106
Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 1 Câu 1: Trong 320 hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa Đồng Nai, nhân dân Đồng Nai đã trải qua những cuộc kháng chiến nào? Hãy trình bày cảm nhận của anh chị về truyền thống đấu tranh của nhân dân Biên Hòa, Đồng Nai “Từ thưở mang gươm đi mở cõi” của vua tôi Chúa Nguyễn cho đến những khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt” hoành hành, có Những lúc vận mệnh của dân tộc treo đầu sợi tóc. Thế nhưng với ý chí sắt đá, với nghị lực phi thường, tinh thần quả cảm cộng với một truyền thống yêu nước nồng nàn. Nhân dân Biên Hòa nói riêng, tỉnh Đồng Nai nói chung đã góp một phần không nhỏ trong thắng lợi vang dội của dân tộc. “Việt Nam ta lại gọi tên mình Hạnh phúc nào hơn được tái sinh Mát dạ ông cha nghìn thưở trước Cho đời, hai tiếng mới quang vinh” (Tố Hữu, Theo chân Bác) Cột mốc đánh dấu lịch sử hành chính của Đồng Nai thường được nhắc đến là năm Mậu Dần (1698) khi Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý phương Nam, đưa vùng đất Đồng Nai vào lãnh thổ cai quản của Chúa Nguyễn. Nhưng trước đó, thần dân của Chúa Nguyễn đã là chủ nhân của xứ Đồng Nai. Sự xuất hiện của hai sở thuế ở Sài Gòn và Bến Nghé năm 1623 đã hé mở sự xuất hiện của người Việt sinh sống buôn bán tại đây từ thập niên 20 của thế kỷ XVII. Tài liệu của nhà truyền giáo Gouge và Labbé (đã dẫn) thừa nhận người Đàng Trong và cả người nước ngoài khai hoang, cày cấy ở vùng Đồng Nai trước năm 1701 đến vài chục năm. Năm 1658, Chúa Nguyễn sai Nguyễn Phước Yến đem 3.000 quân dẹp loạn đến Mô Xoài chứng tỏ người Việt đã làm chủ tình hình ở đây. Năm 1679, nhóm người Hoa gồm Dương Ngạn Địch, Huỳnh Tấn, Trần Thượng Xuyên đem 50 thuyền, 3.000 gia nhân đến xin trú ngụ, Chúa Nguyễn Phước Tần cho khai khẩn đất phương Nam: Nhóm Dương Ngạn Địch, Huỳnh Tấn đến Mỹ Tho (Tiền Giang); nhóm Trần Thượng Xuyên đến Bàng Lân (Biên Hòa), góp phần xây dựng Cù Lao Phố thành thương cảng sầm uất, giao dịch với thương nhân trong và ngoài nước.

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

  • Upload
    others

  • View
    7

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 1

Câu 1: Trong 320 hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, nhân dân Đồng Nai đã trải qua những cuộc kháng chiến nào? Hãy trình bày cảm nhận của anh chị về truyền thống đấu tranh của nhân dân Biên Hòa, Đồng Nai “Từ thưở mang gươm đi mở cõi” của vua tôi Chúa Nguyễn cho đến những khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt” hoành hành, có Những lúc vận mệnh của dân tộc treo đầu sợi tóc. Thế nhưng với ý chí sắt đá, với nghị lực phi thường, tinh thần quả cảm cộng với một truyền thống yêu nước nồng nàn. Nhân dân Biên Hòa nói riêng, tỉnh Đồng Nai nói chung đã góp một phần không nhỏ trong thắng lợi vang dội của dân tộc.

“Việt Nam ta lại gọi tên mình Hạnh phúc nào hơn được tái sinh Mát dạ ông cha nghìn thưở trước

Cho đời, hai tiếng mới quang vinh” (Tố Hữu, Theo chân Bác) Cột mốc đánh dấu lịch sử hành chính của Đồng Nai thường được nhắc đến

là năm Mậu Dần (1698) khi Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý phương Nam, đưa vùng đất Đồng Nai vào lãnh thổ cai quản của Chúa Nguyễn. Nhưng trước đó, thần dân của Chúa Nguyễn đã là chủ nhân của xứ Đồng Nai. Sự xuất hiện của hai sở thuế ở Sài Gòn và Bến Nghé năm 1623 đã hé mở sự xuất hiện của người Việt sinh sống buôn bán tại đây từ thập niên 20 của thế kỷ XVII. Tài liệu của nhà truyền giáo Gouge và Labbé (đã dẫn) thừa nhận người Đàng Trong và cả người nước ngoài khai hoang, cày cấy ở vùng Đồng Nai trước năm 1701 đến vài chục năm. Năm 1658, Chúa Nguyễn sai Nguyễn Phước Yến đem 3.000 quân dẹp loạn đến Mô Xoài chứng tỏ người Việt đã làm chủ tình hình ở đây. Năm 1679, nhóm người Hoa gồm Dương Ngạn Địch, Huỳnh Tấn, Trần Thượng Xuyên đem 50 thuyền, 3.000 gia nhân đến xin trú ngụ, Chúa Nguyễn Phước Tần cho khai khẩn đất phương Nam: Nhóm Dương Ngạn Địch, Huỳnh Tấn đến Mỹ Tho (Tiền Giang); nhóm Trần Thượng Xuyên đến Bàng Lân (Biên Hòa), góp phần xây dựng Cù Lao Phố thành thương cảng sầm uất, giao dịch với thương nhân trong và ngoài nước.

Page 2: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 2

Thương cảng Cù Lao Phố

19 năm sau Nguyễn Hữu Cảnh lập huyện Phước Long dựng dinh Trấn Biên; lập huyện Tân Bình dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh có các chức quan: Lưu thủ, cai bộ, ký lục; chiêu mộ thêm người, đặt thôn làng, lân, ấp; chuẩn định thuế đinh điền. Lúc ấy, dân số gồm cả Trấn Biên và Phiên trấn hơn 4 vạn hộ. Người Hoa ở Trấn Biên lập xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn lập xã Minh Hương.

Năm 1715, Chúa Nguyễn Phước Châu sai trấn thủ Nguyễn Phan Long và ký lục Nguyễn Khánh Đức lập văn miếu ở thôn Bình Thành - Tân Lại (nay thuộc phường Bửu Long - thành phố Biên Hòa) nhằm khuếch trương Nho học, báo hiệu Đồng Nai không chỉ giỏi làm ăn, buôn bán; còn là xứ sở của văn vật, trọng đạo lý thánh hiền.

Năm 1775, Tây Sơn khởi nghĩa, chiếm được Phú Xuân. Chúa Nguyễn Phước Thuần chạy vào Gia Định. Lý Tài phản bội Tây Sơn, theo Nguyễn Ánh, đóng quân ở núi Châu Thới, sau bị thua trận rồi bị quân Đông Sơn Đỗ Thành Nhơn giết năm 1777. Từ năm 1776 đến 1782, quân Tây Sơn 4 lần vào Nam giao tranh với Nguyễn Ánh; Nguyễn Ánh thua chạy, năm 1784 cầu viện vua Xiêm, vua Xiêm đưa binh thủy, bộ chiếm đóng Kiên Giang, Ba Thắc, Mân Thít, Sa Đéc... mưu đồ đánh chiếm Đồng Nai - Gia Định. Mùa Xuân năm 1785, dựa vào địa hình, thủy triều và lòng dân, Nguyễn Huệ chỉ huy quân Tây Sơn dụ giặc vào trận địa mai phục ở Rạch Gầm, Xoài Mút (Mỹ Tho, Tiền Giang) . Sau khi bí mật cho quân và tàu chiến ẩn náu ở các nơi hiểm yếu, Nguyễn Huệ lệnh cho quân đến

Page 3: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 3

khiêu khích. Lập tức, Chiêu Tăng giao Sạ Uyển ở lại giữ đại bản doanh, cử Lục Cổn dẫn bộ binh men theo tả ngạn sông Tiền để cùng phối hợp; còn ông cùng với tướng tiên phong là Chiêu Sương, dẫn hàng trăm thuyền chiến tiến xuống Mỹ Tho, nơi đặt đại bản doanh của Tây Sơn.

Đến khoảng đầu canh năm ngày 19 tháng 1 năm 1785, đoàn thuyền chiến của địch lọt vào trận địa mai phục của quân Tây Sơn ở Rạch Gầm-Xoài Mút, tức thì pháo lệnh tấn công của Tây Sơn nổ vang. Mở đầu trận đánh, hai đội thủy binh Tây Sơn từ Rạch Gầm, Xoài Mút bất ngờ lao ra, chặn đánh hai đầu, dồn quân địch vào vòng vây đã bố trí sẵn. Đồng thời, từ hai bờ sông Tiền (đoạn Rạch Gầm-Xoài Mút) và dọc bờ cù lao Thới Sơn, bãi Tôn, cồn Bà Kiểu, Rừng Dừa... các đại bác cùng pháo hỏa hổ của bộ binh Tây Sơn bắn ra dữ dội vào khúc giữa đoàn thuyền địch lúc bây giờ đang bị ùn lại.

Đồng loạt, đoàn thuyền Tây Sơn từ Rạch Gầm, Xồi Mút từ trong những nhánh rạch nhỏ chảy quanh các cồn bãi, nhanh chóng kéo ra chặn đánh đầu. Một đoàn thuyền Tây Sơn khác ẩn náu sau cù lao Thới Sơn, xông ra đánh mạnh v ào hông (nhằm chia cắt đội hình) và đánh chặn đường lui, dồn đoàn thuyền của đối phương vào thế tiến thoái lưỡng nan. Cùng lúc ấy, quân Tây Sơn, cho những thuyền nhẹ chở đầy những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào những chiến thuyền đang rối loạn làm cho số bị chìm, số bị cháy...

Diễn biến trận Rạch Gầm – Xoài Mút (1785)

Nhân lúc Tây Sơn bận đối phó với Chúa Trịnh ở phía Bắc; Nguyễn Ánh được sự giúp đỡ của ngoại bang, chiếm lại Trấn Biên năm 1788; khi Quang

Page 4: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 4

Trung Nguyễn Huệ lên ngôi, tập trung lực lượng đánh đuổi giặc Thanh xâm lược ở Thăng Long (1789), Nguyễn Ánh có cơ hội khôi phục lực lượng, xây thành Bát Quái ở Gia Định; củng cố hệ thống phòng thủ, tích trữ lương thực, lập đồn điền cày cấy ở Đồng Môn, Bà Rịa. Do đó trên địa bàn Đồng Nai, còn nhiều di tích gắn với thời kỳ này của Nguyễn Ánh.

Từ năm 1792, Nguyễn Ánh hoàn toàn làm chủ đất Trấn Biên, Gia Định. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định, Trấn Biên dinh thành Biên Hòa trấn.

Đến năm 1808, lại đổi trấn Gia Định ra Gia Định Thành thống quản trấn Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên; Nguyễn Văn Nhơn làm tổng trấn, Trịnh Hoài Đức làm hiệp tổng trấn. Đến năm 1812, Lê Văn Duyệt làm tổng trấn.

Năm 1832, Lê Văn Duyệt mất. Nguyễn Văn Quế và bố chánh Bạch Xuân Nguyên vốn có hiềm khích, dựng vụ án Lê Văn Duyệt. Vua Minh Mạng cho xiềng mộ Lê Văn Duyệt, bãi bỏ chức tổng trấn, chia các trấn thành lục tỉnh. Tỉnh Biên Hòa có từ đây.

Giận vì Lê Văn Duyệt bị ngược đãi, năm 1833 con nuôi Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khôi tạo phản, chiếm thành Phiên An; mãi đến năm 1835, Lê Văn Khôi bệnh mất, nhà Nguyễn mới dập tắt được cuộc binh biến, bắt giết cả thảy 1.831 người đem chôn chung gọi là mả Ngụy. Hai lần Lê Văn Khôi đánh chiếm Biên Hòa. Người Biên Hòa theo Lê Văn Khôi bị trừng trị khá đông liên lụy đến cả họ hàng. Bảy tướng lĩnh triều đình chết trận tại Biên Hòa: Lê Văn Nghĩa, Phan Văn Song, Trần Văn Du, Đặng Văn Quyến, Trần Văn Thiều, Nguyễn Văn Lý, Ngô Văn Hóa; vua Minh Mạng cho lập thờ ở thôn Bình Hòa, xã Bình Thành, ban sắc phong năm 1838, di tích còn lại có thể là miếu Bình Hòa (nay thuộc phường Quang Vinh, thành phố Biên Hòa).

A. Đồng Nai trong kháng chiến chống thực dân Pháp ( 1861 – 1954) I. Thực dân Pháp xâm lược và cai trị vùng đất Biên Hòa 1. Nguyên Nhân:

Tháng 8 – 1858, lấy cớ triều đình Nguyễn “cấm và sát đạo” (Vương triều Nguyễn đã ban hành hàng loạt các sắc dụ cấm đạo Thiên Chúa. Chính sách cấm đạo Thiên Chúa đã tạo cơ hội cho Pháp xâm lược nước ta), thực dân Pháp với sự hỗ trợ của Tây Ban Nha đã ngang nhiên kéo đến xâm lược nước ta, nơi chúng đánh chiếm đầu tiên là cửa biển Đà Nẵng

Page 5: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 5

Liên quân đầu tiên tiến công vào cửa biển Đà nẵng

Sau thất bại ở Đà Nẵng, tháng 2/1859 chúng đổi chiến lược , đưa quân vào đánh chiếm tỉnh Gia Định ( nay là Thành Phố Hồ Chí Minh). Chiếm được Gia Định, quân Pháp liền đánh ra các tỉnh xung quanh, đầu tiên là Định Tường, sau đó chuẩn bị chiếm tỉnh Biên Hòa.

Tháng 10- 1861, phó đô đốc Bonard gửi tối hậu thư cho Khâm sai Đại Thần Nguyễn Bá Nghi đòi quân triều đình triệt thoái các pháo đài và các vật cản trên sông Đồng Nai.

Chưa nhận được câu trả lời, sáng sớm ngày 14-12-1861 Bonard ra lệnh tiến quân vào Biên Hòa theo 4 đội, tiến quân Biên Hòa theo hai hướng thủy và bộ chỉ sau 4 ngày với khoảng 1000 quân, thực dân Pháp đã dễ dàng chiếm Biên Hòa. Năm 1862, nhà Nguyễn kí Hiệp ước công nhân quyền cai trị của thực dân Pháp tại ba tỉnh miền Đông Nam Kì ( Gia Định, Định Tường, Biên Hòa).

Page 6: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 6

Đoàn tàu chiến của Pháp tấn công thành Biên Hòa

2. Vùng đất Biên Hòa dưới sự cai trị của thực dân Pháp Về hành chính

Đối với vùng đất Biên Hòa sau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kì. Thực dân Pháp đã đặt ách cai trị đứng đầu là viên thống đốc do một sĩ quan cao cấp từ chuẩn đô đốc trở lên đảm nhiệm sứ Nam Kì. Tỉnh Biên Hòa do một viên quan tham biện chủ tỉnh là sĩ quan cai quản

Sau khi chiếm được vùng đất Biên Hòa để dễ bề cai trị , thực dân Pháp đã giải thể Biên Hòa và chia thành nhiều khu vực khác nhau, ban đầu gọi là tiểu khu sau, sau đổi thành sở tham biện hoặc địa hạt.

Từ năm 1871, tỉnh Biên Hòa gồm ba sở tham biện là Biên Hòa, Thủ Dầu một và Bà Rịa Vũng Tàu. Đến năm 1900, các sở tham biện được đổi thành tình. Dưới cấp tỉnh , Pháp vẫn giữ các đơn vị hành chính phủ huyện, tống, xã như cũ.

Về chính trị

Với chính sách ‘dùng người Việt trị người Việt” trong bộ máy cai trị của thực dân Pháp có sự tham gia của khá nhiều quan chức Việt. Nên cạnh đó Bonard thành lập một đội lính ngụy ở mỗi huyện.

Bên cạnh hệ thống chính quyền được thiết lập chặt chẽ , thực dân pháp còn tổ chức lực lượng vũ trang lớn mạnh, ngoài lính Âu-Phi còn có đội quân lính bản xứ dưới sự chỉ huy của sĩ quan Pháp.

Page 7: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 7

Như vậy với chính sách “chia để trị” kết hợp chính sách “ hợp tác” với giai cấp địa chủ phong kiến bản xứ, Pháp nhằm mục đích phá hoại khối đại đoàn kết giữa của dân tộc Việt Nam giữa Việt Nam- Lào- Campuchia.

Về kinh tế Trong chiến tranh xâm lược và cai trị của thực dân Pháp đã gây nhiều xáo

trộn, thay đổi trong đời sống kinh tế Biên Hòa. Thực dân Pháp cho xây dựng một số cơ sở giao thông, vận tải, nhà máy, xí nghiệp và đồn điền để phục vụ cho mưu đồ khai thác các nguồn lợi kinh tế và bóc lột nhân dân. Tầng lớp địa chủ có thế có thế lực và tầng lớp tư sản mại bản hợp sức với bộ máy cầm quyền thực dân chi phối mọi đời sống kinh tế xã hội, khiến đời sống nhân dân cực khổ.

Nhà máy cưa BIF- Cơ sở công nghiệp được xây Pháp xây dựng sớm nhất ở Biên Hòa ( 1907- 1912)

Ở Biên Hòa trước khi thực dân pháp đến thì phương tiện đi lại chủ yếu bằng đường thủy, đường bộ lúc bấy giờ kém phát triển. vào cuối thế kỉ XIX khi tình hình anh ninh đã ổn định thực dân Pháp cho mở đường sá. Cụ thể năm 1901, đường quốc lộ 1 và đường sắt Sài Gòn – Nha Trang bắt đầu được khởi công. Năm 1902, quốc lộ 15 mở rộng từ Biên Hòa – Vũng Tàu. Năm 1904 đoạn đường sắt Sài Gòn – Biên Hòa thông xe tàu chợ bắt đầu chạy hằng Ngày. Đặc biệt đầu năm 1920, Pháp cho xây dựng sân bay Biên Hòa – một trong những sân bay ở đầu tiên lúc bấy giờ

Tỉnh Biên Hòa đã góp một phần nông lâm sản xuất khẩu cho thực dân Pháp và mang về nguồn lợi nhuận không hề nhỏ cho bọn thực dân

Tất cả các tuyến đường đều được mở rộng nhằm khai thác tài nguyên và đàn áp phong trào kháng chiến của nhân dân các dân tộc tỉnh Biên Hòa.

Về giáo dục, văn hóa Ngay sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kì , người Pháp lập tực loại

bỏ nền giáo dục nho học. Đồng thời nghị định 6/4/1878 đề ra những quy định bắt buộc người bản xứ đến năm 1882 phải dùng chữ quốc ngữ trong mọi công văn

Page 8: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 8

giấy tờ.Sử dung giáo dục, truyền bá tư tưởng văn hóa của chính quốc làm công cụ quan trọng phục vụ cho sự thống trị của các nước thực dân.

Cùng với việc đàn áp các phong trào chống Pháp, thực dân Pháp ra sức biến đổi văn hóa bản địa theo kiểu văn hóa Pháp: Đốt phá Văn Miếu, hạn chế sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng truyền thống. khuyến khích việc truyền đạo Thiến Chúa, dần đưa chữ Pháp và chữ Quốc Ngữ thay thế cho chữ Hán trong hành chính và giáo dục. Tổ chức giáo dục đạo tạo từ tiểu học đều theo kiểu Pháp nhằm phục vụ cho bộ máy cai trị.

Chính những điều đó làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân Biên Hòa – Đồng Nai với chính quyền cai trị thực dân Pháp ngày càng gay gắt. Đó là nguyên nhân làm bùng nổ hàng loạt các phong trào chống Pháp mạnh mẽ và liên tục trong suốt thời kì này.

II. Nhân dân Đồng Nai không ngừng nổi dậy đấu tranh. 1. Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp trước khi thành lập

Đảng cộng sản Việt Nam 1.1. Khởi nghĩa của Nguyễn Tri Phương ở Đại đồn Chí Hòa ( 1858 – 1860) Kể từ khi quân xâm lược Pháp tiến bức thành Gia Định ngày 17 tháng 2

năm 1859, triều đình nhà Nguyễn đã phái những tướng lĩnh (Cáp - Tịnh - Duy) lo việc chống đỡ. Những cánh quân của triều đình đã đóng quân ở Biên Hòa, Phú Thọ (Gia Định), Tân An để dễ dàng ứng cứu lẫn nhau lúc cần thiết. Lực lượng quân trù bị (lính dinh điền) và số tình nguyện sau đó của Biên Hòa rất đông đảo. Họ tham gia hầu hết các trận đánh Pháp cả hai mặt trận Biên Hòa (Đồng Nai) và Gia Định (Sài Gòn). Từ căn cứ Biên Hòa, quân của ta tập kích đánh lẻ đồn giặc ở chợ Lò, Bình Long, Bình An, xuống Gia Định.

Quân Pháp tấn công thành Gia Định

Page 9: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 9

Ngày 12 tháng 2 năm 1859, thực dân Pháp chiếm thành Gia Định. Năm 1860, vua Tự Đức sung chức Gia Định Quân thứ cho tướng Nguyễn Tri Phương, để cùng Tham tán đại thần Phạm Thế Hiển trông coi việc quân sự ở miền Nam. Để đương đầu với thực dân Pháp ở Gia Định, ngay khi mới vào thay tướng Tôn Thất

Hiệp, Nguyễn Tri Phương đã cho tập trung sức quân, sức dân vào việc biến đồn Chí Hòa do tướng Hiệp xây từ trước, thành một đại đồn rộng lớn, để ngăn chặn và đánh bại các cuộc tấn công của liên quân.

Nguyễn Tri Phương ( 1800-1873)

Nguyễn Tri Phương (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà

Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp

xâm lược lần lượt ở các mặt trận Đà Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà

Nội (1873). Đại đồn Chí Hòa (gọi tắt là Đại đồn) nằm ở làng Chí Hòa thuộc Gia

Định xưa. Vào thời kỳ đó, đây là một hệ thống đồn lớn nhất Việt Nam, do tướng Nguyễn Tri Phương chủ trương xây dựng nhằm phòng thủ phía Tây Bắc thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn trước các cuộc tấn công của liên quân Pháp - Tây Ban

Nha trên đất Việt vào năm 1860-1861.

Page 10: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 10

Sơ đồ đại đồn Chí Hòa ở Gia Định

Nguyễn Tri Phương chủ trương huy động từ 15.000 đến 20.000 quân; nhưng không tập trung quân ở một nơi, mà chia thành ba đạo: một đạo chính đóng tại đồn Phú Thọ, chỗ quân thứ Gia Định hiện đóng; một đạo đóng ở phủ hạt Tân An; một đạo đóng ở tỉnh hạt Biên Hòa. Ông hạ lệnh phòng thủ các đường sông, ngòi lớn nhỏ, vừa đánh và giữ, dần dần đắp thêm đồn lũy tiến sát đến chỗ địch đóng quân. Trang bị cho quân đội cần từ 20 đến 30 cổ súng loại lớn, đường kính nòng từ 2 tấc 9 phân trở lên. Do không nắm vững tình hình quân sự và chính trị của Pháp, Nguyễn Tri Phương đã chủ trương xây dựng đại đồn Chí Hòa (về sau người Pháp gọi là Kỳ Hòa) để bao vây, bức rút quân Pháp. Tuy nhiên, sau vào ngày 25 tháng 10 năm 1861, quân Pháp đã tiến hành công phá đại đồn. Ông chỉ huy quân lính chống cự quyết liệt nhưng rồi bị thương, đại đồn thất thủ, Gia Định lại bị chiếm. Em ruột ông là Nguyễn Duy tử trận, ông bị cách chức xuống làm Tham tri, mãi đến năm sau lại được hàm Binh bộ Thượng thư, sung Đổng nhung quân vụ Biên Hòa, tập hợp lực lượng để chống sự bành trướng của quân đội Pháp.

Page 11: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 11

Trận đại đồn Chí Hòa 2/1861

Sau trận đại chiến với quân Pháp tại Chí Hòa, lực lượng quân ta tổn thất nặng nề. Đồn Chí Hòa rơi vào tay quân Pháp. Các tướng lĩnh Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển cùng quân sĩ rút về Biên Hòa. Các thứ thần ở Gia Định: Tuần phủ Đỗ Quang, Bố chánh Đặng Công Nhượng, Án sát Phạm Ý bị Pháp truy đuổi đã vòng qua Tây Ninh rồi đến Biên Hòa hiệp với số quân còn lại tiếp tục chiến đấu.

Trước việc mất Chí Hòa, triều đình Nguyễn tức tốc phái Nguyễn Bá Nghi giữ chức Khâm sai đại thần cùng Tôn Thất Đính làm Đề đốc mang 4.000 quân vào Biên Hòa tiếp viện, củng cố quân luật, mộ thêm binh lính để giữ các tỉnh còn lại: Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.

Chiếm xong Chí Hòa, quân Pháp thấy cần phải đánh lấy Biên Hòa và Định Tường, hai tỉnh giáp ranh với Gia Định - Sài Gòn để mở rộng địa bàn hoạt động quân sự. Quân ta từ các căn cứ hai tỉnh Biên Hòa, Định Tường thường xuyên tấn công quân xâm lược. Đề đốc Charner nhận thấy Biên Hòa phòng thủ chặt chẽ hơn Định Tường nên quyết định đưa quân đánh Định Tường trước. Trong khi đó, Charner cử Đồ đốc Thủy sư Page chỉ huy đoàn tàu từ sông Sài Gòn ra Nhà Bè, ngược sông Đồng Nai do thám tình hình lên phía Đồng Váng thuộc tỉnh Biên Hòa.

Trên đất Đồng Nai, quân Pháp chiếm đóng tỉnh lỵ Biên Hòa, huyện lỵ Nghĩa An, huyện lỵ Bình An (Thủ Dầu Một), huyện lỵ Long Thành, phủ lỵ Phước Tuy (Bà Rịa), Vũng Tàu. Với mục đích ngăn chặn các cuộc nổi dậy của phong trào kháng chiến địa phương và đề phòng những cuộc tiến công của quân triều đình Huế từ hướng Bình Thuận, quân Pháp xây dựng các hệ thống đồn lũy kiên

Page 12: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 12

cố, cùng các tiền đồn trọng yếu trên địa phận Biên Hòa. Đồng thời chúng tàn phá nhiều làng mạc dân cư, hủy nhiều công trình văn hóa, tín ngưỡng ở Biên Hòa như Văn miếu Trấn Biên, Miếu Hội đồng, các di tích đình, chùa. Biên Hòa dưới bàn tay xâm lược tàn bạo của quân Pháp trở nên tiêu điều.

1.2. Khởi nghĩa Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng ( năm 1861) Ngày 24 tháng 2 năm 1861, đại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Duy tử trận,

Nguyễn Tri Phương bị trọng thương phải rút về Biên Hòa dựng đồn lũy chống giặc.

Để ngăn chặn quân Pháp đánh chiếm toàn tỉnh Biên Hòa, Triều đình Huế cử Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng vào Biên Hòa chỉ huy, xây dựng tuyến phòng ngự Bá Ký, sông Kỳ Giang, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng đã thu nạp tàn quân sau trận đại đồn Chí Hòa, chiêu mộ nghĩa quân người địa phương, ngăn chặn bước tiến của quân Pháp từ Biên Hòa xuống.

Ngày 13 tháng 12 năm 1861, tướng Bonard ký huấn lệnh đánh chiếm Biên Hòa do đích thân tướng Bonard cùng các đại tá Foucault, đại tá Domenech Diego, thiếu tá Lecbris chỉ huy với 1000 quân Pháp, Tây Ban Nha và 2 chiến hạm. Ngày 15 tháng 12 năm 1861, quân Pháp tấn công tỉnh Biên Hòa. Quân triều đình ở đồn Mỹ Hòa rút chạy. Khi chúng tới phá cản đá ở sông Đồng Nai, quân triều đình và nghĩa quân chống trả quyết liệt, bắn trúng 54 phát thần công vào tàu Alarne, nhưng đạn công phá kém, chỉ làm gẫy cột buồm. Quân Pháp phá được cản. Ngày 18 tháng 12 năm 1861, quân Pháp chiếm được tỉnh thành Biên Hòa. Quân Pháp đánh chiếm các pháo đài ven sông một cách dễ dàng.

Khoảng 9 giờ sáng ngày 26 tháng 12 năm 1861, đại tá Domenech Diego chỉ huy một cánh quân đánh chiếm huyện lỵ Long Thành. Khi chúng tới gần ngã ba Nha Mát, ấp Bà Ký thì bị Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng chỉ huy quân triều đình và nghĩa quân đánh trả quyết liệt, quân ta chỉ có súng trường khai hậu, bắn phát một và giáo mác, song đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm, đánh bật nhiều đợt xung phong của giặc Pháp, giết và làm bị thương nhiều tên. Cuộc chiến đấu kéo dài đến tận 14 giờ, quân ta bị tổn thất nhưng vẫn giữ vững trận địa. Quân Pháp đã phải rút về phía sau củng cố đội hình. Đúng lúc đó thì đại tá Lepperut đã vượt sông Đồng Nai đến tiếp viện cho đại tá Diégo. Cuộc chiến đấu giữa quân ta và quân Pháp trở nên gay go quyết liệt. Nguyễn Đức Ứng bị trọng thương và hy sinh vào ngày 26 tháng 12 năm 1861.

