36
369 HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG CHO CÁC THỊ TRƯỜNG HÀNG HA CƠ BẢN PGS. TS Ngô Trí Long Giá cả là trung tâm, luôn là vấn đề nhạy cảm, phức tạp của nền kinh tế. Giá cả trong nền kinh tế thị trường được mang nhiều tên gọi khác nhau, đó là: Giá cả, cước, phí, lệ phí, tiền thuê, lãi suất, tỷ giá, học phí... Giá cả trong cơ chế thị trường là “đòn bẩy” kinh tế, có tính hai mặt: tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực của giá cả được coi là một hệ thống tín hiệu khách quan trên thị trường. Giá cả là những thông tin đáng tin cậy để định hướng sản xuất, đầu tư; đồng thời để giám sát sản xuất, phát hiện hiệu quả của sản xuất, cung cấp những thông tin có căn cứ chính xác về hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng mặt hàng; tác động làm thay đổi cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, tổ chức sắp xếp lại sản xuất dưới sự kiểm soát của thị trường. Giá cả là lợi ích kinh tế, nên nó có tác động mạnh đến việc đổi mới công nghệ, tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất, hạ giá thành, khuyến khích sản xuất phát triển, góp phần tích cực vào việc phân bổ nguồn lực của đất nước; phân phối và phân phối lại sản phẩm trong nền kinh tế. Tuy nhiên, bản thân giá cả thị trường vốn chứa đựng mâu thuẫn. Do tính tự phát điều tiết vốn có, giá thị trường có thể khuyến khích sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế nếu có hệ thống giá hợp lý. Nhưng ngược lại, nếu hệ thống giá cả vận hành không hợp lý cũng có thể dẫn đến suy thoái, khủng hoảng và thậm chí phá hủy cả một hệ thống kinh tế. Bởi vì, nếu tự phát điều tiết nó có thể phân bổ nguồn lực của nền kinh tế không đúng : Do giá cả quyết định lợi nhuận, lợi nhuận sẽ đưa nhà sản xuất kinh doanh đến các khu vực sản xuất các hàng hóa, dịch vụ người tiêu dùng cần nhiều hơn mà bỏ

HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

  • Upload
    lythien

  • View
    227

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

369

HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG CHO CÁC THỊ TRƯỜNG HÀNG HOA CƠ BẢN

PGS. TS Ngô Trí Long

Giá cả là trung tâm, luôn là vấn đề nhạy cảm, phức tạp của nền kinh tế. Giá cả trong nền kinh tế thị trường được mang nhiều tên gọi khác nhau, đó là: Giá cả, cước, phí, lệ phí, tiền thuê, lãi suất, tỷ giá, học phí...

Giá cả trong cơ chế thị trường là “đòn bẩy” kinh tế, có tính hai mặt: tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực của giá cả được coi là một hệ thống tín hiệu khách quan trên thị trường. Giá cả là những thông tin đáng tin cậy để định hướng sản xuất, đầu tư; đồng thời để giám sát sản xuất, phát hiện hiệu quả của sản xuất, cung cấp những thông tin có căn cứ chính xác về hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng mặt hàng; tác động làm thay đổi cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, tổ chức sắp xếp lại sản xuất dưới sự kiểm soát của thị trường. Giá cả là lợi ích kinh tế, nên nó có tác động mạnh đến việc đổi mới công nghệ, tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất, hạ giá thành, khuyến khích sản xuất phát triển, góp phần tích cực vào việc phân bổ nguồn lực của đất nước; phân phối và phân phối lại sản phẩm trong nền kinh tế. Tuy nhiên, bản thân giá cả thị trường vốn chứa đựng mâu thuẫn. Do tính tự phát điều tiết vốn có, giá thị trường có thể khuyến khích sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế nếu có hệ thống giá hợp lý. Nhưng ngược lại, nếu hệ thống giá cả vận hành không hợp lý cũng có thể dẫn đến suy thoái, khủng hoảng và thậm chí phá hủy cả một hệ thống kinh tế. Bởi vì, nếu tự phát điều tiết nó có thể phân bổ nguồn lực của nền kinh tế không đúng : Do giá cả quyết định lợi nhuận, lợi nhuận sẽ đưa nhà sản xuất kinh doanh đến các khu vực sản xuất các hàng hóa, dịch vụ người tiêu dùng cần nhiều hơn mà bỏ

Page 2: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

370

qua những vấn đề về lợi ích công cộng của xã hội và cũng từ đó có thể dẫn đến sản xuất, đầu tư trùng lắp, kém hiệu quả, đưa lại cơ cấu sản xuất luôn thay đổi vì mục tiêu lợi nhuận. Trong phân phối và phân phối lại có thể làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội do tình trạng độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh…

Để phát huy những mặt tích cực, hạn chế tiêu cực của giá cả trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước cần tạo lập thể chế phân cấp xác định giá cho các loại thị trường, phù hợp với sự hình thành giá của từng loại thị trường trong nền kinh tế thị trường.

1. Thể chế xác đinh giá ca cho các thi trường hàng hóa nhin tư góc đô phân cấp đinh giá trong nền kinh tế thi trường

Lý thuyết về thể chế nói chung và thể chế kinh tế nói riêng rất phong phú và được phát triển dựa trên nhiều tư tưởng nhiều học thuyết, trải qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau và cho đến nay vẫn đang được hoàn thiện. Thể chê kinh tê là hệ thống những quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tê, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tê. Thể chế kinh tế bao gồm : các đạo luật, luật lệ, quy định, quy tắc,... về kinh tế gắn với cơ chế vận hành nền kinh tế, các chế tài xử lý vi phạm của các tổ chức kinh tế.

Trong một bài viết đầu năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói khá rõ và đầy đủ về thể chế chính trị và thể chế kinh tế ở Việt Nam cũng như hướng cải cách các thể chế này nhằm tạo ra động lực tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Vấn đề nằm ở chỗ, làm sao phân biệt được thể chế tốt và thể chế xấu. Ví dụ trong cơ chế kinh tế cũ - cơ chế kế hoạch hóa tập trung, giá cả đều do Nhà nước định, làm mất đi bản chất kinh tế của giá cả. Thể chế xác định giá cả đó là cơ chế giá tập trung mệnh lệnh, cao độ hóa, hành chính hóa được tán dương, còn nhìn dưới góc độ kinh tế thị trường là không phù hợp.

Phân cấp thể chế xác định giá cả các loại thị trường hàng hóa theo cơ chế thị trường là một trong những cấu thành của phân cấp quản lý nhà nước về kinh tế trong lĩnh vực giá cả. Đây là một vấn đề có nội

Page 3: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

371

dung quan trọng quá trình quản lý nền kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt đối với VN là một nền kinh tế chuyển đổi. Công cuộc đổi mới ở VN theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN được xây dựng và thực thi chính là nhằm mục đích làm cho “thị trường” và “Nhà nước” trở thành hai yếu tố bổ sung cho nhau, chứ không phải thay thế, loại trừ nhau. Trong đó hướng tới mục tiêu xây dựng nền kinh tế phát triển bền vững, đòi hỏi phải cải cách, tăng cường phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền và giữa Nhà nước với thị trường.

Phân cấp là một thuật ngữ để chỉ sự phân định về các quyền và trách nhiệm thực thi các nhiệm vụ theo cấp chính quyền và cấp hành chính. Đối với các quốc gia đang trong tiến trình chuyển đổi mô hình kinh tế, phân cấp còn chỉ rõ quyền hạn của Nhà nước và thị trường. Thực chất phân cấp trong nền kinh tế thị trường chính là phân cấp về thẩm quyền quyết định cái gì với phạm vi và mức độ đến đâu và bằng điều kiện gì giữa Nhà nước và Thị trường.

Phân cấp thể chế xác định giá cả các loại thị trường theo cơ chế thị trường là làm rõ sự phân định về quyền định giá giữa hai trụ cột của nền kinh tế thị trường đó là Nhà nước (TƯ, Địa phương) và Thị trường đối với từng loại thị trường (cạnh tranh; cạnh tranh-độc quyền; độc quyền; độc quyền- cạnh tranh)

Nguyên tắc phân cấp về xác định giá cả đối với từng loại thị trường không phải là quá trình phân chia quyền lực giữa Nhà nước (TW, địa phương) và Thị trường, cũng không phải là phân chia lợi ích giữa Nhà nước (TW, địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới) và thị trường. Phân cấp về thể chế xác định giá cho các loại thị trường đúng, sẽ phát huy tác dụng của giá cả trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, trước hết là mục tiêu sản lượng và trong việc thực hiện công bằng xã hội. Khi tiên hành phân cấp về thể chê xác định giá đối với từng loại thị trường, nêu không giải quyêt đuợc thỏa đáng lợi ich giữa Nhà nước - Doanh nghiệp và Người tiêu dung sẽ dẫn đên nguy cơ mất đi sự công bằng xã hội, mất ôn định về chinh trị, xã hội sẽ gây ra những rủi ro và hệ lụy cho nền kinh tê.

Page 4: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

372

Một trong những vấn đề cơ bản nhất của quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kinh tế kế hoách hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường là thay đổi vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội. Thực chất phân cấp thể chế xác định giá cả đối với từng loại thị trường là phân cấp kinh tế (phân cấp thị trường). Cách tiếp cận khi phân cấp này tập trung chủ yếu việc phân chia nhiệm vụ, chức năng của Nhà nước (TW, Địa phương) và thị trường về xác định giá cả. Những loại thị trường nào thì Nhà nước cần phải định giá và loại thị trường nào để cho thị trường tự điều tiết và quyết định. Việc phân cấp này phải phù hợp với sự hình thành và vận động của giá cả trên từng (loại) hình thái thị trường, phù hợp với cơ chế thị trường.

Bản chất của kinh tế thị trường là kinh tế cạnh tranh. Trong quá trình cạnh tranh, nẩy sinh độc quyền. Cạnh tranh và độc quyền là 2 nội dung cơ bản, luôn tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Do vậy, trong nền kinh tế thị trường không phải chỉ có một loại thị trường cạnh tranh mà có nhiều loại thị trường.

Việc phân loại thị trường có nhiều tiêu thức khác nhau : theo không gian, theo đặc điểm và tính chất hàng hóa trong quá trình tái sản xuất. Tuy nhiên, việc phân loại thị trường để nghiên cưu trong việc phân cấp thể chê xác định giá cả đối với các loại thị trường là phân loại dựa theo quan hệ cung - cầu trên thị trường. Bởi giá cả hình thành, phụ thuộc rất lớn vào quan hệ cung cầu, song tuỳ theo từng (loại) hình thái thị tr ường mà việc hình thành của giá cả có những điểm khác nhau. Dựa trên quan hệ cung - cầu thị trư ờng để nghiên cứu sự hình thành của giá cả theo từng dạng thị trư ờng, dựa vào 2 tiêu thức sau để phân loại thị trường: Một là, vị tri chiêm được của người bán (cung) và ng ười mua (cầu) trên thị tr ường. Hai là, số l ượng ng ười bán (cung) và ng ười mua (cầu) trên thị tr ường.

