Upload
vuongngoc
View
216
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Cúm H1N1/09 - thông tin cần biết
Hồ Xuân Thiện
Nguyễn Thị Thu Trang
Mai Hải Nam
http://dichbenh.com
Bản in 30/07/2009
Truy cập địa chỉ sau để luôn có bản in mới nhất:
http://dichbenh.com/index.php/cum-h1n109-thong-tin-can-biet
Trang | 2
Mục lục
Đường dây nóng cúm H1N1/09 ................................................................................................ 3
Tên mới cho virus cúm đại dịch: H1N1/09 ............................................................................... 4
Không biết mình bị cúm thường hay bị H1N1/09? ................................................................... 5
Cúm H1N1/09 là gì? ................................................................................................................. 6
Làm sao tránh cúm? .................................................................................................................. 8
Làm sao trị cúm? ..................................................................................................................... 10
Cách dùng Tamiflu .................................................................................................................. 13
Chăm sóc người bệnh cúm H1N1/09 tại gia đình ................................................................... 15
Tổng quát về cúm .................................................................................................................... 20
10 điều cần biết về cúm đại dịch ............................................................................................. 39
Trang | 3
Đường dây nóng cúm H1N1/09
Thứ Tư, 03/06/2009 00:00 Hỏi - Đáp
Hà Nội
Sở Y tế 0438437022 (24/24)
Trung tâm Kiểm dịch Y tế Quốc tế Nội Bài 0438865570, 0912061668, 0904224767
(24/24)
Cục Y tế dự phòng và Môi trường 0989671115, fax 0437366241, email
TP HCM
Sở Y tế 0839309981
Trung tâm Truyền thông Giáo dục Sức khỏe 1089 (7h30 sáng đến 5h chiều)
Bà Rịa, Vũng Tàu
Trung tâm Y tế Dự phòng 0903916479 (Bs Nguyễn Xuân Hoan, giám đốc)
Trung tâm Truyền thông, Giáo dục Sức khỏe 0913671372 (Bs Nguyễn Phạm Hà, giám
đốc)
Sở Y tế 0643540739 (văn phòng), 0913948065 (Bs Võ Văn Hùng, phó giám đốc)
Cần Thơ
Trung tâm Y tế Dự phòng 07103822352, 0913894234
Đà Nẵng
Sở Y tế 0913407809 (Bs Nguyễn Út, phó giám đốc)
Thanh Hoá
UBND Tỉnh 0373800115, 0373853240
Hồ Xuân Thiện tổng hợp, ai biết thêm, xin liên lạc để chúng tôi cập nhật danh sách này.
Đã được cập nhật lúc Thứ Năm, 30/07/2009 14:14
Trang | 4
Tên mới cho virus cúm đại dịch: H1N1/09
Thứ Năm, 30/07/2009 15:38 Kiến thức cúm
Kể từ khi virus cúm mới xuất hiện, đã có nhiều vấn đề nảy sinh với việc gọi tên virus
này thế nào cho đúng.
Ban đầu, người ta gọi nó là virus cúm heo (tên tiếng Anh: swine flu) vì đây là chủng
H1N1, mà H1N1 từ trước đến nay chuyên nhiễm lên heo.
Nhưng một vấn đề lại xảy ra: virus H1N1 này lại lây rất mạnh từ người sang người, và
lại không phát hiện được nó xuất hiện tự nhiên trên heo.
Vì vậy, tên gọi "cúm heo" hoàn toàn không phù hợp, gây nhầm lẫn cho người dân, và
làm cho ngộ nhận là ăn thịt heo bị cúm. Thậm chí, Ai Cập còn ra lệnh giết toàn bộ đàn
heo, làm cho nông dân chăn nuôi biểu tình đánh nhau với cảnh sát nhiều nơi trên cả
nước [1].
Vì vậy, Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) trong tháng 5 đã chuyển sang gọi tên virus
mới là A/H1N1 hoặc A (H1N1). Nhưng cách gọi này cũng không ổn.
Các virus cúm theo mùa thông thường cũng có chủng có tên H1N1, và chủng H1N1
thông thường rất khác với chủng H1N1 mới xuất hiện. Vì vậy, cách gọi này đã và đang
gây nhầm lẫn cho giới chuyên môn.
Vừa qua, WHO đã thỏa thuận cùng với Tổ chức Lương nông Thế giới (FAO) và Tổ
chức Thế giới về Sức khỏe Động vật (OIE), cùng nhau gọi tên virus cúm mới là
H1N1/09 [2]. H1N1 là tên chủng virus, và 09 là năm virus vừa xuất hiện 2009.
Đây có lẽ là cách gọi tên tốt nhất cho virus cúm H1N1 đang gây đại dịch hiện nay.
--------------------
[1]: http://news.bbc.co.uk/2/hi/middle_east/8031490.stm
[2]: http://www.who.int/mediacentre/pandemic_h1n1_presstranscript_2009_07_07.pdf
Hồ Xuân Thiện
Đã được cập nhật lúc Thứ Năm, 30/07/2009 15:41
Trang | 5
Không biết mình bị cúm thường hay bị H1N1/09?
Thứ Ba, 21/07/2009 00:00 Hỏi - Đáp
Hỏi:
Em là 1 độc giả của trang web dichcum.com. Hôm nay em có câu hỏi, muốn nhờ anh tư
vấn xem em có bị nhiễm cúm H1N1 không.
Em có tiếp xúc với người đi trên chuyến bay từ Hà Nội vào Thành Phố Hồ Chí Minh.
Mấy ngày nay em bị sốt, ban đầu là sốt, bị đau họng, đờm nhiều. Qua ngày hôm nay thì
bị thêm hắt hơi, sổ mũi nhiều. Cảm giác cũng hay bị nhức đầu, chóng mặt...
Thời gian phát bệnh là bao lâu vậy anh? Qua bao lâu thì bệnh tự khỏi? Em có thể chữa
trị tại nhà không? Em tìm hiểu thông tin trên mạng thì chi phí xét nghiệm hết 125USD,
vượt khả năng của em, nên em chỉ ở nhà uống thuốc thôi.
Em cũng đang phân vân không biết mình bị cúm thông thường hay bị H1N1.
Đáp:
Mình cần thêm thông tin về triệu chứng của bạn, ví dụ như:
Trên chuyến bay của bạn có có ai được chẩn đoán xác định là nhiễm cúm H1N1 không,
sau chuyến bay bao lâu thì bạn bắt đầu sốt, sốt bao nhiêu độ, đờm nhiều mức độ thế nào
và có màu gì không...
Tuy nhiên theo mình, việc chẩn đoán xác định bạn có bị nhiễm cúm H1N1 không cũng
không cần thiết, bởi cúm thường hay H1N1 đa số cũng chỉ khoảng 1 tuần đến 10 ngày
là khỏi. Các thuốc điều trị triệu chứng cũng có thể dùng nếu quá khó chịu (chảy mũi
nhiều hoặc đau đầu quá chẳng hạn).
Bạn nên hạn chế tiếp xúc và đeo khẩu trang, vệ sinh bàn tay và miệng họng để giảm lây
nhiễm cho gia đình và tránh các biến chứng nhiễm trùng khác.
Rất khó có thể chẩn đoán bệnh mà không qua thăm khám lâm sàng và xét nghiệm nên
tốt nhất là bạn nên đến cơ sở y tế gần nhất để khám nếu thấy triệu chứng kéo dài hoặc
nặng thêm.
Chúc bạn sớm khỏe và đừng ngại gửi thư cho chúng tôi nếu như bạn còn chưa an tâm.
Mai Hải Nam
Đã được cập nhật lúc Thứ Bảy, 25/07/2009 15:45
Trang | 6
Cúm H1N1/09 là gì?
Thứ Sáu, 01/05/2009 00:00 Kiến thức cúm
Hình: Ảnh chụp hiển vi điện tử xuyên thấu (transmission electron microscopy - TEM)
của các thể virus cúm được nhuộm âm bản, độ phóng đại khoảng 100.000 lần.
Dịch cúm heo 2009 (hay "cúm lợn") là dịch cúm do một loại virus thuộc chủng H1N1
(mang protein hemagglutinin H1 và neuraminidase N1) lần đầu tiên được các cơ quan y
tế phát hiện vào tháng 03/2009.
Một bệnh giống như bệnh cúm đã bùng phát và được phát hiện lần đầu trên 3 khu vực
khác nhau của nước Mexico. Tuy nhiên, chủng virus mới này chỉ được xác định lâm
sàng một tháng sau đó trên các ca bệnh tại bang Texas và California thuộc Hoa Kỳ.
Căn bệnh này sau đó đã được nhanh chóng xác nhận ở nhiều bang của Mexico và thành
phố Mexico city, vài ngày sau nữa là các ca riêng rẽ ở các địa điểm khác nhau tại
Mexico, Hoa Kỳ và Bắc Bán Cầu.
Đến tháng 04/2009, chủng virus mới đã được phát hiện thêm tại Canada, Tây Ban Nha
và Anh. Người ta nghi ngờ virus H1N1/09 cũng đã lan sang nhiều quốc gia khác, bao
gồm cả New Zealand với 2.400 ca có thể bị nhiễm virus này. Điều này khiến Tổ chức
Sức khỏe Thế giới (WHO) nâng cấp báo động dịch lên pha 4.
Đặc tính của bệnh gây ra do virus H1N1/09 này rất khó dự báo. Cộng thêm những ca
lây nhiễm từ người sang người vừa được ghi nhận, chủng virus mới này được cho là rất
có khả năng gây nên đại dịch.
Các quan chức Mỹ đã cho biết họ dự định thay đổi cụm từ "cúm heo" để tránh tình
trạng người dân hiểu lầm là căn bệnh lây qua thịt heo. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Hoa
Kỳ Tom Vilsack nói rằng "Đây không phải là nạn dịch liên quan tới thực phẩm. Cần
phát đi thông điệp rằng ăn thịt heo là không bị bệnh."
Nhiếu quốc gia đã cấm nhập khẩu thịt heo từ Bắc Mỹ. Nhưng sau đấy giới khoa học
chứng minh rằng heo thật ra không liên quan gì đến sự lây truyền của virus cúm
H1N1/09, nên hiện nay các rào cản về thịt heo đã bị dỡ bỏ.
Trang | 7
Cho đến ngày 04/05/2009, đã có nạn nhân chết đầu tiên ngoài Mexico. Có 20 quốc gia
với 985 người nhiễm cúm H1N1/09, trong đó 20 người chết.
WHO cuối tháng 04/2009 nâng cấp báo động dịch lên pha 5, pha cao thứ nhì của một
đại dịch cúm. Sau đấy, ngày 11/06/2009, bà Margaret Chan, tổng giám đốc của tổ chức
này đã nâng cấp dịch cúm H1N1/09 lên pha 6, pha đại dịch cúm toàn cầu [1].
Hiện nay, WHO không còn đếm số ca nhiễm virus H1N1/09 nữa. Tổ chức này khuyến
cáo các quốc gia trên thế giới tập trung vào điều trị bệnh nhân biến chứng nặng, và theo
dõi các diễn biến của đại dịch.
Vào những ngày cuối tháng 07/2009, Việt Nam công bố đã có hơn 700 ca xác nhận đã
nhiễm virus H1N1/09, đồng thời đóng cửa nhiều trường học và công ty khi những nơi
này có người bị nhiễm cúm [2].
--------------------
[1] http://www.reuters.com/article/mergersNews/idUSLB17075820090611
[2]
http://www.moh.gov.vn/homebyt/vn/portal/InfoDetail.jsp?area=58&cat=1456&ID=759
8
Hồ Xuân Thiện, phát triển từ bài sơ khởi trên Wikipedia tiếng Việt.
Đã được cập nhật lúc Thứ Năm, 30/07/2009 15:47
Trang | 8
Làm sao tránh cúm?
Thứ Sáu, 01/05/2009 00:00 Kiến thức cúm
Tại sao nhiều người trong số chúng ta bị đau ốm, nhất là trong mùa đông? Đó là vì thời
tiết của mùa này lạnh khiến cho virus cúm dễ dàng truyền bệnh.
Ông Philip Tierno, giám đốc Viện Vi trùng học của New York University Medical
Center ở New York, Hoa Kỳ, giải thích: "80% bệnh truyền nhiễm được lây lan do việc
tiếp xúc trực tiếp, thí dụ như hôn hít hay bắt tay với người bị bệnh; hoặc cũng có thể lây
lan do những tiếp xúc gián tiếp chẳng hạn như đụng vào nắm cửa hay cầm máy điện
thoại mà một người bệnh sử dụng trước đó."
Có những loại virus, kể cả virus cúm, ẩn nấp trong không khí và chờ đợi một người nào
đó bất ngờ hít vào khí quản của họ. Tuy vậy, bạn vẫn có thể phòng ngừa bệnh cúm và
những loại vi trùng khác bằng những phương pháp giản dị được những bác sĩ và chuyên
viên y tế hướng dẫn sau đây:
1. Ðừng sờ vào mặt của bạn
Virus cúm thường xâm nhập vào cơ thể bạn qua mắt, mũi và miệng. Những bộ phận
này có chứa những chất nhớt lỏng, là những cánh cửa mở đón chào virus. Bác sĩ Philip
T. Haagen, chủ tịch của cơ quan y khoa chuyên môn về phòng bệnh tại Mayo Clinic ở
Rocchester, Minnesota nói: bạn sẽ khó tránh được việc sờ vào những tay vịn cầu thang
hay nắm cửa ở những nơi công cộng như văn phòng hay lớp học. Vào thời gian cao
điểm của bệnh cúm (tháng mười năm nay cho đến tháng ba năm sau), bề mặt của các đồ
vật này chứa đầy virus. Dùng tay dụi mắt một cách bất cẩn, bạn có thể truyền virus từ
tay vào mắt làm bạn bị cúm hồi nào không hay.
2. Rửa tay thường xuyên
Tiến sĩ Jack Brown, tác giả của cuốn sách "Don't touch that doorknob" ("Ðừng sờ vào
cái nắm cửa ấy"), và là giáo sư dạy môn sinh vật học của trường University of Kansas ở
Lawrence, khuyên chúng ta dùng nhiều xà phòng và xoa hai bàn tay với nhau rồi rửa
tay với nước ấm ít nhất 15 giây đồng hồ. Sự chà xát khi rửa tay làm loại bỏ được virus
khỏi dính vào lòng bàn tay, giữa kẻ tay và dính dưới móng tay.
