Upload
doanque
View
217
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHẢM
BÙI ĐỨC HIỂN
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM
MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 62.38.01.07
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Hữu Nghị
HÀ NỘI, 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHẢM
BÙI ĐỨC HIỂN
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM
MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 62.38.01.07
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Hữu Nghị
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận án đảm bảo tính chính xác, nghiêm túc,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học Xã hội.
Tác giả luận án
Bùi Đức Hiển
LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận án xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến PGS.TS. Phạm Hữu
Nghị. Thầy đã luôn hướng dẫn, giúp đỡ tác giả tận tình suốt quá trình nghiên cứu để tác
giả có thể hoàn thành được công trình nghiên cứu của mình.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT VỀ KIỂM
SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ .......................................................... 7
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án ............................................................... 7
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ..................................... 18
1.3. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án .......................................................... 20
CHƢƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG
KHÔNG KHÍ VÀ PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG
KHÍ ................................................................................................................................... 25
2.1. Lý luận về môi trường không khí và ô nhiễm môi trường không khí ...................... 25
2.2. Lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí ............................................................................................................................. 35
2.3. Lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí bằng pháp luật ...................... 41
2.4. Quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trong các công ước quốc tế 54
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI
TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................. 67
3.1. Thực trạng pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí và tiêu chuẩn
môi trường không khí ............................................................................................... 67
3.2. Thực trạng các quy định về phòng ngừa, dự báo ô nhiễm môi trường không khí ... 82
3.3. Thực trạng các quy định về phát hiện ô nhiễm môi trường không khí................... 103
3.4. Thực trạng các quy định về ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm môi trường không khí 111
3.5. Thực trạng quy định về xử lý hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí .................. 116
CHƢƠNG 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM ................ 133
4.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí ở Việt Nam hiện nay
.........................................................................................................................................133
4.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí ở Việt Nam ..... 135
4.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở
Việt Nam hiện nay .................................................................................................. 137
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Không khí là một thành phần quan trọng cấu thành môi trường tự nhiên trái đất,
cung cấp điều kiện thiết yếu đảm bảo sự hình thành, tồn tại, phát triển của con người và
các sinh vật. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh của kinh tế xã hội, bên cạnh những
thành tựu, nhân loại cũng đã và đang đối mặt với nhiều mặt trái, đặc biệt là ô nhiễm môi
trường không khí… gây biến đổi khí hậu và suy giảm tầng ozon,… đe dọa cuộc sống
của con người cũng như sinh vật trên thế giới [58].
Ở Việt Nam, từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới, mở cửa đến nay, nhiều nhà máy,
xí nghiệp được thành lập đi vào sản xuất ở khắp các tỉnh, thành, nhưng sự phát triển
thiếu quy hoạch trong thời gian dài dẫn đến ô nhiễm không khí cũng ngày càng nghiêm
trọng. Trong một nghiên cứu thường niên về môi trường do các trường Đại học của Mỹ
thực hiện và công bố tại Diễn đàn kinh tế thế giởi ở Davos, Thụy Sĩ thì Việt Nam nằm
trong số 10 quốc gia có không khí ô nhiễm nhất thế giới [85], điển hình là ở các đô thị
lớn như: Tp. Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, các khu công nghiệp và làng nghề,… làm ảnh
hưởng lớn đến sức khỏe người dân, tác động tiêu cực đến mùa màng, quần thể động,
thực vật, các công trình xây dựng, thậm chí gâybiến đổi khí hậu... Cụ thể tại Tp. Hồ
Chí Minh, theo thống kê nồng độ chất ô nhiễm trong không khí khu vực ven đường giao
thông, trong đó chủ yếu là CO tăng 1,44 lần và bụi PM10 (tức bụi có kích thước bé hơn
10μ tăng 1,07 lần). Tại Hà Nội theo dự đoán nếu không có biện pháp nào, nồng độ phát
thải bụi có thể đạt 200mg/m3 vào năm 2020, gấp 10 lần mức khuyến cáo của Tổ chức Y
tế thế giới [125]. Thực tiễn này đặt ra vấn đề là phải hoàn thiện các cơ chế nhằm kiểm
soát ô nhiễm không khí có hiệu quả, bảo vệ môi trường, trong đó có việc hoàn thiện các
quy định pháp luật về vấn đề này. Vấn đề đặt ra, quy định và thực thi pháp luật, trong đó
có pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí như thế nào để vừa giữ gìn được một môi
trường không khí sạch, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của
người dân đồng thời vẫn có các điều kiện phát huy tối đa các nguồn lực cho phát triển
kinh tế đất nước là vấn đề hết sức quan trọng.
Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về kiểm soát ô nhiễm không khí
trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, có thể thấy Luật quy định còn khá chung
chung, nhiều thiếu sót, chưa mang tính hệ thống, thiếu minh bạch, thiếu cụ thể dẫn tới
khó khả thi. Ví dụ: về nội hàm kiểm soát ô nhiễm không khí chưa được làm rõ, quy định
về đánh giá tác động môi trường không khí còn thiếu sót dẫn tới nhiều cơ sở sản xuất,
kinh doanh vẫn có thể lách qua các quy định pháp luật để không phải lập báo cáo đánh
giá tác động môi trường; thiếu các quy định về phí bảo vệ môi trường với khí thải, về
2
xác định thiệt hại môi trường không khí,…Bên cạnh đó, quy định về quy chuẩn môi
trường không khí hiện nay đã lạc hậu so với khu vực và thế giới; chưa có quy định cụ
thể về quy chuẩn môi trường không khí trong nhà. Những điểm thiếu sót hạn chế trong
các quy định pháp luật đã gây khó khăn rất lớn cho các cơ quan quản lý nhà nước cũng
như người dân trong kiểm soát ô nhiễm không khí.
Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã, đang và sẽ tham
gia vào các sân chơi chung của khu vực và thế giới như: Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN, Tổ chức Thương mại thế giới WTO, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP), Liên minh thuế quan Nga, Kazakhstan, Belarusia,… Việc tham gia vào các sân
chơi chung này đòi hỏi Việt Nam phải hoàn thiện các quy định pháp luật trong nước phù
hợp với luật chơi chung của thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam đã tham gia một số công ước
quốc tế về bảo vệ môi trường không khí, ứng phó với biến đổi khí hậu, như: Công ước
khung về ứng phó với biến đổi khí hậu của Liên Hợp quốc, Nghị định thư Kyoto về ứng
phó với biến đổi khí hậu, Công ước về bảo vệ tầng ozon,... Bởi vậy, nghiên cứu, hoàn
thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí là một đòi hỏi cấp thiết.
Mặt khác, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhân dân nộp thuế
để nuôi Nhà nước. Nhà nước có rất nhiều trách nhiệm trong đó có việc phải kiểm soát
các mặt trái của kinh tế thị trường (phát triển lệch lạc), trong cái lệch lạc đó là việc ngăn
chặn các hành vi làm ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm môi trường không khí là
rất quan trọng. Nhà nước phải đảm bảo môi trường sống trong lành an toàn, lành mạnh
nhằm đảm bảo quyền lợi về tự nhiên của con người, và để thực hiện được điều này, Nhà
nước phải sử dụng pháp luật.
Ngoài ra, qua tổng quan các tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam chưa có một công trình
khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống, bài bản liên quan trực tiếp đến pháp luật
về kiểm soát ô nhiễm không khí. Do vậy, tác giả lựa chọn chủ đề “Pháp luật về kiểm soát
ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam” là đề tài nghiên cứu sinh của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận án nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, pháp lý
và thực tiễn về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam. Từ đó đề
xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, góp
phần bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài tập trung vào các nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
3
- Phân tích nhận thức lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, pháp
luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí: khái niệm, đặc điểm, phân loại, vai trò;
mục đích của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, chủ thể kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí, đối tượng kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, công cụ kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí, nội dung kiểm soát ô nhiệm môi trường không khí;
tiêu chí của điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm mô trường không khí;
- Phân tích các quy định pháp luật hiện hành về kiểm soát ô nhiễm không khí ở
Việt Nam và chỉ ra các thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó;
- Phân tích thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí ở Việt Nam hiện nay;
- Kiến nghị nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí
ở Việt Nam trong điều kiện mới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án chủ yếu là các quy định pháp luật
về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được ghi nhận trong Luật Bảo vệ môi
trường năm 2014 và các văn bản pháp lý liên quan khác. Bên cạnh đó, tác giả cũng có
sự quan tâm thích đáng đến việc nghiên cứu các quan điểm, lý thuyết khoa học về kiểm
soát ô nhiễm môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng cũng như một số
các quy định pháp luật quốc tế và một số nước trên thế giới về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí.
- Về phạm vi nghiên cứu của đề tài, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận,
pháp lý và thực tiễn xoanh quanh pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Không gian nghiên cứu của đề tài luận án là Việt Nam và thời gian nghiên cứu ở thời
điểm hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu để có những đánh giá mang tính toàn diện về chủ đề
nghiên cứu, nghiên cứu sinh sẽ có sự quan tâm thích đáng đến pháp luật của một số nước
trên thế giới về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cũng như các cam kết khu vực,
quốc tế liên quan đến vấn đề này. Bên cạnh đó, luận án cũng nghiên cứu về kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí trong mối quan hệ với ứng phó, thích nghi với biến đổi khí
hậu. Bởi nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu là do việc xả thải quá nhiều chất ô nhiễm,
như CO2, CFCs,… vào bầu khí quyền trái đất gây nên hiện tượng hiệu ứng nhà kính và
biến đổi khí hậu toàn cầu và ứng phó với biến đổi khí hậu góp phần vào kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí. Tuy nhiên, luận án này sẽ không đi quá sâu vào phân tích
thực trạng pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu, mà ứng phó với biến đổi chỉ là một
trong các nội dung quan trọng của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
4
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Luận án cũng dựa trên những thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý
như: Luật Môi trường, Lịch sử Nhà nước và pháp luật, Lý luận về Nhà nước và Pháp
luật, Xã hội học pháp luật, Luật Hành chính, Luật Hình sự, Luật Dân sự,... Những luận
điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng
trên các Tạp chí chuyên ngành liên quan đến kiểm soát ô nhiễm không khí, pháp luật
kiểm soát ô nhiễm không khí.
Các phương pháp được sử dụng trong luận án là: phương pháp phân tích – tổng
hợp, phương pháp so sánh, phương pháp quy nạp, diễn dịch,… Đồng thời luận án còn
dựa vào những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm trong các báo cáo của Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Tổng Cục Môi trường và các địa phương cũng như những thông
tin trên mạng Internet,... Cụ thể:
- Phương pháp luận chủ nghĩa Mác –Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh được sử
dụng trong nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa hành vi xả thải các chất thải của
các cá nhân, tổ chức với ô nhiễm môi trường không khí; mối quan hệ giữa ô nhiễm môi
trường không khí và biến đổi khí hậu và nhu cầu kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí bằng pháp luật;
- Phương pháp phân tích – tổng hợp được sử dụng khi đánh giá, bình luận các
quan điểm, các quy định pháp luật, các tình huống thực tiễn làm cơ sở cho những kết
luận khoa học về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nhằm đưa ra được khung
pháp luật hoàn thiện về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu này sẽ được tác giả sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu.
- Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích tài liệu để tổng quan các công
trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí, phương pháp so sánh, tổng hợp nhằm xác định rõ những kết quả đã nghiên cứu được
liên quan đến đề tài để kế thừa, đồng thời chỉ ra những vấn đề liên quan đến đề tài luận án
mà các công trình, bài viết trước đó còn bỏ ngỏ cần phải nghiên cứu bổ sung, phát triển.
- Chương 2, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phỏng vấn chuyên
gia, các nhà quản lý để đánh giá các nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, nguồn gốc ra đời của kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí, so sánh để phân biệt kiểm soát ô nhiễm môi trường với quản lý nhà
nước về môi trường không khí, bảo vệ môi trường. Ngoài ra, phương pháp phỏng vấn
chuyên gia cũng nhằm xác định các tiêu chí điều chỉnh pháp luật, nội dung điều chỉnh
pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí;
- Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, đánh giá những
quy định pháp luật hiện hành về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, so sánh đưa
5
ra các số liệu để đánh giá thực trạng, rút ra những bất cập, hạn chế, thiếu sót trong quy
định và thực hiện pháp luật về vấn đề này. Bên cạnh đó, để đánh giá thực tiễn thực hiện
pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, tác giả dự kiến sử dụng phương
pháp điều tra xã hội học để tìm hiểu ý kiến quan điểm của các cơ quan quản lý nhà
nước, tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải và người dân về vấn đề này.
- Chương 4, tác giả sử dụng phương pháp tọa đàm, phỏng vấn chuyên gia,
phương pháp phân tích, tổng hợp để đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách,
pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam đồng thời dự báo xu
hướng phát triển của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trong tương
lai gần.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Đưa ra các khái niệm, đặc điểm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và
pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trên cơ sở nội hàm của kiểm soát
và đặc thù của ô nhiễm môi trường không khí. Làm sáng tỏ nguồn gốc của thuật ngữ
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, phân biệt với thuật ngữ bảo vệ môi trường
không khí;
- Xây dựng các cơ sở lý luận nhằm xác định rõ mục đích kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí, chủ thể kiểm soát, cách thức, công cụ kiểm soát, nội dung kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí,…;
- Xác định nguyên tắc, nội dung điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí, như: nguyên tắc bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong
lành; nguyên tắc bảo đảm phát triển bền vững; nguyên tắc xã hội hóa các hoạt động bảo
vệ môi trường không khí; nguyên tắc người gây ô nhiễm môi trường không khí phải
chịu trách nhiệm pháp lý, nguyên tắc hợp tác quốc tế và khu vực trong bảo vệ môt
trường.
- Đưa các tiêu chí điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí, như: tính dự báo, cảnh báo; tính phòng ngừa được rủi ro phát sinh; tính nhanh
chóng, kịp thời; tính cộng đồng trách nhiệm; tính liên kết hợp tác vùng, quốc gia, khu
vực và quốc tế.
- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí;
- Xây dựng luận cứ và đề xuất các giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tại Việt Nam hướng tới xây dựng Luật Không
khí sạch ở Việt Nam;
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí ở Việt Nam là công trình nghiên cứu
quy mô, mới, từ góc độ khoa học pháp lý, trên cơ sở các quy định trong Luật BVMT
năm 2014 và các văn bản pháp luật liên quan. Luận án nghiên cứu làm rõ các vấn đề từ
lý luận, pháp lý đến thực tiễn về quá trình phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí,
phát hiện ô nhiễm không khí, ngăn chặn ô nhiễm không khí và xử lý ô nhiễm không
khí,... Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm soát ô nhiễm không khí ở Việt Nam, đối
chiếu pháp luật hiện hành với pháp luật quốc tế, pháp luật một số nước trên thế giới để
mổ xẻ, phân tích chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót, bất cập. Từ đó đưa ra nhu
cầu, định hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí ở nước ta hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của Luận án có giá trị tham khảo tốt các cơ quan lập pháp,
lập quy trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi
trường nói chung, đặc biệt là sự ra đời của Luật Không khí sạch ở Việt Nam; cho việc
nghiên cứu, giảng dạy tại các trường đào tạo cao học, đại học, cao đẳng chuyên ngành
luật. Luận án cũng có giá trị tham khảo đối với các cơ quan thực tiễn trong quá trình
thực thi, giải quyết các vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường không khí.
7. Cơ cấu của luận án
Mở đầu
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí
Chương 2. Những vấn đề lý luận về pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí
Chương 3. Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt
Nam hiện nay
Chương 4. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí
Kết luận
Danh mục các công trình của tác giả đã công bố liên quan đến luận án
Danh mục tài liệu tham khảo
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT
Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp cận các tài liệu, sách, báo, bài viết của các học giả
trong và ngoài nước liên quan đến đề tài nghiên cứu này, nghiên cứu sinh tổng quan tình
hình nghiên cứu theo các nhóm vấn đề sau:
Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về ô nhiễm môi trường, kiểm soát
ô nhiễm môi trường, nội dung của kiểm soát ô nhiễm môi trường, pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm môi trường.
Môi trường không khí là một thành phần quan trọng cấu thành môi trường. Do
vậy việc tổng quan các công trình nghiên cứu về ô nhiễm môi trường nói chung, kiểm
soát ô nhiễm môi trường nói riêng, trong đó có pháp luật trong lĩnh vực này sẽ tạo cơ sở
nền tảng lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu thực trạng pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí. Về ô nhiễm môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường
nói chung đã có nhiều công trình ở trong nước [8] [28] [94] [96] [118] và nước ngoài
[38] [137] [139] [140] [141] [146] nghiên cứu về vấn đề này ở nhiều giác độ khác nhau
từ lý luận đến thực tiễn. Theo Từ điển mở Merriam-webster online trên cơ sở liệt kê các
nguyên nhân gây ô nhiễm đã chỉ ra: "Ô nhiễm môi trường là tình trạng môi trường bị ô
nhiễm bởi các chất hóa học, sinh học, bức xạ, tiếng ồn,... gây ảnh hưởng đến sức
khỏe con người và các cơ thể sống khác. Ô nhiễm môi trường xảy ra là do con người và
cách quản lý của con người”[11]. Tổ chức Y tế thế giới dựa trên tác động của ô nhiễm
môi trường đến sức khỏe con người và sinh vật, trong một công trình nghiên cứu của
mình khẳng định, ô nhiễm môi trường là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào
môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khỏe con người, đến sự phát triển của
sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Tiếp cận dưới giác độ pháp lý dựa
trên tiêu chuẩn môi trường, quan điểm được ghi nhận trong Giáo trình Luật Môi trường
của Trường Đại học luật Hà Nội hiểu: "Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các
thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu
đến con người và sinh vật” [96]... Có thể thấy, ô nhiễm môi trường đe dọa sự sinh tồn
cũng như phát triển của con người và sinh vật. Theo kết quả nghiên cứu của Diễn đàn
kinh tế thế giới tại Davos, Thụy Sĩ, Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có chất lượng
không khí thấp nhất và ảnh hưởng nhiều nhất đến sức khỏe[88], ô nhiễm môi trường
không khí là một trong những nguyên nhân chính gây ra các căn bệnh ung thư phổi,...[
6] [110] [122] [124] [129]... Do vậy, kiểm soát ô nhiễm môi trường có vai trò vô cùng
8
quan trọng. Vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường không chỉ thu hút sự quan tâm nghiên
cứu của học giả, các nhà khoa học các nước mà cả các tổ chức quốc tế, như các tổ chức,
như: Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức Y tế thế giới, Chương trình môi trường liên hợp
quốc (UNEP) và nhiều tổ chức quốc tế khác,... cũng đã có những nghiên cứu, hoặc tài
trợ cho nhiều công trình nghiên cứu về kiểm soát ô nhiễm môi trường. Theo Bách khoa
toàn thư mở đã định nghĩa kiểm soát ô nhiễm môi trường dưới giác độ liệt kê kiểm soát
các nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường là các chất thải và phát thải đồng thời đề cao
biện pháp phòng ngừa ô nhiễm môi trường, cụ thể: Kiểm soát ô nhiễm bao gồm việc
kiểm soát phát thải và chất thải vào không khí, nước và đất. Nếu không có việc kiểm
soát ô nhiễm, các chất thải từ các hoạt động tiêu thụ, sản xuất, vận tải, đốt nhiên liệu
tạo nhiệt, và các hoạt động khác của con người sẽ làm tích tụ hoặc phát tán chất ô
nhiễm sẽ làm giảm chất lượng môi trường sống. Trong các cấp kiểm soát, phòng chống
ô nhiễm và giảm thiểu chất thải được xem là các biện pháp hiệu quả [11]. Kiểm soát ô
nhiễm môi trường (Polluton control) được hiểu một cách tổng quát là tổng hợp các hoạt
động, hành động, biện pháp và công cụ nhằm phòng ngừa, khống chế không cho ô
nhiễm xảy ra, hoặc khi có ô nhiễm xảy ra thì có thể chủ động xử lý làm giảm thiểu hay
loại trừ được nó. Các hoạt động, hành động, biện pháp và công cụ phải được áp dụng
với cấu trúc có sẵn, đó chính là thể chế, luật pháp, chính sách văn bản, tiêu chuẩn, quy
định, các giải pháp công nghệ, các công cụ kinh tế, đánh giá tác động môi trường, quan
trắc và giám sát môi trường,...[124]. Có thể thấy dưới giác độ kinh tế, kỹ thuật các công
trình nghiên cứu trong và ngoài nước về kiểm soát ô nhiễm môi trường cho thấy hoạt
động này được áp dụng chủ yếu trên hai phương diện là mục tiêu giảm thiểu và kiểm
soát các loại chất thải thông thường, chất thải nguy hại...;
Tiếp cận dưới giác độ pháp lý, quan điểm ghi nhận trong Giáo trình Luật Môi
trường của Trường Đại học luật Hà Nội, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội năm 2007
cho rằng: kiểm soát ô nhiễm môi trường là tổng hợp các hoạt động của Nhà nước, của
các tổ chức và cá nhân nhằm loại trừ, hạn chế những tác động xấu đối với môi trường;
phòng ngừa ô nhiễm môi trường; khắc phục, xử lý hậu quả do ô nhiễm môi trường gây
nên [96]. Đồng thời có phân biệt giữa kiểm soát ô nhiễm môi trường với quản lý nhà
nước về môi trường, trong đó kiểm soát ô nhiễm môi trường có nội hàm rộng hơn, thể
hiện ở nhiều khía cạnh như mục đích kiểm soát, chủ thể kiểm soát, cách thức, công cụ
và phương tiện kiểm soát. Cụ thể mục đích của kiểm soát ô nhiễm môi trường chính là
nhằm phòng ngừa, khống chế không để ô nhiễm môi trường xảy ra. Còn nếu vì các lý do
khác nhau mà ô nhiễm môi trường vẫn xảy ra thì kiểm soát ô nhiễm chính là hoạt động
xử lý, khắc phục hậu quả, phục hồi lại tình trạng môi trường như trước khi bị ô nhiễm;
chủ thể của kiểm soát ô nhiễm môi trường không chỉ là Nhà nước (thông qua các cơ
9
quan quản lý nhà nước về môi trường) mà còn bao gồm các doanh nghiệp, các cộng
đồng dân cư, các hiệp hội ngành nghề, các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân,... Kiểm soát
ô nhiễm môi trường không chỉ thực hiện bằng biện pháp mệnh lệnh – kiểm soát bằng
các công cụ hành chính mà còn được thực hiện bằng các công cụ kinh tế, các biện pháp
kỹ thuật, các giải pháp công nghệ, các yếu tố xã hội và yếu tố thị trường... trong đó các
yếu tố thị trường, yếu tố xã hội ngày càng được quan tâm cân nhắc, lựa chọn. Nội dung
của kiểm soát ô nhiễm môi trường dưới giác độ pháp lý gồm: thu thập, quản lý và công
bố các thông tin về môi trường, xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch kiểm soát ô
nhiễm; ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn môi trường; quản lý chất thải; xử lý, khắc
phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm,... [96].
Trong khi đó Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà
Nội lý giải kiểm soát ô nhiễm môi trường dưới hai giác độ: Một là, kiểm tra về phương
diện môi trường của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ sở sản xuất, kinh
doanh kể từ khi đi vào hoạt động cho tới khi chấm dứt hoạt động và quá trình tự kiểm
tra, tự giám sát của chính cơ sở sản xuất, kinh doanh trong suốt quá trình hoạt động của
mình; hai là, quá trình theo dõi, kiểm tra về phương diện môi trường đối với cơ sở sản
xuất, kinh doanh kể từ thời điểm các cơ sở này được cấp quyết định phê chuẩn báo cáo
đánh giá tác động môi trường đến thời điểm được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn
môi trường. [94].
Không chỉ đưa ra cách hiểu về kiểm soát ô nhiễm môi trường dưới các giác độ
khác nhau, một số công trình nghiên cứu còn xác định nội dung kiểm soát ô nhiễm môi
trường. Trong Luận án tiến sĩ: Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường biển trong hoạt
động hàng hải ở Việt Nam, của Lưu Ngọc Tố Tâm đã liệt kê kiểm soát ô nhiễm môi
trường, gồm: đánh giá môi trường, quản lý chất thải, hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi
trường; giải quyết các tranh chấp môi trường; kiểm soát ô nhiễm môi trường trong các
hoạt động cụ thể...[90]. Trong Dự án Nhiệm vụ điều tra, khảo sát, xây dựng các bộ tiêu
chí khoanh vùng ô nhiễm và đề xuất dự án xây dựng bản đồ ô nhiễm trên phạm vi toàn
quốc của Cục Kiểm soát ô nhiễm, Tổng Cục Môi trường đã xác định, kiểm soát ô nhiễm
bao gồm: kiểm soát các nguồn thải gây ra ô nhiễm môi trường (nguồn thải khí ô nhiễm,
nguồn thải nước ô nhiễm, nguồn thải chất thải rắn, nguồn thải tiếng ồn, nguồn thải bức
xạ), kiểm soát ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, kiểm soát ô nhiễm môi trường các
ngành sản xuất công nghiệp, kiểm soát ô nhiễm môi trường xung quanh ở các khu vực đô
thị, các khu công nghiệp, khu kinh tế, các làng nghề... và kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí, môi trường nước mặt, nước ngầm và môi trường nước biển ven bờ [91].
10
Các khái niệm ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường được nêu và
phân tích ở trên là những kết quả nghiên cứu quan trọng của nhiều nhà nghiên cứu. Tác
giả sẽ có sự kế thừa hợp lý trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình.
Thứ hai, tổng quan các công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về kiểm soát
ô nhiễm môi trường không khí.
Một là, về xuất xứ của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí. Qua khảo cứu một số các công trình nghiên cứu của nước
ngoài cũng trong nước có thể thấy trên thế giới kiểm soát ô nhiễm môi trường là thuật
ngữ vẫn còn rất mới trong nhiều ngôn ngữ của nhiều quốc gia. Thuật ngữ này được bắt
đầu được đề cập từ năm 1960 của thế kỷ XX sau những cảnh báo được đưa ra bởi các
nhà khoa học khi nghiên cứu về hiện trạng ô nhiễm môi trường và những ảnh hưởng tiêu
cực của nó đến con người và sinh vật. Ở Việt Nam, qua khảo cứu các công trình nghiên
cứu, tác giả chưa thấy một công trình nào nghiên cứu bài bản về vấn đề này, thậm chí
trong các giáo trình, các luận án về kiểm soát ô nhiễm môi trường cũng chưa chỉ ra [8]
[28] [67] [77] [94] [96] [100] [110] [118]... Tuy vậy, nghiên cứu chính sách, pháp luật
môi trường Việt Nam cho thấy thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường mới được chính
thức ghi nhận lần đầu tiên trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005. Do vậy, trong đề tài
luận án này tác giả sẽ nghiên cứu và lý giải sâu hơn về sự ra đời và phát triển cũng như
ghi nhận trong pháp luật Việt Nam về thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường.
Hai là, tổng quan các công trình nghiên cứu về khái niệm kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí. Ô nhiễm môi trường
không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần
không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây mùi khó chịu, giảm thị lực khi nhìn
xa do bụi [92]. Hiện nay, đã có môt số công trình, đề tài, bài viết trong và ngoài nước
[7] [67] [77] [96] [101] [110] nghiên cứu về vấn đề này dưới giác độ pháp lý đã dựa trên
cơ sở quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí để xác định ô nhiễm môi trường không
khí. Trong Luận văn thạc sĩ: Pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam – Thực
trạng và hướng hoàn thiện của ThS. Vũ Thị Duyên Thủy đã định nghĩa: ô nhiễm môi
trường không khí là tình trạng không khí có xuất hiện một, một số chất lạ hoặc một sự
biến đổi quan trọng trong thành phần không khí làm thay đổi tính chất lý, hóa vốn có
của nó và sự thay đổi này phải vi phạm tiêu chuẩn môi trường do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành, gây tác động có hại cho con người và thiên nhiên. [110]. Nguyên
nhân của ô nhiễm môi trường không khí là do cả yếu tố tự nhiên và nhân tạo gây ra. Yếu
tố tự nhiên gồm hoạt động núi lửa, cháy rừng, bão bụi, quá trình phân hủy động thực vật
tự nhiên; nguồn nhân tạo như, hoạt động giao thông vận tải, hoạt động dân sinh, hoạt
động công nghiệp… [100]. Có thể thấy, hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng
11
tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn
các chất thải khác nhau như: chất thải sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp
làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng. Việc sử dụng nhiều các
phương tiện giao thông như ô tô, xe gắn máy cũng là một loại ô nhiễm tiếng ồn và khí
thải đáng lo ngại [135] [136] [137]. Việc thải các chất gây ô nhiễm vào tự nhiên đã làm
ô nhiễm bầu khí quyển tạo nên sự ngột ngạt và "sương mù", gây nhiều bệnh cho con
người. Nó còn tạo ra các cơn mưa axít làm huỷ diệt các khu rừng và các cánh đồng.
Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các loại khí độc như: CO2, đã
gây hiệu ứng nhà kính. Theo nghiên cứu thì chất khí quan trọng gây hiệu ứng nhà kính
là CO2, nó đóng góp 50% vào việc gây hiệu ứng nhà kính, CH4 là 13%, nitơ 5%, CFCs
là 22%, hơi nước ở tầng bình lưu là 3%... Nếu như chúng ta không ngăn chặn được hiện
tượng hiệu ứng nhà kính thì trong vòng 30 năm tới mặt nước biển sẽ dâng lên từ 1,5 –
3,5 m (Stepplan Keckes). Có nhiều khả năng lượng CO2 sẽ tăng gấp đôi vào nửa đầu thế
kỷ sau. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình nóng lên của Trái Đất diễn ra nhanh chóng. Nhiệt
độ trung bình của Trái Đất sẽ tăng khoảng 3,60°C (G.I.Plass), và mỗi thập kỷ sẽ tăng
0,30 °C. Theo các tài liệu khí hậu quốc tế, trong vòng hơn 130 năm qua nhiệt độ Trái
Đất tăng 0,40 °C. Tại hội nghị khí hậu tại Châu Âu được tổ chức gần đây, các nhà khí
hậu học trên thế giới đã đưa ra dự báo rằng đến năm 2050 nhiệt độ của Trái Đất sẽ tăng
thêm 1,5 – 4,50 °C nếu như con người không có biện pháp hữu hiệu để khắc phục hiện
tượng hiệu ứng nhà kính. Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là hiện tượng lỗ
thủng tầng ôzôn. CFC là "kẻ phá hoại" chính của tầng ôzôn. Sau khi chịu tác động của
khí CFC và một số loại chất độc hại khác thì tầng ôzôn sẽ bị mỏng dần rồi thủng [62].
Do vậy, giữ gìn môi trường không khí được trong lành, để bảo vệ được tầng ozon, ứng
phó với biến đổi khí hậu, vấn đề đặt ra là phải kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
có hiệu quả.
Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là một thuật ngữ mới mang tính
chuyên sâu. Nếu kiểm soát ô nhiễm môi trường bao hàm trong đó là kiểm soát ô nhiễm
đất, nước,… thì kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí mang tính đặc thù hơn. Hiện
nay, có một số công trình nghiên cứu [67] [77] [96] [100] [110] [116] đã đưa ra các ý
kiến về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Cụ thể trong đề tài: Pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm không khí của tác giả Hà Thị Phương Ngọc đã định nghĩa: kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí là hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như tổ chức,
cá nhân, tiến hành để bảo vệ môi trường không khí khỏi những tác động bất lợi từ phía
con người và những biến đổi bất thường của tự nhiên[77]. Bên cạnh đó, các nghiên cứu
cũng chỉ ra kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí gồm những hoạt động, như: ban
hành, tổ chức, thực hiện quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí, bao gồm nhóm quy
12
chuẩn về chất lượng môi trường không khí xung quanh và nhóm quy chuẩn về khí thải;
hoạt động đánh giá tác động môi trường không khí; hoạt động kiểm soát các nguồn thải
vào môi trường không khí; hoạt động ngăn chặn, hạn chế ô nhiễm, sự cố, phục hồi môi
trường không khí; hoạt động xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí.
Kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, ô nhiễm môi trường không khí nói riêng
muốn hiệu quả cần phải được pháp luật điều chỉnh.
Như trình bày trên có thể thấy, cho đến nay các công trình nghiên cứu trong nước
mặc dù đã đưa ra được khái niệm về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, tuy nhiên
các khái niệm này chưa thể hiện đầy đủ nội hàm của từ kiểm soát ô nhiễm,… Hơn nữa,
khi phân tích khái niệm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, các đề tài
này lại tiếp cận dưới giác độ liệt kê các quy định, gồm: các quy định pháp luật về quy
chuẩn kỹ thuật môi trường không khí, hoạt động phòng chống, khắc phục ô nhiễm không
khí, khắc phục ô nhiễm không khí, và xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
không khí [100]. Việc liệt kê sẽ giúp xác định được cụ thể từng nội dung nghiên cứu,
mặt khác cũng có thể dẫn tới trường hợp không liệt kê được đầy đủ nội dung của vấn đề
nghiên cứu. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án, tác giả sẽ kế thừa cách
hiểu về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí, trên cơ sở đó xây dựng một khái niệm mới có thể khắc phục được
một số hạn chế của các khái niệm này.
Ba là, tổng quan các công trình nghiên cứu về đặc điểm kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Không khí
là một thành phần của môi trường nên có những đặc điểm chung của môi trường, tuy
nhiên môi trường không khí cũng có những đặc thù riêng khác biệt so với môi trường
đất, môi trường nước,… Vấn đề này đã có một số công trình nghiên cứu phân tích, nhận
diện [67] [77] [96] [100] [110], trong đó trong đề tài: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí, của tác giả Nguyễn Kim Thoa đã nhấn mạnh một số đặc điểm,
như: không khí không thể phân chia được cho nên không có biên giới, nó có phạm vi rất
rộng lớn và điều này dẫn tới việc xác định quyền sở hữu và sử dụng không khí là không
thể. Không khí thuộc quyền sở hữu của tất cả các quốc gia, tổ chức và cá nhân. Do vậy
rất khó kiểm soát được ô nhiễm không khí nên cần phải kiểm soát được khí thải trước
khi nó được thải ra ngoài môi trường; giá trị môi trường không khí không biểu hiện
ngay trước mắt, đặc biệt là lợi ích kinh tế, hơn nữa ảnh hưởng của không khí thường tác
động đến sức khỏe con người mang tính lâu dài nên mọi người chưa quan tâm bảo vệ; ô
nhiễm môi trường không khí là tác nhân dẫn đến biến đổi khí hậu, do vậy ứng phó với
biến đổi khí hậu cần gắn với kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; kiểm soát ô
nhiễm không khí cần dựa trên công nghệ kỹ thuật tiên tiến,…[100].
13
Thứ ba, tổng quan các công trình nghiên cứu thực trạng các quy định pháp
luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Để bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành, đảm bảo phát triển bền
vững đất nước, việc tạo hành lang pháp lý cho vấn đề này đóng vai trò quan trọng. Theo
hướng nghiên cứu này hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu tập trung vào các
nội dung pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường, môi trường không khí, như [15]
[42] [61] [67] [77] [90] [100] [110] [113] [116]… trong đó đề tài: Pháp luật về bảo vệ
môi trường không khí ở Việt Nam, của tác giả Lê Thị Phương Thảo đã tập trung phân
tích thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; pháp luật về đánh
giá tác động môi trường không khí; pháp luật về trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức, cá
nhân trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và xử lý các hành vi làm ô nhiễm
môi trường không khí,...[116];
Một là, về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí. Quy chuẩn kỹ thuật môi
trường nói chung, quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí nói riêng là xương sống của
chu trình kiểm soát ô nhiễm môi trường cũng như môi trường không khí. Nếu không có
quy chuẩn kỹ thuật môi trường thì sẽ không thể xác định đánh giá được hiện trạng môi
trường, mức độ ô nhiễm môi trường,... Trong Luật bảo vệ môi trường năm 2005 gọi
thuật ngữ này là tiêu chuẩn môi trường. Tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mực,
giới hạn cho phép, được quy định dùng làm căn cứ để quản lý môi trường. Tuy nhiên,
theo Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày 28/2/2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật bảo vệ môi trường năm 2005 thì các tiêu chuẩn môi trường do Nhà nước công bố
bắt buộc áp dụng được chuyển đổi thành quy chuẩn kỹ thuật môi trường (Điều 1). Sự
thay đổi này là nhằm phù hợp với các quy định trong Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ
thuật năm 2006. Đã có một số nghiên cứu trong và ngoài nước có đề cập đến quy chuẩn
kỹ thuật môi trường không khí [42] [67] [77] [100] [113] [116]. Trong đề tài Pháp luật
về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, của tác giả Nguyễn Kim Thoa
đã phân tích: "Quy chuẩn kỹ thuật môi trường nói chung và quy chuẩn kỹ thuật môi
trường không khí nói riêng được hiểu là giới hạn cho phép của các thông số về chất
lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi
trường”[100]. Đối với môi trường không khí chuẩn mực này được hiểu là mức độ hoặc
phạm vi giới hạn các chất ô nhiễm nhất định trong thành phần môi trường không khí đó.
Các giới hạn ấy được cơ quan nhà nước sử dụng để đánh giá hiện trạng môi trường
không khí, kiểm soát ô nhiễm không khí, dự báo những thay đổi trong thành phần không
khí. Từ đó đưa ra những giải pháp để cải thiện chất lượng môi trường không khí. Về vấn
14
đề này trong đề tài: Khía cạnh pháp lý của tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí
Việt Nam, của tác giả Trần Thị Thúy cũng phân tích đặc điểm và vai trò của quy chuẩn
kỹ thuật môi trường không khí; các khía cạnh kỹ thuật, pháp lý, kinh tế - xã hội của quy
chuẩn môi trường không khí; thực trạng pháp luật môi trường về quy chuẩn kỹ thuật
môi trường không khí: gồm quy chuẩn về chất lượng môi trường không khí xung quanh
và quy chuẩn về khí thải; trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm quy chuẩn kỷ
thuật môi trường không khí. Qua đó, đánh giá pháp luật hiện hành của Việt Nam đang
thiếu quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí trong lĩnh vực nông nghiệp, một số quy
chuẩn đã lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới đồng thời đưa ra kiến
giải hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hai là, tổng quan các công trình nghiên cứu các quy định về nghĩa vụ của các tổ
chức, cá nhân chủ nguồn thải trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Thực tiễn
cho thấy ô nhiễm môi trường nói chung, ô nhiễm môi trường không khí nói riêng đa
phần là do các cá nhân, tổ chức gây ra trong các hoạt động của mình gây ra do vậy họ là
chủ thể đầu tiên có vai trò quan trọng trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường. Đối với
môi trường không khí, do có phạm vi rộng, phát tán nhanh, không xác định được chủ sở
hữu nên để kiểm soát được ô nhiễm môi trường không khí vai trò phòng ngừa của các cá
nhân, tổ chức càng trở nên quan trọng hơn. Hiện nay, chưa có công trình nghiên cứu
chuyên biệt về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải trong kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí. Tuy nhiên, ở nước ta trong một số công trình nghiên cứu
[67] [77] [96] [100] [110] [113] [116] [128] cũng đã đề cập vấn đề này, trong đó phân tích
các quy định pháp luật môi trường hiện hành về trách nhiệm, nghĩa vụ của các tổ chức, cá
nhân khi tham gia các hoạt động làm ảnh hưởng đến môi trường không khí, như: cá nhân
phải có trách nhiệm lập báo cáo đánh giá tác động môi trường khi có các dự án đầu tư có
nguy cơ làm ô nhiễm môi trường không khí; nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong kiểm
soát nguồn thải động, nguồn thải tĩnh; trách nhiệm ngăn chặn, phục hồi hiện trạng môi
trường không khí,... Tuy nhiên, do không nghiên cứu chuyên sâu vào vấn đề này nên đa
phần các công trình nghiên cứu chưa nghiên cứu rạch ròi các quy định về nghĩa vụ của tổ
chức, cá nhân chủ nguồn thải cũng như chưa đánh giá được rõ ràng những thành công,
hạn chế của các quy định pháp luật về vấn đề này. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu đề
tài luận án, tác giả sẽ tiếp thu các kết quả nghiên cứu trên, như: về chủ thể có nghĩa phải
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; trách nhiệm, nghĩa vụ, công cụ, phương tiện
của các chủ thể này trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Ba là, tổng quan các công trình nghiên cứu về đánh giá tác động môi trường
không khí (ĐTM). Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích dự báo những tác
động xấu đối với môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi
15
trường khi triển khai dự án đó [96]. Đánh giá tác động môi trường áp dụng với các dự án
đầu tư cụ thể có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí.
Đánh giá tác động môi trường lần đầu tiên được ghi nhận ở Hoa Kỳ năm 1970 trong
Luật về chính sách môi trường quốc gia. Sau đó ĐTM được lan rộng sang các hệ thống
pháp khác như Anh, Cộng hòa liên bang Đức và phần lớn Bắc Âu. Do tầm quan trọng
của việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường nên các định chế tài chính quốc tế
như: Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á đã tích cực thúc đẩy việc tiến
hành ĐTM. Đánh giá tác động môi trường ĐTM đã được chính thức ghi nhận trong Luật
Bảo vệ môi trường năm 1993 của Việt Nam. Trong luận văn thạc sĩ: Pháp luật Việt Nam
về đánh giá tác động môi trường, thực trạng và hướng hoàn thiện, của tác giả Võ Trung
Tín, Đại học luật Tp. Hồ Chí Minh năm 2005, đã phân tích thực trạng pháp luật Việt
Nam về đánh giá tác động môi trường, trong đó có đánh giá tác động môi trường không
khí. Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu khác [67] [77] [96] [100] [110] tuy
không trực tiếp nghiên cứu chuyên sâu pháp luật về đánh giá tác động môi trường không
khí, nhưng cũng có đề cập đến hiện trạng các quy định pháp luật về đánh giá tác động
môi trường chỉ ra những bất cập trong quy định về hội đồng thẩm định, về tổ chức dịch
vụ thẩm định, về ý kiến của cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án đầu tư,... Đây cũng là
cơ sở quan trọng cho nghiên cứu sinh trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án liên quan
đến vấn đề này.
Bốn là, tổng quan các công trình nghiên cứu về tổ chức và trách nhiệm của các
cơ quan quản lý nhà nước trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Đảng và Nhà
nước ta đã khẳng định bảo vệ môi trường là trách nhiệm của nhà nước và là nghĩa vụ
của mọi tổ chức, cá nhân. Nhân dân thành lập ra nhà nước để quản lý xã hội, nộp thuế
để Nhà nước thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình, trong đó có trách nhiệm
kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng. Do vậy, Nhà
nước phải có trách nhiệm hàng đầu trong kiểm kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí. Hiện nay, ở nước ta chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về trách
nhiệm của nhà nước trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, tuy nhiên đã có một
số công trình nghiên cứu chung về tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước về môi
trường, như: Tiến tới kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, của
Ban khoa giáo trung ương và Bộ Khoa học công nghệ và môi trường năm 2001 [4],
Thực tiễn áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ở Việt Nam hiện, nay của
tác giả Chu Hoa [48], Quản lý môi trường đô thị và khu công nghiệp, của Phạm Ngọc
Đăng[29]... Bên cạnh đó, cũng có một số công trình nghiên cứu nhỏ về kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí trong đó có đề cập đến trách nhiệm của cơ quan quản lý
nhà nước trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí [67] [77] [96] [100] [110]
16
[116]. Trong đó chỉ ra trách nhiệm của nhà nước trong thành lập hội đồng thẩm định,
thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường không khí, xây dựng quy chuẩn kỹ
thuật môi trường không khí, quan trắc hiện trạng, thông tin tình hình môi trường không
khí trong đó khẳng định đề cao quản lý nhà nước bằng công cụ kinh tế và nhấn mạnh
việc tiếp cận thông tin môi trường sẽ góp phần đảm bảo quyền con người được sống
trong một môi trường không bị ô nhiễm, xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường
không khí,... Không chỉ vậy một số nghiên cứu cũng đánh giá hoạt động quản lý nhà
nước về môi trường nói chung, trong đó có kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là
chưa hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế. Rất nhiều các vụ việc ô nhiễm môi trường được phanh phui thời
gian gần đây, như vụ Ve dan, ô nhiễm môi trường Thạch Sơn,... đã cho thấy sự bất lực
của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường.
Năm là, tổng quan các công trình nghiên cứu về trách nhiệm pháp lý đối với
hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí của các tổ chức, cá nhân chủ sở hữu nguồn
thải. Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí xét cho cùng là kiểm tra, giám sát các
hành vi của các tổ chức, cá nhân có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường không khí. Do vậy
khi cá nhân, tổ chức không tuân thủ các nghĩa vụ phòng ngừa ô nhiễm môi trường
không khí của mình mà có hành vi gây ảnh hưởng, ô nhiễm môi trường không khí thì họ
cần phải chịu những trách nhiệm pháp lý nhất định. Các công trình, bài viết nghiên cứu
về vấn đề này, như: Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi
làm ô nhiễm môi trường gây ra, của tác giả Bùi Kim Hiếu; Những điểm mới về tội phạm
môi trường trong Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2009, của PGS.TS. Phạm Văn Lợi; Ngăn
ngừa, xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng – Nhìn từ cơ chế,
chính sách, pháp luật về đầu tư, tài chính, lao động, đất đai, môi trường, của
PGS.TS.Phạm Hữu Nghị,... [23] [33] [42] [60] [69] [77] [100] [110] [116] đã chỉ ra các
trách nhiệm pháp lý có thể áp dụng với cá nhân là trách nhiệm hành chính, hình sự, dân
sự và trách nhiệm kỷ luật. Lý giải phân biệt giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
hành vi làm ô nhiễm môi trường và trách nhiệm hành chính của cá nhân, pháp nhân.
Nhiều kiến nghị tăng xử phạt hành chính đối với cá nhân, pháp nhân có hành vi làm ô
nhiễm môi trường. Hơn nữa, đối với pháp nhân ngoài trách nhiệm hành chính, trách
nhiệm dân sự ra một số công trình nghiên cứu đề nghị pháp nhân khi có hành vi làm ô
nhiễm môi trường có thể phải chịu cả trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, cũng có công
trình phản bác lại việc đề nghị hình sự hóa đối với pháp nhân có hành vi làm ô nhiễm
môi trường do mâu thuẫn với lý luận của luật hình sự về yếu tố lỗi.
Thứ tư, tổng quan các công trình nghiên cứu về hạn ngạch khí thải, kiểm soát
ô nhiễm môi trường không khí tầm xa.
17
Ô nhiễm môi trường không khí không chỉ ảnh hưởng đến môi trường không khí
tầm thấp xung quanh chúng ta mà còn ảnh hưởng đến môi trường không khí tầm xa mà
xét cho đến cùng thì hậu quả của nó đều tác động nguy hiểm đến sự tồn tại và phát triển
của con người. Khoa học đã chứng mình nếu thải quá nhiều chất thải như clo, flo,
cacbon, CO2 thì tầng ozon sẽ bị hiện tượng hiệu ứng nhà kính là nguyên nhân gây nên
biến đổi khí hậu toàn cầu. Một trong những giải pháp để ứng phó với biến đổi khí hậu là
phải hạn chế thải các chất gây hiệu ứng nhà kính. Trong Báo cáo quốc gia của Việt Nam
được Ngân hàng phát triển châu Á hỗ trợ: Climate Change in Asia: Viet Nam country
report, Asian Development Bank, 1994 đã cho thấy khí hậu ở châu Á đã có sự thay đổi
theo chiều hướng ngày càng xấu đi cả môi trường đất, nước và đặc biệt là không khí;
hay trong bài viết "Carbon-related border tax adjustment: mitigating climate change or
restricting international trade?" của Christine Kaufmann, Rolf H. Weber có phân tích
việc các quốc gia đánh thuế đối với các hàng hóa chứa nhiều hàm lượng cacbon có phải
sẽ giúp ứng phó được với khí hậu hay chỉ là biện pháp để cản trở tự do thương mại;
trong khi đó bài viết "Air quality: legal and policy issues”, của tác giả Scott Lyness.
Env. Law 2010, 56, 6-20. [Environmental Law], Publication Date: 2010 lại bàn về chính
sách và pháp luật để xây dựng một môi trường không khí chất lượng nhằm đảm quyền
được sống trong môi trường trong lành; trong bài viết “International treaties and US
laws as tools to regulate the greenhouse gas emissions from ships and ports”, của
Richard Hildreth, Alison Torbitt. I.J.M.C.L. 2010, 25(3), 347-376, International Journal
of Marine & Coastal Law, Publication Date: 2010 lại khẳng định ở Hoa Kỳ để kiểm soát
được khí thải gây hiệu ứng nhà kính ngoài các công ước quốc tế về bảo vệ tầng ozon,
ứng phó với biến đổi khí hậu, Hoa Kỳ cũng đã ban hành nhiều đạo luật trong nước về
vấn đề này. Đây là hai công cụ pháp lý quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm của nước
này, bài viết “The institutional and contractual instruments of Kyoto's Clean
Development Mechanism”, của tác giả Jean-Charles Bancal, Julia Kalfon, International
Business Law Journal 2009 thi lại nói đến việc tạo cơ chế pháp lý và dân sự để giúp phát
triển sạch tại Tokyo và để hướng tới môi trường không khí sạch nhiều nước đã xây dựng
hẳn một đạo luật về không khí sạch “History of the Clean Air Act”, nguồn
http://epa.gov/air/caa/caa_history.html,… Ở Việt Nam cũng có một số công trình nghiên
cứu về vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và cơ chế phát triển sạch ứng
phó với biến đổi khí hậu, như: bài viết "Nghĩa vụ kiểm soát ô nhiễm không khí tầm xa",
Nguyễn Phúc Thủy Hiền, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4 năm 2001; luận văn thạc sĩ:
Việt Nam với việc thực hiện điều ước quốc tế về biến đổi khí hậu, hướng tới hoàn thiện
các quy định pháp luật về cơ chế phát triển sạch và xuất khẩu chứng nhận giảm phát
thải khí nhà kính, của Thạc sĩ Phạm Văn Hảo, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm
18
2012; đề tài khoa học cấp Trường: Xu hướng biến đổi khí hậu và những vấn đề pháp lí
đặt ra đối với Việt Nam, của do TS. Phạm Văn Võ làm chủ nhiệm, Trường Đại học Luật
Tp. Hồ Chí Minh năm 2013,… đã phân tích làm rõ mối quan hệ giữa kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí với ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó khẳng định ô nhiễm
môi trường không khí là nguyên nhân chính dẫn tới biến đổi khí hậu và ứng phó với
biến đổi khí hậu phải dựa trên cơ sở kiểm soát hiệu quả các chất gây hiệu ứng nhà kính.
Để thực hiện được điều này chính là phải hoàn thiện cơ chế pháp lý về hạn ngạch khí
thải trên cơ sở thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế về ứng phó với biến đổi khí
hậu và phát triển sạch. Ví dụ như TôKyo, hay các nghiên cứu về lịch sử ra đời và phát
triển của đạo luật không khí sạch trên thế giới...
Bên cạnh đó, để phục vụ cho luận án, nghiên cứu sinh còn tổng quan các công
trình nghiên cứu dưới các giác độ khác nhau về các giải pháp để kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí, như: "Air pollution control engineering" của tác giả McGrew- HUI,
Inc, Philippe Sands, 1995 phân tích về kỹ thuật kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí; bài viết The "financial mechanism" and "flexible mechanisms" of the United
Nations Framework Convention on Climate Change, của tác giả Jean-Charles Bancal,
International Business Law Review 2009 thì phân tích về cơ chế tài chính và sử dụng
linh hoạt các công cụ trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trong Công ước về
chống biến đổi khí hậu,.. Ở Việt Nam để kiểm soát bảo vệ môi trường không khí, có
nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề này, có thể liệt kê: [7] [8] [12] [17] [20]
[33] [41] [50] [60] [72] [90] [69] [100] [116] [140] [141] [142]… Các công trình nghiên
cứu trong và ngoài nước này đã tiếp cận kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí dưới
giác độ kinh tế, kỹ thuật,… trong đó đã phân tích các vấn đề từ khái niệm đến kỹ thuật
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, phân tích về cơ chế tài chính và cơ chế linh
hoạt trong ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm đảm bảo nguyên tắc của luật môi trường
quốc tế đó là bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành,…
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.2.1. Những thành tựu trong nghiên cứu mà luận án kế thừa và tiếp tục phát triển
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu trên năm phương diện lớn, như: tổng
quan các công trình, các bài viết nghiên cứu chung về ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô
nhiễm môi trường; về ô nhiễm môi trường không khí và pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí; về nguồn gốc của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường, môi
trường không khí; về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; về kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí tầm xa và việc hoàn thiện khung pháp lý về kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam. Qua việc khảo cứu các tài liệu nghiên cứu về
vấn đề này có thể thấy, các nghiên cứu đã làm được những vấn đề sau:
19
Thứ nhất, các công trình, bài viết, khóa luận, luận văn, luận án, giáo trình đã đưa ra
được khái niệm ô nhiễm môi trường, ô nhiễm môi trường không khí. Ở giác độ nhất
định cũng đã nêu được khái niệm kiểm soát ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí, đặc điểm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Thứ hai, các công trình, bài viết, khóa luận, luận văn, luận án, giáo trình đã phần nào
phân tích được các quy định pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí;
đánh giá tác động môi trường nói chung trong đó có đánh giá tác động môi trường
không khí; nghĩa vụ phòng ngừa, hạn chế, ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi
trường không khí của các tổ chức cá nhân; phân tích làm rõ các quy định pháp luật về tổ
chức và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí; về thông tin tình hình môi trường, quan trắc hiện trạng môi
trường cũng như xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu ở mức độ nhất định cũng phân tích về tác động
của ô nhiễm môi trường không khí với tầng ozon và ứng phó với biến đổi khí hậu, trong
đó đặt ra vấn đề để kiểm soát được hiện tượng hiệu ứng nhà kính cần phải có sự hợp tác
của các quốc gia trong hạn chế khí thải gây biến đổi khí hậu.
Do vậy, trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án, tác giả sẽ có sự tiếp thu, kế thừa
những thành quả, các giá trị mà các nghiên cứu đã chỉ ra làm nền móng cho việc tiếp tục
nghiên cứu đề tài của mình của về lý luận cũng như thực tiễn.
1.2.2. Các vấn đề còn bỏ ngỏ hoặc chưa được giải quyết thấu đáo cần tiếp tục
nghiên cứu
Qua các công trình nghiên cứu đã công bố và được tác giả tổng quan cho thấy việc
nghiên cứu pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam vẫn còn
những hạn chế, thiếu sót, bất cập sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu chưa đưa ra một quan niệm đầy đủ về kiểm soát
ô nhiễm môi trường không khí, đặc biệt là chưa tiếp cận kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí trên cơ sở nội hàm của thuật ngữ này;
Thứ hai, chưa có công trình nghiên cứu nào phân tích một cách bài bản về nguồn gốc
của sự ra đời của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí;
Thứ ba, các công trình tuy có đưa ra đặc điểm của môi trường không khí và kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí, tuy nhiên chưa công trình nào có sự phân biệt rạch
ròi giữa thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường với thuật ngữ bảo vệ môi trường; đặc
điểm của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trong mối quan hệ với
biến đổi khí hậuntoàn cầu…
Thứ tư, các công trình nghiên cứu mặc dù có liệt kê nội dung của pháp luật kiểm soát
ô nhiễm môi trường không khí. Tuy nhiên, hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào
20
định ra các tiêu chí để đánh giá cũng như yêu cầu đối với hệ thống pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí hiện hành;
Thứ năm, về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Có thể thấy đa
phần các công trình tập trung nghiên cứu nghiên cứu kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí chủ yếu bằng công cụ pháp lý và hành chính mà chưa tập trung vào nghiên
cứu kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí dựa trên các công cụ kinh tế, các yếu tố xã
hội và các yếu tố thị trường.
Thứ sáu, một số nghiên cứu liên quan đến pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí, ví dụ về tiêu chuẩn môi trường không khí, đánh giá tác động môi
trường không khí… đã lạc hậu không còn phù hợp với pháp luật và thực tiễn pháp lý.
Thứ bảy, các công trình nghiên cứu đa phần chưa lý giải rõ cơ sở, mối quan hệ giữa
các chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài dân sự trong xử lý các hành vi làm ô
nhiễm môi trường không khí dẫn tới khó khăn trong quá trình áp dụng. Việc đặt ra trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân đối với hành vi làm ô nhiễm môi trường, trong đó có
môi trường không khí vẫn là vấn đề còn nhiều tranh luận và chưa có sự thống nhất do có
sự mâu thuẫn về cơ sở lý thuyết của vấn đề.
Thứ tám, chưa có nhiều nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia trên thế giới trong
lĩnh vực này một cách bài bản, từ đó so sánh với thực tiễn Việt Nam giúp chúng ta có
nhìn nhận vấn đề khách quan toàn diện và khoa học để hoàn thiện khung pháp lý kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí, hướng tới xây dựng Luật không khí sạch hoặc Luật
Kiểm soát ô nhiễm không khí ở Việt Nam.
Thứ chín, qua các công trình nghiên cứu pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí ở Việt Nam được tác giả tổng quan cho thấy chưa có công trình nghiên cứu
nào đưa ra được giải pháp mang tính hệ thống, toàn diện và bài bản về vấn đề này.
Trên cơ sở những vấn đề đặt ra, nghiên cứu sinh dự kiến sẽ đề xuất các kiến nghị,
giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí ở Việt Nam.
1.3. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án
1.3.1. Câu hỏi nghiên cứu của đề tài
Luận án được triển khai với các câu hỏi về khía cạnh lý luận, khía cạnh pháp luật thực
định để làm rõ mục đích của luận án đó là:
Thứ nhất, môi trường là gì, môi trường không khí là gì, ô nhiễm môi trường là gì, ô
nhiễm môi trường không khí là gì? Ô nhiễm môi trường không khí gây ra tác hại gì? và
tại sao phải kiếm soát ô nhiễm môi trường không khí? Kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí bằng công cụ gì?
21
Thứ hai, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí là gì? Nội hàm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ?
Chủ thể nào có trách nhiệm, nghĩa vụ kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí? Đối
tượng, công cụ, phương tiện, mục đích kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí?
Thứ ba, các đặc điểm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, phân biệt với
kiểm soát ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước;
Thứ tư, xuất xứ của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ra đời từ
khi nào? Cơ sở của sự ra đời đó là do đâu? Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
khác gì với bảo vệ môi trường không khí?
Thứ năm, lý thuyết điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí gồm những gì?
Thứ sáu, tiêu chí nào để đánh giá điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí?
Thứ bảy, pháp luật quốc tế và một số nước trên thế giới quy định thế nào vê kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí?
Thứ tám, thực trạng các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí ở Việt Nam như thế nào?
Thứ chín, thực tiễn áp dụng và thực hiện các quy định pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí Việt Nam ra sao?
Thứ mười, yêu cầu, quan điểm nào đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí? Giải pháp nào cho việc hoàn thiện pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí?
1.3.2. Lý thuyết nghiên cứu của đề tài
Luận án nghiên cứu pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí dựa
trên các lý thuyết sau:
- Lý thuyết về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí dựa trên coi trọng phòng
ngừa là chính;
- Lý thuyết về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí để bảo đảm phát triển
bền vững quốc gia;
- Lý thuyết về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nhằm ứng phó với biến
đổi khí hậu;
- Lý thuyết về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nhằm bảo vệ quyền được
sống trong môi trường trong lành;
22
1. 3.3. Giả thuyết nghiên cứu của đề tài
- Quan niệm về môi trường, môi trường không khí, ô nhiễm môi trường không
khí, tác động tiêu cực của ô nhiễm môi trường không khí và các công cụ kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí chưa toàn diện, chưa rõ ràng;
- Cơ sơ lý luận của pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt
Nam chưa đầy đủ, toàn diện;
- Các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí còn bất cập,
thiếu sót, tản mạn, chưa có tính hệ thống.
- Thực trạng áp dụng, thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí còn gặp nhiều vướng mắc.
- Chưa có phương hướng rõ ràng, xuyên suốt, lâu dài về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí. Các giải pháp còn chưa đồng bộ, thiếu các giải pháp mang tính đặc
thù để khắc phục những hạn chế trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và bảo
đảm kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được hiệu quả.
Kết luận Chƣơng 1
Thứ nhất, trên cơ sở tổng quan nhóm các công trình nghiên cứu về ô nhiễm môi
trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường, nội dung của kiểm soát ô nhiễm môi trường,
pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường. Qua đó chỉ ra cách hiểu khác nhau về ô
nhiễm môi trường không khí, dưới giác độ liệt kê, dưới giác độ y học và dưới giác độ
pháp lý.Dưới giác độ pháp lý, các nghiên cứu chỉ ra: ô nhiễm môi trường là sự biến đổi
của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng
xấu đến con người và sinh vật. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu đều khẳng định
những ảnh hưởng xấu của ô nhiễm môi trường đến con người và sinh vật. Hai là, các
công trình nghiên cứu đưa ra cách hiểu về kiểm soát ô nhiễm môi trường, nội dung của
kiểm soát ô nhiễm môi trường, thu thập, quản lý và công bố các thông tin về môi
trường, xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch kiểm soát ô nhiễm; ban hành và áp
dụng các tiêu chuẩn môi trường; quản lý chất thải; xử lý, khắc phục tình trạng môi
trường bị ô nhiễm,...