Từ hai tiêu thức đó, dựa vào sơ đồ sau chúng ta thấy trong nền kinh tế thị trường có các loại thị trư ờng sau:

Page 5: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

373

Người bán

Ngư ời muaMột Một số Nhiều

MộtĐộc quyền

(tay đôi)

Độc quyền mua không hoàn hảo

Độc quyền mua

Một sốĐộc quyền bán không

hoàn hảoĐộc quyền song phư-

ơng

Cạnh tranh - Độc quyền

(Cạnh tranh không hoàn hảo)

NhiềuĐộc quyền

bán

Độc quyền

cạnh tranh

Cạnh tranh hoàn hảo

(thuần tuý)

Như vậy, trong nền kinh tế thị trư ờng nếu xem xét chi tiết ở vị thế chiếm lĩnh thị phần trên góc độ hình thành giá cả có tất cả 9 dạng (loại) thị trư ờng. Song trên thực tế các dạng thị trư ờng phổ biến chiếm tỷ trọng lớn và th ường hay gặp có thể khái quát thành 3 dạng thị trường cơ bản sau: Thị tr ường cạnh tranh hoàn hảo; Thị trư ờng độc quyền; Thị trư ờng vừa cạnh tranh vừa độc quyền (cạnh tranh và độc quyền). Chúng ta sẽ xem xét sự hình thành giá cả của 03 loại thị tr ường đã nêu ở trên.

1.1 Sự hình thành giá cả trên thị trư ờng cạnh tranh hoàn hảo.

Thị tr ường cạnh tranh hoàn hảo là thị trư ờng không có một ngư ời sản xuất hay tiêu dùng nào chiếm một thị phần lớn trên thị trư ờng để có thể gây ảnh h ưởng đến giá cả thị trư ờng.

Đăc tr ưng của thị tr ường cạnh tranh hoàn hảo là:

- Số ngư ời tham gia mua bán loại sản phẩm nào đó trên thị tr ường t ương đối lớn. Do vậy, vị trí chiếm đ ược của ngư ời mua hoặc ngư ời bán chỉ chiếm thị phần nhỏ trong tổng cung, cầu hàng hoá đó và không có ảnh hư ởng đến giá mua bán;

- Hàng hoá mua, bán và phư ơng thức phục vụ trên thị trư ờng về cơ bản là đồng nhất;

- Không có những hạn chế đối với l ượng cung và lư ợng cầu;

- Việc gia nhập hay rút lui khỏi thị trường là hoàn toàn tự do và dễ dàng;

Page 6: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

374

- Tất cả các cá nhân tham gia thị trư ờng đều am hiểu về thị trư ờng và giá cả.

Trên thực tế hình thái thị tr ường cạnh tranh hoàn hảo hầu như tồn tại không nhiều do thị trư ờng hàng hoá và dịch vụ không đáp ứng đầy đủ các đặc tr ưng trên. Mặc dù vậy, nghiên cứu thị trư ờng cạnh tranh hoàn hảo cung cấp những khởi điểm đơn giản để có thể xem xét phân tích trong một số hàng hoá - dịch vụ có tính cạnh tranh cao, chủ yếu là hàng công nghiệp tiêu dùng.

Trên thị trư ờng này, do mỗi cá nhân tham gia thị tr ường chiếm một thị phần nhỏ trong tổng cung (hoặc cầu), nên không có ảnh hư ởng đến giá cả hàng hoá. Giá cả hàng hoá và dịch vụ ở dạng thị tr ường này do thị trường quyết định. Ngư ời sản xuất hay tiêu dùng các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ không thể mua (hay bán hàng) cao hay thấp hơn mức giá thị tr ường. Do vậy để tối đa hoá lợi nhuận, các doanh nghiệp phải điều chỉnh lượng sản phẩm cung ứng ra thị trư ờng sao cho tối ư u nhất. Để làm đư ợc điều này, các doanh nghiệp phải phân tích thực trạng sản xuất của chính bản thân và nhu cầu thị trư ờng, xác định khối lư ợng sản phẩm sản xuất tối ư u để đạt đư ợc lợi nhuận tối đa.

Như vậy, trên thị trư ờng cạnh tranh hoàn hảo, giá cả do thị trường quyêt định. Giá cả hình thành đó là giá cả thị trường, các doanh nghiệp sản xuất cũng như người tiêu dung hoàn toàn không thể quyêt định giá cả. Mặc dù, trên thực tế hầu như không có loại hàng hoá và dịch vụ nào đạt tới cạnh tranh hoàn hảo. Song, rất nhiều loại hàng hoá thuộc nhóm này có tính cạnh tranh rất cao như : hàng may mặc sẵn, giầy dép, hàng gia dụng,... Các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng này không quyết định đến giá cả thị trư ờng. Bất kỳ sự tăng hay giảm sản lượng, sự gia nhập hay rút lui khỏi thị trư ờng của các doanh nghiệp trong thị trư ờng này đều không gây biến động lên xuống của giá cả thị tr ường. Nhận thức đúng vấn đề này, Nhà nư ớc không nên can thiệp trực tiêp (định giá) vào giá cả hàng hoá ở thị trường này, mà hoàn toàn để cho thị trường quyêt định. Việc áp đặt, quy định mức giá cho hàng hoá và dịch

Page 7: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

375

vụ thuộc dạng thị trư ờng này sẽ dẫn đến tính phi kinh tế trái quy luật hình thành của giá cả và phi hiệu quả trong quản lý, điều hành sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.

Đặc điểm hình thành giá cả hàng hoá và dịch vụ trong dạng thị tr-ường cạnh tranh hoàn hảo có vai trò tích cực trong việc kích thích các doanh nghiệp cải tiến sản xuất, giảm giá thành, tăng sản l ượng cung ứng, đáp ứng ngày càng cao và đầy đủ hơn nhu cầu của con ngư ời. Hơn nữa, việc cạnh tranh trong dạng thị tr ường này thúc đẩy sản xuất và xã hội phát triển. Do vậy, cần có cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ - loại hàng liên quan trực tiếp đến đời sống và trình độ phát triển xã hội - rất có ý nghĩa trong chiến lư ợc phát triển sản xuất và kinh tế đất n ước.

1.2. Sự hình thành giá cả trên thị tr ường độc quyền

Thị tr ường độc quyền là thị trư ờng chỉ có một ngư ời bán (hoặc một ng ười mua) hoặc một số ngư ời bán (ngư ời mua) đủ ít để cho hoạt động của một ng ười hoặc một số ng ười ảnh hư ởng đến tổng cung (hoặc tổng cầu) và giá cả hàng hoá.

Đăc tr ưng của dạng thị tr ường này là:- Cá nhân ng ười bán (hoặc ngư ời mua) chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cung (hoặc cầu) của thị trư-ờng; - Ngư ời bán (ngư ời mua) có thể kiểm soát đư ợc lượng cung (hoặc cầu) trên thị trư ờng;- Hoạt động của từng cá nhân có ảnh hư ởng trực tiếp đến giá cả. Chỉ có một số ít hàng hoá và dịch vụ thuộc dạng thị trường này. Đó là loại hàng hoá và dịch vụ có vị trí độc quyền tự nhiên và do cơ chế, chính sách của Chính phủ, ví dụ ở n ước ta như : điện, n ước sạch... Do vị trí độc quyền, hầu hết các doanh nghiệp này là doanh nghiệp lớn, có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế.

Do là ngư ời bán (mua) duy nhất hoặc chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cung (cầu) hàng hoá, nên các doanh nghiệp độc quyền có ảnh hư ởng lớn đến thị trư ờng

Giá cả trên thị tr ường độc quyền đ ược hình thành do nhà độc quyền kiểm soát được cung (cầu), nên ho quyêt định đư ợc giá cả. Họ

Page 8: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

376

có thể tăng giá bán hàng bằng cách giảm cung, tạo nên sự khan hiếm hàng hoá.

Để duy trì đ ược lợi nhuận độc quyền cao, họ luôn định giá cao hơn chi phí sản xuất bình quân. Tuy nhiên mục đích của các nhà độc quyền là tối đa hoá lợi nhuận, họ có thể kiểm soát được giá cả như ng không thể nâng giá lên vô hạn đ ược. Chính vì vậy, để tối đa hoá lợi nhuận, doanh nghiệp áp dụng lý thuyết cận biên (doanh thu biên bằng chi phí biên) cho hoạt động sản xuất cũng như kiểm soát giá cả của mình. Nhà độc quyền có thể áp dụng việc phân biệt giá theo đối tư ợng sử dụng hoặc nâng giá để có thể tối đa hoá lợi nhuận. Do vị thế về độc quyền nên DN độc quyền có thể kiểm soát đ ược giá cả, nhà độc quyền ít quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất của mình như đổi mới công nghệ sản xuất, hạ giá thành, cải tiến mẫu mã, chất l ượng sản phẩm. Do vậy, xét về phương diện xã hội, độc quyền là hiện tư ợng kinh tế không hiệu quả, gây trở ngại cho việc phát triển sản xuất xã hội và phư ơng hại đến ng ười tiêu dùng.

Trong nền kinh tế thị trư ờng, sự tồn tại độc quyền sẽ ảnh hư ởng rất lớn đến đời sống con ngư ời. Ngày nay, thị trư ờng hàng hoá - dịch vụ trên thế giới hầu như ít tồn tại hình thái thị trường độc quyền, do tính thay thế khá cao trong các loại hàng hoá và dịch vụ, đồng thời do sự cạnh tranh của nền kinh tế thị trư ờng và sự bảo vệ ngư ời tiêu dùng trong thị trư ờng. Tuy nhiên, ở nước ta một số mặt hàng tiêu dùng và dịch vụ vẫn bị độc quyền sản xuất như : điện, nước sạch,... Mặc dù vậy, do nhận thức đ ược tính không hiệu quả trong việc các DN độc quyền định giá các sản phẩm độc quyền, nên các Chính phủ đã có biện pháp kiểm soát giá cả sản phẩm độc quyền.

1.3. Sự hình thành giá cả trên thị trư ờng cạnh tranh - độc quyền

Thị trư ờng cạnh tranh - độc quyền là thị tr ường mà sản phẩm vừa mang đặc trư ng cạnh tranh vừa mang tính độc quyền . Đặc tr ưng của thị tr ường này là ngư ời bán và ng ười mua chỉ chiếm một thị phần nhất định trong tổng cung hoặc tổng cầu. Song, do hàng hoá và phư ơng thức phục

Page 9: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

377

vụ... có ít nhiều khác nhau, nên họ có những nét độc quyền nhất định đối với hàng hoá của họ. Đây là dạng thị trư ờng phổ biến đối với hàng hoá và dịch vụ, cùng loại song có nhiều mẫu mã, nhãn hiệu khác nhau... Vi dụ: cùng loại áo sơ mi, song của Trung Quốc khác với của Việt Nam và của Thái Lan... và phương thức kinh doanh cũng khác nhau.

Cùng tồn tại song song với loại gần với thị trường này, đó là thị trường độc quyền - cạnh tranh. Trên thị trường này độc quyền vẫn chi phối chính (giữ vai trò thống lĩnh thị trường - độc quyền nhóm), tuy có cạnh tranh, nhưng còn yếu. Ví dụ: Thị trường xăng dầu, hàng không, viến thông ở nước ta hiện nay. Tuy có cạnh tranh, nhưng còn yếu, vẫn còn có DN hoặc một số DN giữ vị trí thống lĩnh thị trường (độc quyền). Đối với loại thị trường này, những DN có vị trí thống lĩnh thị trường có vai trò rất quan trọng trong việc định giá sản phẩm.

Như vậy, trong thị tr ường cạnh tranh - độc quyền, giá cả hình thành theo cơ chế điều chỉnh giá của thị trư ờng. Đối với thị trường độc quyền - cạnh tranh, độc quyền còn chi phối lớn, cạnh tranh yếu, các doanh nghiệp giữ vị trí thống lĩnh thị trường có ảnh h ưởng nhất định đối với sự hình thành giá cả trên thị trường này. So với thị trư ờng cạnh tranh hoàn hảo, các doanh nghiệp giữ vị trí thống lĩnh trong thị tr ường độc quyền - cạnh tranh có khả năng điều chỉnh mức giá bán hàng hoá của mình so với giá của các DN cùng loại, nhằm hướng thị trường theo giá của mình. Tuy nhiên,việc tăng hay giảm giá này luôn có giới hạn.

Kinh nghiệm của nhiều nư ớc cho thấy, nếu không kiểm soát giá có mưc độ (giới hạn) của các DN giữ vị trí thống lĩnh thị trường sẽ ảnh hư ởng lớn đến lợi ích nền kinh tế, đặc biệt đối với người tiêu dùng. Chính vì thế việc kiểm soát giá cả đối với thị trường độc quyền - cạnh tranh có ý nghĩa thiết thực trong việc kích thích sản xuất, bảo vệ ngư ời tiêu dùng.

Từ sự hình thành giá đối với từng loại thị trường khác nhau, có thể rút ra những kêt luận dưới góc độ phân cấp thể chế xác định giá cả các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường như sau:

Page 10: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

378

Đối với thị trường cạnh tranh, giá do thị trường quyết định. Nhà - nước chỉ can thiệp khi có biến động về giá bằng các biện pháp quản lý giá gián tiếp.

Đối với thị trường độc quyền, không để cho DN độc quyền định - giá sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế và người tiêu dùng. Nhà nước phải kiểm soát giá ở chặt chẽ, bằng phương pháp định giá cụ thể của hàng hóa dịch vụ độc quyền

Đối với thị trường độc quyền - cạnh tranh, giá được hình thành - chủ yếu từ doanh nghiệp giữ vị trí thống lĩnh thị trường, Nhà nước phải kiểm soát giá ở mức độ nhất định, tạo điều kiện để cho các DN có điều kiện cạnh tranh về giá.

Để thực hiện sự phân cấp về thể chế xác định giá đối với các - loại thị trường, bất kỳ Nhà nước nào trong nền kinh tế thị trường đều sử dụng 2 hình thức: Quản lý giá trực tiếp và quản lý giá gián tiếp để kiểm soát giá cả.

Quản lý giá trực tiêp (bằng định giá): Định giá có thể thực hiện dưới dạng (Giá cụ thể; mức giá tối đa - giá trần; mức giá tối thiểu - giá sàn; Khung giá; Trợ giá)

Đối với thị trường độc quyền, Nhà nước định mức giá cụ thể, ví dụ như giá điện, giá nước sạch. Tùy theo mức độ quan trọng của từng loại hàng hóa, có thể phân quyền Nhà nước Trung ương hoặc chính quyền Địa phương định giá. Đối với thị trường vừa độc quyền vừa cạnh tranh như thị trường xăng dầu, thị trường hàng không, cước viễn thông hiện nay, tuy có cạnh tranh nhưng còn ít, độc quyền vẫn còn chi phối (Có DN giữ vị trí thống lĩnh thị trường - độc quyền nhóm; Theo Luật cạnh tranh quy định). Đối với loại thị trường này, nhà nước phải định mức giá tối đa - giá trần. Còn DN độc quyền mua thi sử dụng mức giá tối thiểu - giá sàn. Tuyệt đối không để cho DN gữi vị trí thống lĩnh thị trường định giá, dù là biên độ và tần suất định giá có nhỏ đến đâu, DN cũng sẽ lợi dụng biên độ nhỏ này để tăng giá, gây thiệt hại cho người tiêu dùng.

Page 11: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

379

Đối 2 loại thị trường này, nếu để cho DN tự quyết định giá, lợi dụng vị thế độc quyền hay vị trí thống lĩnh thị trường DN sẽ định giá cao nhằm thu lợi nhuận độc quyền gây thiệt hại cho người tiêu dùng.

Nhà nước định giá không thể đi ngược lại quy luật cung cầu của thị trường mà vẫn phải chịu sự chi phối của quy luật cung cầu. Giá của nhà nước xác định đối với các sản phẩm độc quyền hoăc giữ vị tri thống linh thị trường phải sát với giá thị trường. Nghĩa là phải tính đúng, tính đủ và hợp lý chi phí sản xuất cộng với một mức lợi nhuận hợp lý để xác định giá của loại sản phẩm độc quyền hoặc giữ vị trí thống lĩnh thị trường.

Trên thị trường cạnh tranh, giá cả hình thành trên thị trường này do thị trường quyết định, không phải do người mua hoặc người bán quyết định. Bởi vì, đặc điểm của thị trường cạnh tranh là có nhiều người mua và nhiều người bán. Đối với thị trường này Nhà nước không định giá. Trong thể chế phân cấp xác định giá phải tuân thủ. Nhà nước chỉ can thiệp trên thị trường này, khi có sự biến động về giá, bằng các biện pháp gián tiếp thông qua sự tác động đến cung cầu của loại hàng hóa đó.

Trợ giá là hình thức Nhà nước sử dụng các công cụ tài chính tín dụng nhằm biến đổi mức giá theo tính toán của mình thông qua kênh ưu đãi. Cũng giống như định giá, mục đích của trợ giá là giữ cho mức giá cả của hàng hóa gần sát với mức giá thị trường. Trợ giá có thể đuợc thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như ưu đãi bằng thuế, ưu đãi tín dụng hay trợ cấp tài chính trực tiếp. Ví dụ như trợ giá xe buýt ở các thành phố lớn Hà Nội, Hồ Chí Minh.

Dùng thuế để điều tiết giá cả và giá cả thị trường là công cụ quan trọng và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, đây là công việc rất khó, phải hết sức linh hoạt, đồng thời phải dùng các biện pháp phụ khác.

Quản lý giá bằng các công cụ gián tiêp: Trong nền kinh tế thị trường để khắc phục những khuyết tật của thị trường về giá, nhằm bình ổn giá cả thị trường, Nhà nước thường thông qua hoạt động điều tiết

Page 12: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

380

giá. Quản lý giá bằng các công cụ gián tiếp thường sử dụng trên thị trường cạnh tranh, khi có sự biến động bất thường về giá. Đây là một chức năng quan trọng cần phải được khẳng định và làm rõ trong thể chế phân cấp xác định giá. Những công cụ chủ yếu để điều tiết giá bao gồm: Chính sách tài chính, tiền tệ, thương mai, lập quỹ bình ổn giá, đăng ký giá, kiểm soát các yếu tố hình thành giá, áp dụng các biện pháp hỗ trợ giá theo đúng quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế...

2. Thưc trang thể chế phân cấp xác đinh giá ca cho các thi trường hàng hóa cơ ban ở nước ta

2.1. Thể chế hiện hành phân cấp xác định giá cho các thị trường hàng hóa

Thực trạng thể chế phân cấp xác định giá cả cho các thị trường hàng hóa ở nước ta đã được thể hiện trong các văn bản pháp quy. Ngày 26/4/2002, Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa X đã thông qua và ban hành Pháp lệnh giá. Cùng với Pháp lệnh giá, một số luật, pháp lệnh có những nội dung quy định về giá như: Luật Cạnh tranh, Luật Điện lực, Luật Bưu chính, Luật Viễn thông, Luật Đất đai, Luật Dược, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh Bất động sản, Luật Hàng không, Bộ Luật Hàng hải, Pháp lệnh Dự trữ quốc gia, Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và một số văn bản pháp luật khác. Theo đó, đã hình thành được một hệ thống pháp luật để điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực giá.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện bên cạnh những những kết quả đã đạt được, Pháp lệnh Giá đã có những tồn tại, bất cập dẫn đến thiếu cơ chế cụ thể kiểm soát có hiệu quả tình trạng tăng giá bất hợp lý, trái pháp luật. Thực trạng trên cho thấy cần thiết phải sửa và nâng Pháp lệnh Giá lên thành Luật giá. Luật giá đã được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ ba thông qua ngày 20/6/2012 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013. Luật giá đã thể hiện việc phân cấp thể chế xác định giá đối với các loại thị trường. Nhà nước chỉ định giá đối với những loại hàng hóa dịch vụ mang tính độc quyền; Tài nguyên quan trọng; Hàng dự trữ

Page 13: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

381

quốc gia; sản phẩm, dịch vụ công ích và dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước. Bởi lẽ:

Đối với hàng hóa dịch vụ độc quyền thì nhất thiết Nhà nước phải kiểm soát giá thông qua việc định giá. Các hình thức định giá (Mưc giá cụ thể; Khung giá; Mưc giá tối đa, mưc giá tối thiểu). Tùy mức độ độc quyền của loại hàng hóa dịch vụ mà có các hình thức định giá phù hợp. Đối với hàng hóa dịch vụ độc quyền cao, Nhà nước định mức giá cụ thể, hoặc khung giá. Đối với hàng hóa dịch vụ độc quyền nhóm (giữ vị trí thống lĩnh thị trường - mức độ độc quyền không lớn, tuy có cạnh tranh nhưng mức độ cạnh tranh còn yếu) Nhà nước định giá trần- Mưc giá tối đa (đối với DN giữ vị trí thống lĩnh thị trường bán), định giá sàn - Mưc giá tối thiểu (đối với thị trường độc quyền mua). Sự phân cấp xác định giá đối với các loại thị trường này được thể hiện tại điều 19 của Luật Giá:

“Điều 19. Hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá

1. Nhà nước định giá đối với:

a) Hàng hóa, dịch vụ thuộc linh vực độc quyền nhà nước sản xuất, kinh doanh;

b) Tài nguyên quan trong;

c) Hàng dự trữ quốc gia; sản phẩm, dịch vụ công ich và dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước.

2. Các hình thức định giá:

a) Mưc giá cụ thể;

b) Khung giá;

c) Mưc giá tối đa, mưc giá tối thiểu.

3. Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá được quy định như sau:

a) Định mưc giá cụ thể đối với:

- Các dịch vụ hàng không, bao gôm: dịch vụ cất cánh, hạ cánh; điều hành bay đi, đên; hô trợ bảo đảm hoạt động bay; soi chiêu an ninh;

Page 14: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

382

- Dịch vụ kêt nối viễn thông;

- Điện: giá truyền tải điện; giá dịch vụ phụ trợ hệ thống điện;

b) Định khung giá đối với: giá phát điện; giá bán buôn điện; mưc giá bán lẻ điện bình quân; dịch vụ vận chuyển hàng không nội địa tuyên độc quyền;

c) Định khung giá và mưc giá cụ thể đối với:

- Đất, măt nước, nước ngầm, rừng thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu và nước sạch sinh hoạt;

- Giá cho thuê, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở công vụ được xây dựng chi từ nguôn ngân sách nhà nước; giá bán hoăc giá cho thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước;

Dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và dịch vụ giáo dục, đào tạo tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở giáo dục, đào tạo của Nhà nước;

d) Định giá tối đa hoăc giá tối thiểu đối với:

- Hàng dự trữ quốc gia theo quy định của pháp luật về dự trữ quốc gia; hàng hóa, dịch vụ được Nhà nước đăt hàng, giao kê hoạch sản xuất, kinh doanh; sản phẩm, dịch vụ công ich, dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước, trừ dịch vụ được quy định tại điểm c khoản 3 Điều này;

- Sản phẩm thuốc lá điêu sản xuất trong nước;

- Giá cho thuê đối với tài sản nhà nước là công trình kêt cấu hạ tầng.

