18
BIẾN ĐỔI THỦY VĂN CÁC SÔNG VÙNG VEN BIỂN MIỀN TRUNG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG PGS. TS. NGUYỄN VĂN THẮNG VIỆN THỦY VĂN, MÔI TRƯỜNG VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU - ĐẠI HỌC THỦY LỢI

BIẾN ĐỔI THỦY VĂN CÁC SÔNG VÙNG VEN BIỂN MIỀN TRUNG … .pdf · biẾn ĐỔi thỦy vĂn cÁc sÔng vÙng ven biỂn miỀn trung nhỮng nĂm gẦn ĐÂy vÀ mỘt

  • Upload
    others

  • View
    28

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

BIẾN ĐỔI THỦY VĂN CÁC SÔNG VÙNG VEN

BIỂN MIỀN TRUNG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ

MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO PHÁT TRIỂN

BỀN VỮNG

PGS. TS. NGUYỄN VĂN THẮNG

VIỆN THỦY VĂN, MÔI TRƯỜNG VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU - ĐẠI HỌC THỦY LỢI

ĐẶC ĐIỂM VÙNG BiỂN (VB) MiỀN TRUNG (MT) CÓ LIÊN QUAN ĐẾN

CHẾ ĐỘ THỦY VĂN CỦA SÔNG

NHỮNG BIẾN ĐỔI THỦY VĂN CÁC SÔNG VÙNG VBMT NHƯNG NĂM

GẦN ĐÂY VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KINH TẾ XÃ HỘI.

MÔT SỐ VẤN ĐỀ CẦN XEM XÉT GIẢI QUYẾT ĐỂ QUẢN LÝ BẢO VỆ

LƯU VỰC, GIẢM NHẸ THIÊN TAI BÃO LŨ CÁC SÔNG VÙNG VBMT

NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH

ĐẶC ĐIỂM VÙNG VBMT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CHẾ ĐỘ

THỦY VĂN CỦA SÔNG

Vùng VBMT có 10 lưu vực sông lớn

đặc trưng cho 11 tỉnh

Có 2 lưu vực sông có diện tích lưu

vực lớn hơn 10.000 km2 (thu Bồn,

sông Ba), các sông còn lại có điện

tích đều nhỏ hơn 4000 km2.

Điều kiện tự nhiên của vùng ( địa

hình, địa mạo, thảm phủ thực vật,

khí hậu ) và xã hội ( khai thác lưu

vực, khai thác và sử dung nước..)

có ảnh hưởng rất nhiều tới sự hình

thành cũng như biến đổi chế độ

thủy văn và điều kiện nguồn nước

của các lưu vực sông, qua đó tác

động trở lại tới con người.

l

ĐẶC ĐIỂM VÙNG VBMT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CHẾ ĐỘ

THỦY VĂN CỦA SÔNG

Dải đất MT dài nhưng hẹp, địa hình dốc, có nhiều dãy núi đâm

ngang ra biển nên vùng VBMT có nhiều sông nhưng ít sông lớn.

Sông suối có độ dốc lớn nên tốc độ tập trung nước rất nhanh. vùng

núi thượng lưu chỉ qua một vùng chuyển tiếp (trung lưu) rất ngăn là

đến vùng đồng bằng hạ lưu. Vì thế vùng đồng bằng hạ lưu luôn

trong mối nguy cơ rất cao bị uy hiếp của lũ từ thượng lưu dồn về.

Điều kiện địa hình cũng khiến cho các sông vùng VBMT ít có những

vị trí xây dựng các hồ chứa nước có dung tích lớn để phòng chống

lũ và cấp nước cho khu vực hạ du. Vì thế biện pháp xây dựng công

trình hồ chứa phòng chống lũ cho hạ du có nhiều khó khăn.

Chế độ khí hậu tương đối khắc nghiệt: mùa lũ thường chỉ có 3-4

tháng (VIII/X-XII), còn mùa kiệt kéo dài 8-9 tháng (I-VIII/IX) trong đó có

những tháng gần như không có mưa. Điều đó khiến cho mùa lũ

thường xảy ra ngập úng, còn mùa kiệt lại thường xảy ra hạn hán.

Kinh tế-Xã hội (KTXN): khó khăn về kinh tế, dân sinh, tình trạng đói

nghèo hơn nhiều vùng khác nên luôn gây nhiều áp lực lên lưu vực

sông.

NHỮNG BIẾN ĐỔI THỦY VĂN CÁC LƯU VỰC SÔNG

TRONG VÙNG TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

Có thể thấy rằng trong những năm gần đây, chế độ thủy văn cũng

như điều kiện nguồn nước các sông vùng VBMT có những biến đổi

rất rõ rệt. Điều đó đã trong mùa lũ đã làm gia tăng các thiệt hại của

lũ lụt ở khu vực hạ du và trong mùa kiệt thì gia tăng tình trạng cạn

kiệt, thiếu nguồn nước sử dụng.