Thứ hai, tổng quan các công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí. Đã khảo cứu các công trình nghiên cứu ở Việt Nam về
xuất xứ của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí từ năm 1960 đến nay. Từ đó chỉ ra thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường
mới được chính thức ghi nhận lần đầu tiên trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005. Do
vậy, trong đề tài luận án này tác giả sẽ nghiên cứu và lý giải sâu hơn về sự ra đời và phát
triển cũng như ghi nhận trong pháp luật Việt Nam về thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi
23
trường. Bên cạnh đó, Chương này cũng tổng quan các công trình nghiên cứu về khái
niệm, đặc điểm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở các giác độ khác nhau từ
giác độ pháp lý, cho đến giác độ liệt kê,... Qua đó cho thấy mặc dù các công trình nghiên
cứu đã đưa ra được khái niệm về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, chỉ ra đặc
điểm của ô nhiễm môi trường không khí như: không khí không thể phân chia, khó xác
định quyền sở hữu; giá trị môi trường không khí không biểu hiện ngay trước mắt, đặc
biệt là lợi ích kinh tế; kiểm soát ô nhiễm không khí cần dựa trên công nghệ kỹ thuật tiên
tiến,… Mặc dù vậy, các nghiên cứu khi đưa ra các khái niệm về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí chưa thể hiện đầy đủ nội hàm của từ kiểm soát ô nhiễm,…
Thứ ba, tổng quan các công trình nghiên cứu thực trạng các quy định pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Qua đó, một
là, chỉ ra pháp luật hiện hành của Việt Nam đang thiếu quy chuẩn kỹ thuật môi trường
không khí trong lĩnh vực nông nghiệp, một số quy chuẩn đã lạc hậu so với các nước
trong khu vực và trên thế giới đồng thời đưa ra kiến giải hoàn thiện pháp luật về vấn đề
này; hai là, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu các quy định về nghĩa vụ của tổ
chức, cá nhân chủ nguồn thải cũng như chưa đánh giá được rõ ràng những thành công,
hạn chế của các quy định pháp luật về vấn đề này; ba là, đã có một số công trình nghiên
cứu về đánh giá tác động môi trường, tuy không trực tiếp nghiên cứu chuyên sâu pháp
luật về đánh giá tác động môi trường không khí, nhưng cũng có đề cập đến hiện trạng
các quy định pháp luật về đánh giá tác động môi trường chỉ ra những bất cập trong quy
định về hội đồng thẩm định, về tổ chức dịch vụ thẩm định, về ý kiến của cộng đồng dân
cư nơi thực hiện dự án đầu tư,...; bốn là, về trách nhiệm của nhà nước trong kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí,các công trình nghiên cứu đã chỉ ra trách nhiệm của nhà
nước trong thành lập hội đồng thẩm định, thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi
trường không khí, xây dựng quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí, quan trắc hiện
trạng, thông tin tình hình môi trường không khí trong đó khẳng định đề cao quản lý nhà
nước bằng công cụ kinh tế và nhấn mạnh việc tiếp cận thông tin môi trường sẽ góp phần
đảm bảo quyền con người được sống trong một môi trường không bị ô nhiễm, xử lý các
hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí,... Không chỉ vậy một số nghiên cứu cũng
đánh giá hoạt động quản lý nhà nước về môi trường nói chung, trong đó có kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí là chưa hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Năm là, về trách nhiệm pháp lý đối
với hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí. Các các công trình nghiên cứu đã chỉ ra
các trách nhiệm pháp lý có thể áp dụng với cá nhân là trách nhiệm hành chính, hình sự,
dân sự và trách nhiệm kỷ luật. Lý giải phân biệt giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
hành vi làm ô nhiễm môi trường và trách nhiệm hành chính của cá nhân, pháp nhân.
24
Nhiều kiến nghị tăng xử phạt hành chính đối với cá nhân, pháp nhân có hành vi làm ô
nhiễm môi trường. Hơn nữa, đối với pháp nhân ngoài trách nhiệm hành chính, trách
nhiệm dân sự ra một số công trình nghiên cứu đề nghị pháp nhân khi có hành vi làm ô
nhiễm môi trường có thể phải chịu cả trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, cũng có công
trình phản bác lại việc đề nghị hình sự hóa đối với pháp nhân có hành vi làm ô nhiễm
môi trường do mâu thuẫn với lý luận của luật hình sự về yếu tố lỗi.
Thứ tư, tổng quan các công trình nghiên cứu về hạn ngạch khí thải, kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí tầm xa. Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước này
đã tiếp cận kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí dưới giác độ kinh tế, kỹ thuật,…
trong đó đã phân tích các vấn đề từ khái niệm đến kỹ thuật kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí, phân tích về cơ chế tài chính và cơ chế linh hoạt trong ứng phó với
biến đổi khí hậu nhằm đảm bảo nguyên tắc của luật môi trường quốc tế đó là bảo đảm
quyền được sống trong môi trường trong lành,…
Thứ năm, đã chỉ ra những thành tựu trong các công trình nghiên cứu mà luận án
kế thừa và tiếp tục phát triển và các vấn đề còn bỏ ngỏ hoặc chưa được giải quyết thấu
đáo cần tiếp tục nghiên cứu;
Thứ sáu, đã xác định rõ cơ sở lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án dựa trên lý
thuyết về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí lấy phòng ngừa là chính, bảo đảm quyền
được sống trong môi trường trong lành, bảo đảm phát triển bền vững và nhằm ứng phó với
biến đổi khí hậu, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành;
Thứ bảy, đặt ra một loạt các câu hỏi nghiên cứu từ lý luận đến thực tiễn pháp luật
về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; đưa ra các lý thuyết nghiên cứu và các giả
thuyết nghiên cứu để giải quyết được hiệu quả các câu hỏi nghiên cứu.
25
Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG
KHÔNG KHÍ VÀ PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT Ô NHIỄM
MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ
2.1. Lý luận về ô nhiễm môi trƣờng không khí và kiểm soát ô nhiễm môi trƣờng
không khí
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm của môi trường không khí
2.1.1.1. Khái niệm môi trường không khí
Hiện nay, trên thế giới và cả Việt Nam có nhiều cách hiểu khác nhau về môi
trường. Dưới giác độ triết học, môi trường là toàn bộ nói chung những điều kiện tự
nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối
quan hệ với con người hay sinh vật ấy [130,tr618]. Dưới giác độ phát triển bền vững,
tác giả cho rằng môi trường được hiểu bảo gồm cả môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội. Còn theo quan điểm được ghi nhận trong Luật Bảo vệ Môi trường
2005 thì, môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con
người, có tác động đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh
vật. Luật Bảo vệ môi trường 2014 hiện hành định nghĩa về môi trường một cách xúc
tích hơn, coi môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác
động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật [83]. Tuy nhiên, theo
định nghĩa này cũng chưa thể hiện được mối quan hệ biện chứng giữa con người và môi
trường (chúng ta chỉ thấy sự tác động một chiều từ môi trường đến con người mà không
thấy con người cũng có thể tác động trở lại môi trường. Do vậy, trong luận án này tác
giả hiểu môi trường là hệ thống các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo có tác động
qua lại đến sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Các yếu tố tự nhiên, gồm
đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật và các hình thái vật chất khác.
Còn các yếu tố vật chất nhân tạo do con người tạo ra, như: đường xá, cầu cống, sân
bay, bến cảng, nhà ga,… Các yếu tố này tác động đến sự tồn tại và phát triển của con
người và sinh vật và ngược lại con người cũng tác động trở lại nó theo chiều hướng
tốt lên hoặc xấu đi.
Còn không khí là yếu tố tự nhiên, một thành phần của môi trường, cấu thành môi
trường sống. Quan niệm chung trên thế giới, không khí hay khí quyển được hiểu đơn
giản là khối khí bao quanh trái đất và được giữ lại bởi lực hút của trái đất. Không khí là
một phần của khí quyển, là bộ phận tiếp xúc trực tiếp với con người cũng như dễ bị con
người tác động đến [59]. Dưới góc độ hóa lý, theo quan điểm được ghi nhận trong Giáo
trình trường Đại học Luật Hà Nội năm 2014 thì, không khí là một hỗn hợp của các chất
26
khí, không khí không màu, không mùi và không vị, trong không khí có 0,95% oxy, 78,9%
nito, 0,93% acgong, 0,32% dioxit cacbon. Ngoài ra không khí còn có một số khí hiếm
khác như: metan, hêli, neon, krypton và hơi nước [97,165]. Tuy nhiên, cũng theo cách
hiểu này, tài liệu khác lại cho rằng thể tích oxy trong môi trường không khí không phải
là 0,95% mà chiếm 20,9%. Cụ thể: môi trường không khí là lớp chất khí bao quanh
hành tinh trái đất và được giữ lại bởi lực hấp dẫn của trái đất. Nó gồm có nitơ (78,1%
theo thể tích) và oxy (20,9%), với một số lượng nhỏ agon (0,9%), dioxit cacbon (dao
động khoảng 0,035%), hơi nước và một số chất khí khác. Qua đó có thể thấy cách hiểu
về môi trường không khí chưa hẳn đã có sự đồng nhất với nhau. Tác giả cho rằng, môi
trường không khí là hỗn hợp các chất khí bao quanh trái đất và được giữ lại bởi lực hấp
dẫn của trái đất, như nitơ (78,1% theo thể tích) và oxy (20,9%), với một số lượng nhỏ
agon (0,9%), dioxit cacbon (dao động khoảng 0,035%), hơi nước và một số chất khí
khác có tác động qua lại đến sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Trong
mối quan hệ giữa con người với môi trường không khí có sự tác động qua lại lẫn nhau,
không chỉ có không khí tác động đến con người mà con người cũng tác động trở lại đến
môi trường không khí, theo đó con người có thể giữ/làm cho môi trường không khí
trong lành hơn, nhưng cũng có thể làm cho môi trường không khí bị ô nhiễm hơn. Môi
trường không khí phải có những đặc điểm sau:
2.1.1.2. Đặc điểm của môi trường không khí
Môi trường không khí là một bộ phận quan trọng cấu thành môi trường sống, do
đó ngoài các đặc điểm chung của môi trường, so với môi trường đất, nước, môi trường
không khí có nhiều điểm khác biệt từ tính chất lý hóa đến vai trò, tầm quan trọng của
không khí đối với mọi mặt của đời sống xã hội:
Thứ nhất, với tính cách là một thành phần của môi trường sống, môi trường không
khí được cấu thành bởi các yếu tố khác so với môi trường đất, môi trường nước. Theo đó
môi trường không khí là hỗn hợp các chất khí bao trùm toàn cầu và có sự gắn kết chặt chẽ
với nhau, như: nitơ (78,1% theo thể tích) và oxy (20,9%), với một số lượng nhỏ agon
(0,9%), dioxit cacbon (dao động khoảng 0,035%), hơi nước và một số chất khí khác để
cung cấp dưỡng khí thiết yếu cho sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật;
Thứ hai, môi trường không khí mang tính khuếch tán, lan truyền nhanh. Như đã
phân tích ở trên môi trường không khí bao gồm các phần tử khí bao quanh trái đất, các
phần tử khí này luôn chịu tác động của các hiện tượng tự nhiên cũng như nhân tạo của
con người, như: gió làm khuếch tán môi trường không khí, mưa làm các phần tử khí có
xu hướng bị co kéo, biến đổi; bão, ánh sáng, âm thanh cũng làm cho các phần tử không
khí bị tác động, biến đổi không ngừng…;
27
Thứ ba, môi trường không khí không thể phân chia được ranh giới. Còn môi
trường đất hay môi trường nước đều có thể phân chia được ranh giới. Đất đai không chỉ
là cơ sở vật chất cấu thành nên một quốc gia mà còn có vai trò quan trọng với đời sống,
sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người. Con người xây nhà ở và các công trình
trên đất, trồng trọt, chăn nuôi trên đất,… Trên trái đất diện tích đất tự nhiên rộng lớn và
được chia thành 6 châu lục: châu Á, châu Mỹ, châu Phi, châu Âu, châu Nam Cực, đất
đai tại các châu lục này lại được phân chia thành trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ có
vị trí, ranh giới rõ ràng, xác định. Trong các quốc gia, vùng lãnh thổ đó lại chia thành
các đơn vị hành chính nhỏ hơn. Ví dụ: Việt Nam được chia nhỏ thành các đơn vị tỉnh,
các tỉnh chia nhỏ thành các huyện các huyện chia nhỏ thành nhiều xã và các đơn vị này
có vị trí, ranh giới rõ ràng, xác định trên thực địa. Còn môi trường nước là cơ sở quan
trọng của sự sống hay nói cách khác, nước là sự sống, không có nước thì không có sự
sống, điều đó lý giải tại sao các nhà khoa học đi tìm sự sống trên hành tinh khác, cái đầu
tiên họ tìm là hành tinh đó có nước hay không. Trên trái đất có nguồn nước rất lớn với ¾
bề mặt trái đất được bao phủ bởi nước, trong đó có trên 97% là nước biển còn hơn 2% là
nước ngọt. Sự đa dạng phong phú về nguồn nước là cơ sở tạo nên sự đa dạng về các loài
sinh vật trên trái đất. Môi trường nước mặc dù bao phủ phần lớn trái đất như nước trên
các đại dương, nhưng rõ ràng có thể phân chia được ranh giới, bởi các yếu tố tự nhiên,
cũng như yếu tố nhân tạo và kỹ thuật. Ví dụ: nước giữa các hồ, biển hồ nằm trong đất
liền thì sẽ tạo ra giới hạn với vùng nước đó với nguồn nước khác bởi đất bao quanh;
thậm chí biển cả, các dòng sông quốc tế thì người ta vẫn có thể phân biệt được ranh giới
nguồn nước trên cơ sở các điều kiện tự nhiên và kỹ thuật. Do vậy chúng ta có thể dễ
dàng xác định và phân biệt được đó là sông hồ, vùng biển của quốc gia nào, tỉnh nào,
huyện nào, xã nào theo và gắn với trách nhiệm của các đơn vị hành chính, các quốc gia
đó trong bảo vệ môi trường nước. Tuy nhiên, môi trường không khí thì không hẳn như
vậy nó bao gồm các phân tử khí bao quanh trái đất và được giữ lại bởi lực hút của trái
đất, môi trường không khí nó mang tính bao trùm nên không bị giới hạn bởi các yếu tố
tự nhiên cũng như con người. Các yếu tố tự nhiên giới hạn môi trường không khí trong
bầu khí quyển xung quanh trái đất, con người chỉ có thể giới hạn được môi trường
không khí ở quy mô rất nhỏ hoặc trong phòng thí nghiệm. Theo luật quốc tế về biên giới
lãnh thổ thì vẫn có thể phân biệt được biên giới trên không giữa các quốc gia nó được
tạo ra bởi biên giới xung quanh và biên giới trên cao. Biên giới xung quanh được xác
định dựa trên đường biên giới trên bộ và trên biển (nếu có) kéo thẳng lên hướng vào tâm
trái đất, còn đường biên giới trên cao là đường thẳng nằm song song với bề mặt trái đất
nhằm phân định giữa biên giới trên không của các quốc gia với khoảng không vụ trụ của
nhân loại. Tuy nhiên, đó chỉ là ranh giới về mặt địa lý, kỹ thuật, còn về góc độ lý hóa thì
28
các phần tử khí trong môi trường không khí không bị giới hạn bởi ranh giới địa lý đó
hay nói cách khác là ranh giới đó hoàn toàn không chặn được. Do vậy, chúng ta thường
nói trái đất là ngôi nhà chung, và do không phân định được ranh giới thực sự của môi
trường không khí mới dẫn tới hiện tượng ô nhiễm môi trường không khí ở nước này,
nhưng ảnh hưởng đến môi trường không khí của nước khác. Ví dụ: cháy rừng ở
Inđônêxia dẫn đến ô nhiễm khói mù ở Singapore, Malaysia hay Philippin,… Rò rỉ chất
phóng xạ hạt nhân ở Nhật Bản ảnh hưởng tạo ra các đám mây phóng xạ, theo gió bay
đến các quốc gia khác và gây ô nhiễm môi trường không khí ở quốc gia khác.
Thứ tư, tính không xác định chủ sở hữu cụ thể của môi trường không khí. Không
khí không thuộc quyền sở hữu riêng của bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào mà thuộc sở
hữu chung của tất cả mọi người, của các quốc gia và của toàn cầu. Khác với không khí,
do có thể phân chia, xác định ranh giới được nên đất đai có thể xác định được chủ sở
hữu, là cơ sở để cấu thành quốc gia nên ở phạm vi rộng đất đai thuộc chủ quyền của
quốc gia do quốc gia quản lý, thậm chí có quốc gia như Việt Nam chúng ta thì coi đất
đai thuộc sở hữu toàn dân, và ranh giới đất đai để phân định với đất đai của quốc gia
khác là đường biên giới trên bộ và đường biên giới trong lòng đất. Còn trong phạm vi
quốc gia đất đai được phân chia thành các đơn vị hành chính lãnh thổ cũng như các thửa
nhỏ và đều có chủ sở hữu, sử dụng xác định.
Về nguồn nước, mặc dù mang tính luân chuyển hơn so với đất, nhưng việc xác
định chủ sở hữu với nguồn nước không khó. Ở Việt Nam, pháp luật quy định đất đai,
rừng núi, sông hồ, biển đảo, tài nguyên nước là thuộc sở hữu toàn dân và nhà nước là
đại diện chủ sở hữu và quản lý toàn bộ nguồn tài nguyên này. Còn môi trường không
khí do tính bao trùm không xác định được ranh giới của nó nên việc xác định quyền sở
hữu về môi trường không khí dường như là điều không thể. Không thể xác định không
khí bên lãnh thổ nước mình là hoàn toàn độc lập và tách rời với không khí của quốc gia
khác, cũng như không thể khẳng định không khí này của riêng tôi, còn không khí kia là
của anh. Do vậy, môi trường không khí bao trùm lên mọi quốc gia, tất cả mọi người.
Qua đó có thể khẳng định môi trường không khí là tài sản chung của cả nhân loại và
phải được tất cả các nhà nước, mọi người cùng nhau bảo vệ.
Thứ năm, tính khó xác định giá trị của môi trường không khí. Đối với tài nguyên
nước, tài nguyên đất,... giá trị về mặt kinh tế được thể hiện rõ ràng ngay lập tức, còn
không khí mặc dù rất quan trọng, nhưng giá trị của nó con người không nhận ra rõ ràng
ngay lập tức mà chỉ khi môi trường không khí bị ô nhiễm con người mới nhận ra giá trị
của nó. Còn đất đai không chỉ là cơ sở cấu thành lãnh thổ quốc gia mà đất đai còn là một
loại tài sản đặc biệt, bởi nó có giá trị và giá trị sử dụng. Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu
hóa các quốc gia phát triển nền kinh tế thị trường thì thị trường mua bán đất đai (bất
29
động sản) được thừa nhận và phát triển mạnh. Nó có tác dụng thúc đẩy các thị trường
khác phát triển và phát triển nền kinh tế nói chung. Ở Việt Nam, mặc quy định đất đai
thuộc sở hữu toàn dân nhưng các tổ chức, cá nhân cũng được nhà nước giao, cho thuê,
công nhận, cho phép nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, và quyền sử dụng đất
được coi là một quyền tài sản, người sử dụng đất có quyền chuyển nhượng, chuyển đổi,
thừa kế, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn, cho thuê, cho thuê lại. Các giao dịch này
mang lại giá trị và nguồn thu lớn cho các tổ chức, cá nhân tham gia và tạo nguồn thu cho
ngân sách nhà nước. Còn đối với tài nguyên nước do giá trị của nguồn nước đối với sự
tồn tại, phát triển, đời sống và hoạt động sản xuất của con người nên giá trị của nguồn
nước được xác định rất rõ. Ở quy mô quốc gia nhiều quan điểm cho rằng chiến tranh
tương lai là chiến tranh về nguồn nước. Ví dụ: tranh chấp ở khu vực bờ Tây sông Gioóc
Đan giữa Ixraen và Plestin thực chất là tranh chấp về nguồn nước của dòng Sông này.
Thậm chí ở lưu vực sông MeKong ở khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc, nếu các
quốc gia không có những giải pháp mang tính toàn diện để quản lý và sử dụng hợp lý
nguồn nước mà cứ mạnh ai ấy làm như hiện nay thì tương lai không xa tranh chấp về sử
dụng nguồn nước rất có thể sẽ xảy ra và gây ra những thiệt hại khó lường với không chỉ
khu vực mà cả quốc tế. Những quốc gia sa mạc hoặc quốc đảo như Singapo do thiếu
nước ngọt nên thậm chí phải mua nước ngọt của Malaisia,… Ở giác độ cá nhân thì
nguồn nước cũng được sử dụng hàng ngày mà vấn đề là nước thì không phải ở đâu cũng
có, cũng dễ dàng lấy ngay được. Do vậy, việc tài nguyên nước được mua bán, trao đổi
không có gì lạ, thậm chí ở một số quốc gia nước còn đắt hơn cả tài nguyên khoáng sản
khác. Ví dụ như: tại Venezuela nước còn đắt hơn xăng dầu [32]. Điều làm nên giá trị rõ
ràng của đất và nước không hẳn chỉ là giá trị của nó với sinh tồn của con người mà mà
còn là giá trị của nó với đời sống và hoạt động sản xuất, mà đời sống sản xuất lại là hoạt
động hàng ngày của con người. Trong khi đó môi trường không khí thì bao trùm ai cũng
có thể thụ hưởng nó, giá trị của môi trường không khí liên quan đến sự tồn tại của con
người là rất lớn. Bởi thiếu thức ăn thì sự sống của con người có thể tính bằng ngày, thiếu
nước uống thì sự sống con người được tính bằng giờ, còn thiếu không khí thì sự sống
của con người chỉ có thể tính bằng “phút”, thậm chí là “giây”. Tuy nhiên, đối với đời
sống, sản xuất thì giá trị của môi trường không khí lại thể hiện không được nhiều. Ví dụ:
hiện nay không khí chưa được coi là một loại hàng hóa, nó tham gia vào rất ít các giao
dịch. Ví dụ: dịch vụ bơm xe đạp, xe máy hoặc các dụng cụ vui chơi trẻ em,…, do không
khí mang tính bao trùm như đã trình bày trên. Do vậy con người chỉ có thể nhận ra giá
trị của môi trường không khí khi nó bị ô nhiễm. Đó là điều đáng tiếc.
Thứ sáu, sự tác động của môi trường không khí đến sức khỏe, tính mạng con
người thường chậm nên khó xác định được chính xác thiệt hại. Môi trường không khí
30
thường tác động đến sức khỏe, tính mạng của con người động thực vật, tuy nhiên nó
không thể hiện ở mức độ cấp tính ngay mà ngấm dần. Theo cảnh báo của Tổ chức Y tế
thế giới thì ô nhiễm môi trường không khí là một trong các nguyên nhân gây ra các căn
bệnh liên quan đến hô hấp hay ung thư phổi, đặc biệt là ô nhiễm bụi mịn (PM < 2.5
micromet). Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường không khí không phải ngay lập tức gây cho
người hít phải bị ngay những căn bệnh này mà nó là quá trình diễn ra từ từ, dần dần, khi
các chất ô nhiễm tích tụ thấm dần vào cơ thể con người dẫn tới những căn bệnh nan y
hiện nay khoa học vẫn vô phương cứu chữa này.
Với tư cách là một trong các thành tố chính cấu thành môi trường sống, môi
trường không khí có vai trò rất quan trọng đối với đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát
triển của con người và sinh vật. Nếu không có không khí con người và sinh vật sẽ không
thể tồn tại và phát triển được. Mặc dù môi trường không khí có tầm quan trọng như vậy
song môi trường không khí ở Việt Nam lại đang đứng trước nguy cơ ô nhiễm ở nhiều
nơi và ngày càng trở lên trầm trọng.
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại ô nhiễm môi trường không khí
2.1.2.1. Khái niệm ô nhiễm môi trường không khí
Môi trường không khí ban đầu vốn cân bằng là điều kiện thuận lợi cho con người
và sinh vật tồn tại và phát triển bình thường. Tuy nhiên, khi bị chất ô nhiễm tác động sẽ
làm thành phần môi trường không khí bị biến đổi theo chiều hướng xấu đi gây ảnh
hưởng xấu đến con người và sinh vật. Chất ô nhiễm là một số chất có trong khí quyển ở
một nồng độ cao hơn mức bình thường cần có hoặc chất đó thường không có trong
không khí. Dưới góc độ vật lý, chất ô nhiễm là chất và yếu tố vật lý khi xuất hiện trong
môi trường thì làm cho môi trường bị ô nhiễm [94]. Còn dưới giác độ pháp lý, tác giả
đồng ý với quan điểm cho rằng, chất gây ô nhiễm là các chất hóa học, các yếu tố vật lý
và sinh học khi xuất hiện trong môi trường cao hơn ngưỡng cho phép làm cho môi trường
bị ô nhiễm (khoản 11, Điều 3) [83, 4]. Vậy ô nhiễm môi trường là gì?
Ô nhiễm môi trường nói chung được hiểu là sự biến đổi của các thành phần môi
trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con
người và sinh vật. Còn ô nhiễm không khí, theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, ô
nhiễm không khí là sự thay đổi lớn trong thành phần của không khí hoặc có sự xuất hiện
các khí lạ làm cho không khí không sạch, có sự tỏa mùi, làm giảm tầm nhìn xa, gây biến
đổi khí hậu, gây bệnh cho con người và sinh vật [11]. Ở góc độ tổng hợp, ô nhiễm môi
trường không khí là có sự biến đổi môi trường theo hướng bất lợi đối với cuộc sống của
con người, của động vật và thực vật, mà sự thay đổi đó chủ yếu lại chính do hoạt động
của con người gây ra với quy mô, phương thức và mức độ khác nhau, trực tiếp hoặc
31
gián tiếp tác động làm thay đổi mô hình, thành phần hóa học, tính chất vật lý và sinh
học của môi trường không khí.
Tác giả cho rằng, ô nhiễm môi trường không khí là sự biến đổi của thành phần môi
trường không khí không phù hợp/vi phạm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường
không khí gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật.
Nhìn lại lịch sử thế giới có thể thấy, ô nhiễm môi trường không khí không phải là
vấn đề mới và mới được phát hiện, mà nó đã được đề cập cách đây hàng thế kỷ. Hơn
300 năm trước, nhà khoa học John Evalyn, chuyên bút ký và ghi chép khoa học đã minh
họa với độ chính xác cao về tác động của ô nhiễm môi trường không khí do đốt cháy
nhiên liệu gây ra, như: làm đục bầu trời, làm giảm bức xạ mặt trời chiếu xuống trái đất,
làm con người bị đau yếu và tử vong, phiền muộn lo âu vì hít thở phải bụi, khói, khi
độc,…[68]. Tuy nhiên, đến thể kỷ XX, đặc biệt là những thập kỷ gần đây, khi các thảm
họa khủng khiếp hơn và phát triển các nghiên cứu thực nghiệm để đánh giá cẩn thận tác
hại khủng khiếp do ô nhiễm môi trường không khí gây ra, con người mới bắt đầu quan
tâm đến môi trường không khí, cũng như nghiên cứu các biện pháp để phòng ngừa nó.
2.1.2.2. Đặc điểm của ô nhiễm môi trường không khí
Thứ nhất, phạm vi của ô nhiễm môi trường không khí thường rộng, bởi môi
trường không khí mang tính khuếch tán, lan truyền nên chất gây ô nhiễm được thải vào
môi trường không khí sẽ không tập trung mà theo gió phát tán ra môi trường. Nên việc
phát hiện được ô nhiễm cũng như mức độ ô nhiễm môi trường không khí là rất khó
khăn. Ví dụ: coca cola là hãng nước ngọt có ga hàng đầu thế giới rất nổi tiếng với các
vấn đề về trách nhiệm xã hội, trong đó có việc quan tâm đến bảo vệ môi trường. Mặc dù
vậy người ta mới phát hiện ra tại cơ sở sản xuất của hãng tại Hà Nội (Hà Tây cũ) có
hành vi lén xả thải chất ô nhiễm chưa xử lý vào ban đêm[100]. Có thể thấy, hành vi này
đã diễn ra nhiều năm, nhưng do thải vào ban đêm nên khi trời sáng thì chất gây ô nhiễm
không còn tích tụ ở khu vực đó nữa nên rất lâu sau mọi người mới phát hiện
được hành vi này. Thực tế là tính làn truyền, khuếch tán ở chừng mực nhất định có thể
làm giảm mức độ ô nhiễm môi trường không khí, góp phần giảm tác động cấp tính đến
con người tại nơi ô nhiễm ngay trong một thời điểm, nhưng rõ ràng nó làm cho nhiều
khu vực phải hứng chịu ô nhiễm hơn. Bởi xét cho cùng không phải tính khuếch tán lan
truyền mà có thể làm mất nguy cơ ô nhiễm môi trường không khí. Bởi môi trường
không khí mặc dù rất rộng nhưng được giới hạn trong bầu khí quyển xung quanh trái đất
và nó cũng có sức chịu tải nhất định. Nếu chúng ta cứ xả thải chất gây ô nhiễm vượt quá
sức chịu tải, tự cân bằng của môi trường không khí thì biểu hiện của ô nhiễm môi trường
không khí sẽ rõ ngay. Ví dụ: ô nhiễm khói mù, ô nhiễm bụi, ô nhiễm mùi, ô nhiễm khí
thải…;
32
Thứ hai, ô nhiễm môi trường không khí mang tính xuyên biên giới. Không giống
như đất đai, nguồn nước có thể phân chia được ranh giới, còn môi trường không khí lại
không thể phân chia được nên ô nhiễm môi trường không khí thường mang tính xuyên
biên giới, không loại trừ một quốc gia nào, giàu có hay không và vị trí địa lý ra sao cũng
đều có thể bị ô nhiễm môi trường không khí cũng như phải hứng chịu những tác hại từ ô
nhiễm môi trường không khí mà nguyên nhân có thể không phải do nước mình gây ra.
Ví dụ: cháy rừng ở Inđônêxia không chỉ gây ô nhiễm khói bụi cho nước này mà còn ảnh
hưởng đến cả Malaysia và Singapore,…;
Thứ ba, ô nhiễm môi trường không khí không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân, tổ
chức cụ thể mà thường ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều người, như: một cộng đồng dân
cư (thôn, làng, bản, ấp,…), ảnh hưởng đến nhiều cộng đồng dân cư các địa phương,
thậm chí là ảnh hưởng đến nhiều quốc gia. Do vậy, mức độ ảnh hưởng của ô nhiễm môi
trường không khí thường rất lớn.
Thứ tư, ô nhiễm môi trường không khí thường tác động đến sức khỏe, tính mạng
của con người động, thực vật, tuy nhiên nó không thể hiện ở mức độ cấp tính ngay mà
ngấm dần. Do vậy vấn đề bảo vệ, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí thường
không được quan tâm kịp thời.
Thứ năm, ô nhiễm không khí không chỉ ảnh hưởng lớn đến môi trường không khí
tầm thấp gần bề mặt trái đất mà còn dẫn đến ô nhiễm môi trường không khí tầm xa làm
suy giảm tầng ozon, hay gây ra hiện tượng hiệu ứng nhà kính dẫn đến biến đổi khí hậu
toàn cầu gây ra những hiện tượng tự nhiên bất thường, như bão, động đất, sóng thần, núi
lửa phun trào,…;
Thứ sáu, thành phần lý hóa cấu thành môi trường không khí khác so với môi
trường đất, môi trường nước. Không khí là một hỗn hợp các chất khí không màu, không
mùi, không vị bao quanh trái đất với những phần tử khí cần thiết bảo đảm sự tồn tại phát
triển bình thường của con người và hệ sinh thái. Do vậy, khi các chất gây ô nhiễm tác
động nó sẽ làm biến đổi thành phần môi trường không khí theo hướng bất lợi với đời
sống của con người và sinh vật.
Mặc dù không khí rất quan trọng với cuộc sống của con người, nhưng nhận thức
của người dân về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí còn chưa đầy đủ. Rất nhiều
các cơ sở công nghiệp, các làng nghề, các cá nhân thường chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế
của cá nhân mà quên đi bảo vệ môi trường không khí cho cả cộng đồng.
2.1.2.3. Phân loại ô nhiễm môi trường không khí
Căn cứ vào nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường không khí, có thể chia ô nhiễm
môi trường không khí thành: Ô nhiễm khí thải, Ô nhiễm bụi, Ô nhiễm chì Pb, Ô nhiễm
mùi, Ô nhiễm khói, Ô nhiễm tiếng ồn, Ô nhiễm ánh sáng, Ô nhiễm sóng,…;
33
- Căn cứ vào nguồn gây ô nhiễm môi trường, có thể chia ô nhiễm môi trường không
khí thành: ô nhiễm không khí do các hoạt động tự nhiên gây ra và ô nhiễm không khí do
các hoạt động của con người gây ra.
- Ô nhiễm không khí do các hoạt động tự nhiên gây ra. Ở đây hoạt động tự nhiên
được hiểu là những hoạt động gây ô nhiễm không phụ thuộc vào ý chí của con người.
Bao gồm: Núi lửa, Cháy rừng do sấm sét, Bão bụi,… ;
- Ô nhiễm môi trường không khí từ nguồn nhân tạo gây ra, bao gồm: hoạt động
công nghiệp, hoạt động giao thông vận tải, hoạt động dân sinh,…;
Căn cứ vào giới hạn, tầng khí quyển bị ô nhiễm không khí
Ô nhiễm môi trường không khí được chia thành ô nhiễm môi trường không khí
tầm thấp (sát bề mặt trái đất) và ô nhiễm môi trường không khí tầm xa (ô nhiễm tầng
ozon). Nếu kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tầm gần đặt vấn đề cần kiểm soát
toàn bộ những chất khí thải độc hại có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến
con người và sinh vật, thì kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tầm xa nhấn mạnh
đến việc kiểm soát các chất khí thải nhà kính nhằm bảo vệ tầng ozon, ứng phó với biến
đổi khí hậu [38] [40].
Căn cứ vài phạm vi của ô nhiễm môi trường không khí
Ô nhiễm môi trường không khí gồm ô nhiễm môi trường không khí trong phạm
vi một cộng đồng, một địa phương, một vùng, một quốc gia, một khu vực hoặc ô nhiễm
môi trường không khí toàn cầu,…
Qua phân loại ô nhiễm môi trường không khí, chúng ta thấy nó có rất nhiều chiều
cạnh, và từ đó có thể giúp tiếp cận vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở
nhiều giác độ hơn.
2.1.3. Nhu cầu kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trước khi tiến hành sự nghiệp đổi mới mở cửa năm 1986 hầu như
chưa có ô nhiễm môi trường nói chung cũng như ô nhiễm môi trường không khí nói
riêng. Thực tế thì thời kỳ này vẫn có nhiều tác động từ tự nhiên cũng như con người vào
môi trường không khí. Ví dụ: như cháy rừng, khí thải từ các nhà máy, xí nghiệp của nhà
nước, hoạt động đun, đốt sinh hoạt của người dân,… nhưng có thể khẳng định ở nước ta
những tác động này chưa vượt quá ngưỡng chịu tải của môi trường không khí gây ô
nhiễm môi trường không khí. Thực tiễn đó cũng lý giải tại sao thời kỳ này chưa có văn
bản pháp luật nào điều chỉnh trực tiếp về vấn đề bảo vệ môi trường nói chung chứ chưa
nói đến kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành sự nghiệp đổi mới mở cửa phát huy nội lực và
thu hút đầu tư nước ngoài thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Quá trình mở cửa hội
nhập này đã mang lại nhiều thành tựu cho Việt Nam về phát triển kinh tế, nâng cao đời
34
sống người dân. Mặc dù vậy, sự phát triển theo chiều rộng, thiếu tầm nhìn quy hoạch
trong một thời gian dài cũng làm cho Việt Nam phải đối mặt với nhiều vấn đề về cạn
kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm môi trường không
khí. Ô nhiễm môi trường không khí ảnh hưởng lớn đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại,
phát triển của con người và sinh vật. Cụ thể:
- Tác động của môi trường không khí đến sức khỏe con người
Ô nhiễm môi trường không khí có những ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe con
người, đặc biệt đối với đường hô hấp. Tiếp xúc trong khoảng thời gian dài với không khí
ô nhiễm sẽ làm ảnh hưởng tới sức khỏe phụ nữ đang mang thai, thúc đẩy quá trình lão
hóa trong cơ thể sống, suy giảm chức năng của phổi, gây bệnh hen suyễn viêm phế
quản, gây bệnh ung thư, tim mạch và làm giảm tuổi thọ con người. Theo số liệu thống
kê của Bộ Y tế Việt Nam, trong những năm gần đây, các bệnh về đường hô hấp có tỷ lệ
mắc cao nhất toàn quốc và một trong các nguyên nhân là do ô nhiễm không khí [33].
Còn theo cơ quan quốc tế chuyên nghiên cứu về bệnh ung thư IARC thuộc Tổ chức Y tế
thế giới, đã xếp ô nhiễm không khí là một trong các nguyên nhân hàng đầu gây bệnh
ung thư ở người. Năm 2010, có 222.000 người bị tử vong do ung thư phổi trên toàn thế
giới liên quan đến ô nhiễm không khí [75]. Ví dụ: ô nhiễm môi trường không khí làng
nghề ảnh hưởng đến sức khỏe con người, đặc biệt là trẻ em. Theo điều tra môi trường
làng nghề dệt ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em ở đó kết quả như sau: 22,9% bị đau họng,
19,1% ngạt mũi, 15,5% thở khò khè, 9,9% ho kéo dài, 7,6% ngứa mắt, 65,9% trẻ em
nhịp mạch tăng cao hơn so với tiêu chuẩn lứa tuổi, ù tai 22,9%, đau tai 12,2%, nghe kém
9,2% [78].
Đe dọa tới tăng trưởng kinh tế: với một loạt các tác động với hạ tầng đô thị, hoạt
động du lịch và sức khỏe con người, ô nhiễm không khí đã gây ra những tổn thất kinh tế
không nhỏ. Ước tính thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường không khí ở Hà Nội mỗi
ngày lên tới hàng tỷ đồng (khoảng 23 triệu USD/năm [18]. Không khí bị ô nhiễm còn
làm gia tăng chi chí khám chữa bệnh do ảnh hưởng đến sức khỏe của hàng triệu người.
Theo tính toán của Ngân hàng thế giới hiện nay các nước đang phát triển ở Châu Á cần
phải chi phí lớn nhất cho vấn đề này. Ví dụ: Lào hàng năm phải chi khoảng 7,43% tổng
thu nhập quốc dân cho bảo vệ môi trường. Tỷ lệ chi phí đó ở Việt Nam là 7,2%,
Campuchia là 5,5%, Trung Quốc là 4,7%. Trong khi đó tỷ lệ này ở các nước phát triển
chỉ chiếm 1,3% đến 2% tổng thu nhập quốc dân như: Hà Lan, 1,93%, Anh 1,42%, Pháp
1,3%. [18]
Ảnh hưởng tới khí hậu
Biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng là một hiểm họa vô cùng lớn. Sự biến đổi
diễn ra trên toàn cầu, trong các khu vực, bao gồm cả các thay đổi trong các thành phần
35
hóa học của khí quyển, biến đổi nhiệt độ, bề mặt nước biển dâng, các hiện tượng khí hậu
cực đoan và thiên tai tăng lên đáng kể về số lượng và cường độ. Hiệu ứng bức xạ do
thay đổi nồng độ khí nhà kính trong khí quyển đã làm khí hậu toàn cầu nóng lên. Theo
tổ chức liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) thì sự nóng lên của khí hậu trái đất
không còn đơn thuần là vấn đề môi trường mà trở thành vấn đề của sự phát triển. Hiệu
ứng nhà kính tác động đến tất cả quốc gia trên thế giới, Việt Nam cũng đang chịu hậu
quả của hiện tượng này. Khi nồng độ CO2 trong khí quyển tăng gấp đôi thì nhiệt độ bề
mặt trái đất tăng khoảng 30c. Trong khoảng thời gian từ 1885 đến 1940 nhiệt độ trái đất
đã tăng 0,50c do thay đổi của nồng độ CO2 trong khí quyển từ 0,027% đến 0,035%. Dự
báo nếu không có biện pháp khắc phục hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ trái đất sẽ tăng lên
1,5 đến 4,50c. Trong 50 năm qua, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam đã tăng lên khoảng 0,5
đến 0,70c, trong đó nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn mùa hè, nhiệt độ miền Bắc tăng
nhanh hơn miền Nam. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động nhiều nhất
của biến đổi khí hậu và nước biển dâng [125].
Ảnh hưởng tới hệ sinh thái
Cho đến nay, các nhà khoa học đều cho rằng ô nhiễm không khí là một nhân tố
làm suy giảm sự đa dạng sinh học trong đó hệ sinh thái nước ngọt bị ảnh hưởng nhiều
nhất. Sự ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường không khí liên quan chủ yếu đến việc suy
giảm, làm yếu đi các loài mà không phải là gây ra tuyệt chủng. Tuy nhiên, với xu hướng
tiếp tục ô nhiễm như hiện nay thì một số loài động thực vật bị mất đi là không thể tránh
khỏi. Ví dụ: biến đổi khí hậu gây ra hiện tượng El nino gây khô hạn kéo dài làm cạn kiệt
nguồn nước, cháy rừng, nhiều loài động thực vật bị chết,…;
Có thể thấy ô nhiễm môi trường không khí ảnh hưởng rất lớn đến đời sống, sản
xuất, sự tồn tại, phát triển của con người. Với thực trạng môi trường không khí ở Việt
Nam tiếp tục bị ô nhiễm với chiều hướng gia tăng như trên, vấn đề cần thiết đặt ra là
phải kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
2.2. Lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trƣờng không khí
2.2.1. Khái niệm kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
Hiện nay, trên thế giới và cả Việt Nam có nhiều quan điểm khác nhau về kiểm
soát. Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa 2007: Kiểm soát là kiểm
xét, coi sóc [127,381]. Có thể thấy “kiểm soát” theo cách hiểu này còn quá chung chung.
Còn Từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2006 thì: “kiểm soát là xem xét để
phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định” hay kiểm soát là kiểm tra, rà soát để
phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định. Theo quan điểm trên thì kiểm soát
thường gắn với sự vận động bất thường khi có vi phạm xảy thì đặt ra vấn đề phải kiểm
soát. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, kiểm soát ô nhiễm là một từ dùng
36
trong quản lý môi trường, bao gồm việc kiểm soát phát thải và chất thải vào không khí,
nước và đất. Nếu không có việc kiểm soát ô nhiễm, các chất thải từ các hoạt động tiêu
thụ, sản xuất, vận tải, đốt nhiên liệu tạo nhiệt, và các hoạt động khác của con người sẽ
làm tích tục hoặc phát tán chất ô nhiễm sẽ làm giảm chất lượng môi trường sống. Trong
các cấp kiểm soát, phòng chống ô nhiễm và giảm thiểu chất thải được xem là các biện
pháp hiệu quả [11]. Có thể thấy quan điểm này hiểu kiểm soát ô nhiễm theo hướng chủ
động hơn, bao gồm cả hoạt động phòng ngừa ô nhiễm.
Ở mức độ chung nhất, tác giả cho rằng, kiểm soát là việc theo dõi, kiểm tra, giám
sát nhằm nắm được sự việc đang diễn tiến thế nào, dự báo diễn tiến đến đâu, có đi đúng
hướng không để phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý, uốn nắn, điều chỉnh đưa vào trật tự, làm
đúng, tốt và có hiệu quả hơn. Do vậy, kiểm soát không chỉ là phòng ngừa, phát hiện,
ngăn chặn và xử lý vi phạm mà kiểm soát được đặt ra theo các chiều hướng khác nhau
và phải hướng đến hiệu quả của công việc, tức là hiểu được bản chất, nhằm vào cái chưa
hài lòng, chưa tốt để thực hiện có hiệu quả. Có thể thấy kiểm soát vốn đời sống nó đã
có, tuy nhiên mức độ ban đầu người ta kiểm soát hành vi vi phạm, tác giả đồng ý với
những quan điểm cho rằng cần hiểu kiểm soát rộng hơn được không chỉ kiểm soát vi
phạm mà còn là dự báo, cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn nắm được hoạt động của nó
và uốn nắn theo hướng nhất định (kiểm soát chủ động).
Theo quan điểm được ghi nhận trong Giáo trình Luật Môi trường của Đại học
Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân năm 2011 thì, kiểm soát ô nhiễm môi trường là
tổng hợp các hoạt động của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân nhằm loại trừ, hạn chế
những tác động xấu đối với môi trường; phòng ngừa ô nhiễm môi trường; khắc phục, xử
lý hậu quả do ô nhiễm môi trường gây nên. Còn Giáo trình Luật Môi trường của Đại học
luật Hà Nội năm 2014 thì đồng ý với quan điểm được ghi nhận trong Luật Bảo vệ Môi
trường năm 2014 khi cho rằng, kiểm soát ô nhiễm môi trường là quá trình phòng ngừa,
phát hiện, ngăn chặn và xử lý ô nhiễm (khoản 18 Điều 3 Luật Bảo vệ Môi trường 2014)
[97] [83 2]. Có thể thấy, khái niệm về kiểm soát ô nhiễm môi trường trong Giáo trình
Luật Môi trường 2011 của Đại học Luật Hà Nội nhấn loại trừ, hạn chế những tác động
xấu đối với môi trường; phòng ngừa ô nhiễm môi trường; khắc phục, xử lý hậu quả do ô
nhiễm môi trường dường như là mục tiêu của hoạt động kiểm soát; định nghĩa này đã
xác định được các chủ thể có trách nhiệm kiểm soát ô nhiễm môi trường, nhưng chưa
làm rõ nội hàm của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, Giáo trình
Luật Môi trường năm 2014 thì quan niệm kiểm soát ô nhiễm môi trường là một chu
trình, coi phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý ô nhiễm là nội hàm của thuật ngữ
kiểm soát ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, lại chưa xác định rõ chủ thể của kiểm soát ô
nhiễm môi trường. Tác giả cho rằng cần phải xuất phát từ nội hàm của thuật ngữ kiểm
37
soát cũng như đặc trưng của ô nhiễm môi trường để đưa ra cách hiểu về kiểm soát ô
nhiễm môi trường. Do vậy theo chúng tôi, kiểm soát ô nhiễm môi trường là tổng thể các
hoạt động phòng ngừa, dự báo; theo dõi, kiểm tra, giám sát, phát hiện, những tác động
đến môi trường, hiện trạng môi trường, sự biến đổi của môi trường so với quy chuẩn kỹ
thuật môi trường; ngăn chặn; xử lý các tác động tiêu cực đến môi trường của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải cũng như các chủ
thể khác nhằm đảm bảo cho môi trường được trong lành, sạch đẹp.
Từ cách hiểu về kiểm soát, về môi trường không khí, theo tác giả: kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm
quyền, tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải và các chủ thể khác trong phòng ngừa, dự báo;
theo dõi, kiểm tra, giám sát, phát hiện những tác động đến môi trường không khí, hiện
trạng môi trường không khí, sự biến đổi của môi trường không khí so với quy chuẩn kỹ
thuật môi trường không khí; ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm, cải tạo phục hồi hiện trạng
môi trường không khí; xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí nhằm đảm
bảo cho môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp. Cũng phải khẳng định thêm
rằng về lý thuyết, kiểm soát ô nhiễm môi trường là nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân chủ
nguồn thải và trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm nhấn mạnh tính
trách nhiệm của các chủ thể này trong kiểm soát ô nhiễm môi trường và khi họ vi
phạm/không thực hiện/thực hiện không hiệu quả thì phải chịu trách nhiệm pháp lý. Điều
này góp phần đảm bảo công lý phải được thực thi bởi các chủ thể có chức trách, nhiệm
vụ rõ ràng và tránh tạo nên quá nhiều hiệp sĩ đường phố mà về mặt pháp lý cũng như
thực tiễn họ không đủ khả năng có thể thực hiện, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam
đang xây dựng Nhà nước pháp quyền thì việc nhấn mạnh trách nhiệm này là cần thiết.
Bên cạnh đó, việc khẳng định trách nhiệm kiểm soát ô nhiễm môi trường của Nhà nước,
tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải không có nghĩa là triệt tiêu quyền được bảo vệ môi
trường, quyền tham gia kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí của cá nhân, tổ chức
khác, thậm chí với trách nhiệm của mình nhà nước cần khuyến khích, tạo điều kiện và
ngày càng mở rộng hơn sự tham gia của cộng đồng, khơi dậy trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp, của cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân vào quá trình kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí. Ví dụ: A có chứa nguồn thải độc hại thì về nguyên tắc A phải
kiểm soát không để nguồn thải đó gây ô nhiễm môi trường. Nếu A làm nguồn thải đó
thoát ra ngoài môi trường thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có trách nhiệm kiểm
soát, xử lý hành vi vi phạm pháp luật của A. Còn nếu A gây thiệt hại cho B thì đương
nhiên lúc này B có quyền yêu cầu A dừng ngay hành vi gây ô nhiễm, bồi thường thiệt
hại và tố cáo nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hơn nữa, cộng đồng dân cư bị ảnh
38
hưởng do ô nhiễm môi trường không khí có quyền tham gia vào quá trình kiểm tra, giám
sát, yêu cầu bồi thường thiệt hại môi trường,…
2.2.2. Đặc điểm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
Môi trường không khí là một bộ phận quan trọng của môi trường sống, nên kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí cũng là một phần trong kiểm soát ô nhiễm môi trường
nói chung. Tuy vậy, ngoài các đặc điểm chung của kiểm soát ô nhiễm môi trường, như: về
chủ thể kiểm soát, mục tiêu kiểm soát, phương thức kiểm soát,... thì so với môi trường
đất, nước, môi trường không khí có nhiều điểm đặc biệt từ tính chất lý hóa đến vai trò,
tầm quan trọng của không khí đối với mọi mặt của đời sống xã hội... Cụ thể:
Thứ nhất, phải kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tại nguồn. Môi trường
không khí mang tính khuếch tán, lan truyền nên khi môi trường không khí bị ô nhiễm
thường rất khó bị phát hiện và để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí không hề
đơn giản. Do vậy, phải kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ngay từ nguồn thải,
kiểm soát trước khi khí thải thoát ra ngoài môi trường không khí góp phần phòng ngừa ô
nhiễm môi trường không khí;
Thứ hai, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần phải có sự liên kết, hợp tác
giữa các địa phương, các vùng và giữa các quốc gia ở các cấp độ song phương, khu vực
và toàn cầu. Như chúng ta biết, môi trường không khí khí không có biên giới và bao
trùm toàn cầu, ô nhiễm môi trường không khí trong nhiều trường hợp không chỉ ảnh
hưởng đến một khu vực nhất định mà ảnh hưởng đến cả quốc gia, khu vực, thậm chí
toàn cầu. Ví dụ: các chất thải chứa các chất CFCs có thể gây mất cân bằng nhiệt trong
bầu khí quyển trái đất làm trái đất nóng lên, là nguyên nhân chính dẫn đến biến đổi khí
hậu. Hơn nữa, không giống như đất đai, nguồn nước hay tài nguyên thiên nhiên có thể
phân chia được ranh giới, còn môi trường không khí lại không thể phân chia được giữa
các đơn vị hành chính: tỉnh, huyện, xã, thậm chí là giữa các quốc gia với nhau. Điều đó
cho thấy một xã, một huyện, một tỉnh, thậm chí một quốc gia không thể kiểm soát hiệu
quả được ô nhiễm môi trường không khí mà cần phải có sự hợp tác giữa các quốc gia ở
nhiều cấp độ khác nhau để có thể kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường không khí,
đặc biệt ô nhiễm phóng xạ hạt nhân cũng như kiểm soát biến đổi khí hậu.
Thứ ba, khẳng định trách nhiệm hàng đầu của nhà nước và các chủ nguồn thải
trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Bởi không khí nó không thuộc quyền sở
hữu riêng của bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào mà không khí thuộc sở hữu chung của tất
cả mọi người. Do không gắn cụ thể quyền sở hữu với riêng cá nhân, tổ chức cụ thể nào
nên việc kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ít được quan tâm hơn các nguồn tài
nguyên khác, dẫn tới hiện tượng cha chung không ai khóc. Do vậy trong kiểm soát ô
39
nhiễm môi trường không khí cần phải có sự tham gia của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, đặc biệt là các cá nhân, tổ chức chủ nguồn thải.
Thứ tư, nhấn mạnh ý nghĩa, giá trị về mặt sức khỏe, sinh tồn của môi trường
không khí đối với con người trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Đối với tài
nguyên nước, tài nguyên đất,... giá trị về mặt kinh tế được thể hiện rõ ràng ngay lập tức
nên con người rất quan tâm và tìm nhiều cách để bảo vệ, còn tài nguyên không khí mặc
dù rất quan trọng nhưng không được biểu hiện rõ ràng ngay lập tức mà nó là giá trị lâu
dài nên con người ít quan tâm bảo vệ nó. Do vậy để kiểm soát được ô nhiễm môi trường
không khí cần xác định bảo vệ giá trị sống còn của môi trường không khí với cuộc sống
của con người.
Thứ năm, tính chủ quan, bị động trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Thường tác động đến sức khỏe, tính mạng của con người động thực vật, tuy nhiên nó
không thể hiện ở mức độ cấp tính ngay mà ngấm dần. Do vậy vấn đề bảo vệ, kiểm soát
ô nhiễm môi trường không khí thường không được quan tâm kịp thời.
Thứ sáu, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại trong kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí. Như đã trình bày phần trên không khí là một hỗn hợp các chất khí mà
mắt thường chúng ta khó có thể nhìn thấy được và khi không khí bị ô nhiễm hay nhiễm
độc nếu không có các thiết bị chuyên dụng để đo đạc, để xác định thì việc phát hiện là
không hề dễ dàng và hậu quả xảy ra đối với môi trường và con người có thể sẽ rất lớn.
Thậm chí do đặc thù của môi trường không khí việc sử dụng các thiết bị công nghệ để
kiểm soát ô nhiễm cũng khác so với môi trường đất, nước. Chúng ta không thể kiểm tra
chất lượng không khí bằng lấy các mẫu thử như nước hay đất mà phải thông qua hệ
thống quan trắc môi trường không khí,... Do vậy, phải thông qua quan trắc tại chỗ để
kiểm kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và việc ứng dụng các thiết bị chuyên
dụng trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là tất yếu.
2.2.3. Phân biệt kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí với bảo vệ môi trường
không khí
Dưới góc độ lịch sử pháp lý, thuật ngữ bảo vệ môi trường, trong đó gồm cả bảo
vệ môi trường không khí đã được ghi nhận trong pháp luật nước ta tương đối sớm. Bắt
đầu bằng những quy định mang tính hiến định tại Điều 36 của Hiến pháp năm 1980 với
quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong bảo vệ và cải
thiện môi trường sống, tiếp đó thuật ngữ này được ghi nhận nhiều trong Luật Bảo vệ
Môi trường đầu tiên của Việt Nam năm 1993 và Luật Bảo vệ Môi trường 2005 và đến
nay là Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014. Còn thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường,
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được ghi nhận muộn hơn. Theo cứ liệu thu
thập được thì thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường ban đầu được sử dụng cho hoạt
40
động kiểm soát các sự cố môi trường, như sự cố tràn dầu,…Luật Bảo vệ Môi trường
năm 1993 chưa có quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường. Sau 12 năm từ khi Luật
Bảo vệ Môi trường năm 1993 ra đời thì thuật ngữ này mới được ghi nhận trong Luật
Bảo vệ Môi trường năm 2005, như quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, môi
trường nước trong lưu vực sông, và đặc biệt là quy định về kiểm soát bụi, khí thải (Điều
83). Vậy hai thuật ngữ này có điểm gì giống và khác nhau? Tác giả cho rằng đây là hai
thuật có giao thoa với nhau, sự giao thoa thể hiện ở chỗ chúng đều nhấn tới vấn đề
phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí và mục đích là giữ gìn môi trường không khí
được trong lành, sạch đẹp. Tuy nhiên, giữa chúng cũng có những điểm khác biệt thể
hiện ở những điểm sau:
Một là, về khái niệm chung. Dưới giác độ pháp lý, bảo vệ môi trường là hoạt
động giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi
trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng
hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành. Còn kiểm soát ô nhiễm
môi trường, ô nhiễm môi trường không khí là quá trình phòng ngừa, phát hiện, ngăn
chặn và xử lý ô nhiễm.
Hai là, về nội hàm. Bảo vệ môi trường không chỉ gồm những hoạt động phòng
ngừa, hạn chế những tác động xấu đến môi trường, mà còn bao gồm các hoạt động bảo
tồn đa dạng sinh học cũng như khai thác, sử dụng tiết kiệm, hợp lý và hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên. Còn kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí thì lại nhấn mạnh hơn
và xoay quanh vào việc phòng ngừa, ngăn chặn, hạn chế, khắc phục ô nhiễm môi trường
không khí. Qua đó có thể thấy, thuật ngữ bảo vệ môi trường có nội hàm rộng hơn, còn
thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường chặt chẽ hơn, chuyên sâu hơn.
Ba là, về chủ thể tham gia, bảo vệ môi trường là trách nhiệm, nghĩa vụ chung của
tất cả mọi người và mọi cơ quan nhà nước cũng như các tổ chức. Có thể khẳng định bảo
vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội. Còn kiểm soát ô nhiễm môi trường, môi
trường không khí chủ yếu nhấn mạnh hơn đến trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước,
chủ thể có thẩm quyền và tổ chức, hộ gia đình cá nhân là các chủ nguồn thải. Điều này
không có nghĩa là triệt tiêu quyền của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi làm ô
nhiễm môi trường không khí gây ra mà họ vẫn có quyền tự yêu cầu chủ thể gây ra thiệt
hại phải bồi thường,...
Bốn là, về biện pháp thực hiện. Bảo vệ môi trường được thực hiện bằng việc áp
dụng tổng thể các biện pháp khác nhau như: biện pháp chính trị, biện pháp tuyên truyền,
biện pháp kinh tế, biện pháp khoa học công nghệ, biện pháp giáo dục và biện pháp pháp
lý. Còn trong khi đó kiểm soát ô nhiễm môi trường chủ yếu dựa trên biện pháp pháp lý,
41
ngoài ra các các yếu tố thị trường và xã hội cũng ngày càng được sử dụng nhiều hơn,
mãnh mẽ hơn để kiểm soát ô nhiễm môi trường.
Năm là, về cơ sở pháp lý. Hoạt động bảo vệ môi trường được thực hiện dựa trên
cơ sở các chính sách, các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh
học, tài nguyên thiên nhiên. Còn hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường, môi trường
không khí dựa chủ yếu vào quy chuẩn kỹ thuật môi trường để phòng ngừa, phát hiện ô
nhiễm, mức độ ô nhiễm, sự biến đổi của hiện trạng môi trường không khí. Nếu có ô
nhiễm môi trường không khí xảy ra thì điều chỉnh nó phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật
môi trường không khí.
Sáu là, nếu kiểm soát ô nhiễm môi trường, môi trường không khí nhấn mạnh đến
phòng ngừa, giữ gìn bảo đảm hiện trạng môi trường không khí không bị ô nhiễm thì bảo
vệ môi trường ngoài việc nhấn đến việc phòng ngừa, nó còn bao hàm cả vấn đề thúc đẩy
phát triển, cải thiện môi trường.
2.3. Lý luận về kiểm soát ô nhiễm môi trƣờng không khí bằng pháp luật
Để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được hiệu quả, có thể sử dụng nhiều
công cụ khác nhau, như: công cụ tuyên truyền, giáo dục; công cụ khoa học công nghệ;
công cụ kinh tế,… Tuy nhiên, các công cụ này khó kiểm soát được ô nhiễm môi trường
một cách triệt để xuất phát từ bản chất của từng công cụ. Ví dụ: tuyên truyền, giáo dục.
Đây là công cụ quan trọng để tác động vào tư tưởng của các chủ nguồn thải nhằm giúp
họ nhận ra tầm quan trọng, ý nghĩa của môi trường không khí từ đó họ thay
đổi hành vi của mình không có hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí. Nhưng thực
tiễn cho thấy, ô nhiễm môi trường không khí đa phần do hành vi xả thải từ hoạt động
kinh tế, đó là các doanh nghiệp, mà đứng đầu các doanh nghiệp thường là những người
rất hiểu biết về về kinh tế cũng như môi trường không khí (họ hoàn toàn có thể ý thức
được hoạt động của doanh nghiệp mình có gây ảnh hưởng xấu đến môi trường hay
không, nhưng vì lợi ích của cá nhân mình hoặc một nhóm người họ vẫn xả khí thải độc
hại chưa qua xử lý ra môi trường không khí. Do vậy, công cụ tuyên truyền giáo dục
không thể giúp kiểm soát triệt để hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí. Còn sử
dụng công cụ khoa học công nghệ trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí có
nhiều ý nghĩa quan trọng, nhưng công nghệ hiện đại thường kéo theo chi phí bỏ ra cao
hơn rất nhiều, trong bối cảnh Việt Nam còn nghèo thì không phải tổ chức, cá nhân nào
cũng có thể có kinh phí để đầu tư được những dây chuyền công nghệ này để giảm thiểu
ô nhiễm môi trường không khí. Về công cụ kinh tế, đây là công cụ rất quan trọng và
ngày cảng được sử dụng nhiều để bảo bệ môi trường cũng như kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí. Đặc trưng của công cụ này là dùng lợi ích kinh tế để tác động thay
đổi hành vi của các chủ thể, như: giảm thuế, miễn thuế môi trường, thuế sử dụng đất,
42
tiền thuê đất, ưu đãi về vốn vay, thị trường, cấp nhãn hàng hóa thân thiện môi
trường,…cho các chủ thể nếu như các chủ thể này đầu tư vào lĩnh vực thân thiện với
môi trường. Ví dụ: đầu tư xây dựng các dự án theo cơ chế phát triển sạch (CDM) … hay
cấp chứng chỉ ISO14000 hoặc SA 8000 với các doanh nghiệp đăng ký quản lý môi
trường theo ISO 14001. Ngược lại nếu các chủ thể vẫn đầu tư vào lĩnh vực không thân
thiện môi trường thì họ sẽ không được giảm thuế, miễn thuế, thậm chí bị đánh thuế cao,
không được ưu đãi về vốn vay và thị trường,… Đối với môi trường không khí thì doanh
nghiệp được cấp hạn ngạch khí thải mà Nhà nước cấp cho doanh nghiệp trong 01 năm.
