Upload
vubao
View
217
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
Tủ sách SOS2
DÂN CHỦ
SUY THOÁI? LARRY DIAMOND VÀ MARC F. PlATTNER BIÊN TẬP
Các tiểu luận của
Francis Fukuyama, Robert Kagen, Larry Diamond, Thomas
Carothers, Marc F. Plattner, Philippe C. Schmitter, Steven
Levitsky và Lucan Way Nguyễn Quang A dịch
Dân chủ Suy thoái?
A Journal of Democracy Book Published
under the auspices of the International
Forum for Democratic Studies
Selected Books in the Series
Edited by Larry Diamond and Marc F. Plattner
Democratization and Authoritarianism in the Arab World (2014)
Will Trung Quốc Democratize?
(2013) (with Andrew J. Nathan)
Democracy in East Asia: A New Century (2013)
(with Yun-han Chu)
Liberation Technology: Social Media and the Struggle for
Democracy (2012)
Poverty, Inequality, and Democracy (2012)
(with Francis Fukuyama)
Debates on Democratization (2010)
Democratization in Africa: Progress and Retreat (2010)
Democracy: A Reader (2009)
How People View Democracy (2008)
Latin America’s Struggle for Democracy (2008)
(with Diego Abente Brun)
The State of India’s Democracy (2007)
(with Sumit Ganguly)
Electoral Systems and Democracy (2006)
Assessing the Quality of Democracy (2005)
(Edited by Larry Diamond and Leonardo Morlino)
World Religions and Democracy (2005)
(with Philip J. Costopoulos)
Dân chủ Suy thoái?
L ARRY DIAMOND AND MAR C F. PL ATTNER BIÊN TẬP
Lời nói đầu của Condoleezza Rice
Johns Hopkins University Press • Baltimore
© 2015 Johns Hopkins University Press
and the National Endowment for Democracy
All rights reserved. Published 2015
Printed in the United States of America on acid-free paper
9 8 7 6 5 4 3 2 1
Johns Hopkins University Press
2715 North Charles Street
Baltimore, Maryland 21218-4363
www.press.jhu.edu
Library of Congress Cataloging-in-Publication Data
Democracy in decline? / edited by Larry Diamond, Marc F. Plattner;
foreword by Condoleezza Rice.
pages cm. — (A journal of democracy book)
Includes bibliographical references and index.
ISBN 978-1-4214-1818-6 (hardback) — ISBN 978-1-4214-1819-3
(electronic) — ISBN 1-4214-1818-5 (hardcover) 1. Democracy.
2. Democratization. 3. World politics—21st century.
I. Diamond, Larry Jay. II. Plattner, Marc F., 1945–
JC423.D43988 2015
321.8—dc23 2015006239
A catalog record for this book is available from the British Library.
Special discounts are available for bulk purchases of this book. For more informa-
tion, please contact Special Sales at 410-516-6936 or [email protected].
Johns Hopkins University Press uses environmentally friendly book materials,
including recycled text paper that is composed of at least 30 percent post-
consumer waste, whenever possible.
1
2
3
4
5
6
MỤC LỤC
Lời giới thiệu vii
Lời nói đầu của Condoleezza Rice ix
Lời cảm ơn xiii
Dẫn nhập của Marc F. Plattner 3
Vì sao Dân chủ Làm Kém Đến vậy? 11
Francis Fukuyama
Trọng lượng của Địa Chính trị 25
Robert Kagan
Khủng hoảng và Chuyển đổi, nhưng Không Suy thoái 39
Philippe C. Schmitter
Huyền thoại về Suy thoái Dân chủ 58
Steven Levitsky và Lucan Way
Viện trợ Dân chủ 25 tuổi: Lúc Lựa chọn 77
Thomas Carothers
Đối diện với Suy thoái Dân chủ 98
Larry Diamond
Về các tác giả 119
Index 121
Trang này chủ ý để trống
LỜI GIỚI THIỆU
Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ ba mươi hai * của tủ sách SOS2, cuốn
Dân chủ có Suy thoái? do Larry Diamond và Marc Plattner biên tập
* Các quyển trước gồm:
1. J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam
2001, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin (NXB VHTT) 2002; Con đường dẫn
tới nền kinh tế tự do (NXB Tri thức. 2007) 2. J. Kornai: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá Thông tin 2002
3. J. Kornai- K. Eggleston: Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, NXB VHTT 2002
4. G. Soros: Giả kim thuật tài chính 5. H. de Soto: Sự bí ẩn của tư bản, NXB Chính trị Quốc gia, 2006 [Sự bí ẩn
của Vốn]
6. J. E. Stiglitz: Chủ nghĩa xã hội đi về đâu? 7. F.A. Hayek: Con đường dẫn tới chế độ nông nô
8. G. Soros: Xã hội Mở
9. K. Popper: Sự Khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử 10. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, I, Plato
11. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, II, Hegel và Marx
12. Thomas S. Kuhn: Cấu trúc của các cuộc Cách mạng Khoa học 13. Thomas L. Friedman: Thế giới phẳng, Nhà xuất bản Trẻ, 2006
14. Một năm Hội nghị Diên Hồng Hungary do Nguyễn Quang A tuyển, dịch, biên
soạn 15. Kornai János: Bằng Sức mạnh Tư duy, tiểu sử tự thuật đặc biệt, NXB Thanh
Hóa, 2008
16. Kornai János: Lịch sử và những bài học, NXB Tri thức, 2007 17. Peter Drucker: Xã hội tri thức, Quản lý, Kinh doanh, Xã hội và Nhà nước, tập
tiểu luận
18. Murray Rothabrd: Luân lý của tự do 19. Amartya Sen: Tư tưởng về công bằng
20. Kornai János: Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, dân chủ và thay đổi hệ
thống 21. Kornai János: Các ý tưởng về chủ nghĩa tư bản, NXB Thời Đại, 2012.
22. Robert Kagan: Thế giới mà Mỹ tạo ra, 2012
23. Daron Acemoglu, James A. Robinson: Vì sao các Quốc gia Thất bại, 2012 (NXB Trẻ có bản dịch khác được xuất bản năm 2013)
24. Kỷ yếu hội thảo Đại học Michigan: Bàn tròn Ba Lan-Những bài học, 2013 25. Thương lượng những thay đổi cơ bản: Hiểu và mở rộng các bài học của các
cuộc đàm phán Tròn Ba Lan, 2013
26. Adam Michnik: Những lá Thư từ Nhà tù và các Tiểu luận khác, 2013 27. Elzbieta Matynia: Dân chủ ngôn hành, 2014
28. Josep M. Colomer: Lý thuyết Trò chơi và Chuyển đổi sang Nền dân chủ – Mô
hình Tây Ban Nha, 2014 29. Lisa Anderson: Chuyển đổi sang Dân chủ, 2015
30. Paul J. Carnegie: Con Đường từ Chủ nghĩa Độc đoán đến Dân chủ hóa ở
Indonesia, 2015
31. Hsin-Huang Michael Hsiao (ed.): Các nền Dân chủ Á châu Mới: So sánh Phillipines, Hàn Quốc và Đài Loan, 2015
vii
viii
(Johns Hopkin University Press-2015). Đây là tuyển tập các bài viết
mang tính toàn cầu trong số kỷ niệm 25 năm của Tạp chí Journal of
Democracy vào tháng Giêng 2015 và được Johns Hopkin University
Press biên tập và in dưới dạng một tập sách mỏng.
Bạn đọc có thể thấy những tranh cãi hiện thời về dân chủ. Dân chủ
không tự sinh ra và cũng không tự tồn tại, nó phải được củng cố, làm
mới từ ngày này qua ngày khác. Ngay cả ở các nền dân chủ lâu đời,
cuộc đấu tranh cho dân chủ phải được tiếp tục không ngưng nghỉ
nhằm củng cố, cải thiện, nâng cao dân chủ.
Tại sao một số học giả phương Tây lại phê phán dân chủ đến vậy? Chỉ
phân tích một hệ thống với con mắt phê phán mới có cơ sở để có thể
cải thiện hệ thống đó ngược lại với hệ thống mà trong đó nhà cầm
quyền bóp nghẹt mọi sự phê phán. Chỉ vì riêng lý do này tôi nhiệt tình
khuyên các bạn bớt thời gian đọc các tiểu luận trong cuốn sách này
và tự rút ra các bài học cho chính mình.
Hà Nội
18/6/2016
Nguyễn Quang A
LỜI NÓI ĐẦU
Trong một phần tư thế kỷ qua, tạp chí Journal of Democracy đã giúp thế
giới hiểu sự hỗn độn được kiểm soát–đó là nền dân chủ. Giống nhiều
học giả đã viết cho Tạp chí này, tôi lo lắng sâu sắc về số phận của hệ
thống quản trị này, hệ thống bảo về quyền tự do và đã nghiên cứu
những sự thăng trầm của nó.
Trong những năm gần đây, với tư cách bộ trưởng ngoại giao, tôi
đã thấy mình bảo vệ lập trường rằng tất cả mọi người phải được sống
trong tự do và rằng các chính sách Hoa Kỳ phải phản ánh niềm tin đó.
Đã không khó để có được sự đồng ý với nguyên tắc này. Đúng, tốt nhất
nếu con người có thể nói những gì họ nghĩ, cầu nguyện như họ thích,
thoát được quyền lực độc đoán của nhà nước, và có tiếng nói về ai sẽ
cai trị họ. Rốt cuộc, ai có thể cãi lý rằng một số người phải bị buộc
sống trong sự bạo ngược?
Thế nhưng nếu ta cào bề mặt, có đầy rẫy sự hoài nghi rằng dân chủ
là đúng ở mọi nơi, mọi lúc, và cho tất cả mọi người. Người ta được
nhắc nhở rằng những sự giải thích văn hóa một thời đã cho rằng những
người Phi châu là quá bộ lạc, những người Á châu là quá Khổng giáo,
và những người Mỹ Latin là quá say mê caudillos (các thủ lĩnh) để tạo
ra các nền dân chủ ổn định. Những lý lẽ đó bây giờ thuộc về quá khứ,
nhưng một sự ám chỉ đến chúng vẫn lơ lửng trên sự thảo luận về các
sự kiện ở Trung Đông. Mùa xuân Arab đã dẫn đến sự thất vọng, và
dân chủ có vẻ đã bị chủ nghĩa bè phái, sự sụp đổ nhà nước lấn át, và
có một nỗi luyến tiếc rõ ràng về một thời có trật tự hơn, dẫu độc đoán.
Nhưng không thể bác được rằng dân chủ vẫn giữ được sức mạnh
của nó để quyến rũ những người vẫn chưa được hưởng các ích lợi của
nó. Người dân sẵn sàng đối mặt với sự ngược đãi và giam cầm, sự lưu
đày, và thậm chí cái chết chính vì cơ hội để sống một cuộc đời tự do,
ngay cả ở Trung Đông hỗn loạn.
Các tác giả của các tiểu luận trong cuốn sách kỷ niệm 25 năm này
không thể bị buộc tội về sự thờ ơ với những khát vọng đó. Họ là giữa
những người ủng hộ mạnh nhất cho quyền tự do–ở mọi nơi và cho mọi
ix
x Lời nói đầu
người. Nhưng họ bị cái Larry Diamond gọi là “suy thoái dân chủ” gây
lo lắng. Câu hỏi lơ lửng trong không trung. Có phải những ngày tốt
đẹp nhất của dân chủ đã qua rồi?
Chắc chắn, có những lý do để bi quan, và chúng được ghi chép với
sự chính xác và thấu hiểu trong các tiểu luận tiếp theo. Những chuyển
đổi dân chủ một thời đầy hứa hẹn đã thất bại, đang thất bại, hay vẫn
chưa xong. Tôi nhớ kỹ việc tham dự một cuộc hội nghị Liên hiệp quốc
năm 2007, khi Mali chuẩn bị làm chủ nhà cho cuộc họp thượng đỉnh
kế tiếp của Cộng đồng các Nền dân chủ. Chỉ vài năm sau, Mali rơi vào
cuộc đảo chính quân sự và sau đó trượt vào sự hỗn loạn rõ ràng và nội
chiến và đã bị đuổi khỏi tổ chức. Nhưng Mali là một bài học trực quan
thực tế về những thăng trầm của các chuyển đổi dân chủ. Nó đã được kết
nạp lại vào Cộng đồng các Nền dân chủ năm 2014, dù nó vẫn chỉ được coi
là “tự do một phần.”
Cũng có thể chỉ ra thành tích kém của các nền dân chủ mới về cung
cấp ngay cả các dịch vụ cơ bản nhất–sức khỏe, việc làm, an ninh–cho
nhân dân của họ. Quản trị kém đang bóp nghẹt các nền dân chủ non
trẻ khắp toàn cầu và làm xói mòn sự chính đáng của chúng.
Và rõ ràng, các chế độ độc đoán có thể tự cho là có sự thắng cuộc
nào đó về khía cạnh này. Lãnh đạo Trung Quốc có đươc tính chính
đáng dựa trên sự thịnh vượng. Các công dân Trung Quốc được hưởng
các lợi ích kinh tế và, đổi lại, bỏ sự tham gia chính trị. Căn cứ vào sự
hỗn loạn và hư hỏng ở nhiều nơi đến vậy, nó là mô hình cám dỗ cho
những người khác noi theo. Tương tự, nước Nga, một thời được cho là
trên bờ ven để gia nhập trật tự dân chủ-tự do, đã quay lại gốc rễ độc
đoán của nó ở trong nước và các chính sách hung hăng ở nước ngoài.
Trọng lượng địa chính trị của Trung Quốc và Nga đe dọa để tạo ra
một môi trường quốc tế thù nghịch với dân chủ. Đồng thời, những
người tìm tự do chắc chắn đã để ý thấy Hoa Kỳ và châu Âu đã ít lớn
tiếng hơn trong các năm vừa qua trong bảo vệ sự nghiệp tự do.
Thế những người chủ trương dân chủ phải làm gì? Kể từ số đầu tiên
của nó, Tạp chí này đã cung cấp những sự thấu hiểu về vấn đề này như
nhau cho các nhà nghiên cứu, các học giả, và các nhà hoạch định chính
sách. Các tiểu luận trong tập sách này sẽ nâng cao và thách thức tư duy
của các bạn về triển vọng dân chủ ngày nay. Chúng ta được nhắc nhở
Lời nói đầu xi
rằng những người tin vào sự nghiệp khó khăn này phải tìm ra cách tốt hơn để
giúp việc xây dựng năng lực nhà nước. Chúng ta bị thách thức để tìm ra những
cách dùng viện trợ nước ngoài để cổ vũ tính hiệu quả và tính minh bạch của các
chính phủ non trẻ. Chúng ta được báo trước đừng nghĩ rằng vòng cung dài của
lịch sử sẽ chắc chắn thiên vị tự do.
Chúng ta có thể chắc chắn làm tốt hơn trong việc ủng hộ các nhà nước dân
chủ mới và giúp họ cai quản hiệu quả hơn. Nhưng, có lẽ đúng nhất chúng
ta cũng cần nhiều kiên nhẫn. Là không dễ đối với nhân dân vừa nắm
được các quyền của mình để soạn các quy tắc công bằng và minh bạch
của trò chơi chính trị. Là không dễ đối với đa số để sử dụng quyền tự
do mới có được của họ để ủng hộ các quyền của các thiểu số. Là không
dễ đối với các xã hội gia trưởng truyền thống để chấp nhận ý tưởng rằng sự
bảo vệ các quyền cá nhân phải là trung tính về giới. Và là không dễ đối
với người dân để dẹp những sự chia rẽ xã hội đau đớn, và thường dữ
dội sang một bên, và học để tin các định chế vô tư và nền pháp trị
để giải quyết các bất đồng.
Tuy nhiên, hãy liệt tôi như người lạc quan về tương lai của dân
chủ. Các lựa chọn thay thế có thể có được sự chính đáng tạm thời bằng
cung cấp sự cai trị hiệu quả trong ngắn hạn. Nhưng cuối cùng sẽ có các
thách thức và vấn đề và áp lực dân chúng cho một tiến trình khác: đó là nỗi
kinh hoàng của nhà độc đoán, bởi vì–không giống trong các nền dân
chủ–không có cách hòa bình nào để nhân dân thay chính phủ.
Chúng ta cũng phải giữ viễn cảnh lịch sử, thừa nhận tầm với địa lý đáng
chú ý của sự tiến triển dân chủ suốt những thập kỷ vừa qua. Chile và
Colombia, Senegal và Ghana, Nhật Bản, Hàn Quốc, và Indonesia
đã cho một câu trả lời cho những người nghĩ rằng dân chủ có thể bén
rễ chỉ ở nơi Khai sáng Âu châu đã chuẩn bị mặt bằng.
Và những người Mỹ, thuộc mọi chủng loại, phải kiên nhẫn. Khả
năng đã chắc chắn nhỏ rằng hậu duệ của các nô lệ có thể có được các
quyền của họ qua sự cầu khẩn đến Hiến pháp Mỹ mà một thời đã coi
tổ tiên của họ như ba phần năm của một con người. Đó là một sự
phát triển gần đây, tất nhiên. Chúng ta vừa kỷ niệm năm mươi
năm (cuộc tuần hành từ) Selma và Bộ Luật Quyền Bỏ phiếu, đánh
dấu sự chuyển đổi dân chủ thứ hai của Hoa Kỳ.
xii Lời nói đầu
Như thế, trong khi những người trong chúng ta đủ may nắm để
sống trong tự do có quyền để nghi ngờ lời hứa của nó, chúng ta không
được quên rằng những người chưa được hưởng các lợi ích của nó vẫn
có vẻ quyết tâm để có được nó. Đó là lý do lớn nhất cho sự lạc quan rằng
dân chủ không suy thoái lâu dài. Và nó là một lời kêu gọi để làm tăng
gấp đôi cam kết của chúng ta với đề xuất rằng không ai phải sống trong
sự bạo ngược–cho dù con đường phía trước là khó khăn và dài.
—Condoleezza Rice
LỜI CẢM ƠN
Tập sách này có xuất xứ của nó từ số kỷ niệm hai mươi lăm năm của
Tạp chí Journal of Democracy, được xuất bản tháng Giêng 2015.
Hầu hết các bài trong số đó viết về chủ đề, “Dân chủ có Suy thoái?” Vài
bài thảo luận câu hỏi này trong khung cảnh toàn cầu, còn các bài khác tập
trung vào một nước hay khu vực cá biệt. Ngay cả trước khi số này xuất
hiện, Greg Britton, giám đốc biên tập của Johns Hopkins University
Press (JHUP), đã gợi ý cho chúng tôi ý tưởng về tập hợp các tiểu luận
định hướng toàn cầu trong một cuốn sách ngắn. Chúng tôi đã đáp ứng
tích cực với ý tưởng của Greg, và ông đã nhanh chóng bắt đầu lên
kế hoạch cho tập sách này .
Ý định của chúng tôi để tiến tới dự án sách này được xác nhận tại
lễ kỷ niệm hai mươi lăm năm của tạp chí Journal of Democracy, được
tổ chức ngày 29 tháng Giêng tại Hotel Monaco ở Washington, DC.
Nét nổi bật của sự kiện này đã là một thảo luận panel, với hơn 200 người
tham dự, về chính câu hỏi tạo thành tựa đề của tập sách này. Những
người tham dự đã gồm năm tác giả của cuốn sách này–Thomas
Carothers, Larry Diamond, Steven Levitsky, Marc Plattner, và Lucan
Way–cũng như Alina Mungiu-Pippidi (người đã đóng góp một tiểu
luận tập trung về mặt khu vực đến thế giới hậu cộng sản cho số tháng
Giêng 2015 của Tạp chí.) Cuộc tranh luận sinh động và say sưa tại
panel và phản ứng nhiệt tình của công chúng đã gợi ý rằng có thể có
sự quan tâm sôi nổi giữa một giới bạn đọc rộng hơn đến một cuốn sách
về chủ đề này.
Chúng tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới các đồng nghiệp
của chúng tôi ở Johns Hopkins University Press: đến Greg Britton vì
sự truyền cảm hứng và bênh vực dự án này và đến biên tập viên
quản lý Juliana McCarthy, cả thuộc Phân ban Sách, vì sự săn sóc hiệu
quả của bà đến tập sách này qua quá trình sản xuất; và cả tới Phân ban
Tạp chí, đã giúp đỡ hào phóng để tài trợ sự kiện kỷ niệm hai mươi
lăm năm và trưởng Phân ban, Bill Breichner, đã đưa ra một số nhận
xét độ lượng tại cuộc chiêu đãi. Sự cộng tác lâu dài của chúng tôi với
xiii
xiv Lời cảm ơn
JHUP cũng đã ăn ý như đã phong phú.
Chúng tôi cũng mang nợ khổng lồ đối với tổ chức mẹ của chúng tôi, Quỹ
Quốc gia vì Dân chủ-National Endowment for Democracy. Chủ tịch
Quỹ, Carl Gershman, và các thành viên Hội đồng Quản trị của nó,
hiện thời do cựu Hạ nghị sĩ Martin Frost chủ tọa, đã chẳng bao giờ
lung lay trong sự ủng hộ của họ cho Tạp chí, trong khi hoàn toàn tôn
trọng tính độc lập biên tập và tính chính trực của chúng tôi. Chúng tôi
coi mình vô cùng may mắn để có đặc ân được hoạt động bên trong một
định chế đáng ngưỡng mộ và phóng khoáng như vậy. Chúng tôi cũng
muốn cảm ơn các sáng lập viên khác của Tạp chí suốt các năm, đặc biệt
Quỹ Lynde and Harry Bradley Foundation, đã cấp tài trợ cho chúng
tôi trong hơn hai thập kỷ.
Công trạng cho thành công của lễ kỷ niệm hai mươi lăm năm của Tạp
chí phần lớn là của các đồng nghiệp của chúng tôi tại International
Forum for Democratic Studies (Diễn đàn Quốc tế cho Nghiên cứu Dân
chủ), dưới sự lãnh đạo của giám đốc điều hành Christopher Walker.
Lời ca ngợi đặc biệt cho viên chức cấp cao về nghiên cứu và hội
thảo Melissa Aten, mà sự bền chí và sự chú ý chuyên cần của bà đến
chi tiết đã làm cho việc tổ chức sự kiện phức tạp này tỏ ra dễ dàng
một cách gây lầm lẫn.
Trên hết, chúng tôi muốn cảm ơn toàn bộ nhân viên tuyệt vời và
dày dạn của Tạp chí. Mỗi tiểu luận tiếp theo đã được cải thiện bởi công
việc biên tập đích thân của biên tập viên điều hành Phil Costopoulos
(người đã cùng chúng tôi từ khi thành lập Tạp chí) hay của biên tập
viên cấp cao Tracy Brown. Biên tập viên quản lý Brent Kallmer đã làm
công việc thông thường tuyệt vời giải quyết các thách thức của dàn
trang và sản xuất, và trợ lý biên tập Hilary Collins, một người tương
đối mới, đã chứng tỏ mình rồi là một thành viên quý giá của nhóm biên
tập. Những đóng góp của họ cho Tạp chí, cho các cuốn sách trước của
Journal of Democracy, và đặc biệt cho tập sách này đã hoàn toàn không
thể thiếu được.
–Marc F. Plattner và Larry Diamond
DÂN CHỦ CÓ SUY THOÁI?
Trang này chủ ý để trống
DẪN NHẬP
MARC F. PLATTNER
Dân chủ có suy thái không? Chắc chắn, cảm nhận rằng nó suy thoái đã
trở nên phổ biến hơn bất kỳ thời nào trong một phần tư thế kỷ qua.
Đây không phải là một nhận xét nhân quả về phần tôi. Đã phục vụ
với tư cách đồng biên tập của Journal of Democracy từ khi nó xuất bản
số mở đầu vào tháng Giêng 1990, tôi đã thường xuyên dành sự chú
ý của mình để theo dõi những tiến bộ và thụt lùi của dân chủ khắp
thế giới. Trong hơn 25 năm, đồng biên tập của tôi Larry Diamond và
tôi đã “đo nhiệt độ” của dân chủ. Từ 1998, chúng tôi đã công bố hàng
năm một bài tóm tắt khảo sát Tự do trên Thế giới- Freedom in the World
của Freedom House, và chúng tôi đã viết nhiều tiểu luận khác phân
tích quỹ đạo toàn cầu của dân chủ, bắt đầu với bài báo kinh điển
1991 của Samuel P. Huntington đưa ra khái niệm về “làn sóng thứ
ba” của dân chủ hóa.
Cho nên khi chúng tôi cần chọn một chủ đề cho số kỷ niệm hai
mươi lăm năm của Tạp chí, có lẽ tốt nhất đã được kỳ vọng rằng một
lần nữa chúng ta tập trung vào chủ đề về địa vị toàn cầu của dân chủ.
Tuy vậy, một số bạn đọc của Tạp chí, hẳn đã ngạc nhiên để thấy hàng
đầu trên số đặc biệt này “Dân chủ có Suy thoái?” Đối với một tạp chí
mà không nao núng ủng hộ dân chủ, cân đo bằng chứng về sự suy thoái
của nó hiển nhiên đã không là loại chủ đề kỷ niệm có thể không được
ưa thích cho việc đánh dấu một cột mốc lịch sử. Thế mà đấy có vẻ là
câu hỏi mà mọi người đang hỏi khi 2015 đến gần, và chúng tôi đã quyết
định nêu nó ra cho những người đóng góp cho số lễ kỷ niệm của chúng tôi.
Mối quan tâm được số đặc biệt của chúng tôi gây ra đã thuyết phục chúng
tôi rằng chúng tôi đã có lựa chọn đúng, và bây giờ chúng tôi đã tập hợp các
tiểu luận của nó với một tiêu điểm toàn cầu trong tập này mà các bạn có
trước mặt mình: Dân chủ có Suy thoái?
Theo dõi các quan điểm và ý kiến được bày tỏ trong Tạp chí suốt các
năm (đặc biệt trong các dịp lễ kỷ niệm năm-năm một) cho ta một cảm giác
tốt về cách theo đó những đánh giá và tình cảm về tình trạng của dân chủ đã
3
4 MARC F. PLATTNER
tiến triển từ 1990. Dẫn nhập của các biên tập mà Larry Diamond và
tôi viết cho số mở đầu đã đầy sinh khí bởi nhận xét rằng rằng dân chủ
đang trải nghiệm một “sự nổi lên lại toàn cầu đáng chú ý” nhưng cũng
bởi một sự lo âu rằng nó vẫn tụt lại sau các đối thủ của nó về các ý
tưởng chính trị và tổ chức. Năm năm đầy sự kiện sau đó, chúng tôi đã
nhận ra cả rằng dân chủ đã lan ra nhiều nước hơn lẫn rằng nó đã tạo ra
những cải thiện khổng lồ về mặt ý tưởng và tổ chức. Chúng tôi đã
khẳng định rằng dân chủ “đã tiến bộ to lớn” về “tính chính đáng quốc
tế” và rằng bây giờ nó “đã thống trị tối cao trong lĩnh vực ý thức hệ.”
Các tổ chức đa biên đã ngày càng tán thành các nguyên tắc dân chủ,
và một lĩnh vực mới hoàn toàn về trợ giúp dân chủ quốc tế đã nổi lên.
Vào lúc chuyển giao thế kỷ, các xu hướng này đã có vẻ càng gia tăng
mạnh hơn. Trong giới thiệu số đặc biệt kỷ niệm mười năm về dân chủ
trên thế giới, theo mô hình Nền dân chủ ở Mỹ của Alexis de
Tocqueville, chúng tôi đã cho rằng Tocqueville đã thay thế Marx, và
chúng tôi đã kết luận, “Bây giờ tất cả chúng ta đều là các
Tocquevillean-những người theo Tocqueville.”
Vào năm 2005, tuy vậy, giọng của chúng tôi đã trở nên bi quan hơn
nhiều, và chúng tôi đã thừa nhận một tâm trạng u tối giữa những
người ủng hộ dân chủ. Chúng tôi đã quy một phần cho công việc
khó nhọc của việc xây dựng dân chủ ở Iraq sau can thiệp và cho sự
sa sút của Nga quay lại chủ nghĩa độc đoán, nhưng chúng tôi đã lập
luận rằng các xu hướng tổng thể toàn cầu là pha trộn và không biện hộ
cho sự nản lòng giữa các nhà dân chủ. Vào 2010, chúng tôi đã chuẩn
bị để thừa nhận rằng “bây giờ thậm chí có thể có cơ sở cho việc nói về
một sự xói mòn tự do trong vài năm qua, dù các chiều kích của nó là
rất nhẹ.”
ĐỐI MẶT VỚI SUY THOÁI
Nhưng bây giờ trong 2015, như tập sách này phản ánh, chúng tôi cảm
thấy buộc phải đối mặt thẳng thắn với câu hỏi liệu dân chủ có suy thoái
hay không. Vì sao? Có hai khía cạnh cho câu trả lời, mà, dù bện vào
nhau, nhưng ở mức độ nào đó có thể tách ra. Khía cạnh thứ nhất đề
cập những gì thực sự xảy ra trên thực địa: Có bao nhiêu nước dân chủ?
Số các nước đó tăng hay giảm? Tình hình ra sao về các nét đặc trưng
Dẫn nhập 5
dân chủ-tự do cốt yếu như quyền tự do báo chí, pháp trị, các cuộc bầu
cử tự do và công bằng, và những thứ tương tự? Khía cạnh thứ hai, chủ
quan hơn, liên quan đến thế đứng của dân chủ trên thế giới: nó được
nhìn nhận ra sao về mặt tính chính đáng và tính hấp dẫn? Chính trong
chiều kích sau mà bằng chứng, hay chí ít cảm nhận phổ biến, về sự suy thoái
là nổi bật nhất.
Như bạn đọc sẽ thấy, chiều kích thứ nhất được mở cho những diễn
giải khác nhau. Sự bất đồng giữa chúng được nêu sắc nét nhất bằng
cách so sánh chương “Huyền thoại về Suy thoái Dân chủ” của Steven
Levitsky và Lucan Way, với chương “Đương đầu với Suy thoái Dân
chủ” của Larry Diamond. Levitsky và Way chỉ ra rằng ngay cả dữ liệu
của Freedom House chỉ cho thấy sự sa sút nhẹ về các mức tự do từ
2000 và rằng các chỉ số khác chẳng cho thấy sự sa sút nào cả. Ngoài
ra, họ cho rằng trong các năm 1990 hầu hết các nhà quan sát (kể cả
Freedom House) đã quá thiên về để tính bất kể nước nào, nơi chế độ
độc đoán sụp đổ, như một trường hợp chuyển đổi sang dân chủ. Theo
cách nhìn của Levitsky và Way, nhiều trong các nước này đã tạm thời
được hưởng “chủ nghĩa đa nguyên do mặc định” bởi vì sự yếu kém
của chế độ độc đoán, nhưng chúng đã chẳng bao giờ thực sự thiết lập
nền dân chủ. Nhiều trong số đó bây giờ được xem là chủ nghĩa độc
đoán được củng cố, nhưng bởi vì các chế độ đó trước hết đã bị phân
loại nhầm như dân chủ, nên việc này không được coi như bằng chứng
của sự suy thoái dân chủ.
Larry Diamond, tuy không nhất thiết tranh cãi với Levitsky và
Way về các nước này đã được đánh giá ra sao trong đầu các năm 1990,
tìm thấy bằng chứng kinh nghiệm khác rằng thập niên vừa qua đã là
“một giai đoạn của sự suy thoái chí ít chớm nở về dân chủ.” Ông dẫn ra
một bằng chứng gia tăng về các cuộc đổ vỡ dân chủ, thành tích kém của
các nền dân chủ mới theo các số đo khác nhau về quản trị tốt và pháp trị,
và sự thụt lùi hay trì trệ dân chủ ở các nước phi-Tây phương lớn nhất và
giàu nhất. Có các lý lẽ thuyết phục ở cả hai phía của cuộc tranh luận
này, nhưng rốt cuộc tôi không nghĩ là các phân tích số đo của Freedom
House (hay số khác) có thể giải quyết câu hỏi lớn hơn.
Hơn nữa, các đường viền rõ của những xu hướng được dữ liệu tiết
lộ thực sự không bị tranh cãi. Dân chủ đã bắt đầu tạo ra những tiến bộ
đáng kể trên thế giới trong các năm 1975-85, bắt đầu ở Nam Âu và Mỹ
6 MARC F. PLATTNER
Latin. Rồi nó đã tiến lên với một tốc độ phi thường trong 1985-95, một
thời kỳ chứng kiến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản trong khối Soviet
và của chế độ apartheid ở Nam Phi. Sự tiến bộ dân chủ sau đó đã bắt
đầu chậm lại, và chỉ đạt những tiến bộ khiêm tốn trong thập niên tiếp
sau, với các số điểm cao nhất lúc nào đó trong đầu các năm 2000. Kể
từ đó, hình mẫu đã là ngưng trệ hay suy thoái rất ít–chắc chắn chẳng
có gì giống “các làn sóng ngược” mà Huntington đã nhận diện trong
các thời đại trước. Sự thiếu tiến bộ dân chủ có thể được mô tả đặc trưng
một cách phủ định như “đình trệ” hay hứa hẹn hơn như sự bảo toàn
những tiến bộ dân chủ trước đó. Nhưng cho dù ta thấy trong dữ liệu
một sự giảm nhẹ số các nền dân chủ, điều này không thể giải thích cảm
nhận về suy thoái đã lan truyền như nhau giữa những người bạn và kẻ
thù của dân chủ.
Theo quan điểm của tôi, chúng ta phải nhìn vào nơi khác để tìm
các nguồn thật của cảm nghĩ “suy thoái chủ nghĩa” về dân chủ, và vài
tiểu luận trong cuốn sách này có thể giúp chúng ta định vị chúng. Một
số của các nguồn này được giới thiệu trong phần sau của chương của
Larry Diamond. Một nguồn, mà Diamond dán nhãn “quản trị tồi,”
được Francis Fukuyama thảo luận tỉ mỉ trong tiểu luận của ông. Thuật
ngữ này trước tiên dẫn chiếu đến sự thất bại của nhiều nền dân chủ mới
để xây dựng các nhà nước hiện đại hiệu quả. Vì thất bại này, mà có thể
dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế chậm, dịch vụ công kém, thiếu an ninh
cá nhân, và tham nhũng tràn lan, nên có thể hiểu được công dân của
các nước như vậy cảm thấy thất vọng với dân chủ. Fukuyama cho
rằng “tính chính đáng của nhiều nền dân chủ khắp thế giới phụ
thuộc ít vào việc làm sâu sắc các định chế dân chủ của họ hơn
là vào khả năng của chúng để cung cấp sự quản trị chất lượng
cao.” Tất nhiên, quản trị tồi cũng tác động đến hầu hết (dù
không phải tất cả) các nước phi dân chủ nữa, nhưng điều này
đem lại ít sự an ủi cho các công dân cảm thấy chính phủ (dân
chủ) của họ thất hẹn với họ.
Fukuyama kết luận rằng những người muốn củng cố dân chủ cần
lưu ý nhiều hơn đến việc xây dựng nhà nước, kể cả các vấn đề buồn tẻ
như quản trị công và thực hiện chính sách. Đây không nghi ngờ gì là
một lời khuyên hữu ích. Tuy vậy quản trị tốt vẫn rất khó đạt được, đặc
biệt trong các nền dân chủ mới. Trong khung cảnh như vậy, nơi những
Dẫn nhập 7
công dân vẫn mới lạ với thái độ và các định chế dân chủ, có một xu
hướng khó tránh khỏi để đổ lỗi quản trị kém cho dân chủ. Điều này
giải thích, chí ít một phần, cho xu hướng đổ vỡ dân chủ ở các nước đã
chấp nhận nó lần đầu tiên và sự thất bại của nó để bén rễ ở một số nơi
cho đến khi nó đã thử vài lần. Thế nhưng hình mẫu này không cần là
điềm báo trước sự thất bại dân chủ trong dài hạn. Có thể cần nhiều năm
để đạt sự củng cố dân chủ, nhưng thời gian vẫn ở bên dân chủ.
BA NGUỒN NGHI NGỜ VỀ DÂN CHỦ
Kịch bản lạc quan dài hạn này, tuy vậy, giả định trước rằng dân chủ sẽ
vẫn là mục tiêu mà các nước theo đuổi. Và điều này đến lượt chắc là phụ
thuộc vào việc nó được coi là cả như tiêu chuẩn toàn cầu về tính chính
đáng chính trị lẫn như là hệ thống tốt nhất cho việc đạt được loại thịnh
vượng và sự quản trị hiệu quả mà hầu như tất cả các nước tìm kiếm.
Cái đã thay đổi kịch tính nhất trong các năm gần đây là, các giả
định trước này trong các năm vừa qua là các giả định ngày càng
bị nghi ngờ. Theo quan điểm của tôi, có ba lý do chính cho sự thay
đổi này: (1) cảm nhận gia tăng rằng các nền dân chủ tiên tiến đang
bị rắc rối về mặt thành tích kinh tế và chính trị của chúng; (2) sự
tự tin mới và sức sống bề ngoài của vài nước độc đoán; và (3) sự
thay đổi cán cân địa chính trị giữa các nền dân chủ và các đối thủ
của chúng.
Lý do đầu tiên được gây ra bởi khủng hoảng tài chính 2008 và các
hậu quả kinh tế kéo dài của nó, kể cả suy thoái và tỷ lệ thất nghiệp
cao vẫn gây tai họa cho phần lớn châu Âu. Rằng các nền dân chủ tiên
tiến bị những thất bại này vào lúc các nước thị trường mới nổi tăng
trưởng với nhịp độ nhanh đã bán rẻ quan niệm rằng các định chế và
chính sách của Phương Tây là đáng để “phần còn lại” noi theo. Hội
chứng rối loạn chức năng chính trị gây đau khổ cho các nền dân chủ
tiên tiến khi chúng tìm cách phản ứng lại với khủng hoảng đã làm yếu
thêm sự hấp dẫn của chúng. Như Thomas Carothers lưu ý trong tiểu
luận của ông về khung cảnh toàn cầu thay đổi của sự thúc đẩy dân chủ,
“Công việc khó nhọc của dân chủ cả ở Mỹ và châu Âu đã gây ra tổn
8 MARC F. PLATTNER
hại lớn đến địa vị của dân chủ trong con mắt của nhiều người trên
khắp thế giới.”
Mặt kia của uy tín teo đi của dân chủ đã là ảnh hưởng gia tăng
của một số chế độ độc đoán hàng đầu. Chủ chốt giữa chúng là
Trung Quốc, với khả năng của nó để tạo ra tiến bộ kinh tế to lớn mà không
đưa ra những cải cách dân chủ, đã gây nghi ngờ về quan niệm rằng dân chủ
là hệ thống chính trị thích hợp duy nhất cho các nước giàu có. Đồng thời,
Trung Quốc đã cung cấp cho các nước đang phát triển với các nguồn
thay thế về thương mại, đầu tư và viện trợ quân sự và phát triển–chẳng
khoản nào bị gắn với những cân nhắc về nhân quyền hay trách nhiệm
giải trình chính phủ ở các nhà nước tiếp nhận. Trung Quốc cũng chẳng
phải là cường quốc phi dân chủ ngày càng quyết đoán duy nhất. Nga,
Iran, Saudi Arabia, và Venezuela cũng đã học từ nhau và thậm chí
hợp tác trực tiếp để cản trở sự tiến bộ dân chủ.
Số kỷ niệm hai mươi lăm năm của Tạp chí cũng có một bài của
Andrew J. Nathan về Trung Quốc, bài đầu tiên trong một chuỗi bài mà
Journal of Democracy sẽ công bố trong 2015 về cái chúng tôi đã dán
nhãn “sự lại nổi lên của độc đoán.” Xúc phạm để dùng title này; cuốn
sách Journal of Democracy đầu tiên của chúng tôi, được xuất bản năm
1993, được gọi là Sự lại nổi lên Toàn cầu của Dân chủ. Nhưng
hôm nay có vẻ là chủ nghĩa độc đoán đã có gió ở đằng sau (buồm của)
nó, cho dù nó vẫn không lan ra nhiều nước hơn. Một dấu hiệu của điều
này là sự tiến tới mà các nhà độc đoán đã tạo ra trong lĩnh vực “sức
mạnh mềm,” đặc biệt trong các tổ chức khu vực và đa phương lớn. Các
chuẩn mực ủng hộ dân chủ mà các nền dân chủ đã giúp cấy vào các
tổ chức như OSCE, Hội đồng châu Âu, và the OAS trong các năm
1990 bị làm cho yếu đi bởi các nước phản dân chủ có đại diện trong các
hội đồng này. Các cường quốc độc đoán như Nga và Trung Quốc cũng
tăng cao nền ngoại giao văn hóa và phát thanh truyền hình quốc tế của
họ còn các nỗ lực Tây phương trong các lĩnh vực này đã không tập
trung và được tài trợ không đủ.
Nhưng không chỉ trong cạnh tranh “sức mạnh mềm” mà các nền
dân chủ đã thiếu. Họ ngày càng có vẻ yếu hơn về mặt sức mạnh cứng
nữa, cắt giảm ngân sách quốc phòng của họ ngay cả khi các nhà nước
Dẫn nhập 9
độc đoán chi tiêu nhiều hơn cho vũ khí. Tạp chí Journal of Democracy
đã dành ít sự chú ý cho các vấn đề về mối quan hệ giữa các nhà nước
hay công việc quân sự. Một phần, điều này phản ánh cảm nhận của
chúng tôi về Tạp chí có được một lợi thế so sánh ở đâu giữa các tạp
chí về công việc thế giới–đa phần chúng tập trung vào chính sách an
ninh và đối ngoại, còn số ít nghiên cứu chính trị đối nội của các nước
phi-Tây phương. Nhưng chúng tôi cũng cảm thấy rằng những tiến triển
nội bộ đến sau hay trước các cuộc đấu tranh dân chủ thường có tính
quyết định trong hình thành chiều của các mối quan hệ quốc tế. Chắc
chắn điều đó đã có vẻ đúng trong cao trào của làn sóng thứ ba. Dù bối
cảnh quốc tế là quan trọng, tất nhiên, tia lửa cho sự thay đổi thường đến
từ các mối bất bình, các phong trào, và các xung đột trong nước, và
bằng cách tập trung vào những điểm này, theo quan điểm của chúng
tôi, Tạp chí nói chung đã “ở hàng đầu” trong cung cấp sự thấu hiểu
về diễn tiến quốc tế sẽ diễn ra thế nào.
Chúng tôi tin rằng tiêu điểm chúng tôi đã chọn vẫn là tiêu điểm đúng cho
Tạp Chí, nhưng tôi đã bắt đầu tự hỏi liệu giai đoạn của các năm 1990 đã
có phải là không điển hình hay không. Có lẽ “thời khắc đơn cực” này
của địa vị áp đảo của Hoa Kỳ và các đồng minh dân chủ của nó đã làm
cho là có thể đối với các cuộc đấu tranh thân dân chủ trong nước để
chiếm trung tâm sân khấu, tạo ra một môi trường quốc tế thuận lợi cho
dân chủ mà thiếu nó dân chủ không thành công. Đây chắc chắn là diễn
giải được gợi ý trong chương của Robert Kagan. Như ông diễn đạt,
“Những thay đổi địa chính trị giữa các đại cường quốc thống trị,
thường nhưng không luôn là kết quả của các cuộc chiến tranh, có thể
có tác động đáng kể lên chính trị nội địa của các quốc gia nhỏ hơn
và yếu hơn của thế giới.” Kagan xác nhận rằng Hoa Kỳ ở trong “một
trạng thái giảm bớt chi tiêu” trong vũ trường quốc tế và rằng điều
này gây ra “thiệt hại thế chấp” lên vận may của dân chủ.
Trong năm 2014, các xu hướng này trở nên rõ ràng. Sự nổi lên của
cái gọi là Nhà nước Islamic ở Syria và Iraq, giữa những thất vọng về
“Mùa xuân Arab” (bên ngoài Tunisia) và những lo lắng về
Afghanistan, đã làm rõ rằng các nỗ lực Tây phương để áp đặt loại
trật tự nào đó và để cổ vũ dân chủ trong vùng Trung Đông rộng
hơn đã không thành công. Trong lúc đó, sự khoa trương cơ bắp của
Trung Quốc ở biển Hoa Đông và biển Đông có vẻ báo trước sự quay
10 MARC F. PLATTNER
lại của sử dụng vũ lực ở châu Á. Và quan trọng trên hết, Việc Nga sáp
nhập Crimea và sự xâm lấn lén lút vào đông Ukraine đã cho thấy rằng
trật tự quốc tế dựa trên các quy tắc được các cường quốc dân chủ xây
dựng đã không còn có thể được cho là hiển nhiên.
Nếu trật tự thế giới tự do quả thực đang bung ra dưới sức ép của
những người độc đoán, thì tương lại của dân chủ sẽ bị tác động sâu
sắc. Trong một thế giới được chia thành các khu vực ảnh hưởng và các
khối sức mạnh, khả năng của một nước để đi theo con đường dân chủ
sẽ được xác định trên hết bởi các liên minh quốc tế của nó và địa lý
của nó. Chúng ta thấy một sự báo trước về điều này trong cuộc đấu
tranh hiện nay ở Ukraine, nơi các nỗ lực bên trong của nước này để
xây dựng một nền dân chủ hoạt động tốt và ổn định–một nhiệm vụ
đủ khó–liên tục bị thách thức và đôi khi bị lấn át bởi áp lực quân sự
và kinh tế từ Nga.
Nét nổi bật mới này của địa chính trị đe dọa làm thay đổi các quy
tắc của trò chơi. Nó có thể cả hạn chế tính trung tâm của cân bằng sức
mạnh trong định hình sự lựa chọn chế độ của một nước lẫn làm tăng
các khả năng rằng sự áp đặt của lực ngoài sẽ quyết định. Hơn nữa, nếu
cân bằng địa chính trị có vẻ làm nghiêng con đường của các nhà độc
đoán, họ sẽ có vẻ hấp dẫn hơn nhiều cho nhiều cá nhân và quốc gia
trước hết tìm cách để ở bên kẻ mạnh hơn. Dưới những điều kiện này,
dân chủ sẽ mất nhiều vẻ rực rỡ của nó. Ở nơi nó đổ vỡ, sẽ có ít đòi hỏi
để khôi phục nó. Người ta không còn thể tự tin rằng thời gian sẽ vẫn ở
bên dân chủ.
Kịch bản ảm đạm này còn xa mới được định trước. Các chế độ
độc đoán có nhiều điểm yếu (mà sẽ tăng lên nếu sự sụt giá dầu mới
đây kéo dài), và dân chủ có nhiều điểm mạnh, kể cả năng lực tự sửa
chữa. Mặc dù nó thường tự mãn và chuyển động chậm, dân chủ cũng
đã cho thấy một khả năng xuất sắc để phản ứng với các cuộc khủng
hoảng. Nó đã được cho là gặp rắc rối trong các năm 1970 sâu sắc hơn
bây giờ, nhưng nó đã phục hồi. Nó có thể lại làm như thế. Nhưng đầu
tiên những người ủng hộ nó phải đảm nhận một sự đánh giá với con mắt
tinh tường về sự suy thoái hiện thời của nó và dồn quyết tâm và sự quả
quyết cần thiết để đảo ngược nó .
1
Vì sao Dân chủ
Làm Tồi Đến vậy?
