Upload
others
View
10
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
1
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT NGHỆ AN
Thông tin
KHOA HỌC
KINH TẾ - KỸ THUẬT
Số 3 – tháng 05/2012
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
2
THÔNG TIN KHOA HỌC
TẬP SAN RA 4 KỲ/NĂM
Chịu trách nhiệm nội dung: TS. Dƣơng Xuân Thao
Ban biên tập:
TS. Dƣơng Xuân Thao Trƣởng Ban biên tập
Ths. Nguyễn Xuân Tạo Phó Ban biên tập
TS. Nguyễn Thị Lan Phó Ban biên tập
Ths. Võ Thị Hải Lê Ban viên
Ths. Nguyễn T. Ngọc Dung
Ths. Chu Thị Hải
Ths. Ngô Thị Thanh Hoàn
Ths. Bùi Đình Thắng
Ths. Tăng Văn Tân
Thư ký ban biên tập: Th.s. Võ Thị Hải Lê
Trình bày và sửa bản in: TS. Dƣơng Xuân Thao
Lê Thanh Huyền
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
3
MỤC LỤC
TT TÊN BÀI TRANG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 1 Dƣơng Xuân Thao
Cứu doanh nghiệp nhìn từ chính sách kinh tế vĩ mô
5
2 Nguyễn Thị Hiền
Các biện pháp huy động nguồn lực tài chính cho trường Cao đẳng Kinh
tế - Kỹ thuật Nghệ An
8
3 Ngô Xuân Thành
Các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng
Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An
14
4 Võ Thị Hải Lê
Ứng dụng công cụ hỗ trợ GIS trong điều tra ổ dịch cúm gia cầm từ năm
2004 - 2012 tại huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh
19
5 Ngô Thị Thanh Hoàn
Kế toán quản trị chi phí, doanh thu ở các doanh nghiệp xây lắp trên địa
bàn tỉnh Nghệ An
29
6 Võ Thị Dung
Thời điểm gieo trồng thích hợp đối với giống bí ngồi Hàn Quốc ở vụ
Xuân.
35
7 Nguyễn Thị Lan
Giá trị học thuyết đức trị của Khổng tử đối với thời hiên đại
39
8 Nguyễn Thị Mai Anh
Lịch sử hình thành tư tưởng Nhà nước pháp quyền
45
9 Lê Văn Sỹ
Bàn về chế độ sở hữu
52
10 Trần Thị Bình
Vấn đề giáo dục thế hệ trẻ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
57
11 Nguyễn Quốc Sơn
Chăm lo những nhu cầu thiết yếu cho nhân dân - một nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân
63
12 Nguyễn Khánh Ly
Một chặng trong hành trình cứu nước của lãnh tu Nguyễn Ái Quốc
(1934 – 1938)
67
13 Nguyễn Thị Minh
Sử dụng Excel để lên kế hoạch coi thi và thanh toán tiền coi thi tại
trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An.
74
14 Hoàng Hữu Chất
Tình hình nhiễm Leptospira trên đàn lợn thuộc tỉnh Nghệ An và biện
pháp điều trị
83
15 Nguyễn Thị Hoa
Hiệu quả sử dụng rơm tươi sau khi xử lý trong chăn nuôi trâu, bò
89
16 Chu Thị Hải
Kết quả nghiên cứu chế phẩm Actiso bổ sung thức ăn nhằm hạn chế tác
hại của Aflatoxin B1 trên gà.
95
17 Trần Thị Thúy Nga
Nghiên cứu cấu trúc trạng thái và tổ thành rừng thuộc khu bảo tồn thiên
101
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
4
nhiên Pù Huống, Nghệ An.
18 Nguyễn Thị Hoài Ly
Phát huy tính chủ động của sinh viên trong giờ học tiếng Anh chuyên
ngành.
106
19 Ngụy Vân Thùy
Thủ thuật thiết kế một số trò chơi tiếng Anh trên phầm mềm
PowerPoint
111
TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM, THÔNG TIN KHOA HỌC 117
20 Nguyễn Xuân Tạo
Tìm hiểu về chủ nghĩa dân chủ của Xingapo
123
21 Lê Thanh Huyền
Một số giải pháp thực hiện quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nông nghiệp nông thôn
22 Đinh Chung Thành
Quản lý chất lượng theo ISO 9000 với vấn đề đổi mới quản lý giáo dục
đào tạo
130
23 Trịnh Sơn Hải
Sử dụng Excel để quản lý vật tư
135
24 Nguyễn Đình Thắng
Thực trạng coi thi và chấm thi ở trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật
Nghệ An trong thời gian qua.
140
25 Bùi Minh Đức
Trao đổi đôi điều kinh nghiệm qua hội thi “Giáo viên dạy giỏi cấp
trường”
143
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
5
CỨU DOANH NGHIỆP NHÌN TỪ
CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ
TS. Dương Xuân Thao*
Báo Nghệ An số 9015, 9016, ngày
23, 24 tháng 4 năm 2012 có đăng mục
“Hàng loạt doanh nghiệp ngừng hoạt
động”, gồm 02 bài, bài một “Khó khăn
chồng chất”, bài hai “Sớm có giải pháp cứu
doanh nghiệp”. Bài báo đã đưa ra con số
đáng lo ngại ở Nghệ An về số doanh nghiệp
ngừng hoạt động, đóng mã số thuế hoặc có
kê khai thuế, nhưng số phát sinh nhỏ hoặc
bằng không. Thu ngân sách quý I chỉ đạt
20,9% dự toán, chưa bằng một nửa so với
cùng kỳ năm ngoái. Tình trạng doanh nghiệp
phá sản, ngừng hoạt động đã làm cho một
lượng lớn lao động rơi vào thất nghiệp,
không có việc làm, hoặc có việc làm nhưng
thu nhập quá thấp, không đủ duy trì đời sống
của bản thân họ, nó là nguyên nhân chủ yếu
gây nên sự hỗn loạn của xã hội.
Theo số liệu của VCCI, năm 2011 cả
nước có 79.000 doanh nghiệp giải thể, tính
đến quý II năm 2012 cả nước có khoảng
200.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động, có
nhiều doanh nghiệp chấp nhận phá sản theo
luật phá sản, nhiều doanh nghiệp vỡ nợ,
giám đốc bỏ trốn gây hệ lụy hàng triệu
người, nhiều doanh nghiệp, cơ quan và ngân
hàng.
* Hiệu trưởng
Quy luật khủng hoảng của một nền
kinh tế bao gồm ba giai đoạn, giai đoạn 1
khủng hoảng, giai đoạn 2 tiêu điều, giai đoạn
3 hưng thịnh, thì giai đoạn hiện tại của Việt
Nam có thể được xem là giai đoạn chuẩn bị
khủng hoảng, các dấu hiệu về khủng hoảng
xuất hiện ngày càng rõ.
Trong nền kinh tế thị trường với sự
điều tiết của cơ chế thị trường bằng các quy
luật vốn có của nó, đó là sự điều tiết tự
nhiên, khách quan, vô hình, sự điều tiết vô
hình này cơ bản tạo động lực cho suất kinh
doanh phát triển, nhưng cũng xuất hiện
nhiều khuyết tật cho nền kinh tế và phát triển
xã hội do nó mang lại, vì vậy phải có bàn tay
hữu hình, sự điều chỉnh của Nhà nước thông
qua các chính sách, pháp luật, bộ máy Nhà
nước để hướng nền kinh tế theo đúng mục
tiêu đã định. Tuy nhiên, vì sự điều chỉnh và
ý muốn của Nhà nước lại mang tính chủ
quan nên có thể xảy ra trường hợp, một là ý
chí mục tiêu của Nhà nước không phù hợp
với yêu cầu của hiện thực khách quan, hai là
mục tiêu đã đúng, nhưng phương pháp, biện
pháp triển khai để thực hiện mục tiêu lại
không đúng với quy luật khách quan, và tất
nhiên sẽ bị quy luật khách quan phá vỡ.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
6
Trở lại vấn đề doanh nghiệp phá sản,
thất nghiệp tăng trong hai năm qua có nhiều
nguyên nhân, nhưng theo chúng tôi điều cốt
yếu nhất là do tác động của một số chính
sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ, nhất là
chính sách tiền tệ, tài khóa, thuế, đầu tư
công... Từ năm 2007 đến 2011, có ba giai
đoạn thay đổi về chính sách tiền tệ. (1) giai
đoạn “thắt chặt” 2007 – 2008 nhằm mục tiêu
kiềm chế lạm phát ở giai đoạn này. (2) giai
đoạn “nới lỏng” từ cuối năm 2008 đến 2010,
giai đoạn này do việc thắt chặt tiền tệ mạnh
tay, làm cho tốc độ kinh tế phát triển chậm
lại, hiện tượng đình đốn sản xuất xuất hiện,
tuy chưa rõ rệt như hiện nay. Để đảm bảo
tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu, giai đoạn
2008 đến 2010 Chính phủ đã nơi lỏng chính
sách tiền tệ, có nhiều giải pháp, nhưng giải
pháp bằng các gói kích cầu là trọng tâm.
Chính phủ đã dùng 9 tỷ USD cho gói kích
cấu kinh tế (đứng thứ 3 thế giới về tỷ trọng
gói kích cấu/ tỷ trọng GDP, chỉ sau Trung
Quốc và Malaixia) trong đó dành riêng 1 tỷ
đô la (tương đương hơn 20 ngàn tỷ đồng) từ
dự trữ ngoại hối quốc gia để hỗ trợ, giảm 4%
lãi suất vay vốn lưu động ngắn hạn cho
doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân để sản
xuất, kinh doanh nhằm giảm giá thành hàng
hóa và tạo việc làm. Đây là cách làm khá
độc đáo và sáng tạo “rất Việt Nam” nhưng
mang lại hiệu quả khá cao. Sau đó vào ngày
04/4/2009, Chính phủ tiếp tục hỗ trợ 4% lãi
suất. Bằng việc hỗ trợ lãi suất, Chính phủ đã
khuyến khích tăng nhanh chóng nhu cầu đầu
tư của các doanh nghiệp đang rất thiếu vốn
sản xuất đồng thời mở đầu ra cho các
NHTM đang trong tình trạng dư thừa vốn.
Đến đầu năm 2011 tốc độ lạm phát
lại tăng cao, để kiểm soát lạm phát, Chính
phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP
ngày 24/2/2011, trong đó có các nội dung,
(1) “thắt chặt chính sách tiền tệ”, (2) “cắt
giảm đầu tư công”, (3) “thắt chặt chính sách
tài khóa”. Nghị quyết 11/NQ-CP đã có
những tác động tích cực, kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô. Sau một năm thực
hiện, hiện tại tốc độ lạm phát đã được kiềm
chế, nhưng đã có nhiều hậu quả, dấu hiệu
giai đoạn đầu của một cuộc khủng hoảng
nhỏ như đã nêu trên, để khả năng khủng
hoảng không xuất hiện, hoặc xuất hiện
thoáng qua, và cứu doanh nghiệp, theo
chúng tôi phải thực hiện điều chỉnh kịp thời
một số chính sách kinh tế vĩ mô.
Một là: Đến thời điểm này sau hơn
một năm thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP,
có thể nói rằng đã hoàn thành cơ bản được
mục tiêu chống lạm phát. Ở các nước đang
phát triển như ở Việt Nam, mức lạm phát
theo tính toán của một số tài liệu, nên cho
phép khoảng từ 6 – 7% năm, với mức lạm
phát này sẽ có tác dụng kích thích, bôi trơn
nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng GDP, do
vậy ở giai đoạn này chúng ta cần phải nới
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
7
lỏng dần về chính sách tiền tệ, đầu tư công
và chính sách tài khóa.
Hai là: Chính phủ cần khắc phục việc
“thắt chặt” quá nhanh, cũng như “nới lỏng”
quá nhanh, sẽ tạo ra cú sốc cho nền kinh tế,
việc nới lỏng Nghị quyết 11/NQ-CP lần này
phải phù hợp và thận trọng, có bước đi hợp
lý.
Ba là: Đối với chính sách tiền tệ nới
lỏng nhưng phải quản lý chặt chẽ, chúng ta
không “thắt chặt” mà chỉ “quản lý chặt”, chỉ
có quản lý chặt mới giải quyết hài hòa giữa
“thắt chặt” và “nới lỏng”. Hiện nay lãi suất
huy động được giảm từ 18% xuống còn
12%, việc làm này nếu được thực hiện cách
đây vài năm, thì sẽ có hiệu quả cao, và
không gây rối loạn tín dụng như thời gian
vừa rồi, việc hạ suất lãi suất huy động ở 12%
hiện nay là hợp lý, cần phải duy trì một thời
gian dài, và không nên hạ dưới 10%, vì nếu
như vậy sẽ khó huy động được nguồn vốn
nhãn rỗi trong dân cư. Tuy nhiên, hiện nay
thực tế các ngân hàng vẫn huy động trên
mức 14% năm, bằng các hình thức khuyến
mại, thưởng cho khách hàng, do đó mức cho
vay vẫn đang ở mức cao, đây là một hiện
tượng cạnh tranh không lành mạnh, nếu
ngân hàng nhà nước không có biện pháp
kiểm soát chặt chẽ thì việc hạ lãi suất sẽ
không có ý nghĩa trong thực tế. Mặt khác tuy
đã có nới lỏng tín dụng, nhưng các doanh
nghiệp vẫn rất khó tiếp cận được nguồn vốn,
do chủ yếu các doanh nghiệp vay để trả nợ
cũ, do đó ngân hàng hạn chế cho vay, vì vậy
nên cho doanh nghiệp kéo dài thời gian nợ
cũ, vừa giúp cho ngân hàng và doanh nghiệp
cùng tháo gỡ khó khăn.
Bốn là: Đối với đầu tư công, nên tiếp
tục cho thực hiện đầu tư công ở các lĩnh vực
y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng và một số hạng
mục khác nếu cần thiết, có thể xem đây
những một gói kích cầu mới, nhưng việc đầu
tư phải hiệu quả, không vì mục tiêu kích cầu,
giải ngân như gói thầu năm 2008 – 2010, đã
có những hạng mục đầu tư kém hiệu quả
gây lãng phí lớn và tăng nợ công.
Năm là: Tiếp tục giảm thuế, giản
thuế, các khoản tiền thuê đất... trong một
thời gian để tạo cho doanh nghiệp có thêm
nguồn lực tài chính để trở lại ổn định sản
xuất. Tuy nhiên, việc giảm thuế, giản thuế
phải kiểm tra chặt chẽ, tránh trường hợp
doanh nghiệp lợi dụng, chiếm dụng tiền thuế
để thu lãi, làm cho việc thực hiện các chính
sách tiền tệ, thuế bị bóp méo, sản xuất thêm
đình đốn. Thực tế có nhiều doanh nghiệp
không nộp thuế, không kinh doanh dùng tiền
thuế và vốn gửi ngân hàng lấy lãi, đây là một
nguyên nhân làm cho số tiền huy động của
ngân hàng thời gian qua tăng cao và nguy cơ
gây lạm phát mới.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
8
CÁC BIỆN PHÁP HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH
CHO TRƢỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT NGHỆ AN
Th.S Nguyễn Thị Hiền*
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thực tế hoạt động của Trường
Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An
trong những năm qua là kết quả của sự
phối hợp đồng bộ giữa các nguồn: Nhân
lực, vật lực và tài lực, trong đó nguồn lực
tài chính có vai trò quan trọng. Để đáp
ứng yêu cầu nhân lực cho mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm
2020 của tỉnh Nghệ An, Trường Cao
đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An cần
được đầu tư và phát triển về cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy học, các phòng thí
nghiệm, đồng thời nâng cao chất lượng
đội ngũ giảng viên, nhằm đa dạng hóa
ngành nghề đào tạo, đổi mới phương
pháp dạy học, là tiền đề nâng hạng
trường lên Đại học trong năm 2013. Điều
đó càng đòi hỏi có sự đầu tư thêm về
kinh phí từ ngân sách Nhà nước và sự
đóng góp của toàn xã hội, cũng như việc
sử dụng và quản lý có hiệu quả nguồn
kinh phí được đầu tư và đóng góp, nhằm
đáp ứng quy mô đào tạo của trường hiện
tại cũng như tương lai.
Do tính cấp thiết của vấn đề nguồn
lực tài chính đối với Trường Cao đẳng
Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An, chúng tôi
đặt vấn đề lựa chọn đề tài nghiên cứu:
"Một số biện pháp tăng cường nguồn lực
tài chính trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ
thuật Nghệ An, giai đoạn 2012 – 2020"
nhằm đáp ứng quy mô đào tạo của nhà
trường trong giai đoạn 2012 – 2020.