Quân sĩ và nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu, cho tới khi quân Pháp hoàn toàn chiếm được Long Thành. Mặc dù bị giặc Pháp ngăn cấm, nhân dân vẫn đấu

Page 13: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 13

tranh, an táng lãnh binh Nguyễn Đức Ứng cùng 27 quân triều đình và nghĩa quân trong một ngôi mộ chung.

Nhớ ơn những người đã dũng cảm hy sinh vì nước, nhân dân từ đời nọ đến đời kia vẫn chăm sóc, hương khói của ngôi mộ chung của 28 liệt sĩ. Ngày 15 tháng 10 năm 1994, Nhà nước đã xếp hạng Di tích lịch sử ngôi mộ Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh huyện Long Thành.

Mộ lãnh binh Nguyễn Đức Ứng

Bia tưởng niệm lãnh binh Nguyễn Đức Ứng và 17 nghĩa binh chống Pháp

Page 14: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 14

1.3. Khởi nghĩa Trương Định ( 1861 – 1864) Giữa lúc cao trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân miền Đông

Nam kỳ làm cho giặc Pháp khốn đốn thì triều đình Huế ký Hòa ước Nhâm Tuất (05 - 06 - 1862) với Pháp. Trong 12 khoản của điều ước, khoản 3 quy định về việc triều đình nhượng ba tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp là: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường. Việc triều đình nhà Nguyễn ký Hòa ước Nhâm Tuất càng làm cho nhân dân ở miền Đông Nam kỳ thêm căm giận. Quân Pháp ra sức bình định, chiếm đóng nhưng vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ. Nghĩa quân do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo nổi lên tấn công mạnh vào các đồn lũy, tàu bè, các toán tuần tiễu của kẻ thù.

Trương Định ( 1820-1864)

Trương Định sinh tại làng Tư Cung, phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi (nay là xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi). Cha ông là Lãnh binh Trương Cầm, từng là Hữu thủy Vệ úy Vệ uý ở Gia Định dưới thời vua Thiệu Trị. Năm 1844, Trương Định theo cha vào Nam. Sau khi cha mất, ông ngụ ngay nơi cha đóng quân. Sau đó, ông kết hôn với bà Lê Thị Thưởng, vốn là con gái của một hào phú ở huyện Tân Hòa (Gò Công Đông ngày nay).

Năm 1850, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của tướng Nguyễn Tri Phương, Trương Định xuất tiền ra chiêu mộ dân nghèo lập đồn điền ở Gia Thuận (Gò

Công), vì thế, ông được nhà Nguyễn bổ làm Quản cơ, hàm chánh lục phẩm.

Page 15: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 15

Quang cảnh Trương Định được nhân dân tôn làm Bình Tây Đại Nguyên Soái

Đêm 17 rạng ngày 18 - 12 - 1862, khoảng 1.200 nghĩa quân Trương Định mở hai mũi tiến công diệt đồn Long Thành. Bonard vội phái bộ binh, kỵ binh và hai khẩu sơn pháo chiếm lại đồn này.

Trưa ngày 18 - 12 nghĩa quân đốt cháy chiến thuyền Lorcha số 10 đang do thám gần phủ Phước Tuy. Khoảng 100 nghĩa quân trang bị đầy đủ vũ khí tập kích diệt gọn một toán tuần tra địch, chỉ có 1 tên chạy thoát.

Nhiều đồn lũy của Pháp ở Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh bị tấn công, nhiều nơi quân Pháp phải bỏ đồn rút về Sài Gòn. Tình hình này khiến Đô đốc Bonard phải lấy thêm viện binh từ Tuy Hòa để giải vây tình thế cho thành Biên Hòa, tái lập các đồn lũy và nhất là tấn công vào trung tâm hoạt động của nghĩa quân Trương Định ở Gò Công. Biên Hòa được xem như một trung tâm xuất phát của phong trào nổi dậy đánh vào quân Pháp xâm lược và lan tỏa về các tỉnh khác ở Nam kỳ.

Ngày 19 tháng 8 năm 1864, Huỳnh Công Tấn phản bội dẫn đường cho quân Pháp bất ngờ bao vây đánh úp. Bản doanh Đám lá tối trời thất thủ, Trương Định bị trọng thương (gãy xương sống). Để bảo toàn khí tiết, ông đã rút gươm tự sát tại Ao Dinh (Gò Công) vào rạng sáng ngày 20 tháng 8 năm 1864. Khi ấy, ông 44 tuổi.

Page 16: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 16

Căn cứ của nghĩa quân Trương Định bị Pháp đánh chiếm

Hay tin Trương Định tuẫn tiết, vua Tự Đức sai truy tặng ông phẩm hàm, và năm 1871 lại cho lập đền thờ ông tại Tư Cung (Quảng Ngãi). Con ông là Trương

Quyền đã rút lên vùng Châu Đốc tiếp tục chống Pháp thêm 6 năm nữa. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã làm 12 bài thơ và một bài văn tế điếu ông.

Trích giới thiệu một bài: “Trong Nam, tên họ nổi như cồn Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn

Đấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỷ Hơi gươm thêm rạng vẻ huỳnh môn

Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ Quả ấn Bình Tây đất vội chôn Nỡ khiến anh hùng rơi giọt luỵ

Lâm dâm ba chữ điếu linh hồn.”

Lăng mộ và đền thờ Trương Định ở Quãng Ngãi

Page 17: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 17

Hiện tại, nhà thờ (tức đền) xây dựng năm 1889 không còn nữa. Từ năm 1975, con cháu họ Trương đã cho xây dựng lại thành một nhà thờ trên nền đất cũ. Ngành Văn hóa địa phương đang có đề án quy hoạch bảo vệ và tôn tạo.

1.4. Lãnh đạo hội kín chống Pháp Đoàn Văn Cự ( 1881 – 1916) Có thể nói, tổ chức các hội kín ở Nam Kỳ là những tổ chức yêu nước của

quần chúng nhân dân. Động cơ tham gia hội của quần chúng xuất phát từ tình cảm yêu nước, căm thù kẻ thù xâm lược thống trị đất nước và bọn phong kiến tay sai. Đây là ý thức tự vệ chính đáng của nhân dân Nam kỳ đối với các thế lực áp chế của một xã hội thuộc địa. Vì vậy, các tổ chức hội kín thu hút nhiều thành phần tham gia và số hội viên lên đến hàng ngàn, tùy theo từng nơi mà có người khởi xướng, lãnh đạo.

Tổ chức của các hội kín rất chặt chẽ, liên hệ và nhận nhau bằng dấu hiệu, hay nói tiếng lóng. Chẳng hạn như khi đi hội viên mang theo cây dù, các hội viên nhận nhau qua việc cách để dù ở đâu mà biết công việc: “Dù mang bên tả, đảng viên. Đi việc cơ mật, nói riêng chủ nhà”; “Quần xăn ống thấp ống cao. Bộ đi vội vã có tàu của Tây”.

Phong trào gia nhập các hội kín ngày càng đông, đặc biệt ở các vùng Biên Hòa, Gia Định, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Bến Tre... làm cho thực dân Pháp hết sức lo lắng và tổ chức các cuộc truy quét.

Đầu năm 1881, Pháp đưa Trần Bá Hựu về làm tri phủ Long Thành. Y khét tiếng gian ác như hai anh ruột Trần Bá Lộc, Trần Bá Tường - các tay sai đắc lực của Pháp.

Đoàn Văn Cự sinh năm 1835 tại làng Bình An, huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc huyện Thủ Đức, Tp. Hồ Chí Minh) trong một gia đình nhà Nho yêu nước. Khi quân Pháp chiếm đóng, gia đình ông luôn bị theo dõi nên đã lánh về Bưng Kiệu, thôn Vĩnh Cửu (nay thuộc phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa).

Ông đã khéo léo dùng hình thức hoạt động tôn giáo để thu phục nhân tâm, qua đó tuyên truyền thức tỉnh lòng yêu nước, tinh thần xả thân vì đại nghĩa của dân tộc. Các tín đồ và đồng chí của ông có mặt khắp miền Đông, nhưng đông nhất là vùng Bình An, chợ Chiếu (Cù Lao Phố), Vĩnh Cửu, Bình Đa, An Hảo cho tới khu vực núi Nứa (Long Thành). Tổ chức hội kín do ông thành lập quy tụ nhiều danh tài hảo hán, tinh thông võ nghệ, coi việc nghĩa là việc đại sự, một lòng vì nước, vì dân. Lực lượng nghĩa quân phát triển ngày một lớn mạnh; lương thực, khí giới được tích trữ chuẩn bị cho việc dấy binh.

Page 18: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 18

Tháng 5 năm 1905, Hội kín tổ chức lễ tế cờ, luyện quân ở suối Linh. Hoạt động của hội không giữ được bí mật, giặc Pháp nắm được tin tức. Ngày 8 tháng 4 âm lịch (tức ngày 11 - 5 - 1905), chính quyền thực dân cho một tiểu đội lính bí mật đến bao vây thôn Vĩnh Cửu.

Được tin, Đoàn Văn Cự đã triệu tập hàng trăm nghĩa quân tổ chức mai phục sẵn sàng đánh địch. Phục kích cả ngày không thấy địch đến, tưởng địch đã rút lui, đến tối, ông cho nghĩa quân rút về căn cứ. Lúc này giặc mới ập đến, vây chặt căn cứ Bưng Kiệu. Tên đại úy chỉ huy quân Pháp dẫn một tốp lính xông thẳng vào nhà ông. Biết khó lòng thoát hiểm, ông điềm tĩnh vận bộ trang phục uy nghi, đầu chít khăn lụa điều, mình buộc thắt lưng màu hồng, giắt đoản dao đầu hổ, làm lễ trước bàn thờ tổ chờ địch đến. Khi toán lính bước vào nhà, ông vung thanh đoản đao sáng loáng chém bị thương tên chỉ huy. Địch bắn trả, ông Đoàn Văn Cự trúng đạn, ngã xuống trước bàn thờ tổ.

Quân Pháp tấn công vào doanh trại của nghĩa quân và đốt phá kho lương thực. Rừng Bưng Kiệu ngập khói lửa kín cả một góc trời. Mười sáu nghĩa quân anh dũng hy sinh. Số còn lại đều chạy thoát vào rừng. Hôm sau, giặc Pháp bắt nhân dân khiêng xác tử sĩ và chôn chung vào một hầm lớn. Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa quân hy sinh anh dũng. Hội kín Đoàn Văn Cự tan rã.

Hội kín Đoàn Văn Cự tan rã nhưng tinh thần yêu nước, vì đại nghĩa của tổ chức này đã tô thắm trang sử chống giặc ngoại xâm hào hùng của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai.

Đoàn Văn Cự hy sinh, để lại trong lòng nhân dân Đồng Nai một niềm thương tiếc và ngưỡng mộ vô cùng. Cảm phục trước tấm gương trung nghĩa hy sinh vì nước của Đoàn Văn Cự và những nghĩa binh của Thiên Địa Hội, người dân Biên Hòa đã góp công, góp của xây dựng ngôi mộ, miếu thờ hàng năm tổ chức lễ giỗ với sự tham gia của chính quyền và nhân dân địa phương. Hiện nay, ngôi mộ của Thủ lĩnh Đoàn Văn Cự cùng 16 nghĩa quân, tọa lạc trên khu đất cạnh dòng suối Linh Tuyền (gọi tắt là suối Linh), thuộc phường Long Bình, thành phố Biên Hòa do nhân dân xây dựng để tưởng nhớ, ghi nhận, công lao của thủ lĩnh Đoàn Văn Cự và nghĩa binh đối với vùng đất này. Cùng đó, ngôi đình Đền thờ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa binh cũng được xây dựng từ năm 1956, cách phần mộ khoảng 1km về hướng Đông Bắc. Đền thờ tọa lạc trên khu đất bằng phẳng, thuộc phường Tam Hiệp (thành phố Biên Hòa) trên Quốc lộ 15 gần đường Đoàn Văn Cự.

Page 19: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 19

Đền thờ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa binh

Trại Lâm Trung là một hình thức tổ chức Hội kín yêu nước hoạt động ở Biên Hoà - Đồng Nai vào thập niên thứ nhất, thế kỷ 20. Những trại viên chủ chốt như Ba Hầu, Năm Hy, Hai Lựu, Lào Lọt, Hai Sở, Ba Vạn, Bảy Phát, Hai Danh, Hai Hổ, Mười Sóc, Mười Tiết…cùng nhiều trại viên khác thành lập hội, căn cứ đóng tại núi Gò Mọi, vùng Thiện Tân, Vĩnh Cửu. Nghĩa quân tham gia trại phần lớn là thanh niên các tổng Phước Vĩnh Trung, Phước Vĩnh Hạ, Chánh Mỹ Trung…(tương đương địa bàn thành phố Biên Hoà và huyện Vĩnh Cửu ngày nay) và một số hương chức, hội tề. Trại chiêu tập người, tổ chức luyện tập võ nghệ, trang bị vũ khí, tích trữ lương thực…chờ thời cơ đánh Pháp.

Những ngày cuối tháng 1 năm 1916, nghĩa quân trại Lâm Trung chia làm nhiều toán tấn công vào các nhà hội (trụ sở hội tề) ở Tân Trạch, Tân Khánh, Tân Lương… và Khám đường Biên Hoà, chợ Tân Uyên (lúc bấy giờ thuộc tỉnh Biên Hoà). Cuộc tấn công làm cho quân Pháp và chính quyền tay sai ở Biên Hoà bất ngờ. Thế nhưng, sau đó, quân Pháp tập trung lực lượng đàn áp, lùng bắt các trại viên. Nhờ có tay sai chỉ điểm, vào tháng 3 năm 1916, giặc Pháp bắt được các trại viên chủ chốt trại Lâm Trung.

Page 20: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 20

Trại Lâm Trung tan rã nhưng tinh thần đại nghĩa, gương bất khuất của các trại viên được người dân ghi nhớ. Năm 1918, nhân dân địa phương lập miếu thờ các trại viên nghĩa liệt tại Dốc Sỏi (gọi là miếu Cô Hồn/ nay là chùa Cô Hồn – tên chữ Bửu Hưng tự)

Chùa Bửu Hưng và Miếu cô hốn nơi thờ 9 vị anh hùng chống Pháp

Như vậy Kể từ khi đặt chân đến xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của nhân dân ta. Triều đình Huế lúc bấy giờ nhu nhược đã đầu hàng, song ngọn cờ kháng chiến của nhân dân ta đã nổ ra khắp nơi với tinh thần quật khởi bằng nhiều hình thức khác nhau. Từ khởi nghĩa vũ trang cho đến hoạt động tổ chức các Hội kín, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Biên Hòa đã liên tục tiến hành cuộc kháng chiến cứu nước, cứu nhà. Dù “ngoài cật có một manh áo vải, trong tay cầm một ngọn tầm vông” song người dân Biên Hòa không hề nao núng trước quân thù có ưu thế về quân sự “tàu đồng ống khói”, “súng thép đạn chì”, với truyền thống bất khuất, không ngại hy sinh, đứng lên đánh giặc gây cho chúng bao tổn thất, làm thất bại ý đồ bình định cấp tốc của quân Pháp.

2. Phong trào đấu tranh chống Pháp sau khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.

Ý chí bất khuất chống Pháp cứu nước của người Đồng Nai như lửa lòng ủ trấu, đến khi Đảng cộng sản ra đời, khơi dậy truyền thống yêu nước, tập hợp lực lượng, phát huy được sức mạnh tổng hợp toàn dân. Sau Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Phú Riềng ra đời vào năm 1929; sáu năm sau (năm 1935), Chi bộ Đảng Bình

Page 21: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 21

Phước - Tân Triều được thành lập gồm 5 đồng chí do đồng chí Hoàng Minh Châu làm bí thư, khởi đầu giai đoạn yêu nước chống Pháp ở Đồng Nai đi theo Chủ nghĩa Cộng sản dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.. Khi có Đảng lãnh đạo, phong trào cách mạng ở Đồng Nai đi vào hoạt động tự giác, có tổ chức, hướng đến mục tiêu trước mắt và lâu dài, xác định từng bước đi thích hợp. Giai đoạn 1935 đến trước tháng 8 năm 1945, chủ yếu là dân sinh dân chủ kết hợp đấu tranh chính trị, kết hợp nuôi dưỡng lực lượng vũ trang để chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Nhiều cuộc đấu tranh chính trị liên tục của các tầng lớp nhân dân chứng tỏ sự trưởng thành của các lực lượng cách mạng:

2.1. Phong trào công nhân Biên Hòa dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin:

Từ những năm 1925, 1926 trở đi, tỉnh Biên Hòa cũng như nhiều địa phương khác ở Nam bộ bắt đầu xuất hiện một phong trào yêu nước được soi sáng bởi đường lối cách mạng vô sản do Nguyễn Ái Quốc tiếp thu và truyền bá vào Việt Nam.

Tại Biên Hòa, một số đồng chí đã về hoạt động và xây dựng cơ sở ở đồn điền cao su Phú Riềng, Cam Tiêm, Cuộc tơ na, đề pô xe lửa Dĩ An, Nhà máy cưa BIF... . Đồng chí Nguyễn Văn Vĩnh (tức Nguyễn Xuân Cừ) là lớp hội viên đầu tiên của Hội Thanh niên Cách mạng Việt Nam. Khoảng đầu năm 1928, Nguyễn văn Cừ đi "vô sản hóa" ở đồn điền cao su Phú Riềng là một công nhân tự do, được quyền đi lại trong đồn điền và nhiều nơi khác, đồng chí tìm cách tuyên truyền giáo dục giác ngộ cách mạng công nhân. Tháng 4 năm 1928, Chi bộ Hội Thanh niên Cách mạng Việt Nam đồn điền Phú Riềng được thành lập có các hội viên gồm Trần Tử Bình, Tạ, Hồng, Hà do đồng chí Nguyễn Xuân Cừ làm bí thư.

Từ những hạt giống đỏ này, đội ngũ cán bộ cơ sở cách mạng ngày càng tăng thêm, đông đảo quần chúng lao động bước vào một thời kỳ đấu tranh mới có sự lãnh đạo của tổ chức cách mạng. Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh dấy lên ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào đấu tranh của công nhân ở các đồn điền cao su.

Ngày 25 tháng 9 năm 1928, dưới sự lãnh đạo của tiểu tổ Hội Thanh niên Cách mạng Việt Nam, hơn 400 công nhân cao su ở Cam Tiêm đồng loạt bãi công. Từ sáng sớm công nhân kéo nhau ra sân điểm, đưa yêu sách đòi chủ sở phải thực hiện đòi tăng lương và cải thiện đời sống. Công nhân dùng gậy gộc bao vây văn phòng sở. Bọn chủ, sếp hoảng sợ bỏ trốn sang đồn điền Dầu Giây, cho tay chân đến bót hiến binh Xuân Lộc cấp báo đồng thời điện về Tòa bố Biên Hòa yêu cầu tăng viện. Tỉnh trưởng Biên Hòa cấp tốc cử 20 lính và hiến binh lên Xuân Lộc

Page 22: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 22

phối hợp với binh lính ở đây kéo vào đồn điền Cam Tiêm đàn áp cuộc đấu tranh. Cuộc xô xát đẫm máu giữa công nhân cao su với binh lính và hiến binh Pháp diễn ra làm hàng chục người chết và bị thương. Nhiều gia đình công nhân bỏ trốn, tản mác ra rừng. Hơn một tháng sau, công việc sản xuất của đồn điền mới dần dần ổn định.

Phong trào đấu tranh của Công nhân cao su Cam Tiêm thời Pháp thuộc

Tiếp đến là phong trào đấu tranh của công nhân cao su Phú Riềng. Thời bấy giờ người ta thường ví đồn điều cao su Phú Riềng như "Địa ngục trần gian", nơi mà "Mỗi cây cao su mọc lên là có một người công nhân Việt Nam ngã xuống". Công nhân cao su Phú Riềng hối đó có câu vè:

Lỡ lầm vào đất cao su Chẳng tù thì cũng như tù chung thân

Cuộc đấu tranh của những người công nhân cao su tại Phú Riềng đã gây một tiếng vang trong dư luận lúc bấy giờ. Những người Cộng sản đầu tiên bắt đầu chú ý đến phong trào công nhân cao su Phú Riềng. Ông Ngô Gia Tự vào Nam từ năm 1927 để gây cơ sở đầu tiên của cách mạng, đã cử Nguyễn Xuân Cừ (tức Vĩnh) lên đồn điền cao su để tuyên truyền tư tưởng cách mạng vô sản. Một trong những người công nhân cao su được đảng Cộng sản Việt Nam bắt rễ là Trần Tử Bình.

Giai cấp công nhân Biên Hòa đứng lên đấu tranh bằng nhiều hình thức, từ hình thức bỏ trốn cá nhân, tập thể, công khai bỏ việc, phối hợp với các phong trào yêu nước, đốt phá cơ sở làm việc, mít - tinh, đình công, bãi công... đã làm sôi nổi phong trào trong một giai đoạn lịch sử. Từ tự phát lẻ tẻ, giai cấp công nhân đã biết đoàn kết lại, tự giác đấu tranh cho quyền lợi giai cấp và quyền lợi dân tộc.

Page 23: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 23

Phong trào cách mạng của tỉnh Biên Hòa có sự thay đổi về chất và ngày càng phát triển mạnh mẽ kể từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời.

Ngày 3 tháng 2 năm 1030, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, mở đầu một thời kỳ mới, thời kỳ cách mạng do giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó là Đảng Mác - Lênin lãnh đạo.

Ở Biên Hòa nhiều thanh niên tiến bộ đã nhanh chóng tiếp thu tư tưởng mới, ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Một số sớm giác ngộ đã đứng vào hàng ngũ của Đảng, làm người chiến sĩ tiên phong đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc như các đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa (Xược), Lưu Văn Viết (Tư Chà), Quách Tỷ, Quách Sanh...

Đặc biệt ở 2 cơ sở công nghiệp lớn lúc bấy giờ là nhà máy cưa BIF ở nội ô thị xã Biên Hòa và đề pô xe lửa Dĩ An, cách thị xã Biên Hòa khoảng 4 km mạng lưới cơ sở Đảng và phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân phát triển mạnh. Các đồng chí Châu Văn Liêm, Phạm Hữu Lầu, Nguyễn Trọng Nhã được Đảng bố trí vào làm công nhân ở các nơi này để xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, lãnh đạo công nhân đấu tranh. Tại nhà máy cưa BIF, tổ chức Công hội đỏ được thành lập kết nạp được hàng chục công nhân cốt cán. Các đồng chí Nguyễn Trọng Nhã, Nguyễn Văn Hợp... bằng nhiều hình thức đã bí mật tuyên truyền giác ngộ cho anh em nhà máy cũng như một số thanh niên lao động nông dân ở các xóm ấp lân cận như Tân Mai, Lân Thành, Vĩnh Thị...

Xuất phát từ các đồn điền cao su, các cơ sở công nghiệp này mà một số cuộc đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động ở Biên Hòa diễn ra sôi động trong những tháng đầu năm 1930.

Trước và sau ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (từ 30 tháng 1 năm 1930 và 6 tháng 2 năm 1930) dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, 5.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng đã nổi dậy đấu tranh với các yêu sách: Đòi thực hiện đúng giao kèo giữa chủ với công nhân; ngày làm việc 8 giờ kể cả thời gian đi và về; bồi thường cho công nhân bị tai nạn lao động; ốm đau phải được trị bệnh và được hưởng lương cùng một số kiến nghị khác... Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ và áp lực của đông đảo quần chúng công nhân, chủ đồn điền buộc phải chấp nhận các yêu sách của công nhân. Biên bản được ký tại chỗ giữa đại biểu công nhân và chủ đồn điền. Việc chủ tư bản đồn điền buộc phải hạ bút ký "cam kết" thực hiện những điều yêu sách của công nhân là một thắng lợi vô cùng to lớn ở đồn điền cao su Phú Riềng.

Page 24: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 24

Cuộc biểu tình của công nhân cao su Phú Riềng

Thế nhưng do chưa có kinh nghiệm đấu tranh, quá say sưa với thắng lợi bước đầu, một số cán bộ nghiệp đoàn tư tưởng thừa thắng xông lên thiếu cảnh giác, tiếp tục tổ chức bạo động đấu tranh. Chi bộ Đảng bỏ qua nguyên tắc, phương châm bí mật, công khai, bán công khai. Do hoạt động lộ liễu, các đồng chí đảng viên trong chi bộ và cơ sở cốt cán đều bị địch phát hiện, chúng lần lượt lùng bắt hơn 100 người đưa về Biên Hòa giam giữ.

Sự kiện "Phú Riềng đỏ" lan nhanh đến các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền tác động đến phong trào đấu tranh của công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động ở Biên Hòa và miền Đông Nam bộ. Cùng với phong trào đấu tranh của công nhân cao su Phú Riềng, phong trào đấu tranh của công nhân và lao động ở các nhà máy, xí nghiệp khác ở Biên Hòa diễn ra mạnh mẽ.

Từ tháng 05 đến tháng 09 năm 1930, cơ sở Đảng ở nhà máy cưa BIF, ga xe lửa Biên Hòa tiếp tục tổ chức một số cuộc đình công, rải truyền đơn kêu gọi công nhân, nông dân đoàn kết đấu tranh, kêu gọi nhân dân ủng hộ phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Đêm 02 tháng 7 năm 1930, công nhân tổ chức rải truyền đơn và treo cờ đỏ búa liềm trên tháp nước nhà máy cưa BIF để chào mừng sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đồng thời ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân cao su Phú Riềng, đòi trả tự do cho hơn 100 công nhân cao su bị giặc bắt đưa về giam giữ ở đề lao Biên Hòa. Cuộc đấu tranh tác động đến các tầng lớp nhân dân ở Biên Hòa nhất là công nhân xe lửa, công nhân cao su và nông dân ở các xã ấp vùng ven thị xã Biên Hòa. Quần chúng ngày càng nhận thức rõ hơn là không thể cam chịu cuộc đời nô lệ của người dân mất nước mà phải vùng dậy đấu tranh. Mặt khác họ cũng tận mắt chứng kiến cách mạng đã đến với nhân dân Biên Hòa, nó không còn

Page 25: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 25

là chuyện bên Nga, bên Tàu hoặc ở miền Bắc, miền Trung xa xôi nữa. Phong trào cách mạng ở Biên Hòa được nhen nhóm và phát triển.

2.2. Sự ra đời chi bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều: Trước sự phát triển của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta

trên phạm vi cả nước cũng như ở tỉnh Biên Hòa, thực dân Pháp và bè lũ tay sai tập trung mọi lực lượng khủng bố, đàn áp, tàn sát dã man những chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước.

Đầu năm 1935, đồng chí Hoàng Minh Châu (tức Vĩ) quê ở Tiền Giang được Liên Tỉnh ủy miền Đông cử về hoạt động ở Biên Hòa. Đồng chí đã xin vào làm thợ ở Nhà máy cơ khí Trường Tiền (thị xã Châu Thành, Biên Hòa). Từ đây, đồng chí bước đầu xây dựng được một số cơ sở trong nhà máy, đồng thời thăm dò liên lạc với nhóm cơ sở Đảng do đồng chí Lưu Văn Viết tổ chức xây dựng trước đó. Sau khi đã móc nối và thống nhất lại với nhau, đồng chí Hoàng Minh Châu đã vận động thành lập chi bộ Đảng đầu tiên lấy tên là chi bộ Bình Phước - Tân Triều. Chi bộ do đồng chí Hoàng Minh Châu làm bí thư, đồng chí Huỳnh Văn Phan, phó bí thư. Địa bàn hoạt động chủ yếu là khu vực thị xã và các xã thuộc quận Châu Thành (huyện Vĩnh Cửu và thành phố Biên Hòa ngày nay). Đã dẫn dắt phong trào đấu tranh chống Pháp ở Đồng Nai theo con đường cách mạng vô sản

Đồng chí Hoàng Minh Châu, Bí thư,

Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh đầu tiên của Đồng Nai

Sự ra đời của chi bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều và các tổ chức cách mạng của Đảng giữa năm 1935 đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng, một bước

Page 26: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 26

phát triển mới của phong trào cách mạng ở tỉnh Biên Hòa. Đây là chi bộ Đảng đầu tiên đã được thành lập trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay, là hạt nhân lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương và là nòng cốt để hình thành tổ chức Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa sau này.

