hợp pháp được đảng cầm
quyền CPP cấp đầy đủ mọi thứ giấy hợp pháp để đi bầu cử...” [109;64]. Theo Báo
cáo mang tựa đề Những sắc tộc thiểu số nằm trong vòng nguy hiểm do Trung tâm
Phát triển quốc tế và hạn chế xung đột phát hành thì “Chính phủ Campuchia đã do
dự trước sự công nhận người Việt với tư cách là những công dân. Điều này có nghĩa
là họ bị loại trừ khỏi dòng chính trong đời sống xã hội, chính trị và kinh tế ở
Campuchia” [144]. Trước thềm các cuộc bầu cử, những vấn đề nêu trên càng được
các đảng phái đối lập triệt để sử dụng như một công cụ chính trị phục vụ đắc lực cho
mục đích của họ. Đặc biệt nghiêm trọng hơn là việc giết hại kiều dân Việt Nam tại
Campuchia vẫn diễn ra bắt nguồn từ việc kỳ thị, phân biệt thù hằn của một số lực
lượng phản động, đối lập. Chẳng hạn, ngày 17-18/4/1998, tàn quân Khmer Đỏ đã sát
hại 15 thường dân vào hai làng Chnôk Tru và Cro Nhăng (tỉnh Kampong Chhnang),
trong đó đa số là người Việt [130]. Ngày 8/9/1998, một số phần tử quá khích ở
Campuchia đã gây những tội ác nghiêm trọng đối với kiều dân Việt Nam, đánh đập
chết 3 người, làm bị thương nặng 5 người và bắt giữ vô căn cứ 10 người khác, đồng
thời ra sức kích động hằn thù dân tộc chống Việt Nam [132]. Điều này đã không ít
lần gây quan ngại cho mối quan hệ giữa hai nước, làm phương hại đến tình đoàn kết
giữa hai dân tộc láng giềng.
Trước tình hình trên, trong những năm 1995 - 1996, Việt Nam và Campuchia
đã tiến hành ba vòng đàm phán cấp chuyên viên về vấn đề Việt kiều. Lần thứ nhất tại
Phnom Penh (29-30/3/1995), lần thứ 2 tại Hà Nội (28-29/7/1995), lần thứ 3 tại
Phnom Penh (9-11/7/1996). Phía Việt Nam nhiều lần đề nghị hai bên ký Hiệp định
về kiều dân nhưng phía Campuchia cho là không cần thiết. Cho đến thời điểm hiện
nay, đa phần Việt kiều ở Campuchia có địa vị pháp lý rất bấp bênh (khoảng 5-10%
có giấy tờ hợp pháp, chủ yếu sử dụng sổ tạm trú do chính quyền địa phương cấp
hoặc Thẻ Ngoại kiều do Công an cấp). Theo pháp luật Campuchia, người nước ngoài
muốn được nhập quốc tịch Campuchia phải hội đủ các điều kiện và phải được Quốc
vương ký công nhận thì mới có giá trị pháp lý. Chính phủ Campuchia chưa có chủ
trương cấp chứng minh thư cho người nước ngoài, trong đó có người Việt Nam [2;2].
79
Việt kiều trở thành mục tiêu của những chính sách thù hận và phân biệt đối xử của
một số lực lượng đối lập ở Campuchia, chính vì vậy mà nhiều người còn coi đây như
“hàn thử biểu” trong quan hệ hai nước.
Do tình hình phát triển của mỗi nước và quan hệ Campuchia - Việt Nam đang
diễn ra một cách tốt đẹp, đặc biệt là sau những chuyến thăm viếng lẫn nhau của lãnh
đạo cấp cao hai nước, cuộc sống của cộng đồng Việt kiều đã có nhiều thay đổi theo
chiều hướng tích cực. Chính quyền Campuchia đã tạo một số điều kiện cho cộng
đồng người Việt. Người Việt dần được tôn trọng, an ninh tuơng đối đảm bảo, những
người Việt đã tìm được công ăn việc làm ở Campuchia và công việc chính đáng của
đại đa số người Việt được chính quyền Campuchia thừa nhận và ủng hộ. Ngày
24/3/2003, Bộ Nội vụ Campuchia đã công nhận và cấp phép hoạt động cho Hội Việt
kiều ở Campuchia, cho phép thành lập 19 chi hội tại 19/24 tỉnh thành trong cả nước.
Đây là điều kiện pháp lý thuận lợi để Việt kiều hoạt động hợp pháp và sinh sống, tạo
không gian cởi mở cho mối quan hệ hai nước khi tiếp tục đi sâu giải quyết vấn đề
này. Theo Chính phủ Campuchia, có khoảng ¾ người Việt sẽ được xem xét, giải
quyết giấy tờ một cách cơ bản, riêng đối với người có thẻ cử tri chiếm khoảng 40%
người Việt tại Campuchia hiện nay sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhập quốc tịch
Campuchia, số còn lại chiếm khoảng ¼ là những người mới sang không đủ điều kiện
sẽ tiếp tục phân loại để xử lý phù hợp [2;4]. Đồng thời, Campuchia khẳng định sẽ
vận dụng một cách linh hoạt các quy định của luật pháp để từng bước giải quyết vấn
đề cư trú hợp pháp cho người Việt tại đây, Campuchia không gây khó khăn, dồn ép
đẩy họ vào thế phải chạy về Việt Nam. Ngoài ra, Thủ tướng Hunsen chỉ đạo các
ngành chức năng xem xét sớm giải quyết vấn đề cư trú của người Việt ở Campuchia,
yêu cầu các cơ quan chức năng giảm mức lệ phí để tạo điều kiện cho bà con có khả
năng nộp tiền để được cấp thẻ ngoại kiều và sau một thời gian nếu hội đủ tiêu chuẩn
sẽ được xem xét cấp quốc tịch Campuchia. Tổng Cục Công an Quốc gia Campuchia
cũng đã nhiều lần họp chấn chỉnh quan chức cấp dưới sách nhiễu, có hành vi sai trái
đối với người Việt [2;2]. Mặc dù còn có nhiều biểu hiện phân biệt đối xử kỳ thị, bất
bình đẳng, nhưng chính quyền hiện nay ở Campuchia nhìn chung đều tỏ thái độ thiện
chí đánh giá khách quan về cộng đồng người Việt, không chủ trương xua đuổi, ép
80
người Việt phải chạy về nước và khẳng định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng
Việt kiều làm ăn sinh sống ổn định lâu dài, phù hợp với pháp luật của Campuchia.
Có thể nói, Việt kiều ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân
tộc Việt Nam, trong đó có Việt kiều tại Campuchia. Ngày 16/7/1998, trong tuyên bố
của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phan Thúy Thanh nêu rõ: “Chính phủ
và nhân dân Việt Nam luôn luôn quan tâm sâu sắc đến vấn đề Việt kiều ở Campuchia.
Những người Việt Nam sinh sống ở Campuchia luôn luôn tôn trọng luật pháp, truyền
thống của Campuchia, có quan hệ hữu nghi với nhân dân Campuchia và đã có đóng
góp vào sự phồn vinh của Campuchia. Họ cần phải được tôn trọng và đối xử bình
đẳng như mọi ngoại kiều khác, phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như những thỏa
thuận giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Campuchia” [131].
Nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho Việt kiều tại Campuchia, Diễn đàn doanh
nghiệp Việt Nam - Campuchia đã tăng cường nhiều chương trình hỗ trợ cộng đồng
người Việt tại đây, nhất là xúc tiến tạo nhiều việc làm cho Việt kiều sau chuyến thăm
Campuchia của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết vào tháng 2/2007. Từ ngày 20-
24/6/2007, Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài cùng với Trung tâm phổ biến tri
thức và hỗ trợ cộng đồng tổ chức chương trình giao lưu văn hoá nghệ thuật phục vụ
Kiều bào nhân kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Những
hoạt động này giúp người Việt Nam đang sinh sống ở Campuchia có tinh thần hướng
về cội nguồn, đồng thời thắt chặt thêm tình đoàn kết hữu nghị với nước bạn. Phó Chủ
nhiệm Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài Trần Quang Hoan cho rằng: “Điều
quan trọng nhất là bản thân cộng đồng của chúng ta ở Campuchia tăng cường tinh
thần tự lập vươn lên, gắn bó hỗ trợ lẫn nhau, thực sự hoà nhập với cư dân và tôn
trọng pháp luật nước sở tại và đặc biệt luôn hướng về quê huơng” [37;43]. Trước
đó, Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã khẳng định chính
sách đại đoàn kết dân tộc, xác định rõ người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận
không thể tách rời và là một trong những nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt
Nam. Đây là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa
nước ta và các nước, đồng thời cũng là nhân tố góp phần to lớn vào công cuộc phát
81
triển đất nước [138]. Điều này đã củng cố thêm lòng tin của cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài, trong đó có Việt kiều tại Campuchia.
Tóm lại, chưa lúc nào vấn đề kiều dân lại bị “chính trị hoá” cao độ như vào cuối
những năm 90 của thế kỷ XX. Kiều dân Việt Nam chịu nhiều tác động tiêu cực từ các
diễn biến chính trị trên chính trường Campuchia, gây ra hệ quả xấu đến quan hệ hữu
nghị hai nước. Vấn đề Việt kiều được coi là một trong những “con át chủ bài” trong lập
luận chính trị của các đảng phái tại Campuchia để phục vụ ý đồ chính trị của mình, mục
đích là nhằm lôi kéo người dân Campuchia vào con đường mà theo đó họ sẽ đánh mất
lòng tin vào người láng giềng Việt Nam. Trên thực tế, Chính phủ của Thủ tướng
S.Hunsen nói nhiều mà không làm được bao nhiêu để cải thiện thân phận của Việt kiều.
Do đó, vấn đề người Việt tại Campuchia trở thành một đề tài thường trực và nhạy cảm
trong các vòng đàm phán ngoại giao giữa hai nước.
2.4. Trên lĩnh vực kinh tế
2.4.1. Quan hệ thương mại
Quan hệ thương mại Campuchia - Việt Nam đóng vai trò đặc biệt quan trọng,
một mặt góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước, mặt khác tạo cơ
sở nâng cao một bước đời sống của nhân dân hai nước. Trong bối cảnh hội nhập kinh
tế thế giới, đồng thời xuất phát từ yêu cầu đổi mới và xây dựng đất nước, cả
Campuchia và Việt Nam đều coi trọng và tập trung ưu tiên phát triển quan hệ kinh tế
nhằm đem lại lợi ích thiết thân cho mỗi dân tộc, góp phần củng cố mối quan hệ lâu
dài giữa hai nước. Hơn nữa, Campuchia và Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á -
một khu vực có tốc độ phát triển kinh tế nhanh và năng động của thế giới, mặt khác
hai nước còn có nhiều tiềm năng có thể hợp tác thương mại và đầu tư. Chính những
nhân tố này đã góp phần rất lớn làm cho tình hình giao thương giữa Campuchia và
Việt Nam diễn ra thường xuyên và ngày càng mạnh mẽ.
* Về tình hình xuất nhập khẩu, Từ năm 1993 đến nay, kim ngạch xuất nhập
khẩu giữa Campuchia và Việt Nam phát triển rất nhanh, nhìn chung tốc độ tăng trưởng
bình quân của những năm sau cao hơn những năm trước và mang lại hiệu quả tích cực
cho cả hai phía. Trong giai đoạn 1990 - 2000, tổng giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu
chính ngạch hai chiều vào Campuchia đạt trên 1.021,1 triệu USD, trong đó tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Campuchia đạt 808,4 triệu USD và tổng kim
82
ngạch nhập khẩu là 212,7 triệu USD. Tuy nhiên, những kết quả đạt được trong quan hệ
thương mại thời kỳ này còn rất khiêm tốn. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, song do trong
thập niên 90 của thế kỷ XX, cả Campuchia và Việt Nam đều gặp phải những khó khăn
cả bên trong lẫn bên ngoài. Campuchia sau giải phóng tiến hành hồi sinh đất nước
trong điều kiện quốc tế phức tạp, nội bộ đất nước vẫn còn nhiều bất ổn, hệ lụy nghèo
đói vẫn chưa chấm dứt sau những năm nội chiến, các phe phái tranh giành quyền lãnh
đạo đất nước gây ra tình trạng mất đoàn kết dân tộc. Tính đến trước thời điểm năm
1998, đất nước Campuchia vẫn nằm trong tình trạng khủng hoảng chính trị, khó khăn
về kinh tế. Campuchia hầu như chủ yếu phải dựa vào nguồn viện trợ từ bên ngoài để
đảm bảo đời sống của người dân trong nước. Tháng 7/1997, cuộc đảo chính bất thành
của Đảng FUNCINPEC đã đưa Hunsen lên làm Thủ tướng tại Campuchia, đất nước đi
vào thời kỳ ổn định hơn với sự lãnh đạo của Chính phủ Hoàng gia nhiệm kỳ II (1998 -
2003). Tuy nhiên, cuộc đảo chính tháng Bảy đã “tác động xấu đến tình hình chính trị -
xã hội ở Campuchia. Cũng từ đây bắt đầu một giai đoạn suy thoái về kinh tế của đất
nước” [98;558]. Vì vậy, việc phát triển quan hệ kinh tế bên ngoài lãnh thổ là điều rất
khó khăn. Với Việt Nam, sau 15 năm tiến hành đổi mới đất nước (bắt đầu từ năm
1986), mặc dù đã có những bước phát triển về cơ bản ban đầu, song nhìn chung đất
nước vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu. Tính đến năm 1995, Việt Nam đứng trước những
thách thức lớn, chỗ dựa Liên Xô và các nước XHCN của Việt Nam bị sụp đổ kéo theo
việc mất đi những nguồn viện trợ, Mỹ thực hiện bao vây cấm vận trong thời gian dài,
cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á năm 1997 - 1998 đã gây rất nhiều khó
khăn và thiệt hại cho nền kinh tế quốc gia. Mặt khác, thời gian tiến hành đổi mới chưa
được lâu cho nên nền kinh tế còn gặp không ít trở ngại thách thức, nhất là trong việc
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, giai đoạn 1993 -
1998, quan hệ kinh tế giữa Campuchia và Việt Nam còn rất hạn chế, chủ yếu là Việt
Nam xuất sang Campuchia song số lượng và chất lượng hàng hóa còn khá nhỏ bé so
với tiềm năng thực tế hai nước.
Bước sang năm 1998, việc Campuchia và Việt Nam ký Hiệp định thương mại
đã tạo “luồng gió mới” thúc đẩy quan hệ hợp tác thương mại hai nước tăng lên
nhanh chóng. Việc Việt Nam và Campuchia cùng là thành viên ASEAN cũng đã góp
phần tạo điều kiện cho hai nước mở rộng hợp tác trên lĩnh vực kinh tế. Nếu kim
83
ngạch xuất nhập khẩu vào thời điểm ký kết Hiệp định năm 1998 chỉ đạt 117 triệu
USD thì đến năm 2000, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu chính ngạch giữa hai nước
đã đạt 170 triệu USD. Trong đó, Việt Nam xuất 133 triệu USD tăng 46% và nhập 13
triệu USD tăng 148%. [28]. Trong giai đoạn 2001 - 2007, xuất nhập khẩu của Việt
Nam với Campuchia liên tục tăng, tốc độ tăng trưởng luôn đạt và duy trì ở mức khá
cao. Năm 2001, tổng kim ngạch đạt 184 triệu USD, năm 2006 đạt 934 triệu USD,
tăng hơn 5 lần so với năm 2001 [12;2]. Chỉ tính riêng năm 2007, tròn 40 năm thiết
lập quan hệ ngoại giao Campuchia - Việt Nam (1967 - 2007), tổng kim ngạch thương
mại giữa hai nước đã đạt con số ấn tượng, với 1.181 tỷ USD, trong số này Việt Nam
xuất sang Campuchia trị giá 1 tỷ USD và Campuchia xuất sang Việt Nam khoảng
200 triệu USD [181].
Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu đều đặn và có phần gia tăng giữa
Campuchia và Việt Nam là biểu hiện của bước phát triển nhảy vọt trong hợp tác về
lĩnh vực kinh tế giữa hai nước. Có được điều này, ngoài những tác động tích cực của
điều kiện khách quan, còn có sự chủ động của cả hai bên trong việc xây dựng được
hành lang pháp lý như: Chương trình hỗ trợ cắt giảm thuế nhập khẩu cho hàng hóa
xuất xứ từ mỗi nước, một số chính sách mậu dịch. Chẳng hạn, tháng 11/2007 Bộ
Công thương Việt Nam và Bộ Thương mại Campuchia đã ký Thỏa thuận bổ sung
sửa đổi chương trình thuế ưu đãi cho nhau (CEPT), theo đó Việt Nam cho phép nhập
khẩu với thuế suất 0% cho 25 nhóm mặt hàng nông sản có xuất xứ từ Campuchia,
phía Campuchia cấp giấy chứng nhận miễn giảm thuế cho 4 nhóm mặt hàng của Việt
Nam xuất sang Campuchia là thuốc lá, hạt điều, măng cụt, sầu riêng và đang tiếp tục
xem xét, hai bên tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển thương mại và
tổ chức đều đặn Hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao tại Campuchia (2lần/năm)
thu hút được sự quan tâm của chính quyền và đông đảo người dân sở tại… Trong
Biên bản Ghi nhớ giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Hội đồng Phát triển
Vương quốc Campuchia ký kết vào tháng 12/2009 đã nêu rõ: “Hai bên cam kết sẽ
xây dựng và tổ chức thực hiện cơ chế cung cấp, trao đổi thông tin thường xuyên về
tình hình tiếp nhận, cấp phép đầu tư cho các nhà đầu tư của Việt Nam sang
Campuchia và của Campuchia sang Việt Nam từ phía Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng
như từ phía Hội đồng phát triển Campuchia. Hai bên cam kết sẽ phối hợp chặt chẽ
84
để cùng tháo gỡ các khó khăn liên quan tới cơ chế chính sách và thủ tục hành chính
nhằm thúc đẩy nhanh quá trình cấp phép đầu tư cho các doanh nghiệp Việt Nam vào
Campuchia và các dự án của Campuchia vào Việt Nam, đồng thời tạo điều kiện cho
các dự án đã được cấp phép triển khai thuận lợi” [15;2]. Cũng theo đánh giá của
Thứ trưởng Bộ Công thương Việt Nam Nguyễn Thành Biên thì giao thương hai nước
có những bước khởi sắc trong thời gian gần đây là nhờ Chính phủ và ngành công
thương của hai nước có những nỗ lực cải thiện điều kiện giao thương như: Ưu đãi
thuế quan, phối hợp thực hiện hai dự án “Quy hoạch phát triển mạng lưới chợ biên
giới đến năm 2020” và “Xây dựng chợ biên giới thí điểm Việt Nam - Campuchia”,
soạn thảo Hiệp định quy chế quản lý chợ biên giới chung… cùng với sự nỗ lực của
hai Chính phủ, các địa phương hai nước có chung đường biên ngày càng quan hệ
khăng khít, tạo nhiều cơ hội giao thương, thúc đẩy phát triển kinh tế hai bên [68].
Những nỗ lực của Campuchia và Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc
đẩy mạnh hợp tác thương mại giữa hai nước ngày càng phát triển và đạt hiệu quả cao
hơn. Hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước đã có nhiều chuyển biến tích cực,
mang lại kết quả khả quan cho nền kinh tế mỗi quốc gia. Theo Hội đồng Phát triển
Vương quốc Campuchia, hiện nay Campuchia là thị trường xuất khẩu lớn thứ 16 của
Việt Nam và Việt Nam là nước xuất khẩu lớn thứ 4 vào Campuchia sau Trung Quốc,
Thái Lan, Hồng Kông. Ngược lại, Campuchia là nước xuất khẩu lớn thứ 25 vào Việt
Nam và Việt Nam là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Campuchia sau Hoa Kỳ và
EU [12;2-3].
Như vậy, bước vào thế kỷ XXI, quan hệ thương mại Campuchia - Việt Nam
có những bước đột phá, phát triển rất nhanh với con số ngày càng lớn. Hai nước đã
tạo mọi điều kiện có thể để cho các doanh nghiệp hai bên trao đổi, tiếp xúc trực tiếp
để tìm hiểu và triển khai nhiều kế hoạch hợp tác kinh doanh, buôn bán. Mặc dù gặp
nhiều thách thức do sự tác động từ những nhân tố khách quan như sự bất ổn của thị
trường tài chính thế giới, sự canh tranh gay gắt của các quốc gia bên ngoài cũng như
những khó khăn nội tại mà bản thân mỗi nước trong thời gian ngắn chưa thể khắc
phục, nhưng kim ngạch thương mại hai chiều Campuchia - Việt Nam vẫn liên tục
tăng cao đều đặn qua các năm, với tỷ lệ 30%/năm, từ mức 146 triệu USD năm 2001
lên khoảng 1,33 tỷ USD năm 2009. Riêng kim ngạch hai chiều tính đến 6 tháng đầu
85
năm 2010 đạt 862 triệu USD, tăng 34,2% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó Việt
Nam nhập từ Campuchia là 134 triệu USD, tăng tương ứng là 42,1% [72;4]. Điều
này càng chứng tỏ Campuchia và Việt Nam đã thực thi và triển khai có hiệu quả
chính sách kinh tế đối ngoại dành cho mỗi bên, đặc biệt việc Chính phủ hai nước đã
tập trung ưu tiên phát triển quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước, dành nhiều ưu
đãi cho quá trình xuất nhập khẩu các mặt hàng của nhau. Đồng thời, các doanh
nghiệp đã chú ý nâng cao chất lượng và mẫu mã sản phẩm phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng, do đó hàng hóa hai nước dễ dàng thâm nhập sâu rộng vào thị trường
mỗi bên. Tuy nhiên, một thực tế là các mặt hàng của Việt Nam ngày càng được
khẳng định và có chỗ đứng tại thị trường Campuchia, có sức cạnh tranh mạnh mẽ với
hàng hóa có xuất xứ từ Thái Lan, Trung Quốc, trong khi đó đa số các mặt hàng có
xuất xứ từ Campuchia xuất hiện tại thị trường Việt Nam với số lượng rất ít, không
chiếm được thị phần tương đối tại đây, trừ một số mặt hàng về nông sản. Trong khi
đó, nhìn chung các Hiệp định, biên bản thỏa thuận mặc dù được ký kết khá nhiều
song chưa được thực hiện triệt để, hai bên còn chậm trong việc cải tiến các thủ tục
hành chính xuất nhập khẩu, thương mại gây khó khăn cho việc phát triển giao
thương giữa hai nước.
* Về cán cân thương mại, theo thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam và số
liệu chính thức của Phòng Thương mại Campuchia công bố, từ năm 1993 đến năm
2010, trao đổi thương mại hàng hóa giữa Campuchia và Việt Nam ngày càng tăng, trong
đó Việt Nam luôn đứng ở thế xuất siêu với giá trị thặng dư thương mại ngày càng lớn.
Cụ thể, trong giai đoạn 1993 - 2000, tổng giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu chính ngạch
hai chiều vào Campuchia đạt 954,8 triệu USD, trong đó tổng kim ngạch xuất khẩu là
767,6 triệu USD và tổng kim ngạch nhập khẩu là 187,2 triệu USD. Việt Nam đã thực
hiện xuất siêu sang Campuchia với tổng giá trị hàng hóa là 580,4 triệu USD.
86
Bảng 2.1. Tổng hợp kết quả hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam qua
biên giới với Campuchia giai đoạn 1993 - 2000
Năm
Chỉ tiêu 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng cộng
Tổng kim ngạch
XNK chính ngạch
(triệu USD)
103,8 91,0 118,2 116,9 133,6 117,2 103,9 170,2 954,8
1.XK chính ngạch 76,2 73,3 94,6 89,0 98,9 85,2 91,1 132,6 740,9
2.NK chính ngạch 27,6 17,7 23,6 27,9 34,7 32,0 12,8 37,5 213,8
3.Cán cân thương
mại giữa Việt Nam
với Campuchia
48,6 55,6 71,0 61,1 64,2 53,2 78,3 95,1 527,1
Nguồn: Số liệu thống kê chính thức của Tổng Cục thống kê Việt Nam (1990 - 2000)
Theo bảng 2.1, cho thấy tình trạng xuất siêu của Việt Nam là rất lớn với tổng
kim ngạch xuất khẩu gấp 4 lần so với tổng kim ngạch nhập khẩu trong cả thời kỳ này.
Riêng về xuất khẩu năm 2000 so với năm 1993 gấp 1,7 lần, năm có tốc độ tăng trưởng
nhanh như năm 1993 so với năm 1992 tăng 3 lần, năm 2000 so với năm 1999 tăng
0,63 lần. Lý do chính khiến năm sau 1993 và năm 1999 có sự tăng trưởng rõ rệt trong
quá trình xuất nhập khẩu giữa Campuchia và Việt Nam là do tình hình chính trị - xã
hội Campuchia sau những năm bất ổn đã từng bước ổn định trở lại đã tạo thuận lợi
thúc đẩy quan hệ thương mại hai nước phát triển hơn những năm trước đó. Về nhập
khẩu, tốc độ tăng trưởng có chậm hơn so với xuất khẩu, năm 2000 so với năm 1993
chỉ tăng 1,3 lần, trong khi số liệu tương ứng là 1,8 lần (tính toán dựa trên Bảng số liệu
Tổng cục thống kê Việt Nam), tổng giá trị hàng xuất khẩu qua các năm có tăng nhưng
không đáng kể, với những con số nêu trên chứng tỏ kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai
nước còn rất nhỏ bé và chưa có sự phát triển đột biến. Có thể lý giải điều này là do một
phần khó khăn của nền kinh tế của cả hai nước, nhất là nền kinh tế còn yếu kém nhiều
mặt của Campuchia đã gây cản trở rất lớn cho việc xuất nhập khẩu giữa hai bên, cộng
với tình hình chính trị bất ổn, phức tạp kéo dài của Campuchia đã kéo theo những hệ
lụy không sáng sủa cho việc hợp tác thương mại. Mặt khác, hàng hóa xuất khẩu sang
Campuchia thời gian này chủ yếu nhằm phần lớn giải quyết khó khăn trước mắt của
87
nước bạn mà chưa mang lại nhiều lợi nhuận, các mặt hàng chủ yếu là lương thực thực
phẩm thiết yếu. Nhìn chung, trong thập niên 90 của thế kỷ XX, quan hệ hợp tác
thương mại Campuchia - Việt Nam chưa thực sự tương xứng với quan hệ truyền thống
của hai nước cũng như chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mà mỗi nước đặt ra trong
việc mở rộng giao lưu, buôn bán với bên ngoài.
Để đẩy nhanh và phát triển bền vững quan hệ thương mại hai chiều, Chính
phủ và các bộ ban ngành của Campuchia lẫn Việt Nam đã tích cực tiến hành nhiều
biện pháp thiết thực và hiệu quả như tăng cường trao đổi tiếp xúc giữa các đoàn lãnh
đạo cấp cao nhằm đề ra phương hướng, cách thức thúc đẩy hợp tác thương mại song
phương. Bên cạnh việc đẩy mạnh quan hệ chính trị, hai bên tiếp tục ưu tiên phát triển
hợp tác kinh tế nhằm đẩy nhanh quá trình CNH - HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
Nhiều Hiệp định, Nghị định thư, Tuyên bố chung, Biên bản ghi nhớ về kinh tế,
thương mại giữa hai nước đã được ký kết và từng bước được áp dụng vào thực tiễn
cuộc sống, mang lại dấu hiệu khả thi. Chẳng hạn, Hiệp định Thương mại (ký ngày
24/3/1998), Hiệp định thanh toán (ký ngày 21/2/2005) và Hiệp định vận chuyển hàng
hóa và dịch vụ thương mại tại khu vực biên giới (ký ngày 26/11/2011), đặc biệt,
Hiệp định Quá cảnh hàng hóa giữa Chính phủ Hoàng gia Campuchia và Chính phủ
nước CHXHCN Việt Nam được ký kết ngày 4/11/2008. Điều 1 của Hiệp định nêu
rõ: “Hai bên ký kết cho phép hàng hóa xuất khẩu đi nước thứ ba, hoặc nhập khẩu từ
nước thứ ba về, hoặc hàng hóa vận chuyển từ một địa phương này sang một địa
phương khác của một Bên ký kết, được quá cảnh qua lãnh thổ Bên ký kết dưới sự
giám sát của hải quan và các cơ quan có thẩm quyền khác của Bên ký kết kia. Hai
bên ký kết tạo điều kiện thuận lợi cho việc quá cảnh hàng hóa bằng đường bộ, đường
thủy, đường sắt giữa hai nước, không gây trở ngại về mặt thời gian, không ban hành
những quy định gây cản trở không cần thiết trong quá trình quá cảnh hoặc thu các
khoản phí không cần thiết” [48]. Với việc ký Hiệp định này đã tạo điều kiện dễ dàng
cho việc vận chuyển và lưu thông hàng hóa giữa hai nước thuận lợi, hàng hóa hai bên
sẽ đến tay người tiêu dùng nhanh hơn và đảm bảo chất lượng. Cũng theo Hiệp định,
việc mở cửa các cửa khẩu cho phép hàng hóa quá cảnh là một thuận lợi rất lớn không
chỉ đối với quan hệ thương mại mà kể cả hợp tác về đầu tư.
88
Ngoài ra, Campuchia và Việt Nam còn tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất hạ tầng phục vụ thương mại như cầu đường, cửa khẩu, khu kinh tế… tạo mọi
điều kiện làm cho tình hình xuất nhập khẩu giữa hai quốc gia có nhiều chuyển biến
tích cực, hiệu quả kinh tế mang lại rất rõ rệt. Nhờ vậy, những năm tiếp theo kim
ngạch thương mại hai chiều liên tục tăng trưởng với tỷ lệ 40%, năm giai đoạn 2001 -
2009, thặng dư thương mại của Việt Nam với Campuchia liên tục tăng qua các năm,
từ 108 triệu USD trong năm 2001 lên tới 600 triệu USD năm 2006, năm 2007 đạt con
số 789 triệu USD, năm 2008 đạt 1.280 triệu USD [12;2], năm 2009 đạt 961 triệu
USD, năm 2010 đạt 1.275 triệu USD. Quá trình tăng trưởng này góp phần làm cho
tình hình quan hệ kinh tế hai nước trở nên sôi động, các doanh nghiệp nhà nước và tư
nhân Việt Nam ngày càng chú ý nhiều hơn đến thị trường gần gũi và đầy tiềm năng
Campuchia. Trong đó, rất nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam đã có chỗ đứng trên
thị trường Campuchia như Công ty Viễn thông quân đội Viettel, Tập đoàn Than
Khoáng sản Việt Nam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt
Nam, Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai, Sữa Vinamilk,…
Trong những năm gần đây, quan hệ mậu dịch hai chiều Campuchia - Việt
Nam có sự thay đổi theo chiều hướng gia tăng nhanh chóng, trong đó Việt Nam luôn
chiếm ưu thế trong cán cân thương mại với Campuchia.
Bảng 2.2. Thống kê kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân
thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Campuchia giai đoạn 2006 - 2010
Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam (2006 - 2010)
89
Nguyên nhân của sự tăng trưởng các con số liên tục qua các năm một phần là
do sự tác động khách quan từ nền kinh tế khu vực đã có những khởi sắc, cũng như
những bước phát triển mới nội tại của nền kinh tế Campuchia và Việt Nam. Mặc dù
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra năm 2007 để lại nhiều hệ lụy cho nền
kinh tế thế giới những năm sau đó, nhưng với sự cố gắng từ hai phía, quan hệ thương
mại Campuchia - Việt Nam đã lấy lại được đà tăng trưởng và phục hồi ngay sau đó.
Quan trọng hơn, hai nước đã biết tận dụng lợi thế so sánh của mỗi bên để tăng cường
hợp tác thương mại. Ngoài ra, quan hệ chính trị, ngoại giao giữa hai nước ngày càng
tốt đẹp đã góp phần không nhỏ vào quá trình mở rộng giao thương giữa Campuchia
và Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, quan hệ thương mại
Campuchia - Việt Nam với các con số báo cáo hàng năm chưa thể hiện được chất
lượng hợp tác cũng như quá trình trao đổi, làm ăn giữa doanh nghiệp hai nước. Mặc
dù có sự tăng trưởng đều đặn qua các năm nhưng hai bên vẫn chưa thể khai thác hết
khả năng và tiềm lực sẵn có của của mỗi nước, cán cân thương mại chủ yếu nghiêng
về Việt Nam trong khi Campuchia còn gặp khó khăn nhiều mặt. Xuất siêu sẽ mang
lại những lợi ích thực sự cho nền kinh tế, đặc biệt thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế nước xuất siêu (Việt Nam), song kim ngạch xuất nhập khẩu chênh lệch
quá lớn trong một thời gian dài như vậy sẽ không có động lực kích thích đối tác
(Campuchia) có những chính sách hữu hiệu để phát triển thương mại hai chiều với
Việt Nam, điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển quan hệ thương mại
Campuchia - Việt Nam trong tương lai.
*Về cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu, so với các quốc gia trong khu vực,
Campuchia và Việt Nam là hai nước có sức sản xuất và tiêu thụ ở mức tương đối.
Tuy nhiên, trong phạm vi có thể, Campuchia và Việt Nam vẫn luôn tìm mọi biện
pháp đẩy mạnh quá trình trao đổi hàng hóa giữa hai bên được thuận lợi.
Hàng xuất khẩu Việt Nam sang Campuchia rất đa dạng về chủng loại, đủ các
loại sản phẩm như nhóm hàng lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng, xăng dầu,
dược phẩm, rau hoa quả tươi, máy móc thiết bị, sản phẩm dệt may, vật liệu dụng cụ
ngành tẩy rửa, phân bón, giống cây trồng, dụng cụ ngành giáo dục… Mặt hàng của
Việt Nam nhập khẩu chủ yếu là gỗ nguyên liệu đã chế biến, cao su, hạt nông sản như
90
thóc gạo, mè, đậu, điều… Đặc biệt, mặt hàng thép và sản phẩm sắt thép có kim
ngạch xuất khẩu sang Campuchia lớn nhất, sau đó là các mặt hàng vải sợi các loại,
vật liệu xây dựng, mì ăn liền. Đây là những mặt hàng truyền thống mà Việt Nam có
thế mạnh và Campuchia đang rất cần để xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà cửa, tiêu dùng
hàng ngày, phù hợp với thị hiếu và giá cả phải chăng nên dễ dàng thâm nhập vào thị
trường Campuchia trong thời gian qua.
Trong giai đoạn 1992 - 1998 và năm 2000, hàng bách hóa là mặt hàng có kim
ngạch xuất nhập khẩu lớn, chiếm tỷ trọng khoảng 19,5% tổng kim ngạch xuất khẩu
sang thị trường Campuchia gồm các mặt hàng Việt Nam sản xuất dùng trong tiêu
dùng hàng ngày như: bột giặt xà phòng, đồ nhựa gia dụng, hàng kim loại, hàng văn
phòng phẩm, đồ sứ, thủy tinh, sản phẩm giống… Hàng thực phẩm chế biến chiếm tỷ
trọng 18,5% tổng kim ngạch bao gồm các sản phẩm chế biến từ tinh bột ngũ cốc,
trong đó mì ăn liền chiếm thị phần cao nhất. Hàng thủy sản chiếm 12,6%, nhóm hàng
vật liệu xây dựng chiếm khoảng 11,3%, chủ yếu là sắt thép, xi măng tấm lợp, nhóm
hàng rau quả chiếm 11,1%. Riêng các mặt hàng còn lại chiếm tỷ trọng khiêm tốn
như: Hàng dệt may sẵn và giày dép chiếm tỷ trọng 3,4%; các mặt hàng như sản phẩm
gỗ chiếm 2,6%; cao su chiếm 1,2%, gạo chiếm 1,1%, than đá chiếm 1,1%, máy vi
tính và linh kiện chiếm 1%. Những mặt hàng này chiếm tỷ trọng không cao, một
phần do Campuchia có thể tự sản xuất trong nước, phần còn lại chủ yếu nhập khẩu từ
các nước tiên tiến, nhất là mặt hàng có hàm lượng chất xám cao. Các mặt hàng khác
như xăng dầu, phân bón, thiết bị máy móc chiếm tỷ trọng 23,3%. Về cơ cấu hàng hóa
xuất khẩu theo đường tiểu ngạch chủ yếu là hàng tiêu dùng, hàng vật liệu xây dựng
và một số mặt hàng thiết yếu khác, trong đó hàng tiêu dùng bao gồm thực phẩm và
hàng công nghệ chiếm tỷ trọng từ 60-65%, tiếp đến là hàng vật liệu xây dựng và các
hàng khác [25;52-53].
Sau cuộc tổng tuyển cử vào năm 1998, Campuchia bước vào giai đoạn ổn
định phát triển mới. Chỉ một năm sau, tức năm 1999, Campuchia trở thành thành
viên chính thức của ASEAN. Những kết quả đạt được đã góp phần quan trọng vào
quá trình mở cửa hội nhập của Campuchia tại khu vực, tác động không nhỏ đối với
quan hệ thương mại Campuchia - Việt Nam. Vì vậy, trong những năm tiếp theo, nhất
là giai đoạn năm 2001 - 2010, các nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam sang
91
Campuchia có xu hướng tăng nhanh. Nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản chiếm 41,5%
và hàng công nghiệp chiếm 50,3% tập trung vào các sản phẩm mì ăn liền, sữa, nhựa,
thép, hàng may mặc…Nhóm hàng có tính ổn định là thủy sản, rau củ quả. Hàng hóa
Việt Nam xuất sang Campuchia theo con đường chính ngạch và tiểu ngạch ngày
càng phong phú đa dạng và quy mô ngày càng lớn. Chẳng hạn, mì ăn liền (Miliket,
An Thái, Vissan, Vifon, Acecook…) trung bình mỗi năm xuất sang Campuchia
khoảng 62%, sữa và sản phẩm sữa chiếm 40% tổng kim ngạch nhập khẩu của
Campuchia (đạt 1,86 triệu USD năm 2005, và 3 triệu USD năm 2006), hóa mỹ phẩm
và chất rửa tay tăng trưởng 30% nhưng bị cạnh tranh gay gắt với hàng Thái Lan,
dược phẩm xuất khẩu trên 0,5 triệu USD/năm, nhựa và hàng nhựa chiếm khoảng
64,6% thị phần tại Campuchia nhờ giá cả cạnh tranh mặc dù chất lượng không bằng
hàng nhựa Thái Lan. Mặt hàng săm lốp chiếm từ 3-4 triệu USD/năm, thiết bị điện,
máy móc chiếm 21% thị phần (ít hơn Thái Lan là 31% và Trung Quốc là 25%), sắt
thép và nhiên liệu chiếm thị phần rất lớn tại Campuchia, cụ thể lần lượt là 27%, 56%
và ngày càng tăng vì nhu cầu Campuchia tăng 13%/năm. Ngoài ra, nhiều mặt hàng
nông sản, thủy sản, công nghiệp nhẹ, hàng công nghệ cao của Việt Nam cũng đang
từng bước xuất khẩu mạnh sang Campuchia.
Bảng 2.3. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Campuchia
(2000 - 2006)
Mặt hàng Đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Sản phẩm chất dẻo 1000
USD - 102 191 520 1.646 30.687
Sản phẩm dệt may 1000
USD 1.358 432 431 317643 323 18.516
Sản phẩm nhựa 1000
USD 3.578 3.890 5.429 19.534 20.506 22.949
Sắt thép Tấn 48.060 10.343 19.443 31.148 63.482
Mỳ ăn liền 1000
USD - - - - - 23.083 16.430
Sữa, SP sữa 1000
USD - 9 50 166 410 1.863 3.197
Nguồn: Thống kê của Tổng cục Hải quan hàng năm (2000 - 2006)
92
Về nhập khẩu, Việt Nam là nước nhập khẩu hàng hóa từ Campuchia với tổng
giá trị tương đối lớn, trong đó cao su và gỗ nguyên liệu là hai mặt hàng được Việt
Nam nhập khẩu nhiều nhất, chiếm hơn 75% tổng kim ngạch nhập khẩu. Giai đoạn
2001 - 2006, trung bình Việt Nam nhập từ Campuchia khoảng 28,7%/năm giá trị tất
cả các mặt hàng.
Bảng 2.4. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Campuchia
(2000 - 2006)
Mặt hàng Đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Cao su Tấn 31.601 3.600 43.161 59.570 46.150 38.814
Cao su và sản phẩm
cao su
1000
USD - 20 185 446
Gỗ và sản phẩm gỗ 1000
USD 11.897 17.580 34.246 44.251 57.680 57.259
Máy móc, thiết bị
dụng cụ & phụ tùng
1000
USD 2.003 1.418 1.626 853 3.337 7.463
Nguyên phụ liệu
dệt, da, giày
1000
USD 365 201 803 617 1.599 2.226
Vải 1000
USD 223 290 573 880 2.573 1.444
Nguồn: Thống kê Tổng cục Hải quan hàng năm (2000 - 2006)
So với Việt Nam, Campuchia vẫn là nước có trình độ phát triển thấp hơn, vì
vậy trong quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa hai bên, Campuchia vẫn luôn ở
tình trạng thiếu cân xứng. Mặc dù vậy, Campuchia cũng tăng cường xuất khẩu sang
Việt Nam, trong đó chủ yếu là mặt hàng nông - lâm - thủy sản thô và sơ chế nhưng
còn nhỏ bé và thông qua con đường tiểu ngạch. Hiện nay, Việt Nam đã áp dụng thuế
suất ưu đãi 0% đối với 40 mặt hàng nông sản của Campuchia gồm sắn, khoai lang,
hạt điều, gạo, hạt tiêu, ngô, sắn, đậu tương, lạc nhân, hạt thầu dầu, hạt vừng, rong và
các loại tảo biển, mía, xơ dính hạt bông, lá thuốc lá, cao su nguyên liệu, và trong năm
2011 là 60 mặt hàng được xuất khẩu sang Việt Nam với thuế suất 0%. Điều này đã
tạo ra động lực giúp Campuchia đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang Việt Nam. Gạo
và cao su là mặt hàng chính được Campuchia chú trọng xuất sang Việt Nam và được
tái xuất sang nước thứ ba, đây là hai mặt hàng mà Campuchia có tiềm năng lớn.
Lượng gỗ cao su xuất khẩu từ Campuchia sang thị trường Việt Nam thường chiếm
93
77% lượng gỗ cao su của cả nước. So với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác, Việt
Nam luôn là thị trường xuất khẩu lớn các mặt hàng của Campuchia.
Bảng 2.5. Xuất khẩu của Campuchia
Đơn vị tính: triệu USD
Năm Tổng
XK
Hoa
Kỳ
Việt
Nam Singapore
VQ
Anh
CHLB
Đức
Thái
Lan
Trung
Quốc Pháp
1998 933,5 292,9 175,9 133,0 24,9 71,8 77,0 42,2 12,2
1999 1040,2 235,8 106,8 181,7 53,4 40,4 18,5 8,9 20,7
2000 1222,6 739,7 19,4 18,0 81,6 66,0 22,9 23,8 27,7
2001 1295,8 832,2 24,5 28,0 126,3 98,7 7,6 16,7 35,0
2002 1697,7 1041,7 26,6 76,8 122,1 151,8 9,6 17,7 38,8
Nguồn: Key Indicators of Developing asian and Pacific Countries, ADB, 2003
Bảng 2.6. Nhập khẩu của Campuchia
Đơn vị tính: triệu USD
Năm Tổng
NK
Thái
Lan
Hồng
Kông Singapore
Việt
Nam
Trung
Quốc
Hàn
Quốc
Nhật
Bản
Thụy
Sỹ
1998 1128,9 168,5 129,8 3,3 90,7 95,7 95,8 5,7 5,7
1999 1243,0 195,2 185,7 99,0 85,6 85,9 79,9 73,9 15,7
2000 1424,2 221,8 254,3 106,0 91,5 112,9 76,8 58,4 21,0
2001 1455,6 503,9 116,9 399,5 109,5 86,9 49,6 19,7 2,9
2002 1801,4 544,0 183,0 387,7 118,9 139,6 53,9 74,7 2,9
Nguồn: Key Indicators of Developing asian and Pacific Countries, ADB, 2003
Nhìn chung, có thể thấy kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Campuchia và
Việt Nam ngày càng tiến triển và thu được những kết quả khả quan. Điều đáng lưu ý
là các công ty không chỉ đơn thuần thực hiện những liên kết thương mại thuần túy,
mà còn tham gia rất nhiều vào các dự án đầu tư ở mỗi nước. Việt Nam coi trọng phát
triển thương mại với Campuchia và ngược lại đã tạo điều kiện đảm bảo cho quá trình
giao thương hai nước được thông suốt và mang lại lợi ích to lớn trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
2.4.2. Hợp tác đầu tư
Quan hệ hợp tác đầu tư giữa Campuchia và Việt Nam ngày càng có dấu hiệu
khởi sắc, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước, cũng như
tăng cường hơn nữa mối quan hệ truyền thống hai nước trong thời kỳ hội nhập.
Trong giai đoạn hiện nay, nhất là khi đất nước Campuchia dần đi vào thế ổn định sau
94
cuộc bầu cử Quốc hội năm 1993 và Vương quốc Campuchia được tái lập thì quan hệ
đầu tư giữa hai nước được gia tăng mạnh mẽ.
Bên cạnh những lợi thế có được về mặt địa lý tự nhiên, nguồn tài nguyên
thiên nhiên phong phú của mỗi nước, Campuchia và Việt Nam đã và đang từng bước
thực hiện chính sách ưu tiên và tăng cường quan hệ hợp tác đầu tư đối với nhau, tập
trung khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh sẵn
có của mỗi quốc gia, góp phần vào sự nghiệp CNH, HĐH.
Trong những năm gần đây, Campuchia và Việt Nam đã thực hiện có hiệu quả
chiến lược đầu tư, kể cả ngắn hạn và dài hạn của các tập đoàn kinh tế, các doanh
nghiệp thuộc nhà nước lẫn tư nhân. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ
Công thương, đến nay Việt Nam đã có tổng số 29 dự án đầu tư sang Campuchia với
số vốn là 89 triệu USD, con số này còn cao hơn theo báo cáo của Đại sứ quán Việt
Nam tại Campuchia là 160 triệu USD. Trong đó, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực
lớn như viễn thông (Viettel - 20 triệu USD), y tế (Bệnh viện Chợ Rẫy hơn 10 triệu
USD) và một số dự án khác về giao thông vận tải như hàng không - Vietnam
Airlines, đường thủy - GEMADEP, đường bộ - Mai Linh, khai khoáng, xây dựng nhà
máy thủy điện, công trình giao thông, công trình dịch vụ…[181;2]. Tuy nhiên, các
con số và những dự án về đầu tư của Việt Nam tại Campuchia có thể còn lớn hơn vì
có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay đang trong giai đoạn tìm kiếm cơ hội và
ký kết hợp tác đầu tư tại Campuchia.
Một thuận lợi cơ bản cho quá trình hợp tác đầu tư giữa Campuchia và Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay là việc Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam - Campuchia đã
được thành lập từ năm 1994 và đi vào hoạt động mang lại cơ hội hiểu biết, hợp tác
sâu rộng giữa doanh nghiệp hai nước. Kể từ năm 1994 đến năm 2008, Ủy ban Hỗn
hợp quốc gia hai nước đã tổ chức các cuộc họp đều đặn và có 9 kỳ họp giữa hai bên
diễn ra thành công. Thông qua cơ chế này, Campuchia và Việt Nam đã ký được
khoảng hơn 50 Hiệp định và thỏa thuận hợp tác song phương, trong đó có nhiều Hiệp
định, biên bản thỏa thuận, biên bản ghi nhớ về hợp tác và bảo hộ đầu tư. Cũng chính
vì vậy, hiệu quả kinh tế mang lại từ những dự án giữa hai nước liên tục gia tăng qua
các năm với những con số đáng khích lệ. Tính đến hết năm 2010, Việt Nam đã đầu
tư tại Campuchia với tổng số vốn đạt trên 1,2 tỷ USD, quy mô trung bình đạt 14,3
triệu USD/dự án. Nếu kể cả vốn đầu tư ra nước ngoài tăng thêm của một số dự án, thì
95
tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam tại Campuchia lên
đến gần 2,15 tỷ USD [18;1].
Trong giai đoạn 1999 - 2010, nhiều dự án đầu tư của các tập đoàn, doanh
nghiệp nhà nước cũng như tư nhân Việt Nam tại Campuchia tăng nhanh cả về số
lượng lẫn quy mô. Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp mang quốc tịch Việt Nam đã
mạnh dạn thành lập công ty, mở chi nhánh hoặc văn phòng đại diện và đi sâu tìm
hiểu để tiến tới hiện thực hóa việc đầu tư tại đất nước hơn 14 triệu dân này. Chỉ trong
một thời gian ngắn từ năm 2006 đến năm 2010, nhất là sau sự kiện Campuchia chính
thức gia nhập WTO (10/2004) đã tạo động lực mới thu hút vốn nước ngoài vào
Campuchia. Trong giai đoạn nói trên, Việt Nam đã có hàng trăm dự án, chương trình
đầu tư vào Campuchia với số vốn lên tới hàng tỷ USD.
Bảng 2.7. Đầu tư của Việt Nam sang Campuchia tính đến năm 2010
Năm Số dự án Tổng vốn dự án
(USD)
Vốn Việt Nam
(USD)
Vốn Việt Nam đã
thực hiện (USD)
Doanh thu dự án
(USD)
1999 4 11,247,793 6,003,182 0 0
2002 2 5,288,000 2,595,700 0 0
2005 4 5,937,288 4,097,288 100,000 0
2006 6 29,078,366 29,828,366 1,344,458 2,800,787
2007 13 183,788,026 183,788,026 40,791,071 781,292
2008 13 150,343,014 149,902,014 48,261,425 0
2009 15 460,835,562 431,215,562 172,230,473 8,318,992
2010 27 402,272,228 386,514,228 49,674,858 249,158
Tổng 84 1,203,763,277 1,193,974,366 312,402,312 12,159,229
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch & Đầu tư, 2010
Theo bảng 2.7, có thể thấy đầu tư của Việt Nam tăng lên rất nhanh, đặc biệt là
giai đoạn 2007 - 2010, số dự án của Việt Nam tại Campuchia tăng từ 13 dự án (năm
2007) lên 27 dự án (năm 2010) với tổng số vốn tương ứng là 183,78 triệu USD lên
808,484 triệu USD. Đây là dấu hiệu cho thấy quan hệ hợp tác đầu tư giữa hai nước
vẫn phát triển theo chiều hướng tốt đẹp mặc dù trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang
gặp rất nhiều khó khăn, nhất là do tác động của khủng hoảng toàn cầu (từ năm 2007).
Các con số nêu trên cũng cho thấy thực trạng trong quan hệ đầu tư giữa hai nước.
Việc tăng trưởng của vốn đầu tư Việt Nam vào Campuchia trong các năm và ở
những giai đoạn khác nhau là không đồng đều, thậm chí có sự tăng giảm thất thường
cả về số lượng dự án lẫn tổng vốn FDI. Chẳng hạn, năm 1999 có 4 dự án đầu tư với
số vốn tương ứng là 11,247 triệu USD thì đến năm 2002 - 2005 con số đầu tư chỉ
96
dừng lại ở mốc hơn 5 triệu USD, so với năm 1999 giảm gần 6 triệu USD. Một thực
tế khác là mặc dù tổng số vốn điều lệ trong các dự án chương trình hợp tác rất lớn,
tuy nhiên con số thực hiện được trên thực tế lại quá nhỏ bé, có nhiều năm số vốn đầu
tư của Việt Nam đã thực hiện ở Campuchia chỉ nằm ở con số 0. Ví dụ, giai đoạn
1999 - 2002 tổng vốn dự án trên 16,500 triệu USD với 6 dự án hợp tác đầu tư, tương
tự năm 1999 là 4 dự án, năm 2002 là 2 dự án; song trên thực tế trong cả giai đoạn
này số vốn đầu tư của Việt Nam thực hiện tại Campuchia tính theo tỉ giá USD lại
nằm ở con số 0. Có trường hợp, năm 2005, số dự án là 4 với tổng vốn trên 5,937 triệu
USD, vốn đã được thực hiện là 100.000 USD, nhưng doanh thu lại bằng 0 USD.
Như vậy, mặc dù đầu tư của Việt Nam sang Campuchia có bước phát triển
khả quan nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định. Có thể lý giải nguyên nhân dẫn
đến sự khó khăn và bất ổn định này là do một phần tác động của yếu tố khách quan,
nhất là sự khó khăn chung của nền kinh tế thế giới sau nhiều cuộc khủng hoảng tài
chính nghiêm trọng. Mặt khác, nguyên nhân chính dẫn đến hiệu quả và doanh thu
thấp hoặc tăng giảm thất thường chủ yếu xuất phát từ yếu tố nội tại của mỗi nước.
Trước hết phải kể đến là chính sách kinh tế của mỗi bên còn nhiều yếu kém, chưa
thực sự đồng bộ, còn nhiều hạn chế, chồng chéo, do đó chưa phát huy hết khả năng
và tiềm năng sẵn có của mỗi nước. Chẳng hạn, trong dự án đầu tư 100.000 ha cây
cao su ở Campuchia, Tập đoàn Cao su Việt Nam đã được Campuchia cấp phép cho 5
công ty thực hiện và các công ty này đã triển khai khai hoang trồng cây nhưng chưa
đơn vị nào được Chính phủ Việt Nam cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài gây rất
nhiều khó khăn. Hay dự án lập Ngân hàng Cổ phần Agribank tại Thủ đô Phnom Penh
được phía Campuchia rất ủng hộ trong khi đến nay Chính phủ Việt Nam vẫn chưa có
ý kiến trả lời [181;6]. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư vào
Campuchia trong giai đoạn đầu vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, thiếu thông tin và ít hiểu biết
về pháp luật đầu tư ở Campuchia, có nhiều doanh nghiệp còn đang mang tư tưởng
đầu tư thời vụ, chộp giật, không giữ chữ tín, cạnh tranh không lành mạnh và cố tình
làm sai luật của nhà nước sở tại và bị rút giấy phép đầu tư khi đang tiến hành dở
dang. Theo Báo cáo Thực trạng hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Campuchia của Vụ
Kinh tế đối ngoại Việt Nam ngày 6/5/2008: Công ty Cienco 5 và Cienco 1 trong giai
đoạn đấu thầu thì cố xin cho bằng được gói thầu nhưng khi tiến hành thực hiện các
97
gói thầu xây dựng đường giao thông đã phải giãn tiến độ do thiếu vốn và phải xin trợ
giúp từ Chính phủ, điều này đã làm mất lòng tin từ phía Campuchia [181;4-5]. Một
số công ty vi phạm luật Campuchia dẫn đến bị tịch thu giấy phép đầu tư như Công ty
Cao su Tây Nam và Tây Nam BMP. Trong khi đó, nhiều dự án của Việt Nam tại
Campuchia được đầu tư rất lớn nhưng vốn thu hồi chậm, dẫn đến nhiều năm liền
chưa có doanh thu.