II. Nội dung, phƣơng pháp nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu
+ Phân tích và đánh giá thực trạng
sử dụng nguồn lực tài chính của trường
Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An
trong những năm qua.
+ Nghiên cứu đề xuất một số biện
pháp tăng cường nguồn lực tài chính đáp
ứng quy mô đào tạo của trường, giai
đoạn 2012 – 2020.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
+ Vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm lý luận
của Đảng và Nhà Nước ta trong sự
nghiệp phát triển giáo dục – đào tạo ở
Việt Nam.
+ Sử dụng phương pháp điều tra,
nghiên cứu thực tiễn.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
9
+ Phương pháp so sánh, thống kê
toán học, phân tích đánh giá và các
phương pháp nghiệp vụ khác.
Do khuôn khổ của tạp chí nên
trong bài báo này chúng tôi chỉ đề cập
đến một số biện pháp tăng cường nguồn
lực tài chính cho Trường Cao đẳng Kinh
tế - Kỹ thuật Nghệ An.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Cơ sở xây dựng các biện pháp tăng
cƣờng nguồn lực tài chính cho trƣờng
Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An
3.1.1 Biện pháp tăng cường nguồn
lực tài chính cho trường CĐ KT – KT
Nghệ An, phải xuất phát từ quan điểm
của Đảng: "Giáo dục là quốc sách hàng
đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát
triển".
Nghị quyết TW2 của Ban Chấp
hành TW khóa VIII đã khẳng định: "Giáo
dục là quốc sách hàng đầu" và điều này
cho đến tận bây giờ vẫn được sự quan
tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước, các
Ban, ngành từ TW đến địa phương và
được sự ủng hộ của đông đảo tầng lớp
nhân dân trong việc dạy và học. Điều đó
càng thấy rõ tầm quan trọng đặc biệt của
Giáo dục - Đào tạo.
Theo tài liệu của nhiều nước trên
thế giới, chi phí cho giáo dục trong ngân
sách quốc gia phải đạt từ 15 – 20% tổng
chi ngân sách. Nếu ví ngành giáo dục
như một ngành công nghiệp thì đó là
"một ngành công nghiệp" lớn nhất trong
nên kinh tế, cả về mặt giá trị và khối
lượng công viêc vì nó thường xuyên có
liên quan đến 1/5 dân số cả nước.
Các nhà kinh tế tư bản chủ nghĩa
cho rằng: "Đầu tư cho Giáo dục – Đào
tạo được coi như một hoạt động của quá
trình tích lũy tư bản, nhằm mục đích tăng
năng suất lao động. Theo DohShehltz –
nhà kinh tế Mỹ "Gọi đầu tư cho Giáo dục
– Đào tạo là đầu tư vào tư bản con người
cũng có giá trị như đầu tư cho chăm sóc
sức khỏe con người".
Từ nhận thức sâu sắc vai trò to lớn
của Giáo dục – Đào tạo đối với sự tồn tại
và phát triển xã hội. Vì vậy nhu cầu phát
triển Giáo dục – Đào tạo là cần thiết và
việc đầu tư cho Giáo dục – Đào tạo là
một điều tất yếu.
3.1.2. Biện pháp tăng cường
nguồn lực tài chính cho cơ sở đào tạo
phải phù hợp với mối quan hệ giữa phát
triển giáo dục và phát triển kinh tế - xã
hội.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội
đặc biệt, nó vừa có tính độc lập tương
đối, vừa có mối quan hệ tác động qua lại
với các quá trình và hiện tượng xã hội
khác và nằm trong mối quan hệ tác động
chi phối lẫn nhau. Tính biện chứng của
nó được thể hiện qua sơ đồ sau:
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
10
Sơ đồ 3.1 Mối quan hệ giữa giáo dục và kinh tế - xã hội
Như vậy, để việc đầu tư cho giáo
dục được thực hiện thì phải tính đến các
yếu tố của nền kinh tế - xã hội. Điều đó
không có nghĩa là phải chờ khi kinh tế -
xã hội phát triển mới đầu tư cho phát
triển giáo dục, như vậy là thủ tiêu vai trò
động lực của giáo dục đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội. Vấn đề sẽ được giải
quyết khi có quan điểm ưu tiên cho sự
phát triển giáo dục.
Nói cụ thể hơn trong mối tương
quan chặt chẽ giữa sự phát triển giáo dục
và phát triển kinh tế - xã hội, xuất phát từ
tiềm lực kinh tế hiện có, mà có thể giúp
cho giáo dục phát triển "Đi trước một
bước". Sự đi trước về đầu tư sẽ tạo sức
mạnh để nhận thức được hiện thực hóa
trong hành động và giáo dục sẽ được phát
triển.
3.1.3. Biện pháp tăng cường
nguồn lực tài chính cho cơ sở giáo dục –
đào tạo phải xuất phát từ mối quan hệ
giữa quản lý với các nguồn lực trong nhà
trường.
Bất kỳ một tổ chức nào tồn tại và
phát triển cũng phải dựa vào các nguồn
lực. Đó là nguồn nhân lực, vật lực và tài
lực. Yếu tố tạo ra sức mạnh tổng hợp của
các nguồn lực trên chính là khâu quản lý.
Giá trị vật chất
và tinh thần
Giáo dục Các hoạt động
kinh tế xã hội
Con người được
giáo dục đào tạo
Nhân lực
Quản lý
Vật lực Tài lực
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
11
Sơ đồ 3.2. Mối quan hệ giữa quản lý và các nguồn lực
Sự phân tích trên cho thấy, để có
thể tăng cường nguồn lực tài chính cho
cơ sở Giáo dục – Đào tạo, cần phải tăng
cường hiệu quả quản lý. Quản lý sẽ tạo ra
sự phối hợp giữa các nhân tố trong quá
trình đào tạo, tạo ra sự đồng bộ trong vận
hành của bộ máy nhà trường. Nhờ đó đạt
được các mục tiêu đào tạo. Dưới góc độ
quản lý, cần thiết phải xác định rõ về mối
quan hệ giữa nhân tố tài chính với các
nhân tố khác trong Nhà trường.
Việc cải tiến phương pháp gắn
liền với sự thay đổi về phương tiện, trang
thiết bị kỹ thuật, nếu không có tài chính
sẽ khó có thể thực hiện được. Ngược lại,
các yếu tố trong nhà trường vận động và
phát triển tất yếu đặt ra nhu cầu tài chính
và đòi hỏi phải có biện pháp để đáp ứng.
3.1.4. Biện pháp tăng cường nguồn lực
tài chính cho cơ sở giáo dục đào tạo phải
phù hợp với các quy định của Nhà nước
về quản lý tài chính
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta đã có những cải cách tài
chính cho Giáo dục – Đào tạo. Trước hết,
nguồn kinh phí cho Giáo dục – Đào tạo
được mở rộng, đã thực hiện thu học phí
nhằm hỗ trợ một phần kinh phí cho các
trường, có chính sách miễn giảm học phí
cho các đối tượng chính sách xã hội.
Về quản lý, phân bổ và sử dụng
kinh phí: Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý
ngân sách Nhà nước dành cho Giáo dục –
Đào tạo, các địa phương trực tiếp quản lý
ngân sách Giáo dục – Đào tạo địa
phương. Việc phân bổ chi phí thường
xuyên cho Giáo dục – Đào tạo được tính
theo định mức trên đầu học sinh và được
điều chỉnh hàng năm.
3.2. Biện pháp tăng cƣờng nguồn lực
tài chính cho trƣờng Cao đẳng Kinh tế
- Kỹ thuật Nghệ An
3.2.1. Các biện pháp huy động nguồn lực
tài chính cho trường Cao đẳng Kinh tế -
Kỹ thuật Nghệ An
Huy động tổng lực sự hỗ trợ của
Bộ Giáo dục – Đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ
Kế hoạch đầu tư, Sở tài chính và Sở giáo
dục – Đào tạo. Hiện nay, nguồn lực tài
chính của trường chủ yếu do ngân sách
Nhà nước cấp. Nguồn tài chính này tăng
hay giảm, hoàn toàn phụ thuộc vào chủ
trương chính sách của Nhà nước cho phát
triển Giáo dục – Đào tạo trong đó có hệ
thống các trường cao đẳng.
Huy động nguồn nhân lực trong
nhà trường. Nguồn nhân lực của trường
Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật rất dồi dào,
nếu tổ chức tốt các hình thức lao động
hợp lý thì có thể đem lại thu nhập đáng
kể bổ sung vào nguồn vốn Nhà trường.
Theo quan điểm quản lý kinh tế đây là
biện pháp khai thác nguồn nhân lực để
phát triển. Nhân lực sử dụng tài chính và
đồng thời làm cho tài chính sinh lời.
Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
trong đào tạo. Đây là biện pháp huy động
nguồn vốn nước ngoài cho hoạt động đào
tạo của Nhà trường thông qua các mối
quan hệ hợp tác với các quốc gia, tổ chức
phi chính phủ, kiều bào ở nước ngoài.
Trong thời đại Nhà nước thực hiện chính
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
12
sách mở cửa để phát triển, Nhà trường
cần phát huy tính năng động trong công
tác lãnh đạo, đẩy mạnh các mối quan hệ
với các quốc gia, các tổ chức quốc tế phi
chính phủ để tranh thủ sự giúp đỡ của họ
về tài chính, về cơ sở vật chất, khoa học
kỹ thuật và văn hóa xã hội cho quá trình
đào tạo của Nhà trường.
Mở rộng sự liên kết đào tạo. Thực
tế qua liên kết đào tạo, nhà trường tranh
thủ sự đóng góp đào tạo từ các địa
phương trong tỉnh. Đây là một hình thức
xã hội hóa Giáo dục - Đào tạo. Bởi vì
ngoài việc hỗ trợ tài chính cho lớp học,
địa phương còn đảm bảo cơ sở vật chất
cho quá trình đào tạo.
Huy động nguồn vốn trong dân
cư, các tổ chức kinh tế xã hội cho đầu tư
phát triển Giáo dục – Đào tạo của trường
Cao đẳng kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An.
Nhu cầu vốn đầu tư phát triển giáo dục
ngày càng tăng, cùng với việc nâng cao
mức đầu tư từ ngân sách Nhà nước, cần
phải huy động mạnh mẽ nguồn vốn trong
dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội thông
qua: nguồn thu học phí, thu tiền xây dựng
do cha mẹ học sinh đóng góp, nguồn
đóng góp tự nguyện của dân, đóng góp
của các doanh nghiệp, các tổ chức đoàn
thể xã hội. Đối với Nhà trường đó là khoản
bù đắp một phần những chi phí quá lớn mà
khả năng ngân sách Nhà nước không đài thọ
đủ, đối với Nhà nước thực hiện phương
châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", đối
với xã hội là phát huy trách nhiệm của cộng
đồng trong sự nghiệp "trồng người" của đất
nước.
Phát huy tiềm năng của cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện có. Cơ sở vật chất,
trang bị để phục vụ cho hoạt động đào
tạo của nhà trường. Trong quá trình sử
dụng thường xuyên phải được tu bổ, bảo
dưỡng thì mới đáp ứng nhu cầu học tập.
3.2.2. Các biện pháp quản lý và sử dụng
nguồn lực tài chính cho trường Cao đẳng
Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An
Kế hoạch hóa huy động và sử dụng
kinh phí trong nhà trường. Sử dụng kinh phí
phải xuất phát từ nguồn kinh phí đã có. Vì
vậy sử dụng kinh phí phải đi đôi với huy
động kinh phí. Hai hoạt động này phải được
thực hiện một cách có kế hoạch và đồng bộ.
Kế hoạch hóa trong huy động và sử dụng
nguồn kinh phí sẽ tránh được sự mâu thuẫn
trong thu và chi, đảm bảo sự cân đối giữa thu
và chi trong hoạt động tài chính của Nhà
trường.
Chú trọng đối với công tác tổ chức
tài chính trong Nhà trường. Công tác tổ
chức luôn là yếu tố đảm bảo thành công
cho hoạt động của bất kỳ bộ máy quản lý
nào. Trong lĩnh vực tài chính cũng vậy.
Hoạt động tài chính đều diễn ra ở cơ sở
nhưng chịu sự quản lý của ngành dọc, vì
thế tổ chức công tác tài chính trong Nhà
trường là một công việc rất được quan
tâm đối với các nhà quản lý trường học.
Công tác tổ chức tài chính bao hàm cả nhân
tố con người, việc thiết kế bộ máy này đến
quá trình điều hành sự vận động của các
nguồn lực tài chính trong trường học.
Sử dụng một cách có hiệu quả
nguồn kinh phí hiện có. Cần phải tiến
hành những biện pháp quản lý chặt chẽ
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
13
nguồn kinh phí đã có, để sử dụng có hiệu
quả nhất, tiết kiệm nhất, phục vụ tối đa
cho nhiệm vụ đào tạo, giảm bớt chi phí
cho bộ máy quản lý hành chính, bộ phận
phục vụ của nhà trường để tập trung
nguồn vốn vào việc dạy và học.
Tăng cường công tác kiểm tra
đánh giá hoạt động tài chính. Công tác
kiểm tra có chức năng đảm bảo cho hoạt
động tài chính được đúng hướng và có
thể phát hiện để điều chỉnh kịp thời
những sai lầm trong hoạt động. Nhờ công
tác kiểm tra mà thực trạng hoạt động tài
chính của Nhà trường được thể hiện và
đánh giá đúng mức.
Tăng cường khâu quản lý tài sản.
Mục đích nhằm kéo dài thời hạn sử dụng tài
sản đã trang bị, đồng thời hạn chế thất thoát,
phát hiện hư hỏng để sửa chữa kịp thời.
Tổ chức có hiệu quả đội ngũ cán
bộ không trực tiếp giảng dạy. Để góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả đào
tạo, nhà trường cần tính toán lại khối
lượng, tính chất công việc và bố trí người
có năng lực phù hợp với yêu cầu, nhiệm
vụ và như vậy cũng giảm bớt lượng kinh
phí hàng tháng, hàng năm cho nhà
trường.
Tóm lại, để tăng cường nguồn lực
tài chính cho trường Cao đẳng Kinh tế -
Kỹ thuật Nghệ An, cần thiết phải tiến
hành đồng thời nhiều biện pháp. Tuy
nhiên để phát huy hiệu lực trong từng
hoàn cảnh, từng thời điểm có thể ưu tiên
để thực hiện một số biện pháp nào đó.
Xuất phát từ đòi hỏi nâng cao chất lượng
đào tạo của trường, chúng tôi chắc chắn
rằng những biện pháp nêu trên sẽ khẳng
định tính khả thi và hiệu quả của nó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thu Hà (1997), Huy động
các nguồn lực tài chính phát triển sự
nghiệp Giáo dục - Đào tạo, Tạp chí Tài
chính, số 5 (319)
2. Nguyễn Văn Châu (1994), Đầu
tư cho Giáo dục đào tạo con người, nhân
tố quyết định lao động ở nước ta, Tạp chí
Tài chính tháng 7.
3. Trương Minh Đức (1996), Phát
triển nhân lực cho CNH, HĐH ở miền
Trung, Tạp chí Thông tin lý luận số 218.
4. Bộ Tài chính, (1998), Hướng dẫn
thực hiện Luật ngân sách, Nxb Tài chính.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
14
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TRƢỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT NGHỆ AN
Th.S Ngô Xuân Thành*
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phát triển Giáo dục và Đào tạo là
một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; là điều kiện để phát huy nguồn
lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển
xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững. Chất lượng đội ngũ giáo viên là sự
phản ánh trực tiếp của chất lượng giáo
dục bởi lẽ "Giáo viên là nhân tố quyết
định chất lượng giáo dục".
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ
thuật Nghệ An thực hiện chức năng cơ
bản là đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng cán
bộ quản lý kinh tế, cán bộ kỹ thuật đạt
trình độ cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp. Trong những năm qua, nhà
trường đã có nhiều cố gắng khắc phục
mọi khó khăn để đổi mới mạnh mẽ mọi
mặt hoạt động của nhà trường nhằm đáp
ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ.
Trong những cố gắng và kết quả đã giành
được, phải nói đến công tác đào tạo bồi
dưỡng đội ngũ. Từ chỗ nhà trường chưa
một ai có trình độ sau đại học vào những
năm 1995, thì đến nay trường đã có gần
45% tổng số giảng viên có trình độ sau
đại học. 100% giảng viên đã tốt nghiệp
đại học chính quy.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng
và phát triển nhà trường còn bộc lộ một số
mặt yếu kém của đội ngũ cán bộ, giảng viên,
đã hạn chế đến kết quả đào tạo trong giai
đoạn hiện nay, trong lúc yêu cầu và nhiệm
vụ đòi hỏi ngày càng cao.