2.3. Biên Hòa trong cuộc vận động dân chủ (1936 - 1939): Những năm 1935 - 1936, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến

động phức tạp. Trên thế giới, những hậu quả nặng nề của các cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929 - 1933 đã ảnh hưởng mạnh đến nhiều nước, trong đó có nước Pháp. Phong trào cách mạnh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống chế độ tư bản tiếp tục lên cao. Để đối phó với phong trào cách mạng của dân chúng, bọn tư bản lũng đoạn ở một số nước đế quốc thủ tiêu các quyền tự do dân chủ và thi hành chính sách độc tài phát xít ở ngay trong nước và các nước thuộc địa. Mặt khác, chúng ra sức bóc lột vơ vét tài nguyên ở các nước thuộc địa. Tình hình đó đã làm cho đời sống của đồng bào ta vô cùng cực khổ.

Trong tình hình như thế, nhân dân Biên Hòa vốn đã cùng cực nay càng thêm điêu đứng. Hầu hết nông dân, thợ thủ công, các tầng lớp lao động khác ở các quận Châu Thành, Long Thành, Tân Uyên, Xuân Lộc đều lâm vào cảnh thiếu đói. Công nhân các nhà máy, xí nghiệp, nhất là công nhân trong các đồn điền cao su bị tư bản thực dân Pháp bóc lột nặng nề, đói khổ lầm than. Các tầng lớp nhân dân đều bị tước đoạt trắng trợn. Các quyền lợi tối thiểu về dân sinh, dân chủ và nguyện vọng cấp thiết của đồng bào là: cơm áo và tự do.

Đầu tháng 9 năm 1936, Ủy ban hành động tỉnh Biên Hòa tổ chức một cuộc mít - tinh lớn tại Gò Dê xã Bình Ý quận Châu Thành (huyện Vĩnh Cửu ngày nay). Hơn 200 đồng bào thuộc quận Châu Thành và Tân Uyên đến dự. Đại diện Ủy ban hành động tỉnh diễn thuyết, kêu gọi nhân dân ủng hộ Đông Dương Đại hội, đòi chính quyền thực dân, tay sai phải thực hiện các quyền dân sinh dân chủ: dân được tự do làm ăn, tự do hội họp, đi lại, tự do sinh hoạt báo chí, bỏ thuế thân, giảm thuế môn bài, giảm thuế xe ngựa... Cai tổng Đạm hay tin liền dẫn lính đến đàn áp, cuộc mít - tinh biến thành cuộc biểu tình đả đảo tên cai tổng Đạm, đả đảo cường hào ác bá, chống sưu cao thuế nặng... Trước sự phẫn nộ và khí thế của nhân dân, bọn chúng rút lui. Cuộc mít - tinh kết thúc bằng cuộc tuần hành về Bến Cá, Cây Đào, Bình Ý...

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ của các tầng lớp nhân dân lao động ở Biên Hòa nổ ra liên tục, mạnh mẽ nhất là phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, điểm tập trung sôi động là nhà máy cưa BIF, ga xe lửa Biên Hòa và các đồn điền cao su ở Xuân Lộc. Các cuộc đấu tranh

Page 27: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 27

của công nhân nhà máy cưa BIF đều xoay quanh các yêu cầu do Ủy ban hành động đề ra trước đó:

- Đòi quyền được thành lập nghiệp đoàn và Hội ái hữu. - Đòi thi hành luật bảo hiểm xã hội. - Đòi thi hành tuần lễ làm 40 giờ và tăng lương. - Đòi lập giao kèo công cộng. - Đòi trả số lương bị sụt từ 3 năm nay. - Mỗi năm nghỉ 15 ngày phép được hưởng lương. - Cất nhà, đảm bảo điều kiện ăn ở và vệ sinh ở các khu vực rừng núi cho số

công nhân khai thác nguyên liệu và trả tiền xúp gấp đôi tiền lương. - Bỏ chế độ tiền lương hàng ngày mà trả lương hàng tháng cho công nhân. - Trừng phạt bọn gác - dan, cặp - rằng, sếp ... hung ác. - Phát lương đúng kỳ và yêu cầu chấm dứt đánh đập, đối xử thô bạo với

công nhân. Trong 10 yêu cầu nêu trên, vấn đề đòi được thành lập tổ chức nghiệp đoàn

nhà máy được đặt lên hàng đầu để tạo điều kiện tập hợp, phát huy sức mạnh đoàn kết đấu tranh của công nhân.

Ngày 18 tháng 9 năm 1936, hơn 300 công nhân ở BIF nhất loạt đình công đòi tăng lương, đòi cai, sếp không được đánh đập thợ thuyền. Sau đó 2 tháng, ngày 15 tháng 11 năm 1936, hơn 400 công nhân thuộc Công ty kỹ nghệ và lâm nghiệp Biên Hòa bao gồm các cơ sở ở Trảng Bom, Xuân Lộc đồng loạt bãi công phản đối chủ công ty bắt công nhân làm việc quá sức để bù vào những giờ bị giảm theo nghị định ngày 11 tháng 10 năm 1936; đồng thời yêu cầu tăng lương 30 xu mỗi ngày. Ở nhà máy cưa (cơ sở ở Biên Hòa) công nhân kéo đến văn phòng đưa yêu sách thì nhân viên ở đây bảo: Ráng đợi đến ngày thứ hai, chủ sở đi Hà Nội về sẽ giải quyết. Công nhân đồng lòng nhất loạt đình công, không làm việc, ở lại nhà máy và nhắn về nhà mang cơm nước vào. Mấy ngày liền, cổng nhà máy nhộn nhịp người đến đưa cơm, thăm hỏi, động viên. Một số báo chí ở Sài Gòn nhanh chóng đưa tin “thợ thuyền nhà máy cưa BIF làm reo”. Nhà chức trách Pháp đánh giá đây là “cuộc bãi công chiếm xưởng”. Chủ hãng từ Hà Nội về hoảng sợ trước sự đoàn kết đấu tranh của công nhân vội nhân nhượng tăng lương 10 xu một ngày và hứa hẹn tiếp tục giải quyết một số kiến nghị của công nhân.

Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, khôi phục củng cố cơ sở tổ chức Đảng ở các tỉnh, các nhà máy, xí nhgiệp, đồn điền cao su, cuối năm 1936 Liên Tỉnh ủy miền Đông cử đồng chí Trương Văn Bang (Ba Bang), nguyên Bí thư Xứ ủy Nam kỳ (1933 - 1935) và đồng chí Cao Hồng Lãnh về Biên Hòa hoạt động,

Page 28: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 28

trực tiếp vận động thành lập Ban cán sự Đảng tỉnh Biên Hòa và xây dựng tổ chức một số chi bộ Đảng ở các địa phương trong tỉnh.

Đầu năm 1937, Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa được thành lập do đồng chí Trương Văn Bang trực tiếp làm Bí thư. Các đồng chí Tỉnh ủy viên là: Trần Minh Triết, Huỳnh Văn Phan, Lê Văn Tôn, Huỳnh Văn Liễng, Nguyễn Hồng Kỳ. Nhiều đảng viên khác ở các nơi cũng lần lượt về Biên Hòa móc nối liên lạc hoạt động, tổ chức các chi bộ Đảng cơ sở. Công tác xây dựng Đảng có những bước phát triển mới, một số chi bộ được thành lập. Tại nhà máy cưa BIF, hai chi bộ Đảng được xây dựng, mỗi chi bộ có ba đảng viên. Chi bộ khối nhà máy do đồng chí Trần Hồng Đạo làm bí thư và chi bộ lao động giản đơn do đồng chí Tư Ngàn làm bí thư. Ở xã Bửu Long hình thành được một chi bộ do đồng chí Tư Xí làm bí thư. Hai xã Tân Phong, Bình Ý chi bộ liên xã thành lập.

Ở trung tâm thị xã Châu Thành, Biên Hòa, nhiều hội đoàn của các tầng lớp nhân dân lao động cũng nhanh chóng được thành lập như hội Ái hữu các ngành: thợ mộc, thợ hồ, thợ hớt tóc, tiểu thương... . Hoạt động mạnh là hội Ái hữu giáo chức, hội Ái hữu công nhân hãng BIF, hội Ái hữu công nhân ga xe lửa Biên Hòa.

Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân tiếp tục diễn ra sôi động. Ngày 28 tháng 5 năm 1937, toàn thể công nhân nhà máy cưa BIF nhất loạt đình công phản đối xu cai đánh đập thô bạo công nhân.

Ngày 18 tháng 11 năm 1938, cũng tại nhà máy cưa BIF, hơn 300 thợ đình công phản đối bọn chủ hàng giảm giá khoán cưa gỗ từ một đồng/1m3 xuống 0,6 đồng/1m3 . Cuộc đấu tranh thắng lợi tạo được niềm tin và khí thế phấn khởi, không chỉ công nhân trong nhà máy mà còn tác động đến các cơ sở khác trong toàn tỉnh như ga xe lửa Biên Hòa, cơ sở khai thác gỗ Trảng Bom, đề pô xe lửa Dĩ An...

Ngày 24 tháng 8 năm 1939, nhằm lễ Vu Lan, các đồng chí cán bộ cách mạng ở nhà máy tập hợp hơn 30 công nhân cốt cán với sự tham gia của đồng chí Đào Sơn Tây, đại biểu Công hội đỏ xưởng Ba Son, bàn bạc phối hợp đấu tranh và tổ chức quyên góp tiền bạc để ủng hộ các cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son, công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngày 1 tháng 1 năm 1939, hàng ngàn công nhân ở các sở cao su trong tỉnh Biên Hòa đã đồng loạt bãi công đòi tăng lương, đòi cải thiện đời sống. Cuộc đấu tranh rộng lớn này buộc bọn chủ các Công ty SIPH, Công ty Đất Đỏ phải ra lệnh cho các chủ đồn điền giải quyết một số đòi hỏi cụ thể của công nhân như giảm bớt mức khoán, làm lại nhà cửa, cấp phát giường nằm, cấp gạo tốt, thuốc men cho những công nhân đau yếu.

Page 29: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 29

Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Biên Hòa trong những năm 1936 - 1939 diễn ra sôi động, rộng khắp và giành được những thắng lợi to lớn, khơi dậy được tinh thần cách mạng, lòng yêu nước của các tầng lớp nhân dân, mở rộng tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, đường lối cách mạng của Đảng, xây dựng được một đội quân chính trị lớn mạnh trong công nhân, nông dân, trí thức - học sinh.

Qua thực tiễn hoạt động, trình độ chính trị và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên không ngừng được nâng lên. Đội ngũ cán bộ Đảng trung kiên, giàu nghị lực, trong sáng về phẩm chất cách mạng, tạo được niềm tin trong lòng quần chúng.

Những thành quả đạt được trong cao trào cách mạng 1936 - 1939 của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Biên Hòa đánh dấu một bước phát triển quan trọng tạo cơ sở vững chắc cho phong trào đấu tranh cách mạng trong những năm kế tiếp nhất là cao trào tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám 1945

2.4. Biên Hòa chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền: Ngày 1 tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, thực dân

Pháp khủng bố phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa đồng thời ban bố lệnh tổng động viên, tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ chiến tranh đế quốc. Ngày 28 tháng 9 năm 1939, phủ Toàn quyền Đông Dương ra nghị định giải tán và tịch thu tài sản các Hội Ái hữu, các nghiệp đoàn... mở đầu cho cuộc khủng bố quyết liệt trên toàn quốc.

Ở Biên Hòa, thực dân Pháp và bọn tay sai tập trung lực lượng đánh phá khốc liệt các xã Bình Ý, Tân Triều, Bình Phước. Các cơ sở nhà máy cưa BIF, Ga Biên Hòa, các đồn điền cao su An Lộc, Cuôctơnay .v.v... được chúng coi là những “Làng đỏ”, những “Cơ sở đỏ”, cần phải xóa tận gốc rễ. Riêng xã Bình Ý có hơn 200 người bị chúng bắt đưa về giam giữ ở nhà lao Biên Hòa.

Nhà lao Tân Hiệp ( Biên Hòa –Đồng Nai)

Phục vụ cho việc phòng thủ, vơ vét sức người sức của cung ứng cho chiến tranh đế quốc, thực dân Pháp thực hiện lệnh tổng động viên tuyển mộ lính, kéo

Page 30: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 30

dài thời hạn tại ngũ, đồng thời tăng cường bắt đi xâu, xây dựng thêm đường sá, cầu cống, mở rộng sân bay Tân Phong, trường bắn Bình Ý, lập xưởng sửa chữa máy bay v.v... Địch tăng cường vơ vét bóc lột bằng nhiều hình thức dã man nhất, tất cả các sắc thuế đều tăng, đặt ra nhiều loại thuế mới như “đảm phụ quốc phòng”, “quốc trái”... ra lệnh sung công, trưng thu, trưng dụng các phương tiện vận tải hàng hóa của tư nhân nhằm thực hiện chính sách “kinh tế thời chiến”. Đời sống nhân dân Biên Hòa bị bần cùng hóa.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Xứ ủy Nam kỳ, từ cuối năm 1939, Tỉnh ủy Biên Hòa có kế hoạch đưa các tổ chức, cán bộ hoạt động công khai vào hoạt động bí mật, chuyển cán bộ về nông thôn, đồn điền cao su. Các cán bộ chủ chốt của tỉnh như đồng chí Phạm Văn Khoai, Phạm Văn Thuận, Hồ Văn Đại, Lê Văn Tôn, Huỳnh Văn Phan, Huỳnh Văn Lũy, Nguyễn Hồng Kỳ, Trần Minh Triết... tránh được sự truy lùng của giặc, đổi vùng tiếp tục hoạt động và chuyển về rừng Tân Uyên xây dựng căn cứ.

Ở Biên Hòa, công tác chuẩn bị khởi nghĩa được tiến hành khẩn trương, sôi nổi nhất là ở một số xã thuộc quận Tân Uyên và Châu Thành. Đội võ trang tập trung của tỉnh được tổ chức khoảng 35 người do đồng chí Huỳnh Văn Liểng chỉ huy. Các đồng chí trong Tỉnh ủy và một số đảng viên khác len lỏi vào các quận, các xã chỉ đạo các chi bộ, các cơ sở cốt cán chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng phát động quần chúng nổi dậy. Nhưng kế hoạch khởi nghĩa bị lộ ngay từ bên trên.

Giữa năm 1941, phát xít Nhật đổ bộ lên một số tỉnh Nam bộ. Nhân dân Biên Hòa lâm vào cảnh “một cổ hai tròng”. Cùng với thực dân Pháp, phát xít Nhật ra sức đàn áp, vơ vét bóc lột. Đời sống nhân dân Biên Hòa vốn đã khổ cực nay càng thêm điêu đứng. Pháp và Nhật tuy có nhiều mâu thuẫn nhưng thống nhất một âm mưu thâm hiểm là tập trung đánh phá phong trào cách mạng Việt Nam.

Sau Nam kỳ khởi nghĩa, lực lượng các tỉnh Nam kỳ và Biên Hòa bị tổn thất nặng. Phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống.

Từ cuối năm 1940, một số cán bộ, đảng viên về hoạt động trong phong trào công nhân cao su. Đồng chí Hồ Văn Đại (Sáu Đại) về Cốc Rang (đồn diền An Lộc), đồng chí Nguyễn Văn Long hoạt động ở Dầu Giây, Bình Lộc, đồng chí Trần Văn Trà về sở Cuộctơnay (Cẩm Mỹ). Các đồng chí trong chi bộ Xuân Lộc cũng rút vào hoạt động bí mật ở các sở cao su An Lộc, Hàng Gòn, Túc Trưng. Phong trào đấu tranh của công nhân cao su ở các đồn điền trong tỉnh vẫn tiếp tục phát triển.

Công nhân cao su Biên Hòa đấu tranh ( 1940).

Page 31: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 31

Thực dân Pháp cướp vùng đất đỏ bazan màu mỡ, mênh mông để lập các đồn điền cao su ở các quận Xuân Lộc, Châu Thành, Long Thành ( nay là thị xã Long Khánh, các huyện Cẩm Mĩ, Định Quán, Thống Nhất, trảng Bom, Long Thành và thành phố Biên Hòa). Mủ cao su mang lại lãi kếch xù cho chúng. Tỉnh Biên Hòa hồi đó còn rất thưa dân, để có người làm chúng cho bọn tay sai đi mộ những dân làm ruộng nghèo ở Bắc kì, Trung kì. Bọn phu mộ lừa bịp bà con rằng đi đồn điền làm việc không vất vả như làm ruộng ở nhà, được phát gạo, có nhà ở, vài năm họ sẽ có món tiền kha khá mang về.

Công nhân cao su thời Pháp thuộc

Người phu mộ vào đây, họ ở trong những lán tranh dột nát, ẩm thấp. Nước thiếu nhất là về mùa khô nên phần lớn anh chị em bị ghẻ lở, chấy rận đầy người. Đồng lương rất thấp đó là đòng lương chết đói, họ thường bị cúp phạt, chẳng mấy chốc khi lãnh đủ, khó dành dụm tiền về quê.

Công nhân đi làm nhiều khi bị rắn mổ, ong đốt, gai cào…Đêm không ngủ mùng mà rừng thì nhiều muỗi, anh chị em phu hầu hết bị sốt rét. Họ ăn uống kham khổ, ai trốn đều bị bắt, có thể bị đòn tới chết. Đã thế họ còn bị bóc lột sức

Page 32: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 32

lao động tàn tệ đến nỗi bị bệnh nặng, nếu chưa nằm liệt giường vẫn không được nghỉ.

Không cam chịu công nhân cao su đã đoàn kết đấu tranh đòi quyền sống dù có khi phải đổ máu. Từ ngày các đồn điền thành lập, các cuộc đấu tranh nổ ra, lúc đầu lẻ tẻ tự phát , dần dần có quy mô lớn từ ngày có Đảng Cộng Sản Đông Dương lãnh đạo.

Ngày 20/12/1940, hơn 1000 công nhân đồn điền Bình Lộc kéo đến nơi chủ đồn điền đòi giải quyết yêu sách không đánh đập, cúp phạt phu, không trì hoãn việc trả về xứ khi mã hạn, không phát gạo mục, cá thối cho phu, mở nhà thương để chữa bệnh và mở trường học cho con em phu….Cứ mỗi khi người đại diện đọc to một điều trong bản yêu sách thì đoàn người tụ họp ở ngoài cửa đều hô to: Phải thi hành yêu sách! Cuộc đấu tranh giằng co từ sáng đến chiều, tên giám đốc Pháp không giải quyết ! ông ta gọi điện về tỉnh, chúng chở 500 binh lính từ Sài Gòn lên đàn áp. 40 người bị bắt, một số khác bị thương hoặc chết. Khi lính Pháp xông vào bắt công nhân lên xe chở đi. Chị Lê Thị Lương quê ở Quảng Trị vận động chị em ra cản đầu xe. Chúng cho xe cán chị và một số chị em khác làm chết và bị thương những người này. Tuy bị đàn áp đẫm máu, công nhân vẫn kiên trì đấu tranh liên tục thêm hai ngày, buộc chúng phải đổi tên sếp nha gian ác khét tiếng đi nơi khác và trả số người mãn hạn về quê họ.

Ở Biên Hòa một số đảng viên từ các nơi lần lượt trở về hoạt động. Một số đồng chí ở các tỉnh khác mãn hạn tù được thực dân Pháp đưa về đây quản thúc. Mặc dù bị địch quản thúc, khủng bố gắt gao nhưng các đồng chí vẫn tìm mọi cách liên lạc với tổ chức, vận động cách mạng.

Đầu năm 1943, từ đề - pô xe lửa Dĩ An, đồng chí Đặng Nguyên về Tân Mai sinh sống. Đồng chí Hồ Hòa cũng từ đồn điền cao su Xuân Lộc về làm thợ máy ở xưởng cưa BIF, cùng với một số đảng viên ở đây thành lập chi bộ Đảng nhà máy cưa gồm 5 đồng chí do dồng chí Đặng Nguyên làm bí thư. Chi bộ Đảng liên ấp Tân Mai, Lân Thành, Vĩnh Thị (xã Bình Trước quận Châu Thành, Biên Hòa) cũng được tổ chức do đồng chí Nguyễn Văn Ký (Ba Ký phụ trách). Tại ga xe lửa Biên Hòa, cơ sở Đảng cũng được tổ chức trở lại, do đồng chí Ngô Văn Tư làm bí thư. Ở sở củi Trảng Bom, đồng chí Lê Nguyên Đạt dưới danh nghĩa là đốc công sở, tuyên truyền vận động kết nạp được một số công nhân tích cực, giác ngộ vào Đảng và hình thành được một chi bộ do đồng chí trực tiếp làm bí thư.

Xứ ủy cử đồng chí Hoàng Minh Châu về lại Biên Hòa hoạt động. Đồng chí vào làm việc ở sở Trường Tiền (Ty kiều lộ Biên Hòa) kết nạp được 5 đảng viên thành lập chi bộ, lấy tên là chi bộ Trường Tiền.

Page 33: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 33

Năm 1944, phong trào cách mạng ở Biên Hòa từng bước phục hồi và phát triển, khí thế cách mạng của quần chúng nhân dân được khơi dậy ngày càng mạnh mẽ. Thực lực cách mạng lớn mạnh nhanh chóng, tạo được cơ sở vững chắc để nhân dân Biên Hòa cùng với cả nước nhất tề đứng dậy khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, phát xít Nhật đảo chính thực dân Pháp để độc chiếm Đông Dương. Ở Biên Hòa ngay ngày 10 tháng 3 năm 1945, bộ máy thống trị của thực dân Pháp từ tỉnh đến quận lọt vào tay phát xít Nhật. Chúng đưa đốc phủ xứ Nguyễn Văn Quý thay tên Ri - vi - e làm tỉnh trưởng, đưa tên cò Phước làm chỉ huy trưởng cảnh sát tỉnh Biên Hòa. Các tổ chức, đảng phái thân Nhật như Thanh niên Ái quốc đoàn, Thanh niên Bảo quốc đoàn... đẩy mạnh các hoạt động nhằm lừa bịp nhân dân, đề cao nền độc lập giả hiệu.

Tháng 5 năm 1945, Liên Tỉnh ủy miền Đông tổ chức họp tại ấp Vĩnh Cửu xã Tam Hiệp - quận Châu Thành, Biên Hòa, phổ biến chủ trương của Trung ương Đảng về tình hình và nhiệm vụ mới, trọng tâm là vấn đề chuẩn bị lực lượng để tham gia cuộc tổng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc.

Sau hội nghị, các đảng viên ở Biên Hòa nhanh chóng kiện toàn các tổ chức đoàn thể cứu quốc, nắm và lãnh đạo chặt chẽ lực lượng Thanh niên Tiền phong thông qua các đoàn trưởng, tráng trưởng, đội trưởng và toán trưởng ở các cơ sở địa phương trong tỉnh đặc biệt là trung tâm quận Châu Thành, Biên Hòa.

Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện. Tin Nhật đầu hàng đồng minh lan truyền nhanh chóng. Bọn sĩ quan và binh lính Nhật ở Biên Hòa hoang mang rệu rã. Chúng án binh bất động ở các địa điểm đóng quân. Chính quyền bù nhìn của giặc Nhật ở Biên Hòa cũng hoàn toàn tê liệt. Một số tên tay sai có nợ máu với nhân dân tìm đường bỏ trốn. Một số viên chức nhỏ nằm im hoặc ngã theo cách mạng tham gia lực lượng Thanh niên Tiền phong.

Ngọn lửa cách mạng bùng lên mạnh mẽ. Bầu không khí tiền khởi nghĩa sôi động khắp thành thị và nông thôn trong cả nước. Ngày cũng như đêm trên khắp các nẻo đường, xóm ấp ở Biên Hòa rộn rã tiếng hát, lời ca cách mạng giục giã lòng người bừng bừng khí thế vùng dậy đấu tranh để cởi bỏ gông xiềng nô lệ. Giữa lúc đó, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã ra lời kêu gọi đồng bào toàn quốc: “... hiện nay quân đội Nhật đã tan rã, phong trào cứu quốc lan tràn khắp nơi... Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy dứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta...”.

Page 34: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 34

3. Cách mạng tháng Tám 1945 ở Biên Hòa 3.1. Bối cảnh Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp , lập chính quyền và các tổ chức thân

Nhật trên khắp Việt Nam. Trước tình thế đó, Trung ương Đảng đã kịp thời nhận định tình hình, chọn thời cơ cách mạng và quyết tâm phát động cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Địa phương Biên Hòa cùng cả nước thực hiện lệnh tổng khởi nghĩa.

Ngày 23 tháng 8 năm 1945, tại căn nhà số 2 ở dãy phố Sáu Sử xã Bình Trước, quận Châu Thành, Biên Hòa, đồng chí Hoàng Minh Châu chủ trì cuộc họp bàn kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền tại tỉnh lỵ Biên Hòa. Tham dự cuộc họp này có các đồng chí: Hoàng Minh Châu, Huỳnh Văn Hớn, Phạm Văn Búng, Ngô Hà Thành, Hồ Văn Giàu, Lê Nguyên Đạt, Đặng Nguyên, Hồ Hòa, Hồ Văn Đại... Thực hiện sự chỉ đạo của Xứ ủy, Hội nghị đã bàn bạc thống nhất và quyết định một số việc cấp bách:

- Tập trung lực lượng tiến hành khởi nghĩa trước ở tỉnh lỵ, phân công một số đảng viên về các quận huy động lực lượng quần chúng về thị xã tham gia cướp chính quyền.

- Trung lập hóa quân Nhật, giao cho đồng chí Hồ Văn Đại và một số đồng chí khác vận động lính mã tà, lính thủ hộ... nộp súng cho cách mạng, tránh xung đột vũ trang.

- Thành lập Ủy ban khởi nghĩa do đồng chí Hoàng Minh Châu phụ trách và dự kiến thành phần Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa.

- Giao trách nhiệm cho kinh lý Nguyễn Văn Tàng tiếp xúc với tỉnh trưởng Nguyễn Văn Quý vận động y bàn giao chính quyền cho cách mạng.

- Giao trách nhiệm cho đồng chí Lê Ngọc Liệu và Nguyễn Đình Ưu tổ chức đưa 500 người về tham gia khởi nghĩa ở Sài Gòn.

- Huy động lực lượng xung kích trong nhân dân, Thanh niên Tiền phong tự trang bị vũ khí, nhân dân mang cờ, khẩu hiệu sẵn sàng nổi dậy biểu dương lực lượng cướp chính quyền.

3.2. Diễn biến – kết quả Ngay trong đêm 23 và rạng sáng ngày 24 tháng 8 năm 1945, trong nội ô

tỉnh lỵ, nhân dân đã treo cờ đỏ sao vàng, cờ búa liềm, dán khẩu hiệu khắp các phố chợ... trụ sở Ủy ban khởi nghĩa đặt gần ga xe lửa Biên Hòa luôn tấp nập các đoàn cán bộ ở các địa phương về nhận chỉ thị khởi nghĩa. Hầu hết các tầng lớp nhân dân đều sục sôi cách mạng, tinh thần quyết tâm giành độc lập đang dâng cao.

Page 35: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 35

Sáng sớm ngày 23 tháng 8 năm 1945, dưới sự chỉ đạo của chi bộ nhà máy cưa BIF, chi bộ ga Biên Hòa, công nhân và nhân dân các ấp Tân Mai, Lân Thành, Vĩnh Thị đã nổi dậy làm chủ các cơ sở trên đồng thời tập hợp lực lượng xung kích để làm nòng cốt cho cuộc khởi nghĩa ở tỉnh lỵ Biên Hòa. Ở huyện Long Thành, Ủy ban khởi nghĩa do các đồng chí Trịnh Văn Dục, Vũ Hồng Phô, Mai Hiển Thái lãnh đạo đã huy động công nhân cao su, nhân dân các xã quanh thị trấn Long Thành kéo về quận lỵ giành chính quyền trong ngày 24 tháng 8 năm 1945. Thắng lợi này càng cổ vũ cán bộ, đảng viên và nhân dân Biên Hòa náo nức hành động. Đêm 24 tháng 8 năm 1945, tại rạp hát Trần Điển, một cuộc mít - tinh được tổ chức với hàng trăm quần chúng tham gia. Các đồng chí trong Ủy ban khởi nghĩa đã công khai diễn thuyết, kêu gọi đồng bào tham gia Mặt trận Việt Minh, tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền. Suốt đêm 24 tháng 8 năm 1945, lực lượng thanh niên xung kích rầm rập đi tuần tra trên các đường phố. Nội ô tỉnh lỵ Biên Hòa, và các xã vùng ven như Tam Hiệp, Tân Mai, Tân Phong, Bửu Long, Bửu Hòa, Hiệp Hòa, Hóa An, Tân Hạnh, lực lượng cách mạng hoàn toàn làm chủ.

4 giờ sáng ngày 25 tháng 8 năm 1945, chuyến xe lửa đầu tiên trong ngày do ông Ba Miền lái từ ga Biên Hòa đưa hơn 500 người, bao gồm công nhân các nhà máy, nhân dân các ấp thuộc xã Bình Trước quận Châu Thành tỉnh Biên Hòa về Sài Gòn tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền.

Tin Sài Gòn khởi nghĩa thắng lợi nhanh chóng bay về Biên Hòa trong ngày 25 tháng 8 làm nức lòng cán bộ và nhân dân trong toàn tỉnh.Hầu hết các cơ quan, công sở ở tỉnh lỵ Biên Hòa đều được lực lượng xung kích bố trí tổ chức canh gác, bảo vệ chặt chẽ.

