Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 1/67
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 08/2018 A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Thiết kế hệ thống không dây cung cấp
điện và kết nối với các thiết bị
bên trong cơ thể
Vật liệu cho phép cửa sổ vừa cung cấp
điện vừa kiểm soát nhiệt độ cho ngôi nhà
Pin sạc sử dụng cho xe điện được gia công
bằng chất điện phân có hàm lượng flo cao
Sử dụng kim loại lỏng để chế tạo pin lỏng
điện áp cao
Bước đột phá trong công nghệ pin năng
lượng mặt trời perovskite
Tế bào năng lượng mặt trời chứa vi khuẩn
có thể hấp thụ ánh nắng ngay cả sau
những đám mây
Thiết bị kết hợp khai thác cả năng lượng
từ và năng lượng cơ học
Màng graphene thông minh có thể kiểm
soát lưu lượng nước
Gương sinh trắc học làm nổi bật những sai
sót trong công nghệ trí tuệ nhân tạo AI
Israel phát triển hệ thống dự báo động đất
sử dụng trí tuệ nhân tạo
Sử dụng cáp quang để phát hiện động đất
Australia chế tạo thành công loạt thiết bị
cảnh báo lũ lụt
Hoàn thiện kỹ thuật tăng dung lượng lưu
trữ máy tính gấp hàng nghìn lần
Cung cấp insulin dưới dạng viên thuốc-
Kỹ thuật mới thay thế tiêm insulin hàng
ngày cho bệnh nhân tiểu đường
Bệnh tiểu đường tuýp 2, béo phì có thể
sớm “đảo ngược” bằng liệu pháp gen
Lập trình tự gen giúp các nhà khoa học
khai thác đất để sản xuất kháng sinh
Vắc xin HIV mới cho thấy an toàn và tạo
ra phản ứng miễn dịch chống vi rút HIV
mạnh hơn
Phương pháp xét nghiệm máu có giá chỉ
20USD có thể hỗ trợ chẩn đoán bệnh viêm
gan B toàn khu vực châu Phi
Sử dụng vết máu tại hiện trường phạm tội
để xác định tuổi của nạn nhân
Parkinson có thể sớm được điều trị bằng
thuốc huyết áp
Mỹ phát triển thuốc cải lão hoàn đồng,
kéo dài 1/3 tuổi thọ
Loại thuốc mới có thể ngăn ngừa hoặc đảo
ngược ảnh hưởng do chứng mất trí và đột
quỵ
Miếng dán có thể đo cortisol trong mồ hôi
giúp phát hiện bệnh
Cải tiến cảm biến sinh học cấy dưới da
Thuốc nhỏ mắt từ chiết xuất nghệ có thể
điều trị bệnh tăng nhãn áp
Stent thông minh trong điều trị tim mạch
Bào chế loại vắc xin mới dựa vào tơ nhện
Các nhà khoa học phát hiện ra mục tiêu
mới để ngăn chặn sự phát triển của ung
thư
Sử dụng công cụ mới để xác định gen ung
thư ở trẻ em
MRI giúp không chỉ chẩn đoán mà cả điều
trị ung thư?
Các nhà khoa học Siberia phát triển một
công nghệ mới để điều trị ung thư
Israel phát triển phương pháp mới điều trị
ung thư phổi
Biến đổi vi khuẩn để sản xuất phân bón từ
không khí
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67
Máy lọc nước bằng năng lượng mặt trời
tạo ra chất khử trùng từ nước và ánh nắng
mặt trời
Vật liệu mới hấp thụ các chất ô nhiễm hữu
cơ trong nước
Biến đổi enzyme để thúc đẩy sản xuất
nhiên liệu sinh học và vật liệu
xử lý sinh học khác
Miếng lót nệm phát hiện mệt mỏi, buồn
ngủ của người lái xe
Nhựa mới tự lành khi tiếp xúc với ánh
sáng có thể kéo dài vòng đời của vệ tinh
Chất xúc tác mới có chức năng kép: sản
xuất hydro và nhựa
Chế tạo bê tông bền vững làm giảm nhu
cầu năng lượng và phát thải khí
nhà kính
Các tòa nhà mới xây sẽ chắc chắn và xanh
hơn nhờ rau củ
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0019431 Phương pháp và thiết bị tạo ra
các điểm truy nhập cho dòng
dữ liệu viđeo
1-0019457 Thiết bị giải mã viđeo
1-0019456 Phương pháp giải mã hình ảnh
1-0019436 Bộ truyền ghép kênh phân chia
theo tần số trực giao (OFDM), phương
pháp truyền ghép kênh phân chia theo tần
số trực giao (OFDM), bộ thu ghép kênh
phân chia theo tần số trực giao (OFDM)
và phương pháp thu ghép kênh phân chia
theo tần số trực giao (OFDM)
1-0019437 Phương pháp, hệ thống và máy
chủ để thu thập các phiên bản phần mềm
1-0019438 Nền thủy tinh dùng cho đĩa từ
và vật ghi từ
1-0019446 Phương pháp và thiết bị sản
xuất màn hình quang
1-0019448 Đầu cuối di động có màn hình
thao tác và phương pháp thao tác đầu cuối
di động này
1-0019474 Phương pháp và thiết bị truyền
thông
1-0019472 Phương pháp và thiết bị hiển
thị tầng bản đồ
1-0019477 Phương pháp và thiết bị cung
cấp chứng thư truy cập
1-0019481 Phương pháp và thiết bị để tạo
giao diện cho người sử dụng
1-0019454 Thiết bị người máy được dẫn
động rung để leo trèo
1-0019503 Máy giám sát và kiểm soát lỗi
dùng cho thiết bị
1-0019445 Máy nén
1-0019434 Hệ thống làm mát bằng nước
dùng cho động cơ
1-0019458 Van dùng cho chất lỏng cao áp
và két chứa được lắp van này
1-0019491 Máy giặt
1-0019370 Thiết bị chữa cháy phun tự
động
1-0019471 Chất dập lửa và phương pháp
dập lửa ụ
1-0019451 Cửa và khung cửa chống cháy
1-0019340 Thiết bị luyện tập có thể gắn
vào kết cấu
1-0019368 Dụng cụ vắt sữa mẹ, phương
pháp vắt sữa mẹ và thiết bị tạo ra mức áp
suất âm tối thiểu trên một vùng cơ thể
người
1-0019435 Hộp bao gói
1-0019356 Đồ chứa
1-0019444 Dụng cụ nhà bếp và phương
pháp chế tạo dụng cụ nhà bếp này
1-0019442 Chế phẩm chăm sóc răng
miệng ổn định
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 3/67
1-0019393 Lọ chứa mỹ phẩm chăm sóc da
có chức năng xoa bóp nhiệt
1-0019355 Xốp uretan gốc polyete được
thấm mỹ phẩm
1-0019384 Chế phẩm chứa tế bào nấm
men Saccharomyces cerevisiae và kit
chứa tế bào nấm men này
1-0019447 Cụm kim tiêm có thể kéo vào
được
1-0019450 Thuốc chứa insulin và chất
chủ vận GLP-1, bộ kit và dụng cụ chứa
thuốc này
1-0019462 Tiền dược chất của axit amin
chứa flo và thuốc chứa tiền
dược chất này
1-0019338 Hợp chất
phenylxycloalkylmetylamin và dược
phẩm chứa hợp chất này
1-0019345 Hợp chất picolinamit dùng làm
chất ức chế kinaza và dược phẩm chứa
chúng
1-0019387 Hợp chất pyrazol-amit và dược
phẩm chứa hợp chất này
1-0019403 Hợp chất 1,2,5-oxadiazol có
tác dụng làm chất ức chế indolamin 2,3-
dioxygenaza, hợp chất này ở dạng rắn và
dược phẩm chứa hợp chất này
1-0019416 Hợp chất heteroxyclyl và dược
phẩm chứa hợp chất này
1-0019417 Hợp chất axit carboxylic,
phương pháp điều chế hợp chất này và
dược phẩm chứa nó
1-0019420 Hợp chất aryletynyl, quy trình
điều chế và dược phẩm chứa hợp chất này
1-0019465 Hợp chất flometyl-5,6-
dihydro-4H-[1,3]oxazin và dược phẩm
chứa hợp chất này
1-0019359 Quy trình sản xuất chế phẩm
lỏng để đánh bóng
1-0019347 Bộ lọc dùng cho thiết bị làm
sạch để lọc tạp chất ra khỏi nước
1-0019470 Lò xử lý cacbon hóa loại gia
nhiệt gián tiếp để xử lý rác thải và xe xử
lý cacbon hóa sử dụng lò này
1-0019360 Phương pháp xử lý nước để
cải thiện sản lượng và/hoặc chất lượng
của động vật dưới nước và động vật biển
1-0019459 Chế phẩm xử lý hạt giống và
phương pháp xử lý hạt giống
1-0019382 Vải được tẩm thuốc diệt côn
trùng và phương pháp tẩm vải này
1-0019376 Chế phẩm trừ sâu, chế phẩm
xua đuổi côn trùng, vật liệu vải dệt hoặc
vật liệu nhựa được tẩm để diệt côn trùng
và/hoặc xua đuổi côn trùng và quy trình
tẩm vật liệu vải dệt hoặc vật liệu nhựa
1-0019334 Chế phẩm dùng để phòng trừ
bệnh và phương pháp phòng trừ bệnh trên
thực vật hữu ích
1-0019440 Chi tiết phức hợp, sản phẩm
giày dép và phương pháp chế tạo chi tiết
phức hợp này
1-0019395 Phương pháp sản xuất sản
phẩm giày dép
1-0019429 Hộp cấp thuốc tráng phim và
hệ thống cấp thuốc tráng phim
1-0019449 Phương pháp sản xuất một
hoặc nhiều chi tiết trang trí và chi tiết
trang trí được phân lớp
1-0019452 Hệ thống cung cấp vật liệu
ghi, bảng mạch, bộ điều hợp và hộp mực
in dùng cho thiết bị tiêu thụ vật liệu ghi
1-0019469 Chế phẩm nhựa dẻo nhiệt gia
cường và vật đúc thu được bằng cách đúc
chế phẩm nhựa dẻo nhiệt gia cường
1-0019482 Phương pháp sản xuất bột thủy
lực và bột thủy lực thu được từ phương
pháp này
1-0019504 Hệ thống khí hóa than bitum
có hàm lượng tro và nhiệt độ nóng chảy
tro cao
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 4/67
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Thiết kế hệ thống không dây cung cấp điện và kết nối với các thiết bị bên trong cơ thể
Các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ
Massachusetts (MIT), Hoa Kỳ đã đưa ra một
phương pháp mới để cung cấp điện và kết nối
với các thiết bị cấy ghép sâu bên trong cơ thể
của con người. Các thiết bị này có thể được sử
dụng để phân phối thuốc, theo dõi tình trạng
bên trong cơ thể hoặc điều trị bệnh bằng cách
sử dụng điện hoặc ánh sáng để kích thích não.
Trong các thử nghiệm trên động vật,
nhóm nghiên cứu đã phối hợp với các nhà
khoa học tại Bệnh viện Phụ nữ Brigham để
chứng minh sóng có thể cấp điện cho các thiết
bị nằm sâu trong mô 10 cm từ khoảng cách
1m. Mô cấy được cung cấp sóng tần số vô
tuyến, có thể di chuyển an toàn qua mô người.
Fadel Adib, phó giáo sư tại Phòng thí
nghiệm Media thuộc MIT và là tác giả chính
của nghiên cứu cho biết: “Dù những thiết bị
nhỏ cấy ghép này không được gắn pin, nhưng
hiện chúng tôi có thể kết nối với các thiết bị
từ một khoảng cách bên ngoài cơ thể. Điều
này mở ra nhiều ứng dụng mới trong y học”.
Trong nghiên cứu, các nhà khoa học đã
thử nghiệm một nguyên mẫu có kích thước
bằng hạt gạo, nhưng theo dự báo kích thước
đó thậm chí có thể giảm hơn nữa vì không cần
đến pin. Các thiết bị y tế có thể được nuốt vào
hoặc cấy ghép trong cơ thể, mang đến cho các
bác sỹ những phương pháp mới để chẩn đoán,
theo dõi và điều trị nhiều loại bệnh.
Giovanni Traverso, phó giáo sư tại
Bệnh viện phụ nữ Brigham cho rằng: "Các
thiết bị cấy ghép có thể tương thích với các
điều kiện cảm biến cũng như hỗ trợ cung cấp
thuốc”. Phòng thí nghiệm của PGS. Traverso
hiện đang nghiên cứu nhiều hệ thống nuốt
vào trong bụng, có thể được sử dụng để phân
phối thuốc, theo dõi các dấu hiệu quan trọng
và phát hiện chuyển động của đường tiêu hóa.
Các thiết bị y tế cấy ghép thường được gắn
pin chiếm phần lớn không gian trên thiết bị và
có tuổi thọ hạn chế.
Nỗ lực khai thác các thiết bị cấy ghép
được cấp năng lượng bằng phương thức
không dây nhờ sự hỗ trợ của các sóng vô
tuyến phát ra từ ăng ten bên ngoài cơ thể gặp
nhiều khó khăn, vì sóng vô tuyến có khuynh
hướng mất đi khi chúng di chuyển qua cơ thể.
Các nhà nghiên cứu đã phát minh ra
một hệ thống "Kết nối trong cơ thể” dựa vào
một dãy ăng ten phát sóng vô tuyến có tần số
khác nhau. Khi sóng vô tuyến di chuyển,
chúng chồng lên nhau và kết hợp theo nhiều
cách. Tại một số điểm nhất định nơi các giá
trị cao của sóng chồng lên nhau, sóng vô
tuyến có thể cung cấp đủ năng lượng để cấp
điện cho cảm biến cấy ghép.
Với hệ thống mới, các nhà nghiên cứu
không cần biết chính xác vị trí của các cảm
biến trong cơ thể, vì năng lượng được truyền
qua một khu vực rộng lớn. Chúng có thể cấp
điện cùng lúc cho nhiều thiết bị. Khi các cảm
biến nhận được một chùm năng lượng, chúng
cũng tiếp nhận một tín hiệu yêu cầu chuyển
tiếp thông tin trở lại ăng ten. Tín hiệu này cũng
có thể được sử dụng để kích thích giải phóng
thuốc, tia điện hoặc một xung ánh sáng.
Trong các thử nghiệm ở lợn, các nhà
nghiên cứu đã chứng minh các cảm biến có
thể truyền điện từ khoảng cách 1m bên ngoài
cơ thể, đến cảm biến ở sâu trong mô đến
10cm. Nếu các cảm biến được đặt rất gần bề
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 5/67
mặt da, chúng có thể được cấp điện từ khoảng
cách xa 38m.
Công nghệ này cũng có khả năng cải
tiến các thiết bị nhận dạng tần số vô tuyến
trong các lĩnh vực khác như kiểm soát hàng
tồn, phân tích bán lẻ và môi trường "thông
minh", cho phép theo dõi và kết nối với đồ
vật ở khoảng cách xa.
Theo vista.gov.vn, 02/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Vật liệu cho phép cửa sổ vừa cung cấp điện vừa kiểm soát nhiệt độ cho ngôi nhà
Xu hướng xây dựng thân thiện với
môi trường đã làm tăng mức độ phổ biến
của lớp phủ cửa sổ, làm giảm chi phí sưởi
ấm và làm mát bằng cách ngăn chặn những
phần ánh nắng mặt trời không cần thiết.
Điều này tạo cảm hứng cho các nhà khoa
học và kỹ sư chế tạo pin mặt trời mỏng,
trong suốt để biến cửa sổ thành máy phát
điện thu nhỏ.
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã
tiến thêm một bước và kết hợp hai chức
năng này vào trong một vật liệu phù hợp với
cửa sổ để tăng gấp đôi hiệu quả sử dụng
năng lượng của hộ gia đình. Nghiên cứu đã
được công bố trên tạp chí Joule.
Hin-Lap Yip, đồng tác giả nghiên
cứu cho rằng: "Pin mặt trời được gắn vào
tòa nhà là một ví dụ điển hình cho thị
trường trong đó, pin mặt trời silicon dù có
giá thành rẻ và hiệu suất nhất định, nhưng
không phải phù hợp nhất do pin mờ và
nặng. Thay vào đó, chúng tôi có thể sản
xuất pin mặt trời hữu cơ dưới dạng màng
bán trong suốt, có trọng lượng nhẹ và đầy
màu sắc với khả năng biến đổi cửa sổ thành
máy phát điện và tấm cách nhiệt một cách
hoàn hảo”.
Để tạo ra một nguyên mẫu vừa có
khả năng sản xuất điện vừa ngăn chặn nhiệt
dư thừa, các nhà nghiên cứu đứng đầu là
giáo sư khoa học vật liệu Fei Huang đã thực
hiện hành động cân bằng theo ba hướng
giữa khai thác ánh sáng để sản xuất điện,
ngăn chặn ánh sáng để cách nhiệt và truyền
ánh sáng như một cửa sổ bình thường.
Thông qua hòa trộn và kết hợp giữa các vật
liệu với các hợp chất hóa học được đề xuất
trước đây phục vụ nhiều mục đích, các nhà
khoa học đã tạo ra một thiết bị cho phép
phần ánh nắng mặt trời nhìn thấy xuyên
qua, cản trở ánh sáng hồng ngoại và chuyển
đổi vùng ánh sáng hồng ngoại gần ở giữa
vào dòng điện.
Các tính toán cho thấy về lý thuyết,
việc lắp đặt các cửa sổ có thể giảm 50% sự
phụ thuộc của hộ gia đình vào các nguồn
điện bên ngoài. Dù ước tính mỗi inch vuông
của cửa sổ sẽ được ốp pin mặt trời đa năng,
nhưng chỉ cần tăng nhẹ hiệu suất chuyển đổi
năng lượng từ 6,5%.
Vật liệu có chức năng kép này vẫn
đang trong giai đoạn phát triển ban đầu,
nhưng các tác giả hy vọng vật liệu mới sẽ
mở đường cho các công nghệ mới. Ông Yip
cho biết: “Việc chế tạo pin mặt trời polyme
bán trong suốt đa năng cách nhiệt chỉ là
bước khởi đầu cho việc thăm dò các dứng
dụng mới của pin mặt trời hữu cơ. Một
phiên bản được thiết kế riêng cho nhà kính
tự cấp năng lượng chỉ là một trong số nhiều
sản phẩm có tác động lớn mà chúng tôi
muốn phát triển trong cho tương lai".
Theo vista.gov.vn, 17/07/2018
Trở về đầu trang
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 6/67
**************
Pin sạc sử dụng cho xe điện được gia công bằng chất điện phân có hàm lượng flo cao
Hiệu suất của pin sạc sử dụng cho xe
điện được đánh giá dựa vào số km xe di
chuyển được trong một lần sạc. Hiện nay, pin
Lithium-ion đã đạt đến giới hạn an toàn về
mật độ năng lượng lưu trữ trong một diện tích
cụ thể. Mới đây, một nhóm các nhà nghiên
cứu thuộc trường Đại học Maryland (UMD),
Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Quân đội Hoa
Kỳ (ARL) và Phòng thí nghiệm Quốc gia
Argonne (ANL) đã tìm ra một phương pháp
giúp cải thiện dung lượng của pin sạc bằng
cách sử dụng các điện cực mạnh và sau đó gia
công các vật liệu điện cực này với chất điện
phân có nồng độ flo cao. Bài báo về nghiên
cứu được công bố trên tạp chí Nature
Nanotechnology.
Các nhà khoa học Xiulin Fan và Long
Chen tại Trường Kỹ thuật A. James Clark của
UMD - tác giả đầu tiên của nghiên cứu cho
biết: "Chúng tôi đã tạo ra một chất điện phân
có chứa hợp chất flo có khả năng kích hoạt
cực dương là kim loại lithium với tính ổn định
không cao, đồng thời, chứng minh rằng khả
năng kéo dài tuổi thọ pin với chu kỳ nạp một
nghìn lần với công suất cao".
Nhờ đó, pin mới có thể sạc và xả nhiều
lần mà không làm mất khả năng cung cấp
nguồn năng lượng ổn định và hiệu quả cao.
Ngay cả sau khi thực hiện chu kỳ sạc một
nghìn lần, chất điện phân có nồng độ flo cao
là yếu tố đảm bảo 93% dung lượng pin, đây là
ưu điểm mà nhóm tác giả nghiên cứu đánh
giá là "chưa từng thấy". Điều này cũng có
nghĩa rằng một chiếc xe chạy bằng công nghệ
này có thể thực hiện nhiều lượt di chuyển
trong nhiều năm.
Jang Wook Choi, giáo sư chuyên
ngành kỹ thuật hóa học và sinh học tại trường
Đại học Quốc gia Seoul ở Hàn Quốc cho biết:
"Vòng đời mà pin được gia công bằng các vật
liệu điện cực và cửa sổ điện áp hoạt động đạt
được được đánh giá là "chưa từng có”. Công
trình nghiên cứu là bước tiến bộ lớn trong
lĩnh vực sản xuất pin sạc nhằm mục đích tăng
mật độ lưu trữ năng lượng, mặc dù vẫn cần
điều chỉnh thêm một số chi tiết nhằm đáp ứng
các tiêu chuẩn khác nhau cho quá trình
thương mại hóa sản phẩm”.
Nhóm nghiên cứu thử nghiệm loại pin
có hình dáng của một chiếc đồng xu giống pin
đồng hồ cho biết họ hiện đang làm việc với
các đối tác công nghiệp về việc sử dụng các
chất điện phân để sản xuất pin có điện áp cao.
Vật liệu cực dương kim loại và nickel
và cực âm điện áp cao được gọi là những vật
liệu linh hoạt vì chúng thường phản ứng
mạnh mẽ với các loại vật liệu khác, có nghĩa
là chúng có thể chứa nhiều năng lượng nhưng
đồng thời, có xu hướng "lấn át" các yếu tố mà
họ đang kết hợp, và đó là lý do khiến tính hữu
dụng của vật liệu bị hạn chế.
Chunsheng Wang, giáo sư Khoa Hóa
học và Hoá sinh của trường Clark, đã hợp tác
với Kang Xu tại ARL và Khalil Amine tại
ANL để thực hiện nghiên cứu về các vật liệu
điện phân mới này cho pin. Vì mỗi nguyên tố
hóa học trên bảng tuần hoàn có sự phân bố
electron khác nhau nên Wang nghiên cứu
cách thức phản ứng hoán vị cấu trúc hóa học
để nó có thể trở thành lợi thế hay bất lợi trong
hoạt động của pin. Bên cạnh đó, ông và Xu
cũng đưa ra thông báo về nỗ lực thực hiện dự
án hợp tác giữa ngành công nghiệp - chính
phủ - đại học có tên gọi là Trung tâm Nghiên
cứu Pin cực hạn nhằm liên kết các công ty có
nhu cầu sử dụng pin cho những mục đích đặc
biệt với các nhà khoa học phát minh ra chúng.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 7/67
“Mục tiêu của nghiên cứu là vượt qua
giới hạn về dung lượng mà pin lithium-ion
hiện đang trải nghiệm. Chúng tôi xác định
rằng flo là thành phần quan trọng để đảm
bảo các hóa chất tích cực này mang lại tuổi
thọ lâu dài cho pin. Một ưu điểm khác của flo
là nó khiến cho các chất điện phân dễ cháy
trở nên hoàn toàn không thể bắt lửa”, Wang
nhấn mạnh.
Nhóm đã thực hiện một đoạn phim và
quan sát được hình ảnh một số loại pin bắt lửa
trong một vài khoảnh khắc, tuy nhiên, pin flo
không gặp vấn đề gì.
Mặc dù nhiều nghiên cứu về hiện
tượng flo hóa được thực hiện trước đây dẫn
đến nhiều kết khác nhau, nhưng có một thực
tế không thể phủ nhận, đó là: số lượng lớn các
loại hóa chất có chứa flo trong các kỳ giao
pha chính là chìa khóa đảm bảo vật liệu hoạt
động hiệu quả.
Nhà nghiên cứu Xu, trưởng nhóm
nghiên cứu tại ARL cho biết: "Những bằng
chứng bạn tìm thấy có thể khẳng định hay
phủ định thực tế flo là thành phần hóa học
hoạt động hiệu quả trong các kỳ giao pha.
Chúng tôi nhận thấy rằng trong hầu hết các
trường hợp, không chỉ là thành phần hóa học
trong các interphase mà cách thức sắp xếp và
phân bố nguyên tố này cũng đóng vai trò hết
sức quan trọng".
Theo vista.gov.vn, 19/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Sử dụng kim loại lỏng để chế tạo pin lỏng điện áp cao
Pin lỏng có khả năng lưu trữ mật độ
năng lượng cao, đặc biệt, nó được xem là
một giải pháp đầy hứa hẹn và hữu ích cho các
nguồn năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, các loại
pin lỏng hiện nay vẫn còn nhiều nhược điểm
cần khắc phục. Mới đây, một nhóm kỹ sư tại
trường Đại học Stanford (Hoa Kỳ) đã phát
triển một thế hệ pin lỏng mới có khả năng lưu
trữ mât độ năng lượng cao, an toàn, hiệu quả
và giá thành thấp bằng phương pháp sử dụng
hỗn hợp kim loại có thể duy trì trạng thái lỏng
trong điều kiện nhiệt độ phòng.
Trong pin lỏng, cực âm và cực dương
ở dạng chất lỏng và được giữ trong bình chứa
bên ngoài và được bơm vào pin chính khi cần
thiết. Tại đây, hai loại chất lỏng ở hai cực của
pin được ngăn cách với nhau bởi một màng
lọc cho phép chúng trao đổi các điện tử để
duy trì trạng thái nạp hoặc xả năng lượng.
Trong tương lai, thiết bị mới có thể lưu
trữ một lượng năng lượng khổng lồ, nhưng
các chất hóa học được sử dụng thường độc
hại, đắt tiền và khó xử lý. Do đó, nhóm
nghiên cứu Stanford đã sử dụng phương pháp
kết hợp độc đáo các loại vật liệu để thiết kế
dòng pin mới nhằm khắc phục những vấn đề
nêu trên.
Các nhà khoa học cho biết yếu tố đầu
tiên và quan trọng nhất là việc sử dụng hợp
kim của natri và kali ở dạng chất lỏng làm
cực âm của pin. Hỗn hợp này có thể duy trì
tính chất của một kim loại lỏng trong điều
kiện nhiệt độ phòng, và về mặt lý thuyết, nó
có khả năng giúp lưu trữ mật độ năng lượng
gấp ít nhất là 10 lần so với các loại chất lỏng
khác trước đây được từng được sử dụng. Bên
cạnh đó, nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm bốn
loại chất lỏng gốc nước khác nhau làm cực
dương của pin.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 8/67
Vật liệu mới thứ hai được sử dụng
trong lớp màng lọc bên trong pin. Cụ thể, các
kỹ sư đã tạo ra một lớp màng gốm được làm
từ kali và nhôm ôxit, giúp ngăn cách hai lớp
chất lỏng ở cực dương và cực âm của pin
trong khi vẫn cho phép dòng điện chảy giữa
hai cực.
Theo nghiên cứu, sự kết hợp sử dụng
dung dịch anolyte (hay còn gọi là nước A hay
dung dịch hoạt hóa điện hóa) và màng lọc
mới tạo ra mức điện áp ở ngưỡng tối đa gấp
đôi so với các dòng pin khác, có nghĩa là khả
năng lưu trữ mật độ năng lượng tổng thể tốt
hơn và chi phí sản xuất thấp hơn. Nguyên
mẫu pin mà nhóm phát triển cũng chứng
minh sự ổn định của nó qua hàng ngàn giờ
hoạt động.
Antonio Baclig, đồng tác giả của
nghiên cứu cho biết: "Chúng tôi tin rằng công
nghệ pin mới có thể đáp ứng rất nhiều chỉ số
hiệu suất khác nhau, bao gồm: chi phí, tính
hiệu quả, kích thước, tuổi thọ, mức độ an
toàn, v.v….”.
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng
khẳng định: trong tương lai, họ sẽ tiến hành
tinh chỉnh độ dày của màng lọc hoặc sử dụng
chất lỏng không có nước để chế tạo cực âm
của pin nhằm cải thiện hơn nữa thiết kế pin.
Bài báo về nghiên cứu mới được công
bố trên tạp chí Joule.
Theo vista.gov.vn, 24/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Bước đột phá trong công nghệ pin năng lượng mặt trời perovskite
Năng lượng mặt trời là một trong
những nguồn năng lượng tái tạo quan trọng
do năng lượng này trải rộng và ít ảnh hưởng
tới môi trường. Ngành công nghiệp chế tạo
pin mặt trời đã có những bước tiến đáng kể
như hiệu suất pin ngày càng tăng, pin mỏng
hơn, dễ uốn dẻo hơn, mở ra một tương lai
thường được miêu tả trong các bộ phim viễn
tưởng nơi pin mặt trời được ứng dụng trong
mọi lĩnh vực của đời sống. Trong số các loại
pin mặt trời đang được nghiên cứu, có một
loại pin chỉ vừa mới được các nhà khoa học
để ý đến trong mấy năm gần đây nhưng đã
tạo ra bước đột phá hứa hẹn sẽ trở thành mũi
nhọn trong nghiên cứu pin mặt trời, đó là pin
perovskite.
Perovskite là tên của một loại cấu trúc
tinh thể dạng ABX3 (được phát hiện lần đầu
tiên trong hợp chất CaTiO3), A đại diện cho
các gốc hữu cơ như CH3NH3+, C2H5NH3+,
HC(NH2)2+; B là Pb2+, Sn2+ hoặc Cu2+ và X là
các gốc halogen như Cl-, Br-, I-.