Một vấn đề khó khăn khác là chương trình dự án đầu tư của Việt Nam tại
Campuchia gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của nhiều quốc gia. Trong đó có nhiều dự
án lớn có Việt Nam tham gia đấu thầu nhưng Campuchia lại không lựa chọn các
doanh nghiệp có quốc tịch Việt Nam mà ưu tiên cho các nước và lãnh thổ khác như
Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Hồng Kông, Malaysia, Thái Lan. Chẳng hạn, về lĩnh
vực dầu khí, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam vẫn chưa chen chân được vào thị
trường Campuchia trong khi nhiều công ty dầu khí của Trung Quốc, Mỹ, Nhật, Hàn
Quốc… đã giành được giấy phép thăm dò. Về lĩnh vực xây dựng, trong khi các công
ty của Hàn Quốc đã rất thành công trong lĩnh vực này, các công ty của Pháp dẫn đầu
trong lĩnh vực xây dựng sân bay và cơ sở hàng không; các công ty Thái Lan dẫn đầu
trong lĩnh vực sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng; các công ty Trung Quốc và Nhật
Bản dẫn đầu trong lĩnh vực xây dựng các khu công nghiệp và đặc khu kinh tế (tại
khu vực Cảng Sihanoukville), xây dựng đường sá; các công ty của Thái Lan,
Malaysia, Pháp được cấp phép xây dựng hệ thống đường sắt, nhiều công ty Trung
Quốc cũng đạt được các hợp đồng trồng cây cao su và khai khoáng ở Đông Bắc
Campuchia [181;4] thì các tập đoàn và công ty của Việt Nam vẫn phải đứng ngoài
cuộc. Rõ ràng, Việt Nam vẫn chưa có nhiều khả năng cạnh tranh tại những thị trường
có tính chất mở như Campuchia, năng lực về vốn và kỹ thuật công nghệ còn chưa đủ
mạnh để có thể cạnh tranh ngang hàng với các tập đoàn kinh tế lớn đến từ các quốc
gia tầm cỡ. Cũng theo Báo cáo của Hội đồng Phát triển Campuchia (CDC) và Ủy ban
Đầu tư Campuchia (CIB), trong giai đoạn 1994 - 2007, Malaysia là nhà đầu tư nước
ngoài lớn nhất vào Campuchia, với tổng số vốn là 2,197 tỷ USD; theo sát là Trung
Quốc với 1,761 tỷ USD; Hàn Quốc đứng thứ ba với 1,509 tỷ USD…Tổng số vốn đầu
tư mà CDC và CIB đã thông qua trong thời gian từ năm 1994 đến 1997 là 14,831 tỷ
USD [154]. Đặc biệt, giai đoạn 2003 - 2007, Trung Quốc liên tục là nhà đầu tư số
98
một vào Campuchia. Tính đến hết tháng 12/2006, đã có hơn 230 doanh nghiệp Trung
Quốc đầu tư vào Campuchia, tập trung vào các lĩnh vực may mặc, điện lực, khoáng
sản, khách sạn [117].
Qua những chỉ số nêu trên, cho thấy quá trình đầu tư giữa Campuchia và Việt
Nam vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, khó khăn, do vậy Chính phủ hai nước cần phải có
những chiến lược khả thi để thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác đầu tư nhằm khai thác
lợi thế so sánh của mỗi nước, nhất là phát huy được ưu thế láng giềng gần kề về biên
giới, thuận lợi về giao thông vận tải. Một vấn đề cần tính đến là việc Nhà nước và
Chính phủ Campuchia trong quá trình phát triển đất nước có những tính toán về lợi
ích kinh tế, chính trị và những tương tác trong quan hệ quốc tế, do đó, Campuchia
thường ưu tiên quan hệ hợp tác với các nước lớn, các tổ chức có tiếng nói về chính
trị lẫn sức mạnh kinh tế nhằm đưa lại lợi ích trong đối nội và đối ngoại, nâng cao vị
thế Campuchia trên trường quốc tế. Vì vậy, Việt Nam cần phải quan tâm vấn đề này
và có những chiến lược đầu tư thích hợp, không chỉ vì lợi ích trước mắt mà cả về lâu
dài, lợi ích kinh tế gắn liền với an ninh, chính trị quốc gia. Trọng điểm của chiến
lược hợp tác với Campuchia là phải gia tăng sự có mặt của các tập đoàn kinh tế lớn
của Việt Nam tại Campuchia, tham gia đấu thầu và thực hiện những dự án mang tầm
quốc tế trên đất nước có vị trí chiến lược đặc biệt này. Đồng thời phát huy lợi thế về
mối quan hệ chính trị đang theo chiều hướng tốt đẹp giữa hai nước để đẩy mạnh ký
kết các hiệp định mang tính ràng buộc pháp lý cao hơn trong quan hệ thương mại,
đầu tư và thực hiện bằng được các dự án đã ký kết để giữ uy tín cho các doanh
nghiệp Việt Nam và niềm tin với các đối tác tại thị trường giàu tiềm năng như
Campuchia.
Bên cạnh số dự án và tổng số vốn đầu tư ngày càng tăng thì các dự án đầu tư
theo lĩnh vực của Việt Nam tại Campuchia cũng ngày một phong phú, đa dạng và tập
trung nhiều vào các lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh như sản xuất, phân phối điện,
nông lâm thủy sản, viễn thông, công nghiệp chế biến chế tạo, tài chính ngân hàng, y
tế, xây dựng, giao thông vận tải, dịch vụ khách sạn, nhà hàng.
99
Bảng 2.8. Đầu tư của Việt Nam sang Campuchia tính đến 23/ 2/2011 theo lĩnh vực
STT Lĩnh vực đầu tư
Số
dự
án
Tổng vốn đầu
tư của dự án
(USD)
Vốn đầu tư
của phía Việt
Nam (USD)
Vốn Việt
Nam đã thực
hiện (USD)
Doanh
thu dự án
(USD)
1 Sản xuất, phân phối điện, khí,
nước, điều hoà 2 807,284,283 807,284,283 600,000 426,326
2 Nông, lâm nghiệp, thủy sản 25 646,615,444 646,615,444 103,857,880 0
3 Thông tin và truyền thông 7 175,582,245 175,582,245 52,991,676 11,472,984
4 Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm 4 146,100,000 146,100,000 139,988,600 0
5 Công nghiệp chế biến chế tạo 12 130,899,777 110,387,477 4,435,000 0
6 Khai khoáng 9 69,183,403 69,183,403 8,286,956 0
7 Y tế và trợ giúp xã hội 2 30,879,615 30,879,615 0 0
8 Bán buôn lẻ và sửa chữa 12 38,230,000 16,230,000 1,885,200 0
9 Xây dựng 6 12,555,793 12,555,793 0 0
10 Vận tải kho bãi 1 930,000 930,000 0 0
11 Kinh doanh bất động sản 1 900,000 900,000 0 0
12 Dịch vụ khác 1 900,000 630,000 0 0
13 Dịch vụ lưu trú và ăn uống 1 800,000 440,000 0 0
14 Hành chinh và dịch vụ hỗ trợ 2 310,000 310,000 230,000 0
15 Hoạt động chuyên môn,
KHCN 2 158,000 158,000 117,000 1,762
Tổng 87 2,016,274,560 2,002,458,649 312,402,312 12,195,230
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2011
Theo bảng 2.8, lĩnh vực đầu tư chiếm nhiều dự án nhất là nông lâm ngư nghiệp,
thủy sản với 25 dự án đầu tư, tiếp đến là công nghiệp chế biến chế tạo, bán buôn bán lẻ
và sửa chữa với 12 dự án. Về tổng số vốn đầu tư của các dự án là 2.061.274.560 USD,
dẫn đầu là lĩnh vực đầu tư sản xuất, phân phối điện khí, nước, điều hòa với tổng số vốn
là 807.284.283 USD. Đặc biệt, đầu tư của Việt Nam trong lĩnh vực thông tin và truyền
thông chỉ có 7 dự án với số vốn hơn 175,5 triệu USD nhưng bước đầu đã thu được lợi
nhuận khá lớn với 11,4 triệu USD; trong khi các lĩnh vực đầu tư khác vẫn còn rất khiêm
tốn. Theo đánh giá của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam Võ Hồng Phúc thì
“các dự án đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, trồng cây công nghiệp, khoáng sản,
100
viễn thông, hàng không, ngân hàng… đã triển khai thực hiện đúng tiến độ, trong đó
nhiều dự án đầu tư đã đi vào hoạt động đạt được kết quả tốt và đã có những đóng góp
bước đầu cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Campuchia, góp phần củng cố thúc đẩy
quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước. Hiện các dự án đầu tư của các doanh nghiệp
Việt Nam đã tạo ra trên 6000 việc làm ổn định cho người dân Campuchia” [100;2]. Có
thể nói, hợp tác đầu tư giữa Campuchia và Việt Nam đã đạt được những hiệu quả đáng
khích lệ, góp phần vào sự phát triển kinh tế của mỗi nước, cũng như tăng cường hơn nữa
mối quan hệ toàn diện giữa hai quốc gia. Nếu so sánh với những hợp tác đầu tư ra nước
ngoài của Việt Nam thì Campuchia hiện đứng vị trí thứ hai trên tổng số hơn 55 quốc gia
và vùng lãnh thổ có đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Điều đó cũng
khẳng định Việt Nam đang có những bước đi thích hợp và cần thiết tại thị trường có tính
chất mở như Campuchia.
Trong giai đoạn 1993 - 2010, nhiều tập đoàn và doanh nghiệp Việt Nam đã
chính thức đầu tư trực tiếp vào Campuchia và bước đầu thu được một số thành công
nhất định. Trong hơn 100 công ty Nhà nước và tư nhân của Việt Nam đang làm ăn
tại Campuchia, phải kể đến một số tập đoàn và doanh nghiệp có tên tuổi như Tập
đoàn Viễn thông quân đội Viettel, Tổng Công ty hàng không Việt Nam, Công ty Mai
Linh, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Tập đoàn Dầu khí Việt
Nam (Petro Vietnam), Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam… Tại Hội nghị xúc
tiến đầu tư Việt Nam - Campuchia diễn ra vào năm 2009, Tổng Giám đốc Công ty cổ
phần đầu tư quốc tế Viettel (thuộc Tập đoàn Viettel) - đơn vị chịu trách nhiệm xúc
tiến dầu tư triển khai và quản lý mạng viễn thông Metfone tại Campuchia cho biết:
“Chỉ sau 2 năm thâm nhập thị trường Campuchia, Metfone đã góp phần nâng mật
độ thâm nhập di động tăng 3 lần, từ 14% lên 42%; điện thoại cố định từ gần như
chưa có gì tăng lên 20%; thuê bao internet tăng hơn 10 lần” [217]. Tập đoàn Viettel
đang thực sự chiếm lĩnh thị trường viễn thông nội địa Campuchia và đang làm ăn có
lãi. Hiện tại, công ty Viettel đã thực hiện dự án thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ
VoIP và dự án mạng di động có tổng số vốn đầu tư là 28,9 triệu USD. Với dự án
thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ VoIP, công ty đã hoàn thành thiết lập mạng và
cung cấp dịch vụ từ tháng 12/2006, với dự án thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ di
động, công ty đã cung cấp dịch vụ vào tháng 11/2008. Năm 2009, Viettel đã tăng
101
vốn dự án lên 156 triệu USD để mở rộng quy mô đầu tư tại Campuchia [18;2]. Với
tình hình hiện nay tại Campuchia thì mạng viễn thông Metfone đã góp phần đưa đất
nước Campuchia trở thành quốc gia băng thông rộng với hạ tầng 16.000 km cáp
quang phủ tới 100% số huyện, 95% dân số, kể cả khu vực hải đảo bằng mạng lưới
hơn 4.500 trạm phát sóng 2G và 3G. Hiện nay, 100% tỉnh thành và 70% dân số
Campuchia được tiếp cận với dịch vụ Internet. Năm 2010, Metfone là một trong
những doanh nghiệp hàng đầu góp cho ngân sách Chính phủ Hoàng gia Campuchia
với hơn 30 triệu USD [217].
Như vậy, trong bối cảnh nhiều khó khăn của kinh tế khu vực, đặc biệt tình
trạng kém phát triển của nền kinh tế Campuchia, việc triển khai đầu tư và sớm có kết
quả tốt của Tập đoàn Viettel là điều không dễ dàng. Điều này khẳng định Viettel đã
có những chiến lược và hướng đi thích hợp, từng bước chiếm lĩnh thị trường viễn
thông Campuchia. Cùng với Viettel, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam cũng
là đơn vị chủ lực thực hiện mục tiêu phát triển trồng 100.000 ha cây cao su dọc tuyến
biên giới hai nước, thuộc bốn tỉnh là Rattanakiri, Stung Treng, Mondulkiri và Kong
Pong Cham của Campuchia. Đến nay phía Campuchia đã giao cho Tập đoàn khoảng
72.000 ha, tính đến tháng 5/2009 đã trồng được 10.000 ha [17;12]. Tuy nhiên, việc
triển khai thực hiện các dự án phải được tính toán cụ thể và gấp rút thực hiện vì hiện
nay có rất nhiều quốc gia đang tăng cường đầu tư cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam
trong lĩnh vực này tại Campuchia, nhất là việc nhiều công ty của Trung Quốc đã đạt
được các hợp đồng trồng cây cao su và khai khoáng ở vùng Đông Bắc Campuchia.
Ngoài ra, một số tập đoàn, công ty khác như Tập đoàn Điện lực Việt Nam
(EVN) đã đầu tư số vốn gần 1 tỷ USD xây dựng các đập thủy điện Hạ Sê San 1, Hạ
Sê San 2 và Hạ Sê San 5. Công ty Mai Linh đầu tư sang Campuchia với tổng số vốn
là 930.000 USD vào cuối năm 2007. Công ty Greenfeed Cambodia đầu tư sản xuất
và kinh doanh thức ăn gia súc, gia cầm với tổng vốn lên tới 5 triệu USD từ năm
2007, tổng số vốn đầu tư đã thực hiện được trên 1,5 triệu USD và từ năm 2009 làm
ăn có lợi nhuận. Bên cạnh đó, Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam đã được cấp 2
giấy phép đầu tư sang Campuchia với tổng số vốn 15,7 triệu USD. Tập đoàn Hoàng
Anh Gia Lai đầu tư 73 triệu USD trồng 10.000 ha cây cao su [18;2]. Ngoài ra còn
phải kể đến Ngân hàng Agribank, Sacombank, Petrolimex, Công ty cổ phần phân
102
bón Quốc tế Năm Sao… Đáng chú ý là ngày 15/5/2010, Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam (BIDV) đã tổ chức lễ ra mắt Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Campuchia (BIDC) - chi nhánh đầu tiên của BIDV tại đất nước Chùa Tháp. BIDC đi
vào hoạt động từ tháng 9/2009 với vốn điều lệ 70 triệu USD, là ngân hàng thương
mại cổ phần lớn thứ hai tại Campuchia. Sau 8 tháng hoạt động, BIDC đã kinh doanh
có lãi và hiện nay, tổng vốn tài sản của BIDC đã lên tới 150 triệu USD, tăng hơn
100% so với vốn ban đầu. Với uy tín và thương hiệu sẵn có, BIDC đã nhanh chóng
được thị trường tài chính - ngân hàng Campuchia biết đến và bước đầu đã thực hiện
được mục tiêu đề ra là kết nối thị trường tài chính giữa hai nước Việt Nam và
Campuchia, cung cấp các gói dịch vụ tài chính đầy đủ và hoàn hảo cho các doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư vào Campuchia và cho các thành phần kinh tế tại thị trường
nước sở tại, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của Campuchia [126].
Có thể thấy, việc Việt Nam đầu tư sang Campuchia sẽ mang về nhiều lợi
nhuận và gặp nhiều thuận lợi vì “với lợi thế là nước láng giềng, việc vận chuyển
hàng hóa sẽ ít tốn kém, doanh nghiệp Việt Nam có thể sản xuất các phần chính yếu
của sản phẩm Việt Nam rồi liên kết doanh nghiệp Campuchia lắp ráp thành phẩm
xuất khẩu “Made in Cambodia” nhằm tận dụng thị trường xuất khẩu mà các nước
ưu đãi cho Campuchia. Doanh nghiệp Việt Nam có thể mở công ty hay liên kết với
doanh nghiệp Campuchia đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế Campuchia
rồi xuất khẩu qua các cảng Quy Nhơn, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Hà Tiên… Campuchia
cho thuê đất dài hạn, cao nhất tới 99 năm, miễn thuế 100% khi xây dựng nhà xưởng
và được miễn thuế lợi nhuận trong 8 năm, mức thuế thu nhập doanh nghiệp chung là
20% (cho cả doanh nghiệp trong và ngoài nước) [89]. Mặc dù vậy, để làm được điều
đó, cần phải có sự hỗ trợ và quản lý vĩ mô của Nhà nước Việt Nam, đồng thời các
doanh nghiệp phải chủ động tìm hiểu kỹ về pháp luật cũng như cơ chế đầu tư của
Campuchia để tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Cũng cần nhấn mạnh rằng là thị trường Campuchia có sức mua không lớn, số
dân ít, thu nhập thấp, phần đông là người nghèo sống ở khu vực nông thôn. Do đó,
các doanh nghiệp Việt Nam cần tính toán đầu tư vào ngành nào có lợi, đạt được cả
hai mục đích: tiêu thụ tại thị trường nội địa và xuất khẩu sang nước khác. Đồng thời,
các doanh nghiệp Việt Nam cần cân nhắc trong đầu tư, làm thế nào để có thể thu hồi
và quay vòng vốn nhanh vì đa số các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế về khả
103
năng tài chính, nếu không tính toán kỹ lưỡng thì thiệt thòi sẽ rất lớn. Từ việc nghiên
cứu sâu rộng về thị trường Campuchia và tiềm năng của quốc gia này “Việt Nam có
thể đầu tư vào một số lĩnh vực có lợi thế như sản xuất các loại hàng hóa tiêu dùng
giá rẻ, phục vụ cho tầng lớp dân nghèo sống ở nông thôn như giày dép, đồ dùng gia
đình, công cụ sản xuất; đầu tư công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản xuất khẩu;
các dự án khai thác tài nguyên như khai thác gỗ vì diện tích rừng của Campuchia
chiếm tới 36% tổng diện tích đất đai; các dự án nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, phát
triển cây công nghiệp như cao su, cà phê trên các vùng đất hoang hóa…” [171;107].
Là hai nước láng giềng có những điểm tương đồng về truyền thống văn hóa, phong
tục tập quán, đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, quan hệ hợp tác giữa hai nước được
nâng lên một bước, toàn diện và tốt đẹp về mặt chính trị - ngoại giao… sẽ là nền tảng
và động lực quan trọng thúc đẩy mạnh mẽ mối quan hệ trên lĩnh vực kinh tế, nhất là
hợp tác thương mại và đầu tư. Theo Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết: “Các doanh
nghiệp Việt Nam hãy đến Campuchia tìm hiểu, khai thác cơ hội hợp tác kinh tế đầu
tư. Việt Nam cũng có những lĩnh vực hấp dẫn các nhà đầu tư Campuchia. Hãy khơi
dậy những tiềm năng để đưa nền kinh tế, cuộc sống của nhân dân hai nước Việt Nam
và Campuchia phát triển theo kịp các nước tiên tiến” [222].
Ngoài nguồn vốn FDI, Việt Nam còn tăng cường hợp tác đầu tư với
Campuchia bằng vốn viện trợ chính thức (ODA) và vốn tín dụng ưu đãi của Chính
phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Campuchia. Mặc dù số vốn của hai chương trình
đầu tư này không lớn nhưng cũng góp phần giúp Campuchia thực hiện một số dự án
cơ bản, đồng thời nâng cao uy tín và hình ảnh tốt đẹp về Việt Nam trong lòng nhân
dân Campuchia. Chỉ tính riêng trong năm 2010, Việt Nam đã dành cho Campuchia
110 tỷ đồng, trong đó dành 86 tỷ đồng chi cho đào tạo học sinh Campuchia tại Việt
Nam, 24 tỷ đồng còn lại để thực hiện các dự án [16;1].
Đối với hợp tác sử dụng vốn tín dụng ưu đãi, hai bên đã ký Hiệp định Tín
dụng giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Vương quốc
Campuchia ngày 10/10/2005 về việc Việt Nam dành cho Campuchia một khoản tín
dụng ưu đãi trị giá không quá 25,8 triệu USD để đầu tư xây dựng, nâng cấp Quốc lộ
78 (đoạn từ Banlung km 126 đi O Yadav km 195 + 577) [46]. Hiệp định cho vay ưu
đãi để xây dựng cầu Long Bình - Chrey Thom với tổng mức đầu tư của dự án là
36,86 triệu USD.
104
Đáng chú ý là một số dự án sử dụng vốn ODA của Việt Nam tại Campuchia
đã từng bước được thực hiện và đi vào hoạt động. Ví như: Dự án khôi phục và hoàn
thiện hệ thống lưới độ cao quốc gia Campuchia với tổng mức đầu tư là 59,235 tỷ
đồng, Dự án giúp Campuchia 5 máy phát FM tại các tỉnh cũng đã được bố trí 5 tỷ
đồng để tiến hành triển khai thực hiện. Riêng về dự án Nâng cao năng lực mạng lưới
thủy văn và hệ thống thông tin khí tượng thủy văn Campuchia đã được Bộ Tài
nguyên và Môi trường hoàn thành việc lập báo cáo dự án đầu tư, hiện đang chờ ý
kiến từ phía Campuchia để trình Chính phủ Việt Nam xem xét quyết định [16;8].
Về phía Campuchia, mặc dù còn nhiều khó khăn, hạn chế về tiềm lực kinh tế,
song Chính phủ và các doanh nghiệp Campuchia vẫn có những nỗ lực xúc tiến đầu tư
một số dự án tại Việt Nam, nhất là trong những năm gần đây số dự án và vốn đầu tư
có sự gia tăng đáng kể. Tính đến tháng 4/2006, Campuchia là nước có vốn đầu tư vào
Việt Nam đứng thứ 58 trong tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào
Việt Nam với 4 dự án đang hoạt động và tổng số vốn đăng ký 4 triệu USD [180;7].
Đến năm 2010, số dự án của Campuchia lên tới 8 dự án với tổng số vốn đầu tư hơn
51 triệu USD. Các dự án đầu tư của Campuchia vào Việt Nam tập trung chủ yếu một
số ngành như nông lâm nghiệp, thủy sản, vận tải kho bãi, công nghiệp chế biến chế
tạo; dịch vụ lưu trú và ăn uống, bán buôn, bán lẻ; sữa chữa, hoạt động chuyên môn
và khoa học công nghệ.
Bảng 2.9. Đầu tư trực tiếp của Campuchia vào Việt Nam tính đến 14/3/2011
phân theo ngành
TT Chuyên ngành Số dự án Tổng vốn đầu
tư (USD)
Vốn điều lệ
(USD)
1 Nông, lâm nghiệp, thủy sản 1 45000000 15000000
2 Vận tải kho bãi 1 3000000 2200000
3 Công nghiệp chế biến,chế tạo 2 1050000 250000
4 Dịch vụ lưu trú và ăn uống 1 1000000 1000000
5 Hoạt động chuyên môn, KHCN 1 400000 400000
6 Bán buôn,bán lẻ,sửa chữa 1 300000 300000
7 Y tế và trợ giúp xã hội 1 300000 90000
Tổng cộng 8 51,050,000 19,240,000
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2011
105
Theo bảng 2.9, trong tổng số 51.050.000 USD vốn đầu tư của Campuchia vào
Việt Nam ở con số 8 dự án thì các dự án đầu tư về nông, lâm nghiệp, thủy sản đạt
mức cao nhất là 45.000.000 USD, thứ hai là ngành công ngiệp chế biến chế tạo với
1.050.000 USD và hai ngành có mức vốn đầu tư thấp nhất là buôn bán, bán lẻ, sữa
chữa, y tế và trợ giúp xã hội đồng tương ưng với con số 300.000 USD. So với Việt
Nam đầu tư tại Campuchia, thì số sự án và số vốn của Campuchia đầu tư vào Việt
Nam còn quá khiêm tốn.
Bảng 2.10. Đầu tư trực tiếp của Campuchia vào Việt Nam
tính đến 14/3/2011 phân theo hình thức
TT Hình thức đầu tư Số dự án Tổng vốn đầu
tư (USD)
Vốn điều lệ
(USD)
1 100% vốn nước ngoài 5 46050000 15840000
2 Liên doanh 3 5000000 3400000
Tổng cộng 8 51,050,000 19,240,000
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2011
Bảng 2.11. Đầu tư trực tiếp của Campuchia vào Việt Nam
tính đến 14/3/2011 phân theo địa phương
TT Địa phương Số dự án Tổng vốn đầu tư
(USD)
Vốn điều lệ
(USD)
1 Quảng Ninh 1 45000000 15000000
2 Tây Ninh 2 3300000 2500000
3 Tp. Hồ Chí Minh 3 1350000 340000
4 Hà Giang 1 1000000 1000000
5 Hà Nội 1 400000 400000
Tổng cộng 8 51,050,000 19,240,000
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2011
Trên thực tế, nếu xét về khả năng hiện tại của Campuchia thì việc đầu tư của
Campuchia vào Việt Nam là một sự nỗ lực vượt bậc trong bối cảnh nền kinh tế còn
rất nhiều khó khăn. Theo báo cáo Chiến lược Tứ giác phát triển của Chính phủ
Hoàng gia Campuchia giai đoạn II (2008 - 2013) ký ngày 26/9/2008, chỉ số về thu
nhập bình quân đầu người dân Campuchia năm 2004 là 394 USD và năm 2007 là
594 USD, đây là mức thu nhập vào loại thấp nhất Đông Nam Á. Tỷ lệ người nghèo
106
của Campuchia vẫn còn rất cao: chiếm 35% (2004) và 32% (2007) và tỷ lệ nghèo ở
khu vực nông thôn của Campuchia còn cao hơn nhiều lần [26;4, 15]. Campuchia đã
có nhiều nỗ lực để vực dậy nền kinh tế, theo đánh giá của Thủ tướng S.Hunsen,
Campuchia có mức tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm tăng 11,1%/năm. Dự trữ
ngoại tệ cũng tăng gấp đôi và đạt khoảng 2 tỷ USD vào đầu năm 2008. Nguồn vốn
FDI vào Campuchia đã tăng hơn 7 lần từ 121 triệu USD năm 2004 lên 867 USD năm
2007 và kể từ khi thực hiện chương trình cải cách quản lý tài chính công, thì nguồn
thu ngân sách đã tăng trung bình 26% năm [99;2].
Những con số nêu trên đã thể hiện sự phát triển của nền kinh tế - xã hội
Campuchia trong những năm vừa qua. Cùng với việc đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài,
Campuchia từng bước khẳng định vị thế và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế
đất nước trong khu vực. Những kết quả đạt được trong hợp tác đầu tư giữa
Campuchia và Việt Nam đã tạo “tiền đề để hai nước thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp
tác kinh tế, đầu tư, thương mại, khai thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của cả
hai phía... các bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp hai nước đã có sự phối
hợp chặt chẽ trong việc tăng cường hợp tác tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi
thúc đẩy đầu tư, kinh doanh… các cơ quan quản lý nhà nước về hợp tác đầu tư của
cả hai nước đã thiết lập được đầu mối trao đổi thông tin, tăng cường công tác quản
lý nhà nước, xúc tiến đầu tư và hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp” [101;2]
Nhìn chung, quan hệ hợp tác đầu tư Campuchia - Việt Nam đã đạt được kết quả
đáng kể và ngày càng khởi sắc. Điều này đã được nhấn mạnh trong Bản ghi nhớ giữa
Bộ Kế hoạch và Đầu tư nước CHXHCN Việt Nam và Hội đồng Phát triển Vương
quốc Campuchia về xúc tiến đầu tư của Việt Nam vào Campuchia ngày 25-
26/12/2009: Hai bên cùng ghi nhận và đánh giá cao về sự gia tăng các dự án đầu tư
của các nhà đầu tư Việt Nam sang Campuchia và các nhà đầu tư Campuchia sang Việt
Nam; với quyết tâm chung là tăng cường hợp tác trên cơ sở bình đẳng và hữu nghị, vì
lợi ích cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân hai nước. Hai bên nhất trí sẽ tăng cường
hợp tác và trao đổi thông tin và kinh nghiệm trong việc xây dựng và hoàn thiện các cơ
chế, chính sách liên quan đến đầu tư, thường xuyên thông báo cho nhau những thay
đổi mới nhất đặc biệt là các nội dung liên quan như thủ tục đầu tư, chính sách khuyến
khích đầu tư và danh mục các dự án kêu gọi đầu tư nhằm tạo điều kiện cho các nhà
107
đầu tư trong việc tìm hiểu thông tin về môi trường và cơ hội đầu tư. Đồng thời, cam
kết sẽ phối hợp chặt chẽ để cùng tháo gỡ các khó khăn liên quan tới cơ chế chính sách
và thủ tục hành chính của cả hai nước nhằm thúc đẩy nhanh quá trình cấp phép đầu tư
một cách thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam vào Campuchia và các dự án của
Campuchia vào Việt Nam [15;1-2]. Đây là một trong những cơ sở ban đầu để các
doanh nghiệp hai bên an tâm làm ăn và tạo điều kiện cho “Nhiều dự án được triển
khai khá thuận lợi ở cả hai nước, một số dự án đã đi vào hoạt động và có những đồng
góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế và quan hệ hữu nghị giữa hai nước” [101;1].
Tuy nhiên, số dự án cũng như lượng vốn đầu tư của Campuchia vào Việt Nam và
ngược lại đến thời điểm hiện tại vẫn còn quá nhỏ bé so với tiềm năng thực tế rất lớn
của cả hai nước và so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác như Trung Quốc, Hàn
Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Malaysia, Hồng Kông, Đài Loan…
Để khắc phục điều này, ngoài những thuận lợi nêu trên, Campuchia và Việt
Nam cần phải tăng cường hơn nữa các loại hình hợp tác đầu tư cả về chất lượng và
quy mô. Đặc biệt là việc đẩy mạnh quá trình đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam
sang Campuchia trong đó tập trung vào các ngành có tiềm năng và thực lực. Bởi lẽ
hiện nay “Chính phủ Campuchia đã có chính sách cụ thể để khuyến khích đầu tư vào
6 lĩnh vực: sản xuất nông nghiệp, giao thông và viễn thông, năng lượng và điện lực,
những ngành sử dụng nhiều lao động phục vụ xuất khẩu, du lịch và phát triển nguồn
nhân lực” [37;51]
Ngoài ra, Campuchia dự kiến sẽ thành lập 19 đặc khu kinh tế giáp biên giới
với Thái Lan, Việt Nam và xung quanh Thủ đô Phnom Penh là cơ hội thuận lợi cho
các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào
Campuchia. Cũng theo ông Kep Chuk Tema - Đô trưởng Thủ đô Phnom Penh:
“Hàng Việt Nam đã qua mặt được hàng Thái Lan tại thị trường Campuchia, Việt
Nam nên đầu tư vào Campuchia vì có sẵn thị trường và các doanh nghiệp Việt Nam
được đưa vào danh sách “nhà đầu tư VIP” được hưởng những ưu tiên hỗ trợ về mặt
thủ tục, được tư vấn cho khu vực và lĩnh vực đầu tư” [37;50]. Phó Thủ tướng
Campuchia Sok An thì khuyên doanh nghiệp Việt Nam nên tham gia đầu tư vào các
khu chế xuất, nơi hàng hóa Việt Nam có thể xuất khẩu đi các nước và hưởng những
ưu đãi thuế khi có xuất xứ từ Campuchia. Chẳng hạn, chỉ tính riêng thị trường Mỹ,
108
đến nay có 60.000 mặt hàng của Campuchia được miễn thuế khi nhập khẩu vào Mỹ
[37;50] và có 418 mặt hàng của Campuchia xuất khẩu sang Trung Quốc được miễn
giảm với thuế suất bằng 0% [117]. Bên cạnh đó, Chính phủ hai nước Campuchia và
Việt Nam cần tích cực đưa ra những chính sách hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp,
nâng cao năng lực cạnh tranh và chủ động, linh hoạt trong các cơ hội làm ăn ở cả hai
phía. Cuối cùng, hai nước cần có những chiến lược dài hạn, thực hiện ký kết các biên
bản có tính pháp lý cao như hiệp định, trong đó phải có chính sách về kinh tế để tạo
sự đan xen lợi ích và hỗ trợ lẫn nhau trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
2.4.3. Hợp tác giao thông vận tải
Để phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện liên kết hội nhập, giao thông vận
tải được cả Campuchia và Việt Nam quan tâm đầu tư xây dựng. Hiện nay, hợp tác
giao thông vận tải hai nước đã có những thành tựu khả quan, góp phần mang lại lợi
ích đối với công cuộc cải cách, đổi mới của mỗi nước. Trong những năm qua,
Campuchia và Việt Nam đã có sự hợp tác ngày càng chặt chẽ trong các lĩnh vực giao
thông đường bộ, đường thủy và đường hàng không, trong đó giao thông đường bộ
được đặc biệt chú trọng.
Ngày 1/6/1998, Hiệp định vận tải đường bộ giữa Chính phủ CHXHCN Việt
Nam và Chính phủ Hoàng gia Campuchia đã được ký kết là cơ sở đánh dấu bước
phát triển mới trong hợp tác giao thông vận tải của hai nước. Hiệp định bao gồm 19
điều khoản liên quan đã tạo có sở pháp lý cho hai nước thực hiện “thúc đẩy việc vận
chuyển hàng hóa và hành khách (kể cả khách du lịch) bằng đường bộ giữa hai
nước”. Nội dung của Hiệp định tập trung vào quy định cụ thể về các thủ tục hành
chính trong quá trình lưu thông như cấp phép, giấy tờ, xuất trình giấy tờ, đường lưu
thông, xử lý sự cố, những quy định pháp luật sở tại khi các phương tiện tham gia
giao thông đi lại trong lãnh thổ ở mỗi nước, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc
trao đổi, giao lưu giữa nhân dân hai nước. Điều 1 của Hiệp định này nêu rõ: “Hai
Bên kết kết đồng ý tiến hành vận chuyển hàng hóa và hành khách (kể cả khách du
lịch) qua lại giữa hai nước theo đường bộ qua các cửa khẩu biên giới được hai Bên
thỏa thuận. Hai Bên ký kết có quyền và cơ hội ngang nhau trong việc vận chuyển
hàng hóa và hành khách (kể cả khách du lịch) song phương giữa hai nước. Những
vấn đề khác liên quan đến vận tải đường bộ giữa hai nước như tổ chức và hình thức
109
vận tải, tuyến đường, giao nhận, kho bãi, phí giao thông và các thứ phí khác sẽ do cơ
quan có thẩm quyền của hai Bên ký kết thỏa thuận” [45]. Những điều khoản của
Hiệp định đã góp phần giúp Campuchia và Việt Nam hướng tới sự hợp tác lâu dài
giữa hai bên và đều có “quyền lợi ngang nhau” trong quá trình hợp tác giao thông
đường bộ. Theo Hiệp định, số lượng phương tiện thương mại (cả hành khách và hàng
hóa) được phép qua lại hai nước mỗi bên là 300 xe thông qua 7 cặp của khẩu. Tuy
nhiên, hiện nay do điều kiện cơ sở vật chất tại một số cửa khẩu không đảm bảo,
phương tiện thương mại liên vận chỉ mới qua lại được tại 4 cặp cửa khẩu gồm: Mộc
Bài (Tây Ninh) - Bà Vẹt (Svarieng); Xa Mát (Tây Ninh) - Trapeang Phlong
(Kongpong Cham); Tịnh Biên (An Giang) - Phnom Den (Takeo); Hà Tiên (Kiên
Giang) - Prek Chak (Kampot). Những năm tiếp theo sẽ cho phép phương tiện qua lại
các cặp cửa khẩu còn lại là Lệ Thanh (Gia Lai) - OYadav (Rattanakiri); Bon Nuê
(Bình Phước) - Trapeang Sre (Kratie); Bu Prang (Đắk Nông) - O Raing
(Mundulkiri). Sau khi thông xe, các phương tiện vận tải hành khách và hàng hóa
bằng đường bộ của hai nước có thể đi sâu vào lãnh thổ của nhau mà không phải dừng
lại ở biên giới để chuyển tải như trước đây [17;8]. Có thể nói, với những nội dung cụ
thể, Hiệp định là văn bản pháp quy cao nhất thể hiện được ý chí thống nhất giữa hai
nhà nước trong những nỗ lực nhằm củng cố và phát triển mối quan hệ bền vững trên
lĩnh vực giao thông vận tải.
Bên cạnh đó, Campuchia và Việt Nam đã triển khai nhiều chương trình, dự án
giao thông trọng điểm, trong đó Việt Nam là nước hỗ trợ, giúp đỡ cho Campuchia
xây dựng và hoàn thiện nhiều công trình giao thông quan trọng. Đặc biệt, dự án cải
tạo, nâng cấp Quốc lộ 78 tại Campuchia bằng vốn vay của Việt Nam theo Hiệp định
tín dụng VC-01 ngày 10/10/2005, có tổng trị giá 25,8 triệu USD. Dự án được khởi
công vào ngày 4/2/2007 với liên danh nhà thầu gồm Tổng công ty xây dựng công
trình giao thông 1 của Bộ Giao thông vận tải (CIENCO1), Tổng công ty xây dựng
Trường Sơn của Bộ Quốc phòng (TSC) và Công ty Sok Sokha của Campuchia (SSK)
[14;2-3]. Đây là công trình trọng điểm có ý nghĩa hết sức thiết yếu đối với
Campuchia và cả trong quan hệ hai nước. Phát biểu tại buổi lễ khởi công đường 78,
Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng khẳng định: “Việc hai nước tổ chức lễ khởi công
dự án này có ý nghĩa hết sức sâu sắc, đánh dấu nỗ lực, quyết tâm cao của chính phủ
110
và nhân dân hai nước, thể hiện tình cảm và truyền thống hợp tác hữu nghị vốn có
giữa hai nước…tuyến đường sau khi hoàn thành sẽ mang lại nhiều lợi ích cho nhân
dân Campuchia và cho khu vực tam giác phát triển (Lào - Việt Nam - Campuchia),
bởi lẽ sau khi hoàn thành tuyến đường này sẽ tạo ra thêm một tuyến hành lang kinh
tế Đông - Tây, liên kết tỉnh Rattanakiri của Campuchia với các tỉnh thuộc khu vực
Tây Nguyên và các cảng biển ở duyên hải miền Trung Việt Nam” [203].
Ngày 18/3/2010, dự án nâng cấp, cải tạo Quốc lộ 78 đã được hoàn thành và
đưa vào hoạt động nối liền thành phố Banlung (Rattanakiri, Campuchia) tới Cửa
khẩu quốc tế O Yadav (Campuchia) - Lệ Thanh (Việt Nam) với tổng chiều dài
69,569km [20]. Công trình đi vào hoạt động không chỉ góp phần tạo điều kiện thuận
lợi thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Campuchia mà còn mở ra cơ hội trong hợp
tác thương mại, dịch vụ… tăng cường vận chuyển người, hàng hóa và phương tiện
qua lại giữa hai nước. Đồng thời, Quốc lộ 78 là điểm kết nối miền Trung của Thái
Lan, Đông Bắc Campuchia với vùng Tây Nguyên của Việt Nam, đóng góp vào phát
triển giao thông vận tải, tạo tiền đề cho việc xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế
của các tỉnh nằm trong khu vực Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia.
Ngoài ra, Campuchia và Việt Nam còn hợp tác triển khai đầu tư xây dựng cầu
Long Bình - Chrey Thom dưới dạng Hiệp định cho vay ưu đãi. Ngay từ đầu tháng
7/2006, Bộ Giao thông vận tải hai nước đã thành lập Nhóm nghiên cứu tiến hành
khảo sát và thiết kế kỹ thuật cho dự án. Theo Hiệp định, tổng mức đầu tư của dự án
được duyệt là 36,82 triệu USD. Trong đó, tổng mức đầu tư phía bờ Việt Nam là
16,23 triệu USD, tổng mức đầu tư phía bờ Campuchia là 20,59 triệu USD [14;3].
Như vậy, việc vay vốn và hỗ trợ vốn giữa Campuchia và Việt Nam ngày càng được
Chính phủ hai nước quan tâm đã góp phần thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực giao
thông vận tải.
Hai nước cũng thống nhất về mặt kỹ thuật việc xây dựng cầu biên giới Đắk
Đăng trên tuyến đường nối tỉnh Đắk Nông (Việt Nam) và Mondulkiri (Campuchia),
xây dựng cầu vượt Sở Hạ nối Cửa khẩu quốc tế Dinh Bà (Đồng Tháp) với
Bontiachak Cray (Prey Veng). Cùng với sự hỗ trợ từ Chính phủ, các tỉnh biên giới
hai nước cũng đã quan tâm, hỗ trợ lẫn nhau trong việc xây dựng hệ thống cầu,
đường, đặc biệt là các tuyến đường nối liền đến cửa khẩu biên giới Campuchia - Việt
111
Nam nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho việc lưu thông hàng hóa, trao đổi và giao lưu
của nhân dân. Có thể kể đến các dự án tiêu biểu như xây dựng tuyến đường trải đá,
tráng nhựa liên tỉnh số 312 kết nối với tuyến đường DT-101 của Việt Nam với tổng
chiều dài 28,7km từ Cửa khẩu quốc tế Bontiachak Crey (Prey Veng) - Dinh Bà
(Đồng Tháp) nối liền Quốc lộ 1 tại khu dân cư Phơsa Lơvia, huyện Preah Sdach
(Prey Veng, Campuchia). Tuy còn nhiều khó khăn, song các địa phương hai bên biên
giới đã có nhiều cố gắng để thúc đẩy hợp tác giao thông vận tải. Chẳng hạn, tỉnh
Bình Phước đã giúp phía Campuchia làm đường, nâng cấp đoạn đường rộng 9m, dài
31km và xây dựng cầu sắt dài 49m từ cửa khẩu Tonlecham, huyện Mê Mốt, tỉnh
Kongpongcham đến Quốc lộ 7 (Campuchia). Tỉnh Kandan (Campuchia) và tỉnh An
Giang đã phối hợp xây dựng đê bao chống sạt lở sông khu vực Cửa khẩu quốc tế
Komxomno - Vĩnh Xương; tỉnh Long An giúp xây cầu hữu nghị qua sông Tano, xã
Krua, huyện Svay Chrum, tỉnh Svay Rieng (Campuchia) dài 62,60m, rộng 9m nhằm
tạo điều kiện, giúp nhân dân đi lại thuận tiện [20]. Mặt khác, Việt Nam cũng tích cực
giúp đỡ Campuchia đẩy mạnh tiến độ xây dựng tuyến đường bộ xuyên Á đoạn từ
Phnom Penh đi Thành phố Hồ Chí Minh. Một số công ty Việt Nam cũng sang thực
hiện các công trình giao thông ở Campuchia như Công ty xây dựng dầu khí (Bộ Xây
dựng), Tổng Công ty xây dựng Công trình giao thông số 5 và 6 thi công Quốc lộ 3,
Công ty phát triển kinh doanh nhà Cửu Long thi công Quốc lộ 33 [119].
Mặc dù các công trình hợp tác giao thông vận tải giữa Campuchia và Việt
Nam chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao trong phát triển kinh tế - xã hội của
hai nước nhưng với những thành tựu đã nêu ở trên đã chứng minh được năng lực
thực tế và hiệu quả của quá trình hợp tác này. Chính vì vậy, tại Hội nghị Hợp tác và
Phát triển các tỉnh biên giới Campuchia - Việt Nam từ ngày 2-3/8/2010, Chính phủ
hai nước đã “đánh giá cao kết quả hợp tác trong lĩnh vực giao thông, xây dựng và
cải tạo cơ sở hạ tầng, tạo thuận lợi cho nhân dân qua lại, trao đổi hàng hóa, vận
chuyển và hoạt động thương mại biên giới; nhất trí tiếp tục thực hiện dự án xây dựng
và cải tạo đường, cầu và các công trình hạ tầng khác trong khả năng của các tỉnh
liên quan của hai nước. Hai bên khuyến khích các tỉnh biên giới hai nước tiếp tục hỗ
trợ nhau trong việc xây dựng và sửa chữa đường, cầu kết nối khu vực biên giới hai
112
nước. Hai bên tiếp tục xây dựng Quy hoạch tổng thể về xây dựng và kết nối mạng
lưới giao thông giữa các tỉnh biên giới Campuchia - Việt Nam” [125].
Trước đó, Campuchia và Việt Nam cũng đã ký Nghị định thư thực hiện Hiệp
định vận tải đường bộ giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia
Campuchia vào ngày 10/10/2005. Đây là văn bản được hai bên ban hành nhằm cụ thể
hóa những vấn đề liên quan đã được nêu trong Hiệp định Vận tải đường bộ ngày
1/6/1998. Nội dung Nghị định thư gồm 93 điều quy định về việc đăng ký và loại
phương tiện cơ giới; Yêu cầu đối với phương tiện cơ giới; Tạm nhập và tái xuất
phương tiện cơ giới; Bảo hiểm bắt buộc đối với phương tiện cơ giới; Vận chuyển
người qua biên giới; Chế độ trách nhiệm của người vận tải trong vận tải hành khách
qua biên giới; Vận tải hàng hóa biên giới; Chế độ trách nhiệm của người vận tải
trong vận tải hàng hóa qua biên giới; Tiêu chí cấp phép cho Người kinh doanh vận
tải thực hiện vận tải qua biên giới; Thủ tục hải quan, Kiểm dịch động, thực vật; Quy
định các cặp cửa khẩu biên giới; Các loại phí và lệ phí liên quan đến vận tải qua biên
giới; Những điều khoản cuối cùng [200;1]. Như vậy, Hiệp định Vận tải đường bộ
1998 và Nghị định thư thực hiện Hiệp định vận tải đường bộ 2005 giữa hai Chính
phủ đi vào thực thi đã mở ra cơ hội và triển vọng hợp tác sâu rộng trên lĩnh vực giao
thông vận tải giữa hai nước. Trên cơ sở những nội dung được ký kết, Campuchia và
Việt Nam có thể cùng chia sẻ những vấn đề cùng quan tâm, đồng thời giải quyết
những vướng mắc bằng văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là hiệp định, đảm bảo sự
công bằng và thuận lợi cho hoạt động của phương tiện vận tải và nhân dân giữa hai
nước trong quá trình trao đổi, giao lưu và buôn bán.
Hợp tác giao thông đường hàng không giữa hai nước cũng không ngừng mở
rộng và thu được những tín hiệu khả quan. Hiệp định giữa Chính phủ nước
CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Campuchia về vận tải hàng không
ký ngày 19/4/1996 tại Hà Nội đã mở ra cơ hội hợp tác trong lĩnh vực hàng không dân
dụng và đã được bổ sung, sửa đổi theo các nguyên tắc hợp tác tự do hóa ghi nhận
trong Thỏa thuận thành lập Tiểu vùng hợp tác vận tải hàng không giữa Campuchia,
Lào, Myanmar và Việt Nam ký ngày 14/1/1998 [14;2]. Hiệp định này đã tạo thuận
lợi cơ bản cho Campuchia và Việt Nam thực hiện tổ chức các chuyến bay thường
nhật nối liền lãnh thổ hai nước. Trong đó, Tổng công ty Hàng không Việt Nam -
113
Vietnam Airlines là hãng có số chuyến bay đến Campuchia nhiều nhất. Hiện nay,
trên các tuyến từ Campuchia sang Việt Nam có ba hãng hàng không đang khai thác
thường xuyên, đó là hai hãng Progress Multitrade Air và Royal Khmer Airlines Ltd
của Campuchia và Vietnam Airlines của Hàng không Việt Nam. Các hãng Hàng
không Campuchia thực hiện 17 chuyến bay/tuần từ Siem Reap đi Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh [27;44]. Ngược lại, Tổng công ty Hàng không Việt Nam thực hiện
77 chuyến bay/tuần giữa Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Siem Reap, Phnom
Penh trên tổng số 85 chuyến bay đi Lào và Campuchia; trong đó có 7 chuyến bay nối
Đông Dương từ Hà Nội - Viêng Chăn - Phnom Penh - Thành phố Hồ Chí Minh
[16;10]. Hàng ngày có 10 chuyến bay kết nối giữa hai nước, gồm 6 chuyến bay từ Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đi Siem Reap và 4 chuyến bay đi Phnom Penh, trong
đó có 2 chuyến của Royal Khmer Airlines. Vào thời gian cao điểm, mỗi ngày có 14
chuyến bay của hãng Hàng không Việt Nam qua Campuchia chuyên chở hành khách
và hàng hóa giữa hai nước. Để đáp ứng tốt hơn nhu cầu đi lại của người dân, Tổng
công ty Hàng không Việt Nam đang có phương án tăng tần suất chuyến bay, nâng
cao chất lượng phục vụ và mở thêm tuyến bay mới để phát triển du lịch ba nước
Đông Dương và Tiểu vùng sông Mekong.
Đặc biệt, ngày 26/7/2009, Hiệp định thành lập hãng Hàng không Quốc gia
Campuchia (Cambodia Angkor Air) giữa Việt Nam và Campuchia được ký kết. Theo
những thỏa thuận đạt được, Vietnam Airlines sẽ hợp tác toàn diện và hỗ trợ tối đa
cho Cambodia Angkor Air trong quá trình triển khai hoạt động, mở rộng và phát
triển, trong đó, Vietnam Airlines nắm giữ tỷ lệ 49% vốn điều lệ ban đầu [17;7]. Có
thể nói sự giúp đỡ của Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển ngành hàng
không Campuchia là một nỗ lực lớn lao của cả hai phía, tạo tiền đề quan trọng để
Campuchia có thể hội nhập sâu hơn vào đời sống kinh tế - xã hội khu vực và thế giới.
Tính đến hết năm 2010, Vietnam Airlines đã chuyển giao cho Cambodia Angkor Air
8 máy bay gồm 4 Airbus A321-200 và 4 ATR 72-500. Theo kế hoạch, đến năm
2015, Cambodia Angkor Air sẽ khai thác một đội bay gồm 12 chiếc với độ tuổi máy
bay trung bình trẻ nhất trong khu vực [17;7]. Vietnam Airlines cũng cam kết hỗ trợ
Campuchia Angkor Air trong việc bảo dưỡng, sửa chữa, hợp tác thương mại với
nhiều ưu đãi. Thời gian đầu, Việt Nam sẽ giúp Campuchia về nguồn lực cán bộ quản
114
lý, phi công, tiếp viên, kỹ sư, thợ kỹ thuật giàu kinh nghiệm để Campuchia Angkor
Air hoạt động có hiệu quả, đảm bảo an toàn. Mặt khác, Vietnam Airlines sẽ giúp
phía Campuchia đào tạo đội ngũ cán bộ hàng không đủ năng lực làm chủ công nghệ,
quản lý một hãng hàng không hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế.
Theo đánh giá của lãnh đạo hai nước, việc thành lập hãng Hàng không liên
doanh giữa hai quốc gia sẽ mở đường cho sự phát triển mới trong mối quan hệ hợp
tác giữa Campuchia và Việt Nam, đặc biệt là các lĩnh vực hàng không, đầu tư tài
chính, ngân hàng... Đây là mốc quan trọng trong sự hợp tác về kinh tế, chính trị giữa
hai nước. Thủ tướng S.Hunsen cho rằng, sự hợp tác này đúng vào thời điểm đang
đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ giữa hai nước. Campuchia và Việt Nam đã và đang
cùng nhau hành động, đảm bảo thời cơ này phải được sử dụng để phục vụ sự phát
triển của đất nước và nhân dân hai quốc gia. “Cambodia Angkor Air, với sự đóng
góp của Vietnam Airlines, sẽ góp phần mở rộng chính sách mở cửa chân trời của
Campuchia để phục vụ nhân dân, khách du lịch của chúng tôi. Sự thành công của
các chuyến bay sẽ góp phần mang lại niềm tự hào dân tộc cho Campuchia” [212].
Về hợp tác giao thông đường thủy, Campuchia và Việt Nam đã ký Hiệp định
vận tải đường thủy đầu tiên vào năm 1998. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu hội nhập
và phát triển giữa hai nước, ngày 17/12/2009, Hiệp định giữa Chính phủ nước
CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia Campuchia về vận tải đường thủy
được ký kết thay thế cho Hiệp định năm 1998, với 5 chương gồm 39 điều khoản quy
định. Hiệp định là văn bản pháp quy cao nhất giữa hai nước về hợp tác giao thông
vận tải bằng đường thủy trong thời kỳ mới, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình
đi lại, giao lưu của các phương tiện và nhân dân hai bên, nhất là sự di chuyển trên
dòng sông Mekong nối liền biên giới hai quốc gia. Trong 39 điều khoản của Hiệp
định, Campuchia và Việt Nam đã thống nhất quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên
tham gia giao thông đường thủy, tập trung quy định các khoản: Tự do giao thông
thủy (các tuyến đường, cửa khẩu, cảng bến); Quản lý kỹ thuật đường thủy; thực hiện
tự do giao thông thủy; phí, lệ phí và thuế; Nhóm tạo điều kiện thuận lợi cho giao
thông thủy trên sông Mekong; Giải quyết tranh chấp và một số điều khoản chung,
các phụ lục đính kèm. Tại Điều 9 của Hiệp định quy định rõ “Các bên ký kết có
quyền và các cơ hội ngang nhau về tự do giao thông thủy; Mỗi bên ký kết không đưa
115
ra bất cứ biện pháp nào phân biệt đối xử với tàu của bên ký kết kia trong việc tham
gia vận tải giữa hai nước; Các bên ký kết cùng áp dụng chế độ đãi ngộ tối huệ quốc
cho tàu thuyền của kên ký kết kia trong các thủ tục đến và rời cảng, thủ tục hải quan
và các thủ tục khác, sử dụng cầu tàu để xếp, dỡ hàng, sử dụng các ụ tàu, bến và nhà
kho cũng như các trang thiết bị khác của cảng, kể cả các nguồn cung ứng nguyên vật
liệu” [49]. Nội dung này đáp ứng nhu cầu vận chuyển của tàu thuyền qua lại hai
nước, đồng thời thể hiện được tính công bằng, bình đẳng giữa hai bên trong tham gia
giao thông vận tải bằng đường thủy. Hiệp định nêu rõ: “Các tàu sử dụng quyền tự do
giao thông thủy với mục đích quá cảnh và vận tải thủy qua biên giới phải đi qua cửa
khẩu Vĩnh Xương - Thường Phước (Việt Nam) - Cam Samno (Campuchia)” [49].
Bộ trưởng Giao thông và vận tải Campuchia Tram Im Tek cho rằng Hiệp định
này khi được thi hành sẽ giúp giảm bớt cước phí vận chuyển và rút ngắn thời gian
giao hàng giữa hai nước. Với Hiệp định này, các tàu vận tải hàng hóa của hai nước
theo đường sông Mekong và Tonle Bassac sẽ chỉ xin giấy phép và làm thủ tục hải
quan ngay tại các trạm kiểm soát trên biên giới hai nước, thay vì phải xin giấy phép
Bộ Thương mại mỗi nước như trước đây với thời gian từ 4-5 ngày [158]. Cũng theo
Hiệp định, tàu thuyền của Campuchia có thể đi thẳng tới Cảng Cái Mép của Việt
Nam. Trong đó, Việt Nam đặc biệt ưu tiên cho các tàu thuyền từ Cảng Phnom Penh
và từ năm 2010, Cảng Phnom Penh đã phục vụ vận tải hơn một triệu tấn hàng hóa
qua lại Việt Nam. Hai bên cũng tạo mọi điều kiện và biện pháp để nâng cao hiệu quả
hoạt động và đảm bảo an toàn cho tàu thuyền sử dụng các cảng của Campuchia và
Việt Nam [17;7]. Sự kiện đánh dấu hiện thực hóa Hiệp định vận tải đường thủy giữa
Việt Nam và Campuchia là tháng 9/2010, tàu du lịch đường sông RV La Marguerite
đã khởi hành chuyến đầu tiên tại cảng Sài Gòn (Việt Nam) đưa khách du lịch đi trên
tuyến đường sông đến Siem Reap (Campuchia).