Cần làm rõ các yếu tố tác động, đánh giá mức độ biến đổi của các

yếu tố thủy văn cũng như các hậu quả của chúng để định hướng

cho đề xuất các chính sách, giải pháp đối phó, giảm thiểu thiệt hại,

phát triển bền vững (PTBV ) KTXH các tỉnh.

Tần suất xuất hiện thiên tai bão lũ và mức độ ác liệt của bão lũ gia

tăng rất rõ rệt so với trước kia : số trận lũ, Qmax, Wmax. Thí dụ số

trận bão lũ tại Quảng Ngãi

Mức độ biến động của chế độ thủy văn mùa lũ các sông cũng gia

tăng rõ rệt : Tăng nhanh tốc độ tập trung của lũ trên lưu vực sông;

Biến đổi hình dạng đường quá trình lũ ( nhánh lên dốc hơn, nhánh

xuống có xu thế kéo dài hơn do giảm khả năng thoát lũ, đường

quá trình (QT) lũ phức tạp và phản ứng nhạy hơn với mưa so với

trước kia.

BIẾN ĐỔI DÕNG CHẢY MÙA LŨ

Phân tích số liệu thủy văn cũng không thể kết luận có sự tăng hay

giảm đi của lượng dòng chảy năm các lưu vực sông những năm

gần đây hay không vì dòng chảy còn có tính chu kỳ.

Tuy nhiên phân tích số liệu thủy văn có thể thấy có sự biến đổi ở

mức độ nhỏ trong dạng PPDC của lưu vực sông, trong đó lượng DC

mùa lũ có xu thế tăng lên và lượng DC mùa kiệt bị giảm đi những

năm gần đây so với vài chục năm trước đây do khả năng điều tiết

của lưu vực bị suy giảm.

BIẾN ĐỔI DẠNG PHÂN PHỒI DÕNG CHẢY (PPDC) NĂM

Dòng chảy mùa kiệt của các lưu vực sông cũng bị suy giảm rõ rệt, làm

suy giảm và cạn kiệt nguồn nước ở hạ lưu của một số lưu vực sông,

hậu quả của suy thoái mặt đệm và khai thác sử dụng quá mức nguồn

nước ở trung và thượng lưu: Thí dụ hạ lưu sông Ba, hạ lưu sông Trà

Khúc, hạ lưu sông Hà Thanh..

Biểu thị có thể thấy được ở lượng dòng chảy mùa kiệt các sông có bị

suy giảm so với trước đây

BIẾN ĐỔI DÕNG CHẢY MÙA KIỆT

Cạn kiệt có thể thấy rõ ở khi xác định rõ số lượng, thời gian kéo dài và

giá trị lưu lượng của các đợt kiệt đã xuất hiện trong mùa kiệt các năm.

Nói chung trong những năm gần đây các đợt kiệt xuất hiện với số

lượng tăng hơn, giá trị lưu lượng kiệt của các đợt cũng nhỏ hơn trước

kia, gây nên cạn kiệt nước trong sông.

Nguy cơ đứt dòng trong mùa kiệt có khả năng xảy ra ở hạ lưu một số

sông trong các thời gian tới nếu không có biện pháp quản lý kịp thời.

BIẾN ĐỔI DÕNG CHẢY MÙA KIỆT

Triều và mặn có xu thế xâm nhập sâu hơn vào vùng cửa sông của các

sông trong mùa kiệt ảnh hưởng đến chất lượng nước lấy vào cho cấp

nước sinh hoạt, cho tưới vùng của các vùng canh tác nông nghiệp khu

vực gần cửa sông.

Nhiều vùng cửa sông các tỉnh đã phải đầu tư các công trình đập ngăn

mặn đẻ hạn chế ảnh hưởng của triều và mặn xâm nhập

BIẾN ĐỔI CỦA TRIỀU VÀ MẶN Ở KHU VỰC CỬA SÔNG

PHÂN TÍCH NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN

BIẾN ĐỔI THỦY VĂN NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

Sự biến đổi của các nhân tố khí hậu

Sự biến đổi của các nhân tố mặt đệm mà chủ yếu là lớp phủ rừng.

Những bất cập trong các hoạt động phát triển trên lưu vực đăc biệt

là trong khai thác sử dụng nước trên lưu vực sông

CÓ BA NHÂN TỐ CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÁC BIẾN ĐỔI

THỦY VĂN NÓI TRÊN, ĐÓ LÀ

Biến đổi khí hậu (KH) làm gia tăng biến động trong chế độ thủy văn các

sông, gia tăng thiên tai bão lũ cả về số lượng và cường độ, gia tăng

hạn hán.