FRANCIS FUKUYAMA
Tạp chí Journal of Democracy đã xuất bản số mở đầu của nó một chút
sau điểm giữa của cái Samuel P. Huntington đã dán nhãn là “làn sóng
thứ ba” của dân chủ hóa, ngay sau khi bức Tường Berlin sụp đổ và
trước sự tan rã của Liên Xô.1 Các cuộc chuyển đổi ở Nam Âu và hầu
hết chuyển đổi ở Mỹ Latin đã xảy ra rồi, và Đông Âu đã chuyển động
với nhịp độ chóng mặt khỏi chủ nghĩa cộng sản, trong khi các cuộc
chuyển đổi dân chủ ở châu Phi hạ-Sahara và Liên Xô trước đây đã
chỉ vừa bắt đầu. Nhìn tổng thể, đã có sự tiến bộ đáng chú ý khắp thế
giới về dân chủ hóa trong một giai đoạn gần 45 năm, làm tăng số các
nền dân chủ bầu cử từ khoảng 35 trong 1970 lên hơn 110 trong năm
2014.
Nhưng như Larry Diamond đã chỉ ra, đã có một sự suy thoái dân
chủ từ 2006, với một sự sụt về các số điểm tổng hợp của Freedom
House mỗi năm kể từ đó.2 Năm 2014 đã không tốt cho dân chủ, với
hai cường quốc độc đoán lớn, Nga và Trung Quốc, hoạt động ở cả hai
đầu của lục địa Á-Âu. Mùa xuân Arab năm 2011, đã làm tăng những
11
12 FRANCIS FUKUYAMA
kỳ vọng rằng sự ngoại lệ Arab đối với làn sóng thứ ba đã có thể chấm
dứt, đã thoái hóa thành chế độ độc tài được phục hồi lại trong trường
hợp Ai Cập, và tình trạng hỗn loạn ở Libya, Yemen, và cả Syria, cùng
với Iraq đã thấy sự nổi lên của một phong trào Islamist cực
đoan mới, Nhà nước Islamic ở Iraq và Syria (ISIS).
Khó để biết liệu chúng ta đang trải nghiệm một sự thụt lùi nhất thời
trong phong trào chung đến dân chủ lớn hơn khắp thế giới, giống như
một sự hiệu chỉnh thị trường chứng khoán, hay liệu các sự kiện của năm
nay báo hiệu một sự thay đổi rộng hơn trong chính trị thế giới và sự nổi
lên của những thay thế khả dĩ nghiêm túc cho dân chủ hay không. Trong
cả hai trường hợp, là khó để không cảm nhận rằng thành tích của các
nền dân chủ khắp thế giới đã là kém cỏi trong các năm gần đây. Việc
này bắt đầu với các nền dân chủ phát triển và thành công nhất, các nền
dân chủ của Hoa Kỳ và EU, mà đã trải qua các cuộc khủng hoảng kinh
tế ồ ạt trong cuối các năm 2000 và có vẻ bị vướng khó khăn trong một
giai đoạn tăng trưởng chậm và thu nhập đình trệ. Nhưng một số nền
dân chủ mới, từ Brazil đến Thổ Nhĩ Kỳ đến Ấn Độ, cũng đã thất vọng
về thành tích của họ trong nhiều khía cạnh, và phải chịu các phong trào
phản đối riêng của họ.
Các phong trào dân chủ tự phát chống các chế độ độc đoán tiếp
tục nổi lên từ xã hội dân sự, từ Ukraine và Georgia đến Tunisia và Ai
Cập đến Hong Kong. Nhưng ít trong số các phong trào này đã thành công trong
dẫn đến việc thiết lập các nền dân chủ ổn định, hoạt động tốt. Đáng hỏi vì sao
thành tích của dân chủ khắp thế giới lại đã thất vọng đến vậy.
Theo quan điểm của tôi, một nhân tố quan trọng duy nhất nằm ở
lõi của nhiều sự thụt lùi dân chủ trong suốt thế hệ vừa qua. Nó cũng đã
liên quan đến một sự thất bại của sự thể chế hóa–sự thực rằng năng lực
nhà nước đã không theo kịp nhịp của những đòi hỏi của dân chúng về
trách nhiệm giải trình dân chủ. Khó hơn nhiều để chuyển từ một nhà
nước gia sản hay gia sản mới sang một nhà nước hiện đại, khách quan
so với chuyển từ một chế độ độc đoán sang chế độ tổ chức các cuộc
bầu cử thường kỳ, tự do, và công bằng. Chính thất bại để thiết lập các
nhà nước hiện đại, được quản trị tốt là cái đã là gót chân Achilles của
các chuyển đổi dân chủ gần đây.
Vì sao Dân chủ Làm Tồi đến Vậy? 13
MỘT SỐ ĐỊNH NGHĨA
Các nền dân chủ khai phóng hiện đại kết hợp ba định chế cơ bản: nhà
nước, nền pháp trị, và trách nhiệm giải trình dân chủ.
Cái đầu tiên của các định chế này, nhà nước, là một độc quyền hợp
pháp về quyền lực ép buộc thực hiện quyền lực của nó trên một lãnh
thổ xác định. Các nhà nước tập trung và dùng sức mạnh để giữ hòa
bình, bảo vệ các cộng đồng khỏi các kẻ thù bên ngoài, thực thi các luật,
và cung cấp các hàng hóa công cơ bản.
Pháp trị (rule of law) là một tập các quy tắc, phản ánh các giá trị
cộng đồng ràng buộc không chỉ các công dân, mà cả các elite những
người nắm và sử dụng quyền lực ép buộc. Nếu luật không chế ngự kẻ
mạnh, nó chẳng khác gì các mệnh lệnh của hành pháp và chỉ tạo thành
sự cai trị bằng luật (rule by law).
Cuối cùng, trách nhiệm giải trình dân chủ tìm cách đảm bảo rằng
chính phủ hành động theo lợi ích của toàn cộng đồng, hơn là chỉ theo
tư lợi của các nhà cai trị. Nó thường đạt được qua các thủ tục như các
cuộc bầu cử đa đảng tự do và công bằng, dù trách nhiệm giải trình thủ
tục không luôn luôn trùng với trách nhiệm giải trình thực sự.
Một nền dân chủ khai phóng cân bằng các định chế có thể mâu
thuẫn này. Nhà nước tạo ra và dùng quyền lực, còn pháp trị và trách
nhiệm giải trình dân chủ tìm cách chế ngự quyền lực và đảm bảo rằng
nó được dùng theo lợi ích công. Nhà nước mà không có các định chế
kiềm chế là một nền độc tài; một chính thể mà hoàn toàn ép buộc và
không có quyền lực là tình trạng vô chính phủ.
Như Samuel Huntington đã thường lý lẽ, trước khi một chính thể
có thể kiềm chế quyền lực, nó phải có khả năng dùng quyền lực. Theo
lời của Alexander Hamilton, “một sự thi hành yếu chỉ là cách nói khác
cho một sự thi hành tồi; và một chính phủ thi hành kém, dẫu nó có thể
là gì theo lý thuyết, trên thực tế phải là một chính phủ tồi.”3
Có một sự phân biệt cốt yếu nữa cần đưa ra giữa nhà nước gia sản
(patrimonial) và nhà nước hiện đại. Một nhà nước hiện đại khát khao
để là khách quan, đối xử với người ngang nhau trên cơ sở tư cách công
dân hơn là trên cơ sở liệu họ có mối quan cá nhân hay không với nhà
cai trị. Ngược lại, các nhà nước gia sản là nhà nước mà trong đó chính
thể được coi như một loại tài sản cá nhân và trong đó không có sự phân
14 FRANCIS FUKUYAMA
biệt nào giữa lợi ích công và lợi ích riêng của nhà cai trị. Ngày nay
không có xã hội gia sản hoàn toàn nào, vì chẳng ai còn dám đòi quyền
sở hữu toàn bộ một nước, như các vua và các hoàng hậu trong các thời
đại đã qua. Tuy vậy, có nhiều nhà nước gia sản mới giả vờ là các chính
thể hiện đại, nhưng thực ra chúng tạo thành các kleptocracy (chế độ
ăn cướp) chia đặc lợi chạy theo lợi ích riêng của những người trong
cuộc. Chủ nghĩa gia sản mới có thể cùng tồn tại với dân chủ, tạo ra
sự đỡ đầu và clientelism (chủ nghĩa bảo trợ) phổ biến mà trong đó các
chính trị gia chia các nguồn lực nhà nước cho các mạng lưới của những
người ủng hộ chính trị. Trong các xã hội như vậy, các cá nhân đi vào
chính trị không phải để theo đuổi một tầm nhìn về lợi ích chung, mà
đúng hơn để làm giàu cho bản thân họ.
Sự ép buộc vẫn là trung tâm cho sự hoạt động của nhà nước, mà vì
sao quyền lực nhà nước gây ra sự sợ hãi và sự căm ghét thường xuyên
đến vậy. Michael Mann đã phân biệt một cách nổi tiếng giữa quyền
lực “bạo ngược” và quyền lực “hạ tầng cơ sở,” cái trước liên quan đến
sự áp bức và cái sau đến khả năng để cung cấp hàng hóa công và chăm
lo đến lợi ích chung.4 Sự phân biệt này có thể cám dỗ chúng ta để nói
rằng các nhà nước “tốt” có quyền lực hạ tầng cơ sở, còn các nhà nước
“xấu” sử dụng quyền lực bạo ngược. Nhưng, thực ra, sự ép buộc là
quan trọng cho mọi nhà nước. Các nhà nước thành công biến đổi quyền
lực thành quyền uy–tức là, thành sự phục tùng tự nguyện của công dân
dựa trên niềm tin rằng các hành động của nhà nước là chính đáng.
Nhưng không phải mọi công dân đồng ý tuân theo luật, và ngay cả các
nền dân chủ chính đáng nhất cần đến sức mạnh cảnh sát để thi hành
luật. Là không thể kiểm soát tham nhũng, chẳng hạn, hay để thu thuế
nếu chẳng ai vào tù vì vi phạm luật. Năng lực thực thi không nổi lên đơn
giản qua việc thông qua các luật; nó cũng đòi hỏi đầu tư vào nhân lực
và huấn luyện và vào việc thiết lập các quy tắc thể chế chi phối việc
thi hành nó.
Nếu có bất cứ thứ gì mà kinh nghiệm của 25 năm qua phải dạy
chúng ta, thì đó là cái chân dân chủ của chiếc kiềng ba chân này là
dễ hơn nhiều để xây dựng hơn là pháp trị hay nhà nước hiện đại. Hay
diễn đạt hơi khác đi, sự phát triển của các nhà nước hiện đại đã không
giữ nhịp với sự phát triển của các định chế dân chủ, dẫn đến những
Vì sao Dân chủ Làm Tồi đến Vậy? 15
tình trạng mất cân bằng trong đó các nền dân chủ mới (và đôi khi
ngay cả nền dân chủ được thiết lập tốt) đã không có khả năng theo kịp
đòi hỏi của các công dân của chúng về các dịch vụ chính phủ chất
lượng cao. Đến lượt, việc này đã dẫn đến sự giải chính đáng hóa
(delegitimation) dân chủ với tư cách như thế. Ngược lại, khả năng
của các nhà nước độc đoán giống Trung Quốc và Singapore để cung
cấp các dịch vụ như vậy đã làm tăng uy tín của chúng so với của dân
chủ ở nhiều phần của thế giới.
Những kinh nghiệm gần đây của Afghanistan và Iraq minh họa
vấn đề này. Sau việc Hoa Kỳ xâm lấn và chiếm đóng các nước này
trong 2001 và 2003, một cách tương ứng, Hoa Kỳ đã có khả năng, với
sự giúp đỡ quốc tế nào đó, để tổ chức các cuộc bầu cử dẫn đến việc lập
các chính phủ mới ở cả hai nước này. Chất lượng dân chủ ở cả hai
nơi–đặc biệt ở Afghanistan, nơi các cuộc bầu cử tổng thống năm 2009
và 2014 đã bị hen ố bởi những cáo buộc gian lận nghiêm trọng5–đã bị
nhiều người nghi ngờ, nhưng chí ít một quá trình dân chủ đã đúng chỗ
để cung cấp cho ban lãnh đạo có vẻ giống nào đó với tính chính đáng.
Cái đã không xảy ra ở cả hai nơi đã là sự phát triển của một nhà
nước hiện đại có thể bảo vệ lãnh thổ đất nước khỏi các kẻ thù bên trong
và bên ngoài và cung cấp các dịch vụ công một cách công bằng và
vô tư. Cả hai nước đã bị ngáng bởi các cuộc nổi dậy trong nước ,
và trong 2014 quân đội Iraq được Mỹ huấn luyện đã sụp đổ ở miền bắc
dưới sự công kích dữ dội của ISIS. Cả hai nước đã bị tai họa bởi mức
tham nhũng cực kỳ cao, mà đến lượt đã làm xói mòn khả năng của
chúng để cung cấp các dịch vụ chính phủ và cắt mất tính chính đáng
của chúng. Những khoản đầu tư khổng lồ vào việc xây dựng nhà nước
ở cả hai nơi bởi Hoa Kỳ và các đối tác liên minh của nó có vẻ đã có
kết quả hạn chế.
Những thất bại về xây dựng nhà nước cũng đã đóng vai trò chủ
chốt trong các sự kiện ở Ukraine. Các bạn Tây phương của dân chủ đã
vui mừng khi Cách mạng Cam đã ép một cuộc bầu cử tổng thống mới
trong 2004, dẫn đến việc Viktor Yushchenko đánh bại thủ tướng
đương chức Viktor Yanukovych. Nhưng Liên minh Cam mới đã tỏ ra
vô tích sự và tham nhũng, và đã chẳng làm gì để cải thiện toàn bộ
chất lượng quản trị ở Ukraine. Kết quả là, Yanukovych đã đánh bại
Yushchenko năm 2010 trong cái được hầu hết các nhà quan sát ghi
16 FRANCIS FUKUYAMA
nhận như cuộc bầu cử tự do và công bằng. Nhiệm kỳ tổng thống của
Yanukovych được đánh dấu bởi mức còn cao hơn của hành vi ăn cướp,
gây ra một vòng phản đối mới ở Kyiv sau khi ông tuyên bố vào cuối
2013 rằng ông sẽ theo đuổi sự liên kết với Liên hiệp Âu-Á của
Vladimir Putin hơn là với EU. Trong lúc ấy, Putin đã củng cố sự cai
trị ngày càng phi tự do ở Nga và đã củng cố địa vị của nhà nước của
ông vis-à-vis (đối diện) thế giới bên ngoài, khiến cho việc sáp nhập
thẳng cánh Crimea tiếp sau sự hất cẳng Yanukovych vào tháng Hai
2014 là có thể.
Tôi cho rằng cuộc xung đột hiện thời, đưa Nga ra chống lại chính
phủ mới của Ukraine và những người Tây phương ủng hộ nó, ít là
cuộc xung đột về bản thân dân chủ hơn là về trật tự chính trị hiện đại
chống lại trật tự chính trị gia sản mới. Có ít nghi ngờ rằng, liền sau sự
sáp nhập Crimea, Vladimir Putin đã trở nên rất được lòng dân ở Nga
và chắc sẽ thắng áp đảo nếu giả như một cuộc bầu cử mới được tổ
chức. Sự lựa chọn thực tế đối mặt với người dân trong khu vực này là
một sự lựa chọn khác–liệu các xã hội của họ dựa trên các chính phủ
tìm cách phục vụ lợi ích công theo cách khách quan, hay bị cai trị bởi
một liên minh thối nát của các elite tìm cách sử dụng nhà nước như
một con đường đến sự làm giàu cá nhân.
Tính chính đáng của nhiều nền dân chủ quanh thế giới phụ thuộc
ít vào sự làm sâu sắc các định chế dân chủ của họ hơn là vào khả năng
của họ để cung cấp sự quản trị chất lượng cao. Nhà nước mới của
Ukraine sẽ không sống sót nếu nó không giải quyết vấn đề tham nhũng
tràn lan mà đã hạ bệ Liên minh Cam tiền nhiệm. Dân chủ đã được thiết
lập vững chắc ở phần lớn Mỹ Latin trong thế hệ qua; cái còn thiếu bây
giờ ở các nước như Brazil, Colombia, và Mexico là năng lực để cung
cấp các hàng hóa công cơ bản như giáo dục, cơ sở hạ tầng, và an ninh
cho công dân. Cũng có thể nói như thế về nền dân chủ lớn nhất thế
giới, Ấn Độ, mà chịu đau đớn vì chủ nghĩa bảo trợ và tham nhũng tràn
lan. Trong 2014, nó nhất quyết quay sang Narendra Modi của đảng
BJP với hy vọng rằng ông có thể mang lại sự lãnh đạo quyết đoán và
chính phủ mạnh thay cho liên minh yếu ớt và tham nhũng do đảng
Quốc Đại lãnh đạo đã nắm quyền trong thập kỷ qua.
Vì sao Dân chủ Làm Tồi đến Vậy? 17
LÀM SAO ĐẠT ĐẾN MỘT NHÀ NƯỚC HIỆN ĐẠI
Bây giờ có tài liệu khổng lồ về chuyển đổi dân chủ, nhiều trong số đó
được công bố đầu tiên trong Journal of Democracy. Có ít hơn rất
nhiều tài liệu sẵn có về vấn đề làm sao để tiến hành chuyển đổi từ một
nhà nước gia sản sang nhà nước hiện đại, tuy đã có sự tiến bộ nào
đó trong một thập kỷ rưỡi qua. Điều này phản ánh một sự thiếu hụt
quan niệm, có gốc rễ trong những nhận thức sai về bản chất của vấn đề
cơ bản.
Thí dụ, có một xu hướng để liên kết tính hiện đại nhà nước với sự thiếu
tham nhũng. Tham nhũng, tất nhiên, là một vấn đề khổng lồ trong nhiều
xã hội và đã tạo ra lượng tài liệu lớn của riêng nó. Nhưng trong khi có một
độ tương quan cao giữa các mức tham nhũng và thành tích tồi của nhà
nước, chúng không phải là cùng một thứ. Một nhà nước có thể tương đối
không thối nát thế nhưng vẫn không có khả năng cung cấp các dịch vụ cơ
bản do thiếu năng lực. Không ai đã cho rằng, thí dụ, Guinea, Sierra
Leone, hay Liberia đã không thể giải quyết dịch Ebola gần đây bởi vì
tham nhũng tràn lan trong các hệ thống y tế công của họ; đúng hơn,
vấn đề là thiếu nhân lực và vật lực–các bác sĩ, các y tá, và các bệnh
viện có điện, nước sạch, và những thứ giống thế.
“Năng lực nhà nước” vì thế đến sát hơn rất nhiều so với thiếu tham
nhũng để mô tả cái nằm ở lõi của tính hiện đại của nhà nước. Các nhà
nước hiện đại cung cấp một dãy các dịch vụ phức tạp gây hoang mang,
từ quản lý số liệu thống kê kinh tế và xã hội đến cứu tế khi có tai họa,
dự báo thời tiết, và kiểm soát các đường bay của máy bay. Tất cả các
hoạt động này đòi hỏi những khoản đầu tư khổng lồ về nhân lực và về
các điều kiện vật chất cho phép các tay chân của nhà nước hoạt động;
sự đơn giản thiếu tham nhũng không có nghĩa rằng những thứ này sẽ
có. Thế mà ngay cả thuật ngữ “năng lực nhà nước” cũng không thâu
tóm được các mục đích mà năng lực này phụng sự và mức độ mà nó
được dùng một cách khách quan.
Hơn nữa, có một sự thiếu sáng sủa nghiêm trọng về những cách
mà theo đó năng lực nhà nước mạnh đã được tạo ra trong quá khứ. Bây
giờ, có chút ít đồng thuận bên trong cộng đồng tài trợ quốc tế về làm
18 FRANCIS FUKUYAMA
sao để theo đuổi sự quản trị tốt, một sự đồng thuận được cấy trong các
chương trình như lập ngân sách tham gia, Đối tác Chính phủ Mở, và
các sáng kiến của rất nhiều tổ chức thúc đẩy sự minh bạch chính phủ
trên khắp thế giới. Nằm dưới các cách tiếp cận này là lý thuyết rằng
quản trị tốt là sản phẩm của sự minh bạch và trách nhiệm giải trình lớn
hơn. Những cách tiếp cận này giả thiết rằng nhiều thông tin hơn về tham
nhũng hay hành động bất lương của chính phủ sẽ dẫn đến công dân nổi
giận và đòi hỏi thành tích nhà nước tốt hơn, mà đến lượt sẽ thúc đẩy các
chính phủ cải cách chính mình. Nói cách khác, dân chủ có chất lượng
tốt hơn được xem như giải pháp cho vấn đề tham nhũng và năng
lực nhà nước yếu.
Vấn đề duy nhất với chiến lược này là, một cách nổi bật, có ít bằng
chứng kinh nghiệm chứng tỏ rằng một cách tiếp cận như vậy là hợp
với cách các chính phủ có thành tích cao đã được tạo ra, hoặc về mặt
lịch sử hay dưới hoàn cảnh đương thời. Nhiều nhà nước với các chính
phủ có thành tích cao tương đối–Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Pháp, và
Đan Mạch, chẳng hạn–đã tạo ra các bộ máy quan liêu “Weberian”
hiện đại dưới các điều kiện độc đoán; các nước sau đó đã tiếp tục
trở thành các nền dân chủ kế thừa các bộ máy nhà nước theo chế độ
nhân tài (meritocratic) mà đơn giản đã sống qua được sự chuyển đổi.
Động cơ để tạo ra các chính phủ hiện đại đã không là áp lực cơ sở từ
các công dân có hiểu biết và được huy động mà đúng hơn là áp lực
elite, thường vì các lý do an ninh quốc gia. Cách ngôn nổi tiếng của
Charles Tilly rằng “chiến tranh tạo ra nhà nước và nhà nước tiến hành
chiến tranh” tổng kết kinh nghiệm không chỉ của châu Âu hiện đại ban
đầu mà cả của Trung Quốc dưới thời Xuân Thu và thời Chiến Quốc,
dẫn đến sự nổi lên của một nhà nước khách quan (không bị ảnh hưởng
của cảm giác cá nhân) dưới sự thống nhất thời Tần trong thế kỷ thứ
ba trước công nguyên.6
Tương tự, một cách đáng chú ý có ít bằng chứng rằng các nỗ lực của
các nhà tài trợ và NGO để thúc đẩy quản trị tốt thông qua tăng cường
tính minh bạch và trách nhiệm giải trình đã có tác động có thể đo lường
được lên thành tích nhà nước.7 Lý thuyết, rằng phải có một sự tương
quan giữa tính sẵn có tăng lên của thông tin về thành tích chính phủ và
chất lượng của các đầu ra chính phủ, cuối cùng dựa trên một số giả
Vì sao Dân chủ Làm Tồi đến Vậy? 19
định khoa trương–rằng các công dân sẽ quan tâm đến thành tích tồi của
chính phủ (ngược với sự hài lòng với lợi ích từ những thực hành giống
sự đỡ đầu dựa trên sắc tộc); rằng họ có năng lực tổ chức về chính trị để
áp lực lên chính phủ; rằng các định chế chính trị của đất nước là
các định chế truyền đạt chính xác ý kiến cơ sở cho các chính trị
gia theo những cách khiến cho những người sau có trách nhiệm
giải trình; và cuối cùng, rằng chính phủ thực sự có năng lực để thực
hiện như các công dân đòi hỏi.
Lịch sử thật của mối quan hệ giữa tính hiện đại và dân chủ là phức
tạp hơn lý thuyết đương thời gợi ý rất nhiều. Đi theo khung khổ do
Martin Shefter thiết lập lần đầu tiên, ở nơi khác tôi đã cho rằng sự nối
tiếp mà theo đó dân chủ (được đo bằng mức độ phổ quát của quyền bầu
cử) và tính hiện đại nhà nước được thiết lập đã xác định chất lượng
dài hạn của chính phủ.8 Nơi một nhà nước hiện đại đã được củng cố
trước sự mở rộng quyền bầu cử, nó đã thường thành công trong sống
qua được thời hiện đại; nơi sự mở cửa dân chủ đi trước cải cách nhà
nước, kết quả đã thường là chủ nghĩa bảo trợ tràn lan. Điều này đã
đúng trên hết ở nước đã mở quyền bầu cử cho tất cả đàn ông gia
trắng, Hoa Kỳ, mà đã tiếp tục tạo ra hệ thống chính trị bảo trợ chủ
nghĩa (clientelistic) tràn lan đầu tiên của thế giới (được biết trong lịch
sử Hoa Kỳ như hệ thống bổng lộc, hay đỡ đầu). Ở nước đó vào thế
kỷ mười chín, dân chủ và chất lượng nhà nước đã rõ ràng bất hòa
với nhau. Lý do cho điều này là, trong các nền dân chủ với các mức
thu nhập và giáo dục thấp, các khuyến khích cử tri bị cá nhân hóa (cốt
lõi của clientelism-chủ nghĩa bảo trợ) chắc có khả năng để huy động các
cử tri và đưa họ đến nơi bỏ phiếu hơn là các hứa hẹn của các chính
sách công theo cương lĩnh.9
Tình hình thay đổi, tuy vậy, tại các mức cao hơn của phát triển kinh
tế. Khó đút lót các cử tri có thu nhập cao hơn thông qua sự chi trả cá
nhân hóa, và họ có khuynh hướng để ý nhiều hơn đến các chính sách
theo cương lĩnh. Ngoài ra, các mức phát triển cao hơn thường được
dẫn dắt bởi sự tăng trưởng của một nền kinh tế thị trường, tạo ra các
con đường thay thế cho việc làm giàu cá nhân bên ngoài chính trị. Cuộc
bầu cử cuối ở Đài Loan, mà trong đó chủ nghĩa bảo trợ đã phổ biến, đã
20 FRANCIS FUKUYAMA
xảy ra trong đầu các năm 1990; sau đó, các cử tri Đài Loan đã quá giàu
để dễ dàng bị mua chuộc.10
Mặc dù dân chủ là một tác nhân của chủ nghĩa bảo trợ ở các mức
thấp của thu nhập đầu người, nó có thể mở ra một con đường hướng
tới việc tạo ra chính phủ chất lượng cao hơn khi các quốc gia trở nên
giàu hơn. Hoa Kỳ lại là một thí dụ: vào các năm 1880, nước này đã
nhanh chóng biến đổi mình từ một xã hội nông nghiệp thành một xã
hội đô thị công nghiệp, được kết chặt với nhau trong một thị trường lục
địa khổng lồ bởi các công nghệ mới như đường sắt. Tăng trưởng kinh tế
đã dẫn đến sự nổi lên của các diễn viên kinh tế mới–các nhà chuyên
môn, một tập phức tạp hơn của các lợi ích kinh doanh, và các cá nhân
thuộc giai cấp trung lưu nói chung hơn–những người đã muốn chính
phủ chất lượng cao hơn và đã không có tiền cược lớn trong hệ thống
bảo trợ hiện tồn. Một phong trào từ cơ sở đã làm cho việc thông qua
Bộ luật Pendleton năm 1883 là có thể, mà đã thiết lập nguyên tắc tuyển
dụng nhân tài vào bộ máy liên bang mà các tổng thống Theodore
Roosevelt (1901–09) và Woodrow Wilson (1913-21) đã làm nhiều
để thúc đẩy. Các thủ lĩnh đảng và các bộ máy chính trị đã tiếp tục phát
triển mạnh trong vài thế hệ quá điểm đó, nhưng chúng đã dần dần bị
loại trừ trong hầu hết thành phố Mỹ vào giữa thế kỷ thứ hai mươi bởi
hoạt động vận động chính trị quả quyết. Nếu các nền dân chủ đương
thời như Ấn Độ và Brazil phải giải quyết các vấn đề đỡ đầu và tham
nhũng, chúng sẽ phải đi theo một con đường tương tự.
SỰ CẦN THIẾT CỦA THỰC THI
Tuy vậy, Hoa Kỳ đã có một ưu thế quan trọng mà thiếu ở nhiều nền
dân chủ mới ngày nay. Nó đã luôn luôn có quyền lực cảnh sát mạnh
và đã có thể thực thi các luật mà nó đã thông qua. Năng lực này đã có
gốc rễ trong Thông Luật, mà các thuộc địa đã kế thừa từ Anh Quốc và đã
được thể chế hóa tốt trước sự độc lập của chúng. Các chính quyền Mỹ ở
mọi mức luôn luôn duy trì quyền lực cảnh sát tương đối mạnh để truy tố,
xét xử, và kết án các tội phạm ở các mức khác nhau của chính
quyền. Quyền lực ép buộc này được ủng hộ bởi một niềm tin mạnh
vào tính chính đáng của luật và vì thế được biến đổi thành uy quyền
Vì sao Dân chủ Làm Tồi đến Vậy? 21
thật ở hầu hết các nơi. Năng lực thực thi tạo thành một lĩnh vực nơi
năng lực nhà nước chồng lấn với pháp trị, và là cốt yếu trong giải quyết
vấn đề như tham nhũng. Hành vi của các quan chức công phụ thuộc
vào các khuyến khích–không chỉ vào nhận được lương thỏa đáng cho
thực hiện công việc của họ, mà vào sự sợ bị trừng phạt nếu họ phạm
luật. Ở rất nhiều nước, thuế không được nộp và của đút lót được thu vì
có rất ít khả năng để đưa kẻ phạn luật vào tù.
Sự thực thi hiệu quả đã là trung tâm cho thành công của một trong
những nỗ lực đáng chú ý nhất gần đây để cải thiện thành tích của khu
vực công, đó là của Georgia. Tiếp sau Cách mạng Hoa hồng 2003
chính phủ của Mikheil Saakashvili đã đập tan tham nhũng trên nhiều
mặt trận, giải quyết cảnh sát giao thông, trốn thuế, và hoạt động tràn
lan của các băng nhóm tội phạm được biết đến như “các kẻ cắp-trong-
luật.” Trong khi một vài việc này được tiến hành thông qua các sáng
kiến minh bạch và các khuyến khích tích cực (thí dụ, bằng công bố trực
tuyến các dữ liệu chính phủ, và bằng tăng lương cảnh sát lên một bậc
độ lớn [khoảng 10 lần]), sự thực thi hiệu quả đã phụ thuộc vào việc tạo
ra các đơn vị cảnh sát mới thực hiện những việc như tiến hành các cuộc
bắt những cựu quan chức cấp cao và những doanh nhân được công bố
rầm rộ. Vào cuối nhiệm kỳ của chính quyền Saakashvili, quyền lực
cảnh sát được tăng cường này đã bị lạm dụng theo nhiều cách, gây
ra một phản ứng chính trị mà đã dẫn đến việc bầu Bidzina Ivanishvili và đảng
Giấc Mơ Georgia.11
Những sự lạm dụng như vậy không được che mờ tầm quan trọng của
quyền lực ép buộc của nhà nước trong việc đạt được sự thực thi hiệu quả
luật. Kiểm soát tham nhũng đòi hỏi sự thay đổi toàn bộ về các kỳ vọng
chuẩn tắc về hành vi của một dân cư–nếu tất cả những người quanh tôi
ăn đút lót, tôi sẽ trông giống một thằng ngu nếu tôi không tham gia.
Dưới hoàn cảnh như vậy, nỗi sợ là nhân tố thúc đẩy hữu hiệu hơn các
ý định tốt hay các khuyến khích kinh tế rất nhiều. Trước Cách mạng
Hoa Hồng, Georgia đã khét tiếng là một trong những nơi tham nhũng
nhất trong Liên Xô trước đây. Ngày nay, theo nhiều số đo quản trị, nó
đã trở thành một trong những nơi ít tham nhũng nhất. Khó có thể thấy
các thí dụ về các chính thể được cai trị hiệu quả mà không sử dụng
quyền lực ép buộc thực chất. Các nỗ lực đương thời để thúc đẩy quản
trị tốt thông qua sự minh bạch và trách nhiệm giải trình tăng lên nhưng
22 FRANCIS FUKUYAMA
không đồng thời kết hợp các nỗ lực để củng cố quyền lực thi hành, thì
rốt cuộc phải chịu số phận thất bại.
Trong Political Order in Changing Societies (Trật tự Chính trị trong
các Xã hội Thay đổi), Samuel Huntington đã cho rằng các chiều kích
chính trị của sự phát triển thường không bắt kịp nhịp với sự huy
động xã hội và như thế dẫn đến sự rối loạn chính trị. Có thể có
một sự thất bại tương ứng của các định chế nhà nước để theo kịp
sự phát triển của các định chế dân chủ.
Kết luận này có một số ngụ ý quan trọng cho cách mà theo đó Hoa
Kỳ và các nền dân chủ khác theo đuổi sự thúc đẩy dân chủ. Trong quá
khứ, đã có sự nhấn mạnh nhiều lên việc làm bằng phẳng sân chơi trong
các nước độc đoán thông qua việc ủng hộ các tổ chức xã hội dân sự,
và ủng hộ sự chuyển đổi ban đầu khỏi chế độ độc tài.
Tuy nhiên, tạo ra một nền dân chủ có thể đứng vững đòi hỏi hai giai
đoạn thêm trong đó sự huy động ban đầu chống lại chế độ bạo ngược
được thể chế hóa và biến đổi thành các tập quán lâu bền. Thứ nhất là
việc tổ chức các phong trào xã hội thành các đảng chính trị có thể
tranh đua trong các cuộc bầu cử. Các tổ chức xã hội dân sự thường
chú tâm vào các vấn đề hẹp, và không được dựng lên để huy động cử
tri–đấy là lĩnh vực đơn nhất của các đảng chính trị. Sự thất bại để xây
dựng các đảng chính trị giải thích vì sao nhiều lực lượng tự do đã
thường xuyên thất bại tại thùng phiếu ở các nước chuyển đổi từ Nga
đến Ukraine đến Ai Cập.
Giai đoạn cần thiết thứ hai, tuy vậy, liên quan đến xây dựng nhà
nước và năng lực nhà nước. Một khi chính phủ dân chủ lên nắm
quyền, nó phải thực sự cai trị–tức là, nó phải thực thi quyền lực hợp
pháp và cung cấp các dịch vụ cơ bản cho dân cư. Cộng đồng thúc đẩy
dân chủ đã chú ý ít hơn rất nhiều đến các vấn đề quản trị dân chủ so
với đến sự huy động ban đầu và sự chuyển đổi. Không có khả năng để
cai trị tốt, tuy vậy, các nền dân chủ mới sẽ không thỏa mãn các kỳ vọng
của những người theo chúng và giải chính đáng hóa chính chúng. Quả
thực, như lịch sử Hoa Kỳ chứng tỏ, dân chủ hóa mà không chú ý đến
hiện đại hóa nhà nước có thể thực sự dẫn đến việc làm yếu chất lượng
của chính phủ.
Tuy vậy, điều này không có nghĩa rằng hiện đại hóa nhà nước có
thể đạt được chỉ dưới các điều kiện của sự cai trị độc đoán. Sự thực
Vì sao Dân chủ Làm Tồi đến Vậy? 23
rằng nhiều nền dân chủ được thiết lập lâu đã theo chuỗi xây dựng nhà
nước trước sự dân chủ hóa–cái mà Samuel Huntington đã dán nhãn
là “chuyển đổi độc đoán”–không nhất thiết có nghĩa rằng đấy là
chiến lược khả thi cho các nước trong thế giới đương thời, nơi đòi hỏi
và những kỳ vọng của dân chúng đối với dân chủ là lớn hơn rất nhiều.
Dù tốt xấu ra sao, nhiều nước trên thế giới sẽ phải phát triển nhà
nước hiện đại đồng thời với việc xây dựng các định chế dân chủ và
pháp trị. Điều này có nghĩa rằng cộng đồng thúc đẩy dân chủ cần chú
ý hơn nhiều đến xây dựng các nhà nước hiện đại, và không nghỉ ngơi
khi các chính phủ độc đoán bị đẩy ra khỏi quyền lực. Điều này cũng
gợi ý một chương trình nghị sự trí tuệ được mở rộng cho Journal of
Democracy: Cùng với những đóng góp lớn lao của nó cho việc nghiên
cứu về các nền dân chủ nổi lên như thế nào và được củng cố ra sao, nó
cần tập trung sự chú ý được hồi phục lại đến các định chế nhà nước
hiện đại sinh ra và tàn lụi thế nào.
GHI CHÚ
1. Samuel P. Huntington, The Third Wave: Democratization in the Late
Twentieth Century (Oklahoma City: University of Oklahoma Press,
1991).
2. Xem Larry Diamond’s chapter, “Facing Up to the Democratic Recession,”
trong tập sách này.
3. Alexander Hamilton, Federalist 70 (1788).
4. Michael Mann, The Sources of Social Power, vol. 1, A History of Power from
the Beginning to AD 1760 (Cambridge: Cambridge University Press, 1986).
5. Xem Sarah Chayes, Thieves of State: Why Corruption Threatens Global
Security (New York: W. W. Norton, 2015).
6. Điểm này được đưa ra troing cuốn sách của tôi The Origins of Political Order:
From Prehuman Times to the French Revolution (New York: Farrar, Straus
& Giroux, 2011).
7. Xem, thí dụ, Ivar Kolstad and Arne Wiig, “Is Transparency the Key to
Reducing Corruption in Resource-Rich Countries?” World Develop- ment
37 (March 2009): 521–32; Mehmet Bac, “Corruption, Connections
24 FRANCIS FUKUYAMA
and Transparency: Does a Better Screen Imply a Better Scene?” Public
Choice 107 (April 2001): 87–96; Susan Rose-Ackerman and Rory Truex,
“Corruption and Policy Reform,” working paper prepared for the Co-
penhagen Consensus Project, 27 February 2012; và Luca Etter, “Can
Transparency Reduce Corruption?” paper presented at the Doing Busi-
ness Conference, Georgetown University, Washington, DC, February
2014.
8. Xem Martin Shefter, Political Parties and the State: The American Histori-
cal Experience (Princeton: Princeton University Press, 1994).
9. Xem Francis Fukuyama, “Democracy and the Quality of the State,”
Journal of Democracy 24 (October 2013): 5–16.
10. Mushtaq H. Khan, “Markets, States, and Democracy: Patron-Client
Networks and the Case for Democracy in Developing Countries,”
Democratization 12 (December 2005): 704–24; Chin-Shou Wang and
Charles Kurzman, “The Logistics: How to Buy Votes,” in Frederic Charles
Schaffer, ed., Elections for Sale: The Causes and Consequences of Vote
Buying (Boulder, CO: Lynne Rienner, 2007).
11. Xem World Bank, Fighting Corruption in Public Services: Chronicling
Georgia’s Reforms (Washington, DC: World Bank, 2012); Peter Pomer-
antsev et al., “Revolutionary Tactics: Insights from Police and Justice
Reform in Georgia,” Legatum Institute, London, June 2014.
2
Trọng lượng của Địa Chính trị
ROBERT KAGAN
Chính trị đi theo địa chính trị, đại loại thường có vẻ thế suốt lịch sử. Khi đế
chế của nền dân chủ Athen nổi lên trong thế kỷ thứ năm trước công
nguyên, số các thành bang Hy Lạp được những người dân chủ cai trị
đã tăng nhanh; sức mạnh của Sparta được phản ánh trong sự phổ biến
của các tập đoàn đầu sỏ chính trị kiểu Sparta. Khi sức mạnh của Liên
Xô tăng lên trong đầu các năm Chiến tranh Lạnh, chủ nghĩa cộng sản
lan ra. Trong những năm cuối Chiến tranh Lạnh, khi Hoa Kỳ và Tây
Âu có được ưu thế và cuối cùng đã chiến thắng, các nền dân chủ đã
tăng nhanh và chủ nghĩa cộng sản sụp đổ. Đấy có phải chỉ là kết
cục của trận đấu của các ý tưởng, như Francis Fukuyama và những
người khác lý lẽ, với ý tưởng tốt hơn của chủ nghĩa tư bản khai phóng
chiến thắng các ý tưởng tồi hơn của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa
phát xít? Hay các ý tưởng khai phóng chiến thắng, một phần bởi vì các
cuộc đấu tranh và sự thay đổi thực mà đã xảy ra ít trong thế giới tư duy
hơn là trong lĩnh vực quyền lực?
Đấy là những câu hỏi xác đáng lần nữa. Chúng ta sống trong một
thời đại khi các quốc gia dân chủ rút lui trong lĩnh vực địa chính trị và
khi bản thân dân chủ cũng rút lui. Hiện tượng sau đã được chứng minh
25
26 ROBERT KAGAN
bằng tư liệu bởi Freedom House, mà đã ghi nhận sự sa sút tự do trên
thế giới trong suốt chín năm. Ở mức địa chính trị, các mảng kiến tạo
thay đổi còn phải tạo ra một sự sắp xếp lại địa chấn về quyền lực, nhưng
những tiếng ầm ầm có thể được nghe thấy rồi. Hoa Kỳ đã ở trong một
trạng thái giảm bớt chi kể từ khi Tổng thống Barack Obama nhậm
chức năm 2009. Các quốc gia dân chủ Âu châu, mà một vài đã có thể
kỳ vọng tránh được sự đình đốn, thay vào đó đã quay về hướng nội và
hầu như đã bỏ các ước mơ trước kia về định hình lại hệ thống quốc tế
theo hình ảnh của họ. Về phần các nền dân chủ đang lên như
Brazil, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, và Nam Phi, họ đã chẳng nổi lên nhanh
như một thời chờ đợi, cũng không ứng xử như các nền dân chủ trong
công việc thế giới. Tiêu điểm của họ vẫn hẹp và có tính khu vực. Bản
sắc quốc gia của họ vẫn bị tạo hình bởi sự nhạy cảm hậu thuộc địa và
không liên kết–bởi những oán giận cũ nhưng được nuôi dưỡng cẩn
thận–mà đã dẫn họ, thí dụ, đến che chắn hơn là lên án việc Nga chuyên
quyền xâm lấn Ukraine dân chủ hay, trong trường hợp Brazil, thích bè
bạn với các nhà độc tài Venezuela hơn với các tổng thống dân chủ Bắc
Mỹ.
Trong lúc ấy, tới một chừng mực mà có năng động trong hệ thống
quốc tế, nó đến từ các đại cường chuyên quyền, Trung Quốc và Nga,
và từ các nhà muốn là thần quyền theo đuổi giấc mơ của họ về một
caliphate (vương quốc Islam) mới ở Trung Đông. Mặc dù họ có nhiều
vấn đề và điểm yếu, vẫn chính các chế độ chuyên quyền và các nhà
toàn trị mộ đạo này đẩy tới còn các nền dân chủ kéo lui, họ hành động còn
các nền dân chủ phản ứng lại, và họ có vẻ ngày càng sổng (chuồng) còn
các nền dân chủ cảm thấy ngày càng bị ràng buộc.
Chẳng ngạc nhiên rằng một trong những kết quả phụ của hoàn cảnh
này đã là sự yếu đi và trong một số trường hợp là sự sụp đổ của dân chủ
ở những nơi nó đã là mới nhất và yếu nhất. Những thay đổi địa chính trị
giữa các đại cường thống trị, thường nhưng không luôn luôn là kết quả
của các cuộc chiến tranh, có thể có những ảnh hưởng đáng kể lên chính
trị trong nước của các quốc gia nhỏ hơn và yếu hơn của thế giới. Các xu
hướng dân chủ hóa toàn cầu đã ngừng và đã đảo ngược trước.
Hãy xem xét các năm giữa chiến tranh. Trong 1920, khi số các nền
dân chủ trên thế giới đã tăng gấp đôi như hậu quả của Chiến tranh Thế
Trọng lượng của Địa Chính trị 27
giới thứ Nhất, các nhà đương thời như sử gia Anh James Bryce đã
tin rằng họ đã chứng kiến “một xu hướng tự nhiên, do một quy
luật chung về sự tiến bộ xã hội.”1 Thế nhưng hầu như ngay lập
tức các nền dân chủ mới ở Estonia, Latvia, Lithuania, và Ba Lan đã
bắt đầu sụp đổ. Các đại cường dân chủ Âu châu, Pháp và Anh, đã chịu
hậu quả của cuộc chiến tranh tàn phá vừa qua, còn một cường quốc
dân chủ giàu và lành mạnh, Hoa Kỳ, thì đã rút lui vào sự an toàn của
các bờ biển xa xôi của nó. Trong chân không Mussolini đã lên nắm
quyền ở Italy năm 1922, Cộng hòa Weimar của Đức sụp đổ, và chủ
nghĩa phát xít Âu châu chiến thắng rộng hơn. Nền dân chủ Hy Lạp
sụp đổ năm 1936. Nền dân chủ Tây Ban Nha rơi vào tay Franco cùng
năm đó. Các cuộc đảo chính quân sự đã lật đổ các chính phủ dân chủ
ở Bồ Đào Nha, Brazil, Uruguay, và Argentina. Nền dân chủ Nhật Bản
đã thua sự cai trị quân sự và sau đó là một dạng của chủ nghĩa phát xít.
Khắp ba lục địa, các nền dân chủ mong manh đã nhường đường
cho các lực lượng độc đoán tận dụng các tính dễ bị tổn thương của hệ
thống dân chủ, trong khi các nền dân chủ khác đã là nạn nhân của suy
thoái kinh tế toàn cầu. Cũng đã có một tác động lan lăn tăn nữa–thành
công của chủ nghĩa phát xít ở một nước đã củng cố, đôi khi một
cách trực tiếp, các phong trào tương tự ở nơi khác. Bọn phát xít
Tây Ban Nha đã nhận được sự giúp đỡ quân sự từ các chế độ phát
xít ở Đức và Italy. Kết quả là, vào năm 1939 những lợi lộc dân chủ
của 40 năm trước đã bị xóa sạch.
Giai đoạn sau Chiến tranh Thế giới I đã chứng tỏ không chỉ rằng
các lợi lộc dân chủ đã có thể bị đảo ngược mà cả rằng dân chủ không
nhất thiết luôn chiến thắng ngay cả trong cuộc cạnh tranh của các ý
tưởng. Vì đã không chỉ các nền dân chủ bị lật đổ; chính ý tưởng
về dân chủ đã bị “mất uy tín,” như John A. Hobson đã nhận xét.2 Khí
chất không thể tránh khỏi của dân chủ đã biến mất khi số đông người
bác bỏ ý tưởng rằng nó đã là hình thức tốt hơn của chính quyền. Rốt
cuộc, con người không ao ước chỉ quyền tự do, sự tự trị, tính cá nhân,
và sự công nhận. Đặc biệt trong thời khó khăn, họ cũng khát khao sự
sung túc, an ninh, trật tự, và, thật quan trọng, một cảm nhận thuộc về
cái gì đó lớn hơn bản thân họ, cái gì đó nhấn chìm sự tự trị và tính cá
nhân–tất cả thứ đó các chế độ chuyên quyền đôi khi có thể cung cấp,
hoặc chí ít có vẻ cung cấp, tốt hơn các nền dân chủ.
28 ROBERT KAGAN
Trong các năm 1920 và 1930, các chính phủ phát xít đã có vẻ mạnh
hơn, năng động và hiệu quả hơn, và có năng lực hơn về làm yên lòng
trong thời rối loạn. Chúng đã lôi cuốn hữu hiệu các tình cảm dân tộc
chủ nghĩa, sắc tộc, và bộ lạc. Nhiều điểm yếu của nền dân chủ Weimar
của Đức, được ủng hộ không thỏa đáng của các đại cường dân chủ, và
của các nền dân chủ mỏng manh và ngắn của Italy và Tây Ban Nha đã
làm cho nhân dân của họ dễ bị ảnh hưởng của bọn Nazi, Mussolini, và
Franco, hệt như những yếu kém của nền dân chủ Nga trong các năm
1990 đã làm cho một chính phủ độc đoán hơn dưới Vladimir Putin hấp
dẫn nhiều người Nga. Người dân thường đi theo những kẻ thắng, và
giữa các cuộc chiến tranh các nước tư bản dân chủ có vẻ đã yếu và rút
lui so với các chế độ phát xít bề ngoài đầy sinh lực và với Liên Xô của
Stalin.
Đã cần đến một cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và một chiến thắng
quân sự khác của các nền dân chủ Đồng Minh (cộng Liên Xô) để đảo
ngược xu hướng lần nữa. Hoa Kỳ đã áp đặt dân chủ bằng vũ lực và qua
sự chiếm đóng kéo dài ở Tây Đức, Italy, Nhật Bản, Áo, và Nam Hàn.
Với thắng lợi của các nền dân chủ và sự làm mất uy tín chủ nghĩa phát
xít–chủ yếu trên chiến trường–nhiều nước khác đã noi gương. Hy Lạp
và Thổ Nhĩ Kỳ cả hai đã chuyển theo hướng dân chủ, Brazil, Argentina,
Peru, Ecuador, Venezuela, và Colombia cũng thế. Một số quốc gia mới
được sinh ra khi châu Âu thoát khỏi các thuộc địa của nó cũng đã thử
nghiệm với chính phủ dân chủ, thí dụ nổi bật nhất là Ấn Độ. Vào 1950,
số các nền dân chủ đã tăng lên giữa hai mươi và ba mươi, và chúng đã
cai trị gần 40 phần trăm dân số thế giới.
Đấy đã là chiến thắng của một ý tưởng hay chiến thắng của vũ khí? Nó đã
là sản phẩm của một sự tiến hóa con người không thể tránh khỏi hay,
như Samuel P. Huntington muộn hơn đã nhận xét, của “các sự kiện
rời rạc về mặt lịch sử”?3 Chúng ta thích tin vào cái trước, nhưng bằng chứng
lại gợi ý cái sau, vì đã hóa ra là ngay cả làn sóng lớn của dân chủ tiếp
sau Chiến tranh Thế giới II đã không phải là không thể đảo ngược
được. Một “làn sóng đảo ngược” khác đã ập tới từ cuối các năm 1950 qua
đầu 1970. Peru, Brazil, Argentina, Bolivia, Chile, Uruguay, Ecuador,
Nam Hàn, Philippines, Pakistan, Indonesia, và Hy Lạp tất cả đều đã
quay lại dưới sự cai trị độc đoán. Ở châu Phi, Nigeria đã là nổi bật nhất
Trọng lượng của Địa Chính trị 29
trong số các quốc gia mới được phi thuộc địa hóa nơi dân chủ đã thất
bại. Vào 1975, hơn ba tá chính phủ quanh thế giới đã được sắp đặt bởi
các cuộc đảo chính quân sự.4 Ít người đã nói về tính không thể tránh khỏi
của dân chủ trong các năm 1970 hoặc thậm chí trong đầu các năm 1980.
Cho đến 1984, bản thân Huntington đã tin rằng đã đạt “các giới hạn
của sự phát triển dân chủ trên thế giới,” lưu ý “tính không dễ
tiếp thu dân chủ của nhiều truyền thống văn hóa lớn,” cũng như
“sức mạnh lớn lao của các chính phủ chống dân chủ (đặc biệt
Liên Xô).”5
Nhưng rồi, thình lình, “làn sóng thứ ba” đến. Từ giữa các năm 1970
qua đầu các năm 1990, số các nền dân chủ trên thế giới tăng lên con số
gây ngạc nhiên 120, đại diện hơn một nửa dân số thế giới. Cái gì đã giải
thích thành công kéo dài của dân chủ hóa trong một phần tư cuối của thế
kỷ hai mươi? Nó đã không thể chỉ là sự tăng lên đều đặn của nền kinh tế
toàn cầu và sự khao khát chung vì tự do, sự tự trị, và sự công nhận.
Cả tăng trưởng kinh tế lẫn khát vọng con người đã không ngăn trở sự
đảo ngược dân chủ của các năm 1960 và đầu các năm 1970. Cho đến
làn sóng thứ ba, nhiều quốc gia trên thế giới đã lật xuôi lật ngược giữa dân
chủ và chủ nghĩa độc đoán theo cách chu kỳ, hầu như có thể tiên đoán
được. Cái nổi bật nhất về làn sóng thứ ba đã là, sự luân phiên chu kỳ này
giữa dân chủ và chuyên quyền đã bị gián đoạn. Các quốc gia đã dời sang
pha dân chủ và ở lại đó. Nhưng vì sao?
BẦU KHÔNG KHÍ QUỐC TẾ ĐƯỢC CẢI THIỆN
Câu trả lời liên quan đến cấu hình quyền lực và ý tưởng trên thế giới.
Bầu không khí quốc tế từ giữa các năm 1970 trở đi đơn giản đã thân
thiện với các nền dân chủ và thách thức với các chính phủ chuyên
quyền hơn là trong các thời đại đã qua. Trong nghiên cứu của mình,
Huntington đã nhấn mạnh sự thay đổi, tiếp sau Hội đồng Vatican thứ
Hai, trong giáo lý của Giáo hội Catholic về trật tự và cách mạng, mà
đã có khuynh hướng làm yếu tính chính đáng của các chính phủ độc
đoán trong các nước Catholic. Thành công tăng lên và tính hấp dẫn
của Cộng đồng Âu châu (EC), trong lúc đó, đã có một tác động lên
30 ROBERT KAGAN
các chính sách đối nội của các quốc gia như Bồ Đào Nha, Hy Lạp, và
Tây Ban Nha, tìm các lợi ích kinh tế của tư cách thành viên trong EC
và vì thế cảm thấy áp lực để tuân theo các chuẩn mực dân chủ của nó.
Các chuẩn mực này ngày càng trở thành các chuẩn mực quốc tế. Nhưng
chúng đã không xuất hiện từ không đâu hoặc như kết quả của sự tiến
hóa tự nhiên nào đó của loài người. Như Huntington đã lưu ý, “Tính
tỏa khắp của các chuẩn mực dân chủ đã dựa phần lớn vào sự cam kết
của nước hùng mạnh nhất thế giới với các chuẩn mực đó.”6
Hoa Kỳ, thực ra, đã đóng một vai trò cốt yếu khiến cho sự bùng nổ
của dân chủ là có thể. Điều này đã không bởi vì các nhà hoạch định
chính sách Hoa Kỳ đã thúc đẩy dân chủ một cách nhất quán khắp thế
giới. Họ đã không. Tại những thời gian khác nhau suốt Chiến tranh
Lạnh, chính sách Hoa Kỳ thường đã ủng hộ các chế độ độc tài như
phần của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản hay đơn giản vì thờ
ơ. Nó thậm chí đã cho phép hay đã đồng lõa trong việc lật đổ các chế
độ dân chủ được cho là không đáng tin cậy–các chế độ của Mohammad
Mossadegh ở Iran năm 1953, Jacobo Arbenz ở Guatemala năm 1954,
và Salvador Allende ở Chile năm 1973. Đôi khi, chính sách đối ngoại
Mỹ đã hầu như thù địch với dân chủ. Tổng thống Richard Nixon đã
coi nó như “không nhất thiết là hình thức tốt nhất của chính phủ
cho nhân dân ở các châu Á, Phi, và Mỹ Latin.”7
Khi Hoa Kỳ có ủng hộ dân chủ, đã cũng chẳng hoàn toàn vì sự trung
thành với nguyên tắc. Thường đã là vì các lý do chiến lược. Các quan
chức trong chính quyền của Tổng thống Ronald Reagan đã đi đến tin
rằng các chính phủ dân chủ có thể thực sự tốt hơn các chế độ chuyên
quyền khi né tránh các cuộc nổi dậy cộng sản, chẳng hạn. Và thường là
những đòi hỏi của dân chúng địa phương đã buộc Hoa Kỳ đưa ra một
lựa chọn mà khác đi nó thích tránh, giữa ủng hộ một chế độ độc tài
không được lòng dân và có lẽ nao núng và “sang phía nhân dân.”
Reagan đã thích ủng hộ chế độ độc tài của Ferdinand Marcos trong
các năm 1980 giả như không phải đối diện với thách thức đạo đức
của “sức mạnh nhân dân” Filipino. Hiếm khi, nếu có bao giờ, Hoa Kỳ
đã tìm kiếm một sự thay đổi chế độ chủ yếu vì sự tận tâm cho các
nguyên tắc dân chủ.
Trọng lượng của Địa Chính trị 31
Bắt đầu từ giữa các năm 1970, tuy vậy, thiên hướng chung của
Hoa Kỳ đã bắt đầu thay đổi theo quan điểm phê phán hơn chế độ độc
tài. Quốc hội Hoa Kỳ, dẫn đầu bởi các nhà chủ trương nhân quyền, đã
bắt đầu đặt điều kiện hay cắt viện trợ Mỹ cho các đồng minh độc đoán,
làm suy yếu sự nắm quyền của họ. Trong các Hiệp định Helsinki 1975,
một sự dẫn chiếu đến các vấn đề nhân quyền đã thu hút sự chú ý lớn
hơn đến sự nghiệp của các nhà bất đồng chính kiến và các nhà đối lập
khác của chế độ độc tài ở khối phương Đông. Tổng thống Jimmy Carter
đã tập trung chú ý vào những vi phạm nhân quyền của Liên Xô cũng như
của các chính phủ cánh hữu ở Mỹ Latin và nơi khác. Cục thông tin quốc
tế của chính phủ Mỹ, gồm đài Tiếng nói Hoa Kỳ và Đài Châu Âu Tự
do/Đài Tự do, đã nhấn mạnh hơn về dân chủ và nhân quyền trong
chương trình của chúng. Chính quyền Reagan, đầu tiên đã thử cắt giảm
chương trình nghị sự nhân quyền của Carter, rồi cuối cùng đã đi theo
nó và biến việc thúc đẩy dân chủ thành một phần của chính sách được
tuyên bố (nếu không luôn thật sự) của nó. Ngay cả trong giai đoạn này,
chính sách Mỹ đã còn xa mới nhất quán. Nhiều chế độ độc tài liên minh,
đặc biệt ở Trung Đông, đã không chỉ được dung túng mà còn được ủng hộ
tích cực bằng viện trợ kinh tế và quân sự Mỹ. Nhưng kết quả thuần của
sự thay đổi chính sách của Mỹ, cùng các nỗ lực của châu Âu, đã là
quan trọng.
Làn sóng thứ ba đã bắt đầu năm 1974 ở Bồ Đào Nha, nơi Cách
mạng hoa Cẩm chướng đã chấm dứt một nửa thế kỷ của chế độ độc tài.
Như Larry Diamond lưu ý, cuộc cách mạng này đã không chỉ xảy ra.
Hoa Kỳ và các nền dân chủ Âu châu đã đóng một vai trò then chốt,
tiến hành một “sự đầu tư mạnh … trong hỗ trợ các đảng dân chủ.”8
Trong thập kỷ rưỡi tiếp theo, Hoa Kỳ đã sử dụng các công cụ khác
nhau, kể cả sự can thiệp quân sự trực tiếp, để giúp các chuyển đổi dân
chủ và ngăn chặn sự làm xói mòn các nền dân chủ mỏng manh trên
khắp địa cầu. Năm 1978, Carter dã đe dọa hành động quân sự ở
Cộng hòa Dominic khi tổng thống lâu đời Joaquín Balaguer từ chối
từ bỏ quyền lực sau khi thua một cuộc bầu cử. Năm 1983, cuộc xâm lấn
của Reagan vào Grenada đã phục hồi chính phủ dân chủ sau một cuộc
đảo chính quân sự. Năm 1986, Hoa Kỳ đã đe dọa hoạt động quân sự để
ngăn chặn Marcos khỏi hủy bỏ một cuộc bầu cử mà ông đã thua. Năm
1989, Tổng thống George H. W. Bush đã xâm chiếm Panama để giúp
32 ROBERT KAGAN
dựng nền dân chủ sau khi nhà quân sự mạnh tay Manuel Noriega đã
hủy bỏ các cuộc bầu cử của quốc gia của ông.
Suốt giai đoạn này, hơn thế, Hoa Kỳ đã dùng ảnh hưởng của nó
để chặn các cuộc đảo chính quân sự ở Honduras, Bolivia, El Salvador,
Peru, và Nam Hàn. Ở nơi khác nó đã thúc các tổng thống không thử ở
lại chức vụ quá giới hạn hiến pháp. Huntington đã ước lượng rằng
trong tiến trình khoảng một thập kỷ rưỡi, sự ủng hộ của Mỹ đã là “cốt
yếu cho dân chủ hóa ở Cộng hòa Dominic, Grenada, El Salvador,
Guatemala, Honduras, Uruguay, Peru, Ecuador, Panama, và
Philippines” và đã là “một nhân tố đóng góp cho dân chủ hóa ở
Bồ Đào Nha, Chile, Ba Lan, Hàn Quốc , Bolivia, và Đài Loan.”9
Nhiều tiến triển cả toàn cầu và địa phương đã giúp tạo ra xu hướng
dân chủ hóa của cuối các năm 1970 và các năm 1980, và đã có thể có
một làn sóng dân chủ ngay cả nếu Hoa Kỳ đã không có ảnh hưởng đến
vậy. Câu hỏi là liệu làn sóng đó đã có thể lớn và kéo dài thế hay
không. Các vùng ổn định của dân chủ ở châu Âu và Nhật Bản
đã tỏ ra là các nam châm hùng mạnh. Thị trường tự do khai phóng
và hệ thống tự do thương mại ngày càng làm tốt hơn các nền kinh tế
trì trệ của khối xã hội chủ nghĩa, đặc biệt vào lúc bình minh của cách
mạng thông tin. Chủ nghĩa tích cực lớn hơn của Hoa Kỳ, cùng với của
các nền dân chủ thành công khác, đã giúp để xây dựng một sự đồng
thuận rộng, nếu không phổ quát, mà đã đồng tình hơn với các hình
thức chính phủ dân chủ và ít đồng tình hơn với các hình thức
độc đoán.
Diamond và những người khác đã lưu ý, đã quan trọng ra sao
rằng “các chuẩn mực dân chủ toàn cầu” này đã được “phản ánh trong
các định chế và các thỏa thuận khu vực và quốc tế chưa từng có trước
đây.”10 Các chuẩn mực đó đã có một tác động lên các quá trình chính
trị nội địa của các nước, làm khó hơn cho các nhà độc đoán để vượt
qua các cơn bão chính trị và kinh tế và dễ hơn cho các phong trào dân
chủ để có được tính chính đáng. Nhưng “các chuẩn mực” cũng là nhất
thời. Trong các năm 1930, các quốc gia định xu hướng đã là các chế độ
phát xít. Trong các năm 1950 và 1960, các biến thể của chủ nghĩa xã
hội đã thịnh hành. Nhưng từ các năm 1970 cho đến gần đây, Hoa Kỳ
và một nhúm cường quốc dân chủ định xu hướng thời trang. Chúng
Trọng lượng của Địa Chính trị 33
đã đẩy–vài người thậm chí nói đã áp đặt–các nguyên tắc dân chủ và
đã cấy chúng vào các định chế và các thỏa thuận quốc tế.
Quan trọng ngang thế đã là vai trò mà Hoa Kỳ đã đóng trong ngăn
chặn sự trượt lùi khỏi dân chủ ở nơi nó vừa mới bén rễ. Có lẽ đóng góp
quan trọng nhất của Hoa Kỳ đã đơn giản là ngăn cản các cuộc đảo
chính quân sự chống lại các chính phủ dân chủ non nớt. Theo một
nghĩa, Hoa Kỳ đã can thiệp vào cái đã có thể là một chu kỳ tự nhiên,
ngăn cản các quốc gia mà bình thường đã “đến kỳ” cho một pha độc
đoán khỏi theo hình mẫu thông thường. Đã không phải là Hoa Kỳ xuất
khẩu dân chủ ở mọi nơi. Thường hơn, nó đã đóng vai của “catcher in the
rye (kẻ tóm trong đồng lúa mạch)” –ngăn các nền dân chủ non trẻ khỏi
rơi từ vách đá–ở những nơi như Philippines, Colombia, và Panama.
Việc này đã giúp làn sóng thứ ba có được độ rộng và tính bền chưa
từng có.
Cuối cùng, đã là sự sụp đổ của Liên Xô và với nó sự sụp đổ của các
chế độ cộng sản trung và đông Âu và sự thay thế chúng bằng các nền dân chủ.
Hoa Kỳ đã đóng vai trò gì trong đẩy nhanh sự sụp đổ Soviet có thể cần
tranh luận, nhưng chắc chắn nó đã đóng vai trò nào đó, cả bằng kiềm
chế đế chế Soviet về mặt quân sự và bằng làm tốt hơn nó về mặt kinh
tế và công nghệ. Và ở tâm của cuộc đấu tranh đã là bản thân nhân
dân của các nước Hiệp ước Warsaw trước kia. Họ từ lâu đã khát
khao giải phóng các dân tộc của họ khỏi Liên Xô, mà cũng đã có nghĩa
là giải phóng khỏi chủ nghĩa cộng sản. Nhân dân các nước này đã muốn
gia nhập vào phần còn lại của châu Âu, mà đã đưa ra một mô hình kinh
tế và xã hội còn hấp dẫn hơn mô hình Mỹ.
Rằng những người trung và đông Âu đồng nhất chọn các hình thức
chính quyền dân chủ, tuy vậy, đã không đơn giản là thành quả của
những khát vọng về tự do hay sung túc. Nó cũng đã phản ánh mong
muốn của các dân tộc này để đặt mình dưới cái ô an ninh Mỹ. Chiến
lược, kinh tế, chính trị và ý thức hệ như thế đã không thể tách rời được.
Các quốc gia đó muốn là một phần của NATO, và muộn hơn của EU,
đã biết rằng họ sẽ chẳng có cơ hội nào cho việc gia nhập mà không có
các chứng chỉ dân chủ. Các chuyển đổi dân chủ này, mà đã biến làn
sóng thứ ba thành một sóng thần dân chủ, đã không nhất thiết xảy ra
34 ROBERT KAGAN
nếu giả như thế giới đã được cấu hình khác đi. Rằng một Tây Âu dân
chủ, thống nhất, và thịnh vượng đã ngay ở đó để tạo ra sức hút nam
châm hùng mạnh lên các láng giềng phương đông của nó đã do các
hoạt động của Hoa Kỳ sau Chiến tranh Thế giới II.
TƯƠNG LAI BỊ MẤT CỦA 1848
Hãy đối sánh số phận của các phong trào dân chủ cuối thế kỷ hai mươi
với số phận của các cuộc cách mạng tự do quét ngang châu Âu trong
năm 1848. Bắt đầu ở Pháp, “Thời Xuân của Nhân dân,” như nó được
biết đến, đã bao gồm các nhà cải cách khai phóng và các nhà theo chủ
nghĩa hiến pháp, chủ nghĩa dân tộc, và các đại diện của giai cấp trung
lưu đang lên cũng như của các công nhân cấp tiến và các nhà xã hội
chủ nghĩa. Trong mấy tuần lễ, họ đã lật đổ các vua và các hoàng tử và
làm lung lay các ngai vàng ở Pháp, Ba Lan, Áo, và Romania, cũng
như bán đảo Italy và các lãnh địa Đức. Cuối cùng, tuy vậy, các phong
trào tự do đã thất bại, một phần bởi vì chúng đã thiếu sự cố kết, nhưng
cũng bởi vì các cường quốc chuyên quyền đã đè bẹp chúng bằng vũ
lực. Quân đội Phổ đã giúp đánh bại các phong trào tự do ở các vùng
đất Đức, còn sa hoàng Nga đã đưa quân vào Romania và Hungary.
Hàng trăm ngàn người phản đối đã bị giết trên đường phố châu Âu.
Gươm đã tỏ ra mạnh hơn bút.
Đã có ý nghĩa rằng các cường quốc tự do hơn, Anh và Pháp, đã chọn
một tư thế trung lập suốt thời kỳ lên men tự do, cho dù cách mạng của
chính Pháp đã châm ngòi và gây cảm hứng cho phong trào toàn-Âu. Chế
độ quân chủ và giới quý tộc Anh đã sợ chủ nghĩa cấp tiến ở trong
nước. Cả Pháp và Anh đã lo lắng hơn đến duy trì hòa bình giữa các
đại cường quốc hơn là cung cấp sự giúp đỡ cho các đồng bạn tự do.
Sự duy trì cân bằng Âu châu giữa năm cường quốc lớn đã mang lợi
cho các lực lượng phản cách mạng ở mọi nơi, và Thời Xuân của
Nhân dân đã bị đàn áp.11 Kết quả là, trong nhiều thập kỷ các lực lượng
phản cách mạng ở châu Âu đã mạnh lên ngược với các lực lượng tự do.
Các học giả đã suy đoán về châu Âu và thế giới đã có thể tiến hóa
khác thế nào giả như các cuộc cách mạng tự do 1848 đã thành công:
Trọng lượng của Địa Chính trị 35
Lịch sử Đức đã có thể diễn tiến ra sao giả như sự thống nhất dân tộc đã
đạt được dưới một hệ thống nghị viện tự do hơn là dưới sự lãnh đạo của
Otto von Bismarck? “Thủ tướng Thép” đã thống nhất quốc gia không
qua các cuộc bầu cử và tranh luận mà thông qua các chiến thắng quân
sự bằng sức mạnh to lớn của quân đội Phổ bảo thủ dưới triều đại
Hohenzollern. Như sử gia A. J. P. Taylor đã nhận xét, lịch sử đã đến
điểm rẽ trong năm 1848, nhưng Đức “đã không rẽ.”12 Những người
Đức đã có thể học một bài học khác từ bài học mà Bismarck đã dạy–
cụ thể là, “các câu hỏi lớn của thời đại đã không được quyết định bởi
các bài phát biểu và các quyết định đa số … mà bởi máu và sắt”?13 Tuy
vậy hệ thống quốc tế của ngày đó đã không được cấu hình theo
cách để cổ vũ sự thay đổi tự do và dân chủ. Cân bằng quyền lực
Âu châu trong giữa thế kỷ thứ mười chín đã không thuận lợi cho
dân chủ, và như thế không ngạc nhiên rằng dân chủ đã không thắng
lợi ở bất cứ đâu.14
Chúng ta cũng có thể suy đoán về thế giới hôm nay đã có thể tiến hóa
khác ra sao mà không có vai trò của Mỹ trong định hình một môi trường quốc
tế thuận lợi cho dân chủ, và nó có thể tiến hóa thế nào nếu Hoa Kỳ
thấy mình không còn đủ mạnh để đóng vai trò đó. Các chuyển đổi
dân chủ có thể là chín muồi. Các quốc gia có thể bước vào một vùng
chuyển đổi–về mặt kinh tế, xã hội, và chính trị–nơi xác suất của việc
chuyển theo hướng dân chủ tăng lên hay giảm đi. Nhưng những ảnh
hưởng nước ngoài, thông thường do các cường quốc lớn cai trị gây ra,
thường quyết định hướng nào sự thay đổi sẽ lấy. Các cường quốc độc
đoán mạnh sẵn sàng ủng hộ các lực lượng bảo thủ chống lại các phong
trào tự do có thể phá hoại cái mà khác đi đã có thể là một sự tiến hóa
“tự nhiên” đến dân chủ, hệt như các quốc gia dân chủ hùng mạnh có thể
giúp các lực lượng tự do mà, nếu để tự họ, khác đi đã có thể thất bại.
Trong các năm 1980 như trong các năm 1840, các phong trào tự
do đã nổi lên vì các lý do riêng của chúng ở các nước khác nhau, nhưng
thành công hay thất bại của chúng bị ảnh hưởng bởi cân bằng quyền
lực ở mức quốc tế. Trong thời đại Hoa Kỳ chiếm ưu thế, sự cân bằng
đã hết sức thuận lợi cho dân chủ, mà giúp giải thích vì sao các cuộc
cách mạng tự do của thời đại muộn hơn đó đã thành công. Giả như
Hoa Kỳ đã không hùng mạnh như vậy, đã có thể có ít chuyển đổi hơn
36 ROBERT KAGAN
sang dân chủ, và các chuyển đổi đã xảy ra đó đã có thể tồn tại ngắn.
Nó đã có thể có nghĩa là một làn sóng thứ ba nông hơn và dễ bị
đảo ngược hơn.15
DÂN CHỦ, CHUYÊN QUYỀN, VÀ QUYỀN LỰC
Về ngày nay thì sao? Với siêu cường dân chủ đang cắt bớt ảnh
hưởng toàn cầu của nó, các cường quốc khu vực đang định giọng
trong các vùng tương ứng của họ. Không ngạc nhiên, các chế độ
độc tài là phổ biến hơn trong các vùng quanh Nga, suốt theo các
đường biên giới Trung Quốc (Bắc Triều Tiên, Miến Điện, và Thái
Lan), và ở Trung Đông, nơi các truyền thống độc tài lâu đời cho đến
nay hầu hết đã chống lại sự thách thức của các cuộc nổi dậy nhân dân.
Nhưng ngay cả ở các khu vực nơi các nền dân chủ vẫn mạnh, các
nhà độc đoán đã có khả năng quyết tâm chống lại, còn các láng giềng
dân chủ của chúng thì thụ động đứng cạnh. Như thế các lãnh đạo của
Hungary, ở giữa tâm của một châu Âu thờ ơ, tuyên bố sự mến yêu
của họ với chủ nghĩa phi tự do và đàn áp báo chí và các quyền tự do
chính trị trong khi phần còn lại của EU, được cho là một câu lạc bộ của
chỉ các nền dân chủ, ngoảnh đi. Ở Nam Mỹ, dân chủ can dự vào một
cuộc tranh đua với chế độ độc tài, nhưng một Brazil lãnh đạm đứng
nhìn, chỉ nghĩ về thương mại và về chủ nghĩa đế quốc Bắc Mỹ. Trong
lúc đó ở Trung Mỹ, cạnh cửa của một Mexico thờ ơ, dân chủ sụp đổ
dưới sức nặng của ma túy và tội phạm và sự sống lại của các caudillo
(thủ lĩnh). Tuy nhiên có thể là không công bằng để trách móc các cường
quốc khu vực vì không làm cái họ đã chẳng bao giờ làm. Tới chừng
mực mà sự thay đổi trong phương trình địa chính trị đã tác động đến
số phận của các nền dân chủ trên toàn thế giới, có lẽ sự thay đổi trong
hành vi của siêu cường dân chủ là cái chịu phần lớn trách nhiệm.
Nếu siêu cường đó không thay đổi tiến trình của nó, chắc chúng ta
sẽ thấy dân chủ quanh thế giới thụt lùi thêm. Chẳng có gì là không thể
tránh khỏi về dân chủ. Trật tự thế giới tự do mà chúng ta đã sống trong
các thập kỷ vừa qua đã không được truyền lại bởi “các Định luật của
Tự nhiên và của Chúa của Tự nhiên.” Nó không phải là điểm cuối
của sự tiến bộ con người.
Trọng lượng của Địa Chính trị 37
Có những người thích một trật tự thế giới khác với trật tự thế giới
tự do. Cho đến nay, tuy vậy, họ đã không có khả năng để làm theo ý
họ, nhưng không phải bởi vì các ý tưởng của họ về cai quản là không
thể để ban hành. Ai nói rằng chủ nghĩa Putin ở Nga hay nhãn đặc biệt
của Trung Quốc về chủ nghĩa độc đoán sẽ không sống sót cho đến
tương lai như dân chủ Âu châu, mà, rốt cuộc, chưa đầy một thế kỷ trên
hầu hết lục địa? Chế độ chuyên quyền ở Nga và Trung Quốc chắc chắn
đã loanh quanh ở đó lâu hơn bất kể nền dân chủ Tây phương nào. Quả
thực, chính chế độ chuyên quyền, chứ không phải dân chủ, là cái đã là
chuẩn mực trong lịch sử con người–chỉ trong các thập kỷ gần đây các
nền dân chủ, do Hoa Kỳ dẫn đầu, đã có sức mạnh để định hình thế giới.
Những người nghi ngờ về “sự thúc đẩy dân chủ” của Mỹ từ lâu đã
cho rằng nhiều chỗ nơi thí nghiệm dân chủ đã được thử trong vài thập
kỷ vừa qua là không hợp tự nhiên với hình thức chính phủ đó và rằng
Hoa Kỳ đã thử cấy dân chủ trên một số mảnh đất rất cằn cỗi. Căn cứ
vào việc các chính phủ dân chủ đã bén rễ sâu trong những hoàn cảnh
thay đổi rộng, từ Ấn Độ bần cùng đến Đông Á theo “Khổng giáo” đến
Indonesia Islamic, chúng ta nên có sự khiêm tốn nào đó về sự khẳng
định rằng nơi nào đất là đúng hay không đúng cho dân chủ. Thế nhưng
phải là rõ, rằng các triển vọng cho dân chủ đã tốt hơn nhiều đưới sự
bảo vệ của một trật tự thế giới tự do, được ủng hộ và được bảo vệ bởi
một siêu cường dân chủ hay bởi một sự tập họp của các cường quốc
dân chủ lớn. Ngày nay, như luôn luôn, dân chủ là một đóa hoa mong
manh. Nó đòi hỏi sự ủng hộ liên tục, sự chăm sóc liên tục, và việc nhổ
cỏ dại và rào dậu khỏi rừng rậm đe dọa nó cả từ bên trong và bên ngoài.
Thiếu những cố gắng như vậy, rừng rậm và cỏ dại sớm muộn sẽ quay
về để đòi lại đất.
GHI CHÚ
1. Trích trong Samuel P. Huntington, The Third Wave: Democratization in
the Late Twentieth Century (Norman: University of Oklahoma Press,
1991), 17.
2. Trích trong John Keane, The Life and Death of Democracy (New York: W.
W. Norton, 2009), 573.
3. Huntington, Third Wave, 40.
38 ROBERT KAGAN
4. Huntington, Third Wave, 21.
5. Samuel P. Huntington, “Will More Countries Become Democratic?”
Political Science Quarterly 99 (Summer 1984): 193–218; trích trong Larry
Diamond, The Spirit of Democracy: The Struggle to Build Free Societies
Throughout the World (New York: Times Books, 2008), 10.
6. Huntington, Third Wave, 47.
7. Odd Arne Westad, The Global Cold War: Third World Interventions and
the Making of Our Times (Cambridge: Cambridge University Press, 2005),
196.
8. Diamond, Spirit of Democracy, 5.
9. Huntington, Third Wave, 98.
10. Diamond, Spirit of Democracy, 13.
11. Mike Rapport, 1848: Year of Revolution (New York: Basic Books, 2009),
409.
12. A. J. P. Taylor, The Course of German History: A Survey of the Development
of German History Since 1815 (1945; London: Routledge, 2001), 71.
13. Rapport, 1848, 401–402.
14. Như Huntington đã giải thích dài dòng các phát hiện của Jonathan
Sunshine: “Những ảnh hưởng bên ngoài ở châu Âu trước 1830 đã cơ
bản là chống dân chủ và vì thế đã chặn dân chủ hóa. Giữa 1830 và 1930
… môi trường bên ngoài đã trung lập … vì thế dân chủ hóa đã tiếp diễn ở
các nước khác nhau ít nhiều với nhịp do sự phát triển kinh tế và xã hội đặt ra.”
Huntington, Third Wave, 86.
15. Như Huntington đã nhận xét, “Sự thiếu vắng của Hoa Kỳ khỏi quá trình
có thể đã có nghĩa là có ít chuyển đổi hơn và chuyển đổi muộn hơn sang dân
chủ.” Huntington, Third Wave, 98.
3
Khủng hoảng và Chuyển đổi,
Nhưng Không Suy thoái
PHILIPPE C. SCHMITTER
Có vẻ có một sự đồng thuận át hẳn giữa các học giả và các chính trị
gia rằng dân chủ như một sự thực hành đang trong suy thoái. Một sự
tìm kiếm qua Google ngày 18 tháng Tám 2014 cho cụm từ decline of
democracy (sự suy thoái dân chủ) đã mang lại hơn 55,5 triệu kết quả;
Google Scholar, mà chỉ tìm kiếm tài liệu học thuật, vẫn đã tạo ra một
số lớn 434.000. Đồng thời, tuy vậy, được chấp nhận một cách rộng rãi
rằng sự mong muốn dân chủ như một lý tưởng–tức là, sự tự cai trị bởi
các công dân có các quyền ngang nhau và có ảnh hưởng ngang nhau
về việc chọn các lãnh đạo và quản lý công việc công–đã chưa bao giờ
lớn hơn hay được phân bổ rộng hơn. Lỗ hổng này giữa cái được hứa
hẹn và cái được cung cấp đã là một nét đặc biệt có mặt khắp nơi của
các chế độ được thiết lập lâu mà tôi đã gọi là “các nền dân chủ hiện
tồn thực tế,” và nó đã được tái tạo trong các nền dân chủ mới được
thiết lập nữa. Nó là nguồn của hầu hết các cuộc đấu tranh lịch sử mà
một cách tuần hoàn đã dẫn đến việc cải cách các định chế dân chủ.
39
40 PHILIPPE C. SCHMITTER
Một sự mở rộng lỗ hổng này giữa thực tế và lý tưởng đặc trưng cho
khủng hoảng hiện nay–vì thế áp lực gia tăng, không để tháo dỡ hay
phá hủy dân chủ với cương vị như thế, mà đúng hơn để thay đổi cách
nó được thực hành. Không ai có vẻ tin rằng hoặc các nền dân chủ hiện
tồn thực sự hay các nền dân chủ mới hơn mà đã vượt qua ngưỡng nào
đó của sự củng cố sẽ giật lùi trong tương lai có thể đoán trước về
status quo ante (nguyên trạng trước) của chúng. Hơn nữa, đơn giản
không có lựa chọn thay thế có vẻ hợp lý nào trong tầm nhìn, trừ vài
mô hình (thí dụ, chế độ nhân tài Trung Quốc, chủ nghĩa sa hoàng Nga mới, chế
độ quân chủ Arab, hay chế độ thần quyền Islamic) mà không chắc hấp
dẫn xa ngoài biên giới của chúng. Nói cách khác (để giải thích dài một
dòng trong tiểu thuyết The Leopard-Con Báo của Giuseppe Tomasi di
Lampedusa), dân chủ sẽ sống sót rõ ràng, nhưng chỉ bằng sự thay đổi.
Những thay đổi này sẽ là gì, tuy vậy, là chẳng rõ chút nào.
VÀI BẰNG CHỨNG GÂY LẠC LỐI VỀ SUY THOÁI
Bằng chứng cho khủng hoảng và suy thoái gần đây của dân chủ dựa trên
những kết luận đáng ngờ từ các nguồn định lượng những dẫn chiếu chọn
lọc từ các nghiên cứu định lượng. Freedom House đã phục vụ như
nguồn “dứt khoát” cho cái trước, và báo cáo hàng năm của nó đã nêu
các nét đặc biệt của các biến thể khác nhau của chuyện kể “dân chủ rút
lui” từ 2008. Khẳng định này dựa trên một sự giảm các điểm số trung
bình của chỉ số phức hợp của nó. Việc này là đặc biệt gây lầm lạc vì
nhiều chế độ được gọi là Tự do không có dư địa nào cho sự cải thiện căn
cứ vào các giới hạn trên của các biến số được dùng. Thí dụ, chẳng biện
pháp cải cách nào được thảo luận dưới đây có thể tăng điểm số của dù
một trong số chúng. Nhiều chế độ Không Tự do không có dư địa nào
thêm cho sự suy thoái, và nhiều trong số này là “các nhà nước thất
bại” bị khóa vào các cuộc nội chiến và chẳng hề có chế độ nào cả.
Phần lớn những nền dân chủ Một phần Tự do hay lai mà đã cho thấy
sự biến đổi–và vài trong số đó đã đi lên. Hơn nữa, những sự thay
đổi nhỏ trong trung bình cho toàn bộ mẫu (mà là cái có khuynh
hướng được dùng như chỉ số cho sự suy thoái) có thể được quy cho
một số tương đối nhỏ của các trường hợp, từ Nga và các cộng hòa Âu
Khủng hoảng và Chuyển đổi, nhưng Không Suy thoái 41
Á trước kia của nó đến Bangladesh, Fiji, Guinea-Bissau, Mali,
Mauritania, và Niger. Một nguồn định lượng thay thế, Chỉ số Dân chủ
của Economist Intelligence Unit, báo cáo các kết quả tổng hợp tương
tự, còn nguồn khác, Chỉ số Biến đổi Bertelsmannm, không cho
thấy sự thay đổi tổng thể đáng kể nào từ 2006 đến 2010.
Các cuộc thăm dò dư luận ngẫu nhiên ở các nền dân chủ cả có uy
tín lẫn mới theo lệ thường “phát hiện ra” rằng một phần tăng lên của
công dân cảm thấy rằng lá phiếu của họ không có giá trị và bị các lãnh
đạo của họ coi thường. Kịch tính nhất đã là sự giảm tin cậy vào các
định chế dân chủ lõi–cụ thể là, các chính trị gia được bầu, các đảng
chính trị, và các cơ quan lập pháp. Tuy vậy cũng các thăm dò này
thường tiết lộ một sự giảm sút tin cậy vào các nhà chức trách không được
bầu, bao gồm quân đội và cảnh sát, các nhà quản lý công, và thậm chí
các nhà khoa học và các bác sĩ. Nói cách khác, chủ nghĩa hoài nghi đã
trở nên đặc trưng cho công luận nói chung, cho dù nó chú tâm mạnh
nhất vào quá trình chính trị. Lý thú là, các thăm dò này cũng bảo
chúng ta rằng sự quan tâm chung đến chính trị đã tăng lên theo
cùng với ý thức rằng chính trị thực sự có một tác động thật lên
đời sống của nhân dân. Như thế lỗ hổng có tồn tại, nhưng nhận thức
về nó cũng thế và, có thể phỏng đoán, mong muốn để thu hẹp nó.
Về bên định lượng, các học giả đã tìm thấy một kinh cầu nguyện
về “các triệu chứng hoành hành của bệnh tật” mà minh họa mức suy
thoái trong nhiều nền dân chủ hiện tồn thực sự và mới được thiết lập.
Tại đỉnh của danh sách, ta thường thấy sự bất tín tăng lên với các chính
trị gia được bầu và các định chế đại diện (đặc biệt các đảng chính trị),
tiếp sau là các mức sa sút của sự tham gia bầu cử và số đảng viên hay sự
nhận diện, tính dễ thay đổi bầu cử tăng lên, và các vấn đề trong hình thành
các chính phủ ổn định.
Các đảng trung dung chi phối trước đây thấy rằng các ý thức hệ
của họ không còn đáng tin cho công chúng nữa và rằng họ đang mất
phiếu cho các đảng dân túy mới nổi lên hoặc tả hay hữu. Các quốc hội
đã trở nên ít trung tâm hơn đối với quá trình ra quyết định, bị thay thế
bởi sự tập trung quyền lực hành pháp và một vai trò rộng hơn cho “các
định chế giám hộ” bị chi phối bởi (cái được cho là) các nhà kỹ trị độc
lập. Việc quản trị các nội các bao gồm ngày càng nhiều thành viên
không được bầu mà được chọn vì địa vị “không đảng phái” của họ. Số
42 PHILIPPE C. SCHMITTER
hội viên trong và sự phù hợp với các tổ chức trung gian có cơ sở giai cấp
như các nghiệp đoàn và các hội người sử dụng lao động đã giảm sút, còn
các hãng lớn, đặc biệt các hãng tài chính, đã có được sự tiếp cận trực
tiếp hơn đến các giới cao nhất của việc ra quyết định.
“Những sự đáng ngờ thông thường” được trích dẫn một cách điển
hình như các nguyên nhân chung của khủng hoảng và suy thoái. Ở trên
đỉnh của danh sách, ta hầu như luôn tìm thấy toàn cầu hóa, vì nó được
cho là đã tước mất sự tự trị trước kia của nhà nước-quốc gia, làm xói
mòn tính hiệu quả và sự phản ứng nhanh nhạy của chính phủ với đòi
hỏi công dân. Các doanh nghiệp đa quốc gia, các định chế tài chính
quốc tế, và (chí ít ở châu Âu) những dàn xếp quản trị-khu vực đã áp
đặt một hỗn hợp phức tạp của các ràng buộc và các cơ hội mà giới hạn
rất nhiều các chương trình nghị sự kinh tế và chính sách-xã hội cũng
như năng lực để điều tiết và đánh thuế các nhà tư bản và các doanh
nghiệp của họ. Những thay đổi về cấu trúc của sự sản xuất và cấu tạo
khu vực của nền kinh tế đã làm yếu ý thức tập thể của các công nhân
và đã làm mờ sự chia tách giai cấp mà từ lâu đã tạo cơ sở cho các đảng
chính trị bên tả và hữu. Chính trị đã trở thành một nghề toàn thời gian
hơn là một công việc không trọn thời gian. Hầu hết những người
gia nhập lĩnh vực này hôm nay kỳ vọng để dùng toàn bộ sự
nghiệp của họ ở đó, và họ bao quanh mình với các nhà chuyên
nghiệp chính trị khác như những người viết diễn văn, các nhà tư
vấn truyền thông, và các nhà phát ngôn. Công dân trở nên ngày
càng biết rằng các đại diện và các nhà cai trị của họ sống trong một thế
giới hoàn toàn khác và tự-tham chiếu. Các sở thích bỏ phiếu bây giờ ít
dựa vào giai cấp, khu vực, và các mối quan tâm nghề nghiệp và dựa
nhiều hơn vào các mối quan tâm cá nhân về phong cách sống cá nhân,
sự tin chắc đạo đức, và vai trò của chính phủ.
Nếu tất cả điều đó là chưa đủ, các công dân–nhiều trong số họ bây
giờ có tiếp cận qua Internet đến các nguồn bao la về thông tin độc
lập và phê phán–đã trở nên được giáo dục tốt hơn và hoài nghi
hơn về các động cơ và hành vi của các chính trị gia của họ. Hơn
nữa, các luồng to lớn của sự di cư Nam-Bắc đã làm thay đổi cấu tạo
nhân khẩu học của hầu hết các nền dân chủ hiện tồn thực sự đến nỗi
mà một phần đáng kể của dân cư của chúng không có các quyền công
Khủng hoảng và Chuyển đổi, nhưng Không Suy thoái 43
dân hay các triển vọng để có được chúng. Sự đa dạng tăng lên này
thách thức quan niệm về một demos (nhân dân) chung với một số phận
được chia sẻ và vì thế một ý thức được chấp nhận về lợi ích chung. Bất
kể sự chống cự dân túy hiện thời đối với chủ nghĩa đa nguyên sắc tộc,
các nền dân chủ hiện tồn thực sự sẽ phải tìm một cách để thích nghi sự
đa dạng và cải cách các định chế của chúng một cách tương ứng.
Các nhân tố tình thế hơn cũng được cho rằng có đóng một vai trò
quan trọng. Đầu tiên và trên hết, sự sụp đổ của “dân chủ nhân dân” kiểu
Soviet đã tước các nền dân chủ Tây phương mất một trong những
cơ sở đầu tiên của chúng về tính chính đáng–cụ thể là, tính ưu
việt của chúng trên các đối thủ cộng sản của chúng. Từ cuối Chiến
tranh Lạnh, các nền dân chủ Tây phương đã phải thỏa mãn các tiêu
chuẩn đòi hỏi khắt khe hơn về tính bình đẳng, sự tiếp cận, sự tham
gia, và quyền tự do được các lý tưởng dân chủ hứa hẹn . Làn sóng
gần đây nhất (mà, xin lỗi Huntington, không phải là “làn sóng thứ
ba”) của dân chủ hóa, mà đã bắt đầu trong năm 1974, cũng đã đóng
góp cho sự tăng lên nói chung về những kỳ vọng và các khẳng định
không thực tế về “sự kết thúc của lịch sử.” Các cuộc cải cách tân tự do
đã thất bại để đưa ra lời hứa của chúng về sự tăng trưởng liên tục, sự
phân phối công bằng, và cân bằng tự động, dẫn đến Đại Suy thoái vào
2008, mà nhiều nền dân chủ (đặc biệt ở châu Âu) đã tỏ ra không có
khả năng làm dịu bớt, giải quyết còn ít hơn nhiều.
Tại lõi của sự đồng thuận này về khủng hoảng và suy thoái là sự
nhấn mạnh nặng rằng sự thực hành dân chủ đặt lên sự đại diện–đặc
biệt qua cạnh tranh giữa các đảng chính trị trong các cuộc bầu cử
đều đặn và công bằng mà được kỳ vọng để đưa ra, trực tiếp hay gián
tiếp, các nhà cai trị hợp pháp.1 Phải thú nhận, các đảng đã chẳng bao
giờ được các công dân “yêu mến”–một phần bởi vì chúng là một sự
biểu hiện công khai của các lợi ích và sự chia tách ý thức hệ chia rẽ
chúng mà cả bởi vì có đầy lý do để nghi ngờ, như nhà xã hội học Đức
Robert Michels đã khẳng định từ lâu, rằng chúng hết sức nhạy cảm với
chính trị đầu sỏ và dễ thiên về tham nhũng tư lợi.2
Đứng trước bằng chứng dư dả, các lý lẽ thuyết phục, và sự đồng
thuận đồ sộ như vậy, bất cứ ai làm sao có thể nghi ngờ rằng dân chủ
trong suy thoái?
44 PHILIPPE C. SCHMITTER
VÀI BẰNG CHỨNG NỔI LÊN CỦA CHUYỂN ĐỔI
Từ viễn cảnh của tôi với tư cách một nhà chuyển đổi học “chuyên nghiệp,”
hẳn phải không bất ngờ nếu tôi kết luận rằng dân chủ không suy thoái, mà
rằng nó đang trong khủng hoảng và trong quá trình chuyển đổi từ một loại
sang loại khác3 –mặc dù không hề rõ sẽ là loại (hay các loại) mới nào
hay liệu bất kể loại mới nào sẽ là một sự cải thiện trên các thực hành
hiện tồn. Thực vậy, chính xác sự bất định này về các quy tắc trò chơi
là đặc trưng trội hẳn của tất cả các tình huống chuyển đổi. Nói chung,
ta có thể dán nhãn cấu hình đang nổi lên này là “post-liberal: hậu-khai
phóng” (nhưng dứt khoát không là “không khai phóng” hay “phản-
khai phóng”). Tất nhiên, nhãn này không chuyển tải nhiều nét riêng
của ý nghĩa, khác hơn là sự mở ra triển vọng cho kết cục là cái gì đó
khác về mặt định tính.4
Như thường thế với các tranh luận như vậy, câu trả lời không xoay
quanh các sự thực mà quanh các khái niệm và các giả định mà xác định
các sự thực nào là nổi bật và vì sao. Không ngạc nhiên, việc này bắt
đầu với định nghĩa về dân chủ mà ta sử dụng. Trong năm 1991, Terry
Karl và tôi đã kiến nghị trong các trang tạp chí này một định nghĩa rất
chung về dân chủ mà không dính dáng đến các định chế cụ thể cũng
chẳng đến các kết cục được giả định: “Dân chủ chính trị hiện đại là một
[chế độ] . . . mà trong đó các nhà cai trị bị bắt phải có trách nhiệm giải
trình vì các hoạt động của họ trong lĩnh vực công bởi các công dân,
[thường thường] hành động gián tiếp qua sự cạnh tranh và hợp tác
của các đại diện được bầu của họ.”5 Bây giờ tôi muốn thêm cho sáng
sủa hơn: “và trong đó các công dân tự nguyện tuân theo các quyết định
của các nhà cai trị của họ–ngay cả khi họ đã không thông qua các
quyết định này một cách tường minh–bởi vì họ coi chúng như được
đưa ra một cách hợp pháp.”