Giống như nhiều loại vật liệu, pin
perovskite cũng được nghiên cứu thử nghiệm
ở các điều kiện và thiết bị khác nhau, từ đó
đem lại những phát hiện đáng kinh ngạc cho
các nhà khoa học.
Mới đây nhóm nghiên cứu Trường Đại
học Surrey đã giúp tạo ra một kỹ thuật sản
xuất pin mặt trời perovskite hiệu suất cao
nhất, họ đã được ghi nhận điều này.
Theo tính toán của các chuyên gia, pin
mặt trời perovskite thay thế pin mặt trời
silicon truyền thống và nó được xem như là
thế hệ mới của pin mặt trời với hiệu suất
chuyển đổi năng lượng cao hơn và chi phí đầu
tư và sản xuất thấp hơn nhiều so với pin mặi
trời silicon truyền thống.
Pin perovskite đang dần trở thành ngôi
sao trong dòng pin mặt trời do sở hữu nhiều
ưu điểm nổi bật như nguồn khoáng vật phong
phú, dễ chế tạo bằng nguyên liệu rẻ tiền ở
nhiệt độ thấp, màng mỏng được chế tạo ra có
giá trị cấu trúc tương đương với những loại
pin silic đắt tiền được chế tạo cầu kì. Hơn
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 9/67
nữa, những tấm phim sử dụng vật liệu này
mỏng và linh động hơn dòng pin silic nên có
thể dùng để chế tạo các thiết bị nhẹ, có thể
uốn cong và những tấm pin mặt trời nhiều
màu sắc với độ trong khác nhau.
Trong một nghiên cứu được công bố
trên tạp chí Science, một nhóm các nhà
nghiên cứu từ Đại học Bắc Kinh và các
trường đại học Surrey, Oxford và Cambridge
đã trình bày chi tiết một phương pháp mới để
giảm thiểu quá trình xử lý không mong muốn
có tên gọi là tái tổ hợp không bức xạ - làm pin
mặt trời perovskite bị thất thoát năng lượng
và giảm hiệu suất hoạt động.
Nhóm nghiên cứu đã tạo ra một kỹ
thuật có tên gọi là giải pháp tăng trưởng thứ
cấp (SSG) để làm tăng điện áp của các pin
mặt trời perovskite nghịch đảo bằng 100
milivolt, đạt 1,21 volt mà không ảnh hưởng
đến chất lượng của pin mặt trời hoặc dòng
điện chạy qua thiết bị. Họ đã thử nghiệm kỹ
thuật trên thiết bị PCE với kết quả thu được là
hiệu suất chuyển đổi đạt 20.9%. Thiết bị PCE
được ghi nhận là có khả năng đảm bảo giá trị
cao nhất cho các pin mặt trời perovskite bị
nghịch đảo.
Tiến sĩ Wei Zhang (Viện Công nghệ
Tiên tiến của Đại học Surrey) cho biết: “Nhu
cầu sử dụng năng lượng sạch và bền vững để
giúp chúng ta ngừng việc làm tổn hại đến
hành tinh của chúng ta là việc đang thôi thúc
chúng tôi nghiên cứu tìm ra giải pháp. Kỹ
thuật mới của chúng tôi cho thấy rằng có rất
nhiều hứa hẹn với các tế bào năng lượng mặt
trời perovskite và chúng tôi tập trung vào
việc mở rộng khám phá nhiều hơn nữa trong
tương lai”.
Giáo sư Ravi Silva, Giám đốc Viện
Công nghệ Tiên tiến tại Đại học Surrey, cho
biết: “Ông rất vui được thấy Viện Công nghệ
Tiên tiến đã tham gia vào dự án toàn cầu này.
Đây là một dự án mà có thể tạo ra các giải
pháp đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng
thực sự bền vững, chi phí tiết kiệm và
“xanh”. Đây cũng là một nỗ lực lớn của các
phòng thí nghiệm hàng đầu, các nhà nghiên
cứu và các tổ chức từ khắp nơi trên thế giới,
tất cả họ đều làm việc cùng nhau vì lợi ích
chung”.
Theo vista.gov.vn, 06/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Tế bào năng lượng mặt trời chứa vi khuẩn có thể hấp thụ ánh nắng ngay cả sau những đám mây
Các sinh vật vi mô là một số trong
những thứ đầu tiên khai thác vào Mặt trời vì
năng lượng, vì vậy nó sử dụng chúng để tạo
ra các tế bào năng lượng mặt trời tốt hơn.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu tại Đại học
British Columbia (UBC) đã phát triển phương
pháp mới để chế tạo các tế bào năng lượng
mặt trời có chứa vi khuẩn, hiệu quả hơn các
hệ thống tương tự và thậm chí có thể hoạt
động vào những ngày nhiều mây. Thông
thường, để làm cho các tế bào năng lượng
mặt trời "sinh học" ra khỏi sinh vật sống, một
loại chất màu được chiết xuất từ vi khuẩn cho
phép chúng quang hợp ánh sáng. Thật không
may, quá trình này có thể phức tạp và yêu cầu
các dung môi độc hại.
Vì vậy, nhóm nghiên cứu UBC đã sử
dụng phương án thay thế đơn giản: bản thân
vi khuẩn. Đầu tiên, chúng biến đổi gen E. coli
để sản xuất nhiều chất màu gọi là lycopene,
có hiệu quả tự nhiên khi thực hiện quá trình
quang hợp. Sau đó, vi khuẩn được bọc trong
vật liệu bán dẫn và được áp dụng cho một tấm
kính. Để thiết bị tiếp xúc với ánh sáng, nhóm
nghiên cứu có thể ghi lại mật độ hiện tại là
0,686 milliamps trên mỗi cm vuông, gần như
gấp đôi so với các tế bào năng lượng mặt trời
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 10/67
sinh học khác. Nhóm nghiên cứu cũng cho
biết tế bào này có thể hoạt động hiệu quả
trong ánh sáng mờ, có thể mở rộng tính hữu
dụng của nó cho những khu vực ít nắng trên
thế giới.
Trưởng nhóm nghiên cứu
Vikramaditya Yadav, cho biết: “Chúng tôi
ghi nhận mật độ dòng điện cao nhất hiện nay
cho một pin mặt trời sinh học. Những vật liệu
lai mà chúng tôi đang phát triển có thể được
sản xuất kinh tế và bền vững, với tối ưu hóa
đầy đủ, có thể thực hiện ở hiệu suất tương
đương như các tế bào năng lượng mặt trời
thông thường”.
Các nhà nghiên cứu ước tính rằng quá
trình của họ chỉ tốn 10% so với phương pháp
chiết xuất chất màu thông thường. Hiện nay,
quá trình bán dẫn giết chết vi khuẩn, nhưng
nhóm nghiên cứu hy vọng cuối cùng sẽ tìm ra
một kỹ thuật thay thế giúp chúng sống sót,
nơi chúng có thể liên tục sản xuất chất màu
và tăng tuổi thọ của pin mặt trời.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí
Small.
Theo vista.gov.vn, 17/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Thiết bị kết hợp khai thác cả năng lượng từ và năng lượng cơ học
Thiết bị mới khai thác năng lượng do
nhóm nghiên cứu tại trường Đại học Thanh
Hoa, Trung Quốc, trong tương lai sẽ thay thế
nhu cầu sử dụng pin của một số thiết bị điện tử
công suất thấp. Thiết bị mới thu năng lượng từ
cả các rung động cơ học và từ trường thải loại
ra môi trường xung quanh để sản xuất điện
theo cách bền vững đủ cho hoạt động của cảm
biến không dây, máy tạo nhịp tim và các ứng
dụng khác. Nghiên cứu đã được công bố trên
tạp chí Applied Physics Letters.
Trong những năm qua, khai thác năng
lượng là lựa chọn ngày càng thú vị để thay
thế pin được sử dụng trong các thiết bị công
suất thấp. Trong khi pin có thời hạn sử dụng
hạn chế và cần được thay thế hoặc sạc lại
thường xuyên, nhưng các thiết bị thu năng
lượng có thể hoạt động tự động một cách lý
tưởng trong thời gian dài hơn.
Một trong những thách thức lớn của
máy thu năng lượng là sản xuất đủ điện năng
cho các ứng dụng thực tế. Phương pháp tăng
công suất đầu ra là khai thác từ 2 dạng năng
lượng trở lên. Chẳng hạn, có nhiều thiết bị thu
năng lượng cơ học hoặc năng lượng từ, nhưng
rất ít thiết bị khai thác được cả hai dạng năng
lượng này, dù thực tế là năng lượng cơ học và
năng lượng từ trong môi trường xung quanh
thường xuất hiện đồng thời trong môi trường
công nghiệp như các máy điện quay.
Trong nghiên cứu mới, các nhà khoa
học đã chứng minh năng lượng cơ học và
năng lượng từ có thể "tương tác", nên khi kết
hợp, chúng làm tăng công suất đầu ra tối ưu
nhiều hơn mức công suất đạt được nhờ sử
dụng từng loại năng lượng. Công suất tăng là
nhờ sử dụng một dầm công xôn làm từ vật
liệu laminate từ tính/điện áp di chuyển để đáp
ứng với cả từ trường và rung động.
Fulei Chu, trưởng nhóm nghiên cứu
cho biết: "Chúng tôi đã đề xuất ý tưởng áp
dụng hai phương thức khai thác năng lượng
khác nhau và chứng minh khả năng tương tác
của chúng. Như chúng ta đã biết, máy thu
năng lượng đã từng được nghiên cứu trong
những thập kỷ qua và nhiều phương pháp đã
được đề xuất. Tuy nhiên, mỗi phương pháp
đều có những hạn chế riêng. Thật khó để khắc
phục những hạn chế đơn lẻ của máy thu năng
lượng. Do đó, khai thác mối liên hệ tương tác
là khía cạnh quan trọng cho nghiên cứu”.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 11/67
Nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra rằng
sản lượng điện phụ thuộc vào những kích
thích cơ học và từ tính có tần số giống hoặc
khác nhau. Nếu các tần số giống nhau, thì
chênh lệch pha của chúng ảnh hưởng trực tiếp
đến điện áp đầu ra. Mặt khác, nếu các tần số
khác nhau, thì sự chênh lệch pha ít ảnh hưởng
đến điện áp đầu ra và trên thực tế điện áp đầu
ra kết hợp không còn là sóng sin đơn.
Từ đó, các nhà nghiên cứu đã chứng
minh những cải tiến về công suất năng lượng,
độ tin cậy và công suất đầu ra tối ưu của thiết
bị thu năng lượng kết hợp. Nhìn chung, nhóm
nghiên cứu tin rằng hiệu suất thiết bị cho thấy
rằng phương pháp kết hợp là giải pháp thay
thế triển vọng để cấp điện cho các thiết bị
điện tử công suất thấp trong tương lai.
Các nhà khoa học dự kiến sẽ nghiên
cứu sâu hơn về máy thu năng lượng trong
tương lai. Năng lượng gió, năng lượng sóng
và nhiều ứng dụng vật liệu thông minh trong
các hệ thống năng lượng sẽ là trọng tâm của
nghiên cứu.
Theo vietnamplus.vn, 19/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Màng graphene thông minh có thể kiểm soát lưu lượng nước
Các nhà khoa học tại Viện nghiên cứu
graphene quốc gia thuộc trường Đại học
Manchester (NGI) đã đạt được mục tiêu lớn
về lâu dài là kiểm soát lưu lượng nước qua
màng tế bào bằng điện.
Đây là loại màng hiện đại nhất được
phát triển có những tính chất độc đáo của
graphene. Nghiên cứu mới mở đường phát
triển các công nghệ màng thông minh và có
thể cách mạng hóa lĩnh vực hệ thống sinh học
nhân tạo, kỹ thuật mô và hệ thống lọc.
Graphene có khả năng được sử dụng để
chế tạo bộ lọc có thể điều chỉnh hoặc thậm chí
là rào chắn hoàn hảo khi xử lý chất lỏng và
khí. Màng “thông minh” mới sử dụng một
dạng graphene rẻ tiền được gọi là graphene
oxit, đã được chứng minh cho phép kiểm soát
chính xác lưu lượng nước bằng dòng điện. Các
màng thậm chí có thể được sử dụng để ngăn
chặn hoàn toàn nước đi qua khi cần thiết.
Nhóm nghiên cứu đứng đầu là Giáo sư
Rahul Nair đã gắn các dây diện trong màng
graphene oxit cách điện. Dòng điện chạy qua
các sợi nano này tạo ra điện trường lớn làm
ion hóa các phân tử nước và kiểm soát hoạt
động vận chuyển nước qua các mao mạch
graphene trong màng tế bào.
Thực hiện được việc kiểm soát lưu
lượng nước qua màng là một bước tiến vì quá
trình này giống với một số quá trình sinh học
sử dụng kích thích chính là các tín hiệu điện.
Kiểm soát việc vận chuyển nước là chìa khóa
để bảo tồn nước trong thận, điều hòa nhiệt độ
cơ thể và tiêu hóa. Do đó, kiểm soát vận
chuyển nước qua màng graphene bằng điện
mở ra hướng phát triển các hệ thống sinh học
nhân tạo và các thiết bị vi lưu nano tiên tiến
phục vụ nhiều ứng dụng khác nhau.
Trước đây, nhóm nghiên cứu đã chứng
minh khả năng màng graphene oxit được sử
dụng để khử muối từ nước biển nhằm thay thế
các phương pháp khử mặn hiện nay. Năm
2017, các nhà khoa học đã chứng minh có thể
loại bỏ chất nhuộm màu khỏi rượu whisky mà
không ảnh hưởng đến đặc tính khác của rượu.
Từ lâu, các nhà khoa học đã cố gắng
kiểm soát lưu lượng nước qua màng bằng
cách sử dụng kích thích bên ngoài do đây là
điều quan trọng đối với hoạt động chăm sóc
sức khỏe và các lĩnh vực khác có liên quan.
Hiện nay, loại màng có thể điều chỉnh này
còn hạn chế là việc điều chỉnh làm ướt màng
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 12/67
và vận chuyển ion có kiểm soát, nhưng không
kiểm soát được toàn bộ lưu lượng nước.
TS. Kai-Ge Zhou, trưởng nhóm nghiên
cứu cho biết: "Công nghệ màng graphene
thông minh không chỉ giới hạn ở khả năng
kiểm soát lưu lượng nước. Màng graphene có
thể được sử dụng làm chất hấp phụ hoặc xốp
thông minh. Nước hấp phụ trên màng được
bảo tồn trong màng ngay cả trong điều kiện
sa mạc nếu áp điện vào màng. Chúng tôi có
thể giải phóng nước theo yêu cầu bằng cách
ngắt dòng điện".
Graphene và các vật liệu hai chiều liên
quan có triển vọng cho nhiều ứng dụng mới
cũng như cải thiện các quy trình hiện nay
được sử dụng cho thiết bị điện tử, vật liệu
tổng hợp, cảm biến và y sinh. Màng graphene
đã trở thành chủ đề nghiên cứu và phát triển
chủ yếu phục vụ hoạt động khử muối, tách
khí và chăm sóc sức khỏe.
Theo vista.gov.vn, 24/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Gương sinh trắc học làm nổi bật những sai sót trong công nghệ trí tuệ nhân tạo AI
Một nhóm các nhà nghiên cứu tại
trường Đại học Melbourne (Úc) đã thiết kế
một hệ thống dựa trên trí thông minh nhân tạo
(AI) để tìm kiếm và phát hiện những đặc
điểm về nhân cách và sức hấp dẫn của một
người chỉ dựa trên bức ảnh chụp khuôn mặt
của họ.
Hệ thống có tên gọi là Gương Sinh trắc
học có khả năng kiểm tra mức độ hiểu biết,
nhận thức của một người về AI cũng như
phản ứng của họ trước thông tin mô tả những
đặc điểm đặc trưng của bản thân.
Khi một người đứng trước gương sinh
trắc học, hệ thống sẽ dò và tìm ra một loạt các
đặc điểm khuôn mặt của người đó chỉ trong
vài giây. Sau đó, nó tiến hành so sánh dữ liệu
của người này với hàng nghìn bức ảnh chụp
khuôn mặt. Dưới góc nhìn khoa học, gương
mặt của một người thực sự có thể nói lên
nhiều điều và được xem là cơ sở để đánh giá
tâm lý học.
Gương Sinh trắc học có thể hiển thị
các dữ liệu, thông tin về 14 đặc điểm, từ giới
tính, tuổi tác và sắc tộc cho đến sức hấp dẫn,
kỳ quặc và sự ổn định về cảm xúc của người
sử dụng. Thời gian đứng trước gương càng
lâu thì những đặc điểm cá nhân càng được
hiển thị nhiều hơn.
Dự án nghiên cứu do Tiến sĩ Niels
Wouters từ Trung tâm nghiên cứu Giao diện
người sử dụng tự nhiên xã hội (SocialNUI) và
Phòng triển lãm Khoa học Melbourne đứng
đầu đã khám phá những vấn đề đáng quan
tâm về công nghệ này, bao gồm: sự tự
nguyện, lưu trữ dữ liệu và sai số trung bình
của thuật toán.
Tiến sĩ Wouters cho biết: "Với sự phát
triển của công nghệ AI và dữ liệu lớn Big
Data, chính phủ và doanh nghiệp có xu
hướng ngày càng chú trọng sử dụng hệ thống
camera CCTV hay còn gọi là camera giám
sát và quảng cáo tương tác để nhận dạng và
phát hiện các biểu hiện về cảm xúc, tuổi tác,
giới tính và nhân khẩu học của người dùng
cần quan sát”.
Ông chia sẻ: “Mục đích nghiên cứu
của chúng tôi là nhằm kích thích sự khám phá
những câu hỏi mang tính thử thách về ranh
giới của AI. Nó cho người sử dụng thấy khả
năng dễ dàng thực hiện AI nhằm phân biệt
theo cách thức phi đạo đức hoặc có vấn đề
dẫn đến những hậu quả xã hội. Thông qua
khuyến khích tranh luận về quyền riêng tư và
giám sát hàng loạt, chúng tôi hy vọng sẽ cung
cấp những hiểu biết sâu sắc hơn về vấn đề
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 13/67
đạo đức đằng sau công nghệ AI. Sử dụng
gương sinh trắc học giúp làm nổi bật những
hậu quả có thể xảy ra trong thế giới thực của
sai số trung bình và giả định về thuật toán”.
Tiến sĩ Wouters nhấn mạnh rằng điều
quan trọng cần lưu ý là gương sinh trắc học
không phải là một công cụ để phục vụ mục
đích phân tích tâm lý của con người mà nó
chỉ thực hiện tính toán nhận thức chung đối
với diện mạo khuôn mặt.
Bên cạnh đó, ông cũng cho biết điểm
hạn chế của công nghệ mới là tính không
chính xác, bởi nó chỉ có khả năng cung cấp
một bộ dữ liệu tương đối nhỏ và là giải pháp
nhờ đám đông (crowd-sourced). Do đó, việc
áp dụng công nghệ gương sinh trắc học nhằm
đưa ra kết luận có ý nghĩa về các trạng thái
tâm lý của con người là hoàn toàn không phù
hợp.
Theo vista.gov.vn, 25/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Israel phát triển hệ thống dự báo động đất sử dụng trí tuệ nhân tạo
Trang công nghệ Geektime của Israel
ngày 15/7 đưa tin, nước này sẽ đưa vào sử
dụng một hệ thống dự báo động đất tại các
nước châu Á và châu Âu.
Trí tuệ nhân tạo sẽ thu thập các thông tin từ những trận động đất nhỏ nhằm dự báo về
những trận đống đất lớn hơn
Hệ thống trên do công ty khởi nghiệp
SeismicAI của Israel phát triển, được xây
dựng dựa trên trí tuệ nhân tạo, khả năng học
máy, những thuật toán được các nhà nghiên
cứu về động đất sử dụng và các phần cứng
máy tính, theo đó SeismicAI sẽ sử dụng trí
tuệ nhân tạo để thu thập các thông tin từ
những trận động đất nhỏ nhằm dự báo về
những trận đống đất lớn hơn.
Hệ thống này có thể dự báo về nhiều
vụ động đất nhờ được lắp đặt các thiết bị cảm
biến và có khả năng kiểm tra mặt đất 500 lần
mỗi giây cũng như xử lý các thông tin trong
thời gian thực.
Khi phát hiện các trận động đất, hệ
thống trên sẽ phát tín hiệu để báo động cho
các trung tâm kiểm soát động đất nhằm giúp
người dân chuẩn bị sẵn sàng ứng phó với
động đất.
Ngoài ra, hệ thống này cũng có khả
năng ra lệnh đóng các đường ống dẫn khí đốt,
các động cơ turbine điện và các nhà máy hóa
dầu cũng như phong tỏa các hoạt động giao
thông đường sắt khi phát hiện có động đất.
Theo vietnamplus.vn, 16/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Sử dụng cáp quang để phát hiện động đất
Cáp quang có thể được sử dụng để
phát hiện động đất và các chuyển động khác
dưới mặt đất. Cáp dữ liệu cũng có thể thu tín
hiệu địa chấn từ ô tô đang di chuyển hoặc các
chuyển động của sóng biển. Đây là kết quả
của một nghiên cứu mới do các nhà khoa học
tại Trung tâm Nghiên cứu địa chất GFZ ở
Anh và các cộng sự tại Anh thực hiện, đã
được công bố trên tạp chí Nature
Communications.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 14/67
Nhóm nghiên cứu đã truyền các xung
laser qua sợi quang, một phần của dây cáp dài
15 km được sử dụng vào năm 1994 trong
mạng viễn thông trên bán đảo Reykjanes, đảo
SW và chạy qua vùng đứt gãy địa chất nổi
tiếng tại đường nứt giữa mảng kiến tạo Á-Âu
và Mỹ. Tín hiệu ánh sáng được phân tích và
so sánh với bộ dữ liệu từ một mạng lưới địa
chấn dày đặc. Kết quả nghiên cứu gây ngạc
nhiên cho cả các chuyên gia. Philippe Jousset,
đồng tác giả nghiên cứu cho biết: "Các số đo
của chúng tôi tiết lộ những đặc điểm cấu trúc
địa hình trong lòng đất với độ phân giải chưa
từng có và cung cấp các tín hiệu tương đương
với các điểm dữ liệu đặt cách nhau 4 km. Dữ
liệu này có mật độ dày đặc hơn bất kỳ mạng
lưới địa chấn nào trên thế giới".
Ông Philippe cho rằng phương pháp
mới sẽ làm thay đổi lĩnh vực địa chấn. Dù
phương pháp này không phải là mới đối với
các ứng dụng khác (vì từng được sử dụng
nhiều năm trong các lỗ khoan để theo dõi bể
chứa), nhưng đây là nhóm nghiên cứu đầu
tiên trên thế giới thu thập được các số đo địa
chấn này để đáp ứng các mục tiêu địa chấn
nhờ có dây cáp dài.
Nghiên cứu không chỉ cung cấp thông
tin về tình trạng đứt gãy phổ biến và rãnh núi
lửa. Bên cạnh đó, các nhà khoa học cũng đã
phát hiện thấy hiện tượng đứt gãy chưa từng
có bên dưới mặt đất và đã đo biến dạng dưới
mặt đất diễn ra trong khoảng vài phút. Những
trận động đất nhỏ cục bộ, sóng bắt nguồn từ
những trận động đất lớn ở xa và vi địa chấn ở
đáy đại dương cũng được ghi lại qua cáp sợi
quang.
Lợi thế của phương pháp mới là rất
lớn, vì có vô số cáp quang trên toàn cầu trong
mạng lưới viễn thông dày đặc. Dưới các siêu
đô thị có nguy cơ địa chấn cao như San
Francisco, Mexico City, Tokyo, Istanbul và
nhiều khu vực khác, loại cáp này có thể là
phương thức bổ sung chi phí - hiệu quả cho
các thiết bị đo địa chấn hiện có.
Trong tương lai, các nghiên cứu dự
kiến sẽ xem xét khả năng sử dụng cáp ở biển
sâu để thu thập các số đo địa chấn. Các nhà
khoa học rất lạc quan cho rằng cáp dưới đáy
biển sẽ phát hiện các trận động dưới biển,
chuyển động mặt đất của các mảng kiến tạo
và cả những thay đổi áp lực nước. Do đó,
phương pháp mới sẽ hữu ích cho các chuyên
gia địa chấn và chuyên gia hải dương học.
Theo vista.gov.vn, 17/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Australia chế tạo thành công loạt thiết bị cảnh báo lũ lụt
Các nhà khoa học thuộc Đại học Công
nghệ Queensland (Australia) mới đây đã chế
tạo thành công loạt thiết bị có khả năng thu
thập dữ liệu và cung cấp thông tin dự báo về
tình hình lũ lụt, nhờ đó mà các nhà chức trách
có thể ứng phó kịp thời trước thiên tai.
Lũ lụt ở Australia. (Nguồn: AFP)
Phát biểu với báo giới ngày 18/7, giáo
sư Richard Brown cho biết nhờ các thiết bị có
thể mang theo này, các chuyên gia khí tượng
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 15/67
có thể dễ dàng đo mực nước sông và biết
được hướng dòng nước lũ chảy.
Những thiết bị này có thiết kế như máy
vi tính thu nhỏ được bảo vệ trong hộp nhựa, có
khả năng nổi trên nước và gửi dữ liệu ở thời
gian thực qua bluetooth hoặc SIM điện thoại.
Ông Brown nhấn mạnh bằng việc theo
dõi dữ liệu ở thời gian thực, các chuyên gia
khí tượng có thể nắm rõ tình hình lũ lụt.
Khác với thiết bị cảnh báo lũ lụt hiện
nay vốn khó xác định tình hình nước lũ ở thời
gian thực, những thiết bị mới này "du hành"
cùng với dòng nước lũ, do vậy có thể ngay
lập tức gửi thông tin có tính chất bao quát
hơn, qua đó các chuyên gia biết được tình
hình lũ lụt để ứng phó kịp thời.
Các nhà khoa học Đại học Công nghệ
Queensland đã có ý tưởng về thiết bị trên vào
thời điểm xảy ra trận lũ lụt hồi năm 2011 tại
bang Queensland, khiến 33 người thiệt mạng.
Khi đó, các nhà khoa học thả xuống dòng
nước lũ một thiết bị được gắn vào dây thừng,
nhờ đó có thể thu thập dữ liệu.
Theo vietnamplus.vn, 17/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Hoàn thiện kỹ thuật tăng dung lượng lưu trữ máy tính gấp hàng nghìn lần
Bộ nhớ dạng rắn có mật độ dày đặc chưa
từng thấy sẽ có dung lượng cao hơn gấp 1.000
lần các thiết bị lưu trữ máy tính hiện nay, nhờ
vào một kỹ thuật đã được nhóm nghiên cứu tại
trường Đại học Alberta hoàn thiện.
Roshan Achal, nghiên cứu sinh tại
Khoa Vật lý và là trưởng nhóm nghiên cứu
cho biết: "Về cơ bản, bạn có thể khai thác
tổng số 45 triệu bài hát trên iTunes và lưu trữ
chúng trên bề mặt bằng ¼. Năm năm trước,
đây không phải là điều chúng tôi nghĩ có thể
thực hiện được”.
Các nhà khoa học đã áp dụng một công
nghệ tương tự do chính họ phát triển để chế
tạo các mạch quy mô nguyên tử, cho phép
nhanh chóng loại bỏ hoặc thay thế các nguyên
tử hydro đơn lẻ. Công nghệ này cho phép bộ
nhớ có thể được ghi lại, nghĩa là nó có thể
cho ra đời những loại ổ cứng thể rắn hiệu quả
hơn cho nhiều máy tính.
Sẵn sàng sử dụng trong thế giới thực
Những khám phá trước đây về vấn đề
lưu trữ bằng máy tính trên quy mô nguyên tử
chỉ ổn định ở nhiệt độ cực thấp, nhưng bộ nhớ
mới hoạt động ở nhiệt độ thực tế và có thể
được sử dụng bình thường.
Achal lưu ý: "Cho đến nay, những gì
thường bị bỏ qua trong chế tạo nano là chuyển
tải thực tế đến người dùng cuối, đơn giản là
không thể thực hiện được do những hạn chế về
nhiệt độ. Bộ nhớ của chúng tôi ổn định tốt hơn
ở mức cao hơn nhiệt độ phòng và chính xác cỡ
nguyên tử". Công nghệ này có các ứng dụng
trước mắt như lưu trữ dữ liệu. Các bước tiếp
theo sẽ bao gồm tăng tốc độ đọc và ghi cho
các ứng dụng linh hoạt hơn.
Nhiều bộ nhớ, ít dung lượng hơn
Achal đã làm việc với giáo sư vật lý
Robert Wolkow, người đi tiên phong trong
lĩnh vực vật lý nguyên tử. GS. Wolkow đã
hoàn thiện công nghệ đầu nano (nanotip) cho
phép các nhà khoa học điều khiển các nguyên
tử đơn trên một con chip silicon, công nghệ
hiện đã phát triển đỉnh cao.
GS. Wolkow cho biết: “Có mảnh ghép
cuối cùng này trong tay, việc chế tạo nguyên
tử sẽ có thể được thương mại trên thực tế
trong tương lai rất gần”. Quantum Silicon,
công ty phái sinh của GS. Wolkow, đang
nghiên cứu thương mại hóa quy trình chế tạo
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 16/67
quy mô nguyên tử để sử dụng trong mọi lĩnh
vực công nghệ.