3. Thận trọng khi dùng phòng vệ sinh công cộng
Khu vực này là nơi phát sinh và nuôi dưỡng virus. Ðể tránh sờ vào bề mặt của các đồ
vật ở những nơi này, bạn có thể áp dụng phương cách sau đây của nữ y tá Deanie
Lancaster ở bệnh viện Saint Thomas Hospital ở Nasville: khi bạn rửa tay, hãy vặn vòi
nước lên, rửa tay với xà phòng và nước ấm. Trước khi tắt nước hãy lấy giấy lau tay và
dùng giấy này để tắt vòi nước.
4. Uống thật nhiều nước
Khi niêm mạc (chất nhầy) đóng màng trong miệng và mũi, cổ họng sẽ bị khô và làm
cho vi trùng dễ dính ở trong những nơi này. Mỗi ngày, bạn cần phải uống nhiều nước
Trang | 9
lọc hay những thức giải khát khác, thí dụ như nước trái cây (giới hạn dùng cà phê vì
thức uống này làm cho bạn mất nước). Nên chạy máy phun ẩm độ (cool mist
humidifier) trong phòng - nhưng chỉ nên chạy khi đang ngủ mà thôi - để làm cho niêm
mạc giữ ẩm. Tuy nhiên, một không gian quá ẩm ướt có thể giúp nấm sinh sản có thể
gây ra dị ứng.
5. Chích ngừa cúm
Bác sĩ Carolyn Bridges, làm việc ở Trung tâm Kiểm soát và Phòng Bệnh Hoa Kỳ
(CDC) ở Atlanta cho biết rằng chích ngừa không những chống bệnh cúm mà còn có thể
phòng ngừa bệnh sưng phổi, nhiễm trùng tai và viêm xoang mũi. Theo những chuyên
gia của CDC thì những người có chích ngừa cúm giảm đến 42% lần việc phải đến bác sĩ
khám vì những chứng bệnh liên quan đến cảm lạnh trong mùa cúm. CDC cũng đề nghị
những người từ 50 tuổi trở lên, nhân viên y tế, các người có hệ miễn dịch yếu, các phụ
nữ đang có thai đều nên chích ngừa cúm. Nên hỏi bác sĩ xem mình có thể được chích
ngừa cúm hay không.
6. Giảm bớt căng thẳng
Bằng chứng về việc căng thẳng làm ảnh hưởng đến hệ miễn dịch là có thực. Những nhà
nghiên cứu thuộc trường Carnegie Mellon University ở Pittsburg theo dõi mức độ căng
thẳng ở 400 trung tâm thể dục thẩm mỹ và thấy rằng những người nào càng mệt mỏi thì
càng dễ bị lây bệnh cảm. Cũng như việc chích ngừa sưng phổi sẽ không có hiệu quả nếu
chích cho những người lớn tuổi này khi họ đang bị căng thẳng.
Mặc dù ai cũng có lúc bị căng thẳng nhưng chúng ta cần làm sao cởi bỏ chúng. Phương
pháp ngồi thiền phù hợp với một số người nhưng đôi khi bạn chỉ cần đi coi một phim xi
nê giữa ban ngày cũng có thể làm bạn bớt căng thẳng và chống được cảm cúm.
7. Tập thể dục đều đặn
Bác sĩ Haagen ở Mayo Clinic cho biết thêm là tập thể dục sẽ làm cho cơ thể tự chống
trả bệnh tật. Cơ quan American College of Sport Medicine đề nghị là mỗi ngày bạn phải
tập thể dục khoảng 30 phút để tránh bị nhiễm trùng bộ máy hô hấp. Nếu bạn là người
năng tập thể dục thì khi bị cảm cúm, bạn cũng sẽ mau lành bệnh hơn. Những nhà
nghiên cứu cũng cho biết nếu chúng ta đi bộ 45 phút một ngày thì sẽ giảm bớt đi một
nửa thời gian bị cảm.
Nguồn: Oanh Thơ, thanhda.com, Hồ Xuân Thiện biên tập lại một ít để phù hợp hơn với
cúm H1N1/09.
Đã được cập nhật lúc Thứ Năm, 30/07/2009 14:38
Trang | 10
Làm sao trị cúm?
Thứ Năm, 07/05/2009 00:00 Kiến thức cúm
Cúm và các biến chứng đi liền với nó đã giết hàng trăm người tại Anh mỗi năm. Nhưng
mặc dù đã có nhiều đầu tư cho nghiên cứu về virus này, đến nay chưa có cách trị.
Tuy nhiên, có một số vắc xin có hiệu quả phòng ngừa. Các vắc xin này thường được
tiêm mỗi năm cho người già và người có nguy cơ bị cúm.
Nhưng cứ mỗi vài năm thì một dòng mới của virus cúm lại xuất hiện và lan truyền
nhanh chóng, làm cho các phương pháp phòng ngừa không chạy theo kịp.
Điều này làm cho đại dịch cúm có thể xảy ra gây nguy hiểm cho hàng triệu người. Đại
dịch cúm kinh hoàng nhất của thế kỷ vừa qua là trận Cúm Tây Ban Nha năm 1918. Nó
đã giết khoảng 40 triệu người, còn hơn cả Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
Cúm là gì?
Nhiều người lẫn lộn giữa cúm và cảm thông thường. Có sự giống nhau của 2 loại bệnh.
Cả hai đều do virus gây ra.
Theo Trung tâm Cảm Thông thường Cardiff, các triệu chứng của một trận cảm thông
thường bao gồm:
Đau và viêm họng;
Nghẹt hay chảy mũi;
Ho.
Các triệu chứng của cúm thông thường bao gồm:
Các cơn sốt cao (hơn 38,3oC hoặc 101
oF) và ớn lạnh;
Đau nhức cơ dữ dội;
Và tiếp theo là các triệu chứng của cảm thông thường;
Cúm thường xuất hiện nhanh hơn là cảm.
Cả cảm và cúm thường hết sau khoảng 5-6 ngày đối với người khỏe mạnh bình thường,
và lây truyền bằng các cách giống nhau – ho, hắt xì hơi, và ngón tay bị dính virus khi
dụi vào mũi và mắt.
Làm sao trị cúm?
Có một vắc xin tạm thời phòng cúm, và những người hưởng lợi từ vắc xin này nhất bao
gồm người già, người với hệ miễn dịch bị suy giảm, và trẻ em.
Những người này có nguy cơ bị biến chứng nguy hiểm có khả năng dẫn đến tử vong.
Còn lại hầu hết những người khác khi bị cúm thì triệu chứng có thể được biến mất khi
nghĩ ngơi và mua các loại thuốc bán sẵn trên quầy (HXT: ở VN thì bệnh nhân kêu thuốc
gì thì nhà thuốc bán thuốc ấy, tự do hơn Tây nhiều).
Trang | 11
Các triệu chứng khó trị nhất là đau nhức, sốt cao và ho kéo dài.
Một người bị cúm thì nên:
Uống paracetamol để giảm sốt cao và đau nhức;
Uống xi rô trị ho hoặc uống thật nhiều nước ấm có pha đường và trái cây, như nước
chanh nóng pha với mật ong;
Bởi vì sốt sẽ gây nên đổ mồ hôi và cơ thể mất nước, bệnh nhân nên tăng cường uống
nước ép trái cây, nước thường hoặc ấm;
Hút thuốc làm nặng cúm thêm, nên bệnh nhân cần tránh xa môi trường khói thuốc;
Bệnh nhân bị sốt cao và đau nhức cơ thì nên nghĩ ngơi trên giường. Cách này sẽ làm
giảm đau nhức và ngăn cảm virus phát tán lây lan.
Các loại kháng sinh không có tác dụng với virus cúm, nhưng aspirin có thể được uống,
mặc dù không được dùng cho trẻ em bị cúm.
Aspirin có thể gây hội chứng Reye cho trẻ em, một bệnh thần kinh liên quan đến việc
dùng aspirin ở người trẻ.
Các thuốc diệt virus có thể được sử dụng đối với bệnh nhân có nguy cơ cao mà bị cúm
thông thường, và thuốc chỉ có tác dụng nếu được uống trước 48 giờ kể từ khi có triệu
chứng.
Thuốc diệt virus không trị được cúm, nhưng có thể giúp làm giảm triệu chứng và các
biến chứng nguy hiểm.
Các hướng dẫn từ Viện Quốc gia Y tế và Sức khỏe tốt nói rằng thuốc diệt virus chỉ nên
được kê khi số người bị cúm đạt đến mức độ cao và có bằng chứng rõ ràng cho thấy
cúm đang “lan truyền trong cộng đồng.”
Các nhiễm trùng thứ cấp
Đối với hầu hết người khỏe, nhiễm cúm không nguy hiểm gì cả mà chỉ là một lần trải
nghiệm không vui mà thôi.
Tuy nhiên với người già hoặc người bị các vấn đề sức khỏe mãn tính, như bệnh tim,
cúm có thể gây ra các bệnh nặng hơn.
Theo Cơ quan Bảo vệ Sức khỏe, các biến chứng thường gặp nhất của cúm là viêm phế
quản và viêm phổi vi khuẩn thứ cấp.
Các bệnh này có thể làm cho bệnh nhân phải đi bệnh viện và gây nguy hiểm chết người
cho người mẫn cảm.
Virus cúm không phải luôn có khả năng gây tử vong cao, nhưng với người già và bệnh
nó có thể làm cho họ chết sớm hơn.
Trang | 12
Các trận dịch
Giới khoa học không hiểu được tại sao các virus lại trở thành các tên giết người hàng
loạt, nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy là một cơ chế phân tử có thể làm cho virus
gây càn quét và tử vong cho người.
Thường thì virus cúm chỉ tồn tại giới hạn trong các tế bào thuộc hệ hô hấp, nhưng một
số virus lại có chìa khóa có thể mở cửa để tấn công các tế bào trên khắp cơ thể.
Phát hiện mới này có thể giúp bác sĩ theo dõi virus cúm để nhận ra các thay đổi có thể
làm cho virus có khả năng gây ra đại dịch.
Các protein trên vỏ virus cúm thay đổi thường xuyên, làm cho vắc xin mới phải được
phát triển để bảo vệ người phòng ngừa virus.
Trong một năm, virus cúm không bao giờ là cố định, mà thường là các protein trên vỏ
sẽ thay đổi nho nhỏ.
Nguy hiểm nhất là sự “gãy kháng nguyên”, hiện tượng mà 2 virus khác nhau trộn lẫn
vào nhau để tạo ra một dòng mới rất khác với trước đó.
Bài này chỉ cung cấp thông tin cơ bản về các vấn đề sức khỏe. Nếu bạn lo lắng về bản
thân, xin liên lạc với bác sĩ.
Hồ Xuân Thiện, dịch từ BBC [1].
[1] http://news.bbc.co.uk/2/hi/health/281873.stm
Đã được cập nhật lúc Thứ Năm, 30/07/2009 15:18
Trang | 13
Cách dùng Tamiflu
Thứ Ba, 28/07/2009 16:28 Kiến thức cúm
Tamiflu là một loại dược phẩm cần được kê toa dùng để phòng tránh cúm và điều trị
cho người lớn và trẻ em trên 1 tuổi.
Tamiflu có ở dạng viên.
Tamiflu đồng thời có dạng dung dịch hương trái cây với dụng cụ phân chia liều lượng
cho trẻ 1 tuổi hoặc lớn hơn và cho người lớn gặp khó khăn khi nuốt viên nang.
Tamiflu có thể được uống cùng hoặc không cùng với các thực phẩm khác. Như nhiều
loại dược phẩm khác, nếu bạn dùng Tamiflu với bánh, sữa hay đồ ăn, khả năng rối loạn
tiêu hóa có thể giảm đi.
1. Liều dùng Tamiflu
Dùng trong điều trị cúm: dùng 1 liều, ngày hai lần, trong 5 ngày. Xem bảng liều lượng
Tamiflu để biết chính xác.
Dùng trong phòng ngừa cúm: dùng 1 liều, ngày một lần, trong 10 ngày. Xem bảng liều
lượng Tamiflu để biết chính xác.
Bảng: Liều lượng Tamiflu theo độ tuổi và cân nặng.
*Liều 75 mg có thể lường bằng cách kết hợp 30 mg và 45 mg.
Trong trường hợp dụng cụ phân chia liều lượng bị mất hoặc hư hỏng, có thể dùng xy-
lanh hoặc dụng cụ khác để đo lường thể tích như sau:
Cho trẻ nhẹ hơn 15 kg: 2,5 mL (½ muỗng canh).
Cho trẻ từ 16 kg - 23 kg: 3,8 mL (¾ muỗng canh).
Cho trẻ từ 23 kg - 40 kg: 5,0 mL (1 muỗng canh).
Cho trẻ từ 41 kg trở lên: 6,2 mL (1 ¼ muỗng canh).
2. Bạn nên làm gì khi quên uống thuốc?
Nếu bạn quên uống thuốc vào lúc nào đó, hãy uống ngay liều bỏ lỡ khi bạn nhớ ra, trừ
khi đó là thời điểm nằm trong khoảng 2 giờ nữa là đến lần uống thuốc kế tiếp. Đừng
Trang | 14
uống 2 liều cùng lúc để bù cho liều đã bị quên. Sau đó bạn có thể tiếp tục uống thuốc
như bình thường.
3. Dùng Tamiflu với các loại dược phẩm khác
Tamiflu được chỉ ra là có rất ít tương tác tiêu cực với các loại dược phẩm khác. Bác sĩ
hay các chuyên gia về sức khỏe có thể giới thiệu vài loại dược phẩm không cần kê toa
để giảm thiểu các triệu chứng khó chịu trong khi Tamiflu tấn công các virus cúm. Như
với bất cứ loại dược phẩm nào, phải chắc chắn là bạn đã nói với bác sĩ về bất cứ loại
thuốc kê toa hay không kê toa mà bạn đang dùng trước khi bắt đầu điều trị bằng
Tamiflu. Một số loại vắc xin cúm qua đường mũi như FluMist®* không nên dùng trong
vòng 2 tuần trước hoặc 48 giờ sau khi uống Tamiflu, trừ khi đã được bác sĩ cho phép.
4. Dùng Tamiflu trong trường hợp bạn có bệnh về thận
Nếu bạn bị bệnh nào đó về thận, hãy nói với bác sĩ trước khi bắt đầu điều trị bằng
Tamiflu. Có quy định về liều lượng đặc biệt đối với nhóm bệnh này như sau:
Liều điều trị: 1 liều 75 mg, mỗi ngày 1 lần, trong 5 ngày.