Có thể khẳng định, Hiệp định đã tạo ra khung pháp lý chặt chẽ điều chỉnh hoạt
động vận tải thủy giữa hai nước, tạo cho các doanh nghiệp vận tải thủy của Việt Nam
(chiếm trên 90% tàu chở hàng giữa hai nước) thuận lợi trong quá trình vận chuyển
hàng hóa, bốc dỡ nguyên vật liệu, đẩy mạnh buôn bán và phát triển quan hệ thương
mại với Campuchia. Theo đánh giá của Tổng thư ký Bộ Giao thông Công chính
Campuchia Mom Sibon: Hiệp định vận tải đường thủy sẽ gia tăng hoạt động thương
116
mại và giao thông đường thủy, thay cho các tuyến vận chuyển đường bộ đã quá tải.
Hiệp định này hứa hẹn gia tăng quyền tiếp cận của Campuchia đối với cảng Cái
Mép, một cảng nước sâu nằm gần Thành phố Hồ Chí Minh. Một cơ sở mới khánh
thành trong năm nay ở cảng này đã giúp rút ngắn nhiều ngày của thời gian vận
chuyển hàng hóa sang Hoa Kỳ, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Campuchia [218].
Như vậy, lợi ích của cả Campuchia và Việt Nam thông qua ký hiệp định vận tải
đường thủy là rất lớn, không chỉ tạo điều kiện cho hai nước xích lại gần nhau trong
quan hệ kinh tế mà còn đẩy mạnh sự hợp tác, hội nhập thương mại giữa hai nước với
cộng đồng các nước trong khu vực và quốc tế.
Về hợp tác đa phương, Campuchia và Việt Nam phối hợp thực hiện việc thỏa
thuận về địa điểm nối ray đường sắt giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và
Chính phủ Hoàng gia Campuchia (ký ngày 4/11/2008). Theo thỏa thuận, địa điểm
nối tuyến đường sắt hai nước sẽ đi qua khu vực cửa khẩu quốc tế Hoa Lư (Bình
Phước, Việt Nam) và cửa khẩu Trapeang Srea (Kratie, Campuchia). Đây sẽ là cơ sở
để hai nước tiến hành nghiên cứu, xây dựng đường sắt từ Phnom Penh đi Thành phố
Hồ Chí Minh nằm trong khuôn khổ dự án đường sắt Singapore - Côn Minh [14;1].
Cũng theo dự kiến của hai phía, hợp tác trên lĩnh vực giao thông vận tải Campuchia -
Việt Nam sẽ được đẩy mạnh vào các vấn đề liên quan đến giao thông đường bộ,
đường sắt, đường sông và đường hàng không. Trong đó, tập trung xây dựng, nâng
cấp các tuyến đường bộ nằm trong mạng đường bộ châu Á, ASEAN và Tiểu vùng
Mekong nối với Campuchia, cụ thể: Nâng cấp tuyến đường Vũng Tàu - Thành phố
Hồ Chí Minh - Cửa khẩu Mộc Bài - Phnom Penh đạt tiêu chuẩn đường cấp I; Nâng
cấp tuyến đường Hành lang ven biển phía Nam: Năm Căn - Cà Mau - Hà Tiên -
Kampot - Koh Kong tối thiểu đạt tiêu chuẩn đường cấp III; Nâng cấp tuyến cảng
Quy Nhơn - Quốc lộ 19 - Playku - Lệ Thanh - Oyadav - Rattanakiri - Stung Treng -
Siem Reap đạt tiêu chuẩn đường cấp III... [14;5]. Hai nước cũng tích cực phối hợp
với các quốc gia trong khu vực để triển khai có hiệu quả các dự án giao thông vận tải
như dự án xuyên Á, Hành lang kinh tế phía Nam, Tam giác phát triển, chủ động
tham gia thực hiện Hiệp định GMS, Hiệp định tạo thuận lợi cho hàng hóa quá cảnh
ASEAN, Hiệp định tạo thuận lợi cho vận tải đường sắt trong Tiểu vùng và ASEAN.
117
Tóm lại, hợp tác giao thông vận tải Campuchia - Việt Nam trong thời gian qua
đã đạt được nhiều thành tựu khả quan, đáp ứng được một số yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội và hội nhập quốc tế của mỗi nước. Tuy nhiên, trên thực tế hợp tác giao
thông vận tải giữa hai nước còn mang tính chất một chiều, chủ yếu là Việt Nam hỗ
trợ, giúp đỡ về vốn và kỹ thuật cho Campuchia. Do đó, mức độ đầu tư xây dựng các
công trình chưa lớn, nhiều dự án chỉ dừng lại trên các biên bản thỏa thuận, mang tính
hành chính giấy tờ và không được triển khai thật triệt để hoặc chậm tiến độ. Điều này
gây ảnh hưởng không nhỏ tới lợi ích mỗi nước cũng như tạo ra nhiều trở ngại cho cả
hai nước trong quá trình mở rộng hợp tác giao thông vận tải.
2.5. Trên một số lĩnh vực khác
2.5.1. Hợp tác về giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực quan trọng không chỉ đối với
Campuchia và Việt Nam mà còn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Do đó, từ
rất sớm hai nước đã có những hợp tác trên lĩnh vực đặc biệt này nhằm đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đổi
mới đất nước. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, khu vực cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học và công nghệ hiện nay, hợp tác giáo dục và đào tạo giữa
Campuchia và Việt Nam càng được tạo điều kiện quan tâm và đẩy mạnh nhằm đáp
ứng ngày càng cao công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, cũng như tăng cường
mối quan hệ truyền thống giữa hai dân tộc.
Ngay từ trước khi Vấn đề Campuchia được giải quyết (1991), hai nước đã có
những hợp tác hiệu quả trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Những năm 70 của thế kỷ
XX, Việt Nam đã có những giúp đỡ cho Campuchia trong lĩnh vực giáo dục. Đặc
biệt là sau khi chế độ diệt chủng Polpot - Ieng Sary bị xóa bỏ và Hiệp ước Hòa bình
hữu nghị và Hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia được ký kết ngày 18/2/1979, Việt
Nam đã tích cực hỗ trợ công tác đào tạo nguồn nhân lực và viện trợ giáo dục cho
Campuchia, góp phần to lớn vào công cuộc hồi sinh đất nước trong những ngày cực
kỳ khó khăn của dân tộc Khmer. Việt Nam tập trung giúp Campuchia đào tạo cấp tốc
cán bộ, chuyên gia giảng dạy từ bậc tiểu học đến đại học, chuyên gia xây dựng và
quản lý hệ thống giáo dục từ trung ương đến địa phương. Trong vòng gần 10 năm
(1979 - 1988), Việt Nam đã giúp Campuchia đào tạo hơn 5.000 cán bộ trong mọi
118
ngành nghề, lĩnh vực; cử hàng vạn lượt chuyên gia sang giảng dạy tại Campuchia
trong thời hạn từ 1 đến 5 năm để giúp bạn đào tạo tại chỗ hơn 10.000 cán bộ kỹ
thuật, gần 6.000 cán bộ có trình độ từ sơ cấp đến đại học [71;2].
Trong những năm 1980 - 1992, quan hệ hợp tác giáo dục và đào tạo
Campuchia - Việt Nam vẫn tiếp tục đạt được nhiều thành tựu. Sự hợp tác trên lĩnh
vực này đã tạo cơ sở để Campuchia hình thành một đội ngũ giáo viên có trình độ,
khôi phục từng bước hệ thống giáo dục mà việc đầu tiên là đào tạo giáo viên, chuyên
viên, mở các trường học bao gồm trường đại học chính quy và trường bổ túc. Có thể
khẳng định, trong giai đoạn này Việt Nam là một trong những quốc gia được
Campuchia tin tưởng gửi con em sang đào tạo đông đảo, chỉ đứng sau Liên Xô và
Cộng hòa Liên bang Đức.
Bảng 2.12. Thống kê số lượng lưu học sinh Campuchia giai đoạn 1980 - 1992
STT Tên nước 1980 - 1992
Nữ Nam
1 Liên Xô 870 4414
2 CH Liên bang Đức 318 1327
3 Việt Nam 173 1108
Nguồn: Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Giáo dục, Thanh niên, Thể thao Vương quốc
Campuchia (27/5/1999)
Có thể nói, sự giúp đỡ của Việt Nam cho Campuchia thời kỳ trước đó đã tạo
nền tảng quan trọng để hai nước có thể đẩy mạnh giao lưu hợp tác trên lĩnh vực giáo
dục và đào tạo trong giai đoạn hiện nay. Trước bối cảnh hội nhập quốc tế, hợp tác
giáo dục và đào tạo giữa hai nước ngày càng được củng cố sâu rộng, mang tính chất
thiết thực, hiệu quả và toàn diện hơn. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính
phủ Vương quốc Campuchia đã ký kết Hiệp định về đào tạo cán bộ Campuchia tại
Việt Nam vào năm 1994 và được bổ sung hàng năm theo tình hình và điều kiện thực
tế mỗi nước. Văn bản Hiệp định là cơ sở quan trọng để lưu học sinh (LHS)
Campuchia theo học các hệ chính quy dài hạn tại Việt Nam.
Từ năm 1995 trở đi, hợp tác giáo dục và đào tạo Campuchia - Việt Nam có
những bước phát triển mới, đặc biệt Việt Nam đã giúp đào tạo cho Campuchia hàng
ngàn học sinh, cán bộ bậc cao đẳng, đại học, nghiên cứu sinh trong hầu hết các
119
ngành kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, y tế… Chẳng hạn, năm 1995,
Campuchia đã gửi sang Việt Nam đào tạo 105 LHS, trong đó có 15 LHS sau đại học;
năm 1997 có 115 LHS, trong đó có 20 LHS sau đại học [154].
Kể từ năm 1998, trung bình hàng năm Việt Nam nhận đào tạo cho Campuchia
100 LHS, trong đó có 20 LHS sau đại học. Nhưng vào cuối thập niên 90 của thế kỷ
XX, nhất là khi Campuchia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN thì số lượng
LHS Campuchia được gửi đi đào tạo tại các nước như Pháp, Thái Lan, Trung Quốc,
Singapore, Philippines, Italy tăng lên nhiều, do đó số lượng LHS được gửi sang Việt
Nam có giảm đi so với những năm trước đó. Bước sang năm 2000, tình hình hợp tác
trong lĩnh vực giáo dục giữa hai nước có sự chuyển biến đáng kể, số lượng LHS
Campuchia được gửi sang đào tạo tại Việt Nam có xu hướng tăng trở lại. Đặc biệt,
Việt Nam đã tiếp nhận đào tạo ngắn hạn 250 LHS Campuchia/năm trong các ngành
quân sự, an ninh, du lịch [105;6]. Nguyên nhân chính của vấn đề này trước hết xuất
phát từ nhận định của Chính phủ Campuchia vẫn xem Việt Nam là địa chỉ đào tạo
đáng tin cậy và tiếp tục đề nghị Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện giúp đỡ, thứ hai là
Campuchia và Việt Nam đã ký Hiệp đinh sửa đổi về Hiệp định đào tạo cán bộ
Campuchia tại Việt Nam (ký năm 1994). Theo đó, Việt Nam sẽ tiếp tục giúp
Campuchia trong công tác đào tạo cán bộ, nhân viên trong các lĩnh vực và tăng thêm
nguồn kinh phí hỗ trợ đào tạo.
Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi cho LHS Campuchia theo học các trường tại
Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách ưu đãi và cấp học bổng cho
LHS Campuchia theo tinh thần đã ký kết tại Hiệp định, Nghị định thư về giáo dục và
đào tạo. Ngày 4/11/1996, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành Thông tư số
68TC-KH&ĐT quy định suất đào tạo cho LHS Campuchia. Cũng trong quy chế công
tác người nước ngoài học tại Việt Nam ban hành theo quyết định số 33/1999/QĐ-
BGD&ĐT ngày 25/8/1999 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tại điều 23, ghi rõ: “Lưu học
sinh theo Hiệp định được cấp học bổng bằng tiền Việt Nam, học bổng được cấp hàng
tháng tính từ ngày đến Việt Nam, kể cả thời gian nghỉ hè và một tháng sau tốt nghiệp
(tính từ ngày bảo vệ đồ án, khóa luận, luận văn, luận án hoặc thi cuối khóa), được bố trí
chỗ ở trong kí túc xá theo thỏa thuận đã ký kết giữa Việt Nam với phía gửi đào tạo”
[107]. Đây là một thuận lợi cơ bản cho tất cả LHS các nước theo học tại Việt Nam,
120
trong đó có LHS Campuchia. Hơn nữa, tại Thông tư liên Bộ (Bộ Giáo dục và Đào tạo
với Bộ Tài chính) số 91-2001TC-KH&ĐT ký ngày 09/11/2001, Chính phủ Việt Nam đã
nâng mức học bổng cho LHS Campuchia tăng 17-18% so với trước. Bắt đầu từ năm học
2006 - 2007, Chính phủ Việt Nam nâng mức chi đào tạo LHS, theo đó “Học sinh
Campuchia sang học tập tại Việt Nam theo Hiệp định hợp tác hàng năm của hai Chính
phủ được nhận trực tiếp học bổng hàng tháng bằng tiền Đồng Việt Nam kể từ tháng có
mặt tại Việt Nam đến hết tháng tốt nghiệp kết thúc khóa học về nước để chi ăn, mặc và
tiêu vặt theo định mức đã quy định.
Bảng 2.13. Học bổng đào tạo lưu học sinh Campuchia (Đơn vị: Đồng)
Trung học Đại học Sau đại học Ngắn hạn
1.320.000 1.570.000 1.820.000 2.150.000
Nguồn: Bộ Tài chính, số 16/2006/TT-BTC: Thông tư quy định chế độ suất cho đào
tạo học sinh Lào và Campuchia học tập tại Việt Nam (7/3/2006)
Bên cạnh đó, tất cả LHS đến học tập, nghiên cứu và thực tập tại Việt Nam đều
bình đẳng về nhiệm vụ và quyền lợi “Được cơ sở giáo dục, quản lý, phục vụ lưu học
sinh tôn trọng và đối xử bình đẳng như đối với công dân Việt Nam, được cung cấp
đầy đủ thông tin phục vụ cho học tập phù hợp với điều kiện của cơ sở giáo dục, được
sử dụng trang thiết bị, phương tiện phục vụ các hoạt động học tập, văn hóa, thể dục
thể thao của các cơ sở giáo dục, quản lý, phục vụ lưu học sinh; Được khen thưởng
nếu có kết quả xuất sắc trong học tập và nghiên cứu khoa học, được phụ cấp ngành
nghề theo quy định hiện hành của Việt Nam” (Điều 23) [107]. Đồng thời, cơ sở vật
chất phục vụ công tác dạy và học cho LHS cũng được quan tâm, nhiều ký túc xá cho
sinh viên được cải tạo, nâng cấp, nhiều thiết bị phục vụ học tập giảng dạy được đầu
tư tại các trường với kinh phí năm 2010 là 12 tỷ đồng [16;1].
Ngoài hợp tác song phương, Việt Nam và Campuchia còn tăng cường hợp tác
đa phương trong giáo dục và đào tạo, hai nước đã phối hợp với Lào ký Hiệp định
tương đương bằng cấp, học hàm, học vị vào ngày 16/3/1989 tại Viêng Chăn (Lào).
Hiệp định này tạo điều kiện hết sức thuận lợi và rộng mở cho LHS Campuchia và
Việt Nam nói riêng cũng như ba nước nói chung được học tập, nghiên cứu và sau khi
tốt nghiệp đều được đối xử công bằng, bình đẳng và quan trọng nhất là mở rộng cơ
hội về hợp tác giáo dục và đào tạo giữa ba quốc gia trên bán đảo Đông Dương.
Trên cơ sở những thành quả đạt được trong hợp tác toàn diện Campuchia -
Việt Nam, Chính phủ hai nước đã tạo mọi điều kiện có thể để cho LHS hai bên được
học tập, giao lưu và phát triển, tạo động lực xây dựng nguồn nhân lực chất lượng
121
cao. Nếu như những năm trước đây, hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Campuchia và
Việt Nam là hợp tác một chiều, chủ yếu Việt Nam nhận đào tạo giúp cho
Campuchia, thì từ năm 1994 trở lại đây là hợp tác hai chiều và nhiều chiều. Trên tinh
thần đó, ngày 10/10/2005, Nghị định thư về Hợp tác giáo dục và đào tạo giai đoạn
2006 - 2010 giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Giáo dục
Thanh niên và Thể thao Vương quốc Campuchia đã được ký. Tại Điều 1 ghi rõ:
“Phía Việt Nam tiếp tục giúp đào tạo lưu học sinh Campuchia bằng kinh phí viện trợ
không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam cho chính phủ Hoàng Gia Campuchia. Số
lưu học sinh nhận mới hàng năm là: 100 người bình quân/năm (kể từ niên học 2005 -
2006 tính tại thời điểm tháng 9 năm 2005). Số lượng trên có thể được thay đổi tăng,
giảm hàng năm tùy theo yêu cầu của phía Campuchia và tùy theo khả năng tiếp nhận
cụ thể của phía Việt Nam và sẽ được điều chỉnh vào năm tiếp theo, bao gồm các đối
tượng: học sinh đại học, học viên cao học, nghiên cứu sinh và đào tạo bồi dưỡng
ngắn hạn trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật và lý luận nghiệp
vụ” [77]. Nhờ những nỗ lực từ hai phía, số LHS Campuchia được sang theo học tại
Việt Nam ngày càng tăng lên và Việt Nam là nước tiếp nhận LHS Campuchia đông
nhất trong số các nước có LHS Campuchia đang theo học. Nếu không tính số học
sinh theo diện tự túc 25 người và số học sinh thuộc lĩnh vực an ninh - quốc phòng,
thì kinh phí năm 2010 dành cho đào tạo LHS Campuchia học tập tại Việt Nam là
83,5 tỷ đồng [16;1]. Đây là một con số rất lớn trong hợp tác giáo dục và đào tạo
Campuchia - Việt Nam khi đưa ra so sánh với các nước khác.
Bảng 2.14. Thống kê lưu học sinh Campuchia giai đoạn 1994 - 2003
STT Tên nước 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
1 Việt Nam 51 56 55 66 50 11 100 100 100 100
2 Cu Ba 0 0 0 0 0 7 0 11 8 7
3 Lào 0 0 0 0 0 0 6 6 6 6
5 Nhật Bản 16 15 19 23 29 0 27 66 47 52
6 Indonesia 10 2 6 2 0 25 16 0 0 2
7 Thái Lan 0 7 9 10 6 0 3 5 7 2
8 Australia 0 29 27 20 20 5 17 21 21 21
9 Mỹ 8 5 5 4 4 0 7 0 0 0
10 Trung Quốc 0 0 0 0 5 4 8 9 8 8
Nguồn: Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Giáo dục, Thanh niên, Thể thao Vương quốc
Campuchia (1994-2003)
122
Cũng theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thực hiện những cam kết kỳ
họp Ủy ban liên Chính phủ hàng năm, viện trợ của Việt Nam giành cho Campuchia
giai đoạn 2001 - 2010 là 618,897 tỷ đồng, trong đó riêng giai đoạn 2006 - 2010 là
464,397 tỷ đồng, gấp 3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005 và 12,67 lần so với giai đoạn
1996 - 2000. Số viện trợ không hoàn lại trên giành cho đào tạo cán bộ, học sinh
Campuchia tại Việt Nam là 479,247 tỷ đồng, chiếm 77,44% tổng vốn viện trợ. Số
còn lại (22,56%) dành cho các chương trình, dự án hợp tác và các yêu cầu đột xuất
khác [17;6]. Nếu trước năm 2000, Việt Nam chỉ tiếp nhận hàng năm 100 học sinh
Campuchia học tại các bậc học đại học và trên đại học ở các ngành kinh tế, văn hóa,
khoa học - kỹ thuật, thì sau năm 2000, các hình thức đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn
được mở rộng cả về quy mô và đa dạng hóa cả về hình thức, lĩnh vực đào tạo.
Trong vòng 5 năm (2006 - 2010), các cơ sở giáo dục Việt Nam đã tiếp nhận
tổng số 1.167 LHS Campuchia vào học, trong đó học tiếng Việt, dự bị đại học là 519,
còn lại là 648 LHS chuyên ngành. Số lượng LHS sau đại học chiếm khoảng 20 - 25%
tổng số sinh viên. Các chuyên ngành thu hút nhiều sinh viên Campuchia là y - dược,
nông nghiệp, kinh tế, kiến trúc, kỹ thuật công nghệ. Trong đó, ngành y - dược chiếm
tới 47%, nông nghiệp khoảng 11%, kinh tế 10,8%, kỹ thuật chiếm 8,8%, kiến trúc và
xây dựng là 6,7%, còn lại là các chuyên ngành khác [179;2]. Đặc biệt, “Năm 2010,
phía Việt Nam tiếp nhận 130 lưu học sinh Campuchia sang học trình độ đại học, sau
đại học, thực tập, nghiên cứu và bồi dưỡng ngắn hạn ở các lĩnh vực khoa học kỹ
thuật, dự bị tiếng Việt vào đại học và một số lĩnh vực khác” [65;1].
Về phía các trường, theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong 10 năm
(1994 - 2003), Campuchia đã gửi sang Việt Nam đào tạo 2.091 LHS, trong đó tốt
nghiệp 1.667; và 136 nghiên cứu sinh, trong đó tốt nghiệp 50 nghiên cứu sinh. Tất cả
số này sau khi tốt nghiệp đều được bổ dụng làm việc tại các cơ quan nhà nước
Campuchia và đã phát huy tốt trong thực tế. Ông Sok Sopho An, Công sứ thứ 2, Đại
sứ quán Campuchia tại Việt Nam đã khẳng định: “Việt Nam đóng vai trò rất quan
trọng trong việc đào tạo nhân lực cho Campuchia. Hai nước có nhiều điểm tương
đồng, do vậy có nhiều thuận lợi trong đào tạo để các sinh viên khi về nước là có thể
ứng dụng trong công việc và phục vụ tổ quốc” [37;67]. Hiện nay, hầu hết các trường
trọng điểm của Việt Nam đều có LHS Campuchia theo học. Trong giai đoạn 2006 -
123
2010, số lượng LHS Campuchia tại các trường có thể kể đến: Đại học Bách khoa Hà
Nội: tốt nghiệp 78, nhập học 32; Đại học Y Hà Nội có 20 sinh viên; Đại học Kiến
trúc Hà Nội có 30 sinh viên, Đại học Y Thái Bình có 230 sinh viên; Đại học Thủy lợi
Hà Nội có 5 sinh viên; Đại học dự bị Thành phố Hồ Chí Minh có 13 học sinh; Đại
học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh có 77 sinh viên; Đại học Nông Lâm Thành phố
Hồ Chí Minh có 51 sinh viên; Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh có 30 sinh
viên; Đại học An Giang có 7 sinh viên [13].
Về phía Campuchia, mặc dù còn nhiều khó khăn hơn so với Việt Nam nhưng
Chính phủ Campuchia vẫn ưu tiên nhiều suất học bổng dành cho LHS Việt Nam
sang học tại Campuchia theo diện Hiệp định, Nghị định thư đã ký kết giữa hai Chính
phủ. Từ năm 1992, Việt Nam đã bắt đầu gửi LHS sang Campuchia, chủ yếu để đào
tạo ngôn ngữ Khmer và văn hóa, xã hội Campuchia nhằm phục vụ công tác đối
ngoại, mở rộng quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước. Trong giai đoạn 1992 -
2005, có khoảng 80 LHS Việt Nam được đào tạo tại Campuchia.
Hiện nay, cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội và sự ổn định về an ninh -
chính trị, Chính phủ Campuchia tiếp tục cung cấp học bổng cho LHS Việt Nam, chủ
yếu tập trung tại trường Đại học Hoàng gia Campuchia. Theo số liệu của Đại sứ quán
Việt Nam tại Campuchia, trong 5 năm (2006 - 2010) đã có 13 khóa sinh viên theo
học tại trường Đại học Tổng hợp Hoàng gia Phnom Penh - Khoa Văn học Khmer và
lớp phiên dịch hai năm dành cho cán bộ. Tổng số sinh viên trong 5 năm là 167 sinh
viên, trong đó sinh viên hoàn tất khóa học về nước là 76 sinh viên, đang học tập tại
Campuchia là 91 sinh viên [31;1-2].
Điều kiện sinh hoạt của LHS Việt Nam cũng được phía Campuchia quan tâm
bố trí nơi ăn, ở sinh hoạt trong ký túc xá và được cung cấp khá đầy đủ các vật dụng
cần thiết. Bên cạnh đó, thực hiện Nghị định thư về hợp tác giáo dục và đào tạo giữa
hai nước, hàng năm Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam và Bộ Giáo dục, Thanh niên
và Thể thao Campuchia thường xuyên phân bổ các chỉ tiêu theo đúng chế độ học
bổng như hai bên đã cam kết. Campuchia đã có những nỗ lực đáng kể, cụ thể là
“tăng số lượng học sinh du học (lớp cử nhân văn học, Khmer từ 10 sinh viên hàng
năm lên 15 sinh viên hàng năm; lớp cán bộ học tiếng Khmer 02 năm tăng lên đến 30
sinh viên hàng năm; tăng tiền sinh hoạt phí hàng tháng cho sinh viên từ 70$ lên 100$
124
và 120$ do Bộ Giáo dục Campuchia cấp” [31;7]. Tính đến thời điểm năm 2010, Việt
Nam có 75 LHS hệ đại học và 40 cán bộ đang học tiếng Khmer hệ 2 năm tại
Campuchia [38;2]. Chỉ tính riêng năm 2010, Campuchia đã cấp 10 suất học bổng dài
hạn cho các lĩnh vực mà phía Việt Nam có nhu cầu và 20 học bổng ngắn hạn học
tiếng Khmer 2 năm cho cán bộ Việt Nam [9;2].
Bên cạnh việc đào tạo LHS, chuyên viên và cán bộ, hợp tác giáo dục và đào
tạo Campuchia - Việt Nam còn được mở rộng dưới nhiều hình thức khác như xây
dựng chương trình khung ở bậc đại học dành cho LHS, hợp tác cùng xuất bản cuốn
Từ điển Việt - Khmer, in ấn sách giáo khoa phục vụ giảng dạy học tập, trao đổi đoàn
các cấp, giao lưu và chuyển giao các đề tài nghiên cứu khoa học, trao đổi chuyên gia
giáo dục và giảng viên, khuyến khích du học tự túc giữa hai nước… Đặc biệt, trong
quá trình hợp tác toàn diện về giáo dục giữa hai nước, trên tinh thần hỗ trợ, giúp đỡ
lẫn nhau xây dựng và đổi mới nền giáo dục, Việt Nam đã viện trợ không hoàn lại cho
Campuchia 16,870 tỷ đồng để xây dựng Trường Phổ thông nội trú Mondulkiri và
14,997 tỷ đồng xây dựng Trường Phổ thông nội trú Banlung tỉnh Rattanakiri có khả
năng tiếp nhận đào tạo hàng năm khoảng 300 học sinh [17;6]. Ngoài ra, các tỉnh giáp
biên giới với Campuchia cũng có những biện pháp hỗ trợ tích cực về giáo dục cho
Campuchia. Chẳng hạn, tỉnh Gia Lai giúp tỉnh Preach Vihear 7 tỷ đồng để xây dựng
12 phòng học tại Làng Thiên nhiên Hunsen [20].
Như vậy, hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Campuchia và Việt Nam đã có
những bước đi phù hợp, mang dấu hiệu tích cực, tăng cả về quy mô lẫn chất lượng
đào tạo. Tuy nhiên, cần phải nhận thấy rằng LHS Campuchia học tập tại Việt Nam
và LHS Việt Nam học tại Campuchia còn gặp rất nhiều khó khăn, nhất là việc đào
tạo tiếng Việt hoặc tiếng Campuchia cho LHS trước khi sang học tập tại nước láng
giềng chưa thực sự đạt yêu cầu. Mặt khác, do hạn chế về cơ sở hạ tầng và nguồn vốn
nên số lượng và chất lượng đào tạo giữa hai bên còn khá khiêm tốn, nhất là đào tạo
trình độ sau đại học. Do vậy, hai nước cần hợp tác ký nhiều hiệp định, nghị định thư
mang giá trị pháp lý cao trong hợp tác giáo dục và đào tạo nhằm thay thế cho các
thỏa thuận, biên bản ghi nhớ, có như vậy hiệu quả và chất lượng LHS mới được đảm
bảo. Mặt khác, nhằm phát triển hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện về giáo dục và
đào tạo, hai nước cần “thống nhất thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra đánh giá toàn
125
diện về hợp tác giáo dục giữa hai nước, đề xuất các biện pháp giải quyết nâng cao
chất lượng đào tạo” [65;3]. Đây là điều kiện tiên quyết để Campuchia và Việt Nam
tiếp tục triển khai tốt hợp tác giáo dục và đào tạo, góp phần quan trọng vào quá trình
bồi dưỡng nhân tố con người làm động lực cho sự phát triển đất nước, nhất là tạo
điều kiện thuận lợi để hai bên tiến tới việc ký Nghị định thư về hợp tác giáo dục giai
đoạn 2011 - 2015 giữa hai Bộ chủ quản.
2.5.2. Hợp tác về du lịch
Campuchia và Việt Nam được biết đến là những quốc gia có nhiều di sản văn
hóa và thiên nhiên hấp dẫn, đặc biệt có nhiều di sản lớn được UNESCO công nhận.
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Campuchia và Việt Nam đều chú trọng đến hiệu quả
và lợi ích mà ngành du lịch mang lại, vì vậy hợp tác du lịch giữa hai nước cũng được
đẩy mạnh trên nhiều phương diện từ hợp tác về khai thác, quảng bá các sản phẩm du
lịch đến hợp tác hỗ trợ đào tạo và huấn luyện nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển
đổi mới của mỗi nước. Đặc biệt, việc quan hệ hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực này
nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh ngành, nhất là lợi thế về mặt địa lý gần kề, mở
rộng giao lưu kết nối văn hóa, phục vụ sự nghiệp bảo vệ an ninh, ổn định chính trị
mỗi nước, của khu vực cũng được hai nước đặc biệt chú ý.
Đối với Campuchia, du lịch là ngành kinh tế đem lại lợi nhuận khá lớn cho đất
nước, ước tính số lợi nhuận đóng góp vào thu nhập quốc dân luôn đạt mức trên 10%.
Năm 2004, sự phát triển của ngành du lịch đã đưa lại cho Campuchia trên 500 triệu
USD, đóng góp 12% GDP và tạo ra hơn 100.000 công ăn việc làm cho người dân địa
phương. Tương tự, năm 2005 lượng du khách là 1,4 triệu người, tăng 35% so với
năm 2004; năm 2006, có 1,7 triệu lượt khách đạt doanh thu 1,4 tỷ USD và đóng góp
khoảng 12% GDP; năm 2007, đón 2 triệu lượt khách, tăng 300.000 lượt so với năm
2006, đưa lại doanh tu 1,5 tỷ USD [165;58]. Những số liệu nêu trên chứng tỏ vai trò
vị trí của ngành du lịch trong tổng thể nền kinh tế Campuchia. Trên thực tế, bên cạnh
các ngành công nghiệp xuất khẩu như dệt, khoáng sản, nông lâm nghiệp, du lịch là
một trong những ngành trọng tâm của Campuchia, đóng góp một phần rất lớn vào
GDP của đất nước và nâng cao đời sống người dân địa phương.
Đối với Việt Nam, tốc độ tăng trưởng và phát triển của ngành du lịch trong
những năm qua đã mang lại nguồn thu lớn cho quốc gia. Thu nhập xã hội từ du lịch
126
tăng trung bình mỗi năm 25%, năm 1991 là 2.240 tỷ đồng, năm 2002 đạt 23.000 tỷ
đồng, tương đương 1,5 tỷ USD. Thu nhập xã hội từ du lịch đạt tốc độ tăng trưởng
bình quân hằng năm trên 20%, tỷ lệ đóng góp GDP tăng từ 1,76% năm 1994 lên
6,5% năm 2008. Du lịch là một trong 5 ngành có thu nhập ngoại tệ lớn nhất đất nước
với 4,05 tỷ USD năm 2009, chiếm trên 55% cơ cấu xuất khẩu dịch vụ [206]. Hiện
nay, sự phát triển du lịch đã thực sự góp phần thay đổi diện mạo đô thị và nông thôn,
các hoạt động du lịch đã thu hút trên 1 triệu lao động trực tiếp hoặc gián tiếp, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo và tăng cường tính cạnh tranh
và hội nhập của Việt Nam trên trường quốc tế [214].
Với sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch mỗi nước, Campuchia và Việt
Nam một mặt tiếp tục hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng khai thác triệt để những điểm du
lịch hiện có, mặt khác trao đổi phối hợp khai thác lợi thế so sánh trong ngành, những
tiềm năng du lịch có sức hút lớn đối với du khách nhưng chưa được khai thác hay
khai thác chưa triệt để. Trong đó, tập trung vào những nội dung chính của hợp tác
như phối hợp bảo vệ, khai thác các di sản du lịch, đẩy mạnh công tác đào tạo huấn
luyện đội ngũ cán bộ công nhân viên, khai thác các tuyến điểm du lịch, quảng bá
hình ảnh và liên kết du lịch với các nước khác trong khu vực…
Những hoạt động tích cực của ngành du lịch hai nước cùng với những thuận
lợi do điều kiện khách quan mang lại, nhất là sau năm 1993, đất nước Campuchia
dần đi vào thế ổn định, nền kinh tế, chính trị được củng cố phát triển và tạo được chỗ
đứng trong cộng đồng quốc tế đã góp phần đưa hợp tác du lịch Campuchia - Việt
Nam ngày càng khởi sắc, thu được nhiều kết quả khả quan, góp phần đưa lại thu
nhập cho đất nước và cải thiện rõ rệt đời sống nhân dân. Ngày 9/9/1995, Hiệp định
Hợp tác du lịch giữa hai nước được ký kết với định hướng cơ bản là tăng cường trao
đổi và thắt chặt hơn nữa ngành du lịch hai bên. Đồng thời, Nghị định thư về Hợp tác
du lịch giai đoạn 1999 - 2000 cũng được hai nước ký kết vào ngày 13/12/1998 đã tạo
điều kiện rộng mở cho hợp tác du lịch. Nội dung của Nghị định thư tập trung vào
việc trao đổi đoàn nghiên cứu học tập kinh nghiệm quản lý và phát triển du lịch, phối
hợp xúc tiến quảng bá tại thị trường trọng điểm; trao đổi thông tin, chuyên gia, đào
tạo cán bộ; tạo điều kiện thiết lập văn phòng đại diện du lịch ở mỗi nước [76]. Đây là
127
những văn bản đầu tiên ghi nhận sự hợp tác du lịch của hai bên, đánh dấu bước phát
triển mới của quá trình hợp tác du lịch giữa Campuchia và Việt Nam.
Trong những năm qua, hợp tác du lịch Campuchia - Việt Nam đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Lượng khách du lịch Campuchia sang Việt Nam và ngược lại
đều có sự gia tăng đáng kể, nhất là từ năm 2000 trở đi.
Bảng 2.15. Tổng lượng khách trong năm của Campuchia - Việt Nam
(2003 - 2007)
Đơn vị: Nghìn người/năm
Số lượng khách 2003 2004 2005 2006 2007
Lượng khách từ Campuchia
sang Việt Nam 81.836 90.838 186.543 154.956 150.655
Lượng khách từ Việt Nam
sang Campuchia 28.610 36.511 49.642 77.524 125.442
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam và Bộ Du lịch Campuchia (2003-2007)
Theo bảng 2.14, chỉ trong khoảng thời gian ngắn (2003 - 2007), lượng khách
giữa Campuchia và Việt Nam có sự gia tăng mạnh mẽ. Nếu những năm 90, cụ thể là
năm 1999 có khoảng 8 vạn lượt khách Campuchia sang Việt Nam và 7 vạn lượt
khách Việt Nam sang Campuchia thì từ năm 2000 trở đi, số lượng đó có sự xê dịch
rất lớn. Nếu năm 2003, lượng khách du lịch từ Việt Nam sang Campuchia mới chỉ
dừng lại ở con số 28.610 người thì chỉ sau 4 năm, năm 2007 con số đó tăng lên là
125.442 người, tăng gấp hơn 4 lần so với năm 2005. Tuy nhiên, đây mới chỉ là
những con số thống kê được theo con đường chính ngạch, nếu tính cả số lượng khách
thăm quan bằng nhiều con đường khác, chắc chắn con số thực tế còn cao hơn rất
nhiều lần. Lượng khách từ Việt Nam sang Campuchia đều có sự tăng lên rõ rệt theo
từng năm, cụ thể năm 2003 là 28.610, 2004: 36.511, 2005: 49.642, 2006: 77.542.
Đặc biệt, năm 2007, kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Campuchia - Việt
Nam (1967 - 2007) lượng khách tăng đột biến lên sáu con số là 125.442 lượt người.
Về phía Campuchia, số liệu cho thấy lượng khách từ Campuchia sang Việt
Nam cũng có sự gia tăng đáng kể qua các năm. Nếu năm 2003 là 81.836, 2004:
90.838, thì đến năm 2005: 186.543; tuy nhiên từ năm 2006 - 2007 đã có sự giảm sút
song không đáng kể, năm 2006 là 154.956 và năm 2007: 150.655. Theo bảng thống
128
kê trên thì lượng khách du lịch từ Campuchia sang Việt Nam có phần cao hơn lượng
khách từ chiều ngược lại. Chẳng hạn, năm 2005, lượng khách từ Campuchia sang
Việt Nam là 186.543 lượt người, trong khi lượng khách từ Việt Nam sang
Campuchia chỉ đạt con số khiêm tốn là 49.642 lượt người. Tương tự, năm 2006:
154.956 lượt người - so với 77.524 lượt người. Nguyên nhân chính là do việc gia
tăng lượng khách “du lịch kết hợp” từ Campuchia sang Việt Nam ngày càng lớn.
Theo các công ty lữ hành thì số lượng khách du lịch Campuchia thuần túy sang Việt
Nam là rất nhỏ, đa phần trong số đó là khách sang Việt Nam chữa bệnh, buôn bán, đi
thăm thân hoặc các doanh nhân sang tìm kiếm cơ hội hợp tác giữa hai bên. Trong khi
đó, tuy lượng khách Việt Nam sang Campuchia ít hơn song chủ yếu là khách du lịch
thuần túy, họ cho rằng Campuchia là điểm dừng chân thú vị vì ở đây có nhiều di sản
nổi tiếng Đông Nam Á, nhất là Quần thể di tích Angkor. Đồng thời, việc đi lại giữa
hai bên bằng đường bộ, đường thủy và đường hàng không là rất thuận tiện và ít tốn
kém, do đó tạo điều kiện dễ dàng cho các tour du lịch hình thành ngày càng nhiều.
Mặt khác, tình hình chính trị an ninh của đất nước Campuchia ngày càng đi vào ổn
định, có sự phát triển về mọi mặt, đây là điều quan trọng để du khách an tâm đến
tham quan và nghỉ dưỡng tại Campuchia ngày một nhiều hơn.
Bên cạnh đó, Campuchia và Việt Nam cũng đã thực hiện nhiều biện pháp
nhằm đẩy mạnh hơn nữa hợp tác du lịch trong tình hình và điều kiện mới của quốc tế
và mỗi nước. Hai bên thỏa thuận thiết lập các văn phòng đại diện ở mỗi nước, tăng
cường trao đổi thông tin, mở rộng hợp tác, cải thiện những khó khăn vướng mắc về
môi trường du lịch, thúc đẩy quảng bá hình ảnh du lịch đến người dân mỗi nước và
cộng đồng thế giới. Năm 2008, Hiệp định Miễn thị thực cho người mang hộ chiếu
phổ thông giữa hai nước bắt đầu có hiệu lực đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho
nhân dân hai bên có thể dễ dàng đi du lịch đến mỗi nước. Ngoài hình thức du lịch
truyền thống, sản phẩm du lịch kết hợp khám chữa bệnh tại Việt Nam ngày càng thu
hút sự quan tâm của người dân Campuchia. Du khách từ Campuchia sang Việt Nam
trong 6 tháng đầu năm 2008 đạt khoảng 50.000 lượt người, tăng 80% so với cùng kỳ
năm 2007 [8]. Trong khi đó, lượng khách Việt Nam sang thăm Campuchia cũng có
những dấu hiệu khởi sắc. Trong 4 tháng đầu năm 2008, Campuchia đã đón 80.000 du
khách Việt Nam, tăng tới 97% so với cùng kỳ năm ngoái. Từ vị trí thứ 6 vào năm
129
2006, quý I/2008 Việt Nam đã vươn lên đứng thứ 3 về lượng khách tới Campuchia,
chỉ sau Hàn Quốc, Nhật Bản [8]. Năm 2010, tình hình du khách có sự biến chuyển
rất lớn. Việt Nam là quốc gia có nguồn khách lớn nhất đến Campuchia với con số là
424.013 khách, chiếm 18% so với tổng số 2.258.587 du khách đã đến thăm
Campuchia, tăng 49,83% so với 11 tháng đầu năm 2009. Trong khi đó, Hàn Quốc,
Trung Quốc và Nhật Bản là ba nước có lượng khách đến Campuchia vào hàng lớn
nhất trước đó lại có sự giảm sút rất lớn, tương ứng là 11%, 7% và 6% [17;9].
Trong thời gian tới, khi điều kiện về giao thông vận tải, kinh tế - xã hội hai
nước có sự phát triển sẽ kéo theo dịch vụ du lịch phát triển và ngày càng có nhiều du
khách hai nước ghé thăm lẫn nhau, trong đó kể cả lượng khách quốc tế. Tuy nhiên,
để làm được điều này cần có sự nỗ lực không ngừng của cả hai phía, nhất là điều
kiện phục vụ du khách của cả hai quốc gia còn nhiều yếu kém cần được quan tâm
giải quyết. Đồng thời, nguồn nhân lực phục vụ trong ngành còn khá khiêm tốn và
chưa có nghiệp vụ chuyên môn vững vàng. Một thực tế cho thấy là việc thiếu hướng
dẫn viên giỏi cả hai thứ tiếng Khmer - Việt để có thể tham gia phục vụ du khách tại
hai nước còn rất ít, nhất là trong mùa du lịch cao điểm vào tháng 6, 7 hàng năm.
Những năm gần đây, hợp tác du lịch Campuchia - Việt Nam tập trung vào bốn
lĩnh vực chủ yếu như: Lữ hành và xúc tiến du lịch; thiết lập cơ chế và điều kiện thuận
lợi cho khách du lịch đến hai nước; đầu tư và phát triển nguồn nhân lực du lịch. Tuy
nhiên, trên thực tế những thành tựu đạt được trong bốn lĩnh vực trên còn hạn chế và
chưa khai thác hết được những giá trị mà ngành du lịch hai nước đã cam kết cùng
nhau. Tính đến thời điểm năm 2008, Campuchia mới chỉ 7 công ty lữ hành ký hợp
đồng trao đổi khách với 12 doanh nghiệp lữ hành quốc tế của Việt Nam [38;5].
Hợp tác du lịch giữa hai nước còn được gia tăng mạnh ở các địa phương, nhất
là các tỉnh giáp biên giới phía Tây Nam. Có thể nói, hợp tác giữa các địa phương là
kênh quan trọng không chỉ góp phần thúc đẩy hợp tác du lịch ngày càng phát triển
mà còn góp phần củng cố toàn diện mối quan hệ và thắt chặt tình đoàn kết giữa hai
nhà nước, hai dân tộc láng giềng. Trong đó, Thủ đô Phnom Penh và các tỉnh
Mundunkiri - Preah Sihanouk - Kampot - Kep (Campuchia) kết hợp với Đăk Lăk -
Nha Trang - Đà Lạt - Kiên Giang (Việt Nam) tiếp tục phối hợp quảng bá tiềm năng
du lịch của các địa phương và thúc đẩy hợp tác về du lịch, trao đổi kinh nghiệm
130
nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và giáo dục nhân dân tích cực tham gia quá
trình phát triển lĩnh vực du lịch tại địa phương [20;9-10]. Các tỉnh biên giới cũng tiến
hành nhiều hoạt động giao lưu văn hóa, nghệ thuật, thi đấu thể thao trong dịp lễ, tết
cổ truyền hai nước nhằm góp phần tăng cường mối quan hệ hữu nghị và hiểu biết lẫn
nhau cũng như mở ra cơ hội hợp tác du lịch giữa hai bên. Hai địa phương có nhiều
hoạt động tích cực đưa lại hiệu quả thiết thực trong phát triển du lịch đó là Thành
phố Hồ Chí Minh và Thành phố Phnom Penh. Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh
đã tổ chức phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành đánh giá rút kinh nghiệm
khảo sát tuyến du lịch đường bộ Caravan Bangkok - Phnom Penh - Thành phố Hồ
Chí Minh và nêu ra một số vấn đề cần tháo gỡ để thúc đẩy phát triển sản phẩm này.
Nhờ đó, chương trình du lịch bằng đường bộ Thành phố Hồ Chí Minh - Phnom Penh
có chiều hướng phát triển mạnh. Nhiều công ty du lịch đã đẩy mạnh khai thác tour du
lịch này, trong đó có Công ty SAPACO thuộc Công ty xe khách Sài Gòn đã tăng
cường chuyến xe buýt Thành phố Hồ Chí Minh - Phnom Penh - Siem Riep, Công ty
Du lịch Thanh niên Xung phong (VYC) đã tổ chức thành công nhiều đoàn du lịch
theo hình thức Caravan [112].
Campuchia và Việt Nam cũng đã tăng cường đầu tư nâng cấp và xây mới
nhiều cửa khẩu quốc tế, xây dựng tuyến đường bộ, mở rộng đường hàng không,
đường thủy. Hiện nay, các tour du lịch đường bộ giữa hai nước chủ yếu thông qua
các cặp cửa khẩu quốc tế như Mộc Bài (Tây Ninh) - Ba Vet (Svay Rieng), Xa Xia
(Kiên Giang) - Pert Chak (Kampot), Dinh Bà (Đồng Tháp) - Bontia Chak Cray (Prey
Veng), Tịnh Biên (An Giang), Lệ Thanh (Gia Lai) - An Dong Pech (Ratanakiri). Về
đường thủy, đưa vào hoạt động tàu cao tốc Cawaco đi Cần Thơ đến cảng Phnom
Penh theo dọc sông Mekong, về hàng không có các chuyến bay từ Thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội đi Phnom Penh, Siem Reap. Đây là những dấu hiệu rất tích cực đối với
quá trình hợp tác phát triển ngành du lịch giữa các địa phương hai bên cũng như sự
hợp tác du lịch ngày càng rộng mở giữa Campuchia và Việt Nam.
Bên cạnh đó, hai nước đã tổ chức nhiều chương trình hợp tác về du lịch với
các hội nghị, hội thảo, hội chợ, triển lãm, diễn đàn về du lịch để quảng bá sản phẩm
du lịch và tăng cường kết nối khai thác có hiệu quả các sản phẩm du lịch đặc sắc vốn
có của mỗi nước. Ngày 14/1/2005, Hội thảo “Cơ hội đầu tư - thương mại - du lịch ở
131
Campuchia” do Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Tòa Đô chính Kinh
đô Phnom Penh lần đầu tiên phối hợp tổ chức đã thu hút gần 300 doanh nghiệp Việt
Nam và Campuchia tham gia. Tại Hội thảo, 7 hợp đồng, bản ghi nhớ đã được ký kết
trị giá hơn 55 triệu USD giữa các tổng công ty, trong đó có Công ty Du lịch Sài Gòn
với các đối tác làm du lịch phía Campuchia [146].
Tiếp đó, ngày 24-28/5/2007, Hội chợ triển lãm thương mại - du lịch cửa khẩu
quốc tế Tịnh Biên - An Giang đã diễn ra tại huyện Tịnh Biên (An Giang) với sự tham
gia của 13 cơ quan đơn vị và doanh nghiệp trong và ngoài nước với 308 gian hàng.
Trong đó có 4 doanh nghiệp đến từ Vương quốc Campuchia tham gia 21 gian hàng,
107 doanh nghiệp Việt Nam với 213 gian hàng nhằm giới thiệu, quảng bá về tiềm
năng du lịch, cũng như sản phẩm du lịch của hai nước [224]. Ngoài ra, thông qua các
diễn đàn Du lịch Mekong 2010 tại Siem Reap, hội chợ triển lãm xúc tiến thương mại,
dịch vụ, du lịch Campuchia - Việt Nam 2010 cũng đã được tổ chức nhằm quảng bá
rộng rãi tiềm năng du lịch của hai nước tới nhân dân và bạn bè quốc tế [17;9].
Bằng những biện pháp tích cực, lượng khách du lịch giữa hai nước tăng lên
không ngừng. Năm 2006, khi tour du lịch liên hoàn Campuchia - Việt Nam bằng đường
bộ với một số điểm tham quan chính giữa Thành phố Hồ Chí Minh - Phnom Penh -
Siem Reap đi vào hoạt động đã thu hút đông đảo du khách, kết hợp với du lịch đường
sông Mekong khai thông năm 1999 đã tạo được sức hút đối với tuyến điểm nối liền hai
quốc gia. Trong năm 2006, có khoảng 150.000 lượt khách Campuchia sang Việt Nam và
trên 36.000 lượt khách theo chiều ngược lại [37;73], chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2008,
Việt Nam đã đón 78.772 lượt khách Campuchia [22;2], nhất là lượng khách đi du lịch
kết hợp với việc khám chữa bệnh tại Việt Nam. Hiện nay, Campuchia là một trong 10
thị trường gửi khách của du lịch Việt Nam [17;9].
Đặc biệt, thông qua Ủy ban hỗn hợp Việt Nam - Campuchia, Hội nghị Hợp
tác và Phát triển các tỉnh biên giới Việt Nam - Campuchia, hai bên đã có những trao
đổi, đánh giá tình hình và đi đến thống nhất nhiều vấn đề, trong đó hợp tác du lịch
Campuchia - Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm của hai nhà nước. Trong Biên
bản thỏa thuận kỳ họp lần thứ 11 Ủy ban Hỗn hợp Campuchia - Việt Nam ngày
4/12/2009, hai bên “khuyến khích hợp tác giữa các địa phương hai nước có di sản
thế giới đã được UNESCO công nhận, phía Campuchia đánh giá cao lượng khách
132
du lịch Việt Nam thăm Campuchia, và hiện hay Việt Nam đứng đầu trong danh sách
du lịch đến thăm Campuchia; Hai bên nhất trí đẩy mạnh hợp tác kết nối tour du lịch
qua đường hàng không, đường bộ, đường thủy và thiết lập một cơ chế nhằm tạo
thuận lợi cho việc đi lại của khách du lịch để đáp ứng nhu cầu của công dân mỗi
nước cũng như từ nước thứ ba” [9;7]. Tại Hội nghị Hợp tác và Phát triển các tỉnh
biên giới Campuchia - Việt Nam lần thứ 6 ngày 2-3/8/2010, tái khẳng định việc tiếp
tục thúc đẩy quảng bá tiềm năng du lịch hai nước, tổ chức các diễn đàn du lịch, triển
lãm du lịch và các tuyến du lịch chung để thu hút du khách đến nghỉ và tham quan ở
các tỉnh biên giới…
Bên cạnh hợp tác song phương, Campuchia và Việt Nam còn tích cực hợp tác đa
phương để phát triển du lịch của mỗi nước cũng như toàn khu vực. Đặc biệt, hai nước đã
tăng cường phối hợp với Lào trong khuôn khổ hợp tác “Ba quốc gia - một điểm đến”,
đây là chương trình du lịch trọng điểm nhằm khai thác thế mạnh giữa ba nước trên bán
đảo Đông Dương. Ngoài việc tạo điều kiện khai thác triệt để các di sản du lịch của mỗi
nước, còn nhằm liên kết đẩy mạnh phối hợp chặt chẽ sản phẩm du lịch ba nước trong
bối cảnh hội nhập và phát triển khu vực. Campuchia và Việt Nam còn thống nhất với
Lào, Thái Lan mở các tuyến du lịch kết hợp bằng đường bộ và đường biển. Cụ thể, tỉnh
Kratié, StungTreng (Campuchia), Bình Phước (Việt Nam) và Champasak (Lào) đã liên
kết mở tuyến du lịch Việt Nam - Campuchia - Lào - Thái Lan bằng đường bộ [20;10].
Trước đó, nằm trong chương trình mở rộng hợp tác du lịch, Campuchia và Việt Nam
cùng với Thái Lan đã tiến hành Hội nghị lần thứ nhất (24/8/2007) để bàn về kế hoạch
tăng cường hợp tác phát triển du lịch tại vùng biển chung giữa ba nước. Tại Hội nghị
này, ba nước đã “nhất trí thông qua các phương hướng tăng cường sự hợp tác giữa ba
quốc gia nhằm phát triển vùng biển chung để trở thành một điểm thu hút khách du lịch,
xứng với tiềm năng to lớn của nó. Hội nghị đã tập trung vào vấn đề đào tạo nguồn nhân
lực cho hoạt động du lịch biển, chường trình du lịch giữa các điểm du lịch của ba nước,
trao đổi kinh nghiệm và phương cách hoạt động du lịch” [152]. Các chương trình cụ thể
được ba nước thống nhất triển khai như: Việt Nam và Thái Lan sẽ giúp Campuchia xây
dựng trường đào tạo chuyên ngành du lịch với tổng diện tích 7ha tại Thành phố
Sihanoukville; mở các tuyến du lịch với khu du lịch Angkor, tỉnh Siem Reap với vùng
biển Sihanoukville, Koh Kong (Campuchia) tới Khu du lịch Trat (Thái Lan); thiết lập
133
cửa khẩu giữa Thành phố Kep (Campuchia) với đảo Phú Quốc (Việt Nam) để phục vụ
du khách, xây dựng cơ chế thiết lập tuyến du lịch và vận chuyển du khách bằng đường
biển giữa các địa điểm của ba nước. Như vậy, Hội nghị lần này góp phần tăng cường
quảng bá hình ảnh du lịch ba nước với cộng đồng quốc tế, đồng thời tạo điều kiện tăng
thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân, nhất là các tỉnh phía Nam của Việt Nam,
Campuchia và Thái Lan. Với những kết quả đạt được, cả ba nước nhất trí sẽ tổ chức hội
nghị hàng năm bàn về hợp tác phát triển du lịch tại vùng biển chung.
Ngoài ra, Campuchia và Việt Nam còn liên kết với Lào tăng cường mở rộng
hợp tác du lịch trong khuôn khổ ASEAN, GMS, EWEC, ACMECS… Với sự tài trợ
của ADB và ESCAP tổ chức khảo sát, quy hoạch du lịch trong khuôn khổ dự án Quy
hoạch du lịch sông Mekong. Đặc biệt, ngày 5/10/2007, Triển lãm du lịch Quốc tế
Thành phố Hồ Chí Minh (ITEHCMC 2007) đã khai mạc với chủ đề “Khám phá
những viên ngọc quý của vùng đất Mekong - Việt Nam, Lào, Campuchia - ba quốc
gia một điểm đến (TCOD)” được khởi động với chương trình “người mua quốc tế”
và triển lãm du lịch với sự tham gia 120 doanh nghiệp đến từ 22 nước và vùng lãnh
thổ trên thế giới [207]. Tại triển lãm lần này, Tuyên bố chung giữa ba nước đã được
ký kết về phát triển du lịch, thống nhất xây dựng logo và khẩu hiệu (Slogan), liên kết
chặt chẽ hơn trong khai thác sản phẩm du lịch, chú trọng giá trị di sản văn hóa thiên
nhiên, liên kết du lịch về đường bộ, đường thủy, đường hàng không… và có rất nhiều
cuộc gặp gỡ, trao đổi, liên kết giữa các đối tác trong ngành. Đây là những hoạt động
thiết thực đem lại hiệu quả cao trong hợp tác du lịch đa phương giữa Campuchia và
Việt Nam với các quốc gia láng giềng khu vực và trên thế giới.