Để chứng minh bộ nhớ mới, nhóm
nghiên cứu đã mã hóa toàn bộ bảng chữ cái
với mật độ 138 terabyte trên mỗi inch vuông,
tương đương với viết 350.000 chữ cái trên
một hạt gạo. Ngoài ra, Achal còn mã hóa
nhạc phim từ thập niên 80 và 90.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Nature Communications
Theo vista.gov.vn, 31/07/2018
Trở về đầu trang
************** Cung cấp insulin dưới dạng viên thuốc- Kỹ thuật mới thay thế tiêm insulin
hàng ngày cho bệnh nhân tiểu đường
Việc phải lựa chọn giữa uống hoặc
tiêm thuốc, nhiều người trong chúng ta sẽ
chọn uống thuốc để chữa bệnh. Riêng đối với
hàng triệu người hiện đang sống chung với
căn bệnh tiểu đường tuýp 1, họ bắt buộc phải
trải qua 1 hoặc 2 mũi tiêm đau đớn mỗi ngày
để cung cấp insulin cho cơ thể do cơ thể họ
không thể sản xuất tự nhiên.
Hiện tại, công trình nghiên cứu của
nhóm nghiên cứu Trường Đại học Harvard và
Trường Đại học Kỹ thuật Harvard John A.
Paulson (SEAS) đã phát triển một phương
pháp cung cấp insulin bằng đường uống
(dạng thuốc viên để uống) nhằm thay thế
phương pháp truyền thống mà trong đó vẫn
giúp bệnh nhân tiểu đường khống chế duy trì
ổn định được nồng độ đường huyết trong
phạm vi cho phép.
Việc cung cấp insulin bằng đường
uống đầy hứa hẹn này không những làm tăng
chất lượng cuộc sống cho hơn 40 triệu người
tiểu đường tuýp 1 toàn thế giới mà nó còn
giảm các tác dụng phụ đe dọa đến sự sống
của bệnh nhân tiểu đường.
Nghiên cứu được công bố trong Kỷ
yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia.
Điều trị bằng insulin bằng cách tiêm
dưới da hoặc bằng máy bơm insulin, thông
thường có thể khống chế mức đường huyết
của hầu hết các bệnh nhân tiểu đường.
“Tuy nhiên, có nhiều người không tuân
thủ chế độ tiêm insulin định kỳ do họ cảm
thấy bị đau đớn, ám ảnh kim tiêm và những
cản trở ảnh hưởng tới với các hoạt động bình
thường”, Samir Mitragotri, giáo sư về sinh
học của Hiller và Hansjorg Wyss, giáo sư về
kỹ thuật sinh học của SEAS, tác giả nghiên
cứu chính, cho biết. “Hậu quả của việc kiểm
soát đường huyết kém có thể dẫn đến các biến
chứng nghiêm trọng đối với sức khỏe”.
Phương pháp cung cấp insulin bằng
đường uống rất khó khăn bởi protein (bản
chất insulin là protein) này bị cản trở và dễ bị
phân hủy khi nó gặp phải môi trường axit của
dạ dày. Chìa khóa cho phương pháp tiếp cận
mới này là chứa đựng insulin trong một dung
dịch chất lỏng ion chứa choline và axit
geranic sau đó được đặt bên trong một viên
nang có lớp bọc phủ chống axit.
Công thức này có sự tương thích sinh
học, dễ sản xuất và có thể bảo quản trong thời
gian là hai tháng ở nhiệt độ phòng mà không
bị giảm giá trị. Thời gian bảo quản là lâu hơn
một số sản phẩm insulin dạng tiêm hiện có
trên thị trường.
Mitragotri, thành viên chính của Viện
Kỹ thuật sinh học Wyss tại Harvard cho biết:
“Khi đưa vào bụng, insulin phải vượt qua một
trở ngại khó khăn (vượt qua môi trường axít
bên trong dạ dày) trước khi nó có thể được
hấp thụ vào máu một cách hiệu quả. Cách
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 17/67
tiếp cận của chúng tôi giống như cuộc chiến
trong quân đội, mỗi một viên thuốc đều có
các vũ khí tấn công chống lại các chướng
ngại vật mà nó gặp phải”.
Việc gói gọn được insulin dạng lỏng
này trong một lớp phủ bọc, nhóm nghiên cứu
đã vượt qua được trở ngại đầu tiên đó là đã
vượt qua được sự phân hủy của axit trong dạ
dày ruột. Lớp phủ polymer này sẽ hòa tan khi
nó di chuyển đến được môi trường kiềm hơn
ở ruột non, đây là nơi mà chất lỏng ion mang
insulin được giải phóng.
“Khi một protein phân tử như insulin
xâm nhập vào ruột sẽ có nhiều enzyme có
chức năng phân hủy protein thành các axit
amin nhỏ hơn. Tuy nhiên, insulin dạng lỏng
ion này vẫn hoạt động chưa được ổn định”,
Amrita Banerjee, tác giả đầu tiên của nghiên
cứu, hiện làm việc tại phòng thí nghiệm của
Mitragotri, và là trợ lý giáo sư tại Đại học
bang North Dakota cho biết.
Hệ thống axit choline-geranic này
cũng được chứng minh là có khả năng lọt qua
hai rào cản cuối cùng - lớp chất nhầy lót ruột
và các tế bào nối chặt của thành ruột mà hoàn
toàn các loại phân tử lớn như insulin không
thể dễ dàng đi qua được.
Các nhà nghiên cứu khác đã nỗ lực thử
nghiệm nhiều các cách thức khác nhau để
vượt qua những rào cản này như là tái tạo lại
phân tử insulin, phủ nó trong các polyme bảo
vệ và đưa vào các chất phụ gia để ức chế sự
phân hủy của các enzyme hoặc để tăng cường
sự hấp thụ. Tuy nhiên, hiện chưa có bất kỳ
loại thuốc cung cấp insulin đường uống nào
được đưa vào thử nghiệm lâm sàng.
“Ý nghĩa của công trình nghiên cứu
này đối với y học rất lớn, những phát hiện có
thể giúp tiến tới việc tạo ra các viên insulin
dạng viên uống và các loại thuốc peptide
khác có độ an toàn và hiệu quả cho con
người”, Prausnitz, người không tham gia
nghiên cứu, cho biết.
Insulin đường uống có thể “bắt chước”
tốt cách thức mà tuyến tụy của một người
khỏe mạnh tạo ra và đưa insulin vào gan, nơi
có tới 80% được chiết xuất và phần còn lại
được lưu thông qua máu. Nó cũng có thể làm
giảm tác dụng phụ của việc tiêm insulin trong
một thời gian dài.
Banerjee cũng lưu ý rằng insulin dạng
lỏng có thể được điều chế trong một quy trình
một bước để có thể dễ dàng mở rộng cho sản
xuất công nghiệp giá rẻ, giúp dễ dàng quản lý
giá thành.
Mitragotri cho biết kế hoạch tiếp theo
của nghiên cứu là tiến hành nhiều thử nghiệm
loại thuốc này trên động vật cũng như nghiên
cứu độc tính và khả năng sử dụng lâu dài.
Nếu mọi việc suôn sẻ, việc phê chuẩn
cho các thử nghiệm lâm sàng cuối cùng ở
người sẽ dễ dàng hơn bởi trên thực tế là các
thành phần chính của thuốc bọc insulin này
(choline và axit geranic) vốn đã được coi là
an toàn.
Cục Quản lý Thực phẩm và Dược
phẩm cũng đã thiết lập liều khuyến cáo hàng
ngày của choline, một chất dinh dưỡng thiết
yếu giống như vitamin; và axit geranic, một
hóa chất tự nhiên có trong cây bạch đậu khấu
và sả, và được sử dụng rộng rãi như một chất
phụ gia thực phẩm.
Nếu nghiên cứu sâu hơn có các tiến
triển như mong đợi, cách tiếp cận này có thể
được sử dụng để phân phối các protein khác.
Văn phòng Phát triển Công nghệ của
Harvard đang tích cực theo đuổi các thời cơ
nhằm thương mại hóa cho công nghệ này, và
đang thúc đẩy sự phát triển của nó thông qua
Blavatnik Biomedical Accelerator.
Theo vista.gov.vn, 02/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 18/67
Bệnh tiểu đường tuýp 2, béo phì có thể sớm “đảo ngược” bằng liệu pháp gen
Nghiên cứu mới cho thấy liệu pháp
gen hoàn toàn có thể “đảo ngược” các dấu
hiệu của bệnh tiểu đường tuýp 2 và béo phì ở
loài gặm nhấm.
Những thay đổi nhỏ đối với gen của
chúng ta có thể sớm đảo ngược các rối loạn
chuyển hóa như bệnh béo phì và bệnh tiểu
đường tuýp 2 ở người.
Sự phổ biến của bệnh tiểu đường đang
gia tăng tại Hoa Kỳ và trên toàn cầu. Theo
ước tính gần đây, hơn 30 triệu người trưởng
thành ở Hoa Kỳ mắc bệnh tiểu đường vào
năm 2015. Mặc dù con số này tương đối ổn
định trong vài năm qua nhưng tỷ lệ mới được
chẩn đoán ở trẻ em và thanh thiếu niên có sự
tăng mạnh. Và, trên toàn thế giới, tình hình
thậm chí còn đáng báo động hơn; số người
mắc bệnh tiểu đường gần như gấp bốn lần
giữa năm 1980 và 2014, (theo số liệu của Tổ
chức Y tế Thế giới - WHO).
Hiện giờ, nhóm các nhà khoa học, dẫn
đầu bởi giáo sư Fatima Bosch, Trường Đại học
Autònoma de Barcelona (UAB) ở Catalunya,
Tây Ban Nha, đã thành công trong việc đảo
ngược tình trạng rối loạn ở loài gặm nhấm.
Nghiên cứu mới này mang lại hy vọng rất lớn
giúp điều trị căn bệnh rối loạn chuyển hóa này.
Giáo sư Bosch và các cộng sự đã ứng
dụng liệu pháp gen, một kỹ thuật đưa vật liệu
di truyền mới vào các tế bào để tạo ra các
protein có lợi hoặc để thiết lập lại các hiệu
ứng của các gen bị lỗi hỏng.
Công trình nghiên cứu đã được công
bố trên tạp chí EMBO Molecular Medicine
mới đây.
Sử dụng gen FGF21 để đảo ngược
bệnh tiểu đường
Giáo sư Bosch và nhóm nghiên cứu đã
thiết kế hai mô hình chuột béo phì và mắc
bệnh tiểu đường loại 2. Một nhóm là do chế
độ ăn uống gây ra, và một nhóm khác được
biến đổi gen.
Sử dụng một vector virus liên quan
đến adeno giống như là “chất vận chuyển”,
nhóm nghiên cứu đã phân phối được gen yếu
tố tăng trưởng nguyên bào sợi 21 (FGF21).
Gen này chịu trách nhiệm mã hóa protein
FGF21, được xem như là “chất điều chỉnh
trao đổi chất chính” đối với sự hấp thụ đường
trong mô mỡ.
Hàm lượng chất béo, tình trạng viêm và
xơ gan của chuột cũng đã hoàn toàn đảo
ngược, không có tác dụng phụ. Đổi lại, những
thay đổi này làm tăng độ nhạy insulin. Những
tác dụng có lợi này đã được ghi nhận trong cả
hai mô hình chuột. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu
phát hiện ra rằng việc phân phối FGF21 cho
những con chuột khỏe mạnh có thể ngăn chặn
sự tăng cân liên quan đến tuổi tác và lão hoá.
Liệu pháp gen được sử dụng để thay
đổi ba loại mô: mô gan, mô mỡ và cơ xương.
Theo Giáo sư Bosch giải thích: “Điều này
mang lại sự linh hoạt tuyệt vời đối với liệu
pháp, vì nó cho phép chúng ta có thể lựa chọn
từng mô phù hợp nhất, và trong trường hợp
gặp một số biến chứng ngăn cản thao tác bất
kỳ mô nào đó, nó có thể được áp dụng cho
bất kỳ mô nào khác”. "Khi một mô tạo ra
protein FGF21 và nó được tiết vào máu, nó
sẽ được phân phối khắp cơ thể", Giáo sư
Bosch cho biết thêm.
Lần đầu tiên “đảo ngược” được bệnh
béo phì, kháng insulin
Đồng tác giả nghiên cứu và các nhà
nghiên cứu UAB Claudia Jambrina giải thích
rằng phát hiện của họ đặc biệt quan trọng đối
với "tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường loại 2 và béo
phì đang tăng ở mức báo động trên toàn thế
giới”.
Nhóm nghiên cứu cũng nói rằng việc
phân phối FGF21 như một loại thuốc thông
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 19/67
thường sẽ không mang lại lợi ích giống như
liệu pháp gen; trước hết, thuốc sẽ phải được
dùng định kỳ cho các lợi ích lâu dài, và thứ
hai, độc tính của nó sẽ cao.
Việc sử dụng liệu pháp gen là không
có tác dụng phụ, và đủ để làm cho những con
chuột tạo ra protein tự nhiên trong vài năm.
“Đây là lần đầu tiên sự hồi phục lâu
dài của bệnh béo phì và kháng insulin đã đạt
được khi dùng liệu pháp gen trong một mô
hình động vật có tình trạng bện giống như
bệnh béo phì và bệnh tiểu đường tuýp 2 ở
người”, Tác giả nghiên cứu đầu tiên Veronica
Jimenez thuộc UAB cho biết. “Các kết quả
chứng minh cho thấy đó là một liệu pháp an
toàn và hiệu quả”, bà nhấn mạnh.
Giáo sư Bosch cho biết: Các bước tiếp
theo sẽ là thử nghiệm liệu pháp này ở những
động vật lớn hơn trước khi chuyển sang thử
nghiệm lâm sàng với bệnh nhân. Liệu pháp
được mô tả trong nghiên cứu này sẽ tạo cơ sở
cho việc dịch chuyển gen FGF21 trong tương
lai để điều trị bệnh tiểu đường loại 2, béo phì
và các bệnh khác.
Theo vista.gov.vn, 17/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Lập trình tự gen giúp các nhà khoa học khai thác đất để sản xuất kháng sinh
Các nhà khoa học Hoa Kỳ đã đưa ra
một phương pháp hiệu quả hơn để tìm kiếm
các loại kháng sinh tiềm năng trong đất.
Phương pháp mới được gọi là lập trình tự
metagenomic, cho phép các nhà khoa học lập
trình tự bộ gen của nhiều vi khuẩn sống trong
một mẫu đất nhỏ.
Các nhà khoa học có thể sử dụng
phương pháp khảo sát để xác định trình tự
gen liên quan đến việc sản sinh các phân tử
có đặc tính kháng kháng sinh hoặc kháng nấm
- các cơ chế bảo vệ do vi khuẩn phát triển có
thể giúp con người chống nhiễm trùng. Nhiều
nghiên cứu cho thấy các vi khuẩn như
MRSA, E. coli và một số vi khuẩn khác ngày
càng có khả năng kháng mạnh các loại thuốc
kháng sinh phổ biến.
Để thử nghiệm phương pháp lập trình
tự bộ gen mới, các nhà khoa học đã thu thập
60 mẫu đất với mỗi mẫu nặng 10g nằm cách
mặt đất của một đồng cỏ ở Bắc California vài
inch. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng phương
pháp lập trình tự metagenomic để xác định bộ
gen của 1.000 vi khuẩn khác nhau, trong đó
phát hiện 360 loại vi khuẩn mới.
Các nhà khoa học hiện đang phân tích
các bộ gen mới được lập trình tự để tìm kiếm
các chuỗi gen liên quan đến việc sản sinh các
phân tử độc đáo và phức tạp. Các gen này có
thể được cấy vào những sinh vật khác để xem
chúng thực sự có khả năng mã hóa để tạo ra
một protein hoặc enzym có tiềm năng hữu ích
hay không. Các protein và enzyme này có thể
tạo ra những phân tử có nhiều đặc tính dược
phẩm khác nhau.
GS. Banfield cho rằng: “Hầu hết các
phân tử sinh tổng hợp mới này đều bắt nguồn
từ những vi khuẩn hiện diện nhiều nhất trong
đất, nhưng chúng không được phát hiện vì con
người không có bộ gen của chúng. Chúng tôi
hy vọng sẽ tìm được không chỉ các loại kháng
sinh mới, mà cả các loại dược phẩm mới".
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Nature.
Theo vista.gov.vn, 02/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 20/67
Vắc xin HIV mới cho thấy an toàn và tạo ra phản ứng miễn dịch chống vi rút HIV mạnh hơn
Nghiên cứu mới được công bố trên tạp
chí The Lancet cho thấy thử nghiệm điều trị
HIV bằng vắc xin mới thu được kết quả tốt,
tạo ra được phản ứng miễn dịch chống lại
HIV mạnh, vượt trội ở người trưởng thành và
những con khỉ khỏe mạnh. Hơn nữa, vắc-xin
này còn có khả năng bảo vệ chống lại nhiễm
trùng do một chủng vi rút gây ra.
Dựa trên kết quả từ thử nghiệm lâm
sàng giai đoạn 1/2a trên gần 400 người lớn
khỏe mạnh và giai đoạn thử nghiệm 2b được
tiến hành ở miền Nam châu Phi nhằm xác
định sự an toàn và hiệu quả của vắc-xin HIV-
1 ở 2.600 phụ nữ có nguy cơ nhiễm HIV thì
đây là 1 trong 5 loại vắc xin HIV-1 có kết quả
đáp ứng tốt ở người trong suốt 35 năm đại
dịch HIV/AIDS toàn cầu.
Các ứng cử viên vắc-xin HIV-1 trước
đây thường chỉ giới hạn thử nghiệm ở các khu
vực cụ thể trên thế giới. Phác đồ điều trị thử
nghiệm được dùng trong nghiên cứu này dựa
vào vắc-xin mosaic (vắcxin Mosaic gồm rất
nhiều chất tổng hợp, các chuỗi prôtêin đã
được lập trình qua hệ thống máy tính. Nhờ đó
có thể khiến cho hệ miễn dịch cơ thể chống
lại được sự xâm nhập của virút HIV, đồng
thời ngăn sự biến đổi của chúng) để lấy các
chuỗi vi rút HIV khác nhau và kết hợp chúng
để kích thích tạo ra các phản ứng miễn dịch
chống lại nhiều chủng HIV khác nhau.
Dan Barouch, giáo sư y khoa tại
Trường Đại học Y Harvard, Boston, Mỹ,
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Vaccine và
Virolog tại Trung tâm Y tế Beth Israel
Deaconess và là người đứng đầu công trình
nghiên cứu này cho biết: “Kết quả nghiên cứu
này là một cột mốc quan trọng”. Nghiên cứu
này đã chứng minh được nguyên tố Ad26
mosaic, Ad26 plus gp140 thúc đẩy vắc-xin
HIV tạo phản ứng miễn dịch mạnh ở người và
khỉ với động học, kiểu hình, độ bền có thể so
sánh được.
“Tuy nhiên các kết quả nghiên cứu cần
được giải thích cẩn trọng bởi những thách
thức trong việc phát triển vắc-xin HIV là rất
lớn, và khả năng tạo ra các đáp ứng miễn
dịch đặc hiệu với HIV không hẳn sẽ cho thấy
rằng vắc-xin sẽ bảo vệ con người khỏi bị
nhiễm HIV. Kết quả của thử nghiệm hiệu quả
của vắc xin giai đoạn 2b được gọi là
HVTN705, hay 'Imbokodo', sẽ quyết định xem
vắc-xin này có bảo vệ con người chống lại
HIV hay không”, ông nhấn mạnh.
Hiện có gần 37 triệu người trên toàn
thế giới đang sống chung với HIV/AIDS, với
khoảng 1,8 triệu trường hợp mới mỗi năm.
Vắc-xin để phòng ngừa bệnh an toàn và hiệu
quả là rất cần thiết để “chống lại” đại dịch
HIV này.
Suốt 35 dịch bệnh HIV, chỉ có 4 loại
vắc-xin HIV đã được thử nghiệm ở người, và
chỉ có 1loại cho thấy hiệu quả đó là phác đồ
vắc-xin canarypox, phác đồ vắc-xin tăng
gp120 được thử nghiệm trong thử nghiệm
RV144 ở Thái Lan. Phác đồ này đã giảm tỷ lệ
nhiễm trùng ở người xuống 31% nhưng hiệu
quả được coi là quá thấp để thúc đẩy áp dụng
phổ biến loại vắc-xin này.
Một trở ngại chính đối với việc phát
triển vắc-xin HIV là thiếu sự so sánh trực tiếp
giữa các thử nghiệm lâm sàng và nghiên cứu
tiền lâm sàng. Để giải quyết các vấn đề về
phương pháp luận này, Barouch và các đồng
nghiệp đã đánh giá các ứng cử viên vaccine
HIV-1 gốc adenovirus serotype 26 (Ad26)
trong các nghiên cứu tiền lâm sàng và lâm
sàng song song nhằm xác định phác đồ
vaccine HIV tối ưu để đề xuất ra các thử
nghiệm lâm sàng có hiệu quả cao.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 21/67
Cuộc thử nghiệm APPROACH từ
tháng 2/2015 đến tháng 10/2015 đã tuyển
chọn được 393 người lớn khỏe mạnh, không
nhiễm HIV (18-50 tuổi) từ 12 bệnh viện ở
Đông Phi, Nam Phi, Thái Lan và Hoa Kỳ.
Các tình nguyện viên này được phân bổ tiếp
nhận một trong bảy kết hợp vắc-xin hoặc giả
dược một cách ngẫu nhiên, và được tiêm bốn
lần trong vòng 48 tuần.
Để kích thích tạo ra đáp ứng miễn dịch
ban đầu, mỗi người tình nguyện được tiêm
bắp nguyên tố Ad26.Mos.HIV vào lúc bắt
đầu nghiên cứu và 12 tuần sau đó. Vắc xin có
chứa kháng nguyên HIV 'Env / Gag / Pol'
được tạo ra từ nhiều chủng HIV, được phân
phối bằng cách sử dụng một loại virus không
lạnh thông thường (Ad26).
Để thúc đẩy mức độ đáp ứng miễn
dịch của cơ thể, các tình nguyện viên đã được
tiêm bổ sung hai lần vào tuần 24 và 48 bằng
cách sử dụng các kết hợp khác nhau của
Ad26.Mos.HIV hoặc một thành phần vắc xin
khác được gọi là Modified Vaccinia Ankara
(MVA) có hoặc không có hai liều clade C
HIV gp140 envelope chứa chất bổ trợ nhôm
khác nhau.
Kết quả cho thấy tất cả các phác đồ
vắc-xin thử nghiệm này đều có khả năng tạo
ra phản ứng miễn dịch tốt chống HIV ở
những người khỏe mạnh và được dung nạp
tốt, với số lượng phản ứng cục bộ và hệ thống
tương tự ở tất cả các nhóm, phần lớn là nhẹ
đến trung bình. Có duy nhất 5 người tham gia
báo cáo xuất hiện triệu chứng phụ có hại liên
quan đến vắc xin như đau bụng và tiêu chảy,
chóng mặt và đau lưng. Không có các trường
hợp nguy hại hoặc tử vong nào được báo cáo.
Trong một nghiên cứu song song, các
nhà nghiên cứu đã đánh giá tính miễn dịch và
hiệu quả bảo vệ của cùng một phác đồ vắc-
xin mosaic gốc Ad26 ở 72 con khỉ rhesus
bằng cách dùng một loạt các thách thức lặp đi
lặp lại với vi rút suy giảm miễn dịch ở người
(SHIV) - một loại vi rút tương tự HIV lây
nhiễm sang khỉ.
Ứng viên vắc-xin Ad26/Ad26 plus
gp140 đã tạo ra phản ứng miễn dịch lớn nhất
ở người và cũng cung cấp sự bảo vệ tốt nhất ở
khỉ, giúp bảo vệ hoàn toàn chống lại nhiễm
SHIV ở 2/3 số khỉ được tiêm chủng sau sáu
thử thách.
Các tác giả cũng lưu ý một số hạn chế
bởi trên thực tế là mối quan hệ giữa sự bảo vệ
của vắc-xin ở khỉ với hiệu quả lâm sàng ở
người vẫn chưa rõ ràng. Họ cũng lưu ý rằng
chưa có phép đo miễn dịch tối ưu nào được
biết đến để dự đoán sự bảo vệ chống lại HIV-
1 ở người.
Các thử nghiệm mức hiệu quả của vắc
xin là một quá trình quan trọng vì việc phát
triển vắc-xin phòng bệnh AIDS vẫn còn cấp
bách mặc dù đã những tiến bộ chưa từng có
trong điều trị HIV và dự phòng bởi số người
nhiễm HIV vẫn tiếp tục tăng trên toàn thế giới.
Việc bổ xung ngay cả loại vắc xin có
mức hiệu quả vừa phải cùng với các chiến
lược điều trị và phòng ngừa HIV hiện có sẽ
đóng góp lớn vào việc phòng ngừa điều trị
căn bệnh thế kỷ hiện ngày càng phát triển
mạnh này. Đồng thời, việc theo đuổi nhiều
chiến lược phát triển vắc-xin tiếp tục ở mọi
giai đoạn là hết sức cần thiết.
Nghiên cứu này do Trung tâm Vắc xin
& Phòng chống BV Janssen, Viện Y tế Quốc
gia Hoa Kỳ, Viện Ragon MGH, MIT và
Harvard, Quỹ Henry M Jackson vì sự tiến bộ
của Y học quân sự, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ
và Sáng kiến Vắc-xin AIDS Quốc tế tài trợ.
Theo vista.gov.vn, 12/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 22/67
Phương pháp xét nghiệm máu có giá chỉ 20USD có thể hỗ trợ chẩn đoán bệnh viêm gan B toàn khu vực châu Phi
Một phương pháp xét nghiệm máu
đơn giản chỉ có giá 20$ có thể giúp chẩn
đoán cho hàng ngàn bệnh nhân viêm gan B
cần được điều trị tại một số vùng nghèo nhất
châu Phi.
Viêm gan do vi-rút là một vấn đề sức
khỏe lớn đối với toàn cầu vào năm 2013, ước
tính có khoảng 1.45 triệu người chết do vi-rút
này. Đây là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu
thứ bảy trên toàn thế giới và khoảng một nửa số
ca tử vong là do nhiễm vi-rút viêm gan B.
Vi-rút viêm gan B lây nhiễm cho
khoảng 250 triệu người trên toàn thế giới, và
nó lây truyền qua đường truyền máu và chất
dịch cơ thể. Ở châu Phi, nó thường được
truyền từ mẹ sang con trong khi sinh hoặc ở
chính những trẻ em. Tuy nhiên, vi-rút không
gây ra triệu chứng tức thời, và nó có thể vẫn
không bị phát hiện trong cơ thể trong nhiều
thập kỷ cho đến khi gây ra các biến chứng
nghiêm trọng như tổn thương gan (xơ gan) và
ung thư.
Khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi
bệnh viêm gan B là Tiểu vùng Sahara châu Phi,
nơi có khoảng 80 triệu người bị nhiễm bệnh.
Các nhà nghiên cứu đã phát triển được
bộ chuẩn đoán chính xác bao gồm các xét
nghiệm máu có chi phí rất rẻ giúp chẩn đoán
chính xác bệnh nhân cần lập tức điều trị
chống lại siêu vi khuẩn viêm gan B gây chết
người hoặc có thể dẫn đến tổn thương gan
hoặc bệnh ung thư.
Bộ chẩn đoán này gồm 2 xét nghiệm
máu đơn giản: một xét nghiệm đo số lượng sự
hiện diện của các kháng nguyên, protein được
tạo ra bởi vi-rút và một xét nghiệm khác là đo
các enzym sản xuất ra bởi gan trong phản quá
trình phản ứng lại, để đánh giá chính xác
bệnh nhân cần điều trị.
Bộ xét nghiệm này được xác định là
chính xác như các phương pháp hiện có để xác
định bệnh nhân cần ngay tức thì được điều trị
và có chi phí chỉ bằng một phần chi phí xét
nghiệm cũ. Cụ thể là chỉ mất 20 đô la so với
100-500 đô la cho các xét nghiệm hiện tại.
Nó cũng dễ dàng giúp mọi người tiếp
cận hơn nhiều so với các phương pháp hiện
có - chẳng hạn như sinh thiết gan hoặc HBV
DNA, một phân tích mẫu máu phức tạp - đòi
hỏi nguồn lực và phòng thí nghiệm không
phải lúc nào cũng có thể tiếp cận được ở vùng
Sahara, châu Phi
Các nhà nghiên cứu từ trường Đại học
Hoàng gia London và Hội đồng nghiên cứu Y
khoa Gambia thuộc Trường Vệ sinh & Y học
Nhiệt đới London, phối hợp với Viện Pasteur
ở Paris và các tổ chức từ thiện của châu Phi
và châu Âu khác, đã sử dụng dữ liệu từ hàng
trăm bệnh nhân viêm gan B ở Gambia, là
những bệnh nhân thuộc một phần trong
nghiên cứu PROLIFICA (Phòng chống xơ
gan và ung thư ở châu Phi) để thực hiện
nghiên cứu này.
Dữ liệu lâm sàng từ hơn 800 bệnh
nhân viêm gan B, những người đã được xét
nghiệm thông qua chương trình PROLIFICA,
đã được sử dụng để phát triển bộ xét nghiệm
mới này.
Các thử nghiệm sau đó được xác nhận
cùng với dữ liệu từ các bệnh nhân châu Phi ở
Senegal, Burkina Faso, Đức, Pháp và Anh.
Các kết quả nghiên cứu được công bố trên
Tạp chí Hepatology mới đây.