Liều phòng ngừa: 1 liều 75 mg, cách ngày hoặc liều 30mg, mỗi ngày 1 lần.
5. Bảo quản Tamiflu thế nào?
Viên nang Tamiflu nên được bảo quản ở nhiệt độ phòng thấp hơn 25oC và giữ ở nơi khô
ráo. Trữ lạnh dung dịch Tamiflu ở 2ºC đến 8ºC. Đừng làm đông lạnh. Như tất cả các
loại thuốc, giữa Tamiflu cách xa tầm với của trẻ em.
Nguyễn Thị Thu Trang, dịch từ Tamiflu.com
Đã được cập nhật lúc Thứ Năm, 30/07/2009 15:02
Trang | 15
Chăm sóc người bệnh cúm H1N1/09 tại gia đình
Chủ Nhật, 07/06/2009 00:00 Kiến thức cúm
Những thông tin dưới đây có thể giúp bạn an toàn hơn khi phải chăm sóc người bệnh tại
nhà trong thời kỳ dịch cúm.
1. Bệnh cúm lây truyền ra sao?
Cách lây lan chủ yếu của virus cúm từ người sang người là qua đường hô hấp do ho hay
hắt hơi. Điều này xảy ra khi những giọt lỏng ti ti của nước bọt/nước mũi từ một cơn ho
hay hắt hơi của người bị nhiễm cúm được truyền đi trong không khí và có thể rơi xuống
miệng hoặc mũi của những người đứng gần đó. Virus cúm cũng có thể lây lan khi một
người chạm phải những giọt lỏng li ti này trên một người khác hay trên vật thể nào đó
và sau đó lại chạm vào chính mũi hoặc miệng của họ (hay mũi hoặc miệng của người
khác) trước khi rửa tay.
2. Người nhiễm cúm H1N1/09 được chăm sóc tại nhà nên
Liên lạc với cơ sở y tế để được biết về các yêu cầu chăm sóc đặc biệt nào cần thiết đối
với trường hợp họ là phụ nữ đang mang thai hoặc có các bệnh nguy cơ như tiểu đường,
bệnh tim, hen suyễn, khí thũng phổi.
Báo với cơ sở y tế để biết họ có nên dùng thuốc chống virus hay không.
Ở tại nhà trong vòng 7 ngày kể từ khi có những triệu chứng đầu tiên cho đến sau khi hết
bệnh 24 tiếng, tùy theo trường hợp nào lâu hơn.
Nghỉ ngơi thật nhiều.
Uống các loại nước sạch (nước trắng, nước thịt, nước uống thể thao, nước cân bằng
điện giải cho trẻ em) để tránh mất nước.
Che mũi và miệng khi ho và hắt hơi. Rửa tay sạch thường xuyên với xà phòng và nước
hoặc các dung dịch rửa tay có chứa cồn, đặc biệt là sau khi sử dụng khăn giấy và sau
khi ho hoặc hắt hơi vào tay.
Tránh tiếp xúc gần với người khác - không đi làm hoặc đi học khi bị bệnh.
Để ý thật cẩn thận với các triệu chứng khẩn cấp (xem dưới đây) có thể cho thấy bạn cần
có sự chăm sóc chuyên khoa.
3. Dược phẩm giúp giảm triệu chứng cúm
Kiểm tra với cơ sở cung cấp dịch vụ y tế hoặc dược sĩ để biết cách sử dụng thuốc chính
xác và an toàn.
Thuốc chống virus đôi khi có thể giúp giảm triệu chứng cúm, nhưng cần phải được kê
toa. Hầu hết mọi người đều không cần đến thuốc chống virus để có thể khỏi bệnh cúm.
Tuy nhiên, những người có nguy cơ cao đối với biến chứng của cúm, hoặc những ai bị
nặng cần phải đưa vào bệnh viện, dùng thuốc chống virus có thể có lợi. Thuốc chống
virus có thể được dùng cho người từ 1 tuổi trở lên. Hãy yêu cầu cơ sở y tế khi bạn cần
thuốc chống virus.
Nhiễm cúm có thể dẫn đến nhiễm vi khuẩn. Vì thế, một số người có thể cần đến thuốc
kháng sinh. Nếu bệnh cúm nghiêm trọng hoặc kéo dài, hoặc bệnh có vẻ đỡ hơn rồi lại
nặng trở lại thì có thể đó là dấu hiệu cho thấy người đó đã bị nhiễm vi khuẩn. Hãy kiểm
tra với cơ sở y tế nếu bạn cảm thấy lo lắng.
Trang | 16
Chú ý! Không cho trẻ nhỏ hoặc thiếu niên dưới 20 tuổi dùng aspirin khi bị cúm, vì điều
này có thể gây ra một bệnh hiếm gặp nhưng nghiêm trọng có tên là Hội chứng Reye.
Kiểm tra thành phần của thuốc cảm và cúm (các loại thuốc bán không cần kê toa) để
xem chúng có chứa aspirin hay không.
Trẻ em hoặc thiếu niên dưới 20 tuổi bị cúm có thể dùng thuốc không chứa aspirin như
acetaminophen (Tylenol®) và ibuprofen (Advil®, Motrin®, Nuprin®) để giảm triệu
chứng bệnh.
Trẻ em nhỏ hơn 4 tuổi không được dùng thuốc cảm bán không kê toa mà không hỏi ý
kiến bác sĩ trước.
Biện pháp chăm sóc an toàn nhất cho trẻ dưới hai tuổi bị cúm là dùng dụng cụ làm ẩm
phun sương và ống bơm để hút sạch chất nhầy trong mũi khi mũi bị nghẹt.
Sốt và đau nhức có thể được điều trị bằng acetaminophen (Tylenol®) hoặc ibuprofen
(Advil®, Motrin®, Nuprin®) hoặc các loại thuốc kháng viêm không có steroid
(NSAIDS). Ví dụ như các loại thuốc sau: Acetaminophen (Tylenol®), Ibuprofen
(Advil®, Motrin®, Nuprin®), Naproxen (Aleve).
Các loại dược phẩm cho cảm, cúm bán không cần kê toa được dùng theo hướng dẫn
kèm theo thuốc có thể giúp giảm một số triệu chứng như ho và nghẹt thở. Điều quan
trọng là những loại thuốc này không thể làm giảm mức độ lây nhiễm của người bệnh.
Kiểm tra thành phần trên nhãn hiệu để xem nếu thuốc có acetaminophen hay ibuprofen
trước khi uống thêm các loại thuốc này - đừng uống liều gấp đôi! Các bệnh nhân bị
bệnh thận hoặc có vấn đề về dạ dày nên kiểm tra với các cơ sở y tế trước khi dùng bất
cứ loại thuốc NSAIDS nào.
Kiểm tra với cơ sở y tế hoặc dược sĩ nếu bạn đang dùng một loại thuốc khác không kê
toa hoặc có kê toa mà không liên quan đến bệnh cúm.
4. Khi cần cấp cứu
Hãy điện thoại cho bệnh viện yêu cầu chăm sóc chuyên khoa nếu người bệnh tại nhà bị:
Khó thở hay đau ngực.
Môi tím hoặc xanh tái.
Ói mửa hoặc ói cả dịch lỏng.
Có dấu hiệu mất nước như hoa mắt, chóng mặt khi đứng, bí tiểu, hoặc ở trẻ nhỏ khóc
thiếu nước mắt.
Lên cơn động kinh (ví dụ: co giật không kiểm soát được).
Phản ứng chậm hơn bình thường hoặc trở nên lú lẫn.
5. Các bước để giảm sự lây nhiễm cúm trong gia đình
Khi chăm sóc một thành viên trong gia đình bị bệnh cúm, điều quan trọng nhất là bảo
vệ bản thân bạn và những người chưa bị bệnh bằng cách:
Giữ người bệnh cách xa những người khác càng nhiều càng tốt (xem “Nơi ở cho người
bị bệnh” ở bên dưới).
Nhắc nhở người bị bệnh che mũi miệng khi họ ho, rửa tay sạch thường xuyên với xà
phòng và nước hoặc các dung dịch rửa tay có chứa cồn, đặc biệt là sau khi ho hoặc hắt
hơi.
Mỗi người trong gia đình phải thường xuyên rửa tay sạch với xà bông và nước hoặc các
dung dịch rửa tay có chứa cồn.
Trang | 17
Hỏi cơ sở y tế xem mọi người trong gia đình đã có tiếp xúc với người bệnh - đặc biệt là
nếu những người này có bệnh mãn tính - có nên dùng thuốc chống virus như
oseltamivir (Tamiflu®) hay zanamivir (Relenza®) để ngăn ngừa cúm.
6. Nơi ở cho người bị bệnh
Giữ người bệnh ở trong một phòng riêng biệt tách khỏi khu vực chung của gia đình (ví
dụ: một phòng có giường trống với nhà tắm riêng, nếu có thể). Đóng cửa phòng bệnh.
Ngoại trừ trường hợp cần chăm sóc chuyên khoa, người bệnh không nên rời khỏi nhà
khi họ bị sốt hoặc trong suốt thời gian họ có thể lây nhiễm bệnh cho người khác (tại
thời điểm hiện tại, giới khoa học tin rằng virus cúm H1N1/09 có tính chất lây lan giống
như cúm thông thường. Với cúm thông thường, các nghiên cứu cho thấy rằng người ta
có thể lây nhiễm bệnh từ một ngày trước khi họ có triệu chứng cho đến 7 ngày sau khi
họ bị bệnh. Trẻ em, đặc biệt là trẻ nhỏ có thể có khả năng lây nhiễm tiềm tàng trong
thời gian lâu hơn).
Nếu người bệnh cần rời khỏi nhà (ví dụ phải đi chăm sóc chuyên khoa), họ nên che mũi
và miệng khi ho hoặc hắt hơi và mang khẩu trang y khoa nếu có.
Cho người bị bệnh đeo khẩu trang y khoa nếu họ cần ra vào khu vực chung trong nhà
gần những người khác .
Nếu có thể, người bệnh nên dùng một phòng tắm riêng, phòng tắm này nên được làm
sạch hàng ngày với chất tẩy rửa trong gia đình (xem dưới đây).
7. Bảo vệ những người khác trong gia đình
Người bệnh không nên tiếp khách đến thăm, trừ tiếp xúc với người chăm sóc. Một cuộc
điện thoại sẽ an toàn hơn là một cuộc thăm viếng mặt đối mặt.
Nếu có thể, chỉ nên để một người lớn trong nhà chăm sóc người bệnh.
Tránh để phụ nữ có thai chăm sóc người bệnh, vì phụ nữ có thai thuộc đối tượng nguy
cơ cao với biến chứng của bệnh cúm vì hệ miễn dịch kém trong thời gian mang thai).
Tất cả mọi người trong gia đình nên rửa tay sạch thường xuyên với xà phòng và nước
hoặc các dung dịch rửa tay có chứa cồn sau mỗi lần tiếp xúc với người bệnh hoặc
phòng người bệnh hoặc phòng tắm.
Dùng giấy vệ sinh lau khô tay sau khi rửa hoặc dùng khăn tắm riêng cho mỗi người
trong nhà. Ví dụ, mỗi người dùng một màu khăn riêng.
Nếu có thể, xem xét việc duy trì sự thông thoáng khí trong những khu vực dùng chung
(chẳng hạn như mở cửa sổ trong phòng tắm, bếp…).
Thuốc chống virus có thể dùng để ngăn ngừa cúm, vì thế kiểm tra với cơ sở y tế để xem
những người trong gia đình có nên dùng thuốc chống virus hay không.
8. Nếu bạn là người chăm sóc
Tránh mặt đối mặt với người bệnh.
Khi bế trẻ nhỏ bị bệnh, để cằm của bé lên vai bạn. Như thế bé sẽ không ho vào mặt bạn.
Rửa tay sạch thường xuyên với xà phòng và nước hoặc các dung dịch rửa tay có chứa
cồn sau khi bạn tiếp xúc với người bệnh, hoặc chạm vào khăn giấy đã sử dụng, hoặc
mang quần áo đi giặt.
Nói với cơ sở y tế để dùng thuốc kháng virus để ngăn ngừa cúm cho người chăm sóc.
Tự theo dõi bản thân và các thành viên trong gia đình trước các triệu chứng cúm và liên
hệ với đường dây nóng hoặc cơ sở y tế khi có triệu chứng xuất hiện.
9. Sử dụng khẩu trang hoặc mặt nạ
Tránh tiếp xúc gần (gần hơn 2 mét) với người bệnh càng nhiều càng tốt.
Trang | 18
Nếu bạn phải tiếp xúc gần vời người bệnh (ví dụ: bế trẻ bị bệnh) cố gắng hạn chế thời
gian tiếp xúc ở mức thấp nhất và cố gắng mang khẩu trang (ví dụ như khẩu trang y tế)
hoặc khẩu trang dùng một lần loại N95.
Một khẩu trang N95 vừa khít với khuôn mặt bạn có thể lọc những phần tử nhỏ có thể
hít phải ở khu vực ngay khẩu trang, nhưng thở qua mặt nạ thì sẽ dễ hơn so với thở qua
một khẩu trang N95 trong một thời gian dài.
Mặt nạ và khẩu trang có thể mua ở tiệm thuốc.
Mang khẩu trang N95 nếu bạn giúp đỡ người bệnh xử lý đường hô hấp bằng bình xịt
hoặc ống hít, theo chỉ dẫn của bác sĩ. Xử lý đường hô hấp nên thực hiện ở trong một
phòng cách biệt với khu vực chung trong nhà khi có thể.
Mặt nạ hoặc khẩu trang N95 đã sử dụng nên lấy ra và ngay lập tức bỏ vào thùng rác để
nó không chạm vào bất cứ thứ gì khác.
Tránh sử dụng lại các mặt nạ và khẩu trang sử dụng một lần khi có thể. Nếu sử dụng
loại bằng vải có thể dùng nhiều lần, nó phải được giặt sạch bằng bột giặt và sấy khô
bằng hơi nóng.
Sau khi bạn gỡ bỏ mặt nạ hoặc khẩu trang N95, rửa tay sạch với xà phòng và nước hoặc
các dung dịch rửa tay có chứa cồn.
10. Làm sạch nhà cửa, giặt giũ và xử lý chất thải
Bỏ các khăn giấy và các đồ dùng một lần đã sử dụng của người bệnh vào thùng rác.
Rửa tay sạch sau khi tiếp xúc với khăn giấy đã sử dụng và các vật thải tương tự.