Trên cơ sở những kết quả đạt được, chính phủ cùng với các địa phương có di
sản văn hóa thế giới của ba nước tiếp tục hợp tác chặt chẽ trong việc xây dựng cơ
chế, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho sự liên kết chung giữa các di sản văn hóa thế
giới. Để hiện thực hóa ý tưởng này, ngày 28/6/2007, Hội thảo quốc tế “Hợp tác phát
triển du lịch giữa các địa phương có di sản văn hóa thế giới” gồm Thừa Thiên Huế,
Quảng Nam, Kon Tum, Đăk Lăk (Việt Nam), Siem Riep (Campuchia), Champasak,
Luang Prapang (Lào) đã được tổ chức tại Quảng Nam. Hội thảo đã tái khẳng định
việc thúc đẩy hợp tác trao đổi văn hóa và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch
ba nước và đi đến thống nhất thường xuyên tổ chức các cuộc trao đổi gặp gỡ để bàn
134
về các chủ đề hợp tác và phương cách phát triển du lịch giữa các di sản văn hóa thế
giới của Đông Dương nói riêng và các di sản văn hóa thế giới nói chung. Đồng thời,
ba nước cũng thống nhất phối hợp thúc đẩy và hỗ trợ các tỉnh thuộc khu vực Tam
giác Phát triển xây dựng tuyến du lịch liên hoàn [22]. Có thể nói, những liên kết chủ
động trên đây không chỉ tạo điều kiện gia tăng lượng khách du lịch qua lại giữa hai
nước mà còn thúc đẩy lượng khách du lịch trong nội khối ASEAN tăng lên đột biến.
Bảng 2.16. Lượng khách từ các nước ASEAN sang Campuchia
STT Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Thái Lan 35.718 55.086 63.631 76.953 101.590
Malaysia 26.285 32.864 36.876 77.028 84.039
Singapore 14.407 17.830 18.966 30.639 35.803
Việt Nam 28.610 36.511 49.642 77.524 125.442
Philippines 23.953 32.910 40.261 49.707 29.534
Indonesia 3.625 4.710 5.611 7.372 8.543
Laos 1.716 1.658 2.780 7.082 23.060
Myanmar 1.575 1.544 1.586 1.766 1.781
Brunei 210 249 226 388 340
Nguồn: Bộ Du lịch Campuchia, 2008
Bảng 2.17. Lượng khách từ các nước ASEAN sang Việt Nam
STT Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Thái Lan 40.123 53.682 84.100 123.804 160.747
Malaysia 48.662 55.717 76.755 105.558 145.535
Singapore 36.870 50.942 77.676 104.947 127.040
Campuchia 84.256 90.838 186.543 154.956 150.655
Philippines 22.983 24.542 31.675 27.355 31.820
Indonesia 16.799 18.500 21.830 21.315 22.941
Laos 75.396 34.215 44.462 33.980 31.374
Myanmar 1.369 1.441 2.423
Brunei 592 532
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2008
Bên cạnh những thành tựu rất khả quan đã đề cập, hợp tác du lịch Campuchia
- Việt Nam giai đoạn 1993 - 2010 vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế. Trước
135
hết xuất phát từ điều kiện chủ quan của mỗi nước, nhất là sự khó khăn về điều kiện
cơ sở vật chất để phát triển ngành du lịch, chưa đủ năng lực để khai thác hết tiềm
năng hiện có của mỗi nước. Mặc dù đã triển khai nhiều chương trình hành động hợp
tác song phương và đa phương, nhưng thực tế chưa mang lại nhiều kết quả như mong
muốn, nhất là vùng Tam giác phát triển. Hiện tại, giữa hai nước chủ yếu chỉ dừng lại
ở việc ký các thỏa thuận, biên bản ghi nhớ giữa các cấp các ngành liên quan, rất ít
cấp quốc gia. Các cửa khẩu hai nước có nhiều song chủ yếu tập trung vào việc xuất
nhập khẩu hàng hóa, thương mại mà thiếu chú trọng đến phát triển dịch vụ cửa khẩu
du lịch, các địa phương vùng biên giới phía Tây hai nước còn nhiều khó khăn trong
quá trình đầu tư cho phát triển du lịch.
Tóm lại, để đẩy mạnh và tăng cường ngành du lịch phát triển đúng tầm,
Campuchia và Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với nhau, liên kết và mở rộng với các
nước trong và ngoài khu vực nhằm khai thác tiềm năng du lịch. Hai bên phải thúc
đẩy các hoạt động trong khuôn khổ tiểu vùng và tổ chức quốc tế cũng như phối hợp
với Lào nhằm đẩy nhanh chương trình “Ba Quốc gia - Một điểm đến”, tiếp tục chủ
động trao đổi cán bộ cấp cao và cán bộ kỹ thuật, kết nối du lịch và phát triển hạ tầng
du lịch, tạo thuận lợi cho việc đi lại, phối hợp quảng bá và tiếp thị và khảo sát chung
các tuyến du lịch. Đồng thời, Campuchia và Việt Nam phải hợp tác tổ chức các diễn
đàn du lịch, khảo sát chung xây dựng các sản phẩm du lịch mới, đẩy mạnh hợp tác
kết nối các tuyến du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân hai nước cũng như
việc đi lại thuận tiện của khách du lịch quốc tế [10]. Nếu những vấn đề trên được
thực hiện đồng bộ, ngành du lịch Campuchia và Việt Nam có thể có bước phát triển
đưa lại hiệu quả hợp tác bền vững giữa hai nước trong quá trình tạo dựng thương
hiệu du lịch quốc gia và liên khu vực.
2.5.3. Hợp tác về y tế
Hợp tác y tế giữa Campuchia và Việt Nam là một trong những lĩnh vực quan
trọng, được Chính phủ và nhân dân hai nước đặc biệt quan tâm, nhất là trong giai
đoạn hiện nay.
Thời kỳ trước năm 1991, mặc dù còn nhiều khó khăn, song Việt Nam đã có
những sự giúp đỡ lớn lao đối với Campuchia trong lĩnh vực y tế, Việt Nam đã viện
trợ không hoàn lại hàng trăm tấn thuốc chữa bệnh cho nhân dân Campuchia. Giai
136
đoạn 1991 - 1998, những bất ổn chính trị tại đất nước Campuchia đã gây ra nhiều
khó khăn trong hợp tác y tế hai bên. Sau khi đất nước Campuchia bước vào thời kỳ
ổn định xây dựng và phát triển, hợp tác y tế giữa Campuchia và Việt Nam đã có
những bước chuyển biến tích cực. Trọng tâm của quá trình quan hệ hợp tác y tế giữa
hai nước là tăng cường trao đổi thông tin, hỗ trợ giúp đỡ nhau trong việc nâng cao
năng lực ngành y tế của mỗi nước, đào tạo cán bộ y bác sỹ, chuyển giao công nghệ
và một số vấn đề khác liên quan về sức khỏe cộng đồng.
Đặc biệt, Việt Nam luôn tạo mọi điều kiện giúp đỡ Campuchia trong lĩnh vực
y tế, việc tiếp nhận thường xuyên và khám chữa bệnh cho người dân Campuchia tại
các trung tâm y tế tuyến huyện, tỉnh giáp biên giới và bệnh viện trung ương của Việt
Nam là minh chứng thiết thực cho quá trình hợp tác này. Hàng năm có 15 - 20 ngàn
lượt người bệnh Campuchia được khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế các tuyến của
Việt Nam. Để tạo điều kiện thuận lợi, nhất là ở hoàn cảnh còn nhiều khó khăn của
nhân dân Campuchia, Việt Nam đã áp dụng mức phí khám chữa bệnh cho đối tượng
người Campuchia đến chữa bệnh tại các bệnh viện Việt Nam với mức thu phí như
đối với người bệnh Việt Nam. Ngoài ra, các bệnh viện tuyến trên như Bệnh viện
Thống Nhất, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Y dược Thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh
viện Răng Hàm Mặt Trung Ương… cũng tiếp nhận nhiều người bệnh Campuchia
đến khám và điều trị chuyên sâu [24].
Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam: “Trung bình hàng năm
khoảng 3.500 lượt bệnh nhân Campuchia sang chữa bệnh tại các cơ sở y tế của Việt
Nam với mức phí như đối với bệnh nhân Việt Nam. Nhân dân Campuchia ngày càng
tín nhiệm, tin tưởng các cơ sở y tế của Việt Nam, số lượng sang khám chữa bệnh
ngày càng tăng. Chỉ tính riêng Thành phố Hồ Chí Minh, ước tính mỗi ngày có
khoảng 200 người dân Campuchia đến khám, chữa bệnh với nhu cầu khá đa dạng.
Các bệnh viện như Chợ Rẫy, Y học cổ truyền dân tộc… đã trở nên quen thuộc với
bệnh nhân Campuchia” [17;8-9]. Riêng những năm 2008 - 2009, Việt Nam đã thu
hút khá đông khách đến từ Campuchia sang thăm khám bệnh. Theo thống kê từ năm
2009, Bệnh viện Chợ Rẫy đã có 1.234 bệnh nhân Campuchia, Bệnh viện Y Dược
đón 1.800 bệnh nhân. Đó là chưa kể số lượng bệnh nhân sang các bệnh viện khác
như Phạm Ngọc Thạch, Nhiệt Đới… [57;31]. Tuy nhiên, một thực tế tồn tại trong
137
quá trình khám, chữa bệnh đó là người Campuchia tới Việt Nam khám bệnh chủ yếu
tự phát, việc quản lý rất khó khăn; nguồn kinh phí thực hiện miễn giảm viện phí cho
người dân Campuchia còn hạn hẹp và do bất đồng về ngôn ngữ nên việc phối kết hợp
giữa người bệnh và cán bộ y tế chưa được như ý muốn.
Bên cạnh đó, nhận thấy được tầm quan trọng của hợp tác y tế trong mối quan hệ
toàn diện Campuchia - Việt Nam, Chính phủ hai nước luôn tạo mọi điều kiện giúp đỡ
lẫn nhau để đẩy mạnh hợp tác trên tinh thần tương thân tương ái, chia sẻ và tin tưởng.
Thông cáo chung về Hội nghị Hợp tác và Phát triển các tỉnh biên giới Campuchia - Việt
Nam lần thứ 6 diễn ra tại Phnom Penh, ngày 2-3/8/2010, đã chỉ rõ “Phía Việt Nam nhất
trí tiếp tục nhận khám, chữa bệnh cho nhân dân Campuchia ở các cơ sở y tế của Việt
Nam với mức thu phí như người dân Việt Nam và cử đoàn thầy thuốc tình nguyện Việt
Nam sang khám, chữa bệnh cho nhân dân Campuchia ở các tỉnh biên giới của
Campuchia; tiếp tục hỗ trợ cung cấp thuốc men, trang thiết bị y tế và đào tạo cán bộ y
tế cho các tỉnh biên giới Campuchia. Phía Campuchia hoan nghênh doanh nghiệp tư
nhân Việt Nam hợp tác với doanh nghiệp tư nhân Campuchia đầu tư xây dựng Bệnh
viện Chợ Rẫy - Phnom Penh tại Thủ đô Phnom Penh” [125].
Những chuyến thăm lẫn nhau giữa bộ ngành hai bên được tiến hành thường
xuyên đã góp phần củng cố, tăng cường và mở rộng hợp tác truyền thống giữa hai
nước Campuchia - Việt Nam trên lĩnh vực y tế. Đặc biệt, chuyến công tác do Bộ
trưởng Bộ Y tế Việt Nam Nguyễn Quốc Triệu dẫn đầu kéo dài trong 5 ngày (1-
5/8/2010) đã đánh dấu sự phát triển hơn nữa quá trình hợp tác y tế hai nước. Trong
thời gian làm việc với Bộ Y tế Campuchia, hai bên đã tập trung trao đổi các vấn đề
quan trọng như cập nhật tình hình y tế của hai nước và thảo luận về một số nội dung
hợp tác chính như công tác khám chữa bệnh, y tế dự phòng, khoa học đào tạo, y học
cổ truyền, dược phẩm, đặc biệt là công tác chuyển giao công nghệ và đào tạo chuyên
ngành cho các sinh viên Campuchia tại các trường đại học chuyên ngành y dược của
Việt Nam… đồng thời mở ra hình thức mới về trao đổi hợp tác song phương giữa các
đơn vị và cơ sở y tế Việt Nam với các đơn vị và cơ sở y tế của Campuchia [23;1].
Hai bên cũng nhất trí đẩy mạnh phối hợp trong phòng, chống kinh doanh mỹ phẩm
giả, bất hợp pháp tại địa bàn khu vực kinh tế cửa khẩu hai nước và tăng cường chia
sẻ kinh nghiệm về kiểm soát chất lượng thuốc chữa bệnh, phát hiện ngăn chặn thuốc
138
giả, thuốc kém chất lượng gây nguy hại tới sức khỏe cho người dân hai nước [161].
Theo đánh giá của Bộ Y tế Campuchia, chuyến thăm lần này của Bộ trưởng Nguyễn
Quốc Triệu đã góp phần thúc đẩy và tăng cường hợp tác trong lĩnh vực y tế lên một
tầm cao mới [23;1,3].
Trên tinh thần những thỏa thuận tốt đẹp giữa hai Chính phủ, Bộ Y tế hai nước,
Campuchia đã được Việt Nam hỗ trợ xây dựng một số cơ sở hạ tấng y tế quan trọng.
Trong năm 2004, Thành phố Hồ Chí Minh đã tài trợ kinh phí xây dựng một bệnh
viện tại Phnom Penh trị giá 20 triệu USD [142]. Đặc biệt, năm 2010, dự án Bệnh
viện Chợ Rẫy - Phnom Penh được khởi công là một trong những công trình quan
trọng nhất có ý nghĩa xã hội rất to lớn, tạo điều kiện thuận lợi phục vụ khám chữa
bệnh cho nhân dân Phnom Penh nói riêng và nhân dân Campuchia nói chung, góp
phần to lớn thúc đẩy mối quan hệ láng giềng hữu nghị giữa hai quốc gia. Bệnh viện
Chợ Rẫy - Phnom Penh được xây dựng trên diện tích 50.000m2
, tại quận Meanchey,
cách trung tâm Thủ đô Phnom Penh khoảng 10km. Được sự đồng ý của hai Chính
phủ, công trình được đầu tư xây dựng qua hai giai đoạn, giai đoạn 1 (thời gian hai
năm, tính từ tháng 5/2010) với quy mô 200 giường bệnh, tổng đầu tư trên 27.300.000
USD. Giai đoạn hai với phương án mở rộng quy mô thêm 300 giường, nâng tổng
cộng 500 giường, vốn đầu tư giai đoạn 2 là 15.000.000 USD, nâng tổng số vốn đầu
tư cho toàn dự án là 42.370.000 USD. Nguồn cung ứng do Công ty Liên doanh
(Công ty Cổ phần Đầu tư Y tế Sài Gòn và Công ty Sokimex - Phnom Penh) góp vốn,
riêng về nguồn vốn vay được Ngân hàng Phát triển Campuchia BIDC và Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV tài trợ [24].
Có thể khẳng định, công trình Bệnh viện Chợ Rẫy - Phnom Penh là điểm nhấn
đặc biệt trong hợp tác y tế giữa hai nước, thể hiện sự lớn mạnh của ngành chăm sóc
sức khỏe của cả hai bên, đánh dấu bước đột phá trong mối quan hệ hợp tác y tế giữa
Campuchia và Việt Nam. Phát biểu tại buổi lễ động thổ Bệnh viện Chợ Rẫy - Phnom
Penh ngày 15/5/2010, Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng đánh giá cao việc xây
dựng Bệnh viện đa khoa Chợ Rẫy - Phnom Penh và coi đây là kết quả cụ thể của Hội
nghị đầu tư giữa hai Chính phủ Việt Nam và Campuchia (12/2009), một bằng chứng
mới sinh động về quan hệ láng giềng tốt đẹp và tình hữu nghị truyền thống lâu đời
giữa hai nước. Thủ tướng Campuchia Hunsen cũng đánh giá cao sự hợp tác của
139
Chính phủ Việt Nam và chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh trong dự án y tế này,
coi đây là minh chứng cho sự hợp tác và phát triển giữa Campuchia và Việt Nam.
Thủ tướng Hunsen nhấn mạnh: “Bệnh viện này sẽ không chỉ giúp người dân
Campuchia cải thiện sức khỏe, tiết kiệm tài chính và thời gian, mà còn tạo điều kiện
cho đội ngũ thầy thuốc Campuchia nâng cao tay nghề và học hỏi chuyên môn của
các bác sĩ Việt Nam” [159].
Không chỉ tạo điều kiện khám, chữa bệnh cho người dân Campuchia trên lãnh
thổ Việt Nam mà Chính phủ Việt Nam và các cơ quan liên quan còn tích cực giúp đỡ
Campuchia bằng cách tổ chức các đợt khám chữa bệnh và phẫu thuật miễn phí cho
bệnh nhân nghèo ở các tỉnh vùng biên giới Campuchia, đặc biệt là mổ thủy tinh thể,
phẫu thuật môi hở hàm ếch… Hội bảo trợ bệnh nhân nghèo Thành phố Hồ Chí Minh
đã thực hiện khám và mổ chữa mắt miễn phí cho hơn 1.000 bệnh nhân nghèo
Campuchia tại hai Thành phố Phnom Penh và Shihanouk. Đoàn phẫu thuật Việt Nam
còn truyền đạt những kỹ thuật và kinh nghiệm chuyên môn cho các nhân viên y tế
Campuchia để họ có thể thực hiện các ca phẫu thuật trong tương lai. Riêng tổng chi
phí đợt khám chữa bệnh lần thứ hai này có trị giá 800 triệu đồng. Trong 4 ngày (5-
9/7/2005) đã có 535 bệnh nhân nghèo Campuchia được phẫu thuật thành công. Đồng
thời mỗi bệnh nhân Campuchia sau khi mổ mắt còn được hỗ trợ thêm tiền thuốc là
25.000 riên (6,25 USD) để phục hồi sức khỏe [140]. Tiếp đó, ngày 21-23/6/2007,
Viện Quân y 175 và Viện Mắt Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện chương trình
khám và mổ mắt miễn phí cho bệnh nhân nghèo tại Phnom Penh và một số tỉnh lân
cận. Đoàn bác sĩ mắt gồm 36 người đã tiến hành phẫu thuật mắt miễn phí cho 100-
200 bệnh nhân nghèo Campuchia và cung cấp thuốc miễn phí cho hàng trăm bệnh
nhân mắt khác. Cũng trong dịp này, Bệnh viện Mắt Thành phố Hồ Chí Minh khẳng
định sẵn sàng giúp đỡ đào tạo, chuyển giao kỹ thuật về khám và chữa bệnh về mắt
cho bác sĩ tại Bệnh viện Quân y Pret Ket Melia, cũng như đội ngũ y bác sĩ của
Campuchia. Ngoài ra, Viện Quân y 175 cũng trao tặng cho Bệnh viện Quân y Prét
Két Mêlia một bộ máy nội soi hiện đại cùng các trang thiết bị đi kèm [151].
Có thể nói, những đợt khám và mổ mắt miễn phí đã tạo điều kiện cho người
dân nghèo Campuchia được tiếp cận với kỹ thuật chữa bệnh hiện đại, góp phần đưa
lại ánh sáng cho hàng trăm người dân bị đục thủy tinh thể không đủ điều kiện để mổ
140
mắt. Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Tài chính Xum Xong Nang cho rằng đây là một
chương trình mang ý nghĩa nhân đạo rất lớn, góp phần thiết thực vào việc củng cố và
phát triển tình đoàn kết hữu nghị giữa quân đội và nhân dân hai nước và hy vọng
trong tương lai, ngành y tế Campuchia sẽ tiếp tục nhận được sự giúp đỡ về chuyên
môn, kỹ thuật của các bác sĩ Việt Nam để theo kịp với yêu cầu ngày càng cao về
khám, chữa bệnh của người dân Campuchia [151].
Trong năm 2010, Bộ Y tế Việt Nam cũng đã cử hai đoàn bác sĩ của Bệnh viện
Mắt Thành phố Hồ Chí Minh và Bệnh viện Mắt Trung ương Thành phố Hồ Chí
Minh sang Campuchia thực hiện phẫu thuật miễn phí cho các bệnh nhân bị đục thủy
tinh thể và sứt môi hở hàm ếch tại Bệnh viện Quân y Hoàng gia Campuchia và Bệnh
viện Hữu nghị Khmer - Sô Viết (Campuchia). Chỉ trong 4 ngày làm việc tích cực,
đội ngũ bác sĩ Việt Nam phối hợp với y bác sĩ Campuchia đã mổ cho 100 bệnh nhân
bị đục thủy tinh thể và 95 bệnh nhân bị sứt môi hở hàm ếch [23]. Bên cạnh đó, một
số tỉnh biên giới Việt Nam cũng đã cử nhiều đoàn bác sĩ tình nguyện sang khám và
điều trị bệnh sốt rét, bệnh về mắt, răng hàm mặt, tai mũi họng, phụ khoa, phẫu thuật
đục thủy tinh thể và một số bệnh khác cho 10.664 người Campuchia tại các vùng
biên giới, giúp đỡ đào tạo cán bộ y tế cho các tỉnh biên giới Campuchia [20;9]
Về hợp tác đào tạo trong lĩnh vực y tế, hiện nay đã có 4 trường Đại học Y
dược của Việt Nam bao gồm Trường Đại học Y Hà Nội, Đại học Dược Hà Nội, Đại
học Y Thái Bình và Đại học Dược Thành phố Hồ Chí Minh tham gia đào tạo nguồn
nhân lực y tế cho phía Campuchia. Trong đó, chủ yếu tập trung đào tạo trình độ Bác
sĩ đa khoa, Dược sĩ đại học, Thạc sĩ và Tiến sĩ y khoa. Trường Đại học Y Thái Bình
là một trong những địa chỉ đào tạo phần lớn đội ngũ y bác sĩ cho phía Campuchia.
Ngay từ năm 1982, trường đã bắt đầu tiếp nhận đào tạo bác sĩ cho Campuchia. Trong
giai đoạn 2000 - 2010, số lượng bác sĩ được nhà trường cấp bằng là 88 bác sĩ, đội
ngũ này sau khi tốt nghiệp về nước đã đáp ứng được yêu cầu chăm sóc sức khỏe của
nhân dân, nhiều người tiếp tục học lên tiến sĩ, thạc sĩ hay bác sĩ chuyên khoa và đang
phục vụ có hiệu quả tại các cơ sở y tế Campuchia [24]. Chỉ tính riêng giai đoạn 2006
- 2010, số lượng LHS Campuchia đang học tập tại Đại học Y Thái Bình là 566
người. Đây là con số không hề nhỏ mà Việt Nam dành cho Campuchia trong điều
kiện ngành y tế Campuchia còn rất nhiều khó khăn và hạn chế.
141
Bảng 2.18. Lưu học sinh Campuchia đào tạo tại Trường Đại học Y Thái Bình
Năm học Tổng số Số mới
nhập
Số tốt
nghiệp
Ngành đào
tạo
Theo Hiệp
định
Tự túc kinh
phí
2006-2007 107 26 12 BSĐK 106 0
2007-2008 118 34 11 BSĐK 113 5
2008-2009 148 42 10 BSĐK 128 20
2009-2010 193 57 16 BSĐK 176 17
Tổng 566 159 49 523 42
Nguồn: Trường Đại học Y Thái Bình, 2010
Ngoài trường Đại học Y Thái Bình, có thể kể đến Đại học Y Hà Nội: 20 LHS,
Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh: 77 LHS bao gồm cả trình độ đại học và
sau đại học [13;21,37]. Các trường luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất để LHS sinh sống
và học tập tại cơ sở đào tạo, ngoài nguồn học bổng và kinh phí tự túc, các LHS
Campuchia còn được nhà trường quan tâm giúp đỡ nhiều mặt như bố trí chỗ ở kí túc
xá, các điều kiện về ăn ở, học tập, xét học bổng... Tuy nhiên, theo nhận định của các
trường tiếp nhận, việc đào tạo LHS Campuchia còn gặp nhiều khó khăn do bất đồng
ngôn ngữ, hầu hết các LHS còn hạn chế về tiếng Việt, do đó việc tiếp thu kiến thức
chuyên môn chưa được như ý muốn. Có thể khẳng định, công tác đào tạo LHS là một
phần quan trọng trong quá trình hợp tác y tế Campuchia - Việt Nam, đảm bảo cho
mối quan hệ hợp tác được chặt chẽ và mang tính bền vững lâu dài giữa hai bộ ngành.
Về y tế dự phòng, hai bên đã tăng cường công tác kiểm dịch y tế biên giới, phối
hợp tốt các hoạt động phòng chống dịch qua biên giới tại các cặp cửa khẩu tỉnh Tây
Ninh, An Giang và Kiên Giang. Đồng thời phối hợp với các nước trong khu vực Tam
giác Phát triển, nhất là các nước GMS triển khai thực hiện nội dung về kiểm dịch y tế
biên giới tại cặp cửa khẩu quốc tế Ba Vet (Campuchia) - Mộc Bài (Việt Nam) theo dự
án được triển khai từ năm 2000. Cũng nằm trong khuôn khổ hợp tác phòng chống dịch
bệnh lây lan qua biên giới, ngày 6/3/2006, Hiệp định giữa Chính phủ Hoàng gia Vương
quốc Campuchia và Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam về Kiểm dịch y tế biên giới
đã được ký kết. Hiệp định gồm 16 điều khoản “nhằm thực hiện tốt công tác kiểm dịch y
tế biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc qua lại biên giới, bảo vệ sức khỏe nhân
dân, phòng ngừa dịch bệnh lan truyền từ nước này qua nước khác”. Tại Điều 6 quy
142
định rõ “Đối tượng kiểm dịch y tế biên giới là người, phương tiện vận tải, hàng hóa,
hành lý, công te nơ, bưu phẩm, thi hài và những vật thể khác có khả năng mang bệnh,
mang véc tơ truyền bệnh khi nhập cảnh, xuất cảnh, nhập khẩu, xuất khẩu qua các cửa
khẩu theo quy định của pháp luật và quy định về kiểm dịch y tế của mỗi nước và phù
hợp với Điều lệ y tế quốc tế (2005)” [47]. Trên cơ sở các quy định này, cơ quan kiểm
dịch y tế biên giới của hai nước sẽ thường xuyên trao đổi thông tin bao gồm cả các văn
bản pháp luật hiện hành hoặc mới ban hành có liên quan đến công tác kiểm dịch y tế.
Hai cơ quan cũng sẽ thông báo cho nhau tình hình các bệnh phải kiểm dịch y tế và các
bệnh truyền nhiễm khác của mỗi nước theo quy định của Điều lệ y tế quốc tế (2005)
nhằm tăng cường hỗ trợ, giao lưu và hợp tác trong công tác kiểm dịch y tế biên giới.
Mặt khác, Campuchia và Việt Nam cũng hợp tác trong việc giám sát và đưa ra những
phương án nhằm ngăn chặn, phòng ngừa bệnh lây nhiễm và một số bệnh truyền nhiễm
khác, đặc biệt đã ngăn chặn triệt để bệnh sốt xuất huyết, sốt rét, bệnh tả, cúm H5N1 và
cúm A/H1N1 [20;9].
Như vậy, với những điều khoản quy định chặt chẽ của Hiệp định, hai bên có
thể thực hiện các biện pháp và phương thức để ngăn chặn các bệnh truyền nhiễm,
góp phần đẩy lùi nguy cơ của dịch bệnh trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Đây là bản Hiệp định y tế chính thức đầu tiên giữa Campuchia và Việt Nam, đặt cơ
sở quan trọng để hợp tác y tế giữa hai nước ngày càng tiến triển, đi vào chiều sâu,
hiệu quả và thực chất, mang lại lợi ích cho mỗi nước cũng như góp phần tăng cường
tình đoàn kết, láng giềng hữu nghị giữa hai dân tộc. Đánh giá những thành quả đạt
được trong hợp tác y tế, tại buổi tiếp Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu ngày
2/8/2010, Thủ tướng S.Hunsen đã đánh giá cao và ghi nhận những đóng góp và hỗ
trợ tích cực hiệu quả của ngành y tế Việt Nam đối với công tác chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe nhân dân Campuchia. Thủ tướng nhấn mạnh hợp tác giữa hai nước trong
lĩnh vực y tế được đánh giá là hợp tác mang lại hiệu quả nhất thể hiện tinh thần nhân
văn cao cả và được nhân dân Campuchia đánh giá cao [23;2].
Tóm lại, hợp tác y tế Campuchia - Việt Nam ngày càng đạt được nhiều thành
tựu to lớn, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe của nhân dân mỗi nước,
cũng như hội nhập sâu rộng vào nền y tế tiên tiến của khu vực và thế giới.
143
2.6. Trong khuôn khổ hợp tác đa phương
2.6.1. Trong tổ chức ASEAN
Campuchia và Việt Nam đều là thành viên của tổ chức ASEAN, những hợp
tác song phương hay đa phương trong khu vực đều có những tác động nhiều mặt tới
mỗi nước. Do vậy, hai nước đã có sự chủ động hợp tác với nhau trong các vấn đề nội
khối nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố và phát triển quan hệ hai nước
cũng như trong nội bộ ASEAN.
Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, Campuchia cùng với Việt Nam và Lào
phối hợp đối thoại với các nước ASEAN giải quyết Vấn đề Campuchia, đồng thời
Việt Nam đã thực hiện rút quân khỏi Campuchia vào năm 1989. Với việc giải quyết
dứt điểm Vấn đề Campuchia, Việt Nam từng bước cải thiện quan hệ với các nước
ASEAN, tham gia Hiệp ước Bali, trở thành quan sát viên của tổ chức này vào năm
1992 và chính thức gia nhập ASEAN năm 1995, mở ra thời kỳ mới trong quan hệ
giữa Việt Nam với các nước khu vực.
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN chấm dứt thời kỳ đối đầu giữa hai nhóm
nước đối lập nhau ở Đông Nam Á, mở ra một khuôn khổ hữu nghị và hợp tác toàn
khu vực. Đây là tiền đề quan trọng để cho Campuchia gia nhập ASEAN sau đó. Với
vị thế ngày càng cao ở khu vực và trên trường quốc tế của Việt Nam đã có tác động
cổ vũ, khích lệ mạnh mẽ đối với các nước trong khu vực, nhất là các nước chưa
chính thức tham gia vào ASEAN, trong đó có Campuchia. Có thể nói “Việt Nam đã
là nước ủng hộ vận động tích cực nhất để Campuchia được gia nhập ASEAN”
[62;6]. Cuộc hội đàm giữa Thủ tướng Phan Văn Khải với Thủ tướng S.Hunsen vào
năm 1998 đã khẳng định Việt Nam tích cực ủng hộ việc kết nạp Campuchia tại Hội
nghị Cấp cao ASEAN VI tại Hà Nội nhằm thực hiện ý tưởng một ASEAN gồm tất cả
10 nước trong khu vực, góp phần thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển ở
Đông Nam Á [86]. Sự ủng hộ chân thành này còn được thể hiện trong bài phát biểu
của nước chủ nhà Việt Nam tại buổi lễ kết nạp Campuchia vào ASEAN ngày
30/4/1999 tại Thủ đô Hà Nội. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm nhấn
mạnh: “Hôm nay, chúng ta rất phấn khởi được chứng kiến thêm một sự kiện có ý
nghĩa quan trọng trong lịch sử của ASEAN cũng như của cả khu vực Đông Nam Á -
lễ kết nạp Vương quốc Campuchia, thành viên đầy đủ thứ mười của Hiệp hội chúng
144
ta theo Quyết định của Hội nghị Cấp cao VI họp tại Hà Nội tháng 12 năm ngoái,
hoàn thành ý tưởng nảy sinh hơn 30 năm trước về một ASEAN bao gồm tất cả các
nước Đông Nam Á, sống trong hòa hợp và cùng phấn đấu vì một Đông Nam Á hòa
bình, ổn định và phát triển phồn vinh. Thay mặt nhân dân và Chính phủ nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam, tôi xin gửi tới Ngài Hô Nam Hông, Bộ trưởng Ngoại giao và
Hợp tác quốc tế Vương quốc Campuchia cùng toàn thể các thành viên trong Đoàn
đại biểu Vương quốc Campuchia những lời chúc mừng anh em chân thành và nhiệt
liệt nhất” [87]. Việc Campuchia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN đánh dấu
một mốc mới của sự phát triển của Hiệp hội, khẳng định sự đoàn kết, hợp tác chặt
chẽ cùng chung sống hòa bình giữa các nước láng giềng trong khu vực.
Bên cạnh đó, tiến trình hội nhập của Việt Nam, Campuchia vào ASEAN đã có
tác động điều chỉnh tích cực đến các cặp quan hệ Việt Nam - Campuchia - Thái Lan,
Việt Nam - Campuchia - Trung Quốc. Đồng thời, góp phần hình thành các cặp quan
hệ mới giữa ASEAN - 4 (Myanmar, Campuchia, Việt Nam, Lào) và ASEAN - 6
(Singapore, Thái Lan, Malaisia, Indonesia, Philippines, Brunei), Tiểu vùng Mekong
mở rộng (GMS), Tổ chức chiến lược hợp tác kinh tế giữa ba dòng sông Ayeyawady -
Chao Phraya - Mekong (ACMECS) và đặc biệt là sự ra đời của Tam giác phát triển
Việt Nam - Lào - Campuchia. Mặt khác, Việt Nam cho rằng trong bối cảnh quốc tế
và khu vực hiện nay, việc Campuchia gia nhập ASEAN có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, tạo tiền đề để các nước trong khu vực gia tăng hợp tác cùng phát triển một
cách đồng đều, cùng nhau khắc phục khó khăn, vững bước vào thế kỷ XXI [86].
Trong các vấn đề nội khối, Campuchia và Việt Nam đã góp phần tăng cường
đoàn kết và hợp tác cũng như nâng cao vai trò và vị thế của ASEAN. Hai nước cùng
phối hợp giải quyết một số vấn đề do lịch sử để lại trong quan hệ với các nước trong
khu vực như phân định vùng biển chồng lấn giữa ba nước Việt Nam - Thái Lan -
Campuchia và các nước ASEAN khác. Campuchia và Việt Nam cũng có nhiều đóng
góp quan trọng và cụ thể trên bốn lĩnh vực hợp tác chính của ASEAN: chính trị - an
ninh, kinh tế, chuyên ngành và quan hệ đối thoại. Campuchia thường ủng hộ những
đề xuất của Việt Nam về việc tăng cường hợp tác khu vực trên ba hướng chính là: 1.
Tranh thủ các nước bên ngoài tham gia Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á
(TAC) và Hiệp định khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWF2);
145
2. Tăng cường hợp tác cụ thể về chống khủng bố theo các tuyên bố chống khủng bố
ASEAN đã ký; 3. Tăng cường xây dựng lòng tin, trong đó có việc thực hiện tốt tuyên
bố ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), tiến tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử
(COC). Phnom Penh và Hà Nội là hai Thủ đô của các nước thành viên mới đã thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ chính trị bình đẳng trong việc tổ chức thành công các Hội
nghị Thượng đỉnh ASEAN. Campuchia đã cùng các nước ASEAN hoan nghênh và
chúc mừng Việt Nam đảm nhận vai trò Chủ tịch Ủy ban Thường trực ASEAN và
đăng cai tổ chức thành công Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 34 (AMM-34).
Ngược lại, tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN VI tại Hà Nội (12/1998) với chủ đề
“Đoàn kết, hợp tác vì một ASEAN hòa bình, ổn định và phát triển đồng đều”, Việt
Nam cùng các nước trong khu vực hoan nghênh việc kết nạp Vương quốc
Campuchia là thành viên thứ 10 của Hiệp hội và thông qua Chương trình Hành động
Hà Nội (HPA) nhằm cụ thể hóa Tầm nhìn ASEAN 2020.
Trong các hoạt động đối ngoại trên đây, hợp tác giữa hai ngành ngoại giao của
hai nước đã có những đóng góp to lớn trong việc chuẩn bị, phối hợp, tham khảo và
hỗ trợ nhau từ kinh nghiệm, tổ chức cho đến phương tiện, tài chính và kỹ thuật. Hai
nước cùng các thành viên khác của Hiệp hội đã ký kết Tuyên bố hòa hợp ASEAN II
(Hiệp ước Bali II) tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN IX ngày 7/10/2003, khẳng định
cam kết xây dựng một Cộng đồng ASEAN đến năm 2020 dựa trên ba trụ cột chính là
Cộng đồng An ninh (ASC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã
hội (ASSC). Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN XIII tổ chức tại Singapore (năm
2007), Campuchia và Việt Nam đã nhất trí cùng với các nước thành viên thông qua
Hiến chương ASEAN - bản Hiến chương đầu tiên của Hiệp hội. Hiến chương ra đời
không chỉ đánh dấu sự phát triển về chất của ASEAN, góp phần nâng quan hệ hợp
tác giữa các nước thành viên lên một bước mới, mà còn chính thức đánh dấu địa vị
pháp lý của ASEAN trong cộng đồng quốc tế. Để có được những thay đổi về lượng
và chất trong tiến trình xây dựng và phát triển ASEAN không thể không nhắc đến sự
đóng góp của các nước thành viên, trong đó sự thống nhất phối hợp giữa Campuchia
và Việt Nam trong các diễn đàn khu vực đã mang lại nhiều hiệu quả tích cực, góp
phần đưa ASEAN ngày một trưởng thành và vững mạnh. Tuyên bố chung
Campuchia - Việt Nam tại Phnom Penh ngày 30/3/2005 nhấn mạnh: “Hai bên đã
146
khẳng định tích cực đóng góp cho sự hợp tác giữa các nước ASEAN, xây dựng Đông
Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển và thịnh vượng” [172].
Về phương diện kinh tế, những hợp tác giữa Campuchia và Việt Nam đã tạo
điều kiện cho hợp tác kinh tế nội khối diễn ra theo hướng tích cực. Đặc biệt, với mục
tiêu biến ASEAN thành một khu vực sản xuất cạnh tranh trên thị trường thế giới,
Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã chính thức được thành lập tại Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN lần thứ IV (1992). Là những nước gia nhập ASEAN muộn
hơn, Campuchia và Việt Nam đã có những nỗ lực cùng với các nước thành viên khác
đẩy nhanh quá trình thực hiện AFTA, cụ thể Việt Nam kết thúc lộ trình vào năm
2006 và Campuchia vào năm 2010. Tuy nhiên, Campuchia và Việt Nam cùng với
Lào và Myanmar là những nước có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn so với các
nước thành viên khác. Vì vậy, Campuchia và Việt Nam có thể giúp đỡ, trao đổi kinh
nghiệm lẫn nhau để thực hiện tốt hơn cam kết này. Trọng tâm của vấn đề nêu trên là
tạo thuận lợi cho thương mại nội khối thông qua việc xóa bỏ các hàng rào thuế quan
và phi thuế quan giữa các nước thành viên với hạt nhân là “Chương trình ưu đãi thuế
quan có hiệu lực chung” (CEPT). Việc thực hiện AFTA cũng như Khu vực đầu tư
ASEAN (AIA), trong đó có sự tham gia tích cực của Campuchia và Việt Nam có ý
nghĩa vô cùng quan trọng, là một khâu chủ đạo nhằm tăng cường sự hợp tác kinh tế
giữa các nước. Nó còn có ý nghĩa đặc biệt trong việc cải thiện cơ sở hạ tầng cho nền
kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước ASEAN - 4 với các nước
ASEAN - 6. Chỉ tính riêng trong năm 2005 và 2006, tổng kim ngạch xuất khẩu nội
khối đạt 164 tỷ USD và 170 tỷ USD, chiếm khoảng gần 25% tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả khối với giá trị tuyệt đối tuần tự là 648 tỷ USD và 765 tỷ USD cùng kỳ.
Những con số này cho thấy được những thành công đầu tiên của quá trình tự do hóa
thương mại hàng hóa và dịch vụ, tự do hóa dòng vốn và di chuyển lao động có tay
nghề. Nói cách khác, hợp tác kinh tế nội bộ ASEAN đã và đang chuyển biến một
cách tích cực, theo chiều hướng có trọng tâm và ngày càng chặt chẽ. Có thể khẳng
định, việc xây dựng và đẩy mạnh những liên kết hiện có của ASEAN như AFTA,
Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS), AIA, Hiệp định Khung về hợp tác
công nghiệp ASEAN (AICO)… đã góp phần quan trọng đảm bảo cho ASEAN trở
thành thực thể thống nhất với “thị trường chung” nhằm phát triển nhanh và bền
147
vững. Một điều quan trọng hơn là với những đóng góp ngày càng thiết thực của
Campuchia và Việt Nam với các nước thành viên khác sẽ giúp hiện thực hóa
ASEAN thành một cộng đồng kinh tế vào năm 2015. “Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ
đưa ASEAN trở thành thị trường và khu vực sản xuất thống nhất, biến sự đa dạng
đặc thù của khu vực thành những cơ hội hỗ trợ kinh doanh, biến ASEAN thành một
bộ phận năng động và vững chắc hơn trong hệ thống cung cấp toàn cầu” [202].
Hợp tác Campuchia - Việt Nam trong ASEAN còn được thể hiện ở sự tham
gia có hiệu quả của hai nước trong các vấn đề hợp tác kinh tế ngoài khối, tức là việc
tham gia vào ASEAN + 1 hay ASEAN + 3 (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản), kể
cả hợp tác giữa ASEAN - EU, ASEAN - Mỹ… Điều này đã góp phần cải thiện tiến
trình hợp tác kinh tế khu vực không chỉ trên phạm vi không gian, mà còn đảm bảo
tính kết nối toàn diện, chất lượng và hiệu quả với những mục tiêu cụ thể, thực chất và
tiến bộ đã được ghi nhận, nhất là việc tiếp cận với các nguồn vốn lớn ngoài khu vực.
Trong đó, phải kể đến những bạn hàng truyền thống của ASEAN như Mỹ, Nhật Bản,
EU, Trung Quốc, Hàn Quốc, Australia… Tổng kim ngạch thương mại quốc tế của
ASEAN có những bước phát triển nhanh chóng từ 10 tỷ năm 1967 lúc mới thành lập
lên 1.442,6 tỷ USD năm 2006. Những thành công đó có thể kể đến những đóng góp
không ngừng của các nước thành viên, trong đó có một phần không nhỏ của hợp tác
giữa Campuchia và Việt Nam trong ASEAN.
Trong khuôn khổ hợp tác kinh tế ASEAN, Campuchia và Việt Nam còn tham
gia tích cực vào những hợp tác tiểu khu vực. Tiêu biểu của quá trình hợp tác này là
GMS, Tam giác Phát triển, Hành lang kinh tế Đông - Tây, ACMECS… đã tạo cơ hội
cho các nước thành viên, nhất là bốn nước có trình độ phát triển thấp hơn: Việt Nam,
Campuchia, Lào, Myanmar có cơ hội phát triển và hội nhập kinh tế khu vực.
Campuchia và Việt Nam luôn có sự phối hợp nhằm tạo điều kiện cho nhau trong
khuôn khổ Hành lang kinh tế Đông - Tây, thúc đẩy nhanh chóng việc đưa hành lang
Đông - Tây trở thành khu vực động lực gắn kết các nước trong tiểu vùng, đóng góp
quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế không chỉ cho các quốc gia nằm trong
chương trình hợp tác mà còn đối với cả hai nước.
Thêm vào đó, kể từ năm 1998, Campuchia và Việt Nam đã phối hợp với Lào
tổ chức hội nghị thỏa thuận phương hướng, biện pháp cụ thể xây dựng “Tam giác
148
phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia”, trong đó các lĩnh vực ưu tiên là giao thông,
thương mại, du lịch, năng lượng điện, đào tạo và y tế, đồng thời gắn kết việc xây
dựng Tam giác phát triển với hợp tác các tiểu vùng trong ASEAN để tranh thủ hơn
nữa sự hợp tác, giúp đỡ của khu vực. Minh chứng cụ thể cho quá trình vận động này
là Tuyên bố Viêng Chăn 12/2006 về “Tam giác phát triển” cùng hợp tác giữa các
nước liên quan trong tiểu vùng Mekong thực hiện dự án Hành lang kinh tế Đông -
Tây. Như vậy, Campuchia và Việt Nam đều coi trọng vấn đề hợp tác đối ngoại, nó
thể hiện tinh thần đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung của khu vực và của mỗi nước.
Về phương diện an ninh, sự thúc đẩy hợp tác giữa Campuchia và Việt Nam là
điều kiện quan trọng góp phần cùng các nước thành viên ASEAN tạo dựng khu vực
hòa bình, ổn định và phát triển. Trước hết là việc tham gia đầy đủ của hai nước vào
kế hoạch triển khai chiến lược xây dựng Cộng đồng an ninh ASEAN (ASC) vào năm
2015. Để thực hiện điều này, ASEAN đã đề ra “Kế hoạch hành động Cộng đồng An
ninh ASEAN” (ASCPoA) và “Chương trình Hành động Viêng Chăn” (VAP). Đây là
những hướng đi đầu tiên để từng bước hiện thực hóa ASC, trong đó có những nỗ lực
đóng góp của Campuchia và Việt Nam. Trước đó, ARF được thành lập (1994) và đi
vào hoạt động đã nhận được sự ủng hộ, tham gia tích cực từ phía các nước thành viên
trong khu vực, kể cả Campuchia và Việt Nam. Những văn kiện căn bản, những
nguyên tắc, chuẩn mực điều chỉnh hành vi được các nước ASEAN tôn trọng và cam
kết thực thi như: không sử dụng vũ lực và đe dọa vũ lực trong giải quyết các tranh
chấp, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, nguyên tắc “đồng
thuận” đã trở thành chuẩn mực ứng xử của ASEAN. Có thể nói “Hợp tác chính trị,
an ninh trong ASEAN là lĩnh vực hoạt động nổi trội, gặt hái được nhiều thành tựu
nhất, đóng vai trò then chốt trong đoàn kết, thống nhất khu vực và mở rộng hợp tác
quốc tế” [66;156]. Việc tiến tới hình thành ASC không chỉ giúp gắn kết các mối
quan hệ chặt chẽ giữa các nước thành viên mà còn tạo ra sự tác động tương hỗ lẫn
nhau, làm tăng tính trách nhiệm và chia sẻ về an ninh, nhưng không ảnh hưởng tới
tính tự chủ trong đường lối đối ngoại của mỗi nước. Đồng thời, khi ARF, ASC đi vào
hoạt động sẽ giúp nâng cao uy tín của ASEAN trong các vấn đề đối thoại an ninh đa
phương khu vực, tạo cơ sở hướng ra bên ngoài, liên kết quốc tế, đặc biệt là việc giữ
vững vai trò trung tâm của ASEAN trong ARF. Campuchia và Việt Nam còn phối
149
hợp với các nước thành viên khác thúc đẩy nhanh việc hình thành quy chế Hội nghị
quan chức cấp cao để trở thành cơ sở cho việc giải quyết những vấn đề mâu thuẫn
giữa các nước thành viên ASEAN theo TAC (1976).
Về phương diện văn hóa - xã hội, Campuchia và Việt Nam đã có những đóng
góp đáng kể trong việc thúc đẩy quá trình phát triển hợp tác trong lĩnh vực văn hóa - xã
hội giữa các nước thành viên ASEAN. Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 10
(11/2004) tại Viêng Chăn, cùng với các quốc gia thành viên, Campuchia và Việt Nam
đã nhất trí thông qua Chương trình hành động về văn hóa - xã hội ASEAN. Mục tiêu
của chương trình này là tiến hành phối hợp có hiệu quả giữa các nước về phòng chống
ma túy, phát triển nông thôn, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, văn hóa giáo dục,
sức khỏe cộng đồng… Hơn nữa, Campuchia và Việt Nam là hai nước chủ động tham
gia vào các diễn đàn giao lưu văn hóa được tổ chức trong khu vực như các hội nghị đa
phương về biến đổi khí hậu, môi trường sông Mekong, hội nghị về phòng chống ma túy,
dịch bệnh… và tích cực ủng hộ chủ trương một ASEAN trở thành khu vực phi ma túy
vào năm 2015. Riêng Campuchia và Việt Nam cũng có những hành động thiết thực
trong hợp tác song phương, triển khai nhiều chương trình hành động hỗ trợ, giúp đỡ lẫn
nhau trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, nhất là những chương trình hợp tác về giáo dục,
đào tạo, tuần văn hóa luân phiên giữa hai nước, phòng chống ma túy, dịch bệnh, chống
tội phạm xuyên quốc gia… nhất là tại khu vực giáp biên hai nước và khu vực Tam giác
phát triển ba nước Đông Dương.
Đặc biệt, hợp tác Campuchia - Việt Nam về lĩnh vực văn hóa - xã hội trong
ASEAN được thể hiện bằng nỗ lực củng cố và khẳng định việc thành lập Cộng đồng
Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC), một trong ba trụ cột chính của Cộng đồng
ASEAN theo Tuyên bố Cebu được các nhà lãnh đạo ASEAN thông qua tại Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN XII tổ chức ngày 13/1/2007. Trọng tâm của ASCC là thúc đẩy
phát triển nguồn nhân lực, văn hóa và nguồn tài nguyên thiên nhiên hướng tới phát
triển bền vững trong một Cộng đồng ASEAN hài hòa và hướng tới con người. Kể từ
khi được hình thành, ASCC đã nhận được sự hưởng ứng và đóng góp nhiệt tình của
các nước thành viên ASEAN, trong đó có Campuchia và Việt Nam. ASCC đã thực
hiện các nội dung cơ bản như: phát triển nguồn nhân lực thông qua tăng cường tiến
bộ và ưu tiên trong giáo dục, thúc đẩy việc làm bền vững; xây dựng và phát triển
150
mạng lưới an sinh xã hội và bảo trợ xã hội; xây dựng các hoạt động có khả năng
thích ứng trước những thiên tai và xây dựng cộng đồng an toàn hơn, thúc đẩy bình
đẳng xã hội và lồng ghép quyền của người dân vào chính sách của mình và mọi mặt
của đời sống; xây dựng bản sắc ASEAN là một trong những lĩnh vực trọng tâm của
ASEAN nhằm xây dựng ASCC với một ASEAN thống nhất trong đa dạng, tăng cường
hợp tác để giảm khoảng cách phát triển, nhất là về khía cạnh xã hội giữa nhóm sáu
nước ASEAN ban đầu và các nước CLMV (Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam)
và trong ASEAN tại những vùng bị tách biệt và kém phát triển [96].
Có thể nói hợp tác văn hóa - xã hội giữa Campuchia và Việt Nam cũng như
với các quốc gia khác trong ASEAN đã thu được nhiều thành tựu khả quan, góp phần
đưa lại môi trường hợp tác thân thiện, rộng mở giữa các nước trong khu vực, nâng
cao uy tín của ASEAN trên các diễn đàn quốc tế. Hơn nữa, những kết quả tốt đẹp đạt
được trong lĩnh vực văn hóa - xã hội đã có tác động tích cực đến quan hệ kinh tế và
an ninh - chính trị. Hợp tác văn hóa - xã hội lôi cuốn được nhiều tầng lớp nhân dân
tham gia, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống xã hội, góp phần củng cố,
tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân các nước ASEAN, tiến tới hiện thực
hóa một cộng đồng thịnh vượng về kinh tế, đa dạng về văn hóa, ổn định về xã hội.
2.6.2. Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực Tam giác Việt Nam -
Lào - Campuchia
Cùng với những thành tựu đạt được trong quan hệ đa phương, đặc biệt là
trong khuôn khổ ASEAN, Campuchia và Việt Nam cũng tăng cường hợp tác trong
sự phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực Tam giác Việt Nam - Lào - Campuchia. Đây
là một chương trình quan trọng, thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác giữa ba nước Đông
Dương nói chung và quan hệ hai nước Campuchia - Việt Nam nói riêng.
Được thành lập từ năm 1999 theo sáng kiến của Thủ tướng Chính phủ Hoàng
Gia Campuchia S.Hunsen, Tam giác phát triển chỉ mới hơn 10 năm, thời gian chưa
dài nhưng đã thể hiện được vai trò và vị trí đối với quá trình phát triển của mỗi nước
cũng như của các địa phương nằm trong chương trình. Tại cuộc họp cấp cao lần thứ
hai giữa thủ tướng ba nước tại Thành phố Hồ Chí Minh (1/2002) đã thống nhất xác
định vị trí địa lý của Tam giác phát triển gồm 7 tỉnh: Ratanakiri và Stung Treng của
Campuchia, Attapeu và Sekong của Lào, Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk của Việt Nam.
151
Cuộc họp lần thứ ba tại Siem Reap (7/2004) tiếp tục xác định khu vực Tam giác phát
triển gồm 8 tỉnh, trong đó các tỉnh của nước bạn Lào và Campuchia giữ nguyên,
riêng Việt Nam có tỉnh Đăk Lăk chia thành hai tỉnh là Đăk Lăk và Đăk Nông. Như
vậy, riêng Campuchia và Việt Nam có đến 6 tỉnh nằm trong khu vực Tam giác phát
triển về phía Tây Nam, đây là cơ sở để hai nước thúc đẩy quan hệ hợp tác hai bên
cũng như ba bên với nước bạn Lào.
Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia là khu vực có tổng diện tích
tự nhiên 111.021 km2, dân số hơn 4,265 triệu người và là khu vực kém phát triển
nhất so với mặt bằng chung các vùng khác của cả ba nước. Tuy nhiên, đây lại là nơi
có nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, chưa được khai thác, đặc biệt
khu vực này có vị trí chiến lược về an ninh, chính trị, kinh tế - xã hội, môi trường
sinh thái đối với cả ba quốc gia. Vì vậy, việc phối hợp nhằm thực hiện hiệu quả các
dự án trong vùng là vấn đề trọng tâm nhằm xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống
dân sinh, giữ vững sự ổn định quốc phòng an ninh, đóng góp có hiệu quả vào việc
thắt chặt tình đoàn kết giữa ba quốc gia láng giềng.
Đối với Campuchia và Việt Nam, Tam giác phát triển đóng một vai trò quan
trọng, không chỉ giúp cải thiện cuộc sống của nhân dân ở các tỉnh dọc biên giới hai
nước, mà thông qua đó góp phần nâng cao vị thế và uy tín của hai nước trong bối
cảnh hợp tác khu vực và quốc tế. Do đó, Chính phủ và nhân dân hai nước luôn quan
tâm sâu sắc tới chương trình hợp tác và có những sáng kiến nhằm đưa lại lợi ích thiết
thực cho mỗi nước cũng như cho cả khu vực. Campuchia và Việt Nam đang nỗ lực
cùng nhau và cùng với Lào đẩy mạnh hợp tác nhằm hiện thực hóa mục tiêu đã được
thủ tướng ba nước nhất trí thông qua đó là: Đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế; xóa đói
giảm nghèo; thúc đẩy những tiến bộ về văn hóa, xã hội trên cơ sở khai thác những
tiềm năng và lợi thế của mỗi nước [108]. Trải qua 6 lần Hội nghị Cấp cao, bắt đầu từ
năm 1999 đến năm 2010, Tam giác Phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia từng
bước được hình thành, củng cố và phát triển, đưa lại lợi ích to lớn cho cả ba quốc gia
trong quá trình hợp tác và hội nhập. Cũng trong những Hội nghị này, Campuchia và
Việt Nam đã có nhiều đóng góp thiết thực nhằm thúc đẩy tiến trình xây dựng tổng
thể chiến lược kinh tế - xã hội của Tam giác Phát triển, cùng với Lào khẳng định
152
quyết tâm đưa mối quan hệ hợp tác lên cao hơn dựa trên mối quan hệ truyền thống
và tình hữu nghị, hợp tác toàn diện, hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau.
