40
HỆ THỐNG THÂM CANH LÚA CẢI TIẾN (SRI)

Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

HỆ THỐNG THÂM CANH LÚA CẢI TIẾN (SRI)

Page 2: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Cuốn sách này được được biên soạn với nguồn thông tin được cung cấp từ: Biksham Gujja thuộc Chương trình Nước sạch Toàn cầu, Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Quốc tế (WWF) tại Gland, Thụy Sỹ; V. Vinod Goud, T. M. Thiyagarajan và Manisha Agarwal, WWF tại ICRISAT, Ấn Độ; Gina E. Castillo và Timothy Mahoney ( 2008-2009 ), thuộc tổ chức Oxfam Mỹ tại Boston Hoa Kỳ; Brian Lund, thuộc tổ chức Oxfam Mỹ, văn phòng khu vực Đông Nam Á, Phnôm Pênh, Cam-pu-chia; Lê Nguyệt Minh, thuộc tổ chức Oxfam Mỹ, văn phòng khu vực Đông Nam Á, Hà Nội, Việt Nam; Erika Styger, thuộc tổ chức Africare (2007-2010), Timbuktu, Mali; Norman Uphoff, thuộc Đại học Cornell , Ithaca, Niu-óoc, Hoa Kỳ và Olivia Vent, Điều phối xuất bản, Ithaca, Niu-óoc, Hoa Kỳ.

Tài liệu tham khảo

Africare, Oxfam Mỹ, WWF-ICRISAT. 2010. Nhiều lúa gạo hơn cho con người, nhiều nước hơn cho Hành tinh . WWF-ICRISAT, Hyderabad, Ấn Độ.

© WWF-ICRISAT (2010). Cuốn sách này đã được đăng ký bản quyền. Việc sử dụng cuốn sách dưới dạng bản cứng hay bản điện tử, một trích đoạn hay toàn bộ nội dung cuốn sách cho mục đích phi thương mại đều được chấp nhận với điều kiện phải trích dẫn nguồn từ WWF-ICRISAT. Nếu có bất cứ thắc mắc nào, xin vui lòng liên hệ Ban Truyền thông theo địa chỉ [email protected]. Tên và logo của WWF, Oxfam, Africare đã được đăng ký thương hiệu và không được phép sử dụng tùy tiện nếu không được phép. Bất cứ sự thay đổi thương hiệu, bản quyền hoặc những thông tin liên quan sẽ không được chấp nhận. Tranh ảnh không được phép sử dụng hoặc sao chép nếu không được sự đồng ý.

WWF, Oxfam, Africare và các chi nhánh đại diện của 3 tổ chức này sẽ không chịu trách nhiệm đối với bất cứ phát ngôn hoặc quan điểm nào được trình bày trong bản Báo cáo này mà không thuộc phạm vi hoạt động của họ hoặc đối với bất cứ lỗi nào xảy ra trong quá trình biên soạn Báo cáo.

Thuyết minh trang bìa: Phương pháp SRI hình thành một chiến lược cho nông dân trồng lúa quy mô nhỏ với mức chi phí thấp và sản lượng tăng, giảm nhu cầu về nước, giống và phân hóa học. Cây lúa áp dụng cách thức quản lý SRI tăng trưởng tốt, có bộ rễ chắc khỏe, đẻ nhiều nhánh và bông lúa cho nhiều hạt chắc hơn. Trang bìa chụp cận cảnh những cây lúa trên thửa ruộng của một nông dân thuộc tỉnh Andhra Pradesh, Ấn Độ. Ruộng lúa của anh đã tăng năng suất nhờ áp dụng SRI . Canh tác lúa tiết kiệm nước và sử dụng ít hóa chất đóng vai trò quan trọng đối với vấn đề an ninh lương thực và tính bền vững của môi trường trong thời gian tới. Các phương pháp SRI cũng đã được áp dụng cho các loại cây trồng khác như lúa mì, kê, mía, ngô, đậu và rau.

Page 3: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

BÁO CÁO QUỐC GIA

KHÁI QUÁT

1 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

...............

.......................................................................................

.......................................................................................................

...............................................................................................

........................................................

..............................................................

.............................................................................

..........................................................

....................................................

...........................................................

............................................................................................................

........................................................................................

..................................................................................................................

..................................................................................................

2

4

6

7

8

9

12

16

20

24

29

31

32

33

SRINHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI, NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

HỆ THỐNG THÂM CANH LÚA CẢI TIẾN (SRI) Góp phần đảm bảo an ninh lượng thực, tăng cường khả năng thích ứng của nông dân với Biến đổi khí hậu và tính bền vững của môi trường

TÓM TẮT

Mục lụcLời nói đầu: Tại sao cần phải nhìn nhận lại hoạt động sản xuất lúa gạo?

Vì sao SRI là một tiến bộ?

Lợi ích của SRI

Nông dân nói về SRI

Những nhà hoạch định chính sách nói về SRI

Sự phù hợp của SRI với Biến đổi khí hậu

Giới thiệu các Báo cáo quốc gia

Các lựa chọn

SRI tăng cường khả năng phục hồi và thích ứng của nông dân với Biến đổi khí hậu

Các yêu cầu và chi phí

Kinh nghiệm của Africare về SRI tại Mali

Giới thiệu SRI tại Mali

Cách tiếp cận: Nông dân làm chủ

Kết quả: Năng suất cao hơn, thu nhập tốt hơn

Các bài học

Các bước tiếp theo

Kinh nghiệm của Oxfam về SRI tại Việt Nam

Giới thiệu SRI tại Việt Nam

Cách tiếp cận: Dựa vào cộng đồng

Kết quả: Hộ gia đình nông thôn có khả năng thích ứng và phục hồi tốt hơn

Các bài học

Các bước tiếp theo

Kinh nghiệm của WWF về SRI tại Ấn ĐộGiới thiệu SRI tại Ấn Độ

WWF và SRI

Cách tiếp cận: Xây dựng diễn đàn quốc gia

Kết quả: Các ưu điểm của SRI đã thúc đẩy nhanh hơn việc ứng dụng trên toàn quốc

Các bước tiếp theo

Khuyến nghị

Lợi ích nhờ áp dụng SRI

Phụ lục

Tài liệu tham khảo

Page 4: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Tại sao phải nhìn nhận lạihoạt động sản xuất lúa gạo?

Lúa gạo không chỉ là nguồn cung cấp

lương thực chủ yếu cho một nửa dân

số trên thế giới mà còn là nguồn tạo công ăn việc làm

và thu nhập lớn nhất cho người dân

nông thôn.

LỜI NÓI ĐẦU

2NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Khi các tổ chức khác nhau như Oxfam, Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Quốc tế (WWF) và Africare với những sứ mệnh riêng biệt của từng tổ chức về công bằng xã hội, hòa hợp giữa con người với thiên nhiên và phát triển bền vững độc lập đến với nhau để hỗ trợ một chiến lược chung nhằm giải quyết những thách

thức mang tính toàn cầu thì chiến lược này cần nhận được nhiều sự chú ý và nghiên cứu sâu hơn.

Báo cáo này nêu lên những kinh nghiệm của Africare, Oxfam Mỹ và WWF trong hoạt động triển khai Hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI) tại khu vực Sahel (châu Phi), Đông Nam Á và Ấn Độ. Mặc dù hệ thống này được triển khai tại các khu vực có nền văn hóa và điều kiện khí hậu khác nhau nhưng vẫn có những điểm chung như sau: Người nông dân có thể sản xuất ra nhiều lúa gạo hơn trong khi tiết kiệm được nước, hóa chất, giống và mất ít công lao động hơn. Hệ thống SRI đã giúp cải thiện thu nhập của các hộ gia đình và đảm bảo an ninh lương thực, đồng thời giúp giảm thiểu các tác động tiêu cực đối với môi trường và tăng cường khả năng thích ứng trong việc sản xuất lúa gạo.

Lúa gạo không chỉ là nguồn cung cấp lương thực chủ yếu cho một nửa dân số trên thế giới mà còn là nguồn tạo công ăn việc làm và thu nhập lớn nhất cho những người dân ở nông thôn. Số người nghèo trên thế giới phụ thuộc vào việc trồng lúa và lấy gạo làm lương thực cao hơn bất cứ loại cây lương thực nào khác. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất lúa gạo đã gây ra những tác động đáng kể đối với môi trường. Những tập quán canh tác hiện nay khuyến khích tính đồng nhất gen di truyền. Điều này làm cho cây lúa dễ bị nhiễm sâu hại và dịch bệnh hơn. Canh tác tập quán cũng gây lãng phí các nguồn tài nguyên hiện đang trở nên ngày càng khan hiếm như tài nguyên nước, tài nguyên hóa thạch và hàng năm tiêu tốn khoảng 1/4 đến 1/3 tổng lượng nước ngọt tiêu thụ trên toàn thế giới. Những cánh đồng ngập úng quanh năm được bón nhiều phân hóa học góp phần tăng phát thải khí nhà kính, gây ra hiện tượng trái đất nóng lên. Việc lạm dụng phân hóa học và các chất bảo vệ thực vật dẫn đến hiện tượng ô nhiễm đất và nước. Hơn thế nữa, trồng lúa mất rất nhiều công lao động, trong đó người phụ nữ phải gánh vác nhiều công việc đồng áng, cùng với công việc nội trợ và nuôi dạy con cái.Trong những năm 1970-1980, cuộc Cách mạng xanh đã giúp tăng sản lượng lúa một cách đáng kể. Tuy nhiên, sau đó sản lượng ở một số quốc gia đã giảm dần và việc bón phân tổng hợp đe dọa lớn đến lợi ích thu được.

SRI: CƠ HỘI CÙNG CHIẾN THẮNG

Hoạt động sản xuất lúa gạo cần được đẩy mạnh trong những thập kỷ tới để có thể đáp ứng được nhu cầu dân số ngày một gia tăng, đó là chưa tính đến tình trạng thiếu lương thực và dinh dưỡng hiện nay trên thế giới. Cần phải tăng sản lượng lúa gạo trong điều kiện diện tích đất tính theo đầu người giảm, nguồn nước phục vụ tưới tiêu ít hơn, không làm suy thoái môi trường và không làm kiệt quệ các nguồn lực của các hộ nông dân sản xuất nhỏ, những người chiếm đa số hộ nghèo trên thế giới. Việc tìm ra các giải pháp sản xuất lương thực địa phương đóng vai trò quan trọng trong công tác xóa đói và tạo ra cơ

sở đảm bảo khi giá lương thực tăng cao.

Hiện nay, SRI có lẽ là giải pháp tối ưu nhất cho người nông dân và các quốc gia nhằm thúc đẩy sự phát triển trong sản xuất nông nghiệp dựa vào cộng đồng. Đồng thời, SRI cho phép quản lý các nguồn tài nguyên đất và nước một cách bền vững hơn và thậm chí còn làm tăng năng lực sản xuất của những nguồn tài nguyên này trong tương lai.

SRI là tập hợp các phương pháp thực hành quản lý trồng cây lương thực được thực hiện từ những năm 1980 ở Madagascar nhằm hỗ trợ cho những hộ nông dân quy mô nhỏ. SRI giúp tăng năng suất của các nguồn lực sử dụng trong canh tác lúa, giảm nhu cầu về nước, giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và cắt giảm lao động, đặc biệt là những công việc do phụ nữ đảm nhiệm. SRI chính là một cơ hội hiếm có để các nước đang phát triển hỗ trợ các nông hộ sản xuất lúa một cách hiệu quả, an toàn, tự chủ trong khi không làm xấu đi, thậm chí có thể đảo ngược xu thế về biến đổi khí hậu. Như vậy, SRI mang lại lợi ích cho các hộ gia đình, cho các quốc gia và cho toàn thế giới. Những lợi ích của SRI đã được ghi nhận tại 40 quốc gia, với sản lượng gia tăng ở cả những giống lúa địa phương

Diện tích trồng lúa và sản xuất lúa gạo trên thế giới (Nguồn: Số liệu thống kê của Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế) Trong những thập kỷ qua, sản lượng lúa gạo đã chững lại. Nhu cầu về gạo hiện nay đang gia tăng. Tuy nhiên, tính theo nhịp độ gia tăng dân số, ước tính đến năm 2050, sản lượng lúa gạo phải tăng lên 50% thì mới có thể đáp ứng được nhu cầu lương thực toàn cầu.

Diện tích(triệu hec-ta) Sản lượng (M/T)

Page 5: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn
Page 6: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

KHÁI QUÁT

Vì sao SRI là một tiến bộ?Hơn 90% sản lượng lúa gạo trên Thế giới được thu hoạch trên những cánh đồng được tưới tiêu hoặc những cánh

đồng lúa phụ thuộc nước mưa. Trong những hệ thống này, hạt giống thường được gieo trên các luống đất mạ,

sau 3-6 tuần sẽ được cấy trên cánh đồng và nước luôn được giữ ở mức xâm xấp mặt ruộng trong cả vụ. Nguyên

tắc SRI giới thiệu một số thay đổi đơn giản nhưng giúp cây lúa sinh trưởng tốt hơn. Dưới đây là các bước cơ bản

khi áp dụng cách thức quản lý SRI so với phương pháp canh tác lúa nước truyền thống.

HỆ THỐNG THÂM CANH LÚA CẢI TIẾN (SRI)

1. Tuổi mạ

Mạ non được cấy khi được 8-12 ngày tuổi

Xúc mạ nhẹ nhàng ra khỏi đám mạ và đưa ra ruộng trong xảo hoặc khay. Mạ phải được cấy ngay trong ngày.

Tỷ lệ giống: 5-7 kg /ha

2. Số lượng dảnh

Cấy 1-2 dảnh/khóm, cấy nông 1-2 cm trên đất không đọng nước.

Rễ mạ phải được đặt nhẹ nhàng ngay dưới bề mặt ruộng tránh gây tổn thương cho bộ rễ, tránh làm cây mạ bị sốc.

3. Khoảng cách cấy

Các luống cách nhau khoảng 20-30 cm, theo hình vuông hoặc hình lưới để dễ dàng cho việc làm cỏ sục bùn và giúp cây có đủ ánh sáng mặt trời.

4. Quản lý tưới tiêu

Điều kiện đất thông khí, không úng nước, tưới tiêu xen kẽ.

Nếu có thể, tưới nước vừa phải, hoặc thay phiên tháo nước và tưới nước cho ruộng trong suốt quá trình sinh trưởng của lúa; giữ nước ở mức 1-2 cm sau khi lúa trổ bông.

5. Bón phân

Khuyến khích bón phân hữu cơ, có thể kết hợp với bón phân tổng hợp.

Kết hợp bón phân hữu cơ và phân hóa học giúp đảm bảo cân bằng dinh dưỡng cho đất.

6. Làm cỏ và quản lý sâu bệnh

Công cụ cào cỏ thủ công có thể cào cỏ và đồng thời làm thông thoáng tầng mặt của đất.

Khuyến khích áp dụng phương pháp Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM). Lúa SRI có khả năng kháng sâu hại và dịch bệnh tốt hơn, nhờ vậy ít phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hơn.

4NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 7: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

CANH TÁC LÚA TẬP QUÁN

KHÁI QUÁT

2. Số lượng dảnh

3 -4 dảnh hoặc thậm chí 6-8 dảnh được cấy thành từng khóm sâu trên ruộng ngập nước, làm cho mật độ mạ dày chen chúc và đất bí khí.

1. Tuổi mạ

Cấy khi mạ được 21 - 40 ngày

Rũ hết đất ra khỏi rễ mạ; mạ được bó lại thành từng bó và đưa ra đồng. Các bó mạ được để trong một vài ngày rồi mới cấy.

Tỷ lệ giống: 50-70 kg /ha

5. Bón phân

Bón phân vô cơ tổng hợp, thay thế phân hữu cơ trong khi phân hữu cơ giúp cải tạo cấu trúc và chất đất.

4. Quản lý tưới tiêu

Giữ nước liên tục trong ruộng ở mức 5-15 cm trong toàn vụ.

6. Làm cỏ và quản lý sâu bệnh

Ruộng luôn ngập nước, làm cỏ thủ công hoặc phun thuốc trừ cỏ. Không dùng công cụ cào cỏ nếu cấy ngẫu nhiên, không thẳng hàng.

Đôi khi áp dụng tuy nhiên vẫn phun thuốc trừ sâu hoặc dập dịch khi cần.

IPM được ,

3. Khoảng cách cấy

Khoảng cách cấy dày hơn. Các luống cách nhau 10-15 cm, cấy theo hàng hoặc cấy ngẫu nhiên

5 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 8: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

COUNTRY REPORTS

ĐIỀU KIỆN SINH TRƯỞNG TỐT HƠN

Phương pháp SRI cải thiện các điều kiệnsinh trưởng của cây thông qua:

1. Giảm thời gian phục hồi của mạ non sau khi cấy;

2. Giảm mật độ chen chúc của mạ;

3. Tối ưu hóa các điều kiện về đất và nước;

Các điều kiện này có được nhờ:

• Bộ rễ chắc, khỏe hơn;

Khả năng quang hợp tốt hơn;

Cây sinh trưởng tốt, có khả năng chống

chịu tốt với thời tiết và sâu bệnh;

Số lượng hạt nhiều hơn;

SẢN LƯỢNG CAO HƠN, ĐẦU VÀO ÍT HƠN

Phương pháp SRI cần :

Nhờ chi phí giảm, người nông dân có thể sản xuất ra nhiều lúa gạo để ăn và bán, cải thiện an ninh lương thực và tăng thu nhập. Nhờ tiêu tốn ít nước và hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nên sức khỏe của người nông dân và điều kiện môi trường được cải thiện.

Lợi ích của SRI

Đánh giá tác động của SRI tại 8 quốc gia Xem bảng trong phần Phụ lục

LÚA GẠO NHIỀU HƠN,THU NHẬP CAO HƠN,ÍT TIÊU TỐN NƯỚC HƠN

47% 40% 23% 68%Tăng

sản lượng Tiết kiệm nước Giảm chi phí

trên mỗi hec-ta

Ảnh trên cùng: Cô Sugunamma ở huyện Warangal, vùng Andra Prahesh, Ấn Độ đang làm cỏ và thông khí tầng mặt cho đất.

Ảnh trên: Lúa được trồng trong điều kiện đất thoáng khí có bộ rễ chắc, khỏe hơn lúa trồng trong điều kiện ngập nước quanh vụ.

KHÁI QUÁT

Tăng thu nhập trên mỗi hec-ta

• Rút ngắn thời gian gieo cấy do mạ được cấy khi 8-12 ngày

tuổi, thay vì 1 tháng như cấy tập quán;

Giảm 80-90% giống, do mật độ cấy giảm;

Giảm thời gian cấy do lượng mạ giảm;

Giảm 25-50% lượng nước do không cần giữ nước ngập

ruộng trong cả vụ;

Chi phí cho mỗi hec-ta giảm do nhu cầu về giống, phân hóa

học, thuốc trừ cỏ, thuốc sâu giảm. Ở một số quốc gia, công

lao động cũng giảm;

6NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 9: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Nông dân nói về SRI

Sản lượng cao hơn,chi phí sản xuất thấp hơnVí dụ như lúa thường một khóm có 5 bông, lúa SRI cho 8-10 bông. Lúa

thường có 100-120 hạt chắc, lúa SRI cho 180-200 hạt chắc, thì chắc chắn là

thắng rồi. Làm SRI hay lắm, đánh trúng vào những vấn đề nông dân đang

bức xúc trong sản xuất lúa gạo như chi phí sản xuất cao và thu nhập thấp, đó

là những vấn đề mà nhiều hộ nông dân đã phải chịu đựng. Họ bón nhiều phân

nên đất bị chai, phun tràn lan thuốc trừ cỏ làm lúa bị ốm nên đẻ nhánh kém,

sâu bệnh nhiều, năng suất thấp.

Cộng đồng được khuyến khích

An ninh lương thựccủa hộ gia đình được cải thiện

KHÁI QUÁT

— Bác Lê Ngọc Thạch, Chủ nhiệm hợp tác xã Đại Nghĩa, Việt Nam. Bác

Thạch là một trong những nông dân đầu tiên ở tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội)

áp dụng phương pháp SRI. Chỉ sau bốn vụ, toàn bộ diện tích 175 hec-ta

của hợp tác xã đã được trồng theo SRI.

Lúc đầu, những người không tham gia chương trình thí điểm SRI cười nhạo

chúng tôi. Đến bây giờ thì họ lại tiếc vì đã không học hỏi kỹ thuật SRI. Tôi

mong muốn tất cả 120 nông dân cùng chia sẻ hệ thống tưới tiêu này cùng áp

dụng SRI. Áp dụng SRI đã cho phép chúng tôi cắt giảm đáng kể chi phí bơm

nước tưới. Chúng tôi, 5 nông dân đã áp dụng SRI có thể truyền đạt kỹ thuật lại

cho các nông dân khác.

— Anh Mossa Ag Alhousseini ở làng Bagadadji, vùng Timbuktu, một trong những nông dân đầu tiên áp

dụng SRI ở Mali

Sau khi áp dụng SRI trên diện tích 0.2 hec-ta (trên tổng diện tích 0.65 hec-ta

đất nhà tôi), tôi nhận ra rằng SRI cần ít giống và nước hơn, chỉ cần một phụ

nữ cấy thôi. Tôi có nhiều ruộng lúa hơn so với những năm trước đây và lượng

thức ăn xanh cho gia súc tăng lên gấp rưỡi. Vậy là từ năm nay tôi có thể đảm

bảo cho gia đình tôi có thêm lương thực trong khi vẫn tiết kiệm được chi phí

canh tác.

— Damayanthi Devi, Barmanu ki Sher, Sirmour, Himachal Pradesh. Bà Devi đã được Viện Khoa học tập huấn và hỗ

trợ về kỹ thuật SRI, do WFF-ICRISAT tài trợ

7 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 10: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Những nhà hoạch định chính sách nói về SRI TIỀM NĂNG CHƯA KHAI THÁC

TĂNG SẢN LƯỢNG,GIẢM NƯỚC

Mei Xie, Chuyên gia cao cấp về nguồn nước của Ngân hàng Thế giới đang thử dùng một dụng cụ làm cỏ trên cánh đồng SRI trong một chuyến tham quan mô hình dự án của Ngân hàng thế giới/AMWARM ở Tamil Nadu.

-

KHÁI QUÁT

HIỆU QUẢ KINH TẾHiện nay chúng tôi đã có kinh nghiệm về việc áp dụng SRI

tại Việt Nam. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng SRI đã giúp

tăng hiệu quả kinh tế và có tiềm năng thích ứng với Biến đổi

khí hậu (BĐKH). Những người làm công tác nghiên cứu và

nông dân cần phối kết hợp với nhau để khai thác tiềm năng

này của SRI.

— Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông

thôn, Tiến sĩ Bùi Bá Bổng, trong cuộc họp với bà

Janet McKinley, Chủ tịch Oxfam Mỹ, Tháng 09/2009

SRI bao gồm các phương pháp đã được kiểm chứng thúc

đẩy sự sinh trưởng của cây lúa. Việc áp dụng thí điểm SRI ở

châu Phi đã cho thấy sản lượng tiềm năng của những giống

lúa hiện nay có thể tăng gấp đôi mà không cần tăng lượng

thuốc bảo vệ thực vật và vẫn tiết kiệm nước. SRI thực sự

mang lại hiệu quả kinh tế và thân thiện với môi trường.

— Tiến sỹ Mustapha Ceesay, Trợ lý Tổng giám đốc

phụ trách Nghiên cứu và Phát triển, thuộc Viện

Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc gia, Gambia.

Tất cả mọi người đều ngợi ca Cuộc Cách Mạng Xanh của

Ấn Độ. Bản thân tôi thậm chí còn ấn tượng hơn về SRI, hay

còn gọi là Hệ thống thâm canh lúa cải tiến, và theo tôi được

biết, Thủ tướng Manmohan Singh cũng rất quan tâm đến

SRI. Nhờ áp dụng cách thức quản lý thủy nông và canh tác

một cách hiệu quả, những người nông dân ở Tamil Nadu đã

tăng sản lượng lên khoảng 30%-80%, cắt giảm khoảng

30% lượng nước tưới và nhu cầu phân bón cũng giảm đáng

kể. Kỹ thuật mới này không những giải quyết vấn đề an ninh

lương thực mà còn giải quyết thực trạng khan hiếm nước

hiện đang xấu đi do sự thách thức của BĐKH. Đây thực sự

là những bài học cho tất cả chúng ta.

— Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Robert Zoellick,

Theo Thời báo Hindustan, 02/12/2009.

LỢI ÍCH ĐỐI VỚINÔNG DÂNNhờ có dự án thâm canh lúa cải tiến mà năng suất của bang

Tamil Nadu đã đạt 6,461 triệu tấn. Trong khi phương pháp

canh tác truyền thống cho năng suất 3,45 tấn/ha thì SRI cho

năng suất 6-9 tấn/ha. Những kỹ thuật tiến bộ này sẽ giúp

ngành nông nghiệp của bang thu lợi cao.

— Veerpandi S. Arumugam, Lãnh đạo phụ trách

Nông nghiệp bang Tamil Nadu, Theo Hindu,

01/12/2009.

Tamil Nadu đứng thứ hai về sản lượng lúa gạo, sau bang Punjab, mặc dù bang Tamil Nadu là một trong những bang khô hạn nhất ở Ấn Độ với lượng nước bình quân tính theo đầu người chỉ ở mức 900 m3/người, thấp hơn một nửa so với lượng nước bình quân trên đầu người của quốc gia này. Trong đó, lượng nước phục vụ cho nông nghiệp chiếm đến 75% lượng nước của toàn bang. Năm 2006, nhờ nguồn tín dụng của Ngân hàng Thế Giới, bang đã triển khai một dự án kéo dài 5 năm nhằm cải thiện hệ thống quản lý thủy nông trên lưu vực 63 dòng sông ở bang Tamil Nadu. Hiện nay dự án hiện đại hóa tưới tiêu nông nghiệp, trùng tu và dự trữ nước (IAMWARM) đang mở rộng mô hình SRI trên diện tích 250.000 hec-ta với mục đích tiết kiệm nước và tăng sản lượng trong nông nghiệp. Nông dân được tham dự tập huấn, cung cấp nguyên liệu đầu vào, công cụ (công cụ cào cỏ, dụng cụ đánh dấu), hỗ trợ kỹ thuật và giám sát để triển khai SRI. Trong vụ mùa chính năm 2009, thiếu mưa đã làm đình đốn các hoạt động sản xuất nông nghiệp ở rất nhiều vùng tại Ấn Độ. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Ấn Độ tin tưởng rằng nhờ áp dụng SRI nông dân sẽ có khả năng đạt sản lượng cao, tiêu tốn ít nước hơn mặc dù chỉ canh tác trên một diện tích nhỏ do tác động của hạn hán.

8NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 11: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

PHƯƠNG PHÁP SRI LÀM GIẢM NHU CẦUVỀ NƯỚC TRONG SẢN XUẤT LÚA GẠO

SRI đòi hỏi nhu cầu về nước ít hơn đồng nghĩa với việc người nông dân có thể tiếp tục trồng lúa tại các khu vực khan hiếm về nguồn nước.

Sự phù hợp của SRI với Biến đổi khí hậu

Nguồn nước khan hiếm: Các nguồn nước ngọt chỉ chiếm khoảng 2,5% tổng lượng nước trên Trái Đất, trong đó chỉ một phần nhỏ được sử dụng phục vụ con người. Phần lớn được sử dụng phục vụ tưới tiêu trong nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa. Lượng nước phục vụ tưới tiêu cây lúa lớn gấp 3-5 lần so với lượng nước tưới tiêu lúa mì hoặc ngô. Khi nhu cầu về nước tăng cao (Xem ảnh phân bố nước ở thành thị Ấn Độ), SRI hiện đã trở thành một cơ hội đầy hứa hẹn trong việc giảm nhu cầu về nước trong nông nghiệp. Theo đó, nước sẽ được sử dụng phục vụ các mục đích sinh hoạt và môi trường.

Nguồn: Igor A. Shiklomanov, Viện Thủy văn bang (St. Petersburg) và UNESCO, Pa-ri, 1999. Trong: Biểu đồ về nguồn nước thiết yếu 2. UNEP/GRID-Arendal.

Nguồn:Dữ liệu từ IWMI (2007) và WRI (2005).

Tỷ lệ nước ngọt trênTrái Đất phân chiatheo ngành

CÔNG NGHIỆP 20%

HOẠT ĐỘNG NÔNG NGHIỆP KHÁC40%

SINH HOẠT

10%

TƯỚI TIÊU LÚA 24-30%

KHÁI QUÁT

Biến đổi khí hậu (BĐKH) sẽ tác động tới hoạt động sản xuất lúa gạo, vì vậy sẽ ảnh hưởng đến vấn đề an ninh lượng thực. Theo đánh giá của Viện Quản lý Nguồn nước Quốc tế (IWMI, 2007), nhiệt độ tăng lên 1ºC sẽ làm giảm 7% sản lượng lúa gạo.

Theo tính toán của Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực Quốc tế, tính đến năm 2050, sản lượng lúa gạo của Thế giới sẽ giảm 12-14% do những tác động của BĐKH (Nelson 2009). Ngoài lợi ích tăng sản lượng, SRI còn đem lại ba lợi ích quan trọng liên quan đến BĐKH nếu được áp dụng trên diện rộng:

Ÿ Giảm nhu cầu về nước Ÿ Giảm lượng phát thải khí mê-tan (CH )4

Ÿ Giảm sử dụng phân đạm

Ngoài ra, SRI giúp cho cây có bộ rễ chắc khỏe, có khả năng chống chịu với lũ lụt và mưa bão so với cây lúa trồng tập quán. Quan trọng hơn nữa là bộ rễ bám sâu có thể giúp cây chống chịu hạn tốt hơn.

Theo đánh giá của Viện Quản lý Nguồn nước Quốc tế (IWMI 2007), khoảng 24-30% các nguồn nước ngọt có thể tiếp cận được trên Trái Đất (sông, hồ, tầng nước ngầm) hiện đang được sử dụng phục vụ cho tưới tiêu trong nông nghiệp. Trên Thế giới, khan hiếm nguồn nước hiện đã trở thành một thực trạng đe dọa khoảng 2 tỷ người. Nước phục vụ nông nghiệp ngày càng trở nên khan hiếm. Nhiệt độ tăng cao do tác động của BĐKH sẽ làm tăng nhu cầu về nước cho hoạt động trồng trọt. Vì thế, sự khan hiếm nước càng trở nên nghiêm trọng hơn. Tính đến năm 2025, sẽ có 15-20 triệu hec-ta trong tổng số 79 triệu hec-ta diện tích trồng lúa cần được tưới tiêu (cung cấp ¾ tổng nguồn cung lúa gạo cho thế giới) sẽ bị khan hiếm

về nguồn nước (Theo đánh giá của IWMI 2007). Cũng theo ước tính, đến năm 2015, để xóa đói và suy dinh dưỡng cho dân số thế giới, cần có lượng nước ngọt bổ sung tương đương với lượng nước ngọt hiện đang được sử dụng phục vụ ngành nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt hộ gia đình (SIWI 2005). Cần phải tìm ra những giải pháp để tăng tính hiệu quả sử dụng nguồn nước (bao gồm cả nước tưới tiêu và nước mưa) trong nông nghiệp.

Khi áp dụng SRI, nước cho canh tác lúa tưới tiêu sẽ giảm từ 25-50%. Việc cắt giảm lượng nước trong sản xuất lúa gạo có thể tiết kiệm nước cho việc trồng các loại cây lương thực khác, tăng đa dạng cây trồng và sử dụng cho các lĩnh vực khác như sinh hoạt gia đình, công nghiệp và môi trường. SRI đòi hỏi nhu cầu về nước ít hơn đồng nghĩa với việc người nông dân có thể tiếp tục trồng lúa tại các khu vực khan hiếm về nguồn nước.

Trong ba loại khí phát thải nhà kính (CO , CH , N O), khí các-2 4 2

bô-nic (CO ) được chú ý nhiều nhất do lượng khí phát thải lớn 2

nhất. Tuy nhiên, xét về góc độ phân tử, khí mê-tan (CH ) và ni-4

tơ oxit (N O) có tác động lần lượt gấp 23-25 và 310 lần trong 2

việc làm nóng bầu khí quyển so với khí CO , theo đánh giá của 2

U.C

SRI LÀM GIẢM PHÁT THẢI KHÍ MÊ-TAN

9 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 12: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Theo nhà khoa học Kirk Smith, tính đến năm 2017, cứ 1 tấn khí CH phát thải ở thời điểm hiện nay sẽ tạo ra hiệu ứng làm 4

nóng Trái Đất cao hơn một tấn khí CO phát thải cùng thời 2

điểm (Xem biểu đồ kế bên). Khí CH phát thải từ những hoạt 4

động nông nghiệp phần lớn bắt nguồn từ những cánh đồng ngập nước và từ những loài động vật nhai lại chiếm gần một nửa lượng khí CH do con người tạo ra. Khí CH được tạo ra 4 4

do những vi khuẩn kỵ khí trong đất bị mất ôxy do ngập úng thường xuyên. Việc tạo cho đất luôn ở trong điều kiện háo khí giúp giảm một cách đáng kể lượng phát thải khí CH4

(Nguyên và đồng sự 2007). Theo một nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, hàng năm lượng phát thải khí CH sẽ giảm gần 1/3 nếu tất cả những cánh đồng ngập 4

nước được tháo cạn ít nhất một lần trong suốt mùa vụ và rơm được vùi vào đất vào cuối vụ (Yan và đồng sự 2009). Các phương pháp SRI khuyến khích việc tháo nước khỏi ruộng một vài lần trong toàn vụ.

Những chuyến nghiên cứu thực địa tại Đại học Nông nghiệp Bogor ở In-đô-nê-xi-a đã khẳng định SRI làm giảm đáng kể lượng khí CH phát thải. Theo những đánh giá về tác động 4

của hệ thống quản lý SRI về bón phân hữu cơ lên hiệu ứng phát thải khí nhà kính thì những cánh đồng SRI thí điểm hầu như không có hiện tượng tăng phát thải N O (Iswandi 2008). 2

Nghiên cứu của Trung Quốc được đề cập ở phần trên đã đi đến kết luận với việc giảm ngập nước trên ruộng và vùi rơm vào đất ở cuối vụ thì những lợi ích thu được từ giảm phát thải khí CH sẽ không dẫn đến việc tăng N O. Trường Đại học 4 2

Nông nghiệp Tamil Nadu của Ấn Độ hiện cũng đang nghiên cứu giảm phát thải khí CH từ những cánh đồng áp dụng SRI 4

so với những phương pháp canh tác khác.

CẮT GIẢM LƯỢNG PHÁT THẢI MÊ-TANMANG LẠI NHỮNG LỢI ÍCH TRƯỚC MẮT

… Phân đạm là “một trong ba nguy cơ đe dọa lớn nhất đối với hành tinh của chúng ta, chỉ sau mất đa dạng sinh học và Biến đổi khí hậu”

KHÁI QUÁT

— John Lawton, Cựu tổng giám đốc điều hành,Hội đồng Nghiên cứu Môi trường Tự nhiên,

Vương quốc Anh

SRI CÓ THỂ HẠN CHẾ SỬ DỤNG PHÂN ĐẠM

Ngành nông nghiệp hiện đại phụ thuộc nhiều vào phân bón tổng hợp nhằm duy trì sản lượng mùa vụ, đặc biệt là phân đạm vô cơ. Việc sử dụng phân đạm đã tăng gần 20 lần trong 50 năm qua (Glass 2003), trở thành một trong những tác nhân gây ra phát thải khí N O và axit nitric, gây ra mưa axit. 2

Khoảng một nửa lượng phân đạm được sử dụng trong trồng lúa, ngô và lúa mì, trong đó trồng lúa chiếm 16%. Chỉ khoảng 30-50% lượng phân đạm dùng trong canh tác cây trồng được cây hấp thụ. Trong điều kiện ngập nước, lượng phân đạm thoát ra ngoài môi trường có thể lên đến 60% (Ghosh và Bhat 1998). Các nguồn nước uống ô nhiễm có chứa hàm lượng đạm cao, tích tụ nitrat có thể đầu độc cá và hệ sinh thái biển.

Nếu xu hướng hiện tại vẫn tiếp diễn, nhu cầu phân đạm được dự báo có thể tăng 65% tính đến năm 2050, dẫn đến lượng phát thải đạm vào không khí và nguồn nước tăng gấp đôi (Rashid và đồng sự 2005). Cựu Tổng điều hành Hội đồng Nghiên cứu Môi trường Tự nhiên đã so sánh việc gia tăng sử dụng phân đạm như “ một trong ba nguy cơ lớn nhất đối với hành tinh của chúng ta, chỉ sau mất đa dạng sinh học và BĐKH” (Giles 2005).

Bằng cách áp dụng chất hữu cơ để cải tạo cấu trúc đất, sinh vật đất và thông qua tăng cường tính hiệu quả sử dụng chất dinh dưỡng (Zhao 2009), nông dân có thể hạn chế sử dụng phân đạm và cắt giảm chi phí. Trong khi phân đạm trong các nguyên liệu vô cơ đầu vào có thể gây ra phát thải khí nhà kính, thì hầu hết phân đạm được sản xuất có nguồn từ các sản phẩm hóa dầu gián tiếp gây phát thải khí nhà kính trong quá trình sản xuất và vận chuyển; chúng không có tác dụng lâu dài đối với việc cải thiện chất lượng đất. Ngược lại, những nguyên liệu đầu vào hữu cơ hầu như không mất chi phí sản xuất hay vận chuyển và giúp cải tạo độ màu mỡ của đất về lâu dài.

Oxfam hiện đang hỗ trợ việc sử dụng phân đóng dạng viên, được vùi vào trong đất, nhờ vậy giảm thất thoát chất dinh dưỡng từ những ruộng lúa vào sông hồ. Dù phương pháp SRI sử dụng toàn bộ phân hữu cơ hay kết hợp phân hữu cơ và phân đạm vô cơ đều làm giảm tổng lượng phát thải khí nhà kính do việc sử dụng quá tải, sản xuất và vận chuyển trên quãng đường dài các loại phân hóa học.

“…gần một nửa lượng phát thải đang làm Trái Đất ấm lên trong 20 năm tới do CO gây ra. Khí CH và một số khí khác 2 4

như carbon monoxit (CO), các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi và hạt than đen gây ra hầu hết những thay đổi này. Các mô hình gần đây đã cho thấy cách thức hiệu quả nhất để hạn chế hiện tượng làm nóng Trái Đất trong thế kỷ 21 là ngay lập tức giảm lượng phát thải của những khí này và duy trì phát thải ở mức thấp. Nguy cơ đe dọa sức khỏe con người của những chất gây ô nhiễm không khí này cao hơn tất cả những nguy cơ môi trường và căn bệnh khác, ví dụ như bệnh sốt rét và bệnh lao. Việc cắt giảm phát thải khí CH và 4

một số chất ô nhiễm tạo ra từ phát thải khí nhà kính khác có thể giúp bảo vệ sức khỏe con người. Nó này nằm trong khả năng của chúng ta và đem lại rất nhiều lợi ích trước mắt.”

— Giáo sư Kirk Smith, Khoa Sức khỏe Môi trường toàn cầu, Đại học California, Theo Berkeley

Nguồn: Cục Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ

Việc chuyển đổi mô hình canh tác tưới tiêu sang mô hình SRI là một chiến lược đầy hứa hẹn với chi phí thấp giúp giảm phát thải CH trên toàn cầu. 4

10NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Lượng CH4 phát thải trên toàn cầutừ các nguồn khác nhau năm 2000

Khí tự nhiên15%

Than đá8%

Dầu1%

Rác thải rắn13%

Nước thải10%

Nhiên liệu1%

Đốt cháynhiên liệusinh học

4%

Đốt cháysinh khối

5%

Lên men ruột28%

Phân4%

Lúa 11%

Page 13: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

BÁO CÁO QUỐC GIA

Những kinh nghiệm về SRI: Báo cáo quốc gia từ

Mali, Việt Nam và Ấn Độ

11 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 14: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

GIỚI THIỆU CÁC BÁO CÁO QUỐC GIA

Dù ở Ấn Độ, Mali hay Việt Nam, những hộ gia đình nhỏ, đại diện cho lớp người nghèo trên thế giới mà chúng tôi cùng làm việc, hiện đang đều phải đối mặt với những thách thức như nhau. Những thách thức này bao gồm diện tích đất

canh tác ít, lợi nhuận thấp do sản lượng thu được không đủ bù lỗ cho chi phí đầu tư mua giống, hóa chất, nợ nần, nguồn cung nước không đủ hoặc thất thường, đất bị sử dụng quá tải, mùa màng thất bát do các hiện tượng thời tiết cực đoan, sâu hại, khó tiếp cận thị trường và thông tin, thiếu hoặc sử dụng quá tải nguyên liệu đầu vào.

Đặt trong bối cảnh cần phải tìm kiếm những giải pháp nhằm cải thiện đời sống của những hộ gia đình nông thôn dễ chịu tổn thương, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức xã hội dân sự đã tiến hành nghiên cứu SRI. Africare, Oxfam và WWF hiện đang ở những giai đoạn trải nghiệm khác nhau về thực hành, đánh giá và thúc đẩy mô hình SRI. Africare bắt đầu thí điểm SRI trên đồng ruộng tại Timbuktu, Mali năm 2007. Tháng 2/2010, cuộc họp cấp quốc gia đầu tiên về SRI đã được tổ chức tại Mali nhằm trình bày kết quả của ba dự án tiến hành tại năm trên tổng số tám vùng của Mali, với sự tham gia của 450 nông dân. Oxfam đã hỗ trợ ứng dụng SRI tại khu vực sông Mê-kông từ năm 2003 và nhân rộng cho 264.000 nông dân Việt Nam và 100.000 nông dân Cam-pu-chia. Trong khi đó, WWF đã tiến hành đánh giá, thúc đẩy các nguyên tắc SRI tại Ấn Độ từ năm 2004,với sự tham gia của hơn 600.000 nông hộ sản xuất quy mô nhỏ thông qua rất nhiều các sáng kiến của xã hội dân sự, Chính phủ, các trường đại học, cộng đồng và khu vực tư nhân.

Những báo cáo quốc gia được soạn thảo trình bày phần nào về SRI và các tổ chức đang làm việc về SRI. Oxfam hỗ trợ các hoạt động SRI ở khu vực Nam Á và Đông Nam Á. WWF hỗ trợ các hoạt động SRI trên diện rộng tại Ấn Độ, Morocco và hỗ trợ Tanzania trên diện nhỏ hơn.

Tại Ấn Độ, hiện nay WWF đang hướng đến việc áp dụng SRI trên những loại cây trồng khác đang “khát” nước như mía và lúa mì.

SRI đã được công nhận tại 40 quốc gia và trong các điều kiện trồng lúa khác nhau. Từ trái qua phải: Rio Grande do Sul ở phía Nam Bra-xin; Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc gia tại tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc; và người nông dân đầu tiên áp dụng SRI thuộc dự án MWEA ở Kenya.

BÁO CÁO QUỐC GIA

Mặc dù vậy, những quốc gia này cũng cho thấy sự đa dạng về điều kiện xã hội và hệ sinh thái nông nghiệp mà trong đó SRI đang được áp dụng, những lợi ích, cũng như các hạn chế, phương thức tiếp cận và các chiến lược nhân rộng. Ở các nước này, chúng tôi cùng những tổ chức đối tác trong nước đã làm việc tích cực và chặt chẽ với nông dân, vì vậy, những kiến thức về SRI bước đầu đã để lại những ấn tượng tích cực với người nông dân và cộng đồng.

CÁC LỰA CHỌN

Thực tế ở các quốc gia áp dụng SRI cho thấy SRI không phải là một kỹ thuật tập quán. Không mang tính chất áp đặt như một công thức kỹ thuật, SRI có thể được ví như một thực đơn, bao gồm rất nhiều sự lựa chọn nhằm tăng cường tính hiệu quả của đất canh tác, sức lao động, nước, chất dinh dưỡng và vốn. Kết quả tối ưu nhất sẽ đạt được nếu tuân thủ tất cả các bước do có hiệu ứng hiệp lực giữa các bước. Tuy nhiên, người nông dân có thể lựa chọn tuân thủ tất cả các bước hoặc một số bước mà họ thấy phù hợp và tùy điều kiện thực tế cho phép. Dù triển khai bất kỳ bước nào thì người nông dân cũng sẽ nhận thấy những tiến bộ rõ rệt làm họ phấn khích và khuyến khích các nông dân khác áp dụng. Như vậy, những gì được “tăng cường” là kiến thức, kỹ năng và cách thức quản lý, chứ không phải là tăng số lượng nguyên liệu đầu vào trong sản xuất.

Như vậy, chúng ta có thể hiểu được vì sao kết quả thu được không giống nhau ở các quốc gia, và thậm chí kết quả không giống nhau ngay trên những cánh đồng liền kề. Kết quả tùy thuộc vào đất, khí hậu, những khó khăn của từng địa phương, các bước được áp dụng và chất lượng của công tác quản lý. Điều này giúp lý giải vì sao một số nông dân có thể tăng sản lượng lên gấp ba lần trong khi một số người khác bước đầu chỉ có thể tăng sản lượng lên 20%. Thông thường, nếu người nông dân càng có kỹ năng và tự tin thì hiệu quả mùa vụ càng cao. Mặc dù lúc đầu cũng có một số tranh cãi giữa các nhà khoa học đối với những báo cáo về

12NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 15: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Tầm quan trọng của SRI không chỉ ở chỗ giúp nông dân tăng sản lượng, giảm lượng nước mà còn ở những lợi ích xã hội và môi trường mà SRI mang lại

SRI, tuy nhiên những tranh cãi đã lắng xuống khi những nghiên cứu khoa học đánh giá tác động của SRI bắt đầu được xuất bản trên phạm vi quốc tế, được kiểm chứng và khi SRI được các cơ quan Chính phủ của các quốc gia có thế mạnh về sản xuất lúa gạo như Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Cam-pu-chia và Việt Nam ủng hộ dựa trên những đánh giá và kinh nghiệm thực tiễn về SRI.

Vẫn còn tồn tại một số ý kiến xung quanh vấn đề liệu SRI có thể làm được điều mà các nhà khoa học vẫn gọi là “cách quản lý tối ưu” hay không do các kết quả thu được không nhất quán. Tuy nhiên, không nên so sánh SRI với những biện pháp canh tác chi phí cao, đòi hỏi đầu vào lớn vì những phương pháp này nằm ngoài khả năng của những nông dân nghèo, những người cần tăng hiệu quả sản xuất lên mức cao nhất dựa vào những nguồn lực rất hạn chế về đất đai, sức lao động, vốn và nước tưới.

KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG VỚI BĐKH CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH ĐƯỢC CẢI THIỆN

Tầm quan trọng của SRI không chỉ ở chỗ giúp nông dân tăng sản lượng đồng thời giảm lượng nước mà SRI còn mang lại những lợi ích xã hội và môi trường. Nên lưu ý là phương pháp này mang tính linh hoạt cao. Nông dân có thể áp dụng các bước tùy thuộc vào hoàn cảnh thực tế và tùy theo kỹ năng cũng như kiến thức mà họ tiếp thu được. Các phương pháp có thể áp dụng cho mọi giống lúa và trên các đồng ruộng có diện tích khác nhau, từ quy mô nhỏ đến lớn. Tuy nhiên, các phương pháp được thiết kế đặc biệt phù hợp với nhu cầu của các hộ gia đình hạn chế về các nguồn lực và chủ yếu phụ thuộc vào các thửa ruộng diện tích nhỏ. Vì vậy, các phương pháp SRI về căn bản vì người nghèo.

Các hộ nông dân nghèo có nguồn lực tài chính hạn hẹp và không có nhiều sự lựa chọn hiện đang chịu áp lực lớn để duy trì nguồn thu nhập ít ỏi và họ hầu như không được trang bị để ứng phó với những biến động giá cả của nguyên liệu đầu vào và rất khó phục hồi khi mùa màng thất bát hay gia súc chết. SRI và các lợi ích của nó trang bị cho người nông dân những chiến lược tự quản lý rủi ro, năng lực và các hệ thống

nông trang để có thể tự khôi phục sau các sự cố. Yếu tố này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh nhiệt độ và các hiện tượng bất thường của thời tiết được dự báo sẽ gia tăng trong những thập kỷ tới. Các chiến lược theo báo cáo từ những chương trình ở Cam-pu-chia, Việt Nam, Ấn Độ và Mali và theo quan sát ở một số quốc gia khác sẽ được tóm tắt ở trang 14.

YÊU CẨU ĐÒI HỎI VÀ CHI PHÍ

SRI hiện đang được liên tục cải thiện và sự sáng tạo của người nông dân có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Các thực hành về tuổi mạ và mật độ cấy, quản lý nguồn nước, quản lý sâu bệnh và các lựa chọn sử dụng phân bón được áp dụng tùy vào điều kiện của từng địa phương và tùy mùa vụ. Mặc dù, SRI có thể áp dụng được trong rất nhiều các điều kiện và các hệ thống cây trồng khác nhau nhưng người nông dân vẫn gặp một số cản trở khi tiếp thu những kỹ thuật và tiến bộ mới. Những khó khăn có thể kế đến như thiếu hệ thống thoát nước và kiểm soát nguồn nước tốt, nguồn lực lao động không sẵn có, đặc biệt trong giai đoạn học hỏi những kiến thức mới về SRI, mạ non dễ bị tổn thương, không có đủ phân hữu cơ bón cho ruộng, không thể tiếp cận được các công cụ như dụng cụ làm cỏ, dụng cụ đánh dấu và hơn nữa nông dân còn rất e dè trong việc chuyển đổi từ canh tác tập quán sang những phương pháp được giới thiệu trong các chương trình khuyến nông. Một số khó khăn có thể được khắc phục nhờ học hỏi, thực hành thêm hoặc tiếp cận với những công cụ, trong khi đó, một số khó khăn khác có thể được khắc phục nhờ những cải thiện về môi trường chính sách và thể chế tạo điều kiện cho SRI được nhân rộng ra cả vùng và toàn bộ châu thổ.

Trong giai đoạn đầu, các bước SRI có thể đòi hỏi nhiều sức lao động hơn – chủ yếu cho công đoạn làm đất và làm cỏ. Hầu hết các nông dân áp dụng SRI nhận thấy rằng nhờ nắm bắt được kỹ năng và kỹ thuật nên hiệu quả công việc của họ được cải thiện và việc áp dụng SRI thực sự tiết kiệm được sức lao động. Ví dụ, ở Cam-pu-chia và Việt Nam, phụ nữ đã ghi nhận việc tiết kiệm sức lao động trong giai đoạn cấy là một điểm mạnh của SRI. Việc nhân rộng SRI khuyến khích những sáng kiến và đánh giá của nông dân. SRI khuyến khích nông dân có trách nhiệm hơn với việc thích ứng và đổi mới, đóng góp cho sự phát triển nguồn nhân lực ở các khu vực nông thôn và giúp nông dân nhận biết và sử dụng một cách tốt hơn những tiến bộ khác.

Những độc giả ở các quốc gia khác quan tâm đến các hoạt động SRI, về các khía cạnh liên quan đến nghiên cứu và khoa học có thể tham khảo các bài báo và các nguồn tư liệu khác trong phần Phụ lục.

BÁO CÁO QUỐC GIA GIỚI THIỆU

Phương pháp SRI đã đem lại hiệu quả tại rất nhiều địa phương nơi người dân đang dần hồi phục sau các cuộc bạo động và thảm họa thiên tai. Tại miền Bắc Afghanistan, Tổ chức Aga Khan hiện đang giới thiệu SRI trong những điều kiện rất khó khăn. Trong năm 2009, đối chiếu những kết quả thu được từ 27 nông dân cho thấy sản lượng đạt được đã tăng một cách đáng kể (Theo Thomas và Ramzi, 2009).

13 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

So sánh sản lượng thu được giữa phương pháp SRI và phương pháp tập quán – Nông dân ở Baghlan

Baghlan - phương pháp tập quán

Số thứ tự nông dân

Tấn

/ha

Baghlan - SRI

Page 16: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

SRI tăng cường khả năng phục hồi và thích ứng của hộ nông dân trước Biến đổi khí hậu

Những lợi ích được báo cáo và công nhận

Sản lượng cao hơn tính theo một đơn vị diện tích đất, công lao động và vốn đầu tư

Sản lượng lúa gạo bình quân tăng 20%-50%, thậm chí còn cao hơn, không những giúp tạo ra nhiều lương thực hơn mà còn giải phóng đất và sức lao động cho các hoạt động sản xuất khác. Năng suất cao hơn trên mỗi đơn vị diện tích đất làm giảm áp lực mở rộng diện tích canh tác gây ảnh hưởng tới các hệ sinh thái khác

GIỚI THIỆU BÁO CÁO QUỐC GIA

Tăng cường khả năng phục hồi và thích ứng với BĐKH

Giảm gánh nặng công việc của người phụ nữ

Phụ nữ ghi nhận phương pháp SRI giúp họ tiết kiệm được thời gian và bớt đi nỗi vất vả cực nhọc cấy trồng do họ mất ít thời gian hơn cho công việc chăm sóc và cấy mạ non, việc cấy mạ non cũng dễ dàng hơn và mất ít thời gian tát nước hơn. SRI giúp phụ nữ có thêm thời gian cho công việc khác như trồng rau để cải thiện bữa ăn trong gia đình và tạo điều kiện cho các thành viên khác trong gia đình tìm kiếm công việc phi nông nghiệp khác. Như vậy, SRI giúp đa dạng hoá nguồn thu nhập của hộ nông dân.

Giảm nhu cầu nước tưới

Áp dụng SRI, nhu cầu nước tưới giảm từ 25-50% do nước chỉ được tưới để duy trì điều kiện đất thoáng khí. Nông dân có thể tiến hành canh tác lúa ở cả những khu vực ngày càng khan hiếm nước hoặc khó dự báo chế độ mưa. Nông dân có thể giảm thất bát mùa màng do mùa mưa đến muộn hoặc lượng mưa ít. Nhu cầu nước ít hơn đồng nghĩa với việc nông dân sẽ có nhiều nước sử dụng hơn. Nước có thể được sử dụng để tưới cho các loại cây trồng khác, phục vụ nhu cầu con người và duy trì các hệ sinh thái tự nhiên.

Giảm tỷ lệ giống

Nhờ giảm được 80-90% giống nên người nông dân cần ít diện tích đất hơn để gieo mạ. Mạ cấy bình thường với tỷ lệ 50-70kg/ha trong khi đó mạ cấy theo phương pháp SRI với tỷ lệ chỉ 5-7kg/ha, giúp nông dân có thêm gạo để ăn thay vì để dành làm giống. Những đám đất gieo mạ nhỏ nên rất dễ quản lý và tiết kiệm diện tích đất.

Giảm sự phụ thuộc vào phân hoá học, thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu

Chi phí phân bón và nguyên liệu đầu vào cao là một trong những nguyên nhân khiến người nông dân quan tâm đến SRI do SRI giúp họ hạn chế sử dụng các hoá chất mà không làm giảm sản lượng. Lượng hoá chất sử dụng giảm cũng mang lại những lợi ích về sức khoẻ cho người nông dân và gia súc. Lượng hoá chất sử dụng giảm kết hợp với chất lượng đất và nước được cải thiện tạo ra những ảnh hưởng tích cực đối với môi trường.

Tăng cường khả năng chống chịu trước ảnh hưởng của mưa bão (cũng như các đợt rét)

BĐKH hiện nay đang gây ra những cơn bão thường xuyên với sức tàn phá mạnh hơn, gây thiệt hại cho cây lúa. Đây thực sự là một thảm hoạ với người nông dân. Cây lúa bị đổ gãy rất dễ bị thối mục và gây khó khăn cho việc gặt. Các phương pháp SRI giúp cây lúa có bộ rễ ăn sâu và khoẻ hơn, khó bị gãy rạp và đổ.

Tăng cường khả năng chống chịu với hạn hánCây lúa SRI có bộ rễ ăn sâu vào lòng đất. Ở độ sâu lớn hơn, cây có thể lấy được độ ẩm và chất dinh dưỡng tốt hơn từ đất. Đặc điểm này đóng vai trò rất quan trọng khi nguy cơ lượng mưa thay đổi ngày càng tăng trong suốt cả mùa vụ như hiện nay.

Mùa vụ ngắn hơnVới cùng một giống lúa SRI có thể gặt sớm hơn 1-2 tuần, thậm chí 3 tuần so với lúa trồng theo phương pháp tập quán. Điều này vừa mang lại lợi ích kinh tế, vừa mang lại lợi ích cho môi trường. Nông dân có thể sử dụng ruộng để trồng các cây ngắn ngày như rau, hoặc có thể trồng gối vụ lúa mì sớm hơn và cho sản lượng cao hơn. Mùa vụ ngắn hơn giúp giảm nhu cầu về nước, giảm nguy cơ sâu bệnh và nguy cơ bị tan phá bởi mưa bão thường xảy ra vào cuối vụ.

Tốn ít giống và giảm thời gian gieo mạ giúp tạo ra sự linh hoạt

Nếu cây trồng có khả năng chống chọi tốt với các điều kiện bất lợi của thời tiết thì nông dân sẽ dễ dàng tìm giống và gieo lại mạ vì SRI chỉ đòi hỏi bằng 1/10 lượng giống và mạ có thể được cấy sau 8-15 ngày, thay vì 30-45 ngày so với cấy tập quán. Nếu nông dân phải đi xa kiếm việc làm thêm thì họ có thể đi sớm hơn sau khi cấy mạ xong, và nếu gặp rủi ro phải cấy lại thì họ chỉ cần ít thời gian để ở lại nhà.

Tăng sản lượng và tiềm năng thị trường của các giống lúa truyền thống giúp các giống lúa

này có thể tồn tại

Áp dụng SRI, nông dân có thể thu được sản lượng cao hơn từ những giống lúa truyền thống, hầu hết các giống này mang đặc tính di truyền thích ứng tốt hơn với BĐKH. Các giống địa phương thường có giá cao hơn trên thị trường. Đa dạng sinh học giống lúa đã giảm mạnh từ những năm 1960. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã cho thấy rất nhiều các giống truyền thống chứa hàm lượng sắt và prô-tê-in cao hơn. Việc cải tạo và bảo tồn các giống cây trồng vật nuôi có thể tạo ra đa dạng di truyền nhằm ứng phó với những điều kiện nuôi trồng bất lợi và duy trì tính bền vững của các hệ thống canh tác

Nâng cao kiến thức, kỹ năng thử nghiệm và tính sáng tạo của nông dân

Việc nhân rộng các mô hình về SRI thúc đẩy nông dân sáng tạo và tự đánh giá. SRI khuyến khích nông dân có trách nhiệm hơn với việc thích ứng và sáng tạo, góp phần phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn và giúp nông dân có thể phát hiện và khai thác những sáng kiến khác.

Nâng cao kiến thức, kỹ năng thử nghiệm và tính sáng tạo của nông dân

Với sản lượng thu được cao tính trên 1 đơn vị diện tích đất trồng trọt, nhiều nông dân đã sử dụng một phần diện tích đất để trồng thêm một số loại cây khác giàu chất dinh dưỡng và cho lợi nhuận cao như hoa quả, rau, đậu, nuôi thả gia súc, cải thiện bữa ăn và tạo thêm thu nhập. Việc cắt giảm sử dụng hoá chất làm cho hệ thống canh tác thích hợp hơn với việc nuôi cá, nuôi gà vịt. Các hệ thống cây trồng được đa dạng giúp bảo vệ đa dạng sinh học và tích tụ các-bon vào trong đất.

Tăng khả năng kháng chịu sâu bệnh BĐKH cũng là tác nhân làm gia tăng sự hoành hành của các loài sâu bệnh do nhiệt độ tăng cao và lượng mưa thay đổi. Theo cách thức quản lý của SRI, mùa màng sẽ ít thiệt hại vì sâu bệnh mặc dù sử dụng ít hoá chất hơn.

14NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 17: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

BÁO CÁO QUỐC GIA GIỚI THIỆU

SRI làm vơi đi nỗi vất vả trong việc cấy trồng lúa của người phụ nữ. Làm việc trên những mảnh đất gieo mạ nhỏ hơn, ít mạ hơn với các công cụ tiết kiệm lao động đã giúp họ có thêm thời gian cho những hoạt động khác. SRI cũng giúp phụ nữ thoát cảnh ngâm nước hoặc cúi khom lưng hàng giờ liền, gây ảnh hưởng không tốt tới sức khoẻ của họ.

Nhờ áp dụng SRI, nhiều nông dân có thể tăng thu nhập cho gia đình do bán lúa ở thị trường trong nước và xuất khẩu, đặc biệt là các giống lúa truyền thống, nhờ vậy mà thúc đẩy việc bảo tồn đa dạng sinh học giống lúa . Lotus Foods, một công ty ở California, Hoa Kỳ hiện đang nhập khẩu gạo sản xuất theo phương pháp SRI của các nông dân ở Cam-pu-chia, In-đô-nê-xi-a và Madagascar. Các ảnh trên: Đồng Chủ tịch của công ty, ông Ken Lee đang kiểm định chất lượng gạo tại Cam-pu-chia; Gạo SRI của In-đô-nê-xi-a được cấp chứng nhận Tốt cho Cuộc sống; và trưng bày các sản phẩm gạo SRI tại Hội chợ Thương mại năm 2009.

Lúa SRI có bộ rễ khoẻ và bám sâu hơn vào lòng đất giúp chúng chống chịu tốt hơn với gió bão. Đây là hình ảnh cánh đồng lúa của thôn Đông Trù, phía bắc Hà Nội sau một trận bão. Cánh đồng SRI ở bên trái, cánh đồng canh tác tập quán ở bên phải

Với cùng một giống lúa, lúa SRI thường có thể thu hoạch sớm hơn trước một vài tuần so với lúa trồng tập quán. Ở Mali có thể thấy lúa SRI (bên phải) chín sớm hơn lúa trồng theo truyền thống (bên trái). Hai cánh đồng trồng cùng một giống lúa, được cấy cùng một ngày. Mùa vụ ngắn hơn đem lại một số lợi ích: nhu cầu tưới tiêu ít hơn nhờ vậy mà giảm được lượng nước và chi phí bơm nước; thời gian cho thu hoạch ngắn hơn cho phép người nông dân chuyển sang các giống dài ngày hơn, cho năng suất cao hơn.

SRI khuyến khích nông dân sáng tạo và khuyến khích sự phát triển của những doanh nghiệp nhỏ. Đây là ví dụ về việc sáng chế ra dụng cụ làm cỏ, dụng cụ này có thể làm cỏ hai hàng cùng một lúc và có thể điều chỉnh cho phù hợp với khoảng cách giữa hai hàng.

15 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 18: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Trên các ruộng mạ truyền thống (ảnh phía trên bên trái), phụ nữ ngồi ngâm trong nước hàng giờ để nhổ mạ, điều này rất không tốt cho sức khỏe. Rễ mạ sau đó được rửa sạch và rũ bỏ đất bám xung quanh rễ trước khi mạ được bọc lại và đem ra ruộng. Mạ SRI (ảnh bên phải) được xúc một cách nhẹ nhàng bằng cuốc và vận chuyển mạ ra đồng trở thành “trò chơi của trẻ con”

KINH NGHIỆM LÀM AFRICARE TẠI MALISRI CỦA

BÁO CÁO QUỐC GIA

Africare bắt đầu hoạt động tại Mali từ năm 1973, làm việc với cộng đồng nhằm tăng sản lượng lương thực và thu nhập cho người dân nông thôn, cải thiện sức khoẻ, điều kiện dinh dưỡng và quản lý tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên nước.

Từ năm 1997, Africare tập trung nỗ lực triển khai Chương trình an ninh lương thực tổng hợp tại Timbuktu. Vùng đất khô cằn giáp sa mạc Sahara này là một trong những khu vực bất ổn lương thực nhất tại Mali. Lượng mưa trung bình hàng năm chỉ khoảng 150-200 mm. Vì thế sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào lưu lượng nước của con sông Niger và lượng nước lũ lên theo mùa của các nhánh sông và ao hồ. Theo truyền thống, nông dân sử dụng nước lũ hàng năm để tiến hành canh tác trên các bãi bồi khi nước lũ rút hoặc canh tác lúa nước sâu ngay trong mùa lũ. Phạm vi của lũ quyết định diện tích đất canh tác hàng năm. Phạm vi lũ thay đổi thường xuyên làm cho sản xuất nông nghiệp không bền vững. Sản lượng thường rất thấp, chưa đến 1 tấn/ha, tính cả lúa gạo và lúa miến.

Cây lúa có vai trò quan trọng trong chiến lược vùng cũng như đối với toàn bộ quốc gia này. Lúa gạo hiện ngày càng được cư dân thành thị ưa chuộng thay vì lúa miến, kê và cũng được ưa chuộng ngay tại các vùng nông thôn nơi sản xuất ra sản phẩm này. Luợng tiêu dùng hàng năm tính theo đầu người đã tăng gấp ba lần trong 20 năm qua, từ 34kg/ người/ năm lên 94kg/ người/ năm. Để tăng sản lượng, diện tích tưới tiêu đã được mở rộng, giúp nông dân tăng năng suất lên 4-6 tấn/ha.

Africare đã làm việc với những nông dân để xây dựng các mô hình thủy lợi nhỏ, mỗi mô hình khoảng 30-35 ha, được tưới tiêu bằng một máy bơm chạy động cơ điêzen. Tuy nhiên, trong các mô hình này, 80-100 nông dân phải chung nhau một khu ruộng được tưới tiêu. Diện tích canh tác được tưới tiêu cho mỗi hộ gia đình khoảng 1/3 ha. Việc tăng sản lượng lên tối đa và sử dụng một cách tối ưu nhất đầu vào trong đó có tài nguyên nước trên những cánh đồng diện tích nhỏ này có vai trò cực kỳ quan trọng trong công tác giảm nghèo.

Chương trình Sáng kiến An ninh Lượng thực Goundam được Africare triển khai với nguồn tài trợ của tổ chức USAID đã tiến hành thí điểm SRI lần đầu tiên vào năm 2007 nhằm đánh giá hiệu quả mô hình SRI so với các phương pháp canh tác tập quán khác tại Timbuktu, đồng thời đánh giá tác động tiềm năng của SRI đối với vấn đề an ninh lương thực.

Các cố vấn kỹ thuật của SRI đã chọn lựa các nguyên tắc và các bước tiến hành SRI để đưa vào thử nghiệm. Hộ gia đình ông Imam ở làng Douegoussou, trưởng làng và đồng thời là nông dân đầu tiên thử nghiệm mô hình trên ruộng nhà mình, tự bỏ công lao động và các nguyên liệu đầu vào. Các bước bao gồm cấy mạ non một dảnh/khóm mắt sàng vuông 25 cen-ti-met, bón phân hữu cơ đã cho ra sản lượng 9 tấn/ha trong khi sản lượng cao nhất từng đạt được trước đây là 6,7 tấn/ha.

GIỚI THIỆU SRI

Dựa trên những kết quả khả quan trên, tổ chức Better U Foundation (BUF) đã tài trợ cho Africare để tiến hành đánh giá hiệu quả SRI trên diện rộng hơn trong vụ mùa năm 2008-2009 nhằm:

Ÿ Thu thập thông tin về việc triển khai SRI tại các cánh đồng trong khu vực

Ÿ Nâng cao nhận thức cơ bản về SRI tại các khu vực trồng lúa của Timbuktu

Ÿ Xác định tiềm năng cho việc nhân rộng mô hình SRI tại Timbuktu và trên toàn Mali

Africare đã lựa chọn 12 thôn tại Dire và Goundam mà tổ chức đã hợp tác trong suốt 5-10 năm qua và có đặc điểm địa lý khác nhau. 12 thôn đã được lựa chọn tham gia thông qua bỏ phiếu và mỗi thôn có năm nông dân tự nguyện tham gia đánh giá SRI. Diện tích canh tác lúa của 12 thôn khoảng hơn 1.900 hec-ta, chiếm hơn 10% tổng diện tích trồng lúa ở Timbuktu, bao gồm gần 17.200 hộ trồng lúa.

CÁCH TIẾP CẬN: NÔNG DÂN LÀM CHỦ

16NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 19: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

AFRICARE

Sản lượng bình quân trên các thửa ruộng SRI cao hơn 66% so với các thửa ruộng đối chứng (Xem biểu đồ). Mặc dù phương pháp SRI giúp tiết kiệm được 3,5-5 lần giống trong giai đoạn cấy, một dảnh mạ SRI trung bình cho ra hơn 50% nhánh so với cấy 3 dảnh trong các ô ruộng đối chứng. Khi thu hoạch, số lượng bông lúa SRI trên mỗi mét vuông cao hơn 31% so với các ruộng đối chứng. Ảnh bên: anh Bouba Boureima, một nông dân ở làng Morikoira đang cầm một khóm lúa 3-4 bông ở ruộng đối chứng (bên trái) và một khóm lúa SRI (bên phải).

BÁO CÁO QUỐC GIA

Africare cung cấp cho mỗi thôn một dụng cụ làm cỏ (một loại dụng cụ đơn giản mà trước đây chưa được biết đến tại những thôn này) và hỗ trợ kỹ thuật cho họ. Cứ 15 nông dân lại có một người hướng dẫn cách thức áp dụng các bước SRI. Lãnh đạo phụ trách nông nghiệp tại Goundam đảm bảo những số liệu được thu thập theo đúng nguyên tắc. Các nông dân tình nguyện đã đi thăm ruộng của nhau cũng như mời những người muốn học hỏi về SRI đến thăm ruộng của mình. Họ cũng tham gia vào các cuộc đánh giá do Africare tổ chức, đề xuất các khuyến nghị và tham gia xây dựng giáo trình tập huấn về SRI.

Nông dân tự lựa chọn kích thước thửa ruộng, giống lúa, phân bón và tự lo các nguyên liệu đầu vào. Các thửa ruộng gieo mạ SRI và các thửa ruộng đối chứng (trung bình khoảng 400 m2) được gieo cùng một loại giống vào cùng một ngày. Mạ non được cấy 10-12 ngày sau khi hạt nảy mầm, cấy một dảnh. Trên các thửa ruộng đối chứng, mạ non được cấy trung bình khoảng 29 ngày sau khi hạt nảy mầm, cấy 2-5 dảnh. Do việc phân bổ nước được xây dựng trước theo kế hoạch tưới tiêu nên việc tiết kiệm nước không thực sự tối ưu.

Ngành nông nghiệp đã đưa ra khuyến nghị nên bón 200kg phân urê cho mỗi hec-ta lúa. Các nông dân áp dụng SRI được khuyến cáo chỉ nên bón phân hóa học trong trường hợp thực sự cần thiết, và nên hạn chế tối đa việc sử dụng phân bón.Tất cả các nông dân áp dụng SRI đã bón phân chuồng và giảm lượng phân urê xuống mức 120kg/ha so với 145 kg/ha trên các ruộng đối chứng.

NĂNG SUẤT CAO HƠN, THU NHẬP TỐT HƠN

Năng suất tăng cùng với các lợi ích kinh tế của SRI đã được ghi nhận ở cả 12 thôn. Việc áp dụng SRI còn tùy thuộc vào loại đất, loại giống, chế độ phân bón và làm cỏ. 53 nông dân áp dụng SRI đã thu được năng suất bình quân 9,1 tấn/ha, cao hơn 66% so với năng suất bình quân thu được trên các ruộng đối chứng (5,5 tấn/ha). Năng suất bình quân trên các ruộng liền kề của các nông dân không áp dụng SRI là 4,86 tấn/ha.