4. Trường hợp cần thiết phải điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định”.

Ngoài những hàng hóa dịch vụ do Nhà nước định giá, còn lại tất cả những hàng hóa dịch vụ trên thị trường cạnh tranh do thị trường định giá. Thị trường định giá (giá thị trường), đó là giá phô biên tại thời điểm hoăc một thời ky trên một thị trường của một loại hàng hóa dịch vụ nào đó. Như vậy, trên thị trường cạnh tranh, giá do người sản xuất

Page 15: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

383

và tiêu dùng tự xác định phù hợp với giá phổ biến của loại hàng hóa dịch vụ đó trên thị trường. Nhà nước hoàn toàn không định giá trên thị trường này, mà tôn trọng quyền định giá của các chủ thể kinh doanh. Thể chế xác định giá trên loại thị trường này, được thể hiện tại điểm 1, điều 11 trong Luật Giá :

“Điều 11. Quyền của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh

Tự định giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh, 1. trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá”.

Những điều quy định trên trong Luật Giá cho thấy, Nhà nước thực hiện quản lý giá theo cơ chế thị trường, tôn trọng quyền tự định giá, cạnh tranh về giá của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh trên cơ sở phù hợp với yêu cầu và sự vận động kinh tế khách quan của giá cả đối với hầu hết các hệ thống giá trong nền kinh tế thị trường. Từ đó để tạo ra cơ chế làm cho giá cả phát huy được những tác dụng tích cực của nó đối với nền kinh tế như: Điều tiết, kích thích sản xuất phát triển; đổi mới công nghệ, tiến bộ kỹ thuật; đổi mới quản lý, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm; phân bổ và sử dụng đạt hiệu quả tối ưu các nguồn lực của nền kinh tế. Quy định cụ thể các quyền của doanh nghiệp trong việc tự định giá, điều chỉnh giá, cạnh tranh về giá thông qua các phương pháp định giá theo thời giá, đấu thầu, đấu giá, hiệp thương giá; hạ giá bán hàng hóa dịch vụ mà không bị coi là vi phạm pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về chống bán phá giá hàng nhập khẩu.

2.2. Thực trạng việc xác định giá đối với các loại thị trường hàng hóa cơ bản ở nước ta.

2.2.1. Cơ chế xác định giá điện

Hiện nay ngành điện vẫn ở thế độc quyền, đang vận hành theo mô hình liên kết dọc truyền thống. Giá điện hiện nay đang thực hiện theo Luật Điện lực sửa đổi, bổ sung được QH thông qua 20/11/2012. Có hiệu lực 1/7/2013. Thể hiện tại Điều 29: Chính sách giá điện; Điều 30: Căn cứ lập và điều chỉnh giá điện; Điều 31: Giá điện và các loại phí.

Page 16: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

384

Giá bán lẻ điện do đơn vị bán lẻ điện xây dựng căn cứ khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân, cơ chế điều chỉnh giá và cơ cấu biểu giá bán lẻ điện do Thủ tướng Chính phủ quy định phù hợp với cấp độ phát triển của thị trường điện lực.

Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân, cơ chế điều chỉnh giá và cơ cấu biểu giá bán lẻ điện trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Việc điều chỉnh giá bán lẻ điện phải được thực hiện công khai, minh bạch về sự biến đổi của các yếu tố cấu thành liên quan đến việc điều chỉnh giá.

Khung giá phát điện, khung giá bán buôn điện, giá truyền tải điện, giá dịch vụ phụ trợ hệ thống điện, phí điều độ vận hành hệthống điện và phí điều hành giao dịch thị trường điện lực do đơn vị điện lực có liên quan xây dựng; cơ quan điều tiết điện lực thẩm định trình Bộ trưởng Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt theo sự phân công của Chính phủ.

Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính hướng dẫn phương pháp lập khung giá phát điện, khung giá bán buôn điện, giá truyền tải điện, giá dịch vụ phụ trợ hệ thống điện, phí điều độ vận hành hệthống điện và phí điều hành giao dịch thị trường điện lực.

Giá phát điện theo hợp đồng mua bán điện có thời hạn, giá bán buôn điện do các đơn vị điện lực thỏa thuận nhưng không được vượt quá khung giá phát điện, khung giá bán buôn điện đã được phê duyệt”.

Hiện tại, mức giá bán lẻ điện bình quân đang áp dụng là 1.508,85 đồng/ kWh. Mức giá bán lẻ điện bình quân các năm 2013-2015 (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng) được điều chỉnh theo quy định tại Quyết định số 69/2013/QĐ-TTg không thấp hơn mức giá tối thiểu là 1.437 đồng/kWh và không cao hơn mức giá tối đa là 1.835 đồng/kWh, tức có thể tăng tối đa 21,6% so với giá điện đang áp dụng. So với các nước giá điện của VN là thấp. Hệ thống biểu giá bán lẻ điện phân theo nhóm đối tượng khách hàng: các ngành sản xuất;hành chính sự nghiệp;cho kinh

Page 17: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

385

doanh; sinh hoạt,... Theo điện áp, theo giờ trong ngày. Từ năm 1992 - nay giá điện ở VN dã điều chỉnh tăng trên chục lần. Từ năm 2009 đến nay đã điều chỉnh nhiều lần. Biểu giá điện sau mỗi lần điều chỉnh tuy có được cải thiện, song vẫn chưa đáp ứng đuợc 3 mục tiêu chủ yếu: Hiệu quả kinh tê; Công bằng xã hội; khả thi tài chinh

Thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an sinh xã hội, kiềm chế lạm phát nên EVN thời gian qua đã phải bán điện thấp hơn giá thành. Giá bán điện thấp cũng là nguyên nhân khiến các nhà đầu tư trong, ngoài nước không mặn mà dầu tư và vô hình dung khuyến khích công nghệ lạc hậu đang phát triển. EVN đang có sự chòng chéo giữa phần kinh doanh và công ích. Cách tính giá điện lũy tiến như hiện nay, chúng ta đang bao cấp cho cả hộ nghèo lẫn hộ giầu và các nhà đầu tư nước ngoài. Những bất cập của giá điện cũng nẩy sinh từ chính năng lực quản lý của EVN, do sức ỳ lớn vì hoạt động quá lâu trong cơ chế cũ.

Về phương pháp xây dựng biểu giá điện hiện nay chủ yếu dựa trên chi phí thống kê hạch toán giá thành của EVN (chưa đủ độ tin cậy), với mục đich bù lỗ mà không tính đến nguyên nhân và các biện pháp giảm chi phí, chưa áp dụng phương pháp phổ biến và hiện đại theo chi phí biên dài hạn, chưa xây dựng biểu giá 2 thành phần: công suất và điện năng, điều chỉnh giá điện mới chú ý đến làm tăng giá điện mà chưa quan tâm đến giảm giá điện như mùa nước và việc tăng công suất các nhà máy thuỷ điện, giảm tổn thất, giá thành...

Về giá điện hiện nay chứa đựng nhiều điều bất hợp lý. Phân phối là khâu hiện nay rất ít nhà đầu tư quan tâm, bởi giá bán điện thấp, hơn nữa 28% sản lượng điện thương phẩm thực hiện trợ giá đối với người dân ở nông thôn, hộ nghèo. Do khâu phân phối điện chưa mang đặc trưng của thị trường.

2.2.2. Cơ chế xác định giá xăng dầu

Xăng dầu là yếu tố đầu vào của nhiều hoạt động sản xuất và tiêu dùng xã hội, nên giá xăng dầu có ảnh hưởng trước hết và trực tiếp tới chi phí sản xuất của hầu hết các ngành và hoạt động kinh tế, xã hội có

Page 18: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

386

liên quan đến xăng dầu. Xăng dầu là mặt hàng vật tư thiết yếu và mang tính chiến lược đối với sự phát triển của đất nước. Nước ta thực hiện độc quyền của mình đối với xuất nhập khẩu xăng dầu thông qua quyền quản lý trực tiếp xuất nhập khẩu của doanh nghiệp và quy định hạn ngạch nhập khẩu. Trên cơ sở cân đối nhu cầu xăng dầu hàng năm của nền kinh tế quốc dân, Nhà nước giao hạn ngạch nhập khẩu cho 19 doanh nghiệp đầu mối;

Cơ chế xác định giá xăng dầu, chúng ta đang thực hiện theo Nghị định 84/NĐ-CP về cơ chế định giá còn mang “lưỡng tính” hay “nửa vời”, nghĩa là Nhà nước giao quyền cho doanh nghiệp định giá, nhưng Nhà nước sẽ tham gia một phần trong việc điều chỉnh giá. Căn cứ theo Nghị định 84/CP, không phải giao toàn quyền cho doanh nghiệp định giá. Định giá xăng dầu sẽ được chia thành 3 bước: + Nếu giá nguyên liệu đầu vào thay đổi 0-7% thì doanh nghiệp được quyền quyết định giá xăng dầu; + Nếu giá nguyên liệu biến đổi 7-12% thì Nhà nước sẽ tham gia một phần trong việc điều chỉnh giá; +Trong trường hợp giá nguyên liệu tăng trên 12% thì Nhà nước tham gia định đoạt giá xăng dầu. Ngoài ra, Nghị định 84 quy định, trong hoàn cảnh đặc biệt như xăng dầu biến động làm ảnh hưởng đến toàn xã hội thì Nhà nước sẽ toàn quyền quyết định việc điều chỉnh giá xăng dầu để bình ổn giá trong nền kinh tế.

Về cơ chê định giá đối với thị trường xăng dầu như vậy là không phu hợp đối với loại thị trường độc quyền - cạnh tranh (độc quyền nhóm). Bởi vì, trên thực tế hiện nay, thị trường xăng dầu tuy có cạnh tranh nhưng còn yếu. vẫn còn DN Petrolimex (chiếm gần 50% thị phần) cùng PVOil và Saigon Petro (chiếm khoảng 75%) hiện giữ vị trí thống lĩnh thị trường. Cơ chế định giá xăng dầu như vậy đã gây thiệt hại cho người tiêu dùng và tạo nên sự bức xúc của công luận.

2.2.3. Cơ chế định giá đất

Giá đất là một trong những nội dung quan trọng bậc nhất của Luật Đất đai. Giải quyết được cơ chế định giá đất thì các quy định khác của Luật Đất đai sẽ được xử lý dễ dàng và thuận lợi. Do vậy, các quy định

Page 19: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

387

về cơ chế định giá đất cần được xây dựng cho phù hợp với cơ chế thị trường định hướng XHCN và thông lệ quốc tế.