Với những lý do nêu trên, tôi lựa
chọn đề tài nghiên cứu: "Các giải pháp
để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật
Nghệ An" nhằm mục đích tìm ra các giải
pháp chủ yếu để phát triển và nâng cao
chất lượng đội ngũ, đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu phát triển của nhà trường
trong giai đoạn hiện nay.
II. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
- Tìm ra các giải pháp chủ yếu
nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ
An trong tình hình hiện nay.
- Thực hiện mục tiêu nâng cao
chất lượng và hiệu quả giáo dục đào tạo
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
15
của nhà trường, đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý
luận
- Nhóm các phương pháp thực tiễn
- Nhóm các phương pháp bổ trợ.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Nâng cao nhận thức của mọi thành
viên trong nhà trƣờng về vị trí vai trò
của đội ngũ giảng viên trong tình hình
mới.
Đây là giải pháp cần thiết nhằm
góp phần xây dựng và phát triển đội ngũ
giảng viên về mọi mặt, vì giải pháp này
nó sẽ tạo ra sự thống nhất trong nhận
thức và hành động. Trước hết phải được
thể hiện trong chủ trương, Nghị quyết
của ban chấp hành Đảng bộ, Ban giám
hiệu nhà trường cũng như hội nghị cán
bộ công nhân viên chức. Phải cụ thể hóa
Nghị quyết cho từng năm, từng học kỳ.
Xác định đó là nhiệm vụ chiến lược lâu
dài của nhà trường.
Cần tổ chức Hội nghị, hội thảo
chuyên đề bàn về phát triển, nâng cấp
trường gắn công tác xây dựng đội ngũ
giảng viên để mọi người được tham gia
bàn bạc, góp phần tìm ra giải pháp tốt
nhất, đồng thời qua đó nâng cao nhận
thức cho họ. Kết hợp tuyên truyền sâu
rộng bằng nhiều hình thức linh hoạt phù
hợp nhằm tôn vinh nghề dạy học, tôn
vinh nhà giáo.
3.2. Xây dựng và ban hành các quy
định, quy chế, các quy trình quản lý
cán bộ giảng viên.
Xây dựng quy hoạch đội ngũ và
phát triển đội ngũ. Quy hoạch đội ngũ là
bản luận chứng khoa học về công tác
phát triển đội ngũ. Nó góp phần xác định
hướng đi của nhà trường về công tác tổ
chức nhân sự, tăng cơ sở khoa học và
thực tiễn cho việc ra quyết định, phục vụ
công tác lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ, đồng thời là cơ sở điều khiển,
điều chỉnh hoạt động quản lý chỉ đạo của
nhà trường. Do đó muốn làm tốt công tác
xây dựng và phát triển đội ngũ phải làm
tốt công tác quy hoạch.
Xây dựng quy trình tuyển dụng,
bồi dưỡng, kèm cặp đội ngũ giảng viên
trẻ, giảng viên mới. Quy trình được xây
dựng một cách chi tiết cho phép tuyển
dụng được giảng viên có phẩm chất đạo
đức tốt, năng lực chuyên môn khá giỏi,
tâm huyết với nghề. Kế hoạch hóa công
tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ, tức là phải
cụ thể hóa theo từng học kỳ, năm học,
cho từng khoa, từng bộ môn. Như vậy
chúng ta sẽ chủ động được kế hoạch công
tác và chủ động sắp xếp được kế hoạch
đào tạo bồi dưỡng.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
16
Xây dựng quy chế quản lý cán bộ
giảng viên. Tăng cường công tác quản lý,
thực hiện bốn chức năng đó là kế hoạch
hóa, tổ chức thực hiện, chỉ đạo và kiểm
tra đánh giá.
Xây dựng nguồn kinh phí. Để
triển khai thực hiện có hiệu quả kế hoạch
đã lập, đòi hỏi phải có kế hoạch khai
thác, sử dụng các nguồn lực từng năm và
lâu dài. Đặc biệt nguồn tài chính để hỗ
trợ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ... đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên
cứu của đội ngũ giảng viên. Ngoài ra còn
có các chi phí khác như chi phí tuyển
dụng, hội thảo...
Chỉ đạo thực hiện. Phải kiên quyết
trong chỉ đạo và triển khai thực hiện quy
hoạch đã xây dựng. Quá trình thực hiện
cần có sự kiểm chứng thực tiễn để có sự
điều chỉnh bổ sung kịp thời các giải pháp
để nâng cao hiệu quả thực hiện.
3.3. Tăng cƣờng công tác đào tạo, bồi
dƣỡng nâng cao trình độ năng lực đội
ngũ giảng viên
Xây dựng kế hoạch đào tạo nâng
cao. Đào tạo bậc cao là đào tạo trình độ
thạc sỹ, tiến sỹ về chuyên môn nghiệp
vụ. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2015
phải đạt chỉ tiêu 46% - 60% giảng viên
có trình độ sau đại học, trong đó có 5% -
10% là tiến sỹ, đủ điều kiện để nâng cấp
trường thành trường Đại học Kinh tế -
Kỹ thuật Nghệ An. Để đạt được chỉ tiêu
trên đây, hàng năm nhà trường phải có kế
hoạch cử 10% - 12% giảng viên tham gia
học tập nâng cao trình độ, đối tượng lựa
chọn là những giảng viên trẻ, có năng
lực, yêu nghề và yên tâm công tác tại
trường.
Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng
thường xuyên cho giảng viên. Giảng viên
cần được bồi dưỡng về kiến thức, kỹ
thuật công nghệ mới thuộc chuyên ngành
đào tạo. Kiến thức chuyên môn sâu, rộng
và tay nghề vững vàng là cơ sở quan
trọng để giảng viên vận dụng có hiệu quả
các phương pháp dạy học. Đồng thời,
giảng viên cần được bồi dưỡng về ngoại
ngữ, tin học. Có trình độ ngoại ngữ, họ
có điều kiện khai thác, áp dụng công
nghệ tin học trong công tác giảng dạy.
Bên cạnh đó, nhà trường phải thường
xuyên cập nhật những thông tin mới về
xu thế phát triển phương pháp dạy học
của các trường có uy tín, các trường đại
học, các viện nghiên cứu giáo dục để bồi
dưỡng phương pháp sư phạm cho giảng
viên. Ngoài ra, nhà trường cần quan tâm
đến hình thức tự học tập, tự bồi dưỡng
của mỗi giảng viên và coi đây là hoạt
động quan trọng. Vì theo quan điểm học
suốt đời thì việc tự học tập, tự bồi dưỡng
để nâng cao trình độ của mọi người là hết
sức cần thiết và quan trọng.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
17
Các nội dung bồi dưỡng giảng
viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật
Nghệ An được khái quát bằng sơ đồ sau:
3.4. Có chính sách mạnh trong việc
tuyển dụng đội ngũ giảng viên và
chính sách kích cầu quyền lợi cho đội
ngũ giáo viên
Về chính sách tuyển dụng, áp
dụng phương thức thi tuyển hoặc xét
tuyển một cách chặt chẽ, công khai.
Công tác hướng dẫn tập sự đối với giảng
viên trong thời kỳ thử việc, giảng viên trẻ
được thực hiện thống nhất trong toàn
trường. Giao trách nhiệm cụ thể cho từng
giảng viên có năng lực trình độ, chuyên
môn tốt chịu trách nhiệm kèm cặp giảng
viên trẻ, giảng viên mới và coi đây là
nghĩa vụ của cán bộ giảng viên đối với
trường.
Thực hiện tốt chính sách kích cầu
để đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền lợi
vật chất và tinh thần cho đội ngũ giảng
viên
Những giải pháp trên có mối liên
hệ hữu cơ và bổ sung cho nhau. Giải
pháp nâng cao nhận thức là giải pháp tiền
đề. Giải pháp xây dựng các quy định, quy
chế, quy trình là giải pháp điều kiện. Giải
pháp chính sách mạnh trong tuyển dụng,
kích cầu là giải pháp cơ bản. Giải pháp
tăng cường đào tạo, bồi dưỡng là giải
pháp quyết định.
Mối quan hệ giữa các giải pháp
được sơ đồ hóa như sau:
Nội dung bồi dưỡng giảng viên
Nghiệp vụ
sư phạm
Nội dung
bổ trợ
Nghiệp vụ
chuyên môn
Phương
pháp dạy
học mới
hiện đại
Phương
pháp
giảng
dạy bộ
môn
Kiến
thức
chuyên
môn
Kỹ năng
thực
hành
Ngoại
ngữ
Tin học
Nghiên
cứu khoa
học
Tập
huấn.
Hội thảo
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
18
IV. KẾT LUẬN
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ
thuật Nghệ An là việc làm vừa có tính
cấp bách, vừa có tính lâu dài, đồng thời
có ý nghĩa quyết định đến quá trình phát
triển nhà trường. Từ sự phân tích cơ sở lý
luận và đánh giá thực trạng chất lượng
đội ngũ giảng viên của trường, chúng tôi
đã nêu lên một số giải pháp có tính khả
thi nhằm phát triển và nâng cao chất
lượng đội ngũ giảng viên trong tình hình
mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục đào tạo (1998), Chiến
lược phát triển giáo dục và đào tạo đến
năm 2020, Hà Nội.
2. Phạm Văn Đồng (1999), Về vấn đề
giáo dục, đào tạo, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
3. Trần Hồng Quân (1997), "Về chiến
lược phát triển Giáo dục và đào tạo đến
năm 2020" Tạp chí Nghiên cứu Giáo
dục, số 19.
4. Luật giáo dục (2006), NXB Chính trị
Quốc gia Hà Nội
5. Phạm Minh Hạc (1998), "Phát triển
nguồn nhân lực - yếu tố quyết định việc
thực hiên dân giàu nước mạnh", Tạp chí
Thông tin Khoa học giáo dục, số 19.
6. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ
công chức trong thời kỳ CNH, HĐH đất
nước, (2005), NXB Lao động – Xã hội
Hà Nội
Giải pháp nâng cao
nhận thức cho mọi
người (giải pháp tiền
đề)
Giải pháp xây dựng
và ban hành quy
định, quy chế (giải
pháp điều kiện)
Giải pháp tăng cường
công tác đào tạo, bồi
dưỡng (giải pháp
quyết định)
Giải pháp có chính
sách mạnh tuyển
dụng, kích cầu (giải
pháp cơ bản)
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
19
ỨNG DỤNG CÔNG CỤ HỖ TRỢ GIS (GEOGRAPHIC INFORMATION
SYSTEM - HỆ THỐNG THÔNG TIN ĐỊA LÝ) TRONG ĐIỀU TRA
Ổ DỊCH CÖM GIA CẦM TỪ NĂM 2004 - 2010
TẠI XÃ CẨM THÀNH, HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH
Th.S Võ Thị Hải Lê*
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay có rất nhiều công cụ hỗ
trợ đắc lực trong khống chế dịch bệnh
cúm gia cầm H5N1, trong đó có công cụ
hỗ trợ GIS (Geographic Information
System - Hệ thống thông tin địa lý).
Đây là một hệ thống kết hợp gồm
nhiều thành phần: Phần cứng, phần mềm
và dữ liệu được sử dụng để thu thập,
quản lý, phân tích và diễn giải kết quả ở
tất cả các loại hình địa lý. Hệ thống này
cho phép chúng ta xem, hiểu, đặt câu hỏi,
diễn giải thông tin và hình tượng hóa các
dữ liệu theo nhiều cách khác nhau.
Những thông tin thu được có thể cho ta
biết các mối quan hệ, các loại hình và
chiều hướng với những sản phẩm như
bản đồ, địa cầu, báo cáo và biểu đồ. GIS
cũng giúp chúng ta trả lời những câu hỏi
và giải quyết những vấn đề bằng việc
kiểm tra dữ liệu một cách nhanh chóng
và dễ hiểu, dễ chia sẻ.
GIS đã và đang được sử dụng ở rất
nhiều lĩnh vực như quản lý tài nguyên
đất, khoáng sản, giao thông, nhân y và
thú y,…. Trong công tác thú y, GIS
thường được sử dụng để tiến hành các
phân tích dịch tễ học mô tả về tình hình
dịch bệnh, chăn nuôi, di chuyển động vật,
giám sát, phát hiện và đánh giá nguy cơ
rủi ro, kể cả việc xác định các yếu tố rủi
ro và hình tượng hóa sự di chuyển của
gia súc, gia cầm. Do đó, các loại hình
dịch bệnh và các yếu tố liên quan được
hiểu một cách rõ ràng hơn, từ đó sẽ giúp
nâng cao hiệu quả các biện pháp phòng
chống. Hiện nay, có rất nhiều ứng dụng
đã được triển khai với GIS để quản lý
tình hình dịch bệnh như LMLM, DTL,
Bò điên, Cúm gia cầm, PRRS,….
Hiện nay, GIS và các công cụ liên
quan đã và đang được ứng dụng rất rộng
rãi và đem lại những hiệu quả quan trọng
cho công tác thú y. Công cụ này có thể
cung cấp, hỗ trợ có giá trị trong việc:
- Mô tả cấp độ và phân bố của
dịch bệnh theo không gian và thời gian;
- Xây dựng vùng kiểm soát dịch
bệnh;
- Khám phá không gian được liên
kết với các yếu tố nguy cơ.
Các bản đồ dịch tễ rất có ý nghĩa
trong việc đánh giá loại hình dịch bệnh
theo không gian. Hệ thống thông tin địa lý
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
20
(GIS) và việc truy cập dễ dàng các dữ liệu
không gian (hình ảnh qua vệ tinh, Google
Earth,…) đã và đang giúp chúng ta phân tích
các đặc điểm dịch bệnh theo không gian một
cách dễ dàng và rất có hiệu quả. Những công
nghệ này ngày càng được ứng dụng nhiều
trong dịch tễ học.
Hà Tĩnh là một trong nhiều tỉnh
trên cả nước đã xảy ra dịch cúm gia cầm
tại một số địa phương trong tỉnh từ năm
2004 đến 2010. Trong năm 2010 dịch đã
xảy ra tại 12 xã thuộc 3 huyện của tỉnh
Hà Tĩnh làm 20.498 gia cầm ốm chết và
buộc phải tiêu hủy. Trước thực tế trên
chúng tôi lựa chọn đề tài:
"Điều tra diễn biến các ổ dịch
cúm gia cầm tại tỉnh Hà Tĩnh từ năm
2004 - 2010 bằng Hệ thống thông tin
địa lý GIS (Geographic Information
System)” nhằm:
- Mô tả được cấp độ và phân bố
của các ổ dịch cúm theo không gian và
thời gian;
- Mô tả sự xuất hiện một số yếu tố
nguy cơ đến sự lây lan dịch bệnh.
2. NỘI DUNG, NGUYÊN LIỆU,
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung
- Mô tả và đánh giá một số các
yếu tố nguy cơ đến sự lây lan dịch bệnh
tại thôn Trung Nam.
- Phân tích sơ bộ các yếu tố nguy
cơ bằng GIS
3.2. Nguyên liệu
Dữ liệu:
- Số liệu các ổ dịch cúm gia cầm
trong tỉnh từ năm 2004 đến năm 2010.
(Chi cục Thú y Hà Tĩnh, Cục Thú y, Cơ
quan thú y vùng III).
- Mật độ chăn nuôi gia cầm trong
tỉnh.
- Số liệu điều tra thực địa.
Phần mềm
- ArcGIS 9.3, DNR Garmin.
- Google earth.
Thiết bị:
- Thiết bị định vị GPS, Máy tính
cá nhân
3.3. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Dùng phương pháp Điều tra hồi
cứu các ổ dịch xảy ra tại Hà Tĩnh từ năm
2004 đến 2010 bằng bảng hỏi ( key
person and farmers)
- Xây dựng nguồn dữ liệu để vẽ
bản đồ bằng các phương pháp thống kê
và công cụ toán học thông thường.
- Xác định tọa độ các ổ dịch bằng
công cụ GPS
- Áp dụng công nghệ GIS phân
tích diễn biến ổ dịch Cúm gia cầm tại Hà
Tĩnh theo không gian và thời gian.
3.4. Thời gian thực hiện: Từ 14/3/2011
đến 24/4/2011.
IV . KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
21
4.1. Diễn biến tình hình dịch cúm gia
cầm trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
Theo thống kê thu được thì từ đầu
năm 2004 đến cuối tháng 12/2010 trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã có 27 ổ dịch xảy
ra. Cao điểm các ổ dịch bùng phát vào
đầu năm 2004 chủ yếu tại những nơi có
mật độ chăn nuôi gia cầm cao như Xã
Thạch Quý, Thạch Đồng, phường Văn
Yên TP Hà Tĩnh, Xã Thạch Liên huyện
Thạch Hà và sau đó xuất hiện lẻ tẻ và rải
rác trong các tháng 5, 6 năm 2007 và đầu
năm 2008 cho đến năm 2010 dịch lại có
chiều hướng gia tăng. Số liệu được thể
hiện qua biểu đồ dịch tễ tại hình 5 và Bản
đồ phân bố các ổ dịch cúm gia cầm theo
không gian và thời gian từ năm 2004 đến
năm 2009.
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Jan
-04
Ap
r-…
Jul-
04
Oct-
04
Jan
-05
Ap
r-…
Jul-
05
Oct-
05
Jan
-06
Ap
r-…
Jul-
06
Oct-
06
Jan
-07
Ap
r-…
Jul-
07
Oct-
07
Jan
-08
Ap
r-…
Jul-
08
Oct-
08
Jan
-09
Ap
r-…
Jul-
09
Oct-
09
Jan
-10
Ap
r-…
Jul-
10
Oct-
10
Epi curve H5N1 Ha Tinh 2004 - 2010
Total of outbreak
Hình 1. Đƣờng cong dịch tễ biểu diễn tần suất xuất hiện số ổ dịch
trong từng tháng qua các năm 2004 đến 2010
Khoảng thời gian xảy ra các ổ dịch
trên là cuối năm 2010 (tháng10, 11), đây
là thời điểm Hà Tĩnh vừa gánh chịu một
trận lụt lớn, sau lụt môi trường bị ô nhiễm
nghiêm trọng. Xác động vật chết trôi theo
các kênh rạch và ao hồ chưa được sử lý
trong đó có xác gia cầm chết. Và đây
cũng là thời điểm chuẩn bị giao thời giữa
năm cũ và năm mới. Trong gian đoạn này
các hoạt động buôn bán, vận chuyển hàng
hoá, thực phẩm được đẩy mạnh để phục
vụ cho nhu cầu mua sắm đón tết Nguyên
đán. Việc vận chuyển động vật và sản
phẩm động vật thông qua hệ thống giao
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
22
thông: Đường bộ, đường sắt và đường
sông. Phía Bắc của tỉnh tiếp giáp với TP.
Vinh tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp là biên
giới với nước Cộng hoà dân chủ nhân dân
Lào, phía đông là Biển đông và phía Nam
tiếp giáp với Tỉnh Quảng Bình. Đây là
một trong những nguy cơ chính làm tái
phát và lây lan dịch cúm gia cầm.
4.2. Kết quả phân tích bảng câu hỏi
điều tra ổ dịch
Đã tiến hành phỏng vấn 40 hộ có
chăn nuôi gia cầm tại thôn A xã Cẩm
Thành huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh
với bảng câu hỏi điều tra ổ dịch từ ngày
14/3 đến 5/4/2011.
Các yếu tố nguy cơ trong điều tra
ổ dịch: - 18/40 (45%) hộ không tiêm
phòng vắc xin cúm gia cầm
- 14/40 (35,5 %) hộ điều tra thả
vịt trên kênh
- 16/40 (40 %) gần trục đường
giao thông chính.
- 15/40 (37,5%) có hành vi vứt
xác gia cầm chết ra kênh
Bảng 4.1 Kết quả phân tích yếu tố nguy cơ không tiêm phòng
Có dịch Không có dịch Tổng
Tiêm phòng không 10 8 18
có 1 21 22
Tổng 11 29 40
OR = 26,25
Chitest P = 0,0003
P < 0,05 có sự sai khác
Kết luận: Không tiêm phòng có nguy cơ mắc dịch cao gấp
26,25 lần so với có tiêm phòng
Qua kết quả từ phiếu điều tra cho
thấy, phần lớn các hộ có dịch cúm gia
cầm xảy ra tại thôn Trung Nam đều
không tiêm phòng vaccin cúm gia cầm.
Bảng 4.2 Kết quả phân tích yếu tố nguy cơ thả rông vịt trên kênh
Có dịch Không có dịch Tổng
Thả rông vịt trên
kênh sau trận lụt
có 8 10 18
Không 3 19 22
Tổng 11 29 40
OR = 5,07
Chitest P = 0,03
P < 0,05 có sự sai khác
Kết luận: Những hộ thả rông vịt trên kênh sau trận lụt có nguy
cơ bị dịch cúm cao gấp 5,06 lần so với không thả vịt trên kênh
Qua kết quả phân tích cho thấy do thả rông vịt trên kênh sau trận lũ lịch sử,
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
23
đàn vịt tiếp xúc với xác gia cầm chết trên
kênh có nguy cơ bị nhiễm cúm gia cầm
rất cao.
Bảng 4.3: Kết quả phân tích yếu tố nguy cơ vứt xác gia cầm ốm, chết ra kênh
Vứt xác gia cầm ốm,
chết ra kênh Có dịch
Không có
dịch Tổng
Có 7 8 15
Không 4 21 25
Tổng 11 29 40
OR = 4,59375
Kết luận
Vứt xác gia cầm ốm, chết ra kênh làm nguy cơ
bị phơi nhiễm cao gấp 4,59 lần với Chitest P
= 0,035, P < 0,05 có sự sai khác
Kết quả phân tích cho biết hành vi vứt
xác gia cầm ốm chết ra kênh tưới tiêu
làm tăng mức độ phơi nhiễm đối với cúm
gia cầm.
Bảng 4.4 Kết quả phân tích yếu tố nguy cơ khu chăn nuôi nằm cạnh trục đường giao
thông chính.
Có dịch Không có dịch Tổng
Trục đƣờng giao
thông chính
Có 8 8 16
Không 3 21 24
Tổng 11 29 40
OR = 7
Chitest P = 0,009
P < 0,05 có sự sai khác
Kết luận: Các hộ có khu chăn nuôi nằm cạnh trục đường giao
thông chính có nguy cơ bị phơi nhiễm cao gấp 7 lần so với các hộ
khác
Qua kết quả phân tích các hộ có
khu chăn nuôi nằm cạnh trục đường giao
thông chính có nguy cơ bị phơi nhiễm
cao 7 lần so với các hộ khác không cạnh
đường giao thông.
Qua kết quả phân tích các yếu tố
nguy cơ và dùng GIS để phân tích ổ dịch
theo các đặc điểm về không gian mô tả
sự xuất hiện các yếu tố nguy cơ cùng với
việc sử dụng các công thức dịch tễ học để
đánh giá các yếu tố nguy cơ (công thức
tính ở phần phụ lục). Chúng tôi sơ bộ kết
luận nguyên nhân dịch xảy ra tại thôn là
do đàn gia cầm không được tiêm phòng,
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
24
đã tiếp xúc với xác gia cầm chết trên
kênh (môi trường bị ô nhiễm nặng sau
trận lụt tháng 10/2010). Cùng với hành vi
vứt xác gia cầm ốm, chết ra kênh làm cho
ổ dịch lây lan. Quy mô chăn nuôi tại địa
phương nhỏ lẻ, không khép kín đa số là
thả rông. Điều này cho thấy nguy cơ lây
lan và tái phát dịch cúm gia cầm rất cao.
4.3 Xây dựng bản đồ phân bố tổng
đàn và dịch cúm gia cầm trên địa bàn
Hà Tĩnh
Sau khi thu thập đầy đủ số liệu
chúng tôi tiến hành mã hóa số liệu, và
dùng phần mềm DNA Garmin, ArcGIS
9.3, Google Earth để phân tích dữ liệu vẽ
bản đồ phân bố mật độ chăn nuôi gia cầm
và phân bố các ổ dịch cúm gia cầm, vẽ
bản đồ ảnh vệ tinh.
Từ bản đồ tại hình 7, 8, 9 và 10 cho
ta thấy các ổ dịch xảy ra nhiều nhất vào
năm 2004 và năm 2010 chủ yếu tại
những nơi có mật độ chăn nuôi gia cầm
cao (đặc biệt là chăn nuôi vịt) như các
Huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên và Thành
phố Hà Tĩnh và Huyện Hương Sơn.
+ Sự tương quan giữa mật độ chăn
nuôi các loài khác với dịch cúm có sự
khác nhau.
+ Không thấy sự tương quan rõ
ràng giữa chăn nuôi gà và các ổ dịch
cúm gia cầm. Có sự tương quan mật thiết
giữa mật độ chăn nuôi vịt và các ổ dịch
cúm gia cầm.
Hình 4.1. Bản đồ phân bố chăn nuôi gia cầm năm 2004 - 2010
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
25
Hình 4.2 Bản đồ phân bố các ổ dịch cúm gia cầm từ 2004-2010
Hình 4.3. Bản đồ tƣơng quan giữa các ổ dịch và phân bố chăn nuôi Vịt
CHÚ THÍCH
Đường sắt
Quốc lộ
!\ UBND TINH
!\ UBND HUYEN
Total_case HPAI 2004
91 - 3000
Total_case HPAI 2007
Total_case HPAI 2008
650 - 1200
Total_case HPAI 2010
Tổng đàn vịt/xã
30 - 300
301 - 832
833 - 1417
1418 - 2300
2301 - 3580
3581 - 5411
5412 - 7400
7401 - 11274
11275 - 16821
16822 - 25766
25767 - 54116
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
26
Hình 4.4 Bản đồ các ổ dịch năm 2010 theo cấp độ dịch
Hình 4.5 Bản đồ vệ tinh các ổ dịch năm 2010
CHÚ THÍCH
Gianh giới
Quốc gia
Tỉnh
Huyện
Đường sắt
Quốc lộ
Sông
Kênh
!\ UBND TINH
!\ UBND HUYEN
Total_case HPAI 2010
50
51 - 72
73 - 163
164 - 193
194 - 387
388 - 475
476 - 605
606 - 690
691 - 764
765 - 1223
1224 - 1275
1276 - 3448
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
27
Hình 4.6 Bản đồ vệ tinh các hộ có dịch cúm gia cầm tại thôn A
V. KẾT LUẬN
Kết quả điều tra hồi cứu các yếu
tố nguy cơ làm phát sinh và lây lan bệnh
cúm gia cầm và ứng dụng GIS phân tích
đặc điểm không gian, tại xã Cẩm Thành,
Cẩm xuyên, Hà Tĩnh, xảy ra từ tháng
10/2010 đến tháng 11/2010, chúng tôi có
một số kết luận sau:
- Gia cầm không tiêm phòng có
nguy cơ mắc dịch cao gấp 26,25 lần so
với có tiêm phòng.(P = 0,0003)
- Những hộ thả rông vịt trên kênh
sau trận lụt có nguy cơ bị dịch cúm cao
gấp 5,06 lần so với không thả vịt trên
kênh. (P = 0,029)
- Hành vi vứt xác gia cầm ốm,
chết ra kênh làm nguy cơ bị phơi nhiễm
cao gấp 4,5 lần.
- Các hộ có khu chăn nuôi nằm
cạnh trục đường giao thông chính có
nguy cơ bị phơi nhiễm cao gấp 7 lần so
với các hộ khác.( P = 0,035)
- Đã sơ bộ đưa ra được một số
nguyên nhân xảy ra dịch ổ dịch tại xã
Cẩm Thành.
- Đã mô tả được cấp độ và phân
bố của các ổ dịch cúm theo không gian
và thời gian;
- Mô tả xu hướng phát triển của ổ
dịch bởi các yếu tố nguy cơ như nguồn
nước, phân bố chăn nuôi, giao thông và
hành vi đối với an toàn sinh học trong chăn
nuôi của các hộ chăn nuôi (vứt xác gia cầm
ốm, chết ra nguồn nước).
- Đa số các ổ dịch đều xảy ra trên
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
28
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh chủ yếu và nhiều
vào thời điểm từ tháng 10 đến tháng 1
của năm sau (vụ Đông Xuân), sau đó
giảm dần và xuất hiện rải rác.
- Các ổ dịch đều xảy ra tại những nơi
chăn nuôi gia cầm cao (đặc biệt là chăn nuôi
vịt) và nằm trên trục đường giao thông chính
quốc lộ và đường liên huyện.
- Các hộ có dịch tại thôn A đều
chăn nuôi chung một nguồn nước là kênh
tưới tiêu chảy từ hồ Kẻ Gỗ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Đình Thiện (1997).
Dịch tễ học đại cương. Nhà xuất bản Y
học.
2. Dương Đình Thiện, Dịch tễ học
lâm sàng, Trường Đại học Y Hà Nội.
3. Dịch tễ thú y: Cục Thú y, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
4. Giáo trình đào tạo dịch tễ học
ứng dụng khoá V.
5. Giáo trình Dịch tễ học Thú y,
Cục Thú y.
6. Nguyễn Như Thanh (2001).
Dịch tễ học Thú y. Nxb Nông nghiệp.
7. Materials of the training on
Outbreak Investigation, Vietnam DAH
and FAO, 2007.
8. Tài liệu hướng dẫn sử dụng
ARCMAP do Phòng hệ thống thông tin
địa lý công ty hệ thống thông tin FPT
phát hành.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
29
KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ, DOANH THU
Ở CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN
Th.S Ngô Thị Thanh Hoàn*
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nền kinh tế thị trường, mục
đích kinh doanh cuối cùng của các doanh
nghiệp sản xuất là kết quả kinh doanh và làm
thế nào kết quả kinh doanh càng cao, càng
tốt. Điều đó phụ thuộc nhiều vào sự kiểm
soát các khoản chi phí, doanh thu hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vấn đề tổ chức công tác kế toán khoa
học, hợp lý, phù hợp với chế độ và tình hình
cụ thể của doanh nghiệp, tạo nên khả năng
thực thi những phương án giảm chi phí, tăng
lợi nhuận trong khuôn khổ pháp luật Nhà
nước. Do đó, việc tổ chức kế toán quản trị
chi phí, doanh thu như thế nào đó để cung
cấp được những thông tin cần thiết giúp cho
chủ doanh nghiệp và Ban giám đốc điều
hành có thể phân tích, đánh giá, lựa chọn các
phương án kinh doanh, phương án đầu tư có
hiệu quả nhất. Điều đó chỉ có thể dựa vào
thông tin của kế toán quản trị cung cấp mới
đảm bảo tính trung thực và đáng tin cậy.
Để góp phần vào việc hoàn thiện
tổ chức công tác kế toán quản trị ở các
doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn Tỉnh
Nghệ An trong điều kiện hiện nay, chúng
tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Thực
* PK Kế toán – Phân tích
trạng và giải pháp tổ chức kế toán
quản trị chi phí, doanh thu ở các
doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn tỉnh
Nghệ An” nhằm mục đích:
- Làm rõ bản chất, mục đích, vai
trò, nội dung của kế toán quản trị chi phí,
doanh thu.
- Đưa ra một số giải pháp để hoàn
thiện tổ chức kế toán quản trị chi phí, doanh
thu trong các doanh nghiệp xây lắp.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của
bài báo này chúng tôi chỉ đề cập đến thực
trạng về kế toán quản trị chi phí, doanh
thu ở các doanh nghiệp xây lắp trên đia
bàn tỉnh Nghệ An hiện nay.
II. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
* Thực trạng về kế toán quản trị chi
phí, doanh thu ở các doanh nghiệp xây lắp
trên địa bàn Tỉnh Nghệ An hiện nay.
* Một số giải pháp tổ chức kế toán
quản trị chi phí, doanh thu ở các doanh
nghiệp xây lắp.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, phân tích.
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
30
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng về kế toán quản trị chi
phí, doanh thu ở các doanh nghiệp xây
lắp trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay.
Qua quá trình khảo sát thực tế về
công tác kế toán quản trị chi phí doanh
thu ở một số Công ty, Xí nghiệp xây
dựng trên địa bàn Tỉnh Nghệ An (Công
ty xây dựng số 1, Công ty xây dựng số 2,
Công ty xây dựng số 3, Xí nghiệp xây lắp
110, Xí nghiệp xây dựng số 5,...chúng tôi
nhận thấy một số vấn đề cơ bản sau:
3.1.1. Về phân loại chi phí:
Do đặc thù của hoạt động sản xuất
kinh doanh xây lắp, sản phẩm xây lắp, nên ở
các đơn vị này có các chi phí cơ bản sau đây:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
- Chi phí nhân công trực tiếp.
- Chi phí máy sử dụng thi công.
- Chi phí sản xuất chung.
3.1.2.Đối tượng tập hợp chi phí
Bao gồm từng đơn vị sản xuất xấy
lắp và chi tiết theo từng công trình, hạng
mục công trình, khối lượng xây lắp thuộc
công trình, hạng mục công trình do đơn vị
xây lắp trong nội bộ doanh nghiệp thực hiện.
3.1.3. Đối tượng và phương pháp tập
hợp chi phí
3.1.3.1. Đối tượng tập hợp chi phí
* Đối với chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp: Đa số các doanh nghiệp mà chúng tôi
điều tra đều hạch toán đúng nội dung khoản
mục này. Tuy nhiên, giá trị thực tế của vật tư
khi mua được chuyển đến cho từng đơn vị
thi công và hạch toán vào từng hạng mục
công trình, không có kho nhưng vẫn hạch
toán khống nhập, xuất qua kho. Mặc khác,
có những vật tư khi mua được chi trả bằng
tiền mặt nhưng lại được phản ánh vào TK
152.
* Đối với chi phí nhân công trực tiếp:
Chi phí này đã được các doanh nghiệp phản
ánh đúng nội dung quy định và thường căn
cứ vào hợp đồng giao khoán cũng như biên
bản thanh lý hợp đồng.
* Đối với chi phí sử dụng máy thi
công: Một số doanh nghiệp phải thuê
máy thi công ngoài do đơn vị không có
máy hoặc đã lỗi thời không còn sử dụng
được nữa hoặc ngược lại.
* Đối với chi phí sản xuất chung:
Đa số các doanh nghiệp đều hạch toán
vào TK 627 toàn bộ chi phí.
3.1.3.2. Phương pháp tập hợp chi phí
Các doanh nghiệp xây lắp thường
sử dụng cả 2 phương pháp là:
- Ghi trực tiếp cho từng công trình, hạng
mục công trình theo đơn vị thi công dựa vào
những chứng từ liên quan trực tiếp.
- Ghi gián tiếp đối với những chi phí liên
quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí.
Tuy nhiên, qua điều tra thực tế chúng
tôi nhận thấy việc phân bổ chi phí chung còn
mang tính chất ngẫu hứng, không thống
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
31
nhất, ví dụ như: việc lựa chọn tiêu thức phân
bổ không nhất quán giữa các kỳ hạch toán
mà căn cứ vào giá trị dự toán xem nó đã
vượt dự toán hay chưa để đưa chi phí chung
vào từng công trình, hạng mục công trình.
Ngoài ra ở các doanh nghiệp không mở sổ
kế toán để hạch toán chi tiết chi phí riêng
cho từng công trình, hạng mục mà chỉ lập
Báo cáo chi phí sản xuất kinh doanh, chi phí
sản xuất và giá thành xây lắp.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp đều
sử dụng TK 1541 để tổng hợp chi phí và
tính giá thành sản phẩm. Song việc tổng
hợp chi phí theo từng khoản mục hạch
toán trên các TK 621, 622, 623 chủ yếu
là dựng chứng từ cho phù hợp với giá
thầu thanh toán giữa bên A và B.
3.1.4. Kế toán doanh thu
Hầu hết các đơn vị đều hạch toán chi
tiết doanh thu theo từng công trình, hạng
mục công trình theo địa điểm thi công. Các
doanh nghiệp hạch toán độc lập đều phản
ánh thuế GTGT đầu ra vào TK 33311, còn
các đơn vị hạch toán phụ thuộc thì thuế
GTGT đầu ra không thống nhất, có đơn vị
hạch toán vào TK 3388, có đơn vị thì hạch
toán vào TK 336.
Tất cả các đơn vị chúng tôi có
điều kiện khảo sát thì thực tế đều không
mở sổ chi tiết bán hàng để theo dõi riêng
cho từng công trình, hạng mục công trình
và theo địa điểm thi công.
3.1.5. Công tác lập kế hoạch và dự toán
chi phí, doanh thu
Hàng năm các đơn vị xây lắp đều
lập kế hoạch sản xuất và kế hoạch tài
chính, bao gồm:
* Kế hoạch sản xuất kinh doanh,
gồm các chỉ tiêu:
- Giá trị sản xuất
- Sản phẩm chủ yếu
- Số lượng và giá trị sản phẩm dở dang
- Số lượng và giá trị công trình hoàn
thành bàn giao
* Kế hoạch tài chính, bao gồm:
- Dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
- Dự toán chi phí nhân công trực tiếp
- Dự toán chi phí sử dụng máy thi công
- Dự toán chi phí chung
3.2. Đánh giá chung
Qua quá trình khảo sát thực tế về
tổ chức, vận dụng kế toán quản trị nói
chung và kế toán quản trị chi phí doanh
thu nói riêng ở một số doanh nghiệp xây
lắp trên địa bàn Tỉnh Nghệ An, chúng tôi
có một số đánh giá khái quát như sau:
* Công tác thu nhận thông tin của
bộ máy kế toán chủ yếu là thông tin của
kế toán tài chính. Hầu hết các thông tin
nhằm sử dụng cho các chức năng quản trị
ở các doanh nghiệp ít được quan tâm đến.
* Về việc phân loại chi phí và nhận
diện chi phí của kế toán quản trị chưa được
đề cập đến. Hầu hết các doanh nghiệp xây
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
32
lắp đều phân loại chi phí để phục vụ cho kế
toán chi phí theo chế độ quy định.
* Về phương pháp xác định chi
phí: Theo chế độ kế toán ban hành theo
Quyết định số 15/2006/QĐ - BTC ngày
20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính
thì ở các doanh nghiệp xây lắp chỉ áp
dụng phương pháp hạch toán hàng tồn
kho theo phương pháp kê khai thường
xuyên để tính giá thành cho từng công
trình, hạng mục công trình... .Việc hạch
toán chi phí trực tiếp và chi phí chung
phải đảm bảo đúng nguyên tắc quy định.
Về tiêu thức phân bổ chi phí
chung: Việc chọn tiêu thức phân bổ chi
phí chung còn tùy tiện, không thống nhất
giữa các kỳ hạch toán và cũng không tuân
theo một tiêu chuẩn nào cả, có lúc thì phân
bổ theo chi phí nhân công trực tiếp, có lúc thì
phân bổ theo chi phí trực tiếp (gồm chi phí
vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp
và chi phí máy thi công)
Việc tổ chức kế toán chi tiết chi phí,
doanh thu thường chi tiết theo từng đơn vị
thành viên, từng công trình, hạng mục công
trình nhưng không mở sổ sách theo dõi mà
theo báo cáo của từng đơn vị thành viên.
Công tác lập kế hoạch và dự toán
chi phí, doanh thu không đầy đủ, chỉ
trọng tâm vào một số kế hoạch và dự
toán chủ yếu như kế hoạch sản xuất kinh
doanh và kế hoạch tài chính.
Về phân tích và lập báo cáo KTQT:
Công tác phân tích chưa được quan tâm
đúng mức, mang nặng tính hình thức. Việc
lập báo cáo KTQT chủ yếu dưới hình thức
diễn giải, giải trình, giải thích số liệu hoặc
thuyết minh mà chưa có dự đoán cần thiết
cho tương lai.
3.3. Phương hướng tổ chức KTQT
chi phí, doanh thu ở các doanh nghiệp
xây lắp trên địa bàn Tỉnh Nghệ An
3.3.1. Xây dựng các chuẩn mực
riêng cho từng doanh nghiệp trong từng
điều kiện cụ thể.
Để giúp cho việc kiểm soát điều
hành hoạt động kinh doanh, ngoài các chuẩn
mực và thông lệ chung được thừa nhận, cần
thiết phải xây dựng các chuẩn mực riêng phù
hợp với điều kiện hoạt động sản xuất kinh
doanh, phù hợp với trình độ và yêu cầu quản
trị của doanh nghiệp như chi phí tiêu chuẩn,
các tiêu thức phân bổ chi phí.
3.3.2. Phân loại chi phí thành
biến phí, định phí và chi phí hỗn hợp
Căn cứ để phân loại biến phí hoặc
định phí hay chi phí hỗn hợp còn tùy thuộc
vào sự thay đổi của kết quả hoạt động có liên
quan đến việc phát sinh chi phí không đổi
hoặc biến đổi. Là định phí hay biến phí hay
chi phí hỗn hợp còn tùy thuộc vào quan
điểm của cách sử dụng các loại chi phí của
từng nhà quản trị khác nhau.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
33
3.3.3. Tổ chức kế toán tập hợp
chi phí sản xuất
Các doanh nghiệp xây lắp với đặc
điểm tổ chức sản xuất theo các hợp đồng
nhận thầu, sản phẩm xây lắp mang tính chất
đơn chiếc, chu kỳ sản xuất dài, do đó áp
dụng hệ thống kế toán theo công việc là
thích hợp nhất, nó đảm bảo cung cấp thông
tin hữu ích đáp ứng yêu cầu công tác quản
trị.
3.3.4. Phương pháp kế toán chi
phí sản xuất
Trên cơ sở các định mức chi phí,
toàn bộ các yếu tố chi phí đầu vào khi
phát sinh được tính toán, tập hợp cho
từng đối tượng theo chi phí định mức.
Đồng thời kế toán tách riêng chênh lệch
chi phí sản xuất thực tế so với chi phí
định mức do biến động về lượng và biến
động về giá của từng khoản mục chi phí.
Điều đó giúp nhà quản trị phát hiện
chênh lệch do thay đổi định mức, từ đó
kiểm tra, kiểm soát chi phí.
3.4. Các giải pháp cơ bản cần có để
tổ chức KTQT chi phí, doanh thu ở các
doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn tỉnh
Nghệ An
3.4.1. Đối với các cơ quan chức
năng và Nhà nước
Tổ chức tuyên truyền rộng rãi làm
cho các doanh nghiệp nhận thức được nội
dung, vai trò quan trọng của KTQT là
cần thiết trong hoạt động sản xuất kinh
doanh theo cơ chế thị trường hiện nay.
Nhanh chóng xây dựng hệ thống
Báo cáo KTQT doanh nghiệp để hướng
dẫn các doanh nghiệp thực hiện.
Thống nhất nội dung, chương
trình đào tạo KTQT trong các trường
chuyên ngành kinh tế, nhằm làm cho các
nhân viên kế toán ở các doanh nghiệp
hiểu biết và vận dụng kế toán quản trị
vào đơn vị của mình
Xây dựng mô hình KTQT theo
từng ngành kinh doanh
3.4.2. Đối với bản thân các doanh
nghiệp xây lắp trên địa bàn Tỉnh Nghệ
An
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng
cho nhân viên kế toán về kiến thức kế
toán nói chung và KTQT nói riêng cũng
như các kiến thức khác bởi vì nhân viên
kế toán là người trực tiếp lập các Báo cáo
KTQT nhằm cung cấp các thông tin cho
các nhà quản trị doanh nghiệp.
Hoàn thiện cơ chế tổ chức quản lý
sản xuất kinh doanh theo quy mô hoạt
động kinh doanh của từng Công ty làm
sao cho hoạt động có hiệu quả nhất.
Tổ chức sắp xếp lại bộ máy kế
toán doanh nghiệp làm sao cho trong bộ
máy kế toán doanh nghiệp phải thu thập,
xử lý, cung cấp được các thông tin theo
yêu cầu quản trị của từng doanh nghiệp.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
34
Thiết kế mô hình KTQT chi phí,
doanh thu cho từng đơn vị từ việc phân loại
chi phí, đối tượng tập hợp chi phí, nội dung
và phương pháp lập dự toán chi phí, doanh
thu cũng như việc lập các Báo cáo kế toán
quản trị chi phí, doang thu nhằm thống nhất
cách vận dụng thực hiện cho tất cả các đơn
vị xí nghiệp, thành viên trong Công ty.
Xây dựng mô hình ứng xử của chi
phí trong việc xác định giá dự thầu trong
đấu thầu để chiến thắng trong cạnh tranh
với các đối thủ - những người bán trong
xây dựng thông qua đấu thầu để ký kết
các hợp đồng xây dựng.
Tổ chức ứng dụng công nghệ tin học
để phân tích xử lý kịp thời các thông tin.
IV. KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay đã đặt ra yêu cầu là phải đổi mới cơ chế
quản lý và hệ thống công cụ quản lý kinh tế
mà trong đó kế toán là một công cụ quan
trọng, mà đặc biệt là KTQT. Nó có vai trò to
lớn trong việc cung cấp thông tin cho quá
trình xây dựng kế hoạch, quá trình tổ chức
thực hiện, quá trình kiểm tra đánh giá, quá
trình ra quyết định và góp phần hoàn thiện tổ
chức, cải tiến công tác quản lý ở doanh
nghiệp.
Việc áp dụng chính thức hệ thống kế
toán mới trong tất cả các doanh nghiệp xây
lắp được bắt đầu từ năm 2007. Đây là một
hệ thống kế toán hỗn hợp giữa KTTC và
KTQT, trong khi đó kiến thức về KTQT đối
với các doanh nghiệp còn là điều mới mẻ,
việc nhận thức vai trò, nội dung của KTQT
của nhân viên kế toán ở các doanh nghiệp
còn hạn chế. Chính vì vậy việc đổi mới và
không ngừng hoàn thiện công tác KTQT để
thích nghi với yêu cầu, nội dung đổi mới
hiện nay là vấn đề cấp thiết cả về mặt lý luận
và thực tiễn. Chi phí, doanh thu trong các
doanh nghiệp sản xuất nói chung và doanh
nghiệp xây lắp nói riêng luôn là khâu quan
trọng trong công tác kế toán của từng doanh
nghiệp vì nó quyết định sự sống còn của
doanh nghiệp.
Hy vọng những giải pháp mà
chúng tôi đưa ra sẽ là tài liệu tham khảo
bổ ích cho các nhà kế toán tương lai, góp
phần định hướng và áp dụng được vào
trong thực tiễn của các đơn vị sản xuất.
Do khuôn khổ của bài viết nên
chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong
nhận được sự góp ý của bạn đọc, của các
nhà khoa học, các nhà chuyên môn, các
thầy cô giáo, bàn bè và đồng nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thế Chi, Nguyễn Đình Đỗ
(1999), Kế toán tài chính, Nxb Tài chính.
2. Phạm Văn Dược và Đặng Kim Cương
(1995), Kế toán quản trị và phân tích kinh
doanh, Nxb Thống kê.
3. Vương Đình Huệ, Đoàn Xuân Tiên
(1999), Kế toán quản trị, Nxb Tài chính.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
35
THỜI ĐIỂM GIEO TRỒNG THÍCH HỢP
ĐỐI VỚI GIỐNG BÍ NGỒI HÀN QUỐC Ở VỤ XUÂN
Th.S Võ Thị Dung*
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
An toàn vệ sinh thực phẩm là một
trong những vấn đề hiện nay đang được mọi
người quan tâm, những năm gần đây có rất
nhiều người bị ngộ độc thức ăn thậm chí có
hiện tượng tử vong do ăn phải những loại
thực phẩm không đảm bảo an toàn. Trong
đó rau là một trong những loại thực phẩm
hay bị ngộ độc nhất đối với con người, đặc
biệt là rau ăn lá.
Hiện nay sử dụng các loại rau ăn củ, ăn
quả có tính an toàn hơn so với rau ăn lá, hoa.
Trong đó Bí ngồi được xem là loại rau an
toàn, tuy nhiên cây Bí ngồi là loại cây trồng
mới được du nhập vào Việt Nam nhưng có
nhiều ưu điểm hơn so với các cây thuộc họ
bầu bí khác vì trong quá trình sản xuất Bí
ngồi không phải làm giàn, thời gian sinh
trưởng ngắn, năng suất cao.
Hiện nay Bí ngồi đã và đang được
trồng đại trà, nhưng chỉ đạt năng suất ở mức
40- 45% so với năng xuất trung bình của thế
giới và thường không ổn định qua các năm.
Do trong quá trình sản xuất người dân chưa
chú ý nhiều đến vấn đề phân bón, tưới nước,
chế độ chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh, thời
vụ trồng còn tuỳ tiện chưa được cụ thể hoá.
* PK Nông - Lâm - Ngư
Chính vì thế để nâng cao năng suất
của Bí ngồi chúng tôi tiến hành đề tài “ Xác
định thời điểm gieo trồng thích hợp đối với
giống Bí ngồi Hàn Quốc ở vụ Xuân”
II. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Cây bí ngồi giống Hàn Quốc
2.2. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của thời vụ
trồng đến năng suất của giống Bí ngồi
Hàn Quốc
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo phương
pháp khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh (RCB)
gồm 3 công thức, mỗi công thức nhắc lại 3
lần.
Thí nghiệm gồm 3 công thức:
Công thức 1: Gieo ngày 11 tháng 2 (Đ/C)
Công thức 2: Gieo ngày 18 tháng 2
Công thức 3: Gieo ngày 25 tháng 2
2.3.2. Các chỉ tiêu theo dõi
- Số nụ trên cây (nụ): Đếm tất cả nụ
có ở trên cây.
- Số hoa trên cây (hoa): Đếm số hoa
nở trên cây gồm hoa cái và hoa đực.
- Tỷ lệ hoa cái, đực (%)
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
36
- Tổng số quả trên cây (quả)
- Năng suất cá thể (kg) = Tổng số
quả/cây x P quả x tỷ lệ quả hữu hiệu.