Chi phí đầu vào trên mỗi hec-ta khi áp dụng phương pháp SRI có cao hơn một chút. Đó là các chi phí cho công làm đất, cấy và làm phân chuồng. Hầu hết nông dân áp dụng SRI không mua phân bón mà thu gom và tự vận chuyển phân đến các cánh đồng. Các tính toán trên dựa vào giá cả và chi phí do nông dân thông báo. Do lợi nhuận thu về của SRI cao gấp 2,1 lần so với các ruộng đối chứng nên nhìn tổng thể lợi nhuận vẫn cao hơn. Tính theo giá thị trường hiện nay, lợi

nhuận ròng mà các nông dân thu được từ SRI là 1 triệu CFA/ha (tương đương 2.220 đô la Mỹ) trong khi đó lợi nhuận ròng của các ruộng mẫu là 490.000 CFA/ha (tương đương 1.089 đô la Mỹ) (Xem Bảng chi tiết trang 18).

Nông dân rất hưởng ứng phương pháp SRI và chỉ ra hàng loạt các lợi ích của phương pháp này như: sản lượng tăng, giảm giống, tiết kiệm thời gian làm cỏ (dùng dụng cụ cào cỏ thủ công), lúa sinh trưởng nhanh hơn, chất lượng tốt hơn. Phương pháp SRI chỉ mất 6kg hạt giống/ha trong khi đó các ruộng mẫu mất 40-60 kg hạt giống/ha. Việc tăng cường bón phân chuồng giúp giảm 30% lượng phân hóa học. Các thửa ruộng SRI có thể cho thu hoạch sớm hơn từ 10-15 ngày so với các ruộng đối chứng, cho phép nông dân tránh được ảnh hưởng của mùa đông lạnh giá và chuyển từ các loại giống ngắn ngày cho sản lượng thấp sang các loại giống dài ngày cho sản lượng cao hơn, như giống BG90-2. Nông dân ở các làng Adina, Niambourgou và Donghoi thường phải hứng chịu một đợt không khí lạnh vào thời điểm cuối vụ. Trong khi lúa SRI đã ở giai đoạn trĩu hạt thì lúa ở ruộng đối chứng vẫn chưa đẻ nhánh. Thêm vào đó, ở Niambourgou và Donghoi, các đàn chim di cư thường đến vào cuối vụ, gây tổn thất lớn cho mùa màng.

Năng suất tăng và các lợi ích kinh tế của SRI đã được ghi nhận ở cả 12 thôn.

Mặc dù nông dân có đề cập đến một số khó khăn như công lao động tăng cho việc làm đất và học kỹ năng cấy nhưng nhìn chung họ không nhận thấy điểm bất lợi nào của SRI. Người ta hy vọng rằng nông dân sẽ giảm được thời gian cấy một khi họ đã quen cấy mạ non và cấy mạ vuông mắt sàng.

CÁC BÀI HỌC

Tại Mali, những kết quả đạt được nhờ áp dụng SRI đã làm các kỹ thuật viên và nông dân thực sự ngạc nhiên. Rất nhiều chỉ dẫn có phần khác với những lý thuyết do các viện nghiên cứu và kỹ thuật đưa ra và cũng có phần khác với những nếp nghĩ hiện nay của nông dân. Ví dụ, nông dân ở Mali cho rằng cánh đồng càng ngập nước thì lúa càng cho sản lượng cao. Các cán bộ khuyến nông và nông dân tin rằng việc sử dụng nhiều phân hóa học sẽ giúp thu được kết quả tốt hơn. Việc nhân rộng mô hình trong tương lai sẽ phải giải quyết những sai lệch trong nếp nghĩ truyền thống này.

17 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Ruộng SRI

Số nông dân

Ruộng đối chứng

Page 20: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

ii) Cải thiện các kỹ thuật làm đất thông qua việc giới thiệu và thử nghiệm các loại máy san ủi đất và máy đánh luống.

iii) Đánh giá các bước ứng dụng SRI trên các loại giống lúa và giống cây trồng khác, ví dụ giống lúa truyền thống Oryza glaberrima của châu Phi và các loại giống mới như Nerica;

iv) Thử nghiệm các chế độ tưới tiêu khác nhau nhằm đưa ra các khuyến cáo kỹ thuật đáng tin cậy cho vùng Timbuktu và các địa phương khác ở Mali.

Các nông dân tham gia vào việc đánh giá SRI trên cơ sở hoàn toàn tình nguyện. Họ tự lo các chi phí đầu vào trong khi ở các chương trình khác, khi tiến hành các cuộc thử nghiệm thì phải cung cấp giống và phân bón miễn phí cho nông dân. Do nông dân phải tự chịu trách nhiệm đối với hoạt động quản lý mùa vụ nên những kết quả đạt được phản ảnh đúng thực trạng và điều kiện của họ. Khi tiếp thu những sáng kiến SRI và những kết quả qua việc nhân rộng có chất lượng và trực tiếp tham gia vào công việc tính toán, đánh giá, các nông dân và kỹ thuật viên tỏ ra cởi mở hơn trước những ý tưởng mới, quan sát rộng hơn và xem xét lại các nếp suy nghĩ trước đây của mình.

Những hỗ trợ kỹ thuật có chất lượng cao rất cần thiết trong việc giúp nông dân hiểu một các triệt để các nguyên tắc SRI và sau đó có thể tự tin tiến hành. Các kỹ thuật viên cần có kiến thức chuyên sâu chắc chắn để hỗ trợ nông dân. Việc soạn thảo và phổ biến các tài liệu kỹ thuật đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ này vì đó là các tư liệu tốt thu thập được (làm cùng với nông dân thay vì làm cho nông dân) nhằm thông báo cho họ biết về những quyết định của họ cũng như các hoạt động mở rộng, nghiên cứu và chính sách.

Các lớp tập huấn nên bao gồm cả nam giới và phụ nữ vì phụ nữ thường chỉ tham gia vào một số khâu nhất định trong sản xuất truyền thống. Một trong những kết quả đáng lưu ý trong hoạt động đánh giá năm 2009 là một nhóm phụ nữ nông dân đã tự tiến hành các bước SRI và đạt được những kết quả rất tốt (Xem ảnh: Phụ nữ ở Findoukaina áp dụng SRI).

Để SRI thích ứng tốt hơn trong điều kiện thực tế ở Mali và cải thiện tính khả thi về mặt kỹ thuật giúp nông dân có thể mở rộng diện tích áp dụng SRI cần phải tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động sau:

i) Đầu tư cho các hệ thống sản xuất sinh khối chất lượng cao để làm phân hữu cơ, có thể là các hầm phân trộn làm từ rơm, phân động vật hoặc các chất hữu cơ khác (sinh khối thực vật hoặc tất cả các loại khác). Ở những nơi sử dụng phân tổng hợp, kỹ thuật sử dụng phân bón tổng hợp cần được cải thiện, đặc biệt đối với phân urê. Ví dụ, nên trộn phân urê vào đất trong giai đoạn làm cỏ sẽ giữ được các chất dinh dưỡng thay vì cách làm thông thường là trộn phân vào nước tưới vì làm như vậy làm mất các chất dinh dưỡng cho đất.

COUNTRY REPORTSAFRICARE

FP = Nông dân canh tác, nguyên liệu đầu vào thấp hơn so với các thửa ruộng mẫuđược đánh giá là canh tác tốt nhất * Làm đất: SRI - 40% máy kéo, 60% làm bằng tay; Ruộng mẫu - 33% máy kéo, 15% làm bằng tay, 52% không cày,

Ruộng nông dân - 20% máy kéo, 80% không cày. Ghi chú: Nông dân chưa quen áp dụng SRI trong vụ đầu tiên; họ cho rằng kết quả sẽ được cải thiện ở những vụ sau.

BÁO CÁO QUỐC GIA

Chi phí, giá trị sản xuất, lợi tức thu được từ ruộng SRI, ruộng đối chứng và ruộng của nông dân (trên mỗi hec-ta)

ĐẦU VÀO SRI Ruộng Ruộng SRI Ruộng Ruộng

Tưới tiêu (ga, dầu) 90% 100% 100% 99.000 (21) 110.000 (27) 110.000 (29)

Chi phí máy bơm 90% 100% 100% 40.500 (8) 45.000 (11) 45.000 (12)

Gióng (kg) 6 50 50 2.280 (0,5) 19.000 (5) 19.000 (5)

Ure (kg) 120 145 97 42.000 (9) 50.750 (12) 33.950 (9)

DAP (kg) 8 34 20 2.800 (0,5) 11.900 (3) 7.000 (2)

Phân chuồng (tấn) 13 3 0 39.000 (8) 9.000 (2) 0

Công lao động (người ngày)* 251 169 161 251.000 (53) 169.000 (41) 161.000 (43)

Tổng chi phí đầu vào 476.580 (100) 414.650 (100) 375.950 (100)

SẢN LƯỢNG/ha 9,1 tấn 5,49 tấn 4,86 tấn 1.501.500 CFA 905.850 CFA 801.900 CFA

Chi phí sản xuất/kg 52 CFA 76 CFA 77 CFA

Chi phí đầu vào 32% 46% 47%

tính theo % giá trị sản xuất

LỢI NHUẬN RÒNG/ha 1.024.920 CFA 491.200 CFA 425.950 CFA

mẫu đối chứng

đối chứng nông dân

CÁC BƯỚC TIẾP THEO

Tính đến năm 2009, trong vòng 3 năm với sự hỗ trợ của tổ chức BUF và AUSAID, Africare đã giúp 300 nông dân tiếp cận với SRI tại Timbuktu. Trong năm 2009, tổ chức AUSAID đã tài trợ cho dự án Các sáng kiến cho tăng trưởng kinh tế ở Mali (IICEM) để nhân rộng mô hình SRI trên địa bàn 04 tỉnh nữa. Quỹ nông nghiệp bền vững Syngenta hiện đang hỗ trợ Viện Kinh tế Nông thôn Mali trong việc đưa mô hình SRI trở thành một vùng trồng lúa chủ đạo trên cả nước

Việc áp dụng SRI đòi hỏi ít nguyên liệu, không quá tốn kém ngoài chi phí cho các nghiên cứu ở địa phương, nhân rộng mô hình và tạo cơ hội cho những sáng kiến mới tại cơ sở.

Khó khăn trước mắt là phải thiết kế và nhân rộng mô hình phù hợp để SRI có thể đến được với nông dân trên cả nước. Người ta hy vọng rằng nếu nông dân tiếp tục nhận được sự hỗ trợ về kỹ thuật và mô hình được mở rộng một cách thống nhất thì SRI, một phương pháp có căn cứ và dựa vào kiến thức sẽ nhanh chóng được nhân rộng và được nông dân trồng lúa ở Mali tiếp nhận. Việc áp dụng SRI đòi hỏi ít nguyên liệu, không quá tốn kém ngoài chi phí cho các nghiên cứu ở địa phương, nhân rộng mô hình và tạo cơ hội cho những sáng kiến mới tại cơ sở.

Tác động về vấn đề an ninh lượng thực là cực kỳ quan trọng đối với những nông dân áp dụng SRI nói riêng cũng như với Mali nói chung. Mali là một trong những nước sản xuất lúa gạo chính ở khu vực Tây Phi. Người nông dân Mali đã sẵn sàng bắt tay vào nhân rộng những kiến thức và kỹ thuật về SRI trên các loại cây trồng khác, đặc biệt là lúa mì. SRI có thể giúp người nông dân ở Mali tự cung tự cấp lúa gạo mà không cần đến các khoản trợ cấp về giống và phân bón từ Chương trình “Sáng kiến lúa gạo” của Chính phủ như hiện nay. Mali có thể trở thành một quốc gia xuất khẩu gạo và đóng vai trò quan trọng trong việc bình ổn an ninh lương thực ở khu vực Tây Phi.

18NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 21: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Ở khu vực phía Bắc Mali, cây lúa được xem là cây trồng của nam giới. Phụ nữ không tự canh tác lúa. Phụ nữ chỉ làm một số công việc tẻ nhạt như nhổ mạ, làm cỏ và đập lúa.

Nhờ phối hợp với Africare trong 5 năm qua mà một nhóm phụ nữ của làng Findoukaina đã được trang bị một máy bơm nước động cơ đi-ê-zen. Các thành viên trong nhóm sử dụng máy bơm để tưới nước cho vườn rau trong mùa mát. Vào vụ lúa, phụ nữ kiếm thêm chút thu nhập bằng cách dùng máy bơm để bơm nước cho ruộng lúa của nam giới, vì phụ nữ không hề có chút ruộng nào cho riêng mình.

Trong các cuộc họp của thôn, để lên danh sách những nông dân mong muốn tham gia hoạt động thử nghiệm SRI, chúng tôi đã khuyến khích phụ nữ tham gia mặc dù biết họ không quen với việc trồng lúa. Chúng tôi đã rất ngạc nhiên khi làng Findoukaina lựa chọn hai thành viên trong nhóm phụ nữ là chị Maya Abdoulaye và Maya Hama để tham gia chương trình thử nghiệm SRI.

Cũng giống như các phụ nữ khác ở Findoukaina, hai chị chưa bao giờ từng trồng lúa trước đó. Tuy nhiên, họ đã nhận được sự hỗ trợ của tất cả 20 thành viên trong nhóm phụ nữ để thiết kế, quản lý các thửa ruộng SRI và tuân thủ chặt chẽ những hướng dẫn của cán bộ Africare. Hai chị tự làm tất cả các công việc như bừa, san đất và cấy mà không có sự hỗ trợ nào của nam giới.

Sau khi đã chỉ cho nhóm nông dân tham quan thấy mô hình, khi nhóm này ra về, các phụ nữ của Findoukaina cùng nhau múa hát thể hiện sự vui sướng và niềm tự hào về những gì mình đã làm được. Maya Abdoulaye nói: “Năm nay chúng tôi được học về SRI. Đến sang năm, cả nhóm 20 người chúng tôi có thể cày cấy trên những cánh đồng SRI của chính chúng tôi.”

[Ghi chú: Mặc dù lượng nước phục vụ tưới tiêu có muộn trong vụ 2009-2010, nhưng hơn một nửa số phụ nữ trong hợp tác xã, gồm cả Maya Abdoulaye đã áp dụng SRI trên các cánh đồng của họ.]

Caption

Phụ nữ đang làm đất và cấy trên ruộng SRI (ảnh trên). Maya Abdoulaye và Maya Hama tự hào giới thiệu ruộng của mình cho các nông dân là nam giới đến từ làng Morikoira và Findoukaina trong một chuyến tham quan mô hình tại Findoukaina (ảnh trái phía dưới). Abdoulaye (ảnh phải phía dưới) trong vụ mùa thứ hai áp dụng SRI.

AFRICARE BÁO CÁO QUỐC GIA

Phụ nữ ở Findoukaina tiếp nhận SRI

19 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 22: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Kinh nghiệm của Oxfam về SRI tại Việt Nam

Oxfam đã hoạt động tại vùng đồng bằng sông Mê Kông, khu vực Đông Nam Á được hơn 30 năm, và hoạt động tại Việt Nam khoảng 20 năm. Mặc dù nền kinh tế của Việt Nam đang được cải thiện nhưng khoảng cách giàu nghèo đang gia

tăng và hiện có hàng triệu người thuộc các dân tộc thiểu số và người dân sinh sống ở các vùng nông thôn vẫn đang sống trong tình trạng đói nghèo.

BÁO CÁO QUỐC GIA

Từ khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế theo định hướng thị trường năm 1986, khu vực nông nghiệp nước này tăng trưởng ở mức 4%/năm nhờ có ngành sản xuất lúa gạo rất phát triển. Tổng sản lượng lúa tăng từ 19,2 triệu tấn năm 1990 lên 35,8 triệu tấn năm 2005. Việt Nam là một trong những quốc gia trồng lúa cho sản lượng cao nhất trên thế giới với năng suất bình quân 5 tấn/ha từ hai vụ trong năm.

Khoảng trên 9 triệu hộ nông dân Việt Nam, trong đó 95% sống ở miền Bắc, sở hữu dưới 0,5 hec-ta đất trồng lúa, diện tích này lại thường bị chia ra thành những thửa ruộng nhỏ. Các hộ nông dân trồng lúa quy mô nhỏ phải đối mặt với bất ổn giá cả của nguyên liệu đầu vào, thậm chí tiền thu về không đủ bù lỗ. Họ không được hưởng lợi gì từ việc giá lương thực tăng. Trong khi đó, các chương trình khuyến nông hiện nay thường không đến được với các hộ nông trang nhỏ.

Việc lạm dụng hoá chất (đặc biệt là phân đạm), thuốc trừ sâu và giống là vấn đề nổi cộm trong hoạt động sản xuất lúa gạo ở Việt Nam nói chung và ở miền Bắc nói riêng. Việc lạm dụng đạm và cấy mật độ dày là những nguyên nhân chính làm cho cây lúa dễ bị sâu hại và dịch bệnh, ảnh hưởng đến sản lượng, hiệu quả kinh tế, sức khoẻ cộng đồng và môi trường (Dung 2007).

Một nửa diện tích trồng lúa của Việt Nam được tưới tiêu và hiện trạng khan hiếm nguồn nước gia tăng đang trở thành một thách thức. Theo UNDP, lượng nước bình quân tính theo đầu người hiện nay chỉ bằng 1/3 so với năm 1945 và tình hình cạnh tranh tài nguyên nước đang gia tăng nhanh chóng.

Tại thời điểm mà các nông dân trồng lúa quy mô nhỏ chịu áp lực từ nhiều phía như chi phí đầu vào tăng (thường là do sử dụng quá mức), cạnh tranh về đất, BĐKH, khan hiếm nước thì SRI thực sự là một cơ hội tốt.

Cục Bảo vệ Thực vật (CBVTV) thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NN&PTNT) đã học hỏi mô hình SRI từ năm 2002 từ những cộng sự thuộc chương trình Quản lý sâu bệnh tổng hợp (IPM) của In-đô-nê-xi-a. Những cộng sự này đã làm việc với tổ chức CIIFAD (Viện Lương thực, Nông nghiệp và Phát triển Quốc tế) thuộc trường Đại học Cornell để đánh giá phương pháp SRI tại In-đô-nê-xi-a. CBVTV đã tiến hành các hoạt động tập huấn về SRI trong năm 2003 tại ba tỉnh trong Chương trình IPM quốc gia do Tổ chức Lương nông Liên hiệp quốc (FAO) tài trợ. Hoạt động

GIỚI THIỆU VỀ SRI

tập huấn đã được triển khai mở rộng trên 5 tỉnh khác trong năm 2004 và 12 tỉnh vào năm 2005 trên quy mô lớn từ 2-5 hec-ta. Năm 2006, SRI đã được nhân rộng trên 17 tỉnh, thu hút sự tham gia của 3.450 nông dân trong Chương trình IPM Việt Nam và Chương trình Sử dụng và Bảo tồn đa dạng sinh học tại châu Á (BUCAP) do FAO và DANIDA tài trợ.

Báo cáo đánh giá của Bộ NN&PTNT về SRI giai đoạn 2003-2006 thuộc Chương trình IPM Quốc gia đã kết luận SRI đóng một vai trò rất quan trọng trong phát triển bền vững về canh tác lúa nước tại Việt Nam. Báo cáo đưa ra khuyến nghị “SRI nên được phổ biến một cách rộng rãi hơn nữa để đem lại lợi ích cho nhiều nông dân hơn …Cây lúa khỏe hơn có thể kháng chịu tốt hơn với sâu hại và làm giảm một cách đáng kể việc sử dụng thuốc trừ sâu trên đồng ruộng.” Sản lượng bình quân tăng từ 9-15% so với phương pháp canh tác tập quán hiện nay, đồng thời tiết kiệm được 70-90% giống, 20-25% lượng phân đạm và giảm 1/3 lượng nước tưới tiêu.

“SRI cần được phổ biến rộng rãi hơn nữa để có thêm nhiều nông dân được hưởng lợi từ kỹ thuật mới này.”

Cuối năm 2006, Oxfam phối hợp với Chi cục BVTV Hà Nội (trước là tỉnh Hà Tây) để bước đầu triển khai SRI. Cán bộ lãnh đạo tỉnh đã nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật mới này, đặc biệt là sau chuyến tham quan nghiên cứu, trao đổi, học hỏi về những thành công, thách thức và cơ hội về SRI. Các hoạt động về SRI tại quốc gia này do Tổ chức Oxfam tài trợ và vẫn tiếp tục tăng cho đến thời điểm hiện tại.

CÁCH TIẾP CẬNMô hình SRI dựa vào cộng đồng

Chiến lược tại Việt Nam bao gồm các hoạt động thử nghiệm, kiểm chứng và phổ biến. Chiến lược này bao gồm việc nâng cao nhận thức cho người nông dân, tăng cường năng lực ứng dụng các nguyên tắc và các bước thực hành SRI; chứng minh lợi ích của SRI cho nông dân và các cơ quan Chính phủ; nhân rộng mô hình một cách thích hợp để đem những kiến thức SRI đến với người nông dân trên cả nước.

Mục tiêu cuối cùng là gây dựng niềm tin cho nông dân và giúp họ có đủ năng lực để tiếp thu các kỹ thuật mới trong hoạt động canh tác lúa. Như vậy, họ sẽ có thể giải quyết những vấn đề trong sản xuất nông nghiệp và cộng đồng thông qua những phương pháp kỹ thuật phù hợp và làm chủ được sự phát triển của mình.

Năm 2007, với nguồn tài trợ của Oxfam, Chi cục BVTV tỉnh Hà Tây đã phối hợp với Hợp tác xã nông nghiệp Đại Nghĩa triển khai các hoạt động SRI dựa vào cộng đồng, với sự tham gia của chính quyền địa phương, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên và cộng đồng. Các hoạt động thử nghiệm tiến hành trên đồng ruộng được triển khai với Hợp

20NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 23: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Lãnh đạo Hà Tây (cũ) thăm ruộng lúa SRI: Ông Nguyễn Duy Hồng, Chi cục trưởng Chi cục BVTV (bên trái); Ông Trịnh Duy Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh (giữa); Ông Chu Văn Thương, Giám đốc Sở NN&PTNN tỉnh (bên phải). -

OXFAM BÁO CÁO QUỐC GIA

tác xã nông nghiệp đã đánh giá mối liên quan giữa tỷ lệ mạ cấy, chế độ điều tiết nước, bón các loại phân khác nhau, và chất lượng các lúa giống được tạo ra theo phương pháp SRI. Các thử nghiệm này đồng thời cũng được tiến hành trong chương trình tập huấn cho nông dân và các kỹ thuật viên. Sau đó các học viên này tổ chức các Lớp học đồng ruộng (FFS) ngay tại cộng đồng và họ cùng nhau thiết kế các thửa ruộng thử nghiệm. Các Lớp học đồng ruộng áp dụng cách tiếp cận có sự tham gia, mang tính thử nghiệm và kéo dài suốt cả vụ lúa bao gồm các hoạt động như thử nghiệm của nông dân, thăm đồng thường xuyên và phân tích nhóm với sự hỗ trợ kỹ thuật của các kỹ thuật viên. Những kiến thức thu được từ những hoạt động này đã giúp các học viên có thể tự đưa ra những quyết định về cách thức quản lý mùa vụ tùy vào điều kiện cụ thể của địa phương mình.

Thông qua chiến lược dựa vào cộng đồng, hơn 1000 nông dân đã tiếp cận được SRI. Lợi nhuận ròng của những thửa ruộng SRI bình quân tăng trên 2 triệu đồng/ha (khoảng 125 đô la Mỹ).

Tháng 10/2007, theo khuyến nghị của Cục BVTV, đồng thời hưởng ứng thành công của SRI do Oxfam hỗ trợ và các hoạt động nhân rộng mô hình tại Hà Nội và một số tỉnh khác, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT đã công nhận SRI là một tiến bộ kỹ thuật và ủng hộ việc áp dụng rộng rãi mô hình SRI tại cấp địa phương, trong đó chính quyền địa phương có thể tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ nhằm mở rộng mô hình.

Hà Nội đi đầu trong triển khai và sử dụng nguồn ngân sách nhà nước để nhân rộng mô hình trên diện tích 33.000 hec-ta trong năm tiếp theo, thu hút sự tham gia của 108.000 nông dân. Trong vòng một năm, SRI đã được áp dụng trên 18% tổng diện tích canh tác của toàn thành phố.

Giai đoạn 2:Phát triển dựa trên những thành công ban đầu

Sau khi thu được những kết quả triển khai ban đầu rất tốt tại Hà Nội, Oxfam đã triển khai một chương trình SRI tại Việt Nam kéo dài 3 năm trên nhiều tỉnh thành và có sự tham gia của nhiều đối tác như Cục BVTV, Trung tâm Phát triển Nông thôn Bền vững (SRD), Oxfam Quebec và Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Công tác phổ biến và tập huấn về SRI đã được triển khai tại 13 xã thuộc 6 tỉnh miền Bắc Việt Nam là Hà Nội, Yên Bái, Phú Thọ, Thái Nguyên, Hà Tĩnh và Nghệ An. Cũng trong thời gian đó, Chương trình IPM Quốc gia và BUCAP đã độc lập tổ chức các lớp học đồng ruộng, triển khai các mô hình trình diễn và các hoạt động tập huấn tại một số tỉnh miền Trung. SRI đã được thí điểm tại một số ruộng nhỏ, trên nhiều chất đất và áp dụng với các giống lúa được ưa chuộng. Các hoạt động thí điểm nhằm mục đích tập huấn cho nông dân trở thành những tập huấn viên, họ sẽ đóng vai trò là các đại diện khuyến nông tại địa phương. Thông qua việc khuyến khích các nông dân đi đầu trong sáng tạo, thử nghiệm và hướng dẫn học hỏi mô hình, Chương trình đã gây dựng được lòng tin và tăng cường năng lực cho phụ nữ nông thôn, chiếm đến 76% số lượng các nông dân nòng cốt của chương trình.

Các thửa ruộng lựa chọn cho lớp học đồng ruộng được giám sát chặt chẽ và ghi chép đầy đủ kết quả, trong đó chú trọng đến một số vấn đề phi nông nghiệp như tác động về giới, tạo thu nhập và chuyển giao tri thức. Công tác tập hợp và phân tích một cách nhất quán các dữ liệu này góp phần giúp các tổ chức đối tác và chính quyền địa phương trong việc cân đối và nhân rộng mô hình.

Để nâng cao nhận thức về các nguyên tắc SRI và phát triển nông nghiệp bền vững, Chương trình đã tiến hành một số cuộc hội thảo tại cộng đồng cho nông dân và cán bộ địa phương cũng như mở các lớp tập huấn cho tập huấn viên (TOT). Ngoài ra, chương trình cũng ưu tiên cho việc in ấn tài liệu và các họat động truyền thông nhằm mục đích nâng cao nhận thức cộng đồng.

Sau hơn hai vụ thực hiện phương pháp thâm canh lúa cải tiến ở sáu tỉnh đã cho thấy có những kết quả tích cực. Báo cáo thống kê mùa vụ năm 2008 ở khu vực thực hiện chương trình đã cho thấy năng suất bình quân của những khu vực áp dụng SRI đạt 6,3 tấn/ha với mô hình lớp học đồng ruộng, cao hơn 11% so với các biện pháp canh tác khác hiện được áp dụng trong toàn tỉnh. Mặc dù năng suất này không cao so với hầu hết các quốc gia khác đang áp dụng SRI, nhưng cần xem xét phương thức này vì nó đang mang lại nhiều lợi ích quan trọng khác cho nông dân. Năng suất gia tăng đạt được trong khi lượng phân bón urê sử dụng giảm đi 16%.

KẾT QUẢ: HỘ GIA ĐÌNH NÔNG THÔN CÓ KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG VÀ PHỤC HỒI TỐT HƠN

Chuẩn bị mạ non để cấy. Các mảnh đất gieo mạ SRI nhỏ hơn, và dễ quản lý hơn giúp tiết kiệm giống, đất và công lao động. Trong vụ xuân năm 2009 khi SRI được áp dụng trên diện tích khoảng 85.000 hecta, ước tính đã tiết kiệm được khoảng 2.500 tấn lúa.

21 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 24: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Ở Việt Nam, chiến lược của Oxfam bao gồm thử nghiệm, trình diễn và phổ biến được triển khai thực hiện cùng với các cấp chính quyền và cộng đồng địa phương và triển khai trong toàn quốc. Hoạt động thử nghiệm không chỉ đóng vai trò tập huấn cho nông dân về các biện pháp thâm canh lúa cải tiến mà còn xây dựng được nguồn dữ liệu quan trọng về cách thức áp dụng phương pháp thâm canh lúa cải tiến tốt nhất trong điều kiện thực tiễn của các địa phương.

OXFAM

Tần suất sử dụng thuốc trừ sâu đã giảm xuống 45%, và chi phí thuỷ lợi bình quân giảm 35%. Sự kết hợp giữa tiết kiệm đầu vào và tăng năng suất đã góp phần tăng thu nhập thêm gần 50%, tương đương khoảng 5,4 triệu VND (315 USD)/ha/vụ.

Năng suất tăng một phần là do khả năng kháng sâu bệnh tự nhiên tốt hơn của cây lúa được trồng theo phương pháp SRI. Nhìn chung theo quan sát, những cánh đồng lúa áp dụng phương pháp SRI đã giảm thiểu rủi ro và tăng khả năng chống chọi và hồi phục của nông dân trong những điều kiện bất ổn. Sự xuất hiện những cơn bão ngày càng tăng về tần suất và cường độ đã được cảnh báo, đặc biệt là ở miền Bắc Việt Nam. Mưa to gió lớn thường gây ra hiện tượng lúa đổ rạp - là một thảm họa đối với nông dân. Một cánh đồng lúa bị đổ rạp rất dễ bị thối mục và nông dân thường phải tiến hành thu hoạch ngay những gì có thể thu hoạch được (thậm chí là rơm). Những cánh đồng trồng lúa theo phương thức SRI có thân nhánh khỏe hơn và hệ thống rễ sâu hơn cho nên ít khả năng bị đổ rạp.

Bộ rễ khoẻ hơn giúp cây hút được độ ẩm và chất dinh dưỡng sâu hơn trong lòng đất, nhờ đó chống chịu tốt hơn với hạn hán và đất nghèo chất dinh dưỡng. Trong trường hợp cây không thể chống chịu được những điều kiện bất lợi của thời tiết, SRI sẽ giúp nông dân cấy lại một cách nhanh chóng do cần ít giống hơn, tuổi mạ ngắn hơn và mất ít công hơn .

BÁO CÁO QUỐC GIA

BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Sáng kiến thâm canh lúa cải tiến đã thực hiện thành công ở Việt Nam nhờ:

Ÿ Chương trình đã giải quyết được vấn đề quan trọng trong việc mở rộng mô hình hiện nay như gây dựng được niềm tin cho nông dân và cách thức làm việc giữa người nông dân với cán bộ khuyến nông/cán bộ địa phương.

Ÿ Sự tán thành ủng hộ của Chính phủ là một thuận lợi lớn đối với tính chính thống và thúc đẩy nhân rộng phương pháp SRI.

Ÿ Chương trình là một sự cộng tác giữa nhiều bên bao gồm các cơ quan của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế, các trường đại học và các tổ chức địa phương. Tất cả các bên đã tham gia từ giai đoạn đầu tiên như xây dựng chương trình, tạo sự hiểu biết chung về mục tiêu, cách tiếp cận của chương trình, tạo tính cam kết, tính liên kết và hợp tác hiệu quả.

Ÿ Phương thức tiếp cận dựa trên bằng chứng, và học hỏi không ngừng được khuyến khích thông qua các lớp học đồng ruộng rất được nông dân và các cán bộ địa phương đón nhận. Những phát hiện của nông dân thông qua các ô ruộng

thí điểm, các thực nghiệm do họ tiến hành, và những thông điệp của họ có ý nghĩa rất lớn trong việc nhân rộng SRI cũng như giành được sự ủng hộ về mặt chính trị.

Ÿ Thu thập, phân tích và xử lý số liệu được củng cố thông qua việc phối hợp với các trường đại học trong nước, do đó các thông điệp về tuyên truyền vận động chính sách có trọng lượng hợn.

Ÿ Chiến lược truyền thông có sự tham gia của phương tiện thông tin đại chúng rất có hiệu quả trong việc nâng cao nhận thức về SRI và nhân rộng tác động của chương trình, như được minh chứng trong trường hợp của Hà Nội.

Chương trình Oxfam tại Việt Nam nhằm hỗ trợ mở rộng phương pháp SRI ra các khu vực khác.

CÁC BƯỚC TIẾP THEO

Ở cấp độ quốc gia phương pháp SRI đang được áp dụng toàn phần hoặc một phần cho hơn 264.000 nông dân tại 21 tỉnh với tổng số khoảng 85.422 ha, tiết kiệm được 2.500 tấn lúa giống, 1.700 tấn phân urê và giúp thu nhập tăng lên 170 tỉ VND/một vụ. Cho tới nay SRI mới được thực hiện ở khu vực miền Bắc và miền Trung Việt Nam, chưa được mở rộng ra khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Tiềm năng ứng dụng SRI trên diện rộng là rất lớn. Bộ NN&PTNT đang phát động chiến dịch phát triển nông nghiệp bền vững được biết đến với tên gọi “3 Giảm 3 Tăng”, trong đó có những khuyến nghị của chiến dịch cũng nhất quán với các bước trong SRI: giảm đầu vào về giống, phân bón và thuốc trừ sâu; nâng cao năng suất, chất lượng gạo và lợi nhuận. Ở nhiều nơi, các khâu của biện pháp SRI đang được lồng ghép với chiến dịch này.

Trong những năm tới, chương trình Oxfam tại Việt Nam dự kiến sẽ hỗ trợ mở rộng phương pháp SRI tại một số khu vực, và tăng cường ứng dụng SRI tại những nơi đã triển khai. Oxfam cùng với các tổ chức trong nước tiến hành một số nghiên cứu liên quan tại địa phương như mức độ áp dụng SRI, những trở ngại đối với việc áp dụng phương pháp SRI và phân tích chi phí – lợi ích của phương pháp SRI thông qua sổ kế toán hộ gia đình. Kết quả của những nghiên cứu này sẽ được đưa vào quá trình hoạch định chính sách và sẽ giúp chọn lọc các thông điệp về việc mở rộng mô hình tới những hộ nông dân trồng lúa hiện đang đối mặt với những khó khăn về nguồn lực và các điều kiện canh tác ngày càng đa dạng.

22NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 25: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Nhìn chung, mỗi phụ nữ tham gia Lớp học đồng ruộng (FFS) thường thúc đẩy được 5-8 nông dân khác cùng áp dụng phương pháp SRI, trong khi đó con số này là 1 - 3 đối với nam giới. Ảnh trên là các học viên tham gia khóa học FFS tại xã Đông Trù, Hà Nội. Một chị cầm trên tay 2 khóm lúa được trồng theo phương pháp “thông thường” và phương pháp SRI để làm dẫn chứng cho lớp học. Ảnh bên trái: Người nông dân dân tộc đang nhiệt tình chia sẻ những kinh nghiệm về phương pháp SRI với các kỹ thuật viên nông nghiệp và đối tác Cam-pu-chia trong Hội thảo Toàn quốc lần thứ hai về phương pháp SRI diễn ra vào tháng 1/2010.

KHUYNH HƯỚNG VỀ GIỚI TRONG CÔNG TÁC TIẾP CẬN SRI TẠI VIỆT NAM Ở Việt Nam và nhiều nơi khác trong khu vực, gần đây có xu hướng là phụ nữ trên 40 tuổi là những nông dân trồng lúa chính. Từ xưa tới nay, phụ nữ và nam giới cùng chia sẻ công việc đồng áng. Nhìn chung, nam giới thường làm các công việc liên quan đến làm đất, trong khi đó cấy và làm cỏ là nhiệm vụ của phụ nữ. Thu hoạch là việc chung đối với cả phụ nữ và nam giới. Do Việt Nam ngày càng hội nhập vào nền kinh tế thế giới, những công việc phi nông nghiệp ở thành thị đang trở thành một nguồn tạo thu nhập ngày càng quan trọng. Điều này rõ ràng đã góp phần vào việc phân chia lại khối lượng công việc và quá trình ra quyết định tại các hộ gia đình nông thôn. Một nghiên cứu gần đây được tiến hành vào năm 2010 về việc áp dụng SRI tại Việt Nam do Oxfam ủy thác thực hiện đã cho thấy người phụ nữ tham gia tích cực hơn trong việc áp dụng phương pháp SRI. Khoảng 70% nông dân tham gia Lớp học đồng ruộng là phụ nữ. Phụ nữ thường là thành viên đầu tiên tiếp nhận phương pháp SRI.

Trong các khảo sát được tiến hành tại khu vực Hà Nội, Ninh Bình và Yên Bái – những địa phương áp dụng SRI với tỉ lệ cao, những nông dân nữ cho biết các khoản tiết kiệm trước mắt mà SRI mang lại nhờ giảm được chi phí sản xuất đã giúp họ giảm bớt sức ép về nhu cầu tín dụng ngắn hạn và có thể dành nhiều chi tiêu hơn cho con em của mình. Những lợi ích kinh tế hữu hình từ phương pháp SRI đã giúp người phụ nữ có tiếng nói hơn trong gia đình. Cả phụ nữ và nam giới đều cho biết việc phải làm cỏ bằng tay và làm đất kỹ lưỡng hơn là những thách thức của phương pháp SRI. Khuyến cáo làm cỏ mà không có máy móc hay các dụng cụ đơn giản làm cho nông dân không sẵn lòng từ bỏ việc phun thuốc trừ cỏ. Việc làm đất kỹ hơn cũng là một bất lợi đối với các hộ gia đình có phụ nữ là người trụ cột gia đình nếu họ không có nhiều người lao động là nam giới hoặc thiếu hỗ trợ của các máy móc phù hợp.

Các khảo sát cũng ghi nhận rằng những phụ nữ áp dụng phương pháp này mong muốn có nhiều tài liệu tốt hơn về SRI. Họ cũng cho biết nhu cầu và ý kiến của họ về cải thiện cách thức quản lý nước và làm đất không được lắng nghe thấu đáo do vẫn có quan niệm rằng nông dân thì không có kiến thức đầy đủ về những vấn đề này.

Mặc dù còn tồn tại những thách thức đó, việc áp dụng phương pháp SRI của nông dân nữ rất ấn tượng. Nhìn chung, một nữ học viên sau khi tốt nghiệp Lớp học đồng ruộng thường thúc đẩy được 5-8 nông dân khác áp dụng SRI trong khi tỉ lệ này chỉ là 1-3 đối với học viên nam. Sự khác biệt chính ở đây là phụ nữ thường có khả năng đổi công và hỗ trợ lẫn nhau trong những khâu quan trọng nhất của SRI như chuẩn bị đất làm mạ, cấy và thảo luận nhóm. Đổi công cho nhau thường bắt đầu với một nhóm nhỏ những nông dân trong họ hàng sau đó mở rộng ra hàng xóm và giữa những người có ruộng lúa gần nhau.

Trích dẫn từ: Nguyễn Xuân Nguyên và đồng sự. (Tháng 1/2010). Nghiên cứu về việc áp dụng phương pháp Thâm canh Lúa cải tiến ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Báo cáo do Oxfam Mỹ tài trợ thực hiện.

OXFAM BÁO CÁO QUỐC GIA

23 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 26: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

KINH NGHIỆM CỦA WWF VỀ SRI TẠI ẤN ĐỘ

0

5

10

15

20

25

30

35

Nguồn thủy lợi

1950-51

1999-00

Các giếng đào ở Ấn Độ phải đào ngày càng sâu hơn do mực nước ngầm đang giảm dần. Hình ảnh giếng mở khô hạn này là một ví dụ rõ ràng về sự cạn kiệt nguồn nước ngầm.

Nguồn: Lúa gạo nhiều hơn, tiết kiệm nước hơn (WWF 2008).

BÁO CÁO QUỐC GIA

Với tư cách là một tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế, WWF từ lâu đã quan tâm đến những tác động của con người đối với môi trường. Công việc đồng áng, đặc biệt là thủy lợi trong nông nghiệp là hoạt động tiêu thụ nhiều nước nhất trên hành tinh.

Do xác định được việc trồng lúa , đường, bông và lúa mì là bốn loại hình canh tác tiêu tốn nước ngọt nhiều nhất, WWF đã ưu tiên tìm kiếm các cách thức cải thiện năng suất cho những cánh đồng trồng các loại cây này về mặt đất đai và nước phục vụ sản xuất. Mục tiêu nhằm giảm thiểu sức ép đang gia tăng về hệ thống sinh thái nước ngọt, giúp bảo vệ sự đa dạng sinh học thiết yếu và nâng cao sản lượng lương thực.

Kể từ năm 2003, WWF đã tham gia vào đối thoại đa bên và đa ngành - “Đối thoại về Lương thực, Nước và Môi trường”, cùng hợp tác chương trình với Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho Vùng nhiệt đới bán khô cằn (ICRISAT) có trụ sở tại Andhra Pradesh, Ấn Độ. Động lực tham gia trước mắt là tìm kiếm các phương pháp thay thế cho những kế hoạch hạ tầng thủy lợi và các đập nước lớn có chi phí cao đang được Chính quyền Andhra Pradesh đề xuất nhằm tăng cường sản xuất nông nghiệp.

Mặc dù Ấn Độ được coi là một quốc gia đang gia tăng đô thị hóa và công nghiệp hóa, nhưng 70% dân số nước này vẫn là nông dân; 80% trong số đó có ít hơn một héc ta đất. Ấn Độ là quốc gia có diện tích trồng lúa lớn nhất trên thế giới, và đứng thứ hai về sản lượng lúa gạo sau Trung Quốc. Hơn một nửa diện tích trồng lúa nước, cung cấp hơn 75% sản lượng lúa gạo, đã tiêu tốn hết 50-60% nguồn nước ngọt rất hạn chế của đất nước này. Dân số Ấn Độ được dự kiến sẽ tăng từ 1,15 tỷ lên tới 1,6 tỷ vào năm 2050, gây ra những sức ép mạnh mẽ đối với nguồn tài nguyên đất đai và tài nguyên nước. Điều này làm cho việc sản xuất lúa gạo ở Ấn Độ trở thành một mục tiêu quan trọng cho các hoạt động can thiệp của WWF.

Trước kia, gia tăng sản xuất lúa thường chủ yếu đi liền với việc tăng năng suất chứ không phải tăng diện tích trồng lúa. Năng suất gia tăng đạt được nhờ việc áp dụng và mở rộng các phương pháp canh tác bao gồm việc sử dụng nhiều hơn nước tưới tiêu, các giống lúa năng xuất cao và giống lúa lai, cùng với việc tăng cường bón phân tổng hợp, sử dụng nhiều hơn thuốc trừ sâu, diệt nấm và diệt cỏ.

Trong 20 năm tới, khoảng 60% tầng ngậm nước của Ấn Độ sẽ rơi vào tình trạng nguy kịch. Nhu cầu cấp bách hiện nay là phải thay đổi hiện trạng.

Sau khi giành độc lập, sự phát triển của nông nghiệp Ấn Độ có được là nhờ đầu tư lớn vào các dự án thủy lợi, giúp tăng tổng diện tích tưới tiêu gấp 3 lần - từ 22,6 triệu hecta (1950-1951) lên 76,3 triệu hecta (1999-2000). Dân số gia tăng đã làm giảm mạnh lượng nước bình quân đầu người của Ấn Độ trong giai đoạn này.

Như được trình bày trong biểu đồ dưới đây, phần gia tăng mạnh nhất trong hệ thống nước tưới là việc lắp đặt các giếng nước. Ở một số khu vực, khai thác quá mức nguồn nước ngầm thông qua các máy bơm nước đang làm giảm thiểu nghiêm trọng lượng nước ngầm (hơn một phần tư lượng nước ngầm trên thế giới); 60% lượng nước cho thủy lợi và 85% nguồn nước uống phụ thuộc vào nguồn nước ngầm. Theo Ngân hàng Thế giới, nếu xu hướng hiện nay vẫn tiếp diễn thì trong vòng 20 năm tới khoảng 60% tầng ngậm nước của Ấn Độ sẽ rơi vào tình trạng nguy kịch.

24NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Tri

ệu

hec-t

a

Kênh Giếng Bể Các nguồn khác

Page 27: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Cố tiến sĩ Y.S. Rajashekar Reddy, nguyên Chủ tịch Bang Andhra Pradesh, cùng với ông Raghuveera Reddy, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp (giữa) thăm các cánh đồng lúa theo biện pháp SRI tại huyện Ranga Reddy, Bang Andhra Pradesh vào năm 2005 do WWF–ICRISAT tổ chức.

WWF BÁO CÁO QUỐC GIA

Điều này sẽ gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng cho tính bền vững của nông nghiệp, an ninh lương thực dài hạn, đời sống và phát triển kinh tế. Ước tính, hơn một phần tư cánh đồng của quốc gia này sẽ rơi vào tình trạng nguy hiểm. Nhu cầu cấp bách hiện nay là phải thay đổi hiện trạng.

Mặc dù lượng thuốc trừ sâu và phân bón sử dụng trên đồng ruộng đã tăng lên rất nhiều, nhưng năng suất và sản lượng lúa được tưới tiêu trên toàn quốc không thay đổi nhiều kể từ thập niên 1990, thậm chí còn giảm ở một số khu vực. Lượng phân bón được bán cho nông dân Ấn Độ tăng từ 338.000 tấn năm 1961 lên tới 8 triệu tấn năm 1985 và 20,6 triệu tấn năm 2005. Cấu trúc và sự màu mỡ của đất đai đã bị ảnh hưởng tiêu cực bởi việc tưới nước quá mức và sử dụng quá nhiều hóa chất, dẫn tới hình thành đất nhiễm mặn, đất bị nén khí và những hạn chế khác đối với năng suất cây trồng. Khi đất và nước phải tiếp nhận quá nhiều phân bón và thuốc trừ sâu, các tác động tiêu cực có thể ảnh hưởng đến đất ẩm, môi trường, sức khỏe con người, cây cối và côn trùng.

Ấn Độ cần gia tăng sản xuất lúa gạo ở mức 2,5 triệu tấn/năm nhằm đáp ứng nhu cầu của quốc gia này vào năm 2050 –tăng gần 92% so với mức sản xuất hiện nay. Dùng nhiều nước hơn cho sản xuất nông nghiệp lấy từ các sông ngòi và tầng nước ngầm sẽ làm giảm nguồn nước cho sinh hoạt và duy trì hệ thống tự nhiên không phải là một giải pháp khả thi. Ấn Độ cần áp dụng các phương pháp như thâm canh lúa cải tiến.

GIỚI THIỆU PHƯƠNG PHÁP THÂM CANH LÚA CẢI TIẾN

SRI được đưa vào Ấn Độ vào năm 2000 khi các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Nông nghiệp Tamil Nadu (TNAU) khởi xướng thí nghiệm liên quan đến các nguyên tắc của SRI trong một dự án hợp tác về trồng lúa sử dụng ít nước. Kết quả của thí nghiệm này trong năm 2002-2003 đã được đánh giá trên cánh đồng của bà con nông dân. Năm 2003, một gói các biện pháp SRI đã được hình thành và thử nghiệm tại cánh đồng của 200 nông dân thông qua một sáng kiến của Chính phủ nhằm so sánh hiệu quả của phương pháp SRI và các phương pháp thâm canh tập quán tại lưu vực sông Cauvery và Tamiraparani. Kết quả ở hai lưu vực sông cho thấy sản lượng bình quân tăng 1,5 tấn/hecta trong khi giảm chi phí sản xuất, thậm chí nhu cầu lao động giảm 8%/ha. Đánh giá này tạo nền tảng cho việc chính thức khuyến cáo áp dụng phương thức thâm canh lúa cải tiến cho nông dân vào năm 2004.

Đồng thời, trường đại học nông nghiệp quốc gia tại Andhra Pradesh – Đại học Nông nghiệp Acharya N.G. Ranga (AN-GRAU), giới thiệu phương pháp SRI trên các ruộng lúa của nông dân trong vụ mùa thu năm 2003, sau khi nhà khoa học ANGRAU quan sát phương pháp SRI được áp dụng tại Sri Lanka. Thử nghiệm so sánh đã được tiến hành trên các huyện của toàn bang. Việc so sánh này đã tạo ra sự quan tâm chú ý trong toàn quốc khi kết quả chỉ ra rằng năng xuất trung bình của ruộng lúa SRI tăng 2,5 tấn/hecta – tăng 50% so với ruộng canh tác lúa nước tập quán.

WWF VÀ SRIẤn tượng trước những kết quả áp dụng SRI của trường TNAU và ANGRAU, Dự án Đối thoại Chung WWF-ICRISAT đã mở rộng hỗ trợ kỹ thuật và tài chính để tiến hành đánh giá mang tính hệ thống về các phương pháp SRI của trường ANGRAU và Trung tâm Hoạt động Nông nghiệp và các Chương trình Xã hội, một tổ chức Phi chính Phủ trong nước, thông qua phương pháp thử nghiệm trên đồng ruộng trong thời gian một vài năm tại 11 huyện trong bang, bắt đầu từ vụ đông năm 2004-2005. Các đánh giá trong năm thứ hai có sự

tham gia của các nhà khoa học tại ICRISAT và thành viên Ban Giám đốc Nghiên cứu Lúa gạo của Hiệp hội Nghiên cứu Nông nghiệp Ấn Độ. Dựa trên những kết quả đánh giá tích cực, tháng 11/2005 WWF-ICRISAT đã tiếp cận với Chính quyền Bang Andhra Pradesh nhằm yêu cầu áp dụng phương pháp SRI. Chính quyền bang đã hưởng ứng tích cực và cung cấp ngân sách cho việc thúc đẩy ứng dụng SRI.

WWF-ICRISAT đã hỗ trợ nghiên cứu về SRI, các thử nghiệm và trình diễn trên đồng ruộng, các hội thảo có sự tương tác với nông dân trên toàn Ấn Độ (Ảnh trên cùng: Mô hình trình diễn tại Bang Tripura). Phía trên, Biksham Gujja, tư vấn chính sách tại Chương trình Nước ngọt Toàn cầu WWF thảo luận về biện pháp SRI với nông dân và các cán bộ nông nghiệp tại Bang Punjab- một trong những khu vực sản xuất lúa lớn nhất của Ấn Độ và là nơi thiếu hụt nước nghiêm trọng.

25 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 28: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

WWF

Các hội nghị chuyên đề toàn quốc về SRI là một hoạt động quan trọng thúc đẩy việc học tập và đối thoại chính sách về SRI tại Ấn Độ (ảnh trên). Ảnh dưới, Dr. V.V. Sadamate, Tư vấn, Bộ phận lập Kế hoạch (Nông nghiệp), Chính phủ Ấn Độ (đội mũ bên trái) và Dr. V. Vinod Goud (cạnh ông), Điều phối viên Dự án, WWF -ICRISAT, và các cán bộ Nông nghiệp Huyện thăm các cánh đồng của hộ nông dân theo phương pháp SRI tại huyện Warangal, Andhra Pradesh.

BÁO CÁO QUỐC GIA

Về các hoạt động triển khai biện pháp SRI trong tất cả các quận huyện của bang và khởi động một chương trình tập huấn cho nông dân và các thành viên của Phòng Nông nghiệp Bang, trong vòng hơn 5 năm (từ 2003-2004 đến 2007-2008) với hai vụ trong năm, sản lượng trung bình của các cánh đồng SRI tăng 26,5% so với các biện pháp truyền thống.

CÁCH TIẾP CẬN: XÂY DỰNG DIỄN ĐÀN QUỐC GIA

Vào thời điểm này, các tổ chức phi chính phủ, trường đại học, cơ quan chính phủ và các đơn vị từ khu vực tư nhân trong các bang khác cũng bắt đầu đánh giá và phổ biến SRI ở một số nơi khác thuộc Ấn Độ. WWF-ICRISAT bắt đầu làm việc với các tổ chức và cá nhân quan tâm khác để những triển vọng của SRI có thể có tác động rộng lớn hơn trong toàn quốc.

Đặc biệt, rất nhiều Tổ chức xã hội dân sự địa phương và trong vùng (CSO) của Ấn Độ đã độc lập giới thiệu biện pháp SRI ở những khu vực nông thôn. Vai trò của CSO trong việc thúc đẩy SRI trong toàn quốc là rất quan tâm và mong muốn, đặc biệt nhằm nâng cao đời sống của người dân nghèo trồng lúa ở khu vực xa xôi hẻo lánh và khu vực của người thổ dân.

CSO được nhiều tổ cơ quan chính phủ tham gia như Phòng Nông nghiệp Bang Tripura, các trường cao đẳng, đại học, các tổ chức như Viện Quản lý Xavier ở Bhubaneswar; các tổ chức từ khu vực tư nhân như Công ty Trách nhiệm Hữu hạn TildaRicelands Pvt.; các quỹ như Quỹ Tín thác Sir Dorabji Tata Trust (SDTT); và các ngân hàng như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quốc gia (NABARD). Tất cả đã mang lại nhiều cách tiếp cận và khả năng khác nhau đối với việc phổ biến kiến thức và cơ hội về SRI.

WWF-ICRISAT nhận ra rằng nếu không có sự phối hợp giữa các đơn vị khác nhau, không xây dựng được khung lô gic ghi chép và lưu trữ kinh nghiệm về SRI không quy tập tất cả những nghiên cứu và ứng dụng SRI trên toàn quốc, thì những nỗ lực này sẽ ít hiệu quả hơn so với mong đợi. Và như vậy những bài học kinh nghiệm cũng không được tổng hợp để có thể chia sẻ và học hỏi. Tiền bạc và thời gian có thể bị lãng phí do đầu tư vào các nỗ lực trùng lặp. Do đó, WWF-ICRISAT đã đưa ra sáng kiến xây dựng một Diễn đàn quốc gia đặt tại ICRISAT nhằm thúc đẩy: 1) sự liên kết hợp tác giữa các bên liên quan chủ chốt, đó là các viện nghiên cứu lúa gạo quốc gia và của các bang, các trường đại học nông nghiệp, tổ chức dân sự hoặc xã hội dân sự, các quan chức cấp tỉnh thành và các nhà tài trợ; 2) các hoạt động nghiên cứu và phát triển; 3) liên kết và chia sẻ thông tin; và 4) đối thoại giữa các bên hữu quan từ cấp độ người nông dân đến cấp độ toàn quốc.

Thiết lập sự Hợp tác và Liên kết

Các hoạt động của WWF-ICRISAT bao gồm nghiên cứu để nâng cao sự hiểu biết một cách khoa học về các nguyên tắc của SRI, các sáng kiến nhằm hỗ trợ giới thiệu SRI trong các điều kiện thời tiết, khí hậu khác nhau, thử nghiệm và trình diễn trên đồng ruộng, các hội thảo có sự thảo luận với nông dân, hội thảo đầu bờ, các trung tâm nguồn dựa trên thực tiễn đồng ruộng, các sự kiện truyền thông, xây dựng năng lực cho các tác nhân tạo sự thay đổi trong các tổ chức chính phủ và phi chính phủ, và vận động chính sách ở cấp bang và cấp toàn quốc. Hoạt động của WWF-ICRISAT được cấp kinh phí một phần từ Bộ Ngoại giao, chính phủ Na Uy, và một số đối tác trong nước chủ chốt trong đó có:

Ÿ Trường ĐH Nông nghiệp Acharya N.G. Ranga (ANGRAU),

Ÿ Hyderabad

Ÿ Quỹ Nông nghiệp – Con người – Sinh thái (AMEF), Bangalore

Ÿ Trung tâm Hoạt động Nông nghiệp và các Chương trình Xã hội (CROPS), Jangaon, Andhra Pradesh

Ÿ Ban giám đốc Nghiên cứu về Lúa gạo (DRR), Hyderabad

Ÿ Viện Khoa học Nhân dân (PSI), Dehradun

Ÿ Trường ĐH Khoa học Nông nghiệp và Công nghệ Sher-e-Kashmir, Jammu (SKUAST-J), Chatha

Ÿ Vikas Sahyog Kendra (VSK), Jharkhand

Ÿ Mạng lưới Hoạt động và Dịch vụ hỗ trợ Lưu vực sông (WASSAN), Hyderabad.

Hoạt động điển hình và có tầm ảnh hưởng nhất của WWF-ICRISAT là ba hội nghị chuyên đề toàn quốc. Các hội nghị chuyên đề này đã thúc đẩy việc học tập lẫn nhau, hỗ trợ xây dựng mạng lưới các tổ chức và cá nhân quan tâm, khuyến khích nỗ lực phát huy sáng kiến của nông dân cũng như xác định nội dung chương trình nghiên cứu thông qua xác định các vấn đề có liên quan đến SRI.

Hội nghị đầu tiên diễn ra tại ANGRAU vào năm 2006, đã hội tụ khoảng 200 các chuyên gia nghiên cứu, người thực hiện và các nhà hoạch định chính sách về SRI trong toàn quốc. Bộ trưởng Nông nghiệp Bang Andhra Pradesh chủ trì khai mạc. Hội nghị thứ hai được tổ chức vào năm 2007 tại Bang Tripura, nơi chính quyền bang đã dành 1/3 ngân sách nông nghiệp của bang cho việc thúc đẩy SRI. Cùng kết hợp tổ chức Hội nghị có Phòng Nông nghiệp, Ban Nghiên cứu Lúa gạo Hyderabad; Viện Nghiên cứu Lúa gạo Trung ương Cuttack; Ban Phát triển Lúa gạo Patna; NABARD; SDTT; và ANGRAU. Hội nghị chuyên đề năm 2008 do TNAU chủ trì và được sự hỗ trợ từ SDTT và NABARD.

Ngoài việc chủ trì một trang thông tin điện tử quốc gia về SRI (www.sri-india.net) và cùng với các cơ quan chính phủ, đối tác là các trường và tổ chức phí chính phủ - đã giới thiệu và phổ biến những nghiên cứu, báo cáo, tờ tin, sổ tay, ghi chép, bảng biểu và các bảng thông tin trích yếu cho những trường hợp điển hình.

26NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 29: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

các trạm ở nhiều bang trong các điều kiện môi trường trồng lúa đa dạng đều chứng tỏ rõ ràng là SRI có tiềm năng nâng cao năng suất và giảm nhu cầu sử dụng nước, giảm chi phí đầu vào và hóa chất. Các số liệu từ những thí nghiệm SRI ở Ấn Độ cho thấy năng suất lúa gạo tăng tới 68%. Một số kết quả thí nghiệm thu được trên toàn quốc được trình bày trong bảng bên trái.

Ở Việt Nam và Mali, nông dân nhận thấy các ưu điểm chủ yếu của SRI là giảm giống, tiết kiệm đến 50% lượng nước, chất lượng đất được cải thiện, năng suất tăng 20-30%. Ngoài ra, SRI giúp giảm thời gian mùa vụ, sản lượng gạo xay xát cao hơn, khả năng chống hạn hán và mưa bão tốt hơn. Khó khăn chủ yếu là thiếu lao động có kỹ thuật, khó xử lý mạ non, quản lý tưới tiêu ở các vùng đất trũng và phải làm cỏ nhiều hơn.

Ở Ấn Độ, vai trò của SRI không chỉ ở cây lúa. Những nguyên tắc cơ bản của SRI được áp dụng trên các loại cây trồng khác, như cây mía. WWF-ICRISAT mới đây đã cho phát hành cuốn sổ tay về Sáng kiến Cây mía Bền vững (SSI): Cải thiện hoạt động trồng mía tại Ấn Độ. Kết quả bước đầu thu được rất tốt. Giống như SRI, SSI có triển vọng được triển khai trên toàn cầu. Những thử nghiệm đầy hứa hẹn hiện đang được tiến hành trên lúa mì, kê, mù tạc, vừng và một số loại cây khác tại nhiều bang của Ấn Độ.

Sản lượng lúa gạo ghi nhận trong các hoạt động thử nghiệm SRI tại Ấn ĐộSTT Địa điểm Sản lượng ( tấn /ha ) Nguồn

Canh tác SRI % tăngtập quán /giảm

WWF BÁO CÁO QUỐC GIA

1 Viện nghiên cứu lúa gạo Tamil Nadu , TNAU, Aduthurai 4,7 7,1 + 48,9

2 14 trạm nghiên cứu, ANGRAU, Andhra Pradesh 4,9 5,7 + 16,6

3 Đại học Nông nghiệp Gandhi Ấn Độ, 5,9 (2006) 6,6 + 12,0Raipur, Chattisgarh 4,3 (2007) 5,1 + 17,8

4 Viện nghiên cứu nông nghiệp, Patna, Bihar 3,9 6,1 + 55,1

5 Đại học Nông nghiệp Pandit Jawaharlal Nehru 2,2 3,7 + 68,3Và Viện nghiên cứu, Karaikal, Puduchery

6 Khu liên hiệp nghiên cứu ICAR, Umiam, Meghalaya 4,0 (2005) 4,4 + 9,34,7 (2006) 5,2 + 10,2

7 Viện nghiên cứu lúa gạo Trung ương, Cuttack, Orissa 4,9 (2005) 5,9 + 20,45,6 (2006) 7,0 + 25,0

8 Trạm nghiên cứu nông nghiệp, 3,1 4,5 + 45,2Shillongani, Assam

9 Trạm nghiên cứu nông nghiệp, UAS, 8.8 (2005) 10,2 + 15,9Kathalagere, Karnataka 9,1 (2006) 10,5 + 15,4

10 Trạm nghiên cứu lúa gạo, 4,0 (2006) 6,3 + 35,9AAU, Nawagam, Gujarat 4,7 (2007) 7,5 + 37,1

11 Birsa, Ranchi, Jharkhand 4,3 5,0 + 16,3

Rajendran et.al., 2005

Mallikarjuna Reddy et.al., 2007

Shrikant Chitale et al., 2007

Ajaykumar et. al., 2007

Sridevi and Chellamuthu, 2007

Munda et.al., 2007

Rao et.al., 2007

Bora and Dutta, 2007

Jayadeva et al., 2008

Chauhan et al., 2008

Singh et al., 2009

WWF-ICRISAT đã tổ chức một cuộc họp về chính sách cấp quốc gia vào tháng 2/2009. Với tên gọi “Nhân rộng biện pháp SRI – Định hướng cho tương lai: Cuộc họp của nhóm chủ chốt”. Cuộc họp đã đưa ra nhiều khuyến nghị như nghiên cứu quy mô phát triển canh tác SRI trong thực tiễn; các biện pháp can thiệp cấp vùng, bang và nhà nước; hỗ trợ Nghiên cứu và Triển khai tích cực; ủng hộ chủ trương chính sách và cơ chế thể chế nhằm thúc đẩy SRI.

Đối thoại Chính sách

Các đối thoại chính sách do WWF-ICRISAT thúc đẩy đang ngày càng gia tăng từ cấp huyện lên cấp bang và cấp nhà nước. SRI đã được lồng ghép vào Nhiệm vụ An ninh Lương thực Quốc gia (NFSM) với tư cách là một chiến lược nhằm gia tăng sản xuất lúa gạo tại hơn 130 huyện không đảm bảo về lương thực tại Ấn Độ. Vào tháng 5 năm 2009, một cuộc “Đối thoại Chính sách Tương tác về nhân rộng biện pháp SRI” – được tổ chức trên cơ sở các đầu ra của hội thảo chuyên đề năm 2008 và của Cuộc họp Nhóm Chủ chốt tại ANGRAU. Khoảng 50 đại biểu đã tham dự cuộc đối thoại. Cuộc họp tập trung vào việc xây dựng một khuôn khổ chính sách và khung thời gian quốc gia cho việc nhân rộng SRI, các vấn đề khoa học và kỹ thuật khi tăng cường áp dụng biện pháp SRI, bao gồm thiết kế và sản xuất các công cụ tốt hơn, nghiên cứu về các phản ứng khác nhau đối với biện pháp SRI, xác định sự ổn định của các khu vực khí hậu khác nhau và xây dựng năng lực nhằm nhân rộng SRI.

KẾT QUẢ: NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA SRI ĐÃ THÚC ĐẨY NHANH VIỆC ỨNG DỤNG TRONG TOÀN QUỐC

Hiện nay, SRI được biết đến ở tất cả các bang trồng lúa tại Ấn Độ. Ước tính, có khoảng 600.000 nông dân đang trồng lúa sử dụng hầu hết hoặc toàn bộ các biện pháp quản lý mùa vụ SRI trên diện tích khoảng 1 triệu hecta thuộc 300 trong số 564 huyện trồng lúa của Ấn Độ. SRI cũng đang được điều chỉnh để áp dụng tại những khu vực canh tác nhờ nước mưa tự nhiên.

Đây có lẽ là tiến bộ nông nghiệp được triển khai áp dụng nhanh nhất ở quốc gia này, điều đó làm cho SRI trở thành một hiện tượng quốc gia rất điển hình với chi phí ít nguồn lực cho việc nhân rộng. Đánh giá trên đồng ruộng và đánh giá tại

CÁC BƯỚC TIẾP THEO

Đại diện của Dự án WWF-ICRISAT, cùng với các cộng sự đến từ các tổ chức đối tác đã tham gia cuộc đối thoại với các cơ quan Chính phủ ở cấp tiểu bang và cấp quốc gia về việc hỗ trợ áp dụng SRI trên quy mô lớn hơn, đặc biệt là ở cấp lưu vực. Dự án đã tổ chức và tham gia một số cuộc đối thoại nhằm thuyết phục Chính phủ thông qua mục tiêu quốc gia tính đến năm 2015 sẽ chuyển đổi ít nhất 20% diện tích đất trồng lúa tưới tiêu sang phương pháp SRI. Áp dụng SRI, nông dân không những sản xuất được nhiều lương thực hơn mà còn đóng góp cho nền kinh tế quốc gia và giúp cải thiện môi trường thông qua các lợi ích mà SRI đem lại như: tiết kiệm nước (nhờ đó, giảm gánh nặng của Chính phủ cho các dự án về cơ sở hạ tầng nước sạch); giảm sử dụng phân bón (giúp giảm chi phí trợ cấp, đồng thời chất lượng đất được cải thiện nhờ bón phân hữu cơ); giảm công sức bơm nước từ các giếng khoan. Các nhà hoạch định chính sách cần ghi nhận và biểu dương những lợi ích do SRI đem lại. Để nhân rộng SRI, Chính phủ không cần tăng chi phí mà chỉ cần điều chỉnh lại các nguồn lực.

Dự án WWF-ICRISAT hiện nay đang tập trung vào: a) tính toán nhu cầu nước của SRI; b) tiến hành các nghiên cứu khoa học với các tổ chức đối tác để hiểu được làm thế nào các chất dinh dưỡng trong đất và sinh khối của rễ cây có thể mang lại năng suất cao; c) phối hợp với các chương trình cấp quốc gia hiện nay liên quan đến nông nghiệp và quản lý nguồn nước để nhân rộng mô hình SRI; d) cung cấp các cộng cụ tập huấn; e) hỗ trợ các nghiên cứu quan trọng của các tổ chức xã hội dân sự (CSOs) về lợi ích của SRI; f) tăng cường trao đổi giữa nông dân; và g) tổ chức các hội nghị chuyên đề cấp quốc gia về SRI để giúp các bên tham gia có cơ hội gặp gỡ, chia sẻ.

27 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 30: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Ảnh trên: Nông dân Siddimallaiah đang chăm sóc ruộng lúa SRI của mình. SRI đã giúp lúa của ông chống chọi được đợt hạn hán năm 2009. Ảnh trên cùng: Lúa của ông trồng theo phương pháp tập quán, phụ thuộc vào tưới tiêu, phải chống chịu khô hạn. Nếu không nhờ SRI, ông và gia đình ông có lẽ đã phải đối mặt với mùa màng thất bát và nguồn sinh kế có thể đã bị ảnh hưởng.

WWFBÁO CÁO QUỐC GIA

SRI MANG LẠI LỢI ÍCH CHO CÁC NÔNG DÂN CHỊU ẢNH HƯỞNG CỦA HẠN HÁN

28NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Sau bốn năm mưa thuận gió hòa, năm 2009 đã bị thiếu mưa trầm trọng trong suốt mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 8, thời điểm mà các nông dân trồng lúa theo phương pháp tập quán cần tưới để cấy. Thông thường, ở vùng Andhra Pradesh, tính đến tháng 7 hàng năm lượng mưa ở mức 297mm. Năm 2009, tính đến tháng 7, lượng mưa chỉ đạt 157mm. Mực nước ngầm giảm sâu thêm gần 2m từ 9,33m vào tháng 07/2008 xuống còn 11,09m vào tháng 07/2009. Jangaon Block (thuộc huyện Warangal của Andhra Pradesh) là một trong những khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của đợt hạn hán do thiếu nước ngầm trầm trọng trong khu vực. Tuy nhiên, một số nông dân trong huyện chủ yếu sống dựa vào cây lúa đã được tập huấn về phương pháp SRI.

Nông dân Siddimallaiah năm nay 65 tuổi, hiện có khoảng 8 hec-ta ruộng. Ông đã quyết định áp dụng thử phương pháp SRI trên một thửa ruộng nhỏ, phần diện tích còn lại ông vẫn canh tác theo tập quán. Khi đến tuần thứ hai của tháng 6 vẫn chưa có mưa, giấc mơ có đủ gạo ăn cho gia đình và có một phần dư dật để bán của ông đã không còn vì mạ non héo úa. Ruộng của ông Siddimallaiah hoàn toàn phụ thuộc vào mưa do các giếng khoan của nhà ông đều đã cạn. Ông không có đủ tiền để đào thêm giếng. Hơn nữa, các nông dân khác đào giếng cũng không lấy được chút nước nào từ các giếng mới đào này.

Tình hình càng tồi tệ hơn vì ruộng khô nứt chân chim đòi hỏi phải được tưới tiêu tăng cường. Tuy nhiên, nguồn cung cấp điện trong mùa hè không ổn định và không có đủ máy bơm để tưới cho các ruộng.

Ông Siddimallaiah lúc đó đã hoàn toàn thất vọng. Ở cái tuổi của ông cũng khó được người ta thuê mướn trong làng, hay dù ông có đi chỗ khác cũng khó kiếm được việc. Cả gia đình sáu miệng ăn nhà ông trông cậy cả vào mấy thửa ruộng. Ông càng chán nản hơn khi không có tiền trang trải nợ nần vay mượn để mua thóc giống, phân bón và thuốc trừ sâu.

Chính lúc này ông nhận thấy các thửa ruộng áp dụng phương pháp SRI vẫn tốt tươi dù có rất ít nước. Các ngày sau đó, sự khác biệt giữa thửa ruộng SRI và ruộng trồng tập quán càng rõ ràng. Lúa SRI tiếp tục phát triển chỉ cần rất ít nước trong khi lúa tập quán ngày càng khô héo. Khi thu hoạch lúa, thông thường ông gặt được 30 bao thóc/acre (70kg/bao), nhưng mùa này thóc lép nên ông đành bán làm thức ăn cho gia súc. Tuy nhiên, dù khô hạn nhưng thửa áp dụng SRI vẫn cho năng suất 35 bao (70kg/bao).

Thành công của ông Siddimallaiah đã thu hút sự tham gia của hàng trăm nông dân đến với các khóa tập huấn đầu tiên về phương pháp SRI.

Page 31: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

TÓM TẮT

Chúng tôi khuyến nghị tất cả các nước sản xuất lúa gạo nên mở rộng áp dụng SRI, với mục tiêu đến năm 2015 có ít nhất 25% hệ thống canh tác lúa nước hiện nay chuyển sang áp dụng SRI, trong đó tất cả các đề án mới về hệ thống tưới tiêu cần được thiết kế nhằm hỗ trợ SRI, có khả năng cung cấp nước ít hơn cho lúa nhưng vẫn đảm bảo độ tin cậy.

Khuyến nghị

Do lúa gạo đóng vai trò là nguồn cung cấp lương thực chủ yếu và được canh tác trên diện tích tưới tiêu lớn nên các lợi ích tiềm năng của việc áp dụng SRI đem lại là rất lớn tại các nước trên thế giới. Những lợi ích này không chỉ dừng lại ở

việc cung cấp chất dinh dưỡng và đảm bảo an ninh lương thực cho các quốc gia đang phát triển và cho người nghèo mà SRI còn đem lại những lợi ích to lớn cho môi trường.

Những lợi ích này có được nhờ giảm lượng nước tưới, và nhờ vậy giúp giảm lượng phát thải khí nhà kính, đặc biệt là khí CH , khí này được tạo ra từ những ruộng lúa ngập nước 4

quanh vụ. Một lợi ích quan trọng không kém của SRI là cắt giảm sử dụng chất hóa học (phân bón và thuốc trừ sâu), giúp hạn chế tình trạng ô nhiễm gây ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và tính bền vững của các hệ thống sản xuất hiện nay.

SRI chính là một cơ hội chín muồi, không đòi hỏi những khoản kinh phí đầu tư lớn cho cơ sở hạ tầng và công tác nghiên cứu. Nông dân có thể sản xuất thêm lương thực cho gia đình họ, đồng thời cải thiện thu nhập chỉ trong vòng từ một đến hai vụ. Với khoản kinh phí đầu tư thấp phương pháp SRI đã đem lại hiệu quả trong việc tăng năng suất và đồng thời cắt giảm lượng nước tưới tiêu và các nguyên liệu đầu vào khác. Các khoản hỗ trợ công tác tập huấn và nhân rộng mô hình có thể được huy động một phần từ các khoản trợ cấp phân bón và điện chạy máy bơm hiện nay.

Tuy nhiên, để nhận thức một cách đầy đủ những lợi ích mà SRI đem lại cho con người cũng như cho hệ sinh thái thì việc mở rộng mô hình là rất quan trọng. Thông qua việc áp dụng SRI và một số phương pháp tương tự trên phạm vi rộng, Chính phủ các nước có thể cắt giảm dòng ngân sách dùng cho nhập khẩu lương thực, cũng như cắt giảm những trợ cấp cho ngành nông nghiệp. Chính phủ không cần đầu tư xây dựng những hệ thống cấp nước mới rất tốn kém và giảm các chi phí khác như chi cho tranh chấp nước và suy thoái môi trường.

Một ví dụ đưa ra là Chính phủ Ấn Độ đã phân bổ 40 triệu đô la Mỹ (khoảng 8 đô la/ha) để mở rộng mô hình SRI trên diện tích 5 triệu hec-ta trồng lúa tại các huyện có tỷ lệ nghèo cao trong Chương trình An ninh Lương thực Quốc gia. Những dữ liệu từ các mô hình thí điểm do Đại học Nông nghiệp Tamil Nadu cung cấp cho thấy tại lưu vực sông Tamiraparani năm 2004, SRI đã giúp tăng thu nhập ròng từ 242 đô la Mỹ/ha lên 519 đô la Mỹ/ha. Như vậy, mặc dù tổng chi phí đầu tư cao hơn gấp 3 lần nhưng tỷ lệ lợi nhuận thu được của SRI là 10:1

những lợi ích mà SRI mang lại; đưa SRI vào các chiến lược phát triển của quốc gia và đảm bảo các chính sách và nguồn ngân sách hỗ trợ; phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Thủy lợi, các cơ quan nghiên cứu, các tổ chức khuyến nông, các trường đại học nông nghiệp và các tổ chức xã hội dân sự.

Ÿ Các tổ chức tài trợ song phương và đa phương cần tăng cường viện trợ thông qua hình thức vốn vay hoặc viện trợ hỗ trợ nông dân áp dụng SRI và các kỹ thuật tiến bộ khác. Tài trợ có thể dưới hình thức hỗ trợ kỹ thuật trong công tác thiết kế và triển khai dự án, xây dựng năng lực cho tất cả các cấp để áp dụng SRI trên diện rộng và hỗ trợ được thực hiện thông qua hợp tác với các đối tác trong các khu vực công, tư nhân và phi chính phủ.

Ÿ Các tổ chức nghiên cứu quốc gia và quốc tế cần tiến hành xem xét, tài liệu hóa và đưa vào sử dụng các kết quả liên quan đến SRI, trong đó chỉ rõ kết quả đạt được ở các địa phương cụ thể. Có rất nhiều sự bổ trợ lẫn nhau giữa cách tiếp cận theo phương thức quản lý và tiếp cận theo di truyền. SRI đã chứng minh tính hiệu quả trên tất cả các giống lúa địa phương và các giống cải tiến được lựa chọn thử nghiệm trong điều kiện tưới tiêu đầy đủ. Để tìm hiểu thêm về các điều kiện canh tác SRI, các nhà khoa học cần tiến hành triển khai chọn lựa các giống lúa trồng trong các chế độ ẩm gián đoạn khác nhau và mật độ cấy thưa đặc trưng của phương pháp SRI.

Ÿ Oxfam, Africare, WWF, các tổ chức phi chính phủ và tổ chức xã hội dân sự khác ủng hộ SRI cần tiếp tục chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức và năng lực với các tổ chức khác nhằm tạo ra sự tiến bộ đổi mới trong ngành nông nghiệp, có thể thông qua các mạng lưới hợp tác cấp khu vực, bắt đầu từ những quốc gia được đề cập trong bản Báo cáo này.

Ÿ Các đối tác thuộc khu vực tư nhân, ví dụ như các đại lý bán buôn, bán lẻ, các nhà phân phối và các công ty lương thực quốc tế nên đẩy mạnh chuyển sang phương pháp SRI bằng cách thay đổi các loại gạo thường nhập mua, chẳng hạn từ 10-25% là gạo SRI. Gạo sản xuất theo phương pháp SRI tại một số quốc gia hiện đã thu hút sự quan tâm trên một số thị trường trong nước và quốc tế. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyên sản xuất, giới thiệu và cung cấp dịch vụ đối với dụng cụ cào cỏ bằng tay và một số công cụ khác cũng có thể nắm bắt cơ hội này. Ngành công nghiệp sản xuất phân bón cần xem xét lại các sản phẩm và khuyến cáo với nông dân trồng lúa quy mô nhỏ nên áp dụng phương pháp SRI.

Để đạt được mục tiêu này, một yêu cầu đặt ra là các cơ quan Chính phủ, các tổ chức tài trợ, các viện nghiên cứu và xã hội dân sự cần phối hợp cùng nhau để các khoản đầu tư cho nông dân được sử dụng một cách hiệu quả nhất.

Ÿ Chính phủ các nước đang phát triển cần cân nhắc

CÁC BÊN LIÊN QUAN CÓ THỂ LÀM GÌ

CÁC YÊU CẦU CƠ BẢN

Các chương trình mở rộng phương pháp SRI trên diện rộng cần quan tâm đến những cơ hội và thách thức sau:

Đào tạo và nhân rộng: Với SRI, những gì được tăng cường là kiến thức, kỹ năng và cách thức quản lý, chứ không phải số lượng nguyên liệu đầu vào được sử dụng. Các hoạt động thử nghiệm kiểm chứng, tập huấn và mở rộng mô hình là tất yếu. Các lớp học đồng ruộng có sự tham gia của người dân đã tỏ ra rất có hiệu quả trong việc giới thiệu về SRI. Các chiến lược nhân rộng như tăng cường năng lực cộng đồng, hỗ trợ nông dân để họ có thể quyết định cách thức quản lý mùa vụ theo các điều kiện cụ thể của địa phương, được chấp nhận hơn cách tiếp cận truyền thống từ trên xuống như trước đây. Ngoài ra, các chương trình phải được thiết kế phù hợp với từng nền văn hóa và các nhóm trong cộng đồng, bao gồm cán bộ khuyến nông, phụ nữ, nông dân, người làm công trong nông nghiệp, điền chủ và các nhà cung cấp nông nghiệp.

29 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 32: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Có thể nhân rộng nhanh SRI trên quy mô lớn bằng cách phải đảm bảo trong các chương trình tập huấn vai trò quan trọng của người phụ nữ được công nhận (ảnh trên cùng); tăng cường các hệ thống thủy lợi phục vụ cho công tác phân bổ nước tốt hơn (ảnh giữa) và đảm bảo việc người nông dân có thể tiếp cận với dụng cụ làm cỏ và một số công cụ giúp tiết kiệm sức lao động khác (ảnh dưới bên trái). Tăng cường nghiên cứu cũng đóng một vai trò quan trọng, bao gồm nghiên cứu những tiềm năng của việc áp dụng SRI trên các loại cây trồng khác. Tại Ấn Độ, SRI đã được áp dụng trên cây mía (ảnh dưới bên phải) thông qua Chương trình sáng tạo cho cây mía bền vững của WWF-ICRISAT cho năng suất cao hơn và tiết kiệm nước hơn.

Quản lý thủy lợi: Nếu muốn tiết kiệm tối đa và tối ưu hóa tính hiệu quả của việc sử dụng nước Chính phủ cần đầu tư nhiều hơn cho công tác kiểm soát việc phân phối nước. Công tác kiểm soát bao gồm việc thiết kế và kiểm soát dự trữ nước, kênh mương trên đồng và hệ thống tiêu nước. Công tác này đòi hỏi những cải cách về thể chế và xây dựng năng lực cho cán bộ để hỗ trợ việc phân bổ và phân phối nước đúng lúc và kịp thời.

Các công cụ và đầu vào: Dụng cụ cào cỏ là một công cụ quan trọng nhằm tăng tối đa năng suất cây trồng và tăng tính hiệu quả của các nguyên liệu đầu vào khi áp dụng SRI. Không có dụng cụ cào cỏ nào phù hợp với mọi loại đất và các điều kiện của địa phương. Việc thiết kế và cung cấp đầy đủ dụng cụ cào cỏ và các dụng cụ tiết kiệm công lao động khác được thực hiện ở mỗi địa phương là rất cần thiết. Việc tăng cường khả năng tiếp cận các loại sinh khối phù hợp và tìm hiểu cách thức kết hợp phân vô cơ và hữu cơ cũng rất quan trọng. Nó giúp cải thiện chất lượng đất và giảm sự phụ thuộc vào các loại hóa chất nông nghiệp. Việc sử dụng các loại phân dưới dạng viên hay bánh là một ví dụ điển hình để tăng hiệu quả của việc bón phân hữu cơ.

Nghiên cứu: Nghiên cứu đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc khai thác lợi ích kinh tế và xã hội của phương pháp SRI vì trong suốt thập kỷ qua các nghiên cứu trong nông nghiệp chủ yếu tập trung nguồn lực cho công tác cải tiến di truyền mà không chú trọng đến việc nghiên cứu cách thức quản lý mùa vụ. Sự tham gia của nông dân cần đóng một vai trò quan trọng trong công tác nghiên cứu. Một số đề tài nghiên cứu quan trọng bao gồm:

Ÿ Áp dụng SRI cho các vùng sinh thái cụ thể, bao gồm khoảng cách cấy và cấu trúc, phân bón và chất lượng đất, tiết kiệm công lao động. Ÿ Khả năng thích ứng và phục hồi của hệ thống canh tác áp dụng SRI so với phương pháp tập quán do tính đa dạng di truyền lớn hơn. Ÿ Các nghiên cứu dài hạn về phát triển của sâu hại và dịch bệnh, đặc biệt về cấu trúc và chất lượng đất và điều kiện của đất.Ÿ Đo đạc lượng phát thải khí nhà kính từ việc áp dụng cách thức quản lý SRI để thấy được đóng góp của nông dân SRI trong việc giảm phát thải khí nhà kính. Ÿ Áp dụng SRI trên các loại cây trồng khác.

Sức khỏe và dinh dưỡng: Phương pháp SRI đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng. SRI có thể trở thành một phần trong các chiến lược quản lý bệnh sốt rét nhờ giảm lượng nước ứ đọng trong ruộng. Một nghiên cứu các kinh nghiệm trong 80 năm qua về chế độ tưới tiêu gián đoạn trong canh tác lúa cho thấy SRI giúp giảm một cách đáng kể mật độ vec-tơ gây bệnh sốt rét nhờ hạn chế sự phát triển của ấu trùng (Keiser et al. 2002). Tại một số nước châu Á, đặc biệt là ở Băng-la-đét, người dân dễ bị nhiễm thạch tín khi ăn cơm, thạch tín là một loại độc tố kim loại gây ung thư và một số căn bệnh khác. Cây lúa hấp thu chất thạch tín từ các nguồn nước tưới tiêu bị nhiễm độc lấy từ các giếng khoan. Trong một nghiên cứu năm 2008 (Xu et al.), các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng lúa được trồng trong điều kiện háo khí (khi áp dụng SRI) chứa lượng thạch tín thấp hơn 10-15 lần so với lúa trồng trong các điều kiện ngập nước. Các nghiên cứu cũng chỉ ra nhiều giống lúa được nông dân áp dụng SRI thường sử dụng có hàm lượng sắt, prô-tê-in và một số chất dinh dưỡng khác cao hơn. Người tiêu dùng ở cả nông thôn và thành thị có thể khai thác thêm các lợi ích của SRI. (Frei và Becker 2005).

TÓM TẮT

30NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 33: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

{ SRI

Cuộc sống cộng đồng

được cải thiện

Cuộc sống người

nông dân được cải thiện

{ {

Các lợi ích nhờ áp dụng SRI

TÓM TẮT

Đối với các hộ gia đình nông thôn

Ÿ Với cùng một diện tích, SRI giúp có thêm lương thực để ăn và dư ra để bán

Ÿ Thu nhập cao hơn, chi phí thấp hơn

Ÿ Tiết kiệm nước

Ÿ Giảm sự phụ thuộc vào các nguyên liệu đầu vào như giống, phân bón, thuốc trừ sâu

Ÿ Các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học được cải thiện, hệ thống nông nghiệp chất lượng hơn

Ÿ Giảm tính dễ tổn thương và các nguy cơ

Đối với quốc gia

Đối với Trái Đất

Ÿ Đảm bảo an ninh lương thực

Ÿ Cải thiện sinh kế nông thôn

Ÿ Nước tiết kiệm được từ trồng lúa được dùng cho các loại cây trồng khác, cho con người và thiên nhiên

Ÿ Ngân sách tiết kiệm được huy động cho các dự án nước sạch khác

Ÿ Tiết kiệm ngân sách nhập khẩu gạo, năng lượng và các trợ cấp phân bón

Ÿ Chất lượng đất và nước được cải thiên nhờ hạn chế sử dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu

Ÿ Ít tổn thương hơn đối với hiện tượng đồng nhất di truyền

Ÿ Cộng đồng nông thôn có khả năng thích ứng cao hơn

Ÿ Không chịu nhiều sức ép trong việc cải tạo các khu rừng và cảnh quan khác thành đất nông nghiệp

Ÿ Xóa đói giảm nghèo

Ÿ Hệ sinh thái được cải thiện, gồm có đất, nước và khí hậu

Ÿ Giảm phát thải khí nhà kính, đặc biệt là mê-tan

Ÿ Giảm suy thoái môi trường

Ÿ Giảm tình trạng mất đa dạng sinh học trên cây trồng vật nuôi từ ô nhiễm đất và nước

Ÿ Giảm các xung đột về đất và nước

Hành tinh tốt đẹp hơn

31 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 34: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Ghosh, B.C. và R. Bhat (1998). Những thảm hoạ môi trường của phân đạm đối với các cánh đồng lúa nước, Ô nhiễm môi trường (Environmental Pollution), 102;1, Phụ lục 1.

Giles, J. (2005). Nghiên cứu về phân đạm làm tăng mối lo ngại về ô nhiễm. Tự nhiên (Nature) (24/02/2005).

Glass, A.D.M. (2003). Sử dụng phân đạm một cách có hiệu quả cho cây trồng: Những cản trở về mặt sinh lý trong hấp thụ đạm tố. Các bài phê bình quan trọng trong ngành Thực vật học. 22 (5) 453-470.

IRRI. Thống kê lúa gạo thế giới.

Iswandi, A.D.K., B. Kalsim, I. Setiawan, Yanuar, và S. Herodian (2009).

Đôi nét đặc trưng về nghiên cứu SRI tại In-đô-nê-xi-a, Đại học Nông nghiệp Bogor (IPB). PowerPoint được trình bày tại Hội thảo của Bộ Nông nghiệp, Jakarta, 13/06/2008

IWMI (2007). Lúa gạo:Cung cấp lương thực cho hàng tỷ con người, Chương 14, trong sách Nước cho lương thực, nước cho cuộc sống: Đánh giá toàn diện về quản lý thủy lợi trong nông nghiệp (Water for Food, Water for Life: A Comprehensive Assessment of Water Management in Agriculture). Earthscan, Lon-don, và Viện Quản lý Nguồn nước Quốc tế, Colombo. Tại website http://www.iwmi.cgiar.org/Assessment/

Nelson, G. et al. (2009). Biến đổi khí hậu: Tác động đối với ngành nông nghiệp và các chi phí thích ứng (Climate Change: Impact on Agriculture and Costs of Adaptation). Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực Quốc tế: Washington, D.C.

http://www.ifpri.org/sites/default/files/publications/pr21.pdf

Nguyen, V.T., Q.T. Nguyen và V.A. Nguyen (2007). Ảnh hưởng của phương thức quản lý thủy nông đối với vấn đề phát thải khí mê-tan tại Khu vực đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Ban Quản lý đê điều Trung ương Việt Nam [www.vncold.vn]

Rashid H., R. Scholes, và N. Ash, eds. (2005). Các hệ sinh thái và cuộc sống của con người: Tình trạng và các xu hướng hiện nay (Ecosystems and Human Well-Being: Current State and Trends). Loạt đánh giá hệ sinh thái thiên niên kỷ. Tập 1. http://www.milenniumassessment.org/en/Index.aspx

SIWI, IFPRI, IUCN, IWMI (2005). Hãy chế ngự: Mô hình nước mới cho an ninh lương thực toàn cầu. Báo cáo cuối cùng trình CSD-13. Viện Nước sạch Quốc tế Stockholm, Stockholm.

Smith, K. (2009 ). Quan điểm: Biện pháp kiểm soát mê-tan trước khi địa công trình bị đe dọa. Nhà khoa học mới (New Scientist) (25/06).

UNEP (2008). Biểu đồ nước thiết yếu – Khái quát về tình hình các khu vực nước ngọt và biển trên thế giới. Xuất bản lần thứ 2. UNEP, Nairobi, Kenya.

http://www.grida.no/publications/vg/water2/.

Vergé, X.P.C., C. De Kimpe, và R.L. Desjardins (2007). Sản xuất nông nghiệp, phát thải khí nhà kính và tiềm năng giảm thiểu. Khí tượng học trong nông nghiệp và rừng (Agricultural and Forest Meteorology), 142, 255-269.

Viện Nghiên cứu các nguồn lực Thế giới (WRI). Các bảng dữ liệu thông tin về môi trường. Các nguồn nước ngọt năm 2005. http://earthtrends.wri.org/pdf_library/data_tables/wat2_2005.pdf

Yan, X., H. Akiyama, K. Yagi và H. Akomoto (2009). Những đánh giá trên toàn cầu về lượng tích trữ và giảm nhẹ mối nguy cơ phát thải khí mê-tan từ hoạt động canh tác lúa trong năm 2006. Kênh liên Chính phủ về những chỉ dẫn đối với Biến đổi khí hậu. Các chu trình hóa sinh trên toàn cầu (Global Biochemical Cycles), 23 (doi:10.1029/2008GH003299).

Zhao, L.M., L.H. Wu, Y.S. Li, X.H. Lu, D.F. Zhu và N. Uphoff (2009).

Tác động của Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến đối với sản lượng lúa và tính hiệu quả trong sử dụng nước và phân đạm với những tỷ lệ áp dụng N khác nhau. Nông nghiệp thực nghiệm (Experimental Agriculture), 45, 275 -286.

Tài liệu tham khảo KHÁI QUÁTTính phù hợp của SRI với BĐKH

Báo cáo tổng kết của các quốc gia dưới đây (trong đó một số báo cáo được sử dụng trong Bảng “SRI giúp cải thiện khả năng chống chịu của hộ gia đình và tăng khả năng thích ứng với Biến đổi khí hậu” - Trang 14) có trên website CIIFAD SRI thuộc trang chủ: http://ciifad.cornell.edu/sri/index.html. Nguồn tài liệu về Ấn Độ, Mali và Việt Nam được liệt kê riêng.

AFGHANISTANThomas, Vincent và Ali Muhammad Ramzi (2009). Hệ thống

Thâm canh lúa cải tiến (SRI) 2009 : Các kết quả và khuyến nghị của chiến dịch. Hệ thống quản lý thủy nông có sự tham gia (PMIS). Tổ chức Aga Khan -Afghanistan, Kabul.

BANGLADESHHusain, A.A.M. et al. (2004). Báo cáo đánh giá cuối cùng về

sự kiểm chứng và chọn lọc Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI) tại các khu vực được lựa chọn của Bangladesh (SP 36 02). Báo cáo được trình IRRI/Bangladesh, Dhaka, tháng 06.

CAM-PU-CHIAAnthofer, Jürgen (2004). Tiềm năng của Hệ thống Thâm

canh lúa cải tiến (SRI) trong công tác giảm nghèo tại Cam-pu-chia. Deutscher Tropentag, Tháng 10 5-7, Humboldt-Universität zu Berlin. (http://www.tropentag.de/2004 /abstracts /full / 399.pdf )

TRUNG QUỐCLi, X., X.L. Xu và H. Li (2004). Đánh giá kinh tế xã hội về Hệ

thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI) : Một trường hợp ở làng Xinsheng, hạt Jianyang, tỉnh Tứ Xuyên. Đại học Phát triển và Nhân văn, Đại học Nông nghiệp, Bắc Kinh.

GAMBIACeesay, M., W.S. Reid, E.C.M. Fernandes và N. Uphoff

(2006).Những ảnh hưởng của việc thường xuyên tháo nước, bơm nước vào ruộng của Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI). Tạp chí quốc tế về Nông nghiệp bền vững (International Journal of Agricultural Sustainability), 4,5 -14.

IN-ĐÔ-NÊ-XI-ASato, S. và N. Uphoff (2007). Tổng kết những đánh giá về Hệ

thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI) ở khu vực phía Đông In-đô-nê-xi-a. Tổng kết của CAB: Những triển vọng trong Khoa học nông nghiệp, thú y, dinh dưỡng và tài nguyên thiên nhiên, (CAB Reviews: Perspectives in Agriculture, Veterinary Science, Nutrition and Natural Resources, 2. Tổ chức Nông nghiệp khối thịnh vượng chung quốc tế, Wallingford, UK.

Cook, G. (2009). Cập nhật tình hình về Aceh: Lúa gạo bội thu ở Aceh. Caritas News. Spring, trang. 10-11.

IRAQHameed, K. và F.A. Jaber (2009). Tình hình triển khai Hệ

thống Thâm canh lúa cải tiến tại I-rắc trong năm 2008. Trạm nghiên cứu lúa gạo Al-Mishkhab. Najaf.

LÀOVongsakid, S. (2007). Báo cáo về Công tác phát triển SRI

của Oxfam Úc (OAus). Báo cáo của Cán bộ phụ trách nông nghiệp trình Oxfam Úc, Viên-chăn.

MY-AN-MAKabir, H. và N. Uphoff (2006). Những kết quả về phổ biến Hệ

thống Thâm canh lúa cải tiến áp dụng phương pháp các lớp học đồng ruộng tại phía Bắc My-an-ma. Nông nghiệp thực nghiệm (Experimental Agriculture), 43, 463-476.

NÊ-PANUprety, R. (2005). Triển khai Hệ thống Thâm canh lúa cải

tiến (SRI) tại huyện Morang trong vụ chính năm 2005. Phòng Phát triển nông nghiệp huyện, Biratnagar, Morang.

BÁO CÁO QUỐC GIAGiới thiệu các Báo cáo quốc gia

32NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 35: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Phụ lụcTóm tắt đánh giá tác động của SRI tại 8 quốc gia

Quốc gia (N) Tổ chức Sản lượng tăng Tiết kiệm nước Giảm chi phí Thu nhập tăng

đánh giá (%) (%) trên mỗi hec-ta(%) trên mỗi hec-ta (%)

BĂNG-LA-ĐÉT 1,073 # IRRI-BD/(2002-04) BRAC, SAFE, 24 NM 7 59

Syngenta BD

CAM-PU-CHIA (2004) 500* GTZ 41 RF 56 74(2004) 120** CEDAC 105 50 44 89

TRUNG QUỐC: Sichuan (2004) 82* CAU 29 44 7.4a 64

ẤN ĐỘ : Tamil Nadu (2004)100 # TNAU 28 45 11 112Andhra Pradesh 1,535 # ANGRAU 38 40 NM NM(2003-04)West Bengal 108 # IWMI-Ấn Độ 32b RF 35 67(2004)

IN-ĐÔ-NÊ-XI-A 12,112# Nippon Koei 78 40 20 100+(2002-06 )

NÊ-PAN(2005) 412# DADO† 82 43 2.2c 163

SRI LANKA (2004) 120* IWMI-SL 44 24 12 104

VIÊT NAM ‡ Chương trình IPM quốc gia 17 33 30 23

(2007-08) (13-29 ) (8-32)

Tổng 16,162 47 40 23 6 8+

( N ) : Số lượng nông dân

NM: Không đo lường được

RF: SRI tưới bằng nước mưa ở những nơi không có hệ thống thuỷ lợi

* Dựa trên các mẫu bất kỳ

# Các kết quả dựa trên tất cả các trường hợp áp dụng SRI trong đánh giá, không phải là mẫu

* * Các kết quả theo một nghiên cứu của tổ chức phi chính phủ trên 120 nông dân đã áp dụng SRI được ba năm tính đến thời điểm năm 2004

‡ Các kết quả thu được từ các lớp học đồng ruộng thí điểm tại 13 huyện ở Việt Nam, với sự tham gia của 1274 nông dân; tổng số nông dân áp dụng SRI tại các huyện này trong năm 2008 là 96.544 người (Theo ghi chép của Chương trình IPM Quốc gia của Bộ NN&PTNT Việt Nam)

† Phòng Phát triển Nông nghiệp Morang, Nê-pan

a. Các cán bộ khuyến nông khuyến khích nông dân mua giống và phân bón cải tiến trong khi áp dụng SRI.

b. Một trong số hai làng được nghiên cứu phải hứng chịu đợt hạn hán năm 2004.

c. Dụng cụ cào cỏ giúp tiết kiệm sức lao động chưa sẵn có để giúp giảm đầu vào và chi phí lao động.

Nguồn: Được liệt kê trong Uphoff ( 2007 ). Tăng lượng tiết kiệm nước đồng thời tăng sản lượng với Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến, trong Khoa học, Công nghệ và Thương mại cho Hoà bình và Sự thịnh vượng : Hội thảo Lúa gạo Quốc tế lần thứ 26, 9-12 tháng 10 năm 2006, New Dehil, P.K. Aggrawal et al., trang. 353-365. Viện nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế, Los Baños, Phi-lip-pin; Sato và Uphoff ( 2007 ), Dũng ( 2007 ), Dũng và Minh ( 2008 ).

33 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 36: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

RWANDAIFAD (2009). Phát triển lúa gạo thành một thương hiệu nổi tiếng

tại Rwanda. Báo cáo từ Rwanda về Sứ mệnh của Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế. IFAD, Rome.

SRI LANKAAhamed, A.R., W. G. Somaratne và M. Simmons (2007).

Nghiên cứu dựa vào người nông dân về Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (Farmer-Based Research on the Productivity of the System of Rice Intensification). Oxfam Úc, Colombo.

Namara, R., D. Bossio, P. Weligamage và I. Herath (2008). Thực tiễn và những ảnh hưởng của Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI) tại Sri Lanka. Tạp chí Nông nghiệp quốc tế xuất bản theo quý (Quarterly Journal of International Agriculture), 47, 5-23.

THÁI LANMishra, A . và P. Kumar (2009). Trao đổi kiến thức về SRI trong

khu vực Đông Nam Á: Sản lượng cao hơn, tiết kiệm nước hơn. Viện Công nghệ Châu Á, Băng Cốc, Thái Lan. Báo cáo tại một hội thảo hợp tác với Ngân hàng Thế giới được tổ chức tại AIT, 22-23 Tháng 06, năm 2009.

Kinh nghiệm của Africare với SRI tại MaliNhững báo cáo này được đăng t rên websi te:

http://ciifad.cornell.edu /sri /countries /mali / index.html

SRI Timbuktu Blog: http://www.erikastyger.com/SRI_Timbuktu_Blog/SRI_Timbukt

u_Blog.html

Africare (2008). Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI) – Những kinh nghiệm ban đầu từ Timbuktu, Mali: Thí điểm SRI được tiến hành bởi nông dân tại Goundam năm 2007/2008. Africare Mali, Bamako.

Styger, E. (2009). Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI) – Đánh giá dựa vào cộng đồng tại Goundam và Dire Circles, Timbuktu, Mali, 2008 /2009. Africare Mali, Bamako.

Styger, E. và H. Ibrahim (2009). Hệ thống thâm canh lúa mỳ cải tiến (SWI): Thí điểm đầu tiên do nông dân tiến hành tại Goundam và Dire, Timbuktu, Mali. Sáng kiến an ninh lương thực Timbuktu, Africare, Bamako.

Styger, E., O. Aboubacrine, M. Ag Attaher, và N. Uphoff (sắp được xuất bản). Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI) là một sáng kiến nông nghiệp bền vững: Giới thiệu, áp dụng và mở rộng mô hình SRI tại Timbuktu, Mali.

Kinh nghiệm của Oxfam với SRI tại Việt NamCác báo cáo được đăng trên website: http://ciifad.cornell.edu

/sri /countries / Việt Nam /index.html

Dũng, N.T. (2007) . Chương trình IPM Quốc gia – Áp dụng SRI trong sản xuất lúa ở khu vực sinh thái phía Bắc của Việt Nam, được cập nhật năm 2006. Báo cáo được trình Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Hà Nội.

Dũng, N.V. et al. (2007). Quản lý thủy lợi hiệu quả trong canh tác lúa và bảo tồn nguồn nước. Khoa Đất và Môi trường, Đại học Nông nghiệp Hà Nội.

Gorman, T. (2009) . SRI tại Việt Nam : Cập nhật tình hình. Báo cáo cho Oxfam Mỹ, Cục Bảo vệ Thực vật/ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Trung tâm Phát triển Nông thôn Bền vững (SRD), Hà Nội. (http://vietnamsri.files.wordpress. com/2009/04/vietnam _sri.pdf)

Dũng, N.T. và L .N . Minh (2008) . Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến – Mang lại tiến bộ cho các nông dân trồng lúa quy mô nhỏ Đồng bằng sông Cửu Long. Báo cáo cho Cục Bảo vệ thực vật/ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Văn phòng khu vực Đông Nam Á, Oxfam Mỹ, Hà Nội.

Cục Bảo vệ Thực vật ( 2008 ). Báo cáo: Kiểm chứng và phổ biến mô hình áp dụng SRI dựa vào cộng đồng tại tỉnh Hà Tây (cũ), Việt Nam, 2007. Chương trình IPM Quốc gia, Chi cục Bảo vệ Thực vật Hà Tây, tỉnh Hà Tây (cũ).

Nguyễn Xuân Nguyên và đồng sự. (Tháng 01/2010). Nghiên cứu về việc áp dụng Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI) ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam của Oxfam Mỹ.

Kinh nghiệm của WWF về SRI tại Ấn Độ Website SRI của Ấn Độ: www.sri-india.net

Mahender K.R. et al. (2007). Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI): Chiến lược tiết kiệm nước và tăng năng suất trên các ruộng tưới tiêu (System of Rice Intensification (SRI): A Water-Saving and Productivity-Enhancing Strategy in Irrigated Rice). Ban Giám đốc phụ trách nghiên cứu lúa gạo, Hội đồng Nghiên cứu Nông nghiệp Ấn Độ, Hyderabad.

The Hindu (2009). Khảo sát ngành Nông nghiệp Ấn Độ 2009 (Survey of Ấn Độn Agriculture 2009). Bài viết của M.S. Swaminathan, Norman Uphoff, Abha Mishra, và Biksham Gujja về những tác động của Biến đổi khí hậu và SRI. Nhà xuất bản Hindu, Chennai.

SDC/MSSRF (2009). Sự tổn thương trước Biến đổi khí hậu và các kinh nghiệm thích ứng của khu vực Rajasthan và Andhra Pradesh: Câu chuyện thực tiễn về SRI/Ấn Độ (Climate Change Vulnerability and Adaptation Experiences from Rajasthan and Andhra Pradesh: SRI Case Study/Ấn Độ). Báo cáo cho Chương trình Tính tổn thương và sự thích ứng, Cơ quan Hợp tác và Phát triển Thụy Sỹ (SDC), New Delhi, và M.S. Tổ chức Nghiên cứu Swaminathan, Chennai.

WWF-ICRISAT (2010). Lúa gạo nhiều hơn, tiết kiệm nước hơn – Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (More Rice with Less Water - System of Rice Intensification), bản thảo lần hai. Dự án hợp tác giữa Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Quốc tế và Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế về lương thực, nước và môi trường tại các khu vực nhiệt đới bán khô hạn, Hyderabad. (http://assets.panda.org/downloads/wwf_rice_report_ 2007.pdf )

WWF-ICRISAT (2008). Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến: Những kinh nghiệm của nông dân Ấn Độ (System of Rice Intensification: Experiences of Farmers in Ấn Độ). Dự án hợp tác giữa Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Quốc tế và Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế về lương thực, nước và môi trường tại các khu vực nhiệt đới bán khô hạn, Hyderabad. (http://sri-india.110mb.com / documents /Farmersexperiences.pdf)

Nhận xét và khuyến nghị

Keiser J., J. Utzinger và B.H. Singer (2002). Tiềm năng của tưới tiêu không liên tục trong việc tăng sản lượng, tiết kiệm nước, giảm phát thải khí mê-tan và kiểm soát bệnh sốt rét ở những cánh đồng lúa châu Phi. Tạp chí của Liên hiệp Kiểm soát côn trùng muỗi Hoa Kỳ (Journal of American Mosquito Control Association), 18, 329-40.

Xu, X.Y., S.P. McGrath, A.A. Meharg và F.J. Zhao (2008). Canh tác lúa trong điều kiện đất ưa khí làm giảm sự tích lũy thạch tín. Khoa học và Công nghệ Môi trường (Environmental Science and Technology), 42, 5574-5579. (http://pubs.acs.org /doi / pdfplus /10.1021/es800324u)

Frei, M. và K. Becker (2005). Lúa gạo, đa dạng sinh học và các chất dinh dưỡng. Viện Chăn nuôi khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, Đại học Hohenheim, Stuttgart. (http:// www.greenpeace.org/raw/content/usa/rice-biodiversity-nutrients.pdf)

TÓM TẮT

34NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 37: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Các tổ chức khác hỗ trợ SRI Các nguồn khácWebsite

Quốc tế: website được điều hành bởi Viện Lương thực, Nông nghiệp và Phát triển Cornell (CIIFAD) http://ciifad.cornell.edu /sri /. Tính đến thời điểm Tháng 07/2010: http://sri.ciifad.cornell.edu.

Cam-pu-chia: www.foodsecurity.gov.kh/sri /

Madagascar: http://tefysaina.org /;

http://groupementsrimada.org /en / index.php

Ấn Độ : ICRISAT-WWF Project www.sri-india.net/; WASSAN www.wassan.org /sri/

Việt Nam: http: //vietnamsri.wordpress.com /

Ngân hàng Thế giới: http: //vle.worldbank.org /moodle /course /view.php?id = 402

Các đoạn băng ghi hình

Thách thức Tập quán, Thay đổi Cuộc sống (Challenging Traditions, Transforming Lives): www.youtube.com/watch?v =GvibR3hiNac

Đối chiếu phương pháp canh tác lúa tập quán và canh tác SRI tại Jharkhand (Comparison of Traditional Paddy Cultivation and SRI in Jharkhand) [Ấn Độ ]: http://www.youtube.com/watch?v =7yHHRworSgU

Living Labs: Lưu vực đồng bằng Sông Mê-kong: http://www.youtube.com/watch?v =b31LgNMu-hg

Sistema Intensivo de Cultivo Arrocero: http://ciifad.cornell.edu /sri /countries / cuba /SICAenglish.wmv (36 phút, phụ đề tiếng Anh).

Ngân hàng Thế giới. Khái quát SRI – Tăng sản lượng lúa gạo, tiết kiệm nước (Overview of SRI - Improving Rice Productivity and Achieving Water Savings): http://info.worldbank.org /etools /docs / library / 245848 /overview.html

Báo cáo nghiên cứu

Adhikari, P., D. Sen và N. Uphoff (2010). Hệ thống thâm canh lúa cải tiến là một phương pháp bảo tồn các nguồn lực: Đóng góp cho an ninh lương thực trong bối cảnh Biến đổi khí hậu. SATSA Mukhapatra, Ấn bản kỹ thuật thường niên, Tập. 14. Liên hiệp Kỹ sư nông nghiệp, Kolkata, Tây Bengal.

Chapagain, T. và E. Yamaji (2009). Những ảnh hưởng của phương pháp tưới tiêu, tuổi mạ non và khoảng cách cấy đối với sản lượng lúa gạo và lượng nước tưới ở Nhật Bản. Đồng ruộng và Nguồn nước (Paddy and Water Environment). Ấn bản điện tử của Springer (DOI :10.1007/s10333-009-0188-4) DOI 10.1007/s10333-009-0187-5).

Gujja, B. và T.M. Thiyagarajan (2009). Triển vọng mới cho an ninh lương thực Ấn Độ? Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (New Hope for Indian Food Security? The System of Rice Intensification). Viện Phát triển Môi trường Quốc tế, London, UK.

Mahender Kumar, R. et al. (2007). Hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI): Chiến lược tiết kiệm nước và tăng năng suất trên các ruộng tưới tiêu (System of Rice Intensification (SRI): Water-Saving and Productivity-Enhancing Strategy in Irrigated Rice). Ban Giám đốc phụ trách nghiên cứu lúa gạo, Hội đồng Nghiên cứu Nông nghiệp Ấn Độ, Hyderabad, Ấn Độ.

Mishra, A., M. Whitten, J.W. Ketelaar và V.M. Salokhe (2006). Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI): Thách thức đối với ngành khoa học và cơ hội đối với người nông dân trong nông nghiệp bền vững. Tạp chí Quốc tế về Nông nghiệp Bền vững (International Journal of Agricultural Sustainability), 4, 193-212.

Mishra, A. và V.M. Salokhe (2008). Đặc tính của mạ non và sự sinh trưởng sớm của cây lúa được cấy trong những chế độ tưới tiêu khác nhau. Nông nghiệp thực nghiệm (Experimental Agriculture), 44, 1-19.

Dưới đây là danh sách các tổ chức phi chính phủ quốc tế và các cơ quan tài trợ đã có đóng góp cho công tác đánh giá và phổ biến mô hình SRI tại nhiều quốc gia khác nhau:

Liên hiệp Cứu trợ và Phát triển Thiên chúa giáo (Adventist Development and Relief Association) (Cam-puchia, In-đô-nê-xi-a, Madagascar)

Tổ chức Aga Khan (Aga Khan Foundation) (Afghanistan, Madagascar)

Ủy ban Hữu nghị Hoa Kỳ (American Friends service committee) (DPRK )

Better U Foundation (Madagascar, Mali)

Care (Bangladesh)

Caritas-Cộng hòa Séc (In-đô-nê-xi-a)

Tổ chức Cứu trợ Công giáo (Catholic Relief Services) (CRS ) (Madagascar)

Ban Phát triển Quốc tế (Department for International Development), Vương quốc Anh (DFID ) (Nê-pan)

Các tổ chức xóa đói (ecHo) (Thái Lan)

Ủy ban Châu Âu (Afghanistan, Cam-pu-chia)

Groupe de Recherche et d'Échanges technologiques (GRET ) (Myanma)

Cơ quan Hợp tác Kỹ thuật Đức (German Agency for technical cooperation) (GTZ) (Cam-pu-chia)

Trung tâm Phát triển Vùng cao Quốc tế (International centre for Integrated Mountain Development) (ICIMOD ) (Nê-pan, Pakistan)

Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc tế (International Development Research centre) (IDRC ) (Panama)

Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (International Fund for Agricultural Development) (IFAD ) (Rwanda)

Viện Kiến thiết Nông nghiệp Quốc tế (International Institute for Rural Reconstruction) (Phi-lip-pin)

Tổ chức Di cư Quốc tế (International organization of Migration) (I-rắc)

Tình nguyện viên quốc tế Nhật Bản (Japan overseas Volunteer corps) (Lào, Việt Nam)

Các Quỹ từ thiện LDs (Cam-pu-chia)

Câu lạc bộ Lions Quốc tế (Lions club International) (Madagascar-Ambatondrazaka)

Mercycorps (sri Lanka)

Nippon Koei (In-đô-nê-xi-a, Lào)

Oxfam (Bangladesh, Cam-pu-chia, Lào, Phi-lip-pin, Sri-lanka, Việt Nam)

Pro-net 21 (Lào)

Rotary Quốc tế (Rotary International) (France-Lille, In-đô-nê-xi-a-Ubud)

Sir Dorabji tata trust (Ấn Độ )

Tổ chức syngenta Phát triển Nông nghiệp Bền vững (syngenta Foundation for sustainable Agriculture) (Ấn Độ, Mali)

Quỹ Á châu (Asia Foundation) (DPRK )

Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa kỳ (U.S. Agency for International Development) (sierra Leone)

U.S. Peace corps (Madagascar)

Vredeseilanden (Veco) (In-đô-nê-xi-a, Việt Nam)

Ngân hàng Thế giới (Ấn Độ /Tamil Nadu)

Viện Ngân hàng Thế giới (Kenya, Thái Lan)

Giáo dục Thế giới (World education) (In-đô-nê-xi-a)

Tầm nhìn Thế giới (World Vision) (sierra Leone, sri Lanka, Việt Nam)

35 NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 38: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Mishra, A. và V.M. Salokhe (2010). Những ảnh hưởng của phương thức trồng và điều kiện tưới tiêu lên hình thái, chức năng bộ rễ và sản lượng lúa. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp và Cây trồng (Journal of Agronomy and Crop Science). (DOI : 10.1111/j.1439-037X.2010.00421.x)

Satyanarayana, A., T.M. Thiyagarajan và N. Uphoff (2006). Các cơ hội tiết kiệm nước và cho sản lượng cao hơn với Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến. Khoa học Thủy lợi (Irrigation Science), 38, 99-115.

Shambu Prasad, C. (2006). Hệ thống thâm canh lúa cải tiến: Lịch sử sáng kiến và những thay đổi về thể chế (The System of Rice Intensification: Innovation History and Institutional Challenges). Dự án đối thoại WWF-ICRISAT, Hyderabad.

Shambu Prasad, C., K. Beumer và D. Mohanty (2007). Học hỏi mô hình SRI ở Orissa (Towards a Learning Alliance: SRI in Orissa). Xavier Institute of Management,

Bhubaneswar và Dự án đối thoại WWF-ICRISAT, Hyderabad, Ấn Độ.

Sinha, S.K. và J. Talati (2007). Những tác động lên sản lượng của Hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI): Câu chuyện thực tiễn ở Tây Bengal, Ấn Độ. Quản lý Thủy nông (Agricultural Water Management), 87, 55-60.

Stoop, W.A., N. Uphoff và A. Kassam (2002). Tổng hợp nghiên cứu các vấn đề trong nông nghiệp liên quan đến Hệ thống Thâm canh lúa cải tiên (SRI) tại Madagascar: Các cơ hội tăng cường hệ thống các nguồn lực cho người nông dân nghèo. Các hệ thống Nông nghiệp (Agricultural Systems), 71, 249-274.

Thakur, A.K., N. Uphoff và E. Antony (2010). Đánh giá về những ảnh hưởng về tâm lý của Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI) so với các phương pháp canh tác được khuyến nghị tại Ấn Độ. Nông nghiệp thực nghiệm (Experimental Agriculture), 46, 77-98.

Thiyagarajan, T.M. et al. (2002). Những ảnh hưởng của SRI lên lúa lai tại Tamil Nadu, Ấn Độ, in B.A.M. Bouman et al., eds., Sản xuất lúa gạo tiết kiệm nước: Hội thảo quốc tế về sản xuất lúa gạo tiết kiệm nước (Water-wise Rice Production: Proceedings of the International Workshop on Water-wise Rice Production, April 8-11, 2002, pp. 119-127. Viện nghiên cứu lúa gạo Quốc tế, Los Baños, Philippines.

Uphoff, N., I. Anas, O.P. Rupela, A.K. Thakur và T. M. Thiyagarajan (2009). Nghiên cứu về những tương tác vi khuẩn tích cực của Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI). Các lĩnh vực trong sinh học áp dụng (Aspects of Applied Biology), 98, 29-54.

Uphoff, N. và A. Kassam (2009). Trường hợp điển hình: Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến, trong Công nghệ Nông nghiệp cho các quốc gia đang phát triển (Agricultural Technologies for Developing Countries), Báo cáo Cuối cùng, Phụ lục 3. Quốc hội Châu Âu, Brussels.

Uphoff, N. (2007). Tăng tiết kiệm nước và gia tăng sản lượng với Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến, in P.K. Aggrawal et al., eds., Khoa học, Công nghệ và Thương mại cho Hòa bình và sự thịnh vượng: Hội thảo lúa gạo lần thứ 26, 9-12 Tháng 10, 2006 (Science, Technology and Trade for Peace and Prosperity: Proceedings of the 26th International Rice Congress, 9-12 October, 2006), New Delhi, pp. 353-365. International Rice Research Institute, Los Baños, Philippines.

Uphoff, N. (2007). Giảm tính tốn thương của các hộ gia đình nông thôn thông qua sinh thái nông học: Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI). Mondes en Développement, 35, 85-100.

Zhao L.M., L.H. Wu, Y. Li, S. Animesh, D.F. Zhu và N. Uphoff (2010). Đối chiếu sản lượng, tính hiệu quả sử dụng nguồn nước và sinh khối đất của Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến. Truyền thông trong Khoa học đất và Phân tích cây trồng (Communications in Soil Science and Plant Analysis), 41,1-12.

36NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH

Page 39: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

Thiết kế và bố cục: Tài liệu từ:Message Brand Advertising, Ithaca, NY

AfricareIn ấn : Washington, DC, Hoa KỳSuneetha Art Printers http://www.africare.org/Hyderabad, Ấn Độ Email: [email protected]Ảnh: Africare Mali, Văn phòng Đại diện

Africare MaliOxfam Mỹ tại Đông Nam Á, và WWF-Bamako, MaliICRISAT.Email: [email protected]

Xin cảm ơn:Oxfam AmericaẢnh (tại Ấn Độ): Manisha AgarwalBoston, Hoa KỳẢnh (tại Mali): Erika Stygerhttp://www.oxfamamerica.org/Ảnh (tại Việt Nam): Trung tâm Phát triển Email: [email protected]ông thôn Bền vững; Elske van de

Fliert; Lê Nguyệt Minh ; và Cục Bảo vệ Oxfam America Văn phòng khu vực Thực vật, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Đông Nam ÁNông thôn, và một số tổ chức, các nhân Phnôm pênh, Cam-pu-chiakhác: Mei Xie, Ngân hàng Thế giới Email: [email protected](trang 8), Binju Abraham, PRADAN,

Ranchi, Ấn Độ (trang 3), Financial WWF-ICRISATExpress, New Delhi, Ấn Độ (page 9) .Hyderabad, Ấn Độhttp://sri-india.net/Email: [email protected]

Chương trình Nước ngọt toàn cầu tại Gland, Thụy Sỹwww.panda.org

Page 40: Canh tác lúa cải tiến (VN)_More rice-for-people-more-water-for-the-planet-vn

HỆ THỐNG THÂM CANH LÚA CẢI TIẾN (SRI) Góp phần đảm bảo an ninh lượng thực, tăng cường khả năng thích ứng của nông dân với Biến đổi khí hậu và tính bền vững của môi trường