Việc xác định giá đất hiện nay được thực hiện theo một số điều của Luật đất đai năm 2013, tại Mục 2 - Giá đất (điều 112;113;114;115 và 116) và Mục 3 - Đấu giá quyền sử dụng đất (điều 117; 118 và 119). Chính phủ sẽ ban hành Nghị định hướng dẫn về thi hành Luật Đất đai 2013 và xây dựng hoàn thiện những Nghị định có liên quan đến giá đất phù hợp với các điều đã được thể hiện trong Luật Đất đai 2013. Những văn bản này cần khắc phục những bất cập về cơ chế định giá đất của Luật đất đai 2013:

- Hiện chưa có có văn bản pháp luật quy định trình tự thủ tục của việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giá đất. Chính vì vậy mà mỗi một địa phương cấp tỉnh lại có quy trình quyết định giá riêng, nói chung khá khác nhau. Do vậy, theo cách làm này, thì nhiều địa phương không thể định được giá đất phù hợp giá đất phổ biến trên thị trường.

- Theo quy định của Luật Đất đai hiện hành, việc định giá đất phải bảo đảm nguyên tắc “Phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất”. Căn cứ vào đó, các địa phương công bố bảng giá đất và lấy đó làm cơ sở để bồi thường cho người dân. Tuy nhiên, trên thực tế mức giá này thường thấp hơn rất nhiều lần so với giá mua bán, chuyển nhượng trên thực tế trên thị trường dẫn đến người dân không đồng tình, khiếu kiện đòi quyền lợi.

Qua cuộc tham vấn cộng đồng góp ý Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) được Viện Nghiên cứu lập pháp - Văn phòng Quốc hội và Tổ chức Oxfam tại Việt Nam thực hiện với sự tham gia của 1.300 người là nông dân nghèo, đại diện các nhóm yếu thế khác như người dân tộc thiểu số, phụ nữ… tại 22 xã thuộc 11 huyện của các tỉnh Hòa Bình, Yên Bái, Quảng Bình và Long An. Một trong những nội dung đuợc nhiều người

Page 20: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

388

dân quan tâm nhất là các quy định của pháp luật về định giá đất. Kết quả cho thấy, giá để tính tiền bồi thường khi thu hồi đất đang là một trong những chủ đề gây bức xúc trong dân và là nguyên nhân trực tiếp gây ra những vụ khiếu kiện kéo dài, ngày càng gay gắt. Sự chênh lệch quá lớn về giá đất trước và sau quy hoạch khiến người nông dân không đủ tiền để mua đất. Hiện nông dân rất bất bình về việc giữa giá bồi thường thu hồi đất do Nhà nước quy định và giá của nhà đầu tư sau khi thu hồi đất bán lại chênh nhau rất lớn. Doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư ít nhưng bán giá rất cao; còn nông dân đầu tư lớn để cải tạo đất đai thì thu được chẳng bao nhiêu, rất thiệt thòi. Giá đất của Nhà nước quy định chưa theo sát phổ biến trên thị trường, bảng công bố giá tại các địa phương chỉ bằng 30 - 60% giá thị trường. Mức giá cao nhất trong bảng giá đất của Hà Nội và TP.HCM là 81 triệu đồng/m2 (cũng là mức tối đa trong khung giá đất của Chính phủ) trong khi giá đất chuyển nhượng cao nhất thực tế trên thị trường cao hơn 400 triệu đồng/m2, cá biệt có nơi hàng tỷ đồng/m2. Chênh lệch “khủng” này dẫn đến khi áp dụng bảng giá đất để tính toán nghĩa vụ tài chính về sử dụng đất đai đã gây thất thu cho ngân sách nhà nước nhưng nếu khu dùng để tính toán giá bồi thường người bị thu hồi đất lại không đồng ý, dẫn đến khiếu kiện và ảnh hưởng đến tiến độ giải phóng mặt bằng. Con số gần 70% tổng số vụ khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai, trong đó chủ yếu là vướng mắc về giá đất. Trên thực tế, hiện khung giá đất không theo kịp biến động của thị trường, đặc biệt có nơi khung giá đất chỉ bằng 20% giá thị trường. Mặt khác, khung giá đất chỉ quy định theo 3 vùng (đồng bằng, trung du, miền núi) nên biên độ giữa giá đất tối đa và tối thiểu có khoảng cách lớn, từ 1,5 triệu đồng/m2 đến 81 triệu đồng/m2 đối với đất ở tại đô thị loại đặc biệt. Do đó, khung giá đất không xử lý được chênh lệch về giá đất tại các vùng giáp ranh giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giữa các vùng miền trong cả nước.

- Mặc dù luật đã có điều chỉnh quan trọng ở chỗ đề xuất giá đất bồi thường do Nhà nước quy định theo mục đích sử dụng đất tại thời điểm định giá, bảo đảm phù hợp với cơ chế thị trường. Tuy nhiên, đây mới

Page 21: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

389

chỉ là quy định mang tính nguyên tắc. Hiện nay pháp luật VN trao thẩm quyền quyết định về đất đai (giao đất, cho thuê đất) và quyết định giá đất cho cùng một cơ quan nhà nước là UBND cấp tỉnh là nguyên nhân chính làm cho giá đất được quyết định thiếu khách quan. Thực tế, việc tập trung hai quyền năng nêu trên cho UBND cấp tỉnh như hiện nay dễ dẫn đến lạm quyền hoặc làm nảy sinh tình trạng áp đặt ý muốn chủ quan trong việc định giá đất. Điều này dễ dẫn tới khó kiểm soát việc thực hiện thẩm quyền gắn với tư lợi.

- Trong nền kinh tế thị trường, định giá đất là một nghề được điều chỉnh bằng hệ thống luật pháp về tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật, về đạo đức hành nghề . Chỉ có những người được đào tạo bài bản đạt những tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức, mới được cấp chứng chỉ hành nghề. Việc giao cho cơ quan hành chính định giá đất là một cơ chế không phù hợp.

2.2.4. Cơ chế định giá đối với hàng hóa dịch vụ thuộc diện bình ổn giá không nằm trong danh mục hàng hóa dịch vụ do Nhà nước định giá

Bình ổn giá là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chính sách giá trong điều hành kinh tế vĩ mô, là một công cụ chủ yếu trong chính sách điều tiết giá. Tại điều 15 của Luật giá đã chỉ rõ những tiêu chí của những hàng hóa dịch vụ thuộc diện bình ổn giá và đã xác định danh mục hàng hóa dịch vụ thuộc diện bình ổn giá. Đối với những mặt hàng bình ổn giá không thuộc diện Nhà nước định giá, như giá Gas, giá thuốc, giá sữa luôn bất ổn, gây bức xúc đối với người tiêu dùng. Giá của những loại hàng hóa này luôn cao hơn so với giá thế giới và khu vực, trong khi đó thu nhập của người dân còn thấp. Những bất cập về giá cả của những mặt hàng này, nhà nước cần có những thể chế kiểm soát giá như thế nào, để đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước - Doanh nghiệp và người tiêu dùng.

3. Những kiến nghi nhăm hoàn thiện thể chế xác đinh giá ca và kiểm soát giá trên môt sô thi trường hàng hóa cơ ban

Page 22: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

390

Từ những luận cứ khoa học về phân cấp xác định giá cho các loại thị trường hàng hóa trong nền kinh tế thị trường, nhà nước đã thể chế hóa việc phân cấp xác định giá giữa Nhà nước và thị trường bằng hệ thống luật pháp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các văn bản dưới Luật (nghị định, thông tư,...) còn những bất cập đã hạn chế những mặt tích cực của giá cả, ảnh hướng tới sản xuất và lợi ích của người tiêu dùng.

Từ những tồn tại bất cập của thực trạng về phân cấp xác định giá của các loại thị trường hàng hóa cơ bản của nước ta, xin đưa ra một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện thể chế xác định giá cho các loại thị trường hàng hóa cơ bản :

3.1. Cần phân loại hàng hóa dịch vụ theo theo các hình thái thị trường (cạnh tranh; cạnh tranh - độc quyền; độc quyền; độc quyền - cạnh tranh) để hình thành thể chế phân cấp về xác định giá giữa Nhà nước và Thị trường về cơ chế định giá cho từng loại thị trường hàng hóa dịch vụ đang lưu thông trên thị trường.

Nếu hàng hóa dịch vụ của DN là sản phẩm độc quyền thì Nhà nước phải định giá (mức giá cụ thể hay khung giá). Nếu hàng hóa dịch vụ của DN độc quyền nhóm (độc quyền - cạnh trạnh) giữ vị trí thống lĩnh thị trường thì Nhà nước phải định giá (mức giá tối đa - giá trần; mức giá tối thiểu - giá sàn). Định giá là việc Nhà nước dùng công cụ hành chính để tác động vào mức giá và hướng sự vận động của giá về phía giá trị thị trường. Giá Nhà nước định phải sát với giá thị trường, không thể đi ngược lại quy luật cung - cầu. Giá trị trường nhà nước định cũng là một đại lượng luôn biến đổi, định giá không nên chỉ hiểu là định giá cố định. Định giá có thể là định giá biến đổi, tức là khuôn giá cả theo sự vận động của giá thị trường.

3.1.1. Về giá điện

Điện lực là ngành độc quyền, Nhà nước đã định mức giá cụ thể và khung giá đối với từng loại sản phẩm điện lực. Từ nay cho đến sau năm 2022 khi có được thị trường bán lẻ điện cạnh tranh hoàn hảo ở nước ta, cần thực hiện một số vấn đề sau:

Page 23: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

391

Nhà nước điều tiết và kiểm soát giá bán lẻ điện bằng các biện - pháp kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định của pháp luật về giá điện đối với các đơn vị điện lực.

Để thực hiện giá bán điện thực hiện theo cơ chế thị trường có - sự điều tiết của Nhà nước giá điện cần điều chỉnh cho phù hợp với nền kinh tế, giảm rủi ro cho doanh nghiệp sản xuất điện. Việc điều chỉnh giá bán điện cần bảo đảm tính kịp thời so với sự biến động của các yếu tố đầu vào hình thành giá. Các yếu tố đầu vào khi xem xét điều chỉnh giá điện cần tính đến cả các yếu tố làm giảm giá điện như yếu tố mùa và công suất, sản lương tăng thêm đối với nhà máy thuỷ điên, giảm tổn thất hệ thống điện

Về nguyên tắc, việc xây dựng và điều chỉnh giá điện cần dựa - vào những căn cứ các căn cứ thực tiễn và khoa học

Giá điện nên được một đơn vị, tổ chức định giá độc lập, uy tín - định giá. EVN cũng nên công khai cơ chế tính giá, cùng một cam kết cải cách ngành điện hợp lý nhất, tăng giá phải có lộ trình, từng bước và gắn với tăng chất lượng điện. Đa dạng hóa các nguồn cung điện, tránh lệ thuộc tối đa vào điện nhập khẩu, để chủ động bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.

Giải quyết sự chồng chéo giữa nhiệm vụ kinh doanh và công ích, - ngành điện đã đề xuất tách bạch hai phần trên. Nếu không tách được, thì có thể dùng một quỹ công ích độc lập để bù đắp theo kênh riêng.

Cần tách bạch các khâu trong quy trình sản xuất, tiêu thụ điện - mà ngành điện không cần thiết nắm giữ ra khỏi EVN, như nguồn, phân phối, thậm chí điều độ. Ngay cả với khâu truyền tải, ngành điện có thể chỉ nắm giữ phần điều hành, còn đầu tư nên xã hội hóa. Việc huy động vốn được thực hiện thông qua đấu thầu cạnh tranh song hành với cổ phần hóa.