Nếu như đã sử dụng hết hạn ngạch mà muốn sản xuất tiếp thì phải mua quyền phát thải
của những doanh nghiệp còn chưa sử dụng hết hạn ngạch khí thải. Việc này giúp hình
thành nên thị trường mua bán quyền phát thải được cấp,… Mặc dù công cụ kinh tế đóng
vai trò rất quan trọng trong bảo vệ môi trường cũng như trong kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí và ngày càng được ưu tiên sử dụng rộng rãi, nhưng thực tiễn cho thấy
vẫn có rất nhiều chủ thể vẫn đầu tư vào những lĩnh vực không thân thiện môi trường và
gây ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường nên công cụ kinh tế vẫn không thể kiểm soát
được triệt để vấn đề này. Hơn nữa, để sử dụng được công cụ kinh tế, thì công cụ này
cũng phải được cụ thể hóa bằng pháp luật. Trong bối cảnh đó, công cụ pháp lý sẽ đóng
vai trò đặc biệt trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Bởi thứ nhất, để thực
hiện có hiệu quả các công cụ kinh tế, khoa học công nghệ, hay tuyên truyền giáo dục thì
những công cụ này cũng phải được luật hóa để thực hiện; thứ hai, công cụ pháp lý sẽ
quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí. Khi các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định pháp
luật thì sẽ phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý. Tùy theo mức độ nguy hiểm của hành vi,
các chủ thể vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí có thể phải
chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự hoặc trách nhiệm
kỷ luật; thứ ba, để kết hợp đồng bộ và sử dụng hiệu quả các công cụ kinh tế, công cụ
tuyên truyền giáo dục,… thì các công cụ này cũng phải được quy định vào trong các văn
bản pháp luật.
2.3.1. Khái niệm, vai trò của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
2.3.1.1. Khái niệm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
Từ năm 1986 đến nay, quá trình mở cửa hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế đã
mang lại nhiều thành tựu cho đất nước cũng như nhiều lợi ích cho người dân Việt Nam.
Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế, Việt Nam cũng đối mặt với trái của quá
trình phát triển như: vấn nạn ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm môi trường không
khí. Hơn nữa, Việt Nam đang trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền nên tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền được sống trong môi trường trong
43
lành trở thành những giá trị mang tính hiến định quan trọng. Nếu ô nhiễm môi trường
không khí xảy ra thì ảnh hưởng của nó khiến các giá trị trên không được bảo đảm. Do
vậy, để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được hiệu quả, vấn đề đặt ra cần phải
có công cụ thiết yếu thực hiện quá trình này, đó chính là công cụ pháp luật. Vậy pháp
luật là gì? Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau, tùy theo hệ thống pháp luật,
thậm chí ngay tại Việt Nam quan điểm về pháp luật cũng có cách hiểu không hẳn giống
nhau. Cụ thể những nước theo hệ thống thông luật như Anh – Mỹ, hiểu pháp luật là
công lý, là lẽ phải, là sự công bằng. Còn những nước theo hệ thống pháp luật hồi giáo
hiểu pháp luật không chỉ là những quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra mà các quy tắc xử
sự của Đạo Hồi cũng được coi là chuẩn mực để thực hiện và đó là pháp luật. Những
nước theo hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa hiểu pháp luật là những quy tắc xử sự
chung do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội phù hợp với ý chí của Nhà nước. Gần đây quan niệm về nguồn của pháp luật được
hiểu rộng hơn, đó không chỉ là những quy định do Nhà nước ban hành mà những cái nhà
nước không ban hành, nhưng được Nhà nước thừa nhận thì cũng coi là pháp luật. Ví dụ
như các tập quán pháp. Pháp luật là yếu tố tĩnh được nhà nước sử dụng để điều chỉnh
các quan hệ xã hội là yếu tố động thường xuyên biến đổi và phát triển. Do vậy, đối
tượng điều chỉnh của pháp luật sẽ ngày càng được mở rộng. Điều này lý giải tại sao
trước năm 1986 hầu như không có quy định pháp luật nào về bảo vệ môi trường. Từ
1986 trở đi, Nhà nước ta ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ
này, như quy định về bảo vệ môi trường trong Luật Bảo vệ môi trường 1993, quy định
về kiểm soát ô nhiêm môi trường không khí trong Luật Bảo vệ môi trường 2005 và đặc
biệt là Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014. Vậy pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí là gì? Hiện nay, quan điểm về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường
nói chung, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nói riêng có nhiều cách hiểu khác
nhau. Tuy nhiên, trên cơ sở nội hàm của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm và những đặc thù
của môi trường không khí tác giả cho rằng: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành nhằm điều chỉnh hoạt động của các cơ quan quản lí nhà nước, các tổ chức, cá
nhân chủ nguồn thải và các chủ thể khác trong phòng ngừa, dự báo; theo dõi, kiểm tra,
giám sát, phát hiện những tác động đến môi trường không khí, hiện trạng môi trường
không khí, sự biến đổi của môi trường không khí so với quy chuẩn kỹ thuật môi trường
không khí; ngăn chặn; xử lý ô nhiễm môi trường không khí, đảm bảo cho môi trường
không khí được trong lành, sạch đẹp.
44
Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung trong đó có pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí là rất quan trọng. Cụ thể:
2.3.1.2. Vai trò của pháp luật trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
Pháp luật có vai trò trọng trong đời sống xã hội, pháp luật là phương tiện để thể
chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, là phương tiện để nhà nước quản lý đời sống
xã hội và cũng là phương tiện để người dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Với
tư cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật luôn tác động mạnh mẽ tới
các quan hệ nói chung, sự tác động đó được thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau và trong
bảo vệ môi trường không khí, vai trò của pháp luật thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Pháp luật quy định những quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện khi tác
động vào môi trường không khí. Môi trường không những là yếu tố quyết định đối với
sự sống của con người mà còn là đối tượng tác động trong hoạt động của con người.
Trong đời sống hàng ngày, con người tiến hành nhiều hoạt động tác động vào môi
trường không khí, những tác động này có thể theo chiều hướng tốt hoặc xấu đối với chất
lượng không khí. Ví dụ: hoạt động sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt con người đã thải
một lượng chất thải không nhỏ, đặc biệt là các chất thải nhà kính vào môi trường không
khí gây biến đổi khí hậu toàn cầu và chính con người sẽ phải chịu hậu quả do hành vi
hủy hoại môi trường của mình gây ra, như: thảm họa sóng thần trên Ấn Độ Dương năm
2004 làm hơn 300.000 người chết; động đất Haiti; động đất, sóng thần ở Nhật Bản làm
hàng chục nghìn người bị chết. Với tư cách là công cụ điều chỉnh các hành vi của con
người trong xã hội, pháp luật có tác dụng rất lớn trong việc định hướng quá trình khai
thác và sử dụng môi trường. Con người buộc phải sử dụng môi trường không khí theo
hướng ít gây hại cho nó hơn, tức là phải hạn chế lượng các chất gây ô nhiễm, các chất
độc hại khi thải vào môi trường không khí theo các cách thức mà pháp luật bảo vệ môi
trường đã quy định.
- Pháp luật quy định các chế tài để ràng buộc con người thực hiện những đòi hỏi
của pháp luật trong việc khai thác và sử dụng môi trường không khí. Trong thực tế, các
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật môi trường thường không tự giác thực hiện hành vi
bảo vệ môi trường không khí mà pháp luật đã quy định. Bởi vì trong bối cảnh kinh tế thị
trường người ta quan tâm nhiều đến lợi ích, vì lợi ích cá nhân, hay lợi ích của một nhóm
người, người ta sẵn sàng hy sinh những lợi ích chung của toàn xã hội. Họ sẵn sàng bỏ
qua các nghĩa vụ đối với môi trường mà lẽ ra họ phải thực hiện vì không muốn bỏ thêm
chi phí gây ảnh hưởng đến lợi nhuận. Cũng chính điều đó các chủ thể luôn tìm cách để
lẩn trốn nghĩa vụ pháp lý đối với môi trường. Lúc đó, các chế tài hình sự, hành chính,
dân sự, kỷ luật của pháp luật môi trường trở lên rất quan trọng. Các chế tài đó nhằm bảo
45
vệ lợi ích chính đáng của mọi tổ chức, cá nhân thông qua việc xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật môi trường. Qua việc xử lý này cũng răn đe các tổ chức, cá nhân có
hành vi vi phạm pháp luật môi trường khiến họ phải tự giác tuân theo các quy định của
pháp luật môi trường, ngăn ngừa, hạn chế những hình vi tác động xấu đến môi trường
không khí.
- Pháp luật bên cạnh việc định hướng hành vi xử sự cho các tổ chức, cá nhân trong
xã hội khi tác động vào môi trường không khí, còn có tác dụng rất lớn trong việc tạo ra cơ
chế hoạt động hiệu quả cho các cơ quan, tổ chức bảo vệ môi trường không khí. Thông qua
pháp luật, nhà nước quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý
nhà nước trong bảo vệ môi trường không khí như: xây dựng và tổ chức thực hiện các văn
bản pháp luật về bảo vệ môi trường không khí; định kỳ đánh giá và dự báo diễn biến tình
hình môi trường không khí; cấp giấy phép về môi trường cho các cơ sở công nghiệp; cấp,
gia hạn và thu hồi giấy chứng nhận đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
Bảo vệ môi trường không khí cần phải thực hiện bằng nhiều cách khác nhau.
Trong quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trước tiên cần phải có sự kết
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường không khí với các cơ
quan chuyên môn quản lý các thành phần môi khác. Môi trường bao gồm nhiều thành
phần khác nhau và giữa các thành phần đó có mối liên hệ rất mật thiết với nhau. Môi
trường không khí chỉ bảo vệ khi có tính đến sự bền vững của các thành phần môi trường
khác. Pháp luật môi trường, bằng việc xác định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan chuyên ngành trong bảo vệ môi trường sẽ gắn kết được các mối quan hệ liên ngành
đó để bảo vệ môi trường không khí một cách hiệu quả. Mặt khác, bằng các quy phạm
pháp luật của mình, pháp luật môi trường sẽ xác định rõ thẩm quyền cũng như chức
năng nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết tranh chấp. Khi
tranh chấp được giải quyết thì những tác động xấu tới môi trường không khí do hành vi
vi phạm của một bên tranh chấp gây ra sẽ được phục hồi và quyền lợi hợp pháp của
công dân cũng được đảm bảo. Vì vậy, với việc quy định chức năng của các cơ quan giải
quyết tranh chấp môi trường, pháp luật môi trường đã thể hiện rất rõ vai trò không thể
thiếu của mình trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
- Bảo vệ môi trường ngày nay không còn là vấn đề của riêng quốc gia nào. Bảo
vệ môi trường là yếu tố gắn kết các quốc gia với nhau. Vì vậy pháp luật tạo cơ sở pháp
lý và điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các quan hệ kinh tế quốc tế về bảo vệ môi
trường nói chung, môi trường không khí nói riêng. Với đặc trưng không xác định biên
giới của mình, các vấn đề môi trường thường đòi hỏi các quốc gia phải hợp tác với nhau
cùng giải quyết. Người ta không thể gom riêng không khí đã bị ô nhiễm ra để xử lý
được. Vì vậy trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí mối quan hệ giữa các quốc
46
gia càng trở lên hết sức cần thiết. Sự hợp tác này giữa các quốc gia sẽ tạo ra rất nhiều lợi
thế trong quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường. Ví dụ: qua hợp tác các quốc gia sẽ
cùng nhau, phối hợp trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Hợp tác chuyển
giao công nghệ, hỗ trợ tài chính trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; đặc biệt
là chia sẻ kinh nghiệm trong quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Tuy
vậy để sự hợp tác này được diễn ra suôn sẻ, thuận lợi các quốc gia cần phải thỏa thuận
xây dựng hoàn thiện khung pháp lý quốc tế về bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm
không khí. Pháp luật là cơ sở vững chắc để kết nối sự hợp tác này trở nên có hiệu quả và
thiết thực hơn.[119]
Thực tiễn phát triển cho thấy ô nhiễm môi trường nói chung, ô nhiễm môi trường
không khí nói riêng là không tránh khỏi, sự phát triển có thể nói là nhanh một cách khá
tùy tiện, thiếu chiến lược bền vững; phong trào công nghiệp hóa, hiện đại hóa; sức ép
của lợi nhuận, tiết giảm chi phí và lối sống tùy tiện của văn hóa tiểu nông, đặc biệt động
lực lợi nhuận đã thúc đẩy các chủ thể khai thác vô kế hoạch và không thương tiếc các tài
nguyên thiên nhiên, trốn tránh việc xử lý hợp lý các khí thải độc hại;... Ví dụ một số nhà
máy có nguy cơ gây ô nhiễm cao đã vào Việt Nam do các quốc gia khác không chấp
nhận. Điều đó đã tàn phá môi trường sinh thái, gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Các
quy định Hiến pháp, Luật Bảo vệ môi trường các văn bản khác sẽ giúp nhà nước kiểm
soát việc khai thác, sử dụng tài nguyên không khí nhằm ngăn chặn và hạn chế tình trạng
tàn phá và gây ô nhiễm môi trường không khí.
2.3.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
- Nguyên tắc bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. Quyền
được sống trong môi trường trong lành là một quyền con người cơ bản đã được ghi nhận
trong Tuyên bố về môi trường con người năm 1972 tại Stockhom, Thụy Điển và được
củng cố trong Tuyên bố về môi trường và phát triển năm 1992 tại Rio de Janeiro,
Braxin. Ở Việt Nam, quyền được sống trong môi trường trong lành được nhắc đến trong
Lời nói đầu của Luật Bảo vệ Môi trường năm 1993 và lần đầu tiên được hiến định trong
Hiến pháp năm 2013 và chính thức trở thành nguyên tắc của Luật bảo vệ Môi trường
năm 2014. Thực tế cho thấy ở Việt Nam quyền được sống trong môi trường trong lành
bị đe dọa chủ yếu bởi ô nhiễm môi trường không khí. Do vậy, ghi nhận quyền được
sống trong môi trường trong lành vừa là nguyên tắc, vừa là mục tiêu, vừa là động lực,
vừa là trung tâm của quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam
hiện nay là cấp thiết và hợp lý. Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ:
- Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí;
47
- Các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải phải thực hiện phòng ngừa, phát hiện ngăn
chặn các nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí do mình thải ra;
- Các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí xâm phạm đến quyền được
sống trong môi trường trong lành phải bị xử lý theo Hiến pháp và theo pháp luật;
- Khi các chủ thể bị xâm phạm quyền này thì có thể khởi kiện ra Tòa hoặc cơ quan
quản lý nhà nước để yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình theo trình tự, thủ tục luật định.
- Nguyên tắc bảo đảm phát triển bền vững
Phát triển bền vững là sự phát triển của thế hệ hiện tại mà không làm ảnh hưởng
đến sự phát triển của thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa
phát triển kinh tế đi đôi với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Kiểm soát ô nhiễm
môi trường nói chung, môi trường không khí là một trụ cột cấu thành phát triển bền vững.
Do vậy, chỉ có thể có phát triển bền vững khi kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
được hiệu quả đồng thời từ đó sẽ thúc đẩy phát triển xã hội. Bởi để phát triển bền vững
cần phải đưa yếu tố môi trường vào trong quá trình phát triển để đảm bảo quá trình phát
triển kinh tế sẽ không gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, trong đó có môi trường không
khí. Ngược lại phát triển bền vững cũng góp phần vào quá trình bảo vệ môi trường trong
đó có kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Phát triển bền vững bên cạnh việc quan
tâm đến bảo vệ môi trường chủ động thì nó còn tạo ra các nguồn lực để thúc đẩy phát
triển môi trường bền vững. Do vậy kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, môi trường
không khí nói riêng cần dựa trên nguyên tắc bảo đảm phát triển bền vững.
- Nguyên tắc xã hội hóa các hoạt động bảo vệ môi trường không khí. Như chúng
ta biết môi trường không khí với tính đặc thù cố hữu đó là tính khuếch tán, tính lan
truyền nên tác động của ô nhiễm môi trường không khí mang tính bao trùm, thiệt hại
xảy ra thường lớn đến nhiều tổ chức, cá nhân. Do vậy để kiểm soát được thiệt hại do ô
nhiễm môi trường không không khí thì không chỉ có sự tham gia của Nhà nước mà còn
có sự tham gia của mọi tổ chức, cá nhân. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi sự tham gia của
cả cộng đồng hoặc đại diện cộng đồng, các tổ chức đoàn thể xã hội vào quá trình kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí.
- Nguyên tắc kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tại nguồn. Nguyên tắc này
được ghi nhận xuất phát từ một đặc điểm rất quan trọng của môi trường không khí đó là
tính khuếch tán, lan truyền nên khi có hành vi xả thải chất gây ô nhiễm (khí thải) ra môi
trường không khí việc xác định mức độ ô nhiễm cũng như thiệt hại cho môi trường
không khí là rất khó khăn. Cách hiệu quả nhất để môi trường không khí không/hạn chế ô
nhiễm là kiểm soát ngay tại nguồn thải. Do vậy, để nâng cao hiệu quả trong kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí, việc xây dựng pháp luật về vấn đề này cần phải dựa trên
48
nguyên tắc đặc thù nhưng rất quan trọng đó là kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
ngay tại nguồn thải.
- Nguyên tắcđiều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
theo hướng tác động tới chi phí và lợi ích để các chủ thể tự nguyện lựa chọn tuân thủ
pháp luật. Theo thống kê năm 2013 của Ngân hàng thế giới phối hợp với Bộ Tài nguyên
và Môi trường cho thấy, Việt Nam thuộc nhóm nước dẫn đầu thế giới về xây dựng pháp
luật nhưng lại thuộc nhóm nước yếu kém nhất thế giới về thực thi pháp luật. Sở dĩ việc
thực thi pháp luật và tuân thủ pháp luật ở Việt Nam kém có nhiều nguyên nhân, ngoài
những nguyên nhân nằm ở khâu tổ chức thực hiện thì có nguyên nhân về xây dựng pháp
luật. Đặc biệt là tư duy về xây dựng chính sách pháp luật của Việt Nam có vấn đề gần
như thông suốt đó là tư duy cái gì không quản lý được thì cấm. Ví dụ: trước đây có lần
cơ quan nhà nước có thẩm quyền định cấm kinh doanh karaoke vì cho rằng có đó là
nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội, hay tư duy hạn chế nhập khẩu ô tô để để tránh tắc
đường. Trong khi đó các nước như Inđônêxia, Malaysia,… thì cho nhập khẩu ô tô để
đảm bảo quyền hợp pháp của người dân và để nhà quản lý có tầm nhìn về quy hoạch
phát triển hạ tầng giao thông,…Với tư duy đó việc xây dựng pháp luật của ở Việt Nam,
đa phần các lĩnh vực dựa trên các quy định cấm để quản lý, nhưng vẫn bị vi phạm, pháp
luật môi trường cũng vậy. Ví dụ: Luật Thủy sản quy định về cấm đánh bắt cá có kích cỡ
nhỏ, cấm dùng các phương tiện đánh bắt như mìn, kích điện, hay lưới đánh bắt phải đảm
bảo kích cỡ mắt lưới đánh bắt phải đạt tiêu chuẩn luật định,… Tuy nhiên, thực tế người
dân vẫn sử dụng các dụng cụ này mà không kiểm soát được, thậm chí cá đánh bắt được
không đạt chuẩn do các các công cụ bất hợp pháp này vẫn được bày bán công khai mà
không bị cơ quan nào đứng ra xử lý,… Do vậy, tác giả cho rằng đã đến lúc xây dựng
pháp luật nói chung, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nói riêng cần
phải tính đến yếu tố chi phí và lợi ích khi xây dựng pháp luật, theo đó quy định theo
hướng chủ thể lựa chọn tuân thủ pháp luật sẽ đạt được lợi ích cao hơn so với việc không
tuân thủ/vi phạm pháp luật.
- Nguyên tắc người gây ô nhiễm môi trường không khí phải chịu trách nhiệm
pháp lý. Người gây ô nhiễm môi trường không khí không chỉ phải bồi thường thiệt hại
môi trường mà còn phải chịu trách nhiệm pháp lý liên quan, như trách nhiệm hình sự,
trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật.
- Nguyên tắc hợp tác quốc tế và khu vực trong bảo vệ môt trường không khí. Môi
trường không khí mang tính bao trùm toàn cầu, nó không có ranh giới. Do vậy, một
quốc gia không thể đơn phương mà kiểm soát được ô nhiễm môi trường không khí. Hơn
nữa, ô nhiễm môi trường không khí thường rất phức tạp, khó xác định thiệt hại. Do vậy,
đẩy mạnh hợp tác quốc tế sẽ giúp các quốc gia có thể hỗ trợ cho nhau về vốn, về công
49
nghệ, về kinh nghiệm tạo nên tính đồng bộ, tính hệ thống góp phần kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí được hiệu quả.
2.3.3. Nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
Như đã phân tích ở trên, pháp luật đóng vai trò vô cùng quan trọng trong kiểm soát
ô nhiễm môi trường không khí. Tuy nhiên, để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí có
hiệu quả, pháp luật ngoài việc xác định rõ chủ thể, nội dung và cách thức, trình tự, thủ tục
kiểm soát ô nhiễm, thì cần phải phân chia hiện trạng môi trường không khí thành những
giai đoạn khác nhau để có sự điều chỉnh pháp luật cho phù hợp với từng giai đoạn. Theo
đó hiện trạng môi trường không khí được chia thành ba giai đoạn: một là, giai đoạn môi
trường không khí chưa bị ô nhiễm (tiền ô nhiễm), hai là, giai đoạn môi trường không khí
đang bị ô nhiễm (ở giai đoạn này hiện trạng môi trường không khí có thể diễn ra trường
hợp có nơi thì môi trường không khí bị ô nhiễm, có nơi lại chưa bị ô nhiễm,…); thứ ba, là
giai đoạn hậu ô nhiễm (xử lý ô nhiễm, phục hồi, cải thiện môi trường không khí).
- Ở giai đoạn đầu, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí đặt ra vấn đề là phải
phòng ngừa, dự báo ô nhiễm môi trường không khí. Phòng ngừa ô nhiễm môi trường
không khí là các hoạt động ngăn ngừa, phòng trước những nguyên nhân có thể gây ô
nhiễm môi trường không khí, những tác động tiêu cực đến môi trường không khí nhằm
giữ hiện trạng môi trường không khí ổn định phù hợp với quy chuẩn môi trường không
khí. Còn dự báo là một khoa học và nghệ thuật tiên đoán những sự việc sẽ xảy ra trong
tương lai, trên cơ sở phân tích khoa học về các dữ liệu đã thu thập được. Khi tiến hành
dự báo cần căn cứ vào việc thu thập, xử lý số liệu trong quá khứ và hiện tại để xác định
xu hướng vận động của các hiện tượng trong tương lai nhờ vào một số mô hình toán học
(Định lượng). Tuy nhiên, dự báo cũng có thể là một dự đoán chủ quan hoặc trực giác về
tương lai (định tính) và để dự báo định tính được chính xác hơn, người ta cố loại trừ
những tính chủ quan của người dự báo[63]. Dự báo về hiện trạng môi trường không khí
là một nội dung rất quan trọng của kiểm soát ô nhiễm môi trường, giúp cho việc phòng
ngừa ô nhiễm môi trường được chủ động hơn, kịp thời hơn và giảm được những tác
động tiêu cực của ô nhiễm môi trường xuống mức thấp nhất. Do vậy có thể thấy muốn
ngăn ngừa, phòng trước những tác động xấu đến môi trường không khí, giữ cho hiện
trạng môi trường không khí không bị biến đổi theo chiều hướng xấu, phù hợp với quy
chuẩn kỹ thuật môi trường không khí thì việc phòng ngừa, dự báo là một nội dung đặc
biệt quan trọng trong điều chỉnh pháp luật giai đoạn tiền ô nhiễm môi trường không khí.
Đặc biệt quá trình này phải gắn với việc kiểm soát ô nhiễm tại nguồn.
Có thể thấy phòng ngừa, dự báo ô nhiễm môi trường không khí được đặt ra trong
tất cả các giai đoạn từ tiền ô nhiễm, giai đoạn môi trường không khí bị ô nhiễm, cho đến
hậu ô nhiễm. Tuy nhiên, với mỗi giai đoạn mục tiêu của việc phòng ngừa cũng không
50
hẳn có sự giống như nhau. Trong giai đoạn môi trường không khí chưa bị ô nhiễm mục
tiêu của phòng ngừa và dự báo đặc biệt phải được đề cao nhằm ngăn ngừa, phòng trước
những nguy cơ có thể làm ô nhiễm môi trường không khí. Ở giai đoạn môi trường đã bị
ô nhiễm thì phòng ngừa, dự báo lại hướng tới mục tiêu giới hạn khu vực bị ô nhiễm
không mở rộng thêm, không lan sang khu vực khác. Còn giai đoạn xử lý xong ô nhiễm
thì phòng ngừa lại tiếp tục được đặt ra. Nội dung điều chỉnh pháp luật về phòng ngừa,
dự báo ô nhiễm môi trường không khí gồm các quy định, như: quy hoạch bảo vệ môi
trường, đánh giá ĐMC, ĐTM, và KBM, quan trắc hiện trạng môi trường, thông tin về
tình hình môi trường; kiểm kê khí thải, trách nhiệm của các chủ thể trong phòng ngừa,
dự báo ô nhiễm môi trường không khí…;
- Ở giai đoạn môi trường đã bị ô nhiễm thì phòng ngừa, dự báo vẫn được đặt ra
nhằm giới hạn khu vực bị ô nhiễm không mở rộng thêm, không lan sang khu vực khác.
Tuy nhiên, giai đoạn kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí hướng tới việc nhanh
chóng phát hiện ra ô nhiễm môi trường, khoanh vùng ô nhiễm, ngăn chặn ô nhiễm môi
trường,.. Bên cạnh đó, thông tin về chủ thể gây ô nhiễm môi trường không khí, tình hình
ô nhiễm môi trường không khí và tác động của nó đến các chủ thể bị ảnh hưởng được
biết có ý nghĩa đặc biệt nghiêm trọng.
Hoạt động theo dõi, thanh tra, kiểm tra, phát hiện ô nhiễm môi trường không khí
là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức, hộ gia đình cá nhân và
các chủ thể khác trong kiểm tra, giám sát, phát hiện các hành vi làm ô nhiễm môi trường
không khí, hiện trạng môi trường không khí nhằm hạn chế, giảm thiểu ô nhiễm môi
trường không khí. Ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí là tổng hợp hoạt động của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các chủ nguồn thải và các chủ thể khác trong việc
giữ không cho ô nhiễm môi trường không khí lan rộng ra. Hoạt động ngăn chặn ô nhiễm
được thực hiện khi phát hiện có ô nhiễm môi trường không khí. Bao gồm: giám sát hiện
trạng môi trường không khí, khoanh vùng ô nhiễm, giảm thiểu ô nhiễm, hạn chế, ngăn
chặn ô nhiễm môi trường không khí.
Do vậy nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí trong giai đoạn môi trường đã bị ô nhiễm sẽ tập trung vào các quy định, như: quy
định về quan trắc hiện trạng môi trường không khí, thanh tra hoạt động của các chủ thể
có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường không khí, thông tin về tình hình môi trường không
khí, dự báo biến đổi của môi trường không khí, khoanh vùng, ngăn chặn ô nhiễm môi
trường không khí và trách nhiệm của các chủ thể trong phát hiện, ngăn chặn ô nhiễm
môi trường không khí.
- Ở giai đoạn hậu ô nhiễm vấn đề đặt ra là xử lý ô nhiễm môi trường không khí.
Xử lý ô nhiễm môi trường không khí là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm
51
quyển, các chủ nguồn thải và các chủ thể khác trong khắc phục ô nhiễm, khôi phục hiện
trạng, cải thiện chất lượng môi trường không khí và xử lý các hành làm ô nhiễm môi
trường không khí. Điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí đặt
ra vấn đề cần phải khắc phục ô nhiễm, phục hồi hiện trạng môi trường không khí, xử lý
các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí. Bên cạnh đó, tiếp tục đặt ra vấn đề là
phải phòng ngừa dự báo hiện trạng môi trường không khí;
Có thể thấy, mặc dù không khí rất quan trọng với cuộc sống của con người, nhưng
nhận thức của người dân về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí còn chưa đầy đủ.
Rất nhiều các cơ sở công nghiệp, các làng nghề, các hộ gia đình, cá nhân thường chỉ chú ý
đến lợi ích kinh tế của mình mà quên đi bảo vệ môi trường không khí cho cả cộng đồng.
Trên cơ sở hiện trạng môi trường không khí được phân chia thành các giai đoạn
để kiểm soát. Trong suốt quá trình đó, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí cần quy định rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần xác định
được nội hàm của thuật ngữ kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí gồm những hoạt
động gì? Tác giả cho rằng nội hàm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí gồm
các hoạt động: phòng ngừa ô nhiễm môi trường; dự báo sự biến đổi của môi trường
không khí; thanh tra, kiểm gia, giám sát phát hiện ô nhiễm, mức độ ô nhiễm môi trường
không khí dựa trên quy chuẩn kỹ thuật môi trường; khi phát hiện có ô nhiễm môi trường
không khi thì ngăn chặn; xử lý ô nhiễm trường không khí.
Thứ hai, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần phải xác định
và quy định rõ các chủ thể nào có trách nhiệm, nghĩa vụ kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí. Tác giả cho rằng trách nhiệm kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí thuộc
về cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền, các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải và các
chủ thể khác. Trách nhiệm đầu tiên trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí thuộc
về về các cơ quan nhà nước, tổ chức cá nhân chủ nguồn thải, bởi cơ quan nhà nước được
thành lập ra được trang bị đầy đủ các cơ sở để thực hiện việc kiểm soát này và các tổ
chức cá nhân chủ nguồn thải cũng phải có nghĩa vụ đầu tiên trong kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí bởi họ có chưa đựng nguồn thải gây ô nhiễm (họ phải chịu trách
nhiệm với hành vi của mình). Bên cạnh đó, các chủ thể khác mặc dù không có trách
nhiệm chính trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nhưng đóng vai trò rất quan
trọng trong quá trình này, đặc biệt trong bối cảnh sự thiếu thượng tôn pháp luật môi
trường của các chủ nguồn thải, sự vô cảm của một số các cơ quan, chủ thể có thẩm
quyền trong kiểm soát ô nhiễm môi trường thì vai trò của cộng đồng dân cư, của các tổ
chức xã hội,…là rất quan trọng.
52
Thứ ba, về đối tượng bị kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí đó chính là
hành vi của các chủ thể, như: cá nhân, tổ chức, hộ gia đình; các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và các chủ thể khác khi tham gia vào quan hệ pháp luật kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí.
Thứ tư, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần xác định rõ
chu trình, trình tự, thủ tục, công cụ, phương tiện kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí. Đó là các quy định về phòng ngừa, dự báo, thanh tra, kiểm tra, phát hiện ô nhiễm
môi trường không khí, ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí và xử lý ô nhiễm môi
trường không khí;
Thứ năm, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm trường không khí cần xác định được rõ
mục tiêu của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là gì. Theo tác giả mục tiêu kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí, bảo
vệ sức khỏe nhân dân, bảo đảm quyền được sống trong môi trường được trong lành.
Để làm sáng tỏ những vấn đề trên, tác giả cho rằng nghiên cứu pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí cần tập trung vào các nội dung sau:
- Pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí và tiêu chuẩn môi trường
không khí
- Pháp luật về phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí, dự báo những tác động
đến môi trường không khí và sự biến đổi của môi trường không khí;
- Pháp luật về thanh tra, kiểm tra, phát hiện ô nhiễm môi trường không khí;
- Pháp luật về ngăn chặn ô nhiễm môi trường;
- Pháp luật về xử lý ô nhiễm môi trường không khí;
- Tổ chức và hoạt động của các quan nhà nước có thẩm quyền trong kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí;
2.3.4. Yêu cầu đối với điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí
Là một phần của hệ thống pháp luật Việt Nam, do vậy việc xây dựng, hoàn thiện
pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần đáp ứng những tiêu chí chung
trong xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, như: tính hoàn thiện, tính thống nhất, tính
đồng bộ, tính khả thi, tính hiệu quả, tính công khai, minh bạch dễ hiểu, dễ tiếp cận, tính
chi phí thực hiện thấp. Bên cạnh những tiêu chí chung của hệ thống pháp luật, căn cứ
vào đặc thù của môi trường không khí, ô nhiễm môi trường không khí, tác giả cho rằng
việc xây dựng hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần đạt
được các tiêu chí sau:
- Một là, tính dự báo, cảnh báo. Môi trường không khí mang tính bao trùm, và ô
nhiễm môi trường không khí thì biến đổi khó lường do vậy việc dự báo chính xác sự
53
biến đổi của môi trường không khí và cảnh báo những tác động do ô nhiễm môi trường
không khí đến con người và sinh vật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để thực hiện được
vấn đề này thì luật hóa hoạt động dự báo, cảnh báo này vào trong luật. Việc xây dựng hệ
thống pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần đảm bảo tính cảnh báo
và dự báo sẽ là cơ sở để các quốc gia, các tổ chức, các cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá
nhân chủ động hơn trong phòng ngừa, hạn chế, ngăn chặn ô nhiễm môi trường không
khí, giảm thiểu được những thiệt hại do ô nhiễm môi trường không khí gây ra.
- Tính phòng ngừa được rủi ro phát sinh. Do ô nhiễm môi trường không khí
mang tính bao trùm nên khi thiệt hại xảy ra thường với phạm vi và quy mô rất lớn. Ví
dụ: rò rỉ chất phóng xạ hạt nhân ở nhà máy điện Fukushima đã làm chất phóng xạ lan ra
phạm vi rộng hàng chục km xung quanh nhà máy, thậm chí là hàng trăm km[49]. Giải
pháp tốt nhất để hạn chế, ngăn chặn, giảm thiểu được những thiệt hại này là phòng ngừa
tại nguồn (phòng ngừa trước khi ô nhiễm môi trường không khí xảy ra) có vai trò đặc
biệt quan trọng. Do vậy, điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí cần hướng tới những quy định đồng bộ về phòng trước, ngăn ngừa ô nhiễm môi
trường không khí, phòng ngừa, giảm thiểu thiệt hại do ô nhiễm môi trường không khí
gây ra.
- Tính nhanh chóng, kịp thời. Ô nhiễm môi trường không khí thường diễn ra rất
nhanh trên quy mô và phạm vi lớn do vậy nếu không có sự nhanh chóng trong ngăn
chặn nguồn thải gây ô nhiễm thì phạm vi ô nhiễm sẽ gia tăng. Mặt khác chính do tính
khuếch tán nhanh của môi trường không khí, nhiều chủ thể đã lợi dụng điều này để
chuộc lợi cá nhân nhằm tránh không bị phát hiện. Ví dụ: xả khí thải ô nhiễm chui vào
ban đêm đến sáng thì không còn ô nhiễm nữa. Do vậy điều chỉnh pháp luật về kiểm soát
ô nhiễm môi trường không khí cần theo hướng phát huy tính nhanh chóng, kịp thời của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chủ nguồn thải trong phòng ngừa ô nhiễm
môi trường, phát hiện ô nhiễm môi trường, ngăn chặn ô nhiễm môi trường và xử lý ô
nhiễm môi trường của các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cũng như các tổ chức, cá
nhân, hộ gia đình chủ nguồn thải. Sự nhanh chóng kịp thời này sẽ góp phần rất lớn hạn
chế rủi ro, thiệt hại xảy ra.
- Tính cộng đồng trách nhiệm. Như chúng ta biết môi trường không khí mang
tính bao trùm, mặc dù có giá trị lớn trong đảm bảo sự sinh tồn của con người và sinh
vật, nhưng việc xác định được giá trị của nó không hề dễ dàng như môi trường đất, môi
trường nước. Hơn nữa, môi trường không khí không phải thuộc sở hữu của riêng một ai
mà là của mọi người, các cộng đồng dân cư, các quốc gia và cả nhân loại. Do vậy cả
cộng đồng hay nói cách khác là tất cả mọi người đều phải có trách nhiệm bảo vệ môi
trường không khí. Hơn nữa như đã trình bày ở trên thiệt hại do ô nhiễm môi trường
54
không khí thường xảy ra với nhiều người, thậm chí là nhiều cộng đồng dân cư. Do vậy
điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nhấn đến tính cộng
đồng trách nhiệm sẽ góp phần quan trọng vào quá trình giải quyết tranh chấp môi
trường, trong đó có môi trường không khí.
- Tính liên kết hợp tác vùng, quốc gia, khu vực và quốc tế. Trái đất là ngôi nhà
chung của tất cả các quốc gia và ngôi nhà này được bao bọc, bảo vệ bởi bầu khí quyển
trái đất, môi trường không khí. Do vậy, ô nhiễm môi trường không khí ở một quốc gia
có thể lan sang làm ô nhiễm môi trường không khí của quốc gia khác, hay một quốc gia
không có hành vi làm ô nhiễm môi trường nhưng môi trường không khí vẫn bị ô nhiễm.
không phân biệt quốc gia, khoảng cách địa lý, tài nguyên, dân số,… hay không, nên một
quốc gi bị ô nhiễm có thể ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác. Ví dụ: khói bụi do cháy
rừng ở Inđônêxia có thể lan sang cả Malaysia và Singapo hoặc ô nhiễm phóng xạ hạt
nhân do rò rỉ từ nhà máy điện Fukushima tạo thành các đám mây phóng xạ, theo gió có
thể di chuyển đến nhiều quốc gia, thậm chí việc thải các chất nhà kính còn gây lên hiện
tượng biến đổi khí hậu toàn cầu dẫn tới hiện tượng nước biển dâng và hiện tượng thời
tiết bất thường khác gây ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Hậu quả của ô
nhiễm môi trường không khí xảy ra thường ảnh hưởng rất lớn đến con người, sinh vật và
hệ sinh thái tự nhiên gây mất cân bằng hệ sinh thái.
Những biến đổi bất thường của môi trường không khí và hậu quả của nó đến nay
vẫn chưa thể lường hết được. Nhiều hiện tượng tự nhiên bất thường từ ô nhiễm môi
trường không khí con người cũng chưa thể kiểm soát, chế ngự được hoàn toàn nên nếu
không được cảnh báo, dự báo trước thì thiệt hại xảy ra là rất lớn
Ô nhiễm môi trường không khí mang tính toàn cầu, ô nhiễm môi trường không
khí rất phức tạp một quốc gia không thể có đủ khả năng về công nghệ, tài chính, kinh
nghiệm để tự giải giải quyết được. Hơn nữa, nếu có giải quyết được thì cũng không thể
triệt để nếu không có sự tham gia, hợp tác của nước khác.
2.4. Quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trong các công ước quốc tế
Những năm gần đây ô nhiễm môi trường không khí trở thành vấn đề nghiêm
trọng của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như
Trung Quốc, Ấn Độ, Inđonêxia, Việt Nam,… Đứng trước các vấn nạn ô nhiễm môi
trường không khí các quốc gia đều ban hành hệ thống pháp luật riêng của quốc gia mình
để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, nhưng thực tiễn cho thấy vấn đề ô nhiễm
môi trường không khí, đặc biệt ô nhiễm môi trường không khí tầm xa là vấn đề không
của riêng quốc gia nào, nó liên quan đến toàn cầu nên bên cạnh các quốc gia riêng lẻ, thì
cần phải có sự hợp tác quốc tế trong xây dựng các quy định pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí. Do vậy, hệ thống các quy định quốc tế về kiểm soát ô
55
nhiễm môi trường không khí được xây dựng ở nhiều cấp độ song phương, khu vực và
toàn cầu,… và có kiểm soát ô nhiễm bầu khí quyển (tầm gần) và kiểm soát ô nhiễm tầm
xa (ô nhiễm tầng ozôn). Trong khuôn khổ có hạn của luận án, có thể liệt kê một số văn
bản pháp lý quốc tế sau: Công ước Geneva về ô nhiễm không khí xuyên biên giới
có tầm xa, Thụy Sĩ 1979; Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu
(UNFCCC) đã được chấp nhận vào 9/5/1992 tại trụ sở của Liên hợp quốc ở New York;
Công ước Chicago về hàng không dân dụng quốc tế, 1944; Hiệp ước về Khoảng không
ngoài vũ trụ, 1967; Công ước của Liên Hợp quốc về sự biến đổi môi trường
(26/8/1980); Công ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn, 1985 (26/4/1994); Công ước về
thông báo sớm sự cố hạt nhân, IAEA, 1985 (29/9/1987); Công ước về trợ giúp trong
trường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu phóng xạ, 1986, IAEA (29/9/1987); Nghị định
thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-zôn, 1987 (26/1/1994); Công ước Basel
về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải độc hại và việc loại bỏ hejchúng
(13/5/1995); Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, 1992
(16/11/1994); Công ước về An toàn hạt nhân ngày năm 1994; Công ước chung về an
toàn quản lý nhiên liệu thải và chất thải phóng xạ năm 1997; Hiệp định về chống ô
nhiễm khói mù xuyên biên giới ASEAN, tháng 6 năm 2002,... Những điều ước quốc tế
này chủ yếu hướng vào kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tầm xa, chủ động ứng
phó vơí biến đổi khí hậu. Cụ thể:
Như chúng ta đã biết, tầng ozon có vai trò rất quan trọng trong bảo vệ sự sống
trên trái đất. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua tầng ôzôn của chúng ta ngày càng bị
suy giảm rõ rệt gây thủng tầng ozon mà nguyên nhân chủ yếu do các chất làm suy giảm
tầng ozôn gây ra. Chất làm suy giảm ôzôn chính là CFC (cacbon- flo- clo), không tự
phát sinh mà chủ yếu được tạo bởi các hoạt động của con người. Tầng ôzôn bị suy yếu
dẫn tới tỷ lệ bệnh tật của con người tăng lên rõ rệt và ảnh hưởng tiềm tàng tới việc thay
đổi của các điều kiện khí hậu. Vì vậy, các quốc gia đã cùng nhau ký kết nhiều văn bản
thỏa thuận liên quan đến vấn đề này có thể liệt kê:
2.4.1. Công ước Geneva về ô nhiễm không khí xuyên biên giới có tầm xa 1979
Nghiên cứu các điều ước quốc tế liên quan đến kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí có thể thấy các quốc gia Châu Âu là khu vực đi đầu trong việc xây dựng các
cam kết quốc tế. Bắt đầu cho sự kiện này là ngày 13 tháng 11 năm 1979, các quốc gia
thuộc cộng đồng Châu Âu, cùng với hai nước Mỹ và Canada đã thông qua Công ước
Geneva và ô nhiễm không khí xuyên biên giới có tầm xa. Công ước có hiệu lực năm
1983. Hiện nay, có hơn 30 quốc gia ở Tây và Đông Âu tham gia, kể cả Liên bang Nga
[90, 34]. Qua nghiên cứu Công ước này có thể thấy:
56
Một là, đây được coi như là thỏa thuận khu vực quan trọng nhất quy định
việc kiểm soát ô nhiễm không khí tầm xa trong bầu khí quyển châu Âu và Bắc Mỹ.
Theo Công ước thì môi trường không khí được coi như là một nguồn tài nguyên dùng
chung và bắt buộc các quốc gia phải có sự hợp tác xây dựng và thực hiện các biện pháp
kiểm soát ô nhiễm cũng như những tiêu chuẩn phát thải chung.
Hai là, Công ước chỉ rõ ô nhiễm không khí tầm xa là loại ô nhiễm ảnh hưởng đến
một khoảng cách mà khó có thể phân biệt được những nguồn phát thải riêng biệt hay
những nhóm nguồn gây ô nhiễm (Điều 1, b Công ước).
Ba là, Công ước không chỉ giới hạn ở những ảnh hưởng có hại của ô nhiễm môi
trường không khí tầm xa đến sức khỏe hoặc tài sản của con người mà còn quy định rộng
hơn, thậm chí rộng hơn cả những quy định trong các thỏa ước về ô nhiễm môi trường
biển, bao gồm tổn hại đến nguồn sinh vật, hệ sinh thái, cơ sở hạ tầng và việc sử dụng
hợp lý các nguồn tài nguyên môi trường (Điều 1, a Công ước).
Bốn là, Công ước đã xác định nghĩa vụ các quốc gia trao đổi thông tin, nghiên
cứu và thảo luận về chính sách, chiến lược và các biện pháp nhằm cắt, giảm ô nhiễm
không khí (Điều 3, Điều 4, Điều 5 và Điều 8 Công ước);
Năm là, mục tiêu của Công ước là ngăn ngừa, giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm
không khí tầm xa, từ bất kể nguồn gây ô nhiễm nào từ các quốc gia thành viên. Mặc dù
vậy, Công ước không quy định bất kỳ một nghĩa vụ cụ thể nào về việc cắt giảm các
nguồn ô nhiễm không khí, mà các bên chỉ cam kết xây dựng một chính sách kiểm soát ô
nhiễm, trên cơ sở những nguyên tắc và mục tiêu chung. Ví dụ: nghĩa vụ “nỗ lực hạn
chế” và “dần dần cắt giảm và ngăn ngừa” ô nhiễm không khí (Điều 2). Vì vậy, các quốc
gia có toàn quyền quyết định mức độ nỗ lực kiểm soát ô nhiễm của họ, cũng như chi phí
họ sẵn lòng bỏ ra cho toàn bộ quá trình phát triển kinh tế. Hơn nữa, Công ước này
cũng không quy định trách nhiệm đối với tổn hại do ô nhiễm không khí gây ra.
Sáu là, Công ước Geneva quy định về nghĩa vụ thông báo và thảo luận
trong trường hợp có những rủi ro nghiêm trọng có thể dẫn đến ô nhiễm tầm xa. Quy
định này chỉ được áp dụng đối với những thay đổi chủ yếu trong chính sách hoặc sự
phát triển công nghiệp có khả năng gây ra những thay đổi đáng kể về ô nhiễm không
khí tầm xa, khi đó các quốc gia mới có nghĩa vụ thông báo cho các quốc gia khác. Nếu
không, việc thảo luận chỉ được tổ chức do yêu cầu của các bên “thực sự bị ảnh hưởng
hoặc có khả năng bị một rủi ro đáng kể về ô nhiễm không khí tầm xa” (Điều 5). Có
nghĩa là cơ chế thảo luận không hiệu quả bằng những Công ước liên quan đến đánh giá
tác động môi trường (nghĩa vụ tổ chức thảo luận ngay từ khi đề xuất dự án sau khi đã
thông báo cho tất cả các bên có khả năng chịu tổn hại từ hoạt động phát triển để họ có
thể tham gia).
57
Về cơ bản, có thể thấy Công ước Geneva đã xây dựng được một khung pháp lý cho
sự hợp tác và tạo tiền đề cho việc phát triển những biện pháp kiểm soát ô nhiễm. Thực tiễn
những năm qua các quốc gia thành viên của Công ước này đều có sự nhất trí về ảnh hưởng
tích cực của Công ước đối với việc kiểm soát ô nhiễm không khí và quản lý chất lượng
không khí trong khu vực, thể hiện ở những hành động của các quốc gia để cải thiện môi
trường không khí, giảm tỷ lệ phát thải ô nhiễm, và phát triển công nghệ. Ở một mức độ nào
đó, Công ước được xem là một thành công đáng khích lệ, đặc biệt đối với việc làm thay đổi
chính sách trong Cộng đồng châu Âu và thúc đẩy mối quan tâm của công chúng đối với vấn
đề này. Tuy nhiên, Công ước Geneva chỉ có giá trị ràng buộc với một số quốc gia châu Âu
và Bắc Mỹ, trong khi đó vấn đề ô nhiễm không khí xuyên biên giới đang đe dọa sự tồn tại
của cả nhân loại. Do đó, ở mức độ toàn cầu, cơ sở để xác định trách nhiệm đối với hành vi
gây ô nhiễm không khí tầm xa vẫn là nghĩa vụ tập quán quốc tế và các điều ước quốc tế
khác có sự tham gia nhiều hơn của các quốc gia trên thế giới [40].
Bên cạnh Công ước Geneva 1979 về ô nhiễm không khí xuyên biên giới có tầm
xa năm 1991, Châu Âu cũng đã thông qua Hiến chương năng lượng Châu Âu. Hiến
chương này đã được 46 quốc gia ký tại The Hague (Hà Lan), thành viên ký kết gồm
các nước Tây và Đông Âu, Mỹ, Nhật, Canada, Úc…mục đích của Hiến chương là tạo
nền tảng vững chắt cho sự hợp tác khắng khít hơn nữa giữa các nước liên quan về
công nghiệp năng lượng, về sản xuất, phấn phối và tiêu thụ năng lượng, cũng như
việc hạn chế ô nhiễm vào môi trường không khí. Qua đó có thể khẳng định châu Âu là
khu vực đi đầu trong hoàn thiện thể chế pháp lý khu vực cho kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí.
2.4.2. Công ước Vienna 1985 về bảo vệ tầng ozone
Vào những năm 80 của thế kỷ XX, do việc xả thải khí thải (đặc biệt là các khí
thải nhà kính) tại các nước công nghiệp phát triển một cách bừa bãi, thiếu kiểm soát dẫn
đến môi trường không khí thế giới càng ô nhiễm trầm trọng, tầng ozon đứng trước nguy
cơ suy giảm đáng báo động ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật trên trái đất. Với
mục đích hạn chế sự phát thải của các chất khí có hại tới tầng ôzôn, ngày 22/03/1985 tại
Vienna, thủ đô nước Áo, các quốc gia đã cùng nhau ký kết một văn bản thỏa thuận về
trách nhiệm của các nước trong việc giảm phát thải các chất có hại đến sự bình ổn của
tầng ôzôn (gọi là Công ước Vienna 1985 về bảo vệ tầng ozone). Là một Công ước
khung, Công ước Vienna đã thiết lập sự kiểm soát không đặc thù về các chất làm suy
giảm tầng ôzôn. Việt Nam đã tham gia Công ước này ngày 26/4/1994, là một thành viên
của Công ước thì Việt Nam có quyền và nghĩa vụ cơ bản sau: một là, Việt Nam cần có
biện pháp thích hợp để bảo vệ sức khỏe con người và môi trường đó là các biện pháp
được nhấn mạnh là ngăn ngừa để kiểm soát cũng như hạn chế việc sử dụng một số hóa
58
chất hay chất khí có thể làm suy giảm tầng ôzôn; hai là, Việt Nam phải bảo đảm hợp tác
với các quốc gia khác trong việc nghiên cứu khoa học, quan trắc có hệ thống liên quan
tới tầng ôzôn, sự biến đổi tầng ôzôn, những chất làm ảnh hưởng tới tầng ôzôn cũng như
những chất thay thế.
Do là Công ước khung chỉ quy định những vấn đề mang tính chất cơ bản nên 2 năm
sau tại Canada, các quốc gia thống nhất thông qua Nghị định thư Montreal 1987 về các chất
làm suy giảm tầng ôzôn đã được nhằm cụ thể hóa hơn Công ước Vienna 1985. Việt Nam đã
phê chuẩn và trở thành thành viên chính thức của Nghị định thư Montreal từ này 26 tháng
01 năm 1994. Nghị định thư này đã đưa ra một kế hoạch đặc biệt cho việc giảm sản xuất và
tiêu thụ các chất làm suy yếu tầng ôzôn trong 10 năm. Đồng thời đặt ra ba giai đoạn để
giảm khí nhà kính với mục tiêu giảm 50% khí thải vào năm 1999 và giảm đến zero (0) vào
năm 2000 và các bên cần duy trì mức độ phát thải của mình như đã cam kết.
Cho đến nay có thể khẳng định Công ước Viên về bảo vệ tầng ôzôn năm 1985 và
Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzôn 1987 đã và đang được ghi nhận
là một thành công của cộng đồng quốc tế trong việc chống lại một thảm họa môi trường toàn
cầu tạo ra do sự biến đổi khí hậu do tầng ôzôn bị phá hủy gây nên và đến nay đã có hơn 170
quốc gia phê chuẩn công ước Viên nhằm bảo vệ tầng ôzôn. [90, 433].
2.4.3. Công ước khung về biến đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc năm 1992
Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ
quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên
và nhân tạo". Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các
hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển,
ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, các khí nhà kính cơ bản gồm
sáu loại chủ yếu: CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6. Biến đổi khí hậu gây nên hiện
tượng hiệu ứng nhà kính, mưa axit; thủng tầng ô zôn; cháy rừng; lũ lụt, hạn hán, sa mạc
hóa, hiện tượng sương khói,... Vào những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của
thế kỷ XX tình hình biến đổi khí hậu toàn cầu trở nên trầm trọng có nguy cơ ảnh hưởng
đến sự sinh tồn của con người và sinh vật. Đứng trước bối cảnh đó nhằm ngăn chặn
những hiểm họa do biến đổi khí hậu gây ra, tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp quốc
về môi trường và phát triển họp tại Rio De Janeiro, Brazin tháng 6 năm 1992, 162 quốc
gia đã tham gia Công ước khung của Liên Hiệp quốc về biến đổi khí hậu. Việt Nam
cũng đã phê chuẩn tham gia ngày 16/11/1994. Công ước này là cam kết của các quốc
gia nhằm vạch ra khung khổ cho các hoạt động kiểm soát và cắt giảm phát thải khí nhà
kính nhằm ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển để ngăn chặn các tác động
nguy hiểm của nó tới hệ thống khí hậu. Nội dung chủ yếu của Công ước nhằm:
59
- Hình thành các chính sách quốc gia về các biện pháp tương ứng để hạn chế các
chất khí có thể gây ra hiệu ứng nhà kính; làm giảm nhẹ sự thay đổi khí hậu bằng cách
đối phó với những phát thải do con người gây ra. [90, 35]
- Hợp tác giữa các quốc gia nhằm ứng phó với sự thay đổi của khí hậu trao đổi thông
tin nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, giáo dục đào tạo và truyền bá đại chúng.
- Các nước phát triển sẽ cung cấp nguồn tài chính mới và bổ sung để đáp ứng
toàn bộ chi phí cho các nước đang phát triển khi các nước này thực hiện nghĩa vụ
nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, giáo dục đào tạo và truyền thông.
- Các nước cam kết phải thực hiện nghĩa vụ giáo dục, đào tạo nâng cao nhận
thức của mọi người về biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của nó.
Tuy nhiên, Công ước khung về biến đổi khí hậu của Liên Hợp quốc năm 1992,
chủ yếu là các thỏa thuận mang tính nguyên tắc giữa các quốc gia nhằm ứng phó với
biến đổi khí hậu. Do vậy để cụ thể hóa trách nhiệm của các quốc gia liên quan đến vấn
đề này, tại Hội nghị các bên tham gia UNFCCC lần thứ 3, được tổ chức tại Kyoto, Nhật
Bản - tháng 12 năm 1997, các quốc gia đã thông qua Nghị định thư Kyoto để hướng
dẫn, cụ thể hóa Công ước khung về biến đổi khí hậu.
2.4.4. Nghị định thư Kyoto (gọi tắt là KP)
Nghị định thư Kyoto thiết lập ba cơ chế hỗ trợ các nước công nghiệp (Các bên
thuộc Phụ lục I) giảm nhẹ phát thải khí nhà kính để đạt được mục tiêu giảm phát thải với
chi phí thấp nhất gồm:
- Mua bán quyền phát thải quốc tế (IET): cho phép các nước chuyển giao phần
“phát thải cho phép của mình”
- Đồng thực hiện (JI): cho phép các nước nhận được tín dụng đối với các giảm
phát thải do đầu tư tại các nước công nghiệp hoá khác, điều này dẫn đến chuyển giao
"đơn vị giảm phát thải" giữa các nước
- Cơ chế phát triển sạch (CDM): cho phép các dự án giảm phát thải hỗ trợ phát
triển bền vững ở các nước đang phát triển thu được "các giảm phát thải được chứng
nhận - CERs" cho chủ đầu tư dự án.
Điểm nhấn quan trọng của KP là xây dựng được cơ chế phát triển sạch (Clean
Development Mechanism-CDM) và hình thành thị trường mua bán Chứng nhận Giảm
phát thải khí nhà kính (Certified Emission Reductions-CERs) nhằm hướng tới việc cắt
giảm lượng phát thải khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu. Là một trong những nước chịu
sự tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu, Việt Nam đã nhanh chóng tham gia cam kết
với các tổ chức quốc tế, như ký kết Công ước khung, Nghị định Kyoto, tham gia dự án
CDM - Cơ chế phát triển sạch, có chỉ định cơ quan đầu mối quốc gia, phê chuẩn nghị
định thư. Việt Nam đủ điều kiện theo quy định của tổ chức quốc tế để xây dựng và thực
60
hiện các dự án CDM. Có thể nói, việc xây dựng và thực hiện các dự án CDM sẽ mang
lại các giá trị kinh tế và ý nghĩa bảo vệ môi trường to lớn.
Nghị định thư Kyoto cũng cho phép một vài cách tiếp cận linh hoạt cho các nước
thuộc Phụ lục I nhằm đạt được mục tiêu cắt giảm khí thải bằng cách cho phép mua
lượng khí cắt giảm được từ những quốc gia khác. Điều này có thể đạt được dưới hình
thức tài chính hay từ những chương trình hỗ trợ công nghệ cho các nước không thuộc
Phụ lục I với mục đích nhằm hoàn thành mục tiêu đã kí kết trong Nghị định thư. Trong
thực tế, điều này có nghĩa là các nước nằm ngoài Phụ lục I không bị bắt buộc phải giới
hạn lượng khí thải gây ra, nhưng dự án giảm phát thải khí nhà kính hoặc tăng bồn chứa
khí nhà kính ở các quốc gia này sẽ thu về "lượng giảm phát thải được chứng nhận -
CERs" cho chủ đầu tư dự án. Chỉ cần sở hữu CERs, bất kể chúng có nguồn gốc hay
được thực hiện tại quốc gia nào cũng sẽ được chấp nhận, và đã đóng góp vào việc giảm
phát thải khí nhà kính như cam kết trong Nghị định thư Kyoto. Theo quy ước, mỗi
CERs tương đương 1 tấn khí CO2. Ban điều hành quốc tế về CDM của Liên Hiệp Quốc
(EB) là cơ quan có thẩm quyền công nhận và cấp CERs. Về mặt nguyên tắc, người sở
hữu CERs có thể bán chứng chỉ này trên thị trường quốc tế cho những đơn vị hay quốc
gia có nhu cầu với nguyên tắc thỏa thuận. Cùng với Cơ chế buôn bán chứng nhận giảm
phát thải phát thải (IET), Cơ chế phát triển sạch của Nghị định thư Kyoto đã tạo ra một
thị trường phát mua bán một loại hàng hóa đặc biệt. Thị trường này đang hấp dẫn các
nhà đầu tư bởi giá CERs ngày càng tăng và được dự đoán sẽ tiếp tục được mở rộng hơn
trong tương lai. [38]. Việt Nam với tư cách là một thành viên của Nghị định thư Kyoto
cũng rất tích cực hoàn thiện chính sách pháp luật và thúc đẩy các doanh nghiệp trong
nước tham gia phát triển sạch phù hợp với tình thần của Nghị định thư mà Việt Nam đã
cam kết.
Sơ đồ về các hoạt động CDM. (Nguồn: www.dmcgroup.vn)
Có thể thấy các cơ chế được đưa ra trong Nghị định thư Kyoto là cơ sở quan
trọng để các quốc gia kiểm soát các khí thải gây hiệu ứng nhà kính kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí, ứng phó với biến đổi khí hậu.
61
2.4.5. Hiệp định về chống ô nhiễm khói mù xuyên biên giới ASEAN, 6 năm 2002.
ASEAN là khu vực có trữ lượng than bùn chiếm khoảng 60% tổng diện tích than
bùn trên toàn thế giới. Nguồn vàng đen này mang nhiều giá trị cho nèn kinh tế và môi
sinh của các nước ASEAN. Tuy nhiên, những năm gần đây, chất lượng môi trường
không khí của khu vực ASEAN đã bị ô nhiễm bởi nạn khói mù xuyên biên giới. Nguyên
nhân là do những đám cháy ở vùng đất than bùn thường sinh ra khói dày đặc và thải một
lượng lớn khí cacbon. Thống kê cho thấy, cháy đất và cháy rừng năm 1997 - 1998, 2002
và 2005 ở Đông Nam Á đã phá hủy hơn 3 triệu ha đất đầm lầy. Để quan trắc, cảnh báo
về tình trạng cháy đất, cháy rừng và nguy cơ khói mù. Đề giải quyết tình trạng ô nhiễm
khói mù xuyên biên giới, cuối năm 1997, các Bộ trưởng Môi trường ASEAN đã nhất trí
Kế hoạch hành động khói mù khu vực (RHAP) nhằm thực hiện các nỗ lực chung trong
việc quan sát, ngăn ngừa và giảm tình trạng ô nhiễm khói mù xuyên biên giới do nạn
cháy đất, cháy rừng gây ra. Tiếp đó, Hiệp định ASEAN về ô nhiễm khói mù xuyên biên
giới đã được ký kết vào tháng 6 năm 2002 và có hiệu lực vào tháng 11 năm 2003 sau khi
được 6 nước thành viên ASEAN phê chuẩn. Bên cạnh những hoạt động được triển khai
theo RHAP, đã có những bước tiến lớn trong việc thực hiện Hiệp định ASEAN về ô
nhiễm khói mù xuyên biên giới. Đến nay đã có 10 nước thành viên ASEAN, gồm
Brunei, Campuchia, Malaysia, Singapo, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Philippin và
Indonexia đã phê chuẩn Hiệp định này.