Sáng sớm ngày 26 tháng 8 năm 1945, đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa tập hợp hàng trăm quần chúng tiến vào Tòa bố Biên Hòa treo lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên tại dinh tỉnh trưởng. Đông đảo đồng bào thị xã tập trung trước Tòa bố reo hò vang dậy và say sưa ngắm nhìn ngọn cờ cách mạng. Ngọn cờ vinh quang đã nhuộm bao nhiêu máu của đồng bào, đồng chí kể từ ngày Nam kỳ khởi nghĩa và giờ đây đang phấp phới tung bay ngay trong dinh thự đầu não của giặc dân. Đến 11 giờ trưa cùng ngày, các đồng chí Hoàng Minh Châu, Huỳnh Văn Hớn và một số đồng chí trong Ủy ban khởi nghĩa tiếp tục đến Tòa bố buộc tỉnh trưởng Nguyễn Văn Quý cùng những viên chức đứng đầu các công sở trong tỉnh bàn giao chính quyền cho cách mạng. Ngay chiều hôm đó (lúc 14 giờ), lực lượng cách mạng bắt giữ tên cò Phước, chỉ huy lực lượng cảnh sát tỉnh Biên Hòa, tịch thu 40 khẩu súng các loại của bọn lính mã tà tại cửa tiền (ngay trước cửa khám lớn Biên Hòa). Lực

Page 36: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 36

lượng xung kích nhanh chóng chiếm lĩnh, tiếp quản các cơ quan, công sở còn lại ở tỉnh lỵ Biên Hòa.

Quốc gia tự vệ Cuộc Biên Hòa bảo vệ mít- tinh

tại Quảng Trường Sông Phố

Quảng trường Sông Phố ( Biên Hòa) ngày nay

Page 37: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 37

Ngày 27/8/1945, tại Quảng Trường Sông Phố, cuộc mit tinh lớn đựơc tổ chức với hơn một vạn người từ khắp các quân tham gia. Đồng chí Hoàng Minh Châu- trưởng ban khởi nghĩa đọc diễn văn tuyên bố chính quyền về tay nhân. Kết thúc cuộc mít - tinh là lễ tuyên thệ. Hơn một vạn người thay mặt cho 15 vạn đồng bào trong tỉnh đã long trọng giơ cao nắm tay tuyên thệ, sẵn sàng hy sinh tánh mạng, tài sản, kiên quyết bảo vệ nền độc lập tự do cho Tổ quốc. Đến 12 giờ trưa, cuộc mít - tinh kết thúc. Quần chúng phấn khởi hô vang các khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm” “Việt Minh muôn năm”... tiếp tục diễu hành tỏa về các địa phương biểu dương lực lượng.

Nhân dân địa phương vùng lên giành chính quyền trong những ngày

cách mạng tháng Tám sôi sục

Từ thân phận nô lệ lầm than, nhân dân tỉnh Biên Hòa dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cùng cả nước vùng đứng dậy đập tan bộ máy thống trị của giặc, giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Phấn khởi tự hào trước thắng lợi đã giành được, Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa đã đoàn kết khắc phục những khó khăn trở ngại tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.

4. Quân dân Biên Hòa - Đồng Nai kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai ( 1945 – 1954)

4.1. Bối cảnh

Page 38: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 38

Chính quyền cách mạng vừa mới xây dựng chưa đầy tháng, thực dân Pháp núp bóng quân đội Anh dưới danh nghĩa Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật đã tái chiến Sài Gòn, Biên Hòa, mở màn cho cuộc xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Kể từ đây, quân dân Biên Hòa cùng Nam Bộ bước vào giai đoạn trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp ( 1945 – 1954).

Sau lời kêu gọi Nam Bộ kháng chiến của ủy ban kháng chiến Hành chính Nam Bộ, ngày 23/9/1945, tại Biên Hòa hội nghị Bình Trước được tổ chức để phân tích tình hình, xác định nhiệm vụ của chính quyền cách mạng, trong đó chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ kháng chiến nhằm phục vụ cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Di tích Nhà hội Bình Trước, phường Thanh Bình, thành phố Biên Hòa

Cuối tháng 4 năm 1946, đồng chí Nguyễn Đức Thuận thay mặt Khu ủy khu 7 triệu tập hội nghị cán bộ toàn tỉnh Biên Hòa tại cù lao Vịt (Bình Hòa). Tỉnh ủy Biên Hòa được chỉ định thành lập do Nguyễn Văn Ký bí thư, công tác Đảng lãnh đạo võ trang được đặt ra. Huỳnh Văn Nghệ, chỉ huy Vệ Quốc đoàn Biên Hòa, được cử làm Ủy viên Ủy ban phụ trách quân sự tỉnh. Đây là cơ sở thuận lợi cho việc thống nhất lực lượng vũ trang tỉnh Biên Hòa.

Page 39: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 39

Tháng 5 năm 1946, Hội nghị quân sự tỉnh Biên Hòa được tổ chức tại chiến khu Đ. Hội nghị quyết định thống nhất lực lượng vũ trang tỉnh, Vệ Quốc đoàn quận Châu Thành sát nhập với Vệ Quốc đoàn Biên Hòa do Huỳnh Văn Nghệ làm chỉ huy trưởng. Vệ Quốc đoàn Biên Hòa có sáng kiến tổ chức các “quận quân sự”. Mỗi “quận quân sự” phụ trách một số xã có từ 1 đến 2 tiểu đội vũ trang làm nòng cốt phát triển du kích xã, tiếp tế, chuẩn bị địa bàn cho Vệ Quốc đoàn Biên Hòa hoạt động. Cùng lúc ban chỉ huy thành lập 9 quận quân sự.

Di tích lịch sử Chiến khu Đ

Các quận quân sự ra đời góp phần đẩy mạnh hoạt động vũ trang trên địa bàn tỉnh. Trong lúc đó, do thiếu liên lạc, Vệ Quốc đoàn quận Long Thành vẫn còn hoạt động riêng lẻ.

Thực hiện Nghị quyết quân sự khu, Vệ Quốc đoàn Biên Hòa sáp nhập thêm Vệ Quốc đoàn Long Thành tổ chức thành Chi đội 10. Ban chỉ huy chi đội gồm: Huỳnh Văn Nghệ chi đội trưởng; Nguyễn Văn Lung chi đội phó, Phan Đình Công chính trị viên.

Ban chỉ huy thành lập các tiểu ban: quân nhu, quân trang, quân y, tiểu ban sản xuất tự túc, binh công xưởng, kho vũ khí chi quân báo để phục vụ các yêu cầu chiến đấu, sinh hoạt của chi đội

Việc thành lập chi đội 10 Biên Hòa đánh dấu sự thống nhất lãnh đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang trong tỉnh. Đồng thời, với việc thành lập các ban công tác liên thôn (có du kích tập trung), các đội du lích xã, đến cuối năm 1946, Biên Hòa là địa phương sớm hình thành 3 loại hình tổ chức lực lượng vũ trang, đảm bảo đứng chân chiến đấu trên các địa bàn đạt kết quả cao.

Page 40: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 40

4.2. Những trận đánh tiêu biểu a. Những trận đánh giao thông Tháng 12 – 1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Trên chiến trường

miền Đông Nam bộ, do phải mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, thực dân Pháp phải rút bỏ bớt nhiều đồn bót đóng sâu trong vùng căn cứ của ta, tăng cường lực lượng để tăng viện cho chiến trường miền Bắc.

19/12/1946 phát lệnh toàn quốc kháng chiến

Ban thường vụ trung ương Đảng chỉ đạo cho Xứ ủy Nam bộ “không để cho giặc Pháp lấy của cướp được ở Nam bộ ra đánh Trung và Bắc bộ”. Biên Hòa nằm trên các tuyến đường chiến lược quan trọng như quốc lộ 20, quốc lộ 1, đường sắt xuyên Việt, là những đường giao thông vận chuyển quân sự của địch từ Nam ra Bắc. Ban chỉ huy chi đội 10 chủ trương mở một loạt trận đánh giao thông để tiêu diệt tiêu hao sinh lực địch. Từng trung đội, đại đội của chi đội 10 tổ chức một số trận đánh giao thông trên liên tỉnh lộ số 2, liên tỉnh lộ 24, quốc lộ 15, đồng thời tiến công một số đồn bót lẻ của địch như Cây Gáo, Bình Lộc (1 - 1947), bót La Ngà (6 - 1947). Chi đội 10 chỉ đạo đưa các trung đội về cơ sở phối hợp cùng các Ban công tác liên thôn củng cố, dẫn dắt các đội du kích xã và mặt khác để lại một số trung đội ở địa bàn xung yếu cùng du kích giữ căn cứ. Chi đội chủ trương vừa tập trung tác chiến vừa huấn luyện, lấy thực tế chiến đấu để xây dựng và huấn luyện chiến sĩ. Khắc phục điểm yếu về vũ khí, ban chỉ huy chủ trương chọn mục tiêu tiến công là các đoàn xe lửa vì địch chuyển quân, thiết bị ra Bắc chủ yếu phải

Page 41: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 41

dùng đường sắt, tuyến phục kích tương đối ngắn, thông tin liên lạc của địch còn hạn chế.

Về vũ khí, chi đội chỉ có loại mìn tạo từ đầu đạn pháo 75 ly, nên đề ra cách đánh là kết hợp dùng mìn chế tạo từ đầu đạn pháo 75 ly, với việc tháo ốc vít các thanh tà vẹt với đường ray, chờ khi xe lửa địch đến thì nổ mìn đồng thời cột dây kéo mạnh đường ray làm đầu xe lửa trật bánh sắt phải dừng lại để bộ đội xung phong.

Chuẩn bị trận phục kích trong trận đánh xe lửa Bảo Chánh 1947

Tháng 5 – 1947, Ban chỉ huy chi đội 10 tập trung cả ba đại đội (thiếu) gồm 6 trung đội tổ chức đánh đường sắt tại Xuân Lộc. Từ tháng 5 đến tháng 7 – 1947, chi đội đã đánh 4 trận. Hai trận mở đầu ở Bảo Chánh 1 (19 – 5- 1947) và Trảng Táo (6 - 1947) cách đánh là dùng mìn 75 ly kết hợp dây kéo. Trận Bảo Chánh 1, đầu xe lửa của địch bị trật bánh khỏi đường ray phải dừng lại, quân ta xung phong diệt địch thu nhiều vũ khí. Trận Gia Huynh bộ đội ta men theo bìa rừng truy kích, diệt được wagông bọc thép, thu nhiều súng đạn.

Trận Bảo Chánh II (tháng 6 - 1947), quả mìn 50 kg do Binh công xưởng chế tạo được Ban chỉ huy chi đội đưa vào sử dụng. Theo kế hoạch, ta đánh vào đoàn tàu thứ hai Một tình huống ngoài dự kiến xảy ra. Mỗi đoàn tàu, địch dùng đến hai đầu máy: một đầu máy kéo và một đầu máy đẩy. Do đó khi đầu máy đẩy xuất hiện, bộ đội lại tưởng là đầu đoàn tàu thứ hai, nổ mìn đánh. Đoàn tàu thứ hai cách 200 mét. Ban chỉ huy phải lệnh cho bộ đội vận động tấn công diệt wagông bọc thép và rút lui an toàn.

Page 42: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 42

Sau loạt trận đánh đường sắt ở Xuân Lộc, toàn chi đội rút về chiến khu Đ rút kinh nghiệm và bước vào đợt huấn luyện mới. Qua thực tế chiến đấu và tiếp thu lý thuyết mới về sản xuất mìn, binh công xưởng đã chế tạo ra loại mìn lõm - gọi là bazomine vừa gọn nhẹ nhưng có sức công phá lớn.

Tháng 12 năm 1947, theo chỉ đạo thống nhất từ Bộ Tư lệnh khu, tỉnh đội dân quân Biên Hòa thành lập do Cao Văn Bổ (từ chi đội 10 bổ sung) làm Tỉnh đội trưởng, hai tỉnh đội phó là Nguyễn Văn Trị (thường vụ Tỉnh đoàn) và Nguyễn Thị Nguyệt (thường vụ Liên hiệp phụ nữ tỉnh). Nguyễn Văn Lai (tỉnh ủy viên) làm chính trị viên. Các Ban công tác liên thôn sát nhập theo địa bàn quận trở thành quân đội dân quân, các xã thành xã đội dân quân, bộ đội địa phương quận, du kích xã được hình thành trên cơ sở du kích của các ban công tác liên thôn trước đây. Chi đội 10 và hệ thống tỉnh đội dân quân, quân đội dân quân, du kích xã hợp thành tổ chức 3 thứ quân khá vững chắc ở Biên Hòa.

b. Trận phục kích La Ngà ( 1/3/1948) La Ngà là tên một chi lưu của sông Đồng Nai, cũng là một địa danh đi vào

lịch sử của dân tộc trong kháng chiến chống Pháp xâm lược. Trên quốc lộ 20 đi Đà lạt từ cầu la Ngà lên Định Quán.

Đây là trận đánh giao thông lớn nhất ở miền Đông Nam bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp do lực lượng vũ trang Chi đội 10 Biên Hoà phối hợp với Liên quân 17 do (bộ đội Khu 7) thực hiện. Chi đội 10 lúc bấy giờ do Huỳnh Văn Nghệ làm chi đội trưởng (đồng thời là Khu bộ phó khu 7), ông Nguyễn Văn Lung – chi đội phó – trực tiếp chỉ huy trận đánh.

Page 43: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 43

Huỳnh Văn Nghệ (1914-1977), một nhà hoạt động cách mạng và là một chỉ huy

quân sự Việt Nam

Ngày 01 tháng 3 năm 1948, sau một thời gian dài chuẩn bị, Chi đội 10 phục kích tấn công đoàn xe quân sự Pháp từ Sài Gòn đi Đà Lạt trên lộ 20. Tuyến phục kích trải dài trên 9 km từ cây số 104 đến 113 nay thuộc địa bàn Định Quán. Đây là đoạn đường rải nhựa bằng phẳng nhưng uốn lượn quanh co khúc khuỷu, có nhiều đoạn dốc kéo dài. Hai bên đường là rừng già, có chỗ một bên là vực sâu, có độ dốc cao.

Ngày 22 – 2 -1948, công tác lương thực đã chuẩn bị xong, các kho dự trữ đảm bảo cho 1.000 quân ăn trong 7 – 10 ngày. Trinh sát chi đội nắm chắc quy luật các đoàn xe địch thường di chuyển trên quốc lộ 20. Địa điểm phục kích được chọn từ cầu La Ngà đến Định Quán (cây số 104 đến 113). Đảng ủy, Ban chỉ huy chi đội 10 mở cuộc họp hạ quyết tâm và thông qua kế hoạch tác chiến gồm các điểm chính:

- Tiêu diệt gọn đoàn xe chở cán bộ quân sự địch đi dự hội nghị quân chính Đà Lạt vào đầu tháng 3 – 1948 trên quốc lộ 20.

- Phải thắng cả quân sự, chính trị, dân vận và địch vận. Do đó phải giáo dục bộ đội giữ nghiêm kỷ luật chiến trường, thực hiện tốt chính sách tù hàng binh và công tác dân vận.

- Phải bố trí lực lượng tốt ở căn cứ để chống càn vì sau trận đánh, địch thua đau sẽ trả đũa càn quét vào căn cứ kháng chiến, có kế hoạch bám sát

Page 44: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 44

địch, ngay từ đầu và đánh mạnh thị xã Biên Hòa, thị trấn Xuân Lộc… buộc địch phải bị động ứng phó.

Trong quá trình chuẩn bị trận đánh, Huỳnh Văn Nghệ được đề bạt làm Khu bộ phó khu 7, nhưng vẫn kiêm chi đội trưởng chi đội 10 Biên Hòa. Đồng chí Nguyễn Văn Lung – chi đội phó trực tiếp chỉ huy tổ chức trận đánh giao thông.

Ngày 26 tháng 2 năm 1948, đơn vị hành quân bí mật từ chiến khu Đ về trận địa tây quốc lộ 20 cách căn cứ 80 km. Ngày 29 tháng 2, toàn lực lượng chiếm lĩnh trận địa chiến đấu, Binh công xưởng chi đội bố trí địa lôi ở 3 trận địa A, B, C, bên trên ngụy trang bằng những đống phân voi. Tại sở chỉ huy, Ban chỉ huy nhận được điện của Khu bộ phó Huỳnh Văn Nghệ: Trận phục kích giao thông được mang tên Dương Văn Dương để kỷ niệm 2 năm ngày mất của ông – nguyên là Khu bộ phó Khu 7.

Toàn bộ lực lượng ta cấp tốc hành quân trở về chiến khu Đ, kịp thời phối hợp cùng các đơn vị tại chỗ tổ chức đánh địch bẽ gãy trận càn của 4.000 quân Pháp vào căn cứ.

Chiến thắng La Ngà là thắng lợi lớn diệt gọn đoàn xe quân sự địch

Ngày 27 tháng 3 năm 1948, trong cuộc hội nghị quân sự toàn khu, Bộ tư lệnh khu 7 đánh giá: “đánh trận La Ngà, quân ta đạt yêu cầu đề ra, thắng cả về quân sự và chính trị. Thắng lợi về quân sự là lớn, nhưng thắng lợi về chính trị còn lớn hơn. Bằng những hành động thực tế của mình trong chiến đấu, trong việc chấp hành đúng đắn các chính sách dân vận, địch ngụy vận của Đảng và Nhà nước, chiến sĩ La Ngà đã làm cho nhân dân tin tưởng, quý mến, kẻ địch khiếp sợ

Page 45: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 45

và khâm phục. Trận La Ngà chứng tỏ bộ đội khu 7 nói chung, bộ đội Biên Hòa nói riêng có bước trưởng thành về nhiều mặt”.

Bộ tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam gửi điện khen cán bộ, chiến sĩ chi đội 10, tặng thưởng đơn vị làm nên chiến thắng La Ngà Huân chương quân công.

Tượng đài chiến thắng La Ngà

c. Công nhân cao su với “Mặt trận cao su chiến”: Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, phong trào công nhân ở các đồn

điền cao su tỉnh Biên Hòa phát triển khá mạnh. Khi thực dân Pháp mở rộng lấn chiếm các tỉnh miền Đông (từ cuối tháng

10 năm 1945), các đồn điền An Lộc, Dầu Giây, Bình Sơn… ở Biên Hòa đều tổ chức được trung đội tự vệ chiến đấu do cán bộ Việt Minh huấn luyện sẵn sàng chặn địch. Công nhân đồn điền Túc Trưng đốn cây lăn ra mặt đường trên đoạn đường dài từ Dầu Giây lên cầu La Ngà (quốc lộ 20), tự vệ Kinh, Thượng chuẩn bị chai xăng, cung ná, tên tẩm thuốc độc phục sẵn bên đường để chặn giặc. Công nhân các sở khuân vác, tháo gỡ các thiết bị máy tiện, khoan, máy cán mũ, sắt, thép, hóa chất… ra rừng, làm cơ sở để xây dựng các binh công xưởng.

Tại Biên Hòa, cuối năm 1945, hướng quốc lộ 1 và 20, tự vệ công nhân các đồn điền Trảng Bom, Dầu Giây, Suối Tre, An Lộc, Bình Lộc, Túc Trưng liên tục chặn đánh địch mở rộng lấn chiếm. Khi tư bản thực dân trở lại, các đồn điền cao su ở Biên Hòa đều bị phá hoại nghiêm trọng. Hầu hết công nhân rút ra vùng căn cứ tham gia kháng chiến (như Định Quán, Võ Đắc, Bảo Chánh, Bàu Lâm, Phước An).

Page 46: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 46

Sau Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Tổng công đoàn Nam bộ chỉ đạo xây dựng rộng rãi tổ chức công đoàn để vận động công nhân tham gia kháng chiến. Tại Biên Hòa, giữa năm 1946, công đoàn cơ sở vùng đồn điền được xây dựng với 4.000 hội viên. Hàng loạt công nhân thoát ly tham gia Vệ Quốc đoàn

Một trung đội dân quân được liên đoàn giao nhiệm vụ phá hoại cao su, đánh vào kinh tế của thực dân Pháp ở Biên Hòa, mở đợt hoạt động “biến đồn điền thành chiến trường diệt địch” và “phá hoại kinh tế địch”. Hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân cao su Biên Hòa nổ ra vào các dịp lễ 1 – 5, 19 – 5, 14 – 7 – 1947 ở Suối Tre, Cốc Rang, Dầu Giây bằng hình thức đình công, lãn công, giấu dụng cụ cạo mủ, đòi nghỉ ngày Quốc tế lao động, đòi tăng lương. Ngày 14 – 7- 1947 (quốc khánh nước Pháp), thợ chuyên môn ở các xưởng, phòng giấy đồn điền Bình Lộc, An Lộc, Dầu Giây gài chất nổ ở các nhà máy đèn, máy nước, kho dầu, kho mủ, phá hủy một lượng thiết bị, sản phẩm, bỏ sở ra khu kháng chiến.

Thực dân đàn áp, bắn giết công nhân rất dã man, nhưng không ngăn được lòng yêu nước, phong trào nam nữ thanh niên theo cách mạng tòng quân giết giặc và phá hoại cao su của công nhân. Ngoài hoạt động của đội chuyên trách Liên đoàn, công nhân ở các đồn điền tham gia phá hoại bằng nhiều hình thức như vạt vỏ, chặt cây, đổ mủ nước, chôn mủ bèo, đập chén, tháo kiềng, đốt mủ thành phẩm, đốt lò xông… Chỉ riêng ngày 19 – 5 – 1947, công nhân cao su Biên Hòa chặt phá 300.000 cây cao su.

Hoạt động của công nhân cao su Biên Hòa góp phần thu hẹp diện tích khai thác cao su và sản lượng mủ của tư bản đồn điền như lời thú nhận của giới chủ đồn điền Nam bộ với tướng Revers khi y sang Đông Dương: “sức sản xuất cao su của chúng tôi hiện giờ đã mất hẳn 2/3 do công nhân phá phách và bỏ đồn điền trốn đi. Mối nguy cơ này còn có thể to hơn nữa”.

Công nhân cao su tỉnh Biên Hòa còn là lực lượng tích cực xây dựng các vùng căn cứ kháng chiến. 2.000 công nhân cao su huyện Xuân Lộc được đưa về chiến khu Đ ở khu vực Hàng Dài, lập thành xã Cộng hòa. 2.000 công nhân khác về xã Long An, Long Thành; 800 công nhân về Bàu Lâm xây dựng căn cứ Xuyên Phước Cơ Bà Rịa). Hàng trăm công nhân Bình Lộc về Võ Đắc lập xã Tứ Hiệp, việc xây dựng làng xã và cuộc sống mới của công nhân cao su ở các vùng căn cứ kháng chiến vừa góp phần xây dựng hậu phương cách mạng, vừa cỗ vũ phong trào công nhân các đồn điền do địch kiểm soát.

Tháng 5 năm 1951, tỉnh Biên Hòa, tỉnh Thủ Dầu Một sáp nhập thành tỉnh Thủ Biên. Nhằm đẩy mạnh công tác xây dựng, khôi phục phát triển cơ sở trong

Page 47: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 47

công nhân và vùng đồng bào dân tộc, tỉnh thành lập hai đội vũ trang tuyên truyền Xuân Lộc và Trảng Bom. Thành phần đội gồm có bộ đội, công an, cán bộ mặt trận, đoàn thể cứu quốc. Cả hai đội tổ chức nhiều đoàn xâm nhập vào các đồn điền móc nối cơ sở cũ, khôi phục cơ sở, tạo địa bàn để lực lượng vũ trang tiến công địch; phát triển phong trào chống bắt lính trong công nhân; phục vụ các trận tấn công địch.

Cuối năm 1953, đầu năm 1954, tổ chức công đoàn, tổ chức Đảng ở các đồn điền Biên Hòa, Xuân Lộc được khôi phục, làm cơ sở quan trọng cho cuộc chiến đấu chống Mỹ, ngụy sau khi có Hiệp định Genève tháng 7 – 1954.

d.Trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên-Biên Hòa khai sinh lối đánh đặc công: Trong hàng trăm trận đánh trên vùng đất Chiến khu Đ anh dũng, có một

trận đánh đặc biệt, thể hiện cho tinh thần mưu trí sáng tạo, quyết đánh, quyết thắng của lực lượng ta. Đó chính là trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên gắn liền với tên tuổi của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Đại tá Trần Công An. Người con của vùng đất Chiến khu Đ kiên cường này tên thật là Trần Văn Kìa, hay còn được gọi là Hai Cà.

Đêm 18 rạng sáng 19/3/1948, ông Hai Cà chỉ huy một tổ gồm 2 du kích Trần Văn Nguyên và Hồ Văn Lung bí mật xâm nhập trận địa. Phía bên ngoài, ông cử 2 du kích Nguyễn Văn Ai và Trần Văn Hỏi làm nhiệm vụ cảnh giới. Nhờ ngụy trang tốt và giữ được yếu tố bất ngờ, cả 3 người xâm nhập thành công vào trận địa cùng với chiếc thang dùng để leo tường. Theo sự phân công, du kích Nguyên leo lên tầng tháp trên, du kích Lung leo lên tầng giữa, ông Hai Cà ở tầng dưới vừa đánh vừa chỉ huy, mỗi người thống nhất ném vào mỗi lỗ châu mai 3 quả lựu đạn. Sau khi ném 3 quả lựu đạn, nghi bọn địch chưa chết hết, ông Hai Cà “tặng” chúng thêm một khối thuốc nổ. Sức nổ quá mạnh khiến ông bị thương, nhưng trận đánh đã giành thắng lợi lớn, ta tiêu diệt 11 tên địch, thu 8 súng và 20 lựu đạn. Sau trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên thắng lợi, Tỉnh đội Biên Hòa và Bộ Chỉ huy khu 7 đã nhiệt liệt biểu dương Đội du kích Tân Uyên và cá nhân ông Hai Cà. Trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên với cách đánh bất ngờ, lấy ít đánh nhiều đã khai sinh ra lối đánh đặc công của lực lượng ta và vùng đất Tân Uyên - Chiến khu Đ trở thành nơi khởi phát của cách đánh này. Du kích Tân Uyên về sau thành lập đại đội bộ đội địa phương Nguyễn Văn Nghĩa, được công nhận là đại đội đặc công đầu tiên của cả nước. Sau này, ngày chiến thắng tháp canh cầu Bà Kiên 19/3 được lấy làm ngày truyền thống Bộ đội đặc công. Lời huấn thị nhân ngày thành lập Binh chủng Đặc công 19/3/1967 của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đặc công tức là công tác đặc biệt, là vinh dự đặc biệt, cần phải có cố gắng đặc biệt”. Bác

Page 48: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 48

Hồ còn tặng cho Binh chủng Đặc công 4 câu nhân dịp về thăm binh chủng: “Đặc biệt tinh nhuệ. Anh dũng tuyệt vời. Mưu trí táo bạo. Đánh hiểm thắng lớn”. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã sử dụng lối đánh đặc công tấn công các đồn bót, kho tàng, căn cứ quân sự hiểm yếu của địch. Bằng lối đánh bất ngờ, lấy ít đánh nhiều, lực lượng đặc công đã làm nên những chiến công vang dội, tiêu diệt và làm tiêu hao nhiều sinh lực địch. Người có công đầu trong việc xây dựng, hình thành lối đánh đặc công là cố Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Đại tá Trần Công An Đặc biệt ở Biên Hòa theo cách đánh này, các chiến sĩ đặc công của ta đã làm nên những chiến thắng vang dội như: chiến thắng Sân bay Biên Hòa và Tổng kho Long BìnhTừ cách đánh đặc công trên bộ, chiến trường miền Nam đã hình thành cách đánh đặc công thủy và Đồng Nai có người chiến sĩ Rừng Sác tiên phong là Đại tá Lê Bá Ước, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 10 đặc công Rừng Sác với trận đánh kho xăng Nhà Bè vang dội, lẫy lừng. Phương châm: Đặc biệt tinh nhuệ - anh dũng tuyệt vời - mưu trí táo bạo - đánh hiểm thắng lớn đã và đang được binh chủng phát huy

Để tưởng nhớ chiến công ngày 19-3-1948, TX.Tân Uyên đã xây dựng bia

tưởng niệm trong khuôn viên 1.800m2. Bia tưởng niệm khắc bức phù điêu 3 chiến

sĩ du kích công đồn để nhắc nhở thế hệ sau về chiến công vang dội của du kích

Chiến khu Đ, về nơi đã khai sinh ra lối đánh đặc công của quân đội ta.

Page 49: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 49

e. Phối hợp chiến trường cả nước giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp

Cùng cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy địa cầu, trong Đông Xuân 1953 -1954 lực lượng vũ trang toàn tỉnh thực hiện 137 trận đánh lớn nhỏ, đã loại khỏi vòng chiến đấu 1148 tên địch, làm bị thương 194 tên, bắt sống 11 tên, thu 183 súng các loại, phá hủy 19 xe, đánh sập 3 bốt, 5 tháp canh. Các đội vũ trang tuyên truyền tổ chức 147 cuộc tuyên truyền. căn cứ chiến khu Đ hoàn toàn do ta làm chủ , một vùng rộng lớn giáp sông Đồng Nai về phía Nam, phía Bắc vượt qua sông Bé, phía Tây giáp lộ 16.

Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, cứ điểm kiên cố của địch bị đập tan, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào đàm phán. ngày 20/7/1954, Hiệp định Gionevo được kí kết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi Hiệp định, Tỉnh ủy chỉ đạo đình chỉ mọi hoạt động trên địa bàn tỉnh. Quân dân Biên Hòa- Đồng Nai, qua chín năm kháng chiến với bao gian khổ hi sinh, mất mát đau thương, vượt bao thử thách góp phần vào thắng lợi chung của cả nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược làm rạng danh vùng đất “ Miền Đông gian lao mà anh dung” của Nam Bộ thành đồng Tổ quốc, mà Bác Hồ đã phong tặng từ những ngày đầu kháng chiến. B. Đồng Nai trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước và xây dựng đất nước ( từ 30/4 1975 đến nay)

I. Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân Đồng Nai ( 1954 – 1975)

1.Bối cảnh Tháng 7 – 1954, cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp của nhân

dân ta kết thúc thắng lợi. Chiến tranh kết thúc, nhưng thắng lợi chưa trọn vẹn. Theo hiệp định Gionevo , đất nước ta tạm thời chia cắt làm hai miền: Miền bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tạm thời thực dân Pháp kiểm soát và sau hai năm, đến ngày 20-7-1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử trong toàn quốc để thống nhất đất nước. Trên thực tế,đế quốc Mĩ âm mưu phá hoại Hiệp định, hất chân thực dân Pháp, trực tiếp can thiệp vào miền Nam. Kể từ đó nhân dân miền Nam lại tiếp tục khang chiến với kẻ thù mới đó là bọn xâm lược Mĩ, một đế quốc đầu sỏ ròng rã suốt 21 năm trời.

Page 50: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 50

Cầu Hiền Lương nỗi đau chia cắt hai miền Nam –Bắc sau hiệp định Gio-ne-vơ

(1954)

Thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước, áp đặt chủ nghĩa thực dân

mới, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng ở

miền Đông Nam Á, đế quốc Mĩ đã sớm tổ chức xây dựng bộ máy phục vụ cho

chiến tranh khá đồ sộ trên toàn miền Nam. Ngày 7-7-1954, chúng đưa Ngô Đình

Diệm về miền Nam lập chính phủ bù nhìn. Tiếp đó tháng 11-1954, cử tướng

Colin sang miền Nam làm đại sứ và thực hiện kế hoạch 6 điểm của chính quyền

Aixenhao về xâm lược miền Nam. Chỉ trong vòng chưa đầy 2 năm ( 1955-1956),

Mĩ- Ngụy đã tổ chức bộ máy kìm kẹp các cấp ở hầu hết các địa phương

2. Quá trình Pháp xâm lược của Mĩ vào Biên Hòa - Đồng Nai

Đồng Nai, vùng đất của miền Đông Nam Bộ chỉ cách sào huyệt của chính

quyền Sài Gòn 30 km, một vị trí quan trọng, có 3 vùng chiến lược rừng núi, đồng

bằng nông thôn và đô thị. Có rừng tự nhiên, hệ thống giao thông thuận tiện (

đường bộ, đường thủy, đường sắt) nối liền với cực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên

và Sài Gòn, miền Tây Nam Bộ…Vì vậy, trong kháng chiến chống Mĩ, kẻ thù

quyết tâm biến Đồng Nai thành chỗ dựa vững chắc, hậu phương an toàn của

chúng.

Page 51: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 51

Để bảo vệ sào huyệt của chế độ ngụy quyền Sài Gòn, và ngăn chặn bước

tiến của quân giải phóng, đế quốc Mĩ và tay sai trong 21 năm tiến hành chiến

tranh xâm lược, đã lấy Biên Hòa – Đồng Nai để xây dựng những cơ quan đầu não

chỉ huy của chúng ở miền Đông Nam Bộ. nhiều căn cứ quân sự lớn, hệ thống kho

tang hậu cần phục vụ chiến tranh xâm lược, tổ chức ngụy quâm, ngụy quyền với

bộ máy kìm kẹp dày đặc, hệ thống căn cứ quân sự kiên cố cùng với các đơn vị

tinh nhuệ, với sự yểm trợ của nhiều lực lượng, phương tiện, vũ khí hiện đại. tại

đây quân viễn chinh Mĩ, quân chư hầu, quân ngụy đã sử dụng thủ đoạn thâm độc

để đánh phá phong trào cách mạng trên địa bàn Đồng Nai. Chúng không từ bỏ

một thủ đoạn chính trị, kinh tế, văn hóa thâm độc. sử dụng bom pháo, chất độc

hóa học hủy diệt môi trường để thực hiện mục đích của chúng

Về quân sự, những năm đầu sau tháng 7-1954, chúng tổ chức các đoàn dân

vệ, sau đó chuyển thành dân vệ xã, bảo an thuộc quận, tỉnh. Khi loại được thực

dân Pháp và các thế lực thân Pháp ở miền Nam, Mĩ tiến hành củng cố, tổ chức lại

ngụy quân. Chúng ra sức bắt lính xây dựng quân đội, dân vệ do Mĩ huấn luyện.

hệ thống đồn bốt, căn cứ quân sự của địch trên địa bàn Biên Hòa nhanh chóng

được xây dựng lại và mở rộng thêm

Về bố trí lực lượng địch tổ chức xây dựng nhiểu căn cứ quân sự mang tính

chiến lược, bố trí nhiều đơn vị tinh nhuệ hòng ngăn chặn sự tiến công của bộ đội

ta. Chúng mở rộng sân bay Biên Hòa thành sân bay quân sự lớn nhất Đông

Dương , xây dựng tổng kho quân sự Long Bình thành kho dự trữ chiến lược, kho

đạn Thành Tuy Hạ ( Nhơn Trạch ). Về lực lượng có Nha cảnh sát miền Đông,

quân đoàn 3, sư đoàn 18 ngụy, Bộ tư lệnh dã chiến II Mĩ, Bộ tư lệnh hậu cần số 1

Mĩ…

3. Phong trào đấu tranh chống Mĩ – Ngụy của nhân dân Biên Hòa -Đồng Nai

Thời kì đầu của cuộc kháng chiến, nhân dân Đồng Nai tiến hành đấu tranh chính trị chống kẻ thù mới là đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai. Nhiệm vụ thời kì này là đặt ra đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, đòi kẻ thủ thực hiện nghiêm chỉnh hiệp

Page 52: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 52

định Gionevo. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân, cường hào tư sản và ngụy quyền cướp ruộng đất nổ ra ở hầu khắp các huyện trong tỉnh.

3.1. Đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, đòi thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ Cuối năm 1954 đầu năm 1955, hàng chục cuộc đấu tranh của công nhân

cao su đòi dân sinh dân chủ ở các đồn điền trong tỉnh và đến giữa năm 1955 đã trở thành cao trào đấu tranh chính trị sôi động ở các tỉnh miền Đông Nam bộ.

Ngày 1 tháng 5 năm 1955 cùng với toàn miền, công nhân cao su Biên Hòa dưới sự lãnh đạo của các đồng chí trong Ban công vận Xứ và các huyện ủy Xuân Lộc, Long Thành đã đồng loạt đình công 24 giờ, tổ chức mít–tinh tại các trung tâm đồn điền An Lộc, Bình Sơn… đưa ra một số yêu sách.

Cuộc đấu tranh bước đầu giành được thắng lợi, giới chủ đồn điền buộc phải giải quyết một số yêu sách của công nhân. Ngày Quốc tế lao động, hàng ngàn công nhân cao su Biên Hòa từ các đồn điền tổ chức thành đội ngũ chỉnh tề kéo về Sài Gòn phối hợp với công nhân cao su toàn miền Đông Nam bộ biểu tình thị uy đưa bản kiến nghị với 16 yêu sách buộc chính quyền Diệm, các chủ sở và đại diện công nhân ký vào văn bản. Đây là thắng lợi vô cùng to lớn của đội ngũ công nhân cao su miền Đông Nam bộ trong tiến trình đấu tranh đòi thực hiện các quyền lợi dân sinh dân chủ.

Ngày 1 tháng 5 năm 1955, ở Biên Hòa, nghiệp đoàn lao động BIF tổ chức một đoàn biểu tình hơn 600 người gồm thợ và nhân dân các ấp xung quanh: Tân Mai, Lân Thành, Vĩnh Thị… về sân bóng đá Biên Hòa dự cuộc mít–tinh do Tổng liên đoàn lao động tổ chức.

Từ tháng 6 năm 1955 nhân dân Biên Hòa gửi hàng trăm bản kiến nghị, đến trụ sở Ủy hội quốc tế đấu tranh, bày tỏ nguyện vọng chính đáng của đồng bào. Ngày 20 tháng 7 năm 1955, kỷ niệm một năm ngày ký Hiệp định Giơ–ne–vơ, hàng ngàn truyền đơn được rãi khắp nơi công bố công hàm của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đòi lập quan hệ bình thường giữa hai miền Nam - Bắc. Hàng chục khẩu hiệu, cờ Đảng, cờ Tổ quốc xuất hiện.

Ngày 20 tháng 7 năm 1955, tỉnh trưởng Biên Hòa tổ chức một cuộc mít–tinh tại trường Nam tiểu học (nay là trường Nguyễn Du) phô trương thanh thế, xuyên tạc nội dung hiệp định Giơ–ne–vơ, phá hoại hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Thị ủy Biên Hòa, các nhóm, đoàn viên thanh niên lao động bí mật rải hàng trăm truyền đơn ngay tại sân lễ và các đường phố trong thị xã và chiều tối gây tiếng nổ trước Ty cảnh sát làm thất bại cuộc mít–tinh do địch tổ chức.

Page 53: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 53

Ngày 23 tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm bày trò “trưng cầu dân ý” nhằm truất phế Bảo Đại. Tỉnh ủy Biên Hòa vận động quần chúng tẩy chay bầu cử. Đêm 22 rạng 23 tháng 10 năm 1955, lực lượng vũ trang Biên Hòa (lấy danh nghĩa lực lượng Bình Xuyên ly khai) nã đạn vào sân bay Biên Hòa, gây hoang mang bọn tề ngụy ở địa phương. Nhân dân Biên Hòa bằng nhiều hình thức không tham dự bầu cử, địch phải huy động binh lính và cảnh sát đến từng xóm ấp, khu phố buộc đồng bào đến hòm phiếu.

Ngày 4 tháng 3 năm 1956, Mỹ - Diệm tổ chức bầu cử Quốc hội bù nhìn. Tỉnh uỷ Biên Hòa chỉ thị các cấp vận động nhân dân chống lại, hàng ngàn truyền đơn tố cáo âm mưu thủ đoạn của giặc được rãi nhiều nơi. Tại thị xã Biên Hòa, các tổ đoàn viên thanh niên lao động đã dùng khoai môn kẻ khẩu hiệu trên các trục đường nhựa dán nhiều áp phích kêu gọi nhân dân tẩy chay bầu cử.

Đầu năm 1956, phong trào đấu tranh chính trị ở Biên Hòa tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Công nhân các đồn điền cao su, nhà máy, các nghiệp đoàn và nông dân đoàn kết đấu tranh chống địch cướp đất.

Thời kỳ 1954 – 1956 Đảng bộ Biên Hòa kiện toàn củng cố được hệ thống cơ sở Đảng, xây dựng được mạng lưới cơ sở cách mạng trong công nhân, nông dân và trí thức. Từ đội quân chính trị đông đảo này, Đảng phát động phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ với khẩu hiệu trung tâm là đòi các quyền lợi dân sinh dân chủ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử.

3.2 .Cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ( 12-1956) Tháng 7 năm 1956, Mỹ - Diệm mở chiến dịch Trương Tấn Bửu đánh phá

khốc liệt nhằm đàn áp phong trào và tiêu diệt cán bộ, đảng viên, cơ sở cách mạng. Chúng dùng lực lượng chủ lực kết hợp với bọn bảo an dân vệ, công an cảnh sát chà đi xát lại hầu hết các xã ấp ở Biên Hòa, tập trung là các đồn điền cao su, các vùng căn cứ kháng chiến ở Tân Uyên, Vĩnh Cửu, Long Thành… Nhiều cán bộ, đảng viên của tỉnh Biên Hòa sa vào tay giặc. Hàng trăm cán bộ, đảng viên và quần chúng cơ sở khắp các huyện thị ở Biên Hòa bị bắt bớ, tù đày. Nhà tù Tân Hiệp mà chế độ Mỹ - Diệm gọi là “Trung tâm huấn chỉnh Biên Hòa” có diện tích 3.600 m2 nằm cạnh quốc lộ 1 đối diện Bệnh viện tâm thần Biên Hòa, cách trung tâm thị xã Biên Hòa 2 km về phía Đông. Đây là một trong sáu nhà tù lớn của địch ở miền Nam nước ta lúc bấy giờ. Sau Hiệp định Giơ–ne–vơ, Mỹ - Diệm đã bắt hàng ngàn cán bộ đảng viên, đồng bào yêu nước khắp miền Nam giam giữ tại đây. Đến thời điểm tháng 12 năm 1956 nhà tù Tân Hiệp địch giam 1.872 người trong đó có nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước.

Page 54: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 54

Trước những hành động khủng bố, tàn sát ngày càng trắng trợn của Mỹ - Diệm, thực lực cách mạng ngày càng tổn thất nghiêm trọng. Không ảo tưởng trong cuộc “đấu tranh chính trị đơn thuần” đối với kẻ thù ngày càng lộ rõ bộ mặt phát xít, từ giữa năm 1956, Đảng ủy nhà tù Tân Hiệp (Biên Hòa) chủ trương tổ chức phá khám trở về với cách mạng, với nhân dân.

Giờ G, phá khám ấn định là chiều ngày chủ nhật 02 tháng 12 năm 1956. Chiều chủ nhật, nhà tù Tân Hiệp vẫn trong không khí bình lặng như mọi

ngày. Sinh hoạt của tù nhân vẫn diễn ra theo giờ giấc qui định của trại. Sau buổi cơm chiều, đúng 17 giờ 30 đài phát thanh Sài Gòn phát chương trình cổ nhạc. Anh chị em tù nhân tập trung ngồi trước cửa trại vừa nghe nhạc vừa đợi giờ vào trại. 17 giờ 40 phút, tất cả các đồng chí trong lực lượng xung kích đều ở trong tư thế sẵn sàng. Các tổ chiến đấu áp sát những mục tiêu đã được phân công.

Đúng như phương án tác chiến giờ đổi gác là lúc địch có nhiều sơ hở. Ngày chủ nhật cũng là thời điểm mà binh lính có nhiều chểnh mảng hơn ngày thường. Chín tháp canh xung quanh trại giam theo qui định phải có 3 lính gác thường trực, gác cổng 3 người, cộng tất cả là 30. Nhưng thực tế cuộc giao ca gác vào buổi chiều ngày chủ nhật này mỗi tháp chỉ còn một lính canh. Kho vũ khí có khoảng 9 – 10 tên lính, hết phiên trực đã nộp súng đạn vào kho và ngồi tán gẫu. Toàn bộ lính trực trong thời điểm này chỉ còn 12 tên.

17 giờ 50 phút, sau tiếng kẻng báo tù nhân vào trại thì tiếng hô “xung phong” vang dậy khắp nơi. Xung kích nhanh chóng tiến thẳng đến mục tiêu. Tổ xung kích do các đồng chí Lê Toàn Thư, Tư Tăng, Cội, Mìn, Nhàn, Sỏi, Còn Lém… xông thẳng vào kho vũ khí bắt trói trưởng toán gác lấy toàn bộ vũ khí. Bọn lính kế bên hốt hoảng bỏ chạy tán loạn.

Phải mất mấy phút sau cánh cổng mới mở được. Anh em tù nhân từ các trại D, E, G ào ạt tuôn ra cửa. Trước làn sóng người tràn ra như nước vỡ bờ, tên lính gác bên ngoài cổng chính giương súng bắn, lập tức bị một xung kích quật ngã và đoạt lấy súng. Dòng người tuôn ra cửa mỗi lúc một đông. Một số anh chị em không được phổ biến trước cũng vội vàng chạy theo.

Theo kế hoạch của ta thì khi dứt điểm hoàn toàn các mục tiêu bên trong, lực lượng xung kích nhanh chóng chuyển ra ngoài triển khai chốt chặn ở hai đầu đường, dùng súng cướp được bắn áp chế các tháp canh số 1 và số 2 để yểm trợ anh chị em tiếp tục chạy thoát. Do có sự ùn tắc ngoài dự kiến, nên không thực hiện được phương án.

Khi địch nổ súng, một bộ phận xung kích gồm các đồng chí Nguyễn Chiến Lũy (Hai Thông), Phạm Văn Rô, Tân, Thức… đang vận động về phía sau trại E,

Page 55: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 55

quay súng bắn kiềm chế hai tháp canh (tháp 1 và 2) nhằm hút hỏa lực địch về phía sau.

Trước làn đạn xối xả của địch, số anh chị em ta chạy ra sau trúng đạn gần 30 đồng chí vừa hy sinh, vừa bị thương nằm trước cổng trại, bên ngoài sân banh và ven bờ suối.

Cuộc nổi dậy phá khám nổ ra trong vòng 40 phút. Đến 18 giờ 30 số tù nhân còn lại bị địch gom vào các trại, binh lính canh giữ nghiêm ngặt.

Sau khi thoát khỏi trại giam, đoàn vượt ngục chia làm nhiều cánh để tìm về căn cứ. Mặc dầu địch tăng cường lực lượng truy đuổi, phục kích bố ráp gắt gao, nhưng không một ai nản lòng, có 462 đồng chí thoát được trở về tới căn cứ.

Trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, đây là cuộc nổi dậy phá khám để tự giải phóng có quy mô lớn nhất, đưa được số lượng lớn cán bộ nòng cốt của Đảng về với cách mạng và cướp được số lượng vũ khí nhiều nhất.

Tuy chưa giải thoát được hết các tù chính trị tại nhà lao nhưng Cuộc phá khám là một tiếng vang lớn lúc bấy giờ đã làm xôn xao cả Lầu Năm góc. Đây là cuộc nổi dậy ngoạn mục của lực lượng tù chính trị, cuộc vượt ngục tập thể lớn nhất, gan dạ nhất chưa từng có trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta.

Biểu diễn văn nghệ tại buổi họp mặt các cựu tù chính trị tại Nhà Lao Tân Hiệp

3.3.Trận đánh Mỹ tại Nhà Xanh (BIF) 1959: Để ngăn chặn những hành động tôi ác của giặc mà bọn đầu sỏ chỉ huy là bè

lũ cố vấn Mỹ, ban lãnh đạo Liên tỉnh ủy miền Đông quyết định tổ chức lực lượng tập kích vào trụ sở phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ (MAAG) đóng tại nhà máy cưa BIF thị xã Biên Hòa. Văn phòng nhà máy cưa BIF trở thành cư xá chuyên gia Mỹ

Page 56: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 56

trong phái đoàn MAAG đang làm nhiệm vụ cố vấn huấn luyện cho sư đoàn 7 ngụy ở Biên Hòa.

Liên tỉnh ủy quyết định chọn một số điểm ở Biên Hòa để điều nghiên đánh Mỹ. Đánh Mỹ ở Biên Hòa thắng lợi sẽ có tác động lớn vì sau Sài Gòn, đay là hậu cứ, là trung tâm đầu não của bọn Mỹ - ngụy ở miền Đông, nơi được mệnh danh là “sân sau của Sài Gòn”. Ban quân sự miền Đông giao trách nhiệm cho đồng chí Lâm Quốc Đăng tổ chức thực hiện nhiệm vụ quan trọng này với phương châm là tuyệt đối bí mật, an toàn, chắc thắng.

Đầu tháng 2 năm 1959, đồng chí Nguyễn Văn Hoa (Năm Hoa) đại đội phó C250 nguyên là thị ủy viên thị xã Biên Hòa nghiên cứu tình hình. Cuối tháng 6 năm 1959, Liên tỉnh ủy và Ban quân sự miền Đông thông qua phương án tập kích vào cư xá bọn cố vấn quân sự Mỹ ở Biên Hòa và ấn định vào 19 giờ ngày 7 tháng 7 năm 1959 nổ súng.

Chiều tối ngày 5 tháng 7 năm 1959, từ căn cứ chiến khu Đ, phân đội vũ trang gồm 6 đồng chí nhận lệnh xuất phát. Khuya ngày 5 tháng 7, đơn vị đã về gò Cây Trâm Muối rừng Tân Phong – Khu căn cứ của Thị ủy Biên Hòa. Tại đây các đảng viên mật của chi bộ sở cao su Bàu Hang đã lo sẵn điểm trú quân, chuẩn bị cơm nước phục vụ anh em. Ngày 6 tháng 7, đồng chí Ba Lễ vào căn cứ gặp mặt toàn đội, trao đổi về tình hình và kế hoạch tác chiến.

Đêm 6 tháng 7, đội vũ trang tiếp tục bí mật hành quân về rừng chồi Gò Me ém quân trong căn hầm bí mật phía sau nhà má Nguyễn Thị Xuân (Ba Xuân) - một cơ sở cách mạng của Thị ủy Biên Hòa.

Ngày 7 tháng 7 khoảng 19 giờ, nhá nhem tối, phân đội vũ trang cải trang thành toán lính đi tuần tới Gò Me men theo bờ ruộng tiến thẳng vào mục tiêu. Tín hiệu của cơ sở cho thấy mọi bí mật vẫn hoàn toàn đảm bảo. Đồng chí Nguyễn Thành Long, kịp thời nổ súng diệt tên lính gác cổng. Một số tự vệ mật khác cũng nhanh chóng chặn kho súng, cho nổ thủ pháo ở khu nhà tên sĩ quan chỉ huy và dãy nhà lính, làm nhiệm vụ kềm chân địch, không cho chúng phản công đánh vào sau lưng các chiến sĩ vũ trang. Các chiến sĩ vũ trang nhanh chóng theo lối cổng phụ tiến vào áp sát cư xá.

Trận đánh diễn ra chưa đầy 15 phút. Địch không kịp trở tay, kể cả số lính bảo vệ nằm sát cư xá. Theo phương án, 5 đồng chí còn lại trong đội vũ trang vượt rào, sân banh, ra lộ 15 hướng suối Săng Máu, rút về chiến khu an toàn. Tự vệ mật Thị ủy Biên Hòa nhanh chóng tản về các nơi, giấu vũ khí, thay đổi trang phục.

Một tiếng đồng hồ sau trận đánh, bọn địch các nơi mới đến được khu cư xá Mỹ. Bọn quân cảnh, cảnh sát Sài Gòn cũng cấp tốc kéo về Biên Hòa phối hợp

Page 57: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 57

truy lùng. Suốt đêm lính địch nhốn nháo khắp nơi nhưng chẳng phát hiện được gì ngoài một số vết tích nghi trang còn lưu lại.

Thế là sau mấy tháng trời âm thầm chuẩn bị với bao công sức của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân miền Đông, trực tiếp là đơn vị đặc công C250 và Đảng bộ nhân dân thị xã Biên Hòa, trận tập kích địch vào cư xá phái đoàn cố vấn Mỹ ở BIF (Nhà Xanh) hoàn thành thắng lợi.

Trận đánh phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ tại Nhà Xanh (BIF) là trận đánh Mỹ đầu tiên của nhân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Di tích Nhà Xanh

Di tích Nhà Xanh là nơi ghi dấu ấn đậm nét sự can thiệp của đế quốc Mỹ vào miền Nam Việt Nam , đồng thời đây còn là di tích thể hiện tinh thần, ý chí cách mạng táo bạo, quả cảm của quân dân Biên Hòa - Đồng Nai trong công cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược. Người chiến sĩ Nguyễn Văn Huề hy sinh anh dũng trong trận đánh được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là trận tấn công đầu tiên của quân ta vào quân đội Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam.

4. Những trận đánh lớn trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở Đồng Nai

4.1. Các trận đánh vào sân bay Biên Hòa

Page 58: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 58

Tháng 10 năm 1964, Tỉnh ủy Biên Hòa tiến hành Đại hội tại căn cứ Suối Cả (Long Thành). Kể từ 1954, đây là lần đầu tiên Biên Hòa tổ chức Đại hội tỉnh Đảng bộ. Đồng chí Phan Văn Trang (Năm Trang) được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.

Trước tình hình mới, khả năng đế quốc Mỹ tăng cường chiến tranh, đưa quân Mỹ trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam. Thực hiện chỉ thị của Trung ương Cục và Khu ủy miền Đông, Tỉnh ủy Biên Hòa tập trung chỉ đạo việc phát triển lực lượng, chuẩn bị nhân tài, vật lực để đánh Mỹ trên mọi mặt trận, mọi lúc.

Từ tháng 10 năm 1964, phối hợp với các lực lượng trinh sát Miền, Tỉnh ủy, Thị ủy Biên Hòa chỉ đạo kết hợp điều nghiên địa hình, bố phòng sân bay Biên Hòa và chuẩn bị trận địa cho lực lượng pháo binh Miền và quân khu tấn công địch.

Lực lượng đánh sân bay Biên Hòa hành quân tiếp cận mục tiêu

Sân bay Biên Hoà là sân bay quân sự của chính quyền Sài Gòn. Diện tích sân bay rộng khoảng 49 km2 với 2 đường băng dài 3.600m, 1000m. Hệ thống phòng thủ sân bay nhiều tầng lớp rào,canh gác cẩn mật và có hệ thống ra đa, chỉ huy liên lạc hiện đại. Bên trong sân bay có 6 khu vực rộng chứa từ 170 đến 190 máy bay và khu làm việc của 500 sĩ quan, phi công, nhân viên kỹ thuật và binh lính Mỹ. Nơi đây, địch tập trung nhiều loại máy bay quân sự phục vụ cho yêu cầu chiến tranh, đặc biệt, đánh phá, tấn công vào lực lượng cách mạng ở miền Đông Nam Bộ.

Vào ngày 31 tháng 10 năm 1964, sau nhiều tháng chuẩn bị, Đoàn pháo binh Miền phối hợp với lực lượng cách mạng Biên Hoà tập kích sân bay Biên Hoà gây nhiều thiệt hại cho chính quyền Sài Gòn. Bộ chỉ huy Miền chỉ định các đồng chí Lương Văn Nho (Hai Nhã), Nguyễn Văn Bứa (Hai Hồng Lâm) chỉ huy trận tấn công vào sân bay.

Page 59: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 59

Từ trận địa pháo được bố trí tại Hóc Bà Thức (Tân Phong). Vào lúc 23 giờ 30 phút, pháo cối của quân cách mạng bắt đầu cấp tập nã vào sân bay. Sân bay Biên Hoà bùng lên những đám cháy lớn, tiếng nổ mạnh làm rung chuyển khu vực lân cận.

Sau hơn 15 phút tấn công, các lực lượng tham gia trận đánh nhanh chóng rút về cứ an toàn. Địch bị thiệt hại nặng với 59 máy bay bị phá huỷ (trong đó có 21 máy bay B57, 11 máy bay AD6, 1 máy bay do thám U2), 2 kho đạn lớn, 1 kho xăng, 1 đài quan sát, 18 căn trại lính bị phá huỷ, tổng cộng có 253 tên địch bị thương và chết. Giới chức lãnh đạo Mỹ cay đắng, tức tối trước thảm hoạ sân bay Biên Hoà bị quân Giải phóng tấn công.

Cảnh đổ nát của sân bay Biên Hòa sau trận đánh 31/10/1964

Nhắc đến trận đánh này, Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh Chiến sĩ đã viết bài ca ngợi trên Báo Nhân Dân số 3878 (ngày 12/11/1964); trong đó, có bốn câu thơ sau:

Uy danh lừng lẫy khắp năm châu Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu

Thành đồng trống thắng lay Lầu trắng Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu.

Page 60: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 60

4.2. Các trận đánh Tổng kho Long Bình Tổng kho Long Bình diện tích khoảng 24 km2, nằm cách Sài Gòn về phía

đông 20 km, thành phố Biên Hòa 7 km. Trong tổng kho Long Bình có Bộ tư kệnh dã chiến II Mỹ, Bộ tư lệnh hậu cần số 1 của Mỹ, đồng thời là kho bom, đạn lớn của Mỹ ở miền Nam Việt Nam được xây dựng từ giữa năm 1965. Lực lượng Mỹ - Ngụy thường xuyên có 2.000 tên.

Tổng kho Long Bình

Tổng kho địch tổ chức phòng thủ chặt chẽ, bao bọc xung quanh từ 7 đến 12 lớp rào kết hợp gài mìn trái. Các lô cốt tiền duyên cách nhau 30 – 40 mét nằm cách lớp rào cuối cùng từ 40 – 50 mét. Bên trong có nhiều tuyến hào nối các lô cốt, đường đi, lối lại ngang dọc, hai bên đường đều rải hàng rào kẽm gai.