Giữ sạch các bề mặt (đặc biệt là bàn cạnh giường, các bề mặt trong phòng tắm, đồ chơi
trẻ em), bằng cách lau chùi bằng chất tẩy rửa gia dụng theo hướng dẫn trên sản phẩm.
Các đồ vải, đồ dùng ăn uống, và bát đĩa của người bệnh không cần giặt riêng nhưng
quan trọng là những đồ này không được dùng chung khi chưa qua rửa sạch.
Giặt các đồ vải (như ra trải giường và khăn tắm) bằng xà phòng giặt gia dụng và sấy
khô ở chế độ nóng. Tránh ôm đồ giặt trước khi giặt để tránh lây nhiễm cho bạn. Rửa tay
sạch với xà phòng và nước hoặc các dung dịch rửa tay có chứa cồn sau khi tiếp xúc với
đồ giặt dơ.
Đồ dùng ăn uống nên rửa sạch trong bồn rửa chén bằng tay với nước và xà phòng.
11. Lưu ý: Rửa tay sạch đúng cách:
Thao tác theo hướng dẫn trong hình vẽ dưới đây (theo khuyến cáo của WHO).
Trang | 19
Nguyễn Thị Thu Trang, dịch từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng Bệnh Hoa Kỳ [1]. Hồ
Xuân Thiện bổ sung hình ảnh, biên tập một ít để phù hợp với tình hình Việt Nam.
[1] http://www.cdc.gov/h1n1flu/guidance_homecare.htm
Đã được cập nhật lúc Thứ Năm, 30/07/2009 14:54
Trang | 20
Tổng quát về cúm
Thứ Sáu, 01/05/2009 00:00 Kiến thức cúm
Cúm (tên tiếng Anh là influenza, thường được gọi là flu) là một bệnh truyền nhiễm
được gây ra bởi virus có bộ gene là RNA, thuộc họ Orthomyxoviridae (họ virus cúm).
Họ virus này nhiễm lên chim và động vật có vú. Tên influenza có nguồn gốc từ tiếng Ý
(cũng viết là influenza, nghĩa tiếng Anh là influence, tức "ảnh hưởng", tiếng Latin viết
là influentia). Trên người, các triệu chứng bệnh thông thường là ớn lạnh, sốt, viêm
họng, các loại đau cơ, nhức đầu nặng, ho, cảm thấy người yếu và các kiểu khó chịu
thông thường khác. Ho và sốt là hai triệu chứng thường gặp nhất. Trong các trường hợp
nặng, cúm gây nên viêm phổi, đây là biến chứng có thể gây tử vong, đặc biệt là cho
người nhỏ tuổi và người già. Mặc dù có thể thường bị nhầm lẫn với bệnh cảm thông
thường, cúm là loại bệnh nặng hơn rất nhiều và được gây ra bởi một loài virus khác.
Cúm có thể gây ra buồn nôn và ói mửa, đặc biệt là ở trẻ em, nhưng các triệu chứng này
lại thường được gây ra do bệnh viêm dạ dày ruột non (gastroenteritis, thường được gọi
là “cúm bao tử” (stomach flu) hoặc là “cúm 24 giờ” (24-hour flu)).
Hình: Ảnh chụp hiển vi điện tử xuyên thấu (transmission electron microscopy - TEM)
của các thể virus cúm được nhuộm âm bản, độ phóng đại khoảng 100.000 lần.
Thông thường, cúm được lây truyền từ động vật có vú bị nhiễm bệnh bằng con đường
lan qua không khí do các triệu chứng ho hoặc hắt hơi, tạo ra các hạt dịch lỏng ti ti có
chứa virus, và cũng lây truyền từ chim nhiễm bệnh bằng con đường phân (cứt) chim.
Cúm có thể được truyền qua nước bọt (nước miếng), nước mũi, phân và máu. Sự nhiễm
bệnh có thể được gây ra do tiếp xúc với dịch cơ thể hoặc với các bề mặt bị nhiễm virus.
Virus cúm có thể giữ được khả năng truyền nhiễm sau một tuần ở nhiệt độ cơ thể người,
hơn 30 ngày ở 0oC (32
oF), và thậm chí lâu hơn rất nhiều nếu ở nhiệt độ cực thấp. Virus
cúm có thể bị làm mất hoạt tính (bất hoạt) bởi các chất chống vi sinh vật và các chất tẩy
rữa. Vì virus có thể được làm bất hoạt do xà phòng (xà bong), việc rữa tay thường
xuyên sẽ làm giảm nguy cơ nhiễm bệnh.
Trang | 21
Cúm lan truyền khắp thế giới qua các dịch theo mùa trong năm, gây chết cho từ hàng
trăm ngàn người mỗi năm, cho đến hàng triệu người trong các năm đại dịch cúm toàn
cầu. Ba (03) đại dịch cúm toàn cầu đã diễn ra trong thế kỷ 20 và cướp mất sinh mạng
của hàng chục triệu người. Mỗi đại dịch cúm này được gây ra do sự xuất hiện của một
chủng virus mới cho người. Thông thường, các chủng mới này được sinh ra do sự lan
truyền của một virus cúm đã có sẵn trên các loài động vật khác lây sang cho người. Một
chủng cúm trên gia cầm có tên là H5N1, cho đến gần đây, đã tạo ra nguy cơ lớn nhất
gây ra đại dịch cúm mới trên toàn cầu kể từ khi nó lần đầu tiên gây tử vong cho người
trong những năm 1990. Mặc dù chủng H5N1 chưa đột biến để tạo ra một dạng có thể
lây lan dễ dàng từ người sang người, trong tháng 04/2009, một chủng cúm khác tên là
H1N1 đã kết hợp nhiều gene khác nhau từ cúm người, cúm heo (lợn), và cúm gà, được
gọi là “cúm heo” (swine flue), phát xuất từ Mexico, Hoa Kỳ, và một số quốc gia khác.
Đến cuối tháng 04/2009, cúm heo H1N1 được nghi ngờ là đã gây tử vong cho hơn 150
người ở Mexico, và báo hiệu rằng một đại dịch cúm toàn cầu mới là hầu như chắc chắn
sẽ xảy ra.
Ngày 11/06/2009, bà Margaret Chan, tổng giám đốc của Tổ chức Sức khỏe Thế giới đã
công bố nâng cấp dịch cúm H1N1 lên pha 6, pha đại dịch cúm toàn cầu.
Tiêu chủng ngừa cúm là cách làm thông thường cho người của các quốc gia đã phát
triển và cho gia cầm. Vắc xin thông thường nhất cho người là vắc xin 3 chủng cúm
(trivalent influenza vaccine (TIV)), loại này chứa các chất liệu được tinh lọc và không
còn hoạt tính của 3 chủng virus khác nhau. Thông thường, vắc xin này chứa chất liệu
của 2 chủng cúm A và 1 chủng cúm B. Vắc xin TIV an toàn và không chứa nguy cơ nào
của việc truyền bệnh cúm, và nó gây ra phản ứng rất nhẹ. Một loại vắc xin được thiết kế
cho năm này có thể không có tác dụng cho năm sau đó, vì virus cúm tiến hoá rất nhanh
và các chủng virus khác có thể sẽ trở nên phổ biến. Các thuốc trị virus có thể được dùng
để trị cúm, đặc biệt là thuốc sử dụng các chất ức chế enzyme neuraminidase.
1. Nguồn gốc của từ influenza:
Tên gọi influenza có gốc từ tiếng Ý và nói về nguyên nhân của loại bệnh này; đầu tiên,
bệnh này được cho là do ảnh hưởng của các nguyên nhân chiêm tinh học. Các thay đổi
của y học đã làm thay đổi tên này thành influenza del freddo, có nghĩa là "do ảnh hưởng
của hơi lạnh". Từ influenza được sử dụng đầu tiên trong tiếng Anh vào năm 1743 khi
nó được du nhập, với cách phát âm kiểu Anh, từ trong dịch bệnh cúm tại châu Âu. Các
tên cổ của cúm bao gồm dịch tiêu chảy catarrh, cúm grippe (từ người Pháp), bệnh đổ
mồ hôi, và sốt Tây Ban Nha (đặc biệt từ chủng của đại dịch cúm 1918).
2. Lịch sử:
Các triệu chứng của bệnh cúm trên người đã được Hippocrates mô tả rõ ràng vào
khoảng 2.400 năm trước đây. Kể từ đó, virus cúm đã gây ra nhiều trận đại dịch. Các số
liệu lịch sử về cúm khó mà được xác định rõ, vì các triệu chứng có thể tương tự với
triệu chứng của các bệnh khác, như bệnh bạch hầu (diphtheria), dịch viêm phổi
(pneumonic plague), sốt thương hàn (typhoid fever), sởi (dengue), và sốt phát ban
(typhus). Ghi nhận đầu tiên có độ tin cậy cao về một đại dịch cúm là một trận dịch vào
năm 1580. Dịch này bắt đầu từ Nga và lan truyền sang châu Âu bằng cách xuyên qua
châu Phi. Tại Rome, hơn 8.000 người đã tử vong, và một số thành phố của Tây Ban
Nha có dân hoàn toàn chết sạch. Các đại dịch cúm tiếp tục một cách thỉnh thoảng trong
Trang | 22
suốt thế kỷ 17 và 18, đặc biệt là đại dịch trên diện rộng năm 1830-1833; nó nhiễm
khoảng 1/4 số người tiếp xúc với nguồn bệnh.
Trận dịch nổi tiếng nhất và cũng là gây tử vong nhiều nhất là trận đại dịch Cúm Tây
Ban Nha (Spanish flu pandemic, loại cúm A, chủng H1N1) từ 1918-1919. Không rõ có
bao nhiêu người đã tử vong, nhưng các ước đoán biến động từ 20 triệu cho đến 100
triệu người. Trận đại dịch này được mô tả là "sự huỷ diệt về y học lớn nhất trong lịch
sử" và có thể đã giết nhiều người bằng với trận dịch Cái chết Đen (Black Death, do
bệnh dịch hạch, 1347-1351). Số tử vong khủng khiếp này đã được gây ra do tỉ lệ nhiễm
bệnh cao đến 50% và cấp độ bệnh trầm trọng của các triệu chứng, được nghi ngờ là gây
ra do các "cơn bão cytokine". Thật vậy, các triệu chứng trong năm 1918 là rất lạ và làm
cho thời gian đầu, bệnh cúm bị chẩn đoán sai thành sởi, dịch tả, hoặc là thương hàn.
Một nhân chứng đã viết: "Một trong các biến chứng kinh khủng nhất là xuất huyết từ
các màng nhầy, đặc biệt là từ mũi, dạ dày, và ruột. Sự chảy máu từ tai và xuất huyết
trên da cũng xuất hiện." Phần lớn số người chết là bị viêm phổi do vi khuẩn, một loại
nhiễm trùng cơ hội gây ra do cúm, nhưng virus cũng trực tiếp gây tử vong cho người,
gây nên chảy máu phổi ồ ạt và phù phổi.
Hình: Ảnh TEM của virus gây đại dịch Cúm Tây Ban Nha (độ phóng đại khoảng
100.000 lần).
Đại dịch cúm Tây Ban Nha thật sự đã xuất hiện trên mức độ toàn cầu, kéo dài cho đến
tận vùng Bắc Cực và các đảo xa xôi trên Thái Bình Dương. Bệnh nặng bất thường đã
giết chết từ 2-20% số người bị nhiễm so với chỉ mức tử vong là 0,1% của các dịch cúm
thông thường. Một đặc điểm lạ của trận đại dịch cúm này là nó hầu như chỉ gây tử vong
cho thanh niên, với 99% số tử vong do đại dịch cúm là ở nhóm người dưới 65 tuổi, và
hơn phân nữa ở nhóm thanh niên trẻ từ 20-40 tuổi. Đây là đặc điểm lạ vì cúm thường
chỉ gây tử vong cho trẻ em nhỏ (dưới 2 tuổi) và người già (trên 70 tuổi). Số tử vong
tổng cộng của trận đại dịch 1918-1919 không được xác định chính xác, nhưng người ta
ước tính có khoảng 2,5-5% dân số trên toàn thế giới đã tử vong vì nó. Khoảng 25 triệu
người có thể đã chết trong 25 tuần đầu tiên; ngược lại, HIV/AIDS đã giết 25 triệu người
trong 25 năm đầu tiên của nó.
Trang | 23
Hình: Sự khác biệt giữa phân bố độ tuổi tử vong vì cúm của đại dịch cúm năm 1918 và
của dịch cúm bình thường. Tử vong trên 100.000 người trong mỗi nhóm tuổi, tại Hoa
Kỳ, trong các năm tiền đại dịch 1911-1917 (đường gạch hở) và năm đại dịch 1918
(đường kín) (nguồn: AAFP).
Các đại dịch cúm sau đấy không còn kinh khủng như vậy nữa. Các đại dịch này bao
gồm Cúm châu Á năm 1957 (cúm loại A, chủng H2N2) và Cúm Hồng Kông năm 1968
(loại A, chủng H3N2), nhưng cả các đại dịch cúm nhỏ này cũng đã giết hàng triệu
người. Trong các đại dịch cúm sau này, thuốc kháng sinh đã được dùng để trị các loại
bệnh nhiễm thứ cấp và việc này có thể đã góp phần làm giảm mức độ tử vong so với đại
dịch Cúm Tây Ban Nha năm 1918.
Các đại dịch cúm đã được biết là:
1. Cúm châu Á (Nga), 1889-1890, 1 triệu tử vong, (có thể) chủng H2N2.
2. Cúm Tây Ban Nha, 1918-1920, 40-100 triệu tử vong, chủng H1N1, cấp độ đại dịch = 5.
3. Cúm châu Á, 1957-1958, 1-1,5 triệu tử vong, chủng H2N2, cấp độ đại dịch = 2.
4. Cúm Hồng Kông, 1968-1969, 0,75-1 triệu tử vong, chủng H3N2, cấp độ đại dịch = 2.
Nguyên nhân gây bệnh cúm, virus họ Orthomyxoviridae, được phát hiện đầu tiên trên
heo bởi Richard Shope vào năm 1931. Phát hiện này đã được tiếp tục ngay bằng sự ly
trích virus từ người bởi 1 nhóm đứng đầu bởi Patrick Laidlaw của Hội đồng Nghiên cứu
Y học của Vương Quốc Anh năm 1933. Tuy nhiên, chỉ đến khi Wendell Stanley lần đầu
tiên tinh thể hóa virus khảm thuốc lá vào năm 1935 thì tính chất phi tế bào của virus
mới được công nhận.
