Upload
others
View
19
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Dự án Danida
Nghiên cứu thuỷ tai do biến đổi khí hậu và xây dựng hệ thống thông tin nhiều bên tham
gia nhằm giảm thiểu tính dễ bị tổn thương ở Bắc Trung Bộ Việt Nam (CPIS)
Mã số . 11-P04-VIE
Tên dự án:
Nghiên cứu thuỷ tai do biến đổi khí hậu và xây dựng hệ thống
thông tin nhiều bên tham gia nhằm giảm thiểu tính dễ bị tổn
thương ở Bắc Trung Bộ Việt Nam (CPIS)
Chủ nhiệm dự án: GS. TS. Phan Văn Tân
Báo cáo WP3:
BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ SỰ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
VÀ CÁC HIỆN TƯỢNG KHÍ HẬU CỰC ĐOAN
TỪ SỐ LIỆU QUAN TRẮC
Người thực hiện:
1
MỤC LỤC
I. DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT ........................................... 2
II. 1. Tổng Quan ......................................................................................... 3
1.1 Bằng chứng về sự biến đổi của các hiện tượng khí hậu cực đoan ......................... 3
1.2 Một số nghiên cứu về BĐKH và ECE khu vực NHQ ............................................ 9
III. 2. Phương pháp nghiên cứu và số liệu .............................................. 12
2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 12
2.2 Nguồn số liệu sử dụng .......................................................................................... 12
2.3 Phương pháp kiểm tra và chất lượng số liệu quan trắc ........................................ 18
2.4 Phương pháp đánh giá .......................................................................................... 22
IV. 3. Kết quả đánh giá ............................................................................. 29
3.1. Sự biến đổi của các yếu tố khí hậu cực đoan ...................................................... 29
3.1.1. Về mức độ và tính chất biến đổi. .................................................................. 29
3.1.2. Về xu thế biến đổi ......................................................................................... 35
3.2 Sự biến đổi của các hiện tượng cực đoan ............................................................. 42
3.2.1 Về mức độ và tính chất biến đổi .................................................................... 42
3.2.2 Về xu thế biến đổi .......................................................................................... 52
V. Tài liệu tham khảo .............................................................................. 56
2
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
Kí hiệu Giải nghĩa
ATNĐ Áp thấp nhiệt đới
BBĐ Bão, áp thấp nhiệt đới hoạt động trên Biển Đông
BĐKH Biến đổi khí hậu
BVN Bão, áp thấp nhiệt đới hoạt động dọc bờ biển hoặc đổ bộ vào Việt Nam
CS Cộng sự (để chỉ các đồng tác giả của một công trình, bài báo,…)
ECE Extreme Climate Events (Yếu tố và hiện tượng khí hậu cực đoan)
ENSO El Nino/Southern Oscillation
IPCC Intergovernmental Panel on Climate Change (Ban Liên chính phủ về
Biến đổi khí hậu)
KHCĐ Khí hậu cực đoan
KKL Không khí lạnh
ML Mưa lớn
NHQ Nghệ An – Hà Tĩnh – Quảng Bình.
NN Nắng nóng
RCM Regional Climate Model (Mô hình khí hậu khu vực)
RĐ Rét đậm
RH Rét hại
RHm Độ ẩm tương cực tiểu, hay độ ẩm tương đối nhỏ nhất
Rx Lượng mưa ngày cực đại, hay lượng mưa ngày lớn nhất
SST Sea Surface Temperature (Nhiệt độ mặt nước biển)
Tm Nhiệt độ cực tiểu, hay nhiệt độ tối thấp, hay nhiệt độ thấp nhất
Tx Nhiệt độ cực đại, hay nhiệt độ tối cao, hay nhiệt độ cao nhất
Vx Tốc độ gió cực đại, hay tốc độ gió lớn nhất
3
Báo cáo khoa học về sự Biến đổi Khí hậu
và các hiện tượng khí hậu cực đoan từ số liệu quan trắc
Người thực hiện:
1. Tổng Quan
1.1 Bằng chứng về sự biến đổi của các hiện tượng khí hậu cực đoan
Trong điều kiện thời tiết khí hậu có những chiều hướng diễn biến ngày càng
phức tạp. Những biến đổi bất thường của thời tiết, khí hậu gây biến đổi các hiện tượng
khí hậu cực đoan như hạn hán, nắng nóng, mưa lớn, bão…đã gây không ít khó khăn,
thậm chí thiệt hại lớn về người và của ở nhiều địa phương. Trong đó Nghệ An – Hà
Tĩnh – Quảng Bình là ba tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, là khu vực chịu ảnh hưởng
nặng nề nhất bởi tất cả các hiện tượng khí hậu cực đoan xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam
như hạn hán, nắng nóng, rét đậm, rét hại, mưa lớn và các cơn bão nhiệt đới.
Các bằng chứng về sự biến đổi của các hiện tượng cực đoan đã được nghiên cứu
khá nhiều dựa trên số liệu quan trắc lịch sử. Theo IPCC (2007), hậu quả của sự nóng
lên toàn cầu là nhiệt độ không khí trung bình toàn cầu đã tăng lên, đặc biệt từ sau năm
1950. Tính trên chuỗi số liệu 19062005 nhiệt độ không khí trung bình toàn cầu tăng
0.74±0.18°C. Các năm 2005 và 1998 là những năm nóng nhất kể từ 1850 đến nay.
Nhiệt độ năm 1998 tăng lên được xem là do hiện tượng El Nino 19971998, nhưng dị
thường nhiệt độ lớn nhất lại xảy ra vào năm 2005.
Xét trên qui mô toàn cầu, số ngày đông giá giảm đi ở hầu khắp các vùng vĩ độ
trung bình, số ngày cực nóng (10% số ngày hoặc đêm nóng nhất) tăng lên và số ngày
cực lạnh (10% số ngày hoặc đêm lạnh nhất) giảm đi. Nhiều bằng chứng đã chứng tỏ
tần suất và thời gian hoạt động của sóng nóng tăng lên ở nhiều địa phương khác nhau,
nhất là thời kỳ đầu của nửa cuối thế kỷ 20. Tồn tại sự tương quan chặt chẽ giữa những
ngày khô hạn và nền nhiệt độ mùa hè cao trên các vùng lục địa nhiệt đới. Các sự kiện
mưa lớn tăng lên ở nhiều vùng lục địa từ khoảng sau 1950, thậm chí ở cả những nơi có
tổng lượng mưa giảm. Người ta đã quan trắc thấy những trận mưa kỷ lục hiếm thấy (1
lần trong 50 năm). Hiện tượng ENSO và tính dao động thập kỷ được cho là nguyên
nhân gây nên sự biến động trong số lượng xoáy thuận nhiệt đới, dẫn đến sự phân bố lại
4
số lượng và quĩ đạo của chúng. Chẳng hạn, trong thời kỳ 19952005 (11 năm) có 9
năm trong đó số lượng bão ở Bắc Đại Tây dương đã vượt quá chuẩn (so với thời kỳ
19812000). Hạn hán nặng hơn và kéo dài hơn đã được quan trắc thấy trên nhiều vùng
khác nhau với phạm vi rộng lớn hơn, đặc biệt ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới từ
sau những năm 1970. Nền nhiệt độ cao và giáng thủy giảm trên các vùng lục địa là một
trong những nguyên nhân của hiện tượng này.
Mặc dù rất khó khăn để đánh giá sự biến đổi và xu thế của những cực trị khí
hậu, Kattenberg và CS (1996) [18] đã kết luận rằng xu thế ấm lên sẽ dẫn đến làm tăng
những hiện tượng liên quan đến nhiệt độ cao trong thời kỳ mùa hè và làm giảm những
hiện tượng liên quan đến nhiệt độ thấp trong những ngày mùa đông. Tuy nhiên, sự tăng
lên của các cực trị nhiệt độ là khác nhau đối với từng khu vực. Bonsal và CS (2001) [8]
đã phân tích sự biến đổi theo không gian và thời gian của nhiệt độ cực trị ở Canada
trong thời kỳ 1950-1998 và thấy rằng có sự khác biệt lớn giữa các khu vực và theo
mùa. Những khác biệt theo mùa trong biến đổi của cực trị nhiệt độ cho thấy trong 105
năm (1897-2001) nhiệt độ không khí bề mặt của trạm quan trắc quốc gia Athens thể
hiện xu thế tăng những năm ấm hơn trong đó thời kỳ mùa hè và mùa xuân thì ấm lên
nhiều hơn so với thời kỳ mùa đông (Founda, 2004) [15]. Tần suất xuất hiện của những
ngày nóng và những ngày lạnh cũng có xu hướng biến đổi khác nhau. Manton và CS
(2001) [20] đã chỉ ra rằng có sự tăng lên đáng kể của những ngày nóng và đêm ấm và
giảm đi đáng kể của những ngày lạnh và đêm lạnh kể từ năm 1961 trên khu vực Nam
Á và Nam Thái Bình Dương. Tuy nhiên, những phân tích về xu thế của các hiện tượng
thời tiết cực nóng hoặc cực lạnh trong thế kỷ 20 ở Hoa Kỳ lại cho thấy không có sự
biến đổi đáng kể cả về tần suất hoặc cường độ (Kunkel, 1999; Nasrallah, 2004). Zhai
và Pan (2003) [19], [33] đã nghiên cứu sự biến đổi về tần suất của những hiện tượng
nhiệt độ cực trị ở Trung Quốc dựa trên số liệu nhiệt độ không khí bề mặt ngày của
khoảng 200 trạm quan trắc trong thời kỳ 1951-1999, kết quả cho thấy số ngày nóng
(trên 35oC) có xu thế giảm nhẹ, trong khi đó số ngày sương giá (dưới 0
oC) có sự giảm
đáng kể. Tần số của những ngày và đêm ấm tăng lên và tần số của những ngày và đêm
mát giảm đi ở Trung Quốc. Từ việc phân tích các chuỗi nhiệt độ ngày dài nhất có thể
có ở Châu Âu và Trung Quốc, Yan và CS (2002) [32] đã xác định được ba giai đoạn
biến đổi của cực trị nhiệt độ, đó là: giảm những cực trị ấm trước những năm cuối của
thế kỷ 19, giảm những cực trị lạnh sau đó và tăng những cực trị ấm kể từ những năm
1960. Phân tích số liệu nhiệt độ trung bình và cực trị trung bình trong ngày, Toreti A.
5
và Desiato F. (2008) [29] đã sử dụng số liệu từ 49 trạm quan trắc ở Italia trong giai
đoạn 1961-2004. Kết quả cho thấy, xu thế âm xảy ra trong thời kỳ từ 1961-1981;
ngược lại, xu thế dương xảy ra rõ rệt trong thời kỳ 1981-2004, còn biên độ nhiệt độ
trung bình ngày thì tăng lên trong toàn bộ thời kỳ. Để phân tích những biến đổi theo
không gian và thời gian của nhiệt độ trung bình và cực trị ngày, Bulygina O. N. và CS
(2007) [11] đã sử dụng số liệu nhiệt độ ngày từ trên 530 trạm ở Nga trong thời gian từ
năm 1951-2005. Nghiên cứu cho thấy, tổng số ngày trong từng mùa có nhiệt độ cực đại
cao hơn phân vị thứ 95 đã tăng lên, còn số ngày có nhiệt độ cực tiểu nhỏ hơn phân vị
thứ 5 đã giảm trên hầu hết các vùng của Nga. Số ngày có nhiệt độ cao dị thường cũng
có xu thế giảm. Nhưng ở một số vùng riêng biệt, số ngày có biên độ dao động nhiệt độ
ngày lớn lại có xu thế tăng lên.
Khi nghiên cứu khí hậu, yếu tố được tập trung nghiên cứu nhiều sau nhiệt độ là
giáng thủy hoặc lượng mưa. Giáng thủy là một đại lượng rất quan trọng vì sự biến đổi
của những hình thế giáng thủy có thể dẫn đến lũ lụt hoặc hạn hán ở những vùng khác
nhau. Chính vì vậy, thông tin về sự biến đổi giáng thủy theo không gian cũng như theo
thời gian là rất cần thiết không chỉ mang ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn
rất lớn. Trên thế giới, những nghiên cứu này được thực hiện với nhiều thời kỳ khác
nhau và với các qui mô không gian khác nhau: qui mô toàn cầu (Diaz, 1989), [12] qui
mô bán cầu (Bradley, 1987) [9] , qui mô khu vực (Schoenwiese, 1990, 1994; Piervitali
và CS, 1998) [23],[24] và qui mô địa phương (Busuioc và von Storch, 1996;
Baeriswyl, 1997) [23]. Schoenwiese và CS (1994) [23], và Schoenwiese và Rapp
(1997) [25] đã đưa ra một nghiên cứu khái quát về sự biến đổi mùa của xu thế giáng
thủy ở một số nước Châu Âu trong thời kỳ 1961-1990 và 1891-1990. Từ năm 1961-
1990 là xu thế tăng lên của giáng thủy vào mùa xuân ở phía bắc nước Ý và xu thế giảm
vào mùa thu ở phía nam Châu Âu, trong khi đó đối với thời kỳ 1891-1990 lại quan trắc
được một xu thế khí hậu khô hơn ở một vài vùng trên khu vực Địa Trung Hải. Nghiên
cứu của Piervitali và CS (1998) [21] cho thấy một xu thế giảm lượng giáng thủy năm ở
vùng trung tâm của phía tây Địa Trung Hải trong thời kỳ 1951-1995. Một vài nghiên
cứu về sự biến đổi dài hạn của lượng giáng thủy năm trung bình ở phía tây bắc Trung
Quốc (Shi và CS, 2003) [26] và lượng giáng thủy mùa hè (tháng 6, 7 và 8) ở vùng phía
đông Trung Quốc được thực hiện trong những năm gần đây (Weng và CS, 1999; Gong
và Ho, 2002) [30]. Những nghiên cứu này đã cho thấy sự tồn tại của biến đổi thập kỷ
của giáng thủy và chỉ ra một số cơ chế liên quan tới sự biến đổi của hoàn lưu qui mô
6
lớn trong hệ thống gió mùa mùa hè Đông Á (Fu và CS, 2004; Huang và CS, 2004; Li
và CS, 2004; Wang và CS, 2004; Yang và Lau, 2004). [16] Sự biến đổi của hoàn lưu
qui mô lớn có thể ảnh hưởng tới hoạt động của đối lưu do đó qui định cường độ và tần
suất của những hiện tượng mưa. Theo Qian và Lin (2005) [22], xu thế giảm về cường
độ và tần suất giáng thủy thể hiện từ vùng đông bắc Trung Quốc đến vùng phía bắc
Trung Quốc và vùng thượng lưu của thung lũng sông Dương Tử, tuy nhiên xu thế tăng
lên ở vùng Xinjiang và Đông Nam Trung Quốc. Các hình thế giáng thủy khu vực này
gây ra chủ yếu bởi các hình thế không gian của những hệ thống hoàn lưu qui mô lớn ở
qui mô thời gian từ mùa đến năm.
Sử dụng các chuỗi số liệu quan trắc Easterling D.R. và CS (2000) [13] đã phân
tích và phát hiện những cực đoan của nhiệt độ, lượng mưa, hiện tượng hán hán, bão và
xoáy thuận nhiệt đới ở các vùng khác nhau thuộc lãnh thổ Hoa Kỳ thông qua việc khảo
sát các chỉ số khí hậu cực đoan. Còn Thomas R. Karl và CS (1996) [28] lại đưa ra
những kết quả định lượng hóa sự biến đổi khí hậu ở Hoa Kỳ thông qua việc xây dựng
và phân tích hai chỉ số biến đổi khí hậu, chỉ số cực đoan khí hậu (CEI Climate
Extremes Index) và chỉ số phản ứng lại khí hậu nhà kính ở Hoa kỳ (GCRI U.S.
Greenhouse Climate Response Index). Chỉ số CEI dựa trên việc kết hợp các chỉ số cực
đoan khí hậu thông thường, còn chỉ số GCRI được tạo ra từ các chỉ số đo sự biến đổi
của khí hậu Hoa Kỳ được dự đoán sẽ xuất hiện do sự tăng lượng phát thải khí nhà kính.
Chỉ số CEI cho thấy khí hậu Hoa Kỳ trở nên cực đoan hơn trong những thập kỷ gần
đây. Các tác giả cho rằng chưa đủ bằng chứng để nói rằng cường độ và độ kéo dài của
các hiện tượng cực đoan không tăng lên. Nếu các tác động do các hiện tượng cực đoan
tăng theo các chỉ số theo qui luật hàm mũ, thì việc cảm nhận sự tăng lên của các hiện
tượng cực đoan là hoàn toàn đáng kể. Sự tăng lên của GCRI trong thế kỷ 20 là phù hợp
với dấu hiệu nhận thấy của sự biến đổi các hiện tượng này do tăng hiệu ứng nhà kính.
Xu thế của chuỗi số liệu nhiệt độ và lượng mưa cực trị thời kỳ 19611998 cho khu vực
Đông Nam Á và Nam Thái Bình dương đã được Manton M. J. và CS (2001) [20] phân
tích, đánh giá. Việc chọn số liệu giai đoạn 38 năm này là để tối ưu hóa số liệu sẵn có
giữa các vùng trong khu vực. Sử dụng số liệu chất lượng tốt từ 91 trạm của 15 nước,
các tác giả đã phát hiện được sự tăng đáng kể của số ngày nóng và đêm ấm trong năm,
và sự giảm đáng kể số ngày lạnh và đêm lạnh trong năm. Những xu thế này trong chuỗi
nhiệt độ cực trị là khá ổn định trong khu vực. Số ngày mưa (với ít nhất 2mm/ngày)
giảm đáng kể trên toàn Đông Nam Á và tây và trung tâm Nam Thái Bình dương,
7
nhưng tăng ở phía bắc quần đảo Polynesia thuộc Pháp ở Fiji, và ở một vài trạm thuộc
Australia.
Ở qui mô khu vực và địa phương, hầu hết các công trình nghiên cứu tập trung
phân tích xu thế biến đổi của các đặc trưng cực trị khí hậu trong phạm vi quốc gia hoặc
vùng lãnh thổ trong mối quan hệ với biến đổi khí hậu toàn cầu. Nguồn số liệu được sử
dụng cũng rất đa dạng, từ các số liệu quan trắc hàng ngày (Xu Ying và CS, 2009) [31]
hoặc từng 6 giờ một (Hu Yichang và CS, 2009) [17] được phân tích về lưới điều hòa
kinh-vĩ, hoặc số liệu quan trắc trên mạng lưới trạm khí tượn. Khi nghiên cứu sự biến
đổi của các hiện tượng khí hậu cực đoan, ngoài các nguồn số liệu địa phương được
khai thác từ mạng lưới trạm quan trắc, các tập số liệu phân tích và tái phân tích về nhiệt
độ mặt nước biển (SST) và các trường khí quyển thường được sử dụng.
Một số công trình nghiên cứu về các yếu tố và hiện tượng khí hậu cực trị sử
dụng chuỗi số liệu quan trắc trong quá khứ được thực hiện cho các nước Đông Nam Á
trong đó có Việt Nam. Manton và CS (2001) [20] đã xem xét xu thế giáng thủy ngày
cực đại từ năm 1961 đến năm 1998 cho khu vực Đông Nam Á và nam Thái Bình
Dương. Kết quả cho thấy số ngày mưa (ngày có lượng mưa từ 2mm trở lên) nhìn
chung giảm đáng kể ở khu vực Đông Nam Á. Phân tích số liệu giáng thủy ngày ở các
nước khu vực Đông Nam Á trong thời kỳ từ 1950 đến 2000, Endo và CS (2009) [14]
đã chỉ ra rằng số ngày ẩm ướt (ngày có giáng thủy trên 1mm) có xu thế giảm ở hầu hết
các nước này, trong khi đó cường độ giáng thủy trung bình của những ngày ẩm ướt lại
có xu thế tăng lên. Mưa lớn tăng lên ở phía nam Việt Nam, phía bắc Myanma và ở đảo
Visayas và Luzon của Philipin trong khi đó lại giảm ở phía bắc Việt Nam. Số ngày khô
liên tiếp cực đại năm có xu thế giảm ở những khu vực bị ảnh hưởng bởi giáng thủy
trong thời kỳ gió mùa mùa đông. Sự giảm hiện tượng mưa trong thời kỳ mùa khô cũng
được tìm thấy ở Myanma.
Riêng trên lãnh thổ Việt Nam, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nhiệt độ trung
bình trong 50 năm qua (1958-2008) đã tăng lên từ 0,5 đến 0,70C và nhiệt độ trong mùa
đông có xu thế tăng nhanh hơn trong mùa hè (Nguyễn Đức Ngữ, 2008, 2009) [3], [4].
Phân tích số ngày nắng nóng trong từng thời kỳ trên lãnh thổ Việt Nam, Nguyễn Đức
Ngữ (2009) cho rằng, số ngày nắng nóng trong thập kỷ 1991-2000 nhiều hơn so với
các thập kỷ trước, đặc biệt ở Trung Bộ và Nam Bộ. Phân tích các trung tâm khí áp ảnh
hưởng đến Việt Nam để giải thích sự tăng lên của nhiệt độ trung bình trên một số trạm
8
đặc trưng trong thời kỳ 1961-2000, Nguyễn Viết Lành (2007) [6] cho rằng, nhiệt độ
trung bình trong thời kỳ này đã tăng lên từ 0,4-0,60C, nhưng xu thế tăng rõ rệt nhất xảy
ra trong thập kỷ cuối và trong mùa đông, đặc biệt là trong tháng 1, mà nguyên nhân là
do sự mạnh lên của áp cao Thái Bình Dương trong thời kỳ này.
Đinh Văn Ưu và CS (2005) [1] đã nghiên cứu “Biến động mùa và nhiều năm
của trường nhiệt độ nước mặt biển và sự hoạt động của bão tại khu vực Biển Đông”.
Kết quả cho thấy có sự biến động đáng kể của trường nhiệt độ nước mặt biển và hoạt
động của bão nhiệt đới trên khu vực Biển Đông trong những thập niên gần đây. Thông
qua việc tính các chỉ số khí hậu có thể thấy khi hiện tượng El Nino hoạt động mạnh thì
sự hoạt động của bão nhiệt đới trên toàn khu vực giảm. Trong thời kỳ này sự biến động
của trường nhiệt độ nước mặt biển và hoàn lưu trên Biển Đông là đáng kể. Cũng theo
tác giả Đinh Văn Ưu (2009) [2] “Đánh giá quy luật biến động dài hạn và xu thế biến
đổi số lượng bão và áp thấp nhiệt đới trên khu vực Tây Thái Bình Dương, Biển Đông
và ven biển Việt Nam” cho thấy số lượng trung bình năm của bão và siêu bão dao động
theo các chu kỳ dài từ hai năm đến nhiều chục năm. Trong năm thập niên gần đây, số
lượng bão ảnh hưởng trực tiếp đến ven bờ Vịnh Bắc Bộ giảm, trong khi ở Nam Trung
Bộ và Nam Bộ lại gia tăng. Tác giả Nguyễn Văn Tuyên (2007) [5] cũng đã nghiên cứu
“Xu hướng hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới trên Tây Bắc Thái Bình Dương và Biển
Đông theo các cách phân loại khác nhau”. Sự phân bố của bão được nghiên cứu trong
đó bão được phân loại theo vùng ảnh hưởng và theo cường độ rồi phân tích xu hướng
hoạt động. Kết quả phân tích cho thấy, trong thời kỳ 1951-2006, hoạt động của bão
trên khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương có xu hướng giảm về số lượng, trong đó số
cơn bão yếu và trung bình có xu hướng giảm, còn số cơn bão mạnh lại có xu hướng
tăng lên. Trên khu vực Biển Đông, những cơn bão vào Biển Đông nhưng không vào
vùng ven biển và đất liền nước ta lại có xu hướng tăng về số lượng. Bão có xu hướng
tăng lên ở hai vùng Trung Bộ và Nam Bộ nhưng ở vùng Bắc Bộ lại có xu hướng giảm.
Cường độ bão có xu hướng giảm, trong đó các cơn bão yếu có xu hướng giảm rõ rệt
nhất.
Từ các nghiên cứu được chỉ ra trên đây, có thể thấy biến đổi khí hậu đang có
những diễn biến hết sức phức tạp, nhất là đối với các yếu tố, hiện tượng khí hậu cực
đoan. Xét trên quy mô toàn cầu cũng như địa phương, bên cạnh sự tăng lên của nhiệt
độ trung bình, hầu hết các ECE có xu thế tăng lên cả về tần suất và cương độ. Ngoài ra,
xu thế dịch chuyển về mùa cũng có những diễn biến hết sức phức tạp. Khu vực NHQ
9
nằm ở khu vực Bắc Trung Bộ, là nơi chịu ảnh hưởng của nhiều hiện tượng khí hậu cực
đoan như hạn hán, nắng nóng, rét đậm, rét hại, mưa lớn và các cơn bão nhiệt đới thì
việc nghiên cứu chi tiết biến đổi khí hậu và các hiện tượng khí hậu cực đoan ở NHQ là
hết sức cần thiết và có ý nghĩa
1.2 Một số nghiên cứu về BĐKH và ECE khu vực NHQ
Đối với một số tỉnh vùng Bắc Trung Bộ như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
ngoài xu thế ấm lên toàn cầu, bên cạnh sự biến đổi của nhiệt độ trung bình thì nhiệt độ
cực trị cũng có những biến đổi phức tạp. Trong nghiên cứu của mình, Phan Văn Tân và
CS (2010) [7] với nội dung “Nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu đến
các yếu tố và hiện tượng khí hậu cực đoan ở Việt Nam, khả năng dự báo và giải pháp
chiến lược ứng phó”. Kết quả cho thấy có sự biến đổi của các yếu tố, hiện tượng khí
hậu cực đoan ở các vùng khí hậu trên toàn lãnh thổ Việt Nam, tuy nhiên sự biến đổi
của các yếu tố và hiện tượng cực đoan là khác nhau đối với từng vùng, từng thời kỳ và
từng mùa. Trong đó, sự biến đổi của các yếu tố và hiện tượng khí hậu cực đoan của
một số trạm nằm trong các tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh – Quảng Bình thuộc vùng Bắc
Trung Bộ được nghiên cứu trong dự án như sau:
Biến đổi về giá trị Tx cực đại từ mỗi thời kỳ 10 năm này sang thời kỳ 10 năm
khác trong toàn thời kỳ 1961 – 2007 của một số trạm điển hình cho thấy thấy xu thế
biến đổi của nhiệt độ giữa các thập kỷ. Trạm Vinh đại diện cho khu vực Bắc Trung Bộ
có sự biến đổi mạnh của nhiệt độ cực đại Tx vào các tháng mùa đông trong giai đoạn
2001- 2007 so với giai đoạn trước (1991 – 2000). Vào những năm El Nino mạnh,
chuẩn sai của Tx tháng 7 thường dương, chuẩn sai âm hoặc dương nhỏ thường xảy ra
vào năm La Nina. Xu thế biến đổi của Tx theo thời gian của khu vực Bắc Trung Bộ
nhỏ mặc dù nhiệt độ cực đại khu vực này là cao nhất so với các vùng khí hậu khác trên
lãnh thổ Việt Nam. Cùng với sự biến động của nhiệt độ cực đại Tx, số ngày nắng nóng
trong các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình cũng biến đổi mạnh mẽ, đây là khu vực
xảy ra nắng nóng nhiều nhất cả nước và có sự biến động mạnh của tổng số ngày nắng
nóng trung bình năm, đặc biệt là các trạm như Đồng Hới, Hà Tĩnh, Vinh có sự biến
động mạnh khoảng từ 12 cho đến 14 ngày. Mức độ biến động mạnh nhất của tổng số
ngày nắng nóng trung bình năm tại các vùng khí hậu thường xảy ra ở các vùng có
nhiểu nắng nóng và các vùng có ít nắng nóng độ biến động ít hơn. Ở trạm Tương
Dương của tỉnh Nghệ An đặc trưng cho vùng Bắc Trung Bộ, số ngày nắng nóng trung
10
bình năm trong từng thập kỷ tăng dần từ thập kỷ 1961 – 70 tới nay. Xu thế biến đổi
nắng nóng trong vùng Bắc Trung Bộ rất đặc biệt, thời kỳ 1961 – 1990 và 1991 – 2007
hầu như gần trùng hoàn toàn với đường xu thế của cả thời kỳ, tất cả các thời kỳ đều có
xu hướng tăng nhưng không lớn.
Yếu tố được tập tập trung nghiên cứu nhiều sau nhiệt độ là giáng thủy hoặc
lượng mưa, giáng thủy là một đại lượng rất quan trọng vì sự biến đổi của những hình
thế giáng thủy có thể dẫn đến lũ lụt hoặc hạn hán ở những vùng khác nhau. Do vậy
thông tin về sự biến đổi giáng thủy theo không gian cũng như theo thời gian là rất cần
thiết không chỉ mang ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Vùng khí
hậu Bắc Trung Bộ có đặc trưng số ngày mưa lớn, lượng mưa ngày lớn nhất là tương
đối cao, đặc biệt là trạm Vinh thuộc tỉnh Nghệ An. Trạm Tương Dương có sự tăng
mạnh nhất của lượng mưa ngày cực đại trong vùng khí hậu Bắc Trung Bộ. Sự tăng
giảm của lượng mưa ở vùng Bắc Trung Bộ chủ yếu xảy ra vào mùa mưa khu vực này
là thời kỳ tháng 10. Xu thế của lượng mưa ngày cực đại qua từng thời kỳ cho thấy
trong thời kỳ từ 1961 -2007 vùng Bắc Trung Bộ có xu thế tăng mạnh. Ở vùng khí hậu
Bắc Trung Bộ có mùa mưa chậm hơn, thường bắt đầu vào thời kỳ đầu mùa đông nên
các ngày mưa lớn thường xảy ra vào tháng 9 – 11. Ở các trạm Hà Tĩnh, Vinh, Đồng
Hới đều có xu thế giảm số ngày mưa lớn ở cả hai ngưỡng (R≥25mm và R≥50mm) trên
cả thời kỳ 1961- 2007.
Việc thiếu hụt lượng mưa và nhiệt độ tăng trong một khoảng thời gian dài là
nguyên nhân chính dẫn tới hiện tượng hạn hán, nó được xem là một trong số các hiện
tượng khí hậu cực đoan và được các nhà khoa học nghiên cứu rất nhiều trên thế giới.
Các tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh – Quảng Bình thuộc vùng khí hậu Bắc Trung Bộ là những
nơi diễn ra hạn hán tương đối nghiêm trọng, tần suất hạn khá cao trong các tháng mùa
hè, nhất là tháng VI, VII. Ngoài nguyên nhân thiếu hụt lượng mưa, ở đây còn chịu ảnh
hưởng của hiện tượng gió Lào gây ra thời tiết khô và nóng góp phần làm tăng mức độ
của hạn hán. Trạm Đồng Hới (Quảng Bình) là một trong những trạm có tần suất xuất
hiện hạn lớn. Hai trạm Vinh và Đồng Hới được lựa chọn để phân tích tiêu biểu cho
vùng Bắc Trung Bộ. Hạn xuất hiện ở trạm Vinh chỉ khoảng 3 tháng/năm trong khi ở
trạm Đồng Hới là 5 tháng/năm. Xu thế biến đổi qua các thập kỷ ở các trạm thuộc các
tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh – Quảng Bình, nhìn chung có xu thế tăng trong cả thời kỳ
1961 – 2007, và tăng mạnh ở giai đoạn cuối 2000 – 2007.
11
Bên cạnh những nghiên cứu về sự biến đổi của nhiệt độ cực trị và lượng mưa,
một vài nghiên cứu cho các yếu tố khác như gió cũng được quan tâm. Hoàn lưu và địa
hình là hai nhân tố cơ bản quyết định chế độ gió trên khu vực. Đối với Việt Nam, gió
mùa là cơ chế hoàn lưu chủ yếu chi phối chế độ gió ở các vùng. Tốc độ gió lớn nhất
(Vx) thường do các nguyên nhân như xoáy thuận nhiệt đới, lốc, tố, vòi rồng, gió địa
hình, gió mùa đông bắc, gió Lào…Vì thế tốc độ gió lớn nhất cũng có thể được xem
như một hiện tượng cực đoan. Nó đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống
của mỗi chúng ta. Trong điều kiện khí hậu toàn cầu đang biến đổi, tốc độ gió lớn nhất
cũng có thể sẽ biến đổi. Khi xem xét xu thế biến đổi của gió cực đại qua các thập kỷ,
nhận thấy các trạm vùng Bắc Trung Bộ xu thế giảm trong toàn thời kỳ nhưng trong
thời kỳ 1961 – 1990, tốc độ gió giảm nhanh hơn rất nhiều so với thời kỳ 1991 – 2007,
thậm chí trong thời kỳ cuối này, tốc dộ gió còn có xu thế tăng theo thời gian. Theo thời
gian, xu thế giảm lớn nhất xảy ra trong mùa hè và nhỏ nhất trong mùa đông.
Hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ), bão là một trong những vấn đề
được quan tâm trên thế giới trong vài thập kỷ gần đây. Sự biến đổi về các mặt như tần
suất, cường độ, vị trí hình thành, kéo theo nhiều ảnh hưởng tới các hoạt động kinh tế xã
hội. Hàng năm, trung bình có khoảng 6 cơn bão đổ bộ vào vùng biển Việt Nam. Nhìn
chung bão tại trên bờ biển Thanh – Nghệ - Tĩnh không những nhiều mà còn biến động
rõ rệt theo thời gian, đây là vùng biển có lượng bão lớn thứ 2, với tổng số là 85 cơn
trong đó bão mạnh cấp 12 trở lên chiếm 26 cơn. Nếu xét cả thời kỳ (1945 – 2007), ta
nhận thấy số lượng bão hoạt động tại vùng biển Thanh – Nghệ - Tĩnh, Bình – Trị -
Thiên có xu thế tăng. Nếu xét từng giai đoạn nhỏ, xu thế hoạt động của bão cũng thay
đổi. Trong giai đoạn 1971 – 2007, tại vùng biển Thanh – Nghệ - Tĩnh số lượng bão có
xu thế giảm nhẹ, Bình - Trị - Thiên số lượng bão có xu thế tăng. Nếu xét trong giai
đoạn 1991 – 2007, vùng Bình - Trị - Thiên số lượng bão có xu thế tăng, còn vùng
Thanh – Nghệ - Tĩnh có xu thế giảm mạnh theo thời gian.
Rét đậm là một trong những loại hình thời tiết rất đặc trưng trong mùa đông ở
hầu khắp các khu vực phía Bắc trên lãnh thổ Việt Nam. Rét đậm xảy ra nhiều nhất vào
tháng 1, tháng 2 và tháng 12 với hầu hết các vùng khí hậu miền Bắc. Vùng Bắc Trung
Bộ rét đậm xảy ra nhiều nhất vào tháng 1, sau đó là tháng 2 và tháng 12. Nếu xét cả
thời kỳ 1961 – 2007, nhận thấy số ngày rét đậm có xu thế giảm. Xét từng giai đoạn nhỏ
1961 – 1990, số ngày rét đậm có xu thế biến đổi không đáng kể, giai đoạn 1991 –
2007, có xu thế giảm mạnh.
12
Những nghiên cứu trên đây cho thấy rất nhiều hiện tượng thời tiết, khí hậu cực
đoan có thể sẽ xảy ra ở hầu hết các khu vực, ngay cả khi khí hậu không biến đổi, do đó
khó có thể qui cho một hiện tượng riêng biệt nào đó gây nên bởi sự biến đổi khí hậu. Ở
hầu hết các khu vực, chuỗi số liệu quan trắc phổ biến chỉ dao động trong khoảng 150
năm, vì thế thông tin rất hạn chế để đặc tả những sự kiện khí hậu cực đoan đã xảy ra
như thế nào. Hơn nữa, thông thường cần phải có sự kết hợp của một vài nhân tố để tạo
ra hiện tượng cực đoan, do đó việc liên kết một sự kiện cực đoan cụ thể với một
nguyên nhân cụ thể, đơn lẻ là vấn đề cần giải quyết. Trong nghiên cứu này, với các số
liệu quan trắc thu thập được ở các trạm trong khu vực NHQ, nghiên cứu này dựa trên
các đặc trưng thống kê sẽ đánh giá mức độ biến đổi của các ECE trong quá khứ.
2. Phương pháp nghiên cứu và số liệu
2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trung Bộ là khu vực có khí hậu khắc nghiệt nhất Việt Nam, trong đó các tỉnh
Nghệ An – Hà Tĩnh – Quảng Bình là nơi thường xuyên diễn ra các hiện tượng khí hậu
cực đoan như nắng nóng, hạn hán, rét đậm, bão, áp thấp nhiệt đới, Trong khuôn khổ dự
án này, phạm vi không gian nghiên cứu của báo cáo sẽ bao gồm các tỉnh Nghệ An – Hà
Tĩnh – Quảng Bình. Các yếu tố Tx, Tm, Vx, Rx, RHm và các hiện tượng RĐ, NN, ML
sẽ được xem xét trên các trạm khí tượng của ba tỉnh nói trên. Đối với hiện tượng bão,
không gian nghiên cứu là vùng Biển Đông được giới hạn bởi các kinh tuyến 100 E và
120 E và nằm trong miền từ 0 – 23 N, trong đó để xem xét đến bão ảnh hưởng đến
các tỉnh NHQ từ bão đổ bộ vào các tỉnh từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên Huế.
2.2 Nguồn số liệu sử dụng
Việc nghiên cứu ECE và sự biến đổi của nó dưới tác động của BĐKH toàn cầu
đã được rất nhiều tác giả đề cập đến. Nguồn số liệu được sử dụng cho các mục đích
này cũng rất đa dạng. Tùy thuộc vào từng bài toán cụ thể, mỗi tác giả có những cách
khai thác các nguồn số liệu khác nhau. Chẳng hạn, Xu Ying và CS (2009) [31], đã xây
dựng các bộ số liệu nhiệt độ trung bình, cực đại và cực tiểu ngày trên lưới 0.5ox0.5
o từ
số liệu quan trắc của 751 trạm trên lãnh thổ Trung Quốc cho mục đích đánh giá kết quả
mô phỏng của các RCM. Xong Lianchun và CS (2007) [27] đã sử dụng trực tiếp số
liệu quan trắc hàng ngày trên 720 trạm khí tượng Trung Quốc để nghiên cứu sự biến
đổi trong biến trình năm nhiệt độ và lượng mưa giai đoạn 1971-2000. Trong khi đó Hu
13
Yichang và CS (2009) [17] lại sử dụng chuỗi số liệu quan trắc từng 6h một trên 740
trạm khí tượng Trung Quốc giai đoạn 1951-2005 để đánh giá sự biến đổi của nhiệt độ
cực trị. Nói chung, khi nghiên cứu về bằng chứng của sự biến đổi trong các yếu tố và
hiện tượng khí hậu, nguồn số liệu quan trắc hàng ngày thường được sử dụng.
Số liệu quan trắc từ mạng lưới trạm khí tượng Việt Nam
Có hai loại số liệu quan trắc có thể thu thập và khai thác là số liệu hàng tháng và
số liệu hàng ngày. Số liệu hàng tháng ở đây chủ yếu là nhiệt độ trung bình tháng và
tổng lượng mưa tháng. Hầu hết, loại số liệu này được lấy từ khi thành lập trạm nên độ
dài các chuỗi của nhiều trạm khá dài. Số liệu hàng ngày được lấy cho thời kỳ 1961-
2012, bao gồm các yếu tố và hiện tượng: Ttb, Tx, Tm, BH, R, Vx, U13, Um. Phạm vi
nghiên cứu NHQ là ba tỉnh vùng Bắc Trung Bộ bao gồm Nghệ An – Hà Tĩnh – Quảng
Bình, do vậy số liệu được khai thác tại những trạm của ba tỉnh nói trên sao cho độ dài
chuỗi số liệu tương đối đồng nhất. Mặt khác, do tính chất phân bố mạng lưới trạm từ
trước đến nay bao hàm cả sự phân bố hành chính theo đơn vị tỉnh, nên trong quá trình
lựa chọn các trạm, ngoài việc chú trọng đến tính đại diện cho qui luật khí hậu còn chú
ý đến vị trí địa lý hành chính. Ngoài ra, do độ dài chuỗi thời gian khác nhau với các
nhóm trạm, trong đó 7 trạm chính có số liệu trong giai đoạn 1961-2012, Các trạm phụ
chỉ có đối với Tx và Tm trong giai đoạn 2000-2012. Do vậy khi đánh giá cho khu vực
NHQ, các trạm chính sẽ được nghiên cứu, xem xét. Dựa trên nguyên tắc đó, danh sách
trạm được lựa chọn trình bày trong bảng 2.1 và độ dài chuỗi số liệu trạm được cho trên
hình 2.2. Riêng với yếu tố mưa, trong nghiên cứu này đã khai thác 29 trạm mưa nhân
dân và trạm đo mưa Thuỷ Văn. Do độ dài chuỗi số liệu không đồng nhất và đầy đủ,
trong nghiên cứu này chỉ xem xét đến các trạm có chuỗi thời gian tối thiểu 25 năm.
Danh sách các trạm đo mưa Thuỷ văn được cho trong bảng 2.2. Mạng lưới các trạm
khí tượng và trạm đo mưa trên hình 2.1 bao gồm 7 trạm khí tượng và 29 trạm đo mưa.
Hình 2.1 Mạng lưới trạm khí tượng và trạm đo mưa được khai thác số liệu
14
Bảng 2.1 Danh sách mạng lưới trạm khí tượng được khai thác số liệu
TT Tên trạm Kinh độ Vĩ độ Độ cao(m)
Các trạm chính
1 DONGHOI 106.600 17.483 7.0
2 HATINH 105.900 18.350 3.0
3 HUONGKHE 105.717 18.183 17.0
4 KYANH 106.283 18.083 3.0
5 TUONGDUONG 104.433 19.283 97.0
6 TUYENHOA 106.017 17.883 25.0
7 VINH 105.700 18.667 6.0
Các trạm phụ
8 BADON 106.417 17.750 8.0
9 CONCUONG 104.883 19.050 32.0
10 DOLUONG 105.300 18.900 14.0
11 HONNGU 105.767 18.800 113.0
12 HUONGSON 105.433 18.517 11.0
13 QUYCHAU 105.117 19.567 87.0
14 QUYHOP 105.150 19.317 88.0
15
15 QUYNHLUU 105.633 19.167 3.0
16 TAYHIEU 105.400 19.317 72.0
Bảng 2.2 Danh sách mạng lưới trạm đo mưa Thuỷ Văn được khai thác số liệu
TT Tên trạm Kinh độ Vĩ độ TT Tên trạm Kinh độ Vĩ độ
1 CAMXUYEN 106.017 18.233 16 LINHCAM 105.55 18.533
2 CHOTRANG 105.633 18.583 17 MAIHOA 106.017 17.65
3 CHULE 105.7 18.233 18 MINHHOA 106.033 17.783
4 CUAHOI 105.75 18.767 19 MUONGXEN 104.133 19.4
5 DAILOC 105.73
18.45 20 NAMDAN 105.483 18.7
6 DODAO 105.583
18.867 21 NT32 105.283 19.367
7 DODIEM 105.867
18.417
22 QUANHANH 105.633 18.783
8 DONGHIEU 105.5
19.3 23 SONDIEM 105.383 18.5
9 DONGTAM 106.1
17.833 24 TANGTHANH 105.467 19
10 DUA 105.017
19 25 THACHGIAM 104.45 19.267
11 HOADUYET 105.6 18.383
26 THACMUOI 105.183 18.85
12 HOANGMAI 105.63
19.283 27 THANHMAI 105.367 18.633
13 KHEBO 104.667 19.167 28 TROC 106.283 17.233
14 KIENGIANG 106.75 17.1 29 VIETTRUNG 106.517 17.483
15 LETHUY 106.73 17.233
16
Hình 2.2 Độ dài chuỗi số liệu trạm được khai thác
Số liệu bão, ATNĐ
Hiện nay nguồn số liệu về XTNĐ nói chung, bão và ATNĐ nói riêng có thể
khai thác từ nhiều cơ sở lưu trữ khác nhau. Tuy nhiên, khó khăn lớn khi khai thác các
bộ dữ liệu này là sự không đồng nhất về nhiều mặt của chúng. Vì nhiều lí do khác
nhau, như sự phát triển của kỹ thuật quan trắc qua các thời kì, phương pháp xử lí, tích
hợp các loại số liệu,... dẫn đến sự khác biệt đáng kể về chất lượng và độ chính xác của
chúng. Ở Việt Nam hiện cũng có một số nguồn lưu trữ khác nhau, như ở Viện Khoa
học Khí tượng Thủy văn và Môi trường, Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung
ương, và một số nguồn khác từ các cá nhân. Mặc dù vậy, sau khi xem xét, đánh giá sơ
bộ, cũng không thể khẳng định được về chất lượng của chúng. Bởi vậy, để đảm bảo
mức độ chi tiết, tính thống nhất và độ dài của chuỗi số liệu, trong khuôn khổ dự án, bộ
số liệu “quĩ đạo phân tích” (Best Track) từ website weather.unisys.com/hurricane sẽ
được lựa chọn. Đây là bộ số liệu về XTNĐ nói chung, kể cả các tâm khí áp thấp
(Tropical Depression - TD) đến các siêu bão, gồm tọa độ tâm (kinh độ, vĩ độ), khí áp
cực tiểu (mb), tốc độ gió cực đại, cường độ bão được phân cấp theo thang Saffir-
Simpson, được cho từng 6h một, từ 1945 đến nay, và được cập nhật thường xuyên. Để
dễ tiếp cận và xem xét theo phân cấp bão ở Việt Nam, căn cứ vào tốc độ gió cực đại
được cho, toàn bộ chuỗi số liệu đã được chuyển về thang phân cấp bão theo cấp gió
Beaufort dựa trên thông tin về tốc độ gió cực đại tính bằng km/h (Vmax, km/h):
• Vmax 61 km/h: ATNĐ
• 61 km/h < Vmax 74 km/h: Bão có gió mạnh cấp 8 (TY8)
• 74 km/h < Vmax 88 km/h: Bão có gió mạnh cấp 9 (TY9)
-5
0
5
10
15
20
25
30
35
1960 1965 1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2005 2010
Số
lư
ợn
g t
rạm
Năm
T2m,Tx,Tm Um,U13,Vx,BH P
17
• 88 km/h < Vmax 102 km/h: Bão có gió mạnh cấp 10 (TY10)
• 102 km/h < Vmax 117 km/h: Bão có gió mạnh cấp 11 (TY11)
• 117 km/h < Vmax 133 km/h: Bão có gió mạnh cấp 12 (TY12)
• 133 km/h < Vmax 149 km/h: Bão có gió mạnh cấp 13 (TY13)
• 149 km/h < Vmax 166 km/h: Bão có gió mạnh cấp 14 (TY14)
• 166 km/h < Vmax 183 km/h: Bão có gió mạnh cấp 15 (TY15)
• 183 km/h < Vmax 211 km/h: Bão có gió mạnh cấp 16 (TY16)
• Vmax > 211 km/h: Bão có gió mạnh cấp 17 (TY17)
Trong báo cáo này khu bực nghiên cứu về BVN là vùng biển tiếp giáp với ba
tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh – Quảng Bình. Cụ thể là 2 vùng biển:
Thanh – Nghệ - Tĩnh (19.830N – 17.95
0N),
Bình – Trị - Thiên (17.950N – 16.20
0N).
Hình 2.3. Phân vùng ảnh hưởng của bão khu vực biển Việt Nam
18
2.3 Phương pháp kiểm tra và chất lượng số liệu quan trắc
Trong mọi trường hợp, số lượng (dung lượng mẫu) và chất lượng số liệu quan
trắc, đặc biệt là những quan trắc tại trạm, có vai trò quyết định đối với kết quả nghiên
cứu, tính toán và nhận định. Vì nhiều lí do khác nhau, nói chung các tập số liệu quan
trắc đều tiềm ẩn các dạng sai số. Những giá trị quan trắc bất hợp lý nếu không được
kiểm soát sẽ tác động đến những kết quả tính toán, phân tích và có thể dẫn đến những
kết luận vô nghĩa. Bởi vậy, trước khi sử dụng các tập số liệu này cần thiết phải tiến
hành kiểm tra, đánh giá và xử lí những trường hợp nghi ngờ. Vì vậy trong nghiên cứu
này sẽ thực hiện ba kiểm tra chất lượng sau:
• Kiểm tra khí hậu so sánh quan trắc với giá trị khí hậu. Kiểm tra này cũng thực
hiện phần việc của kiểm tra vật lý do các giá trị ngưỡng được xác định dựa theo
giá trị khí hậu riêng cho từng trạm.
• Kiểm tra phù hợp xác định tương thích về mặt vật lý giữa hai hay nhiều đại
lượng.
• Kiểm tra không gian so sánh giá trị quan trắc với giá trị quan trắc từ các trạm
xung quanh.
Kiểm tra khí hậu dựa trên đặc điểm khí hậu tại một khu vực xác định thông tin
quan trắc có hợp lý hay không. Ví dụ nếu trong tháng bảy, ta nhận được một quan trắc
nhiệt độ tối cao 20C tại Hà Nội thì nhiều khả năng đây là một quan trắc sai bởi vào
mùa hè, nhiệt độ tối cao thông thường tại Hà Nội vào khoảng 35C với sai số 4-5C.
Kiểm tra này có độ tin cậy cao với các biến số như nhiệt độ hay độ ẩm nhưng cần thận
trọng khi sử dụng cho mưa bởi một quan trắc mưa lớn hơn rất nhiều giá trị khí hậu
hoàn toàn có khả năng xuất hiện.
Thông thường, để xác định trung bình khí hậu và độ lệch chuẩn, ta có thể sử
dụng các công thức thường dùng trong thống kê. Các công thức này có nhược điểm
nếu xuất hiện một số hạng bất thường trong tập mẫu thống kê, giá trị trung bình và độ
lệch chuẩn thống kê sẽ bị sai lệch hoàn toàn (ví dụ trong chuỗi nhiệt độ tháng bảy có số
hạng 1000C). Do đó, người ta thường dùng các đại lượng khác như Median và MAD
để thay thế cho giá trị trung bình và độ lệch chuẩn khi xác định các đặc trưng thống kê.
Trong dự án này, chúng tôi sử dụng phương pháp trung bình và độ lệch chuẩn hai trọng
số của Lanzante (1996). Phương pháp này đã được một số tác giả sử dụng như Gleason
(2002), Feng và nnk (2004). Trình bày dưới đây chủ yếu dựa theo Feng và CS (2004).
19
Theo phương pháp hai trọng số, các phần tử tập trung quanh tâm của phân bố sẽ
có trọng số lớn hơn so với các phần tử bất thường nằm ngoài trung tâm khi tính toán
giá trị trung bình và độ lệch chuẩn. Trọng số sẽ giảm dần đến 0 khi vượt quá một
ngưỡng nào đó. Giả sử ta có một chuỗi các quan trắc Xi gồm n phần tử, có thể chứa các
số hạng bất thường. Trọng số ui cho mỗi phần tử Xi được tính như sau :
(2.3.1)
với M, MAD là Median và MAD xác định từ chuỗi Xi, c là hằng số cho biết ngưỡng
loại bỏ các số hạng bất thường. Khi ui có giá trị tuyệt đối lớn hơn 1, nó sẽ được gán
bằng 1, bảo đảm ui chỉ nằm trong khoảng [-1,1]. Điều này hoàn toàn được quyết định
bởi giá trị của c và c được lấy bằng 7.5 theo Lanzante (1996). Giá trị trung bình và độ
lệch chuẩn của chuỗi Xi bây giờ được xác định như sau:
(2.3.2)
(2.3.3)
nghĩa là (1-ui2) đóng vai trò trọng số thay vì ui. Đây là một đánh giá tốt của giá trị trung
bình và độ lệch chuẩn, không chịu tác động của các số hạng bất thường nếu xuất hiện
trong chuỗi thống kê. Từ đây, với mỗi giá trị quan trắc Xo để kiểm tra chất lượng dựa
trên thông tin khí hậu, ta xác định chỉ số Z như sau:
(2.3.4)
Cách xác định Z như vậy cho thấy phương pháp Lanzante được sử dụng tốt nhất
khi Xi có phân bố chuẩn như các yếu tố nhiệt độ và độ ẩm. Theo Feng và CS (2004),
những quan trắc ứng với Z > 5 sẽ bị xem là bất thường và cần được đánh dấu nghi ngờ
về mặt khí hậu. Có thể sử dụng tiêu chuẩn chặt hơn như Z > 3 hay Z > 4 nhưng theo
kinh nghiệm thực tế những tiêu chuẩn này thường loại bỏ một số các quan trắc đúng.
Ngoài ra, không cần thiết phải kiểm tra quá chặt ở bước kiểm tra khí hậu bởi những
quan trắc sai nếu có thể qua được bước kiểm tra này còn phải qua bước kiểm tra không
gian.
MAD
c
MXu
i
i
n
i
i
n
i
ii
bi
u
uMX
MX
1
22
1
22
)1(
)1)((
n
i
ii
n
i
ii
bi
uu
uMXn
S
1
22
5.0
1
422
)51)(1(
)1()(
bi
bi
s
XXZ
0
20
Thay vì xác định giá trị trung bình và độ lệch chuẩn cho từng tháng, nghiên cứu
này sẽ xác định riêng cho từng ngày với mỗi trạm. Chuỗi Xi sẽ được thiết lập bằng cách
sử dụng mười ngày số liệu quan trắc xung quanh ngày đang tính và mở rộng sang cho
mọi năm có thể. Ví dụ với ngày N của năm 2009, ngoài quan trắc X(N) ta đưa thêm vào
chuỗi Xi các quan trắc X(N-1), …, X(N-5) và X(N+1), …, X(N+5), sau đó tiếp tục mở
rộng chuỗi với quan trắc từ ngày N-5 đến N+5 của năm 2008, 2007, … cho đến khi
không còn số liệu quan trắc. Bằng cách này ta sẽ có được một chuỗi đủ dài cho phép
xác định giá trị khí hậu của một biến nào đó vào một ngày nhất định trong năm.
Kiểm tra khí hậu được áp dụng như đã mô tả ở trên cho các biến nhiệt độ và độ
ẩm. Với mưa, kiểm tra khí hậu được kết hợp với kiểm tra vật lý. Nếu lượng mưa ngày
lớn hơn 1000mm quan trắc này sẽ bị loại bỏ. Nếu lượng mưa nhỏ hơn 1000mm nhưng
Z > 5, quan trắc bị đánh dấu nghi ngờ nhưng không bị loại bỏ mà cần được thực hiện
thêm các kiểm tra khác. Các quan trắc sau khi đã qua được khâu kiểm tra khí hậu và
vật lý như trên sẽ tiếp tục trải qua khâu kiểm tra phù hợp. Hệ thống thực hiện các kiểm
tra phù hợp sau:
• Nhiệt độ Tm < T < Tx
• Độ ẩm RHm < RH
Nếu vi phạm các yêu cầu trên, quan trắc với yếu tố tương ứng sẽ bị loại bỏ.
Cuối cùng, quan trắc ứng với mỗi yếu tố khí tượng sẽ được kiểm tra không gian theo
phương pháp của Hubbard (2001). Kiểm tra không gian so sánh quan trắc tại trạm với
quan trắc từ các trạm xung quanh nhằm phát hiện những bất thường có thể với số liệu
đang xét. Như vậy, nguồn thông tin kiểm tra không gian dựa vào bao gồm cả các quan
trắc xung quanh sẽ không loại trừ trường hợp có những quan trắc sai trong số các quan
trắc này. Kiểm tra không gian hoạt động dựa trên giả thiết các quan trắc bất hợp lý
xung quanh, nếu xuất hiện, chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ và quan trắc đang xét phải phù hợp
với các quan trắc xung quanh. Định lượng sự phù hợp giữa các quan trắc này được
thực hiện qua một số công cụ thống kê sẽ trình bày dưới đây dựa theo Feng và CS
(2004).
Không gian các trạm xung quanh được xác định phụ thuộc vào yếu tố đang xét.
Ngoại trừ áp suất, các trạm có thể đưa vào danh sách các trạm xung quanh điểm trạm
đang xét cần nằm trong đường tròn với bán kính 2 quanh điểm này. Bây giờ với các
trạm nằm trong đường tròn đang xét, ta xác định hệ số tương quan R giữa trạm đang
xét với các trạm xung quanh dựa trên tập số liệu quan trắc quá khứ của Nd ngày, ngay
21
trước ngày đang xét. Trong dự án này, Nd được lấy bằng 30 (tương đương một tháng).
Một trạm sẽ được xem là có tương quan với trạm đang xét nếu R >= 0.5 và tương quan
có độ tin cậy trên 95%. Tập hợp các trạm này được xác định là các trạm xung quanh
của trạm đang xét.
Các trạm này sau đó được sắp xếp theo thứ tự giảm dần của R và xây dựng
phương trình hồi quy tuyến tính xác định quan trắc tại trạm đang xét từ quan trắc của
mỗi trạm xung quanh. Cần chú ý rằng các quan trắc sử dụng xây dựng phương trình
hồi quy đã được kiểm tra khí hậu và kiểm tra phù hợp nhằm hạn chế các số liệu quá bất
thường ảnh hưởng xấu đến phương trình hồi quy. Số phương trình hồi quy sau đó sẽ
được giới hạn lại bởi N = 5 phương trình, nếu có nhiều hơn năm phương trình hồi quy.
Giả sử quan trắc tại trạm đang khảo sát có giá trị X0. Mỗi phương trình sẽ cho ta đánh
giá X0j với sai số RMSEj tại điểm trạm đang xét từ quan trắc Xj của trạm xung quanh.
Từ đây ta sẽ xác định được khoảng tin cậy của X0 theo mỗi trạm xung quanh [X0j -
F×RMSEj, X0j+F×RMSEj] với F là tham số giới hạn tin cậy. Nếu X0 rơi ra ngoài
khoảng tin cậy với tất cả N khoảng tin cậy thu nhận được, quan trắc X0 sẽ bị loại bỏ.
Trong kiểm tra này, F được lấy bằng 5 với mưa, bằng 3 với các biến còn lại.
Có thể thấy phương pháp xử lý của kiểm tra không gian khá linh hoạt. Bằng
cách sử dụng quan hệ thống kê qua hồi quy tuyến tính và xét tác động đồng thời của tất
cả các trạm xung quanh, ngay cả khi xuất hiện những quan trắc bất hợp lý từ các trạm
xung quanh, kiểm tra không gian vẫn có thể loại bỏ những quan trắc sai. Đây là một
điểm mạnh của kiểm tra không gian mà các kiểm tra trước đó không có. Hơn nữa,
phương pháp của Hubbart (2001) còn cho phép đánh giá tối ưu quan trắc tại trạm đang
xét (khôi phục dữ liệu) từ các trạm xung quanh trong trường hợp trạm này bị mất dữ
liệu. Công thức đánh giá dựa trên lý thuyết bình phương tối thiểu có dạng đơn giản như
sau:
(2.3.5)
RMSEe= (2.3.6)
Dựa theo hai công thức này, cũng có thể đưa ra khoảng tin cậy như trên và chỉ
cần xét một khoảng tin cậy thay vì N khoảng như trên. Do đặc điểm của kiểm tra
không gian không thể thực hiện độc lập riêng tại từng trạm mà phải có một số lượng
N
j
j
N
j
jjeRMSERMSEXX
1
2
1
2
0
1
N
j
jRMSE
1
2
22
nhất định quan trắc từ các trạm xung quanh tồn tại đồng thời với quan trắc đang khảo
sát.
2.4 Phương pháp đánh giá
Đánh giá mức độ, tính chất và xu thế biến đổi của ECE
Vấn đề nghiên cứu đánh giá BĐKH có thể được chia thành hai lớp bài toán: 1)
Nghiên cứu khảo sát những dấu hiệu, bằng chứng của sự BĐKH trong quá khứ và hiện
tại; và 2) Dự tính sự biến đổi của khí hậu trong tương lai cho đến vài thập kỷ hoặc đến
hết thế kỷ.
Để thực hiện lớp bài toán thứ nhất người ta thường căn cứ vào các chuỗi số liệu
quan trắc lịch sử, khảo sát tính chất, mức độ và xu thế biến đổi của các yếu tố và hiện
tượng khí hậu. Đối với lớp bài toán thứ hai, dựa trên cơ sở các kịch bản phát thải khí
nhà kính, người ta tiến hành xây dựng và chạy các GCM mà sản phẩm của chúng sẽ
được đưa ra phân tích xử lý trực tiếp hoặc được sử dụng làm đầu vào cho các mô hình
thống kê hoặc mô hình động lực để hạ thấp qui mô về các vùng và địa phương cần
quan tâm.
Đối với lớp bài toán thứ nhất thông thường trình tự các bước thực hiện như sau:
1) Lập các chuỗi số liệu khí hậu. Chuỗi số liệu khí hậu là nguồn thông tin duy
nhất mà từ đó tiến hành thống kê tính toán và nhận định phán đoán. Thông thường các
thành phần của chuỗi cách nhau một năm, nên số lượng các năm quan trắc càng nhiều
thì dung lượng mẫu càng lớn, kết quả tính toán sẽ càng đảm bảo độ ổn định thống kê.
Ngoài độ dài chuỗi, chất lượng số liệu là một trong những yếu tố quyết định đến kết
quả tính toán, phân tích. Do đó, sau khi đã thu thập số liệu, các chuỗi cần phải được
tiến hành xử lý để loại bỏ những yếu tố ngoài mong muốn, như sai số quan trắc, tính
bất đồng nhất chuỗi,…
Nói chung trong các chuỗi số liệu luôn tiềm ẩn ba loại sai số quan trắc: sai số hệ
thống, sai số ngẫu nhiên và sai số thô. Sai số hệ thống gây nên bởi rất nhiều nguyên
nhân khác nhau, mỗi nguyên nhân mang một dáng vẻ. Đây là loại sai số rất khó phát
hiện nếu không có sự khảo sát tỷ mỷ. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, khi số liệu
được khai thác từ các nguồn chính thống người ta giả thiết rằng các sai số hệ thống đã
được kiểm tra và loại bỏ. Sai số ngẫu nhiên gây nên bởi một lượng vô cùng lớn các
nguyên nhân mà ảnh hưởng của mỗi một trong chúng bé đến mức ta không thể phân
23
định nổi mức đóng góp của từng nguyên nhân, chúng luôn luôn tồn tại trong mọi chuỗi
số liệu quan trắc. Do đó việc loại bỏ sai số ngẫu nhiên thường là không thực hiện được.
Sai số thô sinh ra chủ yếu bởi những thao tác nhầm lẫn, sơ suất trong quá trình đo đạc
hoặc lấy mẫu. Trong nhiều trường hợp những giá trị có chứa sai số thô rất khó phát
hiện do chúng bị ẩn dấu trên nền chuỗi số liệu. Sai số trong số liệu đo mưa là một ví
dụ. Mặc dù vậy, việc xác định và loại bỏ sai số thô vẫn có thể thực hiện.
2) Xác định các đặc trưng yếu tố và phương pháp tính toán. Trên cơ sở mục tiêu
đặt ra và khả năng đáp ứng của nguồn số liệu cũng như loại yếu tố, hiện tượng cần
nghiên cứu, đưa ra được các phương pháp, công thức, thuật toán sẽ được áp dụng.
3) Thực hiện các bước tính toán, xử lý. Bước này có thể được tiến hành bằng
nhiều cách khác nhau tùy thuộc kỹ năng của người nghiên cứu. Nói chung người ta
thường chọn biện pháp lập trình để có thể dễ dàng chuyển đổi giữa các phương án khác
nhau.
3) Phân tích kết quả. Đây là bước quan trọng nhất. Có thể nói các bước trên đây
là quá trình tạo “nguyên liệu” để thực hiện bước này. Trên cơ sở những đặc trưng nhận
được, người nghiên cứu cần phải xem xét, suy luận, phán đoán để tìm ra được cái gì đó
liên quan đến bản chất của hiện tượng mà mình đang quan tâm.
Trong phạm vi báo cáo, để làm rõ tính chất, mức độ biến đổi của các ECE ở
Việt Nam, trên cơ sở các tập số liệu quan trắc, các đặc trưng thống kê sau đây sẽ được
sử dụng:
1) Giá trị và thời điểm xuất hiện (ngày, tháng, năm) cực trị yếu tố khí hậu cực
đoan
2) Các đại lượng trung bình số học, độ lệch chuẩn, cực đại tuyệt đối, cực tiểu
tuyệt đối, hệ số biến thiên của các chuỗi số liệu nhiều năm của từng tháng và năm
(2.4.1)
(2.4.2)
(2.4.3)
n
t
tx
nx
1
1
n
t
txxx
ns
1
2)(
1
x
sC
x
v
24
3) Các phân vị:
(2.4.4)
Hay
(2.4.5)
Trong các công thức (2.4.1)-(2.4.5) là chuỗi thời gian số liệu các
yếu tố hoặc hiên tượng cực trị, tương ứng là trung bình số học, độ lệch
chuẩn, hệ số biến thiên và phân vị thứ p (thường tính theo %) của .
