Upload
others
View
13
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Chương 12
Kiểm soát tài chính
Sau khi nghiên cứu chương này các bạn có thể:
Hiểu bản chất và phạm vi của kiểm soát tài chính và vai trò quan trọng của nó
cả trong và ngoài các tổ chức
Hiểu tại sao các tổ chức phân cấp quản lý ra quyết định, cũng như các vấn đề
kiểm soát và thúc đẩy phát sinh từ lựa chọn này, và các tổ chức tiếp cận các
vấn đề kiểm soát và thúc đẩy này như thế nào
Hiểu tại sao các tổ chức sử dụng các trung tâm chịu trách nhiệm, khi mỗi loại
trung tâm chịu trách nhiệm thích hợp trong một sự bố trí cụ thể, những hạn
chế của cách tiếp cận của trung tâm trong đánh giá việc thực hiện và quản lý
cao cấp sử dụng những biện pháp thực hiện nào để đánh giá sự thực hiện của
các trung tâm trách nhiệm
Có thể thiết kế và giải thích các biện pháp thực hiện thích hợp để đánh giá sự
thực hiện cho mỗi laọi trung tâm trách nhiệm
Hiểu tại sao các tổ chức sử dụng giá chuyển giao và các loại giá chuyển giao
mà các tổ chức sử dụng
Có thể xác định và tính giá chuyển giao thích hợp trong hoàn cảnh cụ thể
Hiểu bản chất và phạm vi lãi từ đầu tư và các cách tiếp cận của giá trị kinh tế
gia tăng để đánh giá viẹc thực hiện vè mặt kinh tế và có thể tính kãi từ đầu tư
và các bienẹ pháp giá trị kinh tế gia tăng
Hiểu bản chất, phạm vi và các hạn chế của phân tích tỷ số tài chính và có thể
tính các tỷ số tài chính để tính các nhân tố khác nhau của việc thực hiện và
tình huống của tổ chức.
Nortel Network: Kiểm soát tài chính trong hoạt động
Năm 2002, Nortel Network Limited (Nortel) có trụ sở tại Brampton, Ontario, Canada,
là nhà sản xuất thiết bị viễn thông lớn thứ hai tại Bắc Mỹ và sản xuất hệ thống chuyển mạch
và quang học cho các nhà cung cấp dịch vụ điện thoại và số liệu trên phạm vi toàn cầu.
Năm 1999 và đàu năm 2000, mọi điều dường như diễn ra tốt đẹp với Nortel. Tháng 4
năm 2000, Nortel công bố kết quả quý đầu của Công ty cho biết doanh thu tăng 48%. Các
nhà phân tích cổ phiếu tỏ ra hoan hỷ và hầy hết đã xếp loại cổ phiếu Nortel là loại mua tốt.
Giữa năm 2000, Nortel có vốn của thị trường 327 tỷ đô la Canada. Một số nhà phân
tích chỉ ra rằng, Tổng giám đốc điều hành (CEO) John Roth, là giám đốc kinh doanh mạnh
mẽ và thành công nhất tại Canada. Những gì mà các nhà phân tích này không xem xét là
Nortel đang duy trì tăng doanh thu sử dụng các vụ mua đươc cung cấp tài chính từ cổ phiếu
của Nortel và sự thành công của Nortel dựa trên thị trường cáp quang đang tỏ ra ngày càng
phát đạt trong hơn một năm. Đến quý 3 năm 2000, nhiều điều bắt đầu trở nên tồi tệ đối với
Nortel. Tháng 10 năm 2000, phản ứng đối với sự thất bại của Nortel thực hiện lời hứa tăng
nhanh doanh thu trong doanh thu thiết bị cáp quang, thị trường này hậu thuẫn 80 tỷ đô la
Canada từ huy động vốn thị trường của Nortel. Một số nàh phan tích dự báo điều tồi tệ nhất
còn chưa đến. Tuy nhiên, một số nhà phân tích khác tiếp tục xếp loại cổ phiếu Nortel như là
mạnh hoặc giữ vững.
Các nhà phân tích đề xuất sự cảnh báo chỉ ra rằng Nortel đang quản lý kết quả tài
chính của mình để làm cho chúng tốt có vẻ hơn so với thực tế. Đặc biệt, các nhà phân tích
này chỉ ra rằng Nortel đang thổi phồng lợi nhuận từ các hoạt động và hạ thấp lợi nhuận thuần,
bao gồm những khoản lỗ bắt đầu chồng chất từ một số vụ mua taì sản tồi tệ. Kết quả: Nortel
và các nhà phân tích ủng hộ Công ty tập trung vào lợi nhuận từ các hoạt động khoảng 2,4 tỷ
đô la Mỹ nhiều hơn lợi nhuận thuần. Trên thực tế, thông qua thời gian trước sự kiện cổ phiếu
của Nortel từ 1998 đến 2000, Nortel chưa bao giờ có lãi khi đánh giá lợi nhuận theo GAAP.
Mức tăng doanh thu đã tạo ra tăng giá cổ phiếu trong thời kỳ này và mức tăng doanh thu này
được cho là kết quả trong các hoạt động có thể sinh lãi khi Nortel đạt được và vượt qua mức
doanh thu hoà vốn.
Cuối năm 2000 và đầu năm 2001, nhiều vấn đề trở nên tồi tệ. Tạp chí Forbes
Magazine chỉ ra rằng 60% doanh thu của Nortel có từ các sản phẩm ít hơn 18 tháng tuổi và sử
dụng công nghệ mà Nortel mua hơn là tụ phát triển. Nortel cung cấp tà chính cho các vụ mua
công nghệ chủ yếu bằng cách phát hành cổ phiếu. Chiến lược mua tài sản này cho phép
Nortel chi cho nghiên cứu và phát triển bằng phát hành cổ phiếu, điều này không thể hiện ra
như một khoản chi, mặc dù tiến hành nghiên cứu và phát triển của riêng mình lẽ ra theo
GAAP phải vào sổ là một khoản chi.
Đến tháng 5 năm 2001, phản ánh sự suy giảm lớn liên tục trong thị trường thiết bị
viễn thông, Nortel đã giảm mất 40% huy động vốn so với đỉnh cao của nó và bắt đầu rơi tự
do. Nortel và các nhà phân tích đồng cảm tiếp tục cổ vũ cho cổ phiếu của Nortel bằng cách
nhấn mạnh vào tiền lãi quy ước tự xác định (nghĩa là tiền lãi không theo GAAP) và tiền lãi
trước lãi, thuế, khấu hao, và lãi để lại (EBITDA). Bằng cách này, các nhà cổ vũ cho Nortel
hướng sự chú ý ra khỏi những khoản lỗ tiếp diễn và khoản giữ lại của giá trị khổng lồ của
khách hàng hình thành từ tiền trả thêm trên giá trị sổ sách mà Nortel đã và đang thanh toán
cho việc mua tài sản của Công ty. Phản ánh tình trạng tồi tệ trong ngành công nghiệp viễn
thông, tạp chí Fortune Magazine đã xếp Nortel là kẻ thua lỗ lớn nhất thế giới trong năm 2001
và xếp Lucent Technologies, đối thủ cạnh tranh chính của Nortel ở vị trí thứ ba.
Đến giữa năm 2002, giá cổ phiếu của Nortel đã giảm xuống dưới 1 đô la, các cơ quan
xếp hạng trái phiếu xếp các trái phiếu của công ty là loại tạp nhạp và Công ty phải bắt đàu
trận chiến để tránh bị phá sản.
Bảng 12-1, 12-2 và 12-3 trình bày báo cáo lợi nhuận hàng năm, bản cân đối kế toán
và báo cáo luồng tiền cho các năm 1999 – 2001.
Báo cáo lợi nhuận hàng năm
(triệu đô la)
12/2001 12/2000 12/1999 12/1998 12/1997
Doanh thu 17.511,0 30,275,1 22.217,0 17.575,0 15.449,0
Chi phí của doanh thu 13.423,0 16.335,0 11.272,0 8.259,0 8.613,0
Tổng lợi nhuận hoạt động 4.088,0 13.940,0 10.946,0 9.316,0 6.836,0
Chi phí Bán hàng, Chung &
Quản lý
9.244,0 9.836,0 7.010,0 5.546,0 4.861,0
Thuế khác 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0
EBITDA - 5.156,0 4.104,0 3.936,0 3.770,0 1.975,0
Khấu hao & lợi nhuận giữlại 5.699,0 5.581,0 2.651,0 2.259,0 546,0
EBIT - 10.855,0 - 1.477,0 1.285,0 1.511,0 1.429,0
Lợi nhuân thuần khác - 597,0 842,0 344,0 215,0 0,0
Tổng lợi nhuận đã có cho
chi lãi vay
- 27.248,0 - 2.223,0 698,0 296,0 1.436,0
Chi lãi vay 311,0 169,0 172,0 232,0 169,0
Lợi nhuận trước thuế - 27.559,0 - 2.392,0 526,0 64,0 1.267,0
Thuế TNDN - 3.252,0 1.078,0 696,0 601,0 438,0
Lợi nhuận đặc biêt/Tiền
phảitrả
- 15.796,0 - 1.588,0 - 931,0 - 1.430,0 7,0
Lợi nhuận thuần từ các hoạt
động thường xuyên
-24.307,0 - 3.470,0 - 170,0 - 537,0 829,0
Lợi nhuận thuần từ các hoạt
động không thường xuyên
- 3. 010,0 0,0 0,0 0,0 0,0
Lợi nhuận thuần từ tổng các
hoạt động
- 27.317,0 - 3.470,0 - 170,0 - 537,0 829,0
Lợi nhuận danh nghĩa - 8.511,0 - 1.882,0 761,0 893,0 822,0
Lợi nhuận bất thường 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0
Ảnh hưởng của thay đổi
chính sách kế toán
15,0 0,0 0,0 0,0 0,0
Lợi nhuận từ bù thuế mang
sang
0,0 0,0 0,0 0,0 0,0
Lãi (Lỗ) khác 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0
Tổng Lợi nhuận thuần - 27.302,0 - 3.470,0 - 170,0 - 2.537,0 - 829,0
Bảng 12-1 Báo cáo Lợi nhuận hàng năm (triệu đô la) 1997 - 2001 của Nortel
Networks
Cân đối kế toán hàng
năm (triệu đô la)
12/2001 12/2000 12/1999 12/1998 12/1997
Tài sản
Tài sản ngắn hạn
Tiền mặt và tương
đương
3.513,0 1.644,0 2.257,0 2.281,0 1.371,0
Khoản có thể được
nhận
2.923,0 8.198,0 6.786,0 5.462,0 4.880,0
Hàng tồn kho 1.579,0 4.336,0 2.956,0 1.687,0 1.765,0
Tài sản ngắn hạn khác 3.747,0 2.352,0 1.069,0 887,0 531,0
Tổng tài sản ngắn hạn 11.7762,0 16.530,0 13.068,0 10.317,0 8.547,0
Tài sản dài hạn
Tổng Bất động sản,
Nhà máy & Thiết bị
6.432,0 6.337,0 5.517,0 5.249,0 4.706,0
Khấu hao luỹ kế 3.861,0 2.918,0 3.059,0 2.986,0 2.666,0
Bất động sản, Nhà
máy & Thiết bị, Thuần
2.571,0 3.419,0 2.458,0 2.263,0 2.040,0
Tài sản vô hình 3.095,0 18.966,0 4.520,0 5.620,0 853,0
Tài sản ngoài lưu động
khác
3.709,0 3.265,0 2.551,0 1.312,0 1.114,0
Tổng Tài sản ngoài
lưu động
9.375,0 26.650,0 9.529,0 9.4125,0 4.007,0
Tổng tài sản 21.137,0 42.180,0 22.597,0 19.732,0 12.554,0
Nợ phải trả & VCSH
Nợ phải trả ngắn hạn
Phải trả người bán 1.988,0 3.102,0 2.592,0 1.566,0 1.409,0
Vay ngắn hạn 810,0 760,0 287,0 205,0 403,0
Nợ phải trả NH khác 6.659,0 5.196,0 4.911,0 4.122,0 3.071,0
Tổng nợ ngắn hạn 9.457,0 9.058,0 7.790,0 5.893,0 4.883,0
Nợ phải trả dài hạn
Vay dài hạn 4.094,0 1.178,0 1.624,0 1.648,0 1.565,0
Thuế TNDN hoãn lại 518,0 902,0 124,0 94,0 169,0
Nợ phải trả dài hạn
khác
1.607,0 1.129,0 449,0 443,0 395,0
Lợi ích của cổ đông 637,0 804,0 92,0 89,0 132,0
thiểu số
Tổng nợ phải trả dài
hạn
6.856,0 4.013,0 2.289,0 2.274,0 2.261,0
Tổng nợ phải trả 16.313,0 13.071,0 10.079,0 8.167,0 7.144,0
VCSH
Cổ phiếu ưu đãi 0,0 0,0 609,0 609,0 609,0
Cổ phiếu thường 4.824,0 29.109,0 11.900,0 10.956,0 4.801,0
Tổng VCSH 4.824,0 29.109,0 12.518,0 11.565,0 5.410,0
Tổng nợ phải trả &
VCSH
21.137,0 42.180,0 22.597,0 19.732,0 12.554,0
Bảng 12-2 Bảng cân đối kế toán hàng năm của Nortel Networks 1997 – 2001
Luồng tiền hàng năm (triệu đô
la)
12/2001 12/2000 12/1999 12/1998 12/1997
Luồng tiền từ hoạt động KD
Lãi (lỗ) thuần -
24.307,0
- 347,0 - 170,0 - 537,0 829,0
Khấu hao 5.699,0 5.581,0 2.651,0 2.259,0 546,0
Thuế TNDN hoãn lại - 2.934,0 - 11,0 31,0 59,0 71,0
(Lãi) Lỗ hoạt động 692,0 1.496,0 - 364,0 - 308,0 - 127,0
(Lãi) Lỗ bất thường 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0
Thay đổi Vốn hoạt động
(Tăng) Giảm nợ phải thu KH 5.572,0 - 743,0 - 1.488,0 - 236,0 - 920,0
(Tăng) Giảm trong hàng tồn
kho
2.037,0 - 2.034,0 - 1.363,0 - 308,0 - 127,0
(Tăng) Giảm Tài sản ngắn hạn
khác
0,0 0,0 0,0 - 160,0 - 163,0
Giảm (Tăng) trong khoản phải
trả người bán
620,0 147,0 1.657,0 321,0 661,0
Giảm (Tăng) trong Nợ phải trả
NH khác
- 959,0 - 180,0 0,0 3,0 9,0
Các hạng mục ngoài tiền khác 14.005,0 2.746,0 19,0 0,0 0,0
Tiền thuần từ hoạt động
thường xuyên
425,0 40,0 973,0 1.586,0 789,0
Tiền thuần từ hoạt động không
thường xuyê
- 701,0 0,0 0,0 0,0 0,0
Tiền thuần từ các hoạt động - 276,0 40,0 973,0 1.586,0 789,0
Luồng tiền từ các hoạt động
đầu tư
Luồng tiền được tạo ra bởi
Bán bất động sản, nhà máy,
thiết bị
812,0 1.721,0 24,0 778,0 395,0
Bán các đầu tư ngắn hạn 0,0 0,0 993,0 0,0 0,0
Tiền được sử dụng bởi
Mua Bất động sản, Nhà máy,
Thiết bị
- 1.379,0 - 1.949,0 - 1.520,0 - 642,0 - 744,0
Mua các đầu tư ngắn hạn 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0
Các thay đổi đầu tư khác,
thuần
- 234,0 - 693,0 - 908,0 - 241,0 194,0
Tiền thuần từ các hoạt động
đầu tư
- 801,0 - 921,0 - 1.411,0 - 105,0 - 155,0
Tiền thuần từ các hoạt động
tài chính
Luồng tiền được cung cấp bởi:
Phát hành trái phiếu 3.426,0 201,0 447,0 62,0 260,0
Phát hành cổ phiếu 146,0 479,0 521,0 125,0 418,0
Tiền sử dụng để:
Trả nợ - 493,0 - 60,0 - 307,0 - 284,0 - 38,0
Mua cổ phiếu quĩ 0,0 0,0 214,0 - 224,0 - 466,0
Trả cổ tức tiền mặt - 123,0 - 223,0 - 231,0 - 210,0 - 167,0
Các trách nhiệm tài chính khác,
thuần
0,0 0,0 0,0 0,0 0,0
Tiền thuần từ các hoạt động
tài chính
2.956,0 397,0 416,0 - 531,0 7,0
ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá - 10,0 - 25,0 - 2,0 240,0 0,0
Thay đổi trong tiền và tương
đương tiền thuần
1.869,0 - 509,0 - 24,0 910,0 641,0
Tiền đầu kì 1.644,0 2.153,0 2.153,0 1.371,0 730,0
Luồng tiền tự do - 1.778,0 - 2.132,0 - 778,0 734,0 - 122,0
Bảng 12-3 Luồng tiền hàng năm của Nortel Networks 1997 – 2001
Môi trường của kiểm soát tài chính
Kiểm soát tài chính nghĩa là gì? Kiểm soát tài chính liên quan tới việc sử dụng các
biện pháp tài chính để đánh giá tổ chức và việc thực hiện quản lý. Trọng tâm của sự chú ý có
thể là sản phẩm, một dây chuyền sản phẩm, một phòng ban, một bộ phận của tổ chức, hoăn
toàn thể tổ chức. Kiểm soát tài chính tập trung vào các kết quả tài chính đưa ra một sự phản
biện đối với quan điểm của thẻ điểm cân bằng gắn với các kết quả tài chính với những người
điều hành liên quan tới các kết quả.
Vai trò quan trọng của thẻ điểm cân bằng như một phương tiện đối với chiến lược
chất lượng và chiến lược chỉ huy từ trên xuống theo hệ thống cấp bậc của tổ chức đã được
khảo sát kỹ trong Chương 9. Cơ cấu nguyên nhân và hiệu quả của thẻ điểm cân bằng phản
ánh sự đánh giá của quản lý về những gì đưa tới thành công trong việc đạt được các mục tiêu
của tổ chức. Trong những tổ chức vì lợi nhuận, các mục tiêu này luôn là mục đích tài chính
và bao gồm các biện pháp như lãi từ đầu tư, doanh thu từ cổ phiếu, tăng trưởng của cổ phiếu
thị trường và tăng trưởng lợi nhuận.
Do những người giữ tiền đặt cược bên ngoài như các nhà đầu tư, phân tích cổ phiếu
và các nhà cung cấp tín dụng theo truyền thống thường dựa vào các biện pháp thực hiện tài
chính để đánh giá tiềm năng của tổ chức, các tổ chức đã phát triển và khai thác các biện pháp
tài chính để đánh giá sự thực hiện và các lĩnh vực mục tiêu cần hoàn thiện. Nhớ lại nghiên
cứu về thẻ điểm cân bằng, các biện pháp tài chính không xác định điều gì là sai nhưng đưa ra
tín hiệu cảnh báo điều gì đó sai lầm hoặc chí ít triển vọng không đáp ứng và sự lưu tâm, giải
thích và thậm chí có thể có hành động cần thiết. Ví dụ, lợi nhuận giảm có thể phản ánh doanh
thu giảm, tiếp đến có thể phản ánh sự không thoả mãn của khách khàng đối với chất lượng và
dịch vụ kém hoặc giá cao. Đó là vai trò của các biện pháp ngoài tài chính được nghiên cứu
trong Chương 9.
Kiểm soát tài chính là một phần của lĩnh vực rộng lớn hơn về kiểm soát tổ
chức được trình bày trong Chương 7 và Chương 8. Kiểm soát tài chính được xử lý riêng
trong phần này vì việc sử dụng và công cụ của nó là rất rộng rãi trong nền kinh tế.
Kiểm soát tài chính
Sử dụng các phân tích khác nhau để đánh giá các hoạt động, là một trong những hình
thức kiểm soát tài chính được sử dụng lâu đời và rộng rãi nhất được trình bày đầu tiên trong
Chương 10. Chương này tập trung vào các vấn đề bao quát hơn trong kiểm soát tài chính, bao
gồm đánh giá các đơn vị của tổ chức và toàn thể tổ chức.
Khi các giám đốc áp dụng các công cụ tài chính để đánh giá các đơn vị của tổ
chức, ví dụ, để đánh giá khả năng có lãi của một sản phẩm hoặc một dây chuyền sản phẩm,
thông tin kết quả thường được sử dụng nội bộ và không phân phát cho người ngoài. Đặc biệt,
các giám đốc tại General Motors trong thập niên 20 đã phát triển hình thức Kiểm soát tài
chính nội bộ để hỗ trợ việc phân cấp quản lý ra quyết định trong các tổ chức lớn.
Những nhà phân tích bên ngoài đã phát triển các công cụ kiểm soát tài chính để đánh
giá các khía cạnh của viẹc thực hiện của tổ chức, như khả năng thanh toán, hiệu quả và khả
năng thu lãi. Do các biện pháp tài chính này phản ánh người bên ngoài nhìn tổ chức như thế
nào, bởi vậy các công cụ kiểm soát tài chính này là thích đáng để quản lý và xem xét nhà
quản lý.
Động cơ thúc đẩy phân cấp quản lý
Phân cấp quản lý, quá trình giao phó uỷ quyền ra quyết định từ trên xuống theo hệ
thống cấp bậc của tổ chức, là hiện tượng bắt nguồn từ viẹcphát triển và sử dụng công cụ kiểm
soát tài chính nội bộ ban đầu trong những năm đầu thế kỷ XX.
Các tổ chức tập trung hoá cao nhất thường không thể phản ứng có hiệu quả hoặc
nhanh chóng đối với môi trường của họ,; vì vậy, tập trung quyền lực là thích hợp nhất với các
tổ chức trong môi trường ổn định. Nhiều người cho rằng kinh doanh điện, khí đốt, các cơ sở
và công ty điện thoại như là những hãng chuyển bưu kiện, doanh nghiệp kinh doanh đồ ăn
nhanh, các tổ chức tài chính và các ngành công nghiệp tài nguyên thiên nhiên như những ví
dụ về các tổ chức đối mặt với môi trường ổn định. Điều này nghĩa là không có sự khác nhau
lớn về thông tin giữa những người ở trụ sở công ty và nhân viên chịu trách nhiệm giao dịch
với khách hàng hoặc điều hành các hoạt động tạo ra hàng hoá và dịch vụ của tổ chức, không
có những thay đổi trong môi trường của tổ chức đòi hỏi sự thích nghi của tổ chức. Vì vậy,
không đòi hỏi một phản ứng nhanh chóng đối với sự thay đổi môi trường hoặc đối với việc
uỷ quyền ra quyết định cho các giám đốc khu vực và các tổ chức có thể phát triển các thủ tục
hoạt động tiêu chuẩn đối với môi trường được nhận thức rõ của mình mà tổ chức hy vọng
nhân viên thực hiện.
Trong các tổ chức như vậy, công nghệ và các yêu cầu của khách hàng được
hiểu rõ và dây chuyền sản phẩm chủ yếu gồm các sản phẩm hàng hoá cho những thuộc tính
quan trọng nhất là giá và chất lượng. Do giá là vấn đề then chốt bởi vậy đòi hỏi việc kiểm
soát và chất lượng. Để đạt được điều này, các tổ chức thường phát triển các thủ tục hoạt động
tiêu chuẩn để đảm bảo rằng (1) Họ đang sử dụng các công nghệ hiệu quả nhất và thực hành
xúc tiến cả hạ thấp giá và chất lượng ổn định và (2) không có sự trệch hướng khỏi biện pháp
ưu tiên để thực hiện những điều này.
Ví dụ, McDonald’s Corporation đã phát triển việc áp dụng các quy trình hoạt
động tiêu chuẩn thành một khoa học. Mọi cách bố trí nhà hàng, kiểu dáng sản phẩm, dạng
nguyên liệu thô của hãng và các quy trình hoạt động đã mô tả được thiết kế để duy trì giá
thấp và chất lượng cao. McDonal’s không tìm kiếm một bếp trưởng muốn tỏ ra sáng tạo trong
chuẩn bị thực phẩm hoặc đưa ra các hạng mục mới vào thực đơn. Thay vào đó, Hãng muốn
người bếp trưởng có thể tuân thủ các quy trình đã được tiêu chuẩn hoá để xúc tiến cho chất
lượng không đổi và giá thấp.
Để đối phó với sức ép cạnh tranh ngày ccàng tăng hiện nay và mở ra của các
độc quyền trước đây đối với cạnh tranh, nhiều tổ chức, thậm chí cả những cơ sở tiện ích, các
hãng chuyển bưu kiện và các tổ chức tài chính từng được cho là chỉ gặp môi trường ổn định
nay đang thay đổi cách tổ chức và kinh doanh. Điều này là cần thiết vì họ cần phải trở nên có
thể thay đổi nhanh chóng trong một thế giới mà công nghệ, sở thích của khách hàng và các
chiến lược của các nhà cạnh tranh đang không ngừng thay đổi. McDonal’s là một ví dụ tốt,
trên phương diện những lo ngại về sức khoẻ ngày càng tăng, hãng đang trải qua nhiều thua lỗ
và đóng cửa nhiều cửa hàng lần đầu tiên trong lịch sử của Hãng và đang thực hiện những
thay đổi quan trọng trong thực đơn.
Trong quá khứ, các ngân hàng đã phát triển hệ thống quản lý khắt khe và độc
đoán để bảo vệ các tài sản và đáp ứng các yêu cầu kiểm soát. Tuy những hệ thống này đã
giúp cho việc đáp ứng các mục tiêu trên, trong nhiều trường hợp chúng không phục vụ tốt
trong các giao dịch với khách hàng. Đưa ra các biện pháp dịch vụ khách hàng chất lượng cao
duy trì mở cửa vào các buổi tối, lắp đặt máy nhận trả tiền tự động để cung cấp dịch vụ ngân
hàng suốt 24 giờ, đưa ra giao dịch ngân hàng trực tuyến hoặc trên cở sở mạng mà khách hàng
có thể truy cập thông qua điện thoại hoặc máy tính cá nhân, đưa ra các sản phẩm và dịch vụ
mới như thẻ tín dụng và thẻ nợ và trả lời nhanh chóng hơn, kể cả trực tiếp, với các yêu càu
của khách hàng như chấp nhận khoản vay mua ô tô, các loại tín dụng và thế chấp.
Nói chung, để có khả năng thích ứng đòi hỏi ban quản lý cao cấp của tổ chức giao phó
hoặc phân cấp quản lý ra quyết định cho nhiều người hơn trong tổ chức. Phân cấp quản lý
cho phép các thành viên của tổ chức năng động và được đào tạo tốt nhanh chóng xác định
những thay đổi sở thích của khách hàng và cho các nhân viên có nhiều trách nhiệm nhất
quyền hạn và trách nhiệm phát triển các kế hoạch đối phó lại với những thay đổi này.
Nhiều mức độ phân cấp quản lý có thể được xác định. Một số tổ chức giới hạn hầu hết
các quyết định cho quản lý cao cấp hoặc trung cấp. Nhiều tổ chức khác giao phó các quyết
định quan trọng về chế tạo sản phẩm và phục vụ khách hàng như thế nào cho các nhân viên
thực hiện các hoạt động này. Khối lượng phân cấp quản lý phản ánh sự tin tưởng của tổ chức
vào nhân viên của mình, vào trình độ kỹ năng và việc đào tạo của nhân viên, vào mức rủi ro
tăng lên từ việc giao phó ra quyết định, và vào khả năng của nhân viên đưa ra sự lựa chọn
đúng đắn. Sự phân cấp quản lý cũng phản ánh nhu cầu của tổ chức cần có những người có
trách nhiệm nhất có thể nhanh chóng đưa ra các quyết định tốt.
Để tóm tắt, trong phân cấp quản lý, những động thái kiểm soát từ kiểm soát
nhiệm vụ, khâu mà mọi người được lệnh phải làm việc gì, tới khâu kiểm soát kết quả, nơi
mọi người được lệnh sử dụng kỹ năng, kiến thức và tính sáng tạo để đạt được các mục tiêu
của tổ chức. Trong kiểm soát tài chính, những kết quả này được đánh giá trong các điều
khoản tài chính. Ví dụ, một giám sát sản xuất có thể được lệnh làm giảm chi phí bằng cách
hoàn thiện quá trình sản xuất.
Các trung tâm trách nhiệm và đánh giá sự thực hiện của đơn vị
Một trung tâm trách nhiệm là một đơn vị của tổ chức mà một giám đốc thực hiện
trách nhiệm. Các ví dụ về các trung tâm trách nhiệm bao gồm một khách sạn trong một tập
đoàn khách sạn, một trạm làm việc trong một dây chuyền sản xuất các bộ phận điều khiển
máy tính, nhóm xử lý thông số trong một văn phòng chính phủ giải quyết các yêu cầu thanh
toán từ các nhà cung cấp, một đơn vị xử lý các kiến nghị trong một công ty bảo hiểm, hoặc
một phòng vận tải trong một kinh doanh bằng thư đặt hàng.
Một trung tâm trách nhiệm giống như một kinh doanh nhỏ, và giám đốc của nó được
yêu cầu điều hành kinh doanh nhỏ này đặt tới các mục tiêu của tổ chức lớn hơn. Giám đốc và
người giám sát thiết lập các mục tiêu cho trung tâm trách nhiệm của họ. Các mục tiêu tạo cho
các nhân viên tiêu điểm và vì vậy cần rõ ràng và có thể đo đếm được. Các mục tiêu cũng cần
xúc tiến cả các lợi ích dài hạn của tổ chức lớn hơn và phối hợp các hoạt động của mỗi trung
tâm trách nhiệm với các cố gắng của tất cả các trung tâm khác. Phần sau khảo sát sự phối hợp
này được thực hiện cho các mục tiêu có tính tài chính như thế nào.
Phối hợp các trung tâm trách nhiệm
Đối với một tổ chức được coi là thành công, các hoạt động của các đơn vị trách nhiệm
của nó phải được phối hợp. Giả sử chúng ta chia các hoạt động trong một nhà hàng đồ ăn
nhanh thành ba nhóm. Nhận đơn, chuẩn bị thực đơn và giao hàng. Hãy tưởng tượng tình
trạng hỗn độn và khách hàng khó chịu có thể xảy ra nếu các mối liên lạc giữa bất kỳ hai trong
các nhóm này của tổ chức là tồi tệ. Điều không may là trong các tổ chức lớn, các hoạt động
bán hàng, sản xuất và dịch vụ khách hàng thường rất thiếu ăn khớp dẫn đến thực hiện bị hạn
chế. Sự cần thiết phối hợp này giải thích lợi ích mà tổ chức có trong các hệ thống kế hoạch
nguồn lưc doanh nghiệp mà không những tập trung vào hoà nhập các hoạt động của tổ chức
mà còn gắn kết tổ chức với các nhà cung cấp và khách hàng của mình.
Hãy xem xét các hoạt động của một hãng chuyển bưu kiện như Federal Express. Các
hãng chuyển bưu kiện trên phạm vi toàn quốc thiết lập các trạm địa phương hoặc các điểm
thu nhận (được gọi là các đầu mối), từ đó Hãng phái các xe tải tới nhận hàng và giao hàng.
Việc chuyển hàng đi về các đầu mối khác được gửi tới trung tâm của Federal Express tại
Memphis để phân loại và định hướng lại. Công thức cho hoạt động kinh doanh chuyển bưu
kiện là đơn giản và có hai yếu tố chính: (1) đáp ứng các cam kết dịch vụ cho khách hàng một
cách lịch sự, đúng hẹn và không bị tổn thất, và (2) kiểm soát chi phí. Cách duy nhất để đạt
được thành công là đảm bảo rằng mọi bộ phận của hệ thống làm việc cùng nhau hiệu lực và
hiệu quả để đạt được hai yếu tố quan trọng này của công việc thực thi.
Giả sử việc quản lý được quyết định rằng mỗi đầu mối sẽ được xử lý như một trung
tâm chịu trách nhiệm. Công ty nên đánh giá việc thực thi công việc của mỗi đầu mối, nhà
quản lý và nhân viên của mình như thế nào?
Thứ nhất, công ty có thể đánh giá các năng suất của các lái xe tại mỗi đầu mối.
Để nhấn mạnh vào năng suất, công ty có thể đếm số gói được đưa lên ô tô, phân loại hoặc
giao theo lộ trình, theo nhân viên, theo xe, theo giờ hoặc theo ca. Để tập trung vào hiệu quả
và sự thoả mãn của khách hàng, công ty có thể đếm, cho các mục đích hiệu suất, chỉ những
chuyến chuyển đáp ứng các yêu cầu của khách hàng, ví dụ, nhận vào giao hàng đúng giờ tới
đúng địa chỉ.
Thứ hai, khả năng của tổ chức đáp ứng cam kết dịch vụ của mình cho khách
hàng trong hoạt động hoà nhập cao khi một việc kinh doanh chuyển bưu kiện phản ánh các
bộ phận phối hợp nhịp nhàng với nhau tốt như thế nào. Công ty cần đo mỗi nhóm đóng góp
vào năng lực của tổ chức như thế nào để đáp ứng cam kết với khách hàng. Sau đây là hai yếu
tố quan trọng của sự tương tác tại tâm của đầu mối đối với một nhà chuyển bưu kiện:
1. Phần thời gian mà đầu môí đáp ứng hạn chót của nó, nghĩa là, các xe tải và
container được đóng gói và sản sàng rời trung tâm khi chúng được yêu cầu lên
đường (thường gọi là đánh giá phần trăm chính xác).
2. Khi các đầu mối được yêu cầu phân loại hàng, số hàng được phân loại tới địa chỉ sai
hoặc vận chuyển sai phương thức (thường được gọi là đánh giá phần trăm thiếu
sót.)
Thứ ba, Công ty có thể đánh giá dịch vụ của mình cho khách hàng ở mức chi tiết
hơn. Ví dụ, Công ty có thể đánh giá theo:
1. Số các khiếu nại (hoặc phần trăm số hàng có khiếu nại) mà nhóm hoạt động của
đầu mối nhận được
2. Thời gian trung bình càn cho nhóm hoạt động đáp lại khiếu nại của khách hàng
3. Số khiếu nại dịch vụ nghèo nàn hoặc thiếu lịch sự mà đường dây dịch vụ khách
hàng của công ty nhận được
Nói chung, kiẻm soát các hoạt động của các trung tâm trách nhiệm đòi hỏi đánh giá
các nhân tố thực hiện phi tài chính, như chất lượng và dịch vụ tạo ra các kết quả tài chính.
Thông điệp chính là các đánh giá phi tài chính được lựa chọn thích hợp dự báo trước và giải
thích các kết quả tài chính. Ví dụ, tăng cường đào tạo nhân viên mà cải thiện chất lượng trong
giai đoạn này có thể cải thiện doanh thu và lợi nhuận trong các giai đoạn kế tiếp. Vì vậy,
chúng ta phải luôn thận trọng sử dụng các kết quả tài chính như là những đánh giá kết hợp
đối với việc thực hiện và dựa vào các kết quả phi tài chính để xác định các nguyên nhân hoặc
những người lái xe có các kết quả tài chính này.
Các trung tâm trách nhiệm và kiểm soát tài chính
Các tổ chức sử dụng kiểm soát tài chính để đưa ra một cách đánh giá tóm tắt hệ thống
kiểm soát hoạt động của họ đang làm việc tốt như thế nào. Khi các tổ chức sử dụng một chỉ
số riêng lẻ để đưa ra sự đnáh giá bao quát về các hoạt động, họ thường sử dụng một số liệu tài
chính như doanh thu, chi phí, lợi nhuận hoặc lãi từ đầu tư, do những số liệu này là các số đo
mô tả các mục tiêu chủ yếu của các chủ cổ phần trong các tổ chức hoạt động vì lợi nhuận.
Các loại Trung tâm Trách nhiệm
Báo cáo kế toán được chuẩn bị cho một trung tâm trách nhiệm phản ánh mức độ đối
với nó giám đốc trung tâm trách nhiêm kiểm soát doanh thu, chi phí, lợi nhuận hoặc lãi từ
đàu tư. Khi chuẩn bị các tóm tắt kế toán, các nhân viên kế toá phân loại các trung tâm trách
nhiệm vào một trong bốn loại sau:
1. Trung tâm chi phí
2. Trung tâm doanh thu
3. Trung tâm lợi nhuận
4. Trung tâm đầu tư
Trung tâm Chi phí
Các trung tâm chi phí là các trung tâm trách nhiệm trong đó các nhân viên kiểm soát
chi phí nhưng không kiểm soát mức doanh thu hoặc đầu tư. Hiển nhiên mỗi nhóm xử lý trong
các hạot động dịch vụ (như nhà máy làm sạch tại các doanh nghiệp giặt khô hoặc phòng
thanh toán séc trong ngân hàng) hoặc trong các hoạt động sản xuất (như bộ phận xẻ gỗ trong
nhà máy cưa hoặc bộ phận sản xuất thép trong nhà máy thép) là đối tượng để được xử lý như
một trung tâm chi phí.
Các tổ chức đánh giá việc thực hiện công việc của các nhân viên tại trung tâm chi phí
bằng cách so sánh các chi phí thực tế của trung tâm với các mức dự kiến hoặc tiêu chuẩn đối
với tổng giá trị và loại công việc được thực hiện. Vì vậy, các tiêu chuẩn chi phí và số tiền
khác biệt chiếm ưu thế trong báo cáo của các trung tâm chi phí. Ngoài ra, do các tổ chức
thường sử dụng các tiêu chuẩn và các sự khác biệt có những ảnh hưởng hành vi sâu rộng đối
với nhân viên, đặc biệt liên quan tới trình bày sai lạc các kết quả thực hiện và các tiềm năng
thực hiện.
Các cách tiếp cận kiểm soát chi phí khác
Khi một hỗn hợp các sản phẩm và mức sản xuất của một đơn vị thuộc tổ chức là
không đổi, có khả năng để so sánh mức chi phí hiện hành với mức chi phí của các giai đoạn
trước để thúc đẩy môi trường cải thiện chi phí không ngừng. Những so sánh chi phí liên giai
đoạn có thể dẫn đến sai lạc khi hỗn hợp sản xuất hoặc mức sản xuất đang thay đổi. Trong
những điều kiện như vậy, mức chi phí giữa các giai đoạn là không thể so sánh, tuy nhiên, khi
các hoàn cảnh đảm bảo, các tổ chức thường có thể vẽ biểu đồ các mức chi phí trên một đồ thị
và tìm kiếm khuynh hướng chi phí đi xuống cho thấy năng suất được hoàn thiện trong quá
trình đang tạo ra các chi phí này.
Theo dõi những vấn đề khác trong Kiểm soát Trung tâm Chi phí
Nhiều tổ chức phạm sai lầm do chỉ đánh giá một trung tâm chi phí theo kảh năng
kiểm soát và giảm chi phí của trung tâm. Ví dụ của Federal Express minh hoạ rằng chất
lượng, thời gian trả lời, khả năng đáp ứng lịch biểu sản xuất, động cơ thúc đẩy nhân viên, sự
an toàn của nhân viên và sự tôn trọng đối với các cam kết về nguyên tác xử thế và môi trường
của tổ chức là các thước đo chính yếu khác để đánh giá sự thực thi công việc của một trung
tâm chi phí. Nếu ban giám đốc chỉ đánh giá sự thực thi công việc của trung tâm chi phí theo
khả năng kiểm soát chi phí của trung tâm, cá thành viên của ban giám đốc có thể bỏ qua
nhiều thuộc tính của việc thực thi công việc không được đánh giá. Vì vậy, các tổ chức không
bao giờ nên chỉ sử dụng việc thực hiện chi phí để đánh giá trung tâm chi phí. Tốt hơn là, các
đánh giá về thực thi công việc cũng cần phản ánh các thuộc tính mà trung tâm chi phí tạo ra
thành công của tổ chức.
Trung tâm doanh thu
Trung tâm doanh thu là trung tâm trách nhiệm mà các thành viên của nó kiểm soát
doanh thu mà không kiểm soát việc chế tạo hoặc chi phí để có được sản phẩm hoặc dịch vụ
mà trung tâm bán hạc mức đầu tư dược thực hiện tại trung tâm tâm trách nhiệm. Ví dụ như bộ
phận thiết bị trong một nàh kho của bộ phận, một phòng bán hàng khu vực của một công ty
quốc gia hoặc đa quốc gia và một nhà hàng trong một tập đoàn nhà hàng lớn.
Một số trung tâm doanh thu kiểm soát giá cả, các loại hàng tồn kho được tích trữ và
các hoạt động quảng cáo. Trong các trung tâm này, doanh thu sẽ đánh giá hầu hết các hoạt
động giá trị gia tăng và sẽ chỉ ra một cách bao quát các trung tâm đã thực hiện các hoạt động
tốt như thế nào.
Hãy xem xét các hoạt động của Napanee Service Center, một trạm dịch vụ dầu xăng
và ô tô thuộc sở hữu của một hãng lọc dầu lớn. Giám đốc trung tâm dịch vụ không kiểm soát
chi phí của các hạng mục như nhiên liệu, khấu hao nhà, chi phí điện và sưởi nóng, các đồ
cung cấp và tỷ lệ tiền lương nhưng giám đốc có một ảnh hưởng thứ yếu, thông qua các quyết
định về lịch biểu và nhân sự, đối với tổng chi phí nhân công. Mức doanh thu nhiên liệu và
hoạt động sửa chữa quyết định mọi chi phí khác. Giám đốc dịch vụ cũng không kiểm soát đối
với tiền lương trả cho nhân viên. Ban tham mưu của trụ sở chính kiểm soát tiền lương này và
ban tham mưu tiếp thị trung tâm kiểm soát mọi giá sản phẩm và các hoạt động quảng cáo.
Hạng mục chính yếu có thể kiểm soát tại trạm dịch vụ này là dịch vụ khách hàng, phân biệt
doanh thu nhiên liệu và dịch vụ sửa chữa của trạm với những doanh thu nhiên liệu và dịch vụ
sử chữa được các trạm tương tự và giúp cho việc xác định mức doanh thu của trạm dịch vụ.
Cách tiếp cận của trung tâm doanh thu đánh giá một trung tâm trách nhiệm duy nhất
dựa trên doanh thu mà nó tạo ra. Tuy nhiên, hầu hết các trung tâm doanh thu gánh chịu chi
phí tiền lương và tiếp thị, và có mức độ kiểm soát khác nhau đối với các chi phí này. Do vậy,
tinh thần chung trong các tình huống như vậy là khấu trừ các chi phí có thể truy nguyên của
trung tâm trách nhiệm như tiền lương, chi phí quảng cáo, bán hàng khỏi doanh thu bán hàng
để tính doanh thu ròng của trung tâm.
Những người phê phán cách tiếp cận của trung tâm doanh thu cho rằng dựa vào đánh
giá sự thực hiện trên doanh thu có thể tạo ra các hậu quả ngoài mong muốn. Ví dụ, ban tham
mưu bán hàng chỉ thưởng cho việc bán hàng (1) có thể thúc đẩy, hoặc khích động một nhóm
sản phẩm rộng để có thể tạo ra các chi phí liên quan nhiều mặt vượt quá (cả trong sản xuất và
hậu cần) hoặc (2) có thể chào các dịch vụ vượt quá theo yêu cầu của khách hàng. Nói chung,
chỉ tập trung vào các nguyên nhân thuộc doanh thu, các thành viên của tổ chức tăng cường sử
dụng các hoạt động tạo ra chi phí để thúc đẩy mức doanh thu cao hơn.
Trung tâm lợi nhuận
Trung tâm lợi nhuận là trung tâm trách nhiệm trong đó các giám đốc và nhân viên
khác kiểm soát cả doanh thu và chi phí của các sản phẩm hoặc dịch vụ mà họ cung cấp.
Trung tâm lợi nhuận như là một doanh nghiệp độc lập, không phải giám đốc của trung tâm
trách nhiệm, mà giám đốc cao cấp, kiểm soát mức đầu tư tại trung tâm trách nhiệm. Ví dụ,
nếu giám đốc của một điểm bán hàng trong tổ hợp các cửa hàng giảm giá có trách nhiệm định
giá, lựa chọn sản phẩm, mua và quảng cáo nhưng không có trách nhiệm về mức đầu tư trong
cửa hàng, như vậy, điểm bán hàng này đáp ứng các điều kiện để được coi là một Trung tâm
lợi nhuận.
Hầu hết các đơn vị riêng lẻ của các hoạt động của tổ hợp, dù là các cửa hàng, khách
sạn, nhà hàng, được coi là các Trung tâm lợi nhuận.Tuy nhiên, điều không chắc chắn là một
đơn vị của nhà hàng đồ ăn nhanh thuọc sở hữu của một công ty như Burger King hoặcmột
khách sạn thuộc sở hữu của một công ty như Holiday Inn đáp ứng các điều kiện để được coi
là một Trung tâm lợi nhuận vì văn phòng chính thực hiện hầu hết các quyết định mua, hoạt
động, định giá, quảng cáo. Tuy nhiên, các đơn vị này đủ lớn, bởi vậy các chi phí có thể biến
động do sự khác nhau trong viẹc kiểm soát chi phí nhân công, thực phẩm thừa và lịch biểu
cho các giừo của cơ sở. Doanh thu cũng có thể biến động đáng kể dựa trên ban tham mưu
quản lý bất động sản tốt như thế nào. Vì vậy, tuy các tổ chức này dường như không phải là
các đối tượng để được coi là các Trung tâm lợi nhuận, sự suy xét có tính cục bộ thường ảnh
hưởng nhất định đến doanh thu và chi phí.
Nhiều tổ chức đánh giá các đơn vị như các Trung tâm lợi nhuận cho dù văn phòng
công ty kiểm soát nhiều khía cạnh trong hoạt động của chúng. Lợi nhuận được báo cáo bởi ba
đơn vị là một chỉ số thực hiện bao quát phản ánh cả các quyết định của công ty và khu vực.
Nếu việc thực hiện ở dơn vị kém cỏi, nó có thể phản ánh các tình trạng không thuận lợi: (1)
không ai trong tổ chức có thể kiểm soát việc thực hiện, (2) cá quyết định của công ty kém cỏi,
hoặc (3) các quyết định của khu vực kém cỏi. Đối với các nguyên nhân này, tổ chức không
nên chỉ dựa vào các kết quả của Trung tâm lợi nhuận để đánh giá thực hiện. Tốt hơn là các
đánh giá thực hiện chi tiết có thể bao gồm chất lượng, sử dụng nguyên liệu (sản lượng) và
phạm vi dịch vụ mà các đơn vị khu vực có thể kiểm soát.
Trung tâm Đầu tư
Trung tâm đầu tư là trung tâm chịu trách nhiệm trong đó các giám đốc và nhân viên
khác kiểm soát doanh thu, chi phí và mức đầu tư. Trung tâm đầu tư giống như một doanh
nghiệp độc lập. Giữa các năm 1970 và 2000, General Electric giành được nhiều công việc
kinh doanh bao gồm động cơ máy bay, hệ thống y tế, hệ thống năng lượng, hệ thống vận tải,
các sản phẩm tiêu dùng, hệ thống công nghiệp, phát thanh, nhựa, nguyên liệu chuyên ngành
và dịch vụ tài chính. Các giám đốc cao cấp tại Genẻal Electric đã phát triển một hệ thống
quản lý đánh giá những hoạt động kinh doanh này như là các hoạt động độc lập, trên thực tế,
là các trung tâm đầu tư.
Bảng 12-4 tổng kết các đặc tính của các loại trung tâm trách nhiệm khác nhau.
Loại trung tâm trách nhiệm
Các yếu tố Trung tâm chi
phí
Trung tâm
doanh thu
Trung tâm lợi
nhuận
Trung
tâm đầu tư
Được kiểm soát
bởi giám đốc
trung tâm
Chi phí Doanh Thu Chi phí và
doanh thu
Chi phí,
doanh thu và
kiểm soát đáng
kể về đầu tư
Không được
kiẻm soát bởi
giám đốc trung
tâm
Doanh thu, đầu
tư trong hàng
tồn kho và tài
sản cố định
Chi phí, đầu tư
trong hàng tồn
kho và tài sản cố
định
Đầu tư trong
hàng tồn kho và
tài sản cố định
Được đánh giá
bởi hệ thống kế
toán
Các chi phí liên
quan đến một số
mục tiêu
(thường là dự
toán)
Doanh Thu liên
quan đến một số
mục tiêu
(thường là dự
toán)
Lợi nhuận liên
quan đến một số
mục tiêu
(thường là dự
toán)
Lãi trên đàu tư
liên quan đến
một số mục tiêu
Không được
đánh giá bởi hệ
thống kế toán
Thực hiện trên
các nhân tố
thành công cốt
yếu ngoài chi
phí
Thực hiện trên
các nhân tố
thành công cốt
yếu ngoài doanh
thu
Thực hiện trên
các nhân tố
thành công cốt
yếu ngoài lợi
nhuận
Thực hiện trên
các nhân tố
thành công cốt
yếu ngoài lãi
trên đầu tư
Bảng 12-4 Tóm tắt Trung tâm Trách nhiệm
Đánh giá các Trung tâm Trách nhiệm
Sử dụng nguyên tắc có thể kiểm soát để đánh giá các trung tâm trách nhiệm
Nền tảng của phân loại kế toán đối với các trung tâm trách nhiệm là khái niệm có thể
kiểm soát. Nguyên tắc có thể kiểm soát nêu rõ giám đốc có thể chỉ được giao trách nhiệm về
doanh thu, chi phí hoặc đầu tư được kiểm soát bởi nhân viên của trung tâm trách nhiệm.
Doanh thu, chi phí và đầu tư mà người ngoài trung tâm trách nhiệm kiểm soát cần được loại
ra khỏi đánh giá kế toán thực hiện của trung tâm. Tuy nguyên tắc có thể kiểm soát có vẻ hấp
dẫn và hợp lý nhưng có gặp nhiều khó khăn, thường lạc hướng và không được mong muốn áp
dụng trong thực tế.
Một vấn đề quan tọng trong áp dụng nguyên tắc có thể kiểm soát là trong hầu
hết các tổ chức nhiều doanh thu và chi phí được nhận hoặc gánh chịu chung. Hãy xem xét các
hoạt động của một công ty thuỷ sản tổng hợp: đánh bắt, chế biến, tiếp thị và phân phối. Nhóm
đánh bắt điều hành tàu ra biển đánh bắt các loài cá. Tàu trở về một trong các nhà máy chế
biến để giao các sản phẩm bắt được. Các nhà máy chế biến cá thành các sản phẩm có thể bán
được. Nhóm tiếp thị và phân phối bán sản phẩm cho khách hàng.
Như trong hầu hết các tổ chức, những hoạt động tạo ra thành phẩm trong công ty này
phụ thuộc lẫn nhau cao độ và liên tục. Sản phẩm phải đúng loại, chất lượng, và giá có thể
được khách hàng chấp nhận. Việc thực hiện của các nhóm đánh bắt, chế biến, tiếp thị và phân
phối quyết định chung thành công của tổ chức.
Đánh giá riêng lẻ việc thực hiện đánh bắt, chế biến, tiếp thị và phân phối đòi hỏi công
ty xem xét nhiều khía cạnh của thực hiện. Ví dụ, có thể đánh giá hoạt động cảu nhóm đánh
bắt bằng cách đo năng lực của nhóm theo
1. Bắt được tổng hạn ngạch được phép
2. giảm thiểu phế thải và tổn hao khi đánh bắt
3. kiểm soát chi phí gắn với khai thác tàu.
Các đánh giá tương tự có thể được phát triển đối với chế biến và đánh giá vè tiếp thị
và phân phôí có thể được dựa trên năng lực của các nhóm đáp ứng lịch biểu giao hàng và
nâng cao thị phần.
Như một phần của quá trình đánh giá thực hiện, tổ chức có thể muốn chuẩn bị
các bản tóm tắt kế toán của việc thực hiện đánh bắt, chế biến, tiếp thị và phân phối để hỗ trợ
một số hệ thống kiểm soát tài chính. Kế toán quản lý thực hiện nhiệm vụ này trực tiếp đối
mặt với tình trạng khó xử của việc kế toán như thế nào cho các trung tâm của tổ chức có quan
hệ tương tác cao độ khi các trung tâm là những hoạt động kinh doanh riêng biệt. Ví dụ, chi
phí đánh bắt dễ dàng được xác định nhưng doanh thu từ đánh bắt là bao nhiêu? Việc đánh bắt
không kiểm soát về doanh thu hoặc giá, vai trò của nó là bắt cá, duy trì nguyên liệu thô và
chất lượng sản phẩm và đáp ứng lịch biểu được xác định chung với chế biến, tiếp thị và phân
phối.
Nếu công ty đánh coi đánh bắt như một trung tâm chi phí, chi phí gián tiếp của tổ
chức như quản lý công ty phản ánh toàn bộ các nguồn lực mà trung tâm chi phí sử dụng như
thế nào? Các khía cạnh thực hiện quan trọng khác như duy trì chất lượng, bắt đầy đủ chỉ tiêu
và giao các loại cá được yêu cầu, đúng hạn cho nhóm chế biến như thế nào? Có nên đòi hỏi
nhóm đánh bắt gánh chịu một phần chi phí của các nhóm tại trụ sở chính như tổ chức, kế
hoạch, hành chính mà nhóm sử dụng dịch vụ của họ? Nếu có, phần nhóm gánh chịu trong chi
phí của những dịch vụ này được xác định là bao nhiêu?
Chúng ta có thể kết luận rằng nhóm chế biến có thể coi là trung tâm chi phí, nhưng
nhóm tiếp thị và phân phối thông qua các cố gắng chung có thể có ảnh hưởng trực tiếp tới
doanh thu như thế nào? Chi phí kiểm soát của nhóm này là bao nhiêu? Nhóm không kiểm
soát chi phí đánh bắt và chế biến. Chi phí duy nhất được kiểm soát bởi tiếp thị và phân phối
là các chi phí về tiếp thị và phân phối mà trong hầu hết các công ty thuỷ sản tổng hợp, chi phí
này ít hơn 10% tổng chi phí. Nhóm đánh bắt, tuy khả năng của nhóm là đánh bắt cá và duy trì
chất lượng, và nhóm chế biến, tuy khả năng của nhóm là sản xuất các sản phẩm có chất
lượng, cũng bị ảnh hưởng trong việc xác định mức doanh thu của tổ chức. Tuy nhiên, một số
người không đồng ý rằng nguyên tác có thể kiểm soát là cách tốt nhất để xem xét việc đánh
giá thực hiện.
Sử dụng đánh giá thực hiện để tạo ảnh hưởng chống lại việc đánh giá các quyết
định. Một số người cho rằng khả năng kiểm soát không phải là một tiêu chuẩn có hiệu lực để
sử dụng trong lựa chọn cách đánh giá thực hiện. Ngoài ra, họ chỉ ra rằng sự lựa chọn một
cách đnáh giá thực hiện có thể ảnh hưởng tới hành vi ra quyết định.
Hãy xem xét một cơ sở sản xuất bơ sữa gặp phải vấn đề phát triển các tiêu
chuẩn thực hiện trong hoàn cảnh chi phí không ngừng tăng. Do chi phí nguyên liệu thô chiếm
khoảng 60% đến 70% của tổng chi phí của nhiều sản phảm khác nhau, do thị trường quyết
định và vì vậy, tuy ở ngoài tầm kiểm soát của các nhà giám đốc của các sản phẩm khác nhau,
nhiều người cho rằng việc đánh giá các giám đốc cần tuỳ thuộc vào khả năng kiểm soát số
lượng nguyên liệu thô được sử dụng hơn là chi phí.
Tuy nhiên, ban giám đốc cấp cao của cơ sở sản xuất bơ sữa thông báo rằng họ
dự định đánh giá các giám đốc theo khả năng kiểm soát tổng chi phí của họ. Các giám đốc
nhanh chóng nhận thấy rằng một cách để kiểm soát nguyên liệu thô là thực hiện sử dụng
đúng đắn hợp đồng giá cố định dài hạn đối với nguyên liệu thô. Các hợp đồng nàynhanh
chóng dẫn đến làm giảm chi phí nguyên liệu thô. Hơn nữa, công ty có thể dự kiến chi phí sản
phẩm trong vài quý trong tương lai, nhờ vậy, đạt được chi phí thấp hơn và sự ổn định trong
kế hoạch và định giá sản phẩm.
Ví dụ này cho thấy rằng các giám đốc thậm chí khi họ không thể hoàn toàn
kiểm soát chi phí, vẫn có thể thực hiện các biện pháp gây ảnh hưởng tới tổng chi phí của các
sản phẩm. Khi chi phí nhiều hơn hoặc thậm chí doanh thu được đưa vào trong đánh giá thực
hiện, các giám đốc bị thúc đẩy hơn để tìm ra những giải pháp có thể ảnh hưởng tới các chi phí
phải gánh chịu hoặc các doanh thu được tạo ra.
Sử dụng Báo cáo kết quả kinh doanh bộ phận
Nhiều vấn đề có thể xảy ra khi các tổ chức coi các trung tâm trách nhiệm như là các
trung tâm lợi nhuận. Những vấn đề này liên quan tới việc xác định trách nhiệm đối với việc
kiểm soát doanh thu và chi phí. Đặc biệt, cách thức này quyết định chia trách nhiệm như thế
nào cho các doanh thu và chi phí chung. Vì vậy, bây giờ chúng ta xem xét một mẫu báo cáo
kế toán mà các kế toán viên chuẩn bị cho các trung tâm trách nhiệm, nhớ rằng các giả định và
những giới hạn là cơ sở của những báo cáo này.
Không kể những vấn đề về kế toán của trung tâm trách nhiệm, đánh giá lợi
nhuận là rất toàn diện và đầy đủ mà các tổ chức ưu dùng khi coi nhiều đơn vị của mình là các
Trung tâm lợi nhuận. Do hầu hết các tổ chức có các hoạt động tổng hợp, vấn đề đầu tiên là
các nhà thiết kế các hệ thống kế toán của Trung tâm lợi nhuận phải đối mặt là xử lý sự tương
tác trong các đơn vị Trung tâm lợi nhuận khác nhau.
Để làm rõ vấn đề này, hãy xem xét các hoạt động tại Earl’s Motors, một hãng buôn ô
tô dịch vụ trọn gói được tổ chức thành năm trung tâm trách nhiệm: bán ô tô mới, bán ô tô đã
qua sử dụng, cửa hàng chính, phòng dịch vụ, cho thuê. Mỗi trung tâm trách nhiệm có một
giám đốc chịu trách nhiệm về lợi nhuận được báo cáo của đơn vị. Các giám đốc trung tâm
trách nhiệm báo cáo cho Earl, sử dụng mẫu báo cáo hàng quý đượcthể hiện trong Bảng 12-5.
Bảng 12-5 minh hoạ một mẫu báo cáo Lợi nhuận bộ phận chung đối với một tổ chức
được phân chia thành nhiều trung tâm trách nhiệm. Một cột được dành hết cho mỗi trung tâm.
Doanh thu được quy cho cho mỗi trung tâm là mục ghi sỏ đầu tiên trong mỗi cột. Các chi phí
linh hoạt được khấu trừ khỏi doanh thu để xác định lãi đóng góp, là phần đóng góp được thực
hiện bởi các hoạt động chịu các chi phí không tương ứng với khối lượng (xem “chi phí khác”
trong Bảng 12-5).
Hạng mục Doanh thu
xe mới
(đô la)
Doanh thu
xe đã qua
sử dụng
(đô la)
Cửa hàng
thân xe
(đô la)
Phòng
Dịch vụ
(đô la)
Doanh thu
cho thuê
(đô la)
Tổng cộng
(đô la)
Doanh Thu 976.350 1.235.570 445.280 685.210 635.240 3.977.650
Chi phí biến đổi 764.790 954.850 235.450 427.400 517.360 2.899.850
Lãi góp 211.560 280.720 209.830 257.810 117.880 1.077.800
Các chi phí khác 75.190 58.970 126.480 185.280 46.830 492.750
Lãi bộ phận 136.370 221.750 83.350 72.530 71.050 585.050
Chi phí có thể
phân bổ
69.870 74.650 64.540 65.290 22.490 296.840
Lợi nhuận 66.500 147.100 18.810 7.240 48.560 288.210
Chi phí không
phân bổ
325.000
Lợi nhuận kinh
doanh
36.790
Bảng 12-5
Báo cáo Lợi nhuận bộ phận hàng quý của Earl’s Motors cho giai đoạn 1 tháng 7 tới 30
tháng 9 năm 1993
Tiếp đó, các chi phí không tương ứng với khối lượng được khấu trừ khỏi lãi đóng góp
của mỗi trung tâm để xác định Lợi nhuận bộ phận của đơn vị là đánh giá thực hiện đối với
mỗi trung tâm trách nhiệm. Lợi nhuận bộ phận của đơn vị đánh giá phần đóng góp có thể
kiểm soát của đơn vị vào lợi nhuận và các chi phí khác của tổ chức. Các chi phí có thể trách
phân bổ là chi phí hành chính của tổ chức như các chi phí liên quan tới nhân sự và các chi phí
giành cho cơ sở vật chất. Các chi phí này có thể không được đưa vào nếu đơn vị được loại ra
và tổ chức có thời gian điều chỉnh mức công suất của mình bằng cách bán các cơ sở vật chất
không sử dụng đến hạc bằng cách giảm bớt số nhân viên hành chính. Các chi phí có thể tránh
phân bổ được khấu trừ khỏi Lợi nhuận bộ phận của đơn vị để tính lợi nhuận của nó. Cuối
cùng, chi phí không phân bổ của tổ chức (nhiều khi gọi là chi phí đóng) thể hiện các chi phí
hành chính và ở trên được gánh chịu không liên quan đến quy mô hoạt động, được khấu trừ
khỏi tổng lợi nhuận của năm trung tâm để chuyển vào lợi nhuận của Hãng.
Đánh giá Báo cáo Lợi nhuận bộ phận
Chúng ta có thể rút ra những gì từ báo cáo Lợi nhuận bộ phận của Earl’s Motors?
Trước hết, chúng ta biết rằng, các báo cáo kế toán tập hợp thông thường có một khoản lỗ
36.790 đô la trong quý này. Khoản lỗ này có thể báo hiệu một vấn đề dài hạn, hoặc nó có thể
được dự kiến. Có thể theo truyền thống, quý này là một quý khó khăn và các hoạt động trong
ba quý khác của năm bù vào khoản thiếu hụt. Có thể có một khối lượng không cân xứng các
chi phí đã chi trong quý này và chúng sẽ giảm bớt trong các quý sau.
Các báo cáo cho người đọc biết những gì?
Khi chúng ta nhìn vào các báo cáo về các trung tâm trách nhiệm riêng biệt, chúng ta
có thể thấy rằng mỗi báo cáo thể hiện một doanh thu dương. Lãi đóng góp đối với mỗi trung
tâm trách nhiệm là giá trị gia tăng bởi quá trình sản xuất hoặc tạo dịch vụ trước khi chi phí
không cân xứng với khối lượng.
Lợi nhuận bộ phận của một đơn vị là một sự đánh giá ảnh hưởng ngắn hạn của
đơn vị đối với lợi nhuận của tổ chức. Nó cũng thể hiện ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp đối với
lợi nhuận công ty nếu đơn vị đóng cửa. Lợi nhuận của đơn vị là một sự đánh giá ảnh hưởng
dài hạn của sự ngừng kinh doanh của trung tâm trách nhiệm đối với lợi nhuanạ của tổ chức
sau khi năng lực cố định được phép điều chỉnh. Ví dụ, nếu hoạt động cho thuê bị ngừng, ảnh
hưởng trực tiếp là làm giảm lợi nhuận của Earl’s Motors 71.050 đô la. Tuy nhiên, sau một số
giai đoạn, có thể một năm hoặc thậm chí vài năm, khi công suất đã được phép điều chỉnh cho
khoản lỗ của hoạt động này, ảnh hưởng thuần ước tính của việc đóng cửa hoạt động cho thuê
có thể làm giảm 48.560 đô la lợi nhuận của Công ty. Chênh lệch giữa Lợi nhuận bộ phận với
lợi nhuận của đơn vị phản ánh sự điều chỉnh chi phí duy trì kinh doanh được thực hiện trong
ngắn hạn nhưng chênh lệch có thể được giảm bớt trong dài hạn khi các cơ sở vật chất mà các
chi phí phản ánh được chia tỷ lệ lại.
Các con số là tốt hay xấu?
Các tổ chức sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau để đánh giá các số liệu Lợi nhuận
bộ phận là tốt hay là xấu. Sau đây là các nguồn thông tin so sánh phổ biến nhất:
1. Thưc hiện quá khứ. Việc thực hiện trong giai đoạn này có hợp lý, theo kinh
nghiệm quá khứ?
2. Các tổ chức so sánh. Việc thực hiện so sánh như thế nào với các tổ chức tương tự?
Những tính toán đưa vào trong các so sánh giá trị tuyệt đối, như mức chi phí và doanh
thu, và các giá trị tương đối như phần trăm doanh thu của mỗi hạng mục. Ví dụ, trong đánh
giá thực hiện của Earl’s Motors, giám đốc bộ phận dịch vụ có thể chú ý rằng các chi phí linh
hoạt (chi phí của các nguồn linh hoạt) là khoảng 62% doanh thu. Điều này có thể dễ so sánh
với các quan hệ chi phí biến đổi đối với doanh thu trong quá khứ. Bằng cách liên kết một
nhóm ngành kinh doanh tạo ra thông tin so sánh đối với hãng trong các cộng đồng có quy mô
tương tự, tuy nhiên, Earl’s Motors có thể nhận thấy rằng, tính trung bình, các chi phí linh hoạt
trong các kinh doanh ô tô chỉ bằng 58% doanh thu. Điều này gợi ra rằng Earl’s Motors cần
điều tra tại sao các chi phí linh hoạt của hãng cao hơn con số trung bình của toàn ngành. Ban
giám đốc cần làm các tính toán tương tự đối với mọi hạng mục chi phí trong báo cáo này.
Hiểu Báo cáo Lợi nhuận bộ phận với sự cẩn trọng
Báo cáo Lợi nhuận bộ phận cố thể giống như là một cách tiếp cận minh bạch và quan
trọng để kiểm soát tài chính. Tuy nhiên, các báo cáo Lợi nhuận bộ phận cần được hiểu một
cách cẩn trọng, do chúng phản ánh nhiều giả định che giấu nhiều vấn đề cơ bản.
Thực tế
Kiểm soát tài chính trong hoạt động
Tháng 11 năm 2002, Microsoft Corporation thông báo rằng trong quý đầu của năm tài
chính 2002 – 2003, bốn trong 7 đơn vị kinh doanh của Hãng bị thua lỗ và rằng hệ điều hành
Windows của Hãng đang nhận được tổng lãi 85%. Đây là lần đầu tiên Microsoft đưa ra thông
tin về tình trạng lãi theo các đơn vị hoạt động của Hãng, một sự bộc lộ mà nhiều nhà quan sát
thị trường ủng hộ do nó cho phép hiểu sâu về nhiều dự án kinh doanh mới của Microsoft.
Một số nhà phân tích nhận thấy rằng lợi nhuanạ khổng lồ đói với phần mềm Windows cho
phép Microsoft cung cấp vốn cho nhiều dự án kinh doanh mới, như máy tính xách tay, giải trí
gia đình và Internet MSN, là những dự án lỗ.
Thứ nhất, như mọi cách tiếp cận để kiểm soát tài chính, Lợi nhuận bộ phận
trình bày một tóm tắt tổng thể của sự thực hiện trong quá khứ của mỗi đơn vị của tổ chức.
Điều quan trọng để xem xét các khía cạnh khác liên quan tới các yếu tố thành công then chốt,
như chất lượng và dịch vụ sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận trong tương lai. Ví dụ, các công ty có
thể sử dụng khảo sát khách hàng để thiết lập chỉ số thoả mãn của khách hàng đối với mỗi bộ
phận, hoặc họ có thể tính thống kê chất lượng theo phiếu lỗi hoặc tỷ lệ thu hồi sản phẩm đối
với mỗi bộ phận.
Thứ hai, báo cáo Lợi nhuận bộ phận có những số liệu có thể hoàn toàn cảm tính do
chúng dựa trên doanh thu chủ quan và những giả định phân bổ chi phí đối với những gì có thể
có bất đồng về quy chế. (Nhiều kế toán viên thường gọi những số liệu chủ quan này là các số
liệu mềm). Mỗi một giá trị tiếp sau thể hiện xuôi theo mõi cột trở nên có thể kiểm soát ít hơn
bởi giám đốc của trung tâm trách nhiệm và bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi các giả định được sử
dụng trong phân bổ chi phí. Tuy Lợi nhuận bộ phận của một đơn vị được giả định là có thể
kiểm soát, giám đốc có thể có sự kiểm soát không hoàn toàn đối với các chi phí được sử dụng
để tính toán lãi và giám đốc có thể hầu như không phải kiểm soát đối với các chi phí phân bổ
để tính lợi nhuận của đơn vị. Ví dụ, trong nhà máy lọc dầu điển hình này, sử dụng chung các
cơ sở vật chất tạo ra nhiều vấn đề khi các giám đốc cố gắng phân bổ chi phí của các quá trình
phải chi phí nhiều như những quá trình tại bộ phận chưng cất dầu thô, đối với các sản phẩm
đầu ra mà nhà máy sản xuất (dầu mỏ, sản phẩm chưng cất, khí đốt, dầu và các chất còn lại)
(xem Bảng 12-6).
Thứ ba, và có thể là quan trọng nhất, các số liệu doanh thu phản ánh các giả định và
những phân bổ quan trọng mà nhiều khi có thể bị sai lạc. Những giả định này liên quan tới
vấn đề định giá chuyển nhượng tập trung vào các doanh thu tổ chức có được có thể được
phân chia như thế nào trong tất cả các trung tâm trách nhiệm đã góp phần để có được những
doanh thu này.
Định Giá chuyển nhượng
Định giá chuyển nhượng là tập hợp các quy định của tổ chức sử dụng để phân bổ
doanh thu chung nhận được trong các trung tâm trách nhiệm. Các quy định này có thể là chủ
quan khi có mức độ tương tác cao giữa các trung tâm trách nhiệm riêng biệt. Bảng 12-7 thể
hiện các tương tác có thể giữa các trung tâm trách nhiệm của Earl’s Motors.
Để hiểu các vấn đề và những khó khăn gắn với việc phân bổ doanh thu trong
một tổ chức đơn giản như Earl’s Motors, hãy xem xét các hoạt động diễn ra khi một khách
hàng mua ô tô mới. Phòng bán ô tô mới bán một ô tô mới và nhận một ô tô đã qua sử dụng
như một thương vụ. Do vậy, Earl’s phải chuyển giao ô tô đã qua sử dụng đến phòng ô tô đã
qua sử dụng nơi ô tô này phải trải qua sửa chữa và dịch vụ để mang bán, hoặc ô tô có thể
đựoc bán ra ngoài như trong thị trường bán buôn.
Giá trị đặt vào ô tô đã qua sử dụng được chuyển giao giữa phòng ô tô mới và ô
tô đã qua sử dụng là điều cốt yếu trong việc xác định lợi nhuận của cả hai phòng. Phòng ô tô
mới có thể muốn giá trị được chuyển giao đối với chiếc ô tô qua sử dụng này càng cao càng
tốt vì điều đó làm cho doanh thu báo cáo của phòng cao hơn, phòng ô tô đã qua sử dụng có
thể muốn giá trị này càng thấp càng tốt do điều đó làm cho chi phí báo cáo của bộ phận giảm
đi.
Những xem xét như vậy đúng với bất kỳ sản phẩm hoặc dịch vụ chuyển giao
giữa hai phòng bất kỳ trong cùng một tổ chức. Quy định xác định giá trị của những chuyển
giao nội bộ sẽ phân bổ các doanh thu nhận được chung của tổ chức cho các Trung tâm lợi
nhuận riêng lẻ, do vậy, sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận báo cáo của mỗi trung tâm.
Các tiếp cận định giá chuyển giao
Các tổ chức lựa chọn trong số bốn các tiếp cận chính đối với định giá chuyển giao:
1. Giá chuyển giao trên cơ sở thị trường
2. Giá chuyển giao trên cưo sở chi phí
3. Giá chuyển giao thương lượng
4. Giá chuyển giao được quản lý
Bảng 12-6
Hoạt động của một nhà máy lọc dầu Mỹ điển hình của Mobil Corporation.
Bảng 12-7
Mối tương quan Định giá Chuyển giao
Điều quan trọng cần nhớ ở đây là tính thích đáng và kết qủa giá chuyển giao tuỳ thuộc
vào giá chuyển giao có ảnh hưởng mong muốn đối với các nhà dưa ra quyết định của tổ chức
hay không. Giá chuyển giao sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, tuy nhiên, mục tiêu của
việc sử dụng giá chuyển giao luôn là thúc đẩy nhà ra quyết định hành động vì lợi ích cao
nhất của tổ chức. Các kế toán viên cần luôn nhớ rằng mục đích chủ yếu của số liệu kế toán
quản lý sản xuất là thúc đẩy hành vi đáng mong ước đối với việc lập kế hoạch, ra quyết định
và các hoạt động phân bổ nguồn lực của các giám đốc, mà không phải là tạo ra các báo cáo
kế toán để đáp ứng một số tiêu chuẩn kế toán có vẻ thẩm mỹ.
Thực tế
Định giá Chuyển giao Quốc tế
Trong một số nước, cơ quan thuế đối phó với sự cạnh tranh thuế bằng cách thực thi
các biện pháp cứng rắn với các công ty đa quốc gia hoạt động trong biên giới của họ nhưng
cố gắng lợi dụng thuế thấp hơn ở các nước khác. Khi đưa ra tiền lãi chịu thuế tại các nước có
mức thuế cao, các công ty đa quốc gia thường cho rằng họ đã nhận được không đáng kể lợi
nhuận của mình do vậy họ có thể ra đi. Do vậy họ cố gắng quy cho lợi nhuận càng nhiều vào
các hoạt động của họ tại các nước có mức thuế thấp. Họ làm điều này bằng cách thu xếp
“hoạt động chuyển giao” giữa các chi nhánh tại hai nước và định ra “giá chuyển giao” của
những giao dịch này sao cho nó có ảnh hưởng đáng mong muốn đối với tợi tức.
Về mặt lý thuyết, giá chuyển giao được giả định là như giá thị trường giữa hai hãng
độc lập, nhưng thường không có thị trường, do vậy không ai biết giá thị trường là bao nhiêu.
Điều này là đặc biệt đúng với các hãng cung cấp dịch vụ hoặc sản phẩm vô hình. Bởi vậy các
công ty đa quốc gia sự dụng trò may rủi đối với các nhà kinh tế và kế toán để biện hộ cho giá
chuyển giao thích hợp với nhu cầu về thuế của họ.
Ngày càng có nhiều công ty cố gắng cơ cấu lại cá hoạt động của họ để có được các
luật thuế ở mức thấp nhất. Có nhiều cơ hội: Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(OECD) khoảng 60% thương mại quốc tế liên quan đến các giao dịch giữa hai bộ phận của
cùng một công ty đa quốc gia. Tuy nhiên, cơ quan thuế đang ngày càng cảnh giác với các
mánh lới như vậy.
Nguồn: The Economist,19 tháng 1 năm 2000
Thực tế
Định giá chuyển giao và động cơ thúc đẩy
Cains là một hãng bia nổi tiếng tại Livepool, nhưng bia của hãng khó tìm được tại các
quán rượu của thành phố. Những người chủ mới phải khai thác lịch sử của hãng để biến thành
lợi nhuận. Khi yêu cầu bất cứ ai tại Livepool nêu tên một loại bia và có nhiều cơ hội là họ sẽ
nêu tên Cains. Nhưng vào một trong 1.500 quán rượu trong Thành phố Livepool để mua một
pint (0,58 lít) bia, có 80% khả năng bạn bị thất vọng. Mặc dù có nhận biết về nhãn hiệu tới
50% nhưng sự vắng mặt Cains, loại bia phổ biến duy nhất của Livepool, là đáng chú ý.” Một
nhà phân tích khuyến nghị “Mỗi sản phẩm nên được điều hành như một trung tâm lợi nhuận.
The brother (những chủ mới) nên đánh giá đâu là cơ hội tốt nhất cho tăng trưởng và phát triển
một chiến dịch tiếp thị mạnh mẽ được làm vững chắc thêm bởi một thông điệp về nhãn hiệu
mạnh. Có một kế hoạch thiết thực cho tăng trưởng mỗi sản phẩm sẽ giúp biến nhận thức thị
trường thành thị phần.
Sunday Times (London), 4 tháng 5 năm 2003
Giá chuyển giao trên cơ sở thị trường
Nếu thị trường bên ngoài tồn tại sản phẩm hoặc dịch vụ trung gian (chuyển giao), giá
trị trường là cơ sở thích hợp nhất cho việc định giá sản phẩm hoặc dịch vụ chuyển giao giữa
các trung tâm trách nhiệm. Giá thị trường đưa ra một cách đánh giá độc lập đối với sản phẩm
hoặc dịch vụ chuyển giao cũng như mỗi Trung tâm lợi nhuận đóng góp bao nhiêu vào tổng
lợi nhuận tổ chức nhận được từ giao dịch. Ví dụ, phòng bán hàng, thay vì chuyển giao hàng
hoá theo cách nội bộ, có thể bán hàng hoá theo cách bên ngoài. Tương tự, phòng mua có thể
mua theo giá bên ngoài thay vì nhận chuyển giao nội bộ.
Điều không may là, các thị trường cạnh tranh như vậy với các giá được định
đúng ít khi tồn tại. Hãy xem xét trường hợp của Earl’s Motors. Các nhà buôn buôn bán ô tô
đã qua sử dụng trong một thị trường được tổ chức tốt mà giá được công khai. Một ô tô cụ thể
đã qua sử dụng có thể được định giá bằng cách sử dụng thông tin này. Tuy nhiên, giá trị bán
buôn của một ô tô đã qua sử dụng tuỳ thuộc vào điều kiện máy móc của nó với một giá và sự
quan sát không hoàn chỉnh. Ngoài ra, giá trị của ô tô đã qua sử dụng phụ thuộc vào điều kiện
hữu hình của nó, đó là vấn đề của định giá chủ quan. Vì vậy, việc xác định giá bán buôn
khách quan cho một xe ô tô cụ thể đã qua sử dụng là việc dễ dàng.
Một số hãng buôn tránh vấn đề này bằng cách yêu cầu giám đốc bộ phận ô tô
đã qua sử dụng định giá bất kỳ một ô tô nào đưa vào mua bán. Giá trị này trở thành giá
chuyển giao. Do nhiều người thường đối phó với rủi ro và sự biến động bằng cách đòi hỏi
một khoản lãi an toàn, giám đốc phòng ô tô đã qua sử dụng có thể chiết khấu giá trị nhận của
ô tô đã qua sử dụng để tạo ra một khoản lãi an toàn bù đắp cho việc sửa chữa bất kỳ khó khăn
nào còn ẩn chứa sẽ hiển hiện khi ô tô được sửa chữa để đưa ra bán. Tuy nhiên, nếu giá trị này
quá thấp, giám đốc của phòng ô tô mới kiến nghị rằng giá quá thấp này làm giảm khả năng
bán ô tô mới của phòng ô tô mới. Vì vậy, giám đốc phòng ô tô mới có thể được nhận sự lựa
chọn mua hàng để đổi cho các nhà buôn ô tô đã qua sử dụng để nhận được một giá đúng hơn.
Điều này cho phép giá chuyển giao phản ánh đúng hơn ảnh hưởng của thị trường.
Giá Chuyển giao dựa trên Chi phí
Khi hàng hoá và dịch vụ chuyển giao không có giá thị trường được xác định rõ, một
giải pháp để xem xét là giá chuyển giao dựa trên chi phí. Một số giá chuyển giao chung là chi
phí linh hoạt, chi phí linh hoạt cộng vài phần trăm cộng vào giá linh hoạt, chi phí đầy đủ, và
chi phí đầy đủ cộng vài phần trăm vào chi phí đầy đủ.
Các thành phần của những loại giá chuyển giao này có những luận cứ để ủng
hộ những lựa chọn tương ứng của chúng. Tuy nhiên, nhiều nhà kinh tế cho rằng bất kỳ giá
chuyển gia dựa trên chi phí ở ngoài chi phí ở mức tối đa (giả sử rằng nó có thể được tính) dẫn
đến các thành viên của tổ chức lựa chọn một giá thấp hơn mức tối ưu của giao dịch gây ra tổn
thất kinh tế cho toàn tổ chức. Ví dụ, nếu giá chuyển giao cao hơn chi phí ở mức tối đa, đơn vị
cung cấp muốn bán nhiều hơn số lượng tối ưu và đơn vị mua muốn mua ít hơn số lượng tối
ưu. Do cung và cầu cần phải cân bằng, và do không có đơn vị nào của tổ chức có thể bị buộc
phải mua hoặc bắn nhiều hơn họ muốn, tổng khối lượng được yêu cầu và cung cấp luôn cân
bằng không nhiều hơn hoặc ít hơn khối lượng muốn bán và muốn mua. Tuy nhiên, tình thế
nan giải ở đây là nếu việc phòng cung cấp tính chi phí ở mức tối đa như là giá chuyển giao,
do chi phí ở mức tối đa giảm với số lượng lớn, chi phí ở mức tối đa sẽ nhỏ hơn chi phí trung
bình và nhà cung cấp sẽ luôn thể hiện một khoản lỗ.
Nhiều vấn đề phát sinh khi sử dụng định giá dựa trên chi phí. Các cách tiếp
cận dựa trên chi phí đối với việc định giá chuyển giao không đi tới mục tiêu cơ chế giá
chuyển giao hỗ trợ tính toán lợi nhuận của đơn vị. Ngoài ra, các đơn vị của tổ chức muốn
được coi là các Trung tâm lợi nhuận hơn là các trung tâm chi phí do các Trung tâm lợi nhuận
có uy thế to lớn hơn.
Giá chuyển giao dựa trên chi phí thực tế không gây nhiều áp lực buộc phòng
cung cấp kiểm soát chi phí, do nhà cung cấp luôn lấy lại được chi phí của mình. Đây là một
vấn đề được nhiều người biết đến trong việc ký hợp đồng của chính phủ và quy chế của
những ngành công ích mà giá hoặc tỷ giá thường dựa trên chi phí thực tế. Một giải pháp là sử
dụng chi phí tiêu chuẩn làm giá chuyển giao. Theo cách tiếp cận này, chênh lệch giữa chi phí
thực tế mà một trung tâm gánh chịu và chi phí tiêu chuẩn được đưa ra trở thành một thước đo
tính hiệu quả trong hoạt động của đơn vị.
Việc sử dụng một giá chuyển giao dựa trên chi phí giả định rằng tổ chức có
thể tính chi phí của một sản phẩm theo một cách chính xác hợp lý. Chương 3 và 4 cho thấy
việc phát triển và điều hành hệ thống chi phí chính xác đúng là một thách thức. Nhiều người
thường phàn nàn và trở nên nản lòng nếu họ tin tổ chức đang sử dụng một hệ thống tính chi
phí không chính xác cho các mục đích định giá chuyển giao.
Vấn đề cuối cùng của các cách tiếp cận dựa trên cơ sở chi phí là chúng không
đưa ra được chỉ dẫn kinh tế xác đáng khi các hoạt động bị hạn chế về công suất. Khi một tổ
chức đang hoạt động đủ công suất, cá quyết định sản xuất cần phản ánh việc sử dụng công
suất có lãi nhất hơn là chỉ xem xét vè chi phí. Trong trường hợp này, giá chuyển giao có thể
là tổng của chi phí tối đa và chi phí của công suất thời điểm tốt, trong đó chi phí của công
suất thời điểm tốt phản ánh lợi nhuận của việc sử dụng công suất theo giải pháp tốt nhất.
Một cách tiếp cận đáng quan tâm đối với định giá chuyển giao được gọi là tiếp
cận tỷ suất kép, trong đó phòng nhận chỉ được tính cho chi phí sản xuất linh hoạt của đơn vị
được cung cấp và phòng cung cấp được ghi vào bên có giá trị thực tế thuần của chi phí tối đa
của tài sản ảnh hưởng các quyết định của phòng mua trong khi, tại cùng thời điểm, chuyển
cho bên có của phòng bán một lợi nhuận được quy cho hàng hoá hoặc dịch vụ chuyển giao.
Cách tiếp cận dựa trên chi phí đáng quan tâm khác tính tiền cho phòng mua
với chi phí linh hoạt dự kiến. Giá trị đó bao gồm số giờ tiêu chuẩn cho phép công việc đwợc
thực hiện nhân với chi phí tiêu chuẩn theo giờ, thêm vào một chuyển nhượng của các chi phí
đã cam kết của phòng cung cấp. Chuyển nhượng này có thể phản ánh phàn chia của phòng
mua trong công suất của phòng cung cấp. Ví dụ, nếu phòng dịch vụ đạt được công suất, dự
kiến rằng 10% công suất của phòng được cung cấp cho phòng ô tô mới, phòng ô tô mới có
thể nhận một khoản chuyển nhượng tính gộp 10% của chi phí ở mức công suất của phòng
dịch vụ, bất kể tổng giá trị công việc thực tế được thực hiện đối với phòng ô tố mới trong kỳ.
Trong tình huống này, lợi nhuận của phòng dịch vụ là hiệu số giữa chi phí thực tế và dự kiến
của công việc được thực hiện.
Giá chuyển giao dựa trên chi phí đòi hỏi việc tính toán thực hiện phức tạp, công bằng
và các vấn đề về hành vi. Những vấn đề như vậy được đề cập nhiều hơn trong các chưong
trình cao cấp.
Phân bổ chi phí để hỗ trợ kiểm soát tài chính
Bất chấp những khó khăn của việc đánh giá thực hiện của trung tama trách nhiệm,
nhiều tổ chức muốn phát triển các báo cáo lợi nhuận của trung tâm trách nhiệm. Trong thực
tế, tuy những quy định về doanh thu và phân bổ chi phí mang tính chủ quan, nhiều người
dường như thoả mãn chứng mà chúng được chọn và đưa vào đúng vị trí và được áp dụng nhất
quán. Các tổ chức cần thiết kế và trình bày báo cáo lưọi tức của trung tâm trách nhiệm sao
cho chúng cách biệt với các thành phần tuỳ ý được đưa vào trong các tính toán lợi nhuận báo
cáo của mỗi trung tâm. (Bảng 11-2 trình bày một mẫu có thể chấp nhận)
Mẫu thể hiện trong Bảng 12-2 giúp xác định những gì trung tâm kiểm soát trực tiếp.
Nó cho thấy doanh thu và chi phí linh hoạt tách biệt khỏi các chi phí khác trong tính lợi
nhuận mà chi phí gián tiếp hoặc chung được phân bổ. Giống như phân bổ của doanh thu nhận
chung, phân bổ của các chi phí gián tiếp hoặc chung có thể bóp méo đáng kể sự thật và có thể
làm lạc hướng việc ra quyết định.
Hãy xem xét các hoạt động của Shirley’s Grill and Bar có ba đơn vị hoạt động: một
nhà hàng, một phòng billiards và một quầy rượu (xem Bảng 12-8). Khoản Lợi nhuận bộ phận
110.256 đô la được báo cáo cho nhà hàng bao gồm tất cả doanh thu từ bán đồ ăn, tất cả chi
phí thực phẩm, chi phí nhà bếp và nhân viên phục vụ, và mọi chi phí thiết bị và phụ tùng liên
quan đến bếp và khu vực chỗ ngồi. Các doanh thu và chi phí này được quy trực tiếp cho hoạt
động của nhà hàng. Chi phí gián tiếp 87.791 đô la được phân bổ cho các hoạt động của nhà
hàng bao gồm khấu hao và thuế toà nhà, quảng cáo và phí độc quyền uỷ thác.
Nói chung, kế toán viên của nhà hàng có thể chọn trong số nhièu hoạt động khác nhau
dựa trên việc lựa chọn một phương pháp để phân bổ chi phí trực tiếp, ví dụ, chi phí trực tiếp
của một trung tâm trách nhiệm, không gian sàn, và số nhân viên. Giả sử Shirley’s quyết định
phân bổ chi phí gián tiếp theo tỷ lệ với lợi ích giả định, do được đánh giá bằng Lợi nhuận bộ
phận được tạo ra bởi công suất mà những chi phí phân bổ này phản ánh. Nhiều người tin rằng
việc phân bổ chi phí gián tiếp tỷ lệ với lợi ích là hợp lý. Phương pháp này được sử dụng rộng
rãi để đánh giá phương pháp phân bổ chi phí gián tiếp.
Lợi nhuận bộ phận được báo cáo trong Bảng 12-8 có thể dường như minh bạch và
hợp lý, nhưng do trong trường hợp mọi kết quả liên quan đên sviệc phân bổ chi phí gián tiếp,
các số liệu cần được giải thích thận trọng. Giả sử một phân tích chi phí định hướng được biểu
lộ như sau:
1. Phần đáng kể của tổng chi phí gián tiếp phản ánh khấu hao toà nhà
2. Phân bỏ chi phí toà nhà dựa trên không gian sàn được coilà cách tiếp cận hợp
lý nhất để xử lý chi phí toà nhà
3. Tổng giá trị không gian sàn nhà của nhà hàng, phòng billiards và quán rượu là
40%, 25% và 35%
Một phân bổ chi phí dựa trên không gian sàn bị chiếm chỗ bộc lộ các kết quả được
tóm tắt trong bảng 12-9.
Bảng 12-8
Shirley’s Grill and Bar
Phân bổ chi phí gián tiếp dựa trên lợi ích trong Báo cáo lợi nhuận của trung tâm trách
nhiệm
Nhà hàng billiards Quán rượu Tổng cộng
Doanh thu (đô la) 354.234 32.167 187.426 573.836
Trừ chi phí bộ phận (đô la) 234.987 12.965 127.859 384.811
Lợi nhuận bộ phận (đô la) 110.256 19.202 59.567 189.025
Trừ chi phí phân bổ (đô la) 87.791 15.289 47.430 150.510
Lợi nhuận (đô la) 22.465 3.913 12.137 38.515
Những kết quả của giải pháp này có ý nghĩa gì? Về một mặt, chúng ta có thể cho
rằng phân bổ chi phí gián tiếp dựa trên không gian sàn mang lại các kết quả có ý nghĩa kinh
tế hơn do phân bổ theo không gian sàn phản ánh khấu hao, yếu tố chính của chi phí gián tiếp
và nhân tố chủ đạo của nó, không gian sàn. Mặt khác, thậm chí nếu không gian sàn là nhân tố
chủ đạo của chi phí đối với chi phí gián tiếp trong ngắn hạn, các kết quả sửa lại có thể cho
thấy không có gì đáng kể do chi phí khấu hao phân bổ hầu như là chi phí thực hiện không thể
tránh được trong ngắn hạn.
Những phân bổ dựa trên không gian sàn có thể hàm ý rằng đóng góp vào lợi
nhuận theo mét vuông của không gian sàn là thấp nhất trong hoạt động billiards và rằng
Shirley’s cần giảm phạm vi của hoạt động billiards để giúp cho việc bổ sung thêm không gian
sàn cho nhà hàng và quán rượu. Tuy nhiên, kếtluanạ này không nhất thiết tuân theo. Giả sử
không có hoạt động billiards để thu hút khách hàng, doanh thu quán rượu có thể giảm một
nửa. Báo cáo lợi nhuận của trung tâm trách nhiemẹ có thể phản ánh điều này như thế nào?
Các báo cáo không thể làm được điều này. Với thông tin bổ sung này, có thể xác định ảnh
hưởng kinh tế của việc đóng cửa hạot động billiards. Các báo cáo Lợi nhuận bộ phận thông
thường không thể đưa ra những ảnh hưởng tương tác của những hành động như vậy.
Thông điệp ở đây là báo cáo lợi nhuận của trung tâm trách nhiệm phải được
hiểu một cách cẩn trọng và chất vấn một cách lành mạnh. Chúng có thể bao gồm chủ quan và
các doanh thu và phân bổ chi phí có vấn đề và thường che mất nhiều mối tương quan giữa
các trung tâm trách nhiệm.
Giá chuyển giao thương lượng
Do không có giá thị trường, một số tổ chức cho phép các trung tâm trách nhiệm cung
cấp và tiếp nhận thương lượng giá chuyển giao giữa họ. Giá chuyển giao thương lượng phản
ánh viễn cảnh có thể kiểm soát tại các trung tâm trách nhiệm, do mỗi đơn vị chịu trách nhiệm
đến cùng về giá chuyển giao mà nó thương lượng. Tuy nhiên, giá chuyển giao thương lượng,
và do đó các quyết định sản xuất có thẻ phản ánh kỹ năng thương lượng tương đối của hai
phía hơn là những cân nhắc về kinh tế.
Trong ý nghĩa kinh tế, giá chuỷen giao tốt nhất có kết quả khi đơn vị mua đưa
ra chào để trả giá trị thực tế thuần của đơn vị trước đó cung cấp cho tất cả các đơn vị được
cung cấp. Giá trị thực tế thuần của một đơn vị có vật tư chuyển giao là giá bán của sản phẩm
trừ đi mọi chi phí thực hiện để chuẩn bị cho thành phẩm để mang bán. Nếu đơn vị cung cấp
đang thực hiện tốt nhất, nó lựa chọn để cung cấp cho các đơn vị cho đến khi chi phí tối đa của
nó bằng với giá chuyển giao do đơn vị mau chào. Điều này dẫn đến số lượng tối ưu của các
đơn vị được chuyển giao sẽ được cung cấp.
Nhiều vấn đề phát sinh khi thương lượng giá chuyển giao do loại hình thương
lượng song phương này gây cho phòng cung cấp muốn giá cao hơn giá tối ưu và phòng tiếp
nhận muốn giá thấp hơn giá tối ưu. Khi giá chuyển giao thực tế khác với giá chuyển giao tối
ưu, tổ chức với tư cách một tổng thể phải gánh chịu do nó chuyển giao ít hơn số các đơn vị
tối ưu giữa hai phòng.
Bảng 12-9
Shirley’s Grill and Bar
Phân bổ chi phí gián tiếp của báo cáo lợi nhuận của Trung tâm Trách nhiệm dựa trên
không gian sàn bị chiếm chỗ
Nhà hàng billiards Quán rượu Tổng cộng
Doanh thu (đô la) 354.234 32.167 187.426 573.836
Trừ chi phí bộ phận (đô la) 234.987 12.965 127.859 384.811
Lợi nhuận bộ phận (đô la) 110.256 19.202 59.567 189.025
Trừ chi phí phân bổ (đô la) 60.204 37.627 52.679 150.510
Lợi nhuận (đô la) 50.052 3.913 6.888 38.515
Bảng 12-10
Tóm tắt các cách tiếp cận định giá chuyển giao
Cách Tiếp cận Dựa theo thị
trường
Dựa theo chi phí Thương lượng Hành chính
Biện pháp được
sử dụng
Giá thị trường Chi phí sản
phẩm
Thương lượng
trực tiếp
áp dụng một quy
định
Ưu diểm Nếu có một giá
thị trường tồn
tại, giá mang
tính khách quan
và mang lại
những khuyến
khích kinh tế
đúng đắn
Đưa ra giá dễ
dàng do số liệu
chi phí đã sẵn có
trong hệ thống
kế toán
Phương pháp
phản ánh các
nguyên tắc về
khả năng tính
toán và khả năng
kiểm soát trên
cơ sở các trung
tâm trách nhiệm
Phương pháp
đơn giản sử
dụng và tránh
được sự đối đầu
giữa hai phía
trong quan hệ
định giá chuyển
giao
Khó khăn Có thể không có
giá thị trường
hoặc gặp khó
khăn khi xác
định giá thị
trường thích hợp
do sản phẩm
khó phân loại
Có nhiều chi phí
có thể và bất kỳ
giá nào khác chi
phí tối đa sẽ
không tạo ra
được tín hiệu
kinh tế đúng đắn
Có thể dẫn đến
các quyết định
không mang lại
lợi ích kinh tế
lớn nhất
Có thể vi phạm
tinh thần của
cách tiếp cận
trách nhiệm
Giá Chuyển giao Hành chính
Một trọng tài hoặc giám đốc áp dụng một số chính sách lập giá chuyển giao hành
chính, ví dụ, giá thị trường trừ đi 10% hoặc tổng chi phí cộng 5%. Nhiều tổ chức thường sử
dụng giá chuyển giao hành chính khi một giao dịch đặc biệt diễn ra thường xuyên. Tuy nhiên,
các giá này không phản ánh các xem xét kinh tế thuàn tuý, như giá chuyển giao dựa trên thị
trường hoặc dựa trên chi phí, cũng không xem xét kảh năng tính toán như tiến hành đối với
giá chuyển giao thương lượng. Bảng 12-10 tổng kết bốn cách tiếp cận chính để định giá
chuyển giao.
Trở lại ví dụ về Earl’s Motors, hãng có thể ra lệnh rằng giá chuyển giao cho cửa hàng
khung xe thực hiện cho phòng xe mới và phòng xe đã qua sử dụng sẽ được tính ở mức 80%
giá thị trường thông thường. Điều này dường như hợp lý và có thể phản ánh một cách tiếp
cận thực tế để xử lý các vấn đề liên quan tới giá chuyển giao dựa trên thị trường và trên chi
phí, nhưng quy định này là chủ quan và vì vậy dẫn đến một phân phối doanh thu và chi phí
chủ quan giữa cửa hàng khung và các đơn vị có giao dịch này. Giá chuyển giao hành chính
vô tình tạo ra trợ cấp giữa các trung tâm trách nhiệm. Trợ cấp làm việc hiểu lợi nhuận của
trung tâm trách nhiệm theo kinh tế thông thường trở nên mơ hồ và có thể tạo ra ảnh hưởng
thúc đẩy tiêu cực nếu các thành viên của một số trung tâm trách nhiệm cho rằng viẹc áo dụng
các quy định như vậy là không công bằng.
Giá chuyển giao dựa trên xem xét hợp tình hợp lý
Giá chuyển giao hành chính thường được căn cứ vào chi phí, nghĩa là, giá chuyển
giao là giá cộng thêm một số lượng theo chi phí hoặc theo thị trường. Theo cách đó, giá
chuyển giao là một hàm (tức 80%) của giá thị trường. Tuy nhiên, đôi khi, giá chuyển giao
hành chính dựa trên sự xem xét hợp tình hợp lý được tạo ra xung quanh một số xác định của
sự phân chia hợp lý của doanh thu nhận được chung hoặc chi phí gánh chịu chung.
Ví dụ, hãy xem xét tình huống trong đó các giám đốc của ba trung tâm trách
nhiệm cần đến không gia kho hàng. Mỗi giám đốc thực hiện một nghiên cứu xác định chi phí
cho một kho hàng riêng đáp ứng nhu cầu của trung tâm trách nhiệm. Chi phí như sau: Giám
đốc A: 3 triệu đô la, Giám đốc B: 6 triệu đô la, Giám đốc C: 5 triệu đô la. Mọt nhà phát triển
đề xuất rằng các giám đốc kết hợp nhu cầu của họ trong một kho hàng duy nhất trị giá 11
triệu đô la. Phương án này tiết kiệm 3 triệu đô la từ tổng chi phí 14 triệu đô la nếu mỗi giám
đốc xây dựng kho hàng riêng biệt. Vấn đề là các giám đốc chia chi phí kho hàng này như thế
nào.
Một giải pháp, đôi khi được gọi là phương pháp chi phí tương đối,là đối với
mỗi giám đốc gánh chịu phần chia của chi phí kho hàng tỷ lệ với giải pháp dự kiến của giám
đốc đó. Điều này sẽ dẫn đến phân bổ chi phí như sau:
Phần của Giám đốc A = 11.000.000 đô la x 3.000.000 đô la /14.000.000 đô la =
2.357.143 đô la
Phần của Giám đốc B = 11.000.000 đô la x 6.000.000 đô la /14.000.000 đô la =
4.714.286 đô la
Phần của Giám đốc C = 11.000.000 đô la x 5.000.000 đô la /14.000.000 đô la =
3.928.571 đô la
Quá trình này là công bằng trong nhận thức không thiên lệch. Tất cả các bên được
bình đẳng và mỗi phân bổ phản ánh phản ánh mỗi bên phải gánh chịu. Cách tiếp cận khác,
phản ánh tiêu chuẩn khả năng chi trả hợp tình hợp lý, là dựa trên phân bổ chi phí đối với lợi
nhuận của mỗi giám đốc nhận được từ việc sử dụng kho hàng. Còn một các tiếp cận khác
phản ánh tiêu chuẩn chia đều hợp tình hợp lý là giao cho mỗi giám đốc gánh chịu một phần
ba chi phí kho hàng. Do vậy, mỗi cách khác nhau tiếp cận phân bổ chi phí phản ánh một quan
điểm công bằng cụ thể.
Chuyển giao và định giá tài sản trong các trung tâm đầu tư
Khi các công ty sử dụng các trung tâm đầu tư để đánh giá sự thực hiện của các trung
tâm trách nhemj, mọi ván đề gắn với các Trung tâm lợi nhuận cộng với một số vấn đề mới
riêng đối với các trung tâm đầ tư là có liên quan. Những vấn đề bổ sung thêm liên quan tới
việc xác định và định giá tài sản do mỗi trung tâm sử dụng như thế nào. Nhiệm vụ này đưa ra
những vấn đề mà không có câu trả lời rõ ràng
Trong việc xác định mức tài sản mà một trung tâm trách nhiệm sử dụng, kế
toán quản lý phải phân chia trách nhiệm cho (1) tài sản sử dụng chung, như tiền mặt, toà nhà,
thiết bị và (2) tài sản được tạo ra chung, như tài khoản nhận. Một khi các nhà ra quyết định
giao tài sản của tổ chức cho các trung tâm đầu tư, họ phải xác định giá trị của những tài sản
này. Giá có thể được sử dụng là bao nhiêu: chi phí trước đó, giá trị thuần theo sổ sách, chi phí
thay thế hoặc gí trị thuần thực tế là bao nhiêu? Có tất cả các giải pháp tính chi phí hỗ trợ các
luận cứ có thể được thực hiện (để có giải thích sâu sắc hơn, đề nghị xem các tài liệu tính chi
phí ở mức nâng cao hơn).
Yêu cầu cao nhất của phân bổ doanh thu, chi phí và tài sản đối với các bộ phận
hoạt động là tính lãi đối với đầu tư của bộ phận. Để xem xét điều này, chúng ta trở lại trường
hợp của Dupont Company (đã được nghiên cứu trong Chương 1), một trong những công ty sử
dụng sớm nhất và nhiều nhất tiêu chuẩn lãi trên đầu tư.
Các Yếu tố hiệu quả và năng suất của lãi trên đầu tư
Trở lại những nghiên cứu trong Chương 1 về Dupont Company, nhớ rằng một trong
những thách thức chủ yếu của Dupont là phát triển cách quản lý cơ cấu phức tạp do các hoạt
động và ngành nghề kinh doanh phong phú của Công ty tạo ra. Vào đầu thế kỷ XX, hầu hết
các tổ chức là những ngành nghề kinh doanh dơn sản phẩm. Các tổ chức này tiếp cận cách
đánh giá mức đầu tư của tổ chức bằng cách xem xét tỷ số của lợi nhuận với doanh thu và
phần trăm công suất được sử dụng. Tuy nhiên, Dupont, là một hãng đa sản phẩm, đã đi đầu
trong sử dụng hệ thống lãi trên đầu tư để đánh giá khả năng sinh lợi của các dây chuyền sản
xuất khác nhau. Cách tiếp cận của Dupont đối với kiểm soát tài chính được tổng kết trong
Bảng 12-11. Tại Dupont, các bảng thực tế được sử dụng để tóm tắt cá hoạt động là cực kỳ chi
tiết và có 350 biểu đồ lớn được cập nhật hàng tháng và trưng bày thường xuyên trong phòng
biểu đồ lớn tại toà nhà trụ sở chính.
Nhớ lại từ Chương 1 rằng lãi trên đầu tư (ROI) là tỷ số giữa lợi nhuận hoạt
động và đầu tư. Hệ thống kiểm soát tài chính của Dupont tập trung vào lãi trên đầu tư và
những cơ hội đánh giá bằng hai yếu tố: thước đo lãi xác định hiệu quả và thước đo doanh thu
xác định năng suất. Đẳng thức sau minh hoạ khái niệm này:
Lãi trên đầu tư = Lợi nhuận hoạt động/Đầu tư = Lợi nhuận hoạt động/Doanh thu x
Doanh thu/Đầu tư
Bảng 12-11
Hệ thống Kiểm soát Lãi trên Đầu tư của Dupont Company
Cúng ta có thể tính lãi trên đầu tư theo hai cách khác nhau:
Lãi trên đầu tư = Lãi trên doanh thu x Số vòng quay tổng tài sản
Lãi trên đầu tư = Hiệu suất x năng suất
Tỷ số của lợi nhuận hoạt động với doanh thu (cũng gọi là lãi trên doanh thu hoặc lãi
doanh thu) là thước đo hiệu suất: Khả năng kiểm soát chi phí tại một mức hoạt động doanh
thu cụ thể. Tỷ lệ của doanh thu với vốn đầu tư (thường gọi là số vòng quay tổng tài sản) là
thước đo năng suất: khả năng tạo ra doanh thu đối với một mức đầu tư cụ thể.
Các tiếp cận của Dupont với kiểm soát tài chính phát triển ngày càng nhiều thành
phần phụ chi tiết hơn để đánh giá hiệu suất và năng suất bằng cách tập trung vào các tính toán
chi tiết hơn về chi phí và các nhóm tài sản khác nhau. Phần trên của Bảng 12-11 thể hiện số
liệu hiệu suất được đưa vào các chỉ tiêu của nó, và phần dưới của Bảng thể hiện số liệu năng
suất được đưa vào các thành phần của nó. Ví dụ, để xác định mỗi chỉ tiêu có được cải thiện
hay không, chúng ta nhìn vào tỷ lệ hiệu suất giữa lợi lức hoạt động với doanh thu và có thể
kiểm tra các chỉ tiêu khác nhau của chi phí. (chế tạo, bán hàng, vận chuyển và hành chính),
quan hệ của chúng với doanh thu và các khuynh hướng riêng của chúng. Sau đó có thể phát
hiện khâu nào thực hiện được những cải thiện bằng cách so sánh các số liệu hiệu suất riêng
này và số liệu của nhóm với các số liệu của các đơn vị của tổ chức tương tự hoặc của các nàh
cạnh tranh.
Tỷ số năng suất của doanh thu với đầu tư cho phép phát triển cách đánh giá
doanh thu riêng đối với mỗi hạng mục chính: các yếu tố của vốn lưu động (hàng tồn kho, các
tài khoản nhận, tiền mặt) và các yếu tố đầu tư lâu dài (thiết bị và nhà xưởng). Những so sánh
của các tỷ số doanh thu này với những tỷ số của các đơn vị tương tự của các nhà cạnh tranh
có thể chỉ ra khâu nào cần phải hoàn thiện.
Sử dụng Kiểm soát Tài chính Đánh giá Năng suất
Định nghĩa về năng suất được chấp nhận rộng rãi nhất là tỷ số của sản lượng đầu ra
trên đầu vào. Ví dụ, nếu một công nhân làm ra 50 sản phẩm trong một ca 7 giờ, năng suất của
công nhân này (thường gọi là năng suất lao động) là 7,1 (507) đơn vị sản phẩm/giờ. Các
ngành sử dụng nhiều lao động giám sát năng suất lao động của họ với mỗi quan tâm lớn vì
chi phí lao động chiếm phần lớn trong tổng chi phí.
Các tổ chức phát triển cách đánh giá năng suất đối với tất cả các yếu tố sản xuất, bao
gồm nhân lực, nguyên liệu thô, và thiết bị. Ví dụ, trong ngành thuỷ sản, tỷ lệ giữa trọng lượng
của thành phẩm bán được với trọng lượng cá nguyên liệu thường ở mức 30%. Tỷ lệ nguyên
liệu thô theo thành phẩm đối với tổng số lượng nguyên liệu thô cần thiết được gọi là năng
suất nguyên liệu thô hay sản lượng. Hầu hết các tổ chức trong ngành tài nguyên thiên nhiên
giám sát chặt chẽ đối với năng suất nguyên liệu thô vì chi phí nguyên liệu thô chiếm phần lớn
trong tổng chi phí. Ví dụ, Weirton Steel, một nhà sản xuất thép của Mỹ, từng ước tính rằng
mỗi phần trăm tăng lên trong sản lượng nguyên liệu thô của Hãng tương đương mức tăng 4,7
triệu đô la trong chi phí hoạt động. Điều này cho một ví dụ thực tế của các tổ chức có thể sử
dụng một số liệu kiểm soát tài chính, chẳng hạn như sản lượng nguyên liệu thô, như thế nào
để đưa ra các kết luận về các hoạt động sản xuất cơ bản đang diễn ra tốt như thế nào.
Cuối cùng, nhiều tổ chức trong các ngành chế biến liên tục, như sản xuất giấy, giám
sát các tỷ số năng suất của máy móc của họ (sản lượng đầu ra/giờ hoặc ca máy). Đầu tư trong
máy thể hiện một chi phí cố định lớn được đàu tư trong công suất, và khả năng tạo lợi nhuận
phụ thuộc vào công suất được khai thác tốt đến mức nào. Hơn nữa, một chỉ tiêu đánh giá như
năng suất máy mang lại cho các tổ chức một phương pháp hiệu quả để liên hệ các kết quả của
quá trình sản xuất với các kết quả tài chính.
Chất vấn đối với cách tiếp cận Lãi trên Đầu tư
Mặc dù tính phổ biến của nó, chỉ tiêu lãi trên đầu tư bị chỉ trích như là một phương
tiện kiểm soát tài chính. Một số người chỉ trích không ưa sự sử dụng duy nhất trong các biện
pháp đánh giá tài chính như là quá hạn hẹp để kiểm soát có hiệu quả. Họ cho rằng cách tiếp
cận hiệu quả nhất để kiểm soát là giám sát và tiếp cận các yếu tố thành công then chốt của tổ
chức, như chất lượng, dịch vụ, kỹ năng và tri thức của nhân viên.
Những người khác chấp nhận sự cần thiết đối với các đánh giá tài chính tìm
được các điểm yếu với đánh giá lãi trên đầu tư. Họ nhận thấy rằng các tổ chức hoạt động vì
lợi nhuận có thể thực hiện đầu tư đối với khả năng có lãi suy giảm cho đến khi chi phí vốn tối
đa của đồng đô la cuối cùng được đầu tư bằng với lãi tối đa được tạo ra bởi đồng đô la đó.
Điều không may là, kiểm soát tài chính dựa vào lãi trên đầu tư không đưa được ra kết luận
này.
Ví dụ, hãy xem xét một giám đốc được đánh giá dựa vào lãi trên đầu tư. Giả
sử lãi trên đầu tư hiện hành là 15% và giám đốc này đang dự tính một khoản đầu tư dự kiến
thu lãi 12%. Vị giám đốc có thể bị thúc đẩy để khước từ cơ hội đầu tư này, do vậy, mâu thuẫn
với những gì là quyền lợi tốt nhất của tổ chức. Ví dụ, nếu chi phí vốn của tổ chức chỉ là 10%,
Giám đốc có thể chấp nhận đầu tư này vì lãi dự kiến của nó vượt quá chi phí vốn của đầu tư.
Thực tế
EVA
(giá trị kinh tế gia tăng) tại Herman Miller
Theo các điều khoản của kế hoạch EVA
chúng tôi chuyển trọng tâm của chúng tôi
từ thực hiện ngân sách sang hoàn thiện không ngừng trong dài hạn và tạo ra giá trị kinh tế.
Khi chúng tôi đặt kế hoạch cho việc hoàn thiện trong phạm vi ở đây, chúng tôi đưa vào một
phân tích về EVA
. Khi chúng tôi thực hiện quyết định bổ sung hoặc cắt giảm chương trình,
chúng tôi nhìn vào ảnh hưởng đối với EVA. Mỗi tháng chúng tôi nghiên cứu việc thực hiện
của chúng tôi theo các điều khoản của EVA, và hệ thống đánh giá này là một trong những
điều mới đầu tiên được chọn để công ty nghiên cứu. EVA
đã chứng tỏ là một giải pháp tất
yếu mạnh mẽ cho giá trị của cổ đông do sự chấp nhận của nó.
Nguồn: Herman Miller – www.hermanmiller.com
Sử dụng Giá trị Kinh tế Gia tăng
Nhiều người đối phó với sự chỉ trích về lãi đối với đầu tư này bằng cách tạo ra một
tiêu chuẩn đầu tư khác. Tiêu chuẩn Giá trị kinh tế gia tăng, trước đây được gọi là Lợi nhuận
thặng dư, bằng lợi nhuận trừ đi chi phí kinh tế của đầu tư được sử dụng để tạo ra lợi nhuận
đó. Ví dụ, nếu lợi nhuận của một phòng là 13.5 triệu đô la và phòng này sử dụng vốn 100
triệu đô la có chi phí trung bình là 10%, giá trị gia tăng có thể được tính như sau:
Giá trị gia tăng = Lợi nhuận – Chi phí vốn
= 13.500.000 đô la – (100.000.000 đô la x 10%)
= 3.500.000 đô la
Giống như chỉ tiêu lãi trên đầu tư, giá trị kinh tế gia tăng đánh giá lợi nhuận
tương đối đối với mức đầu tư cần thiết để nhận được lợi nhuận đó. Tuy nhiên, khác với chỉ
tiêu lãi trên đầu tư, giá trị kinh tế gia tăng không thúc đẩy các giám đốc từ bỏ các đầu tư mà
dự kiến thu được nhiều hơn chi phí vốn. Theo tiêu chuẩn giá trị kinh tế gia tăng, các giám đốc
được yêu cầu làm bất cứ những gì họ cho là cần thiết để tạo ra giá trị kinh tế gia tăng lớn
nhất. Ví dụ, hãy nhớ lại tình huống đã nêu trước đây trong đó vị giám đốc đối mặt với một cơ
hội đầu tư có lãi dự kiến 12% khi chi phí vốn là 10%. Nếu dự án đòi hỏi đầu tư 100 triệu đô
la, gí trị kinh tế gia tăng nếu dự án được thực hiện và lãi dự kiến được thực hiện sẽ là 2 triệu
đô la [100.000.000 đô la x (12% - 10%)]. Vì vậy, nếu được chọn dựa trên giá trị kinh tế gia
tăng, giám đốc sẽ chấp nhận dự cơ hội đầu tư này.
Các tổ chức chấp nhận giá trị kinh tế gia tăng vì những nguyên nhân khác nhau
SPX Corporation cung cấp các công cụ dịch vụ đặc biệt và các bộ phận thiết bị gốc
cho ngành công nghiệp ô tô. Trong báo cáo hàng năm năm 1995 của Công ty, SPX xác định
các nguyên nhân sau đây để thực hiện phân tích giá trị của cổ đông:
Xử lý quyền lợi của cổ đông và ban giám đốc như nhau, khuyến khích mọi người
trong SPX suy nghĩ và hành động giống như những người chủ.
Dễ hiểu và áp dụng
Thích hợp với các cố gắng hoàn thiện hoạt động do sự thành công đòi hỏi sự hoàn
thiện không ngừng của EVA
Tương quan chặt chẽ với giá trị thị trường hơn bất kỳ sự đánh giá thực hiện hoạt động
kinh doanh khác.
Liên quan trực tiếp tới các dự kiến của nhà đầu tư thông qua các mục tiêu cải thiện
của EVA
Tạo ra một tiếng nói chung đối cho đánh giá thực hiện, ủng hộ quyết định, khoản bù
đắp và liên lạc
Quan điểm về một ngân hàng tiền thưởng được đề cập trong điểm thứ sáu, là sự quan
tâm đặc biệt. Trong nhiều năm khi viẹc thực hiện vượt quá mục tiêu giá trị kinh tế gia tăng,
hai phần ba của tất cả các khoản thưởng được để dành trong một ngân hàng tiền thưởng được
thực hiện sớm hơn thường lệ và chỉ được trả nếu giám đốc đạt được các mục tiêu giá trị kinh
tế gia tăng trong các năm sau. Khi việc thực hiện kém hơn mức dự kiến, tiền thưởng là âm và
được khấu trừ vào ngân hàng tiền thưởng. Về danh nghĩa, ngân hàng tiền thưởng trở thành
biện pháp đánh giá thực hiện ngắn hạn và phần thưởng trong việc đánh giá dài hạn hơn.
Có thể tính giá trị kinh tế gia tăng cho mỗi sản phẩm hoặc dây chuyền sản phẩm chính
để đánh giá sự đóng góp của một dây chuyền sản phẩm tạo ra sự giàu có của cổ đông. Gần
đây, giá trị kinh tế gia tăng được mở rộng để điều chỉnh lợi nhuận theo GAAP để hiệu chỉnh
cho cách tiếp cận bảo thủ mà GAAP sử dụng để xác định lợi nhuận và định giá tài sản.
Ví dụ, GAAP yêu cầu tính chi phí trực tiếp đối với chi nghiên cứu và phát triển, tuy là
khi lợi nhuận trong phân tích giá trị của cổ đông được tính, các chi phí nghiên cứu và phát
triển được cấp vốn và được chi theo một giai đoạn cụ thể, chẳng hạn là 5 năm. Khuynh
hướng của những điều chỉnh đã mô tả để tính lợi nhuận cổ đông – giá trị gia tăng của lợi
nhuận theo GAAP là để phát triển một số lợi nhuận phản ánh tốt hơn thu nhập tiềm năng dài
hạn của tổ chức.
Các tổ chức bắt đầu sử dụng giá trị kinh tế gia tăng để xác định sản phẩm và dây
chuyền sản phẩm với mức đầu tư cụ thể mà chúng yêu cầu mà không có phần đóng góp vào
lãi của tổ chức. Các tổ chức này sử dụng phân tích tính chi phí dựa trên hoạt động để phân
chia tài sản và các chi phí cho từng sản phẩm, dịch vụ hay khách hàng riêng biệt. Điều này
cho phép họ tính được giá trị gia tăng theo sản phẩm, dây chuyền sản phẩm, hoặc khách
hàng.
Các tổ chức có thể sử dụng giá trị gia tăng để đánh giá các chiến lược hoạt động.
Quaker Food & Beverages, một hãng sản xuất thực phẩm, đã sử dụng giá trị gia tăng để hỗ
trợ các quyết định của họ vào tháng 6 năm 1992 để ngừng trữ hàng thưong mại là thực tế của
ngành thực phẩm sử dụng những cách xúc tiến để nhận được đơn đặt hàng từ các khách hàng
cho một đợt cung cấp thực phẩm 2 hoặc 3 tháng. Việc trữ hàng thương mại tạo ra các đỉnh
cao hàng quý trong sản xuất và bán hàng dẫn đến đòi hỏi đầu tư lớn về tài sản, bao gồm chính
hàng tồn kho, kho hàng, các trung tâm phân phối. Thông qua giá cao hơn, các khách hàng trả
các chi phí của mức tồn khó lớn hơn được tạo bởi hình thức tồn kho theo chu kỳ này. Một bài
báo trong tạp chí Furtune Magazine ước tính trữ hàng thương mại chịu trách nhiệm đầu tiên
75 tỷ đô la tới 100 tỷ đô la trong các cửa hàng bách hoá luôn trong trung chuyển giữa các nhà
sản xuất và tiêu thụ và điều đó hỗ trợ lượng tồn kho này “thêm vào khoảng 20 tỷ đô la đến
400 tỷ đô la mà khách hàng Mỹ hàng năm chi tiêu tại các ưửa hàng bách hoá.”
Phân tích giá trị gia tăng này cho thấy dù mức doanh thu có thể bị giảm do việc loại
bỏ các giảm giá gắn với việc trữ hàng thương mại, không cần tồn kho lớn và không gian kho
hàng cần thiết có lợi hơn cho công ty và các đối tác thương mại của nó.Cũng vậy, sản xuất
thực phẩm ở các mức đều đều thay vì ở các đỉnh cao giảm được mức công suất sản xuất cần
thiết. Quaker Foods & Beverages thúc đẩy các giám đốc kết thúc trữ hàng thương mại bằng
cách dựa vào tiền thưởng về hiệu suất và số lần chu kỳ hơn là dựa vào doanh thu hàng năm.
Một đánh giá ngày càng quan trọng của giá trị kinh tế gia tăng trong các tổ chức là
những nhân viên cao cấp hơn thường được bổ nhiệm để quản lý các dự án thực hiện giá trị
gia tăng trong tổ chức. Ví dụ, năm 1995, chủ tịch mới và Tổng giám đốc điều hành của Olin
Corporation lãnh đạo nhóm chuyên trách về giá trị gia tăng vào thời điểm ông được bổ
nhiệm.
Thực hành
Kiểm soát tài chính và tính hợp pháp của số liệu kế toán
Các vụ bê bối kế toán đầu những năm 2000 đặt ra câu hỏi về có thể đặt lòng tin đến
mức nào vào các số liệu kế toán và kiểm soát tài chính dựa trên những số liệu này. Phần dưới
đây được trích từ bài “Nghĩ về Con số” đăng trên The economist số ngày 16 tháng 5 năm
2002.
Tất cả thông qua thị trường đầu cơ cổ phiếu kéo dài, nó được coi là hình thức tồi tệ
nói về bất cứ điều gì bẩn thỉu về General Electric. Thị trường cổ phiếu đình chỉ sự không ưa
thông thường của nó đối với tổ hợp để thực hiện điều này cho một trong những hãng có giá
trị nhất của thế giới, sánh với Microsoft. Jack Welch, Tổng giám đốc điều hành hung hăng
của hãng (nay đã về hưu) được các báo chí kinh doanh đề cao như một danh nhân. Khi Uỷ
ban châu Âu dám ngăn chặn vụ General Electric mua Honeywell do lo ngại độc quyền được
hợp lý hoá, các nàh hoạch định chính sách tại Washington, DC, càu nhàu về một cuộc chiến
thương mại với Mỹ. Bởi vậy một bài báo của người đứng đầu quỹ trái phiếu lớn nhất của Mỹ,
xuất bản tháng 3 đưa ra như một cú sốc. Bill Gross, của PIMCO, cho rằng ban giám đốc của
General Electric “đã hoàn toàn không chứng tỏ” được lợi nhuận của hãng được quản lý như
thế nào để tăng trưởng ở mức 15%/năm trong vài thập kỷ”. Tác giả nhấn mạnh rằng General
Electric vay nợ nhiều, tạo cho Hãng “gần như lực đòn bẩy bảo vệ tài chính”. Không có lực
này, các hoạt động của Hãng giống như “các tổ hợp thất bại năm ngoái”.
Không một điều nào trong thông tin này là thực sự mới. Những ngày khi báo cáo kế
toán của General Electric được dạy tại các trường kinh doanh như những ví dụ về thực tế rõ
ràng nhất của sự bảo thủ diễn ra lâu dài. điều trở nên rõ ràng là, ông Jack Welch thích những
“doanh thu ngọt ngào” để phân phát một cách khác thường thay vì sự tăng trưởng sau nhiều
quý, nhiều năm.
Các kết quả của giá trị kinh tế gia tăng chỉ ra sự hiểu sâu sắc đáng quan tâm vào kiểm
soát tài chính áp dụng ở mọi mức của tổ chức. Tuy nhiên, các kết quả càn được xử lý cẩn
trọng. Để trở thành một công cụ đánh giá và thúc đẩy hiệu quả, phân tích giá trị kinh tế gia
tăng, như các tính toán về lãi trên đầu tư, đòi hỏi việc phân bổ tài sản, doanh thu, chi phí
chocác bộ phận, dây chuyền sản phẩm, sản phẩm hoặc khách hàng một cách phức tạp và có
thể khó giải quyết, phụ thuộc vào trọng tâm của phân tích. Tuy nhiên, nhiều tổ chức tin rằng
các vấn đề này có thể được giải quyết và rằng việc hiểu sâu sắc do phân tích giá trị gia tăng
mang lại hiệu quả có giá trị cao.
Hiệu quả của kiẻm soát tài chính
Tuy là kiểm soát tài chính được thực hiện rộng rãi, nhiều người vẫn đặt câu hỏi về
tính hiệu quả và khả năng có được cách đánh giá thấu đáo của nó. Nhiều người chỉ trích cho
rằng thông tin tài chính bị chậm trễ, và thông tin được tập hợp lại cao hơn, về việc tổ chức
đang làm tốt đến mức nào để đáp ứng các cam kết của mình với cổ đông và rằng thông tin
này đánh giá không phải những người điều khiển kết quả tài chính cũng không phải tổ chức
đang làm tốt đến mức nào để đáp ứng các đòi hỏi của cổ đông, một dấu hiệu hướng dẫn sự
thực hiện tài chính trong tương lai.
Kiểm soát tài chính có thể là một phiếu ghi điểm kiểm soát thiếu hiệu quả vì
ba lý do:
1. Thứ nhất, nó tập trung vào các đánh giá tài chính mà không đánh giá được các thuộc
tính quan trọng khác của tổ chức, như chất lượng sản phẩm, tính nhanh chóng mà theo
đó tổ chức phát triển, chế tạo sản phẩm, dịch vụ khách hàng, khả năng tạo ra môi
trường làm việc tạo động lực cho người lao động, và mức độ mà tổ chức đáp ứng
nghĩa vụ về mặt pháp luật và xã hội của tổ chức đối với xã hội. Do những yếu này và
nhiều nhân tố khác nữa quan trọng đối với thành công lâu dài của tổ chức, những khía
cạnh này cũng cần được đánh giá và giám sát. Lập luận cho rằng các kiểm soát tài
chính chỉ đánh giá các kết quả được tập hợp lại về việc tổ chức thành công trong thực
hiện mục tiêu tài chính của mình như thế nào. Thiếu sót này của kiểm soát tài chính
dẫn đến phát triển thẻ điểm cân bằng (được đề cập vắn tắt trong Chương 1 và chi tiết
hơn trong Chương 9). Hãy nhớ rằng thẻ điểm cân bằng sử dụng một loạt các đánh giá
thực hiện phi tài chính trong lĩnh vực yêu cầu của khách hàng, các đặc tính xử lý, rèn
luyện kỹ năng và phát triển về cả giải thích và dự báo các kết quả tài chính. Vì vậy,
thẻ điểm cân bằng cung cấp một công cụ quản lý các kết quả tài chính, điều có thể
không làm được khi tổ chức duy nhất tập trung vào các kết quả tài chính do những kết
quả này là đánh giá tập hợp của những gì đã xảy ra mà không giải thích tại sao nó xảy
ra.
2. Kiểm soát tài chính đánh giá ảnh hưởng tài chính của mức thực hiện tổng thể đạt được
theo các nhân tố thành công then chốt và nó bỏ qua việc thực hiện đạt được theo riêng
từng nhân tố thành công. Với lý do này, nhiều người tin rằng kiểm soát tài chính
không chỉ ra cải thiện việc thực hiện đối với các nhân tố thành công then chốt hoặc
đối với việc thực hiện tài chính như thế nào. Những người phê phán cho rằng, nhiều
nhất, các kết quả tài chính chỉ đóng vai như một tín hiệu chung cho thấy tổ chức đã
thực hiện các nhiệm vụ tốt như thế nào để tạo ra thành công về các nhân tố thành công
then chốt mang lại các khoản lãi tài chính. Lý lẽ là kiểm soát hiệu quả bắt đầu với
việc đánh giá và quản lý chính các nhân tố hoặc các quá trình tạo ra các khoản lãi tài
chính hơn là đánh giá chính các khoản lãi tài chính. Thẻ điểm cân bằng đề cập tới vấn
đề này như được nghiên cứu trong Chương 9) bằng cách tập trung vào cả kết quả tài
chính (như lãi trên đầu tư), và các đánh giá về sự thực hiện của quá trình (như kỹ năng
nhân viên, kiến thức, sự đáp ứng thoả đáng yêu cầu của khách hàng, số chu kỳ, tỷ số
giữa hoàn thiện quá trình và đổi mới, chất lượng) tạo ra các kết quả tài chính.
3. Kiểm soát tài chính thường được định hướng đối với thực hiện lợi nhuận ngắn hạn.
Nó ít khi tập trung vào việc hoàn thiện dài hạn hoặc phân tích khuynh hướng mà thay
vì xem xét tổ chức tốt như thế nào, hoặc một trong những trung tâm trách nhiệm của
nó thực hiện điều này hàng quý này, năm này tốt như thế nào. Đây là kết quả của sự
lạm dụng kiểm soát tài chính hơn là một thiếu sót cố hữu của chính kiểm soát tài
chính. Tuy nhiên, mối bận tâm với các kết quả tài chính ngắn hạn là không đáng kể.
Nó thúc đẩy bầu không khí quản lý các kết quả tài chính ngắn hạn có thể làm thoái chí
các ban giám đốc và nhân viên đưa ra sáng kiến nhằm xúc tiến thành công trong dài
hạn, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư vào đào tạo, thiết bị, và thay đổi quá trình. Một lý
do chính thực hiện tư nhân hoá các tổ chức công ích tư nhân là tạo cho các giám đốc
cao cấp cơ hội quản lý các kết quả dài hạn hơn là bị buộc vào những mối lo ngại
không thích đáng với việc thực hiện ngắn hạn, do các nhà phân tích tài chính, những
người có mối quan tâm, gây ra.
Tóm lại, chúng ta cần hiểu các khía cạnh của kiểm soát tài chính thế nào? Kiểm soát
tài chính là mọt công cụ quan trọng trong quá trình kiểm soát. Nếu được sử dụng đúng đắn,
các kết quả tài chính cung cấp sự hỗ trọ quan trọng trong việc đánh giá khả năng tòn tại và
phát triển của tổ chức và xác định các quá trình cần thiết cho việc thực hiện. Đó là một công
cụ được hỗ trợ bởi các công cụ khác do nó chỉ là sự tổng kết việc thực hiện.
Kiểm soát tài chính không cố gắng đánh giá nhiều mặt thực hiện khác có thể là then
chốt đối với các cổ đông của tổ chức và có tính quyết định đối với sự thành lâu dài của tổ
chức. Tuy nhiên, nó có thể cung cấp một sự đánh giá tổng thể các chiến lược và quyết định
của tổ chức có đang mang lại các nguồn thu tài chính có thể chấp nhận hay không. Các tổ
chức cũng có thể sử dụng kiểm soát tài chính để so sánh các kết quả của một đơn vị với đơn
vị khác. Tín hiệu làm chuẩn về tài chính này chỉ ra hệ thống kiểm soát hoạt động của tổ chức,
nhằm giám sát, đánh giá và hoàn thiện viẹc thực hiện theo các nhân tố thành công then chốt,
có đang hạot động đủ tốt để mang lại các kết quả tài chính đáng mong ước hay không.
Kiểm soát tài chính bên ngoài: phân tích tỷ số tài chính
Trong nhiều năm, các nhà phân tích đã sử dụng các công cụ kiểm soát tài chính bên
ngoài để nghiên cứu các tổ chức. Các công cụ kiểm soát tài chính bên ngoài này có thể đựoc
chia thành hai nhóm chunng sau:
1. Các báo cáo Quy mô Chung (Phân tích theo chiều dọc)
a. Bảng cân đối kế toán
b. Báo cáo lợi nhuận
2. Các tỷ số tài chính
a. Tình trạng lãi
i. Lãi trên Tài sản (Lợi nhuận thuần/tổng Tài sản)
ii. Lãi trên cổ phiếu thường (Lợi nhuận thuần/Cổ phiếu thường)
iii. Giá trị Kinh tế Gia tăng (EVA
) (Lợi nhuận theo GAAP được điều
chỉnh – Lãi trên vốn được đầu tư)
iv. Giá trị Thị trường Gia tăng (MVA
) (Giá trị thị trường của một công
ty – tổng vốn được đầu tư)
v. Tiền nhận trên cổ phiếu ([Lợi nhuận thuần – Cổ tức ưu đãi/Số trung
bình của cổ phiếu thường chưa trả)
vi. Hệ số lợi nhuận được chia (Cổ tức trên cổ phiếu/Giá thi trường trên
cổ phiếu)
b. Hiệu suất
i. Lãi lợi nhuận gộp (Lợi nhuận gộp/Doanh thu)
ii. Lãi lợi nhuận hoạt động (tiền nhận được trước lợi nhuận và Thuế/Doanh
thu)
iii. Lãi lợi nhuận thuần (Lợi nhuận thuần/Doanh thu)
c. Đòn bảy tài chính
i. Hệ số Nợ/Vốn do bán có phiếu (Tổng Nợ/Tổng vốn bán cổ phiếu)
ii. Hệ số Nợ (Tổng Nợ/Tổng Tài sản)
d. Khả năng thanh toán tiền mặt
i. Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn (Tài sản ngắn hạn/Nợ ngắn hạn)
ii. Hệ số Nhanh ([Tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho]/Nợ ngắn hạn)
iii. Số lần lãi nhận được ([Tiền nhận được trước lãi + thuế]/Chi phí Lãi)
iv. Luồng tiền rỗi (Luồng tiền Thuần từ các hoạt động – Luồng tiền
Thuần từ các hoạt động đầu tư – Cổ tức tiền mặt đã trả)
e. Sử dụng Tài sản (Năng suất)
i. Các tài khoản doanh thu có thể nhận (bán hàng trả chậm / tài
khoản tiền nhận)
ii. Doanh số hàng tồn kho (Doanh thu / Mức tồn kho trung
bình)
iii. Tổng Doanh số Tài sản (Doanh thu /Tổng Tài sản)
iv. Doanh số Tài sản Cố định (Doanh thu / Tài sản Cố định
Thuần)
f. Giá trị Thị trường
i. Hệ số Giá Khoản nhận được (Giá trị Thị trường của Cổ phiếu
thường / Khoản nhận được trên Cổ phiếu)
ii. Giá trị Thị trường với Sổ sách (Giá trị Thị trường theo Cổ
phiếu / Giá trị Sổ sách trên Cổ phiếu)
Các công cụ phân tích tài chính này được minh hoạ bằng cách sử dụng dữ liệu được
trình bày đói với Nortel tại phần đầu của Chương này.
Bảng Cân đối Kế toán Quy mô Chung
Bảng Cân đối kế toán quy mô thông thường có hai mục đích:
1. Xác định các khuynh hướng trong các thành phần của bảng cân đối kế toán theo
thời gian. Ví dụ, vốn lưu động đang tăng hay giảm theo thời gian?
2. Để so sánh các thành phần của bảng cân đối kế toán của các tổ chức tương tự. Ví
dụ, tổ chức này đang nợ nhiều hơn các tổ chức tương tự?
Trong một bảng cân đối kế toán quy mô thông thường, mỗi hạng mục của bảng cân
đối kế toán đối với bên tài sản của bảng cân đối được thể hiện như là phần trăm của tổng tài
sản, và mỗi hạng mục trên phía nợ phải trả và vốn bán cổ phiếu của cổ đông.
Bảng 12-12 trình bày bảng cân đối kế toán và bảng cân đối kế toán quy mô
thông thường đối với các hoạt động của Nortel từ năm 1999 đến 2001.
Nortel Network Corporation
Bảng cân đối kế toán hàng năm (đơn vị triệu đô la) và Báo cáo kế toán
quy mô thông thường
2001 2000 1999
Tài sản Triệu
Đô la
% Triệu
Đô la
% Triệu Đô
la
%
Tài sản ngắn hạn:
Tiền mặt và tương đương 3.513 16,62 1.644 3,90 2.257 9,99
Nợ phải thu 2.923 13,86 8.198 19,44 6.786 30,03
Hàng tồn kho 1.579 7,47 4.336 10,28 2.956 13,08
Tài sản ngắn hạn khác 3.747 17,73 2.352 5,58 1.069 4,73
Tổng tài sản 11.762 55,65 16.530 39,19 13068 57,83
Nợ phải trả và VCSH
Nợ phải trả ngắn hạn:
Phải trả người bán 1.988 9,41 3.102 7,35 2.592 11,47
Vay Ngắn hạn 810 3,83 760 1,80 287 1,27
Nợ Phải trả ngắn hạn khác 6.659 31,50 5.196 12,32 4.911 21,73
Tổng Nợ Ngắn hạn 9.457 44,74 9.058 21,47 7.790 34,47
Nợ dài hạn:
Vay dài hạn 4.094 19,37 1.178 2,79 1.624 7.19
Thuế TNDN hoãn lại 518 2,45 902 2,14 124 0.55
Nợ Phải trả dài hạn khác 1.607 7,60 1.129 2,68 449 1.99
Lợi ích của cổ đông Thiểu số 637 3,01 804 1,91 922 0.41
Tổng Nợ phải trả dài hạn 6.856 32,44 4.103 9,51 2.289 10.13
Tổng Nợ phải trả 16.313 77,18 13.071 30,99 10.079 44.60
VốnCSH:
Cổ phiếu Ưu đãi 0 0 0 0 609 2,70
Cổ phiếu thường 4.824 22,82 29.109 69,01 11.909 52,70
Tổng vốn CSH 4.824 22,82 29.109 69,01 12.518 55,40
Tổng Nợphải trả & VCSH 21.137 100 42.180 100 22.597 100
Bảng 12-12
Bảng Cân đối kế toán và Bảng Cân đối kế toán Quy mô thông thường của Nortel
Networks Corporation 1999-2001
Chúng ta có thể suy ra những gì từ các khuynh hướng trong các hạng mục của bảng
cân đối kế toán của Nortel? Bảng 12-13 và 12-14 tổng kết các khuynh hướng trong các
hạng mục tài sản và nợ phải trả và vốn từ bán cổ phiếu của các cổ đông khác nhau.
Trên phía tài sản, sự khác nhau rõ nét nhất là sự tăng dần cảu tài khoản vô
hình từ 1999 đến 2000 (phản ánh sự vượt quá của giá mua trên giá trị tài sản theo sổ sách
có được từ các vụ mua của các công ty khác trong năm 2000) và tình trạng suy giảm của tài
khoản vô hình giữa các năm 2000 và 2001 (do Nortel ghi giảm hoặc ghi xoá sổ nợ khó đòi
nhiều đầu tư này)
Trên phía nợ phải trả và vốn bán cổ phiếu của cổ đông của bảng cân đối kế toán, khía
cạnh đáng quan tâm nhất là sự giao động của cổ phiếu thường. Ngoài ra điều này phản ánh
sự cấp vốn đầu tư trong năm 2000 thông qua việc sử dụng cổ phiếu thường và xóa sổ sau đó
nhiều trong số các khoản đầu tư này trong năm 2001.
Bảng 12-13
Bảng cân đối kế toán quy mô tương đối thông thường của Nortel Corporation
Bảng 12-14
Bảng cân đối kế toán quy mô tương đối thông thường của Nortel Corporation
Bảng 12-15
Bảng cân đối kế toán quy mô thông thường của Nortel và Lucent
Bây giờ chúng ta xem xét Nortel so sánh thế nào với Lucent, đối thủ chính của Công
ty tại Bắc Mỹ. Bảng 12-15 tổng kết bên tài sản của bảng cân đối kế toán quy mô thông
thường của Nortel và Lucent trong các năm 1999-2001. Các hệ số là tương tự với một
ngoại lệ: chênh lệch lớn của Nortel trong các giá trị vô hình theo phần trăm của tổng tài sản.
Ngoài ra, điều này phản ánh các vụ mua của Nortel đối với các tổ chức khác mà nó đang
cấp tài chính bởi cổ phi thường và phần trả thêm mà nó đang trả trên các vụ mua này. Hiển
nhiên Lucent đang làm những điều giống như Nortel nhưng với tỷ lệ phần trăm của tổng tài
sản nhỏ hơn nhiều.
Bảng 12-16 tổng kết nợ phải trả và phần huy động vốn từ bán cổ phiếu của các
cổ đông của bảng cân đối kế toán quy mô thông thường trong các so sánh giữa Nortel và
Lucent. Chú ý rằng trong năm 1999 và 2000, Nortel thể hiện bán cổ phiếu thường với phần
trăm của tổng số lớn hơn. Sau đó trong năm 2001, một mức tăng tương ứng lớn xảy có trong
nợ phải trả ngắn hạn khác cả so với các năm trước và so với Lucent.
Báo cáo lợi nhuận quy mô thông thường
Báo cáo lợi nhuận quy mô thông thường cung cấp nhận thức sâu sắc có giá trị bằng
cách xác định mỗi yếu tố chi phí của tổ chức như phần trăm doanh thu. Điều này tạo ra định
hướng cho ban giám đốc và các nhà đầu tư liên quan đến các cơ hội và tiềm năng giảm chi
phí. Ngoài ra, sẽ có ích để xem xét cả khuynh hướng qua thời gian của những hạng mục riêng
lẻ và sự so sánh với những hạng mục này cảu các nhà cạnh tranh.
Bảng 12-17 trình bày báo cáo lợitức được thể hiện bằng tiền và theo mẫu quy mô
thông thường cho các năm 1999-2001. Trước hết hãy chú ý sự tăng mạnh của chi phí của
doanh thu trong năm 2000 và 2001. Các bạn cho là tại những nguyên nhân nào? Câu trả lời là
do doanh thu giảm, Nortel không thể nhanh chóng giảm chi phí cố định. Điều này giải thích
tại sao, trong năm 2002 Nortel giảm mạnh kinh doanh và nhân lực, các nguồn tạo ra chi phí
cố định, bởi vậy nó có thể hoà vốn ở mức doanh thu thấp hơn. Cũng cách giải thích như vậy
và các kết quả đưa ra cho việc bán các chi phí Chung và Hành chính. Tác động mạnh tới lợi
nhuận diễn ra từ dòng Lợi nhuận đặc biệt/Tiền phải trả. Điều này là nơi Nortel nhận thức việc
xoá bỏ của nhiều trong số các đầu tư tai hại của nó – khoảng 16 tỷ đô la trong năm 2001.
Bảng 12-16
Bảng cân đối kế toán của Nortel và Lucent – Nợ phải trả và vốn bán cổ phiếu của cổ
đông
Bây giờ chúng ta hãy xem Bảng 12-18 để so sánh điều này với những gì đang diễn ra
tại Lucent trong cùng năm. Chú ý rằng báo cáo lợi tác quy mô thông thường của Lucent và
Nortel là tương tự đối về trật tự EBIDA (Lợi nhuận trước lãi vay, thuế & khấu hao). Khác
biệt lớn đầu tiên là khấu hao và lợi nhuận giữ lại của Nortel tương ứng cao hơn nhiều so với
Lucent, phản ánh khoản xoá sổ lớn của Nortel về các thiện chí mua hàng. Bất động sản, nhà
máy, và thiết bị của Nortel tương đối thấp hơn Lucent (xem bảng cân đối kế toán quy mô
thông thường). Khác nhau quan trọng khác là Lợi nhuận Đặc biệt/Tiền phải trả mà Nortel có
nhiều khoản xoá xổ (tương ứng) cao hơn nhiều. Ngoài ra, sự khác biệt này phản ánh những
khoản xoá sổ về đầu tư tồi tương ứng của Nortel cao hơn.
Nortel Network Corporation
Báo cáo lợi nhuận hàng năm (đơn vị triệu đô la) và Báo cáo kế toán
quy mô thông thường
2001 2000 1999
Triệu đô
la
% Triệu
đô la
% Triệu
đô la
%
Doanh thu 17.511 100 30.275 100 22.217 100
Giá vốn hàng bán 13.423 76,65 16.335 53,96 11.271 50,73
Lợi nhuận gộp 4.088 23,35 13.940 46,04 10.946 49,27
Chi phí bán hàng, Chung &
Hành chính
9.224 52,79 9.836 32,49 7.010 31,55
Thuế khác 0 0 0 0 0 0
EBITDA - 5.156 - 29,44 4.104 13,56 3.936 17,72
Khấu hao 5.699 32,55 5.581 18,43 2.651 11,93
EBIT - 10.855 - 61,99 - 1.477 - 4,88 1.285 5,78
Lợi nhuận thuần khác - 597 - 3,41 842 2,78 344 1,55
Lợi nhuận Đặc
biệt/Tiềnphải trả
- 15. 796 - 90,21 - 1.588 -5,25 - 931 - 4,19
Tổng Lợi nhuận có sẵn cho
Chi lãi vay
- 27.559 -155,61 - 2.223 - 7,34 698 3,14
Chi lãi vay 311 1,78 169 0,56 172 0,77
Lợi ích của cổ đông thiểu số 0 0 0 0 0 0
Lợi nhuận trước thuế - 27.559 - 157,38 - 2.392 - 7,90 526 2,37
Thuế TNDN - 3.252 - 18,57 1.078 3,56 696 3,13
Tổng Lợi nhuận thuần từ
các hoạt động thưòng xuyên
- 24.307 - 138,81 - 3.470 - 11,46 - 170 - 0,77
Lợi nhuận thuần từ các các
hoạt động không thường
- 3.010 - 17,19 0 0 0 0
xuyên
Lợi nhuận thuần từ Tổng
các hoạt động
- 27.317 - 156,00 - 3.470 - 11,46 - 170 - 0,77
Lợi nhuận từ ảnh hưởng của
thay đổi kế toán
15 0,09 0 0 0 0
Lãi/Lỗ khác O 0 0 0 0 0
Tổng Lợi nhuận thuần - 27.302 - 155,91 - 3.470 -11,46 - 170 - 0,77
Bảng 12-17
Báo cáo Lợi nhuận hàng năm và báo cáo Lợi nhuận quy mô chung của Nortel
Networks Corporation 1999-2001.
Chỉ tiêu sinh lời
Lãi trên Tài sản
Chỉ tiêu Lãi trên Tài sản là thước đo lãi do tài sản của tổ chức tạo ra. Cách đánh giá
này phụ thuộc tổ chức cunng cấp tài chính cho tài sản của mình như thế nào. Sau đây là
những tính toán lãi trên tài sản của các hoạt động của Nortel trong năm 2001:
Lợi nhuận thuần - 27,302
Lãi trên Tài sản = ---------------------- = --------------- = - 129,17%
Tổng Tài sản 21.137
Như các bạn có thể thấy, điều chung để thể hiện chỉ tiêu tài chính này là phần trăm.
Đây là một kết quả tồi tệ theo tiêu chuẩn bất kỳ và phản ánh chung các khó khăn khắc
nghiệt của Nortel và ngành công nghiệp.
Lãi trên cổ phiếu thường
Lãi trên cổ phiếu thường là một hệ số đánh giá lãi đối với cổ đông của tổ chức. Đánh
giá này phản ánh hiệu quả của đòn bảy tài chính diễn ra khi tổ chức tổ chức sử dụng vốn lợi
nhuận cố định (giống như nợ) trong cơ cấu vốn của tổ chức. Đòn bày tài chính làm tăng lãi
cho các cổ đông khi tổ chức có lợi nhuận và làm giảm lãi của cổ đông khi tổ chức không có
lãi. (ảnh hưởng đòn bảy xảy ra do tử số trong các hệ số lãi trên tài sản và lãi trên cổ phiếu
thường vẫn như nhau trong khi mẫu số giảm nếu tổ chức có nợ trong cơ cấu vốn của mình.)
Sau đây là tính lãi trên cổ phiếu thường đối với các hoạt động của Nortel năm 2001:
Lợi nhuận thuần - 27.302
Lãi của cổ phiếu thường = ---------------------- = --------------- = - 565,96%
Cổ phiếu thường 8.824
Kết quả này giải thích sự liều lĩnh sống còn của Nortel trong cố gắng giảm chi phí cố
định của mình sao cho nó có thể tạo ra lợi nhuận ở mức doanh thu thấp hơn.
Nortel Network Corporation và Lucent Technologies Inc.
Báo cáo lợi nhuận quy mô thông thường
2001 2000 1999
Nortel Lucent Nortel Lucent Nortel Lucent
Doanh thu 100,00
(%)
100,00
(%)
100,00
(%)
100,00
(%)
100,00
(%)
100,00
(%)
Giá vốn hàng bán 76,65 78,43 53,96 50,93 50,73 46,69
Lợi nhuận gộp 23,35 21,57 46,04 49,07 49,27 53,31
Chi phí bán hàng, Chung &
Hành chính
52,79 51,33 32,49 30,41 31,55 33,75
Thuế khác 0 0 0 0 0 0
EBITDA - 29,44 - 29,75 13,56 18,66 17,72 19,57
Khấu hao 32,55 11,91 18,43 6,86 11,93 4,72
EBIT - 61,99 - 41,66 - 4,88 11,80 5,78 14,85
Lợi nhuận thuần khác - 3,41 - 1,68 2,78 1,23 1,55 1,23
Lợi nhuận Đặc biệt/Tiền phải
trả
- 90,21 - 47,70 - 5,25 - 2,97 - 4, 19 - 0,74
Tổng Lợi nhuận có sẵn cho
Chi lãi vay
- 155,61 - 91,04 - 7,34 10,06 3,14 15,34
Chi lãi vay 1,78 2,43 0,56 1,03 0,77 1,06
Lợi ích của cổ đôngthiểusố 0 0 0 0,15 0 0,07
Lợi nhuận trước thuế - 157,38 - 93,47 - 7,90 8,88 2,37 14,21
Thuế TNDN - 18,57 - 26,93 3,56 3,91 3,13 5,18
Tổng Lợi nhuận thuần từ các
hoạt động thưòng xuyên
- 138,81 - 66,54 - 11,46 4,97 - 0,77 9,03
Lợi nhuận thuần từ các các
hoạt động không thường xuyên
- 17,19 - 14,90 0 - 1,37 0 0
Lợi nhuận thuần từ Tổng các
hoạt động
- 156,00 - 81,44 - 11,46 3,61 - 0, 77 9,03
Lợi nhuận từ ảnh hưởng của
thay đổi kế toán
0,09 - 0,18 0 0 0 3,41
Lãi/Lỗ khác 0 5,55 0 0 0 0
Tổng Lợi nhuận thuần - 155,91 -76,07 - 11,46 3,61 - 0,77 12,44
Bảng 12-18
Báo cáo lợi nhuận quy mô thông thường của Nortel Network Corporation và Lucent
Technologies Inc. 1999-2001
Giá trị Kinh tế Gia tăng
Giá trị Kinh tế Gia tăng tính lãi cho cổ đông vượt quá lãi tối thiểu trên đầu tư mà cổ
đông đòi hỏi. (Cách tính Giá trị gia tăng là ngoài phạm vị của giáo trình này.) Cách tính theo
EVA
đòi hỏi mọt sự điều chỉnh của lợi nhuận theo GAAP cho nguyên tắc bảo thủ của nó (ví
dụ, nghiên cứu và phát triển và quảng cáo được cấp vốn và chi, thiện chí không bị xoá bỏ, và
ảnh hưởng của tính thuế lợi nhuận trả chậm được đảo ngược), một tính toán chịu chi phí vốn
trung bình, và một tính toán mức đầu tư trong một tổ chức. Để minh hoạ, Stern Sterwart tính
giá trị kinh tế gia tăng của Nortel trong năm 1999 là 130.953 đô la Canada.
Giá trị Thị trường Gia tăng
Tính giá trị thị trường gia tăng là ngoài phạm vị giá trình này, nhưng chủ đề này được
đưa vào để cung cấp cho bạn mọt ví dụ. Giá trị Thị trường Gia tăng tính mức vượt quá của
giá trị thị trường của hãng trên tổng đầu tư trong quá khứ. Giá trị thị trường gia tăng là một
ước tính tạo ra giá trị tích luỹ của tổ chức cho cổ đông. Để minh hoạ, Stern Stewart tính giá
trị thị trường gia tăng của Nortel trong năm 1999 là 168.851.385 đô la Canada.
Lãi trên Cổ phiếu
Lãi trên cổ phiếu có thể là một trong số các thước đo tài chính của sự thực hiện được
trích dẫn rộng rãi nhất. Đó là lãi theo đơn vị tiền tệ đối với đầu tư từ việc cầm giữ cổ phiếu
thường của tổ chức. Để tính giá trị này cho Nortel, chúng ta cần biết số cổ phiếu gánh chịu
trung bình còn tồn tại trong năm. Thông tin này sẵn có do tổ chức đựoc yêu cầu báo cáo trong
các báo cáo tài chính của mình. Nortel báo cáo số cổ phiếu trung bình sau đây còn tồn tại
tương ứng với các năm 1999, 2000 và 2001 là 2.705, 2.953 và 3.189 (các giá trị tính theo
triệu đô la). Với thông tin này, lãi (lỗ) của Nortel trên cổ phiếu trong năm 2001 có thể được
tính:
Lợi nhuận thuần - 27.302
Lãi trên cổ phiếu thường = ------------------------------------------------- = --------------- =
- 8,56 đô la
Số trung bình của Cổ phiếu lưu hành 3.189
Các bạn sẽ thường xem tham khảo số liệu gọi là Lãi suy giảm trên cổ phiếu. Số liệu
này tính lãi trên cổ phiếu nếu mọi công cụ tài chính tồn tại mà có thể chuyển đổi thành cổ
phiếu, ví dụ, quyền mua cổ phiếu và nợ có thể chuyển đổi) được thực hiện. Các tổ chức được
yêu cầu báo cáo lãi giảm hoàn toàn trên cổ phiếu trong các báo cáo hàng năm của họ.
Tỉ suất cổ tức (Dividend yield)
Tỉ suất cổ tức đánh giá lợi nhuận tiền mặt trên giá thị trường của cổ phiếu. Hệ số này
là thước đo quan trọng đối với lãi của cổ đông để các cổ đông đánh giá giá trị của cổ phiếu.
Để tính hệ số này, chúng ta cần biét tổng giá trị của cổ tức được trả trên cổ phiếu và
giá cuối năm của cổ phiếu. Bảng sau tóm tắt thông tin này đối với Nortel.
1999 2000 2001
Cổ tức trên cổ phiếu
(đô la)
0,075 0,075 0,0375
Giá cổ phiếu cuối
năm (đô la)
101,00 32,063 7,46
Với thông tin này, chúng ta có thể tính hệ số lợi nhuận cổ tức năm 2001 của Nortel
như sau:
Cổ tức trên cổ phiếu 0,0375
Tỉ suất cổ tức = ------------------------------------ = --------------- = 0,50%
Giá thị trường của Cổ phiếu 7,46
Rõ ràng, mức thấp hơn của hệ số này liên quan đến giá đưa đến hoặc mức tăng trưởng
hoặc giá trị cơ bản của tài sản của Nortel đang hỗ trợ giá cổ phiếu do không có cổ đông có thể
thoả mãn với mức lợi nhuận thấp này.
Các chỉ tiêu hiệu suất
Tỉ suất lợi nhuận gộp
Tỉ suất lợi nhuận gộp đánh giá phần chia của mỗi đô la doanh thu được tiêu dùng bởi
chi phí sản xuất. Với lý do này, các nhà phân tích sử dụng lãi suất lợi nhuận gộp như một
thước đo hiệu suất sản xuất. Số dư lãi gộp là cái có sẵn để trang trải mọi chi phí ngoài sản
xuất và trả lãi và thuế. Chúng ta có thể tính t suất lợi nhuận gộp năm 2001 của Nortel như
sau:
Lợi nhuận gộp 4.088
Tỉ suất lợi nhuận gộp = --------------------- = ------------- = 23,35%
Doanh thu 17.511
Tỉ suất Lợi nhuận hoạt động
Tỉ suất lợi nhuận hoạt động (cũng gọi là Lợi nhuận trước trả lãi và thuế hay EBIT)
tính phần chia của mỗi đô la doanh thu có được để trả lãi và thuế và chi lãi cho các cổ đông.
Sự liên quan của từ hoạt động trong tên gọi tỷ số là doanh thu hoặc chi phí được cho là các
hạng mục bất thường hoặc ngoài hoạt động không được đưa vào trong tính toán hệ số này.
Chúng ta có thể tính tỉ suất lợi nhuận hoạt động năm 1999 của Nortel như sau:
EBIT 1.285
Tỉ suất lợi nhuận hoạt động = ---------------- = ----------- = 5,78%
Doanh thu 22.217
Tỉ suất Lợi nhuận thuần
Tỉ suất lợi nhuân thuần tính phần chia của tổng thu nhập có được để phân chia cho các cổ
đông thường. Chúng ta có thể tính tỉ suất lợi nhuận thuần năm 2001 của Nortel như sau:
Lợi nhuận thuần -27.302
Tỉ suất lợi nhuận thuần = ------------------------ = -------------- = - 155,91%
Doanh thu 17.411
Khi hệ số này âm, như trong trường hợp này, nó thường không được báo cáo, hoặc nó
được báo cáo là N/A (không thích hợp) do nó không thể được giải thích theo cùng cách thức
như một lãi suất lợi nhuận thuần dương.
Đòn bảy tài chính
Hệ số Nợ/Vốn CSH
Hệ số nợ/Vốn CSH là thước đo rủi ro tài chính. Hệ số càng cao rủi ro tài chính càng
lớn vì lãi phải được trả trên nợ không tương xứng với khả năng sinh lợi của tổ chức. Chúng ta
có thể tính hệ số nợ/vốn CSH năm 2001 của Nortel như sau:
Tổng Nợ 16.313
Hệ số nợ/vốn CSH = ---------------------------------- = -------------- = 388,16%
Tổng vốn CSH 4.824
Trong khi các tiêu chuẩn đối với những gì là một hệ số nợ/vốn CSH thích hợp khác
nhau với các ngành công nghiệp, các giá trị thường từ 50% đến 70%. Hệ số nợ/vốn CSH của
Nortel nằm ngoài giới hạn các tiêu chuẩn và giải thích tại sao trái phiếu Nortel được xếp hạng
là trái phiếu vứt bỏ.
Hệ số nợ
Giống như hệ số nợ/vốn bán cổ phiếu, hệ số nợ là thước đo rủi ro tài chính. Hệ số tính
phần chia của tổng tài sản được cung cấp tài chính bằng cách vay nợ và vì vậy, là thước đo
của đòn bảy tài chính. Chúng ta có thể tính hệ số nợ năm 2001 của Nortel như sau:
Tổng Nợ 16.313
Hệ số Nợ = ----------------------- = --------------- = 77,18%
Tổng Tài sản 21.137
Như trong trường hợp của hệ số nợ/vốn bán cổ phiếu, các tiêu chuẩn đối với hệ số nợ
thích hợp biến đổi theo các ngành công nghiệp. Tuy nhiên, giá trị phổ biến là từ 33% đến
66%. Hệ số nợ năm 2001 của Nortel chỉ ra rằng nợ cung cấp tài chính hơn 77% tài sản, như
vậy là quá cao. Hệ số nợ cao này phản ánh những thiệt hại của vốn bán cổ phiếu của cổ đông
do những xoá sổ tài sản khổng lồ của Nortel trong các năm 2000 và 2001.
Khả năng thanh toán tiền mặt
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn là thước đo khả năng thanh toán tiền mặt ngắn
hạn. Nó đánh giá khả năng của tổ chức trang trải các khoản nợ phải trả ngắn hạn của mình mà
là các nợ phải trả đáo hạn trong năm tài chính tới. Chúng ta có thể tính hệ số khả năng thanh
toán ngắn hạn năm 2001 của Nortel như sau:
Tài sản ngắn hạn 11.762
Hệ số khả năng than toán ngắn hạn = ----------------------- = ---------------- = 1,24
Nợ phải trả ngắn hạn 9.457
Tuy là tiêu chuẩn đối với hệ số ngắn hạn khác nhau theo các ngành công nghiệp, giá
trị hệ số bằng 2 thường được coi là một giá trị mục tiêu thích hợp.
Hệ số khả chi trả lã vay
Đây là một thước đo rủi ro tài chính khác. Do trả lãi là khế ước và bắt buộc, hệ số số
lần lãi nhận được cho biết sâu sắc khả năng của tổ chức đáp ứng việc trả lãi của nó. Chúng ta
có thể tính hệ số số lần lãi nhận được của Nortel cho năm 1999 như sau:
Doanh thu trước trả lãi và thuế 1.285
Hệ số khả năng chi trả lãi vay = ----------------------------------- = ------------- = 7,47
Lãi vay 172
Do lãi được trả với tiền mặt và không lợi nhuận, hệ số số lần lãi nhận được có thể
không phải là chỉ dẫn tốt của khả năng trả lãi của tổ chức. Điều này tạo ra sự quan tâm đến
cách đánh giá luồng tiền mặt nhàn rỗi.