Tháng 10/1999, cuộc gặp giữa thủ tướng ba nước tại Thủ đô Viêng Chăn, Thủ
tướng S.Hunsen đã đưa ra ý tưởng về một Tam giác phát triển ba nước, cùng với
Lào, Việt Nam đã tỏ rõ lập trường ủng hộ sáng kiến này, phối hợp tích cực cùng với
hai nước bạn tham gia sáng lập ra Tam giác phát triển. Đây là bước đi đầu tiên thể
hiện ý tưởng táo bạo của ba nước nhằm vực dậy khu vực giáp giới đầy tiềm năng và
triển vọng, hướng tới mục tiêu “đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo và tiến
bộ về văn hóa - xã hội trong khu vực Tam giác Phát triển, dựa trên cơ sở tận dụng
(phát huy) tối đa tiềm năng và lợi thế bổ sung của mỗi nước” [121;259]. Thông qua
các hội nghị, diễn đàn cấp cao, đến các cuộc họp, trao đổi, thảo luận giữa các địa
phương trong khu vực Tam giác Phát triển đã giúp ba nước khảo sát, tìm hiểu và đi
đến thống nhất nhiều vấn đề quan trọng, trong đó tập trung vào việc thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo ổn định về an ninh - chính trị tại khu vực biên giới có
tính phức tạp và vô cùng nhạy cảm này. Tại Hội nghị lần thứ hai về xây dựng Tam
giác Phát triển diễn ra ngày 26/1/2002 tại Thành phố Hồ Chí Minh, thủ tướng
Campuchia, Việt Nam và Lào đặc biệt quan tâm tới việc xác định những biện pháp
và phương cách thúc đẩy hơn nữa sự hợp tác giữa ba nước nhằm xây dựng “Tam
giác Phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia”. Lãnh đạo ba nước đã bày tỏ quyết tâm
sớm triển khai chương trình xây dựng Tam giác Phát triển nhằm đẩy mạnh quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của khu vực biên giới ba nước, phù hợp với Chương trình
Hành động Hà Nội năm 1998 về xóa đói giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa các thành viên ASEAN. Thủ tướng ba nước tập trung trao đổi về những
biện pháp cụ thể, ưu tiên hợp tác trong một số lĩnh vực như: xây dựng và nâng cấp hệ
thống giao thông kết nối các tỉnh trong Tam giác Phát triển; thực hiện các dự án
nhằm phát triển quan hệ thương mại; thúc đẩy hợp tác du lịch, thực hiện ý tưởng “Ba
quốc gia - một điểm đến” và xây dựng mạng lưới liên hoàn giữa ba nước để cung cấp
điện năng cho nhau [135]. Thành công của Hội nghị lần thứ hai đã tạo điều kiện
thuận lợi cho việc hình thành một “Tam giác Phát triển” với 7 tỉnh ban đầu là
Rattanakiri, Stung Treng (Campuchia), Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk (Việt Nam),
Attapu, Sekong (Lào). Đồng thời, việc tăng cường hợp tác và xây dựng một Tam
153
giác Phát triển giữa ba nước, không chỉ phù hợp với các mục tiêu ưu tiên phát triển
kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo ở mỗi nước, mà còn thể hiện nỗ lực của cả ba
nước trong công cuộc hội nhập và phát triển. Theo đánh giá của Thủ tướng Phan Văn
Khải: “Việc triển khai những thỏa thuận đạt được tại cuộc họp lần này rất nặng nề,
đòi hỏi nỗ lực cao của các Bộ, ngành hữu quan của cả ba nước… với sự quan tâm
chỉ đạo sát sao và thường xuyên của Chính phủ mỗi nước, chắc chắn những quyết
tâm của chúng ta sẽ trở thành hiện thực, đưa hợp tác xây dựng “Tam giác Phát
triển” nói riêng và hợp tác ba nước nói chung đi vào chiều sâu và có hiệu quả thiết
thực trên nhiều lĩnh vực” [136]. Sự thành công của Tam giác Phát triển có sự đóng
góp to lớn của lãnh đạo và nhân dân ba nước, trong đó có sự phối hợp hiệu quả giữa
Campuchia và Việt Nam trong quá trình tiến hành triển khai các chương trình cụ thể
nằm trong dự án.
Tiếp đó, tại Hội nghị Cấp cao lần thứ ba được tổ chức tại Siem Reap
(Campuchia) ngày 20/7/2004, Campuchia và Việt Nam cùng với Lào đã khẳng định vai
trò hết sức quan trọng của Tam giác Phát triển trong việc hợp tác xây dựng cơ sở hạ
tầng, thương mại, nông nghiệp, du lịch, y tế, giáo dục, môi trường. Trong Hội nghị lần
này, Thủ tướng ba nước đã ký Tuyên bố Viêng Chăn về xây dựng Tam giác Phát triển
và thông qua Quy hoạch tổng thể Tam giác Phát triển với mục tiêu và quan điểm:
Thứ nhất, Khơi dậy và phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh, các nguồn nội lực
của từng tỉnh trong khu vực vào phát triển nền kinh tế sản xuất hang hóa. Phát huy và
sử dụng có hiệu quả (trước mắt và lâu dài) mọi tiềm năng và nguồn lực vào mục tiêu
tăng trưởng kinh tế với tốc độ nhanh, bền vững.
Thứ hai,Tăng cường mối liên kết kinh tế trong nội bộ vùng, thông qua các
chương trình hợp tác phát triển giữa các tỉnh trong vùng; Hợp tác mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại; Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút nguồn lực từ
bên ngoài; Gắn quá trình phát triển của mỗi nước với sự phát triển của từng địa phương
trong khu vực Tam giác Phát triển biên giới ba nước nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế
theo hướng nâng cao hiệu quả trên từng ngành, từng tỉnh của khu vực.
Thứ ba, Hợp tác phát triển giữa các địa phương trong khu vực được coi là
biện pháp quan trọng hàng đầu để phát triển tốt Tam giác Phát triển khu vực biên
154
giới ba nước có tính tới thu hút sự tham gia của nước thứ ba. Việt Nam đóng vai trò
trong việc hỗ trợ kỹ thuật và vốn đầu tư.
Thứ tư, Phát huy ưu thế đầu mối cửa ngõ ra biển của Việt Nam tạo ra sức hấp
dẫn, lôi cuốn giao lưu kinh tế, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế đẩy mạnh hợp tác
phát triển để hỗ trợ lẫn nhau cùng lợi thế bổ sung và phối hợp để có sự phát triển tốt
hơn cho khu vực và đảm bảo cho cả khu vực có được sự an ninh và phát triển [215].
Để thực hiện tốt những mục tiêu và nhiệm vụ nêu trên cần có sự phối hợp chặt
chẽ giữa ba quốc gia trên bán đảo Đông Dương, trong đó hợp tác giữa Campuchia và
Việt Nam trong Tam giác phát triển cần được đẩy mạnh và đi vào chiều sâu, cùng
với Lào triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án đã đặt ra. Với mong muốn đạt
được những mục tiêu đã nêu, Hội nghị Cấp cao lần thứ tư diễn ra ngày 4-5/12/2006
tại Thành phố Đà Lạt đã tập trung vào nội dung chính là cùng thảo luận các biện
pháp thúc đẩy khu vực Tam giác Phát triển. Trong Tuyên bố chung, thủ tướng ba
nước nhấn mạnh “phương hướng hợp tác trong khuôn khổ Tam giác Phát triển giữa
ba nước trong thời gian tới là thúc đẩy việc thành lập Ủy ban Điều phối chung, xây
dựng cơ chế chính sách ưu đãi chung đối với khu vực Tam giác Phát triển và phối
hợp giữa ba nước trong việc vận động các nước và các tổ chức quốc tế hỗ trợ và đầu
tư vào khu vực Tam giác Phát triển” [145]. Đặc biệt, sáng kiến của Việt Nam về việc
thành lập Ủy ban Điều phối chung về Tam giác Phát triển đã được hai nước
Campuchia và Lào tán thành. “Ủy ban Điều phối chung về Tam giác Phát triển (mỗi
nước cử một Bộ trưởng là đồng chủ tịch ủy ban) gồm bốn tiểu ban: kinh tế, xã hội -
môi trường, địa phương và an ninh - đối ngoại. Ủy ban này sẽ sớm họp phiên đầu
tiên vào quý 1 năm 2007 tại Việt Nam. Giao Ủy ban Điều phối sớm nghiên cứu, đề
xuất chính sách ưu đãi cho Tam giác Phát triển và báo cáo ba Thủ tướng quyết
định” [110]. Việc Ủy ban Điều phối chung được thành lập đã tạo điều kiện hết sức
thuận lợi cho Tam giác Phát triển đi vào hoạt động có chiều sâu và mang lại hiệu quả
cao hơn. Điều này khẳng định sự đóng góp không nhỏ của Việt Nam nỗ lực phối hợp
với Campuchia và Lào trong tiến trình hình thành và từng bước xây dựng Tam giác
Phát triển ngày một bền vững.
Tại Hội nghị Cấp cao lần thứ năm được tổ chức vào tháng 11/2008 tại Viêng
Chăn, Thủ tướng ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào đã nhấn mạnh việc đẩy
155
nhanh sự phát triển trong khu vực Tam giác phát triển là nhiệm vụ trọng tâm, cấp
bách, khẳng định quan điểm tăng cường hợp tác hơn nữa để đẩy nhanh việc xây dựng
Tam giác Phát triển, sớm đưa khu vực này ra khỏi tình trạng kém phát triển vì lợi ích
chung của nhân dân ba nước. Campuchia, Việt Nam và Lào đã thống nhất về chính
sách ưu đãi với 12 nội dung ,đó là thủ tục qua lại biên giới và lưu trú của công nhân
và nhà đầu tư; vận chuyển phương tiện vận tải, vật tư, máy móc, thiết bị tái nhập và
tái xuất qua biên giới; trao đổi hàng hóa qua biên giới; quá cảnh hàng hóa; phí và lệ
phí; cơ chế thanh toán; kiểm tra biên giới; chính sách đầu tư; hợp tác phát triển du
lịch; hợp tác phát triển viễn thông, hợp tác năng lượng; hợp tác hạ tầng giao thông và
hợp tác về môi trường [19;101]. Thủ tướng ba nước cũng đã ủng hộ sáng kiến về
diễn đàn doanh nghiệp và diễn đàn thanh niên Tam giác Phát triển, thống nhất việc
hoàn thành Quy hoạch tổng thể Tam giác Phát triển đến năm 2020. Sau thành công
của những Hội nghị đã nêu ở trên, Hội nghị Cấp cao lần thứ sáu diễn ra vào tháng
11/2010 đã khẳng định quyết tâm xây dựng một Tam giác Phát triển vững mạnh,
trong đó ba nước đã tái nhất trí thông qua Bản Quy hoạch khu vực Tam giác Phát
triển đến năm 2020 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam chủ trì xây dựng thay thế
cho Bản Quy hoạch trước đó.
Sự hợp tác giữa Campuchia Việt Nam trong Tam giác phát triển còn thể hiện
cụ thể bằng sự hỗ trợ, giúp đỡ và phối hợp có hiệu quả trong nhiều lĩnh vực để cùng
nhau phát triển đồng đều. Campuchia đã được Việt Nam tích cực phối hợp, hỗ trợ
hoàn thành các dự án quan trọng nằm trong khu vực Tam giác Phát triển, nhất là trên
lĩnh vực giáo thông vận tải, thủy điện, cơ sở hạ tầng, thương mại dịch vụ, nông lâm
nghiệp… Tiêu biểu có thể kể đến các dự án trục giao thông mà Việt Nam là quốc gia
có đóng góp, hỗ trợ nhiều nhất về công sức cũng như về vốn như Quốc lộ 78, xây
dựng cầu Long Bình - Chrey Thom ở Campuchia (xem phần 2.4.3), xây dựng nhà
máy thủy điện Sekaman 1 và 3 tại Lào, thủy điện trên sông Sê San ở Campuchia; mở
nhiều cặp cửa khẩu giữa hai nước trong khu vực Tam giác Phát triển gồm: Mộc Bài
(Tây Ninh) - Ba Vet (Svarieng); Xa Mát (Tây Ninh) - Trapeang Phlong (Kongpong
Cham); Tịnh Biên (An Giang) - Phnom Den (Takeo); Hà Tiên (Kiên Giang) - Prek
Chak (Kampot). Những năm tiếp theo, cho phép phương tiện qua lại các cặp cửa
156
khẩu còn lại, đó là Lệ Thanh (Gia Lai) - OYadav (Rattanakiri); Bon Nuê (Bình
Phước) - Trapeang Sre (Kratie); Bu Prang (Đắk Nông) - O Raing (Mundulkiri).
Mặt khác, thực hiện chiến lược hướng biển, Việt Nam luôn tạo mọi điều kiện
cho các nước thành viên, trong đó có Campuchia quá cảnh hàng hóa qua các cảng
biển Việt Nam, thông qua các Quốc lộ 14, 19, 24, 49 của Việt Nam nối toàn bộ khu
vực này với cảng biển Việt Nam, trong đó có Quốc lộ 14B , nối từ Quốc lộ 14 ra
cảng biển Tiên Sa, Đà Nẵng (Việt Nam), trùng với đường Hồ Chí Minh và Quốc lộ
19 xuất phát từ biên giới Campuchia - Việt Nam dài 247km mà hiện đang là trục
đường tốt nhất từ Tây Nguyên ra các cảng biển miền Trung. Ngoài ra, Campuchia và
Việt Nam tích cực phối hợp với Lào để xây dựng các trục đường chính nối liền khu
vực, như trục Quốc lộ 7 của Campuchia và Quốc lộ 13 của Lào nối khu vực này với
Phnom Penh và Viêng Chăn, dự án phát triển đường bộ và đường sắt nối liền Thái
Lan - Campuchia - Việt Nam. Đồng thời mở rộng và xây dựng các con đường như
Quốc lộ 78 của Campuchia nối với Quốc lộ 19 ra cảng Quy Nhơn; Quốc lộ 25 ra
cảng Vũng Rô; Quốc lộ 18B của Lào nối với Quốc lộ 40, đường Hồ Chí Minh, Quốc
lộ 14B, Quốc lộ 24 ra cảng Đà Nẵng và Dung Quất. Như vậy, việc nối liền các trục
đường chính ra các cảng biển của Việt Nam đã thực sự tạo ra thuận lợi lớn để các
nước trong Tam giác phát triển đẩy mạnh giao lưu trao đổi và xuất khẩu hàng hóa
sang các nước thành viên cũng như các nước ngoài khu vực thông qua các cảng biển
miền Trung Việt Nam.
Hơn nữa, Việt Nam cũng tăng cường đầu tư xây dựng và hỗ trợ Campuchia
và Lào nâng cấp một số khu kinh tế cửa khẩu như khu kinh tế Cửa khẩu Bờ Y -
Ngọc Hồi, Cửa khẩu Đức Cơ, Lệ Thanh - O Ya Dav nối với Campuchia, Khu kinh
tế Cửa khẩu Bờ Y - Phù Cưa nối với Lào tạo điều kiện thuận lợi cho việc quá
cảnh hàng hóa giữa ba nước, khai thác hiệu quả các tiềm năng thương mại, du
lịch, phát triển các khu công nghiệp, dịch vụ, giải trí nhằm nâng cao đời sống
nhân dân vùng bên giới và bảo vệ vững chắc an ninh chính trị toàn khu vực. Đặc
biệt, Cửa khẩu Bờ Y có vị trí rất quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh biên giới
đối với vùng Tam giác phát triển của ba nước. Có vị trí thuận lợi, cửa khẩu này
được xác định là cửa ngõ của ba nước Đông Dương nằm trong Tam giác phát
triển. Từ Cửa khẩu Bờ Y có thể kết nối với vùng Đông Bắc Thái Lan, Đông Bắc
157
Campuchia, Nam Lào, Duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ của Việt Nam.
Hơn nữa, đây còn là “điểm nhấn trong chiến lược liên kết tiểu vùng Mê Công,
giao điểm quan trọng trên hành lang kinh tế Đông - Tây” [30;26.]. Chính do tầm
quan trọng của cửa khẩu này, ngày 5/9/2005, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt
xây dựng thành khu kinh tế cửa khẩu quốc tế. Việc xây dựng các trục giao thông
lớn cũng như các cặp cửa khẩu nói trên góp phần thúc đẩy quá trình phát triển các
mạng lưới đường nông thôn, đường dân sinh nối liền các trung tâm kinh tế, văn
hóa trong vùng Tam giác phát triển, hình thành cầu nối giữa hành lang kinh tế
phía Nam với hành lang kinh tế Đông - Tây. Đặc biệt, Việt Nam luôn khuyến
khích các tập đoàn, doanh nhân gia tăng cường độ vốn đầu tư vào khu vực Tam
giác phát triển, trong đó có rất nhiều doanh nghiệp đã và đang đầu tư tại
Campuchia nhằm đẩy mạnh việc khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên trong
vùng. Đồng thời, cải thiện hệ thống viễn thông cung cấp dịch vụ kết nối, thúc đẩy
doanh nghiệp tư nhân vào đầu tư kinh doanh tại tiểu vùng. Trong những năm gần
đây, Việt Nam đã tập trung nhiều nguồn vốn để xây dựng một số nhà máy thủy
điện ở vùng Tây Nguyên và vùng giáp ranh biên giới Campuchia và Lào. Việt
Nam hỗ trợ Campuchia tiến hành khảo sát và xây dựng nhà máy thủy điện trên
sông Sê San và sông Srêpok với công suất 800 MW. Dự án xây dựng Nhà máy
thủy điện Xêkmanr 3 tại tỉnh Sê Kông (Lào) đã được Việt Nam đầu tư xây dựng
với công suất 230 MW, trị giá 273 triệu USD, Nhà máy Xêkmanr 1 với công suất
420 MW, với số vốn 535 triệu USD. Đây là những dự án có tầm quy mô lớn và
quan trọng, góp phần điện khí hóa khu vực Tam giác phát triển ba nước, tạo động
lực phát triển kinh tế - xã hội trong toàn vùng.
Trong lĩnh vực đầu tư thương mại và xuất nhập khẩu, Chính phủ Việt Nam và
các doanh nghiệp Việt Nam luôn có sự ưu tiên hàng đầu đối với khu vực Tam giác
phát triển. Trong đó, lượng vốn của Việt Nam đầu tư sang Campuchia và Lào rất lớn
tập trung vào các lĩnh vực nông, lâm nghiệp, giao thông, thủy điện,… Riêng với
Campuchia, hiện nay có 11 công ty của Việt Nam đầu tư trồng cao su tại tỉnh
Mondul Kiri, 7 công ty tại tỉnh Rattanak Kiri, và 12 công ty tại tỉnh Stung Treng với
tổng diện tích trên 300.000 ha, và còn nhiều tập đoàn, tổng công ty khác đang trong
quá trình khởi động đầu tư (xem phần 2.4.2). Mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế, song
158
đầu tư của Việt Nam đã khẳng định được vai trò, vị trí trong việc phát triển đời sống
kinh tế - xã hội của cả ba nước nói chung và các địa phương trong khu vực Tam giác
nói riêng. Mặt khác, Campuchia và Việt Nam cùng với Lào luôn chủ động phát triển
quan hệ giữa chương trình Tam giác phát triển với các tổ chức, các quốc gia trên thế
giới nhằm kêu gọi sự hỗ trợ, giúp đỡ đầu tư của nguồn lực bên ngoài vào thúc đẩy
quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, Campuchia và Việt Nam chủ động tổ
chức hợp tác, liên kết với Nhật Bản, Trung Quốc, ADB đăng cai các hội nghị tài trợ
cho khu vực Tam giác phát triển trong suốt thời gian qua. Hiện Nhật Bản đã cam kết
hỗ trợ khu vực Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia số tiền 20 triệu
USD trong tổng ngân sách 40 triệu USD đầu tư cho Việt Nam, Lào, Campuchia,
Myanmar. Chính phủ Nhật Bản mong muốn đóng góp một phần vào khu vực Tam
giác phát triển, nhất là công tác xóa đói, giảm nghèo. Khoản viện trợ của Nhật Bản
chủ yếu đầu tư vào các dự án phát triển giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe và xây
dựng đường sá, điện nhằm nâng cao mức sống người dân khu vực này.
Để có được sự liên kết, hợp tác hiệu quả giữa các nhà đầu tư nước ngoài với Tam
giác phát triển, đặc biệt là của Nhật Bản, phải kể đến sự nỗ lực của cả ba nước Đông
Dương trong quá trình đàm phán, cải thiện mối quan hệ song phương và đa phương.
Trong đó sự đóng góp, hợp tác có hiệu quả giữa Campuchia và Việt Nam đối với quá
trình hợp tác, liên kết này là rất lớn. Chính phủ và nhân dân hai nước cũng luôn đóng vai
trò chủ đạo trong quá trình kết nối Tam giác phát triển với các tổ chức khu vực và tiểu
khu vực như ASEAN, Tiểu vùng Mekong, ACMECS… nhằm tăng cường quan hệ hợp
tác có hiệu quả giữa các tổ chức, phát huy lợi thế và tận dụng các nguồn lực để thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội trong toàn vùng. Trong Thông cáo chung đưa ra tại Hội nghị
Hợp tác và Phát triển các tỉnh biên giới Campuchia - Việt Nam lần thứ 6 ngày 2-
3/8/2010, hai nước đã “đánh giá cao kết quả của Kỳ họp lần thứ 11 Ủy ban Hỗn hợp
Việt Nam - Campuchia về hợp tác Kinh tế, Văn hóa, Khoa học kỹ thuật được tổ chức tại
tỉnh Preah Sihanouk, Vương quốc Campuchia ngày 3-4/12/2009 và kết quả Cuộc họp
lần thứ 5 Ủy ban điều phối chung về Khu vực Tam giác Phát triển Campuchia - Lào -
Việt Nam tổ chức tại Rattanakiri, Vương quốc Campuchia vào ngày 12-18/3/2010. Hai
bên hài lòng nhận thấy các cơ chế hợp tác giữa các Bộ, Ngành và tỉnh, thành của hai
nước hoạt động ngày càng nhịp nhàng và hiệu quả” [125]. Trên cơ sở đó, khu vực Tam
159
giác phát triển đã có bước tăng trưởng nhanh chóng so với quy hoạch năm 2004, một số
tỉnh có tốc độ tăng trưởng cao hơn bình quân cả nước. Giai đoạn 2002 - 2009, tăng
trưởng kinh tế khu vực Tam giác Phát triển trung bình khoảng 10,2%/năm. Trong đó,
các tỉnh Tây Nguyên của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao nhất là 13,5%/năm, tương
ứng là các tỉnh của Lào 12,9% và các tỉnh Campuchia là 9,4%/năm [19;5]. Kết quả đơn
cử này chưa đánh giá hết được những lợi ích thiết thực mà khu vực Tam giác phát triển
đưa lại nhưng cũng thể hiện được vai trò, vị trí vô cùng quan trọng của Tam giác trong
tiến trình phát triển kinh tế - xã hội và liên kết kinh tế quốc tế của mỗi nước và khu vực.
Trên lĩnh vực an ninh quốc phòng, Campuchia thường xuyên đưa ra nhiều
biện pháp đối thoại, chia sẻ với Việt Nam và Lào nhằm bảo vệ hòa bình, ổn định của
mỗi quốc gia và khu vực. Trong đó, cả Campuchia và Việt Nam luôn nhấn mạnh vai
trò, vị trí của mỗi nước trong hợp tác, liên kết Tam giác phát triển. Việt Nam,
Campuchia kiên trì chủ động phối hợp với Lào trong vấn đề về biên giới, phòng
chống tội phạm, tệ nạn xã hội, buôn lậu, ngăn chặn lực lượng khủng bố, phản
động,… trên cơ sở đồng thuận, tự nguyện, không can thiệp vào công việc nội bộ, tôn
trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Đối với vấn đề biên giới -
một vấn đề an ninh phức tạp và nhạy cảm, Việt Nam thường xuyên chủ động kiềm
chế, bày tỏ rõ lập trường nhất quán cùng với Campuchia và Lào tiến tới giải quyết
thông qua hoạt động ngoại giao, đàm phán hòa bình, thực hiện nghiêm chỉnh các
nguyên tắc, quy định đã ký kết trong các văn bản hiệp định, thỏa thuận song phương
và đa phương giữa ba nước, phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế. Minh chứng
cho vấn đề này là ba nước đã hợp tác thành công trong việc cắm mốc hoạch định
biên giới giữa Campuchia - Việt Nam - Lào vào năm 2007. “Cột mốc là di sản cho
con cháu đời sau của ba nước, là động lực hợp tác lâu dài trên nhiều lĩnh vực giữa
ba nước” [210] Đó là những nỗ lực và quyết tâm chung của cả ba nước, thể hiện sự
tin tưởng lẫn nhau, tinh thần đoàn kết truyền thống lâu đời giữa ba dân tộc, trong đó
có sự đóng góp quan trọng, tích cực của hai nước Campuchia và Việt Nam. Mặt
khác, Campuchia cũng đã ký với Việt Nam Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia
năm 1985, Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới 1985 (vào năm 2005);
chủ động ký với Lào Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1977, Hiệp định
về quy chế biên giới năm 1990, Nghị định thư bổ sung Hiệp định về quy chế biên
160
giới Việt Nam - Lào năm 1991... Những việc làm này đã tạo sự gắn kết giữa Chính
phủ và nhân dân ba nước, là cơ sở cần thiết thúc đẩy mối quan hệ Campuchia - Việt
Nam - Lào đi vào chiều sâu và thực chất hơn, đem lại lợi ích thiết thân cho cả ba dân
tộc có biên giới liền kề. Đối với những vấn đề phát sinh giữa ba nước, Campuchia tỏ
rõ thái độ trách nhiệm cao trước những cố gắng của Việt Nam và Lào nhằm đưa ra
những ứng xử hợp lý giữa các bên hữu quan, hướng tới duy trì và củng cố môi
trường hòa bình, an ninh tại khu vực vì mục tiêu ổn định và phát triển bền vững.
Có thể nói, hợp tác, liên kết tiểu vùng đã được Campuchia, Việt Nam và Lào
chú trọng và đặt ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại, trong đó Tam giác phát
triển luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sâu sắc của chính phủ và các bộ ngành ba
nước. Với những thành tựu đạt được trong nỗ lực xây dựng và phát triển Tam giác ba
nước Đông Dương, sự phối hợp thường xuyên giữa Campuchia và Việt Nam ngày
càng tỏ rõ được tính hiệu quả, sự chủ động tích cực hội nhập trong các tổ chức khu
vực, đóng vai trò quan trọng thúc đẩy tình đoàn kết láng giềng hữu nghị Campuchia -
Việt Nam - Lào ngày càng phát triển.
2.6.3. Trong sự phát triển Tiểu vùng sông Mekong
Campuchia và Việt Nam là hai nước nằm ở vùng hạ lưu sông Mekong, do đó
lợi ích cũng như những khó khăn, thách thức mà sông Mekong mang lại là rất lớn.
Trong quá trình hội nhập và phát triển, cả hai nước đều tích cực tham gia vào tổ chức
GMS với nhiều kỳ vọng về một chương trình hợp tác “nhiều quốc gia - một điểm
đến”, vì lợi ích phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước và góp phần vào hòa bình, ổn
định trong khu vực.
Hợp tác Campuchia - Việt Nam trong GMS trước hết phải kể đến là việc liên
kết đa phương và song phương trong các dự án phát triển các hành lang kinh tế, nhất
là ba hành lang kinh tế lớn hiện nay: Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC), Hành
lang kinh tế Bắc - Nam (NSEC) và Hành lang kinh tế phía Nam (SEC). Mỗi hành
lang kinh tế giữ một vai trò, vị trí riêng song đều tác động rất lớn đến sự phát triển
kinh tế của mỗi nước cũng như tăng cường gắn kết giữa các quốc gia trong khu vực.
Campuchia và Việt Nam là hai nước được hưởng lợi rất lớn từ các dự án có quy mô
lớn của các hành lang kinh tế, nhất là nối liền huyết mạch các con đường kinh tế, dân
sinh, quốc phòng giữa hai nước với các nước trong tiểu vùng. Campuchia và Việt
161
Nam đã tích cực phối hợp tham gia cùng Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Myanmar xây
dựng các tuyến đường giao thông (xem phần 2.4.3).
Trong thực tế, việc nối liền các trục đường chính ra các cảng biển của Việt
Nam đã thực sự tạo ra thuận lợi lớn để các nước đẩy mạnh giao lưu trao đổi và xuất
khẩu hàng hóa giữa các nước GMS. Campuchia và Việt Nam cũng đầu tư xây dựng
và nâng cấp các khu kinh tế cửa khẩu như khu kinh tế Cửa khẩu Bờ Y - Ngọc Hồi,
cửa khẩu Đức Cơ tạo điều kiện thuận lợi cho việc quá cảnh hàng hóa giữa hai nước,
khai thác hiệu quả các tiềm năng thương mại, du lịch, các khu công nghiệp, dịch vụ,
giải trí nhằm nâng cao đời sống nhân dân vùng biên giới và bảo vệ an ninh chính trị
khu vực. Đặc biệt, việc xây dựng các trục giao thông lớn như trên đã góp phần thúc
đẩy quá trình phát triển của các mạng lưới đường nông thôn, đường dân sinh nối liền
các trung tâm kinh tế, văn hóa trong vùng Tam giác phát triển, hình thành cầu nối
giữa hành lang kinh tế phía Nam với hành lang kinh tế Đông - Tây.
Thêm vào đó, để hợp tác có hiệu quả trong các dự án, Campuchia và Việt
Nam đã phối hợp và tham gia nhiều Nhóm công tác Tiểu vùng được thành lập như
Nhóm công tác đầu tư tiểu vùng, Nhóm công tác về nông nghiệp, về phát triển nguồn
nhân lực, về môi trường, về du lịch, về thuận lợi hóa thương mại tiểu vùng, Diễn đàn
viễn thông tiểu khu vực, Diễn đàn giao thông vận tải tiểu khu vực. Đây là những
nhóm công tác mang tính chuyên biệt mà các nước thành viên đều tham gia, thông
qua đó, Campuchia và Việt Nam đã trao đổi hỗ trợ thúc đẩy phát triển các dự án liên
quan đến Tiểu vùng. Đặc biệt là khuyến khích đầu tư, hoạt động của Diễn đàn doanh
nghiệp GMS (GMS-BF), cải thiện hệ thống viễn thông cung cấp dịch vụ kết nối, thúc
đẩy doanh nghiệp tư nhân vào đầu tư kinh doanh trong tiểu vùng. Mặt khác, để hiện
thực hóa Hành lang kinh tế trong GMS, Campuchia và Việt Nam đã chủ động tham
gia vào các dự án vận tải và thuận lợi hóa thương mại qua biên giới. Chẳng hạn, hai
bên đã tham gia vào các dự án trọng điểm như Hiệp định vận tải xuyên biên giới
GMS, xây dựng Chiến lược hoạt động về Thuận lợi hóa thương mại và đầu tư, Hiệp
định Liên chính phủ về trao đổi năng lượng khu vực… những hoạt động này không
chỉ mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho các nước tiểu vùng mà còn đẩy mạnh quá
trình kết nối tiểu khu vực và liên khu vực. Vì vậy, mặc dù hành lang kinh tế Đông -
Tây không chạy qua lãnh thổ Campuchia, song nước này lại được hưởng lợi rất nhiều
162
từ các dự án phát triển của chương trình hợp tác và thúc đẩy quan hệ giao lưu giữa
Campuchia với các nước trong khu vực.
Ngoài ra, Campuchia phối hợp với Việt Nam cùng các nước thành viên tổ
chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh Mekong - Nhật Bản lần thứ nhất được tổ
chức tại Tokyo tháng 11/2009, cũng như cam kết của Nhật Bản về việc mở rộng
nguồn vốn viện trợ chính thức (ODA) lên 500 tỷ Yên Nhật trong 3 năm tiếp theo cho
ba nước Campuchia, Lào, Việt Nam (CLV) và cho sự phát triển của toàn khu vực
sông Mekong. Tiếp đó “Hai bên đánh giá cao kết quả Hội nghị Thượng đỉnh Mekong
- Nhật Bản lần thứ hai được tổ chức tại Hà Nội tháng 10 năm 2010, khẳng định quyết
tâm thực hiện Tuyên bố chung và Chương trình hành động Sáng kiến “Thập kỷ
hướng tới Mekong xanh” và Chương trình hành động của “Sáng kiến Hợp tác kinh
tế Công nghiệp Mekong - Nhật Bản” [10]. Đồng thời, Campuchia và Việt Nam cũng
đánh giá cao kết quả cuộc họp cấp Ngoại trưởng lần thứ nhất giữa các nước hạ nguồn
sông Mekong - Mỹ được tổ chức tại Phuket, Thái Lan ngày 23/7/2009 và nhất trí hợp
tác chặt chẽ nhằm đảm bảo tổ chức thành công cuộc họp cấp ngoại trưởng các nước
hạ nguồn sông Mekong - Mỹ lần thứ hai [9].
Bên cạnh hợp tác phát triển kinh tế - xã hội, Campuchia và Việt Nam còn tích
cực phối hợp với nhau trong việc bảo vệ và phát triển bền vững môi trường sinh thái của
khu vực. Là hai nước nằm ở vùng hạ lưu, những lợi ích sông Mêkong mang lại là rất
lớn, song khó khăn thách thức do ảnh hưởng của dòng chảy không hề nhỏ, vì vậy
Campuchia và Việt Nam cần phải có những cơ chế hợp tác đa phương lẫn song phương
để phát huy lợi thế đồng thời hạn chế những tiêu cực do thiên nhiên mang lại.
Hiện nay, với những biến đổi phức tạp của khí hậu toàn cầu, tình trạng dòng
chảy của sông Mekong diễn biến ngày càng thất thường, hạn hạn và lũ lụt xảy ra
thường xuyên và nghiêm trọng hơn so với các năm trước đó. Mặt khác, sự gia tăng
các hoạt động khai thác trên lưu vực sông Mekong của cư dân vùng ven đã làm cho
tình hình nguồn nước thêm phức tạp, nhất là việc sử dụng và tận dụng nguồn tài
nguyên của các quốc gia vùng thượng nguồn như Trung Quốc, Lào, Myanmar, Thái
Lan đã gây ra nhiều hậu quả xấu, ảnh hưởng không nhỏ đến các nước nằm ở khu vực
hạ lưu. Để hạn chế những vấn đề nêu trên, Campuchia và Việt Nam đã và đang làm
hết sức mình nhằm bảo vệ những lợi ích chính đáng của mỗi nước, đặc biệt là tăng
163
cường cơ chế hợp tác với các nước trong GMS song song với việc thúc đẩy quan hệ
song phương trong giải quyết vấn đề liên quan. Ngay từ năm 1992, Campuchia và
Việt Nam đã tích cực ủng hộ sáng kiến về một khu vực chung và trở thành thành
viên đầy đủ của chương trình hợp tác GMS do ADB cùng các nước Trung Quốc,
Myanmar, Lào, Thái Lan sáng lập. Mục tiêu chung của GMS là thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, phát triển bền vững, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân khu
vực sông Mekong. Tầm nhìn được lãnh đạo các nước đưa ra là xây dựng Tiểu vùng
sông Mekong “Kết nối, cạnh tranh và cộng đồng” tầm nhìn “3C” (Connectivity,
Competitiveness, Community). Hiện nay, Campuchia và Việt Nam cũng đang tích
cực tham gia vào Ủy hội sông Mekong (MRC), đóng góp ý kiến và tham gia hiện
thực hóa Hiệp định Mekong ký năm 1995 giữa các nước thành viên Việt Nam, Lào,
Campuchia và Thái Lan. Hiệp định đề ra hàng loạt chương trình, dự án phát triển bền
vững: Chương trình môi trường, chương trình giao thông vận tải, chương trình thủy
sản, chương trình du lịch… trên tinh thần xây dựng, hợp tác, hòa bình và cùng có lợi
trong việc phát triển chung [102]. Thông qua hiệp định này, hai nước đã có những
hành động cụ thể, vừa tham gia xây dựng chương trình, các dự án mang tính liên
vùng, liên quốc gia, đẩy mạnh hợp tác đảm bảo các quy tắc ứng xử thân thiện với
môi trường, các quy chế bảo vệ dòng chảy và chất lượng dòng chảy với mục tiêu vì
“Một lưu vực sông Mekong kinh tế thịnh vượng, xã hội công bằng và môi trường
lành mạnh”. Đặc biệt, do nằm ở vùng hạ lưu nên Campuchia và Việt Nam luôn chủ
động phối hợp bàn bạc với các nước vùng thượng nguồn, nhất là với Trung Quốc,
Myanmar để cùng chia sẻ, gắn kết các chương trình, dự án trong Kế hoạch Phát triển
lưu vực sông Mekong, thúc đẩy liên kết hành động của chương trình GMS với các
hoạt động của Ủy hội sông Mekong (MRC), kêu gọi Trung Quốc và Myanmar tham
gia MRC với tư cách là thành viên đầy đủ.
Nhằm phối hợp tốt hơn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái, Campuchia và
Việt Nam khẳng định quyết tâm thực hiện chương trình Môi trường trọng điểm của
GMS (CEP), thông qua việc tham gia tích cực vào hoạt động của Trung tâm Hoạt
động môi trường GMS, Chương trình sử dụng nước (WUP), Kế hoạch Phát triển lưu
vực (BDP), Chương trình Môi trường (EP), Chương trình Quản lý và Giảm nhẹ lũ lụt
(FMMP). Đồng thời, “Để bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học và bảo đảm an ninh
164
khu vực biên giới giữa ba nước Campuchia - Lào - Việt Nam, hai nước sẽ phối hợp
với CHDCND Lào thực hiện các dự án sau: Bảo vệ động thực vật hoang dã và tài
nguyên rừng ở khu vực biên giới và xuyên biên giới, quản lý vận chuyển chất thải,
hóa chất độc hại qua biên giới và quản lý ô nhiễm nguồn nước xuyên biên giới” [9].
Có thể khẳng định, thông qua những chương trình hành động cụ thể nêu trên,
Campuchia và Việt Nam đã cùng các nước thành viên có thể chia sẻ việc khai thác
hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái thực sự hài hòa, bền
vững của Tiểu vùng cũng như toàn khu vực.
Ngoài ra, hai nước còn tích cực tham gia các diễn đàn đa phương khác như
ASEAN, ACMECS, ARF, Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia… trong
mỗi diễn đàn này đều có những nội dung liên quan đến công tác bảo tồn và phát huy
những lợi ích của sông Mekong, đồng thời thảo luận các biện pháp nhằm hạn chế tối
đa những tiêu cực, nhất là việc khai thác không có quy hoạch (xây dựng hàng chục
đập thủy điện) ở vùng thượng lưu của các quốc gia đầu nguồn. “Hai bên nhất trí
tăng cường phối hợp trong các chương trình hợp tác Tiểu vùng sông Mekong, đặc
biệt là chương trình hợp tác Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS) và Ủy hội sông
Mekong (MRC) nhằm bảo vệ môi trường ở lưu vực, khai thác và sử dụng bền vững
nguồn nước Mekong. Hai bên nhất trí phối hợp chặt chẽ nhằm đảm bảo thành lập và
hoạt động thành công của Nhóm làm việc về hợp tác môi trường theo như Chiến
lược hợp tác Kinh tế Ayeyawadi - Chao Phraya - Mekong (ACMECS)” [10].
Riêng về hợp tác song phương trong tiểu vùng, Campuchia và Việt Nam đã và
đang triển khai nhiều chương trình để cùng nhau khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên ở vùng hạ lưu sông Mekong. Hàng năm, Ủy ban hỗn hợp liên Chính phủ hai
nước đã có hàng trăm cuộc họp, trao đổi về các lĩnh vực hợp tác kinh tế, văn hóa,
khoa học và công nghệ, trong đó có nhiều chương trình hợp tác liên quan đến lĩnh
vực tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan như nông - lâm - ngư nghiệp, giao
thông vận tải, thủy lợi, thủy điện… Trong đó, Việt Nam đã giúp Campuchia lập quy
hoạch phát triển thủy điện phần hạ lưu sông Sê San, Srêpôk thuộc Campuchia, tổ
chức các cuộc hội thảo trao đổi tác động của việc xây dựng đập thủy điện đến môi
trường sinh thái khu vực. Cũng trong khuôn khổ hợp tác giữa hai Chính phủ, nhiều
phân ban đã được thành lập như Tiểu ban điều tiết nước sông Sê San, Srêpôk, Nhóm
165
chuyên viên hỗn hợp soạn thảo Quy chế sử dụng nước biên giới, Nhóm chuyên viên
soạn thảo Nghị định thư thực hiện Hiệp định vận tải thủy Campuchia - Việt Nam.
Những cơ chế hợp tác song phương này đi vào hoạt động đã góp phần tích cực tham
mưu cho Chính phủ hai nước trong việc hoạch định chính sách bảo vệ và phát triển
nguồn lợi của dòng sông Mekong. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn, Ủy ban
Mekong quốc gia hai nước cũng đã ký Biên bản ghi nhớ về tăng cường hợp tác trong
công tác quản lý và sử dụng nước trong lưu vực sông Mekong và đang tiến hành thực
hiện các chương trình đã thỏa thuận.
Thêm vào đó, Hiệp định về hợp tác khoa học - kỹ thuật nông - lâm - ngư
nghiệp đã được Việt Nam và Campuchia ký kết vào tháng 8/2000 nhằm tăng cường
trao đổi kinh nghiệm và hợp tác trên tất cả các lĩnh vực liên quan. Đặc biệt Hiệp định
nhấn mạnh việc phối hợp bảo vệ rừng và môi trường, sinh thái vùng biên, ngăn chặn
tình trạng khai thác và xuất nhập khẩu gỗ trái phép, quy hoạch và cùng nhau sử dụng
bền vững nguồn lợi thủy sản, khuyến khích hợp tác phát triển nông nghiệp, nông
thôn giữa các địa phương sát biên giới. Ngoài ra, hai nước tích cực phối hợp khảo sát
đánh giá nhằm quản lý và sử dụng nguồn nước trên sông suối biên giới giữa hai
nước. Đây là những hoạt động cụ thể trên tinh thần hữu nghị, tin tưởng hướng tới
mục tiêu phát triển xanh và bền vững của hai quốc gia nằm ở cuối vùng hạ lưu
Mekong trong điều kiện khó khăn của biến đổi khí hậu toàn cầu.
Campuchia và Việt Nam còn tích cực tăng cường phối hợp có hiệu quả trong
các dự án kinh tế - xã hội, tăng cường giao lưu buôn bán, trao đổi hàng hóa, giao lưu
văn hóa và bảo vệ an ninh - chính trị trong Tiểu vùng sông Mekong. Việt Nam là
nước hỗ trợ tích cực cho Campuchia về nhiều mặt như nguồn vốn, khoa học kỹ thuật,
nhân lực để hoàn thành các công trình mang tính trọng điểm trong phát triển kinh tế -
xã hội. Việt Nam cũng là quốc gia có nhiều tập đoàn, doanh nghiệp đang đầu tư tại
Campuchia và quan hệ hợp tác kinh tế thương mại, trao đổi hàng hóa, xuất nhập
khẩu giữa hai nước ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Phải thừa nhận rằng, những nỗ lực của Campuchia và Việt Nam trong mối
quan hệ hợp tác Tiểu vùng sông Mekong mang nhiều dấu hiệu khả quan. Cùng với
sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước, hợp tác tiểu vùng đã mang lại cho hai
nước nhiều lợi ích thiết thực, trong đó phải kể đến sự chuyển biến mau lẹ của quá
166
trình phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương nằm trong chương trình hợp tác
tiểu vùng, nâng cao đời sống nhân dân, tăng cường sự ổn định về mặt an ninh - chính
trị, quốc phòng tại khu vực giáp biên. Tuy nhiên, để có được những kết quả tốt đẹp
đó, hai nước cần tích cực hơn nữa trong quá trình xây dựng chương trình hành động
cụ thể, góp phần cùng các nước đưa hợp tác Tiểu vùng sông Mekong trở thành một
điểm đến lý tưởng cho toàn khu vực. Bên cạnh đó, Campuchia và Việt Nam cần hợp
tác chặt chẽ nhằm phát huy những thế mạnh sẵn có, đồng thời hạn chế tối đa những
tác động tiêu cực, cùng nhau và cùng các nước tiểu vùng phát triển phồn thịnh.
Tiểu kết chương 2
Nhìn chung, quan hệ Campuchia - Việt Nam sau hơn 15 năm kể từ khi Vương
quốc Campuchia được tái lập (1993 - 2010) đã phát triển một cách toàn diện trên tất
cả các lĩnh vực, tăng cả về quy mô lẫn chất lượng hợp tác.
Những chuyển biến tích cực trong quan hệ hai nước giai đoạn 1993 - 2010 có
được trước hết là kết quả của công cuộc cải cách, mở cửa của Campuchia và Việt Nam
nói chung và đổi mới chính sách đối ngoại nói riêng. Trong mối quan hệ này, sự khai
thông và mở rộng quan hệ chính trị, an ninh đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác
kinh tế, khoa học - kỹ thuật và ngược lại sự phát triển của quan hệ hợp tác kinh tế,
khoa học kỹ thuật đã góp phần củng cố và tạo động lực thúc đẩy quan hệ chính trị hai
nước trong thời kỳ mới. Nói cách khác, quan hệ chính trị, an ninh và quan hệ kinh tế
trở thành hai yếu tố gắn chặt với nhau không thể tách rời, mang tính biện chứng và
ràng buộc lẫn nhau. Nếu như trước năm 1993, quan hệ Campuchia - Việt Nam vẫn chủ
yếu mang tính một chiều và đặt trọng tâm vào quan hệ chính trị, an ninh, thì trong giai
đoạn này là quan hệ hai chiều và ngày càng phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực
từ chính trị, an ninh, kinh tế, khoa học - kỹ thuật đến hợp tác trong đa phương… trong
đó, Campuchia và Việt Nam đã biết tận dụng và phát huy những lợi thế so sánh của
mỗi nước, hỗ trợ và bổ sung cho nhau để cùng phát triển.
Tuy nhiên, quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010) cũng phải đối diện
với nhiều khó khăn bắt nguồn từ những vấn đề do lịch sử để lại giữa hai nước như
vấn đề biên giới, Việt kiều… và những nảy sinh trong quá trình mở rộng quan hệ hợp
tác giữa hai bên, nhất là sự khác biệt về thể chế chính trị cũng như tính thiếu ổn định
trong nội bộ Campuchia đã kéo theo nhiều hệ lụy phức tạp. Bên cạnh đó, những
167
nguy cơ do sự biến đổi khó lường của thế giới và khu vực cùng với sự cạnh tranh gay
gắt của các cường quốc tại khu vực Đông Nam Á cũng góp phần làm gia tăng những
thách thức đối với mỗi nước và tác động trực tiếp lên quan hệ hai nước.
Mặc dù vậy, vượt lên trên tất cả những khó khăn, trở ngại, quan hệ
Campuchia - Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển và không ngừng mang lại những lợi
ích thiết thực cho nhân dân hai nước, góp phần nâng cao vai trò, vị thế của mỗi nước
trong khu vực và trên trường quốc tế.
168
Chương 3
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ
QUAN HỆ CAMPUCHIA - VIỆT NAM (1993 - 2010)
Quan hệ Campuchia - Việt Nam, nằm trong bối cảnh chung của mối quan hệ
chằng chéo, lệ thuộc lẫn nhau giữa các nước trong khu vực và thế giới nói chung.
Gần 45 năm tăng cường quan hệ truyền thống (1967 - 2010), cả hai nước đã mở rộng
hợp tác, xây dựng quan hệ hữu nghị cùng phát triển và coi đó là nhân tố quan trọng
góp phần vào hòa bình và ổn định không chỉ đối với hai nước mà cả khu vực và thế
giới. Những bước tiến vượt bậc trong quan hệ giữa Campuchia và Việt Nam trên mọi
lĩnh vực trong giai đoạn nói trên đã chứng minh cho điều đó. Tuy nhiên, chỉ từ sau
khi Vương quốc Campuchia tái lập (1993), quan hệ hai nước mới thực sự đi vào
chiều sâu. Nhìn trên toàn cảnh quan hệ hai nước giai đoạn 1993 - 2010, chúng ta có
thể rút ra một số nhận xét, đánh giá sau đây.
3.1. Tổng quan về thành tựu và hạn chế trong quan hệ hai nước
Quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010) là mối quan hệ không hề dễ
dàng và đơn giản khi xem xét trên mọi khía cạnh của nó. Trải qua hơn 15 năm trong
quan hệ giữa hai nước, có thể nhận thấy những thành tựu đạt được là rất lớn, nhưng
những khó khăn, tồn tại trong quan hệ Campuchia - Việt Nam cũng không phải là ít.
Mối quan hệ này nhìn chung vẫn diễn tiến theo chiều hướng đi lên song chứa đựng
trong đó rất nhiều ẩn số mà hai bên cần phải phòng ngừa.
Giai đoạn 1993 - 2010, chứng kiến sự biến đổi mau lẹ của tình hình quốc tế và
khu vực, quan hệ Campuchia - Việt Nam cũng chịu sự chi phối và tác động từ nhiều
phía, cả tích cực lẫn tiêu cực, bên trong và bên ngoài. Trước bối cảnh đó, quan hệ
giữa hai nước tiếp tục được củng cố và mở rộng, tăng cả về quy mô và chất lượng
hợp tác. Nếu trước năm 1993, quan hệ Campuchia - Việt Nam chủ yếu tập trung sự
quan tâm vào lĩnh vực an ninh - chính trị, quân sự thì kể từ sau năm 1993, mối quan
hệ này bắt đầu có sự chuyển hướng mạnh mẽ, trong đó hợp tác kinh tế - xã hội giữa
hai bên ngày càng phát triển và thu được nhiều kết quả khả quan. Nói đúng hơn, hợp
tác an ninh - chính trị tiếp tục phát huy vai trò ảnh hưởng của nó, vừa tạo ra chất keo
gắn kết, vừa làm đòn bẩy cho sự phát triển hợp tác kinh tế - xã hội giữa hai nước.
169
Nhìn ở khía cạnh rộng ra, quan hệ hai nước được thúc đẩy mở rộng trên hầu hết các
lĩnh vực từ chính trị, an ninh, kinh tế, khoa học - kỹ thuật và hợp tác trong đa
phương. Có thể nói, trên tất cả các lĩnh vực hợp tác giữa hai nước đều đạt được
những dấu hiệu tích cực, các chỉ số quan hệ được gia tăng liên tục qua các năm, đặc
biệt là sự nâng cao về chất lượng cũng như tính hiệu quả của hợp tác ngày càng rõ
nét. Và nếu như quan hệ Campuchia - Việt Nam trước đây chủ yếu gần như là quan
hệ một chiều, tức là Việt Nam hỗ trợ, giúp đỡ Campuchia đa phần trên tất cả các lĩnh
vực, thì giai đoạn 1993 - 2010, hợp tác giữa hai nước đã mang tính chất hai chiều, có
đi có lại. Campuchia và Việt Nam ngày càng chú trọng việc đẩy mạnh quan hệ song
phương trên cả bề rộng lẫn chiều sâu.
Trong hầu hết các lĩnh vực hợp tác, Campuchia và Việt Nam đã tiến hành
hàng loạt cuộc gặp các cấp, từ trung ương đến địa phương với nhiều chính sách, biện
pháp và cách thức hết sức đa dạng, phong phú và linh hoạt. Đa dạng thể hiện qua rất
nhiều chuyến thăm lãnh đạo từ cấp Trung ương đến địa phương, các cuộc trao đổi
giao lưu giữa các tổ chức hữu nghị của nhân dân hai nước được thực hiện hàng năm.
Phong phú bởi vì những lĩnh vực hợp tác được đề cập giải quyết, thực hiện trong
quan hệ hai nước bao gồm hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị,
ngoại giao, kinh tế (thương mại, đầu tư); an ninh (biên giới lãnh thổ, những thách
thức an ninh phi truyền thống,...); trên các lĩnh vực khác (giáo dục đào tạo, du lịch,
năng lượng điện, y tế…); trong khuôn khổ hợp tác đa phương (ở cấp khu vực và tiểu
khu vực). Linh hoạt thể hiện ở việc tổ chức và thực hiện các cuộc trao đổi, gặp gỡ
thường xuyên để giải quyết các vấn đề nảy sinh đột xuất, hay tổ chức nhiều cuộc hội
nghị, hội thảo và đặc biệt nhiều Hiệp định, Nghị định thư, Tuyên bố chung, Biên bản
ghi nhớ, Thông cáo báo chí… đã được ký kết giữa hai bên. Tất cả những điều đó đã
minh chứng cho sự hợp tác hữu nghị và phát triển của mối quan hệ này. Về vấn đề
người Việt tại Campuchia cũng được tiến hành thảo luận trên tinh thần cố gắng giải
quyết những trường hợp cụ thể phù hợp với luật pháp của nước sở tại.
Thế nhưng, nhìn ở khía cạnh ngược lại, quan hệ Campuchia - Việt Nam trên
lĩnh vực chính trị, ngoại giao và an ninh thực tế vẫn còn rất nhiều hạn chế, khó khăn
và thậm chí còn tồn tại những mâu thuẫn chưa thể giải quyết. Quan hệ chính trị, an
ninh giữa hai nước giai đoạn 1993 - 2010 đạt được nhiều thành tựu nhưng đi kèm với
170
nó là những vấn đề mà hai bên khó có thể giải quyết trong vòng vài năm tới. Đặc
biệt, sự phụ thuộc quá nhiều vào nhân tố bên ngoài cũng như tính thiếu ổn định của
nền chính trị Campuchia sẽ tạo ra nguy cơ cao và ẩn chứa yếu tố khó lường trong
quan hệ hai nước. Mặc dù CPP vẫn nắm quyền chi phối Quốc hội và lãnh đạo đất
nước, nhưng tính độc đoán và thực dụng của CPP có thể gây nên những xáo trộn
trong quan hệ với các nước, kể cả với Việt Nam. Trong khi đó, CNRP - đảng đối lập
lớn nhất tại Campuchia đang ngày càng giành được vị trí cao hơn trong Quốc hội và
nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của tầng lớp thanh niên, tri thức và thị dân và cũng có
thể là dấu hiệu của một cục diện mới xuất hiện trong nền chính trị Campuchia. Và
như vậy, nếu CNRP thắng thế trong bầu cử hay giành được một số lượng ghế khá lớn
trong Quốc hội trong những năm sắp tới cũng sẽ làm cho quan hệ Campuchia - Việt
Nam bị tác động sâu sắc và chắc chắn sẽ đi theo chiều hướng xấu hơn.
Trên lĩnh vực kinh tế, có thể khẳng định đây là lĩnh vực thu được nhiều thành tựu
nhất trong giai đoạn 1993 -2010, góp phần rất lớn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển
của mỗi nước. Trong đó, quan hệ thương mại có những dấu ấn nổi bật khi các chỉ số hợp
tác ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước và được mở rộng ra nhiều lĩnh vực kinh
doanh, ở cả cấp độ nhà nước lẫn tư nhân. Hợp tác đầu tư giữa Campuchia với Việt Nam
không ngừng được đẩy mạnh, đầu tư hai chiều tăng trưởng liên tục và đạt được một số
kết quả đáng kể. Thêm vào đó, một số lĩnh vực hợp tác như giao thông vận tải, giáo dục
và đào tạo, du lịch, y tế đều được cải thiện và nâng cao.