Quá trình triển khai Hiệp định cũng đã đạt được bước tiến quan trọng là thành lập
được Quỹ kiểm soát ô nhiễm khói mù xuyên biên giới ASEAN. Bên cạnh đó do mối đe
dọa của cháy đất than bùn kèm theo khói bụi đối với kinh tế và sức khỏe của người dân
trong khu vực, Chiến lược quản lý đất than bùn ASEAN (APMS) đã được xây dựng, đề
ra một số hoạt động cấp quốc gia và khu vực nhằm hỗ trợ việc quản lý đất than bùn
trong khu vực. APMS đã hỗ trợ thực hiện sang kiến quản lý đất than bùn ASEAN
(APMI) được xây dựng trong khuôn khổ Hiệp định ASEAN về kiểm soát ô nhiễm khói
mù xuyên biên giới. APMS được các Bộ trưởng Môi trường ASEAN thống nhất vào
tháng 11 năm 2006 và chủ yếu tập trung vào nội dung tăng cường nhận thức và kiến
thức về đất than bùn: giải quyết ô nhiễm khói mù xuyên giới và suy thoái môi trường;
thúc đẩy quản lý bền vững đất than bùn; tăng cường và thúc đẩy hợp tác khu vực về các
vấn đề liên quan đến đất than bùn...
Có thể thấy, do tầm quan trọng của môi trường không khí đối với sự sinh tồn của con
người và sinh vật nên nhiều điều ước quốc tế về kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí ở các cấp độ khác nhau đã được các quốc gia thống nhất thông qua. Đây là cơ sở
pháp lý quan trọng xác định trách nhiệm của các quốc gia (trong đó có Việt Nam) trong
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí đồng thời là cơ sở để các quốc gia nội luật hóa
62
để kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường không khí trong phạm vi quốc gia mình và
hợp tác để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí xuyên biên giới, kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí tầm xa nhằm bảo vệ tầng ozon, ứng phó với biến đổi khí hậu thực
hiện phát triển bền vững.
2.4.6. Thỏa thuận Paris về ứng phó với biến đổi khí hậu
Để cụ thể hóa các nguyên tắc ứng phó với biến đổi khí hậu mà các quốc gia thỏa
thuận trong Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu năm 1992, từ năm
1995 đến nay, ngoài những cam kết có phần cụ thể hơn nội dung của Công ước được ghi
nhận trong Nghị định thư Kyoto, thì các quốc gia thành viên của Công ước mỗi năm
một lần đều tổ chức Hội nghị để bàn về việc tạo ra các cam kết pháp lý quốc tế để ứng
phó hiệu quả với biến đổi khí hậu toàn cầu. Tuy nhiên, quá trình đàm phán này gặp rất
nhiều gian nan từ Hội nghị Cop 1 được tổ chức tại Berlin, Cộng hòa liên bang Đức đến
đến Cop 20 tổ chức tại Lima, Peru các quốc gia không thể đạt được được một thỏa thuận
chung toàn cầu về ứng phó với biến đổi khí hậu.
Hội nghị COP21 diễn ra từ ngày 29/11 đến ngày 13/12/2015 với sự tham gia của
gần 40.000 đại biểu từ 195 quốc gia tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về
biến đổi khí hậu. Đặc biệt, Hội nghị đã nhận được sự quan tâm và tham dự của lãnh đạo
Chính phủ và Nhà nước của 150 quốc gia. Hội nghị bao gồm các phiên họp của Hội
nghị lần thứ 21 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí
hậu (COP 21), Hội nghị lần thứ 11 các Bên tham gia Nghị định thư Kyoto (CMP 11),
Khóa họp thứ 43 Ban bổ trợ về tư vấn khoa học và công nghệ (SBSTA 43), Khóa họp
thứ 43 Ban bổ trợ về thực hiện (SBI 43), Khóa họp lần thứ hai Nhóm công tác đặc biệt
về thúc đẩy Diễn đàn Durban-phần 12 (ADP2.12).
Sau hai tuần đàm phán căng thẳng với các phiên họp kéo dài suốt đêm trong giai
đoạn nước rút, vào lúc 19h28 (giờ Paris) ngày 12/12, đại diện của 195 nước tham dự
Hội nghị COP21 đã chính thức thông qua Thỏa thuận Paris. Thỏa thuận vừa đạt được là
đánh dấu bước đột phá quan trọng trong nỗ lực của Liên hợp quốc suốt hơn hai thập kỷ
qua nhằm thuyết phục Chính phủ các nước hợp tác để giảm lượng khí thải gây ô nhiễm,
hạn chế việc gia tăng nhiệt độ của Trái đất. Bản thỏa thuận này được ghi nhận và đánh
giá là bảo đảm công lý khí hậu, công bằng, hài hòa lợi ích giữa các quốc gia, các cộng
đồng,…trong thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu. Bởi trước khi Bản thỏa thuận này
được thông qua, theo một nghiên cứu về vấn đề biến đổi khí hậu công bố ngày 30-11-
2015, 48 nước nghèo nhất trên thế giới cần có 1 nghìn tỷ USD trong khoảng từ năm
2020 đến năm 2030 để có thể thực hiện kế hoạch chống biến đổi khí hậu. Con số trên
được Viện Môi trường và Phát triển Quốc tế (IIED) đóng trụ sở tại London (Anh) tính
toán dựa vào kế hoạch mà các nước kém phát triển nhất thế giới (LDC) cam kết để thực
63
hiện thỏa thuận kiềm chế tình trạng nóng lên toàn cầu của Liên hợp quốc. Theo ước
tính, mỗi năm, các nước này sẽ cần có 93 tỷ USD, bao gồm 53,8 tỷ USD cho giảm khí
phát thải và 39,9 tỷ USD đối phó với các hiện tượng khí hậu cực đoan và tình trạng
nước biển dâng cao. IIED cho biết, hiện các nước kém phát triển mới chỉ được tiếp cận
với 1/3 quỹ khí hậu quốc tế do các nước giàu có cung cấp. Cũng trong báo cáo, IIED chỉ
ra rằng, dù các nước nghèo đang rất cần nguồn lực để đấu tranh chống biến đổi khí hậu,
song phần lớn tiền hỗ trợ lại được chi cho các nước có điều kiện kinh tế khá hơn. Chỉ
tính riêng một số nước như Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ, Maroc, Nam Phi và Thổ Nhĩ
Kỳ, số tiền các nước này được nhận đã ngang bằng với tổng tiền tài trợ cho toàn bộ 48
nước nghèo. Một tỷ lệ phân bố tiền không cân đối cũng được các nhà nghiên cứu chỉ ra
giữa lĩnh vực đối phó với biến đổi khí hậu và hỗ trợ người dân thích ứng với các cú sốc
khí hậu. Trong 11,8 tỷ USD được chi cho các nước nghèo trong năm 2013 - 2014, tới 10
tỷ USD được dành để hỗ trợ cắt giảm khí thải, và chỉ còn 1,8 tỷ USD dành cho công tác
thích ứng với biến đổi khí hậu. Do vậy, COP 21 lần này đã đề ra một thỏa thuận được
đánh giá là công bằng và hiệu quả theo hướng ưu tiên cho đầu tư từ khu vực tài chính
công quốc tế cho nhóm các nước nghèo, để giúp họ thực hiện được kế hoạch chống biến
đổi khí hậu của mình và thu hút được nguồn tài chính tư cho lĩnh vực khí hậu. [125]
Bản Thỏa thuận Paris có 31 trang, 29 điều khoản và sẽ thay thế Nghị định thư
Kyoto từ năm 2020. Thoả thuận Paris sẽ có hiệu lực trong vào 30 ngày sau khi có ít nhất
55 quốc gia, chiếm ít nhất 55% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu phê
chuẩn. Về mục tiêu, thỏa thuận này đặt ra mức tăng nhiệt độ của Trái đất đến năm 2100
là thấp hơn đáng kể so với ngưỡng 2 độ C và gắng tiến tới ngưỡng thấp hơn 1,5 độ C.
Thỏa thuận Paris còn đề ra cơ chế để mỗi nước tự nguyện rà soát, theo đó từ năm
2023, cứ 5 năm/lần Liên hợp quốc sẽ tổ chức đánh giá hiệu quả tổng hợp về các nỗ lực
chống biến đổi khí hậu của các nước. Việc đánh giá này sẽ giúp các nước có thêm thông
tin để cập nhật và tăng cường các cam kết của họ. Trong điều khoản về „tổn thất và thiệt
hại‟, các bên sẽ tăng cường hiểu biết, hành động và hỗ trợ thông qua Cơ chế quốc tế về
tổn thất và thiệt hại cùng với tác động của biến đổi khí hậu. Các nước phát triển sẽ cung
cấp nguồn lực tài chính để hỗ trợ các nước đang phát triển thích ứng và giảm nhẹ phát
thải khí nhà kính và các bên được khuyến khích cung cấp hoặc tiếp tục cung cấp hỗ trợ
này trên cơ sở tự nguyện. Mức đóng góp 100 tỷ đô la mỗi năm cho đến năm 2020 tiếp
tục được khẳng định lại, nhưng quan trọng là Thỏa thuận Paris xem con số 100 tỷ USD
này không đủ và đang kêu gọi tăng thêm. Đến năm 2025 sẽ lại đưa ra được một con số
cụ thể khác về đóng góp tài chính.
Việt Nam là một trong những quốc gia bị tổn thương nhất do biến đổi khí hậu.
Theo đánh giá ban đầu, Thoả thuận Paris đã đề cập đến các vấn đề mà Việt Nam đang
64
quan tâm trong công tác ứng phó với biến đổi khí hậu. Vấn đề đặt ra lúc này là Việt
Nam cần phải làm gì để tận dụng tối đa những lợi ích từ thỏa thận này, như: làm thế nào
để nhận được cam kết hỗ trợ tài chính nhiều hơn theo cam kết trong Thỏa thuận để thực
hiện việc thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu ở Việt Nam; cần phải rà soát hoàn
thiện các chính sách, pháp luật nào để phù hợp với Thỏa thuận; cần phải hoàn thiện tổ
chức bộ máy quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu thế nào để có thể thực
thi hiệu quả Thỏa thuận,…;
Qua đó có thể thấy, cho đến nay đã có nhiều điều ước quốc tế, khu vực được các
quốc gia thỏa thuận thông qua để góp phần bảo vệ môi trường không khí toàn cầu. Đặc
biệt là cơ sở cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam trong quá trình nghiên cứu, xây
dựng hòa hoàn thiện pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Kết luận chƣơng 2
Chương 2 với chủ đề: “Những vấn đề lý luận về ô nhiễm môi trường không khí và
pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí”, tác giả luận án đã làm sáng tỏ
những vấn đề sau:
Thứ nhất, đã phân tích các quan điểm và đưa ra cách hiểu về môi trường, môi
trường không khí, đặc điểm của môi trường không khí. Theo đó tác giả cho rằng: “môi
trường là hệ thống các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo có tác động qua lại đến sự
tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”. Còn môi trường không khí là hỗn hợp
các chất khí bao quanh trái đất và được giữ lại bởi lực hấp dẫn của trái đất, như nitơ
(78,1% theo thể tích) và oxy (20,9%), với một số lượng nhỏ agon (0,9%), dioxit cacbon
(dao động khoảng 0,035%), hơi nước và một số chất khí khác có tác động qua lại đến sự
tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Đồng thời chỉ ra các đặc điểm của môi
trường không khí, như: các yếu tố cấu thành môi trường không khí khác so với thành
phần môi trường khác; môi trường không khí mang tính khuếch tán, lan truyền nhanh;
môi trường không khí không thể phân chia được ranh giới; tính không xác định chủ sở
hữu cụ thể của môi trường không khí; tính khó xác định giá trị của môi trường không
khí; tính khó xác định chính xác thiệt hại của môi trường không khí;
Thứ hai, phân tích và làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm và phân loại ô nhiễm môi
trường không khí, chỉ ra đặc trưng của ô nhiễm môi trường không khí trên cơ sở so sánh
với ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước. Theo đó tác giả cho rằng, ô nhiễm môi
trường không khí là sự biến đổi của thành phần môi trường không khí không phù hợp/vi
phạm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí gây ảnh hưởng xấu đến con
65
người và sinh vật. Tác giả cũng chỉ ra ô nhiễm môi trường không khí có đặc điểm, như:
phạm vi của ô nhiễm môi trường không khí thường rộng; ô nhiễm môi trường không khí
mang tính xuyên biên giới; ô nhiễm môi trường không khí không chỉ ảnh hưởng đến
một cá nhân, tổ chức cụ thể mà thường ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều người; ô nhiễm
môi trường không khí thường tác động đến sức khỏe, tính mạng của con người động,
thực vật, tuy nhiên nó không thể hiện ở mức độ cấp tính ngay mà ngấm dần; ô nhiễm
không khí không chỉ ảnh hưởng lớn đến môi trường không khí tầm thấp gần bề mặt trái
đất mà còn dẫn đến ô nhiễm môi trường không khí tầm xa;
Thứ ba, khái quát tác động, ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường không khí đến
sức khỏe, tính mạng, đời sống, sản xuất của con người và hệ sinh thái ở Việt Nam. Từ
đó chỉ ra nhu cầu điều chỉnh ô nhiễm môi trường không khí bằng pháp luật.
Thứ tư, trên cơ sở nội hàm của thuật ngữ kiểm soát và đặc thù của ô nhiễm môi
trường không khí. Tác giả cho rằng, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là trách
nhiệm của cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải
và các chủ thể khác trong phòng ngừa, dự báo; theo dõi, kiểm tra, giám sát, phát hiện
những tác động đến môi trường không khí, hiện trạng môi trường không khí, sự biến đổi
của môi trường không khí so với quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí; ngăn chặn,
khắc phục ô nhiễm, cải tạo phục hồi hiện trạng môi trường không khí; xử lý các hành vi
làm ô nhiễm môi trường không khí nhằm đảm bảo cho môi trường không khí được trong
lành, sạch đẹp. Hơn nữa, trên cơ sở đặc thù của ô nhiễm môi trường không khí, tác giả
cũng chỉ ra các đặc điểm của kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, như: phải kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí tại nguồn; kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
cần phải có sự liên kết, hợp tác giữa các địa phương, các vùng và giữa các quốc gia ở
các cấp độ song phương, khu vực và toàn cầu; khẳng định trách nhiệm hàng đầu của nhà
nước và các chủ nguồn thải trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; nhấn mạnh
ý nghĩa, giá trị về mặt sức khỏe, sinh tồn của môi trường không khí đối với con người
trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; tính chủ quan, bị động trong kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí; phân biệt kiểm soát ô nhiễm môi trường với với bảo vệ
môi trường không khí;
Thứ năm, phân tích và làm sáng tỏ khái niệm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí, vai trò của pháp luật trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Theo đó tác giả cho rằng: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là tổng
thể các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều
66
chỉnh hoạt động của các cơ quan quản lí nhà nước, các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải
và các chủ thể khác trong phòng ngừa, dự báo; theo dõi, kiểm tra, giám sát, phát hiện
những tác động đến môi trường không khí, hiện trạng môi trường không khí, sự biến đổi
của môi trường không khí so với quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí; ngăn chặn;
xử lý ô nhiễm môi trường không khí, đảm bảo cho môi trường không khí được trong
lành, sạch đẹp.
Thứ sáu, chỉ ra việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí cần phải dựa trên các nguyên tắc, như: nguyên tắc bảo đảm quyền
được sống trong môi trường trong lành; nguyên tắc bảo đảm phát triển bền vững;
Nguyên tắc xã hội hóa các hoạt động bảo vệ môi trường không khí; nguyên tắc kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí tại nguồn; nguyên tắc tác động tới chi phí và lợi ích
theo hướng để các chủ nguồn thải tự nguyện lựa chọn tuân thủ pháp luật; nguyên tắc
người gây ô nhiễm môi trường không khí phải chịu trách nhiệm pháp lý; nguyên tắc hợp
tác quốc tế và khu vực trong bảo vệ môt trường không khí. Phác họa nội dung của pháp
luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và đưa ra các tiêu chí điều chỉnh pháp
luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, như: tính dự báo, cảnh báo, tính phòng
ngừa được rủi ro phát sinh, tính nhanh chóng, kịp thời, tính cộng đồng trách nhiệm, tính
liên kết hợp tác vùng, quốc gia, khu vực và quốc tế.
Thứ bảy, chương này cũng phân tích nội dung điều chỉnh pháp luật trong một số
các công ước khu vực và quốc tế liên quan đến kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
và yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam, như: Công ước Geneva về ô nhiễm không khí xuyên
biên giới có tầm xa, Thụy Sĩ 1979; Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí
hậu (UNFCCC); Công ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn, 1985; Nghị định thư Montreal về
các chất làm suy giảm tầng ô-zôn, 1987; Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến
đổi khí hậu, 1992 (16/11/1994); Hiệp định về chống ô nhiễm khói mù xuyên biên giới
ASEAN, tháng 6 năm 2002; Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu;
67
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG
KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trƣờng không khí và tiêu
chuẩn môi trƣờng không khí
Có thể khẳng định quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn môi trường không khí là xương
sống của pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, là cơ sở để đánh giá hiện
trạng môi trường không khí, phát hiện, xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường không
khí, đặc biệt là để phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí. Chính vì vậy, trên thế
giới các quốc gia rất quan tâm đến vấn đề này, tại Singapo đã xây dựng hệ thống quy
chuẩn môi trường không khí theo sát với quy chế và tiêu chuẩn của nước Anh. Hệ thống
tiêu chuẩn môi trường không khí ở Singapo bao gồm: tiêu chuẩn chất lượng không khí
và tiêu chuẩn kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Theo tiêu chuẩn này, mức độ tác
nhân gây ô nhiễm môi trường không khí ở Singapo đang nằm trong phạm vi các mục
tiêu lâu dài của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và tiêu chuẩn của Cục Bảo vệ môi trường
Mỹ (USEPA). Để đảm bảo thực hiện được một cách nghiêm túc các tiêu chuẩn môi
trường không khí, pháp luật môi trường nước này quy định rất chặt chẽ. Ví dụ: đối với
các chất gây ô nhiễm môi trường không khí, Bộ Môi trường tiến hành thanh tra thường
xuyên các cơ sở công nghiệp cũng như phi công nghiệp để kiểm tra việc các cơ sở đó có
tuân thủ đúng tiêu chuẩn quy định về phát thải các chất gây ô nhiễm không khí hay
không. Việc thanh tra thường xuyên đó sẽ giúp các cơ quan thanh tra có thể phát hiện và
xử lý kịp thời các cơ sở vi phạm quy định của pháp luật môi trường trong việc thải khí
nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu, các chất gây ô nhiễm, các chất độc hại thải vào môi trường
không khí. Các cơ sở công nghiệp tại Singapo được yêu cầu tiến hành thử nghiệm chất
phát thải tại nguồn để đảm bảo các cơ sở đó tuân thủ các tiêu chuẩn quy định. Sau quá
trình thử nghiệm đó, các cơ quan quản lý môi trường sẽ xem xét và hướng dẫn các cơ sở
đó tiến hành thêm các biện pháp bổ khuyết nếu thấy cần thiết để có thể đạt tới những
yêu cầu mà tiêu chuẩn môi trường đặt ra. Bên cạnh đó, các cơ sở công nghiệp đều
được yêu cầu lắp đặt các thiết bị kiểm soát ô nhiễm không khí theo đúng các tiêu chuẩn
quy định về phát thải. Các thiết bị này sẽ được các cơ quan quản lý môi trường quyết
định áp dụng cho các cơ sở công nghiệp dựa trên những điều kiện cụ thể về hiện trạng
môi trường tại địa bàn hoạt động của cơ sở đó cũng như dựa trên qui mô hoạt động và
qui trình công nghệ mà cơ sở đó đang sử dụng. Hay nói cách khác, thiết bị kiểm soát ô
nhiễm không khí được lắp đặt tại các cơ sở công nghiệp phải đảm bảo cả tiêu chuẩn kỹ
thuật lẫn tiêu chuẩn an toàn môi trường, an toàn lao động,…
68
Cũng tại nước này, hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 cũng đang dần được
áp dụng phổ biến. Bởi thực tế Singapo là một đất nước mà công nghiệp đóng vai trò đặc
biệt quan trọng. Mà sản xuất công nghiệp là nguyên nhân lớn dẫn đến ô nhiễm môi
trường không khí. Do vậy, việc ban hành các quy chuẩn môi trường theo tiêu chuẩn ISO
14000 là cơ sở và động lực quan trọng thúc đẩy BVMT không khí ở Singapo theo
hướng phát triển bền vững đón đầu xu thế phát triển của thế giới. [35]
Tại Malaysia, cũng đã xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn môi trường không khí
bao gồm các tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí; các tiêu chuẩn khí thải làm cơ
sở pháp lý cho việc thực hiện đánh giá tác động môi trường cũng như xử lý các hành vi
gây ô nhiễm môi trường không khí. Theo đó tiêu chuẩn thải khí được thiết lập cho các
loại nguồn phát thải chất gây ô nhiễm không bao gồm các nguồn phát thải cố định (các
cơ sở sản xuất và dịch vụ), các nguồn phát thải di động (các phương tiện giao thông có
động cơ). Đối với nguồn phát thải cố định, các tiêu chuẩn thải được xác lập theo 3 mức
A, B, C để áp dụng cho các loại nguồn phát thải mới và nguồn phát thải đang hoạt động.
Như vậy, tiêu chuẩn thải của mỗi chất ô nhiễm đều được xác lập cho các loại nguồn phát
thải khác nhau tùy theo các ngành công nghiệp, nhất là đối với các ngành công nghiệp
đặc thù. Ví dụ: các tiêu chuẩn về độ bụi và hạt rắn được xác lập riêng cho ngành sản
xuất vật liệu xây dựng như bê tông, xi măng… Ngoài ra, đối với các khu vực đặc biệt,
các tiêu chuẩn nghiêm ngặt hơn cũng như được thiết lập để áp dụng riêng cho các nguồn
phát thải khác nhau chỉ trong khu vực đó. [119].
Còn tại Nhật, đến năm 1968, Luật Kiểm soát ô nhiễm không khí được xây dựng
nhằm tăng cường các biện pháp kiểm soát ô nhiễm không khí. Luật này đã ban hành tiêu
chuẩn môi trường không khí, cụ thể: tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí; Các
tiêu chuẩn và quy định phát thải (tiêu chuẩn quốc gia đồng nhất về phát thải; các tiêu
chuẩn khác về phát thải chặt chẽ hơn của địa phương); tổng tải lượng ô nhiễm ở các
thành phố. Luật Kiểm soát ô nhiễm không khí đã đưa ra các tiêu chuẩn phát thải, tiêu
chuẩn kiểm soát tổng lượng phát thải, tiêu chuẩn về xây dựng, về đường biên và tiêu
chuẩn đối với các nồng độ trong môi trường không khí (SO2; NO2; bụi thông thường,
bụi đặc thù...). Trong các quy định về kế hoạch kiểm soát ô nhiễm, các tiêu chuẩn môi
trường và hệ thống kiểm soát tổng tải lượng ô nhiễm, việc xây dựng các tiêu chuẩn phát
thải dựa vào hệ số xả (hệ số K) và tiêu chuẩn tổng lượng phát thải được nhấn mạnh. Sau
khi được rà soát, năm 1970, các chất như bụi (thông thường), amiang (bụi đặc thù) cũng
được quy định trong Luật. Năm 2004, một chương về kiểm soát phát thải khí VOC cũng
được đưa vào Luật. Đồng thời, Luật còn đề cập đến những biện pháp ứng phó với các
chất ô nhiễm không khí nguy hại, kiểm soát các nguồn lưu động (trong giao thông), quy
định về các phương tiện vận tải chạy trên đường [2].
69
Qua đó có thể thấy pháp luật các nước Singapo, Nhật Bản, Malaysia quy định rất
chặt chẽ về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí, thậm chí là quy định với các yêu
cầu rất cao như tại Singapo, cùng với việc tổ chức thực thi chặt chẽ đã giải thích tại sao
môi trường các nước này Singapo lại trong lành và rất đáng sống.
Còn ở Việt Nam, theo pháp luật, quy chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của
các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm
trong chất thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý
và bảo vệ môi trường (khoản 5 Điều 3) [83]. Cơ quan chính có thẩm quyền ban hành
quy chuẩn kỹ thuật môi trường nói chung, quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí nói
riêng là Bộ Tài nguyên và Môi trường, ngoài ra còn các cơ quan liên quan khác. Ví dụ:
Bộ Giao thông Vận tải ban hành quy chuẩn về khí thải với nguồn thải động, ở cấp tỉnh
cũng có thể ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường trong một số lĩnh vực, nhưng
không được thấp hơn quy chuẩn chung cả nước. Trong hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi
trường thì quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí rất quan trọng. Hệ thống này được
đặt ra để đánh giá hiện trạng môi trường không khí có bị ô nhiễm không, ô nhiễm ở mức
độ nào, là căn cứ để xác định và xử lý hành vi vi phạm pháp luật môi trường không khí
từ đó lập kế hoạch phát triển lâu dài. Đối với tổ chức, cá nhân quy chuẩn môi trường
không khí giúp các tổ chức, cá nhân biết họ được quyền sống trong điều kiện môi
trường không khí như thế nào, họ được tác động đến môi trường không khí đâu. Bên
cạnh đó, quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí còn là một trong các căn cứ để các
cơ sở sản xuất, kinh doanh lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, cơ quan nhà nước
cũng dựa vào đó để tiến hành thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các
dự án cũng như cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường,...;
Luật BVMT 2005 gọi quy chuẩn kỹ thuật môi trường là tiêu chuẩn môi trường.
Tuy nhiên, để phù hợp với Luật về Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 và thông
lệ quốc tế, trong Nghị định số 21/2008/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 08 năm 2006 của Chính phủ về
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVMT năm 2005 đã thống
nhất gọi tiêu chuẩn môi trường là quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Đến Luật BVMT năm
2014 đã có sự phân biệt giữa quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường.
Theo đó, Luật BVMT năm 2014, quy chuẩn kỹ thuật môi trường là mức giới hạn của các
thông số về chất lượng môi trường xung quanh, hàm lượng của các chất gây ô nhiễm có
trong chất thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành dưới dạng văn bản bắt buộc áp dụng để bảo vệ môi trường. Còn tiêu chuẩn môi
trường là mức giới hạn của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, hàm
lượng của các chất gây ô nhiễm có trong chất thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được
70
các cơ quan nhà nước và các tổ chức công bố dưới dạng văn bản tự nguyện áp dụng để
bảo vệ môi trường (khoản 5, 6 Điều 3) [83].
So với tiêu chuẩn môi trường, quy chuẩn kỹ thuật môi trường do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành và bắt buộc áp dụng trong phạm vi cả nước. Còn tiêu
chuẩn môi trường thì ngoài cơ quan nhà nước thì các tổ chức, cá nhân cũng có thể ban
hành và không mang tính bắt buộc. Vấn đề đặt ra là thông số được quy định trong tiêu
chuẩn môi trường thì mức thấp nhất cũng phải bằng với quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
Ví dụ: tiêu chuẩn ISO 14000, SA 8000,…;
Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định có hai nhóm quy chuẩn liên quan đến
môi trường không khí:
3.1.1. Quy chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh
Luật BVMT năm 2014 quy định quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí xung
quanh, gồm: nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với không khí; nhóm quy chuẩn
kỹ thuật môi trường đối với âm thanh, ánh sáng, bức xạ; nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi
trường đối với tiếng ồn, độ rung (điểm d, đ, e, khoản 1 Điều 113). Đây là quy chuẩn
được xây dựng nhằm đáp ứng các yêu cầu về quản lý chất lượng không khí xung quanh,
nhằm đảm bảo cho môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp và nhằm phù hợp
với các mục đích sử dụng thành phần môi trường không khí. Ví dụ: quy chuẩn tiếng ồn
tại các bệnh viện, trường học sẽ khác so với tại các khu công nghiệp,… Các quy chuẩn
về chất lượng môi trường không khí hiện hành được xác lập trên cơ sở những kết quả
nghiên cứu về y học, vật lý học nhằm đảm bảo môi trường không khí trong sạch. Mức
độ đó được đánh giá bằng nồng độ chất độc hại chứa trong một đơn vị thể tích không
khí (mg/m3).
Về quy chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh ngoài trời, Việt Nam
có 3 nhóm quy chuẩn kỹ thuật là:
+ QCVN 05:2013/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng không
khí xung quanh thay thế QCVN 05:2009/BTNMT;
+ QCVN 06:2009/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về một số chất độc hại
trong không khí xung quanh thay thế TCVN 5938:2005;
+ QCVN 26:2010/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về tiếng ồn thay thế
cho TCVN 5949:1998, ban hành kèm theo Thông tư số 16/2009/TT-BTNMT ngày
7/10/2009 quy định về quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường.
Các quy chuẩn này có một số nội dung:
- Quy định giá trị giới hạn các thông số cơ bản, như: SO2, CO, N0x, O3, bụi lơ
lửng (bụi PM10 (bụi <10micromet) và chì (Pb) trong không khí xung quanh.
71
- Các quy chuẩn môi trường quy định nồng độ tối đa cho phép của một số chất
độc hại trong không khí xung quanh.
- Quy định thông số tối đa về tiếng ồn trong môi trường không khí xung quanh;
Như vậy có thể thấy để đánh giá chất lượng môi trường không khí xung quanh và
giám sát tình trạng ô nhiễm không khí, Nhà nước ta cũng đã ban hành một loạt các quy
chuẩn về chất lượng môi trường không khí xung quanh. Tuy nhiên, số liệu thống kê cụ
thể cho thấy tình hình môi trường không khí xung quanh ở Việt Nam những năm gần
đây ở mức độ đáng lo ngại. Cụ thể:
Đối với môi trường không khí đô thị:
+ Về nồng độ bụi, tiếng ồn tại đô thị Việt Nam
72
Qua số liệu khảo sát của Tổng cục Môi trường năm 2011 trên, có thể thấy môi
trường không khí tại các đô thị ở Việt Nam cụ thể là tiếng ồn, nồng độ bụi tại các đô thị
như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh đều vượt
73
quy chuẩn cho phép, thậm chí một số nơi nồng độ khí Nox cũng vượt quy chuẩn cho
phép. Điều đáng lưu ý là hiện tượng này không có xu hướng giảm đi. [120]. Vấn đề này
cũng được thể hiện khá rõ trong Báo cáo quốc gia về môi trường không khí năm 2013,
theo Báo cáo này chất lượng môi trường không khí tại đô thị, 5 năm trở lại đây chưa có
nhiều cải thiện, chỉ số chất lượng môi trường không khí (AQI) tại các đô thị vẫn duy trì
ở mức tương đối cao, điển hình như Hà Nội số ngày có AQI ở mức kém (AQI = 101-:-
200) giai đoạn từ 2010 – 2013 chiếm tới 40-60% tổng sống ngày quan trắc trong năm.
Đặc biệt có những ngày chất lượng không khí suy giảm đến ngưỡng xấu (AQI=201-:-
300) và thậm chí là nguy hại (AQI>300) (Biểu đồ 301), trong đó nồng độ bụi là đáng lo
ngại nhất. Nguy hiểm hơn ô nhiễm bụi tại các đô thị Việt Nam, gồm: bụi lơ lửng
(PM100), bụi PM10, và bụi mịn (PM2.5, PM1). Thậm chú bụi mịn bị Tổ chức y tế thế giới
(WHO) cảnh báo là tác nhân lớn gây ung thư phổi, nhưng lại chiếm tỷ trọng tương đối
cao ở nước ta.
Số liệu quan trắc từ 2008 đến 2013 cũng cho thấy, nồng độ bụi lơ lửng (TSP) trong
môi trường không khí xung quanh tập trung cao ở các đô thị có mật độ giao thông lớn, như:
Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Biên Hòa) hoặc có các hoạt động sản xuất công nghiệp phát
triển mạnh (điển hình như khai thác công nghiệp than ở Quảng Ninh) mức độ ô nhiễm vượt
ngưỡng cho phép gấp từ 2 đến 6 lần QCVN 05:2013/BTNMT (biểu đồ 3.6). Ô nhiễm bụi
tập trung nhiều tại các trục giao thông, số liệu quan trắc từ 2008 – 2013 cho thấy tỷ lệ giá trị
quan trắc vượt quá QCVN05:2013/BTNMT dao động từ 42% ở vùng KTTĐ miền trung,
44% ở vùng KTTĐ miền Nam và cao nhất ở vùng KTTĐ phía Bắc với 68% (Biểu đồ 3.7).
Ô nhiễm bụi gần các trục giao thông trong hai năm 2010 và 2011 ở Hà Nội cao hơn hẳn các
tỉnh thành còn lại và vượt QCVN 05:2013/BTNMT trung bình năm từ 2-3 lần. Đối với các
khu sản xuất, năm 2011 nồng độ bụi lơ lửng TSP đo được vượt từ 3-4 lần QCVN 05:2013
cho phép. Cũng theo Báo cáo này, nồng độ bụi ở khu vực sản xuất vật liệu xây dựng tại một
số địa phương vượt QCVN 05:2013 là 3 – 8 lần, hàm lượng SO2 có nơi vượt 6,5 lần [102].
Về ô nhiễm khí NO-NO2-NOx
74
Kết quả tính toán trên có thể thấy các chất gây ô nhiễm không khí trước năm
2013 cho thấy lượng phát thải NOx từ hoạt động nông nghiệp, từ xe ô tô, trong đó phát
thải NOx từ xe ô tô lớn hơn so với các chất khác. Còn theo Báo cáo hiện trạng môi
trường không khí năm 2013 cho thấy, khí NO có xu hướng tăng lên vào giờ cao điểm
giao thông vào buổi sáng và chiều. Còn NO2 là hợp chất chuyển hóa của NO trong môi
trường không khí, vì vậy nồng độ NO2 thường tăng mạnh sau khi NO phát tán vào môi
trường. Mức độ biến động nồng độ các khí NOx cũng có sự phân hóa rõ ràng theo ba
miền Bắc, Trung Nam [107, 56].
Về ô nhiễm khí SO, CO.
Cũng theo Báo cáo này thì lượng khí SO2, CO theo quan trắc giữa các đô thị, thì
các đô thị lớn có xu hướng bị ô nhiễm cao hơn các đô thị vừa và nhỏ và mức độ ô nhiễm
tại các trục giao thông thường cao hơn so với khu dân cư từ 2-3 lần (Biểu đồ 3.19 và
Biểu đồ 3.20),… [8, 60] [8, 61]. Và lượng phát thải CO từ xe 2 bánh lớn hơn so với các
chất khác, chiếm hơn 90% nguồn phát sinh di động [120]
+ Đối với môi trường không khí xung quanh các khu sản xuất
Vấn đề nổi cộm trong ô nhiễm môi trường không khí tại các khu sản xuất
hiện nay là vấn đề ô nhiễm bụi. Nồng độ bụi TSP tại rất nhiều điểm quan trắc
xung quanh các khu công nghiệp vượt giới hạn cho phép theo QCVN 05:2013, thậm
chí vượt nhiều lần giới hạn cho phép đối với trung bình 24 giờ và trung bình năm.
[8, 62] [8, 139]. Về tiếng ồn, tại hầu hết các khu vực quan trắc xung quanh các khu công
nghiệp, mức ồn đo được đều xấp xỉ hoặc vượt quy định theo quy chuẩn QCVN
26:2010/BTNMT [8, 67]. Một số chất độc hại khác trong không khí cũng được phát
hiện, thậm chí một số chất còn vượt ngưỡng cho phép theo QCVN 06: 2009. Nguyên
nhân có thể liên quan đến công nghệ máy móc lạc hậu dẫn tới chưa đáp ứng được các
thông số về quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Bên cạnh đó, là ô về nhiễm mùi. Hiện nay,
75
các vụ khiếu kiện liên quan đến vấn đề ô nhiễm mùi xung quanh các cơ sở sản
xuất, các nhà máy ngày càng tăng lên.
Về chất lượng môi trường không khí làng nghề và nông thôn:
Những năm qua chất lượng khu vực nông thôn cũng bị ảnh hưởng từ việc sử
dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật tràn lan, không đúng liều lượng gây phát tán
một lượng hóa chất độc hại vào không khí. [8, 72]. Còn tại các làng nghề kết quả quan
trắc môi trường không khí năm 2010 thực hiện tại 46 làng nghề thuộc các lĩnh vực: dệt
nhuộm (7 làng nghề), sản xuất hàng mỹ nghệ (7 làng nghề), chế biến lương thực, thực
phẩm (9 làng nghề), luyện kim- cơ khí (6 làng nghề), mây tre đan và chế biến gỗ (10 làng
nghề), giầy da (4 làng nghề), cho thấy có 45/46 làng nghề (chiếm 97,8%) có từ 01 thông
số quan trắc chất lượng không khí vượt quy chuẩn cho phép từ 1,1- 4,3 lần (so sánh với
QCVN 05:2013 và QCVN 06:2009) [8, 72].
Các số liệu thống kê trên đều cho thấy, môi trường không khí xung quanh ở
nhiều nơi tại Việt Nam đang bị ô nhiễm. Nồng độ nhiều chất ô nhiễm vượt quá quy
chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường không khí xung quanh nhiều lần, như: tại các
đô thị, các khu công nghiệp, các làng nghề nồng độ bụi, tiếng ồn cũng như các khí thải
độc CO, NO, NO2, SO,… vượt nhiều lần quy chuẩn cho phép. Bên cạnh đó, ô nhiễm
mùi tại các khu sản xuất cũng ngày càng gia tăng, gây ảnh hướng lớn đến sức khỏe, tính
mạng, đời sống cũng như hoạt động sản xuất của người dân. Nguyên nhân dẫn tới hiện
tượng này: một là, do hoạt động xả thải các chất gây ô nhiễm tại các khu công nghiệp;
hai là, do hoạt động xây dựng; ba là, do hoạt động giao thông vận tải gây ra. Có thể
thấy hoạt động giao thông vận tải không chỉ là nguyên nhân gây ô nhiễm bụi, mà còn là
nguyên nhân gây ô nhiễm khí CO, NO. Bên cạnh ô nhiễm bụi, tiếng ồn, khí thải, thực
tiễn cho ô nhiễm mùi cũng ngày càng gia tăng, trong khi đó hiện nay Việt Nam chưa
ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường về mùi. Do vậy, để kiểm soát ô nhiễm tiếng
ồn, ô nhiễm bụi, đặc biệt là bụi mịn và các khí thải CO, SO, NO cần phải kiểm soát tốt
ba nguyên nhân lớn trên đồng thời cũng lưu ý đến vấn đề trồng rừng, cây xanh đô thị,
vấn đề vệ sinh môi trường, kiểm soát các phương tiện chuyên chở đất, cát, rửa đường
giao thông,…;
Về môi trường không khí trong nhà
Có thể thấy ô nhiễm môi trường không khí trong nhà, đặc biệt là tại các tòa cao
ốc, đã được Tổ chức Y tế Thế giới báo động từ lâu. Theo số liệu thống kê của tổ chức
này, năm 2012 thế giới có 7 triệu ca tử vong liên quan tới ô nhiễm không khí trên toàn
cầu, thì có 3,3 triệu ca bắt nguồn từ ô nhiễm trong nhà. Tại Việt Nam, trong một nghiên
cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Bảo hộ Lao động trong 4 tòa nhà ở nội thành Hà Nội
cho thấy, nồng độ CO2 trong không khí trung bình là 860ppm (nơi cao nhất là 940ppm),
76
nồng độ Formaldehyde là 0,023 ppm (cao nhất 0,046 ppm), nồng độ ozon là 0,067ppm
(cao nhất là 0,091ppm), nồng độ các chất hữu cơ dễ bay hơi là 6,33 ppm, nồng độ bụi hô
hấp là 0,208 mg/m3, các chỉ tiêu sinh vật như tổng nấm là 1285Sl/m3 kk. Thực tiễn
cũng cho thấy, Việt Nam hiện chưa có quy chuẩn không khí trong nhà. Tuy nhiên, nếu
áp các chỉ số trên vào một số tiêu chuẩn của quốc tế thì thấy vượt quy chuẩn cho phép.
Ví dụ: nồng độ Formaldehyde vượt quy định của Viện Quốc gia về an toàn và sức khỏe
nghề nghiệp của Mỹ (NIOSH), nồng độ bụi hô hấp vượt tiêu chuẩn theo tiêu chuẩn Chất
lượng không khí quốc gia (NAAQS) của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (USEPA,
1987). Điều này lý giải tại sao trong Báo cáo môi trường quốc gia về hiện trạng môi
trường không khí ở Việt Nam (công bố 18/9/2014) cho thấy, môi trường không khí ở
Việt Nam đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trong đó Hà Nội ô nhiễm nhất. Năm 2013, Hà
Nội có tới 237 ngày chất lượng không khí kém, 21 ngày chất lượng không khí xấu và
một ngày chất lượng không khí vào mức nguy hại. Không khí trong nhà ô nhiễm chứa
nhiều chất độc như CO, Bezene, Formaldehyde; ozone - gây ra nhiều loại bệnh về hô
hấp, ung thư. Trong trường hợp gia tăng đột biến một trong những chất độc trên sẽ gây
ngộ độc cấp tính, giống như trường hợp vừa xảy ra ở Big C Garden. [59]
Đứng trước hiện trạng môi trường không khí trong nhà ở Việt Nam đang ngày
càng biến đổi theo chiều hướng xấu như trên. Về mặt pháp lý trước khi Luật Bảo vệ Môi
trường năm 2014 có hiệu lực, Việt Nam chưa có quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi
trường không khí trong nhà hay khuyến cáo chính thống liên quan đến môi trường
không khí trong nhà nên việc đánh giá và kiểm soát chất lượng môi trường không khí
trong nhà vẫn đang là thách thức. Còn theo Luật Bảo vệ Môi trường 2014 thì đã bước
đầu quy định về quan trắc môi trường không khí trong nhà, nhưng cho đến thời điểm
này Bộ Tài nguyên và Môi trường vẫn chưa ban hành Quy chuẩn kỹ thuật về vấn đề môi
trường không khí trong nhà. Quy định về quan trắc môi trường không khí trong nhà hiện
nay mới chỉ dừng ở mức độ rất khái quát (khoản 2 Điều 122) [83]. Hơn nữa, hiện nay
cũng chưa có quy định cụ thể về tổ chức quan trắc, đo đạc và đánh giá chất lượng không
khí trong nhà định kỳ tại các tòa cao ốc, văn phòng ở Việt Nam, nhằm tránh ảnh hưởng
đáng tiếc đến sức khỏe con người [19].
3.1.2. Quy chuẩn kỹ thuật môi trường về khí thải
Theo Luật BVMT năm 2014, thì quy chuẩn về khí thải gồm: Nhóm quy chuẩn kỹ
thuật về khí thải của các nguồn di động và cố định. Nguồn thải di động là nguồn thải từ
các phương tiện giao thông và nguồn thải cố định là từ các nhà máy, xí nghiệp… gây ra.
a. Về nhóm quy chuẩn khí thải đối với nguồn thải tĩnh (nay theo điểm b, khoản 2
Điều 113 Luật BVMT năm 2014 gọi là nguồn thải cố định).
77
Để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí từ các nguồn thải cố định, những
năm gần đây Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy chuẩn kỹ thuật liên quan đến các
nguồn thải này, như:
QCVN 51:2013/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp
sản xuất thép;
QCVN 02: 2008/BTNMT: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải lò đốt chất
thải rắn y tế;
QCVN 19 : 2009/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp
đối với bụi và các chất vô cơ;
QCVN 20 : 2009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp
với một số chất hữu cơ;
QCVN 21 : 2009/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp
sản xuất phân bón hóa học;
QCVN 22: 2009/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp
nhiệt điện;
QCVN 23 : 2009/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp
sản xuất xi măng);
QCVN 30: 2010/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải lò đốt chất
thải công nghiệp;
QCVN 34: 2010/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp
lọc hóa dầu đối với bụi và các chất vô cơ;
Quyết định 3733: 2002/QĐ-BYT: Tiêu chuẩn vệ sinh lao động;
Các quy chuẩn này kiểm soát nồng độ các chất hữu cơ, vô cơ và bụi trong thành
phần khí thải của các nhà máy, khu công nghiệp trước khi thải vào không khí. Đối với
Hà Nội, do có tầm quan trọng đặc biệt về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội là thủ đô của
cả nước nên Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng ban hành Thông tư số 51/2014/TT-
BTNMT quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường riêng cho thủ đô Hà Nội, trong đó
có nhóm quy chuẩn về khí thải. Cụ thể:
- QCTĐHN 01:2014/BTNMT: Quy chuẩn kỹ thuật về khí thải công nghiệp; đối
với bụi và các chất vô cơ trên địa bàn Thủ đô Hà Nội;
- QCTĐHN 03:2014/BTNMT: Quy chuẩn kỹ thuật về khí thải công nghiệp sản
xuất xi măng trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
Tuy nhiên, theo khảo sát của Tổng cục Môi trường năm 2013 cho thấy ô nhiễm
bụi do hoạt động sản xuất công nghiệp đóng góp tỉ lệ cao và không ngừng gia tăng trong
những năm qua. Mặt khác nồng độ khí SO2 từ sản xuất công nghiệp
cũng là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường không khí tại Hà Nội.
78
Tỉ lệ gây ô nhiễm của ngành hóa chất cơ bản và các ngành hóa chất khác chiếm
tỉ lệ cao từ 25-27% (khoảng từ 1462 - 1586,9 tấn/năm.
Số liệu thống kê ô nhiễm môi trường không khí từ nguồn thải tĩnh còn phát sinh
từ các làng nghề tái chế kim loại, giấy, nhựa, đúc đồng, làng nghề sản xuất vật liệu xây
dựng, thực phẩm, chế tác với nhiều loại khí độc hại như: khí thải điển hình như: bụi, khí
SO2, NO2, CO, hơi axit và kiềm sản sinh từ các quá trình như xử lý bề mặt, nung, sấy,
tẩy trắng, đục tạo hình các sản phẩm…[120];
Qua trình bày trên có thể thấy, Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy chuẩn kỹ
thuật môi trường về khí thải với các nguồn thải cố định trong nhiều lĩnh vực với các yêu
cầu về các thông số môi trường với khí thải không phải quá cao. Tuy nhiên, số liệu trên
cho thấy hầu như ngành, lĩnh vực sản xuất nào cũng có những hành vi xả thải chất gây ô
nhiễm vượt quá quy chuẩn cho phép ra ngoài môi trường. Thực trạng trên cho thấy: một
là, đa số các quy chuẩn vè khí thải đối với nguồn thải cố định được ban hành cách đây 7
đến 8 năm (tức được ban hành vào năm 2009, 2008), nên cần rà soát đánh giá để ban
hành các quy chuẩn mới đồng thời bổ sung thêm một số quy chuẩn kỹ thuật với nguồn
thải cố định cho đầy đủ và phù hợp hơn với thực tiễn đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi
trường không khí; hai là, quá trình tổ chức thực hiện bảo đảm tuân thủ các quy chuẩn kỹ
thuật môi trường của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như các chủ nguồn thải
là chưa thực hiện hiệu quả. Cần phải có biện pháp xử lý với chính các cá nhân, tổ chức
79
chủ nguồn thải vi phạm với các cơ quan nhà nước chủ thể có thẩm quyền trong thi hành
pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
b. Về nhóm quy chuẩn khí thải đối với nguồn thải động (khí thải từ các phương
tiện giao thông (điểm d khoản 2 Điều 113) [83]:
Cho đến nay để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí từ nguồn thải động, Bộ
Giao thông Vận tải đã ban hành nhiều quy chuẩn về vấn đề này. Để tạo cơ sở cho việc
quản lý các phương tiện trước khi được cho phép lưu thông trên thị trường phòng ngừa
ô nhiễm môi trường không khí, Bộ Giao thông và Vận tải đã ban hành Thông tư số
30/2009/TT-BGTVT ngày 19/11/2009 quy định Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải
xe mô tô, xe gắn máy sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới, gồm:
+ QCVN 04 : 2009/BGTVT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải xe mô tô,
xe gắn máy sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới;
+ QCVN 05 : 2009/BGTVT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải xe ôtô sản
xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới.
Theo đó, mức giới hạn khí thải, các phép thử, phương pháp thử và các yêu cầu
quản lý kiểm tra khí thải của xe mô tô, xe gắn máy sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới
đã được ban hành. Các xe thuộc kiểu loại xe đã được cấp giấy chứng nhận chất lượng
kiểu loại cũng phải thỏa mãn mức giới hạn khí thải nêu tại Quy chuẩn này. Riêng đối
với phép thử bay hơi nhiên liệu, lộ trình áp dụng quy chuẩn này được xác định cụ thể là:
đối với xe nhập khẩu mới và kiểu loại xe sản xuất, lắp ráp mới, áp dụng sau 2 năm từ
ngày Quy chuẩn này có hiệu lực.
Còn đối với kiểu loại xe sản xuất, lắp ráp đã được cấp Giấy chứng nhận trước
ngày ban hành Quy chuẩn này thì sẽ áp dụng sau 3 năm. Sau đó theo Thông tư số
33/2010/TT-BGTVT, quy định này được sửa là “Đối với kiểu loại xe sản xuất, lắp ráp
(SXLR) được cấp giấy chứng nhận chất lượng trước ngày 19 tháng 5 năm 2012: áp
dụng phép thử bay hơi nhiên liệu từ ngày 19 tháng 5 năm 2013”. Có thể thấy quy định
sửa đổi đã áp dụng phép thử bay hơi nhiên liệu từ ngày 19 tháng 5 năm 2013 đối với cả
các kiểu loại xe sản xuất, lắp ráp (SXLR) được cấp giấy chứng nhận chất lượng trước
ngày 19 tháng 5 năm 2012 (tức là sau khi Thông tư 30 có hiệu lực).
Cùng với việc ban hành các thông tư quy định về quy chuẩn khí thải với ô tô, xe
máy, mô tô, năm 2011 Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quyết định số 49/2011/QĐ-
TTg quy định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với xe ô tô, xe mô tô hai bánh sản
xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới. Theo đó từ ngày 1.1.2017, các loại xe ô tô, sản xuất, lắp
ráp và nhập khẩu mới phải áp dụng tiểu chuẩn khí thải mức 4; mô tô hai bánh sản xuất,
lắp ráp và nhập khẩu mới phải áp dụng tiêu chuẩn khí thải mức 3. Ngày 1.1.2022, các
loại xe ô tô nói trên sẽ phải áp dụng tiêu chuẩn khí thải mức 5. Trong đó, các mức tiêu
80
chuẩn khí thải 3, 4 và 5 là tiêu chuẩn về phép thử và giới hạn gây ô nhiễm có trong khí
thải tương ứng với mức tiêu chuẩn khí thải Euro 3, 4, 5 được quy định kỹ thuật về khí
thải xe cơ giới của Ủy ban Kinh tế châu Âu hoặc trong chỉ thị của Liên minh châu Âu áp
dụng đối với xe cơ giới sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới. Trên cơ sở đó, Bộ Giao
thông Vận tải đã ban hành Thông tư số 45/2014/TT-BGTVT quy định Quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về khí thải mức 3 đối với xe mô tô hai bánh sản xuất, lắp ráp và nhập
khẩu mới (QCVN 77:2014/BGTVT). Quy chuẩn này được xây dựng trên cơ sở TCVN
7357:2010 - Phương tiện giao thông đường bộ - Khí thải gây ô nhiễm phát ra từ mô tô -
Yêu cầu và phương pháp thử trong phê duyệt kiểu (sau đây viết tắt là TCVN 7357) và
TCVN 9726:2013 - Phương tiện giao thông đường bộ - Khí thải gây ô nhiễm, khí thải
CO2 và tiêu thụ nhiên liệu của mô tô hai bánh lắp động cơ cháy cưỡng bức hoặc cháy do
nén - Yêu cầu và phương pháp thử trong phê duyệt kiểu (sau đây viết tắt là TCVN
9726).
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy ô nhiễm môi trường không khí từ hoạt động giao
thông ngày càng trở lên trầm trọng. Theo số liệu từ Cục Đăng kiểm Việt Nam tính đến
hết quý 1-2013, Việt Nam đã có tổng cộng 39.056.343 ô tô và xe máy, trong đó, số xe
máy đã lên đến 37.023.078 chiếc [1]. Mô tô, xe máy đang chiếm đến 95% tổng số
phương tiện vận tải đang lưu hành và trong 5 – 10 năm nữa vẫn là loại phương tiện giao
thông chưa thể thay thế được. Đây chính là tác nhân chính gây ra tình trạng ùn tắc giao
thông và ô nhiễm không khí tại các đô thị với việc thải ra hàng loạt chất độc hại như:
CO, benzene, các hợp chất hữu cơ,… Vì vậy, đây trở thành nguồn gây ô nhiễm không
khí chính [105], đặc biệt tại các thành phố lớn, như Hà Nội.
Số liệu khảo sát cho thấy ô nhiễm môi trường không khí do các phương tiện giao
thông vận tải gây ra chủ yếu là các chất ô nhiễm, như: CO, VOCs và NO2, trong đó có
khoảng 85% lượng khí CO, và 95% lượng VOCs được thải ra môi trường không khí từ
các phương tiện này.
81
Nguyên nhân lượng chất độc hại như CO, VOCs và NO2 có nhiều trong môi
trường không khí chủ yếu do phương tiện giao thông gây ra là do số lượng xe, phương
tiệng giao thông tăng nhanh; chất lượng xe ngày càng xuống cấp (do qua nhiều năm sử
dụng=>chất lượng thấp, lượng nhiên liệu tiêu thụ cao, khí thải nhiều và gây tiếng ồn
lớn)[120];.
Qua thực tiễn thực hiện quy chuẩn về khí thải đổi với nguồn thải di động có thể thấy
Nhà nước đã ban hành quy chuẩn về khí thải đối với ô tô, mô tô, xe máy trước khi đưa vào
lưu thông khá rõ ràng và theo lộ trình để dần phù hợp với tiêu chuẩn của khu vực và quốc
tế. Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường không khí từ khí thải của các nguồn thải di động vẫn quá
nhiều, số liệu thống kê cho thấy hoạt động giao thông chiếm 70% tỉ lệ đóng góp ô nhiễm
không khí tại Hà Nội. Thực tế này cho thấy có một lỗ hổng rất lớn trong khâu hậu kiểm các
phương tiện giao thông đang lưu hành có thể thấy có rất nhiều phương tiện không đạt chuẩn
về môi trường nhưng vẫn tham gia giao thông gây ô nhiễm môi trường. Một vấn đề nữa là
sự chênh lệnh giữa cơ sở hạ tầng giao thông hạn chế với số lượng các phương tiện giao
thông quá lớn đặt ra nhu cầu về quy hoạch lại hạ tầng giao thông cũng như tầm nhìn về
quản lý giao thông cần phải có những đột phá.
Đánh giá tổng thể các quy định pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường
không khí Việt Nam cho thấy:
Thứ nhất, nhiều quy chuẩn được ban hành đã khá lâu cách đây khoảng 8 đến 10
năm nên nhiều yêu cầu về môi trường không còn phù hợp với thực tế hiện nay. Hơn
nữa, pháp luật môi trường hiện hành chưa có quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi
trường không khí đối với mùi;
Hai là, các quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí của Việt Nam hiện hành
còn lạc hậu và có nhiều yêu cầu phát thải rất thấp so với các nước trong khu vực cũng
như quốc tế. Ví dụ quy chuẩn kỹ thuật môi trường của Việt Nam với quy chuẩn kỹ thuật
môi trường của Singapo,…;
Ba là, việc dịch chuyển áp dụng quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí của
khu vực và thế giới vào Việt Nam thể hiện sự máy móc và thiếu đồng bộ, trong khi thực
tế quy chuẩn môi trường không khí cần phải xây dựng phù hợp với điều kiện kinh tế xã
hội của Việt Nam. Ví dụ: hiện nay việc áp dụng quy chuẩn khí thải với phương tiện giao
thông của Việt Nam vẫn tương đương EURO 2, trong khi của châu Âu là EURO 5 việc
dịch chuyển này mặc dù đã được xây dựng lộ trình thực hiện, nhưng để có thể triển khai
hiệu quả ở Việt Nam thì các quy chuẩn này cần phải phù hợp với thực tế cũng như đặc
thù Việt Nam [101].
Ba là, số lượng quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí còn chưa đầy đủ, các
quy chuẩn được xây dựng còn mang tính chắp vá, thiếu tính hệ thống. Đặc biệt còn thiếu
82
quy chuẩn môi trường không khí với từng khu vực có đặc trưng riêng, như quy chuẩn
môi trường không khí trong nhà; quy chuẩn môi trường không khí đối với lĩnh vực nông
nghiệp,…;
Bốn là, chưa có quy định về tổng lượng thải. Quy định về tổng lượng thải là chỉ
tiêu rất quan trọng trong các quy chuẩn về khí thải, là cơ sở để nghiên cứu dự báo mức
độ, khả năng xảy ra ÔNMTKK ở từng nơi cụ thể, đồng thời chỉ tiêu về tổng lượng thải
sẽ là cơ sở để tính các loại thuế, phí môi trường và quota thải cho các cơ sở có khí thải
đưa vào môi trường. Là cơ sở để phát triển thị trường mua bán quyền phát thải [38].
Năm là, chưa có quy định cụ thể về thời điểm xả thải cũng như không gian áp
dụng, điều này là bất hợp lý vì mỗi vùng, mỗi khu công nghiệp, khu đô thị,... có các điều
kiện về môi trường cũng như yêu cầu về chất lượng môi trường không khí khác nhau.
Quy định về thời điểm xả thải có ý nghĩa rất lớn trong việc khuyến khích các đối tượng
có hoạt động thải tránh xả thải vào các giờ cao điểm dễ gây quá tải cho nguồn tiếp nhận.
Sáu là, hiệu lực áp dụng quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí còn ở mức độ
thấp. Trên thực tế, QCKTMT đã ban hành, nhưng chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện,
trách nhiệm pháp lý chưa nghiêm khắc. Ví dụ: sau thanh tra một doanh nghiệp không
đạt quy chuẩn về khí thải, các cơ quan thường gia hạn một thời gian để nhà máy tuân
thủ, hết thời hạn họ không thực hiện sẽ bị phạt hành chính, nhưng mức tiền phạt theo
quy định hiện nay quá thấp không đủ sức răn đe, thậm chí thấp hơn nhiều chi phí bỏ ra
để xử lý ô nhiễm dẫn đến doanh nghiệp lựa chọn vi phạm để nộp phạt chứ không đầu tư
hệ thống xử lý khí thải[101]. Vấn đề này đặt ra một vấn đề lớn hơn đó là quy định pháp
luật thế nào để các chủ thể tự nguyện phải tuân thủ.
Bên cạnh quy chuẩn môi trường không khí do quốc gia ban hành có tính bắt buộc
với mọi tổ chức, cá nhân thì để KSÔN môi trường không khí, ở phạm vi thế giới cũng có
một Bộ quy chuẩn chung cho cả thế giới đó là Bộ quy chuẩn ISO 14000, trong Bộ quy
chuẩn này cũng có các quy chuẩn về không khí. Bộ quy chuẩn này có thể
được các doanh nghiệp tự nguyện đăng ký tham gia bởi những lợi ích về kinh tế mà nó
mang lại. Việc các doanh nghiệp tự nguyện tham gia thực hiện bộ quy chuẩn ISO 14000 sẽ
góp phần giúp doanh nghiệp có vai trò quan trọng chính yếu trong KSÔN môi trường trong
đó có môi trường không khí. Đương nhiên các doanh nghiệp tham gia thực hiện Bộ quy
chuẩn này phải đáp ứng được yêu cầu theo quy chuẩn môi trường quốc gia của Việt Nam.
3.2. Thực trạng các quy định về phòng ngừa, dự báo ô nhiễm môi trường không khí
3.2.1. Quy định về khuyến khích, ưu đãi đầu tư, sản xuất kinh doanh nhằm
phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí
Để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được hiệu quả các quốc gia cũng đã
đưa ra nhiều chính sách khuyến khích, ưu đãi tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá
83
nhân tham gia vào quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, như: tại Singapo,
Chính phủ nước này có chính sách khuyến khích các cơ sở công nghiệp áp dụng các tiêu
chuẩn môi trường quốc tế về quản lý môi trường cũng như đã xây dựng các đề án hỗ trợ
tài chính để giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ. Đồng thời nước này còn đưa ra các chính
sách miễn, giảm thuế cho một số hoạt động sản xuất kinh doanh ít gây ô nhiễm môi
trường không khí cũng được triệt để áp dụng để giảm thiểu đến mức tối đa các tác động
xấu có thể gây ra cho môi trường không khí từ các hoạt động công nghiệp[81]. Hay ở
Philippin, Chính phủ nước này đã ban hành các chính sách nhằm khuyến khích hợp tác
và kêu gọi sự tự nguyện tham gia BVMT của các công dân và các ngành công
nghiệp. Đồng thời, họ cũng thực thi một hệ thống trách nhiệm giải trình đối với Chính
phủ về các tác động xấu đến môi trường, thúc đẩy việc tuân thủ nghiêm minh các quy
định môi trường. Bên cạnh đó, cần thiết phải tăng cường quan hệ đối tác và phối hợp
hành động phòng chống ONKK giữa các cơ quan quản lý, chính quyền địa phương, các
doanh nghiệp, hiệp hội trong lĩnh vực giao thông vận tải và công nghiệp, các tổ chức xã
hội dân sự.