Xét nghiệm chẩn đoán mới này, được
gọi là TREAT-B, có khả năng xác định chính
xác 85% bệnh nhân HBV dương tính cần điều
trị và xác định chính xác 77% trường hợp
những người không cần điều trị.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 23/67
Các nhà khoa học nói rằng cần nghiên
cứu sâu hơn nữa. Tuy nhiên nếu xét nghiệm
thành công trong các nghiên cứu lớn hơn, nó
có thể được sử dụng rộng rãi để xác định
bệnh nhân cần điều trị viêm gan B và có thể
điều trị cứu sống hàng ngàn người. Xét
nghiệm này cũng có thể được phát triển xa
hơn nữa tương tự như xét nghiệm chích máu
đầu ngón tay - xét nghiệm được sử dụng để
phát hiện HIV, để có kết quả nhanh hơn.
Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra
rằng phương pháp chẩn đoán này đáp ứng ở
tất cả các giai đoạn của bệnh - có nghĩa là
những người trong giai đoạn đầu của bệnh
gan không có triệu chứng cũng có thể được
sàng lọc và xác định bệnh.
Tiến sĩ Maud Lemoine, đồng tác giả
của nghiên cứu, cho biết: “Những kết quả thu
được này cho thấy bộ thử nghiệm đơn giản và
rẻ tiền này là một giải pháp chuẩn đoán
chính xác, tiết kiệm cho bệnh bệnh nhân cần
điều trị viêm gan B ở những nước có nguồn
lực hạn chế”.
“Điều này có khả năng giúp chẩn đoán
và sau đó điều trị hàng ngàn người trên khắp
châu Phi”, ông nhấn mạnh.
Đồng tác giả nghiên cứu, Yusuke
Shimakawa (Viện Pasteur) cho biết: “Một khi
những kết quả này được xác nhận bằng các
nghiên cứu sâu hơn, chúng có thể được tích
hợp vào các hướng dẫn của WHO và hướng
dẫn địa phương và có thể là công cụ được
thực hiện tại phòng khám. Nó sẽ có nhiều
tiềm năng chẩn đoán cho nhiều người bệnh
hơn và cải thiện khả năng tiếp cận điều trị”.
Theo vista.gov.vn, 06/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Sử dụng vết máu tại hiện trường phạm tội để xác định tuổi của nạn nhân
Phân tích máu từ lâu đã là một trong
những công cụ quan trọng nhất của các nhà
khoa học pháp y. Giờ đây, một xét nghiệm
máu mới do Igor Lednev và các cộng sự tại
trường Đại học Albany triển khai, có triển
vọng xác định tuổi của nạn nhân hoặc đối
tượng tình nghi dựa vào các mẫu thu thập từ
hiện trường vụ án trong vòng một giờ.
Nếu không có mẫu máu, việc điều tra
sẽ gặp khó khăn hơn nhiều. Một người bình
thường có khoảng 4,7 - 5,5 lít máu, máu có
xu hướng văng ra khắp nơi tại hiện trường
phạm tội khi tội phạm gây án. Đây chính là
một kho tàng cung cấp thông tin thực tế. Dựa
vào cách máu bắn ra tại hiện trường, điều tra
viên có thể suy luận nhiều về các sự kiện đã
xảy ra, nguyên nhân tử vong và nghi phạm
nếu có. Khi mẫu máu được đưa trở lại phòng
thí nghiệm, các điều tra viên sẽ thu thập thêm
nhiều thông tin như đây có phải máu người
không, chủng tộc và giới tính của nghi phạm
hoặc nạn nhân, mức độ nhiễm độc hoặc sử
dụng thuốc, tình trạng sức khỏe chung và (xác
định xem mẫu máu phù hợp có nằm trong cơ
sở dữ liệu hay không) cung cấp ID đáng tin
cậy như dấu vân tay.
Tuy nhiên, mẫu máu được thu thập từ
hiện trường không cung cấp thông tin về tuổi
thọ của người đang được tìm kiếm, đây là
điều rất quan trọng trong nhiều trường hợp để
tạo niềm tin hoặc trả tự do cho người vô tội.
Lý do là vì để xác định tuổi của một người,
bạn cần phải có một yếu tố thay đổi theo thời
gian. Kỹ thuật phổ biến nhất là xem xét răng
và xương của một người. Sự phát triển của
răng, cách răng mọc và bệnh lý cho biết rất
nhiều thông tin về tuổi của một người. Xương
cũng được chú ý trong khám nghiệm tử thi và
tia X có thể xác định sự phát triển của xương,
cách xương hợp nhất khi một người lớn và
trưởng thành và cách môi trường ảnh hưởng
đến xương.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 24/67
Tuy nhiên, với máu hơi phức tạp hơn
một chút. Nhóm nghiên cứu đang tìm kiếm
thành phần trong máu người thay đổi khi một
người già đi và có thể được xác định và định
lượng tại phòng thí nghiệm trong thời gian rất
ngắn. Các nhà nghiên cứu đã xác định được
hemoglobin - phân tử protein phức tạp được
tìm thấy trong các tiểu thể màu đỏ vận
chuyển ôxy khắp cơ thể và tạo cho máu màu
đỏ. Nhưng điều thu hút sự quan tâm của các
nhà khoa học là sự thay đổi hemoglobin khi
một người lớn lên.
Kỹ thuật mới của nhóm nghiên cứu
dựa vào quang phổ Raman, nơi mẫu máu
được chiếu bằng chùm tia laser, khiến cho các
nguyên tử trong mẫu chuyển sang trạng thái
năng lượng khác nhau. Khi chúng trở lại bình
thường, bức xạ điện từ phát ra cho phép cán
bộ điều tra xác định thành phần và cấu trúc
của các phân tử. Cụ thể, nhóm nghiên cứu
đang tìm kiếm các tiểu đơn vị phân tử trong
hai loại hemoglobin - hemoglobin trong bào
thai (HbF) được tìm thấy ở trẻ sơ sinh và
hemoglobin ở người lớn (HbA). Khi một
người lớn lên, tỷ lệ HbF/HbA tăng ít hơn, do
đó, các nhà nghiên cứu đã lấy mẫu từ các tình
nguyện viên trong ba nhóm tuổi - trẻ sơ sinh,
thiếu niên và người trưởng thành. Sau đó, các
hemoglobin được đưa qua quang phổ Raman
và tỷ lệ HbF/HbA trong các tế bào hồng cầu
trên 100 ml máu được đo lường.
Đến nay, nhóm nghiên cứu có thể xác
định các mẫu ở người lớn và thiếu niên với độ
chính xác là 99% và với trẻ sơ sinh là 100%.
Quá trình này có ưu điểm diễn ra nhanh và
không phá hủy. Ngoài ra không cần chuẩn bị
mẫu, có nghĩa là nó có thể được sử dụng
trong lĩnh vực này cùng với các xét nghiệm
thông thường. Bước tiếp theo các nhà khoa
học sẽ điều chỉnh thử nghiệm với hy vọng thu
hẹp kết quả đến độ tuổi cụ thể hơn. Nghiên
cứu đã được công bố trên tạp chí ACS
Central Science.
Theo vista.gov.vn, 04/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Parkinson có thể sớm được điều trị bằng thuốc huyết áp
Isradipine là loại thuốc chống tăng
huyết áp, đang là một phương pháp mới giúp
điều trị tiềm năng cho bệnh Parkinson. Cho
đến nay, vẫn chưa rõ liệu việc dùng thuốc
trong cơ thể có mang lại lợi ích như nhau hay
không và nghiên cứu mới chỉ ra rằng nó có
tác dụng. Isradipine là chất ức chế kênh canxi
dùng để điều trị chứng tăng huyết áp. Những
kết quả nghiên cứu trước đây, cho thấy dùng
thuốc có tỷ lệ mắc bệnh Parkinson thấp hơn,
vì vậy các nhà khoa học muốn kiểm tra nó
chặt chẽ. Các xét nghiệm khác cho thấy thuốc
bảo vệ các tế bào thần kinh sản xuất dopamin
bị ảnh hưởng ở bệnh Parkinson.
Nghiên cứu mới cho thấy việc điều trị
chuột bằng thuốc bảo vệ các tế bào thần kinh
dopaminergic của loài gặm nhấm có tác dụng.
Giáo sư D. James Surmeier và nhóm nghiên
cứu đến từ Hoa Kỳ, đã cho chuột dùng
isradipine trong 7-10 ngày. Sau đó, họ sử
dụng kỹ thuật chụp ảnh định lượng được gọi
là kính hiển vi quét bằng laser hai photon, và
đo lượng canxi bên trong các tế bào thần kinh
sản xuất dopamine. Các xét nghiệm cho thấy
thuốc đã làm giảm mức canxi trong các tế bào
này. Điều này rất quan trọng vì các kênh
canxi kích thích ty thể của các tế bào thần
kinh dopaminergic, đôi khi làm cho các tế
bào não này hoạt động quá mức.
Giáo sư Surmeier cho biết: Điều này
xảy ra do vai trò tiến hóa của các tế bào thần
kinh dopaminergic. Những tế bào này là chìa
khóa để kích hoạt các vùng não chịu trách
nhiệm cho phản ứng nhanh, rất hữu ích trong
các tình huống "chống lại hoặc bỏ chạy". Tuy
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 25/67
nhiên, để hoàn thành vai trò năng lượng lớn
này, các tế bào thần kinh này cần phải giữ cho
ty thể hoạt động hết công suất ở mọi thời
điểm. Ty thể là các bào quan nhỏ bên trong
những tế bào chịu trách nhiệm biến chất béo
và chất dinh dưỡng thành năng lượng, hoặc
nhiên liệu cho tế bào.
Nhưng trong nghiên cứu này, isradipin
ức chế các kênh canxi, làm chậm hoạt động
của ty lạp thể và giảm sản xuất các hợp chất
độc hại. Ngoài ra, sau khi điều trị bằng
isradipin, ty thể của các tế bào thần kinh sản
xuất dopamine có mức độ oxy hóa thấp hơn
những tế bào không được điều trị. Các nhà
khoa học cũng phát hiện ra rằng mất cân bằng
oxi hóa cao trong các tế bào thần kinh
dopaminergic đã phá huỷ ty thể của tế bào.
Tuy nhiên, khi chuột được điều trị bằng
isradipine làm giảm tổn thương ty thể này.
Giáo sư Surmeier nói: “Chúng tôi đã
giảm thiểu thiệt hại cho ty thể để các tế bào
thần kinh dopaminergic trông giống như các
tế bào thần kinh không bị mất trong bệnh
Parkinson. Và điều quan trọng hơn cả là
thuốc không gây ra bất kỳ tác dụng phụ nào”.
Những phát hiện này củng cố nỗ lực của một
thử nghiệm lâm sàng toàn quốc hiện đang thử
nghiệm isradipine ở người. Cuộc thử nghiệm,
gọi là STEADY-PD, hiện đang trong giai
đoạn thứ ba và nó đang được thực hiện tại
Đại học Y Northwestern và 50 địa điểm khác
tại Hoa Kỳ. Những dữ liệu này cung cấp thêm
lý do chính đáng tiền lâm sàng cho nghiên
cứu giai đoạn III đang diễn ra của isradipine ở
bệnh nhân. Chúng ta cần thận trọng vì nhiều
loại thuốc đã thất bại, nhưng nếu thành công,
isradipine sẽ là thuốc đầu tiên chứng minh
khả năng làm chậm sự tiến triển của bệnh
Parkinson.
Nghiên cứu này đã được công bố trên
Tạp chí Journal of Clinical Investigation.
Theo vista.gov.vn, 10/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Mỹ phát triển thuốc cải lão hoàn đồng, kéo dài 1/3 tuổi thọ
Theo tạp chí Nature Medicine, các nhà
sinh học phân tử Mỹ đã bào chế được một
loại thuốc có tên senolytics phá hủy có chọn
lọc các tế bào lão hóa trong cơ thể động vật,
kéo dài tuổi thọ của chúng lên khoảng 1/3.
Felipe Sierra, nhà sinh học từ Viện
Lão hóa quốc gia ở Bethesda, Mỹ, cho biết
rằng “Đây là một phát hiện tuyệt vời, nghiên
cứu này cho thấy các loại thuốc cải lão hoàn
đồng có thể chống lại những ảnh hưởng của
lão hóa, ít nhất là trong cơ thể của chuột.
Chúng tôi cần tiến hành các thí nghiệm bổ
sung để hiểu các chất này an toàn như thế nào
đối với cơ thể người”.
Được biết, các tế bào phôi và tế bào
gốc phôi thai hầu như bất tử về mặt sinh học -
chúng có thể sống gần như vô thời hạn trong
môi trường sống đầy đủ và chia sẻ vô tận.
Nhưng, các tế bào của cơ thể người lớn dần
mất khả năng phân chia sau 40-50 chu kỳ rồi
đi vào giai đoạn lão hóa. Theo các nhà khoa
học, bằng cách đó, các tế bào bảo vệ bản thân
chúng và cả cơ thể khỏi bệnh ung thư, ngừng
phân chia tại một thời điểm khi xác suất đột
biến trong bộ gien đạt đến một mức độ tới
hạn nhất định.
Các nhà sinh học ở bệnh viện Mayo tại
Rochester, Mỹ, đã tiến hành thử nghiệm trên
những con chuột có ADN được cài một hệ
đặc biệt cho phép các nhà khoa học loại bỏ
một cách có chọn lọc các tế bào già cỗi. Sự
phá hủy các tế bào lão hóa giúp kéo dài 1/3
tuổi thọ của chuột thí nghiệm và bảo vệ
chúng chống lại nhiều căn bệnh liên quan đến
tuổi tác, kể cả từ việc teo nhão cơ bắp.
Giải quyết thành công vấn đề này
khiến James Kirkland và các đồng nghiệp tại
bệnh viện Mayo nghĩ đến khả năng thu kết
quả như vậy khi can thiệp vào hoạt động của
ADN. Các nhà khoa học đã bắt đầu thử
nghiệm trên loài động vật gặm nhấm bằng
cách tiêm các mẻ nuôi cấy tế bào bị lão hóa
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 26/67
vào cơ thể chúng. Rồi khi ở những con chuột
thí nghiệm xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên
của quá trình lão hóa sớm, các nhà sinh học
lại tiêm vào cơ thể chúng một hỗn hợp gồm
hai chất – dasatinib thuốc trị bệnh bạch cầu
và quercetin, một một loại flavonoid có vị
đắng của hành tây cùng sắc tố thực vật đỏ.
Chất đầu tiên, như được chứng minh
qua các thí nghiệm sơ bộ trên các mô nuôi
cấy trong ống nghiệm, đã phá hủy các tế bào
già cỗi, còn chất thứ hai - làm giảm mức độ
viêm do tác động của dasatinib.
Các thí nghiệm đã chỉ ra rằng ngay cả
liều lượng nhỏ của các chế phẩm này cũng
giúp làm trẻ hóa đáng kể những con chuột thí
nghiệm và trả lại cho chúng sự năng động đặc
trưng cho các con chuột trẻ. Sau khi đạt được
thành công, các nhà sinh học đã thử nghiệm
hỗn hợp thuốc cải lão hoàn đồng mà họ gọi là
cenolitics này vào cơ thể của những con chuột
bình thường.
Hóa ra, cả trong trường hợp này cũng
thu được hiệu ứng tích cực. Những con chuột
già được tiêm hỗn hợp dasatinib và quercetin
đều sống lâu hơn 36% so với đồng loại trong
nhóm đối chứng. Đồng thời, xác suất tử vong
của chúng giảm 65%, có nghĩa là dung dịch
trên không chỉ loại bỏ các biểu hiện bên ngoài
của tuổi già, khiến loài gặm nhấm di chuyển
tích cực hơn, mà còn thực sự kéo dài tuổi thọ
của chúng.
Cả hai hợp chất dasatinib và quercetin,
như các nhà khoa học nhận xét, đều được sử
dụng trong thực hành y tế như loại thuốc
nhuộm và phụ gia thực phẩm trong một thời
gian dài. Điều này mở ra hy vọng cenolithics
có thể nhanh chóng trở thành liều thuốc cải
lão hoàn đồng không quá đắt đỏ.
Theo motthegioi.vn, 13/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Loại thuốc mới có thể ngăn ngừa hoặc đảo ngược ảnh hưởng do chứng mất trí và đột quỵ
Bệnh mạch máu não nhỏ (SVD) là một
trong những nguyên nhân phổ biến nhất liên
quan đến chứng mất trí và đột quỵ do tuổi tác.
Đây là nghiên cứu mới, do Đại học Edinburgh
đứng đầu đã phát hiện ra cơ chế mà SVD gây
ra tổn thương tế bào não, cũng như một
phương pháp điều trị tiềm năng để ngăn chặn
thiệt hại và thậm chí có thể đảo ngược nó.
SVD được cho là ảnh hưởng đến 45% trường
hợp sa sút trí tuệ, và đại đa số những người ở
tuổi cao niên có biểu hiện của một số dấu hiệu
về tình trạng này. Một nghiên cứu nổi bật lên
tới 95% các đối tượng trong độ tuổi từ 60 đến
90 cho thấy một số dấu hiệu của bệnh SVD
khi được kiểm tra qua quét MRI.
Nghiên cứu mới này đã kiểm tra các
đặc điểm bệnh lý sớm của bệnh mạch máu
não nhỏ và thấy rằng rối loạn chức năng trong
các tế bào nội mô là dấu hiệu đầu tiên của sự
tiến triển thoái hóa của bệnh. Đây là những tế
bào xếp các mạch máu nhỏ trong não và trong
giai đoạn đầu của bệnh SVD, chúng tiết ra
một protein làm suy yếu sản xuất myelin -
hợp chất cần thiết cho việc bảo vệ tế bào não.
Giả thiết là nếu rối loạn chức năng tế bào nội
mô này có thể được sửa chữa thì tổn thương
não sau đó từ bệnh mạch máu não nhỏ có thể
được ngăn chặn. Nghiên cứu đã điều trị thành
công trên những con chuột có mắc bệnh SVD
được cho sử dụng các loại thuốc ổn định rối
loạn chức năng tế bào nội mô. Không chỉ có
triệu chứng của bệnh mạch máu não nhỏ biến
mất mà, trong giai đoạn đầu của bệnh, việc
điều trị đã cho kết quả đảo ngược những ảnh
hưởng liên quan đến não.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 27/67
Tác giả nghiên cứu Anna Williams cho
biết: "Nghiên cứu quan trọng này giúp chúng
ta hiểu tại sao bệnh mạch máu não nhỏ lại
xảy ra, cung cấp mối liên hệ trực tiếp giữa
các mạch máu nhỏ và những thay đổi trong
não liên quan đến bệnh mất trí nhớ. Cho thấy
thay đổi này có thể đảo ngược, điều này mở
đường cho các phương pháp điều trị tiềm
năng”. Đây là giai đoạn đầu của nghiên cứu,
với những hiệu ứng chỉ được chứng minh
trong các mô hình động vật, nhưng rối loạn
chức năng tế bào nội mô cơ bản này đã được
quan sát thấy trong trường hợp của con người
với bệnh mạch máu não nhỏ không triệu
chứng sớm. Nhóm nghiên cứu, hy vọng
nghiên cứu này giúp chuyển sang phương
pháp điều trị có thể tạo ra một loại thuốc sớm
hoặc thậm chí là phòng ngừa hạn chế tác
dụng thoái hóa gây hại của bệnh mạch máu
não nhỏ.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí
Science Translational Medicine.
Theo vista.gov.vn, 17/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Miếng dán có thể đo cortisol trong mồ hôi giúp phát hiện bệnh
Các nhà nghiên cứu đã phát triển một
miếng dán nguyên mẫu dùng để đo hàm
lượng cortisol, một loại hormon stress, trong
mồ hôi giúp phát hiện nhiều bệnh.
Miếng dán này có thể co giãn, đặt trực
tiếp trên da, phát hiện mồ hôi và đánh giá
lượng cortisol một người sản sinh ra là bao
nhiêu. Các nhà khoa học ĐH Stanford do
Alberto Salleo dẫn đầu đã công bố nghiên
cứu này trên tờ Science Advances.
Hiện nay, bệnh nhân cần mất vài ngày
chờ lấy kết quả từ phòng xét nghiệm để biết
tuyến thượng thận hoặc tuyến yên của họ có
hoạt động thích hợp hay không.
Tiến sĩ Onur Parlak, một nhà nghiên
cứu sau tiến sĩ tại phòng thí nghiệm Salleo,
cho biết: “Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến
mồ hôi, vì nó cung cấp sự giám sát không
xâm lấn và liên tục các dấu ấn sinh học khác
nhau cho một loạt các tình trạng sinh lý. "Kết
quả nghiên cứu này cung cấp một phương
pháp mới để phát hiện sớm các bệnh khác
nhau và đánh giá hiệu suất thể thao."
Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng những
người bị mất cân bằng có thể theo dõi tình
trạng của mình.
Họ cho biết: "Các cảm biến sinh học
có thể đeo nhằm thay thế hệ thống chăm sóc
sức khỏe tập trung ở bệnh viện bằng các chẩn
đoán có thể thực hiện tại nhà để giảm bớt chi
phí chăm sóc sức khỏe và thời gian chẩn đoán
bằng cách cung cấp phân tích trong thời gian
thực, không xâm lấn”.
Một thách thức trong việc phát triển
một cảm biến cho mồ hôi là cortisol không có
điện tích dương hay âm.
Các nhà khoa học đã chế tạo cảm biến
hình chữ nhật xung quanh một lớp màng chỉ
kết dính với cortisol và hút mồ hôi qua các lỗ
ở đáy miếng dán. Mồ hôi tập trung trong một
rãnh chứa và nó được đậy bằng lớp màng
nhạy với cortisol. Một lớp chống thấm bảo vệ
miếng dán khỏi bị ô nhiễm..
Parlak kiểm tra thiết bị trên hai tình
nguyện viên, những người đã chạy trong 20
phút với các miếng dán trên cánh tay của họ.
Trong các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm
và trong thế giới thực cho kết quả tương tự
nhau. Miếng dán được kết nối với thiết bị để
phân tích. Các nhà nghiên cứu muốn phát
triển miếng dán thành một hệ thống tích hợp
đầy đủ và có thể tái sử dụng nhiều lần.
Theo dantri.com.vn, 24/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 28/67
Cải tiến cảm biến sinh học cấy dưới da
Các nhà khoa học tại trường Đại học
Bách khoa liên bang Lausanne (EPFL), Thụy
Sỹ đã phát triển thiết bị cảm biến sinh học
ống nano mới bằng phương pháp sinh học
tổng hợp, giúp cải thiện khả năng cảm ứng
của chúng trong môi trường dịch lỏng sinh
học phức tạp trong cơ thể con người như máu
và nước tiểu. Nghiên cứu được công bố trên
tạp chí Physical Chemistry Letters.
Cảm biến sinh học mới là thiết bị tích
hợp có khả năng phát hiện các phân tử sinh
học trong không khí, nước hoặc máu. Công
nghệ này được ứng dụng rộng rãi trong
nghiên cứu phát triển thuốc, chẩn đoán y tế và
nghiên cứu sinh học. Hiện nay, nhu cầu sử
dụng dấu ấn sinh học ngày càng trở nên phổ
biến, giúp theo dõi liên tục các loại bệnh lý
theo thời gian thực, trong đó có bệnh tiểu
đường, từ đó, dẫn đến nỗ lực phát triển các
thiết bị cảm biến sinh học cầm tay hiệu quả.
Một số loại cảm biến sinh học quang
học hứa hẹn nhất hiện đang được phát triển
được chế tạo bằng phương pháp sử dụng các
ống nano cacbon đơn vách. Sự phát xạ ánh
sáng cận hồng ngoại ở các ống nano cacbon
xảy ra bên trong cửa sổ trong suốt quang học
của vật liệu sinh học. Điều này có nghĩa là
nước, máu và mô như da không hấp thụ ánh
sáng phát ra, khiến cho cảm biến sinh học trở
nên lý tưởng đối với các ứng dụng cảm biến
cấy ghép. Những cảm biến này do đó có thể
được cấy bên dưới lớp da và tín hiệu quang
học vẫn có thể được phát hiện mà không cần
sử dụng các tiếp điểm điện xuyên qua bề mặt.
Tuy nhiên, sự có mặt của muối trong
các dịch lỏng sinh học được xem là một thách
thức phổ biến trong nghiên cứu và thiết kế các
thiết bị cấy ghép. Trên thực tế, sự thay đổi
nồng độ muối tự nhiên xảy ra trong cơ thể đã
được chứng minh là có ảnh hưởng đến độ
nhạy và độ chọn lọc của cảm biến quang học
dựa trên các ống nano cacbon đơn vách được
bao bọc bởi ADN sợi đơn.
Để khắc phục vấn đề này, nhóm
nghiên cứu từ phòng thí nghiệm của Ardemis
Boghossianat, EPFL đã thiết kế các cảm biến
ống nano quang ổn định bằng phương pháp
sinh học tổng hợp. Việc sử dụng phương pháp
này mang lại tính ổn định cao cho các cảm
biến sinh học quang học, thích hợp sử dụng
trong các ứng dụng sinh học sử dụng dịch
lỏng phức tạp như máu hoặc nước tiểu và các
chất dịch khác bên trong cơ thể con người.
Ardemis Boghossian cho biết: “Chúng
tôi bọc axit 'xeno' (XNA) hoặc ADN tổng hợp
xung quanh các ống nano vì những vật liệu
này có khả năng chịu được sự thay đổi nồng
độ muối mà cơ thể con người có thể đáp ứng
được, giúp truyền tín hiệu ổn định hơn”.
Alice Gillen tác giả chính của bài báo là
người dẫn đầu trong nỗ lực nghiên cứu về ảnh
hưởng của một số muối nhất định đối với sự
phát xạ quang học của các cảm biến sinh học.
Các nhà nghiên cứu thực hiện thử
nghiệm ở nhiều mức nồng độ ion khác nhau
được tìm thấy trong các dịch lỏng sinh học
phổ biến trong cơ thể con người. Bằng
phương pháp giám sát cả cường độ tín hiệu
của ống nano và quá trình dịch chuyển bước
sóng của tín hiệu, họ đã có thể xác minh rằng
cảm biến sinh học bộc lộ tính ổn định cao hơn
trong phạm vi nồng độ muối lớn hơn so với
cảm biến ADN thông thường khác.
"Đây là lần đầu tiên một phương pháp
sinh học tổng hợp được sử dụng trong lĩnh
vực quang học ống nano", Boghossian khẳng
định. "Chúng tôi tin rằng những kết quả đáng
khích lệ này sẽ là cơ sở để phát triển thế hệ
tiếp theo của thiết bị cảm biến sinh học quang
học hứa hẹn hơn nữa dành cho các ứng dụng
cảm biến cấy ghép như giám sát liên tục"
Theo vista.gov.vn, 27/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 29/67
Thuốc nhỏ mắt từ chiết xuất nghệ có thể điều trị bệnh tăng nhãn áp
Theo một nghiên cứu đứng đầu là các
nhà nghiên cứu tại trường Đại học toàn cầu
London và trường Hoàng gia London, chiết
xuất nghệ có thể được sử dụng trong thuốc
nhỏ mắt để điều trị bệnh tăng nhãn áp ở
những giai đoạn đầu.
Trong báo cáo khoa học, các nhà
nghiên cứu đã đề cập đến phương pháp mới để
cung cấp trực tiếp chất curcumin, chiết xuất từ
nghệ gia vị màu vàng, cho phần sau của mắt
bằng cách sử dụng thuốc nhỏ mắt, khắc phục
hạn chế về độ hòa tan kém chất curcumin.
Nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra
thuốc nhỏ mắt có thể làm giảm tình trạng tổn
thương các tế bào võng mạc ở chuột, được
biết đến như là dấu hiệu sớm của bệnh tăng
nhãn áp. Các nhà khoa học cũng đang nghiên
cứu cách sử dụng thuốc nhỏ mắt như một
công cụ để chẩn đoán nhiều bệnh.
GS. Francesca Cordeiro, trưởng nhóm
nghiên cứu cho rằng: “Curcumin là hợp chất
đã được chứng minh có triển vọng phát hiện
và điều trị bệnh thoái hóa thần kinh gây ra
nhiều bệnh về mắt và não từ bệnh tăng nhãn
áp đến Alzheimer, do đó, có thể dễ dàng được
đưa vào thuốc nhỏ mắt giúp điều trị cho hàng
triệu người bệnh”.
Bệnh tăng nhãn áp là một nhóm các
bệnh về mắt ảnh hưởng đến hơn 60 triệu người
trên toàn thế giới mà trong 10 trường hợp lại
có một trường hợp bị mù lòa vĩnh viễn. Căn
bệnh này chủ yếu liên quan đến tổn thương tế
bào hạch võng mạc, loại tế bào thần kinh nằm
gần bề mặt võng mạc. Ngăn chặn tổn thương
tế bào hạch võng mạc ở giai đoạn sớm vẫn
chưa thực hiện được, do đó, đây là trọng tâm
chính của nghiên cứu bệnh tăng nhãn áp.
Curcumin trước đây đã được chứng
minh có khả năng bảo vệ tế bào hạch võng
mạc khi dùng qua đường uống. Trong nghiên
cứu hiện nay, các nhà khoa học đang tìm
kiếm một phương pháp đáng tin cậy để cung
cấp curcumin. Sử dụng qua đường uống rất
khó vì curcumin có độ hòa tan kém nên
không dễ hòa tan và hấp thụ vào máu, nên sẽ
đòi hỏi mọi người phải uống một lượng lớn
thuốc (tối đa 24 ngày) gây tác dụng phụ cho
đường tiêu hóa.