Mặc dù vậy, quan hệ Campuchia - Việt Nam trên lĩnh vực kinh tế nhìn chung
còn nhiều hạn chế và chưa tương xứng với tiềm năng của mỗi nước. Đối với
Campuchia, một nước dựa phần lớn vào sự viện trợ và đầu tư của nước ngoài, ưu tiên
phát triển quan hệ với các nước lớn, trong đó Mỹ, Trung Quốc là những đối tác luôn
chiếm tỷ trọng lớn cùng với Nhật Bản và Tây Âu, nên họ xem trọng mối quan hệ gắn
bó với các cường quốc này và coi đó là nhân tố đảm bảo thịnh vượng kinh tế quốc
gia. Vì vậy, trong hợp tác thương mại với Việt Nam, Campuchia vẫn chưa thực sự
đặt nặng lợi ích từ quá trình làm ăn song phương với nước này. Nói cách khác, trong
quan hệ kinh tế, Campuchia có thể vẫn coi Việt Nam là một đối tác nằm trong chính
sách ngoại giao đa phương hóa, đa dạng hóa nhằm cân bằng lực lượng, lấy Việt Nam
để đối trọng với Thái Lan, lấy Việt Nam để đối trọng với Trung Quốc... và là chỗ
171
dựa cần có để góp một phần vào việc cải thiện nền kinh tế Campuchia vốn đang gặp
rất nhiều khó khăn chứ không phải là một đối tác kinh tế trọng tâm.
Trong khuôn khổ hợp tác đa phương, Campuchia và Việt Nam đều tham gia
và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, trong đó đáng chú ý là
ASEAN, Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia và GMS. Với việc tham
gia những cơ chế hợp tác đa phương này đã tạo điều kiện cho hai nước phát triển mối
quan hệ không chỉ bó hẹp trong quan hệ hai nước như trước đây mà đã mở rộng ra
theo cấp độ khu vực và trên thế giới. Mặc dù vậy, về kinh tế, Campuchia chú trọng
hợp tác song phương với từng nước, nhất là Mỹ, Trung Quốc, EU và các nước láng
giềng hơn là dựa vào hợp tác trong đa phương. Bởi lẽ, những cơ chế hợp tác đa
phương dường như không mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho Campuchia như các mối
quan hệ song phương. Và dù thay đổi theo chiều hướng nào thì thúc đẩy quan hệ
kinh tế thông qua thể chế khu vực không được định hình rõ nét ở Campuchia. Trái
lại, thúc đẩy quan hệ hợp tác trên các phương diện chính trị, an ninh thông qua các
thể chế hợp tác khu vực lại là xu hướng phát triển và là chỗ dựa cần thiết cho
Campuchia trong thập kỷ tới [42;100]. Do đó, trong nhận thức, đánh giá các vấn đề
thời sự, chính trị quốc tế và khu vực, giữa Campuchia và Việt Nam có thể sẽ có
nhiều điểm bất đồng, thậm chí mâu thuẫn nhau.
Xét cho cùng, cả Campuchia và Việt Nam đều có đủ lý do để duy trì một mối
quan hệ hữu hảo với nhau, dù cho xu thế toàn cầu và tính tùy thuộc lẫn nhau trong
quan hệ quốc tế ngày càng vượt trội thì quan hệ giữa hai nước vẫn tiếp tục phát triển
theo chiều hướng tăng cường sự có lợi cho cả hai bên. Trong cặp quan hệ này, vấn đề
an ninh - chính trị vẫn luôn đóng vai trò then chốt và là động lực cho hợp tác kinh tế
và các lĩnh vực quan hệ khác. Thế nhưng, quan hệ Campuchia - Việt Nam không
giống như trước năm 1993, nhất là sau khi Campuchia đã có sự thay đổi lớn về thể
chế chính trị và tính thực dụng trong chính sách đối ngoại cũng như nhu cầu lợi ích
được đặt nặng thì quan hệ hai bên cũng nảy sinh những khó khăn, trở ngại thực sự.
Do đó, khi xem xét mối quan hệ này cần suy tính cụ thể trên tất cả các mặt, đặc biệt
phải phân tích kỹ lưỡng nội tình của đất nước Campuchia.
172
3.2. Một vài đặc điểm trong quan hệ Campuchia - Việt Nam giai đoạn
1993 - 2010
Thứ nhất, quan hệ Campuchia - Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm và tính
ổn định chưa cao, mối quan hệ này chịu sự tác động mạnh mẽ của tình hình chính trị
tại Campuchia và những nhân tố bên ngoài, nhất là từ phía Trung Quốc.
Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, quan hệ Campuchia - Việt Nam nhìn chung là
hữu hảo, tuy nhiên mối quan hệ này cũng đã đôi lần xảy ra những mâu thuẫn không
dễ điều hòa, nhất là thời kỳ Khmer Đỏ nắm quyền chi phối đất nước Campuchia đã
dẫn đến sự rạn nứt nghiêm trọng quan hệ hai nước. Mặt khác, những vấn đề do lịch
sử để lại như vấn đề biên giới, vấn đề người Việt tại Campuchia... cũng không thể
một sớm một chiều có thể giải quyết ổn thỏa. Điều này gây quan ngại tới quan hệ
Campuchia - Việt Nam, nhất là việc các phe phái chính trị Campuchia thường dùng
những vấn đề nhạy cảm này để gây sức ép đối với chính phủ hiện thời và gây sức ép
lên quan hệ hai nước. Bên cạnh đó, có thể nhận thấy rằng, quan hệ Campuchia - Việt
Nam chưa bao giờ thực sự ổn định một cách chắc chắn, nếu không muốn nói mối
quan hệ này không thể trở thành mối quan hệ đặc biệt như trường hợp quan hệ Lào -
Việt Nam. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do sự thiếu ổn định có tính
chu kỳ của thể chế chính trị Campuchia, hay nói đúng hơn là sự tranh đấu, bất hợp
tác giữa các đảng phái chính trị tại Campuchia đã gây ra cho đất nước này nhiều xáo
trộn và mang lại hệ lụy trong quan hệ Campuchia với các nước, kể cả với Việt Nam.
Cần nói thêm rằng, chính sách đối ngoại của Campuchia trong giai đoạn nắm quyền
của bất cứ đảng phái, lực lượng chính trị nào đều chịu sự chi phối mạnh mẽ của
những nhân tố nước lớn và dù muốn hay không, Campuchia vẫn nằm trong vòng ảnh
hưởng của Trung Quốc trên mọi phương diện. Do đó, việc kết hợp giữa đấu tranh
phe phái nhằm giành quyền lãnh đạo đất nước cũng như ảnh hưởng của yếu tố bên
ngoài đã làm cho tình hình Campuchia chưa bao giờ ổn định một cách chắc chắn.
Điều này không những làm cho Campuchia mất đi nhiều cơ hội để phát triển đất
nước, mà còn tác động sâu sắc đến quan hệ Campuchia - Việt Nam, và làm cho mối
quan hệ này không thực sự bền chặt.
173
Thứ hai, quan hệ Campuchia - Việt Nam có tính bổ sung cho nhau không cao
và còn nhiều hạn chế.
So với các nước phát triển cao trong khu vực, Campuchia và Việt Nam có
trình độ phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ thấp hơn khoảng vài thập niên. Hai
nước tiến hành cải cách, đổi mới trong hoàn cảnh khó khăn vì xuất phát điểm thấp,
lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Mặt khác, do bối cảnh phức tạp của khu vực và thế
giới, cả hai nước đều bị cấm vận, bao vây và bị chống phá từ nhiều phía bởi các lực
lượng thù địch trong và ngoài nước trong nhiều năm. Xuất phát từ điều kiện thực tế
đó, quá trình mở rộng quan hệ và triển khai các chương trình hợp tác, nhất là trên
lĩnh vực thương mại và đầu tư giữa hai nước chưa mang lại nhiều hiệu quả và bị hạn
chế nhiều mặt.
Trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế, hợp tác Campuchia và Việt Nam
vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại, mối quan hệ này chủ yếu mang tính chất
một chiều, tức là Việt Nam vẫn là nước vượt trội hơn trong quan hệ kinh tế với
Campuchia. Trên nhiều lĩnh vực hợp tác, Campuchia vẫn chủ yếu dựa vào nguồn hỗ
trợ trực tiếp về vốn, nhân lực, khoa học - kỹ thuật của Việt Nam, nhất là những
ngành Campuchia có nhu cầu cấp thiết và là thế mạnh của Việt Nam. Tất nhiên, yếu
tố quyết định đối với sự phát triển vẫn là do sự lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế
thích hợp và yếu tố tự thân của mỗi nước. Trong khi hai nước chưa thể bổ sung cho
nhau về nguồn vốn, khoa học và công nghệ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, thì
Campuchia lại chú trọng tăng cường quan hệ song phương với các quốc gia có tiềm
lực về kinh tế, mạnh về ảnh hưởng ngoại giao, nhất là Mỹ và Trung Quốc. Do đó,
dường như quan hệ kinh tế giữa Campuchia với Việt Nam vẫn còn rất nhiều giới hạn
và chưa thực sự phát triển xứng tầm với hợp tác chính trị, ngoại giao. Hay nói đúng
hơn, quan hệ kinh tế Campuchia - Việt Nam chưa tương xứng với quan hệ chính trị,
ngoại giao do tính bổ sung cho nhau không cao và còn nhiều hạn chế. Điều này đã
tạo ra nhiều lỗ hổng trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước, là cơ hội để các
nước lớn “lấp chỗ trống” và tìm mọi cách lôi kéo Campuchia vào vòng quỹ đạo ảnh
hưởng của họ. Như vậy, vô hình dung đã làm cho vị trí của Việt Nam bị hạ thấp hơn
rất nhiều trong chính sách ngoại giao của Campuchia, tính ưu tiên trong quan hệ với
nước láng giềng Việt Nam có thể trở nên mờ nhạt.
174
Thứ ba, nếu như trước năm 1993 quan hệ Campuchia - Việt Nam chủ yếu tập
trung vào lĩnh vực an ninh - chính trị và quân sự thì giai đoạn 1993 - 2010, đã chứng
kiến sự chuyển biến mạnh mẽ trong quan hệ hai nước, trong đó hợp tác kinh tế nổi
lên và trở thành tâm điểm chú ý của cả hai bên và quan hệ hai nước ngày càng
mang tính toàn diện hơn.
Trong giai đoạn trước năm 1993, quan hệ Campuchia - Việt Nam nằm trong
vòng ảnh hưởng và sự chi phối của Chiến tranh lạnh, do đó mối quan hệ giữa hai
nước thời kỳ này chủ yếu tập trung vào lĩnh vực anh ninh - chính trị và quân sự nhằm
phục vụ những mục tiêu chung và riêng của hai nước. Tuy nhiên, sự biến đổi mau lẹ
của tình hình thế giới, khu vực và của mỗi nước sau năm 1993 đã tác động mạnh mẽ
đến quan hệ Campuchia - Việt Nam, đặc biệt, quá trình hòa hợp, hòa giải dân tộc ở
Campuchia đạt được những kết quả khả quan đã tạo tiền đề cho sự phát triển đi lên
của quốc gia này. Thêm vào đó, sự sụp đổ của trật tự hai cực Yalta đã mở ra thời kỳ
hợp tác hòa bình trên nhiều mặt của quan hệ quốc tế. Trước bối cảnh mới của nền
chính trị đương đại và xuất phát từ nhu cầu cải cách, đổi mới của mỗi nước buộc
Campuchia và Việt Nam phải đẩy mạnh hợp tác trên tất cả các lĩnh vực nhằm đem
lại lợi ích tối đa cho mỗi nước. Giai đoạn 1993 - 2010 đã chứng kiến sự thay đổi sâu
sắc và phát triển một cách toàn diện trong quan hệ Campuchia - Việt Nam, trong đó
quan hệ kinh tế được hai nước chú trọng và thu được nhiều kết quả nổi bật. Quá trình
gia tăng hợp tác thương mại và đẩy mạnh đầu tư giữa Campuchia và Việt Nam
không ngừng được củng cố và phát triển, các chỉ số quan hệ trong lĩnh vực kinh tế
diễn tiến theo hướng tăng dần lên và thu hút ngày càng nhiều tập đoàn, doanh nghiệp
của hai bên cùng tham gia. Hơn nữa, quan hệ giữa hai nước được triển khai trên hầu
hết các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, an ninh, khoa học - kỹ thuật đến hợp tác trong
đa phương và đều thu được những kết quả đáng khích lệ.
Tuy nhiên, khi xem xét mối quan hệ này trên mọi khía cạnh của nó, có thể
nhận thấy rằng, dù ở mỗi thời kỳ khác nhau và trong những hoàn cảnh không giống
nhau thì quan hệ an ninh - chính trị vẫn là điểm nhấn quan trọng nhất trong quan hệ
Campuchia - Việt Nam và là trụ cột thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển một cách
toàn diện, kể cả hợp tác kinh tế. Ngược lại, chính những thành tựu đạt được trong
175
hợp tác kinh tế giữa hai nước sẽ góp phần tạo môi trường thuận lợi để củng cố và mở
rộng quan hệ chính trị ngày càng vững chắc.
Thứ tư, quan hệ Campuchia - Việt Nam là quan hệ rất phức tạp và chứa đựng
nhiều yếu tố khó lường.
Quan hệ Campuchia - Việt Nam là mối quan hệ giữa hai quốc gia có chế độ
chính trị - xã hội khác nhau. Việt Nam có Đảng Cộng sản lãnh đạo dựa trên nền tảng
chủ nghĩa Marx - Lenin, phát triển theo định hướng XHCN. Ngược lại, Campuchia là
nước theo chế độ quân chủ lập hiến (TBCN), thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng.
Vì vậy, quan hệ giữa hai nước thực chất là mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt
Nam với các đảng phái chính trị của Campuchia, đặc biệt là với hai đảng CPP,
FUNCINPEC và với Chính phủ Liên hiệp Hoàng gia Campuchia. Sự khác biệt này
đã tạo nên sự phức tạp, chằng chéo và nhiều biến động theo từng giai đoạn trong
quan hệ hai nước, nhất là khi có những vấn đề nhạy cảm nảy sinh.
Bên cạnh đó, quan hệ Campuchia - Việt Nam còn chứa đựng những yếu tố
khó lường. Điểm khó lường nhất được đề cập tới trong mối quan hệ này đó chính là
sự vận động không thể đoán định trước của tình hình nội bộ đất nước Campuchia.
Một thực tế cho thấy, nếu CPP tiếp tục giữ được vai trò chủ đạo trong Quốc hội và
nắm quyền chi phối tình hình chính trị tại Campuchia thì mối quan hệ giữa
Campuchia với Việt Nam vẫn đi theo chiều hướng ổn định, hữu nghị và có thể có
những bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. Tuy nhiên, nếu CNRP lên thay
thế thì cục diện quan hệ hai nước rất có thể trở nên xấu đi và chắc chắn xuất hiện
nhiều vấn đề khó khăn, trở ngại so với thời kỳ khi mà CPP còn nắm quyền. Như đã
đề cập ở phần nội dung trước, đảng đối lập CNRP luôn có thái độ thù địch với Việt
Nam và thiếu thiện chí trong mối quan hệ này, và hiện nay CNRP ngày càng trở
thành một lực lượng chính trị mạnh trên chính trường Campuchia. Vì vậy, nếu CNRP
giành thắng lợi đa số trong Quốc hội, hay chí ít CNRP giành được một phần lớn ghế
đại biểu Quốc hội cũng sẽ là một dấu hỏi lớn đối với quan hệ Campuchia - Việt
Nam. Và đây sẽ là điểm khó đoán định nhất trong quan hệ giữa hai nước, điều mà
Việt Nam không hề mong muốn và cần phải đề phòng.
176
3.3. Những tác động của quan hệ Campuchia - Việt Nam đến chủ thể hai nước
và khu vực
3.3.1. Đối với Campuchia
Vốn là một trong những nước kém phát triển nhất khu vực, tình hình chính trị
xã hội lại bất ổn trong nhiều năm liền, do đó, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
giữ vững an ninh - chính trị luôn được các nhà lãnh đạo Campuchia đặt lên hàng
đầu. Trong bối cảnh liên kết quốc gia, khu vực đang trở thành trào lưu không thể
cưỡng lại, Campuchia đã từng bước thực hiện chính sách ngoại giao mở cửa, tăng
cường hợp tác quốc tế nhằm đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo và khẳng định vị thế
của mình trên trường quốc tế. Trong đó, đẩy mạnh quan hệ hợp tác với Việt Nam -
một quốc gia láng giềng phía Đông không chỉ mang lại những lợi ích thiết thân cho
Campuchia mà còn tạo lập nền tảng hòa bình vững chắc đối với mỗi nước cũng như
toàn khu vực.
Thứ nhất, về an ninh - chính trị, hợp tác với Việt Nam, Campuchia đã tự tạo cho
mình một môi trường an ninh vững chắc trong bối cảnh hội nhập và phát triển khu vực.
Hợp tác với Việt Nam, Campuchia có thể thực hiện các hoạt động, hành động phối hợp
với Việt Nam trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, nhất là quá trình hợp tác đấu tranh
chống tội phạm xuyên quốc gia, đặc biệt là vùng biên giới nhạy cảm giữa hai nước.
Đồng thời, tăng cường quan hệ với Việt Nam, Chính phủ và nhân dân Campuchia hiểu
sâu hơn về những chính sách đối ngoại của Việt Nam, tăng thêm sự tin tưởng, hiểu biết
lẫn nhau giữa hai dân tộc để cùng nhau xây dựng đất nước, chung sống hòa bình với
nhau. Bên cạnh đó, hiện nay cuộc đấu tranh trong nội bộ các phe phái tại đất nước
Campuchia vẫn âm thầm diễn ra, mặc dù CPP là đảng nắm quyền lãnh đạo cao nhất,
song để giữ vững vị trí của mình, CPP cần có sự hậu thuẫn, ủng hộ từ bên ngoài và Việt
Nam là một trong những quốc gia mà CPP cần hướng tới.
Thứ hai, hợp tác với Việt Nam, Campuchia đã và đang tạo ra cho mình những
lợi thế nhất định để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trước hết là về mặt kinh
tế - xã hội, sau khi Vương quốc Campuchia được tái lập, đứng trước muôn vàn khó
khăn, Campuchia hầu như phải dựa vào những nguồn lực bên ngoài để có thể duy trì
sự ổn định có tính chất tạm thời của nền kinh tế sau nhiều năm bất ổn, nhất là dựa
vào nguồn viện trợ của các nước phương Tây. Tuy nhiên, nguồn viện trợ có giới hạn
177
này vốn dĩ không thể là cứu cánh lâu dài cho đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa,
khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ, con đường duy nhất mà Campuchia có thể lựa
chọn để “tự cứu lấy bản thân” không thể khác ngoài mở rộng quá trình hợp tác quốc
tế, trước mắt là với các quốc gia láng giềng như Việt Nam.
Thời kỳ phát triển mạnh mẽ quan hệ Campuchia - Việt Nam là từ sau năm
1998, tức là sau cuộc Tổng tuyển cử lần thứ hai tại Campuchia thành công và khi
Campuchia chính thức trở thành thành viên của ASEAN. Những thành tựu trong hợp
tác kinh tế với Việt Nam đã góp phần quan trọng thúc đẩy nền kinh tế Campuchia
tiến thêm những bước mới, nâng cấp cơ sở hạ tầng trên rất nhiều lĩnh vực như giao
thông vận tải, bưu chính viễn thông, nông lâm nghiệp, xây dựng đô thị, điện lực, dịch
vụ hàng hóa, y tế và du lịch… Đặc biệt, bộ mặt các tỉnh biên giới giáp ranh với Việt
Nam có những biến đổi quan trọng nhờ việc thông qua trao đổi hàng hóa cửa khẩu,
buôn bán giữa nhân dân hai nước đã thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển
không ngừng. Đồng thời, hợp tác kinh tế với Việt Nam góp phần nâng cao mức sống
của người dân Campuchia và từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
Campuchia với các nước trong khu vực cũng như thúc đẩy quá trình hội nhập của
Campuchia vào đời sống kinh tế quốc tế. Việt Nam là bạn hàng lớn thứ 3 của
Campuchia và đứng thứ 6 trong số các nước có quan hệ thương mại với Campuchia.
Nếu như năm 1998 - thời điểm hai nước ký Hiệp định thương mại, kim ngạch xuất
nhập khẩu chỉ đạt 117 triệu USD, thì tới năm 2004 con số này đã tăng lên 517 triệu
USD và năm 2005 đạt gần 700 triệu USD, tăng 34% so với năm 2004 [147]. Hàng
năm Campuchia xuất sang Việt Nam đạt 19 triệu USD, đạt 65% so với kế hoạch
[28]. Mặt khác, theo Hiệp định quá cảnh hàng hóa đã ký kết năm 1994, trên tinh thần
giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho Campuchia, Việt Nam đã mở 6/8 cửa khẩu cho
phép vận chuyển hàng hóa quá cảnh của Campuchia qua Việt Nam. Năm 1999, Việt
Nam đã cấp quá cảnh số hàng hóa trị giá 26,5 triệu USD, trong đó, gỗ - mặt hàng chủ
lực của Campuchia được quá cảnh chiếm 82,9%. Riêng 6 tháng đầu năm 2000 đã cấp
87 bộ giấy phép trị giá 16 triệu USD cho hàng Campuchia quá cảnh. Mặc dù con số
còn khá khiêm tốn, nhưng sự hỗ trợ và giúp đỡ như trên đã giúp cho Campuchia có
thể tăng cường hoạt động xuất khẩu thông qua các cảng biển Việt Nam, đồng thời kết
nối thương mại với các quốc gia trên toàn thế giới.
178
Qua những con số nêu trên, có thể thấy hợp tác kinh tế Campuchia - Việt
Nam có sự gia tăng không ngừng và thực sự đem lại những lợi ích kinh tế to lớn cho
cả hai nước, tạo điều kiện nâng cao đời sống của người dân, nhất là một quốc gia có
tỷ lệ khá đông dân số sống dưới mức nghèo khổ như Campuchia. Theo thống kê của
Chính phủ Hoàng gia Campuchia, nhờ những thành quả đạt được trong phát triển
kinh tế xã hội trong thời gian qua đã giúp Campuchia giảm tỷ lệ nghèo nàn từ 47%
năm 1993 xuống 35% năm 2004, năm 2007 đã giảm tiếp xuống còn 32% [26;5]. Đạt
được kết quả khả quan này là nhờ những chính sách kinh tế hợp lý của Chính phủ
với việc đẩy mạnh mối quan hệ rộng mở ra cộng động quốc tế, trong đó tăng cường
khả năng hợp tác với Việt Nam luôn đem lại hiệu quả kinh tế tốt đẹp.
Ngoài ra, Việt Nam là quốc gia có lượng vốn đầu tư khá lớn vào Campuchia,
những nguồn vốn đầu tư này đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế Campuchia phát triển.
Thêm nữa, trong quá trình hợp tác kinh tế giữa hai nước, Campuchia đã được sự giúp
đỡ, hỗ trợ từ phía Việt Nam để xây dựng các tuyến đường giao thông quan trọng,
nhất là các tuyến quốc lộ và tỉnh lộ ở những địa phương gần kề biên giới hai nước.
Trong đó, quan trọng nhất phải kể đến các dự án huyết mạch như cải tạo, nâng cấp
Quốc lộ 78, đầu tư xây dựng cầu Long Bình - Chrey Thom, xây dựng cầu vượt Sở
Hạ nối Cửa khẩu quốc tế Dinh Bà (Đồng Tháp) với Bontiachak Cray (Prey Veng).
Đây là những tuyến đường được sử dụng bằng nguồn vốn vay ưu đãi dành cho
Campuchia của Chính phủ Việt Nam, quan trọng hơn những tuyến đường này không
những giúp Campuchia thông thương hàng hóa qua các cảng biển của Việt Nam mà
còn kết nối với các nước trong khu vực, nhất là các nước thuộc Tiểu vùng sông
Mekong. Thông qua đó, góp phần giúp Campuchia đạt được nhiều mục tiêu kinh tế -
xã hội quan trọng.
Để tạo điều kiện thuận lợi và phát triển hơn nữa việc hợp tác kinh tế thương
mại, Việt Nam cũng ưu tiên xây dựng và mở rộng các khu kinh tế cửa khẩu trên
tuyến biên giới dài 1.137 km với Campuchia. Cho đến nay, hai nước đã hợp tác mở
được 7 khu kinh tế cửa khẩu, 43 của khẩu và hơn 23 chợ biên giới, tạo điều kiện hết
sức thuận lợi cho trao đổi hàng hóa hai bên. Đây là những tiền đề vô cùng quan trọng
giúp Campuchia có thể mở rộng hợp tác quốc tế, phát triển kinh tế và nâng cao vị thế
đất nước trong bối cảnh hội nhập khu vực và thế giới. Thêm vào đó, Campuchia còn
179
nhận được sự giúp đỡ có hiệu quả từ phía Việt Nam trên các lĩnh vực như văn hóa
giáo dục, y tế, thủy điện, nông - lâm - ngư nghiệp, du lịch và các dịch vụ khác.
Những hợp tác này phần lớn có sự hỗ trợ rất lớn từ phía Việt Nam cả về nguồn nhân
lực, nguồn vốn ưu đãi dành cho Campuchia trong phát triển kinh tế và an sinh xã hội.
Thứ ba, hợp tác với Việt Nam đã góp phần giúp Campuchia thoát ra khỏi tình
trạng bị cô lập, từng bước hội nhập vào đời sống khu vực và thế giới trên tất cả các
lĩnh vực. Trước hết, Campuchia là quốc gia được Việt Nam ủng hộ tích cực nhất
trong quá trình đàm phán để gia nhập ASEAN. Trong quá trình này, Việt Nam đã
tiến hành vận động và thuyết phục những nước có quan điểm trái chiều về việc
Campuchia gia nhập vào ASEAN. Việt Nam đã chuẩn bị trước tài liệu “Lễ kết nạp
Campuchia vào ASEAN” và phân phát tài liệu này tại Hội nghị quan chức cấp cao
ASEAN (SOM) vào ngày 8/12/1998. Đồng thời, để tạo điều kiện thuận lợi cho
Campuchia, phía Việt Nam đã mời Thủ tướng Campuchia S.Hunsen thăm chính thức
Việt Nam vào ngày 13/12/1998, hai ngày trước Hội nghị Thượng đỉnh khai mạc,
nhằm giúp Campuchia vận động và thuyết phục những nước “thận trọng” (gồm Thái
Lan, Singapore, Philippines) còn khá dè dặt về việc kết nạp Campuchia vào ASEAN.
Mặc dù chưa đạt được sự nhất trí của các nước ASEAN về việc kết nạp Campuchia,
nhưng Tuyên bố Hà Nội khẳng định việc kết nạp Campuchia là thành viên thứ 10
của ASEAN đã được các nước thành viên ủng hộ, song chưa xác định được ngày kết
nạp cụ thể. Đây chính là cơ sở ngoại giao cần thiết mở cánh cửa giúp Campchia được
kết nạp chính thức vào ASEAN ngay năm sau (1999). Việc trở thành thành viên
chính thức của ASEAN đã mở ra một giai đoạn phát triển mới của Campuchia, nhất
là trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa như hiện nay. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao
Campuchia Kao Kim Hourn đã từng khẳng định rằng: “Chính vì lý do kinh tế mà
ASEAN là tổ chức quan trọng nhất mà Campuchia cần gia nhập” [185;201]. Gia
nhập ASEAN đã đưa lại cho Campuchia sự tăng trưởng không ngừng, nếu trước năm
1999 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Campuchia luôn nằm ở một con số, thì từ năm
2000 trở đi, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức hai con số và được duy trì gần như
đồng đều qua các năm.
180
Bảng 3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Campuchia giai đoạn 1995 - 2004
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Tăng trưởng 5% 6% 1% 1% 4% 5,5% 5,3% 6,1% 5% 5,5%
Nguồn: CRS Report for Congress 2004
Về trao đổi thương mại, trước khi gia nhập ASEAN, buôn bán hai chiều giữa
Campuchia và ASEAN rất thấp, tuy nhiên sau khi trở thành thành viên chính thức, xuất
nhập khẩu hai bên đã đạt được những con số ngoạn mục. Nếu năm 1985, xuất khẩu của
Campuchia và ASEAN chỉ đạt 9 triệu USD - nhập 16 triệu USD, thì đến năm 1999, xuất
khẩu đạt 209 triệu USD - nhập là 398 triệu USD (theo IMF, DOTS 1999) [67;33-34],
năm 2003 xuất khẩu đạt 1.394 triệu USD - nhập là 1.844 triệu USD.
Ngoài ra, để phát triển nguồn nhân lực, Campuchia cũng nhận được nhiều học
bổng từ các nước ASEAN, tiêu biểu nhất là từ Việt Nam với số sinh viên hàng năm
thuộc hàng cao nhất. Rõ ràng, việc mở rộng trao đổi buôn bán với các nước trong khu
vực và sự gia tăng đầu tư vào Campuchia đã tạo tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế - xã
hội còn nhiều khó khăn của Campuchia, đặc biệt là quá trình tự điều tiết, cải tổ nội bộ
nền kinh tế yếu kém của Campuchia để đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi mới của phát
triển kinh tế. Bên cạnh đó, là thành viên của ASEAN, Campuchia có thêm nhiều cơ
hội mở rộng giao lưu hợp tác với các quốc gia trên thế giới, tạo lập được một vị thế
xứng đáng trong khu vực cũng như trong bàn cờ chính trị quốc tế. Đánh giá ý nghĩa và
tầm quan trọng của việc Campuchia tham gia vào ASEAN, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao
và Hợp tác Campuchia một lần nữa nhấn mạnh: “ASEAN là cửa sổ chiến lược để
Campuchia có thể nhìn ra và hội nhập kinh tế vào thế giới bên ngoài” [64;207].
Mặt khác, hợp tác với Việt Nam, không chỉ giúp Campuchia từng bước hội
nhập vào khu vực mà còn tạo điều kiện để Campuchia tham gia vào các chương trình
tiểu khu vực như GMS, Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia, ACMECS
(trong đó có sự tham gia của Campuchia và Việt Nam)… đã đem lại cơ hội lớn để
phát triển kinh tế, giảm khoảng cách giàu nghèo giữa các nước thành viên trong Hiệp
hội. Đặc biệt, hợp tác Campuchia - Việt Nam trong Tam giác phát triển đã tạo điều
kiện giúp Campuchia thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước, trong đó việc tăng
cường đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam và của các quốc gia ngoài khu vực vào
các địa phương của Campuchia nằm trong Tam giác phát triển đã làm thay đổi diện
181
mạo kinh tế - xã hội của khu vực này. Giai đoạn 2002 - 2009, tăng trưởng kinh tế
khu vực Tam giác phát triển trung bình 10,2%/năm, các tỉnh Tây Nguyên của Việt
Nam trong Tam giác Phát triển có tốc độ tăng trưởng bình quân 13,5%/năm và các
tỉnh Campuchia là 9,4%/năm, đạt và vượt mức so với quy hoạch năm 2004 tương
ứng là 8,3-9%/năm và 7,4-8,1%/năm [19]. Năm 2009, GDP đầu người khu vực Tam
giác phát triển là 757 USD, bằng khoảng 74,6% mức bình quân chung của ba nước,
trong đó các tỉnh của Campuchia đạt khoảng 625 USD, các tỉnh Việt Nam đạt 792
USD và đang có xu hương tăng lên. Có được những kết quả này, ngoài những nỗ lực
nội tại của Chính phủ và nhân dân Campuchia còn phải kể đến sự hợp tác có hiệu
quả giữa Campuchia với các quốc gia trong khu vực, trong đó hợp tác với Việt Nam
đã đem lại những lợi ích không nhỏ.
Thứ tư, hợp tác với Việt Nam góp phần tạo điều kiện cần thiết cho Campuchia
thực hiện chiến lược ngoại giao cân bằng lực lượng của các bên có lợi ích tại đất
nước này.
Trong bối cảnh liên kết quốc tế và tranh giành ảnh hưởng giữa các quốc gia
trong và ngoài khu vực, đặc biệt là sự hiện diện ngày càng mạnh mẽ của các cường
quốc tại Đông Nam Á nói chung và ở Campuchia nói riêng, nhất là Mỹ, Trung Quốc
và Tây Âu, kể cả Thái Lan đã làm cho tình hình thêm phần phức tạp. Một mặt, việc
mở rộng và tăng cường quan hệ kinh tế thương mại với những cường quốc nói trên
thông qua những khoản viện trợ “hào phóng” đã giúp Campuchia từng bước hội
nhập vào đời sống quốc tế và phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng đi
kèm với những khoản viện trợ này lại là sự đòi hỏi nhiều hơn những ràng buộc trong
lĩnh vực an ninh - chính trị. Điều này không chỉ gây nên những áp lực nhất định đối
với chính quyền Phnom Penh mà còn khiến Campuchia gặp rất nhiều rào cản trong
quá trình thực thi chính sách ngoại giao quốc gia. Là một nước nhỏ và yếu về nhiều
mặt, vì vậy trong chiến lược ngoại giao, Campuchia chủ trương thực hiện đường lối
đối ngoại trung lập, đa phương hóa, đa dạng hóa nhằm tranh thủ tối đa mọi nguồn
lực cũng như giảm thiểu ở mức thấp nhất sự phụ thuộc vào bên ngoài. Do đó, chính
sách của Campuchia với các nước láng giềng trong thập kỷ tới cũng chỉ là một bộ
phận trong chính sách đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Trong đó, thúc đẩy quan hệ
với Việt Nam - một quốc gia láng giềng phía Đông có thể được coi là xu hướng phát
182
triển và là chỗ dựa cần thiết để Campuchia thực thi chiến lược ngoại giao thực dụng,
cân bằng, linh hoạt và đa chiều của mình.
Có thể nói, tăng cường mối quan hệ hợp tác với Việt Nam, Campuchia đã và
đang nhận được nhiều lợi ích thiết thực, nhất là việc tận dụng lợi thế so sánh hai
nước trong phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vai trò vị thế của đất nước trên
trường quốc tế. Bên cạnh đó, hợp tác với Việt Nam đã góp phần giúp Campuchia
từng bước hội nhập vào đời sống khu vực và quốc tế, trước hết là tham gia vào tổ
chức ASEAN và các chương trình hợp tác tiểu khu vực. Đồng thời, tăng cường mối
quan hệ vốn có với Việt Nam, Campuchia đã và đang thực thi chính sách ngoại giao
đa phương của mình, thực hiện chiến lược tận dụng và cân bằng lực lượng quốc tế
đang hiện diện ngày càng lớn tại đất nước này.
3.3.2 Đối với Việt Nam
Xuất phát từ những yêu cầu nội tại và trước những biến đổi nhanh chóng của
tình hình thế giới, khu vực, Việt Nam đã thực thi chính sách đa phương hóa, đa dạng
hóa trong quan hệ quốc tế nhằm tận dụng thời cơ để phát triển, tiến hành thắng lợi sự
nghiệp CNH - HĐH đất nước. Trong đó, tăng cường hợp tác với các quốc gia Đông
Nam Á và các nước láng giềng là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu nhằm bảo vệ và phát
huy những thành quả cách mạng vốn có. Campuchia - quốc gia có biên giới phía Tây
liền kề với Việt Nam, do đó, đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác với quốc gia láng giềng
này càng trở nên quan trọng và tối cần thiết nếu muốn duy trì sự ổn định về an ninh -
chính trị cũng như góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ nhất, về an ninh - chính trị, việc hợp tác chặt chẽ với Campuchia đã góp
phần không nhỏ giúp Việt Nam giữ vững ổn định an ninh - chính trị trong nước, nhất
là tại khu vực biên giới phía Tây còn nhiều vấn đề phức tạp và nhạy cảm.
Có thể khẳng định, nhân tố chủ đạo và chi phối lâu dài mối quan hệ Việt Nam
- Campuchia là nhân tố an ninh - chính trị. Trong lịch sử, Việt Nam và Campuchia đã
thường xuyên phải liên kết với nhau, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại. Trong cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc, vận mệnh sinh tồn của Việt Nam không tách rời vận
mệnh sinh tồn của Campuchia. Việc ra đời khối liên minh chiến đấu Việt - Miên -
Lào chống kẻ thù chung dười thời Chiến tranh lạnh xuất phát từ đòi hỏi khách quan
183
sống còn: dân tộc này không thể tồn tại và phát triển nếu dân tộc láng giềng kia
không có môi trường an ninh ổn định và ngược lại.
Ngày nay, nhân tố an ninh - chính trị vẫn tiếp tục chi phối quan hệ Campuchia
- Việt Nam nhưng trong những điều kiện và hoàn cảnh mới. Môi trường an ninh -
chính trị của hai nước không còn bị bó hẹp trong môi trường an ninh - chính trị ở
Đông Dương mà mở rộng ra toàn khu vực Đông Nam Á và thế giới. Sự cải thiện môi
trường an ninh, cũng như sự ổn định chính trị của Việt Nam và Campuchia trước hết
xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân mỗi nước muốn có một môi trường hòa bình,
ổn định để phát triển bền vững. Nguyện vọng này lại trùng hợp với nguyện vọng
chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, những thành tựu an ninh -
chính trị của riêng mỗi nước, cũng như những thành tựu có được hết sức lớn lao của
sự hợp tác an ninh - chính trị mà hai nước tạo ra trong thời gian qua đã củng cố thêm
tình đoàn kết truyền thống của hai dân tộc, góp phần đánh bại mọi âm mưu phá hoại
sự nghiệp xây dựng đất nước của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, nâng cao
uy tín và vị thế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế. Lịch sử quan hệ quốc tế toàn
cầu, khu vực đã chứng minh rằng: khi quan hệ song phương an ninh - chính trị phát
triển ổn định, bền vững thì các lĩnh vực quan hệ khác, nhất là kinh tế được đẩy mạnh
và mỗi nước sẽ có điều kiện phát triển nhanh hơn. Ngược lại, khi quan hệ giữa hai
nước về an ninh - chính trị gặp trở ngại, thì các lĩnh vực quan hệ khác sẽ bị đình trệ,
thậm chí “đóng băng” và mỗi nước sẽ không có điều kiện phát triển thuận lợi, thậm
chí có thể rơi vào tình thế cực kỳ khó khăn. Thực hiện tốt quan hệ an ninh - chính trị
giữa Việt Nam với Campuchia có ý nghĩa rất quan trọng đối với cả hai quốc gia, vì
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước, cũng như góp phần củng cố
hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở Đông Nam Á và toàn cầu.
Thứ hai, về mặt kinh tế - xã hội, việc tăng cường quan hệ với Campuchia đã
mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích thiết thực, nhất là trong lĩnh vực thương mại
xuất nhập khẩu. Campuchia là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam trong
khối ASEAN, chỉ đứng sau Thái Lan và là đối tác thương mại lớn thứ tư của
Campuchia trên thế giới, sau Trung Quốc, Hồng Kông và Thái Lan. Với lộ trình thực
hiện CEPT/AFTA trong thời gian tới sẽ tạo những điều kiện thuận lợi để phát triển
thương mại khu vực, đặc biệt là thương mại hàng hóa giữa Campuchia và Việt Nam.
184
Hiện tại, Việt Nam đã có gần 200 văn phòng đại diện, chi nhánh công ty hoặc đại lý
phân phối tại Campuchia. Nếu như trước năm 1999, hàng Việt Nam chỉ chiếm 4-
10% thị phần Campuchia, thì hiện nay theo đánh giá của Tổng lãnh sự quán Việt
Nam tại Campuchia, hàng Việt Nam đã chiếm 45-50% thị phần, có khả năng cạnh
tranh với hàng hóa Thái Lan, Trung Quốc.
Trên thực tế, theo một số doanh nghiệp, như đại diện ban lãnh đạo Công ty
Sản xuất thương mại Độc lập - đơn vị có 10 năm xâm nhập thị trường Campuchia
cho biết: “Có gần 100% mặt hàng của Việt Nam chiếm 80% thị phần tại Campuchia
như ống nước chiếm khoảng 60-70%, hàng nhôm (đồ gia dụng, đồ dùng nhà bếp…)
chiếm tới 70-80% thị phần. Đặc biệt là hàng nhựa Việt Nam gần như không có đối
thủ” [175;45]. Điều này cho thấy tầm quan trọng của thị trường Campuchia đối với
các doanh nghiệp Việt Nam, đây là một thị trường mới giàu tiềm năng, mức sống
người dân tương đối thấp nên hàng hóa Việt Nam dễ dàng xâm nhập và tạo chỗ đứng
lâu dài. Đồng thời, hợp tác kinh tế Việt Nam - Campuchia đã mở ra một hướng đi
mới cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư Việt Nam trong quá trình mở rộng hợp tác
kinh tế quốc tế. Đó là việc tập trung vào các thị trường vừa sức, không yêu cầu công
nghệ cao, có lợi thế so sánh nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam ở
thị trường nước ngoài.
Mặt khác, trong quan hệ thương mại với Campuchia, Việt Nam luôn là nước
xuất siêu với thặng dư ngày càng lớn. Chỉ tính riêng giai đoạn 2006 - 2010, xuất siêu
luôn nghiêng về Việt Nam với thặng dư lần lượt qua các năm: năm 2006 đạt 596
triệu USD, năm 2007 đạt 789 triệu USD, năm 2008 đạt 1.221 triệu USD, năm 2009
đạt 961 triệu USD, năm 2010 đạt 1.275 triệu USD. Với con số xuất siêu ngày càng
tăng qua các năm đã khẳng định thị trường Campuchia ngày càng chiếm vị trí quan
trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt giữa
các nền kinh tế lớn trên thế giới. Thêm vào đó, Việt Nam còn nhập từ Campuchia rất
nhiều mặt hàng có giá trị để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các mặt hàng
về nông - lâm nghiệp, khoáng sản, nguyên vật liệu chưa qua chế biến. Số lượng các
mặt hàng nhập khẩu từ Campuchia của Việt Nam liên tục tăng nhanh qua các năm.
Chẳng hạn, năm 2000, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Campuchia là 37,5
triệu USD, năm 2002 là 65,4 triệu USD và năm 2003 là 94,45 triệu USD, tăng 44,4%
185
so với năm 2002, năm 2005 đạt 160 triệu USD và năm 2007 đạt 202,3 triệu USD,
năm 2008 đạt 210 triệu USD [123;45-46].
Ngoài ra, hợp tác với Campuchia, Việt Nam không những khai thác được thị
trường gần gũi đầy tiềm năng, mà còn có thể tận dụng lợi thế so sánh, khai thác nhập
khẩu những nguyên vật liệu cần thiết để phục vụ cho quá trình CNH, HĐH đất nước.
Trên cơ sở đó, góp phần nhất định vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
nâng cao đời sống người dân. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng lên hàng năm, chẳng
hạn năm 2001 tăng 6,9%; năm 2002 tăng 7%; năm 2003 tăng 7,3%; năm 2004 tăng
7,7%; năm 2005 tăng 8,4%. Riêng năm 2006 đạt mức tăng trưởng 8,17%, thu nhập
bình quân đầu người đạt 729 USD/người/năm [19;60]. Đây là con số ấn tượng đạt
được kể từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, trong đó không thể không tính
đến tác động tích cực của quan hệ Campuchia - Việt Nam.
Thứ ba, mở rộng quan hệ hợp tác với Campuchia và các quốc gia Đông Nam
Á, Việt Nam đã từng bước khẳng định được vai trò vị trí của mình tại khu vực, duy
trì và phát triển quan hệ đối ngoại rộng mở ra bên ngoài.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa đang diễn tiến mau lẹ, Việt Nam
không thể tự riêng mình có thể đối phó với nhiều vấn đề này sinh trong quá trình đổi
mới đất nước. Thực hiện chính sách đối ngoại theo hướng tiếp tục “Tăng cường quan
hệ với các nước láng giềng và các nước trong khu vực tổ chức ASEAN” [34;21] của
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Việt Nam đã và đang có những
phương thức hợp tác chú trọng hiệu quả theo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập,
chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Trong mối quan hệ với Campuchia, Đảng,
Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn xem đây là mối quan hệ có tính chất sống còn,
là nhân tố quan trọng đảm bảo sự ổn định an ninh chính trị trong nước, thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Trước hết, Việt Nam và Campuchia có đường biên giới dài 1.137
km, trên dọc tuyến biên giới này có hàng loạt của khẩu, nhiều khu kinh tế quốc tế
trọng điểm hoạt động sôi nổi, nằm trong dự án hành lang kinh tế Đông - Tây và Tiểu
vùng sông Mekong, điều này càng khiến khu vực biên giới Tây Nam thêm phần quan
trọng. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế - xã hội tại khu vực giáp ranh cũng mang lại
nhiều khó khăn phức tạp, nhất là trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm xuyên
biên giới và ngăn chặn lực lượng phản động lợi dụng thời cơ thực hiện những âm mưu
186
phá hoại, lật đổ chính quyền. Vì vậy, quá trình hợp tác Việt Nam - Campuchia được
tiến hành thường xuyên, đặc biệt là sự phối hợp có hiệu quả của các lực lượng chức
năng hai bên đã mang lại sự yên bình cho các địa phương biên giới, cũng như tác động
tích cực đến tổng thể nền an ninh - chính trị của mỗi nước.
Cần nói thêm rằng, chính sự hợp tác có hiệu quả của hai nước trong Tam giác
phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia, không chỉ góp phần thúc đẩy nền kinh tế
phát triển mà còn tăng cường được quan hệ an ninh quốc phòng hai bên, tạo được
niềm tin và tuyên truyền, giáo dục nhân dân thực hiện các đường lối, chính sách của
mỗi nước. Nhờ chương trình hợp tác Tam giác phát triển, Việt Nam đã thực hiện tốt
công tác xóa đói giảm nghèo với nhiều chuyển biến tích cực, tỷ lệ hộ nghèo giảm
xuống nhanh chóng. Nếu như năm 2005 tỷ lệ hộ nghèo tại các tỉnh Tây Nguyên trong
Tam giác phát triển chiếm 29% thì đến năm 2009 chỉ còn lại 15% [19;60]. Điều này
đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống nhân dân, ổn định an sinh xã hội tạo tiền đề
đảm bảo giữ vững an ninh quốc phòng trong toàn vùng.
Mặt khác, trong khuôn khổ khu vực và trên các diễn đàn quốc tế, hợp tác Việt
Nam - Campuchia đã đưa lại nhiều lợi ích, quan trọng hơn cả là sự ủng hộ, giúp đỡ
lẫn nhau nhằm nâng cao vai trò và vị trí của mỗi nước. Vai trò của Việt Nam được
thể hiện rõ hơn khi là nước tích cực nhất ủng hộ Campuchia gia nhập ASEAN, giúp
đỡ, chia sẻ những kinh nghiệm cho Campuchia hoàn thành những nhiệm vụ quốc tế
được giao, nhất là việc tổ chức các hội nghị cấp cao mang tầm quốc tế và khu vực.
Những việc làm này của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và khẳng
định được vị trí quốc gia trên trường quốc tế. Ngoài ra, hợp tác Việt Nam -
Campuchia trên các diễn đàn quốc tế cũng diễn ra tốt đẹp, Campuchia dành cho Việt
Nam sự ủng hộ tích cực, đặc biệt là việc ủng hộ Việt Nam vào cương vị Ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Những thành quả đạt được
trong quan hệ quốc tế nói chung cũng như trong hợp tác Việt Nam - Campuchia nói
riêng góp phần nâng cao một cách vững chắc uy tín của Việt Nam trong khu vực và
trên trường quốc tế, thúc đẩy sự hội nhập sâu rộng của Việt Nam vào nền kinh tế thế
giới và tham gia đóng góp tích cực vào các tổ chức quốc tế quan trọng như ASEAN,
ASEM, APEC, WTO…
187
Như vậy, tăng cường mối quan hệ với Campuchia, không chỉ đưa lại những
lợi ích kinh tế cho Việt Nam mà còn góp phần quan trọng vào việc ổn định an ninh
- chính trị, xã hội của đất nước, nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Nói
cách khác, Việt Nam thấu hiểu được tầm quan trọng trong mối quan hệ với
Campuchia và luôn dành cho đất nước láng giềng này một vị trí đặc biệt trong
chính sách ngoại giao của mình.
3.3.3 Đối với khu vực
Bên cạnh những tác động tới chủ thể mỗi nước, quan hệ hợp tác Campuchia -
Việt Nam cũng có những tác động không nhỏ đối với khu vực ASEAN. Sự tham gia
tích cực của Campuchia và Việt Nam như “luồng gió mới” tạo động lực cho ASEAN
không ngừng phát triển. Trên cơ sở những nội dung đã đề đề cập trong luận án, có
thể đưa ra một số tác động chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, có thể khẳng định những thành quả đạt được trong quan hệ
Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010) đã có sự tác động tích cực đến sự phát triển hòa
bình và thịnh vượng chung của cả khu vực Đông Nam Á trên hầu hết các lĩnh vực từ
kinh tế, chính trị đến an ninh, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, …trên cơ sở đó góp
phần vào việc phát triển kinh tế, xã hội của khu vực, nâng cao đời sống nhân dân, từng
bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước (kể cả Campuchia và Việt Nam)
với các quốc gia trong khu vực. Qua đó, thực hiện mục tiêu xây dựng một ASEAN
phát triển đồng đều, hòa hợp và thịnh vượng. Đồng thời, Campuchia phối hợp với Việt
Nam cùng các nước ASEAN đề ra nhiều biện pháp, sáng kiến mới, nhằm khắc phục
những yếu kém, trì trệ trong ASEAN. Chẳng hạn, tham gia ký kết thực hiện Tầm nhìn
2020 (1997), thông qua Chương trình hành động Hà Nội (12/1998) đề ra những mục
tiêu phát triển bền vững và rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các nước thành viên,
Tuyên bố Bali II (2003) xây dựng ASEAN thành một cộng đồng về chính trị - an ninh,
kinh tế và văn hóa xã hội, tiến tới xây dựng Hiến chương ASEAN… Điều này góp
phần quan trọng vào việc “giữ vững hướng đi, các nguyên tắc của ASEAN, các giá trị
ASEAN; giữ được cách tiếp cận năng động, tỉnh táo và cân bằng, tiếp tục quan tâm
thích đáng đến việc thực hiện các mục tiêu ưu tiên của ASEAN, nhất là về tăng cường
liên kết và thu hẹp khoảng cách phát triển” [73;107]. Mặt khác, sự tham gia của
Campuchia và Việt Nam với những thể chế chính trị và nền kinh tế khác nhau đã để lại
188
cho ASEAN những bài học kinh nghiệm bổ ích. Nhất là việc vận dụng một cách khéo
léo và hài hòa những nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội như: tôn trọng năm nguyên tắc
cùng tồn tại hòa bình nhưng trong nguyên tắc ứng xử có sự mềm dẻo, uyển chuyển,
nguyên tắc đồng thuận/nhất trí (Consensus), nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ
của nhau. Vì vậy đã góp phần xây dựng ASEAN thành một tổ chức có cơ chế hợp tác
ngày càng chặt chẽ và hiệu quả hơn.
Thứ hai, sự phát triển quan hệ Campuchia - Việt Nam góp phần tạo nên một
khu Đông Nam Á hòa bình, ổn định và cùng phát triển bền vững. Có thể khẳng định,
trong thời kỳ đầu (1993 - 1999) chính sự đoàn kết, ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau giữa
nhân dân hai nước Campuchia và Việt Nam đã làm cho các nước trong khu vực hiểu
rõ hơn về thiện chí “xích lại gần nhau” giữa các quốc gia láng giềng. Đồng thời, sự
ủng hộ lẫn nhau trên lĩnh vực đối ngoại đã tạo điều kiện thuận lợi cho hai nước tham
gia vào đời sống khu vực. Năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
ASEAN, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quan hệ quốc tế không chỉ đối với
Việt Nam mà còn có ý nghĩa lớn lao đối với các nước trong khu vực, là sự kiện mở
đầu cho việc mở rộng ASEAN về sau. Trong lễ kết nạp Việt Nam vào tổ chức này,
Bộ trưởng Ngoại giao nước chủ nhà Brunei nhấn mạnh rằng việc kết nạp Việt Nam
vào ASEAN có ý nghĩa đặc biệt, là sự mở đầu cho một Đông Nam Á thống nhất và
hùng mạnh trong tương lai. Sau thời điểm này, Việt Nam đã ra sức ủng hộ và giúp đỡ
Campuchia trong tiến trình gia nhập ASEAN và trở thành thành viên chính thức của
ASEAN vào ngày 30/4/1999. Có thể nói, Việt Nam là quốc gia “ủng hộ và vận động
tích cực nhất để Campuchia được gia nhập ASEAN” [40;6]. Điều này không những
góp phần giúp Campuchia hội nhập và phát triển mà còn tạo ra thế và lực mới cho
một Đông Nam Á hòa bình thịnh vượng, nhằm chống lại mọi sự can thiệp, nô dịch,
kiềm tỏa của các thế lực bên ngoài cả trên thực tế và cả nguy cơ về sau. Đánh giá ý
nghĩa của sự kiện này, trong cuộc Hội thảo quốc tế tổ chức tại Phnom Penh vào
tháng 2/1998, Thủ tướng thứ nhất Vương quốc Campuchia Ung Hort đã nhấn mạnh:
“Campuchia gia nhập ASEAN là nguồn sức mạnh và là một nhân tố ổn định khu
vực” [191;28], còn Bộ trưởng Tài chính Campuchia Keat Chonn cho rằng:
“Campuchia gia nhập ASEAN sẽ biến hoài bão của ASEAN về một Đông Nam Á
thống nhất, hòa bình thịnh vượng thành hiện thực” [188;21]. Tái khẳng định sức
189
mạnh đại đoàn kết và ý nghĩa to lớn của việc Campuchia trở thành thành viên thứ
mười của ASEAN, Nguyên Tổng thống Philippines Fidel Ramos cũng khẳng định:
“Việc thống nhất Đông Nam Á sẽ ngăn khu vực này khỏi một lần nữa trở thành đấu
trường cho cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn” [62;63].
Như vậy, để đạt được thành tựu to lớn này, ngoài sự nỗ lực của mỗi quốc gia
thành viên là sự hợp tác chặt chẽ về mọi mặt giữa các nước trong khu vực nhằm duy
trì ổn định về an ninh, chính trị, xã hội và phát triển kinh tế từng nước, nâng cao vị
thế của mỗi nước cũng như toàn Hiệp hội. Có thể nói, ASEAN giữ vai trò quan trọng
trong quá trình hợp tác kinh tế - chính trị khu vực, trong đó có hợp tác giữa
Campuchia và Việt Nam. Tuy nhiên, cũng chính từ những tác động tích cực của
những thành tựu hợp tác song phương giữa các quốc gia khu vực nói chung và mối
quan hệ toàn diện Campuchia - Việt Nam nói riêng đã góp phần không nhỏ vào sự
mở rộng, phát triển mạnh mẽ của ASEAN. Cần nói thêm rằng, việc gia nhập của Việt
Nam và Campuchia vào ASEAN không những đưa lại hòa bình, thịnh vượng cho
khu vực, mà còn chứng tỏ cho thế giới thấy được sự thay đổi tích cực khu vực Đông
Nam Á từng là chiến trường trước đó đã và đang chuyển mình sang thị trường trong
hòa bình, hợp tác và phát triển. Đặc biệt, sự tham gia của Việt Nam và Campuchia
vào ASEAN có thể phần nào làm cho cán cân của tổ chức này trở nên thăng bằng
hơn trong quan hệ với các nước lớn, nhất là với Mỹ và Trung Quốc.