Làm nước biển dâng cao hơn ở vùng cửa sông, từ đó làm tăng ngập

úng và khó khăn cho tiêu thoát lũ, gia tăng ảnh hưởng của triều mặn ở

cửa sông (KỊch bản nước biển dâng Việt Nam)

1. SỰ BIẾN ĐỔI CỦA NHÂN TỐ KHÍ HẬU, CỤ THỂ LÀ SỰ NÓNG LÊN

CỦA NHIỆT ĐỘ TOÀN CẦU ĐẪ CÓ ẢNH HƯỞNG LÀM BIỀN ĐÔI CÁC

YẾU TỐ THỦY VĂN CỦA CÁC LƯU VỰC SÔNG

Nhà nước đã đầu tư rất nhiều dự án cho trồng và bảo vệ rừng, tuy

mức phủ rừng có tăng nhưng chất lượng rừng lại rất thấp.

Tình trạng phá rừng phòng hộ đầu nguồn vì mục đích kinh tế ( lấy gỗ,

lấy đất canh tác đặc biệt là phát triển trồng sắn những năm gần đây)

phổ biến ở thượng lưu các sông, nhiều nơi không kiểm soát được. Thí

dụ rừng đầu nguồn hệ thống thủy lợi (HTTL) Thạch Nham, thượng lưu

sông Ba, Vụ Gia Thu Bồn..

2. SỰ BIẾN ĐỔI CỦA NHÂN TỐ MẶT ĐỆM, NHẤT LÀ GIA TĂNG TÌNH

TRẠNG PHÁ RỪNG ĐÀU NGUỒN NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY ĐÃ LÀM SUY

THOÁI RÕ RỆT BỀ MẶT LƯU VỰC Ở TRUNG VÀ THƯỢNG LƯU

Rừng trồng cũng bị phá rất nhiều để trồng sắn. Nhiều nơi diện tích

rừng trồng không bù đắp được diện tích rừng bị phá.

Rừng trong vùng đệm và một số nơi thuộc vùng lõi của một số khu

bảo tồn thiên nhiên cũng bị xâm lấn.

Toàn tỉnh có 234.799 ha rừng trong

đó rừng tự nhiên 104.522 ha và

rừng trồng 130.276 ha.

Rừng phòng hộ 101.161 ha trong đó

81.969 ha là rừng tự nhiên, còn lại là

rừng trồng, tâp trung chủ yếu ở hai

huyện Ba Tơ và Sơn Hà nhưng các

diện tích này đang bị suy giảm rất rõ

rệt theo từng năm do hiện tượng

phá rừng để lấy gỗ và trồng sắn.

Các nguyên nhân : đói nghèo, yếu

kén trong tổ chức quản lý bảo vệ

rừng, tồn tại trong chính sách kinh

tế, tồn tại trong nhận thức của

người dân..

THÍ DỤ: SỐ LIỆU RỪNG CỦA TỈNH QUẢNG NGÃI NĂM

2009

Những năm gần đây số lượng

các công trình hồ chứa, đập

dâng nhất là các công trình hồ

chứa nước vừa và nhỏ đã tăng

rất nhanh đã làm ngập và mất

một diện tích rừng không nhỏ.

Tính trung bình xây dựng một

hồ thủy điện 10MW mất 100 ha

đất rừng. Mặc dù có quy định

các hồ phải trồng bù lại nhưng

thực hiện còn nhiều vấn đề.

RỪNG CÕN BỊ SUY GIAM DO SỰ GIA TĂNG XÂY DỰNG CÁC HỘ

CHỨA THUY LỢI, THỦY ĐIỆN

Hiện tượng khai thác khoáng sản ( có phép hoặc không phép) đã tăng

lên rất nhanh trong những năm gần đâ ở các nhánh sông suối thượng

lưu, nhất là từ sau khi Chính Phủ phân cấp quyền cấp phép khai thác

KS cho các tỉnh. Điều đó đã làm gia tăng suy thoái bề mặt lưu vực ở

thượng nguồn và có ảnh hưởng đến hình thành dòng chảy của sông.

Trước tình hình đó CHÍNH PHỦ đã chỉ thị cho các tỉnh tạm ngừng cấp

phép khai thác khoáng sản.

BỀ MẶT LƯU VỰC CÕN BỊ SUY THOÁI DO GIA TĂNG CÁC HOẠT

ĐỘNG ĐÀO BỚI, KHAI THÁC KHOÁNG SẢN NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY