Upload
truongnga
View
235
Download
8
Embed Size (px)
Citation preview
1
SƠ VĂN HOA, THÊ THAO VA DU LICH
THƯ VIÊN TINH QUẢNG NAM
Thư mục chuyên đề:
ĐẢNG CỘNG SẢN VIÊT NAM
NHỮNG MỐC SON LỊCH SỬ
(Chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng)
Quảng Nam, tháng 01 năm 2016
2
LỜI NÓI ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một mốc son chói lọi đánh dấu bước ngoặt
lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là kết quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác
- Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta trong những năm
20 của thế kỷ XX.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam dưới sự chủ trì của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, từ ngày 3-7/2/1930 tại Cửu Long (Trung Quốc) mang tầm vóc lịch sử của
Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Kể từ đó đến nay, Đảng ta đã trải qua 11
kỳ Đại hội. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng
lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Thư viện tỉnh Quảng Nam trân trọng giới thiệu đến Quý độc giả tập thư mục:
“Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam - Những mốc son lịch sử”. Thư mục được tập
hợp, chọn lọc một số bài viết trên các báo, tạp chí về sự kiện lịch sử trọng đại này.
Xin trân trọng giới thiệu và mong nhận được sự góp ý của bạn đọc.
THƯ VIÊN TINH QUẢNG NAM
3
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VẺ VANG CỦA ĐẢNG
HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIÊT NAM
Xô Viết - Nghệ Tĩnh, cao trào cách mạng do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo năm 1930-1931
LTS - Chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, từ số báo hôm
nay, Báo Nhân Dân xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc "Những chặng đường
vẻ vang của Đảng". Đó là những mốc son chói lọi trong lịch sử cách mạng của dân
tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng ta.
Bằng trí tuệ sáng suốt, sau bao năm bôn ba khắp năm châu, bốn biển, vừa lao
động, học tập, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và thực tiễn các cuộc cách mạng điển
hình trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã tìm được con đường tất yếu: Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên (Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội), một tổ chức "quá độ" đặt cơ sở
cho một Đảng Cộng sản về sau. Người ra báo Thanh niên, huấn luyện, đào tạo cán bộ,
tổ chức tuyên truyền lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng cách mạng vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam.
Bốn năm sau, tháng 3-1929, chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành lập
tại nhà số 5D phố Hàm Long, Hà Nội. Chi bộ chủ trương phải tích cực vận động thành
lập một Đảng Cộng sản thay tổ chức Việt Nam cách mạng thanh niên để lãnh đạo cách
mạng Việt Nam.
4
Ngày 17-6-1929, tại nhà số 312 phố Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ chức
cơ sở đảng ở miền bắc, họp quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng.
Ngày 25-7-1929, trong một bức thư của các đồng chí tiên tiến trong bộ phận Việt
Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội hoạt động ở Trung Quốc gửi cho Đông
Dương Cộng sản Đảng báo tin, các đồng chí đó định tổ chức một Đảng Cộng sản bí mật
còn "Thanh niên" thì cứ giữ nguyên để chỉnh đốn lại. Các chi bộ cộng sản lần lượt được
thành lập ở Nam Kỳ, ở Trung Kỳ và ở Xiêm. Các đảng viên hoạt động ở Trung Quốc
được tập hợp trong một chi bộ mang tên An Nam Cộng sản Đảng. Chi bộ này được sự
giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc và đã liên lạc với Quốc tế Cộng sản. An Nam
Cộng sản Đảng ra đời vào tháng 8-1929.
Tháng 9-1929, bản Tuyên đạt của Đông Dương Cộng sản liên đoàn tuyên bố:
“chánh thức lập ra Đông Dương Cộng sản liên đoàn”, lấy chủ nghĩa Cộng sản làm nền
móng, lấy công, nông, binh liên hiệp làm đối tượng vận động cách mệnh.
Trong vòng không đầy bốn tháng (từ giữa tháng 6 đến tháng 9-1929) đã có ba tổ
chức đảng ở Việt Nam lần lượt ra đời. Sự ra đời nhanh chóng các tổ chức cộng sản lúc
bấy giờ là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn tại ba đảng độc lập
có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam là phải có
một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước. Quốc tế Cộng sản đã gửi thư cho những
người cộng sản Đông Dương, nhấn mạnh: Nhiệm vụ tuyệt đối cần kíp của tất cả những
người cộng sản Đông Dương là sáng lập một đảng cách mạng của giai cấp vô sản...
Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi
vấn đề liên quan phong trào cách mạng ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập
hội nghị đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng để bàn
việc thống nhất thành một đảng.
Từ ngày 6-1 đến đầu tháng 2-1930, Hội nghị họp tại Cửu Long gần Hương Cảng
(Trung Quốc) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí hợp nhất Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng để lập ra một đảng duy nhất lấy tên
Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và các Điều lệ vắn tắt của Công hội, Nông hội,
Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội phản đế đồng minh và Hội cứu tế do Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo.
Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã hợp nhất thành
Đảng Cộng sản Việt Nam. Song Đông Dương Cộng sản liên đoàn vẫn còn là một đảng
riêng lẻ. Việc hợp nhất Đông Dương Cộng sản liên đoàn vào Đảng Cộng sản Việt Nam
cũng là một yêu cầu khách quan. Trong bản Tuyên đạt thành lập đảng của mình, Đông
Dương Cộng sản liên đoàn cũng chủ trương phải hợp nhất với Đông Dương Cộng sản
Đảng và An Nam Cộng sản Đảng "thành một tổ chức cộng sản ở xứ Đông Dương để
cho sức mạnh cộng sản vững chắc và duy nhất mới có thể thực hiện cách mạng cộng
sản". Vì thế, sau Hội nghị hợp nhất, Đông Dương Cộng sản liên đoàn đã yêu cầu gia
5
nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 24-2-1930, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu
cùng hai ủy viên của Ban Chấp hành Trung ương lâm thời là Hạ Bá Cang (tức Hoàng
Quốc Việt) và Phạm Hữu Lầu cùng Ngô Gia Tự, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đã họp quyết định chấp nhận Đông Dương Cộng sản liên đoàn gia nhập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đây, cả ba tổ chức cộng sản Việt Nam đã thống nhất trọn
vẹn vào một Đảng cộng sản duy nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng ra đời là một mốc son chói lọi đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách
mạng Việt Nam, là kết quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta trong những năm 20 của thế kỷ 20.
Xã luận. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam //Nhân dân.- 2016.- Ngày 09
tháng 01.- Tr.1,3.
6
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VẺ VANG CỦA ĐẢNG
ĐẠI HỘI LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẢNG
KHÔI PHỤC TỔ CHỨC, THỐNG NHẤT CÁC PHONG TRÀO ĐẤU TRANH
CÁCH MẠNG DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Mít-tinh quần chúng ngày 1-5-1938 tại Khu Đấu xảo Hà Nội (nay là Cung Văn hóa Lao động Hữu Nghị
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo nhân dân ta đứng lên đấu tranh,
trừng trị bọn đế quốc và tay sai, thoát khỏi thân phận làm nô lệ. Trong suốt 15
năm, từ năm 1930 đến 1945 đã diễn ra ba cao trào cách mạng, mà khởi đầu là cao
trào 1930-1931, đỉnh cao là Xô-viết Nghệ Tĩnh.
Dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, quần chúng công nông đã vùng lên phá bỏ
gông cùm nô lệ, lập nên chính quyền cách mạng ở một số nơi theo hình thức Xô-viết.
Đồng thời, thực hiện các chính sách tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Tuy bị thực dân Pháp đàn áp khốc liệt, nhưng cao trào cách mạng 1930-1931 đã
khẳng định trên thực tế đường lối cách mạng Việt Nam do Đảng ta đề ra là đúng đắn.
Từ cao trào này đã để lại những bài học quý giá về xây dựng liên minh công nông, về
xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất, về phát động phong trào quần chúng, đấu tranh
giành và bảo vệ chính quyền.
Trong lúc cao trào cách mạng đang diễn ra sôi sục, rộng khắp, từ ngày 14 đến
31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương
Cảng (Trung Quốc) do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã quyết định đổi tên Đảng
Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua Luận cương Chính
trị, nghị quyết “về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng”, các
nghị quyết về công nhân vận động, về nông dân vận động, về cộng sản thanh niên vận
động, về phụ nữ vận động, về quân đội vận động, về vấn đề cứu tế, về Điều lệ của Đảng
7
Cộng sản Đông Dương và điều lệ của các tổ chức quần chúng. Hội nghị đã bầu Ban
Chấp hành T.Ư chính thức của Đảng, bầu đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư.
Luận cương Chính trị khẳng định những vấn đề căn bản về chiến lược cách
mạng Việt Nam. Bản Luận cương đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới, tình hình
trong nước; nhận định chủ nghĩa tư bản đã chấm dứt thời kỳ tạm ổn định và chuyển
sang thời kỳ tổng khủng hoảng. Cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa đã phát triển
tới trình độ cao. Lúc này phong trào cách mạng thế giới ảnh hưởng rất mạnh đến phong
trào cách mạng ở Đông Dương. Do đó, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Đông
Dương phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới.
Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố, đàn áp cao trào cách mạng những năm
1930-1931. Trong bối cảnh đó, Đảng ta và phong trào cách mạng chẳng những không
bị tiêu diệt mà các cơ sở đảng, cơ sở quần chúng vẫn tồn tại và phát triển. Đồng chí Lê
Hồng Phong, Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản, cùng các đồng chí lãnh đạo
trong nước tổ chức khôi phục phong trào, khôi phục các tổ chức đảng, để chuẩn bị tiến
hành Đại hội Đảng.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp từ ngày 27 đến 31-3-1935, tại Ma
Cao (Trung Quốc). Tham dự Đại hội, có 13 đại biểu thay mặt gần 6.000 đảng viên đang
hoạt động ở trong nước và ngoài nước. Căn cứ tình hình cụ thể và dự báo tình hình
trong nước, thế giới, Đại hội đề ra ba nhiệm vụ chủ yếu: Củng cố và phát triển Đảng,
tranh thủ quần chúng rộng rãi; đẩy mạnh chống chiến tranh đế quốc; thông qua Nghị
quyết chính trị và Điều lệ Đảng, các Nghị quyết về vận động công nhân, nông dân,
thanh niên, phụ nữ...
Đại hội bầu Ban Chấp hành T.Ư gồm 13 đồng chí, do đồng chí Lê Hồng Phong làm
Tổng Bí thư. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế
Cộng sản. Tháng 7-1936, đồng chí Hà Huy Tập được cử làm Tổng Bí thư. Gần hai năm
sau, tháng 3-1938, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được cử làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội lần thứ nhất của Đảng là dấu mốc lịch sử quan trọng, được tổ chức sau 5
năm tổ chức Hội nghị hợp nhất các Đảng, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội
đánh dấu sự khôi phục các tổ chức đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước
ra ngoài nước. Đồng thời, thống nhất các phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân, dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng.
Đại hội lần thứ nhất của Đảng: Khôi phục tổ chức, thống nhất các phong trào đấu
tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng //Nhân dân.- 2016.- Ngày 10 tháng
01.- Tr.1,2.
8
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VẺ VANG CỦA ĐẢNG
ĐẠI HỘI LẦN THỨ II CỦA ĐẢNG
ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CUỘC KHÁNG CHIẾN
ĐẾN THẮNG LỢI HOÀN TOÀN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn tại Đại hội lần thứ II của Đảng ở căn cứ địa Tuyên Quang
Ảnh tư liệu
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được tiến hành trong điều kiện
Liên Xô lớn mạnh vượt bậc về mọi mặt, các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu bước
vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Mỹ tăng cường giúp
đỡ Pháp và can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Ở trong nước,
nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi trong cuộc kháng chiến. Sau Chiến
dịch Biên giới 1950, thế và lực của cuộc chiến tranh nhân dân phát triển vượt bậc.
Điều kiện lịch sử đã đặt ra cho Đảng ta các yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh
đường lối cách mạng Việt Nam, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi, Trung ương Đảng
quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, họp từ ngày 11 đến
19-2-1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Về dự Đại hội có
158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 760 nghìn đảng viên.
Đây là Đại hội Đảng được tổ chức lần đầu tiên trong nước trong điều kiện mới: Sự hình
thành và lớn mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là sự ra đời của nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa (năm 1949) đã làm thay đổi căn bản tương quan lực lượng trên
trường quốc tế có lợi cho hòa bình và cách mạng. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba
nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Lợi dụng tình thế khó
khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ can thiệp trực tiếp vào Đông Dương, vừa giúp đỡ
Pháp, vừa tìm cơ hội để hất cẳng Pháp. Thực tiễn của cuộc kháng chiến đang đòi hỏi
Đảng phải ra công khai để lãnh đạo kháng chiến.
Theo sáng kiến của những người cộng sản Việt Nam được những người cộng sản
Lào và Cam-pu-chia nhất trí tán thành, Đại hội quyết định: do nhu cầu kháng chiến, giai
9
cấp công nhân và nhân dân mỗi nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia cần có một đảng
riêng. Ơ Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo Chính trị và Báo cáo Bàn về cách
mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Trường Chinh trình bày; Báo
cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng do đồng chí Lê Văn Lương trình bày, cùng những báo
cáo quan trọng khác.
Báo cáo Chính trị tổng kết phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Việt
Nam trong nửa đầu thế kỷ 20, dự báo triển vọng của nửa thế kỷ sau; rút ra những bài
học kinh nghiệm trong 21 năm hoạt động của Đảng. Báo cáo vạch rõ nhiệm vụ chủ yếu
trước mắt là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập, thống
nhất hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Để hoàn thành nhiệm vụ đó, Đảng phải đề ra
những chính sách và biện pháp tích cực: Tăng cường lực lượng vũ trang, củng cố các
đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh thi đua ái quốc, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc,
tăng cường đoàn kết quốc tế; đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng Lao động Việt Nam
thành “một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để” để lãnh
đạo đưa kháng chiến đến thắng lợi.
Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam do đồng chí Trường Chinh trình bày, nêu
rõ đường lối cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Nội dung cơ bản của báo cáo được phản ánh trong Chính cương của Đảng Lao
động Việt Nam được Đại hội thông qua. Báo cáo vạch ra 12 chính sách của Đảng trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Báo cáo đã bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển lý
luận của Đảng ta về cách mạng dân tộc dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến
hành trong điều kiện một nước thuộc địa, nửa phong kiến, của một dân tộc có truyền
thống đấu tranh kiên cường, bất khuất, hàng nghìn năm chống xâm lược.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 Ủy viên chính thức và 10 Ủy
viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Đồng
chí Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành T.Ư Đảng, đồng chí Trường
Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II đánh dấu sự trưởng thành của Đảng ta về
mọi mặt, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi
hoàn toàn.
Đại hội lần thứ II của Đảng: Đảng lãnh đạo đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng
lợi hoàn toàn //Nhân dân.- 2016.- Ngày 11 tháng 01.- Tr.1,3.
10
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VẺ VANG CỦA ĐẢNG
ĐẠI HỘI LẦN THỨ III CỦA ĐẢNG
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC, ĐẤU TRANH
THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
ở Thủ đô Hà Nội. Ảnh tư liệu
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp từ ngày 5 đến 10-9-1960 tại
Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết,
thay mặt hơn 500 nghìn đảng viên. Trong lời khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khái quát lịch sử 30 năm đấu tranh của Đảng, đề ra nhiệm vụ mới của
cách mạng Việt Nam và nêu rõ: “Đại hội lần này là đại hội xây dựng CNXH ở
miền bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.
Đại hội xác định nhiệm vụ chung của cả nước là tăng cường đoàn kết toàn dân,
kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ cách mạng
XHCN ở miền bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách
mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta.
Đại hội nêu rõ “Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc phải là một
quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt nhằm đưa miền bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa
trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế phân tán và lạc hậu, xây dựng thành một nền kinh tế
cân đối và hiện đại, làm cho miền bắc tiến bộ mau chóng, thành cơ sở ngày càng vững
chắc cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà”.
11
Đại hội xác định đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền
bắc là đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống chiến đấu
anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã
hội chủ nghĩa, đưa miền bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; Xây
dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở miền bắc và củng cố miền bắc thành cơ sở vững mạnh cho
cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam Á và trên thế giới. Muốn đạt mục tiêu ấy, phải sử dụng
chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện
cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công - nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và
công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện
công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật, biến nước ta
thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa,
khoa học tiên tiến.
Đại hội xác định cách mạng miền nam có vị trí rất quan trọng, quyết định trực
tiếp sự nghiệp giải phóng miền nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai,
thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân chủ nhân
dân trong cả nước. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền nam là giải phóng miền nam
khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có
ruộng. Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền nam là đoàn kết toàn dân, kiên
quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị
Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc
dân chủ ở miền nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ và cải thiện
đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập
và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam Á và trên thế giới.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương (BCH T.Ư) gồm 78 đồng chí, trong đó 47
Ủy viên chính thức và 31 Ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu tiếp tục làm
Chủ tịch Đảng; đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất BCH T.Ư Đảng.
Đại hội lần thứ III của Đảng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc, đấu tranh
thống nhất nước nhà//Nhân dân.- 2016.- Ngày 12 tháng 01.- Tr.1,3.
12
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VẺ VANG CỦA ĐẢNG
ĐẠI HỘI LẦN THỨ IV CỦA ĐẢNG
HOÀN THÀNH SỰ NGHIÊP GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT
TỔ QUỐC, ĐƯA CẢ NƯỚC ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng. Ảnh tư liệu
Ðại hội lần thứ IV của Ðảng họp từ ngày 14 đến 20-12-1976 tại Thủ đô Hà Nội, với
sự tham dự của 1.008 đảng viên thay mặt hơn 1,55 triệu đảng viên trong cả nước.
Dự Ðại hội có 29 đoàn đại biểu quốc tế.
Đại hội lần thứ IV của Đảng là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, là Đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Ðại hội nghe Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành T.Ư Ðảng; Báo cáo về
phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1976 - 1980); Báo
cáo tổng kết về công tác xây dựng Ðảng và sửa đổi Ðiều lệ Ðảng. Phân tích tình hình
mọi mặt của đất nước, Đại hội đã nêu khái quát những đặc điểm lớn của thời kỳ mới.
Khẳng định con đường cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Ðại hội IV của Ðảng xác
định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là: “Nắm vững
chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành
đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ
thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then
chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và
13
lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an
ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc
lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
Đại hội đã vạch ra đường lối, chủ trương xuyên suốt giai đoạn này là thực hiện
chính sách hòa hợp dân tộc, cải tạo xã hội chủ nghĩa, hàn gắn vết thương chiến tranh,
từng bước khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội; đẩy mạnh công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Về công tác xây dựng Ðảng, Đại hội đã tổng kết những kinh nghiệm đã tích lũy được
trong mấy chục năm qua; xác định nhiệm vụ, phương châm và biện pháp công tác Đảng
trong giai đoạn mới, bảo đảm cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ mới.
Ðại hội quyết định lấy lại tên ban đầu của Ðảng là Ðảng Cộng sản Việt Nam;
bầu Ban Chấp hành T.Ư gồm 101 Ủy viên chính thức, 32 Ủy viên dự khuyết. Ban Chấp
hành T.Ư đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 Ủy viên chính thức và ba Ủy viên dự khuyết.
Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư của Ðảng.
Đại hội lần thứ IV của Đảng: Hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền nam, thống
nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội //Nhân dân.- 2016.- Ngày 13
tháng 01.- Tr.1,4.
14
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VẺ VANG CỦA ĐẢNG
ÐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA ĐẢNG
TẤT CẢ VÌ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, VÌ HẠNH PHÚC CỦA NHÂN DÂN
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng. Ảnh tư liệu
Ðại hội lần thứ V của Ðảng họp từ ngày 27 đến 31-3-1982 tại Thủ đô Hà Nội. Dự
Ðại hội có 1.033 đại biểu đại diện cho hơn 1,72 triệu đảng viên trong cả nước. Đại
hội đánh giá toàn diện những thắng lợi mà Đảng và nhân dân ta giành được trong
công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc từ sau năm 1975. Đại hội khẳng định: toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến
tranh xâm lược và thiên tai gây ra, khôi phục và phát triển sản xuất, phân bố lại
lao động xã hội, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Ở miền nam, công
cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đạt được những kết quả bước đầu.
Chỉ ra nguyên nhân khách quan của khó khăn, yếu kém, nhất là mất cân đối
nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân, Ðại hội đã thẳng thắn nêu lên nguyên nhân chủ
quan, đó là những sai lầm về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đại hội lần
thứ V của Đảng đã đề ra những nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế - xã hội trong 5 năm (1981
-1985) và những năm 80. Trong đó mục tiêu kinh tế - xã hội những năm 80 là: Đáp ứng
những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến tới cải thiện một bước
đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
15
của chủ nghĩa xã hội; thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu,
trang bị thêm thiết bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế chuẩn bị cho bước phát triển mạnh
mẽ của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo; hoàn thành công cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa ở miền nam, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền bắc;
đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an
ninh trật tự.
Đại hội đề ra chủ trương phát triển và sắp xếp lại sản xuất, tiếp tục thực hiện việc
phân công và phân bố lại lao động xã hội. Bố trí lại xây dựng cơ bản cho phù hợp với
khả năng và theo hướng tạo thêm điều kiện để phát huy các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
có nhằm vào các mục tiêu cấp bách nhất về kinh tế và xã hội. Cải tiến công tác phân
phối lưu thông, thiết lập một bước trật tự mới trên mặt trận này. Đẩy mạnh cải tạo xã
hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước về các mặt chế
độ sở hữu, quản lý, phân phối. Thực hành tiết kiệm nghiêm ngặt, đặc biệt coi trọng tiết
kiệm trong xây dựng cơ bản và sản xuất. Làm tốt việc ứng dụng nhanh chóng và rộng
rãi thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Đổi mới một bước
hệ thống quản lý kinh tế. Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, y tế phù hợp yêu cầu và khả
năng kinh tế. Thực hiện cải cách giáo dục một cách tích cực và vững chắc. Xác định
quy hoạch hợp lý và tiếp tục đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và công
nhân lành nghề. Tăng cường quản lý xã hội, kiên quyết đấu tranh chống các hành vi
phạm pháp, tệ nạn xã hội và các biểu hiện tiêu cực khác, đề cao kỷ cương trong quản lý
nhà nước, quản lý kinh tế, giữ vững trật tự và an toàn xã hội. Bảo đảm các nhu cầu về
kinh tế của công cuộc củng cố quốc phòng và an ninh, bảo vệ đất nước, đồng thời huy
động năng lực công nghiệp quốc phòng và sử dụng hợp lý lực lượng quân đội vào
những hoạt động kinh tế thích hợp… Về nhiệm vụ xây dựng Đảng, Đại hội nhấn mạnh:
tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối của
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc; làm cho Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và
khoa học, một đảng thật sự trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần
chúng nhân dân.
Đại hội lần thứ V của Đảng: Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của
nhân dân //Nhân dân.- 2016.- Ngày 14 tháng 01.- Tr.1,3.
16
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VẺ VANG CỦA ĐẢNG
ĐẠI HỘI LẦN THỨ VI CỦA ĐẢNG
KHỞI XƯỚNG VÀ LÃNH ĐẠO SỰ NGHIÊP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Ảnh tư liệu
Đại hội lần thứ VI của Đảng diễn ra từ ngày 15 đến 18-12-1986 tại Thủ đô Hà Nội. Dự
Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng.
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại
hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng
và khoa học. Khẳng định những thành tựu đạt được nhiệm kỳ vừa qua, Đại hội cũng
nhận rõ, tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm;
hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân
đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm
được củng cố; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn… Nhìn chung, chúng ta
chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội V của Đảng đề ra là về cơ bản ổn
định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Đại hội nghiêm túc kiểm điểm, phân tích sâu sắc những sai lầm và khuyết điểm,
chỉ rõ nguyên nhân, đề ra biện pháp khắc phục; Đại hội nhấn mạnh: trong những năm
trước đó, việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế - xã hội của đất
nước đã có nhiều thiếu sót. Do vậy, đã dẫn đến nhiều sai lầm “trong việc xác định mục
tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa (XHCN)
và quản lý kinh tế”. Đại hội thẳng thắn chỉ ra: “Những sai lầm nói trên là những sai lầm
nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và
tổ chức thực hiện”, nhất là bệnh chủ quan duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận.
17
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm,
khuyết điểm, đổi mới tư duy lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn,
Đại hội đề ra đường lối đổi mới. (1) Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công -
nông nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công
nghiệp; công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế huyện). (2) Thực hiện ba
chương trình kinh tế bao gồm: chương trình lương thực, thực phẩm; chương trình hàng
tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu. (3) Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất
XHCN, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế.
Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo XHCN dựa trên ba nguyên tắc:
Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ
thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lê-nin coi nền kinh tế có cơ cấu
nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo XHCN,
phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối XHCN.
Đại hội lần thứ VI xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp
tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong
chặng đường tiếp theo. Đại hội nhấn mạnh phải tập trung sức người, sức của vào việc
thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản
xuất. Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ
cấu đầu tư. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN, sử dụng và cải tạo đúng đắn
các thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Phát huy mạnh mẽ động lực
khoa học, kỹ thuật. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Về xây dựng Đảng, Đại hội xác định: Đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất cách
mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân là nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng.
Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Đổi mới phong
cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt trong Đảng, nâng cao sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng.
Đại hội bầu BCH Trung ương gồm 124 Ủy viên chính thức và 49 Ủy viên dự
khuyết. BCH Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 Ủy viên chính thức và một Ủy
viên dự khuyết, bầu Ban Bí thư. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư
của Đảng. Các đồng chí Trường-Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách
nhiệm làm Cố vấn BCH Trung ương Đảng.
Đại hội lần thứ VI của Đảng: Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước
//Nhân dân.- 2016.- Ngày 15 tháng 01.- Tr.1,3.
18
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VẺ VANG CỦA ĐẢNG
ĐẠI HỘI LẦN VII CỦA ĐẢNG
ĐỔI MỚI TOÀN DIÊN, ĐỒNG BỘ, ĐƯA ĐẤT NƯỚC TIẾN LÊN
THEO CON ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng. Ảnh tư liệu
Đại hội lần thứ VII của Đảng diễn ra từ ngày 24 đến 27-6-1991, tại Thủ đô Hà Nội.
Dự Đại hội có 1.176 đại biểu đại diện cho hơn 2 triệu 155 nghìn đảng viên trong
toàn Đảng.
Đại hội khẳng định công cuộc đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu
bước đầu rất quan trọng, song vẫn còn nhiều yếu kém và khó khăn, đất nước vẫn chưa
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng chưa
được giải quyết. Tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, nhất là sự khủng
hoảng trầm trọng ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu...
Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; Báo cáo
xây dựng Đảng và sửa đổi, bổ sung một số điểm trong Điều lệ Đảng. Cương lĩnh xác
định quá độ lên CNXH ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường;
Trong quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, cần nắm vững bảy phương hướng
cơ bản sau: Một là, xây dựng Nhà nước XHCN, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đủ quyền dân chủ của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn
liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng
bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao năng suất
19
lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Ba là, phát triển lực lượng sản xuất phù
hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao, với sự đa dạng về hình thức
sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Bốn là, trong lĩnh vực tư
tưởng và văn hóa, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng trong
đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của
tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại. Năm là, thực
hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất,
tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh. Thực hiện chính
sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước. Sáu là, xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang
tầm nhiệm vụ. Cương lĩnh nêu rõ: “Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau”. Đây là lần đầu tiên Đại hội thông
qua Cương lĩnh, vạch ra quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH của nước ta.
Đại hội đã quyết định phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1991 -
1995. Mục tiêu tổng quát là: vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế
- xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta
cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay. Các mục tiêu cụ thể gồm: Tiếp tục
kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu có tích lũy từ nội
bộ nền kinh tế; Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm mạnh nhịp độ tăng
dân số; Ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo
đảm tiền lương tối thiểu đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của người lao động, ngăn chặn
thu nhập phi pháp và bất công. Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới nội
dung và phương pháp hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, đổi
mới tổ chức và cán bộ. Bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ
thành quả cách mạng.
Đại hội bầu BCH Trung ương gồm 146 Ủy viên. BCH Trung ương bầu Bộ
Chính trị gồm 13 Ủy viên, Ban Bí thư gồm chín Ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu
làm Tổng Bí thư của Đảng. Các đồng chí: Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí
Công được giao trách nhiệm làm Cố vấn BCH Trung ương Đảng.
* Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng tiến hành từ
ngày 20 đến 25-1-1994 tại Hà Nội. Dự Hội nghị có 647 đại biểu. Hội nghị đã kiểm
điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng và tổng kết một bước thực tiễn
đổi mới từ Đại hội VI, nhằm làm sáng tỏ thêm một số vấn đề trong quá trình đi lên
CNXH ở nước ta, xác định những chủ trương và giải pháp lớn để thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội VII, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiếp tục đi lên, đẩy tới một
bước hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước. Hội nghị xác định bốn nguy cơ trước mắt
là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng XHCN; nạn tham nhũng và
20
các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng thể hiện sự đồng tâm nhất trí, nỗ lực vượt bậc, ra sức
khai thác thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Đại hội lần thứ VII của Đảng: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước tiến lên
theo con đường xã hội chủ nghĩa //Nhân dân.- 2016.- Ngày 16 tháng 01.- Tr.1,3.
21
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VẺ VANG CỦA ĐẢNG
ĐẠI HỘI LẦN THỨ VII CỦA ĐẢNG
TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIÊP HÓA,
HIÊN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Đại hội lần thứ VIII của Đảng diễn ra từ ngày 28-6 đến 1-7-1996, tại Thủ đô Hà
Nội. Dự Đại hội có 1.198 đảng viên đại diện cho gần 2 triệu 130 nghìn đảng viên
trong toàn Đảng.
Đại hội kiểm điểm, đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII;
tổng kết 10 năm đổi mới, đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới, mà
nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước.
Đại hội khẳng định: Sau mười năm thực hiện đường lối đổi mới và 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII, đất nước đã vượt qua giai đoạn thử thách gay go.
Công cuộc đổi mới thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm
vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991 - 1995 được hoàn thành về cơ bản. Nước ta đã
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ
đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị những tiền đề cho CNH đã
cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.
Sau mười năm đổi mới, chúng ta có được nhiều bài học quý giá.
Về mục tiêu phấn đấu đến năm 2000 và 2020, Đại hội xác định: Tiếp tục nắm
vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh CNH,
HĐH và xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
22
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ đó đến năm 2020, ra sức phấn
đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nhiệm vụ của nhân dân ta là
tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, đẩy mạnh công cuộc
đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Phấn đấu tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết
những vấn đề bức xúc của xã hội; bảo đảm an ninh, quốc phòng; cải thiện đời sống
nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát
triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau.
Đại hội đề ra hướng phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
HĐH trong những năm còn lại của thập kỷ 90. Trong đó, đặc biệt coi trọng CNH, HĐH
nông nghiệp và nông thôn; nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm
kết cấu hạ tầng kinh tế; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu
và hết sức cấp thiết; mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đẩy mạnh các hoạt động
kinh tế đối ngoại; hình thành dần một số ngành mũi nhọn như khai thác và chế biến dầu
- khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin; phát
triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.
Đại hội khẳng định, xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới là một vấn
đề có ý nghĩa quyết định thành công của cách mạng trên con đường đổi mới. Đảng phải
tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo,
khắc phục các khuyết điểm, các biểu hiện tiêu cực và yếu kém. Giữ vững và tăng cường
bản chất giai cấp công nhân của Đảng; nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực
cán bộ, đảng viên. Củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân
chủ. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, chú trọng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, chuẩn
bị tốt đội ngũ cán bộ kế cận. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành (BCH) Trung ương khóa VIII gồm 170 Ủy viên.
BCH Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 19 Ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu tiếp
tục làm Tổng Bí thư của Đảng. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ
Chí Công được giao nhiệm vụ làm Cố vấn BCH Trung ương Đảng.
* Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa VIII (họp từ ngày 22 đến 29-12-1997),
BCH Trung ương Đảng chấp nhận đề nghị của đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười về việc
chuyển giao chức vụ Tổng Bí thư; bầu đồng chí Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư của
Đảng. Các đồng chí Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt được giao nhiệm vụ làm Cố
vấn BCH Trung ương Đảng.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng: Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước //Nhân dân.- 2016.- Ngày 17 tháng 01.- Tr.1,4.
23
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VẺ VANG CỦA ĐẢNG
ĐẠI HỘI LẦN THỨ IX CỦA ĐẢNG
PHÁT HUY SỨC MẠNH TOÀN DÂN TỘC, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIÊP
HÓA, HIÊN ĐẠI HÓA
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 19
đến 22-4-2001, với sự tham gia của 1.168 đại biểu đại diện cho 2.47479.719 đảng
viên trong toàn Đảng.
Đại hội diễn ra vào thời điểm thế kỷ 20 vừa kết thúc, mở đầu thiên niên kỷ mới.
Xu hướng toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, lôi kéo các nước vừa đẩy mạnh hợp tác vừa
cạnh tranh và phụ thuộc lẫn nhau. Sau 15 năm đổi mới, đất nước ta đạt nhiều thành tựu
quan trọng, tạo thế và lực thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Song, bên cạnh
những thuận lợi, nước ta còn phải đối phó với nhiều thách thức, nhất là bốn nguy cơ,
như tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ
quan liêu; “diễn biến hòa bình” do các thế lực thù địch gây ra.
Với khẩu hiệu hành động “Trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới”, Đại hội lần thứ
IX của Đảng tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII; mười năm thực
hiện Chiến lược ổn định, phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và tổng kết 15 năm
tiến hành công cuộc đổi mới; tiếp tục khẳng định giá trị bốn bài học về đổi mới mà các
Đại hội những nhiệm kỳ trước đó đã đúc rút. Đại hội chỉ rõ mô hình tổng quát của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ
sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa
các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các
thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
24
Với tinh thần phát huy sức mạnh toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
Đại hội thông qua đường lối phát triển kinh tế là: “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp;
ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực
bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải
thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng-an
ninh”. Đối với một số lĩnh vực khác, Đại hội xác định đẩy mạnh phát triển giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; tăng cường quốc phòng - an ninh; đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động
của Nhà nước, phát huy dân chủ tăng cường pháp chế; “thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội khẳng định phải coi trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đó là
nhiệm vụ then chốt, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của Đảng ta, là nhân tố
bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập khu vực và
thế giới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trên cơ sở đánh giá khách quan tình
hình thế giới, trong nước, Đại hội hoạch định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2010, mục tiêu tổng quát là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực
con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc
phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng
cao”.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 150 đồng chí; Hội nghị lần thứ
nhất Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 15 đồng chí; Ban Bí thư chín
đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội lần thứ IX của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, mở đường cho đất nước nắm
bắt cơ hội tiến bước vào thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội lần thứ IX của Đảng: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa //Nhân dân.- 2016.- Ngày 18 tháng 01.- Tr.1,3.
25
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VẺ VANG CỦA ĐẢNG
ĐẠI HỘI LẦN THỨ X CỦA ĐẢNG
HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG TỐT MỌI NGUỒN LỰC, SỚM ĐƯA NƯỚC TA
RA KHỎI TÌNH TRẠNG KÉM PHÁT TRIỂN
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X. Ảnh tư liệu
Đại hội lần thứ X của Đảng họp từ ngày 18 đến 25-4-2006 tại Thủ đô Hà Nội, với
sự tham dự của 1.176 đại biểu đại diện cho hơn 3,1 triệu đảng viên trong toàn
Đảng. Đại hội kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, tổng kết 20 năm
đổi mới, xác định mục tiêu phương hướng phát triển đất nước 5 năm tới.
Trên cơ sở phân tích khoa học, Đại hội đánh giá, sau 20 năm đổi mới, đất nước
ta đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử; đồng thời nêu bật năm bài học lớn,
là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đổi mới toàn diện, đồng bộ,
có kế thừa, bước đi, hình thức, cách làm phù hợp; đổi mới phải vì lợi ích của dân, dựa
vào dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân; phát huy cao độ nội lực,
đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong điều kiện mới; đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng,...
Đại hội quyết định mục tiêu tổng quát 5 năm tới là, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường
quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
26
phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Về kinh tế, Đại hội chủ trương, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Các
mục tiêu kinh tế được kết hợp với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng
lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh
tế - xã hội. Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế
- xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh trên cơ sở phát
huy mọi tiềm năng của đất nước.
Đại hội cũng nêu rõ, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng
hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực;
giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đại hội xác định tiếp tục chăm lo xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Xây dựng cơ
chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo
khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực là nhiệm vụ then
chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa X gồm 160 Ủy viên chính thức và
21 Ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương họp phiên thứ nhất bầu 14 đồng chí
vào Bộ Chính trị và tám đồng chí vào Ban Bí thư. Đồng chí Nông Đức Mạnh tiếp tục
được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Hội nghị T.Ư 9 họp từ ngày 5 đến 14-1-2009, bầu
bổ sung một đồng chí vào Bộ Chính trị, hai đồng chí vào Ban Bí thư.
Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới đất nước// Nhân dân.- 2016.- Ngày 20 tháng 01.- Tr.1,5.
27
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VẺ VANG CỦA ĐẢNG
ĐẠI HỘI LẦN THỨ XI CỦA ĐẢNG
TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA
ĐẢNG, ĐẨY MẠNH TOÀN DIÊN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Đại hội lần thứ XI của Đảng họp từ ngày 12 đến 19-1-2011, tại Thủ đô Hà Nội, với
sự tham dự của 1.377 đại biểu, thay mặt cho hơn 3,6 triệu đảng viên trong toàn
Đảng. Đại hội đánh giá, thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội X, toàn
Đảng, toàn dân đã nỗ lực phấn đấu đạt những thành tựu quan trọng. Chúng ta
ứng phó có kết quả trước những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và trong
nước; cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Đời
sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; an ninh quốc
phòng được tăng cường,… Tuy nhiên, kinh tế phát triển chưa bền vững, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa chậm,…
Từ thực tiễn chỉ đạo, lãnh đạo, Đại hội rút ra một số bài học kinh nghiệm. Đó là
phải luôn kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng
tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; thật sự coi trọng chất
lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững; coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa
tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; đặc biệt chăm lo củng cố,
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; trong chỉ đạo, lãnh đạo phải nhạy bén, kiên
quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn,…
Mục tiêu tổng quát 5 năm tới được Đại hội xác định là, tiếp tục nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây
28
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại;
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, Đại hội thông qua các nhiệm vụ chủ yếu là, ổn
định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng từ
chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu,
nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững,
nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào
tạo, khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo. Tiếp tục xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tăng cường tiềm lực quốc phòng,
an ninh; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động
đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật
sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng,...
Đại hội thảo luận, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2011 - 2020; Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X; Điều lệ Đảng
(bổ sung, sửa đổi) và nhiều văn kiện quan trọng khác.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI gồm 175 đồng chí Ủy
viên chính thức và 25 đồng chí Ủy viên dự khuyết. Tại Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp
hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí; Ban Bí thư gồm bốn đồng chí.
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Tại Hội nghị T.Ư 7 khóa XI, họp từ ngày 2 đến 11-5-2013, hai đồng chí được
bầu bổ sung vào Bộ Chính trị; một đồng chí được bầu bổ sung vào Ban Bí thư.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban
hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận quan trọng, trong đó có Nghị quyết T.Ư 4 về
xây dựng Đảng; Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; các nghị quyết của Trung ương về giáo dục, đào
tạo; về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam,...
Đại hội Đảng lần thứ XI của Đảng: Huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển //Nhân dân.- 2016.- Ngày 19 tháng
01.- Tr.1,5.
29
CÁC TỔNG BÍ THƯ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIÊT NAM
85 năm kể từ ngày thành lập đến nay (3/21930 - 3/2/2015), Đảng ta đã trải qua 11
lần đại hội đại biểu toàn quốc với 11 đồng chí Tổng Bí thư. Mỗi kỳ đại hội Đảng là
một mốc son lịch sử ghi nhận, những thắng lợi, những thành tựu và những bài học
kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam.
85 năm kể từ ngày thành lập đến nay (3/21930 - 3/2/2015), Đảng ta đã trải qua
11 lần đại hội đại biểu toàn quốc với 11 đồng chí Tổng Bí thư. Mỗi kỳ đại hội Đảng là
một mốc son lịch sử ghi nhận, những thắng lợi, những thành tựu và những bài học kinh
nghiệm của cách mạng Việt Nam. Những thắng lợi, thành tựu và bài học kinh nghiệm
ấy đều bắt nguồn sâu xa từ việc Đảng ta vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam và được thể hiện ở đường lối chính trị do các đại hội
vạch ra trong mỗi giai đoạn cách mạng.
1. Trần Phú
Đồng chí Trần Phú sinh ngày 01-05-1904. Quê ở xã Tùng Ảnh,
huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1922, Trần Phú đỗ đầu kỳ thi tốt
nghiệp Cao đẳng tiểu học ở Huế, được bổ về dạy trường Cao Xuân Dục
ở Vinh. Thời gian này Trần Phú cùng với các giáo viên tiến bộ mở lớp
dạy quốc ngữ ban đêm cho thanh niên và công nhân nghèo.
Năm 1925, đồng chí tham gia thành lập Hội Phục Việt (sau đổi thành Hưng Nam
rồi Tân Việt cách mạng Đảng). Tháng 07 năm 1926, đồng chí Trần Phú được cử sang
Quảng Châu để gặp các đồng chí lãnh đạo Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
hội, để bàn việc hợp nhất Hội thanh niên với Tân Việt. Tại đây, đồng chí Trần Phú được
gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc và được huấn luyện về chủ nghĩa Mác - Lênin và về
kinh nghiệm cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga.
Đầu năm 1927, đồng chí được cử sang học tại trường Đại học Phương Đông,
Liên Xô. Tháng 04-1930, đồng chí Trần Phú về nước được bổ sung vào Ban chấp hành
Trung ương Đảng và được giao trách nhiệm khởi thảo bản Luận cương chính trị của
Đảng. Bản luận cương này được Hội nghị trung ương lần thứ nhất họp ở Hương Cảng
(Trung Quốc) tháng 10-1930 thông qua. Cũng tại Hội nghị này đồng chí Trần Phú được
cử làm Tổng Bí thư của Đảng cộng sản Đông Dương.
Sau Hội nghị đồng chí trở về nước tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng trong
cả nước. Tháng 03-1931, chủ trì Hội nghị trung ương lần thứ hai nhằm đấu tranh với
những tư tưởng lệch lạc trong Đảng và chủ trương tập hợp lực lượng các đoàn thể quần
chúng: công hội, nông hội, phụ nữ, thanh niên để đưa phong trào cách mạng tiến lên.