Hai khu kho quan trọng trong tổng kho là khu kho đồi 50 và đồi 53, có 18 dãy nhà kho với khoảng 200 gian chia làm 3 khu (mỗi khu 6 dãy), mỗi dãy cách nhau 100 mét, các nhà cách nhau 60 mét. Nhà kho xây hình khối chữ nhật ( 30m x 25m x 5,5m), cửa thép có khóa sắt, xung quanh có ụ đất dày 4 – 5 mét.

Ngày 22 – 6 – 1966, 6 chiến sĩ đặc công chia làm 3 tổ: Tổ 1 do Nguyễn Tấn Vàng tổ trưởng, tổ 2 do Nguyễn Văn Thái tổ trưởng, tổ 3 do Bùi Văn Hòa tổ trưởng, vượt rào và chướng ngại vật tiếp cận khu kho đồi 53 đặt mìn có gắn kíp nổ hẹn giờ bằng đồng hồ.

Sáng 23 – 6, khu kho đồi 53 bắt đầu nổ, toàn bộ khu kho trùm trong khói lửa. Các phương tiện cứu hỏa của địch đều bất lực. Trận đánh gây thiệt hại nặng cho địch, hủy diệt 40.000 quả đạn pháo các loại của Mỹ.

Đây là trận tiến công đầu tiên của đặc công Biên Hòa vào tổng kho Long Bình, mở đầu cho hàng loạt trận đánh sau này. Trận đánh giành thắng lợi lớn và

Page 61: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 61

được Bộ chỉ huy Miền tặng thưởng Huân chương quân công giải phóng hạng III và 4 huân chương chiến công giải phóng.

Để phối hợp với chiến trường chung, đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô của đế quốc Mỹ (1965 – 1966; 1967 - 1968), Tỉnh đội Biên Hòa U1 chỉ đạo đặc công tỉnh liên tục tiến công vào kho Long Bình. Phương châm đánh là táo bạo, chắc, đánh bồi, phá hủy bom đạn, phương tiện chiến tranh của địch. Cuối năm 1966, đặc công U1 đã bí mật tiến công 3 lần (các tháng 10, 11, 12) vào tổng kho Long Bình, hủy diệt 353.000 đạn pháo và các loại bom của địch. Loạt trận đánh này thể hiện sự dũng cảm, mưu trí, sáng tạo và quyết tâm cao của đặc công U1, được Bộ chỉ huy Miền tặng thưởng Huân chương quân công hạng II.

Đêm 3 – 2 – 1967, đặc công U1 lại đột nhập khu kho đồi 53 đặt mìn hẹn giờ. Bốn mươi dãy kho bị nổ tung với 800.000 quả đạn pháo các loại. Một tổ đặc công U1 từ chốt Bình Trị, Hóa An đột nhập vào sân bay quân sự Biên Hòa đặt mìn làm nổ tung kho chứa nhiên liệu, đốt cháy 10 triệu lít xăng dầu.

Khu vực chứa vũ khí của tổng kho Long Bình bị phá hủy sau trận đánh

4.3. Trận đánh địch trên sông Lòng Tàu ( 1966) Sau khi thành lập (4 – 1966) Bộ chỉ huy Đặc khu Rừng Sác quyết định mở

đợt tiến công tiêu diệt, tiêu hao một bộ phận sinh lực địch trên sông Lòng Tàu. Đầu tháng 7 – 1966, kế hoạch đánh tàu địch trên sông Lòng Tàu được triển

khai, lực lượng bố trí ở hai khu: đoạn sông từ ngã ba sông Đồng Tranh đến Đỗ Hòa và đoạn từ sông Lôi Giang đến vàm sông Giàn Xay.

Ta bắn cháy một tàu 10.000 tấn và bốn tàu tuần tiễu, hai tàu quét mìn, một tàu hộ tống.

Page 62: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 62

Tháng 8 năm 1966, theo lệnh của Bộ chỉ huy Miền, Đảng ủy, Bộ chỉ huy Đoàn 10 tổ chức trận đánh lớn trên sông Lòng Tàu. Lần đầu tiên, ta sử dụng hai quả thủy lôi K.B, mỗi quả nặng trên một tấn bố trí trận địa ở Vàm ngã Bảy và phối hợp với các trận địa trên bờ. Ba chiếc tàu hàng quân sự của Mỹ từ cảng Vũng Tàu vào sông Lòng Tàu. Mục tiêu chọn đánh là chiếc tàu đi sau cùng mang tên baton ruge Victory. Ngày 23 tháng 8 năm 1966, đoàn tàu địch lọt vào trận địa của ta. Ta tiến công và diệt tàu Victory. Địch đã phản kích quyết liệt suốt 7 ngày. Pháo binh Đoàn 10 bám trụ đánh trả, bắn cháy thêm 7 tàu trong đó có chiếc trọng tải 8.000 tấn.

Các chiến sĩ Trung đoàn 10 trong chiến đấu

Sông Lòng Tàu vùi xác chiến hạm Mĩ (Boton Ruge Victory)

Page 63: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 63

Baton Ruge Victory là tàu vận tải hậu cần của sư đoàn 4 Mỹ đã bị ta đánh chìm trên sông Lòng Tàu mang theo 45 thủy thủ, gần 100 thiết giáp M 113, 3 máy bay phản lực còn trong kiện và một khối lượng quân dụng, lương thực lớn đủ cho 1 sư đoàn Mỹ sử dụng trong cả chiến dịch mùa khô.

4.4. Cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968: Thất bại trong cuộc phản công chiến lược mùa khô của Mỹ làm cho chiến

lược “chiến tranh cục bộ” của địch đứng trước nguy cơ phá sản. Tháng 10- 1967, Bộ Chính trị ra Nghị quyết “Nhiệm vụ trọng đại cấp bách

của ta là động viên những nổ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở hai miền, đưa cuộc cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”.

Trung ương Cục miền Nam đề ra kế hoạch tổng xông kích - tổng khởi nghĩa ở miền Nam, trọng điểm là Sài Gòn và miền Đông Nam bộ. Mục tiêu là đánh chiếm các thành phố, thị xã, thị trấn; làm tan rã đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp; tiêu diệt đại bộ phận quân Mỹ, làm chuyển biến cục diện chiến trường, tiến lên giành thắng lợi quyết định.

Khu miền Đông và Khu Sài Gòn – Gia Định giải thể, tổ chức lại thành 5 phân khu tạo thành 5 mũi tiến công vào Sài Gòn và phân khu 6 thuộc nội đô Sài Gòn.

Do có sự bố trí lại trên chiến trường, địa bàn Biên Hòa, gồm có các tổ chức tương đương cấp tỉnh: Phân khu 4, tỉnh Bà Rịa – Long Khánh và Biên Hòa U1.

Thị xã Biên Hòa được xác định là địa bàn quan trọng ở miền Đông Nam bộ. Đồng chí Lê Đức Anh phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Miền về căn cứ Bàu Sao (bắc Trảng Bom) triển khai nhiệm vụ, phương án tiến công và nổi dậy ở Biên Hòa.

Bộ chỉ huy cuộc tiến công nổi dậy ở U1 được thành lập do đồng chí Trần Minh Tâm sư trương sư 5, tư lệnh. Trần Công An tỉnh đội trưởng U1, phó tư lệnh. Trần Văn An (Sáu An) chính ủy sư đoàn 5, chính ủy. Phan Văn Trang phó bí thư U1, phó chính ủy. Căn cứ Bộ tư lệnh tiền phướng Mặt trận đứng chân ở đồi Bà Già (nay thuộc phường Trảng Dài).

Lực lượng tham gia gồm có sư đoàn 5 (trung đoàn 4 và 5), trung đoàn pháo 274; lực lượng địa phương có tiểu đoàn 1 và 2 đặc công U1, biệt động thị xã Biên Hòa, đội vũ trang tuyên truyền thị xã, bộ đội huyện Vĩnh Cửu, huyện Trảng Bom, du kích các xã. Các mục tiêu tiến công: sân bay Biên Hòa, Bộ tư lệnh quân đoàn III ngụy, Bộ tư lệnh dã chiến 2 Mỹ, tổng kho Long Bình, Tòa hành chính, Ty cảnh sát Biên Hoà, chi khu Trảng Bom.

Page 64: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 64

Những chiến sĩ giải phóng quân nhận nhiệm vụ trước giờ xung trận trong

dịp tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân ( 1978)

Công tác chuẩn bị được tiến hành khẩn trương. Để đảm bảo cho sư đoàn 5 chủ lực Miền, đoàn hậu cần 814 mở các cửa khẩu ở nam - bắc lộ 20; bố trí ba tuyến hậu cần: ở quanh huyện Xuân Lộc, ở Túc Trưng, Vĩnh An, ở Phương Lâm, Trà Cổ, Định Quán. Trong tháng 1 – 1968, đoàn 814 đã chuẩn bị được 500 tấn lương thực, 100 tấn thực phẩm và các đồ dùng khác.

Biệt động thị xã Biên Hòa từ Hưng Lộc (Trảng Bom) đưa vũ khí vào nội ô thị xã, xây dựng hầm bí mật ở Gò Me (Thống Nhất), Hiệp Hòa, Bình Đa…dẫn đường cho trinh sát nghiên cứu các mục tiêu trong thị xã Biên Hòa.

Bộ đội hành quân trong cuộc tổng tiến công

và nổi dậy tết Mậu Thân (1968)

Page 65: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 65

Đầu năm 1968, đặc phái viên Trung ương Cục làm việc với phân khu 4, đặc khu Rừng Sác, thành lập Bộ chỉ huy thống nhất

Bộ tư lệnh Miền tăng cường cán bộ chiến sĩ thành lập thêm tiểu đoàn 2 (tức tiểu đoàn 440) phụ trách thị xã Long Khánh. Ngày N giờ G được Bộ tư lệnh miền Nam quy định là: 0 giờ đêm 30 rạng sáng 31 – 1, tức mùng một Tết Mậu Thân xuân 1968.

Tại mặt trận thị xã Biên Hòa: 0 giờ sáng 31 – 1 - 1968, trung đoàn 274 pháo binh, với 52 khẩu ĐKB, 30 khẩu 130 ly và 82 ly, 10 khẩu ĐKZ 75 bắn cấp tập vào sân bay Biên Hòa. Tiếng pháo đồng thời là hiệu lệnh tấn công cho các đơn vị tiến đánh các mục tiêu theo kế hoạch. Pháo của đoàn 274 đánh trúng sở chỉ huy sân bay, khu nhân viên kỹ thuật, kho xăng, kho chứa máy bay. Các đơn vị tiếp cận được mục tiêu đồng loạt nổ súng: Tiểu đoàn 1, đặc công U1 trung ương đoàn 4 sư 5 tiến vào sân bay phá hủy 120 máy bay các loại của Mỹ. Địch bắt đầu phản kích bằng xe tăng, máy bay phản lực. Đặc công sư đoàn, đội biệt động thị xã Biên Hòa nổ súng tiến công vào phía tây sở chỉ huy quân đoàn III ngụy.

Sáng 31 – 1 – 1968, đặc công sư đoàn và tiểu đoàn 2 của trung đoàn 5 tiến đánh sở chỉ huy Bộ tư lệnh dã chiến 2 của Mỹ ở Long Bình. Địch phản kích gây tổn thất nặng cho lực lượng của ta tại đây.

Tiểu đoàn 2 đặc công U1 bí mật đột nhập vào khu kho bom đạn ở đồi 53, đánh phá hủy 127 dãy kho bom đạn địch, làm chấn động cả Biên Hòa và Sài Gòn.

Rạng sáng 31 – 1 – 1968, bộ đội huyện Vĩnh Cửu và 1 đơn vị của sư 5 chủ lực tiến công bao vây chi khu Công Thanh, làm chủ khu vực thị trấn 4 ngày, nhân dân ở Tân Phú, Bình Long nổi dậy diệt ác giành quyền làm chủ. Du kích Thiện Tân, Tân Định, Đại An tiến công đồn bót, diệt bọn dân vệ, ác ôn… Bộ đội huyện và lực lượng sư 5 bám trụ bắn máy bay, xe tăng địch phản kích, bắn cháy 8 xe tăng, thiết giáp và mở vòng vây vượt sông Đồng Nai về chiến khu Đ.

Page 66: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 66

Sân bay Biên Hòa bị ta tấn công bốc cháy năm 1968

Khu vực nội ô thị xã Biên Hòa, biệt động, đội vũ trang tuyên, phát động quần chúng, treo cờ, diệt ác ôn ở khu vực Bình Đa, Tân Thành, Gò Me, xã Hiệp Hòa…

Trước sức phản kích mạnh của Mỹ - ngụy, mùng 3 tết (2 – 2 – 1968), Bộ chỉ huy mặt trận Biên Hòa ra lệnh rút khỏi thị xã để bảo toàn lực lượng. Nhân dân nội ô thị xã Biên Hòa đã xuống đường tiếp tế lương thực; bảo vệ, cứu chữa nhiều bộ đội bị thương bám trụ trong thị xã. Các lực lượng vũ trang, cán bộ, đảng viên, cơ sở cốt cán của thị xã đã chuyển 250 thương binh vượt vòng vây của địch, qua sông Đồng Nai về chiến khu Đ an toàn.

Mặt trận Long Khánh: Cuộc tiến công và nổi dậy chậm hơn 1 ngày so với Biên Hòa và phân khu 4. Rạng sáng ngày 2 – 2 – 1968, tiểu đoàn 440 tổ chức hai mũi tiến công vào các mục tiêu trụ sở tình báo CIA, tiểu khu Long Khánh, khu chợ, khu thông tin, tập kích dinh tỉnh trưởng, chiếm một số tua, chốt của địch. Cụm pháo của địch ở sân bay thị xã Long Khánh bị phá hủy ngay từ đầu bởi pháo của tiểu đoàn 440.

Page 67: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 67

Một góc thị xã Long Khánh năm 1968

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân dân Biên Hòa, phân khu 4, thị xã

Long Khánh hòa cùng khí thế tiến công và nổi dậy toàn Miền là đòn tiến công

chiến lược bất ngờ tấn công địch. Lần đầu tiên ta tấn công vào tận hang ổ kẻ thù.

Cuộc tiến công và nổi dậy tuy không đạt được mục tiêu “giành thắng lợi quyết

định”, giành quyền làm chủ hoàn toàn của dân, nhưng đã thể hiện được tinh thần,

quyết tâm của quân dân ta. Cùng toàn miền Nam, cuộc tổng tiến công và nổi dậy

Xuân 1968 của quân dân Biên Hòa, Long Khánh, Phân khu 4 góp phần đánh bại ý

chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, làm thất

bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ - ngụy ở miền Nam Việt Nam.

4.5 Đợt tiến công xuân Kỉ Dậu ( 1969 ) trên địa bàn Biên Hòa, Long Khánh.

Cuộc tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân (1968) làm phá sản “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. đế quốc Mỹ phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán tại hội nghị Paris, đồng thời từng bước xuống thang chiến tranh, chúng chuyển từ chiến lược “chiến tranh cục bộ” sang chiến lược chiến tranh “Việt Nam hóa chiến tranh”, dùng người Việt đánh người Việt với sự yểm trợ của Mỹ để kéo dài chiến tranh ở Việt Nam.

Sau ba đợt mở các cuộc tiến công vào hầu kết các đô thị miền Nam, ta tuy giành được thắng lợi về mặt chiến lược, nhưng lực lượng bị tổn thất. Sau một thời

Page 68: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 68

gian củng cố lực lượng, Trung ương Cục miền Nam quyết định mở tiếp đợt tiến công đánh bồi, đánh nhồi Xuân 1969.

Than gia đợt tiến công xuân Kỷ Dậu trên địa bàn Biên Hòa – Long Khánh, phân khu 4 gồm các lực lượng: sư đoàn 5 chủ lực Miền, lực lượng đặc công U1, trung đoàn 33 và trung đoàn 4 và lực lượng phân khu 4, biệt động thị xã Biên Hòa, các lực lượng vũ trang địa phương.

Mặt trận thị xã Biên Hòa: Mục tiêu then chốt là sân bay Biên Hòa và sở chỉ huy Bộ tư lệnh quân đoàn 3 ngụy, tổng kho Long Bình, ty cảnh sát Biên Hòa.

Đúng 0 giờ ngày 23 -2-1969, đội biệt động thị xã Biên Hòa và một đại đội của sư đoàn 5 ở Gò Me tiến công Ty cảnh sát Biên Hòa, chiếm được ga xe lửa và một số mục tiêu chính trong ty cảnh sát. Địch dùng xe tăng, bộ binh và cả máy bay vũ trang phản kích mạnh, lực lượng ta phải rút lui. Đồng chí Sáu A đội trưởng biệt động Biên Hòa đã chiến đấu kiên cường và hy sinh anh dũng trước ty cảnh sát ngụy (nay là công viên Biên Hùng).

Ở tổng kho Long Bình, Đại đội 9 tiểu đoàn 2 đặc công Biên Hòa vào được trong tổng kho Long Bình đánh phá hủy dãy nhà kho ở đồi 53. Địch dùng một trung đoàn xe thiết giáp kết hợp với trực thăng vũ trang bao vây. Đại đội 9 anh dũng chiến đấu diệt nhiều sinh lực địch trong khu kho Long Bình suốt 7 ngày đêm, nhưng vì lực lượng không cân sức, nhiều cán bộ chiến sĩ hy sinh. Đồng chí Bùi Văn Hòa và đại đội 9 được tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Trung đoàn 4, trung đoàn 33 đánh địch từ bên ngoài. Lực lượng ta chuyển hướng đánh địch ở ngã ba Thái Lan và Long Thành tiêu diệt nhiều sinh lực địch.

Đại đội đặc công U1 đánh vào nhà giam Tân Hiệp bị địch phục kích, đã đánh trả quyết liệt, đại đội bị nhiều tổn thất.

Cuộc tiến công xuân Kỷ Dậu (1969) vào thị xã Biên Hòa gây cho địch những thiệt hại trong giai đoạn đầu chuyển sang chiến lược: “Việt Nam hóa chiến tranh”. Ta gặp phải những tổn thất: Quân số, vũ khí tiếp tục bị tiêu hao. Các cơ sở, tự vệ mật, biệt động vùng đô thị bị lộ, bị đánh dạt ra. Để củng cố lực lượng và giữ thế đứng chân ở các vùng ven, Bộ chỉ huy Miền điều sư đoàn 5 tiến công ở địa bàn Long Khánh.

Mặt trận Long Khánh: đêm 19 – 5 – 1969 biệt động, trinh sát vũ trang thị xã Long Khánh phối hợp với sư đoàn 5 tiến công đồn Hoàng Diệu, phá hủy hầu hết trận địa pháo và gây thiệt hại nặng cho địch.

Cuối tháng 5 đến đầu tháng 6 – 1969, sư đoàn 5 liên tục tổ chức bố trí lực lượng tiến công địch ở Tầm Bung, Khe Giao (quốc lộ 20) và Trà Tân 3 (lộ 3),

Page 69: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 69

đánh quỵ chiến đoàn 43 và chiến đoàn 52 sư đoàn 18 ngụy, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn Mỹ.

Được sự hỗ trợ của bộ đội chủ lực, lực lượng vũ trang địa phương ở các xã Bảo Chánh, Suối Cát, Tân Phong, Bảo Vinh, Bảo Liệt… phối hợp với bộ đội huyện Xuân Lộc tiến công địch liên tục, phá rã hàng mảng hàng rào “ấp chiến lược”, bức rút 1 đồn bảo an, giải tán nhiều toán “phòng vệ dân sự”. Quân Mỹ càn vào Bình Lộc, du kích địa phương đánh trả diệt gần một trung đội. Du kích xã Bảo Chánh mưu trí, sáng tạo dùng mìn ĐH 10 phá tan một máy bay trực thăng HU1A. Ban binh vận tỉnh phối hợp nộ đội huyện, du kích đánh chiếm đồn dân vệ Tân Thủy, diệt và bắt hết tề ấp, tề xã, thu toàn bộ vũ khí.

Ở mặt trận Long Thành, trung đoàn 4 phối hợp với bộ đội địa phương đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn lính Thái Lan tại Bình Sơn, làm chúng không tổ chức hành quân lùng sục.

4.5. Chiến dịch Xuân Lộc giải phóng thị xã Long Khánh ( 1975) Xuân Lộc là một thị xã thuộc tỉnh Long Khánh, cách Sài Gòn 60km về phía

đông bắc là phòng tuyến trọng tâm để địch ngăn ta cơ động theo Đường 1 và Đường 20 đánh vào Biên Hòa và Sài Gòn. Tại đây, địch đã tập trung một lực lượng lớn phòng thủ Xuân Lộc, nòng cốt là Sư đoàn 18 bộ binh, một đơn vị thiện chiến của Quân đoàn 3 ngụy. Tuyến phòng ngự của Sư đoàn này được xác định trên một chính diện từ 30 đến 40km, từ Túc Trưng qua Dầu Giây, thị xã Xuân Lộc đến ngã ba Tân Phong. Các vị trí phòng thủ được tăng cường thêm mìn, hàng rào dây thép gai, vật chướng ngại chống tăng, kết hợp với hệ thống đồn bốt bảo an, dân vệ chăng ra thành một mạng lưới dày đặc, hòng buộc quân ta phải lùi dần từng bước, khi tới ven đô thì kiệt sức.

Page 70: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 70

Tiếp quản Tiểu khu Long Khánh.

Để đập tan “cánh cửa thép” Xuân Lộc, ta tập trung hai sư đoàn tiêu diệt sư

đoàn 18 ngụy, giải phóng chi khu Xuân Lộc và từ ngã ba Dầu Giây đến núi Chứa

Chan. Một sư đoàn khác bao vây chia cắt địch ở Gia Kiệm, Túc Trưng, tạo điều

kiện diệt quân ứng cứu của địch, nắm thời cơ tiến công giải phóng chi khu Gia

Kiệm - Dầu Giây, đường 20. Để thực hiện mục tiêu này, ta sử dụng lực lượng

Quân đoàn 4 (Sư đoàn 7, Sư đoàn 341, Sư đoàn 6) tăng cường Sư đoàn bộ binh 6,

hai tiểu đoàn xe tăng và hai tiểu đoàn bộ đội địa phương Khu 7 do đồng chí Thiếu

tướng Hoàng Cầm làm Tư lệnh cùng Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện làm Chính ủy

tiến công Xuân Lộc.

Xe tăng và bộ Binh Quân Đoàn 4 tiến công thị xã Xuân Lộc

Page 71: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 71

Sáng 9-4, từ các hướng đã xác định, ta đồng loạt nổ súng tiến công địch nhưng bị địch phản kích mãnh liệt, khiến cuộc chiến trở nên hết sức quyết liệt. Các Sư đoàn 7, Sư đoàn 6 và Sư đoàn 341 của ta đã phải tổ chức tiến công nhiều lần vào thị xã, đánh đi đánh lại diệt từng mục tiêu và phải nhiều lần đẩy lùi các cuộc phản kích của địch. Địch tăng cường lực lượng cho Xuân Lộc. Ngày 12-4, địch đổ lữ đoàn 1 dù xuống ngã ba Tân Phong. Tiếp đó, địch điều lữ đoàn 3 thủy quân lục chiến, chiến đoàn 318 biệt động đến Trảng Bom, chiến đoàn 322 biệt động ở Bàu Cá, chiến đoàn 315 ở Bàu Hàn, điểm cao 122, trung đoàn 8 thuộc sư đoàn 5 từ Lai Khê sang Bàu Cá. Tính ra, địch đã tập trung ở khu vực này 50% lực lựợng bộ binh, 60% pháo binh và hầu hết xe tăng, xe thiết giáp của Quân đoàn 3 cùng lực lượng tổng dự bị tương đương một sư đoàn. Không quân địch ở các sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất được huy động trung bình 80 lần chiếc/ngày để chi viện trực tiếp cho các mũi phản kích. Địch sử dụng cả bom CBU55 mà Mỹ vừa cung cấp trong thời gian tướng Wayend sang Sài Gòn để ngăn chặn ta

Bộ đội tiến vào giải phóng Xuân Lộc

Từ nhận định Xuân Lộc chỉ có giá trị khi được nối với Biên Hòa, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã chủ trương lập thế trận mới, cô lập và cắt rời Xuân Lộc ra khỏi Biên Hòa bằng cách đánh chiếm ngã ba Dầu Giây, cắt đường 1, chặn đánh địch từ Trảng Bom lên; đánh chiếm Tân Phong, cắt đường 2 đi Bà Rịa. Ngay lập tức, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 đã ra lệnh ngừng tiến công thị xã, mỗi sư đoàn chỉ để lại một tiểu đoàn kiềm chế nghi binh địch còn lại lui ra phía sau củng cố làm lực lượng cơ động. Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B (vừa được trên tăng cường) tổ chức bao vây tiêu diệt Chiến đoàn 52 địch, thực hiện chốt chặn chiến dịch, diệt quân

Page 72: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 72

địch từ Biên Hòa, Trảng Bom lên phản kích. Trung đoàn 209 triển khai trên dải ở phía bắc chi khu Tân Phong chặn đánh Lữ đoàn 1 dù không cho chúng vượt qua cầu Gia Liên để phối hợp với Chiến đoàn 43 trong thị xã.

Trong khi ta chuyển thế trận, địch tưởng rằng chúng đã đẩy lùi được cuộc tiến công của ta. Rạng sáng ngày 15-4, pháo chiến dịch bắn dồn dập vào sân bay Biên Hòa, cùng lúc Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B đã tiêu diệt chiến đoàn 52, diệt gọn một tiểu đoàn pháo, một chi đoàn thiết giáp, giải phóng hoàn toàn chi khu Gia Kiệm, ngã ba Dầu Giây, cắt đứt đường 1 đoạn Xuân Lộc - Bàu Cá, đường 20 đoạn Túc Trưng - ngã ba Dầu Giây.

Cánh cửa thép Xuân Lộc bị chọc thủng-

Mọi con đường vào Sài Gòn đã mở toang

Chiến dịch tiến công Xuân Lộc thắng lợi đã đập tan “Cánh cửa thép”, cửa ngõ phía Đông Sài Gòn, làm rung chuyển cả hệ thống phòng thủ còn lại của địch ở xung quanh Sài Gòn. Thắng lợi của chiến dịch Xuân Lộc đã tạo một địa bàn tập kết thuận lợi, cho các binh đoàn chủ lực tiến công vào Sài Gòn từ hướng Đông, một thế trận mới rất có lợi làm nên chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà vào ngày 30/4/1975.

4.6. Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng toàn tỉnh

Page 73: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 73

Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thực hiện phương châm chỉ đạo “các địa phương nổi dậy, xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện”, các địa phương trong tỉnh lần lượt nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân.

Ngày 20-3-1975, giải phóng Tân Phú, Định Quán. Ngày 21-4-1975, giải phóng Long Khánh, Xuân Lộc. Ngày 28-4-1975, giải phóng Thống Nhất. Ngày 29-4-1975, giải phóng Long Thành, Nhơn Trạch. Ngày 30-4-1975, giải phóng Biên Hoà, Vĩnh Cửu. Ngày 16-4-1975, Bộ chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch

giải phóng Sài Gòn-Gia Định, mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh. Chiến dịch bắt đầu từ ngày 26-4-1975. Trên địa bài Đồng Nai hình thành 2 mũi tiến công của hai quân đoàn chủ lực: Quân đoàn 4 tiến vào Sài Gòn theo hướng Quốc lộ 1 và xa lộ Biên Hòa, quân 2 theo hướng Quốc lộ 15 và phà Cát Lái

Chiều 29-4-1975, khu kĩ nghệ Biên Hòa và một số ấp lân cận hoàn toàn giải phóng, toàn bộ địch ở Long Thành- Nhơn Trạch quét sạch. 10 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, Uỷ ban Quản Quân Biên Hòa, trung đoàn 5 vào tiếp quản Tòa Hành chính Biên Hòa.

Lịch sử đã lập lại một cách kì diệu: Ngày 26-8-1945, nhân dân Biên Hòa đã giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám. Ba mươi năm sau , ngày 30-3-1975 cũng tại nơi đây , quân dân Biên Hòa chiếm tòa Hành chính, giải phóng hoàn toàn quê hương, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước 21 năm, mở ra kỉ nguyên mới cho đất nước: Độc lập, thống nhất đất nước, đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội.

Nhân dân vui mừng sau khi Biên Hòa hoàn toàn được giải phóng 1975

Page 74: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 74

Cảm nhận của bản thân về truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Biên Hòa – Đồng Nai

“Ta sẵn sàng xé trái tim ta Cho Tổ quốc và cho tất cả

Lá cờ này là máu là da Của ta, của những con người vô giá”

( Việt Nam máu và hoa – Tố Hữu) Lịch sử của dân tộc Việt Nam là truyền thống hàng ngàn năm dựng nước

và giữ nước. Bao thế hệ nối tiếp làm rạng rỡ trang sử vàng đất Việt. Đối với Tổ quốc nói chung, tỉnh Đồng Nai nói riêng, bao thế hệ nối tiếp nhau của đất Biên Hòa luôn là một biểu tượng cao đẹp về hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ. Bởi một lẽ, các thế hệ cha anh không chỉ mang niềm vinh quang chiến đấu, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc, mà các Anh còn là mẫu hình con người mang nhân cách văn hóa Việt Nam.