Bước tiến quan trọng trong việc phòng ngừa cúm là sự phát triển vắc xin năm 1944 từ
virus cúm đã bị làm bất hoạt bởi Thomas Francis, Jr.. Nghiên cứu này đã kế thừa Frank
Macfarlane Burnet, người Úc, người chứng minh rằng virus mất độc tính khi nó được
nuôi cấy trong trứng gà được thụ tinh. Ứng dụng của phát hiện này bởi Francis đã cho
phép nhóm nghiên cứu của ông tại Đại học Michigan phát triển vắc xin ngừa cúm đầu
tiên, với sự tài trợ của quân đội Hoa Kỳ. Quân đội Hoa Kỳ đã liên quan rất nhiều tới
Trang | 24
nghiên cứu này vì kinh nghiệm của họ với cúm tại Đại chiến Thế giới thứ Nhất, khi mà
hàng ngàn binh sĩ của họ đã tử vong vì virus chỉ trong vài tháng.
Mặc dù đã có một số thiệt hại tại bang New Jersey năm 1976 (với cúm heo), toàn cầu
năm 1977 (cúm Nga), và tại Hồng Kông và các nước châu Á khác năm 1997 (cúm gà
H5N1), trên thế giới đã không có đại dịch cúm nào lớn kể từ đại dịch Cúm Hồng Kông
1968. Sự miễn dịch với các chủng cúm của các đại dịch trước đó và việc tiêm phòng có
thể đã giảm sự lan truyền của virus và cản trở các đại dịch cúm khác xảy ra.
3. Vi sinh học
3.1. Các loại virus cúm
Cúm là một virus có bộ gene là RNA, thuộc họ Orthomyxoviridae. Họ này bao gồm 5
chi:
1. Influenzavirus A (cúm A).
2. Influenzavirus B (cúm B).
3. Influenzavirus C (cúm C).
4. Isavirus.
5. Thogotovirus.
3.1.1. Influenzavirus A (cúm A)
Hình: Cấu trúc của thể virus cúm A. Các protein hemagglutinin (HA) và neuraminidase
(NA) hiện diện trên bề mặt của thể virus. Bộ gene RNA được thể hiện bằng các lò xo
đỏ bên trong thể virus và liên kết với các ribonuclear protein (RNPs).
Trang | 25
Hình: Sơ đồ định danh virus cúm (ví dụ: virus cúm Fujian).
Chi virus này có 1 loài là Influenza A virus. Các loài thủy cầm là các ký chủ tự nhiên
cho rất nhiều loại cúm A. Thỉnh thoảng, virus được truyền sang loài khác và có thể gây
nên dịch bùng phát nghiêm trọng trong gia cầm hoặc là gây nên đại dịch cúm trên
người. Các virus cúm A là loại cúm gây bệnh có độc tính cao nhất cho người trong cả 3
loại cúm, và cũng gây bệnh nặng nhất. Virus cúm A có thể được chia thành nhiều chủng
huyết thanh khác nhau dựa vào phản ứng huyết thanh của các virus này. Các chủng
huyết thanh đã được xác nhận trên người, xếp theo thứ tự số người chết, là:
1. H1N1, gây Cúm Tây Ban Nha năm 1918, và được xác định chính là chủng huyết thanh
của dịch cúm heo 2009 có nguồn gốc từ Mexico.
2. H2N2, gây Cúm châu Á năm 1957.
3. H3N2, gây Cúm Hồng Kông năm 1968.
4. H5N1, gây mối nguy đại địch cúm trong mùa cúm 2007-2008.
5. H7N7, có khả năng được truyền qua động vật theo kiểu không bình thường.
6. H1N2, gây dịch cúm hàng năm ở người và heo.
7. H9N2.
8. H7N2.
9. H7N3.
10. H10N7.
Trong năm 2009, một virus cúm tái tổ hợp hình thành từ H1N1 đã được phát hiện ở
Mexico và Hoa Kỳ và gây nên đại dịch cúm năm 2009.
3.1.2. Influenzavirus B (cúm B)
Chi này có 1 loài, Influenza B virus. Cúm B hầu như chỉ nhiễm lên người và ít phổ biến
như cúm A. Loài động vật khác với người duy nhất được biết là nhiễm cúm B là hải
cẩu. Loại cúm này đột biến thấp hơn cúm A từ 2-3 lần và do vậy ít biến động về kiểu
gene, chỉ với 1 chủng huyết thanh. Vì có độ biến động huyết thanh thấp, người ta
thường miễn nhiễm với cúm B ở giai đoạn đầu. Tuy nhiên, cúm B đột biến đủ để làm
khả năng miễn nhiễm lâu dài không thể xảy ra. Độ biến đổi huyết thanh thấp, cùng với
phổ ký chủ hẹp (cản trở khả năng "gãy kháng nguyên" - antigenic shift), đã làm cho đại
dịch cúm B không thể xảy ra.
Trang | 26
3.1.3. Influenzavirus C (cúm C)
Chi này chỉ có 1 loài, Influenza C virus, nhiễm lên người và heo, và có thể gây ra bệnh
nặng và dịch trong phạm vi địa phương. Tuy nhiên, cúm C ít phổ biến như các loại cúm
kia và thường chỉ gây bệnh nhẹ cho trẻ em.
3.2. Cấu trúc, tính chất, và cách gọi tên các chủng
Các virus cúm A, B và C rất giống nhau về cấu trúc. Thể virus có chiều ngang từ 80-
120 nanômét, và thường có hình gần như tròn, mặc dù một số dạng hình sợi cũng có thể
hiện diện. Thể virus này được cấu tạo từ một vỏ virus bao gồm 2 loại glycoprotein,
quấn quanh một phần nhân trung tâm. Phần nhân trung tâm chứa bộ gene RNA và các
protein khác có chức năng đóng gói và bảo vệ thể RNA này. Đối với 1 virus, thông
thường bộ gene của nó không chỉ có 1 mảnh nucleic acid; thay vào đấy, nó chứa 7 hoặc
8 mảnh RNA có chiều âm và phân đoạn. Virus cúm A có bộ gene mã hoá cho 11
protein trên 8 đoạn RNA: hemagglutinin (HA), neuraminidase (NA), nucleoprotein
(NP), M1, M2, NS1, NS2 (NEP), PA, PB1, PB1-F2 và PB2.
HA và NA là hai glycoprotein lớn nằm ở bên ngoài của vỏ virus. HA là một lectin quản
lý việc bám dính của virus vào tế bào ký chủ và việc xâm nhập của bộ gene vào tế bào
ký chủ, trong khi NA lại liên quan đến việc phát tán các virus mới được hình thành từ tế
bào ký chủ bị nhiễm bằng cách cắt các phân tử đường có vai trò bám vào thể virus hoàn
chỉnh. Vì vậy, các protein này là mục tiêu tấn công của các thuốc chống virus. Thêm
nữa, các protein này là kháng nguyên để sản xuất ra kháng thể. Các virus cúm A được
phân loại thành các chủng dựa vào các phản ứng kháng thể chống lại HA và NA. Các
loại HA và NA khác nhau tạo nên nền tảng cho việc phân biệt H và N, ví dụ như H5N1.
3.3. Sự xâm nhiễm và nhân mật số
Các virus cúm bám vào tế bào bằng hemagglutinin vào các phân tử đường của sialic
acid trên bề mặt của các tế bào biểu mô; điển hình là ở mũi, cổ họng và phổi của động
vật có vú và ruột của chim (giai đoạn 1 trên hình nhiễm bệnh). Tế bào hấp thu virus vào
bằng quá trình thực bào. Trong môi trường hạt nội bào có tính acid, một phần của
protein hemagglutinin kết hợp vỏ virus với màng của không bào và giải phóng các phân
tử RNA của virus (vRNA), các protein phụ trợ và phân tử polymerase nhân RNA thành
RNA (RdRp) (giai đoạn 2). Các protein và vRNA tạo thành một phức hợp được vận
chuyển vào nhân tế bào, nơi mà RdRp bắt đầu quá trình nhân bản các phân tử vRNA
chiều dương (giai đoạn 3a và 3b). vRNA có thể được đưa trở ra tế bào chất và được
dịch mã (bước 4), hoặc vẫn nằm lại trong nhân tế bào. Các protein vừa được sản xuất sẽ
được xuất qua hệ thống Golgi ra bề mặt tế bào (trong trường hợp của neuraminidase và
hemagglutinin, bước 5b) hoặc được vận chuyển vào trong nhân để kết hợp với vRNA
và tạo ra các thể virus mới (bước 5a). Các protein khác của virus có nhiều chức năng
trong tế bào ký chủ, bao gồm phân huỷ các phân tử mRNA của tế bào và sử dụng các
phân tử nucleotide vừa được tạo ra để tổng hợp vRNA và cũng ức chế quá trình dịch mã
của các phân tử mRNA của tế bào ký chủ.
Các vRNA chiều âm được dùng để tạo thành bộ gene của các virus tương lai, RdRp, và
các protein khác của virus được kết hợp vào một thể virus. Các phân tử hemagglutinin
và neuraminidase kết lại với nhau và tạo thành một phần phình ra trong màng tế bào.
vRNA và các protein của phần nhân virus rời nhân tế bào và chui vào phần phình ra này
Trang | 27
của màng tế bào (bước 6). Thể virus hoàn chỉnh nảy mầm khỏi tế bào trong một khối
cầu của màng phospholiqid, gắn hemagglutinin và neuraminidase vào lớp vỏ này của
màng (bước 7). Cũng như trước, các virus gắn vào màng tế bào ký chủ bằng
hemagglutinin; các virus hoàn chỉnh rời bỏ tế bào khi mà neuraminidase cắt các nhóm
sialic acid khỏi tế bào ký chủ. Sau khi bị các thể virus thoát ra, tế bào ký chủ sẽ chết.
Hình: Sự tấn công tế bào ký chủ và quá trình nhân mật số bởi virus cúm. Các bước của
quá trình này được thảo luận trong bài viết.
Bởi vì thiếu cơ chế "đọc nháp" RNA, các RdRp tạo nên khoảng 1 lỗi khi gắn thêm
1.000 nucleotide, tức là bằng khoảng chiều dài của một vRNA của virus cúm. Vì vậy,
hầu hết các virus cúm mới tạo thành là các thể đột biến, gây nên quá trình "trượt kháng
nguyên" (antigenic drift). Sự phân chia của bộ gene thành khoảng 8 mảnh vRNA khác
nhau đã cho phép quá trình tái sắp xếp các phân tử vRNA khi có nhiều hơn 1 dòng virus
cùng xâm nhập 1 tế bào ký chủ. Hiện tượng biến đổi cực nhanh về di truyền của virus
đã tạo ra hiện tượng gãy kháng nguyên và cho phép virus gây nhiễm lên các loài ký chủ
mới và nhanh chóng vượt qua sự miễn dịch. Tính chất này rất quan trọng trong sự xuất
hiện của các đại dịch cúm, và sẽ được bàn thêm ở dưới đây trong phần Dịch tễ học.
4. Triệu chứng và chẩn đoán
Các triệu chứng của cúm có thể bắt đầu một cách rất bất ngờ ở 1 đến 2 ngày sau khi
nhiễm virus. Thường thì các triệu chứng đầu tiên là lạnh hoặc ớn lạnh, nhưng sốt cũng
thường xảy ra trong giai đoạn đầu của quá trình nhiễm bệnh, với nhiệt độ cơ thể khoảng
từ 38-39°F (khoảng 100-103°F). Nhiều người quá yếu nên phải nằm bẹp trên giường
trong vài ngày, và đau nhức cùng ê ẩm khắp mình, nhất là ở sau lưng và chân. Các triệu
chứng của cúm có thể bao gồm:
Đau nhức mình mẩy, nhất là ở các khớp và cổ họng.
Trang | 28
Sốt cao và cực lạnh.
Mệt mỏi.
Đau đầu.
Chảy nước mắt một cách khó chịu.
Đỏ mắt, da (đặc biệt da mặt), miệng, cổ họng và mũi.
Đau khoang bụng (ở trẻ em bị cúm B).
Hình: Triệu chứng của cúm, thông thường nhất là sốt và ho.
Khó mà phân biệt giữa cảm thông thường và cúm trong các giai đoạn đầu của quá trình
nhiễm bệnh, nhưng cúm có thể được xác định bằng sốt cao một cách rất bất thường và
cực kỳ mỏi mệt. Tiêu chảy thường không xảy ra với người lớn bị cúm, mặc dù nó đã
được quan sát thấy ở một số trường hợp bị cúm gà H5N1 và có thể là triệu chứng trên
trẻ em.
Bởi vì thuốc chống virus có tác dụng trị cúm nếu được điều trị sớm (xem phần Điều trị
bệnh ở dưới), việc xác định bệnh sớm là rất quan trọng. Trong các triệu chứng được kể
ra ở trên, sự kết hợp của sốt và ho, viêm họng và/hoặc nghẹt mũi có thể làm tăng độ
chính xác của chẩn đoán. Hai nghiên cứu phân tích kết luận đã đề nghị rằng trong các
dịch cúm địa phương, độ lan truyền sẽ là 70%, và vì vậy bệnh nhân với các kiểu kết hợp
của triệu chứng trên có thể được điều trị bằng các thuốc ức chế neuraminidase mà
không cần phải kiểm tra. Kể cả nếu thiếu các dịch cúm địa phương, điều trị có thể được
áp dụng cho người già trong mùa cúm khi mà độ lây nhiễm cao hơn 15%.
4.1. Các kiểm tra phòng thí nghiệm
Các kiểm tra phòng thí nghiệm hiện nay đang càng ngày càng tốt hơn. Trung tâm Kiểm
soát và Phòng Bệnh (CDC) của Hoa Kỳ lưu giữ một bản tóm tắt cập nhật của các kiểm
tra phòng thí nghiệm. Theo CDC, các kiểm tra chẩn đoán nhanh có độ nhạy từ 70-75%
và độ chuyên biệt từ 90-95% khi được so sánh với các dòng virus. Các kiểm tra này sẽ
rất hữu hiệu trong mùa cúm (độ lây nhiễm = 25%) nhưng không hữu hiệu nếu thiếu
dịch cúm địa phương, hoặc trong mùa peri-influenza (độ lây nhiễm = 10%, mùa peri-
influenza được định nghĩa là từ ngày 1 của tháng 11 cho đến khởi điểm của mùa cúm và
2 tuần sau khi kết thúc mùa cúm).