Ngày 19-04-1931, do lời khai của một tên phản bội, đồng chí Trần Phú bị địch bắt tại
Sài Gòn. Biết đây là Tổng Bí thư của Đảng, bọn địch đã dùng đủ mọi cực hình để tra tấn
nhưng chúng đã không thể nào khuất phục được người cộng sản trẻ tuổi kiên cường này.
Tháng 08-1931, đồng chí lâm bệnh nặng. Ngày 06-09-1931, đồng chí Trần Phú
qua đời. Trước khi mất, đồng chí Trần Phú dặn lại các đồng chí của mình: " Hãy giữ
vững chí khí chiến đấu". Câu nói đó của người Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng mới 27
30
tuổi đời đã trở thành một vũ khí mà mỗi người Việt Nam yêu nước mang theo để xông
vào quân thù, vượt qua những khó khăn trên con đường cách mạng.
2. Lê Hồng Phong
Đồng chí Lê Hồng Phong sinh năm 1902 (có tài liệu ghi 1900). Quê ở xã
Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Sau khi đỗ bằng sơ
học, đồng chí Lê Hồng Phong làm thư ký cho một hiệu buôn của người
Hoa kiều tại Vinh. Ít lâu sau, đồng chí Lê Hồng Phong được đồng chí
Phạm Hồng Thái, công nhân nhà máy Xi pha, giới thiệu vào học nghề
thợ máy. Hai đồng chí đã vận động, giác ngộ công nhân đấu tranh đòi quyền lợi.
Tháng 01-1924, đồng chí Lê Hồng Phong và Phạm Hồng Thái sang Thái Lan rồi
sang Quảng Châu (Trung Quốc) cùng với đồng chí Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn thành lập
Tâm Tâm xã. Cuối năm1924, đồng chí được Nguyễn Ái Quốc huấn luyện về chủ nghĩa
Mác- Lênin và các kinh nghiệm hoạt động quốc tế.. Sau khi tốt nghiệp trường Quân sự
Hoàng Phố, năm 1926 đồng chí được cử sang Liên Xô học trường không quân. Lê Hồng
Phong tham gia Hồng quân Liên Xô và được phong quân hàm trung tá. Tiếp đó, đồng chí
được vào học trường Đại học Phương Đông. Năm 1932, tốt nghiệp được trở về Trung
Quốc, bắt mối liên lạc với trong nước và thành lập Ban hải ngoại của Đảng.
Tháng 03-1935, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng diễn ra tại Ma Cao
(Trung Quốc), đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Tháng 07 -
1935, đồng chí đi dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ VII và được cử làm uỷ viên dự khuyết
Ban chấp hành Quốc tế cộng sản. Tại đây, đồng chí Lê Hồng Phong đã gặp nữ đồng chí
Nguyễn Thị Minh Khai và hai người yêu nhau rồi cưới nhau ở Trung Quốc.
Năm 1936, đồng chí Lê Hồng Phong được cử về Việt Nam hoạt động với danh
nghĩa là đại diện của Quốc tế cộng sản bên cạnh Trung ương Đảng cộng sản Đông
Dương. Trong thời kỳ mặt trận dân chủ, đồng chí đã viết một số sách giới thiệu Liên Xô
và phổ biến đường lối chủ trương của Đảng chống chủ nghĩa phát xít.
Năm 1938, đồng chí bị đế quốc Pháp bắt ở Sài Gòn và kết án 10 tháng tù. Mùa
thu năm 1939, hết hạn tù, bọn đế quốc đưa đồng chí về làng quản thúc. Đồng chí chưa
kịp liên lạc với Đảng để thoát ly thì bị bọn thực dân Pháp bắt giam lại ở Khám Lớn Sài
Gòn rồi đày ra Côn Đảo. Đồng chí bị bọn cai ngục đánh đập tra khảo rất dã man nhưng
vẫn không chịu khai báo, một lòng trung thành với Đảng.
Ngày 06-09-1942, đồng chí Lê Hồng Phong đã hy sinh tại nhà tù Côn Đảo.
Trước khi trút hơi thở cuối cùng, đồng chí đã gắng nói to lên nhắn với đồng chí nằm ở
buồng bên cạnh: " Xin chào tất cả các đồng chí. Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng tới
giờ phút cuối cùng Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của cách
mạng". Cuộc đời hoạt động của Lê Hồng Phong là biểu tượng cho lòng trung thành, ý
chí kiên cường, bất khuất của người cộng sản.
31
3. Hà Huy Tập
Đồng chí Hà Huy Tập sinh năm 1902. Quê ở làng Kim Nặc, xã
Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên. Năm 1923, tốt nghiệp Cao đẳng tiểu học
ở Huế, đồng chí Hà Huy Tập được bổ nhiệm về dạy ở thị xã Nha Trang,
rồi lại về dạy tại trường tiểu học Cao Xuân Dục ở Vinh. Tại đây, đồng
chí được giác ngộ cách mạng.
Năm 1926, đồng chí Hà Huy Tập tham gia Hội Phục Việt. Đồng chí hoạt động
tích cực trong phong trào đòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu, để tang cụ Phan Châu Trinh,
tổ chức học quốc ngữ ban đêm cho công nhân các nhà máy ở Vinh - Bến Thuỷ. Vì thế,
đồng chí Hà Huy Tập bị đổi đi dạy ở Quỳ Châu. Đồng chí chống lại quyết định nên đã
bị cách chức.
Năm 1927, đồng chí Hà Huy Tập vào hoạt động ở Nam Kỳ. Tháng 07-1928,
đồng chí được cử sang Quảng Châu (Trung Quốc) bàn việc thống nhất Đảng. Sau đó,
đồng chí được giới thiệu sang học trường Đại học Phương Đông của Quốc tế cộng sản.
Năm 1932, học xong, đồng chí tìm cách về nước. Qua Pari, Hà Huy Tập bị chính phủ
Pháp trục xuất. Đồng chí sang Bỉ rồi trở lại Liên Xô. Đầu năm 1934, Hà Huy Tập về tới
Ma Cao (Trung Quốc), đã cùng với Lê Hồng Phong lập ra ban lãnh đạo Đảng ở hải
ngoại. Hà Huy Tập là người chủ trì ban lãnh đạo này và chuẩn bị cho việc triệu tập Đại
hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng vào tháng 03-1935.
Tháng 07-1936, đồng chí Hà Huy Tập cùng với đồng chí Lê Hồng Phong triệu
tập Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng ở Thượng Hải (Trung Quốc) để bổ sung
nghị quyết của trung ương trước tình hình mới. Tại hội nghị này, đồng chí Hà Huy Tập
được bầu làm Tổng Bí thư thay đồng chí Lê Hồng Phong. Sau đó, đồng chí trở về Sài
Gòn cùng cơ quan Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả
nước. Thời gian này, đồng chí Hà Huy Tập viết sách báo giải thích chính sách mới của
Đảng, vạch mặt bọn Tơrôtxkít phản cách mạng.
Ngày 14-07-1938, do một tên phản bội chỉ điểm, đồng chí Hà Huy Tập bị địch
bắt và kết án tù. Hết hạn tù, bọn thực dân trục xuất đồng chí về nguyên quán. Ngày 30-
03-1940, đồng chí lại bị bắt, đưa vào giam ở Khám Lớn Sài Gòn. Sau cuộc khởi nghĩa
Nam Kỳ, ngày 25-08-1941, bọn chúng buộc đồng chí vào tội "chịu trách nhiệm tinh
thần về cuộc khởi nghĩa này" và tuyên bố xử tử hình. Trước toà, đồng chí Hà Huy Tập
đã trả lời: "Tôi chẳng có gì phải hối tiếc, nếu còn sống tôi vẫn tiếp tục hoạt động!"
Ngày 26-08-1941, đồng chí bị xử bắn tại Hóc Môn (Gia Định) cùng với các
đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đăng Lưu. Là
một nhà nho yêu nước theo cách mạng, đồng chí Hà Huy Tập đã thể hiện nhân cách cao
cả của một người luôn trung thành với lý tưởng cách mạng, chiến đấu hy sinh vì cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Đồng chí là một trong những nhà
hoạt động nổi tiếng góp phần không nhỏ vào thành công của cuộc cách mạng tháng
Tám năm 1945.
32
4. Nguyễn Văn Cừ
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ sinh 09-07-1912 ở làng Phù Khê, xã
Phù Khê, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tham gia cách mạng từ khi
còn là học sinh trường Bưởi. Tháng 06-1929, đồng chí được kết nạp vào
Đông Dương cộng sản Đảng. Sau ngày Đảng cộng sản Việt Nam thành
lập, Nguyễn Văn Cừ được phân công làm Bí thư đặc khu Hòn Gia -
Uông Bí. Năm 1932, đồng chí bị địch bắt và đày ra Côn Đảo.
Năm 1936, phong trào đấu tranh của nhân dân ta phát triển mạnh mẽ cùng với
thắng lợi của Mặt trận bình dân ở Pháp đã buộc thực dân Pháp ở Đông Dương phải trả
lại tự do cho Nguyễn Văn Cừ. Ra tù, về Hà Nội, đồng chí tiếp tục hoạt động cách mạng.
Nguyễn Văn Cừ được bầu vào Ban thường vụ trung ương trong Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương tháng 09-1937.
Tháng 03-1938, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp quyết định thành lập Mặt
trận thống nhất dân chủ. Cũng tại Hội nghị này, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được bầu làm
Tổng Bí thư thay đồng chí Hà Huy Tập. Sau đó, đồng chí vào hoạt động tại Sài Gòn.
Phong trào cách mạng lên cao, địch theo dõi đồng chí rất sát, rồi chúng trục xuất đồng
chí ra khỏi Nam Bộ. Trở ra Hà Nội, đồng chí chú trọng việc thành lập Mặt trận thống
nhất dân chủ Đông Dương, trực tiếp chỉ đạo báo chí công khai của Đảng.
Mùa thu năm 1938, đồng chí Nguyễn Văn Cừ vào Nam Kỳ cùng với thường vụ trung
ương đấu tranh chống bọn Tơrôtxkít giả danh mác xít phá hoại cách mạng. Ký tên Trí
Cường, đồng chí viết tác phẩm Tự chỉ trích - một tác phẩm có giá trị lớn về lý luận và thực
tiễn. Với tác phẩm này, đồng chí đã có đóng góp quan trọng vào việc củng cố sự nhất trí
trong Đảng và tăng cường ảnh hưởng, uy tín của Đảng trong quần chúng nhân dân.
Giữa lúc phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ thì ngày18-01-1940
Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt tại đường Nguyễn Tấn Nghiêm, Sài Gòn. Biết đây là Tổng
bí thư của Đảng, bọn đế quốc đã dùng mọi thủ đoạn tra tấn dã man nhất để moi tài liệu.
Trước sau đồng chí vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản.
Ngày 28-08-1941, đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị thực dân pháp xử bắn taị pháp
trường Bà Điểm cùng một số đồng chí khác.
5. Trường Chinh
Đồng chí Trường Chinh (tên thật là Đặng Xuân Khu) sinh ngày 09-
02-1907. Đồng chí quê ở xã Xuân Hồng huyện Xuân Trường, tỉnh Nam
Định. Năm 1927, đồng chí gia nhập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Cuối năm 1936, đồng chí là đại biểu của Đảng cộng sản Đông Dương trong
Uỷ ban Mặt trận dân chủ Bắc Kỳ. Năm 1940, đồng chí là chủ bút báo Giải Phóng.
Tại Hội nghị lần thứ bảy, đồng chí được cử vào Ban chấp hành trung ương Đảng.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám tháng 05-1941, đồng chí Trường Chinh được cử
làm Tổng bí thư của Đảng. Đêm ngày 09-03-1945, đồng chí chủ trì Hội nghị Thường
vụ Trung ương mở rộng, ra chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta.
Vào tháng 02-1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí
Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng lao động
33
Việt Nam. Đây là lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương được bầu họp chính thức
trong một Đại hội đại biểu toàn quốc.
Năm 1958, đồng chí Trường Chinh làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ
nhiệm Uỷ ban khoa học Nhà nước. Năm 1976, đồng chí được bầu làm chủ tịch Uỷ ban
dự thảo hiến pháp của Quốc hội. Ngày 17-07-1986, Ban chấp hành trung ương Đảng
họp phiên đặc biệt, đồng chí Trường Chinh được bầu giữ chức vụ Tổng Bí thư thay
đồng chí Lê Duẩn từ trần ngày 10-07-1986.
Tháng 12 -1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đồng chí
được suy tôn làm cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Đồng chí Trường Chinh qua đời ngày 30-09-1988. Đồng chí đã được Nhà nước
tặng Huân chương Sao vàng và nhiều huân chương cao quý khác.
6. Lê Duẩn
Đồng chí Lê Duẩn (tên thật là Lê Văn Nhuận) sinh ngày 07-04-1907.
Đồng chí quê ở xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm
1928, đồng chí tham gia Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Năm
1930, đồng chí là một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng cộng sản Đông Dương.
Năm 1937, đồng chí giữ chức Bí thư xứ uỷ Trung Kỳ. Năm 1940, đồng chí bị
địch bắt và kết án 10 năm tù. Năm 1946, đồng chí ra Hà Nội. Cuối năm 1946, Trung
ương cử đồng chí vào lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.
Từ 1954-1957, đồng chí ở lại miền Nam lãnh đạo phong trào cách mạng. Năm 1957,
đồng chí được điều ra trung ương công tác. Năm 1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
III của Đảng, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam. Năm 1978, đồng chí làm Bí thư Quân uỷ trung ương.
Tháng 12-1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí
được bầu làm Tổng Bí thư ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Tháng
03-1982, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, đồng chí Lê Duẩn tiếp tục
được bầu làm Tổng Bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
Ngày 10-07-1986, đồng chí Lê Duẩn từ trần. Đồng chí đã được tặng thưởng
Huân chương Sao vàng và nhiều huân chương cao quý khác.
7. Nguyễn Văn Linh
Đồng chí Nguyễn Văn Linh (tên thật là Nguyễn Văn Cúc) sinh
ngày 01-07-1915. Đồng chí quê ở xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh
Hưng Yên. Năm 1929, đồng chí tham gia học sinh đoàn do Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên lãnh đạo. Ngày 01-05-1930, đồng chí bị
thực dân Pháp bắt, bị kết án tù chung thân và đày đi Côn Đảo. Năm
1936, đồng chí được trả tự do.
Năm 1936, đồng chí được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông
Dương, hoạt động ở Hải Phòng và Hà Nội. Năm 1939, đồng chí tham gia Ban Chấp
hành Đảng bộ thành phố Sài Gòn, sau đó được Đảng điều ra Trung Kỳ để lập lại xứ uỷ
34
Trung Kỳ. Năm 1941, đồng chí Nguyễn Văn Linh bị bắt ở Vinh, bị kết án 5 năm tù và
bị đày ra Côn Đảo.
Năm 1945, đồng chí hoạt động ở miền Tây, Sài Gòn - Chợ Lớn với cương vị Bí thư
Thành uỷ, Bí thư đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1949-1960, đồng chí là Uỷ viên và
quyền Bí thư xứ uỷ Nam Bộ. Năm 1960, tại Đại hội Đảng lần thứ III, đồng chí được bầu
vào Ban Chấp hành trung ương Đảng, làm Bí thư, Phó Bí thư Trung ương cục miền Nam.
Năm 1976, đồng chí giữ chức vụ Bí thư thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh. Tháng
12-1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, đồng chí Nguyễn Văn Linh được
bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, giữ chức
Trưởng ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa của trung ương, Trưởng ban Dân vận và Mặt trận
Trung ương, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam đến năm 1980.
Năm 1981, đồng chí làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1982,
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung
ương Đảng. Năm 1985, đồng chí được Ban Chấp hành trung ương Đảng bầu vào Bộ
Chính trị, làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 12-1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đồng chí
Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản
Việt Nam kiêm chức Bí thư Đảng uỷ quân sự trung ương (năm 1987).
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 06-1991) và Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 07-1996), đồng chí được tôn vinh làm
cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
Ngày 27-04-1998, đồng chí Nguyễn Văn Linh tạ thế để lại niềm tiếc thương vô
hạn cho toàn Đảng, toàn quân và toàn thể nhân dân. Đồng chí đã được tặng thưởng
huân chương Sao vàng và nhiều Huân chương cao quý khác.
8. Đỗ Mười
Đồng chí Đỗ Mười (tên thật là Nguyễn Duy Cống) sinh ngày 02-02-
1917. Quê ở Xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Năm
1936, đồng chí tham gia phong trào mặt trận bình dân. Năm 1936, đồng chí
gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương. Năm 1941, đồng chí bị địch bắt và
kết án 10 năm tù giam tại Hoả Lò, Hà Nội. Tháng 03-1945, đồng chí vượt
ngục tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia Tỉnh uỷ Hà Đông, trực tiếp
lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Đông.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đồng chí Đỗ Mười giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Hà
Đông. Từ năm 1946 đến 1954, đồng chí giữ các chức vụ sau: Bí thư Tỉnh uỷ Hà Nam; Bí thư
kiêm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Định; Khu uỷ viên khu III kiêm Bí thư
Tỉnh uỷ Ninh Bình; Phó Bí thư Liên khu uỷ III kiêm Phó chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành
chính Liên khu III; Chính uỷ Bộ tư lệnh Khu tả ngạn sông Hồng.
Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1954, đồng chí Đỗ Mười
giữ chức Bí thư Thành uỷ kiêm Chủ tịch Uỷ ban Quân chính thành phố Hải Phòng.
Tháng 03-1955, đồng chí được bổ sung làm uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành trung
ương Đảng khóa II. Năm 1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III đồng chí được
35
bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Từ năm 1956-1973, đồng chí Đỗ Mười
được bổ nhiệm làm Thứ trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Nội thương; Chủ nhiệm Uỷ ban vật
giá Nhà nước; Trưởng phái đoàn Thanh tra Chính phủ; Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm
Chủ nhiệm Uỷ ban kiến thiết cơ bản Nhà nước; Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ
trưởng Bộ xây dựng.
Đất nước thống nhất, tháng 12-1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV,
đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và uỷ viên dự khuyết Bộ
Chính trị; tiếp tục giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ. Tháng 07-1981, đồng chí Đỗ
Mười giữ chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tháng 03-1982, tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ V, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành trung ương Đảng, uỷ
viên Bộ Chính trị. Năm 1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, đồng chí được
bầu vào Ban Chấp hành trung ương Đảng, uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí
thư. Tháng 06-1986, đồng chí được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Tháng 06-1991, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, đồng chí được bầu lại
vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, uỷ viên Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 06-1996, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII,
đồng chí tiếp tục giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng. Tháng 12-
1997, tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá VIII, đồng chí Đỗ
Mười được suy tôn làm cố vấn Ban Chấp hành trung ương Đảng.
9. Lê Khả Phiêu
Đồng chí Lê Khả Phiêu sinh ngày 27-12-1931. Quê ở xã Đông
Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Ngày 19-06-1949, đồng chí gia
nhập Đảng cộng sản Đông Dương. Đồng chí Lê Khả Phiêu là cán bộ
trưởng thành từ cơ sở và từ trong quân đội. Trong các cuộc kháng chiến
đã trực tiếp tham gia chiến đấu và chỉ huy chiến đấu liên tục ở các chiến
trường Bắc - Trung - Nam, làm nhiệm vụ quốc tế ở nước bạn.
Từ năm 1964-1993, đồng chí đã đảm nhận các chức vụ: Chính uỷ kiêm Trung
đoàn trưởng; Phó chủ nhiệm Chính trị Quân khu Trị Thiên; Chủ nhiệm chính trị Quân
đoàn 2; Phó Chính uỷ kiêm chủ nhiệm chính trị Quân khu 9; Phó Bí thư Quân khu uỷ
Quân khu 9; Thiếu tướng, Chủ nhiệm chính trị, Phó tư lệnh chính trị Mặt trận 719;
Trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Thượng tướng, Chủ nhiệm Tổng cục
Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Năm 1991, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII của Đảng, đồng chí Lê Khả
Phiêu được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 06-1992, tại Hội nghị
Ban Chấp hành trung ương Đảng lần thứ ba, khoá VII, đồng chí được bầu vào Ban Bí
thư, sau đó được phân công Thường trực Ban Bí thư. Tháng 01-1994, đồng chí được
bầu vào Bộ Chính trị. Năm 1996, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, đồng chí
Lê Khả Phiêu được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, uỷ viên Thường vụ,
Thường trực Bộ Chính trị.
Ngày 26-12-1997, tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá VIII,
đồng chí Lê Khả Phiêu được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng.
36
10. Nông Đức Mạnh
Đồng chí Nông Đức Mạnh sinh ngày 11-09-1940 tại xã Cường
Lợi, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. Đồng chí xuất thân trong gia đình nông
dân dân tộc Tày, bản thân là công nhân lâm nghiệp. Đồng chí tham gia
cách mạng năm 1958 và được kết nạp vào Đảng năm 1963.
Năm 1958-1961, đồng chí học trung cấp nông lâm trung ương.
Năm 1962-1963, đồng chí là công nhân lâm nghiệp, kỹ thuật viên điều
tra trong Ty lâm nghiệp Bắc Kạn. Từ năm 1963-1965, đồng chí làm đội phó đội khai
thác gỗ Bạch Thông. Năm 1965-1966, đồng chí học tiếng Nga tại trường ngoại ngữ Hà
Nội. Từ 1966-1971, đồng chí là sinh viên Học viện Lâm nghiệp Lêningrát, Liên Xô.
Năm 1972, trở về nước, đồng chí được phân công làm Phó Ban thanh tra Ty lâm
nghiệp tỉnh Bắc Thái. Năm 1973-1974, đồng chí làm Giám đốc Lâm trường Phú Lương, Bắc
Thái. Từ 1974-1976, đồng chí được cử đi học tại Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc.