- NSLT (tạ /ha) = Năng suất cá thể x
mật độ x 10.000m2
2.4. Phƣơng pháp xử lý số liệu
Xử lý số liệu thô ban đầu bằng
máy tính bỏ túi.
Số liệu xử lý bằng phương pháp
thống kê sinh học và phần mềm IRRISTAT
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ
THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hƣởng của các thời điểm gieo
trồng tới số hoa trên cây
Tổng số hoa trên cây là chỉ tiêu đánh
giá khả năng sinh thực của các thời vụ khác
nhau, là chỉ tiêu quyết định số quả trên cây
khi thu hoạch. Nếu cây Bí được chăm sóc
tốt, gặp điều kiện thời tiết thuận lợi thì sẽ tạo
điều kiện cho việc nâng cao tổng số hoa hữu
hiệu và tỉ lệ đậu quả sau này.
Tỷ lệ giới tính của hoa quyết định rất
lớn đến việc tăng năng suất sau này, đây là
chỉ tiêu biểu hiện số quả nhiều hay ít so với
tổng số hoa trên cây
Bảng 1: Ảnh hưởng của các thời điểm gieo trồng tới tổng số hoa trên cây và tỉ lệ hoa hữu
hiệu
TT
Công
thức gieo
trồng
Số
nụ/cây
(nụ)
Tổng số
hoa nở
(hoa)
Hoa cái Hoa đực
Số hoa
(hoa)
Tỷ lệ
(%)
Số hoa
(hoa)
Tỷ lệ
(%)
1 I 32,67 15,38 7,84 50,96 7,54 49,04
2 II 27,83 14,23 5,5 38,65 8,73 61,35
3 III 26,87 12,84 4,9 39,10 7,94 60,90
4 LSD0,05 4,76 4,12
Số liệu ở trong bảng 1 cho thấy:
Số nụ trên cây ở 3 công thức rất cao
chúng dao động từ 26,87 – 32,67 nu/cây
nhưng tổng số hoa nở chỉ còn từ 12,84 –
15,38 hoa/cây, như vậy số hoa nở so với
tổng số nụ trên cây chỉ đạt khoảng 50%, bên
cạnh đó tỷ lệ giữa hoa đực và hoa cái giữa
các công thức khác nhau cũng có sự khác
nhau cụ thể ở công thức 1 tỷ lệ hoa đực và
hoa cái gần bằng nhau trong khi đó ở công
thức 2 tỷ lệ hoa cái chỉ có 38,65% mà tỷ lệ
hoa đực đã lên đến 61,35%.
Như vậy thời tiết khí hậu ảnh hưởng
rất rõ đến sự phân hoá giới tính của hoa, mặc
dù công thức 1 tỷ lệ hoa đực và hoa cái gần
bằng nhau nhưng đây là yếu tố bất lợi cho
việc thụ tinh, thụ phấn và hình thành quả của
Bí ngồi, do hoa đực không nở cùng một lúc
dẫn đến hiện tượng khi hoa cái nở nhiều sẽ
thiếu hạt phấn nên tỷ lệ đậu quả thấp, ảnh
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
37
hưởng trực tiếp đến năng suất. Còn ở công
thức 2 và công thức 3 tỷ lệ hoa đực cao hơn
nhiều so với hoa cái, đây là điều kiện thụ lợi
nhất đối với họ bầu bí nói chung và cây Bí
ngồi nói riêng.
Nhà Nông học Gillier và cộng sự
(2006) cho biết: Nhiệt độ ảnh hưởng rất lớn
đến sự phân hoá giới tính của hoa nhiệt độ
thuận lợi cho sự ra hoa của bí là 24- 280C, số
hoa cái cao nhất 41% và số hoa đực là 59%.
Nghiên cứu của Tạ Thu Cúc cho thấy
ở vùng nhiệt độ tăng, tăng cường quá trình
quang hợp của cây Bí, nhưng nhiệt độ không
khí quá cao (30 - 350C) rút ngắn thời gian
sinh trưởng, làm giảm khả năng tích lũy chất
khô, làm giảm số hoa trên cây, giảm số quả
và trọng lượng quả.
3.2. Các yếu tố cấu thành năng suất và
năng suất Bí ngồi.
Năng suất của Bí ngồi Hàn Quốc
cao hay thấp ngoài yếu tố giống, các biện
pháp kỹ thuật, điều kiện ngoại cảnh thì việc
bố trí đúng thời điểm gieo trồng cũng là một
trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng rất
lớn đến năng suất và các yếu tố cấu thành
năng suất.
Bảng 2: Ảnh hưởng của thời điểm gieo trồng đến các yếu tố cấu thành năng suất và
năng suất của Bí ngồi
Công
thức
Tổng số quả
trên cây
Tỷ lệ quả hữu
hiệu trên cây
(%)
Khối lƣợng
quả (kg)
NSCT
(kg)
NSLT
(tấn/ha)
NSTT
(tấn/ha)
I 3,00 61,30 2,41 4,43 55,01 29,54
II 3,17 84,20 2,14 5,71 70,91 37,58
III 3,50 62,00 1,94 4,20 52,16 26,37
LSD0,05 2,37 1,13
Từ bảng 2 chúng tôi nhận thấy rằng:
Tổng số quả trên cây tăng dần từ công thức 1
đến công thức 3 và chúng biến động từ 3,00
– 3,50 quả /cây, nhưng tổng số quả /cây
không tỷ lệ thuận với tỷ lệ quả hữu hiệu /cây.
Tỷ lệ quả hữu hiệu/cây ở công thức 1 và
công thức 3 (đạt 61,3 – 62%) thấp hơn
nhiều so với công thức 2 (lên tới 84,2%).
Khối lượng của quả giảm dần từ công
thức 1 đến công thức 3 cụ thể ở công thức 1
khối lượng của quả là 2,41kg/qủa so với
công thức 2 là 2,14kg/quả và so với công
thức 3 là 1,94 kg/quả. Như vậy yếu tố nhiệt
độ ảnh hưởng rất lớn đến sự tích luỹ chất
dinh dưỡng và thời gian vận chuyển chất
dinh dưỡng vào quả, nên ảnh hưởng trực
tiếp đến trong lượng của quả. Ở công thức 1
vào thời kỳ quả phát triển nhiệt độ chỉ dao
động khoảng 20 – 30 oC thuận lợi cho quá
trình vận chuyển chất vào quả và thời gian
vận chuyển dài hơn còn ở công thức 2 và
công thức 3 nhiệt độ tăng dần, thời gian vận
chuyển chất dinh dưỡng vào quả ngắn nên
quá trình vận chuyển chất dinh dưỡng vào
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
38
quả ít dẫn đến trọng lượng quả nhỏ hơn so
với công thức 1.
Song năng suất cá thể ( trọng lượng
quả/ cây) ở công thức 2 (5,71 kg/cây) cao
hơn so với công thức 1(4,43 kg/cây) và công
thức 3 (4,20 kg/cây) do tỷ lệ quả hữu
hiệu/cây ở công thức 2 cao nhất.
Năng suất lý thuyết của 3 công thức
biến động từ 52,16 - 70,91tấn/ha, trong đó
công thức 2 đạt năng suất cao nhất
(70,91tấn/ha) so với các công thức khác.
Năng suất thực thu tỷ lệ thuận với năng
suất lý thuyết, NSTT của các công thức khác
nhau cũng có sự khác nhau, năng suất thực
thu cao nhất là công thức 2 đạt 37,58 tấn/ha,
trong khi đó công thức 3 chỉ đạt 26,37 tấn/ha
còn công thức 1 đạt 29,54 tấn/ha.
Ảnh 1: Cây bí ngồi ở thời kỳ bắt đầu ra hoa
Ảnh 2: Cây bí ngồi ở thời kỳ ra hoa rộ
IV. KẾT KUẬN
1. Thời điểm gieo trồng khác nhau ảnh
hưởng rất lớn đến sự phân hoá giới tính của
hoa, trong vụ Xuân gieo trồng càng
sớm(11/2) tỷ lệ hoa cái cao hơn so với hoa
đực khó khăn đối với quá trình thụ phấn thụ
tinh, gieo muộn hơn (18 - 26/2) tỷ lệ hoa
đực cao (60,9 – 61,35%) thuận lợi cho việc
thụ phấn thụ tinh.
2. Trong 3 công thức thí nghiệm thì
công thức 2 cho năng suất thực thu cao nhất
(37,58 tấn/ha) so với công thức 1 (29,54
tấn/ha) và công thức 3 (26,37 tấn/ha).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạ Thu Cúc (2000), Giáo trình cây
rau. NXB Nông nghiệp Hà Nội
2. Hoàng Minh Tấn, Nguyễn Quang
Thạch, Trần Văn Phẩm (2000), Giáo trình
Sinh lý thực vật, NXB Nông nghiệp Hà Nội.
3. Trịnh An Vĩnh (1995), "Thông tin
chuyên đề số 3/95", Tạp chí Nông nghiệp &
CNTP, Hà Nội.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
39
GIÁ TRỊ HỌC THUYẾT ĐỨC TRỊ CỦA KHỔNG TỬ
ĐỐI VỚI THỜI HIỆN ĐẠI
TS. Nguyễn Thị Lan*
Học thuyết đức trị của Khổng Tử
ra đời cách đây đã hơn hai ngàn năm,
nhưng cho đến nay, đầu thế kỷ 21, nhiều
điều ông dạy vẫn còn rất bổ ích. Bài viết
này muốn được trao đổi một số nội dung
xung quanh vấn đề này.
1. Ngƣời cán bộ phải lấy đạo đức làm
gốc
Khổng Tử yêu cầu đạo đức là gốc
của người quân tử. Quân tử phải có đủ
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Có như thế mới
cảm hóa được dân chúng, dẫn dắt được họ
theo mình. Những yêu cầu đó của Khổng
Tử cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, dù
thời thế đã thay đổi nhiều. Đối với các
nước phương Đông chịu ảnh hưởng của
Nho giáo thì điều đó lại càng quan trọng.
Tư tưởng của Khổng Tử đã được nhiều
nhà tư tưởng ở nước ta kế thừa, phát huy
như: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Lê
Thánh Tông, Phan Bội Châu.... Người kế
thừa và phát triển tư tưởng của ông tài
tình nhất, nhuần nhuyễn nhất là Hồ Chí
Minh. Người đã dạy rằng: “Tuy trong học
thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không
đúng song những điều hay ở trong đó thì
chúng ta nên học. Chỉ có những người
* Trưởng BM Lý luận Chính trị
cách mạng chân chính mới thu hái được
những hiểu biết quý báu của đời trước để
lại” (1). Trên tinh thần ấy, Người đã kế
thừa, phát triển một cách sáng tạo tư
tưởng của Khổng Tử. Người đặt ra yêu
cầu rất nghiêm ngặt đối với người cán bộ
cách mạng là cần phải có đạo đức. Người
nói: “Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân”(2). Người
khẳng định: “Người cách mạng phải lấy
đạo đức cách mạng làm nền tảng mới
hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang”(3). Người đã chỉ ra vai trò của đạo
đức cách mạng đối với người cách mạng:
“Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn
gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt
rè, lùi bước”(4). “Có đạo đức cách mạng
thì khi gặp thuận lợi và thành công cũng
vẩn giữ vững tinh thần gian khổ, chất
phác, khiêm tốn”, “Lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ tốt
chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ;
không công thần, không kiêu ngạo, không
hủ hóa.”(5). Tôn Trung Sơn cũng khẳng
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
40
định đạo đức là điều kiện tồn tại của dân
tộc nếu muốn bảo tồn mãi mãi địa vị hiển
hách của dân tộc và quốc gia, “muốn duy
trì địa vị lâu dài của dân tộc và quốc gia,
còn có vấn đề đạo đức. Có một nền đạo
đức rất tốt đẹp, đất nước mới mới có thể
ổn định lâu dài”(6). Ông đã khẳng định:
“Do đó suy cho cùng, hiện nay, muốn khôi
phục địa vị dân tộc, ngoài việc liên kết
mọi người thành một đoàn thể quốc tộc,
trước hết cần khôi phục nền đạo đức cổ
truyền của chúng ta. Có được nền đạo
đức vốn có mới có thể tính chuyện khôi
phục địa vị vốn có của dân tộc”(7).
Khổng Tử yêu cầu người quân tử
- bậc trị nước – phải có đức. Đó là nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín. Cho đến nay điều đó
vẫn có giá trị không những ở Trung
Quốc mà cả ở Triều Tiên, Nhật Bản,
Việt Nam. Ở mỗi nước, ngũ thường
được tiếp nhận khác nhau, tùy theo hoàn
cảnh mà có chút đổi thay:
Ở Trung Quốc là: Nhân, Nghĩa,
Lễ, Trí, Tín.
Ở Nhật Bản là : Trung, Lễ, Dũng,
Tín, Kiệm.
Ở Triều Tiên là: Trung, Hiếu,
Tín, Nhân, Dũng.
Ở nước ta Hồ Chí Minh đã đề ra
năm đức tính tốt của người cách mạng
là: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm.
Nhưng khác với ngũ thường của Khổng
Tử, Hồ Chí Minh đã giải thích nội dung đó
theo thời hiện đại. Sự thay đổi đó là hợp lý
vì các giá trị đạo đức không bao giờ là
những yếu tố nhất thành bất biến. Giá trị
đạo đức vừa có tính chuẩn mực vừa lại có
tính mềm dẻo, linh hoạt và luôn vận động,
biến đổi cùng sự vận động biến đổi chung
của đời sống kinh tế - xã hội.
Chẳng hạn khi nói về nhân,
Người viết: “Nhân là thật thà thương
yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng
bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại
những người, những việc có hại đến
Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng
chịu cực khổ trước mọi người, hưởng
hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà
không ham giàu sang, không e cực khổ,
không sợ oai quyền”(8). Tôn Trung Sơn
cũng đã giải thích trung: “Hiện nay
chúng ta đương nhiên không thể nói
trung với vua, nhưng có thể nói trung
với dân được không? Có thể nói trung
với sự nghiệp được không? Làm một
việc gì, trước sau phải không lơ là, làm
cho tới thành công. Nếu làm không
thành công thì không tiếc hy sinh tính
mạng, đó chính là trung”(9).
Còn ở Hồ Chí Minh, trung không
chỉ là hy sinh tính mạng, mà quan trọng
hơn là phải đạt cho được kết quả, phải
nhất định thành công: „Trung với nước,
hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
41
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ
thù nào cũng chiến thắng”.
Cho đến nay, khi nền kinh tế thị
trường đang ngày càng phát triển như
cơn lốc cuốn tất cả xoay vần theo nó thì
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, trung,
hiếu, cung, khoan, tín, mẫn, huệ... của
Khổng Tử vẫn còn có giá trị tuy nhiên
nội dung của nó cũng cần có sự thay đổi
cho phù hợp với thời đại.
2. Dù ở cƣơng vị nào cũng phải học
tập tu dƣỡng rèn luyện mình
Khổng Tử cũng đã từng nói: “Tính
tương cận, tập tương viễn”. Vì tập tương
viễn nên nếu không rèn luyện, không tự
mình tu dưỡng thì tính tốt dần mất hết,
tính xấu xâm nhập vào và con người sẽ
trượt dài xuống dốc. Bản thân Khổng Tử
cũng thực hiện “học không biết chán”.
Nếu không rèn luyện tu dưỡng đạo đức thì
không thể “tề gia” chứ đừng nói “trị quốc
bình thiên hạ”. Qua tác phẩm Luận ngữ
của ông ta thấy được thực chất của tu thân
là cá nhân phải sửa mình để trở thành
người chính trực, ngay thẳng. Sau này
trong cuốn Đại học trung dung đã nói rõ:
“từ thiên tử đến người dân thường, ai ai
cũng lấy tu thân làm gốc”.
Tư tưởng này đã được Hồ Chủ
Tịch tiếp thu và vận dụng sáng tạo. Người
nói: “Đạo đức cách mạng không phải từ
trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh bền bỉ
hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng
như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong”.(10). Người yêu cầu:
Chúng ta phải lấy “chính tâm tu thân” để
“trị quốc bình thiên hạ”. “ Mỗi con người
đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải làm
cho phần tốt của mỗi con người nảy nở như
hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi
(11)). Về vấn đề này quan niệm của Đảng ta
cũng nêu rõ: “cán bộ ở cấp càng cao thì càng
phải gương mẫu, càng phải giữ gìn phẩm
chất đạo đức, thực hiện tốt “tu nhân tề gia”
“cần, kiệm, liêm, chính”(12). Trong suốt quá
trình cách mạng và cho đến ngày cuối đời
Người vẫn luôn nhắc nhủ mọi người khắc
phục chủ nghĩa cá nhân, trau dồi đạo đức
cách mạng và chính Người đã nêu tấm gương
sáng mãi cho Đảng và cho dân tộc về rèn
luyện đạo đức cách mạng.