320 mùa xuân là 320 năm chiến đấu, rèn luyện và trưởng thành của nhân dân Biên Hòa chúng tôi. Từ trong chiến tranh, bên cạnh những chiến thắng vang dội, hừng hực khí thế còn là những mất mát, đau thương, là biết bao câu chuyện huyền thoại về người lính, những con người đã trở thành bất tử . Trên mỗi nẻo đường hành quân ra trận, tên đất, tên làng, tên núi, tên sông, ở nơi đâu cũng thành chiến lũy, cũng ghi dấu chân các anh và cả những bà mẹ Việt Nam anh hùng. Dù là anh bộ đội Cụ Hồ trở về từ trong chiến tranh, đã yên nghỉ giữa lòng đất mẹ hay còn trở lại sống giữa thời bình, từng thế hệ, từng khoảng cách thời gian là dấu nối của lịch sử làm đậm chất anh hùng ca về người lính. Và thật sự, mỗi chúng ta, khi nghĩ về người thế hệ cha anh, đều dạt dào cảm xúc của lòng tự hào và biết ơn sâu sắc, Họ mãi là những người chịu nhiều gian khổ và hy sinh nhất. Chính vì vậy, rất đỗi tự nhiên, những con người bình dị của đất Biên Hòa đã trở thành biểu tượng cao đẹp trong lòng nhân dân Việt Nam về một mẫu hình con người mới xã hội chủ nghĩa. Có thể nói truyền thống đấu tranh của nhân dân Biên Hòa là một giá trị văn hóa độc đáo, tiêu biểu trong dòng chảy của nền văn hóa dân tộc ở thời đại Hồ Chí Minh, có sức lôi cuốn và lan tỏa đặc biệt. Rõ ràng nhất là thực tiễn lịch sử 320 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Biên Hòa ta cho thấy, sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ủy Ban nhân dân thành phố Biên Hòa là nhân tố quyết định đảm bảo cho nhân dân ta luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân sâu sắc và tính dân tộc chân chính, đủ sức mạnh để “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Nhờ có sự lãnh đạo của các cấp

Page 75: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 75

lãnh đạo từ thời chiến đến thời bình, sự đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân, Biên Hòa ta ngày càng trưởng thành, lớn mạnh, trở thành một trong những thành phố trọng tâm của Tỉnh, của cả nước”. Tự hào về Đảng quang vinh, về tinh thần, truyền thống yêu nước, sự cam đảm nhiệt huyết của nhân dân mà chúng tôi- những thế hệ sau, đang nỗ lực học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu, phấn đấu hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho, quyết không để đất nước bị bất ngờ trong mọi tình huống. Cũng như bao người thuộc thế hệ trẻ, tôi may mắn được sinh ra, trưởng thành và học tập khi đất nước đã bình yên, được tự do hít bầu không khí hòa bình, tự do ngước nhìn mây trắng trời xanh mà nghe những bao la của quá khứ, mà thấm thía giá trị vĩnh hằng của những dâng hiến cao cả. Tôi tự hào vì tôi là người dân Việt Nam, tôi tự hào vì tôi được sinh ra trên mảnh đất Biên Hòa. Và may mắn hơn, tôi được lớn lên, học tập, rèn luyện và trưởng thành trong hòa bình thống nhất đất nước, nay trở thành người thầy giáo dưới mái trường xã hội chủ nghĩa đang ngày đêm thay Đảng luyện chữ - rèn người.

Là một người giáo viên, tôi thấy mình cần thường xuyên nâng cao trình độ tự ý thức về việc tự tu dưỡng, tích cực, tự giác học tập, rèn luyện nâng cao phẩm chất, năng lực và hiệu quả các mặt công tác là một yêu cầu cơ bản; Phải rèn luyện ý chí phấn đấu bền bỉ, cầu tiến, trọng danh dự cá nhân; không bị “nhiễm” với những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, văn hóa phẩm độc hại trong đời sống xã hội hiện nay. Luôn kiên quyết đấu tranh với biểu hiện coi nhẹ truyền thống, phủ nhận quá khứ, gieo rắc tư tưởng, lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân; tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại, phát triển nó phù hợp, phù hợp với đặc điểm hoạt động quân sự và bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam, “hòa nhập nhưng không hoà tan”. Tôi hiểu sâu sắc trọng trách của mình lớn thế nào trong việc rèn luyện cho các em “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”...

Page 76: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 76

Câu 2: Hãy cho biết và nêu cảm nhận về những tập quán, tín nguỗng dân gian của dân Biên Hòa, Đồng Nai. Từ đó giới thiệu một hoạt động tín ngưỡng dân gian gắn với cộng đồng xã hội mà anh (chị) biết hoặc tham gia. Để phát huy và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc anh (chị) cần làm gì?

Từ những khái niêm trên cho ta thấy rằng tập quán, tín ngưỡng là toàn bộ thói quen thuộc về đời sống của con người được công nhận bởi một cộng đồng, quần thể và coi đó như một nếp sống truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tùy theo mỗi địa phương và tín ngưỡng khác nhau, phong tục tập quán ở mỗi quần thể sẽ có những sự khác biệt với nhau. Với hơn 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, do đó phong tục Việt Nam vô cùng đa dạng và phong phú. Một phần do dân tộc Kinh chiếm đại đa số, một phần công tác tuyên truyền phổ biến chưa được đẩy mạnh do đó, đa phần chúng ta chỉ biết tới những phong tục tập quán của người Kinh là chính.

Hòa nhịp cùng với những tập quán, tín ngưỡng dân gian của dân tộc , người dân Biên Hòa có những tập quán tín ngưỡng riêng nhằm giữ gìn và phát huy những nét văn hóa đậm đà bản sắc của dân tộc Việt Nam.

Tín ngưỡng dân gian của người Việt gốc Trung bộ là cốt lõi. Với kinh nghiệm sản xuất và “ông bà” “thần linh” mang theo, cư dân Việt có vốn liếng để hoà nhập vào vùng đất mới, không phải bắt đầu bằng “cảm hứng thần thoại” mà bằng tài sản tinh thần đã định hình. Với tài sản ấy, người Việt đã tồn tại với tư cách là chủ thể xã hội, không phải là nô lệ của tự nhiên. Niềm tin và thần thánh mang theo được ứng dụng ngay vào đời sống mới và nhanh chóng có cùng sở thích hợp. Bàn thờ gia tiên , tục thờ thần bản gia, thần độ mạng trong nhà được hình thành cùng với việc tạo ra mái nhà. Trải qua thực tế khoảng 3 thế kỉ tín ngưỡng dân cư dân Việt nói chung người dân Biên Hòa nói riêng vẫn còn cốt lõi trong sinh hoạt hằng ngày.

Page 77: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 77

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên - Bản sắc văn hóa người Việt Người dân Việt Nam nói chung, người dân Biên Hòa nói riêng. Trong các

hình thái tín ngưỡng dân gian, thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng cổ truyền mang tính phổ quát của người Việt Nam. Là người Việt Nam thì " mọi người đều thờ cúng tổ tiên, mọi người đều thờ ông bà”.

Bàn thờ cúng tổ tiên.

Thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của người dân Biên Hòa, là một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất giản dị: tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, họ phù hộ cho con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu gặp may mắn, khuyến khích cho con cháu khi gặp điều lành và cũng quở trách con cháu khi làm những điều tội lỗi...

Ở nước ta, thờ cúng tổ tiên không chỉ là tín ngưỡng phổ biến ở người

Việt.Trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, trong khi nhiều tôn giáo, tín ngưỡng dân gian khác đã phải chịu cảnh long đong, bị kết tội “mê tín dị đoan” nhưng tín ngưỡng thờ tổ tiên đã và vẫn chiếm được vị trí thiêng liêng trong đời

Page 78: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 78

sống tinh thần của người Việt. Ý thức “con người có tổ, có tông” được bảo tồn trong cõi tâm linh và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, dù họ sống trên tổ quốc mình hay lưu vong nơi xứ người. Đặc biệt đây là hình thức tín ngưỡng được các thể chế chính trị (Nhà nước) từ xưa đến nay trân trọng thừa nhận, dù rằng với những mức độ khác nhau. Cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, nó là sự bồi lắng, kết tụ những giá trị đạo đức quý báu của con người Việt Nam.

Đạo lý uống nước nhớ nguồn, một mặt con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với các bậc sinh thành, lúc họ đã chết cũng như khi còn sống. Mặt khác, nó cũng thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu đối với nhu cầu của tổ tiên. Trách nhiệm được biểu hiện không chỉ trong các hành vi sống (giữ gìn danh dự và tiếp tục truyền thống của gia đình, dòng họ, đất nước) mà còn ở trong các hành vi cúng tế cụ thể. Một học giả nước ngoài khi nghiên cứu về tín ngưỡng này ở nước ta đã nhận xét: “Các thành viên trong gia đình kính dâng các đồ cúng lễ là tuyệt đối cần thiết để cho linh hồn tổ tiên có được sự yên nghỉ thanh thản ở thế giới bên kia”.

Người dân ở Biên Hòa - Đồng Nai nhà dù nhỏ dù nhỏ đến đâu vẫn dành nơi trang trọng nhất để thờ ông bà. Thông thường người địa phương thờ 3-4 đời (cha mẹ, ông bà, cố, sơ), đến đời thứ 5 trở lên thì chôn thần chủ (ngũ đại mai thần chủ). Ông bà từ đời thứ 4 trở lên được thờ chung, phối hưởng ở bàn thờ chính trong nhà hoặc bàn thờ họ ở từ đường.

Bàn thờ thường được đặt nơi trang trọng trong nhà

Người Đồng Nai xưa thường sử dụng tủ thờ, phía trên làm bàn thờ, phía dưới chứa đồ đạc, rất tiện lợi. Bàn thờ ngoài bài vị, thần chủ còn có bộ tam sự

Page 79: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 79

(chân đèn, lư hương, bình bông), hoặc bộ ngũ sự (thêm cặp hạc - rùa và hộp trầu), có thể có bộ thất sự (thêm 2 món khác tùy ý gia chủ). Nhà càng giàu có, phú quý, bàn thờ và các món bài trí càng tinh xảo, giá trị; tủ thờ bằng gỗ quý, cẩn xà cừ, đồ thờ bằng đồng đúc cầu kỳ, khéo léo.

Những nhà khá giả ở Biên Hòa xưa còn bài trí hoành phi, câu đối ở gian thờ, không chỉ là trang trí mà còn thể hiện “nghị quyết”, truyền thống, ý chí của gia đình, dòng tộc để định hướng cho con cháu đời sau tiếp nối như: Đức lưu phương (lưu Đức làm tiếng thơm), Thiện tối lạc (làm điều Thiện là vui nhất), Nghiệp quảng duy cần (sự nghiệp mở mang là nhờ cần cù)…

Vào ngày mất của ông bà, cha mẹ, con cháu trong nhà tổ chức cúng giỗ. Ngoài ý nghĩa tâm linh, cúng giỗ là dịp để tụ họp gia đình, nhớ đến người đã khuất, nối kết thâm tình, nhắc nhở nhau noi theo truyền thống tốt đẹp của tổ tiên, dòng họ, gia đình, trao đổi với nhau những vấn đề hệ trọng.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có nội dung bình dị và giàu tính thực tiễn, không cực đoan như nhiều tôn giáo khác. Bởi thế nó dễ dàng được thế tục hóa trở thành nếp sống, phong tục, bám rễ sâu trong tiềm thức của mỗi người. Bằng việc thờ cúng tổ tiên, thế hệ trước nêu gương cho thế hệ sau không chỉ vì trách nhiệm đối với các bậc sinh thành mà còn để giáo dục dạy dỗ con cháu lưu truyền nòi giống. Giáo sư Đào Duy Anh cho rằng: “tế tự tổ tiên là lấy sự duy trì chủng tộc làm mục đích”. Trong khi tế lễ, lời khấn vái của họ cũng thật giản dị, rất thực tiễn: lời cầu xin che chở, phù trợ cho cuộc sống hàng ngày của họ được bình yên, suôn sẻ. Không biết sự cầu xin ấy hiệu quả như thế nào, nhưng trước hết, con

Page 80: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 80

người cảm thấy thanh thản về mặt tâm linh, điểm tựa tinh thần quan trọng cho cuộc sống. Trong sự thờ cúng này đã thực sự nảy sinh mối quan hệ hai chiều: người chết cần đến sự cúng lễ của người sống để có thể yên ổn ở thế giới bên kia, không thành “ma đói” lang thang, còn người sống chỉ có thể an bình, thanh thản khi được che chở, phù trợ một cách bí ẩn của người chết. Linh hồn các bậc tiền bối luôn luôn bên cạnh con cháu, mách bảo cho họ và giúp đỡ họ có một cuộc sống tốt đẹp thuận hòa. Với những mong muốn bình dị và niềm tin nguyên thủy chất phát, thờ tổ tiên được coi là thứ tín ngưỡng “vừa tầm” với mọi lớp người cả về mặt nội dung đạo lý và nghi thức thực hiện. Do đó, khả năng phổ biến trong không gian và thời gian của tín ngưỡng này cũng là một điều dễ hiểu. Cảm nhận của bản thân về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

Qua tìm hiểu về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt nói chung và của người dân Biên Hòa nói riêng. Bản thân tôi nhận thấy tín ngưỡng này thể hiện một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với dân tộc Việt Nam. Nó mang ý nghĩa bày tỏ sự biết ơn luôn hướng về cội nguồn của mỗi người, với cội nguồn dân tộc. Có thể nói, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nhắc nhớ mỗi chúng ta, dù ở đâu, xa quê hương nhưng luôn tôn thờ và khắc ghi nguồn cội của mình.Thông qua đó giáo dục mỗi người luôn phải có trách nhiệm với quên hương đất nước, bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp mà tổ tiên ta đã dày công vun đắp.Tín ngưỡng này như sợi dây liên kết giữa những người sống và những người đã khuất, những người trên trần thế và những người ở thế giới tâm linh. Điều này bày tỏ về quan niệm nhân sinh của dân tộc Việt “sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”. Nhờ vào hình thức tín ngưỡng này, người Việt bày tỏ sự biết ơn và lòng thành kính, tấm lòng hiếu thảo với ông bà tổ tiên với những người đã sinh thành dưỡng dục chúng ta. Chúng ta luôn tin rằng, sau khi mất, tổ tiên không bao giờ biến mất mà vẫn luôn sát cánh cùng con cháu và chúng ta nên làm tròn bổ phận đạo hiếu của một người con.

Những giá trị này luôn được dân tộc ta đúc kết và truyền dạy cho những thế hệ sau qua những câu ca dao hết sức ý nghĩa “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay “Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn – Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu”. Trong mỗi gia đình Việt, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên truyền tải đạo lý sâu sắc “Uống nước nhớ nguồn” đã trở thành nét đẹp trong văn hóa của người Việt. Thông qua đó, mỗi con người hiểu được giá trị của “đạo hiếu” trong cuộc sống trong mối quan hệ với những người trong gia đình. “Công cha nặng tựa mây núi, nghĩa mẹ rộng tựa biển trời bao la” , do đó chúng ta luôn phải hiếu thảo và biết ơn với cha

Page 81: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 81

mẹ khi còn sống và luôn khắc cốt và bày tỏ sự thành kính và xót thương khi cha mẹ về thế giới vĩnh hằng.

Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không chỉ là nét đẹp truyền thống của văn hóa dân tộc mà nó còn là bài học đạo đức vô giá trong tiềm thức của mỗi người. Nó răn dạy con người về đức hiếu thảo, hiếu sinh và hướng về cội nguồn… Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương

Từ việc thờ cúng Tổ tiên trong mỗi gia đình, đến thờ cúng Tổ tiên của một chi, họ tại nhà thờ chi, nhà thờ họ, đến thờ cúng ông Tổ chung của một làng, một xã tại các đền, đình, miếu… rồi cao hơn cả người Việt thờ cúng Tổ tiên chung của dân tộc - các Vua Hùng đã có công khai sơn, phá thạch gây dựng nên bờ cõi, non sông đất nước, lập nên Nhà nước Văn Lang độc lập, có chủ quyền của người Việt cổ tạo tiền đề cho sự phát triền bền vững cho dân tộc, quốc gia sau này. Đó là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, là truyền thống có từ lâu đời đã trở thành nét đẹp văn hóa tiêu biểu, thể hiện chữ hiếu, lòng biết ơn và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, là bản sắc văn hóa độc đáo, rất riêng của dân tộc Việt Nam.

Chim có tổ, người có tông. Mọi người Việt Nam nhìn nhận mình là con cháu vua Hùng. Dù đi đâu, ở đâu, làm gì... tấm lòng người Việt luôn hướng về cội nguồn. Tâm niệm về con Hồng cháu Lạc liền mạch chảy suốt qua bao vùng, miền, bao thế hệ. Ấy là nhân tố tạo nên sức mạnh tinh thần bất diệt, tạo nên truyền thống đoàn kết dân tộc, tình nghĩa đồng bào, và trở thành lực lượng vật chất đánh bại các mưu toan xâm lược chia cắt đất nước ta, dân tộc ta. Có lúc kẻ thù ngoại bang đã chiếm được kinh thành và ngai vàng của vua nước ta, nhưng không thắng được nhân dân Việt Nam là do vậy.

Từ lâu đời, dân gian truyền nhau câu hát: Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba Khắp miền truyền mãi câu ca

Nước non vẫn nước non nhà nghìn năm.

Giỗ tổ Hùng Vương vào trung tuần tháng ba âm lịch hàng năm là ngày hội để nhân dân cả nước tỏ lòng tô kính đối vời tổ tiên, hướng cội nguồn, sum vầy cùng nhau trên đất tổ. Nhưng do điều kiện làm ăn sinh sống ở phương xa, ngăn sông cách núi không về được, người Việt nghĩ cách lập đền thờ vọng. Đền thờ vọng cũng phỏng theo các nghi thức cổ truyền 'ở đền Hùng đất tổ nhằm để con cháu vua Hùng bày tỏ nỗi niềm: Xa mặt nhưng khôn cách lòng.

Page 82: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 82

Riêng ở Biên Hòa -Đồng Nai. tổ tiên vẫn luôn ngự trong lòng mỗi người. Đồng Nai được hình thành từ nhiều đợt di dân, nhiều nguồn dân cư nhưng chung một tổ tiên: Hùng Vương ở Biên Hòa, có đền hoặc điện thờ vọng Hùng Vương gắn liền với phong tục tập quán ở địa phương. và tại trung tâm thành phố Biên Hòa có một ngôi trường lớn vinh dự mang tên Hùng Vương

Với truyền thống nhớ ơn tổ tiên, vào năm 1968, người dân xã Tam Hiệp (Biên Hòa) xây dựng một ngôi đền thờ Quốc tổ Hùng Vương, thể hiện tấm lòng và nghĩa cử nhớ về cội nguồn dân tộc.

Di tích hiện nay tọa lạc trên địa bàn khu phố 3, đường Phạm Văn Thuận (quốc lộ 15) thuộc phường Bình Đa. Năm 1971, đền được xây dựng hoàn chỉnh. Bàn thờ Quốc Tổ Hùng Vương được trang trọng đặt trong trung tâm kiến trúc đền. Kiến trúc hiện tồn di tích đền được trùng tu qua nhiều đợt, trong đó, đợt trùng tu lớn vào những năm đầu thập niên 90, thế kỷ XX. Từ ngôi đền nhỏ, quy mô kiến trúc di tích được xây dựng khang trang với những vật liệu kiên cố.

Đền thờ Hùng Vương Biên Hòa ở Bình Đa tuy đã tạo lập muộn nhưng không tách rời phong tục , truyền thống cổ truyền của dân tộc, mà là biểu hiện cụ thể tấm lòng và bản lĩnh của nhân dân Biên Hòa đối với tổ tiên và đồng bào cả nước.

Đền Hùng Vương ở Biên Hoà có những tặng vật của nhân dân Phú Thọ tặng như đất, nước và trồng đồng minh khí - những biểu tượng nối kết từ đất Tổ đến vùng đất phương Nam của đất nước. Bức lam chạm trổ với đề tài “Lưỡng long tranh châu” với đường nét tinh xảo làm tăng thêm vẻ uy nghiêm nơi chốn thờ phụng. Trong di tích còn có bức phù điêu chủ đề: ”Công đức lưu truyền, Hùng vương điển tích” thể hiện đất nước Việt Nam thống nhất trong truyền thống Lạc Hồng của hàng ngàn năm dựng và giữ nước”.

Hằng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, tại đền Quốc Tổ ở Biên Hòa – đồng Nai diễn ra lễ giỗ tổ trang trọng. tại di tích cũng diễn ra nhiểu hoạt động văn hóa phong phú, đa dạng trong truyền thống tri ân tổ tiên của thế hệ trẻ

Page 83: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 83

Những hình ảnh chuẩn bị cho nghi thức lễ ở đền Quốc Tổ

phường Bình Đa ( 2018)

Page 84: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 84

Tại ngày này, đền Hùng Vương Biên Hòa. Con cháu Vua Hùng không chỉ ở Biên Hòa, còn ở các nơi xa tìm về như chim gọi bầy cùng tỏ lòng tưởng nhớ và nguyện sống xứng đáng với tổ tiên.

Hỉnh ảnh Ban lãnh đạo Tỉnh và các tầng lớp nhân dân Biên Hòa dâng

hương tại đền Quốc Tổ Hùng Vương tại Biên Hòa

Page 85: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 85

Đền thờ Quốc Tồ Hùng Vương ở

Bình Đa được công nhận là di tích cấp tỉnh

Có “Vua Hùng” hiện diện trong tâm trí, nhân dân Biên Hòa tự hào về dòng giống, có sức mạnh tinh thần bất khuất, biết đoàn kết trong lao động và sản xuất, giữ gìn và phát huy bản sắc, bản lĩnh của dân tộc, đồng tâm nhất trí bảo vệ Tổ quốc đưa đất nước tiến lên theo con đường mà Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn. Cảm nhận của bản thân về tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng

Có thể nói ngày 10 tháng 3 hàng năm là ngày duy nhất có được của toàn thể người Việt mà sự hân hoan tự nhiên phát ra từ đáy lòng, là ngày giờ linh thiêng khiến giữa tất cả người Việt với nhau thực sự không có sự ngăn cách nào dù mong manh nhất. Ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hằng năm đã trở thành “điểm hẹn” tâm linh trong mỗi người dân nước Việt. Cứ đến ngày này, dù ai ở xa, dù ai đang bận rộn, dù đi đâu về đâu, cũng tìm đường về chân núi Nghĩa Lĩnh dâng hương tưởng nhớ các vua Hùng đã có công dựng nước

Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng còn là dịp để giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước, đồng

Page 86: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 86

thời còn là dịp quan trọng để chúng ta quảng bá ra thế giới về một Di sản vô cùng giá trị, độc đáo, đã tồn tại hàng nghìn năm, ăn sâu vào tâm hồn, tình cảm, trở thành đạo lý truyền thống của đồng bào cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài, là ngày để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cùng nguyện một lòng mãi mãi khắc ghi lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước

Bản thân tôi là giáo viên ngoài việc truyền đạt kiến thức bài học thì tôi luôn luôn ý thức được rằng việc giáo dục học sinh truyền thống uống nước nhớ nguồn thông qua mỗi bài học là vô cùng quan trọng, từ đó giúp cán em xác định được lí tưởng sống của thanh niên, nhiệm vụ của học sinh trong giai đoạn hiện nay cần phải làm gì để phấn đấu trở thành những người công dân có ích cho gia đình và xã hội

Hơn thế cứ hằng năm vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch tuy không có điều kiện để đặt chân tới đất tổ Việt Trì ( Phú Thọ) nhưng tôi vẫn đến đền Quốc tổ Hùng Vương ở Bình Đa ( Biên Hòa – Đồng Nai) để thắp nén tâm thang tỏ lòng thần kính đối với các Vua Hùng. Và tôi luôn ý thức được rằng bản thân mình cần phải làm gì để góp một phần bé nhỏ vào công tác giáo dục làm sao đạt được nhiều thành quả tốt nhất trong công tác trồng người.

Tín ngưỡng thờ thần Thành hoàng Bổn cảnh ở Đồng Nai Cũng như bao ngôi đình trên vùng đất phương Nam, đình làng ở Biên Hòa

là một dấu ấn xác định sự hình thành của cộng đồng người Việt trên vùng đất mới. Tên gọi các ngôi đình thường gắn liền với tên gọi của làng. Đó là những tên gọi khi làng mới được thành lập, nên người dân quen gọi là đình làng. Chẳng hạn như đình Tân Lân, đình Bình Kính, đình Phước Lư, đình Mỹ Khánh, đình Tân Giám. Một số đình thờ những nhân thần thì gắn liền với tên gọi của đối tượng được thờ, như đình Bình Kính thờ Nguyễn Hữu Cảnh thì gắn với tên gọi song song là đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, đình Mỹ Khánh thờ Nguyễn Tri Phương thì được gọi là đền thờ Nguyễn Tri Phương, đình Tân Lân thờ Trần Thượng Xuyên thì gọi là là đền thờ Trần Thượng Xuyên, đình Tam Hiệp thờ Đoàn Văn Cự thì gọi là đền thờ Đoàn Văn Cự… Như vậy, đình và đền là hai cách gọi nhưng cùng chỉ một cơ sở tín ngưỡng của làng xã đó là đình.

Khảo sát các đình có sắc phong ở Biên Hòa - Đồng Nai, cho thấy có hai dạng Thành hoàng được phong tặng tước hiệu: Thượng đẳng thần và thành hoàng chung chung (có thể hiệu là hạ đẳng thần).

Thành hoàng bậc Thượng đẳng thần ở các đình Đồng Nai có những vị như Nguyễn Hữu Cảnh (thờ ở đình Bình Kính/ đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh), Trần Thượng Xuyên (đình Tân Lân/ đền thờ Trần Thượng Xuyên), có công lao lớn với

Page 87: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 87

dân, với nước. Lúc mất đi được triều đình biểu dương công trạng cho lập đền thờ hoặc bởi lòng dân tôn kính mà thờ. Các bậc Thượng đẳng thần đều có sự tích, công trạng và họ tên rõ ràng. Còn những đình khác có sắc phong thần Thành hoàng bổn cảnh với những mỹ tự: Quảng Hậu, Chánh Trực, Hữu Thiện Đôn Ngưng chi thần. Đây là những vị thần mà người dân của địa phương thờ tự không rõ danh tính, sự tích nhưng thuộc trong hệ thống chính thần được triều đại phong kiến thời bấy giờ công nhận hay theo lòng dân tôn thờ mà nhà vua theo lòng dân mà phong thần một cách chung chung.

Nguyễn Hữu Cảnh là một danh tướng có công rất lớn với dân tộc, được chúa Nguyễn Phúc Chu phong làm Thống suất đem quân kinh lược xứ Đồng Nai, lấy đất Đồng Phố làm phủ Gia Định; Đồng Nai làm huyện Phước Long đặc danh là Trấn Biên; lấy Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng danh Phiên Trấn. Ông là người văn võ song toàn, tuy thời gian kinh lược không lâu nhưng ông đã thu nạp và chiêu mộ thêm nhiều dân, mở rộng đất đai bờ cõi là cơ sở cho việc xác lập chủ quyền đất nước ngày nay. Là người có công đầu trong thiết lập hệ thống chính quyền ở vùng đất Nam bộ.

Di tích đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn có tên gọi là đình Bình Kính, tồn tại hơn ba thế kỷ ở vùng đất Cù lao Phố, xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa. Đình tọa lạc trên diện tích đất rộng, đường Đặng Đại Độ, bên tả của nhánh sông ôm trọn Cù lao Phố, dưới chân cầu Ghềnh, mặt tiền nhìn về hướng Đồng Nai, phía Tây Nam.

Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh ở Cù Lao Phố

Page 88: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 88

Bàn thờ Đức Lễ Thánh Hầu Nguyễn Hữu Cảnh

Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh là một trong số ít những di tích ở Biên Hòa còn lưu giữ được sắc thần, trong đó ghi rõ tên họ, chức tước vinh hiển, thứ bậc Thượng đẳng thần của vua ban phong cho Nguyễn Hữu Cảnh. Hằng năm, tại đình tổ chức lễ hội vào ngày 16, 17 tháng 5 và ngày 11 tháng 11 (âm lịch) để tưởng nhớ công lao, đức trọng của vị khai quốc công thần, có công lớn với cả xứ Nam Bộ.

