67
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 1/67 TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN BẢN TIN THÁNG 08/2018 A.THÔNG TIN THÀNH TỰU Thiết kế hệ thống không dây cung cấp điện kết nối với các thiết bị bên trong cơ thể Vật liệu cho phép cửa sổ vừa cung cấp điện vừa kiểm soát nhiệt độ cho ngôi nhà Pin sạc sử dụng cho xe điện được gia công bằng chất điện phân có hàm lượng flo cao Sử dụng kim loại lỏng để chế tạo pin lỏng điện áp cao Bước đột phá trong công nghệ pin năng lượng mặt trời perovskite Tế bào năng lượng mặt trời chứa vi khuẩn có thể hấp thụ ánh nắng ngay cả sau những đám mây Thiết bị kết hợp khai thác cả năng lượng từ và năng lượng cơ học Màng graphene thông minh có thể kiểm soát lưu lượng nước Gương sinh trắc học làm nổi bật những sai sót trong công nghệ trí tuệ nhân tạo AI Israel phát triển hệ thống dự báo động đất sử dụng trí tuệ nhân tạo Sử dụng cáp quang để phát hiện động đất Australia chế tạo thành công loạt thiết bị cảnh báo lũ lụt Hoàn thiện kỹ thuật tăng dung lượng lưu trữ máy tính gấp hàng nghìn lần Cung cấp insulin dưới dạng viên thuốc- Kỹ thuật mới thay thế tiêm insulin hàng ngày cho bệnh nhân tiểu đường Bệnh tiểu đường tuýp 2, béo phì có thể sớm “đảo ngược” bằng liệu pháp gen Lập trình tự gen giúp các nhà khoa học khai thác đất để sản xuất kháng sinh Vắc xin HIV mới cho thấy an toàn và tạo ra phản ứng miễn dịch chống vi rút HIV mạnh hơn Phương pháp xét nghiệm máu có giá chỉ 20USD có thể hỗ trợ chẩn đoán bệnh viêm gan B toàn khu vực châu Phi Sử dụng vết máu tại hiện trường phạm tội để xác định tuổi của nạn nhân Parkinson có thể sớm được điều trị bằng thuốc huyết áp Mỹ phát triển thuốc cải lão hoàn đồng, kéo dài 1/3 tuổi thọ Loại thuốc mới có thể ngăn ngừa hoặc đảo ngược ảnh hưởng do chứng mất trí và đột quỵ Miếng dán có thể đo cortisol trong mồ hôi giúp phát hiện bệnh Cải tiến cảm biến sinh học cấy dưới da Thuốc nhỏ mắt từ chiết xuất nghệ có thể điều trị bệnh tăng nhãn áp Stent thông minh trong điều trị tim mạch Bào chế loại vắc xin mới dựa vào tơ nhện Các nhà khoa học phát hiện ra mục tiêu mới để ngăn chặn sự phát triển của ung thư Sử dụng công cụ mới để xác định gen ung thư ở trẻ em MRI giúp không chỉ chẩn đoán mà cả điều trị ung thư? Các nhà khoa học Siberia phát triển một công nghệ mới để điều trị ung thư Israel phát triển phương pháp mới điều trị ung thư phổi Biến đổi vi khuẩn để sản xuất phân bón từ không khí

BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 1/67

TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN

BẢN TIN THÁNG 08/2018 A.THÔNG TIN THÀNH TỰU

Thiết kế hệ thống không dây cung cấp

điện và kết nối với các thiết bị

bên trong cơ thể

Vật liệu cho phép cửa sổ vừa cung cấp

điện vừa kiểm soát nhiệt độ cho ngôi nhà

Pin sạc sử dụng cho xe điện được gia công

bằng chất điện phân có hàm lượng flo cao

Sử dụng kim loại lỏng để chế tạo pin lỏng

điện áp cao

Bước đột phá trong công nghệ pin năng

lượng mặt trời perovskite

Tế bào năng lượng mặt trời chứa vi khuẩn

có thể hấp thụ ánh nắng ngay cả sau

những đám mây

Thiết bị kết hợp khai thác cả năng lượng

từ và năng lượng cơ học

Màng graphene thông minh có thể kiểm

soát lưu lượng nước

Gương sinh trắc học làm nổi bật những sai

sót trong công nghệ trí tuệ nhân tạo AI

Israel phát triển hệ thống dự báo động đất

sử dụng trí tuệ nhân tạo

Sử dụng cáp quang để phát hiện động đất

Australia chế tạo thành công loạt thiết bị

cảnh báo lũ lụt

Hoàn thiện kỹ thuật tăng dung lượng lưu

trữ máy tính gấp hàng nghìn lần

Cung cấp insulin dưới dạng viên thuốc-

Kỹ thuật mới thay thế tiêm insulin hàng

ngày cho bệnh nhân tiểu đường

Bệnh tiểu đường tuýp 2, béo phì có thể

sớm “đảo ngược” bằng liệu pháp gen

Lập trình tự gen giúp các nhà khoa học

khai thác đất để sản xuất kháng sinh

Vắc xin HIV mới cho thấy an toàn và tạo

ra phản ứng miễn dịch chống vi rút HIV

mạnh hơn

Phương pháp xét nghiệm máu có giá chỉ

20USD có thể hỗ trợ chẩn đoán bệnh viêm

gan B toàn khu vực châu Phi

Sử dụng vết máu tại hiện trường phạm tội

để xác định tuổi của nạn nhân

Parkinson có thể sớm được điều trị bằng

thuốc huyết áp

Mỹ phát triển thuốc cải lão hoàn đồng,

kéo dài 1/3 tuổi thọ

Loại thuốc mới có thể ngăn ngừa hoặc đảo

ngược ảnh hưởng do chứng mất trí và đột

quỵ

Miếng dán có thể đo cortisol trong mồ hôi

giúp phát hiện bệnh

Cải tiến cảm biến sinh học cấy dưới da

Thuốc nhỏ mắt từ chiết xuất nghệ có thể

điều trị bệnh tăng nhãn áp

Stent thông minh trong điều trị tim mạch

Bào chế loại vắc xin mới dựa vào tơ nhện

Các nhà khoa học phát hiện ra mục tiêu

mới để ngăn chặn sự phát triển của ung

thư

Sử dụng công cụ mới để xác định gen ung

thư ở trẻ em

MRI giúp không chỉ chẩn đoán mà cả điều

trị ung thư?

Các nhà khoa học Siberia phát triển một

công nghệ mới để điều trị ung thư

Israel phát triển phương pháp mới điều trị

ung thư phổi

Biến đổi vi khuẩn để sản xuất phân bón từ

không khí

Page 2: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67

Máy lọc nước bằng năng lượng mặt trời

tạo ra chất khử trùng từ nước và ánh nắng

mặt trời

Vật liệu mới hấp thụ các chất ô nhiễm hữu

cơ trong nước

Biến đổi enzyme để thúc đẩy sản xuất

nhiên liệu sinh học và vật liệu

xử lý sinh học khác

Miếng lót nệm phát hiện mệt mỏi, buồn

ngủ của người lái xe

Nhựa mới tự lành khi tiếp xúc với ánh

sáng có thể kéo dài vòng đời của vệ tinh

Chất xúc tác mới có chức năng kép: sản

xuất hydro và nhựa

Chế tạo bê tông bền vững làm giảm nhu

cầu năng lượng và phát thải khí

nhà kính

Các tòa nhà mới xây sẽ chắc chắn và xanh

hơn nhờ rau củ

B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM

1-0019431 Phương pháp và thiết bị tạo ra

các điểm truy nhập cho dòng

dữ liệu viđeo

1-0019457 Thiết bị giải mã viđeo

1-0019456 Phương pháp giải mã hình ảnh

1-0019436 Bộ truyền ghép kênh phân chia

theo tần số trực giao (OFDM), phương

pháp truyền ghép kênh phân chia theo tần

số trực giao (OFDM), bộ thu ghép kênh

phân chia theo tần số trực giao (OFDM)

và phương pháp thu ghép kênh phân chia

theo tần số trực giao (OFDM)

1-0019437 Phương pháp, hệ thống và máy

chủ để thu thập các phiên bản phần mềm

1-0019438 Nền thủy tinh dùng cho đĩa từ

và vật ghi từ

1-0019446 Phương pháp và thiết bị sản

xuất màn hình quang

1-0019448 Đầu cuối di động có màn hình

thao tác và phương pháp thao tác đầu cuối

di động này

1-0019474 Phương pháp và thiết bị truyền

thông

1-0019472 Phương pháp và thiết bị hiển

thị tầng bản đồ

1-0019477 Phương pháp và thiết bị cung

cấp chứng thư truy cập

1-0019481 Phương pháp và thiết bị để tạo

giao diện cho người sử dụng

1-0019454 Thiết bị người máy được dẫn

động rung để leo trèo

1-0019503 Máy giám sát và kiểm soát lỗi

dùng cho thiết bị

1-0019445 Máy nén

1-0019434 Hệ thống làm mát bằng nước

dùng cho động cơ

1-0019458 Van dùng cho chất lỏng cao áp

và két chứa được lắp van này

1-0019491 Máy giặt

1-0019370 Thiết bị chữa cháy phun tự

động

1-0019471 Chất dập lửa và phương pháp

dập lửa ụ

1-0019451 Cửa và khung cửa chống cháy

1-0019340 Thiết bị luyện tập có thể gắn

vào kết cấu

1-0019368 Dụng cụ vắt sữa mẹ, phương

pháp vắt sữa mẹ và thiết bị tạo ra mức áp

suất âm tối thiểu trên một vùng cơ thể

người

1-0019435 Hộp bao gói

1-0019356 Đồ chứa

1-0019444 Dụng cụ nhà bếp và phương

pháp chế tạo dụng cụ nhà bếp này

1-0019442 Chế phẩm chăm sóc răng

miệng ổn định

Page 3: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 3/67

1-0019393 Lọ chứa mỹ phẩm chăm sóc da

có chức năng xoa bóp nhiệt

1-0019355 Xốp uretan gốc polyete được

thấm mỹ phẩm

1-0019384 Chế phẩm chứa tế bào nấm

men Saccharomyces cerevisiae và kit

chứa tế bào nấm men này

1-0019447 Cụm kim tiêm có thể kéo vào

được

1-0019450 Thuốc chứa insulin và chất

chủ vận GLP-1, bộ kit và dụng cụ chứa

thuốc này

1-0019462 Tiền dược chất của axit amin

chứa flo và thuốc chứa tiền

dược chất này

1-0019338 Hợp chất

phenylxycloalkylmetylamin và dược

phẩm chứa hợp chất này

1-0019345 Hợp chất picolinamit dùng làm

chất ức chế kinaza và dược phẩm chứa

chúng

1-0019387 Hợp chất pyrazol-amit và dược

phẩm chứa hợp chất này

1-0019403 Hợp chất 1,2,5-oxadiazol có

tác dụng làm chất ức chế indolamin 2,3-

dioxygenaza, hợp chất này ở dạng rắn và

dược phẩm chứa hợp chất này

1-0019416 Hợp chất heteroxyclyl và dược

phẩm chứa hợp chất này

1-0019417 Hợp chất axit carboxylic,

phương pháp điều chế hợp chất này và

dược phẩm chứa nó

1-0019420 Hợp chất aryletynyl, quy trình

điều chế và dược phẩm chứa hợp chất này

1-0019465 Hợp chất flometyl-5,6-

dihydro-4H-[1,3]oxazin và dược phẩm

chứa hợp chất này

1-0019359 Quy trình sản xuất chế phẩm

lỏng để đánh bóng

1-0019347 Bộ lọc dùng cho thiết bị làm

sạch để lọc tạp chất ra khỏi nước

1-0019470 Lò xử lý cacbon hóa loại gia

nhiệt gián tiếp để xử lý rác thải và xe xử

lý cacbon hóa sử dụng lò này

1-0019360 Phương pháp xử lý nước để

cải thiện sản lượng và/hoặc chất lượng

của động vật dưới nước và động vật biển

1-0019459 Chế phẩm xử lý hạt giống và

phương pháp xử lý hạt giống

1-0019382 Vải được tẩm thuốc diệt côn

trùng và phương pháp tẩm vải này

1-0019376 Chế phẩm trừ sâu, chế phẩm

xua đuổi côn trùng, vật liệu vải dệt hoặc

vật liệu nhựa được tẩm để diệt côn trùng

và/hoặc xua đuổi côn trùng và quy trình

tẩm vật liệu vải dệt hoặc vật liệu nhựa

1-0019334 Chế phẩm dùng để phòng trừ

bệnh và phương pháp phòng trừ bệnh trên

thực vật hữu ích

1-0019440 Chi tiết phức hợp, sản phẩm

giày dép và phương pháp chế tạo chi tiết

phức hợp này

1-0019395 Phương pháp sản xuất sản

phẩm giày dép

1-0019429 Hộp cấp thuốc tráng phim và

hệ thống cấp thuốc tráng phim

1-0019449 Phương pháp sản xuất một

hoặc nhiều chi tiết trang trí và chi tiết

trang trí được phân lớp

1-0019452 Hệ thống cung cấp vật liệu

ghi, bảng mạch, bộ điều hợp và hộp mực

in dùng cho thiết bị tiêu thụ vật liệu ghi

1-0019469 Chế phẩm nhựa dẻo nhiệt gia

cường và vật đúc thu được bằng cách đúc

chế phẩm nhựa dẻo nhiệt gia cường

1-0019482 Phương pháp sản xuất bột thủy

lực và bột thủy lực thu được từ phương

pháp này

1-0019504 Hệ thống khí hóa than bitum

có hàm lượng tro và nhiệt độ nóng chảy

tro cao

Page 4: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 4/67

A.THÔNG TIN THÀNH TỰU

Thiết kế hệ thống không dây cung cấp điện và kết nối với các thiết bị bên trong cơ thể

Các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ

Massachusetts (MIT), Hoa Kỳ đã đưa ra một

phương pháp mới để cung cấp điện và kết nối

với các thiết bị cấy ghép sâu bên trong cơ thể

của con người. Các thiết bị này có thể được sử

dụng để phân phối thuốc, theo dõi tình trạng

bên trong cơ thể hoặc điều trị bệnh bằng cách

sử dụng điện hoặc ánh sáng để kích thích não.

Trong các thử nghiệm trên động vật,

nhóm nghiên cứu đã phối hợp với các nhà

khoa học tại Bệnh viện Phụ nữ Brigham để

chứng minh sóng có thể cấp điện cho các thiết

bị nằm sâu trong mô 10 cm từ khoảng cách

1m. Mô cấy được cung cấp sóng tần số vô

tuyến, có thể di chuyển an toàn qua mô người.

Fadel Adib, phó giáo sư tại Phòng thí

nghiệm Media thuộc MIT và là tác giả chính

của nghiên cứu cho biết: “Dù những thiết bị

nhỏ cấy ghép này không được gắn pin, nhưng

hiện chúng tôi có thể kết nối với các thiết bị

từ một khoảng cách bên ngoài cơ thể. Điều

này mở ra nhiều ứng dụng mới trong y học”.

Trong nghiên cứu, các nhà khoa học đã

thử nghiệm một nguyên mẫu có kích thước

bằng hạt gạo, nhưng theo dự báo kích thước

đó thậm chí có thể giảm hơn nữa vì không cần

đến pin. Các thiết bị y tế có thể được nuốt vào

hoặc cấy ghép trong cơ thể, mang đến cho các

bác sỹ những phương pháp mới để chẩn đoán,

theo dõi và điều trị nhiều loại bệnh.

Giovanni Traverso, phó giáo sư tại

Bệnh viện phụ nữ Brigham cho rằng: "Các

thiết bị cấy ghép có thể tương thích với các

điều kiện cảm biến cũng như hỗ trợ cung cấp

thuốc”. Phòng thí nghiệm của PGS. Traverso

hiện đang nghiên cứu nhiều hệ thống nuốt

vào trong bụng, có thể được sử dụng để phân

phối thuốc, theo dõi các dấu hiệu quan trọng

và phát hiện chuyển động của đường tiêu hóa.

Các thiết bị y tế cấy ghép thường được gắn

pin chiếm phần lớn không gian trên thiết bị và

có tuổi thọ hạn chế.

Nỗ lực khai thác các thiết bị cấy ghép

được cấp năng lượng bằng phương thức

không dây nhờ sự hỗ trợ của các sóng vô

tuyến phát ra từ ăng ten bên ngoài cơ thể gặp

nhiều khó khăn, vì sóng vô tuyến có khuynh

hướng mất đi khi chúng di chuyển qua cơ thể.

Các nhà nghiên cứu đã phát minh ra

một hệ thống "Kết nối trong cơ thể” dựa vào

một dãy ăng ten phát sóng vô tuyến có tần số

khác nhau. Khi sóng vô tuyến di chuyển,

chúng chồng lên nhau và kết hợp theo nhiều

cách. Tại một số điểm nhất định nơi các giá

trị cao của sóng chồng lên nhau, sóng vô

tuyến có thể cung cấp đủ năng lượng để cấp

điện cho cảm biến cấy ghép.

Với hệ thống mới, các nhà nghiên cứu

không cần biết chính xác vị trí của các cảm

biến trong cơ thể, vì năng lượng được truyền

qua một khu vực rộng lớn. Chúng có thể cấp

điện cùng lúc cho nhiều thiết bị. Khi các cảm

biến nhận được một chùm năng lượng, chúng

cũng tiếp nhận một tín hiệu yêu cầu chuyển

tiếp thông tin trở lại ăng ten. Tín hiệu này cũng

có thể được sử dụng để kích thích giải phóng

thuốc, tia điện hoặc một xung ánh sáng.

Trong các thử nghiệm ở lợn, các nhà

nghiên cứu đã chứng minh các cảm biến có

thể truyền điện từ khoảng cách 1m bên ngoài

cơ thể, đến cảm biến ở sâu trong mô đến

10cm. Nếu các cảm biến được đặt rất gần bề

Page 5: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 5/67

mặt da, chúng có thể được cấp điện từ khoảng

cách xa 38m.

Công nghệ này cũng có khả năng cải

tiến các thiết bị nhận dạng tần số vô tuyến

trong các lĩnh vực khác như kiểm soát hàng

tồn, phân tích bán lẻ và môi trường "thông

minh", cho phép theo dõi và kết nối với đồ

vật ở khoảng cách xa.

Theo vista.gov.vn, 02/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Vật liệu cho phép cửa sổ vừa cung cấp điện vừa kiểm soát nhiệt độ cho ngôi nhà

Xu hướng xây dựng thân thiện với

môi trường đã làm tăng mức độ phổ biến

của lớp phủ cửa sổ, làm giảm chi phí sưởi

ấm và làm mát bằng cách ngăn chặn những

phần ánh nắng mặt trời không cần thiết.

Điều này tạo cảm hứng cho các nhà khoa

học và kỹ sư chế tạo pin mặt trời mỏng,

trong suốt để biến cửa sổ thành máy phát

điện thu nhỏ.

Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã

tiến thêm một bước và kết hợp hai chức

năng này vào trong một vật liệu phù hợp với

cửa sổ để tăng gấp đôi hiệu quả sử dụng

năng lượng của hộ gia đình. Nghiên cứu đã

được công bố trên tạp chí Joule.

Hin-Lap Yip, đồng tác giả nghiên

cứu cho rằng: "Pin mặt trời được gắn vào

tòa nhà là một ví dụ điển hình cho thị

trường trong đó, pin mặt trời silicon dù có

giá thành rẻ và hiệu suất nhất định, nhưng

không phải phù hợp nhất do pin mờ và

nặng. Thay vào đó, chúng tôi có thể sản

xuất pin mặt trời hữu cơ dưới dạng màng

bán trong suốt, có trọng lượng nhẹ và đầy

màu sắc với khả năng biến đổi cửa sổ thành

máy phát điện và tấm cách nhiệt một cách

hoàn hảo”.

Để tạo ra một nguyên mẫu vừa có

khả năng sản xuất điện vừa ngăn chặn nhiệt

dư thừa, các nhà nghiên cứu đứng đầu là

giáo sư khoa học vật liệu Fei Huang đã thực

hiện hành động cân bằng theo ba hướng

giữa khai thác ánh sáng để sản xuất điện,

ngăn chặn ánh sáng để cách nhiệt và truyền

ánh sáng như một cửa sổ bình thường.

Thông qua hòa trộn và kết hợp giữa các vật

liệu với các hợp chất hóa học được đề xuất

trước đây phục vụ nhiều mục đích, các nhà

khoa học đã tạo ra một thiết bị cho phép

phần ánh nắng mặt trời nhìn thấy xuyên

qua, cản trở ánh sáng hồng ngoại và chuyển

đổi vùng ánh sáng hồng ngoại gần ở giữa

vào dòng điện.

Các tính toán cho thấy về lý thuyết,

việc lắp đặt các cửa sổ có thể giảm 50% sự

phụ thuộc của hộ gia đình vào các nguồn

điện bên ngoài. Dù ước tính mỗi inch vuông

của cửa sổ sẽ được ốp pin mặt trời đa năng,

nhưng chỉ cần tăng nhẹ hiệu suất chuyển đổi

năng lượng từ 6,5%.

Vật liệu có chức năng kép này vẫn

đang trong giai đoạn phát triển ban đầu,

nhưng các tác giả hy vọng vật liệu mới sẽ

mở đường cho các công nghệ mới. Ông Yip

cho biết: “Việc chế tạo pin mặt trời polyme

bán trong suốt đa năng cách nhiệt chỉ là

bước khởi đầu cho việc thăm dò các dứng

dụng mới của pin mặt trời hữu cơ. Một

phiên bản được thiết kế riêng cho nhà kính

tự cấp năng lượng chỉ là một trong số nhiều

sản phẩm có tác động lớn mà chúng tôi

muốn phát triển trong cho tương lai".

Theo vista.gov.vn, 17/07/2018

Trở về đầu trang

Page 6: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 6/67

**************

Pin sạc sử dụng cho xe điện được gia công bằng chất điện phân có hàm lượng flo cao

Hiệu suất của pin sạc sử dụng cho xe

điện được đánh giá dựa vào số km xe di

chuyển được trong một lần sạc. Hiện nay, pin

Lithium-ion đã đạt đến giới hạn an toàn về

mật độ năng lượng lưu trữ trong một diện tích

cụ thể. Mới đây, một nhóm các nhà nghiên

cứu thuộc trường Đại học Maryland (UMD),

Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Quân đội Hoa

Kỳ (ARL) và Phòng thí nghiệm Quốc gia

Argonne (ANL) đã tìm ra một phương pháp

giúp cải thiện dung lượng của pin sạc bằng

cách sử dụng các điện cực mạnh và sau đó gia

công các vật liệu điện cực này với chất điện

phân có nồng độ flo cao. Bài báo về nghiên

cứu được công bố trên tạp chí Nature

Nanotechnology.

Các nhà khoa học Xiulin Fan và Long

Chen tại Trường Kỹ thuật A. James Clark của

UMD - tác giả đầu tiên của nghiên cứu cho

biết: "Chúng tôi đã tạo ra một chất điện phân

có chứa hợp chất flo có khả năng kích hoạt

cực dương là kim loại lithium với tính ổn định

không cao, đồng thời, chứng minh rằng khả

năng kéo dài tuổi thọ pin với chu kỳ nạp một

nghìn lần với công suất cao".

Nhờ đó, pin mới có thể sạc và xả nhiều

lần mà không làm mất khả năng cung cấp

nguồn năng lượng ổn định và hiệu quả cao.

Ngay cả sau khi thực hiện chu kỳ sạc một

nghìn lần, chất điện phân có nồng độ flo cao

là yếu tố đảm bảo 93% dung lượng pin, đây là

ưu điểm mà nhóm tác giả nghiên cứu đánh

giá là "chưa từng thấy". Điều này cũng có

nghĩa rằng một chiếc xe chạy bằng công nghệ

này có thể thực hiện nhiều lượt di chuyển

trong nhiều năm.

Jang Wook Choi, giáo sư chuyên

ngành kỹ thuật hóa học và sinh học tại trường

Đại học Quốc gia Seoul ở Hàn Quốc cho biết:

"Vòng đời mà pin được gia công bằng các vật

liệu điện cực và cửa sổ điện áp hoạt động đạt

được được đánh giá là "chưa từng có”. Công

trình nghiên cứu là bước tiến bộ lớn trong

lĩnh vực sản xuất pin sạc nhằm mục đích tăng

mật độ lưu trữ năng lượng, mặc dù vẫn cần

điều chỉnh thêm một số chi tiết nhằm đáp ứng

các tiêu chuẩn khác nhau cho quá trình

thương mại hóa sản phẩm”.

Nhóm nghiên cứu thử nghiệm loại pin

có hình dáng của một chiếc đồng xu giống pin

đồng hồ cho biết họ hiện đang làm việc với

các đối tác công nghiệp về việc sử dụng các

chất điện phân để sản xuất pin có điện áp cao.

Vật liệu cực dương kim loại và nickel

và cực âm điện áp cao được gọi là những vật

liệu linh hoạt vì chúng thường phản ứng

mạnh mẽ với các loại vật liệu khác, có nghĩa

là chúng có thể chứa nhiều năng lượng nhưng

đồng thời, có xu hướng "lấn át" các yếu tố mà

họ đang kết hợp, và đó là lý do khiến tính hữu

dụng của vật liệu bị hạn chế.

Chunsheng Wang, giáo sư Khoa Hóa

học và Hoá sinh của trường Clark, đã hợp tác

với Kang Xu tại ARL và Khalil Amine tại

ANL để thực hiện nghiên cứu về các vật liệu

điện phân mới này cho pin. Vì mỗi nguyên tố

hóa học trên bảng tuần hoàn có sự phân bố

electron khác nhau nên Wang nghiên cứu

cách thức phản ứng hoán vị cấu trúc hóa học

để nó có thể trở thành lợi thế hay bất lợi trong

hoạt động của pin. Bên cạnh đó, ông và Xu

cũng đưa ra thông báo về nỗ lực thực hiện dự

án hợp tác giữa ngành công nghiệp - chính

phủ - đại học có tên gọi là Trung tâm Nghiên

cứu Pin cực hạn nhằm liên kết các công ty có

nhu cầu sử dụng pin cho những mục đích đặc

biệt với các nhà khoa học phát minh ra chúng.

Page 7: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 7/67

“Mục tiêu của nghiên cứu là vượt qua

giới hạn về dung lượng mà pin lithium-ion

hiện đang trải nghiệm. Chúng tôi xác định

rằng flo là thành phần quan trọng để đảm

bảo các hóa chất tích cực này mang lại tuổi

thọ lâu dài cho pin. Một ưu điểm khác của flo

là nó khiến cho các chất điện phân dễ cháy

trở nên hoàn toàn không thể bắt lửa”, Wang

nhấn mạnh.

Nhóm đã thực hiện một đoạn phim và

quan sát được hình ảnh một số loại pin bắt lửa

trong một vài khoảnh khắc, tuy nhiên, pin flo

không gặp vấn đề gì.

Mặc dù nhiều nghiên cứu về hiện

tượng flo hóa được thực hiện trước đây dẫn

đến nhiều kết khác nhau, nhưng có một thực

tế không thể phủ nhận, đó là: số lượng lớn các

loại hóa chất có chứa flo trong các kỳ giao

pha chính là chìa khóa đảm bảo vật liệu hoạt

động hiệu quả.

Nhà nghiên cứu Xu, trưởng nhóm

nghiên cứu tại ARL cho biết: "Những bằng

chứng bạn tìm thấy có thể khẳng định hay

phủ định thực tế flo là thành phần hóa học

hoạt động hiệu quả trong các kỳ giao pha.

Chúng tôi nhận thấy rằng trong hầu hết các

trường hợp, không chỉ là thành phần hóa học

trong các interphase mà cách thức sắp xếp và

phân bố nguyên tố này cũng đóng vai trò hết

sức quan trọng".

Theo vista.gov.vn, 19/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Sử dụng kim loại lỏng để chế tạo pin lỏng điện áp cao

Pin lỏng có khả năng lưu trữ mật độ

năng lượng cao, đặc biệt, nó được xem là

một giải pháp đầy hứa hẹn và hữu ích cho các

nguồn năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, các loại

pin lỏng hiện nay vẫn còn nhiều nhược điểm

cần khắc phục. Mới đây, một nhóm kỹ sư tại

trường Đại học Stanford (Hoa Kỳ) đã phát

triển một thế hệ pin lỏng mới có khả năng lưu

trữ mât độ năng lượng cao, an toàn, hiệu quả

và giá thành thấp bằng phương pháp sử dụng

hỗn hợp kim loại có thể duy trì trạng thái lỏng

trong điều kiện nhiệt độ phòng.

Trong pin lỏng, cực âm và cực dương

ở dạng chất lỏng và được giữ trong bình chứa

bên ngoài và được bơm vào pin chính khi cần

thiết. Tại đây, hai loại chất lỏng ở hai cực của

pin được ngăn cách với nhau bởi một màng

lọc cho phép chúng trao đổi các điện tử để

duy trì trạng thái nạp hoặc xả năng lượng.

Trong tương lai, thiết bị mới có thể lưu

trữ một lượng năng lượng khổng lồ, nhưng

các chất hóa học được sử dụng thường độc

hại, đắt tiền và khó xử lý. Do đó, nhóm

nghiên cứu Stanford đã sử dụng phương pháp

kết hợp độc đáo các loại vật liệu để thiết kế

dòng pin mới nhằm khắc phục những vấn đề

nêu trên.

Các nhà khoa học cho biết yếu tố đầu

tiên và quan trọng nhất là việc sử dụng hợp

kim của natri và kali ở dạng chất lỏng làm

cực âm của pin. Hỗn hợp này có thể duy trì

tính chất của một kim loại lỏng trong điều

kiện nhiệt độ phòng, và về mặt lý thuyết, nó

có khả năng giúp lưu trữ mật độ năng lượng

gấp ít nhất là 10 lần so với các loại chất lỏng

khác trước đây được từng được sử dụng. Bên

cạnh đó, nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm bốn

loại chất lỏng gốc nước khác nhau làm cực

dương của pin.

Page 8: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 8/67

Vật liệu mới thứ hai được sử dụng

trong lớp màng lọc bên trong pin. Cụ thể, các

kỹ sư đã tạo ra một lớp màng gốm được làm

từ kali và nhôm ôxit, giúp ngăn cách hai lớp

chất lỏng ở cực dương và cực âm của pin

trong khi vẫn cho phép dòng điện chảy giữa

hai cực.

Theo nghiên cứu, sự kết hợp sử dụng

dung dịch anolyte (hay còn gọi là nước A hay

dung dịch hoạt hóa điện hóa) và màng lọc

mới tạo ra mức điện áp ở ngưỡng tối đa gấp

đôi so với các dòng pin khác, có nghĩa là khả

năng lưu trữ mật độ năng lượng tổng thể tốt

hơn và chi phí sản xuất thấp hơn. Nguyên

mẫu pin mà nhóm phát triển cũng chứng

minh sự ổn định của nó qua hàng ngàn giờ

hoạt động.

Antonio Baclig, đồng tác giả của

nghiên cứu cho biết: "Chúng tôi tin rằng công

nghệ pin mới có thể đáp ứng rất nhiều chỉ số

hiệu suất khác nhau, bao gồm: chi phí, tính

hiệu quả, kích thước, tuổi thọ, mức độ an

toàn, v.v….”.

Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng

khẳng định: trong tương lai, họ sẽ tiến hành

tinh chỉnh độ dày của màng lọc hoặc sử dụng

chất lỏng không có nước để chế tạo cực âm

của pin nhằm cải thiện hơn nữa thiết kế pin.

Bài báo về nghiên cứu mới được công

bố trên tạp chí Joule.

Theo vista.gov.vn, 24/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Bước đột phá trong công nghệ pin năng lượng mặt trời perovskite

Năng lượng mặt trời là một trong

những nguồn năng lượng tái tạo quan trọng

do năng lượng này trải rộng và ít ảnh hưởng

tới môi trường. Ngành công nghiệp chế tạo

pin mặt trời đã có những bước tiến đáng kể

như hiệu suất pin ngày càng tăng, pin mỏng

hơn, dễ uốn dẻo hơn, mở ra một tương lai

thường được miêu tả trong các bộ phim viễn

tưởng nơi pin mặt trời được ứng dụng trong

mọi lĩnh vực của đời sống. Trong số các loại

pin mặt trời đang được nghiên cứu, có một

loại pin chỉ vừa mới được các nhà khoa học

để ý đến trong mấy năm gần đây nhưng đã

tạo ra bước đột phá hứa hẹn sẽ trở thành mũi

nhọn trong nghiên cứu pin mặt trời, đó là pin

perovskite.

Perovskite là tên của một loại cấu trúc

tinh thể dạng ABX3 (được phát hiện lần đầu

tiên trong hợp chất CaTiO3), A đại diện cho

các gốc hữu cơ như CH3NH3+, C2H5NH3+,

HC(NH2)2+; B là Pb2+, Sn2+ hoặc Cu2+ và X là

các gốc halogen như Cl-, Br-, I-.

Giống như nhiều loại vật liệu, pin

perovskite cũng được nghiên cứu thử nghiệm

ở các điều kiện và thiết bị khác nhau, từ đó

đem lại những phát hiện đáng kinh ngạc cho

các nhà khoa học.

Mới đây nhóm nghiên cứu Trường Đại

học Surrey đã giúp tạo ra một kỹ thuật sản

xuất pin mặt trời perovskite hiệu suất cao

nhất, họ đã được ghi nhận điều này.

Theo tính toán của các chuyên gia, pin

mặt trời perovskite thay thế pin mặt trời

silicon truyền thống và nó được xem như là

thế hệ mới của pin mặt trời với hiệu suất

chuyển đổi năng lượng cao hơn và chi phí đầu

tư và sản xuất thấp hơn nhiều so với pin mặi

trời silicon truyền thống.

Pin perovskite đang dần trở thành ngôi

sao trong dòng pin mặt trời do sở hữu nhiều

ưu điểm nổi bật như nguồn khoáng vật phong

phú, dễ chế tạo bằng nguyên liệu rẻ tiền ở

nhiệt độ thấp, màng mỏng được chế tạo ra có

giá trị cấu trúc tương đương với những loại

pin silic đắt tiền được chế tạo cầu kì. Hơn

Page 9: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 9/67

nữa, những tấm phim sử dụng vật liệu này

mỏng và linh động hơn dòng pin silic nên có

thể dùng để chế tạo các thiết bị nhẹ, có thể

uốn cong và những tấm pin mặt trời nhiều

màu sắc với độ trong khác nhau.

Trong một nghiên cứu được công bố

trên tạp chí Science, một nhóm các nhà

nghiên cứu từ Đại học Bắc Kinh và các

trường đại học Surrey, Oxford và Cambridge

đã trình bày chi tiết một phương pháp mới để

giảm thiểu quá trình xử lý không mong muốn

có tên gọi là tái tổ hợp không bức xạ - làm pin

mặt trời perovskite bị thất thoát năng lượng

và giảm hiệu suất hoạt động.

Nhóm nghiên cứu đã tạo ra một kỹ

thuật có tên gọi là giải pháp tăng trưởng thứ

cấp (SSG) để làm tăng điện áp của các pin

mặt trời perovskite nghịch đảo bằng 100

milivolt, đạt 1,21 volt mà không ảnh hưởng

đến chất lượng của pin mặt trời hoặc dòng

điện chạy qua thiết bị. Họ đã thử nghiệm kỹ

thuật trên thiết bị PCE với kết quả thu được là

hiệu suất chuyển đổi đạt 20.9%. Thiết bị PCE

được ghi nhận là có khả năng đảm bảo giá trị

cao nhất cho các pin mặt trời perovskite bị

nghịch đảo.

Tiến sĩ Wei Zhang (Viện Công nghệ

Tiên tiến của Đại học Surrey) cho biết: “Nhu

cầu sử dụng năng lượng sạch và bền vững để

giúp chúng ta ngừng việc làm tổn hại đến

hành tinh của chúng ta là việc đang thôi thúc

chúng tôi nghiên cứu tìm ra giải pháp. Kỹ

thuật mới của chúng tôi cho thấy rằng có rất

nhiều hứa hẹn với các tế bào năng lượng mặt

trời perovskite và chúng tôi tập trung vào

việc mở rộng khám phá nhiều hơn nữa trong

tương lai”.

Giáo sư Ravi Silva, Giám đốc Viện

Công nghệ Tiên tiến tại Đại học Surrey, cho

biết: “Ông rất vui được thấy Viện Công nghệ

Tiên tiến đã tham gia vào dự án toàn cầu này.

Đây là một dự án mà có thể tạo ra các giải

pháp đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng

thực sự bền vững, chi phí tiết kiệm và

“xanh”. Đây cũng là một nỗ lực lớn của các

phòng thí nghiệm hàng đầu, các nhà nghiên

cứu và các tổ chức từ khắp nơi trên thế giới,

tất cả họ đều làm việc cùng nhau vì lợi ích

chung”.

Theo vista.gov.vn, 06/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Tế bào năng lượng mặt trời chứa vi khuẩn có thể hấp thụ ánh nắng ngay cả sau những đám mây

Các sinh vật vi mô là một số trong

những thứ đầu tiên khai thác vào Mặt trời vì

năng lượng, vì vậy nó sử dụng chúng để tạo

ra các tế bào năng lượng mặt trời tốt hơn.

Hiện nay, các nhà nghiên cứu tại Đại học

British Columbia (UBC) đã phát triển phương

pháp mới để chế tạo các tế bào năng lượng

mặt trời có chứa vi khuẩn, hiệu quả hơn các

hệ thống tương tự và thậm chí có thể hoạt

động vào những ngày nhiều mây. Thông

thường, để làm cho các tế bào năng lượng

mặt trời "sinh học" ra khỏi sinh vật sống, một

loại chất màu được chiết xuất từ vi khuẩn cho

phép chúng quang hợp ánh sáng. Thật không

may, quá trình này có thể phức tạp và yêu cầu

các dung môi độc hại.

Vì vậy, nhóm nghiên cứu UBC đã sử

dụng phương án thay thế đơn giản: bản thân

vi khuẩn. Đầu tiên, chúng biến đổi gen E. coli

để sản xuất nhiều chất màu gọi là lycopene,

có hiệu quả tự nhiên khi thực hiện quá trình

quang hợp. Sau đó, vi khuẩn được bọc trong

vật liệu bán dẫn và được áp dụng cho một tấm

kính. Để thiết bị tiếp xúc với ánh sáng, nhóm

nghiên cứu có thể ghi lại mật độ hiện tại là

0,686 milliamps trên mỗi cm vuông, gần như

gấp đôi so với các tế bào năng lượng mặt trời

Page 10: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 10/67

sinh học khác. Nhóm nghiên cứu cũng cho

biết tế bào này có thể hoạt động hiệu quả

trong ánh sáng mờ, có thể mở rộng tính hữu

dụng của nó cho những khu vực ít nắng trên

thế giới.

Trưởng nhóm nghiên cứu

Vikramaditya Yadav, cho biết: “Chúng tôi

ghi nhận mật độ dòng điện cao nhất hiện nay

cho một pin mặt trời sinh học. Những vật liệu

lai mà chúng tôi đang phát triển có thể được

sản xuất kinh tế và bền vững, với tối ưu hóa

đầy đủ, có thể thực hiện ở hiệu suất tương

đương như các tế bào năng lượng mặt trời

thông thường”.

Các nhà nghiên cứu ước tính rằng quá

trình của họ chỉ tốn 10% so với phương pháp

chiết xuất chất màu thông thường. Hiện nay,

quá trình bán dẫn giết chết vi khuẩn, nhưng

nhóm nghiên cứu hy vọng cuối cùng sẽ tìm ra

một kỹ thuật thay thế giúp chúng sống sót,

nơi chúng có thể liên tục sản xuất chất màu

và tăng tuổi thọ của pin mặt trời.

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí

Small.

Theo vista.gov.vn, 17/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Thiết bị kết hợp khai thác cả năng lượng từ và năng lượng cơ học

Thiết bị mới khai thác năng lượng do

nhóm nghiên cứu tại trường Đại học Thanh

Hoa, Trung Quốc, trong tương lai sẽ thay thế

nhu cầu sử dụng pin của một số thiết bị điện tử

công suất thấp. Thiết bị mới thu năng lượng từ

cả các rung động cơ học và từ trường thải loại

ra môi trường xung quanh để sản xuất điện

theo cách bền vững đủ cho hoạt động của cảm

biến không dây, máy tạo nhịp tim và các ứng

dụng khác. Nghiên cứu đã được công bố trên

tạp chí Applied Physics Letters.

Trong những năm qua, khai thác năng

lượng là lựa chọn ngày càng thú vị để thay

thế pin được sử dụng trong các thiết bị công

suất thấp. Trong khi pin có thời hạn sử dụng

hạn chế và cần được thay thế hoặc sạc lại

thường xuyên, nhưng các thiết bị thu năng

lượng có thể hoạt động tự động một cách lý

tưởng trong thời gian dài hơn.

Một trong những thách thức lớn của

máy thu năng lượng là sản xuất đủ điện năng

cho các ứng dụng thực tế. Phương pháp tăng

công suất đầu ra là khai thác từ 2 dạng năng

lượng trở lên. Chẳng hạn, có nhiều thiết bị thu

năng lượng cơ học hoặc năng lượng từ, nhưng

rất ít thiết bị khai thác được cả hai dạng năng

lượng này, dù thực tế là năng lượng cơ học và

năng lượng từ trong môi trường xung quanh

thường xuất hiện đồng thời trong môi trường

công nghiệp như các máy điện quay.

Trong nghiên cứu mới, các nhà khoa

học đã chứng minh năng lượng cơ học và

năng lượng từ có thể "tương tác", nên khi kết

hợp, chúng làm tăng công suất đầu ra tối ưu

nhiều hơn mức công suất đạt được nhờ sử

dụng từng loại năng lượng. Công suất tăng là

nhờ sử dụng một dầm công xôn làm từ vật

liệu laminate từ tính/điện áp di chuyển để đáp

ứng với cả từ trường và rung động.

Fulei Chu, trưởng nhóm nghiên cứu

cho biết: "Chúng tôi đã đề xuất ý tưởng áp

dụng hai phương thức khai thác năng lượng

khác nhau và chứng minh khả năng tương tác

của chúng. Như chúng ta đã biết, máy thu

năng lượng đã từng được nghiên cứu trong

những thập kỷ qua và nhiều phương pháp đã

được đề xuất. Tuy nhiên, mỗi phương pháp

đều có những hạn chế riêng. Thật khó để khắc

phục những hạn chế đơn lẻ của máy thu năng

lượng. Do đó, khai thác mối liên hệ tương tác

là khía cạnh quan trọng cho nghiên cứu”.

Page 11: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 11/67

Nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra rằng

sản lượng điện phụ thuộc vào những kích

thích cơ học và từ tính có tần số giống hoặc

khác nhau. Nếu các tần số giống nhau, thì

chênh lệch pha của chúng ảnh hưởng trực tiếp

đến điện áp đầu ra. Mặt khác, nếu các tần số

khác nhau, thì sự chênh lệch pha ít ảnh hưởng

đến điện áp đầu ra và trên thực tế điện áp đầu

ra kết hợp không còn là sóng sin đơn.

Từ đó, các nhà nghiên cứu đã chứng

minh những cải tiến về công suất năng lượng,

độ tin cậy và công suất đầu ra tối ưu của thiết

bị thu năng lượng kết hợp. Nhìn chung, nhóm

nghiên cứu tin rằng hiệu suất thiết bị cho thấy

rằng phương pháp kết hợp là giải pháp thay

thế triển vọng để cấp điện cho các thiết bị

điện tử công suất thấp trong tương lai.

Các nhà khoa học dự kiến sẽ nghiên

cứu sâu hơn về máy thu năng lượng trong

tương lai. Năng lượng gió, năng lượng sóng

và nhiều ứng dụng vật liệu thông minh trong

các hệ thống năng lượng sẽ là trọng tâm của

nghiên cứu.

Theo vietnamplus.vn, 19/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Màng graphene thông minh có thể kiểm soát lưu lượng nước

Các nhà khoa học tại Viện nghiên cứu

graphene quốc gia thuộc trường Đại học

Manchester (NGI) đã đạt được mục tiêu lớn

về lâu dài là kiểm soát lưu lượng nước qua

màng tế bào bằng điện.

Đây là loại màng hiện đại nhất được

phát triển có những tính chất độc đáo của

graphene. Nghiên cứu mới mở đường phát

triển các công nghệ màng thông minh và có

thể cách mạng hóa lĩnh vực hệ thống sinh học

nhân tạo, kỹ thuật mô và hệ thống lọc.

Graphene có khả năng được sử dụng để

chế tạo bộ lọc có thể điều chỉnh hoặc thậm chí

là rào chắn hoàn hảo khi xử lý chất lỏng và

khí. Màng “thông minh” mới sử dụng một

dạng graphene rẻ tiền được gọi là graphene

oxit, đã được chứng minh cho phép kiểm soát

chính xác lưu lượng nước bằng dòng điện. Các

màng thậm chí có thể được sử dụng để ngăn

chặn hoàn toàn nước đi qua khi cần thiết.

Nhóm nghiên cứu đứng đầu là Giáo sư

Rahul Nair đã gắn các dây diện trong màng

graphene oxit cách điện. Dòng điện chạy qua

các sợi nano này tạo ra điện trường lớn làm

ion hóa các phân tử nước và kiểm soát hoạt

động vận chuyển nước qua các mao mạch

graphene trong màng tế bào.

Thực hiện được việc kiểm soát lưu

lượng nước qua màng là một bước tiến vì quá

trình này giống với một số quá trình sinh học

sử dụng kích thích chính là các tín hiệu điện.

Kiểm soát việc vận chuyển nước là chìa khóa

để bảo tồn nước trong thận, điều hòa nhiệt độ

cơ thể và tiêu hóa. Do đó, kiểm soát vận

chuyển nước qua màng graphene bằng điện

mở ra hướng phát triển các hệ thống sinh học

nhân tạo và các thiết bị vi lưu nano tiên tiến

phục vụ nhiều ứng dụng khác nhau.

Trước đây, nhóm nghiên cứu đã chứng

minh khả năng màng graphene oxit được sử

dụng để khử muối từ nước biển nhằm thay thế

các phương pháp khử mặn hiện nay. Năm

2017, các nhà khoa học đã chứng minh có thể

loại bỏ chất nhuộm màu khỏi rượu whisky mà

không ảnh hưởng đến đặc tính khác của rượu.

Từ lâu, các nhà khoa học đã cố gắng

kiểm soát lưu lượng nước qua màng bằng

cách sử dụng kích thích bên ngoài do đây là

điều quan trọng đối với hoạt động chăm sóc

sức khỏe và các lĩnh vực khác có liên quan.

Hiện nay, loại màng có thể điều chỉnh này

còn hạn chế là việc điều chỉnh làm ướt màng

Page 12: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 12/67

và vận chuyển ion có kiểm soát, nhưng không

kiểm soát được toàn bộ lưu lượng nước.

TS. Kai-Ge Zhou, trưởng nhóm nghiên

cứu cho biết: "Công nghệ màng graphene

thông minh không chỉ giới hạn ở khả năng

kiểm soát lưu lượng nước. Màng graphene có

thể được sử dụng làm chất hấp phụ hoặc xốp

thông minh. Nước hấp phụ trên màng được

bảo tồn trong màng ngay cả trong điều kiện

sa mạc nếu áp điện vào màng. Chúng tôi có

thể giải phóng nước theo yêu cầu bằng cách

ngắt dòng điện".

Graphene và các vật liệu hai chiều liên

quan có triển vọng cho nhiều ứng dụng mới

cũng như cải thiện các quy trình hiện nay

được sử dụng cho thiết bị điện tử, vật liệu

tổng hợp, cảm biến và y sinh. Màng graphene

đã trở thành chủ đề nghiên cứu và phát triển

chủ yếu phục vụ hoạt động khử muối, tách

khí và chăm sóc sức khỏe.

Theo vista.gov.vn, 24/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Gương sinh trắc học làm nổi bật những sai sót trong công nghệ trí tuệ nhân tạo AI

Một nhóm các nhà nghiên cứu tại

trường Đại học Melbourne (Úc) đã thiết kế

một hệ thống dựa trên trí thông minh nhân tạo

(AI) để tìm kiếm và phát hiện những đặc

điểm về nhân cách và sức hấp dẫn của một

người chỉ dựa trên bức ảnh chụp khuôn mặt

của họ.

Hệ thống có tên gọi là Gương Sinh trắc

học có khả năng kiểm tra mức độ hiểu biết,

nhận thức của một người về AI cũng như

phản ứng của họ trước thông tin mô tả những

đặc điểm đặc trưng của bản thân.

Khi một người đứng trước gương sinh

trắc học, hệ thống sẽ dò và tìm ra một loạt các

đặc điểm khuôn mặt của người đó chỉ trong

vài giây. Sau đó, nó tiến hành so sánh dữ liệu

của người này với hàng nghìn bức ảnh chụp

khuôn mặt. Dưới góc nhìn khoa học, gương

mặt của một người thực sự có thể nói lên

nhiều điều và được xem là cơ sở để đánh giá

tâm lý học.

Gương Sinh trắc học có thể hiển thị

các dữ liệu, thông tin về 14 đặc điểm, từ giới

tính, tuổi tác và sắc tộc cho đến sức hấp dẫn,

kỳ quặc và sự ổn định về cảm xúc của người

sử dụng. Thời gian đứng trước gương càng

lâu thì những đặc điểm cá nhân càng được

hiển thị nhiều hơn.

Dự án nghiên cứu do Tiến sĩ Niels

Wouters từ Trung tâm nghiên cứu Giao diện

người sử dụng tự nhiên xã hội (SocialNUI) và

Phòng triển lãm Khoa học Melbourne đứng

đầu đã khám phá những vấn đề đáng quan

tâm về công nghệ này, bao gồm: sự tự

nguyện, lưu trữ dữ liệu và sai số trung bình

của thuật toán.

Tiến sĩ Wouters cho biết: "Với sự phát

triển của công nghệ AI và dữ liệu lớn Big

Data, chính phủ và doanh nghiệp có xu

hướng ngày càng chú trọng sử dụng hệ thống

camera CCTV hay còn gọi là camera giám

sát và quảng cáo tương tác để nhận dạng và

phát hiện các biểu hiện về cảm xúc, tuổi tác,

giới tính và nhân khẩu học của người dùng

cần quan sát”.

Ông chia sẻ: “Mục đích nghiên cứu

của chúng tôi là nhằm kích thích sự khám phá

những câu hỏi mang tính thử thách về ranh

giới của AI. Nó cho người sử dụng thấy khả

năng dễ dàng thực hiện AI nhằm phân biệt

theo cách thức phi đạo đức hoặc có vấn đề

dẫn đến những hậu quả xã hội. Thông qua

khuyến khích tranh luận về quyền riêng tư và

giám sát hàng loạt, chúng tôi hy vọng sẽ cung

cấp những hiểu biết sâu sắc hơn về vấn đề

Page 13: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 13/67

đạo đức đằng sau công nghệ AI. Sử dụng

gương sinh trắc học giúp làm nổi bật những

hậu quả có thể xảy ra trong thế giới thực của

sai số trung bình và giả định về thuật toán”.

Tiến sĩ Wouters nhấn mạnh rằng điều

quan trọng cần lưu ý là gương sinh trắc học

không phải là một công cụ để phục vụ mục

đích phân tích tâm lý của con người mà nó

chỉ thực hiện tính toán nhận thức chung đối

với diện mạo khuôn mặt.

Bên cạnh đó, ông cũng cho biết điểm

hạn chế của công nghệ mới là tính không

chính xác, bởi nó chỉ có khả năng cung cấp

một bộ dữ liệu tương đối nhỏ và là giải pháp

nhờ đám đông (crowd-sourced). Do đó, việc

áp dụng công nghệ gương sinh trắc học nhằm

đưa ra kết luận có ý nghĩa về các trạng thái

tâm lý của con người là hoàn toàn không phù

hợp.

Theo vista.gov.vn, 25/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Israel phát triển hệ thống dự báo động đất sử dụng trí tuệ nhân tạo

Trang công nghệ Geektime của Israel

ngày 15/7 đưa tin, nước này sẽ đưa vào sử

dụng một hệ thống dự báo động đất tại các

nước châu Á và châu Âu.

Trí tuệ nhân tạo sẽ thu thập các thông tin từ những trận động đất nhỏ nhằm dự báo về

những trận đống đất lớn hơn

Hệ thống trên do công ty khởi nghiệp

SeismicAI của Israel phát triển, được xây

dựng dựa trên trí tuệ nhân tạo, khả năng học

máy, những thuật toán được các nhà nghiên

cứu về động đất sử dụng và các phần cứng

máy tính, theo đó SeismicAI sẽ sử dụng trí

tuệ nhân tạo để thu thập các thông tin từ

những trận động đất nhỏ nhằm dự báo về

những trận đống đất lớn hơn.

Hệ thống này có thể dự báo về nhiều

vụ động đất nhờ được lắp đặt các thiết bị cảm

biến và có khả năng kiểm tra mặt đất 500 lần

mỗi giây cũng như xử lý các thông tin trong

thời gian thực.

Khi phát hiện các trận động đất, hệ

thống trên sẽ phát tín hiệu để báo động cho

các trung tâm kiểm soát động đất nhằm giúp

người dân chuẩn bị sẵn sàng ứng phó với

động đất.

Ngoài ra, hệ thống này cũng có khả

năng ra lệnh đóng các đường ống dẫn khí đốt,

các động cơ turbine điện và các nhà máy hóa

dầu cũng như phong tỏa các hoạt động giao

thông đường sắt khi phát hiện có động đất.

Theo vietnamplus.vn, 16/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Sử dụng cáp quang để phát hiện động đất

Cáp quang có thể được sử dụng để

phát hiện động đất và các chuyển động khác

dưới mặt đất. Cáp dữ liệu cũng có thể thu tín

hiệu địa chấn từ ô tô đang di chuyển hoặc các

chuyển động của sóng biển. Đây là kết quả

của một nghiên cứu mới do các nhà khoa học

tại Trung tâm Nghiên cứu địa chất GFZ ở

Anh và các cộng sự tại Anh thực hiện, đã

được công bố trên tạp chí Nature

Communications.

Page 14: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 14/67

Nhóm nghiên cứu đã truyền các xung

laser qua sợi quang, một phần của dây cáp dài

15 km được sử dụng vào năm 1994 trong

mạng viễn thông trên bán đảo Reykjanes, đảo

SW và chạy qua vùng đứt gãy địa chất nổi

tiếng tại đường nứt giữa mảng kiến tạo Á-Âu

và Mỹ. Tín hiệu ánh sáng được phân tích và

so sánh với bộ dữ liệu từ một mạng lưới địa

chấn dày đặc. Kết quả nghiên cứu gây ngạc

nhiên cho cả các chuyên gia. Philippe Jousset,

đồng tác giả nghiên cứu cho biết: "Các số đo

của chúng tôi tiết lộ những đặc điểm cấu trúc

địa hình trong lòng đất với độ phân giải chưa

từng có và cung cấp các tín hiệu tương đương

với các điểm dữ liệu đặt cách nhau 4 km. Dữ

liệu này có mật độ dày đặc hơn bất kỳ mạng

lưới địa chấn nào trên thế giới".

Ông Philippe cho rằng phương pháp

mới sẽ làm thay đổi lĩnh vực địa chấn. Dù

phương pháp này không phải là mới đối với

các ứng dụng khác (vì từng được sử dụng

nhiều năm trong các lỗ khoan để theo dõi bể

chứa), nhưng đây là nhóm nghiên cứu đầu

tiên trên thế giới thu thập được các số đo địa

chấn này để đáp ứng các mục tiêu địa chấn

nhờ có dây cáp dài.

Nghiên cứu không chỉ cung cấp thông

tin về tình trạng đứt gãy phổ biến và rãnh núi

lửa. Bên cạnh đó, các nhà khoa học cũng đã

phát hiện thấy hiện tượng đứt gãy chưa từng

có bên dưới mặt đất và đã đo biến dạng dưới

mặt đất diễn ra trong khoảng vài phút. Những

trận động đất nhỏ cục bộ, sóng bắt nguồn từ

những trận động đất lớn ở xa và vi địa chấn ở

đáy đại dương cũng được ghi lại qua cáp sợi

quang.

Lợi thế của phương pháp mới là rất

lớn, vì có vô số cáp quang trên toàn cầu trong

mạng lưới viễn thông dày đặc. Dưới các siêu

đô thị có nguy cơ địa chấn cao như San

Francisco, Mexico City, Tokyo, Istanbul và

nhiều khu vực khác, loại cáp này có thể là

phương thức bổ sung chi phí - hiệu quả cho

các thiết bị đo địa chấn hiện có.

Trong tương lai, các nghiên cứu dự

kiến sẽ xem xét khả năng sử dụng cáp ở biển

sâu để thu thập các số đo địa chấn. Các nhà

khoa học rất lạc quan cho rằng cáp dưới đáy

biển sẽ phát hiện các trận động dưới biển,

chuyển động mặt đất của các mảng kiến tạo

và cả những thay đổi áp lực nước. Do đó,

phương pháp mới sẽ hữu ích cho các chuyên

gia địa chấn và chuyên gia hải dương học.

Theo vista.gov.vn, 17/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Australia chế tạo thành công loạt thiết bị cảnh báo lũ lụt

Các nhà khoa học thuộc Đại học Công

nghệ Queensland (Australia) mới đây đã chế

tạo thành công loạt thiết bị có khả năng thu

thập dữ liệu và cung cấp thông tin dự báo về

tình hình lũ lụt, nhờ đó mà các nhà chức trách

có thể ứng phó kịp thời trước thiên tai.

Lũ lụt ở Australia. (Nguồn: AFP)

Phát biểu với báo giới ngày 18/7, giáo

sư Richard Brown cho biết nhờ các thiết bị có

thể mang theo này, các chuyên gia khí tượng

Page 15: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 15/67

có thể dễ dàng đo mực nước sông và biết

được hướng dòng nước lũ chảy.

Những thiết bị này có thiết kế như máy

vi tính thu nhỏ được bảo vệ trong hộp nhựa, có

khả năng nổi trên nước và gửi dữ liệu ở thời

gian thực qua bluetooth hoặc SIM điện thoại.

Ông Brown nhấn mạnh bằng việc theo

dõi dữ liệu ở thời gian thực, các chuyên gia

khí tượng có thể nắm rõ tình hình lũ lụt.

Khác với thiết bị cảnh báo lũ lụt hiện

nay vốn khó xác định tình hình nước lũ ở thời

gian thực, những thiết bị mới này "du hành"

cùng với dòng nước lũ, do vậy có thể ngay

lập tức gửi thông tin có tính chất bao quát

hơn, qua đó các chuyên gia biết được tình

hình lũ lụt để ứng phó kịp thời.

Các nhà khoa học Đại học Công nghệ

Queensland đã có ý tưởng về thiết bị trên vào

thời điểm xảy ra trận lũ lụt hồi năm 2011 tại

bang Queensland, khiến 33 người thiệt mạng.

Khi đó, các nhà khoa học thả xuống dòng

nước lũ một thiết bị được gắn vào dây thừng,

nhờ đó có thể thu thập dữ liệu.

Theo vietnamplus.vn, 17/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Hoàn thiện kỹ thuật tăng dung lượng lưu trữ máy tính gấp hàng nghìn lần

Bộ nhớ dạng rắn có mật độ dày đặc chưa

từng thấy sẽ có dung lượng cao hơn gấp 1.000

lần các thiết bị lưu trữ máy tính hiện nay, nhờ

vào một kỹ thuật đã được nhóm nghiên cứu tại

trường Đại học Alberta hoàn thiện.

Roshan Achal, nghiên cứu sinh tại

Khoa Vật lý và là trưởng nhóm nghiên cứu

cho biết: "Về cơ bản, bạn có thể khai thác

tổng số 45 triệu bài hát trên iTunes và lưu trữ

chúng trên bề mặt bằng ¼. Năm năm trước,

đây không phải là điều chúng tôi nghĩ có thể

thực hiện được”.

Các nhà khoa học đã áp dụng một công

nghệ tương tự do chính họ phát triển để chế

tạo các mạch quy mô nguyên tử, cho phép

nhanh chóng loại bỏ hoặc thay thế các nguyên

tử hydro đơn lẻ. Công nghệ này cho phép bộ

nhớ có thể được ghi lại, nghĩa là nó có thể

cho ra đời những loại ổ cứng thể rắn hiệu quả

hơn cho nhiều máy tính.

Sẵn sàng sử dụng trong thế giới thực

Những khám phá trước đây về vấn đề

lưu trữ bằng máy tính trên quy mô nguyên tử

chỉ ổn định ở nhiệt độ cực thấp, nhưng bộ nhớ

mới hoạt động ở nhiệt độ thực tế và có thể

được sử dụng bình thường.

Achal lưu ý: "Cho đến nay, những gì

thường bị bỏ qua trong chế tạo nano là chuyển

tải thực tế đến người dùng cuối, đơn giản là

không thể thực hiện được do những hạn chế về

nhiệt độ. Bộ nhớ của chúng tôi ổn định tốt hơn

ở mức cao hơn nhiệt độ phòng và chính xác cỡ

nguyên tử". Công nghệ này có các ứng dụng

trước mắt như lưu trữ dữ liệu. Các bước tiếp

theo sẽ bao gồm tăng tốc độ đọc và ghi cho

các ứng dụng linh hoạt hơn.

Nhiều bộ nhớ, ít dung lượng hơn

Achal đã làm việc với giáo sư vật lý

Robert Wolkow, người đi tiên phong trong

lĩnh vực vật lý nguyên tử. GS. Wolkow đã

hoàn thiện công nghệ đầu nano (nanotip) cho

phép các nhà khoa học điều khiển các nguyên

tử đơn trên một con chip silicon, công nghệ

hiện đã phát triển đỉnh cao.

GS. Wolkow cho biết: “Có mảnh ghép

cuối cùng này trong tay, việc chế tạo nguyên

tử sẽ có thể được thương mại trên thực tế

trong tương lai rất gần”. Quantum Silicon,

công ty phái sinh của GS. Wolkow, đang

nghiên cứu thương mại hóa quy trình chế tạo

Page 16: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 16/67

quy mô nguyên tử để sử dụng trong mọi lĩnh

vực công nghệ.

Để chứng minh bộ nhớ mới, nhóm

nghiên cứu đã mã hóa toàn bộ bảng chữ cái

với mật độ 138 terabyte trên mỗi inch vuông,

tương đương với viết 350.000 chữ cái trên

một hạt gạo. Ngoài ra, Achal còn mã hóa

nhạc phim từ thập niên 80 và 90.

Nghiên cứu đã được công bố trên tạp

chí Nature Communications

Theo vista.gov.vn, 31/07/2018

Trở về đầu trang

************** Cung cấp insulin dưới dạng viên thuốc- Kỹ thuật mới thay thế tiêm insulin

hàng ngày cho bệnh nhân tiểu đường

Việc phải lựa chọn giữa uống hoặc

tiêm thuốc, nhiều người trong chúng ta sẽ

chọn uống thuốc để chữa bệnh. Riêng đối với

hàng triệu người hiện đang sống chung với

căn bệnh tiểu đường tuýp 1, họ bắt buộc phải

trải qua 1 hoặc 2 mũi tiêm đau đớn mỗi ngày

để cung cấp insulin cho cơ thể do cơ thể họ

không thể sản xuất tự nhiên.

Hiện tại, công trình nghiên cứu của

nhóm nghiên cứu Trường Đại học Harvard và

Trường Đại học Kỹ thuật Harvard John A.

Paulson (SEAS) đã phát triển một phương

pháp cung cấp insulin bằng đường uống

(dạng thuốc viên để uống) nhằm thay thế

phương pháp truyền thống mà trong đó vẫn

giúp bệnh nhân tiểu đường khống chế duy trì

ổn định được nồng độ đường huyết trong

phạm vi cho phép.

Việc cung cấp insulin bằng đường

uống đầy hứa hẹn này không những làm tăng

chất lượng cuộc sống cho hơn 40 triệu người

tiểu đường tuýp 1 toàn thế giới mà nó còn

giảm các tác dụng phụ đe dọa đến sự sống

của bệnh nhân tiểu đường.

Nghiên cứu được công bố trong Kỷ

yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia.

Điều trị bằng insulin bằng cách tiêm

dưới da hoặc bằng máy bơm insulin, thông

thường có thể khống chế mức đường huyết

của hầu hết các bệnh nhân tiểu đường.

“Tuy nhiên, có nhiều người không tuân

thủ chế độ tiêm insulin định kỳ do họ cảm

thấy bị đau đớn, ám ảnh kim tiêm và những

cản trở ảnh hưởng tới với các hoạt động bình

thường”, Samir Mitragotri, giáo sư về sinh

học của Hiller và Hansjorg Wyss, giáo sư về

kỹ thuật sinh học của SEAS, tác giả nghiên

cứu chính, cho biết. “Hậu quả của việc kiểm

soát đường huyết kém có thể dẫn đến các biến

chứng nghiêm trọng đối với sức khỏe”.

Phương pháp cung cấp insulin bằng

đường uống rất khó khăn bởi protein (bản

chất insulin là protein) này bị cản trở và dễ bị

phân hủy khi nó gặp phải môi trường axit của

dạ dày. Chìa khóa cho phương pháp tiếp cận

mới này là chứa đựng insulin trong một dung

dịch chất lỏng ion chứa choline và axit

geranic sau đó được đặt bên trong một viên

nang có lớp bọc phủ chống axit.

Công thức này có sự tương thích sinh

học, dễ sản xuất và có thể bảo quản trong thời

gian là hai tháng ở nhiệt độ phòng mà không

bị giảm giá trị. Thời gian bảo quản là lâu hơn

một số sản phẩm insulin dạng tiêm hiện có

trên thị trường.

Mitragotri, thành viên chính của Viện

Kỹ thuật sinh học Wyss tại Harvard cho biết:

“Khi đưa vào bụng, insulin phải vượt qua một

trở ngại khó khăn (vượt qua môi trường axít

bên trong dạ dày) trước khi nó có thể được

hấp thụ vào máu một cách hiệu quả. Cách

Page 17: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 17/67

tiếp cận của chúng tôi giống như cuộc chiến

trong quân đội, mỗi một viên thuốc đều có

các vũ khí tấn công chống lại các chướng

ngại vật mà nó gặp phải”.

Việc gói gọn được insulin dạng lỏng

này trong một lớp phủ bọc, nhóm nghiên cứu

đã vượt qua được trở ngại đầu tiên đó là đã

vượt qua được sự phân hủy của axit trong dạ

dày ruột. Lớp phủ polymer này sẽ hòa tan khi

nó di chuyển đến được môi trường kiềm hơn

ở ruột non, đây là nơi mà chất lỏng ion mang

insulin được giải phóng.

“Khi một protein phân tử như insulin

xâm nhập vào ruột sẽ có nhiều enzyme có

chức năng phân hủy protein thành các axit

amin nhỏ hơn. Tuy nhiên, insulin dạng lỏng

ion này vẫn hoạt động chưa được ổn định”,

Amrita Banerjee, tác giả đầu tiên của nghiên

cứu, hiện làm việc tại phòng thí nghiệm của

Mitragotri, và là trợ lý giáo sư tại Đại học

bang North Dakota cho biết.

Hệ thống axit choline-geranic này

cũng được chứng minh là có khả năng lọt qua

hai rào cản cuối cùng - lớp chất nhầy lót ruột

và các tế bào nối chặt của thành ruột mà hoàn

toàn các loại phân tử lớn như insulin không

thể dễ dàng đi qua được.

Các nhà nghiên cứu khác đã nỗ lực thử

nghiệm nhiều các cách thức khác nhau để

vượt qua những rào cản này như là tái tạo lại

phân tử insulin, phủ nó trong các polyme bảo

vệ và đưa vào các chất phụ gia để ức chế sự

phân hủy của các enzyme hoặc để tăng cường

sự hấp thụ. Tuy nhiên, hiện chưa có bất kỳ

loại thuốc cung cấp insulin đường uống nào

được đưa vào thử nghiệm lâm sàng.

“Ý nghĩa của công trình nghiên cứu

này đối với y học rất lớn, những phát hiện có

thể giúp tiến tới việc tạo ra các viên insulin

dạng viên uống và các loại thuốc peptide

khác có độ an toàn và hiệu quả cho con

người”, Prausnitz, người không tham gia

nghiên cứu, cho biết.

Insulin đường uống có thể “bắt chước”

tốt cách thức mà tuyến tụy của một người

khỏe mạnh tạo ra và đưa insulin vào gan, nơi

có tới 80% được chiết xuất và phần còn lại

được lưu thông qua máu. Nó cũng có thể làm

giảm tác dụng phụ của việc tiêm insulin trong

một thời gian dài.

Banerjee cũng lưu ý rằng insulin dạng

lỏng có thể được điều chế trong một quy trình

một bước để có thể dễ dàng mở rộng cho sản

xuất công nghiệp giá rẻ, giúp dễ dàng quản lý

giá thành.

Mitragotri cho biết kế hoạch tiếp theo

của nghiên cứu là tiến hành nhiều thử nghiệm

loại thuốc này trên động vật cũng như nghiên

cứu độc tính và khả năng sử dụng lâu dài.

Nếu mọi việc suôn sẻ, việc phê chuẩn

cho các thử nghiệm lâm sàng cuối cùng ở

người sẽ dễ dàng hơn bởi trên thực tế là các

thành phần chính của thuốc bọc insulin này

(choline và axit geranic) vốn đã được coi là

an toàn.

Cục Quản lý Thực phẩm và Dược

phẩm cũng đã thiết lập liều khuyến cáo hàng

ngày của choline, một chất dinh dưỡng thiết

yếu giống như vitamin; và axit geranic, một

hóa chất tự nhiên có trong cây bạch đậu khấu

và sả, và được sử dụng rộng rãi như một chất

phụ gia thực phẩm.

Nếu nghiên cứu sâu hơn có các tiến

triển như mong đợi, cách tiếp cận này có thể

được sử dụng để phân phối các protein khác.

Văn phòng Phát triển Công nghệ của

Harvard đang tích cực theo đuổi các thời cơ

nhằm thương mại hóa cho công nghệ này, và

đang thúc đẩy sự phát triển của nó thông qua

Blavatnik Biomedical Accelerator.

Theo vista.gov.vn, 02/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 18: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 18/67

Bệnh tiểu đường tuýp 2, béo phì có thể sớm “đảo ngược” bằng liệu pháp gen

Nghiên cứu mới cho thấy liệu pháp

gen hoàn toàn có thể “đảo ngược” các dấu

hiệu của bệnh tiểu đường tuýp 2 và béo phì ở

loài gặm nhấm.

Những thay đổi nhỏ đối với gen của

chúng ta có thể sớm đảo ngược các rối loạn

chuyển hóa như bệnh béo phì và bệnh tiểu

đường tuýp 2 ở người.

Sự phổ biến của bệnh tiểu đường đang

gia tăng tại Hoa Kỳ và trên toàn cầu. Theo

ước tính gần đây, hơn 30 triệu người trưởng

thành ở Hoa Kỳ mắc bệnh tiểu đường vào

năm 2015. Mặc dù con số này tương đối ổn

định trong vài năm qua nhưng tỷ lệ mới được

chẩn đoán ở trẻ em và thanh thiếu niên có sự

tăng mạnh. Và, trên toàn thế giới, tình hình

thậm chí còn đáng báo động hơn; số người

mắc bệnh tiểu đường gần như gấp bốn lần

giữa năm 1980 và 2014, (theo số liệu của Tổ

chức Y tế Thế giới - WHO).

Hiện giờ, nhóm các nhà khoa học, dẫn

đầu bởi giáo sư Fatima Bosch, Trường Đại học

Autònoma de Barcelona (UAB) ở Catalunya,

Tây Ban Nha, đã thành công trong việc đảo

ngược tình trạng rối loạn ở loài gặm nhấm.

Nghiên cứu mới này mang lại hy vọng rất lớn

giúp điều trị căn bệnh rối loạn chuyển hóa này.

Giáo sư Bosch và các cộng sự đã ứng

dụng liệu pháp gen, một kỹ thuật đưa vật liệu

di truyền mới vào các tế bào để tạo ra các

protein có lợi hoặc để thiết lập lại các hiệu

ứng của các gen bị lỗi hỏng.

Công trình nghiên cứu đã được công

bố trên tạp chí EMBO Molecular Medicine

mới đây.

Sử dụng gen FGF21 để đảo ngược

bệnh tiểu đường

Giáo sư Bosch và nhóm nghiên cứu đã

thiết kế hai mô hình chuột béo phì và mắc

bệnh tiểu đường loại 2. Một nhóm là do chế

độ ăn uống gây ra, và một nhóm khác được

biến đổi gen.

Sử dụng một vector virus liên quan

đến adeno giống như là “chất vận chuyển”,

nhóm nghiên cứu đã phân phối được gen yếu

tố tăng trưởng nguyên bào sợi 21 (FGF21).

Gen này chịu trách nhiệm mã hóa protein

FGF21, được xem như là “chất điều chỉnh

trao đổi chất chính” đối với sự hấp thụ đường

trong mô mỡ.

Hàm lượng chất béo, tình trạng viêm và

xơ gan của chuột cũng đã hoàn toàn đảo

ngược, không có tác dụng phụ. Đổi lại, những

thay đổi này làm tăng độ nhạy insulin. Những

tác dụng có lợi này đã được ghi nhận trong cả

hai mô hình chuột. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu

phát hiện ra rằng việc phân phối FGF21 cho

những con chuột khỏe mạnh có thể ngăn chặn

sự tăng cân liên quan đến tuổi tác và lão hoá.

Liệu pháp gen được sử dụng để thay

đổi ba loại mô: mô gan, mô mỡ và cơ xương.

Theo Giáo sư Bosch giải thích: “Điều này

mang lại sự linh hoạt tuyệt vời đối với liệu

pháp, vì nó cho phép chúng ta có thể lựa chọn

từng mô phù hợp nhất, và trong trường hợp

gặp một số biến chứng ngăn cản thao tác bất

kỳ mô nào đó, nó có thể được áp dụng cho

bất kỳ mô nào khác”. "Khi một mô tạo ra

protein FGF21 và nó được tiết vào máu, nó

sẽ được phân phối khắp cơ thể", Giáo sư

Bosch cho biết thêm.

Lần đầu tiên “đảo ngược” được bệnh

béo phì, kháng insulin

Đồng tác giả nghiên cứu và các nhà

nghiên cứu UAB Claudia Jambrina giải thích

rằng phát hiện của họ đặc biệt quan trọng đối

với "tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường loại 2 và béo

phì đang tăng ở mức báo động trên toàn thế

giới”.

Nhóm nghiên cứu cũng nói rằng việc

phân phối FGF21 như một loại thuốc thông

Page 19: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 19/67

thường sẽ không mang lại lợi ích giống như

liệu pháp gen; trước hết, thuốc sẽ phải được

dùng định kỳ cho các lợi ích lâu dài, và thứ

hai, độc tính của nó sẽ cao.

Việc sử dụng liệu pháp gen là không

có tác dụng phụ, và đủ để làm cho những con

chuột tạo ra protein tự nhiên trong vài năm.

“Đây là lần đầu tiên sự hồi phục lâu

dài của bệnh béo phì và kháng insulin đã đạt

được khi dùng liệu pháp gen trong một mô

hình động vật có tình trạng bện giống như

bệnh béo phì và bệnh tiểu đường tuýp 2 ở

người”, Tác giả nghiên cứu đầu tiên Veronica

Jimenez thuộc UAB cho biết. “Các kết quả

chứng minh cho thấy đó là một liệu pháp an

toàn và hiệu quả”, bà nhấn mạnh.

Giáo sư Bosch cho biết: Các bước tiếp

theo sẽ là thử nghiệm liệu pháp này ở những

động vật lớn hơn trước khi chuyển sang thử

nghiệm lâm sàng với bệnh nhân. Liệu pháp

được mô tả trong nghiên cứu này sẽ tạo cơ sở

cho việc dịch chuyển gen FGF21 trong tương

lai để điều trị bệnh tiểu đường loại 2, béo phì

và các bệnh khác.

Theo vista.gov.vn, 17/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Lập trình tự gen giúp các nhà khoa học khai thác đất để sản xuất kháng sinh

Các nhà khoa học Hoa Kỳ đã đưa ra

một phương pháp hiệu quả hơn để tìm kiếm

các loại kháng sinh tiềm năng trong đất.

Phương pháp mới được gọi là lập trình tự

metagenomic, cho phép các nhà khoa học lập

trình tự bộ gen của nhiều vi khuẩn sống trong

một mẫu đất nhỏ.

Các nhà khoa học có thể sử dụng

phương pháp khảo sát để xác định trình tự

gen liên quan đến việc sản sinh các phân tử

có đặc tính kháng kháng sinh hoặc kháng nấm

- các cơ chế bảo vệ do vi khuẩn phát triển có

thể giúp con người chống nhiễm trùng. Nhiều

nghiên cứu cho thấy các vi khuẩn như

MRSA, E. coli và một số vi khuẩn khác ngày

càng có khả năng kháng mạnh các loại thuốc

kháng sinh phổ biến.

Để thử nghiệm phương pháp lập trình

tự bộ gen mới, các nhà khoa học đã thu thập

60 mẫu đất với mỗi mẫu nặng 10g nằm cách

mặt đất của một đồng cỏ ở Bắc California vài

inch. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng phương

pháp lập trình tự metagenomic để xác định bộ

gen của 1.000 vi khuẩn khác nhau, trong đó

phát hiện 360 loại vi khuẩn mới.

Các nhà khoa học hiện đang phân tích

các bộ gen mới được lập trình tự để tìm kiếm

các chuỗi gen liên quan đến việc sản sinh các

phân tử độc đáo và phức tạp. Các gen này có

thể được cấy vào những sinh vật khác để xem

chúng thực sự có khả năng mã hóa để tạo ra

một protein hoặc enzym có tiềm năng hữu ích

hay không. Các protein và enzyme này có thể

tạo ra những phân tử có nhiều đặc tính dược

phẩm khác nhau.

GS. Banfield cho rằng: “Hầu hết các

phân tử sinh tổng hợp mới này đều bắt nguồn

từ những vi khuẩn hiện diện nhiều nhất trong

đất, nhưng chúng không được phát hiện vì con

người không có bộ gen của chúng. Chúng tôi

hy vọng sẽ tìm được không chỉ các loại kháng

sinh mới, mà cả các loại dược phẩm mới".

Nghiên cứu đã được công bố trên tạp

chí Nature.

Theo vista.gov.vn, 02/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 20: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 20/67

Vắc xin HIV mới cho thấy an toàn và tạo ra phản ứng miễn dịch chống vi rút HIV mạnh hơn

Nghiên cứu mới được công bố trên tạp

chí The Lancet cho thấy thử nghiệm điều trị

HIV bằng vắc xin mới thu được kết quả tốt,

tạo ra được phản ứng miễn dịch chống lại

HIV mạnh, vượt trội ở người trưởng thành và

những con khỉ khỏe mạnh. Hơn nữa, vắc-xin

này còn có khả năng bảo vệ chống lại nhiễm

trùng do một chủng vi rút gây ra.

Dựa trên kết quả từ thử nghiệm lâm

sàng giai đoạn 1/2a trên gần 400 người lớn

khỏe mạnh và giai đoạn thử nghiệm 2b được

tiến hành ở miền Nam châu Phi nhằm xác

định sự an toàn và hiệu quả của vắc-xin HIV-

1 ở 2.600 phụ nữ có nguy cơ nhiễm HIV thì

đây là 1 trong 5 loại vắc xin HIV-1 có kết quả

đáp ứng tốt ở người trong suốt 35 năm đại

dịch HIV/AIDS toàn cầu.

Các ứng cử viên vắc-xin HIV-1 trước

đây thường chỉ giới hạn thử nghiệm ở các khu

vực cụ thể trên thế giới. Phác đồ điều trị thử

nghiệm được dùng trong nghiên cứu này dựa

vào vắc-xin mosaic (vắcxin Mosaic gồm rất

nhiều chất tổng hợp, các chuỗi prôtêin đã

được lập trình qua hệ thống máy tính. Nhờ đó

có thể khiến cho hệ miễn dịch cơ thể chống

lại được sự xâm nhập của virút HIV, đồng

thời ngăn sự biến đổi của chúng) để lấy các

chuỗi vi rút HIV khác nhau và kết hợp chúng

để kích thích tạo ra các phản ứng miễn dịch

chống lại nhiều chủng HIV khác nhau.

Dan Barouch, giáo sư y khoa tại

Trường Đại học Y Harvard, Boston, Mỹ,

Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Vaccine và

Virolog tại Trung tâm Y tế Beth Israel

Deaconess và là người đứng đầu công trình

nghiên cứu này cho biết: “Kết quả nghiên cứu

này là một cột mốc quan trọng”. Nghiên cứu

này đã chứng minh được nguyên tố Ad26

mosaic, Ad26 plus gp140 thúc đẩy vắc-xin

HIV tạo phản ứng miễn dịch mạnh ở người và

khỉ với động học, kiểu hình, độ bền có thể so

sánh được.

“Tuy nhiên các kết quả nghiên cứu cần

được giải thích cẩn trọng bởi những thách

thức trong việc phát triển vắc-xin HIV là rất

lớn, và khả năng tạo ra các đáp ứng miễn

dịch đặc hiệu với HIV không hẳn sẽ cho thấy

rằng vắc-xin sẽ bảo vệ con người khỏi bị

nhiễm HIV. Kết quả của thử nghiệm hiệu quả

của vắc xin giai đoạn 2b được gọi là

HVTN705, hay 'Imbokodo', sẽ quyết định xem

vắc-xin này có bảo vệ con người chống lại

HIV hay không”, ông nhấn mạnh.

Hiện có gần 37 triệu người trên toàn

thế giới đang sống chung với HIV/AIDS, với

khoảng 1,8 triệu trường hợp mới mỗi năm.

Vắc-xin để phòng ngừa bệnh an toàn và hiệu

quả là rất cần thiết để “chống lại” đại dịch

HIV này.

Suốt 35 dịch bệnh HIV, chỉ có 4 loại

vắc-xin HIV đã được thử nghiệm ở người, và

chỉ có 1loại cho thấy hiệu quả đó là phác đồ

vắc-xin canarypox, phác đồ vắc-xin tăng

gp120 được thử nghiệm trong thử nghiệm

RV144 ở Thái Lan. Phác đồ này đã giảm tỷ lệ

nhiễm trùng ở người xuống 31% nhưng hiệu

quả được coi là quá thấp để thúc đẩy áp dụng

phổ biến loại vắc-xin này.

Một trở ngại chính đối với việc phát

triển vắc-xin HIV là thiếu sự so sánh trực tiếp

giữa các thử nghiệm lâm sàng và nghiên cứu

tiền lâm sàng. Để giải quyết các vấn đề về

phương pháp luận này, Barouch và các đồng

nghiệp đã đánh giá các ứng cử viên vaccine

HIV-1 gốc adenovirus serotype 26 (Ad26)

trong các nghiên cứu tiền lâm sàng và lâm

sàng song song nhằm xác định phác đồ

vaccine HIV tối ưu để đề xuất ra các thử

nghiệm lâm sàng có hiệu quả cao.

Page 21: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 21/67

Cuộc thử nghiệm APPROACH từ

tháng 2/2015 đến tháng 10/2015 đã tuyển

chọn được 393 người lớn khỏe mạnh, không

nhiễm HIV (18-50 tuổi) từ 12 bệnh viện ở

Đông Phi, Nam Phi, Thái Lan và Hoa Kỳ.

Các tình nguyện viên này được phân bổ tiếp

nhận một trong bảy kết hợp vắc-xin hoặc giả

dược một cách ngẫu nhiên, và được tiêm bốn

lần trong vòng 48 tuần.

Để kích thích tạo ra đáp ứng miễn dịch

ban đầu, mỗi người tình nguyện được tiêm

bắp nguyên tố Ad26.Mos.HIV vào lúc bắt

đầu nghiên cứu và 12 tuần sau đó. Vắc xin có

chứa kháng nguyên HIV 'Env / Gag / Pol'

được tạo ra từ nhiều chủng HIV, được phân

phối bằng cách sử dụng một loại virus không

lạnh thông thường (Ad26).

Để thúc đẩy mức độ đáp ứng miễn

dịch của cơ thể, các tình nguyện viên đã được

tiêm bổ sung hai lần vào tuần 24 và 48 bằng

cách sử dụng các kết hợp khác nhau của

Ad26.Mos.HIV hoặc một thành phần vắc xin

khác được gọi là Modified Vaccinia Ankara

(MVA) có hoặc không có hai liều clade C

HIV gp140 envelope chứa chất bổ trợ nhôm

khác nhau.

Kết quả cho thấy tất cả các phác đồ

vắc-xin thử nghiệm này đều có khả năng tạo

ra phản ứng miễn dịch tốt chống HIV ở

những người khỏe mạnh và được dung nạp

tốt, với số lượng phản ứng cục bộ và hệ thống

tương tự ở tất cả các nhóm, phần lớn là nhẹ

đến trung bình. Có duy nhất 5 người tham gia

báo cáo xuất hiện triệu chứng phụ có hại liên

quan đến vắc xin như đau bụng và tiêu chảy,

chóng mặt và đau lưng. Không có các trường

hợp nguy hại hoặc tử vong nào được báo cáo.

Trong một nghiên cứu song song, các

nhà nghiên cứu đã đánh giá tính miễn dịch và

hiệu quả bảo vệ của cùng một phác đồ vắc-

xin mosaic gốc Ad26 ở 72 con khỉ rhesus

bằng cách dùng một loạt các thách thức lặp đi

lặp lại với vi rút suy giảm miễn dịch ở người

(SHIV) - một loại vi rút tương tự HIV lây

nhiễm sang khỉ.

Ứng viên vắc-xin Ad26/Ad26 plus

gp140 đã tạo ra phản ứng miễn dịch lớn nhất

ở người và cũng cung cấp sự bảo vệ tốt nhất ở

khỉ, giúp bảo vệ hoàn toàn chống lại nhiễm

SHIV ở 2/3 số khỉ được tiêm chủng sau sáu

thử thách.

Các tác giả cũng lưu ý một số hạn chế

bởi trên thực tế là mối quan hệ giữa sự bảo vệ

của vắc-xin ở khỉ với hiệu quả lâm sàng ở

người vẫn chưa rõ ràng. Họ cũng lưu ý rằng

chưa có phép đo miễn dịch tối ưu nào được

biết đến để dự đoán sự bảo vệ chống lại HIV-

1 ở người.

Các thử nghiệm mức hiệu quả của vắc

xin là một quá trình quan trọng vì việc phát

triển vắc-xin phòng bệnh AIDS vẫn còn cấp

bách mặc dù đã những tiến bộ chưa từng có

trong điều trị HIV và dự phòng bởi số người

nhiễm HIV vẫn tiếp tục tăng trên toàn thế giới.

Việc bổ xung ngay cả loại vắc xin có

mức hiệu quả vừa phải cùng với các chiến

lược điều trị và phòng ngừa HIV hiện có sẽ

đóng góp lớn vào việc phòng ngừa điều trị

căn bệnh thế kỷ hiện ngày càng phát triển

mạnh này. Đồng thời, việc theo đuổi nhiều

chiến lược phát triển vắc-xin tiếp tục ở mọi

giai đoạn là hết sức cần thiết.

Nghiên cứu này do Trung tâm Vắc xin

& Phòng chống BV Janssen, Viện Y tế Quốc

gia Hoa Kỳ, Viện Ragon MGH, MIT và

Harvard, Quỹ Henry M Jackson vì sự tiến bộ

của Y học quân sự, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ

và Sáng kiến Vắc-xin AIDS Quốc tế tài trợ.

Theo vista.gov.vn, 12/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 22: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 22/67

Phương pháp xét nghiệm máu có giá chỉ 20USD có thể hỗ trợ chẩn đoán bệnh viêm gan B toàn khu vực châu Phi

Một phương pháp xét nghiệm máu

đơn giản chỉ có giá 20$ có thể giúp chẩn

đoán cho hàng ngàn bệnh nhân viêm gan B

cần được điều trị tại một số vùng nghèo nhất

châu Phi.

Viêm gan do vi-rút là một vấn đề sức

khỏe lớn đối với toàn cầu vào năm 2013, ước

tính có khoảng 1.45 triệu người chết do vi-rút

này. Đây là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu

thứ bảy trên toàn thế giới và khoảng một nửa số

ca tử vong là do nhiễm vi-rút viêm gan B.

Vi-rút viêm gan B lây nhiễm cho

khoảng 250 triệu người trên toàn thế giới, và

nó lây truyền qua đường truyền máu và chất

dịch cơ thể. Ở châu Phi, nó thường được

truyền từ mẹ sang con trong khi sinh hoặc ở

chính những trẻ em. Tuy nhiên, vi-rút không

gây ra triệu chứng tức thời, và nó có thể vẫn

không bị phát hiện trong cơ thể trong nhiều

thập kỷ cho đến khi gây ra các biến chứng

nghiêm trọng như tổn thương gan (xơ gan) và

ung thư.

Khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi

bệnh viêm gan B là Tiểu vùng Sahara châu Phi,

nơi có khoảng 80 triệu người bị nhiễm bệnh.

Các nhà nghiên cứu đã phát triển được

bộ chuẩn đoán chính xác bao gồm các xét

nghiệm máu có chi phí rất rẻ giúp chẩn đoán

chính xác bệnh nhân cần lập tức điều trị

chống lại siêu vi khuẩn viêm gan B gây chết

người hoặc có thể dẫn đến tổn thương gan

hoặc bệnh ung thư.

Bộ chẩn đoán này gồm 2 xét nghiệm

máu đơn giản: một xét nghiệm đo số lượng sự

hiện diện của các kháng nguyên, protein được

tạo ra bởi vi-rút và một xét nghiệm khác là đo

các enzym sản xuất ra bởi gan trong phản quá

trình phản ứng lại, để đánh giá chính xác

bệnh nhân cần điều trị.

Bộ xét nghiệm này được xác định là

chính xác như các phương pháp hiện có để xác

định bệnh nhân cần ngay tức thì được điều trị

và có chi phí chỉ bằng một phần chi phí xét

nghiệm cũ. Cụ thể là chỉ mất 20 đô la so với

100-500 đô la cho các xét nghiệm hiện tại.

Nó cũng dễ dàng giúp mọi người tiếp

cận hơn nhiều so với các phương pháp hiện

có - chẳng hạn như sinh thiết gan hoặc HBV

DNA, một phân tích mẫu máu phức tạp - đòi

hỏi nguồn lực và phòng thí nghiệm không

phải lúc nào cũng có thể tiếp cận được ở vùng

Sahara, châu Phi

Các nhà nghiên cứu từ trường Đại học

Hoàng gia London và Hội đồng nghiên cứu Y

khoa Gambia thuộc Trường Vệ sinh & Y học

Nhiệt đới London, phối hợp với Viện Pasteur

ở Paris và các tổ chức từ thiện của châu Phi

và châu Âu khác, đã sử dụng dữ liệu từ hàng

trăm bệnh nhân viêm gan B ở Gambia, là

những bệnh nhân thuộc một phần trong

nghiên cứu PROLIFICA (Phòng chống xơ

gan và ung thư ở châu Phi) để thực hiện

nghiên cứu này.

Dữ liệu lâm sàng từ hơn 800 bệnh

nhân viêm gan B, những người đã được xét

nghiệm thông qua chương trình PROLIFICA,

đã được sử dụng để phát triển bộ xét nghiệm

mới này.

Các thử nghiệm sau đó được xác nhận

cùng với dữ liệu từ các bệnh nhân châu Phi ở

Senegal, Burkina Faso, Đức, Pháp và Anh.

Các kết quả nghiên cứu được công bố trên

Tạp chí Hepatology mới đây.

Xét nghiệm chẩn đoán mới này, được

gọi là TREAT-B, có khả năng xác định chính

xác 85% bệnh nhân HBV dương tính cần điều

trị và xác định chính xác 77% trường hợp

những người không cần điều trị.

Page 23: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 23/67

Các nhà khoa học nói rằng cần nghiên

cứu sâu hơn nữa. Tuy nhiên nếu xét nghiệm

thành công trong các nghiên cứu lớn hơn, nó

có thể được sử dụng rộng rãi để xác định

bệnh nhân cần điều trị viêm gan B và có thể

điều trị cứu sống hàng ngàn người. Xét

nghiệm này cũng có thể được phát triển xa

hơn nữa tương tự như xét nghiệm chích máu

đầu ngón tay - xét nghiệm được sử dụng để

phát hiện HIV, để có kết quả nhanh hơn.

Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra

rằng phương pháp chẩn đoán này đáp ứng ở

tất cả các giai đoạn của bệnh - có nghĩa là

những người trong giai đoạn đầu của bệnh

gan không có triệu chứng cũng có thể được

sàng lọc và xác định bệnh.

Tiến sĩ Maud Lemoine, đồng tác giả

của nghiên cứu, cho biết: “Những kết quả thu

được này cho thấy bộ thử nghiệm đơn giản và

rẻ tiền này là một giải pháp chuẩn đoán

chính xác, tiết kiệm cho bệnh bệnh nhân cần

điều trị viêm gan B ở những nước có nguồn

lực hạn chế”.

“Điều này có khả năng giúp chẩn đoán

và sau đó điều trị hàng ngàn người trên khắp

châu Phi”, ông nhấn mạnh.

Đồng tác giả nghiên cứu, Yusuke

Shimakawa (Viện Pasteur) cho biết: “Một khi

những kết quả này được xác nhận bằng các

nghiên cứu sâu hơn, chúng có thể được tích

hợp vào các hướng dẫn của WHO và hướng

dẫn địa phương và có thể là công cụ được

thực hiện tại phòng khám. Nó sẽ có nhiều

tiềm năng chẩn đoán cho nhiều người bệnh

hơn và cải thiện khả năng tiếp cận điều trị”.

Theo vista.gov.vn, 06/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Sử dụng vết máu tại hiện trường phạm tội để xác định tuổi của nạn nhân

Phân tích máu từ lâu đã là một trong

những công cụ quan trọng nhất của các nhà

khoa học pháp y. Giờ đây, một xét nghiệm

máu mới do Igor Lednev và các cộng sự tại

trường Đại học Albany triển khai, có triển

vọng xác định tuổi của nạn nhân hoặc đối

tượng tình nghi dựa vào các mẫu thu thập từ

hiện trường vụ án trong vòng một giờ.

Nếu không có mẫu máu, việc điều tra

sẽ gặp khó khăn hơn nhiều. Một người bình

thường có khoảng 4,7 - 5,5 lít máu, máu có

xu hướng văng ra khắp nơi tại hiện trường

phạm tội khi tội phạm gây án. Đây chính là

một kho tàng cung cấp thông tin thực tế. Dựa

vào cách máu bắn ra tại hiện trường, điều tra

viên có thể suy luận nhiều về các sự kiện đã

xảy ra, nguyên nhân tử vong và nghi phạm

nếu có. Khi mẫu máu được đưa trở lại phòng

thí nghiệm, các điều tra viên sẽ thu thập thêm

nhiều thông tin như đây có phải máu người

không, chủng tộc và giới tính của nghi phạm

hoặc nạn nhân, mức độ nhiễm độc hoặc sử

dụng thuốc, tình trạng sức khỏe chung và (xác

định xem mẫu máu phù hợp có nằm trong cơ

sở dữ liệu hay không) cung cấp ID đáng tin

cậy như dấu vân tay.

Tuy nhiên, mẫu máu được thu thập từ

hiện trường không cung cấp thông tin về tuổi

thọ của người đang được tìm kiếm, đây là

điều rất quan trọng trong nhiều trường hợp để

tạo niềm tin hoặc trả tự do cho người vô tội.

Lý do là vì để xác định tuổi của một người,

bạn cần phải có một yếu tố thay đổi theo thời

gian. Kỹ thuật phổ biến nhất là xem xét răng

và xương của một người. Sự phát triển của

răng, cách răng mọc và bệnh lý cho biết rất

nhiều thông tin về tuổi của một người. Xương

cũng được chú ý trong khám nghiệm tử thi và

tia X có thể xác định sự phát triển của xương,

cách xương hợp nhất khi một người lớn và

trưởng thành và cách môi trường ảnh hưởng

đến xương.

Page 24: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 24/67

Tuy nhiên, với máu hơi phức tạp hơn

một chút. Nhóm nghiên cứu đang tìm kiếm

thành phần trong máu người thay đổi khi một

người già đi và có thể được xác định và định

lượng tại phòng thí nghiệm trong thời gian rất

ngắn. Các nhà nghiên cứu đã xác định được

hemoglobin - phân tử protein phức tạp được

tìm thấy trong các tiểu thể màu đỏ vận

chuyển ôxy khắp cơ thể và tạo cho máu màu

đỏ. Nhưng điều thu hút sự quan tâm của các

nhà khoa học là sự thay đổi hemoglobin khi

một người lớn lên.

Kỹ thuật mới của nhóm nghiên cứu

dựa vào quang phổ Raman, nơi mẫu máu

được chiếu bằng chùm tia laser, khiến cho các

nguyên tử trong mẫu chuyển sang trạng thái

năng lượng khác nhau. Khi chúng trở lại bình

thường, bức xạ điện từ phát ra cho phép cán

bộ điều tra xác định thành phần và cấu trúc

của các phân tử. Cụ thể, nhóm nghiên cứu

đang tìm kiếm các tiểu đơn vị phân tử trong

hai loại hemoglobin - hemoglobin trong bào

thai (HbF) được tìm thấy ở trẻ sơ sinh và

hemoglobin ở người lớn (HbA). Khi một

người lớn lên, tỷ lệ HbF/HbA tăng ít hơn, do

đó, các nhà nghiên cứu đã lấy mẫu từ các tình

nguyện viên trong ba nhóm tuổi - trẻ sơ sinh,

thiếu niên và người trưởng thành. Sau đó, các

hemoglobin được đưa qua quang phổ Raman

và tỷ lệ HbF/HbA trong các tế bào hồng cầu

trên 100 ml máu được đo lường.

Đến nay, nhóm nghiên cứu có thể xác

định các mẫu ở người lớn và thiếu niên với độ

chính xác là 99% và với trẻ sơ sinh là 100%.

Quá trình này có ưu điểm diễn ra nhanh và

không phá hủy. Ngoài ra không cần chuẩn bị

mẫu, có nghĩa là nó có thể được sử dụng

trong lĩnh vực này cùng với các xét nghiệm

thông thường. Bước tiếp theo các nhà khoa

học sẽ điều chỉnh thử nghiệm với hy vọng thu

hẹp kết quả đến độ tuổi cụ thể hơn. Nghiên

cứu đã được công bố trên tạp chí ACS

Central Science.

Theo vista.gov.vn, 04/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Parkinson có thể sớm được điều trị bằng thuốc huyết áp

Isradipine là loại thuốc chống tăng

huyết áp, đang là một phương pháp mới giúp

điều trị tiềm năng cho bệnh Parkinson. Cho

đến nay, vẫn chưa rõ liệu việc dùng thuốc

trong cơ thể có mang lại lợi ích như nhau hay

không và nghiên cứu mới chỉ ra rằng nó có

tác dụng. Isradipine là chất ức chế kênh canxi

dùng để điều trị chứng tăng huyết áp. Những

kết quả nghiên cứu trước đây, cho thấy dùng

thuốc có tỷ lệ mắc bệnh Parkinson thấp hơn,

vì vậy các nhà khoa học muốn kiểm tra nó

chặt chẽ. Các xét nghiệm khác cho thấy thuốc

bảo vệ các tế bào thần kinh sản xuất dopamin

bị ảnh hưởng ở bệnh Parkinson.

Nghiên cứu mới cho thấy việc điều trị

chuột bằng thuốc bảo vệ các tế bào thần kinh

dopaminergic của loài gặm nhấm có tác dụng.

Giáo sư D. James Surmeier và nhóm nghiên

cứu đến từ Hoa Kỳ, đã cho chuột dùng

isradipine trong 7-10 ngày. Sau đó, họ sử

dụng kỹ thuật chụp ảnh định lượng được gọi

là kính hiển vi quét bằng laser hai photon, và

đo lượng canxi bên trong các tế bào thần kinh

sản xuất dopamine. Các xét nghiệm cho thấy

thuốc đã làm giảm mức canxi trong các tế bào

này. Điều này rất quan trọng vì các kênh

canxi kích thích ty thể của các tế bào thần

kinh dopaminergic, đôi khi làm cho các tế

bào não này hoạt động quá mức.

Giáo sư Surmeier cho biết: Điều này

xảy ra do vai trò tiến hóa của các tế bào thần

kinh dopaminergic. Những tế bào này là chìa

khóa để kích hoạt các vùng não chịu trách

nhiệm cho phản ứng nhanh, rất hữu ích trong

các tình huống "chống lại hoặc bỏ chạy". Tuy

Page 25: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 25/67

nhiên, để hoàn thành vai trò năng lượng lớn

này, các tế bào thần kinh này cần phải giữ cho

ty thể hoạt động hết công suất ở mọi thời

điểm. Ty thể là các bào quan nhỏ bên trong

những tế bào chịu trách nhiệm biến chất béo

và chất dinh dưỡng thành năng lượng, hoặc

nhiên liệu cho tế bào.

Nhưng trong nghiên cứu này, isradipin

ức chế các kênh canxi, làm chậm hoạt động

của ty lạp thể và giảm sản xuất các hợp chất

độc hại. Ngoài ra, sau khi điều trị bằng

isradipin, ty thể của các tế bào thần kinh sản

xuất dopamine có mức độ oxy hóa thấp hơn

những tế bào không được điều trị. Các nhà

khoa học cũng phát hiện ra rằng mất cân bằng

oxi hóa cao trong các tế bào thần kinh

dopaminergic đã phá huỷ ty thể của tế bào.

Tuy nhiên, khi chuột được điều trị bằng

isradipine làm giảm tổn thương ty thể này.

Giáo sư Surmeier nói: “Chúng tôi đã

giảm thiểu thiệt hại cho ty thể để các tế bào

thần kinh dopaminergic trông giống như các

tế bào thần kinh không bị mất trong bệnh

Parkinson. Và điều quan trọng hơn cả là

thuốc không gây ra bất kỳ tác dụng phụ nào”.

Những phát hiện này củng cố nỗ lực của một

thử nghiệm lâm sàng toàn quốc hiện đang thử

nghiệm isradipine ở người. Cuộc thử nghiệm,

gọi là STEADY-PD, hiện đang trong giai

đoạn thứ ba và nó đang được thực hiện tại

Đại học Y Northwestern và 50 địa điểm khác

tại Hoa Kỳ. Những dữ liệu này cung cấp thêm

lý do chính đáng tiền lâm sàng cho nghiên

cứu giai đoạn III đang diễn ra của isradipine ở

bệnh nhân. Chúng ta cần thận trọng vì nhiều

loại thuốc đã thất bại, nhưng nếu thành công,

isradipine sẽ là thuốc đầu tiên chứng minh

khả năng làm chậm sự tiến triển của bệnh

Parkinson.

Nghiên cứu này đã được công bố trên

Tạp chí Journal of Clinical Investigation.

Theo vista.gov.vn, 10/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Mỹ phát triển thuốc cải lão hoàn đồng, kéo dài 1/3 tuổi thọ

Theo tạp chí Nature Medicine, các nhà

sinh học phân tử Mỹ đã bào chế được một

loại thuốc có tên senolytics phá hủy có chọn

lọc các tế bào lão hóa trong cơ thể động vật,

kéo dài tuổi thọ của chúng lên khoảng 1/3.

Felipe Sierra, nhà sinh học từ Viện

Lão hóa quốc gia ở Bethesda, Mỹ, cho biết

rằng “Đây là một phát hiện tuyệt vời, nghiên

cứu này cho thấy các loại thuốc cải lão hoàn

đồng có thể chống lại những ảnh hưởng của

lão hóa, ít nhất là trong cơ thể của chuột.

Chúng tôi cần tiến hành các thí nghiệm bổ

sung để hiểu các chất này an toàn như thế nào

đối với cơ thể người”.

Được biết, các tế bào phôi và tế bào

gốc phôi thai hầu như bất tử về mặt sinh học -

chúng có thể sống gần như vô thời hạn trong

môi trường sống đầy đủ và chia sẻ vô tận.

Nhưng, các tế bào của cơ thể người lớn dần

mất khả năng phân chia sau 40-50 chu kỳ rồi

đi vào giai đoạn lão hóa. Theo các nhà khoa

học, bằng cách đó, các tế bào bảo vệ bản thân

chúng và cả cơ thể khỏi bệnh ung thư, ngừng

phân chia tại một thời điểm khi xác suất đột

biến trong bộ gien đạt đến một mức độ tới

hạn nhất định.

Các nhà sinh học ở bệnh viện Mayo tại

Rochester, Mỹ, đã tiến hành thử nghiệm trên

những con chuột có ADN được cài một hệ

đặc biệt cho phép các nhà khoa học loại bỏ

một cách có chọn lọc các tế bào già cỗi. Sự

phá hủy các tế bào lão hóa giúp kéo dài 1/3

tuổi thọ của chuột thí nghiệm và bảo vệ

chúng chống lại nhiều căn bệnh liên quan đến

tuổi tác, kể cả từ việc teo nhão cơ bắp.

Giải quyết thành công vấn đề này

khiến James Kirkland và các đồng nghiệp tại

bệnh viện Mayo nghĩ đến khả năng thu kết

quả như vậy khi can thiệp vào hoạt động của

ADN. Các nhà khoa học đã bắt đầu thử

nghiệm trên loài động vật gặm nhấm bằng

cách tiêm các mẻ nuôi cấy tế bào bị lão hóa

Page 26: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 26/67

vào cơ thể chúng. Rồi khi ở những con chuột

thí nghiệm xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên

của quá trình lão hóa sớm, các nhà sinh học

lại tiêm vào cơ thể chúng một hỗn hợp gồm

hai chất – dasatinib thuốc trị bệnh bạch cầu

và quercetin, một một loại flavonoid có vị

đắng của hành tây cùng sắc tố thực vật đỏ.

Chất đầu tiên, như được chứng minh

qua các thí nghiệm sơ bộ trên các mô nuôi

cấy trong ống nghiệm, đã phá hủy các tế bào

già cỗi, còn chất thứ hai - làm giảm mức độ

viêm do tác động của dasatinib.

Các thí nghiệm đã chỉ ra rằng ngay cả

liều lượng nhỏ của các chế phẩm này cũng

giúp làm trẻ hóa đáng kể những con chuột thí

nghiệm và trả lại cho chúng sự năng động đặc

trưng cho các con chuột trẻ. Sau khi đạt được

thành công, các nhà sinh học đã thử nghiệm

hỗn hợp thuốc cải lão hoàn đồng mà họ gọi là

cenolitics này vào cơ thể của những con chuột

bình thường.

Hóa ra, cả trong trường hợp này cũng

thu được hiệu ứng tích cực. Những con chuột

già được tiêm hỗn hợp dasatinib và quercetin

đều sống lâu hơn 36% so với đồng loại trong

nhóm đối chứng. Đồng thời, xác suất tử vong

của chúng giảm 65%, có nghĩa là dung dịch

trên không chỉ loại bỏ các biểu hiện bên ngoài

của tuổi già, khiến loài gặm nhấm di chuyển

tích cực hơn, mà còn thực sự kéo dài tuổi thọ

của chúng.

Cả hai hợp chất dasatinib và quercetin,

như các nhà khoa học nhận xét, đều được sử

dụng trong thực hành y tế như loại thuốc

nhuộm và phụ gia thực phẩm trong một thời

gian dài. Điều này mở ra hy vọng cenolithics

có thể nhanh chóng trở thành liều thuốc cải

lão hoàn đồng không quá đắt đỏ.

Theo motthegioi.vn, 13/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Loại thuốc mới có thể ngăn ngừa hoặc đảo ngược ảnh hưởng do chứng mất trí và đột quỵ

Bệnh mạch máu não nhỏ (SVD) là một

trong những nguyên nhân phổ biến nhất liên

quan đến chứng mất trí và đột quỵ do tuổi tác.

Đây là nghiên cứu mới, do Đại học Edinburgh

đứng đầu đã phát hiện ra cơ chế mà SVD gây

ra tổn thương tế bào não, cũng như một

phương pháp điều trị tiềm năng để ngăn chặn

thiệt hại và thậm chí có thể đảo ngược nó.

SVD được cho là ảnh hưởng đến 45% trường

hợp sa sút trí tuệ, và đại đa số những người ở

tuổi cao niên có biểu hiện của một số dấu hiệu

về tình trạng này. Một nghiên cứu nổi bật lên

tới 95% các đối tượng trong độ tuổi từ 60 đến

90 cho thấy một số dấu hiệu của bệnh SVD

khi được kiểm tra qua quét MRI.

Nghiên cứu mới này đã kiểm tra các

đặc điểm bệnh lý sớm của bệnh mạch máu

não nhỏ và thấy rằng rối loạn chức năng trong

các tế bào nội mô là dấu hiệu đầu tiên của sự

tiến triển thoái hóa của bệnh. Đây là những tế

bào xếp các mạch máu nhỏ trong não và trong

giai đoạn đầu của bệnh SVD, chúng tiết ra

một protein làm suy yếu sản xuất myelin -

hợp chất cần thiết cho việc bảo vệ tế bào não.

Giả thiết là nếu rối loạn chức năng tế bào nội

mô này có thể được sửa chữa thì tổn thương

não sau đó từ bệnh mạch máu não nhỏ có thể

được ngăn chặn. Nghiên cứu đã điều trị thành

công trên những con chuột có mắc bệnh SVD

được cho sử dụng các loại thuốc ổn định rối

loạn chức năng tế bào nội mô. Không chỉ có

triệu chứng của bệnh mạch máu não nhỏ biến

mất mà, trong giai đoạn đầu của bệnh, việc

điều trị đã cho kết quả đảo ngược những ảnh

hưởng liên quan đến não.

Page 27: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 27/67

Tác giả nghiên cứu Anna Williams cho

biết: "Nghiên cứu quan trọng này giúp chúng

ta hiểu tại sao bệnh mạch máu não nhỏ lại

xảy ra, cung cấp mối liên hệ trực tiếp giữa

các mạch máu nhỏ và những thay đổi trong

não liên quan đến bệnh mất trí nhớ. Cho thấy

thay đổi này có thể đảo ngược, điều này mở

đường cho các phương pháp điều trị tiềm

năng”. Đây là giai đoạn đầu của nghiên cứu,

với những hiệu ứng chỉ được chứng minh

trong các mô hình động vật, nhưng rối loạn

chức năng tế bào nội mô cơ bản này đã được

quan sát thấy trong trường hợp của con người

với bệnh mạch máu não nhỏ không triệu

chứng sớm. Nhóm nghiên cứu, hy vọng

nghiên cứu này giúp chuyển sang phương

pháp điều trị có thể tạo ra một loại thuốc sớm

hoặc thậm chí là phòng ngừa hạn chế tác

dụng thoái hóa gây hại của bệnh mạch máu

não nhỏ.

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí

Science Translational Medicine.

Theo vista.gov.vn, 17/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Miếng dán có thể đo cortisol trong mồ hôi giúp phát hiện bệnh

Các nhà nghiên cứu đã phát triển một

miếng dán nguyên mẫu dùng để đo hàm

lượng cortisol, một loại hormon stress, trong

mồ hôi giúp phát hiện nhiều bệnh.

Miếng dán này có thể co giãn, đặt trực

tiếp trên da, phát hiện mồ hôi và đánh giá

lượng cortisol một người sản sinh ra là bao

nhiêu. Các nhà khoa học ĐH Stanford do

Alberto Salleo dẫn đầu đã công bố nghiên

cứu này trên tờ Science Advances.

Hiện nay, bệnh nhân cần mất vài ngày

chờ lấy kết quả từ phòng xét nghiệm để biết

tuyến thượng thận hoặc tuyến yên của họ có

hoạt động thích hợp hay không.

Tiến sĩ Onur Parlak, một nhà nghiên

cứu sau tiến sĩ tại phòng thí nghiệm Salleo,

cho biết: “Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến

mồ hôi, vì nó cung cấp sự giám sát không

xâm lấn và liên tục các dấu ấn sinh học khác

nhau cho một loạt các tình trạng sinh lý. "Kết

quả nghiên cứu này cung cấp một phương

pháp mới để phát hiện sớm các bệnh khác

nhau và đánh giá hiệu suất thể thao."

Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng những

người bị mất cân bằng có thể theo dõi tình

trạng của mình.

Họ cho biết: "Các cảm biến sinh học

có thể đeo nhằm thay thế hệ thống chăm sóc

sức khỏe tập trung ở bệnh viện bằng các chẩn

đoán có thể thực hiện tại nhà để giảm bớt chi

phí chăm sóc sức khỏe và thời gian chẩn đoán

bằng cách cung cấp phân tích trong thời gian

thực, không xâm lấn”.

Một thách thức trong việc phát triển

một cảm biến cho mồ hôi là cortisol không có

điện tích dương hay âm.

Các nhà khoa học đã chế tạo cảm biến

hình chữ nhật xung quanh một lớp màng chỉ

kết dính với cortisol và hút mồ hôi qua các lỗ

ở đáy miếng dán. Mồ hôi tập trung trong một

rãnh chứa và nó được đậy bằng lớp màng

nhạy với cortisol. Một lớp chống thấm bảo vệ

miếng dán khỏi bị ô nhiễm..

Parlak kiểm tra thiết bị trên hai tình

nguyện viên, những người đã chạy trong 20

phút với các miếng dán trên cánh tay của họ.

Trong các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm

và trong thế giới thực cho kết quả tương tự

nhau. Miếng dán được kết nối với thiết bị để

phân tích. Các nhà nghiên cứu muốn phát

triển miếng dán thành một hệ thống tích hợp

đầy đủ và có thể tái sử dụng nhiều lần.

Theo dantri.com.vn, 24/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 28: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 28/67

Cải tiến cảm biến sinh học cấy dưới da

Các nhà khoa học tại trường Đại học

Bách khoa liên bang Lausanne (EPFL), Thụy

Sỹ đã phát triển thiết bị cảm biến sinh học

ống nano mới bằng phương pháp sinh học

tổng hợp, giúp cải thiện khả năng cảm ứng

của chúng trong môi trường dịch lỏng sinh

học phức tạp trong cơ thể con người như máu

và nước tiểu. Nghiên cứu được công bố trên

tạp chí Physical Chemistry Letters.

Cảm biến sinh học mới là thiết bị tích

hợp có khả năng phát hiện các phân tử sinh

học trong không khí, nước hoặc máu. Công

nghệ này được ứng dụng rộng rãi trong

nghiên cứu phát triển thuốc, chẩn đoán y tế và

nghiên cứu sinh học. Hiện nay, nhu cầu sử

dụng dấu ấn sinh học ngày càng trở nên phổ

biến, giúp theo dõi liên tục các loại bệnh lý

theo thời gian thực, trong đó có bệnh tiểu

đường, từ đó, dẫn đến nỗ lực phát triển các

thiết bị cảm biến sinh học cầm tay hiệu quả.

Một số loại cảm biến sinh học quang

học hứa hẹn nhất hiện đang được phát triển

được chế tạo bằng phương pháp sử dụng các

ống nano cacbon đơn vách. Sự phát xạ ánh

sáng cận hồng ngoại ở các ống nano cacbon

xảy ra bên trong cửa sổ trong suốt quang học

của vật liệu sinh học. Điều này có nghĩa là

nước, máu và mô như da không hấp thụ ánh

sáng phát ra, khiến cho cảm biến sinh học trở

nên lý tưởng đối với các ứng dụng cảm biến

cấy ghép. Những cảm biến này do đó có thể

được cấy bên dưới lớp da và tín hiệu quang

học vẫn có thể được phát hiện mà không cần

sử dụng các tiếp điểm điện xuyên qua bề mặt.

Tuy nhiên, sự có mặt của muối trong

các dịch lỏng sinh học được xem là một thách

thức phổ biến trong nghiên cứu và thiết kế các

thiết bị cấy ghép. Trên thực tế, sự thay đổi

nồng độ muối tự nhiên xảy ra trong cơ thể đã

được chứng minh là có ảnh hưởng đến độ

nhạy và độ chọn lọc của cảm biến quang học

dựa trên các ống nano cacbon đơn vách được

bao bọc bởi ADN sợi đơn.

Để khắc phục vấn đề này, nhóm

nghiên cứu từ phòng thí nghiệm của Ardemis

Boghossianat, EPFL đã thiết kế các cảm biến

ống nano quang ổn định bằng phương pháp

sinh học tổng hợp. Việc sử dụng phương pháp

này mang lại tính ổn định cao cho các cảm

biến sinh học quang học, thích hợp sử dụng

trong các ứng dụng sinh học sử dụng dịch

lỏng phức tạp như máu hoặc nước tiểu và các

chất dịch khác bên trong cơ thể con người.

Ardemis Boghossian cho biết: “Chúng

tôi bọc axit 'xeno' (XNA) hoặc ADN tổng hợp

xung quanh các ống nano vì những vật liệu

này có khả năng chịu được sự thay đổi nồng

độ muối mà cơ thể con người có thể đáp ứng

được, giúp truyền tín hiệu ổn định hơn”.

Alice Gillen tác giả chính của bài báo là

người dẫn đầu trong nỗ lực nghiên cứu về ảnh

hưởng của một số muối nhất định đối với sự

phát xạ quang học của các cảm biến sinh học.

Các nhà nghiên cứu thực hiện thử

nghiệm ở nhiều mức nồng độ ion khác nhau

được tìm thấy trong các dịch lỏng sinh học

phổ biến trong cơ thể con người. Bằng

phương pháp giám sát cả cường độ tín hiệu

của ống nano và quá trình dịch chuyển bước

sóng của tín hiệu, họ đã có thể xác minh rằng

cảm biến sinh học bộc lộ tính ổn định cao hơn

trong phạm vi nồng độ muối lớn hơn so với

cảm biến ADN thông thường khác.

"Đây là lần đầu tiên một phương pháp

sinh học tổng hợp được sử dụng trong lĩnh

vực quang học ống nano", Boghossian khẳng

định. "Chúng tôi tin rằng những kết quả đáng

khích lệ này sẽ là cơ sở để phát triển thế hệ

tiếp theo của thiết bị cảm biến sinh học quang

học hứa hẹn hơn nữa dành cho các ứng dụng

cảm biến cấy ghép như giám sát liên tục"

Theo vista.gov.vn, 27/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 29: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 29/67

Thuốc nhỏ mắt từ chiết xuất nghệ có thể điều trị bệnh tăng nhãn áp

Theo một nghiên cứu đứng đầu là các

nhà nghiên cứu tại trường Đại học toàn cầu

London và trường Hoàng gia London, chiết

xuất nghệ có thể được sử dụng trong thuốc

nhỏ mắt để điều trị bệnh tăng nhãn áp ở

những giai đoạn đầu.

Trong báo cáo khoa học, các nhà

nghiên cứu đã đề cập đến phương pháp mới để

cung cấp trực tiếp chất curcumin, chiết xuất từ

nghệ gia vị màu vàng, cho phần sau của mắt

bằng cách sử dụng thuốc nhỏ mắt, khắc phục

hạn chế về độ hòa tan kém chất curcumin.

Nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra

thuốc nhỏ mắt có thể làm giảm tình trạng tổn

thương các tế bào võng mạc ở chuột, được

biết đến như là dấu hiệu sớm của bệnh tăng

nhãn áp. Các nhà khoa học cũng đang nghiên

cứu cách sử dụng thuốc nhỏ mắt như một

công cụ để chẩn đoán nhiều bệnh.

GS. Francesca Cordeiro, trưởng nhóm

nghiên cứu cho rằng: “Curcumin là hợp chất

đã được chứng minh có triển vọng phát hiện

và điều trị bệnh thoái hóa thần kinh gây ra

nhiều bệnh về mắt và não từ bệnh tăng nhãn

áp đến Alzheimer, do đó, có thể dễ dàng được

đưa vào thuốc nhỏ mắt giúp điều trị cho hàng

triệu người bệnh”.

Bệnh tăng nhãn áp là một nhóm các

bệnh về mắt ảnh hưởng đến hơn 60 triệu người

trên toàn thế giới mà trong 10 trường hợp lại

có một trường hợp bị mù lòa vĩnh viễn. Căn

bệnh này chủ yếu liên quan đến tổn thương tế

bào hạch võng mạc, loại tế bào thần kinh nằm

gần bề mặt võng mạc. Ngăn chặn tổn thương

tế bào hạch võng mạc ở giai đoạn sớm vẫn

chưa thực hiện được, do đó, đây là trọng tâm

chính của nghiên cứu bệnh tăng nhãn áp.

Curcumin trước đây đã được chứng

minh có khả năng bảo vệ tế bào hạch võng

mạc khi dùng qua đường uống. Trong nghiên

cứu hiện nay, các nhà khoa học đang tìm

kiếm một phương pháp đáng tin cậy để cung

cấp curcumin. Sử dụng qua đường uống rất

khó vì curcumin có độ hòa tan kém nên

không dễ hòa tan và hấp thụ vào máu, nên sẽ

đòi hỏi mọi người phải uống một lượng lớn

thuốc (tối đa 24 ngày) gây tác dụng phụ cho

đường tiêu hóa.

Nhóm nghiên cứu đã tạo ra hạt nano

mới, trong đó, chất curcumin được chứa trong

chất hoạt động bề mặt kết hợp với chất ổn

định, cả hai đều an toàn để sử dụng cho người

và đã xuất hiện trong các sản phẩm thuốc nhỏ

mắt hiện nay. Hạt nano chứa curcumin có thể

được sử dụng trong thuốc nhỏ mắt để cung

cấp lượng chất curcumin cao hơn nhiều các

sản phẩm khác đang trong quá trình phát

triển, làm tăng độ hòa tan của thuốc theo hệ

số gần 400.000 và khoanh vùng chất

curcumin trong mắt thay vì đi khắp cơ thể.

Các nhà nghiên cứu ban đầu đã thử

nghiệm sản phẩm trên các tế bào được sử

dụng để lập mô hình bệnh tăng nhãn áp, trước

khi tiến hành thử nghiệm trên chuột với các

bệnh về mắt liên quan đến tổn thương tế bào

hạch võng mạc. Sau hai ngày sử dụng thuốc

nhỏ mắt ở chuột trong vòng 3 tuần, tổn

thương tế bào hạch võng mạc giảm đáng kể

so với nhóm đối chứng và việc điều trị được

cho là dung nạp tốt mà không có dấu hiệu

kích ứng hoặc viêm mắt.

Các nhà nghiên cứu hy vọng phương

pháp cung cấp chất curcumin hiệu quả này

cũng có thể được sử dụng để chẩn đoán bệnh

Alzheimer, vì chất curcumin được biết là liên

kết với protein beta amyloid gây bệnh

Alzheimer và có thể được phát hiện trong

võng mạc bằng huỳnh quang để xác định

được các protein ác tính.

Theo vista.gov.vn, 30/07/2018

Trở về đầu trang

*************

Page 30: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 30/67

Stent thông minh trong điều trị tim mạch

Năm qua, các kỹ sư thuộc bang

Colorado của Mỹ đã phủ lớp titanium lên bề

mặt các thiết bị cấy này, giúp chúng đẩy máu

hiệu quả đến nỗi các tiểu huyết cầu không

tích tụ được để tạo ra các cục máu đông.

Stent là một khung đỡ bằng kim loại

dùng trong y học, thuộc dạng thiết bị mang

tính thụ động, được cấy vào trong những động

mạch bị tắc để nong chúng lên và giúp máu

lưu thông tốt, ngăn chặn những cơn suy tim.

Cấy các stent để điều trị bệnh tim là

một tiến trình tương đối thành công kể từ khi

được đưa vào sử dụng trong những năm 1980,

nhưng liệu pháp này cũng mang lại các nguy

cơ cho người bệnh. Một biến chứng phổ biến

là restenosis, tình trạng do mô lân cận phát

triển quanh stent khiến động mạch tiếp tục bị

thu hẹp. Các bác sĩ thường theo dõi biến

chứng này qua scan CT nhưng đó không phải

phương pháp thuận lợi và đáng tin cậy.

Để giải quyết vấn đề, các nhà khoa học

đã phát triển những stent tốt hơn.

Gần đây, các nhà nghiên cứu tại ĐH

British Columbia (UBC) của Canada đã tiến

thêm một bước nữa, khi phát triển một stent

thông minh, giúp quan sát các dấu hiệu xuất

hiện sớm về hẹp động mạch và gửi một tín

hiệu qua hệ thống không dây để báo động đến

bệnh nhân và bác sĩ.

Trong nghiên cứu mới này, nhóm các

nhà khoa học tại UBC đã làm cho stent có

một vai trò tích cực hơn. Stent thông minh

được hình thành với một cảm biến tí hon, liên

tục theo dõi những thay đổi về lưu lượng máu

và khi nó phát hiện những bất thường dù nhỏ,

có liên quan đến giai đoạn đầu của sự tái hẹp

ở động mạch, nó sẽ phát tín hiệu báo động

ngay đến bệnh nhân hay bác sĩ để có biện

pháp xử lý trước khi tình trạng trở nên tồi tệ.

“Chúng tôi tinh chỉnh stent để chúng có

chức năng như một ăng ten thu nhỏ và phát

triển thêm một vi cảm biến đặc biệt có nhiệm

vụ theo dõi liên tục lưu lượng máu”, Kenichi

Takahata, nhà khoa học đứng đầu cuộc

nghiên cứu này, nói, “Dữ liệu sau đó được

gửi bằng tín hiệu không dây đến một đầu đọc

bên ngoài, cung cấp thông tin cập nhật liên

tục về tình trạng của động mạch”.

Các stent này được làm từ thép không

gỉ cao cấp của ngành y tế và do cũng giống

với những thiết bị hiện đang có nên các nhà

nghiên cứu cho biết nó cũng được cấy ghép

qua một tiến trình tương tự như trước nay y

học vẫn sử dụng. Tuy nhiên, khi đã được đặt

đúng vị trí, thiết bị thông minh này sẽ loại bỏ

việc theo dõi các dấu hiệu hẹp động mạch trở

lại qua scan CT, giúp giảm bớt các thăm

khám phức tạp cho người bệnh. Thay vào đó,

nó có chức năng phát tín hiệu cảnh báo bằng

sóng điện từ qua một ăng ten ngoài, đặt trên

da đến bộ phận đọc.

Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm thiết

bị này trong phòng thí nghiệm và kết quả cho

thấy nó hoạt động như mong muốn. Với các

kết quả ban đầu đầy hứa hẹn, các nhà khoa

học hiện đang có kế hoạch tiếp tục tinh chỉnh

stent để sẵn sàng thí nghiệm trên người trong

thời gian ngắn nhất.

Nghiên cứu này đã được đăng trên tờ

Advanced Science

Theo giaoducthoidai.vn, 30/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 31: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 31/67

Bào chế loại vắc xin mới dựa vào tơ nhện

Để chống lại bệnh ung thư, các nhà

nghiên cứu sử dụng ngày càng nhiều vắc xin

để kích thích hệ miễn dịch nhằm xác định và

tiêu diệt các tế bào ung thư. Tuy nhiên, đáp

ứng miễn dịch như mong đợi không phải lúc

nào cũng được đảm bảo. Để tăng cường hiệu

quả của vắc xin đối với hệ miễn dịch và đặc

biệt là trên các tế bào lympho T chuyên phát

hiện tế bào ung thư, các nhà nghiên cứu tại

trường Đại học Geneva (UNIGE), Freiburg

(UNIFR), Munich và Bayreuth đã phối hợp

với công ty AMSilk của Đức để tạo ra các vi

nang từ tơ nhện có khả năng cung cấp vắc xin

trực tiếp cho vùng trung tâm của các tế bào

miễn dịch. Quy trình này đã được công bố

trên tạp chí Biomaterials, cũng có thể được áp

dụng cho vắc xin phòng ngừa để bảo vệ

chống lại các bệnh truyền nhiễm và là một

bước quan trọng để tạo ra các loại vắc xin ổn

định, dễ sử dụng và thích ứng trong các điều

kiện bảo quản khắc nghiệt nhất.

Hệ miễn dịch của con người chủ yếu

dựa vào hai loại tế bào: tế bào lympho B sản

sinh các kháng thể cần thiết để bảo vệ chống

lại bệnh nhiễm trùng và tế bào lympho T.

Trong trường hợp của bệnh ung thư và một số

bệnh truyền nhiễm như bệnh lao, tế bào

lympho T cần được kích hoạt. Tuy nhiên, cơ

chế hoạt hóa của chúng phức tạp hơn tế bào

lympho B: để kích hoạt đáp ứng, cần sử dụng

peptit, một phần nhỏ protein nếu được tiêm

riêng rẽ, sẽ nhanh chóng bị cơ thể làm mất

chức năng sinh học thậm chí trước khi đạt

được mục tiêu.

GS. Carole Bourquin, chuyên gia về

liệu pháp miễn dịch chống ung thư và cũng là

người chỉ đạo nghiên cứu cho biết: “Để bào

chế thuốc miễn dịch có hiệu quả chống ung

thư, cần phải tạo đáp ứng mạnh mẽ từ các tế

bào lympho T. Vì các loại vắc xin hiện nay

chỉ tác động hạn chế đến tế bào T, nên việc

tiến hành các thủ tục tiêm phòng khác để

khắc phục hạn chế này là rất quan trọng".

Viên nang gần như không thể phá hủy

Nhóm nghiên cứu đã sử dụng các chất

polyme sinh học từ tơ nhện tổng hợp - vật

liệu nhẹ, tương thích sinh học, không độc hại

có khả năng chống lại hiện tượng làm mất

chức năng sinh học của protein do ánh sáng

và nhiệt. Thomas Scheibel, chuyên gia về tơ

nhện tại trường Đại học Bayreuth và là đồng

tác giả nghiên cứu cho rằng: “Chúng tôi đã

tái tạo loại tơ đặc biệt này trong phòng thí

nghiệm để đưa vào một peptit có đặc tính của

vắc xin. Sau đó, các chuỗi protein trải qua

một bước tiếp theo để tạo thành các vi hạt có

thể tiêm”.

Các vi hạt tơ tạo nên một viên nang

vận chuyển nhanh chóng bảo vệ peptit vắc

xin không bị mất chức năng sinh học bên

trong cơ thể và đưa peptit đến vị trí trung tâm

của các tế bào hạch bạch huyết, qua đó làm

tăng đáng kể đáp ứng miễn dịch của tế bào

lympho T. Carole Bourquin cho biết: "Nghiên

cứu của chúng tôi đã chứng minh tính hợp lệ

của kỹ thuật. Chúng tôi đã chứng minh hiệu

quả của chiến lược tiêm phòng mới cực kỳ ổn

định, dễ dàng thực hiện và điều chỉnh".

Hướng tới một mô hình vắc xin mới

Các hạt polyme sinh học từ tơ tổng

hợp có khả năng chịu nhiệt cao lên đến trên

100°C trong vài giờ mà không bị hư hại. Về

lý thuyết, quá trình này sẽ tạo thuận lợi cho

việc bào chế vắc xin mà không cần sử dụng tá

dược và dây chuyền làm lạnh. Đây là lợi thế

không thể phủ nhận, đặc biệt tại các nước

đang phát triển nơi một trong những khó khăn

lớn là bảo quản vắc xin. Tuy nhiên, một trong

những hạn chế của quy trình này là kích

thước của các vi hạt: dù quy trình về nguyên

tắc có thể áp dụng cho mọi peptit có kích

thước đủ nhỏ để được đưa vào protein tơ,

nhưng cần nghiên cứu thêm để xem xét khả

Page 32: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 32/67

năng kết hợp các kháng nguyên cỡ lớn được

sử dụng trong các loại vắc xin thông thường,

đặc biệt là vắc xin chống các bệnh do virus.

Khi khoa học mô phỏng tự nhiên

Scheibel cho rằng: "Ngày càng có nhiều nhà

khoa học cố gắng mô phỏng những gì tốt nhất

trong tự nhiên. Đây là cách tiếp cận phỏng

sinh học”. Các tính chất của tơ nhện làm cho

tơ trở thành một sản phẩm đặc biệt thú vị:

tương thích sinh học, rắn, mỏng, phân hủy

sinh học, chịu được các điều kiện khắc nghiệt

và thậm chí kháng khuẩn với nhiều ứng dụng

được kỳ vọng như băng vết thương hoặc làm

chỉ khâu.

Theo vista.gov.vn, 02/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Các nhà khoa học phát hiện ra mục tiêu mới để ngăn chặn sự phát triển của ung thư

Các nhà nghiên cứu tại trường Đại

học Wisconsin - Madison đã phát hiện ra

protein Munc13-4 giúp các tế bào ung thư tiết

ra khối lượng lớn exosome - các túi nhỏ được

bao bọc bởi màng có chứa protein và ARN

kích thích sự tiến triển của khối u. Nghiên

cứu này mới được công bố trên Tạp chí Cell

of Biology, có thể dẫn đến những liệu pháp

mới ngăn chặn sự phát triển của khối u và di

căn bằng cách cản trở sản sinh exosome.

Tế bào ung thư tạo ra khối lượng lớn

exosome, góp phần vào sự phát triển của khối

u theo nhiều cách. Chúng có thể truyền gen

đột biến gây ung thư cho các tế bào lân cận để

thúc đẩy sự tiến triển của ung thư. Tế bào ung

thư chứa các protein có vai trò điều chỉnh lại

môi trường xung quang các tế bào ung thư và

tạo cho phép chúng lây lan sang các mô khác.

Các tế bào ung thư có thể chứa những yếu tố

báo hiệu làm gián đoạn khả năng phản ứng

miễn dịch của cơ thể chống lại khối u.

Nhóm nghiên cứu do Scott W.

Messenger dẫn đầu, đã phát hiện ra rằng

canxi, thường gia tăng trong tế bào ung thư,

đã kích thích các tế bào ung thư vú xâm lấn

tiết ra exosome. Exosome được giải phóng

phụ thuộc vào một protein liên kết với canxi

gọi là Munc13-4; loại bỏ protein này hoặc

thay thế nó bằng một phiên bản đột biến

không thể liên kết canxi, đã ngăn chặn các tế

bào ung thư vú giải phóng exosome để đáp

ứng với canxi.

Nồng độ Munc 13-4 trong khối u vú,

tụy và phổi ở người thường nhiều hơn. Các

nhà nghiên cứu đã phát hiện thấy các tế bào

ung thư phổi và tụy đã làm tăng mức

Munc13-4 và giải phóng nhiều exosome khi

chúng xâm lấn mạnh hơn.

Exosome được hình thành bên trong

các bào quan của tế bào cỡ lớn được gọi là

các cơ quan đa túi (multivesicular). Các bào

quan này sau đó hợp nhất với màng plasma

của tế bào để giải phóng exosome ra bên

ngoài tế bào. Nhóm nghiên cứu đã phát hiện

thấy Munc13-4 hoạt động cùng với Rab11,

một protein khác để thúc đẩy sự phát triển của

các cơ quan đa túi có khả năng hợp nhất với

màng plasma và giải phóng exosome.

Exosome được giải phóng từ các tế

bào ung thư chứa enzyme MT1-MMP, làm

giảm chất nền ngoại bào bao quanh tế bào

ung thư. Điều này giúp các tế bào ung thư

phân tán xung quanh cơ thể để tạo thành các

khối u di căn thứ phát. Khi nhóm nghiên cứu

loại bỏ Munc13-4, kết quả làm giảm khả năng

giải phóng exosome chứa MT1-MMP từ các

tế bào ung thư vú và ức chế khả năng của các

tế bào làm suy giảm chất nền ngoại bào.

Nhóm nghiên cứu cho rằng biểu hiện

gia tăng của Munc13-4 kết hợp với nồng độ

Page 33: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 33/67

canxi cao, thúc đẩy các tế bào ung thư xâm lấn

mạnh giải phóng exosome và Munc13-4 là

một mục tiêu tiềm năng cho can thiệp điều trị.

Theo vista.gov.vn, 04/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Sử dụng công cụ mới để xác định gen ung thư ở trẻ em

Sử dụng chiến lược tính toán mới, các

nhà nghiên cứu tại Trung tâm Y tế

Southwestern thuộc trường Đại học Texas đã

xác định được 29 thay đổi di truyền góp phần

gây ra căn bệnh ung thư mô liên kết ở trẻ em.

Nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp

phân tích Bayes, phương pháp suy luận thống

kê kết hợp với sàng lọc bằng CRISPR/Cas9,

công cụ chỉnh sửa gen dự báo để xác nhận

các dự báo thống kê.

Nghiên cứu mới giúp giải thích yếu tố

thúc đẩy sự hình thành của bệnh ung thư mô

liên kết và đề xuất những phương pháp điều

trị tiềm năng. Ngoài ra, phương pháp nghiên

cứu của nhóm có thể được sử dụng để xác

định các yếu tố di truyền gây ra các bệnh ung

thư khác.

Gần như tất cả gen xuất hiện trong các

tế bào đều theo cặp. Nghiên cứu tập trung vào

các gen chỉ có một bản sao hoặc có ba bản sao

trở lên. TS. Stephen Skapek, đồng tác giả

nghiên cứu cho biết: “Chúng tôi đã nảy ra ý

tưởng cho rằng biểu hiện thay đổi của các gen

ung thư cốt lõi có thể được thúc đẩy bởi sự gia

tăng hoặc mất đi số lượng bản sao di truyền.

Sau đó, chúng tôi đã phát triển một thuật toán

tính toán mới được gọi là iExCN để dự đoán

các gen ung thư dựa vào dữ liệu biểu hiện gen

và số lượng bản sao trong toàn bộ gen”.

Nghiên cứu cũng sử dụng một số công

cụ thử nghiệm mới, bao gồm công nghệ sàng

lọc CRISPR/Cas9 để xác minh chức năng của

các gen ung thư được dự đoán trong ung thư

mô liên kết.

TS. Lin Xu, đồng tác giả nghiên cứu

cho rằng: "Thuật toán iExCN được phát triển

dựa vào phương pháp thống kê Bayes, về cơ

bản khác với các phương pháp thống kê phổ

biến và thường đưa ra ước tính chính xác hơn

về các tập hợp thống kê, dù nó liên quan đến

tính toán phức tạp và thời gian xử lý dài hơn".

Ung thư mô liên kết là loại ung thư mô

mềm phổ biến nhất ở trẻ em. Sử dụng thuật

toán để phân tích dữ liệu di truyền từ 290

khối ung thư mô liên kết, các nhà nghiên cứu

đã xác định được 29 gen liên quan, trong đó

nhiều gen chưa từng được xác định gây ung

thư mô liên kết.

Tiến sĩ Yanbin Zheng, phó giáo sư Nhi

khoa đã sử dụng phương pháp sàng lọc dựa

vào CRISPR/Cas9 tùy chỉnh để xác minh

những nguyên nhân di truyền được dự đoán

theo thống kê về ung thư mô liên kết. TS.

Zheng cho rằng: “Trong số các gen ung thư

mô liên kết đã được xác nhận, EZH2, CDK6

và RIPK2 đặc biệt cần được nghiên cứu sâu

hơn vì đã có các loại thuốc nhắm vào các gen

này hoặc được FDA chấp thuận hoặc dùng

trong các thử nghiệm lâm sàng”.

Theo TS. Skapek, một trong số các tác

giả, nhóm nghiên cứu cần xác minh rõ hơn

vai trò gây ung thư của các gen được xác định

bằng thuật toán iExCN. Các nhà khoa học

đang tìm kiếm những chiến lược mới cho các

liệu pháp nhằm vào các gen này.

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí

Cell Reports.

Theo vista.gov.vn, 13/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 34: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 34/67

MRI giúp không chỉ chẩn đoán mà cả điều trị ung thư?

Các nhà khoa học từ Đại học Năng

lượng nguyên tử Quốc gia MEPhI đã phát

triển một loại chất tương phản mới dựa trên

các hạt nano silic, cho phép không chỉ chẩn

đoán mà cả điều trị ung thư.

MRI là một phương pháp chẩn đoán y

sinh rất hữu ích, trong đó thường sử dụng

cộng hưởng từ hạt nhân của nguyên tử hydro

(proton). Khi chụp cắt lớp, các proton trong

nguyên tử hydro được xếp đặt trong từ trường

trong quá trình tiếp xúc với sóng vô tuyến.

Trong một số nghiên cứu cần phải sử

dụng những đại lý tương phản để nâng cao độ

chính xác và hình ảnh của các mô. Độ chính

xác của tín hiệu tương phản trong MRI phụ

thuộc chủ yếu vào mức độ thay đổi thời gian

thư giãn theo chiều dọc hoặc chiều ngang.

Thời gian thư giãn là thời gian khi các

proton quay trở lại trạng thái cân bằng. Thời

gian thư giãn phụ thuộc vào các phân tử và

nguyên tử xung quanh proton, những khoảng

thời gian có độ dài khác nhau ở các mô khỏe

mạnh và các mô bệnh.

Trong một số trường hợp, bệnh lý có

thể được phát hiện thông qua các đại lý tương

phản làm thay đổi cục bộ thời gian thư giãn

của các mô bệnh. Sự kết hợp của MRI và các

đại lý tương phản làm tăng khả năng nâng cao

hình ảnh của sự viêm, chẳng hạn như sự hình

thành mạch máu trong khối u ung thư.

Các nhà khoa học từ Đại học Năng

lượng nguyên tử Quốc gia MEPhI đã phát

triển một loại chất tương phản mới dựa trên

các hạt nano silic, cho phép không chỉ chẩn

đoán mà cả điều trị ung thư. Theo Giáo sư

Victor Timoshenko của đại học MEPhI và Đại

học Tổng hợp Quốc gia Matxcova mang tên

Lomonosov, đây là một ví dụ về sự phát triển

của phương pháp Nanotheranostics - kết hợp

phương pháp chẩn đoán và điều trị ở quy mô

nanomet.

Các đại lý theranostic cho MRI đòi hỏi

sự kết hợp của các đại lý tương phản với liệu

pháp được thực hiện bằng cách sử dụng nang

nano (nano capsules) và/hoặc tác động bổ sung

bằng trường vật lý, hoặc xạ trị.

"MRI đang được sử dụng rộng rãi trong

chẩn đoán khối u, chính bởi vậy sự phát triển

của đại lý tương phản loại mới có thể được sử

dụng để điều trị nhẹ nhàng bệnh ung thư là rất

quan trọng đối với nền y học hiện đại", ông

Viktor Tymoshenko nói.

Các vật liệu được sử dụng trong

phương pháp Nanotheranostics cần phải là thứ

không độc hại và tương thích với cơ thể con

người. Một tính năng quan trọng khác là cách

"tàng hình" để qua mặt hệ miễn dịch - nếu

không hệ miễn dịch sẽ chỉ đơn giản tiêu diệt

chúng. Ngoài ra, không được để các hạt nano

tích tụ trong cơ thể và không được để bề mặt

của chúng bị ô nhiễm.

Theo các nhà khoa học của Phòng thí

nghiệm "Nanotheranostics" tại Viện Vật Lý-

Kỹ Thuật Y Sinh thuộc Trường Đại học Năng

lượng nguyên tử Quốc gia MEPhI, việc sử

dụng các hạt nano silic để phát hiện các tế bào

bị hư hỏng là một trong những phương pháp

hứa hẹn nhất trong ngành Nanotheranostics

điều trị bệnh ung thư. Các hạt nano như vậy

không gây hại cho cơ thể, nhưng, sau khi nóng

lên đến nhiệt độ trên 42°C (điều này được gọi

là tăng thân nhiệt) dưới ảnh hưởng của sóng

vô tuyến, chúng sẽ phá hủy cục bộ các tế bào

ung thư.

Theo dantri.com.vn, 23/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 35: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 35/67

Các nhà khoa học Siberia phát triển một công nghệ mới để điều trị ung thư

Các chuyên gia thuộc Viện Tế bào

học và Di truyền học ở Novosibirsk đã phát

triển một công nghệ cho phép điều trị hiệu

quả bệnh ung thư, đồng thời giảm số liều hóa

trị xuống nhiều lần.

Trong vòng vài năm, các nhân viên

phòng thí nghiệm đã phát triển một công nghệ

gọi là "Karanahan" ("tiêu diệt nguyên nhân").

Công nghệ này dựa trên "sơ hở" của các tế

bào gốc ung thư tại những giai đoạn nhất định

thuộc chu kỳ cuộc sống của chúng.

"Trong khi nghiên cứu các tế bào gốc

ác tính, các nhân viên của chúng tôi tìm ra

tính năng độc đáo của chúng, đó là khả năng

nắm bắt những đoạn ADN ngoại bào. Các

nghiên cứu sâu cho thấy, nếu cấy các đoạn

ADN này vào tế bào thì sau một khoảng thời

gian, dưới tác động của thuốc gây độc tế bào

(hóa trị), chúng không cho tế bào hoàn tất quá

trình phục hồi và kết quả là tế bào bị chết",

thông báo cho biết.

Viện Tế bào học và Di truyền học lưu

ý rằng, công nghệ mới này được các tác giả

đặt tên là "3 + 1", vì ba liều thuốc đầu tiên

được đưa vào tế bào có khả năng tiêu diệt hầu

hết các tế bào ung thư gốc, còn liều thuốc thứ

tư tiêu diệt những tế bào ung thư gốc còn lại.

Loại thuốc này đã được thử nghiệm thành

công để chữa ung thư ở chuột, cũng như u

nguyên bào của người được nuôi cấy.

Theo dantri.com.vn, 23/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Israel phát triển phương pháp mới điều trị ung thư phổi

Theo một nghiên cứu do Viện Khoa

học Weizmann của Israel công bố ngày 25/7,

các nhà khoa học của nước này đã phát triển

một phương pháp mới kết hợp ba loại thuốc

khác nhau trong điều trị ung thư phổi.

Phương pháp này được phát triển khi

những phương pháp điều trị thông thường đối

với căn bệnh này bị mất tác dụng.

Ung thư phổi là nguyên nhân gây tử

vong hàng đầu trong số các căn bệnh ác tính.

Các nhà khoa học Israel đã tiến hành thử

nghiệm cấy các tế bào ung thư vào phổi của

chuột sau đó điều trị kết hợp ba loại thuốc là

Tagrisso, Erbitux và Herceptin. Kết quả là kích

thước của các khối u đã giảm và khối u không

phát triển trở lại khi vẫn tiếp tục điều trị.

Tất cả ba loại thuốc trên đã được cho

phép sử dụng trong điều trị cho người, vì vậy

việc phê chuẩn áp dụng phương pháp mới điều

trị bệnh ung thư phổi ở người sẽ dễ dàng hơn.

Theo vietnamplus.vn, 26/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Biến đổi vi khuẩn để sản xuất phân bón từ không khí

Trong tương lai, cây sẽ có thể tự sản

xuất phân bón. Người nông dân sẽ không cần

phải mua phân bón cho cây trồng. Và sản

lượng lương thực tăng sẽ mang lại lợi ích cho

hàng tỷ người trên khắp thế giới.

Nghiên cứu mới của trường Đại học

Washington chứng minh khả năng biến đổi

Page 36: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 36/67

cây trồng để tạo ra loại phân bón riêng. Phát

hiện này có thể tác động mạnh đến ngành

nông nghiệp và hiện trạng của hành tinh.

Sản xuất phân bón là quy trình tiêu tốn

năng lượng và phát thải kính nhà kính gây

biến đổi khí hậu. Quy trình này không hiệu

quả. Bón phân là hệ thống phân phối nitơ, mà

thực vật sử dụng để tạo ra chất diệp lục cho

quá trình quang hợp, nhưng cây trồng sử

dụng chưa đến 40% nitơ trong phân bón

thương mại.

Sau khi cây được bón phân, một vấn

đề khác nảy sinh là dòng chảy. Khi trời mưa,

phân bón đổ xuống sông, suối, vịnh và hồ, có

thể khiến tảo phát triển ngoài tầm kiểm soát,

ngăn chặn ánh nắng mặt trời và tiêu diệt các

loài động, thực vật sinh sống bên dưới.

Tuy nhiên, có một nguồn nitơ phong

phú khác xung quanh chúng ta. Trong bầu khí

quyển của Trái đất, nitơ chiếm khoảng 78%.

Nhóm nghiên cứu đã biến đổi một loại vi

khuẩn có thể sử dụng khí nitơ trong khí quyển

trong quá trình được gọi là "cố định" đạm -

một bước quan trọng hướng tới loại cây trồng

biến đổi có khả năng thực hiện nhiệm vụ

tương tự.

Nghiên cứu này bắt nguồn từ thực tế là

dù không có cây trồng nào có thể cố định đạm

từ không khí, nhưng một tập con của vi khuẩn

lam (vi khuẩn quang hợp giống như thực vật)

lại làm được điều này. Vi khuẩn lam có thể cố

định đạm, dù oxy, sản phẩm phụ của quá

trình quang hợp, cản trở quá trình này. Vi

khuẩn Cyanothece với khả năng cố định đạm

được sử dụng trong nghiên cứu. Himadri

Pakrasi, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết:

"Vi khuẩn lam là vi khuẩn duy nhất có nhịp

sinh học". Thật thú vị, Cyanothece quang hợp

trong ngày, chuyển đổi ánh nắng mặt trời

thành năng lượng hóa học được vi khuẩn sử

dụng làm nhiên liệu và cố định đạm vào ban

đêm, sau khi loại bỏ hầu hết oxy sinh ra trong

quá trình quang hợp thông qua hô hấp.

Nhóm nghiên cứu mong muốn tách

các gen của Cyanothece đảm nhiệm cơ chế

đêm - ngày và cấy vào Synechocystis - một

loại vi khuẩn lam khác để thu hút vi khuẩn

này cố định đạm từ không khí. Để xác định

đúng trình tự của các gen, nhóm nghiên cứu

đã tìm kiếm tín hiệu nhịp sinh học. Các nhà

khoa học đã loại bỏ oxy khỏi Synechocystis

và bổ sung các gen từ Cyanothece. Kết quả là

Synechocystis đã cố định đạm bằng 2% mức

của Cyanothece. Tuy nhiên, điều thú vị xuất

hiện khi Liu, nghiên cứu sinh sau tiến sỹ và là

đồng tác giả nghiên cứu bắt đầu loại bỏ một

số gen đó; chỉ với 24 gen Cyanothece,

Synechocystis đã cố định đạm với tỷ lệ bằng

hơn 30% Cyanothece.

Tỷ lệ cố định đạm giảm đáng kể với

khi bổ sung thêm một ít oxy (1%), nhưng

tăng trở lại khi được bổ sung một nhóm gen

khác từ Cyanothece, dù nó không đạt tỷ lệ

cao mà không có sự hiện diện của oxy. Bước

tiếp theo, các nhà khoa học sẽ nghiên cứu chi

tiết quy trình để thu hẹp hơn nữa các tập hợp

con của các gen cần để cố định đạm.

Theo vista.gov.vn, 24/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Máy lọc nước bằng năng lượng mặt trời tạo ra chất khử trùng từ nước và ánh nắng mặt trời

Máy lọc nước đã được chế tạo tại

phòng thí nghiệm của Xiaolin Zheng, phó

giáo sư kỹ thuật cơ khí tại trường Đại học

Standford, là sự thay đổi quy trình nổi tiếng

sử dụng năng lượng mặt trời để tách nước

thành hydro, nhiên liệu đốt sạch và oxy, yếu

tố cần thiết duy trì sự sống. Tuy nhiên, thay vì

Page 37: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 37/67

tách hoàn toàn oxy và hydro, quy trình mới

khử oxy và oxy hóa nước tạo thành hydro

peroxit hoặc H2O2. Nghiên cứu đã được công

bố trên tạp chí Advanced Energy Materials.

Chỉ cần một lượng nhỏ H2O2 cũng có

thể lọc nước. Hydro peroxit khử trùng nước ở

mức hàng chục phần triệu, cụ thể là khoảng

hai muỗng cho 25 gallon nước. Trong các thử

nghiệm sử dụng nước máy, hệ thống mới dễ

dàng đạt hơn 400 phần triệu H2O2 trong 5 giờ.

PGS. Zheng cho biết nhóm nghiên cứu

sẽ phải thay đổi một số nguyên liệu trong quy

trình này để tạo ra hỗn hợp nước thường với

hydro peroxit an toàn để uống. Nhưng các nhà

khoa học cho rằng một ngày nào đó, một người

khát nước có thể sử dụng bộ lọc năng lượng

mặt trời trọng lượng nhẹ, đổ nước vào và chờ

để tạo ra đủ H2O2 thông qua quy trình kích

hoạt bằng ánh nắng mặt trời nhằm biến đổi bất

cứ loại nước ngọt nào thành nước uống.

Ngoài các ứng dụng sản xuất nước

uống trong tương lai, nhóm nghiên cứu cũng

cho rằng hệ thống của họ phù hợp với các bể

bơi tự làm sạch bằng hydro peroxit được tạo

ra nhờ năng lượng mặt trời thay vì dùng clo,

hoặc các trạm xử lý nước bằng năng lượng

mặt trời dành cho các khu vực đang phát triển

nơi nước ngọt là mặt hàng quý giá.

Nguyên liệu dồi dào

Mẫu máy lọc nước bằng năng lượng

mặt trời bao gồm hai điện cực: cực dương và

cực âm, được nhúng vào nước. Cực dương

được chế tạo từ bismuth vanadate (BiVO4),

chất bán dẫn nhạy quang. Cacbon đơn được

dùng làm cực âm. Khi tiếp xúc với ánh nắng

mặt trời, chất bán dẫn bismuth vanadate đẩy

các điện tử tích điện âm về phía cực âm, trong

khi các lỗ mang điện tích dương chảy ngược

về phía cực dương. Dòng điện tử đã biến đổi

oxy thành hydro peroxit trong khi các lỗ hoạt

động biến đổi nước thành hydro peroxit, tạo

nên hợp chất làm sạch ở cả hai điện cực.

Đây là một bước tiến mới liên quan

đến hệ thống quang điện hóa (PEC). Các hệ

thống PEC đã được nghiên cứu nhiều từ

những năm 1970 về khả năng chuyển đổi ánh

nắng mặt trời thành nhiên liệu và các hóa chất

hữu ích khác như hydro và oxy. Các thí

nghiệm PEC trước đây đã tạo ra hydro peroxit

nhưng không có thí nghiệm nào trong số đó

thành công như nghiên cứu hiện nay.

Thật thú vị, hệ thống tạo ra hydro

peroxit ở cả cực dương và cực âm. Cuối cùng,

thậm chí điện năng vẫn còn được duy trì do

hiệu quả của các phản ứng hóa học. Dù không

phải là lớn, nhưng năng lượng bổ sung đó có

thể được sử dụng để thắp sáng đèn LED như

một chỉ báo cho thấy hệ thống hoạt động tốt.

Nghiên cứu sâu hơn

Các nhà khoa học cho rằng vẫn cần

nghiên cứu thêm trước khi máy lọc nước sản

sinh hydro peroxit có thể được sử dụng phổ

biến. Quan trọng nhất là bismuth vanadate,

cực dương, bản thân là độc hại và sẽ cần được

thay thế bằng vật liệu nhạy quang khác tương

đương.

TS. Samira Siahrostami, đồng tác giả

nghiên cứu và là kỹ sư nghiên cứu đã lựa

chọn bismuth vanadate làm cực dương cho

mẫu máy lọc nước này do hiệu quả và khả

năng sản sinh hydro peroxit. Trong tương lai,

các nhà nghiên cứu sẽ tìm kiếm các vật liệu

cực dương khác ổn định, hiệu quả và an toàn

để lọc nước.

Nhóm nghiên cứu cũng khuyến nghị

thay thế cực âm cacbon bằng một vật liệu

khác nhạy quang hơn. Thiết kế này sẽ khai

thác phạm vi ánh nắng mặt trời rộng hơn để

nâng cao hiệu quả của hệ thống.

Theo vista.gov.vn, 13/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 38: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 38/67

Vật liệu mới hấp thụ các chất ô nhiễm hữu cơ trong nước

Một kết quả nghiên cứu mới nhất của

trường Đại Học Seville, Tây Ban Nha cho

thấy vật liệu mới C18-Mica-4 có khả năng

loại bỏ phần lớn các chất ô nhiễm trong nước

thải đô thị, nước mặt và nguồn nước uống.

Nghiên cứu cũng cung cấp dữ liệu về cơ chế

hấp thụ và thiết lập mối tương quan đáng kể

giữa các đặc tính hóa học vật lý của các tiêu

chí lựa chọn và các chất ô nhiễm mới và sự

hấp thụ vật liệu.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, vật liệu

C18-Mica-4 có khả năng loại bỏ phần lớn các

chất ô nhiễm trong nước thải đô thị, cũng như

nước mặt và nước cấp cho sinh hoạt. Nghiên

cứu cũng cung cấp dữ liệu về cơ chế hấp thụ

và thiết lập mối tương quan đáng kể giữa các

đặc tính hóa lý của các tiêu chí lựa chọn và các

chất ô nhiễm mới nổi với sự hấp thụ vật liệu.

Tổng cộng, 18 chất ô nhiễm hữu cơ đã

được nghiên cứu, trong đó có các chất gây ô

nhiễm công nghiệp, sản phẩm chăm sóc cá

nhân và các thành phần hoạt tính dược lý như

thuốc chống viêm, kháng sinh, chống động

kinh, chất kích thích hệ thần kinh trung ương

và thuốc hạ lipid máu.

Trong các chất ô nhiễm công nghiệp,

một số hợp chất thường được sử dụng làm các

chất làm sạch đã được phân tích cùng với các

hợp chất khác được sử dụng làm chất chống

thấm nước và dầu. Nghiên cứu đã được thực

hiện trên tất cả các loại chất ô nhiễm nước kể

cả các chất ô nhiễm hữu cơ như các chất bài

tiết của con người.

Nghiên cứu đã tiến hành cả những

nghiên cứu ảnh hưởng của pH nước, muối và

thời gian loại bỏ chất ô nhiễm cũng được

đánh giá. Kết quả cho thấy áp lực hấp thụ cao

của C18-Mica-4 đối với hầu hết các chất ô

nhiễm mới được phân tích loại bỏ sau

khaonrg thời gian là 24h (14 trong số 18 chất

gây ô nhiễm đã được loại bỏ với hiệu quả 70-

100%. Các kết quả cũng chỉ ra rằng sự hấp

phụ xảy ra trong không gian xen kẽ. Trong

khi tỷ lệ loại bỏ với Na-Mica-4 nằm trong

khoảng 8–97% sau 7 ngày, trong khi một số

hợp chất như axit perfluorobutanoic và hầu

hết các hợp chất dược hoạt tính cao thì không

hấp thụ được với vật liệu này.

C18-Mica-4 đã được sử dụng hiệu quả

để loại bỏ các chất gây ô nhiễm ra khỏi bốn

loại mẫu nước bao gồm: nước thải đô thị,

nước thải đô thị đã được xử lý, nước mặt sông

hồ và các nguồn nước cấp.

Giáo sư Đại học Seville Esteban

Alonso, người đứng đầu dự án nghiên cứu

cho biết, các nghiên cứu như thế này cho thấy

tiềm năng của một số vật liệu hấp phụ để sử

dụng trong xử lý với đa dạng loại nước thải

với các mức ảnh hưởng và loại chất ô nhiễm

khác nhau. Vật liệu phổ dụng với khả năng

loại bỏ cao và có thể sử dụng cho phạm vi

rộng với nhiều chất gây ô nhiễm là mục tiêu

chính của dự án nghiên cứu này.

Dự án nghiên cứu sẽ được tiếp tục với

việc áp dụng vật liệu này trong việc loại bỏ

các chất ô nhiễm từ nguồn nước thải quy mô

gia đình, ứng dụng của chúng trên quy mô

công nghiệp, và song song với đó là cải thiện

chức năng của vật liệu hiệu quả hơn.

Theo dwrm.gov.vn, 15/06/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 39: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 39/67

Biến đổi enzyme để thúc đẩy sản xuất nhiên liệu sinh học và vật liệu xử lý sinh học khác

Các nhà khoa học Anh đã cải tiến quy

trình sinh học để sản xuất các sản phẩm như

nhiên liệu, nhựa, thuốc và mỹ phẩm. Bước

tiến này có thể giúp sản xuất nhiên liệu sinh

học giá rẻ và thân thiện với môi trường, cũng

như tái chế nhựa hiệu quả hơn.

Quy trình xử lý sinh học sử dụng các

tế bào sống hoặc các thành phần của tế bào

sống để cho ra đời các sản phẩm như nhiên

liệu sinh học, nhựa, thuốc và mỹ phẩm mà

thông thường mất nhiều thời gian và chi phí

sản xuất tốn kém. Hiện nay, các nhà khoa học

Anh có thể phân tách sinh khối từ thực vật

với tốc độ nhanh gấp 30 lần hiện nay.

TS. Alex Brogan tại Khoa Kỹ thuật

hóa học thuộc trường Đại học Hoàng gia

London và các cộng sự đã biến đổi enzyme

glucosidase hỗ trợ phân tách carbohydrate

trong sinh khối như xenlulô từ tế bào thực

vật, thành đơn vị cơ bản là glucose. Sau đó,

glucose có thể được lên men để sản xuất

etanol, một dạng nhiên liệu sinh học.

Khâu giải phóng glucose từ xenlulô

của quy trình hiện tốn kém và mất nhiều thời

gian nhất. Một phần nguyên nhân là do các

enzyme thường ngừng hoạt động trong điều

kiện nhiệt độ cao hơn 70°C và trong các dung

môi công nghiệp như chất lỏng ion. Tuy

nhiên, nếu enzyme có thể hoạt động ở nhiệt

độ cao hơn trong chất lỏng ion, quy trình này

sẽ diễn ra nhanh hơn.

Để tạo ra nhiều glucosidase, TS.

Brogan và các cộng sự đã biến đổi cấu trúc

hóa học của glucosidase để chịu được mức

nhiệt lên đến 137°C. Thay đổi này cũng có

nghĩa là các nhà khoa học có thể sử dụng

enzyme trong chất lỏng ion để thay cho nước

thường và sử dụng một loại enzyme thay vì

ba loại. Kết quả nghiên cứu cho thấy kết hợp

khả năng chịu nhiệt và độ hòa tan trong các

chất lỏng ion làm tăng 30 lần sản lượng

glucose. Nếu kỹ thuật này được thực hiện trên

quy mô lớn, phát thải cácbon từ nhiên liệu sẽ

giảm khoảng 80 - 100%.

TS. Brogan cho biết: "Chúng tôi đã

đẩy nhanh quy trình xử lý sinh học mà chỉ sử

dụng ít thiết bị và lại giảm phát thải cacbon.

Ưu điểm của quy trình sẽ là gia tăng sản xuất

nhiên liệu sinh học để nhiên liệu được sử

dụng phổ biến”.

Nhiên liệu sinh học là nhiên liệu được

tạo ra từ vật liệu sống như thực vật còn gọi là

sinh khối. Nhiên liệu sinh học tốt cho môi

trường hơn so với các loại nhiên liệu hóa

thạch như than đá và khí đốt vì chúng được

sản xuất từ các nguồn tái tạo và thải ít CO2.

TS. Jason Hallett, đồng tác giả nghiên

cứu cho rằng: "Sử dụng nhiên liệu sinh học

làm từ tinh bột ngô, cây và nguyên liệu thực

vật khác cho xe cộ và thậm chí phát điện có

thể giảm khối lượng lớn khí thải cacbon".

Theo vista.gov.vn, 17/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 40: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 40/67

Miếng lót nệm phát hiện mệt mỏi, buồn ngủ của người lái xe

Công ty Sumitomo Riko vừa giới thiệu

một sản phẩm mới là miếng lót nệm có thể

phát hiện sự mệt mỏi và buồn ngủ của người

lái xe ô tô. Sumitomo Riko chuyên sản xuất

các loại cao su chống rung ô tô, dự kiến

miếng lót này có thể làm giảm nguy cơ tai

nạn giao thông khi kết hợp với các thiết bị

cảnh báo. Nhóm nghiên cứu đang hoàn thiện

để có sản phẩm cho các nhà sản xuất xe

thương mại và ghế tự động, nhằm mục đích

thương mại hóa miếng lót nệm vào năm 2021.

Miếng lót nệm này được phát triển

giúp đo sự phân bố và thay đổi áp suất áp

dụng cho nó. Dựa trên sự phân bố áp lực, có

thể ước tính sự thay đổi tư thế và vóc dáng

của người lái xe. Ngoài ra, từ thay đổi áp

suất, nhịp thở, nhịp tim và các trạng thái khác

của người lái cũng được ước tính. Bằng cách

phân tích dữ liệu thu thập bởi miếng lót nệm,

có thể phát hiện trạng thái của người lái xe để

ngăn chặn tình trạng dẫn đến tai nạn như mệt

mỏi và buồn ngủ.

Miếng lót nệm bao gồm ba lớp cao su:

một lớp cao su hình chiếc ghế kẹp giữa các

lớp cao su dẫn điện (điện cực). Khi khoảng

cách giữa các điện cực trên và dưới thay đổi

do chuyển động của người lái, điện dung giữa

các điện cực sẽ thay đổi. Dựa trên số lượng

của sự thay đổi, một áp lực áp dụng cho đệm

được đo.

Công ty Sumitomo Riko, cho biết:

"Phải mất vài giây để xử lý việc tính toán

nhịp thở, nhịp tim và từ áp lực. Việc giảm

thời gian xử lý cần thiết phải phát triển trong

tương lai”. Loại điện cực được sử dụng ở

miếng lót nệm có tính linh hoạt. Nhà sản xuất

đã được thực hiện bằng cách in vật liệu cao su

dẫn điện linh hoạt được gọi là "SR (cao su

thông minh)" trên vật liệu cơ bản làm bằng

cao su. Nó có thể giữ độ dẫn điện của nó ngay

cả khi kéo dài khoảng 100%. Bởi vì miếng lót

nệm được làm bằng cách kết hợp vật liệu cao

su linh hoạt, người lái xe không cảm thấy khó

chịu khi lái xe. Bằng cách thay đổi kích thước

của vật liệu cao su, nó trở thành một miếng

đệm lớn hơn bề mặt chỗ ngồi và dùng được

cả khi tựa lưng.

Theo vista.gov.vn, 19/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Nhựa mới tự lành khi tiếp xúc với ánh sáng có thể kéo dài vòng đời của vệ tinh

Loại nhựa mới tự hàn gắn vết nứt khi bị

hư hại có nghĩa là các vệ tinh sẽ có thể ở lại

quỹ đạo lâu hơn. Polyme xử lý vết nứt khi tiếp

xúc với ánh sáng bằng cách chuyển đổi từ cấu

trúc cứng thành một chất mềm và dẻo. Trong

những điều kiện nhất định, nhựa được các nhà

nghiên cứu sử dụng có thể mềm hơn gấp 10

lần. Loại nhựa này cũng có thể được dùng để

phủ lên các loại xe như ô tô, giúp chúng có

khả năng tự sửa chữa sau khi có va chạm.

Jeremiah Johnson, giáo sư hóa học và

là trưởng nhóm nghiên cứu cho biết: “Bạn có

thể chuyển đổi trạng thái vật chất và ở mỗi

trạng thái đó, vật liệu hoạt động như thể đó là

vật liệu hoàn toàn khác, dù nó được tạo thành

từ tất cả các thành phần tương tự nhau”.

Thông thường khi một vật liệu được

hình thành, độ cứng của nó không thể thay

đổi. Ví dụ, bóng cao su có độ đàn hồi, nhưng

Page 41: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 41/67

không thể giòn nếu không làm thay đổi thành

phần hóa học của nó. Tuy nhiên, các nhà

nghiên cứu đã thiết kế một loại vật liệu có thể

chuyển đổi giữa các trạng thái.

Các nhà khoa học tại Viện Công nghệ

Massachusetts (MIT) đã làm điều này bằng

cách gắn các polyme vào một phân tử nhạy

quang có khả năng thay đổi các liên kết trong

vật liệu. Vật liệu được sử dụng trong nghiên

cứu là polyme polyethylene glycol (PEG),

nhưng các chuyên gia tin rằng vật liệu này có

thể hoạt động với bất kỳ loại polyme nào.

Quá trình này mất khoảng năm giờ để

hoàn thành và các nhà nghiên cứu đã phát

hiện ra rằng có thể thực hiện chuyển đổi qua

lại đến 7 lần. Sau mỗi lần thực hiện, tỷ lệ nhỏ

polyme bị lỗi không chuyển đổi trở lại. Điều

này có nghĩa là vật liệu sẽ bị hỏng.

Vật liệu bao gồm các cấu trúc giống

như lồng chứa kim loại kết hợp với nhau bằng

cách sử dụng các liên kết polyme linh hoạt.

Các nhà nghiên cứu đã tạo ra những vật liệu

này bằng cách trộn polyme gắn với các nhóm

được gọi là phối tử, có thể liên kết với một

nguyên tử kim loại. Mỗi nguyên tử kim loại

trong trường hợp này là palladium, có thể tạo

thành liên kết với bốn phân tử phối tử, tạo ra

các cụm giống lồng cứng.

Khi các nhà nghiên cứu chiếu ánh sáng

xanh lá cây trên vật liệu, góc liên kết nhỏ hơn

và các cụm nhỏ hơn lại hình thành. Khi vật

liệu ở trạng thái cụm nhỏ, nó mềm hơn gấp

mười lần. TS. Johnson cho rằng: “Chúng có

thể chảy khi bị nung nóng, nghĩa là bạn có

thể cắt chúng và khi làm nóng nhẹ, hư hại sẽ

được khắc phục”. Khi phương pháp này được

sử dụng phổ biến, palladium, kim loại quý và

đắt tiền sẽ được thay thế bằng vật liệu rẻ hơn.

Các nhà khoa học cũng đang nghiên

cứu chế tạo các vật liệu có thể chuyển đổi từ

trạng thái rắn sang trạng thái lỏng. Ngoài ra,

nhóm nghiên cứu cũng đang sử dụng ánh

sáng để lập các mô hình phần cứng và mềm

trong cùng một vật liệu. Nghiên cứu đã được

công bố trên tạp chí Nature.

Theo vista.gov.vn, 25/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Chất xúc tác mới có chức năng kép: sản xuất hydro và nhựa

Các nhà hóa học tại trường Đại học

Ruhr-Bochum (RUB) đã tạo ra một chất xúc

tác mới, giá rẻ để sản xuất nhựa. Chất xúc tác

này biến đổi một sản phẩm của nhà máy lọc

dầu sinh học thành nguyên liệu để tổng hợp

nhựa, có thể trở thành lựa chọn thay thế bền

vững cho nhựa PET trên phạm vi rộng. Đồng

thời, hydro, nguồn năng lượng tiềm năng

cũng được hình thành trong phản ứng. Trong

quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học bao

gồm TS. Stefan Barwe và GS.TS. Wolfgang

Schuhmann đến từ Trung tâm Khoa học điện

hóa Bochum đã hợp tác với Phòng thí nghiệm

Hóa học công nghiệp thuộc RUB dưới sự chỉ

đạo của GS. Martin Muhler. Công trình

nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí

Angewandte Chemie.

GS.TS. Wolfgang Schuhmann cho

biết: "Chúng ta có thể tiến một bước quan

trọng hướng đến ngành công nghiệp hóa chất

bền vững nếu không sử dụng dầu thô làm

nguyên liệu".

Thay thế nhựa PET

Trong nghiên cứu, các nhà khoa học sử

dụng chất xúc tác boride niken vì nó không

chứa bất kỳ kim loại quý nào, lại sẵn và có

giá cả phải chăng so với nhiều chất xúc tác

khác. Chất xúc tác này có thể biến đổi HMF

(5-hydroxymethyl-furfural) thành FDCA (axit

2,5-furandicarboxylic). Stefan Barwe giải

thích: "FDCA có ích cho ngành công nghiệp

bởi nó có thể được xử lý thành polyeste. Do

đó, PEF, chất thay thế PET có thể được tạo

ra và tất cả đều dựa vào nguyên liệu tái tạo

từ thực vật".

Tiêu thụ ít năng lượng nhờ sản sinh

hydro

Page 42: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 42/67

Trong các thử nghiệm, chất xúc tác đã

biến đổi 98,5% HMF, nguyên liệu ban đầu

thành FDCA trong vòng 30 phút, nhưng

không có sự xuất hiện của sản phẩm thải loại

nào. Stefan Barwe mô tả một lợi ích nữa của

sự phát triển: "Chúng tôi cũng đã thiết kế chất

xúc tác theo hướng để nó phát huy hiệu quả

trong những điều kiện giống nhau, trong đó

sản xuất thành công cả hydro". Do đó, các

nhà nghiên cứu cũng có thể sử dụng nguyên

liệu này để tổng hợp hydro như một nguồn

năng lượng tiềm năng. Hydro thường được

tách từ nước thông qua quá trình điện phân

sinh ra cả oxy. Bước phản ứng đặc biệt tiêu

tốn năng lượng đã bị loại bỏ khi các nhà

nghiên cứu tạo mối liên kết giữa phản ứng

sản sinh hydro bằng cách điện phân nước và

sản xuất FDCA.

Cơ chế phản ứng được làm rõ

Nhóm nghiên cứu cũng làm sáng tỏ

từng bước phản ứng bằng cách sử dụng các

phương pháp điện hóa và quang phổ hồng

ngoại. Lần đầu tiên, các nhà hóa học có thể

theo dõi trong thời gian thực quá trình các sản

phẩm trung gian biến đổi HMF thành FDCA.

Theo vista.gov.vn, 31/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Chế tạo bê tông bền vững làm giảm nhu cầu năng lượng và phát thải khí nhà kính

Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học

Washington đã đưa ra giải pháp thay thế bền

vững cho bê tông truyền thống bằng cách sử

dụng tro bay, sản phẩm thải loại của quá trình

sản xuất điện từ than đá. Giải pháp này khắc

phục đồng thời hai vấn đề môi trường lớn

thông qua sử dụng chất thải từ hoạt động sản

xuất than và giảm đáng kể tác động môi

trường của quá trình sản xuất bê tông.

Xianming Shi, phó giáo sư Khoa Kỹ

thuật dân sự và môi trường và nghiên cứu

sinh Gang Xu, đã tạo ra loại bê tông chắc

chắn và bền vững sử dụng tro bay làm chất

kết dính và không cần sử dụng xi măng tác

động xấu đến môi trường. Nghiên cứu đã

được công bố trên tạp chí Fuel.

Giảm nhu cầu năng lượng và phát thải

khí thải nhà kính

Sản xuất bê tông truyền thống là quy

trình kết hợp xi măng với cát và sỏi, góp phần

gây ra từ 5-8% phát thải khí nhà kính trên

toàn thế giới. Đó là vì để tạo ra xi măng,

thành phần chính của bê tông, cần nhiệt độ

cao và khối lượng lớn năng lượng.

Tro bay, vật liệu còn lại sau khi bụi

than cháy, đã trở thành vấn đề nan giải trong

quản lý chất thải ở Hoa Kỳ. Hơn 50% tro bay

được đưa đến các bãi chôn lấp, nơi tro có thể

dễ dàng ngấm vào môi trường gần đó. Dù một

số nhà nghiên cứu đã sử dụng tro bay để sản

xuất bê tông, nhưng họ vẫn chưa loại bỏ được

các phương pháp làm nóng tiêu tốn năng

lượng trước đây cần để cho ra đời một vật

liệu chắc chắn. PGS. Shi cho rằng: “Phương

pháp sản xuất của chúng tôi không cần làm

nóng hoặc sử dụng bất cứ loại xi măng nào".

Kỹ thuật phân tử

Đây là công trình nghiên cứu quan

trọng bởi các nhà nghiên cứu đang sử dụng

vật liệu có kích thước nano để chế tạo bê tông

ở cấp độ phân tử.

Nhóm nghiên cứu đã sử dụng graphene

oxit, vật liệu nano mới được phát hiện để điều

chỉnh phản ứng của tro bay với nước và biến

tro bay hoạt tính thành vật liệu giống xi

măng. Graphene oxit sắp xếp lại các nguyên

tử và phân tử trong dung dịch tro bay và các

chất kích thích hóa học như silicat natri và

oxit canxi. Quá trình này tạo ra một chuỗi

Page 43: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 43/67

phân tử canxi-aluminat - silicat-hydrat với các

nguyên tử liên kết chặt chẽ tạo thành một

mạng lưới polyme vô cơ bền hơn xi măng.

Làm đầy nước ngầm và giảm lũ lụt

Nhóm nghiên cứu đã thiết kế bê tông

tro bay dễ thấm qua, có nghĩa là nước có thể

đi qua bê tông để lại làm đầy nước ngầm và

giảm khả năng ngập lụt.

Các nhà nghiên cứu đã chứng minh thế

mạnh và hành vi của vật liệu trong các thử

nghiệm trong khuôn viên trường Đại học

Washington trong nhiều điều kiện chịu lực và

nhiệt độ khác nhau. Các nhà khoa học vẫn

đang tiến hành các thử nghiệm thẩm thấu và

thu thập dữ liệu bằng cảm biến vùi dưới bê

tông. Nhóm nghiên cứu hy vọng sẽ thương

mại hóa công nghệ đã được cấp sáng chế.

Theo vista.gov.vn, 24/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Các tòa nhà mới xây sẽ chắc chắn và xanh hơn nhờ rau củ

Để các công trình mới xây dựng trở

nên xanh và chắc chắn hơn, các kỹ sư và nhà

khoa học vật liệu tại trường Đại học

Lancaster đang chuyển sang sử dụng củ cải

và cà rốt. Theo đó, nhóm nghiên cứu đã trộn

xi măng Portland với các hạt nano đươc chiết

xuất từ xơ rau củ để cho ra đời vật liệu xây

dựng thân thiện hơn với môi trường.

Mohamed Saafi, trưởng nhóm nghiên

cứu cho biết: "Vật liệu composit không chỉ

vượt trội hơn các sản phẩm xi măng thông

dụng về tính chất cơ học và vi cấu trúc mà còn

sử dụng ít xi măng. Điều này làm giảm đáng

kể cả mức tiêu thụ năng lượng và khí thải CO2

liên quan đến hoạt động sản xuất xi măng".

Ngành công nghiệp xi măng gây phát

thải khoảng 8% CO2 toàn cầu. Khi xi măng ít

được sử dụng để sản xuất bê tông, bê tông sẽ

xanh hơn.

Xi măng Portland hoạt động như tác

nhân liên kết khi trộn lẫn với nước và đá khối,

thường là sỏi, cát hoặc kết hợp cả hai. Bằng

cách bổ sung hạt nano, nhóm nghiên cứu có

thể tăng lượng hydrat canxi silicat trong hỗn

hợp bê tông, thành phần tạo độ cứng cho bê

tông. Thành phần gia cố cho phép các nhà

khoa học sản xuất bê tông mà chỉ cần sử dụng

ít xi măng.

Các nhà nghiên cứu tin rằng các hạt

nano có thể được tạo ra từ chất thải thực phẩm

của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm.

Trong bối cảnh ngành xây dựng tiếp

tục phát triển trên toàn cầu để đáp ứng với sự

gia tăng dân số châu Á và châu Phi, sản xuất

bê tông dự kiến sẽ tăng gấp đôi trong hai thập

kỷ tới. Một báo cáo đã được công bố vào đầu

năm nay nêu rõ các công ty xi măng cần tăng

gấp đôi nỗ lực giảm phát thải để đáp ứng các

mục tiêu do thỏa thuận Paris về Biến đổi khí

hậu đề ra.

Nếu công nghệ mới có thể được mở

rộng và đưa vào áp dụng cho sản xuất bê

tông, ngành xây dựng sẽ giảm được lượng khí

thải cacbon của mỗi tòa nhà mới xây.

Theo vista.gov.vn, 30/07/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 44: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 44/67

B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM

1-0019431 Phương pháp và thiết bị tạo ra các điểm truy nhập cho dòng dữ liệu viđeo

Tác giả: Newton Philip, S. (NL),

Scalori Francesco (IT)

Quốc gia: Hà Lan

Sáng chế đề cập đến phương pháp và

thiết bị tạo ra các điểm truy nhập cho dữ liệu

video ba chiều (3D: Three Dimensional). Bộ

phận điểm truy nhập (18) tạo ra bảng điểm

truy nhập bằng cách xác định các điểm truy

nhập trong dòng dữ liệu video 3D tới và lưu

trữ các địa chỉ điểm truy nhập cho biết vị trí

của các điểm truy nhập đã xác định. Dòng dữ

liệu video có nhiều dòng con, các dòng con

này biểu diễn một dòng dữ liệu video 3D và

có ít nhất một dòng con hai chiều (2D: Two

Dimensional) chứa phiên bản 2D được mã

hoá độc lập của dữ liệu video 3D và ít nhất

một dòng con phụ chứa phần được mã hoá

phụ thuộc của dữ liệu video 3D. Các điểm

truy nhập gồm có các điểm truy nhập chính

trong dòng con 2D và các điểm truy nhập

phụ trong dòng con phụ để cho phép phát kỹ

xảo 3D đối với dữ liệu video 3D bằng cách

truy tìm và giải mã các đoạn không liền kề

với nhau trong dòng con 2D và truy tìm và

giải mã phụ thuộc các đoạn tương ứng trong

dòng con phụ.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019457 Thiết bị giải mã viđeo

Tác giả: Lee Tammy (US), Han Woo-

Jin (KR), Kim Il-Koo (KR), Lee Sun-Il (KR).

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến thiết bị giải mã

viđeo, thiết bị này bao gồm: bộ xử lý được

định cấu hình để thu, từ dòng bit, skip_flag

cho đơn vị mã hóa mà chỉ báo chế độ mã hóa

của đơn vị mã hóa có phải là chế độ bỏ qua

không; khối lân cận bao gồm khối dưới bên

trái liền kề theo đường chéo với góc dưới bên

trái của đơn vị mã hóa và thông tin hợp nhất

của phân vùng chỉ báo xem liệu phân vùng

trong số ít nhất một phân vùng có phải ở chế

độ hợp nhất không.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019456 Phương pháp giải mã hình ảnh

Tác giả: Song Hak-Sup (KR), Min

Jung-Hye (KR).

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến phương pháp giải

mã hình ảnh, phương pháp này bao gồm các

bước: thu thông tin chỉ báo về chế độ dự đoán

bên trong của khối hiện tại được giải mã, từ

Page 45: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 45/67

dòng bit, chế độ dự đoán bên trong này chỉ

báo hướng cụ thể trong số nhiều hướng,

hướng cụ thể này được chỉ báo bằng một chỉ

số dx theo hướng ngang và số nguyên cố định

theo hướng dọc, và chỉ số dy theo hướng dọc

và số nguyên cố định theo hướng ngang; thu

chỉ số của các điểm ảnh lân cận được đặt trên

một mặt trong số mặt bên trái của khối hiện

tại và mặt phía trên của khối hiện tại theo vị

trí của điểm ảnh hiện tại, chỉ số dx theo

hướng ngang và chỉ số dy theo hướng dọc;

xác định một trong số vị trí của điểm ảnh lân

cận được đặt trên mặt bên trái của khối hiện

tại được xác định trên cơ sở chỉ số dy theo

hướng dọc và chỉ số cố định theo hướng

ngang và vị trí của điểm ảnh lân cận được đặt

trên mặt phía trên của khối hiện tại được xác

định trên cơ sở chỉ số dx theo hướng ngang và

chỉ số cố định theo hướng dọc; và thu chỉ số

dự đoán của điểm ảnh lân cận trên cơ sở chỉ

số của các điểm ảnh lân cận và vị trí của điểm

ảnh lân cận được đặt trên mặt bên trái của

khối hiện tại hoặc vị trí của điểm ảnh lân cận

được đặt trên mặt phía trên của khối hiện tại.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019436 Bộ truyền ghép kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM), phương pháp truyền ghép kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM),

bộ thu ghép kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM) và phương pháp thu ghép kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM)

Tác giả: Matsumura Yoshinobu (JP),

KImura Tomohiro (JP), Ouchi Mikihiro (JP).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến bộ truyền ghép

kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM)

và bộ thu ghép kênh phân chia theo tần số

trực giao (OFDM) lần lượt truyền và thu N

(N > 2, N là số nguyên) ký hiệu điều khiển.

Đối với mỗi ký hiệu điều khiển, tín hiệu miền

thời gian khoảng thời gian bảo vệ là, ví dụ,

giống hệt với tín hiệu thu được nhờ dịch vị

tần số ít nhất một phần của tín hiệu miền thời

gian ký hiệu hữu ích bởi lượng khác với ký

hiệu bất kỳ khác, hoặc tới tín hiệu thu được

nhờ dịch vị tần số một hoặc cả hai phần và

khoảng cách của khoảng thời gian tín hiệu

miền thời gian ký hiệu hữu ích khác với ký

hiệu bất kỳ khác bởi lượng định trước.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019437 Phương pháp, hệ thống và máy chủ để thu thập các phiên bản phần mềm

Tác giả: Li Shiping (CN).

Quốc gia: Trung Quốc

Phương pháp thu thập các phiên bản

phần mềm bao gồm các bước: máy chủ tiếp

nhận thông tin phiên bản thứ nhất của phần

mềm được cài đặt tại thiết bị máy khách từ

Page 46: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 46/67

máy khách; đánh giá xem liệu phiên bản thứ

nhất có mới hơn phiên bản thứ hai không dựa

vào thông tin của phiên bản thứ nhất và thông

tin của phiên bản thứ hai được ghi lại tại máy

chủ; cập nhật thông tin của phiên bản thứ hai

mà được ghi lại tại máy chủ để xác định được

phiên bản thứ nhất mới hơn phiên bản thứ

hai. Phiên bản mới của phần mềm có thể dò

tìm được dựa trên phiên bản phía máy khách

được báo cáo bởi các máy khách mà không

cần thực hiện công việc thu thập và cập nhật

thủ công, như vậy hiệu quả khi đạt được

phiên bản cập nhật của phần mềm sẽ được cải

thiện rất nhiều. Hơn nữa, máy chủ, hệ thống

và máy khách dùng để thu thập các phiên bản

phần mềm cũng được đề cập đến trong sáng

chế này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019438 Nền thủy tinh dùng cho đĩa từ và vật ghi từ

Tác giả: Kenichi Nishimori (JP).

Quốc gia: Nhật, Thái Lan.

Sáng chế đề cập đến nền thủy tinh (1)

trị số của độ đồng tâm hiệu chỉnh (AC) mà có

xét đến Sk và/hoặc Ku được tính toán từ biên

dạng hình dạng trên toàn bộ chu vi của lỗ bên

trong, hoặc độ lệch nằm trong khoảng định

trước. Nền thủy tinh dùng làm vật ghi từ có

thể đọc ổn định thông tin secvô bao gồm

thông tin rãnh được lưu trên đĩa từ khi nền

thủy tinh được sử dụng cho HDD.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019446 Phương pháp và thiết bị sản xuất màn hình quang

Tác giả: Maeda Minoru (JP), Koshio

Satoru (JP), Nakaichi Makoto (JP), Tokuoka

Takuya (JP).

Quốc gia: Nhật

Để kiểm soát mức điện tích cảm ứng

sinh ra ở chi tiết dạng tấm trong thiết bị tạo

lớp RTP (tạo lớp trên tấm bằng trục cán),

sáng chế đề xuất phương tiện điều khiển trong

thiết bị tạo lớp RTP, trong đó quá trình vận

hành bao gồm các bước: cấp dải vật liệu dạng

lớp màng quang dài gồm màng mang, lớp

dính áp hợp được tạo ra trên một trong hai bề

mặt đối nhau của màng mang và các tấm

màng quang được đỡ liên tục trên màng mang

thông qua các lớp dính áp hợp về phía vị trí

tạo lớp định trước, ở đầu của thân bóc được

bố trí trong vùng lân cận với vị trí tạo lớp

định trước, gấp màng mang lên sao cho bề

mặt còn lại trong số hai bề mặt đối nhau của

màng mang đi vào phía trong nhằm vận

chuyển màng mang ra khỏi vật liệu dạng lớp

màng quang để nhờ đó cấp tấm màng quang

này cùng với lớp dính áp hợp tới vị trí tạo lớp

định trước khi được bóc liên tục ra khỏi màng

mang, và mặt khác, vận chuyển chi tiết dạng

tấm hình chữ nhật tới vị trí tạo lớp định trước

sao cho mỗi chi tiết dạng tấm này tiến sát tới

đầu của thân bóc, và ở vị trí tạo lớp định

trước, tạo lớp tấm màng quang trên một trong

hai bề mặt đối nhau của chi tiết tương ứng

trong số các chi tiết dạng tấm nhờ lớp dính áp

hợp, và khi sản xuất màn hình quang, vật liệu

có cùng bản chất với vật liệu của màng mang,

Page 47: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 47/67

hoặc vật liệu được chọn từ các vật liệu nằm

sát cùng dãy điện ma sát xác định được bởi

Bộ (Cơ quan) hướng dẫn an toàn tĩnh điện

được chọn trước, và mặt tiếp xúc của thân

bóc với màng mang được tạo kết cấu ít nhất

bằng vật liệu được chọn này, và nhờ đó kiểm

soát điện tích cảm ứng đối với các chi tiết

dạng tấm, gây ra bởi điện ma sát tạo ra ở

màng mang do ma sát với thân bóc khi màng

mang được vận chuyển, đến điện thế nhất

định hoặc nhỏ hơn.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019448 Đầu cuối di động có màn hình thao tác và phương pháp thao tác đầu cuối di động này

Tác giả: Min Wook Na (KR), Jong

Woo Shin (KR), Kang Sik Choi (KR),..

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến đầu cuối di động

và phương pháp thao tác màn hình cho đầu

cuối này. Phương pháp thao tác màn hình

theo sáng chế gồm các bước: hiển thị một

màn hình chứa một đối tượng vô định hình

mà có thể thay đổi ít nhất một phần thành

một dạng cụ thể theo một sự kiện nhập; nhận

một sự kiện nhập được tạo ra; và hiển thị một

đối tượng cụ thể mà được tạo ra từ đối tượng

vô định hình bằng cách biến đổi đối tượng vô

định hình ít nhất một phần theo sự kiện nhập.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019474 Phương pháp và thiết bị truyền thông

Tác giả: Timothy Collins (US)

Quốc gia: Phần Lan

Sáng chế đề cập tới việc tổ chức các

thông báo và các phần gắn kèm và nội dung

có liên quan dưới dạng một cuộc hội thoại.

Bộ phận quản lý cuộc hội thoại xác định để

tạo nhóm nhiều thông báo thành một đối

tượng hội thoại. Sau đó, bộ phận quản lý

cuộc hội thoại xác định một hoặc nhiều phần

gắn kèm, một hoặc nhiều nội dung, hoặc kết

hợp của chúng được kết hợp với nhiều thông

báo, và kết hợp một hoặc nhiều phần gắn

kèm, một hoặc nhiều nội dung, hoặc kết hợp

của chúng với đối tượng hội thoại.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 48: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 48/67

1-0019472 Phương pháp và thiết bị hiển thị tầng bản đồ

Tác giả: Cynthia Kuo (US), Carl

Snellman (FI), Peter Mikelsons (US),…

Quốc gia: Phần Lan

Sáng chế đề cập tới phương pháp và

thiết bị hiển thị tầng bản đồ để hiển thị các kết

quả tìm kiếm và các địa điểm quan tâm khác

được định vị trên nhiều tầng hoặc mặt sàn

trong bản đồ nhiều tầng. Phương pháp này có

thể bao gồm bước nhận đầu vào chỉ báo tiêu

chí tìm kiếm. Ngoài ra, phương pháp này có

thể bao gồm bước xác định ít nhất một vị trí

kết quả tìm kiếm liên quan tới tiêu chí tìm

kiếm, và xác định mối liên hệ giữa ít nhất một

vị trí kết quả tìm kiếm và bản đồ nhiều tầng.

Ngoài ra, phương pháp này có thể còn bao

gồm bước làm cho, dựa ít nhất một phần vào

mối liên hệ, tầng bản đồ và ít nhất một vị trí

kết quả tìm kiếm được hiển thị làm chỉ báo vị

trí kết quả tìm kiếm, trong đó chỉ báo vị trí kết

quả tìm kiếm có thể được thể hiện theo các

cách khác nhau dựa ít nhất một phần vào tầng

nào mà vị trí kết quả tìm kiếm được định vị.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019477 Phương pháp và thiết bị cung cấp chứng thư truy cập

Tác giả: Silke Holtmanns (DE), André

Dolenc (BR).

Quốc gia: Phần Lan

Sáng chế đề cập tới phương pháp và

thiết bị để cung cấp chứng thư truy cập.

Phương pháp có thể bao gồm bước nhận, tại

thiết bị di động thứ nhất, thông tin về thiết bị

di động thứ hai. Thiết bị di động thứ nhất có

thể được cung cấp thông tin chứng thư truy

cập mạng cần được truyền từ thiết bị di động

thứ nhất tới thiết bị di động thứ hai.

Phương pháp này có thể còn bao gồm

bước làm cho thông tin về thiết bị di động

thứ hai được tạo ra cho thiết bị cung cấp cho

mạng. Ngoài ra, phương pháp này có thể còn

bao gồm bước nhận thông tin cấp quyền từ

thiết bị cung cấp để truyền thông tin chứng

thư truy cập mạng từ thiết bị di động thứ nhất

cho thiết bị di động thứ hai. Phương pháp này

cũng có thể bao gồm bước, đáp lại việc nhận

của thông tin cấp quyền, làm cho thông tin

chứng thư truy cập mạng được cung cấp cho

thiết bị di động thứ hai. Sáng chế cũng đề

xuất thiết bị tương ứng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019481 Phương pháp và thiết bị để tạo giao diện cho người sử dụng

Tác giả: Apaar Tuli (IN)

Quốc gia: Phần Lan

Sáng chế đề cập tới phương pháp để

tạo giao diện cho người sử dụng. Phương

Page 49: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 49/67

pháp này tạo ra cơ chế chuyển tiếp cho thiết

bị nhiều cấp được khởi tạo dựa trên thao tác

chạm, bao gồm các bước: nhận chỉ báo về

thao tác chuyển tiếp được thực hiện tại bộ

phận hiển thị màn hình chạm của thiết bị

trong trạng thái thiết bị thứ nhất, và thực hiện

khởi tạo việc chuyển tiếp từ trạng thái thiết bị

thứ nhất sang trạng thái thiết bị thứ hai đáp

lại việc thực hiện thao tác chuyển tiếp, khởi

tạo việc chuyển tiếp bao gồm thay thế dần

dần hình hiển thị được kết hợp với trạng thái

thiết bị thứ nhất bằng hình hiển thị được kết

hợp vói trạng thái thiết bị thứ hai dựa trên

mức độ lặp lại của thao tác chuyển tiếp. Sáng

chế cũng đề cập tới thiết bị và vật ghi đọc

được bằng máy tính thực hiện phương pháp

nêu trên.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019454 Thiết bị người máy được dẫn động rung để leo trèo

Tác giả: Robert H. Mimlitch III (US),

David Anthony Norman (US), Jeffrey R.

Waegelin (US),…

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến thiết bị bao gồm

vỏ, động cơ quay bố trí bên trong vỏ này, cơ

cấu rung, và các phụ kiện, mỗi phụ kiện có

gốc phụ kiện nằm gần vỏ và đầu phụ kiện

nằm cách xa khỏi vỏ. Một hoặc nhiều phụ

kiện được làm thích ứng để làm cho thiết bị

chuyển động ngang qua bề mặt theo hướng

về phía trước nói chung được xác định bởi độ

lệch theo chiều dọc giữa gốc phụ kiện và đầu

phụ kiện, và các phụ kiện này bao gồm hai

hoặc nhiều phụ kiện bố trí sao cho các đầu

phụ kiện của hai hoặc nhiều phụ kiện này

được làm thích ứng để tiếp xúc với các mặt

đối nhau để tạo ra lực tổng hợp theo hướng

nói chung được xác định bởi độ lệch theo

chiều dọc giữa gốc phụ kiện và đầu phụ kiện

của hai hoặc nhiều phụ kiện khi cơ cấu rung

làm cho thiết bị rung động. Lực tổng hợp có

thể cho phép thiết bị leo trèo khi các mặt đối

nhau được nghiêng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019503 Máy giám sát và kiểm soát lỗi dùng cho thiết bị

Tác giả: Yoshikazu Ishii (JP), Satoshi

Shimakura (JP), Hiroto Sasaki (JP), Kaoru

Kawabata (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập tới máy giám sát và

kiểm soát lỗi dùng cho thiết bị được bố trí

trong nhà máy có các thiết bị được bố trí ở

dạng song song, như hệ thống cấp năng

lượng cho khu vực, để giám sát sự vận hành

Page 50: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 50/67

của các thiết bị bao gồm phương tiện để đo

và lưu trữ các đại lượng xử lý trong khoảng

thời gian vận hành thiết bị và các trạng thái

đóng/ngắt của các bộ phận thiết bị khi vận

hành, và tiến hành tạo nhóm bằng cách lấy

các chức năng, như cấp nước, cấp nhiệt lạnh,

và trao đổi nhiệt, làm bộ phận, và phương

tiện phân loại nhóm để xác định các nhóm

mà các chức năng tương ứng của thiết bị đích

thuộc về nó, dựa trên các đại lượng xử lý

được thu thập ở các khoảng thời gian xác

định và trạng thái đóng/ngắt của các bộ phận

thiết bị, và các mối tương quan giữa các đại

lượng xử lý và các nhóm trong mỗi bộ phận

chức năng được hiển thị.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019445 Máy nén

Tác giả: Hayashi Takeo (JP),

Tomioka Naoto (JP), Komori Keiji (JP),

Kamiishida Hiroki (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề xuất máy nén để giải

quyết vấn đề về van xả có thể bị lệch do khe

hở lắp ráp, và vấn đề này có thể khiến phần

nắp của van xả không đóng kín được lỗ xả.

Khi van xả (31) xoay xung quanh lỗ xuyên

(23b) và phần thẳng thứ nhất (55) của phần

nắp (54) dịch chuyển theo hướng ra xa khỏi

trục dẫn động (12), thì bề mặt bên (58a) của

phần nhô (58) của phần cố định (52) sẽ tiếp

xúc với thành bên (24a) của rãnh (24), và nhờ

đó chuyển động xoay của van xả (31) được

hạn chế. Trong khi đó, khi van xả (31) xoay

xung quanh lỗ xuyên (23b) và phần thẳng thứ

hai (56) của phần nắp (54) dịch chuyển theo

chiều hướng về phía trục dẫn động (12), thì

bề mặt bên (58b) của phần nhô (58) của phần

cố định (52) sẽ tiếp xúc với thành bên (24c)

của rãnh (24), và nhờ đó chuyển động xoay

của van xả (31) được hạn chế.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019434 Hệ thống làm mát bằng nước dùng cho động cơ

Tác giả: Jung-Hsiu Pai (TW), Chung

Hsing Hsiao (TW), Kuan-Hsu Lin (TW),…

Quốc gia: Đài Loan

Sáng chế đề cập tới hệ thống làm mát

bằng nước dùng cho động cơ, hệ thống này

bao gồm động cơ có đầu xi lanh, khối xi

lanh, bơm nước, và van phân phối chất lỏng.

Page 51: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 51/67

Đầu xi lanh có đường dẫn nước đầu xi lanh

nối thông và cửa nạp nước thứ nhất. Khối xi

lanh được kết hợp với đầu xi lanh, và có

đường dẫn nước khối xi lanh nối thông và

cửa nạp nước thứ hai sao cho đường dẫn

nước khối xi lanh được nối thông với đường

dẫn nước đầu xi lanh. Van phân phối chất

lỏng có cửa nạp van nối thông với bơm nước,

cửa xả van thứ nhất nối thông với cửa nạp

nước thứ nhất, và cửa xả van thứ hai nối

thông với cửa nạp nước thứ hai. Nhờ đó,

nước làm mát lần lượt chảy tới các bộ phận

khác nhau của động cơ với lượng nước tương

ứng theo yêu cầu thực tế, nhờ đó tạo ra phân

bố nhiệt độ động cơ đồng đều hơn.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019458 Van dùng cho chất lỏng cao áp và két chứa được lắp van này

Tác giả: Ligonesche Renaud (FR),

Debry Tristan (FR), De Potter Romuald (FR).

Quốc gia: Pháp

Sáng chế đề cập đến van dùng cho chất

lỏng cao áp, có hoặc không có van giảm áp

được lắp cùng, van này bao gồm: thân van (1)

chứa ống chất lỏng (2) có đầu phía dòng vào

(3) được lắp nối thông với két chứa chất lỏng

cao áp và đầu phía đầu ra (4) được lắp nối

thông với thiết bị sử dụng. ống chất lỏng (2)

bao gồm van tách riêng (5) đóng một cách có

lựa chọn ống dẫn chất lỏng (2). Van (5) được

điều chỉnh bằng cần quay (8) được lắp quay

lên thân van (1) ở giữa vị trí không vận hành

trong đó van tách riêng (5) được giữ ở vị trí

gần với ống dẫn (2) và vị trí vận hành trong

đó cần vặn (8) làm chuyển động van tách

riêng (5) vào vị trí để mở ống dẫn (2).

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019491 Máy giặt

Tác giả: Mishima Takuhiro (JP),

Odachi Tooru (JP), Shigeura Tomohiro (JP),

Inoue Tomoyoshi (JP).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến máy giặt gồm

thân chính; bồn bên ngoài được bố trí bên

trong thân chính; bồn giặt được bố trí quay

được trong bồn bên ngoài và có phần hở;

phần che bên ngoài (24) được bố trí ở trên

bồn giặt; miệng nạp quần áo được bố trí tại

phần che bên ngoài (24) và quần áo được cho

vào qua miệng nạp này; nắp bên ngoài (28)

để mở và đóng miệng nạp quần áo; và phần

hở thông khí (30) được bố trí tại mặt bên của

nắp bên ngoài (28), trong đó bồn giặt được

thông khí qua phần hở thông khí (30). Nhờ

đó, máy giặt có thể thông khí một cách hiệu

quả bồn bên ngoài và ngăn không cho nước,

Page 52: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 52/67

rác, v.v. đi vào bồn giặt từ phần hở thông khí,

và máy giặt có vẻ bề ngoài đẹp.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019370 Thiết bị chữa cháy phun tự động

Tác giả: Hideaki Sako (JP), Takeshi

Takahashi (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến thiết bị chữa

cháy phun tự động có kết cấu đơn giản,

được tạo ra với chi phí thấp và dễ dàng, bảo

trì một cách đơn giản trong thực tế. Thiết bị

chữa cháy phun tự động theo sáng chế bao

gồm thùng chính (2) và đầu phun (6). Thùng

chính (2) chứa tác nhân chữa cháy. Đầu

phun (6) bao gồm cảm biến nhiệt độ (tức là

chi tiết nóng chảy mà bị nóng chảy tại nhiệt

độ định trước). Cảm biến nhiệt độ được nối

với thùng chính. Khi cảm biến nhiệt độ phát

hiện một nhiệt độ định trước, tác nhân chữa

cháy được phun ra từ đầu phun (6).

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019471 Chất dập lửa và phương pháp dập lửa ụ

Tác giả: Ohtani Hideo (JP), Koshiba

Yusuke (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến chất dập lửa

chứa metaloxen, môi trường phân tán và

chất phân tán, metaloxen được phân tán

trong môi trường phân tán, trong đó hàm

lượng của metaloxen nằm trong khoảng từ

70ppm đến 160ppm (tính theo trọng lượng),

môi trường phân tán là nước, và chất phân

tán là ít nhất một chất hoạt động bề mặt

không ion được chọn từ nhóm chỉ bao gồm

các este của glyxerin và axit béo, các este

của sucroza và axit béo, các este của

sorbitan và axit béo, và các rượu axetylen.

Sáng chế cũng đề cập đến phương pháp dập

lửa sử dụng chất dập lửa chứa metaloxen.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 53: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 53/67

1-0019451 Cửa và khung cửa chống cháy

Tác giả: Park Gap Hwan (KR).

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề xuất cửa chống cháy và

khung cửa chống cháy. Cửa chống cháy bao

gồm phần chứa nước, rãnh, vật liệu trương

nở, cửa nạp, và nhiều lỗ cấp nước. Phần

chứa nước giữ nước bên trong. Rãnh được

tạo ra dọc theo cạnh của cửa chống cháy.

Vật liệu trương nở được chèn vào trong

rãnh dọc theo cạnh của cửa chống cháy và

nở ra khi hấp thu nước để bịt kín khe hở

giữa khung cửa và cửa chống cháy. Cửa nạp

được bố trí tại phần dưới để cấp nước vào

trong phần chứa nước. Nhiều lỗ cấp nước

được bố trí dọc theo rãnh giữa phần chứa

nước và vật liệu trương nở để cấp nước giữ

trong phần chứa nước thông qua cửa nạp

đến vật liệu trương nở.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019340 Thiết bị luyện tập có thể gắn vào kết cấu

Tác giả: Randal Hetrick (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề xuất thiết bị luyện tập

có neo với nhiều thành phần. Theo một

phương án, neo gồm một hoặc nhiều thành

phần khóa liên động, chẳng hạn như các

vòng cứng hoặc mềm dẻo. Các vòng cứng

chẳng hạn như các vòng gắn cửa có thể

được sử dụng để nối các thành phần khác

nhau. Các phương án thực hiện cho phép

thay thế, thay đổi cho nhau, hoặc thêm các

thành phần vào neo của thiết bị luyện tập.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019368 Dụng cụ vắt sữa mẹ, phương pháp vắt sữa mẹ và thiết bị tạo ra mức áp suất âm tối thiểu trên một vùng cơ thể người

Tác giả: Carr Lane Quackenbush

(US), Michael Dettling (CH), Mark A.

Luzbetak (US), …

Quốc gia: Thụy Sĩ

Sáng chế đề cập đến dụng cụ vắt sữa

vận hành bằng tay hoặc bằng động cơ, dụng

cụ vắt sữa này bao gồm một cơ cấu để điều

chỉnh sự thay đổi áp suất, ví dụ, độ chân

không trong khoang đầu chụp, trong một số

trường hợp tới một mức áp suất tối thiểu được

duy trì để nhỏ hơn áp suất môi trường (khí

quyển). Bộ điều áp tạo ra sự điều khiển để

thay đổi các mức áp suất âm giữa trị số tối

thiểu và trị số tối đa (và các trị số nằm trong

khoảng này), hoặc để đạt được một trị số áp

suất âm đo được thực tế trong đầu chụp.

Page 54: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 54/67

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019435 Hộp bao gói

Tác giả: Onogi Atsushi (JP), Ogaki

Mitsuko (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập tới vỏ bao gói trong

đó thức ăn dạng thanh có thể được lấy một

cách dễ dàng ra để ăn được ngay cả khi một

tay đang bận việc gì đó cũng như các thức ăn

dạng thanh có thể được giữ gọn chặt. Hộp bao

gói giữ thức ăn dạng thanh (1) được bao gói

bằng giấy gói, như các thanh kẹo cao su hoặc

sôcôla, trong vỏ bao gói này khác biệt ở chỗ,

giấy gói có thể được mở bằng cách cắt các lỗ

đục (5) giữa phần tách ra (6) và phần cố định

(7) để tách phần tách ra (6), và mỗi thức ăn

dạng thanh (1) được giữ cố ịnh vào các vỏ

bao gói (8) và (31) nhờ phần cố định (7) của

giấy gói.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019356 Đồ chứa

Tác giả: Koo Hong Sik (KR).

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến đồ chứa. Đồ chứa

này bao gồm nắp đậy và thân đồ chứa, chi tiết

quay được ghép nối quay được vào nắp đậy,

và chi tiết quay kéo nắp đậy xuống sao cho

được ghép nối với thân đồ chứa khi chi tiết

quay được ghép nối vào thân đồ chứa.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 55: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 55/67

1-0019444 Dụng cụ nhà bếp và phương pháp chế tạo dụng cụ nhà bếp này

Tác giả: Allemand Simon (FR), Tuffe

Stéphane (FR).

Quốc gia: Pháp

Sáng chế đề xuất dụng cụ nhà bếp bao

gồm bề mặt nấu bên trong (1) được làm từ

thép cacbon oxy hóa sau và thấm cacbon-nitơ

hoặc thép cacbon oxy hóa sau và thấm nitơ và

bề mặt đun nóng bên ngoài (2). Theo sáng

chế, bề mặt nấu bên trong (1) và bề mặt đun

nóng ngoài (2) được làm từ hỗn hợp kim loại

được cán đồng thời nhiều lớp (3) bao gồm lớp

ngoài thứ nhất (4) làm từ thép cacbon được

cán đồng thời nhiều lớp với lớp thứ hai (5)

làm từ đồng, bề mặt nấu bên trong (1) được

tạo trên lớp thứ nhất (4). Sáng chế cũng đề

xuất phương pháp chế tạo loại dụng cụ nhà

bếp nêu trên.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019442 Chế phẩm chăm sóc răng miệng ổn định

Tác giả: Deng Yan (CN), Xiaoke Li

(CN), ZhiQing Zhang (CN), GuoQing Zhao

(CN).

Quốc gia: Thụy Sĩ

Sáng chế đề cập đến chế phẩm chăm

sóc răng miệng một pha duy nhất. Chế phẩm

theo sáng chế chứa cả hai hợp chất canxi và

phosphat và cơ bản không chứa nước. Chế

phẩm chăm sóc răng miệng một pha duy nhất

ổn định, duy trì các đặc tính độ nhớt tốt và

tránh sự cần thiết phải chia ngăn khi đóng gói.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019393 Lọ chứa mỹ phẩm chăm sóc da có chức năng xoa bóp nhiệt

Tác giả: Park Wooram (KR), Kim So-

hee (KR), Lee Yoonhee (KR), Hwang

Cheonghwan (KR), Nam Hyeseong (KR).

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến lọ chứa mỹ

phẩm chăm sóc da bao gồm chi tiết

mở/đóng có khả năng xả thành phần được

đưa vào trong ống hình trụ được tạo ra bên

trong thân thứ nhất trong đó thành phần

được lưu trữ ở bên ngoài của thân thứ nhất

khi áp lực được đặt vào núm ấn xả được bố

trí trên thân bơm được lắp vào phần trên của

thân thứ nhất và bao gồm lỗ xả để xả thành

phần chảy dọc theo đường dẫn trong thân

bơm ra bên ngoài của thân thứ nhất khi

chọn mở và đóng đường dẫn thành phần, lọ

chứa mỹ phẩm chăm sóc da này bao gồm:

thân thứ hai được lắp vào phần dưới của

thân thứ nhất và có bộ điều khiển nhiệt độ

bên trong; nguồn điện được lắp bên trong

thân thứ hai; và bộ phận sinh nhiệt được lắp

vào đầu của thân thứ hai để sinh nhiệt bằng

cách sử dụng điện năng được cung cấp từ

nguồn điện và bao gồm phần sinh nhiệt mà

nhiệt độ của nhiệt được sinh ra được điều

khiển bởi bộ điều khiển nhiệt độ.

Page 56: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 56/67

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019355 Xốp uretan gốc polyete được thấm mỹ phẩm

Tác giả: Kim Kyung Nam (KR),

Choi Jung Sun (KR), Shim Min Kyung

(KR), …

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến xốp uretan gốc

polyete được thấm mỹ phẩm, xốp uretan

gốc polyete có cảm giác khi tiếp xúc, độ

bền và độ ổn định rất tốt.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019384 Chế phẩm chứa tế bào nấm men Saccharomyces cerevisiae và kit chứa tế bào nấm men này

Tác giả: Simon Jean-Luc (FR),

Pignede Georges (FR), Vandekerckove

Pascal (FR), …

Quốc gia: Pháp

Sáng chế đề cập đến chủng nấm men

mới, nấm men thu được từ chủng này, chế

phẩm chứa ít nhất một nấm men

Saccharomyces cerevisiae và/hoặc dẫn xuất

của nấm men có lợi ích đặc biệt làm phụ

gia thực phẩm và/hoặc thực phẩm chứa lợi

khuẩn và/hoặc thực phẩm chức năng

và/hoặc dược thực phẩm và/hoặc thành

phần chức năng và/hoặc thành phần có hoạt

tính trong dược mỹ phẩm và/hoặc trong

dược phẩm. Sáng chế cũng đề cập đến chế

phẩm chứa tế bào nấm men nêu trên dùng

trong trong lĩnh vực dinh dưỡng của người

và/hoặc động vật hoặc dùng để điều trị hoặc

phòng ngừa các bệnh viêm.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019447 Cụm kim tiêm có thể kéo vào được

Tác giả: Crawford Jamieson, W.

(GB), Ellis Robert G. (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến cụm kim tiêm có

thể kéo vào được, bao gồm vỏ bọc có thành

bên tạo ra hốc khoang, và bộ phận đẩy kéo

dài, đầu cuối xa của bộ phận đẩy tạo ra

Page 57: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 57/67

khoang chứa trong phạm vi hốc khoang để

chứa chất lỏng trong đó. Bộ phận đẩy được

làm thích ứng để chuyển dịch trượt được

trong phạm vi hốc khoang. Cụm kim tiêm

theo sáng chế bao gồm ống bọc được bố trí

trong phạm vi hốc khoang và hỗ trợ ít nhất

một phần ống thông, và thành phần kim rút

lại được được ăn khớp với ống bọc để di

chuyển tiến lên, được lựa chọn bằng tay so

với một phần vỏ bọc. Thành phần kim rút

lại được có thể được đưa lên phía trước từ

trạng thái ban đầu trong đó ít nhất một phần

của kim được bố trí ở bên ngoài vỏ bọc,

sang trạng thái được rút vào trong đó kim

hoàn toàn được bao quanh bởi vỏ bọc. Bộ

phận đẩy kéo dài có thể được đưa lên phía

trước quanh ống bọc để lấy chất lỏng vào

trong khoang chứa hoặc đẩy chất lỏng ra

khỏi khoang chứa.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019450 Thuốc chứa insulin và chất chủ vận GLP-1, bộ kit và dụng cụ chứa thuốc này

Tác giả: Werner Ulrich (DE),

Rotthauser Barbel (DE), Smith Christopher

James (DE).

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến thuốc chứa

insulin và ít nhất một chất chủ vận thụ thể

GLP-1, phương pháp bào chế thuốc này, và

bộ kit chứa thuốc này để điều trị bệnh.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019462 Tiền dược chất của axit amin chứa flo và thuốc chứa tiền dược chất này

Tác giả: Hashihayata Takashi (JP),

Otake Norikazu (JP), Miyakoshi Naoki

(JP), Sakagami Kazunari (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến tiền dược chất

của hợp chất axit amin chứa flo có công

thức chung (I) mà tạo thành axit amin chứa

flo - đây là chất chủ vận thụ thể glutamat

hướng chuyển hóa nhóm 2, hoặc muối dược

dụng của nó. Cụ thể hơn, sáng chế đề cập

đến tiền dược chất làm gia tăng sự tiếp xúc

trong cơ thể và gia tăng khả năng hấp thụ

qua miệng và khả năng hấp thụ qua niêm

mạc khác của hợp chất mà tác động lên thụ

thể glutamat hướng chuyển hóa nhóm 2 làm

chất để phòng ngừa hoặc điều trị các bệnh

liên quan đến thụ thể glutamat hướng

chuyển hóa nhóm 2 như bệnh tâm thần

phân liệt, rối loạn lo âu và các bệnh liên

quan, bệnh trầm cảm, rối loạn lưỡng cực,

bệnh động kinh, rối loạn phát triển, rối loạn

giấc ngủ, và các bệnh tâm-thần kinh khác;

và chứng nghiện thuốc, rối loạn nhận biết,

bệnh Alzheimer, bệnh múa giật Huntington,

bệnh Parkinson, rối loạn vận động liên quan

đến tính cứng cơ, chứng thiếu máu não,

chứng thiểu năng não, rối loạn tủy sống,

bệnh đầu, và các rối loạn thần kinh khác.

Page 58: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 58/67

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019338 Hợp chất phenylxycloalkylmetylamin và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Bhat Laxminarayan (IN),

Adiey Kouacou (CI), Bhat Seema Rani

(IN).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất

phenylxycloalkylmetylamin và dược phẩm

chứa hợp chất phenylxycloalkylmetylamin

này. Dược phẩm theo sáng chế có thể được

sử dụng trong việc điều trị và/hoặc phòng

ngừa bệnh béo phì và trầm cảm cũng như

các chỉ định đối với bệnh kèm theo liên

quan đến bệnh béo phì và trầm cảm.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019345 Hợp chất picolinamit dùng làm chất ức chế kinaza và dược phẩm chứa chúng

Tác giả: Burger Matthew, T. (US),

Han Wooseok (KR), Lan Jiong (CN),

Nishiguchi Gisele (US).

Quốc gia: Thụy Sĩ

Sáng chế đề cập đến hợp chất

picolinamit và dược phẩm chứa chúng để ức

chế hoạt tính tích hợp tiền virut của

Maloney Kinaza (PIM kinaza) kèm theo tạo

khối u ở người hoặc động vật. Theo một số

phương án, hợp chất và dược phẩm là hữu

hiệu để ức chế hoạt tính của ít nhất một PIM

kinaza. Hợp chất và dược phẩm có thể được

sử dụng ở dạng riêng rẽ hoặc kết hợp với ít

nhất một chất khác để điều trị rối loạn do

serin/threonin kinaza hoặc thụ thể tyrosin

kinaza gây ra, như bệnh ung thư.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019387 Hợp chất pyrazol-amit và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Motomura Takahisa (JP),

Shomi Gakujun (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến hợp chất có

công thức sau:

trong đó n là 1 hoặc 2,

Page 59: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 59/67

hoặc muối dược dụng của nó, và dược phẩm

chứa hợp chất này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019403 Hợp chất 1,2,5-oxadiazol có tác dụng làm chất ức chế indolamin 2,3-dioxygenaza, hợp chất này ở dạng rắn và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Combs Andrew, P. (US), Yue

Eddy W. (US), Sparks Richard B. (US), …

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất 1,2,5-

oxadiazol và dược phẩm chứa chúng. Các

hợp chất này là các chất ức chế indolamin

2,3-dioxygenaza và hữu dụng trong việc

điều trị bệnh ung thư và các rối loạn khác.

Ngoài ra sáng chế còn đề cập đến các quy

trình và các chất trung gian để điều chế các

hợp chất 1,2,5-oxadiazol này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019416 Hợp chất heteroxyclyl và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Dave Bhavesh (IN), Banerjee

Rakesh, Kumar (IN), Phukan Samiron (IN),

Quốc gia: Ấn Độ

Sáng chế đề cập đến hợp chất heteroaryl

dùng làm chất ức chế protein kinaza được

hoạt hóa bởi yếu tố phân bào (MEK). Cụ thể

hơn, sáng chế đề cập đến hợp chất

heteroaryl có công thức (I):

Muối dược dụng của nó, hỗn hợp của nó với

thuốc thích hợp và dược phẩm chứa chúng

được sử dụng trong các phương pháp điều

trị bệnh. Sáng chế còn đề cập đến qui trình

điều chế hợp chất này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 60: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 60/67

1-0019417 Hợp chất axit carboxylic, phương pháp điều chế hợp chất này và dược phẩm chứa nó

Tác giả: Hori Seiji (JP), Hasegawa

Futoshi (JP), Urabe Daisuke (JP),

Kurebayashi Hirotaka (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến hợp chất có

công thức (I) dưới đây và muối dược dụng

của nó:

trong đó các nhóm biến đổi X, R1, R2, R3

m, n và p là như được xác định trong bản

mô tả này. Sáng chế cũng đề cập đến

phương pháp điều chế ít nhất một hợp chất

nêu trên, các chất trung gian hữu ích trong

việc điều chế chúng, dược phẩm chứa ít

nhất một hợp chất này trong điều trị các tình

trạng bệnh ví dụ, các bệnh dị ứng, các bệnh

tự miễn, các bệnh do virut và bệnh ung thư.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019420 Hợp chất aryletynyl, quy trình điều chế và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Georg Jaeschke (DE), Lothar

Lindemann (DE), Heinz Stadler (CH), Eric

Vieira (CH).

Quốc gia: Thụy Sĩ

Sáng chế đề cập đến hợp chất etynyl

có công thức I:

trong đó: R1 là phenyl, 3-flophenyl, 4-

flophenyl hoặc 2,5-di-flophenyl; hoặc muối

cộng axit dược dụng của nó, ở dạng đồng

phân đối ảnh tinh khiết có cấu hình tuyệt

đối như được thể hiện trong công thức I.

Ngạc nhiên phát hiện ra rằng, các hợp chất

có công thức chung I là các chất điều biến

dị lập thể của thụ thể glutamat hướng

chuyển hóa kiểu phụ 5 (mGluR5) có các

tính chất sinh hóa, lý hóa và d-ợc lực học

tốt hơn so với các hợp chất đã biết trong

lĩnh vực kỹ thuật này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019465 Hợp chất flometyl-5,6-dihydro-4H-[1,3]oxazin và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Hilpert Hans (CH), Humm

Roland (DE), Woltering Thomas (DE) .

Quốc gia: Thụy Sĩ - Ý

Sáng chế đề xuất hợp chất có công

thức I:

Page 61: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 61/67

có hoạt tính ức chế enzym phân cắt protein

tiền chất amyloit ở vị trí beta-1 (BACE1),

quy trình điều chế hợp chất này và dược

phẩm chứa nó để điều trị bệnh. Hợp chất có

hoạt tính theo sáng chế là hữu ích trong

việc điều trị và/hoặc phòng ngừa bệnh, ví

dụ, bệnh Alzheimer.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019359 Quy trình sản xuất chế phẩm lỏng để đánh bóng

Tác giả: Yoneda Yasuhiro (JP), Taira

Koji (JP), Sato Kanji (JP), Oshima

Yoshiaki (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến quy trình sản

xuất chế phẩm lỏng để đánh bóng có thể

thực hiện hoạt động đánh bóng để giảm độ

nhám bề mặt và giảm số lượng các hạt. Quy

trình sản xuất chế phẩm lỏng để đánh bóng

bao gồm các bước lọc phân tán silica thô

chứa silica dạng keo, lọc phân tán silica thu

được bằng chất trợ lọc và lọc phân tán

silica thu được bằng các thiết bị lọc, trong

đó sự phân tán silica thô chứa silica dạng

keo có đường kính hạt sơ cấp trung bình

nằm trong khoảng từ 1 đến 100nm được lọc

qua thiết bị lọc bao gồm một chất trợ lọc,

chất trợ lọc có đường kính lỗ trung bình khi

được đo bằng phương pháp thủy ngân xâm

nhập là 0,1 - 3,5µm.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019347 Bộ lọc dùng cho thiết bị làm sạch để lọc tạp chất ra khỏi nước

Tác giả: Hatayama Tsutomu (JP),

Kojima Kenji (JP), Uchiyama Tomonori (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến bộ lọc (11)

dùng cho thiết bị làm sạch được bố trí trong

đường cấp nước, mà nước từ nguồn nước

bên ngoài được cấp qua đó. Bộ lọc (11)

gồm có hộp lọc (14), lõi (23), môi trường

lọc (24) và tấm chặn (25). Hộp lọc (14) là

chi tiết dạng bình chứa và một đầu có cửa

nạp nước (15) và đầu kia có cửa xả nước

(16). Lõi (23) được để trong hộp lọc (14)

sao cho nằm giữa cửa nạp (15) và cửa xả

(16) trong hộp lọc. Lõi (23) có thành hình

trụ được tạo ra có các lỗ xuyên (23a). Môi

trường lọc (24) gồm có vải may mặc được

quấn thành dạng hình trụ và được giữ bởi

lõi (23). Tấm chặn (25) được đỡ trên một

đầu của lõi (23) và có bề mặt đối diện với

hướng chảy của nước từ cửa nạp của hộp

lọc (14). Sau khi nước từ cửa nạp (15) được

thu nhận bởi tấm chặn (25), bộ lọc (11)

khiến cho nước tạo ra dòng chảy từ phía

chu vi ngoài của môi trường lọc (24) về

phía giữa để loại bỏ các tạp chất khỏi nước.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 62: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 62/67

1-0019470 Lò xử lý cacbon hóa loại gia nhiệt gián tiếp để xử lý rác thải và xe xử lý cacbon hóa sử dụng lò này

Tác giả: Fukumura Takeshi (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến lò xử lý cacbon

hóa loại gia nhiệt gián tiếp để xử lý rác thải

(100) có thể thu gom và cacbon hóa rác thải

công nghiệp, chăn nuôi gia súc, và y tế một

cách hiệu quả, để xử lý rác thải và xe xử lý

cacbon hóa (200) được lắp lò này. Theo sáng

chế, rác thải phát thải ở các ngành khác nhau

như công nghiệp, chăn nuôi gia súc, và y tế

được cacbon hóa tại nơi gần với nơi phát thải

rác hoặc được xử lý liên tục trong khi xe

đang di chuyển, giúp rác thải có thể được

cacbon hóa hoàn toàn trong khi ngăn hiệu

quả ô nhiễm môi trường xung quanh.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019360 Phương pháp xử lý nước để cải thiện sản lượng và/hoặc chất lượng của động vật dưới nước và động vật biển

Tác giả: Drahos David (US), Tatarko

Matt (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến phương pháp xử

lý khối nước nuôi động vật dưới nước hoặc

động vật biển bao gồm bước cho khối nước

này tiếp xúc với một hoặc nhiều vi khuẩn

oxy hóa lưu huỳnh, chẳng hạn như vi khuẩn

được chọn từ chi Paracoccus với lượng đủ

để kiểm soát, làm giảm, hoặc loại bỏ H2S

trong khối nước. Một hoặc nhiều vi khuẩn

oxy hóa lưu huỳnh được chọn từ chi

Paracoccus được sử dụng cho môi trường bị

nhiễm H2S với lượng đã định trước để cải

thiện sản lượng và chất lượng của động vật

dưới nước hoặc động vật biển trong đó.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019459 Chế phẩm xử lý hạt giống và phương pháp xử lý hạt giống

Tác giả: Israels Rafel (NL),

Klamczynski Katharine (PL), Bratz

Matthias (DE), Schlotterbeck Ulf (DE),

Voeste Dirk (DE).

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến chế phẩm xử lý

hạt giống chứa thành phần hoạt tính,

polyarylphenol polyalkoxy ete phosphat

và/hoặc polyarylphenol polyalkoxy ete

sulphat, và copolyme có mạch bên

polyalkoxy ete. Polyarylphenol polyalkoxy

ete phosphat và/hoặc polyarylphenol

polyalkoxy ete sulphat ở dạng hỗn hợp với

copolyme có mạch bên polyalkoxy ete được

sử dụng làm chất phân tán, đặc biệt là để tạo

ra thể phân tán của thành phần hoạt tính

được tạo huyền phù. Ngoài ra, sáng chế còn

đề cập đến phương pháp xử lý hạt giống

bằng cách sử dụng chế phẩm này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 63: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 63/67

1-0019382 Vải được tẩm thuốc diệt côn trùng và phương pháp tẩm vải này

Tác giả: Skovmand Ole (FR), Finn

Kjargaard (DK), Sicco Dirk Roorda (NL),

Thi Quynh Chi Phan (VN).

Quốc gia: Đan Mạch

Sáng chế đề cập đến vải được tẩm

thuốc diệt côn trùng và/hoặc chất xua đuổi

côn trùng có khả năng giữ thuốc diệt côn

trùng và/hoặc chất xua đuổi côn trùng trên

bề mặt vải sau một vài lần giặt và phương

pháp tẩm vải vải này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019376 Chế phẩm trừ sâu, chế phẩm xua đuổi côn trùng, vật liệu vải dệt hoặc vật liệu nhựa được tẩm để diệt côn trùng và/hoặc xua đuổi côn trùng và

quy trình tẩm vật liệu vải dệt hoặc vật liệu nhựa

Tác giả: Ulrich Karl (DE), Heinz

Heibler (DE), John H. Thomas (US),

Holger Schopke (DE), Joachim Burger

(DE).

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến chế phẩm trừ sâu

hoặc chế phẩm xua đuổi côn trùng để sử dụng

cho vật liệu vải dệt hoặc vật liệu nhựa được

chọn từ nhóm gồm sợi chỉ, sợi vải, vải, đồ dệt,

đồ không dệt, vật liệu lưới, lá, vật liệu nhựa

dầu và chế phẩm phủ. Chế phẩm trừ sâu hoặc

chế phẩm xua đuổi côn trùng chứa hỗn hợp

bao gồm ít nhất một thuốc trừ sâu và/hoặc ít

nhất một thuốc xua đuổi côn trùng, và ít nhất

một chất liên kết. Sáng chế cũng đề cập đến vật

liệu vải dệt hoặc vật liệu nhựa được tẩm gồm ít

nhất một thuốc trừ sâu và/hoặc ít nhất một

thuốc xua đuổi côn trùng, và ít nhất một chất

liên kết. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến quy

trình tẩm vật liệu vải dệt hoặc vật liệu nhựa và

quy trình phủ vật liệu vải dệt hoặc vật liệu

nhựa.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019334 Chế phẩm dùng để phòng trừ bệnh và phương pháp phòng trừ bệnh trên thực vật hữu ích

Tác giả: Tobler Hans (CH), Walter

Harald (DE), Haas Ulrich Johannes (DE).

Quốc gia: Thụy Sĩ

Sáng chế đề cập đến chế phẩm dùng

để phòng trừ bệnh do sinh vật gây hại trên

thực vật gây ra chứa (A) là hợp chất có

công thức (I)

trong đó R1 là diflometyl hoặc triflometyl

và X là clo, flo hoặc bromo; và (B) ít nhất

một hợp chất được chọn từ các hợp chất đã

biết đối với hoạt tính diệt nấm của chúng;

và phương pháp phòng trừ bệnh trên thực

vật hữu ích, đặc biệt là bệnh gỉ sắt trên cây

đậu tương.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 64: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 64/67

1-0019440 Chi tiết phức hợp, sản phẩm giày dép và phương pháp chế tạo chi tiết phức hợp này

Tác giả: Meschter James C. (US),

Johnson Jeffrey L. (US), Uesato Lia M. (US),

Casillas Tina M. (US)

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến chi tiết phức hợp

(80) bao gồm lớp nền (41, 51, 81), vật liệu

polyme dẻo nóng (83), sợi chỉ (42, 52, 82),

và lớp phủ (84). Lớp nền có bề mặt thứ nhất

và bề mặt thứ hai đối diện. Vật liệu polyme

dẻo nóng (83) được tách rời khỏi lớp nền (41,

51, 81), kéo dài vào trong lớp nền (41, 51,

81), và được định vị ít nhất một phần ở bề

mặt thứ nhất. Sợi chỉ (42, 52, 82) có đoạn

nằm sát liền với lớp bề mặt thứ nhất và gần

như song song với bề mặt thứ nhất qua

khoảng cách ít nhất là năm xentimét, và sợi

chỉ (42, 52, 82) được liên kết vào lớp nền

bằng vật liệu polyme dẻo nóng (83). Lớp phủ

(84) được bố trí sát liền với bề mặt thứ nhất

và được liên kết vào lớp nền (41, 51, 81)

bằng vật liệu polyme (83), và đoạn của sợi

chỉ (42, 52, 82) được định vị giữa lớp phủ

(84) và lớp nền (41, 51, 81).

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019395 Phương pháp sản xuất sản phẩm giày dép

Tác giả: Huffa Bruce (US), Farris

Bryan N. (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề xuất phương pháp sản

xuất sản phẩm giày dép có thể bao gồm

bước lắp ráp ít nhất một phần của mũ giày

của sản phẩm giày dép, mũ giày có mép

dưới theo chu vi. Chi tiết tăng bền được gắn

chặt vào mũ giày. Chi tiết tăng bền bao

gồm (a) dải thứ nhất được nối với mặt bên

của mũ giày liền kề với mép dưới theo chu

vi, (b) dải thứ hai được nối với mặt giữa

của mũ giày liền kề với mép dưới theo chu

vi, và (c) ít nhất một dây kéo dài qua dải

thứ nhất và dải thứ hai. Dây được tạo căng,

và kết cấu đế của sản phẩm giày dép được

nối với mũ giày.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019429 Hộp cấp thuốc tráng phim và hệ thống cấp thuốc tráng phim

Tác giả: Murakami Katsuya (JP),

Nagashima Toshiaki (JP), Tazawa Fumio

(JP), Okino Ayatomo (JP), Yamada Yusuke

(JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến hộp cấp thuốc

tráng phim được tạo ra có phần cấp để cấp

thuốc tráng phim nhờ tiếp nhận lực quay và

Page 65: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 65/67

phần bơm để xả thuốc tráng phim nhờ

chuyển động tịnh tiến qua lại, và lực quay

và lực chuyển động tịnh tiến qua lại được

tiếp nhận từ phía cụm chính của thiết bị tạo

ảnh, có khả năng là mối nối dẫn động không

được thiết lập một cách chính xác giữa phần

của hộp cấp thuốc tráng phim để tiếp nhận

lực chuyển động tịnh tiến qua lại và phần

của phía cụm chính để tác dụng lực chuyển

động tịnh tiến qua lại. Hộp cấp thuốc tráng

phim này được tạo ra có cơ cấu biến đổi dẫn

động để biến đổi lực quay tiếp nhận từ phía

cụm chính thành lực để vận hành bơm dạng

thay đổi thể tích.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019449 Phương pháp sản xuất một hoặc nhiều chi tiết trang trí và chi tiết trang trí được phân lớp

Tác giả: Gastaldi Maurizio (IT),

Menozzi Alberto (IT).

Quốc gia: Ý

Sáng chế đề xuất phương pháp bao

gồm các bước: chuẩn bị màng nhiều lớp (10)

bao gồm lớp bảo vệ trong suốt thứ nhất (12),

lớp trang trí thứ hai (14) chứa ít nhất một

chất màu làm bằng kim loại có điểm nóng

chảy dưới 250°C, và lớp đỡ thứ ba (16) làm

bằng vật liệu nhựa ép nhiệt được, ít nhất một

phần (13) của bề mặt của lớp thứ nhất (12)

đối diện lớp thứ hai (14) được in lưới bởi

mực dựa trên polyuretan và/hoặc acrylic; ép

nhiệt màng (10) ở nhiệt độ nằm trong phạm

vi từ 130 đến 180°C và ở áp suất nằm trong

phạm vi từ 1000 đến 2000 MPa, theo cách

sao cho tạo ra ít nhất một chỗ lõm (28) trong

đó; rót vào chỗ lõm nhựa nhiệt rắn (30) mà

dính vào lớp thứ ba (16) của màng (10);

khiến cho tấm đậy (32) dính vào lớp thứ ba

(16) của màng (10) để chứa nhựa được rót

(30), mà trải qua quy trình hóa rắn; và cắt

màng (10) quanh chỗ lõm (28), vì vậy sản

xuất chi tiết trang trí được phân lớp bao gồm

phần của màng (10), lớp nhựa (30) và phần

tấm (32).

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019452 Hệ thống cung cấp vật liệu ghi, bảng mạch, bộ điều hợp và hộp mực in dùng cho thiết bị tiêu thụ vật liệu ghi

Tác giả: Ishizawa Taku (JP), Shinada

Satoshi (JP), Fukano Takakazu (JP),..

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến hệ thống cung

cấp vật liệu ghi có nhiều đầu cuối được bố trí

trên bảng mạch của hộp mực in, và nhiều

đường thẳng được tạo ra bởi các phần tiếp

xúc của nhiều đầu cuối. Trên đường thẳng

thứ nhất trong số nhiều đường thẳng, các

phần tiếp xúc của hai đầu cuối để phát hiện

việc lắp đặt được bố trí, và phần tiếp xúc của

Page 66: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 66/67

đầu cuối nguồn điện được bố trí giữa chúng.

Đường thẳng thứ nhất có thể được bố trí tại

mặt đầu khi hộp mực in được di chuyển theo

chiều định trước và được lắp vào thiết bị in,

hoặc đường thẳng thứ nhất có thể là đường

thẳng nằm gần nhất với miệng hở của lỗ phân

phát mực, hoặc đường thẳng thứ nhất có thể

là đường thẳng nằm gần nhất với kim phân

phát mực.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019469 Chế phẩm nhựa dẻo nhiệt gia cường và vật đúc thu được bằng cách đúc chế phẩm nhựa dẻo nhiệt gia cường

Tác giả: Nakamoto Masahito (JP),

Kawaguchi Hideichiro (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến chế phẩm nhựa

dẻo nhiệt gia cường bao gồm thành phần

nhựa chính (C) gồm nhựa polycacbonat (A)

và copolyme ghép tùy ý (B), chất độn vô cơ

(D), polyme chứa đơn vị glyxidyl ete (E) có

phân tử lượng trung bình nằm trong khoảng

từ 3800 đến 60000 (không bao gồm (B)), và

nhựa gốc polyeste cải biến chứa nguyên tử

phospho (H) được điều chế bằng cách cải

biến nhựa gốc polyeste (F) chứa nguyên tử

phospho bằng hợp chất polycarbođiimit (G),

trong đó nhựa gốc polyeste (F) bao gồm

thành phần axit đicarboxylic chứa hợp chất

phospho vòng có công thức (1) dưới đây.

Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến vật

đúc thu được bằng cách đúc chế phẩm nhựa

dẻo nhiệt gia cường này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0019482 Phương pháp sản xuất bột thủy lực và bột thủy lực thu được từ phương pháp này

Tác giả: Sagawa Keiichiro (JP),

Shimoda Masaaki (JP), Nagasawa Koji (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến việc sản xuất bột

thủy lực chứa C3A với lượng nằm trong

khoảng từ 0,5 đến 9,5% trọng lượng bằng

cách nghiền hợp chất thủy lực với sự có mặt

của alkanolamin có điểm đông cứng không

quá 0°C. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến

bột thủy lực thu được từ phương pháp sản

xuất này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************

Page 67: BẢN TIN THÁNG 08/2018lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin... · Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 2/67 Máy lọc nước bằng năng lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 08/2018 67/67

1-0019504 Hệ thống khí hóa than bitum có hàm lượng tro và nhiệt độ nóng chảy tro cao

Tác giả: Liu Guohai (US),

Vimalchand Pannalal (US), Peng Wanwang

(CN).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề xuất quy trình khí hóa của

than bitum có hàm lượng tro cao với nhiệt độ

nóng chảy của tro cao. Hàm lượng tro trong

than bitum có thể nằm trong khoảng từ 15 đến

45% theo trọng lượng và có nhiệt độ nóng

chảy tro có thể nằm trong khoảng từ 1150 đến

1500°C và có thể lớn hơn 1500°C. Theo

phương án được ưu tiên theo sáng chế, quy

trình khí hóa than bao gồm hai bước - bước

khí hóa sơ bộ ở nhiệt độ tương đối thấp trong

thiết bị khí hóa vận chuyển tầng sôi tuần hoàn

và bước tiếp theo là oxy hóa một phần ở nhiệt

độ cao than cacbon còn lại và một lượng nhỏ

của nhựa đường. Sáng chế còn đề xuất hệ

thống để xử lý than này bao gồm tầng sôi tuần

hoàn bên trong để làm mát một cách hiệu quả

khí tổng hợp ở nhiệt độ cao với sự hỗ trợ của

môi trường trơ và không có khí tổng hợp nào

tiếp xúc với các bề mặt truyền nhiệt. Xyclon

bố trí sau thiết bị làm mát khí tổng hợp, hoạt

động ở nhiệt độ tương đối thấp, làm giảm một

cách hiệu quả tải trọng cho bộ phận lọc bụi.

Quy trình và hệ thống thiết bị theo sáng chế

có thể tạo ra khí tổng hợp gần như không có

bụi và không có nhựa đường thích hợp để sản

xuất hóa chất hoặc tạo ra năng lượng và với sự

chuyển hóa cacbon là lớn hơn 90%, và tốt hơn

là hơn 98%.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 364/2018

Trở về đầu trang

**************