Ở Việt Nam, do tầm quan trọng của việc phòng ngừa ô nhiễm môi trường không
khí nên những năm vừa qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách cũng như các
quy định pháp luật về vấn đề này. Cụ thể Điều 5, Điều 6 Luật Bảo vệ Môi trường năm
2014 và Nghị định số 19/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định:
Một là, khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ tài chính (ưu đãi về huy động vốn đầu tư, ưu đãi
về thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, ưu đãi về thuế giá
trị gia tăng), đất đai (hỗ trợ về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, ưu đãi về tiền thuê đất, hỗ trợ
về giải phóng mặt bằng và bồi thường) hay hỗ trợ về về giá và tiêu thụ sản phẩm với các cơ
sở thân thiện môi trường (trợ giá sản phẩm, dịch vụ về bảo vệ môi trường, hỗ trợ tiêu thụ đối
với sản phẩm), cũng như các ưu đãi hỗ trợ khác như hỗ trợ quảng bá sản phẩm, phân loại rác
tại nguồn, giải thưởng về bảo vệ môi trường,… cho các tổ chức, cá nhân nhằm đẩy mạnh
đầu tư phát triển các ngành kinh tế thân thiện môi trường không khí, như: năng lượng
sạch và năng lượng tái tạo; tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải.
Hai là, ưu tiên nghiên cứu, chuyển giao và áp dụng công nghệ tiên tiến, công
nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường không khí;
Ba là, áp dụng tiêu chuẩn môi trường đáp ứng yêu cầu tốt hơn về BVMT không
khí; gắn kết các hoạt động bảo vệ môi trường không khí với ứng phó với biến đổi khí
hậu. Mặt khác, Nhà nước mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế về BVMT không khí;
thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về BVMT không khí…
Có thể thấy, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, quy định pháp luật
khuyến khích ưu đãi, hỗ trợ tổ chức, cá nhân tham gia kiểm soát ô nhiễm môi trường
84
không khí. Mặc dù vậy thực tế cho thấy để được hưởng một số chính sách này là không
hề dễ dàng. Do vậy, tổ chức, cá nhân trên thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận và
hiệu quả thực hiện một số chính sách cũng chưa cao. Ví dụ: nhiều năm nay nước ta ưu
tiên phát triển khoa học công nghệ, trong đó có công nghệ phòng ngừa, xử lý ô nhiễm
môi trường không khí, nhưng khoa học trong nước vẫn chưa phát triển, trong khi đó đa
phần các máy móc, thiết bị sản xuất nhập khẩu vẫn lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu
phòng ngừa ô nhiễm môi trường. Trong khi các nhà khoa học được đào tạo bài bản ở
nước ngoài sau khi học xong lại không muốn về Việt Nam để làm việc,…hay chính sách
về sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm thân thiện môi trường cũng có vấn đề. Hay chính
sách về phát triển xăng sinh học E5 để giảm thiểu sử dụng các nguồn nhiên liệu hóa
thạch gây ô nhiễm môi trường không khí, nhưng chính sách này cho tới nay có nhiều
nguy cơ bị sụp đổ khi có nhiều nhà máy chế biến xăng sinh học ra đời, nhưng sản phẩm
xăng sinh học lại dường như rất khó tiêu thụ,…
3.2.2. Quy định về phát triển bền vững nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường
không khí
Ô nhiễm môi trường nói chung, ÔNMTKK nói riêng có thể do tự nhiên hoặc con
người gây ra. Trong bối cảnh ngày nay nguyên nhân chủ yếu gây ÔNMTKK là do các
hoạt động kinh tế thiếu tầm nhìn của con người (phát triển chủ yếu dựa trên khai thác tài
nguyên và thải chất ô nhiễm vào môi trường) gây ra. Do vậy, để bảo vệ môi trường,
KSÔN môi trường không khí được hiệu quả, việc xây dựng và thực hiện chính sách
pháp luật về phát triển bền vững rất quan trọng. Thuật ngữ phát triển bền vững lần đầu
tiên được ghi nhận vào năm 1980 trong cuốn: Chiến lược bảo tồn thế giới của Hiệp hội
Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), đó là: “Sự phát triển
của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng
những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học”[22].
Thuật ngữ này tiếp tục được phát triển trong Báo cáo tương lai của chúng ta (Báo
cáo Brundtland) năm 1987 ghi rõ: “Phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng
được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp
ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai…”[133], và chính thức được ghi nhận tại Hội nghị
môi trường và phát triển năm 1992 tại Jio de Janeiro, Braxin. Tại Hội nghị này đã thống
nhất để con đường phát triển của các quốc gia trên thế giới là phát triển bền vững: phát
triển kinh tế nhằm đảm bảo công bằng trong hưởng thụ các nhu cầu trong cùng một thế
hệ và giữa thế hệ hiện tại với thệ hế tương lai, trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài
hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Để thực hiện việc
này, Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Môi trường và phát triển; Chương trình Nghị sự
21 về phát triển bền vững toàn cầu.
85
Trên thực tế để kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, môi trường không khí
nói riêng, nhiều nước trên thế giới đã ban hành quy định về vấn đề này. Ví dụ: ở
Singapo, Chính phủ nước này rất quan tâm đến vấn đề phát triển bền vững, để thực hiện
được việc này họ ban hành các quy chuẩn môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14000. Đây
là cơ sở và động lực quan trọng thúc đẩy BVMT không khí ở Singapo thể hiện sự chủ
động theo hướng phát triển bền vững đón đầu xu thế phát triển của thế giới [81]. Hay tại
Hoa Kỳ, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, tháng 11 năm 2009, Tổng thống Obama
chuyển mô hình tăng trưởng của Mỹ sang mô hình tăng trưởng bền vững. Trong chiến
lược “Tái công nghiệp hóa” cho giai đoạn 10 năm tới nhằm phát triển công nghệ mới dự
kiến đầu tư 15.000.000 USD hỗ trợ cho các nguồn năng lượng mới, khuyến khích các
doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tiết kiệm năng lượng, nhất là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, Mỹ muốn trở thành nhà lãnh đạo sạch trong công nghệ. Hướng tiếp cận mới theo
cách “Kinh tế các bon thấp”, giảm thiểu phát thải khí nhà kính [56]. Qua đó cho thấy
phát triển bền vững là xu thế tất yếu của các quốc gia và góp phần kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí một cách chủ động.
Ở Viêt Nam đến nay, chúng ta cũng ban hành nhiều quy định về phát triển bền
vững như, Kế hoạch về phát triển bền vững 1991-2000; Chỉ thị số 36/CT-TW năm 1998
của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ môi trường; Nghị quyết số 41/CT-TW năm 2004
của Bộ Chính trị về BVMT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; cùng
năm 2004, Thủ tướng Chính phủ cũng ký Quyết định thông qua Chương trình nghị sự
21 bàn về phát triển bền vững ở nước ta trong thế kỷ 21. Sau đó một năm, Luật BVMT
2005 ra đời đã ghi nhận phát triển bền vững là một nguyên tắc của Luật và nguyên tắc
này tiếp tục được ghi nhận và phát triển một bước mới về chất trong Hiến pháp năm
2013, theo đó phát triển bền vững ở Việt Nam không chỉ thể hiện thông qua phát triển
ba trụ cột kinh tế, xã hội, môi trường mà nó còn thể hiện qua phát triển văn hóa, tinh
thần, an ninh-quốc phòng và đối ngoại [71]. Luật BVMT năm 2014 đã tiếp tục ghi nhận
phát triển bền vững và bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành là một
nguyên tắc quan trọng của Luật này. Như vậy, theo quy định của pháp luật BVMT ở
nước ta, phát triển bền vững không chỉ đơn thuần được hiểu là sự phát triển được duy trì
một cách liên tục mà hơn thế phát triển ở đây là sự nỗ lực liên tục nhằm đạt được trạng
thái bền vững trên mọi lĩnh vực. Phát triển bền vững không được coi là một mục tiêu
được đặt ra để đạt được mà đó là một quá trình duy trì sự cân bằng cơ học của đòi hỏi
của con người với tính công bằng, sự phồn vinh, chất lượng cuộc sống và tính bền vững
của môi trường tự nhiên.
Để bảo đảm sự phát triển bền vững việc KSÔN môi trường không khí đóng vai
trò quan trọng. Có thể khẳng định nếu không kiểm soát được ÔNMTKK thì cũng không
86
thể có phát triển bền vững, thậm chí loài người có thể bị diệt vong do biến đổi khí hậu
toàn cầu. Do vậy, pháp luật quy định về chính sách BVMT không khí ở Việt Nam đã
đưa yêu cầu BVMT không khí vào trong toàn bộ quá trình phát triển từ khâu lập chiến
lược, quy hoạch, phát triển; lập, phê duyệt và thực hiện dự án đầu tư đến quá trình hoạt
động của các công trình và trách nhiệm thu hồi, xử lý sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc
thải bỏ; vừa quy định về BVMT không khí theo ngành, lĩnh vực, vừa quy định về
BVMT không khí theo địa bàn, khu vực; sử dụng đồng bộ các công cụ, các biện pháp
BVMT không khí; xã hội hóa hoạt động BVMT không khí; quy định rõ hơn trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước và các chủ thể khác trong hoạt động BVMT không khí; quy
định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các chủ thể khác trong hoạt động
BVMT không khí. Rõ ràng thực hiện phát triển bền vững sẽ góp phần quan trọng vào
KSÔN môi trường không khí, bởi xét cho cùng ÔNMTKK là một trong các nguyên
nhân dẫn đến phát triển không bền vững và muốn hướng tới phát triển bền vững thì phải
kiểm soát được ô nhiễm môi trường không khí.
Qua đó có thể thấy, về cơ bản Việt Nam đã ban hành được một hệ thống các
chiến lược, chính sách cũng như các quy định pháp luật về phát triển bền vững với rất
nhiều các mục tiêu giải pháp thực hiện, tuy nhiên tổng kết 10 năm phát triển của Việt
Nam trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII cho thấy kinh tế nước ta phát triển vẫn
chưa bền vững, môi trường vẫn bị ô nhiễm, tài nguyên bị suy thoái trầm trọng. Thực tế
này dường như trái với quan điểm, chiến lược, chính sách cũng như các quy định pháp
luật của Việt Nam về phát triển bền vững mà vụ gây ô nhiễm môi trường, hủy hoại
nguồn lợi thủy sản cho ven biển miền Trung của Công ty thép Hưng Nghiệp Fomosa
gần đây hay VEDAN cách đây vài năm,… gây thiệt hại rất lớn cho môi trường cũng như
người dân là những vụ việc mang tính điển hình của sự phát triển chưa bền vững. Điều
đó cho thấy sau 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới mở cửa, chính sách thu hút đầu tư
nước ngoài cũng như trong nước của Việt Nam rõ ràng có vấn đề trầm trọng. Nhìn lại
bức tranh phát triển kinh tế của đất nước 30 năm qua không khó gì chúng ta không thấy
đa phần các hoạt động phát triển kinh tế, thu hút đầu tư của chúng ta, như công nghiệp
hóa chất, công nghiệp dệt may, công nghiệp hóa dầu, công nghiệp sắt thép, công nghiệp
khai thác tài nguyên khoáng sản với các công nghệ lạc hậu,… đều là là lĩnh vực gây ô
nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí nghiêm trọng. Do vậy, để kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí thông qua thực hiện chính sách pháp luật về phát
triển bền vững, Việt Nam cần phải đưa yếu tố bảo vệ môi trường vào để xem xét lại
chiến lược, chính sách thu hút đầu tư của mình,…
87
3.2.3. Quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi
trường và kế hoạch BVMT không khí
Để phòng ngừa ô nhiễm môi trường do hoạt động phát triển kinh tế gây ra, bên cạnh
quy định về quy hoạch môi trường được quy định trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014
và Nghị định số 18/2015/NĐ-CP về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường
chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường. pháp luật BVMT
cũng quy định về việc lập, thẩm định thông qua các báo cáo đánh giá môi trường chiến
lược, đánh giá tác động môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường,… Các quy định này nhằm
đưa BVMT trở thành một nội dung của quá trình phát triển kinh tế. Thực tiễn cho thấy
nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí chủ yếu là do hoạt
động kinh tế của con người gây ra: hoạt động phát triển kinh tế có thể chia thành ba cấp độ:
lớn nhất là các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế; các dự án đầu tư cụ thể và các dự
án nhỏ quy mô hộ gia đình, cá nhân. Để đảm bảo các hoạt động kinh tế từ lớn đến nhỏ này
không gây ô nhiễm môi trường thì trước khi các hoạt động kinh tế trên được thông qua và
thực hiện trên thực tế thì các chủ thể phải lập báo cáo đánh giá về môi trường của các hoạt
động này. Cụ thể:
- Đối với đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC)
Với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, pháp luật quy định cơ quan
được giao lập chiến lược, quy hoạch phải có trách nhiệm lập báo cáo đánh giá môi
trường chiến lược (ĐMC), các báo cáo này lập nhằm phân tích, dự báo các tác động của
chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế đến môi trường. Sau khi lập xong các báo cáo
này sẽ được chuyển đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tổ chức thành lập Hội đồng
thẩm định. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền (tùy loại dự án) sẽ thành lập Hội đồng
thẩm định để thẩm định ĐMC. Kết luận của Hội đồng thẩm định là căn cứ để cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xem xét phê duyệt chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế.
Đánh giá môi trường chiến lược không được quy định trong Luật BVMT 1993 mà lần
đầu tiên được quy định trong Luật BVMT 2005. Việc quy định về lập báo cáo đánh giá
môi trường chiến lược là đưa các yếu tố môi trường vào nội dung phát triển kinh tế
nhằm đảm bảo quá trình phát triển kinh tế sẽ không làm ô nhiễm, suy thoái môi trường,
trong đó có môi trường không khí hướng tới phát triển bền vững.
Qua phân tích Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 16, , Luật BVMT năm 2014 có
thể thấy Nhà nước có trách nhiệm và vai trò chủ đạo trong tổ chức và thực hiện báo cáo
ĐMC. Việc thực hiện tốt ĐMC là cơ sở quan trọng trong việc ngăn ngừa, phòng trước ô
nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí. Tuy nhiên, về nội dung báo cáo
ĐMC, Luật mới chỉ quy định về dự báo liên quan đến biến đổi khí hậu mà chưa quy
định cụ thể trách nhiệm phân tích, dự báo cụ thể về tác động với môi trường không khí.
88
Điều này có thể dẫn tới việc cơ quan lập, thẩm định, phê duyệt ĐMC có thể sẽ coi nhẹ
việc đánh giá ĐMC với môi trường không khí. Hơn nữa, mặc dù Luật Bảo vệ Môi
trường năm 2014 đã coi Báo cáo ĐMC là một căn cứ bắt buộc để dự án chiến lược, quy
hoạch được xem xét thông qua, nhưng hiện nay việc thực hiện đánh giá ĐMC đối với
các dự án chiến lược, quy hoạch vẫn còn mang nhiều tính hình thức.
- Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM).
Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo tác động đến môi trường
của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra biện pháp BVMT khi triển khai dự án đó. Báo cáo
đánh giá tác động môi trường có vai trò rất quan trọng trong KSÔN môi trường không
khí. Báo cáo này ra đời nhằm ngăn ngừa, phòng trước những tác động xấu của các dự án
đầu tư cụ thể đến môi trường, trong đó có môi trường không khí trước khi dự án đó
được cấp phép đầu tư thực hiện trên thực tế. Báo cáo đánh giá tác động môi trường được
quy định lần đầu tiên trong Luật BVMT 1993 và ngày càng hoàn thiện trong Luật
BVMT 2005 và đến nay là Luật BVMT 2014. Luật BVMT 2014 quy định tương đối cụ
thể về đối tượng phải lập ĐTM, thực hiện ĐTM, lập lại báo cáo đánh giá tác động môi
trường, tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường; nội dung
chính của ĐTM, thẩm định ĐTM; Thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi
trường; Phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Ngoài ra, Luật BVMT 2014 đã có quy định cụ thể hơn so với Luật BVMT 2005,
như: về việc lập lại báo cáo ĐTM; về tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác
động môi trường; về thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường. Luật
BVMT 2014 tiếp tục quy định về thẩm định ĐTM thông qua Hội đồng thẩm định, tuy nhiên
bỏ thẩm định báo cáo thông qua tổ chức dịch vụ thẩm định mà thay vào đó là thông qua việc
lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết
quả thẩm định. Sở dĩ, Luật mới bỏ thẩm định qua tổ chức dịch vụ thẩm định là do từ khi
quy định về thẩm định bằng tổ chức này từ 2005 đến nay chưa có một báo cáo ĐTM nào
được thẩm định thông qua tổ chức này. Về phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi
trường, Luật BVMT 2014 quy định cụ thể về thời gian phê duyệt báo cáo là trong thời
hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được chỉnh
sửa theo yêu cầu của cơ quan thẩm định, thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan thẩm
định có trách nhiệm phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; trường hợp không
phê duyệt phải trả lời cho chủ dự án bằng văn bản và nêu rõ lý do. Đây là quy định quan
trọng nhằm đảm bảo rằng việc thẩm định báo cáo ĐTM không bị kéo quá dài ảnh hưởng
đến việc xem xét phê duyệt, cấp phép đầu tư cho dự án.
Theo quy định của pháp luật các chủ dự án phải lập báo cáo ĐTM với ba nội
dung cơ bản: phân tích hiện trạng môi trường không khí tại địa bàn hoạt động của dự án
89
hoặc của cơ sở mình; dự báo diễn biến môi trường không khí khi dự án đi vào hoạt động
hoặc cơ sở tiếp tục hoạt động trên địa bàn đó; kiến nghị các giải pháp thích hợp về BVMT
không khí và hậu ĐTM. Thực hiện nghĩa vụ này, các chủ thể khi tiến hành hoạt động của
mình sẽ phải dự liệu trước được những tác động tiêu cực có thể gây ra cho không khí
xung quanh đồng thời dự tính trước các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn chúng thông qua
đó thực hiện phòng ngừa ô nhiễm không khí, sự cố môi trường không khí khi triển khai
dự án trên thực tiễn (Điều 18 đến Điều 34 Luật BVMT năm 2014). Việc xem xét, phê
duyệt dự án và hoạt động có phát thải khí phải căn cứ vào sức chịu tải của môi trường
không khí, bảo đảm không có tác động xấu đến con người và môi trường.
Mặc dù vậy, Luật BVMT năm 2014 không quy định riêng, rõ ràng, yêu cầu bắt
buộc về đánh giá tác động môi trường không khí. Ví dụ: chủ dự án có thể giới hạn phạm
vi đánh giá tác động môi trường với môi trường đất và môi trường nước mà không đưa
môi trường không khí vào nội dung đánh giá. Hơn nữa, thực tiễn lập báo cáo ĐTM cho
thấy nhiều báo cáo do không được kiểm tra chặt chẽ ngay từ khi lập báo cáo, hay việc
thẩm định chỉ mang tính qua loa nên chỉ mang tính hình thức cho có. Điều này có thể
dẫn đến sự thờ ơ, coi nhẹ của chủ dự án trong quá trình lập ĐTM liên quan đến môi
trường không khí.
- Quy định về kế hoạch BVMT không khí (Luật BVMT 2005 gọi là Cam kết bảo
vệ môi trường).
Cũng như báo cáo ĐMC và ĐTM, Luật BVMT hiện hành chưa có quy định cụ
thể về kế hoạch BVMT không khí mà chỉ quy định chung về kế hoạch bảo vệ môi
trường. Đối với các hoạt động kinh tế quy mô nhỏ hơn không thuộc đối tượng phải lập
ĐMC hoặc ĐTM thì phải làm cam kết bảo vệ môi trường, trong đó có môi trường không
khí theo Luật BVMT 2005. Còn theo Luật BVMT năm 2014 thì gọi là kế hoạch bảo vệ
môi trường, trong đó có BVMT không khí.
Có thể thấy so với Luật BVMT 2005, Luật BVMT năm 2014 đã quy định về đối
tượng phải đăng ký kế hoạch BVMT cụ thể, rõ ràng và đầy đủ hơn; đồng thời quy định
rõ về thời hạn cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác nhận đăng ký kế hoạch bảo vệ
môi trường. Việc thực hiện đúng kế hoạch BVMT này sẽ góp phần BVMT nói chung và
phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí.
Luật này cũng quy định đối tượng phải lập kế hoạch BVMT là các phương án
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không thuộc đối tượng phải lập dự án đầu tư theo quy định
của pháp luật về đầu tư. Chủ dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ quy mô hộ
gia đình, không thuộc đối tượng phải lập ĐTM thì phải lập kế hoạch bảo vệ môi trường,
tùy trường hợp theo quy định của pháp luật hiện hành gửi UBND cấp tỉnh, cấp huyện
hoặc UBND cấp xã trong trường hợp UBND cấp huyện ủy quyền xem xét, xác nhận
90
trước khi triển khai dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Sau đó trình các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định để xác nhận kế hoạch bảo vệ môi trường.
Tiếp đó chủ dự án, chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sau khi kế hoạch BVMT
được xác nhận phả có trách nhiệm: tổ chức thực hiện các biện pháp BVMT theo kế
hoạch BVMT đã được xác nhận. Trường hợp xảy ra sự cố môi trường phải dừng hoạt
động, thực hiện biện pháp khắc phục và báo ngay cho UBND cấp xã hoặc UBND cấp
huyện nơi thực hiện dự án hoặc cơ quan chuyên môn về BVMT thuộc UBND cấp tỉnh,
cơ quan có liên quan. Hợp tác và cung cấp mọi thông tin có liên quan cho cơ quan quản
lý nhà nước về BVMT kiểm tra, thanh tra. (Điều 29 đến Điều 34 Luật Bảo vệ Môi
trường năm 2014).
Qua đó có thể thấy pháp luật môi trường hiện hành quy định khá cụ thể về nghĩa
vụ lập báo cáo đánh giá tác động môi trường cũng như kế hoạch BVMT nói chung của
các chủ đầu tư dự án, các chủ tổ chức, cá nhân. Việc thực hiện tốt các quy định này của
các chủ thể trên sẽ góp phần quan trọng vào quá trình phòng ngừa ô nhiễm môi trường
nói chung, ÔNMTKK nói riêng. Tuy nhiên, thực tiễn có nhiều chủ thể vi phạm pháp
luật về vấn đề này, nhưng chưa được xử lý triệt để, có nhiều báo cáo ĐTM chưa đánh
giá hết được tác động của dự án đầu tư đến môi trường mà vẫn được cấp phép đầu tư
gây bất bình trong nhân dân. Ví dụ: Báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án Đồng
Nai 6, Đồng Nai 6A, Dự án san lập sông Đồng Nai đoạn đi qua thành phố Biên Hòa;
hay báo cáo ĐTM dự án khai thác Bôxít Tây Nguyên,… Thậm chí, có có không ít dự án
chủ đầu tư không xuất phát thực sự từ dự án đầu tư của mình mà lấy báo cáo ĐTM của
dự án khác mà vẫn được thông qua. Sở dĩ có vấn đề này là do hoạt động thẩm định các
báo cáo ĐTM vẫn chưa thực chất. Liên quan đến vấn đề này, theo quy định của Luật
Bảo vệ Môi trường năm 2014 thì ngoài Bộ Tài nguyên và Môi trường có quyền thành
lập Hội đồng thẩm định thì các Bộ khác, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng có quyền thành
lập Hội đồng thẩm định đối với các dự án thuộc quyền phê duyệt của mình. Do vậy, gây
ra hiện tượng vừa đá bóng, vừa thổi còi. Khi Bộ đã muốn phê duyệt dự án đó thì ít
trường hợp Hội đồng thẩm định do chính Bộ đó thành lập lại không thông qua báo cáo
ĐTM,… Vấn đề xuyên suốt hơn tất cả và có lẽ là vấn đề nóng ở Việt Nam hiện nay vẫn
là tổ chức thực hiện còn rất nhiều hạn chế, Luật tốt mà cán bộ thực hiện không tốt thì
cũng khó mà mang lại hiệu quả thực sự được. Vấn đặt ra là phải điều chỉnh pháp luật
làm sao để chủ đầu tư dự án cũng như cơ quan chủ thể có thẩm quyền tự nguyện lựa
chọn thực hiện mà không muốn/không giám vi phạm.
3.2.4. Quy định về quản lý khí thải phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí
Quản lý chất thải là quá trình giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận
chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải. Để phòng ngừa ô nhiễm môi trường
91
không khí vấn đề quản lý khí thải đóng vai trò quan trọng. Tại Malaysia, đã áp dụng các
quy định rất nghiêm ngặt về quản lý chất thải nguy hại. Chiến lược từ ô nhiễm đến nấm
mồ của Malaysia đã xác lập một danh mục 107 loại chất thải nguy hại (bao gồm cả chất
thải dạng khí, lỏng, rắn) cần phải được quản lý chặt chẽ. Để thực thi được điều đó, pháp
luật môi trường của Malaysia quy định tương đối cụ thể về trình tự, thủ tục buộc các cơ
sở phải khai báo quá trình phát sinh ra chất thải, xử lý, vận chuyển và thải bỏ an toàn
các chất thải đó. Có thể nói nước này áp dụng các biện pháp khá mạnh mẽ để quản lý
hiệu quả khí thải [3].
Ở Việt Nam, quản lý chất thải, đặc biệt là khí thải có vai trò quan trọng trong phòng
ngừa ô nhiễm môi trường không khí. Luật BVMT năm 2014 hiện hành quy định về
trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý các nguồn gây ô
nhiễm. Cụ thể nguồn phát thải khí phải được xác định về lưu lượng, tính chất và đặc
điểm của khí thải. Việc xem xét, phê duyệt dự án và hoạt động có phát thải khí phải căn
cứ vào sức chịu tải của môi trường không khí, bảo đảm không có tác động xấu đến con
người và môi trường. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí
công nghiệp lớn phải đăng ký nguồn gây ô nhiễm, đo đạc, thống kê, kiểm kê và xây
dựng cơ sở dữ liệu về lưu lượng, tính chất, đặc điểm khí thải. Cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lưu lượng lớn phải lắp đặt thiết bị
quan trắc khí thải tự động, liên tục và được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
cấp phép xả thải,… Bên cạnh đó, các cá nhân, tổ chức chủ nguồn thải không được phép
vận chuyển, chôn lấp chất độc, chất phóng xạ, chất thải và chất nguy hại khác không
đúng quy trình kỹ thuật về bảo vệ môi trường. Không được thải chất thải chưa được xử lý
đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào
đất, nguồn nước và không khí; không được thải khói, bụi, khí có chất hoặc mùi độc hại vào
không khí; phát tán bức xạ, phóng xạ, các chất ion hóa vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi
trường; không được gây tiếng ồn, độ rung vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường; không
được phá hoại, xâm chiếm trái phép di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên,…
Vấn đề đặt ra là tại sao ở Việt Nam, các doanh nghiệp, các chủ nguồn thải, thậm
chí các cơ cơ quan nhà nước có thẩm quyền lại không thực hiện đầy đủ/thực hiện đúng
các quy định về quản lý khí thải nói chung và khí thải nói riêng. Ví dụ như: vụ Vedan xả
thải ra sông Thị Vải, vụ Fomosa xả thải ra biển,… Ở đây có hai vấn đề cần phải làm rõ:
Một là, các quy định pháp luật về vấn đề này đã hoàn thiện chưa, đã đồng bộ
chưa, đã cụ thể chưa, đã đủ sức răn đe chưa? Có thể thấy, Luật Bảo vệ Môi trường 2014
đã có sự quan tâm nhất định đến quản lý, bảo vệ môi trường không khí. Tuy nhiên, các
quy định về vấn đề này còn chưa cụ thể khó áp dụng trên thực tiễn.Ví dụ: vấn đề xử lý
khí thải hiện nay là một vấn đề nóng nhiều doanh nghiệp lợi dụng tính khuếch tán của
92
môi trường không khí họ đã xả thải trực tiếp ra môi trường mà không qua xử lý các chất
gây ô nhiễm, kiểm soát hoạt động xử lý khí thải này thế nào? đối với các doanh nghiệp
lắp đặt hệ thống quan trắc khí thải tự động, thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ kiểm
soát thông tin từ hệ thống này như thế nào, theo kênh báo cáo của doanh nghiệp theo
định kỳ hay có thể được đấu nối trực tiếp để cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể
kiểm tra bất cứ lúc nào,… Có những quy định đã cụ thể nhưng lại chưa đủ sức răn đe,
như quy định về mức xử phạt quá thấp dẫn đến doanh nghiệp vi phạm sẵn sàng nộp phạt
mà không thực hiện các biện pháp xử lý khí thải; có những quy định thì lại không khả
thi. Ví dụ liên quan đến quản lý chất thải, Bộ luật Hình sự hiện hành có quy định về Tội
vi phạm các quy định về quản lý chất thải, nhưng thực tế cho thấy chưa một cá nhân nào
bị xử lý hình sự về tội này,… Bên cạnh đó, pháp luật quy định nhiều cơ quan nhà nước
chủ thể có thẩm quyền tham gia vào kiểm soát ô nhiễm môi trường, trong đó có quản lý
chất thải, vẫn không thực thi đúng/đầy đủ chức trách nhiệm vụ của mình gây thiệt hại
cho môi trường, trong đó có môi trường không khí, vẫn chưa được xử lý thích đáng về
trách nhiệm pháp lý. Qua truyền thông chúng ta biết vụ chìm phà Sewon tại Hàn Quốc
làm chết hàng trăm học sinh, cho rằng lực lượng cảnh sát biển không hoàn thành nhiệm
vụ cứu giúp học sinh trong vụ việc này, Tổng thống Hàn Quốc quyết định giải tán lực
lượng cảnh sát biển Hàn Quốc, thậm chí thủ tướng Hàn Quốc cũng xin từ chức về vụ
việc này. Khảo cứu một số nước phát triển có thể thấy pháp luật nước đó thường quy
định rất chặt chẽ, rõ ràng và đảm bảo tính pháp chế rất cao đối với hoạt động của các cơ
quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền. Ngoài cơ chế pháp lý, ở các nước này văn hóa từ
chức không có gì xa lạ. Tuy nhiên, ở Việt Nam chúng ta chưa làm được cả hai việc này.
Hai là, về vai trò của các đoàn thể xã hội trong quản lý chất thải. Để kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí ngoài trách nhiệm chính thuộc về các cơ quan nhà nước,
chủ thể có thẩm quyền và các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải thì vai trò kiểm soát từ
bên ngoài là vô cùng quan trọng đó là kiểm soát của các đoàn thể xã hội, các cộng đồng
dân cư,… Luật Bảo vệ Môi trường hiện hành cũng có quy định về trách nhiệm của các
tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, như:
Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Hôi Liên hiệp phụ nữ, Hội
Cứu chiến binh, Công đoàn,.. Thực tế Việt Nam những năm qua cho thấy đa phần các
hành vi vi phạm các quy định về quản lý chất thải, trong đó có khí thải lại là do cộng
đồng dân cư, các tổ chức xã hội dân sự,… phát hiện và góp phần quan trọng vào giải
quyết triệt để vấn đề này và truyền thông là phương tiện quan trọng để thúc đẩy công lý
được thực thi. Vụ dụ: vụ Fomosa xả nước thải ra biển các ngư dân cũng là người phát
hiện ra đầu tiên, vụ gây ô nhiễm xỉ bụi tại nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 Bình Thuận
gây ô nhiễm cho môi trường không khí xung quanh nhà máy, cộng đồng dân cư, các nhà
93
báo đã vào cuộc thông tin nhanh chóng đến được cơ quan có thẩm quyền và được giải
quyết nhanh chóng, vụ chôn lấp hóa chất độc hại tại Thanh Hóa, hay Khánh Hòa cũng
do người dân phát hiện ra. Vụ Vedan cũng cho thấy khi mà mọi cơ chế pháp lý từ hành
chính đến tòa án đều khó có thể buộc Vedan tâm phục, khẩu phục để bồi thường thiệt
hại môi trường thì sự tẩy chay của người dân không dùng hàng của Vedan đã khiến
Công ty này phải chùn bước và bồi thường cho người dân. Tóm lại, trong bối cảnh hiện
nay khi mà nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức được trách nhiệm xã hội của mình trong
bảo vệ môi trường, sẵn sàng vi phạm pháp luật môi trường, quản lý nhà nước về môi
trường còn chưa hiệu quả thì vai trò của các đoàn thể xã hội lại càng trở nên quan trọng.
Ba là, về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường nói
chung, bảo vệ môi trường không khí nói riêng. Tác giả cho rằng trên tất cả các công cụ
này để kiểm soát được ô nhiễm môi trường không khí có hiệu quả thì trách nhiệm xã hội
của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đóng vai trò rất quan trọng. Thực hiện tốt
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, trong đó có trách nhiệm trong phòng ngừa kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí không chỉ mang lại lợi ích cho chính doanh nghiệp
mà còn mang lại lợi ích cho sự phát triển bền vững của xã hội. Do vậy các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế ở Việt Nam cần nhận thức được điều này và có những chính
sách, hành động cụ thể để tham gia.
Trên thực tế, ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mặc dù là
vấn đề mới mẻ, nhưng bước đầu đã được một số bộ, ngành quan tâm, chú ý. Cụ thể là,
từ năm 2005, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Lao động Thương binh
và Xã hội, Bộ Công thương cùng với các Hiệp hội da giày, Dệt may trao giải thưởng
“Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững” nhằm tôn vinh
các doanh nghệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh hội
nhập. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn ở Việt Nam đã nhận thấy rằng, trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp đã trở thành một trong những yêu cầu không thể thiếu được đối
với doanh nghiệp, bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nếu doanh
nghiệp không tuân thủ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp sẽ không thể tiếp cận được
với thị trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp khi thực hiện trách nhiệm xã hội đã mang
lại những hiệu quả thiết thực trong sản xuất kinh doanh. Kết quả khảo sát gần đây do
Viện Khoa học lao động và xã hội tiến hành trên 24 doanh nghiệp thuộc hai ngành Giầy
da và Dệt may cho thấy, nhờ thực hiện các chương trình trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp, doanh thu của các doanh nghiệp này đã tăng 25%, năng suất lao động cũng tăng
từ 34,2 triệu đồng lên 35,8 triệu đồng/1 lao động/năm; tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94%
lên 97%. Bên cạnh hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn củng cố được uy tín với
khách hàng, tạo được sự gắn bó và hài lòng của người lao động đối với doanh nghiệp,
94
thu hút được lực lượng lao động có chuyên môn cao. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay
cái khó trong thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nói chung, trong bảo vệ
môi trường nói riêng là nhận thức về vấn đề này chưa đúng như kiểu ban tặng, từ thiện
và đặc biệt là chúng ta chưa có hành lang pháp lý hoàn thiện về vấn đề này.[32]
Có thể khẳng định kinh doanh là phải có lợi nhuận, nhưng sự tồn tại, phát triển
của doanh nghiệp không chỉ là lợi nhuận mà còn là vấn đề trách nhiệm của doanh
nghiệp với xã hội, nó không chỉ thể hiện qua một vài công việc làm từ thiện mà gắn suốt
với quá trình tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Đã qua rồi thời kỳ có hàng gì là người
tiêu dùng phải chấp nhận hàng hóa đó mà không có sự lựa chọn, kinh tế thị trường giúp
cho người tiêu dùng thông minh hơn họ có quyền xem xét, lựa chọn và có quyền đòi hỏi
những sản phẩm của doanh nghiệp nào mang lại lợi ích và giá trị tốt nhất cho họ. Do
vậy, sự phát triển của xã hội, của con người, sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp phải dừng lại
các hành vi gây tác động xấu đến cộng đồng và tự nguyện thực hiện trách nhiệm xã hội
của mình sẽ mang lại lợi ích cho chính họ.
3.2.5. Quy định về dự báo ô nhiễm môi trường không khí
Dự báo các vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi trường nói chung, môi trường
không khí nói riêng có vai trò rất quan trọng trong KSÔN môi trường không khí, đặc
biệt là trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí. Thực tiễn cho thấy dự báo nói
chung dự báo ô nhiễm môi trường không khí nói riêng có nhiều phương pháp. Việc lựa
chọn phương pháp dự báo phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, các lĩnh vực dự báo liên
quan đến hiện tượng tự nhiên thì phương pháp định lượng hay được sử dụng như mô
hình hóa, phương pháp kịch bản,… Tuy nhiên, tùy vào từng lĩnh vực, ngành mà các
phương pháp dự báo có thể khác nhau. Ví dụ, ở châu Âu, các mô hình về thay đổi môi
trường được chia theo các chủ đề khác nhau như Nông nghiệp; chất lượng không khí; đa
dạng sinh học; khí hậu; năng lượng; sử dụng đất; chất thải rắn; nước,… mỗi một chủ đề
thường có nhiều mô hình/công cụ. Hiện nay, trên thế giới, trong lĩnh vực tài nguyên môi
trường, nhiều mô hình đang được nghiên cứu và ứng dụng để dự báo tốc độ tan băng ở
Bắc Cực, lượng khí thải nhà kính, thảm phủ thực vật trên trái đất trong tương lai… Ở
Việt Nam, những năm gần đây có nhiều nỗ lực trong hoàn thiện chính sách, pháp luật và
mô hình dự báo ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí. Cụ thể trong
Luật BVMT năm 2014 rất coi trọng hoạt động này, cụ thể:
Một là, dự báo ô nhiễm môi trường, trong đó có ô nhiễm môi trường không khí
được quy định là một trong các nội dung của báo cáo ĐMC. Cụ thể Báo cáo ĐMC phải
đánh giá, dự báo xu hướng tích cực và tiêu cực của các vấn đề môi trường trong trường
hợp thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Đặc biệt là đánh giá, dự báo xu hướng
95
tác động của biến đổi khí hậu trong việc thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.
(Điều 15 Luật BVMT năm 2014);
Hai là, không chỉ được ghi nhận trong nội dung của báo cáo ĐMC, dự báo cũng
được ghi nhận trong nội dung chính của báo cáo ĐTM (Nội dung của báo cáo ĐTM
phải đánh giá, dự báo các nguồn thải và tác động của dự án đến môi trường và sức
khỏe cộng đồng. Đánh giá, dự báo, xác định biện pháp quản lý rủi ro của dự án đến môi
trường và sức khỏe cộng đồng (Điều 22) và kế hoạch bảo vệ môi trường (nội dung của
kế hoạch BVMT phải dự báo các loại chất thải phát sinh, tác động khác đến môi trường
(Điều 30).
Ba là, Luật khẳng định rõ cần ưu tiên phát triển ngành và liên ngành khoa học về
quản lý, đánh giá, giám sát và dự báo tác động của biến đổi khí hậu đối với phát triển kinh
tế - xã hội, môi trường, sức khỏe cộng đồng (Điều 47). Luật cũng đề cao phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ về bảo vệ môi trường, trong đó ưu tiên nghiên cứu, chuyển
giao, phát triển và ứng dụng công nghệ kiểm soát ô nhiễm, quan trắc, đánh giá chất
lượng môi trường và công nghệ dự báo, cảnh báo sớm các biến đổi môi trường;
Bốn là, trong nội dung quản lý chất thải nguy hại, trong quy hoạch bảo vệ môi
trường, Luật quy định về dự báo liên quan đến đánh giá, dự báo nguồn phát thải nguy
hại và lượng phát thải (Điều 94);
Năm là, trong nội dung báo cáo hiện trạng môi trường cũng quy định về dự báo
thách thức về môi trường và từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp bảo vệ môi trường.
Sáu là, trong quản lý nhà nước về môi trường việc tổ chức, xây dựng, quản lý hệ
thống quan trắc; định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường là
một nội dung quan trọng. (Điều 139).
Thực tiễn cũng cho thấy, trong các Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia, báo
cáo hiện trạng môi trường chuyên đề không chỉ đánh giá hiện trạng môi trường mà còn
có những dự báo diễn tiến của hiện trạng ô nhiễm môi trường, môi trường không khí và
đưa ra giải pháp phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí. Liên quan đến dự báo
ÔNMTKK và những tác động của nó, Bộ TN và MT đã công bố Kịch bản về ứng phó
với biến đổi khí hậu, trong đó dự báo về tác động của biến đổi khí hậu và hậu quả của
nó đối với Việt Nam. Kịch bản dự báo, nếu đến năm 2100, nhiệt độ trung bình của trái
đất nâng lên 2 đến 30c
thì nước biển sẽ dâng cao khoảng 1m. Khi đó khoảng 2/3 đồng
bằng sông Cửu Long và 1/3 đồng bằng Sông Hồng sẽ chìm dưới mực nước biển. Đồng
thời Bộ cũng đã công bố Báo cáo chuyên đề về hiện trạng môi trường không khí Việt
Nam năm 2013 để đánh giá và dự báo về hiện trạng môi trường không khí ở Việt Nam
và đưa ra các phương hướng, giải pháp để ứng phó hiệu quả với ô nhiễm môi trường
không khí.
96
Còn về các mô hình dự báo trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường chưa nhiều.
Mỗi lĩnh vực đặc thù đều áp dụng những công cụ/mô hình riêng, đáp ứng những yêu cầu
cụ thể, những mô hình này chủ yếu chỉ áp dụng cho chuyên môn sâu. Ví dụ, trong lĩnh
vực thủy văn để dự báo lũ, mô hình MARINE của Pháp, mô hình Mike11 (của Đan
Mạch), mô hình SSARR, mô hình TANK,… được sử dụng, trong dự báo thời tiết thì sử
dụng các mô hình về dự báo thời tiết,... Trong lĩnh vực quản lý tài nguyên và môi
trường, đã có một số mô hình dự báo được áp dụng trong nghiên cứu chính sách, quy
hoạch phát triển như: mô hình I-O để phân tích tác động môi trường-kinh tế để phân tích
mức độ phát thải của một số khí nhà kính, nước thải của từng ngành, từng khu vực khác
nhau của các tác giả Bui Trinh, Francisco T. Secretario, Kim Kwangmun, Le Ha Thanh
và Pham Huong Giang [63].
Qua đó có thể thấy công tác dự báo ô nhiễm môi trường, môi trường không khí ở
nước ta ngày càng được quan tâm từ hoàn thiện các chính sách, pháp luật cho đến triển
khai thực hiện các mô hình dự báo và đã mang lại những kết quả nhất định trong thay
đổi nhận thức cũng như hành động của mọi người về biến đổi khí hậu, về bảo vệ môi
trường không khí,.. Chính vì tầm quan trọng của dự báo nên hoạt động này cần phải
chính xác nhất có thể, bởi sau dự báo đó là niềm tin của người dân, là chi phí, là nhân
lực để thực hiện các kết quả dự báo được. Bên cạnh những thành công mang lại, hoạt
động dự báo từ chính sách, các quy định pháp luật cho đến thực tiễn triển khai tại Việt
Nam vẫn còn những bất cập nhất định. Cụ thể các quy định này vẫn tản mạn nằm ở
nhiều nội dung khác nhau. Ngoài quy định về dự báo tác động của biến đổi khí hậu,
pháp luật môi trường chưa có những quy định cụ thể để dự báo về hiện trạng môi trường
không khí: về ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm bụi, ô nhiễm mùi, ô nhiễm khí thải, ô nhiễm
khói,… Luật cũng chỉ quy định về dự báo về nguồn thải rắn nhưng chưa có quy định dự
báo về khí thải,… Có thể khẳng định, Luật BVMT năm 2014 chưa có quy định cụ thể
nào riêng về dự báo môi trường không khí, khí thải.
3.2.6. Quy định về áp dụng các công cụ kinh tế nhằm phòng ngừa ô nhiễm
môi trường không khí
Để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần phải sử dụng tổng hợp các công
cụ, trong đó công cụ kinh tế đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí. Các công cụ kinh tế được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích trong
hoạt động của tổ chức kinh tế để tạo ra các tác động tới hành vi ứng xử của nhà sản xuất
có lợi cho môi trường. Các công cụ kinh tế bao gồm: quỹ bảo vệ môi trường, thuế, phí
BVMT đối với khí thải, trợ cấp môi trường, nhãn sinh thái, hạn ngạch khí thải,…
Những năm gần đây, Việt Nam đặc biệt quan tâm đến các công cụ này trong
phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí thể hiện qua việc nhà nước ta ban hành hàng
97
loạt các chính sách, các quy định về ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước đầu tư vào lĩnh vực thân thiện môi trường, sử dụng các sản phẩm thân thiện môi
trường. Đồng thời quy định về đánh thuế cao, đối với việc đầu tư vào lĩnh vực hay sử
dụng sảm phẩm không thân thiện môi trường. Tuy nhiên, có thể thấy các chính sách,
pháp luật về vấn đề này vẫn chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ và vẫn còn những thiếu sót,
bất cấp. Cụ thể như chúng ta biết Quỹ bảo vệ Môi trường cũng là một công cụ kinh tế
quan trọng để kiểm soát ô nhiễm môi trường vì các nguồn thu về Quỹ sẽ được đầu tư trở
lại cho kiểm soát ô nhiễm môi trường, tuy nhiên:
Một là, đối với các Quỹ Bảo vệ môi trường cấp địa phương, mặc dù đã được
thành lập nhưng hầu hết chưa hoạt động được. Nguyên nhân là do chưa tách biệt giữa
quản lý hành chính và quản lý tài chính, nên Quỹ địa phương đang được quản lý chặt
chẽ về mặt kinh tế - chính sách. Nguồn vốn cho Quỹ địa phương còn hạn chế, do Sở Tài
chính quyết định, phần có thể cho vay chỉ dao động từ 10-12 tỷ đồng nên không đáp ứng
được nhu cầu của các doanh nghiệp vay vốn đầu tư BVMT.
Hai là, với Quỹ BVMT Việt Nam, hiện vẫn chưa có những quy định cụ thể liên
quan tới việc xác định khoản thu đền bù thiệt hại môi trường từ ngân sách nhà nước
chuyển cho Quỹ, điều này liên quan trước hết tới việc quy định bóc tách khoản thu này
thành một khoản thu riêng trong danh mục thu ngân sách nhà nước. Nguồn tạo Quỹ bao
gồm cả các loại phí BVMT đối với nước thải, phí BVMT đối với khai thác khoáng sản,
phí BVMT và phí BVMT đối với khí thải. Tuy nhiên, chưa có quy định về thu phí đối
với khí thải.[32]. Phí BVMT đối với khí thải (hay phí khí thải) là loại phí đánh vào hành
vi xả thải các loại khí gây ô nhiễm môi trường, được thu dựa trên khối lượng khí ô
nhiễm thải ra môi trường. Cũng như các loại phí BVMT khác, mục đích của phí khí thải
là nhằm điều chỉnh hành vi của tổ chức, cá nhân hướng tới giảm thiểu việc xả khí thải
gây ô nhiễm môi trường, đồng thời tạo nguồn thu cho BVMT. Đây là công cụ kinh tế
trực tiếp nhằm đưa chi phí BVMT vào giá thành sản phẩm theo nguyên tắc "người gây ô
nhiễm phải trả tiền". Phí BVMT đối với khí thải đã được áp dụng tương đối rộng rãi ở
nhiều nước trên thế giới kể cả các nước phát triển (Mỹ, Đan Mạch, Pháp, Thụy Điển,
Phần Lan...) và các nước đang phát triển (Ba Lan, Cộng hòa Séc, Hungari, Nga.. .). Đối
tượng chịu phí, nhìn chung phổ biến vẫn là các loại khí SO2, NOx, CO, riêng ở Thụy
Điển và một số nước khác còn đánh thuế cả CO2, điều này rất có ý nghĩa trong bối cảnh
biến đổi khí hậu đang gia tăng như hiện nay. Ở Việt Nam đến nay chưa ban hành quy
định cụ thể về loại phí này [112]. Hiện nay Chính phủ đã ban hành Nghị định về thu phí
bảo vệ môi trường đối với nước thải, chất thải rắn, khai thác khoáng sản, nhưng phí bảo
vệ môi trường đối với khí thải thì mặc dù đã có dự thảo nghị định từ năm 2011, nhưng
đến nay chưa được thông qua.
98
Về công cụ trợ cấp môi trường. Đây là công cụ kinh tế quan trọng được sử dụng
ở rất nhiều nước châu Âu, thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Trợ cấp
môi trường gồm các dạng sau: trợ cấp không hoàn lại, các khoản cho vay ưu đãi, cho
phép khấu hao nhanh, ưu đãi thuế. Chức năng chính của trợ cấp là giúp đỡ các ngành
công nghiệp, nông nghiệp và các ngành khác khắc phục ô nhiễm môi trường trong điều
kiện, khi tình trạng ô nhiễm môi trường quá nặng nề hoặc khả năng tài chính của doanh
nghiệp không chịu đựng được đối với việc phải xử lý ô nhiễm môi trường. Trợ cấp này
chỉ là biện pháp tạm thời, nếu vận dụng không thích hợp hoặc kéo dài có thể dẫn đến phi
hiệu quả kinh tế, vì trợ cấp đi ngược với nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền. Ở
Việt Nam, vấn đề này qua khảo cứu cho thấy vẫn chưa được quy định nhiều và thực tiễn
áp dụng cũng còn nhiều hạn chế do trái với nguyên tắc được nêu ở trên.
Về nhãn sinh thái. Nhãn sinh thái, còn gọi là nhãn môi trường, là loại nhãn mác
cung cấp thông tin cho người tiêu dùng về sự thân thiện hơn với môi trường của sản
phẩm so với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại. Trên thế giới, việc các sản phẩm được dán
nhãn sinh thái là rất quen thuộc. Người tiêu dùng sẵn sàng bỏ ra thêm từ 10% – 17% chi
phí để mua các sản phẩm có dán nhãn sinh thái. Các nước phát triển trên thế giới đều rất
chú trọng đến mức độ thân thiện với môi trường của các sản phẩm. Việt Nam là nước có
nhiều mặt hàng xuất khẩu lớn như thủy sản, dệt may hay nông sản. Các mặt hàng xuất
khẩu đã mang lại cho nước ta một nguồn thu ngoại tệ lớn nhưng nếu so với tiềm năng
thì các doanh nghiệp Việt Nam còn có thể làm nhiều hơn thế. Một công cụ giúp cho các
sản phẩm của Việt Nam tăng giá trị trên thị trường quốc tế chính là nhãn sinh thái. Theo
thống kê của Bộ Tài Nguyên và Môi trường, tại Việt Nam chỉ có khoảng 5% hàng hóa
đủ tiêu chuẩn để dán nhãn sinh thái và tính đến nay thì chưa có mặt hàng nào được dán
nhãn sinh thái. Việt Nam cũng đang xây dựng những tiêu chuẩn để có thể dán nhãn sinh
thái cho hàng hóa. Theo kế hoạch thì đến năm 2020 sẽ có 10% số sản phẩm xuất khẩu
và 50% hàng hóa tiêu dùng nội địa được cấp nhãn sinh thái. Như vậy, con đường để cho
các hàng hóa Việt Nam được chứng minh là đủ các tiêu chuẩn môi trường còn rất dài.
[78]. Còn về pháp luật thì Việt Nam cũng đã có những quy định pháp luật về vấn đề này
mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế, như: Quyết định 253/QĐ-BTNMT Chương trình cấp
nhãn sinh thái năm 2009 hay Thông tư số 41/2013/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và
Môi trường quy định về trình tự, thủ tục, chứng nhận nhãn sinh thái cho sản phẩm thân
thiện môi trường ngày 02/12/2013. Trong Điều 44 Luật Bảo vệ Môi trường 2014 có quy
định về sản xuất, sử dụng sản phẩm thân thiện môi trường, trong đó có chứng nhận về
nhãn sinh thái.
Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn môi trường quốc tế, như ISO14000, SA 8000 cũng
được coi là một công cụ kinh tế quan trọng để kích thích các tổ chức kinh tế tự tham gia
99
vào quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí vì những lại ích do các công cụ
kinh tế trong đó có các tiêu chuẩn môi trường quốc tế mang lại.
Các công cụ kinh tế trên được pháp luật quy định là cơ sở pháp lý quan trọng để
các tổ chức, cá nhân lựa chọn trong quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh theo hướng
thân thiện với môi trường không khí. Mặc dù vậy, thực tiễn ô nhiễm môi trường do hoạt
động sản xuất kinh doanh tại nhiều nơi cho thấy còn rất nhiều vấn đề cần phải hoàn
thiện để nâng cao hiệu quả của các công cụ này trong kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí. Ví dụ: thực tiễn này có thể cho chúng ta thấy dường như các công cụ kinh tế
ở Việt Nam vẫn chưa đủ sức nặng để hướng các chủ thể sản xuất kinh doanh lựa chọn
đầu tư theo hướng thân thiện môi trường,...
3.2.7. Quy định về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và cơ chế phát triển
sạch nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí
3.2.7.1. Quy định về giảm thiểu biến đổi khí hậu
Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí không chỉ áp dụng với hành vi làm ô
nhiễm môi trường không khí tầm gần mà còn áp dụng cả với các hành vi làm ô nhiễm
môi trường không khí tầm xa [40]. Theo số liệu thống kê thì Việt Nam không phải là
một trong 10 quốc gia gây ra hiện tượng biến đổi khí hậu, nhưng lại là 1 trong 10 quốc
gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu mà nguyên nhân của biến đổi khí hậu
là do các khí thải nhà kính gây ra. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải kiểm soát hiệu quả các
khí thải nhà kính cũng như các chất làm suy giảm tầng ozon. Ở phạm vi quốc tế và khu
vực, Việt Nam đã tham gia các công ước quốc tế liên quan đến ứng phó với biến đổi khí
hậu và bảo vệ tầng ozon. Còn ở Việt Nam vấn đề này đã được Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm trong những năm vừa qua. Cụ thể Đảng ta đã thông qua Nghị quyết số
24/NQ-TW của Ban chấp hành trung ương Đảng năm 2013 về bảo vệ tài nguyên môi
trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu . Tiếp đó Điều 63 Hiến pháp năm 2013
cũng thể chế hóa tương đối rõ quan điểm này, như: “1. Nhà nước có chính sách bảo vệ
môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo
tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến
đổi khí hậu.2. Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử
dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo”. Tiếp đó vấn đề này tiếp tục được cụ thể hóa
từ Điều 39 đến Điều 48 Chương IV Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014.
Có thể thấy, bên cạnh những quy định chung về trách nhiệm của Nhà nước, tổ
chức, cá nhân trong ứng phó với biến đổi khí hậu, Luật quy định nhằm quản lý giảm
thiểu tối đa các khí thải nhà kính và các chất làm suy giảm tầng ozon nhằm thích ứng và
giảm nhẹ biến đổi khí hậu tại Việt Nam. Cụ thể: lồng ghép nội dung ứng phó với biến
đổi khí hậu vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (Điều 40);
100
Quản lý phát thải khí nhà kính (Điều 41); Quản lý các chất làm suy giảm tầng ô-dôn
(Điều 42); Phát triển năng lượng tái tạo (Điều 43); Sản xuất và tiêu thụ thân thiện môi
trường (Điều 44); Thu hồi năng lượng từ chất thải (Điều 45); Quyền và trách nhiệm của
cộng đồng trong ứng phó với biến đổi khí hậu (Điều 46); Phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ ứng phó với biến đổi khí hậu (Điều 47); Hợp tác quốc tế về ứng phó với
biến đổi khí hậu (Điều 48). Bên cạnh đó, vấn đề này cũng được quy định trong Luật Năng
lượng nguyên tử 2008 và Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả 2012, Luật
Phòng chống thiên tai năm 2013,… Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành cũng quy định cơ
quan có thẩm quyền trong quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu là Cục Khí tượng thủy
văn và ứng phó với biến đổi khí hậu, thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường. Tuy nhiên, qua
nghiên cứu cho thấy, pháp luật môi trường hiện hành chưa phân định rõ quy định nào là
tập trung vào thích ứng với biến đổi khí hậu, còn quy định nào tập trung vào giảm thiểu
biến đổi khí hậu. Điều đó dẫn tới sự thiếu logic trong các quy định pháp luật ảnh hưởng
đến quá trình thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay. Trong khi đó
bộ máy quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi, về cơ chế phát triển sạch chưa được
đồng bộ và chưa điều phối, tổ chức kết nối chặt chẽ giữa các Ban chỉ đạo về ứng phó với
biến đổi khí hậu của các ngành ở trung ương cũng như địa phương với nhau.
Theo Báo cáo chuyên đề về ô nhiễm môi trường không khí do Bộ Tài nguyên và
Môi trường công bố năm 2013 cho thấy ở Việt Nam, hiện tượng biến đổi khí hậu đã
xuất hiện trong những năm gần đây, như hiện tượng sương mù quang hóa. Hiện tượng
này đặc biệt rõ nét ở các đô thị lớn như Hà Nội do sự cộng hưởng của nhiều nguồn ô
nhiễm không khí.[107, 149] [107, 151]. Hơn nữa, ảnh hưởng các hiện tượng khô hạn kéo
dài tại Ninh Thuận, Bình Thuận, bão, mưa, lũ thường xuyên xảy ra như trận mưa lịch sử
xảy ra tại Hà Nội năm 2008, gió lớn lịch sử tại Hà Nội năm 2015, hay mua lịch sử tại
Quảng Ninh,… gây ảnh hưởng lớn đến con người và sinh vật; hay bão Hải Yến có sức gió
mạnh gấp 3 lần cơn bão Katrina đổ vào nước Mỹ. Cơn bão này đã đổ bộ vào Philipin gây
thiệt hại lớn cho nước này về người và của, đồng thời ảnh hưởng đến cả Trung Quốc và
Việt Nam mà nguyên nhân của cơn bão là do biến đổi khí hậu gây ra [123]. Điều này cho
thấy cần phải có sự tập trung hơn trong hoàn thiện chính sách, pháp luật và tổ chức phòng
ngừa, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bằng cách kiểm soát giảm thiểu các nguồn
thải khí nhà kính và xây dựng các bể hấp thụ khí nhà kính, và một trong các cách thức
thực hiện các hoạt động này là thông qua cơ chế phát triển sạch.
3.2.7.2. Về cơ chế phát triển sạch
Để phòng ngừa, ngăn chặn các chất thải nhà kính ra ngoài môi trường, quy định
về cơ chế phát triển sạch (CDM) và phát triển thị trường mua bán quyền phát thải đóng
vai trò quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Qua nghiên cứu có
101
thể thấy, CDM là một cơ chế hợp tác quốc tế theo Nghị định thư Kyoto nhằm làm giảm
sự phát thải khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu thông qua cơ chế đầu tư giữa các nước
công nghiệp phát triển với các nước đang phát triển; tăng cường khuyến khích các cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp của các nước phát triển thực hiện các dự án giảm phát thải
khí nhà kính. Có hai phương thức CDM, đó là CDM cho giảm khí nhà kính (CDM
thông thường hay CDM năng lượng) và CDM cho hấp thụ khí nhà kính bằng các bể hấp
thụ (trồng rừng hoặc tái trồng rừng theo CDM hay AR - CDM). Việc giảm phát thải
được tính toán bằng mức CO2 giảm đi của dự án sau khi áp dụng công nghệ sạch so với
mức phát thải cơ sở (baseline). Việc thực hiện cơ chế phát triển sạch là cơ sở để hình
thành thị trường mua bán phát thải cácbon. Theo Bách khoa toàn thư mở wikipedia:
“mua bán phát thải cacbon là một phần của mua bán phát thải nói chung. Trong loại
hình "mua bán" này, mỗi quốc gia có một mức độ khí thải tối đa mà các cơ sở được cho
phép "xả". Những quốc gia nào có lượng khí thải xả ra nằm dưới mức cho phép sẽ có
quyền "bán" "sức chứa" khí thải còn dư của mình cho những quốc gia mà lượng khí thải
vì nhiều lý do vượt quá giới hạn cho phép. Cacbonic là thành phần chủ yếu của các
loại khí nhà kính khí nhà kính thải ra, nên thông thường người ta chỉ nói đến việc "buôn
bán" cacbon mà thôi. Nói cách khác, các "nhà xả khói" có một mức độ khí thải tối đa
mà họ được phép "xả", và họ phải chi tiền để mua "quyền xả khói" nhằm duy trì hoạt
động của các cơ sở của mình. Và những cơ sở nào xả khí thải thấp hơn mức tối đa cho
phép có thể bán "sức chứa khí thải" còn dư cho những ai cần "mua". Hệ thống này giúp
cho những cơ sở sản xuất có động lực tìm cách giảm bớt số khí thải để đỡ tốn chi phí
"mua" quyền được xả khí. Cơ chế của hệ thống cũng giúp những tổ chức "không xả
khói" có thể tham gia vào quá trình cải tiến và nâng cao hiệu quả của "thị trường" buôn
bán cacbon này.
