Upload
others
View
12
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1.
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH – Năm A
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Cầu cho ơn thiên triệu Linh Mục và Tu sĩ
Lời Chúa: Cv 2,14a.36-41; 1Pr 20b-25; Ga 10,1-10
MỤC LỤC
1. Chuồng chiên ................................................................... 3
2. Cửa chuồng chiên ............................................................ 5
3. Mục tử và Cửa chuồng chiên ........................................... 7
4. Cửa chuồng chiên – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. ..... 9
5. Chúa Chiên Lành – R. Veritas. ...................................... 13
6. Mục tử thật - mục tử giả................................................. 16
7. Chúa Chiên Lành – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty ........... 20
8. Cửa ràn chiên – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty ................. 23
9. Người Chăn Chiên Lành – Lm. Hồng Phúc .................. 27
10. Tiếng gọi yêu thương ................................................... 29
11. Đồng cỏ xanh, Dòng suối mát ..................................... 30
12. Cánh cửa mở toang ...................................................... 34
13. “Tôi là cửa cho chiên” ................................................. 37
14. Tình mẹ hiền – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền ................... 40
15. Đức Giêsu, Đấng chăn dắt đời tôi – An Phong ............ 44
16. Tôi đến để chiên được sống ......................................... 46
17. Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên – Lm Trần Ngà ........ 50
18. Nhân loại chỉ có một Đức Kitô – Achille Degeest. ..... 53
19. Chúa Chiên Lành ......................................................... 55
20. Ơn gọi thánh hiến – Lm Dom. Trần Quang Hiền ........ 58
21. Mục Tử Tốt Lành – Lm Giuse Nguyễn Hữu An ......... 61
22. Thiên Chúa chọn để loan báo Tin Mừng. .................... 67
23. Chủ chăn ...................................................................... 71
24. Chúa chiên nhân lành ................................................... 74
25. Ta đến để chúng được sống, và sống dồi dào .............. 77
26. Mục tử nhân lành - JNK............................................... 81
2.
27. Xin cho những mục tử như ý Chúa .............................. 87
28. Sống dồi dào ................................................................. 93
29. Chủ chăn ....................................................................... 96
30. Ta là Mục Tử tốt lành ................................................... 98
31. Tốt lành ....................................................................... 101
32. Tốt lành ....................................................................... 104
33. Những mục tử đời thường .......................................... 106
34. Tìm được sự sống nơi mục tử Giêsu .......................... 110
35. Tốt lành ....................................................................... 112
36. Mục tử đàn chiên ........................................................ 114
37. Tốt lành ....................................................................... 117
38. Tiếng gọi yêu thương .................................................. 120
39. Điểm tựa bình yên ...................................................... 122
40. Sống dồi dào ............................................................... 124
41. Người mục đồng – Lm. Nguyễn Ngọc Long .............. 126
42. Người chăn chiên ........................................................ 129
43. “Ta là cửa chuồng chiên" ........................................... 132
44. Mục tử nhân lành ........................................................ 139
45. Bạn đang lắng nghe đó chứ?....................................... 142
46. Mục Tử Nhân Lành – Lm. G. Nguyễn Cao Luật ....... 145
47. Mục tử chân chính ...................................................... 150
48. Chúa chiên của tôi – Lm Gioan Vũ Nghi ................... 152
49. Đức Giêsu, mục tử nhân lành ..................................... 155
50. Biện chứng Mục Tử - Chiên ....................................... 159
51. Chúa Chiên Lành ........................................................ 164
52. Chú giải của Noel Quession. ...................................... 170
53. Mục tử nhân lành: mẫu gương các chủ chăn .............. 176
54. Chúa Nhật 4 Phục Sinh ............................................... 179
3.
1. Chuồng chiên
Chuồng chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân
Do Thái. Đó là một dãy hàng rào chắc chắn theo hình chữ
nhật với một cửa ra vào duy nhất. Chiều đến, các mục tử lùa
chiên vào chuồng qua khung cửa duy nhất này, rồi trao phó
việc canh giữ cho một vài người nào đó. Và khi ngày mới trở
về, họ đưa chiên ra khỏi chuồng để đi ăn nơi những đồng cỏ.
Chuồng chiên là nơi bảo đảm an toàn cho đoàn chiên.
Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc này khi so sánh
mình với cửa chuồng chiên và với người mục tử tốt lành để
mạc khải tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đối với
con người nói chung và nhất là sự bảo vệ của Ngài đối với
những ai tin nhận Ngài nói riêng.
Phản ứng đầu tiên của dân chúng khi nghe qua hai hình
ảnh này là không hiểu được ý Chúa Giêsu muốn nói gì, mặc
dầu Người đã dùng những hình ảnh rất quen thuộc đối với
họ. Phải chăng chúng ta ngày hôm nay đôi khi cũng phản ứng
như thế, đó là chúng ta không hiểu không hoặc muốn hiểu
những gì Chúa muốn nói với mình qua những dấu chỉ đơn sơ
của cuộc sống thường ngày. Phải chăng chúng ta sợ hiểu
được ý định của Thiên Chúa để rồi phải canh tân đời sống
cho hợp với ý định cảo cả ấy? Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn
kiên nhẫn giải thích cho họ: Ta là cửa chuồng chiên. Ai qua
Ta mà vào thì sẽ được giải thoát. Ta là mục tử tốt lành, hiến
mạng sống vì chiên. Ta biết các chiên Ta và các chiên ta biết
ta.
Khi so sánh mình với hình ảnh cửa chuồng chiên và hình
ảnh người mục tử tốt lành, Chúa Giêsu muốn mạc khải một
sự thật tuyệt vời làm cho chúng ta thêm can đảm và hy vọng,
đó là sự thật về mối tương quan thân tình không thể nào tách
rời được giữa Ngài và những kẻ tin vào Ngài. Trước hết so
4.
sánh mình với cửa chuồng chiên, Chúa Giêsu cho mọi người
chúng ta hiểu rằng: Người chính là tiêu chuẩn, chính là mẫu
mực cho tất cả những ai muốn bước theo Người và cộng tác
với Người để đem ơn cứu độ đến cho muôn dân.
Còn khi so sánh mình với người mục tử tốt lành, Người
muốn mạc khải cho chúng ta biết: Người là mẫu mực duy
nhất cho những chủ chăn được tuyển chọn. Chúa Giêsu vẫn
luôn luôn là mục tử duy nhất chăm sóc đến từng con chiên,
đến từng người trong đoàn chiên cũng nhưđến những ai chưa
thuộc vào đoàn chiên, để một ngày nào đó cũng sẽ được bước
vào trong cùng một đoàn chiên và cùng một chủ chiên.
Còn chúng ta thì sao, liệu chúng ta có chấp nhận để cho
Chúa hướng dẫn và chăm sóc cuộc đời của chúng ta hay
không, để bản thân chúng ta trở nên một con chiên trong
đoàn chiên của Người hay không?
5.
2. Cửa chuồng chiên
Ngày nọ, có một du khách viếng thánh địa, nhìn thấy một
chuồng chiên ngoài đồng, anh ta bèn hỏi người mục tử đang
ngồi cạnh đó rằng: Cửa chuồng của anh ở đâu? Người mục
tử trả lời: Tôi chính là cửa chuồng. Đoạn người mục tử kể
cho du khách nghe anh ta lùa bầy chiên vào chuồng mỗi khi
chiều xuống như thế nào. Sau đó anh ta nằm chặn ngang lối
vào chật hẹp đó. Không một chú chiên nào có thể bỏ chuồng
mà đi ra, cũng chẳng thú rừng nào có thể đi vào mà không
bước qua anh ta.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm
nay, qua đó Chúa Giêsu tự sánh ví mình như cửa chuồng
chiên và như người mục tử nhân lành. Cả hai hình ảnh này
đều nói lên sự hiểu biết, sự chăm sóc và sự bảo vệ Ngài dành
cho chúng ta, là những con chiên được Ngài hướng dẫn.
Thực vậy, người mục tử thường phải hiện diện với bầy
chiên của mình 365 ngày trong một năm, và 24 giờ trong một
ngày. Người mục tử ấy phải biết rõ chiên mình: con nào đau,
con nào mạnh, con nào có móng mềm, con nào bỏ bầy đi lạc.
Thế nhưng, hiểu biết về con chiên mà thôi chưa đủ, người
mục tử ấy còn phải dám hiến thân cho bầy chiên của mình,
thậm chí dám hy sinh cả mạng sống của mình nữa, trong
những trường hợp hiểm nguy. Chính trong bối cảnh này mà
chúng ta có thể hiểu rõ hơn lời xác quyết của Chúa, khi Ngài
nói: Ta là mục tử nhân lành. Thực vậy, Ngài muốn cho chúng
ta hay: mối tương giao và sự hiến thân của Ngài cho chúng ta
cũng giống như mối tương giao và sự hiến thân của người
mục tử cho bầy chiên của mình.
Giống như người mục tử, Chúa Giêsu luôn hiện diện giữa
chúng ta 365 ngày trong một năm và 24 giờ trong một ngày.
6.
Ngài đã từng nói với chúng ta: Này, Thầy sẽ ở cùng các con
mọi ngày cho đến tận thế.
Giống như người mục tử, Chúa Giêsu cũng biết rõ mỗi
người chúng ta một cách vừa thân mật lại vừa sâu xa. Ngài
biết ai trong chúng ta đang yếu kém về đức tin, ai trong
chúng ta thường ngã lòng, ai trong chúng ta hay bỏ bầy để đi
hoang. Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Trái lại, Ngài
luôn ở cạnh chúng ta để nâng đỡ, phù trợ. Và nếu như chúng
ta có lầm đường lạc lối, thì chính Ngài sẽ tìm kiếm chúng ta.
Điều Thiên Chúa nói với dân riêng của Ngài qua môi
miệng tiên tri Isaia, cũng chính là điều Chúa Giêsu muốn nói
riêng với mỗi người chúng ta, đó là: Đừng sợ, Ta đã gọi
ngươi bằng tên riêng của ngươi. Đừng sợ, ngươi rất quý báu
đối với Ta. Và đừng sợ, vì này đây Ta ở với ngươi luôn mãi.
7.
3. Mục tử và Cửa chuồng chiên
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta cùng nhau
tìm hiểu hai hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất đó là người mục
tử.
Trong Cựu Ước, dân Do Thái thường dành tước hiêu này
cho Thiên Chúa. Ngài chính là người mục tử, đã dẫn dắt họ
qua sa mạc, qua biển Đỏ để tiến vào miền đất hứa. Ngài đã
chăm sóc, dưỡng nuôi họ bằng manna, bằng chim cút, bằng
suối nước vọt lên từ tảng đá. Như người mục tử gắn liền số
mạng với đoàn chiên, thì Thiên Chúa cũng và đã luôn ở giữa
dân Ngài để chia sẻ những buồn vui gian khổ với họ dưới
sương sớm và nắng chiều.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đã tự sánh ví mình như
người mục tử nhân lành. Khác với những kẻ chăn thuê và giữ
mướn, những kẻ trộm cướp và lợi dụng, người mục tử đích
thực chỉ biết phục vụ đoàn chiên và giải thoát đoàn chiên
khỏi mọi sự dữ. Đổi lại, con chiên nghe tiếng người mục tử,
hăm hở đi theo và tỏ lòng yêu mến quyến luyến với người
mục tử. Người ấy sẽ đi trước để bảo vệ đoàn chiên. Còn đoàn
chiên thì theo sau một cách ngoan ngoãn, để rồi cuối cùng sẽ
đến được nơi đồng cỏ xanh và nơi dòng suối mát. Chính Ngài
đã phán: Ta đến để chúng được sống và được sống một cách
dồi dào. Thực hiện mục đích ấy, Ngài đã phải trả bằng một
giá rất đắt, bằng chính mạng sống của mình.
Hình ảnh thứ hai, đó là hình ảnh của chuồng chiên.
Mỗi khi tổ chức Năm Thánh, thì trong ngày khai mạc và bế
mạc, Đức Giáo Hoàng sẽ chủ sự một nghi lễ đặc biệt, đó là
đóng và mở một cánh cửa lớn nằm bên phải đền thờ thánh
Phêrô. Nghi lễ ấy có nền tảng trong Kinh Thánh tượng trưng
cho ơn thánh đổ xuống nhân loại, cho cuộc trở về toàn thắng
của đức vua, cho nơi gặp gỡ của sự bình an và hiệp nhất.
8.
Với lời khẳng định: Ta là cửa chuồng chiên, ai qua Ta mà
vào thì được cứu rỗi, người ấy sẽ tìm thấy của nuôi thân,
Chúa Giêsu muốn nói lên rằng: Nơi Ngài, chúng ta sẽ gặp gỡ
Thiên Chúa và anh em. Nơi Ngài, chúng ta được cứu rỗi và
tìm thấy niềm hạnh phúc Nước Trời.
Còn chúng ta thì sao? Hãy đến với Đức Kitô và bước đi
theo sự dẫn dắt của Ngài, như lời Thánh Phaolô đã diễn tả:
xưa kia anh em là những con chiên lạc, giờ đây anh em đã trở
về cùng vị mục tử Đấng canh giữ linh hồn anh em.
Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện sau đây: Trời mùa
đông giá rét, một đêm nọ, vua thánh Venceslaô đi đến nhà
thờ để viếng Thánh Thể. Viên thị vệ theo hầu xuýt xoa vì giá
lạnh, nhưng thánh nhân bảo: Cứ chịu khó đi theo và đặt bàn
chân ngươi lên vết chân ta. Viên thị vệ làm như vậy và cảm
thấy ấm hẳn lên.
Với chúng ta cũng vậy. Theo dấu chân của vị mục tử nhân
lành, chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc bởi vì Chúa
chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.
9.
4. Cửa chuồng chiên – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Cửa có hai công dụng. Để đóng vào và để mở ra. Có
những cánh cửa như cửa tù ngục để giam kín phạm nhân. Có
những cánh cửa giam hãm, bưng bít con người không cho
thông giao với thế giới bên ngoài. Có những cánh cửa lò sát
sinh nhốt thú vật để giết chết. Đó là những cánh cửa đóng kín
chết chóc, huỷ hoại. Có những cánh cửa mở ra đón gió mát,
đón khí trong lành, đón ánh sáng mặt trời tươi vui. Có những
cánh cửa mở ra những chân trời xa tắp, khơi lên trong tâm
hồn mơ ước cao xa. Có những cánh cửa mở ra đón nhận anh
em trong tình huynh đệ thân mến. Đó là những cánh cửa mở
ra sự sống.
Hôm nay, Chúa Kitô nói: “Ta là cửa chuồng chiên”,
Người đã tự nhận mình là cánh cửa. Chúa Giêsu là cánh cửa
không phải để đóng kín giam hãm đàn chiên. Nhưng là cánh
cửa mở ra.
Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra những chân trời vô tận.
Thỉnh thoảng ta nghe có dư luân xôn xao về ngày tận thế.
Tất nhiên đó là một tin đồn thất thiệt, nhảm nhí, đượm mầu
sắc mê tín dị đoan. Nhưng tin đồn đó cũng nói lên một sự
thực là: Thế giới mà chúng ta đang sống là một thế giới hạn
hẹp, sinh mạng con người là bèo bọt, kiếp sống con người là
monh manh. Thật đáng buồn nếu con người chỉ có thế, bị kết
án chung thân vào một thân xác mau tan rã, bị giam hãm
trong một thế giới vật chất mau tàn tạ.
Chúa Giêsu Phục sinh đã phá vỡ vòng vây giam hãm đó.
Khi tảng đá lấp cửa mộ lăn ra, Chúa Giêsu đã mở ra cho nhân
loại một cánh cửa. Cánh cửa đó dẫn vào một không gian vô
tận. Từ nay con người không còn bị kết án chung thân vào
thân xác mau tan rã nữa, vì Chúa Giêsu phục sinh đã mặc lấy
thân xác vinh hiển không bao giờ chết. Từ nay con người
10.
không còn bị giam hãm trong thế giới vật chất mau tàn tạ
nữa, vì Chúa Giêsu Phục sinh đã mở lối ra thế giới thần linh,
trong đó con người sống trong tự do, không còn bị ràng buộc
trong không gian. Đó là một thế giới mới, thế giới vĩnh hằng,
không bao giờ tàn tạ, thế giới vô biên chẳng có giới hạn.
Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã
đẩy lùi ranh giới của thế giới vật chất đến vô hạn. Khi mở
cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã chắp cánh cho
ước mơ của con người. Ước mơ ấy chẳng còn hạn hẹp trong
những hạn chế của vòng vây thế giới, nhưng bay lên ngang
tầm trăng sao để mơ những giấc mơ thần thánh. Khi mở cửa
và thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã giải phóng con người
khỏi cảnh ngộ nô lệ vật chất hư hèn, nâng con người lên cuộc
sống tự do của con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra suối nguồn sự sống
Thật là vô lý nếu con người sống chỉ để chết. Thật là vô lý
nếu chết là hết. Nếu định mệnh con người là như thế, thà
không sống còn hơn. Mỗi khi vào bệnh viện, ta không khỏi
suy nghĩ khi nhìn những bệnh nhân rên xiết, quằn quại đau
đớn hoặc thấy những tấm thân gầy còm, những khuôn mặt
hốc hác. Đó là cái chết đang sống hay là một sự sống đang
chết? Đời sống như thế còn có ý nghĩa gì không?
Chúa Giêsu đã bước vào thế giới kẻ chết để chiến đấu
chống lại thần chết. Người đã chiến thắng. Và khi Người mở
cửa mộ bước ra, Người đã mở cánh cửa dẫn vào một cuộc
sống mới. Cuộc sống mới là một cuộc sống trọn vẹn bởi vì
không còn bóng dáng Thần chết. Cuộc sống mới là một cuộc
sống sung mãn bởi vì chẳng còn vết tích của đau khổ, bệnh
tật, đói khát. Cuộc sống mới là một cuộc sống siêu nhiên
trong đó con người được nâng lên làm con Thiên Chúa, được
tham dự vào chính sự sống của chúa. Cuộc sống mới là một
11.
cuộc sống hạnh phúc vì được kết hợp với Thiên Chúa Ba
Ngôi trong một tình yêu trọn hảo.
Như thế cuộc sống con người vẫn có một hướng đi lên, để
được nâng cao, để được phong phú, để được hoàn hảo. Chính
vì thế mà dù biết cuộc sống khổ đau, người ta vẫn vui mừng
khi một em bé chào đời. Chính vì thế người ta vẫn ăn mừng
sinh nhật, coi đó là ngày trọng đại trong đời người.
Chính Chúa Giêsu đã biến đổi thân phận con người. Con
người sinh ra không phải để chết, nhưng để sống, sống sung
mãn, sống trọn vẹn, sống vĩnh viễn trong suối nguồn sự sống.
Nhưng để mở ra cho ta những chân trời vô tận của con
Thiên Chúa, chúa Giêsu đã chịu nhận lấy kiếp sống mong
manh, phù du, bèo bọt của con người. Để mở ra cho suối
nguồn sự sống, Người đã phải đón nhận cái chết đau đớn.
Người chính là vị Mục tử chân chính đã thí mạng vì đàn
chiên.
Chúa Giêsu quả thật là cánh cửa mở ra cho đàn chiên đi
đến những chân trời xa rộng, đi đến những đồng cỏ xanh
tươi, đi đến những dòng suối trong lành.
Chúa Giêsu quả là vị mục tử tốt lành luôn chăm sóc đoàn
chiên, luôn nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực bổ
dưỡng. Chúa Giêsu đã đến cho ta được sống và được sống
dồi dào.
Đó là cánh cửa duy nhất dẫn đến sự sống, ta hãy theo sát
gót Người. Đó là người mục tử duy nhất, ta hãy nghe tiếng
Người. Hãy đến với Người để Người đưa ta đến những chân
trời xa rộng. Hãy đến với Người để Người băng bó vết
thương, xoa dịu nỗi đau và phục hồi sự sống. Hãy đến với
Người để Người đổ tràn tình yêu và sự sống vào tâm hồn ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
12.
1) Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Tôi có theo vào cửa
Người hay tôi đã chọn nhầm cửa khác?
2) Chúa Giêsu là cánh cửa mở. Tôi có thường đóng cửa,
ngăn không cho người khác vào?
3) Chúa Giêsu đã hiến mạng sống để mở cửa cho tôi. Tôi
có sẵn sàng hi sinh để mở cửa thêm rộng không?
13.
5. Chúa Chiên Lành – R. Veritas.
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu
linh mục và tu sĩ. Từ hơn ba mươi năm nay, cứ đến mỗi Chúa
Nhật thứ tư Mùa Phục Sinh, Giáo Hội dành riêng một ngày
để kêu gọi tất cả các tín hữu cầu nguyện cho ơn kêu gọi. Nói
đến việc cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục và tu sĩ, thì có
lẽ chúng ta nghĩ đến tình trạng hiện nay tại hầu hết các nước
Tây Phương càng lúc càng có nhiều chủng viện phải đóng
cửa, nhiều Dòng tu trống vắng, số linh mục và tu sĩ già nua
thì càng gia tăng. Thế nhưng nói đến cầu nguyện cho ơn kêu
gọi linh mục và tu sĩ tại Việt Nam của chúng ta, thì chắc chắn
ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay đến không biết bao nhiêu
chủng sinh phải chờ đợi có khi từ hơn hai mươi năm qua mà
vẫn chưa được chịu chức. Không biết bao nhiêu người vì lý
lịch mà không được nhận vào danh sách chủng sinh, không
biết bao nhiêu người phải tu chui tu nhủi.
Giáo Hội tại Việt Nam của chúng ta quả thật không thiếu
ơn gọi, Giáo Hội chỉ thiếu tự do để cho các sinh hoạt tôn giáo
được bình thường, để cho cánh cửa các chủng viện và Dòng
tu được mở rộng, để cho sự phục vụ không bị giới hạn. Như
vậy đối với chúng ta ngày hôm nay, cầu nguyện cho ơn gọi
linh mục và tu sĩ thiết yếu là cầu nguyện cho tự do tôn giáo
được nhìn nhận và tôn trọng một cách đầy đủ, để Giáo Hội
qua các linh mục và tu sĩ được quyền phục vụ theo cung cách
của Chúa Giêsu.
Chiếm độc quyền phục vụ là một điều bất công, phục vụ
mà không theo Chúa Giêsu thì cũng chỉ là trò lừa bịp mà
thôi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gọi cách phục
vụ đó là trộm cướp. Chúng ta hiểu được giọng điệu gay gắt
của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, nếu đặt vào
14.
trong bối cảnh toàn bộ bài diễn văn, thánh Gioan tác giả của
bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rằng, Chúa Giêsu
đã lên tiếng trước đám đông nhân ngày Lễ Cung Hiến Đền
Thờ của người Do Thái, đây là Lễ tưởng niệm cuộc kháng
chiến và chiến thắng vẻ vang của anh em nhà Macabê chống
lại đế quốc Hy-Lạp vào thế kỷ II trước Công nguyên. Nhiều
người lợi dụng dịp này để hô hào dân chúng đứng lên chống
lại sự cai trị của đế quốc La-Mã, nhưng những người biệt
phái lại bắt lấy cơ hội để xúi giục dân chúng chống lại Chúa
Giêsu.
Chính trong bối cảnh này mà Chúa Giêsu đã đọc bài diễn
văn về người mục tử nhân lành và đồng thời tố cáo các hành
động mà Ngài gọi là trộm cướp của những người biệt phái.
Quả thực, những người biệt phái cũng hô hào phục vụ và
canh tân, nhưng như Chúa Giêsu đã điểm mặt là họ chỉ chất
lên vai người dân không biết bao nhiêu là gánh nặng còn
chính họ thì không lay đến ngón tay.
Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Muốn đi vào đoàn chiên
và phục vụ đoàn chiên thì người ta sẽ đi qua cửa chính mà
vào, tất cả mọi lối đi vào khác đều là lối đi của quân trộm
cướp. Qua hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta
rằng, chỉ có một cung cách phục vụ duy nhất đó là phục vụ
như Ngài đã phục vụ, nghĩa là sẵn sàng hiến thân cho và vì
tha nhân mà thôi. Ai sống và phục vụ như Chúa Giêsu thì kẻ
ấy thuộc về Ngài, còn ai sống ngược lại cung cách phục vụ
của Ngài thì kẻ ấy chỉ là quân trộm cướp mà thôi.
Cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ hôm nay, chúng
ta hãy cầu xin cho Giáo Hội tại Việt Nam luôn được sống
theo cung cách phục vụ của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy cầu
xin cho các Giáo Xứ và các gia đình Việt Nam biết sống tinh
thần phục vụ của Chúa Giêsu, ngõ hầu trở thành mảnh đất
15.
phì nhiêu trổ sinh nhiều ơn gọi phục vụ đích thực trong Giáo
Hội. Amen.
16.
6. Mục tử thật - mục tử giả
Xã hội hôm nay thật lắm chuyện thị phi! Cuộc đời cứ như:
"Vàng thau lẫn lộn". Hàng thật - hàng già đã khó phân biệt
mà người tốt, người xấu càng khó phân biệt hơn. Có những
mặt hàng giả mà như thật. Có người phải ngậm đắng nuốt cay
khi bỏ tiền mua hàng thật nhưng lại phải lấy đồ giả. Có người
vì cả tin nghe người nên bị lừa đến thân bại danh liệt. Kẻ bị
lừa tình mà ôm hận suốt đời. Kẻ bị lừa tiền mà tan hoang cửa
nhà. Có kẻ giả nhân giả nghĩa để đánh lừa đồng loại và vun
quén cho bản thân. Kẻ thất đức lại sống trên nhung lụa.
Người công chính phải tù tội lầm than vẫn còn đó trong kiếp
người hôm nay. Đó là kết quả tất yếu của chủ nghĩa thực
dụng. Đặt quyền lợi cá nhân lên trên lợi ích tập thể. Con
người lấy mình làm trung tâm nên mọi sự đều quy về mình.
Tìm hạnh phúc cho mình. Tìm vinh danh cho mình. Vì hạnh
phúc của mình nên sẵn sàng bỏ rơi đồng loại, cho dù đó là
cha, là mẹ, cho dù đó là vợ chồng hay con cái. Sự thật phũ
phàng đó đang là căn bệnh trầm kha của xã hội hôm nay.
Có biết bao cha mẹ đã đang tâm giết các thai nhi vì sợ đứa
con sinh ra sẽ thêm phần ăn, thêm gánh nặng cho gia đình.
Có biết bao vợ chồng đã đứt gánh giữa đường chỉ vì một mối
tình riêng, một quan hệ bất chính. Có biết bao người con đã
bỏ rơi cha mẹ trong đói khổ, già yếu, bệnh tật vì còn phải lo
cho chính bản thân mình.
Xem ra thế giới hôm nay đang thiếu dần hai chữ hy sinh.
Không có hy sinh làm sao có ân nghĩa. Không có ân tình, ân
nghĩa nên người ta đâu cần hy sinh và đối xử tốt với nhau.
Câu chuyện "Anh phải sống" của Khái Hưng không còn là
văn học phản ánh hiện thực xã hội hôm nay nữa! Nó chỉ còn
là huyền thoại, một dĩ vãng đã qua.
17.
Chuyện kể rằng: có hai vợ chồng trẻ đi đốn củi vào mùa
nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi trên chiếc thuyền lan
mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước trở về. Thình
lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng
sông, tạo thành một dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiếc
thuyền lan nhỏ bé của họ bể vỡ tan tành. Người chồng cố níu
kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi
phút giây trôi qua lại ồ ạt và mạnh mẽ. Sức lực của chồng
xem ra càng đuối dần khi phải gồng mình để thoát thân và
cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng đã cạn kiệt,
nên đành buông tay ra để mặc cho dòng nước lũ cuốn trôi,
chỉ kịp gào thét trong mưa giông và nước lũ: "anh phải sống
để nuôi dạy đàn con".
Tác phẩm "Anh phải sống" đã một thời đi vào lòng người,
vì nó phản ánh quá trung thực về tình yêu của những con
người dám hy sinh cho gia đình, cho xóm ngõ, cho dân tộc.
Nhưng xem ra, tác phẩm này không còn chỗ đứng trong xã
hội hôm nay. Vì giá trị con người hôm qua được đo bằng tấm
lòng biết xả thân vì đồng loại, biết quên mình vì gia đình, vì
dân tộc, còn giá trị của con người hôm nay được cân nhắc
bằng tiền bạc và địa vị. Người càng có lắm tiền nhiều của
càng được kính trọng, nể vì. Người càng có địa vị cao càng
có nhiều kẻ hầu người hạ. Có mấy ai dùng quyền để phục vụ
vô vị lợi cho tha nhân? Có mấy ai dùng tiền để mua lấy tình
bạn? Thế giới đã đổi thay! Cách sống cũng đổi thay. Con
người chạy theo lợi nhuận. Mọi quan hệ, mọi việc làm đều
được cân nhắc thiệt hơn. Vì quyền lợi của mình mà bỏ rơi
đồng loại. Vì lợi ích của mình mà chà đạp lên danh dự, nhân
phẩm người khác. Lòng đại nghĩa hy sinh đã bị chôn vùi khi
đặt quyền lợi mình trên lợi ích của anh em.
18.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn tương phản của
hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn
hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản
thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ
đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn
nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả
chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình. Họ sống
hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn
của đàn chiên. Chúa Giêsu đưa ra khuôn mẫu mục tử nhân
lành là chính Chúa. Cả cuộc đời không tìm an nhàn cho bản
thân. Ngài dong duổi gió bụi để tìm từng con chiên lạc đưa
về ràn. Vì sự sống của đàn chiên, Ngài sẵn sàng đối phó với
sự dữ để bảo vệ đàn chiên. Ngài đã chấp nhận cái chết để đàn
chiên được sống.
Đó cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Mỗi
người chúng ta đều là mục tử của Chúa khi chúng ta có
nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ anh em mình. Mỗi người chúng
ta đều phải có trách nhiệm trước sự an nguy của đồng loại.
Mỗi người chúng ta đều có bổn phận đẩy lùi sự dữ đang
hoành hành trong môi trường sống của chúng ta. Không ai
được phép bàng quan trước sự dữ đang bủa vây gia đình,
xóm làng của mình. Không ai được phép vô trách nhiệm
trước bữa no bữa đói của cha mẹ, con cái hay hàng xóm láng
giềng. Nếu mỗi người chúng ta đều biết sống có trách nhiệm
với anh em thì dòng đời này sẽ bớt đi những trái ngang, sẽ
vơi đi những giọt nước mắt buồn đau, tủi hờn. Nếu mỗi
người chúng ta đều biết đưa vai gánh đỡ gánh nặng cho anh
em, và biết dùng đôi vai làm điểm tựa nâng đỡ anh em, thì
cuộc đời này sẽ là một thiên đàng mà con người đang hưởng
nếm những giây phút ngọt ngào nhất của tình người, của
hạnh phúc yêu thương.
19.
Đây cũng là điều kiện để có được sự sống trường sinh. Vì
"ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống
mình vì Thầy, thì sẽ được sống muôn đời.
Nguyện xin Chúa Giêsu mục tử luôn phù hộ nâng đỡ và
giúp chúng ta biết sống hiến thân mạng sống vì anh em.
Amen.
20.
7. Chúa Chiên Lành – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Phúc âm Gioan triển khai đề tài Mục Tử nhân lành trong
bầu khí căng thẳng của cuộc tranh luận giữa đức Giêsu và
những người lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, đặc biệt các
người thuộc nhóm Pha-ri-sêu. Sau những khảng định về sự
khác biệt căn bản giữa mục tử làm thuê và mục tử chân chính
(Ga 10, 1-18), Đức Giêsu long trọng công bố các yếu tố
chính yếu trong tương quan giữa Ngài với các kẻ tin vào
Ngài, giữa vị Mục Tử tốt lành với các chiên được trao cho
Ngài chăn dắt. Chúng ta cùng suy niệm từng điểm một.
Về người Mục Tử:
“Tôi biết chúng”. Rất ít ai đề cập sâu rộng tới cái ‘biết’
của Người Mục Tử nhân lành đối với chiên của mình. Ngài
không chỉ biết số lượng (100 con), con ở lại dàn và con đi lạc
(99 và 01 con). Ngài biết từng con chiên của Ngài, với những
tốt xấu, những mạnh yếu, những thiện chí và ác ý, những nỗ
lực và sa ngã... Ngài rành về chiên, có lẽ, còn hơn cả chính
chiên biết về mình. Nhưng sự ‘biết’ này khác xa một giám thị
soi mói, một cảnh sát rình rập, một quan tòa xét xử. Nó gần
giống với với cái biết của một bà mẹ âu yếm đối với đứa con
dại. Đó chính là cái ‘biết’ của một Mục Tử nhân lành chăm
sóc và tự hiến cho từng con chiên của mình.
“Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi… Không ai
cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Lời khảng định của
Mục Tử thật tuyệt đối: Ngài sẽ dùng tất cả sức lực Ngài để
giữ chiên lại với Ngài. Và không chỉ Ngài mà thôi, Ngài còn
làm việc đó nhân danh Chúa Cha, với tất cả uy quyền của
Cha. Ngài không dùng dây để cột chiên lại, không xây
chuồng, gài then để canh phòng, không rào cao, dậu dày để
ngăn chặn. Ngài dùng chính tình yêu thương tha thứ và nhân
ái để bao bọc. Dây cột, rào dậu duy nhất của Ngài là hiến
21.
mình thập giá. Và đó cũng là uy quyền của Cha, vì “Tôi và
Chúa Cha là một”.
“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời… không bao giờ
chúng phải diệt vong”. Công việc hoàn toàn nằm trong tay
người Mục Tử. Ngài chủ động và quyết đoán tất cả. Ngài
đảm bảo và tuyệt đối quyết tâm chu toàn như một ủy thác tối
hậu từ Cha: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn
tất cả…”
Về phía chiên:
Hình như không đòi một điều kiện tương xứng nào, ngoại
trừ “ Chiên nghe tiếng… chiên theo tôi”.
Người ta vẫn thường giải thích, ‘nghe và theo’ chính là
chấp nhận và thi hành những điều Chúa (và Hội Thánh) dạy
bảo. Ta hình dung Mục Tử là một nhà thuyết giảng luân lý,
đạo đức, đứng trên bục giảng…, và chiên là những tín hữu
ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe.
Không, vị Mục tử nhân lành không coi dạy dỗ là chính.
Ngài là (Ngôi) Lời trong bản thể của mình, trong đời sống và
cái chết của Ngài. Chiên chỉ thật sự nghe tiếng Ngài khi
chiêm ngắm thập giá và phục sinh. Lúc đó chiên nghe thấy
Lời tình yêu nhân ái của một Thiên Chúa cứu độ giầu lòng
xót thương. Qua việc lãnh nhận bí tích rửa tội, chiên quyết
bước đi trong niềm tin vào Lời tình yêu giáng thế. Và cứ thế
tiến bước theo Mục Tử nhân hậu và tự hiến suốt cả đời mình.
Chỉ cần có thế, và chiên được sống đời đời và không bao
giờ phải diệt vong. Dầu tội lỗi và bất xứng, chiên tin nghe
Lời nhân lành và quyết tâm bước theo Mục Tử tự hiến nhân
hậu. Phải chăng Ki-tô hữu, trước nhất, phải là những chiên
như thế?
Cách nói này của đức Giêsu quả đã gây sốc cho các Pha-
ri-sêu, những đôi tai và con tim chỉ có biết mẫu mục tử như
22.
Mô-sê (rất chính trực và cao đẹp của Cựu ước, nhưng chưa
phải là Ki-tô Giêsu). Xem ra, nó cũng đã từng gây sốc nhiều
lần cho cả tôi và bạn nữa.
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử duy nhất nhân lành của tự hiến
thập giá và phục sinh, xin cho con - Alter Christus của Chúa
- được có một chút nét nhân lành và tự hiến quá độc đáo của
Chúa. Xin cho con giảm bớt tính mô phạm trong đời mục vụ,
và biết gia tăng nơi mình sự tự hiến và lòng thương xót, để
các chiên nhận ra nơi con đôi chút hình bóng của Mục Tử
Giêsu nhân lành. Amen.
23.
8. Cửa ràn chiên – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Chương 10 Phúc Âm Gio-an chia thành hai mảng đề tài:
Mục Tử nhân lành và Lễ Cung Hiến đền thờ. Mảng đề tài thứ
nhất lại đưa ra hai hình ảnh: cửa ràn chiên (câu 1-10) và
người mục tử nhân lành (câu 11-18). Phụng vụ ngày Chúa
NhậtChúa Chiên Lành hôm nay triển khai hình ảnh thứ nhất
là chính: “Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Trong nội dung đó
Đức Giêsu mới đề cập tới một hạng mục tử chân chính nào
đó mà tiên quyết họ phải là những người ‘đi qua cửa’; ‘ai đi
qua cửa mà vào, người ấy là mục tử’. Người xác định: chỉ
những mục tử đi qua cửa mới có thể có các phẩm chất tốt đẹp
như ‘chiên nghe tiếng anh…; gọi tên từng con rồi dẫn chúng
ra…; anh ta đi trước và chiên đi theo sau…; chúng nhận biết
tiếng của anh…” Như vậy thì việc đi qua cửa trở thành dấu
hiệu tiên quyết để Hội Thánh và mọi người nhận ra một mục
tử chân chính; “người giữ cửa mở cho anh ta vào’, bởi vì bất
cứ ai ‘trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ
cướp’.
Những ngày làm việc ở Mông Cổ đã cho tôi hiểu được thế
nào là ràn chiên và cửa ràn chiên. Người chăn chiên chuyên
nghiệp ở đó đều là dân du mục (tương tự như chăn vịt chạy
đồng ở xứ ta) cứ tối đến họ lùa chiên vào ràn. Ràn không
phải là một thứ chuồng trại cố định như heo bò của ta. Ràn
(tiếng Anh chính xác dịch là ‘enclosure’, ‘stable’ chỉ là theo
nghĩa rộng) là miếng đất trống gần lều trại được rào dậu bằng
đá xếp hoặc cành cây. Chiên có thể thuộc nhiều đàn khác
nhau được lùa vào ràn qua một lối mở duy nhất gọi là cửa. Sẽ
có một người trực qua đêm canh gác bên đống lửa đốt ngay
giữa lối ra vào được che chắn cách sơ sài. Sáng ra, các người
chăn chiên sẽ vào lùa đàn chiên của mình ra dưới sự giám sát
của người trực đêm. Chỉ khi nào thấy có những biểu hiện
24.
thuận thảo giữa chiên và người chăn dắt, anh giữ cửa hay
trực đêm mới xác định được người chăn chiên đó quả thật là
mục tử của đàn vật mình đang lùa đi ăn.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là: tại sao Đức Giêsu lại so sánh
mình với cửa ràn chiên trước cả khi giới thiệu mình là mục tử
nhân lành?
Hãy nhớ rằng đám thính giả chính của các lời tự giới thiệu
này là các Pha-ri-sêu, “Thật, tôi bảo thật các ông…” Nhóm
này trong Gio-an chương 9 đã có cuộc đối chất căng thẳng
với Đức Giêsu về việc chữa lành người mù từ thuở mới sinh.
Chính họ đã nêu lên lời phản bác: “Thế ra cả chúng tôi cũng
đui mù hay sao?” Phải, chính với nhóm lãnh đạo này mà Đức
Giêsu muốn xác định: “Ai không đi qua cửa mà vào ràn
chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm
kẻ cướp”.
Các Pha-ri-sêu nói riêng, các thượng tế và trưởng lão kinh
sư Do Thái nói chung, dựa vào luật pháp mà Mô-sê đã ban
hành mà biện minh cho vị thế lãnh đạo của họ; trong tư thế
đó họ không quan tâm tới gì khác hơn là làm sao luật được
cặn kẽ tuân giữ. Nhiều giai thoại đã cho thấy thái độ này làm
cho các Pha-ri-sêu thường xuyên có thái độ cực đoan, xét nét
và khắt khe với đám quần chúng, tới độ Đức Giêsu đã phải
nghiêm khắc lên án: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và
người Phai-ri-sêu giả hình! Các người khóa cửa Nước Trời
không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những
kẻ muốn vào các người cũng không để cho họ vào!” (Mt 23
13) Vấn đề chính ở đây là: đối với các Pha-ri-sêu, cũng như
với bất cứ ai chăn dắt bằng luật pháp, sẽ không hề có cửa
hoặc không thể có sự ra vào nào. Luật pháp tự nó bao giờ
cũng đóng lại, cũng khép kín, và có khuynh hướng ngày càng
chặt chẽ, bưng bít hơn.
25.
Với những con người như thế, thật là ý nghĩa khi Đức
Giêsu trịnh trọng tự giới thiệu: “Thật, tôi bảo thật các ông:
Tôi là cửa cho chiên ra vào!” Đây quả là khác biệt một trời
một vực giữa Tin Mừng cứu độ và tôn giáo của luật pháp:
một bên là rộng mở, còn một bên là đóng chặt. Đức Giêsu
đang giới thiệu mình như một Mô-sê mới, mới ở đây không
có nghĩa là cùng một Mô-sê luật pháp được đánh bóng lại
cho sáng đẹp hơn, nhưng là một tác phẩm hoàn chỉnh so với
một phác thảo đầy những khiếm khuyết cần được chỉnh sửa,
đôi chỗ là cơ bản; và có lẽ điểm cơ bản nhất chính là “Ai qua
tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được
đồng cỏ”. Luật pháp nào thì cũng không thể khảng định được
điều này, trự phi đó là luật pháp của tình yêu, lòng nhân từ và
cứu vớt. Thiết tưởng trước khi tự giới thiệu mình là Mục Tử
nhân lành, Đức Giêsu đã sử dụng hình ảnh ‘cửa ràn chiên’ là
để khảng định mình chính là luật pháp mới của lòng nhân từ
và cứu vớt. Do đó Người lên tiếng quả quyết: “Còn ai đi qua
cửa mà vào, người ấy là mục tử”. Đương nhiên các Pha-ri-
sêu không thể chấp nhận được lối lãnh đạo mới này, đơn giản
là vì họ vẫn khư khư với luật pháp Mô-sê và không tin vào
Đức Giêsu với thái độ ‘cứu vớt’ của Người (xem giai thoại
chữa người mù từ thuở mới sinh Ga 9). Họ thậm chí lên tiếng
kết án Người cách cay độc: “Ông ấy bị quỉ ám và điên khùng
rồi, nghe ông ta làm gì!” (Ga 10,20)
Như thế đối tượng trước hết của bài Tin Mừng hôm nay
chính là giới giáo sĩ chúng ta, được mệnh danh là linh mục,
tức là mục tử của Đức Ki-tô. Là linh mục trong một Hội
Thánh cứu độ thì luật pháp đối với tôi không được là gì khác
hơn là Đức Ki-tô - ‘cửa ràn chiên’. Chính thông qua cửa đó,
và chỉ qua cửa đó thôi mà công tác mục vụ của tôi được thi
hành và triển khai. Giáo hội đã chẳng luôn nhắc nhở tôi: luật
26.
tối thượng của toàn bộ giáo luật chính là cứu vớt các linh hồn
là gì? Chỉ có như thế tôi mới có thể là mục tử như lòng Chúa
từ nhân mong muốn, “chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên
từng con rồi dẫn chúng ra; khi đã cho chiên ra hết, anh đi
trước và chiên đi theo sau vì chúng nhận biết tiếng của anh!”