Nhóm nghiên cứu đã tạo ra hạt nano
mới, trong đó, chất curcumin được chứa trong
chất hoạt động bề mặt kết hợp với chất ổn
định, cả hai đều an toàn để sử dụng cho người
và đã xuất hiện trong các sản phẩm thuốc nhỏ
mắt hiện nay. Hạt nano chứa curcumin có thể
được sử dụng trong thuốc nhỏ mắt để cung
cấp lượng chất curcumin cao hơn nhiều các
sản phẩm khác đang trong quá trình phát
triển, làm tăng độ hòa tan của thuốc theo hệ
số gần 400.000 và khoanh vùng chất
curcumin trong mắt thay vì đi khắp cơ thể.
Các nhà nghiên cứu ban đầu đã thử
nghiệm sản phẩm trên các tế bào được sử
dụng để lập mô hình bệnh tăng nhãn áp, trước
khi tiến hành thử nghiệm trên chuột với các
bệnh về mắt liên quan đến tổn thương tế bào
hạch võng mạc. Sau hai ngày sử dụng thuốc
nhỏ mắt ở chuột trong vòng 3 tuần, tổn
thương tế bào hạch võng mạc giảm đáng kể
so với nhóm đối chứng và việc điều trị được
cho là dung nạp tốt mà không có dấu hiệu
kích ứng hoặc viêm mắt.
Các nhà nghiên cứu hy vọng phương
pháp cung cấp chất curcumin hiệu quả này
cũng có thể được sử dụng để chẩn đoán bệnh
Alzheimer, vì chất curcumin được biết là liên
kết với protein beta amyloid gây bệnh
Alzheimer và có thể được phát hiện trong
võng mạc bằng huỳnh quang để xác định
được các protein ác tính.
Theo vista.gov.vn, 30/07/2018
Trở về đầu trang
*************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 30/67
Stent thông minh trong điều trị tim mạch
Năm qua, các kỹ sư thuộc bang
Colorado của Mỹ đã phủ lớp titanium lên bề
mặt các thiết bị cấy này, giúp chúng đẩy máu
hiệu quả đến nỗi các tiểu huyết cầu không
tích tụ được để tạo ra các cục máu đông.
Stent là một khung đỡ bằng kim loại
dùng trong y học, thuộc dạng thiết bị mang
tính thụ động, được cấy vào trong những động
mạch bị tắc để nong chúng lên và giúp máu
lưu thông tốt, ngăn chặn những cơn suy tim.
Cấy các stent để điều trị bệnh tim là
một tiến trình tương đối thành công kể từ khi
được đưa vào sử dụng trong những năm 1980,
nhưng liệu pháp này cũng mang lại các nguy
cơ cho người bệnh. Một biến chứng phổ biến
là restenosis, tình trạng do mô lân cận phát
triển quanh stent khiến động mạch tiếp tục bị
thu hẹp. Các bác sĩ thường theo dõi biến
chứng này qua scan CT nhưng đó không phải
phương pháp thuận lợi và đáng tin cậy.
Để giải quyết vấn đề, các nhà khoa học
đã phát triển những stent tốt hơn.
Gần đây, các nhà nghiên cứu tại ĐH
British Columbia (UBC) của Canada đã tiến
thêm một bước nữa, khi phát triển một stent
thông minh, giúp quan sát các dấu hiệu xuất
hiện sớm về hẹp động mạch và gửi một tín
hiệu qua hệ thống không dây để báo động đến
bệnh nhân và bác sĩ.
Trong nghiên cứu mới này, nhóm các
nhà khoa học tại UBC đã làm cho stent có
một vai trò tích cực hơn. Stent thông minh
được hình thành với một cảm biến tí hon, liên
tục theo dõi những thay đổi về lưu lượng máu
và khi nó phát hiện những bất thường dù nhỏ,
có liên quan đến giai đoạn đầu của sự tái hẹp
ở động mạch, nó sẽ phát tín hiệu báo động
ngay đến bệnh nhân hay bác sĩ để có biện
pháp xử lý trước khi tình trạng trở nên tồi tệ.
“Chúng tôi tinh chỉnh stent để chúng có
chức năng như một ăng ten thu nhỏ và phát
triển thêm một vi cảm biến đặc biệt có nhiệm
vụ theo dõi liên tục lưu lượng máu”, Kenichi
Takahata, nhà khoa học đứng đầu cuộc
nghiên cứu này, nói, “Dữ liệu sau đó được
gửi bằng tín hiệu không dây đến một đầu đọc
bên ngoài, cung cấp thông tin cập nhật liên
tục về tình trạng của động mạch”.
Các stent này được làm từ thép không
gỉ cao cấp của ngành y tế và do cũng giống
với những thiết bị hiện đang có nên các nhà
nghiên cứu cho biết nó cũng được cấy ghép
qua một tiến trình tương tự như trước nay y
học vẫn sử dụng. Tuy nhiên, khi đã được đặt
đúng vị trí, thiết bị thông minh này sẽ loại bỏ
việc theo dõi các dấu hiệu hẹp động mạch trở
lại qua scan CT, giúp giảm bớt các thăm
khám phức tạp cho người bệnh. Thay vào đó,
nó có chức năng phát tín hiệu cảnh báo bằng
sóng điện từ qua một ăng ten ngoài, đặt trên
da đến bộ phận đọc.
Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm thiết
bị này trong phòng thí nghiệm và kết quả cho
thấy nó hoạt động như mong muốn. Với các
kết quả ban đầu đầy hứa hẹn, các nhà khoa
học hiện đang có kế hoạch tiếp tục tinh chỉnh
stent để sẵn sàng thí nghiệm trên người trong
thời gian ngắn nhất.
Nghiên cứu này đã được đăng trên tờ
Advanced Science
Theo giaoducthoidai.vn, 30/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 31/67
Bào chế loại vắc xin mới dựa vào tơ nhện
Để chống lại bệnh ung thư, các nhà
nghiên cứu sử dụng ngày càng nhiều vắc xin
để kích thích hệ miễn dịch nhằm xác định và
tiêu diệt các tế bào ung thư. Tuy nhiên, đáp
ứng miễn dịch như mong đợi không phải lúc
nào cũng được đảm bảo. Để tăng cường hiệu
quả của vắc xin đối với hệ miễn dịch và đặc
biệt là trên các tế bào lympho T chuyên phát
hiện tế bào ung thư, các nhà nghiên cứu tại
trường Đại học Geneva (UNIGE), Freiburg
(UNIFR), Munich và Bayreuth đã phối hợp
với công ty AMSilk của Đức để tạo ra các vi
nang từ tơ nhện có khả năng cung cấp vắc xin
trực tiếp cho vùng trung tâm của các tế bào
miễn dịch. Quy trình này đã được công bố
trên tạp chí Biomaterials, cũng có thể được áp
dụng cho vắc xin phòng ngừa để bảo vệ
chống lại các bệnh truyền nhiễm và là một
bước quan trọng để tạo ra các loại vắc xin ổn
định, dễ sử dụng và thích ứng trong các điều
kiện bảo quản khắc nghiệt nhất.
Hệ miễn dịch của con người chủ yếu
dựa vào hai loại tế bào: tế bào lympho B sản
sinh các kháng thể cần thiết để bảo vệ chống
lại bệnh nhiễm trùng và tế bào lympho T.
Trong trường hợp của bệnh ung thư và một số
bệnh truyền nhiễm như bệnh lao, tế bào
lympho T cần được kích hoạt. Tuy nhiên, cơ
chế hoạt hóa của chúng phức tạp hơn tế bào
lympho B: để kích hoạt đáp ứng, cần sử dụng
peptit, một phần nhỏ protein nếu được tiêm
riêng rẽ, sẽ nhanh chóng bị cơ thể làm mất
chức năng sinh học thậm chí trước khi đạt
được mục tiêu.
GS. Carole Bourquin, chuyên gia về
liệu pháp miễn dịch chống ung thư và cũng là
người chỉ đạo nghiên cứu cho biết: “Để bào
chế thuốc miễn dịch có hiệu quả chống ung
thư, cần phải tạo đáp ứng mạnh mẽ từ các tế
bào lympho T. Vì các loại vắc xin hiện nay
chỉ tác động hạn chế đến tế bào T, nên việc
tiến hành các thủ tục tiêm phòng khác để
khắc phục hạn chế này là rất quan trọng".
Viên nang gần như không thể phá hủy
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng các chất
polyme sinh học từ tơ nhện tổng hợp - vật
liệu nhẹ, tương thích sinh học, không độc hại
có khả năng chống lại hiện tượng làm mất
chức năng sinh học của protein do ánh sáng
và nhiệt. Thomas Scheibel, chuyên gia về tơ
nhện tại trường Đại học Bayreuth và là đồng
tác giả nghiên cứu cho rằng: “Chúng tôi đã
tái tạo loại tơ đặc biệt này trong phòng thí
nghiệm để đưa vào một peptit có đặc tính của
vắc xin. Sau đó, các chuỗi protein trải qua
một bước tiếp theo để tạo thành các vi hạt có
thể tiêm”.
Các vi hạt tơ tạo nên một viên nang
vận chuyển nhanh chóng bảo vệ peptit vắc
xin không bị mất chức năng sinh học bên
trong cơ thể và đưa peptit đến vị trí trung tâm
của các tế bào hạch bạch huyết, qua đó làm
tăng đáng kể đáp ứng miễn dịch của tế bào
lympho T. Carole Bourquin cho biết: "Nghiên
cứu của chúng tôi đã chứng minh tính hợp lệ
của kỹ thuật. Chúng tôi đã chứng minh hiệu
quả của chiến lược tiêm phòng mới cực kỳ ổn
định, dễ dàng thực hiện và điều chỉnh".
Hướng tới một mô hình vắc xin mới
Các hạt polyme sinh học từ tơ tổng
hợp có khả năng chịu nhiệt cao lên đến trên
100°C trong vài giờ mà không bị hư hại. Về
lý thuyết, quá trình này sẽ tạo thuận lợi cho
việc bào chế vắc xin mà không cần sử dụng tá
dược và dây chuyền làm lạnh. Đây là lợi thế
không thể phủ nhận, đặc biệt tại các nước
đang phát triển nơi một trong những khó khăn
lớn là bảo quản vắc xin. Tuy nhiên, một trong
những hạn chế của quy trình này là kích
thước của các vi hạt: dù quy trình về nguyên
tắc có thể áp dụng cho mọi peptit có kích
thước đủ nhỏ để được đưa vào protein tơ,
nhưng cần nghiên cứu thêm để xem xét khả
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 32/67
năng kết hợp các kháng nguyên cỡ lớn được
sử dụng trong các loại vắc xin thông thường,
đặc biệt là vắc xin chống các bệnh do virus.
Khi khoa học mô phỏng tự nhiên
Scheibel cho rằng: "Ngày càng có nhiều nhà
khoa học cố gắng mô phỏng những gì tốt nhất
trong tự nhiên. Đây là cách tiếp cận phỏng
sinh học”. Các tính chất của tơ nhện làm cho
tơ trở thành một sản phẩm đặc biệt thú vị:
tương thích sinh học, rắn, mỏng, phân hủy
sinh học, chịu được các điều kiện khắc nghiệt
và thậm chí kháng khuẩn với nhiều ứng dụng
được kỳ vọng như băng vết thương hoặc làm
chỉ khâu.
Theo vista.gov.vn, 02/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học phát hiện ra mục tiêu mới để ngăn chặn sự phát triển của ung thư
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại
học Wisconsin - Madison đã phát hiện ra
protein Munc13-4 giúp các tế bào ung thư tiết
ra khối lượng lớn exosome - các túi nhỏ được
bao bọc bởi màng có chứa protein và ARN
kích thích sự tiến triển của khối u. Nghiên
cứu này mới được công bố trên Tạp chí Cell
of Biology, có thể dẫn đến những liệu pháp
mới ngăn chặn sự phát triển của khối u và di
căn bằng cách cản trở sản sinh exosome.
Tế bào ung thư tạo ra khối lượng lớn
exosome, góp phần vào sự phát triển của khối
u theo nhiều cách. Chúng có thể truyền gen
đột biến gây ung thư cho các tế bào lân cận để
thúc đẩy sự tiến triển của ung thư. Tế bào ung
thư chứa các protein có vai trò điều chỉnh lại
môi trường xung quang các tế bào ung thư và
tạo cho phép chúng lây lan sang các mô khác.
Các tế bào ung thư có thể chứa những yếu tố
báo hiệu làm gián đoạn khả năng phản ứng
miễn dịch của cơ thể chống lại khối u.
Nhóm nghiên cứu do Scott W.
Messenger dẫn đầu, đã phát hiện ra rằng
canxi, thường gia tăng trong tế bào ung thư,
đã kích thích các tế bào ung thư vú xâm lấn
tiết ra exosome. Exosome được giải phóng
phụ thuộc vào một protein liên kết với canxi
gọi là Munc13-4; loại bỏ protein này hoặc
thay thế nó bằng một phiên bản đột biến
không thể liên kết canxi, đã ngăn chặn các tế
bào ung thư vú giải phóng exosome để đáp
ứng với canxi.
Nồng độ Munc 13-4 trong khối u vú,
tụy và phổi ở người thường nhiều hơn. Các
nhà nghiên cứu đã phát hiện thấy các tế bào
ung thư phổi và tụy đã làm tăng mức
Munc13-4 và giải phóng nhiều exosome khi
chúng xâm lấn mạnh hơn.
Exosome được hình thành bên trong
các bào quan của tế bào cỡ lớn được gọi là
các cơ quan đa túi (multivesicular). Các bào
quan này sau đó hợp nhất với màng plasma
của tế bào để giải phóng exosome ra bên
ngoài tế bào. Nhóm nghiên cứu đã phát hiện
thấy Munc13-4 hoạt động cùng với Rab11,
một protein khác để thúc đẩy sự phát triển của
các cơ quan đa túi có khả năng hợp nhất với
màng plasma và giải phóng exosome.
Exosome được giải phóng từ các tế
bào ung thư chứa enzyme MT1-MMP, làm
giảm chất nền ngoại bào bao quanh tế bào
ung thư. Điều này giúp các tế bào ung thư
phân tán xung quanh cơ thể để tạo thành các
khối u di căn thứ phát. Khi nhóm nghiên cứu
loại bỏ Munc13-4, kết quả làm giảm khả năng
giải phóng exosome chứa MT1-MMP từ các
tế bào ung thư vú và ức chế khả năng của các
tế bào làm suy giảm chất nền ngoại bào.
Nhóm nghiên cứu cho rằng biểu hiện
gia tăng của Munc13-4 kết hợp với nồng độ
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 33/67
canxi cao, thúc đẩy các tế bào ung thư xâm lấn
mạnh giải phóng exosome và Munc13-4 là
một mục tiêu tiềm năng cho can thiệp điều trị.
Theo vista.gov.vn, 04/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Sử dụng công cụ mới để xác định gen ung thư ở trẻ em
Sử dụng chiến lược tính toán mới, các
nhà nghiên cứu tại Trung tâm Y tế
Southwestern thuộc trường Đại học Texas đã
xác định được 29 thay đổi di truyền góp phần
gây ra căn bệnh ung thư mô liên kết ở trẻ em.
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp
phân tích Bayes, phương pháp suy luận thống
kê kết hợp với sàng lọc bằng CRISPR/Cas9,
công cụ chỉnh sửa gen dự báo để xác nhận
các dự báo thống kê.
Nghiên cứu mới giúp giải thích yếu tố
thúc đẩy sự hình thành của bệnh ung thư mô
liên kết và đề xuất những phương pháp điều
trị tiềm năng. Ngoài ra, phương pháp nghiên
cứu của nhóm có thể được sử dụng để xác
định các yếu tố di truyền gây ra các bệnh ung
thư khác.
Gần như tất cả gen xuất hiện trong các
tế bào đều theo cặp. Nghiên cứu tập trung vào
các gen chỉ có một bản sao hoặc có ba bản sao
trở lên. TS. Stephen Skapek, đồng tác giả
nghiên cứu cho biết: “Chúng tôi đã nảy ra ý
tưởng cho rằng biểu hiện thay đổi của các gen
ung thư cốt lõi có thể được thúc đẩy bởi sự gia
tăng hoặc mất đi số lượng bản sao di truyền.
Sau đó, chúng tôi đã phát triển một thuật toán
tính toán mới được gọi là iExCN để dự đoán
các gen ung thư dựa vào dữ liệu biểu hiện gen
và số lượng bản sao trong toàn bộ gen”.
Nghiên cứu cũng sử dụng một số công
cụ thử nghiệm mới, bao gồm công nghệ sàng
lọc CRISPR/Cas9 để xác minh chức năng của
các gen ung thư được dự đoán trong ung thư
mô liên kết.
TS. Lin Xu, đồng tác giả nghiên cứu
cho rằng: "Thuật toán iExCN được phát triển
dựa vào phương pháp thống kê Bayes, về cơ
bản khác với các phương pháp thống kê phổ
biến và thường đưa ra ước tính chính xác hơn
về các tập hợp thống kê, dù nó liên quan đến
tính toán phức tạp và thời gian xử lý dài hơn".
Ung thư mô liên kết là loại ung thư mô
mềm phổ biến nhất ở trẻ em. Sử dụng thuật
toán để phân tích dữ liệu di truyền từ 290
khối ung thư mô liên kết, các nhà nghiên cứu
đã xác định được 29 gen liên quan, trong đó
nhiều gen chưa từng được xác định gây ung
thư mô liên kết.
Tiến sĩ Yanbin Zheng, phó giáo sư Nhi
khoa đã sử dụng phương pháp sàng lọc dựa
vào CRISPR/Cas9 tùy chỉnh để xác minh
những nguyên nhân di truyền được dự đoán
theo thống kê về ung thư mô liên kết. TS.
Zheng cho rằng: “Trong số các gen ung thư
mô liên kết đã được xác nhận, EZH2, CDK6
và RIPK2 đặc biệt cần được nghiên cứu sâu
hơn vì đã có các loại thuốc nhắm vào các gen
này hoặc được FDA chấp thuận hoặc dùng
trong các thử nghiệm lâm sàng”.
Theo TS. Skapek, một trong số các tác
giả, nhóm nghiên cứu cần xác minh rõ hơn
vai trò gây ung thư của các gen được xác định
bằng thuật toán iExCN. Các nhà khoa học
đang tìm kiếm những chiến lược mới cho các
liệu pháp nhằm vào các gen này.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí
Cell Reports.
Theo vista.gov.vn, 13/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 34/67
MRI giúp không chỉ chẩn đoán mà cả điều trị ung thư?
Các nhà khoa học từ Đại học Năng
lượng nguyên tử Quốc gia MEPhI đã phát
triển một loại chất tương phản mới dựa trên
các hạt nano silic, cho phép không chỉ chẩn
đoán mà cả điều trị ung thư.
MRI là một phương pháp chẩn đoán y
sinh rất hữu ích, trong đó thường sử dụng
cộng hưởng từ hạt nhân của nguyên tử hydro
(proton). Khi chụp cắt lớp, các proton trong
nguyên tử hydro được xếp đặt trong từ trường
trong quá trình tiếp xúc với sóng vô tuyến.
Trong một số nghiên cứu cần phải sử
dụng những đại lý tương phản để nâng cao độ
chính xác và hình ảnh của các mô. Độ chính
xác của tín hiệu tương phản trong MRI phụ
thuộc chủ yếu vào mức độ thay đổi thời gian
thư giãn theo chiều dọc hoặc chiều ngang.
Thời gian thư giãn là thời gian khi các
proton quay trở lại trạng thái cân bằng. Thời
gian thư giãn phụ thuộc vào các phân tử và
nguyên tử xung quanh proton, những khoảng
thời gian có độ dài khác nhau ở các mô khỏe
mạnh và các mô bệnh.
Trong một số trường hợp, bệnh lý có
thể được phát hiện thông qua các đại lý tương
phản làm thay đổi cục bộ thời gian thư giãn
của các mô bệnh. Sự kết hợp của MRI và các
đại lý tương phản làm tăng khả năng nâng cao
hình ảnh của sự viêm, chẳng hạn như sự hình
thành mạch máu trong khối u ung thư.
Các nhà khoa học từ Đại học Năng
lượng nguyên tử Quốc gia MEPhI đã phát
triển một loại chất tương phản mới dựa trên
các hạt nano silic, cho phép không chỉ chẩn
đoán mà cả điều trị ung thư. Theo Giáo sư
Victor Timoshenko của đại học MEPhI và Đại
học Tổng hợp Quốc gia Matxcova mang tên
Lomonosov, đây là một ví dụ về sự phát triển
của phương pháp Nanotheranostics - kết hợp
phương pháp chẩn đoán và điều trị ở quy mô
nanomet.
Các đại lý theranostic cho MRI đòi hỏi
sự kết hợp của các đại lý tương phản với liệu
pháp được thực hiện bằng cách sử dụng nang
nano (nano capsules) và/hoặc tác động bổ sung
bằng trường vật lý, hoặc xạ trị.
"MRI đang được sử dụng rộng rãi trong
chẩn đoán khối u, chính bởi vậy sự phát triển
của đại lý tương phản loại mới có thể được sử
dụng để điều trị nhẹ nhàng bệnh ung thư là rất
quan trọng đối với nền y học hiện đại", ông
Viktor Tymoshenko nói.
Các vật liệu được sử dụng trong
phương pháp Nanotheranostics cần phải là thứ
không độc hại và tương thích với cơ thể con
người. Một tính năng quan trọng khác là cách
"tàng hình" để qua mặt hệ miễn dịch - nếu
không hệ miễn dịch sẽ chỉ đơn giản tiêu diệt
chúng. Ngoài ra, không được để các hạt nano
tích tụ trong cơ thể và không được để bề mặt
của chúng bị ô nhiễm.
Theo các nhà khoa học của Phòng thí
nghiệm "Nanotheranostics" tại Viện Vật Lý-
Kỹ Thuật Y Sinh thuộc Trường Đại học Năng
lượng nguyên tử Quốc gia MEPhI, việc sử
dụng các hạt nano silic để phát hiện các tế bào
bị hư hỏng là một trong những phương pháp
hứa hẹn nhất trong ngành Nanotheranostics
điều trị bệnh ung thư. Các hạt nano như vậy
không gây hại cho cơ thể, nhưng, sau khi nóng
lên đến nhiệt độ trên 42°C (điều này được gọi
là tăng thân nhiệt) dưới ảnh hưởng của sóng
vô tuyến, chúng sẽ phá hủy cục bộ các tế bào
ung thư.
Theo dantri.com.vn, 23/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 35/67
Các nhà khoa học Siberia phát triển một công nghệ mới để điều trị ung thư
Các chuyên gia thuộc Viện Tế bào
học và Di truyền học ở Novosibirsk đã phát
triển một công nghệ cho phép điều trị hiệu
quả bệnh ung thư, đồng thời giảm số liều hóa
trị xuống nhiều lần.
Trong vòng vài năm, các nhân viên
phòng thí nghiệm đã phát triển một công nghệ
gọi là "Karanahan" ("tiêu diệt nguyên nhân").
Công nghệ này dựa trên "sơ hở" của các tế
bào gốc ung thư tại những giai đoạn nhất định
thuộc chu kỳ cuộc sống của chúng.
"Trong khi nghiên cứu các tế bào gốc
ác tính, các nhân viên của chúng tôi tìm ra
tính năng độc đáo của chúng, đó là khả năng
nắm bắt những đoạn ADN ngoại bào. Các
nghiên cứu sâu cho thấy, nếu cấy các đoạn
ADN này vào tế bào thì sau một khoảng thời
gian, dưới tác động của thuốc gây độc tế bào
(hóa trị), chúng không cho tế bào hoàn tất quá
trình phục hồi và kết quả là tế bào bị chết",
thông báo cho biết.
Viện Tế bào học và Di truyền học lưu
ý rằng, công nghệ mới này được các tác giả
đặt tên là "3 + 1", vì ba liều thuốc đầu tiên
được đưa vào tế bào có khả năng tiêu diệt hầu
hết các tế bào ung thư gốc, còn liều thuốc thứ
tư tiêu diệt những tế bào ung thư gốc còn lại.
Loại thuốc này đã được thử nghiệm thành
công để chữa ung thư ở chuột, cũng như u
nguyên bào của người được nuôi cấy.
Theo dantri.com.vn, 23/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Israel phát triển phương pháp mới điều trị ung thư phổi
Theo một nghiên cứu do Viện Khoa
học Weizmann của Israel công bố ngày 25/7,
các nhà khoa học của nước này đã phát triển
một phương pháp mới kết hợp ba loại thuốc
khác nhau trong điều trị ung thư phổi.
Phương pháp này được phát triển khi
những phương pháp điều trị thông thường đối
với căn bệnh này bị mất tác dụng.
Ung thư phổi là nguyên nhân gây tử
vong hàng đầu trong số các căn bệnh ác tính.
Các nhà khoa học Israel đã tiến hành thử
nghiệm cấy các tế bào ung thư vào phổi của
chuột sau đó điều trị kết hợp ba loại thuốc là
Tagrisso, Erbitux và Herceptin. Kết quả là kích
thước của các khối u đã giảm và khối u không
phát triển trở lại khi vẫn tiếp tục điều trị.
Tất cả ba loại thuốc trên đã được cho
phép sử dụng trong điều trị cho người, vì vậy
việc phê chuẩn áp dụng phương pháp mới điều
trị bệnh ung thư phổi ở người sẽ dễ dàng hơn.
Theo vietnamplus.vn, 26/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Biến đổi vi khuẩn để sản xuất phân bón từ không khí
Trong tương lai, cây sẽ có thể tự sản
xuất phân bón. Người nông dân sẽ không cần
phải mua phân bón cho cây trồng. Và sản
lượng lương thực tăng sẽ mang lại lợi ích cho
hàng tỷ người trên khắp thế giới.
Nghiên cứu mới của trường Đại học
Washington chứng minh khả năng biến đổi
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 36/67
cây trồng để tạo ra loại phân bón riêng. Phát
hiện này có thể tác động mạnh đến ngành
nông nghiệp và hiện trạng của hành tinh.
Sản xuất phân bón là quy trình tiêu tốn
năng lượng và phát thải kính nhà kính gây
biến đổi khí hậu. Quy trình này không hiệu
quả. Bón phân là hệ thống phân phối nitơ, mà
thực vật sử dụng để tạo ra chất diệp lục cho
quá trình quang hợp, nhưng cây trồng sử
dụng chưa đến 40% nitơ trong phân bón
thương mại.
Sau khi cây được bón phân, một vấn
đề khác nảy sinh là dòng chảy. Khi trời mưa,
phân bón đổ xuống sông, suối, vịnh và hồ, có
thể khiến tảo phát triển ngoài tầm kiểm soát,
ngăn chặn ánh nắng mặt trời và tiêu diệt các
loài động, thực vật sinh sống bên dưới.
Tuy nhiên, có một nguồn nitơ phong
phú khác xung quanh chúng ta. Trong bầu khí
quyển của Trái đất, nitơ chiếm khoảng 78%.
Nhóm nghiên cứu đã biến đổi một loại vi
khuẩn có thể sử dụng khí nitơ trong khí quyển
trong quá trình được gọi là "cố định" đạm -
một bước quan trọng hướng tới loại cây trồng
biến đổi có khả năng thực hiện nhiệm vụ
tương tự.
Nghiên cứu này bắt nguồn từ thực tế là
dù không có cây trồng nào có thể cố định đạm
từ không khí, nhưng một tập con của vi khuẩn
lam (vi khuẩn quang hợp giống như thực vật)
lại làm được điều này. Vi khuẩn lam có thể cố
định đạm, dù oxy, sản phẩm phụ của quá
trình quang hợp, cản trở quá trình này. Vi
khuẩn Cyanothece với khả năng cố định đạm
được sử dụng trong nghiên cứu. Himadri
Pakrasi, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết:
"Vi khuẩn lam là vi khuẩn duy nhất có nhịp
sinh học". Thật thú vị, Cyanothece quang hợp
trong ngày, chuyển đổi ánh nắng mặt trời
thành năng lượng hóa học được vi khuẩn sử
dụng làm nhiên liệu và cố định đạm vào ban
đêm, sau khi loại bỏ hầu hết oxy sinh ra trong
quá trình quang hợp thông qua hô hấp.
Nhóm nghiên cứu mong muốn tách
các gen của Cyanothece đảm nhiệm cơ chế
đêm - ngày và cấy vào Synechocystis - một
loại vi khuẩn lam khác để thu hút vi khuẩn
này cố định đạm từ không khí. Để xác định
đúng trình tự của các gen, nhóm nghiên cứu
đã tìm kiếm tín hiệu nhịp sinh học. Các nhà
khoa học đã loại bỏ oxy khỏi Synechocystis
và bổ sung các gen từ Cyanothece. Kết quả là
Synechocystis đã cố định đạm bằng 2% mức
của Cyanothece. Tuy nhiên, điều thú vị xuất
hiện khi Liu, nghiên cứu sinh sau tiến sỹ và là
đồng tác giả nghiên cứu bắt đầu loại bỏ một
số gen đó; chỉ với 24 gen Cyanothece,
Synechocystis đã cố định đạm với tỷ lệ bằng
hơn 30% Cyanothece.
Tỷ lệ cố định đạm giảm đáng kể với
khi bổ sung thêm một ít oxy (1%), nhưng
tăng trở lại khi được bổ sung một nhóm gen
khác từ Cyanothece, dù nó không đạt tỷ lệ
cao mà không có sự hiện diện của oxy. Bước
tiếp theo, các nhà khoa học sẽ nghiên cứu chi
tiết quy trình để thu hẹp hơn nữa các tập hợp
con của các gen cần để cố định đạm.