Năm 1976-1980, về Bắc Thái, đồng chí là Tỉnh uỷ viên, Phó Ty lâm nghiệp tỉnh
Bắc Thái kiêm chủ nhiệm Công ty xây dựng lâm nghiệp rồi trưởng Ty lâm nghiệp tỉnh
Bắc Thái. Từ 1980-1983, đồng chí là Tỉnh uỷ viên, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh
Bắc Thái. Từ 1984-10/1986, đồng chí làm Phó Bí thư Tỉnh uỷ, chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh Bắc Thái. Từ tháng 11/1986 - 02/1989, đồng chí làm Bí thư Tỉnh uỷ Bắc Thái.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đồng chí Nông Đức Mạnh
được bầu làm Uỷ viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng. Tháng 03-1989,
đồng chí được phân công làm Trưởng ban dân tộc trung ương. Tháng 11-1989, đồng chí
được bầu bổ sung Đại biểu Quốc hội khoá VIII và được bầu làm Phó chủ tịch Hội đồng
dân tộc của Quốc hội.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban
chấp hành Trung ương Đảng và được trung ương bầu vào Bộ chính trị. Tháng 09-1992,
đồng chí làm Chủ tịch Quốc hội khóa IX. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được trung ương
bầu vào Bộ chính trị.
Tháng 09-1997, đồng chí giữ cương vị Chủ tịch Quốc hội khoá X và được phân
công làm thường vụ Bộ chính trị vào tháng 01-1998.
Tháng 04-2001, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, đồng chí
Nông Đức Mạnh được trung ương bầu làm Tổng Bí thư của Đảng cộng sản Việt Nam.
Năm 2006, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, đồng chí Nông Đức
Mạnh tiếp tục được bầu giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
11 - Nguyễn Phú Trọng
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng sinh ngày 14 tháng 4 năm 1944 tại
xã Đông Hội, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Từ năm 1957 đến
năm 1963, là học sinh trường cấp II rồi cấp III Nguyễn Gia Thiều huyện
Gia Lâm (nay là quận Long Biên) Hà Nội.
Năm 1963, học Khoa Văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, tốt
nghiệp bằng Cử nhân Văn chương. Năm 1967, đồng chí vào Đảng Cộng
37
sản Việt Nam. Sau đó, công tác tại tạp chí Học tập (tiền thân của tạp chí Cộng
sản. Năm 1973, đồng chí được cử đi học lớp nghiên cứu sinh về kinh tế chính trị tại
Trường Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh).
Năm 1981, đồng chí được cử sang Liên Xô làm thực tập sinh, học tập và bảo vệ
luận án tiến sĩ tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Liên Xô (thuộc Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Liên Xô).
Tháng 8 năm 1983, đồng chí về nước, tiếp tục công tác ở Ban Xây dựng Đảng
của tạp chí Cộng sản. Được đề bạt làm Phó trưởng ban (tháng 10 năm 1983), Trưởng
ban (tháng 9 năm 1987), Uỷ viên Ban biên tập (tháng 3 năm 1989), Phó tổng biên tập
(tháng 5 năm 1990) rồi Tổng biên tập tạp chí Cộng sản (tháng 8 năm 1991). Năm 1992,
đồng chí được phong học hàm Phó giáo sư và 10 năm sau (2002) được phong học hàm
Giáo sư. Từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 1 năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ của Đảng Cộng sản Việt Nam, họp tại Hà Nội, đồng chí được bầu bổ
sung vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII. Tháng 8 năm
1996, đồng chí làm Phó bí thư Thành uỷ Hà Nội, kiêm, phụ trách công tác tuyên giáo
của Thành ủy.
Tháng 2 năm 1998, đồng chí được phân công phụ trách công tác tư tưởng - văn
hóa và khoa giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung
ương. Hiệu phó trường Đại học KHXH và Nhân Văn.
Từ tháng 8 năm 1999 cho tới hết nhiệm kì của Đại hội VIII, đồng chí tham gia
Thường trực Bộ Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khóa VIII; trực tiếp chỉ đạo việc biên soạn Văn kiện Đại hội IX của Đảng.
Tháng 1 năm 2000, đồng chí làm Bí thư Thành uỷ Hà Nội. Tháng 11 năm 2001,
đồng chí kiêm nhiệm Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, phụ trách công tác lý
luận của Đảng. Từ đầu năm 2003, đồng chí trực tiếp chỉ đạo công tác tổng kết 20 năm
đổi mới, chuẩn bị và biên soạn văn kiện Đại hội X của Đảng.
Ngày 26 tháng 6 năm 2006, đồng chí đảm nhận chức vụ Chủ tịch Quốc hội thay
đồng chí Nguyễn Văn An.
Tại kì họp đầu tiên của Quốc hội khóa XII, đồng chí tái đắc cử chức Chủ tịch
Quốc hội.
Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XI, đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày 19 tháng 1 năm 2011.
đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã có nhiều nỗ lực trong công tác chỉnh đốn Đảng, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, như việc đề ra Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI “Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Nguyễn Văn Đông (tổng hợp)
http://tuyengiaohungyen.vn/bai-viet/cac-tong-bi-thu-cua-dang-cong-san-viet-nam.aspx
38
THÀNH CÔNG CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ CÁC CẤP TIẾN TỚI ĐẠI HỘI
ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XII CỦA ĐẢNG: KẾT QUẢ TẤT
YẾU CỦA SỰ ĐỔI MỚI TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG
Tô Huy Rứa
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng
Trưởng Ban Tổ chức Trung ương
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng sắp diễn ra có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong đời sống chính trị xã hội nước ta. Để chuẩn bị cho sự kiện trọng đại
này, Đảng đã tập trung chỉ đạo, chuẩn bị từ rất sớm về mọi mặt và đến thời điểm này,
đại hội cấp cơ sở, cấp trên trực tiếp cơ sở, cấp trực thuộc Trung ương đã thành công tốt
đẹp. Kết quả thành công của tất cả 67 đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương, mở đầu là
Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình khai mạc vào ngày 15-9-2015 và kết thúc là Đại hội
Đảng bộ TP Hà Nội bế mạc vào ngày 3-11-2015, hoàn thành sớm hơn gần hai tháng so
với nhiệm kỳ trước, là tiền đề quan trọng để tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng.
Chúng ta cảm nhận được bầu không khí phấn khởi thật sự của các địa phương,
cơ quan sau khi đại hội đảng bộ các cấp kết thúc. Các đảng bộ trực thuộc Trung ương
đều đã bầu thành công ban chấp hành khóa mới, cơ bản đủ về số lượng, hợp lý về cơ
cấu, đúng về tỷ lệ độ tuổi quy định và đặc biệt, chất lượng của cấp ủy viên, nhất là các
đồng chí lãnh đạo chủ chốt, được nâng lên cả về phẩm chất, đạo đức, học vấn, trình độ
lý luận, năng lực công tác và kinh nghiệm thực tiễn. Các đại hội đều thể hiện tinh thần
đoàn kết, dân chủ, kỷ cương và đổi mới. Có thể khẳng định, thành công của đại hội
đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XII của Đảng không hề là kết quả ngẫu nhiên, mà là kết
quả tất yếu thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo chủ động, thống nhất và có hiệu quả của Đảng
ta về đổi mới công tác xây dựng Đảng trong suốt nhiệm kỳ đại hội, được bắt nguồn từ
Nghị quyết hội nghị Trung ương 4 khóa XI.
1- Nghị quyết hội nghị Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay” - bước đột phá về công tác xây dựng Đảng
Như chúng ta đều biết, mọi chế độ xã hội cũng như các giai cấp, đảng phái cầm
quyền, vì lợi ích của mình, đều phải ra sức chăm lo xây dựng đội ngũ lãnh đạo. Trên thế
giới, nhiều nhà tư tưởng, triết gia đã có tầm nhìn và nhận thức đúng đắn về xây dựng
đội ngũ tinh hoa. Ta-go (Tagor), một nhà thơ, một triết gia Bà La Môn nổi tiếng của Ấn
Độ đã nói: Đào luyện một người đàn ông, chúng ta được một người đàn ông. Đào luyện
một phụ nữ, chúng ta được một gia đình. Đào luyện một thầy giáo, chúng ta được một
thế hệ. Còn đào luyện một lãnh tụ, chúng ta được một quốc gia phát triển. Khi giai cấp
vô sản bước lên vũ đài chính trị, V.I.Lê-nin đã từng khẳng định: Trong lịch sử, chưa hề
có giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được ra trong hàng
ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ
39
chức và lãnh đạo phong trào. Thực tiễn của cách mạng thế giới trong mấy thập niên qua
cũng đã chỉ ra rằng: Đảng cầm quyền nếu không thường xuyên đổi mới, không thường
xuyên chỉnh đốn để xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh, không thường xuyên phát
triển đội ngũ những đại biểu tiền phong của mình thì vai trò cầm quyền của đảng rốt
cuộc cũng sẽ bị lu mờ và tự đánh mất vai trò lãnh đạo.
Trong lịch sử văn hiến hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, cha ông chúng ta
đã sớm sáng lập Quốc Tử Giám, một trung tâm đào tạo những người hiền tài - được coi
là "nguyên khí quốc gia", để gánh vác đại sự đất nước. Kế thừa tri thức nhân loại và
tinh hoa văn hóa dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động của
mình đã luôn chú trọng đến công tác cán bộ, từ đánh giá, lựa chọn, đào tạo, thử thách,
rèn luyện đến sử dụng và đãi ngộ. Người cho rằng "cán bộ là cái dây chuyền của bộ
máy" Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân; "cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "công
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém".
Quán triệt sâu sắc lời di huấn của Bác và trên cơ sở đúc kết các bài học kinh
nghiệm quốc tế, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây
dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhiều lần khẳng
định: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt và
Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ,
phương thức lãnh đạo. Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, không có nhiệm kỳ nào Trung
ương Đảng không có nghị quyết về xây dựng Đảng, về đổi mới chỉnh đốn Đảng, về
công tác cán bộ. Nhưng có một điều hết sức quan ngại là chúng ta đã tiến hành thường
xuyên, liên tục trong nhiều nhiệm kỳ, với nhiều biện pháp, nhiều cuộc vận động nhưng
kết quả vẫn còn khá khiêm tốn. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, tệ tham nhũng, lãng phí, hư hỏng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
chưa được đẩy lùi mà thậm chí có chiều hướng nghiêm trọng hơn, làm xói mòn lòng tin
đối với Đảng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương bốn khóa XI ban hành đúng lúc, kịp thời, thể
hiện quyết tâm chính trị và là giải pháp cấp bách, cần làm ngay để khắc phục tình hình,
mong muốn tạo ra được các kết quả cụ thể, rõ rệt để củng cố niềm tin của cán bộ, đảng
viên và nhân dân. Nghị quyết Trung ương 4, tập trung vào ba vấn đề cấp bách nhất:
Một là, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo
đức lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; hai là, xây dựng đội ngũ lãnh đạo cán bộ
quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ công
nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; và ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách
nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, tập
thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Về
thực chất, Nghị quyết Trung ương 4 tập trung trước hết nhằm khắc phục một vấn đề vô
cùng khó khăn lâu nay là công tác đánh giá cán bộ. Bằng việc triển khai ba nhiệm vụ
cấp bách và bốn nhóm giải pháp, việc đánh giá cán bộ theo Nghị quyết Trung ương 4
được yêu cầu nhấn mạnh hơn, quyết liệt hơn các tiêu chuẩn: lập trường tư tưởng chính
40
trị, năng lực thực tiễn thể hiện bằng hiệu quả công việc; uy tín trong đảng và trong nhân
dân; tư duy đổi mới và sáng tạo; có khả năng nắm bắt, xử lý có hiệu quả các vấn đề mới
phát sinh; đoàn kết, quy tụ đội ngũ cán bộ; phong cách làm việc khoa học, dân chủ, sâu
sát, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; minh bạch, công tâm, khách quan trong
công tác cán bộ; khả năng phát hiện và sử dụng người có đức, có tài; không tham ô,
tham nhũng; có thái độ kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tham ô, tham nhũng, tiêu
cực và phản bác các luận điệu xuyên tạc, phản động, trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng,
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Những tiêu chuẩn này là cụ thể, rõ ràng và mang
tính định lượng hơn, là tấm gương soi cho cán bộ, đảng viên tự sửa mình trong công
việc. Đây là cơ sở quan trọng và là điều kiện tiên quyết để đánh giá, lựa chọn, quy
hoạch, đào tạo, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ cũng như cho việc chuẩn bị nhân sự của
đại hội đảng bộ các cấp sau này. Bởi vậy, trong Chỉ thị 36 ngày 30-5-2014 của Bộ
Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng, các tiêu chuẩn này đã được lưu ý rất rõ ràng trong hướng dẫn công tác nhân sự
cho đại hội đảng bộ các cấp. Đồng thời, để tạo sự khách quan trong đánh giá, lựa chọn
cán bộ, lần đầu tiên, Đảng ta quy định việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh
lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể và, theo đó, những người hai năm
liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ sẽ được xem xét, cho thôi giữ chức vụ,
không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác. Rõ ràng, Đảng bắt mạch đúng bản chất của
vấn đề, xác định điểm nghẽn sâu xa của mọi sự trì trệ, yếu kém trong Đảng hiện nay
nằm ở công tác cán bộ, nhất là công tác đánh giá cán bộ. Chỉnh đốn Đảng bắt đầu từ
công tác cán bộ là sự lựa chọn đột phá đúng và trúng của Đảng ta ở nhiệm kỳ Đại hội XI.
Ngay sau khi ban hành, Nghị quyết Trung ương 4 đã được tuyệt đại đa số cán bộ
đảng viên và nhân dân đón nhận với tình cảm hồ hởi, vui mừng, đồng tình, nhất trí cao,
coi đây là “cẩm nang” để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, là cơ sở để lập kế hoạch kiểm
điểm và tổ chức thực hiện kiểm điểm. Các tổ chức cơ sở Đảng, từ Trung ương đến địa
phương, đã tiến hành kiểm điểm nghiêm túc, khẳng định đây là công việc thường
xuyên, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm; xác định kiểm điểm không phải là đi tìm đối
tượng để xử lý kỷ luật, là bới lông tìm vết, mà để răn đe phòng ngừa, ngăn chặn, để cán
bộ tự giác tu dưỡng, tự điều chỉnh hành vi của mình, gột rửa cái xấu, cảnh giác trước
mọi cám dỗ về danh lợi, vật chất, tiền tài, tránh rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân
ích kỷ, tệ hại. Nghị quyết đã thể hiện sự trung thực chính trị đáng trân trọng của Đảng
ta, thể hiện tinh thần “tự chỉ trích” để hoàn thiện và phát triển; dũng cảm, thẳng thắn
tiến hành tự kiểm điểm phê bình từ trên xuống, mạnh dạn chỉ ra những yếu kém, hạn
chế trong nội bộ Đảng đồng thời đưa ra giải pháp khắc phục mà không e ngại đến vai
trò cầm quyền của Đảng. Chính việc chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm là cách thức để
Đảng vượt lên, nâng cao vai trò cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng. Đảng cần nhất
lúc này là niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Lòng tin của nhân dân vào Đảng thường
được đặt vào những công việc rất cụ thể, ở chính hình ảnh của các cán bộ, đảng viên; ở
phẩm chất đạo đức, tác phong, năng lực và hiệu quả công tác của họ. Do vậy, để dân tin
Đảng, Đảng phải thẳng thắn nhận trách nhiệm trước nhân dân về sự suy thoái tư tưởng
41
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt.
Điều đó cũng có nghĩa là, Nghị quyết Trung ương 4 là dấu mốc về cách làm mới,
chuyển biến mới trong công tác xây dựng Đảng.
Trên thực tế, nhiều công việc đã được Đảng triển khai một cách đồng bộ để đưa
Nghị quyết Trung ương 4 đi vào cuộc sống. Đó là công tác quy hoạch cán bộ cấp chiến
lược; công tác đào tạo dự nguồn cao cấp và cán bộ chủ chốt ở các cơ quan trung ương
và địa phương; công tác luân chuyển cán bộ được tiến hành đồng bộ ở cả hai chiều;
công tác nhân sự và việc sửa đổi quy chế bầu cử trong Đảng cho phù hợp với tình hình,
v.v… Dường như các cơ sở Đảng đã không còn bị động trong công tác kiểm điểm, đánh
giá giữa kỳ và cuối nhiệm kỳ; không khí nặng nề, khép kín, cục bộ, thiếu tin tưởng
trong sinh hoạt đảng các cấp ở nhiều nơi đã từng bước được thay thế bằng không khí
công khai, dân chủ, cởi mở, tin tưởng và đầy tinh thần xây dựng. Không khí ấy được
thể hiện bằng các hành động cụ thể, đầy trách nhiệm trong công việc chuẩn bị và tổ
chức đại hội đảng bộ các cấp. Đại hội đảng các cấp thành công, rõ ràng, được bắt nguồn
sâu xa từ các kết quả thực hiện đổi mới công tác xây dựng Đảng mà trước hết là thực
hiện ba vấn đề cấp bách và bốn giải pháp được nêu trong Nghị quyết Trung ương 4.
2- Quy hoạch cán bộ các cấp và quy hoạch cán bộ cấp chiến lược-tầm nhìn và chất
lượng mới trong công tác cán bộ
Xuất phát từ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ cấp bách thứ hai trong Nghị quyết
Trung ương 4 về xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý, nhất là ở cấp Trung ương, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Bộ
Chính trị đã ban hành Kết luận 24 ngày 5-6-2012 về đẩy mạnh công tác quy hoạch và
luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Công tác
quy hoạch cán bộ ở nhiệm kỳ Đại hội XI, về thực chất, là sự tiếp tục của Nghị quyết 42
ngày 30-11-2004 của Bộ Chính trị khóa IX nhằm khắc phục các hạn chế, yếu kém của
công tác quy hoạch trong các nhiệm kỳ trước: thứ nhất, quy hoạch là để tạo nguồn bồi
dưỡng, đào tạo, luân chuyển, bố trí, sử dụng nhưng trên thực tế có nơi, có lúc chưa thực
hiện theo quy hoạch; quy hoạch chưa thường xuyên liên tục, chưa xuất phát từ đánh giá
đúng cán bộ; còn mang tính hình thức, chắp vá, không đồng bộ, thiếu chủ động trong bố
trí cán bộ và thiếu tính khả thi; thứ hai, chất lượng quy hoạch cán bộ chưa cao, không
đồng đều, thiếu tầm nhìn xa, chưa bảo đảm cơ cấu ba độ tuổi, không bảo đảm tỷ lệ cán
bộ nữ, tỷ lệ cán bộ trẻ, tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số; và thứ ba, quy hoạch cán bộ
thời gian qua chưa có tính tổng thể và sự liên thông giữa cấp dưới với cấp trên, giữa địa
phương với Trung ương, giữa các ngành, các lĩnh vực công tác, đặc biệt là chưa hề có
quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh
đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước.
Ơ nước ta, nói đến chủ trương quy hoạch cán bộ thì hầu như ít người phản đối
nhưng lại luôn coi đây là việc khó. Nhiều ý kiến cho rằng thực hiện quy hoạch, công
khai danh tính cán bộ dự nguồn phát triển là một vấn đề nhạy cảm vì đưa cán bộ vào
diện quy hoạch rất có thể sẽ trở thành đối tượng bị soi mói, công kích, bị gièm pha và
42
có thể gây mất đoàn kết nội bộ và mất cán bộ. Tuy nhiên, thực tế triển khai ở các địa
phương thời gian qua cho thấy, ở đâu quy hoạch đúng người, bố trí công việc hợp lý,
cán bộ được quan tâm, tạo điều kiện phát triển thì đều thành công. Các trường hợp thất
bại không nằm ở bản thân chủ trương quy hoạch mà là nằm ở cách làm quy hoạch và sự
thiếu trách nhiệm của những người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Hơn nữa, để lựa chọn
được đúng người và bảo vệ được quy hoạch, cần bảo đảm tính minh bạch, dân chủ,
công khai, khoa học trong đánh giá cán bộ, lấy quy hoạch lãnh đạo chủ chốt ở cấp dưới
làm cơ sở cho quy hoạch cán bộ cấp trên, có cơ chế và điều kiện tốt, thật sự công bằng
để cán bộ quy hoạch được thể hiện tài năng, phấn đấu, cống hiến và trưởng thành. Bởi
vậy, ngay sau khi có Nghị quyết Trung ương 4, công tác kiểm điểm và đánh giá cán bộ
là khâu quan trọng được xác định trong lựa chọn nhân sự quy hoạch. Công tác quy
hoạch và công tác nhân sự thống nhất nhưng không đồng nhất. Khi xem xét một nhân
sự cụ thể nào đó còn phải cân nhắc, tính toán nhiều yếu tố khác. Nhưng phương án nhân
sự dứt khoát phải được xây dựng dựa trên quy hoạch. Mặt khác, rút kinh nghiệm trong
thực tế, chúng ta đã thực hiện quy hoạch theo chức danh cụ thể. Một chức danh lãnh
đạo chủ chốt ở các cấp, các ngành, các địa phương có thể quy hoạch từ một đến ba
người và một người có thể quy hoạch nhiều chức danh. Cơ hội rộng mở cho mọi người
và dư địa cho sự lựa chọn, đào tạo và bồi dưỡng cũng rất rộng. Nhờ có sự rõ ràng về
quan điểm chỉ đạo, chặt chẽ về nguyên tắc, “động” và “mở” về phương châm, công tác
quy hoạch lần này đã rất chú trọng đến nhiệm vụ rà soát, bổ sung quy hoạch, đưa ra
khỏi quy hoạch những người không còn đủ tiêu chuẩn, bổ sung vào quy hoạch các nhân
tố mới.