Việc tăng giá điện là điều khó tránh khỏi, thậm chí nên làm, vấn - đề quan trọng là cần thay đổi nhận thức về tăng giá điện và cách thức tăng ra sao. Theo đó, nên tăng giá điện sản xuất trước tăng giá điện sinh

Page 24: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

392

hoạt, nhằm loại thải dần thói quen tận dụng công nghệ cũ, tiêu tốn năng lượng trong nhiều lĩnh vực, của không ít nhà đầu tư cả trong và ngoài nước.

Trong ngắn hạn, việc tăng giá điện sẽ làm tăng lạm phát, giảm tăng GDP, song về dài hạn, sẽ có lợi rất lớn cho nền kinh tế, sàng lọc và loại thải những hiện tượng tăng trưởng “ảo”, sức cạnh tranh “ảo” núp bóng giá điện thấp, coi trọng chất lượng thay vì số lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Nếu không xử lý tốt vấn đề này thì tốc độ tăng trưởng của điện không bao giờ đáp ứng được tốc độ tăng trưởng GDP. Giá bán điện thấp cũng không tạo ra sức ép buộc các nhà sản xuất thay đổi công nghệ lạc hậu bằng công nghệ tiết kiệm điện, hiệu suất cao

3.1.2. Về giá xăng dầu

Thị trường xăng dầu hiện nay ở nước ta chưa có thị trường cạnh tranh thực sự, vẫn là thị trường độc quyền nhóm, cạnh tranh còn yếu. Điều này được thể hiện qua thị phần thị phần của Petrolimex; PVOil và Saigon Petro. Do vậy, cơ chế định giá như Nghị định 84/NĐ-CP là không phù hợp. Gây nhiều bức xúc cho xã hội. Qua nhiều lần dự thảo sửa đổi NĐ 84, theo nhiều phương án khác nhau về cơ chế định giá xăng dầu, nhưng vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Cho đến thời điểm hiện nay NĐ 84 sửa đổi vẫn chưa ban hành và theo Bộ Công Thương sẽ ban hành NĐ84 sửa đổi trong tháng 4.2014.

Theo quan điểm chúng tôi, đối với thị trường xăng dầu hiện nay ở nước ta, tuy có cạnh tranh nhưng còn yếu, còn có DN giữ vị trí thống lĩnh thị trường. Về cơ chế điều hành giá xăng dầu hiện nay, chúng tôi đồng tình với việc quy định giá trần. Song, việc quy định gía trần với tần suất bao nhiêu là hợp lý? Theo quan điểm của chúng tôi, hiện chúng ta phải nhập 70% xăng dầu thế giới, giá thế giới lại luôn biến động, mục tiêu điều hành giá xăng dầu trong nước phải liên thông, sát giá thế giới, do vây tần suất quy định giá trần nên 10 ngày. Giá trần là giá cơ sở và được tính như thế nào ? Được tính theo giá Platts Singapor (hoặc giá công bố tại sàn giao dịch khác) của ngày cuối cùng của 10 ngày trước,

Page 25: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

393

có tính tới dự báo giá trong 10 ngày tới. Chứ không phải tính giá bình quân của 10 ngày trước đó. Vì giá xăng dầu trong 10 ngày tới không thể là giá bình quân của 10 ngày trước đó, giá xăng dầu không theo quy luật như vậy. Muốn vậy, đòi hỏi cơ quan chức năng phải có đội ngũ cán bộ có đủ trình độ, năng lực thực tiễn trong hoạt động kinh doanh xăng dầu để có khả năng dự báo được xu hướng tăng, giảm về giá xăng dầu. Trên cơ sở giá trần Liên bộ Tài Chính - Công Thương công bố, các thương nhân đầu mối có quyền tăng giảm giá nhưng không vượt quá giá trần. Trong quá trình thực hiện, nếu giá cơ sở có sự cách biệt với giá bán lẻ hiện hành, thì Liên bộ quyết định sử dụng các biện pháp để bình ổn theo pháp luật

Về giá cơ sở, dự thảo đã sửa đổi, bổ sung đầy đủ và sắp xếp lại thứ tự một số yếu tố trong cấu thành giá cho phù hợp. Tỷ giá ngoại tệ nên là tỷ giá liên ngân hàng bình quân theo số ngày dự trữ lưu thông là phù hợp. Theo chúng tôi cần tách bạch giữa giá vốn cơ sở và lợi nhuận định mức, nên bổ sung khái niệm giá vốn cơ sở; trong đó Giá cơ sở = Giá vốn cơ sở + lợi nhuận định mức; để đưa lợi nhuận định mức ra ngoài giá cơ sở. Cách làm này để minh bạch tình hình lỗ lãi của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Tuy nhiên, hiện nay về cơ cấu giá cơ sở vẫn còn những quan điểm khác nhau.

Về định mức chi phí kinh doanh, thù lao hoa hồng đại lý, Bộ Tài chính dự kiến sửa đổi, bổ sung Thông tư 234/2009/TT-BTC theo hướng điều chỉnh mức chi phí kinh doanh định mức, đồng thời khống chế mức thù lao dành cho tổng đại lý, đại lý không vượt quá chi phí kinh doanh định mức. Cụ thể, chi phí bán lẻ bình quân ở các địa bàn gần cảng nhập khẩu và gần nhà máy chế biến xăng, dầu ở trong nước của các thương nhân đầu mối đối với xăng, dầu diezel, dầu hỏa sẽ có mức tối đa là 860 đồng/lít (quy định hiện nay là 600 đồng/lít). Đối với các địa bàn khác với quy định trên tối đa bằng 860 đồng/lít cộng với tối đa 2% mức giá bán lẻ xăng, dầu diezel, dầu hỏa ở trong nước. Như vậy, với cách tính này chi phí kinh doanh định mức được nâng lên, doanh nghiệp nhập khẩu đầu mối sẽ có lợi hơn.

Page 26: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

394

Theo chúng tôi, cần minh bạch chi phí kinh doanh này gồm các chi phí cố định và chi phí biến đổi để có thể đánh giá sự biến động của các chi phí mà doanh nghiệp phải thực hiện. Khi đưa ra mức cụ thể cần phải khảo sát, đánh giá có cơ sở khoa học và thực tiễn, không đưa ra mức theo chủ quan của cơ quan quản lý hoặc theo đề nghị của các DN. Nếu đưa ra mức quá cao sẽ thiệt hại cho người tiêu dùng, nếu quá thấp không đủ bù đắp chi phí thì DN sẽ không thể tồn tại để hoạt động

Về Quỹ bình ổn giá được hạch toán riêng và chỉ sử dụng vào mục đích bình ổn giá trong phạm vi số dư Quỹ, theo quy định của pháp luật. Hiện có quan điểm bỏ quỹ bình ổn giá hoặc nếu còn tồn tại nên gọi là Quỹ dự trữ tài chính. Theo quan điểm chúng tôi quỹ bình ổn giá là cần thiết, bởi hoạt động trong nền kinh tế thị trường có nhiều rủi ro, giá xăng dầu thế giới thường xuyên biến động. Quỹ bình ổn giá, đó là công cụ quan trọng để bình ổn giá khi có sự biến động của giá cả trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, cần nghiên cứu lại nguồn hình thành quỹ, ngoài sự đóng góp của người tiêu dùng, DN cũng cần trích một phần rất nhỏ lợi nhuận để chia sẻ sự rủi ro khi có sự biến động về giá. Đồng thời cần có cơ chế quản lý, giám sát và minh bạch công khai về Quỹ Bình ổn.

Định mức hao hụt và quản giá đầu vào cũng cần được xem xét sửa đổi, bổ sung. Định mức hao hụt tự nhiên về xăng dầu hiện nay do các doanh nghiệp đầu mối tự xây dựng, ban hành và thực hiện, cơ quan Nhà nước không thẩm định nên việc quản lý chi phí hao hụt của các doanh nghiệp trong giá vốn hàng bán còn mang tính chủ quan. Nếu các doanh nghiệp lợi dụng việc tự quy định mức hao hụt để nâng chi phí kinh doanh, sẽ gây khó khăn cho việc giám sát. Cần ban hành một định mức hao hụt xăng dầu cho từng công đoạn đối với từng chủng loại xăng, dầu. Hiện các doanh nghiệp tự tiến hành nhập khẩu, khó khăn trong việc quản lý giá đầu vào. Cần tổ chức đấu thầu theo tiêu chí giá nhập của các đầu mối, Hiện nay ngoài thị trường Singapore, hiện đơn vị đang nhập khẩu tại nhiều thị trường khác chẳng hạn như Trung Đông. Nên việc quy định lấy giá Platt’s tại Singapore để tính giá cơ sở liệu có còn hợp lý?

Page 27: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

395

Từ những điều phân tích trên, với những cách thức điều hành giá xăng dầu còn lúng túng như hiện nay, nếu sửa đổi theo chủ quan, thiếu khách quan, không tuân thủ theo đúng cơ chế hình thành giá của kinh tế thị trường, sẽ không bao giờ tháo gỡ được những tồn tại vướng mắc, chưa thể tạo được sự đồng thuận của xã hội.

3.1.3. Về cơ chế định giá đất

- Việc định giá đất phải được trao cho tổ chức, đơn vị độc lập có chức năng định giá được phép hành nghề theo như quy định của pháp luật, mới đủ khả năng xác định giá đất phù hợp giá trên thị thị trường. Chỉ có các tổ chức định giá độc lập mới có đủ khả năng về chuyên môn nghiệp vụ xác định mới có căn cứ khoa học và thực tiễn về giá đất trên thị trường. Nhà nước cần thành lập cơ quan định giá chuyên nghiệp, độc lập với địa vị pháp lý rõ ràng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động định giá, không thực hiện cơ chế hội đồng định giá liên ngành.

- Việc định giá đất cụ thể vẫn còn nhiều hạn chế, cần có cơ chế hữu hiệu để giám sát việc xây dựng, cập nhật, điều chỉnh bảng giá đất, dẫn đến việc nhiều địa phương quyết định giá đất thấp để tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư và giảm kinh phí trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất.

- Theo quy định hiện hành, hiện đang tồn tại cơ chế 2 giá đất. Việc song song tồn tại 2 loại giá đất là một trong những nguyên nhân gây khiếu nại về giá đất trong bồi thường, giải phóng mặt bằng, đặc biệt đối với các dự án sử dụng đất bằng hình thức Nhà nước thu hồi đất. Do người bị thu hồi đất không đồng thuận với phương án bồi thường của Nhà nước đã phát sinh khiếu kiện kéo dài làm cho dự án không triển khai đúng tiến độ và làm lỡ cơ hội đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp. Để khắc phục hạn chế này, giải pháp hoàn thiện chính sách về giá đất được đưa ra là : + Giá đất được xác định phải dựa trên sự thỏa thuận với người sử dụng đất; + Trường hợp không thỏa thuận được về giá thì người bị thu hồi đất có quyền yêu cầu cơ quan thẩm định giá xác

Page 28: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

396

định giá, giá bất động sản xác định theo giá của cơ quan thẩm định giá đưa ra. Trường hợp một bên không đồng ý với giá của cơ quan thẩm định giá đưa ra có quyền yêu cầu tổ chức khác thẩm định lại giá, giá của cơ quan tổ chức đưa ra là giá để tính đền bù. Để đảm bảo giá của cơ quan thẩm định giá đưa ra là khách quan, độc lập.