Theo vista.gov.vn, 24/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Máy lọc nước bằng năng lượng mặt trời tạo ra chất khử trùng từ nước và ánh nắng mặt trời
Máy lọc nước đã được chế tạo tại
phòng thí nghiệm của Xiaolin Zheng, phó
giáo sư kỹ thuật cơ khí tại trường Đại học
Standford, là sự thay đổi quy trình nổi tiếng
sử dụng năng lượng mặt trời để tách nước
thành hydro, nhiên liệu đốt sạch và oxy, yếu
tố cần thiết duy trì sự sống. Tuy nhiên, thay vì
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 37/67
tách hoàn toàn oxy và hydro, quy trình mới
khử oxy và oxy hóa nước tạo thành hydro
peroxit hoặc H2O2. Nghiên cứu đã được công
bố trên tạp chí Advanced Energy Materials.
Chỉ cần một lượng nhỏ H2O2 cũng có
thể lọc nước. Hydro peroxit khử trùng nước ở
mức hàng chục phần triệu, cụ thể là khoảng
hai muỗng cho 25 gallon nước. Trong các thử
nghiệm sử dụng nước máy, hệ thống mới dễ
dàng đạt hơn 400 phần triệu H2O2 trong 5 giờ.
PGS. Zheng cho biết nhóm nghiên cứu
sẽ phải thay đổi một số nguyên liệu trong quy
trình này để tạo ra hỗn hợp nước thường với
hydro peroxit an toàn để uống. Nhưng các nhà
khoa học cho rằng một ngày nào đó, một người
khát nước có thể sử dụng bộ lọc năng lượng
mặt trời trọng lượng nhẹ, đổ nước vào và chờ
để tạo ra đủ H2O2 thông qua quy trình kích
hoạt bằng ánh nắng mặt trời nhằm biến đổi bất
cứ loại nước ngọt nào thành nước uống.
Ngoài các ứng dụng sản xuất nước
uống trong tương lai, nhóm nghiên cứu cũng
cho rằng hệ thống của họ phù hợp với các bể
bơi tự làm sạch bằng hydro peroxit được tạo
ra nhờ năng lượng mặt trời thay vì dùng clo,
hoặc các trạm xử lý nước bằng năng lượng
mặt trời dành cho các khu vực đang phát triển
nơi nước ngọt là mặt hàng quý giá.
Nguyên liệu dồi dào
Mẫu máy lọc nước bằng năng lượng
mặt trời bao gồm hai điện cực: cực dương và
cực âm, được nhúng vào nước. Cực dương
được chế tạo từ bismuth vanadate (BiVO4),
chất bán dẫn nhạy quang. Cacbon đơn được
dùng làm cực âm. Khi tiếp xúc với ánh nắng
mặt trời, chất bán dẫn bismuth vanadate đẩy
các điện tử tích điện âm về phía cực âm, trong
khi các lỗ mang điện tích dương chảy ngược
về phía cực dương. Dòng điện tử đã biến đổi
oxy thành hydro peroxit trong khi các lỗ hoạt
động biến đổi nước thành hydro peroxit, tạo
nên hợp chất làm sạch ở cả hai điện cực.
Đây là một bước tiến mới liên quan
đến hệ thống quang điện hóa (PEC). Các hệ
thống PEC đã được nghiên cứu nhiều từ
những năm 1970 về khả năng chuyển đổi ánh
nắng mặt trời thành nhiên liệu và các hóa chất
hữu ích khác như hydro và oxy. Các thí
nghiệm PEC trước đây đã tạo ra hydro peroxit
nhưng không có thí nghiệm nào trong số đó
thành công như nghiên cứu hiện nay.
Thật thú vị, hệ thống tạo ra hydro
peroxit ở cả cực dương và cực âm. Cuối cùng,
thậm chí điện năng vẫn còn được duy trì do
hiệu quả của các phản ứng hóa học. Dù không
phải là lớn, nhưng năng lượng bổ sung đó có
thể được sử dụng để thắp sáng đèn LED như
một chỉ báo cho thấy hệ thống hoạt động tốt.
Nghiên cứu sâu hơn
Các nhà khoa học cho rằng vẫn cần
nghiên cứu thêm trước khi máy lọc nước sản
sinh hydro peroxit có thể được sử dụng phổ
biến. Quan trọng nhất là bismuth vanadate,
cực dương, bản thân là độc hại và sẽ cần được
thay thế bằng vật liệu nhạy quang khác tương
đương.
TS. Samira Siahrostami, đồng tác giả
nghiên cứu và là kỹ sư nghiên cứu đã lựa
chọn bismuth vanadate làm cực dương cho
mẫu máy lọc nước này do hiệu quả và khả
năng sản sinh hydro peroxit. Trong tương lai,
các nhà nghiên cứu sẽ tìm kiếm các vật liệu
cực dương khác ổn định, hiệu quả và an toàn
để lọc nước.
Nhóm nghiên cứu cũng khuyến nghị
thay thế cực âm cacbon bằng một vật liệu
khác nhạy quang hơn. Thiết kế này sẽ khai
thác phạm vi ánh nắng mặt trời rộng hơn để
nâng cao hiệu quả của hệ thống.
Theo vista.gov.vn, 13/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 38/67
Vật liệu mới hấp thụ các chất ô nhiễm hữu cơ trong nước
Một kết quả nghiên cứu mới nhất của
trường Đại Học Seville, Tây Ban Nha cho
thấy vật liệu mới C18-Mica-4 có khả năng
loại bỏ phần lớn các chất ô nhiễm trong nước
thải đô thị, nước mặt và nguồn nước uống.
Nghiên cứu cũng cung cấp dữ liệu về cơ chế
hấp thụ và thiết lập mối tương quan đáng kể
giữa các đặc tính hóa học vật lý của các tiêu
chí lựa chọn và các chất ô nhiễm mới và sự
hấp thụ vật liệu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, vật liệu
C18-Mica-4 có khả năng loại bỏ phần lớn các
chất ô nhiễm trong nước thải đô thị, cũng như
nước mặt và nước cấp cho sinh hoạt. Nghiên
cứu cũng cung cấp dữ liệu về cơ chế hấp thụ
và thiết lập mối tương quan đáng kể giữa các
đặc tính hóa lý của các tiêu chí lựa chọn và các
chất ô nhiễm mới nổi với sự hấp thụ vật liệu.
Tổng cộng, 18 chất ô nhiễm hữu cơ đã
được nghiên cứu, trong đó có các chất gây ô
nhiễm công nghiệp, sản phẩm chăm sóc cá
nhân và các thành phần hoạt tính dược lý như
thuốc chống viêm, kháng sinh, chống động
kinh, chất kích thích hệ thần kinh trung ương
và thuốc hạ lipid máu.
Trong các chất ô nhiễm công nghiệp,
một số hợp chất thường được sử dụng làm các
chất làm sạch đã được phân tích cùng với các
hợp chất khác được sử dụng làm chất chống
thấm nước và dầu. Nghiên cứu đã được thực
hiện trên tất cả các loại chất ô nhiễm nước kể
cả các chất ô nhiễm hữu cơ như các chất bài
tiết của con người.
Nghiên cứu đã tiến hành cả những
nghiên cứu ảnh hưởng của pH nước, muối và
thời gian loại bỏ chất ô nhiễm cũng được
đánh giá. Kết quả cho thấy áp lực hấp thụ cao
của C18-Mica-4 đối với hầu hết các chất ô
nhiễm mới được phân tích loại bỏ sau
khaonrg thời gian là 24h (14 trong số 18 chất
gây ô nhiễm đã được loại bỏ với hiệu quả 70-
100%. Các kết quả cũng chỉ ra rằng sự hấp
phụ xảy ra trong không gian xen kẽ. Trong
khi tỷ lệ loại bỏ với Na-Mica-4 nằm trong
khoảng 8–97% sau 7 ngày, trong khi một số
hợp chất như axit perfluorobutanoic và hầu
hết các hợp chất dược hoạt tính cao thì không
hấp thụ được với vật liệu này.
C18-Mica-4 đã được sử dụng hiệu quả
để loại bỏ các chất gây ô nhiễm ra khỏi bốn
loại mẫu nước bao gồm: nước thải đô thị,
nước thải đô thị đã được xử lý, nước mặt sông
hồ và các nguồn nước cấp.
Giáo sư Đại học Seville Esteban
Alonso, người đứng đầu dự án nghiên cứu
cho biết, các nghiên cứu như thế này cho thấy
tiềm năng của một số vật liệu hấp phụ để sử
dụng trong xử lý với đa dạng loại nước thải
với các mức ảnh hưởng và loại chất ô nhiễm
khác nhau. Vật liệu phổ dụng với khả năng
loại bỏ cao và có thể sử dụng cho phạm vi
rộng với nhiều chất gây ô nhiễm là mục tiêu
chính của dự án nghiên cứu này.
Dự án nghiên cứu sẽ được tiếp tục với
việc áp dụng vật liệu này trong việc loại bỏ
các chất ô nhiễm từ nguồn nước thải quy mô
gia đình, ứng dụng của chúng trên quy mô
công nghiệp, và song song với đó là cải thiện
chức năng của vật liệu hiệu quả hơn.
Theo dwrm.gov.vn, 15/06/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 39/67
Biến đổi enzyme để thúc đẩy sản xuất nhiên liệu sinh học và vật liệu xử lý sinh học khác
Các nhà khoa học Anh đã cải tiến quy
trình sinh học để sản xuất các sản phẩm như
nhiên liệu, nhựa, thuốc và mỹ phẩm. Bước
tiến này có thể giúp sản xuất nhiên liệu sinh
học giá rẻ và thân thiện với môi trường, cũng
như tái chế nhựa hiệu quả hơn.
Quy trình xử lý sinh học sử dụng các
tế bào sống hoặc các thành phần của tế bào
sống để cho ra đời các sản phẩm như nhiên
liệu sinh học, nhựa, thuốc và mỹ phẩm mà
thông thường mất nhiều thời gian và chi phí
sản xuất tốn kém. Hiện nay, các nhà khoa học
Anh có thể phân tách sinh khối từ thực vật
với tốc độ nhanh gấp 30 lần hiện nay.
TS. Alex Brogan tại Khoa Kỹ thuật
hóa học thuộc trường Đại học Hoàng gia
London và các cộng sự đã biến đổi enzyme
glucosidase hỗ trợ phân tách carbohydrate
trong sinh khối như xenlulô từ tế bào thực
vật, thành đơn vị cơ bản là glucose. Sau đó,
glucose có thể được lên men để sản xuất
etanol, một dạng nhiên liệu sinh học.
Khâu giải phóng glucose từ xenlulô
của quy trình hiện tốn kém và mất nhiều thời
gian nhất. Một phần nguyên nhân là do các
enzyme thường ngừng hoạt động trong điều
kiện nhiệt độ cao hơn 70°C và trong các dung
môi công nghiệp như chất lỏng ion. Tuy
nhiên, nếu enzyme có thể hoạt động ở nhiệt
độ cao hơn trong chất lỏng ion, quy trình này
sẽ diễn ra nhanh hơn.
Để tạo ra nhiều glucosidase, TS.
Brogan và các cộng sự đã biến đổi cấu trúc
hóa học của glucosidase để chịu được mức
nhiệt lên đến 137°C. Thay đổi này cũng có
nghĩa là các nhà khoa học có thể sử dụng
enzyme trong chất lỏng ion để thay cho nước
thường và sử dụng một loại enzyme thay vì
ba loại. Kết quả nghiên cứu cho thấy kết hợp
khả năng chịu nhiệt và độ hòa tan trong các
chất lỏng ion làm tăng 30 lần sản lượng
glucose. Nếu kỹ thuật này được thực hiện trên
quy mô lớn, phát thải cácbon từ nhiên liệu sẽ
giảm khoảng 80 - 100%.
TS. Brogan cho biết: "Chúng tôi đã
đẩy nhanh quy trình xử lý sinh học mà chỉ sử
dụng ít thiết bị và lại giảm phát thải cacbon.
Ưu điểm của quy trình sẽ là gia tăng sản xuất
nhiên liệu sinh học để nhiên liệu được sử
dụng phổ biến”.
Nhiên liệu sinh học là nhiên liệu được
tạo ra từ vật liệu sống như thực vật còn gọi là
sinh khối. Nhiên liệu sinh học tốt cho môi
trường hơn so với các loại nhiên liệu hóa
thạch như than đá và khí đốt vì chúng được
sản xuất từ các nguồn tái tạo và thải ít CO2.
TS. Jason Hallett, đồng tác giả nghiên
cứu cho rằng: "Sử dụng nhiên liệu sinh học
làm từ tinh bột ngô, cây và nguyên liệu thực
vật khác cho xe cộ và thậm chí phát điện có
thể giảm khối lượng lớn khí thải cacbon".
Theo vista.gov.vn, 17/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 40/67
Miếng lót nệm phát hiện mệt mỏi, buồn ngủ của người lái xe
Công ty Sumitomo Riko vừa giới thiệu
một sản phẩm mới là miếng lót nệm có thể
phát hiện sự mệt mỏi và buồn ngủ của người
lái xe ô tô. Sumitomo Riko chuyên sản xuất
các loại cao su chống rung ô tô, dự kiến
miếng lót này có thể làm giảm nguy cơ tai
nạn giao thông khi kết hợp với các thiết bị
cảnh báo. Nhóm nghiên cứu đang hoàn thiện
để có sản phẩm cho các nhà sản xuất xe
thương mại và ghế tự động, nhằm mục đích
thương mại hóa miếng lót nệm vào năm 2021.
Miếng lót nệm này được phát triển
giúp đo sự phân bố và thay đổi áp suất áp
dụng cho nó. Dựa trên sự phân bố áp lực, có
thể ước tính sự thay đổi tư thế và vóc dáng
của người lái xe. Ngoài ra, từ thay đổi áp
suất, nhịp thở, nhịp tim và các trạng thái khác
của người lái cũng được ước tính. Bằng cách
phân tích dữ liệu thu thập bởi miếng lót nệm,
có thể phát hiện trạng thái của người lái xe để
ngăn chặn tình trạng dẫn đến tai nạn như mệt
mỏi và buồn ngủ.
Miếng lót nệm bao gồm ba lớp cao su:
một lớp cao su hình chiếc ghế kẹp giữa các
lớp cao su dẫn điện (điện cực). Khi khoảng
cách giữa các điện cực trên và dưới thay đổi
do chuyển động của người lái, điện dung giữa
các điện cực sẽ thay đổi. Dựa trên số lượng
của sự thay đổi, một áp lực áp dụng cho đệm
được đo.
Công ty Sumitomo Riko, cho biết:
"Phải mất vài giây để xử lý việc tính toán
nhịp thở, nhịp tim và từ áp lực. Việc giảm
thời gian xử lý cần thiết phải phát triển trong
tương lai”. Loại điện cực được sử dụng ở
miếng lót nệm có tính linh hoạt. Nhà sản xuất
đã được thực hiện bằng cách in vật liệu cao su
dẫn điện linh hoạt được gọi là "SR (cao su
thông minh)" trên vật liệu cơ bản làm bằng
cao su. Nó có thể giữ độ dẫn điện của nó ngay
cả khi kéo dài khoảng 100%. Bởi vì miếng lót
nệm được làm bằng cách kết hợp vật liệu cao
su linh hoạt, người lái xe không cảm thấy khó
chịu khi lái xe. Bằng cách thay đổi kích thước
của vật liệu cao su, nó trở thành một miếng
đệm lớn hơn bề mặt chỗ ngồi và dùng được
cả khi tựa lưng.
Theo vista.gov.vn, 19/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Nhựa mới tự lành khi tiếp xúc với ánh sáng có thể kéo dài vòng đời của vệ tinh
Loại nhựa mới tự hàn gắn vết nứt khi bị
hư hại có nghĩa là các vệ tinh sẽ có thể ở lại
quỹ đạo lâu hơn. Polyme xử lý vết nứt khi tiếp
xúc với ánh sáng bằng cách chuyển đổi từ cấu
trúc cứng thành một chất mềm và dẻo. Trong
những điều kiện nhất định, nhựa được các nhà
nghiên cứu sử dụng có thể mềm hơn gấp 10
lần. Loại nhựa này cũng có thể được dùng để
phủ lên các loại xe như ô tô, giúp chúng có
khả năng tự sửa chữa sau khi có va chạm.
Jeremiah Johnson, giáo sư hóa học và
là trưởng nhóm nghiên cứu cho biết: “Bạn có
thể chuyển đổi trạng thái vật chất và ở mỗi
trạng thái đó, vật liệu hoạt động như thể đó là
vật liệu hoàn toàn khác, dù nó được tạo thành
từ tất cả các thành phần tương tự nhau”.
Thông thường khi một vật liệu được
hình thành, độ cứng của nó không thể thay
đổi. Ví dụ, bóng cao su có độ đàn hồi, nhưng
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 41/67
không thể giòn nếu không làm thay đổi thành
phần hóa học của nó. Tuy nhiên, các nhà
nghiên cứu đã thiết kế một loại vật liệu có thể
chuyển đổi giữa các trạng thái.
Các nhà khoa học tại Viện Công nghệ
Massachusetts (MIT) đã làm điều này bằng
cách gắn các polyme vào một phân tử nhạy
quang có khả năng thay đổi các liên kết trong
vật liệu. Vật liệu được sử dụng trong nghiên
cứu là polyme polyethylene glycol (PEG),
nhưng các chuyên gia tin rằng vật liệu này có
thể hoạt động với bất kỳ loại polyme nào.
Quá trình này mất khoảng năm giờ để
hoàn thành và các nhà nghiên cứu đã phát
hiện ra rằng có thể thực hiện chuyển đổi qua
lại đến 7 lần. Sau mỗi lần thực hiện, tỷ lệ nhỏ
polyme bị lỗi không chuyển đổi trở lại. Điều
này có nghĩa là vật liệu sẽ bị hỏng.
Vật liệu bao gồm các cấu trúc giống
như lồng chứa kim loại kết hợp với nhau bằng
cách sử dụng các liên kết polyme linh hoạt.
Các nhà nghiên cứu đã tạo ra những vật liệu
này bằng cách trộn polyme gắn với các nhóm
được gọi là phối tử, có thể liên kết với một
nguyên tử kim loại. Mỗi nguyên tử kim loại
trong trường hợp này là palladium, có thể tạo
thành liên kết với bốn phân tử phối tử, tạo ra
các cụm giống lồng cứng.
Khi các nhà nghiên cứu chiếu ánh sáng
xanh lá cây trên vật liệu, góc liên kết nhỏ hơn
và các cụm nhỏ hơn lại hình thành. Khi vật
liệu ở trạng thái cụm nhỏ, nó mềm hơn gấp
mười lần. TS. Johnson cho rằng: “Chúng có
thể chảy khi bị nung nóng, nghĩa là bạn có
thể cắt chúng và khi làm nóng nhẹ, hư hại sẽ
được khắc phục”. Khi phương pháp này được
sử dụng phổ biến, palladium, kim loại quý và
đắt tiền sẽ được thay thế bằng vật liệu rẻ hơn.
Các nhà khoa học cũng đang nghiên
cứu chế tạo các vật liệu có thể chuyển đổi từ
trạng thái rắn sang trạng thái lỏng. Ngoài ra,
nhóm nghiên cứu cũng đang sử dụng ánh
sáng để lập các mô hình phần cứng và mềm
trong cùng một vật liệu. Nghiên cứu đã được
công bố trên tạp chí Nature.
Theo vista.gov.vn, 25/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Chất xúc tác mới có chức năng kép: sản xuất hydro và nhựa
Các nhà hóa học tại trường Đại học
Ruhr-Bochum (RUB) đã tạo ra một chất xúc
tác mới, giá rẻ để sản xuất nhựa. Chất xúc tác
này biến đổi một sản phẩm của nhà máy lọc
dầu sinh học thành nguyên liệu để tổng hợp
nhựa, có thể trở thành lựa chọn thay thế bền
vững cho nhựa PET trên phạm vi rộng. Đồng
thời, hydro, nguồn năng lượng tiềm năng
cũng được hình thành trong phản ứng. Trong
quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học bao
gồm TS. Stefan Barwe và GS.TS. Wolfgang
Schuhmann đến từ Trung tâm Khoa học điện
hóa Bochum đã hợp tác với Phòng thí nghiệm
Hóa học công nghiệp thuộc RUB dưới sự chỉ
đạo của GS. Martin Muhler. Công trình
nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí
Angewandte Chemie.
GS.TS. Wolfgang Schuhmann cho
biết: "Chúng ta có thể tiến một bước quan
trọng hướng đến ngành công nghiệp hóa chất
bền vững nếu không sử dụng dầu thô làm
nguyên liệu".
Thay thế nhựa PET
Trong nghiên cứu, các nhà khoa học sử
dụng chất xúc tác boride niken vì nó không
chứa bất kỳ kim loại quý nào, lại sẵn và có
giá cả phải chăng so với nhiều chất xúc tác
khác. Chất xúc tác này có thể biến đổi HMF
(5-hydroxymethyl-furfural) thành FDCA (axit
2,5-furandicarboxylic). Stefan Barwe giải
thích: "FDCA có ích cho ngành công nghiệp
bởi nó có thể được xử lý thành polyeste. Do
đó, PEF, chất thay thế PET có thể được tạo
ra và tất cả đều dựa vào nguyên liệu tái tạo
từ thực vật".
Tiêu thụ ít năng lượng nhờ sản sinh
hydro
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 42/67
Trong các thử nghiệm, chất xúc tác đã
biến đổi 98,5% HMF, nguyên liệu ban đầu
thành FDCA trong vòng 30 phút, nhưng
không có sự xuất hiện của sản phẩm thải loại
nào. Stefan Barwe mô tả một lợi ích nữa của
sự phát triển: "Chúng tôi cũng đã thiết kế chất
xúc tác theo hướng để nó phát huy hiệu quả
trong những điều kiện giống nhau, trong đó
sản xuất thành công cả hydro". Do đó, các
nhà nghiên cứu cũng có thể sử dụng nguyên
liệu này để tổng hợp hydro như một nguồn
năng lượng tiềm năng. Hydro thường được
tách từ nước thông qua quá trình điện phân
sinh ra cả oxy. Bước phản ứng đặc biệt tiêu
tốn năng lượng đã bị loại bỏ khi các nhà
nghiên cứu tạo mối liên kết giữa phản ứng
sản sinh hydro bằng cách điện phân nước và
sản xuất FDCA.
Cơ chế phản ứng được làm rõ
Nhóm nghiên cứu cũng làm sáng tỏ
từng bước phản ứng bằng cách sử dụng các
phương pháp điện hóa và quang phổ hồng
ngoại. Lần đầu tiên, các nhà hóa học có thể
theo dõi trong thời gian thực quá trình các sản
phẩm trung gian biến đổi HMF thành FDCA.
Theo vista.gov.vn, 31/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo bê tông bền vững làm giảm nhu cầu năng lượng và phát thải khí nhà kính
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
Washington đã đưa ra giải pháp thay thế bền
vững cho bê tông truyền thống bằng cách sử
dụng tro bay, sản phẩm thải loại của quá trình
sản xuất điện từ than đá. Giải pháp này khắc
phục đồng thời hai vấn đề môi trường lớn
thông qua sử dụng chất thải từ hoạt động sản
xuất than và giảm đáng kể tác động môi
trường của quá trình sản xuất bê tông.
Xianming Shi, phó giáo sư Khoa Kỹ
thuật dân sự và môi trường và nghiên cứu
sinh Gang Xu, đã tạo ra loại bê tông chắc
chắn và bền vững sử dụng tro bay làm chất
kết dính và không cần sử dụng xi măng tác
động xấu đến môi trường. Nghiên cứu đã
được công bố trên tạp chí Fuel.
Giảm nhu cầu năng lượng và phát thải
khí thải nhà kính
Sản xuất bê tông truyền thống là quy
trình kết hợp xi măng với cát và sỏi, góp phần
gây ra từ 5-8% phát thải khí nhà kính trên
toàn thế giới. Đó là vì để tạo ra xi măng,
thành phần chính của bê tông, cần nhiệt độ
cao và khối lượng lớn năng lượng.
Tro bay, vật liệu còn lại sau khi bụi
than cháy, đã trở thành vấn đề nan giải trong
quản lý chất thải ở Hoa Kỳ. Hơn 50% tro bay
được đưa đến các bãi chôn lấp, nơi tro có thể
dễ dàng ngấm vào môi trường gần đó. Dù một
số nhà nghiên cứu đã sử dụng tro bay để sản
xuất bê tông, nhưng họ vẫn chưa loại bỏ được
các phương pháp làm nóng tiêu tốn năng
lượng trước đây cần để cho ra đời một vật
liệu chắc chắn. PGS. Shi cho rằng: “Phương
pháp sản xuất của chúng tôi không cần làm
nóng hoặc sử dụng bất cứ loại xi măng nào".
Kỹ thuật phân tử
Đây là công trình nghiên cứu quan
trọng bởi các nhà nghiên cứu đang sử dụng
vật liệu có kích thước nano để chế tạo bê tông
ở cấp độ phân tử.
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng graphene
oxit, vật liệu nano mới được phát hiện để điều
chỉnh phản ứng của tro bay với nước và biến
tro bay hoạt tính thành vật liệu giống xi
măng. Graphene oxit sắp xếp lại các nguyên
tử và phân tử trong dung dịch tro bay và các
chất kích thích hóa học như silicat natri và
oxit canxi. Quá trình này tạo ra một chuỗi
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 43/67
phân tử canxi-aluminat - silicat-hydrat với các
nguyên tử liên kết chặt chẽ tạo thành một
mạng lưới polyme vô cơ bền hơn xi măng.
Làm đầy nước ngầm và giảm lũ lụt
Nhóm nghiên cứu đã thiết kế bê tông
tro bay dễ thấm qua, có nghĩa là nước có thể
đi qua bê tông để lại làm đầy nước ngầm và
giảm khả năng ngập lụt.
Các nhà nghiên cứu đã chứng minh thế
mạnh và hành vi của vật liệu trong các thử
nghiệm trong khuôn viên trường Đại học
Washington trong nhiều điều kiện chịu lực và
nhiệt độ khác nhau. Các nhà khoa học vẫn
đang tiến hành các thử nghiệm thẩm thấu và
thu thập dữ liệu bằng cảm biến vùi dưới bê
tông. Nhóm nghiên cứu hy vọng sẽ thương
mại hóa công nghệ đã được cấp sáng chế.
Theo vista.gov.vn, 24/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Các tòa nhà mới xây sẽ chắc chắn và xanh hơn nhờ rau củ
Để các công trình mới xây dựng trở
nên xanh và chắc chắn hơn, các kỹ sư và nhà
khoa học vật liệu tại trường Đại học
Lancaster đang chuyển sang sử dụng củ cải
và cà rốt. Theo đó, nhóm nghiên cứu đã trộn
xi măng Portland với các hạt nano đươc chiết
xuất từ xơ rau củ để cho ra đời vật liệu xây
dựng thân thiện hơn với môi trường.
Mohamed Saafi, trưởng nhóm nghiên
cứu cho biết: "Vật liệu composit không chỉ
vượt trội hơn các sản phẩm xi măng thông
dụng về tính chất cơ học và vi cấu trúc mà còn
sử dụng ít xi măng. Điều này làm giảm đáng
kể cả mức tiêu thụ năng lượng và khí thải CO2
liên quan đến hoạt động sản xuất xi măng".
Ngành công nghiệp xi măng gây phát
thải khoảng 8% CO2 toàn cầu. Khi xi măng ít
được sử dụng để sản xuất bê tông, bê tông sẽ
xanh hơn.
Xi măng Portland hoạt động như tác
nhân liên kết khi trộn lẫn với nước và đá khối,
thường là sỏi, cát hoặc kết hợp cả hai. Bằng
cách bổ sung hạt nano, nhóm nghiên cứu có
thể tăng lượng hydrat canxi silicat trong hỗn
hợp bê tông, thành phần tạo độ cứng cho bê
tông. Thành phần gia cố cho phép các nhà
khoa học sản xuất bê tông mà chỉ cần sử dụng
ít xi măng.
Các nhà nghiên cứu tin rằng các hạt
nano có thể được tạo ra từ chất thải thực phẩm
của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm.
Trong bối cảnh ngành xây dựng tiếp
tục phát triển trên toàn cầu để đáp ứng với sự
gia tăng dân số châu Á và châu Phi, sản xuất
bê tông dự kiến sẽ tăng gấp đôi trong hai thập
kỷ tới. Một báo cáo đã được công bố vào đầu
năm nay nêu rõ các công ty xi măng cần tăng
gấp đôi nỗ lực giảm phát thải để đáp ứng các
mục tiêu do thỏa thuận Paris về Biến đổi khí
hậu đề ra.
Nếu công nghệ mới có thể được mở
rộng và đưa vào áp dụng cho sản xuất bê
tông, ngành xây dựng sẽ giảm được lượng khí
thải cacbon của mỗi tòa nhà mới xây.