5. Dự đoán về sự tiến triển của bệnh
Các ảnh hưởng của cúm là rất nặng và kéo dài lâu hơn của bệnh cảm thông thường. Hầu
hết người bệnh sẽ hồi phục trong vòng 1 đến 2 tuần, nhưng số khác lại phát triển các
biến chứng có thể gây tử vong (ví dụ như viêm phổi). Tuy nhiên, cúm có thể gây tử
Trang | 29
vong cao cho những người yếu, già hoặc sắp chết. Cúm có thể làm trầm trọng thêm các
vấn đề sức khỏe mãn tính. Người bị bệnh khí phế thũng (emphysema), viêm cuống
phổi, hoặc hen suyễn có thể sẽ bị thở nông hơn khi họ bị cúm, và cúm có thể làm trầm
trọng hơn bệnh động mạch vành hoặc nghẽn tim. Hút thuốc lá là một yếu tố nguy hiểm
được kết hợp với bệnh nặng hơn và làm tăng tỉ lệ tử vong vì cúm.
Theo Tổ chức Sức khoẻ Thế giới: "Mỗi mùa đông, hàng chục triệu người bị cúm. Hầu
hết chỉ bệnh và phải nghĩ ở nhà khoảng 1 tuần, tuy nhiên người già lại bị nguy hiểm
hơn và dễ tử vong vì bệnh. Chúng tôi biết rằng số lượng tử vong trên thế giới hàng năm
là cao hơn vài trăm ngàn người, nhưng kể cả ở các nước đã phát triển, số liệu này vẫn là
không chính xác, bởi vì các cơ quan y tế thường không xác định ai đã thật sự chết vì
cúm và ai đã chết vì bệnh tương tự như cúm." Kể cả người khoẻ mạnh cũng có thể bị
nhiễm virus, và các vấn đề nghiêm trọng gây ra do cúm có thể xuất hiện ở bất kỳ lứa
tuổi nào. Người trên 50 tuổi, trẻ em rất nhỏ tuổi, và người ở bất kỳ độ tuổi nào nhưng
có các bệnh mãn tính, thường là dễ bị biến chứng do cúm, ví dụ như viêm phổi, viêm
cuống phổi, viêm xoan và viêm tai.
Các triệu chứng thông thường của cúm như là sốt, đau đầu, và mệt mỏi đến từ một
lượng lớn của cytokine và chemokine do viêm (ví dụ như interferon hoặc nhân tố u hoại
tử) được sinh ra từ các tế bào nhiễm phải virus cúm. Trái ngược với rhinovirus là tác
nhân gây bệnh cảm thông thường, cúm gây tổn hại cho mô, vì vậy triệu chứng không
chỉ hoàn toàn là do phản ứng bị viêm. Phản ứng miễn dịch mạnh mẽ này có thể tạo nên
cơn bão cytokine có thể gây tử vong. Tính chất này đã được đề nghị cho nguyên nhân
gây tử vong cao của cúm gà H5N1 và chủng cúm gây đại dịch năm 1918 H1N1.
Trong một số trường hợp, phản ứng tự miễn dịch đối với sự xâm nhiễm của cúm có thể
gây nên sự phát triển của hội chứng Guillain-Barré. Tuy nhiên, vì có nhiều sự nhiễm
trùng khác cũng có thể làm tăng nguy cơ của bệnh này, cúm chỉ có thể là nguyên nhân
quan trọng trong các đợt dịch. Hội chứng này có thể là một phản ứng phụ hiếm thấy của
các vắc xin ngừa cúm, với tần suất xảy ra là 1 phần triệu.
6. Dịch tễ học
6.1. Các biến đổi theo mùa
Cúm đạt đến đỉnh điểm trong mùa đông, và vì Bắc và Nam Bán Cầu có mùa đông ở các
thời gian khác nhau trong năm, nên thật ra có tới 2 mùa cúm trong một năm. Đây là lý
do tại sao WHO (được trợ giúp bởi các Trung tâm Cúm Quốc gia) đưa ra các khuyến
cáo cho 2 loại tổ hợp vắc xin cho mỗi năm; 1 ở Bắc và 1 ở Nam Bán Cầu.
Không rõ tại sao các dịch cúm lại diễn ra theo mùa thay vì đồng nhất trong suốt năm.
Một cách giải thích có thể đúng là bởi vì con người ở trong nhà nhiều hơn trong mùa
đông, họ tiếp xúc trực tiếp với nhau nhiều hơn, và điều này làm tăng sự truyền bệnh từ
người sang người. Một cách giải thích khác là nhiệt độ thấp làm cho không khí khô
hơn, và làm cho màng nhầy mất ẩm độ, cản cơ thể đào thải các thể virus một cách hiệu
quả. Virus có thể tồn tại lâu hơn trên các bề mặt tiếp xúc (nắm cửa, mặt bàn...) trong
nhiệt độ thấp. Việc tăng cường du lịch trong các ngày nghĩ đông của Bắc Bán Cầu cũng
có thể là một tác nhân. Một nhân tố khác là sự truyền virus qua các hạt ẩm độ (sinh ra
do hắt hơi và ho) là cao nhất trong nhiệt độ thấp (nhỏ hơn 5oC) với ẩm độ thấp. Tuy
nhiên, các thay đổi theo mùa trong mức độ nhiễm bệnh cũng có hiện diện ở các vùng
Trang | 30
nhiệt đới, và các đỉnh cao của sự nhiễm bệnh được quan sát thấy trong mùa mưa. Các
thay đổi theo mùa của việc tiếp xúc từ trường học qua các học kỳ, điều là yếu tố quan
trọng trong các bệnh trẻ em khác như sởi và chứng ho lâu ngày, có thể đóng vai trò
quan trọng trong bệnh cúm. Sự kết hợp của các ảnh hưởng theo mùa này có thể được
tăng lên bởi sự cộng hưởng động học với các chu kỳ trên trong cơ thể. H5N1 có tính
mùa vụ kể cả ở trên người và chim.
Một giả thiết khác để giải thích tính theo mùa của sự nhiễm cúm là hiệu quả của
vitamin D lên sự miễn nhiễm virus cúm. Ý tưởng này được đề nghị lần đầu tiên bởi
Edgar Hope-Simpson vào năm 1965. Ông đề nghị là nguyên nhân của các dịch cúm
trong mùa đông có thể liên quan đến sự biến động theo mùa của vitamin D, chất được
sản xuất dưới da do tia cực tím của ánh nắng mặt trời (hoặc nhân tạo). Điều này có thể
đã giải thích tại sao cúm luôn thường xuất hiện trong mùa đông và mùa mưa của các
nước nhiệt đới, khi mà người ta chỉ ở trong nhà và tránh mặt trời, và lượng vitamin D
của họ cũng giảm theo.
6.2. Dịch, đại dịch toàn cầu
Vì cúm được gây ra bởi nhiều loài và chủng virus khác nhau, trong mỗi năm một số
chủng sẽ bị mất đi trong khi các chủng khác lại tạo nên dịch, và một chủng khác lại có
thể gây đại dịch cúm. Điển hình, trong 2 mùa cúm của một năm (mỗi mùa cho một Bán
Cầu), có khoảng 3 triệu đến 5 triệu trường hợp bị cúm nặng và khoảng 500.000 người
chết mỗi năm trên thế giới. Mặc dù tỷ lệ mắc bệnh cúm có thể thay đổi nhiều trong các
năm, khoảng 36.000 chết và hơn 200.000 lượt nhập viện là trực tiếp liên quan đến cúm
tại Hoa Kỳ. Đại dịch diễn tra khoảng 3 lần trong một thế kỷ và nhiễm lên một phần lớn
dân số thế giới và có thể giết hàng chục triệu người (xem phần Lịch sử). Thật vậy, nếu
một chủng hôm nay có độc tính tương tự như cúm 1918, nó có thể giết khoảng 50 đến
80 triệu người.
Các virus cúm mới đang được tạo ra liên tục bởi quá trình tái sắp xếp. Sự đột biến có
thể gây nên các thay đổi nhỏ trong các kháng nguyên hemagglutinin và neuraminidase
trên bề mặt của virus. Hiện tượng này được gọi là “trượt kháng nguyên”, và tạo ra nhiều
dòng mới theo thời gian cho đến khi một trong những dòng biến dị này dần dần có độ
thích hợp cao hơn, trở nên nổi trội, và nhanh chóng quét ngang các quần thể con người
– thường gây ra dịch. Ngược lại, khi các virus cúm tái sắp xếp, chúng có thể lấy thêm
các kháng nguyên mới – ví dụ như tái sắp xếp giữa các chủng virus chim và virus
người; hiện tượng này được gọi là “gãy kháng nguyên”. Nếu một virus cúm trên người
sản xuất ra các kháng nguyên mới, tất cả mọi người đều có thể nhiễm cúm này, và virus
cúm mới có thể phát tán không kiểm soát nổi và gây ra đại dịch cúm. Khác với mô hình
của các đại dịch cúm dựa trên trượt và gãy kháng nguyên, một cách tiếp cận khác đã
được đề nghị với việc các đại dịch cúm theo chu kỳ được tạo ra bằng sự tương tác giữa
một tập hợp cố định của các chủng virus với một quần thể người với một tập hợp thay
đổi theo thời gian của sự miễn nhiễm chống lại các chủng virus khác nhau.
Trang | 31
Hình: "Trượt kháng nguyên" tạo ra virus cúm với kháng nguyên thay đổi một chút so
với nguyên gốc, trong khi "Gãy kháng nguyên" tạo ra các virus với kháng nguyên hoàn
toàn mới.
Hình: Cơ chế gãy kháng nguyên, hoặc tái sắp xếp, có thể tạo nên các chủng virus cúm
người cực độc.
7. Phòng ngừa
7.1. Chủng ngừa bằng vắc xin
Sự tiêm phòng ngừa cúm bằng một vắc xin cúm là điều thường được khuyến cáo cho
các nhóm có nguy cơ cao, như trẻ em và người già, những người bị hen suyễn, tiểu
đường, hoặc bệnh tim. Các vắc xin ngừa cúm có thể được sản xuất bằng vài cách khác
nhau; cách thông dụng nhất là nuôi virus trong trứng gà đã thụ tinh. Sau khi tinh lọc,
virus bị bất hoạt (ví dụ: bằng cách xử lý với chất tẩy) được dùng để sản xuất vắc xin.
Trang | 32
Ngoài ra, virus còn có thể được nuôi trong trứng cho đến khi nó mất hết độc tính và
virus không có hoạt tính sẽ được sử dụng như là vắc xin sống. Hiệu quả của các vắc xin
phòng cúm này cũng khác nhau. Do virus có khả năng đột biến cao, một vắc xin phòng
cúm thường thì chỉ có tác dụng phòng ngừa trong không quá một vài năm. Mỗi năm,
WHO tiên đoán các chủng virus nào sẽ có khả năng cao xuất hiện trong năm sau, để
cho các công ty dược phẩm phát triển các vắc xin có thể cung cấp tính miễn nhiễm cao
nhất đối với các chủng virus này. Vắc xin cũng có thể được sản xuất để bảo vệ gia cầm
khỏi bị cúm chim. Các vắc xin này có thể có tác dụng chống lại nhiều chủng khác nhau
và được sử dụng như là một phần của chiến lược phòng tránh, hoặc kết hợp với việc
tiêu huỷ gia cầm để tiêu diệt nguồn dịch.
Cũng có thể đã tiêm phòng nhưng vẫn bị cúm. Vắc xin được thiết kế lại sau mỗi mùa
cho một số lượng nhỏ chủng nhất định, nhưng không thể chứa tất cả các chủng đang có
khả năng xâm nhiễm lên người trên khắp thế giới trong mùa đấy. Mất khoảng 6 tháng
để mà các nhà sản xuất thiết kế và sản xuất hàng triệu lều cần thiết cho chống lại các
dịch cúm theo mùa; thỉnh thoảng, một chủng mới hoặc bị bỏ qua lại trở nên phổ biến
trong thời gian đó, và nhiễm lên người mặc dù họ đã được tiêm phòng (ví dụ như
trường hợp cúm Fujian H3N2 trong mùa cúm 2003-2004). Cũng có thể là bị nhiễm
virus trước khi được tiêm phòng và bị bệnh với chính chủng virus mà vắc xin được thiết
kế để chống lại, vì vắc xin mất khoảng 2 tuần để trở nên có hiệu lực.
Mùa 2006-2007 là lần đầu tiên CDC khuyến cáo trẻ em nhỏ hơn 59 tháng được chính
ngừa cúm hàng năm. Vắc xin có thể gây hệ miễn dịch phản ứng với nó giống y như là
cơ thể thật sự bị nhiễm cúm, và các triệu chứng nhiễm bệnh thông thường (nhiều triệu
chứng cảm và cúm chỉ là các triệu chứng thông thường) có thể xuất hiện, mặc dù các
triệu chứng này có thể không nặng và bị lâu như cúm thật sự. Phản ứng phụ nguy hiểm
nhất là dị ứng cao độ với các thành phần của virus hoặc là các thành phần trong trứng
gà dùng để nuôi cúm; tuy nhiên, các phản ứng này cực kỳ hiếm gặp.
Hình: Tiêm phòng cúm.
7.2. Kiểm soát sự truyền nhiễm
Các thói quen vệ sinh sức khoẻ cá nhân, như rửa tay, không khạc nhổ, và che mũi và
miệng khi hắt hơi và ho, là khá hiệu quả trong viêc giảm thiểu và tránh cúm. Các biện
pháp vệ sinh cá nhân đơn giản này được khuyến cáo như là một cách chủ yếu để làm
giảm sự truyền bệnh trong các đại dịch cúm. Mặc dù khẩu trang có thể giúp giảm truyền
bệnh khi chăm sóc người bệnh, không có bằng chứng rõ ràng để chứng minh rằng khẩu
trang có thể làm giảm sự truyền bệnh trong cộng đồng dân cư.
Trang | 33
Người nhiễm cúm thường là có khả năng truyền bệnh mạnh nhất vào khoảng ngày thứ 2
và 3 sau khi họ bị nhiễm và quá trình truyền bệnh thường kéo dài khoảng 10 ngày. Trẻ
em có khả năng truyền bệnh cao hơn người lớn và phát tán virus từ ngay trước khi
chúng xuất hiện triệu chứng cho đến 2 tuần sau khi bị nhiễm. Khi có ít người bị nhiễm
cúm, việc cách ly có thể làm giảm mức rủi ro của sự phát tán bệnh.