- Phải tách thẩm quyền quyết định về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất và thẩm quyền quyết định về giá đất. Điều này dễ dẫn tới khó kiểm soát việc thực hiện thẩm quyền gắn với tư lợi. Kinh nghiệm ở nhiều nước, thẩm quyền quyết định về đất đai và giá đất nên trao cho hai cơ quan nhà nước độc lập với nhau.

- Cần mở rộng áp dụng biện pháp đấu giá, đấu thầu quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất. Thực tiễn nghiên cứu kinh nghiệm các nước cho thấy việc sự dụng hình thức đấu thầu, đấu giá không chỉ đảm bảo giá của BĐS do thị trường quyết định mà còn là giải pháp để giảm thiểu tham nhũng “cơ chế xin - cho” khi thẩm quyền quyết định hành chính thuộc về một người, cũng như sự “nhũng nhiễu” của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về thủ tục hành chính.

- Cần thu hẹp phạm vi áp dụng khung giá đất do Nhà nước ban hành. Bởi giá đất trong các quan hệ phải do các bên tự quyết định, Nhà nước không can thiệp vào việc xác định giá của các bên. Khung giá đất Nhà nước đưa ra chỉ mang có ý nghĩa tham khảo đối với các bên và chỉ có giá trị trong việc xác định nghĩa vụ tài chính người sử dụng đất phải thanh toán cho Nhà nước như thuế, lệ phí.

- Cần bổ sung quy định cụ thể về việc điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất đai không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước và phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

3.1.4 Về cơ kiểm soát giá của một số mặt hàng trong diện bình ổn giá, không nằm trong danh mục Nhà nước định giá,

Việc gas, thuốc tây, đặc biệt sữa liên tục tăng giá, trong khi đó thu

Page 29: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

397

nhập của người lao động không được cải thiện đã ảnh hưởng tới người tiêu dùng. Trước thực trạng như vậy thì Nhà nước cần phải có biện pháp cấp bách thực hiện trách nhiệm quản lý của mình.

Điểm lại giá sữa qua các năm cho thấy hầu như năm nào cũng tăng giá, ít nhất cũng vài ba lần. Điều này đã tác động mạnh đến đời sống người lao động. Năm nào chúng ta cũng nói tới điệp khúc “bình ổn giá sữa” nhưng hiệu quả bình ổn “vẫn bất ổn”. Việc giá sữa tăng cao và tăng liên tục như vậy, dư luận đang đặt ra câu hỏi: Cơ quan quản lý có vai trò gì trong việc quản lý một trong những mặt hàng thiết yếu ảnh hưởng lớn đến đời sống dân sinh? Phải chăng cơ quan quản lý: “bất lực”,“bó tay”, buông lỏng trong quản lý hay chưa xử lý kiên quyết tới nơi tới chốn? Việc bình ôn giá sữa là việc cần làm ngay.

Bất chấp quy định về quản lý giá sữa của Bộ Tài chính, từ cuối năm 2013 và những tháng đầu năm 2014 giá sữa bột dành cho trẻ em vẫn tiếp tục tăng và dự báo sắp tới nhiều sản phẩm sữa sẽ còn tăng giá nữa. Nhiều DN lớn của ngành sữa đề nghị tăng giá với lý do giá đầu vào tăng cao. Sau khi nhận được đề nghị tăng giá của các DN sữa lớn trong nước và nước ngoài, cơ quan quản lý giá đã nghiên cứu các nguyên nhân đề xuất tăng giá thấy chưa có sức thuyết phục, chưa cho phép tăng giá. Nhưng các DN vẫn cùng nhau tăng giá sữa cho trẻ dưới sáu tuổi. Do vậy, giá sữa trên thị trường trong những tháng đầu năm lại tiếp tục tăng. Điều này làm cho người tiêu dùng bức xúc, dư luận xã hội và giới truyên thông lên tiếng. Trước tình hình đó, trong phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2/2014, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu Bộ Tài chính, Bộ Công Thương chỉ đạo kiểm tra việc tăng giá sữa thời gian qua, xem có dấu hiệu DN liên kết tăng giá bất hợp lý hay không.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và một số bộ, ngành liên quan họp bàn về công tác triển khai và lập các đoàn kiểm tra giá sữa cho trẻ dưới 6 tuổi. Liên Bộ đã thành lập 5 đoàn thanh tra tiến hành kiểm tra 5 DN sản xuất và kinh doanh sữa để làm rõ việc các DN có tuân thủ văn bản điều hành giá sữa của cơ quan

Page 30: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

398

quản lý hay không. Sau cuộc họp liên ngành bàn về bình ổn giá sữa, Cục trưởng Cục Quản lý Giá, cho biết thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng, Bộ Tài chính đã đề nghị Bộ Công Thương thu thập số liệu liên quan để điều tra xem các DN sữa có bắt tay làm giá, vi phạm Luật Cạnh tranh hay không. Bộ Tài chính nắm bắt tình hình, các thông tin liên quan, sẽ báo cáo các cấp có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bình ổn giá, không loại trừ khả năng trong đó có thể tính tới việc áp dụng giá trần đối với mặt hàng sữa dành cho trẻ em dưới sáu tuổi. Vậy biện pháp áp giá trần trên thị trường sữa có đúng luật và có tính khả thi không?

Việc áp giá trần là một hình thức định giá của Nhà nước. Mặt hàng sữa hiện nay tuy là mặt hàng trong diện bình ổn giá, nhưng không phải là tài nguyên quan trọng; không phải hàng dự trữ quốc gia, sản phẩm, dịch vụ công ích và dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước. Muốn áp dụng giá trần, cơ quan quản lý giá phải điều tra, xem xét sữa có phải là mặt hàng thuộc lĩnh vực độc quyền hoặc độc quyền nhóm không? Nếu mặt hàng sữa không phải là hàng hóa thuộc diện này, mà cơ quan chức năng áp dụng gía trần (mưc giá tối đa) là trái với Luật Giá. Được biết hiện cơ quan quản lý giá của Bộ Tài Chính không biết và chưa nắm rõ được thị phần của từng DN sữa. Khi chưa biết được cụ thể thị phần của các DN sữa lớn trên thị trường nước mà áp dụng giá trần trong quản lý là trái với quy định trong Luật Giá và Luật Cạnh tranh. Muốn thực thi biện pháp áp giá trần đối với mặt hàng sữa cho trẻ em dưới 6 tuổi, các cơ quan chức năng cần vào cuộc để xác định thị phần của từng DN sữa và đặc biệt là các DN sữa lớn có mặt trên thị trường nước ta. Xác định xem có đúng các DN sữa này có giữ vị trí thống lĩnh thị trường hay không? Thực hiện điều này cũng không quá khó, chỉ cần thông qua cơ quan cấp phép đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế là có đủ tư liệu để xác định được thị phần của các DN lớn này.

Qua phương tiện thông tin, được biết người đứng đầu của cơ quan quản lý Giá của Bộ Tài Chính trả lời với báo chí là hiện tại thị trường sữa Việt nam có tính cạnh tranh cao. Nếu đúng vậy, lại sử dụng bằng biện pháp áp giá trần để quan lý là không phù hợp với Luật Giá, trái

Page 31: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

399

với nguyên tắc quản lý giá trong cơ chế thị trường. Đối với thị trường cạnh tranh, giá do thị trường quyết định, nói một cách cụ thể giá trên thị trường này người mua và người bán tự quyết định. Khi có biến động về giá trên thị trường này, nhà nước chỉ sử dụng các biện pháp quản lý giá gián tiếp, thông qua các công cụ, chinh sách tài chính, tiền tệ, thương mại,... để điều hòa cung cầu nhằm bình ổn giá trên thị trường.

Một khi đã xác định trên thị trường sữa hiện nay ở nước ta có các DN giữ vị trí thống lĩnh thị trường, thì biện pháp áp giá trần là hoàn toàn thích hợp. Để định giá trần có thể sử dụng 2 phương pháp định giá theo quy định tại Thông tư số 25/2014/TT-BTC, ngày 17/2/2014 đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục thực hiện bình ổn giá trong thời gian Nhà nước áp dụng các biện pháp để bình ổn giá. Tuy nhiên, việc xác định giá trần của mặt hàng sữa không đơn giản, tương đối phức tạp không như thị trường xăng dầu chỉ có một vài loại sản phẩm. Thị trường sữa hiện tại của nước ta có tới 500 dòng sản phẩm của 200 DN. Do vậy sẽ phải xem xét để quyết định áp giá trần đối với dòng sản phẩm nữa nào? Hiện nay trên thị trường phần lớn các loại sữa bột dành cho trẻ em là sữa công thức. Đây là loại sữa đặc biệt và từng nhà sản xuất có công thức khác nhau. Do nắm bắt được tâm lý tiêu dùng của thị trường Việt Nam, hầu hết các công ty mẹ đã sản xuất riêng cho từng thị trường, trong đó có thị trường Việt Nam các dòng sản phẩm chuyên biệt. Do đó, mặc dù cùng tên gọi nhưng khó có thể tìm được sản phẩm đồng loại, đồng cấp (cùng chất lượng, tỷ lệ, thành phần…) để so sánh giá bán. Khi pha trộn các hàm lượng dinh dưỡng thì đều phải thử nghiệm lâm sàng, trong khi đó chi phí thực cho việc này các DN đều giữ bí mật, nên không biết lấy giá nào phù hợp để áp giá trần. Thêm vào đó, chính vì đặc tính tiêu dùng của trẻ em là đã dùng loại sữa nào thì chỉ dùng loại sữa đó nên đây cũng là một trong những “áp lực” về nguồn cung trên thị trường mà các DN sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu tạo ra cho chính người tiêu dùng. Bên cạnh đó, nếu áp giá trần không hợp lý để DN không đủ bù đắp chi phí và có mức lợi nhuận thỏa đáng cho sản phẩm sữa thì dẫn đến hậu quả các công ty sữa không cạnh tranh lẫn nhau trong việc ra sản phẩm mới.

Page 32: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

400

Hoặc có thể họ sẽ không sản xuất ra mặt hàng đó vì không có lợi nhuận, lúc đó phân khúc thị trường cho trẻ sẽ thiếu hụt. Đó là những khó khăn, tuy nhiên nếu cần thiết vẫn có khả năng xác định được giá trần hợp lý.

Nhìn lại công tác quản lý giá sữa cho thấy, không phải chỉ khi người tiêu dùng bức xúc, truyền thông, dư luận xã hội lên tiếng và có yêu cầu của Thủ tướng thì cơ quan quản lý giá mới bắt đầu vào cuộc. Bình ổn giá sữa đã nói nhiều lần và qua nhiều năm thực hiện, là sự việc cũ, nhưng lần này nếu các cơ quan chức năng không có sự quyết tâm, làm quyết liệt, chặt chẽ, đồng bộ hơn thì giá sữa vẫn là “con ngựa bất kham”. Phải học tập kinh nghiệm quản lý giá sữa từ Trung Quốc.

Để quản lý giá gas, sữa, thuốc tây nhằm bình ổn giá cả thị trường, cần phải thực hiện các giải pháp sau:

- Đối với các sản phẩm mà chúng ta còn phải nhập khẩu với số lượng lớn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, thì thuế và giá là 2 công cụ quan trọng và hữu hiệu nhất để bình ổn giá.

- Gas, sữa, thuốc tây là những mặt hàng thiết yếu nhưng không phải là mặt hàng do Nhà nước định giá. Bộ Tài chính cần xây dựng nguyên tắc xác định cơ cấu giá thành đầy đủ, chính xác theo các yếu tố hình thành giá và luôn đảm bảo tính hợp lý, để hình thành giá bán . Giá bán lẻ trong nước bằng giá nhập khẩu cộng với một số chi phí và lợi nhuận hợp lý. Nếu giá nguyên liệu và chi phí đầu vào tăng từ 5-10% so với đăng ký ban đầu, các đơn vị chủ động thực hiện lại việc tính giá và đăng ký giá bán và được điều chỉnh giá sau khi cơ quan tài chính thẩm định và chấp thuận.

- Bộ Công thương phối hợp với Bộ Tài chính thường xuyên tiến hành kiểm tra, kiểm soát giá mặt hàng này tại các cơ sở đại lý, nếu có dấu hiệu đầu cơ, nâng giá bất hợp lý, sẽ tiến hành xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Kiểm tra công tác đăng ký, kê khai giá và thực hiện bán theo giá đăng ký. Có hai vấn đề cần xem xét: giá nguyên liệu đầu vào và các mức chiết khấu cho đại lý. Phải xem việc tăng đột biến có hợp lý không, việc tăng giá có gây bất ổn thị trường. Trước mắt, sẽ tập

Page 33: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

401

trung kiểm tra tại các công ty. Tiếp theo sẽ triển khai rộng ra các đại lý, cửa hàng kinh doanh trên toàn địa phương để kiểm soát, chấn chỉnh tình trạng tăng giá tùy tiện và bảo đảm người tiêu dùng được mua đúng giá. Trường hợp tái phạm sẽ bị tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh không thời hạn. Trường hợp thu lời bất chính từ việc tự tăng giá các doanh nghiệp này sẽ bị thu hồi các khoản tiền bất chính đó. Cơ quan chức năng thường xuyên có số liệu đối chiếu giá nhập khẩu, qua đó sẽ là căn cứ để kiểm soát giá đăng ký của các doanh nghiệp.

- Vì lý do bí mật kinh doanh, khung bảng tính giá của các loại này chưa bao giờ công khai để người tiêu dùng được biết chi phí, giá thành thực tế của DN và mức hoa hồng cho đại lý hay lợi nhuận mà DN đang hưởng. Do vậy, cần công bố công khai bảng tính giá để người tiêu dùng giám sát.

- Với thực trạng hiện nay, để thực hiện bình ổn giá các mặt hàng này sẽ tập trung tìm biện pháp tiết giảm ở khâu chi phí chiết khấu giữa doanh nghiệp và đại cho hợp lý. Các doanh nghiệp phải cắt bớt các khâu trung gian, các khâu không cần thiết để ổn định mức chiết khấu ai. Cơ quan tài chính sẽ quản lý các mức chiết khấu cho đại lý.

- Thực tế vừa qua có hành vi tăng giá các mặt hàng này lặp đi lặp lại nhiều lần cùng vào thời điểm. Do vậy, cơ quan chức năng cần thu nhập số liệu, xem xét, đánh giá thực trạng tăng giá thời gian vừa qua để xem các DN có dấu hiệu bắt tay nhau tăng giá, vi phạm luật Cạnh tranh hay không. Nếu có, đề xuất để có biện pháp hoặc chế tài để ngăn cản hành vi này.

3.2. Kiểm soát giá cả và chi phí sản xuất của các hàng hóa dịch vụ độc quyền và các loại hàng hóa do Nhà nước định giá.

Nhằm thu lợi nhuận cao, các nhà sản xuất kinh doanh độc quyền thường bán hoặc mua với giá độc quyền để có lợi nhuận cao, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm nghiên cứu ở đây là chỗ trong khi theo đuổi lợi nhuận độc quyền cao các nhà độc quyền không chỉ làm thiệt hại người tiêu dùng mà còn làm giảm hiệu

Page 34: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

402

quả kinh tế của toàn xã hội. Để kiểm soát độc quyền, nhà nước thường sử dụng biện pháp can thiệp bằng hình thức định giá

Đối với hàng hóa độc quyền cao, can thiệp bằng định giá cụ thể. Đối với hàng hóa độc quyền không hoàn hảo, nghĩa là việc sản xuất kinh doanh có yếu tố cạnh tranh còn yếu, mà độc quyền có mức độ (giữ vị trí thống lĩnh thị trường). Tuy nhiên, giải pháp này vẫn chưa loại trừ được khả năng làm nẩy sinh quan hệ tiêu cực giữa DN độc quyền và cơ quan đảm trách việc định giá.

Một trong những vấn đề gây bức xúc đối với xã hội hiện nay là vấn đề kiểm soát giá sản phẩm độc quyền. Dựa trên kinh nghiệm của các nước và căn cứ vào tình hình thực tiễn của nước ta, những biện pháp sau để kiểm soát giá sản phẩm độc quyền:

Ban hành và thực hiện nghiêm ngặt chính sách kiểm soát giá sản - phẩm độc quyền (bao gồm cả giá mua và giá bán )

Có thiết chế cơ quan độc lập, hay bộ phân độc lập có chuyên - môn nghiệp vụ cao về giá cả, có thẩm quyền pháp lý thực thi các chính sách định giá sản phẩm độc quyền. Quan trọng nhất là thanh kiểm tra, kiểm soát nắm bắt chi phí sản xuất của sản phẩm độc quyền

Trong giai đoạn trước mắt, cần nhanh chóng chấm dứt việc giao - quyền tự định giá cho các DN độc quyền hay giữ vị trí thống lĩnh thị trường. Việc chấm dứt này không căn cứ vào ý nghĩa kinh tế hay độ lớn nhỏ của giá trị sản phẩm, dịch vụ mà phải căn cứ vào tính chất độc quyền của sản phẩm

Nhanh chóng rà soát và xác định các loại sản phẩm, dịch vụ độc - quyền trong nền kinh tế nước ta hiện nay để làm căn cứ xác định đối tượng chịu sự điều chỉnh của chính sách định giá sản phẩm độc quyền

Hoạt động trong cơ chế thị trường, các DN một mặt tuân thủ theo quy luật cạnh tranh, mặt khác hàng ngày hàng giờ tạo ra cho mình sức cạnh tranh độc quyền riêng bằng nhiều cách, kể cả tạo năng lực độc quyền bằng nhiều thủ đoạn, trong đó thủ đoạn dùng giá cả hòng thu lợi nhuận độc quyền cao, làm giảm hiệu quả kinh tế. Chống việc vừa hình

Page 35: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

403

thành độc quyền vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ vừa là chức năng của nhà nước. Trên góc độ giá cả thấy rằng cần có các giải pháp ngăn cản việc sử dụng giá cả để tạo ra độc quyền. Cụ thể:

Ban hành Luật định hạn chế các hành vi sử dụng giá cả để tạo - ra độc quyền. Cần có quy định cụ thể về việc sử dụng giá cả để tạo ra độc quyền. Những điều này đuợc thể hiện trong Nghị định của Luật Giá hoặc, hoặc luật Cạnh tranh hay Luật Thương mại.

Nội dung trong các quy định về giá cần xác định rõ càng nhiều - càng tốt các hành vi được coi là sử dụng giá cả để tạo ra độc quyền. Tuy nhiên, trên thực tế vì Nhà nước chưa có đầy đủ khả năng lường trước được các thủ đoạn tinh vi trên thị trường, cần có những quy định có tính nguyên tắc chung, trên cơ sở đó có thể vận dụng để xét được các trường hợp cụ thể. Cần tập trung chú ý vào 3 nhóm hành vi: Liên minh giá cả theo chiều ngang; Khống chế giá cả theo chiều dọc và Bán phá giá, phân biệt giá cả,sử dụng giá cả để gây thiệt hai cho cạnh tranh. Liên minh giá cả theo chiều ngang là việc các DN sản xuất kinh doanh cùng một loại hàng hóa. Dịch vụ liên kết, thỏa thuận cũng nhau khống chế giá cả ở mức tạo ra lợi nhuận cao, làm giảm hiệu quả kinh tế, gây thiệt hai cho người tiêu dùng (như thị trường sữa hiện nay ở nước ta). Khống chế hiệu quả theo chiều dọc là việc các DN khống chế giá bán của các công ty con, các chi nhánh hoặc đại lý ở mức có lợi.

Kiểm soát chi phí sản xuất của các DN độc quyền hoặc DN giữ - vị trí thống lĩnh thị trường nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường độc quyền, đồng thời làm cơ sở cho việc tính giá thành và định giá của các sản phẩm độc quyền.

Triệt để xóa bỏ bao cấp qua giá, thực hiện cơ chế giá thị trường, - tính đúng, tính đủ giá trị tài nguyên, đất đai,... đưa vào sử dụng tạo môi trường cạnh tranh, tăng quyền tự chủ cho DN.

Xây dựng chế tài thanh kiểm tra và xử phạt về việc chấp hành - pháp luật về giá, đặc biệt đối với giá cả của những hàng hóa dịch vụ độc quyền, thiết yếu đối với sản xuất và đời sống.

Page 36: HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ

404

3.3. Đảm bảo quyền tự chủ trong việc định giá của các DN là một nội dung quan trong trong thể chế xác định giá.

DN là những chủ thể kinh tế quan trọng của hệ thống kinh tế. Trong những năm qua Nhà nước đã triển khai hàng loạt các biện pháp trong đó có các chính sách và biện pháp về giá nhằm tiếp tục đổi mới quản lý DN. Để đảm bảo quyền tự chủ của DN, việc định giá theo cơ chế thị trường thực hiện nhiệm vụ sau:

Được quyền quyết định giá mua, bán hàng hóa dịch vụ trừ những hàng hóa dịch vụ độc quyền và sản phẩm hàng hóa dịch vụ thuộc danh mục Nhà nước định giá; được quyền cạnh tranh về giá theo đúng pháp luật để nâng cao hiệu quả SX-KD, bảo lệ lợi ích hợp pháp của DN và lợi ích người tiêu dùng; được quyền khiếu nại về các quyết định về giá do cấp có thẩm quyền đưa ra làm thiệt hai đến lợi ích hợp pháp của DN; được quyền khiếu nại hoặc tố giác các hành vi xâm phạm quyền tự định giá các DN đã được pháp luật quy định.

Trách nhiệm của các DN SX-KD trong lĩnh vực giá: Chấp hành các quyết định về giá do các cơ quan có thẩm quyền quy định. Chấp hành các biện pháp kinh tế do cơ quan có thẩm quyền yêu cầu nhằm ổn định giá cả thị trường; Báo cáo trung thực chi phí sản xuất, lưu thông, giá mua, gía bán thheo chế độ đăng ký giá đối với cơ quan có thẩm quyền; Chấp hành việc kiểm soát chi phí, giá cả và quy chế tính giá của cơ quan có thẩm quyền đối với sản phẩm thuộc đơn vị SX-KD có dấu hiệu bất thường về gía; Khi các đơn vị SX-KD không thỏa thuân được giá mua, bán để ký hợp đồng, thì báo cơ quan quản lý giá có trách nhiệm làm trọng tài để các DN thương lượng.