Theo vista.gov.vn, 30/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 44/67
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0019431 Phương pháp và thiết bị tạo ra các điểm truy nhập cho dòng dữ liệu viđeo
Tác giả: Newton Philip, S. (NL),
Scalori Francesco (IT)
Quốc gia: Hà Lan
Sáng chế đề cập đến phương pháp và
thiết bị tạo ra các điểm truy nhập cho dữ liệu
video ba chiều (3D: Three Dimensional). Bộ
phận điểm truy nhập (18) tạo ra bảng điểm
truy nhập bằng cách xác định các điểm truy
nhập trong dòng dữ liệu video 3D tới và lưu
trữ các địa chỉ điểm truy nhập cho biết vị trí
của các điểm truy nhập đã xác định. Dòng dữ
liệu video có nhiều dòng con, các dòng con
này biểu diễn một dòng dữ liệu video 3D và
có ít nhất một dòng con hai chiều (2D: Two
Dimensional) chứa phiên bản 2D được mã
hoá độc lập của dữ liệu video 3D và ít nhất
một dòng con phụ chứa phần được mã hoá
phụ thuộc của dữ liệu video 3D. Các điểm
truy nhập gồm có các điểm truy nhập chính
trong dòng con 2D và các điểm truy nhập
phụ trong dòng con phụ để cho phép phát kỹ
xảo 3D đối với dữ liệu video 3D bằng cách
truy tìm và giải mã các đoạn không liền kề
với nhau trong dòng con 2D và truy tìm và
giải mã phụ thuộc các đoạn tương ứng trong
dòng con phụ.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019457 Thiết bị giải mã viđeo
Tác giả: Lee Tammy (US), Han Woo-
Jin (KR), Kim Il-Koo (KR), Lee Sun-Il (KR).
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến thiết bị giải mã
viđeo, thiết bị này bao gồm: bộ xử lý được
định cấu hình để thu, từ dòng bit, skip_flag
cho đơn vị mã hóa mà chỉ báo chế độ mã hóa
của đơn vị mã hóa có phải là chế độ bỏ qua
không; khối lân cận bao gồm khối dưới bên
trái liền kề theo đường chéo với góc dưới bên
trái của đơn vị mã hóa và thông tin hợp nhất
của phân vùng chỉ báo xem liệu phân vùng
trong số ít nhất một phân vùng có phải ở chế
độ hợp nhất không.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019456 Phương pháp giải mã hình ảnh
Tác giả: Song Hak-Sup (KR), Min
Jung-Hye (KR).
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến phương pháp giải
mã hình ảnh, phương pháp này bao gồm các
bước: thu thông tin chỉ báo về chế độ dự đoán
bên trong của khối hiện tại được giải mã, từ
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 45/67
dòng bit, chế độ dự đoán bên trong này chỉ
báo hướng cụ thể trong số nhiều hướng,
hướng cụ thể này được chỉ báo bằng một chỉ
số dx theo hướng ngang và số nguyên cố định
theo hướng dọc, và chỉ số dy theo hướng dọc
và số nguyên cố định theo hướng ngang; thu
chỉ số của các điểm ảnh lân cận được đặt trên
một mặt trong số mặt bên trái của khối hiện
tại và mặt phía trên của khối hiện tại theo vị
trí của điểm ảnh hiện tại, chỉ số dx theo
hướng ngang và chỉ số dy theo hướng dọc;
xác định một trong số vị trí của điểm ảnh lân
cận được đặt trên mặt bên trái của khối hiện
tại được xác định trên cơ sở chỉ số dy theo
hướng dọc và chỉ số cố định theo hướng
ngang và vị trí của điểm ảnh lân cận được đặt
trên mặt phía trên của khối hiện tại được xác
định trên cơ sở chỉ số dx theo hướng ngang và
chỉ số cố định theo hướng dọc; và thu chỉ số
dự đoán của điểm ảnh lân cận trên cơ sở chỉ
số của các điểm ảnh lân cận và vị trí của điểm
ảnh lân cận được đặt trên mặt bên trái của
khối hiện tại hoặc vị trí của điểm ảnh lân cận
được đặt trên mặt phía trên của khối hiện tại.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019436 Bộ truyền ghép kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM), phương pháp truyền ghép kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM),
bộ thu ghép kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM) và phương pháp thu ghép kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM)
Tác giả: Matsumura Yoshinobu (JP),
KImura Tomohiro (JP), Ouchi Mikihiro (JP).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến bộ truyền ghép
kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM)
và bộ thu ghép kênh phân chia theo tần số
trực giao (OFDM) lần lượt truyền và thu N
(N > 2, N là số nguyên) ký hiệu điều khiển.
Đối với mỗi ký hiệu điều khiển, tín hiệu miền
thời gian khoảng thời gian bảo vệ là, ví dụ,
giống hệt với tín hiệu thu được nhờ dịch vị
tần số ít nhất một phần của tín hiệu miền thời
gian ký hiệu hữu ích bởi lượng khác với ký
hiệu bất kỳ khác, hoặc tới tín hiệu thu được
nhờ dịch vị tần số một hoặc cả hai phần và
khoảng cách của khoảng thời gian tín hiệu
miền thời gian ký hiệu hữu ích khác với ký
hiệu bất kỳ khác bởi lượng định trước.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019437 Phương pháp, hệ thống và máy chủ để thu thập các phiên bản phần mềm
Tác giả: Li Shiping (CN).
Quốc gia: Trung Quốc
Phương pháp thu thập các phiên bản
phần mềm bao gồm các bước: máy chủ tiếp
nhận thông tin phiên bản thứ nhất của phần
mềm được cài đặt tại thiết bị máy khách từ
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 46/67
máy khách; đánh giá xem liệu phiên bản thứ
nhất có mới hơn phiên bản thứ hai không dựa
vào thông tin của phiên bản thứ nhất và thông
tin của phiên bản thứ hai được ghi lại tại máy
chủ; cập nhật thông tin của phiên bản thứ hai
mà được ghi lại tại máy chủ để xác định được
phiên bản thứ nhất mới hơn phiên bản thứ
hai. Phiên bản mới của phần mềm có thể dò
tìm được dựa trên phiên bản phía máy khách
được báo cáo bởi các máy khách mà không
cần thực hiện công việc thu thập và cập nhật
thủ công, như vậy hiệu quả khi đạt được
phiên bản cập nhật của phần mềm sẽ được cải
thiện rất nhiều. Hơn nữa, máy chủ, hệ thống
và máy khách dùng để thu thập các phiên bản
phần mềm cũng được đề cập đến trong sáng
chế này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019438 Nền thủy tinh dùng cho đĩa từ và vật ghi từ
Tác giả: Kenichi Nishimori (JP).
Quốc gia: Nhật, Thái Lan.
Sáng chế đề cập đến nền thủy tinh (1)
trị số của độ đồng tâm hiệu chỉnh (AC) mà có
xét đến Sk và/hoặc Ku được tính toán từ biên
dạng hình dạng trên toàn bộ chu vi của lỗ bên
trong, hoặc độ lệch nằm trong khoảng định
trước. Nền thủy tinh dùng làm vật ghi từ có
thể đọc ổn định thông tin secvô bao gồm
thông tin rãnh được lưu trên đĩa từ khi nền
thủy tinh được sử dụng cho HDD.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019446 Phương pháp và thiết bị sản xuất màn hình quang
Tác giả: Maeda Minoru (JP), Koshio
Satoru (JP), Nakaichi Makoto (JP), Tokuoka
Takuya (JP).
Quốc gia: Nhật
Để kiểm soát mức điện tích cảm ứng
sinh ra ở chi tiết dạng tấm trong thiết bị tạo
lớp RTP (tạo lớp trên tấm bằng trục cán),
sáng chế đề xuất phương tiện điều khiển trong
thiết bị tạo lớp RTP, trong đó quá trình vận
hành bao gồm các bước: cấp dải vật liệu dạng
lớp màng quang dài gồm màng mang, lớp
dính áp hợp được tạo ra trên một trong hai bề
mặt đối nhau của màng mang và các tấm
màng quang được đỡ liên tục trên màng mang
thông qua các lớp dính áp hợp về phía vị trí
tạo lớp định trước, ở đầu của thân bóc được
bố trí trong vùng lân cận với vị trí tạo lớp
định trước, gấp màng mang lên sao cho bề
mặt còn lại trong số hai bề mặt đối nhau của
màng mang đi vào phía trong nhằm vận
chuyển màng mang ra khỏi vật liệu dạng lớp
màng quang để nhờ đó cấp tấm màng quang
này cùng với lớp dính áp hợp tới vị trí tạo lớp
định trước khi được bóc liên tục ra khỏi màng
mang, và mặt khác, vận chuyển chi tiết dạng
tấm hình chữ nhật tới vị trí tạo lớp định trước
sao cho mỗi chi tiết dạng tấm này tiến sát tới
đầu của thân bóc, và ở vị trí tạo lớp định
trước, tạo lớp tấm màng quang trên một trong
hai bề mặt đối nhau của chi tiết tương ứng
trong số các chi tiết dạng tấm nhờ lớp dính áp
hợp, và khi sản xuất màn hình quang, vật liệu
có cùng bản chất với vật liệu của màng mang,
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 47/67
hoặc vật liệu được chọn từ các vật liệu nằm
sát cùng dãy điện ma sát xác định được bởi
Bộ (Cơ quan) hướng dẫn an toàn tĩnh điện
được chọn trước, và mặt tiếp xúc của thân
bóc với màng mang được tạo kết cấu ít nhất
bằng vật liệu được chọn này, và nhờ đó kiểm
soát điện tích cảm ứng đối với các chi tiết
dạng tấm, gây ra bởi điện ma sát tạo ra ở
màng mang do ma sát với thân bóc khi màng
mang được vận chuyển, đến điện thế nhất
định hoặc nhỏ hơn.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019448 Đầu cuối di động có màn hình thao tác và phương pháp thao tác đầu cuối di động này
Tác giả: Min Wook Na (KR), Jong
Woo Shin (KR), Kang Sik Choi (KR),..
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến đầu cuối di động
và phương pháp thao tác màn hình cho đầu
cuối này. Phương pháp thao tác màn hình
theo sáng chế gồm các bước: hiển thị một
màn hình chứa một đối tượng vô định hình
mà có thể thay đổi ít nhất một phần thành
một dạng cụ thể theo một sự kiện nhập; nhận
một sự kiện nhập được tạo ra; và hiển thị một
đối tượng cụ thể mà được tạo ra từ đối tượng
vô định hình bằng cách biến đổi đối tượng vô
định hình ít nhất một phần theo sự kiện nhập.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019474 Phương pháp và thiết bị truyền thông
Tác giả: Timothy Collins (US)
Quốc gia: Phần Lan
Sáng chế đề cập tới việc tổ chức các
thông báo và các phần gắn kèm và nội dung
có liên quan dưới dạng một cuộc hội thoại.
Bộ phận quản lý cuộc hội thoại xác định để
tạo nhóm nhiều thông báo thành một đối
tượng hội thoại. Sau đó, bộ phận quản lý
cuộc hội thoại xác định một hoặc nhiều phần
gắn kèm, một hoặc nhiều nội dung, hoặc kết
hợp của chúng được kết hợp với nhiều thông
báo, và kết hợp một hoặc nhiều phần gắn
kèm, một hoặc nhiều nội dung, hoặc kết hợp
của chúng với đối tượng hội thoại.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 48/67
1-0019472 Phương pháp và thiết bị hiển thị tầng bản đồ
Tác giả: Cynthia Kuo (US), Carl
Snellman (FI), Peter Mikelsons (US),…
Quốc gia: Phần Lan
Sáng chế đề cập tới phương pháp và
thiết bị hiển thị tầng bản đồ để hiển thị các kết
quả tìm kiếm và các địa điểm quan tâm khác
được định vị trên nhiều tầng hoặc mặt sàn
trong bản đồ nhiều tầng. Phương pháp này có
thể bao gồm bước nhận đầu vào chỉ báo tiêu
chí tìm kiếm. Ngoài ra, phương pháp này có
thể bao gồm bước xác định ít nhất một vị trí
kết quả tìm kiếm liên quan tới tiêu chí tìm
kiếm, và xác định mối liên hệ giữa ít nhất một
vị trí kết quả tìm kiếm và bản đồ nhiều tầng.
Ngoài ra, phương pháp này có thể còn bao
gồm bước làm cho, dựa ít nhất một phần vào
mối liên hệ, tầng bản đồ và ít nhất một vị trí
kết quả tìm kiếm được hiển thị làm chỉ báo vị
trí kết quả tìm kiếm, trong đó chỉ báo vị trí kết
quả tìm kiếm có thể được thể hiện theo các
cách khác nhau dựa ít nhất một phần vào tầng
nào mà vị trí kết quả tìm kiếm được định vị.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019477 Phương pháp và thiết bị cung cấp chứng thư truy cập
Tác giả: Silke Holtmanns (DE), André
Dolenc (BR).
Quốc gia: Phần Lan
Sáng chế đề cập tới phương pháp và
thiết bị để cung cấp chứng thư truy cập.
Phương pháp có thể bao gồm bước nhận, tại
thiết bị di động thứ nhất, thông tin về thiết bị
di động thứ hai. Thiết bị di động thứ nhất có
thể được cung cấp thông tin chứng thư truy
cập mạng cần được truyền từ thiết bị di động
thứ nhất tới thiết bị di động thứ hai.
Phương pháp này có thể còn bao gồm
bước làm cho thông tin về thiết bị di động
thứ hai được tạo ra cho thiết bị cung cấp cho
mạng. Ngoài ra, phương pháp này có thể còn
bao gồm bước nhận thông tin cấp quyền từ
thiết bị cung cấp để truyền thông tin chứng
thư truy cập mạng từ thiết bị di động thứ nhất
cho thiết bị di động thứ hai. Phương pháp này
cũng có thể bao gồm bước, đáp lại việc nhận
của thông tin cấp quyền, làm cho thông tin
chứng thư truy cập mạng được cung cấp cho
thiết bị di động thứ hai. Sáng chế cũng đề
xuất thiết bị tương ứng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019481 Phương pháp và thiết bị để tạo giao diện cho người sử dụng
Tác giả: Apaar Tuli (IN)
Quốc gia: Phần Lan
Sáng chế đề cập tới phương pháp để
tạo giao diện cho người sử dụng. Phương
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 49/67
pháp này tạo ra cơ chế chuyển tiếp cho thiết
bị nhiều cấp được khởi tạo dựa trên thao tác
chạm, bao gồm các bước: nhận chỉ báo về
thao tác chuyển tiếp được thực hiện tại bộ
phận hiển thị màn hình chạm của thiết bị
trong trạng thái thiết bị thứ nhất, và thực hiện
khởi tạo việc chuyển tiếp từ trạng thái thiết bị
thứ nhất sang trạng thái thiết bị thứ hai đáp
lại việc thực hiện thao tác chuyển tiếp, khởi
tạo việc chuyển tiếp bao gồm thay thế dần
dần hình hiển thị được kết hợp với trạng thái
thiết bị thứ nhất bằng hình hiển thị được kết
hợp vói trạng thái thiết bị thứ hai dựa trên
mức độ lặp lại của thao tác chuyển tiếp. Sáng
chế cũng đề cập tới thiết bị và vật ghi đọc
được bằng máy tính thực hiện phương pháp
nêu trên.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019454 Thiết bị người máy được dẫn động rung để leo trèo
Tác giả: Robert H. Mimlitch III (US),
David Anthony Norman (US), Jeffrey R.
Waegelin (US),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến thiết bị bao gồm
vỏ, động cơ quay bố trí bên trong vỏ này, cơ
cấu rung, và các phụ kiện, mỗi phụ kiện có
gốc phụ kiện nằm gần vỏ và đầu phụ kiện
nằm cách xa khỏi vỏ. Một hoặc nhiều phụ
kiện được làm thích ứng để làm cho thiết bị
chuyển động ngang qua bề mặt theo hướng
về phía trước nói chung được xác định bởi độ
lệch theo chiều dọc giữa gốc phụ kiện và đầu
phụ kiện, và các phụ kiện này bao gồm hai
hoặc nhiều phụ kiện bố trí sao cho các đầu
phụ kiện của hai hoặc nhiều phụ kiện này
được làm thích ứng để tiếp xúc với các mặt
đối nhau để tạo ra lực tổng hợp theo hướng
nói chung được xác định bởi độ lệch theo
chiều dọc giữa gốc phụ kiện và đầu phụ kiện
của hai hoặc nhiều phụ kiện khi cơ cấu rung
làm cho thiết bị rung động. Lực tổng hợp có
thể cho phép thiết bị leo trèo khi các mặt đối
nhau được nghiêng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019503 Máy giám sát và kiểm soát lỗi dùng cho thiết bị
Tác giả: Yoshikazu Ishii (JP), Satoshi
Shimakura (JP), Hiroto Sasaki (JP), Kaoru
Kawabata (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập tới máy giám sát và
kiểm soát lỗi dùng cho thiết bị được bố trí
trong nhà máy có các thiết bị được bố trí ở
dạng song song, như hệ thống cấp năng
lượng cho khu vực, để giám sát sự vận hành
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 50/67
của các thiết bị bao gồm phương tiện để đo
và lưu trữ các đại lượng xử lý trong khoảng
thời gian vận hành thiết bị và các trạng thái
đóng/ngắt của các bộ phận thiết bị khi vận
hành, và tiến hành tạo nhóm bằng cách lấy
các chức năng, như cấp nước, cấp nhiệt lạnh,
và trao đổi nhiệt, làm bộ phận, và phương
tiện phân loại nhóm để xác định các nhóm
mà các chức năng tương ứng của thiết bị đích
thuộc về nó, dựa trên các đại lượng xử lý
được thu thập ở các khoảng thời gian xác
định và trạng thái đóng/ngắt của các bộ phận
thiết bị, và các mối tương quan giữa các đại
lượng xử lý và các nhóm trong mỗi bộ phận
chức năng được hiển thị.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019445 Máy nén
Tác giả: Hayashi Takeo (JP),
Tomioka Naoto (JP), Komori Keiji (JP),
Kamiishida Hiroki (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề xuất máy nén để giải
quyết vấn đề về van xả có thể bị lệch do khe
hở lắp ráp, và vấn đề này có thể khiến phần
nắp của van xả không đóng kín được lỗ xả.
Khi van xả (31) xoay xung quanh lỗ xuyên
(23b) và phần thẳng thứ nhất (55) của phần
nắp (54) dịch chuyển theo hướng ra xa khỏi
trục dẫn động (12), thì bề mặt bên (58a) của
phần nhô (58) của phần cố định (52) sẽ tiếp
xúc với thành bên (24a) của rãnh (24), và nhờ
đó chuyển động xoay của van xả (31) được
hạn chế. Trong khi đó, khi van xả (31) xoay
xung quanh lỗ xuyên (23b) và phần thẳng thứ
hai (56) của phần nắp (54) dịch chuyển theo
chiều hướng về phía trục dẫn động (12), thì
bề mặt bên (58b) của phần nhô (58) của phần
cố định (52) sẽ tiếp xúc với thành bên (24c)
của rãnh (24), và nhờ đó chuyển động xoay
của van xả (31) được hạn chế.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019434 Hệ thống làm mát bằng nước dùng cho động cơ
Tác giả: Jung-Hsiu Pai (TW), Chung
Hsing Hsiao (TW), Kuan-Hsu Lin (TW),…
Quốc gia: Đài Loan
Sáng chế đề cập tới hệ thống làm mát
bằng nước dùng cho động cơ, hệ thống này
bao gồm động cơ có đầu xi lanh, khối xi
lanh, bơm nước, và van phân phối chất lỏng.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 51/67
Đầu xi lanh có đường dẫn nước đầu xi lanh
nối thông và cửa nạp nước thứ nhất. Khối xi
lanh được kết hợp với đầu xi lanh, và có
đường dẫn nước khối xi lanh nối thông và
cửa nạp nước thứ hai sao cho đường dẫn
nước khối xi lanh được nối thông với đường
dẫn nước đầu xi lanh. Van phân phối chất
lỏng có cửa nạp van nối thông với bơm nước,
cửa xả van thứ nhất nối thông với cửa nạp
nước thứ nhất, và cửa xả van thứ hai nối
thông với cửa nạp nước thứ hai. Nhờ đó,
nước làm mát lần lượt chảy tới các bộ phận
khác nhau của động cơ với lượng nước tương
ứng theo yêu cầu thực tế, nhờ đó tạo ra phân
bố nhiệt độ động cơ đồng đều hơn.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019458 Van dùng cho chất lỏng cao áp và két chứa được lắp van này
Tác giả: Ligonesche Renaud (FR),
Debry Tristan (FR), De Potter Romuald (FR).
Quốc gia: Pháp
Sáng chế đề cập đến van dùng cho chất
lỏng cao áp, có hoặc không có van giảm áp
được lắp cùng, van này bao gồm: thân van (1)
chứa ống chất lỏng (2) có đầu phía dòng vào
(3) được lắp nối thông với két chứa chất lỏng
cao áp và đầu phía đầu ra (4) được lắp nối
thông với thiết bị sử dụng. ống chất lỏng (2)
bao gồm van tách riêng (5) đóng một cách có
lựa chọn ống dẫn chất lỏng (2). Van (5) được
điều chỉnh bằng cần quay (8) được lắp quay
lên thân van (1) ở giữa vị trí không vận hành
trong đó van tách riêng (5) được giữ ở vị trí
gần với ống dẫn (2) và vị trí vận hành trong
đó cần vặn (8) làm chuyển động van tách
riêng (5) vào vị trí để mở ống dẫn (2).
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019491 Máy giặt
Tác giả: Mishima Takuhiro (JP),
Odachi Tooru (JP), Shigeura Tomohiro (JP),
Inoue Tomoyoshi (JP).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến máy giặt gồm
thân chính; bồn bên ngoài được bố trí bên
trong thân chính; bồn giặt được bố trí quay
được trong bồn bên ngoài và có phần hở;
phần che bên ngoài (24) được bố trí ở trên
bồn giặt; miệng nạp quần áo được bố trí tại
phần che bên ngoài (24) và quần áo được cho
vào qua miệng nạp này; nắp bên ngoài (28)
để mở và đóng miệng nạp quần áo; và phần
hở thông khí (30) được bố trí tại mặt bên của
nắp bên ngoài (28), trong đó bồn giặt được
thông khí qua phần hở thông khí (30). Nhờ
đó, máy giặt có thể thông khí một cách hiệu
quả bồn bên ngoài và ngăn không cho nước,
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 52/67
rác, v.v. đi vào bồn giặt từ phần hở thông khí,
và máy giặt có vẻ bề ngoài đẹp.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019370 Thiết bị chữa cháy phun tự động
Tác giả: Hideaki Sako (JP), Takeshi
Takahashi (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến thiết bị chữa
cháy phun tự động có kết cấu đơn giản,
được tạo ra với chi phí thấp và dễ dàng, bảo
trì một cách đơn giản trong thực tế. Thiết bị
chữa cháy phun tự động theo sáng chế bao
gồm thùng chính (2) và đầu phun (6). Thùng
chính (2) chứa tác nhân chữa cháy. Đầu
phun (6) bao gồm cảm biến nhiệt độ (tức là
chi tiết nóng chảy mà bị nóng chảy tại nhiệt
độ định trước). Cảm biến nhiệt độ được nối
với thùng chính. Khi cảm biến nhiệt độ phát
hiện một nhiệt độ định trước, tác nhân chữa
cháy được phun ra từ đầu phun (6).
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019471 Chất dập lửa và phương pháp dập lửa ụ
Tác giả: Ohtani Hideo (JP), Koshiba
Yusuke (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chất dập lửa
chứa metaloxen, môi trường phân tán và
chất phân tán, metaloxen được phân tán
trong môi trường phân tán, trong đó hàm
lượng của metaloxen nằm trong khoảng từ
70ppm đến 160ppm (tính theo trọng lượng),
môi trường phân tán là nước, và chất phân
tán là ít nhất một chất hoạt động bề mặt
không ion được chọn từ nhóm chỉ bao gồm
các este của glyxerin và axit béo, các este
của sucroza và axit béo, các este của
sorbitan và axit béo, và các rượu axetylen.
Sáng chế cũng đề cập đến phương pháp dập
lửa sử dụng chất dập lửa chứa metaloxen.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 53/67
1-0019451 Cửa và khung cửa chống cháy
Tác giả: Park Gap Hwan (KR).
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề xuất cửa chống cháy và
khung cửa chống cháy. Cửa chống cháy bao
gồm phần chứa nước, rãnh, vật liệu trương
nở, cửa nạp, và nhiều lỗ cấp nước. Phần
chứa nước giữ nước bên trong. Rãnh được
tạo ra dọc theo cạnh của cửa chống cháy.
Vật liệu trương nở được chèn vào trong
rãnh dọc theo cạnh của cửa chống cháy và
nở ra khi hấp thu nước để bịt kín khe hở
giữa khung cửa và cửa chống cháy. Cửa nạp
được bố trí tại phần dưới để cấp nước vào
trong phần chứa nước. Nhiều lỗ cấp nước
được bố trí dọc theo rãnh giữa phần chứa
nước và vật liệu trương nở để cấp nước giữ
trong phần chứa nước thông qua cửa nạp
đến vật liệu trương nở.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019340 Thiết bị luyện tập có thể gắn vào kết cấu
Tác giả: Randal Hetrick (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề xuất thiết bị luyện tập
có neo với nhiều thành phần. Theo một
phương án, neo gồm một hoặc nhiều thành
phần khóa liên động, chẳng hạn như các
vòng cứng hoặc mềm dẻo. Các vòng cứng
chẳng hạn như các vòng gắn cửa có thể
được sử dụng để nối các thành phần khác
nhau. Các phương án thực hiện cho phép
thay thế, thay đổi cho nhau, hoặc thêm các
thành phần vào neo của thiết bị luyện tập.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019368 Dụng cụ vắt sữa mẹ, phương pháp vắt sữa mẹ và thiết bị tạo ra mức áp suất âm tối thiểu trên một vùng cơ thể người
Tác giả: Carr Lane Quackenbush
(US), Michael Dettling (CH), Mark A.
Luzbetak (US), …
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề cập đến dụng cụ vắt sữa
vận hành bằng tay hoặc bằng động cơ, dụng
cụ vắt sữa này bao gồm một cơ cấu để điều
chỉnh sự thay đổi áp suất, ví dụ, độ chân
không trong khoang đầu chụp, trong một số
trường hợp tới một mức áp suất tối thiểu được
duy trì để nhỏ hơn áp suất môi trường (khí
quyển). Bộ điều áp tạo ra sự điều khiển để
thay đổi các mức áp suất âm giữa trị số tối
thiểu và trị số tối đa (và các trị số nằm trong
khoảng này), hoặc để đạt được một trị số áp
suất âm đo được thực tế trong đầu chụp.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 54/67
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019435 Hộp bao gói
Tác giả: Onogi Atsushi (JP), Ogaki
Mitsuko (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập tới vỏ bao gói trong
đó thức ăn dạng thanh có thể được lấy một
cách dễ dàng ra để ăn được ngay cả khi một
tay đang bận việc gì đó cũng như các thức ăn
dạng thanh có thể được giữ gọn chặt. Hộp bao
gói giữ thức ăn dạng thanh (1) được bao gói
bằng giấy gói, như các thanh kẹo cao su hoặc
sôcôla, trong vỏ bao gói này khác biệt ở chỗ,
giấy gói có thể được mở bằng cách cắt các lỗ
đục (5) giữa phần tách ra (6) và phần cố định
(7) để tách phần tách ra (6), và mỗi thức ăn
dạng thanh (1) được giữ cố ịnh vào các vỏ
bao gói (8) và (31) nhờ phần cố định (7) của
giấy gói.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019356 Đồ chứa
Tác giả: Koo Hong Sik (KR).
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến đồ chứa. Đồ chứa
này bao gồm nắp đậy và thân đồ chứa, chi tiết
quay được ghép nối quay được vào nắp đậy,
và chi tiết quay kéo nắp đậy xuống sao cho
được ghép nối với thân đồ chứa khi chi tiết
quay được ghép nối vào thân đồ chứa.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 55/67
1-0019444 Dụng cụ nhà bếp và phương pháp chế tạo dụng cụ nhà bếp này
Tác giả: Allemand Simon (FR), Tuffe
Stéphane (FR).
Quốc gia: Pháp
Sáng chế đề xuất dụng cụ nhà bếp bao
gồm bề mặt nấu bên trong (1) được làm từ
thép cacbon oxy hóa sau và thấm cacbon-nitơ
hoặc thép cacbon oxy hóa sau và thấm nitơ và
bề mặt đun nóng bên ngoài (2). Theo sáng
chế, bề mặt nấu bên trong (1) và bề mặt đun
nóng ngoài (2) được làm từ hỗn hợp kim loại
được cán đồng thời nhiều lớp (3) bao gồm lớp
ngoài thứ nhất (4) làm từ thép cacbon được
cán đồng thời nhiều lớp với lớp thứ hai (5)
làm từ đồng, bề mặt nấu bên trong (1) được
tạo trên lớp thứ nhất (4). Sáng chế cũng đề
xuất phương pháp chế tạo loại dụng cụ nhà
bếp nêu trên.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019442 Chế phẩm chăm sóc răng miệng ổn định
Tác giả: Deng Yan (CN), Xiaoke Li
(CN), ZhiQing Zhang (CN), GuoQing Zhao
(CN).
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề cập đến chế phẩm chăm
sóc răng miệng một pha duy nhất. Chế phẩm
theo sáng chế chứa cả hai hợp chất canxi và
phosphat và cơ bản không chứa nước. Chế
phẩm chăm sóc răng miệng một pha duy nhất
ổn định, duy trì các đặc tính độ nhớt tốt và
tránh sự cần thiết phải chia ngăn khi đóng gói.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019393 Lọ chứa mỹ phẩm chăm sóc da có chức năng xoa bóp nhiệt
Tác giả: Park Wooram (KR), Kim So-
hee (KR), Lee Yoonhee (KR), Hwang
Cheonghwan (KR), Nam Hyeseong (KR).