Các đặc trưng trên có thể được xác định cho từng yếu tố hoặc hiện tượng, theo
từng trạm quan trắc trên từng vùng khí hậu và có thể xét cho toàn chuỗi hoặc từng bộ
phận của chuỗi, ví dụ từng thập kỷ hoặc nửa thập kỷ.
Các yếu tố hoặc hiện tượng khí hậu cực trị có thể được xác định từng khoảng
thời gian là một tháng, một mùa hoặc một năm từ số liệu quan trắc hàng ngày. Và do
đó, các thành phần kế cận trong chuỗi thời gian thường cách nhau một năm.
Việc phân tích xu thế biến đổi có thể tiến hành theo các cách sau đây:
1) Xây dựng phương trình hồi qui tuyến tính của các yếu tố và sự kiện cực trị
theo thời gian:
x = a0 + a1t (2.4.6)
Trong đó:
(2.4.7)
(2.4.8)
Với tương ứng là trung bình số học và độ lệch chuẩn của x và t, và
hệ số tương quan tuyến tính giữa x và t.
Xu thế tăng, giảm của x theo t được đánh giá trên cơ sở xét dấu và độ lớn của hệ
số góc a1. Độ tin cậy của xu thế có thể được đánh giá thông qua kiểm nghiệm Fisher.
2) Kiểm nghiệm Mann – Kendall
})(|{ pxXPXxpp
})(|{ pxFXxpp
},...,1,{ ntxt
pvxxCsx ,,,
},...,1,{ ntxt
taxa10
t
x
s
sra
1
rsstxtx,,,,
25
Kiểm nghiệm Mann-Kendall là kiểm nghiệm phi tham số để xác định xu thế của
chuỗi số liệu sắp xếp trình tự theo thời gian (gọi tắt là chuỗi thời gian). Việc kiểm
nghiệm là so sánh độ lớn tương đối của các thành phần trong tập mẫu chứ không phải
xét chính giá trị của các thành phần mẫu. Nói cách khác, các thành phần trong chuỗi
thời gian được so sánh với nhau theo thứ hạng lớn bé và không tính đến giá trị của
chúng sai khác nhau bao nhiêu. Lợi thế của kiểm nghiệm này là không cần biết tập
mẫu tuân theo luật phân bố nào. Sau đây sẽ mô tả phương pháp kiểm nghiệm.
Giả sử ta có chuỗi thời gian {xt, t=1..n}. Mỗi một thành phần trong chuỗi sẽ
được so sánh với tất cả các thành phần còn lại đứng sau nó (về thời gian). Giá trị thống
kê Mann – Kendall (S) ban đầu được gán bằng 0 (tức là chuỗi không có xu thế). Nếu
thành phần sau lớn hơn thành phần trước thì tăng S lên 1 đơn vị. Ngược lại nếu thành
phần sau nhỏ hơn thành phần trước thì S bị trừ đi 1 đơn vị. Nếu hai thành phần có giá
trị bằng nhau thì S sẽ không thay đổi. Tổng S sau tất cả các lần so sánh sẽ được dùng
để đánh giá xu thế chung của chuỗi. Tức là ta có:
(2.4.9)
trong đó:
(2.4.10)
Giá trị tuyệt đối của S càng lớn xu thế càng rõ. S dương thể hiện xu thế tăng của
chuỗi và S âm thể hiện xu thế giảm của chuỗi.
Để kiểm nghiệm xu thế của chuỗi, ta đặt giả thiết H0: S = 0 (chuỗi không có xu
thế). Với xác suất phạm sai lầm loại một bằng , khi H0 đúng ta có P(S > S) = .
Thay cho S ta tính đại lượng thống kê , được gọi là hệ số tương quan Mann-Kendall:
(2.4.11)
1
1 1
)(
n
k
n
kj
kjxxsignS
01
00
01
)(
kj
kj
kj
kj
xxkhi
xxkhi
xxkhi
xxsign
0)(
1
00
0)(
1
SkhiSVar
S
Skhi
SkhiSVar
S
26
trong đó Var(S) là phương sai của S, được tính bởi:
(2.3.12)
trong đó n là dung lượng mẫu, g là số nhóm trong đó mỗi nhóm là một tập con
có cùng giá trị, và tp là số thành phần trong nhóm p. Ví dụ, ta có tập mẫu {2, 3, non-
detect, 3, non-detect, 3}, khi đó n=6, g =2, t1=2, t2=3.
Từ đó ta có P( > ) = . Biến đã được chứng minh là có phân bố chuẩn
chuẩn hóa nên khi cho trước giá trị ta dễ dàng xác định được . Và kết luận kiểm
nghiệm sẽ là:
Nếu || > z: Bác bỏ giả thiết H0, tức là chuỗi có xu thế
Nếu || < z: Chấp nhận giả thiết H0, tức là chuỗi không có có xu thế
Trong tính toán thực hành, khi đã tính được ta hoàn toàn xác định được xác
suất P(T>||) từ phân bố chuẩn chuẩn hóa:
(2.4.13)
Từ đó với độ tin cậy p=1- chọn trước nào đó:
Nếu 2P(T>||) < p ta kết luận chuỗi có xu thế, ngược lại nếu 2P(T>||) > p thì
chuỗi không có xu thế (với độ tin cậy p hay với mức ý nghĩa ).
3) Kiểm nghiệm Spearman
Kiểm nghiệm Spearman cũng là dạng kiểm nghiệm phi tham số mà nội dung
của nó là kiểm nghiệm độ rõ rệt của hệ số tương quan Spearman (hay hệ số tương quan
hạng) giữa hai chuỗi số liệu.
Ký hiệu Ri là hạng (tức thứ hạng lớn bé) của thành phần xi trong chuỗi {xt,
t=1..n}, Si là hạng của thành phần yi trong chuỗi {yt, t=1..n}. Những thành phần có giá
trị bằng nhau sẽ được gán giá trị hạng trung gian của chúng. Khi đó hệ số tương quan
hạng sẽ được xác định bởi:
g
p
ppptttnnnSVar
1
)52)(1()52)(1(18
1)(
zt
z
t
dtedteTP
0
2
1
2
1 22
2
15.0
2
1)(
27
(2.4.14)
Mức ý nghĩa đối với giả thiết rs khác 0 được kiểm nghiệm bằng cách tính đại
lượng:
(2.4.15)
trong đó t là biến có phân bố Student với n-2 bậc tự do.
Hệ số tương quan hạng cũng có thể được tính theo công thức khác, trong đó
không nhất thiết phải để ý đến các thành phần của chuỗi có giá trị trùng nhau:
(2.4.16)
trong đó:
(2.4.17)
Quá trình phân tích kết quả tính toán:
Trước hết cần phân định thành nhóm các yếu tố khí hậu cực đoan và nhóm các
hiện tượng khí hậu cực đoan. Đối với nhóm các yếu tố khí hậu cực đoan, các chuỗi thời
gian là những số liệu quan trắc trực tiếp. Đối với các hiện tượng khí hậu cực đoan, các
chuỗi thời gian là tập hợp những giá trị phản ánh tần số xuất hiện các hiện tượng được
xác định thông qua hệ thống các chỉ tiêu định nghĩa từng loại hiện tượng. Ví dụ, số
ngày mưa lớn, số tháng hạn hán, v.v.
Có ba khía cạnh cần được làm rõ trong quá trình phân tích, đánh giá là:
1) Tính chất biến đổi: Có thể được hiểu theo nghĩa sự biến đổi có tuân theo qui
luật hay không, nếu có thì qui luật nào (qui luật rõ nhất có thể nhận thấy); sự biến đổi
có tính chu kỳ hay không có chu kỳ; nếu có chu kỳ thì biên độ và tần số dao động có
biến đổi hay không. Có thể phát hiện, khám phá tính chất biến đổi qua chuỗi thời gian
ban đầu hoặc chuỗi đã được biến đổi thành dạng khác bằng các phép biến đổi toán học,
như lọc và làm trơn chuỗi, phân tích điều hòa, phân tích phổ phương sai.
i ii i
i ii
s
SSRR
SSRRr
22)()(
))((
21
2
s
s
r
Nrt
nn
Dr
s
3
61
n
i
iiSRD
1
2)(
28
2) Mức độ biến đổi: Thể hiện sự biến đổi mạnh hay yếu, nhiều hay ít, càng ngày
càng tăng hay giảm, tính biến động của sự biến đổi. Mức độ biến đổi có thể được xác
định căn cứ vào gia tốc tăng, giảm qua từng thời kỳ, tính biến động qua từng thời kỳ
hoặc xu thế tăng giảm qua từng thời kỳ, sự biến đổi về biên độ dao động, hoặc sự gia
tăng hay giảm đi của các dao động ngẫu nhiên. Các đặc trưng có thể được sử dụng để
phân tích gồm độ lệch chuẩn, hệ số biến thiên hoặc chuẩn sai tích lũy.
3) Xu thế biến đổi: Chủ yếu xét xu thế tăng, giảm tuyến tính theo thời gian. Có
thể xem xét các xu thế này trên toàn chuỗi hoặc qua từng giai đoạn và so sánh với
nhau. Thông thường xu thế toàn chuỗi được sử dụng để nhận định về sự tồn tại của tính
biến đổi, còn xu thế của các thời đoạn dùng để xem xét sự dao động của tính biến đổi.
Nói chung khi phân tích trước hết cần xem xét cho từng vùng khí hậu. Trong
mỗi vùng khí hậu đánh giá chung cho tất cả các trạm và đánh giá riêng cho những trạm
đặc thù hoặc đại diện.
Với mỗi tình huống các đặc trưng năm được xem xét trước, rồi đến nhóm các
tháng theo mùa và cuối cùng là từng tháng hoặc các tháng đại diện (ví dụ 1, 4, 7, 10
hoặc 1, 7). Tùy từng yếu tố và hiện tượng mà chọn các tháng là mùa mưa, mùa khô
(hoặc ít mưa), mùa nóng, mùa lạnh.
Sự biến đổi của các trị số cực trị tuyệt đối trong từng thời đoạn có thể được xem
là biểu hiện của mức độ và tính chất biến đổi. Ở một chừng mực nhất định, các trị số
này phản ánh sự tác động của biến đổi toàn cầu đến sự biến đổi của khí hậu địa phương
và khu vực. Chẳng hạn, đối với nhiệt độ, nếu xu thế chung của nhiệt độ trung bình là
tăng, nhưng sự tăng của nhiệt độ cực tiểu lớn hơn sự tăng của nhiệt độ cực đại, khi đó
biên độ trung bình của nhiệt độ sẽ giảm. Tuy nhiên vẫn có thể xảy ra tình huống trong
chuỗi số liệu nhiệt độ cực tiểu, giá trị cực tiểu tuyệt đối của những thời đoạn sau nhỏ
hơn các thời đoạn trước. Như vậy tính biến động của nhiệt độ cực tiểu sẽ tăng lên theo
thời gian.
Khi xét xu thế của chuỗi các yếu tố hoặc sự kiện khí hậu cực đoan, hệ số góc
của phương trình hồi qui tuyến tính là thước đo mang tính chính xác về định lượng.
Nhưng do tính biến động mạnh của các đặc trưng cực trị, các kiểm nghiệm Mann –
Kendall và Spearman có thể sẽ có ưu thế hơn, mặc dù chúng không cho phép ước
lượng được mức độ tăng giảm của xu thế.
29
3. Kết quả đánh giá
3.1. Sự biến đổi của các yếu tố khí hậu cực đoan
3.1.1. Về mức độ và tính chất biến đổi.
Đặc điểm chung về mức độ và tính chất biến đổi của các yếu tố KHCĐ quan
trắc được trong thời kỳ 1961- 2012 được thể hiện qua một số đặc trưng như giá trị kỷ
lục, độ lệch chuẩn và phân bố tần suất của chúng.
Bảng 4.1 dẫn ra những giá trị “kỷ lục”quan trắc được của các yếu tố KHCĐ trên
vùng Nghệ An – Hà Tĩnh – Quảng Bình. “Kỷ lục” ở đây được là giá trị lớn nhất (đối
với Tx, Tx, Vx) hoặc nhỏ nhất (đối với Tm, RHm) tìm được từ chuỗi số liệu quan trắc
trên các trạm được sử dụng trong báo cáo. Những giá trị “kỷ lục” quan trắc được trong
cùng thời kỳ trên từng trạm được cho trong các bảng 4.1 và hình P4.1 phần phụ lục.
Bảng 4.1 Giá trị kỷ lục quan trắc được của các yếu tố KHCĐ trên vùng NHQ
ĐỒNG
HỚI
HÀ
TĨNH
HƯƠNG
KHÊ
KỲ
ANH
TƯƠNG
DƯƠNG
TUYÊN
HÓA VINH NHQ
Tx(oC) 40.7 40.2 42 40.4 42.7 41.6 40.9 42.7
Tm(oC) 7.8 6.8 2.6 6.9 1.7 5 5.2 1.7
RHm(%) 25 20 13 16 19 20 26 13
Rx(mm) 554.6 657.2 492.6 573.1 192 548.4 596.7 657.2
Vx(m/s) 45 40 31 48 25 40 40 48
Đối với nhiệt độ cực đại (Tx):
Nhiệt độ cực đại tính chung cho cả năm, gọi là nhiệt độ cao nhất năm (Tx) trong
thời kỳ 1961 – 2012 khác nhau giữa các trạm trong vùng. Do sự biến đổi của nhiều
điều kiện khác nhau, trong đó có cả xu thế nóng lên của khí hậu toàn cầu, Tx có những
biến đổi từ thập kỷ này sang thập kỷ khác trên tất cả các vùng khí hậu (Bảng 4.1, Hình
P4.1).
Ở vùng Nghệ An – Hà Tĩnh – Quảng Bình nhiệt độ cực đại Tx khá đồng đều
giữa năm thập kỷ gần đây (Bảng P4.1): 1961 – 1970, 1971 – 1980, 1991 – 2000, 2001
– 2010, 2011 – 2012. Ở trạm Đồng Hới, Kỳ Anh, Tương Dương, Vinh, giá trị kỷ lục
quan trắc được rơi vào một trong hai thập kỷ đầu (1961 – 1970, 1971 – 1980), còn trạm
Hà Tĩnh, Tuyên Hóa, kỷ lục quan trắc được trong hai thập kỷ giữa ( 1981 – 1990, 1991
– 2000). Riêng trạm Hương Khê, kỷ lục rơi vào một trong hai thập kỷ cuối (2001 –
30
2010, 2011 – 2012). Nhìn chung, chưa thể phát hiện xu thế tăng lên của Tx qua các
thập kỷ trên vùng Nghệ An – Hà Tĩnh – Quảng Bình.
Phân bố của nhiệt độ cao nhất tháng trên các trạm thuộc vùng NHQ (hình P4.2)
cho thấy Tx cao nhất tháng thường xảy ra từ tháng IV – V và ít có sự chênh lệch giữa
các tháng. Hình 4.1 biểu diễn kết quả tính hàm mật độ xác suất của chuẩn sai Tx tháng
VII cho các trạm vùng NHQ, trong đó trục hoành là ∆Tx cách nhau từng 1oC và trục
tung là giá trị tần suất (%). Khảo sát hàm mật độ xác suất của chuẩn sai Tx tháng VII
để xem xét biến đổi của Tx tập trung chủ yếu trong khoảng nào, từ đó có thể thấy mức
độ biến đổi của Tx. Có thể nhận thấy rằng đối với vùng NHQ, phân bố tần suất của
∆Tx là gần chuẩn, tập trung trong khoảng từ 0 đến 1oC(35%). Tần suất ∆Tx rơi vào
khoảng -1 đến 0oC(27%). Tần suất ∆Tx rơi vào khoảng (1 – 2)
oC đều trong khoảng
13 -15 % và vượt ngoài đoạn [-3,3] với xác suât nhỏ. Như vậy có thể nói trong giai
đoạn từ 1961 – 2012, trên vùng NHQ, Tx chủ yếu biến đổi trong khoảng 1oC. Những
biến đổi trong khoảng [-3,3] xảy ra với xác suất nhỏ.
Về mức độ biến đổi của Tx xét theo độ lệch chuẩn, có thể thấy tháng có độ lệch
chuẩn lớn là tháng II, III (3 – 4oC), tháng có độ lệch chuẩn nhỏ là tháng VII, VIII (1 –
1.5oC) (hình P4.3)
Hình 4.1 Phân bố xác suất của chuẩn sai Tx tháng VII của vùng NHQ
Đối với nhiệt độ cực tiểu (Tm):
Cũng giống như Tx, Tm cũng có những biến đổi từ thập kỷ này sang thập kỷ
khác ở vùng NHQ (bảng P4.2). Ở trạm Đồng Hới, Hương Khê, Kỳ Anh, Tương
Dương, kỷ lục của Tm đều rơi vào một trong hai thập kỷ đầu (1961 – 1970, 1971 –
31
1980), các trạm Hà Tĩnh, Tuyên Hóa, Vinh kỷ lục rơi vào hai thập kỷ giữa (1981 –
1990, 1991 – 2000).
Phân bố của nhiệt độ thấp nhất tháng trên các trạm thuộc vùng NHQ (hình P4.5)
cho thấy Tm thấp nhất tháng thường xảy ra vào các tháng mùa đông (tháng 12, tháng 1,
tháng 2) và có sự chênh lệch đáng kể giữa các tháng mùa đông và mùa hè.
Nhìn chung cho cả vùng Nghệ An – Hà Tĩnh – Quảng Bình, tỷ lệ trạm có kỷ lục
Tm xuất hiện trong hai thập kỷ gần đây thấp hơn nhiều tỷ lệ trạm có kỷ lục Tm rơi vào
hai thập kỷ đầu, nhất là thập kỷ 1971 – 1980. Như vậy có thể tin rằng tác động của biến
đổi khí hậu toàn cầu, nhiệt độ cực tiểu có xu thế tăng lên rõ rệt ở các trạm trong vùng.
Trên hình 4.2 chỉ dẫn ra phân bố tần suất của chuẩn sai Tm (∆Tm) tháng I của
vùng NHQ. Có thể nhận thấy, trên vùng NHQ, phân bố tần suất của ∆Tm là gần chuẩn,
xác suất biến đổi trong khoảng 0 – 1oC chiếm tỷ lệ cao nhất 26%, từ -1 đến 0
oC và từ 1
– 2 oC khoảng 23%, từ -2 đến -1
oC và từ 2 -3
oC khoảng 10%, ngoài khoảng [-3, 3] Tm
biến đổi nhỏ không đáng kể.
Nhìn chung trong thời kỳ 1961 – 2012, trên vùng NHQ, Tm tháng 1 biến đổi
nhiều nhất trong khoảng [-2,3], các tháng còn lại, Tm ít biến đổi, điều này cho thấy
nhiệt độ cực tiểu năm thường xảy ra vào tháng 1 có sự biến đổi mạnh nhất so với các
tháng khác trong năm.
Xem xét độ lệch chuẩn tháng và năm của Tm ở một số trạm vùng NHQ (hình
P4.6) có thể cho thấy trên tất cả các trạm, độ lệch chuẩn lớn hơn vào các tháng mùa
đông nhất là tháng VII, I (1.5- 3oC), và tương đối nhỏ vào các tháng mùa hè nhất là
tháng VII, VIII (0.5- 1oC). Trong vùng NHQ, độ lệch chuẩn năm của trạm Hương Khê,
trạm Tương Dương, trạm Tuyên Hóa lớn, cho thấy mức độ dao động khỏi trạng thái
trung bình của khí hậu của khu vực này là mạnh nhất, khoảng từ 1.8 – 2.4oC.
Hình 4.2 Phân bố xác suất của chuẩn sai Tm tháng I ở vùng NHQ
32
Đối với lượng mưa ngày lớn nhất (Rx):
Lượng mưa ngày cực đại tính chung cho cả năm, gọi là lượng mưa ngày lớn
nhất năm (Rx) trong thời kỳ 1961 – 2012 rất khác nhau giữa các trạm trong vùng NHQ
(hình 4.3, bảng 4.1,bảng P4.4, hình P4.10). Một số lượng mưa kỷ lục được ghi nhận
lớn nhất rơi vào trạm Đại Lộc (830mm), Thác Mười (776,6mm), Hà Tĩnh (657.2mm)
và lượng mưa cực đại năm ít nhất cũng gần 200mm ở trạm Tương Dương (192mm).
Có thể nhận thấy các tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh – Quảng Bình là khu vực thường xuất
hiện những hình thế gây mưa lớn do tương tác phức tạp giữa các hệ thống nhiễu động
nhiệt đới (bão, áp thấp nhiệt đới, dải hội tụ nhiệt đới,..v..v) và /hoặc không khí lạnh với
điều kiện địa hình địa phương. Với địa hình phức tạp, hệ thống sông ngòi ngắn và dốc
khi gặp các hình thế gây mưa lớn trong thời gian ngắn dễ xảy ra những trận lũ lịch sử.
Hình 4.3 Lượng mưa ngày lớn nhất năm tại một số trạm tiêu biểu thời kỳ 1961-2012
Do sự biến đổi của nhiều điều kiện khác nhau, trong đó có sự biến đổi của khí
hậu toàn cầu, Rx cũng có sự biến đổi từ thập kỷ này sang thập kỷ khác (Bảng P4.4). Ở
đây các trạm Đồng Hới, Hà Tĩnh, Hương Khê, Tuyên Hóa, Vinh, kỷ lục lớn nhất quan
trắc được đều vào hai thập kỷ giữa (1981–1990), (1991–2000), còn trạm Tương Dương
kỷ lục rơi vào một trong hai thập kỷ đầu (1971–1980), trạm Kỳ Anh, kỷ lục Rx xuất
hiện trong một trong hai thập kỷ cuối (2001-2010). Nhìn chung, ở mức độ nhất định có
thể nhận thấy sự gia tăng lượng mưa ngày lớn nhất trong ba thập kỷ gần đây.
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
Rx
(mm
)
33
Lượng mưa ngày lớn nhất tháng thời kỳ 1961–2012 trên hầu hết trạm đều xuất
hiện trong một vài tháng, chủ yếu là các tháng mùa mưa, thường vào cuối hè đầu đông
(tháng IX, tháng X) tương ứng với thời gian cao điểm của mùa mưa (hình 4.4, hình
P4.11). Trong các tháng này, lượng mưa đóng góp chủ yếu bởi sự hoạt động của dải
hội tụ nhiệt đới kết hợp với địa hình thường xuyên gây mưa lớn cho khu vực.
Hình 4.4 Lượng mưa ngày lớn nhất Rx tại một số trạm tiêu biểu thời kỳ 1961-2012
Độ lệch chuẩn, đại lượng đặc trưng cho mức độ biến động, lớn vào thời kỳ mùa
mưa của vùng (tháng IX, X). Độ lệch chuẩn đạt giá trị lớn tại các trạm mưa lớn như Hà
Tĩnh, Kỳ Anh, Thác Mười có giá trị lớn hơn so với các trạm còn lại trong khu vực
(hình 4.5, hình P4.12). Hầu hết các trạm đều có sự tương đồng theo biến trình năm.
Hình 4.5 Độ lệch chuẩn Rx theo tháng tại một số trạm tiêu biểu thời kỳ 1961-2012
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Nam
Rx
(mm
)
P-CAMXUYEN P-CHOTRANGTV P-DAILOC
P-DONGHIEU P-DONGTAMTV P-KIENGIANGTV
P-LETHUYTV P-THACMUOI DONGHOI
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Nam
ĐLC
(m
m)
P-CAMXUYEN P-CHOTRANGTV P-DAILOC P-DONGHIEU
P-DONGTAMTV P-KIENGIANGTV P-LETHUYTV P-THACMUOI
DONGHOI HATINH HUONGKHE KYANH
34
Đối với độ ẩm tương đối thấp nhất (RHm):
Độ ẩm tương đối thấp nhất năm (ký hiệu RHm) tại các trạm vùng NHQ rất khác
nhau giữa các trạm trong khu vực, giá trị thấp của độ ẩm tương đối quan trắc được tại
trạm Hương Khê chỉ 13 %, Kỳ Anh 16% (bảng 4.1).
Phân bố độ ẩm tương đối thấp tháng (hình P4.8) trên các trạm vùng NHQ cho
thấy RHm không khác nhau nhiều giữa các tháng khoảng 30 – 40%. Tuy nhiên, do ảnh
hưởng của thời tiết khô nóng trong tháng IV và tháng V, RHm trên vùng này vẫn giảm
đi đáng kể chỉ khoảng 20 – 25 %. Vào tháng IX, X độ ẩm tăng do thời gian này là mùa
mưa của khu vực.
Mức độ biến đổi của RHm khi xem xét thông qua độ lệch chuẩn cho thấy, độ
lệch chuẩn của các trạm trong vùng nhỏ vào các tháng mùa hè chỉ khoảng 5 – 7%, và
lớn vào các tháng mùa đông từ 8 -12%.(hình P4.9)
Độ ẩm tương đối thấp nhất cũng thể hiện sự biến động qua từng thập kỷ (bảng
P4.3). RHm tăng theo các thập kỷ. Trạm Đồng Hới, Hà Tĩnh, Tuyên Hóa giá trị kỷ lục
thấp nhất quan trắc được ở hai thập kỷ cuối( 2001 – 2010, 2011 – 2012), các trạm
Hương Khê, Kỳ Anh, Tương Dương, giá trị kỷ lục quan trắc được ở hai thập kỷ giữa
(1981-1990, 1991 -2000), trạm Vinh rơi vào hai thập kỷ đầu (1961 – 1970, 1971 –
1980). Như vậy các trạm có RHm thấp xảy ra vào các thập kỷ gần đây nhiều hơn các
thập kỷ trước.
Đối với tốc độ gió lớn nhất (Vx):
Tốc độ gió lớn nhất năm Vx trên các trạm dao động trong khoảng từ 25 – 45m/s.
trong đó trên 1/2 số trạm có Vx năm lớn hơn hoặc bằng 40m/s (bảng 4.1, hình P4.13).
Tốc độ gió lớn nhất cũng biến đổi theo thời gian trong năm. Hình P4.14 cho
thấy tốc độ gió lớn nhất (Vx) thường xảy ra vào tháng VII đến tháng X. Điều này hoàn
toàn phù hợp với đặc điểm cũng như quy luật hoạt động của những hiện tượng có khả
năng gây gió lớn như dông, tố, lốc và xoáy thuận nhiệt đới. Ở các tỉnh Nghệ An – Hà
Tĩnh – Quảng Bình, Vx thường gắn liền với các hoạt động của bão, áp thấp nhiệt đới.
Mức độ biến đổi của tốc độ gió lớn nhất được đặc trưng bới độ lệch chuẩn, độ
lệch chuẩn năm và tháng của Vx tại các trạm cũng rất khác nhau (hình P4.15). Vx năm
có mức độ biến đổi lớn trên những trạm có Vx lớn. Chẳng hạn Hà Tĩnh, Kỳ Anh, Vinh
đều có độ lệch chuẩn Vx năm trên 7.5 m/s.
35
3.1.2. Về xu thế biến đổi
Xu thế biến đổi của các yếu tố KHCĐ được xét ở đây chủ yếu dựa vào hệ số góc
a1 của phương trình đường thẳng hồi qui y = A0 + A1t, trong đó y là đặc trưng yếu tố
cần khảo sát (Tx, Tm, …), t là số thứ tự năm, A0 , A1 là các hệ số hồi qui. Hệ số A1 cho
biết hướng dốc của đường hồi qui, nói lên xu thế biến đổi tăng hay giảm của yếu tố
KHCĐ theo thời gian. Nếu A1 âm nghĩa là yếu tố KHCĐ đang xét giảm theo thời gian
và ngược lại. Độ lớn của A1 cũng là độ dốc của đường hồi qui cho biết tốc độ biến đổi
của Tx. Trị số tuyệt đối của A1 càng lớn thì Tx biến đổi càng nhanh.
Xu thế biến đổi của Tx:
Trên hình 4.6 biểu diễn hệ số góc a1 của đường xu thế tuyến tính của Tx năm
các trạm vùng NHQ thời kỳ 1961- 2012. Qua đó nhận thấy các trạm thể hiện xu thế
tăng mạnh của Tx (a1 dương). Các trạm có xu thế tăng mạnh như trạm Tuyên Hóa, Hà
Tĩnh, Vinh.
Xu thế biến đổi của Tx các tháng trong năm thể hiện qua hệ số a1 lấy trung bình
các trạm trên vùng NHQ được biểu diễn trên hình 4.7. Có thể thấy xu thế tăng lên ở tất
cả các tháng trong năm và xu thế tăng lên mạnh hơn vào các tháng mùa Đông (I-IV).
Điều này củng cố nhận định xu thế tăng nhiệt vào mùa Đông mạnh hơn xu thế tăng
nhiệt độ so với mùa hè.
Hình 4.6 Hệ số a1 xây dựng từ chuỗi Tx thời kỳ 1961 – 2012 tại một số trạm
vùng NHQ
0
0,005
0,01
0,015
0,02
0,025
0,03
0,035
0,04
ĐỒNG HỚI
HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ
KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG
TUYÊN HÓA
VINH
Hệ
số a
1
36
Hình 4.7 Hệ số a1 xây dựng từ chuỗi Tx thời kỳ 1961 -2012 theo tháng tại
vùng NHQ
Trên hình 4.8 là biến thiên theo thời gian của dị thường nhiệt độ cao nhất Tx
tháng I và tháng VII trên vùng NHQ. Nhiệt độ cao nhất tháng I và tháng VII của vùng
NHQ được chuẩn hóa và biểu diễn theo thời gian 1961–2012 đồng thời với đường
trung bình trượt 5 năm và dường xu thế.
Dựa vào đường trung bình trượt 5 năm ta có thể thấy, Tx vào mùa Đông (tháng
I) biến đổi mạnh hơn so với mùa hè (tháng VII). Căn cứ vào hệ số A1 của đường xu thế
tuyến tính nhận thấy, trên vùng NHQ, Tx tháng I tăng nhanh hơn Tx tháng VII. Điều
này cho thấy Tx vào mùa đông có thu thế ấm nhanh hơn so với mùa hè ít biến đổi.
0
0,01
0,02
0,03
0,04
0,05
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
Hệ
số a
1
37
Hình 4.8 Chuẩn sai của Tx tháng I và tháng VII theo năm (cột, oC) và trung
bình trượt 5 năm (đường liền màu đỏ) trên vùng NHQ với đường xu thế tuyến tính theo
thời gian 1961-2012 (đường thẳng màu đen), giai đoạn 1961-1990 (đường màu xanh)
và giai đoạn 1991-2012 (đường màu hồng)
Xu thế biến đổi của Tm:
Hệ số a1 của một số trạm trong vùng NHQ trong phương trình hồi quy được
biểu diễn trên hình 4.9. Trên hình vẽ nhận thấy các trạm đều có hệ số a1 dương, có
nghĩa là Tm đều có xu thế tăng lên trong thời kỳ 1961 – 2012. Một số trạm có xu thế
tăng mạnh như trạm Hương Khê, Tương Dương
Hình 4.9 Hệ số a1 tính từ chuỗi Tm thời kỳ 1961 – 2012 tại một số trạm
vùng NHQ
Tính trung bình theo từng tháng trong năm cho toàn vùng NHQ (hình 4.10), hệ
số a1 của Tm tăng đồng đều vào các tháng trong cùng mùa đông hoặc mùa hè, tuy
nhiên, vào các tháng chuyển tiếp chỉ có sự tăng nhẹ hoặc cá biệt giảm vào tháng III.
0
0,01
0,02
0,03
0,04
0,05
0,06
0,07
ĐỒNG HỚI
HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ
KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG
TUYÊN HÓA
VINH
Hệ
số a
1
38
Hình 4.10 Hệ số a1 xây dựng từ chuỗi Tm thời kỳ 1961 -2012 theo tháng
vùng NHQ
Hình 4.11 biểu diễn biến thiên theo thời gian của chuẩn sai, trung bình trượt 5
năm và xu thế của nhiệt độ cực tiểu tháng I và tháng VII trên vùng NHQ. Tương tự
như đối với Tx, Tm của mùa Đông (tháng I) cũng biến đổi mạnh hơn so với mùa hè
(tháng VII). Dựa vào hệ số góc của đường xu thế tuyến tính có thể nhận thấy Tm tháng
I tăng nhanh hơn Tm tháng VII. Kết quả này cũng tương tự với Tx, điều này có nghĩa
là cả Tx và Tm của mùa đông đều có xu thế tăng lên mạnh hơn so với mùa hè.