Nói cách khác, dân chủ là một quá trình (hoặc hay hơn, tập của các
quá trình) hai chiều trong đó các công dân với các quyền và các nghĩa
vụ chính trị ngang nhau, tùy ý sử dụng các phương tiện đều đặn và tin
cậy để tiếp cận thông tin, đòi sự chứng minh, và dùng những trừng
phạt với các nhà cai trị của họ; đổi lại, các công dân ban cho các
nhà cai trị này tính chính đáng và đồng ý tôn trọng các quyết định của
họ, ngay cả khi không đồng ý với họ. Định nghĩa này về dân chủ có
hai hàm ý then chốt cho làm thế nào chúng ta xác định liệu dân chủ có
Khủng hoảng và Chuyển đổi, nhưng Không Suy thoái 45
suy thoái hay trong chuyển đổi: Việc này có nghĩa rằng sẽ là một
sai lầm (1) để chú tâm chỉ vào một tập duy nhất của các định chế
(thường thường, việc tiến hành các cuộc bầu cử và hành vi của các đảng
chính trị) hoặc (2) đưa ra một đánh giá dựa vào các chỉ số về thành tích
thực sự của một nền dân chủ cho trước.
Tất cả cái phải tính là tính hiệu quả của các quá trình của tính tránh
nhiệm giải trình và sự sẵn lòng của các công dân để ban tính chính
đáng cho [các nhà cai trị]. Cả hai có thể thay đổi vì các lý do đa dạng,
kể cả sự đưa vào các công nghệ truyền thông mới, sự truyền bá các lý
tưởng mới ngang các đường biên giới, hay sự tạo ra các kênh mới của
sự đại diện. Giả thiết cốt lõi là, nếu các nhà cai trị biết họ sẽ bị bắt phải
giải trình và nếu các công dân tin các nhà cai trị của họ là hợp pháp,
thì các kết cục thực sự sẽ tốt đẹp căn cứ vào các nguồn lực sẵn có. Định
nghĩa này ngụ ý rằng không phải tất cả các nền dân chủ phải giữ cùng
tiêu chuẩn về thành tích–vì lý do đơn giản rằng không phải tất cả các
công dân một cách tập thể sẽ muốn cùng các thứ và không phải mọi
chính sách sẽ có khả năng tạo ra cùng mức hàng hóa công. Tocqueville
một cách nối tiếng đã cho rằng một khi dân chủ đã xác lập sự bình
đẳng trong các lĩnh vực chính trị và luật, các công dân sẽ đòi sự bình
đẳng về địa vị xã hội và của cải vật chất.6 Ông đã đúng về xu hướng,
nhưng sai về các kết cục cuối cùng. Các nền dân chủ hiện tồn thực sự
đương thời khác một cách đáng kể và nhất quán trong các hậu quả phân
phối của chúng.7
Cách khác của việc bày tỏ lý lẽ này là, ta phải tách rõ rệt các tiêu
chuẩn để đánh giá chất lượng của dân chủ khỏi các tiêu chuẩn được
dùng để đánh giá chất lượng của chính phủ. Cái trước là về các quá
trình nối các nhà cai trị với những người bị trị theo những cách đảm
bảo trách nhiệm giải trình lẫn nhau, còn cái sau liên quan đến các kết
cục sinh ra từ sự thi hành quyền lực, bất luận dân chủ hay không. Điều
này ngụ ý rằng một số chế độ chuyên quyền có thể làm tốt hơn một số
nền dân chủ–chẳng hạn, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao hơn, lạm
phát thấp hơn, sự phân bổ của cải tốt hơn, công ăn việc làm đầy đủ
hơn, và trong một số trường hợp thậm chí ít tham nhũng hơn, sự tuân
thủ pháp trị nghiêm hơn, và sự bảo vệ các quyền con người (nhưng
không phải quyền dân sự) lớn hơn. Nhiều chứng cứ giai thoại cho sự
46 PHILIPPE C. SCHMITTER
suy thoái dính đến các chính phủ–ngày càng nhiều trong số đó phải
thú nhận thuộc về các chế độ dân chủ–làm việc thế nào, chứ không
phải dân chủ với tư cách như vậy làm việc ra sao.
VÀI BẰNG CHỨNG NỔI LÊN VỀ CẢI CÁCH
Khoảng một thập kỷ trước, Alexvander Trechsel và tôi đã lập cho Hội
đồng châu Âu một nhóm công tác gồm các học giả và chính trị gia về
chủ đề “Tương lai của Dân chủ ở châu Âu.” Trong những thảo luận
phát sinh, những người tham gia đã nhanh chóng biết rằng đã có rất
nhiều sức tưởng tượng chính trị lẫn sự thử nghiệm thực về các cải
cách thể chế.8 Nhiều suy nghĩ và nỗ lực này đã qua đi, đa phần không
được để ý bởi vì nó đã xảy ra ở mức địa phương hay theo cách ít nhiều
lác đác. Trong trường hợp của các nền dân chủ mới hơn, sự chê bai
tràn lan về các thiếu sót nội tại của các chế độ của họ–rằng các nền dân
chủ của họ “đã bị hỏng,” là “một phần,” “lai,” “giả,” “mã ngoài,”
“không khai phóng,” “trì trệ,” “cường độ thấp,” “đại biểu,” “thiếu sót,”
hay “bầu cử” đơn thuần–đã che mờ sự thực rằng họ đã thường tham
gia vào những thực hành đổi mới sáng tạo.9
Theo hiểu biết tốt nhất của tôi không có một bản kê đầy đủ về các
nỗ lực cải cách này. Để liệt kê tất cả chúng và gắn chúng với các vị trí
cụ thể sẽ vượt quá chỗ dành cho tôi (cũng như hiểu biết chuyên môn
của tôi). Như thế, đơn giản tôi sẽ đưa ra cho các bạn đọc một mẫu đại
diện và mời họ theo đuổi công việc một cách có hệ thống hơn:10
1. Các cuộc trưng cầu dân ý và các sáng kiến có lẽ là sự đổi mới được
dùng rộng và thường xuyên nhất, khi loại của các vấn đề mà đã trở
thành đối tượng cho những đo lường như vậy ở cả mức quốc gia lẫn
dưới quốc gia đã tăng nhanh. Đúng là, một số trưng cầu dân ý và
sáng kiến này chỉ có tính tham khảo, và nhiều cuộc đòi hỏi một
ngưỡng cao để trở nên hợp lệ; tuy nhiên, chúng đã cho công dân
ở nhiều chính thể một kênh trực tiếp hơn nhiều của sự tham gia
vào việc ra quyết định so với họ đã có trong quá khứ.
2. “Tham gia dự thảo ngân sách” là một cải cách mà đã được
nghiên cứu rộng rãi kể từ khi nó được thực hiện đầu tiên ở
Khủng hoảng và Chuyển đổi, nhưng Không Suy thoái 47
Porto Alegre, Brazil, và sau đó lan sang nhiều lục địa. Tham gia
dự thảo ngân sách gồm việc triệu tập một hội đồng của các công
dân tự-chọn hay được chọn một cách ngẫu nhiên để thảo luận việc
phân bố phần nào đó của tổng ngân sách của một đơn vị chính
quyền. Một dãy dài của các diễn đàn như vậy đã nổi lên theo thời
gian, và tên của chúng khác nhau–chẳng hạn, “hội nghị đồng
thuận,” “nhóm thảo luận công dân,” “hội thẩm công dân,” “nhóm
lập kế hoạch,” “các diễn đàn vấn đề,” “các hội đồng công dân,”
thậm chí “ngày bàn cãi”–như các quy tắc quản trị chúng, nhưng ý
định là như nhau: để đưa các công dân bình thường đến gần quá
trình hoạch định chính sách hơn bằng sự tham gia cá nhân.
3. Bầu cử sơ bộ, một phương sách để chọn ứng viên của một đảng
chính trị từ các ứng viên tranh đua nhau, từ lâu đã là một nét đặc
biệt của chính trị Mỹ. Trong các thập kỷ gần đây, thói quen này đã
tỏa ra các nước và lục địa khác. Cách thức khác nhau, nhìn chung
các cuộc bầu cử sơ bộ cho các đảng viên của một đảng (hay thậm
chí các công dân thường) khả năng để thâm nhập các tập đoàn đầu
sỏ chính trị đảng được thiết lập một cách vững chắc. Một số nơi
thậm chí đã chọn “các cuộc bầu cử sơ bộ mở,” trong đó các ứng
viên của tất cả các đảng cạnh tranh nhau và hai người được nhiều
phiếu nhất, bất chấp thuộc đảng nào, sẽ trở thành các ứng viên cho
cuộc tổng tuyển cử. Một cải cách khác đã có thể ảnh hưởng đến
partitocrazia (chế độ [các]đảng chi phối) là sự đưa thêm NOTA
(“None of the Above-Chẳng ai trong số Trên”) như một lựa chọn
thay thế trên lá phiếu. Trong một số biến thể, nếu một số đủ công
dân đánh dấu vào ô này, thì phải tổ chức bầu cử lại.
4. Tài trợ công cho các đảng chính trị là một sự đổi mối khác tương
đối gần đây–lan từ các nền dân chủ hiện tồn thực sự của châu Âu
sang các nền dân chủ mới hơn. Mục tiêu được giả định là để chống
lại xu hướng tới những khoản đóng góp không cân xứng từ các công
dân giàu có và các công ty tư nhân bằng cách chuyển gánh nặng sang
các khoản đóng góp bắt buộc từ toàn bộ những người đóng thuế. Việc
này thường gồm công thức phân chia nào đó dựa trên các kết quả bầu
cử lần trước, mà có vẻ củng cố lợi thế đương quyền và, do đó, chính
48 PHILIPPE C. SCHMITTER
trị đầu sỏ. Bởi vì việc giám sát các quỹ này thường thiếu sót và
việc nhận chúng không lại trừ việc quyên tiền từ các nguồn tư nhân,
chúng đã là một nguồn dai dẳng của những cáo buộc tham nhũng.
5. Trong các thập niên gần đây, hạn ngạch cho các ứng viên nữ hoặc
thậm chí cho thành viên cơ quan lập pháp đã hầu như trở thành tiêu
chuẩn ở nhiều nền dân chủ hiện tồn thực sự. Ở một số nơi, đấy là
một nghĩa vụ pháp lý chính thức, thậm chí một quy định của hiến
pháp quốc gia. Ở nơi khác, các đảng chính trị đã chấp nhận tập
quán này một cách tự nguyện–đầu tiên chủ yếu các đảng thiên tả,
nhưng càng ngày cả các đảng trung dung và cánh hữu nữa. Trong
lúc đó, một số nước đã đơn giản quy định rằng một nửa hay tỷ lệ
thấp hơn nào đó của số ghế trong cơ quan lập pháp được dành cho
phụ nữ. Một biện pháp thêm, được gọi là “cài răng lược,” quy định
các danh sách bầu cử sắp xếp thứ tự các ứng viên nam và nữ
luân phiên nhau. Các nỗ lực để thúc đẩy bình đẳng giới lan sang
cả quá trình hình thành chính phủ nữa: tập quán phi chính thức về
bổ nhiệm phụ nữ làm người đứng đầu nửa tất cả các bộ đang trở
thành chuẩn. Ít phổ biến hơn là quan niệm rằng các thiểu số xã hội
khác mà về mặt lịch sử đã chịu sự phân biệt–sắc tộc, ngôn ngữ, hay
tôn giáo–phải được lợi từ những chính sách tương tự.
6. Việc phân quyền nhiều hơn cho các đơn vị chính trị dưới quốc gia
đang trở nên phổ biến hơn. Hầu hết các nền dân chủ mới được thiết
lập và nhiều nền dân chủ Tây Âu đã được thiết lập vững chắc gần
đây đã chuyển đáng kể quyền ra quyết định cho các vùng, các tỉnh,
hay các đô thị tự trị mà trước kia đã bị cai trị bởi các chính phủ
trung ương tương ứng của chúng. Trong khi chủ nghĩa liên bang
quy mô đầy đủ có vẻ giảm đi, hình thức uyển chuyển hơn này của
sự phân quyền cho phép các công dân bắt các chính quyền địa
phương của họ có trách nhiệm giải trình hơn.
7. Các nỗ lực để lập kế hoạch cho tương lai đã nở hoa trong đáp lại
lời than phiền thường xuyên rằng các nền dân chủ hiện tồn thực
sự là “thiển cận” một cách cố hữu–bị buộc vào chu kỳ bầu cử hay
Khủng hoảng và Chuyển đổi, nhưng Không Suy thoái 49
vào những biểu lộ tức thời của công luận và như thế không có khả
năng “suy nghĩ tiến tới” hay lường trước các vấn đề tương lai và
ngăn chặn tác động tiêu cực của chúng. Các thập kỷ gần đây đã
chứng kiến một sự bùng nổ thực sự của “các ủy ban tương lai”–
một số bên trong các chính phủ, số khác trong các think tank
hay các NGO. Ngày càng trở nên bắt buộc đối với các kiến nghị
lập pháp và các cuộc trưng cầu dân ý phải đi cùng một đánh giá
chuyên gia về các chi phí cuối cùng và các hậu quả của chúng. Ở
Hungary, thậm chí có một “Ombudsman cho các Thế hệ Tương
lai” người thực hiện nhiệm vụ này trên cơ sở đều đặn.
8. Sự tăng nhanh của các bộ luật quyền tự do-thông tin trên khắp thế
giới đã giúp để các công dân được thông tin tốt hơn về ứng xử của
các nhà cai trị của họ. Các luật này cho từng công dân và các hội
dân sự tiếp cận đến tài liệu mà các chính phủ đã thu thập–ngay cả
đến tài liệu mà hiện được dùng trong quá trình ra quyết định. Chắc
chắn, các thành viên của công chúng nói chung có thể không luôn
luôn có thời gian hay kỹ năng để khai thác các tài liệu này, khối
lượng lớn của nó đã tăng theo hàm lũy thừa qua các năm với sự tăng
lên về sự giám sát của chính phủ. Tuy nhiên, các luật như vậy mang
lại một sự đóng góp khiêm tốn hướng tới việc đảm bảo minh bạch
mà trên đó trách nhiệm giải trình dựa vào.
9. Những đổi mới sáng tạo về công nghệ thông tin và truyền thông
(ICT) bắt đầu có một tác động đáng kể lên việc thực hành của dân
chủ. Giá rẻ và sự phân bổ rộng của chúng, cũng như tính nặc danh
chúng đem lại, đã cho các công dân tiếp cận đến các nguồn thông
tin mà là khó đối với các nhà chức trách để kiểm soát hay kiểm
duyệt, và thường xuyên tiết lộ cách cư xử mà các nhà cai trị thích
giữ bí mật hơn. Các đảng và các chính trị gia cũng đã cảm thấy bắt buộc
dùng công nghệ này để liên lạc với những người theo họ. Một số đảng
và ứng viên thậm chí đã dùng nó một cách hiệu quả để gây quỹ và
huy động người đi theo. Trong lúc đó, mảng khổng lồ của xã hội
dân sự đã sử dụng ICT để tập hợp các đơn vị “ảo” cho hoạt động
tập thể mà thường phê phán các nhà chức trách.
50 PHILIPPE C. SCHMITTER
10. Các bước tiếp trong sự biến đổi công nghệ này đã xuất hiện rồi ở
vài vị trí được chọn–cụ thể là, việc dùng truyền thông điện tử để
ảnh hưởng đến sự để cử các ứng viên và sự hình thành các cương
lĩnh đảng, để khớp các sở thích của các cử tri với các lập trường
của các đảng và các ứng viên (được gọi là bỏ phiếu thông minh),
và cuối cùng để thực sự bỏ lá phiếu của mình. Vài nước đã mở
rộng hình thức này của “dân chủ điện tử” thành “chính phủ điện
tử” bằng dựng các kiosk hay văn phòng nơi các công dân có thể
tiếp xúc các cơ quan chính phủ, tải các biểu mẫu xuống, và đưa
ra những lời than phiền.
11. Một vài nước đã đưa ra một hệ thống mới lạ cho tài trợ xã hội dân
sự. Các công dân có thể chọn để phân bổ một số phần trăm cố định
của các nghĩa vụ thuế của họ cho một tổ chức (hay các tổ chức) do
họ chọn từ một danh sách được chấp thuận của các hội, các định chế,
hay cơ quan. Các tổ chức như vậy như thế buộc phải cạnh tranh công
khai và mạnh mẽ vì số tiền này bằng để lộ ra cái họ đã làm và đề
xuất làm trong tương lai. Không chỉ sự phân phát các khoản tiền này
là một nguồn tài chính quan trọng đối với chúng, mà nó cũng được
dùng như một chỉ số gần đúng của tính chính đáng của chúng và để
lộ các sở thích bị che dấu nếu khác đi của công dân.
12. Bản chất của tư cách công dân–cái cơ bản nhất của các định chế
dân chủ–bắt đầu thay đổi. Có một xu hướng hạ tuổi trưởng thành
chính trị xuống mười sáu. Kiều dân sống ở nước ngoài có thể bỏ
phiếu tại các sứ quán hay lãnh sự tương ứng của họ. Những người
nước ngoài cư trú hợp pháp đang có được một số quyền bỏ phiếu
và tham vấn ở các nước nơi họ sống (đặc biệt ở mức địa phương), và
ở một số nơi đã trở nên dễ hơn đối với họ để kiếm được tư cách
công dân trong các tổ quốc mới của họ. Sự đột phá thật sẽ đến khi
quốc tịch, dù jus sanguinis (theo huyết thống) hay jus soli (theo
lãnh thổ), được tách khỏi địa vị tư cách công dân. Thậm chí có một
địa vị de jure cho tư cách công dân “trên quốc gia” ở Liên minh
châu Âu (EU), và sự truyền bá các quyền con người và dân sự
qua các đường biên giới quốc gia và sự thi hành (phải thú nhận,
thất thường) của chúng bởi các tòa án quốc tế hay khu vực đã tạo
Khủng hoảng và Chuyển đổi, nhưng Không Suy thoái 51
ra một hệ thống de facto bảo vệ công dân bao quát hơn .
13. Đại diện bằng rút thăm là một phương sách chẳng hề mới. Nó
đã hiện diện tại nơi sáng lập ra demokratia ở Athens cổ xưa. Như
đã nhắc tới ở trên, một số tham vấn trực tiếp của các công dân về
các vấn đề chính sách đã gồm việc lấy mẫu ngẫu nhiên những
người tham gia từ những người thực sự hiện diện bằng thân thể
trong một khu vực bầu cử cho trước. Một kỹ thuật gián tiếp hơn đã
là tập họp một mẫu ngẫu nhiên của các công dân, ghi các ý kiến
ban đầu của họ, đưa họ vào một thảo luận về các quan diểm thay
thế, kiểm tra họ về những thay đổi khả dĩ trong ý kiến, và sau đó
công bố các kết quả. Việc tập họp “các cộng hòa mini để thảo luận”
như vậy cho “bỏ phiếu tương tác” đã trở thành một tập quán chung
ở các nền dân chủ Tây phương–mặc dù tác động thực tiễn của nó
lên hoặc nội dung chính sách hay tính chính đáng chính trị vẫn còn
phải được chứng minh cuối cùng (mà, nhân tiện, là như vậy với
nhiều đổi mới được trình bày ở trên).
14. Theo quan điểm chính thống về dân chủ, những người đại diện có
được tính chính đáng của họ là nhờ việc họ đã được bầu theo cách
thường xuyên, cạnh tranh, và trung thực. Thế nhưng đã có một sự
tăng lên lạ thường của số các cá nhân không được bầu , yêu
sách địa vị này trên cơ sở sự tinh thông của họ về chuyên môn
hay tổ chức, tính cách lôi cuốn của họ , sự cam kết của họ với
các chuẩn mực chung, hay thậm chí sự nổi tiếng của họ–và có dư
bằng chứng rằng nhiều trong số họ được chấp nhận với tư cách như
thế. Hầu như chẳng có lãnh đạo duy nhất nào của một tổ chức xã
hội dân sự hay phong trào xã hội có được vị trí của mình nhờ một
quá trình bầu cử cạnh tranh, chẳng nhắc đến các minh tinh màn bạc
và các nhạc sĩ nhạc rock những người nói nhân danh các sự nghiệp
xứng đáng và toàn bộ các lục địa.
Cho đến nay, hầu như mọi người của các thử nghiệm thể chế này
đã chú tâm để khơi lại trách nhiệm giải trình dọc qua các đảng chính trị
hay các cuộc bầu cử hoặc trách nhiệm giải trình xiên qua các hội lợi ích,
các phong trào xã hội, hay các mạng truyền thông. Các phiên bản khai
phóng của lý thuyết dân chủ, tuy vậy, đặt một sự nhấn mạnh đặc biệt
52 PHILIPPE C. SCHMITTER
lên trách nhiệm giải trình ngang. Được hướng dẫn bởi nguyên lý chung
rằng các nền dân chủ hiện tồn thực sự là khá hơn về bảo vệ công dân
khỏi sự bạo ngược hơn là trao quyền cho họ để hành động tập thể, những
sự kiềm chế và cân bằng như vậy bên trong bộ máy ra quyết định có
dụng ý để làm giảm mối đe dọa tiềm tàng do sự huy động quần chúng
gây ra.
Ba vị trí truyền thống của trách nhiệm giải trình ngang–hành pháp,
lập pháp và tư pháp–đã trải nghiệm một sự tái cân bằng. Các cơ quan
lập pháp đã có khuyng hướng giảm sút, quyền lực hành pháp đã thay
đổi theo chương trình nghị sự chính sách (với việc tiến hành chiến
tranh là một trong những khuyến khích lớn cho sự tăng lên của nó), và
các thẩm phán (đặc biệt các thẩm phán tối cao) đã tăng quyền lực của họ
rất nhiều. Quá trình này của pháp chế (juridification) hiến pháp đã thay
đổi đáng kể, với Hoa Kỳ cung cấp một trường hợp cực độ ở mức quốc
gia và EU tạo ra một lớp quyền lực hoàn toàn mới ở mức trên quốc gia.
15. Việc thiết lập “các định chế bảo vệ” đa dạng là mới lạ thật. Các
định chế như vậy hầu như đã không tồn tại trước đây, và nơi nó đã,
chúng đã đóng một vai trò phụ hơn rất nhiều, nhưng bây giờ chúng
cung cấp một sự đa dạng về những sự kiểm tra tiềm tàng lên các
quyết định do các quan chức được bầu hay cơ quan lập pháp đưa
ra.11 Đầu tiên và trên hết giữa các định chế như vậy là các ngân
hàng trung ương, được ủy quyền trên thực tế để bức chế chính sách
kinh tế và tài chính. Không nền dân chủ nào có vẻ có khả năng
làm việc mà không có chúng. Một dãy lạ thường của “các cơ quan
điều tiết độc lập” quốc gia đã gia nhập với các ngân hàng trung ương.
Bên cạnh các cơ quan [điều tiết độc lập] cũ hơn, mà đã điều tiết
thương mại, giao thông, y tế công cộng, an toàn lao động, thực phẩm,
thuốc men, đạo đức nghề nghiệp, bảo vệ người tiêu dùng, và những
thứ tương tự, bây giờ chúng ta thấy các ủy ban bầu cử, các tòa án
quyền con người, và các cơ quan chống tham nhũng. Tất cả các định
chế này đã được chủ ý “ban đặc quyền” theo cách sao cho tránh
sự can thiệp chính trị (nói cách khác, dân chủ) và được chuyển
cho các chuyên gia những người sẽ không uốn cong do áp lực từ
các công dân hay các nhà cai trị hay bị tóm bởi những người mà
chúng được cho là phải điều tiết. Nếu điều này là không đủ, những
Khủng hoảng và Chuyển đổi, nhưng Không Suy thoái 53
nỗ lực này thường được giúp đỡ bởi các định chế toàn cầu như
Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tổ chức Thương mại
Thế giới, và vô số các định chế khác đặt ra tiêu chuẩn và thực thi
tiêu chuẩn. EU không chỉ có ngân hàng trung ương riêng của
nó mà cả hơn ba mươi cơ quan điều tiết nữa. Không ngạc nhiên
là các công dân than phiền rằng họ không có ảnh hưởng hữu hiệu
lên chính sách; các chính trị gia của họ có thể nấp sau bức màn
này của các diễn viên trên quốc gia và giả vờ rằng họ không có lựa
chọn nào ngoài tuân theo Washington, Brussels, hay bất cứ đâu.
Không hình mẫu rõ ràng nào nổi lên từ các nỗ lực cải cách được
phác họa ở trên, trừ rằng hình như không đúng rằng sự thực hành chủ
nghĩa khai phóng–chính trị hay kinh tế–một cách không lay chuyển
được sẽ tạo ra một cân bằng thỏa mãn và ổn định . Cho đến nay,
chẳng có cái nào trong tầm nhìn. Trong một số trường hợp, có các dấu
vết của dân chủ “trước-khai phóng,” với vai trò được tăng cường của
nó cho sự tham gia trực tiếp của công dân và việc thi thoảng sử dụng
lựa chọn bằng bốc thăm. Trong các trường hợp khác, đặc biệt trong
phân quyền lãnh thổ và sự nhấn mạnh đến quyền tự do thông tin, có
thể dẫn ta đến kết luận rằng dân chủ “khai phóng hơn” đang nổi lên,
đặc biệt khi các tập quán này được kết hợp với các biện pháp thực chất
như sự phi điều tiết rộng rãi các giao dịch thương mại và tài chính, sự
bảo vệ mạnh hơn cho các quyền tài sản, và sự tháo dỡ hay hạ thấp các
chính sách khác nhau về bảo trợ xã hội.
Tuy nhiên, hầu hết các nhà cải cách ám chỉ đến một cấu hình mới
lạ mà có thể được gọi là “hậu-khai phóng.”12 Một cấu hình như vậy sẽ
bén rễ trong sự mở rộng tham vấn công chúng về chính sách và các vấn
đề ngân sách, các định nghĩa rộng hơn về tư cách công dân, sự cấp tài
chính công cho các đảng chính trị và các tổ chức xã hội dân sự do công
dân chọn, các hạn ngạch cho phụ nữ, “các định chế bảo vệ” được thiết
kế để bảo vệ các công dân khỏi sự gian lận và bóc lột, việc tạo ra “các
ủy ban tương lai” để xem xét tác động tiềm tàng của các quyết định
chính phủ, và (vì sao không?) sự tăng nhanh của các cá nhân tự-lựa-
chọn đòi để đại diện cho một sự đa dạng lớn hơn của các sự nghiệp và
các địa phương.13
Một đặc trưng khác, ít hiển nhiên hơn của kiểu đang nổi lên này
của dân chủ là sự gắn bó mơ hồ của nó với nhà nước quốc gia. Nhiều
54 PHILIPPE C. SCHMITTER
trong những cái mà hình thức dân chủ này tìm cách để thực hiện sẽ
đòi hỏi sự đồng ý thụ động hay hợp tác chủ động ngang các đường
biên giới, cho đến và bao gồm việc hình thành các chuẩn mực và các
định chế trên quốc gia. Châm ngôn rằng dân chủ hiện tồn thực sự chỉ
có thể được thực hành bên trong các nhà nước quốc gia hiện tồn thực
sự có vẻ không thể tránh khỏi bị thách thức.
Bất cứ lựa chọn thay thế nào cho dân chủ khai phóng “hiện tồn
thực sự”–trừ có lẽ sự cai trị khai phóng hơn và ít dân chủ hơn–nhất
định bị tai họa bởi các vấn đề “đại diện” nghiêm trọng. Lựa chọn thay
thế (alternative) này dẫu có thể có vẻ quyến rũ về mặt trí tuệ đến đâu,
thường là không thể để chỉ rõ ex ante (từ trước) các diễn viên nào
(hoặc sự kết hợp nào của họ) sẽ ủng hộ những sự thay đổi như vậy, họ
sẵn lòng chịu bao nhiêu chi phí chuyển đổi, và các cải cách có thể được
thực hiện một cách thành công và dân chủ ra sao. Một khi một sự đoạn
tuyệt cách mạng với các định chế và các tập quán trước của dân chủ
khai phóng bị loại trừ–dường như là đúng thế cho tương lai có thể thấy
trước–là khó để thấy cơ sở tiềm tàng cho loại sự ủng hộ xã hội và chính
trị kéo dài mà bất kể cuộc vận động cải cách được kết hợp và bền bỉ
nào sẽ cần đến. Cho đến nay, tất cả cái người ta có thể quan sát là một
chuỗi các nỗ lực cô lập và mang tính thăm dò–nhiều trong số đó còn
phải làm nhiều để tạo sự khác biệt. Hầu như là không thể để đánh giá
quá cao entropy khổng lồ được cấy vào các định chế và các tập quán
của các nền dân chủ hiện tồn thực sự của ngày hôm nay và sự khó khăn
đi kèm trong thuyết phục nhân dân chấp nhận các ý tưởng mới về các
mối quan hệ chính trị và kinh tế khá cơ bản.
Các cải cách sớm hơn hiện nay được nhúng vào nền dân chủ khai
phóng đã là sản phẩm của những cố gắng để khép một lỗ hổng mở rộng
giữa những kỳ vọng lý tưởng và thành tích thực được công dân trải
nghiệm, nhưng chúng hầu như luôn luôn đòi hỏi chí ít bóng ma, nếu
không phải sự đe dọa sắp đến, của cách mạng để khiến cho sự nỗ lực
có vẻ xứng đáng. Ngày nay, tuy vậy, các cuộc cách mạng là hiếm, và
những sự thay thế khủng bố chủ nghĩa của chúng tăng cường hơn là
làm yếu ý chí để giữ lại status quo. Các diễn viên hiện nay đang thách
thức thành tích và tính chính đáng của dân chủ hiện tồn thực sự không
phải là các kẻ thù công khai của nó; họ là những người ủng hộ được
công khai thừa nhận của nó. Nói cách khác, họ là các công dân và các
Khủng hoảng và Chuyển đổi, nhưng Không Suy thoái 55
nhóm mà tin rằng họ đang cải thiện dân chủ, mặc dù họ không có kế
hoạch mạch lạc nào để làm vậy. Thực ra, nhiệm vụ cải cách sẽ được
tạo thuận lợi nhiều nếu những kẻ cực đoan cả bên hữu lẫn bên tả tự-
công khai thừa nhận tìm cách để thay thế các quy tắc và tập quán khai
phóng bằng dạng khác nào đó của chính phủ, nhưng các nỗ lực của
chúng hiện nay là không hợp lý và không thuyết phục, và theo ý kiến
của tôi chúng chắc sẽ vẫn thế.
Chừng nào các mối đe dọa lớn nhất đối với dân chủ đến từ “những
người thực hành bình thường” của nó–các cử tri, các công dân, các dân
biểu, các nhóm lợi ích, các nhà hoạt động phong trào, và “các nhân vật
xuất chúng” làm theo cách cư xử được thừa nhận chuẩn mực của họ,
thì sẽ khó khăn hơn rất nhiều để thuyết phục các diễn viên như vậy về
sự cần thiết cho một gói toàn diện của các cải cách thể chế. Ngược với
lịch sử đã qua, khi những biến đổi chính trị như vậy đã xảy ra chỉ nếu
một nhóm tận tâm chủ trương một lựa chọn thay thế khả dĩ có vẻ hợp
lý đã tồn tại và đã thành công trong áp đặt mô hình của nó, tất cả cái
mà hầu hết công dân trải nghiệm trong đời sống thường nhật của họ là
“các triệu chứng về sự hoành hành của bệnh tật” à la (theo) Gramsci–
vô số tiếng càu nhàu, sự thất vọng, sự bất lực, và dưới tối ưu, nhưng
hầu như là không đủ để thúc đẩy họ đầu tư vào một mô hình mới lạ,
không được xác định rõ, và cho đến nay vẫn chưa được kiểm chứng
của dân chủ hậu-khai phóng.
CHÚ THÍCH
Đây là một tiểu luận “lý thuyết chính trị thực tiễn,” không phải tiểu luận khoa học
chính trị. Nỗ lực thăm dò của tôi để thâu tóm một tập phức tạp của các hiện tượng
tương liên bằng ngôn từ quá chung và không có những tham khảo kinh nghiệm
chủ nghĩa cần thiết. Tôi biết ơn Journal of Democracy vì sự nuông chiều của nó.
1. Về một phân tích chi tiết hơn về vai trò co lại của các đảng chính trị trong các nền
dân chủ hiện tồn thực sự, xem Philippe C. Schmitter, “Parties Are Not What
They Once Were,” in Larry Diamond và Richard Gunther, eds., Political
Parties và Democracy (Baltimore: Johns Hopkins University Press, 2001),
67–89.
2. Robert Michels, Political Parties: A Sociological Study of Oligarchical
Tendencies of Modern Democracy (1911; New York: Crowell-Collier, 1962).
Mới đây hơn, “Iron Law of Oligarchy” của ông đã được những người Italy
đặt tên lại là “partitocrazia,” một sự diễn đạt đã nhanh chóng truyền bá khắp
vũ trụ chính trị.
3. Ba nhà không phải chuyển đổi học đã đi đến cùng kết luận: Trong dẫn nhập
56 PHILIPPE C. SCHMITTER
của họ cho The Future of Representative Democracy (Cambridge:
Cambridge University Press, 2011), 17, ba biên tập viên Sonia Alonso, John
Keane, và Wolfgang Merkel chỉ ra rằng nhiều tác giả trong tập sách gợi
ý rằng “cái chúng ta đang chứng kiến không phải là một khủng hoảng
của dân chủ đại diện mà đúng hơn là sự biến đổi của nó thành cái gì
đó mới.” Phải thú nhận, tôi đã là một người tham gia trong nhóm nghiên cứu
này, và, vì thế, là một trong những tác giả. Tuy nhiên, sau đó một nhà lý thuyết
chính trị xuất sắc đã đi đến cùng kết luận một cách khá độc lập, khi tôi phát
hiện ra sau khi viết tiểu luận này: Alessandro Ferrara, “Judging Democracy
in the Twenty-First Century: Crisis or Transformation?” NoFo 10 (2013),
www.helsinki.fi/nofo/NoFo10FERRARA.pdf.
4. Điều này đã xảy ra nhiều lần rồi trong quá khứ. Khái niệm gốc rễ của dân chủ
bền bỉ, nhưng sự dịch nó thành các quy tắc và tập quán đã chịu ba “cuộc cách
mạng” kế tiếp, để dùng cách diễn đạt của Robert Dahl; xem Polyarchy (New
Haven: Yale University Press, 1971) của ông. Cho một sự mở rộng lý lẽ này
để bao gồm năm cuộc cách mạng kế tiếp bên trong các nền dân chủ hiện tồn
thực sự, xem Philippe C. Schmitter, “The Future of ‘Real Existing’
Democracy,” European University Institute (unpubl. ms., 2007).
5. Philippe C. Schmitter and Terry Lynn Karl, “What Democracy Is . . . and Is
Not,” Journal of Democracy 2 (Summer 1991): 75–88. Tiểu luận này đã được
tái bản rộng rãi bằng nhiều thứ tiếng.
6. Trong tập một của cuốn Democracy in America của mình, Tocqueville đưa ra
nhận xét này trong số các nhận xét đặt nền móng của ông về dân chủ: “Sự phát
triển từ từ của sự bình đẳng về điều kiện vì thế là một sự thực do trời phù hộ,
và nó có các đặc trưng chính của một: nó là phổ quát, nó là dài lâu, mỗi ngày
nó thoát khỏi quyền lực con người; mọi sự kiện, giống mọi con người, phục
vụ sự phát triển của nó”; xem Alexis de Tocqueville, Democracy in America,
trans. and ed. Harvey C. Mansfield and Delba Winthrop (Chicago:
University of Chicago Press, 2000), 1:6. Trong tập hai, được xuất bản khoảng
năm năm sau, Tocqueville bày tỏ một số nghi ngờ về tác động của “sự thực
do trời phù hộ” này và hình dung ra khả năng về sự phát triển của một chế độ
quý tộc công nghiệp ở Mỹ và thậm chí của một chế độ chuyên quyền cuối cùng
(2:530–34, 661–65).
7. Ngó vào tài liệu dư dật về “chất lượng của dân chủ,” người ta bị ấn tượng bởi
mức độ mà theo đó nó cho rằng các đặc tính của các nền dân chủ Bắc Âu được
đánh giá cao một cách phổ quát và vì thế chiếm một chỗ nổi trội giữa các tiêu
chuẩn của nó cho sự xuất sắc. Có thật là một câu hỏi xác đáng để hỏi vì sao
Brazil đã không đạt các tiêu chuẩn, thí dụ, của Thụy Điển–hoặc ngay cả nếu
những người Brazil có muốn trở thành những người Thụy Điển hay không?
Khủng hoảng và Chuyển đổi, nhưng Không Suy thoái 57
8. Philippe C. Schmitter and Alexander H. Trechsel, eds., The Future of
Democracy in Europe: Trends, Analyses, and Reforms (Strasbourg: Council of
Europe, 2004).
9. Tôi biết ơn Leonardo Avritzer vì đã cho tôi biết điều này và vì nghiên cứu của
ông, mà chứng minh rằng dòng chảy các đổi mới sáng tạo là không chỉ riêng
từ các nền dân chủ hiện tồn thực sự sang các nền dân chủ mới tồn tại. Những
nền dân chủ sau có nhiều để đóng góp cho các nền dân chủ trước.
10. Cho một danh sách rộng hơn của các cuộc cải cách tiềm tàng cũng như thực, xem
Schmitter and Trechsel, Future of Democracy, mà đưa ra 29 trong số đó.
11. Xem Robert Dahl, Democracy and Its Critics (New Haven: Yale University
Press, 1989) cho quan sát ban đầu.
12. Về sự phân biệt này giữa “trước-khai phóng,” “khai phóng hơn” và “hậu-khai
phóng,” xem Philippe C. Schmitter, “Democracy’s Future: More Liberal,
Pre-Liberal, or Post-Liberal?,” Journal of Democracy 6 (January 1995): 15–
22.
13. Về nỗ lực rất mang tính thăm dò của tôi khi hình dung một nền dân chủ hậu-
khai phóng cuối cùng có thể trông như thế nào, xem “The Prospect of Post-
Liberal Democracy,” trong Karl Hinrichs, Herbert Kitschelt, and Helmut
Wiesenthal, eds., Kontingenz und Krise. Institutionenpolitik in
kapitalistischen und postsozialistischen Gesellschaften. Claus Offe zu seinem
60. Geburtstag (Frankfurt: Campus, 2000); “Un esbozo del posible aspecto
de una democracia ‘post-liberal,’ ” in Jose Felix Tezanos, ed., Clase, estatus
y poder en las sociedades emergentes: Quinto foro sobre tendencias sociales
(Madrid: Fundación Sistema, 2002), 587–98.
4
Huyền thoại về Suy thoái
Dân chủ
STEVEN LEVITSKY VÀ LUCAN WAY
Một sự gần đồng thuận đã nổi lên rằng thế giới đã rơi vào một “suy
thoái dân chủ.” Các nhà quan sát hàng đầu và các nhà chủ trương dân
chủ mô tả đặc trưng thập kỷ qua như một giai đoạn dân chủ “giảm sút,”
“xói mòn,” hay “suy thoái,”1 mà trong đó các nền dân chủ mới đã trở
thành nạn nhân của một “làn sóng độc đoán mạnh dội lại.”2 Trong một
bài báo có tựa “Sự Tan chảy Dân chủ To lớn,” thí dụ, Joshua
Kurlantzick cho rằng tự do toàn cầu đã “rơi thẳng xuống.”3 Một nhà
quan sát khác gợi ý rằng “chúng ta có thể thực ra đang thấy sự bắt đầu
của sự kết thúc của dân chủ.”4
Tâm trạng ảm đạm được làm cho hiển nhiên trong các báo cáo hàng
năm của Freedom House trong Journal of Democracy. Tóm tắt khảo sát
hàng năm của Freedom House về tự do, Arch Puddington đã cảnh
báo trong năm 2006 về một “sự đẩy lui chống lại dân chủ” tăng lên,5
đã mô tả đặc trưng năm 2007 và 2008 như các năm của “suy thoái”
dân chủ,6 đã cho rằng sự xói mòn dân chủ đã “tăng tốc” trong năm
2009,7 và đã mô tả nền dân chủ toàn cầu như “dưới sự câu thúc” trong
năm 2010.8 Tiếp sau một thời khắc ngắn của chủ nghĩa lạc quan trong
58
Huyền thoại về Suy thoái Dân chủ 59
Mùa xuân Arab, Freedom House đã cảnh báo về một “sự rút lui” dân
chủ trong năm 2012 và một “sự hồi sinh độc đoán” trong 2013.9
Quả thực đấy là một bức tranh ảm đạm. Tuy vậy, nó không phải là
bức tranh chính xác. Có ít bằng chứng rằng bầu trời dân chủ đang rơi
hay (tùy thuộc vào sự lựa chọn ngụ ngôn của bạn) rằng con sói của sự
hồi sinh độc đoán đã đến.10 Trạng thái của dân chủ toàn cầu vẫn ổn
định trong thập kỷ qua, và đã được cải thiện rõ rệt so với các năm 1990.
Cảm nhận về một sự suy thoái dân chủ, chúng tôi lý lẽ, có gốc rễ trong một
sự hiểu sai về các sự kiện của đầu các năm 1990. Chủ nghĩa lạc quan thái
quá và chủ nghĩa duy ý chí, mà đã tràn ngập các phân tích của những
chuyển đổi sớm hậu Chiến tranh Lạnh, đã tạo ra những kỳ vọng không thực
tế mà, khi không được thực hiện, đã gây ra sự bi quan và u sầu. Thực ra,
bất chấp các điều kiện toàn cầu ngày càng bất lợi trong các năm gần
đây, các nền dân chủ mới vẫn vững chãi một cách nổi bật.
HỒ SƠ KINH NGHIỆM
Việc ngó vào hồ sơ kinh nghiệm gợi ý ít hay không có bằng chứng nào
về nột suy thoái dân chủ. Chúng ta so sánh điểm số của bốn chỉ số dân
chủ toàn cầu nổi bật: Freedom House, Polity, Economist Intelligence
Unit, và chỉ số dân chủ Bertelsmann.11 Bảng 1 cho thấy mức trung
bình dân chủ của mỗi chỉ số (trên một thang được chuẩn hóa từ 0 tới 1)
từ 2000 đến 2013. Tất cả các điểm số trung bình về dân chủ của bốn
chỉ số đã vẫn như thế hay đã tăng lên trong giai đoạn này. Theo các chỉ
số dân chủ dẫn đầu như Freedom House và Polity, thì, thế giới ngày
nay là dân chủ hơn thế giới trong năm 2000 (và dân chủ hơn đáng kể
so với trong năm 1990 hay bất kể năm nào trước đó). Ngay cả nếu
chúng ta lấy giữa các năm 2000–thường được trích dẫn như bắt đầu
của sự suy thoái dân chủ–làm điểm xuất phát của chúng ta, ba trong
bốn chỉ số cho thấy hoặc không có sự thay đổi nào hay một sự cải thiện
nhẹ.12 Chỉ Freedom House cho thấy một sự giảm sút giữa 2005 và
2013, và sự giảm sút đó (từ 0,63 xuống 0,62) là hết sức khiêm tốn.
Nếu chúng ta xem xét số tổng thể của các nền dân chủ trên thế giới,
một cách tương tự dữ liệu gợi ý sự ổn định hơn là suy thoái. Bảng 2
cho thấy điểm số của bốn chỉ số cho số tuyệt đối của các nền dân chủ
60 STEVEN LEVITSKY VÀ LUCAN WAY
BẢNG 1. Điểm số Dân chủ Trung bình cho thế giới theo bốn khảo sát
1990 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Freedom
House 0,53 0,59 0,59 0,61 0,61 0,62 0,63 0,63 0,63 0,62 0,62 0,62 0,62 0,61 0,62
Polity IV 0,53 0,65 0,66 0,66 0,67 0,67 0,68 0,69 0,69 0,69 0,69 0,69 0,70 0,70 0,71
Economist
Inteligent
Unit
─ ─ ─ ─ ─ ─ ─ 0,55 ─ 0,55 ─ 0,55 0,55 0,55 0,55
Berstelsmann
Index ─ ─ ─ ─ ─ ─ 0,53 ─ 0,54 ─ 0,54 ─ 0,53 ─ 0,53
Ghi chú: Tất cả các chỉ số đã được chuẩn hóa để các giá trị nằm trong khoảng 0–1. Số
điểm các quyền chính trị và tự do dân sự của Freedom House được tính trung bình và đảo
ngược.
(dòng dưới), cũng như phần trăm của các chế độ trên thế giới mà đã là
dân chủ hoàn toàn (dòng trên) giữa 2000 và 2013. Lại lần nữa, Freedom
House và Polity cho thấy một sự tăng về số các nền dân chủ kể từ
2000. Chỉ nếu chúng ta ngó tới giai đoạn 2005–13 chúng ta có thấy
một sự sụt giảm, và sự sụt giảm đó là rất khiêm tốn. Freedom House
cho thấy một sự giảm một nền dân chủ giữa 2005 và 2013. Hình mẫu
là tương tự đối với phần trăm của các nền dân chủ trên thế giới: cả
Freedom House lẫn Polity cho thấy một sự giảm một điểm phần trăm
giữa 2005 và 2013.
Như một số đo thêm, chúng tôi xem xét tất cả các trường hợp thay
đổi chế độ đáng kể–được xác định như các nước mà các điểm số
Freedom House của nó đã tăng hay đã giảm ba điểm hoặc nhiều hơn–
giữa 1999 và 2013. Trong khi 23 nước đã trải qua một sự cải thiện
đáng kể trong điểm số Freedom House của họ giữa 1999 và 2013, chỉ
có 8 nước đã trải qua một sự giảm sút đáng kể. Ngay cả giữa 2005 và
2013, số các trường hợp được cải thiện đáng kể (10) đã vượt quá
số trường hợp giảm sút đáng kể (8). Hơn nữa, hầu hết những sự
giảm sút đáng kể đã xảy ra không trong các nền dân chủ mà
trong các chế độ đã là độc đoán rồi, như Cộng hòa Trung Phi,
Gambia, Guinea-Bissau, và Jordan.
Quả thực, điều nổi bật nhất về giai đoạn 2000–13 là có ít nền dân
Huyền thoại về Suy thoái Dân chủ 61
BẢNG 2. Số phần trăm và số tuyệt đối của các nền dân chủ theo
bốn khảo sát
1990 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Freedom 39% 45% 44% 46% 46% 46% 46% 47% 47% 46% 46% 45% 45% 46% 45%
House 65 86 85 89 88 89 89 90 90 89 89 87 87 90 88
Polity IV 39% 50% 52% 53% 53% 56% 58% 58% 57% 58% 57% 57% 59% 58% 57%
56 80 83 85 84 90 93 95 92 95 93 93 96 94 94
Economist
Inteligent ─ ─ ─ ─ ─ ─ ─ 49% ─ 48% ─ 47% 47% 47% 47%
Unit ─ ─ ─ ─ ─ ─ ─ 82 ─ 80 ─ 79 78 79 78
Berstelsmann ─ ─ ─ ─ ─ ─ 55% ─ 64% ─ 62% ─ 61% ─ 59%
Index ─ ─ ─ ─ ─ ─ 65 ─ 76 ─ 74 ─ 72 ─ 70
chủ đến thế nào đã thực sự sụp đổ. Bảy nước mà Freedom House đã
phân loại như Tự do trong cuối các năm 1990 không còn được phân
loại như Tự do hôm nay: Bolivia, Ecuador, Honduras, Mali,
Philippines, Thái Lan, và Venezuela.13 Trong bảy trường hợp này,
các điểm số cho Ecuador, Bolivia, và Philippines đã giảm chỉ một
chút, và cả ba chế độ đã vẫn là các nền dân chủ sát ranh giới (có
chất lượng thấp) trong năm 2014 (thực ra, Philippines đã tái dân chủ
hóa; quyết định của Freedom House để liệt nó như Tự do Một phần
dường như để phản ánh các vấn đề tham nhũng, không vi phạm các quy
tắc dân chủ của trò chơi). Honduras và Mali đã chịu các cuộc đảo chính
quân sự trong 2009 và 2012, một cách tương ứng, nhưng cả hai sự quay
lại độc đoán sau đó đã được đảo ngược.14 Điều đó để Thái Lan và và
Venezuela như các chế độ dân chủ rõ ràng mà đã sụp đổ và vẫn là độc
đoán trong năm 2014.
Danh sách các nước sụp đổ đã có thể được mở rộng để bao gồm
Nicaragua và Sri Lanka, hai nước gần-dân chủ (được Freedom House
phân loại như Tự do Một phần trong cuối các năm 1990) mà đã sa sút
thành độc đoán trong các năm 2000. Người ta cũng có thể kể thêm
Hungary (vẫn được Freedom House phân loại như Tự do trong 2013),
62 STEVEN LEVITSKY VÀ LUCAN WAY
mặc dù, trong tình hình xấu nhất, nó vẫn là một trường hợp sát ranh
giới. Thổ Nhĩ Kỳ, đôi khi được dán nhãn sụp đổ dân chủ, đã trải qua
một chuyển đổi từ một chế độ lai sang chế độ lai khác. Mặc dù chính
phủ của đảng AKP đã cho thấy các xu hướng độc đoán rõ ràng, chế độ
trước nó–được đánh dấu bởi ảnh hưởng quân sự rộng lớn, sự hạn chế
các đảng Kurdish và Islamist, và sự đàn áp nặng nề media–đã chưa
bao giờ là dân chủ (thực ra, điểm số Freedom House của Thổ Nhĩ Kỳ
trong năm 2013 đã tốt hơn điểm số trước thắng lợi bầu cử đầu tiên của
AKP trong năm 2002).
Cho dù chúng ta phân loại tất cả các trường hợp này như những sự đổ
vỡ dân chủ, bất chấp hầu hết chúng là các trường hợp sát ranh giới (Bolivia,
Ecuador, Hungary, Philippines) hoặc các trường hợp trong đó sự rẽ
sang độc đoán sau đó đã đảo ngược (Honduras, Mali, Philippines),
thì số đổ vỡ sánh được với các trường hợp tiến bộ dân chủ. Tám nước–
kể cả một số nước rất quan trọng–đã lọt vào loại Tự do của Freedom
House trong các năm 2000 và vẫn ở đó ngày nay: Brazil, Croatia,
Ghana, Indonesia, Mexico, Peru, Senegal, và Serbia.15 Danh sách này
không bao gồm các nước như Chile, mà đã được phân loại như Tự do
nhưng đã trải qua những tiến bộ dân chủ lớn (trong trường hợp Chile,
sự thiết lập sự kiểm soát dân sự đầy đủ đối với quân đội). Nó cũng
chẳng bao gồm các nước như Nepal, Pakistan, hay Tunisia, mà đã trở
nên dân chủ hơn đáng kể sau giữa các năm 2000 nhưng vẫn ở trong loại
Tự do Một phần của Freedom House.
Bức tranh lớn suốt thập kỷ qua, như thế, là bức tranh của sự ổn
định thuần. Mặc dù chắc chắn có thể nhận diện những trường hợp thụt
lùi dân chủ, sự tồn tại của con số ngang thế hay lớn hơn của những
tiến bộ dân chủ chứng tỏ bất kể quan niệm nào về một sự “tan chảy”
dân chủ toàn cầu là sai. Như các bảng 1 và 2 làm cho rõ ràng, sự thay
đổi thuần từ giữa các năm 2000 về cơ bản là zero. Thái Lan,
Venezuela, và có lẽ Hungary chịu suy thoái dân chủ. Nhưng những
lời xác nhận về suy thoái dân chủ toàn cầu thiếu căn cứ kinh nghiệm.
ẢO TƯỞNG VỀ TRƯỢT LÙI
Vì sao nhiều nhà quan sát cảm thấy có một sự suy thoái dân chủ khi
bằng chứng về một sự suy thoái như vậy lại yếu đến thế? Phong cảnh
Huyền thoại về Suy thoái Dân chủ 63
chế độ toàn cầu nhìn bị đen tối ngày nay bởi vì các nhà quan sát đã nhìn
các sự kiện của giai đoạn ban đầu sau Chiến tranh Lạnh qua mắt kính
được tô hồng. Trong đầu các năm 1990, nhiều nhà quan sát đã
tuột vào một não trạng lạc quan thái quá–thậm chí mục đích
luận–trong đó mọi hình thức khủng hoảng hay bất ổn chế độ
độc đoán đã bị trộn lẫn với dân chủ hóa.16
Sự lạc quan thái quá của đầu các năm 1990 một phần đã được định
hình bởi những cuộc dân chủ hóa thành công lạ thường của giai đoạn
đầu của “làn sóng thứ ba” (1974–89). Ở Nam Âu (Hy Lạp, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha), Nam Mỹ (Argentina, Brazil, Chile, Uruguay), và
Trung Âu (Bulgaria, Czechoslovakia, Hungary, Ba Lan), các
khủng hoảng độc đoán đã nhất quán dẫn tới dân chủ hóa. Những
sự mở cửa độc đoán ban đầu hầu như luôn luôn thoát khỏi sự
kiểm soát của các elite chế độ và tiến triển thành những chuyển đổi
toàn diện. Và khi các chế độ độc đoán sụp đổ, chúng đã hầu như luôn
luôn được thay thế bằng các nền dân chủ.
Nhìn lại, là rõ, rằng các chuyển đổi làn sóng thứ ba sớm này đã
khác rõ rệt với các chuyển đổi muộn hơn ở châu Phi và Liên Xô trước
đây. Các chuyển đổi ở Nam Âu, Nam Mỹ, và Trung Âu đã xảy ra dưới
các điều kiện thuận lợi cho dân chủ hóa thành công, kể cả các mức
phát triển tương đối cao, các phong trào công dân và đối lập vững chãi,
các nhà nước hoạt động, và các mối quan hệ rộng với phương
Tây. Thế nhưng các nhà quan sát đã khái quát hóa từ các trường
hợp này, rút ra chí ít hai bài học sai mà đã định hình mạnh mẽ
cách mà họ đã diễn giải các chuyển đổi của các năm 1990.17
Thứ nhất, các nhà quan sát đã bắt đầu trộn lẫn sự sụp đổ độc đoán
với dân chủ hóa. Sự sụp đổ của một chế độ độc tài có thể mang lại các
kết cục khác nhau, từ dân chủ (Ba Lan sau 1989) đến sự thiết lập một
chế độ độc đoán mới (Iran sau 1979) đến sự sụp đổ nhà nước và tình
trạng hỗn loạn (Libya sau 2011). Về lịch sử, thực ra, hầu hết các sụp
đổ độc đoán đã không gây ra dân chủ hóa.18 Như thế, dù sự sụp đổ của
một chế độ độc tài tạo ra các cơ hội cho dân chủ hóa, nhưng không có
cơ sở lý thuyết hay kinh nghiệm nào cho việc giả định một kết cục như
vậy. Thế mà đó chính xác là cái nhiều nhà quan sát đã làm trong các
năm 1990. Bất cứ ở đâu chế độ độc tài đổ và các nhóm đối lập lên nắm
quyền, sự chuyển đổi đều được mô tả như dân chủ hóa và chế độ tiếp
sau được dán nhãn “nền dân chủ mới.”
64 STEVEN LEVITSKY VÀ LUCAN WAY
Thứ hai, mọi sự mở độc đoán đã được giả định để đánh dấu sự bắt
đầu của một chuyển đổi mà cuối cùng sẽ dẫn đến dân chủ. Như thế
ngay cả những sự mở hạn chế nhắm tới làm trệch áp lực quốc tế đã
được kỳ vọng để thoát khỏi sự kiểm soát của các nhà chuyên quyền và
bắt đầu một cuộc sống riêng của chúng, như đã xảy ra ở các nước như
Brazil, Chile, Hungary, Ba Lan, và Tây Ban Nha. Những kỳ vọng như
vậy đã bỏ qua sự thực rằng các nhà chuyên quyền có thể (và thường)
tiến hành những cải cách “giả tạo” nhắm tháo ngòi các khủng hoảng
ngắn hạn và rồi tiếp tục kiểm soát quân đội, cảnh sát, và các nguồn
thu nhập chính để tái củng cố quyền lực một khi khủng hoảng qua đi.
Xu hướng trộn lẫn khủng hoảng độc đoán và chuyển đổi dân chủ
được củng cố mạnh mẽ bởi cái chết của chủ nghĩa cộng sản. Sự sụp
đổ của bức tường Berlin và của Liên Xô đã gây ra một cảm nhận phổ
biến rằng dân chủ khai phóng đã là “trò chơi duy nhất trong phố.” Bởi
vì tất cả mọi con đường đã dường như dẫn tới dân chủ, các nhà quan
sát đã bắt đầu diễn giải mọi khủng hoảng chế độ như các chuyển đổi
dân chủ chớm nở.
Não trạng lạc quan thái quá này đã dẫn các nhà quan sát đến mô tả
đặc trưng nhầm nhiều khủng hoảng chế độ hậu Chiến tranh Lạnh. Mặc
dù các năm 1990 đã được xem như một thập kỷ của dân chủ hóa chưa
từng thấy, chúng được mô tả chính xác hơn như một giai đoạn của
khủng hoảng độc đoán chưa từng thấy. Sự chấm dứt của Chiến tranh
Lạnh đã đặt ra một thách thức khổng lồ cho các nhà chuyên quyền. Cả
các nhà nước chư hầu Soviet lẫn các chế độ độc tài chống cộng được
phương Tây hậu thuẫn đã mất sự ủng hộ bên ngoài. Các nền dân chủ
Tây phương đã nổi lên như trung tâm chi phối sức mạnh quân sự
và kinh tế, và Hoa Kỳ và EU đã bắt đầu thúc đẩy dân chủ ở mức
độ chưa từng thấy. Đồng thời, các cuộc khủng hoảng kinh tế sâu sắc
đã khiến các nhà chuyên quyền bị tước mất các nguồn lực cần thiết để
duy trì bản thân họ trên quyền lực. Các nhà nước trên thực tế đã phá
sản khắp phần lớn châu Phi và Liên Xô trước đây, để lại các chính phủ
không có khả năng trả lương cho binh lính, cảnh sát, và các công chức.
Trong nhiều trường hợp (Albania, Benin, Cambodia, Georgia,
Haiti, Liberia, Madagascar, Tajikistan, Zaire), nhà nước hoặc đã sụp
đổ hay đã đến bên bờ sụp đổ.
Các điều kiện trong đầu các năm 1990 như thế chẳng khác gì
Huyền thoại về Suy thoái Dân chủ 65
một “cơn bão hoàn hảo” đối với các chế độ độc tài. Khắp châu Phi,
Liên Xô trước đây, và ở nơi khác, những kẻ chuyên quyền đã đối mặt với
các khủng hoảng nghiêm trọng, các nhà nước yếu hay suy sụp, và áp lực
quốc tế mạnh cho các cuộc bầu cử đa đảng.
Thiếu các nguồn lực, các đồng minh bên ngoài, hay các định chế
ép buộc đáng tin cậy, nhiều chế độ chuyên quyền này rơi vào khủng
hoảng nghiêm trọng. Kết quả là “chủ nghĩa đa nguyên do mặc định”19
phổ biến, mà trong đó sự cạnh tranh–và thậm chí sự luân chuyển [chính
phủ]–đã xảy ra bởi vì các chính phủ đã thiếu ngay cả phương tiện sơ
đẳng để đàn áp các thách thức đối lập. Các nhà chuyên quyền đã mất
quyền lực ở Albania, Belarus, Benin, Cộng hòa Trung Phi, Congo-
Brazzaville, Georgia, Madagascar, Malawi, Mali, Moldova, Niger,
Ukraine, và Zaire, không phải chúng đã đối mặt với các phong trào
dân chủ vững chãi, mà bởi vì chúng đã phá sản, các nhà nước của
chúng đã bị xáo trộn, và trong nhiều trường hợp chúng đã mất kiểm
soát bộ máy cưỡng bức. Cũng thế, các chính phủ ở Cambodia, Cam-
eroon, Gabon, Kyrgyzstan, Mozambique, Nga, và các nơi khác đã chịu
đựng các cuộc bầu cử đa đảng cạnh tranh bởi vì họ đã thiếu ngay cả
năng lực tối thiểu để cưỡng lại chúng.
Các thời điểm này của sự yếu độc đoán và bất ổn định đã bị đánh
đồng một cách rộng rãi với dân chủ hóa. Như thế sự lên nắm quyền
của những người không cộng sản ở Nga và các nhà nước hậu-Soviet,
cũng như sự sụp đổ của những kẻ chuyên quyền ở Madagascar,
Malawi, Niger, Zambia, và các nhà nước Phi châu khác, đã
thường xuyên được mô tả như các chuyển đổi dân chủ. Tương
tự việc tổ chức các cuộc bầu cử đa đảng ở Angola, Cambodia,
Cameroon, Gabon, Guinea-Bissau, Kenya, Mozambique, và Tanzania
được nói là đánh dấu sự bắt đầu của chuyển đổi dân chủ, dẫu “bất toàn”
hay “kéo dài” thế nào. Gần như tất cả các chế độ này đã được mô tả
như “các nền dân chủ mới” hay, tối thiểu, như kiểu phụ bị hạ bớt nào
đó của dân chủ (thí dụ, dân chủ bầu cử, không khai phóng, chưa được
củng cố).20 Sự lạc quan này được chia sẻ bởi Freedom House, mà đã
nâng cấp các chế độ chuyên quyền ở Gabon, Jordan, Kazakhstan,
Uzbekistan, và thậm chí Turkmenistan toàn trị lên địa vị Tự do Một
phần trong đầu các năm 1990.
Những đánh giá như vậy phần lớn đã sai lầm. Nhiều khủng hoảng
độc đoán của đầu và giữa các năm 1990 đã không tạo thành phong trào
66 STEVEN LEVITSKY VÀ LUCAN WAY
đến dân chủ có ý nghĩa. Vô số các nền chuyên quyền đã sụp đổ bởi vì
các nhà nước hoặc đã sụp đổ (thí dụ, Azerbaijan, Georgia, Sierra
Leone, Tajikistan, Zaire) hay đã bị yếu đột ngột (thí dụ, Belarus,
Madagascar, Malawi, Ukraine). Sự thất bại nhà nước gây ra bạo lực
và sự bất ổn định; nó hầu như chẳng bao giờ mang lại dân chủ hóa.
Nhiều “sự mở” chế độ khác, trên thực tế, đã là những lúc yếu lạ thường
của những người đương chức, không phải do áp lực xã hội vì dân chủ
mà đúng hơn do khủng hoảng tài khóa nghiêm trọng, nhà nước yếu,
hay tính dễ tổn thương bên ngoài gây ra. Thí dụ, chính trị Nga đã có
tính cạnh tranh trong đầu các năm 1990 không phải bởi vì Boris
Yeltsin đã chủ trì một chuyển đổi dân chủ mà bởi vì ông đã chủ
trì một nhà nước lộn xộn, mà đã bỏ mặc ông không có khả năng kiểm
soát các lực lượng an ninh của chính ông, bộ máy nhà nước, và các
chính quyền vùng. Cũng thế, các cuộc bầu cử cạnh tranh 1993 của
Cambodia đã là một sản phẩm của sự sụp đổ thực tế của nhà nước sau
sự rút lui của Việt Nam và Soviet. Sự phá sản và sự cô lập quốc tế đã
buộc chính phủ Hun Sen nhường lại sự kiểm soát quá trình bầu cử cho
Liên Hiệp Quốc. Tương tự, các nhà chuyên quyền ở Cameroon và
Gabon, đối mặt với các khủng hoảng tài khóa nghiêm trọng, các cuộc
nổi loạn, và bóng ma của sự cô lập quốc tế, đã buộc phải tổ chức các
cuộc bầu cử cạnh tranh không thông thường trong đầu các năm 1990.
Đối với các nhà quan sát mà đã xem các trường hợp về chủ nghĩa đa
nguyên do mặc định này như các chuyển đổi dân chủ, thì những diễn tiến
của các năm 2000 nhất định là thất vọng. Các điều kiện “cơn bão hoàn hảo”
của giai đoạn ban đầu hậu Chiến tranh Lạnh cuối cùng đã qua đi. Thứ nhất,
các nền kinh tế của hầu hết các nước đang phát triển đã được cải thiện
trong các năm 1990, và nhờ giá hàng hóa vút cao, nhiều trong số chúng
đã phất lên trong các năm 2000. Do đó, các chính phủ mà một thập kỷ
trước thiếu tiền để duy trì các mạng lưới bảo trợ hay thậm chí để trả
lương cho binh lính và công chức bây giờ đầy nguồn lực–giúp khôi
phục mức tối thiểu năng lực nhà nước.
Thứ hai, những kẻ chuyên quyền đã thích nghi với môi trường hậu
Chiến tranh Lạnh. Các nhà cai trị mà không biết làm thế nào để sống
sót trong bối cảnh của các cuộc bầu cử đa đảng gần như phải trả giá
bằng quyền lực trong đầu các năm 1990 cuối cùng đã học được cách
quản lý các cuộc bầu cử cạnh tranh, thâu nạp các đối thủ và media độc
lập, kiểm soát khu vực tư nhân, và bỏ đói các nhóm dân sự và đối
Huyền thoại về Suy thoái Dân chủ 67
lập bằng chặn các nguồn lực mà không phải dùng đến loại đàn áp trần
trụi hay sự gian lận mà đã có thể kích khủng hoảng tính chính đáng
trong nước và sự cô lập quốc tế.21
Thứ ba, môi trường địa chính trị đã thay đổi. Ảnh hưởng lạ thường
của Hoa Kỳ và EU, mà đã lên đỉnh điểm trong thời kỳ ngay sau Chiến
tranh Lạnh, đã giảm đi trong các năm 2000. Đồng thời, ảnh hưởng nổi
lên của Trung Quốc, Nga, và các cường quốc khu vực khác, cùng với
giá dầu vút cao, đã tạo ra nhiều không gian hơn cho các nhà chuyên
quyền ở châu Á, Liên Xô trước đây, và châu Phi.
Vào các năm 2000, sự phục hồi kinh tế, việc xây dựng nhà nước,
và môi trường quốc tế dễ dãi hơn đã làm giảm mức yếu kém độc đoán
và sự bất ổn định đã đặc trưng nhiều cho châu Phi, Liên Xô trước kia,
và châu Á trong giai đoạn ban đầu hậu Chiến tranh Lạnh. Ít dễ bị tổn
thương hơn với áp lực quốc tế và với thu nhập lớn hơn và các nhà
nước hiệu quả hơn sẵn có để sử dụng, các chế độ chuyên quyền
rất dễ bị tổn thương trong các năm 1990, trong nhiều trường hợp
đã có khả năng củng cố quyền lực. Thí dụ, ở Cambodia, tài chính
được cải thiện và áp lực quốc tế giảm đi đã cho phép chính phủ Hun
Sen tái lập ưu thế độc đoán. Không có những ràng buộc tài khóa và
bên ngoài cùng cực của đầu các năm 1990, Đảng Nhân dân Cambodia
cai trị đã có khả năng đàn áp các đối thủ và gian lận các cuộc bầu cử
với sự miễn trừ hình phạt lớn hơn. Cũng thế, các Tổng thống Paul Biya
ở Cameroon và Omar Bongo ở Gabon đã tái củng cố quyền lực trong
cuối các năm 1990 và đầu các năm 2000, đảo ngược các nhượng bộ
trước kia–như các giới hạn nhiệm kỳ theo hiến pháp–mà nhiều nhà
quan sát đã diễn giải như “những sự mở” dân chủ. Các quá trình tương
tự về sự tái củng cố độc đoán đã xảy ra ở Algeria, Angola, Burma,
Congo-Brazzaville, Mozambique, và nơi khác.
Hình mẫu như nhau đã có thể thấy ở Liên Xô trước kia, nơi các chế
độ đã yếu rõ rệt và bất ổn trong giai đoạn hậu cộng sản ban đầu đã
được củng cố trong các năm 2000. Ở Nga, chẳng hạn, việc xây dựng
lại nhà nước và giá dầu tăng vút đã cho phép chính phủ Putin kết nạp
khu vực tư nhân và media, đàn áp những người đối lập, và thao túng
các cuộc bầu cử đến mức không thể tưởng tượng nổi một thập niên
trước.22 Ở Belarus, chính phủ Alyaksandr Lukashenka đã thiết lập
68 STEVEN LEVITSKY VÀ LUCAN WAY
sự kiểm soát rộng lớn trên nền kinh tế trong nửa sau của các năm 1990,
mà đã cho phép ông ta bỏ đói các đối thủ của ông do bị cắt các nguồn
lực. Các chế độ độc đoán cũng đã được củng cố ở Armenia,
Azerbaijan, và Tajikistan.
Nói tóm lại, tài chính được cải thiện, sự xây dựng lại nhà nước ,
và, một mô trường quốc tế ít thù nghịch hơn đã cho phép nhiều chế
độ độc đoán, mà đã yếu và bất ổn trong giai đoạn ban đầu hậu Chiến
tranh Lạnh, để ổn định hóa và thậm chí củng cố trong cuối các năm
1990 và đầu các năm 2000. Không ngạc nhiên, các nước như
Azerbaijan, Belarus, Cambodia, Cộng hòa Trung Phi , Congo-
Brazzaville, Gabon, Guinea-Bissau, Jordan, Kazakhstan, Kyrgyzstan,
Nga, Tajikistan, Turkmenistan, và Uzbekistan, mà tất cả đã được
Freedom House nâng cấp một cách lạc quan lên địa vị Tự do Một phần
trong đầu các năm 1990, đã bị xuống cấp thành Không tự do.
Các chuyển đổi này từ chủ nghĩa độc đoán yếu hay bất ổn sang sự
cai trị độc đoán ổn định hơn thường đã được xem như các trường hợp
thất bại dân chủ và được coi như bằng chứng của một sự suy thoái dân
chủ. Những mô tả đặc trưng như vậy làm lạc lối. Nhiều trong số các
chế độ này đã chẳng bao giờ dân chủ chút nào, và trong một số (thí dụ,
Azerbaijan, Cambodia, Jordan, Kazakhstan, Tajikistan, Uzbekistan),
dân chủ đã chẳng bao giờ ở ngay cả trên chương trình nghị sự một
cách nghiêm túc. Hệt như khủng hoảng độc đoán không được đánh
đồng với chuyển đổi dân chủ, sự (tái) củng cố độc đoán không được
đánh đồng với sự thụt lùi dân chủ.
Trong những trường hợp khác, sự bất ổn định chế độ–thường có
gốc rễ trong sự thất bại nhà nước–đã tạo ra “các thời khắc” dân chủ
ngắn mà trong đó áp lực quốc tế mạnh hay sự yếu kém tột độ của tất
cả các diễn viên chính trị chính đã cho phép các cuộc bầu cử cạnh tranh
và sự luân phiên (thí dụ, Bangladesh 1991; Haiti 1991; Congo-
Brazzaville 1992; Belarus 1994; Niger 1999; Guinea-Bissau 2000;
Madagascar 2002; Burundi 2005). Mặc dù các trường hợp này đã có
thể là “dân chủ” một cách tối thiểu trong ngày bầu cử, chúng đã không
còn thế sau khi chính phủ mới nhậm chức–và như thế đã không thể
được mô tả như các chế độ dân chủ. Thực ra, sự luân phiên đã xảy ra
dưới các điều kiện thiên vị một cách áp đảo các kết cục phi dân chủ: các
định chế dân chủ đã tồn tại chỉ trên giấy (trong nhiều trường hợp, chúng
Huyền thoại về Suy thoái Dân chủ 69
đã chẳng bao giờ được kiểm thử); nhà nước đã yếu hay đang sụp đổ,
dẫn đến chủ nghĩa gia sản mới tràn lan và sự thiếu pháp trị; các khu
vực tư nhân đã yếu và phụ thuộc nhà nước; xã hội dân sự và các đảng
đối lập đã yếu và không được tổ chức. Sự kết hợp của các nhà nước
tân gia sản chủ nghĩa và các xã hội bị bần cùng đã cho những người
đương chức các lợi thế nguồn lực bao la từ ngày đầu, và do thiếu các
định chế dân chủ hoạt động, xã hội dân sự, hay một đối lập được tổ
chức, các ràng buộc lên sự lạm dụng độc đoán đã là tối thiểu. Dưới
những điều kiện như vậy, các chính phủ mới hầu như không thể tránh
khỏi lạm dụng quyền lực, kích hoặc sự bất ổn chế độ hay một vòng
khác của chủ nghĩa độc đoán.
“Thời khắc dân chủ” như thế đã tỏ ra chóng tàn, nếu không phải
viển vông, trong mỗi trường hợp được liệt kê ở trên. Thí dụ, Congo-
Brazzaville đã trải qua sự luân phiên bầu cử trong 1992, nhưng tổng
thống mới Pascal Lissouba ngay lập tức đã giải tán quốc hội và tổ chức
các cuộc bầu cử thiếu sót mà đã kích đối lập tẩy chay và cuối cùng sa
thành nội chiến và chế độ độc tài. Tương tự, các cuộc bầu cử cạnh
tranh của Burundi trong năm 2005 đã dẫn Freedom House đến dán
nhãn “nền dân chủ bầu cử” cho nó, nhưng Tổng thống Domitien
Ndayizeye lập tức bắt giam các lãnh tụ đối lập và các nhà báo, và các
cuộc bầu cử tiếp sau đã bị xây xát bởi sự gian lận và đàn áp. Ở Guinea-
Bissau, việc lật đổ João Bernardo Vieira năm 1999 đã dẫn đến các cuộc
bầu cử do quốc tế đỡ đầu và lãnh tụ đối lập Kumba Yala đã thắng (khiến
Freedom House dán nhãn một nền dân chủ bầu cử cho nước này).
Nhưng Yala đã là một kẻ độc đoán như người tiền nhiệm, đóng cửa báo
chí và bắt giam các lãnh tụ đối lập và chánh án Tòa án Tối cao trước
việc lật đổ ông trong một cuộc đảo chính 2003.
Các tổng thống mới được bầu cũng lập tức lạm dụng quyền lực ở
Bangladesh, Belarus, Cộng hòa Trung Phi, Haiti, Madagascar, Niger, và
nơi khác. Các chế độ này đã chẳng bao giờ là các nền dân chủ theo bất
cứ nghĩa nào, trong bất kể giai đoạn có ý nghĩa nào. Đi dán nhãn cho
chúng như các trường hợp “sụp đổ dân chủ” sau đó, vì thế, là hoàn toàn
lầm lẫn. Và thế mà hầu hết các sự sụp đổ được trích dẫn bởi những
người ủng hộ luận điểm suy thoái dân chủ chính xác là thuộc loại này
–xem danh sách về 25 sự đổ vỡ sau 2000 trong chương của Larry
Diamond trong cuốn sách này (xem bảng ở trang 103).
70 STEVEN LEVITSKY VÀ LUCAN WAY
Gần hai phần ba của các sự đổ vỡ này đã là của các chế độ mà (giỏi
nhất) đã không hơn “các thời khắc dân chủ” phù du. Nếu chúng ta giới
hạn phân tích cho các chế độ dân chủ thực sự–được định nghĩa, thí dụ,
như các chế độ mà trong đó ít nhất một chính phủ được bầu một cách
dân chủ tổ chức các cuộc bầu cử tự do và nhường quyền một cách hòa
bình cho một chính phủ kế nhiệm được bầu–16 trong 25 “đổ vỡ dân
chủ” của Diamond biến mất. Trong số chín trường hợp đổ vỡ còn lại,23
chỉ năm vẫn đã có chế độ độc đoán trong 2014, và một trong số đó đã
là một vi quốc gia.
KHÔNG DÂN CHỦ HÓA TRONG CÁC NĂM 2000
Chủ nghĩa bi quan đương thời về số phận của dân chủ toàn cầu cũng
đã có gốc rễ trong chủ nghĩa duy ý chí thái quá. Nhiều trong những
người cho rằng dân chủ thoái lui đã chú tâm ít đến sự trượt lùi dân chủ
hơn đến sự thiếu tiến bộ dân chủ. Thực tế, sự không dân chủ hóa ở
Trung Quốc, Trung Đông, hay Trung Á đã được xem như sự thụt lùi.
Thí dụ, báo cáo 2009 của Puddington trong Journal of Democracy đã
cho rằng “có lẽ diễn tiến gây thất vọng nhất” ở châu Á trong 2008 đã
là “sự thất bại của Trung Quốc để ban hành những cải cách dân chủ
quan trọng … trong năm nó làm chủ nhà của Thế vận Hội.”24 Năm
sau, ông đã dẫn thất bại của chính phủ Kazakh để tiến hành cải cách
chính trị như bằng chứng của một “xoắn ốc đi xuống” ở Trung Á và
đã chỉ ra sự thiếu tự do hóa chính trị ở Cuba như bằng chứng của “sự
xói mòn tiếp tục của quyền tự do toàn thế giới.”25 Báo cáo gần đây
nhất của Puddington trên Journal of Democracy công khai dẫn những
kỳ vọng không được thỏa mãn–ngược với sự thụt lùi thực sự–như một
nguồn của sự ảm đạm dân chủ, viết rằng dù các nhà quan sát đã “tiên
đoán rằng Trung Quốc sẽ khá nhanh tiến hóa tới một hệ thống khai
phóng hơn và có lẽ dân chủ,” thay vào đó chính phủ đã đề ra các chiến
lược mới “được thiết kế để duy trì sự cai trị độc đảng cứng nhắc.”26
Sự thất bại của các chế độ độc đoán ở Trung Quốc, Trung Đông,
hay Trung Á để dân chủ hóa phải không được coi như bằng chứng về
sự rút lui dân chủ (làm thế sẽ giống như lấy một cốc đầy một nửa và
tuyên bố nó không phải nửa trống mà đang đổ ra). Nó chẳng làm chúng
ta ngạc nhiên. Vào giữa các năm 2000, gần như mọi nước với những
Huyền thoại về Suy thoái Dân chủ 71
điều kiện thuận lợi tối thiểu cho dân chủ đã dân chủ hóa rồi. Với một
nhúm ngoại lệ (thí dụ, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, và
bây giờ Venezuela), quả ở thấp đã được hái rồi. Ngày nay, hầu hết các
chế độ phi dân chủ của thế giới tồn tại ở các nước mà lý thuyết hiện
tồn gợi ý là không chắc sẽ dân chủ hóa.27
Theo nhiều nghiên cứu quan trọng, dân chủ hóa ổn định là không
chắc trong các nước rất nghèo với các nhà nước yếu (thí dụ, phần lớn
của châu Phi hạ-Sahara), các nền quân chủ triều đại với dầu và sự ủng
hộ phương Tây (thí dụ, các nước vùng Vịnh Persia), và các chế độ độc
đảng với các nhà nước mạnh và tỷ lệ tăng trưởng cao (Trung Quốc,
Việt Nam, Malaysia, Singapore). Nghiên cứu riêng của chúng tôi gợi
ý rằng dân chủ hóa ít chắc xảy ra trong các nước với mối liên kết rất
thấp đến phương Tây (thí dụ, Trung Á, phần lớn châu Phi) và trong các
chế độ được sinh ra từ cách mạng bạo lực (Trung Quốc, Ethiopia,
Eritrea, Việt Nam, Cuba, Iran, Lào, Bắc Triều Tiên). Nếu chúng ta
nghiêm túc rút ra những bài học được tạo ra bởi nhiều thập kỷ nghiên
cứu, tương đối ít nước hiện nay có thể được xem là các nền dân chủ
kém cỏi thật. Trong khi sự đình trệ về tổng số các nền dân chủ
trên thế giới có thể gây khó chịu về mặt chuẩn tắc, nó hoàn
toàn phù hợp với lý thuyết hiện tồn.
Thế thì vì sao sự thiếu mở rộng dân chủ kể từ giữa các năm 2000
lại đã kích nhiều sự bi quan và ảm đạm đến vậy? Một lý do là các kỳ
vọng không có cơ sở do sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản gây
ra. Sau các sự kiện phi thường của 1989-91, nhiều nhà quan sát đơn
giản đã giả định rằng làn sóng tiến bộ dân chủ của các năm 1980 và
1990 sẽ tiếp tục.
Một lý do khác cho sự thất vọng hiện thời là chủ nghĩa duy ý chí
thái quá. Những sự dân chủ hóa làn sóng thứ ba ban đầu đã giáng một
đòn mạnh lên các lý thuyết cấu trúc luận cổ điển mà đã chiếm ưu thế
trong các năm 1960 và 1970. Các lý thuyết này đã nhấn mạnh những
trở ngại xã hội, kinh tế, và văn hóa đối với dân chủ hóa trong thế giới
đang phát triển và cộng sản. Dân chủ hóa ở các nước giống Bolivia, El
Salvador, Ghana, và Mongolia đã làm rõ, rằng dân chủ hóa đã có thể
ở bất cứ đâu. Thế nhưng sự nghi ngờ lành mạnh này đối với phân tích
cấu trúc luận thái quá đã biến thành chủ nghĩa duy ý chí được phóng
72 STEVEN LEVITSKY VÀ LUCAN WAY
đại. Bằng chứng rằng các nhân tố cấu trúc như sự giàu có, sự bất bình đẳng
thấp, hay một xã hội dân sự vững chãi không phải là cần thiết cho dân chủ
hóa đã dẫn nhiều nhà quan sát đến kết luận rằng chúng là không quan trọng
về mặt nhân quả. Nói cách khác, bài học quan trọng rằng dân chủ hóa có
thể xảy ra ở bất cứ đâu đã được một số nhà quan sát hiểu rằng nó phải xảy
ra ở mọi nơi.
Đơn giản không có cơ sở lý thuyết hay kinh nghiệm nào cho những
kỳ vọng như vậy. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng các nhân tố cấu
trúc như mức phát triển, sự bất bình đẳng, thành tích kinh tế, sự giàu
có tài nguyên thiên nhiên, năng lực nhà nước, sức mạnh của xã hội dân
sự, và các mối quan hệ với phương Tây tiếp tục có tác động mạnh mẽ
đến khả năng đạt được và duy trì dân chủ. Không phải là sự trùng khớp
ngẫu nhiên rằng hầu hết các chế độ phi dân chủ còn lại của thế giới tụ
thành cụm ở Trung Đông, châu Phi hạ-Sahar, và Liên Xô trước đây.
Nhiều nước trong các vùng này được mô tả đặc trưng bằng nhiều nhân
tố mà các học giả đã gắn với chủ nghĩa độc đoán. Ta có thể hy vọng
(và làm việc) cho dân chủ hóa ở các nước giống Cambodia, Ethiopia,
Kazakhstan, Libya, hay Iraq, nhưng những kỳ vọng rằng dân chủ hóa
sẽ xảy ra trong các trường hợp như vậy thiếu cơ sở lý tuyết hay kinh
nghiệm. Và sự tan vỡ của những kỳ vọng vô căn cứ không được lẫn
lộn với suy thoái dân chủ.
SỨC BẬT ĐÁNG NGẠC NHIÊN CỦA DÂN CHỦ
Sự thất vọng về thiếu dân chủ hóa ở các nước nơi dân chủ không
chắc nổi lên không được làm mờ các thành tựu dân chủ phi
thường của một phần tư thế kỷ qua. Khi tạp chí Journal of
Democracy được khai trương trong năm 1990, đã có 38 nước đang phát
triển và hậu cộng sản được Freedom House phân loại như Tự do.
Trong năm 2014, số đó là 60.
Cũng ấn tượng như bề rộng của làn sóng thứ ba đã là tính vững
chãi của nó. Vào lúc số khai trương của Journal of Democracy, các chế
độ dân chủ mới ở Mỹ Latin và Trung Âu đã được xem một cách rộng
rãi như bấp bênh. Các học giả về dân chủ hóa đã nghi ngời rằng nhiều
trong số đó sẽ kéo dài. Trong cuốn sách kinh điển của họ về chuyển
Huyền thoại về Suy thoái Dân chủ 73
đổi từ sự cai trị độc đoán, thí dụ, Guillermo O’Donnell và Philippe
Schmitter đã mô tả đặc trưng các trường hợp Mỹ Latin như “các nền
dân chủ không chắc chắn.”28 Cũng thế, ít học giả đã kỳ vọng rằng các
chuyển đổi 1989 ở Trung Âu sẽ tạo ra các chế độ dân chủ ổn định hầu
như đồng đều. Thế mà với vài ngoại lệ ngắn (thí dụ, Peru, 1992–2000),
các nền dân chủ mà đã nổi lên ở Nam Mỹ và Trung Âu bây giờ đã sống
sót một phần tư thế kỷ hoặc hơn. Vả lại, chúng đã sống sót bất chấp
những khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng và các cuộc cải cách kinh tế
cấp tiến mà nhiều học giả đã tin rằng không tương hợp với dân chủ.
Giữa 1990 và 2000, nhiều nước quan trọng khác đã dân chủ hóa, kể cả
Croatia, Ghana, Indonesia, Mexico, Serbia, Slovakia, Nam Phi, và Đài
Loan. Mặc dù một số các nền dân chủ mới này đã được đánh dấu bởi
những sự chia tách chủng tộc hay sắc tộc sâu sắc, chúng cũng đã tỏ ra
vững chãi một cách đáng ngạc nhiên.
Những hình mẫu này đã không thay đổi về căn bản sau năm 2000.
Những sự đổ vỡ dân chủ vẫn đã hiếm, thường ngắn, và nhìn chung
không có tính đại diện của các xu hướng rộng hơn. Mặc dù dân chủ
đã rút lui ở Sri Lanka, Thái Lan, và Venezuela, nó đã sống sót trong
một dải các nước có thu nhập trung bình quan trọng, kể cả Argentina,
Brazil, Chile, Colombia, Croatia, Ấn Độ, Indonesia, Mexico, Ba Lan,
Serbia, Nam Phi, Hàn Quốc, và Đài Loan. Dân chủ cũng đã sống sót ở
nhiều nước với các điều kiện rõ ràng không thuận lợi, bao gồm Benin,
Cộng hòa Trung Phi, El Salvador, Ghana, Guyana, Mongolia, và
Romania. Đấy là các nước với ít hay không có truyền thống dân chủ,
nhà nước yếu, các mức nghèo và bất bình đẳng cao, và trong vài trường
hợp xã hội bị chia rẽ sâu sắc. Thế mà các nền dân chủ của họ đã kéo
dài, và vài trong số đó bây giờ đã hơn hai mươi tuổi.
Trong nhiều nước quan trọng, dân chủ đã không chỉ sống sót mà
đã mạnh lên trong các năm 2000. Ở Brazil, mà đã chịu các vấn đề
quản trị nghiêm trọng trong các năm 1980 và đầu các năm 1990, tính
ổn định và chất lượng dân chủ đã được cải thiện rõ rệt trong các năm
2000; ở Ấn Độ, các tỷ lệ tham gia đang mở rộng, đặc biệt giữa những
người nghèo hơn và các công dân thuộc caste thấp hơn, đã tạo ra một
nền dân chủ ngày càng dung nạp; ở Chile, cải cách hiến pháp 2005 đã
loại bỏ các vùng biệt lập độc đoán còn lại và đã thiết lập sự kiểm soát
74 STEVEN LEVITSKY VÀ LUCAN WAY
dân sự đầy đủ đối với quân đội; ở Croatia, Ghana, Mexico, và Đài
Loan, các đảng độc đoán cai trị trước kia đã quay lại nắm quyền và đã
cai trị một cách dân chủ–một bước cốt yếu tới sự củng cố. Và tại
Colombia và Ba Lan, các định chế dân chủ đã kiểm soát hữu hiệu các
tham vọng của các tổng thống có thiên hướng độc đoán (Alvaro Uribe
ở Colombia, Lech Kaczyñski ở Ba Lan). Đấy đã là những thành công
dân chủ lớn, nhiều trong số đó đã xảy ra ở các nước lớn và có ảnh
hưởng. Thế mà chúng đã nhận được ít sự chú ý hơn sự trượt lùi dân
chủ ở Thái Lan và Venezuela và sự không dân chủ hóa ở Trung Quốc
rất nhiều.
Những thành công này gợi ý một cách thay thế về xem xét các
sự kiện của các năm 2000. Trong thập kỷ qua, nhiều diễn tiến toàn
cầu đã đặt ra một sự đe dọa nghiêm trọng cho các nền dân chủ mới.
Chúng đã bao gồm khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng sau-2008 ở các
nền dân chủ Tây phương, sự giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ và EU, sức
mạnh và sự tự tin tăng lên của Trung Quốc và Nga, và giá dầu vút lên.
Thế mà số các sự sụp đổ dân chủ thật sự đã thấp một cách ấn tượng.
Thế thì có lẽ câu chuyện thực của thập niên vừa qua không phải là
“sự tan chảy” dân chủ mà đúng hơn là sức bền dân chủ đối mặt với
một phong cảnh địa chính trị đen tối đi. Sức bền này đáng được nghiên
cứu thêm. Việc hiểu các nguồn của nó có thể giúp các nhà chủ trương
dân chủ chuẩn bị cho ngày khi con sói của sự hồi sinh độc đoán, thực
sự, đến.
CHÚ THÍCH
1. Xem Larry Diamond, “The Democratic Rollback: The Resurgence of the
Predatory State,” Foreign Affairs 87 (March–April 2008): 36–48; Dia-
mond, “Democracy’s Deepening Recession,” Atlantic.com, 2 May 2014;
Arch Puddington, “The 2008 Freedom House Survey: A Third Year of
Decline,” Journal of Democracy 20 (April 2009): 93–107; Puddington, “The
Freedom House Survey for 2009: The Erosion Accelerates,” Journal of
Democracy 21 (April 2010): 136–50; Joshua Kurlantzick, “The Great
Democracy Meltdown,” New Republic, 9 May 2011, 12–15, available at
tnr.com.
2. Diamond, “Democratic Rollback,” 36.
3. Kurlantzick, “Great Democracy Meltdown.”
Huyền thoại về Suy thoái Dân chủ 75
4. Xem Robert Battison, “The ‘Democratic Recession’ Has Turned into a
Modern Zeitgeist of Democratic Reform,” OpenDemocracy 21 (Decem-
ber 2011).
5. Arch Puddington, “The 2006 Freedom House Survey: The Pushback
Against Democracy,” Journal of Democracy 18 (April 2007): 125–37.
6. Puddington, “Third Year of Decline.”
7. Puddington, “Erosion Accelerates.”
8. Arch Puddington, “The Freedom House Survey for 2011: Democracy
Under Duress,” Journal of Democracy 22 (April 2011): 17–31.
9. Arch Puddington, “The Freedom House Survey for 2012: Breakthroughs
in the Balance,” Journal of Democracy 24 (April 2013): 49; Arch Pudding-
ton, “The Freedom House Survey for 2013: The Democratic Leadership
Gap,” Journal of Democracy 25 (April 2014): 90.
10. Jay Ulfelder đưa ra một lý lẽ tương tự. Xem Ulfelder, “The Democratic
Recession That *Still* Isn’t,” http://dartthrowingchimp.wordpress.com
/2014/01/23/the-democratic- recession-that-still-isnt.
11. Về dữ liệu Freedom House, xem freedomhouse.org; dữ liệu Polity: systemic
peace.org/polity/polity4.htm; dữ liệu Economic Intelligence Unit:
www.eiu.com/public/topical_report.aspx?campaignid=Democracy0814; dữ
liệu Bertelsmann: www.bti-project.org/index/. Tất cả điểm số cho các năm
thực hơn là năm báo cáo.
12. Chỉ số Varieties of Democracy, mà không được giới thiệu ở đây, cũng không
thấy sự suy thoái nào. Xem Staffan I. Lindberg et al., “V-Dem: A New Way
to Measure Democracy,” Journal of Democracy 25 (July 2014): 162–63.
13. Chúng tôi loại ra các vi quốc gia như Fiji (mà Freedom House đã phân loại như
Tự do cho một năm 1999 nhưng có thể cho rằng nó đã chưa bao giờ thiết lập
một chế độ dân chủ) và Solomon Islands. Hai nước khác–Argentina và
Guyana–trong thời gian ngắn đã ra khỏi loại Tự do của Freedom House
trong các năm 2000 nhưng đã quay lại trong vòng một năm.
14. Tương tự, Ukraine (được phân loại như Tự do Một phần trong cuối các năm
1990 nhưng đã dân chủ hóa trong giữa các năm 2000) đã trượt vào chủ nghĩa
độc đoán cạnh tranh trong 2010, nhưng chế độ sụp đổ trong năm 2014.
15. Freedom House đã chuyển Mexico quay lại hạng Tự do Một phần trong năm
2011 do bạo lực ma túy. Tuy vậy, có sự đồng thuận học giả rộng rãi rằng
Mexico vẫn duy trì một chế độ dân chủ. Senegal cũng đã trượt vào hạng Tự
do Một phần trong giữa các năm 2000 nhưng đã lấy lại được địa vị Tự do
trong năm 2013.
16. Về một phê phán tương tự, xem Thomas Carothers, “The End of the Transi-
tion Paradigm,” Journal of Democracy 13 (January 2002): 5–21; cả Marc
Howard and Meir R. Walters, “Mass Mobilization and the Democracy
76 STEVEN LEVITSKY VÀ LUCAN WAY
Bias: A Comparison of Egypt và Ukraine,” Georgetown University
(unpubl. ms.).
17. Xem Carothers, “End of the Transition Paradigm.”
18. Xem Milan Svolik, The Politics of Authoritarian Rule (New York:
Cambridge University Press, 2012).
19. Lucan Way, “Pluralism by Default: Weak Autocrats and the Rise of
Competitive Politics,” University of Toronto (unpubl. ms.).
20. Xem David Collier and Steven Levitsky, “Democracy with Adjectives:
Conceptual Innovation in Comparative Research,” World Politics 49
(April 1997): 430–51.
21. Michael Bratton and Daniel Posner, “A First Look at Second Elections
in Africa, with Illustrations from Zambia,” in Richard A. Joseph, ed.,
State, Conflict, và Democracy in Africa (Boulder, CO: Lynne Rienner,
1999), 387; Lucan Way, “Deer in Headlights: Incompetence and Weak
Authoritarianism After the Cold War,” Slavic Review 71 (Fall 2012): 619–
46.
22. Xem Mikhail Myagkov, Peter C. Ordeshook, and Dimitri Shakin, The
Forensics of Election Fraud: Russia and Ukraine (New York: Cambridge
University Press, 2009).
23. Đấy là Venezuela và Thái Lan trong 2005, Solomon Islands, Honduras,
Philippines, Sri Lanka, Nicaragua, Ukraine, và Mali.
24. Puddington, “Third Year of Decline,” 103.
25. Puddington, “Erosion Accelerates,” 137, 141.
26. Puddington, “Democratic Leadership Gap,” 90–91.
27. Marc F. Plattner, “The End of the Transitions Era?” Journal of Democracy
25 (July 2014): 5–16.
28. Guillermo O’Donnell and Philippe C. Schmitter, Transitions from
Authoritarian Rule: Tentative Conclusions About Uncertain Democracies
(Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1986).
5
Trợ giúp Dân chủ 25 tuổi:
Lúc Lựa chọn
THOMAS CAROTHERS
Với lễ kỷ niệm năm thứ hai mươi lăm sự sụp đổ của bức Tường Berlin
mới gần đây, các nỗ lực để đánh giá tình trạng toàn cầu của dân chủ đã
tăng nhanh. Các nỗ lực để đánh giá trợ giúp dân chủ, ngược lại, đã
hiếm hơn rất nhiều. Mặc dù loại trợ giúp quốc tế này có một mục đích
cụ thể–để cổ vũ và thúc đẩy dân chủ hóa–các tiêu chuẩn để đánh giá nó
là khó nắm. Bản thân “trợ giúp dân chủ” là một thuật ngữ thâu tóm tất
cả cho một sự cố gắng mà có đủ các phần chuyển động để làm cho việc
vạch ra các ranh giới xung quanh nó khó khăn. Việc đạt các kết luận về
các phương pháp hay các kết quả áp dụng được rộng rãi trong một lĩnh
vực luôn đa dạng gây nản lòng.
Thế mà một đánh giá như vậy, dẫu sẽ chắc chắn không hoàn hảo,
vẫn cần thiết. Kể từ cuối các năm 1980, trợ giúp dân chủ đã tiến hóa
từ một lĩnh vực đặc biệt thành một lĩnh vực quan trọng, được thể chế
hóa tốt, tác động đến sự phát triển chính trị ở mọi ngõ nghách của địa
cầu. Một phần tư thế kỷ trước, lĩnh vực đã được cư trú thưa thớt, chủ
yếu bởi các viện gắn với mỗi đảng chính trị lớn của Đức và Hoa Kỳ,
77
78 THOMAS CAROTHERS
Quỹ Quốc gia Hoa Kỳ cho Dân chủ (NED), Văn phòng Mỹ Latin của
Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Quỹ Quốc tế cho các Hệ
thống Bầu cử, và vài tổ chức khác. Ngày nay, gần như mỗi chính phủ
Tây phương cấp viện trợ nào đó cho xây dựng dân chủ, dù qua bộ
ngoại giao, cơ quan viện trợ song phương, hay các tổ chức khác.
Cũng thế, gia đình các quỹ đảng chính trị và các viện đa-đảng cung
cấp trợ giúp chính trị qua các đường biên giới đã mở rộng rất nhiều.
Vô số các quỹ tư nhân Mỹ và Âu châu bây giờ tài trợ các chương trình
để cổ vũ sự cởi mở và đa nguyên chính trị lớn hơn. Một dải ngày càng
tăng của các NGO xuyên quốc gia, cả các tổ chức phi lợi nhuận do “sứ
mạng dẫn dắt” lẫn các hãng tư vấn vì lợi nhuận, tiến hành các chương
trình nhắm tới củng cố các quá trình và các định chế dân chủ .
Nhiều tổ chức đa phương cũng đã gia nhập lĩnh vực này. Trong đó gồm
Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), Quỹ Dân chủ Liên
Hiệp Quốc, Viện Quốc tế cho Dân chủ và Giúp đỡ Bầu cử, và các tổ
chức khu vực như Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) và
Tổ chức các Nhà nước châu Mỹ (OAS). Ngoài ra, các chính phủ của
vài “nền dân chủ mới nổi” lớn hơn, như Brazil, Ấn Độ, Indonesia, và
Thổ Nhĩ Kỳ, đang bắt đầu dùng viện trợ để ủng hộ sự thay đổi dân chủ
trong các vùng lân cận riêng của họ.
Với sự tăng trưởng nổi bật này về số những người làm là một sự
phình lên tương tự của các ngồn lực. Trong cuối các năm 1980, trợ
giúp dân chủ đã ít hơn một tỷ USD. Ngày nay, tổng số là hơn 10 tỷ
USD. Việc chi tiêu này chuyển thành hàng ngàn dự án thuê trực tiếp
hàng trăm ngàn người trong thế giới đang phát triển và hậu cộng sản.
Sự mở rộng viện trợ dân chủ cũng đưa đến một tầm với mở rộng. Hai
thập niên rưỡi trước đây, hầu hết viện trợ dân chủ đã chảy vào Mỹ Latin
và vài nước Á châu, như Philippines và Đài Loan. Trong những năm
xảy ra ở giữa, nó đã lan ra quanh thế giới, tiếp sau làn sóng dân chủ
khi nó vỗ qua Trung và Đông Âu, Liên Xô trước kia, châu Phi hạ-
Sahara, vùng Balkan, châu Á, và Trung Đông. Ngày nay, chí ít viện
trợ dân chủ nào đó tới mọi nước mà đã chuyển khỏi sự cai trị độc đoán,
Trợ giúp Dân chủ tuổi 25: Lúc Lựa chọn 79
cũng như hầu hết các nước vẫn sống dưới chế độ độc tài. Khi các
chuyển đổi chính trị mới trông hứa hẹn, như chúng đã là ở Burma và
Tunisia nhiều năm qua, một sự tranh giành xảy ra khi các tổ chức vấp
phải nhau trong tìm kiếm những cách để đưa viện trợ dân chủ sinh lợi.
Bất chấp sự tăng trưởng ấn tượng này, nhiều người thực hành và
nhà quan sát tự hỏi liệu lĩnh vực này đang làm theo các phương pháp
thông minh hơn theo thời gian và đạt các kết quả tốt hơn hay chỉ tự lặp
lại mình trong một vòng liên tục của những cách tiếp cận tập hợp và
những kỳ vọng được thổi phồng nhưng chẳng bao giờ được hoàn
thành. Các mối nghi ngờ kéo dài này đến vào lúc khi viện trợ dân
chủ ngày càng trở nên gây tranh cãi, một mục tiêu cho những người
nắm quyền trong nhiều phần của thế giới tấn công nó như một hình
thức lật đổ mà đáng nhận được các biện pháp đối phó gay gắt. Những
công việc khó nhọc của dân chủ ở nhiều nước, nơi bị thống trị lâu,
cộng với sự lạc quan đi cùng sự truyền bá dân chủ khi “làn sóng
thứ ba” trên đỉnh điểm giảm đi, gây ra sự nghi ngờ nghiêm trọng
ở những nơi khác nhau về liệu sự ủng hộ dân chủ có thậm chí là
một công việc hợp pháp hay không. Tóm lại, khi viện trợ dân chủ
đạt mốc một phần tư thế kỷ nó vẫn còn xa trạng thái ổn định, thoải mái
của sự trưởng thành mà nhiều người ủng hộ ban đầu của nó đã kỳ vọng
(hay chí ít đã hy vọng) sẽ có thể xác nhận sau hàng thập kỷ nỗ lực.
Thay vào đó, nó bị bao vây bởi những điều không chắc chắn sâu sắc
về nó đã tiến bộ thế nào và về con đường phía trước.
MỘT HÌNH MẪU HỌC TẬP
Trong những năm đầu của nó, viện trợ dân chủ đã nhanh chóng tạo
hình quanh một khung khổ ba phần gồm (1) hỗ trợ các định chế và các
quá trình cốt yếu cho tranh đua dân chủ–trên hết, các cuộc bầu cử tự
do và công bằng và sự phát triển đảng chính trị; (2) tăng cường và cải
cách các định chế nhà nước then chốt, đặc biệt các định chế kiểm soát
quyền lực của các nhánh hành pháp tập trung, như các quốc hội, các
ngành tư pháp, và các chính quyền địa phương; và (3) hỗ trợ cho xã
hội dân sự, thường trong hình thức giúp đỡ cho các NGO lợi ích chung,
báo chí độc lập, các nghiệp đoàn lao động, và các sáng kiến giáo dục
80 THOMAS CAROTHERS
công dân. Ngày nay, nếu ta đến một nước đang chuyển khỏi sự cai trị
độc đoán và khảo sát các chương trình viện trợ dân chủ đang được tiến
hành ở đó, hầu hết sẽ hợp với khung khổ này. Nói tóm lại, viện trợ dân
chủ–chí ít đại cương–tiếp tục trông giống nhiều như nó đã là trong cuối
các năm 1980. Ba loại chính được chào khi đó vẫn là ba loại chính được
chào mời. Ngó một chút sâu hơn, tuy vậy, và những sự thay đổi trở nên
hiển nhiên. Nói đại khái, những sự thay đổi phản ánh một hình mẫu
học tập từ kinh nghiệm.
Nghiên cứu mỗi trong những tuyến chính của chương trình viện trợ
dân chủ, ta thấy chí ít sự tiến hóa một phần khỏi những thiếu sót rành
rành mà thường đã làm điêu đứng các nỗ lực viện trợ dân chủ ban đầu.
Những thiếu sót này đã bao gồm toan tính xuất khẩu các mô hình
định chế Tây phương, không hiểu thấu những bối cảnh địa phương
chút nào, và giả định một cách ấu trĩ rằng động học tích cực hậu độc
đoán sẽ bằng cách nào đó gạt sang bên lề mọi sự kháng cự với sự
thay đổi dân chủ. Chí ít một phần nào đó của cộng đồng viện trợ dân
chủ đã khắc phục được những yếu kém này và yếu kém khác về
phương pháp. Họ tìm kiếm để tạo thuận lợi cho các hình thức thay đổi
do địa phương tạo ra và bén rễ ở đó, phân tích kỹ lưỡng địa thế trước
khi hành động, và xem xét nghiêm túc thách thức về nhận diện và nuôi
dưỡng các nhân tố nội địa dẫn dắt sự thay đổi mà có thể khắc phục sự
kháng cự cố thủ đối với những cải cách dân chủ hóa. Những thay đổi
như vậy đã cải thiện công việc ở hầu hết các lĩnh vực chính của viện trợ
dân chủ, như (để cho một danh sách một phần) giám sát bầu cử, phát
triển xã hội dân sự, và xây dựng pháp trị.
Trước đây, sự quan sát bầu cử quốc tế quá thường xuyên đã là một
công việc bay vào, bay ra vội vã, nhiều quảng cáo và ít chiều sâu. Ngày
nay, chí ít các nhóm nghiêm túc hơn đã tham gia vào công việc như
hiểu rằng sự giám sát bầu cử hữu hiệu đòi hỏi một sự hiện diện dài
hạn ở nước đó và đánh giá toàn bộ quá trình bầu cử, chứ không chỉ
vào ngày bỏ phiếu. Các nhà quan sát từ các nhóm như vậy ủng hộ và
có quan hệ đối tác thường xuyên hơn với các nhóm giám sát trong nước
có năng lực. Thay vì chỉ đưa ra các đánh giá “tán thành-đưa ngón cái
lên” hay “không tán thành-đưa ngón cái xuống,” các báo cáo đánh giá
của họ thử truyền đạt tính phức tạp của các quá trình bầu cử. Và các
nhóm này gỏi hơn trước để cân nhắc liệu việc cử một phái đoàn giám
Trợ giúp Dân chủ tuổi 25: Lúc Lựa chọn 81
sát có bị rủi ro vì cho phép những người nắm quyền phi dân chủ thông
minh hơn lợi dụng sự có mặt của nó để hợp pháp hóa những sự lừa đảo
bầu cử tinh ranh của họ hay không.
Ít nhất công việc phát triển xã hội dân sự nào đó đã tiến triển quá
chủ nghĩa lãng mạn và tính hời hợt đánh dấu nhiều loại viện trợ dân
chủ này trong các năm 1990. Khi đó, các nhóm vận động elite đã nhắm
tới thu hút nhiều nhất sự ủng hộ của nhà tài trợ, ngay cả khi họ thiếu
sự bén rễ đầy đủ, tính chính đáng địa phương, và tính bền vững. Ngày
nay, một số tổ chức viện trợ làm việc khác đi. Họ nhấn mạnh xã hội dân
sự địa phương cần chú tâm vào việc xây dựng những người hậu thuẫn,
việc với tới các nhóm vượt quá dải hẹp của các nhóm được nhà tài trợ
Tây phương hóa ưa thích, cho các nhóm địa phương các phương tiện
và những khuyến khích để tìm các nguồn lực hỗ trợ địa phương riêng
của họ, và làm việc để đảm bảo rằng viện trợ từ bên ngoài khích lệ sự
hợp tác hơn là sự đấu đá bên trong xã hội dân sự địa phương.
Trong lĩnh vực pháp trị, sự diễn giải hạn hẹp, từ trên xuống ban
đầu về phát triển pháp trị trước hết như vấn đề huấn luyện các thẩm
phán, người truy tố, và các sĩ quan cảnh sát đã nhường đường cho các
viễn cảnh rộng hơn, mà bao gồm các chương trình tăng cường giáo
dục pháp luật, cải thiện tiếp cận pháp luật cho người nghèo, thúc đẩy
trao quyền pháp lý, và tăng cường các tổ chức công dân gây áp lực lên
các định chế pháp lý của nhà nước chống cự cải cách. Ngoài ra, vài
nhóm viện trợ đã di chuyển quá tiêu điểm truyền thống trên phạm vi
pháp lý hình thức để làm việc với các định chế tục lệ hay truyền thống
dính líu đến giải quyết bất hòa và cai quản công lý nói chung.
Những hình mẫu tương tự về học tập từ kinh nghiệm có thể thấy
trong các lĩnh vực chính của hỗ trợ dân chủ. Ngoài ra, các chiến lược
viện trợ dân chủ đã trở nên riêng hơn cho từng nước. Các thập niên
trước, sự phân biệt chiến lược như vậy đã hiếm. Giả định rằng các
chuyển đổi dân chủ sẽ diễn ra theo cùng cách trong các nước khác
nhau, những người cung cấp viện trợ đã ưa thích một thực đơn chuẩn
dẫn đến phân phối viện trợ hơi đồng đều ngang tất cả các loại chương
trình được gồm trong khung khổ ba phần.
Cách tiếp cận này, tuy vậy, mau chóng đã cho thấy các thiếu sót
của nó. Tính hỗn tạp của các con đường chính trị giữa các nước phấn
82 THOMAS CAROTHERS
đấu bỏ chủ nghĩa độc đoán lại đằng sau đã buộc các nhà cung cấp viện
trợ dân chủ phải nghĩ về các chiến lược cẩn trọng hơn và phát triển một
danh sách rộng hơn của chúng. Đối với các nước mà lối ra khỏi sự cai
trị độc đoán đã dẫn họ chỉ đến tình trạng nửa độc đoán ngưng trệ, chẳng
hạn, thực đơn chuẩn là rõ ràng không thích hợp. Nhận ra rằng trong
loại này của sự chỉnh tiêu điểm lên các định chế như các ủy ban bầu
cử, quốc hội, và tư pháp chắc là ít giá trị, các nhà cung cấp viện trợ
dân chủ thành thạo thay vào đó sẽ tập trung vào việc thử giữ cho xã
hội dân sự và các cơ quan báo chí còn sống. Trong một nước nửa độc
đoán với một nền kinh tế năng động, tăng trưởng, sự hỗ trợ dân chủ có
thể hoạt động cho chủ nghĩa đa nguyên lớn hơn và một vai trò đầy đủ
hơn của luật bằng cách ủng hộ các nỗ lực của các doanh nhân độc lập
muốn các quy tắc công bằng hơn, minh bạch hơn và một tiếng nói lớn
hơn trong những quyết định chính trị lớn.
Thực đơn chuẩn cũng không thích hợp trong các nước đã ra khỏi
chủ nghĩa độc đoán chỉ để kết thúc sự quay vào và quay ra của xung
đột dân sự. Các nhà cung cấp viện trợ thay vào đó có thể thử tập trung
vào các hoạt động như xây cầu nối giữa các nhóm tranh chấp, cải cách
hiến pháp, cải cách khu vực an ninh, và hỗ trợ cho các phần của xã hội
dân sự đóng góp tích cực cho các nỗ lực hòa giải. Vẫn còn các nước
khác đã bị kẹt trong các hình thức nông cạn của dân chủ, nơi có sự luân
phiên chính thức nào đó của quyền lực nhưng các elite vẫn cố thủ sâu
đến mức sự luân phiên chỉ là vấn đề của các chức vụ chuyển trao tay
nhau bên trong các giới không thay đổi, trong khi hầu hết những quan
tâm của công dân bị bỏ qua. Ở những nơi như vậy, sự trợ giúp dân chủ
thông minh nhất thử nhìn quá việc lập chương trình quy ước. Thay vào
đó là sự tìm kiếm những cách để cổ vũ những người mới bước vào sân
khấu đảng-chính trị đình trệ, để giúp các công dân biến sự tức giận của
họ với tham nhũng và sự tước quyền thành áp lực nghiêm túc cho
cải cách, để tạo ra các mối liên kết tích cực giữa các chiến dịch vận
động xã hội kinh tế và các cải cách chính trị, và để giúp các phong
trào xã hội với tới một cơ sở rộng.
Một lĩnh vực của sự tiến hóa tích cực dựa trên sự học tập từ kinh
nghiệm gồm mối quan hệ tăng lên giữa sự trợ giúp dân chủ và các phần
khác của lĩnh vực viện trợ quốc tế, trên hết, là lĩnh vực át trội của viện
Trợ giúp Dân chủ tuổi 25: Lúc Lựa chọn 83
trợ kinh tế xã hội. Thế hệ thứ nhất của những người thực hành viện
trợ dân chủ thường đã muốn tách xa khỏi thế giới viện trợ kinh tế xã
hội. Sứ mạng của họ, họ cảm thấy, là khác căn bản–không phải giảm
nghèo hay tăng trưởng kinh tế, mà là biến đổi chính trị. Họ đã cảnh
giác với sự sẵn lòng của các nhà cung cấp viện trợ truyền thống
thường làm việc hợp tác với các chính phủ tham nhũng, áp bức và họ
bị xúc phạm bởi cái họ cảm nhận như các cấu trúc cứng nhắc, quan
liêu hóa của viện trợ kinh tế xã hội. Trong khi đó, các nhà cung cấp
viện trợ truyền thống đã trả ơn: họ đã sợ rằng việc cho phép trợ giúp
kinh tế xã hội gắn tường minh với các hoạt động chính trị sẽ làm hỏng
các mối quan hệ của họ với các chính phủ nhận viện trợ. Một số cũng
bị xúc phạm bởi cái họ thấy như các phương pháp ngẫu hứng, thậm
chí “cowboy” của các nhà thúc đẩy dân chủ những người đột ngột
chạy quanh thế giới nói về việc mang lại những thay đổi quy mô lớn
cho những nước mà họ dường như chẳng biết gì.
Đầu tiên do dự, nhưng phối hợp hơn trong mười năm qua, các nhà
thực hành ở cả hai bên của sự chia rẽ viện trợ đã tiến hành các bước để
thu hẹp nó và để tạo ra những sự hiệp lực giữa hai lĩnh vực. Ngày
càng đối mặt với mối đe dọa mà thành tích kinh tế xã hội kém
đặt ra cho các chuyển đổi dân chủ non nớt, một số nhà thúc đẩy
dân chủ đang tích cực thăm dò làm thế nào sự tăng cường dân
chủ có thể thúc đẩy trực tiếp hơn sự tiến bộ kinh tế xã hội. Đồng
thời, nhiều nhà phát triển chủ nghĩa đã theo ý tưởng rằng các bệnh lý
chính trị, như tham nhũng có hệ thống và sự tập trung thái quá quyền
lực, tạo ra những vấn đề cơ bản đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
Đầu tiên, sự đi theo này đã tạo ra các chương trình quản trị tập trung
chủ yếu vào những cách kỹ trị về hiệu quả và năng lực. Nhưng theo
thời gian, các nhà cung cấp viện trợ kinh tế xã hội đã mở rộng cách
nhìn của họ để đảm nhận các mối quan hệ giữa những người
nắm quyền và các công dân, nhấn mạnh các khái niệm như trách
nhiệm giải trình, sự minh bạch, sự tham gia, và sự bao gồm. Ngoài ra,
sự tập trung tăng cao vào sự quản trị đã dẫn một số nhà cung cấp viện
trợ kinh tế xã hội để làm việc mật thiết với các định chế mà viện trợ
dân chủ đã làm việc với từ lâu, như tư pháp, quốc hội, và các hội đồng
địa phương.
84 THOMAS CAROTHERS
NHỮNG THIẾU SÓT TẾP TỤC
Sự tiến hóa tích cực của viện trợ dân chủ dựa trên học tập từ kinh
nghiệm là một xu hướng quan trọng, nhưng đáng buồn nó vẫn chỉ là
một xu hướng một phần và thiếu nhất quán. Dọc theo sự tiến bộ mà ta
có thể thấy trong mỗi tuyến chủ yếu của lập chương trình dân chủ, ta
cũng vẫn bắt gặp các nỗ lực viện trợ dường như sự học không động
đến và dựa vào các phương pháp yếu từ các thập kỷ qua. Trong giám
sát bầu cử, chẳng hạn, một số tổ chức biểu lộ những tập quán xấu như
không khách quan và thiếu chú ý đến rủi ro về hợp pháp hóa các cuộc
bầu cử sai sót. Một báo cáo của Sáng kiến Ổn định Âu châu gần đây
làm nổi bật những thiếu sót nghiêm trọng trong công tác giám sát bầu
cử mà Nghị viện Âu châu và Hội đồng Nghị viện của Ủy hội châu Âu
đã tiến hành ở Azerbaijan đưa ra ý kiến gây nản lòng.1
Một số nhà cấp vốn cho phát triển xã hội dân sự vẫn chuyển hầu
hết viện trợ của họ cho một giới hạn chế của các NGO được ưu ái ở
thủ đô, các tổ chức tiến hành các nỗ lực kỹ trị vận động chính sách dựa
trên các chương trình nghị sự được xác định từ bên ngoài. Trong lĩnh
vực pháp trị, một số nhà cung cấp viện trợ đã không vượt quá các nỗ
lực tăng cường tư pháp cũ rích dựa trên việc huấn luyện học vẹt các
tập quán tốt nhất trong khi lại bỏ qua mảng rộng của các trở ngại cố
thủ cản trở các công dân khỏi việc đạt được công lý.2
Bức tranh là hỗn tạp tương tự về sự đa dạng hóa các chiến lược.
Một số nhóm tiến hành công tác dân chủ, đặc biệt các nhóm nhỏ hơn
tập trung chỉ vào nó, đang cố gắng hết sức để suy nghĩ một cách chiến
lược và vượt qua các cách tiếp cận thực đơn chuẩn. Thế nhưng các tổ
chức khác, đặc biệt một số tổ chức lớn hơn mà đối với họ công tác dân
chủ chỉ là một phần nhỏ của danh sách công việc của họ, đôi khi vẫn
hoạt động theo chiến lược máy lái tự động, thực hiện nhiều loại chương
trình trong bất cứ một khung cảnh nào với ít suy nghĩ cẩn trọng về cái
nào trong số chúng mở ra các con đường mang lợi nhất cho sự thay
đổi. Những cách tiếp cận máy lái tự động này không chỉ tạo ra các
chương trình được hình dung tồi không xác định được các vấn đề
then chốt trong các chuyển đổi hỗn loạn mà cũng xén bớt các nỗ lực
của những người làm thử là chiến lược hơn. Thí dụ, một số nhóm viện
Trợ giúp Dân chủ tuổi 25: Lúc Lựa chọn 85
trợ có thể thử theo đuổi sự thay đổi pháp trị một cách chín chắn,
làm việc với các nhóm công dân thúc đẩy sự thay đổi và tránh các định
chế chính thức bị chi phối bởi những người được lợi từ hệ thống hiện
tồn. Thế nhưng khi đó các nhà cung cấp viện trợ khác có thể đi
vào để bọc các định chế chính thức trong chăn của các khoản vay hay
trợ giúp kỹ thuật cách ly hữu hiệu các định chế này chống lại các nỗ
lực của những người thúc đẩy từ dưới lên.
Về việc khắc phục lỗ hổng giữa viện trợ dân chủ và lĩnh vực lớn
hơn, cũ hơn của viện trợ kinh tế xã hội, cái cốc là tương tự đầy một
nửa. Ngay khi họ thừa nhận nhu cầu trao nhiều sự chú ý cho chính trị
trong công việc của họ, nhiều nhà phát triển chủ nghĩa dòng chủ lưu
vẫn phản đối mở rộng định nghĩa của họ về phát triển để bao hàm các
chuẩn mực dân chủ. Thụy Điển vẫn đơn độc giữa các nước tài trợ chính
trong đi theo quan niệm của Amartya Sen về “phát triển với tư cách
quyền tự do.” Phần lớn vẫn coi dân chủ, giỏi nhất, như một “món
thêm” thú vị. Một số người thậm chí thấy nó như một nhân tố tiêu cực
thường làm phức tạp sự phát triển kinh tế xã hội hơn là tạo thuận lợi
cho nó. Mặc dù đa số các nhà cung cấp viện trợ lớn dành chí ít sự tài
trợ nào đó cho lập chương trình dân chủ, thường dưới nhãn nghe ít
chính trị hơn về “viện trợ cho quản trị dân chủ,” họ đã chậm chạp để
tích hợp các nguyên tắc và các tập quán của công việc như vậy vào
lĩnh vực hoạt động chính của họ, phó thác công tác dân chủ sang bên
lề của các cấu trúc định chế của riêng họ.
Nói tóm tắt, học tập từ kinh nghiệm trong viện trợ dân chủ đã là
thật và quan trọng nhưng ít nhất quán và có thể áp dụng rộng rãi hơn
mức chúng ta có thể hy vọng. Các lý do cho điều này là không bí ẩn
gì. Tích tụ và hành động trên tri thức rút ra từ kinh nghiệm là một vấn
đề kinh niên cho trợ giúp quốc tế nói chung. Các nhà cung cấp viện trợ
có tiến hành nhiều đánh giá chương trình. Nhưng họ cảnh giác sâu sắc
sự xem xét phê phán kỹ lưỡng từ bên ngoài và quá hiếm khi họ tài trợ
loại nghiên cứu sâu và độc lập xem xét các giả thiết cơ sở, các phương
pháp, và các kết cục trong khu vực viện trợ dân chủ.
Sự tập trung được tăng cường lên giám sát và đánh giá mà đã kẹp
chặt thế giới viện trợ trong các năm gần đây đã không giúp ích. Nhiều
nỗ lực giám sát và đánh giá là quá hẹp để rọi nhiều ánh sáng lên những
86 THOMAS CAROTHERS
câu hỏi lớn hơn mà ta phải trả lời nhằm khéo tạo dựng viện trợ dân chủ
hữu hiệu. Thí dụ, các nhân tố nào là cốt yếu cho sự nổi lên của pháp
trị? Các đảng làm thế nào để khắc phục sự xa lánh sâu của công chúng
với bất kể thứ gì có mùi chính trị? Làm sao chủ nghĩa tích cực xã hội
dân sự có thể dẫn đến các nỗ lực có tổ chức để xây dựng các định chế
chính trị? Như những người thực hành viện trợ dân chủ biết kỹ, sự
chú ý được tôn lên đối với giám sát và đánh giá thường tạo ra các chỉ
số chương trình giả tạo và giản hóa luận, các khung khổ thực hiện
cứng nhắc, và các mục tiêu phi thực tế–tất cả các thứ hoạt động ngược
trực tiếp với các bài học chính từ kinh nghiệm về sự cần thiết của lập
chương trình linh hoạt, thích nghi.
Ngoài sự thiếu đầu tư vào nghiên cứu định tính sâu và sự kháng
cự với sự xem xét lỹ lưỡng từ bên ngoài là các vấn đề nảy sinh từ
kinh tế học chính trị cơ bản của ngành viện trợ. Nhiều tổ chức viện
trợ được thiết kế và hoạt động phần lớn cho các lợi ích của các nhà
cung cấp viện trợ hơn là của những người nhận. Họ áp đặt các chương
trình nghị sự từ trên xuống hơn là cho phép chúng thấm từ dưới lên .
Họ ám ảnh về sự giảm rủi ro và sự kiểm soát tập trung, bóp nghẹt sự
đổi mới sáng tạo và sự linh hoạt trong quá trình. Họ bám vào các
phương pháp dự án chuẩn phân bổ không đều một cách vô ích cho thiết
kế dự án, cố nài các khung khổ thời gian ngắn không thực tế để đạt
được thay đổi, và thiên vị kiến thức chuyên gia Tây phương được
nhập khẩu hơn sự đa dạng địa phương. Hơn nữa, khi lĩnh vực viện trợ
dân chủ đã tăng lên và già đi, nó đã phải chịu cái mà Sarah Bush đã
cảnh báo một cách có ích như “thuần hóa sự trợ giúp dân chủ”–xu
hướng của một số nhà cung cấp viện trợ dân chủ theo thời gian trở nên
quan tâm hơn đến duy trì ngân sách của họ và “thị phần” của họ ở các
nước khác bằng cách thực hiện các chương trình mềm, không thách
thức và tránh các nỗ lực sắc sảo, thách thức để thúc đẩy sự thay đổi.3
NHỮNG VÙNG NƯỚC XOÁY
Nếu chúng ta ngó chỉ vào bản thân công việc viện trợ dân chủ, chúng
ta thấy một lĩnh vực trợ giúp tăng đáng kể về quy mô và tầm với và
hấp thu một số bài học có giá trị, mặc dù chậm và một phần hơn mức
Trợ giúp Dân chủ tuổi 25: Lúc Lựa chọn 87
ta có thể mong muốn. Thế nhưng một sự tập trung rộng hơn là cốt yếu:
khung cảnh quốc tế trong đó công việc này hoạt động đã thay đổi ghê
gớm, đặc biệt trong mười năm qua. Viện trợ dân chủ đã vào các vùng
nước đục, hỗn loạn, gây ra những thách thức cơ bản cho nó.
Khi viện trợ dân chủ đến tuổi trưởng thành trong các năm 1990,
một tập cài vào nhau của các giả định tích cực về vị trí của dân chủ và
viện trợ dân chủ trên thế giới đã chiếm ưu thế. Đã được giả định rằng
• dân chủ đang lan ra toàn cầu,
• các cánh cửa đang mở ra cho viện trợ dân chủ ở nhiều phần của
thế giới,
• dân chủ khai phóng Tây phương đáng được tôn trọng và ngưỡng
mộ toàn cầu và đã chẳng có cũng đã không chắc có bất kể đối thủ
ý thức hệ mạnh nào, và
• trọng lượng của dân chủ như một ưu tiên chính sách đối ngoại
của các nền dân chủ Tây phương có uy tín đã đang tăng lên và sẽ
tiếp tục tăng.
Trong thập kỷ qua, một thác những diễn tiến tiêu cực đã nghi ngờ
hay thậm chí đã xô ngã mỗi trong những giả định lạc quan này. Các
nhà thực hành dân chủ đối diện với một tập gây nản lòng của những
thực tế mới tàn nhẫn. Những thực tế này bao gồm:
1. Một sự mất đà dân chủ. Sự đình trệ toàn cầu của dân chủ là một
trong những diễn tiến chính trị quốc tế quan trọng nhất của thập kỷ
qua. Dân chủ không tiếp tục mở rộng đã làm tổn thương lĩnh vực trợ
giúp dân chủ chí ít theo hai cách. Thứ nhất, nó đã làm mất năng lực và
sự thúc đẩy. Các nhà cung cấp viện trợ dân chủ biết rằng các trường
hợp hắc búa trong đó chuyển đổi bị chặn hay chẳng bao giờ thực sự
bắt đầu là các sự thực của cuộc sống. Cái bù lại cho họ là các trường
hợp hứa hẹn–thời gian và các địa điểm nơi dân chủ có đột phá và có
được một chỗ đứng. Các cơ hội hứng thú này là quyết định. Chúng
khiến cho các phần khác của cộng đồng chính sách chú ý, và quả thực
88 THOMAS CAROTHERS
cho cuộc sống và sinh lực cho toàn bộ công việc trợ giúp dân chủ.
Trong mười năm qua, dòng tin tức tốt như vậy đã chậm lại thành
nhỏ giọt. Các câu chuyện về tinh thần dân chủ tự biểu lộ ở nơi gây
ngạc nhiên này hay kia đã bị quăng vào bóng tối bởi những thiếu sót
hay sự trượt lùi dân chủ dai dẳng ở Afghanistan, Hungary, Iraq, Mali,
Nga, Sri Lanka, Thái Lan, và nhiều nơi khác. Trong một thời gian
ngắn trong 2011, “Mùa xuân Arab” đã trông cứ như nó đã có thể là một
sự bắt đầu của một làn sóng dân chủ toàn cầu mới, nhưng sự bùng lên ban
đầu của hy vọng đã nhường đường cho sự bi quan. Bây giờ, nhiều nhà hoạch
định chính sách và phân tích Tây phương đang hỏi liệu các nỗ lực để thúc
đẩy dân chủ trong thế giới Arab thậm chí có ý nghĩa gì không, căn cứ vào
sự bất ổn định và xung đột mà sự thay đổi chính trị đó đã gây ra. Với sự
nghiệp dân chủ đã ngừng (hay thậm chí suy sụp) quanh thế giới, các
nhà cung cấp viện trợ dân chủ phải vật lộn với một cảm giác tăng lên
trong cộng đồng chính sách Tây phương rằng thời khắc lịch sử cho
viện trợ dân chủ đã qua.
Hơn nữa, sự mất đà dân chủ nêu ra các câu hỏi trong cộng đồng
chính sách rộng hơn về tác động của viện trợ dân chủ. Mớ hỗn độn
của các nhân tố tác động đến chuyển đổi làm cho là khó để đánh giá
kết quả của viện trợ như vậy dựa chỉ vào sự tiến bộ mức vĩ mô của
dân chủ. Còn khi dân chủ tăng lên ở nhiều nơi, viện trợ dân chủ hầu
như chắc chắn có được sự tín nhiệm do liên tưởng. Và khi dân chủ ở
tình trạng tồi trên thế giới, những câu hỏi khó về tính hiệu quả của
sự trợ giúp dân chủ được nêu ra. Một số trường hợp gần đây hay đang
xảy ra cho những thí dụ điềm tĩnh về các giới hạn của viện trợ dân chủ:
• Ở Nga, những ích lợi dài hạn từ dải rộng của các chương trình dân
chủ Tây phương đã được bắt đầu trong các năm 1990 và đã hoạt
động vào trong thập kỷ qua–kể cả viện trợ pháp trị, viện trợ bầu
cử, việc xây dựng đảng chính trị, công việc với báo chí độc lập, và
hỗ trợ xã hội dân sự–có thể không hoàn toàn vắng, nhưng giỏi nhất
chúng chắc chắn bị hạn chế.
• Trong nhiều năm, các nhà cung cấp viện trợ Tây phương đã giúp Mali
như một trong những câu chuyện thành công của châu Phi. Thế
nhưng sự sụp đổ gây chóng mặt của chính phủ Mali trong 2012 đã
Trợ giúp Dân chủ tuổi 25: Lúc Lựa chọn 89
nhấn mạnh ngay cả các câu chuyện thành công rõ ràng của hỗ trợ
dân chủ có thể là giả dối đến thế nào.
• Hoa Kỳ và các nước khác đã cung cấp viện trợ pháp trị lớn cho El
Salvador trong 30 năm. Bất chấp việc này, El Salvador ngày nay
bị bao vây một cách khét tiếng bởi các mức tội phạm cao gây sốc
mà đã tràn ngập hệ thống tư pháp-tội phạm của nó.
Hơn nữa, sự thực rằng một số khoản đầu tư lớn nhất vào trợ giúp
dân chủ đã được tiến hành ở các nơi khó khăn như Afghanistan và
Iraq, với những kết quả mơ hồ khó hiểu, đã góp phần cho việc nghi
ngờ tác động của nó.
2. Đóng cửa. Khi một số chính phủ, mà trước đó đã cho phép các khoản
viện trợ ủng hộ dân chủ đáng kể chảy vào, đã bắt đầu đẩy ngược chống
lại nó trong đầu các năm 2000, các nhà quan sát đã nghĩ đấy đã có thể
là một hiện tượng ngắn hạn. Sự nhấn mạnh của chính quyền George
W. Bush về thúc đẩy dân chủ trong sự can thiệp của nó ở Iraq, cùng
với sự ủng hộ Tây phương cho một số nhóm công dân tích cực trong
“các cuộc cách mạng màu” ở Georgia, Kyrgyzstan, và Ukraine, đã gây
ra những sự nhạy cảm bị tôn lên về viện trợ dân chủ ở các nơi khác
nhau, đặc biệt Nga và các nước hậu Soviet khác. Nhưng ngay cả khi
các cuộc cách mạng màu đã bị phai đi vào quá khứ và một tổng thống
Mỹ mới đã lấy thái độ ít quả quyết hơn nhiều về thúc đẩy dân chủ, sự
giật lùi đã tiếp tục tăng lên.
Trong chỉ vài năm qua, hàng tá chính phủ, ở mọi khu vực trên thế
giới, đã tiến hành một mớ hỗn tạp các biện pháp chính thức và phi
chính thức để chặn, hạn chế, hay bêu xấu viện trợ quốc tế cho dân chủ
và quyền con người, đặc biệt sự hỗ trợ xã hội dân sự, công việc đảng
chính trị, và giám sát bầu cử. Viện trợ từ Hoa Kỳ đôi khi là mục tiêu
chủ yếu, như trong 2013 khi chính phủ Bolivia đã buộc tội rằng USAID
đã xem vào chính trị và đã lệnh cho nó rời khỏi nước này. Thế nhưng
sự giật lùi cũng đánh trúng các nhà cung cấp khác nữa: Để trích dẫn
chỉ một trong nhiều thí dụ, chính phủ Hungary gần đây đã bắt đầu quấy
rối các tổ chức xã hội dân sự Hungary vì chúng nhận tài trợ của
chính phủ Na Uy.
90 THOMAS CAROTHERS
Sự đẩy lùi–mà thường mạnh nhất ở các nước nơi dân chủ hóa
gặp rắc rối và hết sức cần đến sự trợ giúp bên ngoài–đã có vô số tác
động tiêu cực. Rõ rệt nhất, nó thường ngăn chặn hoạt động của các
nhà viện trợ dân chủ. Các chính phủ trung Á, chẳng hạn, đã quyết định
gần một thập kỷ trước để hạn chế viện trợ được đỡ đầu từ bên ngoài
cho phát triển xã hội dân sự, và ngó quanh khu vực này hôm nay ta
thấy một sự giảm mạnh của viện trợ như vậy. Các biện pháp hạn chế
của Ai Cập và vài nước Arab khác tương tự đã làm giảm sự hỗ trợ bên
ngoài cho các tổ chức phi chính phủ trong các lãnh thổ của họ.
Ngay cả khi sự đẩy lùi không làm giảm lượng viện trợ dân chủ tới
một nước, nó có thể làm thay đổi loại hỗ trợ dân chủ được đưa ra. Để
tránh các vấn đề, các nhà thúc đẩy dân chủ có thể giữ các loại trợ giúp
thách thức về chính trị lại, như viện trợ cho các nhóm quyền con người
độc lập hay các tổ chức báo chí, và tự hạn chế mình vào sự lập chương
trình quản trị có tiêu điểm mềm. Tương tự, sự đẩy lùi có thể khiến một
số nhóm hoạt động nhận viện trợ dân chủ từ nước ngoài tránh các hoạt
động mà họ sợ chính phủ của họ có thể thấy là quá thách thức.
3. Những rắc rối của các Nền dân chủ Tây phương. Cuộc đấu tranh
của dân chủ khai phóng Tây phương để duy trì sự hãnh diện vô song
của vị trí mà nó đã được hưởng trong các năm 1990 cũng tác động
đến viện trợ dân chủ. Những công việc khó khăn của dân chủ ở cả
Hoa Kỳ và châu Âu đã làm tổn hại nhiều đến địa vị của dân chủ trong
con mắt của nhiều người quanh thế giới. Ở Hoa Kỳ, sự phân cực
chính trị loạn chức năng, vai trò dấy lên của tiền trong chính trị, và
những sự méo mó về đại diện do sắp xếp gian lận khu vực bầu cử
là các vấn đề đặc biệt. Ở châu Âu, khủng hoảng đồng euro, sự nổi lên
của các đảng cực đoan, và các thách thức bao quanh sự hội nhập xã hội
của các cộng đồng thiểu số đang gây ra những nghi ngờ về sức khỏe
của dân chủ. Đồng thời, sự tự tin và sự quả quyết tăng lên của các hệ
thống chính trị khác, đặc biệt là các chế độ độc đoán hay nửa độc đoán
ở Trung Quốc, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Ethiopia, và nơi khác, đang khiến
cho một số người ở các nước chuyển đổi tự hỏi không phải chìa
khóa cho sự quản trị quả quyết và sự năng động kinh tế thực ra nằm
Trợ giúp Dân chủ tuổi 25: Lúc Lựa chọn 91
ở đường nào đó khác với đường dân chủ khai phóng.
Những diễn biến này chắc chắn làm yếu các nỗ lực viện trợ dân
chủ Tây phương. Một nhóm Mỹ ra nước ngoài để đưa ra lời khuyên
và huấn luyện về làm thế nào để tăng cường quốc hội của một nước
sẽ đối mặt với các câu hỏi hành hạ về tính đáng tin của những đề nghị
của nó căn cứ vào những thiếu sót rõ ràng và sự không được ưa thích
của Quốc hội Hoa Kỳ. Cũng sẽ đúng thế cho một nhóm Âu châu tìm
cách giúp nước khác thu hẹp sự chia rẽ bè phái dựa trên những bất
đồng tín ngưỡng. Tất nhiên, sự trợ giúp dân chủ thông minh không tìm
cách xuất khẩu một mô hình quốc gia cá biệt mà thay vào đó đưa ra
những thấu hiểu được lượm lặt từ những kinh nghiệm so sánh và thử
giúp những người địa phương khéo tạo ra các giải pháp của riêng họ.
Tuy nhiên, tất cả những người thúc đẩy dân chủ phải làm việc siêng
năng hơn trước để xác lập sự tín nhiệm của họ ở các phần khác của thế
giới, và ở vài nơi (thí dụ, Đông Á) họ đôi khi hầu như không được tiếp.
Hơn nữa, họ không còn có thể giả định rằng công việc của họ là giúp
những người địa phương tiến lên với dân chủ. Thay vào đó, bây giờ họ
thường đối mặt với nhiệm vụ khó hơn, căn bản hơn để thuyết phụ những
người địa phương rằng dân chủ là đáng thích hơn các hệ thống khác.
Hơn nữa, các nhà thúc đẩy dân chủ Tây phương ngày càng thấy
các nỗ lực của họ bị thách thức và đôi khi bị cắt bớt bởi các cường
quốc phi dân chủ mải mê ảnh hưởng đến quỹ đạo chính trị của các
nước khác. Một chương trình chống tham nhũng do Tây phương đỡ
đầu ở một nước Phi châu có thể bị lép vế bởi những tác động có hại
lên quản trị của một gói viện trợ kinh tế Trung Quốc mà tạo ra những
khuyến khích chính trị-kinh tế tai ác. Một chương trình giúp tạo ra
một sân chơi bằng phẳng giữa các đảng chính trị trong một nước
Arab có thể bị phá hoại bởi các dòng tiền lớn từ Iran hay vùng Vịnh
chảy vào một trong số họ. Một công việc để ủng hộ các cuộc bầu cử
tự do và công bằng ở một nước Mỹ Latin có thể bị làm méo mó bởi
sự cam kết của Venezuela nhằm làm nghiêng các cuộc bầu cử cho một
ứng viên được ưa thích.
Nga, Trung Quốc, Iran, các Tiểu vương quốc Arab thống nhất,
Saudi Arabia, Venezuela, Qatar, Rwanda, Ethiopia, và các nước
không dân chủ khác tìm kiếm sự ảnh hưởng được nâng cao trong đời
92 THOMAS CAROTHERS
sống chính trị của các láng giềng của họ (hay xa hơn) đã không luôn
luôn hướng về cản trở ảnh hưởng của các nỗ lực thúc đẩy dân chủ Tây
phương. Và các hoạt động của họ không nhất thiết nhắm thúc đẩy tự
bản thân chế độ chuyên quyền. Nhưng chúng thường đối chọi viện trợ
dân chủ Tây phương và đẩy các nước khác theo hướng phản dân chủ.
Viện trợ dân chủ Tây phương đã có uy tín vào lúc khi nó thường đã là hình
thức chi phối bên ngoài của ảnh hưởng chính trị trong phần lớn
chuyển đổi, bây giờ phải đối mặt với một môi trường rõ ràng khắt
khe hơn, cạnh tranh hơn.
4. Một cam kết chính sách yếu hơn. Tất nhiên, không phải mọi khía
cạnh của môi trường quốc tế là không thuận lợi cho công tác dân chủ.
Các công nghệ truyền thông mới đang giúp các mạng ủng hộ dân chủ
mở rộng ngang các biên giới và đại dương và đưa những sự lạm dụng
chính trị ra ánh sáng. Các nỗ lực lặp lại của những công dân quả quyết,
dũng cảm ở những phần khác nhau trên thế giới để phản đối chống lại
những sai trái chính trị là đầy cảm hứng và nhấn mạnh sự cấp bách về
giúp đỡ những người như vậy để chuyển năng lực của họ thành những
lợi ích chính trị bền vững. Thế nhưng gió ngược đập vào viện trợ dân
chủ–sự suy yếu của đà dân chủ toàn cầu, sự đẩy lùi tăng lên chống lại
viện trợ dân chủ, địa vị bị tổn thương của dân chủ Tây phương, và sự
cạnh tranh tăng lên từ các chế độ không dân chủ–cũng ảnh hưởng đến
nhiều nhà hoạch định chính sách Tây phương và cộng vào một thách
thức thêm: sự cam kết yếu đi của Hoa Kỳ và các nền dân chủ có uy tín
khác để biến sự ủng hộ dân chủ thành một ưu tiên chính sách đối ngoại.
Trong các năm 1990, sự thúc đẩy dân chủ đã rõ ràng tăng lên trong
chính sách đối ngoại Tây phương. Khi dân chủ mở rộng khắp địa
cầu, đối với các chính trị gia Tây phương nó đã trông giống một
“cổ phiếu tăng trưởng” xứng đáng đầu tư đáng kể. Các mối quan
tâm chính sách bù lại, như nhu cầu duy trì các mối quan hệ mạnh với
các chế độ độc đoán giàu dầu mỏ, trong khi chắc chắn vẫn có, đã có
vẻ giảm đi. Hỗ trợ dân chủ đã hấp dẫn như một cách để đưa ra định
nghĩa cho tinh thần lạc quan của thời đại và để cung cấp một khung
chính sách bao quát vào thời thay đổi chính sách hậu Chiến tranh Lạnh.
Mặc dù cả hai Tổng thống Mỹ Bill Clinton và George W. Bush và
một số người tương nhiệm ở các nền dân chủ Tây phương khác đã theo
Trợ giúp Dân chủ tuổi 25: Lúc Lựa chọn 93
đuổi các chính sách liên quan đến dân chủ mà đã bị xây xát bởi những
thỏa hiệp và mâu thuẫn, họ đã thử tìm một chỗ gần trung tâm của các
tầm nhìn chính sách đối ngoại của họ.
Viễn cảnh đó không còn đúng nữa. Với dân chủ đình trệ hay rút lui
trong nhiều phần của thế giới, các chính trị gia Tây phương có ít
khuyến khích để gắn họ với sự nghiệp. Dân chủ hóa đối với nhiều nhà
hoạch định chính sách Tây phương đã trở nên có vẻ như một nỗ lực
rủi ro, thậm chí nhẹ dạ ở một số nơi do tiềm năng của nó gây ra xung
đột bè phái, như ở Iraq và Libya, hay sinh ra các chính trị gia dân túy, chống
Tây phương, như ở Hungary và các phần khác nhau của Mỹ Latin.
Hơn nữa, khi có nhiều hơn nước đang phát triển tìm thấy mỏ dầu và
gas lớn mới hay trở thành các nhà nước tiền tuyến trong các cuộc đấu
tranh chống khủng bố, số nước, nơi phương Tây cảm thấy một nhu cầu
rõ ràng để giúp đỡ các chính phủ không dân chủ, đang tăng lên.
Kết quả là một cam kết hết sức không chắc từ phía chính quyền
Obama và vài đồng minh của nó để đặt dân chủ cao trên chương trình
nghị sự chính sách đối ngoại của họ. Mặc dù vài cố vấn quanh Tổng
thống Obama nhấn mạnh rằng ông đã cam kết mạnh mẽ cho sự thúc
đẩy dân chủ, bằng chứng trái ngược có tính thuyết phục hơn và cho
thấy Mỹ do dự thúc đẩy tích cực cho dân chủ hóa ở nhiều nơi. Khi thập
niên thứ hai của thế kỷ đến gần điểm giữa của nó, Hoa Kỳ và châu Âu bận
tâm với các thách thức an ninh gây nản lòng ở Trung Đông, Liên Xô trước
đây, và Đông Á mà nhiều nhà làm chính sách cho là biến sự ổn định chính
trị hơn là sự thay đổi dân chủ thành ưu tiên quan trọng nhất.
Như thế, dù tổng chi tiêu toàn cầu về viện trở dân chủ nói chung
giữ vững (bất chấp sự giảm ở vài định chế lớn như USAID, nơi chi tiêu
về các chương trình dân chủ đã co lại đáng kể trong năm năm qua),
viện trợ dựa ít hơn vào các khung chính sách hỗ trợ nỗ lực tổng thể
thúc đẩy dân chủ. Cho nên nếu chính phủ đàn áp thẳng tay viện trợ xã
hội dân sự từ nước ngoài, phản ứng ngoại giao từ các chính phủ Tây
phương bị tác động có thể yếu, như khi Ai Cập có những bước thô bạo
theo hướng này trong 2012 và 2013. Hoặc một nỗ lực quốc tế giám sát
bầu cử có thể thấy những thiếu sót nghiêm trọng trong quá trình bầu
cử, nhưng kết quả là không có hậu quả tiêu cực nào cho chế độ bởi vì
94 THOMAS CAROTHERS
các chính phủ Tây phương đỡ đầu nỗ lực ấy sợ làm bực mình một người
bạn hữu ích, như mới đây với Azerbaijan. Nói cách khác, “chính sách
thấp” về hỗ trợ dân chủ vẫn tại chỗ, nhưng thường không thể tính đến
phía “chính sách cao” cho sự ủng hộ khi nó là quan trọng.
MỘT LỰA CHỌN CƠ BẢN
Một phần tư thế kỷ trong sự tồn tại của nó, công việc khó nhọc về giúp
đỡ dân chủ qua các đường biên giới thấy mình trong một trạng thái phức
tạp cực kỳ. Một mặt, nó đã lớn lên về quy mô và đã tiến hóa tích cực
trong đáp lại sự học từ kinh nghiệm. Thế mà bây giờ nó phải chịu và
kiếm lợi trong một khung cảnh quốc tế khắc nghiệt hơn, được đánh dấu
bởi một dãy tư tưởng chống đối đã đến rất mạnh mẽ trong vài năm qua,
làm xói mòn tận gốc các trụ đá kết cấu mà đã giúp viện trợ dân chủ
phát triển trong các năm 1990.
Cộng đồng viện trợ dân chủ chỉ vừa bắt đầu chịu chấp nhận khung
cảnh rối loạn hơn nhiều này. Những khó khăn lớn do môi trường này
đưa ra sẽ không sớm biến đi. Các nhà cung cấp viện trợ dân chủ cần
đầu tư năng lực và nguồn lực nhiều hơn nữa nhằm tìm ra những cách
để thích nghi và đối phó lại. Về vấn đề đóng-không gian, các dấu hiệu
của một sự phản ứng tăng cường đang nổi lên. Một số nhà cung cấp
viện trợ bị tác động mạnh nhất, như chính phủ Hoa Kỳ, đang làm việc
trên một thực đơn của các biện pháp bao gồm sự tăng cường các chuẩn
mực quốc tế bảo vệ các quyền tự do của xã hội dân sự, điều phối tốt
hơn các chiến dịch ngoại giao chống lại các luật hạn chế NGO, và cung
cấp các công nghệ bảo vệ cho các đối tác địa phương bị đe dọa bởi sự
theo dõi và quấy nhiễu. Chẳng có phép thần thông nào sẽ chế ngự hiện
tượng đóng-không gian. Sẽ cần phải làm nhiều hơn rất nhiều, và bằng
một dải rộng của những người làm viện trợ, nhưng chí ít một sự bắt
đầu đã được làm.
Ngược lại, các nhà cung cấp viện trợ dân chủ đã cho thấy ít sự sẵn
lòng để đối mặt với các vấn đề về uy tín sụt giảm của dân chủ Tây
phương và sự cạnh tranh tăng lên từ các mô hình chính trị thay thế.
Một số nhà thực hành viện trợ Tây phương vẫn nói đằng sau các cánh
cửa đóng về giá trị đặc biệt của hệ thống chính trị của riêng nước họ
Trợ giúp Dân chủ tuổi 25: Lúc Lựa chọn 95
và sứ mạng của họ về đưa các lợi ích của nó sang các vùng đất xa xôi.
Họ có vẻ rất ngạc nhiên không biết về các mô hình Tây phương đã trở
nên bị mất uy tín thế nào trong con mắt của những người khác và viện
trợ dân chủ cần phải được xây dựng nhiều ra sao trên những giả định
khiêm tốn hơn nhiều về sự hấp dẫn tương đối của dân chủ Tây phương.
Vài nhóm, kể cả Viện Dân chủ Quốc gia có cơ sở ở Hoa Kỳ, một thời
gian đã nhấn mạnh tài chuyên môn so sánh được rút ra từ các nước cả
đã được thiết lập lẫn chuyển đổi và đã thuê nhiều nhân viên không-Tây
phương với kinh nghiệm từ các chuyển đổi khác, nhưng các tập quán
như vậy vẫn quá hiếm trong cộng đồng viện trợ. Ngoài ra, các nhà cung
cấp viện trợ cần vượt quá các khẳng định quan liêu nghi thức của họ
về tính mở đối với sự đa dạng dân chủ, làm việc cùng nhau theo một
cách tập trung hơn với những người ở các phần khác của thế giới những
người khăng khăng về một sự thích các hình thức không-Tây phương
của dân chủ, nhằm làm rõ liệu các lựa chọn thay thế như vậy có tương
thích với các nguyên tắc phổ quát cốt lõi của dân chủ hay không và
viện trợ dân chủ Tây phương có thể hỗ trợ ra sao các cách tiếp cận đa
dạng hơn nhưng vẫn chính đáng dân chủ.4
Về sự cam kết Tây phương giảm đi để khiến sự hỗ trợ dân chủ là
một ưu tiên chính sách đối ngoại, các nhà cung cấp viện trợ dân chủ có
thể đóng một vai trò đối trọng bằng nhờ đến những kinh nghiệm của họ
quanh thế giới để giải quyết một cách có hệ thống những quan tâm của
các nhà hoạch định chính sách Tây phương về dân chủ. Làm thế nào
các chính phủ Tây phương có thể chèn một yếu tố ủng hộ dân chủ hữu
hiệu vào trong quan hệ của họ với các chính phủ thiếu sót về mặt dân
chủ nhưng có ích về chiến lược mà không hy sinh một mối quan hệ
hợp tác rộng hơn với họ? Vì sao sự phát triển dân chủ có chỗ hỏng
được coi không chỉ như một vấn đề phụ trong nhiều mối đe dọa an
ninh bùng lên từ Ukraine đến Iraq, mà như một nguyên nhân gốc rễ
của chúng? Làm thế nào các cuộc bầu cử có thể được thiết kế và hỗ
trợ theo những cách mà giúp một cách cụ thể để làm giảm cơ hội của
các xung đột phe phái đang nổi lên? Bằng cách trả lời các câu hỏi như
thế này, phía “chính sách thấp” của sự trợ giúp dân chủ (tức là, viện
trợ dân chủ) có thể chuyển khỏi xu hướng của nó để xem bản thân nó
chỉ như một người hưởng lợi (hay nạn nhân) của phía “chính sách cao”
của sự hỗ trợ dân chủ và thay vào đó đóng một vai trò đáng kể nhằm
định hình nó.
96 THOMAS CAROTHERS
Những vùng nước cấm trong đó viện trợ dân chủ thấy bản thân
mình đang nhắc cuộc nói chuyện yên tĩnh nhưng có thể nghe được về
một khủng hoảng cơ bản đối diện với lĩnh vực. Cuộc nói chuyện này
bị hiểu lầm. Khung cảnh quả thực gây nản lòng, thế mà không đặc biệt
ngạc nhiên. Trong thời gian quá lâu các nhà thúc đẩy dân chủ đã thử
giữ ý tưởng quyến rũ nhưng không đúng rằng dân chủ mở rộng nhanh,
sự mở cửa, và một sự thiếu các đối thủ ý thức hệ là các điều kiện toàn
cầu mà sẽ tiếp tục vô hạn định. Nói cách khác, viện trợ dân chủ không
đối mặt với một khủng hoảng sống còn mà đúng hơn nó gặp phải
những thực tế khó chịu mà không hề lạ về mặt lịch sử khi xem xét
trong viễn cảnh dài hạn. Trong tương lai có thể thấy trước, viện trợ dân
chủ sẽ phải hoạt động chủ yếu ở các nước đầy rẫy các trở ngại gớm
guốc đối với dân chủ hóa; những người nắm quyền ở nhiều nơi sẽ kháng
cự và oán giận viện trợ như vậy; và các mô hình chính trị thay thế sẽ
ganh đua gay gắt vì sự chú ý và ảnh hưởng. Chịu chấp nhận những
thực tế này không phải là về giải quyết khủng hoảng, mà đúng hơn là
về rũ bỏ những ảo tưởng còn rơi rớt lại.
Nói tóm lại, viện trợ dân chủ đã đến không phải một khủng hoảng,
mà đến một ngã tư, được xác định bởi hai con đường lên phía trước
khả dĩ rất khác nhau. Một số nhà cung cấp viện trợ dân chủ đối mặt
với môi trường mới sẽ cảm thấy có chiều hướng giật lùi, chi tiêu ít
nguồn lực hơn, rút khỏi các nước khó, xoay buồm chính trị của họ, và
tránh sự cạnh tranh trực tiếp với các mô hình ganh đua. Tóm lại, họ sẽ
nhắm để giảm các rủi ro và các tham vọng của họ. Những người khác
sẽ thích một con đường khác. Họ sẽ chấp nhận rằng sự trượt lùi, sự
đóng không gian chính trị, và sự cạnh tranh lớn hơn là “bình thường
mới” của viện trợ dân chủ. Họ sẽ đầu tư mạnh hơn vào học, chấp nhận
sự cần chịu các rủi ro lớn hơn, làm việc siêng năng hơn để đạt sự hợp
tác và đoàn kết lớn hơn giữa các nhà cung cấp viện trợ dân chủ, và
dùng lý lẽ để biện hộ hiệu quả hơn cho nền ngoại giao ủng hộ dân chủ
có nguyên tắc, có sức thuyết phục để ủng hộ các nỗ lực của họ.
Là không rõ con đường nào trong hai con đường này sẽ thu hút nhiều
người đi theo giữa tập hợp lớn của các diễn viên xác đáng. Nhưng câu
trả lời cuối cùng cho câu hỏi này sẽ làm nhiều để xác định liệu một sự
tổng kết đánh giá về viện trợ dân chủ một phần tư thế kỷ nữa xuôi dọc
đường sẽ kể một câu chuyện về sự suy tàn và về tính không thích hợp
Trợ giúp Dân chủ tuổi 25: Lúc Lựa chọn 97
tăng lên hoặc tiết lộ một hình mẫu của sự can dự màu mỡ được giữ
vững và sự tiến bộ lặp đi lặp lại trước mặt tai ương đáng kể.
CHÚ THÍCH
Tác giả cảm ơn Ken Wollack và Richard Youngs vì những bình luận có ích về
một bản thảo và Mahroh Jahangiri và Oren Samet-Marram vì sự trợ giúp
nghiên cứu.
1. European Stability Initiative, “Disgraced: Azerbaijan and the End of
Election Monitoring as We Know It,” 5 November 2013, available at
www.esiweb.org.
2. David Marshall, ed., The International Rule of Law Movement: A Crisis of
Legitimacy and the Way Forward (Cambridge: Harvard University Press,
2014).
3. Sarah Bush, The Taming of Democracy Assistance: Why Democracy Pro-
motion Does Not Confront Dictators (Cambridge: Cambridge University
Press, 2015).
4. Richard Youngs thuộc Chương trình Dân chủ và Pháp trị của Carnegie
Endowment đã xem xét sự nổi lên của các lời kêu gọi cho dân chủ không-
Tây phương và các ngụ ý của chúng đối với viện trợ dân chủ Tây
phương. Ông hỏi liệu những người kêu gọi cho các hình thức không Tây
phương của dân chủ có đơn giản tìm kiếm sự ngụy trang khoa trương
cho những cách tiếp cận không dân chủ hay không và trong chừng mực
nào sự đa dạng thật là có thể mà không hy sinh các nguyên tắc cốt lõi
mà thiếu chúng thì dân chủ khai phóng không thể tồn tại. Carnegie
Endowment sẽ xuất bản những khám phá của ông dưới dạng sách trong
năm 2015.
6
Đối diện với
Suy thoái Dân chủ
LARRY DIAMOND
Năm 2014 đánh dấu kỷ niệm lần thứ bốn mươi của Cách mạng hoa
Cẩm chướng của Bồ Đào Nha, mà đã mở đầu cho cái Samuel P. Hun-
tington đã đặt cho cái tên “làn sóng thứ ba” của dân chủ hóa toàn cầu.
Bất kể sự đánh giá nào về trạng thái của dân chủ toàn cầu ngày nay
phải bắt đầu bằng sự nhận ra–thậm chí kinh ngạc trước–tính bền của
sự biến đổi lịch sử này. Khi làn sóng bắt đầu năm 1974, chỉ khoảng
30 phần trăm của các nhà nước độc lập của thế giới đã thỏa mãn các
tiêu chuẩn của dân chủ bầu cử–một hệ thống trong đó các công dân,
thông qua quyền bỏ phiếu phổ quát, có thể chọn và thay các nhà lãnh
đạo của họ trong các cuộc bầu cử định kỳ, tự do, công bằng, và có ý
nghĩa.1 Khi đó, đã chỉ có khoảng 46 nền dân chủ trên thế giới. Hầu hết
đã là các nền dân chủ khai phóng của phương Tây giàu có, cùng với
một số đảo quốc nhỏ mà đã là các thuộc địa Anh. Chỉ một số ít nền dân
chủ đang phát triển khác đã tồn tại–chủ yếu, Ấn Độ, Sri Lanka, Costa
Rica, Colombia, Venezuela, Israel, và Thổ Nhĩ Kỳ.
Trong ba thập niên tiếp sau, dân chủ đã có một chuyến đi toàn cầu
98
Đối diện với Suy thoái Dân chủ 99
phi thường, bởi vì số các nền dân chủ thực chất được giữ vững chắc
hoặc đã mở rộng mỗi năm từ 1975 cho đến 2007. Không có gì giống
sự tăng trưởng liên tục này về dân chủ đã được thấy trước đây trong
lịch sử thế giới. Trong khi một số của “các nền dân chủ” này đã khá
không khai phóng (illiberal)–trong vài trường hợp, đến mức mà Steven
Levitsky và Lucan Way đã coi chúng như các chế độ “độc đoán cạnh
tranh”2–xu hướng tích cực ba thập niên đã song song với một sự mở
rộng đều đặn và đáng kể về các mức của quyền tự do (các quyền chính
trị và các quyền tự do dân sự, như được Freedom House đo hàng năm).
Trong 1974, mức trung bình của tự do trên thế giới là 4,38 (trên hai
thang 7 điểm, nơi 1 là tự do nhất và 7 là áp bức nhất). Sau đó nó đã
được cải thiện từ từ trong các năm 1970 và 1980, tuy nó đã không vượt
dưới điểm giữa 4,0 cho đến sự sụp đổ của bức Tường Berlin, sau đó
nó được cải thiện xuống 3,85 trong các năm 1990. Trong 25 trong số
32 năm giữa 1974 và 2005, các mức tự do trung bình đã được cải thiện
trên thế giới, đạt đỉnh điểm tại 3,22 trong năm 2005.
Và sau đó, khoảng 2006, sự mở rộng của quyền tự do và dân chủ
trên thế giới đã đến một sự dừng lại kéo dài. Kể từ 2006, đã không có
sự mở rộng thuần nào về số các nền dân chủ bầu cử, mà đã dao động
giữa 114 và 119 (khoảng 60 phần trăm các nhà nước của thế giới). Như
chúng ta thấy trong hình 1, số của các nền dân chủ cả bầu cử lẫn khai
phóng đã bắt đầu giảm sau 2006 và sau đó được trải phẳng ra.3 Kể từ
2006, mức trung bình của quyền tự do trên thế giới cũng đã bị xấu đi
một chút, san bằng ở khoảng 3,30.
Có hai cách để xem xét các xu hướng kinh nghiệm này. Một là xem
chúng như tạo thành một giai đoạn cân bằng–quyền tự do và dân chủ
đã không tiếp tục được thêm, nhưng chúng cũng chẳng trải qua sự giảm
sút thuần. Người ta có thể thậm chí ca tụng điều này như một sự bày
tỏ của tính lâu bền xuất sắc và không ngờ của làn sóng dân chủ. Vì dân
chủ đã mở rộng ra một số nước nơi các điều kiện khách quan cho duy
trì nó là không thuận lợi, do hoặc nghèo (thí dụ, ở Liberia, Malawi, và
Sierra Leone) hay các áp lực chiến lược (thí dụ, ở Georgia và
Mongolia), là ấn tượng rằng các hệ thống chính trị mở và cạnh tranh
phải chăng đã sống sót (hay đã sống lại) ở nhiều nơi đến vậy. Như một
100 LARRY DIAMOND
biến thể của sự diễn giải tốt hơn này, trong Chương Bốn của cuốn
sách này Levitsky và Way cho rằng dân chủ đã chẳng bao giờ thực
sự nở rộng như Freedom House đã cảm nhận trước hết. Như thế, họ
tranh luận, nhiều trong những thất bại có vẻ của dân chủ trong mười
đến mười lăm năm qua đã thực sự là những sự hư hỏng hay sự xơ cứng
của cái từ đầu đã là các chế độ độc đoán, dẫu cạnh tranh đến đâu.
Một cách khác, người ta có thể xem thập niên qua như một giai
đoạn của sự suy thoái chớm nở trong dân chủ. Để chứng minh trường
hợp này là đúng, chúng ta cần xem xét không chỉ sự bất ổn định và trì
trệ của các nền dân chủ mà cả sự sụt giảm gia tăng của dân chủ trong
cái mà Thomas Carothers đã gọi là các nước “vùng xám” (mà
thách đố sự phân loại dễ dãi liệu chúng có là hay không là các
nền dân chủ),4 sự làm sâu thêm chủ nghĩa độc đoán trong các chế độ
không dân chủ, và sự sụt giảm trong hoạt động và sự tự tin của các nền
dân chủ giàu, đã được thiết lập vững của thế giới. Đấy sẽ là cách tiếp
cận của tôi dưới đây.
Cuộc tranh luận về liệu đã có một sự suy tàn trong dân chủ hay
không ở mức độ nào đó tùy thuộc vào chúng ta tính nó thế nào. Nó là
một trong những sự mỉa mai lớn và có lẽ không thể tránh khỏi của
nghiên cứu học thuật mà đợt bộc phát trong những nghiên cứu dân chủ
so sánh đã đi cùng với sự bất đồng đáng kể về làm thế nào để định
nghĩa và đo lường dân chủ. Tôi đã chẳng bao giờ cảm thấy rằng đã có–
hay đã có thể có–một câu trả lời đúng và đồng thuận cho sự thách thức
khái niệm muôn thuở này. Hầu hết các học giả về dân chủ đã thống
nhất rằng có thể hiểu được để phân loại các chế độ một cách dứt khoát–
và như thế để xác định chế độ nào là dân chủ và chế độ nào là không.
Nhưng dân chủ theo nhiều cách là một biến số liên tục. Các thành phần
then chốt của nó–như quyền tự do của nhiều đảng và các ứng viên để
vận động và tranh đua, đối lập tiếp cận đến truyền thông đại chúng và
cấp tài chính chiến dịch vận động, tính bao gồm của quyền đi bầu, tính
công bằng và trung lập của sự quản lý bầu cử, và mức độ mà những
người thắng cử có quyền lực có ý nghĩa để cai trị–thay đổi trên một thể
liên tục (như các chiều kích khác của chất lượng dân chủ, như các quyền
tự do dân sự, pháp trị, kiểm soát tham nhũng, sức sống của xã hội dân sự,
và vân vân). Sự biến đổi liên tục này buộc những người phân loại
(coder) phải đưa ra những đánh giá khó khăn về làm sao để phân loại
Đối diện với Suy thoái Dân chủ 101
các chế độ mà rơi vào vùng xám của sự mơ hồ, nơi sự cạnh tranh bầu
cử đa đảng là thật và mãnh liệt nhưng bị lỗi trong một số cách đáng
chú ý. Không hệ thống cạnh tranh đa đảng nào là công bằng và mở
hoàn toàn. Một số hệ thống bầu cử đa đảng rõ ràng không thỏa mãn
sự thử thách của dân chủ. Các hệ thống khác có những thiếu sót
nghiêm trọng mà tuy vậy không phủ định đặc trưng dân chủ tổng thể
của chúng. Như thế các quyết định khó khăn thường phải được lấy về
làm sao để cân đo những thiếu sót và vạch đường ranh ở đâu.
HÌNH 1. Tăng trưởng của các nền dân chủ trên thế giới, 1974–2013
Hầu hết các cách tiếp cận đến phân loại chế độ (như các nền dân chủ
hay không) dựa trên sự đo lường liên tục của các biến số then chốt (như
các quyền chính trị, trong trường hợp của thang Polity, hay cả các quyền
chính trị và các quyền tự do dân sự, trong trường hợp của Freedom
House), cùng với một điểm ngưỡng hơi tùy ý cho việc tách các nền
dân chủ khỏi các chế độ phi dân chủ.5 Phương pháp riêng của tôi đã là
chấp nhận các quyết định phân loại của Freedom House trừ nơi tôi tìm
thấy chứng cứ trái ngược thuyết phục. Việc này đã dẫn tôi đến đếm
102 LARRY DIAMOND
hai đến năm nền dân chủ ít hơn số của Freedom House trong hầu hết
các năm từ 1989; cho vài năm sự chênh lệch là lớn hơn nhiều.6
SUY THOÁI DÂN CHỦ: NHỮNG SỰ TAN VỠ VÀ XÓI MÒN
Thế giới đã ở trong một suy thoái dân chủ nhẹ nhưng kéo dài kể từ
khoảng 2006. Ngoài sự thiếu cải thiện hay sự xói mòn khiêm tốn của
các mức toàn cầu của dân chủ và quyền tự do, đã có vài ba nguyên
nhân khác cho sự lo âu. Thứ nhất, đã có một tỷ lệ đáng kể và, thực ra,
gia tăng của sự tan vỡ dân chủ. Thứ hai, chất lượng hay sự ổn định của
dân chủ đã sụt giảm ở một số nước thị trường mới nổi lớn và quan
trọng về chiến lược, mà tôi gọi là “các quốc gia đu đưa.” Thứ ba, chủ
nghĩa độc đoán đã sâu thêm, kể cả ở các nước lớn và quan trọng về
chiến lược. Và, thứ tư, các nền dân chủ được thiết lập vững, bắt đầu
với Hoa Kỳ, ngày càng có vẻ làm tồi, thiếu ý chí và sự tự tin để thúc
đẩy hiệu quả dân chủ ở nước ngoài. Tôi lần lượt khảo sát tỉ mỉ mỗi
trong những số này.
Thứ nhất, chúng ta hãy ngó tới các tỷ lệ tan vỡ dân chủ. Giữa 1974
và cuối 2014, 29 phần trăm của tất cả các nền dân chủ trên thế giới đã
tan vỡ (giữa các nền dân chủ không Tây phương tỷ lệ đã là 35 phần
trăm). Trong thập kỷ rưỡi đầu của thế kỷ mới này, tỷ lệ hỏng (17,6 phần
trăm) đã cao hơn trong giai đoạn mười lăm năm trước (12,7 phần trăm).
Ngoài ra, nếu chúng ta cắt làn sóng thứ ba thành bốn thập niên cấu thành
của nó, chúng ta thấy một tỷ lệ thất bại dân chủ tăng lên theo thập niên
từ giữa các năm 1980. Tỷ lệ thất bại dân chủ, mà đã là 16 phần trăm
trong thập niên đầu của làn sóng thứ ba (1974-83), đã rớt xuống 8 phần
trăm trong thập niên thứ hai (1984-93), nhưng rồi đã leo lên 11 phần
trăm trong thập niên thứ ba (1994-2003), và gần đây nhất lên 14 phần
trăm (2004-13). (Nếu chúng ta kể cả ba sự thất bại của 2014, tỷ lệ tăng
lên trên 16 phần trăm.)
Từ 2000, tôi đếm 25 đổ vỡ dân chủ trên thế giới–không chỉ qua các
cuộc đảo chính quân sự hay hành pháp rành rành, mà cả qua những sự
thoái hóa khó thấy và gia tăng của các quyền và các thủ tục dân chủ mà
cuối cùng đẩy hệ thống dân chủ vượt quá ngưỡng thành chủ nghĩa độc
Đối diện với Suy thoái Dân chủ 103
BẢNG. Những sự Tan vỡ Dân chủ, 2000-2014
Năm Tan vỡ Nước
Năm Quay lại Loại Tan vỡ
2000
Fiji
—
Đảo chính quân sự
2000 Nga — Hành pháp thoái hóa, vi phạm các quyền đối lập
2001 CH Trung Phi — Nổi loạn quân sự, bạo lực, lạm dụng nhân quyền
2002 Guinea-Bissau 2005 Hành pháp thoái hóa, vi phạm các quyền đối lập
(đảo chính quân sự năm tiếp sau)
2002 Nepal 2013 Bất ổn chính trị tăng lên, đảo chính vương triều
2004 Venezuela — Hành pháp thoái hóa, vi phạm các quyền đối lập
2005 Thái Lan 2011 Đảo chính quân sự, rồi cưỡng ép quân sự
2006 Solomon Islands — Quá trình dân chủ suy sụp
2007 Bangladesh 2008 “Đảo chính mềm” quân sự
2007 Philippines 2010 Hành pháp thoái hóa
2007 Kenya — Gian lận bầu cử và hành pháp lộng hành
2008 Georgia 2012 Gian lận bầu cử và hành pháp lộng hành
2009 Honduras 2013 Can thiệp quân sự
2009 Madagascar — Đối lập nắm quyền trái hiến pháp; đình chỉ quốc
hội được bầu
2009 Niger 2011 Tổng thống giải tán Tòa án Hiến pháp và Quốc hội để kéo dài sự cai trị thổng thống
2010 Burundi — Gian lận bầu cử, đối lập tẩy chay, đóng kín chính trị
2010 Sri Lanka — Hành pháp thoái hóa
2010 Guinea-Bissau — Can thiệp quân sự,sự kiểm soát dân sự yếu đi,
nền pháp trị hư hỏng
2012 Maldives — Bằng vũ lực loại bỏ tổng thống dân chủ được bầu
2012 Mali 2014 Đảo chính quân sự
2011 Nicaragua — Hành pháp thoái hóa
2012 Ukraine 2014 Gian lận bầu cử (quốc hội), hành pháp lộng hành
2014 Turkey — Hành pháp thoái hóa, vi phạm các quyền đối lập
2014 Bangladesh — Quá trình bầu cử tan vỡ
2014 Thái Lan — Đảo chính quân sự
đoán cạnh tranh (xem bảng). Một số trong những sự tan vỡ này
đã xảy ra trong các nền dân chủ có chất lượng khá thấp; thế
nhưng trong mỗi trường hợp, một hệ thống của cạnh tranh bầu cử
104 LARRY DIAMOND
đa đảng tự do và công bằng vừa phải đã hoặc bị thay thế hoặc đã
thoái hóa tới một điểm dưới xa các tiêu chuẩn dân chủ tối thiểu.
Một thách thức phương pháp luận trong theo dõi các tan vỡ dân
chủ là để xác định chính xác một ngày tháng hay năm cho thất bại dân
chủ do một quá trình thế tục dài của sự tha hóa có tính hệ thống và
việc hành pháp bóp nghẹt các quyền chính trị, các quyền tự do dân
sự, và nền pháp trị. Không học giả nghiêm túc nào coi Nga hôm nay
là một nền dân chủ. Nhưng nhiều người tin rằng nó đã là một nền dân
chủ bầu cử (dẫu thô bạo và không khai phóng đến đâu) dưới Boris
Yeltsin. Nếu chúng ta cho điểm 1993 như năm khi dân chủ đã nổi lên
ở Nga (như Freedom House làm), thì chúng ta nhận diện năm nào như
năm đánh đấu sự kết thúc của dân chủ? Trong trường hợp này (và nhiều
trường hợp khác), không có một sự kiện hiển nhiên duy nhất–giống
việc giải tán Quốc hội và nắm các quyền trái hiến pháp, autogolpe, 1992
của tổng thống Peru Alberto Fujimori–để hướng dẫn quyết định cho
điểm. Tôi giả định rằng hệ thống chính trị của Nga đã rớt xuống dưới
các điều kiện tối thiểu của dân chủ bầu cử trong năm 2000, như được
báo hiệu bởi sự gian lận bầu cử mà đã cho Vladimir Putin một thắng
lợi bỏ phiếu đầu tiên đáng ngờ và sự tha hóa hành pháp của chủ nghĩa
đa nguyên chính trị và công dân mà đã theo sau nhanh chóng.
(Freedom House tính thời điểm thất bại là 2005.)
Vấn đề có tính xác đáng tiếp tục và khá đương thời. Bây giờ trong
một số năm, Đảng Công lý và Phát triển (AKP) của Thổ Nhĩ Kỳ đã
đang làm xói mòn chủ nghĩa đa nguyên dân chủ và quyền tự do trong
nước. Các xu thế chính trị tổng thể đã khó để mô tả đặc trưng, bởi vì
một số thay đổi của AKP đã làm cho Thổ Nhĩ Kỳ dân chủ hơn bằng
loại bỏ quân đội với tư cách một người chơi có quyền phủ quyết trong
chính trị, mở rộng sự kiểm soát dân sự lên quân đội, và làm cho khó
hơn để cấm các đảng chính trị gây tổn thương các kết cấu “nhà nước
sâu” gắn với di sản thế tục chủ nghĩa mạnh của Kemal Atatürk. Nhưng
AKP đã dần dần cố thủ bá quyền chính trị của riêng nó, mở rộng sự
kiểm soát của đảng lên tư pháp và bộ máy quan liêu, bắt giam các nhà
báo và hăm dọa những người không quy phục trong báo giới và giới
hàn lâm, đe dọa các doanh nghiệp với sự trả đũa nếu chúng tài trợ cho
các đảng đối lập, và dùng việc bắt bớ và truy tố trong các trường hợp
Đối diện với Suy thoái Dân chủ 105
bị cho là liên kết với các âm mưu đảo chính để bỏ tù và loại khỏi đời
sống chính trị một số lớn đáng ngờ những người bị tố có âm mưu.
Việc này đã trùng với một sự tập trung gây choáng váng và ngày
càng trơ tráo của quyền lực cá nhân của thủ tướng lâu năm của Thổ
Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdoğan, người được bầu làm tổng thống trong
tháng Tám 2014. Sự lạm dụng và cá nhân hóa quyền lực và sự siết
không gian cạnh tranh và quyền tự do ở Thổ Nhĩ Kỳ đã là tinh vi và
tăng dần, không hề giống tốc độ của Putin trong đầu các năm 2000.
Nhưng bây giờ, các xu hướng này dường như đã vượt một ngưỡng,
đẩy nước này xuống dưới các tiêu chuẩn tối thiểu của dân chủ. Nếu
điều này đã xảy ra, nó đã xảy ra khi nào? Có phải trong 2014, khi AKP
đã củng cố thêm sự kìm chặt quyền lực bá quyền của nó trong các
cuộc bầu cử chính quyền địa phương tháng Ba và bầu cử tổng thống
tháng Tám? Hay nó đã xảy ra, như một số người Thổ khai phóng
khẳng định, mấy năm trước, khi các quyền tự do báo chí đã giảm bớt
rõ rệt và một gới ngày càng rộng những kẻ bị cho là chủ mưu đảo chính
bị nhắm tới trong các phiên tòa Ergenekon bị chính trị hóa cao độ?
Có một vấn đề tương tự cho Botswana, nơi một tổng thống (Ian
Khama) với một lai lịch quân sự tỏ ra không khoan dung với đối lập
và ghét xã hội dân sự vượt quá mọi thứ đã thấy trước đây từ Đảng Dân
chủ Botswana (BDP) cai trị từ lâu. Bạo lực và sự hăm dọa chính trị
tăng lên–kể cả tấn công các chính trị gia đối lập, sự ám sát có thể của
một ứng viên đối lập hàng đầu ba tháng trước các cuộc bầu cử quốc hội
tháng Mười 2014, và sự dính líu rõ rệt của bộ máy tình báo trong hăm
dọa và ép buộc đối lập chính trị–đã chuyển hệ thống chính trị theo một
hướng độc đoán hơn. Áp lực leo thang lên media độc lập, việc BDP
lạm dụng trơ tráo TV nhà nước, và việc Tổng thống Khama gia tăng
cá nhân hóa và tập trung hóa quyền lực (khi ông cất nhắc giới hẹp của
riêng ông từ gia đình và bạn bè trong khi chia rẽ đảng cầm quyền) là các
dấu hiệu thêm về sự xấu đi, nếu không phải khủng hoảng, của dân chủ
ở Botswana.7 Mặt khác, Levitsky và Way một số năm trước đã cho
rằng Botswana trước tiên đã không là một nền dân chủ thật.8 Tuy
nhiên, dù nó đã là hệ thống loại nào đi nữa trong các thập niên gần đây,
106 LARRY DIAMOND
“sự tôn trọng pháp trị và các định chế và các quy trình được thiết lập”
đã bắt đầu giảm đi trong năm 1998, khi Khama lên chức phó tổng
thống, và nó đã tiếp tục suy sụp kể từ 2008, khi nhà chỉ huy quân sự
trước kia “đã tự động nối ngôi tổng thống.”9
Không có các câu trả lời dễ và hiển nhiên cho câu hỏi hóc búa về
làm thế nào để phân loại các chế độ trong vùng xám. Ta có thể tranh
luận về liệu các chế độ nhập nhằng này có vẫn là các nền dân chủ–
hay ngay cho là chúng từng thực sự là. Những người chấp nhận rằng
một sự tan vỡ dân chủ đã xảy ra có thể tranh cãi về nó đã xảy ra khi
nào. Nhưng cái vượt xa hơn sự tranh cãi là, có một lớp các chế độ mà
trong thập niên qua hay khoảng thế đã trải qua sự xói mòn đáng kể về
sự công bằng bầu cử, chủ nghĩa đa nguyên chính trị, và không gian dân
sự cho đối lập và người bất đồng chính kiến, điển hình như kết quả của
các nhà hành pháp lạm dụng mải mê tập trung quyền lực cá nhân của
họ và cố thủ sự bá quyền của đảng cai trị. Những trường hợp nổi tiếng
nhất này kể từ 1999 đã là Nga và Venezuela, nơi cựu sĩ quan quân
đội dân túy chủ nghĩa Hugo Chávez (1999–2013) đã từ từ bóp chết
chủ nghĩa đa nguyên dân chủ trong thập niên đầu của thế kỷ này. Sau
khi Daniel Ortega quay lại chức tổng thống ở Nicaragua năm
2007, ông đã vay mượn nhiều trang từ kịch bản độc đoán của Chávez,
và các tổng thống độc đoán dân túy-cánh tả Evo Morales của Bolivia
và Rafael Correa của Ecuador đã di chuyển theo một hướng tương
tự. Trong số tháng 1-2015 của Journal of Democracy, Scott Mainwaring
và Aníbal Pérez-Liñán khẳng định rằng sự xói mòn dân chủ đã xảy ra
kể từ 2000 ở cả bốn nước Mỹ Latin này (Venezuela, Nicaragua,
Bolivia, và Ecuador) cũng như ở Honduras, với Bolivia, Ecuador,
và Honduras bây giờ khập khiễng như “các chế độ nửa dân chủ.”
Trong số 25 sự tan vỡ kể từ 2000 được liệt kê trong bảng, 18 đã
xảy ra sau 2005. Chỉ 8 trong 25 vụ tan vỡ này là kết quả của sự can
thiệp quân sự (và trong 8 vụ đó, chỉ 4 đã có hình thức đảo chính quân sự
quy ước, rành rành, như đã xảy ra hai lần ở Thái Lan). Hai trường hợp
khác (Nepal và Madagascar) đã thấy các nhà cai trị được bầu một
cách dân chủ đã bị đẩy khỏi quyền lực bởi các lực lượng phi dân chủ
khác (quốc vương và đối lập chính trị, một cách tương ứng). Đa số
Đối diện với Suy thoái Dân chủ 107
các vụ tan vỡ–mười ba–đã là do sự lạm dụng quyền lực và sự xúc
phạm các định chế và tập quán dân chủ bởi các nhà cai trị được bầu
một cách dân chủ. Bốn trong số này đã có hình thức của sự gian lận
bầu cử phổ biến hay, trong trường hợp gần đây của Bangladesh, một
sự thay đổi đơn phương trong các quy tắc quản lý bầu cử (loại bỏ tập
quán của một chính phủ tạm quyền trước bầu cử) mà đã làm nghiêng sân
chơi bầu cử và đã gây ra một sự tẩy chay của đối lập. 9 thất bại khác do
hành pháp lạm dụng đã gồm sự bóp nghẹt dân chủ từ từ hơn bởi
các nhà hành pháp được bầu một cách dân chủ (mặc dù việc đó
cũng xảy ra trong nhiều trường hợp gian lận bầu cử, như Ukraine
dưới Tổng thống Viktor Yanukovych [2010–14]). Toàn bộ, gần 1 trong
5 nền dân chủ kể từ đầu thế kỷ này đã thất bại.
SỰ SUY GIẢM CỦA QUYỀN TỰ DO VÀ PHÁP TRỊ
Tách biệt và ngoài thất bại dân chủ ra, đã có một xu hướng suy giảm
quyền tự do trong một số nước và khu vực kể từ 2005. Số thống kê
được trích dẫn thường xuyên nhất về vấn đề này là Freedom House
phát hiện rằng, trong mỗi của tám năm liên tiếp từ 2006 qua 2013,
nhiều nước suy giảm về quyền tự do hơn là được cải thiện. Thực ra,
sau giai đoạn hậu Chiến tranh Lạnh trong đó cán cân đã hầu như luôn
luôn hết sức thuận lợi–các nước cải thiện vượt xa các nước suy giảm
với tỷ lệ hai trên một (hoặc lớn hơn)–cán cân đã đơn giản đảo ngược bắt
đầu trong 2006. Nhưng điều này không cho biết toàn bộ câu chuyện.
Hai yếu tố quan trọng là đáng để ý, và cả hai đặc biệt rõ rệt ở châu
Phi. Thứ nhất, những sự suy giảm đã có khuynh hướng kết tinh theo
thời gian. Như thế, nếu chúng ta so sánh các điểm số quyền tự do vào
cuối 2005 và cuối 2013, chúng ta thấy rằng 29 trong số 49 quốc gia
Phi châu hậu-Sahara (gần 60 phần trăm) đã suy giảm về quyền tự do,
trong khi chỉ 15 (30 phần trăm) đã cải thiện và 5 đã không thay đổi.
Hơn nữa, 20 quốc gia trong vùng đã thấy một sự sụt giảm về quyền
chính trị, các quyền tự do dân sự, hay cả hai mà đã đủ quan trọng để
ghi một sự thay đổi trên các thang 7-điểm (trong khi chỉ 11 quốc gia
đã thấy một sự cải thiện rõ rệt). Các quốc gia lớn hơn ở châu Phi hạ-
Sahara (các nước với dân số hơn 10 triệu người) đã khá hơn một chút,
108 LARRY DIAMOND
nhưng không nhiều: Quyền tự do đã xấu đi trong 13 của 25 và đã cải
thiện trong chỉ 8 quốc gia.
Một vấn đề khác là, nhịp sa sút về các định chế dân chủ không
luôn luôn hiển nhiên cho các nhà quan sát bên ngoài. Trong một số
nước nơi chúng ta coi dân chủ là nghiễm nhiên, như Nam Phi, chúng
ta không được coi thế. Thực ra, không có một nước duy nhất nào trên
lục địa châu Phi nơi dân chủ được củng cố vững chắc và an toàn–cách
nó là, thí dụ, trong các nền dân chủ làn sóng thứ ba như Hàn Quốc, Ba
Lan, và Chile. Trong cộng đồng thúc đẩy dân chủ toàn cầu, ít diễn viên
chú ý đến các dấu hiệu gia tăng về tính dễ vỡ trong các nền dân chủ
đang phát triển khai phóng hơn, không nhắc đến các nền dân chủ không
khai phóng hơn.
Vì sao quyền tự do và dân chủ đã thoái lui ở nhiều nước? Câu trả
lời quan trọng nhất và tỏa khắp, vắn tắt, là quản trị tồi. Freedom
House đo các quyền chính trị và các quyền tự do dân sự cả hai bao
gồm các loại con (subcategory) trực tiếp liên quan đến pháp trị và tính
minh bạch (kể cả tham nhũng). Nếu chúng ta bỏ các loại con này khỏi
các điểm quyền chính trị và quyền tự do dân sự của Freedom House
và tạo ra một thang riêng biệt thứ ba với các điểm pháp trị và minh
bạch, các vấn đề trở nên rõ ràng hơn. Các quốc gia Phi châu (giống
hầu hết quốc gia khác trên thế giới) làm tồi hơn đáng kể về pháp trị
và minh bạch so với các quyền chính trị và quyền tự do dân sự.10 Hơn
nữa, pháp trị và các quyền chính trị cả hai đã giảm sút có thể cảm nhận
thấy khắp châu Phi hạ-Sahara kể từ 2005, còn các quyền tự do dân sự
đã dao động hơn một chút. Các xu hướng kinh nghiệm này được thấy
trong hình 2, mà giới thiệu dữ liệu Freedom House cho ba thang được
chỉnh lại như các điểm số được chuẩn hóa, trải từ 0 đến 1.11
Vấn đề lớn nhất cho dân chủ ở châu Phi là kiểm soát tham nhũng
và sự lạm dụng quyền lực. Sự sa sút về quản trị đã rõ rệt ngay cả ở các
nước Phi châu được quản trị tốt nhất, như Nam Phi, mà đã bị sa sút
đều đặn trong điểm số của nó về pháp trị và minh bạch (từ 0,79 xuống
0,63) giữa 2005 và 2013. Và khi ngày càng nhiều quốc gia Phi châu trở
thành giàu tài nguyên với sự bắt đầu của một đợt bột phát dầu Phi châu
thứ hai, chất lượng quản trị sẽ xấu đi thêm. Việc này đã bắt đầu xảy ra
Đối diện với Suy thoái Dân chủ 109
HÌNH 2. Các xu hướng quyền tự do và quản trị ở châu Phi, 2005–13
rồi ở một trong các nền dân chủ khai phóng nhất và quan trọng của
châu Phi, Ghana.
Vấn đề không phải là duy nhất đối với châu Phi. Mọi khu vực của
thế giới đạt điểm xấu hơn trên thang được chuẩn hóa của tính minh
bạch và pháp trị so với nó đạt hoặc trên các quyền chính trị hay các
quyền tự do dân sự. Thực ra, minh bạch và pháp trị kéo lê hai thang
khác còn kịch tính hơn ở Mỹ Latin, châu Âu hậu cộng sản, và châu Á
so với chúng kéo lê ở châu Phi (hình 3). Nhiều nền dân chủ ở các nước
thu nhập thấp hơn và thậm chí thu nhập trung bình hay trung bình cao
(nhất là, Argentina) vật lộn với sự hồi sinh của cái Francis Fukuyama
gọi là các xã hội hướng “gia sản mới.”12 Các nhà lãnh đạo, mà nghĩ
rằng họ có thể thoát khỏi nó, đang làm xói mòn những kiểm soát
và cân bằng dân chủ, làm rỗng các định chế của trách nhiệm giải
trình, không đếm xỉa đến các giới hạn nhiệm kỳ và những hạn chế
chuẩn tắc, và tích tụ quyền lực và của cải cho bản thân họ và các gia
đình, cánh hẩu, khách hàng và đảng của họ.
110 LARRY DIAMOND
HÌNH 3. Các quyền chính trị, các quyền tự do dân sự, minh bạch và pháp trị 2013
Trong quá trình, họ hăm dọa, biến các đối thủ thành ma quỷ, nạn
nhân (và đôi khi thậm chí bỏ tù hay giết) những người cản đường
họ. Không gian cho các đảng đối lập, xã hội dân sự, và media đang co
lại, và sự ủng hộ quốc tế cho họ đang cạn. Những sự chia tách sắc tộc,
tôn giáo, và bản sắc khác phân cực nhiều xã hội mà thiếu các định chế
dân chủ được thiết kế khéo để quản lý những sự chia tách đó. Các cấu
trúc nhà nước quá thường xuyên là yếu và nhiều lỗ hổng–không có khả
năng đảm bảo trật tự, bảo vệ các quyền, thỏa mãn các nhu cầu xã hội cơ
bản, hay vượt lên trên các ham muốn tham nhũng, bảo trợ chủ nghĩa,
và cướp bóc. Các định chế dân chủ như các đảng và quốc hội thường
kém phát triển, và bộ máy quan liêu thiếu sự thông thạo chính sách và,
còn thiếu nhiều hơn, tính độc lập, tính trung lập, và uy quyền để quản
lý hiệu quả nền kinh tế. Thành tích kinh tế kém và bất bình đẳng tăng
làm trầm trọng các vấn đề về lạm dụng quyền lực, lừa đảo bầu cử, và
vi phạm các quy tắc dân chủ của trò chơi.
Đối diện với Suy thoái Dân chủ 111
CÁC QUỐC GIA ĐU ĐƯA CHIẾN LƯỢC
Một góc nhìn khác về trạng thái toàn cầu của dân chủ có thể được lượm
lặt từ một sự chú tâm không đến các xu hướng khu vực hay toàn cầu
mà đến các nước thị trường mới nổi quan trọng nhất. Đấy là các nước
với dân cư lớn (thí dụ hơn 50 triệu) hay nền kinh tế lớn (hơn 200
tỷ USD). Tôi tính 27 trong số các nước này (kể cả Ukraine, không
hoàn toàn đạt một trong hai số đo nhưng có tầm quan trọng chiến
lược lớn lao). Mười hai trong số 27 quốc gia đu đưa này đã có các điểm
số trung bình về quyền tự do tồi hơn vào cuối 2013 so với cuối 2005.