Về phương pháp tu thân của
Khổng Tử thì đến nay vẫn có giá trị. Điều
đó đã được Tôn Trung Sơn khẳng định
trong Tam dân chủ nghĩa: “Như về cách
vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ mà trong sách
đại học đã giải thích, dầu cho những nhà
chính trị đại tài của ngoại quốc vẩn chưa
ai nghĩ tới, nói tới một cách có mạch lạc,
rõ ràng như thế được”(13). Ông cũng
khẳng định “ Nếu mọi người thực hiện
một cách có hệ thống những nỗ lực tu
thân, làm cho sự chân thành bên trong thể
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
42
hiện ra bên ngoài, chú ý tới những điều
nhỏ nhặt nhất. . . thì người nước ngoài
nhất định sẽ tôn trọng chúng ta”(14)
Tóm lại, tu thân là tự mình nhận
thức lấy mình, kiểm điểm, đánh giá phẩm
chất năng lực của mình, là sửa mình, rèn
luyện mình theo những chuẩn mực đạo đức
của người cách mạng. Đó cũng là quá trình
tự nhận thức, khám phá, tự điều chỉnh hành
vi của mình. Triết lý tu thân của Khổng Tử,
nếu gạt đi những gì đã trở nên lạc hậu và
kìm hãm, gạt bỏ mục tiêu xã hội và những
hạn chế lịch sử của nó, chúng ta có thể tiếp
thu nhiều nhân tố hợp lý, giữ lại được nhiều
điều bổ ích trong việc giáo dục đạo đức cho
cá nhân nói chung và cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý nói riêng. Nếu cán bộ mà không tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức thì không thể
lãnh đạo được nhân dân. Bởi vì “quần
chúng chỉ quý mến những người có tư cách,
đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình
phải mực thước cho người ta bắt
chước”(15)
Trong nền kinh tế vận động theo cơ
chế thị trường ở nước ta hiện nay thì khía
cạnh thực dụng trong quan hệ giữa người
với người là điều không thể tránh khỏi. Sự
sòng phẳng, minh bạch trong hạch toán
kinh tế, quan hệ làm ăn theo kiểu đôi bên
cùng có lợi là điều tất nhiên. Nhưng điều đó
dẫn đến những biểu hiện tiêu cực về mặt
đạo đức ở một bộ phận xã hội. Lối sống coi
trọng đồng tiền, lấy đồng tiền đo phẩm giá
con người, quan hệ giữa người và người
theo kiểu “trả tiền ngay không có tình
nghĩa” có xu hướng gia tăng. Lối sống đó
dẫn đến xói mòn một số chuẩn mực giá trị
truyền thống vốn là nét đẹp trong đời sống
đạo đức của người Việt Nam. Trong bối
cảnh đó tư tưởng coi trọng đạo đức là gốc,
lấy tu dưỡng, rèn luyện mình làm đầu của
Khổng Tử càng có giá trị.
3. Coi trọng giáo dục để nâng cao dân
trí, đào tạo ra một đội ngũ cán bộ
lãnh đạo quản lý có tài, có đức
Khổng Tử chủ trương cai trị bằng
đạo đức, mà muốn vậy thì phải coi trọng
giáo hóa đạo đức, lễ nghĩa cho dân.
Ông mong muốn xây dựng một xã hội
an bình, thịnh trị, có tôn ti, trật tự....
Muốn xây dựng được xã hội đó theo ông
phải coi trọng giáo dục và đào tạo ra
một lớp người cai trị có đủ tài, đức, trí
và lực một lòng phục vụ chế độ, là
rường cột của chế độ xã hội. Ông là
người đề xướng tư tưởng “học không
biết chán, dạy không biết mỏi”. Lần đầu
tiên trong lịch sử Trung Quốc ông mở
trường dạy học và chủ trương “hữu giáo
vô loại”, “học đạo lý không cầu lợi”.
Tư tưởng coi trọng giáo dục đào
tạo của ông đến nay vẫn còn có giá trị
rất lớn. Tư tưởng đó đã được Đảng ta
tiếp thu, kế thừa, phát triển, vận dụng để
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
43
xây dựng đất nước. Trong Văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc làn thứ VIII, Đảng
ta đã chỉ rõ: “giáo dục và đào tạo phải
thực sự trở thành quốc sách hàng
đầu”(16) với mục tiêu nâng cao mặt
bằng dân trí, đào tào bồi dưỡng và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, phát
triển, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài.
Hội nghị lần thứ 2 ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII đã chú trọng bàn
về công tác giáo dục, đào tạo, phát triển
khoa học công nghệ. Hội nghị đã chỉ ra
những hạn chế, đồng thời vạch ra những
biện pháp để phát triển giáo dục đào tạo.
Nhiệm vụ của giáo dục đào tạo
nước ta không chỉ “đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ công chức, trước hết là cán bộ
lãnh đạo, cán bộ quản lý”(17) mà còn
phải đào tạo, xây dựng con người mới
trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Trong những tiêu chuẩn con người mới
mà Hội nghị lần thứ 5 (khóa VIII) đề ra
có mục tiêu là “thường xuyên học tập,
nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên
môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực”. Tiếp
tục tư tưởng của đại hội VIII, đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đưa ra chủ
trương: “Phát triển giáo dục đào tạo là
một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững”(18). Nghị quyết
Đại hội X tiếp tục khẳng định: Giáo dục
và đào tạo, khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là nền tảng và
động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Nghị quyết Đại hội XI vẫn kế
thừa quan điểm đó: Phát triển giáo dục
là quốc sách hàng đầu
Tư tưởng coi trọng giáo dục và đào
tạo của Khổng Tử không những được Đảng
ta vận dụng để phát triển đất nước mà còn
được nhiều nước vận dụng. Đặc biệt là 4
nước đã từng được coi là 4 con rồng nhỏ
của thế giới: Hồng Công, Singapo, Hàn
Quốc, Đài Loan. Trong 40 năm qua, đầu tư
giáo dục ở các nước này không ngừng tăng,
chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong ngân sách
nhà nước. Hàn Quốc năm 1972 là 15.9%,
1981 tăng lên 17,9%, 1983 lại tăng lên
20,5%. Tỷ lệ người biết chữ năm 1960 là
71%, 1980 lên tới 93%(19).
Như vậy, tư tưởng coi trọng giáo
dục, đào tạo của Khổng Tử đã được Đảng
ta tiếp thu và vận dụng sáng tạo. Nền giáo
dục của một xã hội ngoài việc “hữu giáo vô
loại” phải tập trung đào tạo ra những con
người đóng vai trò nòng cốt cho chế độ xã
hội ấy. Với chiến lược “Giáo dục là quốc
sách hàng đầu”, chúng ta nhận thấy rằng
cần phải tập trung giáo dục, đào tạo những
con người vừa có tài, vừa có đức, vừa có
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
44
tinh thần yêu nước, thực sự trung thành và
là rường cột cho sự nghiệp và lý tưởng của
Đảng, của đất nước, của dân tộc.
4. Dù ở cƣơng vị nào danh và
phận cũng phải phù hợp với nhau.
Mặc dầu tư tưởng chính danh của
Khổng Tử còn có những hạn chế nhưng
đối với thời đại hiện nay nó vẫn có giá
trị rất lớn . Đó là, ai ở cương vị nào phải
hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của
mình ở cương vị đó, tổ chức nào phải
hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức đó.
Chẳng hạn, chúng ta muốn phát triển
giáo dục thì một yêu cầu quan trọng là
trường phải ra trường, lớp phải ra lớp,
thầy ra thầy, trò ra trò. Nếu người nào,
tổ chức nào cũng hoàn thành nhiệm vụ
theo chức năng của mình thì thì sẽ tạo
điều kiện cho xã hội phát triển. Trong gia
đình cũng vậy, nếu mọi người ai cũng làm
tốt bổn phận của mình thì gia đình sẽ yên
ấm, hạnh phúc. Gia đình là tế bào của xã
hội nên gia đình hạnh phúc thì xã hội cũng
có điều kiện thuận lợi để phát triển.
Trong khuôn khổ bài viết này
không thể làm rõ được hết những giá trị
của học thuyết đức trị trong thời hiện
đại. Mong rằng chúng ta sẽ có điều kiện
thuận lợi để tiếp tục nghiên cứu về vấn
đề này nhằm tìm ra những giá trị còn
tiềm ẩn trong đó để phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng xã hội mới./.
CHÚ THÍCH
1. Hồ Chí Minh, Tuyển tập, t.1, Nxb Sự
thật, H.1960, tr. 362.
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, Nxb Chính
trị quốc gia, H.2000, tr.252-253.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.9, Nxb Chính
trị quốc gia, H.2000, tr.283.
4;5;8. Đạo đức là cái gốc của người cách
mạng, Nxb Quân đội nhân dân, H.1970, tr.43,
tr. 26.
6;7; 9;13;14. Tôn Trung Sơn, Chủ nghĩa
Tam dân, Viện thông tin khoa học xã hội,
H. 1995, tr. 143; 144; 150; 153.
10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.9, Nxb
Chính trị quốc gia, H.2000, tr.193.
11. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.11, Nxb
Chính trị quốc gia, H.2000, tr.558.
12. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Hội nghị trung ương 3 ( khóa VIII)
15. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, Nxb
Chính trị quốc gia, H.2000, tr.252
16; 17, Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đai hội Đảng toàn quốc khóa VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, tr. 29, tr.135
18. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc khóa IX, Nxb
Chính trị quốc gia, tr. 108
19. Nguyễn Huy Quý (dịch), Bí quyết cất
cánh của 4 con rồng nhỏ, Nxb Chính trị
quốc gia, 1993, tr.146
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
45
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
Th.S Nguyễn Thị Mai Anh*
Trong chương trình giảng dạy
Cao đẳng hay Trung cấp đều có những
bài về hệ thống chính trị và nhà nước nên
khi giảng dạy, giáo viên nhất thiết phải
làm rõ hoặc mở rộng, liên hệ nội dung
nhà nước pháp quyền. Trong quá trình
giảng dạy tôi đã nghiên cứu nhiều về vấn
đề nhà nước và nhà nước pháp quyền.
Bài viết nay chỉ đề cập đến một góc độ là
lịch sử hình thành tư tưởng nhà nước
pháp quyền trong lịch sử.
1. Tƣ tƣởng về nhà nƣớc pháp quyền
thời cổ đại
Hy Lạp và La Mã là nơi phát triển
có tính điển hình về chính trị, kinh tế, xã
hội thời cổ đại ở phương Tây. Tại đây đã
hình thành nên tư duy về nhà nước pháp
quyền phong phú. Những tư tưởng ấy
vừa phản ánh hiện thực chính trị xã hội
biến đổi không ngừng, vừa thúc đẩy hiện
thực phát triển. Con người luôn có khát
vọng về sự công minh, bình đẳng đã mơ
ước về một nhà nước công bằng và
Solon (638 – 559 TCN) đã cho rằng chỉ
khi có pháp luật mới thực hiện được khát
vọng đó. Ông đưa ra lời tuyên bố trong
chương trình cải cách của mình là: Ta
giải phóng tất cả mọi người bằng quyền
* Phó BM Lý luận Chính trị
lực của pháp luật, bằng sự kết hợp giữa sức
mạnh với pháp luật. Hêraclit (530 - 470
TCN) có câu nói bất hủ: Nhân dân phải đấu
tranh bảo vệ luật như bảo vệ chốn nương
thân của mình. Vị cha đẻ của khoa học
chính trị - Aritxtot (384 – 322 TCN) nhấn
mạnh đến tính tối cao của pháp luật trong
một nhà nước được tổ chức theo đúng nghĩa
của nó. Ông cho rằng nhà nước có công
bằng hay không đều phải gắn với pháp luật,
chỉ có pháp luật mới là tiêu chuẩn để điều
chỉnh cho mọi giao tiếp trong xã hội nên: Ở
nơi nào không có sức mạnh của luật thì nơi
đó không có hình thức chế độ nhà nước.
Như vậy, luật được quan niệm là cần
thiết cho xã hội, cho cuộc sống của mỗi
người dân, giữa luật và nhà nước phải có
mối quan hệ chặt chẽ. Platon (427 –
347TCN) thừa nhận: Những nơi mà pháp
luật được định ra vì lợi ích của một số
người thì ở đó không có chế độ nhà nước.
Chỉ có thể gọi là nhà nước nếu như có sự
công bằng giữ vai trò thống trị. Các quan
niệm trên đã được Siseron (106 – 43TCN)
phát triển thêm một bước đáng kể. Ông đặt
vấn đề: Nhà nước là gì nếu không phải là
trật tự chung. Vì vậy theo ông nhà nước đó
là sự nghiệp và tài sản của nhân dân. Nhân
dân ở đây không phải là sự tập hợp bất kỳ
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
46
nào của nhiều người mà nó phải là một
cộng đồng được liên kết với nhau bằng
sự nhất trí về pháp luật và quyền lợi
chung. Siseron đưa ra nguyên tắc: Luật
có tác động đến tất cả mọi người, mọi người
bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước và
pháp luật là của chung mọi công dân, do
vậy việc bảo vệ tư do của công dân không
phải là việc của riêng ai.
Các nhà tư tưởng Hy – La cổ đại
không chỉ dừng ở chỗ xác định vai trò vị
trí của pháp luật nhà nước trong xã hội
mà các ông còn đưa ra các ý kiến về việc
tổ chức nhà nước có sự thống trị của
pháp luật ấy như thế nào? Platon phân
biệt: Cầm quyền bởi một con người đó là
chính quyền chuyên chế, bởi một bộ
phận người tốt đó là chính quyền quý
tộc, bởi những công dân tự do thành thị
đó là quân chủ. Aritxtot cho rằng trong
bất kỳ nhà nước nào cũng phải có ba yếu
tố: Nghị luận (cơ quan làm luật, trông coi
việc nước), chấp hành (các cơ quan thị
thực), xét xử (tòa án).
Cách nhìn, cách lập luận của các
triết gia cổ đại tuy chỉ mới là mầm mống
của tư tưởng nhà nước pháp quyền
nhưng nó đã được đánh giá “ Không có
cái cơ sở của nền văn minh Hy Lạp và đế
chế La Mã thì không có châu Âu hiện
đại” (C.Mác – Ph.Ăngghen toàn tập, tr
254 – tập 20. Nxb Chính trị quốc gia Hà
nội -1994). Tư tưởng của các ông lúc bấy
giờ đều đề cao sự công bằng pháp luật, coi
đó là những thuộc tính vốn có của trời đất,
trái ngược với nó là bạo lực, lộng quyền,
hỗn loạn cần phải được xóa bỏ. Tư tưởng
về nhà nước pháp quyền của các ông đã thể
hiện rõ ý chí chống lại sự chuyên quyền độc
đoán, chống lại việc lẽ phải chỉ nằm trong
tay kẻ mạnh, vua chúa có quyền lực không
hạn chế, chống lại quan điểm nhà nước làm
ra luật thì nhà nước phải đứng trên pháp
luật. Đích đến của các nhà tư tưởng lỗi lạc
thời cổ đại là hướng tới xây dựng một xã
hội dân chủ mà ở đó quyền lực thuộc về
nhân dân.
2. Học thuyết nhà nƣớc pháp quyền tƣ
sản
Các nhà tư tưởng thời trung cổ đã
tiếp nhận và phát triển quan điểm nhà nước
pháp quyền thời cổ đại lên như là một thế
giới quan pháp lý mới, biểu hiện ý thức
chống lại một cách quyết liệt các quan điểm
thần học về nhà nước và pháp luật, chống
lại sự chuyên quyền phong kiến và tình
trạng vô pháp luật. Đồng thời nó khẳng
định mạnh mẽ tính nhân đạo, nguyên tắc tự
do bình đẳng của cá nhân, thừa nhận những
quyền của con người không thể bị tước
đoạt. Thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến
lên chủ nghĩa tư bản những quan niệm mới
về tự do của con người thông qua việc tôn
trọng tính tối cao của pháp luật dẫn đến
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
47
việc hình thành học thuyết nhà nước
pháp quyền tư sản. Học thuyết này ngày
càng hoàn thiện qua các tư tưởng vĩ đại
của G. Loccơ, Montesquieu, Kan,
Hêghen, Monh ….