-0,02
-0,01
0
0,01
0,02
0,03
0,04
0,05
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
Hệ
số a
1
39
Hình 4.11 Chuẩn sai của Tm tháng I và tháng VII theo năm (cột, oC) và trung
bình trượt 5 năm (đường liền màu đỏ) trên vùng NHQ với đường xu thế tuyến tính theo
thời gian 1961-2012 (đường thẳng màu đen), giai đoạn 1961-1990 (đường màu xanh)
và giai đoạn 1991-2012 (đường màu hồng)
Xu thế biến đổi của RHm:
Sự biến đổi của RHm theo các tháng trong năm thể hiện không nhất quán giữa
các trạm (hình 4.12) trong vùng NHQ và giữa các mùa (hình 4.13). Nhìn chung, vùng
NHQ hầu như không có sự thay đổi trừ trạm Tuyên Hoá thể hiện sự giảm rõ rệt của
RHm. Về sự thay đổi theo mùa, vào các tháng đầu và cuối mùa Đông (XI-XII, II-IV)
có sự giảm RHm, còn lại các tháng khác hầu như không có sự thay đổi đáng kể.
Hình 4.12 Hệ số a1 tính từ chuỗi RHm thời kỳ 1961 – 2012 tại một số trạm
vùng NHQ
-0,25
-0,2
-0,15
-0,1
-0,05
0
0,05
0,1
ĐỒNG HỚI
HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ
KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG
TUYÊN HÓA
VINH
Hệ
số a
1
40
Hình 4.13 Hệ số a1 xây dựng từ chuỗi RHm thời kỳ 1961 -2012 theo tháng
vùng NHQ
Xu thế biến đổi của Rx
Xu thế biến đổi của Rx cho thấy xu thế tăng lên của số ngày mưa lớn xảy ra ở
hầu hết các trạm nhưng với các mức độ khác nhau. Một số trạm có xu thế tăng mạnh
như Kỳ Anh, Tuyên Hoá, một số trạm có xu thế tăng vừa phải là Đồng Hới, Hà Tĩnh,
Hương Khê, còn lại Tương Dương và Vinh chỉ có một sự tăng nhẹ. Xu thế tăng lên của
số ngày mưa lớn cho thấy đối với lượng mưa đã có sự thay đổi đáng kể trên khu vực
NHQ. Số ngày mưa lớn tăng lên sẽ kéo theo các hiện tượng cực đoan như lũ lụt sẽ ảnh
hưởng nghiêm trọng hơn đến khu vực này.
Hình 4.14 Hệ số a1 tính từ chuỗi Rx thời kỳ 1961 – 2012 tại một số trạm
vùng NHQ
-0,25
-0,2
-0,15
-0,1
-0,05
0
0,05
0,1
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
Hệ
số a
1
-0,5
0
0,5
1
1,5
2
2,5
3
Hệ
số
A1
41
Hình 4.15 Hệ số a1 xây dựng từ chuỗi Rx thời kỳ 1961 -2012 theo tháng
vùng NHQ
Xu thế biến đổi của Vx
Xu thế biến đổi của Vx thể hiện sự giảm đáng kể trong các tháng (hình 4.16) và
trên các trạm trong khu vực NHQ (hình 4.17). Các trạm có xu thế giảm mạnh nhất là
Vinh và Đồng Hới. Sự giảm tốc độ gió cực đại xảy ra đồng đều ở các trạm và cả theo
mùa, trong đó cực đại xảy ra vào tháng VII.
Hình 4.16 Hệ số a1 tính từ chuỗi Vx thời kỳ 1961–2012 tại một số trạm
vùng NHQ
-0,8
-0,6
-0,4
-0,2
0
0,2
0,4
0,6
0,8
1
1,2
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
Hệ
số
A1
-0,3
-0,25
-0,2
-0,15
-0,1
-0,05
0
ĐỒNG HỚI HÀ TĨNH
HƯƠNG KHÊ KỲ ANH
TƯƠNG DƯƠNG
TUYÊN HÓA VINH
Hệ
số a
1
42
Hình 4.17 Hệ số a1 xây dựng từ chuỗi Tm thời kỳ 1961-2012 theo tháng
vùng NHQ
3.2 Sự biến đổi của các hiện tượng cực đoan
3.2.1 Về mức độ và tính chất biến đổi
Đối với hiện tượng rét đậm (RĐ):
Rét đậm là một trong những loại hình thời tiết đặc trưng trong mùa đông ở hầu
khắp các vùng khí hậu phía Bắc trên lãnh thổ Việt Nam. Vùng Nghệ An – Hà Tĩnh –
Quảng Bình, hiện tượng rét đậm ít xảy ra hơn so với các vùng Tây Bắc, Đông Bắc,
Đồng Bằng Bắc Bộ, tuy vậy vào mùa đông và đầu mùa xuân, các đợt RĐ xảy ra liên
tiếp không những ảnh hưởng tới cây trồng và vật nuôi mà còn gây thiệt hại rất lớn về
kinh tế xã hội.
Hình 4.18 Số ngày rét đậm trung bình tháng tại một số trạm tiêu biểu trên vùng NHQ
-0,16
-0,14
-0,12
-0,1
-0,08
-0,06
-0,04
-0,02
0 I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
Hệ
số a
1
0
2
4
6
8
10
12
14
16
XI XII I II III
Số n
gày r
ét đậm
ĐỒNG HỚI HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG TUYÊN HÓA VINH
43
Hàng năm, số ngày rét đậm ở vùng NHQ phổ biến từ 5 – 20 ngày (hình 4.18).
Rét đậm xảy ra /chủ yếu vào tháng I đến III và tháng XI, XII trong tất cả các trạm.
Vùng NHQ, rét đậm chủ yếu vào tháng I, trạm Kỳ Anh trung bình khoảng 15 ngày,
trạm Hà Tĩnh, trạm Vinh 8 ngày, trạm Tương Dương, trạm Hương Khê, trạm Tuyên
Hóa trung bình từ 6–7 ngày, trạm Đồng Hới số ngày rét đậm trung bình tháng I khoảng
4 ngày.
Hình 4.19 là số ngày rét đậm trung bình năm qua các thập kỷ tại các trạm vùng
NHQ. Nhìn chung số ngày rét đậm giảm dần qua các thập kỷ, xét chung cho vùng
NHQ hai thập kỷ đầu (1971-1980, 1981–1990) số ngày rét đậm trung bình năm
khoảng 16 -18 ngày, hai thập kỷ cuối(1991–2000, 2001–2010) giảm chỉ còn khoảng
13-14 ngày.
Mức độ biến động của số ngày RĐ cả mùa và từng tháng trên vùng NHQ được
đánh giá bằng độ lệch chuẩn biểu diễn trên hình 4.20 và hình 4.21. Qua đó nhận thấy
mức độ dao động khỏi trạng thái trung bình của tổng số ngày RĐ trong cả năm của các
trạm vùng NHQ khoảng 6 -11 ngày, trong đó độ lệch lớn nhất xảy ra ở trạm Hương
Khê khoảng 11 ngày, nhỏ nhất là trạm Đồng Hới 7 ngày.
Hình 4.21 biểu diễn độ lệch chuẩn tổng số ngày rét đậm trung bình tháng tại
vùng NHQ. Qua đó nhận thấy rằng vào những tháng chủ yếu xảy ra hiện tượng rét đậm
thì sự biến động của số ngày rét đậm khỏi trạng thái trung bình lớn như tháng XII, I, II,
độ lệch chuẩn khoảng 3 -6 ngày, còn vào những tháng XI, III, IV, độ lệch chuẩn nhỏ
hơn 3 ngày.
Hình 4.19 Số ngày rét đậm trung bình năm qua các thập kỷ tại các trạm vùng NHQ
0
5
10
15
20
25
30
35
ĐỒNG HỚI
HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ
KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG
TUYÊN HÓA
VINH NHQ
số n
gày
rét
đậm
Trạm
1961-1970 1971-1980
1981-1990 1991-2000
2001 - 2010
44
Hình 4.20 Độ lệch chuẩn tổng số ngày rét đậm trung bình năm ở các trạm vùng NHQ
Hình 4.21 Độ lệch chuẩn tổng số ngày rét đậm trung bình tháng tại vùng NHQ
Đối với hiện tượng mưa lớn (ML):
Số ngày trung bình có cường độ mưa đạt tiêu chuẩn mưa lớn (>=50mm/ngày)
vào khoảng 5 – 14 ngày (hình 4.22). Ở vùng NHQ số ngày mưa lớn tập trung vào
tháng IX – XI , tháng mưa nhiều nhất là tháng X, mùa mưa đến chậm hơn so với các
vùng khác trong cả nước. Trung bình số ngày mưa lớn toàn thời kỳ vào các tháng mùa
mưa khoảng 2.5 – 4.5 ngày. Mưa nhiều diễn ra ở các trạm Kỳ Anh, Hà Tĩnh và ít nhất
ở trạm Tương Dương.
Ngoài số ngày trung bình đạt ngưỡng ML, cần quan tâm tới số đợt ML kéo dài
khác nhau tại các trạm quan trắc.
0
2
4
6
8
10
12
ĐỒNG HỚI
HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ
KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG
TUYÊN HÓA
VINH
ĐLC
(ngà
y)
0
1
2
3
4
5
6
7
XI XII I II III IV
ĐLC
(Ngà
y)
ĐỒNG HỚI HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG TUYÊN HÓA VINH
45
Hình 4.22 Số ngày trung bình có mưa lớn (R>=50mm) trên vùng NHQ
Hình 4.23 Số đợt mưa lớn trung bình (R≥50mm) tại các trạm trên vùng NHQ
Trên hình 4.24 biểu diễn độ lệch chuẩn của số ngày ML tháng tại các trạm vùng
NHQ. Qua đó cho thấy vào các tháng mùa mưa của vùng ( IX – XI) mức độ biến động
lớn khoảng từ 1.5 -2.5 ngày, lớn nhất ở trạm Kỳ Anh, nhỏ nhất ở trạm Hà Tĩnh.
0
0,5
1
1,5
2
2,5
3
3,5
4
4,5
5
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
số n
gày
tru
ng
bìn
h
ĐỒNG HỚI HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ
KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG TUYÊN HÓA
VINH
0
1
2
3
4
5
6
7
8
1 2 3 4 5
Số đ
ợt
DONGHOI
HATINH
HUONGKHE
KYANH
TUONGDUONG
TUYENHOA
VINH
46
Hình 4.24 Độ lệch chuẩn của số ngày mưa lớn trung bình tại các trạm vùng NHQ
Đối với hiện tượng nắng nóng (NN):
Hình 4.25 dẫn ra kết quả tính toán số ngày nắng nóng(NN) trung bình năm trên
toàn chuỗi số liệu quan trắc từ 1961–2012 của một số trạm vùng NHQ. Có thể nhận
thấy rằng, đây là vùng có số ngày nắng nóng khá cao, nhiều nhất là trạm Tương Dương
với số ngày NN lên tới 78 ngày, thấp nhất là trạm Kỳ Anh thì số ngày nắng nóng cũng
xấp xỉ 40 ngày.
Hình 4.25 Số ngày nắng nóng năm tại một số trạm của vùng NHQ
Biến trình năm của số ngày nắng nóng trung bình tháng (hình 4.26) cho thấy
NN thường xuất hiện vào thời gian từ tháng III tới tháng IX. Nhìn chung nắng nóng
chủ yếu xảy ra vào các tháng chính hè. Trạm Hương Khê và trạm Tương Dương có số
ngày nắng nóng cao khoảng từ 12 -16 ngày vào những tháng V, VI, VII, trạm Kỳ Anh
có số ngày nắng nóng thấp nhất trong vùng.
0
0,5
1
1,5
2
2,5
3
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
ĐLC
(n
gày)
ĐỒNG HỚI HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ
KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG TUYÊN HÓA
VINH
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
ĐỒNG HỚI
HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ
KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG
TUYÊN HÓA
VÌNH
số n
gày
nắn
g n
ón
g
47
Đối với vùng NHQ nguyên nhân dẫn tới hiện tượng nắng nóng là do sự hoạt
động của gió mùa tây nam trong mùa hè cùng với hiệu ứng phơn do dãy Trường Sơn
gây ra. Hình 4.27 biểu diễn số ngày nắng nóng trung bình năm qua các thập kỷ tại một
số trạm vùng NHQ cho thấy xu thế tăng dần qua từng thập kỷ, nhận thấy rằng vào các
thập kỷ cuổi (1981 – 1990, 1991 – 2000, 2001 -2010) số ngày nắng nóng tăng mạnh so
với hai thập kỷ đâu (1961 – 1970, 1971 – 1980). Xu thế này rõ ở hầu hết các trạm vùng
NHQ.
Hình 4.29 Số ngày nắng nóng trung bình tháng tại một số trạm vùng NHQ
Hình 4.27 Số ngày nắng nóng trung bình năm qua các thập kỷ tại một số trạm
vùng NHQ
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
III IV V VI VII VIII IX
Số
ngày
nắn
g n
óng
ĐỒNG HỚI HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ
KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG TUYÊN HÓA
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
ĐỒNG HỚI
ha tinh Hương Khê
Kỳ anh Tương Dương
Tuyên Hóa
Vinh NHQ
số n
gày
nắn
g n
óng
Trạm
1961-1970 1971-1980 1981-1990 1991-2000 2001 - 2010
48
Để xem xét mức độ biến động của số ngày nắng nóng so với trạng thái trung
bình được đánh giá thông qua đặc trưng thống kê độ lệch chuẩn. Hình 4.28 biểu diễn
độ lệch chuẩn số ngày nắng nóng trung bình năm của vùng NHQ. Qua đó cho thấy
mức độ biến động của số ngày nắng nóng vùng NHQ khoảng từ 13 – 21 ngày, lớn nhất
ở trạm Tuyên Hóa, mức độ biến động nhỏ nhất ở trạm Hà Tĩnh.
Hình 4.28 Độ lệch chuẩn của số ngày nắng nóng trung bình năm tại các trạm
vùng NHQ
Hình 4.29 Độ lệch chuẩn của số ngày nắng nóng trung tháng bình
tại các trạm vùng NHQ
Bão và xoáy thuận nhiệt đới (BVN)
Việt Nam nằm trong khu vực Tây bắc Thái Bình Dương, nơi có tần suất xuât
hiện bão nhiều nhất trên thế giới, một trong số đó ảnh hưởng tới vùng biển và lãnh thổ
Việt Nam. Trong nội dung nghiên cứu này Bão Việt Nam là những cơn bão hoạt động
0
5
10
15
20
25
ĐỒNG HỚI
HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ
KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG
TUYÊN HÓA
VÌNH
ĐLC
(ngà
y)
0
1
2
3
4
5
6
7
8
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
ĐLC
(ngà
y)
ĐỒNG HỚI HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ
KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG TUYÊN HÓA
49
trên vùng bở biển Việt Nam hoặc đổ bộ vào Việt Nam. Những biến đổi trong hoạt
động của bão, bao gồm áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) là một trong những vấn đề được
quan tâm trên thế giới trong vài thập kỷ gần đây. Sự biến đổi về tần suất, cường độ, vị
trí hình thành bão ảnh hưởng tới các hoạt động kinh tế, xã hội, đặc biệt là những khu
vực ven biển. Vì vậy, phân tích và nhận biết về mức độ, tính chất, xu thế biến đổi trong
hoạt động của bão là vấn đề có ý nghĩa to lớn cả về khoa học và thực tiễn. Khu vực các
tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh – Quảng Bình là những tỉnh ven biển, do vậy chịu ảnh hưởng
nặng nề của bão. Để nhận định những tính chất, mức độ và xu thế biến đổi của bão
trong khu vực này, xét ảnh hưởng của bão trên vùng bờ biển Thanh Nghệ - Tĩnh (19.83 oN-17.95
oN T-N-T), Bình - Trị - Thiên (17.95
oN- 16.20
oN ở B-T-T).
Hình 4.30 biểu diễn tần số hàng năm trên khu vực bờ biển Việt Nam thời kỳ
1961 – 2007. Có thể nhận thấy, số bão biến động mạnh từ năm này sang năm khác với
cực tiểu là 2 cơn (2004), cực đại là 13 cơn (1996). Đường trung bình trượt 5 năm minh
họa những biến động ít đột ngôt hơn và những giai đoạn nổi trội hơn về số lượng bão
và áp thấp nhiệt đới. Giai đoạn 1970 – 1975, 1992 – 1997 bão hoạt động mạnh với giá
trị trung bình xấp sỉ 8.6 cơn/năm. Ngược lại trong giai đoạn 1975 – 1980, 2000 – 2005
là 4.4 cơn/năm. Xét cả thời kỳ 1961 – 2007 số lượng bão vào Việt Nam có xu hướng
giảm nhẹ không đáng kể
Hình 4.30 Tần số bão ở Việt Nam trong thời kỳ 1961 – 2012
Hình 4.31 cho thấy tần số bão hoạt động trên vùng bờ biển Thanh – Nghệ -
Tĩnh, Bình – Trị - Thiên khá lớn, nhiều năm lên tới 4 -5 cơn. Có thể căn cứ vào diễn
biến của đường trung bình trượt 5 năm (đường màu hồng) thể hiện sự biến động của
y = 0,0405x + 4,3908 R² = 0,1664
0
2
4
6
8
10
12
14
1945
1950
1955
1960
1965
1970
1975
1980
1985
1990
1995
2000
2005
2010
Số
cơ
n
Năm
Tần suất bão ở khu vực Việt Nam (1945-2012)
Tổng
TB trượt 5 năm
Xu thế tuyến tính
50
bão theo các giai đoạn 5 năm một. Nhìn chung bão tại vùng bờ biển Thanh – Nghệ -
Tĩnh không những nhiều mà còn biến động rõ rệt theo thời gian
Hình 4.31 Tần số bão tại vùng bờ biển Thanh – Nghệ - Tĩnh, Bình – Trị - Thiên.
y = 0,0132x + 0,979 R² = 0,1381
0
1
2
3
4
5
6
1945
1950
1955
1960
1965
1970
1975
1980
1985
1990
1995
2000
2005
2010
Số
cơ
n
Năm
Tần suất bão ở khu vực T-N-T (1945-2012)
Tổng
TB trượt 5 năm
Xu thế tuyến tính
y = 0,0135x + 0,9363 R² = 0,1715
0
1
2
3
4
5
6
1945
1950
1955
1960
1965
1970
1975
1980
1985
1990
1995
2000
2005
2010
Số
cơ
n
Năm
Tần suất bão ở khu vực B-T-T (1945-2012)
Tổng TB trượt 5 năm Xu thế tuyến tính
51
Hình 4.32 Tần số bão nửa thập kỷ ở các vùng bờ biển Thanh – Nghệ - Tĩnh,
Bình Trị Thiên
Hình 4.33 Tần số bão theo mùa tại vùng bờ biển Thanh – Nghệ - Tĩnh,
Bình – Trị - Thiên
y = 0,3681x + 4,5769 R² = 0,1388
0
2
4
6
8
10
12
14
16
19
46
-19
50
19
51
-19
55
19
56
-19
60
19
61
-19
65
19
66
-19
70
19
71
-19
75
19
76
-19
80
19
81
-19
85
19
86
-19
90
19
91
-19
95
19
96
-20
00
20
01
-20
05
20
06
-20
10
Số c
ơn
Nửa thập kỷ
Vùng bờ biển T - N - T
y = 0,3571x + 4,5 R² = 0,1814
0
2
4
6
8
10
12
14
19
46
-19
50
19
51
-19
55
19
56
-19
60
19
61
-19
65
19
66
-19
70
19
71
-19
75
19
76
-19
80
19
81
-19
85
19
86
-19
90
19
91
-19
95
19
96
-20
00
20
01
-20
05
20
06
-20
10
Số c
ơn
Nửa thập kỷ
Vùng bờ biển B - T - T
0
5
10
15
20
25
30
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
T-N-T
B-T-T
52
3.2.2 Về xu thế biến đổi
Thông qua việc xem xét hệ số góc các đường xu thế tuyến tính của các hiện
tượng theo thời gian, có thể đưa ra một số nhận định sau:
Xu thế biến đổi của RĐ:
Hầu hết các trạm đều có xu thế giảm số ngày rét đậm, riêng trạm Tuyên Hoá
hầu như không có sự thay đổi. Sự giảm mạnh nhất xảy ra ở trạm Hương Khê và Tương
Dương. Điều này là phù hợp khi Tm có xu thế tăng lên trong khu vực dẫn đến số ngày
rét đậm có xu thế giảm đi. Dường như trong bối cảnh nóng lên toàn cầu, số ngày rét
đậm ở khu vực NHQ có xu thế giảm về số lượng, tuy nhiên về tính chất và cường độ
cần xem xét thêm.
Hình 4.34 Hệ số a1 xây dựng từ chuỗi số ngày rét đậm thời kỳ 1961 – 2012 tại
một số trạm vùng NHQ
Xu thế biến đổi của ML:
Số ngày mưa lớn trong khu vực NHQ có xu hướng giảm nhưng không rõ rệt.
Trạm Tuyên Hoá có xu thế tăng nhẹ, trạm Vinh hầu như không có sự thay đổi.
-0,25
-0,2
-0,15
-0,1
-0,05
0
0,05
ĐỒNG HỚI
HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ
KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG
TUYÊN HÓA
VINH
Hệ
số
A1
53
Hình 4.35 Hệ số a1 xây dựng từ chuỗi số ngày mưa lớn thời kỳ 1961- 2012 tại
một số trạm vùng NHQ
Xu thế biến đổi của nắng nóng:
Khác với số ngày rét đậm, số ngày nắng nóng có xu thế tăng lên trên toàn khu
vực với mức độ khác nhau, trong đó trạm Tuyên Hoá có xu thế tăng mạnh mẽ. Các
trạm còn lại đều có mức độ tăng tương đối đồng đều. Sự tăng mạnh mẽ của Tx và hiện
tượng nắng nóng cho thấy, diễn biến của hiện tượng nắng nóng ở khu vực NHQ hết
sức phức tạp dẫn đến các hiện tượng hạn hán sẽ ngày càng khốc liệt hơn.
Hình 4.36 Hệ số a1 xây dựng từ chuỗi số ngày nắng nóng thời kỳ 1961- 2012
tại một số trạm vùng NHQ
-0,2
-0,15
-0,1
-0,05
0
0,05
0,1
0,15
0,2
ĐỒNG HỚI
HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ
KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG
TUYÊN HÓA
VINH
Hệ
số
A1
0
0,1
0,2
0,3
0,4
0,5
0,6
0,7
0,8
0,9
ĐỒNG HỚI
HÀ TĨNH HƯƠNG KHÊ
KỲ ANH TƯƠNG DƯƠNG
TUYÊN HÓA
VINH
Hệ
số
A1
54
Đối với BVN:
Hình 4.37 Xu thế biến đổi của bão trên vùng bờ biển Thanh Nghệ Tĩnh, Bình Trị
Thiên, đường đỏ giai đoạn 1945 – 2012, đường xanh – giai đoạn 1971 – 2012, đường
tím giai đoạn 1991 -2012.
Hình 4.37 cho thấy xu thế hoạt động của bão tại vùng Thanh Nghệ Tĩnh, Bình
Trị Thiên có sự khác biệt theo từng giai đoạn rõ rệt. Nếu xét cho cả thời kỳ (1945 –
2012), ta nhận thấy các đường đỏ hướng lên trên (ứng với hệ số A1 dương), cho nên số
lượng bão hoạt động tại 2 vùng biển này có xu thế tăng theo thời gian. Nếu xét từng
giai đoạn nhỏ, xu thế hoạt động của bão cũng thay đổi. Trong giai đoạn 1971 – 2012,
tại các vùng biển Thanh – Nghệ - Tĩnh thì số lượng bão có xu thế giảm nhẹ. Nếu xét
trong giai đoạn 1991–2012, vùng Bình Trị Thiên bão có xu hướng tăng, vùng Thanh
Nghệ Tĩnh bão có xu thế giảm.
y = 0,0159x - 30,105 R² = 0,0612
y = -0,0071x + 15,963 R² = 0,0044
y = -0,0248x + 51,454 R² = 0,0207
0
1
2
3
4
5
6
1945 1950 1955 1960 1965 1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2005 2010
Số
cơ
n
Năm
Vùng bở biển Thanh - Nghệ - Tĩnh
Linear (1945-2012) Linear (1971-2012) Linear (1991-2012)
y = 0,0147x - 27,619 R² = 0,0563
y = 0,0032x - 4,8835 R² = 0,0012
y = 0,0237x - 45,921 R² = 0,0285
0
1
2
3
4
5
6
1945 1950 1955 1960 1965 1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2005 2010
Số
cơ
n
Năm
Vùng bờ biển Bình - Trị - Thiên
Linear (1945-2012) Linear (1971-2012) Linear (1991-2012)
55
Hình 4.48 Hệ số A1 của bão tại vùng bờ biển Thanh – Nghệ - Tĩnh, Bình – Trị - Thiên.
Hệ số A1 của cả 2 thời kỳ trong 2 vùng bờ biển đều có giá trị dương, cho nên số
lượng bão hoạt động trong các vùng này đều có xu thế tăng lên. Trong thời kỳ 1958 –
2012, hệ số A1 đạt giá trị nhỏ ở vùng Bình Trị Thiên.
0
0,005
0,01
0,015
0,02
0,025
T-N-T B-T-T
Hệ
số A
1
Khu vực
1945-2012
1958-2012
56
Tài liệu tham khảo Tài liệu Tiếng Việt
1. Đinh Văn Ưu, 2005: Phạm Hoàng Lâm, Biến động mùa và nhiều năm của trường nhiệt
độ mặt nước biển và sự hoạt động của bão tại khu vực Biển Đông, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ XXI 3PT, 127
2. Đinh Văn Ưu, 2009: Đánh giá quy luật biến động dài hạn và xu thế biến đổi số lượng
bão và áp thấp nhiệt đới trên khu vực Tây Thái Bình Dương, Biển Đông và ven biển
Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 25 3S, 542
3. Nguyễn Đức Ngữ (chủ biên), 2008: Biến đổi khí hậu, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội
4. Nguyễn Đức Ngữ, 2009: Biến đổi khí hậu thách thức đối với sự phát triển (kỳ 1), Kinh
tế Môi trường, số 01, 10
5. Nguyễn Văn Tuyên, 2007: Xu hướng hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới trên Tây Bắc
Thái Bình Dương và biển Đông theo các cách phân loại khác nhau. Tạp chí KTTV, (số
559) tháng 7 năm 2007, tr.4-10.
6. Nguyễn Viết Lành (2007), Một số kết quả nghiên cứu về biến đổi khí hậu trên khu vực
Việt Nam, Tạp chí khí tượng Thuỷ văn, số 560, 33
7. Phan Văn Tân, 2010, “Nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu đến các yếu tố
và hiện tượng khí hậu cực đoan ở Việt Nam, khả năn dự báo và giải pháp chiến lược ứng
phó”, Đề tài cấp nhà nước, mã số KC08.29/06-10.
Tài liệu Tiếng Anh
8. Bonsal B.R., X. Zhang, L.A. Vincent, W.D. Hogg, 2001: Characteristics of daily
extreme temperatures over Canada, J. Climate 14, 1959–1976.
9. Bradley R. S., H. F. Diaz, J. K. Eischeid, P. D. Jones, P. M. Kelly, C. M. Goodes, 1987:
Precipitation fluctuations over Northern Hemisphere land areas since the Mid 19th Century,
Science 237, 171.
10. Busuioc A., H. von Storch, 1996: Changes in the winter precipitation in Romania and its relation
to the large scale circulation, Tellus 48A, 538.
11. Bulygina O. N., V N Razuvaev , N N Korshunova and P Ya Groisman, 2007: Climate variations
and changes in extreme climate events in Russia, Environ. Res. Lett. 2, 045020.
12. Diaz H. F., R. S. Bradley, J. K. Eischeid, 1989: Precipitation fluctuation over global land areas
since the late 1800s, J Geophys Res 94, 1195.
13. Easterling D. R., Evans J.L., Groisman P. Ya., Karl T.R., Kunkel K.E., Ambenje P., 2000:
Observed variability and trends in extreme climate events: A brief review. Bulletin of the
American Meteorological Society, 81, 417-425
14. Endo N., J. Matsumoto, T. Lwin, 2009: Trends in precipitation extremes over Southeast Asia,
SOLA 5, 168.
15. Founda D., K.H. Papadapoulos, M. Petrakis, C. Giannakopoulos, P. Good, 2004:
Analysis of mean, maximum, minimum temperature in Athens from 1897-2001 with
emphasis on the last decade: trends, warm events and cold events, Global Planet Change
44, 27.
16. Fu G. B., S. L. Chen, C. M. Liu et al, 2004: Hydro-climatic trends of the Yellow River basin for
the last 50 years, Climatic Change 65, 149.
57
17. Hu Yichang, He Yong, and Dong Wenjie, 2009: Changes in Temperature Extremes
Based on a 6-Hourly Dataset in China from 1961-2005. Advances in Atmospheric
Sciences, Vol. 26, No. 6, 1215-1225
18. Kattenberg A., F. Giorgi, H. Grassl, G.E. Meehl, J.F.B Mitchell, R.J. Stouffer, T.
Tokioka, A.J. Weaver, T.M.I Wigley, 1996: Climate models – projections of future
climate. Climate change 1995, Cambridge University Press, Cambridge.
19. Kunkel K.E., R.A. Pritke, S.A. Changnon, 1999: Temporal fluctuation in weather and
climate extremes that cause economic and human health impacts – a review, Bull. Amer.
Meteor. Soc. 80, 1077.
20. Manton M.J., P.M. Della-Marta, M.R. Haylock, K.J. Hennessy, N. Nicholls, L.E.
Chambers, D.A. Collins, G. Daw, A. Finet, D. Gunawan, K. Inape, H. Isobe, T.S.
Kestin, P. Lafale, C.H. Leyu, T. Lwin, L. Maitrepierre, N. Ouprasitwong, C.M. Page, J.
Pahalad, N. Plummer, M.J. Salinger, R. Suppiah, V.L. Tran, B. Trewin, I. Tibig, D. Yee,
2001: Trends in extreme daily rainfall and temperature in Southern Asia and the South
Pacific: 1961-1998, Int. J. Climatol. 21, 269.
21. Piervitali E., M. Colacino, M. Conte, 1998: Rainfall over the Central Western Mediterranean
basin in the period 1951-1995. Part I: precipitation trend, Nouvo Cimento 21, 331.
22. Qian W. and X. Lin, 2005: Regional trends in recent precipitation indices in China. Meteorol
Atmos Phys 90, 193-207
23. Schoenwiese C. D., J. Rapp, T. Fuchs, M. Denhard, 1994: Observed climate change in Europe
1891-1990, Meteorol Zeitschrift NF 3, 22.
24. Schoenwiese C. D., U. Staehler, W. Birrong, 1990: Temperature and precipitation trends in
Europe and their possible link with greenhouse induced climate change, Theor Appl Climatol
41, 173.
25. Schoenwiese C. D., J. Rapp, 1997: Climate Trend Atlas of Europe based on observations 1891-
1990, Kluwer Academic Publisher, 228pp.
26. Shi Y. F., Y. P. Shen, D. L. Li, G. W. Zhang, Y. J. Ding, R. J. Hu, E. S. Kang, 2003: Discussion
on the present climate change from warm-dry to warm-wet in northwest China, Quaternary Sci
23, 152.
27. Song Lianchun, A. J. Cannon, and P. H. Whitfield, 2007: Changes in Seasonal Patterns
of Temperature and Precipitation in China During 1971-2000. Advances in Atmospheric
Sciences, Vol. 24, No. 3, 459-473
28. Thomas R. Karl, Richard W. Knight David R. Easterling, and Robert G. Quayle, 1996: Indices
of Climate change for the United States. Bulletin of the American Meteorological Society, Vol.
77, No. 2, pp 279-292
29. Toreti A. and F. Desiato, 2008: Temperature trend over Italy from 1961 to 2004. Theor
Appl Climatol. 91, 51–58
30. Weng H., K. M. Lau, Y. Xue, 1999: Multi-scale summer precipitation variability over China and
its long-term link to global sea surface temperature variability, J Meteor Soc Japan 77, 1.
31. Xu Ying, Gao Xuejie, Shen Yan, Xu Chonghai, Shi Ying, and F. Giorgi, 2009: A Daily
Temperature Dataset over China and Its Application in Validating a RCM Simulation.
Advances in Atmospheric Sciences, Vol. 26, No. 4, 763–772
32. Yan Zhongwei, Steven Bate, Richard E. Chandler, and Valerie Isham, Howard Wheater,
2002: An Analysis of Daily Maximum Wind Speed in Northwestern Europe Using
Generalized Linear Models. Journal of Climate, Vol. 15, 2073-2088