Ở Việt Nam, để thực hiện các cam kết theo Nghị định thư Kyoto nhằm hướng tới
phát triển bền vững, đến nay các chính sách, pháp luật về cơ chế phát triển sạch nói
chung đã khá hoàn thiện. Cụ thể năm 2006, Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số
10/2006/TT-TNMT hướng dẫn xây dựng dự án cơ chế phát triển sạch trong khuôn khổ
Nghị định thư Kyoto. Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
130/2007/QĐ-TTg về một số cơ chế, chính sách tài chính đối với dự án đầu tư theo cơ
chế phát triển sạch. Đến năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
1775/QĐ-TTg về Phê duyệt Đề án quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính; quản lý
các hoạt động kinh doanh tín chỉ các-bon ra thị trường thế giới. Để thúc đẩy thực hiện
cơ chế phát triển sạch ở Việt Nam theo hướng ngày càng thực chất, nhanh chóng và hiệu
quả hơn, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 15/2014/TT-BTNMT
ngày 24 tháng 3 năm 2014 quy định việc xây dựng, cấp Thư xác nhận, cấp Thư phê
102
duyệt dự án Cơ chế phát triển sạch theo Nghị định thư Kyoto. Đến nay quan điểm về
phát triển bền vững, phát triển sạch tiếp tục được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013
Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng cho thực
hiện phát triển sạch cũng như thị trường mua bán cacbon tại Việt Nam. Tác giả cho rằng
việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về cơ chế phát triển sạch và hình thành thị trường
cácbon đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt
Nam, đặc biệt là kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tầm xa. Với những hiệu quả với
môi trường không khí và với những lợi ích về kinh tế không hề nhỏ với các doanh nghiệp
từ việc thực hiện phát triển sạch và thị trường mua bán quyền phát thải. Việc hoàn thiện
chính sách pháp luật về vấn đề này sẽ giúp xây dựng được các quy định pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí dựa trên tính toán chi phí và lợi ích để các chủ thể lựa
chọn việc tuân thủ pháp luật hơn là chống lại các quy định pháp luật.
Trên thực tế tại Việt Nam, theo tài liệu Thông tin tóm tắt cơ chế phát triển sạch
và thị trường Cácbon quốc tế, của Ban Chỉ đạo thực hiện Công ước khung của Liên hợp
quốc về Biến đổi khí hậu và Nghị định thư kyoto tại Việt Nam năm 2012 thì tính đến
ngày 31/10/2012, Việt Nam đã có 160 dự án được Ban chấp hành CDM quốc tế (goi tắt
là EB) công nhận là dự án CDM, tổng lượng khí nhà kính được giảm khoảng 76 triệu
tấn CO2 trong thời kỳ tín dụng và 4 Chương trình hoạt động dự án thủy điện nhỏ Việt
Nam (gọi tắt là PoA) với tổng lượng 7.203.167 CERs sẽ được cấp, Việt Nam được xếp
thứ 4 trên thế giới về số lượng dự án CDM được EB công nhận và đăng ký; xếp thứ 9
trên thế giới về số lượng CERs đã được EB cấp; xếp thứ 2 trên thế giới về số lượng
PoA. Mặc dù được đánh giá là một trong 10 nước có tiềm năng nhất về CDM, nhưng
hiện nay việc mua bán, trao đổi CERs tại Việt Nam còn hạn chế. Thị trường CDM trên
thế giới đang hoạt động khá mạnh mẽ, như: tại Ấn Độ, Trung Quốc, Brazin, liên minh
châu Âu, Anh hay Australia, nhưng đối với Việt Nam, hình thức mua bán CERs này còn
rất mới nên giá thành các CERs còn khá rẻ và tính rủi ro cao [38]. Sở dĩ có có thực tế
này là do nhiều nguyên nhân, trong đó có các quy định pháp luật, như:
Một là, theo quy định tại Thông tư số 15/2014/TT-BTNMT ngày 24 tháng 3 năm
2014 quy định việc xây dựng, cấp Thư xác nhận, cấp Thư phê duyệt dự án Cơ chế phát
triển sạch theo Nghị định thư Kyoto thì các quy định khá cụ thể và giảm về thời gian
thực hiện tuy nhiên tổng thời gian thực hiện cho hai thủ tục vẫn còn rất dài (50 ngày) so
với Australia thì thời gian này từ 10 -15 ngày. Trong thực tế thời gian này còn bị kéo dài
hơn rất nhiều, để có thư xác nhận ý tưởng chủ đầu tư phải mất đến 6 tháng và thời gian
cấp thư phê duyệt dự án lên đến hàng năm;
Hai là, theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp không quy định việc hưởng ưu đãi
thuế thu nhập doanh nghiệp cho các dự án CDM và do vậy, nhà đầu tư không được
103
hưởng những ưu đãi theo quy định của Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg). Thủ tục được
hưởng những ưu đãi rất phức tạp vì không có cơ chế tự động áp dụng cho việc hưởng ưu
đãi, chưa có hướng dẫn cụ thể về việc hưởng ưu đãi đối với trường hợp nhà đầu tư công
nghệ vào Việt Nam để thực hiện dự án CDM; ba là, việc tính toán hệ số phát thải là căn
cứ để doanh nghiệp cân đối tài chính, quyết định có nên đầu tư thực hiện dự án CDM.
Tuy nhiên, việc tính toán chính xác lượng khí phát thải có thể thu được lại không phải
lúc nào cũng hoàn toàn chính xác như dự kiến.
3.3. Thực trạng các quy định về phát hiện ô nhiễm môi trƣờng không khí
Phát hiện ÔNMTKK là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá
nhân chủ nguồn thải trong việc theo dõi, thanh tra kiểm tra phát hiện sự biến đổi của
thành phần môi trường không khí nhằm ngăn chặn, xử lý, phục hồi hiện trạng môi
trường không khí. Để KSÔN môi trường không khí được hiệu quả việc phát hiện ô
nhiễm là rất quan trọng, nhưng để có cơ sở cho việc phát hiện môi trường không khí có
bị ô nhiễm hay không, ô nhiễm ở mức độ nào thì quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi
trường không khí là cơ sở để xác định.
3.3.1. Các quy định về quan trắc hiện trạng môi trường không khí
Quan trắc môi trường là hoạt động sử dụng hệ thống thiết bị kỹ thuật đặc biệt để
thu thập các chỉ tiêu vật lý (tiếng ồn), chỉ tiêu hóa học (hàm lượng khói, bụi, khí độc
hại...), xác định nguồn gây ô nhiễm không khí, mức độ gây ô nhiễm không khí, sự lan
truyền các chất gây ô nhiễm trong không khí, dự báo diễn biến tình hình môi trường
không khí (khoản 20 Điều 3) [83]. Có thể thấy để kiểm soát được ÔNMTKK việc đánh
giá được hiện trạng môi trường không khí đóng vai trò rất quan trọng, muốn đánh giá
được hiện trạng môi trường không khí thì cần phải tiến hành quan trắc môi trường
không khí. Theo Luật BVMT năm 2005, hoạt động quan trắc định kỳ được quy định từ
Điều 94 đến Điều 97 đã quy định rất rõ trách nhiệm quan trắc môi trường nói chung,
môi trường không khí nói riêng là hoạt động được thực hiện bởi Bộ Tài nguyên và Môi
trường; các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
người quản lý, vận hành cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
104
Thông qua việc sử dụng hệ thống quan trắc môi trường không khí, sẽ có đánh giá
chính xác về hiện trạng môi trường không khí, từ đó giúp xác định được mức độ ô nhiễm
môi trường không khí, tìm ra được nguyên nhân và biện pháp khắc phục ô nhiễm môi
trường không khí, đồng thời đánh giá được khả năng diễn biến của nó trong tương lai.
Để bảo đảm cho hoạt động quan trắc môi trường và đánh giá hiện trạng môi
trường, trong đó có môi trường không khí được chính xác, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch tổng thể mạng lưới quan trắc
tác động môi trường, trong đó có mạng lưới quan trắc tác động đến môi trường không
khí. Theo quy hoạch này đến 2020 nước ta sẽ xây dựng 58 trạm quan trắc môi trường
không khí tự động [120]. Còn trong Báo cáo hiện trạng môi trường không khí quốc gia
thì đến năm 2013, hệ thống trạm quan trắc môi trường không khí tự động do Bộ TN và
MT quản lý gồm 2 mạng lưới. Thứ nhất là, mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn và
môi trường quốc gia, gồm 10 trạm quan trắc chất lượng không khí tự động và các điểm
quan trắc khí tượng do các đài khí tượng thủy văn thực hiện tại các tỉnh, thành phố: Hà
Nội, Hải Phòng, Ninh Bình, Vinh, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh, Pleiku, Cần Thơ, Sơn La.
Thứ hai là, mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia do Tổng cục Môi trường quản lý
gồm 7 trạm, như: Trạm Nguyễn Văn Cừ, Trạm Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, trạm
Khánh Hòa, trạm Huế, trạm Phú Thọ và trạm Quảng Ninh vận hành từ tháng 12 năm
2013. Bên cạnh đó còn hệ thống trạm quan trắc không khí tự động cố định do địa
phương quản lý, như Vĩnh Phúc có 01 trạm vận hành năm 2013, Đồng Nai có 02 trạm
vận hành năm 2012. Có thể thấy, mạng lưới các trạm quan trắc tự động đã và đang được
lắp đặt và vận hành trong toàn quốc ở cả cấp Trung ương và địa phương để giám sát liên
tục diễn biến chất lượng môi trường không khí xung quanh. [107, 6]. Hệ thống quan trắc
môi trường không khí này là cơ sở quan trọng để góp phần giữ cho môi trường không
khí được trong lành. Thực tiễn đó có thể thấy Nhà nước ta những năm qua khá quan tâm
đến việc xây dựng hoàn thiện hệ thống kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Sự quan tâm này còn được thể hiện qua các quy định pháp luật. Theo Luật
BVMT năm 2014 từ Điều 121 đến Điều 127 thì quan trắc môi trường không khí là quá
105
trình theo dõi có hệ thống về thành phần môi trường môi trường không khí, các yếu tố
tác động lên môi trường không khí nhằm cung cấp thông tin đánh giá hiện trạng, diễn
biến chất lượng môi trường và các tác động xấu đối với môi trường. Quan trắc môi
trường, trong đó có môi trường không khí là trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhằm đánh giá hiện trạng môi trường không khí và là cơ sở để phòng ngừa và
phát hiện ô nhiễm môi trường không khí. Cơ quan quản lý nhà nước về BVMT có trách
nhiệm theo dõi, đánh giá chất lượng môi trường không khí xung quanh và công bố công
khai thông tin; trường hợp môi trường không khí xung quanh bị ô nhiễm thì phải cảnh
báo, xử lý kịp thời. Nguồn phát thải khí phải được xác định về lưu lượng, tính chất và
đặc điểm của khí thải; việc xem xét, phê duyệt dự án và hoạt động có phát thải khí phải
căn cứ vào sức chịu tải của môi trường không khí, bảo đảm không có tác động xấu đến
con người và môi trường. Bộ TN và MT ban hành danh mục và hướng dẫn thực hiện
quan trắc chất phát thải đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ảnh
hưởng đến môi trường.
Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lớn phải
đăng ký nguồn gây ô nhiễm, đo đạc, thống kê, kiểm kê và xây dựng cơ sở dữ liệu về lưu
lượng, tính chất, đặc điểm khí thải; Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát
thải khí công nghiệp lưu lượng lớn phải lắp đặt thiết bị quan trắc khí thải tự động, liên
tục và được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp phép xả thải (khoản 3 Điều 64
Luật BVMT năm 2014).
Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không thuộc danh mục chịu trách nhiệm
quan trắc chất phát thải phải bảo đảm tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật môi trường và quy
định của pháp luật có liên quan. Môi trường không khí được quan trắc bao gồm không
khí trong nhà, không khí ngoài trời; Tiếng ồn, độ rung, bức xạ, ánh sáng; Phóng xạ; khí
thải (khoản 2 Điều 122 Luật BVMT năm 2014).
Để đảm bảo việc quan trắc môi trường không khí có tính hệ thống và hiệu quả,
pháp luật hiện hành xây dựng các chương trình quan trắc môi trường, trong đó có môi
trường không khí. Chương trình quan trắc môi trường quốc gia gồm chương trình quan
trắc môi trường lưu vực sông và hồ liên tỉnh, vùng kinh tế trọng điểm, môi trường xuyên
biên giới và môi trường tại các vùng có tính đặc thù. Chương trình quan trắc môi trường
cấp tỉnh gồm các chương trình quan trắc thành phần môi trường trên địa bàn. Chương
trình quan trắc môi trường của khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm
công nghiệp, làng nghề và cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gồm quan trắc chất phát
thải và quan trắc các thành phần môi trường theo quy định của pháp luật. Tương ứng với
các Chương trình quan trắc này là các hệ thống quan trắc môi trường gồm: a) Quan trắc
môi trường quốc gia; b) Quan trắc môi trường cấp tỉnh; c) Quan trắc môi trường tại cơ
106
sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Đối với môi trường không khí, các cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lưu lượng lớn phải lắp đặt thiết bị
quan trắc khí thải tự động, liên tục và được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
cấp phép xả thải (Điều 64 Luật BVMT năm 2014).
Các tổ chức tham gia hệ thống quan trắc môi trường gồm: a) Tổ chức lấy mẫu, đo
đạc mẫu môi trường tại hiện trường; b) Phòng thí nghiệm, phân tích mẫu môi trường; c)
Tổ chức kiểm định, hiệu chuẩn thiết bị quan trắc môi trường; d) Tổ chức quản lý, xử lý số
liệu và lập báo cáo kết quả quan trắc môi trường. Hệ thống quan trắc môi trường phải được
quy hoạch đồng bộ, có tính liên kết, tạo thành mạng lưới thống nhất và toàn diện.
Về thẩm quyền quan trắc môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng.
Bộ TN và MT chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra hoạt động quan trắc môi trường không
khí trên phạm vi cả nước; tổ chức thực hiện chương trình quan trắc môi trường quốc gia.
UBND cấp tỉnh tổ chức chương trình quan trắc môi trường trên địa bàn, báo cáo Hội
đồng nhân dân cùng cấp và Bộ TN và MT về kết quả quan trắc môi trường. Khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ phải thực hiện chương trình quan trắc phát thải và các thành phần
môi trường; báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về BVMT theo quy định của pháp luật.
Về điều kiện hoạt động quan trắc môi trường. Tổ chức có đủ kỹ thuật viên về
chuyên ngành quan trắc môi trường và trang bị kỹ thuật cần thiết được tham gia hoạt
động quan trắc môi trường. Số liệu quan trắc môi trường nói chung, môi trường không
khí nói riêng sẽ được quản lý theo quy định của pháp luật. Cụ thể Bộ TN và MT quản lý
số liệu quan trắc môi trường; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về quan trắc môi trường;
công bố kết quả quan trắc môi trường quốc gia; hướng dẫn nghiệp vụ và hỗ trợ kỹ thuật
quản lý số liệu quan trắc môi trường. UBND cấp tỉnh quản lý số liệu quan trắc môi
trường và công bố kết quả quan trắc môi trường của địa phương. Khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
quản lý số liệu quan trắc môi trường và công bố kết quả quan trắc môi trường theo quy
định của pháp luật.
Qua đó có thể thấy pháp luật môi trường hiện hành đã quy định có những quy
định tương đối cụ thể về quan trắc môi trường, từ trách nhiệm của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đến các cơ sở sản xuất, kinh doanh,… Qua quan trắc môi trường chúng ta
có thể đánh giá được hiện trạng môi trường không khí, phát hiện ÔNMTKK và mức độ
ô nhiễm không khí so với quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí. Mặc dù vậy, pháp
luật môi trường hiện hành quy định chung về quan trắc môi trường thì vấn đề đặt ra là
giữa các thành phần môi trường đất, nước, không khí tính chất lý hóa, không hẳn giống
nhau nên việc tổ chức thực hiện rất khó khả thi trên thực tiễn. Hơn nữa, thực tiễn quan
107
trắc môi trường không khí ở nước ta những năm qua cho thấy vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn bảo vệ môi trường không khí
3.3.2. Các quy định về thông tin về tình hình môi trường không khí
Hoạt động thông tin về tình hình môi trường nói chung, môi trường không khí nói
riêng là hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Theo quy định tại Điều
102, 103, 104 Luật BVMT 2005, các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường có trách
nhiệm xác định các khu vực mà mức độ ÔNMTKK đang gia tăng rồi thông báo cho các tổ
chức, cá nhân, qua đó phòng ngừa được các sự cố môi trường không khí có thể xảy ra. Bên
cạnh đó, pháp luật cũng quy định trách nhiệm thống kê, lưu trữ dữ liệu, thông tin về môi
trường của các cơ quan quản lý nhà nước (Điều 102); trách nhiệm công bố, cung cấp thông
tin về môi trường của các tổ chức, cá nhân quản lý khu sản xuất, kinh doanh; trách nhiệm
báo cáo và cung cấp thông tin của cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường; trách nhiệm
cung cấp thông tin về tình hình môi trường thuộc lĩnh vực các Bộ quản lý cho Bộ TN và
MT (Điều 103). Đồng thời Luật BVMT cũng quy định về các loại thông tin, dự lệu môi
trường phải công khai (Điều 104, LBVMT 2005).
Tiếp đó, trong Luật BVMT năm 2014 đã củng cố thêm một bước các quy định về
thông tin về tình hình môi trường, làm rõ cách hiểu về thông tin môi trường, thông tin
môi trường không khí. Thông tin môi trường không khí là số liệu, dữ liệu về môi trường
không khí dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự
(khoản 20 Điều 3 Luật BVMT năm 2014).Theo Luật BVMT năm 2014 có hai phương
thức để công chúng tiếp cận thông tin môi trường không khí:
Một là, các cơ quan nhà nước, các cơ sơ sản xuất, kinh doanh… chủ động công
khai thông tin theo quy định và mọi người đều có thể tiếp nhận những thông tin này. Đối
với phương thức này, pháp luật quy định rõ những thông tin buộc phải công khai, hình
thức công khai, người có trách nhiệm phải công khai (Điều 131 Luật BVMT 2014). Ưu
điểm của phương thức này là công chúng có thể dễ dàng tiếp cận thông tin mà không
phải qua những thủ tục phức tạp, tốn kém, nhưng nó cũng có hạn chế là nội dung và chất
lượng thông tin lại tùy thuộc vào các cơ quan nhà nước, nhà nước công bố cái gì dân
biết cái đó. Ví dụ: vụ Fomosa xả thải gây ô nhiễm, suy thoái tài nguyên môi trường biển,
trường hợp này cơ quan nhà nước có thẩm quyền công cố thông tin tình hình môi trường
cho người dân. Theo đó ngày 27 tháng 4 năm 2016, Bộ Tài nguyên và Môi trường công
bố kết quả điều tra sơ bộ, khoanh vùng hai nhóm nguyên nhân là độc tố hóa học thải ra
từ hoạt động của con người và hiện tượng tảo nở hoa. Tiếp đó ngày 30 tháng 6 năm
2016, Chính phủ tổ chức họp báo công bố thông tin cá chết là do chất thải của Fomosa
thải ra.Tuy nhiên, qua vụ việc này chính Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng
thừa nhận còn chậm trễ, lúng túng trong việc xử lý và cung cấp thông tin cho người dân
108
gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội, đời sống của người dân. Nhiều
thông tin cấp thiết trong vụ việc này cần phải công bố sớm hơn, như: cá chết là do đâu,
nước biển bị ô nhiễm đến khu vực nào, nước biển đã an toàn chưa, dựa vào đâu mà nhà
nước yêu cầu fomosa bồi thường 500 triệu, số tiền này chỉ bồi thường thiệt hại cho khôi
phục hiện trạng môi trường biển hay bồi thường cho cả người dân bị thiệt hại,… nhiều
thông tin người dân chưa nắm rõ. Trong khi đó một hãng truyền thông của Đài Loan đã
sang tận Việt Nam để đưa tin về cái chết của cá và chỉ ra nguyên nhân là do Fomosa gây
ra,…
Hai là, người dân chủ động yêu cầu cơ quan nhà nước, các cơ sở sản xuất, kinh
doanh cung cấp thông tin về môi trường. Theo quy định của :Luật Bảo vệ Môi trường
năm 2014 thì các chủ thể có quyền yêu cầu cung cấp thông tin về môi trường, trong đó
có môi trường không khí, gồm: tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp
(Điều 145), của đại diện cộng đồng dân cư (Điều 146) và Chương VIII Nghị định số
19/2015/NĐ-CP hướng dẫn cụ thể Luật Bảo vệ Môi trường 2014. Qua nghiên cứu các
quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này có thể thấy cá nhân, hộ gia đình không được
trực tiếp yêu cầu cung cấp thông tin về môi trường mà phải thông qua đại diện cộng
đồng dân cư hoặc các tổ chức mình tham gia để yêu cầu. Phương thức này gây khó khăn
cho người dân trong quá trình tiếp cận vì phải thông qua các cơ quan, tổ chức đại diện
cho mình mà không được trực tiếp yêu cầu.
Về phạm vi thông tin tình hình môi trường, trong đó có môi trường không khí,
được thể hiện qua quy định những thông tin phải công khai và những thông tin người
dân chủ động yêu cầu cung cấp. Những thông tin phải công khai được chuyển tải dưới
hình thức (báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, và kế
hoạch BVMT, các báo cáo về hiện trạng môi trường không khí, kết quả thanh tra, kiểm
tra về BVMT không khí, các Kịch bản về ô nhiễm môi trường không khí và biến đổi khí
hậu,... Ví dụ: thông tin về tình trạng các yếu tố cấu thành môi trường không khí, khí
quyển,…
Về báo cáo hiện trạng môi trường, gồm: báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 05
năm một lần và hàng năm lập báo cáo chuyên đề về môi trường quốc gia. Các báo cáo
này do Bộ TN và MT lập. Báo cáo hiện trạng môi trường của địa phương 05 năm một
lần; căn cứ những vấn đề bức xúc về môi trường của địa phương, quyết định lập báo cáo
chuyên đề về môi trường do UBND cấp tỉnh lập. Các báo cáo này cũng cung cấp các
thông tin về hiện trạng môi trường, trong đó có môi trường không khí.
Liên quan đến thông tin về môi trường không khí, Luật BVMT 2014 cũng quy định
rõ trách nhiệm cơ quan quản lý nhà nước trong theo dõi, đánh giá chất lượng môi trường
109
không khí xung quanh và công bố công khai thông tin; trường hợp môi trường không khí
xung quanh bị ô nhiễm thì phải cảnh báo, xử lý kịp thời (Điều 63 Luật BVMT 2014).
Trên thực tế, Bộ TN và MT đã công bố Kịch bản về ứng phó với biến đổi khí
hậu ở Việt Nam và Báo cáo chuyên đề về hiện trạng môi trường không khí quốc gia năm
2013. Báo cáo này, đã phân tích tương đối toàn diện và bao quát các vấn đề liên quan
đến môi trường không khí từ điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội cho đến các yếu tố tác
động, ảnh hưởng đến môi trường không khí, thực trạng môi trường không khí ở Việt
Nam, nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường không khí,…
Qua phân tích trên có thể thấy quy định pháp luật về thông tin tình hình môi
trường, trong đó có môi trường không khí ngày càng được quy định cụ thể theo hướng
mở rộng quyền tiếp cận thông tin cho người dân. Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn
gò bó quyền tiếp cận thông tin môi trường của người dân do phụ thuộc vào việc chủ
động công bố của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và thông qua đại diện của người dân
để tiếp cận mà người dân không được trực tiếp tiếp cận các thông tin này.
3.3.3. Các quy định về thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật môi trường không khí
Trên thế giới, để kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, ô nhiễm môi trường
không khí nói riêng, các quốc gia đã quy định trong pháp luật của mình tương đối cụ thể
về trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, phát hiện ô nhiễm môi trường không khí. Cụ thể, tại
Singapo đối với các chất gây ô nhiễm môi trường không khí, Bộ Môi trường nước này
được giao nhiệm vụ tiến hành thanh tra thường xuyên các cơ sở công nghiệp cũng như
phi công nghiệp để kiểm tra việc các cơ sở đó có tuân thủ đúng tiêu chuẩn quy định về
phát thải các chất gây ô nhiễm không khí hay không. Việc thanh tra thường xuyên đó sẽ
giúp các cơ quan thanh tra có thể phát hiện và xử lý kịp thời các cơ sở vi phạm quy định
của pháp luật môi trường trong việc thải khí nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu, các chất gây ô
nhiễm, các chất độc hại thải vào môi trường không khí. Đối với các thiết bị đốt nhiên
liệu cũng được kiểm soát chặt chẽ. Các chất gây ô nhiễm môi trường không khí chủ yếu
sinh ra trong quá trình đốt nhiên liệu là oxyt sunfurơ và khói cũng được kiểm tra rất kỹ
nhằm giảm đến mức tối đa việc phát thải các chất gây ô nhiễm. [81]
Còn ở Việt Nam, theo Luật Thanh tra năm 2010; Nghị định số 07/2012/NĐ-CP
của Chính phủ quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành đã quy định cụ thể hơn về thanh tra chuyên
ngành và Nghị định số 35/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 7 tháng 4 năm 2009 về tổ
chức và hoạt động của Thanh tra Tài nguyên và Môi trường thì thanh tra môi trường gồm:
Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường; Thanh tra Tổng cục Môi trường và Thanh tra Sở
Tài nguyên và Môi trường. Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở thực hiện nhiệm vụ thanh tra
hành chính và thanh tra chuyên ngành về tài nguyên và môi trường trong phạm vi quản lý
110
nhà nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Sở Tài nguyên và Môi trường. Thanh tra
Tổng cục Môi trường thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra chuyên ngành về môi
trường trong phạm vi quản lý của Tổng cục Môi trường.
Tiếp đó Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 cũng quy định khá rõ trách nhiệm của
các cơ quan nhà nước trong tổ chức thanh tra môi trường. Cụ thể:
Bộ trưởng Bộ TN và MT có trách nhiệm trong kiểm tra, thanh tra và xử lý vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan
đến BVMT theo quy định của pháp luật. (khoản 9 Điều 141). Còn Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ có trách nhiệm kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến BVMT theo
quy định của pháp luật (khoản 9, Điều 142 Luật BVMT năm 2014). Bên cạnh trách
nhiệm của các cơ quan trung ương, thì UBND các cấp có quyền kiểm tra, thanh tra, xử
lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về
môi trường theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và quy định của pháp luật
có liên quan; phối hợp với UBND cấp tỉnh liên quan giải quyết các vấn đề môi trường
liên tỉnh; (điểm g, khoản 1, Điều 143);
Quy định về thanh tra liên quan đến môi trường không khí được tập trung vào
những nội dung sau:
Một là, trách nhiệm kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các quy định về kiểm kê và
giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (điểm d, khoản 1, Điều 41 Luật BVMT năm 2014);
Hai là, trách nhiệm của UBND cấp huyện trong kiểm tra, thanh tra việc xây dựng
và triển khai phương án bảo vệ môi trường, trong đó có môi trường không khí tại cụm
công nghiệp, khu kinh doanh, dịch vụ tập trung (điểm a, khoản 3 Điều 67 Luật BVMT
năm 2014);
Ba là, quy định về trách nhiệm của UBND cấp huyện có làng nghề là chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác BVMT làng nghề trên địa bàn (điểm a, khoản 5,
Điều 70 Luật BVMT năm 2014);
Bốn là, thanh tra, kiểm tra cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo đúng
quy định của pháp luật và xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
đã được ghi nhận trong Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và
đang được triển khai trên thực tiễn.
Năm là, cơ quan quản lý nhà nước về môi trường có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra
việc chấp hành pháp luật về BVMT không khí; thanh tra trách nhiệm quản lý nhà nước về
bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường; xử lý vi phạm pháp
luật về BVMT không khí. (khoản 7, Điều 139 Luật BVMT năm 2014).
111
Qua phân tích trên có thể thấy pháp luật môi trường hiện hành quy định khá cụ
thể về thanh tra, kiểm tra môi trường từ Bộ TN và MT đến các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
và UBND các cấp. Hoạt động thanh tra, kiểm tra môi trường, trong đó có môi trường
không khí ở các cấp độ khác nhau này sẽ góp phần quan trọng vào bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, Luật BVMT vẫn còn tản mạn, phân tán, chưa có quy định riêng mang tính hệ
thống về thanh tra môi trường không khí. Các quy định về thanh tra trong Luật môi
trường chưa có sự rõ ràng so với Luật Thanh tra năm 2010.
Về thực tiễn hoạt động thanh tra môi trường. Theo thông tin tại Hội nghị triển
khai công tác sáu tháng cuối năm của Tổng cục Môi trường ngày 2 tháng 7 năm 2015, từ
đầu năm đến nay Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên & Môi trường) đã ban hành trên
500 kết luận thanh tra đối với các cơ sở, khu công nghiệp (trên cả nước) và xử phạt hơn
200 tổ chức, cá nhân vi phạm, với tổng số tiền phạt là trên 20 tỉ đồng [18]. Mặc dù vậy
không khó khăn để thấy rằng số liệu này vẫn chưa phản ánh một cách thực chất, đầy đủ
các hành vi làm ô nhiễm môi trường do các tổ chức, cá nhân gây ra. Đồng thời thực tiễn
cũng cho thấy tổ chức và thực hiện thanh tra môi trường vẫn còn những bất cập từ chính
các quy định pháp luật cũng như thực tiễn. Ví dụ hoạt động thanh tra chồng chéo, thiếu
phối hợp giữa thanh tra Bộ, thanh tra Tổng cục và thanh tra Sở, vẫn có những tiêu cực
trong quá trình thành tra ảnh hưởng đến xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường.
3.4. Thực trạng các quy định về ngăn chặn ô nhiễm môi trƣờng không khí
Theo Từ điển tiếng Việt, nhà xuất bản Đà Nẵng 2006 thì ngăn chặn là chặn lại
ngay từ đầu không để cho gây tác hại [130, 671]. Còn theo Từ điển tiếng Việt nhà xuất
bản Bách khoa 2007 thì ngăn chặn là giữ, chặn lại không cho phát sinh, phát triển gây
hại. [127, 515]. Ngăn chặn ÔNMTKK là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải trong việc dùng các biện pháp để dừng các
hành vi làm ô nhiễm môi trường, giữ không cho ô nhiễm môi trường lan rộng gây tác
hại với con người, sinh vật và hệ sinh thái. Ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm không khí là
là một trong những hình thức pháp lý của KSÔN không khí nhằm ngăn chặn kịp thời
những hành vi gây ô nhiễm môi trường không khí cũng như hậu quả xấu do ô nhiễm
môi trường không khí gây nên, đồng thời nhanh chóng tìm ra các giải pháp khôi phục lại
hiện trạng môi trường như trước khi bị ô nhiễm.
Ở Trung Quốc, để ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí, nước này đã thông
qua Luật về ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm khí quyển năm 2000, gồm: 7 chương và 66
điều. Luật này được hình thành nhằm mục đích ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm khí
quyển, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh sống của con người và môi trường sinh thái,
bảo vệ sức khỏe con người và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội bền vững. Trong đó có
quy định về “ngăn ngừa, kiểm soát ô nhiễm khí quyển từ việc đốt than”. Các cơ quan
112
nhà nước, chính quyền địa phương có trách nhiệm áp dụng các biện pháp trong việc sản
xuất, sử dụng năng lượng sạch. Các cơ sở sản xuất xả thải khí SO2 vượt quá tiêu chuẩn
quy định phải có biện pháp để kiểm soát ô nhiễm. Nhà nước khuyến khích các doanh
nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến để khử lưu huỳnh và loại bỏ bụi. Chương “ngăn
ngừa và kiểm soát ô nhiễm khí thải do khí, bụi và mùi hôi” quy định khí thải nảy sinh
trong quá trình sản xuất công nghiệp được thu hồi để sử dụng nếu khí đó thải vào khí
quyển thì phải qua hệ thống kiểm soát. Các thành phố trực thuộc Trung ương phải có
các biện pháp để trồng rừng, tăng cường quản lý hoạt động xây dựng, mở rộng diện tích
mặt đất trải nhựa, kiểm soát chất thải và sử dụng các biện pháp giao thông sạch để giảm
lượng bụi bẩn, ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm tại các khu vực đô thị. Các đơn vị hoạt
động xây dựng hoặc hoạt động tạo ra bụi phải có biện pháp ngăn ngừa phù hợp với quy
định của địa phương về bảo vệ môi trường. [95]. Có thể thấy Trung Quốc đã có những
biện pháp tương đối chăt chẽ, cụ thể để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, tuy
nhiên thực tế ô nhiễm môi trường không khí tại Bắc Kinh và nhiều thành phố khác của
Trung Quốc cho thấy nước này còn nhiều việc phải làm để có thể kiểm soát được ô
nhiễm môi trường không khí hiệu quả.
Còn ở Việt Nam, để ngăn ngăn chặn ô nhiễm môi trường nói chung, môi trường
không khí nói riêng. Để hạn chế, ngăn chặn được ô nhiễm thì các nguồn phát thải khí
vào môi trường phải được đánh giá và kiểm soát. Tổ chức, cá nhân có hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ phát thải khí tác động xấu đến môi trường có trách nhiệm
giảm thiểu và xử lý bảo đảm chất lượng môi trường không khí theo quy định của pháp
luật (Điều 62) [83]. Cụ thể:
3.4.1. Thực trạng quy định về nghĩa vụ ngăn chặn ô nhiễm môi trường không
khí từ nguồn thải di động của chủ nguồn thải
Về nguồn thải động, những năm gần đây các hoạt động giao thông vận tải là
nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí, đặc biệt là tại các đô thị và có xu hướng ngày
càng tăng dần do quá trình phát triển và giao lưu kinh tế. Thực tiễn số liệu thống kê cho
thấy, Việt Nam có khoảng trên 40 triệu xe máy, mô tô và khoảng 2 triệu ô tô. Số lượng
phương tiện giao thông khổng lồ này nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm môi trường
không khí tại các đô thị. Để ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí từ hoạt động giao
thông vận tải này hiện nay nhà nước ta đã ban hành nhiều quy định về vấn đề này, như:
Một là, phương tiện giao thông cơ giới phải được cơ quan đăng kiểm xác nhận
đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường mới được đưa vào sử dụng. Phương tiện giao thông,
máy móc, thiết bị, công trình xây dựng phát tán bụi, khí thải phải có bộ phận lọc, giảm
thiểu khí thải, thiết bị che chắn hoặc biện pháp khác để giảm thiểu bụi bảo đảm quy
113
chuẩn kỹ thuật môi trường. Phương tiện giao thông không đáp ứng được các điều kiện
này thì không được tham gia lưu thông.
Hai là, tổ chức, cá nhân quản lý tuyến đường có mật độ phương tiện tham gia
giao thông cao gây tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ phải có biện pháp giảm thiểu,
đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
Ba là, pháp luật quy định các chủ phương tiện giao thông đường sắt, đường bộ,
đường thủy không được thải khói, bụi, khí độc quá giới hạn cho phép vào không khí.
Các chủ phương tiện giao thông không được gây tiếng ồn quá giới hạn cho phép. Ví dụ:
các loại xe hai bánh có động cơ dưới 125cc không được gây ồn vượt quá 79dba, còn các
loại xe tải và xe buýt có động cơ trên 1000cc thì không được gây ồn quá 89 dba. Tuy
nhiên, thực tế hiện nay các phương tiện gây ô nhiễm môi trường không khí không tại
các đô thị là các phương tiện công cộng, như xe buýt là một ví dụ điển hình.
Bốn là, các chủ phương tiện có chạy xăng phải sử dụng xăng không pha chì nhằm
giảm thiểu lượng chì thải vào không khí xung quanh theo quy định. Hiện nay, Việt Nam
đã loại bỏ xăng pha chì A83 và thay vào đó là sử dụng xăng A92, A95 không pha chì,
đặc biệt những năm gần đây việc sản xuất và sử dụng xăng sinh học E5 cũng ngày càng
tăng góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí, tuy nhiên hiện nay cả nước có
6 nhà máy sản xuất xăng sinh học lại đứng trước nguy cơ phải ngừng hoạt động do giá
dầu giảm lên giá xăng sinh học phải giảm theo.
Qua đó có thể thấy, mặc dù các quy định về giảm thiểu ngăn chặn, hạn chế ô
nhiễm môi trường không khí từ nguồn thải động được quy định khá cụ thể, song thực
tiễn vẫn còn nhiều cá nhân, tổ chức sử dụng phương tiện giao thông còn vi phạm các
quy định về tiếng ồn, khí thải, vượt quá quy chuẩn cho phép, nhưng chưa bị xử lý triệt
để. Bên cạnh đó thực tế cũng cho thấy tại các thành phố lớn như: Hà Nội, TP. Hồ Chí
Minh việc người dân tận dụng xe máy được sản xuất từ cuối những năm 70 hoặc những
năm 80 của thế kỷ trước làm phương tiện chở hàng hóa, xe thồ hàng đã không còn quá
xa lạ. Điểm chung của những chiếc xe này là nhiều bộ phận đã hỏng, không còn tính
năng sử dụng, nhiều chiếc xe không có một số bộ phận thiết yếu như còi, đèn; xe đã
được mua đi bán lại nhiều lần nhưng không thực hiện thủ tục sang tên đổi chủ,… Xe
máy cũ nát không chỉ gây mất an toàn đối với người điều khiển phương tiện mà còn tạo
ra khói bụi, tiếng ồn, đặc biệt là tại các ngã ba, ngã tư trong giờ cao điểm… Hiện nay,
Chính phủ đã ban hành tiêu chuẩn về khí thải đối với các phương tiện cơ giới nhưng cơ
quan đăng kiểm hầu như chỉ mới kiểm tra ô tô, chưa chính thức kiểm soát khí thải đối
với xe máy. Trong khi đó, trên 50% xe máy đang lưu hành hiện nay không đạt tiêu
chuẩn, xả thải ra môi trường các chất thải độc hại cao gấp nhiều lần quy định cho phép.
Đây là nguyên nhân khiến môi trường ngày càng ô nhiễm, làm phát sinh các loại bệnh ở
114
con người như các bệnh về phổi, gan, thậm chí cả ung thư. Đứng trước thực tế trên, tại
Điều 83 Luật bảo vệ Môi trường năm 2014 có quy định về thu hồi, xử lý sản phẩm thải.
Cụ thể: chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải thu hồi, xử lý sản phẩm thải
bỏ. Người tiêu dùng có trách nhiệm chuyển sản phẩm thải bỏ đến nơi quy định.
Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường có
trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tổ chức
việc thu gom sản phẩm thải bỏ. Để cụ thể hóa quy định này Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg về thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ áp dụng
đối với doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu, người tiêu dùng và tổ chức cá nhân liên quan
đến hoạt động thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ trên lãnh thổ Việt Nam. Chính phủ
cũng đã phê duyệt Đề án Kiểm soát khí thải xe máy do Cục đăng kiểm Việt Nam đề
xuất. Tóm lại, là phương tiện giao thông không đạt chuẩn về môi trường thì chủ sở hữu
phải dừng lưu thông, nếu không dừng thì có thể sẽ bị cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm
quyền thu hồi. Tuy nhiên, hiệu quả thực thi các quy định này đến đâu còn liên quan đến
trách nhiệm không chỉ của các chủ phương tiện mà còn liên quan đến các cơ quan nhau,
như: Cục Đăng kiểm Việt Nam, Thanh tra giao thông, Bộ Giao thông vận tải, Thanh tra
Bộ, Sở Tài nguyên và Môi trường cũng như Thanh tra Tra Tổng cục Môi trường và
UBND các cấp trong kiểm soát ô nhiễm môi trường từ nguồn thải động.
3.4.2. Thực trạng quy định về nghĩa vụ ngăn ngừa, giảm thiểu nguồn thải tĩnh
của chủ sở hữu nguồn thải tĩnh
Nguồn thải tĩnh là một trong hai nguồn thải chủ yếu gây nên ÔNMTKK, pháp
luật hiện hành đã có những quy định nhằm KSÔN không khí ngay tại nguồn, từ các hoạt
động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Cụ thể:
+ Tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phát thải khí tác
động xấu đến môi trường có trách nhiệm giảm thiểu và xử lý bảo đảm chất lượng môi
trường không khí theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 62 Luật BVMT năm
2014);
+ Tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có phát tán bụi, khí
thải phải kiểm soát và xử lý bụi, khí thải bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường (khoản
1 Điều 102 Luật BVMT năm 2014);
+ Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lớn
phải đăng ký nguồn gây ô nhiễm, đo đạc, thống kê, kiểm kê và xây dựng cơ sở dữ liệu
về lưu lượng, tính chất, đặc điểm khí thải (khoản 3 Điều 64 Luật BVMT năm 2014);
115
+ Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lưu
lượng lớn phải lắp đặt thiết bị quan trắc khí thải tự động, liên tục và được cơ quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền cấp phép xả thải (khoản 4 Điều 64);
+ Bụi, khí thải có yếu tố nguy hại vượt ngưỡng quy định phải được quản lý theo
quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại (khoản 3 Điều 102 Luật BVMT
năm 2014);
+ Tổ chức, cá nhân gây tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ phải kiểm soát, xử lý
bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường (khoản 1 Điều 103);
+ Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong khu dân cư gây tiếng ồn, độ rung,
ánh sáng, bức xạ phải thực hiện biện pháp giảm thiểu, không làm ảnh hưởng đến cộng
đồng dân cư (khoản 2 Điều 103);
Có thể thấy, mặc dù đã có những một vài quy định về ngăn chặn ô nhiễm môi
trường không khí từ các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, từ nguồn thải
động và nguồn thải tĩnh. Tuy nhiên, pháp luật môi trường hiện hành chưa đưa ra cách
hiểu thế nào là ngăn chặn ô nhiễm môi trường dẫn tới khó khăn cho việc xây dựng các
quy định pháp luật về ngăn chặn ô nhiễm môi trường một cách thống nhất; chưa quy định
rõ về ngăn chặn ÔNMTKK từ nguồn thải di động cũng như nguồn thải cố định. Điều này
dẫn tới những khó khăn trong quá trình ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí trên
thực tiễn. Ví dụ: gần đây nhất, ô nhiễm môi trường không khí do nhà máy nhiệt điện Vĩnh
Tân 2 gây ra vì nhà máy này cho xe vận chuyển xỉ than ra đổ dọc đường và đổ tràn lan ở
bãi tập kết. Bãi xỉ không được xử lý theo đúng quy định, nên đã gây những trận “bão xỉ”
mù mịt. Cây cối, hoa màu dính đầy bụi xỉ, ngả vàng và héo dần. Bụi đóng thành ra cục.
Từ cây trái cho tới cây trôm lấy mủ đều không thể ra hoa, kết trái và rụng hết lá. Sản xuất
nông nghiệp bị ảnh hưởng, cuộc sống người dân lâm vào cảnh khó khăn. Nguồn nước
sinh hoạt hàng ngày cũng không thể sử dụng do ô nhiễm bụi xỉ. Trước sự phản ứng của
người dân thì các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường từ Trung ương đến địa
phương, thậm chí là Chính phủ đã vào cuộc yêu cầu Tập đoàn Điện lực phải có biện pháp
để xử lý triệt để ô nhiễm môi trường do chất thải của nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 gây
ra [66]… Có thể thấy trong vụ này hai vấn đề: một là, sức mạnh của cộng đồng, tiếng nói
của cộng đồng, sức ảnh hưởng của cộng đồng với việc bảo vệ môi trường; hai là, các cơ
chế pháp lý liên quan đến quản lý hành chính về môi trường đã được sử dụng tối đa,
nhanh chóng để can thiệp vào hành vi vi phạm pháp luật môi trường của Công ty nhiệt
điện Vĩnh Tân 2 nhằm ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí.
Chủ nguồn thải, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không chỉ ngăn chặn ô
nhiễm khi có hành vi vi phạm pháp luật môi trường mà nếu có thiệt hại xảy ra các chủ
thể này phải khắc phục ô nhiễm, phục hồi hiện trạng môi trường.
116
3.5. Thực trạng quy định về xử lý ô nhiễm môi trƣờng không khí
Xử lý ÔNMTKK là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ
chức, cá nhân chủ nguồn thải trong xác định các hành vi làm ô nhiễm môi trường không
khí, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật môi trường không khí, khắc phục ô nhiễm, khôi
phục hiện trạng môi trường không khí nhằm giữ cho môi trường không khí được trong
lành, sạch đẹp.
3.5.1. Quy định về xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường không khí nghiêm trọng
Theo Luật BVMT năm 2014, cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng là cơ sở
có hành vi thải nước thải, khí thải, bụi, chất thải rắn, tiếng ồn, độ rung và các chất gây ô
nhiễm khác vượt quy chuẩn kỹ thuật môi trường ở mức độ nghiêm trọng. (khoản 1 Điều
104) [83]. Khi cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật và đưa vào Danh sách cơ sở
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng kèm theo biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường. Việc
đưa vào danh sách quản lý sẽ góp phần giúp cơ quan nhà nước và chủ nguồn thải có thể
theo dõi, ngăn chặn kịp thời ô nhiễm môi trường không khí từ các cơ sở này gây ra.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền hàng năm phải rà soát, phát hiện cơ sở gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng. Theo đó, UBND cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với Bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ lập danh sách cơ sở gây ô nhiễm môi trường
trên địa bàn, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản này và biện pháp xử lý gửi Bộ
TN và MT tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Bộ Quốc phòng, Bộ Công
an chủ trì, phối hợp với UBND cấp tỉnh lập danh sách cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh và biện pháp xử lý gửi Bộ TN và MT
tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Bộ TN và MT chủ trì, phối hợp với Bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ
quyết định danh sách và biện pháp xử lý cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Quyết định xử lý đối với cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải được thông
báo cho UBND cấp huyện, cấp xã nơi cơ sở có hoạt động gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng và công khai cho cộng đồng dân cư biết để kiểm tra, giám sát. (Điều 104
Luật BVMT 2014). Tiếp đó vấn đề này đã được cụ thể hóa trong mục 3 Chương VI
Nghị định số 19/2015/NĐ-CP của Chính phủ về hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật
Bảo vệ Môi trường năm 2014, như: quy định rõ nguyên tắc và căn cứ xác định cơ sở gây
ô nhiễm môi trường không khí nghiêm trọng. Ví dụ: hành vi xả khí thải, bụi vượt quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường; hành vi gây tiếng ồn, độ rung vượt quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về môi trường; quy định về xác định mức độ vi phạm của hành vi gây ô
nhiễm môi trường không khí như trên dựa vào lưu lượng khí thải, bụi của cơ sở; số lần
vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường của các thông số môi trường đặc trưng
117
và số các thông số môi trường đặc trưng vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải
có trong khí thải, bụi của cơ sở. Đối với hành vi chôn lấp, thải vào đất, môi trường nước
các chất gây ô nhiễm ở thể lỏng, rắn, bùn không đúng quy định làm môi trường đất,
nước, không khí vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng môi trường xung
quanh thì xác định mức độ vi phạm dựa vào số lần vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
không khí xung quanh.
Nghị định này cũng quy định cụ thể hơn về đưa các cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng vào Danh mục cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cũng như đưa
ra các biện pháp xử lý, như: di dời địa điểm đến vị trí phù hợp với quy hoạch và sức
chịu tải của môi trường; cải tạo, nâng cấp hoặc xây dựng mới hệ thống xử lý chất thải
đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường; cải tạo, phục hồi môi trường tại khu vực
đã gây ô nhiễm. Đồng thời xác định rõ trình tự, thủ tục quyết định danh mục cơ sở gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng và thời hạn thực hiện (Điều 35). Không chỉ đưa vào
Danh mục cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đưa ra biện pháp xử lý. Nghị
định này còn quy định về việc công khai danh mục cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng và biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường.
Có thể thấy những quy định này là cơ sở quan trọng để các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ngăn chặn, xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được hiệu
quả hơn, góp phần phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường
không khí.
Theo Báo cáo của Tổng cục Môi trường cho thấy, đến nay đã có 389/413 cơ sở ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng có tên trong Quyết định 64/2003/QĐ-TTg cơ bản đã
hoàn thành các biện pháp xử lý ô nhiễm triệt để. Thực hiện Quyết định 1788/QĐ-TTg
ngày 01/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đến năm 2020, Tổng cục Môi trường đã phối hợp
với các địa phương tích cực triển khai nhiều biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng. Tính đến tháng 6/2015, trong số 186 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
có thời hạn xử lý đến 31/12/2015 đã có 140 cơ sở cơ bản hoàn thành biện pháp xử lý,
không còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (chiếm tỷ lệ 75,27%). Đồng thời, hầu
hết các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định 1788/QĐ – TTg đã
thực hiện ngay các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm trong thời gian xử lý để theo danh mục
và biện pháp xử lý theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, qua đó góp phần giảm
thiểu tác động và ô nhiễm môi trường tới cộng đồng.
Điều này cho thấy sự quyết tâm của Nhà nước trong ngăn chặn, xử lý triệt để các
cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn còn cơ
sở gây ô nhiễm môi trường không khí nặng nề gây thiệt hại lớn cho môi trường vẫn
118
chưa đưa vào danh sách cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng do hoạt động rà
soát các cơ sở gây ô nhiễm môi trường không khí vẫn còn nhiều bất cập nên chưa xử lý
triệt được triệt để các cơ sở gây ô nhiễm này nhằm ngăn chặn, giảm thiểu ô nhiễm môi
trường không khí.
3.5.2. Quy định về khắc phục ô nhiễm, phục hồi hiện trạng môi trường không khí
Khắc phục ô nhiễm môi trường là hoạt động giảm thiểu tác động của ô nhiễm đến
môi trường, con người và nâng cao chất lượng môi trường tại khu vực môi trường bị ô
nhiễm[95, 46]. Để khắc phục ô nhiễm môi trường nói chung, pháp luật hiện hành chia
khu vực ô nhiễm thành 3 mức độ: ô nhiễm môi trường, ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng và ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng và quy định về cách thức xác định
khu vực bị ô nhiễm môi trường, gồm: a) Xác định phạm vi, giới hạn của khu vực môi
trường bị ô nhiễm; b) Xác định mức độ ô nhiễm, đánh giá rủi ro; c) Xác định nguyên
nhân, trách nhiệm của các bên liên quan; d) Các giải pháp xử lý ô nhiễm, phục hồi và cải
thiện chất lượng môi trường; đ) Xác định các thiệt hại đối với môi trường làm căn cứ để
yêu cầu các bên gây ô nhiễm phải bồi thường (Điều 106 Luât BVMT năm 2014). Bên
cạnh đó, Luật cũng quy định về trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức chủ nguồn thải và
cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền trong khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi
trường. Theo đó tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải có trách nhiệm sau:
Một là, có phương án cải tạo, phục hồi môi trường khi tiến hành các dự án có
nguy cơ gây ô nhiễm môi trường;
Hai là, tiến hành biện pháp khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường khi gây
ô nhiễm môi trường;
Ba là, trường hợp có nhiều tổ chức, cá nhân cùng gây ô nhiễm môi trường mà
không tự thỏa thuận được về trách nhiệm thì cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường phối hợp với tổ chức, cá nhân có liên quan làm rõ trách nhiệm của từng đối tượng
trong việc khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường.
Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức điều tra, xác định khu vực môi
trường bị ô nhiễm trên địa bàn, hàng năm báo cáo Bộ TN và MT. Còn Bộ TN và MT có
trách nhiệm sau: quy định tiêu chí phân loại khu vực ô nhiễm môi trường; hướng dẫn thực
hiện hoạt động cải tạo, phục hồi môi trường; kiểm tra xác nhận hoàn thành khắc phục ô
nhiễm và cải thiện môi trường; điều tra, đánh giá và tổ chức thực hiện các hoạt động khắc
phục ô nhiễm và cải thiện môi trường đối với các khu vực bị ô nhiễm liên tỉnh. Trường hợp
môi trường bị ô nhiễm do thiên tai gây ra hoặc chưa xác định được nguyên nhân thì bộ,
ngành và UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm huy
động nguồn lực để tổ chức khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường.
119
Qua phân tích trên cơ thể thấy, Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã có quy định về
phục hồi hiện trạng môi trường, các quy định này góp phần vào phòng ngừa, giảm thiểu
thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra. Tuy nhiên, một là, Luật vẫn chưa có quy định
riêng về khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường không khí. Như chúng ta biết ô nhiễm
môi trường không khí và thiệt hại do nó gây ra mang tính đặc thì nên việc áp dụng các
quy định chung về phục hồi ô nhiễm môi trường trên vào rất khó giải quyết được triệt để
vấn đề. Hai là, pháp luật môi trường hiện hành cũng chưa quy định về xác định thiệt hại
môi trường không khí (Nghị định 03/2015/NĐ-CP về xác định thiệt hại môi trường),
nhưng cũng chưa có quy định vấn đề này. Ba là, môi trường không khí mang tính
khuyếch tán nên để xác định được mức độ ô nhiễm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay
đặc biệt nghiêm trọng sẽ rất khó khăn. Ví du: doanh nghiệp lén xả khí thải từ 0h đêm
đến 3h sáng dừng thải thì sáng hôm sau khu vực đã trời quang mây tạnh,… Do vậy, rất
khó có cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền đòi bồi thường thiệt hại môi trường
không khí. Còn đối với thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản thì cũng không dễ dàng
hơn. Bởi muốn chứng minh thiệt hại này cần phải chứng minh được môi trường không
khí bị thiệt hại và gây thiệt hại cho con người.
3.5.3. Về xử lý hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí
Trên thế giới, để bảo đảm pháp luật được thực thi, pháp luật các nước đều có quy
định chế tài áp dụng với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Tại Singapore, để bảo
vệ môi trường được hiệu quả, nước này đã ban hành một loạt các chế tài áp dụng với các
hành vi vi pháp luật môi trường, như chế tài hành chính, chế tài hình sự, chế tài dân sự.
Ví dụ: về trách nhiệm hình với các tội phạm môi trường chỉ áp dụng với những bị cáo
đủ 16 tuổi trở lên và đủ tiêu chuẩn y tế. Tùy theo mức độ nguy hiểm cho xã hội, người
phạm tội có thể bị kết án phạt tiền, phạt tù, bắt bồi thường và đối với những vi phạm nhỏ
thì phạt cải tạo lao động bắt buộc[81].
Còn tại Trung Quốc, Luật BVMT sửa đổi đã tăng thêm quyền hạn cho Cơ quan
BVMT Trung Quốc để xử lý mạnh tay hơn đối với các doanh nghiệp, công ty công
nghiệp phát thải quá mức ra môi trường... Trước đây, Cơ quan BVMT chỉ có thể xử
phạt hành chính doanh nghiệp vì xả thải trái phép thì bây giờ, họ được phép đóng cửa
những doanh nghiệp không tuân thủ các quy định về giảm khí thải tại nhà máy. Thêm
nữa, hình phạt được quy định nghiêm khắc hơn, cụ thể, nếu doanh nghiệp cố tình tiếp
tục gây ô nhiễm môi trường, họ sẽ phải trả một khoản phí phạt gấp nhiều lần so với phí
phạt ban đầu, thậm chí là bị xử phạt hình sự đối với những cá nhân, doanh nghiệp cố
tình vi phạm, không tuân thủ hệ thống giám sát ô nhiễm.
Luật về ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm khí quyển năm 2000 của Trung Quốc
có quy định doanh nghiệp vi phạm pháp luật, gây ô nhiễm không khí có thể bị phạt đến
120
mức 50% tổn thất trực tiếp kinh tế, nhưng tối đa không quá 500 nghìn nhân dân tệ (Điều
61). Nếu hành vi gây ô nhiễm không khí ở mức nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại nặng về
tài sản công, tài sản tư hoặc gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của con người và
cấu thành tội phạm thì sẽ bị xử lý theo quy định của Bộ luật Hình sự Trung Quốc. [83].
Qua đó có thể thấy pháp luật một số nước quy định trách nhiệm pháp lý rất nặng
nề với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật môi trường, với các quy định
chặt chẽ, tổ chức thực hiện bài bản chuyên nghiệp đã góp phần giữ cho môi trường
không khí được trong lành, sạch đẹp.
Còn theo pháp luật Việt Nam, trách nhiệm pháp lý được cấu thành bởi 4 loại
trách nhiệm: trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật, trách
nhiệm hình sự. Tùy từng trường hợp cá nhân, tổ chức có thể chịu các trách nhiệm pháp
lý khác nhau, nhưng đối với một hành vi vi phạm, một cá nhân không phải chịu quá 3
loại trách nhiệm pháp lý.
3.5.3.1. Trách nhiệm hành chính
Luật Bảo vệ môi trường 2014 chỉ quy định mang tính nguyên tắc về xử phạt vi
phạm hành chính do hành vi làm ô nhiễm môi trường. Ví dụ: quy định về xử lý vi phạm
hành chính đối với cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (Điều 104). Hiện nay,
chưa có văn bản hướng dẫn Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 về vấn đề này. Tuy
nhiên, vấn đề này đã được ghi nhận trước đó trong Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012
và Nghị định số 179/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT
thay Nghị định số 117/2009/NĐ-CP. Theo đó hình thức xử phạt hành chính do vi phạm
pháp luật, gồm: cảnh cáo, phạt tiền và các hình thức xử phạt bổ sung khác. Mức phạt
tiền cao nhất đối với một hành vi vi phạm pháp luật môi trường của tổ chức là 2 tỷ đồng.
Còn mức xử phạt cao nhất đối với một hành vi vi phạm của cá nhân là 1 tỷ đồng.
Đối với đối với hành vi thải mùi hôi thối vào môi trường phạt tiền từ 1.000.000
đồng đến 3.000.000 đồng. Hành vi thải khí, bụi vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải
dưới 1,5 lần bị xử phạt tiền thấp nhất 5.000.000 đồng trong trường hợp lưu lượng khí
thải nhỏ hơn 500 m3/giờ đến 800.000.000 đồng trong trường hợp lưu lượng khí thải từ
100.000 m3/giờ trở lên (Điều 15).
Hành vi thải khí, bụi vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải từ 1,5 lần đến dưới 02
lần bị xử phạt ít nhất từ 10.000.000 đồng đến 850.000.000 đồng trong trường hợp lưu
lượng khí thải từ 100.000 m3/giờ trở lên.
Hành vi thải khí, bụi vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải từ 02 lần đến dưới 03
lần bị xử phạt tối thiểu là từ 20.000.000 đồng đến 900.000.000 đồng trong trường hợp
lưu lượng khí thải từ 100.000 m3/giờ trở lên.
121
Hành vi thải khí, bụi vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải từ 03 lần trở lên bị xử phạt
thấp nhất từ 950.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với hành vi thải khí, bụi có
chứa chất phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật cho phép.
Phạt tăng thêm 1% của mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều
này đối với mỗi thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật dưới 1,5 lần; 2% đối với
mỗi thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 1,5 đến dưới 02 lần; 3% đối với
mỗi thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 02 đến dưới 03 lần; 4% đối với mỗi
thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 03 lần trở lên. Tổng mức phạt đối với
mỗi hành vi vi phạm không quá 1.000.000.000 đồng.
Bên cạnh đó, các chủ thể vi phạm còn có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ
sung, như: a) đình chỉ hoạt động gây ô nhiễm môi trường của cơ sở từ 03 tháng đến 06
tháng. Ngoài ra các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật môi trường còn bị áp dụng các
biện pháp khắc phục hậu quả, như: a) Buộc phải thực hiện các biện pháp khắc phục tình
trạng ô nhiễm môi trường trong thời hạn do người có thẩm quyền xử phạt ấn định trong
quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm quy định tại Điều này gây
ra; b) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính đối với
các vi phạm quy định tại Điều này; c) Buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, đo đạc
và phân tích mẫu môi trường trong trường hợp có vi phạm về xả chất thải vượt quy
chuẩn kỹ thuật môi trường hoặc gây ô nhiễm môi trường theo định mức, đơn giá hiện
hành đối với các vi phạm quy định tại Điều này.
Trường hợp vi phạm các quy định về tiếng ồn thì bị xử phạt tiền thấp từ
1.000.000 đồng ng đến 160.000.000 đồng đối với hành vi gây tiếng ồn vượt quy chuẩn
kỹ thuật về tiếng ồn. Bên cạnh đó, có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung, như: a)
Đình chỉ hoạt động gây ô nhiễm tiếng ồn của cơ sở từ 03 tháng đến 06 tháng đối với
trường hợp vi phạm quy định tại các Khoản 3, 4, 5 và 6 Điều này; b) Đình chỉ hoạt động
của cơ sở từ 06 tháng đến 12 tháng đối với trường hợp vi phạm quy định tại các Khoản
7, 8 và 9 Điều này. Ngoài ra, còn phải thực hiện khắc phục hậu quả, như: a) Buộc thực
hiện biện pháp giảm thiểu tiếng ồn đạt quy chuẩn kỹ thuật trong thời hạn do người có
thẩm quyền xử phạt ấn định trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi
phạm quy định tại Điều này gây ra; b) Buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, đo đạc
và phân tích mẫu môi trường trong trường hợp có vi phạm về tiếng ồn vượt quy chuẩn
kỹ thuật môi trường hoặc gây ô nhiễm tiếng ồn theo định mức, đơn giá hiện hành đối
với các vi phạm quy định tại Điều này.