Lạy Chúa là ‘cửa ràn chiên’, dầu con đã được học giáo
luật… nhưng chính Chúa mới đích thực là cửa ràn chiên, là
‘giáo luật’ mà con phải ra vào trong công tác mục vụ của
mình. Nếu chỉ quan tâm tới luật pháp, kể cả luật Hội Thánh,
con vẫn luôn có nguy cơ trở thành như các Pha-ri-sêu ‘khóa
cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào’. Xin ‘Người giữ của’
mở cho con được vào ràn mỗi sáng tối khi con dâng Thánh
Lễ, để qua đó các chiên sẽ không còn thấy tiếng con xa lạ mà
chạy trốn. Ước gì chúng cũng luôn nghe được tiếng nói của
lòng nhân ái và tự hiến của Chúa vang vọng nơi con! Amen.
27.
9. Người Chăn Chiên Lành – Lm. Hồng Phúc
Chúa nhật hôm nay thường được gọi là Chúa nhật Chúa
Chiên lành. Gioan Thánh sử mời gọi chúng ta một vòng qua
các ngọn đồi Galilê để chứng kiến một cảnh thanh bình: các
mục tử dẫn bầy chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên giòng suối
mát.
Trong lịch sử trước kỷ nguyên, các vì vua chúa và đại tư tế
thường được gọi là mục tử. Pharaon được gọi là người chăn
chiên nhân lành. Danh xưng ấy, dân du mục người Israel
thường dành cho Thiên Chúa. Ngài dẫn đưa họ qua Biển Đỏ,
qua sa mạc đến Đất Hứa, như người mục tử gắn liền số mạng
với đoàn chiên, vui buồn gian khổ dưới sương sớm với nắng
chiều. Đó là viễn ảnh của một vị mục tử mà Thiên Chúa sẽ
gởi đến là Chúa Giêsu. Hôm nay, khi nhìn thấy cảnh bầy
chiên trên đồi Galilê, Chúa đã tự mô tả mình như một người
chăn chiên lành phúc hậu.
Nhiều lần, Chúa Giêsu tự ví mình là Người Mục tử, nhưng
lần này Ngài đã nói tất cả ý nghĩ.
Khác với những người chăn thuê giữ mướn, những người
lợi dụng và trộm cướp, người chăn chiên lành chỉ biết phục
vụ đoàn chiên và cứu thoát đoàn chiên khỏi mọi sự dữ. Đối
lại, con chiên nghe tiếng người chăn, hăm hở đi theo và tỏ
tình yêu mến. Người mục tử đi trước để bảo vệ đoàn chiên,
đoàn chiên theo sau ngoan ngoãn và tín nhiệm. Chúa phán:
“Ta đến để mọi người được sống và được sống dồi dào”, cho
dầu phải trả một giá rất cao, bằng chính mạng sống mình.
Sau khi đã tự mô tả là một người mục tử, Chúa Giêsu lại
tự ví mình với cửa chuồng chiên.
Mỗi một khi Giáo hội tổ chức Năm Thánh, ngày khai mạc
và bế mạc, Đức Giáo hoàng đã chủ sự nghi lễ và đóng một
cánh cửa lớn nằm bên phải đền thờ Thánh Phêrô. Nghi lễ ấy
28.
có một quá trình trong Thánh Kinh tượng trưng cho Ơn
Thánh Chúa đổ xuống trên nhân loại (Tv 78, 23; Ml 3, 10);
cho cuộc trở về toàn thắng của đức vua (Tv 24, 7-10); cho
nơi gặp gỡ của sự bình an và hiệp nhất (Tv 122).
Hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố: “Ta là cửa chuồng chiên…
Ai qua Ta mà vào thì được cứu rỗi, người ấy ra vào và tìm
thấy của nuôi thân”. Nơi Chúa Giêsu, loài người gặp gỡ
Thiên Chúa và loài người cũng gặp gỡ anh em mình. Nhưng
con người ta có kẻ tốt và người xấu, kẻ thánh thiện và người
gian hiểm. Đối với đoàn chiên hiền lành, có kẻ không qua
cửa mà đột nhập vào, họ là kẻ trộm cướp, đến để ăn cướp, để
sát hại và phá hủy. Xưa nay, trong Giáo hội cũng có những
tên ăn trộm, những sói dữ đột nhập vào giữa đoàn chiên, nhất
là khi họ là sói dữ đội lốt chiên lành.
Thánh Phaolô kết luận: “Xưa kia, anh em như những chiên
lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử là Đấng
canh giữ linh hồn anh em”.
Và Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Là con
chiên tôi đi theo vết chân Chúa, tôi chẳng lo sợ gì. Vua
Thánh Venceslaô xứ Tiệp Khắc (907-929) một đêm nọ trời
đông giá rét đi đến nhà thờ viếng Thánh Thể. Viên thị vệ theo
hầu xuýt xoa kêu giá lạnh. Thánh nhân bảo: Cứ chịu khó theo
và đặt bàn chân ngươi lên vết chân ta. Viên thị vệ tuân theo
và bỗng nhiên cảm thấy ấm áp lạ thường.
Theo vết chân của vị Mục tử ta sẽ thấy đời ấm áp.
29.
10. Tiếng gọi yêu thương
(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Một vị mục sư trung thành, đạo đức, đang đau nặng. Anh
em tín đồ quì cạnh giường bệnh, cầu xin Chúa cứu chữa ông.
Họ nhắc với Chúa rằng ông coi sóc bầy chiên của Người rất
tận tâm và họ lập đi lập lại câu ngày: “Chúa biết không mục
sư yêu mến Ngài biết bao!”
Nghe vậy vị mục sư bèn xoay qua phía họ mà nói:
- Xin anh em đừng cầu nguyện như thế. Khi Maria và
Macta sai người đi mời Đức Giêsu, thì họ không nói “Lạy
Chúa, này kẻ yêu Chúa”, nhưng nói: “Lạy Chúa, này kẻ
Chúa yêu đang bị đau nặng”. Tôi được yên ủi chẳng phải vì
tôi yêu Chúa cách bất toàn, nhưng vì Chúa yêu tôi cách trọn
vẹn.
***
Nhiều khi chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính
Chúa mới là người yêu chúng ta trước, yêu vô điều kiện, và
yêu không bờ bến.
Đức Giêsu chính là mục tử tốt lành, Người luôn yêu
thương đàn chiên, và yêu từng con chiên một. Chính Người
yêu thương chăm sóc đàn chiên nên các con chiên mới được
ăn trên đồng cỏ xanh, uống bên dòng suối mát. Chính Người
lưu tâm bảo vệ đàn chiên, nên các con chiên mới an toàn khỏi
kẻ bắt trộm, khỏi nanh sói dữ.
Nếu Người đã nói: “Tôi biết các chiên tôi”, thì phải hiểu là
Người biết rõ chúng ta cần những gì cho linh hồn và thể xác,
nên đừng băn khoăn xao xuyến. Hãy tin tưởng ở nơi Người.
Nếu Người đã nói: “tôi đến để cho chiên được sống và
sống dồi dào”, là Người muốn chúng ta được sống tràn trề
30.
bên dòng suối Lời Chúa và sung mãn với lương thực Thánh
Thể của Người.
Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ.
Chúng ta cần cầu nguyện cho có nhiều tâm hồn quảng đại,
biết dấn than vô điều kiện, và phục vụ vô vị lợi cho đàn chiên
Chúa. Vì đàn chiên không thể thiếu chủ chiên.
Chúng ta cần cổ vũ cho ơn gọi linh mục và tu sĩ bằng cách
khích lệ tinh thần và hỗ trợ tài chính cho các mầm non ơn
thiên triệu trong giáo phận và giáo xứ của mình.
Chúng ta cần tích cực dạy cho con cháu biết lắng nghe Lời
Chúa, chuyên tâm cầu nguyện, hăng say làm việc tong đồ, và
quan tâm phục vụ người nghèo. Nhờ vùng đất mầu mỡ này
mà ơn gọi linh mục và tu sĩ sẽ nảy sinh.
* * *
Lạy Chúa, Chúa là mục tử tốt lành, xin dẫn dắt chúng con
đi trên nẻo đường của Chúa, để chúng con được no thỏa ân
tình của Ngài.
Xin ban cho chúng con những chủ chiên nhân lành, chỉ
biết say mê Chúa và say mê con người, chỉ biết yêu thương,
phục vụ, và chăm lo cho đàn chiên Chúa, để chia sẻ với Chúa
nỗi bận tâm về một đàn chiên “được sống và sống dồi dào”.
Amen.
11. Đồng cỏ xanh, Dòng suối mát
(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Dương Ân Điển là đứa bé bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó
ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền Nam,
đảo Đài Loan. Câu chuyện thương tâm này xảy ra năm 1974,
ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh tay, chân
phải thẳng đơ không thể co duỗi.
31.
Thế mà 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở
thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và
miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và Nhật, và
là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ tranh
bằng chân và miệng.
Cuộc đời co thay đổi nhanh chóng như thế, thành công
rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là
Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh
Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn chân
phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông
đã nói với cô: “Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có
thể làm được rất nhiều việc”. Chính tình thương, sự chăm
sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi
số phận của một con người.
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng
theo tôi” (Ga 10, 27). Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành,
Người yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá
biệt, cho dù chúng ta có què quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt
đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô
nhị trong tình yêu bao bọc của Chúa; mỗi người chúng ta đều
có vị trí đặc biệt trong trái tim yêu thương của Người. Tấm
lòng quảng đại yêu thương của ông Tưởng Kinh Quốc dành
cho cô bé tàn tật Dương Ân Điển chỉ là hình bóng tình yêu
thương vô bờ của Thiên Chúa đối với chúng ta, những con
chiên của Người.
Vâng, chiên của Chúa thì nghe Chúa, biết Chúa và theo
Chúa.
- Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh
Thánh, nơi giáo huấn của Giáo Hội, và những ơn soi sáng
trong tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối
tương giao thân tình với Người, vạ nhất là để tin vào Người.
32.
Thánh Phaolô viết: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe
giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10, 17).
- Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa
tri thức, mà chính là hiểu biết sâu xa, yêu mến thân tình, đến
nỗi kết hợp cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm
cho chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực, đến nỗi
đoán biết cả thánh ý Người.
- Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự
nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình
Người. Theo Chúa cũng chính là từ bỏ, từ bỏ con người cũ,
nếp sống cũ, đường lối cũ: Các môn đệ đã bỏ mọi sự,
Maddalêna đã bỏ đường tội lỗi, Augúttinô đã bỏ đời trụy lạc,
để đi theo Người.
Nghe Chúa, biết Chúa và Theo Chúa để được những gì?
Đức Kitô đã trả lời: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời;
không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được
chúng khỏi tay tôi” (Ga 10, 28). Đoàn chiên đi theo chủ chiên
nhân lành thì đồng cỏ xanh với dòng suối mát chắc chắn phải
là đích đến của chúng, vì chủ chiên Giêsu chính là Đường, là
Sự Thật và là Sự Sống. Người không những ban cho chúng ta
sự sống đời đời mà còn bảo đảm sự sống ấy chắc chắn không
thể mất được.
Không chỉ Chúa Con mà cả Chúa Cha cũng gìn giữ, bảo
vệ chúng ta trong bàn tay yêu thương của Người: “Cha tôi,
Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai
cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha” (Ga 10, 29). Chúa Cha
đã trao ban đoàn chiên cho Chúa Con như quà tặng quí giá
nhất, nên Chúa Con cũng gìn giữ và yêu mến đoàn chiên như
Chúa Cha đã yêu mến và gìn giữ vậy. Như thế, chúng ta được
bảo vệ an toàn tuyệt đối trong cả hai bàn tay, của cả cha lẫn
mẹ, còn hình ảnh nào đẹp hơn thế nữa!
33.
Lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên nhỏ bé đơn sơ, để
chúng con được nằm trong bàn tay yêu thương của Chúa.
Giữ một thế giới ồn ào vì tranh giành quyền lực, của cải,
xin cho chúng con lắng nghe được tiếng Chúa.
Giữa một thế giới chỉ biết tôn thờ vật chất, xin cho chúng
con hiểu biết Chúa thật sâu xa để yêu mến Người thiết tha.
Giữa một thế giới chỉ biết chạy theo danh lợi thú, xin cho
chúng con luôn theo Chúa là chủ chiên nhân lành của đời
chúng con mà thôi. Amen.
34.
12. Cánh cửa mở toang
(Barbara E. Reid, nữ tu dòng Đaminh tại Grand Rapids,
Michigan Hoa Kỳ. Bà là giáo sư môn Tân ước tại Đại học
công giáo ở Chicago, bang Illinois. Cũng tại đây bà làm
trưởng khoa và là phó viện trưởng. – Văn Hào, SDB chuyển
ngữ)
“Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7)
Vài năm trước, trên truyền hình có trình chiếu một chương
trình đố vui mang tên “Mời bạn tham gia trò chơi”. Người
tham gia cuộc chơi sẽ có cơ hội trúng thưởng. Sự hồi hộp gay
cấn xảy ra khi họ được hỏi phải chọn cửa nào trong ba cửa.
Hai trong ba cửa không trúng giải, còn cửa thứ ba sẽ trúng
một giải thưởng có giá trị, như một chuyến du lịch, một chiếc
xe hơi hay một số tiền mặt khá lớn. Mỗi lần tổ chức như thế,
sẽ có người may mắn trúng giải khi chọn đúng cánh cửa có
giải thưởng.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sánh ví mình như
là “cánh cửa” đem đến cho ta quà tặng đắt giá nhất. Không
giống như trò chơi đố vui ở trên khi người ta đánh lừa người
tham gia để họ chọn sai cánh cửa có giải thưởng. Đức Giêsu
đã minh thị Ngài chính là cánh cửa mở toang, để tất cả chúng
ta có thể chọn đúng cánh cửa này.
Khởi đầu bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói về
Ngài như là mục tử chăn dắt chiên. Ngài sẽ đến với đàn chiên
qua cửa chuồng chiên. Ngài sánh ví mình với hình ảnh trái
ngược về những người ăn trộm. Họ lần mò vào đàn chiên
không bằng cửa chính, và sẽ không thể điều khiển đàn chiên
theo họ đi ra ngoài. Họ là người xa lạ, và các con chiên sẽ
chạy trốn, vì chúng không nghe được tiếng của họ. Sau đó,
trong phần cuối của chương này, Chúa Giêsu đã đưa hình ảnh
người chăn chiên nhân lành để nói về chính Ngài. Một khía
35.
cạnh khác khá quan trọng khi trưng dẫn hình ảnh này, đó là
cánh cửa được mở ra cả hai hướng: Đi vào và đi ra. Nhưng
bài Tin Mừng hôm nay quy chiếu về Đức Giêsu như là cửa
chuồng chiên. Các môn đệ không chỉ đến với đàn chiên qua
Ngài, nhưng họ còn được Ngài dẫn ra ngoài đồng cỏ để bổ
dưỡng.
Tất cả những ai được Ngài dẫn vào sẽ tìm được cho mình,
giữa sự thân ái của cộng đoàn đức tin, một nơi để thư giãn và
nghỉ ngơi, một nơi để được an dưỡng và chữa lành. Đó cũng
là nơi chúng ta được nuôi dưỡng qua bàn tiệc Lời Chúa và
bàn tiệc Thánh Thể. Nhưng bất cứ ai được dẫn vào cũng sẽ
được dẫn ra, đi đến những đồng cỏ xanh tươi, những đồng cỏ
mầu mỡ để thực hiện sứ mệnh. Đức Giêsu là cửa chuồng
chiên, vừa dẫn chúng ta đi vào, vừa dẫn chúng ta đi ra.
Sau đó, trong Tin Mừng Gioan, hình ảnh cánh cửa mở
toang cũng mang lấy một hình thái mới. Cạnh sườn Chúa
Giêsu trên Thập giá được mở ra, khi người lính lấy giáo đâm
Ngài (Ga 19, 34), cũng gọi mời chúng ta tiến vào, để bước ra
trong sức mạnh của Đấng Phục Sinh. Tất cả những ai đi vào
cuộc sống như Ngài đã sống, một cuộc sống trải rộng y hệt
một đồng cỏ mênh mông đầy ắp những khinh miệt, những
quên lãng, và những chống đối từ những con người đã đi vào
chuồng chiên bằng con đường khác, thậm chí ngay cả mạng
sống chúng ta cũng bị lấy đi, thì khi đó chính Đức Giêsu mở
toang cạnh sườn Ngài ra để dẫn chúng ta ra ngoài đến một
cuộc sống hồi sinh hoàn toàn mới mẻ. Trước cái chết, Đức
Giêsu đã nói với các môn đệ về cuộc khổ nạn Ngài sẽ kinh
qua như một cơn đau quặn khi sinh nở để có được niềm vui
lúc một sinh linh được chào đời (Ga 16,20-26). Máu và nước
tuôn trào từ cạnh sườn mở toang ra, gợi nhắc chúng ta về
những “dòng sông mang chở nước sự sống” mà Chúa Giêsu
36.
đã hứa. Những dòng sông đó sẽ tuôn trào từ nơi Ngài (theo
nguyên ngữ là từ cõi lòng của Ngài) và từ con tim của những
kẻ tin Ngài (Ga 7,38).
Ngôi mộ mở toang ngày Chúa Nhật Phục Sinh khép lại
hình ảnh này. Cánh cổng sự chết đã bị bẻ gẫy bởi Đấng đã
đến để “cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Cánh cổng sự sống bây giờ đã rộng mở ra cho mọi người.
Lời mời gọi hãy đi vào cánh cổng này qua Ngài và qua cách
sống của Ngài, đối với nhiều người cũng không dễ dàng để
chấp nhận. Những người Pharisêu, đại biểu cho hạng người
cứng lòng, đã không chấp nhận lời gọi mời đó để bước vào
và bước ra cùng với Ngài và qua Ngài. Họ nghĩ rằng có một
lối đường khác, chứ không chấp nhận đi qua cửa chuồng
chiên là chính Đức Giêsu.
Chắc chắn, không có một kỹ xảo nào nhằm đánh đố chúng
ta để chọn cho đúng cánh cửa. Cánh cửa Giêsu vẫn luôn mở
toang ra chờ đón mọi người.
37.
13. “Tôi là cửa cho chiên”
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm:
Chúng ta vẫn ở trong mùa Phục sinh, mùa của sự sống
tươi mới.
Đức Giêsu là người mục tử chăn chiên.
Khác với kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy,
Ngài đến để chiên có sự sống, và có một cách dồi dào (c. 10).
Hãy nhìn những nét đặc trưng của người mục tử đích thực.
Anh đi vào ràn chiên hay chuồng chiên bằng cửa, đường
đường chính chính, chứ không lén lút trèo qua tường rào (cc.
1-2). Người giữ cửa quen anh và mở cửa cho anh. Chiên
cũng quen anh và quen tiếng của anh. Tiếng của anh là dấu
hiệu quan trọng để chiên nhận ra và phân biệt anh với người
lạ hay kẻ trộm (cc. 3-5).
Chiên nghe tiếng của anh (c. 3). nhưng không nghe tiếng
người khác (c. 8). Anh trìu mến gọi tên từng con, vì anh biết
rõ chiên của mình.
Khi dẫn chúng ra ngoài chuồng, anh đi trước dẫn đường,
chúng yên tâm theo sau chứ không chạy trốn, vì chúng biết
mình đang đi theo ai và sẽ được dẫn đến đâu. Rõ ràng có sự
hiểu nhau, gần gũi giữa chiên và mục tử.
Nhưng Đức Giêsu không chỉ là Mục tử chăn chiên.
Ngài còn tự nhận mình là Cửa cho chiên ra vào (c. 7. 9).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Khi Ngài đưa ta đến với
Cha, Ngài nhận mình là Cửa. Khi Ngài săn sóc ta, Ngài nhận
mình là Mục Tử.”
Cửa chuồng chiên nhằm để chiên đi vào và tìm được sự an
toàn. Cửa cũng nhằm để chiên đi ra và tìm được đồng cỏ nuôi
sống.
38.
Chỉ ai qua Cửa Giêsu mà vào mới được cứu độ.
Ai ra vào Cửa Giêsu mới tìm thấy đồng cỏ xanh tươi (c.
9). Cửa Giêsu cũng giúp phân biệt mục tử giả và thật.
Mục tử giả sẽ không dám đến với chiên qua Cửa Giêsu.
Mong sao cho Giáo Hội có nhiều mục tử gần gũi với
chiên, biết gọi tên từng con chiên và đem lại cho chiên hạnh
phúc. Và mong sao chiên có khả năng nhận ra tiếng nói của
người mục tử.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa nhận mình là Tấm Bánh, vì Chúa
muốn nuôi tâm linh chúng con.
Chúa nhận mình là Cây Nho, vì Chúa muốn trao cho
chúng con dòng nhựa sống.
Chúa nhận mình là Mục tử nhân lành, vì Chúa muốn dẫn
chúng con đến nơi đồng cỏ.
Chúa nhận mình là Cửa, vì Chúa mở cho chúng con sự
phong phú của Nước Trời.
Chúa nhận mình là Con Đường, vì Chúa là Đấng duy nhất
dẫn chúng con đến với Chúa Cha.
Chúa nhận mình là Ánh sáng, vì Chúa có khả năng khuất
phục bóng tối trong thế gian này.
Chúa nhận mình là Sự Thật, vì Chúa vén mở cho chúng
con khuôn mặt của Thiên Chúa.
Chúa nhận mình là Sự Sống và là Sự Sống Lại, vì Chúa
không để cho chúng con bị cái chết chôn vùi.
Lạy Chúa Giêsu,
tạ ơn Chúa vì mọi điều Chúa định nghĩa về mình đều
hướng đến hạnh phúc cho chúng con, và đều cho chúng con
sự sống thâm sâu của Chúa. Xin cho chúng con chấp nhận
39.
Chúa là Anpha và Ômêga, là Khởi Nguyên và là Tận Cùng
của cuộc đời mỗi người chúng con. Amen.
40.
14. Tình mẹ hiền – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người ta nói người mẹ có thể đọc được tâm tư của con. Dù
con không nói nhưng mẹ vẫn biết con đang muốn gì? Bởi vì
tình yêu của mẹ luôn quan tâm đến con cái một cách rất tỉ mỉ.
Từng cử chỉ, từng hành động đều không qua được mắt mẹ.
Có một anh bạn nhà nghèo, chạy vạy mãi mới được một
suất hợp tác lao động, anh coi đó như cách duy nhất để giúp
đỡ gia đình. Nhưng ảo mộng chóng tan, xứ người chẳng phải
thiên đường, anh chỉ còn biết làm quần quật và dành dụm
từng đồng. Để nhà khỏi buồn, trong thư anh tô vẽ về một
cuộc sống chỉ có trong mơ.
Ngày về, mọi người mừng rỡ nhận quà, anh lại tiếp tục nói
về cuộc sống trong mơ.
Đêm. Chỉ còn mẹ. Hết nắn tay nắn chân anh rồi mẹ lại sụt
sùi. Anh nghẹn ngào khi nghe mẹ nói:
- Dối mẹ làm gì. Giơ xương thế kia thì làm sao mà sung
sướng được hở con!
Hóa ra tình mẹ thật sâu lắng. Sâu lắng đến độ có thể hiểu
được con tim của con. Mẹ có thể hiểu được con đang nghĩ gì,
muốn gì. Mẹ cũng có thể biết được phải làm gì để xoa dịu nỗi
đau cho con.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của người
mục tử tốt lành. Người mục tử luôn gắn liền đời mình với
đàn chiên tựa như người mẹ gắn liền với định mệnh đời con.
Người mẹ được Thiên Chúa sắp đặt để bảo vệ đứa con, chăm
sóc đứa con, dậy dỗ và gìn giữ đứa con khỏi những nguy
hiểm trong suốt hành trình cuộc đời. Không có mẹ đứa con sẽ
không lớn nổi thành người. Đàn chiên cũng không thể có
đồng cỏ xanh tươi, có suối mát ngọt ngào nếu không được
người mục tử miệt mài tìm kiếm cho đàn chiên. Đàn chiên sẽ
không thể sống an toàn khỏi cạm bãy, khỏi thú dữ rình chờ,
41.
nếu không có chủ chiên canh phòng với đầy đủ trách nhiệm
và đầy yêu thương.
Chúa Giêsu sánh ví tình thương của mình như tình thương
của người mục tử dành cho đàn chiên. Người mục tử tốt lành
đầy yêu thương luôn gắn bó với đàn chiên, luôn sẵn sàng hy
sinh cả mạng sống mình vì lợi ích đàn chiên. Ngài chính là vị
mục tử mà bài đáp ca đã ca ngợi rằng: Chúa là mục tử chăn
dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tuơi,
Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong
lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo
chính. Lạy Chúa, dầu qua thung lũng âm u con sợ gì nguy
khốn, vì có chúa ở cùng con”.
Ngày 27/04/2014, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã
được Giáo hội tôn phong lên bậc hiển thánh. Người là một
môn sinh đã hoạ lại rõ nét hình ảnh mục tử của Thầy Chí
Thánh Giêsu. Người mục tử luôn làm việc không nghỉ ngơi.
Cho dù tuổi đã cao lại thêm bệnh tật kéo dài, thế mà ngài vẫn
đến với đàn chiên, vẫn cất cao tiếng gọi đàn chiên, vẫn là chỗ
dựa thật vững chắc và an toàn cho đàn chiên. Đến nỗi khi
ngài qua đời, Đức tổng Giám mục Leônardo Sandri, thứ
trưởng Ngoại giao Toà Thánh đã nói với toàn thể thế giới
rằng: “Hôm nay, chúng tôi như những đứa con mồ côi”.
Tại sao người ta thương tiếc một cụ già như thế? Có phải
người ta ngưỡng mộ Ngài vì ngài nhiều tiền, nhiều quyền lực
không? Thưa không phải thế. Người ta thương tiếc một mục
tử hết mình vì đàn chiên. Một mục tử canh giữ hoà bình
không chỉ cho đàn chiên mà cho hàng tỉ người trên khắp hành
tinh này. Người mục tử với 26 năm chăn dắt đàn chiên của
Chúa đã không ngừng bảo vệ quyền sống của con người, nhất
là của các thai nhi. Người mục tử đã không ngừng đi đến tận
cùng thế giới để gieo rắc an bình, công bình, tha thứ và yêu
42.
thương. Người mục tử đã đi đến cùng đường để quy tụ đàn
chiên, để tìm kiếm các con chiên lạc đưa về một mối và cuối
đời, trong những tiếng nấc hoà trộn với hơi thở bị ngắt
quãng, ngài đã nói với đàn chiên đang canh thức cầu nguyện
cho ngài trong giờ lâm chung rằng: “Ta đã đi tìm kiếm các
con. Và bây giờ các con đã đến với Ta. Ta xin cám ơn các
con”.
Hôm nay lễ Chúa chiên lành, chúng ta dâng lời cảm tạ
Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội luôn có những mục tử như
lòng Chúa mong ước. Cám tạ Chúa đã thương chăm sóc, chở
che và gìn giữ cuộc đời chúng ta trong tình thương quan
phòng của Chúa.
Hôm nay cũng là Chúa nhật II trong tháng năm, được chọn
là ngày của mẹ. Mẹ chính là một mục tử gần gũi nhất để
chăm sóc chúng ta. Tình thương của mẹ là vô bờ bến. Tình
thương của mẹ dám hy sinh đánh đổi cả cuộc đời của mình
để cho con niềm vui, tiếng cười. Thế nên, khi nói về mẹ có lẽ
chúng ta phải nói về những hy sinh của mẹ. Nói với mẹ
chúng ta phải nói lời cám ơn mẹ đã sẵn lòng hy sinh cho
chúng ta.
Người ta kể lại rằng trong nạn đói vào năm Ất Dậu 1945,
có một bà mẹ đã cắn đứt ngón tay của mình để con được bú
những giọt máu cuối cùng thay cho dòng sữa đã cạn kiệt vì
cái đói kéo dài. Bà chỉ hy vọng đứa con sẽ được cứu khỏi
chết. Bà không can tâm nhìn con chết đói mà mình không làm
điều gì đó để cứu con. Bà đã chấp nhận cái chết để con được
sống.
Tình thương của mẹ là thế. Yêu thương quên cả chính
mình. Một tình thương dám hòa trộn mồ hôi trong những giọt
nước mắt bể dâu để mang lại hạnh phúc cho con. Một tình
43.
thương không bao giờ giả dối nhưng luôn mộc mạc chân tình
gần gũi như chuối ba hương hay như xôi nếp mật.
Thế nên, trong ngày của mẹ chúng ta hãy cám ơn mẹ đã
cho chúng ta vào đời. Cám ơn mẹ đã thức trọn canh khuya để
canh giữ giấc ngủ cho chúng ta, để gìn giữ chúng ta khỏi mọi
hiểm nguy giữa cuộc đời. Cám ơn cuộc đời đã cho chúng ta
có mẹ để được yêu thương. Cầu mong mẹ mãi ở với chúng ta
để chúng ta mãi tận hưởng sự ngọt ngào của tình mẹ, và cầu
Chúa ban hạnh phúc thiên đường cho mẹ vì cả một đời gian
nan mẹ đã làm cho con cái. Amen.
44.
15. Đức Giêsu, Đấng chăn dắt đời tôi – An Phong
Đàn chiên và người chăn dắt, đó là hai hình ảnh quen
thuộc trong Kinh thánh. Hình ảnh người chăn chiên đi trước,
đoàn chiên đi theo sau, hình ảnh đó là "độc nhất vô nhị", là
hình ảnh rất thân thương, nói lên mối ân tình sâu đậm giữa
hai thực thể này.
Người chăn dẫn đoàn vật đến đồng cỏ xanh tươi, đến
giòng suối mát trong, để bổ dưỡng, nghỉ ngơi; hình ảnh đó đã
hằn sâu trong tâm trí dân Israen, được diễn tả rõ nét trong
thánh vịnh 22:
Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi
Trên đồng cỏ xanh tươi, Người để tôi nằm nghỉ
Đàn chiên có béo tốt, khoẻ mạnh, là nhờ người chăn gần
gũi yêu thương; Đàn chiên có cho nhiều thịt, sữa, nhiều lông
để làm áo, là nhờ người chăn ân cần chăn nuôi, bồi dưỡng.
Đàn chiên được an toàn là nhờ người chăn dắt hết mình,
trọn lòng bảo vệ. Vì đàn chiên nghe thấy người chăn gọi tên
từng con vật. Vì đoàn chiên đi theo bước chân người chăn
đến mọi chốn mọi nơi người chăn dẫn tới.
Như thế, giữa người chăn và đàn chiên có một mối tương
quan tình cảm "đồng hành", không phải tương quan "vua
tôi", "chủ-tớ".
Nhưng, Đức Giêsu là Đấng chăn dắt đời tôi, Người gần
gũi thân quen. Người kitô hữu được trở nên "Kitô thứ hai",
nên bạn Đức Kitô.
Đức Giêsu là Đấng ân cần chăn nuôi, bồi dưỡng tinh thần
tôi; vì Người đã đem đến cho tôi Tin mừng. Tin mừng đó là
sống làm người cho ra người, bằng "mến Chúa yêu người".
45.
Đức Giêsu là Đấng hết mình, trọn lòng bảo vệ tôi, vì
Người đã chia sẻ thân phận con người của tôi, hiểu tôi, muốn
tôi "sống và sống dồi dào".
Trong một thời đại mà đặc trưng là khó phân biệt đâu là
thật, đâu là giả, bạn đã chọn Đức Kitô là Đấng chăn dắt thật
của đời bạn chưa?
Hãy mở sách Thánh, bạn sẽ hiểu Đức Giêsu là Đấng chăn
dắt tôi, Người cho tôi "sống và sống dồi dào hơn".
Lạy Chúa Giêsu,
Ngài là Đấng chăn dắt cuộc đời chúng con.
Xin ban cho chúng con ánh sáng soi đường,
để chúng con luôn đi trên đuờng ngay nẻo thật.
Xin dẫn dắt cuộc đời chúng con
để chúng con không bị lạc lối trong đêm đen mù mịt;
Xin đưa chúng con tới quê hương của sự sống,
để chúng con được ở gần bên Chúa.
46.
16. Tôi đến để chiên được sống
Suy Niệm
Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu thường ví mình với
điều cụ thể: "Tôi là bánh, là Ánh Sáng, là Đường...”. Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Ngài ví mình như Mục tử.
Người mục tử chân chính đi qua cửa mà vào chuồng chiên.
Anh gọi chiên của anh bằng một tiếng gọi riêng, chiên nhận
ra tiếng của anh và đi theo.
Còn mục tử giả hiệu thì trèo tường mà vào chuồng. Chiên
không theo anh ta, nhưng sợ hãi chạy trốn, vì chúng không
nhận biết tiếng người lạ.
Đức Giêsu gọi những mục tử giả hiệu là trộm cướp. Họ
chỉ đến để giết hại và phá hủy đàn chiên.
Còn Ngài đến để chiên được sống, và sống dồi dào. Giữa
chiên và Ngài có một mối dây thân thiết: "Tôi biết chiên tôi
và chiên tôi biết tôi." Chiên đã trở thành điều vô cùng quý giá
đối với Ngài, đến nỗi Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho
chúng.
Giáo Hội muốn đặc biệt dành Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh,
để cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ.
Đây là vấn đề sống còn của Giáo Hội.
Nhiều nơi trên thế giới đang thiếu linh mục trầm trọng,
nhiều nhà thờ phải giao cho giáo dân coi sóc. Cũng có những
dòng tu phải đóng cửa cơ sở của mình vì không có lớp người
trẻ kế tục.
Giáo Hội hôm nay cũng như mai ngày vẫn cần đến sự
hướng dẫn của các mục tử để đoàn chiên được sống trong
đồng cỏ xanh tươi.
47.
Giáo Hội vẫn cần đến các tu sĩ sống đời thánh hiến, để thế
giới hiểu được thế nào là tình yêu, thấy được những thực tại
vô hình, và vươn lên khỏi cái tự nhiên, bình thường, hợp lý.
Được làm Kitô hữu là một ơn gọi của Thiên Chúa. Mọi
Kitô hữu đều có nhiệm vụ làm chứng cho Tin Mừng, nhưng
một số người được mời gọi đặc biệt để dấn thân cách trọn
vẹn hơn cho Nước Chúa và bắt chước Đức Giêsu tận căn
hơn.
Chúng ta băn khoăn trước câu hỏi tại sao Giáo Hội hôm
nay thiếu ơn gọi linh mục, tu sĩ.
Vì đời tu không hấp dẫn người trẻ? Vì bầu khí của thời
đại: thực dụng, hưởng thụ, Mất cảm thức về đức tin, xa lạ với
Thiên Chúa? Hay vì chúng ta chưa có can đảm để cổ võ ơn
gọi?
Trong sứ điệp năm 1996 về ơn gọi, Đức Thánh Cha đã
nhắc đến việc phải chăm lo cho mảnh đất nơi hạt giống ơn
gọi được nảy mầm và lớn lên. Mảnh đất đó là cộng đoàn giáo
phận và giáo xứ. Ngài đã phác họa những nét chính của cộng
đoàn này như sau:
Một cộng đoàn biết lắng nghe Lời Chúa. Khi đã quen nghe
tiếng Chúa trong Thánh Kinh, người trẻ sẽ dễ nghe được
tiếng Chúa mời gọi vang lên từ sâu thẳm của con tim mình.
Một cộng đoàn biết chuyên tâm cầu nguyện, dành ưu tiên
cho đời sống tâm linh, coi trọng việc cầu nguyện riêng tư,
lặng lẽ trước nhan Chúa. Chỉ trong bầu khí trầm lặng của cầu
nguyện, người trẻ mới dám đáp lại tiếng Chúa kêu mời, quên
mình để phục vụ cho lợi ích của tha nhân.
Một cộng đoàn biết hăng say làm việc tông đồ, khao khát
làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa. Từ đó những bạn
trẻ quảng đại sẽ được thúc đẩy dâng trọn đời mình để làm
cho Chúa Kitô được nhận biết.
48.
Một cộng đoàn quan tâm phục vụ người nghèo, chọn đứng
về phía những người khổ đau, túng thiếu. Cộng đoàn này sẽ
sản sinh những bạn trẻ biết phục vụ vô vị lợi và hiến thân vô
điều kiện.
Như thế ơn gọi chỉ nảy nở từ vùng đất màu mỡ. Nó là hoa
trái của một Giáo Hội đầy sức sống.
Một Giáo Hội mạnh mẽ sẽ cho nhiều ơn gọi. Nhiều ơn gọi
sẽ làm cho Giáo Hội mạnh hơn.
Giới trẻ hôm nay không thiếu lòng quảng đại, không thiếu
lý tưởng và những ước mơ cao cả.
Họ cần có ai đó giúp họ gặp được Đức Giêsu, say mê con
người Ngài, và chia sẻ nỗi bận tâm của Ngài về thế giới.
Họ cần có ai đó giúp họ nghe được tiếng kêu của bao
người đói khát chân lý và công lý, giúp họ cảm nhận được
bổn phận lớn lao là xây dựng trái đất thành mái ấm yêu
thương.
Giới trẻ cần những người thầy, người bạn dám sống điều
mình tin giữa muôn vàn khó khăn và giúp họ đứng vững
trước cơn lốc của cám dỗ.
Giáo Hội thiếu ơn gọi là do lỗi của mỗi người chúng ta.
Cần phải cầu nguyện và cũng cần phải canh tân cuộc sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Bạn mơ ước một linh mục trong thời đại hôm nay cần
có những phẩm chất nào, để có thể phục vụ hữu hiệu cho Dân
Chúa?
2. Theo bạn, đâu là nét nổi bật trong công việc phục vụ
của các nữ tu ở Việt Nam: ở nhà thương, trường học, trại
phong, giáo xứ?
Cầu Nguyện
49.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con những linh mục
có trái tim thuộc trọn về Chúa, nên cũng thuộc trọn về con
người.
Xin cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu
bằng tình yêu dâng hiến, một trái tim đủ lớn để chứa được
mọi người và từng người, nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ
rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện, có
tình bạn thân thiết với Chúa để các ngài giới thiệu Chúa cho
chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện, có thể
nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho, tấm bánh Lời Chúa
và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục có trái tim
của Chúa, say mê Thiên Chúa và say mê con người, hy sinh
đời mình để bảo vệ đoàn chiên và dẫn đưa chúng con đến với
Chúa là Nguồn Sống thật.
50.
17. Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên – Lm Trần Ngà
"Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy
sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm,
giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được
sống và sống dồi dào”. (Ga 10, 9-10)
* * *
Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên
Cửa đóng lại để bảo vệ chở che
Ban đêm hầu như tất cả mọi nhà đều đóng cửa lại. Nhà có
cửa đóng then cài chắc chắn thì chủ nhà ngủ mới yên giấc và
tài sản trong nhà mới được bảo vệ. Vì thế, khi xây nhà, việc
đầu tiên là lắp đặt cửa ngõ thật vững chắc rồi khoá lại kỹ
lưỡng để người nhà được yên giấc về đêm và của cải được an
toàn.
Nhưng tìm đâu trên đời nầy một thứ cửa đủ vững chắc và
kiên cố có thể bảo vệ tâm hồn con người được bình an và
giúp cho linh hồn họ được an toàn trước những đợt tấn công
ác liệt của ác thần? Cửa nào có thể bảo vệ tâm linh con người
khỏi bị công phá bởi vô vàn hung thủ của thế gian?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tỏ cho thấy Ngài là
thứ Cửa như thế. Ngài nói: "Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào thì
sẽ được cứu", tức là được bảo vệ. Ngài là cửa đóng lại để bảo
vệ đoàn chiên trong chuồng được an toàn, không bị trộm
cướp và ác thú giết hại.
Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại lại có nhiều cạm bẫy
của ác thần, nhiều nọc độc của văn hoá sự chết, nhiều cám dỗ
tệ hại lôi kéo nhân loại vào vòng sa đoạ như trong thế kỷ
hôm nay.
Vô vàn sách báo xấu xa, phim ảnh đồi trụy, tư tưởng độc
hại, lối sống thác loạn; được quảng bá khắp nơi trên thế giới,
51.
được tung lên mạng lưới điện toán toàn cầu làm sai lệch méo
mó lương tâm con người, khiến họ xem tội ác là chuyện bình
thường, xem việc phá thai, mẹ giết con là điều chính đáng,
xem hôn nhân đồng tính là lẽ tự nhiên, xem việc huỷ hoại đời
sống chung thuỷ của vợ chồng là điều đơn giản và cần thiết...
Trước những nguy cơ khủng khiếp như thế đang đe doạ
nhân loại trên khắp thế giới, chỉ có một lá chắn vững chắc,
một cánh cửa an toàn, một thành trì kiên vững là Chúa Giêsu
Chúa. Giáo huấn của Ngài là tấm Cửa che chắn đoàn chiên
được an toàn không kẻ thù nào xâm hại được, nếu chiên của
Ngài biết đón nhận giáo huấn của Ngài.
* * *
Cửa mở ra để dẫn đưa vào đồng cỏ thiêng liêng
Không chỉ đóng lại để bảo vệ chở che, Cửa Giêsu còn mở
ra để mở lối cho nhân loại tiến vào đồng cỏ thiêng liêng.