Một điểm mới mà thực chất là nhiệm vụ cũ của nhiệm kỳ trước nêu ra nhưng
chưa làm, đó là quy hoạch cán bộ cấp chiến lược ở Trung ương. Đây là một nhiệm vụ
rất quan trọng nhằm khắc phục nguy cơ hẫng hụt cán bộ cấp chiến lược và đồng thời
đáp ứng yêu cầu bảo đảm tính nhất quán, liên thông và đồng bộ về công tác cán bộ nói
chung, công tác quy hoạch nói riêng trong toàn bộ hệ thống chính trị. Việc quy hoạch
cán bộ cấp chiến lược đã được Đảng triển khai một cách đồng bộ, thực chất, dân chủ,
công khai, minh bạch: lấy thực tế kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 làm cơ sở
để hoàn chỉnh tiêu chuẩn về đánh giá và lựa chọn cán bộ đưa vào quy hoạch; lấy quy
hoạch cán bộ cấp chiến lược làm cơ sở cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử
thách; đồng thời, lấy quy hoạch cấp chiến lược để thúc đẩy quy hoạch cán bộ chủ chốt ở
cấp dưới. Đặc biệt, quy hoạch cán bộ cấp chiến lược phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung
thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và là cơ sở cho
việc chuẩn bị công tác nhân sự diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý cũng như công tác
nhân sự Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và các
nhiệm kỳ tiếp theo. Đây là việc chưa từng làm, nhiều thách thức và không ít khó khăn
nhưng lại là việc rất cần thiết lẽ ra phải được triển khai từ lâu. Nói cách khác, đây sẽ là
công việc thường xuyên trong công tác cán bộ của Đảng.
43
Sau ba năm triển khai thực hiện, điều hết sức rõ ràng là công tác quy hoạch cán
bộ nói chung, quy hoạch cán bộ cấp chiến lược nói riêng đã đi vào đời sống của Đảng
như một lẽ tự nhiên. Cán bộ được quy hoạch phấn khởi, luôn nỗ lực trau dồi, rèn luyện
cho xứng đáng với vị trí được quy hoạch. Cán bộ chưa được quy hoạch lấy các tiêu
chuẩn cán bộ diện quy hoạch để hoàn thiện bản thân mình. Hiện tượng so kè, đố kỵ, níu
kéo, thiếu tinh thần xây dựng trong công tác quy hoạch đã không còn phổ biến. Công
tác quy hoạch trở thành nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị. Công tác bổ nhiệm
tuân thủ nghiêm túc theo quy hoạch, hạn chế được tình trạng tuỳ tiện, vị thân, không
đúng người, vì người bổ nhiệm chứ chưa vì công việc để chọn người phù hợp. Tại đại
hội đảng bộ các cấp, việc giới thiệu nhân sự cấp ủy hầu như đều từ nguồn quy hoạch đã
phê duyệt và điều rất đáng phấn khởi là các đồng chí trúng cử về cơ bản đều là các đồng
chí trong diện quy hoạch của cấp uỷ các cấp. Trừ các đồng chí tái cử còn trong tiêu
chuẩn quy định, tuyệt đại đa số các đồng chí được bầu vào ban chấp hành đảng bộ tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương đều là các đồng chí trong diện quy hoạch cán bộ chủ
chốt. Nhiều tài năng trẻ đã được phát hiện, bồi dưỡng và trưởng thành nhanh chóng, giữ
các cương vị quan trọng trong lãnh đạo chủ chốt của các địa phương. Hầu hết các đồng
chí Bí thư tỉnh ủy khoá mới đều là các đồng chí đã được quy hoạch vào Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII. Rõ ràng, sự đổi mới công tác quy hoạch cán bộ và cán bộ cấp
chiến lược của nhiệm kỳ Đại hội XI là bước chuẩn bị quan trọng, là một bảo đảm cho
sự thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
3- Mở lớp dự nguồn cao cấp và luân chuyển cán bộ - định hướng đào tạo thực chất,
đồng bộ và hiệu quả
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lúc sinh thời, luôn nhấn mạnh đến vai trò con người và
luôn yêu cầu công tác cán bộ, đào tạo cán bộ phải đi trước một bước. Người nói “ cán
bộ là cái gốc của mọi công việc… và huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”.
Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng ta đã luôn quan tâm và chăm lo công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ. Để là cái gốc của mọi công việc, người cán bộ phải có tư duy biện
chứng, tư duy hệ thống, có tầm nhìn xa, chiến lược, tinh thần thượng tôn pháp luật,
năng lực quy tụ và tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị được giao. Điều
này là hoàn toàn đúng và càng quan trọng hơn khi Đảng ta đang đứng trước nhiệm vụ
trọng đại: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế trong
bối cảnh mới; khi trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ đã thật sự trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, kinh tế tri thức ngày càng chiếm ưu thế trong phát triển kinh tế
- xã hội của mọi quốc gia; khi lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế đã chủ yếu dựa trên công nghệ, tri thức, đổi mới và sáng tạo.
Nhận thức rõ tầm quan trọng và yêu cầu mới đối với công tác đào tạo cán bộ,
nhất là cán bộ cấp chiến lược; và cùng với việc triển khai công tác quy hoạch, Đảng ta
đã rất chú trọng mở các lớp dự nguồn cao cấp, cả cán bộ quy hoạch cấp chiến lược ở
Trung ương và cán bộ chủ chốt ở địa phương. Tương tự như công tác quy hoạch, các
lớp dự nguồn cao cấp cũng được tổ chức đào tạo theo chức danh cho các đồng chí thuộc
44
diện quy hoạch cấp chiến lược. Đối tượng tham dự các lớp này là các đồng chí ủy viên
dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí quy hoạch Ban Chấp hành Trung
ương khóa XII, các đồng chí quy hoạch lãnh đạo chủ chốt của các cơ quan trung ương
và địa phương. Chương trình và nội dung đào tạo, do vậy, có điểm khác với các chương
trình lý luận cao cấp hiện nay là, không chỉ làm sâu sắc hơn các vấn đề lý luận của Chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới mà còn cập nhật có hệ
thống, làm rõ các vấn đề lớn, mới trong quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng; nhấn
mạnh việc đánh giá, tổng kết thực tiễn đất nước ta sau 30 năm đổi mới; định rõ thế và
lực mới, cách tiếp cận phát triển mới của Việt Nam trong bối cảnh thế giới, khu vực
đang thay đổi nhanh, mạnh với nhiều cơ hội và thách thức mới; đưa vào chương trình
nhiều kiến thức về thế giới đương đại thuộc lĩnh vực tư duy chiến lược như: xây dựng
tầm nhìn quốc tế và khu vực, cục diện thế giới hiện nay, toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế, bàn cờ chính trị thế giới… Để đáp ứng yêu cầu này, giảng viên được lựa chọn là các
đồng chí lãnh đạo cấp cao, các nhà quản lý, hoạch định chính sách có kinh nghiệm,
không chỉ hiểu sâu về lý luận mà còn có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động và chỉ đạo
thực tiễn; là các chuyên gia giỏi có tư duy đổi mới, có năng lực cập nhật tri thức tổ chức
và quản trị hiện đại, có các phương pháp tiếp cận công tác tiên tiến. Đặc biệt, lần đầu
tiên, chúng ta mời các chuyên gia quốc tế, các đại sứ, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có
uy tín cùng tham gia thuyết trình chuyên đề và thảo luận, nhất là việc nghiên cứu, phân
tích và xử lý tình huống về thành công và thất bại của các mô hình phát triển, ở cả cấp
vĩ mô và vi mô. Bởi vậy, tri thức được chuyển tải ở các lớp dự nguồn cao cấp là phong
phú, sâu sắc, cập nhật, liên thông giữa lý luận và thực tiễn, khắc phục được lối mòn,
tính giáo điều và sự kinh viện. Cũng lần đầu tiên, trong khoảng thời gian bốn tháng, các
học viên dự nguồn cao cấp còn được đi thực tế địa phương, thực hiện “ba cùng” với các
địa phương để nâng cao kỹ năng nắm bắt, hiểu biết và xử lý các vấn đề thực tiễn cụ thể.
Phương châm “học đi đôi với hành”, “lý luận gắn với thực tiễn” đã rất được chú trọng.
Không chỉ đi thực tế trong nước, các học viên còn được tạo điều kiện đi khảo sát hai
tuần ở nước ngoài, được tiếp cận mô hình đào tạo hiện đại ở các quốc gia phát triển,
như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po …Đây là cách bổ sung kiến thức hai chiều khá
hiệu quả: người cần bổ sung hiểu biết thực tiễn thì được nâng cao qua đi thực tế và
ngược lại, người cần bổ sung kiến thức lý luận thì được làm giàu thêm qua cập nhật tri
thức. Học viên các lớp dự nguồn cao cấp cũng không làm luận văn, luận án tốt nghiệp
như các lớp cao học và nghiên cứu sinh, nặng khía cạnh học thuật mà được yêu cầu làm
đề án tốt nghiệp mang tính triển khai, xử lý thực tiễn về các vấn đề chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, xây dựng Đảng... tùy theo lĩnh vực chức trách nhiệm vụ học viên đang
đảm nhiệm. Nghĩa là đề án tốt nghiệp phải trở thành phương án lãnh đạo, chỉ đạo của
học viên tại cơ quan, đơn vị, địa phương mình trên tư cách là người lãnh đạo chủ chốt.
Tính đảng của lớp học cũng rất được đề cao: tổ chức học tập và sinh hoạt nội trú; tăng
cường tự học, tự nghiên cứu; nghiêm về kỷ cương, kỷ luật; nêu cao vai trò và trách
nhiệm cá nhân, v.v... Đây là những phẩm chất cần có, cần được chuẩn bị cho hoạt động
thực tiễn sau này. Các địa phương, tùy theo điều kiện của mình, cũng đã chủ động tổ
45
chức các lớp dự nguồn cấp chủ chốt địa phương. Trong khóa XI, chúng ta đã tổ chức
được 6 lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp với 511 học viên, trong đó 231 đồng chí
là cán bộ cấp tỉnh, 280 đồng chí là cán bộ khối ban, bộ, ngành Trung ương. Kết quả của
các lớp học là khả quan. Cán bộ phấn khởi, tin tưởng và học tập nghiêm túc. Nhiều học
viên đạt kết quả xuất sắc, được quy hoạch và bổ nhiệm ở các vị trí công tác cao hơn.
Đặc biệt, không ngoài dự đoán, 100% số học viên các lớp dự nguồn cao cấp công tác tại
các địa phương được bầu vào Ban Thường vụ, Phó Bí Thư tỉnh ủy và 45 trong tổng số
61 đồng chí đắc cử bí thư tỉnh ủy, thành ủy lần này đều là học viên của các khóa dự
nguồn cao cấp nhiệm kỳ Đại hội XI. Điều đó cũng có nghĩa là Đảng ta đã chủ động hơn
về công tác nhân sự, nguy cơ hẫng hụt về cán bộ cấp chiến lược đã được khắc phục đáng kể.
Luân chuyển cán bộ, xét về bản chất, cũng là công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
bố trí và sắp xếp cán bộ có khoảng thời gian đủ dài để cọ xát thực tiễn, nhất là đối với
các đồng chí quy hoạch cán bộ cấp chiến lược từ các cơ quan trung ương. Cần phải thấy
rằng, công tác luân chuyển hiện nay đang làm không phải là vấn đề mới. Hơn 10 năm
qua, các cấp ủy, tổ chức Đảng đã tích cực triển khai công tác luân chuyển, góp phần đào
tạo, thử thách cán bộ qua thực tiễn và tăng cường cán bộ cho những nơi khó khăn. Hầu
hết cán bộ qua luân chuyển đều có bước trưởng thành, tích lũy được nhiều kinh nghiệm
thực tiễn, có quan điểm nhìn nhận và phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, sâu sát
hơn. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều trường hợp luân chuyển đào tạo cán bộ chưa hoàn
toàn dựa trên cơ sở đánh giá cán bộ và quy hoạch cán bộ; tình trạng khép kín, cục bộ
còn nặng nề; hiện tượng nơi thừa, nơi thiếu còn khá phổ biến. Rút kinh nghiệm các
khóa trước, công tác luân chuyển nhiệm kỳ này được chuẩn bị khá sớm cùng với công
tác quy hoạch, được xây dựng và lập kế hoạch cụ thể trên cơ sở đánh giá cán bộ theo
tinh thần Nghị quyết Trung ương 4; xác định nhu cầu đào tạo cán bộ ở cả nơi đến và nơi
đi; làm rõ mục đích luân chuyển và chức danh cần luân chuyển, không nhất thiết phải
luân chuyển đến những nơi mà địa phương có nguồn cán bộ phù hợp và cũng tương tự
như vậy, không khiên cưỡng đưa đi luân chuyển những trường hợp cán bộ mà các cơ
quan hữu quan còn có ý kiến khác nhau. Quy trình luân chuyển được tổ chức hết sức
chặt chẽ bắt đầu từ xin chủ trương của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tiếp tục luân chuyển
sau khi tổng kết kinh nghiệm luân chuyển của các khóa trước; xây dựng tiêu chí để xác
định địa bàn, chức danh cán bộ (phó bí thư, phó chủ tịch hay đồng thời cả phó bí thư và
phó chủ tịch), nguồn cán bộ và thời gian luân chuyển; sau khi được Bộ Chính trị, Ban
Bí thư đồng ý mới thông báo để các ban, bộ, ngành có nhu cầu luân chuyển lựa chọn
các đồng chí vụ trưởng và tương đương, trong quy hoạch chức danh chủ chốt để báo
cáo Trung ương. Những cán bộ này được gửi xin ý kiến thẩm định của Ban cán sự
Đảng chính phủ, Ủy ban kiểm tra Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Nội
chính Trung ương, Đảng ủy khối và địa phương sẽ luân chuyển cán bộ tới tùy theo mỗi
chức danh. Ban Bí thư sẽ chỉ phê duyệt khi có sự đồng thuận cao của các cơ quan và địa
phương được tham khảo ý kiến. Điều đó cũng khẳng định rằng, công tác luân chuyển
cán bộ đã được tiến hành một cách bài bản, đồng bộ, và có phần chủ động hơn, nhất là
về luân chuyển cán bộ cấp chiến lược.
46
Điểm khác biệt đáng lưu ý trong công tác luân chuyển cán bộ nhiệm kỳ này là
luân chuyển bắt buộc phải dựa trên quy hoạch và luân chuyển gắn chặt chẽ với đào tạo
dự nguồn, nhất là đối với các đồng chí quy hoạch cấp chiến lược. Trên thực tế, chúng ta
đã thực hiện được một đợt luân chuyển 54 đồng chí quy hoạch cấp chiến lược từ các cơ
quan trung ương về địa phương. Hầu hết các đồng chí này đã phát huy được năng lực,
sở trường công tác, đa số trúng cử cấp ủy, tham gia ban thường vụ và lãnh đạo chủ chốt
của các địa phương. Đặc biệt, có sáu đồng chí luân chuyển thuộc diện Trung ương quản
lý đắc cử Bí thư tỉnh ủy, chức danh cao hơn chức danh trước khi luân chuyển. Nhiều
đồng chí đã được địa phương giới thiệu tham gia ứng cử Ban Chấp hành Trung ương
khóa XII với số phiếu khá cao. Đây cũng là một kết quả rất đáng ghi nhận, thể hiện tính
thực chất và có hiệu quả của công tác luân chuyển cán bộ trong điều kiện mới.
4- Chỉ thị 36 và Quy chế bầu cử trong Đảng - nhân tố trực tiếp góp phần quyết định sự
thành công của đại hội đảng bộ các cấp
Để chuẩn bị cho đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII của Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 36 ngày 30-05-2014, trong đó về
phương diện công tác nhân sự, Chỉ thị 36 đã khắc phục được nhiều vướng mắc của Chỉ
thị 37 khóa X, đã làm rõ số lượng, cơ cấu, độ tuổi cấp ủy cho cấp quận, huyện; cấp tỉnh
ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương; đưa ra các yêu cầu về tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ,
cán bộ người dân tộc thiểu số; xác định các đồng chí cấp ủy đương nhiệm còn 30 tháng
được tiếp tục tái cử; chú ý bố trí sắp xếp và thực hiện chính sách cho các đồng chí
không còn trong độ tuổi tái cử. Chỉ thị còn thể hiện sự quán triệt sâu sắc tinh thần của
Nghị quyết Trung ương 4 về xác định tiêu chuẩn cấp ủy viên, trong đó nhấn mạnh các
tiêu chuẩn theo Nghị quyết Trung ương 4, nhất là yêu cầu cấp ủy viên về thái độ
nghiêm túc khắc phục, sửa chữa kịp thời những tồn tại, yếu kém và khuyết điểm sau
kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyêt Trung ương 4. Chỉ thị
cũng đã xác định rõ là không cơ cấu vào cấp ủy những đồng chí không gương mẫu thực
hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước hoặc vi phạm những điều đảng
viên, cán bộ, công chức không được làm. Nhìn chung, Chỉ thị vừa thể hiện tính nghiêm
minh của kỷ cương trong Đảng, vừa thể hiện tính đổi mới trong cách làm và tính nhân
văn trong chính sách cán bộ của Đảng. Theo đó, trong quá trình triển khai, các cấp ủy
đều thống nhất thừa nhận Chỉ thị là rõ ràng, công minh, dễ làm và dễ thực hiện. Một số
trường hợp cấp ủy đương nhiệm quá tuổi quy định tham gia tái cử cấp ủy mới chỉ năm
đến bảy ngày đã không quá tâm tư, bức xúc, đồng thời xác định không tham gia tái cử
và sẵn sàng nhận sự bố trí, sắp xếp công việc khác.
Rõ ràng, Chỉ thị 36 đã thể hiện chủ trương nhất quán của đảng ta trong lãnh đạo,
chỉ đạo công tác nhân sự và bầu cử tại đại hội Đảng bộ các cấp. Trên cơ sở này, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo chặt chẽ, sâu sát, thống nhất, khách quan và công bằng
khi cho ý kiến về nhân sự cấp ủy của các tỉnh, thành phố và các đảng bộ trực thuộc
Trung ương. Việc thực hiện nghiêm ở cả cấp Trung ương trong chỉ đạo và cấp địa
phương trong thực hiện đã thể hiện sự thống nhất từ trên xuống dưới, giữ vững nguyên
47
tắc, nhất quán trong thực hiện và chính điều này là nguyên nhân trực tiếp đem lại sự
thành công của đại hội đảng bộ các cấp.
Công tác đánh giá cán bộ, quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, luân chuyển, chuẩn bị
nhân sự có thể rất tốt nhưng sẽ là không thành công, nếu công tác bầu cử không được tổ
chức tốt. Hiểu rõ tình hình thực tế và rút ra các bài học của công tác bầu cử trong Đảng
nhiệm kỳ trước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Quy chế bầu cử số 244
ngày 9-6-2014 và trên cơ sở đó, các ban tham mưu của Đảng ban hành hướng dẫn
phương hướng công tác nhân sự và hướng dẫn bầu cử cấp ủy các cấp, bảo đảm tính nhất
quán, chặt chẽ, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Quy chế bầu cử mới đã chú
trọng hơn nguyên tắc bảo đảm dân chủ và trách nhiệm của các cấp ủy, của từng đại biểu
trong thực hiện quy trình bầu cử, tập trung nhiều hơn đến trách nhiệm chuẩn bị của cấp
ủy và vai trò của từng cấp ủy viên trong việc chấp hành các quyết định của cấp ủy.
Chẳng hạn, quyền ứng cử và đề cử trong đại hội được tôn trọng nhưng phải bảo đảm
nguyên tắc một ủy viên cấp ủy sẽ không tự ứng cử và nhận quyền đề cử nếu trong danh
sách đề cử của cấp ủy, cấp ủy viên này không được giới thiệu. Bầu cử phải có số dư so
với số lượng cần bầu nhưng cấp ủy chỉ được chuẩn bị số dư không quá 15% và tại đại
hội có thể giới thiệu thêm nhưng không vượt quá 30%. Điều này đã khắc phục được
tình trạng thiếu tập trung và tản mạn trong giới thiệu đề cử. Đây là điểm mới của công
tác bầu cử lần này, và nhờ đó, đại hội đảng bộ các cấp đã diễn ra thuận lợi, thông suốt.
Hầu hết các đại hội tôn trọng và nhất trí cao với sự chuẩn bị nhân sự cấp ủy mới của
cấp ủy các cấp, số dư giới thiệu thêm không nhiều và kết quả là các đồng chí trúng cử
đều là các đồng chí đã có quá trình chuẩn bị lâu dài do cấp ủy các cấp giới thiệu.
Như vậy, từ Nghị quyết Trung ương 4 đến đại hội đảng bộ các cấp, một logic tất
yếu của quy trình công tác cán bộ, từ chuẩn bị nhân sự đến tổ chức đại hội để bầu cử
cấp ủy đã được chúng ta chủ động tiến hành sớm, kỹ lưỡng, bài bản, khoa học, đồng bộ,
tổng thể, liên thông giữa các khâu trong công tác cán bộ: 1 - tiến hành đánh giá, lựa
chọn cán bộ để chuẩn bị nguồn quy hoạch, dự nguồn đào tạo và nguồn cấp ủy, trong đó
có lấy phiếu tín nhiệm; 2 - rà soát, bổ sung quy hoạch cấp ủy và lãnh đạo chủ chốt một
cách thường xuyên, liên tục; phát hiện nhân tố mới đủ tiêu chuẩn bổ sung quy hoạch và
đưa ra khỏi quy hoạch những người không còn đủ tiêu chuẩn; 3- thực hiện luân chuyển
54 đồng chí thuộc diện Trung ương quản lý để đào tạo bồi dưỡng thông qua thực tế địa
phương và điều động 28 đồng chí đang công tác tại các địa phương về Trung ương để
có điều kiện kiện toàn các chức danh chủ chốt gắn với nguồn nhân sự tham gia cấp ủy
địa phương khóa mới; 4 - mở sáu lớp dự nguồn cao cấp với tổng số 511 học viên -
nguồn chuẩn bị chủ yếu cho cấp ủy địa phương và Ban Chấp hành Trung ương khóa
XII; 5 - ban hành Chỉ thị 36 và Quy chế bầu cử rõ ràng là phương thức hiện thực hóa
công tác chuẩn bị nhân sự. Nhờ vậy, trên cơ sở danh sách nhân sự cấp ủy do ban chấp
hành các cấp ủy chuẩn bị, trong đó chủ yếu là các nhân sự có quy hoạch, đại hội các cấp
đã thực hiện rất nghiêm túc quy chế bầu cử, đã giới thiệu hầu như không nhiều số dư so
với chuẩn bị của cấp ủy. Kết quả là nhân sự do các cấp ủy chuẩn bị đều trúng cử và
48
trúng với số phiếu rất cao trong khi các trường hợp giới thiệu ngoài danh sách do cấp ủy
chuẩn bị hầu hết không trúng cử. Điều đó cũng có thể nói rằng, Chỉ thị 36 và Quy chế
bầu cử là nhân tố trực tiếp, góp phần quyết định sự thành công tốt đẹp của đại hội đảng bộ các cấp.
Công tác cán bộ nói chung và công tác nhân sự nói riêng là một chỉnh thể thống
nhất của nhiều khâu, từ công tác chuẩn bị cán bộ (quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển...) - một sự tiếp cận cả ngắn, trung và dài hạn- đến công tác chuẩn bị nhân sự
trực tiếp (phương hướng nhân sự, quy trình giới thiệu, quy chế bầu cử...). Nhiệm kỳ này
chúng ta đã thực hiện được khá nhiều các công việc chưa từng làm. Đó là đã hình thành
một khuôn khổ thiết chế và cơ sở pháp lý đủ minh bạch, rõ ràng, dễ triển khai, ít ngoại
lệ và không gây cách hiểu khác nhau trong quá trình thực hiện công tác cán bộ nói
chung, công tác nhân sự nói riêng. Thực tế thành công của đại hội đảng bộ các cấp đã
minh chứng rằng, ở đảng bộ nào và địa phương nào quán triệt sâu sắc nghị quyết Trung
ương 4, nắm vững các chỉ thị và hướng dẫn triển khai thì các địa phương đó quy hoạch,
lưa chọn, bồi dưỡng và phát triển đúng người, bầu cử đúng nhân sự. Ơ đâu có sự đề cao
vai trò của cấp ủy, vai trò và trách nhiệm cao của người đứng đầu thì mọi khâu đều
được triển khai thông suốt và có hiệu quả.
Tư duy đổi mới về công tác cán bộ là luôn luôn cần thiết. Đổi mới công tác cán
bộ, công tác nhân sự của chúng ta hiện nay tuy có những việc chưa từng làm, chưa có
tiền lệ, trong quá trình làm cũng gặp phải những khó khăn trắc trở, nhưng chúng ta vẫn
giành được những kết quả hết sức khả quan. Chính thực tiễn của chúng ta, với tư duy
dám đột phá và dám đổi mới, xuất phát từ yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, để Đảng ta thật sự “là đạo đức, là văn minh”, chúng ta vừa làm,
vừa rút ra nhiều kinh nghiệm quý mà Nghị quyết Trung ương 4 là một điểm sáng của
nhiệm kỳ Đại hội XI. Chúng ta đã tìm thấy sự thành công về công tác nhân sự của đại
hội đảng các cấp từ chính trong Nghị quyết Trung ương 4, từ sự triển khai đồng bộ, rất
có hiệu quả của công tác kiểm điểm trong Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4, của
công tác quy hoạch, công tác đào tạo và bồi dưỡng dự nguồn cao cấp, của công tác luân
chuyển, của xây dựng phương hướng nhân sự, của quy chế bầu cử và thực hiện bầu cử.
Cho dù các kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu, vẫn còn những hạn chế, vướng mắc
cần tiếp tục hoàn thiện nhưng có thể khẳng định, trên phương diện công tác nhân sự, đại
hội đảng bộ các cấp đã thành công tốt đẹp. Kết quả này, tinh thần này đang mang đến
không chỉ trong Đảng mà trong nhân dân một khí thế mới, niềm tin mới và chúng ta tin
tưởng sâu sắc rằng, sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp là tiền đề cho sự thành
công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Tô Huy Rứa. Thành công của Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng: Kết quả tất yếu của sự đổi mới trong công tác xây
dựng Đảng// Nhân dân.- 2015.- Ngày 16 tháng 11.- Tr.1,3.
49
ĐẠI HỘI ĐẢNG XII KHAI MẠC 21-1-2016
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Nhiều nội dung công việc quan trọng chuẩn
bị Đại hội XII của Đảng cơ bản đã hoàn thành theo đúng yêu cầu và kế hoạch đề ra
Chiều 21-12 , sau 8 ngày làm việc, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra. Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng chủ trì và phát biểu bế mạc hội nghị.
Văn kiện đại hội bổ sung nhiều nội dung
Theo TTXVN, hội nghị đã tập trung thảo luận, góp ý cụ thể và thống nhất cao
thông qua các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng. Nội dung các văn kiện thật sự là kết
tinh trí tuệ, ý chí của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; đã đánh giá thẳng thắn, sát thực
kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI; chỉ rõ những thành quả đã đạt được, những
hạn chế, khuyết điểm còn tồn tại và nguyên nhân, bài học kinh nghiệm; đồng thời phân
tích, dự báo tình hình thế giới và đất nước những năm sắp tới; xác định mục tiêu,
phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới nhằm xây dựng, phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn.
Trên lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, văn kiện đã bổ sung nhiều về phương
hướng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
nguồn nhân lực; ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; tăng cường quản lý tài nguyên, bảo
vệ môi trường, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, văn kiện bổ sung, xác định rõ hơn sự
cần thiết và định hướng đổi mới về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị đồng bộ
hơn với đổi mới kinh tế cả về tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động. Tiếp tục xây
dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ, tuân thủ
các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, hiệu lực, hiệu quả
hơn… Chú trọng hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện nghiêm pháp luật theo các
nguyên tắc và quy định của Hiến pháp năm 2013.
Văn kiện khẳng định sự cần thiết, đúng đắn của việc ban hành và kiên trì, kiên
quyết tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng; đẩy
mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy
thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ; tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, tổ chức, cán bộ và phương thức lãnh đạo...
50
Các đại biểu dự bế mạc Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.
Ảnh: TTXVN
Chỉ đạo, điều hành linh hoạt, kịp thời, hiệu quả
Về kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, hội
nghị cho rằng: Nhiệm kỳ qua, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã luôn bám sát các quan điểm, đường lối,
cụ thể hóa nhiều nội dung quan trọng của Cương lĩnh,
Chiến lược, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, xây dựng chương trình làm việc
toàn khóa và bổ sung kịp thời phù hợp với tình hình thực tiễn. Qua đó nhằm tập trung
lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vượt qua khó khăn, thách thức, đẩy mạnh toàn
diện sự nghiệp đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa ra các quyết
sách đúng, phù hợp, giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại; xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị đạt được nhiều
thành quả to lớn, toàn diện.
Nổi bật là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã kịp thời, linh
hoạt điều chỉnh trọng tâm chỉ đạo, điều hành theo hướng tập trung ưu tiên kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội. Nền
kinh tế tiếp tục ổn định và phát triển, tiềm lực kinh tế đất nước được nâng lên; tăng
trưởng kinh tế đạt tốc độ khá, năm sau cao hơn năm trước; lạm phát năm 2015 được
kiểm soát ở mức thấp so với nhiều năm gần đây.
Với tinh thần thẳng thắn tự phê bình và phê bình, trung ương cũng chỉ rõ những
mặt còn hạn chế, khuyết điểm; nghiêm túc rút ra một số bài học kinh nghiệm để tiếp tục
thực hiện tốt hơn nữa trong thời gian tới.
Bỏ phiếu biểu quyết đề cử Bộ Chính trị, Ban Bí thư
Tại hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và biểu quyết, nhất trí cao
thông qua danh sách đề cử các Ủy viên Trung ương khóa XI (cả chính thức và dự
51
khuyết) trong độ tuổi và các Ủy viên Trung ương khóa XI thuộc trường hợp “đặc biệt”
tái cử khóa XII; bỏ phiếu biểu quyết đề cử nhân sự các đồng chí đủ tiêu chuẩn, điều
kiện trong độ tuổi tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XII; bỏ phiếu biểu quyết đề
cử nhân sự Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XII.
Các Ủy viên Trung ương khóa XI (cả chính thức và dự khuyết) đã viết phiếu giới
thiệu các Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XI đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong độ
tuổi ứng cử 4 chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và nhà nước.
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã quyết định triệu tập Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng từ ngày 20-1-2016 đến 28-1-2016 tại thủ đô Hà Nội,
trong đó phiên trù bị tổ chức vào ngày 20-1-2016, khai mạc chính thức vào ngày 21-1-2016.
Uy tín trên trường quốc tế nâng cao
Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trước những diễn biến mới, phức tạp của
tình hình quốc tế và khu vực, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã
bình tĩnh, tỉnh táo, xử lý các tình huống một cách khôn khéo, đúng đắn, kiên quyết đấu
tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội; chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng
được nâng cao.
Thảo Nguyên. Đại hội Đảng XII khai mạc ngày 21-1-2016// Người lao động.- 2015.-
Ngày 22 tháng 12.- Tr.1,3.
52
NHÂN TÀI VỚI CÔNG CUỘC KIẾN THIẾT ĐẤT NƯỚC
1- Cách đây 70 năm, vào cuối năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài: "Nhân tài và
kiến quốc", đăng trên Báo "Cứu quốc" (số 91, ngày 14-11-1945). Bài viết tuy ngắn,
nhưng đã toát lên tư tưởng dùng người của Bác. Người nói rằng, muốn giữ vững nền
độc lập, thì chúng ta phải đem hết lòng hăng hái, dốc sức vào con đường kiến quốc.
"Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới
thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi. Kiến quốc
cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa
chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm
nhiều". Người chỉ rõ công việc bây giờ là "Kiến thiết ngoại giao, kiến thiết kinh tế, kiến
thiết quân sự, kiến thiết giáo dục". Người mong đồng bào ta ai có tài năng và sáng kiến
về những công việc đó, lại sẵn lòng hăng hái giúp ích nước nhà, thì xin gửi kế hoạch rõ
ràng lên cho Chính phủ. "Chúng tôi sẽ nghiên cứu kế hoạch ấy một cách kỹ lưỡng có
thể thực hành được thì sẽ thực hành ngay"-Người viết.
Một năm sau, Báo "Cứu quốc" (số 411, ra ngày 20-11-1946), tiếp tục đăng bài
viết của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Hồ Chí Minh với nhan đề: "Tìm người tài đức".
Bài viết chỉ vẻn vẹn nửa trang giấy, nhưng cũng đã toát lên tư tưởng lớn của Người, là
hãy đi tìm người tài đức để sử dụng họ vào công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Người
nêu rõ: "Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu
đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy
không khắp, đến nỗi những bực tài, đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin
thừa nhận. Nay muốn sửa đổi điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa
phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích
nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết.
Báo cáo phải nói rõ: tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở của
người đó. Hạn trong một tháng, các cơ quan, địa phương phải báo cáo cho đủ".
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là để "tránh khỏi sự hao phí nhân tài,
chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo”. Thí dụ: “Bắt buộc cán bộ trong mỗi ngành
phải thiết thực báo cáo và cất nhắc nhân tài". Người khẳng định: “Công việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người
làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi
một người có ích cho công việc của chúng ta" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, sđd, tr. 273).
Trong nhiều bài viết khác, Người kêu gọi mọi người, mọi tổ chức, không phân
biệt tổ chức công lập hay ngoài công lập, hãy tiến cử, giới thiệu, động viên, tôn vinh những
bậc hiền tài, xem đó là việc làm rất có ý nghĩa đối với công cuộc kiến thiết đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trọng dụng nhân tài trong sáng biết bao, đẹp đẽ biết bao, nhân
văn biết bao. Có điều là, cả người tiến cử và người được tiến cử đều phải gặp nhau ở cái tâm hết
sức trong sáng, không vụ lợi, một lòng một dạ vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tài năng và đạo đức tạo thành phẩm chất. Phẩm chất là sự hội tụ của đạo đức và
tài năng. Tài năng và đạo đức là nhân tố để con người tiến thân bằng cả trái tim và khối
óc. Phẩm chất của con người phải được sàng lọc rất kỹ. Ít ai dám nói là mình đã hoàn
53
hảo, nhưng mỗi người phải suốt đời phấn đấu để trở nên hoàn hảo. Sự rèn luyện, tu
dưỡng bản thân là lẽ sống thường tình.
2- Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong những năm đổi mới, Đảng đã có 4 nghị quyết về
xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới, trong đó có Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI: "Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay". Nghị quyết đặc biệt chú trọng đến vấn đề cán bộ
và công tác cán bộ. Vấn đề trong Nghị quyết đặt ra là phải ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là ở
cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và
mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị. Trước đây, đặt vấn đề tự phê bình và phê bình
từ dưới lên, thì Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI đặt vấn đề từ trên xuống. Đó cũng là cách
làm mới của Trung ương.
Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI trình
Đại hội XII của Đảng rất quan tâm đến vấn đề cán bộ và công tác cán bộ, trong đó nhấn
mạnh việc tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân, cơ hội, thực dụng. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh, coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các
cấp chính quyền, các tổ chức chính trị-xã hội, địa phương, đơn vị, gắn với chống suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ. Dự thảo khẳng định: “Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, "lợi ích
nhóm", nói không đi đôi với làm”.
Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI vừa bế mạc đã khẳng
định sự cần thiết, đúng đắn của việc ban hành và kiên trì, kiên quyết tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về xây dựng Đảng, ban hành và thực hiện các quy
định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt
chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp. Tiếp tục đổi mới phương thức tuyển chọn,
bổ nhiệm cán bộ; xây dựng cơ chế, chính sách để các tập thể, cá nhân cán bộ, đảng viên
và nhân dân phát hiện, giới thiệu nhân tài cho Đảng, Nhà nước…
Phát hiện, bồi dưỡng, giới thiệu nhân tài cho Đảng, Nhà nước; phát huy trí tuệ
của nhân dân là công việc hết sức quan trọng và cần thiết, góp phần phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, đưa
đất nước ta vững bước đi lên trên đường đổi mới, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
PGS, TS ĐÀM ĐỨC VƯỢNG
(Nguyên Phó viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng)
Đàm Đức Vượng. Nhân tài với công cuộc kiến thiết đất nước// Quân dội nhân
dân.- 2015.- Ngày 24 tháng 12.- Tr.1,2.
54
THÀNH TỰU 30 NĂM ĐỔI MỚI
BÀI 1: SỰ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG
LTS: Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến năm 2016, công cuộc Đổi mới do
Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo vừa tròn 30 năm với 6 nhiệm kỳ đại
hội. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của các
tầng lớp Nhân dân, sự nghiệp Đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN). Tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng, Báo Quân đội nhân dân gửi đến bạn đọc một số thành tựu cơ bản trên một số
lĩnh vực trong chặng đường 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng.
QĐND - Nhất quán với quan điểm thực tiễn, quan điểm đổi mới và phát triển, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, qua từng kỳ đại hội, Đảng ta từng bước
bổ sung, hoàn chỉnh và không ngừng phát triển đường lối đổi mới phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại và điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam. Những thành
tựu đạt được trong 30 năm Đổi mới minh chứng sự trưởng thành của Đảng về tư duy lý
luận, nâng cao tầm tư tưởng, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bản lĩnh chính
trị của một Đảng cách mạng chân chính có trọng trách lãnh đạo Nhà nước và xã hội với
tư cách một Đảng cầm quyền.
Đổi mới về tư duy, trước hết là tư duy kinh tế
Nhìn lại 5 kỳ đại hội của Đảng giai đoạn vừa qua, một vấn đề nổi bật đó là sự đổi
mới về tư duy, mà trước hết là tư duy kinh tế. Xét trên phương diện lý luận thì đổi mới
tư duy là đổi mới nhận thức ở trình độ lý luận để khắc phục, vượt qua những hạn chế,
khuyết điểm, thậm chí sai lầm của những nhận thức cũ, nhằm đạt tới những nhận thức
mới, xây dựng tư duy lý luận khoa học, phản ánh đúng đắn, chính xác thực tiễn và có
tác dụng thúc đẩy thực tiễn phát triển thông qua đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước dựa trên những luận cứ khoa học, chính xác. Nói theo một cách dễ hiểu hơn, đó
chính là quá trình đổi mới cách nghĩ, cách quan niệm. Có cách nghĩ mới, có quan niệm
mới sẽ dẫn đến cách làm mới, có phương pháp, phong cách hành động mới để tạo ra kết
quả, hiệu quả mới.
Trong quá trình đổi mới, Đảng nhấn mạnh đổi mới tư duy kinh tế chính là để chú
trọng vào bước chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang kinh tế
hàng hóa, phát triển sản xuất hàng hóa. Đây là quá trình thực hiện một trong những
động lực quan trọng nhất của sự phát triển chính là động lực lợi ích, nhất là lợi ích kinh
tế, vật chất; coi lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp, là cơ sở để thực hiện lợi ích xã hội.
Theo đó, với hàng loạt chủ trương, giải pháp đồng bộ, cùng những bước đi vững chắc,
phù hợp với trình độ sản xuất và năng lực quản lý nền kinh tế, Đảng đã lãnh đạo Nhà
nước, lãnh đạo xã hội đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế. Thực hiện
đường lối đổi mới, Đảng đã kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, phương thức
quản lý kinh tế hành chính, mệnh lệnh, tuyệt đối hóa vai trò của kế hoạch, cũng như bao
55
cấp và bình quân... làm triệt tiêu động lực phát triển để áp dụng cơ chế thị trường, chú
trọng hạch toán, tuân thủ quy luật giá trị và các quy luật của sản xuất hàng hóa.
Kiên trì về mục tiêu, linh hoạt trong tổ chức thực hiện, giữ vững nguyên tắc, tuân
thủ quy luật trong lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế nói riêng, xã hội nước ta nói chung đã
nhanh chóng ra khỏi sức ỳ, sự trì trệ, trở nên năng động và tăng trưởng cao hơn. Nhờ đi
vào kinh tế thị trường mà lực lượng sản xuất được giải phóng; trong hoạt động sản
xuất-kinh doanh đã chú trọng đến năng suất, chất lượng, hiệu quả; khắc phục triệt để
tình trạng “ngăn sông, cấm chợ”, mở rộng và kết nối thị trường không chỉ ở từng địa
phương, trên phạm vi cả nước, mà còn là thị trường khu vực và quốc tế; chủ động và
tích cực hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Từ thử nghiệm cơ chế thị
trường đến phát triển nền kinh tế thị trường; từ chỗ coi kinh tế tư nhân thuộc khu vực
“phi xã hội chủ nghĩa” đến nhận thức vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân, coi đó là
động lực quan trọng để phát triển kinh tế; coi tất cả các thành phần kinh tế (kể cả kinh
tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài…) đều là bộ phận cấu thành nền kinh tế
quốc dân. Đó là những kết quả hết sức nổi bật của đổi mới tư duy kinh tế. Việc nhấn
mạnh: Đổi mới trước hết phải đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, thực tiễn trong
suốt 30 năm qua đã khẳng định: Đây là một lựa chọn chính xác của Đảng ta, là một đột
phá tạo tiền đề nhận thức lý luận cho đổi mới. Tuy nhiên, đổi mới tư duy kinh tế chỉ là
một điểm nhấn cần thiết, một nội dung chủ yếu của toàn bộ hệ vấn đề đổi mới tư duy
của Đảng trong thực hiện công cuộc Đổi mới. Vì vậy, đổi mới tư duy kinh tế không
phải là tất cả mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với việc đổi mới tư duy trên
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, tạo ra sự đổi mới đồng bộ, toàn diện, bảo đảm để
đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đặc biệt, trong thực hiện đường lối đổi mới,
Đảng đã kết hợp chặt chẽ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị. Thực chất của đổi mới kinh tế ở Việt Nam là chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vừa vận động
theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt chi phối bởi các nguyên
tắc và bản chất của CNXH; trong đó cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt
để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững
nền kinh tế. Cùng với đó, Đảng cũng tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp để đổi mới
chính trị. Tuy nhiên, đổi mới chính trị ở nước ta không phải là thay đổi chế độ chính trị
hiện nay bằng chế độ chính trị khác, mà là quá trình đổi mới tư duy chính trị về CNXH
và con đường đi lên CNXH; đó cũng là quá trình hoàn thiện tổ chức bộ máy, nội dung,
phương thức hoạt động của cả hệ thống chính trị theo hướng tạo lập nền dân chủ XHCN
và một Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, thể
hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Trọng tâm của đổi mới chính trị là hoàn thiện nội dung và đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, gắn quyền hạn với trách nhiệm trong thực hiện chức năng lãnh
đạo của các cấp ủy Đảng; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong toàn xã hội nhằm phát
56
huy vai trò chủ động của các cơ quan Nhà nước, khả năng sáng tạo to lớn của Nhân
dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nhận thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH
Đây là vấn đề lý luận tổng quát, bao trùm các vấn đề, các lĩnh vực cụ thể của đổi
mới và phát triển ở nước ta. Nhận thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH góp
phần làm sáng tỏ những điểm cốt yếu của lý luận đổi mới theo định hướng XHCN, lý
luận CNXH ở Việt Nam. Thực tiễn qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhận thức
của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH đã có những đổi mới căn bản so với
quan niệm truyền thống về CNXH theo mô hình Xô-viết trước đây, phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Nhận thức mới của Đảng về
CNXH và con đường đi lên CNXH biểu hiện trước hết là hệ mục tiêu của đổi mới-đặc
trưng tổng quát của CNXH ở Việt Nam. Ngay từ Đại hội VI của Đảng, Đảng ta đã xác
định thực hiện đường lối đổi mới với mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh.