Những sự sụt giảm này đã xảy khắp bảng: ở các nền dân chủ khá khai
phóng (Hàn Quốc, Đài Loan, và Nam Phi); ở các nền dân chủ ít khai
phóng hơn (Colombia, Ukraine, Indonesia, Thổ Nhĩ Kỳ, Mexico, và
Thái Lan trước đảo chính quân sự 2014); và ở các chế độ độc đoán
(Ethiopia, Venezuela, và Saudi Arabia). Ngoài ra, tôi nghĩ 3 nước khác
cũng ít tự do hơn ngày nay so với 2005: Nga, nơi cái thòng lọng của
chủ nghĩa độc đoán đàn áp rõ ràng đã siết chặt hơn kể từ khi Vladimir
Putin quay lại chức tổng thống vào đầu 2012; Ai Cập, nơi chính phủ
mới do quân đội chi phối dưới thời cựu đại tướng Abdel Fattah al-Sisi là tàn
sát, kiểm soát, và không khoan dung hơn ngay cả chế độ Mubarak (1981-
2011); và Bangladesh, nơi (như đã nhắc tới ở trên) dân chủ đã sụp đổ
vào đầu 2014. Chỉ hai nước (Singapore và Pakistan) là tự do hơn
ngày nay (và chỉ thế một cách khiêm tốn) so với 2005. Một số
nước khác chí ít đã vẫn ổn định. Chile tiếp tục là một câu chuyện
dân chủ-khai phóng thành công; Philippines đã quay trở lại nền dân
chủ vững chãi sau một khoảng giữa độc đoán dưới thời Tổng thống
Gloria Macapagal-Arroyo (2001–10); và Brazil và Ấn Độ đã duy trì
nền dân chủ vững chãi, dẫu với những thách thức tiếp tục. Nhưng nhìn
tổng thể, giữa 27 nước (mà cũng gồm Trung Quốc, Malaysia, Nigeria,
và Tiểu Vương quốc Arab Thống nhất) đã có ít bằng chứng về tiến
bộ dân chủ. Về mặt dân chủ, các nước quan trọng nhất bên ngoài
phương Tay dân chủ ổn định hoặc đã trì trệ hay trượt lùi.
112 LARRY DIAMOND
SỰ HỒI SINH ĐỘC ĐOÁN
Một phần quan trọng của câu chuyện về suy thoái dân chủ toàn cầu đã
là sự sâu thêm của chủ nghĩa độc đoán. Việc này đã có một số dạng. Ở
Nga, không gian cho đối lập chính trị, người bất đồng chính kiến có
nguyên tắc, và hoạt động xã hội dân sự bên ngoài sự kiểm soát của các
nhà cai trị đã bị co lại.13 Ở Trung Quốc, các nhà bảo vệ nhân quyền và
các nhà hoạt động xã hội dân sự đã đối mặt sự sách nhiễu và đối xử
tàn nhẫn tăng lên.
Các chế độ chuyên quyền (chủ yếu) hậu cộng sản của Tổ chức Hợp
tác Thượng Hải, đặt trung tâm trên trục hợp tác ích kỷ giữa Nga và
Trung Quốc, đã trở nên được điều phối và quả quyết hơn nhiều. Cả
hai nước đã hùng hổ diễu võ dương oai trong giải quyết với các
láng giềng của họ về các vấn đề lãnh thổ. Và họ ngày càng đẩy lùi
chống lại các chuẩn mực dân chủ cả bằng sử dụng các công cụ quyền
lực mềm–media quốc tế (như RT, kênh truyền hình “tin tức” toàn cầu
24/7 khéo léo của Nga), các Viện Khổng Tử, các hội nghị hoang toàng,
và các chương trình trao đổi của Trung Quốc–để thử làm mất uy tín các
nền dân chủ Tây phương và dân chủ nói chung, trong khi vận động
quảng bá các mô hình và chuẩn mực riêng của họ.14 Đây là phần của một
xu hướng rộng hơn về kỹ năng và năng lực độc đoán được đổi mới trong
sử dụng media do nhà nước vận hành (cả truyền thống và kỹ thuật số)
để phô bày một hỗn hợp chiết trung của các chuyện kể ủng hộ chế độ,
các hình ảnh bị biến thành quỷ của những người không quy phục, và
các lời chỉ trích kịch liệt mang tính không khai phóng, dân tộc chủ
nghĩa, và chống-Mỹ.15
Các nhà chuyên quyền Phi châu đã ngày càng dùng viện trợ và đầu
tư bột phát của Trung Quốc (và chiến tranh khu vực mới chống lại chủ
nghĩa khủng bố Islamist) như một đối trọng với áp lực Tây phương
cho dân chủ và quản trị tốt. Và họ đã sướng quá chừng để chỉ vào
công thức Trung Quốc về sự phát triển nhanh do nhà nước dẫn dắt mà
không có dân chủ để biện minh cho chủ nghĩa độc đoán sâu đậm hơn
của riêng họ. Ở Venezuela, tật của chủ nghĩa dân túy độc đoán đã
được siết chặt và việc chính phủ dung túng (hay thậm chí tổ chức) bạo
lực phạm tội để giải ngũ đối lập giai cấp trung lưu đã tăng lên. Mùa
Xuân Arab đã sụp đổ ở hầu như mọi nước nó đã chạm đến trừ Tunisia,
trong hầu hết trường hợp để lại các nhà nước còn áp bức hơn hoặc, như
trường hợp Libya, hầu như không có một nhà nước nào cả.
Đối diện với Suy thoái Dân chủ 113
Sự hồi sinh của chủ nghĩa độc đoán trong tám năm qua đã được đẩy
nhanh bởi sự truyền bá các công cụ và cách tiếp cận chung. Nổi bật
giữa các thứ này đã là các luật mà hình sự hóa các luồng tài chính quốc
tế và sự trợ giúp kỹ thuật từ các nền dân chủ cho các đảng, các phong
trào dân chủ, media, các nhà quan sát bầu cử, và các tổ chức xã hội dân
sự trong các chế độ độc đoán, cũng như những hạn chế rộng hơn lên
khả năng của các NGO để thành lập và vận hành và tạo ra các tựa-NGO
để tiến hành đấu thầu (trong nước và quốc tế) của các nhà chuyên
quyền.16 Một nghiên cứu gần đây về 98 nước bên ngoài phương Tây đã
thấy rằng 51 trong số đó hoặc cấm hay hạn chế sự cấp tài chính nước
ngoài cho xã hội dân sự, với một xu hướng toàn cầu rõ ràng tới sự siết
chặt kiểm soát; như một kết quả, các luồng trợ giúp dân chủ quốc tế
đang rơi đột ngột ở nơi cần đến chúng nhất.17 Ngoài ra, các nhà nước
độc đoán (và thậm chí vài nhà nước dân chủ) đang trở nên tháo vát, tinh
vi, và trơ tráo hơn trong đàn áp quyền tự do Internet và sử dụng không
gian mạng để làm thất vọng, phá vỡ, và kiểm soát xã hội dân sự.18
DÂN CHỦ TÂY PHƯƠNG RÚT LUI
Có lẽ chiều kích đáng lo ngại nhất của sự suy thoái dân chủ đã là sự giảm
sút của tính hiệu quả, tính năng động, và sự tự tin ở phương Tây, kể cả
Hoa Kỳ. Có một cảm giác tăng lên, cả trong nước và quốc tế, rằng
nền dân chủ ở Hoa Kỳ đã không hoạt động đủ hiệu quả để giải quyết
các thách thức lớn của sự quản trị. Nhịp bị giảm đi của lập pháp,
khả năng biến mất của Hạ Viện để thông qua ngân sách, và sự
đóng cửa chính phủ liên bang năm 2013 chỉ là một số dấu hiệu về
một hệ thống chính trị (và một nhà nước rộng hơn) mà dường như
ngày càng bị phân cực và bế tắc. Như một kết quả, cả sự chấp thuận
công chúng của Hạ Viện lẫn sự tin cậy công chúng vào chính phủ là ở
mức thấp lịch sử. Chi phí tăng lên mãi của các chiến dịch bầu cử, vai
trò dấy lên của tiền không minh bạch trong chính trị, và tỷ lệ tham gia
thấp của cử tri là các dấu hiệu thêm của sức khỏe dân chủ kém. Về mặt
quốc tế, sự thúc đẩy dân chủ ở nước ngoài ghi điểm gần đáy của các ưu
tiên chính sách đối ngoại của công chúng. Và cảm nhận quốc tế là rằng
114 LARRY DIAMOND
sự thúc đẩy dân chủ đã giảm sút rồi như một ưu tiên thực sự của chính
sách đối ngoại của Hoa kỳ.
Thế giới lưu ý đến tất cả những thứ này. Media nhà nước độc đoán
hân hoan quảng cáo những công việc khó nhọc này của nền dân chủ
Mỹ nhằm làm mất uy tín dân chủ nói chung và chủng ngừa sự cai trị
độc đoán chống lại áp lực của Hoa Kỳ. Ngay cả tại các nhà nước
yếu, các nhà chuyên quyền cảm thấy áp lực bây giờ hết rồi: Họ
có thể làm hầu như bất cứ thứ gì họ muốn để kiểm duyệt media, đè
bẹp đối lập, và vĩnh cửu hóa sự cai trị của họ, và châu Âu và Hoa Kỳ
sẽ vẫn chịu nuốt. Những sự phản đối bằng lời hiền lành có thể xảy ra
sau đó, nhưng viện trợ sẽ vẫn chảy và các nhà độc tài sẽ vẫn được hoan
nghênh tại Nhà Trắng và Điện Elysée.
Là khó để cường điệu, sức sống và sự tự tin của nền dân chủ
Mỹ đã quan trọng đến thế nào cho sự mở rộng toàn cầu của dân
chủ trong làn sóng thứ ba. Trong khi mỗi nước đang dân chủ hóa
đã tiến hành sự chuyển đổi của riêng nó, áp lực và sự đoàn kết từ Hoa
Kỳ và châu Âu đã thường tạo ra một môi trường quan trọng và thậm
chí cốt yếu làm cho có thể mà đã giúp để lật các tình huống được cân
bằng một cách tế nhị theo hướng thay đổi dân chủ, và sau đó trong
một số trường hợp dần dần theo hướng củng cố dân chủ. Nếu sự
đoàn kết này bây giờ rất bị giảm đi, thì các triển vọng toàn cầu ngắn
hạn cũng thế cho sự phục hồi và duy trì sự tiến bộ dân chủ.
MỘT CHÂN TRỜI SÁNG SỦA HƠN?
Dân chủ đã ở trong một suy thoái toàn cầu trong hầu hết thập kỷ qua,
và có một mối nguy hiểm tăng lên rằng suy thoái có thể sâu thêm và
lật sang thành cái gì đó tồi hơn nhiều. Nhiều nền dân chủ hơn có thể
thất bại, không chỉ ở các nước nghèo có ít tầm quan trọng chiến lược,
mà cả ở các quốc gia đu đưa lớn như Indonesia và Ukraine (lần nữa).
Vẫn có ít sự thừa nhận bên ngoài về trạng thái tàn nhẫn của dân chủ ở
Thổ Nhĩ Kỳ, và không có gì đảm bảo rằng dân chủ sẽ sớm quay lại với
Thái Lan hay Bangladesh. Sự thờ ơ và sức ỳ ở châu Âu và Hoa Kỳ có
thể hạ thấp đáng kể barrier cho những sự đảo ngược dân chủ mới và
cho sự cố thủ độc đoán ở nhiều quốc gia hơn.
Đối diện với Suy thoái Dân chủ 115
Thế nhưng bức tranh không phải hoàn toàn ảm đạm. Chúng ta đã
chưa thấy “một làn sóng đảo ngược thứ ba.” Về mặt toàn cầu, các mức
trung bình của quyền tự do đã xuống một chút, nhưng không gây tai
họa. Quan trọng nhất, không có sự xói mòn đáng kể nào về sự ủng hộ
công chúng cho dân chủ. Thực ra, cái mà phong vũ biểu Phi châu đã
cho thấy một cách nhất quán là một lỗ hổng–ở một số nước châu Phi,
một lỗ hổng lớn–giữa cầu của công chúng đối với dân chủ và cung của
nó được chế độ cung cấp. Điều này không dựa chỉ vào quan niệm nông
cạn, mơ hồ nào đó rằng dân chủ là một thứ tốt. Nhiều người Phi châu
hiểu tầm quan trọng của trách nhiệm giải trình chính trị, sự minh bạch,
pháp trị, và sự kiềm chế quyền lực, và họ muốn thấy các chính phủ của
họ thể hiện các đức tính này.
Trong khi thành tích của dân chủ không gây cảm hứng, chủ nghĩa
độc đoán đối mặt với những thách thức quá quắt của riêng nó. Hầu như
không có một chế độ độc tài nào trên thế giới nhìn ổn định trong dài
hạn. Nguồn tin cậy thật duy nhất của sự ổn định là tính chính đáng, và
số người trên thế giới tin vào tính chính đáng nội tại của bất kể hình
thức nào của chủ nghĩa độc đoán đang giảm đi nhanh chóng. Phát triển
kinh tế, toàn cầu hóa, và cách mạng thông tin đang làm xói mòn mọi
hình thức quyền uy và nâng cao vị thế của các cá nhân. Các giá trị đang
thay đổi, và trong khi chúng ta không được giả sử bất cứ con đường
mục đích luận nào tới một “sự khai sáng” toàn cầu là đúng, sự chuyển
động nói chung là tới sự ngờ vực lớn hơn đối với quyền uy và mong
mỏi nhiều hơn về trách nhiệm giải trình, quyền tự do, và sự lựa chọn
chính trị. Trong hai thập niên tới, các xu hướng này sẽ thách thức bản
chất của sự cai trị ở Trung Quốc, Việt Nam, Iran, và các nhà nước
Arab nhiều hơn rất nhiều so với ở Ấn Độ, chẳng nhắc đến châu Âu và
Hoa Kỳ. Dân chủ hóa có thể trông thấy được rồi trên chân trời của
chính trị bầu cử ngày càng cạnh tranh của Malaysia, và trong thế hệ tiếp
theo nó sẽ đến cả Singapore nữa.
Nhu cầu then chốt trong ngắn hạn là để cải cách và củng cố các
nền dân chủ đã nổi lên trong làn sóng thứ ba–mà đa số vẫn không khai
phóng và bất ổn định, nếu chúng vẫn còn dân chủ chút nào. Với sự can
dự quốc tế tập trung, tận tâm, và tháo vát hơn, sẽ là có thể để giúp dân
chủ bén rễ sâu hơn và lâu dài hơn trong các nước như Indonesia,
Philippines, Nam Phi, và Ghana. Là có thể và quan trọng cấp bách để
116 LARRY DIAMOND
giúp ổn định hóa các nền dân chủ mới ở Ukraine và Tunisia (mà
thành công của nó có thể từ từ tạo ra các tác động truyền bá quan trọng
khắp thế giới Arab). Có lẽ có thể hích Thái Lan và Bangladesh quay
lại nền dân chủ bầu cử, mặc dù phải tìm ra những cách để làm bớt đi
các mức dễ sợ của sự phân cực đảng phái ở mỗi nước. Với thời gian,
dự án bầu cử độc đoán ở Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tự làm mất tín nhiệm khi đối
mặt với tham nhũng và lạm dụng quyền lực tăng lên, mà đang tăng khá
nghiêm trọng rồi. Và các chế độ chuyên quyền dựa trên dầu ở Iran và
Venezuela sẽ đối mặt với khủng hoảng nghiêm trọng về thành tích kinh
tế và tính chính đáng chính trị.
Điều cốt yếu là các nhà dân chủ ở các nền dân chủ đã được thiết lập
vững mạnh không mất niềm tin. Các nhà dân chủ có một tập tốt hơn của
các ý tưởng. Dân chủ có thể lùi lại một chút trong thực hành, nhưng về
mặt toàn cầu nó vẫn đang lên trong các giá trị và khát vọng của nhân
dân. Điều này tạo ra những cơ hội mới quan trọng cho sự tăng
trưởng dân chủ. Nếu sự suy thoái (recession) khiêm tốn hiện tại
của dân chủ có sa xuống thành một suy thoái nặng (depression),
nó sẽ là vậy bởi vì những người trong chúng ta ở các nền dân chủ vững
chắc đã là những kẻ thù tồi tệ nhất của chính chúng ta.
CHÚ THÍCH
Tác giả muốn cảm ơn Erin Connors, Emmanuel Ferrario, và Lukas
Friedemann vì sự trợ giúp nghiên cứu tuyệt vời của họ trên tiểu luận này.
1. Cho một sửa soạn công phu về định nghĩa này, xem Larry Diamond, The
Spirit of Democracy: The Struggle to Build Free Societies Throughout the
World (New York: Times Books, 2008), 20–26.
2. Steven Levitsky and Lucan Way, Competitive Authoritarianism: Hybrid
Regimes after the Cold War (New York: Cambridge University Press,
2010); xem cả tiểu luận của họ trong tập sách này.
3. Tôi coi như các nền dân chủ khai phóng tất cả các chế độ nhận được điểm
số 1 hoặc 2 (trên thang từ 1 đến 7) về cả các quyền chính trị và các quyền
tự do dân sự.
4. Thomas Carothers, “The End of the Transition Paradigm,” Journal of
Democracy 13 (January 2002): 5–21.
5. Freedom House đã phân loại tất cả các chế độ của thế giới như các nền dân
chủ hặc không từ 1989 đến nay dựa trên (a) chúng đạt được chí ít 7 trong 12
về chiều kích “quá trình bầu cử” của các quyền chính trị; (b) chúng đạt được
chí ít 20 trong toàn thể 40 trên thang điểm thô về các quyền chính trị; (c)
các cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống gần nhất của chúng đã là tự do và
Đối diện với Suy thoái Dân chủ 117
công bằng một cách phải chăng; (d) không có các nguồn sức mạnh che dấu đáng
kể nào gạt bỏ các nhà chức trách được bầu; và (e) không có những thay đổi pháp lý
gần đây nào tước quyền tự do bầu cử tương lai. Trên thực tế, việc này đã dẫn
đến một danh sách hơi rộng rãi của các nền dân chủ–khá quá hào phóng
theo quan điểm của tôi, nhưng chí ít một “giới hạn trên” có vẻ hợp lý của
số các nền dân chủ mỗi năm. Levitsky và Way gợi ý trong Chương bốn
của tập sách này rằng một tiêu chuẩn tốt hơn cho dân chủ nên là sự phân
loại của Freedom House về Tự do, mà đòi hỏi một điểm số trung bình 2,5
trên các thang kết hợp của các quyền chính trị và các quyền tự do dân sự.
Nhưng tôi nghĩ tiêu chuẩn này loại trừ nhiều nền dân chủ thực nhưng không
khai phóng.
6. Việc đếm các nền dân chủ bầu cử của tôi cho giai đoạn 1998-2002 đã thấp
hơn số của Freedom House 8 đến 9 nước, và 11 nước trong năm 1999. Thí
dụ tôi bỏ khỏi loại này Georgia trong 1992–2002, Ukraine trong 1994–
2004, Mozambique trong 1994–2008, Nigeria trong 1999–2003, Nga
trong 2001–4, và Venezuela trong 2004–8.
7. Amy R. Poteete, “Democracy Derailed? Botswana’s Fading Halo,”
AfricaPlus, 20 October 2014, http://africaplus.wordpress.com/2014/10/20
/democracy-derailed-botswanas-fading-halo/.
8. Levitsky và Way, Competitive Authoritarianism, 20.
9. Kenneth Good, “The Illusion of Democracy in Botswana,” in Larry
Diamond và Marc F. Plattner, eds., Democratization in Africa: Progress
and Retreat, 2nd ed. (Baltimore: Johns Hopkins University Press, 2010),
281.
10. Những so sánh ở đây và trong hình 2 là với các thang quyền chính trị và
quyền tự do dân sự được cấu hình lại, sau khi các thang con cho tính minh
bạch và pháp trị được bỏ đi (xem chú thích 11 dưới đây).
11. Tôi đã tạo ra thang về minh bạch và pháp trị bằng cách rút ra các thang con
C2 (kiểm soát tham nhũng) và C3 (trách nhiệm giải trình và minh bạch) khỏi
thang các quyền chính trị và bốn thang con của F (pháp trị) khỏi thang các
quyền tự do dân sự. Về các khoản cụ thể trong các thang con này, xem
phương pháp luận Quyền tự do trên Thế giới, www.freedomhouse.org
/report/freedom-world-2014/methodology#.VGww5vR4qcI.
12. Francis Fukuyama, Political Order and Political Decay: From the Indus-
trial Revolution to the Globalization of Democracy (New York: Farrar,
Straus & Giroux, 2014). Xem cả tiểu luận của ông trong tập sách này.
13. Về Nga, xem Miriam Lanskoy and Elspeth Suthers, “Putin versus Civil
Society: Outlawing the Opposition,” Journal of Democracy 24 (July
2013): 74–87.
14. Xem tiểu luận của Andrew Nathan, “China’s Challenge,” on pp. 156–70
trong số kỷ niệm hai mươi lăm của Journal of Democracy.
118 LARRY DIAMOND
15. Christopher Walker and Robert W. Orttung, “Breaking the News: The
Role of State-Run Media,” Journal of Democracy 25 (January 2014): 71–
85.
16. Carl Gershman and Michael Allen, “The Assault on Democracy Assis-
tance,” Journal of Democracy 17 (April 2006): 36–51; William J. Dobson,
The Dictator’s Learning Curve: Inside the Global Battle for Democracy
(New York: Doubleday, 2012).
17. Darin Christensen and Jeremy M. Weinstein, “Defunding Dissent: Re-
strictions on Aid to NGOs,” Journal of Democracy 24 (April 2013): 77–91.
18. Xem các tiểu luận trong Larry Diamond and Marc F. Plattner, Liberation
Technology: Social Media và the Struggle for Democracy (Baltimore: John
Hopkins University Press, 2012) và công trình tiên phong đang diễn ra của
Citizen Lab, https://citizenlab.org/.
VỀ CÁC TÁC GIẢ
THOMAS CAROTHERS là phó chủ tịch về nghiên cứu tại Carnegie
Endowment for International Peace và là tác giả, gần đây nhất, của
Development Aid Confronts Politics: The Almost Revolution (với
Diane de Gramont, 2013) và Closing Space: Democracy and Human
Rights Support under Fire (với Saskia Brechenmacher, 2014).
LARRY DIAMOND là đồng biên tập sáng lập của Journal of
Democracy, senior fellow tại Hoover Institution và Freeman Spogli
Institute for International Studies tại Stanford University, và giám
đốc của Center on Democracy, Development, and the Rule of Law
của Stanford.
FRANCIS FUKUYAMA là Olivier Nomellini senior fellow tại Center
on Democracy, Development, and the Rule of Law tại Stanford.
Cuốn sách mới nhất của ông là Political Order and Political Decay:
From the Industrial Revolution to the Globalization of Democracy
(2014).
ROBERT KAGAN là senior fellow với Project on International Order
and Strategy tại Brookings Institution ở Washington, DC. Các
sách của ông gồm The World America Made (2012) và The Return of
History and the End of Dreams (2008).
STEVEN LEVITSKY là giáo sư về chính phủ tại Harvard University. Ông là
đồng tác giả, với Lucan Way, của Competitive Authoritarianism:
Hybrid Regimes after the Cold War (2010), và đồng biên tập, với
Kenneth M. Roberts, của The Resurgence of the Latin American Left
(2011).
MARC F. PLATTNER là đồng biên tập sáng lập của Journal of
Democracy, phó chủ tịch về nghiên cứu tại National Endowment for
Democracy (NED), và đồng chủ tịch của Research Council of NED’s
International Forum for Democratic Studies.
119
120 Về các Tác giả
PHILIPPE C. SCHMITTER, giáo sư emeritus ở Department of
Political and Social Sciences tại European University Institute, trước
kia đã dạy ở University of Chicago và Stanford University. Ông là
đồng biên tập (với Guillermo O’Donnell và Laurence Whitehead) của
chuỗi bốn tập sách có ảnh hưởng lớn Transitions from Authoritarian
Rule.
LUCAN WAY là phó giáo sư về khoa học chính trị tại University of
Toronto. Ông là đồng tác giả, với Steven Levitsky, của Competitive
Authoritarianism: Hybrid Regimes after the Cold War (2010), và tác
giả của Pluralism by Default and the Rise of Competitive Politics after
the Cold War (sắp ra).
INDEX
Afghanistan, 15, 88, 89
Ai Cập, 12, 90, 93, 111
AKP, Đảng Công lý và Phát triển (Thổ
Nhĩ Kỳ), 104–5
Albania, 64, 65
Algeria, 67
Allende, Salvador, 30
Alonso, Sonia, 56n
al-Sisi, Abdel Fattah, 111
Angola, 65, 67
Anh, nước, 27, 34
Arab Spring (Mùa xuân), 8, 11–12,
88, 112. Xem cả Trung Đông
Arab, các nhà nước, 115
Arbenz, Jacobo, 30
Argentina, 27, 28, 63, 73, 75n13, 109
Armenia, 68
Atatürk, Kemal, 104
Austria (Áo), 28, 34
Avritzer, Leonardo, 57n9
Azerbaijan, 66, 68, 84, 94
Ấn Độ, 12, 16, 26, 28, 73, 78, 98, 111, 115
Ba Lan, 27, 32, 34, 63, 64, 73, 74, 108
Bắc Triều Tiên, 71
Balaguer, Joaquín, 31
Balkans, 78
Bangladesh, 40, 68, 69, 103, 107,
111, 114, 116
bảo trợ (patronage), 14, 19
bảo vệ, các định chế (guardian institutions), 52
bầu cử (các cuộc), 79, 80, 83
bầu cử sơ bộ (trong đảng), party
primaries, 47. Xem cả đảng chính
trị
bầu cử, hệ thống, đa đảng, 101
Belarus, 65, 66, 67–68, 69
Benin, 64, 65, 73
Bertelsmann Chỉ số Biến đổi
(Transformation Index), 41,
59–61
Bismarck, Otto von, 35
Biya, Paul, 67
Bolivia, 28, 32, 61, 62, 71, 89, 106
Bongo, Omar, 67
Botswana, 105–6
Botswana, Đảng Dân chủ (BDP),
105
Bồ Đào Nha, 27, 30, 31, 32, 63, 98
bộ luật quyền tự do thông tin, 49
Bộ máy hành chính Xem Bộ máy quan
liêu
Bộ máy quan liêu theo Weber
(Weberian bureaucracies), 18
bỏ phiếu thông minh (smart voting),
50
bỏ phiếu tương tác (interactive
polling), 51
bổng lộc, hệ thống (spoils system),
19
Brazil, 12, 16, 26, 27, 28, 38, 62, 63,
64, 73, 78, 111
Bryce, James, 27
Bulgaria, 63
Burma, 67, 79
Burundi, 68, 69, 103
Bush (George W.) chính quyền, 89
Bush, George H. W., 31–32
Bush, George W., 92
Bush, Sarah, 86
Cách mạng Cam (Orange
Revolution), 15
Cách mạng hoa Cẩm chướng
(Carnation Revolution), 31, 98
Cách mạng Hoa Hồng (Rose
Revolution), 21
cách mạng màu (color revolutions),
89
Cai quản xem quản trị
cài răng lược (zipping), 48
Cẩm Chướng, Cách mạng hoa. Xem
Cách mạng hoa Cẩm chướng
Cambodia, 64, 65, 66, 67, 68
Cameroon, 65, 66, 67
Carothers, Thomas, 7–8, 100
122 Index
Carter, Jimmy, 31
Châu Á, quản trị ở, 109
Châu Âu: cách mạng 1848 ở, 34–35; công việc khó nhọc của dân chủ
ở, 90; phản ứng của các nhà
chuyên quyền (autocrat) với, 114; quản trị ở, 109; thách thức an
ninh cho, 93
Châu Phi hạ-Sahara, 11, 71, 72, 78,
107–8
Châu Phi, 63–65, 67, 107–9; Viện trợ
Trung Quốc cho, 112; đòi hỏi dân
chủ ở, 115. Xem cả Châu Phi hạ-
Sahara
Chávez, Hugo, 106
chế độ độc đoán (authoritarian
regimes, autocracies), 8, 18, 27,
35, 37; sự tan vỡ của, 63–66; sự
hồi sinh của, 8–10, 66–70,
112–13. Xem cả chế độ độc tài
chế độ: mô tả đặc trưng sai của, 64;
ổn định của, 115; phân loại của,
100–101, 106; thay đổi về, 60
Chiến tranh Lạnh, chuyển đổi từ, 59, 63, 64, 66–67, 71
Chile, 28, 32, 62, 63, 64, 73–74, 108, 111
chính trị: theo sau địa chính trị, 25;
quan tâm đến, 41; như một
nghề, 42
chủ nghĩa bảo trợ (clientelism), 14, 16, 19–20
chủ nghĩa cộng sản, cái chết của, 64. Xem cả Chiến tranh Lạnh,
chuyển đổi từ
chủ nghĩa đa nguyên do mặc định
(pluralism by default), 65
chủ nghĩa độc đoán
(authoritarianism), 5, 23; thách
thức cho, 115; cạnh tranh, 103;
sự sâu thêm của, 102
chủ nghĩa duy ý chí (voluntarism),
70, 71–72
chủ nghĩa phát xít, 27–28
chuẩn mực dân chủ (democratic
norm), 32–33
Chương trình Phát triển Liên Hiệp
Quốc (UNDP) Xem UN
Development Program
Clinton, Bill, 92
Colombia, 16, 28, 33, 73, 74, 98, 111
Congo-Brazzaville, 65, 67, 68, 69
Correa, Rafael, 106
Costa Rica, 98
công dân, bản chất của tư cách, 50
Cộng đồng Âu châu, xem European Community (EC)
Cộng hòa Trung Phi (Central
African Republic), 60, 65, 68,
69, 103
công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), 49–50, 92–93
Croatia, 62, 73, 74
Cuba, 70, 71
Czechoslovakia, 63
dân chủ (democracy), 3–5, 40, 44; bóp nghẹt, 106, 107; cải cách của,
45–53; chất lượng của, 45, 102;
chuyển đổi sang, 35; đáp trả khủng hoảng bởi, 10; định nghĩa,
44–45, 100–101; đo lường, 59–60,
100; đổi mới sáng tạo trong, 45–53; hấp dẫn (tính) của, 5;
hậu khai phóng, 53–54; ICT và, 49–50; khủng hoảng trong, 44; kỳ
vọng về, 59, 63–72; làm mất uy
tín của, 27; liên tục (thể) của, 100–101; lợi ích trong, 6, 62, 98–
99, 115–16; mong muốn, 39; nghi
ngờ về, 7–10; ổn định của, 59, 62; phân tích cấu trúc luận của,
71–72; quản trị và, 6–7; suy thoái
của, 25–26, 39, 40–42, 100, 102–
7; tính chính đáng của, 5; tương
lai của, 10, 37; thúc đẩy, 64, 92–
93, 114; trì trệ của, 6, 11, 87–88
dân chủ hóa: đổ vỡ độc đoán bị đánh
đồng với, 63–64; làn sóng thứ ba của, 3, 11, 29–30, 31–34, 63, 98,
102; không chắc có khả năng về, 71
dân chủ nhân dân, 43
dân chủ Tây phương rút lui (retreat of
Western democracy), 90–94,
102, 113–14
dân chủ, các nền: các năm giữa
chiến tranh của, 26–27; cấu tạo
nhân khẩu học của, 42–43; chất
lượng của, 18; đại diện trong, 43; đe dọa toàn cầu đối với, 74; định chế của
~ khai phóng, 13; ép buộc trong, 20, 21; làn sóng đảo ngược của,
28–29; lòng yêu mến tới, 29;
Index 123
nhà nước hiện đại và, 19; ổn định hóa của, 115–16; phát triển kinh
tế và, 19–20; quản trị
(governance) và, 16, 18–19, 22; quyền bỏ phiếu trong, và sự sống sót
của, 19; rắc rối của ~ Tây phương,
90–91, 94, 102; Scandinavian, 56n7; số của, 59–60, 61; sụp đổ
của, 26–27; sức mạnh gần đây
của, 37; tài liệu tham khảo về chuyển đổi sang,17; tính chính đáng
(legitimacy) của, 15, 16, 43, 45;
thúc đẩy của, 22 (xem cả viện trợ dân chủ)
Democracy in America (Tocqueville), 4
Diamond, Larry, 3, 4, 5, 6, 11, 31, 32, 69
Dominica, Cộng hòa, 31, 32, 73
duy ý chí, chủ nghĩa Xem chủ nghĩa
duy ý chí
đa dạng, tính, sự thích nghi của các
nền dân chủ với, 43
đa nguyên, chủ nghĩa Xem chủ nghĩa
đa nguyên
đại diện bằng bốc thăm
(representation by lot), 51
đại diện, 43
đại diện, vấn đề về (problem of
agency), 54
Đài Loan, 19–20, 32, 73, 74, 78, 111
đảng chính trị, các, 22, 41, 43, 47–48,
79, 101, 116
đảo chính (coup), 29, 106
địa chính trị, chính trị theo sau, 25
điều tiết độc lập, các cơ quan (independent regulatory
agencies), 52
định chế toàn cầu, 53
đỡ đầu Xem bảo trợ
độc tài, các chế độ, 38; cơn bão hoàn hảo cho, 64–65; chuyển đổi từ,
22; quan điểm của Mỹ về, 30–31.
xem cả chế độ độc đoán
Đối tác Chính phủ Mở (Open
Government Partnership), 18
Đông Á, 93
Đông Âu, 11, 33–34, 78
Đức, 27, 28, 34
EC. Xem Cộng đồng châu Âu
Economist Intelligence Unit, 41, 59–
61
Ecuador, 28, 32, 61, 62, 106
e-democracy (dân chủ điện tử), 50
e-government (chính phủ điện tử), 50
El Salvador, 32, 71, 73, 89
Erdoğan, Recep Tayyip, 105
Eritrea, 71
Estonia, 27
Ethiopia, 71, 90, 91, 111
EU xem Liên Hiệp Âu châu
Eurasia (Âu Á), 40
Eurasian Union (Liên Hiệp Âu Á), 16
European Community (EC), 29–30
European Stability Initiative (Sáng kiến Ổn định Âu châu), 84
Fiji, 41, 75n13, 103
Franco, Francisco, 27, 28
Freedom House, 72, 104, 107, 108,
116–17n5; chủ nghĩa lạc quan
của, 65, 68, 69; khảo sát của , 3,
5, 11, 26, 40–41, 58–62, 99–102
Freedom in the World, 3
Fujimori, Alberto, 104
Fukuyama, Francis, 6, 25, 109
Gabon, 65, 66, 67, 68
Gambia, 60
Georgia, 12, 21, 64, 65, 66, 89, 99, 103
Ghana, 62, 71, 73, 74, 109, 115
gia sản mới, chủ nghĩa
(neopatrimonialism), 14, 109–
10
Giáo hội Công giáo (Catholic
Church), 29
Global Resurgence of Democracy, The (Journal of Democracy), 8
Grenada, 31, 32
Guatemala, 32
Guinea-Bissau, 41, 60, 65, 68, 69, 103
Guyana, 73, 75n13
Haiti, 64, 68, 69
Hamilton, Alexander, 13
Hàn Quốc, 28, 32, 73, 108, 111
124 Index
hệ thống thị trường tự do, 32
Helsinki, Hiệp ước 31
Hoa Hồng, Cách mạng, 21
Hoa Kỳ, 20, 27, 64, 67, 74, 88; chính
sách đối ngoại của, 30–31; dính líu
đến các chuyển đổi dân chủ, 31–32;
giảm bớt chi tiêu ở, 26; hoạt
động của dân chủ ở, 12, 90-91,
102, 113–14; ngăn chặn các
cuộc đảo chính quân sự, 33;
quyền lực cảnh sát ở, 20; ~ tập trung
vào ổn định chính trị, 93; ủng
hộ có điều kiện của ~ cho dân
chủ, 30; ưu thế của, 9; vai trò
quốc tế của ~ trong thúc đẩy
dân chủ, 35–36, 37; vai trò của ~
trong làn sóng dân chủ hóa thứ
ba, 30
Hobson, John A., 27
Hội đồng châu Âu, 8, 45, 84
Hội đồng Vatican Thứ hai, Xem
Second Vatican Council
Honduras, 32, 61, 62, 103, 106
Hong Kong, 12
Hun Sen, 66, 67
Hungary, 34, 38, 49, 61, 62, 63, 64, 88, 89, 93
Huntington, Samuel P., 3, 6, 11, 13,
22, 23, 28, 29, 30, 32, 98
Hy Lạp, 28, 30, 63
ICT. Xem công nghệ thông tin và
truyền thông
Index of Democracy, 41
Indonesia, 28, 62, 73, 78, 111, 114, 115
International Foundation for Election Systems, 78
International Institute for
Democracy and Electoral
Assistance, 78
International Monetary Fund, 53
Iran, 8, 63, 71, 91, 115, 116
Iraq, 12, 15, 88, 89, 93
Israel, 98
Italy, 27, 28, 34
Ivanishvili, Bidzina, 21
Jordan, 60, 65, 68
Journal of Democracy, 3–4, 8–9, 11,
17, 23, 58, 70, 72
Kaczyński, Lech, 74
Kagan, Robert, 9
Karl, Terry, 44
Kazakhstan, 65, 68, 70
Keane, John, 56n
Kenya, 65, 103
Khama, Ian, 105–6
khoảnh khắc dân chủ (democratic moments), 68–70
Khổng Tử, các Viện (Confucius
Institutes), 112
Kurlantzick, Joshua, 58
Kyrgyzstan, 65, 68, 89
làn sóng thứ ba. Xem dân chủ hóa:
làn sóng thứ ba của
Lào, 71
Latvia, 27
Levitsky, Steven, 5, 99, 100, 105
Liberia, 64, 99
Libya, 12, 63, 93, 112
Liên Hiệp Âu châu (European Union), 12, 38, 50, 53, 64, 67, 74
Liên minh Cam (Orange Coalition),
15, 16
Liên Xô, 25, 28, 31, 33, 64, 65
Liên Xô, trước kia, 11, 21, 63, 64, 65,
67, 72, 78, 89, 93
Lissouba, Pascal, 69
Lithuania, 27
luật, thi hành, 21. xem cả pháp trị
Lukashenka, Alyaksandr, 67–68
Macapagal-Arroyo, Gloria, 111
Madagascar, 64, 65, 66, 68, 69, 103,
106
Mainwaring, Scott, 106
Malawi, 65, 66, 99
Malaysia, 71, 111, 115
Maldives, 103
Mali, 61, 62, 65, 88–89, 103
Mann, Michael, 14
Marcos, Ferdinand, 30, 31
Marx, Karl, 4
Index 125
Mauritania, 41
Merkel, Wolfgang, 56n
Mexico, 16, 38, 62, 73, 74, 75n15, 111
Michels, Robert, 43
minh bạch, 18–19, 22, 108–9
Modi, Narendra, 16
Moldova, 65
Mongolia, 71, 73, 99
Morales, Evo, 106
Mossadegh, Mohammad, 30
Mozambique, 65, 67
Mông Cổ Xem Mongolia
Mubarak, chế độ, 111
Mussolini, Benito, 27, 28
Mỹ Latin, 6, 11, 16, 31, 72, 73, 78, 93,
109
Nam Hàn Xem Hàn Quốc
Nam Mỹ, 36, 63, 73
Nam Phi, 26, 73, 108, 111, 115
Nathan, Andrew J., 8
National Democratic Institute
(US), 95
National Endowment for
Democracy (NED; US), 78
Ndayizeye, Domitien, 69
Nepal, 62, 103, 106
Nga, 8, 10, 26, 40, 68, 74, 88, 90, 91,
103; chính trị ở, 65, 66, 67; chủ
nghĩa độc đoán tăng lên ở, 16,
28, 37, 111, 112; dân chủ ở, 88,
106; như nền dân chủ, 104; ở
Âu-Á (Eurasia), 11
Ngân hàng Thế giới Xem World Bank
ngân hàng trung ương (central
bank), 52
ngân sách tham gia, lập
(participatory budgeting), 18,
47
ngân sách, tham gia lập
(participatory budgeting), 47
NGO. Xem tổ chức phi chính phủ
nhà nước đu đưa, các (swing states),
102, 111
nhà nước hiện đại, 6, 13, 14–15, 17–
18, 19, 23
Nhà nước Islamic ở Iraq và Syria
(ISIS), 8, 12, 15
nhà nước, 13; ép buộc và, 14;~ gia
sản, 13–14; hiện đại, 13; năng
lực của, 17–18; phát triển của,
15; tăng cường các định chế
trong, 79; tính hiện đại của các
nền dân chủ và, 19
nhân dân, dân chủ, 43
Nhật Bản, 27, 28
Nicaragua, 61, 103, 106
Niger, 41, 65, 68, 69, 103
Nigeria, 29, 111
Nixon, Richard, 30
Noriega, Manuel, 32
Norway, 89
NOTA (“None of the Above-Chẳng
Ai trong số Trên”), 47
O’Donnell, Guillermo, 73
OAS. Xem Tổ chức của các Nhà
nước châu Mỹ
Obama, Barack, 26, 93
Obama, chính quyền, 93
Ortega, Daniel, 106
OSCE. Xem Tổ chức An ninh và
Hợp tác châu Âu
Pakistan, 28, 62, 111
Panama, 31–32, 33
partitocrazia, chế độ đảng chi phối
55n2
Pendleton, bộ Luật (US; 1883), 20
Pérez-Liñán, Aníbal, 106
Peru, 28, 32, 62, 73
phân quyền (decentralization), 48
phân tích cấu trúc luận
(structuralist analysis), 71–72
pháp trị (rule of law), 13, 14, 21; đo
lường, 108–9; phát triển của, 81;
ủng hộ cho, 85
Pháp, 27, 34
Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ, Cơ quan
Xem USAID
phát triển, định nghĩa, 84
Philippines, 28, 32, 33, 61, 62, 78,
103, 111, 115
phụ nữ, hạn ngạch cho (quotas for
women), 48
126 Index
Political Order in Changing Societies
(Huntington), 21
Polity, 59–61, 101
Puddington, Arch, 58–59, 70
Putin, Vladimir, 16, 28, 67, 104, 111
Qatar, 91
quản trị (governance), 22, 45; các nền
dân chủ và, 16, 18–19, 22; chất lượng của, 6–7, 108–9; lập
chương trình cho, 90
Quốc hội Âu châu, 84
quốc tịch, 50
Quỹ Dân chủ Liên Hiệp Quốc Xem
UN Democracy Fund
quyền lực (power), 14, 48
quyền lực hành pháp (executive power), 41
quyền lực mềm (soft power), 8
quyền tự do: giảm sút của, 107–10; mức (các) của, 99, 115
Radio Tự do châu Âu/Radio Tự do,
31
Reagan, chính quyền, 31
Reagan, Ronald, 30, 31
Romania, 34, 73
Roosevelt, Theodore, 20
RT (kênh TV Nga), 112
Rumani Xem Romania
Rwanda, 91
Saakashvili, Mikheil, 21
sáng kiến, các, 45
Saudi Arabia, 8, 91, 111
Schmitter, Philippe, 73
Second Vatican Council, 29
Sen, Amartya, 85
Senegal, 62, 75n15
Serbia, 62, 73
Shefter, Martin, 19
Sierra Leone, 66, 99
Singapore, 15, 71, 111, 115
Slovakia, 73
Solomon Islands, 75n13, 103
Sri Lanka, 61, 73, 88, 98, 103
Stalin, Joseph, 28
Sunshine, Jonathan, 38n14
sức mạnh mềm Xem quyền lực
mềm
Syria, 12
Tajikistan, 64, 66, 68
Tanzania, 65
Tây Ban Nha, 27, 28, 30, 63, 64
Taylor, A. J. P., 35
Thái Lan, 61, 62, 71, 73, 74, 88,
103,106, 111, 114, 116
tham nhũng (corruption), 15, 16, 17, 21thần quyền, các chế độ
(theocracies), 26
thể chế hóa (institutionalization),
12
thiểu số, sự phân biệt chống lại, 48
Thổ Nhĩ Kỳ, 12, 26, 28, 62, 71, 78, 90,
98, 103, 104–5, 111, 114, 116
Thời Xuân của Nhân dân
(Springtime of the Peoples),
34–35
Thụy Điển, 85
Tiếng nói Koa Kỳ, đài Xem VoA
Tiểu Vương quốc Arab Thống nhất, các Xem
United Arab Emirates
Tilly, Charles, 18
tin cậy, sự suy giảm về (decline in
trust), 41
Tổ chức An ninh và Hợp tác châu
Âu (OSCE), 8, 78
Tổ chức của các Nhà nước châu
Mỹ (OAS), 8, 78
Tổ chức Hợp tác Thượng Hải
(Shanghai Cooperation
Organization), 112
tổ chức phi chính phủ (NGO), 18,
78, 79, 84, 113
Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) Xem World Trade
Organization
toàn cầu hóa, 42
toàn trị, các nhà (totalitarians), 26.
Xem cả chế độ độc đoán
Tocqueville, Alexis de, 4, 45, 56n6
Trách nhiệm giải trình
(accountability), 12, 13, 18–19,
51–52
Index 127
trách nhiệm giải trình dọc (vertical
accountability), 51
trách nhiệm giải trình ngang
(horizontal accountability), 52
trách nhiệm giải trình xiên (oblique
accountability), 51
Trechsel, Alexander, 45
Triều Tiên, 32
Trung Á (Central Asia), 70, 71, 89
Trung Âu (Central Europe), 33–34,
63, 72, 73, 78
trưng cầu dân ý, 45
Trung Đông, 9, 31, 36, 70, 72, 78, 93.
Xem cả Mùa xuân Arab
Trung Mỹ (Central America), 38.
Xem cả Mỹ Latin
Trung Quốc, 9–10, 11, 18, 26, 71, 90, 111, 115; thiếu dân chủ hóa ở, 70, 74, 112; ngoại giao của, 8, 91; ảnh
hưởng của, 67; cung cấp các dịch
vụ, 15
Tunisia, 12, 62, 79, 112, 116
Turkmenistan, 65, 68
Ukraine, 65, 66, 75n14, 89, 103, 107,
111, 114; Nga xâm lấn vào, 10, 26;
phong trào dân chủ ở, 12, 15,
22, 116
UN Democracy Fund, 78
UN Development Program, 78
United Arab Emirates, 91, 111
Uribe, Alvaro, 74
Uruguay, 27, 28, 32, 63
US Agency for International
Development (USAID), 78, 89,
93
USAID Xem US Agency for
International Development
ủy ban tương lai, 49
Uzbekistan, 65, 68
“vùng xám” các nước, 100, 106
Venezuela, 8, 28, 61, 62, 71, 73, 74,
91, 98, 103, 106, 111, 112, 116
Vieira, João Bernardo, 6
viện trợ dân chủ, 91–92, 94–96; chiến
lược đặc thù từng nước cho, 81–82, 84–85; đẩy ngược chống lại,
89–90; giám sát ~, 85–86; kinh tế
học của, 86; khung khổ cho, 79–80; nguồn của, 77–78; nhận
(người), 78; tiến hóa của, 77–
78, 80, 83; thách thức cho, 87–94; tranh cãi về, 79; trì trệ dân
chủ và , 87–88; ủng hộ yếu đi
cho, 91–93; viện trợ kinh tế xã hội và, 82–83, 85
viện trợ, ngành (aid industry), 85–86
viện trợ kinh tế xã hội, 83-84
Việt Nam, 71, 115
VoA Xem Voice of America
Voice of America, 31
Way, Lucan, 5, 99, 100, 105
Wilson, Woodrow, 20
World Bank, 53
World Trade Organization, 53
WTO Xem World Trade
Organization
xã hội dân sự, các tổ chức, 22
xã hội dân sự, sự ủng hộ cho, 50, 79, 80, 84–85, 113
xã hội gia sản, các (patrimonial
societies), 13–14
xây dựng nhà nước (state-
building), 6–7, 15
Yala, Kumba, 69
Yanukovych, Viktor, 15–16, 107
Yeltsin, Boris, 66, 104
Yemen, 12
Youngs, Richard, 97n4
Yushchenko, Viktor, 15–16
Zaire, 64, 65, 66
Zambia, 65