Vì cúm phát tán qua các hạt dịch lỏng ti ti có chứa virus và tiếp xúc với các bề mặt bị
nhiễm virus, việc vệ sinh các bề mặt là điều được khuyến cáo tại các nơi mà cúm có thể
hiện diện trên bề mặt. Cồn là một chất tiệt trùng có hiệu quả với virus cúm, trong khi
các hợp chất ammonium dạng tứ (quaternary ammonium compounds) có thể được dùng
với cồn để tăng thời gian hoạt động của việc khử trùng. Trong bệnh viện, các hợp chất
ammonium dạng tứ và các chất thải ra halogen như sodium hypochlorite được dùng
thường xuyên để khử trùng phòng ốc hoặc các dụng cụ đã được sử dụng bởi bệnh nhân
có mang triệu chứng cúm.
Trong các đại dịch cúm trước đây, việc đóng cửa trường học, nhà thờ và rạp hát đã làm
giảm sự phát tán của virus nhưng không có tác dụng lớn trong việc giảm tỉ tệ tử vong
trung bình. Vẫn còn không rõ rằng việc giảm tụ tập nơi công cộng, bằng cách là đóng
cửa trường học và nơi làm việc, sẽ giảm việc truyền bệnh hay không, vì như thế người
bị cúm sẽ lại di chuyển từ nơi này qua nơi khác; các lệnh ban hành như vậy có thể là
khó thực hiện và không được người dân đồng tình.
8. Điều trị
Hình: Neuraminidase từ cúm H1N1 năm 1918. Các phần sialic acid được bám vào phần
dưới của enzyme.
Người bị cúm được khuyến cáo là nghĩ ngơi thật nhiều, uống nhiều nước, và tránh uống
bia rượu và hút thuốc lá, và, nếu cần thiết, uống thuốc như paracetamol
(acetaminophen) để làm giảm sốt và đau cơ bắp vì cúm. Trẻ em và người dưới 20 tuổi
với triệu chứng cúm (đặc biệt là sốt) nên tránh uống aspirin trong khi bị nhiễm cúm
(đặc biệt là cúm B), vì như vậy có thể làm dẫn đến bị hội chứng Reye (hiếm gặp, nhưng
có thể gây tử vong do hư gan). Vì cúm do virus gây ra, thuốc kháng sinh không có tác
dụng điều trị bệnh; ngoại trừ nếu nó được kê toa để trị các bệnh nhiễm thứ cấp như
viêm phổi. Thuốc chống virus có thể có tác dụng, nhưng một số chủng cúm có thể
kháng lại các loại thuốc chống virus thông thường.
Hai loại thuốc chống virus chính được sử dụng để trị cúm là thuốc ức chế
neuraminidase và thuốc ức chế protein M2 (các dẫn xuất của adamantane). Thuốc ức
Trang | 34
chế neuraminidase đang được dùng rộng rãi để trị cúm vì thuốc này ít độc hơn và tác
dụng cao hơn. CDC khuyến cáo tránh dùng thuốc ức chế protein M2 trong mùa cúm
2005-2006 vì khả năng kháng thuốc cao của virus.
8.1. Các chất ức chế enzyme neuraminidase
Các thuốc chống virus như oseltamivir (tên thương mại là Tamiflu) và zanamivir (tên
thương mại là Relenza) là các chất ức chế neuraminidase được thiết kế để chặn đứng
virus phát tán trong cơ thể. Các thuốc này thường có tác dụng chống cả cúm A và B.
Cochrane Collaboration tổng kết về các thuốc này và kết luận là chúng làm giảm triệu
chứng và biến chứng. Nhiều chủng khác nhau của virus cúm có mức độ kháng khác
nhau đối với các thuốc chống virus này, và không thể đoán được độ kháng thuốc của
các chủng gây nên đại dịch trong tương lai.
8.2. Các chất ức chế M2 (các chất adamantane)
Các thuốc chống virus cúm như amantadine và rimantadine được thiết kế để cản kênh
vận chuyển ion của virus (protein M2) và cản trở virus xâm nhập vào tế bào. Các thuốc
này thường có hiệu quả đối với cúm A nếu được áp dụng sớm khi vừa bị nhiễm, nhưng
không có tác dụng đối với virus cúm B. Độ kháng thuốc amantadine và rimantadine đo
được trong các chủng H3N2 từ Hoa Kỳ đã tăng lên 91% trong năm 2005.
9. Nghiên cứu
Hình: Khoa học gia CDC đang làm việc với virus cúm trong phòng thí nghiệm an toàn
sinh học cấp độ cao.
Nghiên cứu khoa học về virus cúm bao gồm sinh học phân tử của virus, làm thế nào
virus gây ra bệnh (quá trình gây bệnh), các phản ứng miễn dịch của ký chủ, bộ gene của
virus, và làm thế nào virus phát tán (dịch tễ học). Các nghiên cứu này đã giúp phát triển
các phương pháp chống cúm; ví dụ, hiểu sâu về hệ thống miễn dịch của cơ thể sẽ giúp
phát triển vắc xin tiêm phòng, và một bức tranh chi tiết về làm thế nào cúm tấn công
các tế bào sẽ giúp cho phát triển thuốc chống virus. Một chương trình nghiên cứu cơ
Trang | 35
bản là Dự Án Đọc Mã Bộ Gene Virus Cúm, bằng cách tạo nên một thư viện của các
chuỗi mã di truyền của virus cúm; thư viện này sẽ giúp xác định các tác nhân làm cho
một chủng trở nên độc hơn chủng khác, gene nào tác động mạnh nhất lên quá trình
miễn dịch, và làm thế nào virus tiến hóa theo thời gian.
Nghiên cứu các vắc xin mới đóng vai trò rất quan trọng, vì các vắc xin hiện nay được
sản xuất chậm và mắc tiền, và phải được thiết kế hàng năm. Việc đọc mã của bộ gene
virus cúm và kỹ thuật DNA tái tổ hợp có thể làm đẩy nhanh sự phát triển của các chủng
vắc xin mới bằng cách cho phép các nhà khoa học thay thế các kháng nguyên trong các
chủng vắc xin cũ. Các kỹ thuật mới cũng đang được phát triển để nuôi virus trong môi
trường nuôi cấy tế bào, điều này sẽ làm tăng năng suất, giảm chi phí, tăng chất lượng và
cường độ. Nghiên cứu về một loại vắc xin chung cho cúm A, dùng để chống lại tất cả
các phần của protein M2 xuyên bào (M2e) đang được thực hiện bởi Đại học Ghent do
Walter Fiers, Xavier Saelens và cộng sự. Nghiên cứu này đã vượt qua giai đoạn 1 của
thí nghiệm lâm sàng.
Chính phủ Hoa Kỳ đã mua vài triệu liều vắc xin từ Sanofi Pasteur và Chiron
Corporation, dùng để sử dụng trong trường hợp đại dịch cúm gà H5N1 và đang thực
hiện thí nghiệm lâm sàng với các vắc xin này. Chính phủ Anh cũng đang dự trữ hàng
triệu liều thuốc chống virus (oseltamivir (Tamiflu), zanimivir (Relanza)) để phát cho
người dân trong trường hợp đại dịch xảy ra; Cơ quan Bảo vệ Sức khỏe Anh cũng đã thu
thập một số lượng nhất định vắc xin HPAI H5N1 để dùng cho thí nghiệm.
Một số tác nhân sinh học (biologics), vắc xin trị bệnh (therapeutic vaccines), và tác
nhân miễn dịch sinh học (immunobiologics) cũng đang được nghiên cứu để điều trị sự
nhiễm virus. Các tác nhân sinh học trị bệnh (therapeutic biologics) được thiết kế để kích
hoạt phản ứng miễn dịch chống lại virus hoặc kháng nguyên. Điển hình thì các tác nhân
sinh học không tấn công các chu trình biến dưỡng như các thuốc chống virus thường
làm, nhưng chúng sẽ kích thích các tế bào phòng vệ như bạch cầu, đại thực cầu, và/hoặc
các tế bào mang kháng nguyên, để hướng hệ thống phòng vệ đến một phản ứng
cytotoxic chống lại virus. Các mô hình cúm, ví dụ như cúm chuột murine, là các mô
hình rất thuận tiện để kiểm tra hiệu quả của các tác nhân sinh học phòng bệnh và trị
bệnh. Ví dụ, các phần kiểm soát miễn dịch của tế bào bạch cầu T đã ức chế sự phát triển
của virus trong mô hình cúm chuột.
10. Truyền nhiễm lên các động vật khác
Cúm gây nhiễm nhiều loài vật khác nhau, sự hoán chuyển các dòng virus giữa các loài
có thể xảy ra. Chim được cho là nguồn tàng trữ chính của các loại virus cúm. 16 dạng
protein kết dính (hemagglutinin) và 9 dạng enzyme thủy phân các liên kết glycoside
(neuraminidase) đã được nhận dạng. Tất cả các biến dạng HxNy đã tìm thấy ở chim,
nhưng rất nhiều những biến dạng này là đặc hữu cho người, chó, ngựa và lợn; các quần
thể lạc đà, chồn bạc, mèo, hải cẩu, cầy và cá voi cũng bộc lộ các bằng chứng tiền nhiễm
hoặc phơi nhiễm với cúm. Các biến dạng của virus cúm thỉnh thoảng được đặt tên theo
các vật chủ mà chủng cúm đó nhiễm đặc hữu hay đã thích nghi nhiễm vào. Những biến
dạng chính được đặt tên sử dụng quy ước như: Cúm chim, Cúm người, Cúm heo, Cúm
ngựa và Cúm chó (Cúm mèo nói chung được hiểu như các loại virus mèo như
rhinotracheitis hay calicivirus, chứ không phải là cúm influenza). Lợn, ngựa và chó,
triệu chứng cúm là tương tự như người, cũng là ho, sốt và chán ăn. Tần số ngã bệnh của
động vật ít được nghiên cứu kỹ như người, nhưng một đợt bùng phát cúm ở hải cẩu đã
Trang | 36
làm khoảng 500 con chết trên bờ biển New England (1979-1980). Mặt khác, bùng dịch
ở lợn là khá bình thường và không gây ra hệ số tử vong nghiêm trọng.
10.1. Cúm gà
Các triệu chứng cúm trên chim thường là biến đổi và không đặc trưng. Các triệu chứng
theo sau sự nhiễm bệnh với cúm chim độc tính thấp có thể nhẹ như là xù lông, hơi giảm
đẻ trứng, hoặc mất cân kết hợp với giảm nhẹ khả năng hô hấp. Kể từ khi các triệu
chứng này làm cho chẩn đoán trên đồng trở nên khó khăn, xác định sự lây lan của cúm
chim cần phải có thí nghiệm trong phòng thí nghiệm với các mẫu từ chim bị nhiễm.
Một số chủng của cúm châu Á H9N2 có độc tính rất cao cho gia cầm và có thể gây ra
triệu chứng nặng và chết nhiều. Ở trạng thái độc nhất, cúm gà và gà Tây tạo ra triệu
chứng nặng ngay lập tức và hầu như 100% chết trong vòng 2 ngày. Vì virus lan nhanh
trong điều kiện chật chội của các trại nuôi gà và gà Tây, các dịch này xảy ra có thể gây
ra thiệt hại kinh tế nặng cho nông dân nuôi gia cầm.
Một chủng virus chim có độc tính cao của H5N1 (gọi là HPAI A(H5N1), gây ra cúm
H5N1, thường được gọi là cúm gà, và xuất hiện thường xuyên trong các quần thể chim,
đặc biệt là ở Đông Nam Á. Dòng châu Á này của HPAI A(H5N1) đang lan ra khắp thế
giới. Nó là epizootic (gây dịch trên các loài không phải người), và là panzootic (nhiễm
lên nhiều loài trên diện rộng), giết hàng chục triệu chim chóc và gây tiêu hủy hàng trăm
triệu chim khác để ngăn chận virus này lây lan. Hầu hết các bài trong báo chí về cúm gà
và H5N1 là về chủng virus này.
Hiện tại, HPAI A(H5N1) là một bệnh trên chim, và chưa có bằng chứng nào cho thấy
nó lây lan hiệu quả từ người sang người. Trong hầu hết các trường hợp, những người bị
nhiễm tiếp xúc thường xuyên với gia cầm. Trong tương lai, H5N1 có thể đột biến hoặc
tái sắp xếp để tạo nên một chủng có thể lan truyền từ người sang người hiệu quả. Tuy
nhiên, các thay đổi chính xác cần thiết cho việc này xảy ra chưa được hiểu rõ. Với độ
gây tử vong và độc tính cao của H5N1, sự hiện diện liên tục của nó, và phổ ký chủ rộng
khắp và đang nhân rộng, virus H5N1 đã là mối nguy đại dịch cúm thế giới trong mùa
2006-2007, và hàng tỉ đô la đang được kêu gọi và sử dụng nghiên cứu H5N1 và chuẩn
bị cho một đại dịch cúm có thể trong tương lai.
10.2. Cúm heo
Dịch cúm heo 2009 (hay "cúm lợn") là dịch cúm do một loại virus thuộc chủng H1N1
(mang protein hemagglutinin H1 và neuraminidase N1) lần đầu tiên được các cơ quan y
tế phát hiện vào tháng 03/2009.
Một bệnh giống như bệnh cúm đã bùng phát và được phát hiện lần đầu trên 3 khu vực
khác nhau của nước Mexico. Tuy nhiên, chủng virus mới này chỉ được xác định lâm
sàng một tháng sau đó trên các ca bệnh tại bang Texas và California thuộc Hoa Kỳ.
Căn bệnh này sau đó đã được nhanh chóng xác nhận ở nhiều bang của Mexico và thành
phố Mexico city, vài ngày sau nữa là các ca riêng rẽ ở các địa điểm khác nhau tại
Mexico, Hoa Kỳ và Bắc Bán Cầu.
Đến tháng 04/2009, chủng virus mới đã được phát hiện thêm tại Canada, Tây Ban Nha
và Anh. Người ta nghi ngờ virus H1N1/09 cũng đã lan sang nhiều quốc gia khác, bao
Trang | 37
gồm cả New Zealand với 2.400 ca có thể bị nhiễm virus này. Điều này khiến Tổ chức
Sức khỏe Thế giới (WHO) nâng cấp báo động dịch lên pha 4.
Đặc tính của bệnh gây ra do virus H1N1/09 này rất khó dự báo. Cộng thêm những ca
lây nhiễm từ người sang người vừa được ghi nhận, chủng virus mới này được cho là rất
có khả năng gây nên đại dịch.