Hành vi vi phạm các quy định về độ rung trong hoạt động xây dựng bị xử phạt
thấp nhất là 1.000.000 đồng và cao nhất là đến 170.000.000 đồng đối với hành vi gây độ
rung vượt quy chuẩn kỹ thuật về độ rung. Bên cạnh đó, còn có thể bị áp dụng hình thức
122
xử phạt bổ sung, như: đình chỉ hoạt động gây độ rung của cơ sở từ 03 tháng đến 06
tháng đối với trường hợp vi phạm quy định tại các Điểm c, d, đ và e Khoản 1 và các
Điểm c, d, đ và e Khoản 2 Điều này; đình chỉ hoạt động của cơ sở từ 06 tháng đến 12
tháng đối với trường hợp vi phạm quy định tại các Điểm g, h và i Khoản 1 và các Điểm
g, h và i Khoản 2 Điều này. Ngoài ra còn có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu
quả, như: a) Buộc phải thực hiện biện pháp giảm thiểu độ rung đạt quy chuẩn kỹ thuật
trong thời hạn do người có thẩm quyền xử phạt ấn định trong quyết định xử phạt vi
phạm hành chính đối với các vi phạm quy định tại Điều này gây ra; b) Buộc chi trả kinh
phí trưng cầu giám định, đo đạc và phân tích mẫu môi trường trong trường hợp có vi
phạm về độ rung vượt quy chuẩn kỹ thuật môi trường theo định mức, đơn giá hiện hành
đối với các vi phạm quy định tại Điều này (Điều 18).
Trường hợp hành vi gây ô nhiễm đất, nước, không khí; gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể bị phạt tăng
thêm từ 20% đến 30% của mức tiền phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại các
Điều 13, 14, 15 và 16; Khoản 3 và Khoản 4 Điều 20; Điểm a Khoản 8, Khoản 9 và
Khoản 10 Điều 21; Khoản 8 và Khoản 9 Điều 22; Khoản 7 và Khoản 8 Điều 23; Khoản
3 và Khoản 4 Điều 24; các Khoản 3, 4, 5 và 6 Điều 29; Khoản 5 và Khoản 6 Điều 34
hoặc vi phạm trong phân khu phục hồi sinh thái, khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu bảo
tồn mà làm hàm lượng chất gây ô nhiễm trong đất, nước hoặc không khí vượt quy chuẩn
kỹ thuật về môi trường đất, nước, không khí xung quanh đến dưới 03 lần đối với thông
số môi trường nguy hại hoặc dưới 05 lần đối với thông số môi trường không nguy hại.
Tổng mức phạt đối với mỗi hành vi vi phạm không quá 1.000.000.000 đồng (Điều 19).
Phạt tăng thêm từ 30% đến 40% của mức tiền phạt đối với các hành vi vi phạm
quy định tại các Điều 13, 14, 15 và 16; Khoản 3 và Khoản 4 Điều 20; Điểm a Khoản 8,
Khoản 9 và Khoản 10 Điều 21; Khoản 8 và Khoản 9 Điều 22; Khoản 7 và Khoản 8 Điều
23; Khoản 3 và Khoản 4 Điều 24; các Khoản 3, 4, 5 và 6 Điều 29; Khoản 5 và Khoản 6
Điều 34 hoặc vi phạm trong phân khu phục hồi sinh thái, khu bảo vệ nghiêm ngặt của
khu bảo tồn mà làm hàm lượng chất gây ô nhiễm trong đất, nước hoặc không khí vượt
quy chuẩn kỹ thuật về môi trường đất, nước, không khí xung quanh từ 03 lần đến dưới
05 lần đối với thông số môi trường nguy hại hoặc từ 05 lần đến dưới 10 lần đối với
thông số môi trường không nguy hại. Tổng mức phạt đối với mỗi hành vi vi phạm
không quá 1.000.000.000 đồng.
Phạt tăng thêm từ 40% đến 50% của mức tiền phạt đối với hành vi vi phạm các
hành vi vi phạm tại các Điều 13, 14, 15 và 16; Khoản 3 và Khoản 4 Điều 20; Điểm a
Khoản 8, Khoản 9 và Khoản 10 Điều 21; Khoản 8 và Khoản 9 Điều 22; Khoản 7 và
Khoản 8 Điều 23; Khoản 3 và Khoản 4 Điều 24; các Khoản 3, 4, 5 và 6 Điều 29; Khoản 5
123
và Khoản 6 Điều 34 trong phân khu phục hồi sinh thái, khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu
bảo tồn mà làm hàm lượng chất gây ô nhiễm trong đất, nước hoặc không khí vượt quy
chuẩn kỹ thuật về môi trường đất, nước, không khí xung quanh từ 05 lần trở lên đối với
thông số môi trường nguy hại hoặc từ 10 lần trở lên đối với thông số môi trường không
nguy hại. Tổng mức phạt đối với mỗi hành vi vi phạm không quá 1.000.000.000 đồng.
Ngoài ra, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật môi trường còn có thể bị áp dụng
thêm các hình thức xử phạt bổ sung: tước quyền sử dụng giấy phép môi trường tịch thu
tang vật, phương tiện. Ngoài ra cá nhân tổ chức còn có thể bị áp dụng biện pháp khắc
phục hậu quả.
Những quy định này là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật môi trường không khí. Tuy nhiên, trên thực tiễn áp dụng
xử lý vi phạm hành chính do hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường không khí trong bối cảnh hiện nay. Bởi: một là,
hoạt động xả, thải, gây ô nhiễm môi trường không khí của các cá nhân, tổ chức ngày
càng tinh vi, nên việc xác định hành vi xả, thải của tổ chức, cá nhân làm ô nhiễm môi
trường không khí là không dễ dàng; hai là, mức xử phạt đối với hành vi làm ô nhiễm
môi trường không khí theo pháp luật hiện hành vẫn còn thấp chưa đảm bảo tính răn đe;
thứ ba, sự buông lỏng trách nhiệm quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong thực hiện nhiệm vụ của mình cũng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả thực hiện pháp
luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Để đảm bảo tính răn đe mạnh mẽ hơn nhằm phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm môi
trường không khí, ngoài trách nhiệm hành chính, theo pháp luật Việt Nam cá nhân có
hành vi vi phạm pháp luật môi trường có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
3.5.3.2. Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất được áp dụng đối
với cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây hậu quả nghiêm trọng. Theo
quy định của Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009 thì cá nhân có hành vi phạm
tội sẽ chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 182 Bộ luật Hình sự gồm : phạt
tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, cấm làm
công việc nhất định. Điều 182 quy định : "1. Người nào thải vào không khí, nguồn nước,
đất các chất gây ô nhiễm môi trường, phát tán bức xạ, phóng xạ vượt quá quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng hoặc làm môi trường bị ô nhiễm
nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu
đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu
tháng đến năm năm.
124
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến
mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Làm môi trường bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng hoặc gây hậu quả rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng khác.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm
mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
từ một năm đến năm năm.”
Điều luật này được ban hành để trừng phạt những người có hành vi xả thải các
chất độc hại quá giới hạn cho phép được quy định tại các tiêu chuẩn về môi trường
nhằm KSÔN môi trường không khí. Cụ thể:
Đối với hành vi thải vào không khí, nguồn nước, đất các chất gây ô nhiễm môi
trường, phát tán bức xạ, phóng xạ vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở
mức độ nghiêm trọng hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây hậu quả
nghiêm trọng khác thì có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm
trăm triệu đồng hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu
tháng đến năm năm.
Đối hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí có dấu hiệu, như: có tổ chức; làm
môi trường bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng khác thì có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
Ngoài ra người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm
năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm.”
Qua nghiên cứu các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về KSÔN môi trường không
khí, các quy định pháp luật về vấn đề này vẫn còn những hạn chế nhất định. Cụ thể :
Một là, một số hành vi bị cấm trong Điều 7, Luật BVMT 2014 vẫn chưa được bổ
sung trong Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 như: hành vi gây tiếng ồn, độ
rung vượt tiêu chuẩn cho phép; sinh sống ở khu vực được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác định là khu vực cấm do mức độ nguy hiểm về môi trường đối với sức khỏe và
tính mạng con người; hành vi cản trở hoạt động bảo vệ môi trường,...;
Hai là, hình phạt tiền áp dụng với hành vi làm ô nhiễm môi trường còn quá thấp,
hình phạt tiền chính quy định tại khoản 1 Điều 182 mức tối đa là 500 triệu đồng và hình
phạt bổ sung có thể thêm 150 triệu đồng nữa đối với hành vi làm ô nhiễm môi trường là
quá thấp, thấp hơn cả xử phạt hành chính.
Ba là, hình phạt tù đối với tội phạm môi trường còn nhẹ, hình phạt tù cao nhất
với tội gây ô nhiễm môi trường là 10 năm tù. Hơn nữa, các hình phạt quy định trong
125
Luật do hành vi làm ô nhiễm môi trường còn chưa đa dạng. Đó cũng gây khó khăn cho
các cơ quan bảo vệ pháp luật trong xử lý các hành vi vi phạm tội này.
Bốn là, Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 vẫn chưa quy định trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân, trong khi pháp nhân là những chủ thể gây thiệt hại cho
môi trường có xu hướng ngày càng lớn.
3.5.3.3. Trách nhiệm dân sự
Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường, hiện nay pháp luật quy định có
hai dạng: một là thiệt hại về suy giảm chức năng, tính hữu ích, gồm: thiệt hại về môi
trường đất, nước, động thực vật, hệ sinh thái và hai là, thiệt hại về sức khỏe, tính mạng,
tài sản và các lợi ích hợp pháp khác. Việc xác định thiệt hại về suy giảm chức năng, tính
hữu ích được thực hiện theo Luật BVMT năm 2014 và Nghị định số 113/2010/NĐ-CP
về xác định thiệt hại môi trường hiện nay là Nghị định số 03/2015/NĐ-CP về xác định
thiệt hại môi trường. Còn xác định thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản và các lợi ích
hợp pháp khác được quy định trong Luật BVMT và Bộ luật Dân sự 2005 cũng như Nghị
quyết số 03/2006/NQ- HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao [54].
Đối với thiệt hại về môi trường không khí, pháp luật BVMT hiện hành chưa quy
định cụ thể về loại thiệt hại này cũng như cách xác định thiệt hại về môi trường không
khí làm cơ sở để yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Còn đối với thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản và các lợi ích hợp pháp khác
do hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí gây ra. Theo quy định của pháp luật dân
sự để cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường thì cần xác định được 3 yếu
tố cấu thành là: có hành vi vi phạm pháp luật, có thiệt hại xảy ra trên thực tiễn và xác
định được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra. Tuy vậy, việc
xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại xảy ra là không hề đơn giản.
Đây là khó khăn cho Nhà nước trong KSÔN môi trường không khí, đặc biệt là đối với tổ
chức, cá nhân bị thiệt hại do ÔNMTKK gây ra.
3.5.3.4. Trách nhiệm kỷ luật
Theo quy định tại khoản 2 Điều 160 Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 thì trách
nhiệm kỷ luật được áp dụng với người đứng đầu tổ chức, cán bộ, công chức lợi dụng
chức vụ, quyền hạn gây phiền hà, nhũng nhiễu cho tổ chức, công dân, bao che cho
người vi phạm pháp luật về BVMT hoặc thiếu trách nhiệm để xảy ra ô nhiễm, sự cố môi
trường nghiêm trọng thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật bị truy cứu
trách nhiệm hình sự; trường hợp gây thiệt hại thì còn phải bồi thường theo quy định của
pháp luật. Việc quy định về trách nhiệm kỷ luật trong quản lý, kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí là rất quan trọng vì nó đánh vào công việc của người có thẩm quyền
do vậy họ sẽ phải cân nhắc khi thực hiện hành vi của mình. Tuy nhiên, Luật Bảo vệ Môi
126
trường 2014 không quy định cụ thể về loại trách nhiệm pháp lý này, ngoài quy định tại
Điều 160. Do vậy, việc áp dụng trách nhiệm pháp lý này vẫn cần viện dẫn các quy định
của pháp luật về cán bộ, công chức. Hơn nữa, trên thực tiễn do nhiều nguyên nhân mà
cho đến nay việc áp dụng trách nhiệm kỷ luật liên quan đến quản lý môi trường, trong
đó có môi trường không khí vẫn chưa được thực hiện triệt để, hiệu quả và còn mang tính
hình thức. Dẫn tới không thiếu hiện tượng hiện tượng thờ ơ, buông lỏng, vô cảm trong
quản lý nhà nước về môi trường, thậm chí như phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng và các chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác dân vận ngày
27 thang 5 năm 2016 là “Có những cán bộ vô cảm trước những khó khăn, đau khổ của
quần chúng”. Rõ ràng không thể để vấn đề này tồn tại trong bối cảnh Việt Nam đã và
đang xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Những kết quả và hạn chế, thiếu sót trong quy định và thực hiện pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam
Có thể thấy, thực tiễn xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi
trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam những năm qua đã góp phần
không nhỏ vào việc giữ cho môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp. Cụ thể:
Thứ nhất, các chủ trương, đường lối chính sách, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí ứng phó với biến đổi khí hậu của Đảng và Nhà nước đã hoàn thiện hơn;
Thứ hai, các quy định pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí, về
phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý ô nhiễm môi trường không khí ngày càng hoàn
thiện và đồng bộ hơn.
Thứ ba, bước đầu hình thành và từng bước kiện toàn hệ thống các cơ quan bảo vệ
môi trường không khí từ cơ quan có thẩm quyền chung đến cơ quan có thẩm quyền
chuyên môn, từ cơ quan trung ương đến các cơ quan địa phương. Ví dụ: trung ương có
Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Môi trường, Cục Kiểm soát ô
nhiễm, Cục Khí tượng Thủy văn và ứng phó với biến đổi khí hậu, Thanh tra Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Bộ Giao Thông vận tải, Cục Đăng kiểm Việt Nam, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn,… Ở địa phương có Ủy ban nhân dân các cấp, Sở Tài
nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Cán bộ địa chính phụ trách
môi trường,… Sự hoàn thiện về tổ chức bộ máy kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí sẽ giúp việc thực thi các chính sách, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí được hiệu quả hơn.
Thứ tư, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc kiểm soát khí thải tại nguồn của
phương tiện giao thông: thắt chặt quy chuẩn phát thải, loại bỏ phương tiện không đạt
yêu cầu, xây dựng các Trung tâm thử nghiệm phát thải, tăng cường kiểm soát chất lượng
127
nhiên liệu: ban hành quy chuẩn về chất lượng nhiên liệu, cấm xăng pha chì, tiêu chuẩn
xăng phù hợp với quy chuẩn phát thải Euro 2, Euro 3;
Thứ năm, nhấn mạnh trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải trong
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí từ nguồn thải tĩnh (doanh nghiệp, công ty,…).
Đồng thời hoàn thiện quy định về tổ chức hoạt động của thanh tra môi trường theo
hướng ngày càng chuyên nghiệp góp phần phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi làm ô
nhiễm môi trường một cách kịp thời, triệt để;
Thứ sáu, đã có quy định về dự báo biến đổi khí hậu, dự báo hí tượng thủy văn. Nhiều
mô hình dự báo ô nhiễm môi trường không khí đã được ứng dụng tại Việt Nam nhằm dự báo
chính xác hơn ô nhiễm môi trường không khí, biến đổi khí hậu để nhà nước có thể hoạch định
được các chính sách hiệu quả về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Thứ bảy, quy định về quan trắc ô nhiễm môi trường, thông tin tình hình môi
trường được quy định theo hướng cụ thể hơn. Các chương trình quan trắc môi trường
không khí theo điểm với tần xuất ngày càng tăng theo năm và hệ thống quan trắc tự
động ngày càng được mở rộng góp phần đánh giá chính xác hơn hiện trạng môi trường
không khí và các cơ sở gây ô nhiễm môi trường không khí;
Thứ tám, quy chuẩn không khí xung quanh và quy chuẩn môi trường về khí thải
ngày càng được rà soát và chỉnh sửa phù hợp hơn với điều kiện Việt Nam, đặc biệt là
tiến tới ban hành Quy chuẩn chất lượng môi trường không khí trong nhà;
Bên cạnh đó, thực tiễn kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam
những năm qua vẫn còn những bất cập, hạn chế nhất định.
Sở dĩ quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường ở Việt Nam còn kém hiệu quả như
trên là do nhiều nguyên nhân. Cụ thể:
Một là, cho đến nay Việt Nam cũng chưa có một chiến lược thu hút đầu tư và quy
hoạch phát triển kinh tế hợp lý. Từ khi mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài đến nay đa phần
hoạt động đầu tư đến nước ta là tập trung vào các ngành nghề tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô
128
nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ: Vedan, Fomosa,…Do vậy, đã đến lúc
muộn còn hơn không chúng ta phải nhìn nhận lại chiến lược thu hút đầu tư của mình;
Hai là, mặc dù Đảng ta đã thông qua Nghị quyết số 24 về bảo vệ tài nguyên môi
trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, cho đến nay Việt Nam
chưa có một chiến lược tổng thể dài hạn về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Trong đó tiếp cận tổng thể kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trong mối quan hệ
với chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, với quyền được sống trong môi trường trong
lành và gắn với yêu cầu phát triển bền vững quốc gia.
Ba là, về chính sách, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ngày
càng hoàn thiện, nhưng còn nhiều thiếu sót. Cụ thể: thứ nhất, thiếu các quy chuẩn kỹ
thuật môi trường không khí đối với mùi và quy chuẩn môi trường không khí trong nhà;
thứ hai, các chính sách về ưu đãi liên quan đến sự tham gia của tổ chức, cá nhân vào
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí còn quy định chung chung, chưa rõ ràng; ba
là, các chính sách, quy định về phát triển bền vững ưu tiên lĩnh vực thân thiện môi
trường được quy định khá rõ ràng, nhưng thực tiễn áp dụng pháp luật lại chưa hiệu quả;
thứ tư, mặc dù nhà nước ta đã ban hành các quy định nhằm thích ứng và giảm thiểu biến
đổi khí hậu, nhưng các quy định pháp luật hiện hành lại chưa thể hiện được logic này
dẫn tới khó khăn trong quá trình thực hiện pháp luật; thứ năm, các quy định về dự án
phát triển sạch nhằm giảm thiểu cácbon và hình thành thị trường mua bán quyền phát
thải đã được quy định trong pháp luật nước ta nhưng còn rườm rà, thiếu cụ thể đặc biệt
quá trình thực hiện còn rất nhiều vướng mắc và khó khăn; thứ sáu, các quy định về cấm
các hành vi làm ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí đã được ghi
nhận trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, nhưng một số quy định lại chưa được cụ
thể hóa trong Bộ luật Hình sự hiện hành. Ví dụ: pháp nhân gây ô nhiễm môi trường; thứ
bảy, chưa có quy định về đánh giá tác động môi trường không khí riêng. Hơn nữa, hiện
nay thực tiễn cho thấy việc thẩm định qua Hội đồng thẩm định nhiều trường hợp do
chính cơ quan phê duyệt dự án thực hiện đã dẫn tới hiện tượng cha chung không ai
khóc, việc kiểm soát thực hiện các cam kết trong báo cáo ĐTM còn chưa hiệu quả, cơ
chế tiền kiểm và hậu kiểm chưa thực sự chặt chẽ; thứ tám, quy định về quan trắc ô
nhiễm môi trường không khí còn chưa đồng bộ, chưa có quy định riêng về vấn đề này,
trong khi đó mạng lưới quan trắc ô nhiễm môi trường không khí vẫn còn thiếu và mỏng
ảnh hưởng đến hiệu quả phát hiện ô nhiễm môi trường không khí; thứ chín, quy định về
thông tin tình hình môi trường không khí chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát
triển. Với các thông tin cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm công bố thì
thường thông tin rất ít và chưa kịp thời. Ví dụ: vụ Fomosa. Với quy định về yêu cầu cơ
quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền thông tin về tình hình môi trường thì cá nhân
129
không có quyền trực tiếp thực hiện mà phải thông qua tổ chức hoặc đại diện cộng đồng
dân cư gây khó khăn cho người dân. Điều này ảnh hưởng đến quyền được thông tin môi
trường của người dân, ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất của người dân; thứ mười, quy
định về thanh tra môi trường không khí còn tản mạn, phân tán, chưa có sự hợp lý so với
Luật Thanh tra năm 2010, chưa có quy định riêng mang tính hệ thống về thanh tra môi
trường không khí. Về thực tiễn hoạt động thanh tra môi trường vẫn còn chồng chéo,
thiếu phối hợp giữa thanh tra Bộ, thanh tra Tổng cục và thanh tra Sở và hoạt động thanh
tra có chính quyền địa phương, vẫn có những tiêu cực trong quá trình thành tra ảnh
hưởng đến xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường; thứ mười một, về ngăn
chặn, khắc phục ô nhiễm, phục hồi hiện trạng môi trường không khí. Pháp luật môi
trường hiện hành chưa đưa ra cách hiểu thế nào là ngăn chặn ô nhiễm môi trường; chưa
quy định cụ thể về ngăn chặn ÔNMTKK từ nguồn thải di động cũng như nguồn thải cố
định; thứ mười hai, chưa có quy định cụ thể về phục hồi môi hiện trạng môi trường
không khí, xác định thiệt hại về môi trường không khí; thứ mười ba, quy định về xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật môi trường không khí. Về trách nhiệm hình sự, Tội gây ô
nhiễm môi trường được quy định trong Bộ luật Hình sự từ năm 1999 đến nay. Theo quy
định của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi 2009 thì tội này cấu thành vật chất tức là
phải có hậu quả nghiêm trọng xảy ra mới bị truy cứu nên cũng gây khó khăn cho quá
trình đấu tranh phòng chống tội phạm. Do vậy, đến nay chưa có một cá nhân nào bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Hiện nay, Dự thảo Bộ luật Hình sự 2015 đang được
xem xét thông qua, Tội gây ô nhiễm môi trường được quy định tại Điều 231. Có điểm
mới là tội này chuyển sang cấu thành hình thức tức là chì cần có hành vi nguy hiểm cho
xã hội là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mặc dù vậy, Dự thảo Tội này vẫn chỉ áp
dụng với hành vi thải khí và bụi, mà chưa quy định đối với hành vi vi phạm pháp luật
môi trường về độ rung, tiếng ồn, mùi. Hơn nữa, theo quy định thì hành vi xả thải phải
đạt một tải lượng nhất định thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, quy định này khó ở
chỗ việc xác định tải lượng này với môi trường không khí là không hề dễ dàng. Về trách
nhiệm kỷ luật với cán bộ, công chức quản lý nhà nước về môi trường cũng chưa được
quy định rõ ràng và thực tiễn áp dụng chưa thật khách quan, công khai, minh bạch; thứ
mười bốn, về tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường
không khí. Có thể thấy các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường nhiều, nhưng chưa
có cơ quan chuyên trách về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Hơn nữa, nhiều cơ
quan tham gia quản lý thực tiễn cho thấy không hiệu quả dẫn tới hiện tượng cha chung
không ai khóc còn môi trường không khí vẫn bị ô nhiễm trầm trọng;
Thứ mười năm, chính trị xã hội, chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức quốc tế phi
chính phủ, cộng đồng dân cư có vai trò đặc biệt quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm môi
130
trường không khí. Mặc dù Luật Bảo vệ Môi trường đã phần nào ghi nhận trách nhiệm
của các tổ chức này, nhưng cho có những quy định cụ thể nhằm phát huy mạnh mẽ hơn
các các chủ thể này vào giám sát, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; thứ mười
sáu, chưa có chích sách khuyến khích thúc đẩy thực hiện trách nhiệm xã hội của các
doanh nghiệp; các công cụ kinh tế đã được sử dụng để kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí, nhưng vẫn chưa đạt được hiệu quả mong muốn;
Ba là, thiếu văn bản quy định pháp luật đặc thù cho quản lý môi trường không
khí. Luật BVMT và các quy định khác về BVMT không khí quá chung chung, thiếu sót,
hạn chế như đã trình bày ở phần trên nên rất khó thực hiện. Trong khi các quy định về
BVMT trong nước thải, chất thải rắn, chất thải nguy hại…đều được chú trọng thì quy
định về quản lý chất lượng không khí (trừ TCVN, QCVN) hầu như chưa có (nghị định,
quyết định, thông tư,...) nào quy định. Đặc biệt, thiếu kết hợp quản lý chất lượng không
khí giữa trung ương và địa phương.
Bốn là, chức năng, nhiệm vụ, thể chế và tổ chức quản lý môi trường không khí đô
thị chưa rõ ràng, thiếu nhất quán giữa các ngành tài nguyên môi trường, giao thông vận
tải, chất thải, xây dựng ,… Bộ TNMT được Chính phủ giao thống nhất đầu mối quản lý
nhà nước về môi trường trong đó có môi trường không khí, nhưng: Quyết định số
328/2005/QĐ-TTg, Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg giao nhiệm vụ kiểm soát ô nhiễm
không khí đô thị, cải thiện chất lượng không khí đô thị cho Bộ GTVT. Cơ chế phối hợp
công tác, chia sẻ thông tin về quản lý nhà nước về kiểm soát ô nhiễm của Bộ TNMT và
các bộ ngành, giữa cơ quan trung ương và địa phương chưa được thực hiện. Chưa xác
định được phạm vi trách nhiệm của Bộ TNMT và các bộ ngành khác như tài nguyên môi
trường, giao thông vận tải, chất thải, xây dựng,… trong kiểm soát, đánh giá nguồn thải.
Năm là, về thực tiễn kiểm soát cho thấy. Tổ chức bộ máy chưa hoàn thiện, đầy đủ
từ trung ương đến địa phương (từ năm 2008 mới có cơ quan quản lý nhà nước cấp TW về
không khí); quan trắc và kiểm kê nguồn phát thải còn yếu (chưa chính xác, đồng bộ, hiệu
quả, kết nối thông tin…); công cụ KSON không khí còn thiếu (quy định, công nghệ, theo
dõi, kiểm kê…); đầu tư cho hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường không khí chưa đáp
ứng được yêu cầu (ít dự án về không khí); đào tạo, nghiên cứu chưa đáp ứng yêu cầu (đào
tạo chuyên nghiệp, ngắn hạn); truyền thông, nâng cao nhận thức chưa tốt (chưa có chương
trình riêng, dân ít biết, các cấp lãnh đạo ít quan tâm); sự tham gia của cộng đồng, chia sẻ
thông tin còn nhiều hạn chế (ít thông tin về không khí); ý thức BVMT không khí của
doanh nghiệp (xử lý chưa tốt, xả lén…), doanh nghiệp chưa nhận thức được đây không
chỉ là trách nhiệm pháp lý mà còn là trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp;
131
Kết luận Chƣơng 3
Chương 3:“Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở
Việt Nam hiện nay”, tác giả đề cập và giải quyết những vấn đề sau:
Một là, phân tích và làm sáng tỏ thực trạng các quy định pháp luật về quy chuẩn
kỹ thuật môi trường không khí, tiêu chuẩn môi trường không khí và thực tiễn thực hiện
các quy chuẩn này ở Việt Nam, bao gồm quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường
không khí xung quanh và quy chuẩn về khí thải. Qua đó chỉ ra cho đến nay Nhà nước ta
ngày càng hoàn thiện hơn các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường không khí. Tuy nhiên,
luận án cũng cho thấy rất nhiều quy chuẩn hiện nay đã lạc hậu cần phải chỉnh sửa, bổ
sung cho phù hợp với thực tiễn. Đặc biệt đến nay, vẫn còn thiếu một số quy chuẩn, như
quy chuẩn về chất lượng môi trường không khí xung quanh đối với mùi, quy chuẩn kỹ
thuật về chất lượng môi trường không khí trong nhà,…;
Hai là, đánh giá thực trạng quy định về phòng ngừa ô nhiễm môi trường không
khí, trong đó chỉ ra mặc dù Nhà nước ta đã ban hành các quy định về phòng ngừa ô
nhiễm môi trường không khí, như: các quy định về chính sách, khuyến khích, tạo điều
kiện kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; quy định về phát triển bền vững; quy
định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, kế hoạch bảo vệ
môi trường; về dự báo ô nhiễm môi trường không khí; về quản lý khí thải nhằm phòng
ngừa ô nhiễm môi trường không khí; về ứng phó với biến đổi khí hậu và cơ chế phát
triển sạch; về áp dụng các công cụ kinh tế trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí; nghĩa vụ thực hiện các quy định cấm nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không
khí. Qua đó khẳng định pháp luật môi trường đã có quy định về những vấn đề này ở các
mức độ khác nhau. Mặc dù vậy có nhiều quy định còn chưa hoàn thiện đồng thời thực
tiễn thực thi pháp luật về vấn đề này vẫn còn nhiều bất cập thiếu hiệu quả. Ví dụ: Việt
Nam đã có chính sách, ưu đãi các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí, nhưng thực tiễn lại khó thực hiện do những khó khăn trong quá
trình tổ chức thực hiện;,…;
Ba là, phân tích các quy định pháp luật về thanh tra, kiểm tra, phát hiện các hành
vi vi phạm pháp luật môi trường không khí và thực tiễn hoạt động này ở Việt Nam, như:
các quy định về quan trắc hiện trạng môi trường không khí, thông tin tình hình môi
trường không khí, thanh tra, kiểm tra phát hiện ô nhiễm môi trường không khí. Theo đó
chỉ ra những bất cập, thiếu sót trong quy định và thực hiện pháp luật về vấn đề này. Ví
dụ: quy định về thanh tra hiện trạng môi trường không khí còn dàn trải, hay về thông tin
tình hình môi trường không khí với quy định trong pháp luật hiện hành như hiện nay
còn chưa đảm bảo được sự chủ động của người dân trong tiếp cận thông tin về ô nhiễm
môi trường không khí. Bên cạnh đó, thực hiện thực hiện cũng cho thấy thiếu hệ thống
132
quan trắc về môi trường không khí và người dân còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận
thông tin về môi trương không khí,…
Bốn là, tiếp đó Chương này cũng phân tích rõ các nguồn thải có thể gây ô nhiễm
môi trường không khí, như nguồn thải cố định và nguồn thải di động. Đồng thời đối với
nguồn thải di động phải ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí ngay từ trước khi
phương tiện được phép đưa vào lưu thông. Còn đối với các phương tiện đã đưa vào lưu
thông mà vượt quá quy chuẩn môi trường không khí cho phép thì sẽ bị thu hồi thải bỏ.
Bên cạnh đó, có thể ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí thông qua việc sử dụng
nhiên liệu sạch,…
Năm là, phân tích các quy định pháp luật về xử lý ô nhiễm môi trường không khí,
như: các quy định về xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, quy định về
khắc phục ô nhiễm, phục hồi hiện trạng môi trường, các quy định về xử lý các hành vi
làm ô nhiễm môi trường, theo đó chủ thể gây ô nhiễm môi trường tùy theo mức độ có
thể bị xử lý trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm kỷ luật hay trách
nhiệm dân sự. Bên cạnh đó cũng phân tích những bất cập trong ban hành và thực hiện
pháp luật về vấn đề này;
Sáu là, từ những phân tích thực trạng các quy định pháp luật và thực tiễn thực
hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay. Tác
giả chỉ ra những bất cập, thiếu sót trong các quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện
pháp luật về vấn đề này.
133
Chƣơng 4
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT
Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM
4.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí ở Việt Nam hiện nay
Một là, xuất phát từ nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Như chúng ta biết sự phát triển của xã hội văn minh dựa trên ba trụ cột Nhà
nước pháp quyền, kinh tế thị trường và xã hội dân sự. Trong đó kinh tế thị trường là đầu
máy kéo xã hội phát triển, Nhà nước pháp quyền là đòn bảy và xã hội dân sự canh
chừng cho sự phát triển đó được dân chủ, công bằng, bình đẳng nhằm tránh sự lạm
quyền của Nhà nước, tránh những tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường. Trong Nhà
nước pháp quyền bảo vệ quyền con người vừa là nguồn gốc vừa là nguồn lực, vừa là
mục tiêu của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền mà quyền con người đương nhiên
không chỉ đơn giản là quyền được sống, quyền tự do theo nghĩa chung nhất mà phải
được sống trong môi trường trong lành sạch đẹp trong môi trường đó con người được
sống trường thọ, sống mạnh khỏe và sống hữu ích. Do vậy, việc kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí đóng vai trò rất quan trọng để đạt được mục tiêu này.
Hai là, xuất phát từ đường lối, quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường trong
đó đề cao việc kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường nói chung, môi trường không
khi nói riêng. Quan điểm này đã được thể hiện rất rõ trong Kế hoạch quốc gia về môi
trường và phát triển bền vững 1991-2000, Chỉ thị 36 ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị
khoá VIII, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 -2010 được Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX; văn kiện Đai biểu đại hội toàn quốc lần thứ XII năm 2016, Nghị quyết
số 41 của Bộ Chính trị khoá IX (ngày 15/11/2004) và Chiến lược Bảo vệ Môi trường
Quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 cũng đưa ra mục tiêu ngăn chặn,
hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường, suy thoái và sự cố môi trường do hoạt
động của con người và tác động của tự nhiên gây ra; khắc phục ÔNMT, trước hết ở
những nơi đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, xử lý nghiêm các cơ sở gây ÔNMT không khí.
Đặc biệt là Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban chấp hành TW Đảng khóa XI về bảo vệ
tài nguyên môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu năm 2013. Trong Nghị
quyết này Đảng Cộng sản Việt Nam đã có đánh giá toàn diên về vấn đề khai thác, sử
dụng tài nguyên môi trường trong suốt gần 30 năm đổi mới từ 1986 – 2015 và đã chỉ ra
thực tiễn rất quan trọng về vấn đề này, như tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, Việt Nam bị
ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu nặng nề do ô nhiễm môi trường không khí gây ra. Từ đó
Nghị quyết này đã đưa ra chủ trương cần phải tăng cường không chỉ bảo vệ môi trường
mà còn bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời phải chủ động ứng phó với biến đổi
134
khí hậu. Đây là cơ sở rất quan trọng để Nhà nước ta hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi
trường nói chung, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nói riêng.
Ba là, xuất phát từ chính thực trạng môi trường không khí của Việt Nam. Những
năm qua do việc phát triển kinh tế một cách ồ ạt thiếu quy hoạch hợp lý của đã gây ra
nhiều thiệt hại cho môi trường không khí và cho cộng đồng. Sự quá coi trọng giá trị
GDP mà không chú ý đến những hậu quả to lớn về môi trường đã dẫn đến môi trường
không khí bị ô nhiễm ở mức báo động cao. Nhiều vụ ô nhiễm nghiêm trọng đã xảy ra
gây ra thiệt hại lớn cho Nhà nước và xã hội. Ví dụ ô nhiễm khí thải do chất thải của nhà
máy nhiệt điện Phả Lại gây ra với người dân ở Hải Dương và Bắc Ninh, hay gần đây
nhất ô nhiễm môi trường không khí do chất thải của Nhà máy nhiệt định Vĩnh Tân 2 gây
ra với môi trường không khí và ảnh hưởng đến hàng nghìn người dân ở tỉnh Bình
Thuận,… gây ra những bức xúc trong xã hội về vấn đề này. Thực tiên này đặt ra vấn đề
cần có biện pháp để kiểm soát có hiệu quả ô nhiêm môi trường không khí.
- Bốn là, xuất phát từ thực trạng các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí. Các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung, pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nói riêng ngày càng được ban hành và hoàn
thiện, nhưng các quy định này cả dưới giác độ lý luận và thực tiễn cho thấy chưa đồng
bộ, còn tản mạn, thiếu sót và hạn chế và chưa mang tính hệ thống cần phải được nghiên
cứu hoàn thiện nhằm góp phần kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường không khí.
Năm là, cùng với xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa. Việt Nam ngày càng chủ
động hội nhập khu vực và quốc tế. Ở cấp độ song phương với phương châm đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, trên tình thần coi tất cả các nước là bạn, hợp tác
cũng cũng có lợi, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia trên
thế giới và hiện nay Việt Nam có rất nhiều đối tác chiến lược, như Việt Nam – Liên
bang Nga, Việt Nam Ấn Độ, Việt Nam – Thái Lan, Việt Nam – Sigapo,.. hay đối tác
toàn diện, như Việt Nam – Australia, Việt Nam – Hoa Kỳ, Việt Nam – NiuDiLan,… Ở
cấp độ khu vực, Việt Nam đã tham gia vào Tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Diễn đàn kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC),… Còn ở cấp độ phổ
cập toàn cầu Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đặc biệt hiện
Việt Nam đã tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tham gia vào
sân chơi chung, Việt Nam phải tuân thủ luật chơi chung, điều này dẫn tới Việt Nam phải
đẩy mạnh hoàn thiện pháp luật của mình, trong đó có pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí.
Những nhu cầu đó đặt ra vấn đề phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
môi trường nói chung, trong đó có pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
135
4.2. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật nâng cao hiệu quả kiểm soát ô nhiễm không
khí ở Việt Nam
Các quốc gia trong quá trình phát triển, để kiểm soát ô nhiễm môi trường, trong
đó có môi trường không khí họ đều đưa ra những quan điểm, những chiến lược phát
triển góp phần định hướng xây dựng chính sách, pháp luật nhằm kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí được hiệu quả. Ví dụ: tại Singapo, nước này đã ban hành Chiến lược
kiểm soát ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường không khí, gồm 4 yếu tố: Phòng
chống, Thực thi, Giám sát, Giáo dục. Chiến lược thiết yếu vì môi trường bao gồm: 1)
đạt được mức độ nhận thức cao về môi trường ở Singapo; 2) thúc đẩy công nghệ làm
sạch môi trường và bảo tồn tài nguyên; 3) BVMT địa phương cũng như môi trường toàn
cầu [81]. Hay ở Trung Quốc, để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được hiệu
quả, nước này cũng thông qua Chiến lược kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
quốc gia đến năm 2050 với những mục tiêu rất rõ ràng và cụ thể là bảo vệ sức khỏe
cộng đồng và an toàn sinh thái. Tất cả mọi nơi phải đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng môi
trường không khí quốc gia bằng cách thực hiện hành động quốc gia về không khí sạch
và hầu hết mọi khu vực cơ bản đạt được giá trị về chất lượng không khí xung quanh của
WHO. Trong Chiến lược cũng quy định riêng để kiểm soát các loại khí gây ô nhiễm
nghiêm trọng như SO2, NOx. Các quy định cơ bản tập trung vào việc thực thi kiểm soát
tổng lượng phát thải ở các khu vực điển hình và các tác nhân quan trọng gây ô nhiễm.
Đối với khí NOx có các quy tắc kiểm soát, thực thi các chính sách kiểm soát phát thải ở
các khu vực ô nhiễm công nghiệp nặng [22][115]. Hay tại Hoa Kỳ, áp dụng Chiến lược
“Tái công nghiệp hóa”. Tháng 11 năm 2009, Tổng thống Obama đưa ra mô hình tăng
trưởng của Mỹ phải chuyển sang mô hình tăng trưởng bền vững. Trong Chiến lược “Tái
công nghiệp hóa” cho giai đoạn 10 năm tới nhằm phát triển công nghệ mới, hỗ trợ cho
các nguồn năng lượng mới, khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tiết
kiệm năng lượng, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Mỹ muốn trở thành nhà lãnh
đạo sạch trong công nghệ. Hướng tiếp cận mới theo cách “Kinh tế các bon thấp”, giảm
thiểu phát thải khí nhà kính. Những chiến lược này đã giúp các quốc gia kiểm soát hiệu
quả hơn các ô nhiễm môi trường không khí do phát triển kinh tế gây ra [56]. Có thể thấy
do tầm quan trọng của môi trường không khí đối với sự sinh tồn của con người và sinh
vật, nhiều quốc gia trên thế giới đã ban hành các chiến lược để định hướng quá trình xây
dựng chính sách, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Ở Việt Nam, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí là một trong những quan
tâm hàng đầu của Đảng ta trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế. Tầm quan trọng của vấn đề này được đề cập đến trong nhiều văn kiện
cũng như các Nghị quyết của Đảng. Do vậy, trong quá trình hoàn thiện chính sách, pháp
136
luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, để có thể kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí được hiệu quả tác giả cho rằng cần dựa trên những định hướng sau:
- Hoàn thiện chính sách, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
cần gắn với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo đảm quyền được sống trong
môi trường trong lành;
- Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí phải phù hợp với các cam
kết quốc tế, cũng như khu vực, đặc biệt là Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Thỏa
thuận này nhấn đã nhấn mạnh đến sự chung tay của các quốc gia trong thích ứng và
giảm nhẹ biến đổi khí hậu trên nguyên tắc đảm bảo sự công bằng trong hưởng thụ các
giá trị về môi trường giữa các quốc gia, giữa các vùng, các địa phương, các cộng đồng
và phải hài hòa được lợi ích giữa doanh nghiệp với cộng đồng và môi trường. Do vậy,
chính sách pháp luật Việt Nam về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cũng cần
hướng đến điều này. Đồng thời cũng cần phải cụ thể hóa được những vấn đề Việt Nam
đã cam kết theo Thỏa thuận. Đặc biệt là phải tận dụng được những lợi ích mà thỏa thuận
Paris sẽ mang lại cho Việt Nam nhằm kiểm soát hiệu quả ô nhiễm môi trường không khí
chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Chính sách, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần gắn với
vai trò của các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư. Tăng cường đề cao trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp và tăng cường sử dụng các công cụ kinh tế trong kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí.
- Xây dựng chính sách pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần
tập trung vào kiểm soát ô nhiễm tại nguồn nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không
khí. Cần bắt đầu ngay từ chính sách thu hút đầu tư, không phải thu hút đầu tư bằng mọi
giá mà tập trung thu hút đầu tư những lĩnh thân thiện môi trường. Các dự án đầu tư cần
được kiểm soát ngay từ khi xem xét chấp nhận chủ trương đầu tư và coi trọng cả tiền
kiểm và hậu kiểm xây dựng lập và tổ chức thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi
trường của chủ đầu tư dự án đầu tư;
- Xây dựng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật bảo vệ môi trường không
khí cần đặt ra lộ trình. Cần tiến tới xây dựng Chiến lược bảo vệ môi trường không khí và
hướng tới xây dựng Luật Không khí sạch ở Việt Nam. Quá trình này có thể tiếp cận theo
một trong 2 hướng. Một là, xây dựng Bộ luật Môi trường với các nguyên tắc, quy định
chung nhằm điều phối, kết nối các quy định về bảo vệ môi trường giữa các luật cụ thể
như: Luật Thủy sản, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Đa dạng sinh học, Luật Tài
nguyên nước, Luật Khoáng sản, Luật Không khí sạch,… Hai là, xây dựng một Bộ luật
Môi trường thống nhất trên cơ sở pháp điển hóa toàn bộ các quy định trong các luật
chuyên ngành liên quan đến bảo vệ tài nguyên môi trường, trong đó có quy định về
137
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí nhằm tạo ra sự thống nhất trong các quy định
pháp luật về bảo vệ môi trường cũng như kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Những phương hướng lớn về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí sẽ là cơ sở
quan trọng cho quá trình xây dựng hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí ở Việt Nam hiện nay.
4.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trƣờng không
khí ở Việt Nam hiện nay
4.3.1. Các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, cần tiếp cận cách hiểu về kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, môi
trường không khí nói riêng dựa trên nội hàm của thuật ngữ kiểm soát và theo hướng
kiểm soát chủ động. Cụ thể trước đây mọi người hiểu kiểm soát ô nhiễm là kiểm soát
hành vi vi phạm, còn hiện nay kiểm soát được hiểu rộng hơn không chỉ kiểm soát vi
phạm mà còn là dự báo, cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn nắm được hoạt động của nó
và uốn nắn theo hướng nhất định (kiểm soát chủ động). Theo chúng tôi: kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm
quyền, các chủ nguồn thải và các chủ thể khác trong phòng ngừa, dự báo; theo dõi,
thanh tra, kiểm tra, giám sát, phát hiện những tác động đến môi trường không khí, hiện
trạng môi trường không khí; sự biến đổi của môi trường không khí so với quy chuẩn kỹ
thuật môi trường không khí; ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm, cải tạo phục hồi hiện trạng
môi trường không khí; xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí nhằm đảm
bảo cho môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp. Tiếp đó, cần phải quy định rõ
nội hàm của kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng
vào trong Luật, như: các quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí, tiêu
chuẩn môi trường không khí coi đây là cơ sở để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý
các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí; các quy định về phòng ngừa, dự báo ô
nhiễm môi trường; các quy định về thanh tra, kiểm tra, phát hiện ô nhiễm môi trường;
các quy định về ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường; các quy định về
xử lý ô nhiễm môi trường. Trong đó quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải và các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư
trong thực hiện các nội dung trên nhằm giữ cho môi trường không khí được trong lành.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí gắn với
bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. Quyền này đã được ghi nhận tại
Điều 43 Hiến pháp 2013 và trở thành nguyên tắc của Luật Bảo vệ Môi trường năm
2014. Tuy nhiên, vấn đề hiện nay là pháp luật cần quy định rõ cơ chế pháp lý để bảo
đảm thực hiện quyền này trên thực tiễn. Cụ thể cần phải hoàn thiện cơ chế bảo hiến để
138
người dân có thể thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành qua cơ chế
này. Hiện nay, tại Điều 119 Hiến pháp 2013 đã quy định cơ chế bảo hiến do Luật định,
nhưng Luật cụ thể hóa quyền của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước,
Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước
trong bảo vệ quyền này hay sẽ thành lập ra một cơ quan mới riêng biệt để bảo vệ. Nếu
thành lập ra một cơ quan mới liệu có vi hiến không. Ví dụ: thành lập ra Cơ quan nhân
quyền quốc gia để bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền được sống trong môi
trường trong lành [73]. Hơn nữa, trong lúc chưa hoàn thiện cơ chế hiến pháp để bảo vệ
quyền được sống trong môi trường trong lành thì điều quan trọng là chúng ta cần phải
hoàn thiện cơ chế pháp lý thông thường. Theo đó cần cụ thể hóa các quy định về xác định
thiệt hại môi trường không khí làm cơ sở để yêu cầu bồi thường thiệt hại về môi trường
không khí. Ghi nhận quyền khởi kiện tập thể liên quan đến ô nhiễm môi trường không
khí, quyền hội họp, biểu biểu tình vì môi trường; quy định về đảo nghĩa vụ chứng minh
khi yêu cầu bồi thường thiệt hại về môi trường không khí, thiệt hại về sức khỏe, tài sản,
tính mạng do ô nhiễm môi trường không khí gây ra,… Hiện nay, Bộ luật Tố tụng Dân sự
2015 đã bước đầu ghi nhận về vấn đề này, mặc dù vậy cần có những hướng dẫn cụ thể
hơn để bảo vệ có hiệu quả quyền được sống trong môi trường trong lành của mọi người
khi bị hành vi vi phạm pháp luật môi trường xâm phạm.
Thứ ba, cần cụ thể hơn nữa các quy định về khuyến khích cho tổ chức, cá nhân
thực hiện các hoạt động thân thiện môi trường không khí cũng như ứng phó với biến đổi
khí hậu. Không chỉ khuyến khích mà Nhà nước còn quy định cụ thể về trách nhiệm của
mình trong tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ đối với quá trình này. Ví dụ: như ban hành các
chính sách về miễn, giảm thuế, về hỗ trợ tài chính, hỗ trợ mở rộng thị trường,… cho tổ
chức, cá nhân nhằm lan tỏa ngày càng nhiều các hoạt động có lợi cho môi trường không
khí, giúp giảm ô nhiễm môi trường không khí, thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu.
Hơn nữa, để giảm thiểu khí nhà kính và các chất làm suy giảm tầng ozôn, bên cạnh việc
hoàn thiện pháp luật, Nhà nước cần có chính sách để ưu đãi đối với các dự án phát triển
sạch (CDM) và tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho thị trường mua bán cácbon xây dựng
nền kinh tế cacbon thấp. Hiện nay, Việt Nam đã có quy định để thực hiện cơ chế phát
triển sạch, tuy nhiên cần phải quy định theo hướng đơn giản hóa về trình tự thủ tục,
thẩm quyền cho phép thực hiện cần phải có đầu mối thống nhất và rõ ràng tránh chồng
chéo giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Cần nghiên cứu cho phép mua bán quyền
phát trên thị trường chứng khoán theo cách làm của Ấn Độ hiện nay[38].
Thứ tư, đối với các quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí, bao
gồm: quy chuẩn về chất lượng môi trường không khí xung quanh và quy chuẩn kỹ thuật
môi trường về khí thải. Một là, Luật cần phân loại rõ đâu là nguồn thải cố định, đâu là
139
nguồn thải di động để có thể xây dựng được hệ thống quy chuẩn kỹ thuật về khí thải toàn
diện. Ví dụ: khí thải từ máy bay… Hai là, cần nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện quy chuẩn kỹ
thuật môi trường không khí đối với lĩnh vực nông nghiệp, dịch vụ và quy chuẩn môi trường
không khí sử dụng vào mục đích cụ thể như quy chuẩn. Ví dụ: quy chuẩn không khí sử
dụng cho mục đích chữa bệnh, quy chuẩn về mùi trong không khí… Ba là, cần nghiên cứu
xây dựng quy chuẩn môi trường không khí trong nhà, đặc biệt lưu ý đến xây dựng quy
chuẩn môi trường không khí trong nhà tại các nhà máy, xí nghiệp, các siêu thị, các khu vui
chơi, giải trí công cộng,... Hoàn thiện các quy chuẩn này nhằm tạo cơ sở pháp lý cho kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí trong nhà nhằm bảo vệ sức khỏe của người lao động
cũng như mọi người. Đồng thời cũng nhằm phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam
tham gia liên quan đến vấn đề này. Ví dụ: Công ước số 146 của Tổ chức lao động quốc tế
ILO về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí trong các nhà máy, xí nghiệp. Về lâu dài
cần xây dựng quy chuẩn môi trường không khí theo hướng ngày càng phù hợp với quy
chuẩn môi trường của các nước trong khu vực và quốc tế, trong khi vẫn lưu ý đến điều kiện
kinh tế xã hội của Việt Nam. Ví dụ: hiện nay quy chuẩn về khí thải từ phương tiện giao
thông của Việt Nam mới ở mức tương đương EURO 2, trong khi châu Âu và các nước phát
triển khác đã tiến đến EURO 5 [131].
Thứ năm, đối với các quy định về hoạt động đánh môi trường chiến lược (ĐMC),
giá tác động môi trường (ĐTM) và kế hoạch bảo vệ môi trường (KBM). Hiện nay, pháp
luật vẫn chưa quy định rõ nội dung về đánh giá tác động môi trường không khí nên có
thể sẽ bị các chủ thể có trách nhiệm xem nhẹ khi lập báo cáo ĐMC, ĐTM hay kế hoạch
bảo vệ môi trường. Hơn nữa, trong đánh giá môi trường thì việc thẩm định báo cáo
ĐMC và ĐTM là rất quan trọng, nhưng quy định như pháp luật môi trường hiện hành sẽ
gây nên hiện tượng vừa đá bóng vừa thổi còi. Ví dụ: các dự án chiến lược, quy hoạch
hay các dự án đầu tư cụ thể mà thuộc thẩm quyền phê duyệt của các Bộ, cơ quan ngang
Bộ hay UBND cấp tỉnh thì chính các cơ quan này được tổ chức thành lập Hội đồng thẩm
định (điểm c, điểm b khoản 1 Điều 16; khoản 2, 3, 4 Điều 23) [83] nên có thể sẽ có
những tác động của các cơ quan này vào quá trình thẩm định ĐMC và ĐTM, đặc biệt hiện
nay chúng ta chưa quy định cụ thể trách nhiệm pháp lý với hội đồng thẩm định khi thẩm
định sai. Do vậy: một là, cần quy định đánh giá tác động môi trường không khí và biến
đổi khí hậu là một nội dung quan trọng trong các báo cáo ĐMC, ĐTM và KBM ; hai là,
cần cụ thể hóa trách nhiệm pháp lý rõ ràng đối với Hội đồng thẩm định cũng như cơ quan,
tổ chức được xin ý kiến trong trường hợp không thực hiện đúng trách nhiệm của mình gây
ra thiệt hại cho môi trường nhằm tăng cường trách nhiệm của các Hội đồng cũng như các
cơ quan, tổ chức này trong thẩm định.
Thứ sáu, cần đưa ra khái niệm biến đổi khí hậu, để có cách thức ứng phó với biến
140
đổi khí hậu cho hiệu quả. Hay nói cách khác nếu không hiểu được biến đổi khí hậu là gì
thì không dễ đưa ra được giải pháp phù hợp, hiệu quả để ứng phó. Hơn nữa, dù Luật
Bảo vệ Môi trường năm 2014 đã đưa ra cách hiểu về ứng phó với biến đổi khí hậu theo
đó bao gồm thích nghi với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Luật này dành
riêng Chương IV để quy định về ứng phó với biến đổi khí hậu, nhưng qua nghiên cứu
các quy định này còn rất dàn trải, chung chung và chưa logic theo từng vấn đề. Tác giả
cho rằng sẽ hợp lý và logic hơn nếu quy định tại Chương IV của Luật được thiết kế theo
nội hàm mà tại Điều 3 của Luật đã định nghĩa. Cụ thể là các quy định về thích ứng với
biến đổi khí hậu, gồm: pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước, pháp luật về bảo vệ không
khí, quy định về bảo vệ tài nguyên rừng, pháp luật về bảo vệ tài nguyên khoáng sản,...và
các quy định về giảm nhẹ biến đổi khí hậu gồm: quy định về giảm phát thải các chất độc
hại gây biến đổi khí hậu, quy định về đánh giá tác động môi trường (ĐTM), quy định về
năng lượng sạch và năng năng lượng tái tạo,…;
Thứ bảy, Luật cần quy định rõ hơn nữa trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, hộ gia
đình khi có hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Một
là, về biện pháp xử phạt tiền. Đây là biện pháp đánh trực tiếp đến lợi ích của người vi
phạm vì vậy có hiệu quả rất cao. Số tiền phạt nên ở mức cao so với mức sống trung
bình, như vậy mới có tính răn đe cao. Nên phân loại phạt tiền lần đầu với phạt tiền lần
tái phạm, trong đó phạt tiền lần tái phạm sẽ phải cao hơn lần đầu. Số tiền phạt do hành
vi phạm nên cao hơn số tiền mà chủ thể vi phạm phải bỏ ra để thực hiện việc cải tạo ô
nhiễm môi trường không khí và lắp đặt hệ thống xử lý khí thải. Hai là, cần bổ sung một
số hành vi bị cấm trong Luật Bảo vệ môi trường 2014 vào Bộ luật hình sự sửa đổi sắp
tới nhằm tăng tính răn đe với hành vi vi phạm pháp luật môi trường, như: hành vi gây
tiếng ồn, độ rung vượt tiêu chuẩn cho phép; sinh sống ở khu vực được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền xác định là khu vực cấm do mức độ nguy hiểm về môi trường đối với
sức khỏe và tính mạng con người; hành vi cản trở hoạt động bảo vệ môi trường,... Ba là,
bên cạnh xử lý hành chính cần nghiên cứu quy định áp dụng trách nhiệm hình sự với
pháp nhân vi phạm pháp luật môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng.
Bởi thực tiễn nước ta những năm gần đây cho thấy ô nhiễm môi trường không khí từ
chất thải của các doanh nghiệp ngày càng nhiều [10] gây ảnh hưởng lớn đến môi trường
và sức khỏe người dân. Hiện nay, có bổ sung áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp
nhân hay không vẫn có hai quan điểm: quan điểm thứ nhất cho rằng không cần áp dụng
bởi trách nhiệm hình sự pháp nhân có thể bị hình phạt tiền cao hơn so với trách nhiệm
hành chính hoặc chấm dứt hoạt động của pháp nhân, nên vậy hai hình phạt cơ bản này
có thể giải quyết thông qua trách nhiệm hành chính. Hơn nữa, nếu áp dụng trách nhiệm
hình sự đối với pháp nhân thì không xác định đủ yếu tố cấu thành tội phạm vì sẽ không
141
thể xác định được lỗi của tổ chức. Thực tế cho thấy nhiều năm nay chúng ta áp dụng
trách nhiệm hành chính đối với pháp nhân, nhưng không hiệu quả, ô nhiễm môi trường
vẫn xảy ra, thậm có nhiều trường hợp khi bị xử phạt vi phạm hành chính họ vẫn nộp tiền
phạt và tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật môi trường. Hơn nữa, pháp nhân vi phạm
pháp luật môi trường không chỉ là pháp nhân trong nước mà còn có cả pháp nhân nước
ngoài, nếu pháp nhân nước ngoài mà bỏ trốn khỏi Việt Nam thì rất khó áp dụng trách
nhiệm hành chính với họ, nhưng nếu áp dụng trách nhiệm hình sự với pháp nhân thì
chúng ta hoàn toàn có thể giải quyết được trong trường hợp này dựa trên các cơ chế
pháp lý trong nước và quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Do vậy quan điểm thứ hai
trong đó có tác giả cho rằng cần nghiên cứu áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp
nhân bởi mặc dù hình phạt tiền và đình chỉ hoạt động của pháp nhân có thể được thực
hiện thông qua trách nhiệm hành chính nhưng rõ ràng áp dụng trách nhiệm hình sự sức
răn đe sẽ lớn hơn rất nhiều so với trách nhiệm hành chính, đồng thời giúp các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền có nhiều lựa chọn hơn trong giải quyết hành vi làm ô nhiễm
môi trường do pháp nhân gây ra căn cứ theo mức độ nguy hiểm của hành vi và thiệt hại
xảy ra với môi trường. Còn yếu tố lỗi, ô nhiễm môi trường mang tính chất đặc thù nên
thiệt hại môi trường do pháp nhân gây ra chúng ta có thể nghiên cứu cho phép không
cần xác định yếu tố lỗi trong trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân
tức là lỗi suy đoán có hành vi vi phạm pháp luật là có lỗi. Thực tế vấn đề này đã được áp
dụng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi làm ô nhiễm môi
trường gây ra theo quy định trong Bộ luật Dân sự 2005.
Thứ tám, về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền trong
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia thì vấn đề
quản lý nhà nước về môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng hiện nay còn
lỏng lẻo, khi cán bộ, công chức thực thi pháp luật môi trường vi phạm thì việc xử lý
trách nhiệm pháp lý vẫn chưa được triệt để, chưa đảm bảo tính răn đe. Đây là vấn đề rất
lớn cần được quy định chặt chẽ, rõ ràng, minh bạch và thực hiện xử lý công khai nhanh
chóng trên thực tiễn nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí được hiệu quả. Bên
cạnh đó, cần phải nâng cao vai trò của các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư trong giám
sát việc thực thi pháp luật của các cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền cũng như
các cá nhân, tổ chức chủ nguồn thải kết hợp với phương tiện truyền thông nhằm nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật. Để làm được điều này thì cần phải có quy định cụ thể về
cơ chế bảo vệ quyền khởi kiện tập thể, quyền biểu tình hợp pháp về môi trường, quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí theo như những trình bày ở trước đó.
Thứ chín, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường không khí. Pháp luật
hiện hành chưa quy định về vấn đề này do cho rằng việc xác định thiệt hại đối với môi
142
trường không khí là không dễ dàng do đặc tính của không khí là tính khuyếch tán, lan
truyền,… Tuy nhiên, việc không quy định làm cho môi trường không khí ngày càng bị ô
nhiễm trầm trọng, trong khi các cá nhân, tổ chức gây ô nhiễm vẫn không phải bồi
thường những thiệt hại do mình gây ra, đồng thời không có cơ sở để người cá nhân, tổ
chức bị thiệt hại về sức khỏe, tài sản, tính mạng được yêu cầu bồi thường thiệt hại do
hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí gây ra. Do vậy, tác giả cho rằng cần nhanh
chóng đưa quy định vấn đề này vào trong pháp luật và có thể xác định thiệt hại môi
trường không khí dựa trên tính tổng công suất hoạt động của nhà máy từ đó đưa ra được
lượng thải chưa được xử lý ra môi trường không khí và mức bồi thường là chi phí để xử
lý lượng thải đó đạt quy chuẩn khí thải. Khi xác định được ô nhiễm môi trường không
khí, đó sẽ là cơ sở cho tổ chức cá nhân được yêu cầu bồi thường thiệt về sức khỏe, tính
mạng, tài sản do ô nhiễm không khí gây ra. Ví dụ: ô nhiễm môi trường tại Thạch Sơn,
Lâm Thao, Phú Thọ gây thiệt hại lớn cho môi trường đất, nước, không khí và sức khỏe,
tính mạng của người dân. Tuy nhiên, do chưa xác định được mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi làm ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí của Supe phôtphát Lâm Thao đối
với thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của người dân nên họ không được bồi thường thiệt
hại,…[54]. Một vấn đề nữa, là các quy định pháp luật cần hướng tới phân biệt rõ trách
nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường không khí với chi phí bỏ ra để khắc phục ô nhiễm,
phục hồi hiện trạng môi trường không khí trong trách nhiệm hành chính. Ở đây có thể
thấy rõ, trách nhiệm hành chính đặt ra ngay khi có hành vi vi phạm pháp luật, còn trách
nhiệm bồi thường thiệt hại đặt ra khi có thiệt hại xảy ra; trách nhiệm hành chính là mang
tính hiệu lực lãnh thổ bắt buộc và không có thỏa thuận, còn trách nhiệm bồi thường thiệt
hại có thể dựa trên thỏa thuận và bồi thường ngang giá; khắc phục ô nhiễm, phục hồi hiện
trạng môi trường biện pháp xử phạt bổ sung, còn việc bồi thường thiệt hại môi trường là
hoạt động chính trong trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại môi trường;
Thứ mười, về lâu dài từ 2020 trở đi cần xây dựng Luật Không khí sạch ở Việt
Nam trên cơ sở như đã đề ra ở phần định hướng. Điều này là cần thiết bởi: một là, đến
2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp, sự phát triển về kinh tế xã hội ổn
định hơn là cơ sở quan trọng để thực hiện kiểm soát ô nhiễm môi trường được hiệu quả
hơn; hai là, thời điểm này Việt Nam đã có hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, đặc biệt là
Việt Nam sẽ gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) thì các yều về
bảo vệ môi trường, trong đó có môi trường không khí, chất lượng không khí sẽ càng cao
lên; ba là, đến năm 2020 hệ thống pháp luật cơ sở về môi trường của Việt Nam cũng
khá hoàn chỉnh do vậy yêu cầu đặt ra là hoàn thiện các quy định Luật chuyên ngành để
có thể kiểm soát được ô nhiễm môi trường tốt hơn là rất cần thiết; bốn là, đến thời điểm
này Việt Nam cũng đã ghi nhận về quyền được sống trong môi trường trong lành được
143
gần 10 năm cụ thể là trong Hiến pháp năm 2013, do vậy yêu cầu bức thiết đặt ra là phải
cần có những quy định cụ thể để bảo vệ quyền này,… Trước một bối cảnh này, tác giả
cho rằng đến giai đoạn 2020 việc ban hành Luật Không khí sạch ở Việt Nam là cần
thiết. Tuy nhiên, Luật này có có khả thi hay không thì còn tùy thuộc vào các quy định cụ
thể của Luật.