Các vị đại thánh trong Giáo Hội như Phanxicô Át-xi-di,
Phanxicô Xaviê, Têrêxa Hài Đồng Giêsu của những thế kỷ
trước hay những nhân vật tầm cỡ như Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II, Mẹ Têrêxa Calcutta thời nay, nhờ được dẫn
vào nuôi ăn trong cánh đồng cỏ thiêng liêng nầy nên đã được
trở thành những vĩ nhân của nhân loại và những thánh nhân
sáng ngời trong Hội Thánh.
Nhân loại hôm nay như đàn chiên đói khát, đói khát lương
thực tinh thần cách khẩn thiết, nhưng tiếc thay, còn lắm
người chưa chấp nhận bước qua Cánh Cửa Giêsu để được
dẫn vào đồng cỏ tốt tươi.
* * *
Lạy Chúa Giêsu,
Nhờ Chúa là Cửa đóng lại che chắn nên chúng con được
bảo vệ khỏi sự xâm nhập và tàn phá của ác thần;
52.
Nhờ Chúa là Cửa mở ra đồng cỏ xanh, chúng con được
nuôi dưỡng sung mãn trong vô vàn ân phúc của Chúa.
Xin cho nhân loại hôm nay biết nhìn nhận Chúa là Cửa, là
Thành Trì chở che bảo vệ tâm linh nhân loại và xin cho mọi
người nương vào Chúa như Cửa rộng mở vào đồng cỏ thiêng
liêng cho muôn người được lớn lên thành người có đạo đức
và phẩm chất cao đẹp.
53.
18. Nhân loại chỉ có một Đức Kitô – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Nền văn minh cơ giới khiến chúng ta quen thấy các bãi
đậu xe hơn là các chuồng chiên. Để hiểu rõ bài Phúc Âm
hôm nay, chúng ta cần gợi lại trong trí tưởng tượng một trong
những quang cảnh đời sống thôn dã quen thuộc vào thời Đức
Kitô. Những người chăn chiên chiều đến lùa đàn súc vật của
mình vào một ràng để cho một người trong bọn trông coi,
canh giữ cửa ra vào suốt đêm. Kẻ toan tính vào trong ràng để
giết trộm buộc phải trèo qua rào. Chiên thuộc các bầy khác
nhau biết tiếng người chăn mình. Sáng đến, người ấy tới
trước cửa, người canh mở cửa cho ông ta. Nghe tiếng gọi mà
chúng nhận ra không lầm lẫn. Chiên mỗi bầy tụ lại chung
quanh người chăn của mình rồi ra đi đến đồng cỏ. Chúa
Giêsu tự ví mình như người chăn chiên và đoàn lũ đông đảo
của gia đình nhân loại Ngài ví như đoàn chiên. Ngài biết toàn
thể loài người, cũng như từng người riêng biệt. Đối với nhân
loại đã không có ai và sẽ không có ai được như Ngài. Ngài
không những là người chăn chiên mà còn là cửa ràn chiên.
Người ta chỉ hiểu biết thâm sâu cộng đoàn nhân loại bằng
cách nhờ vào sự thông hiểu của Đức Kitô. Có nhiều đường
lối khác, nhưng ít hay nhiều đó là những đường đột nhập.
Những lời mời gọi con người mà không có cung giọng, tiếng
nói của Đức Kitô dẫn đưa họ đến những mục đích không có
được sự toàn vẹn, như ơn cứu độ Đấng Kitô Cứu Chúa duy
nhất mang lại.
1) Các chiên của Ngài, Ngài gọi từng con một.
Điều này có nghĩa là Chúa biết mỗi người riêng biệt. Ngài
biết được vì Ngài là Thiên Chúa. Đó chẳng phải là một sự
kiện khiến lòng ta phấn khởi sao? Chúng ta sống trong một
xã hội giảm trừ dần dần con người vào chỗ vô danh của một
54.
lá phiếu điện toán. Vì hiện nay giá trị độc nhất của nhân vị
càng tiêu tán dần, nên người ta phản ứng lại bằng việc học
hỏi cách khoa học vấn đề các tương giao liên vị. Làm như
thế, người ta lại phá huỷ thêm tính chất liên lạc hợp nhất của
nhân vị. Còn lại được gì? Đối với người Kitô hữu còn lại việc
Thiên Chúa biết đến mình, biết đến chỗ thâm sâu độc nhất và
không thể thông truyền của mình. Khi trong đám đông có lúc
chúng ta cảm thấy hết sức trơ trọi cô độc, hãy nhớ đến một
Đấng thông hiểu chúng ta tường tận riêng biệt. Hãy nhớ đến
một giọng nói hoà hợp với khả năng đón nghe bên trong
chúng ta.
2) Ta đến để chúng được sống
Sự sống Đức Kitô mang lại cho chúng ta là điều mà người
ta gọi là ơn thánh hoá, một sự thông phần vào chính cuộc
sống của Thiên Chúa. Tại thế này chúng ta đang sống những
chặng khởi đầu, chờ đợi hồi triển nở đầy đủ khi chúng ta
được hoàn toàn thông hiệp vào sự phục sinh của Chúa. Ngay
tự bây giờ trí khôn, ước muốn, tâm hồn chúng ta đã được
hưởng nhờ hồng ân Thiên Chúa. Khả năng hiểu biết sự thật,
ước muốn điều thiện được tăng cường đến một mức vượt quá
sức tự nhiên. Không bao giờ một mình trí khôn chúng ta biết
được mầu nhiệm Ba Ngôi chí thánh. Không bao giờ tâm hồn
chúng ta tự mình khám phá được niềm hy vọng lớn lao.
Chính Đức Giêsu Kitô mang sự sống của con cái Thiên Chúa
đến cho chúng ta. Đó chẳng phải là sự sống đầy tràn quý nhất
hay sao?
55.
19. Chúa Chiên Lành
(Suy niệm của Lm. Phaolô Nguyễn Văn Châu)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hình ảnh
người mục tử và đoàn chiên. Hình ảnh này đối với người Việt
nam chúng ta thì không quen thuộc lắm vì dân tộc chúng ta
sống chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp cây lúa, gắn bó với
con trâu con bò: “Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.”
Nhưng đối với những dân tộc du mục ở xứ Palestina thì rất
quen thuộc và dễ hiểu. Dân Israel nuôi chiên rất nhiều vì nơi
đây có nhiều đồng cỏ thích hợp cho việc chăn nuôi chiên,
cừu. Chăn chiên là một nghề rất quen thuộc đối với họ.
Người mục tử rất yêu thương đoàn chiên, sống gần gũi với
chiên, không muốn để một con chiên nào bị bệnh hay hư mất.
Vì thế, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người mục tử với
đoàn chiên để nói về Người với nhân loại, cách riêng đối với
Hội Thánh là từng người Kitô hữu chúng ta. Giống như
người mục tử trong bài Tin Mừng là biết đích danh từng con
một, đi trước đoàn chiên và không để cho chiên nghe tiếng
người lạ…Chúa Giêsu cũng khẳng định Ngài là mục tử biết
từng người chúng ta luôn chăm sóc chúng ta và tâm sự với
từng con chiên một là từng người chúng ta để giúp chúng ta
không nghe theo tiếng của ma quỷ, của thế gian, của những
thế lực không thuộc về Thiên Chúa. Người mục tử đi trước
đoàn chiên, nói lên tâm tình của Chúa Giêsu là đi trước nhân
loại, bảo vệ nhận loại, không để cho nhân loại bị rơi vào tay
của ma quỷ, của sự chết bằng cái chết thập giá và phục sinh
của Người. Người đã mang lại sự sống dồi dào cho đoàn
chiên là những kẻ thuộc về Người.
Khi chiêm ngưỡng dung mạo của vị mục tử đích thật là
Chúa Giêsu, chúng ta được Người mời gọi lãnh nhận vai trò
mục tử và đoàn chiên trong đời sống đức tin và đức ái của
56.
mình. Vì vậy, chúng ta sẽ sống như thế nào trước lời mời gọi
này?
Trong cuộc sống ngày hôm nay, chúng ta đang bị ảnh
hưởng bởi những trào lưu tục hóa của con người. Đó là:
Chúng ta thích sống hưởng thụ, ăn chơi sa đọa, tôn thờ tiền
bạc, của cải vật chất, tìm kiếm chủ nghĩa cá nhân... Nhiều vị
mục tử cũng đã bị cuốn vào vòng xoáy thích sống sa hoa tiện
nghi, chỉ biết chạy theo những lợi lộc trần thế mà quên đi
nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên và hy sinh vì đoàn chiên.
Chúng ta không chỉ cầu nguyện cho các vị mục tử nói
chung mà con phải cầu nguyện cho các giám mục, linh mục
trong giáo phận Quy Nhơn chúng ta nói riêng, luôn biết sống
dấn thân trọn vẹn, biết hy sinh xả kỷ vì quyền lợi của đoàn
chiên để đoàn chiên được tràn đầy ân sủng, bình an và tình
yêu của Thiên Chúa. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói về
mục tử như sau: “Giám Mục không phải là Giám Mục cho
bản thân ngài, mà là cho dân. Cũng vậy, Linh Mục không
phải là Linh Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân: để phục
vụ, nuôi dưỡng, chăm sóc dân là đoàn chiên của ngài…”
Ngài đòi hỏi phận vụ của linh mục là “Tôi yêu cầu anh em
hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình.”
Hiện nay trong giáo xứ của chúng ta, vẫn còn nhiều người
chưa về với Chúa, đã chối bỏ Chúa, cố tình loại Chúa ra khỏi
cuộc đời mình, đôi khi cũng bị bách hại bởi thế gian…Người
mục tử nhân lành là Cha xứ cần phải tìm đến với họ để an ủi,
chữa lành và mời gọi họ quay trở về với Chúa.
Trong năm Tân Phúc Âm hóa gia đình, chúng ta cũng cầu
nguyện cho chính chúng ta vì mỗi người chúng ta cũng là
mục tử trong giáo xứ, trong giáo họ và trong gia đình của
chúng ta với vai trò chức việc, làm chồng, làm vợ, làm cha
mẹ và làm con cái: Người làm chồng biết yêu thương và
57.
chung thủy với vợ, không ngoại tình, không bạo lực. Người
làm vợ cũng vậy, biết yêu thương, chung thủy và phục tùng
chồng để vợ chồng được hạnh phúc. Bậc làm cha, làm mẹ
biết sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái mà Chúa ban cho,
biết nuôi nấng, dạy dỗ con khôn lớn, biết chăm sóc gìn giữ
từng người con khỏi những nguy hiểm trong cuộc sống hiện
tại. Người làm con biết hiếu thảo, vâng lời và phụng dưỡng
cha mẹ để làm đẹp lòng Chúa; Người chức việc biết xây
dựng tinh thần yêu thương, hiệp nhất và phục vụ để xây dựng
một giáo xứ lớn mạnh về mọi mặt.
Xin anh chị em cũng cầu nguyện cho cha xứ của anh chị
em luôn là vị mục tử nhân lành như lòng Chúa mong ước.
Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử tối cao, xin chúc
lành và thánh hóa cho những ước nguyện và quyết tâm của
chúng con. Amen.
58.
20. Ơn gọi thánh hiến – Lm Dom. Trần Quang Hiền
Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi
Chiều hôm qua tôi đi dâng lễ an táng cho một nữ tu dòng
Đaminh Rosalima vừa mới qua đời vào buổi sáng cùng ngày,
là cô của một người giáo dân trong giáo xứ của tôi đang
phục vụ. Nữ Tu thọ 86 tuổi, trong đó 55 năm sống trong nhà
Chúa, nghĩa là hơn nửa đời người sống trong đời thánh hiến,
một cuộc đời hoàn toàn sống cho Thiên Chúa là Đấng Tình
Quân của mình. Nhìn vào bề dầy đời sống thánh hiến của Nữ
Tu này, tôi nhớ đến câu nói mà tất cả những ai là saledieng
hay nhắc nhở nhau: “khi nào về với Chuá trên mộ có ghi là
tu sĩ saledieng” lúc ấy chúng ta mới biết chúng ta trung
thành. Đời sống thánh hiến là một cuộc đời dấn thân, tận
hiến cho Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, là luôn trung
thành sống theo lời mời gọi của Tin Mừng, mỗi ngày mỗi nên
giống Đức Kitô hơn và sống cho người khác cho đến hơi thở
cuối cùng.
Đời tu nhìn bên ngoài rất đẹp nhưng cũng có những hy
sinh, từ bỏ để sống triệt để lời mời gọi của đời sống thánh
hiến. Vì thế, trên thực tế ở Châu Âu Giáo Hội đang báo động
tình trạng khan hiếm ơn gọi, đời sống thánh hiến không còn
hấp dẫn nơi người trẻ nữa, nhiều dòng tu đã đóng cửa, nhiều
dòng tu chỉ còn những Cha, Thầy, nữ tu đã già. Nếu so sánh
ở Việt Nam, chúng ta vẫn còn cảm thấy phải tạ ơn Chúa vì
chúng ta vẫn còn nhiều ơn gọi tuy đang trong tình trạng giảm
sút so với trước đây, nhưng vẫn còn có nhiều bạn trẻ quảng
đại, dấn thân trong đời sống thánh hiến. Nói như thế, tự bản
chất đời sống thánh hiến là đẹp, là hấp dẫn, là ước mơ của
bao người, là hồng ân của Thiên Chúa, Chúa yêu thương,
Chúa mời gọi và thánh hiến, chỉ có điều là mỗi người chúng
59.
ta phải nhận ra tiếng Chúa mời gọi và quảng đại đáp trả lại
tiếng gọi này.
Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi
linh mục và tu sĩ, trong sứ điệp gởi toàn thể dân chúa nhân
ngày ơn gọi năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như
sau: “Ơn gọi là hoa trái chín mọng trong một cánh đồng được
canh tác tốt bởi tình yêu thương lẫn nhau thể hiện nơi việc
phục vụ lẫn nhau, trong bối cảnh của một cuộc sống cộng
đoàn thực sự. Không có ơn gọi nào được sinh ra chỉ cho riêng
mình hay sống cho chính mình. Ơn gọi triển nở từ con tim
Thiên Chúa và đâm hoa kết trái trong mảnh đất tốt của dân
trung tín với Chúa, và từ những cảm nghiệm của tình huynh
đệ. Chẳng phải là Đức Giêsu đã từng nói: “Cứ dấu này mà
người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy
yêu thương nhau” (Ga 13:35) hay sao?”
Đây chính là câu trả lời cho những thao thức về tình hình
ơn gọi giảm sút hiện nay, trả lời cho những chất vấn tại sao
các bạn trẻ không cảm thấy bị thu hút nơi những người sống
đời thánh hiến nữa? có nhiều lần tôi đã nghe nhiều bạn trẻ
nói, nhìn vào cách sống của ông Cha này, ông Thầy kia hay
bà Sr nọ con chẳng muốn đi tu chút nào, vì họ sống không
triệt để lối sống mà họ đã chọn, vẫn còn lo cho chính bản
thân mình, không quảng đại phục vụ người khác, không phải
là một mục tử nhân lành..... rồi cũng có nhiều câu hỏi tự
chúng ta đặt ra: tại sao giáo xứ, cộng đoàn của tôi ở đây bao
nhiêu năm rồi mà chẳng có một mống ơn gọi nào? lỗi do ai?
chắc có lẽ mỗi người chúng ta cần phải chất vấn chính mình,
tôi có làm chứng một cách hùng hồn về đời sống thánh hiến
của tôi để qua đó người trẻ có thể bị hấp dẫn, lôi cuốn muốn
dấn thân trong đời sống tu trì hay không? cộng đoàn của tôi
có làm chứng về đời sống hiệp nhất, yêu thương, vui tươi
60.
trong đời sống thánh hiến và phục vụ người khác hay không?
vì ngày nay giới trẻ muốn tận mắt chứng kiến chứng tá của
người tu sĩ hơn là qua tu phục, qua những lời giảng dạy.
Người trẻ ngày nay bị thuyết phục hơn khi thấy người linh
mục, tu sĩ sống khiêm tốn, hy sinh, khó nghèo, quên mình
phục vụ người khác. Mẹ Têrêsa thành Calcuta là một mẫu
gương sống động nhất về một chứng tá của người tu sĩ quên
mình phục vụ những người đau khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi làm
cho nhiều người trẻ bị hấp dẫn, lôi cuốn và thế giới phải thán
phục.
“Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành, Mục Tử nhân lành
hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). Đức
Kitô chính là Mục Tử nhân lành đã hy sinh tính mạng vì đàn
chiên, Ngài yêu thương hết tất cả chúng ta và Ngài muốn hết
thảy chúng ta đều là những con chiên dễ thương của Ngài,
sống trong một ràn chiên của Ngài. Là những linh mục, tu sĩ
chúng ta hãy cố gắng sống xứng đáng là những mục tử nhân
lành, biết yêu thương, hy sinh, phục vụ, quan tâm đến giới
trẻ, thanh thiếu niên để nhờ đó thanh thiếu niên, người trẻ sẽ
cảm thấy được yêu thương, quan tâm, được đánh động bởi
chứng tá đời sống thánh hiến của chúng ta, qua đó họ sẽ
quảng đại dấn thân trong đời sống tu trì. Để có nhiều ơn gọi,
mỗi người chúng ta phải quan tâm vun trồng, gieo hạt, Thiên
Chúa sẽ cho lớn lên, vì Ngài chính là Chủ mùa gặt, chúng ta
là cánh tay nối dài, khơi dậy nơi thanh thiếu niên và giới trẻ
lòng quảng đại dấn thân. Amen.
61.
21. Mục Tử Tốt Lành – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu nói: ‘Ta là cửa chuồng chiên” (Ga 10,9);
“Ta là mục tử tốt lành” (Ga 10,11.14).
Sách Giáo Lý Công Giáo số 754 giải thích hình ảnh này
như sau: “Giáo Hội là chuồng chiên với Chúa Kitô, là cửa
vào độc nhất và cần thiết. Giáo Hội cũng là đàn chiên mà
chính Thiên Chúa đã công bố rằng Ngài sẽ là mục tử, và
những con chiên, dầu có những mục tử loài người dẫn dắt,
nhưng chúng luôn luôn có chính Chúa Kitô hướng dẫn va
nuôi dưỡng, vì Ngài là chủ chăn tốt lành và là Ông Hoàng
của các chủ chăn. Ngài đã thí mạng sống mình vì các chiên
của Ngài”.
Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành với những nét đặc
trưng sau đây:
- Vị Mục Tử Tốt Lành hết lòng yêu thương những người
thuộc về mình. Vì yêu thương nên Người quan tâm đến mọi
người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường
tận: biết họ muốn gì, họ cần gì, họ có thể gặp phải những
nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào.
- Vị Mục Tử Tốt Lành luôn đi đầu, đi trước, hướng dẫn,
lãnh đạo đoàn chiên, đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ
cực cho người thuộc về mình. Mục Tử Tốt Lành đem chiên
đến những miền an toàn, có suối mát có cỏ xanh, cho chiên
được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chiên sẽ tăng
trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Mục Tử Tốt Lành dám
hy sinh mạng sống vì chiên.
- Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến để yêu thương, chăm
sóc, quy tụ mọi con chiên. Ngài biết tên từng con chiên như
Cha Ngài biết Ngài ( Ga 10,14-15). Ngài gọi tên từng con
chiên và dẫn đi (Ga 10,3). Mục Tử sẵn sàng hy sinh mạng
sống vì chiên: "Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình
62.
yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu" ( Ga 15,
13). Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là vị Mục Tử Tốt Lành, vị
chủ chăn không bao giờ hèn nhát thấy sói tấn công chiên mà
bỏ trốn, nhưng Ngài luôn cứu vớt, tập họp, chăn dắt ( Ga
10,9.16 ).
Chúa Giêsu là Mục Tử Tốt Lành đã luôn luôn hiện diện,
yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống để cứu chuộc
chúng ta. Chúa Giêsu đã chọn các tông đồ các môn đệ tiếp
nối sứ mạng mục tử của Ngài. Chúa nhật IV Phục sinh, ngày
cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và ơn gọi tu sĩ nam
nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu
nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện
như lòng Chúa mong ước.
Các mục tử của Giáo Hội đều được mời gọi sống theo mẫu
gương Mục Tử Giêsu Tốt Lành là “Ông Hoàng của các chủ
chăn” (GLCG #754).
ĐGM Bùi Tuần đưa ra những đặc tính của người mục tử
tốt lành.
1. Mục tử tốt lành là người nuôi dưỡng đoàn chiên bằng
những lương thực có chất lượng cao.
Lương thực thứ nhất là Lời Chúa. Chúa Giêsu phán:
“Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bằng mọi
lời do miệng Chúa phán ra” (Mt 4,4). Lời Chúa là hạt giống
mang sự sống thiêng liêng (Lc 8,11).
Lương thực thứ hai là Phép Thánh Thể. Chúa Giêsu phán:
“Ta là bánh trường sinh… là bánh bởi trời xuống. Ai ăn bánh
này sẽ được sống muôn đời” (Ga 5,48-51).
Lương thực thứ ba là thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu phán:
“Lương thực của ta là thi hành thánh ý Chúa Cha, Đấng đã
sai Ta” (Ga 4,34).
63.
Mục tử không tự mình làm ra những lương thực thiêng
liêng này, và không được phân phát ra một cách máy móc,
nhưng phải cộng tác chặt chẽ với Chúa Giêsu, kết hợp mật
thiết với Chúa Giêsu, là mục tử tốt lành đứng đầu các mục tử.
2. Mục tử tốt lành là người kết hợp mật thiết với Chúa
Giêsu.
Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở
trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều
hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga
15,5). Kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu
biết sâu xa về Chúa Giêsu do đã gặp gỡ Ngài và sống với
Ngài thực sự.
Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã
nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng
tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta,
kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày
Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người
trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã
phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh
Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra
một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa
Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc
lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ
đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có
những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng
về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhânh lành
hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11).
Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình
của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã
mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức
tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã
64.
cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục
thánh ý Chúa Cha.
3. Mục tử tốt lành là người luôn khát khao và cầu xin ơn
Chúa Thánh Thần
Để biết phân định sự thực và sự không thực về thánh ý
Chúa Cha, người mục tử tốt lành rất cần ơn Chúa Thánh
Thần.
Chúa Giêsu phán: “Khi nào Thần Khí chân lý đến, Người
sẽ dẫn anh em đến sự thật vẹn toàn” (Ga 16,13).Thần Khí
chân lý là Chúa Thánh Linh. Khi Ngài đến, Ngài sẽ giúp cho
mục tử làm mục vụ một cách rất mới, có hồn, đầy uy tín. Bởi
vì Thánh Thần sẽ cho mục tử nếm được phần nào mùi vị ngọt
ngào của sự sống Thiên Chúa trong Lời Chúa. Ngài sẽ cho
mục tử nhìn thấy phần nào dung mạo đẹp đẽ của Thiên Chúa
trong Phép Thánh Thể. Ngài sẽ cho mục tử cảm được phần
nào lửa nồng nàn của tình xót thương Chúa ẩn tàng trong
thánh ý Chúa. Những lúc đó, người mục tử sẽ phục vụ đoàn
chiên với tất cả tâm hồn hòa tan trong quyền lực Thánh Linh,
như thánh Phaolô xưa: “Khi đến với anh em, tôi thấy mình
yếu kém, sợ sệt và run tẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng dùng
lời lẽ khôn khéo hấp dẫn. Nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác
thực của Thánh Linh và quyền năng Thiên Chúa”. (1Cor 2,3-
5).
Thời nay người mục tử rất cần ơn Thánh Thần. Như ơn
sáng suốt khôn ngoan trong phân định việc nên làm với cách
nên làm, và việc không nên làm với cách không nên làm, ơn
tiên liệu, ơn đối thoại, ơn đào tạo, ơn biết an ủi nâng đỡ đoàn
chiên.
Tôi cho là rất quan trọng, đó là ơn biết quên mình, biết cởi
gỡ mình khỏi mọi nô lệ tội lỗi, biết sống tự do thực sự nội
tâm, để đón nhận Nước Trời, ơn biết xây dựng sự hiệp nhất
65.
yêu thương trong sự trọng kính những khác biệt. Đặc biệt, tôi
khát khao ơn cầu nguyện, ơn biết xót thương đoàn chiên và
đồng bào mình, và biết giới thiệu Tin Mừng qua những diễn
tả mới mẻ, dễ hiểu và có sức thuyết phục. Làm sao để khi gặp
linh mục và thấy linh mục làm mục vụ và việc xã hội, ngay
cả khi thấy ngài thinh lặng cầu nguyện, hoặc thinh lặng hiện
diện với tuổi tác và bệnh tật, mọi người thiện chí đều có cảm
tưởng là một Đấng thiêng liêng đang hiện diện một cách tích
cực trong cuộc sống ngài, và qua ngài mà Đấng ấy đang đến
với lịch sử hôm nay.Với Đấng thiêng liêng ấy, linh mục hiện
diện và đến như một tình thương, một hy vọng, một sức
mạnh đổi mới trong dáng vẻ tu thân hiền từ và khiêm tốn.
Nghĩ tới đây, tôi cảm thấy vui, khi thoáng nhìn các mục tử
trong Hội Thánh. Bản thân các ngài có rất nhiều giới hạn, kể
cả tội lỗi. Nhưng các ngài đáng được chúng ta kính trọng yêu
thương, nhất là rất đáng mọi người chúng ta chân thành giúp
đỡ bằng lời cầu nguyện. Nhận thức đó do đức tin, vượt qua
những sự bề ngoài, sẽ đưa chúng ta đến vô vàn lợi ích, Thiên
Chúa giàu tình yêu thương xót sẽ ban thưởng cho chúng ta.
(x. Thao Thức 3, trang 147-153, ĐGM Bùi Tuần).
4. Mục tử tốt lành luôn cử hành Thánh Thể sốt sắng và
nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 của HĐGMVN
mời gọi các mục tử: “…Thánh Thể là trung tâm, nguồn mạch
và chóp đỉnh của đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Do đó, các
mục tử phải chú tâm đến việc cử hành Thánh Thể thật sốt
sắng và xứng đáng, nhất là ngày Chúa Nhật, và hướng dẫn
cộng đoàn tham dự Thánh Lễ cách ý thức, tích cực và sống
động hơn. Các ngài cũng cần thúc đẩy và canh tân việc sùng
kính Thánh Thể, vốn đã từng nổi bật trong truyền thống Giáo
Hội Công Giáo tại Việt Nam.
66.
Ý thức về thân phận tội lỗi của mình, các tín hữu cần
khiêm nhường thống hối và đón nhận ơn tha thứ qua bí tích
Giao Hòa, để xứng đáng là chi thể trong Nhiệm Thể Đức
Kitô. Bí tích Giao Hòa vừa là bí tích của hiện tại qua việc tha
tội vừa là bí tích của tương lai nhằm xây dựngtình hiệp thông
giữa gia đình con cái Thiên Chúa.
Ước mong các mục tử luôn quảng đại và sẵn sàng hơn nữa
trong việc giúp các hối nhân lãnh nhận bí tích Giao Hòa. (Số
12).
Lạy Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành.
Xin cho đoàn chiên của Chúa có thêm nhiều mục tử giống
như Chúa. Amen.
67.
22. Thiên Chúa chọn để loan báo Tin Mừng.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’ – Radio Veritas Asia)
Anh chị em thân mến,
“Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa chọn để loan báo
Tin Mừng và thông truyền Ơn Cứu Độ”, đó là tựa đề của Sứ
Điệp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gởi đến cộng đoàn
chúng ta trong ngày Lễ Chúa Nhật Chúa Chiên Lành cũng là
Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi Linh Mục, Tu Sĩ
Nam Nữ. Vậy hôm nay, tôi xin chia sẻ với anh em nội dung
sứ điệp này của Đức Giáo Hoàng.
“Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa chọn để loan báo
Tin Mừng và thông truyền Ơn Cứu Độ”. Vậy là chúng ta đều
có một ơn gọi chung. Dù sống đời sống vợ chồng hay chịu
chức thánh, linh mục hay tu sĩ, tất cả đều được Thiên Chúa
chọn để công bố Tin Mừng và chuyển thông ơn Cứu Độ. Đây
không phải là một trách vụ đơn độc, riêng lẻ mà là trách vụ
chung của Giáo Hội (x. LBTM. 60). Đó là ơn gọi chung của
Giáo Hội. Cùng với ơn gọi chung ấy, còn có ơn gọi đặc biệt
với những trách nhiệm riêng biệt trong Giáo Hội. Đó là
những ơn gọi tiến đến tác vụ linh mục, ơn gọi đời sống thánh
hiến của các tu sĩ nam nữ hoạt động thừa sai và đời sống
chiêm niệm.
Trong sứ điệp này, Đức Thánh Cha đặt trọng tâm của ơn
gọi linh mục, tu sĩ, vào đời sống của cộng đoàn Kitô hữu. Vì
“cũng như hạt giống trổ sinh dồi dào hoa trái nơi mảnh đất
tốt thế nào thì ơn gọi cũng tăng triển và trưởng thành trong
cộng đoàn Kitô hữu như vậy”. Chúng ta phải khởi đi từ các
cộng đoàn để chuẩn bị cho một mảnh đất phì nhiêu, cho hạt
giống ơn gọi nẩy mầm, trổ sinh hoa trái. Vì chỉ có các cộng
đoàn Kitô hữu sống động mới có thể làm nẩy sinh các ơn gọi,
vun trồng, chăm sóc các ơn gọi và làm cho các ơn gọi phát
68.
triển, như một người mẹ hằng lưu tâm đến hạnh phúc, đến sự
tăng trưởng của các con cái mình. Vì thế, tác nhân chủ động
và tiên phong trong việc cổ võ ơn gọi chính là cộng đoàn
Giáo Hội: từ Giáo Hội toàn cầu cho tới Giáo Hội địa phương,
cũng như từ Giáo Hội địa phương cho tới từng giáo xứ và
từng thành phần Dân Chúa (x. Tông huấn Các Mục Tử, số
41).
Ngày nay, trước những thách đố của thế giới hiện đại, cần
phải có nhiều lòng dũng cảm sống Tin Mừng hơn nữa, để
dám dấn thân cổ võ ơn gọi; như Đức Kitô đã kêu mời hãy cầu
xin không ngừng để có những thợ làm vườn nho, cho Nước
Chúa được lan rộng khắp nơi (x. Mt 9,37-38). Hơn lúc nào
hết, ngày nay cần phải làm cho mọi thành phần Dân Chúa
nhận biết và xác tín rằng: tất cả mọi thành phần trong Giáo
Hội, không trừ một ai, đều có ân sủng và trách nhiệm chăm
sóc các ơn gọi (x. Tông huấn Các Mục Tử, số 41). Đức
Thánh Cha kêu gọi các cộng đoàn giáo phận và giáo xứ phải
dấn thân chăm sóc cho ơn gọi linh mục và đời sống thánh
hiến, đặc biệt bằng việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện và
phục vụ người nghèo.
Trước hết, cộng đoàn phải biết lắng nghe Lời Chúa để
nhận ra ánh sáng hướng dẫn tâm hồn con người. Khi Kinh
Thánh trở thành sách của cộng đoàn, chúng ta sẽ dễ dàng
nghe và hiểu được tiếng nói của Chúa. Đấng kêu gọi chúng
ta. Hơn nữa, cộng đoàn phải biết khẩn khoản cầu nguyện để
có thể thực hiện được ý định của Thiên Chúa. việc cầu
nguyện mang lại sức mạnh giúp ta đón nhận cách tích cực lời
mời gọi của Chúa, để dấn thân phục vụ đời sống tinh thần và
vật chất của anh em. Cộng đoàn cũng phải nhạy cảm trước sứ
mạng truyền giáo để đem ơn Cứu Độ đến cho những người
chưa nhận biết Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Nếu
69.
cộng đoàn hết lòng sống mệnh lệnh của Đức Kitô: “Anh em
hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa
cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh
Thần” (Mt 28,19) chắc chắn cộng đoàn đó sẽ không thiếu
những người trẻ quảng đại muốn dâng hiến đời mình để đảm
nhận trách vụ loan báo Tin Mừng cho con người thời đại.
Cuối cùng, cộng đoàn phải biết mở ra cho việc phục vụ người
nghèo. Một mẫu sống khiêm tốn và từ bỏ, thẳng thắn chọn
lựa đứng về phía những người nghèo, dấn thân trợ giúp
những anh chị em túng thiếu và đau khổ. Những điều đó góp
phần tạo nên một môi trường thuận lợi cho ơn gọi nảy sinh,
vì phục vụ Tình Yêu là ý nghĩa nền tảng của mọi ơn gọi.
Thưa anh chị em, trong phần cuối sứ điệp, một lần nữa,
Đức Thánh Cha lại kêu gọi các giám mục, các linh mục Dòng
cũng như Triều, các giáo lý viên và các bạn trẻ phải ý thức
trách nhiệm chăm sóc mục vụ ơn gọi trong cộng đoàn Giáo
Hội: Khi làm cho cộng đoàn Giáo Hội sinh động, các linh
mục có thể khơi dậy các ơn gọi, cổ võ các thiếu niên nam
cũng như nữ được Thiên Chúa kêu gọi, hướng dẫn các em
qua những hướng dẫn tinh thần và cuộc sống vui tươi phục
vụ anh em.
Các giáo lý viên là những người tiếp xúc trực tiếp với các
thanh thiếu niên, nhất là suốt thời gian chuẩn bị lãnh nhận
các Bí tích khai tâm Kitô giáo, các giáo lý viên cũng có trách
nhiệm góp phần giúp các em sống trọn vẹn lời mời gọi của
Thiên Chúa. Đức Thánh Cha: “Cha muốn nói với các con,
các con thân mến, cha trìu mến lập lại những lời này với các
con: Hãy quảng đại hiến cuộc đời mình cho Đức Kitô. Đừng
sợ hãi! Các con không có gì phải sợ, vì Thiên Chúa là Chúa
của lịch sử và của vũ trụ. Hãy để những khát vọng về những
kế hoạch vĩ đại và cao thượng lớn lên trong các con. Hãy
70.
nuôi dưỡng cảm thức về tình liên đới: đó là dấu chỉ Thiên
Chúa hành động nơi tâm hồn của các con. Hãy sẵn sàng sử
dụng các tài năng mà Đấng Quan Phòng đã trao ban cho các
con, vì cộng đoàn của các con. Các con càng sẵn sàng dâng
hiến chính mình cho Thiên Chúa và tha nhân, các con sẽ càng
khám phá ra ý nghĩa đích thực của đời sống. Thiên Chúa
mong đợi nhiều nơi các con!”.
Thưa anh chị em, tôi xin kết thúc nội dung tóm lược sứ
điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi bằng một lời
nguyện của Đức Thánh Cha: “Lạy Chúa, xin gởi cho chúng
con những người hướng dẫn tinh thần mà cộng đoàn chúng
con đang cần: những linh mục thực sự của một Thiên Chúa
sống động, những người được ánh sáng Lời Ngài soi chiếu,
để có thể nói về Ngài và dạy người khác nói với Ngài. Xin
hãy làm cho Giáo Hội của Ngài lớn mạnh nhờ sự phát triển
của những con người thánh hiến, những người dâng hiến tất
cả cho Ngài để Ngài cứu độ tất cả mọi người”. Amen.
71.
23. Chủ chăn
Chủ chăn đi trước và đoàn chiên theo sau.
Một trong những việc người chủ chăn thường phải làm, đó
là đi trước để tìm đường nẻo bảo đảm và an toàn cho đoàn
chiên yên hàn theo sau.
Người chủ chăn cần nhìn xa trông rộng xem có thú dữ,
trộm cắp gần kề hay không? Và nhất là phải để ý đến con
đường ở trước mặt, vì có những con đường sẽ dẫn tới vực
thẳm nguy hiểm hay rừng rậm vướng chân, có những con
đường sẽ dẫn tới ngõ cụt không lối ra. Người chủ chăn cần
phải nghiên cứu kỹ xem con đường mình sẽ đưa đoàn chiên
đi qua đó có khúc quanh nào nguy hiểm, có hốc đá nào cheo
leo, có cỏ dại nào cần nhổ.
Người chăn chiên ở Do Thái không dễ dàng như người
chăn trâu chăn bò ở Việt Nam, vì đất nước họ có quá nhiều
sỏi đá và cát nóng. Nhất là vào mùa hè, người chủ chăn phải
dành hết thời giờ ban ngày để phấn đấu kiếm của ăn cho đoàn
chiên.
Từ đó chúng ta đi vào đời sống riêng tư. Có bao giờ chúng
ta cảm nghiệm được sự dẫn dắt của Chúa, có bao giờ chúng
ta nhận ra Chúa hằng đi trước mặt chúng ta hay không? Biết
bao nhiêu biến cố đã xảy đến trong cuộc đời và bàn tay Chúa
đã dẫn dắt chúng ta vượt qua một cách bình an mà ngày hôm
nay chúng ta vẫn chưa hay biết.
Đã bao nhiêu lần chúng ta thất bại trắng tay mà rồi tới
ngày hôm nay vẫn chưa phải chết đói. Biết bao nhiêu lần
chúng ta gặp phải những cảnh lo âu, nhưng rồi lại được tai
qua nạn khỏi. Chúng ta có biết rằng đó là bàn tay nhân từ của
Chúa đã chăm sóc chúng ta hay không?
72.
Xét mình lại, chúng ta thấy mình không xứng đáng để
được hưởng những ơn huệ to lớn đó mà Chúa đã ban, và chỉ
ban riêng cho chúng ta mà thôi.
Chúng ta hãy nghĩ đến trường hợp của vua Đavid. Từ khi
còn là một cậu bé chăn chiên đến khi lên làm vua, đã phải
đương đầu với biết bao nhiêu khó khăn. Một mình tay không
đánh nhau với sư tử, chiến đấu với Goliat, có lúc ông ở kề
bên tử lộ nhưng Chúa kéo ông ra khỏi. Sau này nhớ lại ông
mới thấy Chúa đã chăm sóc cho ông quá nhiều và ông đã viết
lên thánh vịnh 23:
- Ngài dẫn dắt tôi qua những nẻo đường ngay chính.
Phải, Ngài muốn chúng ta làm những điều tốt lành. Nếu
tuân theo, chúng ta sẽ không bao giờ bị lầm lạc và hối tiếc.
Thế nhưng đôi khi vì thiển cận, vì những hào nhoáng bên
ngoài, chúng ta không thấy được đường nẻo của Chúa, chúng
ta chống đối Ngài và làm Ngài buồn lòng.
Có những khi càng xa Chúa, Chúa càng để chúng ta bị thất
bại cay đắng. Trong trường hợp ấy, người con Chúa phải biết
nhận ra mình đã dại dột đi theo ý riêng và phải sớm lo trở về
cùng Chúa qua tâm tình ăn năn thống hối. Còn nếu chúng ta
sống công chính mà lại gặp phải buồn khổ, thì hãy bình tĩnh
vì Thiên Chúa đang tinh luyện chúng ta, đang cần sự đóng
góp nhỏ bé của chúng ta.
Hẳn rằng giờ đây trong chúng ta có những người đang bị
ngọn sóng khổ đau vùi dập. Trước mắt là màu đen của tang
chế, màu tím của bệnh tật. Không biết ngày mai sẽ ra sao?
Nào cơm ăn áo mặc, nào tương lai sự nghiệp, nào con cái.
Xin hãy đặt trót niềm tin tưởng vào Chúa, Người chủ chăn
tốt lành, Ngài sẽ lo liệu tất cả nếu chúng ta nương cậy nơi
Ngài như một con chiên bé nhỏ. Chúa biết chúng ta không đủ
sức đạp đổ những khó khăn, như vậy Chúa bảo chúng ta hãy
73.
đứng vào bày chiên của Ngài, để thấy được Ngài thực sự là
chủ chăn đã hiến mạng sống vì con chiên để nhờ đó con
chiên được sống và sống dồi dào hơn.
74.
24. Chúa chiên nhân lành
Các Giám mục Brazil trong khóa họp thường niên tháng
11 năm 1995 lên tiếng báo động vì sự ra đi đáng kể của tín
hữu. Số tín hữu quy thuận các giáo phái Tin Lành gia tăng
đáng ngại. Hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ thì hờ hững với bổn
phận. Tín hữu ham vật chất hưởng thụ đã ngã vào vòng tay
tân tư bản, tân cường hào bá và tân địa chủ. Các giáo phái
Tin Lành vung tiền lập xưởng, trả lương hậu hĩ và chỉ thu
nhận những ai thuộc giáo phái của họ. Họ kỳ thị và lạnh lùng
trả lời "không có việc" khi thấy cái mác "Công Giáo" trong
đơn xin việc. Họ công khai hóa hứa hẹn cho việc làm nếu tự
nguyện "gia nhập giáo phái chúng tôi".
Chiên bị bỏ rơi nên đi hoang, bị thú dữ ăn thịt và kẻ cướp
dẫn đi là chuyện đương nhiên phải xảy ra. Có trách là trách
các chủ chăn đã không màng đến sự an nguy của chiên.
Chuồng thì rách nát và tan hoang; cửa thì hư hỏng và bỏ ngỏ;
thức ăn thì thiếu thốn và không hợp vệ sinh; sói chưa đến chủ
chiên đã bỏ chạy. Với những điều kiện tồi tệ như thế, số phận
của chiên thật thê thảm!.. Ý thức được vấn đề mất chiên mới
là bước đầu. Bước quan trọng kế tiếp là duyệt xét và sửa sai
vấn đề mục vụ, đời sống thiêng liêng, chương trình huấn
luyện và vào đời theo mô hình Đức Kitô là Chúa chiên.
Chuyện kể rằng "trong giấc mơ diễm phúc, Loan được
song hành với Chúa bên bờ biển. Chân dẫm trên cát mịn và
êm ái; mặt được làn gió nhè nhẹ ban mai vuốt ve, phổi uống
từng ngụm khí trong lành. Đi được một quãng, Loan nhìn lại
sau lưng, thấy những dấu chân của Chúa và Loan xếp thành
từng đôi rất đều đặn, nên hớn hở thưa "Chúa coi kìa, dấu
chân của Chúa và của con sao mà khắn khít và đều quá".
Chúa nhìn Loan mỉm cười. Cơn giông bỗng xuất hiện và thổi
mạnh, sóng biển gào thét và đưa những đợt nước toé tung lên
75.
bờ. Loan rùng mình khiếp sợ, nhưng Chúa vẫn bình tĩnh như
không có chuyện gì. Nhìn lại phía sau, lạ quá! Loan không
thấy hai dấu chân song hành nữa mà chỉ còn một nên thưa
"Sao chỉ còn có một dấu chân thôi Chúa?" Chúa thân thương
trả lời "Trước con vui vẻ và hạnh phúc. Ta để con bước theo
Ta. Bây giờ con hoảng hốt và mất bình tĩnh nên Ta đã vác
con trên vai. Dấu chân con thấy bây giờ là của Ta đó con ạ!"
Giấc mơ thần tiên này diễn tả tình phụ tử của Chúa qua
hình ảnh Chúa Chiên Nhân Lành. Chúa chăm sóc, yêu
thương và bảo vệ. Chúa thấy rõ tình trạng non yếu và bệnh
hoạn, vững mạnh và trưởng thành của từng chiên. Chúa dẫn
chiên đến bờ suối trong lành và vào đồng cỏ xanh tươi. Chúa
xua đuổi sói dữ và hy sinh cứu chiên. Nếu không có cuộc khổ
nạn, sự chết và phục sinh thì hình ảnh Chúa chiên nhân lành
vẫn là một giả tưởng. Nhưng với thánh giá, máu đổ, mộ trống
và thân xác hiển vinh, Chúa chứng minh tình lý tưởng và
tuyệt vời của kẻ dám "thí mạng vì người yêu". Đây là dạng
thức tuyệt đỉnh của tình yêu cao thượng mà hàng giáo phẩm,
tu sĩ, và giáo dân phải ước mơ và thực hiện.
Chúng ta thường trách khi Chúa thinh lặng quá lâu trước
cơn khổ và làm ngơ trước những bất công. Chúng ta quên
rằng ơn Chúa vẫn đủ để chúng ta vác thánh giá, chịu đau khổ
và theo Chúa. Chúng ta lại trách oan Chúa khi đang được yên
lành ngồi trên vai Chúa dù chưa hoàn hồn, vẫn còn đau và
đang khóc. Chúng ta cướp công Chúa khi được thành công và
gặp an ủi. Chúng ta quá dại khờ vì lời thánh không nghe,
đường thánh không theo, lại tự chọn ngõ cụt, nẻo chết và nơi
khổ đi vào. Rồi nhăn nhó chạy tội và đổ lỗi giống như đám
trẻ thơ. Chúng bực bội vì không được leo cây, xài dao và lái
xe, nên tố cha mẹ lỗi thời. Khi lỡ trẹo giò, gẫy chân, đứt tay
và đụng xe thì "tại cha mẹ không cản, không dậy và không
76.
khuyên". Chúng quên đi mặt phụng phịu, cái tâm bất mãn, và
đôi mắt trách móc khi cha mẹ dậy dỗ và cấm cản.
Người trần nhận phép trời và người trần sống kiếp thần
thánh là lý tưởng cao vời của tín hữu. Tất cả đang song hành
với Chúa Kitô. Người khoẻ đang vực người yếu. Người lãnh
đạo đang xả thân vì tập thể. Cha mẹ đang hy sinh cho đàn
con. Đàn con đang ngoan hiền vâng lời cha mẹ. Tất cả cùng
tiến vào trời là suối mát, là đồng cỏ xanh tươi, là nơi an nghỉ.
Dù hiện giờ chúng ta phải đồng khổ với Chúa (bài đọc 2).
Chúng ta hãy nghe lời chủ chiên để "được sống viên mãn"
(Ga 10,10) sống kiên vững, can trường khôn ngoan và không
lạc lối.
77.
25. Ta đến để chúng được sống, và sống dồi dào
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
"Đức Chúa phán thế này: Này Ta chống lại các mục tử, Ta
sẽ đòi lại chiên Ta nơi tay chúng " (Ez 34, 10). Các mục tử đã
làm gì để Thiên Chúa nổi giận và đòi lại chiên đây? Qua
miệng ngôn sứ Ezêkiel, Thiên Chúa còn nói mạnh hơn nữa:
"Ta sẽ không để chúng chăn chiên Ta nữa. Các mục tử sẽ
không còn được chăn nuôi lấy mình chúng nữa. Ta sẽ giựt
lấy chiên khỏi mõm chúng, khiến chiên Ta không còn là mồi
ngon cho chúng ăn thịt nữa " (Ez 34, 10). À thì ra, các mục tử
chỉ để ý đến lợi ích của mình, không dám xả thân vì để cứu
chiên, nay Chúa đòi lại chiên và Ngài tuyên bố: "Chính Ta sẽ
tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom đến chúng " (Ez
34, 10). Thiên Chúa chăm nom chiên như thế nào? Ngài
phán: " Như người mục tử chăm nom đàn chiên của mình vào
ngày nó ở giữa chiên phiêu bạt thế nào, cũng vậy Ta sẽ chăm
nom chiên của Ta. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi nơi chúng tán
loại, vào ngày mây mù đen tối. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các
dân. Ta sẽ thâu họp chúng lại từ các xứ. Ta sẽ dẫn chúng về
lại thửa đất của chúng. Và Ta sẽ chăn nuôi chúng trên núi
Israel " (Ez 34, 13-14).
Những "ngọn núi Israel " theo các tác giả Thánh Kinh là
nơi an nhàn, có suối nước trong lành, không có gì độc hại và
nguy hiểm, nơi ấy có đồng cỏ non xanh tốt, màu mỡ (x. Ez
34, 13-15). Nếu ta muốn an toàn thoải mái, hãy đến đó tận
hưởng. "Đức Chúa phán: Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm.
Chiên tản mác, Ta sẽ lùa về. Chiên xây xát, Ta sẽ băng bó.
Chiên bệnh hoạn, Ta sẽ bổ sức " (Ez 34, 16). Những ngọn núi
chúng ta vừa nói ở trên còn ám chỉ dòng suối chảy Tin Mừng
được rao giảng từ các Tông Đồ cho đến tận cùng thế giới: "
78.
Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới
chân trời góc biển " (Ps 18, 5).
Thật là hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động về một
Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là
những tạo vật, những con chiên của Ngài. Chúa Giêsu, Con
Thiên Chúa làm người, được Chúa Cha phái đến, cũng tuyên
bố: " Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên
Ta biết Ta" (Ga 10, 14 ).
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi: tôi có phải là chiên
của Chúa không, nếu phải thì tôi có biết Chúa không, biết thì
biết thế nào? "Biết" ở đây, không có nghĩa là "biết" nhờ đức
tin, nhưng là "biết" nhờ đức mến. "Biết" không có nghĩa là
"biết" được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là "biết" được diễn
tả qua việc làm. Chính thánh Gioan Tông Đồ đã viết điều này
và làm chứng ở nơi khác: "Ai nói mình biết Thiên Chúa mà
không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối" (1
Ga 2, 4).
Chúa Giêsu còn nói về các con chiên: "Chiên Tôi thì nghe
tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, Tôi cho chúng
được sống đời đời và chúng sẽ không bao giờ hư mất" (Ga
10, 27).
Vậy, ai chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi
dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn
chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh
ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa
luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa
sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với bao công dân Nước Trời.
Trên đây là những lý do với nhiều lý do khác mà Giáo hội
gọi Chúa nhật thứ IV Phục Sinh là Chúa nhật Chúa Chiên
Lành, đồng thời mời gọi con cái mình suy nghĩ đặc biệt về
hình ảnh của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Tối
79.
Cao đã hy sinh Mạng Sống Mình vì đoàn chiên. Chúa Giêsu
muốn không chỉ có các mục tử tiếp bước, Người muốn những
người nam nữ dâng mình cho Chúa trong đời thánh hiến, đến
lượt mình, cũng xả thân mình để bảo vệ đàn chiên, đưa các
con chiên lạc trở vể. Người mong ước các mục tử với ơn
Người trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên
đến đồng cỏ Nước Trời.
Chúa nhật Chúa Chiên Lành cũng là một Chúa nhật đặc
biệt đối với các mục tử khi đặt mình vào vị trí của Chúa
Giêsu Mục Tử nhân lành duy nhất. Chúng ta hãy cầu nguyện
cho các mục tử thân yêu: nâng đỡ, cám ơn và khuyến khích
các ngài! Chúng ta cũng cầu nguyện cho Giáo hội Việt Nam
có thêm nhiều linh mục lành thánh. Ý chỉ này cũng thật khẩn
thiết cho Giáo hội hoàn vũ.
"Ơn gọi, chứng tá cho sự thật" là chủ đề ngày thế giới cầu
cho ơn kêu gọi năm nay. Đức Thánh Cha Phanxicô yêu cầu
người Công Giáo hãy "mở lòng chúng ta ra cho những lý
tưởng tuyệt vời, cho những điều cao cả với niềm tín thác rằng
Chúa không bao giờ bỏ rơi công nghiệp tay Ngài là chúng ta.
"Chính Ngài là Đấng dựng nên ta, ta thuộc về Người; ta là
dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt " (Tv 100, 3). Và
cùng với Ngài, chúng ta có thể tiến bước, trở thành những
môn đệ và những chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa,
trong khi mở rộng con tim của chúng ta với những lý tưởng
tuyệt vời, và những điều cao cả.
Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết rằng: "Ngày
nay vẫn vậy, sống trong cộng đồng các môn đệ là Giáo Hội,
Chúa Giêsu Kitô kêu gọi đi theo Người". Ngài cũng đặc biệt
mời giới trẻ "hãy trau dồi nét hấp dẫn các giá trị, các mục
tiêu nâng cao, các chọn lựa triệt để, để có thể phục vụ tha
nhân theo chân Chúa Giêsu". Chúa Giêsu không ngừng lặp đi
80.
lặp lại "Hãy đến! Hãy theo ta". Theo Chúa Giêsu "có nghĩa là
nhấn chìm ý muốn của chính mình vào thánh ý Chúa Giêsu,
dành ưu tiên cho thánh ý Người và đặt Chúa Giêsu ở vị trí
đầu so với tất cả những gì làm nên cuộc sống chúng ta: gia
đình, công việc, những lợi ích ca nhân và bản thân".
Xin cho giới trẻ hôm nay đang ở giữa biết bao những gợi ý
nông cạn và phù phiếm, tạm thời, biết chuyên tâm trau dồi
nét hấp dẫn đối với các giá trị, các mục tiêu cao thượng,
những chọn lựa triệt để, hầu phục vụ tha nhân theo chân
Chúa Giêsu. Đáp trả quảng đại và mau lẹ tiếng Chúa Kitô
kêu gọi đi theo Người sát sao hơn nữa, đặc biệt với các thế hệ
mới. Amen.
81.
26. Mục tử nhân lành - JNK
Câu hỏi gợi ý:
1) Đức Giêsu nói: "Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên,
nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ
cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử". Từ câu
này, ta có thể suy ra phong cách của người mục tử chân chính
phải như thế nào?
2) Người mục tử chân chính phải có đức tính cốt yếu nào
khiến mục tử khác hẳn kẻ chăn chiên thuê hay bọn trộm cắp
chiên?
3) Qua bài Tin Mừng này, Đức Giêsu muốn nói với chính
bạn điều gì? Ngài muốn bạn làm gì và có thái độ nào đối với
Ngài?
Suy tư gợi ý:
1) Người mục tử trong nếp sống của người Do Thái xưa
Để hiểu được ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay, chúng
ta cần trở về với nếp sống của người Do Thái thời Đức Giêsu.
Thời ấy, chiên được nuôi theo bầy hàng trăm con tại những
đồng cỏ xanh. Mục tử hay người chăn chiên đi theo bầy chiên
và cùng sống với chiên ngày này qua ngày khác. Ban ngày,
mục tử dẫn đàn chiên đi từ đồng cỏ này đến đồng cỏ khác để
chiên ăn cỏ. Ban đêm, để tránh trộm cướp hay thú hoang, và
để tránh mưa tránh rét, mục tử đưa chiên vào một nơi an toàn
được gọi là "ràn chiên", thường là một hang đá hay một khu
đất trống có hàng rào bằng đá hoặc bằng cây bao quanh.
Người chăn chiên ngủ ngay trong ràn chiên để bảo vệ chiên,
và thường ở ngay cửa ràn. Mục tử và đàn chiên vì thế gắn bó
với nhau rất mật thiết. Mục tử chỉ biết có chiên của mình, và
chiên cũng chỉ biết và chỉ đi theo mục tử của mình, không
chịu theo bất kỳ ai khác.
2) Ý tứ của Đức Giêsu khi nói dụ ngôn này
82.
Đức Giêsu nói dụ ngôn này với người Pharisiêu, sau khi
đối chất với họ về việc Ngài chữa lành người mù từ thuở mới
sinh (Ga 9). Nên nhớ: những người Pharisiêu là những người
lãnh đạo tinh thần trong Do Thái giáo, tức đóng vai trò mục
tử đối với đàn chiên. Qua dụ ngôn này, Ngài muốn cho họ
thay hai thái độ trái nghịch nhau giữa Ngài và họ trong cách
đối xử với dân chúng hay các tín đồ tôn giáo. Sự trái nghịch
nhau đó được thể hiện qua cách ứng xử với người mù bẩm
sinh.
* Cách ứng xử của người Pharisiêu:
Khi thấy người mù được chữa lành, thay vì mừng cho anh
ta đã thoát khỏi điều bất hạnh vô cùng lớn lao, những người
Pharisiêu lại có một thái độ thù nghịch và bực tức. Họ tỏ ra
không có một chút tình yêu, lòng thương xót hay sự cảm
thông nào đối với người mù được Đức Giêsu chữa lành. Trái
lại, họ đã dùng lề luật để bắt bẻ vị ân nhân đã chữa lành bệnh
cho anh ta, đồng thời gây khó dễ cho anh và gia đình anh vì
việc được chữa lành ấy. Đối với dân chúng, họ không giống
như người mục tử đích thực đối với đàn chiên, mà giống như
người chăn chiên thuê. Kẻ chăn chiên thuê không yêu thương
gì chiên, vì chiên không phải là của hắn (x. Ga 10,12-13).
Vì thế, trong tôn giáo, những người Pharisiêu lợi dụng
chức vụ lãnh đạo, hướng dẫn để ăn trên ngồi trốc, đè đầu đè
cổ dân chúng (x. Mt 23,5-6). Họ giảng dạy toàn những điều
tốt nhưng chỉ để cho dân chúng làm chứ không phải họ làm
(x. Mt 23,2-3). Họ giảng dạy điều tốt vì chức vụ họ đòi buộc
phải làm như vậy, chứ không phải vì lòng yêu mến sự thiện
mà giảng dạy. Đức Giêsu đã tố cáo việc họ lợi dụng tôn giáo
để bóc lột người nghèo, người cô thân cô thế trong xã hội
(23,4.14). Nhưng họ vẫn muốn được mọi người tôn trọng, ca
tụng, suy tôn, nên phải giả bộ đạo đức, phải làm những việc
83.
tốt để khoa trương (23,5), và muốn mọi người gọi mình là
"Rabbi" hay "Thầy" (23,6).
* Cách ứng xử của Đức Giêsu
Đức Giêsu có một thái độ khác hẳn, một thái độ nhân từ
đầy yêu thương đối với mọi người, được thể hiện một cách
cụ thể trong việc Ngài chữa lành người mù. Ngài sống và
hành động vì tình yêu chứ không vì lề luật. Tình yêu và lòng
thương xót của Ngài đã thúc bách Ngài bất chấp luật sa bát,
bất chấp sự phản đối và bực tức của người Pharisiêu về việc
lỗi luật của Ngài, bất chấp những hậu quả rất bất lợi có thể
xảy đến cho Ngài. Ngài sẵn sàng hy sinh bản thân để xoa dịu
đau khổ, để làm mọi người hạnh phúc.
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn cho người Pharisiêu
thấy thái độ của họ đối với dân chúng, với các tín đồ tôn giáo
mà họ dẫn dắt chẳng khác gì thái độ của kẻ trộm cướp, của
kẻ chăn thuê đối với đàn chiên: chỉ muốn lợi dụng đàn chiên
chứ không hề yêu thương chúng. Còn thái độ của Ngài mới là
thái độ người mục tử đích thật: Ngài yêu thương đàn chiên
đến nỗi sẵn sàng "hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên"
(Ga 10,11). Nhưng rất tiếc là "họ không hiểu những điều
Người nói với họ".
3. Mục tử nhân lành (mục tử thật) và kẻ trộm cướp (mục
tử giả)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đưa ra một tiêu
chuẩn để phân biệt mục tử và kẻ trộm cướp. Mục tử thì đi
vào ràn chiên bằng cửa ràn, nghĩa là với phong thái "đường
đường chính chính". Còn kẻ trộm hay kẻ cướp thì không qua
cửa nhưng trèo qua lối khác mà vào, với phong thái lén lút,
giả dối, không đàng hoàng. Mà cửa ràn chiên, theo bài Tin
Mừng hôm nay, lại cũng chính là Đức Giêsu: "Tôi bảo thật
các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào". Vậy để là mục tử đích
84.
thật, người mục tử phải qua Đức Giêsu mà đến với đàn chiên,
nghĩa là phải là người yêu mến Thiên Chúa, và phục vụ đàn
chiên vì Ngài, không vì một động lực nào khác.
Thật vậy, đã là mục tử chân chính thì tư tưởng, lời nói,
hành động lúc nào cũng phải bộc lộ được tính "quang minh
chính đại", hay "đường đường chính chính", luôn luôn thẳng
thắn, trung thực, đáng tin. Người mục tử chân chính ít ra phải
là một người quân tử. Nếu tư tưởng, lời nói và hành động
như một kẻ tiểu nhân, thích quanh co, lén lút, dối trá, sợ sự
thật… thì không xứng đáng làm mục tử. Hơn thế nữa, người
mục tử chân chính phải có một tình yêu to tát, để có thể hy
sinh đến tận cùng cho những người mà mình lãnh đạo, hướng
dẫn.
Đương nhiên để thực hiện ý định của mình, kẻ trộm cướp -
những kẻ không có tình yêu đối với chiên nhưng lại muốn
hưởng những quyền lợi của người mục tử - phải giả làm mục
tử. Hắn tìm đủ mọi cách để chiên đi theo mình. Nhưng chiên
"không chịu theo người lạ, mà chạy trốn, vì chúng không
nhận biết tiếng người lạ", không cảm nhận được tình thương
của hắn. Vì mục tử giả hay kẻ chăn thuê chỉ biết nghĩ đến bản
thân mình, đến cái lợi của mình, không nghĩ gì đến chiên,
nên "khi thấy sói đến, hắn bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên
và làm cho chiên tán loạn" (Ga 10,12). Người mục tử đích
thực thì yêu thương chiên, sống vì chiên, và sẵn sàng "hy
sinh mạng sống mình cho đàn chiên" (Ga 10,11) "để cho
chiên được sống và sống dồi dào" (10,10).
4. Đức Giêsu là mục tử tốt lành
Ngoài mục đích đối chất với bọn Pharisiêu, Đức Giêsu còn
dùng hình ảnh rất quen thuộc ấy đối với người Do Thái để
diễn tả sự yêu thương gắn bó giữa Ngài và chúng ta, những
kẻ theo Ngài. Như mục tử tốt lành yêu thương và chăm sóc
85.
chiên mình thế nào, Ngài cũng yêu thương chăm sóc chúng ta
như vậy. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng hình ảnh người mục tử
với đàn chiên để diễn tả tương quan giữa Đấng Mê-si-a và
dân của Ngài: "Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt
chúng; nó là tôi tớ của Ta: chính nó sẽ chăn dắt chúng; chính
nó sẽ là mục tử của chúng" (Ed 34,23). Ngài chính là người
mục tử được Thánh Vịnh mô tả: "Chúa là mục tử chăn dắt
tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người
cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và
bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì
danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì
nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con
vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước
mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu
con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những
ngày tháng, những năm dài triền miên" (Tv 23).
Vì thế, khi ý thức được Đức Giêsu luôn chăm sóc mình
như người mục tử tốt lành chăm sóc đàn chiên, người Ki-tô
hữu có thể hết sức an tâm trước tất cả mọi giông tố, thử thách
trong cuộc đời. Chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương vô
biên và chân thật của Ngài, và an tâm phó thác mọi sự cho
Ngài, kể cả mạng sống, hạnh phúc của mình. Nhờ đó cuộc
đời ta luôn luôn bình an, vui tươi, hạnh phúc, và Tin Mừng
chúng ta rao giảng mới đúng là tin mừng đích thực (=tin thật
sự đem lại vui mừng!)
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con nhận thức được tình thương vô bờ và
quyền năng vô biên của Cha, của Đức Giêsu, để con có thể
hoàn toàn tin tưởng và phó thác mọi sự cho Cha, cho Đức
Giêsu. Nhờ đó, con luôn luôn bình an, hạnh phúc bất chấp
86.
cuộc đời có sóng gió đến đâu. Vì con luôn luôn tin tưởng
rằng, con được một bàn tay quyền uy và yêu thương bảo vệ.
Mọi biến cố xảy ra, dù thế nào, cuối cùng đều ích lợi cho
con. Amen.
87.
27. Xin cho những mục tử như ý Chúa
(Suy niệm của Lm. Thomas Túy)
Thật khủng khiếp khi nghe một linh mục thuộc miền tây
nam VN trả lời phỏng vấn một đài ngọai quốc. Ông giả làm
khách "mua hoa" người Campuchia, hoàn toàn không nói
được tiếng Việt, để thâm nhập các ổ nhện "nhí" ở biên giới
Việt - Campuchia. Các em tuổi từ 9 đến 16 bị bán sang nước
bạn để làm dịch vụ tình dục cho các khách "mua hoa" người
bản địa và quốc tế. Cuộc sống của các em rất bị hạn chế, gần
như tù lỏng. Một ngày phải "đi" khách không dưới 15 lần,
bằng cả hai phương tiện, miệng và cơ quan giới tính. Ăn
uống thiếu thốn và ít khi được phép ra khỏi "động". Một hôm
ông hối lộ chủ nhà để đưa các em đi chơi, khi ngang qua nhà
thờ, ông đề nghị các em vô trong coi. Bất ngờ một em từ
chối. Các em khác hỏi tại sao? Ngần ngừ một chút, em bảo
mình là người Công giáo. Linh mục thấy đau nhói trong tim,
nhưng không tỏ ra bề ngòai, vẫn giả vờ như không hiểu tiếng
Việt.
Điểm xót xa là các em kể về việc đi khách của mình như
một dịch vụ bình thường tuy ngôn ngữ bẩn thỉu nhưng như
thể làm các việc hàng ngày cha mẹ sai bảo. Có em chỉ 9 tuổi,
cha mẹ quá nghèo nên bán em đi lấy tiền nuôi các đứa nhỏ
tuổi hơn.
Ông không có một giải pháp nào cả, các giúp đỡ từ những
hội từ thiện quốc gia, quốc tế chỉ là hình thúc xoa dịu. Vấn đề
cần bàn tay cương quyết của chính quyền, nhất là chính
quyền địa phương. Nhưng việc này khó thực hiện vì đòi kinh
phí. Mà kinh phí quốc gia chẳng có khỏan nào như vậy. Lại
còn vấn đề luật pháp?
Khi nghe qua chuyện này, tôi lại nhớ đến cô dâu Việt nam
tại Trung quốc, Đài loan, Nam hàn, Nhật bản. Số phận các cô
88.
xa xứ thật cô đơn, thảm thương. Một phụ nữ Mỹ mới đây báo
động cho thế giới biết nạn nhân buôn bán phụ nữ, trẻ em ở
Âu châu quá tệ hại. Bà coi đó là một hình thức nô lệ mới, nô
lệ về tình dục và nhân phẩm: Riêng tại nứơc Mỹ, nhân dịp
tháng chống lạm dụng tình dục trẻ em (April) người ta đưa ra
bản thống kê, cứ 4 trẻ gái, thì một em bị lạm dụng. Tỷ lệ ở trẻ
nam là 1/7 trươc khi các em được 18 tuổi. Tính tổng cộng
tòan quốc là 60 triệu.
Trước tình hình này, Phúc âm hôm nay quả là một nhức
nhối. Chúa Giêsu tự nhận là "Chúa chiên lành", hơn nữa, lại
còn là cửa chuồng chiên. Nhưng chiên của Ngài luôn tìm
được của ăn áo mặc, đồng cỏ xanh tươi. Ngày nay thì các
linh mục, hàng giáo phẩm thay thế Chúa chăn dắt đàn chiên
Thiên Chúa. Chúng ta suy nghĩ làm sao đây? Chẳng lẽ giảng
suông? hô hào rỗng tuếch? xưa nay đã như vậy rồi, thì có lẽ
từ nay cũng "vũ như cẩn" thôi. Dao to búa lớn chỉ đánh bẹp
một con tép riu. Người ta để bụng khinh chê cấp lãnh đạo Do
thái là giả hình và sai lầm. Nhưng xét cho cùng thì đúng như
câu ca dao VN:"Chuột chù chê khỉ rằng hôi, khỉ mới trả lời
cả họ mày thơm". Chúng ta nên sống trung thực với Lời
Chúa và ơn gọi của mình, không nên nói một đàng, sống nẻo
khác.
Vì bất cứ những ai đọc bài tin Mừng hôm nay đều cảm
nghiệm xúc động. Chúa Giêsu không giảng bằng lời nói
suông mà chính yếu cuộc sống, cái chết và lên trời của mình
vì phần rỗi nhân lọai. Ngài làm điều ấy hòan tòan tự nguyện.
Chẳng ai có quyền phép ép buộc Ngài, nhưng chỉ vì tình yêu
chúng ta. Ngài là Chúa chiên lành trong cả hai nghĩa đen và
bóng và nghĩa nào cũng đến tận cùng thực tại. Các học giả có
khuynh hướng cắt nghĩa bóng mà họ gọi là "ẩn dụ" (allegory)
nhưng như vậy người ta "hạn hẹp" ý nghĩa bản văn cho một
89.
số chức vụ. Thực ra bản văn nói về hết mọi tín hữu, từng
người và từng thời đại của Giáo Hội. Một khuynh hướng
khác, khá phổ thông hôm nay là không ưa "ẩn dụ" nữa mà cố
gắng tìm xem "đàn chiên, kẻ trộm, kẻ làm thuê, cửa chuồng
chiên" là gì trong thực tế và văn hóa Hy lạp - Do thái? Họ cố
gắng tránh né nhưng hệ luận khó chịu nẩy sinh từ các hình
ảnh Chúa Giêsu đã sử dụng.
Tính xác thịt lòai người, luôn ngại đối mặt với thực tế
không am hợp với sở thích chóng qua. Chúng ta nên học hỏi
các thánh tiến sĩ, hiểu thật, hiểu rõ và áp dụng lời Chúa
nghiêm ngặt, dầu có phải chấp nhân hy sinh và cái chết. Theo
thánh Gioan Kim Khẩu, cửa ở đây là Lời Chúa. Cửa ấy cho
phép chúng ta vào Nứơc Trời, tức các đường lối Chúa muốn
chúng ta đi. Các kẻ trộm, người làm thuê là các thày rao
giảng giả hình gian dối, chỉ biết lừa đảo thiên hạ. Cửa sẽ lọai
trừ tất cả ra ngòai, không cho xâm nhập đàn chiên. Nếu như
chúng ta rời xa Kinh Thánh, mà trèo vào lối khác, lúc ấy đàn
chiên sẽ bị cứơp bóc lương thực hằng sống. Thánh Gioan đưa
ra ý tưởng này từ thế kỷ thứ 5, khi ngài làm Giám mục hành
Antiokia. Nhưng vẫn đúng với tình hình rao giảng hôm nay.
Nhất là sau Công đồng Vat.II, người ta tự tiện áp dụng lời
Chúa theo ý riêng, rồi đả kích Giáo hội là cổ hủ, lỗi thời, hiểu
sai lời Chúa. Các tín hữu thực sự bị tước đọat ý nghĩa linh
thiêng để chạy theo thế tục. Phụng vụ và đời sống thiêng
liêng bị bóp méo theo sở thích cá nhân của mấy thày gỉa hiệu.
Liệu khó nghèo Phúc Âm còn ý nghĩa gì không giữa tráo lưu
vật chất hiện thời? Liệu người ta còn đọc và cầu nguyện Lời
Chúa, hay lời của tiền tài? Liệu lời rao giảng của chúng ta
phản ánh nội dung sách thánh hay phản ánh tư tưởng trần
tục? Nếu như thánh Gioan Kim Khẩu sống lại lúc này, ngài
sẽ có nhận xét thế nào về việc chúng ta tìm vào Nứơc Trời
qua cánh cửa Lời Chúa? Ông cũng sẽ giúp tín hữu phân biệt
90.
đâu là Chúa chiên thật, đâu giả hiệu, đâu là lợi dụng chức
thánh?
Có lẽ nên biết chút ít tập quán chăn chiên thời Chúa Giêsu
để rõ hơn dụ ngôn. Chuồng chiên có khi được thiết lập giữa
cánh đồng với các bụi cây thấp và cành khô, có thể chứa
chung vài đòan chiên cừu. Hay có thể là một lán rộng dựa
lưng vào tường, mặt khác là rào che tạm thời. Các chủ chăn
nhỏ có hể dùng chung một chuồng cho các đòan vật của
mình, để bảo đảm an ninh ban đêm. Một ai đó có nhiệm vụ
canh gác lối vào. Lối vào lán nhỏ và đơn sơ, người canh gác
có thể đơn giản nằm chắn ngang như một "cánh cửa". Phúc
âm hôm nay gợi ý các chủ chăn đến sớm và anh gác cửa cho
phép vào. Mỗi người gọi riêng đòan chiên của mình và khi
nghe tiếng chủ, các con chiên chạy theo anh ta. Anh ta đi
trước các con chiên theo sau. Lời Phúc âm phải hiểu theo
nghĩa đen như vậy.
Cho nên thánh Gioan tông đồ dùng hình ảnh để mô tả liên
hệ chặt chẽ giữa Chúa Giêsu và các kẻ theo Ngài. Đồng thời
gợi ý cánh cửa "Người" ngăn cản các chủ chăn giả đến quấy
phá dân Thiên Chúa. Họ là những "kẻ trộm, kẻ cướp" đối lập
với chúa Giêsu và các tín hữu Thiên chúa. Họ vô tình dẫn
đàn chiên đi lạc, đôi khi nổi lọan vô lý khiến quân đội Rôma
giết hàng lọat dân đen vô tội. Ngày nay chúng ta có thể tưởng
tượng những tiếng nói giả dối như sau:
Kẻ hô hào cực đoan giải quyết mới cũ bằng chiến tranh,
sát hại chứ không bằng thương lượng hòa bình.
Lao động kiệt sức vì lợi lộc riêng tư, bè phái.
Dẫn dắt thiên hạ thỏa mãn nhu cầu vật chất làm cạn kiệt
thiên nhiên.
Cô lập chúng ta khỏi những nhu cầu khẩn thiết đòi hỏi dấn
thân để xây dựng hai chữ "bình an" giả tạo và ích kỷ..
91.
Lợi dụng nhiệt thành, lòng tốt của thanh niên thiếu nữ cho
danh thơm tiếng tốt, ngay cả lợi lộc cho bản thân.
Gây chán nản trong đòan thể, cộng đồng vì tư thù để đục
nước béo cò..v.v...
Hậu quả là chúng ta mất đòan kết, không còn là cộng đòan
duy nhất của Hội Thánh mà là đủ mọi thứ phe phái đi theo
những chủ chăn khác nhau, những khuynh hướng ích kỷ, hẹp
hòi. Tệ hơn nữa, vào những đồng cỏ xa lạ với những con
đường nguy hiểm cho phần rỗi. Chẳng mấy tín hữu không
gặp những lý thuyết này? Họ nhan nản khắp các báo chí, các
ý thức hệ tiên tiến.
Vậy thì không lạ chi, Chúa nhật Phục sinh này chúng ta
được nghe bài đọc Chúa chiên nhân lành và giáo thuyết của
Ngài. Trong bài đọc 1 Phêrô đã vạch rõ đâu là Thiên sai thật,
đâu là lừa dối đi lạc. Ông thẳng thắng tuyên bố:" Anh em hãy
tránh xa thế hệ gian tà này". Bài đọc 2 khuyên nhủ:"Thật vậy,
Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu
cho anh em dõi bước theo Người". Đức Kitô Phục sinh đang
hiện giữa các tín hữu, Người cũng làm những chi mô tả trong
Phúc âm. Cuộc sống và phương hứơng của chúng ta được
Hội Thánh Ngài bảo vệ và chăm sóc chống lại những kẻ chỉ
biết trộm cứơp và giết hại. Điều này khiến chúng ta được yên
ủi và an tâm. Đức Giêsu biết trứơc thế giới mà các môn đệ
Ngài đi rao gỉang nên đã hứa ở với chúng ta luôn mãi như
một mục tử nhân lành.
Mục tử nhân lành không chỉ là ngừơi lãnh đạo đòan chiên
trên danh nghĩa, nhưng biết rõ từng con chiên một:" Ngài gọi
tên từng con và dẫn chúng ra". Phúc âm không nói chung
chung, mà chi tiết nhu cầu từng con. Có những thời gian,
mục tử phải biết tên từng con chiên một, vì đó là bổn phận
cốt yếu của ông. Ngôn ngữ Kinh thánh, biết tên là biết ngôi
92.
vị ngừơi đó. Chẳng phải vô tình mà Chúa nhật 4 Phục sinh
được dành riêng cầu nguyện cho ơn gọi linh mục. Không
những để Giáo Hội thêm nhiều ơn gọi mới mà chủ yếu nhắc
nhở bổn phận của các cha xứ, linh mục, chủng sinh. Ngày
nay Giáo Hội cần nhiều mục tử thánh thiện biết bao.
Chúng ta phải biết lắng nghe bài Phúc âm và nhớ đến
Đấng Phục sinh giữa Giáo Hội. Xin Ngài hướng dẫn và kiên
cường đức tin cho mình. Vì Ngài chính là "cửa" mà thánh
Gioan Kim Khẩu giải thích. Có những lúc chúng ta cảm thấy
mệt mỏi, chán nản vì công việc, vì tuổi già sức yếu, vì chống
đối hiểu lầm. Chúng ta cần nhìn lên Chúa, để nhận ra Ngài đã
thi hành nhiệm vụ mục tử ra sao, ngõ hầu được khả năng bỏ
đi những cám dỗ hưởng thụ, an nhàn. Chúng ta biết mình
đang ở trong đường lối và phương hứơng tốt, tại sao không
cố gắng. Câu truyện đầu bài suy gẫm hôm nay không cho
phép chúng ta lơ là chức vụ.
Cho nên phải biết tên từng con chiên và nhu cầu của nó.
Nghĩa là từng ngôi vị một. Không phải chỉ những quen biết
qua đường hoặc vì lợi lộc. Chúng ta nên dành thời gian, sức
lực, tiền bạc để đến với đàn chiên. Không có nghĩa cần thêm
nhiều bạn hữu nhưng là vì bổn phận phải chu tòan. Nếu như
đức tin dạy rằng Đức Giêsu biết rõ tên chiên của Ngài từng
con một thì chúng ta, những mục tử, phải chu tòan bổn phận
ra sao. Xin cho các mục tử suy gẫm lại vai trò của mình và
giáo dân nên cầu nguyện nhiều cho họ. Amen.
93.
28. Sống dồi dào
"Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào". Đây là
những lời nói phát xuất từ tình yêu và tấm lòng của người
mục tử sống hết mình vì đoàn chiên của mình. Nhưng đồng
thời khi nghe những lời yêu thương này có người sẽ tự hỏi:
thế nào là sống và sống dồi dào nghĩa là gì? Nơi những người
chưa có niềm tin hoặc niềm tin còn non kém thì có lẽ sẽ tự
hỏi rằng: Nếu Ngài không đến thì chúng tôi sẽ chết hết hay
sao? Đâu là ý nghĩa của vấn đề mà Chúa Giêsu nói với chúng
ta? Chúng ta hãy tìm hiểu vấn đề với ý nghĩa đích thực của
nó.
1. Thế nào là sống?
Nếu hiểu chữ sống là "có sinh khí và hoạt động" thì có lẽ
nhiều người sẽ nói rằng: tôi đâu có tin Chúa và cũng chẳng
cần Chúa đâu mà tôi vẫn sống và sống mạnh khoẻ đây. Thật
ra, đó là thái độ của con người còn mê lầm và chưa nhận ra
sự thật. Sự thật là Chúa đã dựng nên con người và ban cho họ
sự sống trong tình yêu quan phóng của Ngài dù con người có
nhận ra điều đó hay không?
Nhưng ở đây, khi Chúa Giêsu nói: "Ta đến để cho chúng
được sống" thì từ "sống" mang một ý nghĩa sâu xa hơn
nhiều.Nó vượt lên trên ý nghĩa là "có sinh khí và hoạt động".
Sự sống mà Chúa Giêsu mang đến cho những ai tiếp nhận
Ngài chính là sự sống đích thực và vĩnh cửu vì Ngài là nguồn
của sự sống. Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định: "Ta là
nước hằng sống, là Bánh trường sinh, là sự sống lại và là sự
sống".
Dân Do thái ngày xưa đã sống trong sa mạc 40 năm
trường và được ăn bánh mà họ gọi là bánh bởi trời là Manna
để trải qua thời gian sa mạc đó. Nhưng đó không phải là bánh
bởi trời đích thực vì bánh đó không phải là bánh của sự sống
94.
và không có khả năng ban sự sống cho con người.Chính
Chúa Giêsu mới là: "Bánh từ trời xuống, không phải như
bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn bánh này sẽ
được sống đời đời" (Ga 6, 58).
Đức Giêsu cũng tỏ ra cho người phụ nữ xứ Samaria rằng:
chính Ngài là Nước hằng sống khi chị này đến lấy nước tại
giếng mà họ tự hào là của tổ phụ Giacop để lại.. Chúa nói: "ai
uống nước tôi cho sẽ không bao giờ còn khát nữa và nước tôi
cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại
sự sống đời đời" (Ga 4, 14).
Với phép lạ Chúa Giêsu phục sinh cho Lazarô, Ngài cũng
tỏ cho chúng ta thấy Ngài chính là sự sống: "Ta là sự sống và
là sự sống lại" (Ga 11,25).
Như vậy, Chúa Giêsu đến với con người trong tư cách là
mục tử nhân lành, mục tử hiến mạng sống mình vì đoàn
chiên là chúng ta, để qua Ngài là nước hằng sống, là bánh
trường sinh, là sự sống... Chúng ta có được sự sống đích
thực. Với sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu, Ngài đã ban
cho chúng ta tất cả những gì Ngài đã phán với chúng ta: Ta là
Nước hằng sống, là Bánh trường sinh, là sự sống, là Sự sáng
trần gian...
2. Sống dồi dào là thế nào?
Nếu chúng ta nghĩ rằng sống dồi dào là sống tiện nghi, dư
ăn dư để... thì có lẽ chúng ta cũng không thấy cần Chúa
Giêsu đến với chúng ta làm gì. Vì thực tế, có nhiều người
không hề tin Chúa mà họ vẫn sống giàu sang, của cải dư đầy,
không thấy thiếu một thứ gì cả.
Nhưng "sống dồi dào" theo ý của Chúa Giêsu là sống vui
tươi, hạnh phúc và tự do dù có thể họ không giàu sang và
thành đạt theo kiểu thế gian.
95.
Sống dồi dào là sự sống của những con người tràn đầy
Thần Khí của Thiên Chúa. Mà Thần Khí vốn là tự do "Gió
muốn thổi đâu thì thổi". Vì thế, ai còn bị ràng buộc bởi bất cứ
điều gì dù là tiền của, công việc, gia đình, luật lệ... thì họ quả
là người đáng thương dù cho họ có đầy đủ mọi thứ của cải
trần gian.
Tự do là phẩm giá cao trọng quí nhất của con người. Vậy
chúng ta có thật là người tự do chưa? Hãy kiểm điểm xem
điều gì còn làm cho chúng ta bận tâm hay đang trói buộc
chúng ta, khiến chúng ta chưa có được sự sống dồi dào của
Chúa. Hãy chạy đến với Đức Giêsu để chính Ngài sẽ ban lại
cho chúng ta sự sống đích thực và được sống dồi dào.
Hôm nay cũng là ngày mà Giáo hội dành cầu nguyện cho
ơn gọi linh mục và tu sĩ. Chúng ta hãy cầu xin cho Hội thánh
Chúa có nhiều người biết quảng đại đáp lại lời mời gọi của
Chúa để sống đời hiến dâng vì Chúa, vì Nước Trời và vì hạnh
phúc của con người.
Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa cho các vị đang có trách
nhiệm hướng dẫn và lãnh đạo dân Chúa biết noi gương Chúa
Giêsu đến để làm cho chiên được sống và sống dồi dào qua
đời sống hy sinh, dấn thân và phục vụ.
96.
29. Chủ chăn
Ta là chủ chiên lành.
Trong một cuộc giao tranh đạo quân của đại tướng
Monmouth bị thua chạy một cách thê thảm. Riêng ông cũng
phải lẩn trốn. Ban ngày ông đến náu trong những hang núi,
đến đêm mới dám ra đi. Sau cùng, địch quân cũng đuổi kịp.
Ông bí quá, chạy vào căn lều của người chăn chiên.
Thay vì đóng cửa không cho ông vào, người chăn chiên đã
làm một nghĩa cử cao đẹp. Anh đã đổi áo của mình cho ông
mặc trá hình, rồi thân chinh ra gặp địch quân của đại tướng.
Người chăn chiên đã chiến đấu rất anh dũng và cố ý kéo
dài cuộc giao tranh để Monmouth có giờ tẩu thoát. Với thanh
kiếm, anh đã cầm chân địch quân trong vòng ba tiếng đồng
hồ, cho đến khi mệt lả, không còn đủ sức chiến đấu nữa thì bị
địch quân giết chết. Lúc đó đại tướng Monmouth đã đi xa rồi.
Trong trận chiến chống trả tội lỗi, chúng ta luôn bị ma quỉ
đuổi bắt, nhưng Chúa Giêsu đã xuống thế làm người. Ngài đã
chiến đấu thay cho chúng ta suốt ba tiếng đồng hồ trên thập
giá, cho đến lúc chính Ngài đã phải chết. Trong khi Ngài
chiến đấu với ma quỉ, con người tội lỗi chúng ta được thoát
khỏi quyền lực của ma quỉ. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã có lý
khi tự xưng mình là chủ chiên nhân lành, đã hiến mạng sống
vì con chiên.
Ngài nói đi nói lại với chúng ta, Ngài là chủ chăn nhân
lành có nhiệm vụ dẫn dắt linh hồn chúng ta:
- Nếu một người có một trăm con chiên chẳng may lạc mất
một con, người ấy lại không bỏ 99 con lại mà đi tìm con
chiên bị lạc mất hay sao. Ta còn nhiều chiên khác chưa thuộc
về đàn này, cả chúng nữa ta cũng phải đem chúng về.
Linh hồn của chúng ta đáng giá chừng nào, vì Chúa Giêsu
đã sẵn sàng hiến mạng sống để cứu lấy nó.
97.
Chúng ta phải luôn ghi lòng tạc dạ điều này: Trong chúng
ta có một cái gì rất giá trị, một cái gì chúng ta phải chăm sóc
và bảo tồn. Để chăn dắt chúng ta, Chúa Giêsu đã phải giáng
trần.
Nếu chúng ta cần gì thì hãy đến với Ngài.
Cần đồ ăn ư? Ngài đã ban chính mình Ngài trong Bí tích
Thánh Thể để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta.
Cần nước uống ư? Ngài đã ban cho chúng ta dòng nước
trong lành của Bí tích Rửa tội.
Cần băng bó ư? Ngài sẽ chữa lành những vết thương do tội
lỗi gây nên bằng Bí tích Giải tội.
Cần hướng dẫn ư? Ngài sẽ đưa chúng ta trở về với Ngài
như người chủ chăn đưa con chiên lạc trở về đàn của mình.
Cần che chở ư? Ngài hiến mạng sống để bảo vệ chúng ta
và cho đến ngày hôm nay Ngài còn thực hiện biết bao việc lạ
lùng để nâng đỡ chúng ta.
Linh hồn chúng ta thực là quí giá biết bao, chính vì thế,
chúng ta phải gìn giữ nó, đừng làm những gì khiến nó mất đi
vẻ đẹp tuyệt vời, khiến Chúa Giêsu phải đau lòng.
Người chăn chiên đã chết để cứu mạng sống cho vị đại
tướng. Chúa Giêsu đã chết trên thập giá để cứu rỗi linh hồn
chúng ta, bởi vì Ngài chính là chủ chăn nhân lành đã hiến
mạng vì đoàn chiên.
98.
30. Ta là Mục Tử tốt lành
(Suy niệm của Lm Bùi Quang Tuấn)
"Ta đến để chúng được sống và sống dồi dào" (Ga
10,10)
Chúa nhật 4 Phục sinh thường được gọi là Chúa nhật kính
Chúa Chiên lành. Các bài đọc nhấn mạnh đến Chúa Giêsu
như người Mục Tử nhân ái hằng chăm sóc lo lắng cho đoàn
chiên, đến độ dám thí mạng để chiên "được sống và sống dồi
dào".
Chúa nhật hôm nay cũng được gọi là Chúa nhật Ơn Thiên
Triệu. Giáo hội kêu mời mọi người Kitô hữu hãy để tâm nâng
đỡ, khuyến khích, và cầu nguyện đặc biệt cho ơn gọi, hầu có
nhiều người can đảm dâng hiến đời mình cho sự sống phong
phú của Dân Chúa.
Khi Giáo hội kêu mời giáo dân cầu nguyện cho Ơn Thiên
Triệu là hàm ẩn trong đó một nhu cầu khẩn thiết. Không phải
các nơi đã có đủ linh mục cho đoàn chiên; nhiều chỗ còn
đang thiếu hụt, thậm chí thiếu hụt trầm trọng. Không phải các
linh mục đều đã là mục tử tốt lành dám thí mạng như Đức
Giêsu mong muốn; có người khô khan, đào ngũ, thậm chí
còn giống như "kẻ chăn thuê hay trộm cướp."
Thế nên cần lắm thay những lời cầu nguyện trợ lực liên lỉ
để các linh mục tu sĩ được trung thành, chân thành, và nhiệt
thành hơn trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của mình.
Mặc dầu linh mục là những con người được tác thánh để
thuộc về Thiên Chúa và làm công việc của Ngài, họ vẫn
mang trên mình thân phận con người với bao cảm xúc và suy
nghĩ rất người, họ vẫn phải chiến đấu gian nan với bao thách
đố khó khăn để đáp trả đến cùng ơn gọi, họ vẫn phải nỗ lực
mỗi ngày để nên giống Đức Kitô hơn trong đời sống mục tử
nhân lành. Thế nên một tâm tình mến yêu và xây dựng của
99.
người tín hữu sẽ như bàn tay khai mở cho dòng ơn thánh
chảy tuôn tràn hơn lên trong cuộc đời linh mục.
Ơn gọi dấn thân là ơn gọi tuyệt đẹp. Hạt giống thiên triện
là hạt giống vô cùng cao quí. Nhưng hạt giống ấy lại rất cần
thời gian để nảy mầm và phát triển. Hạt giống càng được
gieo vào tâm hồn sớm bao nhiêu càng có hy vọng trổ sinh
hoa trái đúng mùa bấy nhiêu. Biết bao Kitô hữu bước vào đời
sống linh mục hay tu sĩ vì đã nhận được hạt giống ơn gọi từ
thuở ấu thơ. Những hình ảnh tốt lành thánh thiện của các vị
chủ chăn, những khuyến khích hướng dẫn chân thành của
ông bà cha mẹ, những việc làm dấn thân phục vụ của bao
Kitô hữu đã hun đúc tâm hồn và chuẩn bị con em mình thành
các tông đồ tương lai cho Nước Trời.
Tất nhiên những gương xấu của người có trách nhiệm, thái
độ ngại khổ sợ khó của kẻ chăn thuê, lời nói hành vi quá
khích với hàng mục tử, đều làm thui chột biết bao hạt giống
ơn gọi cao quí trong tâm hồn tha nhân.
Người mục tử tốt lành phải cương quyết ngăn ngừa sói dữ
giết hại đàn chiên. Người mục tử ấy sẽ "đi trước" và "chiên
theo sau." Ơn gọi của người mục tử bao giờ cũng là ơn gọi
trở nên gương mẫu như người "đi trước" cho chiên bước
theo. Đây là một thách đố gay go đòi hỏi nhiều từ bỏ hy sinh.
Nhưng nếu không dám "thí mình" chấp nhận thách đố sẽ
không bao giờ trở thành mục tử tốt lành.
Có thí mạng cho chiên chứng tỏ mục tử có lòng thương
chiên. Tình thường mầu nhiệm và cao cả này chỉ phát xuất từ
cung lòng Thiên Chúa. Thế nên gắn bó với Thiên Chúa để
đón nhận "Tình Yêu Mục Tử" phải là hành trình thường
xuyên của người chăn chiên. Khi ham mê công việc mà bỏ bê
đời sống nguyện cầu, người mục tử khó lòng thương yêu cho
đúng nghĩa, nếu không phải là dễ rũ áo ra đi.
100.
Thường khi nói tới "mục tư", người ta hay liên tưởng đến
các giám mục, linh mục. Điều đó rất đúng. Nhưng trong
chiều kích "bí tích Rửa tội", tất cả mọi Kitô hữu đều mang
chức vị mục tử, và trong chiều kích thực tế cuộc sống thì mọi
người đều là mục tử: cha mẹ là mục tử của con cái; thầy cô là
mục tử của học sinh; ông chủ là mục tử của công nhân...
Đặc tính của người mục tử tốt không thuần túy ở nơi cung
cấp cơm ăn, áo mặc, kiến thức, công việc, nhưng còn phải
thông chuyển tình thương như sức sống dồi dào cho đoàn
chiên; không chỉ giúp tăng trưởng thân xác nhưng còn phải
làm phong phú tâm hồn. Song nếu đời mục tử không ngay
chính, tâm hồn đầy u mê thì chiên sẽ nhận được điều chi?
Không thể nào cho đi điều tôi không có. Không có yêu
thương, bình an, niềm vui, tôi chỉ có thể mang lại hận thù, bất
an và u sầu. Nhưng để có được yêu thương và sự sống, tôi
phải biết lắng nghe sự hướng dẫn của chính Chúa, chứ không
phải của thế gian; bước theo lời dạy bảo của Giáo hội chứ
không phải của đam mê trần tục.
Lạy Chúa, xin ban cho Giáo hội hôm nay có nhiều mục tử
tốt lành, nhưng trước hết, xin ban cho các gia đình là những
Giáo hội thu nhỏ có được các mục tử nhân ái và kiên trung.
101.
31. Tốt lành
Trong buổi học giáo lý vào ngày Chúa nhật, một em đang
cắm cúi vẽ hình. Thầy giáo hỏi em đang vẽ gì thế. Em trả lời
đang vẽ hình của Thiên Chúa. Thầy giáo nói, “Không ai nhìn
thấy Thiên Chúa như thế nào, làm sao vẽ được?” Em bé đã
trả lời, “Sau khi em vẽ xong bức hình này thì ta sẽ biết”.
Chúng ta không biết bức hình của em vẽ Thiên Chúa ra
sao. Tuy nhiên, bài Phúc âm hôm nay và đáp ca, đã vẽ ra một
hình ảnh của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh của người Mục Tử.
Chúa Giêsu đã nói: “Ta là cửa chuồng chiên” và “Ta là mục
tử tốt lành”.
Sách Giáo lý Công giáo giải thích hình ảnh này như sau:
“Giáo Hội là chuồng chiên với Chúa Kitô là cửa vào độc nhất
và cần thiết. Giáo Hội cũng là đàn chiên mà chính Thiên
Chúa đã công bố rằng Ngài sẽ là mục tử, và những con chiên,
dầu có những mục tử loài người dẫn dắt, nhưng chúng luôn
luôn có chính Chúa Kitô hướng dẫn và nuôi dưỡng, vì Ngài
là chủ chăn tốt lành và là ông hoàng của các chủ chăn. Ngài
đã thí mạng sống mình vì các chiên của Ngài”.
Theo William Barlay, vào thời Chúa Giêsu, có hai loại
chuồng chiên. Trong các làng xã thường có một chuồng
chiên công cộng, nơi tập trung tất cả các bầy chiên lại khi
những người chăn chiên trở về nhà vào ban đêm. Những con
chiên này được bảo vệ bằng một cái cửa rất vững chắc mà chỉ
có người canh giữ chiên mới có chìa khóa để mở cửa. Loại
chuồng này được Chúa Giêsu đề cập đến trong câu Gioan 10,
2-3 “Ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ
cửa mở cho anh ta vào…”
Khi đàn chiên đi ăn cỏ ở nơi xa vào mùa ấm, chúng không
trở về làng vào ban đêm, mà qui tụ lại trong một chuồng
chiên ở giữa lưng chừng đồi hay ngoài cánh đồng. Những
102.
chuồng chiên ở ngoài trời này là một bức tường bằng đá vây
chung quanh, có một lối ra vào không có cánh cửa. Ban đêm
người mục tử nằm chận ngang lối ra vào, không có con chiên
nào có thể bỏ chuồng đi ra, hoặc con thú hoang nào có thể đi
vào mà không bước qua người mục tử. Nói một cách khác,
người mục tử là cửa chuồng chiên. Chúa Giêsu đã đề cập đến
loại chuồng này trong Gioan 10, 7-10 “Tôi là cửa cho chiên
ra vào…”
Chúa Giêsu dùng hình ảnh này để nói lên tương quan của
Ngài với chúng ta. Một sự gắn bó chặt chẽ giữa người mục tử
và đàn chiên với các đặc tính:
Trước khi về trời Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ rằng:
“Ta sẽ luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Trong khi thi hành mục vụ, tôi đã có nhiều dịp viếng thăm
các bệnh nhân ở bệnh viện và xức dầu cho họ. Lời cầu
nguyện được các bệnh nhân ưa chuộng nhất trên giường bệnh
là Thánh vịnh 23 chúng ta đọc trong phần đáp ca hôm nay:
“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì”.
Tôi nhớ đã vài lần viếng thăm một người phụ nữ nằm bệnh
viện gần 2 tháng. Một ngày nọ khi vào thăm bà, tôi thấy cả
gia đình đã qui tụ đầy đủ vì họ đã được thông báo cho biết và
gần ra đi rồi. Căn phòng bệnh nhân đầy ắp người, nhưng
không ai đề cập đến số phận của bà. Họ nói về những chuyện
xảy ra trong cộng đoàn, về thời tiết, về tin tức… Tôi đi ra
ngoài một chút rồi trở lại thăm bà vào đúng lúc cả gia đình
đã đi ăn trưa. Chỉ còn một mình tôi với bà, bà nói: “Thưa
cha, cha biết rằng con sắp chết rồi!” Theo tâm lý tôi tự nghĩ
trong đầu: “Không đâu! Bà sẽ vượt qua được cơn bệnh. Bà
sẽ còn sống lâu thêm nữa”. Nhưng rồi tôi lại nghĩ rằng tốt
hơn hết cứ nói, “Phải, tôi biết!” Rồi tôi hỏi bà thêm: “Bà
nghĩ sao về điều này?” Bà nói: “Phải, con cũng sẵn sàng để
103.
chết. Con đã chuẩn bị”. Tôi đề nghị, “Tôi có thể làm gì để
giúp bà được không?” Bà nói: “Xin cha làm ơn đọc cho con
nghe Thánh vịnh 23”. Tôi đã đọc thật chậm để cùng cầu
nguyện với bà. Lúc đó chúng tôi đã cảm nghiệm được một sự
bình an lớn lao khó diễn tả bằng lời, cả hai chúng tôi đều
cảm thấy Chúa Giêsu đang hiện diện cùng với chúng tôi
trong phòng bệnh nhân. Chỉ một thời gian ngắn sau đó bà đã
ra đi bình an.
Hình ảnh của người mục tử tốt lành gợi cho chúng ta một
Thiên Chúa luôn luôn hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn
cảnh của cuộc sống, lúc bệnh tật hay khỏe mạnh, lúc vui tươi
hay đau buồn hoặc ngay trong sự chết.
104.
32. Tốt lành
Cách đây đã lâu, bà Ann Landers viết trên trang báo do
bà phụ trách và được đăng lại nhiều lần như sau:
“Từ khi tôi bắt đầu phụ trách cột báo này, tôi đã học hỏi
được rất nhiều – gồm cả điều có ý nghĩa nhất mà Leo Rosten
đã mang trong tâm trí khi ông nói: “Mỗi người chúng ta là
một kẻ cô đơn nhỏ bé, tận sâu thẳm bên trong tâm hồn, và đã
khóc lên để được thông cảm”. Tôi đã biết được điều đau khổ
xảy ra như thế nào đối với những người không có ai để nói
chuyện. Đối với tôi, sự thành công của cột báo là đã nhấn
mạnh đến sự bi ai chính yếu của xã hội chúng ta, sự cô độc,
cảm giác bất ổn, nỗi sợ hãi đang ám ảnh, gây tê liệt và làm
tổn thương quá nhiều người trong chúng ta. Tôi đã biết được
rằng sự thành công về tiền bạc, đạt được bằng cấp học vấn,
và địa vị chính trị cũng như xã hội không mở ra những cánh
cửa dẫn tới sự bình an trong tâm trí hay sự an toàn nội tâm.
Tất cả chúng ta là những kẻ đi lang thang trên hành tinh này
giống như những con chiên”.
Phải, xét về mặt tâm lý, con người cũng giống như những
con chiên mang nhiều nỗi lo âu sợ hãi, rất dễ bị tổn thương,
và cần được mục tử săn sóc, chăn dắt, hướng dẫn. “Ta chính
là mục tử tốt lành. Ta biết các chiên của Ta và chiên của Ta
biết Ta”.
Họa sĩ vẽ hình phim hoạt họa nổi danh, Jules Pfeiffer
đang thảo luận về một loạt hình hí họa ông đã thực hiện cho
các tờ báo. Trong số đó, có hình một em bé trai không muốn
đi học đến trường vì sợ ba mẹ sẽ dọn ra khỏi nhà đang khi
em đi học. Nó không muốn đi ngủ vì sợ ba mẹ sẽ chết trong
khi nó ngủ. Đối diện với những nỗi sợ hãi này “giống như
một người canh gác đang trực hai mươi bốn giờ liền”,
Pfeiffer đã phát biểu như vậy.
105.
Hình ảnh sợ hãi của em bé trai chính là hình ảnh của
chúng ta đang bước đi trong cuộc đời. Dù chúng ta có đi lạc,
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vẫn sẵn sàng bỏ tất cả 99 con
chiên khác, ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Người sẽ vác chúng
ta lên vai, yêu thương và săn sóc, vì Người là mục tử tốt lành.
Có một câu chuyện huyền thoại Do Thái nói về Môsê.
Ngày xưa khi Môsê đang chăn dắt đàn chiên của nhạc phụ ở
Jethro, ông thấy một con chiên nhỏ chui qua bụi rậm và trốn
mất. Môsê đã bỏ hết mọi sự đuổi theo con chiên nhỏ đó vì sợ
nó đi lạc sẽ bị thú dữ ăn thịt. Sau cùng ông đã đuổi kịp con
chiên nhỏ khi nó dừng lại bên giòng suối nước. Thì ra con
chiên khát nước, nên nó chạy ra giòng suối để uống. Sau khi
uống nước xong, Môsê ẵm chiên lên và nói: “Cưng ơi, ta đâu
có biết ngươi chạy đi là vì ngươi khát nước. Bây giờ chân
của ngươi mỏi mệt lắm rồi”. Nói như vậy rồi Môsê vác chiên
lên vai và mang nó về đàn.
Khi Thiên Chúa nhìn thấy sự tận tình yêu thương của
Môsê như thế, Ngài liền nói, “Rốt cuộc Ta cũng đã tìm ra
được con người mà Ta đang tìm kiếm. Ta sẽ đặt Môsê là
người chăn dắt Israel dân Ta”.
106.
33. Những mục tử đời thường
(Suy niệm của Lm Đaminh Đặng Văn Cầu)
Cách đây vài tuần, một bạn trẻ Công giáo đến nói với tôi:
Thưa Cha, khi con hát bài "Chúa là Mục tử Người dẫn lối
chỉ đường cho con đi...", có mấy bạn không công giáo ở cùng
phòng với con thắc mắc: Chúa là Mục Tử nhân lành ở chỗ
nào? Đâu là đồng cỏ, là suối mát cho bạn được an nghỉ
thảnh thơi? Nhiều người Công giáo, "con chiên" của Chúa,
vẫn đói, vẫn nghèo, vẫn rách, "chạy bữa sáng mất bữa tối",
họ đâu có được sung sướng no thỏa? Hay như chính bản
thân bạn, cơm áo gạo tiền của bạn là do cha mẹ bạn cung
cấp chứ có do Chúa chiếc gì ban cho đâu?
Đúng là thời @, thời di động, thời thực dụng, thời giá cả
leo thang có khác, người ta chỉ nghĩ tới cơm-áo-gạo-tiền mà
ít nghĩ đến những yếu tố cao hơn, quý hơn, cần hơn, có thể
đem lại hạnh phúc hơn những thứ đó.
Tôi trả lời bằng cách kể cho bạn đó nghe một câu chuyện
tại thành phố quê tôi:
Có hai vợ chồng nọ là cán bộ về hưu, cả hai là người
Công giáo đã đóng góp tuổi thanh xuân của mình nơi chiến
trường rồi sau đó về làm cán bộ tại địa phương: Chồng làm
kế toán, vợ làm cán bộ phụ nữ phường. Lấy nhau muộn
nhưng họ cũng có được một hoàng tử và một công chúa (Họ
vẫn gọi chúng như thế). Họ được phân một căn phòng tại
một căn hộ tập thể. Gia cảnh nghèo với những bữa cơm đạm
bạc nhưng trong nhà không thiếu những tiếng cười của cả trẻ
con lẫn người lớn. Đến bữa cơm, những người bên cạnh
thường nghe chị vợ mời anh chồng: "Anh ăn miếng đùi gà
này đi" hoặc "các con ăn miếng cá thu này nhé". Anh chồng
mời lại: "Thì em cũng phải ăn đi cho nóng chứ". Những
107.
người hàng xóm bảo nhau: Nhà ấy nghèo mà ăn sang thật,
ngày nào cũng thịt với cá.
Một hôm những đứa con của họ sang hàng xóm chơi, họ
hỏi chúng: Hôm nay nhà cháu ăn cơm với gì? Chúng đáp:
Nhà cháu ăn cơm với rau muống, tương bần và cá khô. Họ
lại hỏi chúng: Các bác vừa thấy bố mẹ các cháu và các cháu
mời nhau ăn thịt, ăn cá cơ mà? Chúng đáp: Đó là bố mẹ
cháu và chúng cháu muốn động viên nhau ăn cho ngon
miệng nên đã nghĩ ra trò chơi đó. Mẹ cháu gắp một miếng
rau hay miếng cá khô cho bố cháu và nghĩ ra một món ăn
nào đó thật ngon để mời bố cháu hay chúng cháu. Thế là mọi
người cứ ăn miếng rau đó và tưởng tượng ra những thức ăn
khác nên rất ngon miệng.Họ mới vỡ lẽ: À ra thế. Chả bù cho
nhà các bác, thức ăn ngon mà cứ mạnh ai người nấy ăn chứ
chẳng ai mời ai bao giờ.
Vừa lúc đó có một vật gì bay qua chỗ hai đứa bé và rơi ra
hành lang. Thì ra đó là chiếc bánh Chô-cô-pie của mấy đứa
trẻ nhà giàu. Sau khi đã ăn chán chê, chúng cãi nhau rồi
dùng những chiếc bánh đó để ném nhau. Một lúc sau, hai
đứa bé xin phép ra về. Ra tới hành lang, đứa anh thò tay ra
ngoài ban công, cố gắng với lấy cái bánh của những đúa con
nhà giàu vừa vứt đi. Nó lau sạch rồi đưa cho em nó. Đứa em
không chịu: Công anh nhặt lên, anh phải ăn chứ. Đứa anh
đáp: Em ăn đi, anh ăn rồi, thỉnh thoảng đi học bọn bạn anh
vẫn cho anh mà. Đứa em vẫn không chịu: Vậy thì anh phải
ăn với em một nữa. Nói rồi nó bẻ chiếc bánh làm đôi đưa cho
anh nó một nửa và hai đứa cùng ăn trong tiếng cười vui vẻ.
Nhìn thấy cảnh này, mấy người hàng xóm rất cảm động.
Một người trong bọn họ nói: Tôi sẵn sàng đổi cả cái nhà ba
tầng cùng với tiền tỷ để có được hai đứa con như hai đứa trẻ
này.
108.
Tôi nói với bạn trẻ: Bạn thấy đấy, tiền bạc bạn có thể làm
ra nhưng có những cái bạn không thể làm ra và cũng không
thể dùng tiền bạc để mua hay đánh đổi được.
Chúa không trực tiếp đưa cho bạn cơm áo gạo tiền nhưng
Chúa ban cho chúng ta cả vũ trụ này với nhứng tài nguyên
phong phú, tiền rừng bạc bể. Nhìn vào vũ trụ này bạn có thể
thấy Chúa quả là vị Mục Tử nhân lành, tài tình và chu đáo.
Cái bạn có thể làm được, sản xuất ra được như cơm áo gạo
tiền thì Chúa không làm thay bạn nhưng Chúa trợ giúp bạn vì
bạn là con người có lý trí và tự do chứ không phải là con vật.
Nhưng có những cái bạn không thể sản xuất ra được, thí dụ
"không khí", thì Chúa cho bạn và bạn có thể thở thoái mái mà
không mất tiền.
Chúa ban cho bạn có cha mẹ, anh em, bạn bè để bạn yêu
và được yêu. Ngài thông ban cho bạn và cho mọi người tình
yêu của Ngài nên trong mỗi người luôn có khát vọng yêu và
được yêu.
Chúa qua cha mẹ và những người thân của bạn để hướng
dẫn săn sóc bạn.
Nếu Chúa trực tiếp ban cho bạn tất cả mọi thứ mà không
qua cha mẹ và người thân của bạn thì thử hỏi mối quan hệ
của bạn với họ sẽ ra sao?
Nhưng trên những thứ đó, Chúa còn ban cho bạn, tôi và
mọi người một vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng dầy An Sủng và
Chân Lý, Đấng hy sinh chính mạng sống để tôi, bạn và cho
mọi người được sống dồi dào phong phú trong An Sủng và
Lời của Ngài. Đó cũng chính là điều mà tác giả Thánh Vịnh
22, TV mà bạn vẫn hát, đã cảm nghiệm và tiên báo.
Đồng cỏ xanh và suối mát là Tình Yêu, Ơn Thánh và Lời
Chúa
109.
Đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát ở ngay trong tâm hồn
bạn, nơi gia đình, bố mẹ và bạn bè của bạn.
Đồng cỏ xanh và dòng suối mát ở ngay chunh quanh bạn,
trong thiên nhiên, trong môi trường mà bạn tiếp xúc.
Gia đình hạnh phúc mà tôi kể trên đây đã nhận ra điều đó.
Họ biết họ không thể sống mà không có Tình Yêu, không có
Chúa ở với họ và trong họ.
Họ chiêm ngưỡng và cảm nghiệm tình yêu của Vị Mục Tử
Nhân Lành để đến lượt họ, họ cũng hy sinh cho người khác
giống như Ngài.
Đấng Mục Tử nhân lành "biết" các chiên của mình và các
chiên cũng "biết" mục tử của mình thì họ cũng vậy, họ biết
nhau, biết Chúa hiện diện trong nhau, biết nhu cầu của nhau,
biết những điểm mạnh điểm yếu của nhau để chia sẻ và giúp
nhau thăng tiến.
Mỗi ngày Chúa Nhật, mỗi buổi tối, họ đến kín múc Tình
Yêu và sức sống nơi Ngài qua việc cầu nguyện và lắng nghe
Lời Ngài để trải rộng Tình Yêu và sức sống đó cho nhau, để
tắm mát trong dòng sông Yêu Thương, để nuôi dưỡng nhau
bằng chính Tình Yêu của Chúa Giêsu Thánh Thể và như vậy
họ chính là NHỮNG MỤC TỬ ĐỜI THƯỜNG, hình ảnh của
Đấng Mục Tử Nhân Lành.
Tôi và bạn, chúng ta đều được mời gọi trở nên những
người mục tử đó để rồi từ cái căn bản, cái môi trường yêu
thương đó sẽ có những người dấn thân mạnh hơn, sâu hơn, xa
hơn trong ơn gọi tận hiến.
110.
34. Tìm được sự sống nơi mục tử Giêsu
Có thể nói ưu tư lớn nhất của con người là sự sống. Chính
vì sự sống này mà ngày ngày con người phải tất bật lo toan
để kiếm cho được chén cơm, manh áo. Vì sự sống ấy nên mỗi
khi ra đường ngồi trên xe gắn máy hai bánh chúng ta buộc
phải đội nón bảo hiểm. Cũng vì sự sống ấy mà nhiều lúc các
bác sĩ gần như phải chiến đấu với thần chết từng giây phút
cho bệnh nhân của mình. Vì thế, cái quý nhất của con người
đó là sự sống.
Hơn nữa, người Công giáo chúng ta còn tin sự sống của
mỗi người là quà tặng cao quý mà Thiên Chúa ban cho. Hay
nói khác hơn sự sống của con người chúng ta phát xuất từ
Thiên Chúa. Cho nên, muốn bảo đảm được sự sống của mình
không cách nào khác là chúng ta phải cậy dựa vào Thiên
Chúa. Hiểu được tâm trạng ấy nên hôm nay Chúa Giêsu nói
với từng người chúng ta: "Ta đến để cho chiên đ ược sống và
sống dồi dào " (Ga 10, 10). Chúa Giêsu đã tự ví mình như
người mục tử nhân lành đem lại sự sống cho chúng ta là
những con chiên của Người. Đây là hình ảnh rất quen thuộc
với người Do thái.
Thật vậy, chúng ta biết Chúa Giêsu được sai xuống trần
gian này là để hoàn tất ý định yêu thương ngàn đời của Chúa
Cha. Bởi lẽ, ý định yêu thương ngàn đời của Thiên Chúa là
muốn con người được sống dồi dào và hạnh phúc. Đáng tiếc
là con người đã đánh mất. Dù vậy, Thiên Chúa vẫn không
chịu thua. Thiên Chúa đã tìm mọi cách để giúp con người tìm
lại sự sống trọn vẹn ấy.
Chúng ta đang sống trong Mùa Phục sinh. Mùa Phục sinh
nhắc ta nhớ đến chính Chúa Giêsu đã chịu đau khổ và sự chết
nhưng chính Người đã sống lại. Đó là niềm tin căn bản của
mỗi người chúng ta. Do đó, nếu chúng ta biết đi theo sự
111.
hướng dẫn của Người và nhất là biết sống như Người chắc
chắn chúng ta sẽ tìm lại được sự sống thật.
Hôm nay cũng là ngày cầu cho ơn thiên triệu. Trước hết
chúng ta hãy nhớ cầu nguyện cho những người được chia sẻ
sứ mạng mục tử của Chúa Giêsu: các Linh mục của Chúa biết
sống theo gương của Người. Đó là biết tận tâm, tận lực để
hiến trọn cuộc đời phục vụ những người được trao phó. Đồng
thời chúng ta cũng cầu nguyện cho ngày càng có nhiều bạn
trẻ dám can đảm dấn thân vào đời sống tu trì.
112.
35. Tốt lành
Ngày 20.4.2002, nhật báo Chicago Sun Times đăng tin về
linh mục Gary Graf, 43 tuổi, thuộc tổng giáo phận Chicago,
vị mục tử giầu tình thương đối với những người di dân nói
tiếng Tây Ban Nha thuộc giáo xứ Holy Family, Waukegan,
Illinois. Ngài đã bình phục sau một cuộc giải phẫu dâng hiến
60/o lá gan của mình cho một người giáo dân đang cần thay
gan để sống thêm một thời gian nữa. Người giáo dân này tên
là Miguel Zavala, một người đàn ông khoảng 40 tuổi.
Trước cử chỉ hy sinh và lòng bác ái cao cả này của cha
chính xứ, một giáo dân trong giáo xứ đã phát biểu: “Cha
Gary thật là vị mục tử nhân lành. Ngài hy sinh mạng sống
của mình cho con chiên bằng bất cứ giá nào có thể”. Trong
lá thư gửi cho giáo dân, cha Gary đã viết: “Ơn gọi độc thân,
cùng với sự hy sinh vì nước trời, đã cho phép tôi trở nên một
thành phần của gia đình to lớn hơn, bởi vì tất cả các anh chị
em trong giáo xứ là gia đình của tôi”.
Các bác sĩ cho biết rằng loại gan cha Graf dâng tặng
được coi là rất hiếm. Và công việc ban tặng như thế tuy giúp
ích được cho nhiều người, nhưng cũng rất nguy hiểm cho
tính mạng của cả hai người, người cho lẫn người nhận.
Qua cách ban tặng một phần lá gan của mình cho giáo
dân, cha Graf đã phản ảnh ý nghĩa của dụ ngôn về người
mục tử tốt lành như chính Chúa Giêsu đã làm: “Ta chính là
Mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành hy sinh mạng sống mình cho
đàn chiên. Noi gương Chúa Giêsu, vị mục tử tốt lành, nhiều
giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ và các bậc cha mẹ cũng
đang hy sinh cuộc đời của mình cho đàn chiên. Sự hy sinh
của họ không phải một lần là xong, nhưng kéo dài mỗi ngày
suốt cuộc đời!
113.
Trong niềm hy vọng sống lại của Mùa Phục Sinh, hôm nay
chúng ta nhìn vào gương mẫu của Chúa Giêsu Kitô, Người
mục tử tốt lành đã luôn luôn hiện diện, yêu thương săn sóc và
hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Sách Giáo lý
Công giáo số 754 đã gọi Ngài là “Ông Hoàng của các chủ
chăn”. Xin Ngài giúp chúng ta biết sống theo sự hướng dẫn
của Ngài. Xin Ngài giúp cho Giáo Hội và các gia đình có
những mục tử tốt lành theo khuôn mẫu của Ngài.
114.
36. Mục tử đàn chiên
Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên
Lành, là ngày dành cầu nguyện đặc biệt cho ơn gọi giáo sĩ và
tu sĩ. Hình ảnh mục tử chăn dắt đàn chiên thường được dùng
để diễn tả những người có trách nhiệm lãnh đạo Giáo hội, có
nhiệm vụ chăm do đời sống giáo dân. Hình ảnh này được bắt
nguồn từ trong Cựu Ước. Tiên tri Ezêkiel đã dùng hình ảnh
đàn chiên và chủ chiên để báo trước rằng Chúa sẽ đến dẫn
dắt Israel như mục tử chăn dắt đàn chiên. Đến thời Tân Ước,
Chúa Giêsu cũng tự xưng Thầy là mục tử tốt lành.
Hình ảnh mục tử có vẻ xa lạ đối với người Việt nam hôm
nay. Nhưng đối với người Palestine thời ấy, đầy là hình ảnh
rất đẹp. Nó diễn tả sự gần gũi, quan tâm chăm sóc hết mình
trong liên hệ chủ chăn và đàn chiên. Sự hiện diện gắn bó của
mục tử đối với đàn chiên là không thể thiếu.
Đời sống của mục tử tại Palestine rất vất vả. Không có bầy
chiên nào dám ăn cỏ nếu không có người chăn chiên bên
cạnh. Vì thế, người chăn chiên không hề được nghỉ ngơi.
Những vùng cỏ ít, chiên phải đi dông dài, không hàng rào
bảo vệ, người chăn phải luôn luôn dõi theo đàn không rời
mắt. Công việc của người chăn chiên không chỉ có tính cách
thường trực mà còn có khả ngăn gặp nhiều nguy hiểm nữa.
Phải tìm cách chống trả với những bầy thú dữ như sói , hay
những lần phải đối mặt với những tên trộm cướp đến bắt
chiên. Có thể nói những đặc điểm nổi bật nhát của người
chăn chiên là: thường xuyên canh thức theo dõi, can đảm
không sợ hãi, khiên nhẫn yêu thương bầy chiên mình.
Vì những đặc điểm ấy, Chúa Giêsu đã lấy người chăn
chiên để nói về chính bản thân Ngài. Ngài đến trần gian và
hy sinh tất cả cho đàn chiên là những con người yếu hèn, tội
lỗi. Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành. Ngài sẵn sàng
115.
hy sinh mạng sống để tìm và cứu vớt những con chiên đi lạc
xa đàn ( Mt 18,12; Lc 15,4). Ngài động lòng thương xót dân
chúng vì họ như chiên không có người chăn dắt (Mt 9,36; Mc
6,34). Chúa Giêsu chính là vị mục tử trung thành của Thiên
Chúa. Ngài đã tự nguyện đón nhận săn sóc bầy chiên chứ
không phải làm cách miễn cưỡng, làm vị nhiệt tình chứ
không vì ham lợi, không lạm dụng địa vị để đánh đập ức hiếp
đàn chiên nhưng nều gương lành yêu thương trìu mến.
Người ta bảo, mối liên hệ giữa chiên và người chăn chiên
ở Palestine rất khác ở Anh quốc. Ở Anh người ta nuôi chiên
để giết lấy thịt. Còn ở Palestine thì không, nuôi chiên để lấy
lông làm len. Vì thế mà chiên được sống nhiều năm hơn
vớichủ nên có mối liên hệ thân tình. Thân tình đến độ chiên
biết rõ tiếng chủ và chủ biết rõ đắc điểm của từng con chiên.
Đối với chủ chăn Giêsu, Ngài không chỉ biết nhưng còn quan
tâm, tích cực hơn nữa Ngài còn ban cho chúng sự sống đời
đời, không bao giờ diệt vong. Đây là một ân huệ lớn lao cho
những chiên nào thuộc đàn của mục tử Giêsu.
Ngày nay, Giáo hội có những người tiếp tục công việc
chăn dắt của Chúa Giêsu. Đó là những Giám mục, Linh mục,
tu sĩ. Họ là người tự nguyện dấn thân bước theo vị mục tử
Giêsu. Chúng ta cầu nguyện cho họ có nhiều nghị lực trung
thành phục vụ Hội thánh Chúa. Giáo hội ngày nay rất cần
những mục tử, nhất là những mục tử tốt lành: những mục tử
sẵn sàng xả thân vì đàn chiên, những mục tử quan tâm chăm
lo đàn chiên, những mục tử luôn thao thức phục vụ đàn chiên
để "chiên được sống và sống dồi dào".
Thực tế, giới trẻ ngày nay dường như chẳng mấy quan tâm
đến ơn gọi làm linh mục tu sĩ. Có nhiều lý do khiến các bạn
trẻ chẳng màn gì đến ơn gọi: Chính từ nhận thức và hoàn
cảnh sống làm cho họ ngại ngùng khi nói đến dấn thân hay từ
116.
bỏ. Trong gia đình ít con, con cái có học vị cao thì cha mẹ
không dễ gì cho con cái đi tu. Vì sợ chúng phải khổ sở và
không muốn chúng bị "xuống đời". Giới trẻ cũng quên nếp
sống tự do, tự lập nhiều sáng tạo, sáng kiến. Chính vì thế, họ
sợ gặp căng thẳng với nếp sống kỷ luật và hình thức tu trì
hiện nay. Nhiều bạn trẻ cảm thấy tiến trình thành người linh
mục, tu sĩ quá nhiêu khê, đòi hỏi phải từ bỏ nhiều thứ quá và
họ sợ không thể làm nổi. Do đó, dù cho họ có tinh thần dấn
thân phục vụ đi chăng nữa nhưng trước những khó khăn,
thách đố cuộc sống dễ làm cho họ ngó lơ, miễn bàn khi nhắc
đến đời sống tu trì dấn thân.
Chúa Giêsu luôn mời gọi mỗi người tiếp bước theo Ngài
trong nhiệm vụ chăn dắt. Hình ảnh Mục tử nhân lành Giêsu
sẽ không mờ nhạt đi nếu Giáo hội vẫn còn những con người
dám xả thân phục vụ vì hạnh phúc con người, vì tương lai
của Giáo hội và vì lý tưởng cao đẹp là mỗi ngày có thêm
nhiều người nhận biết Thiên Chúa là tình yêu.
117.
37. Tốt lành
Hình ảnh chuồng chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối
với người dân sinh sống tại vùng Palestine thời Chúa Giêsu.
Đó là những dải hàng rào chắc chắn được quây lại theo hình
vuông hay hình chữ nhật với một cửa ra vào duy nhất. Cứ
chiều đến, các chủ đoàn chiên lùa chiên vào chuồng qua cửa
duy nhất này, rồi trao phó việc canh giữ chuồng chiên cho
những người được thuê mướn làm công việc này. Sáng sớm
hôm sau, các chủ đoàn chiên lại đến để đưa chiên ra khỏi
chuồng đi ăn nơi những đồng cỏ. Chuồng chiên là nơi bảo vệ
an toàn cho đàn chiên.
Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc này khi so sánh
Ngài với cửa chuồng chiên và người chăn chiên tốt lành để
mạc khải lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đối với
con người nói chung, và nhất là sự chăm sóc bảo vệ của Ngài
đối với những ai tin nhận Ngài nói riêng, vì Ngài là mục tử
tốt lành. Thế nào là một mục tử tốt lành? Chính Chúa Giêsu
đã phác họa bằng ba vẻ đẹp:
Ân cần chăm sóc các chiên của mình: Vẻ đẹp này đã
được diễn tả bằng hình ảnh một người thanh niên đang chăn
chiên trên một cánh đồng lớn, có những cỏ non xanh, có
những dòng suối mát, và người thanh niên ấy vác trên vai
một con chiên đau bệnh. Sự chăm sóc của Chúa Giêsu mục
tử đó là một vẻ đẹp có sức hấp dẫn.
Sẵn sàng hy sinh, liều mạng cho đoàn chiên: vẻ đẹp này
thường được diễn tả bằng hình ảnh con bồ nông mẹ, nhỏ từng
hạt máu của mình vào miệng những đứa con non nớt để nuôi
dưỡng chúng cho đến hạt máu cuối cùng rồi lăn ra chết. Mẹ
chết để cứu đoàn con. Sự hy sinh của Chúa Giêsu mục tử là
một vẻ đẹp có sức đánh động những trái tim khô cứng.
118.
Hiểu biết từng con chiên mình: Vẻ đẹp này đã được diễn
tả bằng hình ảnh một người cha ôm hôn đứa con ngỗ nghịch
trở về. Bởi vì mắt cha nhân từ, hiểu biết sự yếu đuối, dại khờ,
nông nổi của đứa con, và hiểu thiện chí tối thiểu của đứa con
mình. Đây là một vẻ đẹp phản ảnh tình yêu cứu độ của Chúa.
Ba vẻ đẹp trên đây đều nói lên vẻ đẹp duy nhất của Thiên
Chúa, đó là tình thương xót. Tình thương xót là chân dung
của Chúa, là dung mạo của Chúa, là khuôn mặt của Chúa.
Vì thế, khi so sánh mình với người mục tử tốt lành, Chúa
Giêsu muốn cho mọi người hiểu rằng: Ngài chính là tiêu
chuẩn, là mẫu mực để xác định sứ mạng đích thực của những
người được gọi và tuyển chọn cộng tác với Ngài trong sứ
mạng coi sóc đoàn chiên là cộng đoàn những kẻ tin Chúa.
Những người được chọn cho sứ mạng chăn dắt đoàn chiên
nếu không vào qua cửa là Chúa Giêsu thì không phải là
những chủ chăn đích thực. Nói rõ hơn, những chủ chăn đích
thực phải được chính Chúa tuyển chọn.
Điều này đã được thực hiện từ khi Chúa thiết lập Giáo Hội
cho đến ngày nay, như Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế
về Giáo Hội đã tuyên bố: “Chúa Giêsu đã chọn các tông đồ
và Ngài muốn các người kế vị, tức là các giám mục, làm chủ
chăn trong Giáo Hội cho đến tận thế”. Nhưng để chức giám
mục được duy nhất và không bị phân chia, Chúa đã đặt thánh
Phêrô làm thủ lãnh các tông đồ khác. Vì thế, các Đức Giáo
Hoàng là những người kế vị thánh Phêrô là thủ lãnh hữu hình
của toàn thể Giáo Hội. Như vậy, quyền bính trong Giáo Hội
được Chúa trao phó cho Đức Giáo Hoàng, Đấng kế vị thánh
Phêrô, và các Giám mục kế vị các tông đồ. Tuy nhiên, gần
gũi chúng ta hơn cả còn có các linh mục, là những cộng tác
viên đã được các giám mục ủy quyền chăm sóc đoàn chiên.
119.
Do đó, chúng ta thấy sự tương quan giữa chúng ta và hàng
giáo phẩm, tức là giữa đoàn chiên và các vị chủ chăn: qua
linh mục chính xứ, chúng ta liên hệ với giám mục giáo phận.
Qua Đức giám mục, chúng ta liên hệ với Tòa Thánh, với Đức
Giáo Hoàng. Như vậy, linh mục là người thi hành nhiệm vụ
chủ chăn trực tiếp với chúng ta, là người sống gần gũi chúng
ta, đáng cho chúng ta thông cảm, chia sẻ, cộng tác và cầu
nguyện cho các ngài.
Hy vọng rằng sự liên lạc mật thiết giữa giáo dân và chủ
chăn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội. Nhờ sự liên
lạc đó giáo dân ý thức trách nhiệm của mình hơn, lòng hăng
say được phát triển và góp sức dễ dàng hơn vào công việc
của chủ chăn. Phần chủ chăn, nhờ giáo dân, có thể phán đoán
minh bạch và đúng đắn hơn về những vấn đề thiêng liêng
cũng như trần thế. Như vậy, toàn Giáo Hội được vững mạnh
và càng ngày càng tốt đẹp hơn.
120.
38. Tiếng gọi yêu thương
Một vị mục sư trung thành, đạo đức, đang đau nặng. Anh
en tín đồ quì cạnh giường bệnh, cầu xin Chúa cứu chữa cho
ông. Họ nhắc với Chúa rằng ông coi sóc bầy chiên của
Người rất tận tâm và họ lập đi lập lại câu này:”Chúa biết
không mục sư yêu mến Ngài biết bao!”.
Nghe vậy vị mục sư bèn xoay qua phía họ mà nói:
- Xin anh em đừng cầu nguyện như thế. Khi Maria và
Matta sai người đi mời Đức Giêsu, thì họ không nói “Lạy
Chúa, này kẻ yêu Chúa” nhưng nói: “Lạy Chúa, này kẻ Chúa
yêu đang bị đau nặng”. Tôi được yên ủi chẳng phải vì tôi yêu
Chúa cách bất toàn, nhưng vì Chúa yêu tôi cách trọn vẹn.
Nhiều khi chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính
Chúa mới là người yêu chúng ta trước, yêu vô điều kiện, và
yêu không bến bờ.
Đức Giêsu chính là mục tử tốt lành, Người luôn yêu
thương đàn chiên, và yêu từng con chiên một. Chính Người
yêu thương chăm sóc đàn chiên nên các con chiên mới được
ăn trên đồng cỏ xanh, uống bên dòng suối mát. Chính Người
lưu tâm bảo vệ đàn chiên, nên các con chiên mới an toàn khỏi
kẻ băt trộm, khỏi nanh sói dữ.
Nếu Người đã nói:”Tôi biết các chiên tôi”, thì phải hiểu là
Người biết rõ chúng ta cần những gì cho linh hồn và thể xác,
nên đừng băn khoăn xao xuyến. Hãy tin tưởng ở nơi Người.
Nếu Người đã nói:”Chiên tôi thì nghe tiếng tôi”, là Người
muốn chúng ta chỉ lắng nghe duy nhất tiếng gọi yêu thương
của Người. Đừng nghe theo một tiếng gọi nào khác. Nó có
tên là ma quỉ, thế gian và xác thịt.
Nếu Người đã nói:”Tôi đến để cho chiên được sống và
sống dồi dào”, là Người muốn chúng ta được sống tràn trề
bên dòng suối Lời Chúa và sung mãn với lương thực Thánh
121.
Thể của Người. Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh
mục và tu sĩ.Chúng ta cần cho có nhiều tâm hồn quảng đại,
biết dấn thân vô điều kiện, và phục vụ vô vị lợi cho đàn chiên
Chúa. Vì đàn chiên không thể thiếu chủ chiên.
Chúng ta cần cổ vũ cho ơn gọi linh mục và tu sĩ bằng cách
khích lệ tinh thần và hỗ trợ tài chánh cho các mầm non ơn
thiên triệu trong Giáo phận và Giáo xứ của mình.Chúng ta
cần tích cực dạy cho con cháu biết lắng nghe lời Chúa,
chuyên tâm cầu nguyện, hăng say làm việc tông đồ, và quan
tâm phục vụ người mhèo. Nhờ vùng đất màu mỡ này mà ơn
gọi linh mục và tu sĩ sẽ nảy sinh.
Lạy Chúa, Chúa là mục tử tốt lành, xin dẫn dắt chúng con
đi trên nẻo đường của Chúa, để chúng con được no thỏa ân
tình của Ngài.
Xin ban cho chúng con những chủ chiên nhân lành, chỉ
biết say mê Chúa và say mê con người, chỉ biết yêu thương,
phục vụ, và chăm lo cho đàn chiên Chúa, để chia sẻ với Chúa
nỗi bận tâm về một đàn chiên “được sống và sống dồi dào”.
122.
39. Điểm tựa bình yên
Trong khuôn viên Đại Chủng Viện Thánh Quý - Cần Thơ
có một tiểu cảnh với chủ đề "nương tựa". Tiểu cảnh nầy 80%
được tạo nên từ phế liệu: một khung bê-tông của tường rào
hư bỏ ra, một ống cống không còn sử dụng được nữa, những
đoạn dừa, những cây cao sâm banh chết... Tất cả chúng được
sơn chút màu và được xếp tựa vào nhau thành những hình
tam giác, hình mái nhà... Chúng cùng tựa vào nhau để tồn tại,
để làm nên tiểu cảnh đẹp. Nếu thiếu một thứ trong chúng,
người ta không thể hiểu được đó là gì. Tiểu cảnh này được
các chủng sinh rất yêu thích vì nó nhắc nhớ tinh thần yêu
thương nâng đỡ nhau mà mục tiêu đào tạo của chủng viện
luôn đặt hàng đầu.
Vâng, con người mang xã hội tính, cần nương tựa vào
nhau để tồn tại. Tuy nhiên, con người chưa phải là điểm tựa
lý tưởng cho con người. Chỉ có Thiên Chúa mới là điểm tựa
an toàn nhất, như một danh nhân đã nói: "Đừng dựa vào cây,
cây sẽ đổ; đừng dựa vào người, người sẽ chết. Hãy dựa vào
Thiên Chúa". Hay nói khác đi, Đức Kitô Phục Sinh là nơi tựa
nương không hề ngã đổ, vì "Đức Kitô đã chết nhưng Người
đã sống lại, cái chết không còn quyền chi đối với Người nữa"
(Rm 6,9).
Phúc Âm hôm nay nêu lên cho chúng ta hình ảnh một
người chủ chăn tốt lành. Người chủ chăn đó không ai khác
hơn là Đức Kitô - Đấng "Thiên Chúa đã đặt lên làm Chúa và
làm Đấng Kitô" (Cv 2,36), "Đấng chăm sóc linh hồn anh em"
(1 Pr 2,25). Người đã tuyên bố: "Ta là cửa chuồng chiên... Ta
đến cho chiên được sống và sống dồi dào" (Gn 10,10). Bạn
có vui không khi có được một chỗ dựa an toàn như thế? Chỉ
có chủ chăn tốt mới nhẫn nại chăm sóc chiên. Ngài quan tâm
đoàn chiên đến nỗi biết tên từng con một. Ngài đi trước
123.
hướng dẫn đoàn chiên trong cuộc hành trình. Trong lúc chiên
nghỉ ngơi thì Ngài là người canh cửa, bảo vệ đoàn chiên khỏi
hiểm nguy của kẻ thù.
Trong cuộc sống đời thường, giữa những khó khăn thất
bại, tôi cứ nghĩ rằng do mình bất tài, do mình thiếu cố gắng.
Tôi cay cú và bực dọc, than thân trách phận. Thỉnh thoảng
được thành công, tôi tự hào, tự mãn đó là sức lực của tôi, là
phần tôi đáng được hưởng. Cuối cùng, dẫu được hay thua thì
tôi vẫn là tôi với thân phận mỏng giòn, chỉ lanh quanh với
những sự ảo huyền. Tôi đã không biết đặt hy vọng của mình
nơi Chúa. Tôi cao ngạo nghĩ rằng tự sức mình làm được mọi
sự. Ở bên Chúa ngọt ngào êm ái biết là đường nào mà tôi đâu
biết.
"Hãy đến với Ta hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng nề,
Ta sẽ bổ sức cho... Ách của Ta thì êm ái, gánh của Ta thì nhẹ
nhàng" (Mt 11,28). Tựa vào Chúa, tôi đâu phải hụt hẫng,
hoang mang. Ngài luôn bao bọc tôi, ôm ấp tôi trong bóng
cánh của Ngài. Đôi lúc Ngài tập cho tôi bước đi trên chính
đôi chân của mình, Ngài để tôi vấp ngã để tôi cứng cáp hơn,
nhưng không bao giờ Ngài đẩy tôi vào chỗ hiểm nguy.
"Chúa là nơi con nương tựa, con còn sợ gì ai" (x. TV 22).
Đức Phật cho rằng: "Đời là bể khổ". Điều này không sai. Tuy
nhiên, chúng ta - các Kitô hữu - không lo âu, sợ hãi vì chúng
ta có Chúa. Người luôn nâng đỡ chăm sóc cho chúng ta. Ước
gì bạn không phải bận lòng với những thách đố của cuộc
sống, vì Chúa luôn cùng đi và cùng làm với bạn.
"Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Ngài,
Ngài sẽ ra tay" (Tv. 37)
124.
40. Sống dồi dào
“Ta đến để anh em được sống và sống dồi dào”.
Phải chăng Đức Giêsu đang nói về sự sống đời đời, hoặc
Người cũng nói về cuộc sống này nữa? Tôi không còn nghi
ngờ gì nữa, những lời nói này được áp dụng cho cả cuộc sống
của chúng ta trên trái đất, cũng như cho cả niềm hy vọng của
chúng ta đối với cuộc sống đời đời.
Có một giai thoại dễ thương của Tây Ban Nha như sau:
Khi người ta đi đến cổng thiên đàng, và đang tìm cách đi
vào, thì thánh Phêrô hỏi họ bằng một câu hỏi xa lạ. Ngài nói
với mỗi người:”Hãy nói cho ta nghe. Trong khi còn sống trên
mặt đất, người có biết tận dụng tất cả những thú vui trần thế,
mà do lòng nhân lành, Thiên Chúa đã dành sẵn cho ngươi
không?”.
Nếu người nào đáp lại là “Thưa ngài, không ạ”, thì thánh
Phêrô liền lắc đầu buồn bã và nói “Than ôi, hỡi bạn, ta
không thể để cho ngươi vào được, không thể vào bất cứ cổng
nào. Làm sao ngươi có thể trông mong mình sẵn sàng vui
hưởng được những vui thú trên thiên đàng, nếu ngươi không
tự chuẩn bị cho mình biết đón nhận được những thú vui đó,
thông qua trung gian là những thú vui trần thế? Ta bắt buộc
phải gửi trả ngươi xuống mặt đất, cho đến khi ngươi học hỏi
được một cách tốt hơn”.
Trong quá khứ, người ta có khuynh hướng đồng nhất đạo
Công giáo với những giới hạn và cấm đoán. Nhiều người
trong chúng ta đã được giới thiệu một nền thần học về tách
rời khỏi thế giới. Người ta coi cuộc sống hiện nay như thời
gian thử thách. Tính cách thiêng liêng này đã ngăn chặn niềm
vui sống. Tính cách này đưa đến tâm trạng nửa vời, làm cho
chúng ta như thể luôn luôn lưu giữ điều gì đó tụt hậu, luôn
luôn sống một cách quá cẩn thận, đầy sợ hãi, tủn mủn.
125.
Trong khi nỗ lực sống tận tụy, đạo đức chúng ta cũng phải
có khả năng vui sống đến mức độ trọn vẹn nhất. Tuy nhiên,
vui sống trọn vẹn không phải là sống phóng túng.
Cuộc sống là một quà tặng mỏng giòn. Mỗi giây phút đều
dứt khoát mang tính cách duy nhất. Khi ý thức như vậy,
chúng ta sẽ tập trung chú ý vào sự việc đang diễn ra bây giờ.
Nhưng mỗi giây phút cũng rất mau qua. Dòng đời trôi nhanh
chóng biết bao! Tính cách mau chóng này tạo cho cuộc sống
nét sâu sắc của nó, và làm cho tất cả mọi nét trong cuộc sống
trở nên càng quí giá hơn.”Bởi vì chúng ta không được vĩnh
viễn vui hưởng thế gian này, mà chỉ được vui hưởng một
cách chóng vánh; cuộc sống của chúng ta giống như việc
đem lại sự ấm áp cho chính mình dưới ánh mặt trời”.
Chúa Chiên Lành mong muốn cho chúng ta có sự sống.
Do đó, chúng ta đừng nên quá nhút nhát và sợ hãi. Hãy sống
bất cứ điều gì tự xảy đến với chúng ta, bởi vì mọi sự đều là
một món quà từ Thiên Chúa. Cuộc sống luôn quảng đại với
những ai biết đưa cả hai bàn tay ra nắm bắt nó.
“Nếu chỉ hiện hữu mà thôi thì chưa đủ. Trong cuộc sống, ý
nghĩa không hệ tại ở điều mà con người tìm kiếm, mà là ở
cảm nghiệm do được sống – đó là trạng thái phấn khích vì
được sống”. Chúng ta được dành cho cuộc sống này. Đây là
một sự kiện mà ai cũng biết rằng những người nào đã vui
sống một cách trọn vẹn và sôi nổi, thì khi chết đi, sẽ không
cảm thấy bị lãng phí cuộc đời.”Bạn đừng sợ hãi rằng cuộc
sống của bạn sẽ chấm dứt, cho bằng hãy sợ hãi rằng không
bao giờ được bắt đầu cuộc sống.
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ của Người bằng những lời sau
đây “Hãy tin vào Tin Mừng”. Mà Tin Mừng là gì? Tin Mừng
chính là “Ta đến để cho anh em được sống và sống dồi dào”.
126.
41. Người mục đồng – Lm. Nguyễn Ngọc Long
Hình ảnh cậu bé chăn cừu, chăn trâu, chăn bò, canh bầy vịt
ngoài đồng là hình ảnh quen thuộc trong xã hội, trong dân
gian, đôi khi còn là hình ảnh thơ mộng trong thi ca, văn
chương. Nhất là hình ảnh mục đồng chăn chiên, bò, lừa đóng
vai trò quan trọng trong khung cảnh ngày lễ Thiên Chúa
Giáng Sinh làm người (Lc 2,1-20).
Hình ảnh người chăm sóc đàn súc vật ngoài đồng là hình
ảnh thật đẹp, phác họa tình liên đới giữa người và đàn vật, và
cũng nói lên sự cần thiết hỗ tương giữa hai bên.
Mối tương quan giữa mục đồng và đàn súc vật có thể phân
biệt làm hai: Một người chăm sóc chúng với chủ đích lấy
lông, lấy da bán làm đồ quý giá đắt tiền; và một người với
chủ tâm nuôi súc cho béo tốt, để bán thịt. Súc vật cần cho
cuộc sống kinh tế. Và con người cũng đóng vai trò quan hệ
trong việc làm cho súc vật có giá trị kinh tế.
Còn mối tương quan giữa con người với nhau thì sao?
Không còn gì thất vọng buồn thảm, nhẫn tâm hơn nữa, nếu
một người cảm thấy mình bị bỏ rơi, khi không còn mang lại
lợi ích gì cho người khác nữa, hay đã bị lợi dụng vào mục
đích tư lợi ích kỷ!
Ai là người cũng có khát vọng được kính trọng yêu mến,
được nhìn nhận có giá trị, được trọng dụng. Nếu những khát
vọng căn bản này không được đáp ứng, hay bị khinh miệt,
con người sẽ rơi vào tình trạng bị khủng hoảng tinh thần, đến
độ thành người bệnh hoạn cả tâm thần lẫn thể xác.
Chúa Giêsu ví mình là "mục đồng" chăm sóc đời sống con
người. Ngài không làm việc này với chủ đích kinh tế, bán
lông, bán thịt. Ngài là người "mục đồng" để ý đến đời sống
của con người. Ngài chăm sóc đến những nhu cầu căn bản
của đời sống: an vui, hạnh phúc trong tâm hồn, đời sống
127.
được no đủ, được bảo vệ: "Ta là mục đồng tốt lành, ta biết
chiên của ta, và các chiên của ta biết ta... Ta hy sinh đời sống
ta cho đoàn chiên." (Ga 10,14-15)
1. Đi dự tiệc cưới thành Kana, đang bữa ăn chủ nhà hết
rượu đãi khách. Rượu là một yếu tố quan trọng cho ngày Vui,
ngày cưới của đôi tân hôn. Biết như thế, Ngài thông cảm với
họ lúc khó khăn, liền làm phép lạ biến nước thành rượu ngon,
và tặng họ dư thừa. Ngài đã cứu danh dự cho đôi tân hôn và
gia đình hai bên. Ngài đem đến cho họ sự sống và niềm Vui.
(Gioan 2,1-12)
2. Trên đường truyền giáo rao giảng về nước Thiên Chúa,
Ngài ra tay cứu độ chữa lành những người bị bệnh phong cùi
(Mc 1,40-45), bị tàn tật không đi đứng được (Mc 2,1-
12;10,46-52;Gioan 9,1-12), bị câm điếc (Mc 7,31-37;9,14-
29). Ngài mang lại cho họ sức khỏe, niềm an vui. Phục hồi
danh dự, nhân vị bị tàn héo vì do bệnh tật gây ra, và bị bỏ rơi
khinh miệt.
3. Người phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt, và theo luật xã
hội bị kết án ném đá, nhưng người "mục đồng" Giêsu không
lên án chị ta. Trái lại Ngài đối xử với chị với tấm lòng bao
dung, nhân bản. Ngài ban ơn tha thứ những tội lỗi chị đã vấp
phạm. Lời ban ơn tha thứ của Ngài mang lại cho chị niềm hy
vọng, trả lại nhân vị sống làm người. Ngài đã cứu đời chị.
(Gioan 7,53-8,11).
Chúa Giêsu tự nhận: "Ta là người mục đồng tốt lành"
(Gioan 10,11). Lời xác quyết này muốn nói lên: "Tôi quan
tâm đến đời sống tâm hồn con người. Nỗi băn khoăn lo âu đè
nặng tâm hồn họ, là băn khoăn của tôi. Tôi muốn giúp họ
thoát khỏi gánh nặng nầy." Và tên Giêsu có nghĩa: Thiên
Chúa, Đấng chữa lành, Đấng cứu độ, Đấng làm mọi sự nên
hoàn chỉnh.
128.
Chúa Giêsu là Mục đồng chăm sóc đời sống con người.
Ngài không nhắm đến lợi nhuận, nhưng quan tâm đến nhân
vị của họ.
Những người Tin theo Ngài, là môn đệ của Ngài, cũng
phải sống là nhân chúng cho lòng bao dung tha thứ. Mang
bình an, niềm Vui, niềm Hy vọng đến cho đồng loại.
129.
42. Người chăn chiên
Người mục tử nhân lành phải được thể hiện qua hành động
với đoàn chiên, nghĩa là phải đi qua cửa mà vào, chiên nghe
tiếng của anh ta; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra... anh
đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng anh.
Còn ngược lại, nếu ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên
nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm. Theo
toàn thể văn mạch, Chúa Giêsu muốn nhắm đến các người
biết phái và ký lục là những kẻ tự cho mình là lãnh đạo dân,
hướng dẫn về đời sống thiêng liêng, nhưng thực ra họ chỉ là
những kẻ háo danh và chỉ quan tâm đến thiện ích riêng tư của
họ.
Thông thường chúng ta hay nghĩ mục tử là những người
lãnh đạo, là những người hướng dẫn trong cộng đoàn họ đạo.
Nhưng thực ra mục tử cũng có thể được hiểu rộng ra là các
bậc cha mẹ trong gia đình. Chúa Chiên Lành hôm nay chính
là mẫu gương cho các bậc cha mẹ noi theo. Ta cũng được
Chúa trao cho những linh hồn để trông coi, dẫn dắt, là những
người mục tử nhưng hành động của chúng ta có giống Chúa
Giêsu Nhân Lành hay chúng ta vẫn còn đang hành động
giống như kẻ trộm?
Vậy cha mẹ phải ăn ở thế nào cho đáng là chúa chiên lành
của con cái mình.
Tự trong sâu thẳm đáy lòng với khuynh hướng tự nhiên
cha mẹ dễ dàng chăm sóc hy sinh vì hạnh phúc của chính con
mình. Trong thực tế có rất nhiều cha mẹ đã yêu thương con,
chăm sóc cho con, lo cho con đầy đủ không để con cái thiếu
thứ gì, như thế có thể gọi là mới làm tròn phận sự về phần
xác. Còn về phần hồn thì sao? Ta đã quan tâm đủ đến con cái
chưa? "gọi tên từng con" để chúng không bị lạc vào thế giới
hiện đại của công nghệ thông tin, với những trò chơi và hình
130.
ảnh không thích hợp với tuổi của chúng. Ta có Ta có tránh
cho chúng chơi với những bạn bè xấu, ta có cất bỏ những dịp
đưa chúng đến sự xa hoa, truỵ lạc không? Nếu ta không làm
như vậy thì ta không phải là chúa chiên lành, vì người mục tử
nhân lành thì anh ta "đi trước và chiên đi theo sau" biết chỗ
nào nguy hiểm để cho chiên tránh, biết chọn ngọn cỏ tốt cho
chiên ăn, chỗ an toàn cho chiên nằm.
Hơn thề, ta có sẵn sàng hy sinh những tham vọng của ta,
nếu Chúa gọi con cái chúng ta dâng mình cho Chúa hay
không? Hay chúng ta chỉ ích kỷ muốn cho con cái chúng ta
vâng theo những tính toán đời này của chúng ta, mà không
cho chúng theo ơn Chúa kêu gọi. Nếu chúng ta làm như vậy,
thì chúng ta không hành động như Chúa Chiên Lành, vì Chúa
Chiên Lành sẵn sàng hy sinh vì con chiên chứ không cần lời
lãi ở con chiên. Nếu làm như thế chúng ta có khác gì các
Kinh sư và người Pharisêu. Chúng ta có biết từng con chiên
của ta như Chúa không? Ngài có thể gọi "đích danh từng
con" chứng tỏ Ngài rất hiểu và biết nằm lòng sự khác của các
con để không bị nhầm lẫn con này với con kia. Trong đoàn
chiên gia đình cũng thế, cha mẹ là những người chăn chiên
cũng phải hiểu rõ tính nết từng đứa con mình, để mà sửa đổi
những tính hư nết xấu, biết dẫn chúng đến những đồng cỏ
nhân đức cho chúng ăn, có như vậy chúng mới có thể trở
thành những con chiên mập, béo tốt và giúp ích cho tương lai
được.
Trong một cộng đoàn, không chỉ có mục tử mới có bổn
phận với con chiên, mà con chiên cũng có bổn phận với
người mục tử. Nếu mục tử nhân lành biết chiên của mình, thì
con chiên cũng phải "biết tiếng của anh". Ta là con chiên của
Chúa, ta có thật sự biết Chúa và đi theo Chúa chưa? Hỡi ơi
nhiều người Công Giáo thú nhận mình biết Chúa rất hời hợt.
131.
Có lẽ họ chỉ biết có Chúa. Còn những lời Người dạy qua các
bài Giáp lý, Kinh Thánh đã được học từ nhỏ thì nay không
còn nhớ gì hết. Không những thế, con chiên còn phải nghe
lời và theo Người nữa. Khi nhìn lại mình chúng ta phải lấy
làm xấu hổ vì đã không vâng lời Người bằng đoàn chiên
vâng lời kẻ chăn. Trong khi Chúa hằng đi trước để chỉ lối cho
ta. Vì thế nếu ta luôn "đi theo sau" chân Người, thì không bao
giờ bị lạc đường sai lối. Nếu chúng ta có gặp nguy hiểm,
hoạn nạn gian khổ, thì hãy nhớ rằng Chúa đã trải qua và
chúng ta chỉ đi theo Người.
Lạy Chúa Giêsu là Mục Tử nhân lành, xin cho con được
biết Chúa, nghe Chúa, theo Chúa và trở nên giống Chúa để
cùng được đoàn tụ trên nước thiên đàng với Chúa. Amen.
132.
43. “Ta là cửa chuồng chiên"
I. Ý CHÍNH:
Qua dụ ngôn về "Cửa chuồng chiên" trong bài Tin Mừng
hôm nay, Chúa Giêsu đã giới thiệu vai trò độc đáo của Người
và phải qua Người mới được ơn cứu độ, vì Người là Đấng
ban sự sống và nuôi dưỡng nhân loại.
II. SUY NIỆM:
Để giúp hiểu ý nghĩa dụ ngôn này, chúng ta nên biết rằng:
- Cựu Ước đã báo trước Đấng Thiên sai sẽ đến như một
mục tử Người sẽ chăn dắt (Mk 5, 3) " Ta sẽ cho chỗi dậy một
mục tử duy nhất, Người sẽ chăn dắt chúng" (Ed 34, 23).
- Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã áp dụng hình ảnh mục tử
cho mình. Ngài tự xưng là chủ chăn được sai đến với các
chiên lạc của Israel (Mt 15,24; Lc 19,10). Riêng trong Tin
Mừng thánh Gioan, bài giảng về người chủ chăn nhân lành
đã mở đầu Giáo Hội để rồi sau này thánh Phêrô tiếp tục sứ
mệnh chăn dắt đó (Ga 21,16).
1) “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi":
Đây là một kiểu nói mà thánh Gioan thường dùng, để nhấn
mạnh tính xác thực của một điều gì đã có trước, thực vậy, dụ
ngôn “cửa chuồng chiên" là nối tiếp câu chuyện người mù từ
bẩm sinh được Chúa Giêsu chữa lành, là để minh chứng
Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, vì vậy phải qua Người mới
được ơn cứu độ.
“Ai không qua cửa mà vào chuồng chiên...":
+ Chuồng chiên là hình ảnh quen thuộc của đời sống dân
Do thái du mục. Ở đây Chúa Giêsu nói đến Giáo Hội ở trần
gian và nước Chúa ở trên trời, tức là nước siêu nhiên.
+ Cửa chuồng chiên: mỗi chuồng chiên chỉ có một cửa
chính để chiên ra vào, ai muốn được vào Giáo Hội để hưởng
133.
Nước Trời là ơn cứu độ thì phải qua duy một cửa chính mà
thôi, cửa này chính là Chúa Kitô như Người đã tự nhận: “Ta
là cửa chuồng chiên". Ở đây khi nói đến các mục tử giả hiệu,
và theo toàn thể mạch văn, Chúa Giêsu có ý nhắm tới các
người Biệt phái và Ký lục là những kẻ từ lâu đã tự đặt mình
làm thủ lãnh và linh hướng của dân chúng mà không qua vị
canh giữ tối cao, không lãnh nhận từ Thiên Chúa một uỷ
nhiệm nào để thi hành sứ mệnh mục tử, như bọn trộm cướp,
họ đã chiếm đoạt đám tín hữu vì háo danh và óc thống trị hơn
là quan tâm đến thiện ích thiêng liêng của tín hữu.
2) "Còn ai qua cửa mà vào là kẻ chăn chiên":
Ở đây có ý nói đến những mục tử chân chính vào cửa đàng
hoàng vì đã lãnh sứ mệnh.
+ "Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho...":
Người mục tử chân chính là người đã được uỷ nhiệm
chính thức. Ở đây Chúa Giêsu muốn nói đến chính sứ mệnh
của Người, vì Người chỉ đến theo lệnh và uỷ nhiệm thần linh
mà Người đã nhận từ Chúa Cha khi chịu phép rửa (Ga 1, 31-
34).
+ "Và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy...":
Chỉ có chiên là những tín hữu đích thực, mới biết ngoan
ngoãn nghe theo tiếng vị mục tử của mình là Đức Giêsu, vì
"Phàm ai nghe và học nơi Cha thì đến với Đức Giêsu bằng
đức tin" (Ga 6, 45; 8,47).
+ "Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên"
Ở đây muốn nói đến những kẻ thực sự thuộc về chủ chăn
và đáp theo tiếng Người gọi và chỉ theo một mình Người,
điều này được biểu lộ qua ơn gọi của các vị tông đồ (Ga
1,35-49) như khi Chúa gọi Philippê "Hãy theo Ta" (1,43).
Qua tiếng gọi đặc biệt này Người "dẫn ra" tức là kéo họ ra
khỏi thế gian (Ga 15,19)
134.
+ " Khi đã lùa chiên mình ra ngoài..."
Khi đã kéo họ ra khỏi thế gian, Người tiên phong dẫn họ
tới đồng cỏ là Giáo Hội và tới Chúa Cha. Đặt trọn niềm tin
tưởng vào Người, các con chiên "theo Người" "làm tông đồ
Người” và họ biết tiếng Người: tức là đức tin cho họ một
nhận thức thiêng liêng, nhờ đó họ phân biệt trong tiếng nói
của vị mục tử, Chúa Giêsu, một âm vang trung thực của tiếng
nói Cha trên trời, và biết rằng qua miệng của Chúa Giêsu,
chính Chúa Cha đang nói (Ga 14,10).
+ "Chúng sẽ không theo người lạ...":
Chính sự nhận thức thiêng liêng này, tức là đức tin, khiến
họ không làm môn đệ những kẻ chăn chiên xa lòng, chẳng hề
được Thiên Chúa uỷ nhiệm vì không nhận ra nơi họ giọng
nói của những kẻ này âm vang của lời Thiên Chúa, nên họ
chạy chốn, họ chạy chốn vì những kẻ chăn chiên giả này đến
để mưu sát trộm cắp và tiêu diệt đàn chiên. Ở đây muốn ám
chỉ đến những người lãnh đạo dân Do Thái như các Biệt phái
Luật sĩ đã gieo rắc tai hại cho dân vì những gương xấu và
lầm lạc của họ.
3) "Chúa Giêsu phán dụ ngôn này..."
Những người Biệt phái mà dụ ngôn này nhắm tới không
nhận ra được bài học Chúa Giêsu dậy họ: bởi vì chiên lạ
không nghe tiếng của mục tử chính danh "Các ngươi không
tin vì các ngươi không thuộc đàn chiên của Ta" (Ga 10, 26).
4) "Ta là cửa chuồng chiên":
Vì những người nghe không nhận thức được bài học dụ
ngôn nên Chúa Giêsu nói thêm và Ngài giải thích bằng cách
Ngài tự nhận mình là cửa chuồng chiên để nêu lên chân lý
phải tin nhận vào Ngài mới được cứu độ, vì chỉ có Ngài là
cửa duy nhất của chuồng chiên.
5) "Tất cả những kẻ đã đến trước...":
135.
+ "Đến trước" ở đây không có ý nhắm tới thời gian cho
bằng nhắm tới thái độ của việc làm, bình thường thì sáng
sớm người chăn chiên đi thăm chuồng chiên, nếu có ai đến
trước đó, nghĩa là khi còn ban đêm, thì đích thực họ là kẻ
trộm cướp, tìm những lúc tăm tối để là những việc ám muội.
+ Dùng kiểu nói "Những kẻ đến trước" ở đây Chúa Giêsu
có ý nói đến các Tiên tri Cựu Ước vì theo thời gian, họ đã
xuất hiện trước Chúa Giêsu. Nhưng có thể Chúa nhắm những
người Do thái hoặc dân ngoại tự phụ dùng sức mình mà đem
lại cho nhân loại sự hiểu biết về Thiên Chúa và ơn cứu độ.
Nhưng cũng có thể Chúa nhắm tới những người Biệt phái
(Mt 23, 1-36; 9,36; Mc 6,34) và các thủ lãnh tôn giáo Israel
đã gạt dân của họ xa con đường sống, tức là các Do thái đã
tàn sát các Tiên tri, các Tiến sĩ thời Chúa Giêsu để ngăn chận
không cho thế hệ của họ đáp lại lời mời gọi Nước Trời.
6) "Ta là cửa, ai qua Ta mà vào...":
Chủ đề ‘cửa’ là một chủ đề rất phổ thông trong truyền
thống Do thái (St 28,17; Tv 78,23; Mt 7,13-14).
+ Kiểu "Ta là cửa" ở đây Chúa Giêsu muốn nói đến tính
cách của ơn cứu độ vì Ngài nói "Ta là cửa" chứ không nói
“Ta là cửa chuồng chiên" như ở trên.
+ Chữ "Cửa" ở đây muốn nói lên ý nghĩa như một lối dẫn
đưa vào các thực tại Thiên Quốc. Khi mở thì chữ "Cửa" diễn
tả một thái độ mời gọi, đón nhận. Khi đóng, đối với bên trong
thì diễn tả một sự che chở bảo vệ, đối với bên ngoài thì diễn
tả sự từ chối, thanh lọc.
+ "Người ấy sẽ ra vào"; "Ra vào" là kiểu nói Do thái có
nghĩa là đi lại tự do.
Ở đây muốn nhấn mạnh sự cần thiết và quan trọng của
việc phải tin vào Chúa Giêsu Kitô mới đem dân Chúa vào sự
136.
sống bằng cách cho họ tái sinh bởi nước và Thánh Thần (Ga
3,16-17)
Dân Chúa được cứu thoát nhờ Đức Giêsu giải phóng họ
khỏi ách nô lệ của tội lỗi và ma quỷ, họ được vui hưởng tự do
đích thực của con cái trong nhà Cha (Ga 8, 33-34). Cũng
trong Chúa Kitô dân chúng tìm được thức ăn no thoả là bánh
và Nước Hằng Sống, có sức dập tắt vĩnh viễn cơn đói khát
thiêng liêng của con người (Ga 6,35; 4,14).
7) “Kẻ trộn có đến thì chỉ đến để ăn trộm…”
+ Ở đây Chúa Giêsu có ý nhắm tới các Ký lục và Luật sĩ.
Họ là những mục tử giả hiệu, dù không được Thiên Chúa uỷ
nhiệm, họ vẫn tự cai trị dân Chúa vì họ ưa tìm vinh quang và
quyền lợi bản thân hơn là ưu tiên đến tiện ích cho dân Chúa
(Mt 23,4-7).
+ Họ sát hại và phá huỷ dân Chúa vì những gương xấu của
họ, như chính Chúa Giêsu đã tuyên bố với họ “khốn cho các
ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước
Trời, chận người ta lại…” (Mt 23,3-13).
8) "Còn Ta, Ta đến để chúng được sống...":
Chúa Giêsu được sai đến để cứu chuộc dân Chúa và ban
cho dân Chúa của nuôi là Bánh và Nước Hằng Sống.
* Cần lưu ý:
a) Từ Chúa Giêsu mục tử đến các tông đồ mục tử.
Sau khi về trời công việc chăn dắt đoàn chiên của Chúa
vẫn được tiếp tục "Chúa là mục tử hằng hữu không bỏ rơi
đoàn chiên Chúa, nhưng nhờ các tông đồ Chúa luôn che chở
giữ gìn, để đoàn chiên được hướng dẫn nhờ các vị lãnh đạo
Chúa đã đặt làm mục tử coi sóc đoàn chiên thay thế Con
Chúa (Kinh tiền tụng lễ các Tông Đồ).
137.
b) Ngày Chúa nhật IV Phục Sinh còn gọi là Chúa nhật
Chúa Chiên Lành (Lý do là vì các bài Tin Mừng đều trích từ
Gioan 10, nội dung nói về Chúa Chiên Lành) được chọn làm
Ngày Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu.
III) ÁP DỤNG:
* Áp dụng theo Tin Mừng:
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn dậy chúng ta
phải tin tưởng vào sự nuôi dưỡng che chở và giữ gìn của vị
mục tử tối cao là Chúa Giêsu Kitô, và đồng thời phải biết
tuân phục sự hướng dẫn và chăm sóc của các vị lãnh đạo
Chúa đã đặt làm mục tử coi sóc đoàn chiên thay thế Con
Chúa.
* Áp dụng thực hành:
Nghe Lời Chúa nói:
1) "Ai không qua cửa mà vào chuồng chiên": Chúa dạy
chúng ta phải biết phân biệt những người chăn chiên "không
qua cửa mà vào" tức là những người không được Giáo Hội
chính thức uỷ nhiệm như những giáo sĩ giả, những giáo sĩ
không tuân phục Giáo Hội, hoặc những vị phá giới, đồng thời
cũng cần phân biệt những lý thuyết những ý thức hệ ngược
với đường lối Chúa.
2) Vị mục tử đích thực là người được Giáo Hội chính thức
bổ nhiệm đồng thời phải có tư cách như tận tâm chăm sóc
yêu mến đoàn chiên, sẵn sàng hy sinh cho đoàn chiên và nhất
là biết hướng dẫn đoàn chiên theo giáo huấn của Chúa.
3) "Ta là cửa chuồng chiên" Chúa đòi hỏi ta phải tin và
sống theo Chúa Kitô mới được cứu độ. Chỉ có Chúa Kitô là
con đường duy nhất dẫn ta vào sự sống đời đời.
4) Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá
huỷ. Những ai hướng dẫn ta, lôi kéo ta, cai trị ta mà không
theo đường lối của Chúa, không thông hiệp với Giáo Hội, thì
138.
đều là những kẻ nguy hại cho phần rỗi của ta, nên phải đề
phòng và canh chừng những người đó.
5) Hãy tin tưởng và phục tùng những người lãnh đạo đã
được Chúa uỷ thác trong Giáo Hội để chăm sóc đoàn chiên
Chúa.
6) Cầu nguyện trong ngày Ơn Thiên Triệu.
+ Xin Chúa cho nhiều người quảng đại đi theo tiếng Chúa
gọi.
+ Xin Chúa cho linh mục, tu sĩ trung thành với ơn gọi.
+ Xin Chúa hướng dẫn lớp trẻ về với ơn gọi.
139.
44. Mục tử nhân lành
Đối với người Việt Nam chúng ta thì hình ảnh "người
chăn chiên" là một hình ảnh rất xa lạ, vì nước ta không chăn
nuôi chiên như những người Do thái thời xưa. Hơn nữa,
trong khi cả đất nước đang nói đến công nghiệp hoá, hiện đại
hoá mà chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện "đàn chiên
và mục tử" thì e rằng chúng ta bị coi là người quê mùa, lạc
hậu. Nhưng đối với người công giáo chúng ta, thì hình ảnh
"chiên và mục tử" là một hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, nói lên
mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người, Thiên Chúa
luôn yêu thương, quan tâm, tận tình chăm sóc dân của người
không chỉ về vật chất mà còn về tâm linh, không chỉ ở đời
này mà còn cả đời sau nữa. Bài Tin Mừng hôm nay là một
bằng chứng cụ thể, Chúa Giêsu ví mình như một Mục Tử
Nhân Lành, luôn quan tâm, chăm sóc, yêu thương đàn chiên
của mình.
Mục Tử Nhân Lành đi qua cửa chính mà vào chuồng
chiên. Anh gọi chiên bằng một tiếng gọi riêng, chiên nhận ra
tiếng anh và đi theo. Còn mục tử giả hiệu thì trèo tường mà
vào chuồng, chiên chẳng những không theo mà còn sợ hãi,
chạy trốn, vì chúng không biết tiếng người lạ. Chúa Giêsu
gọi những mục tử giả hiệu này là trộm cướp. Họ đến chỉ để
giết hại và phá huỷ đàn chiên, còn Chúa Giêsu đến để chiên
được sống và sống dồi dào, giữa chiên và Ngài có một mối
dây thân thiết "Tôi biết chiên tôi và chiên tôi biết tôi". Chiên
đã trở thành điều vô cùng quý giá đối với Ngài, đến nỗi Ngài
dám hy sinh mạng sống mình cho chúng.
"Ta là Mục Tử Nhân Lành", Chúa Giêsu đã nói như thế.
Các bạn muốn được nuôi dưỡng, được chăm sóc, được hướng
dẫn thì như Chúa Giêsu đã nói "Hãy theo Ta", nhưng các bạn
hãy cảnh giác, đừng có bắt cá hai tay, nghĩa là các bạn không
140.
thể vừa nghe theo tiếng gọi của Mục Tử Nhân Lành lại vừa
nghe theo tiếng gọi của thế gian. Vì chính Chúa Giêsu đã
cảnh cáo "các ngươi không thể làm tôi hai chủ được". Tiếng
của Mục Tử Nhân Lành luôn luôn đối nghịch với tiếng của
thế gian và chúng ta sẽ chọn một trong hai "Ngươi sẽ ghét
chủ này và yêu chủ nọ hoặc sẽ bỏ chủ này mà theo chủ kia"
(Lc 16,13).
Chúa Nhật thứ IV PS hằng năm, còn gọi là Chúa Nhật
Chúa Chăn Chiên Lành, Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện
cho ơn thiên triệu, nghĩa là cầu xin Chúa ban cho Giáo Hội
có nhiều người trẻ biết hy sinh, biết quãng đại đáp lại lời mời
gọi của Chúa Giêsu để dâng mình cho Chúa trong ơn gọi làm
Linh mục, làm tu sĩ. Đây là vấn đề sống còn của Giáo Hội.
Giáo Hội hôm nay cũng như trong tương lai vẫn luôn cần đến
sự hướng dẫn của các mục tử để đoàn chiên được sống trong
đồng cỏ xanh tươi. Vì thế, suốt chiều dài lịch sử của Giáo
Hội, Chúa Giêsu vị Mục tử tối cao đã chọn các Mục Tử là
các Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, các Linh mục, Ngài
trao phó cho họ tất cả với điều kiện là phải trở nên vị Mục Tử
tốt lành như Ngài.
Để có những ơn gọi cho Giáo Hội, để có những thợ gặt
cho cánh đồng truyền giáo, thì ngay từ hôm nay các bạn phải
biết tập lắng nghe tiếng gọi của Chúa Giêsu, hãy tập sống
theo gương Chúa Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành bằng cách cố
gắng thực hiện 3 việc sau đây:
Biết sống hy sinh: sự khác biệt giữa người Mục Tử Nhân
Lành và người chăn thuê ở chỗ là có dám hy sinh vì đàn
chiên của mình hay không? Sự hy sinh của các bạn hôm nay
sẽ là dấu chỉ cho thấy tương lai các bạn trở nên Mục Tử như
lòng Chúa mong ước. Sự hy sinh đó được thể hiện bằng
những việc cụ thể như: tham dự thánh lễ mỗi ngày, mỗi tuần,
141.
tích cực tham gia các phong trào thiếu nhi thánh thể và giới
trẻ trong họ đạo của mình. Biết giúp nhau vượt khó, hy sinh
tiền quà bánh, tiền mua sắm để giúp bạn có điều kiện đến
trường.
Biết quan tâm đến người khác: Từ nhỏ cho tới lớn các
bạn được cha mẹ quan tâm nhiều, từ việc ăn uống tới học tập,
từ việc ăn mặc tới nghỉ ngơi. Điều này có thể dẫn các bạn đến
chỗ đánh mất ý thức là chính các bạn phải quan tâm đến
người khác. Quan tâm tức là nhìn thấy công ơn to lớn của cha
mẹ mà cảm ơn, sống tốt. Quan tâm là biết trở thành đứa con
ngoan trong gia đình qua việc cố gắng phụ giúp cha mẹ, cố
gắng học hành cho thật tốt. Quan tâm là biết giúp đỡ, biết
quên mình để phục vụ cho lợi ích tha nhân, biết vui với niềm
vui và buồn với nỗi khổ của người khác.
Sống có lý tưởng, có ước mơ: Sống là phải có lý tưởng,
phải có ước mơ. Ước mơ làm Linh mục, làm thầy giáo, làm
kỹ sư, làm bác sĩ... chính những ước mơ đó sẽ là động lực
giúp các bạn phấn đấu vượt khó để vươn lên. Những ước mơ
đó sẽ thôi thúc các bạn học và thực hành theo vị Mục Tử
Giêsu đã làm là: hy sinh, quan tâm tới tha nhân và sống theo
lý tưởng cao đẹp mà Chúa đã mời gọi. Amen.
142.
45. Bạn đang lắng nghe đó chứ?
Các vỉa hè và những con đường trong thành phố
Manhattan thường trở nên thật nhộn nhịp ồn ào vào giấc
trưa bởi người ta tấp nập vội vã tìm quán ăn trưa, xe cộ bấm
còi inh ỏi cùng những tiếng thắng xe nghe đến rợn người,
thêm vào đó là tiếng còi hụ rền rĩ. Có hai người đàn ông
đang cùng đi với nhau chen lẫn giữa đám đông. Một người là
thổ địa ở New York còn người kia là dân vùng quê ở Kansas
đến thăm. Bất thình lình, người dân quê dừng lại và nói với
người kia rằng: "Khoan đã, tôi nghe có tiếng dế gáy đâu
đây". Ông kia trả lời: "Bộ anh giỡn chơi hả? Ở đây thường
không có dế đâu, mà dù có đi nữa thì làm sao anh có thể
nghe được tiếng nó gáy giữa sự quá ồn ào này?" Anh bạn
nhà quê giữ im lặng lắng nghe trong một vài giây rồi bước
tới một góc có bồn xi-măng trồng mấy cây trong đó. Anh ta
lật vài chiếc lá ra và nhìn thấy một con dế đang núp mình
trong đó. Anh bạn ở tỉnh thấy vậy thì rất ngạc nhiên và khâm
phục nên nói: "Tai anh thật là thính!" Anh bạn quê trả lời:
"Không phải vậy đâu, tai anh cũng thính như tai tôi vậy thôi.
Chẳng qua tai mỗi người làm quen với tiếng động mà họ
thường lắng nghe mà thôi. Đây, để tôi chứng minh cho anh
xem". Nói xong anh liền móc ra một nắm tiền cắc rồi quăng
nó lên lối đi. Khi tiếng vang do nắm đồng cắc chạm mặt
đường thì hầu hết mọi người đang đi đều quay nhìn về hướng
đó. Anh bạn ở quê liền nói: "Anh thấy không, chẳng qua là
nguời ta muốn nghe những gì họ muốn nghe mà thôi. "
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cùng
một bài học đó bằng cách dùng hình ảnh người chăn chiên và
bầy chiên. Vào thời của Ngài (ngay cả bây giờ nơi Đất Thánh
cũng vậy), khi chiều tàn thì những mục tử lùa bầy chiên của
họ từ ngoài đồng cỏ về và nhốt chung lại với nhau trong một
143.
chuồng. Rồi đến sáng hôm sau những mục tử trở lại chuồng
và tuần tự gọi những con chiên thuộc về mình mà dẫn chúng
đi ăn. Điều đặc biệt là những con chiên nhốt chung đó tự tách
ra khỏi bầy mà theo tiếng gọi riêng của chủ nó. Chúng không
bị lẫn lộn bởi tiếng gọi của những mục tử nhưng tự chờ đến
khi đúng tiếng của chủ nó mới đi ra.
"Ta là Mục Tử Tốt Lành," Chúa Giêsu đã nói như thế. Các
bạn muốn cuộc sống được nuôi dưỡng, chăm sóc, và hướng
dẫn đến mức sung mãn thì như Chúa Giêsu đã nói "Hãy theo
Ta!" Có một điều không thể xảy ra đó là các bạn vừa nghe
theo tiếng gọi của Mục Tử Nhân Lành vào ngày Chúa Nhật
và lại vừa đi nghe theo tiếng gọi của chủ chăn khác cả
nguyên tuần được. Vì chính Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Các
ngươi không thể làm tôi hai chủ được... các ngươi không thể
vừa thờ phượng Thiên Chúa mà lại thờ tiền của được". Tiếng
của Chủ Chăn Nhân Lành luôn luôn đối nghịch với tiếng của
thế gian, và chúng ta phải chọn một trong hai vì như: "Ngươi
sẽ ghét chủ này và yêu chủ nọ hoặc sẽ bỏ chủ này mà theo
chủ kia" (Lk 16:13).
Gia đình chúng ta bị những tiếng khuyến dụ của thế gian
quấy rầy cả bảy ngày trong một tuần bởi hằng triệu Đôla
được bỏ ra làm chuyện đó; chúng ta được rỉ tai liên lỉ là:
"Này bạn ơi nghe đây, bạn sẽ có một cuộc sống thoải mái nếu
như bạn mua thứ này, mặc thứ nọ, ăn của kia, uống thức
khác". Ví dụ như để xúi dục các bạn thanh niên uống bia
nhiều hơn thì họ đã bỏ ra một số tiền khổng lồ để làm ra một
quảng cáo thật hấp dẫn trình chiếu trên truyền hình. Hầu hết
những diễn viên trong mục quảng cáo đó rất xinh đẹp trẻ
trung, và ý tưởng của quảng cáo là hãy uống bia nếu như
muốn cuộc đời mình hạnh phúc. Đây là câu chính quan trọng
trong pha quảng cáo: "Không còn gì tốt và hay ho hơn điều
144.
này!" Thế nhưng đồng thời, thống kê cho biết là cứ mười
trong một ngàn người bị chết hoặc tàn tật suốt đời bởi tai nạn
là do say rượu lái xe.
Cứ tuần tự mỗi tuần lễ chúng ta tụ họp nơi đây và được
nghe các vị Mátthêu, Mátcô, Luca, Gioan và Phaolô loan báo
cho chúng ta biết rằng Ngôi Lời Thiên Chúa đã mặc xác
phàm đi vào thời gian nhưng hiện tại Ngài đã đi vào biên giới
của nhịp điệu vĩnh cửu.
Bạn đang lắng nghe đó chứ? Lời Chúa nói cho chúng ta
biết về Đấng Tình Yêu vượt quá mọi đo lường. Lời Chúa
loan báo cho chúng ta một Hy Vọng vượt quá mọi suy tưởng.
Lời Chúa cho chúng ta biết về một cuộc sống toàn hảo sẽ ban
tặng cho những ai bước vào gianh giới của vĩnh hằng. Đừng
để tiếng động nhỏ của đồng tiền lôi chúng ta ra khỏi ranh giới
đời đời!
145.
46. Mục Tử Nhân Lành – Lm. G. Nguyễn Cao Luật
Năm 1964 dư luận thế giới xôn xao bàn tán về kịch bản
tựa đề "Vị Đại Diện" Trong đó, soạn giả Hóc-hút kết án Đức
Giáo Hoàng Piô XII là đồng lõa với Đức Quốc Xã nên đã
không hề lên tiếng bênh vực người Do Thái trong thời thế
chiến II. Rồi tất cả những người thù nghịch Tòa Thánh
Vatican đã nhao nhao hùa vào bôi nhọ gương mặt của Đức
Piô XII và đả kích Giáo Hội. Nhưng một năm sau đó, linh
mục Rosaria Espuslto đã cho xuất bản cuốn sách tựa đề "Vụ
án Vị Đại Diện" thu thập rất nhiều tài liệu và chứng từ chứng
minh cho thấy cái sai lầm của những lời kết tột nói trên.
Thật ra, qua các Tông huấn và hàng trăm thư từ và cả các
sứ đíệp đọc trên đài Vatican, Đức Piô XII đã nhiều lần kết án
Đức Quốc Xã về quyền con người và các vụ tàn sát do Đức
Quốc Xã chủ mưu cũng như bênh vực và cứu hàng ngàn
người Do Thái khỏí chết. Và hình ảnh khó quên nhất là khi
thủ đô Rô-ma bị quân Đức Quốc Xã bỏ bom, Đức Piô XII đã
rời thành Vatican đến uỷ lạo dân chúng bí chết và bị thương
trên quảng trường trước nghĩa trang Pam-pu-pi-ra-nô giữa
tiếng bom đạn nổ chung quanh. Trong tình hình chiến sự
nguy ngập và với những phương tiện eo hẹp của thơì thế
chíến II, Đức Piô XII đã hành động như một Vị Mục Tử nhân
lành.
Mục Tử nhân lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên.
Đây cũng là đề tài nổi bật của các bài đọc Phụng vụ CN IV
Phục Sinh Năm A.
Trong bài Tin Mừng: Chương 10 Tin Mừng Gio-an vẫn
được gọi là Tin Mừng Mục Tử nhân lành được khai triển
theo một lược đồ quen thuộc trong nền văn chương Khải
huyền. Lược đồ đó gồm ba nhịp: Lời Mạc khải - Thái độ
không hiểu của cử tọa - Lời Mạc khải mới. Khác với các Tin
146.
Mừng Nhất Lãm nhấn mạnh trên việc săn sóc đoàn chiên và
niềm vui của sự hoán cải, Tin Mừng theo thánh Glo-an nêu
bật các mối liên hệ cá nhân, thân tình của vị Mục Tử và từng
con chiên. Tất cả những hình ảnh Thánh kinh: Mục Tử,..,
đoàn chiên và các chiên cũng như các động từ để diễn tả mối
tương giữa Thiên Chúa với loài người với cộng đoàn Giáo
Hội, dân riêng của Thiên Chúa, trong nhãn quan Kitô.Hình
ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhắc nhở hình ảnh Thiên Chúa Mục
Tử hướng dẫn dân Do Thái ra khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập và
đưa họ vào Đất Hứa như được tường thuật trong sách Xuất
hành.
Mạc khải thứ nhất trong chương 10 Tin Mừng theo thánh
Gio-an nêu bật sự khác biệt giữa Chúa Giêsu Mục Tử nhân
lành và các người chăn thuê: Chúa Giêsu đi vào qua cửa
chính chứ không đột nhập chuồng chiên bởi vì Người là chủ
chăn có các mối liên hẹ thân tình với đoàn chiên, bằng chứng
là Người biết và gọi trên từng con chiên một và các chiên biết
tiếng gọi của Người. Động từ "biết" ở đây theo ngôn ngữ
Thánh Kinh ám chỉ các liên hệ thân tình liên bản vị như liên
hệ sâu thẳm khắng khít giữa hai vợ chồng.
Và Chúa Giêsu Mục Tử dẫn đưa đoàn chiên đi ra tới các
đồng cỏ xanh tươi, Người hướng dẫn và đồng hành với đoàn
chiên. Đây là một hình ảnh tuyệt đẹp diễn tả cuộc Xuất hành
mới do Chúa Giêsu lãnh đạo Cộng đoàn của những người đi
theo Người trong cuộc giải phóng này là cộng đoàn Phục
Sinh, là Giáo Hội đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi tội lỗi
và khỏi mọi sự dữ và cái chết. Sau phản ứng không hiểu của
cử tọa, Chúa Giêsu tuyên bố mình là Cửa chiên. Lúc đó trong
khi giảng dạy, Chúa Giêsu nhìn Cửa chiên là một hình ảnh
của cửa thành thánh Giê-ru-sa-lem và đoàn tín hữu tiến qua
cửa chiên đó để vào Đền thờ cầu nguyện và gặp gỡ Thiên
147.
Chúa. Vì thế khi tuyên bố mình!à Cửa chiên, Chúa Giêsu có
ý nói Người là nơi mà qua đó con người bước vào trong
tương quan trọn vẹn với Thiên Chúa. Người là ngôi lều bằng
thịt nơi Thiên Chúa ngự trị và sống giữa dân người, đồng thời
là trung gian cần thiết, nghĩa là Cửa chính qua đó con người
tới được với Thiên Chúa.
Kiểu nói "Ta là" ám chỉ tên gọi của Thiên Chúa đã mạc
khải cho ông Mô-sê trong sa mạc xưa kia: 'Ta là Đấng Hằng
Hữu. Nói cách khác Chúa Giêsu tự xưng mình là Thiên
Chúa. Chính vì thế nên ai tin vào Người, chấp nhận và sống
Tin Mừng của Người sẽ được ơn Cứu độ. Lòng tin đó vào
Chúa Gìê-su, Đền Thờ toàn vẹn của Thiên Chúa Cha bao
gồm ba kết quả quan trọng:
Thứ nhất: nếu ai bước vào trong đó sẽ được cứu rỗi, nghĩa
là ai chọn tôn thờ Thiên Chúa trong Thánh Thần và trong sự
thật, tức là trong Chúa Giêsu Kitô, thì được thông phần trọn
vẹn vào sự sống thần linh của Người, và vì thế được ơn cứu
rỗi.
Thứ hai: người đó sẽ "vào, ra". Theo klểu nói của người
Do Thái, hai động từ đối chọi này ám chỉ hai cực của cuộc
sống con người: là ra khỏi lòng mẹ để chào đời, để bước vào
trong lòng thế giới; là ra khỏi cuộc sống ở trần gian này để đi
vào lòng đất. Nói cách khác, 'vào ra, ra vào' diễn tả toàn bộ
cuộc sống của người tín hữu với Chúa Kitô, một cuộc sống
của sự hiện diện và đồng hành với Chúa Kitô, một cuộc sống
kết hiệp với Người trong mọi sự.
Thứ ba: tín hữu sẽ tìm thấy đồng cỏ xanh. Chúa Giêsu
Kitô sẽ đáp ứng mọi khát vọng và chờ mong của họ và cho
họ hưởng nếm những phút giây hạnh phúc trên đồng cỏ xanh
tươi là Nước của Người. Điều đó còn có nghĩa là Người luôn
148.
luôn chăm sóc cho đoàn chiên của Người khác với "những kẻ
trộm trèo qua cửa sổ" để cướp bóc và tàn sát đoàn chiên.
Chúa Giêsu Kitô Mục Tử nhân lành đến để trao ban cuộc
sống của chính Người và niềm vui dồi dào cho những ai tin
vào Người. Nhưng để có niềm tin trao ban sự sống và niềm
vui ấy chúng ta phải làm gì?
Trong bài giảng cua thánh Phêrô trong ngày lễ Chúa
Thánh Thần Hiện Xuống, như ghi trong chương hai sách
Công vụ Tông đồ, thánh Phêrô đề nghị với mọi người một
chương trình hoán cải bao gồm các đểm giáo lý nền tảng như
được rao giảng trong cộng đoàn Kitô tiên khởi. Muốn được
hưởng ơn Cứu độ, người tín hữu phải lựa chọn Chúa Giêsu
Kitô và Tin Mừng của Người, nghĩa là lựa chọn Chúa Giêsu
Kitô và Tin Mừng của Người làm kim chỉ nam cho toàn cuộc
sống. Quyết định này dẫn tín hữu đến chỗ thay đổi tấm lòng,
thay đổi lối sống từ cách suy tư và hành xử, để cho Chúa
Giêsu Kitô biến đổi toàn cuộc sống của mình.
Tiến đến cần lãnh nhận bí tích Rửa tội và Chúa Thánh
Thần để được ơn tha tội và bước vào cuộc sống kết hiệp thân
tình với Thiên Chúa. Như thế, khi được tràn đầy Chúa Thánh
Thần, tín hữu trở thành một thụ tạo mới vì có trong mình một
nguyên lý sự sống mới thần thiêng, siêu việt. Dân riêng mới
phát sinh từ những người biết tìếp nhận Lời Chúa.
Nơi bài đọc II trích từ thư I của thánh Phêrô chỉ cho chúng
ta một bí quyết khác giúp tín hữu đón nhận được sự sống
mới, đó là chiêm ngắm dung mạo của Chúa Giêsu Kitô khải
hoàn, vinh híển được diễn tả trong Kính thánh Cựu Ước là
"Chiên Con" của Lễ Vượt Qua, là "Người Tôi Tớ Đau Khổ
của Gia-vê Thiên Chúa" và là con dê đền tội trong lễ nghi xá
giải xưa kia. Việc chiêm ngắm gương sống của Chúa Giêsu
Kitô khiến cho tín hữu dấn thân sống xác tín bằng lòng tin
149.
sâu đậm hơn. Khổ đau mà họ phải gánh chịu trong cuộc sống
thường ngày không còn là một lời chúc dữ tối tăm nữa nhưng
chất chứa môt mầu nhiệm phong phú cần phải khám phá ra
với đôi mắt đức tin. Nếu chính câc vết thương đớn đau và
khổ nhục của Cllúa Giêsu cbịu chết treo trên thập giá chữa
chúng ta khỏi các thương tích do tội lỗi gây ra trong tâm hồn
và cuộc đời chúng ta, thì giờ đây chúng ta có thể dùng mọi
đau khổ trong đời để tiếp tục phổ biến ơn lành Cứu độ phát
xuất từ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Và đó là hoa trái tuyệt
diệu và bất ngờ nhất của đức tin Kitô.
150.
47. Mục tử chân chính
(Suy niệm của Lm Trần Xuân Lãm)
Mục tử là thuật ngữ Cựu ước dùng để chỉ về Chúa. Trong
Sáng thế ký, Gia-cóp tuyên xưng Chúa là Vị mục tử của ông
từ lúc ông sinh ra. Trong thánh vịnh 23, David nói: "Chúa là
mục tử của tôi, tôi chẳng còn thiếu thốn chi". Tiên tri Isaia
nói Chúa sẽ dẫn đưa Do thái khỏi chốn lưu đầy, như mục tử
vác chiên trên vai (40:11). Trong Cựu ước, đã có những mục
tử chính danh làm đúng ý Chúa như David, Mô-sê. Nhưng
cũng có những mục tử xấu không làm tròn bổn phận. Với
hạng này, tiên tri E-zê-ki-en đã cảnh cáo: "Khốn cho những
mục tử nhà Is-ra-en là những kẻ, thay vì chăm sóc đàn chiên,
lại chỉ chăm sóc chính mình" (Ez 34:2)
Có nhiều hình ảnh và tính cách chỉ về mục tử, cần làm rõ
nét:
1. Mục tử gọi đích danh chiên của mình:
Tại Palestine, người ta thường vây hàng rào cao để lùa
chiên vào và canh giữ. Cửa được mở ra mỗi buổi sáng. Chiên
xem ra sợ sệt lúc ra khỏi chuồng cũng như khi trở về buổi
chiều. Chỉ khi chúng nghe tiếng mục tử, chúng bắt đầu tiến
lên, và khi chúng nghe mục tử gọi tên, chúng bước ra. Chúa
yêu chúng ta, Chúa gọi đích danh từng người, chúng ta theo
Chúa và chúng ta sẽ được cứu thoát.
2. Mục tử bước đi trước chiên:
Nhiều nơi, như ở Australia, mục tử dùng gậy hoặc dùng
chó để hướng dẫn chiên. Nhưng ở Palestine, mục tử đi trước,
chiên bước theo sau. Hình ảnh này nói lên Chúa dẫn dắt ta,
không phải Ngài lùa ta đi. Ngài đi trước ta, ta tin tưởng bước
theo Ngài.
3. Cửa chuồng chiên:
151.
Khi chiều buông, đàn chiên không kịp về chuồng trước
nửa đêm, thì mục tử lùa chiên vào trong hang, rồi anh ta nằm
chắn ngay lối vào. Chiên sẽ không lang thang đi ra ngoài. Và
thú dữ cũng chẳng có thể vào hang bắt chiên. Mục tử tự làm
cho mình thành cửa chuồng chiên. Không một ai ra hay vào
mà không bước qua anh ta. Qua hình ảnh tuyệt đẹp này, Chúa
Giêsu cho ta biết chẳng có ai đến được với Thiên Chúa mà
không qua Ngài.Ta chỉ được cứu thoát vì tin và đi theo tiếng
gọi của Chúa Giêsu, Đấng được Thiên Chúa sai đến.
4. Kẻ trộm và cướp bóc:
Những ai không qua cửa mà vào thì không phải mục tử mà
là kẻ trộm và kẻ sát hại. Ai không qua Chúa Giêsu thì kẻ ấy
kéo bày chiên xa rời Thiên Chúa. Thánh Gioan ám chỉ các
lãnh đạo Do-thái. Bởi họ đã trục xuất Chúa Giêsu và các môn
đệ của Ngài ra khỏi hội đường của họ. Gio-an ví họ những kẻ
bỏ mặc đoàn chiên cho trộm cắp và sát thủ.
Quả thực Chúa là Mục tử: "Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng
thiếu thốn chi" (Tv. 23).
152.
48. Chúa chiên của tôi – Lm Gioan Vũ Nghi
Mấy năm trước đây, một bé gái 5 tuổi được đưa vào viện
mồ côi. Mấy ngày trước đó, bố mẹ của em đã cãi vã với
nhau, rồi bố em đã bắn chết mẹ em, rồi quay súng lại mà tự
vẫn. Tất cả xảy ra trước sự chứng kiến của em. Đến ngày
Chúa Nhật sau đó, em được đưa đến Nhà thờ Công Giáo để
tham dự thánh lễ và sau đó, dự lớp Giáo lý. Vì sợ cô giáo
không hiểu hoàn cảnh của em, người coi sóc viện mồ côi đã
phải căn dặn cô giáo: Bố mẹ của em là người vô thần, nên
chắc chưa bao giờ bé được nghe về Thiên Chúa, vì vậy, xin
cô giáo nhẫn nại với em. Trong buổi học đầu, cô giáo đã giơ
cao một bức hình Chúa Giêsu và hỏi cả lớp: "Có em nào biết
đây là ai không?" Cô bé giơ tay trả lời: "Em biết, đó là người
đã ôm em vào lòng sau khi ba má em chết."
Câu chuyện của em bé trên đây chỉ là một trong ngàn vạn
câu chuyện thương tâm khác đang xảy ra trong xã hội ngày
nay. Chồng giết vợ, mẹ giết con, con giết bố mẹ, bạn bè
thanh toán nhau, nhân công ám hại nhau, là những mẩu tin
chúng ta thường đọc thấy trong báo hằng ngày. Trong những
ngày tháng gần đây, nạn khủng bố đã gây tang tóc thương
đau cho biết bao gia đình. Những lá thư hăm dọa đã khiến
cho con người sống trong lo sợ. Quân khủng bố đã bất chấp
thủ đoạn khi hành động. Tháng Giêng vừa qua tại Do Thái,
lần đầu tiên một phụ nữ đã nổ bom tự sát để giết người. Sau
đó, người ta tìm ra chị ta là một trong những nhân viên cứu
thương của thành phố. Hôm trước cứu người; hôm sau giết
người. Thật là khó hiểu. Hơn nữa, họ còn coi đây là thánh
chiến. Lắm lúc nghĩ cũng thấy buồn. Ba tôn giáo lớn trên thế
giới: Kitô giáo, Hồi giáo, Do thái giáo cùng tôn thờ một
Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, thế mà đã mười mấy thế kỷ
chém giết nhau. Con cháu tổ phụ Abraham ngày nay đã đông
153.
như sao trên trời như cát dưới biển, đúng như Lời Chúa đã
hứa, nhưng tiếc thay con cháu tổ phụ lại cắn xé nhau, để rồi
gây tan tác cho đoàn chiên của Chúa.
Khi xưa, Chúa Giêsu sống trong một xã hội tuy không hận
thù khủng bố, nhưng cũng mang đầy những thù ghét, chia rẽ,
kỳ thị và bất công. Những người Samaritanô, tuy cũng mang
giòng máu Do thái, nhưng lại bị người Do thái coi là dân
ngoại; những người thu thuế bị coi là người tội lỗi, nên tuyệt
đối bị những người "ngoan đạo" xa tránh; những người
phong cùi bị đuổi ra sống bên ngoài xã hội. Đứng trước thảm
trạng đó, Chúa Giêsu đã đến và đã ví mình như gà mẹ túc con
dưới cánh để bảo vệ và vỗ về. Chúa đã tỏ tình thương và mối
quan tâm đặc biệt đối với những người tội lỗi, nghèo khó,
bệnh tật, những người sống bên lề của xã hội. Chúa cũng ví
mình như một Chủ Chiên đến để qui tụ đoàn chiên đã bị chia
ly phân tán, và để đem lại sức sống và niềm hy vọng cho
đoàn chiên: "Ta đến để cho chúng được sống và được sống
dồi dào."
Với hiện trạng của thế giới, Lời Chúa vẫn còn mang một ý
nghĩa đặc biệt cho con người ngày nay. Thật vậy, Chúa
Giêsu, Chúa Chiên của chúng ta, đã đến để chúng ta được
sống, nhưng không phải sống trong chán chường tẻ lạnh, một
cuộc sống vô nghĩa. Chúa đến là để chiên của Ngài được
sống một cách dồi dào, nghĩa là một cuộc sống đầy yên vui,
an bình, và yêu thương. Đó là điều Chúa đã hứa ban cho mỗi
người chúng ta, và Ngài đã và đang thực hiện lời hứa của
Ngài nơi những con chiên đáp lại lời mời gọi của Ngài và
vâng theo sự hướng dẫn của Ngài.
Với tình thương bao la của người, Chúa đã đến kêu gọi
mỗi người chúng ta hãy tiến bước theo Ngài, hãy nhập đoàn
chiên của Ngài. Đây không phải là lời mời gọi một cách
154.
chung chung, nhưng là lời mời có tính cách cá nhân và trực
tiếp. Cũng như ngày xưa Chúa đã đến gặp Nicôđêmô,
Giakêu, Matthêu, người đàn bà Samaritanô bên bờ giếng
Giacob, và người bất toại bên bờ Bếtsaiđa, thì ngày nay Chúa
cũng vẫn còn đến để phù trợ, chữa lành, gặp gỡ, hướng dẫn,
và chỉ bảo chúng ta trong cuộc sống. Ngài ban Thánh Thần
của Ngài cho chúng ta để an ủi, nâng đỡ, giúp sức, và sự
khôn ngoan, để chúng ta có đủ sức đối diện với mọi khó khăn
trong cuộc đời. Qua Lời Chúa và các Bí tích, đặc biệt là Bí
tích Thánh Thể, Ngài bảo vệ và ban ơn giúp chúng ta thoát
khỏi nanh vuốt của thần dữ, như những kẻ trộm, đang bày trò
hãm hại chúng ta. Và những khi chúng ta vấp ngã, qua Bí
tích Xá giải, Ngài sẵn sàng ôm chúng ta vào lòng để tha thứ
yêu thương, như người cha nhân lành đối xử với đức con
phung phá.
Ước chi chúng ta hãy đáp lại lời mời của Ngài. Hãy luôn
nhận Ngài là Chúa Chiên của mình và luôn tin tưởng vào sự
hướng dẫn phù trợ của Ngài. Có Chúa ở cùng, cho dù bất cứ
điều gì xảy ra, tâm hồn chúng ta vẫn tìm được sự bình an.
Không phải là chúng ta sẽ hết phải đau khổ, nhưng vì chúng
ta có Chúa là sức mạnh và là nguồn ủi an cho chúng ta, nên
không gì lấy mất đi niềm hy vọng và sự bình an trong tâm
hồn chúng ta được. "Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng
thiếu thốn chi. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi sợ gì nguy
khốn, vì có Chúa ở cùng tôi" (Tv 23)
155.
49. Đức Giêsu, mục tử nhân lành
(Suy niệm của Lm. Trần Ngọc Nhơn)
1. Bối cảnh bài Tin Mừng về Chúa Chiên Lành
Ngụ ngôn "Chúa chiên lành" này có liên quan với đoạn
Tin Mừng trước. Khi Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới
sinh, những người Pha-ri-sêu nệ luật, sợ mất ảnh hưởng của
dân chúng đã kết án Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sa-
bát. Họ chưa đối mặt với Chúa Giêsu mà chỉ gây khó dễ và
cuối cùng đã trục xuất người mù được sáng mắt ra khỏi cộng
đoàn. Thái độ của người mù thật đáng khâm phục!Anh đã
can đảm biện hộ cho Chúa Giêsu và đã tin nhận Ngài là Đấng
Ki-tô.
Bối cảnh đó rất thích hợp để Chúa Giêsu nói đến ngụ ngôn
"Mục Tử Nhân Lành" này. Anh mù chính là "con chiên" đã
"nghe tiếng" và đã?"nhận biết tiếng" của Mục Tử của mình.
Lấy "thái độ của chiên đối với Mục Tử" làm tiêu chuẩn, Chúa
Giêsu đã phân biệt đâu là "Mục Tử" và đâu là "kẻ trộm, kẻ
cướp". Chúa Giêsu cũng dùng "hành vi của Mục Tử đối với
chiên" để nhận chân Mục Tử và kẻ trộm: "Kẻ trộm chỉ đến để
ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên
được sống và sống dồi dào". Như thế, chủ điểm thần học của
đoạn Tin Mừng này là "mối tương giao" giữa Mục Tử và đàn
chiên, cũng là giữa Thiên Chúa và con người, mà chúng ta
cần chiêm ngắm và sống trong mùa Phục Sinh này.
Trong tương giao đó, chúng ta thấy rõ nét hơn cả là hình
ảnh Chúa Giêsu, Mục Tử Nhân Lành, mẫu gương cho tất cả
những ai có trách nhiệm lãnh đạo cộng lớn nhỏ, đặc biệt là
các chủ chăn. Vì thế, Chúa nhật này cả Giáo Hội hướng về
việc cầu nguyện và cổ võ cho ơn Thiên triệu. Và cầu nguyện,
cổ võ cho ơn Thiên triệu là gì, nếu không phải là cầu nguyện
cho mọi phần tử trong Giáo Hội, cách riêng cho một số chọn
156.
ơn goi cao hơn, cho các chủ chăn sống thật tốt tương quan
với Thiên Chúa và với tha nhân? Bởi vì, một khi sống tốt
tương quan "mến Chúa" chúng ta sẽ có một tương quan "yêu
người' như "lòng Chúa mong ước".
2. Để trở thành một Mục Tử tốt
Đây là một ngụ ngôn hơn là một dụ ngôn, vì trong đó có
nhiều ẩn dụ thật sát nghĩa. Dân Chúa bị nhốt trong chuồng lề
luật nặng hình thức của Do-thái giáo đang chờ Vị Mục Tử
Nhân Lành đến dẫn đến "đồng cỏ" Giáo Hội để "được sống
và sống dồi dào" nhờ các Bí Tích do việc "hy sinh mạng sống
cho đoàn chiên" đem lại.
Chúa Giêsu, Mục Tử Nhân Lành đã diễn tả được Tình yêu
của Thiên Chúa dành cho con người. Chúa biết rõ tên từng
người một trong chúng ta với một tình yêu cá nhân, riêng tư.
Ngài không đẩy chiên đi trước mình, nhưng Ngài đi trước và
dẫn đường cho chiên. Ngài nói với từng người, thu hút hơn là
hướng dẫn. Đàn chiên luôn bị sói dữ rình rập, Ngài sẵn sàng
đương đàu với chúng vì mỗi con chiên đối với Ngài đều quí
già vô ngằn. Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên. Ngài
dẫn đàn chiên đến đồng cỏ xanh tươi để chẳng những chiên
được sống mà được sống dồi dào. Để thỏa mãn ước nguyện
đó, Ngài đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Với một Mục
Tử Nhân Lành như thế +đàn chiên hết lòng đáp lại bẳng thái
độ nghe tiếng, nhận biết tiếng và đi theo sau Mục Tử của
mình.
Như những người lãnh đạo Do-thái giáo lúc bấy giờ, lãnh
đạo cộng đoàn dễ bị cám dỗ dùng quyền lực áp chế người
dưới quyền chứ không dùng gương sáng, đạo dức để lôi kéo,
thuyết phục họ. Nhưng như ông bà chúng ta thường hay nói
"hữu xạ tự nhiên hương" đáng cho chúng ta suy nghĩ. Phải
chăng người lãnh đạo mất ảnh hưởng đối với người dưới là vì
157.
lối sống của họ chứ không phải do bất kỳ một lý do nào
khác? Vì thế, điều cần hơn cả là lo điều chỉnh lại lối sống của
mình, chứ đừng cách chống chế bằng quyền lực. Đây quả là
một dịp tốt để các người có trách nhiệm lãnh đạo xét mình lại
lối sống của mình. Trong Giáo Hội, lãnh đạo là phục vụ chứ
không phải để được phục vụ. Theo gương Chúa Giêsu, Mục
Tử tốt lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên,
để cho chiên được sống và sống dồi dào, người lãnh đạo cũng
biết hy sinh quên mình mới có thể yêu thương phục vụ được.
3. Cầu nguyện cho ơn Thiên triệu
Ngày nay, ơn gọi dâng hiến ngày càng giảm trong lúc nhu
cầu phục vụ ngày càng tăng. Lời kêu gọi của Đức Ki-tô - Lúa
chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt" - trở nên khẩn thiết hơn bất
cứ lúc nào khác. Cho nên mọi Ki-tô hữu đều có trách nhiệm
cầu nguyện và cổ võ cho có nhiều ơn gọi trong Giáo Hội, đặc
biệt là các vị chủ chăn, các hội đoàn và các bậc phụ huynh.
Để sống ơn gọi cao hơn, ơn gọi quên mình để yêu thương
phục vụ, thì phải có ơn Chúa dồi dào. Ơn Chúa có được nhờ
sự hy sinh cầu nguyện của rất nhiều người. Bản thân ngưới
sống đời dâng hiến phục vụ phải cố gắng và nỗ lực nhiều,
nhưng sự hỗ trợ của cộng đồng cũng rất cần thiết cho họ. Thế
nhưng, nhiều khi giáo dân chỉ mong muốn cho chủ chăn của
mình đạo đức, thánh thiện mà quên hay ít khi cầu nguyện cho
các ngài. Cũng như làm sao có nhiều tâm hồn biết dâng hiến
cuộc đời mình để phục vu nếu như cộng đoàn không gia tăng
việc hy sinh cầu nguyện cho ơn Thiên triệu. Có thể nói, cộng
đoàn hy sinh cầu nguyện để có nhiều người phục vụ cộng
đoàn. Như thế, cầu nguyện cho ơn Thiên triệu cũng không là
gì khác hơn là ý thức và sống mầu nhiệm hiệp thông trong
Giáo Hội vậy.
158.
Mặt khác, vì "cây tốt mới sinh quả tốt", "lời nói lung lay,
gương bày lôi kéo", cho nên, thiết nghĩ việc dấn thân và
hướng dẫn cho giới trẻ tham gia các công tác từ thiện bác ái
của các vị chủ chăn và phụ huynh là cách thế hiệu quả nhất
để cổ võ Ơn Thiêu Triệu. Con người muốn hưởng thụ chừng
nào thì càng số người bị bỏ rơi, cần được yêu thương phục vụ
ngày càng đông chừng ấy, bởi hố cách biệt giữa người giàu
và người nghèo ngày càng lớn. Vì thế, yêu thương, quên
mình, phục vụ phải là chọn lựa đúng nhất của người Ki-tô
hữu trong xã hội ngày nay. Và đó cũng không phải là điều gì
mới lạ đồi với mẫu gương Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành.
Như thế, cổ võ cho ơn Thiên triệu cũng là lời mời gọi mọi
Ki-tô hữu biết sống tinh thần phục vụ của Chúa.
Tóm lại, hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành là tấm
gương yêu thương phục vụ mà tất cả mọi Ki-tô hữu cần cố
gắng noi theo mỗi ngày, nhất là các chủ chăn.
159.
50. Biện chứng Mục Tử - Chiên
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Hằng năm cứ vào ngày Chúa nhật IV Phục Sinh, Hội
Thánh mời gọi chúng ta, Kitô hữu đặc biệt cầu nguyện cho
ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Qua các con số thống kê,
chúng ta nhận ra đây là một nhu cầu vừa chính đáng và hợp
lý lại vừa mang tính cấp thiết. Tuy nhiên, dù có cấp thiết đến
mấy thì Hội Thánh vẫn kiên trì chủ trương rằng cần "chất
hơn là lượng". Chính vì thế mà không thể vì lý do thiếu hụt
linh mục hay tu sĩ mà hạ thấp tiêu chí cũng như các yêu cầu
của việc đào tạo. Xin được góp một vài suy nghĩ về vấn đề
này dựa trên các bản văn Lời Chúa của ngày Chúa Nhật IV
Phục Sinh. Cụ thể, xin chia sẻ đôi nét về biện chứng mục tử
nhân lành và con chiên ngoan hiền.
Nói đến biện chứng là nói đến một trong những "học
thuyết mang tính triết học về các mối liên hệ phổ biến và về
sự phát triển, hay là khoa học về các quy luật vận động và
phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy" (Tự
Điển Bách Khoa Việt Nam-1995). Biện chứng pháp được
xây dựng chủ yếu trên quy luật vận động, sự biến đổi của sự
vật, hiện tượng và những ảnh hưởng tương tác giữa chúng.
Cái nhìn này không phải là mới lạ với khám phá của Hégel
hay Karl Marx, nhưng đã bàng bạc sẵn có trong các hệ tư
tưởng Đông phương như quy luật âm dương, bát quái, ngũ
hành hay sắc sắc không không... Không muốn đi sâu vào lãnh
vực chuyên môn mang tính triết học, nhưng xin góp cái nhìn
theo một góc độ cha ông chúng ta cảm nghiệm: "có con rồi
mới có cha; có cháu rồi mới có ông, có bà".
1. Để là mục tử nhân lành, cần phải là chiên ngoan
hiền:
160.
Chúa Kitô đã minh nhiên khẳng định Người chính là mục
tử nhân lành (Ga 10,11). Tuy nhiên, để đảm nhận vai trò mục
tử thì trước tiên Người đã vuông tròn vị thế con chiên hiền
ngoan. Thánh Phêrô giới thiệu Đức Kitô như là con chiên
tinh tuyền, hiền lành, gánh tội gian trần. "Người không hề
phạm tôi; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị
nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà
chẳng ngăm đe, nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử
công bình. Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào
thân thể mà đưa lên cây thập giá..." (1P 2,21-24). Thánh
Tông đồ cả kết luận rằng chính khi đảm nhận phận việc ấy thì
đức Kitô đã chu toàn trách vụ "vị mục tử, Đấng chăm sóc
linh hồn chúng ta" (c.25).
Chiên không đi theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn. Trái lại,
chiên nhận biết tiếng mục tử và đi theo mục tử. Dưới cái nhìn
này thì Chúa Kitô là một con chiên đích thực vì "lương thực
của Người là thi hành thánh ý Cha trên trời" (x.Ga 4,34). Cho
dù mồ hôi tuôn ra pha lẫn máu, Con chiên tinh tuyền Giêsu
Kitô vẫn một mực "xin đừng theo ý con, một vâng theo thánh
ý Cha mà thôi" (x.Lc 22,39-44).
2. Để là con chiên hiền ngoan, cần phải có tấm lòng mục
tử nhân hậu:
Chúa Kitô không minh nhiên giới thiệu mình là con chiên,
nhưng cuộc đời của Người, đặc biệt cuộc hiến tế thập giá của
Người mặc nhiên khẳng định Người là con chiên vượt qua
của giao ước mới. Trong khi đó vị ngôn sứ cao trọng hơn mọi
ngôn sứ là Gioan Tẩy giả đã long trọng giới thiệu Chúa Kitô
là "Chiên Thiên Chúa" (Ga 1,36).
Để thực thi phận vụ "Con Chiên Thiên Chúa", Chúa Kitô
đã sống tình một mục tử tốt lành, nhân hậu. Người chạnh
lòng thương xót khi thấy đoàn lũ đông đảo như chiên không
161.
người chăn (x.Mc 6,34). Người nhiệt thành đến quên cả ăn
uống để băng bó thương tích cho đoàn chiên (x.Mc 3,20), để
dẫn chiên đến đồng cỏ xanh, nguồn suối mát. Người hiến
dâng mạng sống vì đàn chiên và mong sao không một con
chiên nào lạc đàn (x.Ga 10,11;14). Lẽ sống của người mục tử
chính là sự sống, sự phát triển của từng con chiên và của đàn
chiên. Chính vì thế, người mục tử là người "biết" chiên tức là
gắn bó mật thiết với chiên, sẵn sàng chung thân, đồng phận
với chiên, lấy sự sống của chiên làm nguồn sống của mình.
Vài tâm tình hướng đến các mục tử (giám mục, linh mục,
phó tế, tu sĩ):
Diễn ý câu nói của Thánh Giáo phụ Âugustinô: Cho anh
em, tôi là mục tử (giám mục). Cùng với anh em, tôi là con
chiên (tín hữu). Để các ngài, các vị chu toàn bổn phận mục tử
Chúa giao phó thì ta hãy cầu xin cho các vị, các ngài trước
hết biết sống vuông tròn vị thế con chiên:
- Hiền lành: Trưởng thành nhân cách, vững vàng các nhân
đức nhân bản. Điều này không phải được ngay một sớm một
chiều hay nhờ lãnh nhận chức này, vụ kia. Nhưng cần phải
trau dồi, luyện tập liên lĩ. Học xong một giáo trình các nhân
đức nhân bản với điểm số tối đa mà vẫn là người thiếu nhân
bản là chuyện rất bình thường.
- Vô tì tích: Dĩ nhiên, ngoại trừ Mẹ Maria được Chúa giữ
gìn thì phận người khó tránh lỗi lầm. Để ngày càng thêm
thanh sạch, vô tì tích, thì không gì hơn "hãy đem những cái
bên trong ra mà phân phát (lòng quảng đại)" (x.Lc 11,41).
- Ngoan ngoãn: biết luôn vâng theo ý Chúa. Để sống và
hành động theo thánh ý Chúa thì tiên vàn cần có một đời
sống cầu nguyện chuyên chăm và một tâm hồn "dễ bảo" dưới
tác động của Thánh Thần.
162.
Vài tâm tình hướng đến những ứng viên ơn thiên triệu linh
mục, tu sĩ:
Khi nhận ứng viên vào Tu viện hay Chủng viện, các vị
hữu trách thường dò xét các ý hướng của ứng viên. "Con đi
tu để làm gì?" Một câu hỏi thường gặp nhằm lượng giá ý
hướng các ứng viên. Các vị hữu trách thường dễ hài lòng
trước các câu trả lời mang tính cống hiến, phục vụ vị tha hơn
là những câu trả lời hàm chứa sự vị kỷ cho dù đó là lợi ích cá
nhân rất là thiêng thánh như đi tu để được rỗi linh hồn. Thánh
Công Đồng dạy: "Việc giáo dục toàn diện các chủng sinh
nhằm huấn luyện cho họ thực sự thành những vị chăn dắt các
linh hồn... (tức là các mục tử)" (ĐT số 4). Ước gì các tu sinh,
chủng sinh có được chút tâm tình của người mục tử ngay khi
còn mài đũng quần ở tu viện hay chủng viện. Đó là tâm tình
của người mục tử:
- Biết cống hiến hơn là hưởng thụ: "Con Người đến
không phải để cho người ta hầu hạ nhưng để hầu hạ và hiến
mạng sống mình làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,46; x.
Ga 13,12-17).
- Nhiệt thành: Sẵn sàng đi trước trong các việc khó mà đó
là những việc phải làm, đáng làm và nên làm.
- Biết đồng cảm, đồng phận với tha nhân, đồng loại và
nhất là với những người nghèo, người bất hạnh... "Quả
vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người
phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người trong các
mối tương quan với Thiên Chúa để dâng lễ phẩm cũng như tế
vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu
muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu
đuối..." (Dt 5,1-3).
Có thể nói rằng hơn bao giờ hết, nhân loại chúng ta hiện
nay đang vào giai đoạn thích hưởng thụ và tìm đủ cách đủ
163.
kiểu để hưởng thụ. Chính vì thế, đời sống cống hiến dường
như đang vắng bóng dần. Một điều chắc chắn là nhân loại, xã
hội mọi thời, đặc biệt hôm nay đang rất cần những con người
sẵn sàng cống hiến, những cuộc đời biết hiến dâng. Chính vì
thế ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ vẫn mãi là ơn chúng ta cần
kiên trì cầu xin. Tuy nhiên sự cầu xin của chúng ta không
được phép dừng lại ở thái độ thầm thỉ, chấp tay hay móc túi
để góp tiền, mà còn phải biết mở miệng, nắm tay để dệt xây
những mục tử biết vuông tròn phận vụ con chiên hiền ngoan
và những con chiên luôn ắp đầy tâm tình mục tử tốt lành.
164.
51. Chúa Chiên Lành
(Suy niệm của Lm Đặng Xuân Thành)
Các bạn hãy thử hình dung: nhà thờ này là một phòng hội,
ở giữa có đặt một thùng phiếu, các bạn được yêu cầu viết tên
người nào mình hâm mộ nhất; và chắc là khi khui thùng
phiếu, chúng ta sẽ nhận được rất nhiều cái tên khác nhau, tùy
theo mỗi người chấm và tùy theo mỗi người đứng ở góc độ
nào để chấm. Nếu là nhạc sĩ thì có thể có những cái tên như
Hoài An, Võ Thiện Thanh, Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy
Miên... Nếu là ca sĩ thì có thể có những cái tên như Hồng
Nhung, Mỹ Linh, Mỹ Tâm, Hồ Ngọc Hà, Lam Trường, Đan
Trường, Đàm Vĩnh Hưng... Nếu là diễn viên điện ảnh thì có
thể là Lí Liên Kiệt, Lương Gia Huy, Củng Lợi, Chung Tử Di,
Jan Do Gun, Kim Nam Ho... Nếu là những cầu thủ thì có thể
có David Bechkam, Thierry Henri, Roger Federer, Michael
Jordan... Nếu là những doanh nhân thành đạt thì có thể có
Bill Gates, J.K. Rowling... Nếu là những người đấu tranh cho
quyền con người thì có Mahatma Gandhi, Mẹ Teresa
Calcutta, Abbé Pierre, Somaly Mam... Và còn nhiều cái tên
khác nữa. Thậm chí biết đâu trong số lá phiếu ấy cũng có thể
có lá phiếu dành cho cha Vũ Khởi Phụng, cha Nguyễn Chấn
Hưng, cha Nguyễn Xuân Thủy, cha Mai Xuân Lâm, cha Lê
Trọng Cung, cha Tạ Xuân Hòa đang có mặt tại đây, hay một
cha, một thầy, một soeur hoặc một bạn nào đó...
Thế nhưng, tất cả những cái tên ấy chỉ thỏa mãn một vài
sở thích hay một vài khát vọng của bạn: âm nhạc, điện ảnh,
thể thao, kinh tế, xã hội, tôn giáo, học tập... Chẳng ai trong số
đó và trong nhiều người khác nữa có thể đem lại hạnh phúc
trọn vẹn cho bạn, cả về thời gian lẫn về nội dung. Càng
không có ai cho bạn hưởng một hạnh phúc vượt lên cả sự
chết và sự dữ. Hôm nay Giáo Hội giới thiệu cho chúng ta
165.
nhân vật ấy để chúng ta dồn phiếu chọn Ngài. Đó chính là
Giêsu người Nadarét, nước Do-thái, đã sống cách đây hơn
2000 năm, đã làm và nói biết bao điều kì diệu, đã chết và đã
sống lại vì chúng ta, và bây giờ đang hiện diện giữa chúng ta.
Một hình ảnh rất tuyệt vời có thể giúp ta hình dung về Đức
Giêsu ấy: Đức Giêsu Chúa Chiên Lành, Đức Giêsu Người
Mục Tử Tốt Lành. Người Chăn Chiên tốt lành không chỉ là
người quan tâm đến sức khỏe của bầy chiên: tìm đồng cỏ
màu mỡ và nguồn nước tinh khiết nhất cho chiên ăn uống,
tìm nơi che nắng che sương và tránh mưa tránh lũ. Người
Chăn Chiên tốt lành còn là người gần gũi chiên tới mức ăn ở
chung với chiên, biết chiên tường tận tới tên của từng con
một hay tới cái hay cái dở của mỗi con. Đáng kể nhất là
Người Chăn Chiên tốt lành dám liều lĩnh vì đàn chiên: luôn
luôn đi trước đàn chiên để hứng "hòn tên mũi đạn", liều bỏ
tất cả để đi tìm cho bằng được con chiên lạc, hy sinh tới cả
thân mình để bảo vệ chiên trước bầy sói (Bài Tin Mừng)
Những hình ảnh vừa kể không phải chỉ là những hình ảnh
bóng gió, mà sự thật còn đi xa hơn thế nữa. Như thánh Phê-rô
cho biết: "Đức Giêsu đã chịu khổ vì chúng ta. Ngài không hề
phạm tội; chẳng ai thấy Ngài nói một lời gian dối. Bị nguyền
rủa, Ngài không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm
đe, nhưng một bề phó thác cho Chúa Cha. Tỗi lỗi chúng ta,
Ngài mang vào thân thể để đưa lên thập giá, và nhờ đó, một
khi tội của chúng ta đã tiêu tan, chúng ta được sống đời công
chính" (Bài đọc 2), Đức Giêsu làm tất cả những điều ấy,
không chỉ để chúng ta có thêm cỏ tươi để ăn, nước mát để
uống, thảo nguyên bát ngát để chạy nhảy, sạch bóng chó sói
để an tâm nhởn nhơ... Ngài chịu chết và sống lại là để thổi
Thần Khí của Ngài vào trong chúng ta, biến chúng ta thành
con người mới và bắt đầu sống một cuộc đời mới. Đúng là sự
166.
CỨU ĐỘ của Thiên Chúa: chúng ta vừa được tha tội vừa
được sung mãn mọi mặt; và không chỉ một nhóm người nào
đó ngoan đạo được hưởng mà là tất cả mọi người, kể cả
những người trước đây không lâu đã từng hô hào đòi giết
Ngài (Bài đọc 1).
Đứng trước một Chúa Chiên Lành quá đẹp và quá tốt
như thế, bạn sẽ làm gì nào?
Có những người cảm kích trước tình thương của Chúa và
nghe thấy trong lòng mình tiếng Ai đó mời gọi mình hãy lấy
tình yêu đáp lại tình yêu ấy, không phải ở mức vừa vừa mà
càng nhiều càng tốt, không phải cho riêng mình mà tìm cách
lôi kéo nhiều người về với đàn chiên của Chúa để cũng được
nếm trải tình thương của Chúa. Họ không coi việc làm này là
chuyện gặp chăng hay chớ, "khi vui thì làm, khi buồn thì
thôi", mà coi đây là nghiệp là nghề của mình. Họ cam kết
trước mặt Chúa và Giáo Hội sẽ làm chiên ngoan của Chúa và
học tập làm người chăn chiên tốt lành của Chúa. Nếu có sống
khó nghèo và giản dị, độc thân và khiết tịnh, vâng phục và
khiêm tốn, huynh đệ và cộng đoàn, nếu có thinh lặng và
nguyện cầu, phục vụ và làm việc... thì đó cũng là để làm
chiên của Chúa và học tập làm người chăn chiên của Chúa,
hoặc nói cho cùng, để lấy tình yêu đáp lại tình yêu. Chúng ta
gọi đó là những người đi tu, những người dâng mình cho
Chúa.
Xem ra như thế đời tu rất phong phú và sinh động, chứ
không cằn cỗi và tẻ nhạt như nhiều người lầm tưởng. Hai chữ
TÌNH YÊU - dù là yêu Chúa hay yêu loài người - cũng đã
làm cho tâm hồn bao nhiêu người rạo rực, trí óc bao nhiêu
người bừng tỉnh, tay chân bao nhiêu người khua động... Chỉ
có điều, như đức giáo hoàng Benedictô XVI nói trong thông
điệp "Thiên Chúa là Tình Yêu" ("Deus caritas est"), tình yêu
167.
ấy phải luôn được thanh lọc và nâng cao, đi từ tình yêu có
phần nào vị kỉ và nặng tình cảm tiến tới tình yêu ngày càng vị
tha và siêu nhiên, đi từ tình yêu hay đòi quà tặng đến tình yêu
của trách nhiệm và hy sinh. Đồng thời nói tới quá trình thanh
lọc và nâng cao tình yêu là nói tới một hành trình, kéo dài cả
đời, trong đó có vui có buồn, có thăng có trầm, có thành công
và thất bại, có điều đáng khen và điều đáng tiếc, có thánh
thiện và tội lỗi... Chính vì thế, người đi tu không những phải
nỗ lực thật nhiều, mà còn cần đến những nâng đỡ của người
chung quanh, những lời cầu nguyện của người khác.
Có điều lạ là dù thế giới hôm nay có ghét những gì là
thiêng liêng và có nghi ngờ những gì là vô vị lợi, có điều là lạ
dù ở nhiều nơi trong Giáo Hội các ki-tô hữu ngày càng sa sút
trong đức tin và ở một số nơi Giáo Hội nói chung và đời tu
nói riêng đang bị bách hại, vẫn luôn luôn có người đi tu, vẫn
luôn luôn có những ki-tô hữu muốn làm chiên ngoan của
Chúa và tập làm chủ chăn của Chúa. Thậm chí Chúa Thánh
Thần vẫn luôn luôn khơi dậy những sáng kiến bất ngờ, những
hình thức mới mẻ cho đời tu hôm nay. Có người còn nói:
chính vì thế giới lạnh lùng với những gì là thiêng liêng và
siêu nhiên, chính vì Giáo Hội đang sa sút trong đức tin, chính
vì Giáo Hội đang gặp khó khăn, mà vẫn còn người đi tu, luôn
có người đi tu. Đức cố giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã từng
nói trong tông thư của ngài về "Đời Tu" ('Vita consecrata"):
đời tu là một khía cạnh thiết yếu của Giáo Hội, đến nỗi người
ta thật khó hình dung Giáo Hội không có đời tu. Đời tu vừa là
công cụ giúp Giáo Hội thể hiện tình thương của Thiên Chúa
cho con người qua biết bao hoạt động của các tu sĩ, vừa là lời
nhắc nhở Giáo Hội không quên ơn gọi hay sứ mạng trước hết
của Giáo Hội chính là lấy tình thương đáp lại tình thương
Thiên Chúa, chính là trở thành đàn chiên ngoan của Thiên
Chúa và cùng với Thiên Chúa, chăn dắt nhân loại.
168.
Các bạn trẻ thân mến,
Nói tới đây, có thể nhiều bạn trẻ cho rằng đời tu thật là
tuyệt vời, nhưng dành cho ai đó chứ không phải cho tôi. Tôi
còn quá nhiều bận tâm để lo toan, nhiều giấc mơ phải hoàn
thành. Vả lại, Chúa có đâu bắt buộc mọi người phải đi tu. Đó
là chưa nói: ở đâu không rõ, chứ tại các giáo phận miền Bắc
này số người đi tu vẫn còn đông lắm! Hay phải nói thành thật
và khiêm tốn, tôi vừa bất tài vô tướng vừa lắm điều xấu xa,
có tham gia đời tu thì chỉ chuốc thất bại cho mình và làm
hỏng người khác.
Phải, bạn có nhiều bận tâm để lo toan và nhiều giấc mơ
phải hoàn thành. Thì cứ lo toan những bận tâm nào cần thiết
và hãy hoàn thành những giấc mơ nào chính đáng đi. Nhưng
xin đừng dập tắt lời mời gọi này, xin hãy nuôi dưỡng nó cho
tới khi nào thấy phải trả lời dứt khoát, xin hãy thỉnh thoảng
dừng lại suy nghĩ thêm về lời mời gọi ấy.
Phải, đời tu không phải là nếp sống bắt buộc đối với mọi
ki-tô hữu. Nhưng bạn có nỡ lòng nào bịt tai không nghe lời
mời gọi réo rắt của Chúa: "Con hãy theo Ta". Bạn có đành
lòng khi thấy tận mắt biết bao con chiên lạc bầy, biết bao con
chiên ốm yếu tình thương, biết bao con chiên nhơ nhớp phẩm
giá, biết bao con chiên thậm chí không biết có một Mục Tử
hết sức yêu thương mình...
Phải, đời tu ở Việt Nam vẫn còn sung túc, "không có mợ
thì chợ vẫn đông". Nhưng bạn có biết đâu chỉ có 6% người
Việt Nam là Công Giáo - chưa kể trong số đó có mấy phần
trăm là Công Giáo chính hiệu! Trong tổng số dân của các
tỉnh thành tổng giáo phận Hà Nội có mặt là 6 triệu người chỉ
có hơn 300.000 người Công Giáo, chỉ được 89 linh mục và
hơn 300 tu sĩ phục vụ! Bạn có biết đâu số người không tin và
số người hưởng ứng nếp sống vô thần và duy vật đang tăng
169.
theo cấp số nhân, thậm chí cấp lũy thừa; đang khi đời tu đang
tăng theo cấp số cộng, thậm chí tại các thành phố lớn số
người đi tu đã đi xuống từ lâu và tại nông thôn số người đi tu
đã chững lại. Đó là chưa kể những nhu cầu của con người và
xã hội hôm nay cần sự phục vụ của Giáo Hội lại càng ngày
càng phức tạp, càng ngày càng cấp thiết!
Phải, đời tu là một nếp sống lí tưởng. Nhưng có ai sinh ra
là đã thành linh mục hay tu sĩ đâu. Đời tu là một hành trình
dài cho phép chúng ta nhận ra và biết quẳng đi dần những gì
làm cản trở bước đi, cho phép chúng ta nhận ra và tích lũy
dần những công cụ cần thiết cho đời tu. Có mấy ai nghĩ
Augustinô, Phanxicô Assisi, Inhaxiô Loiôla... sẽ hoán cải và
đi tu, khi đã chìm ngập trong những triết lí sai lạc, những thú
vui đáng trách và những tham vọng điên cuồng. Đó là mới
chỉ kể ra vài người đi tu thời trước. Còn biết bao tâm hồn tận
hiến cho Chúa ngày hôm nay cũng đã bắt đầu và tiếp tục
hành trình tu trì của mình cách vất vả, có lúc phải "te tua, tơi
tả" vì hành trình tu trì ấy. Thật ra, nguyên việc dám theo đuổi
một giấc mơ thánh thiện và cao cả, lại sẵn sàng đầu tư công
sức cho điều ấy, cũng đã là một điều hết sức đáng khen rồi
với các bạn trẻ ngày hôm nay.
Để kết thúc, tôi xin mượn một hình ảnh rất quen thuộc với
các bạn trẻ chúng ta: Banh đã được tung lên. Phần còn lại là
của bạn - những người đang ở trên sân chơi của cuộc đời, sân
chơi Nước Trời. Bạn hãy đá thế nào để banh vào lưới, để
banh đến đích phải đến. Amen.
170.
52. Chú giải của Noel Quession.
Trong Chúa nhật IV Phục Sinh này, Giáo Hội mời gọi
chúng ta “cầu nguyện cho các ơn gọi” và mỗi năm đề nghị
chúng ta đọc một đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan về “Vị
mục tử nhân lành”
Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào
ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ
trộm, kẻ cướp
Trên những đồi núi vùng Galilê và Giuđê, người ta thấy
khắp nơi có những người chăn chiên, những mục tử. Ban
ngày họ cho đàn chiên ăn cỏ trên những đồng cỏ hiếm hoi
mọc ở giữa những đống đá của các ngọn đồi. Ban đêm, nhiều
mục tử đồng ý với nhau tập họp đàn chiên của họ vào chung
một khu đất có vây tường, làm bằng những tảng đá nhỏ ở
đây, Đức Giêsu giới thiệu với chúng ta hai nhân vật rất tương
phản: mục tử và kẻ trộm. Chính cách họ vào ràn chiên mà
người ta phân biệt được họ! Kẻ trộm trèo qua rào. Còn người
mục tử đi qua cửa mà vào. Ngay từ đầu chúng ta không thấy
những hình ảnh thơ mộng nào cả như vẫn thoáng thấy ở các
đề tài về đồng quê!
Chuồng cừu đối với Đức Giêsu không phải là một nơi ngọt
ngào và thơ mộng mà là một nơi phải tự bảo vệ chống lại
trộm cướp. Chúng ta chớ quên rằng bài giảng này của Đức
Giêsu rất bút chiến. Đây là phần tiếp nối cuộc đối đầu bi đát
khi Người chữa lành một người mù từ thuở mới sinh. Anh
này bị đối xử tệ hại như một con chiên đáng thương bị người
ta đánh đập chỉ vì nó tật nguyền.
Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người
giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh
Vậy, Đức Giêsu đặt đối lập những "mục tử giả hiệu” kẻ
trộm cướp, khoe rằng mình hướng dẫn những người khác
171.
nhưng không được ủy nhiệm chân chính, với "mục tử chân
thật" đi qua cửa để vào một cách quang minh chính đại, được
người gác đã cho vào. Chúng ta chớ vội bỏ qua người gác
cửa này. Tất cả Tin Mừng nói với chúng ta về người đó! Đó
là Chúa Cha, Đấng đã sai Đức Giêsu đến (Ga 8,16-42), Đấng
đã giao mọi sự trong tay Người (Ga 3,35; 5,22-26). Đấng đã
ban cho Người những con chiên của Người (Ga 17,6-9).
Anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho
chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng
nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ,
nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người
lạ.
Được tập trung vào chung một chỗ có vây tường ban đêm
để được các mục tử bảo vệ, buổi sáng các mục tử thu hồi các
con chiên của họ, vì các con chiên nhận biết tiếng của mục tử
của chúng. Những con chiên này theo bản năng biết được
mục tử yêu thương chúng từng con một: Chúng đi theo và
lắng nghe mục tử. Người tín hữu chân chính, là người “lắng
nghe" tiếng Đức Giêsu và “đi theo" Đức Giêsu. Động từ
"lắng nghe" được lặp lại năm mươi tám lần trong Tin Mừng
của Thánh Gioan: Đức Giêsu là "lời" là "Ngôi Lời” sự "mạc
khải" được nói vào lỗ tai chăm chú của các bạn hữu Người
"điều mà Người đã nghe từ Chúa Cha" (Ga 3,31; 8,40;
15,15). Bạn đang suy niệm bài Tin Mừng này, bạn có biết
lắng nghe Lời Chúa, tiếng nói của Tình Yêu và Chân Lý?
Đức Giêsu kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không
hiểu những điều Người nói với họ.
Họ không hiểu bởi vì họ không muốn hiểu, bởi vì họ cảm
thấy mình bị chỉ trích. Là những người Pharisêu, họ tự hào
hướng dẫn những người khác, nhưng mà người ta chạy trốn
bởi vì họ là những mục tử xấu, những kẻ trộm cướp.
172.
Vậy, Đức Giêsu lại nói: "Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi
là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm
cướp; nhưng chiên đã không nghe họ.
Những sự tự phụ của Đức Giêsu nếu Người chỉ là một con
người quả là thái quá! Người tự giới thiệu như người hướng
dẫn duy nhất của nhân loại! "Tất cả những ai đến trước tôi"
đều là trộm cướp. Con người nói điều đó là một người điên;
hoặc giả người ấy mang trong người một sứ điệp triệt để
nhất, tuyệt đối nhất, siêu việt nhất, cách mạng nhất mà nhân
loại chưa bao giờ nghe thấy. Than ôi, chúng ta có thể đi theo
những người hướng đạo khác nếu chúng ta chịu nổi họ và
nhiều người tự giới thiệu với chúng ta như những "cứu tinh
do Thiên Chúa an bài"; nhưng Đức Giêsu đã mạnh mẽ báo
trước cho chúng ta biết: Các kẻ ấy đều là trộm cướp và phá
hoại; mọi người đưa ra những lời hứa hẹn hay đẹp đều là
những kẻ trộm cướp. Một thứ tuyệt đối thuyết như thế chỉ có
thể đụng chạm đến tâm thức của thời đại chúng ta, mong
muốn sự khoan dung, lo lắng đến "tính đa nguyên". Vậy ai là
người dám nói với một sự bảo đảm và một sự loại trừ như
thế? còn Đức Giêsu vốn khác với ‘mọi người khác’, Người
hứa hẹn chúng ta điều gì?
Tôi là cửa.
Đức Giêsu thích trình bày tư tưởng của Người dưới những
hình ảnh. Người đã tự giới thiệu Người như vị Mục tử độc
nhất, ở đây, sử dụng những ý nghĩa tượng trưng như các nhạc
sĩ thường làm khi các chủ đề của họ đan kết với nhau. Đức
Giêsu đưa vào một hình ảnh thứ hai, tinh tế hơn, mầu nhiệm
hơn. Người nói: "Tôi là cửa", cái cửa duy nhất, cái cửa độc
nhất! Những tác giả Phúc Âm nhất lãm cũng đã đặt vào
miệng Đức Giêsu sự so sánh ấy khi nói về cái “cửa hẹp" dẫn
đến Nước Chúa (Mt 7,13-14; Lc 13,24). Nhưng ở đây từ ngữ
173.
chứa đựng một ý nghĩa thần học sâu xa hơn, theo nghĩa mà
Đức Giêsu không bao lâu nữa sẽ nói; "Chính Thầy là đường,
là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà
không qua Thầy" (Ga 14,6). Trong Kinh Thánh đã có một
thứ thần bí về cái cửa. Giacóp ở giữa sa mạc đã nhìn thấy
một cầu thang là cửa của thiên đàng (St 28,17). Những cái
cửa của Giêrusalem được mô tả như những con đường đưa
vào nơi bình an, công bằng, đến nhà của Thiên Chúa (Is
60,11; Tv 122,2; l18,19-20).
Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và
gặp được đồng cỏ.
Như thế, Đức Giêsu có ý thức Người là môt con đường đi
qua, một cái cửa, dẫn đến một nơi mới, một không gian mới!
Để cảm nhận ân huệ của đề nghị này nới Đức Giêsu, chúng ta
phải cảm nghiệm mình đang bị giam hãm trong một thứ "căn
hầm đóng kín" như Jean Paul Sartre đã mô tả. Vâng, nhân
loại như bị cầm tù bởi những điều tất định khắc nghiệt nào
đó: Sinh ra rồi chết đi, sản xuất rồi tiêu thụ, ăn, làm, ngủ rồi
lại bắt đầu lại!”. Viễn cảnh của con người lẽ nào lại dừng lại
ở vòng tròn chật hẹp này? có phải nhân loại bị kết án quay
vòng tròn như thế trong khi chờ đợi cơn đắm tàu sau cùng?
Có chăng một lối thoát cho con người?
Chính tại đây Đức Giêsu can thiệp và nói với chúng ta
rằng Người là một cái cửa, một lối thoát. Những hình ảnh nói
lên nhiều điều: "Các bạn có thể ra vào, lui tới"; đây là hình
ảnh của sự tự do! Các bạn sẽ tìm thấy một đồng cỏ, hình ảnh
của sự sống và sự tươi trẻ!
Tại sao chúng ta không thử mượn cái cửa mầu nhiệm ấy
để đi một vòng hít thở khí trong lành, trong những đồng cỏ
tắm nắng mặt trời? Đức Giêsu nói với chúng ta rằng nhân
loại không thể khép kín lại với chính mình một cách tuyệt
174.
vọng: Trước mắt nhân loại, một không gian được mở ra, một
không quan vô tận, một sự sống còn ở phía trước. Thiên
Chúa đề nghị dành không gian của Người cho con người. Tại
sao chúng ta không muốn cái cửa ấy để đến đó mà hít thở?
Cánh cửa này mở ra vô tận và không chỉ mở vào ngày sau
cùng, vào giờ lâm tử của chúng ta, điều đó tùy thuộc vào mỗi
người chúng ta. Cánh cửa ấy hướng về Thiên Chúa, tại sao
chúng ta không bước qua nó ngay từ bây giờ?
Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ.
Đức Giêsu trở lại những viễn cảnh tiêu cực này để giúp
chúng ta hiểu rõ hơn đề nghị tích cực của Người. Trong các
lãnh vực kinh tế, chính trị, kỹ thuật, con người đã thực hiện
nhiều cuộc giải phóng mà chúng ta không thể coi thường và
mọi Kitô hữu phải tham gia. Nhưng Đức Giêsu nhắc chúng ta
chỉ có duy nhất một cuộc giải phóng triệt để mà Thiên Chúa
đề nghị với chúng ta. Mọi lời hứa khác về giải phóng, về
hạnh phúc đều là lừa bịp, một thứ trộm cắp. Nhân loại được
dựng nên không phải để bằng lòng với không khí ngột ngạt
của mọi thứ chủ nghĩa duy vật. Các chủ nghĩa vô thần chỉ
đem lại cho con người một hình ảnh bị cắt xén. Đối với Đức
Giêsu, nếu chỉ đưa ra cho con người các viễn cảnh hạn chế
thì đó chính là "Giết chết và Phá hủy" con người chỉ sống
viên mãn khi con người mở ra với Thiên Chúa. Và Đức
Giêsu là cái cửa! Nếu người nào đi qua cửa đó, người ấy sẽ
được cứu!
Không đi qua lối đó, con người sẽ hư mất. Môi trường
sống tuyệt đối duy nhất của con người, chính là môi trường
của Thiên Chúa. Chỉ có nơi đó mới là không gian của con
người. Chỉ có nơi đó, con người thật sự được tự do. Chỉ có
nơi đó con người thật sự hít thở và phát triển đến vô tận.
175.
Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi
dào.
Ở đây chúng ta gặp lại một chủ đề mà Thánh Gioan ưa
thích. Rượu nho ở tiệc cưới Cana được ban cho một cách dồi
dào: 600 lít! (Ga 2,6-7). Nước sự sống ban cho người phụ nữ
Samari vọt lên để sau cùng làm mọi cơn khát phải chấm dứt
(Ga 4,14). Bánh được hóa ra nhiều và rất dồi dào và còn dư
lại mười hai giỏ đầy (Ga 6,10-12). Sự đánh cá mầu nhiệm
làm chiếc thuyền đầy cá (Ga 21,6). Nhưng đó chỉ là những
hình ảnh. Thực tế còn đẹp hơn nhiều. Có một sự sống "dồi
dào": Sự sống của Thiên Chúa!
Quả thật, rõ ràng chỉ có Đức Giêsu mở ra một không gian
vô cùng, vô tận cho con người. Bên ngoài Người, nhân loại
hoàn toàn "bị giam hãm" trong chính mình: không một ý thức
hệ, một lãnh tụ chính trị hay xã hội, một khám phá khoa học
nào giải thoát chúng ta khỏi số phận "Chỉ là những con người
và vì thế phải chết". Nhưng chính Đức Giêsu, vừa là người
vừa là Thiên Chúa, lôi kéo ta ra khỏi sự bất lực của chúng ta
để đưa chúng ta vào lãnh địa của Thiên Chúa. Cái Cửa ấy mở
ra cái vô cùng vĩnh cửu.
176.
53. Mục tử nhân lành: mẫu gương các chủ chăn
(Suy niệm của Phêrô Phạm Văn Hoành)
Theo truyền thống của Giáo Hội, chúa nhật thứ tư phục
sinh được gọi là “Chúa Nhật Chúa Chiên Lành”. Yếu tố cơ
bản trong ngày lễ hôm nay, Giáo hội mời gọi nơi mỗi người
chúng ta hãy hướng về hình ảnh Người Chủ Chăn với đàn
chiên. Người chủ chăn hiền lành và tốt bụng đã theo sát đàn
chiên của mình trong hơn hai ngàn năm qua.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan đã cho
chúng ta thấy cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người Do
thái. Mấu chốt của cuộc đối thoại là Chúa Giêsu đã chân
nhận mình là CỬA của đoàn chiên. Người đến thế gian để
rao truyền chân lý, những lời Người nói, những việc Người
làm không phải để lên án thế gian, nhưng để kiện toàn. Hầu
làm cho thế gian được sống và sống dồi dào. Bên cạnh đó,
bài Tin Mừng cũng cho chúng ta thấy thái độ của Chúa Giêsu
với dân Do Thái, một dân tộc chỉ dựa vào lề luật cứng nhắc
của mình để thờ phượng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã lên án
họ và cho họ là kẻ trộm, kẻ cướp. Họ thích ngồi trên toà của
ông Môsê mà giảng dạy, họ quan niệm rằng, mình là những
người có trách nhiệm hướng dẫn nhân danh Chúa, không ai
có được quyền hành đó. Họ được phép ra luật, “Bó những
gánh nặng mà chất lên vai người khác”. Họ là cửa để mọi
người đi vào, theo họ, những người công chính là những
người biết giữ trọn lề luật, vai trò ngôn sứ và giữ những tập
tục cha ông. Nhưng thái độ của họ không xứng đáng trước
mặt Thiên Chúa, thiếu trung thực và gian dối. Chúa Giêsu đã
thẳng thắn nói với họ rằng “Các ngươi khoá cửa Nước Trời
không cho thiên hạ vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi
cũng không thể để cho họ vào” (Mt 23,13).
177.
“Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10, 7). Đức Kitô đã
khẳng định mình chính là cửa, trong cánh cửa đó Người luôn
mời gọi con chiên của Người, bởi vì, Người là đường, là sự
thật và là sự sống. Chúng ta chỉ có cuộc sống đích thực, khi
chúng ta biết đi trong con đường của Người, chúng ta chỉ có
thể biết được chân lý về Người, nghĩa là chúng ta chỉ có thể
biết được mình bởi đâu mà hiện hữu, rồi sẽ đi về đâu và phải
sống như thế nào? Đó là chúng ta chỉ có sự sống trong và nhờ
vào Đức Kitô mà thôi.
Trong thế giới ngày hôm nay, con người vẫn khát khao tìm
kiếm Chúa, thế nhưng, ở thời đại nào cũng có tiên tri giả, thời
đại nào cũng tồn tại những thứ mà Tin Mừng hôm nay được
Chúa Giêsu gọi là quân trộm cướp. Họ không qua cửa là
Chúa Giêsu để dẫn đến cuộc sống đích thực, mà chỉ sống
trong sự dối trá, hay những thực tại trần thế .
“Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi
dào” (Mt 10,10). Hình ảnh Người Chủ Chăn đang dẫn đàn
chiên đến một đồng cỏ xanh tươi, đến bên dòng suối mát để
cho chiên tha hồ bổ dưỡng. Và theo năm tháng, những con
chiên đó được lớn lên khoẻ mạnh trong bàn tay yêu thương
và tận tuỵ của Vị chủ chăn vì: “chiên của tôi thì nghe tiếng
tôi” (Ga 10,27). Vậy, khi chúng ta khước từ Chúa, loại trừ
Người ra khỏi cuộc sống, thì chính là lúc chúng ta tự kết liễu
đời mình, cuộc sống trở thành vô vị, mất điểm tựa, chạy theo
những thứ hư ảo, để rồi cuộc sống cứ trượt dài trong thế sự.
Đức kitô là vị mục tử nhân lành, nơi Người ẩn chứa một
tình yêu cao cả. Tình yêu đó được kết tinh trong Ba Ngôi
Thiên Chúa, Người đã thể hiện tình yêu đó qua cái chết và sự
Phục Sinh của Người để cho nhân loại tin vào Người để được
cứu độ. Thánh Phêrô đã không ngần ngại khi nói về Người
rằng: “xưa kia, anh em như những con chiên lạc, nhưng giờ
178.
đây anh em đã về cùng với vị mục tử đấng canh giữ linh hồn
anh em”
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi soi chiếu Lời Chúa hôm
nay vào tâm hồn chúng con, chúng con nhận thấy rằng, có
những lúc mình như những con chiên lạc, đang ngơ ngác
giữa dòng đời, chúng con như đang xa rời Vị Chủ Chăn, bởi
lối sống buông thả và thực dụng. Cái tôi bành trướng đang
che phủ lấy con, nhiều lúc đã làm cho chúng con bất hoà hay
kiêu căng với người khác. Và hơn thế nữa, chúng con đâu có
biết Vị chủ chăn đang cất tiếng gọi và cánh tay không ngừng
vẫy gọi chúng con trở về.
Ước gì, lời chúa qua bài Tin Mừng hôm nay, là lời mời gọi
và thôi thúc chúng con đi theo Chúa Giêsu và sống như
Người, để chúng con không những tìm được cuộc sống đích
thực mà trở thành ánh sáng soi dẫn cho không biết bao nhiêu
người chưa nhận biết Chúa và đang mò mẫm tìm kiếm đời
sống vĩnh hằng.
Hôm nay, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta cầu nguyện cho
ơn thiên triệu. Trong tâm tình đó, chúng ta cầu nguyện cho
những vị mục tử đang sống và rao truyền chân lý của Chúa
trong lòng giáo hội, luôn hướng đến sự trọn lành như lòng
Chúa mong ước, để hướng dẫn cộng đoàn dân chúa đi qua
cửa cứu độ đến cửa Nước Trời. Amen.
179.
54. Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Chúa nhật thứ 4 phục sinh được gọi là Chúa nhật Chúa
Chiên lành và cũng là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi
linh mục và tu sĩ.
Vì sao lại gọi Chúa nhật thứ 4 phục sinh được gọi là Chúa
nhật Chúa Chiên lành và vì sao lại gọi hôm nay là ngày thế
giới cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ?
Hình ảnh mà các bài đọc hôm nay trình bày cho chúng ta
là hình ảnh người mục tử nhân lành. Chúa Giêsu đã tự ví
mình là vị mục tử đó: "Ta là người mục tử nhân lành" (Ga
10, 11). Ngài đã dùng hình ảnh quen thuộc để mạc khải lòng
yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đối với con người và
nhất là sự chăm sóc bảo vệ của Ngài đối với những ai tin
nhận Ngài.
Thế nào là một mục tử nhân lành? Chính Chúa Giêsu đã
chỉ rõ cho thấy người mục tử nhân lành phải có những ưu
phẩm như là biết chiên, mục tử phải biết tâm tính của từng
con chiên, biết rõ tình trạng hiện tại của chúng khoẻ mạnh
hay đau bệnh tật. Biết rõ từng con, biết từng đặc điểm của
chúng nên dễ dàng gọi đúng tên từng con. Bên cạnh đó, mục
tử phải biết chăm sóc chiên, mục tử dẫn chiên đến đồng cỏ
xanh, đến suối nước mát trong; giữ chiên tránh xa chỗ hiểm
nguy của hố sâu, của sói dữ hay thác ghềnh. Mục tử phải lùa
chiên vào chuồng cho kịp trời tối. Quan tâm càng nhiều thì
đòi hỏi sự nhạy bén và vất vả càng cao. Hơn nữa, mục tử
phải có tinh thần hy sinh là dám hiến mạng cho đàn chiên.
Hy sinh để bảo vệ cho đàn chiên, bảo vệ cao độ đến nỗi
không còn nghĩ ngợi về bản thân mình cho đàn chiên, quan
tâm sự sống của chiên con, đặt lợi ích sự sống của chiên trên
mạng sống của mình. Có dấn thân trong hy sinh mới hy vọng
mang lại kết quả tích cực. Có yêu mến đàn chiên thì mới
180.
mong có hy sinh. Đàn chiên Chúa đang và luôn cần những
con người biết yêu thương và hy sinh như Mục tử Giêsu.
Mục tử nhân lành hy sinh bản thân mình để chăm lo cho
đàn chiên được phát triển tốt. Xuất phát từ tấm lòng nhân hậu
và đầy yêu thương của người mục tử đối với đàn chiên mình,
Mục Tử Giêsu quan tâm, để hết tâm huyết, đặt hết tình cảm
của mình vào đàn chiên. Ngài xứng đáng là mục tử nhân lành
gương mẫu, Ngài chăm sóc đàn chiên không nhằm mục đích
làm kinh tế, không nhằm để bán lông, bán thịt. Ngược lại,
Ngài quan tâm chăm sóc hết từng con chiên: "Ta biết chiên
Ta và chiên Ta biết Ta", Ngài quan tâm chăm sóc đến những
nhu cầu căn bản của đời sống của chiên con để chúng được
no đủ và được bảo vệ, được an vui và hạnh phúc: "Ta đến để
chúng được sống và sống đời đời." (Ga 10,14-15 )
Vì thế, khi so sánh mình với người mục tử tốt lành, Chúa
Giêsu muốn dạy chúng ta rằng: Ngài chính là tiêu chuẩn, là
mẫu mực để xác định sứ mạng đích thực của những người
được gọi và tuyển chọn cộng tác với Ngài trong sứ mạng coi
sóc đoàn chiên là cộng đoàn những kẻ tin Chúa.
Hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu
linh mục và tu sĩ. Từ nhiều năm nay, Giáo Hội dành riêng
Chúa Nhật thứ tư Mùa Phục Sinh để kêu gọi người Kitô hữu
cầu nguyện cho ơn kêu gọi. Thật thế, ngày nay nhiều nơi trên
thế giới đang cần linh mục, tu sĩ. Giáo Hội luôn cần đến sự
chăm sóc của các mục tử nhân lành để đoàn chiên được sống
trong đồng cỏ xanh tươi. Giáo Hội vẫn cần đến các tu sĩ sống
đời thánh hiến, để thế giới hiểu được thế nào là tình yêu, thấy
được những thực tại vô hình, và vươn lên khỏi cái tự nhiên,
bình thường, hợp lý. Được làm Kitô hữu là một ơn gọi của
Thiên Chúa. Mọi Kitô hữu đều có nhiệm vụ làm chứng cho
Tin Mừng, nhưng một số người được mời gọi đặc biệt để dấn
181.
thân cách trọn vẹn hơn cho Nước Chúa và bắt chước Đức
Giêsu tận căn hơn. Khi đã quen nghe tiếng Chúa trong Thánh
Kinh, người trẻ sẽ dễ nghe được tiếng Chúa mời gọi vang lên
từ sâu thẳm của con tim mình. Biết chuyên tâm cầu nguyện,
dành ưu tiên cho đời sống tâm linh, coi trọng việc cầu
nguyện riêng tư, lặng lẽ trước nhan Chúa, người trẻ mới dám
đáp lại tiếng Chúa kêu mời, quên mình để phục vụ cho lợi ích
của tha nhân, khao khát làm cho muôn dân trở thành môn đệ
Chúa. Từ đó những bạn trẻ quảng đại sẽ được thúc đẩy dâng
trọn đời mình để làm cho Chúa Kitô được nhận biết. Một
Giáo Hội mạnh mẽ sẽ cho nhiều ơn gọi. Giới trẻ hôm nay
không thiếu lòng quảng đại, không thiếu lý tưởng và những
ước mơ cao cả. Họ cần có ai đó giúp họ gặp được Đức Giêsu,
say mê con người Ngài, và chia sẻ nỗi bận tâm của Ngài về
thế giới. Họ cần có ai đó giúp họ nghe được tiếng kêu của
bao người đói khát chân lý và công lý, giúp họ cảm nhận
được bổn phận lớn lao là xây dựng trái đất thành mái ấm yêu
thương. Giới trẻ cần những người thầy, người bạn dám sống
điều mình tin giữa muôn vàn khó khăn và giúp họ đứng vững
trước cơn lốc của cám dỗ. Vì thế bổn phận truyền giáo là của
mỗi người, hơn nữa, cộng đoàn cố gắng sống đức tin là vườn
ươm ơn gọi để phục vụ Giáo Hội Chúa Kitô mà mỗi người
đều có trách nhiệm cộng tác.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con những linh mục
có trái tim mục tử nhân lành như Chúa. Xin cho mỗi người
tín hữu chúng biết sống đức tin, cậy, mến và cho chúng con
có những ơn gọi như Mục Tử Giêsu nhân lành. Amen.