Các quan chức Mỹ đã cho biết họ dự định thay đổi cụm từ "cúm heo" để tránh tình
trạng người dân hiểu lầm là căn bệnh lây qua thịt heo. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Hoa
Kỳ Tom Vilsack nói rằng "Đây không phải là nạn dịch liên quan tới thực phẩm. Cần
phát đi thông điệp rằng ăn thịt heo là không bị bệnh."
Nhiếu quốc gia đã cấm nhập khẩu thịt heo từ Bắc Mỹ. Nhưng sau đấy giới khoa học
chứng minh rằng heo thật ra không liên quan gì đến sự lây truyền của virus cúm
H1N1/09, nên hiện nay các rào cản về thịt heo đã bị dỡ bỏ.
Cho đến ngày 04/05/2009, đã có nạn nhân chết đầu tiên ngoài Mexico. Có 20 quốc gia
với 985 người nhiễm cúm H1N1/09, trong đó 20 người chết.
WHO cuối tháng 04/2009 nâng cấp báo động dịch lên pha 5, pha cao thứ nhì của một
đại dịch cúm. Sau đấy, ngày 11/06/2009, bà Margaret Chan, tổng giám đốc của tổ chức
này đã nâng cấp dịch cúm H1N1/09 lên pha 6, pha đại dịch cúm toàn cầu.
Hiện nay, WHO không còn đếm số ca nhiễm virus H1N1/09 nữa. Tổ chức này khuyến
cáo các quốc gia trên thế giới tập trung vào điều trị bệnh nhân biến chứng nặng, và theo
dõi các diễn biến của đại dịch.
Vào những ngày cuối tháng 07/2009, Việt Nam công bố đã có hơn 700 ca xác nhận đã
nhiễm virus H1N1/09, đồng thời đóng cửa nhiều trường học và công ty khi những nơi
này có người bị nhiễm cúm.
11. Thiệt hại kinh tế
Ảnh hưởng xã hội của cúm H5N1 tạo ra những hao tốn trực tiếp do mất khả năng lao
động (trong khi ốm) và chi phí y tế kèm theo cùng với chi phí gián tiếp cho các phương
pháp phòng vệ. Tại Hoa Kỳ, cúm ngốn mất một khoản hơn 10 tỷ đô la mỗi năm, trong
khi những ước tính về một đại dịch tương lai xảy ra có thể tiêu tốn hàng trăm tỷ đô la
cho hai loại chi phí trên. Tuy nhiên những tác hại kinh tế của những đại dịch trong quá
khứ dường như đã không được điều tra chặt chẽ và một số nhà nghiên cứu lại cho rằng
Dịch cúm Tây Ban Nha thực ra ở tầm dài hạn đã có hiệu quả dương tính trên mức tăng
thu nhập trên đầu người mặc dù đã có sụt giảm lớn trong quần thể trong độ tuổi làm
việc cũng như các tác động tâm lí nghiêm trọng. Những nghiên cứu khác cố gắng dự
tính mức thiệt hại của một đại dịch cúm tương đương với quy mô của Dịch cúm Tây
Ban Nha (1918) đối với nền kinh tế Hoa Kỳ, khi mà 30% nhân công lao động sẽ mắc
cúm và 2.5% tử vong. Với mức 30% nhân công ốm trong vòng 3 tuần sẽ gây mức suy
giảm 5% GDP. Thêm vào đó, chi phí điều trị y tế cho từ 18-45 triệu người và tổng số
các thiệt hại kinh tế khác sẽ vào khoảng 700 tỷ đô la.
Những phí tổn phòng vệ cũng là rất lớn. Nhiều chính phủ đã phải chi hàng tỷ đô la cho
việc chuẩn bị và lên kế hoạch cho một đại dịch cúm chim xẩy ra cùng với chi phí mua
Trang | 38
thuốc và vắc xin, phát triển công tác phòng chống thảm họa cũng như chiến lược nâng
cao kiểm dịch đường biên. Ngày 01/11/2005, Tổng thống G.W. Bush đã bạch hóa một
chiến lược phòng vệ quốc gia chống lại hiểm họa của một đại dịch cúm với yêu sách hỗ
trợ của chính phủ lên tới 7,1 tỷ đô la để triển khai. Bình diện quốc tế, ngày 18/01/2006,
các quốc gia tài trợ đã cam kết 2 tỷ đô la cho cuộc chiến chống cúm chim trong một hội
thảo cam kết quốc tế về cúm người và chim, diễn ra tại Trung Quốc trong hai ngày.
Nguồn: Nguyễn Văn Nếu và quiteyoungguy, x-cafevn [1], Hồ Xuân Thiện biên tập lại
một ít.
[1] http://www.x-cafevn.org/forum/showthread.php?t=25332
Đã được cập nhật lúc Thứ Năm, 30/07/2009 15:22
Trang | 39
10 điều cần biết về cúm đại dịch
Thứ Sáu, 08/05/2009 00:00 Kiến thức cúm
1. Cúm đại dịch khác với cúm gà
Cúm gà (HXT: nên gọi đúng hơn là cúm chim vì có thể nhiễm lên nhiều loại chim chóc
và gia cầm khác nhau, chứ không phải chỉ mỗi gà) là một nhóm lớn của nhiều virus
cúm chim và các virus này chủ yếu nhiễm lên chim. Trong một số nhỏ trường hợp, các
virus cúm chim này có thể nhiễm lên các loài khác, bao gồm heo và người. Hầu hết các
virus cúm chim không nhiễm lên người. Một đại dịch cúm sẽ xảy ra khi một chủng mới
virus xuất hiện mà trước giờ chưa bao giờ nhiễm trên người.
Vì lý do này, cúm chim H5N1 là một dòng có khả năng gây đại dịch, vì nó có thể trở
thành một dòng có khả năng lan truyền giữa người-người. Khi sự biến đổi này xảy ra,
nó sẽ không còn là virus trên chim nữa mà sẽ là một virus cúm người. Các đại dịch cúm
được gây ra do các virus cúm mới vừa nhảy sang người.
2. Đại dịch cúm là các sự kiện lặp đi lặp lại
Đại dịch cúm hiếm khi xảy ra, nhưng lại có tính lặp đi lặp lại. Có 3 đại dịch đã xuất
hiện trong thế kỷ 20: Cúm Tây Ban Nha năm 1918, Cúm châu Á năm 1957, và Cúm
Hồng Kông năm 1968. Đại dịch năm 1918 đã giết chết khoảng 40-50 triệu người trên cả
thế giới. Đại địch đấy thuộc loại ngoại cỡ, và được coi là một trong những bệnh dịch
giết nhiều nhất trong lịch sử loài người. Các đại dịch sau đấy nhẹ hơn nhiều, với khoảng
2 triệu chết năm 1957 và 1 triệu chết năm 1968.
Đại dịch cúm xảy ra khi một virus cúm mới xuất hiện và bắt đầu lan truyền một cách dễ
dàng như cúm thông thường - bằng đường ho và hắt hơi. Bởi vì virus mới nên hệ miễn
dịch của người chưa có khả năng tự vệ. Việc này làm cho những người bị nhiễm cúm
đại dịch sẽ bị bệnh nặng hơn là bị cúm thường.
3. Thế giới có thể đang đứng bên lề của một đại dịch cúm
Các chuyên gia y tế đang theo dõi một virus cúm mới và cực kỳ nguy hiểm - chủng
H5N1 - trong gần 8 năm (HXT: và bây giờ là cúm H1N1/09 mới). Chủng H5N1 nhiễm
lên người đầu tiên trong năm 1997, gây nên 18 ca bệnh, kể cả 6 tử vong. Kể từ giữa
2003, virus này đã gây nên dịch trên gia cầm rộng nhất và tàn phá lớn nhất từ trước tới
nay. Tháng 12/2003, sự lây nhiễm lên người tiếp xúc với loài lông vũ đã được xác định.
Kể từ đó, hơn 100 ca người nhiễm đã được xác nhận trong phòng thí nghiệm tại 4 nước
châu Á khác nhau (Campuchia, Indonesia, Thái Lan, và Việt Nam), và hơn phân nữa
những người này đã tử vong. Hầu hết các ca đều là những trẻ em và thanh niên trẻ trước
đấy khoẻ mạnh. May mắn là virus không nhảy từ chim gà sang người dễ dàng, hoặc lan
từ người sang người một cách ổn định. Nếu mà H5N1 tiến hoá thành một dạng virus lây
nhanh như cúm thông thường thì một đại dịch có thể xảy ra.
Trang | 40
4. Tất cả các quốc gia đều bị ảnh hưởng
Khi mà một virus cúm có đầy đủ khả năng lây nhiễm xuất hiện, chắc chắn nó sẽ lan đi
khắp thế giới. Các quốc gia có thể, bằng nhiều cách như đóng cửa biên giới và hạn chế
giao thông, làm giảm sự virus lan đến nước mình, nhưng không ai có thể cản được nó
đến. Các đại dịch của thế kỷ 20 hoành hành trên thế giới trong khoảng 6-9 tháng, kể cả
khi hầu hết sự giao thông quốc tế trước đây là bằng tàu thuyền. Vì vận tốc và số lượng
giao thông bằng đường hàng không hiện nay, virus có thể càng lan đi nhanh hơn, có thể
là sẽ vươn đi khắp tất cả các châu lục trong thời gian ngắn hơn 3 tháng.
5. Người bệnh khắp nơi
Bởi vì hầu hết người trên trái đất đều không miễn nhiễm được với virus cúm đại dịch,
mức độ nhiễm và bệnh được cho là sẽ cao hơn là so với các dịch cúm thông thường
theo mùa. Các phỏng đoán cho một đại dịch cúm sắp tới nói là một phần kha khá số
người trên thế giới sẽ cần được chăm sóc y tế ở các cấp độ khác nhau. Ít có nước nào có
đủ nhân lực, phương tiện, thiết bị và giường bệnh đủ để có thể đương đầu với số lượng
lớn bệnh nhân đột ngột bị cúm.
6. Không đủ nguồn cung cấp y tế
Các nguồn cung cấp vắc xin và thuốc chống virus - 2 phương pháp quan trọng nhất để
giảm số lượng bệnh và tử vong trong một đại dịch cúm - sẽ trở nên thiếu thốn đối với
tất cả các quốc gia ngay từ khi xảy ra đại dịch cúm và kéo dài đến nhiều tháng sau đấy.
Thiếu nguồn cung cấp vắc xin là nghiêm trọng nhất, vì vắc xin là phòng tuyến đầu tiên
để bảo vệ con người. Theo như hiện nay, nhiều nước đang phát triển sẽ không có vắc
xin trong suốt quá trình của một đại dịch cúm.
7. Số tử vong sẽ cao
Trong lịch sử, số ca tử vong trong một đại dịch cúm là rất khác nhau.Tỉ lệ tử vong phần
lớn được quyết định bởi 4 yếu tố: số người bị nhiễm virus, độc tính của virus, các tính
chất và mức độ nhiễm bệnh của những người bị ảnh hưởng, và hiệu quả của các biện
pháp phòng ngừa. Các ước tính về số người tử vong sẽ không bao giờ chính xác trước
khi virus đại dịch bắt đầu xuất hiện và lây lan. Tất cả các số liệu phỏng đoán số tử vong
đều hoàn toàn mang tính đoán mò.
Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) đã áp dụng một phỏng đoán khá bảo thủ - từ 2 triệu
đến 7,4 triệu tử vong - bởi vì tổ chức này cung cấp một đích nhắm để lên kế hoạch có
lợi và hợp lý. Phỏng đoán này dựa trên một đại dịch cúm khá nhẹ vào năm 1957. Các
phỏng đoán dựa trên một con virus độc hơn, gần hơn với con gây hại năm 1918, đã
được thực hiện và số tử vong cao hơn nhiều. Tuy nhiên, đại dịch năm 1918 được xem là
quá kinh khủng.
8. Thiệt hại kinh tế và xã hội sẽ rất lớn
Mức độ bị bệnh lớn và số người nghĩ việc ở nhà cao là điều được trông đợi, và việc này
sẽ làm cho xã hội và kinh tế bị phá vỡ. Các đại dịch cúm trong quá khứ đã lan ra toàn
đầu trong 2 và thỉnh thoảng là 3 đợt. Không phải tất cả các nơi trên thế giới, hoặc là trên
toàn bộ một quốc gia duy nhất, được trông đợi sẽ bị ảnh hưởng ngay cùng một lúc. Sự
Trang | 41
phá vỡ xã hội và kinh tế có thể là tạm thời, nhưng nó sẽ được tăng lên cao trong điều
kiện tương tác cao và phụ thuộc lẫn nhau về giao thương và kinh doanh của các quốc
gia. Sự phá vỡ xã hội có thể là cao nhất khi số người nghĩ việc ở nhà quá cao làm dừng
hoạt động các dịch vụ cần thiết, như điện, giao thông, và thông tin liên lạc.
9. Tất cả các quốc gia phải chuẩn bị
WHO đã xuất bản một danh sách các hành động chiến lược được khuyến cáo để phản
ứng lại mối nguy của một đại dịch cúm. Các hành động này được thiết kế để cung cấp
nhiều tầng lớp để tự vệ tuỳ thuộc vào mức độ phức tạp của tình hình diễn ra. Các hành
động được khuyến cáo đều khác nhau cho các giai đoạn báo động đại dịch, sự xuất hiện
của một virus đại dịch, lúc tuyên bố đại dịch cúm, và sự lan truyền trên khắp địa cầu
của virus.
10. WHO sẽ cảnh báo thế giới khi mối nguy đại dịch tăng
WHO làm việc chặt với các bộ y tế và nhiều tổ chức y tế công cộng để giúp sự giám sát
các chủng virus cúm đang lưu truyền của các quốc gia. Một hệ thống giám sát bệnh
hiệu quả có thể tìm ra các dòng virus mới xuất hiện sẽ là rất cần thiết cho sự phát hiện
nhanh một virus có khả năng gây đại dịch.
6 giai đoạn khác nhau đã được xác định để giúp cho quá trình lên kế hoạch chuẩn bị,
với các vai trò được xác định cho các chính phủ, ngành công nghiệp, và WHO.
Hồ Xuân Thiện, dịch từ WHO [1].
[1] http://www.who.int/csr/disease/influenza/pandemic10things/en/index.html
Hiện nay cúm H1N1/09 đã và đang gây đại dịch cúm toàn cầu. Một số thông tin trong
bài viết này của WHO đã lỗi thời, nhưng các giải thích vẫn còn nguyên giá trị.
Đã được cập nhật lúc Thứ Năm, 30/07/2009 15:13