Kế thừa và phát triển mục tiêu trên, qua các kỳ đại hội, thực hiện đường lối đổi mới,
Đảng luôn đặt và giải quyết mối quan hệ giữa dân giàu với nước mạnh ở vị trí hàng
đầu. Đây là nền móng căn cốt, khởi đầu cho tư duy mới về CNXH–một CNXH dựa trên
sự giàu có; khác xa với tư duy giáo điều một thời dị ứng với sự “giàu có”, coi giàu có là
chủ nghĩa tư bản, sản phẩm của chủ nghĩa tư bản; quan niệm đó xa lạ với tư duy phát
triển hiện đại mà chúng ta hướng tới trong Đổi mới.
Những mục tiêu nêu trên của Đại hội VI có giá trị định hướng rất quan trọng với
sự phát triển của đất nước, mà sâu xa là phát triển tiềm lực sáng tạo của Nhân dân,
hướng mục đích của Đổi mới vào việc phục vụ quyền lợi của Nhân dân. Từ những bước
đi ban đầu và đem đến những thành công nhất định trong thực hiện đường lối đổi mới,
mục tiêu tổng quát luôn được Đảng ta phát triển, bổ sung, hoàn thiện phù hợp với quá
trình nhận thức và sự phát triển của xã hội, nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Tổng kết, đánh giá thành tựu sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội X của
Đảng khẳng định: 20 năm qua với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, công cuộc Đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử... Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã được hình
thành trên những nét cơ bản.
Kiên trì thực hiện, chủ động nghiên cứu tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, đến
Đại hội XI của Đảng, Đảng ta đã hình thành hệ thống quan điểm lý luận về CNXH và
con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Hệ thống quan điểm trên chính là 8 đặc trưng của
xã hội XHCN được đề cập một cách cụ thể trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), bao gồm: “Xã hội, XHCN
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
phát triển hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
57
giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới”. Cùng với 8 đặc trưng trên, Đảng ta cũng đồng thời xác định 8 phương
hướng xây dựng CNXH. Phương hướng đó chính là con đường, phương thức xây dựng
CNXH ở Việt Nam. Đặc biệt, Đảng nêu rõ 8 mối quan hệ lớn cần phải nhận thức đúng
và giải quyết tốt, bao gồm: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát
triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN;
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc
tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Những mối quan hệ đó có quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một chỉnh thế,
một hệ thống toàn diện, thống nhất trong thực hiện sự nghiệp Đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Đó chính là những quy luật, những tính quy luật mà công cuộc Đổi mới, xây
dựng CNXH ở Việt Nam tất yếu phải tuân theo để đạt đến mục tiêu cao nhất: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nhận thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH của Đảng ta còn được thể
hiện trên lĩnh vực lý luận trong đổi mới kinh tế, mà điểm cốt yếu, quan trọng nhất chính
là xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó còn là lý luận về
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, giải
quyết các vấn đề xã hội trong quản lý phát triển xã hội ở nước ta. Đó còn là hệ thống lý
luận về xây dựng nền dân chủ, Nhà nước pháp quyền XHCN và đổi mới hệ thống chính
trị; hệ thống lý luận về phát triển văn hóa, xây dựng con người mới XHCN; về quốc
phòng-an ninh, đối ngoại và về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Từ những nét khái quát nêu trên, có thể khẳng định và là minh chứng về sự phát
triển đường lối đổi mới của Đảng. Sự phát triển đường lối đổi mới của Đảng chính là
thành tựu nổi bật nhất, bao trùm nhất trong thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo. Chính nhờ có đường lối đúng đắn, phù hợp, không ngừng được
bổ sung, hoàn thiện qua từng kỳ đại hội, Đảng đã lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội,
phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giành được những thành
tựu quan trọng và có ý nghĩa lịch sử, được thế giới ghi nhận. Việt Nam đã và đang trở
thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư và bạn bè trên thế giới...
Bài 2: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
-------------------------------
LÊ NGỌC LONG
Lê Ngọc Long. Sự phát triển đường lối đổi mới của Đảng// Quân đội nhân dân.-
2016.- Ngày 08 tháng 01.- Tr.1,7.
58
THÀNH TỰU 30 NĂM ĐỔI MỚI
BÀI 2: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn, sát
thực tế hơn tính tất yếu, mục tiêu, bản chất, đặc trưng, cấu trúc và cơ chế vận hành của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Nhìn lại thời kỳ đầu thực
hiện đường lối đổi mới, khi đó Đảng ta mới chỉ quan niệm kinh tế hàng hóa có những
mặt tích cực cần vận dụng. Quá trình đổi mới, từ thực tiễn, Đảng ta xác định: Kinh tế
hàng hóa, kinh tế thị trường là phương thức, điều kiện tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã
hội (CNXH); từ đó áp dụng cơ chế thị trường, đưa ra quan niệm và từng bước hoàn
thiện, cụ thể hóa mô hình và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Nhận thức lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN bắt nguồn từ những cơ sở lý luận
và thực tiễn sâu sắc. Như chúng ta đã biết, trước Đại hội VI của Đảng, nền kinh tế nước
ta vận hành trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Thực
hiện đường lối đổi mới, với tư duy mới về kinh tế, Đảng ta nhận thức ngày càng rõ và
khẳng định: Sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường không đối lập với CNXH mà là thành
tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc
xây dựng CNXH. Có thể thấy rằng, đây là bước đột phá căn bản trong tư duy, tạo cơ sở
lý luận, khoa học cho việc lựa chọn mô hình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta. Thực tiễn minh chứng, kinh tế thị trường có khả năng thích
ứng với mọi hình thái kinh tế-xã hội khác nhau. Có thể nhận thấy, tính đa dạng của các
nền kinh tế thị trường hiện nay tại các quốc gia trên thế giới với sự khác biệt về cơ cấu
sở hữu và cấu trúc xã hội. Kinh tế thị trường gắn liền với sản xuất hàng hóa và hoàn
toàn có thể được xây dựng tại những quốc gia có những chế độ chính trị-xã hội khác
nhau, với các mô hình kinh tế thị trường cụ thể, đa dạng gắn liền với hình thái kinh tế-
xã hội và chế độ chính trị xã hội của mỗi nước. Theo đó, Đảng ta lựa chọn mô hình phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN để đạt được mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Ảnh minh họa
59
Vậy, bản chất, đặc trưng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là
gì? Đó là nền kinh tế thị trường vừa bảo đảm yêu cầu phát triển hiện đại và hội nhập
kinh tế quốc tế, đồng thời phù hợp với những điều kiện, đặc thù và giá trị truyền thống
của Việt Nam. Đảng ta chỉ rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị
trường vừa tuân thủ những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được
dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”. Vì vậy, cần phân biệt rõ
sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, người làm chủ là giới chủ
tư sản; trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì người làm chủ là đông đảo
nhân dân lao động, do nhà nước của dân, do dân, vì dân đại diện quản lý, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản. Đây chính là sự khác biệt căn bản nhất giữa nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Các mặt kỹ
thuật và tổ chức còn lại của nền kinh tế thị trường như nguyên tắc trao đổi hàng hóa, kỹ
thuật kiểm soát nền kinh tế… hoạt động ở trạng thái hiệu quả đều là thành quả tiến hóa
chung mang tính nhận thức và khoa học của loài người. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường
định hướng XHCN khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là không dùng quyền
chiếm hữu tư liệu sản xuất để nô dịch, bóc lột đa số người lao động, đồng thời cũng
không giống như mô hình kinh tế kế hoạch hóa quan liêu, bao cấp trước đây. Kinh tế thị
trường định hướng XHCN lấy những nguyên tắc của kinh tế thị trường làm nền tảng
cho cơ chế vận hành, sử dụng những nhân tố tích cực để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Kinh tế thị trường theo mô hình mà Đảng ta lựa chọn là phương thức phát triển kinh tế
dựa trên những nguyên tắc của thị trường có sự điều tiết của Nhà nước pháp quyền
XHCN. Kinh tế thị trường không thể tự nó quyết định bản chất và định hướng phát triển
của một chế độ chính trị-xã hội. Bản chất của chế độ chính trị-xã hội quyết định bản
chất của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, giữ vững định hướng XHCN trong phát triển
kinh tế thị trường là bảo đảm cho việc thực hiện thành công mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Với bản chất nêu trên, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta bao gồm đặc
trưng, bộ phận cấu thành và cơ chế vận hành như sau: Đó là nền kinh tế quá độ của xã hội quá
độ đang trong quá trình chuyển biến cách mạng từ nấc thang thấp sang nấc thang cao trong
phát triển; hệ thống mục tiêu, động lực của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; chế độ
sở hữu và thành phần kinh tế; quan hệ phân phối; nguyên tắc giải quyết các mặt và mối quan
hệ chủ yếu; cơ chế vận hành kinh tế thị trường; phát triển nền kinh tế mở, hội nhập quốc tế;
chủ thể lãnh đạo, quản lý thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN là Nhà nước pháp
quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
Trong suốt 30 năm qua, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu rất
đáng khích lệ. Từ một quốc gia lạc hậu, thiếu đói thường xuyên, kém phát triển, đến
60
nay chúng ta đã trở thành nước xuất khẩu lúa gạo hàng đầu thế giới, trở thành nước
đang phát triển. Thật khó có thể liệt kê, thống kê một cách đầy đủ những thành tựu
trong phát triển kinh tế suốt 30 năm qua, nhưng cũng có thể nhận diện trên một số vấn
đề cơ bản sau.
Trước hết, đó là việc thể chế hóa đường lối phát triển kinh tế thành pháp luật, cơ
chế, chính sách. Trong 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Quốc hội đã 3 lần sửa đổi
và ban hành Hiến pháp; sửa đổi và ban hành trên 150 bộ luật và luật; Ủy ban Thường
vụ Quốc hội đã ban hành trên 70 pháp lệnh… tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi và
vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013
đã quy định quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm,
thể hiện rõ hơn bản chất nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; thể hiện một cách
khái quát, rõ ràng tư tưởng, quan điểm của Đảng về nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Thành tựu kinh tế sau 30 năm đổi mới không thể không nhắc tới sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Theo đó, so với thời kỳ trước đổi mới, đến nay diện mạo đất
nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền
kinh tế tăng lên, đời sống Nhân dân không ngừng được cải thiện. Ví như, giai đoạn
1986 - 1990, tăng trưởng GDP bình quân hằng năm của nước ta chỉ đạt 4,4%, nhưng
đến giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm, gấp đôi so với 5 năm trước
đó. Giai đoạn 1996 - 2000, mặc dù chịu sự tác động của khủng hoảng tài chính khu vực;
thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta vẫn
đạt 7% (bình quân giai đoạn này tăng 7,6%/năm). Những năm gần đây, tuy tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế có giảm do chịu nhiều tác động, nhưng kinh tế nước ta vẫn đạt
mức độ tăng trưởng cao so với các nước trên thế giới, giai đoạn 2011 - 2015, GDP ước
đạt mức tăng bình quân 5,9%. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân
đầu người ở nước ta cũng được nâng lên. Năm 2015, thu nhập bình quân đầu người ở
nước ta đạt hơn 2.200USD. Đặc biệt, theo báo cáo cập nhật tình hình phát triển kinh tế
Việt Nam vừa được Ngân hàng Thế giới (World Bank) công bố ngày 2-12-2015 nhận
định, kinh tế Việt Nam đã ứng phó tương đối tốt trước những biến động của môi trường
kinh tế bên ngoài với tăng trưởng GDP ước tính đạt mức 6,5% trong năm 2015 và dự
báo đạt 6,6% trong năm 2016.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng
của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Doanh nghiệp nhà nước
được sắp xếp, đổi mới, tổ chức lại, đóng góp gần 40% GDP, chi phối nhiều ngành kinh
tế then chốt và tập trung hơn vào những lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế. Doanh
nghiệp tư nhân phát triển nhanh, hoạt động hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, đóng góp hơn
45% GDP góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội, nhất là giải quyết việc làm
và cải thiện đời sống Nhân dân. Cùng với sự phát triển về kinh tế, thực hiện đường lối
đổi mới, Đảng, Nhà nước đã kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế gắn với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; khắc phục căn bản tâm lý thụ động, trông chờ, ỷ lại vào
Nhà nước; tạo ra sự năng động của nền kinh tế, góp phần rất quan trọng nâng cao mức
61
sống của người dân. Theo đó, tỷ trọng đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho an sinh xã hội
trong 30 năm qua khoảng hơn 28%/năm. Nguồn lực huy động từ cộng đồng, cá nhân,
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và sự hợp tác quốc tế cho an sinh chiếm
khoảng 30%. Từ những chủ trương trên, tốc độ giảm nghèo ở nước ta diễn ra nhanh và
liên tục qua các năm. Theo chuẩn nghèo của Ngân hàng Thế giới tính cho Việt Nam thì
tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58,1% (năm 1993) xuống còn khoảng 5% (năm 2015). Số lượng
đối tượng được trợ giúp xã hội thường xuyên ngày càng mở rộng và tăng nhanh. Giáo
dục, y tế, văn hóa từng bước phát triển. Công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội
được tăng cường.
Cùng với những thành tựu nổi bật trên, quá trình đổi mới về kinh tế chúng ta còn
đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc hoàn thiện chế độ sở hữu, thành phần
kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; phát triển các loại hình thị trường; chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền
kinh tế; phát huy tốt vai trò làm chủ của Nhân dân, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp trong phát triển kinh tế; tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với phát triển kinh tế…
Tóm lại, sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta đã từng bước hình thành và phát triển; thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN được quan tâm xây dựng và từng bước hoàn thiện. Thực lực
của nền kinh tế tăng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng
trưởng kinh tế được duy trì hợp lý. Việt Nam được đánh giá là nhóm quốc gia có mức
tăng trưởng khá cao trên thế giới. Những kết quả đó là thành tựu nổi bật trong thực hiện
các chủ trương, giải pháp xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, sự nỗ lực của
các thành phần kinh tế. Kết quả đó còn là sự đoàn kết, đồng lòng, phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
LÊ NGỌC LONG
Bài 3: Giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa
Lê Ngọc Long. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa// Quân đội nhân
dân.- 2016.- Ngày 09 tháng 01.- Tr.1,7.
62
THÀNH TỰU 30 NĂM ĐỔI MỚI
BÀI 3: GIỮ VỮNG ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ, BẢO VÊ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC
VIÊT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, giữ nước từ khi nước chưa nguy, giữ
nước từ thời bình được Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc trong quá trình đổi mới
nhận thức về hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong các nghị
quyết, Đảng ta đều xác định: Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành
công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN). Giữ vững ổn
định chính trị, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là một trong những thành
tựu nổi bật trong 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Phát triển và hoàn thiện nhận thức của Đảng về bảo vệ Tổ quốc
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN. Đảng ta luôn khẳng định, bảo vệ Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ
chiến lược. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có mối quan hệ biện chứng, không tách rời
nhau; trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, đồng thời Đảng rất coi
trọng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta khẳng định: Phát triển kinh tế là trung tâm,
xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa-nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố
quốc phòng-an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Việc nhận thức đúng và cụ
thể hóa mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tạo cơ sở quan trọng cho sự
nghiệp củng cố quốc phòng-an ninh, bảo vệ Tổ quốc; đồng thời tạo thuận lợi cho phát
triển kinh tế-xã hội, xây dựng đất nước. Những thành tựu quan trọng trong giữ vững ổn
định chính trị, môi trường hòa bình, phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,
tăng cường quốc phòng-an ninh… đã chứng tỏ nhận thức đúng đắn của Đảng về kết
hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cả trong lãnh đạo, chỉ
đạo và tổ chức thực hiện. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, Đảng
ta xác định sức mạnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp, bởi vậy, đối
ngoại trở thành một mặt trận quan trọng góp phần ngăn ngừa xung đột vũ trang, ngăn
ngừa chiến tranh, tạo dựng môi trường hòa bình để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì
vậy, trong quá trình thực hiện, Đảng chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng-an
ninh với công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế; lấy hợp tác là chính, đấu tranh để hợp tác
quốc tế tốt hơn, tránh căng thẳng, đối đầu.
Không chỉ nhận thức một cách đầy đủ việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh
tế với tăng cường, củng cố quốc phòng-an ninh và đối ngoại, thực hiện đường lối đổi
mới, Đảng ta cũng đã nhận thức rõ hơn và phát triển về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc phù hợp với tình hình thế giới, khu vực và yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong
nước; giải quyết hài hòa giữa nhu cầu bảo vệ và khả năng của đất nước. Đây là cơ sở
hết sức quan trọng để Đảng ta thống nhất và huy động được các nguồn lực tham gia bảo
vệ Tổ quốc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
(năm 1991), mục tiêu bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta xác định là: Bảo vệ vững chắc độc
63
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ chế độ XHCN, sự ổn định chính
trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và
hành động chống phá của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta. Từ thực tiễn của sự nghiệp cách mạng và yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới, khi ban hành Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) và sau đó là
Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới”, Đảng ta đã xác định mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc một cách đầy
đủ, toàn diện hơn, bao gồm: Bảo vệ Tổ quốc XHCN không những là bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc mà còn bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã
hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng,
phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Đặc biệt, trước những vấn đề thực tiễn đặt
ra, Đại hội XI đã đưa vấn đề “giữ vững chủ quyền biển, đảo” vào nhiệm vụ bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đưa vấn đề “ứng phó với các
mối đe dọa an ninh phi truyền thống” vào nhiệm vụ an ninh, quốc phòng và nhấn mạnh
vấn đề an ninh chủ động.
Ảnh minh họa/TTXVN
Cùng với đó, nhận thức về quan điểm và phương châm chỉ đạo nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc của Đảng cũng được phát triển toàn diện, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc; là cơ sở để vận dụng, giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. Theo đó, Nghị
quyết Trung ương 8 (khóa XI) xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước; mối quan hệ gắn bó giữa mục tiêu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc với giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước.
64
Để khắc phục những hạn chế trước đây, Đảng đã cụ thể hóa phương châm chỉ
đạo: Kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược.
Kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở bảo đảm
lợi ích quốc gia, dân tộc, phù hợp với luật pháp quốc tế; có đối sách phù hợp. Từ
phương châm đó, Đảng xác định: Bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; sức mạnh tổng hợp của
đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc phòng-an ninh, đối ngoại;
sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh
của chế độ chính trị, sức mạnh của nền kinh tế và tiềm lực quốc gia, sự trong sạch của
đội ngũ cán bộ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định.
Như vậy, theo quan niệm của Đảng, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị. Đảng chỉ rõ vai trò của
từng thành tố và phương thức tạo ra sức mạnh tổng hợp, lấy sức mạnh chính trị, tinh
thần làm cốt lõi, xuyên suốt; lấy đại đoàn kết dân tộc làm động lực chủ yếu; lấy xây
dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng, phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc.
Thành tựu nổi bật
Thành tựu nổi bật, cơ bản, bao trùm trong suốt 30 năm thực hiện đường lối đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng bằng việc phát huy sức mạnh tổng hợp là độc lập chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc được giữ vững; bảo vệ lợi ích quốc gia,
dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, giữ vững ổn định chính
trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, tạo ra những điều kiện hết sức
thuận lợi để đất nước phát triển nhanh, toàn diện và vững chắc.
Nhìn lại thực tiễn 30 năm qua, nhất là 10 năm gần đây, tình hình quốc tế và khu
vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; đất nước gặp không ít khó khăn, thách
thức; các thế lực thù địch tăng cường chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta,
nhất là những âm mưu, thủ đoạn hết sức thâm hiểm trong thực hiện chiến lược “diễn
biến hòa bình”, lợi dụng những khó khăn, hạn chế về quản lý kinh tế-xã hội ở trong
nước thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trong bối cảnh đó, những thành tựu đạt
được trên lĩnh vực quốc phòng-an ninh, nhất là giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững môi
trường hòa bình không những tạo điều kiện thuận lợi để đất nước phát triển toàn diện,
mà còn là minh chứng sinh động về những chủ trương, giải pháp lãnh đạo của Đảng,
quản lý điều hành của Nhà nước; sự đồng tâm, nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân; sự kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại... Kết
quả đó không chỉ đem lại những thành tựu trong phát triển kinh tế-xã hội, mà còn nâng
cao uy tín, vị thế của đất nước trên trường quốc tế; thể hiện rõ vai trò, vị trí của Việt
Nam trong khu vực và trên thế giới. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn
dân, thế trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng-an ninh được tăng
cường, sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc được nâng lên một bước.