Luật Không khí sạch cần quy định về những vấn đề sau: quy định về trách nhiệm
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí của Nhà nước, của các chủ sở hữu nguồn thải,
về quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí; về hoạt động đánh giá tác động môi
trường không khí, về quan trắc và đánh giá hiện trạng, thông tin tình hình môi trường
không khí, quản lý khí thải, về phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, khuyến
khích đa dạng hóa các nguồn đầu tư cho bảo vệ môi trường không khí, áp dụng công cụ
kinh tế trong bảo vệ môi trường không khí, về phí bảo vệ môi trường đối với khí thải, về
trách nhiệm pháp lý đối với chủ sở hữu nguồn thải và cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, nhấn mạnh trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp, trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; khởi kiện tập thể về ô nhiễm môi trường
không khí, phát huy vai trò của cộng đồng trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí, hợp tác liên kết khu vực và quốc tế trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí,…;
Bên cạnh các biện pháp hoàn thiện pháp luật, để kiểm soát được ô nhiễm môi
trường không khí tác giả cho rằng cần phải: Một là, ngoài việc nâng cao trình độ khoa
học kỹ thuật, khuyến khích sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, và tăng cường
đầu tư tài chính cho kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần tuyên truyền giáo dục
đối với cán bộ, công chức và người dân về tầm quan trọng của môi trường không khí
cũng như ý nghĩa của việc bảo vệ môi trường không khí bằng những hành động cụ thể
như. Ví dụ: nên đi xe buýt vừa giảm chi phí, vừa hạn chế tắc đường, giảm ô nhiễm môi
trường không khí, nên ăn trưa gần nơi làm việc nhằm hạn chế sử dụng xe gắn máy, ô tô;
nên đi chung xe khi đi làm, đi học, vui chơi, giải trí; bảo trì xe đúng hạn; trồng cây
xanh; phát hiện và tố cáo hành vi xả trộm khí thải chưa xử lý ra môi trường,... theo
hướng đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường theo nguyên tắc đã đặt ra
trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014.
Hai là, tăng cường hợp tác quốc tế trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Như chúng ta đã biết môi trường không khí không chỉ là vấn đề riêng của quốc gia nào từ
ô nhiễm không khí tầm gần, từ chất phóng xạ của các nhà máy điện hạt nhân bị rò rỉ đến ô
nhiễm không khí tầm xa gây ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, từ suy giảm của tầng
ozon đến biến đổi khí hậu toàn cầu. Tất cả đều cho thấy một quốc gia không thể giải quyết
144
được những vấn đề này. Do vậy, cần phải có sự hợp tác quốc tế trong kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí ở các cấp độ song phương, khu vực cũng như quốc tế [40].
4.3.2. Các biện pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí ở Việt Nam hiện nay
Trên thế giới, tùy theo thực tiễn đất nước mình các quốc gia có nhiều giải pháp
để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, như: tại Philippin là nước có ô nhiễm môi
trường không khí chủ yếu từ các phương tiện giao thông nên để hạn chế ONKK từ xe có
động cơ, Đạo luật Không khí sạch yêu cầu các xe phải được kiểm tra khói thải trước khi
gia hạn đăng ký. Văn phòng Giao thông vận tải Philipin, các trung tâm kiểm tra xe cơ
giới, trung tâm thử nghiệm khí thải tư nhân đã được thành lập ở khắp đất nước để cung
cấp dịch vụ thử nghiệm khí thải đối với các phương tiện giao thông công cộng và xe ô tô
cá nhân. Ngoài ra, Chính phủ còn phát động nhiều chương trình như: Phòng chống
ONKK do khí thải xe cộ; Sử dụng LGU (một loại gas) như một loại nhiên liệu thay thế
cho xăng, sử dụng xe điện, xe 3 bánh chạy bằng pin, chạy bằng khí nén thiên nhiên
CNG; Chương trình quản lý đội xe sạch... Nhờ những giải pháp đó, tình trạng ONKK tại
Philipin đã được cải thiện rất nhiều, môi trường tại các thành phố ngày càng trở nên
Xanh -Sạch - Đẹp hơn và cuộc sống người dân được an toàn hơn. Còn ở Việt Nam, trên
cơ sở khẳng định tầm quan trọng của môi trường không khí đối với cuộc sống, đặc biệt
là sự sinh tồn của con người, tác giả cho rằng để kiểm soát được ô nhiễm môi trường
không khí được hiệu quả cần:
Một là, về tuyên truyền giáo dục.Tăng cường tuyên truyền, giáo dục với người
lãnh đạo, người quản lý và mọi người dân về các nguồn gây ô nhiễm môi trường không
khí, phân loại các nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí, cách thức phòng ngừa ô
nhiễm môi trường không khí do hoạt động của các nguồn thải di động và nguồn thải cố
định, phát hiện ô nhiễm môi trường không khí, cách thức xử lý, giải quyết khi phát hiện
các hành vi làm ô nhiễm môi trường không khí. Tuyên truyền cho người lãnh đạo, người
quản lý sẽ góp phần nâng cao quan trí về vấn đề này khi đó thông qua các quyết sách
hoặc các công việc thực tế của mình họ sẽ quan tâm thích đáng đến kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí. Tuyên truyền đến mọi tổ chức, cá nhân để họ có nhận thức đầy
đủ, đúng đắn hơn về tầm quan trọng của môi trường không khí và từ đó điều chỉnh hành
vi của mình theo hướng thân thiện với môi trường không khí. Điều quan trọng về cách
thức tuyên truyền cần phải đa dạng hóa tùy theo từng chủ thể, từng khu vực để có cách
thức tuyên truyền cho phù hợp. Ví dụ: đối với người lãnh đạo, người quản lý thì có thể
giáo dục thông qua các lớp đào tạo về quản lý, các lớp tập huấn, các hội thảo chuyên
gia, và các phương tiện thông tin đại chúng… Đối với người dân thì phải tuyên truyền
cụ thể dễ hiểu về hành vi nào họ không được làm đối với môi trường không khí và hành
145
vi nào thân thiện môi trường không khí và nên làm. Có thể sử dụng đồng bộ các kênh
tuyên truyền từ đài phát thanh, truyền hình, báo giấy, báo mạng, đặc biệt là các mạng xã
hội,… ở nông thôn có thể tuyên truyền qua đài phát thanh, ở thành thị tập trung tuyên
truyền qua các mạng xã hội, các cổng thông tin điện tử, các báo mạng,… ;
- Hai là, về tài chính cho kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Thứ nhất, cần
tăng cường nguồn lực tài chính cho công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Nguồn tài chính cho công tác này ngoài lấy từ ngân sách nhà nước thì cần phải huy
động từ người dân trong nước cũng như nước ngoài. Kêu gọi sự hỗ trợ tài chính của các
quốc gia, các tổ chức quốc tế trong hỗ trợ tài chính bằng viện trợ không hoàn lại hoặc
cho vay ưu đãi với lãi thấp, hoặc tài trợ cho các dự án phát triển xanh thân thiện môi
trường không khí. Hoàn thiện hệ thống Quỹ Bảo vệ môi trường ở trung ương theo
hướng tách một số nguồn thu, như tiền thu từ bồi thực hiện bảo vệ môi trường, Quỹ Bảo
vệ Môi trường ở địa phương cần được tách bạch giữa quản lý hành chính và quản lý tài
chính đồng thời tiếp tục nghiên cứu mở rộng thêm nguồn thu hợp lý cho các Quỹ này để
góp phần nhiều hơn vào bảo vệ môi trường. Thứ hai, Nhà nước không chỉ đưa ra các
chính sách ưu đãi về vốn vay, ưu đãi về thuế sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế bảo vệ môi
trường,… đối với tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực thân thiện môi trường không khí
và áp dụng các biện pháp như kỹ quỹ một khoản tiền tại tài khoản phong tỏa ở ngân
hàng, áp dụng hạn ngạch khí thái (quota) để hạn chế khí thải gây ô nhiễm môi
trường…đối với các tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực không thân thiện môi trường
không khí. Đặc biệt quan trọng hơn Nhà nước phải tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu
quả các chính sách này trên thực tiễn. Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật
ưu đãi, tạo điều kiện hỗ trợ về kinh phí, về thủ tục thực hiện theo hướng minh bạch, tinh
gọn,nhanh chóng, chi phí thấp cho các dự án phát triển sạch (CDM) và thúc đẩy thị
trường mua bán cácbon giữa Việt Nam với các nước khác và ở trong nước, dần dần thúc
đẩy giao dịch cacbon trên thị trường chứng khoán nhằm giảm thiểu các chất thải cácbon,
ngăn chặn suy giảm tầng ozon, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu,... Đồng thời
cũng phải tổ chức thực thi các chính sách, pháp luật này nghiêm túc trên thực tiễn.
Ba là, về nhân lực tham gia kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Bên cạnh
việc kiện toàn bộ máy nhà nước về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí cần tăng
cường đầu tư nâng cao năng lực của cán bộ, công chức trong quản lý nhà nước về môi
trường không khí. Ngoài những đội ngũ nhân lực có năng lực chuyên môn về kiểm soát
ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, phát huy sức mạnh của cộng đồng trong quá trình
phòng ngừa, phát hiện ô nhiễm môi trường không khí. Nghiên cứu xây dựng mạng lưới
tình nguyện viên về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí từ trung ương đến các địa
phương; xây dựng nhiều cơ chế để trao đổi tương tác ngày càng thuận lợi hơn giữa các
146
cơ quan quản lý nhà nước về môi trường không khí với người dân. Ví dụ: công cụ
Internet, facebook, email,… để các thông tin về tình hình môi trường không khí, hoạt
động của các chủ nguồn thải được giám sát kịp thời.
- Bốn là, về khoa học công nghệ. Nghiên cứu, đầu tư các công nghệ hiện đại để
phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí, để dự báo, giám sát, phát hiện ô nhiễm môi
trường không khí, để ngăn chặn, xử lý ô nhiễm môi trường không khí. Tăng cường năng
lực, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, đào tạo về môi trường không khí (công nghệ xử lý
khí thải, modelling, công nghệ thông tin, kỹ thuật quan trắc, phân tích…). Bên cạnh đó
cần khuyến khích phát triển áp dụng các công nghệ và quy trình sản xuất ít chất thải,
công nghệ sạch, ít gây ô nhiễm môi trường không khí. Bên cạnh việc đầu tư công nghệ
máy móc, trang thiết bị để giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí. Cần phải bảo vệ
tốt diện tích rừng tự nhiên, đẩy trồng rừng sản xuất, rừng phòng hộ nhằm hấp thụ các
chất thải nhà kính ngăn chặn việc tiếp tục suy giảm tầng ozon và chủ động ứng phó với
biến đổi khí hậu.
-Năm là, về hợp tác quốc tế. Ô nhiễm môi trường không khí cùng với suy giảm
tầng ozon, biến đổi khí hậu là vấn đề của toàn cầu và không của riêng quốc gia nào. Do
vậy, để kiểm soát được ô nhiễm môi trường không khí có hiệu quả các quốc gia phải
hợp tác với nhau để chia sẻ, hỗ trợ tài chính, công nghệ và kinh nghiệm kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí, thúc đẩy thị trường mua bán quyền phát thải giữa các quốc
gia. Sự hợp tác này nên được thực hiện ở nhiều cấp độ song phương, khu vực và toàn
cầu. Ở cấp độ toàn cầu bên cạnh các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường không khí
đã đạt được các quốc gia cần có thỏa thuận xây dựng các điều ước quy định cụ thể hơn
về vấn đề này. Ở cấp độ khu vực, là thành viên tích cực của ASEAN, Việt Nam và các
nước của khối cũng như chính ASEAN cần thỏa thuận xây dựng những quy chuẩn
chung về môi trường không khí, ứng phó phòng ngừa khói mù xuyên biên giới, hỗ trợ
các quốc gia thành viên về công nghệ, nguồn vốn để kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí. Ở cấp độ song phương, Việt Nam cần hợp tác với các quốc gia láng giềng
như Trung Quốc, Lào, Campuchia trong hợp tác phòng ngừa ô nhiễm môi trường xuyên
biên giới, trong đó có ô nhiễm môi trường không khí. Bên cạnh đó, tận dụng quan hệ đối
tác chiến lược với Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Anh,… quan hệ đối tác toàn diện với
Hoa Kỳ, Úc, Newzealand,… để kêu gọi sự hỗ trợ của các nước này về tài chính, khoa
học công nghệ, kinh nghiệm trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Ví dụ như
hợp tác song phương giữ hai quốc gia với nhau, hợp tác khu vực và hợp tác toàn cầu,
như với (ADB, JICA, DANIDA, GIZ, KOICA…);
- Sáu là, về tổ chức hệ thống quản lý môi trường không khí. Trên cơ sở tập trung
trách nhiệm cho các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, khắc phục sự phân tán
147
thẩm quyền như hiện nay dẫn tới cha chung không ai khóc. Nghiên cứu xây dựng cơ
quan chuyên trách về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Xác định đúng chức
năng nhiệm vụ của các cơ quan liên quan: Chính phủ, UBND các cấp: chịu trách nhiệm
chung; Bộ, Sở TNMT: chủ trì công tác quản lý chất lượng không khí, kiểm soát nguồn
thải cố định, ô nhiễm vùng, xuyên biên giới; Bộ, Sở Giao thông vận tải chủ trì KSON
nguồn thải di động; Các bộ ngành khác phối hợp KSON không khí theo lĩnh vực quản
lý; Xây dựng các quy định đặc thù về quản lý chất lượng không khí (KHQLCLKK, quy
trình kiểm kê, quy chế BVMT không khí đô thị…). Đồng thời với quá trình này là tăng
cường trách nhiệm pháp lý đối với các cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền trong
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, xử lý nghiêm các chủ thể khi không hoàn
thành chức trách nhiệm vụ được giao trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Phòng ngừa các nguồn thải cố định, triển khai thực hiện mạnh mẽ các chương
trình KSON không khí đặc thù, như: ô nhiễm bụi, kiểm soát khí thải ngành (xi măng,
khoáng sản, thép, hóa chất, hóa dầu…); xác lập cơ chế chia sẻ thông tin về môi trường
không khí đô thị (thiết lập, duy trì, vận hành mạng lưới thông tin, cảnh báo về chất
lượng không khí); tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong các hoạt động bảo vệ
môi trường không khí (giám sát, theo dõi); đẩy mạnh hoạt động quan trắc, kiểm kê khí
thải, kiểm soát môi trường không khí đô thị (xây dựng hệ số phát thải, quan trắc tự
động, thiết lập cơ sở dữ liệu…);
- Cần lồng ghép đầy đủ và cụ thể các vấn đề môi trường, trong đó có môi trường
không khí vào các quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất, kinh doanh của các KCN, làng
nghề, đảm bảo cho các KCN, làng nghề quy hoạch phát triển bền vững. Không ngừng cải
thiện chất lượng môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên;
- Thường xuyên kiểm tra, đánh giá tác động của môi trường không khí đối với
khu vực phát triển sản xuất, kinh doanh. Thử nghiệm các phương án, chính sách cộng
đồng lành mạnh để tăng thêm sự tham gia của người dân khu vực trong các dự án sản
xuất; nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí thông qua tuyên truyền thay đổi nhận thức của doanh nghiệp về vấn
đề này để doanh nghiệp nhận thấy tham gia kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
không phải là việc làm từ thiện, không chỉ là lợi ích của cộng đồng mà vì lợi ích của
chính mình. Đồng thời nghiên cứu điều chỉnh pháp luật trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Phòng ngừa, giảm thiểu các nguồn thải di động.
- Cần giáo dục nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ, hành vi của người tham giao
thông, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an toàn giao thông.
148
- Từng bước cải tạo, nâng cấp, phát triển mới hạ tầng giao thông, tăng năng lực
giao thông công cộng, hạn chế các phương tiện giao thông cá nhân giảm ùn tắc giao
thông. Thực hiện vấn đề này trên quan điểm đó là trách nhiệm nhà nước như Inđonexia
hay Malaysia đã áp dụng để giảm tắc đường và giảm chi phí xã hội, tăng năng suất hiệu
quả lao động. Chống ùn tắc giao thông là giải pháp quan trọng cần phải làm ngay bởi ùn
tắc không chỉ ảnh hưởng lớn ô nhiễm môi trường không khí do khí thải phương tiện giao
thông tăng đột biến mà ùn tắc còn gây ra thiệt hại lớn về kinh tế, về thời gian vật chất
ảnh hưởng đến sự phát triển quốc gia. Bởi một nghiên cứu gần đây cho thấy mới một
thành phố khoảng 10 triệu dân như Hà Nội mỗi ngày tắc đường khoảng 2 tiếng thì lượng
khí thải gây ra cho môi trường không khí và chi phí sử dụng nhiên liệu, chi phí để giảm
thiểu, khắc phục ô nhiễm môi trường không khí có thể lên tới hàng trăm tỷ đồng.
- Giới hạn thời gian sử dụng cho tất cả các loại xe cơ giới, kiểm định bắt buộc
định kỳ khí thải thường xuyên thanh tra phát hiện xử lý các phương tiện không đạt quy
chuẩn kỹ thuật môi trường không khí mà vẫn đưa vào lưu thông;
4.3.3. Gợi mở nội dung xây dựng Luật Không khí sạch ở Việt Nam
Một là, về tên của Luật. Hiện nay trên thế giới để để kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí các nước đã ban hành nhiều đạo luật với những tên gọi khác nhau.
Tuy nhiên, có hai loại tên gọi phổ biến là Luật Kiểm soát ô nhiễm không khí và Luật
Không khí sạch. Về vấn đề này, tác giả cho rằng ở Việt Nam khi ban hành Luật này nên
đặt tên là Luật Không khí sạch. Bởi thứ nhất, với tên gọi này nó không chỉ thể hiện được
nội hàm của hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tầm thấp mà còn kiểm
soát cả ô nhiễm môi trường không khí tầm xa; không chỉ kiểm soát ô nhiễm môi trường
một cách bị động mà còn kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí theo hướng chủ
động. Thứ hai, với tên gọi này, Luật còn phản ánh được mục tiêu của quá trình này đó là
giữ cho môi trường không khí được trong lành, sạch đẹp. Thứ ba, nhiều nước trên thế
giới cũng đặt tên là Luật Không khí sạch. Đặt tên này cũng thể hiện sự hội nhập sâu
rộng của Việt Nam với thế giới trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Hai là, Luật không khí sạch quy định về phạm vi điều chỉnh của luật là về hoạt
động kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện
của Nhà nước trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; biện pháp và nguồn lực
để bảo vệ môi trường không khí; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức,
hộ gia đình và cá nhân trong bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam. Còn về đối
tượng điều chỉnh của Luật áp dụng đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức và
cá nhân chủ nguồn thải trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao
gồm đất liền, hải đảo, vùng thềm lục địa, vùng biển và vùng trời.
149
Ba là, Luật không khí sạch cần quy định các nguyên tắc làm cơ sở cho quá trình
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí đạt hiệu quả. Đặc biệt luật cần lưu ý các
nguyên tắc sau, như; nguyên tắc bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành,
nguyên tắc người gây ô nhiễm môi trường không khí, cơ quan chủ thể có thẩm quyền vi
phạm pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí phải chịu trách nhiệm pháp lý;
nguyên tắc bảo đảm phát triển bền vững, nguyên tắc xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi
trường không khí, nguyên tắc cộng động trách nhiệm trong kiểm soát ô nhiễm; nguyên
tắc hợp tác khu vực và quốc tế trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; nguyên
tắc bảo đảm phát triển bền vững; nguyên tắc điều chỉnh pháp luật dựa trên chi phí và lợi
ích để các chủ thể lựa chọn việc tuân thủ pháp luật; nguyên tắc kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí ngay tại nguồn;
Bốn là, Luật Không khí sạch cần quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Cụ thể: một là, quy định về trách nhiệm của nhà
nước trong ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường không khí xung quanh, như quy
chuẩn môi trường không khí trong nhà, quy chuẩn môi trường không khí ngoài trời và ban
hành quy chuẩn môi trường khống khí với khí thải, âm thanh, độ rung,… hai là, quy định
về trách nhiệm điều tra, đánh giá hiện trạng môi trường không khí; ba là, đưa đánh giá
môi trường không khí trở thành nội dung bắt buộc trong Đánh giá môi trường chiến lược,
đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường không khí; bốn là, quy định
về dự báo hiện trạng môi trường không khí, sự biến đổi của các thành phần môi trường
không khí, các nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường không khí,…; năm là, quy định cụ
thể về quản lý khí thải độ, rung, tiếng ồn, bụi; sáu là, quy định về quan trắc môi trường
không khí và thông tin về tình hình môi trường không khí;
Năm là, Luật cần quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải trong
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Cụ thể: các hành vi bị cấm liên quan đến ô
nhiễm môi trường không khí; chủ động thực hiện các hoạt động thân thiện với môi
trường không khí được nhà nước khuyến khích; lập báo cáo ĐTM hoặc Kế hoạch bảo vệ
môi trường trong đó môi trường không khí, quản lý nguồn thải khí, chủ động kiểm tra,
phát hiện, ngăn chặn ô nhiễm môi trường không khí, khôi phục hiện trạng môi trường
không khí.
Sáu là, quy định về trách nhiệm của Nhà nước, trong thanh tra, kiểm tra, phát
hiện ô nhiễm môi trường không khí. Hoàn thiện quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi
trường không khí làm cơ sở cho quá trình này;
Bảy là, quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước trong kiểm
soát ô nhiễm môi trường không khí và trách nhiệm pháp lý liên quan;
150
Tám là, quy định về trách nhiệm pháp lý đối với các cơ quan nhà nước, chủ thể
có thẩm quyền và tổ chức, cá nhân khi vi phạm pháp luật môi trường không khí;
Chín là, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại về không khí và thiệt hại về
tài sản, sức khỏe, tính mạng và các lợi ích hợp pháp khác do ô nhiễm môi trường không
khí gây ra. Trong quá trình này cần quy định về đảo nghĩa vụ chứng minh trong giải
quyết tranh chấp về môi trường không khí giữa tổ chức, cá nhân bị thiệt hại với tổ chức,
cá nhân gây ra thiệt hại theo hướng người có hành vi gây ô nhiễm phải có nghĩa vụ
chứng minh là mình không gây ô nhiễm.
Mười là, quy định về sử dụng các công cụ kinh tế, đặc biệt là cơ chế phát triển
sạch tiến tới phát triển thị trường mua bán quyền phát thải nhằm kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí. Mặt khác bên cạnh việc tuyên truyền về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí theo hướng làm rõ không phải là
việc làm từ thiện của doanh nghiệp đồng thời việc thực hiện trách nhiệm này mang lại
lợi ích không chỉ cho môi trường, cho cộng đồng mà đặc biệt có lợi cho chính doanh
nghiệp thì trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cần được quy định cụ thể trong luật.
Mười một là, quy định cụ thể về cơ chế thực thi và bảo vệ các quyền biểu tình,
hội họp về môi trường; quyền khởi kiện tập thể liên quan đến ô nhiễm môi trường không
khí. Quy định này xuất phát từ bản chất của vấn đề ô nhiễm môi trường không khí
không chỉ ảnh hưởng đến một người mà thường ảnh hưởng đến cả cộng đồng. Do vậy
cần quy định cho cả cộng đồng được tham gia vào quá trình này, đặc biệt lưu ý đến quy
định về quyền khởi kiện tập thể về môi trường không khí. Cộng đồng có thể thông qua
người đại diện của họ hoặc đại diện tổ chức của họ để yêu cầu bồi thường thiệt hại về
môi trường không khí.
Kết luận Chƣơng 4
Trên cơ sở những vấn đề lý luận đặt ra tại Chương 1, Chương 2 và thực trạng
pháp luật cũng như những đánh giá thực tiễn quan trọng tại Chương 3. Chương 4 của
Luận án tập trung làm sáng tỏ những vấn đề sau:
Thứ nhất, Chương này đã phần tích làm sáng tỏ nhu cầu hoàn thiện pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở nước ta. Theo đó xuất phát từ yêu cầu của
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền; từ yêu cầu của quá trình phát triển bền vững;
từ yêu cầu của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế; từ thực trạng các quy định pháp
luật và từ chính thực tiễn ô nhiễm môi trường không khí hiện nay;
Thứ hai, đưa ra định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí. Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí cần hướng tới bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành, bảo
151
đảm phát triển bền vững, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; phải phù hợp với các
cam kết quốc tế, cũng như khu vực, đặc biệt là Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu; cần
gắn với vai trò của các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư; cần tập trung vào kiểm soát ô
nhiễm tại nguồn nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí;
Thứ ba, đưa ra các giải pháp chung về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở
Việt Nam, như: về tuyên truyền, giáo dục, biện pháp kinh tế, ứng dụng khoa học công
nghệ,...;
Thứ tư, đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm môi trường không khí và gợi mở nội dung điều chỉnh của Luật Không khí sạch ở
Việt Nam;
152
KẾT LUẬN
Luận án Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam là một
công trình nghiên cứu bài bản và toàn diện các vấn đề lý luận và pháp lý và thực tiễn
xoay quanh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay.
Công trình nghiên cứu này đã đi vào phân tích, so sánh, tổng hợp,.. những vấn đề sau:
Thứ nhất, luận án đã tổng quan các công trình nghiên cứu theo nhóm vấn đề của
luận án, như: tổng quan các công trinh nghiên cứu về ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô
nhiễm môi trường, nội dung của kiểm soát ô nhiễm môi trường, pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm môi trường; tổng quan các công trình nghiên cứu trực tiếp các vấn đề lý luận về
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí; tổng quan các công trình nghiên cứu, thực
trạng các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí; tổng quan các công trình nghiên cứu về hạn ngạch khí thải, kiểm soát
ô nhiễm môi trường không khí tầm xa.
Thứ hai, qua tổng quan các công trình nghiên cứu theo nhóm vấn đề của đề tài, Luận
án đã chỉ ra những thành tựu trong nghiên cứu mà luận án kế thừa và tiếp tục phát triển và
các vấn đề còn bỏ ngỏ hoặc chưa được giải quyết thấu đáo cần tiếp tục nghiên cứu;
Thứ ba, đã xác định rõ cơ sở lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án, đặt ra các
câu hỏi nghiên cứu, lý thuyết nghiên cứu làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài luận án;
Thứ tư, luận án đã phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận xoay quanh
pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, như đã phân tích làm rõ khái
niệm, đặc điểm của môi trường không khí, phân biệt môi trường không khí với môi
trường đất, môi trường nước; phân tịch và làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm và phân loại
ô nhiễm môi trường không khí; khái quát hiện trạng ô nhiễm môi trường không khí ở
Việt Nam và nhu cầu điều chỉnh ô nhiễm môi trường không khí bằng pháp luật; phân
tích các quan niệm về kiểm soát ô nhiễm môi trường, môi trường không khí. Từ đó so
sánh, đánh giá, đồng thời trên cơ sở nội hàm thuật ngữ kiểm soát và đặc thù của ô nhiễm
môi trường không khí tác giả đưa ra cách hiểu của mình về khái niệm kiểm soát ô nhiễm
môi trường, môi trường không khí. Phân biệt kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
với quản lý nhà nước về môi trường không khí và với bảo vệ môi trường không khí.
Thứ năm,phân tích và làm sáng tỏ khái niệm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí, vai trò của pháp luật trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí;
phác họa nội dung của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và đưa ra
các tiêu chí đối với điều chỉnh pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí;
khái quát về lược sử hình thành phát triển của các quy định pháp luật về kiểm soát ô
153
nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam; khái quát và liệt kê một số các công ước khu
vực và quốc tế liên quan đến kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
Thứ sáu, luận án phân tích và làm sáng tỏ thực trạng các quy định pháp luật về
trách nhiệm của Nhà nước trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí, bao gồm:
một là, các quy định về các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện của Nhà nước với
các hoạt động thân thiện với môi trường không khí và các quy định cấm đối với các
hành vi không thân thiện môi trường không khí; hai là, quy định về quy định về phát
triển bền vững nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí; ba là, quy định và
thực hiện quy hoạch BVMT góp phần phòng ngừa ô nhiễm môi trường, trong đó có môi
trường không khí; bốn là, quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong đánh giá môi
trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch BVMT không khí; năm là,
quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong dự báo ô nhiễm môi trường không khí; sáu
là, quy định về quản lý chất thải nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường;
Thứ bảy, phân tích và làm sáng tỏ quy định về nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong
quản lý chất thải nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí, bao gồm: một là,
quy định về nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải về thực hiện các chính sách
khuyến khích, tạo điều kiện của Nhà nước trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí; hai là, quy định về nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong tuân thủ các quy định
cấm nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí; ba là, quy định về nghĩa vụ của
các tổ chức, cá nhân trong thực hiện hoạt động đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và
kế hoạch BVMT; bốn là, quy định về nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong quản lý chất
thải nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí;
Thứ tám, phân tích các quy định pháp luật về thanh tra, kiểm tra, phát hiện các hành
vi vi phạm pháp luật môi trường không khí; các quy định pháp luật về ngăn chặn ô nhiễm
môi trường không khí; các quy định pháp luật về xử lý các hành vi làm ô nhiễm môi trường
không khí; các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Từ những phân tích thực trạng
các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, tác giả cũng chỉ ra một
số bất cập, hạn chế, thiếu sót trong các quy định pháp luật về vấn đề này.
Thứ chín, đánh giá thực trạng dự báo, quan trắc ô nhiễm môi trường không khí;
chất lượng môi trường không khí cả nước và Hà Nội. Đồng thời chỉ ra những kết quả
của quá trình kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở nước ta những năm qua cũng
như những bất cập, thiếu sót cần hoàn thiện.
Thứ mười, về thực trạng kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Luận án đã
đánh giá thực thực trạng quy định và thực hiện pháp luật về phòng ngừa, phát hiện, ngăn
chặn, xử lý ô nhiễm môi trường không khí. Trong phạm vi giới hạn của Luận án, tại
154
Chương 3 tác giả không đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của các các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trong kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Vấn đề này sẽ
được tác giả tiếp tục nghiên cứu trong các công trình tiếp theo.
Thứ mười một, trên cơ sở lý luận và thực tiễn được làm sáng tỏ, luận án chỉ ra nhu
cầu hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở nước ta, như: xuất
phát từ yêu cầu của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền; từ yêu cầu của quá trình phát
triển bền vững; từ yêu cầu của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế; từ thực trạng các quy
định pháp luật và từ chính thực tiễn ô nhiễm môi trường không khí hiện nay;
Thứ mười hai, đưa ra được quan điểm và phương hướng hoàn thiện pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
môi trường không khí cần hướng tới bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong
lành, bảo đảm phát triển bền vững, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu;
Đặc biệt, Luận án đã đưa ra các giải pháp chung về kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí ở Việt Nam, như: về tuyên truyền, giáo dục, biện pháp kinh tế, ứng
dụng khoa học công nghệ,... Bên cạnh đó, là các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp
luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí và gợi mở nội dung điều chỉnh của
Luật Không khí sạch ở Việt Nam;
155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TIẾNG VIỆT
1. Lê Anh, Lượng xe máy đã vượtquy hoạch cho năm 2020.
Thứ Ba, 16/4/2013,16:46 (GMT+7).Nguồn:www.thesaigontimes.vn/.../Luong-xe-may-
da-vuot-quy-hoach-cho-nam-2020.
2. Aki Nakauchi, Kinh nghiệm từ chính sách kiểm soát ô nhiễm môi trường của
Nhật Bản, Cục Sức khỏe Môi trường, Bộ Môi trường Nhật Bản. Truy cập 18/12/2012
2:37:42 PM.Nguồn:
http://vea.gov.vn/vn/truyenthong/tapchimt/nrtg/Pages/Kinh-
ngư0%E1%BB%9Dng-c%E1%BB%A7a-Nh%E1%BA%ADt-B%E1%BA%A3n.aspx
3. ThS. Nguyễn Thị Ngọc Ánh, CN. Lưu Thị Hương, TS. Nguyễn Hải Yến,“Kinh
nghiệm của một số nước trên thế giới về kiểm soát ô nhiễm khí thải”,Tạp chí Môi
trường, số 3/2014.
4. Ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị số 36CT-TW của
Bộ Chính trị vềTăng cường bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2004), Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về
bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Hà
Nội.
6. Ban Bí thư (2009), Chỉ thị số 29-CT/TW Ngày 21/1/2009 về việc tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Hà Nội.
7. Ban Khoa giáo Trung ương, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (2001),
Tiến tới kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ Tài nguyên và Môi trường, (2013) Báo cáo hiện trạng quốc gia về môi
trường không khí, Hà Nội.
9. An Bình,Việt Nam nằm trong 10 nước không khí ô nhiễm nhất thế giới, của tổng
hợp. Nguồn: http://dantri.com.vn/the-gioi/viet-nam-nam-trong-10-nuoc-khong-khi-o-
nhiem-nhat-the-gioi-562667.htm.
156
10. Duy Biên - Dạ Khánh, Các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng, truy cập Thứ hai 07:42 23/02/2015.Nguồn: http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Ban-
doc/742163/cac-co-so-san-xuat-gay-o-nhiem-moi-truong-nghiem-trong.
11. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia,Ô nhiễm không khí. Nguồn:https://vi.wiki
pedia.org/wiki/%C3%94_nhi%E1%BB%85m_kh%C3%B4ng_kh%C3%AD.
12. Bộ Tài Nguyên và Môi trường, (1999) Kịch bản ứng phó với biến đổi khí hậu,
Hà Nội.
13. Chính phủ, (2013) Nghị định 179/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực môi trường.
14. Chính phủ, Nghị định số 19/2015/NĐ-CP của Chính phủ về hướng dẫn Luật
Bảo vệ Môi trường năm 2014;
15 Chính phủ, Nghị định số 03/2015/NĐ-CP của Chính phủ về xác định thiệt hại
môi trường.
16. Chính phủ, Nghị định số 18/2015/NĐ-CP của Chính phủ về đánh giá môi
trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường;
17. Chính phủ, Nghị định số 179/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực môi trường;
18. Minh Cường, Điểm tin môi trường trong tháng. Truy cập ngày 03/08/2015
7:59:10 AM. Nguồn:http://moitruong.com.vn/tin-tuc-su-kien/diem-tin-moi-truong-
trong-thang-14826.htm.
19.Nguyễn Dương, Từ vụ ngất xỉu tại Big C, băn khoăn về sự ô nhiễm không khí
các tòa nhà.Truy cập Thứ Ba,17/03/2015, lúc 09:12.Nguồn: http://dantri.com.vn/xa-
hoi/tu-vu-ngat-xiu-tai-big-c-ban-khoan-ve-su-o-nhiem-khong-khi-cac-toa-nha-
1045983.htm.
20. Nguyễn Huy Dũng, Vũ Văn Dũng (2010), “Bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt
Nam: Mối liên hệ với phát triển bền vững và biến đổi khí hậu”, Tạp chí Môi trường (3),
tr51.
21. TS Nguyễn Sỹ Dũng, Không còn môi trường trong lành, giàu có là vô nghĩa của.
Truy cập Thứ ba, ngày 15 tháng năm
2007,08:06GMT+7.Nguồn:http://vietbao.vn/Xa-hoi/Khong-con-moi-truong-trong-lanh-
giau-co-la-vo-nghia/40201159/124/.
157
22. Quốc Dũng, Trung Quốc: Củng cố luật bảo vệ môi trường. Truy cập Nguồn:
http://vtv.vn/quoc-te/trung-quoc-cung-co-luat-bao-ve-moi-truong-129094.htm
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng XI, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24 Phạm Ngọc Đăng, (2007), "Các thách thức về ô nhiễm môi trường không khí ở
nước ta", Tạp chí BVMT, (8).
25.Phạm Ngọc Đăng, (2009), "Bàn về xã hội hóa phát triển cây xanh đô thị", Tạp
chí BVMT, (4).
26. Phạm Ngọc Đăng (2010), "Các giải pháp phát triển giao thông đô thị bền vững
- giao thông đô thị xanh ở nước ta", Tạp chí xây dựng và Quy hoạch, (10).
27. Phạm Ngọc Đăng, Nguyễn Thị Thanh Trâm, "Kinh nghiệm cải thiện chất
lượng không khí đô thị ở các nước châu Á", Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, (10).
28. Phạm Ngọc Đăng (2003), Môi trường không khí, NXB Khoa học và kỹ thuật,
Hà Nội.
29. Phạm Ngọc Đăng (2000), Quản lý môi trường đô thị và khu công nghiệp, NXB
Xây dựng, Hà Nội.
30. GS.TSKH. Phạm Ngọc Đăng (2009), “Phát triển đô thị bền vững và thích ứng
với biến đổi khí hậu ở Việt Nam”, Tạp chí Môi trường, (8), tr.35.
31. GSTSKH Phạm Ngọc Đăng, Quản lý chất lượng không khí tại Hà Nội, Kỷ
yếuHội thảo ngày 26/7/2005.
32.Nguyễn Ngọc Anh Đào, Thực hiện pháp luật về sử dụng công cụ kinh tế trong
bảo vệ môi trường, truy cập ngày 29/01/2013.Nguồn: http://vnclp.gov.vn/ ct/cms/tintuc
/Lists/ChinhSach/View_Detail.aspx?ItemID=176, vàAnh Đức, Venezuela - nơi xăng
rẻ hơn nước lã.Truy cậpthứ tư,
28/1/2015 | 03:08,GMT+7.Nguồn:http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/quoc-
te/vene zuela-noi-xang-re-hon-nuoc-la-3139525.html.
33. Duy Đức (2007), “Mức phí nào cho một đơn vị chất gây ô nhiễm không khí”,
Tạp chí Môi trường, (5) và tài liệu: Gia tăng các bệnh về hô hấp do ô nhiễm không khí, truy
cập ngày 27/11/12 10:45.Nguồn:http://www.vietnamplus.vn/gia-tang-cac-benh-ve-ho-hap-do-o-
nhiem-khong-khi/174451.vnp.
158
34. Vũ Thu Hạnh (2004), Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học; Người hướng
dẫn khoa học: PGS. TS. Lê Hồng Hạnh, Hà Nội.
35. Vũ Thị Thu Hạnh (1998), “Khung pháp lý luật Bảo vệ môi trường ở Singapo”,
Tạp chí Luật học, (2), tr. 47-51.
36. Vũ Thu Hạnh (2007), “BTTH do ô nhiễm, suy thoái môi trường”, Tạp chí
Khoa học pháp lý, (3).
37. Vũ Thu Hạnh, TS Nguyễn Văn Phương (2011), “Pháp luật môi trường Việt
Nam trong việc thích nghi và ứng phó với biến đổi khí hậu”, Tạp chí Luật học, Trường
Đại học luật Hà Nội, (2), tr 18-26.
38. Phạm Văn Hảo, (2013) "Việt Nam với việc thực hiện điều ước quốc tế về biến
đổi khí hậu, hướng tới hoàn thiện các quy định pháp luật về cơ chế phát triển sạch và
xuất khẩu chứng nhận giảm phát thải khí nhà kính", Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa
Luật, Đại học quốc gia Hà Nội và Phạm Văn Hảo, (2014) “Pháp luật Việt Nam về
thị trường mua bán chứng nhận Giảm phát thải khí nhà kính”, Tạp chí Luật học.
39.Bùi Kim Hiếu (2009),"Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm BTTH do hành vi
làm ONMT gây ra", Tạp chí Tòa án nhân dân, (12).
40. Nguyễn Phúc Thủy Hiền, (2001) “Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí tầm xa”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh (4).
41. Bùi Đức Hiển (2011), "Về quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt
Nam hiện nay", Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, (11) tr. 22 – 28.
42. Bùi Đức Hiển, (2013),“Chính sách, pháp luật môi trường bảo đảm phát triển
bền vững ở Việt Nam trong Văn kiện Đại hội Đảng XI”, Tạp chí Luật học, (8).
43. Bùi Đức Hiển,Nội dung cơ bản của Hiến pháp 2013 về môi trường và định
hướng triển khai,trong sáchHiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Nền
tảng chính trị, pháp lý cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, Hà Nội năm 2014.
44. Bùi Đức Hiển, (2013) “Mấy góp ý về quyền được sống trong môi trường trong
lành trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi 2013", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (9)
159
45. Bùi Đức Hiển, (2013) "Bào vệ môi trường – Mục tiêu phát triển bền vững",
Tạpchí Nhân quyền, tháng 4.
46. Trần Quang Huy (2012), Giáo trình Luật Môi trường, Trung tâm Đào tạo Từ
xa, Đại học Huế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
47. GS.TS. Trương Quang Học (2008), “Tác động của biến đổi khí hậu tới tự nhiên
và đời sống xã hội”, Tạp chí Môi trường, (6).
48. Chu Hoa, “Thực tiễn áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ở
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (1), Hà Nội.
49. Anh Hoàng, Phát hiện phóng xạ Fukushima ở bờ biển Canada / Khỉ ở gần nhà
máy Fukushima có thể bị nhiễm xạ. Truy cập thứ ba, 7/4/2015 | 15:20 GMT+7.
Nguồn:http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/phat-hien-phong-xa-fukushima-o-bo-bien-
canada -3178893.html.
50. Nguyễn Thị Mai Hương (2007), “Doanh nghiệp và hệ thống quản lý môi
trường ISO 14001”, Tạp chí Môi trường (4).
51. Giáng Hương (2011), “Cảnh báo về ô nhiễm không khí tại các đô thị ở châu
Á”, Tạp chí Môi trường, (3).
52. Bùi Đức Hiển, “Thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (8).
53. Bùi Đức Hiển, (2015) “Mấy vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi
trường không khí hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (4).
54. Bùi Đức Hiển (2010), “Những vấn đề pháp lý của việc xác định thiệt hại do
hành vi làm ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay",Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại
học quốc gia Hà Nội.
55. Nguyễn Mạnh Hùng, (2003) Từ điển Thuật ngữ Pháp lý, Nxb Chính trị quốc
gia của, Hà Nội.
56. La Hoàn (tổng hợp), Kinh nghiệm của Mỹ và Nhật Bản trong giải quyết vấn đề
ô nhiễm môi trường – bài học cho Việt Nam. Nguồn: http://www.ncseif.gov.vn/sites/vie/
Pages/ kinhnghiemcuamyvanhat-nd-16633.html.
57. Nguyễn Hoài,Báo động ô nhiễm không khí tại các tòa nhà, truy cập 07:51 ngày
16 tháng 03 năm 2015.Nguồn:http://moitruong.com.vn/Home/Default.aspx?portalid
=33&tabid=19&distid=25114;
160
58. Ngọc Khương,Kết quả hội nghị COP 19 “có thể chấp nhận được. Truy cập Chủ
nhật, 14:19, ngày 24/11/2013. Nhuồn: http://vov.vn/The-gioi/Ket-qua-hoi-nghi-COP-19-
co-the-chap-nhan-duoc/293716.vov.
59. Không khí là gì?. Nguồn: https://vn.answers.yahoo.com/question/index?qid=
20100130033056AAVS6pF.
60. TS. Phạm Văn Lợi, “Những điểm mới về tội phạm môi trường trong Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2009”, Tạp chí Môi trường, Hà Nội.
61. PGS.TS. Phạm Văn Lợi (2011), “Những hạn chế, bất cập cơ bản của Luật Bảo
vệ Môi trường năm 2005 và yêu cầu sửa đổi, bổ sung”, Tạp chí Môi trường, (2).
62. Bích Liên, Tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Nguồn:
http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30111&cn_id=6112
31#.
63. ThS. Nguyễn Sỹ Linh, Tổng quan về phương pháp dự báo và khả năng áp dụng
một số mô hình trong dự báo biến động tài nguyên và môi trường tại Việt nam, cập nhật
thứ ba, 23 tháng 2 năm 2010, lúc 17:31. Nguồn: http://isponre.gov.vn/home/dien-
dan/463-tong-quan-ve-phuong-phap-du-bao-va-kha-nang-ap-dung-mot-so-mo-hinh-
trong-du-bao-bien-dong-tai-nguyen-va-moi-truong-tai-viet-nam.
64. TS. Phạm Văn Lợi (2009), “Tội phạm môi trường trong pháp luật hình sự của
một số nước Đông Nam Á”, Tạp chí Môi trường (8).
65. PGS.TS. Phạm Văn Lợi (2011), “Những hạn chế, bất cập cơ bản của Luật Bảo
vệ Môi trường năm 2005 và yêu cầu sửa đổi, bổ sung”, Tạp chí Môi trường, (2).
66.Nguyên Linh,Xử lý triệt để vấn đề ô nhiễm Nhiệt điện Vĩnh Tân 2, truy cập
08:25, ngày 23 tháng 4 năm 2015. Nguồn: http://baodientu.chinhphu.vn/Tin-noi-bat/Xu-
ly-triet-de-van-de-o-nhiem-Nhiet-dien-Vinh-Tan-2/225487.vgp.
67. Nguyễn Tuệ Minh (2006), Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí, Khóa
luận tốt nghiệp Trường Đại học Luật Hà Nội.
68. Moitruongxanhcnxblog, Ô nhiễm môi trường không khí có gây chết người?.
Nguồn.HTTPS://MOITRUONGXANHCNXBLOG.WORDPRESS.COM/AUTHOR/MOITRUONGXANHNX1412/PAGE/89/.
69. PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, (2005), Ngăn ngừa, xử lý triệt để các cơ sở gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng – Nhìn từ cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư, tài
chính, lao động, đất đai, môi trường, Hà Nội, 62tr.
161
70. PGS.TS Phạm Hữu Nghị, (2005), Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật bảo vệ
môi trường, Tuyển tập Báo cáo Hội nghị môi trường toàn quốc, Hà Nội.
71. PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, (2008) Nguyên tắc bảo đảm sự phát triển bền vững,
Kỷ yếuđề tài cấp Viện, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
72. PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, “Tổ chức thương mại thế giới với vấn đề thương
mại – môi trường và những thách thức, cơ hội đối với Việt Nam về thương mại – môi
trường”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (2), tr35-43.
73. PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, Nhà nước pháp quyền và cơ chế pháp lý bảo đảm
quyền được sống trong môi trường trong lành, Kỷ yếu hội thảo quốc tế: Môi trường và
Nhà nước pháp quyền: Tăng cường thực thi pháp luật về môi trường ở khu vực Đông
Nam Á”, Viện Nhà nước và pháp luật phối hợp với KAS tổ chức ngày 21-22/10/2014.
74. PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, Bùi Đức Hiển (2011), "Các quy định pháp luật về
thiệt hại, xác định thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra và định hướng
xây dựng, hoàn thiện", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (1), tr. 40 – 47.
75. Thảo Nguyên , WHO chính thức coi ô nhiễm không khí là tác nhân gây ung
thư. Nguồn:http://gialai.vnpt.vn/detail/who-chinh-thuc-coi-o-nhiem-khong-khi-la-tac-
nhan-gay-ung-thu/530499/l0
76. Ths. Kim Oanh Na - Võ Hoàng Yến, (2007) Giáo trình Luật môi trường, Tủ
sách Đại học Cần Thơ, Cần Thơ.
77. Hà Thị Phương Ngọc, (2012), Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
không khí, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội.
78. Quỳnh Nga, (2012) Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ VIII và Hội nghị khoa
học quốc tế lần thứ IV về y học lao động và vệ sinh môi trường. Truy cập ngày
24/06/2012 08:46. Nguồn: http://ven.vn/vi-VN/vi/chuyen-muc-tin-tuc/xa-hoi/suc-
khoe/hoi-nghi-khoa-hoc-y-hoc-lao-dong-toan-quoc-dien-ra-thang-
11_t114c441n18793.VàNhãn sinh thái là gì?. Nguồn:
nhansinhthai.com/Home/News.aspx?catid=25.
79. Nguyễn Văn Phương (2007), Pháp luật môi trường về hoạt động nhập khẩu
phế liệu ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học; Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.
Nguyễn Như Phát, Hà Nội.
80. Phòng thí nghiệm Quốc gia Riso, Roskilde, Đan Mạch - Trung tâm Hợp tác về
162
Năng lượng và Môi trường của UNEP, (2012), Cơ chế Phát triển sạch (CDM), bản dịch
của Ban chỉ đạo thực hiện Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu và
Nghị định thư kyoto tại Việt Nam.
81. Pháp luật về BVMT ở Singapore, Nguồn: Theo http://www.isvn20.com.
82. Quốc hội, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005
83. Quốc hội, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014.
84. Quốc hội, Luật Thuế bảo vệ môi trường 2010
85. Quốc hội, Luật Khoáng sản 2010;
86. Quốc hội, Luật Đa dạng sinh học 2008;
87. Quốc hội, Luật Dầu khí 2008;
88. Quốc hội, Luật Năng lượng nguyên tử 2008;
89. Quốc hội, Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004;
90. Lưu Ngọc Tố Tâm, (2012), Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường biển trong
hoạt động hàng hải ở Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội.
91. Trần Thị Thúy, (2005), Khía cạnh pháp lý về tiêu chuẩn chất lượng môi trường
không khí Việt Nam, khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội 2005.
92. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật Môi trường, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
93. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
94.Trường Đại học Luật Hà Nội, (2000), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học về
Luật Môi trường, Luật Kinh tế, Luật Tài chính, Luật Ngân hàng, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nôi.
95. Tạp chí Môi trường, (2014), “Châu Á với cuộc chiến chống ô nhiễm không
khí”,Tạp chí Môi trường(7). Nguồn:http://www.quantracmoitruong.gov.vn/Print.aspx?
lang=vi-VN&nfriend=3744 118.
96. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật Môi trường, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
97. Trường Đại học Luật Hà Nội, (2014), Giáo trình Luât Môi trường, Nxb. Công
an nhân dân, 2014.
98. Trung tâm Đào tạo từ xa, Đại học Huế, Giáo trình Luât Môi trường.
163
99. Trường Đại học Luật Hà Nội, (2000),Từ điển giải thích thuật ngữ luật học.
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
100. Nguyễn Kim Thoa, (2012), Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí, Khoa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội.
101. Thủ tướng Chính phủ, (2011), Quyết định số 49/2011/QĐ-TTg về việc quy
định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với xe ô tô, xe mô tô hai bánh sản xuất, lắp
ráp và nhập khẩu mới.
102. Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 24/2000/CT-TTg ngày 23/11/2000 của về
việc triển khai sử dụng xăng không pha chì và bắt đầu áp dụng từ ngày 01/7/2001 trên
toàn Việt Nam.
103. Thủ tướng Chính phủ Quyết định 249/2005/QĐ-TTg ngày 10/10/2005 của
quy định lộ trình áp dụng Tiêu chuẩn khí thải với phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ.
104. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 49/2011/QĐ-TTg ngày 01 tháng 09 năm
2011 về việc Quy định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với xe ô tô, xe mô tô hai
bánh sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới.
105.Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 909/2010/QĐ-TTg phê duyệt Đề án kiểm
soát khí thải mô tô, xe gắn máy tham gia giao thông tại các tỉnh, thành phố.
106. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 855/QĐ-TTg phê duyệt Đề án kiểm soát
ô nhiễm môi trường trong hoạt động Giao thông vận tải.
107. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003 có
một Chương trình ưu tiên là Chương trình cải thiện chất lượng không khí các đô thị tại
Việt Nam.
108. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 328/2005/QĐ-TTg ngày 12/12/2005 ban
hành Kế hoạch quốc gia về kiểm soát ô nhiễm đến năm 2010.
109.Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 26/2007/CT-TTg ngày 26/11/2007 về việc
theo dõi, giám sát và đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về tài
nguyênmôi trường và phát triển bền vững.
110. Vũ Thị Duyên Thủy (2001), Pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt
Nam – Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ luật học Trường Đại học Luật
Hà Nội.
164
111. Từ điển trực tuyến: http://thefreedictionary.com.
112. Tổng cục Môi trường - CụcKiểm soát ô nhiễm,Nhiệm vụ điều tra, khảo sát,
xây dựng các bộ tiêu chí khoanh vùng ô nhiễm và đề xuất dự án xây dựng bản đồ ô
nhiễm trên phạm vi toàn quốc, Hà Nội 2010 và Nguyễn Trung Thắng, Dương Thị
Phương Anh, (2011) “Một số vấn đề về phí bảo vệ môi trường đối với khí thải ở nước
ta” Tạp chí Môi trường, (11).
113.Lê Thế Phúc (2003), Pháp luật về tiêu chuẩn môi trường Việt Nam - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoá luận tốt nghiệp, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
114. ToNy Penn (2008), “Đánh giá thiệt hại tài nguyên thiên nhiên theo quy định
của pháp luật Hoa Kỳ”, Cục Quản lý Khí tượng và Hải dương quốc gia Hoa Kỳ, Tạp chí
Môi trường, (2).
115.Anh Tuấn,Trung Quốc và cuộc chiến cam go với ô nhiễm môi trường. Truy
cập Thứ 3, 12:00, ngày 17/03/2015. Nguồn: http://vov.vn/thegioi/trung-quoc-va-cuoc-
chien-cam-go-voi-o-nhiem-moi-truong-388674.vov
116. Lê Thị Phương Thảo (2008), Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt
Nam, Khoa luận tốt nghiệp Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
117. Hoàng Dương Tùng – Lê Hoàng Anh (2008), “Báo cáo môi trường quốc gia
năm 2007 môi trường không khí đô thị Việt Nam”, Tạp chí Môi trường, (9).
118. Đinh Xuân Thắng (2003), Ô nhiễm không khí, NXB Đại học Quốc gia, TP Hồ
Chí Minh.
119. Tổng cục Môi trường, Cục Kiểm soát ô nhiễm, (2013) Khung 3.4. Kết quả
quan trắc môi trường không khí các làng nghề tại Hà Nội (2009 – 2012).
120. Tổng Cục Môi trường, Cục Kiểm soát ô nhiễm, báo cáo: “Kiểm kê phát thải,
quan trắc và hiện trạng quản lý chất lượng môi trường không khí tại Việt Nam”, trong
Hội thảo Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, Hà Nội, 03/2012.
121. Nguyễn Thị Thanh Trâm (2010), “Tiêu chí Thành phố bền vững về môi
trường của các nước ASEAN – Thực trạng các đô thị vừa và nhỏ”, Tạp chí Môi trường,
(4).
122. Ô nhiễm không khí nguy cơ cao đối với sức khỏe người dân châu Á, ĐH, theo
tài liệu của (CAI – Aisa), Tạp chí Môi trường, số 04/2009, tr55.
165
123. Tin Nóng, Siêu bão Hải Yến gây thiệt hại 14 tỉ USD cho Philippines. Truy cập
ngày 11/11/2013., lúc 14:26. Nguồn: http://tinnong.vn/pages/20131111/sieu-bao-hai-
yen-gay-thiet-hai-14-ti-usd-cho-philippines.aspx.
124.Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Kiểm soát ô nhiễm khu
vực đông dân nghèo (PCDA) – Khung kế hoạch hành động KSON cấp địa phương
(PPCF),Chương trình hợp tác trong lĩnh vực môi trường giữa Việt Nam và Đan Mạch.
125. Tạp chí Cộng sản, Hiện trạng môi trường Việt Nam và những lời báo động.
Nguồn http://www.tinmoi.vn/hien-trang-moi-truong-viet-nam-va-nhung-loi-bao-dong-
011271219.html. Và bài: Chủ động ứng phó với những tác động của biến đổi khí hậu
đến sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta,truy cập 0:8' 10/10/2013. Nguồn:
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=23994&print=tre.
Và Tạp chí Cộng sản, Hội nghị COP 21 - “Ràng buộc, toàn cầu và tham vọng”. Nguồn:
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=36440&
print=true. Cập nhật 22:44' 30/11/2015.
126. Vũ Thị Duyên Thủy, (2002), Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt
Nam hiện nay – Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội.
127.Viện Ngôn ngữ (2007), Từ điển Tiếng Việt,Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
128. Viện Khoa học pháp lý (2003), Thực trạng luật môi trường Việt Nam và kinh
nghiệm quốc tế, Hà Nội.
129.Viện Khoa học pháp lý (2007), Hoàn thiện khung pháp luật về môi trường ở
Việt Nam, Hà Nội.
130. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
131.Tuệ Văn,Lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải xe cơ giới. Truy cập 18:09,
01/09/2011. Nguồn:http://baodientu.chinhphu.vn/Chi-dao-quyet-dinh-cua-Chinh-phu-
Thu-tuong-Chinh-phu/Lo-trinh-ap-dung-tieu-chuan-khi-thai-xe-co-gioi/98093.vgp.
132.Ngô Vũ, Kinh nghiệm quản lý chất lượng không khí của Hàn Quốc, Trường
Đại Học Vũ Hán. Nguồn: http://www.pipcn.com (trang web Kiến trúc Trung Quốc).
133.http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1t_tri%E1%BB%83n_b%E1%BBx%8
1 n_v%E1%BB%AFng.
B. TÀI LIỆU TIẾNG ANH
166
134. “Pollution - Definition from the Merriam-Webster Online Dictionary”.
Merriam-webster.com. 13 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
135. Environmental Performance Report 2001 (Transport, Canada website page).
136. State of the Environment, Issue: Air Quality (Australian Government website
page)
137. Pollution and Society Marisa Buchanan and Carl Horwitz, University of
Michigan.
138. Beychok, Milton R. (January năm 1987). “A data base for dioxin and furan
emissions from refuse incinerators”. Atmospheric Environment 21 (1): 29–
36. doi:10.1016/0004-6981(87)90267-8.
139. "Air pollution control engineering" của tác giả McGrew- HUI, Inc, Philippe
Sands, 1995;
140. "Carbon-related border tax adjustment: mitigating climate change or
restricting international trade?" của Christine Kaufmann, Rolf H. Weber;
141a.Declaration of the United Nations Conference on the Human Environment,
1972.
141. "Air quality: legal and policy issues”, của tác giả Scott Lyness. Env. Law
2010, 56, 6-20. [Environmental Law], Publication Date: 2010;
142. “International treaties and US laws as tools to regulate the greenhouse gas
emissions from ships and ports”, của Richard Hildreth, Alison Torbitt. I.J.M.C.L. 2010,
25(3), 347-376, International Journal of Marine & Coastal Law, Publication Date: 2010;
143. “The institutional and contractual instruments of Kyoto's Clean Development
Mechanism”, của tác giả Jean-Charles Bancal, Julia Kalfon, International Business Law
Journal 2009;
144. The "financial mechanism" and "flexible mechanisms" of the United Nations
Framework Convention on Climate Change, của tác giả Jean-Charles Bancal,
International Business Law Review 2009;
145. Air pollution, Sarah Hannett. J. Env. L. 2007, 19(2), 267-268 [Journal of
Environmental Law] Publication Date: 2007;
146. Pollution, Vanessa Edwards.J. Env. L. 2006, 18(1), 163-165[Journal of
Environmental Law], Publication Date: 2006;
167
147. Japan's measures for controlling air pollution, Thomas I. Mills. Env. Liability
1996, 4(3), 60-66, Publication Date: 1996.
148. Emission trading under the United States Clean Air Act, James A. Holtkamp.
Env. Liability 1993, 1(6), 125-131, Publication Date: 1993.
149. Integrated pollution control, David Cuckson. I.C.C.L.R. 1991, 2(5), 179-182
[International Company and Commercial Law Review], Publication Date: 1991.
150. Air pollution legislation in the United States and the Community, Daniel P.
McGrory. E.L. Rev. 1990, 15(4), 298-316 [European Law Review], Publication Date:
1990. Legislation Cited: Clean Air Act 1970 (United States).
151. Noel de Nevers: Air pollution control engineering, McGrew- HUI, Inc,
Phỉlỉppe Sands, 1995.
152. Principles of International Environmental Law (Volume 1), Frameworks
Standarts and Implementatỉon, Manchester University Press, UK, 2000.
153. The European Parliament and oỷthe Council: Directive 2004/35/CE of 21
April 2004 on environmental liability with regard to the prevention and remedying of
environmentaỉ damage.
154. Harvey, Fiona. “Durban deal will not avert catastrophic climate change, say
scientists”, The Guardian, 11 tháng 12 năm 2011. Truy cập 11 tháng 12 năm 2011.
155. Butterworths' Sudent, Companions, Litigation and Alternative Dispute
Resolution – Environmental Law and Policy in Australia, tr. 821-827.
156. Philippe Sand (2003), Principles of International Environmental Law, 2nd
edition, Cambridge, tr. 869 ff.
157. Environmental control regulation in Japan (1990), Tokyo.