Thứ ba, những thành tựu đạt được trong mối quan hệ Campuchia - Việt Nam
trong giai đoạn này đã góp phần cùng với các quốc gia trong khu vực tạo ra môi
trường ổn định và phát triển chung, từng bước đưa Đông Nam Á trở thành “mái nhà
chung” với đầy đủ ý nghĩa của nó. Nói cách khác, quá trình củng cố và mở rộng
quan hệ hợp tác giữa Campuchia với Việt Nam là động lực thúc đẩy mục tiêu xây
dựng Cộng đồng ASEAN 2015 với ba trụ cột chính là kinh tế, an ninh - chính trị và
văn hóa - xã hội đã được các nước thành viên trong khu vực thống nhất hành động.
Thành tựu đạt được trong quan hệ giữa Campuchia với Việt Nam nói riêng và giữa
các thành viên ASEAN nói chung đã tạo nền tảng sức mạnh toàn diện cho Hiệp hội
cũng như từng thành viên.
Ngoài ra, thế giới đang dần dần hình thành một trật tự mới đa trung tâm, trong
đó vai trò của siêu cường Mỹ đang từng bước bị thách thức bởi các nhân tố mới,
190
trước hết là Trung Quốc. Xu thế đa cực hóa chính trị và toàn cầu hóa kinh tế đang
ngày càng phát triển, chủ nghĩa cường quyền vẫn hoành hành, thì điều mà ASEAN
cần làm là phải tạo dựng được cho mình một vị thế và vai trò nhất định trên trường
quốc tế. Nguyên Thủ tướng Singapore Goh Chok Tong đã từng nhấn mạnh: “Để
kinh tế phát triển bền vững trong tương lai, ASEAN không nên để một cường quốc
bất kể là Nhật Bản, Mỹ hay Trung Quốc chiếm ưu thế trong khu vực” [163;5]. Muốn
làm được điều này, không gì quan trọng hơn là tạo nên sự ổn định về an ninh - chính
trị, phát triển kinh tế - xã hội vững chắc của toàn bộ Hiệp hội cũng như các nước
thành viên, đồng thời, tăng cường đẩy mạnh mối quan hệ giữa các nước thành viên,
trong đó có quan hệ Campuchia - Việt Nam trước mắt cũng như về lâu dài.
Thông qua ARF, Campuchia và Việt Nam tỏ rõ sự chủ động cùng với các
nước trong khu vực tìm kiếm những hình thức phù hợp, tăng cường xây dựng lòng
tin, tiến tới các biện pháp ngoại giao phòng ngừa, ngăn chặn xung đột, chống tội
phạm xuyên quốc gia, chủ nghĩa khủng bố quốc tế… nhằm tạo nền hòa bình, an ninh
bền vững ở khu vực Đông Nam Á cũng như ở CA-TBD. Về kinh tế, Campuchia và
Việt Nam chủ động phối hợp với nhau và hợp tác với các quốc gia thành viên nhằm
triển khai có hiệu quả các phương thức hợp tác trong AFTA nhằm tiến tới xây dựng
một thị trường chung an toàn, năng động và tạo điều kiện để biến Đông Nam Á thành
thị trường hấp dẫn, đồng đều cho toàn bộ các nước thành viên. Qua đó sẽ thúc đẩy
mối quan tâm chú ý của các nước ngoài khu vực đối với ASEAN. Bên cạnh đó, sự
tham gia của Campuchia và Việt Nam vào quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư
khu vực đã tạo ra những cơ hội làm ăn cho chính các nước thành viên cũng như khả
năng hợp tác nội khối vì đây là những thị trường mới đầy hấp dẫn và giàu tiềm năng.
Đặc biệt, ý tưởng về việc hình thành Tam giác phát triển Việt Nam - Lào -
Campuchia (ra đời từ năm 1999) trong Hội nghị Cấp cao ba nước lần đầu tiên hiện
đã đi vào hoạt động. Với việc hình thành Tam giác phát triển ba nước Đông Dương,
trong đó có sự tham gia tích cực của hai nước Campuchia và Việt Nam đã, đang và
sẽ tạo ra những xung lực mới thúc đẩy quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết
quốc tế. Tam giác phát triển không chỉ là điểm gặp gỡ lý tưởng của các nhà đầu tư
trên khắp thế giới, mà còn là nơi thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới đầu tư trong
nước, cũng như tăng cường mở rộng quá trình hợp tác giữa ba nước với các nước
191
trong khu vực, tạo ra điểm mới kết nối tiểu khu vực và toàn bộ khu vực Đông Nam
Á. Biểu hiện của quá trình hội tụ kết nối và phát triển này là việc hình thành các
chương trình, dự án hợp tác tiểu vùng như Tứ giác phát triển CLMV, ACMECS,
GMS… trên cơ sở đó tạo ra những nền tảng quan trọng gắn kết chặt chẽ các quốc gia
trong khu vực lại với nhau, tạo tiền đề cho việc hình thành Cộng đồng ASEAN trong
thời gian sắp tới.
3.4. Triển vọng của quan hệ Campuchia - Việt Nam
Trong tương lai, quan hệ hợp tác toàn diện Campuchia - Việt Nam không chỉ
phụ thuộc vào nhu cầu và khả năng đáp ứng của hai nước, mà còn chịu sự chi phối
của rất nhiều nhân tố chủ quan và khách quan, thuận lợi và bất lợi. Trên cơ sở những
nội dung đã được đề cập, có thể nêu lên một số thuận lợi và khó khăn cơ bản, qua đó
đưa ra dự báo triển vọng quan hệ hai nước trong thời gian sắp tới.
3.4.1. Những thuận lợi
Trước hết, Campuchia và Việt Nam là hai nước có mối quan hệ truyền thống
với những điểm gần gũi, tương đồng về địa lý, lịch sử và văn hóa. Trải qua hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, người dân hai nước đã đoàn kết,
ủng hộ và phối hợp với nhau chống giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc. Sự ra đời và
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương lần đầu tiên thống nhất được các lực
lượng yêu nước của các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, trong đó có Campuchia
và Việt Nam. Liên minh chiến đấu Miên - Việt được hình thành một cách tự nguyện
và phối hợp chiến đấu trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ là một biểu
hiện cao độ cho mối quan hệ đoàn kết gắn bó của nhân dân hai nước trong lịch sử
dựng nước và giữ nước. Chiến thắng của nhân dân mỗi nước là chiến thắng chung
của sự nghiệp giải phóng dân tộc của hai nước, góp phần vào thắng lợi cuối cùng của
nhân dân Đông Dương. Đặc biệt, quân đội Việt Nam đã giúp nhân dân Campuchia
đánh đổ chế độ diệt chủng Polpot - Ieng Sary, đưa lại sự hồi sinh cho dân tộc Khmer.
Chính truyền thống đoàn kết chiến đấu, đồng cam cộng khổ của nhân dân hai nước
đã tạo ra nền tảng cho quan hệ hợp tác giữa Campuchia - Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội mỗi nước.
Sau khi Vấn đề Campuchia được giải quyết triệt để năm 1991, quan hệ Campuchia -
Việt Nam đã từng bước được cải thiện và ngày càng phát triển đi vào chiều sâu.
192
Thứ hai, hiện nay, cả Campuchia và Việt Nam đều có độc lập, chủ quyền, xây
dựng và phát triển đất nước trong điều kiện hòa bình. Tại đất nước Campuchia,
Chính phủ Hoàng gia Campuchia đã có những nỗ lực trong việc điều hành và ổn
định đất nước, sau hơn 15 năm (1993 - 2010) tiến hành cải cách, mở cửa đã đưa
Campuchia ngày một ổn định và phát triển. Sau cuộc tổng tuyển cử năm 1993, Chính
phủ Liên hiệp được thành lập với sự tham gia của hai Đảng CPP và FUNCINPEC,
trải qua các cuộc tổng tuyển cử lần II năm 1998, lần III năm 2003, lần IV năm 2008,
Chính phủ Liên hiệp hai đảng đã đặt ra nhiệm vụ trọng tâm là “ổn định chính trị,
phát triển kinh tế, giữ vững chính sách hòa bình, trung lập” [98;559]. Với những
biện pháp hữu hiệu đề ra, Campuchia đã có những bước phát triển tích cực. Tất cả
các ngành kinh tế từ nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, thương mại, đầu tư đều có
bước tăng trưởng rõ rệt.
Theo báo cáo Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) công bố ngày
12/7/1999 cho thấy, nếu năm 1995 xếp hạng phát triển con người của Campuchia
đứng thứ 140/174 quốc gia trên thế giới, thì đến năm 1999 đã vươn lên thứ 137/174
nước trong danh sách xếp hạng. Một nghiên cứu khác cho thấy trong những năm
1993 - 1998, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Campuchia đạt trung bình 4,1%
trong đó giai đoạn 1995 - 1998, kinh tế Campuchia tăng trưởng rất nhanh, đạt mục
tiêu tương ứng là 7% - 8%/năm [174;60]. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1993
- 2008 đạt trung bình 8,2%/năm - đứng ở mức cao so với tốc độ tăng trưởng chung
của các nước khu vực và quốc tế. Đáng chú ý, năm 2005, tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế Campuchia đạt mức kỷ lục là 13,5%. Kết quả đưa thu nhập bình quân đầu
người tăng từ 394 USD năm 2004 lên 594 USD năm 2007. Dự trữ ngoại tệ tăng gấp
đôi và đạt khoảng 2 tỷ USD vào đầu năm 2008, nguồn thu ngân sách tăng trung bình
26%/năm [26;14]. Những kết quả này đã góp phần thay đổi bộ mặt nền kinh tế
Campuchia. Đặc biệt, với mức tăng trưởng đều đặn qua các năm, tốc độ xuất nhập
khẩu có chiều hướng phát triển đã tạo điều kiện để Campuchia hội nhập nhanh hơn
vào đời sống kinh tế quốc tế, đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các quốc gia trong khu
vực, trong đó có Việt Nam.
Tình hình chính trị của Campuchia về cơ bản tương đối ổn định. Chính phủ
Liên hiệp Hoàng gia Campuchia do Đảng CPP liên minh cầm quyền với Đảng
193
FUNCINPEC cùng lãnh đạo đất nước. Mặc dù có nhiều thay đổi về tương quan lực
lượng, nhưng nhìn chung CPP vẫn giữ vai trò chủ chốt trong toàn hệ thống chính trị,
nắm vai trò đứng đầu Chính phủ, Thượng viện, Quốc hội kể từ năm 1993 thông qua
sửa đổi Hiến pháp theo công thức quá bán (50+1) để Đảng thắng cử có thể đứng ra
thành lập chính phủ. Năm 2008 đánh dấu sự thắng lợi của CPP trong cuộc bầu cử
Quốc hội với số phiếu gần như tuyệt đối. Với chiều hướng chính trị như hiện nay đã
tạo môi trường tốt cho Chính phủ Hoàng gia Campuchia thực hiện việc củng cố đoàn
kết nội bộ, tạo nền tảng phát triển kinh tế - xã hội, triển khai đồng bộ chính sách hội
nhập khu vực và thế giới.
Có thể khẳng định những thành tựu đạt được trên lĩnh vực chính trị đã tạo
điều kiện thuận lợi cho Campuchia duy trì chính sách đối ngoại hướng tới mục tiêu
xây dựng và bảo vệ đất nước, từng bước nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Mặt
khác, với sự lãnh đạo của CPP - Đảng có mối quan hệ truyền thống hữu nghị và gần
gũi với Việt Nam đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự gắn kết quan hệ Campuchia -
Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực.
Đối với Việt Nam, sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới (1986 - 2010), mặc dù
vẫn còn những khó khăn thách thức không hề nhỏ, song những thành quả đạt được
trong phát triển đất nước là vô cùng to lớn. Về an ninh - chính trị, Việt Nam được
đánh giá là một trong những quốc gia có nền chính trị ổn định nhất thế giới. Với mục
tiêu hướng tới xây dựng đất nước của dân, do dân và vì dân, Việt Nam đã ra sức
củng cố sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, phấn đấu vì lý tưởng dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đánh giá những thành tựu phát triển kinh tế - xã
hội của Việt Nam mấy năm qua, thế giới đều công nhận: “Sự ổn định chính trị là nền
tảng của tiến bộ và thịnh vượng ở Việt Nam” [60;27].
Trên lĩnh vực kinh tế, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc
độ tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất và tạo tiền đề cho giai đoạn phát
triển mới công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục đạt được nhịp độ tăng
trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1990 - 2000 đạt 7,5%; năm
2000 so với năm 1990, GDP tăng hơn 2 lần; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng
194
kể, nguồn lực phát triển trong các thành phần kinh tế đã được huy động khá hơn;
nhiều lợi thế so sánh trong từng ngành, từng vùng được phát huy. Đến năm 2005,
nước ta đã có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, ký 90 hiệp định
thương mại song phương, trong đó, nổi bật là Hiệp định Thương mại với Mỹ, tạo
điều kiện mở rộng giao lưu hàng hóa với nước ngoài [216].
Với những thành tựu khả quan đó, Việt Nam đã và đang từng bước khẳng
định được vai trò vị trí của mình trên bản đồ khu vực và thế giới, tạo nền tảng vững
chắc đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn tiếp theo và hội nhập sâu rộng
vào đời sống khu vực. Như vậy, có thể nói sự phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ
trọng tâm, ưu tiên số một của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nói cách khác,
“phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp
mỗi nước, đồng thời phát triển kinh tế sẽ tạo ra sự ổn định chính trị và mở rộng hợp
tác quốc tế” [40;46-47]. Đây chính là cơ sở quan trọng để Việt Nam tiếp tục thực
hiện đường lối đối ngoại rộng mở cũng như chính sách hữu nghị tốt đẹp đối với các
quốc gia láng giềng, trong đó có Campuchia.
Thứ ba, lãnh đạo nhân dân hai nước đều hiểu và thấy rõ tầm quan trọng của
việc tăng cường và củng cố mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Campuchia và Việt
Nam vì mục tiêu chung là xây dựng và phát triển đất nước hòa bình, phồn vinh. Trong
chính sách đối ngoại của mình, Campuchia khẳng định đường lối độc lập, hòa bình và
không liên kết, đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế, có quan hệ hữu
nghị với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng. Tăng cường và củng cố hơn nữa
quan hệ hợp tác với Việt Nam luôn chiếm vị trí ưu tiên trong chính sách đối ngoại của
Campuchia từ rất sớm. Báo cáo chính trị của Đại hội Đại biểu Đảng Nhân dân Cách
mạng Campuchia lần thứ V (1985) nêu rõ: “Cộng hòa Nhân dân Campuchia sẵn sàng
phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước láng giềng trong khu vực
Đông Nam Á và các nước khác trên thế giới…Cùng với Việt Nam và Lào, Campuchia
sẵn sang đối thoại và thương lượng để giải quyết những vấn đề có liên quan đến hai
nhóm nước Đông Dương và ASEAN, góp phần biến Đông Nam Á thành khu vực hòa
bình, ổn định và hợp tác hữu nghị, đóng góp vào hòa bình thế giới” [118;383-384].
Đặc biệt, Campuchia phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác với tất cả các
nước, trong đó có Việt Nam nhằm tận dụng lợi thế của từng nước, tạo ra điều kiện đảm
195
bảo an ninh - chính trị và phát triển kinh tế - xã hội cho mỗi nước, thiết lập sự ổn định,
hòa bình trên bán đảo Đông Dương và khu vực.
Tại Đại hội toàn quốc của CPP (Đảng nắm vị trí lãnh đạo chủ chốt tại đất
nước Campuchia từ năm 1998) ngày 12-13/1/2008, CPP đã thông qua Chủ trương 11
điểm cụ thể hóa cương lĩnh chính trị của Đảng trong giai đoạn trược mắt, khẳng
định: “Theo đuổi chính sách ngoại giao trung lập, chung sống hòa bình, không liên
kết. Xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước trên nguyên tắc bình
đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp
vào nội bộ của nhau. Củng cố và phát triển mối quan hệ hợp tác với các nước và đối
tác quốc tế. Nỗ lực thúc đẩy quá trình hội nhập ASEAN để phát triển kinh tế, xã hội
đât nước. Giải quyết mọi vấn đề nảy sinh với các nước láng giềng thông qua đàm
phán trên cơ sở của Hiến pháp, luật pháp Quốc gia và luật pháp Quốc tế cùng các
tài liệu các liên quan khác” [153]. Đặc biệt, Cương lĩnh chính trị của Chính phủ
Hoàng gia nhiệm kỳ III (2003 - 2008), chỉ rõ: “Chính sách ngoại giao chiến lược
của Chính phủ Campuchia nhằm nâng cao uy tín quốc gia trên trường quốc tế, tăng
cường việc tham gia của Campuchia vào công việc của khu vực và trên thế giới.
Đồng thời, phát huy tính ưu tiên trong yếu tố quốc tế để thúc đẩy việc phát triển kinh
tế, xã hội và nâng cao đời sống nhân dân ngày càng phồn vinh, thịnh vượng, hiện đại
và tăng cường bảo vệ tổ quốc bằng việc ra sức củng cố, phát triển hợp tác quốc tế
trên cơ sở song phương và đa phương, đặc biệt là các nước trong Hiệp hội ASEAN”
[225]. Cũng trong “Chiến lược tứ giác” phát triển của Chính phủ Hoàng gia
Campuchia giai đoạn II (từ năm 2008 đến năm 2013) xác định nhiệm vụ thông qua
khẩu hiệu “Tăng trưởng, việc làm, công bằng và hiệu quả”, để làm được nhiệm vụ
này, Campuchia “sẽ dành quyền ưu tiên để đưa Campuchia hòa nhập sâu hơn nữa
vào khu vực và cộng đồng quốc tế, bằng cách đẩy nhanh tiến trình để Campuchia trở
thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế CA-TBD (APEC) và tham gia xây
dựng Cộng đồng ASEAN” [26;13].
Nói cách khác, trong chính sách đối ngoại quốc gia, Campuchia luôn tạo mọi
điều kiện thuận lợi có thể để phát triển nhanh nền kinh tế xã hội, đồng thời giữ vững
độc lập chủ quyền dân tộc. Do đó, tăng cường hợp tác với các nước láng giềng, nhất
là với Việt Nam luôn được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân Campuchia coi trọng.
196
Chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng đã tỏ rõ quan điểm: “Tôn trọng độc
lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Phấn đấu góp phần sớm đạt được
giải pháp chính trị toàn bộ về Vấn đề Campuchia, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền
của Campuchia và Hiến chương Liên Hợp Quốc” [33;89]. Chính sách đối ngoại hữu
nghị này được cụ thể hóa trong các Thông cáo chung Việt Nam - Campuchia năm
1992 và năm 1995 là “tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng
vũ lực; không cho phép bất cứ lực lượng chính trị, quân sự nào dùng lãnh thổ của
nước mình để chống nước kia; hợp tác bình đẳng cùng có lợi…Hai bên thỏa thuận
cùng nhau ngăn ngừa những mưu toan phá hoại quan hệ hữu nghị truyền thống giữa
hai dân tộc, và trực tiếp cùng nhau giải quyết mọi vấn đề nảy sinh giữa hai nước
bằng thương lượng hòa bình, vì lợi ích của nhân dân mỗi nước” [88]. Bước sang thế
kỉ XXI, trên cơ sở những thành quả đạt được, Việt Nam tái khẳng định đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Tiếp tục bổ sung và phát triển quan điểm của các kỳ đại hội trước đó, Văn kiện Đại
biểu Toàn quốc lần thứ IX nhấn mạnh: “Việt Nam sẵn sang là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”
[35;119]. Ngày nay, đứng trước những thực tiễn trong quá trình hội nhập quốc tế của
đất nước, nền ngoại giao Việt Nam vẫn tiếp tục kế thừa và phát huy một cách xứng
đáng truyền thống ngoại giao của những thời kỳ trước. Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X (4/2006) đã nhấn mạnh quan điểm: “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là
thành viên tích cực và xây dựng của các nước trong cộng đồng quốc tế” [36;112].
Như vậy, có thể nói đường lối đối ngoại của Việt Nam đã, đang và sẽ phục vụ đắc
lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo quá trình đổi mới
và hội nhập của đất nước đi đến thành công. Và để làm được điều này, chính sách
đối ngoại của Việt Nam không thể hoàn thiện nếu không có những lợi ích gắn liền
với các quốc gia láng giềng, nếu không nói là điểm mấu chốt để tiến hành thắng lợi
việc hội nhập vào đời sống cộng đồng quốc tế. Trong đó, tăng cường quan hệ hợp tác
với quốc gia láng giềng Campuchia luôn là vấn đề mang tính trọng tâm trong chiến
lược ngoại giao của Việt Nam.
197
Có thể thấy, xuất phát từ các yếu tố địa - chính trị, địa - kinh tế… của cả hai
nước, Campuchia với Việt Nam chủ trương chính sách đối ngoại mềm mại, uyển
chuyển, xây dựng và triển khai chiến lược bảo vệ đất nước, bảo vệ an ninh quốc gia
trong tình hình mới gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững, là một
nhu cầu vô cùng bức thiết đối với hai dân tộc trong thời kỳ mới. Chủ trương của lãnh
đạo hai bên là nâng tầm quan hệ Campuchia - Việt Nam từ “hợp tác nhiều mặt” lên
“hợp tác toàn diện” với phương châm “Láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống,
hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” làm định hướng phát triển hợp tác hai nước
trong thời gian tới. Để triển khai sự nghiệp đó, Campuchia và Việt Nam rất cần sự
phối hợp với nhau, đây là điều tối cần thiết cho hai quốc gia láng giềng này.
Thứ tư, môi trường quốc tế và khu vực có những khó khăn và phức tạp về sự
diễn biến và tương quan lực lượng so sánh, song xu thế hòa bình, hợp tác vẫn là xu
thế chủ đạo và ngày càng được phát huy. Chính môi trường hợp tác thân thiện đã tạo
điều kiện rất tốt cho sự phát triển quan hệ Campuchia - Việt Nam. Bên cạnh các hoạt
động song phương, hợp tác đa phương cũng là hoạt động rất quan trọng cho sự phát
triển của quan hệ hai nước trong bối cảnh liên kết quốc tế diễn ra mạnh mẽ. Cùng là
thành viên của ASEAN, Campuchia và Việt Nam có cơ hội tham gia các chương
trình hợp tác của Hiệp hội. Cho đến nay, hai nước đã cùng nhau tham gia hàng loạt
các chương trình, dự án, hiệp định của ASEAN như AFTA, AIA, ARF, các dự án
phát triển GMS, Hành lang kinh tế Đông - Tây… Những chương trình hợp tác đa
phương này có những khi lại có tính ràng buộc mạnh mẽ hơn các hiệp định song
phương, tạo điều kiện thuận lợi cho hai nước giải quyết những vấn đề do lịch sử để
lại, đưa quan hệ hai nước tiếp tục tiến lên phù hợp với nguyên vọng và lợi ích của
nhân dân hai nước, góp phần rất lớn trong việc củng cố, duy trì và phát triển mối
quan hệ Campuchia - Việt Nam ngày càng tốt đẹp. Đặc biệt, cuộc cách mạng khoa
học công nghệ đang diễn ra đã gắn kết các quốc gia và “thúc đẩy quá trình toàn cầu
hóa và khu vực hóa, làm tăng nhu cầu hợp tác quốc tế và đối thoại để khai thác và
cùng đối phó với những vấn đề của quá trình này” [98;517]. Vốn là những nước đi
sau về trình độ khoa học - kỹ thuật và công nghệ, Campuchia và Việt Nam thực sự
cần có sự hỗ trợ tích cực của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, để hiện thực hóa quá
trình CNH - HĐH đất nước, trước hết Campuchia và Việt Nam cần có những chia sẻ,
198
hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để cùng phát triển và thu hút sự chú ý của các quốc gia và
khu vực trên thế giới.
3.4.2 Những khó khăn, thách thức
Bên cạnh những thuận lợi đã nêu, quan hệ Campuchia - Việt Nam cũng gặp
những khó khăn, thách thức bắt nguồn từ nội tại mỗi nước cũng như sự biến đổi của
tình hình thế giới. Có thể nêu lên một số khó khăn, thách thức chủ yếu như sau:
Thứ nhất, Campuchia và Việt Nam bắt tay xây dựng đất nước trong điều kiện
thiếu thốn về nhiều mặt, cả hai nước đều là những nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, cơ sở
hạ tầng, dịch vụ còn nhiều yếu kém, nhất là phía Campuchia. Những nhân tố khó khăn
thuộc về khách quan đó là ở điểm xuất phát của Campuchia và Việt Nam rất thấp so với
các nước trong khu vực, mặc dù những năm qua cả hai nước đều đạt tốc độ phát triển
tương đối cao, nhưng vẫn đang tồn tại nguy cơ tụt hậu so với thế giới. Là hai nước có
mức độ phát triển không quá chênh lệch, do đó cả Campuchia và Việt Nam đều khó
khăn trong việc bổ sung cho nhau những lợi thế so sánh trong phát triển. Chính điều này
đã có tác động không thuận chiều đến mối quan hệ toàn diện giữa hai nước trong bối
cảnh hội nhập quốc tế. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, một khi triển khai các chương
trình, dự án hợp tác giữa hai nước phải cần tới nguồn vốn lớn và nguồn nhân lực có trình
độ cao không phải là thế mạnh sẵn có của cả hai nước, đã gây ra những trở ngại cho
những liên kết mang tính song phương và đa phương, kể cả những khu vực, địa phương
được xem là phát triển nhất của cả hai nước.
Thứ hai, sự khác biệt về một số yếu tố văn hóa cùng những vấn đề do lịch sử
để lại giữa hai nước vẫn có thể là rào cản cho sự phát triển quan hệ hợp tác
Campuchia - Việt Nam. Trong quan hệ hai nước, một số vấn đề do lịch sử hoặc chưa
giải quyết triệt để như vấn đề biên giới trên bộ và trên biển, Việt kiều, cộng đồng
Khmer Nam Bộ… đã nhiều lần làm căng thẳng trong quan hệ Campuchia - Việt
Nam. Đặc biệt nguy hiểm hơn khi các lực lượng phản động và một số đảng phái đối
lập không mong muốn có quan hệ thân thiết với Việt Nam luôn lợi dụng những vấn
đề nhạy cảm này để kích động chống phá sự nghiệp xây dựng và phát triển mỗi nước
cũng như hợp tác giữa hai bên, làm cho tình hình an ninh - chính trị, kinh tế - xã hội
gặp nhiều khó khăn bất ổn, tác động gây chia rẽ quan hệ Campuchia - Việt Nam.
Ngoài ra, sự khác biệt trong hệ thống chính trị, luật pháp và hành chính giữa hai
199
nước cũng phần nào tác động đến quá trình hợp tác toàn diện Campuchia - Việt Nam,
kể cả việc giải quyết các vấn đề tồn tại trong quan hệ hai nước. Trong khi,
Campuchia là quốc gia theo chế độ quân chủ lập hiến (TBCN), Chính phủ Liên hiệp
Hoàng gia Campuchia được thành lập dựa trên liên minh hai đảng lớn là CPP và
FUNCINPEC, còn ở Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo theo định hướng XHCN.
Do đó, về góc độ đảng chính trị, quan hệ giữa Campuchia và Việt Nam không phải là
mối quan hệ giữa hai Đảng cầm quyền mà là mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt
Nam với các đảng phái chính trị của Campuchia, nhất là với hai đảng lớn nắm quyền
lãnh đạo là CPP và FUNCINPEC. Việt Nam tuyên bố tiến lên XHCN, Campuchia
theo con đường TBCN. Mặt khác, nội bộ đất nước Campuchia nhìn chung tương đối
ổn định, tuy nhiên ẩn đằng sau đó là những mâu thuẫn, bất ổn, chính quyền đất nước
này luôn chịu sự tác động của đấu tranh nội bộ phe phái trong nước, cũng như chịu
sự chi phối rất lớn từ bên ngoài. Vì thế, quan hệ Campuchia - Việt Nam cũng chịu
tác động từ nhiều phía bắt nguồn từ những điều kiện chủ quan và khách quan này.
Thứ ba, dựa vào những đặc điểm về vị trí địa lý, vùng biên giới giữa hai nước có
sự phức tạp khó khăn, các thế lực thù địch đã dùng để hoạt động, hành động trái pháp
luật và dựa vào đó để thực hiện chiến lược biến đổi chế độ, lật đổ chính quyền ở Việt
Nam, kích động làm bất ổn tình hình nội bộ Campuchia. Một số thế lực bên ngoài đã lợi
dụng tình hình đó để thực hiện những toan tính chính trị nguy hiểm của chúng. Đồng
thời, thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, viện trợ kinh tế nhằm làm biến đổi thể
chế chính trị tại Việt Nam và làm sụp đổ chính quyền đương nhiệm tại Campuchia. Điều
này làm cho quan hệ hai nước đứng trước nhiều thách thức và nguy cơ khó lường. Thêm
nữa, mặc dù quan hệ Campuchia - Việt Nam những năm qua là tốt đẹp, nhưng trước tình
hình mới của thế giới quan và thời kỳ kinh tế tri thức đã lan rộng rất nhanh chóng, sự
cạnh tranh ngày càng gay gắt trong quan hệ quốc tế, có thể dẫn đến những nguyên tắc
truyền thống của tình hữu nghị và sự hợp tác toàn diện giữa hai nước có thể bị bỏ qua
một số vấn đề và một số nhóm người, chủ yếu là thế hệ trẻ.
Thứ tư, sự tranh giành ảnh hưởng, lợi ích của các nước lớn trong khu vực bên
cạnh mặt tích cực đối với mỗi nước cũng có thể là nhân tố tiêu cực, phá hoại quan hệ
tốt đẹp vốn có giữa Campuchia và Việt Nam. Tuy không phải là một thách thức trực
tiếp, nhưng thái độ của các nước lớn đối với khu vực có tác động mạnh đến mối quan
200
hệ hữu nghị giữa hai nước và có khả năng dẫn đến những hệ quả tiêu cực. Chẳng
hạn, lợi dụng một số diễn biến phức tạp tại Tây Nguyên (Việt Nam), Mỹ và phương
Tây thông qua Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn và một số tổ chức quốc tế, tổ
chức phi chính phủ đã kích động đồng bào Tây Nguyên ở Việt Nam chạy sang
Campuchia, gây nên tình trạng lộn xộn, làm mất ổn định tại khu vực biên giới, xáo
trộn đời sống người dân và gây chia rẽ quan hệ hai nước. Mặt khác, cuộc cạnh tranh
khốc liệt đang ngấm ngầm diễn ra giữa các nước lớn, đặc biệt là sự nổi lên của Trung
Quốc tại khu vực, một phần tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, nhưng cũng làm
gia tăng thêm những khó khăn, trở ngại trong quan hệ giữa các quốc gia trong khu
vực, trong đó có quan hệ Campuchia - Việt Nam, vì sự phát triển của nền kinh tế
luôn đi kèm với những thách thức về an ninh - chính trị cần phải giải quyết.
3.4.3. Dự báo triển vọng quan hệ
Thực hiện phương châm 16 chữ “Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu
nghị truyền thống, ổn định lâu dài”, quan hệ hợp tác Việt Nam với Campuchia đã
được triển khai trên nhiều lĩnh vực và được thực hiện ở các cấp độ khác nhau như cấp
độ nhà nước và cấp độ địa phương. Trong đó, quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội giữa
hai nước đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, góp phần đáng kể đưa quan hệ toàn diện hai
nước ngày càng đi vào chiều sâu. Đáp ứng nhu cầu mới trong quan hệ Campuchia -
Việt Nam, hai bên tập trung ưu tiên hợp tác trong một số lĩnh vực liên quan tới các tỉnh
biên giới, như: Tăng cường xúc tiến đầu tư thương mại; thực hiện các cơ chế ưu đãi về
thuế và hải quan; tăng cường các biện pháp kiểm soát và chống buôn lậu hàng giả qua
biên giới; nâng cấp các cửa khẩu biên giới; xây dựng các tuyến đường nối giữa các
tỉnh hai nước; tăng cường trao đổi các đoàn văn hoá, nghệ thuật và giao lưu quần
chúng giữa các tỉnh biên giới… Tuy nhiên, để làm được những điều này, Campuchia
và Việt Nam cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa hai bên vì trên thực tế giữa hai nước còn
có nhiều vướng mắc do những vấn đề lịch sử để lại, nếu không giải quyết tốt những
vấn đề này, có thể sẽ làm ảnh hưởng đến mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước trong
thời gian tới. Việc ổn định tình hình an ninh - chính trị là điều kiện tiên quyết đảm bảo
sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội của mỗi nước, vì vậy, dù trong mọi hoàn cảnh
thì việc tăng cường quan hệ an ninh - chính trị giữa Campuchia với Việt Nam là điều
tối cần thiết liên quan đến vận mệnh của cả hai dân tộc.
201
Trong thời gian tới, để tiếp tục thúc đẩy quan hệ láng giềng Campuchia - Việt
Nam lên một bước phát triển mới, lãnh đạo cấp cao hai nước đã thoả thuận sẽ phối
hợp chặt chẽ làm tốt những vấn đề trọng tâm, trong đó tiếp tục duy trì thường xuyên
các cuộc tiếp xúc và trao đổi đoàn cấp cao giữa hai nước dưới mọi hình thức nhằm
tạo sự gần gũi, tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, đồng thời kịp thời giải quyết những vấn
đề nảy sinh trong quan hệ hai nước. Mặt khác, tiếp tục đẩy mạnh giao lưu toàn diện
giữa các cấp, các ngành và các địa phương, nhất là các tỉnh có chung biên giới. Tăng
cường hợp tác và hỗ trợ nhau trong lĩnh vực đối ngoại, chia sẻ thông tin và tham
khảo ý kiến lẫn nhau tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, nhất là trong khuôn khổ
các tổ chức mà hai bên cùng là thành viên.
Bên cạnh đó, Campuchia và Việt Nam cần tiếp tục thực hiện việc phân giới
cắm mốc đường biên giới vì đây là vấn đề quan trọng trong quan hệ hai nước, đã có
thời gian dài vấn đề này gây nhiều tranh cãi, giải quyết tốt vấn đề biên giới là một
khâu đột phá trong quan hệ hợp tác giữa hai bên. Hai nước khẳng định quyết tâm hoàn
thành kế hoạch phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Campuchia và Việt Nam
trong một vài năm tới tại sáu cặp cửa khẩu quốc tế: Xa Mát (Tây Ninh) - Tra Ping
(Kampong Cham); Bo Nuy (Bình Phước) - Tra Ping Xre (Kratié); Lệ Thanh (Gia Lai)
- O Xa Da (Rattanakiri); Thường Phước và Vĩnh Xương (Đồng Tháp, An Giang) - Cốc
Rô Ka, Ka Oam Xam No (Prey Veng, Kandal); Tịnh Biên (An Giang) - Phuôm Đin
(Takeo) và Xà Xía (Kiên Giang) - Prếch Chắc (Kampot) nhằm tiến tới ổn định tình
hình an ninh - chính trị tại khu vực biên giới của hai nước, tạo điều kiện thuận lợi cho
nhân dân an cư lạc nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội. Hai bên cũng tiếp tục trao đổi,
đàm phán để thực hiện việc phân định chủ quyền trên vùng biển Tây Nam.
Ngoài ra, Campuchia và Việt Nam còn nhất trí tăng cường phối hợp về an ninh
- quốc phòng, thường xuyên trao đổi thông tin cho nhau, phối hợp chặt chẽ trong việc
duy trì an ninh khu vực biên giới. Việt Nam nhận đào tạo cán bộ an ninh cho
Campuchia trong thời gian tới, đồng thời mở rộng công tác tuần tra chung cả trên bộ
và trên biển, phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm khủng bố ở khu vực biên
giới, giáo dục tuyên truyền cho nhân dân hai nước, đặc biệt là nhân dân ở hai bên khu
vực biên giới hiểu rõ được chính sách của nhà nước về mối quan hệ hữu nghị giữa
Campuchia với Việt Nam. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia
202
vào công tác bảo vệ an ninh biên giới, cùng các lực lượng an ninh quốc gia hai nước
thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Hai nước phối hợp cùng với Lào triển khai các cam
kết liên quan nhằm thực hiện Tuyên bố Viêng Chăn và thoả thuận giữa ba thủ tướng
Việt Nam - Lào - Campuchia tại Đà Lạt (12/2006) về “Tam giác phát triển”; cùng
nhau hợp tác và liên kết với các nước liên quan trong GMS thực hiện các dự án Hành
lang Đông - Tây, hợp tác phát triển và sử dụng sông Mekong theo tinh thần đã thoả
thuận. Từng bước xoá đói giảm nghèo cho các tỉnh nằm trong dự án, nâng cao đời
sống của nhân dân, từ đó góp phần rất lớn vào việc giữ vững ổn định an ninh - chính
trị, phát triển kinh tế - xã hội tại khu vực này, nhất là tại khu “Tam giác phát triển Việt
Nam - Lào - Campuchia” đang còn nhiều khó khăn, phức tạp.
Trên cơ sở phân tích những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức, tác giả
luận án thử nêu ra các kịch bản đối với mối quan hệ Campuchia - Việt Nam trong tương
lai, qua đó hy vọng góp phần gợi mở những hướng đi tốt hơn cho mối quan hệ này.
Kịch bản thứ nhất: Quan hệ hai nước sẽ xấu đi trong thời gian tới, dẫn đến
không thể duy trì quan hệ hữu nghị vốn có hoặc những hợp tác giữa hai bên sẽ gặp
khó khăn, trở ngại và chậm phát triển. Kịch bản này trên thực tế khó xảy ra trong
một vài năm tới nhưng cũng không thể loại bỏ. Để lý giải điều này, tác giả đưa ra
một số nguyên nhân cơ bản:
Thứ nhất, quan hệ Campuchia - Việt Nam trong giai đoạn hiện nay tương đối
tốt đẹp. Trên nhiều lĩnh vực, nhất là những vấn đề do lịch sử để lại cũng đã được hai
nước quan tâm từng bước giải quyết. Tuy nhiên, phải nhìn nhận một thực tế là mối
quan hệ này đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trong bối cảnh diễn
biến phức tạp khó lường trên chính trường Campuchia. Trong vài năm tới, khi Đảng
CPP vẫn còn nắm quyền lãnh đạo chủ chốt tại đất nước Campuchia thì mối quan hệ
với Việt Nam có thể vẫn đi theo chiều hướng tích cực và ít có biến động so với thời
điểm hiện tại. Mặc dù vậy, những mâu thuẫn, tranh giành ảnh hưởng của các đảng
phái chính trị tại Campuchia đã không ít lần gây ra những xáo trộn phức tạp, thậm
chí là trái chiều trong quan hệ Campuchia - Việt Nam. Như đã đề cập ở phần nội
dung trước, nguy cơ tiềm ẩn sẽ rất cao nếu như CPP không còn nắm quyền chi phối
tình hình chính trị tại đất nước Campuchia. Mặt khác, thế hệ lãnh đạo cầm quyền ở
Campuchia hiện nay hầu hết thuộc về thế hệ trước và họ có mối quan hệ khá chặt chẽ
203
và mật thiết với Việt Nam, do đó luôn có mong muốn giữ nguyên hiện trạng quan hệ
hữu nghị với Việt Nam. Tuy nhiên, trong tương lai thế hệ thay thế liệu có kế thừa
những truyền thống này hay không? Điều này rất khó đoán định. Nhất là lực lượng
trẻ được đào tạo chủ yếu ở các nước phương Tây hoặc Mỹ và Trung Quốc rất dễ chịu
ảnh hưởng của những khuynh hướng mới, theo đó có thể đánh mất vị trí láng giềng
Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Campuchia.
Thứ hai, quan hệ Campuchia - Việt Nam nằm trong bối cảnh quan hệ quốc tế vừa
hợp tác vừa đấu tranh loại trừ lẫn nhau. Điều này khiến khu vực CA-TBD nói chung,
Đông Nam Á nói riêng trở thành nơi tranh chấp và tranh giành ảnh hưởng của các nước
lớn và đã lôi kéo rất nhiều quốc gia trong khu vực tham gia, vì vậy quan hệ Campuchia -
Việt Nam cũng có khả năng rơi vào vòng xoáy gay gắt này. Campuchia và Việt Nam là
hai quốc gia có vai trò, vị trí rất quan trọng ở khu vực, là tâm điểm để nhiều nước lớn lôi
kéo vào vòng ảnh hưởng của mình, đặc biệt là Trung Quốc và Mỹ là hai cường quốc có
tham vọng chiến lược đối với khu vực. Như đã đề cập ở chương 1, Campchia là nước
tiếp nhận viện trợ và đầu tư cực kỳ lớn từ Trung Quốc, theo sau là một loạt nước khác
như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia… đều có quan hệ khá mật thiết với
chính quyền Phnom Pênh. Vì vậy, trong những chính sách và đường lối đối ngoại của
Campuchia đưa ra trước hết phải tính toán đến lợi ích cao nhất cho đất nước, kể cả việc
hy sinh một phần lợi ích trong quan hệ với một số quốc gia để đổi lấy viện trợ kinh tế.
Điều này dẫn đến việc không nhất quán trong chính sách ngoại giao của Campuchia và
có thể có những thay đổi lớn không thuận chiều trong đường lối quan hệ với Việt Nam
nhằm phục vụ chiến lược và lợi ích đặt ra trước mắt. Điều này vô hình dung làm giảm
sút mối quan hệ vốn có giữa Campuchia và Việt Nam.
Thứ ba, sự “chưa cân xứng” trong quan hệ Campuchia - Việt Nam cũng có
thể là một nguyên nhân ảnh hưởng đến mối quan hệ hai nước. Mặc dù không phải là
nguy cơ trực tiếp nhưng những mâu thuẫn về lợi ích, nhất là trong lĩnh vực kinh tế về
lâu dài sẽ gây ra tình trạng đối kháng hoặc tìm kiếm những đối tác khác nhằm cân
bằng chiến lược trong hợp tác kinh tế - chính trị của Campuchia đối với Việt Nam.
Điều này sẽ gây ra những khó khăn và có thể là cơ hội cho những thế lực bên ngoài
tìm cách xâm nhập vào Campuchia với những mục tiêu toan tính chính trị khó lường,
nhất là tìm cách chia rẽ quan hệ truyền thống Campuchia - Việt Nam.
204
Kịch bản thứ hai: Quan hệ hai nước tiếp tục phát triển tốt đẹp, từng bước
trở thành đối tác hợp tác toàn diện. Khả năng này chiếm ưu thế và có thể trở thành
hiện thực trong nền tảng quan hệ hợp tác Campuchia - Việt Nam. Có thể đưa ra
những lý giải về khả năng này:
Thứ nhất, Campuchia và Việt Nam là hai nước đang phát triển, bằng sự nỗ lực
và cố gắng của mình, mỗi nước đã và đang phát huy được sức mạnh nội tại. Tuy
nhiên, để phát triển và phát triển bền vững thì mỗi nước cần phải mở rộng mối quan
hệ hợp tác với các quốc gia, khu vực trên thế giới để tận dụng và phát huy lợi thế của
mình. Là hai nước láng giềng, Campuchia và Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến
tranh, hai nước đều có những kẻ thù chung trong quá khứ và đã nhiều lần hai nước
liên kết thành một khối thống nhất trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Chính những
lý do này đã gắn kết hai quốc gia trong quãng thời gian rất dài, tạo được sự hiểu biết
lẫn nhau và chia sẻ, giúp đỡ nhau. Đây là cơ sở quan trọng để xác lập mối quan hệ
hữu nghị truyền thống giữa hai quốc gia, dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, hiện nay, Campuchia và Việt Nam đều ưu tiên phát triển kinh tế - xã
hội, nhiệm vụ chính của hai nước là giữ vững an ninh - chính trị, xây dựng đời sống
nhân dân ấm no, hạnh phúc. Để làm được điều này, hai nước đều mong muốn có
quan hệ tốt đẹp với các nước, tăng cường hợp tác lẫn nhau, nhất là với các nước láng
giềng xung quanh. Do đó, cả Campuchia và Việt Nam cần có sự hợp tác chặt chẽ
nhằm đưa lại những lợi ích thiết thân cho mỗi dân tộc. Qua các cuộc tiếp xúc lãnh
đạo cấp cao của hai nước đều xác định chính sách đối ngoại ưu tiên dành cho nhau
nhằm đưa lại lợi ích cao nhất cho mỗi nước cũng như đáp ứng nguyện vọng của nhân
dân hai nước. Việt Nam nhấn mạnh mối quan hệ láng giềng hai nước là “tài sản
chung vô giá của hai dân tộc” [37;8]. Ngược lại, Campuchia sẽ làm hết mình để
“thúc đẩy quan hệ giữa hai dân tộc lên mức cao hơn vì lợi ích của nhân dân hai
nước cũng như của đại gia đình ASEAN nói chung” [37;11]. Với những biểu hiện tốt
đẹp của hai bên dành cho nhau, trong thời gian tới quan hệ Campuchia - Việt Nam sẽ
được đẩy lên một mức độ cao hơn nữa.
Thứ ba, mặc dù còn nhiều vướng mắc tồn tại do lịch sử để lại như vấn đề biên
giới, kiều dân nhưng những vấn đề này vẫn đang được giải quyết theo chiều hướng
khả thi, có khả năng giải quyết cơ bản thông qua thương lượng hòa bình. Vì vậy, hai
205
nước vẫn tin tưởng và hợp tác cùng tiến hành trao đổi, đàm phán đi đến thống nhất
phương thức theo hướng thật sự bình đẳng, cùng có lợi.
Thứ tư, về phía Campuchia hiện tại vẫn còn một số lực lượng, phe phái chính
trị không muốn có quan hệ thân thiết với Việt Nam. Tuy nhiên, trên tổng thể các nhà
lãnh đạo và các đảng lớn của Campuchia như CPP, FUNCINPEC và Hoàng gia
Campuchia đều có thái độ thân thiện với Việt Nam, luôn coi trọng và mong muốn có
mối quan hệ hợp tác tốt đẹp với Việt Nam. Do đó, xu hướng tích cực trong chính
sách đối ngoại của Campuchia đối với Việt Nam vẫn là láng giềng truyền thống hữu
nghị. Hiện nay và trong thời gian tới, với những đường lối đối nội và đối ngoại hợp
lý, Đảng CPP vẫn được người dân Campuchia tin tưởng và ủng hộ. Dù có nhiều xáo
trộn trong hàng ngũ lãnh đạo, nhất là lớp trẻ hiện nay, nhưng nhìn chung đa phần
đảng viên CPP vẫn ý thức được tầm quan trọng trong quan hệ với Đảng Cộng sản và
Nhà nước Việt Nam, đều xem Việt Nam là chỗ dựa quan trọng để tiếp tục ổn định
nền chính trị trong nước và mở rộng hợp tác quốc tế. Vì thế, trong thời gian tới, dưới
sự lãnh đạo của CPP, Campuchia chắc chắn sẽ thi hành chính sách đối ngoại tăng
cường hơn nữa sự hợp tác trên nhiều mặt với Việt Nam.
Thứ năm, xu thế hòa bình, hợp tác cùng phát triển vẫn là xu thế chủ đạo trong
quan hệ quốc tế trong thời đại ngày nay. Các quốc gia và vùng lãnh thổ ngày càng
xích lại gần nhau vì lợi ích chung là phát triển kinh tế và ổn định đất nước. Không
loại trừ khả năng xuất hiện những cuộc chiến cục bộ, quy mô vừa ở một số khu vực,
nhưng điều này hầu như không ảnh hưởng đến quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa
đang diễn ra mạnh mẽ. Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn
ra trên phạm vi toàn cầu đã kết nối hầu hết các quốc gia thông qua những hệ thống
tinh vi rộng khắp. Đặc biệt, Campuchia và Việt Nam đều trở thành thành viên của
các tổ chức quốc tế, khu vực như UN, WTO, APEC, ASEAN… đã tạo điều kiện cho
hai nước có những liên kết chặt chẽ trong hợp tác đa phương. Nói cách khác, những
điều khoản cam kết trong quá trình hợp tác đa phương khu vực và thế giới nhiều khi
mang tính ràng buộc cao hơn những ký kết mang tính song phương. Vì vậy, trong
bối cảnh hội nhập khu vực và thế giới, Campuchia và Việt Nam cần quan hệ hợp tác
gắn bó hơn để cùng nhau phát triển và hội nhập thành công.
206
Tiểu kết chương 3
Lịch sử đã chứng minh mối quan hệ Campuchia - Việt Nam dù trải qua những
thăng trầm vẫn phát triển theo chiều hướng tốt đẹp. Những kết quả hợp tác đạt được
giữa hai nước trong giai đoạn 1993 - 2010 đã cho thấy tính cần thiết và cần có của mối
quan hệ láng giềng hữu nghị này. Những thành tựu và trở ngại trong quan hệ hai nước
đã có tác động sâu sắc đến tình hình chung của mỗi nước cũng như đối với khu vực.
Đối với Campuchia, quá trình triển khai mối quan hệ hợp tác với Việt Nam đã
tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho nước này có thể khai thác những lợi thế so sánh do
gần kề về mặt địa lý, đặc biệt thông qua các cảng biển của Việt Nam, Campuchia có
thể đẩy mạnh chương trình xuất khẩu, trao đổi buôn bán với các quốc gia ngoài khu
vực. Hơn nữa, bên cạnh những lợi ích về kinh tế, Việt Nam còn trở thành một đối tác
quan trọng để Campuchia thực hiện chính sách cân bằng sức mạnh chiến lược, dùng
Việt Nam để cân bằng với Thái Lan, dùng Việt Nam để cân bằng với Trung Quốc…
Ngược lại, Campuchia có vị trí đặc biệt quan trọng trong chính sách đối ngoại của
Việt Nam bởi những nhu cầu kinh tế gắn liền với những lợi ích về an ninh - chính trị
và hợp tác khu vực. Nói đúng hơn, Campuchia có vai trò là một trong những cửa ngõ
nối dài về phía Tây giúp Việt Nam tiến sâu vào lục địa bằng tuyến đường xuyên Á,
trong khi đó Việt Nam trở thành cầu nối giúp Campuhchia hướng về phía Đông, mở
rộng quan hệ quốc tế thông qua tuyến giao thương hàng hải. Do đó, dù muốn hay
không và trong bất cứ hoàn cảnh nào, Campuchia và Việt Nam vẫn không thể tách
rời nhau và thường xuyên có mối quan hệ tương hỗ.
Thế giới và khu vực còn nhiều biến đổi trái chiều, trong tương lai, quan hệ quốc
tế có thể nảy sinh những vấn đề khó khăn, thách thức. Nhưng có thể khẳng định trong
những năm sắp tới, quan hệ hợp tác toàn diện Campuchia - Việt Nam vẫn đi theo xu
hướng tích cực, ngày càng xích lại gần nhau và đạt được nhiều thành tựu hơn nữa.
207
KẾT LUẬN
1. Dưới tác động thuận chiều của những nhân tố quốc tế và khu vực sau
Chiến tranh lạnh và tình hình hòa bình, ổn định tại khu vực Đông Nam Á sau Hiệp
định Paris về giải quyết Vấn đề Campuchia (23/10/1991) đã đưa quan hệ
Campuchia - Việt Nam bước sang một trang mới trong lịch sử quan hệ hai nước.
Nếu như trước đây, quan hệ Campuchia - Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, thách
thức bởi ảnh hưởng của những yếu tố chủ quan và khách quan, thì sau năm 1993,
quan hệ Campuchia - Việt Nam diễn tiến theo chiều hướng tích cực và được xây
dựng trên tinh thần hợp tác hữu nghị, tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ
của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Mối quan hệ này nhìn
chung là tốt đẹp, hai nước luôn dành cho nhau một vị trí xứng đáng trong chính
sách đối ngoại của mỗi nước, thường dành nhiều điều kiện ưu đãi cho nhau và
mang tính chiến lược.
2. Quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010) phát triển trên cơ sở kế thừa
những thành tựu của thời kỳ đi trước nhưng thay vì trước đây chủ yếu quan hệ hợp
tác trên lĩnh vực an ninh - chính trị, thì từ những năm 1993 - 2010 đã phát triển toàn
diện, khởi sắc và đổi mới trên nhiều mặt cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Trong quan hệ
hai nước đều tuân thủ theo những thông lệ quốc tế. Giữ gìn và đổi mới quan hệ quý
báu sẵn đó không có nghĩa là xóa bỏ hay hạ thấp mối quan hệ ấy. Trái lại, về nội
dung vẫn được giữ vững và nâng lên một tầm cao hơn nhằm đảm bảo yêu cầu mới,
nhưng thể hiện nó đúng nguyên tắc quan hệ truyền thống giữa hai quốc gia. Tuy
nhiên, trong các vấn đề quan hệ cụ thể, ngoài việc vận dụng các thể thức phổ biến
trong quan hệ quốc tế, hai nước có chiếu cố hoàn cảnh của nhau nhưng vẫn đảm bảo
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng.
3. Trong quan hệ Campuchia với Việt Nam, an ninh - chính trị là cốt lõi, là
trục quan hệ chủ đạo, còn kinh tế là động, là trục thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ này
phát triển một cách toàn diện, đa dạng trên các lĩnh vực khác. Đặc biệt, trong thời kỳ
hội nhập khu vực và quốc tế thì mối quan hệ an ninh - chính trị vừa phải có tác dụng
gắn kết, vừa phải làm đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế - xã hội và phát triển con
người, là cơ sở tiền đề vững chắc cho mối quan hệ truyền thống giữa hai dân tộc.
Mặc dù còn nhiều khác biệt nhưng hai nước đã biết khai thác có hiệu quả lợi thế so
208
sánh của hai bên, tận dụng hợp tác trong đa phương để tạo điều kiện cho nhau hội
nhập quốc tế thành công.
4. Quan hệ Campuchia - Việt Nam bên cạnh những yếu tố tích cực còn có một
số hạn chế, khó khăn nhất định. Tích cực nằm ở chỗ hai nước đã biết hỗ trợ, giúp đỡ
lẫn nhau để cùng phát triển, nhất là việc dành cho nhau vị trí ưu tiên trong chính sách
đối ngoại của mỗi nước. Bên cạnh đó, xu thế hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển
đang trở thành xu thế chủ đạo ở khu vực cũng như trên toàn thế giới, cũng là nhân tố
tích cực góp phần thúc đẩy quan hệ hai nước trong thời gian tới. Tuy nhiên, những
vấn đề do lịch sử để lại, đặc biệt là vấn đề biên giới, Việt kiều và tình hình nội bộ của
Campuchia đã thực sự gây nhiều trở ngại trong mối quan hệ Campuchia - Việt Nam.
Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, mặc dù xu thế hòa
bình và ổn định đóng vai trò chủ đạo nhưng vẫn xuất hiện ngày càng nhiều những
cuộc chiến tranh cục bộ, nhiều quốc gia, khu vực đang rơi vào vòng xoáy khủng
hoảng chưa có lối thoát. Sự hiện diện của các cường quốc với những mưu đồ và tham
vọng tại khu vực CA-TBD đã kéo theo nhiều vấn đề an ninh - chính trị cực kỳ phức
tạp. Tất cả những điều này đã trực tiếp hay gián tiếp tác động sâu sắc đến sự phát
triển của mỗi nước cũng như mối quan hệ Campuchia - Việt Nam.
5. Trong quan hệ giữa hai nước hiện nay, Campuchia và Việt Nam đã và đang
thực thi một chính sách ngoại giao đúng đắn, biết tận dụng và khai thác lợi thế của
nhau nhằm đưa lại vị thế ngày một tăng của mỗi nước trong khu vực và trên trường
quốc tế. Sự phát triển mạnh mẽ toàn diện và những thành tựu đạt được trên mọi lĩnh
vực của quan hệ Campuchia - Việt Nam hơn 15 năm qua (1993 - 2010) cũng đã
chứng minh cho điều đó. Tuy nhiên, mối quan hệ này vẫn chịu nhiều tác động sâu
sắc của những nhân tố ở trong nước lẫn ngoài nước và có thể còn chứa đựng những
ẩn số nhất định mà cả hai bên phải phòng ngừa. Dù sao đi nữa, Campuchia và Việt
Nam đều cần phải nỗ lực nhiều hơn để phát huy hết tiềm lực vốn có của mỗi nước,
đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực nhằm đưa lại lợi ích
tối đa cho mỗi dân tộc.