65
Với tư duy đổi mới và sáng tạo, với quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng
cường củng cố quốc phòng-an ninh và đối ngoại một cách có hiệu quả. Đó cũng chính
là bước cụ thể hóa việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng mang lại những
thành tựu rất quan trọng. Trong từng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội,
Đảng, Nhà nước đều đặc biệt chú trọng đến việc đáp ứng yêu cầu về quốc phòng-an
ninh. Đồng thời, trong thực hiện chiến lược về quốc phòng-an ninh đều đã điều chỉnh
kế hoạch, thế trận, bố trí lực lượng, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hợp tác, phát
triển kinh tế-xã hội, tăng cường khả năng dự trữ và huy động vật chất phục vụ nhiệm vụ
quốc phòng-an ninh. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với
thế trận an ninh nhân dân được xây dựng toàn diện, có bước phát triển cả về chiều rộng
và chiều sâu; tiềm lực, lực lượng và thế trận quốc phòng-an ninh ngày càng được tăng
cường, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Lực lượng quốc phòng
được quan tâm xây dựng, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang được nâng lên.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, Đảng, Nhà nước đã chủ trương đầu tư xây dựng
toàn diện lực lượng vũ trang theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; trong đó hết sức coi trọng xây dựng
lực lượng vũ trang về chính trị, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành
với Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu
trung thành tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực sự là lực lượng nòng cốt
trong bảo vệ Tổ quốc.
Một thành tựu nổi bật trong thực hiện đường lối đổi mới về quốc phòng-an ninh
là đã không ngừng giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang, sự nghiệp quốc phòng-an ninh, bảo vệ Tổ
quốc. Vai trò lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở đối với sự nghiệp quốc
phòng-an ninh, bảo vệ Tổ quốc được thể hiện rõ và luôn là nhân tố quyết định thắng lợi.
Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương, đảng ủy các quân khu, đảng ủy
quân sự ở các địa phương đã giữ vững vai trò lãnh đạo đối với nhiệm vụ quốc phòng-an
ninh. Các tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang thường xuyên được củng cố, kiện toàn,
phát huy tốt vai trò, hiệu lực lãnh đạo của Đảng. Toàn Đảng và từng cấp ủy luôn nắm
vững quyền lãnh đạo cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức đối với sự nghiệp quốc phòng-
an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Mọi hoạt động, nhiệm vụ về quốc phòng-an ninh đều đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng các cấp thể hiện trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp
quốc phòng-an ninh theo chức năng, nhiệm vụ, nội dung và phạm vi quy định cho từng
cấp. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng-an ninh, bảo vệ Tổ
quốc cũng được đổi mới theo hướng sát cơ sở, sát thực tiễn. Cơ chế lãnh đạo của Đảng
được hoàn thiện và vận dụng hiệu quả trong thực tiễn; hiệu lực quản lý Nhà nước được
nâng lên. Việc ban hành Nghị quyết số 51 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục hoàn thiện cơ
chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ
chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam” góp phần rất quan trọng
hoàn thiện thêm một bước cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân. Nghị
66
quyết số 28 của Bộ Chính trị (khóa X) về xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc góp phần hoàn chỉnh một bước quan
trọng về cơ chế vận hành của khu vực phòng thủ. Thực chất đây chính là bước hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ở các địa phương.
Cùng với đó, thực hiện đường lối đổi mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cũng có
nhiều giải pháp hết sức chủ động đập tan âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực
thù địch, nhất là âm mưu “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang”, đòi đa nguyên, đa
đảng…
LÊ NGỌC LONG
Bài 4: Hiệu quả công tác xây dựng Đảng
Lê ngọc Long. Giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa// Quân đội nhân dân.- 2016.- Ngày 10 tháng 01.- Tr1,7.
67
THÀNH TỰU 30 NĂM ĐỔI MỚI
BÀI 4: HIÊU QUẢ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG
(Tiếp theo và hết)
Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là khâu then chốt,
là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Trong suốt quá trình thực hiện
đường lối đổi mới, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm, chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo và tiến
hành đồng bộ, hiệu quả các chủ trương, giải pháp về công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, để Đảng thực sự ngang tầm nhiệm vụ, hoàn thành trọng trách chèo lái con thuyền
cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đổi mới tư duy, nhận thức lý
luận về xây dựng Đảng một cách đầy đủ, toàn diện qua 30 năm thực hiện đường lối đổi
mới là những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Xác định rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của Đảng
Xác định đúng bản chất của Đảng là vấn đề cực kỳ quan trọng, chi phối toàn bộ
công tác xây dựng Đảng và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân còn
nhỏ bé. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là sự kết hợp giữa chủ nghĩa
Mác - Lê-nin với phong trào công nhân, mà còn với phong trào yêu nước. Quy luật ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện rõ tính đặc thù của cách mạng Việt Nam, là
sự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã nhiều lần khẳng định: Đảng Cộng sản
Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam. Từ quan điểm đó, Đảng ta ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích không
chỉ của giai cấp công nhân, mà còn là vì lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể dân
tộc. Ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào
khác. Chính vì vậy, trong hoạt động thực tiễn, trong lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn
được nhân dân yêu thương, cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ. Nhân dân thừa nhận Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng của chính mình, đại diện cho lợi ích của mình trong xã hội.
Ảnh minh họa. Nguồn: qdnd.vn
68
Từ nhận thức và thực tiễn đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của dân tộc. Khẳng định bản chất của Đảng vừa thể hiện bản chất giai
cấp công nhân của Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vừa thể hiện nét đặc thù của
Đảng ta theo sự phát triển sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tế Việt
Nam, đáp ứng được nguyện vọng, tình cảm của nhân dân Việt Nam. Khẳng định bản
chất của Đảng như trên hoàn toàn không phải hạ thấp bản chất giai cấp công nhân của
Đảng, trượt sang quan điểm “đảng toàn dân”, mà chính là hiểu bản chất của Đảng ta
một cách sâu sắc, nhuần nhuyễn hơn. Điều đó đòi hỏi Đảng ta không những phải trung
thành với giai cấp công nhân, nâng cao lập trường, tư tưởng của giai cấp công nhân, mà
còn phải tích cực học tập, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tăng cường đoàn kết,
tập hợp nhân dân, phát huy mọi tiềm năng, sáng tạo của nhân dân, phấn đấu vì lợi ích
của giai cấp, của dân tộc. Nhận thức đầy đủ và sâu sắc về bản chất của Đảng chính là
bước phát triển về tư duy lý luận, là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lê-nin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam; một thành tựu nổi bật về công tác
xây dựng Đảng qua 30 năm kiên trì thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và được lãnh
đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng, vô
tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”. Trong cuốn
“Đường Kách mệnh”, Người viết: “Cách mạng trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có
đảng cách mệnh… Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có
vững thuyền mới chạy”. Những quan điểm, tư tưởng đó thể hiện vai trò, thẩm quyền và trách
nhiệm của Đảng đối với đất nước, đối với nhân dân và dân tộc Việt Nam. Phát triển quan
điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Đảng
ngày càng được thể hiện rõ nét trong thực tiễn của đời sống xã hội. Hiến pháp năm 2013, thể
chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển
năm 2011), khẳng định: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống
đó. Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân,
dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của Nhân dân, hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật.
Cùng với những thành tựu đạt được nêu trên, công tác xây dựng Đảng qua 30
năm thực hiện đường lối đổi mới còn được thể hiện ở việc xác định rõ ràng, đầy đủ về
nền tảng tư tưởng của Đảng. Tại Đại hội VII, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng. Đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng, tạo tiền đề, điều kiện để
Đảng hoàn thành trọng trách cầm quyền lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ
rõ: Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-
69
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn
cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, tôn
trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: Sai lầm về đường
lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên. Chính từ nhận thức
đó mà Đảng ta đã xác định được các chủ trương, biện pháp, nội dung, nhiệm vụ về công
tác xây dựng Đảng vừa mang tính chiến lược, vừa tập trung giải quyết được những vấn
đề cấp bách đặt ra, vừa phù hợp với điều kiện, thực tiễn khách quan, mang lại hiệu quả.
Bởi vậy, trên lĩnh vực công tác xây dựng Đảng, Đảng đã có nhiều giải pháp mang tính
đồng bộ chú trọng cả xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đồng
thời chủ động và thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo.
Thành tựu trong công tác xây dựng Đảng
Thực hiện đường lối đổi mới, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn được
Đảng ta đặc biệt coi trọng. Theo đó, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan
trọng lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Xuất phát từ vị
trí, vai trò và sứ mệnh của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, cho thấy:
Công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Tiến hành công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng không chỉ là trách nhiệm, nhiệm vụ của các tổ chức đảng và đảng viên, mà đó
là trách nhiệm của toàn xã hội, của mọi tầng lớp nhân dân và của cả dân tộc. Bởi, Đảng
có mạnh mới đủ sức lãnh đạo xã hội, lãnh đạo đất nước, lãnh đạo dân tộc giành thắng
lợi. Lịch sử dân tộc đã minh chứng: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta được hoàn
toàn giải phóng; đất nước ta hoàn toàn được độc lập; nhân dân ta được hoàn toàn tự do;
đời sống nhân dân từng bước được cải thiện và nâng cao; vị thế Việt Nam ngày càng
được khẳng định trên trường quốc tế. Hơn nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi
ích nào khác, mục tiêu nào khác là phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
độc lập, giàu mạnh; nhân dân được hưởng hạnh phúc, ấm no, “ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”.
Kế thừa kinh nghiệm và kết quả đạt được trong thực tiễn công tác xây dựng
Đảng, nhất là việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII,
Đảng tiếp tục ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay”. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây
dựng Đảng tuy thời gian chưa dài, nhưng với quyết tâm chính trị cao, cùng sự đồng
thuận, giúp đỡ của nhân dân, bước đầu đã giành được những kết quả hết sức quan trọng,
có tác động góp phần thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định chính trị,
phát triển kinh tế-xã hội, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân. Kết quả thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng đã tạo được sự chuyển biến nhất
định trong ngăn ngừa, đầy lùi tình trạng suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; bước đầu khắc phục được một số
70
hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ và thực hiện nguyên tắc tổ chức của Đảng,
nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Đảng từng bước được nâng cao. Qua kiểm điểm, tự phê bình và
phê bình, kết hợp với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; với công tác thanh tra,
kiểm toán của Nhà nước và công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ
pháp luật, chỉ tính trong 3 năm (2012, 2013, 2014), toàn Đảng đã xử lý kỷ luật hơn
54.000 đảng viên ở các cấp; xóa tên, cho ra khỏi Đảng hàng nghìn trường hợp khác, có
tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm; siết lại kỷ cương, kỷ luật,
tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi được một
số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, góp phần làm trong sạch nội bộ Đảng.
Thành tựu về công tác xây dựng Đảng trong 30 năm qua còn được thể hiện trên
lĩnh vực công tác tư tưởng. Trong tiến hành công tác tư tưởng, Đảng ta đã tiến hành
đồng bộ nhiều chủ trương, giải pháp, trong đó đặc biệt là tổ chức thực hiện có hiệu quả
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo tinh thần
Chỉ thị số 06 của Bộ Chính trị (khóa X) và Chỉ thị số 03 của Bộ Chính trị (khóa XI) về
"Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; xác
định thực hiện tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một
trong những biện pháp quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng
Đảng vững mạnh về tư tưởng. Đến nay, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh đã trở thành việc làm thường xuyên, quan trọng trong đời sống hằng ngày
của mỗi tổ chức đảng, của từng cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Trên lĩnh vực xây dựng Đảng về tổ chức, Đảng luôn khẳng định tính đồng bộ,
toàn diện trong xây dựng Đảng ở mọi cấp; thấy rõ và sâu sắc hơn sự tác động qua lại
giữa xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở và cấp trên cơ sở; mối quan hệ giữa xây dựng tổ
chức với nâng cao chất lượng đảng viên. Đảng đã bổ sung, phát triển các nguyên tắc, tổ
chức hoạt động trong tình hình mới; thực hiện đồng bộ các giải pháp về công tác cán
bộ, từ việc phát hiện, quy hoạch đến đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, sử dụng, luân chuyển
cán bộ… Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, lần đầu
tiên Ban Chấp hành Trung ương xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Bộ
Chính trị quyết định tổ chức 2 lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho hơn 150 đồng
chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI); 6 lớp bồi dưỡng cán bộ dự
nguồn cao cấp cho hơn 500 đồng chí; 3 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ theo chức danh cho
hơn 170 đồng chí bí thư cấp ủy cấp huyện; điều động, luân chuyển, sắp xếp, bố trí lại
nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức và trong quy hoạch ở Trung ương, các địa
phương, phục vụ công tác chuẩn bị nhân sự đại hội đảng bộ cấp tỉnh, thành phố nhiệm
kỳ 2015-2020 và Đại hội XII của Đảng. Đặc biệt, Đảng ta ngày càng xác định rõ hơn
tiêu chuẩn của từng loại cán bộ trong thời kỳ đổi mới, nhấn mạnh các tiêu chuẩn về lập
trường tư tưởng, chính trị; năng lực thực tiễn; uy tín trong Đảng, trong nhân dân; tư duy
đổi mới, sáng tạo, khả năng tiếp cận, nắm bắt, xử lý hiệu quả các vấn đề mới phát sinh;
71
đoàn kết, dân chủ, sâu sát, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; không tham ô,
tham nhũng, lãng phí…
Với những thành tựu đạt được trên từng lĩnh vực đã góp phần quan trọng xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Thành tựu trong xây dựng, chỉnh
đốn Đảng thể hiện rõ bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục
tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; kiên định đường lối đổi mới để Đảng ta xứng đáng là người lãnh
đạo xã hội, lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp đổi mới giành được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
* Lời kết: Thật khó có thể kể hết, nêu hết những thành tựu trên từng lĩnh vực của đời
sống xã hội qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bởi
vậy, loạt bài viết chỉ xin đề cập những nét khái quát trên một số lĩnh vực, một số vấn đề
hết sức cơ bản trong chặng đường 30 năm thực hiện đường lối đổi mới. Qua 30 năm
thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong điều kiện, hoàn cảnh còn
không ít khó khăn, thách thức; nhưng những thành tựu mà Đảng ta, nhân dân ta đã đạt
được là hết sức to lớn, có ý nghĩa lịch sử khẳng định việc tiến hành đổi mới là sự lựa
chọn chính xác và minh chứng đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, cách mạng,
khoa học. Thành tựu đó là cơ sở để tạo dựng niềm tin, tiếp tục phát huy những giá trị
truyền thống của dân tộc và bài học kinh nghiệm từ thực tiễn, động viên toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân vượt qua khó khăn, thách thức tiến lên giành những thắng lợi mới,
phấn đấu thực hiện thành công mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”, tiến lên CNXH trong giai đoạn cách mạng mới.
LÊ NGỌC LONG
Lê Ngọc Long. Hiệu quả công tác xây dựng Đảng// Quân đội nhân dân.- 2016.-
Ngày 11 tháng 01.- Tr.1,3.
72
ĐẠI HỘI XII TIẾP TỤC TINH THẦN ĐỔI MỚI
“Trong 30 năm đổi mới, chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
quan trọng. Đại hội XII tiếp tục tinh thần đổi mới của 30 năm đổi mới”, ông
Thuận Hữu trao đổi tại buổi ra mắt Trung tâm báo chí và họp báo về Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XII ngày 18/1.
Đồng chí Đinh Thế Huynh và các đại biểu cắt băng khai trương Trung tâm báo chí. Ảnh: TTXVN.
Chủ trì cuộc họp báo có ông Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư
Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, ông Hoàng Bình Quân,
Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương; ông Thuận Hữu, Tổng Biên tập báo Nhân Dân,
Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam; ông Mai Văn Chính, Phó Trưởng ban Tổ chức Trung
ương; ông Lê Quang Vĩnh, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng; ông Nguyễn Thế
Kỷ, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; ông Trương Minh Tuấn, Thứ trưởng Bộ
Thông tin và Truyền thông.
Tại buổi họp báo, ông Đinh Thế Huynh cho biết: Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 20 – 28/1 tại Hà Nội. Chủ đề Đại
hội XII là: Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn
dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới;
bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa
Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Gần 600 phóng viên, kỹ thuật viên các cơ quan báo chí trong nước, 20 cơ quan
báo chí nước ngoài với 118 phóng viên đăng ký đưa tin về Đại hội. Tiền Phong lược
ghi phần hỏi đáp tại buổi họp báo:
Tiếp thu tối đa các góp ý
Đâu là những điểm mới của dự thảo Văn kiện? Có ý kiến cho rằng, Đại hội XII là khởi
đầu của công cuộc đổi mới lần hai, xin cho biết ý kiến về nội dung này?
Ông Thuận Hữu: Chủ đề của dự thảo Văn kiện đã được bổ sung một số điểm mới, bên
cạnh phát huy sức mạnh toàn dân tộc, chủ đề lần này cũng nhấn mạnh phát huy tính dân
chủ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định. Chủ đề lần này
73
không nêu mốc đến thời gian nào chúng ta sẽ trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, mà đưa cụm từ là phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Trong 30 năm đổi mới, chúng ta đã thu được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Đại hội XII tiếp tục tinh thần đổi mới của 30 năm đổi mới.
Xin cho biết ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân vào dự thảo Văn kiện Đại hội
XII tập trung vào những nội dung gì?
Ông Lê Quang Vĩnh: Đã có 26 triệu lượt ý kiến góp ý, trước hết là của Đại hội các cấp,
của các đại biểu Quốc hội, MTTQ Việt Nam, đông đảo cán bộ, đảng viên, các tầng lớp
nhân dân và đồng bào ta ở nước ngoài. Các ý kiến góp ý phong phú, đề cập đến tất cả
các lĩnh vực. Nổi lên có các ý kiến về bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, quyền chủ
quyền, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ trong tình hình mới, trong đó có vấn đề biển Đông. Các
ý kiến góp ý của cán bộ, đảng viên và nhân dân đã được Trung ương Đảng chỉ đạo tổng
hợp, tiếp thu tối đa.
Công bố nhân sự ngay khi có kết quả
Xin cho biết Ban chấp hành Trung ương khoá XII dự kiến có bao nhiêu ủy viên?
Ông Mai Văn Chính: Theo phương án của Trung ương khóa XI đã thông qua để trình
Đại hội, có 180 ủy viên chính thức và 20 ủy viên dự khuyết. Đây mới là phương án
trình Đại hội XII, chưa phải chính thức.
Việc rút khỏi danh sách giới thiệu để Đại hội XII bầu Ban chấp hành Trung ương mới
được tiến hành như thế nào?
Ông Mai Văn Chính: Việc này do Đoàn chủ tịch xem xét, đề xuất với Đại hội cho rút
hay không.
Ngay sau khi Hội nghị Trung ương 14 kết thúc, trên mạng xã hội đã xuất hiện thông tin
nêu cụ thể về danh sách bốn ứng cử viên cho các chức danh lãnh đạo chủ chốt của
Đảng và Nhà nước. Đề nghị bình luận về việc này?
Ông Trương Minh Tuấn: Đúng là có một số thông tin như vậy, nhưng chúng ta không
nên căn cứ thông tin trên mạng để suy diễn về công tác nhân sự Đại hội XII. Bởi công
tác chuẩn bị nhân sự cho Đại hội XII đã được thực hiện dân chủ, nghiêm túc, đúng quy
trình và đúng quy định của Đảng. Nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, các vị trí chủ
chốt, các vị trí quan trọng sẽ được công bố khi có kết quả bầu cử theo đúng quy định
của Đại hội.
Đại hội XII có xem xét sửa đổi điều lệ Đảng hay không? Quy chế bầu cử trong Đảng
hiện nay (Quyết định số 244) so với điều lệ Đảng, trong Đại hội XII có được bổ sung,
điều chỉnh, sửa đổi gì không?
Ông Mai Văn Chính: Điều lệ Đảng rất hệ trọng, mới được Đại hội XI thông qua. Thời
gian từ sau khi hướng dẫn thi hành đến nay chưa dài, còn một số điểm mới được bổ
sung sửa đổi trong Điều lệ Đảng khóa XI vẫn cần có thêm thời gian kiểm chứng. Lần
này, qua tổng kết thực hiện Điều lệ từ đầu nhiệm kỳ tới nay cho thấy những vướng mắc,
74
hạn chế trong thi hành Điều lệ Đảng khóa XI chủ yếu do nguyên nhân chủ quan, khâu
tổ chức thi hành chưa nghiêm.
Những vướng mắc xuất phát từ quy định Điều lệ Đảng, để từ đó bổ sung sửa đổi thì
chưa nhiều... Hiện đang trình và khi Đại hội thông qua, có kết quả chúng tôi sẽ thông
tin. Với Quyết định 244 cũng vậy, Đại hội XII có quy chế bầu cử của Đại hội, chúng tôi
chuẩn bị trình Đại hội xem xét, khi có quyết định chúng tôi sẽ công bố.
Đại hội lần này sẽ thảo luận, thông qua các văn kiện quan trọng: Báo cáo Chính
trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI; Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020; Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI; Báo cáo về tổng kết việc thi hành Điều lệ Đảng khóa
XI và đề xuất bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng (nếu có); Báo cáo việc thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Đại hội XII có 1.510 đại biểu tham dự, trong đó 173 ủy viên Trung ương chính
thức, 24 Ủy viên Trung ương dự khuyết là đại biểu đương nhiên, 13 đại biểu chỉ định
đến từ các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài và 1.300 đại biểu do các
Đảng bộ trực thuộc Trung ương bầu ra. Về độ tuổi, từ 30 tuổi trở xuống có 2 đại biểu;
Từ 31 đến 40 tuổi có 65 đại biểu; Từ 41 đến 50 có 384 đại biểu; Từ 61 đến 70 tuổi có
64 đại biểu; Trên 70 tuổi có 2 đại biểu, trong đó có Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Dũng Nguyễn
Dũng Nguyễn. Đại hội XII tiếp tục tinh thần đổi mới //Tiền phong.- 2016.- Ngày
219 tháng 01.- Tr.3.