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến lọ chứa mỹ
phẩm chăm sóc da bao gồm chi tiết
mở/đóng có khả năng xả thành phần được
đưa vào trong ống hình trụ được tạo ra bên
trong thân thứ nhất trong đó thành phần
được lưu trữ ở bên ngoài của thân thứ nhất
khi áp lực được đặt vào núm ấn xả được bố
trí trên thân bơm được lắp vào phần trên của
thân thứ nhất và bao gồm lỗ xả để xả thành
phần chảy dọc theo đường dẫn trong thân
bơm ra bên ngoài của thân thứ nhất khi
chọn mở và đóng đường dẫn thành phần, lọ
chứa mỹ phẩm chăm sóc da này bao gồm:
thân thứ hai được lắp vào phần dưới của
thân thứ nhất và có bộ điều khiển nhiệt độ
bên trong; nguồn điện được lắp bên trong
thân thứ hai; và bộ phận sinh nhiệt được lắp
vào đầu của thân thứ hai để sinh nhiệt bằng
cách sử dụng điện năng được cung cấp từ
nguồn điện và bao gồm phần sinh nhiệt mà
nhiệt độ của nhiệt được sinh ra được điều
khiển bởi bộ điều khiển nhiệt độ.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 56/67
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019355 Xốp uretan gốc polyete được thấm mỹ phẩm
Tác giả: Kim Kyung Nam (KR),
Choi Jung Sun (KR), Shim Min Kyung
(KR), …
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến xốp uretan gốc
polyete được thấm mỹ phẩm, xốp uretan
gốc polyete có cảm giác khi tiếp xúc, độ
bền và độ ổn định rất tốt.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019384 Chế phẩm chứa tế bào nấm men Saccharomyces cerevisiae và kit chứa tế bào nấm men này
Tác giả: Simon Jean-Luc (FR),
Pignede Georges (FR), Vandekerckove
Pascal (FR), …
Quốc gia: Pháp
Sáng chế đề cập đến chủng nấm men
mới, nấm men thu được từ chủng này, chế
phẩm chứa ít nhất một nấm men
Saccharomyces cerevisiae và/hoặc dẫn xuất
của nấm men có lợi ích đặc biệt làm phụ
gia thực phẩm và/hoặc thực phẩm chứa lợi
khuẩn và/hoặc thực phẩm chức năng
và/hoặc dược thực phẩm và/hoặc thành
phần chức năng và/hoặc thành phần có hoạt
tính trong dược mỹ phẩm và/hoặc trong
dược phẩm. Sáng chế cũng đề cập đến chế
phẩm chứa tế bào nấm men nêu trên dùng
trong trong lĩnh vực dinh dưỡng của người
và/hoặc động vật hoặc dùng để điều trị hoặc
phòng ngừa các bệnh viêm.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019447 Cụm kim tiêm có thể kéo vào được
Tác giả: Crawford Jamieson, W.
(GB), Ellis Robert G. (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến cụm kim tiêm có
thể kéo vào được, bao gồm vỏ bọc có thành
bên tạo ra hốc khoang, và bộ phận đẩy kéo
dài, đầu cuối xa của bộ phận đẩy tạo ra
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 57/67
khoang chứa trong phạm vi hốc khoang để
chứa chất lỏng trong đó. Bộ phận đẩy được
làm thích ứng để chuyển dịch trượt được
trong phạm vi hốc khoang. Cụm kim tiêm
theo sáng chế bao gồm ống bọc được bố trí
trong phạm vi hốc khoang và hỗ trợ ít nhất
một phần ống thông, và thành phần kim rút
lại được được ăn khớp với ống bọc để di
chuyển tiến lên, được lựa chọn bằng tay so
với một phần vỏ bọc. Thành phần kim rút
lại được có thể được đưa lên phía trước từ
trạng thái ban đầu trong đó ít nhất một phần
của kim được bố trí ở bên ngoài vỏ bọc,
sang trạng thái được rút vào trong đó kim
hoàn toàn được bao quanh bởi vỏ bọc. Bộ
phận đẩy kéo dài có thể được đưa lên phía
trước quanh ống bọc để lấy chất lỏng vào
trong khoang chứa hoặc đẩy chất lỏng ra
khỏi khoang chứa.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019450 Thuốc chứa insulin và chất chủ vận GLP-1, bộ kit và dụng cụ chứa thuốc này
Tác giả: Werner Ulrich (DE),
Rotthauser Barbel (DE), Smith Christopher
James (DE).
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến thuốc chứa
insulin và ít nhất một chất chủ vận thụ thể
GLP-1, phương pháp bào chế thuốc này, và
bộ kit chứa thuốc này để điều trị bệnh.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019462 Tiền dược chất của axit amin chứa flo và thuốc chứa tiền dược chất này
Tác giả: Hashihayata Takashi (JP),
Otake Norikazu (JP), Miyakoshi Naoki
(JP), Sakagami Kazunari (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến tiền dược chất
của hợp chất axit amin chứa flo có công
thức chung (I) mà tạo thành axit amin chứa
flo - đây là chất chủ vận thụ thể glutamat
hướng chuyển hóa nhóm 2, hoặc muối dược
dụng của nó. Cụ thể hơn, sáng chế đề cập
đến tiền dược chất làm gia tăng sự tiếp xúc
trong cơ thể và gia tăng khả năng hấp thụ
qua miệng và khả năng hấp thụ qua niêm
mạc khác của hợp chất mà tác động lên thụ
thể glutamat hướng chuyển hóa nhóm 2 làm
chất để phòng ngừa hoặc điều trị các bệnh
liên quan đến thụ thể glutamat hướng
chuyển hóa nhóm 2 như bệnh tâm thần
phân liệt, rối loạn lo âu và các bệnh liên
quan, bệnh trầm cảm, rối loạn lưỡng cực,
bệnh động kinh, rối loạn phát triển, rối loạn
giấc ngủ, và các bệnh tâm-thần kinh khác;
và chứng nghiện thuốc, rối loạn nhận biết,
bệnh Alzheimer, bệnh múa giật Huntington,
bệnh Parkinson, rối loạn vận động liên quan
đến tính cứng cơ, chứng thiếu máu não,
chứng thiểu năng não, rối loạn tủy sống,
bệnh đầu, và các rối loạn thần kinh khác.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 58/67
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019338 Hợp chất phenylxycloalkylmetylamin và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Bhat Laxminarayan (IN),
Adiey Kouacou (CI), Bhat Seema Rani
(IN).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất
phenylxycloalkylmetylamin và dược phẩm
chứa hợp chất phenylxycloalkylmetylamin
này. Dược phẩm theo sáng chế có thể được
sử dụng trong việc điều trị và/hoặc phòng
ngừa bệnh béo phì và trầm cảm cũng như
các chỉ định đối với bệnh kèm theo liên
quan đến bệnh béo phì và trầm cảm.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019345 Hợp chất picolinamit dùng làm chất ức chế kinaza và dược phẩm chứa chúng
Tác giả: Burger Matthew, T. (US),
Han Wooseok (KR), Lan Jiong (CN),
Nishiguchi Gisele (US).
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề cập đến hợp chất
picolinamit và dược phẩm chứa chúng để ức
chế hoạt tính tích hợp tiền virut của
Maloney Kinaza (PIM kinaza) kèm theo tạo
khối u ở người hoặc động vật. Theo một số
phương án, hợp chất và dược phẩm là hữu
hiệu để ức chế hoạt tính của ít nhất một PIM
kinaza. Hợp chất và dược phẩm có thể được
sử dụng ở dạng riêng rẽ hoặc kết hợp với ít
nhất một chất khác để điều trị rối loạn do
serin/threonin kinaza hoặc thụ thể tyrosin
kinaza gây ra, như bệnh ung thư.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019387 Hợp chất pyrazol-amit và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Motomura Takahisa (JP),
Shomi Gakujun (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến hợp chất có
công thức sau:
trong đó n là 1 hoặc 2,
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 59/67
hoặc muối dược dụng của nó, và dược phẩm
chứa hợp chất này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019403 Hợp chất 1,2,5-oxadiazol có tác dụng làm chất ức chế indolamin 2,3-dioxygenaza, hợp chất này ở dạng rắn và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Combs Andrew, P. (US), Yue
Eddy W. (US), Sparks Richard B. (US), …
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất 1,2,5-
oxadiazol và dược phẩm chứa chúng. Các
hợp chất này là các chất ức chế indolamin
2,3-dioxygenaza và hữu dụng trong việc
điều trị bệnh ung thư và các rối loạn khác.
Ngoài ra sáng chế còn đề cập đến các quy
trình và các chất trung gian để điều chế các
hợp chất 1,2,5-oxadiazol này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019416 Hợp chất heteroxyclyl và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Dave Bhavesh (IN), Banerjee
Rakesh, Kumar (IN), Phukan Samiron (IN),
…
Quốc gia: Ấn Độ
Sáng chế đề cập đến hợp chất heteroaryl
dùng làm chất ức chế protein kinaza được
hoạt hóa bởi yếu tố phân bào (MEK). Cụ thể
hơn, sáng chế đề cập đến hợp chất
heteroaryl có công thức (I):
Muối dược dụng của nó, hỗn hợp của nó với
thuốc thích hợp và dược phẩm chứa chúng
được sử dụng trong các phương pháp điều
trị bệnh. Sáng chế còn đề cập đến qui trình
điều chế hợp chất này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 60/67
1-0019417 Hợp chất axit carboxylic, phương pháp điều chế hợp chất này và dược phẩm chứa nó
Tác giả: Hori Seiji (JP), Hasegawa
Futoshi (JP), Urabe Daisuke (JP),
Kurebayashi Hirotaka (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến hợp chất có
công thức (I) dưới đây và muối dược dụng
của nó:
trong đó các nhóm biến đổi X, R1, R2, R3
m, n và p là như được xác định trong bản
mô tả này. Sáng chế cũng đề cập đến
phương pháp điều chế ít nhất một hợp chất
nêu trên, các chất trung gian hữu ích trong
việc điều chế chúng, dược phẩm chứa ít
nhất một hợp chất này trong điều trị các tình
trạng bệnh ví dụ, các bệnh dị ứng, các bệnh
tự miễn, các bệnh do virut và bệnh ung thư.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019420 Hợp chất aryletynyl, quy trình điều chế và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Georg Jaeschke (DE), Lothar
Lindemann (DE), Heinz Stadler (CH), Eric
Vieira (CH).
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề cập đến hợp chất etynyl
có công thức I:
trong đó: R1 là phenyl, 3-flophenyl, 4-
flophenyl hoặc 2,5-di-flophenyl; hoặc muối
cộng axit dược dụng của nó, ở dạng đồng
phân đối ảnh tinh khiết có cấu hình tuyệt
đối như được thể hiện trong công thức I.
Ngạc nhiên phát hiện ra rằng, các hợp chất
có công thức chung I là các chất điều biến
dị lập thể của thụ thể glutamat hướng
chuyển hóa kiểu phụ 5 (mGluR5) có các
tính chất sinh hóa, lý hóa và d-ợc lực học
tốt hơn so với các hợp chất đã biết trong
lĩnh vực kỹ thuật này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019465 Hợp chất flometyl-5,6-dihydro-4H-[1,3]oxazin và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Hilpert Hans (CH), Humm
Roland (DE), Woltering Thomas (DE) .
Quốc gia: Thụy Sĩ - Ý
Sáng chế đề xuất hợp chất có công
thức I:
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 61/67
có hoạt tính ức chế enzym phân cắt protein
tiền chất amyloit ở vị trí beta-1 (BACE1),
quy trình điều chế hợp chất này và dược
phẩm chứa nó để điều trị bệnh. Hợp chất có
hoạt tính theo sáng chế là hữu ích trong
việc điều trị và/hoặc phòng ngừa bệnh, ví
dụ, bệnh Alzheimer.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019359 Quy trình sản xuất chế phẩm lỏng để đánh bóng
Tác giả: Yoneda Yasuhiro (JP), Taira
Koji (JP), Sato Kanji (JP), Oshima
Yoshiaki (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến quy trình sản
xuất chế phẩm lỏng để đánh bóng có thể
thực hiện hoạt động đánh bóng để giảm độ
nhám bề mặt và giảm số lượng các hạt. Quy
trình sản xuất chế phẩm lỏng để đánh bóng
bao gồm các bước lọc phân tán silica thô
chứa silica dạng keo, lọc phân tán silica thu
được bằng chất trợ lọc và lọc phân tán
silica thu được bằng các thiết bị lọc, trong
đó sự phân tán silica thô chứa silica dạng
keo có đường kính hạt sơ cấp trung bình
nằm trong khoảng từ 1 đến 100nm được lọc
qua thiết bị lọc bao gồm một chất trợ lọc,
chất trợ lọc có đường kính lỗ trung bình khi
được đo bằng phương pháp thủy ngân xâm
nhập là 0,1 - 3,5µm.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019347 Bộ lọc dùng cho thiết bị làm sạch để lọc tạp chất ra khỏi nước
Tác giả: Hatayama Tsutomu (JP),
Kojima Kenji (JP), Uchiyama Tomonori (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến bộ lọc (11)
dùng cho thiết bị làm sạch được bố trí trong
đường cấp nước, mà nước từ nguồn nước
bên ngoài được cấp qua đó. Bộ lọc (11)
gồm có hộp lọc (14), lõi (23), môi trường
lọc (24) và tấm chặn (25). Hộp lọc (14) là
chi tiết dạng bình chứa và một đầu có cửa
nạp nước (15) và đầu kia có cửa xả nước
(16). Lõi (23) được để trong hộp lọc (14)
sao cho nằm giữa cửa nạp (15) và cửa xả
(16) trong hộp lọc. Lõi (23) có thành hình
trụ được tạo ra có các lỗ xuyên (23a). Môi
trường lọc (24) gồm có vải may mặc được
quấn thành dạng hình trụ và được giữ bởi
lõi (23). Tấm chặn (25) được đỡ trên một
đầu của lõi (23) và có bề mặt đối diện với
hướng chảy của nước từ cửa nạp của hộp
lọc (14). Sau khi nước từ cửa nạp (15) được
thu nhận bởi tấm chặn (25), bộ lọc (11)
khiến cho nước tạo ra dòng chảy từ phía
chu vi ngoài của môi trường lọc (24) về
phía giữa để loại bỏ các tạp chất khỏi nước.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 62/67
1-0019470 Lò xử lý cacbon hóa loại gia nhiệt gián tiếp để xử lý rác thải và xe xử lý cacbon hóa sử dụng lò này
Tác giả: Fukumura Takeshi (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến lò xử lý cacbon
hóa loại gia nhiệt gián tiếp để xử lý rác thải
(100) có thể thu gom và cacbon hóa rác thải
công nghiệp, chăn nuôi gia súc, và y tế một
cách hiệu quả, để xử lý rác thải và xe xử lý
cacbon hóa (200) được lắp lò này. Theo sáng
chế, rác thải phát thải ở các ngành khác nhau
như công nghiệp, chăn nuôi gia súc, và y tế
được cacbon hóa tại nơi gần với nơi phát thải
rác hoặc được xử lý liên tục trong khi xe
đang di chuyển, giúp rác thải có thể được
cacbon hóa hoàn toàn trong khi ngăn hiệu
quả ô nhiễm môi trường xung quanh.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019360 Phương pháp xử lý nước để cải thiện sản lượng và/hoặc chất lượng của động vật dưới nước và động vật biển
Tác giả: Drahos David (US), Tatarko
Matt (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến phương pháp xử
lý khối nước nuôi động vật dưới nước hoặc
động vật biển bao gồm bước cho khối nước
này tiếp xúc với một hoặc nhiều vi khuẩn
oxy hóa lưu huỳnh, chẳng hạn như vi khuẩn
được chọn từ chi Paracoccus với lượng đủ
để kiểm soát, làm giảm, hoặc loại bỏ H2S
trong khối nước. Một hoặc nhiều vi khuẩn
oxy hóa lưu huỳnh được chọn từ chi
Paracoccus được sử dụng cho môi trường bị
nhiễm H2S với lượng đã định trước để cải
thiện sản lượng và chất lượng của động vật
dưới nước hoặc động vật biển trong đó.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019459 Chế phẩm xử lý hạt giống và phương pháp xử lý hạt giống
Tác giả: Israels Rafel (NL),
Klamczynski Katharine (PL), Bratz
Matthias (DE), Schlotterbeck Ulf (DE),
Voeste Dirk (DE).
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến chế phẩm xử lý
hạt giống chứa thành phần hoạt tính,
polyarylphenol polyalkoxy ete phosphat
và/hoặc polyarylphenol polyalkoxy ete
sulphat, và copolyme có mạch bên
polyalkoxy ete. Polyarylphenol polyalkoxy
ete phosphat và/hoặc polyarylphenol
polyalkoxy ete sulphat ở dạng hỗn hợp với
copolyme có mạch bên polyalkoxy ete được
sử dụng làm chất phân tán, đặc biệt là để tạo
ra thể phân tán của thành phần hoạt tính
được tạo huyền phù. Ngoài ra, sáng chế còn
đề cập đến phương pháp xử lý hạt giống
bằng cách sử dụng chế phẩm này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 63/67
1-0019382 Vải được tẩm thuốc diệt côn trùng và phương pháp tẩm vải này
Tác giả: Skovmand Ole (FR), Finn
Kjargaard (DK), Sicco Dirk Roorda (NL),
Thi Quynh Chi Phan (VN).
Quốc gia: Đan Mạch
Sáng chế đề cập đến vải được tẩm
thuốc diệt côn trùng và/hoặc chất xua đuổi
côn trùng có khả năng giữ thuốc diệt côn
trùng và/hoặc chất xua đuổi côn trùng trên
bề mặt vải sau một vài lần giặt và phương
pháp tẩm vải vải này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019376 Chế phẩm trừ sâu, chế phẩm xua đuổi côn trùng, vật liệu vải dệt hoặc vật liệu nhựa được tẩm để diệt côn trùng và/hoặc xua đuổi côn trùng và
quy trình tẩm vật liệu vải dệt hoặc vật liệu nhựa
Tác giả: Ulrich Karl (DE), Heinz
Heibler (DE), John H. Thomas (US),
Holger Schopke (DE), Joachim Burger
(DE).
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến chế phẩm trừ sâu
hoặc chế phẩm xua đuổi côn trùng để sử dụng
cho vật liệu vải dệt hoặc vật liệu nhựa được
chọn từ nhóm gồm sợi chỉ, sợi vải, vải, đồ dệt,
đồ không dệt, vật liệu lưới, lá, vật liệu nhựa
dầu và chế phẩm phủ. Chế phẩm trừ sâu hoặc
chế phẩm xua đuổi côn trùng chứa hỗn hợp
bao gồm ít nhất một thuốc trừ sâu và/hoặc ít
nhất một thuốc xua đuổi côn trùng, và ít nhất
một chất liên kết. Sáng chế cũng đề cập đến vật
liệu vải dệt hoặc vật liệu nhựa được tẩm gồm ít
nhất một thuốc trừ sâu và/hoặc ít nhất một
thuốc xua đuổi côn trùng, và ít nhất một chất
liên kết. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến quy
trình tẩm vật liệu vải dệt hoặc vật liệu nhựa và
quy trình phủ vật liệu vải dệt hoặc vật liệu
nhựa.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019334 Chế phẩm dùng để phòng trừ bệnh và phương pháp phòng trừ bệnh trên thực vật hữu ích
Tác giả: Tobler Hans (CH), Walter
Harald (DE), Haas Ulrich Johannes (DE).
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề cập đến chế phẩm dùng
để phòng trừ bệnh do sinh vật gây hại trên
thực vật gây ra chứa (A) là hợp chất có
công thức (I)
trong đó R1 là diflometyl hoặc triflometyl
và X là clo, flo hoặc bromo; và (B) ít nhất
một hợp chất được chọn từ các hợp chất đã
biết đối với hoạt tính diệt nấm của chúng;
và phương pháp phòng trừ bệnh trên thực
vật hữu ích, đặc biệt là bệnh gỉ sắt trên cây
đậu tương.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 64/67
1-0019440 Chi tiết phức hợp, sản phẩm giày dép và phương pháp chế tạo chi tiết phức hợp này
Tác giả: Meschter James C. (US),
Johnson Jeffrey L. (US), Uesato Lia M. (US),
Casillas Tina M. (US)
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến chi tiết phức hợp
(80) bao gồm lớp nền (41, 51, 81), vật liệu
polyme dẻo nóng (83), sợi chỉ (42, 52, 82),
và lớp phủ (84). Lớp nền có bề mặt thứ nhất
và bề mặt thứ hai đối diện. Vật liệu polyme
dẻo nóng (83) được tách rời khỏi lớp nền (41,
51, 81), kéo dài vào trong lớp nền (41, 51,
81), và được định vị ít nhất một phần ở bề
mặt thứ nhất. Sợi chỉ (42, 52, 82) có đoạn
nằm sát liền với lớp bề mặt thứ nhất và gần
như song song với bề mặt thứ nhất qua
khoảng cách ít nhất là năm xentimét, và sợi
chỉ (42, 52, 82) được liên kết vào lớp nền
bằng vật liệu polyme dẻo nóng (83). Lớp phủ
(84) được bố trí sát liền với bề mặt thứ nhất
và được liên kết vào lớp nền (41, 51, 81)
bằng vật liệu polyme (83), và đoạn của sợi
chỉ (42, 52, 82) được định vị giữa lớp phủ
(84) và lớp nền (41, 51, 81).
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019395 Phương pháp sản xuất sản phẩm giày dép
Tác giả: Huffa Bruce (US), Farris
Bryan N. (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề xuất phương pháp sản
xuất sản phẩm giày dép có thể bao gồm
bước lắp ráp ít nhất một phần của mũ giày
của sản phẩm giày dép, mũ giày có mép
dưới theo chu vi. Chi tiết tăng bền được gắn
chặt vào mũ giày. Chi tiết tăng bền bao
gồm (a) dải thứ nhất được nối với mặt bên
của mũ giày liền kề với mép dưới theo chu
vi, (b) dải thứ hai được nối với mặt giữa
của mũ giày liền kề với mép dưới theo chu
vi, và (c) ít nhất một dây kéo dài qua dải
thứ nhất và dải thứ hai. Dây được tạo căng,
và kết cấu đế của sản phẩm giày dép được
nối với mũ giày.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019429 Hộp cấp thuốc tráng phim và hệ thống cấp thuốc tráng phim
Tác giả: Murakami Katsuya (JP),
Nagashima Toshiaki (JP), Tazawa Fumio
(JP), Okino Ayatomo (JP), Yamada Yusuke
(JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến hộp cấp thuốc
tráng phim được tạo ra có phần cấp để cấp
thuốc tráng phim nhờ tiếp nhận lực quay và
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 65/67
phần bơm để xả thuốc tráng phim nhờ
chuyển động tịnh tiến qua lại, và lực quay
và lực chuyển động tịnh tiến qua lại được
tiếp nhận từ phía cụm chính của thiết bị tạo
ảnh, có khả năng là mối nối dẫn động không
được thiết lập một cách chính xác giữa phần
của hộp cấp thuốc tráng phim để tiếp nhận
lực chuyển động tịnh tiến qua lại và phần
của phía cụm chính để tác dụng lực chuyển
động tịnh tiến qua lại. Hộp cấp thuốc tráng
phim này được tạo ra có cơ cấu biến đổi dẫn
động để biến đổi lực quay tiếp nhận từ phía
cụm chính thành lực để vận hành bơm dạng
thay đổi thể tích.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019449 Phương pháp sản xuất một hoặc nhiều chi tiết trang trí và chi tiết trang trí được phân lớp
Tác giả: Gastaldi Maurizio (IT),
Menozzi Alberto (IT).
Quốc gia: Ý
Sáng chế đề xuất phương pháp bao
gồm các bước: chuẩn bị màng nhiều lớp (10)
bao gồm lớp bảo vệ trong suốt thứ nhất (12),
lớp trang trí thứ hai (14) chứa ít nhất một
chất màu làm bằng kim loại có điểm nóng
chảy dưới 250°C, và lớp đỡ thứ ba (16) làm
bằng vật liệu nhựa ép nhiệt được, ít nhất một
phần (13) của bề mặt của lớp thứ nhất (12)
đối diện lớp thứ hai (14) được in lưới bởi
mực dựa trên polyuretan và/hoặc acrylic; ép
nhiệt màng (10) ở nhiệt độ nằm trong phạm
vi từ 130 đến 180°C và ở áp suất nằm trong
phạm vi từ 1000 đến 2000 MPa, theo cách
sao cho tạo ra ít nhất một chỗ lõm (28) trong
đó; rót vào chỗ lõm nhựa nhiệt rắn (30) mà
dính vào lớp thứ ba (16) của màng (10);
khiến cho tấm đậy (32) dính vào lớp thứ ba
(16) của màng (10) để chứa nhựa được rót
(30), mà trải qua quy trình hóa rắn; và cắt
màng (10) quanh chỗ lõm (28), vì vậy sản
xuất chi tiết trang trí được phân lớp bao gồm
phần của màng (10), lớp nhựa (30) và phần
tấm (32).
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019452 Hệ thống cung cấp vật liệu ghi, bảng mạch, bộ điều hợp và hộp mực in dùng cho thiết bị tiêu thụ vật liệu ghi
Tác giả: Ishizawa Taku (JP), Shinada
Satoshi (JP), Fukano Takakazu (JP),..
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến hệ thống cung
cấp vật liệu ghi có nhiều đầu cuối được bố trí
trên bảng mạch của hộp mực in, và nhiều
đường thẳng được tạo ra bởi các phần tiếp
xúc của nhiều đầu cuối. Trên đường thẳng
thứ nhất trong số nhiều đường thẳng, các
phần tiếp xúc của hai đầu cuối để phát hiện
việc lắp đặt được bố trí, và phần tiếp xúc của
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 66/67
đầu cuối nguồn điện được bố trí giữa chúng.
Đường thẳng thứ nhất có thể được bố trí tại
mặt đầu khi hộp mực in được di chuyển theo
chiều định trước và được lắp vào thiết bị in,
hoặc đường thẳng thứ nhất có thể là đường
thẳng nằm gần nhất với miệng hở của lỗ phân
phát mực, hoặc đường thẳng thứ nhất có thể
là đường thẳng nằm gần nhất với kim phân
phát mực.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019469 Chế phẩm nhựa dẻo nhiệt gia cường và vật đúc thu được bằng cách đúc chế phẩm nhựa dẻo nhiệt gia cường
Tác giả: Nakamoto Masahito (JP),
Kawaguchi Hideichiro (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chế phẩm nhựa
dẻo nhiệt gia cường bao gồm thành phần
nhựa chính (C) gồm nhựa polycacbonat (A)
và copolyme ghép tùy ý (B), chất độn vô cơ
(D), polyme chứa đơn vị glyxidyl ete (E) có
phân tử lượng trung bình nằm trong khoảng
từ 3800 đến 60000 (không bao gồm (B)), và
nhựa gốc polyeste cải biến chứa nguyên tử
phospho (H) được điều chế bằng cách cải
biến nhựa gốc polyeste (F) chứa nguyên tử
phospho bằng hợp chất polycarbođiimit (G),
trong đó nhựa gốc polyeste (F) bao gồm
thành phần axit đicarboxylic chứa hợp chất
phospho vòng có công thức (1) dưới đây.
Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến vật
đúc thu được bằng cách đúc chế phẩm nhựa
dẻo nhiệt gia cường này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019482 Phương pháp sản xuất bột thủy lực và bột thủy lực thu được từ phương pháp này
Tác giả: Sagawa Keiichiro (JP),
Shimoda Masaaki (JP), Nagasawa Koji (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến việc sản xuất bột
thủy lực chứa C3A với lượng nằm trong
khoảng từ 0,5 đến 9,5% trọng lượng bằng
cách nghiền hợp chất thủy lực với sự có mặt
của alkanolamin có điểm đông cứng không
quá 0°C. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến
bột thủy lực thu được từ phương pháp sản
xuất này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 67/67
1-0019504 Hệ thống khí hóa than bitum có hàm lượng tro và nhiệt độ nóng chảy tro cao
Tác giả: Liu Guohai (US),
Vimalchand Pannalal (US), Peng Wanwang
(CN).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề xuất quy trình khí hóa của
than bitum có hàm lượng tro cao với nhiệt độ
nóng chảy của tro cao. Hàm lượng tro trong
than bitum có thể nằm trong khoảng từ 15 đến
45% theo trọng lượng và có nhiệt độ nóng
chảy tro có thể nằm trong khoảng từ 1150 đến
1500°C và có thể lớn hơn 1500°C. Theo
phương án được ưu tiên theo sáng chế, quy
trình khí hóa than bao gồm hai bước - bước
khí hóa sơ bộ ở nhiệt độ tương đối thấp trong
thiết bị khí hóa vận chuyển tầng sôi tuần hoàn
và bước tiếp theo là oxy hóa một phần ở nhiệt
độ cao than cacbon còn lại và một lượng nhỏ
của nhựa đường. Sáng chế còn đề xuất hệ
thống để xử lý than này bao gồm tầng sôi tuần
hoàn bên trong để làm mát một cách hiệu quả
khí tổng hợp ở nhiệt độ cao với sự hỗ trợ của
môi trường trơ và không có khí tổng hợp nào
tiếp xúc với các bề mặt truyền nhiệt. Xyclon
bố trí sau thiết bị làm mát khí tổng hợp, hoạt
động ở nhiệt độ tương đối thấp, làm giảm một
cách hiệu quả tải trọng cho bộ phận lọc bụi.
Quy trình và hệ thống thiết bị theo sáng chế
có thể tạo ra khí tổng hợp gần như không có
bụi và không có nhựa đường thích hợp để sản
xuất hóa chất hoặc tạo ra năng lượng và với sự
chuyển hóa cacbon là lớn hơn 90%, và tốt hơn
là hơn 98%.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************