209
DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trần Xuân Hiệp (2010), “Quan hệ an ninh - chính trị Việt Nam với Lào và
Campuchia giai đoạn 1991 đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (410).
2. Hoàng Thị Minh Hoa, Trần Xuân Hiệp (2011), “Quan hệ Việt Nam -
Campuchia (1993 - 2008)”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Quan hệ Việt Nam - Asean -
Taiwan. Đại học Huế - Đại học Chinan (Đài Loan) - Đại học Khoa học Huế - Viện
nghiên cứu Đông Nam Á.
3. Trần Xuân Hiệp (2011), Quan hệ an ninh - chính trị, kinh tế giữa Việt Nam với
Campuchia (1993 - 2007), Đề tài cấp cơ sở, Đại học Duy Tân, Đà Nẵng.
4. Trần Xuân Hiệp (2011), “Hợp tác thương mại và đầu tư Việt Nam - Campuchia
(1998 - 2010)”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế: Hội nhập: Hợp tác và cạnh tranh, Nxb
Thống Kê.
5. Tran Xuan Hiep (2012), “Vietnam - Cambodia cooperation in Greater Mekong
Sub-Region”, The Fifth SNRU International Conference on Cooperation for
Development on the East - West Economic Corridor: Cooperation Networks for
Sustainable Development towards ASEAN Community, Sakon Nakhon Rajabhat
University, Thailand.
6. Hoàng Thị Minh Hoa, Trần Xuân Hiệp (2012), “Việt Nam với hợp tác, liên kết
trong Tam giác phát triển”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 10 (151).
7. Trần Xuân Hiệp (2012), “Hợp tác an ninh - quốc phòng Việt Nam - Campuchia
đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 3 (3).
8. Trần Xuân Hiệp (2013), “Hợp tác Giao thông vận tải Việt Nam - Campuchia
trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 1 (2).
9. Trần Xuân Hiệp (2013), “Hợp tác du lịch Campuchia - Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 (155).
10. Trần Xuân Hiệp (2013), Mĩ - Cambodia - Trung Quốc và những tác động từ
mối quan hệ này, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh, số 46 (80).
11. Trần Xuân Hiệp (2013), “Campuchia trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc”,
Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 5(6).
210
12. Hiep Xuan Tran (2013), “Education and training cooperation Vietnam -
Cambodia in the current period”, The Journal of Interdisciplinary Networks, Volume
2 (Special Issue), No.1, The Royal Institute of Thailand.
13. Trần Xuân Hiệp (2013), “Hợp tác Việt Nam - Campuchia trong tiểu vùng sông
Mekong mở rộng”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục Đại học Sư phạm Đà Nẵng, số 8(03).
14. Trần Xuân Hiệp (2013), “Hợp tác giáo dục và đào tạo Việt Nam - Campuchia
(1993 - 2010)”, Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 17 (11/2013).
211
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Lê Thị Trường An (2006), Quan hệ Việt Nam - Campuchia trong giải quyết vấn
đề biên giới lãnh thổ, Luận văn Thạc sĩ Học viện Ngoại giao, Hà Nội.
2. Ban chấp hành Trung ương - Ban đối ngoại (Vụ Châu Á 2 - Bộ Ngoại giao), Báo
cáo kết quả đi công tác Campuchia, Hà Nội ngày 8/6/2011.
3. Ban Liên lạc cựu Chuyên gia Việt Nam giúp Campuchia (2007), Kỷ yếu 8 năm
hoạt động của Ban Liên lạc cựu chuyên gia Việt Nam giúp Campuchia (1998 -
2006), Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
4. Bản tin trực tuyến Asia Times, “Kampuchia between Chine and US”, New Delhi
ngày 24/7/2008.
5. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương - Ban Biên giới, Bộ Ngoại giao (2006), Hỏi,
đáp về biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia, Nxb Thế giới, Hà Nội.
6. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương - Ban biên giới, Bộ Ngoại giao (2006), Các
văn bản pháp lý về việc giải quyết biên giới Việt Nam - Campuchia, Nxb Thế giới,
Hà Nội.
7. Báo Quốc tế, Việt Nam - Campuchia: tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực,
ngày 21/12/1998.
8. Báo Thế giới và Việt Nam, Việt Nam - Campuchia ký 5 văn kiện hợp tác, ngày
14/11/2008.
9. Biên bản Thỏa thuận kỳ họp lần thứ 11 Ủy ban Hỗn hợp Campuchia - Việt Nam
về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa Chính phủ Vương quốc
Campuchia và Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam tại Prẹxihanúc, ngày 4/12/2009.
10. Biên bản Thỏa thuận kỳ họp lần thứ 12 Ủy ban Hỗn hợp Campuchia - Việt
Nam về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ giữa Chính phủ Vương quốc
Campuchia và Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam tại Hà Nội, ngày 23/8/2011.
11. Nguyễn Đình Bin (cb,2002), Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
12. Bộ Công thương số 7562/BCT-TMMN, V/v Báo cáo tình hình thương mại biên
giới Việt Nam - Campuchia thời kỳ 2001-6/2008, Hà Nội ngày 26/8/2008.
212
13. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội nghị Tổng kết hợp tác Giáo dục Việt Nam -
Campuchia, Hà Nội ngày 17/12/2010.
14. Bộ Giao thông vận tải, V/v: Đề án Chiến lược hợp tác Việt Nam - Campuchia
giai đoạn 2011- 2020, Hà Nội tháng 2/2011.
15. Bộ Kế hoạch và Đầu tư nước CHXHCN Việt Nam - Hội đồng Phát triển Vương
quốc Campuchia: Bản ghi nhớ giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư nước CHXHCN Việt
Nam và Hội đồng Phát triển Vương quốc Campuchia về xúc tiến đầu tư tại Thành
phố Hồ Chí Minh ngày 25-26/12/2009.
16. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010), Báo cáo tình hình thực hiện các thỏa thuận về
hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật với Campuchia năm 2010 và kế hoạch
hợp tác năm 2011, Hà Nội.
17. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010), Báo cáo tình hình hợp tác giữa Việt Nam và
Campuchia giai đoạn 2001 - 2010 và những vấn đề đặt ra trong giai đoạn 2011 -
2020, Hà Nội.
18. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010), Tình hình đầu tư của các doanh nghiệp Việt
Nam tại Campuchia, Hà Nội.
19. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Viện Chiến lược (2010), Báo cáo tổng hợp rà soát,
điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Tam giác Phát
triển Campuchia - Lào - Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội.
20. Bộ Ngoại giao - số 1237/BC-BNG-ĐNA-m, Hội nghị Hợp tác và phát triển các
tỉnh biên giới Campuchia - Việt Nam lần thứ 6, Thủ đô Phom Penh, ngày 2-
3/8/2010: Báo cáo chung về tình hình hợp tác các tỉnh biên giới Campuchia - Việt
Nam từ Hội nghị lần thứ 5 đến nay, Hà Nội ngày 11/8/2010.
21. Bộ Tài chính, số 16/2006/TT-BTC, Thông tư ban quy định chế độ suất cho đào
tạo học sinh Lào và Campuchia học tập tại Việt Nam, Hà Nội ngày 7/3/2006.
22. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Cục Hợp tác quốc tế, Báo cáo tóm tắt Hợp
tác về Văn hóa, Thể thao và Du lịch giữa Việt Nam - Campuchia năm 2009, Hà Nội
tháng 2/2010.
23. Bộ Y tế, số 5551/BYT-QT, V/v báo cáo kết quả chuyến thăm chính thức ngành
y tế Campuchia, Hà Nội ngày 19/8/2010.
213
24. Bộ Y tế, số 7295/BYT-QT, Báo cáo kết quả hợp tác từ kỳ họp lần thứ 11 đến
nay để chuẩn bị cho kỳ họp lần thứ 12 Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam - Campuchia tại
Hà Nội ngày 26/10/2010.
25. Doãn Kế Bôn và cộng sự (2002), Một số giải pháp nhằm phát triển thương mại
hàng hóa Việt Nam - Campuchia qua biên giới trên bộ thời kỳ đến năm 2005, Đề tài
cấp Bộ (Mã số: 2001-78-055) - Đại học Thương mại Hà Nội.
26. “Chiến lược tứ giác” phát triển của Chính phủ Hoàng gia giai đoạn II (từ năm
2008 đến năm 2013), Bản dịch từ tiếng Khmer của Thương vụ Việt Nam tại
Campuchia, PhnomPenh ngày 26/9/2008.
27. Chhouet Sopeak (2009), Hợp tác Campuchia - Việt Nam từ năm 1993 đến nay,
Luận văn Thạc sĩ Học viện Ngoại giao, Hà Nội.
28. Công văn của Bộ Thương mại Việt Nam, Báo cáo quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và Campuchia, số 3463 TM/CA-TB ngày 31/8/2001.
29. Nguyễn Văn Cường (2007), Hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với Lào và
Campuchia (1991 - 2006), Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Huế.
30. Nguyễn Duy Dũng (2009), “Cửa khẩu Bờ Y - Khu kinh tế động lực trong Tam
giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số
(4), tr.25-31.
31. Đại sứ quán Việt Nam tại Campuchia, Báo cáo tình hình học tập sinh hoạt của
LHS Việt Nam tại Campuchia; kết quả hợp tác về giáo dục với Campuchia, Hà Nội
ngày 17/12/2010.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ
VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
214
37. Đặc san của Báo Thế giới và Việt Nam - Bộ Ngoại giao (2007), 40 năm quan hệ
ngoại giao Việt Nam – Campuchia, Hà Nội.
38. Đinh Ngọc Đức (2004), Hợp tác phát triển du lịch Việt Nam - Campuchia: Hiện
trạng và triển vọng, Các báo cáo chuyên đề về quan hệ Việt Nam - Campuchia: thực
trạng và triển vọng, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội.
39. Nguyễn Thanh Đức (2008), Nhân tố kinh tế trong phát triển quan hệ đối tác
chiến lược với Campuchia, Luận văn Thạc sĩ Học viện Ngoại giao, Hà Nội.
40. Nguyễn Thị Hồng Hà (2003), Tác động của việc Việt Nam gia nhập ASEAN đối
với hợp tác ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia, Luận văn Thạc sĩ Học viện Ngoại
giao, Hà Nội.
41. Bùi Thị Thu Hà (2006), “Cuộc khởi nghĩa N’ Trang Lơng - một biểu tượng liên
minh chiến đấu chống Pháp của nhân dân Việt Nam và Campuchia”, Tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam Á (6), tr.60-63.
42. Nguyễn Văn Hà và cộng sự (2010), Những vấn đề chính trị, kinh tế nổi bật của
Campuchia giai đoạn 2011 - 2020 và tác động của yếu đến Việt Nam, Đề tài cấp Bộ
- Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội.
43. Hiệp định về vùng nước lịch sử của nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND
Campuchia ký ngày 7/7/1982.
44. Hiệp định về quy chế biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và
nước CHND Campuchia ký ngày 20/7/1983.
45. Hiệp định vận tải đường bộ giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và
Chính phủ Hoàng gia Campuchi ký ngày 1/6/1998.
46. Hiệp định Tín dụng giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam với Chính phủ
Vương quốc Campuchia VC-01 ký ngày 10/10/2005.
47. Hiệp định giữa Chính phủ Hoàng gia Vương quốc Campuchia và Chính phủ
nước CHXHCN Việt Nam về Kiểm dịch Y tế biên giới ký ngày 6/3/2006.
48. Hiệp định quá cảnh hàng hóa giữa Chính phủ Hoàng gia Campuchia và Chính
phủ nước CHXHCN Việt Nam ký ngày 4/11/2008.
49. Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia
Campuchia về vận tải đường thủy ký ngày 17/12/2009.
215
50. Hiệp ước hòa bình hữu nghị và hợp tác giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước
CHND Campuchia ký ngày 18/2/1979.
51. Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa nước CHXHCN Việt
Nam và nước CHND Campuchia ký ngày 20/7/1983.
52. Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và
nước CHND Campuchia ký ngày 27/12/1985.
53. Hiệp ước giữa nước CHXHCN Việt Nam và Vương quốc Campuchia bổ sung
Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985 ký ngày 10/10/2005.
54. Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia, Báo cáo kết quả Đoàn đại biểu Nhân
dân Việt Nam đi dự các hoạt động kỷ niệm và giao lưu hữu nghị tại Campuchia từ
ngày 22-26/6/2007, Hà Nội.
55. Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia, Báo cáo hoạt động 6 tháng đầu năm và
chương trình công tác 6 tháng cuối năm 2010, Hà Nội.
56. Hội Liên hiệp ADHOC (1999), Hiến pháp của Vương quốc Campuchia năm
1993 (Bản dịch từ tiếng Khmer), Nxb Hội liên hiệp ADHOC, Phnom Penh.
57. Hợp tác y tế Việt Nam - Campuchia: Tiềm năng còn bỏ ngỏ, Hồ sơ Sự kiện số
224 (chuyên san Tạp chí Cộng sản ngày 14/6/2012), tr.30-32.
58. Vũ Dương Huân (cb,2002), Ngoại giao Việt Nam vì sự nghiệp đổi mới (1975-
2000), Học viện Quan hệ Quốc tế.
59. Nguyễn Hào Hùng (1983), “Lịch sử một thế kỷ liên minh đoàn kết chiến đấu và
toàn thắng của nhân dân ba nước Đông Dương”, đăng trong Về lịch sử, văn hóa ba
nước Đông Dương (Phạm Nguyên Long, Đặng Bích Hà cb), Viện Đông Nam Á, tr.7-68.
60. Nguyễn Hào Hùng (2004), Về những nhân tố thuận lợi và khó khăn trong quan
hệ Việt Nam - Lào hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số (3), tr.25-28.
61. Nguyễn Duy Hùng (2011), Hợp tác Việt Nam - Lào - Campuchia ở khu vực
Tam giác Phát triển (1999 - 2009), Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Huế.
62. IM.Didotevi (2005), Tác động của việc mở rộng ASEAN đến chính sách đối
ngoại của Campuchia, Luận văn Thạc sĩ Học viện Ngoại giao, Hà Nội.
63. IM.Reachany (2005), Quan hệ Mỹ - Campuchia sau Chiến tranh lạnh, Luận văn
Thạc sĩ Học viện Ngoại giao, Hà Nội.
216
64. Kao Kim Hourn & Samrang Komsan (2004), Campuchia trong thiên niên kỷ
mới, học hỏi kinh nghiệm quá khứ và xây dựng tương lai (Bản dịch từ tiếng Khmer),
Nxb-CICP, Phnom Penh.
65. Kế hoạch hợp tác giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo nước CHXHCN Việt Nam và Bộ
Giáo dục, Thanh niên và Thể thao Vương quốc Campuchia ký ngày 31/8/2010 tại Hà Nội.
66. Trần Khánh (2007), “Những thách thức đối với xây dựng cộng đồng an ninh
ASEAN”, đăng trong ASEAN: 40 năm nhìn lại và hướng tới, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, tr.154-164.
67. Kong Sokea (2005), Chính sách đối ngoại Campuchia với ASEAN từ năm 1967
đến nay, Luận văn Thạc sĩ Học viện Ngoại giao, Hà Nội.
68. Lao động, Hội nghị hợp tác phát triển thương mại biên giới Việt Nam -
Campuchia: Giao thương giữa hai nước tăng tốc, ngày 7/5/2010.
69. Lê Thị Ái Lâm (2006), Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội Campuchia từ thập
kỷ 90 đến nay, Đề tài cấp Viện, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, Hà Nội.
70. Nguyễn Kim Lân (28/5/2007), Hợp tác quốc phòng Việt Nam - Campuchia,
Viện Chiến lược - Bộ Quốc phòng, Hà Nội.
71. Vũ Tuyết Loan (5/2007), “40 năm quan hệ Việt Nam - Campuchia: Nhìn lại và
triển vọng”, Hội thảo khoa học quan hệ Việt Nam - Campuchia trong bối cảnh mới:
Hợp tác toàn diện cùng phát triển, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á.
72. Trần Long, Thời báo Kinh tế Việt Nam và Thế giới số 6/8/2010, tr.4.
73. Đinh Xuân Lý (2001), Tiến trình hội nhập Việt Nam - ASEAN, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
74. Hồ Chí Minh (1976), Kết hợp chặt chẽ lòng yêu nước với tinh thần quốc tế vô
sản, Nxb Sự thật, Hà Nội.
75. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 10, Trả lời phỏng vấn Nhà báo Mỹ Ely Maysi
(9/1947), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
76. Nghị định thư về Hợp tác Du lịch giai đoạn 1999 - 2000 giữa Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch Việt Nam với Bộ Du lịch Campuchia ký ngày 13/12/1998.
77. Nghị định thư về Hợp tác giáo dục và đào tạo giai đoạn 2006 - 2010 giữa Bộ
Giáo dục và Đào tạo nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Giáo dục Thanh niên và Thể
thao Vương quốc Campuchia ký ngày 10/10/2005 tại Hà Nội.
217
78. Nguyễn Minh Ngọc (9/2009), “Quan hệ Việt Nam - Campuchia và vấn đề phân
định biên giới biển tại Vịnh Thái Lan”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 3(78), tr.61-74.
79. Nhân dân, Ba dân tộc Việt - Miên - Lào đoàn kết đấu tranh đến cùng, ngày
7/4/1951.
80. Nhân dân, Các thành phố, tỉnh Việt Nam kết nghĩa với các thành phố, tỉnh
Campuchia, ngày 15/02/1984.
81. Nhân dân, Sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Campuchia đang phát triển tốt đẹp,
ngày 11/10/1985.
82. Nhân dân, Việt Nam ủng hộ lập trường đúng đắn và thái độ thiện chí của Cộng
hòa Nhân dân Campuchia, ngày 2/10/1987.
83. Nhân dân, Thông cáo chung Việt Nam - Campuchia, ngày 3/4/1994.
84. Nhân dân, Chủ tịch nước Lê Đức Anh thăm hữu nghị chính thức Campuchia,
ngày 10/8/1995.
85. Nhân dân, Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực đóng góp cho các hoạt động của Liên
Hợp Quốc vì hòa bình và phát triển, ngày 21/9/1998.
86. Nhân dân, Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia Hun Xen thăm hữu nghị
chính thức Việt Nam, hội đàm với Thủ tướng Phan Văn Khải, ngày 14/12/1998.
87. Nhân dân, Lễ kết nạp Vương quốc Campuchia vào ASEAN, ngày 1/5/1999.
88. Nhân dân, Tuyên bố chung Việt Nam - Campuchia nhân chuyến thăm hữu nghị
chính thức sang Campuchia của Tổng Bí thư Ban chấp hành Đảng Cộng sản Việt
Nam Lê Khả Phiêu, ngày 11/6/1999.
89. Nhân dân, Tìm kiếm thị trường mới, ngày 4/2/2005.
90. Nhân dân, Thắng lợi mới của quan hệ Việt Nam - Campuchia, ngày 7/12/2005.
91. Nhân dân, Ngày 7/1/1979, một ngày đẹp nhất về tình hữu nghị Việt Nam -
Campuchia, ngày 6/1/2009.
92. Nhân dân, Quốc vương Campuchia Nô - rô - đôm Xi - ha - mu - ni đón, hội đàm
với Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, ngày 18/12/2009.
93. Nhân dân, Tuyên bố chung Việt Nam - Campuchia ngày 19/12/2009 tại
Phnompenh, ngày 20/12/2009.
94. Nhân dân, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tiếp Quốc vương Campuchia Nô-
rô-đôm Xi-ha-mô-ni, ngày 24/6/2010.
218
95. Nhân dân, Việt Nam giúp Campuchia xóa bỏ chế độ diệt chủng, hồi sinh đất
nước - một sự nghiệp cao cả, sáng ngời chính nghĩa, ngày 6/2/2011.
96. Nhân dân, Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN - 45 năm hợp tác và phát triển,
ngày 9/8/2012.
97. Nguyễn Văn Nhật (1981), “Tình đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của nhân
dân ba nước Đông Dương từ 1945 tới nay”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 1, tr45-56.
98. Lương Ninh (cb,2008), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
99. Phát biểu của Samdech Akka Mohasena Padei Techo Hunsen, Thủ tướng Chính
phủ Hoàng gia Campuchia tại diễn đàn kinh tế Campuchia lần thứ 3 với chủ đề
“Tăng cường tính cạnh tranh của Campuchia đối với vấn đề tăng trưởng và giảm
đói nghèo trong việc đối mặt với khủng hoảng kinh tế toàn cầu” tại Khách sạn Le
Royal ngày 5/2/2009, Phnom Penh, Vương quốc Campuchia.
100. Phát biểu của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam Võ Hồng Phúc tại
Hội nghị xúc tiến đầu tư Việt Nam - Campuchia lần thứ 2, Phnom Penh ngày
24/4/2011.
101. Phát biểu của Ngài Nguyễn Tấn Dũng - Thủ tướng Chính phủ nước
CHXHCN Việt Nam tại Hội nghị xúc tiến đầu tư Việt Nam - Campuchia lần thứ 2,
Phnom Penh ngày 24/4/2011.
102. Phụ nữ Việt Nam số 119, Chiến lược hợp tác phát triển lưu vực sông Mê
Công, ngày 1/10/2004.
103. Mai Thị Phú Phương (1996), Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản từ 1973 đến nay,
Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.
104. Phạm Thị Phương (1999), Tình hình Campuchia từ 1991 - 1999, Khóa luận
tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử thế giới cận hiện đại, Đại học Quốc gia Hà Nội.
105. Nguyễn Ngọc Quang (2004), “Hợp tác giáo dục - đào tạo Việt Nam -
Campuchia”, Các báo cáo chuyên đề về quan hệ Việt Nam - Campuchia: thực trạng
và triển vọng, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á.
106. Nguyễn Trần Quế (1999), Những vấn đề toàn cầu ngày nay, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
219
107. Quy chế công tác người nước ngoài học tại Việt Nam (Ban hành theo quyết
định số 33/1999/QĐ - BGD&ĐT ngày 25/8/1999 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo), Chương V: Nhiệm vụ và quyền hạn của lưu học sinh.
108. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Tam giác phát triển Việt Nam -
Lào - Campuchia, Tài liệu Viện Nghiên cứu Đông Nam Á.
109. Roy Rasmey (2005), Mâu thuẫn giữa các đảng phái chính trị ở Campuchia:
Tác động đối với quan hệ Campuchia - Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Học viện Ngoại
giao, Hà Nội.
110. Sài Gòn giải phóng, Cuộc họp cấp cao Thủ tướng ba nước Việt Nam - Lào -
Campuchia: Lập Ủy ban Điều phối chung về Tam giác Phát triển, ngày 6/12/2006.
111. Sok Dareth (2008), Chính sách của Vương quốc Campuchia đối với Việt Nam
từ 1993 đến nay, Luận văn Thạc sĩ Học viện Ngoại giao, Hà Nội.
112. Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh (2005), Báo cáo “chuyến nghiên cứu,
khảo sát tuyến du lịch Caravan Bangkok - Siem Riep - Phnom Penh - Thành phố
Hồ Chí Minh”.
113. Hoàng Ngọc Sơn (2003), Lịch sử đàm phán giải quyết biên giới Việt Nam -
Campuchia (1954 - 2001), Tạp chí Biên giới và Lãnh thổ, số 14, tr.9-10.
114. Nguyễn Thanh Sơn (2005), Trọn đời theo Bác Hồ, Nxb Trẻ.
115. Hồ Xuân Sơn, Công tác biên giới lãnh thổ: Năm kết quả nổi bật, Báo Thế giới
và Việt Nam ngày 2/2/2011.
116. Sun Sothiarat (2010), Đường lối phát triển quan hệ hữu nghị truyền thống
Campuchia - Việt Nam từ 1998 đến nay, Luận văn Thạc sĩ Học viện Ngoại giao, Hà Nội.
117. Tạp chí Dọc ngang Đông Nam Á - tháng 2/2008.
118. Phạm Đức Thành (1995), Lịch sử Campuchia, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
119. Phạm Đức Thành (2004), Quan hệ Việt Nam - Campuchia, Báo cáo chuyên
đề về quan hệ Việt Nam - Campuchia: thực trạng và triển vọng, Viện Nghiên cứu
Đông Nam Á.
120. Phạm Đức Thành (2008), “Campuchia với Hành lang kinh tế Đông – Tây”,
Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 11, tr.41-46.
220
121. Phạm Đức Thành, Vũ Công Quý (cb,2009), Những khía cạnh dân tộc, tôn
giáo, văn hóa trong Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
122. Nguyễn Hồng Thao (2006), “Các khía cạnh pháp lý của Hiệp ước bổ sung
Hiệp ước hoạch định biên giới Việt Nam - Campuchia 1985”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 8, tr.65-69.
123. Nguyễn Xuân Thiên, Trần Văn Tùng (2009), “Quan hệ thương mại Việt Nam -
Campuchia”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 9 (161), tr.42-50.
124. Thông cáo chung Hội nghị về Hợp tác và Phát triển giữa các tỉnh biên giới
Việt Nam - Campuchia lần thứ 2, ngày 29/9/2005.
125. Thông cáo chung Hội nghị Hợp tác và Phát triển các tỉnh biên giới Việt Nam -
Campuchia lần thứ 6 tại Phnom Penh, ngày 2-3/8/2010.
126. Thông tấn xã Việt Nam, Các tỉnh và thành phố phía Nam tích cực giúp đỡ
nhân dân Campuchia khôi phục lại mạng lưới giao thông vận tải, ngày 10/11/1979.
127. Thông tấn xã Việt Nam, Phát biểu của Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhân
chuyến thăm hữu nghị chính thức Campuchia ngày 18/2/1979, Tin Thế giới ngày
4/1/1981.
128. Thông tấn xã Việt Nam, Nội dung Dự thảo Hiến pháp nước Cộng hòa Nhân
dân Campuchia, Hội đồng Nhân dân Campuchia công bố ngày 10/3/1981, TTG số
073, ngày 14/3/1981.
129. Thông tấn xã Việt Nam, Các lãnh đạo Campuchia tiếp Bộ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Mạnh Cầm, ngày 1/3/1997.
130. Thông tấn xã Việt Nam, Lên án hành động khủng bố dã man nhằm vào Việt
kiều tại Campuchia, ngày 20/4/1998.
131. Thông tấn xã Việt Nam, Chính phủ và nhân dân Việt Nam luôn quan tâm sâu
sắc đến vấn đề Việt kiều ở Campuchia, ngày 16/7/1998.
132. Thông tấn xã Việt Nam, Tuyên bố của Ủy ban về người Việt Nam ở nước
ngoài về những hành động tội ác chống kiều dân Việt Nam ở Campuchia, ngày
8/9/1998.
221
133. Thông tấn xã Việt Nam, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn
Mạnh Cầm tiếp Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Lào và Bộ trưởng cao
cấp, Bộ trưởng Ngoại giao và Hợp tác Quốc tế Campuchia, ngày 29/4/1999.
134. Thông tấn xã Việt Nam, Đoàn Đại biểu Đảng ta dự Đại hội Đảng
FUNCINPEC Campuchia, ngày 22/3/2001.
135. Thông tấn xã Việt Nam, Hội nghị lần thứ hai giữa Thủ tướng ba nước Việt
Nam, Campuchia và Lào về xây dựng Tam giác Phát triển, ngày 26/1/2002.
136. Thông tấn xã Việt Nam, Nhân kết thúc Hội nghị lần thứ II giữa Thủ tướng
Việt Nam - Campuchia và Lào chương trình Tam giác phát triển - từ ý tưởng đến
hiện thực, ngày 26/1/2002.
137. Thông tấn xã Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An thăm hữu nghị
chính thức Vương quốc Campuchia, ngày 23/12/2002.
138. Thông tấn xã Việt Nam, Đại sứ quán Việt Nam và đại diện Việt kiều tại
Campuchia trao đổi Nghị quyết của Đảng về vấn đề người Việt Nam ở nước ngoài,
ngày 19/5/2004.
139. Thông tấn xã Việt Nam, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tiếp đoàn Đại biểu cấp
cao Đảng Nhân dân Campuchia, ngày 16/1/2005.
140. Thông tấn xã Việt Nam, Các bác sĩ Việt Nam mổ mắt miễn phí cho nhiều bệnh
nhân nghèo Campuchia, ngày 12/7/2005.
141. Thông tấn xã Việt Nam, Đoàn đại biểu Đảng FUNCINPEC thăm Việt Nam,
ngày 6/9/2005.
142. Thông tấn xã Việt Nam, Thông tin tư liệu - 120 (660), ngày 8/10/2005.
143. Thông tấn xã Việt Nam, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh hội kiến với Quốc
vương Nô Rô Đôm Xi Ha Mô Ni, ngày 16/3/2006.
144. Thông tấn xã Việt Nam, Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 31/3/2006.
145. Thông tấn xã Việt Nam, Tuyên bố chung cuộc họp cấp cao lần thứ tư giữa
Thủ tướng ba nước Campuchia, Lào và Việt Nam về Tam giác Phát triển, ngày
5/12/2006.
146. Thông tấn xã Việt Nam, Thông tin Tư liệu -150 (846) ngày 16/12/2006.
147. Thông tấn xã Việt Nam, Quan hệ hữu nghị hợp tác Campuchia - Việt Nam,
Thông tin tư liệu ngày 16/12/2006.
222
148. Thông tấn xã Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Việt Nam luôn coi
trọng việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng, ngày 20/12/2006.
149. Thông tấn xã Việt Nam, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết kết thúc tốt đẹp
chuyến thăm chính thức cấp nhà nước Vương quốc Campuchia, ngày 2/3/2007.
150. Thông tấn xã Việt Nam, Hợp tác quân y giữa Việt Nam và Campuchia, ngày
29/5/2007.
151. Thông tấn xã Việt Nam, Viện quân y 175 và viện mắt Thành phố Hồ Chí Minh
tổ chức mổ mắt từ thiện tại Campuchia, Tin thế giới ngày 22/6/2007.
152. Thông tấn xã Việt Nam, Campuchia, Việt Nam và Thái Lan cùng hợp tác phát
triển du lịch tại vùng biển chung, ngày 26/8/2007.
153. Thông tấn xã Việt Nam, Tài liệu tham khảo đặc biệt số 014, ngày 17/1/2008.
154. Thông tấn xã Việt Nam, theo Tân Hoa Xã ngày 27/2/2008.
155. Thông tấn xã Việt Nam, Tình hình Campuchia, Tài liệu tham khảo đặc biệt
ngày 27/6/2008.
156. Thông tấn xã Việt Nam, Campuchia và vai trò tung hứng ngoại giao giữa các
nước lớn, Tài liệu Tham khảo đặc biệt ngày 28/7/2008.
157. Thông tấn xã Việt Nam, Hội nghị cấp Bộ trưởng Việt Nam - Lào - Campuchia
về phòng chống ma túy, ngày 26/12/2008.
158. Thông tấn xã Việt Nam, Kim ngạch thương mại Việt Nam - Campuchia tăng
mạnh - Quốc hội Campuchia phê chuẩn Hiệp định vận tải đường thủy với Việt Nam,
ngày 11/5/2010.
159. Thông tấn xã Việt Nam, Khởi công xây dựng Bệnh viện đa khoa Chợ Rẫy -
Phnom Penh tại Campuchia, ngày 15/5/2010.
160. Thông tấn xã Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển khai trương chi
nhánh đầu tiên tại Campuchia, Tin thế giới ngày 17/5/2010.
161. Thông tấn xã Việt Nam,Việt Nam và Campuchia tăng cường hợp tác trong
lĩnh vực y tế, Tin thế giới ngày 4/8/2010.
162. Thông tấn xã Việt Nam, Thông tin tư liệu - 46 (1523), ngày 24/4/2011.
163. Tin A Văn phòng Bộ Ngoại giao (4/12/2003), “Theo báo Yomiru ngày
2/12/2000”.
223
164. Tổng hợp từ WWF-World Wide Fund for Nature - Ngân hàng phát triển
châu Á - ADB.
165. Lâm Ngọc Uyên Trân (2008), Hợp tác du lịch giữa Việt Nam và
Campuchia: Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Đại học Khoa học
XH&NV Tp.Hồ Chí Minh.
166. Phạm Việt Trung, Nguyễn Xuân Kỳ, Đỗ Văn Nhung (1982), Lịch sử
Campuchia (từ nguồn gốc đến ngày nay), Nxb Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội.
167. Nguyễn Sỹ Tuấn và cộng sự (2006), Quan hệ Việt Nam - Campuchia: Hiện
trạng và giải pháp, Đề tài cấp Viện - Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội.
168. Nguyễn Sỹ Tuấn (2007), Cộng đồng người Việt ở Campuchia, Tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam Á số 2/2007, tr.45-51.
169. Đặng Quốc Tuấn (5/2007), “Hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia về biên
giới lãnh thổ”, Hội thảo khoa học quan hệ Việt Nam - Campuchia trong bối cảnh
mới: Hợp tác toàn diện cùng phát triển, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á.
170. Nguyễn Sỹ Tuấn (2010), Cơ sở lịch sử, chính trị, xã hội và pháp lý của vùng
biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia và đề xuất giải pháp ổn định, phát triển
vùng biên giới hai nước, Đề tài cấp Nhà nước độc lập.
171. Trần Văn Tùng (2006), Quan hệ kinh tế biên giới Việt Nam - Campuchia, Tạp
chí Cộng sản, số 2+3, tr.106-110.
172. Tuyên bố chung Việt Nam - Campuchia tại Phnom Penh ngày 30/3/2005.
173. Văn phòng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam - Văn bản số 1264/VPCP-
QHQT ngày 27/2/2010 về việc Chính phủ Việt Nam cho Chính phủ Campuchia vay
tín dụng xây dựng cầu Long Bình - Chrey Thom phần cầu phía Campuchia.
174. Nguyễn Thành Văn (2006), Tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế của
Campuchia từ 1993 đến nay, Luận văn Thạc sĩ Đại học Khoa học XH&NV Hà Nội.
175. Nguyễn Thị Vân (2010), “Thực trạng và triển vọng hợp tác kinh tế Việt Nam -
Campuchia”,Tạp chí Khoa học xã hội, số 4 (140), tr.43-52.
176. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Thực trạng việc phân định vùng biển giữa
Việt Nam - Campuchia (Mã TL1586), Hà Nội.
224
177. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (2009), Hội thảo khoa học “Vùng biên giới
đất liền Việt Nam - Campuchia: Cơ sở lịch sử, chính trị, xã hội, pháp lý và các giải
pháp phát triển bền vững, hài hòa”, Hà Nội.
178. Vụ đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), Tình hình đầu tư của
các doanh nghiệp Việt Nam tại Campuchia, Hà Nội.
179. Vụ hợp tác quốc tế - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hợp tác về giáo dục và đào tạo
giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam và Bộ Giáo dục, Thanh niên và Thể thao
Campuchia giai đoạn 2006 - 2010, Hà Nội ngày 17/12/2010.
180. Vụ kinh tế đối ngoại - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo về quan hệ hợp tác
kinh tế giữa Việt Nam và Campuchia, Hà Nội ngày 24/4/2006.
181. Vụ kinh tế đối ngoại - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo thực trạng hợp tác
kinh tế giữa Việt Nam - Campuchia, Hà Nội ngày 6/5/2008.
182. Nôrôđôm Xihanúc (2003), Từ cuộc chiến chống CIA đến người tù của
Khơ Me Đỏ, (người dịch: Lê Kim), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
183. Area Handbook Series. (1987). Cambodia: A country study. DA pam 550-50.
Washington.
184. Asian Development Bank. (1996). Key Indicators of Developing Asian and
Pacific Countries, 26.
185. Asia Yearbook: Asia 1997 Yearbook. Far Eastern Economic Review.
Hong Kong.
186. Asia Andrew T.H. Tan., & J.D. Kenneth Boutin. (Eds.). (2001). Non-
Traditional Security Issues in Southeast Asia. Institute of Defence and Strategic
Studies. Singapore.
187. Camaphon. (2003), Cambodia - Vietnam Political Relations 1979 - 1989.
Master Thesis of Royal Academy of Cambodia. Phnom Penh.
188. Chhonn, K. (1999), Cambodia’s future role in ASEAN in Hourn, K.K., &
Jeffrey A. Kaplan. Cambodia’s Future in ASEAN: Dynamo or Dynamite?, 233.
ASEAN Academic Press. London.
189. Cunha, Derk da. (2000). Southeast Asian Perspectives on Security.
Insititute of Southeast Asian Studies. Singapore.
225
190. Dike & Douglas. (1989). The Cambodia peace process: Summer of 1989.
Asian Survey, 29 (9), 842 - 852.
191. Hort, U. (1999). Cambodia: An Emerging Dynamo for ASEAN. In Hourn,
K.K., & Jeffrey A. Kaplan (Ed.), Cambodia’s Future in ASEAN: Dynamo or
Dynamite?, 233. ASEAN Academic Press. London.
192. Hourn, K.K. (1998). Cambodia - From Crisis to Promise: Building the future,
CICP. Phnom Penh.
193. Hourn, K.K. (2004). Cambodia's ASEAN policy: Cambodia's contribution to
Peace and Stability in Region , CICP. Phnom Penh.
194. Kosut, H. (1971). Cambodia and the Vietnam war. New York.
195. Krish, L.M. (1978). Perspectives on the Vietnam - Cambodia border conflict.
Asian Survey, 18(5), 448-457.
196. Lau, T.S. (1982). Asian and the Cambodia problem. Asian Survey, 22 (6),
548-561.
197. Lau, T.S. (1986). Cambodia - Vietnamese Relations. Asian Survey, 22(6),
440-451.
198. Melvin E. Richmond, Jr. (1996). United States interests in the Socialist
Republic of Vietnam. US Army War College.
199. Pao-Min Chang. (1987). Kampuchea between China and Vietnam. Singapore
University Press. Singapore.
200. Protocol for Implementation of the Agreement between The Government of
The Socialist Republic of Vietnam and The Royal Government of Cambodia on
Road Transportation.
201. Thoxary, H. (1999). Investment in Cambodia. Cambodian Institute for
Cooperation and Peace. Phnom Penh.
TÀI LIỆU INTERNET
202. ASEAN (2006): Declaration of ASEAN Concord II (Bali Concord II).
www.aseansec.org.
203. “Campuchia khởi công cải tạo nâng cấp quốc lộ 78 nối với biên giới Việt Nam”.
http://vietbao.vn/Xa-hoi/Campuchia-khoi-cong-cai-tao-nang-cap-quoc-lo-78-noi-
voi-bien-gioi VietNam/45226430/157/.
226
204. “Cắm mốc biên giới Việt Nam - Campuchia là sự kiện lịch sử”.
http://www.mofa.gov.vn/vi/nr
205. “Chiến lược quốc phòng 10 năm của Mỹ”.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2012/01/120105_us_military_review_asia.shtml
206. Du lịch Quảng Nam. http://www.quangnamtourism.com.vn/vn/tin271.asp.
207. Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh.
http://www.tourism.hochiminhcity.gov.vn/www.dulichvn.org.vn
208. “Hợp tác ngăn chặn nạn buôn bán phụ nữ trẻ em”.
http://www.hoilhpn.org.vn/NewsDetail.asp?Catid=156&NewsId=7432&lang=VN
209. “Khánh thành cột mốc quốc tế Mộc Bài - Bà Vẹt”.
http://vietnamnet.vn/chinhtri/2006/12/647504/
210. “Khánh thành cột mốc ngã ba biên giới Việt - Lào - Campuchia”.
http://vietbao.vn
211. “Khánh thành cột mốc 314 trên biên giới Việt Nam – Campuchia”.
http://www.phapluatvn.vn/thoi-su/201206/Khanh-thanh-cot-moc-314-tren-bien-
gioi-Viet-Nam-Campuchia-2068221/.
212. Niềm tin vào tương lai. http://niemtin.free.fr/angkorair.htm
213. “Quan hệ Trung Quốc-Campuchia và tác động đến Việt Nam”.
http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/2005
214. “Thu nhập xã hội từ du lịch ở Việt Nam tăng 20 % mỗi năm”.
http://www.baomoi.com/Thu-nhap-xa-hoi-tu-du-lich-o-Viet-Nam-tang-20-moi-
nam/137/4263189.epi
215. “Tiến trình hình thành và phát triển Tam giác Phát triển Việt Nam - Lào -
Campuchia”. http://www.mpi.gov.vn
216. “Tổng quát thành tựu kinh tế Việt Nam sau 20 năm đổi mới”, Theo Báo cáo
Tổng kết một số vấn đề lý luận thực tiễn qua 20 năm đổi mới.
http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=0&cn_id=148494
217. Trang thông tin điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
http://www.dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewDetail.aspx?co_id=30094&cn_
id=456523.
227
218. “Việt Nam, Campuchia ký hiệp định vận tải đường thủy”.
http://www.voatiengviet.com/content/a-19-2009-12-18-voa12-
82744522/837049.html
219. “Việt Nam - Campuchia hợp tác chống buôn người”.
http://www.tin247.com/Vietnam - Campuchia - hop-tac-chong-buon-nguoi-
621348865.html
220. “Việt Nam - Campuchia hợp tác ngăn chặn nạn buôn bán phụ nữ trẻ em”.
http://www.hoilhpn.org.vn/NewsDetail.áp?Catid=156&NewsId=7414&lang=V
221. “Việt Nam - Lào - Campuchia thắt chặt hợp tác chống ma túy”.
http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr04087105001/ns05082414494/view
222. Website Bộ Ngoại giao Việt Nam - http://www.mofa.gov.vn
223. Wibsite Bộ Quốc phòng Mỹ - http://usembassy .gove/vietnam.
224. http://www.sothuongmai.angiang.gov.vn
225. http://www.mfaic.gov.kh/foreignpolicy.php
PHỤ LỤC 1
NIÊN BIỂU CÁC SỰ KIỆN QUAN TRỌNG
TRONG QUAN HỆ CAMPUCHIA - VIỆT NAM (1993 - 2010)
Thời
gian Từ Campuchia sang thăm Việt Nam
8/1993 Hai đồng Thủ tướng Ranarith và Hunsen
1/1995 Thủ tướng Ranarith thăm Việt Nam
12/1995 Quốc vương N.Sihanouk thăm chính thức Việt Nam
6/1998 Thủ tướng thứ nhất Ung Hout thăm Việt Nam
12/1998 Thủ tướng Hunsen thăm Việt Nam
7/1999 Chủ tịch Thượng viện Chia Sim thăm Việt Nam
10/2000 Phó Chủ tịch Thượng viện Nhiek Bun Chhay thăm Việt Nam
2/2002 Thủ tướng Hunsen dự Hội nghị ba Thủ tướng Việt Nam - Lào -Campuchia tại
Thành phố Hồ Chí Minh
4/2004 Phó Thủ tướng Sar Kheng thăm và làm việ tại Việt Nam
7/2004 Hội nghị Thủ tướng ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia tại Siem Reap
9/2004 Phó Thủ tướng Sar Kheng đồng chủ trì Hội nghị hợp tác biên giới Việt Nam -
Campuchia tại Thành phố Hồ Chí Minh
10/2004 Thủ tướng Hunsen dự Hội nghị Cấp cao ASEAM 5 tại Hà Nội
1/2005 Phó Thủ tướng Sok An dự Hội thảo xúc tiến đầu tư vào Campuchia năm 2005
tại Thành phố Hồ Chí Minh
2/2005 Chủ tịch Ủy ban đối ngoại Quốc hội Vũ Mão thăm Campuchia
5/2005 Phó Chủ tịch thứ nhất Thượng viện Campuchia Sisowath Chivan Monirath
thăm và làm việc tại Việt Nam
5/2005 Đô trưởng Phnom Penh thăm và làm việc tại Việt Nam, ký chương trình hợp
tác giữa Phnom Penh và Hà Nội 2005 - 2006
10/2005 Thủ tướng Hunsen thăm chính thức Việt Nam
3/2006 Quốc vương N.Sihamoni thăm chính thức Việt Nam
10/2006 Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Campuchia Hor Nam Hong thăm chính thức Việt
Nam và dự kỳ họp lần thứ 8 Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam - Campuchia
6/2008 Quốc vương N.Sihamoni thăm chính thức Việt Nam
7/2008 Bộ trưởng Ngoại giao Hor Nam Hong thăm chính thức Việt Nam và dự kỳ họp
lần thứ 10 Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam - Campuchia
11/2008 Thủ tướng Hunsen thăm chính thức Việt Nam và dự Hội nghị ASEM
1/2009 Chủ tịch Thượng viện Chea Sim thăm chính thức Việt Nam
1/2009 Chủ tịch Quốc hội Heng Samrin thăm chính thức Việt Nam
6/2010 Quốc vương N. Sihamoni thăm chính thức Việt Nam
Thời
gian Từ Việt Nam sang thăm Campuchia
2/1994 Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm thăm Campuchia
8/1995 Chủ tịch nước Lê Đức Anh thăm chính thức Campuchia.
4/1996 Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm Campuchia
6 /1999 Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm Campuchia
2/2000 Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh thăm Campuchia
3/2000 Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên thăm Campuchia
8/2000 Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng thăm Campuchia
11/2001 Chủ tịch nước Trần Đức Lương thăm Campuchia, ký Tuyên bố chung về khuôn
khổ hợp tác song phương Việt Nam - Campuchia trong thế kỷ 21
11/2002
Thủ tướng Phan Văn Khải dự Hội nghị Cấp cao ASEAN 8 tại Phnom Penh và
các Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 (với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) tại
Phnom Penh
12/2002 Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An thăm Campuchia
6/2004 Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm và làm việc tại Campuchia
2/2005 Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên dự kỳ họp lần thứ 7 Ủy ban Hỗn hợp
hai nước tại Phnom Penh
2/2005 Trưởng ban đối ngoại Trung ương Nguyễn Văn Son thăm Campuchia
3/2005 Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm chính thức Campuchia
4/2005 Bộ trưởng Công an Lê Hồng Anh thăm Campuchia
4/2005 Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Phạm Thế Duyệt thăm Campuchia
3/2006 Thủ tướng Phan Văn Khải thăm chính thức Campuchia
8/2006 Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng thăm chính thức Campuchia
12/2006 Hội nghị Thủ tướng ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 4 tại Đà Lạt
12/2006 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Campuchia
3/2007 Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Phạm Thế Duyệt thăm Campuchia
4/2007 Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Campuchia
4/2007 Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Campuchia
8/2007 Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm thăm chính thức Campuchia và dự kỳ
họp thứ 9 Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam - Campuchia
3/2008 Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng dự Hội nghị lần thứ 4 về hợp tác phát triển
giữa các tỉnh biên giới Việt Nam - Campuchia
2/2009 Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh thăm Campuchia.
12/2009 Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm thăm Campuchia và tham dự kỳ họp
lần thứ 11 Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam - Campuchia
12/2009 Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm chính thức Campuchia
8/2010 Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết thăm chính thức Campuchia
(Tác giả tổng hợp)
PHỤ LỤC 2
DANH MỤC CÁC HIỆP ĐỊNH, THỎA THUẬN KÝ KẾT GIỮA
CAMPUCHIA - VIỆT NAM (1994 - 2009)
Thời gian Tên văn kiện
17/2/1994 Bản ghi nhớ về Hợp tác hai Bộ Ngoại giao
3/4/1994 Hiệp định về Hợp tác kinh tế thương mại
3/4/1994 Hiệp định về thành lập Ủy ban Hỗn hợp về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật
3/4/1999 Hiệp định về Quá cảnh hàng hóa
3/4/1994 Hiệp định Hợp tác văn hóa, giáo dục và khoa học kỹ thuật
9/9/1995 Hiệp định Hợp tác du lịch
19/4/1996 Hiệp đinh Hợp tác vận tải hàng không
Nghị định thư về Hợp tác giáo dục 1996 - 2000
24/5/1996 Nghị định thư vè hợp tác văn hóa
30/1/1997 Nghị định thư Hợp tác giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam với Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp Campuchia
22/2/1997 Hiệp định Lãnh sự, hai nước trao đổi thư phê chuẩn (25/6/2006)
3/1997 Hiệp đinh Hợp tác giữa hai Bộ Nội vụ về phòng chống tội phạm
6/1997 Nghị định thư về chương trình Hợp tác văn hóa, nghệ thuật giữa hai nước
1997 - 1998
24/3/1998 Hiệp đinh mới về thương mại
1/6/1998 Hiệp định Hợp tác vận tải đường bộ
1/6/1998 Nghị định thư về Hợp tác thông tin văn hóa
1/6/1998 Bản Hợp tác chống tội phạm ma túy
13/12/1998 Hiệp định Hợp tác Du du lịch
13/12/1998 Hiệp định Hợp tác vận tải đường thủy
10/6/1999 Hiệp định Hợp tác năng lượng điện
3/7/2000 Nghị định thư về bán điện cho Campuchia
28/8/2000 Hiệp định về Hợp tác khoa học, kỹ thuật trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp
28/8/2000 Bản ghi nhớ về Hợp tác và Phát triển y tế
7/9/2000 Hiệp định mới về Quá cảnh hàng hóa
10/2000 Bản Thỏa thuận về Hợp tác lao động 2000 - 2002
26/11/2001 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ về đầu tư
26/11/2001 Hiệp đinh mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ thương mại khu vực
biên giới Việt Nam - Campuchia
8/2002 Thỏa thuận Hợp tác giữa hai Bộ Quốc phòng
12/2003 Thỏa thuận tăng cường hợp tác trên lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp
5/2004 Thỏa thuận kế hoạch hợp tác giữa Bộ Công an Việt Nam với Bộ Nội vụ
Campuchia
21/2/2005 Hiệp đinh thanh toán giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng
Quốc gia Campuchia
10/10/2005
Bản ghi nhớ giữa Ủy ban sông Mekong Việt Nam và Ủy ban sông
Mekong Campuchia về tăng cường hợp tác và điều phối công tác quản lý
và phát triển tài nguyên nước vùng biên giới Việt Nam - Campuchia thuộc
lưu vực sông Mekong
10/10/2005
Nghị định thư hợp tác giáo dục và đào tạo giai đoạn 2006 - 2010 giữa Bộ
giáo dục va đào tạo nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Giáo dục thanh niên
và Thể thao Vương quốc Campuchia
10/10/2005
Hiệp định cung cấp tín dụng đầu tư xây dựng đường 78 ở Campuchia giữa
Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Vương quốc
Campuchia
10/10/2005
Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ
Vương quốc về hợp tác song phương chống buôn bán phụ nữ và trẻ em và
hỗ trợ nạn nhân buôn bán
10/10/2005
Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ
Vương quốc Campuchia bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia
năm 1985
6/3/2006 Kế hoạch hợp tác giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính
phủ Hoàng gia Campuchia về thông tin
6/3/2006 Hiệp định về kiểm dịch y tế biên giới Việt Nam - Campuchia
25/10/2006 Biên bản thỏa thuận của kỳ họp lần thứ 8 Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam -
Campuchia về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật tại thành phố Huế
7/7/2008 Biên bản thỏa thuận của kỳ họp lần thứ 10 Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam -
Campuchia về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật tại thành phố Đà Nẵng
4/12/2008 Hiệp định miễn thị thực cho người mang hộ chiếu phổ thông giữa nhân
dân Campuchia - Việt Nam
4/12/2008 Hiệp định quá cảnh hàng hóa giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam
và Chính phủ Hoàng gia Campuchia
16/3/2009 Bản ghi nhớ về hợp tác phát triển thương mại biên giới
4/12/2009
Biên bản thỏa thuận của kỳ họp lần thứ 11 Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam -
Campuchia về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật tại thành phố Preah
Sihanuok Ville
(Tác giả tổng hợp)
PHỤ LỤC 11
KIM NGẠCH XUẤT NHẬP KHẨU GIỮA VIỆT NAM VÀ CAMPUCHIA
Năm Xuất khẩu sang Campuchia Nhập khẩu từ Campuchia Tổng XNK
Kim ngạch Tăng giảm Kim ngạch Tăng giảm Kim ngạch Tăng giảm
2004 384 - 130 - 514 -
2005 536 39,5% 157 20,7% 693 34%
2006 765 42,7% 170 8,2% 935 35%
2007 991 29,5% 202 19% 1.193 28%
2008 1.431 44,4% 210 3,9% 1.641 38%
2009 1.147 -19,8% 186 -11,4% 1.333 -19%
2010 1.551 34,2% 276 41% 1.827 36%
Nguồn: Bộ Công thương Việt Nam
PHỤ LỤC 12
VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI
CỦA VIỆT NAM DÀNH CHO CAMPUCHIA GIAI ĐOẠN 2001 - 2005
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Tổng số 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng số 154,500 11 13,5 30 40 60
Dành cho đào tạo 111,25 11 13 25 27,250 35
Tỷ lệ % đào tạo trên tổng số (%) 72,00% 100% 96,29% 83,33% 68,13% 58,33%
Các chương trình dụ án 43,250 - 0,5 5,0 12,750 25
Tỷ lệ % chương trình dự án trên
tổng số (%)
28,00% - 3,71% 16,67% 31,87% 41,67%
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
PHỤ LỤC 13
VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI
CỦA VIỆT NAM DÀNH CHO CAMPUCHIA GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Tổng số 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng số 464,397 80 80 90 104,397 110
Dành cho đào tạo 367,997 61 65 73 82,997 86
Tỷ lệ % đào tạo trên tổng số (%) 79,24% 76,25% 81,25% 81,11% 79,50% 78,18%
Các chương trình dự án 96,40 19 15 17 21,400 24
Tỷ lệ % chương trình dự án trên tổng
số (%)
20,76% 23,75% 18,75% 18,89% 20,50% 21,82%
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
PHỤ LỤC 14
DANH MỤC CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI
CỦA VIỆT NAM DÀNH CHO CAMPUCHIA (2001 - 2010)
TT DANH MỤC TỔNG MỤC
ĐẦU TƯ GHI CHÚ
A THEO THỎA THUẬN 120,033
1 Trường Phổ thông dạy nghề Mondulkiri 16,87 Hoàn thành năm 2008
2 Chợ biên giới Oyadao tỉnh Ratanakiri 4,997 Hoàn thành năm 2006
3 Trường dân tộc nội trú Ban Lung tỉnh
Ratanakiri 14,991 Hoàn thành năm 2006
4 Lập bản đồ địa chất 1/250.000 vùng Đông
Bắc Campuchia 0,3 Chuẩn bị dự án
5 Lập báo cáo khả thi đường 78 4,75 Hoàn thành năm 2004
6 Lập báo cáo khả thi cầu Long Bình –
Chraython 1
7 Hỗ trợ tăng cường năng lực Trạm và Hệ
thống thông tin khí tượng thủy văn 3,8 Hoàn thành năm 2008
8 Khôi phục hệ thống thủy chuẩn quốc gia 2,3
9 Hỗ trợ đài phát sóng Campuchia 1,79 Hoàn thành năm 2004
10 Trường tiểu học Phnom Penh 10 Quà tặng của Tổng Bí thư
11 Khôi phục và hoàn thiện hệ thống độ cao
quốc gia Campuchia 59,235
Thực hiện 2001 – 2010 là
35,935 tỷ
B THEO YÊU CẦU ĐỘT XUẤT 32,923
1 Xây dựng 3 đài phát sóng FM 8,95
2 Xây dựng nhà cảnh vệ Hun Sen 19
3 Một số trang thiết bị giúp Bộ Văn hóa
Thông tin 2,555
4 Hỗ trợ cơ sở vật chất khác 2,418
TỔNG SỐ 152,956
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư