33
ĐIỂM LẠI Báo cáo Cập nhật Tình hình Cải cách và Phát triển kinh tế của Việt Nam Hội nghị giữa kỳ Nhóm Tư vấn các nhà Tài trợ cho Việt nam Thành phố Vinh, 16-17/6/2004

Báo cáo Cập nhật Tình hình Cải cách và Phát triển kinh tế ...siteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/Ju… · trị, xuất khẩu đã tăng

Embed Size (px)

Citation preview

ĐIỂM LẠI

Báo cáo Cập nhật

Tình hình Cải cách và Phát triển kinh tế

của

Việt Nam

Hội nghị giữa kỳ

Nhóm Tư vấn các nhà Tài trợ cho Việt nam

Thành phố Vinh, 16-17/6/2004

ii

MỤC LỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

AFTA - Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN

ASEAN - Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

CPI - Chỉ số Gía cả Tiêu dùng

CPRGS - Chiến lược Tăng trưởng và Giảm nghèo Toàn diện

DAF - Qũy Hỗ trợ Phát triển

DATC - Công ty Mua bán Tài sản và Nợ

FDI - Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài

FSQL - Mức độ Chất lượng Giáo dục Cơ sở

GC - Tổng Công ty

HCFP - Qũy Chăm sóc sức khỏe cho Người nghèo

IAS - Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế

IMF - Qũy Tiền tệ Quốc tế

LUC - Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất đai

LSDS - Chiến lược Xây dựng Hệ thống pháp luật

MOF - Bộ Tài chính

MONRE - Bộ Tài nguyên và Môi trường

MPI - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

MTEF - Khuôn khổ Chi tiêu Trung hạn

NPL - Nợ không sinh lời

NSCERD - Ban chỉ đạo Quốc gia về Phát triển và Cải cách doanh nghiệp

PAR - Cải cách Hành chính Công

PER - Đánh giá Chi tiêu Công

PRSC - Tín dụng Hỗ trợ Giảm nghèo

QR - Hạn chế Số lượng

SBV - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

SOCB - Ngân hàng thương mại Quốc doanh

SOE - Doanh nghiệp nhà nước

USBTA - Hiệp định Thương mại Hoa Kỳ

WTO - Tổ chức Thương mại Thế giới

iii

MỤC LỤC PHẦN I: TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ ………..........................................1 PHẦN II: CẢI CÁCH KINH TẾ.........…...................................................................11 Bảng

Bảng 1 : Đóng góp của các Ngành vào tăng trưởng GDP...................................................3 Bảng 2: Tăng trưởng và kim ngạch xuất khẩu ...................................................................4 Bảng 3: Số DNNN chuyển đổi..........................................................................................13 Bảng 4: Quy mô DNNN chuyển đổi sở hữu.....................................................................14 Bảng 5: Các chỉ số Ngân hàng..........................................................................................19 Bảng 6: So sánh cách tiếp cận Kế hoạch 5 năm với Chiến lược TT & GNTD…............26

Hình

Hình 1: Khách nước ngoài đến Việt Nam ..........................................................................2 Hình 2: Thị trường xuất khẩu chính....................................................................................4 Hình 3: Tăng trưởng giá trị nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu............................................5 Hình 4: Nợ trong và ngoài ngân sách..................................................................................7 Hình 5: Chỉ số giá lương thực và phi lương thực...............................................................8 Hình 6: Đồng tiền giảm giá dần.................................... ....................................................9

Khung Khung 1: Giá dầu tăng có tác động đến Việt nam như thế nào.........................................10 Khung 2: Những thay đổi pháp lý bảo đảm chuyển đổi DNNN quy mô lớn ...................15 Khung 3: Phát triển thị trường chứng khoán ....................................................................21

Báo cáo do Theo Ib Larsen, Vivek Suri và Đinh Tuấn Việt viết với các ý kiến đóng góp của Soren Davidsen, Daniel Musson và James Seward, Ahsan Ali, Irina Luca, Soren Baussgaard dưới chỉ đạo chung của Martin Rama. Nguyễn Thị Thu Hằng và Trần Thị Ngọc Dung trợ giúp công việc thư ký. Nhóm Minh Vu Translation thực hiện phần dịch tiếng Việt.

1

PHẦN I

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ

2

Năm 2003, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 7,2 % mặc dù xuất hiện những thách thức của dịch bệnh SARS và sự phát triển chậm chạp của kinh tế toàn cầu. Về mặt giá trị, xuất khẩu đã tăng trưởng cao hơn dự kiến, đạt mức 21% trong 2003 và đã tăng 17% trong 5 tháng đầu năm 2004. Sản xuất công nghiệp vẫn tiếp tục phát triển mạnh và đầu tư tăng ổn định. Trong quý 1 năm 2004, tăng trưởng GDP ở mức 7% thấp hơn so với mục tiêu khoảng 8% mà chính phủ đặt ra cho cả năm 2004.

Dịch cúm gà đe dọa nền kinh tế nhưng đã được kiềm chế

Trong quý 1 năm 2004, nền kinh tế phải đương đầu với thách thức của dịch cúm gà. Trong hai năm liền, Việt Nam phải gánh chịu bệch dịch lây lan. Điều này không chỉ đe dọa đến đời sống của người dân mà còn đến các hoạt động kinh tế cụ thể. Mặc dù kịch bản xấu nhất về khả năng lây lan nhanh của virus sang người đã không xảy ra, nhưng dịch cúm gà đã có tác động tiêu cực đến ngành chăn nuôi gia cầm. Khoảng 39 triệu trong tổng số 258 triệu con gia cầm đã bị tiêu huỷ. Tuy nhiên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đánh giá thiệt hại liên quan chỉ ở mức dưới 0,5% GDP.

Hình 1: Khách nước ngoài đến Việt Nam

0

50

100

150

200

250

300

350

Jan-

02

Mar-

02

May-

02

Jul-

02

Sep-

02

Nov-

02

Jan-

03

Mar-

03

May-

03

Jul-

03

Sep-

03

Nov-

03

Jan-

04

Mar-

04

May-

04

SARS

SEA Games

Cúm gà

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

Tác động kinh tế của dịch cúm gà đối với các ngành khác (ngoài ngành chăn nuôi gia cầm) còn tương đối khiêm tốn. Trong năm tháng đầu năm, tỷ trọng khách nước ngoài tăng 19% cao hơn mức cùng kỳ năm ngoái, thời điểm mà số lượng khách nước ngoài đến Việt Nam giảm xuống do xuất hiện dịch SARS (Hình 1). Tỷ trọng khách nước ngoài đến Việt Nam với mục đích kinh doanh là chủ yếu đã tăng 23% trong năm tháng đầu năm 2004 so với cùng kỳ năm 2003.

3

Sản xuất công nghiệp dẫn đầu tăng trưởng

Như những năm trước, ngành công nghiệp đóng góp chủ yếu vào sự tăng trưởng. Sản lượng công nghiệp tăng 15%, đóng góp khoảng bốn điểm phần trăm cho tăng trưởng trong ba tháng đầu năm (Bảng 1). Sản xuất điện đạt mức 18 tỷ kWh trong năm tháng đầu năm nay, tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái. Cung cấp điện cho các ngành công nghiệp và xây dựng tăng 29%. Mức cung ứng điện cho các hộ gia đình tăng 9%. Trong năm tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp của khu vực tư nhân nước ngoài và trong nước tăng mức ương ứng 14% và 22% so với tỷ lệ tăng trưởng 12% của khu vực nhà nước trong lĩnh vực này. Khu vực ngoài quốc doanh trong nước và khu vực đầu tư nước ngoài gộp lại chiếm 71% sản xuất công nghiệp.

Bảng 1: Đóng góp của các ngành vào Tăng trưởng GDP

(phần trăm) 2002 2003 Q1 2004

Tăng trưởng GDP 7.0 7.2 7.0

Nông nghiệp, ngư nghiệp 0.9 0.7 0.0

Công nghiệp & xây dựng 3.5 3.9 4.1

Trong đó: Công nghiệp 2.6 3.0 3.7

Dịch vụ 2.7 2.7 2.9 Nguồn: Tổng cục Thống kê

Xuất khẩu phát triển mạnh bất chấp khó khăn bên ngoài

Sự phát triển ổn định của nền kinh tế Việt Nam và khu vực chế tạo nói riêng phụ thuộc vào tăng trưởng xuất khẩu (Bảng 2). Kinh tế vẫn phát triển mặc dù xuất khẩu dệt may sang thị trường Hoa Kỳ đã giảm mạnh kể từ quý hai năm 2003. Sự sụt giảm đó phản ánh tác động của việc Hoa Kỳ áp đặt hạn ngạch ở mức khoảng 1,8 tỷ USD đối với xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào năm ngoái. Hạn ngạch tiếp tục bị giảm thêm 4,5 % nữa (hoặc khoảng 80 triệu USD) năm 2004. Nguyên nhân của việc giảm hạn ngạch là do các nhà xuất khẩu từ Việt Nam đã làm giả giấy chứng nhận xuất xứ và bị phát hiện chuyên trở các sản phẩm dệt may được sản xuất ở các nước khác sang thị trường Hoa Kỳ. Việc giảm hạn ngạch dệt may Hoa Kỳ đã được bù đắp phần nào bởi việc tăng hạn ngạch dệt may của EU. Do vậy, kim ngạch xuất khẩu dệt may chỉ tăng khoảng 7% trong thời gian 5 tháng đầu năm 2004 so với mức 70% cùng kỳ năm ngoái và 34% trong cả năm 2003.

Xuất khẩu thủy sản bị tác động do nhu cầu thực phẩm trong nước tăng dịch cúm gà. Xuất khẩu thủy sản cũng giảm sút thêm do Hoa Kỳ kiện phá giá đối với nhập khẩu cá tra và đe dọa khởi kiện với lý do tương tự đối với xuất khẩu tôm của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Tuy nhiên, phần nào nhờ áp dụng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm tốt hơn, Việt Nam đã khá thành công trong việc thâm nhập vào thị trường Nhật Bản và EU để bù đắp một phần tác động này. Trong quý 1 năm 2004, xuất khẩu thủy sản sang thị trường Hoa Kỳ giảm 1% trong khi tăng hơn 30% sang thị trường Nhật Bản và EU.

4

Bảng 2: Tăng trưởng và Kim ngạch Xuất khẩu

Giá trị (Tr. USD)

Tỷ trọng % Tăng trưởng % Đóng góp vào tăng truởng 1/

2003 2003 5T-04 2003 5TM-04 5T-04

Tổng kim ngạch xuất khẩu 20,176 100.0 100.0 20.8 17.4 17.4

Dầu thô 3,821 18.9 21.2 16.8 21.3 4.4

Mặt hàng ngoài dầu thô 16,355 81.1 78.8 21.7 16.4 13.0

Sản phẩm nông nghiệp 2,252 11.2 11.6 14.5 14.6 1.7

Thủy sản 2,200 10.9 8.2 8.7 1.7 0.2

Sản phẩm khai khoáng 184 0.9 1.2 18.2 54.6 0.5

Dệt may 3,687 18.3 16.3 34.0 6.9 1.2

Giầy dép 2,268 11.2 10.8 21.5 10.8 1.2

Điện tử & máy tính 672 3.3 3.6 36.6 31.0 1.0

Thủ công & mỹ nghệ 367 1.8 1.7 10.7 7.2 0.1

Các mặt hàng khác 4,726 23.4 25.3 22.8 31.0 7.0 Nguồn: Tổng cục Thống kê và Tổng cục Hải quan. Ghi chú: 1/ điểm phần trăm.

Hình 2: Thị trường Xuất khẩu chính

0.0

5.0

10.0

15.0

20.0

25.0

Trung quèc Hoa kú NhËt b¶n C§ Ch©u ¢u ASEAN

2002 2003 Q1-04

Nguồn: Tổng cục Thống kê và Tổng cục Hải quan.

Về thị trường xuất khẩu, nếu như trong hai năm qua, thị phần xuất khẩu sang Hoa

Kỳ tăng nhanh nhất thì đến nay Hoa Kỳ đã nhường vị trí là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam cho EU (Hình 2). Tuy vậy, con số này vẫn chưa thể hiện việc

5

EU mở rộng sang 10 nước thành viên mới. Mặc dù, thị phần Trung Quốc tăng nhanh, nhưng Trung Quốc vẫn chỉ là thị trường xuất khẩu lớn thứ 10 của Việt Nam.

Chi tiêu nhập khẩu tăng theo giá và đầu tư

Về nhập khẩu, do đầu tư vẫn tăng vững chắc năm 2003, nên nhu cầu đối với hàng

hóa tư liệu sản xuất và phụ kiện máy móc đã tăng theo nhanh chóng, đạt tỷ lệ tăng kỷ lục 41% năm ngoái. Mặt hàng nhập khẩu đáng kể là máy bay nhập từ Hoa Kỳ. Nếu không tính nhập khẩu máy bay, tỷ lệ tăng trưởng nhập khẩu là 27%. Do tính chung với nhập khẩu những mặt hàng lớn như máy bay và các mặt khác, nên con số chung về tăng trưởng công nghiệp khá cao. Nếu tính riêng, giá trị nhập khẩu tư liệu sản xuất đã giảm trong năm tháng đầu năm 2004 so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, vẫn còn quá sớm để nói liệu sự sụp giảm trong nhập khẩu máy móc này có thể hiện một tỷ lệ đầu tư giảm sút hơn trong năm hay không.

Việc tăng giá quốc tế một số mặt hàng nhập khẩu chủ chốt như thép, phân bón và các sản phẩm lọc dầu đã làm tăng chi tiêu nhập khẩu. Mức tăng giá trị nhập khẩu cao hơn nhiều so với mức tăng về khối lượng nhập khẩu (Hình 3).

Hình 3: Tăng trưởng giá trị nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu

-5%

0%

5%

10%

15%

20%

25%

2002 2003 2004-5M

Gi¸ L−îng

Nguồn: Tổng cục thống kê và Tổng cục hải quan. Lưu ý: Các mặt hàng nhập gồm sản phẩm dầu khí, clan-ke, nguyên liệu nhựa, phân bón, giấy, bột giấy, sợi dệt, bông, sắt thép và bột mỳ.

Kiều hối và FDI bù đắp thâm hụt thương mại

Mặc dù thâm hụt thương mại đạt mức 7% GDP vào cuối năm 2003, thâm hụt tài khoản vãng lai được khống chế ở mức dưới 5% GDP nhờ nguồn vốn thu hút đạt mức tăng kỷ lục. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) ước tính lượng kiều hối vào

6

Việt Nam đạt khoảng 2,6 tỷ USD trong năm ngoái và đã dự báo mức kiều hối sẽ tăng lên trong khoảng từ 3,2 tỷ USD đến 3,5 tỷ USD năm 2004. Nếu tính cả dòng vốn chuyển về theo kênh phi chính thức, tổng số kiều hối từ nước ngoài về Việt Nam sẽ có thể vượt mức 4 tỷ USD. Con số này tương ứng với khoảng từ 1/5 đến 1/4 doanh thu xuất khẩu hàng năm.

FDI dự tính đạt mức 1,5 tỷ USD năm 2003. Giải ngân ODA đạt mức 1,1 tỷ USD. Do các tổ chức và cá nhân phi ngân hàng trong nước chuyển một lượng lớn dự trữ đô la sang tiền đồng, nên các dòng vốn này cho phép NHNNVN tăng dự trữ ngoại tệ lên thêm 1,9 tỷ USD, đạt tổng mức dự trữ ngoại tệ 5,6 tỷ USD vào cuối năm 2003. Con số này tương đương với 10 tuần nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Như vậy, tăng dự trữ cùng với mức nhập khẩu gắn với đầu tư hiện nay có nghĩa là thâm hụt tài khoản vãng lai không còn là một quan ngại vào thời điểm này.

Đầu tư trong nước tăng vững chắc

Tỷ lệ đầu tư tăng hơn một điểm phần trăm, đạt 35,6% GDP năm 2003. Tỷ trọng đầu của khu vực nhà nước đạt khoảng 57%, trong khi tỷ trọng đầu tư dự tính của khu vực ngoài quốc doanh trong nước và khu vực đầu tư nước ngoài chiếm tương ứng 28% và 17%. Trong năm 2003, hơn 30.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh doanh, cao hơn năm trước khoảng 26%. Tính trung bình, các doanh nghiệp này có vốn đăng ký khoảng 2,1 tỷ đồng, vượt mức 1,5 tỷ đồng năm 2002.

Thâm hụt ngân sách được kiềm chế nhưng chi tiêu ngoài ngân sách tăng

Thâm hụt ngân sách ở mức khoảng 2% GDP trong năm 2003 so với mức 1,9% của năm 2003 và thấp hơn so với mức dự kiến 2,8% do thu ngân sách đã tăng đáng kể. Thu ngân sách tăng cũng giúp giải quyết sức ép tăng 38% chi ngân sách cho lương và hưu trí. Do vậy, thâm hụt ngân sách năm 2004 tăng lên một chút ở mức 2,3% GDP. Nguồn thu ngân sách được duy trì ở mức 21-22% GDP trong những năm qua. Tuy nhiên, mức thâm hụt ước tính không tính đến các dòng vốn tạo nợ khác của chính phủ như các khoản vay hiện tại (dự tính ở mức khoảng 2,8% GDP) và chi phí tái cấp vốn cho các ngân hàng quốc doanh có thể chiếm khoảng 1,2% GDP. Trong những năm gần đây, tỷ lệ nợ trên GDP của chính phủ được hình thành do các khoản ngoài ngân sách, chứ không phải do thâm hụt của chi tiêu trong ngân sách (Hình 4).

7

Hình 4: Nợ trong và ngoài Ngân sách

25.0

29.0

33.0

37.0

41.0

45.0

2000 2001 2002 2003

Tæng nî /GDP

(Tæng nî + T¸i cÊp vèn NHTMQD) /GDP

(Tæng nî + T¸i cÊp vèn NHTMQD + Vèn huy ®éng cña Quü HTPT) /GDP

Nguồn: Bộ Tài chính, NHNNVN và ước tính của NHTG

Chi xây dựng cơ bản chiếm gần 30% tổng chi ngân sách. Trong hai năm qua,

chính phủ đã phụ thuộc nhiều hơn vào việc phát hành trái phiếu trong nước để tạo nguồn tài chính cho chi tiêu xây dựng cơ bản. Trái phiếu phát hành trong nước tạo nguồn tài chính cho khoảng 55% thâm hụt trong giai đoạn 2000-02 và nhiều khả năng sẽ tăng lên khoảng 75% năm 2004. Chính phủ cũng đã phát hành trái phiếu với thời hạn từ 5 đến 10 năm nhằm tài trợ một phần cho các chi tiêu ngoài ngân sách. Năm 2004, chính phủ có kế hoạch phát hành khoảng 8,2 nghìn tỷ tiền trái phiếu cho phát triển cơ sở hạ tầng và 2,5 nghìn tỷ đồng cho ngành giáo dục.Theo kế hoạch, một khoản tiền trái phiếu bổ sung từ 7 đến 8 nghìn tỷ đồng cũng sẽ được huy động cho Qũy Hỗ trợ Phát triển.

Trái phiếu có thời hạn 2 và 5 năm có mức lãi suất tương ứng là 7,7% và 8,4%. Tỷ lệ này cao hơn một chút so với tỷ lệ lãi suất tiền gửi mà ngân hàng áp dụng cho tiền gửi với thời hạn tương tự. Trái phiếu với thời hạn 15 năm với mức lãi suất 9,4% cũng đã được phát hành. Tiền thu được từ trái phiếu loại này sẽ được chuyển đến Qũy Hỗ trợ Phát triển. Ngân hàng TMQD là khách hàng trên thị trường trái phiếu Chính phủ.

Tín dụng tăng nhưng chất lượng còn đáng lo ngại

Tỷ lệ tăng trưởng cao hiện nay dẫn đến xu hướng tiền tệ hóa nền kinh tế và nhu cầu tín dụng tăng mạnh. Tiền rộng tăng 18% năm 2002 và 20% năm 2003. Tiền gửi ngân hàng tăng với tốc độ tương tự, đạt mức trên 56% GDP năm 2003, cho thấy niềm tin của người dân vào khu vực tài chính chính thức đang tăng lên. Tăng trưởng tín dụng tăng 28%. Tỷ trọng tín dụng giành cho khu vực ngoài quốc doanh tiếp tục tăng và hiện nay chiếm gần 2/3 tổng số tín dụng được cung ứng. Tuy nhiên, chất lượng cho vay của các Ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) là một vấn đề đáng lo ngại. Mặc dù, đã

8

có tiến bộ là sử dụng các tiêu chuẩn kế toán quốc tế khi kiểm toán các NHTMQD, nhưng việc phân loại nợ theo mức độ hiệu quả là một việc khó khăn. Do vậy, dự tính tổng khoản nợ không sinh lời của các NHTMQD đạt khoảng 4-5% GDP và từ 10-11% tổng tín dụng ngân hàng giành cho nền kinh tế.

Lạm phát tăng do giá nhập khẩu và lương thực tăng

Sau hai năm giảm phát nhẹ, giá cả tăng lên 3-4% năm 2002-2003. Một số yếu tố tạm thời đã làm tăng mức lạm phát lên 7,1% vào tháng 5/2004 so với tháng 5/2005. Việc tăng lạm phát năm nay liên quan nhiều hơn đến các yếu tố cung hơn là do sự mất cân đối về kinh tế vĩ mô. Các yếu tố dẫn đến lạm phát tăng là việc tăng giá lương thực do dịch cúm gà bùng phát, việc cấm bán thịt gia cầm và việc tăng giá cả các mặt hàng chủ chốt như xăng dầu, sắt thép và phân bón trên thị trường thế giới. Giá lương thực - thực phẩm, chiếm gần một nửa trong chỉ số giá cả tiêu dùng tháng 5/2004, tăng hơn 12% so với tháng 5 năm ngoái và tăng 1,8% so với tháng trước, trong đó giá lương thực tăng 13,8% và thực phẩm tăng 12,4%. Giá thuốc chữa bệnh tiếp tục có xu hướng tăng mạnh đến tháng 5. Chi tiêu vào thuốc chữa bệnh của người dân dự tính ở mức trên một nửa tổng chi phí cho sức khỏe.

Hình 5: Chỉ số giá lương thực và phi lương thực

95

100

105

110

115

120

Dec-02 Feb-03 Apr-03 Jun-03 Aug-03 Oct-03 Dec-03 Feb-04 Apr-04

chØ sè

ChØ sè chung L−¬ng thùc Phi l−¬ng thùc

Nguồn: Tổng cục Thống kê, và ước tính của NHTG Nhìn chung, những biến động về tỷ lệ lạm phát nổi bật trong thời gian vừa qua

liên quan đến những biến động lên xuống của giá lương thực (Hình 5). Mặc dù, việc tăng lạm phát giá lương thực gần đây có thể chỉ mang tính tạm thời nhưng việc tăng giá dầu lên mức cao nhất trong vòng 13 năm qua là trên 40 đô la một thùng chắc chắn sẽ có tác động lan tỏa tới toàn bộ nền kinh tế. Dự kiến mức lạm phát có thể tăng lên nên chính phủ đã cắt giảm thuế nhập khẩu đối với xăng dầu nhằm bình ổn giá cả. Đồng thời, các công ty điện nước cũng đã trì hoãn việc tăng giá điện và nước. Trong một nỗ lực gần đây nhằm kiềm chế hiện tượng tăng giá dược phẩm nhập khẩu, chiếm tới 60% dược phẩm tại Việt

9

Nam, Bộ Y tế đã cho phép các doanh nghiệp địa phương cùng tiến hành nhập khẩu dược phẩm. Động thái này đã có thể phần nào giúp giảm nhẹ sức ép giá cả thông qua việc bảo đảm một nguồn cung ứng đủ dược phẩm nhập khẩu ở mức giá thấp hơn hiện tại ở Việt Nam.

Để duy trì tiền gửi bằng đồng, một số ngân hàng thương mại gần đây đã tăng hoặc

thể hiện ý định tăng tỷ lệ lãi suất tiền gửi lên một chút để đối phó với tỷ lệ lạm phát tăng cao hơn. Ngân hàng trung ương không ủng hộ hành động này và mong muốn duy trì mức lãi suất như trong 12 tháng qua. Nhìn chung, những giải pháp chính sách đối phó lạm phát của chính phủ tỏ ra phù hợp. Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực mà chính phủ cần tiếp tục theo dõi sát sao.

Việc giảm giá của đồng đô-la mà tiền đồng gắn chặt vào, có thể chỉ làm trầm

trọng thêm việc tăng lạm phát. Do vậy, tiền đồng giảm giá so với đồng euro và yên (Hình 6). Điều này có tác động làm cho hàng hóa Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao hơn trên thị trường Châu Âu và Nhật Bản. Mặc khác, điều này cũng làm tăng chi phí cho các nhà nhập khẩu Việt Nam.

Hình 6: Đồng tiền giảm giá dần

10000

12000

14000

16000

18000

20000

22000

Jun-04Feb-04Nov-03Aug-03Apr-03Jan-03

USD, EUR

80

90

100

110

120

130

140

150

160

JPY

USD

JPY

EUR

Nguồn: Hệ thống Giám sát Tích hợp Ngân hàng Thế giới.

Cũng có những yếu tố kinh tế sâu sắc hơn và mang tính cơ cấu hơn đằng sau xu

hướng tăng lạm phát. Gía cả ở Việt Nam vẫn còn rất rẻ theo tiêu chuẩn quốc tế và giá cả có xu hướng tăng trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Điều này cũng đúng đối với chi phí lao động. Với một cơ chế tỷ giá được quản lý tích cực, sự tăng giá thực sự đang diễn ra thông qua mức giá trong nước cao hơn.

10

Khung 1: Gía dầu tăng có tác động đến Việt Nam như thế nào ?

Việt Nam xuất khẩu dầu thô và nhập khẩu các sản phẩm dầu tinh chế. Về mặt giá trị, Việt

Nam là nước xuất khẩu dầu ròng với giá trị xuất khẩu đạt 3,78 tỷ USD (chiếm 19% tổng kim ngạch xuất khẩu) và giá trị nhập khẩu đạt 2,41 tỷ USD (chiếm 10% tổng kim ngạch nhập khẩu) năm 2003. Do đó, trên quan điểm cân đối thương mại, việc tăng giá dầu sẽ tạo lợi thế cho Việt Nam. Trong bốn tháng đầu năm 2004, nhập khẩu tăng 19% so với cùng kỳ năm ngoái đạt mức 1,1 tỷ USD trong khi xuất khẩu tăng 17% đạt mức1,6 tỷ USD.

Dầu khí là một nguồn thu ngân sách chủ yếu. Về mặt sản xuất, nguồn thu này được thu theo hình thức thuế thu nhập công ty, thuế tài nguyên thiên nhiên và lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp khai thác dầu khí (PetroVietnam). Về mặt tiêu dùng, nguồn thu này được thu từ thuế tiêu thụ và thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm dầu khí nhập khẩu. Năm 2003, nguồn thu từ sản xuất chiếm khoảng 22% tổng thu và nguồn thu từ tiêu dùng chiếm thêm 6% nữa. Trong bốn tháng đầu năm 2004, nguồn thu từ sảu xuất tăng 1,5%. Mặc khác, chừng nào nhà nước vẫn bao cấp cho việc tiêu thụ một số sản phẩm dầu nhập khẩu, thì chừng đó vẫn còn một hạng mục chi tiêu cho các sản phẩm dầu khi.

Petrolimex là cơ quan chính có nhiệm vụ nhập khẩu và phân phối các sản phẩm dầu khí . Trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã cố gắng giúp người tiêu dùng tránh khỏi sức ép tăng giá dầu trên thị trường thế giới. Gía các sản phẩm dầu được bán trên thị trường trong nước được hình thành bởi mấy yếu tố. Gía sản phẩm dầu nhập khẩu tăng lên do phải chịu thuế nhập khẩu, thuế VAT, thuế tiêu thụ và một tỷ lệ phí phân phối. Do giá sản phẩm dầu nhập khẩu tăng lên, nên chính phủ thường xuyên phải giảm thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm dầu. Tuy nhiên, trước tình hình giá dầu nhập khẩu tăng vượt mức giá trong nước được ấn định cho người tiêu dùng, cần xem xét các giải pháp khác.

Tháng 2, giá dầu cho tiêu thụ nội địa được tăng lên 6-7%. Tuy vậy, mức tăng này cũng chỉ là sự điều chỉnh giá một phần trước xu hướng tăng giá quốc tế. Tháng 5, thuế nhập khẩu đối với một số sản phẩm dầu tinh chế đã giảm từ 5% xuống 0%. Tuy nhiên, do giá dầu tăng nhanh hơn mức giảm thuế nhập khẩu, nên các nhà phân phối dầu phải chịu một tỷ lệ lãi lề thấp hơn. Các nhà phân phối cho rằng họ bị "lỗ" từ 600-1000 VND đối với mỗi lít dầu bán ra. Đối với 9 nhà phân phối của nhà nước hoạt động tại Việt Nam, mức lỗ gộp lại lên tới 1,2 nghìn tỷ VND trong quý 1 năm 2004. Chính phủ chỉ bao cấp một phần mức giảm lợi nhuận.

Có một số nguyên nhân giải thích tại sao chính phủ gặp khó khăn trong việc tăng giá vào thời điểm này. Do dầu là một yếu tố đầu vào quan trọng nhất trong ngành giao thông (chiếm 30-40%), nên việc tăng giá dầu có thể dẫn đến tăng giá đối với các ngành khác do chi phí vẫn chuyển hàng hóa tăng. Tăng giá dầu diễn ra vào thời điểm giá lương thực đã và đang tăng cũng như giá một số mặt hàng nhập khẩu chủ chốt khác như thép. Chính phủ cũng muốn tránh tăng giá đối với một số sản phẩm như dầu hỏa thường được người nghèo sử dụng làm dầu đốt.

Trong trường hợp giá dầu không giảm xuống thấp hơn mức hiện nay và giá cả trong nước vẫn không thay đổi, thì chính phủ sẽ có thể phải trợ cấp ở mức 10-12 nghìn tỷ trong năm nay.

11

PHẦN II

CẢI CÁCH KINH TẾ

12

Việt Nam tiếp tục thực hiện một chương trình nghị sự cải cách toàn diện. Mục tiêu chính của Việt Nam là hoàn thành quá trình quá độ sang một nền kinh tế thị trường, bảo đảm sự phát triển bền vững và công bằng và xây dựng năng lực quản lý quốc gia hiện đại. Mặc dù đã có những tiến bộ trong tất cả các mục tiêu này, mức độ tiến bộ trong việc thực hiện mỗi mục tiêu còn khác nhau nhiều. Những vấn đề nổi bật trong những tháng gần đây là tiến bộ đáng kể trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, những bước đi hứa hẹn trong việc giảm bớt cho vay chính sách, việc đẩy mạnh quá trình cải cách SOE, và sự quyết tâm rõ rệt trong việc thực hiện giải pháp chống tham nhũng toàn diện. Mặc khác, việc cải cách ngân hàng đạt được tiến bộ ít ỏi vẫn là một vấn đề đáng lo ngại.

Hội nhập nền kinh tế thế giới

12 tháng qua chứng kiến sự tiến bộ vững chắc trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Các hoạt động chuẩn bị cho việc gia nhập WTO đang được đẩy mạnh. Mặc dù Việt Nam đã tuyên bố ý định trở thành thành viên của WTO từ năm 1995, nhưng cho đến gần đây, các cuộc đàm phán còn đạt được rất tiến bộ. Vấn đề quan tâm hiện nay là hàng rào thương mại còn tương đối cao nhằm bảo vệ một số ngành được coi là chiến lược (như ô tô, xi măng, hóa chất, phân bón, thép và đường) và vẫn còn trở ngại gia nhập các ngành dịch vụ do nhà nước chi phối (đặc biệt là ngân hàng và viễn thông). Giữa năm 2003, trong bối cảnh đạt được những thành tích khích lệ của hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, Chính phủ đã có quyết định sớm gia nhập WTO vào năm 2005. Kể từ đó, chính phủ đã tích cực chuẩn bị lộ trình gia nhập WTO cho các ngành chủ chốt của nền kinh tế.

Chính phủ đã trình bản chào sửa đổi gia nhập WTO cho các đối tác thương mại và bản chào này đang được xem xét. Hiện tại, còn quá sớm để biết liệu thời hạn 2005 sẽ có thể đạt được không. Tuy nhiên, sự thay đổi về bản chất cuộc tranh luận từ việc, liệu Việt Nam có nên gia nhập WTO sang việc khi nào Việt Nam gia nhập, thể hiện quyết tâm mới của Chính phủ. Việc tuân thủ các quy định WTO sẽ tạo một cơ chế mạnh mẽ nhằm gắn kết quá trình cải cách vào khuôn khổ WTO, đặc biệt đối với các vấn đề "sau biên giới" (các vấn đề phi thuế quan và thương mại dịch vụ).

Việc chuẩn bị lộ trình thay đổi thuế quan chi tiết, bao gồm đánh giá tác động

ngành và thời gian thực hiện dự kiến là một đóng góp quan trọng cho quá trình đàm phán các điều kiện gia nhập WTO của Việt Nam. Điều quan trọng hơn là những lộ trình này đưa ra một tầm nhìn cho cơ cấu kinh tế hộ lâu dài. Tầm nhìn đó là: thuế nhập khẩu trung bình sẽ thấp, hầu hết các hàng rào phi quan thuế sẽ bị loại bỏ và không có các ngành được hưởng mức bảo hộ cao. Một số động thái chính sách được thực hiện trong năm qua có mục tiêu nhằm bảo đảm nền kinh tế phát triển theo hướng đó.

Hạn chế về số lượng đối với nhập khẩu các sản phẩm dầu đã bị loại bỏ. Điều này diễn ra sau khi có các biện pháp loại bỏ hạn chế định lượng đối với các mặt hàng như giấy, kính xây dựng, thép, dầu thực vật, phương tiện chở khách 9 chỗ, xi-măng và clanhke. Do đó, tỷ lệ áp dụng hạn chế định lượng giảm từ mức 20% nhập khẩu và 22% sản xuất năm 2001, xuống còn 13% và 4% tương ứng hiện nay. Năm 2004, thuế đối với

13

484 mặc hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, hầu hết là nông sản và thủy sản đã giảm. Động thái này được gọi là Chương trình Thu hoạch sớm, là một bước tiến đến việc thực hiện hiệp định thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc.Ngoài ra, trong năm qua, một số quy định được xây dựng trên cơ sở phù hợp với các quy định của WTO. Các quy định này liên quan đến định giá hải quan và áp dụng Hệ thống mã số và phân loại chung (HCCS) trên cơ sở đa phương.

Cải cách doanh nghiệp nhà nước

Theo dự tính của Chính phủ, Việt Nam hiện có 4296 DNNN với tổng số vốn khoảng 189 nghìn tỷ VND (tương đương 12 tỷ USD). Các số liệu về các DNNN đó cần được xem xét một cách thận trọng do hệ thống thông tin còn rất yếu kém trong lĩnh vực này. Gần 47% doanh nghiệp tuyên bố có mức vốn dưới 5 tỷ USD. Mức lợi nhuận trên vốn bình quân gần đây nhất dự tính đạt 7,34%. Khoảng 77% DNNN báo cáo đạt lợi nhuận trong khi các DNNN còn lại hòa vốn hoặc chịu lỗ.

Bảng 3: Số DNNN chuyển đổi

2001 2002 2003 5T-2004

Cố phẩn hóa DNNN 193 211 341 173

thuộc quyền quản lý của:

Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Thành phố 156 145 229 111

Bộ chủ quản 26 46 95 47

Tổng công ty 91 11 20 17 15

Bán/Chuyển nhượng 58 38 43 4

Thanh lý/Phá sản 21 24 28 4

Công ty TNHH một thành viên - 1 9 5

Tổng số 272 274 421 193

Ghi chú: Các kế hoạch xắp xếp lại DNNN đã được phê chuẩn

298 698 107

Nguồn: Ban Chỉ đạo Đổi mới và Cải cách DNNN

Số DNNN đã giảm dần theo thời gian (Bảng 3). Nhiều doanh nghiệp đang trải qua

quá trình chuyển đổi nằm trong kế hoạch tổng thể cải cách DNNN của năm 2002 với mục tiêu cổ phần hóa, bán hoặc thanh lý khoảng 2400 DNNN trong giai đoạn ba năm. Tốc độ chuyển đổi DNNN đã tăng lên năm 2003, tăng gần 60% so với năm trước đó. Tốc độ này vẫn còn tăng nhanh trong năm 2004. Một DNNN chuyển đổi được coi là hoàn chỉnh khi hội nghị cổ đông đầu tiên được tổ chức và doanh nghiệp mới hoàn tất các thủ tục đăng ký kinh doanh. Điều này khác với số doanh nghiệp thường được nêu lên trên báo chí, sử dụng số lượng các doanh nghiệp được phê chuẩn chuyển đổi sở hữu nhưng thực tế không phải tất cả doanh nghiệp này đã hoàn tất đăng ký kinh doanh.

14

Trong số các DNNN đang được chuyển đổi, mặc dù quy mô trung bình các doanh nghiệp được chuyển đổi còn nhỏ nhưng một số doanh nghiệp được chuyển đổi có quy mô ngày càng lớn (Bảng 4). Tuy nhiên, tỷ trọng vốn do nhà nước nắm giữ cũng có xu hướng tăng cao hơn.

Bảng 4: Quy mô DNNN chuyển đổi sở hữu

2001 2002 2003 5T-04

Vốn điều lệ bình quân (tỷ đồng) 7 7 10 10

Vốn điều lệ cao hơn 10 tỷ đồng 17 % 27 % 25 % 25 %

Mức nợ ngân hàng bình quân (tỷ đồng) 5 6 8 10

Số người lao động bình quân 250 221 183 260

Tỷ lệ cổ phần nhà nước cao hơn 35 % 26 % 27 % 45 % 55 % Nguồn: Ban Chỉ đạo Đổi mới và Cải cách DNNN

Gần đây, cải cách DNNN lớn, bao gồm các Tổng Công ty 91 (GC) đã tập trung

vào tăng cường năng lực cạnh tranh thay vì cổ phần hóa các công ty này. Tuy vậy, cách làm này tỏ ra không hiệu quả. Các cuộc kiểm toán chẩn đoán các TCty đã cho thấy cơ cấu hiện nay của các công ty này là không phù hợp, dẫn đến hoạt động yếu kém của các DNNN. Đặc biệt, còn thiếu rõ ràng trong việc xác định các quyền quản lý và sở hữu, trách nhiệm và trách nhiệm giải trình giữa Nhà nước và TCty, trong nội bộ TCty và giữa TCty với các DNNN thành viên. Do đó, không có đơn vị nào hoàn toàn chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động của công ty. Bất cập này cần được khắc phục.

Chỉ thị số 11/2004/CT-TTg của Thủ tướng, ban hành ngày 30 tháng 3 năm 2004, đã thể hiện sự thay đổi chính sách và mở rộng cổ phần hóa cho các DNNN lớn hơn. Chỉ thị thúc đẩy quá trình cơ cấu lại DNNN này được đưa ra sau Nghị quyết Lần thứ 9 của Đại hội Đảng lần thứ 9. Các ngành nằm trong diện cơ cấu lại này bao gồm ngành điện, bưu chính viễn thông, hóa chất, cơ khí, ngân hàng vào bảo hiểm. Hơn nữa, đã có nhận thức rằng cổ phần trong các công ty này có thể được bán cho các nhà đầu tư bên ngoài và việc định giá tài sản cần phải dựa trên giá trị thị trường. Chính phủ có ý định tạo thuận lợi nhiều hơn cho các DNNN trong việc tuyển dụng các chuyên gia tư vấn tài chính cho mục đích định giá.

Việc đánh giá kết quả hoạt động của DNNN còn tiến triển chậm chạp. Trước đây, các DNNN thường không tuân thủ các nghĩa vụ báo cáo hiện hành. Quyết định 271/2003/QD-TTg đã quy định sử phạt hành chính đối với trường hợp thiếu tuân thủ và chỉ thị phân loại các DNNN theo một trong ba loại hình phụ thuộc vào mức thu nhập, lợi tức trên vốn nhà nước và khả năng trả nợ. Việc phân loại thực tế dự kiến sẽ bắt đầu tháng 7/2004. Về nguyên tắc phân loại, các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả trong hai năm liền phải bị cơ cấu lại, bao gồm cả việc thay đổi cán bộ quản lý. Các DNNN không đệ trình báo cáo tài chính cuối cùng đúng hạn sẽ bị sử phạt.

15

Khung 2: Những thay đổi pháp lý bảo đảm chuyển đổi DNNN có quy mô lớn

Một số văn bản pháp lý cần được ban hành, sửa đổi hoặc bổ sung nhằm tạo cơ sở chuyển

đổi DNNN lớn cũng như đảy nhanh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhỏ. Chỉ thị số 11 của Thủ tướng đã chỉ đạo trình các văn bản pháp luật sửa đổi sau đây trong vài tháng tới:

Quyết định số 58/2002/QD-TTg qui định các DNNN sẽ được phép chuyển đổi nếu các doanh nghiệp này không nằm trong danh sách các ngành công nghiệp chiến lược và ở dưới mức ngưỡng quy định. Quy định này cũng nêu rõ các doanh nghiệp nhà nước không thể trả nợ sẽ phải phá sản. Việc xuất hiện các hiện tượng phá sản chứng tỏ khía cạnh này của Quyết định đã không được thực hiện. Tương tự như vậy, với việc yêu cầu các tổng công ty phải tái tổ chức nếu những tổng công ty này không đạt tiêu chi về quy mô và doanh thu cũng không được thực hiện. Dù vậy, Quyết định 58 có ý nghĩa rất quan trọng, tạo khung cho các quyết định chuyển đổi hơn 2,000 doanh nghiệp nhà nước và quá trình này đang được thực hiện mạnh. Trong Quyết định 58, một danh mục rất dài và không phù hợp về những ngành công nghiệp “dấu trừ”, tức là những nghành công nghiệp mà các doanh nghiệp nhà nước không được phép chuyển đổi, sẽ gây cản trở đối với quá trình cổ phẩn hoá của các doanh nghiệp nhà nước lớn.

Nghị định 64/2002/ND-CP quy định việc chuyển đổi của doanh nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần (cổ phần hoá). So với Nghị định mà nó thay thế trước đó, Nghị định này đã mở rộng các tiêu chí có thể sử dụng để định giá. Nghị định này cũng qui định, nếu các cổ phần vẫn giữ nguyên không bán sau khi giám đốc, nhân viên và một số nhà cung ứng bán phần của mình, thì ít nhất 30% các cổ phần còn lại sẽ được bán cho người ngoài qua hình thức đấu giá. Những vấn đề sẽ sửa đổi trong Nghị định 64 bao gồm vấn đề định giá đất,vai trò của trung gian tài chính, định mức cổ phần cho những người bên ngoài,việc gắn cổ phần hoá với niêm yết trên thị trường chứng khoán,và có thể cả việc giải quyết nợ.

Nghị định 49/2003/ND-CP là sửa đổi của Nghị định 103/1999. Nghị định này quy định việc chuyển nhượng (bán với giá chỉ định), bán trực tiếp cho nhân viên, hợp đồng hoặc thuê các doanh nghiệp nhà nước có vốn nhà nước dưới mức 5 tỷ đồng mà "không thể được cổ phần hoá". Tính ứng dụng của Nghị định này sẽ được mở rộng thông qua việc tăng mức ngưỡng 5 tỷ đồng quy định này.

Nghị định 63/2001/ND-CP quy định việc chuyển đổi của các doanh nghiệp nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Tuy nhiện kết quả thực hiện Nghị định này còn chưa đáng kể mặc dù nó đã được thông qua từ 32 tháng trước đây. Một doanh nghiệp dưới sự chỉ đạo của một bộ máy quản lý trao đổi địa vị của mình với tư cách là một DNNN để đổi lấy địa vị của một công ty hoạt động theo luật doanh nghiệp,nhưng lại vẫn duy trì bộ máy quản lý như vậy, để trở thành "một thành viên". Không có hoạt động bán cổ phần nào diễn ra.

Nghị định 41/2002/ND-CP quy định việc giải quyết vấn đề giải quyết người lao động dôi dư trong quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Hiện đang chờ một nghị định sửa đổi để làm rõ việc các cán bộ ở các nông trường quốc doanh và nông trường lâm nghiệp nằm trong phạm vi của Nghị định này.

16

Cải thiện môi trường kinh doanh Việc ban hành luật doanh nghiệp tạo một động lực lớn đối với việc phát triển khu

vực tư nhân thông qua tạo điều kiện sự ra đời của doanh nghiệp. Việc áp dụng một luật duy nhất bao gồm các doanh nghiệp tư nhân và nhà nước là giai đoạn tiếp theo trong quá trình đổi mới khung pháp lý nhằm tạo cơ hội công bằng cho khu vực tư nhân.Ngoài ra, một luật thống nhất cũng đang được xây dựng nhằm điều tiết đầu tư trong nước và nước ngoài, hai hình thức đầu tư hiện đang chịu sự kiểm soát của hai luật riêng biệt nhau. Nội dung và Nguyên tắc Chủ đạo của các luật này được Thủ tướng chính phủ thông qua vào tháng 4 năm 2004. Một số tiểu ban soạn thảo do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ đạo hiện đang xây dựng dự thảo của những luật này. Dự kiến các luật này sẽ được trình Quốc hội thông qua vào cuối năm 2005 hoặc đầu 2006. Nếu những nguyên tắc chủ đạo nói trên được thể hiện trong những luật này, đây sẽ là một dấu hiệu tốt có thể cải thiện đáng kể môi trường kinh doanh được quy định bởi luật doanh nghiệp hiện đại và qui chế đầu tư. Nhưng nếu những nguyên tắc này được thể hiện một cách hạn hẹp ví dụ chỉ áp dụng hạn chế đối với các doanh nghiệp nhà nước, thì mục tiêu và tác động của luật sửa đổi này sẽ bị ảnh hưởng lớn.

Trong khi đó, một bước tiến quan trọng trong việc tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa khu vực tư nhân trong nước với khu vực tư nhân có vốn đầu tư nước ngoài là việc điều chỉnh mức thuế thu nhập năm 2003. Mức thuế mới 28%(có hiệu lực từ1/1/2004) áp dụng giống nhau cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (DNĐTNG) và doanh nghiệp tư nhân trong nước. Như vậy, đối với các doanh nghiệp tư nhân trong nước, mức thuế này giảm từ mức 32% và đối với các doanh nghiệp tư nhân vốn đầu tư nước ngoài mức thuế này được tăng từ mức trước đó là 25%. Đồng thời, thuế thu nhập bổ sung cho các doanh nghiệp trong nước được xoá bỏ. Tương tự như vậy, thuế chuyển lợi nhuận về nước của các FIE cũng được xóa bỏ. Chính sách xoá bỏ việc tăng gấp đôi giá sử dụng điện nước là một động thái được hoan nghênh khác trong định hướng này

Với việc ra đời của Nghị định 164 về thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp,

chính sách khuyến khích áp dụng đối với các công ty trong nước và nước ngoài đã được làm cho hài hoà. Các chính sách khuyến khích áp dụng đối với các công ty địa phương khó hiểu và chồng chéo trước đây nay đã bị bãi bỏ và thay thế bằng một loạt các chính sách khuyến khích thuế được cải thiện. Mặc dù, các doanh nghiệp mới được thành lập vẫn được hưởng chính sách khuyến khích về thuế tốt hơn so với các công ty đang tồn tại có dự án mở rộng, nhưng sự khác nhau là không đáng kể.

Khu vực tư nhân trước đây đã đưa ra lý lẽ rằng mức thuế thu nhập cá nhân quá cao đối với những người Việt nam có thu nhập cao dẫn đến chi phí lương tổng thể rất cao. Mức này so với chuẩn trong khu vực là không thể cạnh tranh nổi. Do đó, điều này làm nản lòng các công ty tư nhân và nước ngoài muốn đầu tư lớn vào phát triển đội ngũ kỹ thuật và các nhà quản lý địa phương có tay nghề cao. Đồng thời, thu nhập của người nước ngoài đã bị đánh thuế ở mức thấp hơn.

Luật mới, có hiệu lực từ ngày 1/7/2004 đã giải quyết được mối băn khoăn này. Mức thuế thu nhập cao nhất sẽ được giảm từ 50% xuống còn 40% và sẽ áp dụng như

17

nhau đối với tất cả các công dân Việt nam cũng như người lao động nước ngoài. Tỷ lệ mức thu nhập của mức thuế cao nhất được áp dụng sẽ tăng từ 15 triệu đồng đến 40 triệu đồng. Điều này không xoá bỏ được hoàn toàn khoảng cách giữa người lao động trong nước và người nước ngoài vì mức thu nhập của mức thuế cao nhất đối với người nước ngoài là 80 triệu đồng. Thuế thu nhập bổ sung 30% đối với người lao động Việt nam sẽ được xoá bỏ. Mức thu nhập ngưỡng, mà mức thu nhập thấp hơn mức ngưỡng đó không phải đóng thuế, sẽ được tăng từ 3 triệu lên 5 triệu đồng 1 tháng.

Hai biện pháp nữa sẽ hỗ trợ sự phát triển của khu vực tư nhân thông qua việc

khuyến khích nhiều hơn sự tham gia của nước ngoài. Thứ nhất, Nghị định 38 mở ra một dự án thí điểm việc các DNĐTNG có thể trở thành các công ty cổ phần. Có khoảng hơn 20 chục DNĐTNG đã có tên trong danh sách các công ty đầu tiên tham gia. Biện pháp thứ hai là quyết định 146 đã nâng mức vốn cổ phần tối đa của các tổ chức và cá nhân quốc tế trong các công ty cổ phần trong nước được niêm yết lên 30% (từ mức 20%) trong tổng mức cổ phần của bất kỳ một công ty niêm yết nào. Những sáng kiến này đưa ra mức trần đầu tư nước ngoài tại các công ty trong nước cổ phần tiền hành niêm yết hoặc và không niêm yết và loại bỏ yêu cầu về mức trần cụ thể đối với tổng mức cổ phần của bất kỳ cá nhân và tổ chức quốc tế nào trong một công ty niêm yết. Tổng đóng góp vốn nước ngoài tối đa trong một công ty cổ phiếu liên doanh được tăng lên 49% (từ 30%). Ngoài ra, các công ty quản lý quỹ tại Việt nam hiện đã được phép hoạt động với sự vốn đóng góp nước ngoài lên đến 49%.

Việc quản lý quyền sở hữu trí tuệ được tăng cường. Nghị định 28/2004/ND-CP trao quyền giải quyết vấn đề thương hiệu cho Cục Bảo vệ Quyền Sở hữu trí tuệ Quốc gia (CBVQSHTTQG). Nghị định này cũng tăng cường chức năng của CBVQSHTTQG và coi đây là đầu mối liên lạc cho tất cả những thắc mắc về quyền sở hữu trí tuệ. Mục đích của nghị định là nhằm rút ngắn thời gian từ công đoạn nộp đơn đăng ký quyền sở hữu trí tuệ cho đến khi được đăng ký hoặc bị từ chối. Thủ tục hành chính phức tạp và mất nhiều thời gian hiện nay đã gây ra trì trệ và thiệt hại cho công việc. Số đơn xin đăng ký tăng từ 9000 năm 2001 lên đến 15,000 năm 2002 và cao hơn năm 2003. Nghị định 88/2003/ND-CP được ban hành giúp tăng cường khung pháp lý cho việc tổ chức, vận hành và quản lý các hiệp hội. Mặc dù một số văn bản pháp lý hiện nay cũng có quy định về các hoạt động dân sự, nhưng khung pháp lý nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế, phức tạp và còn rải rác. Nghị định 88 đưa ra một khung pháp lý về quyền và nghĩa vụ của các hiệp hội theo một cách thức minh bạch hơn. Mặc dù Nghị định 88 là một hướng đi đúng, nhưng một số vấn đề vần còn chưa rõ ràng đối với các hiệp hội kinh doanh. Cần có thêm các văn bản pháp lý trong lĩnh vực này.

Một thách thức hiện nay là phải cải tiến hơn nữa môi trường vận hành cho các công ty tư nhân sao cho một tỷ lệ lớn các công ty này có thể tồn tại và phát triển mạnh hơn. Để thực hiện được điều này, cần phải hành động trong các lĩnh vực như tiếp cận thị trường, đất, tín dụng, thuế là những lĩnh vực cần đơn giản hóa thủ tục và giảm cơ hội hoạt động tùy tiện của các cơ quan công quyền.

18

Ngân hàng thương mại quốc doanh

Tháng 6/2003, chính phủ tuyên bố ý định cổ phần hóa các NHTMQD trong giai đoạn 2006-2010 với sự tham gia của các đối tác và cổ đông nước ngoài. Kế hoạch này trở nên cụ thể hơn sau Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 11/2004 trong đó chỉ đạo NHNNVN phối hợp với Bộ Tài chính đệ trình dự thảo kế hoạch cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt nam (Vietcombank) và Ngân hàng Nhà Mekong trước ngày 30/6/2004.

NHNNVN đã đồng ý trên nguyên tắc việc cổ phần hóa Ngân hàng Nhà Mekông

năm 2005 với sự tham gia của một nhà đầu tư chiến lược quốc tế. Vietcombank là một trong những NHTMQD lớn nhất và làm ăn có lãi nhất. Cuối năm 2003, Vietcombank có tổng số tài sản 97,3 nghìn tỷ và vốn điều lệ 4,5 nghìn tỷ (bao gồm khoản tái cấp vốn của chính phủ là 400 tỷ năm 2003). Do nền tảng vốn của ngân hàng còn thấp, nên chắc chắn Vietcombank sẽ còn được phép nâng mức vốn bằng cách phát hành những công cụ tài chính thu hút vốn trước khi tiến hành cổ phần hóa. Dự kiến, mức phát hành cổ phần có thể lên tới 2-2,5 nghìn tỷ và người nước ngoài có thể mua được cổ phiếu đó.

Việc tái cấp vốn các NHTMQD thông qua phát hành cổ phần hoặc các công cụ tương tự sẽ làm giảm nhẹ gắng nặng tài chính trong quá trình cải cách ngành tài chính và giúp củng cố năng lực quản lý doanh nghiệp của NHTMQD. Do tỷ lệ tiết kiệm cao ở Việt Nam và do các hình thức tiền kiệm dài hạn còn hạn chế, nên việc phát hành cổ phiếu hoặc các trái phiếu có thể chuyển đổi có thể giúp các NHTMQD tăng nguồn lực đáng kể nhằm đạt tỷ lệ mức dự trữ vốn an toàn. Tuy nhiên, nhằm bảo vệ lợi ích của các cổ đông, cần cung cấp các thông tin đáng tin cậy về tình hình các NHTMQD và cần có kế hoạch giải quyết những yếu kém quan trọng nhất, đặc biệt liên quan đến vấn để giải quyết các khoản nợ không sinh lời. Việc đưa ra đánh giá toàn diện về NHTMQD cần là điều kiện tiên quyết trước khi tiến hành niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc phát hành các trái phiếu có thể chuyển đổi.

Các NHTMQD lớn đã nhận được tổng mức vốn được cấp khoảng 10,9 nghìn tỷ

đồng trong ba năm qua. Việc tái cấp vốn này chủ yếu dựa trên hình thức chính phủ phát hành trái phiếu có thời hạn 20 năm với lãi suât 3,3%. Tuy nhiên, tỷ lệ dự trữ vốn vãng lai của ngân hàng ở mức dưới 4% như hiện này là khá thấp so với tiêu chuẩn chung cho phép. Cũng có lo ngại rằng việc tái cấp vốn đã không hoàn toàn dựa trên hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Ví dụ, vẫn chưa gắn việc tái cấp vốn với điều kiện phải tuân thủ chặt chẽ kế hoạch tài cơ cấu cho từng ngân hàng.

Hiện tại, vẫn chưa có các số liệu chính xác về sự phân bổ ngành và chất lượng tín

dụng ngân hàng. Do thiếu những số liệu đó, Bảng 5 chỉ mô tả các khoản tín dụng giành cho khu vực DNNN nói chung. Số liệu cho thấy tỷ trọng vốn vay trên tổng tín dung ngân hàng cho DNNN vay đã giảm và tổng mức nợ của DNNN đã không chiếm tỷ trọng chi phối trong GDP.

Bảng 5 báo cáo các chỉ số về các khoản nợ không sinh lời dựa trên kiểm toán theo Tiêu chuẩn kế toán Quốc tế (TCKTQT). Các cuộc kiểm toán tương tự được tiến hành cho tất cả các NHTMQD lớn vào năm 2000 và 2001 và cho hai NHTMQT năm

19

2002. Do đó, vẫn chưa hình thành một bức tranh chung cập nhật về chất lượng tín dụng trong bốn NHTMQD. Các số liệu được trình bày trong Bảng 5 cho năm 2002 có được là nhờ phân tích ngoại suy xu hướng của 2 trong số 4 NHTMQD lớn. Thậm chí các con số thực tế dựa trên IAS có thể còn đánh giá thấp hơn mức độ thật sự của các khoản vay không sinh lời bởi lẽ các khoản nợ không có khả năng hoàn trả được gia hạn có thể được coi là đã được trả rồi. Kiểm toán cho thấy mức chi phí giải quyết các khoản nợ không sinh lời thấp hơn so với hiện nay. Tuy nhiên, theo các phương tiện thông tin đại chúng của Việt nam thì vào thời điểm hiện nay tổng số nợ xấu chỉ chiếm khoảng 4,7% tổng dư nợ ngân hàng dựa theo Tiêu chuẩn Kế toán Việt Nam (TCKTVN). Mặc dù Quyết định 1627 được đưa ra năm 2001 đã đưa TCKTVN gần hơn với TCKTQT, nhưng vẫn có dấu hiệu cho thấy NHTMQD đã tránh được các tiêu chuẩn TCKTQT này. Bốn Ngân hàng Thương mại quốc doanh đã được kiểm toán về báo cáo tài chính dựa trên IAS. Các cuộc kiểm toán cho năm 2000, 2001 và 2002 đã được hoàn thành.

Bảng 5: Các chỉ số Ngân hàng

2000 2001 2002 2003

Tín dụng cho nền kinh tế (nghìn tỷ đồng) 156 189 231 289

Tín dụng cho nền kinh tế (phần trăm GDP) 36 41 44 50

Vốn vay cho DNNN (nghìn tỷ đồng) 70 80 90 104

Vốn vay cho DNNN (tỷ lệ % tín dụng trong nền kinh tế) 45 42 39 36

Vốn vay cho DNNN (tỷ lệ % GDP) 16 17 17 18

Nợ không sinh lời theo IAS (nghìn tỷ đồng) 15 18 25 * -

Nợ không sinh lời theo IAS (tỷ lệ tín dụng cho nền kinh tế) 10 10 11 * -

Nợ không sinh lời theo IAS (tỷ lệ % GDP) 4 4 5 * -

Nợ không sinh lời theo IAS (tỷ lệ % cho vay của NHTMQD) 13 13 14 * -

Lưu ý: Các số liệu về khoản nợ không sinh lời dựa trên các cuộc kiểm toán IAS của bốn NHTMQD năm 2000 và 2001 và kiểm toán IAS đối với hai NHTMQD và ước tính của NHTG cho năm 2002. Số liệu có dấu sao là số liệu dự tính. Nguồn: Ước tính của NHTG và IMF dựa trên số liệu của NHNNVN, Công ty Price Waterhouse-Coopers và Ernst & Young.

Việc cải thiện chất lượng tín dụng mới đóng vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm

cải cách ngân hàng thực sự. Trong khi số liệu đựa trên TCKTVN và TCKTQT cho thấy tỷ lệ không có khả năng hoàn trả không tăng lên, nhưng điều này phần nào liên quan đến việc "giải quyết" các khoản vay không sinh lời dựa trên việc xóa nợ nhờ sự chi trả hoặc trợ cấp của chính phủ. Hiện tại một thông tư 74/2002/TT-BTC là một cơ chế xác định lại giá trị của các khoản vay không sinh lời còn lại đang được thực hiện. Thông tin sơ bộ cho thấy số lượng vốn được hoàn trả còn thấp. Do đó, tốc độ giải quyết khoản nợ không sinh lời có thể sẽ chậm lại trong thời gian tới và như vậy chất lượng của tín dụng mới sẽ trở

20

thành một yếu tố quyết định chính đối với lợi nhuận của ngân hàng. Hoạt động tín dụng là một lĩnh vực cải cách ngân hàng diễn ra chậm hơn. Khi tín dụng cho nền kinh tế ngày càng tăng trong GDP, có nhiều khả năng chi phí tái cấp vốn cho hệ thống ngân hàng sẽ tăng lên theo.

Mặc dù các NHTMQD đã có công ty quản lý tài sản riêng của mình, nhưng hiện tại họ vẫn thiếu quyền hạn tịch thu tài sản thế chấp, thu giữ tài sản và buộc doanh nghiệp thanh lý nếu cần thiết. Một giải pháp khác vẫn đang chờ kiểm nghiệm là cần dựa vào Công ty Mua bán Tài sản và Nợ Trung ương (CTMBTSN) mới được thành lập gần đây. Các quy định hướng dẫn hoạt động của công ty này đã được ban hành. CTMBTSN sẽ có vốn điều lệ khoảng 2 nghìn tỷ đồng. Công ty sẽ hoạt động trên cơ sở thử nghiệm trước, giúp giải quyết cho 20 DNNN có khoản nợ xấu trị giá khoảng 1,5 nghìn tỷ đồng. Trong số 20 công ty này, 12 công ty sẽ được cổ phần hóa, 6 công ty sẽ chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn độc chủ. Một công ty còn lại sẽ trao quyền sở hữu cho người lao động và một công ty khác sẽ được sát nhập.

Kế hoạch hội nhập quốc tế của hệ thống ngân hàng đã được NHNNVN xây dựng

tháng 6/2003 thông qua quyết định số 663 của Thống đốc NHNN. Kế hoạch này nhận diện những thách thức mà hệ thống ngân hàng sẽ gặp phải khi các cam kết quốc tế được thực hiện theo hướng tạo ra một sân chân bình đẳng hơn giữa các ngân hàng quốc tế và trong nước. Kế hoạch này cũng có mục đích sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và loại bỏ các văn bản pháp luật và chính sách nào không còn phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Nhằm phần nào thực hiện các cam kết quốc tế, chính phủ đã nới lỏng đáng kể các hạn chế đối với hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng liên doanh. Ví dụ, ngân hàng Hoa Kỳ và Châu Âu hiện nay đã được phép nhận một lượng tiền gửi lớn hơn 500% so với mức vốn của mình so với tỷ lệ 50% cách đây một năm .

Các quy định mới cũng cho phép ngân hàng nước ngoài hoạt động ở Việt Nam

được mua đến 30% cổ phần tại ngân hàng thương mại cổ phần địa phương (NHTMCP). Giới hạn tỷ lệ cổ phần của các tổ chức nước ngoài trong NHTMCP sẽ tăng từ 10% lên 15%. Trong khi đó, mức tỷ lệ cổ phần đối với các nhà đầu tư nước ngoài cá nhân sẽ không thay đổi ở mức 10%. Luật sửa đổi và bổ sung Luật các Tổ chức Tín dụng đã được Quốc hội thông qua vào ngà 26 tháng 6 năm 2004 và sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 10 năm 2004. Luật sửa đổi đã quy định tự do hoá hoạt động của tất cả cácngân hàng nước ngoài, cho phép các ngân hàng có 100% vốn nước ngoài được họt động tại Việt nam. Tuy nhiên, các quy định hướng dẫn thực hiện các điều khoản của Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi này còn chưa soạn thảo.

21

Khung 3: Phát triển Thị trường Chứng khoán

Đã có những bước tiến nhắm thúc đẩy thị trường chứng khoán đang phát triển chậm chạp. Hiện tại, có 24 công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán với tổng giá trị thị trường vào khoảng 250 triệu USD. Tháng 11/2003, chính phủ ban hành Nghị định 144 (thay thế Nghị định 48) nhằm giảm yêu cầu niêm yết đối với các công ty. Nhằm khuyến khích các côngty nhỏ niêm yết, yêu cầu vốn tốn thiểu đã giảm xuống còn 5 tỷ đồng. Chính phủ cho rằng việc cho phép các DNNN và NHTMQD cổ phần hóa thông qua niêm yết trên thị trường chứng khoán sẽ là một nhân tố quan trọng trong sự phát triển của thị trường này trong tương lai. Tháng 3, Bộ Tài chính đã chính thức quản lý Uỷ ban Chứng khoán nhà nước, cơ quan điều tiết thị trường chứng khoán. Chính phủ hy vọng rằng điều này sẽ tạo thuận lợi cho sự hợp tác tốt hơn giữa cơ quan điều tiết thị trưòng chứng khoán với các bộ tham gia vào quá trình phát triển thị trường chứng khoán.

Gần đây đã có một số các NHTM cổ phần quan tâm tới việc niêm yết trên thị trường chứng khoán. NHNNVN đã bày tỏ ủng hộ và đang trong quá trình xây dựng các quy định để thực hiện điều này. Những ngân hàng cổ phần này phải có mức vốn điều lệ tối thiểu là 70 tỷ đồng và phải hoạt động tối thiểu trong 5 năm và phải có lợi nhuận trong 2 năm gần đây. Ngoài ra, tỷ lệ các khoản nợ không sinh lời của các ngân hàng này phải dưới 3% trong hai năm qua. Dự kiến ngân hàng ACB và Sacombank có thể là ngân hàng cổ phần đầu tiên tham gia niêm yết. Tháng 3/2004, Uỷ ban chứng khoán nhà nước Việt Nam đã cấp giấy phép cho quỹ đầu tư chứng khoán đầu tiên của Việt Nam - Qũy Đầu tư chứng khoán Việt Nam - nhằm tạo ra một kênh đầu tư mới cho cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Giấy chứng hoạt động của quỹ sẽ được niêm yết tại Trung tâm thương mại chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Qũy có mức tài chính trần đạt 300 tỷ đồng. 60% nguồn vốn của quỹ sẽ được đầu tư vào các công ty niêm yết hoặc những công ty có tiềm năng niêm yết. Phần còn lại sẽ đầu tư vào trái phiếu chính phủ và bất động sản.

Đã thực hiện các biện pháp nhằm cải thiện tính minh bạch và trách nhiệm trong lĩnh vực ngân hàng. Một hệ thống tài khoản mới đã được sử dụng cho ngân hàng. Hệ thống tài khoản mới này, cũng như các quy đinh kế toán và quy định báo cáo ngân hàng mới sẽ gần sát với Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế (IAS). Tuy nhiên, vẫn còn chậm chễ trong việc công bố các báo cáo kiểm toán IAS, đôi khi kéo dài hơn 9 tháng. Những sự chậm chễ này xuất phát từ các cuộc đàm phán với ngân hàng thương mại quốc doanh về nội dung kiểm toán. Nhằm ngăn chặn sự chậm chễ này, NHNNVN hiện tại đã quy định thời gian tối đa 60 ngày cho các cuộc đàm phán như vậy. Nhằm tiến tới cải thiện chất lượng các khoản vay, bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đã phát hành các cẩm nan tín dụng mới. Điều này sẽ tạo cơ sở tốt hơn cho việc lồng ghép nội dung quản lý rủi ro trong quá trình hoạt động và giúp tăng cường công tác đánh giá rủi ro tài chính và các dòng tiền mặt của người vay.

Cải thiện khuôn khổ điều tiết cho vay theo chính sách

Hoạt động cho vay chính sách đã chính thức tách khỏi hệ thống ngân hàng thương mại.. Tuy vậy, hoạt động nay vẫn tiếp diễn với tốc độ nhanh chóng. Qũy Hỗ trợ Phát triển (QHTPT) đã mở rộng đáng kể trong ba năm qua và vẫn còn là một công cụ quan trọng nhằm cung cấp nguồn hỗ trợ tài chính cho các DNNN. Việc ban hành Nghị định

22

106/2004/ND-chính phủ nhằm điều tiết họat động của QHTPT là một bước đi nhằm tiến tới việc xây dựng một khung điều tiết vững chắc cho các hoạt động cho vay chính sách.

Nghị định cũng quy định chỉ có các dự án có khả năng hoàn trả trực tiếp, có hiệu quả kinh tế xã hội và có kế hoạch sản xuất hoặc kinh doanh khả thi thì mới được QHTPT hỗ trợ. Nghị định cũng nhấn mạnh rằng các tài sản dự án sẽ được sử dụng làm vật thế chấp và những tài sản đó không thể bị chuyển nhượng, thanh lý, cầm cố hoặc cam kết cho đến khi hoàn trả hết nợ. Nghị định cũng cho phép thực hiện cơ chế chia sẻ rủi ro, thông qua việc cùng đóng góp tài chính của các cơ quan chính phủ hoặc ngân hàng thương mại. Sau khi sử dụng tất cả các cơ chế sẵn có, tổng hỗ trợ của QHTPT không được vượt quá 85% tổng vốn đầu tư của một dự án. Khuôn khổ mới sẽ giới hạn số lượng các cơ chế hỗ trợ và sẽ dẫn đến sự phụ thuộc một phần vào cho vay thương mại. Những cơ chế đó là các khoản vay dự án, trợ cấp tín dụng và bảo lãnh tín dụng. Chỉ có vốn vay dự án sẽ do QHTPT cung cấp. Vấn đề xin hỗ trợ tài chính thông qua trợ cấp lãi suất và bảo lãnh là do ngân hàng thương mại quản lý. Trợ cấp chỉ áp dụng cho các dự án đã được hoàn thành và đang được sử dụng trên cơ sở thương mại và đã hoàn trả đẩy đủ nợ. Thành công trong việc đưa hoạt động của QHTPT vào một khuôn khổ ổn định hơn sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc thực hiện hiệu quả các biện pháp đó.

Quy mô và chất lượng giáo dục

Đã đạt được những tiến bộ theo hướng tăng chi tiêu chung cho ngành giáo dục, cải thiện việc phân bổ nguồn lực và nâng cao chất lượng dạy học. Phương pháp tiếp cận tổng thể trong lĩnh vực giáo dục được thể hiện trong khung Giáo Dục cho Mọi người. Các biện pháp được thực hiện trong năm vừa qua dựa trên sự kết hợp 2 yếu tố: tiêu chuẩn chất lượng giáo dục và cơ chế phân bổ nguồn lực. Tỷ trọng chi tiêu cho giáo dục và đào tạo đã được tăng lên đến 17,1 % ngân sách cho năm 2004, gần bằng mục tiêu đặt ra trong CLTT&GN năm 2005. Tỷ trọng này chỉ đạt 13,8 % năm 2002, và tăng lên đến 15,8% năm 2003. Đồng thời, những tiêu chuẩn tối thiếu cho giáo dục tiểu học đã được áp dụng trên toàn quốc. Một cuộc điều tra bao phủ trên tất cả các huyện đã được bắt đầu tiến hành nhằm đánh giá hiện trạng giáo dục so với các tiêu chuẩn đặt ra. Những tiêu chuẩn giáo dục không chỉ sẽ hướng dẫn việc phân bổ nguồn lực, mà sẽ làm thước đo phục vụ cho việc giám sát, ở cả cấp trung ương và địa phương. Những tiêu chuẩn này liên quan đến cơ sở hạ tầng vật chất, đội ngũ giáo viên, tổ chức và quản lý trường học, tham gia của xã hội vào giáo dục, hoạt động và chất lượng giáo dục và các kết quả giáo dục mong đợi.

Tiếp cận tổng thể này sẽ được thực hiện với sự hỗ trợ của một chiến lược hướng

vào mục tiêu. Một chỉ số thiệt thòi về giáo dục đã được xây dựng trên cơ sở kết hợp giữa tỷ lệ nhập học dòng, tỷ lệ phần trăm trẻ 6 tuổi được tiếp cận trường học và tỷ lệ tốt nghiệp. Cơ chế xác định mục tiêu cho phép xác định một số lượng lớn các huyện có các chỉ số giáo dục thấp hơn nhiều so với mức trung bình toàn quốc. Dự kiến, các thông lệ quản lý giáo dục sẽ được nâng cấp một cách cơ bản nhờ việc thực hiện thí điểm Khuôn khổ chi tiêu trung hạn trong ngành giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã được lựa chọn thực hiện thí điểm khuôn khổ này.

23

Đảm bảo Sức khoẻ tốt hơn

Để giả quyết sự mất cân bằng về kết quả y tế, chương trình cải cách chú trọng vào việc thay đổi cung cấp tài chính cho y tế. Một biện pháp chính sách quan trọng được thực hiện là việc áp dụng Quyết định 139 năm 2002 nhằm tạo thêm kinh phí cho các dịch y tế người nghèo ở cấp tỉnh. Quỹ Chăm sós sức khoẻ cho Người nghèo (QCSYTNN) đã nhận đủ kinh phí để chi trả cho khoản chi tiêu là 70.000 đồng một người nghèo hưởng lợi hàng năm, với 75% số tiền này được trung ương cung cấp và phần còn lại 25% từ cộng đồng hoặc đóng góp của cá nhân.

Tháng 1/2004, chính phủ đã đưa ra bản đánh giá năm đầu của việc thực hiện

chương trình, đánh dấu những thành tựa quan trọng cũng như những khó khăn gặp phải trong khi thực hiện chương trình. Như là một chỉ số cho sự tiến bộ, tất cả các tỉnh và thành phố trực thuộc chính quyền trung ương đã thiết lập QCSYTNN quỹ chăm sóc y tế cho người nghèo và thành lập Ban Quản lý Quỹ. Gần 37% trong tổng số người hưởng lợi sinh sống ở vùng núi phía bắc. Phần đóng góp của chính phủ cho quỹ QCSYTNN đã được chi trả đầy đủ. Các vấn đề còn tồn tại hiện nay liên quan đến việc các tỉnh thích được trả tiền trực tiếp cho người cung ứng dịch vụ hơn là phải mua các thẻ bảo hiểm y tế. Các vấn đề khác liên quan đến hạn mức kinh phí cho mỗi người thụ hưởng còn chưa đủ, và thiếu sự hỗ trợ tài chính bổ sung cho các cơ sở để tranh trải các chi phí cung cấp dịch vụ cho người nghèo nhưng không được nhà nước chi trả. Những vấn đề khác liên quan đến nhịp độ chậm trong việc xác định những người hưởng lợi và phân bổ một phần lợi ích đến các hộ cận nghèo. Tất cả những vấn đề này cần phải được theo dõi sát sao trong quá trình thực hiện nội dung cải cách quan trọng này.

Uỷ ban Chỉ đạo Quốc gia (NSC) về phòng chống AIDS, Ma tuý và Mại dâm đã được thành lập gần đây bởi Thủ tướng chính phủ nhằm ngăn cản sự lây lan của HIV/AIDS. Một khung chính sách cho HIV/AIDS đang được xây dựng để xác định những nhu cấu cấp thiết, thách thức và cơ hội. Sẽ rất quan trọng khi chương trình hành động phòng chống HIV/AIDS trong tương lai sẽ gắn kết vấn đề HIV/AIDs với các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội khác, tăng cường nhân lực của chính phủ và cam kết tài chính cho HIV/AIDS, và nhân rộng các chương trình thí điểm thành công. Tháng 12 năm 2003, Uỷ ban Chỉ đạo quốc gia đã soạn thảo chiến lược 10 năm về việc làm chậm và ngăn chặn sự lan truyền của HIV/AIDS và đã được thủ tướng chính phủ phê duyệt. Việc xây dựng một loạt các kế hoạch hành động để thực hiện chiến lược là một dấu hiệu quan trọng trong sự nhìn nhận của chính phủ về vấn đề này. Chương trình hành động bao gồm các bước nhằm khôi phục nhân phẩm cho những người mắc bệnh HIV dương tính và giải quyết sự thiếu nhất quán giữa cách tiếp cận của y tế công và cách tiếp cận "tệ nạn xã hội". Trước đây, cách nhìn nhận như vậy làm chậm lại sự phát triển các hoạt động truyền thông hiệu quả với các nhóm khó tiếp cận nhưng có nguy cơ bị lây nhiễm. Phổ biến thông tin, cung cấp dịch vụ chăm sóc thỏa đáng và hợp lý về giá cả cũng là những nội dung chính của chương trình hành động.

24

Đất đai, Nước và Môi trường

Luật đất đai mới được thông qua vào cuối năm 2003, tạo điều kiện tiếp cận đất cho tất cả các nghành, giải quyết vấn đề sở hữu đất đai, thừa nhận các thông lệ sử dụng đất của cộng đồng và xây dựng một hệ thống hành chính đất đai thống nhất. Mặc dù một số vấn đề cụ thể sẽ phụ thuộc vào các nghị định, thông tư và quyết định thực hiện đang được xây dựng, tuy vậy bản thân việc ban hành Luật Đất đai mới là một bước đi quan trọng.

Luật đất đai quy định tất cả các giấy chứng nhận sử dụng đất đai phải có cả tên vợ

và chồng nhằm khắc phục điểm bất hợp lý trong văn bản trước. Luật cũng mở rộng sang các lĩnh vực như cho thuê lại đất đai, sử dụng giấy chứng nhận sử dụng đất làm vốn đóng góp trong các liên doanh. Luật cũng quy định rằng việc định giá đất làm cơ sở cho hoạt động thu thuế, đăng ký hoặc trả bồi thường phải sát với mức giá trên thị trường. Các nhà đầu tư hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài vẫn cần phải có Giấy chứng nhận Sử dụng đất đai thông qua việc thuê đất của nhà nước. Tuy nhiên, những nhà đầu tư trả toàn bộ cả gói tiền thuê đất trước được phép cho thuế lại, chuyển nhượng hoặc bán Giấy chứng nhận sử dụng đất trong thời hạn thuê. Do vậy, việc trả tiền thuê đất đai cả gói cho phép người sử dụng đất đai là người nước ngoài được hưởng quyền lợi giống như người sử dụng đất đai trong nước. Việc phát hành Giấy chứng nhận sử dụng đất đai đã được phân cấp cho chính quyền tỉnh và huyện. Một hệ thống các cơ quan địa chính thống nhất sẽ được thiết lập. Ngoài ra, các cơ chế giải quyết tranh chấp đất đai minh bạch hơn sẽ được ban hành, trong đó Tòa án nhân dân sẽ có vai trò lớn hơn.

Qúa trình cấp đất cho người dân địa phương và cộng đồng địa phương cần phải

được củng cố. Nhiều người nghèo phụ thuộc vào cao nguyên, bao gồm đất lâm nghiệp, làm phương tiện sinh kế. Về điểm này, chính phủ đã ban hàng nghị quyết 28/NQ/TW về việc tăng cường củng cố lại các Lâm trường Quốc doanh (LTQD). Nghị quyết này thúc đẩy việc giao đất đai không sử dụng hết và rừng hiện do LTQD quản lý cho dân cư địa phương, cộng đồng địa phương hoặc doanh nghiệp tư nhân. Hơn nữa, Luật Phát triển và Bảo vệ Rừng sửa đổi, được đệ trình Quốc hội tháng 5/2004, tạo khuôn khổ chung tiến tới việc xây dựng một nền lâm nghiệp xã hội hóa hơn và dựa trên cộng đồng nhiều hơn. Lần đầu tiên, luật công nhận quyền sử dụng rừng của các hộ gia đình, cộng đồng và các ngành khác cũng như quyền sở hữu của họ đối với rừng trồng. Luật cũng đề suất gắn giá trị kinh tế đối với mỗi khu vực sản xuất rừng làm cơ sở cho việc phân bổ hoặc cho thuê cho các nhà quản lý rừng. Đồng thời, các bên liên quan chính cũng đã bắt đầu qúa trình tham vấn nhằm sửa đổi Chiến lược Phát triển ngành Lâm nghiệp. Điều này sẽ tạo ra tác động tích cực không chỉ đối với công tác giảm nghèo mà còn đối với sự phát triển bền vững rừng, đất, nước và môi trường trên khu vực cao nguyên.

Trong lĩnh vực thuỷ lợi, một hành động chính sách quan trọng được thực hiện

trong năm qua là sự tham gia của người sử dụng vào việc quản lý thủy lợi. Nghị định 143/2003/ND-CP đã chuyển gia quản lý hệ thống thủy lợi quy mô nhỏ và độc lập cũng như hệ thống kênh cấp hai và ba cho hợp tác xã hoặc các nhóm sử dụng nước. Các dịch vụ thuỷ lợi mà gần đây còn do các xí nghiệp thủy nông nhà nước quản lý sẽ phải đap ứng tốt hơn nhu cầu của người dân địa phương. Đã có nhận thức từ lâu rằng chất lượng dịch

25

vụ thuỷ lợi đóng vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động thâm canh và quảng canh nông nghiệp hơn nữa, vốn là những yếu tố chủ chốt đối với sự tăng trưởng nông nghiệp và giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam.

Hoạt động Đánh giá Tác động Môi trường (ĐGTĐMT) về các dự án đầu tư công

đã được giao cho nhiều chính quyền tỉnh đặc biệt tại những khu vực là động lực tăng trưởng kinh tế như Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và Bình Dương. Năng lực ĐGTĐMT của các chính quyền địa phương này đã được tăng cường đáng kể cùng với việc trao quyền hạn đưa ra quyết định đầu tư lớn hơn. Việc sửa đổi quy định hướng dẫn thực hiện Luật Bảo vệ Rừng gần đây đã được đệ trình chính phủ xin phê chuẩn. Những sửa đổi này, dựa trên các cuộc tham vấn được tổ chức năm 2003, nhằm phân cấp trách nhiệm ĐGTĐMT nhiều hơn.

Việc kiểm soát ô nhiễm của các công ty hiện nay đã được đẩy mạnh. Phí "người

gây ô nhiễm phải trả tiền" đối với việc xả nước thải thành phố và công nghiệp được áp dụng theo nghị định 125/2003/TT-LB BTC-BTNMT và thông tư liên bộ 67/2003/ND-CP. Các mức phí này áp dụng cho tất cả các nước thải, không phân biệt loại hình sở hữu của doanh nghiệp. Nghị định 64/2003/QD-TTg yêu cầu các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải nâng cấp công nghệ hoặc chuyển sản xuất đến khu vực cho phép. Các cơ sơ không tuân thủ quy định sẽ bị đóng cửa. Điều không kém phần quan trọng là, nghị định 109/2003/ND-CP ban hành việc bảo tốn và sử dụng vùng đất ướt. Nghị định điều tiết các hoạt động của con người gây hại đến vùng đất ướt trên cơ sở cân nhắc tính bền vững sinh kế của người người nghèo nông dân.

Củng cố quy trình lập kế hoạch

Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện (Chiến lược TT&GNTD ) có thể

được coi là một bước ngoặt quan trọng trong quá trình lập kế hoạch ở Việt Nam. Các kế hoạch và chiến lược trước đây dựa rất nhiều trên quan điểm điều hành một nền kinh tế chỉ huy. Trái lại, Chiến lược TT&GNTD dựa trên việc xác định các mục tiêu phát triển rõ ràng (như Mục tiêu phát triển Việt Nam), sử dụng các bằng chứng thực tế và các cuộc tham vấn nhằm xác định các chính sách phù hợp nhất để đạt được mục tiêu này, gắn nguồn lực cho việc thực hiện những chính sách đó, và thiết lập các cơ chế đánh giá và theo dõi phù hợp. Ý định gắn các nguyên tắc của Chiến lược TT&GNTD vào kế hoạch 5 năm tới (2006-10) đã được tuyên bố tại Báo cáo Tiến độ Chiến lược TT&GNTD tháng 11/2003. Bảng 6 chỉ ra những thay đổi trong chiến lược và các quy trình liên quan.

26

Bảng 6: So sánh phương pháp Kế hoạch 5 năm và cách tiếp cận Chiến lược TT&GNTD

Các bước Kế hoạch 5 năm Chiến lược TT&GNTD

Đánh giá thực trạng

• Dựa trên các báo cáo hành chính của ban ngành

• Không đề cập đến tất cả các khía cạnh liên quan đến đói nghèo và các vấn đề xã hội

• Phụ thuộc vào các nguồn thông tin khác nhau (e.g., PPAs, VLSS).

• Tìm hiểu tất cả các khía cạnh của đói nghèo .

Xác định mục tiêu và điểm trống

• Một số mục tiêu rất tham vọng .

• Các mục tiêu và mục đích không bao gồm tất cả các mục tiêu phát rtiển của Việt Nam, tập trung vào các mục tiêu sản xuất vật chất (sản lượng).

• Mục tiêu và mục đích hiện thực .

• Xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu xã hội và kinh tế phù hợp với các Mục tiêu Phát triển Việt Nam

Ưu tiên hóa hoạt động

• Không được xác định rõ ràng. • Xác định rõ ràng các kế hoạch hành động và chính sách, có ưu tiên thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010.

Sự tham dự của tất cả các bên liên quan

• Không chú ý thỏa đáng đến sự tham gia của cộng đồng, người dân và các tổ chức phi chính phủ

• Với sự tham gia rộng rãi của tất cả các bên liên quan

Bố trí nguồn lực • Không có mối liên kết chặt chẽ với ngân sách .

• Xác định chi phí và bố trí ngân sách phù hợp

Theo dõi & Đánh giá • Hệ thống tự báo cáo, dựa trên đầu vào . • Dựa trên kết quả và tác động và tham gia của tất cả các bên liên quan

Lúc đầu, Chiến lược TT&GNTD chủ yếu được thực hiện ở cấp chính phủ trung ương. Tuy nhiên, Chương trình nghị sự cải cách bao gồm áp dụng cách tiếp cận Chiến lược TT&GNTD ở cấp chính quyền thấp hơn. Hiện tại, đã có các bước đi theo hướng này. Do sự phân cấp ngày càng tăng, nên các nguồn lực từ ngân sách trung ương chỉ chiếm một phần (đôi khi một phần nhỏ) tổng chi tiêu công tại cấp địa phương. Mặc dù, Chiến lược TT&GNTD đặt ra các mục tiêu quốc gia, việc hoạc định chính sách ở cấp tỉnh cần phải tính đến khía cạnh địa phương của sự tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo.

Việc gắn các quy trình hoạt định với các mục tiêu phát triển địa phương vẫn còn

là vấn đề mới đối với nhiều cán bộ đại phương bởi lẽ họ không quen hoàn toàn với ý tưởng xây dựng các mục tiêu phát triển dựa trên bằng chứng và tham vấn, hướng chính sách vào việc đạt được các mục tiêu đó, bố trí đủ nguồn lực và theo dõi kết quả. Tuy nhiên, năm qua, đã có tiến bộ trong việc lồng ghép cách tiếp cân Chiến lược TT&GNTD vào quy trình hoạch định cấp tỉnh. Quy trình bày bao gồm ba nội dung chính: i) tổ chức hội thảo vùng để thảo luận về cách tiếp cận này và tác đọng của nó đối với quy trình lập kế hoạch địa phương và theo ngành; ii) đánh giá đói nghèo trong vùng tập trung vào các khía cạnh cụ thể của đói nghèo tại mỗi vùng; và iii) các nhà tài trợ hỗ trợ 19 tỉnh thí điểm

27

nhằm lồng ghép quy trình Chiến lược TT&GNTD vào hoạt đông lập kế hoạch theo ngành và địa phương.

Một nhân tố hết sức quan trong là, BKT&ĐT đã ban hàng các hướng dẫn xây dựng kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm trên cơ sở lồng ghép cách tiếp cận Chiến lược TT&GNTD .

Quản lý nguồn lực công tốt hơn

Trước xu hướng tăng cường phân cấp và sự phụ thuộc vào thu phí địi phương và chi trả từ túi tiền người dân tăng lên, thì việc phần bổ nguồn lực đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện cung ứng dịch vụ. Đã có kế hoạch xây dựng Khuôn khổ chi tiêu trung hạn (KKCTTH) trong các lĩnh vực có tác động trực tiếp đến giảm nghèo và bảo đảm phát triển đồng đều: như giao dục,y tế, nông nghiệp và giao thông vận tải. KKCTTH là một phần của nỗ lực lớn hơn nhằm cải thiện tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý ngân sách. Điều này dẫn đến sự phối hợp tốt hơn giữa chi tiêu xây dựng cơ bản và chi tiêu thường xuyên dựa trên cách tiếp cận hướng về tương lai. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã được lựa chọn thực hiện thí điểm KKCTTH "thử nghiệm" theo thủ tục giám sát và hệ thống kế toán cải thiện của Bộ Tài chính. Bộ Y tế xẽ là đơn vị tiếp theo thực hiện cơ chế này.

Việc thưc hiện Luật Ngân sách nhà nước sửa đổi có hiệu lực từ năm 2004 là một

trong những nội dung chính của chương trình cải cách quản lý tài chính công. Luật sửa đổi này xác định rõ vai trò của Quốc hội và Hội đồng Nhân dân Tỉnh trong việc phê chuẩn ngân sách, luật cũng đơn giản hóa quy trình thực hiện ngân sách và giao cho Cục Kho Bạc là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm thực hiện ngân sách và phụ trách thông tin quản lý tài chính. Một trở ngại trong việc thực hiện nhiệm vụ này là việc áp dụng các hệ thống kế toán khác nhau cho Vụ Ngân sách nhà nước, Cục Kho bạc và các đơn vị chi tiêu. Qũy ngoài ngân sách, các khoản ODA cho vay và nhiều khoản chi tiêu cấp xãhiện nay chưa được đưa vào ngân sách hoặc chưa được lưa trong hệ thống kế toán chính của Cục Kho bạc. Việc thiếu một hệ thống ngân sách thống nhất và toàn diện đầy đủ tạo khó khăn cho việc theo dõi tổng thu chi và đánh giá việc phân bổ nguồn lực và so sánh kế hoạch với kết quả thực hiện.

Năm ngoái, một bước tiến nhằm thực hiện Luật Ngân sách mới là việc thống nhất

các hệ thống kế toán của Ngân sách nhà nước và Kho bạc nhà nước. Việc thiết kệ Hệ thống Thông tin Quản lý Ngân sách và Kho bạc chung (TABMIS) đã hoàn thành. TABMIS hoạt động dựa trên các nguyên tắc quản lý tài chính công hiện đại, như Mô hình tham khảo Kho bạc Ngân hàng thế giới - Quỹ Tiền tệ Quốc tế. TABMIS sẽ thay thế hệ thống hiện nay đang bị phân mạnh về mặt công nghệ và có các chức năng xung đột và trung lắp. Việc thực hiện TABMIS sẽ cải thiện đáng kể tính thống nhất số liệu tài chính chung, tính minh bạch và hiệu quả kiểm soát tại tẩt cả các cấp chính quyền. Một nghị định cũng đã được ban hành liên quan đến việc thực hiện tiêu chuẩn kế toán được quy định trong Luật Kế toán mới tại các đơn vị chi tiêu có sử dụng nguồn ngân sách nhà nước.

Đã có tiến bộ trong việc tạo cơ sở bảo đảm tuân thủ trách nhiệm giải trình tài chính trong khu vực tư nhân và nhà nước. Nhằm củng cố năng lực giám sát luật pháp về

28

các tài khoản công, một chỉ thị pháp luật đã được ban hành, quy định Kiểm toán Nhà nước Việt Nam phải hoạt động độc lập khỏi cơ quan hành pháp của chính phủ vào báo cáo kết quả kiểm toán trước Quốc hội trên cơ sở thường xuyên. Luật Kiểm toán mới được ban hành theo thông lệ quốc tế. Kể từ đó, 16 tiêu chuẩn kế toán và 27 tiêu chuẩn kiểm toán đã được ban hành.

Một nghị định mới hướng dẫn thực hiện Luật Kế toán cho các hoạt động kinh

doanh và các ngành đã được dự thảo và đệ trình cho chính phủ phê chuẩn. Nghị định này đề cập cụ thể đến việc sử dụng các tiêu chuẩn mới của DNNN. Một nghị định khác quy định hàng nghìn DNNN phải được kiểm toán độc lập bởi các công ty kiểm toán chuyên ngành ngoài Kiểm toán Nhà nước Việt Nam. Nghị định này cũng đề cập đến các vấn đề như sở hữu các công ty kiểm toán, phẩm chất của các kiểm toán viên, luân chuyển kiểm toán viên, hiệp hội kế toán và các chế tài sử phạt.

Xây dựng pháp luật

Chương trình nghị sự cải cách luật pháp dựa trên việc đánh giá kỹ lưỡng nhu cầu luật pháp và chịu tác động bởi nhu cầu điều chỉnh hệ thống pháp luật Việt Nam sao cho phù hợp với các yêu cầu của WTO. Bản dự thảo Chiến lược Xây dựng hệ thống Pháp luật (CLXDHTPL) chắc chắn là một văn bản tham vọng. Tuy nhiên, bảm đảm thực hiện chiến lược này cả về chiều rộng và chiều sâu là một thách thức lớn. Sự minh bạch pháp luật đang được cải thiện với một số lượng các văn bản pháp luật ngày càng tăng được phát hành trên Công Báo. Các sáng kiến thí điểm nhắm ban hành dự thảo pháp luật để lấy ý kiến đóng góp qua mạng Internet đang được tiến hành.

Chương trình nghị sự pháp luật trong phiên họp tháng 5 của Quốc Hội chịu ảnh

hưởng rất nhiều bởi nỗ lực đáp ứng yêu cầu gia nhập WTO của Việt Nam. Về điểm này, một số luật đã được thông qua như Luật các Tổ chức Tín dụng, Luật Phá sản kinh doanh sửa đổi và Luật cạnh tranh được áp dung chung. Ngoài ra, bộ luật dân sự đã được sửa đổi, tạo quyền lực đáng kể cho tòa án cấp huyện. Tuy nhiên, năng lực và cơ chế giám sát yếu kém ở cấp huyện vẫn còn là vấn đề đáng lo ngại.

Một nghị định mới hướng dẫn thi hành Luật Ban hành các Văn bản Pháp quy

(hoặc Luật của Luật) sẽ quy định tính minh bạch pháp luật và tham vấn với tất cả các bên liên quan trong quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật. Nghị định này quy định hình thức sử phạt trong trường hợp không ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong Công báo là văn bản đó sẽ không có hiệu lực. Mặc dù yêu cầu phát hành trên công báo đã được nêu lên trong Luật của Luật, nhưng hệ quả của việc không phát hành trong công báo vẫn chưa được làm rõ.

Cải cách Hành chính công

Chương trình tổng thể về Cải cách hành chính công giai đoạn 2001-2010 là một chương trình chính sách tham vọng nhằm cải tổ dịch vụ công quyền theo hướng đáp ứng nhu cầu nhân dân tốt hơn, minh bạch hơn, hiệu quả hơn và có tính trách nhiệm cao hơn. Công tác lập kế hoạch cho giai đoạn tới của Chương trình Tổng thể về CCHCC giai đoạn

29

2006-2010 cũng là một nội dung quan trọng trong chương trình nghị sự. Kế hoạch hành động chi tiết và có đủ ngân sách hỗ trợ với sự phân công trách nhiệm thực hiện rõ ràng là hết sức quan trọng. Các vấn đề chính liên quan bao gồm, gắn kết chương trình CCHCC với Chiên lược Tăng trưởng và Giảm nghèo toàn diện và kế hoạch 5 năm. Yếu tố quan trọng khác là cần sắp đặt các bước đi, điều phối và gắn kết giữa các kế hoạch hành động khác nhau. Nhằm đạt được mục tiêu này, một hệ thống giám sát và đánh giá cần phải được thiết lập. Hệ thống này cần tập trung mạnh vào tạo ra kết quả, quản lý hiệu quả và kết quả cung ứng dịch vụ công. Việc thiết lập kênh thu thập ý kiến phản hồi của người dân là hết sức quan trọng. Khảo sát qua thẻ thăm dò ý kiến của Công dân mà Bộ Nội vụ đã hỗ trợ thực hiện trong bốn thành phố thí điểm có thể tạo nền tảng cho một cơ chế như vậy.

Việc thông qua cơ chế Một cửa trong phạm vi cả nước là một bước đi quan trọng

trong quá trình cải cách hành chính công. Cơ chế một cửa nhằm tạo ra một điểm đầu mối rõ ràng, dễ tiếp cận và dễ nhận diện cho người dân cần làm thủ tục hành chính, tăng cường minh bạch về mức phí và thủ tục, cải thiện chất lượng dịch vụ và đơn giản hóa thủ tục. Cơ chế một cửa đã trở thành một chính sách quốc gia thông qua việc ban hành Quyết định 181. Cho đến ngày 1/1/2004, cơ chế một cửa đã được thực hiện tại 35 trong tổng số 64 tỉnh thành, 483 trong tổng số 654 huyện và 695 trong tổng số 10,709 xã. Tuy vậy, tốc độ thiết lập cơ chế một cửa ít quan trọng bằng việc bảo đảm chất lượng và thiết kế phù hợp của các cơ chế một cửa đó.

Việc phân cấp cho các đơn vị chi tiêu thông qua Cải cách Khoán chi theo Quyết định 192 và Nghị định 10 đang tiến triển. Các kết quả bước đầu từ các đơn vị chi tiêu thí điểm cho thấy đã tỷ lệ tiết kiệm khá cao thông qua việc giảm biên chế, sử dụng hiệu quả chi tiêu thường xuyên và tái cơ cấu và tăng thu nhập theo Nghị định 10. Tuy nhiên, vẫn còn quá sớm để đánh giá liệu điều này có tạo ra sự cải thiện năng suất thực sự không. Bằng chứng truyền miệng cho thấy chất lượng hành chính không giảm đi. Tuy nhiên, những bằng chứng vững chắc về chất lượng dịch vụ vẫn còn hạn chế. Chương trình Đánh giá Chi tiêu Công mà Bộ Tài chính đang thực hiện hiện nay sẽ làm rõ những vấn đề này.

Đấu tranh chống Tham nhũng

Qúa trình quá dộ thành công tiến đến một nền kinh tế thị trường dựa trên pháp luật đòi hỏi phải củng cố các thể chế và cơ chế giải trình trách nhiệm nhằm giảm khả năng tham nhũng. Hiện tại, hiểu biết về tham nhũng ở Việt Nam chủ yếu dựa trên các bằng chứng truyền miệng. Nhằm củng cố cơ sở phân tích để đổi mới chính sách, gần đây, chính phủ đã tiến hành nghiên cứu đánh giá thực trạng tham nhũng. Kết quả của đánh giá này sẽ phục vụ cho việc sửa đổi Pháp luật chống Tham nhũng.

Chính phủ đã thể hiện ý định nghiêm túc trong việc giải quyết vấn đề tham nhũng thông qua một số biện pháp khác gần đây. Trong số các biện pháp đó có việc thiết lập Ban Thanh tra nhằm thực thi pháp luật và các quy định liên quan đến đầu tư công do Bộ KH-ĐT chủ trì. Một nghị định củng cố quá trình mua sắm công cũng đã được đưa ra. Mua sắm công là một phần quan trọng trong nỗ lực của chính phủ nhằm cải thiện quản lý chi tiêu công. Nghị định này quy định đấu thầu mở là phương pháp mua sắm chủ đạo,

30

quy định tài liệu đầu thầu chuẩn và quy định việc áp dụng hệ thống xét duyệt trúng/trượt để thay thế phương pháp xét thầu theo điểm. Nhằm tăng cường tính minh bạch trong quá trình đấu thầu và mua sắm công, nghị định cũng quy định ban hành Bản tin Đấu thầu được phát hành bằng văn bản và điện tử. Nghị định này cũng củng cố các quy định liên quan đến thanh tra và giải quyết vi phạm.

Khuôn khổ pháp lý chung về đấu thầu và mua sắm công còn thiếu đồng bộ. Pháp

lệnh Đầu thầu hiện đang dự thảo lần thứ 8 hy vọng sẽ giải quyết tình trạng này. Theo kế hoạch, Chính phủ sẽ đệ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét phê chuẩn Pháp lệnh này vào năm 2005. Pháp lệnh cũng sẽ bao gồm các quy định về cơ chế khiếu nại và kiểm toán độc lập.

Hiện Chính phủ đang cân nhắc đưa ra một chiến lược chống tham nhũng mới theo hướng chuyển từ phương pháp sử phạt là chủ yếu sang một phương pháp hệ thống hơn. Rõ ràng, chính phủ đã thể hiện quyết tâm mới trong việc đối phó thách thức này trong quá trình thực hiện cải cách kinh tế xét trên góc độ minh bạch hóa và trách nhiệm giải trình. Tháng 1/2004, Thủ tướng đã chỉ đạo Thanh tra nhà nước đi đầu trong việc thiết kế một chiến lược chống tham nhũng mới. Các yếu tố chủ yếu của sáng kiến này là việc lập dự thảo một pháp lệnh chống tham nhũng mới, việc lập một hệ thống hữu hiệu để theo dõi tài sản của công chức và sửa đổi luật khiếu nại. Hầu hết những thay đổi này dự kiến sẽ đưa ra đến năm 2006.