Dòng tiền tự do (Free cash flow)
Dòng tiền tự do đánh giá sự vượt quá của luồng tiền được tạo ra từ các hoạt động trên
tổng số tiền cần thiết để thực hiện đầu tư nhằm duy trì tổ chức và trả cổ tức. Trên thực tế nó
là tiền mặt còn dư hoặc vượt quá. Ban đầu các nhà phân tích coi nguồn tiền mặt nhàn rỗi là
một vấn đề do nó thể hiện các quỹ mà tổ chức có thể sử dụng có tính suy đoán. (Nhớ rằng
luồng tiền mặt nhàn rỗi bao gồm cả các đầu tư trong các dự án sinh lãi mà tổ chức cần thực
hiện để duy trì chính nó.) Tuy nhiên, qua thời gian, ý nghĩa ban đầu này đã thay đổi, và các
nhà phân tích hiện nay coi Dòng tiền tự do là thước đo khả năng thanh toán tiền mặt của tổ
chức. Chúng ta có thể tính Dòng tiền tự do năm 2001 của Nortel như sau:
Dòng tiền tự do = Luồng tiền mặt thuần từ các hoạt động - đầu tư trong tài sản vốn –
cổ tức được trả
Dòng tiền tự do = - 276.000.000 – 1.379.000.000 – 123.000.000
= - 1.778.000.000 đô la
Điều này là sự rõ ràng khan hiếm tiền mặt và phản ánh những lo ngại của thị trường
rằng Nortel có nguy cơ phá sản trừ phi nó thực hiện bước quyết liệt để giảm chi phí của mình.
Thực tế
Kiểm soát tài chính trong hoạt động: chi tiêu hết tiền mặt
Trong vài năm qua, đặc biệt từ khi sự sụp đổ hàng loạt của các công ty trên mạng
dot.com, nhiều nhà phân tích càng quan tâm tới tỷ lệ chi tiêu hết tiền mặt: tỷ lệ mà tại đó một
tổ chức dùng hết tiền mặt. Sau đây là dẫn giải về các mức thích hợp của một nhà phân tích.
Quý tiền mặt cần bao nhiêu?
Không có số liệu có sức hấp dẫn đối với giá trị tiền mặt một công ty cần có trong tay,
nhưng nếu chúng ta xác định tỷ tệ chi hết tiền mặt trên quý, chúng ta tới gần hơn một sự ước
chừng được rèn luyện. Bất kỳ công ty nào có ít hơn mười quý tiền mặt trong thị trường này là
một người thất bại về chứng khoán tiềm năng. Lý do cho mười quý là do nó là hoàn toàn có
thể trong bốn quý tiếp theo, công ty có thể thất bại thậm chí nhiều tiền hơn quý đầu/năm đầu.
Điều này có thể để lại cho họ bốn hoặc ít hơn bốn quý tiền mặt. Sẽ không thành vấn đề nếu
các công ty này có thể quay vòng (và duy trì) luồng tiền mặt tích cực, nhưng kinh doanh vẫn
cực kỳ rủi ro cho đến khi họ có thể mang tiền mặt dự phòng cho mười quý.
Nguồn: Greg Paracosta, Phân tích tỷ số chi tiêu hết tiền mặt, www.ezine-tips.com
Sử dụng Tài sản
Số vòng quay nợ phải thu KH
Đối với nhiều tổ chức, đầu tư trong hàng tồn kho và khoản nhận được theo sổ sách có
thể là quan trọng. Vì vậy, khả năng của ban giám đốc tối thiểu hoá hàng tồn kho và khoản
nhận được theo sổ sách, và các thành phần của vốn lưu động, đối với một mức hoạt động
doanh thu cụ thể nâng cao khả năng giảm vốn lưu động và tăng doanh thu từ đầu tư của tổ
chức. Tuy nhiên, số liệu nợ phải thu khách hàng cao không nhất thiết là tốt do việc cấp tín
dụng thương mại thường là một sự khích lệ doanh thu và những đánh giá doanh thu cao đối
với nhận được theo sổ sách có thể phát tín hiệu một tổ chức đang quản lý các điều kiện tín
dụng của mình quá chặt chẽ và thua thiệt về doanh thu.
Để tính nợ phải thu khách hàng, chúng ta cần một số liệu thống kê không được cung
cấp chung trong báo cáo tài chính của tổ chức: phần chia của doanh thu là bán theo tín dụng.
Đối với nhiều tổ chức lớn, việc giả sử rằng tất cả doanh thu là bán trả chậm là sự an toàn hợp
lý, để bởi vậy các nhà phân tích thay thế doanh thu bán trả chậm bằng doanh thu trong các giá
trị của Số vòng quay nợ phải thu KH. Với lưu ý này, chúng ta có thể tính Số vòng quay nợ
phải thu KH theo sổ sách năm 2001 của Nortel như sau:
Doanh thu 17.511
Số vòng quay nợ phải thu KH = -------------------------------- = -------------------- = 5,99
Nợ phải thu KH 2.923
So sánh với số trung bình của một ngành công nghiệp nhỏ hơn 4, tỷ số này dường như
là tốt. Tuy nhiên, những chú ý đối với báo cáo tài chính 2001 của Nortel chỉ ra việc phân tích
nhân tố (bán hàng) một số hoặc tất cả các khoản nhận được theo sổ sách của công ty. Khi
việc phân tích nhân tố có lưu ý đến Số vòng quay nợ phải thu KH, nó là bằng chứng của một
tổ chức có các vấn đề đáng lưu ý về tiền mặt. Hơn nữa, do tiền mặt nhận được từ việc phân
tích khoản nhận được theo sổ sách sẽ xuất hiện trong báo cáo Dòng tiền tự do, việc phân tích
nhân tố làm sáng tỏ những liên quan về quản lý tiền mặt của số liệu Dòng tiền tự do. Các tổ
chức phải đối mặt với nhu cầu biến động cao trong năm sẽ trải qua nhiều mức dao động lớn
của phải thu KH. Các tổ chức chức này sử dụng phải htu KH bình quân để tính Số vòng quay
nợ phải thu KH.
Số vòng quay Hàng tồn kho
Số vòng quay hàng tồn kho là thước đo khả năng của ban giám đốc kiểm soát đầu tư
của công ty trong hàng tồn kho. Từ thập niên 80, nhiều giám đốc đã nhìn hàng tồn kho như
một ống dẫn về lãi trên đầu tư và đã tìm kiếm nhiều cách để tối thiếu hoá hàng tồn kho theo
phần trăm của doanh thu. Hệ thống sản xuất đúng thời trong đó hàng tồn kho được nhận tại
nhà máy lắp ráp phù hợp với nhu cầu, là dấu xác nhận của hoạt động quản lý hàng tồn kho
này. Tuy nhiên, hệ thống sản xuất đúng thời có thể dễ dàng mắc lỗi do một sự trục trặc của
bất kỳ điểm nào trong hệ thống sẽ làm hệ thống ngừng hoạt động cho đến khi sự hư hỏng
được sửa chữa. Chúng ta có thể tính số vòng quay hàng tồn kho năm 2001 của Nortel như
sau:
Giá vốn hàng bán 13.423
Số vòng quay hàng tồn kho = -------------------------- = ------------- = 8,50
Hàng tồn kho 1.579
Nhiều tổ chức đối mặt với nhu cầu theo mùa có mức hàng tồn kho biến động lớn
trong năm sử dụng hàng tồn kho trung bình trong năm thay vì hàng tồn kho cuối năm. Chú ý
rằng số vòng quay hàng tồn kho sử dụng giá vốn hàng bán thay vì doanh thu trong tử số. Các
nhà phân tích sử dụng chi phí doanh thu thay vì doanh thu vì hàng tồn kho được đánh giá
theo chi phí và tính nhất quán đó đòi hỏi rằng giá vốn hàng bán được sử dụng trên tử số.
Số vòng quayTổng Tài sản
Bàng cách đánh giá doanh thu được tạo ra trên đô la tài sản được đầu tư trong tổ chức,
Số vòng quay tổng tài sản đánh giá khả năng cảu ban giám đốc sử dụng tài sản một cách hiệu
quả để tạo ra doanh thu. Giữ quá nhiều tài sản sẽ làm tăng vốn đầu tư trong tổ chức và làm hạ
thấp lãi trên vốn. Sử dụng tài sản là sự tập trung chủ yếu của biện pháp giá trị kinh tế được
nghiên cứu ở phần trước. Chúng ta có thể tính thước đo số vòng quay tổng tài sản của Nortel
năm 2001 như sau:
Doanh thu 17.511
Số vòng quay Tổng Tài sản = ------------------ = ------------- = 0,83
Tổng Tài sản 21.137
Khi hệ số này vượt quá số trung bình của ngành công nghiệp là 0,5, đây là bằng
chứng của một tổ chức đang giữ quá nhiều tài sản đối với mức doanh thu của nó.
Số vòng quay (Sức sản xuất) Tài sản Cố định
Số vòng quay tài sản cố định kết hợp với số vòng quay tổng tài sản, Số vòng quay
hàng tồn kho và Số vòng quay nợ phải thu KH, để giải thích sâu hơn các nhân tố của Số vòng
quay của tổng tài sản. Chúng ta có thể tính thước đo Số vòng quay tài sản cố định của Nortel
năm 2001 như sau:
Doanh thu 17.511
Số vòng quay Tài sản Cố định = ------------------------------ = --------------- = 1,87
Giá trị còn lại TSCD 9.375
Số vòng quay tài sản cố định này thấp. Bức tranh của Nortel hiện đang đi tới tiêu
điểm. Lãi gộp suy giảm do doanh thu giảm, những khoản lỗ và Số vognf quay tài sản cố định
thấp tất cả chỉ ra một tổ chức mà cơ cấu chi phí của nó quá cao so với mức doanh thu của nó.
Do các kế hoạch doanh thu cho ngành công nghiệp của Nortel năm 2002 là thấp, tất cả các hệ
số này chỉ ra sự cần thiết đối với Nortel từ bỏ nhiều tài sản cố định và chi phí gắn với chúng
càng nhanh càng tốt.
Giá trị Thị trường
Hệ số P/E
Hệ số P/E, hệ số giữa giá thị trường và lãi trên cổ phiếu, là một trong những thống kê
được trích dẫn rộng rãi nhất. Do Nortel không có được bất kỳ khoản lợi nhuận nào từ năm
1999 đến 2001 nên không thể tính được hệ số P/E của nó. Tuy nhiên, Nortel báo cáo doanh
thu trên cổ phiếu là 0,39 đô la và cổ phiếu có giá thị trường là 11,50 đô la vào năm 1997.
Chúng ta có thể tính hệ số P/E của Nortel trong năm 1997 như sau:
Giá cổ phiếu 11,50
Hệ số P/E = ----------------------------- = ------------------ = 29,49
EPS 0,39
Với tỷ suất doanh thu hiện tại, phải mất gần 30 năm để có khoản doanh thu gộp bằng
giá cổ phiếu. Điều này rõ ràng là thị trường đang chờ đợi tỷ lệ tăng trưởng đáng kể do không
có cổ đông nào có thể chờ đợi lâu dài mức này để nhận được doanh thu ngang bằng giá cổ
phiếu hiện hành. Nếu tỷ suất doanh thu này là không thay đổi và cổ tức trả ngang bằng với
doanh thu, điều này có thể cho thấy một tỷ lệ chiết khấu khoảng 3% (1/29,49), mà không cổ
đông nào có thể chấp nhận, ngoài hàm ý một sự mong đợi tăng trưởng.
Hệ số giá trị thị trường với giá trị sổ sách
Hệ số giá trị thị trường với giá trị sổ sách tính giá mà thị trường quy cho mọt tổ chức
như là một phần chia của tài sản được đánh giá của nó. Chúng ta có thể dự kiến giá trị này
lớn hơn 1 vì một số lý do.
Thứ nhất, các tỏ chức có nhiều nguồn lực, như nhân công và danh tiếng của tổ chức
mà không thể hiện trên bảng cân đối kế toán như những tài sản. Thứ hai, các tài sản được ghi
sổ với giá trị sổ sách thuần (chi phí lịch sử trừ đi khấu hao tích luỹ) và không phải giá trị thực
hiện tại của tài sản.
Giá trị sổ sách được ghi là một giá trị xấp xỉ của tiền thu được của thanh toán có thể
quy cho các cổ đông thường. Vì vậy, tỷ số này phản ánh tiền trả thêm trên giá trị sổ sách mà
thị trường chia cho tổ chức. Khi hệ số này nhỏ hơn 1, nó báo hiệu rằng thị trường cho rằng
giá trị thanh toán của tổ chức cao hơn giá trị của nó như là một mối lo ngại đang hiển hiện.
Chúng ta có thể tính hệ số giá trị thị trường với giá trị sổ sách của Nortel trong năm 2001 như
sau:
Hệ số giá trị thị trường Giá Cổ phiếu 7,46
= ------------------------------------- = --------------- = 4,93
Với giá trị sổ sách (P/E) Tổng vốn bán cổ phiếu thường (tr. đô la) 4.824
------------------------------------ --------
Số cổ phiếu phổ thông lqu hành bq (tr. đôla) 3.189
Hệ số giá trị khuynh hướng và giá trị tương đối
Như đã được nghiên cứu, các giá trị của từng hệ số không có ý nghĩa trong sự tách
biệt. Các khuynh hướng của những giá trị này và sự so sánh của chúng với cá giá trị trung
bình của ngành công nghiệp đặt các hệ số trong bối cảnh và giúp cho việc giải thích. Bảng
12-19 cung cấp các khuynh hướng của các hệ số của Nortel và Lucent và các giá trị trung
bình của ngành công nghiệp đối với một số hệ số. Khuynh hướng của các hệ số của Nortel
trong giai đoạn 1999-2001 cho thấy một tình hình tài chính ngày càng tồi tệ do kết quả của
một sự suy sụp nghiêm trọng trong thị trường phần cứng viễn thông.
Mọi thước đo khả năng sinh lãi là nghèo nàn và ngày càng tồi tệ, phản ánh sự
thực hiện lợi nhuận ảm đạm của Nortel. Lãi lợi nhuận gộp đang suy giảm, phản ánh sự thật là
chi phí không giảm nhanh như doanh thu, và một bằng chứng đối với tình trạng khó khăn của
chi phí cố định là giảm để điều chỉnh do các mức hoạt động suy giảm. Các hệ số đòn bảy tài
chính tỏ ra tồi tệ và ngày càng xấu hơn, phản ánh tình trạng gay gắt của tài sản do Nortel xoá
sổ đầu tư tồi tệ. Các hệ số ngắn hạn và hệ số nhanh thấp hơn số trung bình của ngành công
nghiệp nhưng hợp lý. Dòng tiền tự do phản ánh một sự chảy máu tiền mặt mà Nortel cần phải
kiểm soát để tránh phá sản. Tất cả các hệ số sử dụng tài sản cao hơn tiêu chuẩn của ngành
công nghiệp, phản ánh sự thực hiện yếu kém là phù hợp với một ngành công nghiệp yếu kém.
Các kết quả của Lucent, trong khi không tồi tệ như Nortel nhưng cũng nghèo nàn. Nói chung,
các hệ số của cả hai tổ chức và ngành công nghiệp cho thấy một ngành công nghiệp đang
chịu cú sốc mạnh trong giai đoạn 1999-2001.
Các hệ số tài chính của Nortel và Lucent
Giai đoạn 1999-2001
Giá trị
trung
bình của
ngành
công
nghiệp
năm
2001
1999 2000 2001
Nortel Lucent Nortel Lucent Nortel Lucent
Các hệ
số khả
năng sinh
lãi
Lãi trên
Tài sản
-0,75% 12,29% -8,23% 2,50% -29,17% -48,20% -42,20%
EPS -1,43% 35,09% -11,92% 4,66% -65,96% -147,20%
Giá trị
kinh tế
gia tăng
Giá trị
thị
trường
gia tăng
Hệ số
P/E
-0,06$ 1,54$ -1,18$ 0,38$ -8,56$ -4,77$
Tỉ suất
cổ tức
0,07% 0,12% 0,23% 0,26% 0,50% 1,05%
Các hệ
số Hiệu
suất
Tỉ suất
Lợi
nhuận
Gộp
49,27% 53,31% 46,04% 49,07% 23,35% 21,57% 40,00%
Tỉ suât
Lợi
nhuận
Hoạt
động
5,78% 14,85% -4,88% 11,80% -61,99% -41,66 -48,50%
Tỉ suất
Lợi
nhuận
thuần
-0,77% 12,44% -11,46% 3,61% 155,91% -76,20% -72,70%
đòn bảy
Tài chính
VCSH 80,52% 185,45% 44,90% 86,43% 338,16% 205,40% 109,00%
Hệ số Nợ 44,60% 6
4,97%
30,99% 46,36% 77,18% 67,26% 52,15%
\Khả
năng
thanh
toán
Hệ số
ngắn hạn
1,68 1,98 1,82 1,98 1,24 1,58 1,7
Hệ số
Nhanh
1,30 1,45 1,35 1,45 1,08 1,22 1,3
Hệ số
lkhả
năng
thanh
toán lãi
vay
7,47 14,01 -8,74 11,47 -34,90 -17,13 -12,7
Dòng
tiền tự do
-778
triệu $
-5.251
triệu $
-.132triệu
$
-3.072
triệu $
-1.178
triệu $
-2.977
triệu $
Sử dụng
Tài sản
Doanh thu
Khoản nhận
được theo sổ
sách
3,27 3,32 3,69 2,96 5,99 2,79 3,7
Số vòng quay
Hàng tồn kho
3,81 3,54 3,77 3,03 8,50 4,58 3,9
Số vòng quay
tổng TS
0,98 0,99 0,72 0,69 0,83 0,63 0,5
Số vòng quay
Tài sản cố định
2,33 2,27 1,18 124 187 1,21
Giá trị Thị
trường
Hệ số
P/E
NA NA NA NA
Hệ số giá
trị thị
22,94 14,81 3,25 2,77 4,93 1,77 1,53
trường
với sổ
sách
Bảng 12-19
Những hạn chế của Phân tích Hệ số Tài chính
Phân tích hệ số tài chính cung cấp một bước quan tâm đầu tiên trong đánh giá sự thực
hiện của tổ chức. Tuy nhiên, phân tích hệ số tài chính có một số hạn chế.
1. Việc so sánh một tổ chức kinh doanh đơn ngành với một tổ chức kinh doanh đa
ngành hầu như là so sánh vô nghĩa của các tổ chức khác nhau
2. Thậm chí các tổ chức có thể so sánh do chúng tương tự nhau về ngành nghề, người ta
có thể sử dụng nguyên tắc kế toán khác nhau, làm cho sự so sánh hệ số giữa hai tổ
chức thành vô nghĩa
3. Việc giải thích khuynh hướng theo một hệ số của tổ chức có thể là khó khăn do ảnh
hưởng của các tác động cạnh tranh hoặc tác động kinh tế chưa biết đối với tổ chức.
4. Có thể là khó khăn để xác định giá trị thích hợp hoặc có thể chấp nhận đói với một
hệ số cá biệt, đặc biệt nếu ngành công nghiệp đang suy thoái.
5. Khi có ảnh hưởng mạnh mang tính mùa vụ, thực hiện những so sánh với các số liệu
tài chính là một ảnh chụp nhanh của các hoạt động tài chính vào cuối năm có thể là
vô nghĩa.
6. Khi các tổ chức thao túng hoặc trình bày sai lạc thông tin tài chính của họ, các hệ số
tài chính rút ra từ những số liệu này sẽ bịlạc hướng.
7. Giống như mọi số liệu dựa trên các kết quả có tính lịch sử, các hệ số tài chính tỏ ra
lạc hậu. Có thể là khó khăn hoặc thậm chí vô nghĩa để hướng vào các số liệu của quá
khứ để dự báo thực hiện trong tương lai.
8. Do các hệ số là lạc hậu, các hệ số tài chính bỏ qua các sáng kiến chiến lược của tổ
chức và có thể trình bày sai lạc các kết quả của các sáng kiến hiện tại trong tương lai.
Bất chấp những hạn chế này, các nhà phân tích tiếp tục sử dụng và diễn giải các hệ
số tài chính. Việc sử dụng rộng rãi này phản ánh sự tin tưởng rằng các hệ số này cho phép
cách hiểu sâu sắc, đặc biệt nếu kết hợp với nguồn thông tin khác, như là thông tin lượm lặt
các sáng kiến chiến lược của tổ chức và những thông tin có trong thẻ điểm cân bằng.
Phần kết với Nortel Networks:
Kiểm soát Tài chính trong thực tế
Trong năm 2002, Nortel làm mọi điều để hạ thấp cơ cấu chi phí của nó. Công ty
thông báo một mô hình hoà vốn hy vọng sẽ thành hiện thực vào quý 2 năm 2003. Mô hình
hoà vốn này phản ánh việc hạ thấp chi phí cố định (nói chung, trong sản xuất, bán hàng và
chi phí hành chính) có thể cho phép Công ty hoà vốn ở mức doanh thu 2,4 tỷ đô la/quý.
Trong ba quý đầu của năm 2002, Nortel chi tiêu tiền mặt ở mức 140 triệu đô la/tháng. Tuy
nhiên, Nortel dự báo rằng Công ty có thể có 3 tỷ đô la tiền mặt trong tay tay vào cuối năm
2002, cho phép Công ty đáp ứng mọi nghĩa vụ tiền mặt đáo hạn cho đến khi Công ty thực
hiện được mô hinhf hào vốn. Mô hình hào vốn này bao gồm việc loại bỏ các đầu tư thực
hiện kém và cắt giảm nhân lực (từ mức cao 96.000 nhân viên năm 2000 xuống mục tiêu
35.000 người năm 2003). Trong quý đầu năm 2003 và phản ánh bước ngoặt bất ngờ về
doanh thu, Nortel thông báo có lãi. Khi giá cổ phiếu của Nortel bắt đầu đi lên, thị trường tin
rằng Nortel đã tự xoay sở bằng cách phát huy chính các năng lực cốt lõi của Công ty trong
công nghệ truyền thông và đang kiểm soát các chi phí của mình một cách hiệu quả. Thông
qua kiểm soát chi phí và kỷ luật tài chính nghiêm khắc, ban giám đốc đã đảo ngược một
cách thành công sự suy giảm khác thường của Nortel và đưa công ty trở lại tiến trình có lãi.
Tóm tắt
Chương này khảo sát phạm vị và bản chất của kiểm soát tài chính, một cách tiếp cận
để đánh giá các hoạt động và sự quản lý dựa trên thông tin tài chính từ các viễn cảnh nội bộ
và bên ngoài. Các tổ chức sử dụng thông tin kiểm soát tài chính để đánh giá các quá trình và
các bộ phận của toỏ chức đang thực hiện các mục tiêu của mình tốt như thế nào. chương 10
trình bày các tổ chức sử dụng ngân sách và các biến thể để đánh giá đơn vị hoạt động và sự
thực hiện theo quá trình. Chương này xem xét các loại trung tâm trách nhiệm khác nhau và
cai trò của thông tin tài chính trong việcđánh giá sự thực hiện của tổ chức. Khi đánh giá
đóng góp lợi nhuận của một đơn vị của tổ chức, các tổ chức sử dụng giá chuyển giao để
phân bổ các doanh thu cùng nhận được đói với mỗi bộ phận đóng góp.
Chương này cũng xem xét phân tích hệ số tài chính, một hình thức của kiểm
soát tài chính mà các nhà phân tích cả trong và ngoài tổ chức có thể sử dụng để đánh giá sự
thực hiện của một tổ chức. Cá nhà phân tích có thể sử dụng một loạt các hệ số để đánh giá
các khía cạnh khác nhau của sự thực hiện lợi nhuận và sự lành mạnh kinh tế bên trong của tổ
chức