Các đại biểu chuẩn bị dâng hương trước đền thờ

Đức lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh ( 2018)

Page 89: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 89

Đông đảo đoàn viên, thanh thiếu niên, học sinh đến thắp nhang tại

đền thờ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh

Sau nghi thức cúng giỗ, nhiều hoạt động trò chơi dân gian với chủ đề “Hành trình vào đất phương Nam” đã được tổ chức, thu hút sự tham gia của các đoàn viên, thanh niên. Theo đó, các đoàn viên, thanh niên tham gia thực hiện 5 bước như: Xuất phát, vượt trùng giang, tiến vào vùng đất Nam bộ, tìm hiểu lịch sử vùng đất Nam bộ, về đích…Những hoạt động này góp phần giúp các bạn trẻ hiểu hơn về lịch sử của các bậc tiền nhân trong quá trình mở cõi đất phương Nam.

Di tích đình Bình Kính được xếp hạng cấp quốc gia theo quyết định số 457 – QĐ của Bộ Văn hóa Thông tin, Thể thao và Du lịch ngày 25 tháng 3 năm 1991.

Cùng với Nguyễn Hữu Cảnh người dân Biên Hòa còn thờ cúng Trần Thượng Xuyên. Ông là một trong những người có công lớn trong việc khai phá và xây dựng vùng đất Đồng Nai - Gia Định. Về hoạt động quân sự, Trần Thượng Xuyên là một dũng tướng thao lược được chúa Nguyễn tin dùng. Trần Thượng Xuyên cùng các tướng nhà Nguyễn đánh dẹp loạn Hoàng Tấn (Hoàng Tấn là phó tướng của Dương Ngạn Địch, làm phản, giết chủ tướng và dấy binh làm loạn). Trần Thượng Xuyên đã nhiều lần chỉ huy quân lính đánh quân Chân Lạp quấy phá, xâm nhiễu biên giới, giữ an bờ cõi, mở rộng biên cương nước Việt. Năm 1715, Trần Thượng Xuyên lại cùng với Nguyễn Cửu Phú đi đánh dẹp quân của Nặc Ông Thâm, hạ được thành La Bích.

Page 90: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 90

Đình Tân Lân ( Biên Hòa)

Chánh điện thờ tướng Trần Thượng Xuyên ( đình Tân Lân)

Trần Thượng Xuyên mất ngày 23 tháng 10 âm lịch - khoảng năm Canh Tý (1720), an táng tại mạn bắc dinh Trấn Biên (nay thuộc xã Mỹ Lộc, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Ông được người dân tôn kính thờ làm Thành hoàng tại đình Tân Lân. Ghi nhớ công lao của Trần Thượng xuyên, nhà Nguyễn ban phong

Page 91: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 91

nhiều danh hiệu cao quý “Trần vi tướng, đại đại công thần bất tiệt”, liệt vào bậc Thượng Đẳng thần.

Người dân dâng hương tưởng nhớ Đức ông Trần Thượng Xuyên tại

Đình Lân Tân ( phường Hòa Bình-Biên Hòa)

Đình Tân Lân (Xóm Mới) ở Biên Hòa, nơi thờ chính tướng Trần Thượng Xuyên, đã được Bộ Văn hóa-Thông tin-Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 457/QĐ, ngày 25 tháng 3 năm 1991. Hàng năm, Ban quý tế đình Tân Lân đều tổ chức tảo mộ và cúng tế vào các dịp thanh minh, trùng cửu, ngày giỗ và lễ cầu an

Như vậy, tín ngưỡng thờ thần làng là một vị thần linh, phúc thần công chính, hiển linh. Theo quan niệm của người dân, vị thần này được dân làng tôn thờ vì là thần linh thương dân, bảo vệ cuộc sống bình yên của dân làng, làm cho mưa gió thuận hòa, mùa màng tốt tươi…Nét tín ngưỡng dân gian này còn bảo lưu trong đời sống cộng đồng các khu dân cư ngày nay và gắn liền với những giá trị di sản văn hoá của dân tộc. Tuy ngày nay khoa học đã phát triển, nhưng con người vẫn gặp phải rất nhiều trắc trở trong cuộc sống như các bệnh hiểm nghèo, vô sinh,…mà y học phải bó tay. Hoặc như khi xảy ra hỏa hoạn, thiên tai bất ngờ: động đất, sóng thần, lũ lụt,…hàng năm đã cướp đi biết bao sinh mạng con người. Khi đó, con người lại phải nương nhờ vào thần thánh, cầu xin sự che chở của thần thánh.

Tóm lại, tín ngưỡng thờ thần và thành hoàng làng của người Việt thực chất là thờ phúc thần, nó đóng vai trò liên kết cộng đồng trong làng xã và mở rộng ra cả nước, nhằm giáo dục lòng yêu nước, nhân nghĩa, hướng đến những điều tốt

Page 92: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 92

đẹp. Đó là những giá trị văn hóa truyền thông vô cùng quý báu của dân tộc mà ngày nay chúng tạ cần thừa kế và phát huy.

Tục thờ Hổ thần trong các miếu, đình tại Biên Hòa - Đồng Nai Tục thờ thần Hổ là một trong những tín ngưỡng dân gian của những người

di dân từ thuở trước còn lưu lại. Biên Hòa - Đồng Nai là vùng đất mới, núi rừng bạt ngàn, nhiều thú dữ, đặc biệt là nhiều cọp: "Đồng Nai xứ sở lạ lùng. Dưới sông sấu lội trên giồng cọp um", đã đe dọa trực tiếp đến cuộc sống, quá trình khẩn hoang của những người di dân. Vì vậy, tâm lý lo sợ về mối nguy hiểm này đã khiến cho họ thờ Cọp, tôn Cọp lên chức Ông Cả của làng xóm để mưu cầu một cuộc sống bình yên. Hằng năm, ở đình khi diễn ra lễ cúng tế, tại bàn thờ thần Hổ thường được cúng bằng thịt heo. Hầu hết các ngôi đình ở Đồng Nai đều có miếu hay bàn thờ Cọp với các tên gọi như Hổ thần, Mãnh hổ Sơn quân, Bạch Hổ, Chúa Sơn Lâm...

Miếu thờ Hổ Thần ở Bửu Long – Biên Hòa

Ngày nay, vùng Biên Hoà – Đồng Nai phát triển cảnh quan có nhiểu đổi thay. Thú dữ, trong đó có loài Cọp không còn quấy nhiễu như xưa, thậm chí chúng còn đứng trước nguy cơ bị diệt chủng. Thế nhưng, tín niệm trong dân gian về thờ Hổ thần vẫn còn được bảo lưu, duy trì trong một chừng mực nhất định.

Page 93: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 93

Nhiều câu chuyện liên quan đến loài Cọp với người dân trong quá trình khai khẩn xưa vẫn còn đựơc truyền tụng, Hóc Ông Che (Hoá An)…, chuyện Cọp giúp người, người giúp với sự tích Miếu Bà Mụ ở Bến Gỗ (Long Thành), chuyện Cọp dữ đựơc cảm hoá trở nên hiền lành ở Bửu Long (Biên Hoà)

Chùa Hóc Ông Che ( Hiển Lâm Sơn Tự) tọa lạc xã Hóa An thành phố Biên Hòa

Câu chuyện kể rằng, thuở ấy, vùng Hóa An là khu rừng rậm rạp, đầy thú dữ. Tương truyền, trong rừng bỗng xuất hiện một con cọp to bằng con trâu mộng từng hại nhiều người đi rừng, còn về làng bắt gia súc của dân. Con cọp này ăn thịt nhiều người đã thành “tinh” rất khôn lanh nên thợ săn dù tài giỏi cỡ nào cũng không trị được.

Sau nhiều ngày dò tìm trong rừng sâu, sư Huệ Lâm và đồ đệ bắt gặp được cọp dữ. Trận chiến kéo dài từ sáng đến tối không phân thắng bại giữa cọp và người. Dù vậy, sư Huệ Lâm kiên trì dốc sức quần nhau với cọp. Người ta kể lại rằng: nhà sư đứng trước đầu hổ tay vung roi, miệng hô thần chú, nhiều “âm binh” và “âm tướng” hiện ra trợ sức đánh cọp.

Đến sáng mai, trận chiến mới kết thúc. Con cọp tinh đã quy phục hoàn toàn và theo sư Huệ Lâm về chùa ẩn tu...

Page 94: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 94

Bức tranh sơn dầu ở chùa Hóc Ông Che tái hiện con người cảm hóa Cọp dữ

thành hiền lành

Người Việt ở Biên Hoà thờ thần Hổ với những thần hiệu khá độc đáo trong các miếu thờ. Trong số những miếu thờ, hình ảnh vị chúa tể Sơn lâm đựơc khắc hoạ bằng hình ảnh oai vệ, hay danh xưng đựơc ca ngợi tột bật lên hàng thần, hàng tướng, hàng Cả. Miếu thờ thần Hổ ở đình Hoà Qưới (Cù lao Phố – xã Hiệp Hoà) có hai câu đối ca ngợi sức mạnh của đệ nhất Mãnh Hổ tướng quân:”Hùng hào tuấn kiệt nhứ mãnh hổ. Anh dũng oai linh thị sơn lâm”.

Miếu thờ thần Hồ ( cù Lao Phố)

Page 95: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 95

Quan tín ngưỡng thờ cúng những vị thần Hổ nó phản ánh sức mạnh của con người chinh phục tự nhiên, việc thờ cúng thần hổ nó thể hiện một nếp sống văn hóa phong phú, đa dạng trong tín ngưỡng dân gian, Hổ là loài vật linh thiêng, là kẻ thù của các tà thần, nên thường được hiện diện như những vị thần linh canh cửa các ngôi đền. Hình tượng hổ tượng trưng cho sức mạnh của trần gian, đại diện cho các thần linh ở dưới mặt đất. Chúng được tôn thờ, sùng bái và gọi một cách trân trọng là ông, ngài, cậu, chúa. Thần hổ uy linh và đầy huyền bí đã đi vào đời sống tâm linh của người dân Biên

Tục thờ bà Thiên Hậu của người Hoa ở Biên Hòa Thiên Hậu Thánh Mẫu được xem là nữ thần phù hộ người đi biển của

người Hoa nên còn được phong là thần biển. Thờ Bà Thiên Hậu là một trong những hình thức tín ngưỡng được lưu từ Trung Quốc sang, nên người Hoa ở bất cứ nơi đâu trên đất Việt Nam đều duy trì tín ngưỡng thờ cúng Bà. Thánh Mẫu sinh ngày 23 tháng 3 âm lịch năm 960 đời nhà Tống, bà mất ngày 19 tháng 2 âm lich năm 987, Bà là người Phúc Kiến. Bà mất khi còn trẻ nên rất linh thiêng. Theo truyền thuyết, khi Bà được sinh ra có mây ngũ sắc phủ đầy mái nhà và mùi hương thơm nức. Từ nhỏ đã có tài tiên đoán rất chính xác tương lai của người thân quen, bà đã có nhiều lần cứu sống người thân bị đắm tàu ngoài biển khơi bằng những lời cầu nguyện và các phép lạ ngay tại nhà. Sau khi mất, Bà hiển hiện rất nhiều lần, nhiều nơi trên biển Đông để cứu tàu thuyền và người đi biển gặp nạn trong phong ba, bão táp. Trong số đó có lần Bà đã hiển hiện cứu cả chiến thuyền và sứ thuyền của các Hoàng đế Trung Hoa bị nạn. Vì vậy, các Hoàng đế Trung Hoa nhiều lần phong tặng Bà danh hiệu cao quý như: Thánh Phi, Thiên Phi, Thiên Hậu.

Khi các nhóm người Hoa sang Việt Nam lập nghiệp, trên bước đường nguy nan luôn bị đe dọa bởi sóng to, gió lớn. Họ luôn cầu nguyện đến Bà, và khi đã vượt qua được nguy khó, được sống tề tựu đông đủ trên quê hương thứ hai người Hoa đã thờ Bà để tỏ lòng biết ơn. Người Hoa cũng muốn qua đó giáo dục cho toàn thể cộng đồng của mình noi gương và học tập theo lòng hiếu thuận đối với cha mẹ, xả thân vì mọi người như chính bà Thiên Hậu.

Page 96: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 96

Chánh điện thờ Bà Thiên Hậu

Ở Biên Hòa Bà Thiên Hậu được thờ chính trong các cơ sở tín ngưỡng của người Hoa như: “Miếu Thiên Hậu” (miếu Cây Quăn), “Thiên Hậu Cung”, “Thiên Hậu Tự”, “Thiên Hậu Cổ Miếu” mà ở đó Bà là vị thần chính. Ngoài ra, còn có 5 cơ sở khác Bà được phối thờ với Quan Công, Kim Hoa nương nương, Linh Sơn Thánh Mẫu, Phật Bà Quan Âm, Phúc Đức Chánh Thần, Bà Chúa Xứ. Tượng Bà Thiên Hậu thường được làm bằng tượng tre ngâm phết giấy bồi hoặc làm bằng gỗ, bên ngoài khoác áo choàng màu đỏ thêu kim tuyến, đầu đội mão Cửu Long có rèm châu rủ xuống trán. Theo tập tục của người Hoa thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu thì tùng tự Thiên Lý nhãn (người nhìn xa vạn dặm) và Thuận Phong Nhĩ (nghe được từ xa), là hai vị thần tai mắt giúp Bà thấy được và nghe được mọi việc trên đời.

Lễ Vía Bà vào 23 tháng 3 âm lịch hàng năm được cộng đồng người Hoa Biên Hòa tổ chức cúng lễ trong thể. Trong đó, nhóm người Hoa Hẹ tổ chức rất lớn, thu hút đông người đến cúng lễ. Trước lễ vía Bà tất cả các ngôi miếu được dọn sạch sẽ, khang trang, dăng đèn kết hoa tọa nên không khí vui tươi, náo nức. Ngay từ đêm 22 tháng 3 âm lịch tại miếu tổ chức lễ tắm và thay bộ áo mới đẹp nhất cho Bà. Trong suốt ngày 23 tháng 3 mọi người ở khắp nơi đổ về dâng lễ cúng Bà. Trong ngày lễ vía Bà ở “Thiên Hậu Cổ Miếu” (phường Bửu Long ) thường có lệ tổ chức đấu thầu lồng đèn thu hút đông đảo người tham gia để cầu

Page 97: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 97

may, cầu phúc. Ở “Thất Phủ Cổ Miếu” (chùa Ông) hàng năm cũng tổ chức lễ vía Thiên Hậu, thường thì đây là lễ hội cầu an của người Hoa ở Biên Hòa thu hút rất đông người Hoa về tề tựu cầu xin sự an lành và may mắn, phần lễ diễn ra long trọng, nhiều nghi thức. Trước kia, vào ngày vía bà lễ hội được tổ chức linh đình hơn nhiều, thời gian có thể kéo dài hàng tuần, còn tổ chức rước Bà với pho tượng đặt trong kiệu khiêng đi diễu hành trên đường phố[1]. Hiện nay lễ vía Bà tổ chức lâu nhất chỉ diễn ra trong hai ngày.

Lễ vật dâng cúng trong ngày vía Bà rất nhiều như: Heo quay, thường là nguyên con heo quay sơn đỏ, nằm dang hai chân ra sau trên miệng ngậm một bông hoa màu đỏ; Gà luộc, vịt quay, các loại bánh (dính bành, bánh bò, bánh lá liễu, bánh ngot…) Ngoài ra còn có trái cây, bông, đèn nhang, các loại giấy tiền vàng bạc, quần áo. Sau khi dâng lễ mỗi người thường mua một vòng nhang để cầu an cho gia đình, vòng nhang đó được ghi tên chủ gia đình và treo lại trong miếu bao giờ cháy hết gia chủ vào miếu mua tiếp vòng nhang khác.

Thiên Hậu Cổ Miếu ở phường Bửu Long, TP.Biên Hòa

Trong những ngày lễ vía các nhóm người Hoa thường diễn các hoạt động từ thiện, gây quỹ trợ giúp người nghèo về lương thực, thực phẩm, bảo trợ học sinh nghèo, tiền thuốc men cho người bệnh. Đồng thời cũng có những đóng góp quan trọng vào các mặt hoạt động văn hóa xã hội của người Hoa nói chung. Đây là một truyền thống tốt đẹp, có ý nghĩa tích cực trong đời sống tín ngưỡng và lễ hội của người Hoa ở Biên Hòa hiện nay.

Page 98: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 98

Lễ hội Kỳ Yên ở Biên Hòa - Đồng Nai Lễ Kỳ yên (Cầu an) là một trong những lễ hội chính ở các đình của Đồng

Nai. Lễ thường diễn ra vào hai mùa xuân và thu hoặc gắn với những ngày liên quan đối với đối tượng được thờ tự. Dân làng đóng góp công của để cúng tế vị thành hoàng bổn cảnh với mục đích cầu xin mưa gió thuận hòa (phong điều vũ thuận), mùa màng tốt tươi (phong đăng hòa cốc), quê hương đất nước bình yên (quốc thái dân an). Lễ hội kỳ yên qua nhiều thế hệ đã trở thành tập quán tín ngưỡng, hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống của cộng đồng người Việt ở Biên Hòa.

Thông thường, đáo lệ 3 năm, thì đình làng tổ chức Đại lễ Kỳ yên. Trong đại lễ Kỳ yên, các nghi thức cùng tế trong Lễ được tổ chức chu đáo, đảm bảo theo tuần tự. Đặc biệt, trong đại lễ Kỳ yên có sự phối hợp giữa các nghi thức cúng tế và hình thức diễn xướng do các đoàn hát bội được mời đảm trách.

Trong các kỳ đại lễ, người dân tham gia khá đông đảo. Nhiều nghi thức lễ và hội diễn ra. Trong lễ Kỳ yên những quy tắc nghi thức lễ được tuân thủ nghiêm ngặt.

Chuẩn bị cho nghi thức lể Kỳ Yên

Trong phần hội, thường tại các ngôi đình lớn tổ chức các sinh hoạt văn hóa rất phong phú: hát bội, múa lân, đua thuyền, đầu võ, xô giàn….được nhiều người

Page 99: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 99

hưởng ứng, tạo nên không khí náo nhiệt. Ở Bến Gỗ thường tổ chức đua thuyền trên sông. Người dân hào hứng đứng trên hai bờ sông cổ vũ sôi động. Một số đình có tổ chức hạt bộ cho dân làng xem ba đêm liền với những tuồng tích xưa ca ngợi những con người nghĩa hiệp, anh tài, giúp dân, giúp nước.

Múa Lân ở lể hội kỳ Yên tại Đình Tân Lân ( Biên Hòa – Đồng Nai)

Hát bội trong lễ Kỳ Yên

Page 100: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 100

Đua thuyền trên sông Đồng Nai

Tham gia trong lễ hội, người dân như quên hết những âu lo, cực nhọc thường nhật, hội nhập vào không khí thiêng liêng của lễ, náo nhiệt của hội. Qua đó, họ thể hiện lòng biết ơn của mình với thần linh, tổ tiên và thể hiện tinh thần gắn bó cộng đồng, hướng đến những ước vọng tốt đẹp. Hiện nay, trong những đêm lễ hội kỳ yên tại các đình làng Biên Hòa, loại hình nghệ thuật truyền thống như đờn ca tài tử được các đoàn biểu diễn giao lưu cuốn hút đông đảo người xem, trở thành nét sinh hoạt văn hóa độc đáo.

Ngoài những tập quán, tín ngưỡng dân gian tiêu biểu thì người dân Biên Hòa –Đồng Nai còn có một tập quán tuy không phổ biến, rõ nét nhưng cũng thể hiện điểm riêng của người dân Biên Hòa đó là không ăn tân gia. Họ quan niệm rằng việc tổ chức ăn tân gia thì sẽ gặp những điều không may mắn. Theo PGS-TS.Huỳnh Văn Tới, Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ dân gian Đồng Nai, có thể tập quán này xuất phát từ 2 nguyên nhân. Thứ nhất, lớp lưu dân Việt ngày xưa đến Biên Hòa - Đồng Nai sinh sống vẫn khiêm tốn cho rằng mình là người “ở nhờ” trên vùng đất của những lớp người trước đó. Cụ thể, người Biên Hòa xưa có tục thờ Ông Tà (Neak Ta, vị thần bảo hộ cho cộng đồng dân cư theo tín ngưỡng dân tộc Khmer), khi cúng giỗ cũng cúng Ông Tà như hình thức tri ân lớp người đi trước. Vì vậy, người Biên Hòa không ăn tân gia như một cách thể hiện sự ứng xử “tế nhị” với lớp chủ nhân xa xưa của vùng đất này.

Nguyên nhân thứ hai có thể xuất phát từ lớp người Hoa theo Trần Thượng Xuyên đến Biên Hòa vào cuối thế kỷ 17. Lớp người này mang tư tưởng “Phản

Page 101: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 101

Thanh phục Minh” nên quyết không ăn tân gia với ý nghĩa nhắc nhở con cháu đừng quên quê hương bản quán, đồng thời bày tỏ ước vọng trở về cố quốc.

Cho nên việc ăn tân gia của người dân Biên Hòa họ thường kết hợp với một dịp nào đó trong gia đình có thể là thôi nôi, đầy tháng, sinh nhật con, mừng thọ ông bà trong gia đình… Trong những tập quán, tín ngưỡng của người dân Biên Hòa bản thân tôi từng tìm hiểu, tham gia và nó gắn liền với cộng đồng đó chính là tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng của người dân Biên Hòa- Đồng Nai. Hòa chung cùng với tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam thì tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng mang một ý nghĩa sâu sắc, nhắc nhở con cháu truyền thống “ uống nước nhớ nguồn” người đã có công khởi dựng Nước nhà.

Ơn người thợ khéo bàn tay Ngày đêm tâm huyết dồn đầy nét hoa

Trải bao hưng phế chẳng nhòa Nếp ăn ở với cửa nhà chiến công

Ngỡ trên mặt trống con rung Tiếng xa xưa vọng đền Hùng hôm nay.

(Đền Hùng – Hoàng Hữu) Bản thân tôi là một người con của người dân Biên Hòa nhận thức được đây là nghi lễ cần được giữ gìn và phát huy giúp cho mọi người dân Biên Hòa Đồng Nai hiểu đ ược lịch sử dân tộc và tổ tiên họ.

Đền thờ Quốc tổ Hùng Vương phường Bình Đa, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai

Page 102: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 102

Để phát huy và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện

nay bản thân có những biện pháp đề xuất như sau: Thứ nhất, về phía các nhà quản lý xã hội, cần đẩy mạnh tuyên truyền bằng nhiều hình thức và nội dung phong phú, linh hoạt, sáng tạo để nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về nghi lễ thực hành tín ngưỡng, tập quán dân gian. xác định đây vừa là sinh hoạt văn hoá dân gian hội tụ nhiều giá trị nghệ thuật truyền thống tốt đẹp, vừa là nghi lễ tâm linh nhằm thoả mãn nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần của nhân dân. Từ đó có định hướng đúng đắn trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực thi nghi lễ văn minh, lành mạnh, tiết kiệm, hướng đến những giá trị nhân văn tốt đẹp của nghi lễ như tạo dựng niềm tin, tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau, sự tha thứ và dâng hiến... cho con người. Thực thi các biện pháp quản lý nhà nước đối với hoạt động diễn xướng trong thực hành nghi lễ, chẳng hạn như cấp phép hành nghề đối với những người tham gia đoàn cung văn, những thanh đồng... Ban hành các quy định về tổ chức thực hiện nghi lễ thực hành tín ngưỡng thờ cúng tại các cửa đền, cửa phủ như hạn chế tung tiền khi phát lộc, nghiêm cấm dâng cúng, đốt vàng mã, quy định thời gian, thời lượng của mỗi buổi lễ, quy định về sử dụng đàn, lời hát, điệu múa, trang phục phù hợp với nghi lễ truyền thống...

Page 103: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 103

Thứ hai, về phía những nhà nghiên cứu văn hoá, cần khẩn trương hoàn thiện và phổ biến rộng rãi hơn nữa những kết quả nghiên cứu về các phong tục tập quán,tín ngưỡngdân gian, từ đó xây dựng và định hướng cho nhân dân thực hiện nghi lễ phù hợp với phong tục tập quán vừa bảo đảm sự tôn nghiêm, thành kính, chuẩn mực vừa thuận tiện cho nhân dân trong thực hiện nghi lễ.Có những dự báo về khả năng tồn tại, phát triển và giao thoa, tiếp biến của nghi lễ cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội để đề xuất những giải pháp giữ gìn, phát huy yếu tố tích cực, hạn chế yếu tố tiêu cực, góp phần thực hiện văn minh trong thực hiện sinh hoạt tín ngưỡng, tâm linh. Thứ ba, về phía những người dân, cần nhận thức sâu sắc đây là một sinh hoạt văn hoá tinh thần, có ý nghĩa trong việc giải toả phần nào những ẩn ức nội tâm, góp phần làm thay đổi tâm trạng, tinh thần theo hướng tích cực, từ đó không đặt nặng vấn đề cầu xin, mua đổi trong việc hành lễ. Thứ tư , Tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho văn học, nghệ thuật phát triển mạnh mẽ, đa dạng về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm. Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xã hội hoá trên lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật để có nhiều công trình, nhiều sản phẩm văn hoá đáp ứng nhu cầu của công chúng. Tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống. Thứ năm: Khơi dậy sức sáng tạo chủ động của nhân dân trong các hình thức sinh hoạt cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa trong thời kỳ mới. Giữ gìn truyền thống văn hoá trong gia đình, trong làng, bản, tạo điều kiện cho quần chúng tiếp nhận thông tin về mọi mặt đời sống kinh tế xã hội và thực hiện quyền làm chủ của mình.

Sáu là Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa. Tuyên truyền cho đồng bào các dân tộc biết tự hào và trân trọng những giá trị tinh thần, đạo đức, phong tục tốt đẹp của mình, phát huy các giá trị văn hóa tích cực truyền thống trong cuộc sống mới. Xây dựng và thực hiện quy ước văn hóa trên cơ sở kết hợp những yếu tố truyền thống tốt đẹp. Tổ chức hình thức hoạt động văn hóa lành mạnh để thu hút nhân dân tham gia.

Bảy là: Tiếp tục quan tâm chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chương trình bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc; cân đối phân bổ ngân sách thực hiện các dự án thuộc Chương trình. Có chính sách hỗ trợ công tác bảo tồn, phát triển văn hoá, công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ văn hoá và văn nghệ sĩ các dân tộc trong tỉnh; lồng ghép các chương trình đầu tư vùng sâu, vùng xa đặc

Page 104: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 104

biệt khó khăn vào việc hỗ trợ cơ sở vật chất, trang thiết bị văn hoá để nâng cao mức hưởng thụ về văn hoá cho đồng bào các dân tộc.

Những việc làm của bản thân nhằm phát huy và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay.

- Bản thân luôn cố gắng làm tốt công tác tuyên truyền đến đồng nghiệp và học sinh về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa Biên Hòa nơi mình đang sinh sống trong dạy học và các hoạt động giáo dục của nhà trường; gắn với phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” và các cuộc vận động lớn của ngành; chú ý công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, cách tiếp cận những giá trị văn hóa cho giáo viên theo tinh thần “di sản văn hóa ở quanh ta”.

- Xây dựng kế hoạch, tổ chức dạy học và các hoạt động giáo dục gắn với những giá trị văn hóa; xác định hình thức, phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá cho phù hợp với kiểu bài và đối tượng học sinh (Không nhất thiết phải dạy học tại di sản mà sử dụng di sản như một phương tiện, tư liệu để dạy học); hướng dẫn học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo trong việc tìm hiểu, khai thác, sử dụng các giá trị văn hóa, các tin ngưỡng, tập quán dân gian trong quá trình học tập.

- Tham mưu với tổ bộ môn, Ban giám hiệu nhà trường tổ chức cho học sinh tìm hiểu về những di tích lịch sử , lễ hội văn hóa ở địa phương trong những buổi học tập ngoại khóa, trong những tiết hoạt động ngoài giờ, trong giờ giảng dạy môn giáo dục công dân, lịch sử, địa lí…hoặc có thể tổ chức cho học sinh tham quan thực tế.

Page 105: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 105

Học sinh Võ Trường Toản đến thắp nhang tại Văn Miếu Trấn Biên

Page 106: Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018 · khó khăn chồng chất khó khăn: thù trong, giặc ngoài; “giặc đói”, “giặc dốt”

Cuộc thi “Tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai - 2018

Người thực hiện: Lưu Thị Phương Trang 106

- Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa về hoạt động tập quán, tín ngưỡng dân gian của Biên Hòa. Phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường đặc biệt là giáo viên Tổng phụ trách, đồng hành trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa bản sắc của dân tộc trong nhà trường một cách thống nhất, đồng bộ, đi vào chiều sâu, hiệu quả, có sức lan tỏa và bền vững.

Tập quán, Tín ngưỡng dân gian là nét văn hoá tốt đẹp của Biên Hòa, thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn, tương thân tương ái. Hoạt động diễn xướng thực hành nghi lễ giàu tính nhân văn, tích hợp nhiều loại hình nghệ thuật dân gian có giá trị và ý nghĩa quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần người Việt. Chính vì vậy cần phải giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp đó.

“Ta lại viết bài thơ trên báng súng Con lớn lên viết tiếp thay cha Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.”