Người đặt nền móng cho sự ra đời
của học thuyết về nhà nước pháp quyền
tư sản là G. Loccơ (1632 - 1704) – một
nhà tư tưởng người Anh vào thế kỷ
XVII. Mô hình nhà nước mà ông đưa ra
có vị trí pháp luật là cao nhất. Luật này
phải phù hợp với luật pháp tự nhiên, các
quyền tự nhiên và tự do cá nhân được ghi
nhận. Trong nhà nước mà ông thiết kế có
nguyên tắc: Đối với công dân cho phép
làm tất cả những gì mà luật không cấm,
đối với những người nắm quyền lực
không được làm những gì mà luật không
cho phép. Tiếp tục phát triển những quan
điểm của G. Loccơ về phân lập các
quyền trong bộ máy nhà nước thì
Montesquieu (1689 - 1775) – luật gia
người Pháp thế kỷ XVIII đã có những
khám phá mới về chế độ phân bố quyền
lực. Ông khẳng định việc phân chia
quyền lực là một thuộc tính của nhà nước
pháp quyền, là điều kiện cơ bản để đảm
bảo tự do chính trị. Cốt lõi tư tưởng của
ông là quyền lực nhà nước được chia
thành: Quyền lập pháp, quyền hành
pháp, quyền tư pháp và ba quyền đó
được giao cho ba cơ quan khác nhau.
Ông cho rằng làm như vậy các bộ phận
quyền lực sẽ kiềm chế lẫn nhau và tránh
được sự lạm quyền. Tư tưởng này đã trở
thành một trong những nội dung cơ bản của
học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản.
Một trong những quan điểm mới có tính sâu
sắc về nhà nước pháp quyền tư sản đã được
Rutxo (1712 – 1778) đưa ra. Ông quan
niệm con người khi thoát khỏi trạng thái tự
nhiên với tính năng tự hoàn thiện đã phải
liên kết lại với nhau thành xã hội để bảo vệ
và phát triển quyền tự do vốn có của mình.
Để tạo ra sức mạnh chung nhằm bảo vệ mọi
thành viên trong xã hội cần phải có một
hình thức liên kết giữa con người với con
người, cần có sự thỏa thuận giữa nhân dân
và nhà nước bằng khế ước xã hội. Thông
qua đó nhân dân thực hiện được quyền của
mình bằng cách nhân dân ủy quyền cho các
đại biểu trong bộ máy nhà nước. Với sự
thỏa thuận ấy con người mất đi cái tự do tự
nhiên, bị hạn chế những điều muốn làm, bù
lại họ có quyền tự do dân sự và quyền sở
hữu những cái mà con người có. Nếu nhà
nước không đảm bảo được tự do cho cá
nhân, không đem lại lợi ích cho xã hội như
mục đích ban đầu thì người ta có quyền
thỏa thuận lại để giành lấy tự do cho mình.
Vậy nên, nếu quyền lực nhà nước được tách
ra thành các bộ phận thì chúng vẫn phải phụ
thuộc vào nhau mới thực hiện được ý chí
chung.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
48
Đến I. Kant (1724 – 1804) – học
giả người Đức, lý thuyết về nhà nước
pháp quyền tư sản với tính cách là một
học thuyết triết học – chính trị tương đối
hoàn chỉnh đã được xác định. Kant triệt
để tán thành việc áp dụng lý thuyết phân
quyền. Theo ông ở đâu áp dụng nguyên
tắc này thì ở đó có nhà nước pháp quyền,
nếu không chỉ là chuyên quyền. Kant
quan niệm nhà nước là tập hợp của nhiều
người cùng phục tùng các đạo luật, nhà
nước phải hoạt động với mục đích đảm
bảo cho sự thắng lợi của pháp luật, đồng
thời nhà nước cũng phải phục tùng
những yêu cầu của pháp luật đó.
Người đầu tiên sử dụng thuật ngữ
nhà nước pháp quyền chính là Robert
Fon Mohn và Karl Teodor Valker. Hai
ông coi tính tối cao của pháp luật là
nguyên tắc hàng đầu của nhà nước pháp
quyền. Tính tối cao đó thể hiện chủ
quyền của nhân dân dưới hình thức
quyền lực của nghị viện. Pháp luật thuần
túy chỉ là công cụ bảo vệ quyền tự do
của con người khỏi sự can thiệp từ bên
ngoài. Các ông quan niệm trong nhà
nước pháp quyền cần phải đảm bảo tiêu
chuẩn sự bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật, có như vậy mới phát huy
hết quyền tự do và năng lực của mỗi
thành viên trong xã hội.
Như vậy, điểm hội tụ của các nhà tư
tưởng về nhà nước pháp quyền là quan
điểm: Nhân dân là chủ thể của quyền lực
nhà nước, nhà nước phải đứng dưới pháp
luật, quản lý xã hội bằng pháp luật. Ở mỗi
nước đều có hệ thống luật pháp riêng của
mình với vị trí tối cao là hiến pháp, luật này
phải tuân thủ theo tinh thần cơ bản của pháp
luật tự nhiên. Pháp luật tự nhiên được xem
như là cái có trước nhà nước, đứng trên mọi
nhà nước, được lý trí công nhận, giữ vai trò
lãnh đạo cuộc sống xã hội, điều chỉnh hành
vi của mọi người. Về mặt tổ chức quyền lực
nhà nước nhất định phải được chia thành ba
chức năng cơ bản: Làm luật, chấp hành
pháp luật, giải quyết những vướng mắc
trong quá trình chấp hành pháp luật, xử lý
và trừng trị các vi phạm pháp luật.
Qua một số nội dung trên chúng ta
thấy những tư tưởng và mô hình về nhà
nước pháp quyền ở phương Tây đã phản
ánh thế giới quan tiên tiến từ thời cổ đại, đã
hàm chứa những thành tựu của các quan
điểm dân chủ tiến bộ của cách mạng tư sản,
nên nó là yếu tố của nền văn minh nhân
loại.
3. Tƣ tƣởng xây dựng nền pháp chế xã
hội chủ nghĩa
Khi tổng kết kinh nghiệm của công
xã Pari năm 1871, CacMac nhận định:
Công xã là hình thức nhà nước vô sản, một
nhà nước kiểu mới để thay thế nhà nước tư
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
49
sản. Về tổ chức bộ máy nhà nước kiểu
mới được xây dựng là nhà nước dân chủ
tự do “ Nhân dân tự quy định” , pháp luật
là “ Vì con người”, “ Pháp luật phải lấy
xã hội làm cơ sở, pháp luật phải là sự
biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung
của xã hội, do một phương thức sản xuất
nhất định sản sinh ra mà không phải là
do ý muốn tùy tiện của một cá nhân”
(Mác – Angghen toàn tập tập 6- NXB
chính trị quốc gia HN – 1993 trang 332,
333). Chủ nghĩa Mác cũng rất đề cao vị
trí của pháp luật giống như học thuyết
của nhà nước pháp quyền tư sản. Ăng
ghen cho rằng: Cần phải đặt nhà nước
dưới pháp luật thì mới ngăn ngừa được
chuyển hóa của nhà nước từ chỗ là công
bộc của xã hội thành ông chủ đứng trên
đầu xã hội. Về bản chất thì nhà nước bao
giờ cũng là sự thống trị của một giai cấp,
do vậy trong nhà nước kiểu mới, giai cấp
thống trị đó là giai cấp vô sản, nhà nước
là nhà nước chuyên chính vô sản. Đây là
một nhà nước của số đông thống trị thiểu
số nên nó là nhà nước dân chủ hơn nhiều
so với các kiểu thống trị trước đó. Bộ
máy nhà nước này sẽ tuân theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp là thống nhất.
Lênin vận dụng và phát triển chủ
nghĩa Mác về vấn đề nhà nước và xuất
phát từ thực tiễn cách mạng Nga những
năm đầu thế kỷ XX, ông cho rằng hình thức
nhà nước phù hợp với đặc điểm nước Nga
là Cộng hòa Xô viết – một nhà nước dân
chủ vô sản có khả năng phát triển đầy đủ,
có thể thu hút những người lao động tham
gia thật bình đẳng và ngày càng rộng rãi
vào công việc quản lý của nhà nước và xã
hội. Lê nin cho là sẽ không tưởng nếu sau
khi lật đổ chế độ cũ người ta sẽ biết làm
việc ngay cho chủ nghĩa xã hội mà không
cần một nguyên tắc pháp luật nào. Do vậy,
Lênin thấy việc xây dựng hệ thống pháp
luật kiểu mới là không thể thiếu, thậm chí
trong giai đoạn đầu còn có thể sử dụng “
chân trời hẹp của pháp luật tư sản”
Những năm sau đó sự phát triển của
pháp luật ở Liên Xô cũ nói riêng và các
nước xã hội chủ nghĩa nói chung đang còn
rất hạn chế, một phần do cơ chế tập trung,
quan liêu, bao cấp, một phần do nhận thức
sai lầm về nhà nước pháp quyền, một phần
lại do các chế định đảm bảo quyền tự do
của công dân chưa có, văn hóa pháp luật
trong dân còn thấp… Tư tưởng về nhà nước
pháp quyền đã bị lãng quên khá lâu trong
các nước của hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Song nhìn chung trong hệ thống xã hội chủ
nghĩa đã hình thành lý thuyết pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Về nội dung, pháp chế xã hội
chủ nghĩa là hệ thống những quan niệm về
xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật và
bảo vệ pháp luật. Điểm tương đồng giữa
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
50
pháp chế xã hội chủ nghĩa và nhà nước
pháp quyền là đòi hỏi nhà nước phải có
một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn
chỉnh. Pháp chế xã hội chủ nghĩa yêu cầu
các công dân, viên chức nhà nước, cơ
quan nhà nước phải tuân thủ nghiêm túc
pháp luật; còn nhà nước pháp quyền
nhấn mạnh đến nguyên tắc mọi cơ quan
nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa yêu cầu bảo
vệ nghiêm ngặt pháp luật, đấu tranh
chống tình trạng vi phạm pháp luật; nhà
nước pháp quyền cũng vậy, nó rất coi
trọng hệ thống định chế tư pháp để xét
xử các hành vi vi phạm. Pháp chế xã hội
chủ nghĩa có nhiều điểm tương tự nhà
nước pháp quyền, nhưng nếu so sánh hai
khái niệm thì nhà nước pháp quyền có
nội dung rộng hơn, sự thiết kế nó thành
một cơ cấu bộ máy rõ hơn, cụ thể hơn.
Nhà nước pháp quyền nhấn mạnh đến
vai trò và trách nhiệm của hệ thống hành
chính, bộ máy tư pháp nhiều hơn là nhấn
mạnh đến vai trò của cơ quan lập pháp.
Chỉ với lý luận về pháp chế xã hội
chủ nghĩa cùng với những nguyên nhân
như do mô hình kinh tế, do chiến tranh,
do sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc ….
mà trong một thời gian dài chưa có nhà
nước xã hội chủ nghĩa nào thực hiện đầy
đủ các tiêu chuẩn của nhà nước pháp
quyền. Vì vậy cách tổ chức nhà nước xã
hội chủ nghĩa còn có nhiều khuyết tật, nhà
nước tách khỏi nhân dân lao động, quyền
lực nhà nước của nhân dân ngày càng bị
biến dạng, trở thành công cụ của chế độ
quan liêu, mệnh lệnh và dẫn đến sự sụp đổ
của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
và Liên xô cũ.
4. Vấn đề xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền ở Việt Nam
Việt Nam trước yêu cầu của đất
nước thời kỳ đổi mới đã rất quan tâm đến
xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là kiện
toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong
sạch, có hiệu lực, có hiệu quả. Cương lĩnh
được thông qua đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VII năm 1991 đã xác định một trong
bảy phương hướng cơ bản là: Xây dựng nhà
nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân
dân do nhân dân, vì nhân dân. Hội nghị lần
thứ VIII Ban chấp hành trung ương Đảng
họp tháng 1 năm 1995 đã ra nghị quyết về
việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
cải cách một bước nền hành chính nhà
nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
năm 2001 đã đưa thêm một nội dung vào
các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân
dân ta xây dựng là: Có nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
51
Chủ trương xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện
Đảng ta đã nhận thức lại vấn đề, đã
khẳng định và thừa nhận nhà nước pháp
quyền không phải là sản phẩm riêng có
của chủ nghĩa tư bản mà là sản phẩm trí
tuệ, là tinh hoa của nền văn minh nhân
loại. Do đó Việt Nam cần phải biết kế
thừa, biết tiếp thu để xây dựng nhà nước
pháp quyền như một tất yếu lịch sử. Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam được xây dựng theo các đặc điểm
sau:
- Là nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân.
- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công rành mạch, phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp.
- Nhà nước được tổ chức và hoạt động
trên cơ sở hiến pháp, pháp luật và đảm
bảo cho hiến pháp và các đạo luật giữ vị
trí tối thượng trong điều chỉnh các quan
hệ thuộc tất cả các lĩnh vực trong đời
sống xã hội.
- Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền
con người, quyền công dân, nâng cao
trách nhiệm pháp lý giữa nhà nước và
công dân, thực hành dân chủ, đồng thời
tăng cường tính kỷ cương, kỷ luật.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do
một đảng duy nhất lãnh đạo, có sự giám sát
của nhân dân, sự phản biện của mặt trận tổ
quốc Việt Nam và tổ chức thành viên của
mặt trận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Đào, Đinh Văn
Mậu và cs (1997), Lịch sử nhà nước và
pháp luật thế giới - NXB Đồng Nai.
2. Lê Minh Quân (1998), Nhà nước
pháp quyền tư sản những mặt tiến bộ và
hạn chế lịch sử, Nghiên cứu lý luận số 6.
3. Lê Minh Quân (1998), Tìm hiểu
một số tư tưởng liên quan đến nhà nước
pháp quyền trong quá trình phát triển của xã
hội thời cổ đại, Tạp chí nghiên cứu lịch sử
số 1 (297).
4. Đào Trí Úc (1992), Tìm hiểu về
nhà nước pháp quyền, NXB Pháp Lý Hà
Nội.
5. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX, X, XI.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
52
BÀN VỀ VẤN ĐỀ CHẾ ĐỘ SỞ HỮU
CN. Lê Văn Sỹ *
Trong giảng dạy các môn Lý luận
chính trị có một nội dung thường được
nhắc tới đó là vấn đề sở hữu. Đặc biệt ở
môn "Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lê nin" ở hệ Cao đẳng hoặc
môn Chính trị ở chương trình trung cấp,
nếu giảng viên làm rõ cho học sinh, sinh
viên về sở hữu sẽ giúp các em nắm chắc
hơn về mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, cơ sở
hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Con người tồn tại trong mối quan hệ
với tự nhiên đã bằng năng lực hoạt động
thực tiễn của mình khai thác tự nhiên
nhằm duy trì và phát triển cuộc sống. Mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên được
phản ánh qua phạm trù chiếm hữu. Đây là
một phạm trù vĩnh viễn, tồn tại trong tất cả
các giai đoạn lịch sử của sản xuất xã hội.
Khi các sản phẩm khai thác từ tự nhiên bị
con người chiếm hữu thì sau đó sở hữu
cũng xuất hiện. Trên cơ sở phát triển của
lực lượng sản xuất, quan hệ sở hữu ra đời,
tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển
của lịch sử và được biểu hiện qua các hình
* GV Tổ Lý luận Chính trị
thức cụ thể khác nhau, kế tiếp nhau.
II. NỘI DUNG
2.1. Sở hữu và chế độ sở hữu
Sở hữu là mối quan hệ giữa chủ thể sở
hữu và đối tượng sở hữu. Người có khả
năng và quyền chiếm hữu đối tượng sở
hữu, có quyền chi phối người khác trong
quan hệ với đối tượng sở hữu đó chính là
chủ thể sở hữu. Chủ sở hữu có quyền định
đoạt đối tượng sở hữu của mình, có quyền
kiểm soát và sử dụng nó. Ở từng giai đoạn
lịch sử, trong từng trường hợp cụ thể sẽ có
sự thay đổi phương thức về vai trò của chủ
sở hữu với đối tượng sở hữu. Có khi chủ
sở hữu không trực tiếp sử dụng mà thuê
người sử dụng đối tượng sở hữu hoặc giao
quyền quản lý sản xuất, quản lý kinh
doanh cho người khác, chỉ giữ lại cho
mình quyền kiểm soát và định đoạt mà
thôi. Do vậy việc xác định rõ chủ thể sở hữu
trong quan hệ xã hội là rất quan trọng. Phía
thụ động của quan hệ sở hữu chính là đối
tượng sở hữu. Đối tượng sở hữu được biểu
hiện dưới dạng: người, vật, tự nhiên, đồ vật,
năng lượng, thông tin, của cải, trí tuệ ….
Trong nền kinh tế tự nhiên, đối tượng
sở hữu cơ bản là ở hình thái hiện vật.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
53
Trong nền kinh tế thị trường đối tượng sở hữu
chủ yếu là ở hình thái giá trị. Ngày nay, công
nghệ khoa học phát triển nên sở hữu thông tin,
sở hữu trí tuệ đang trở thành đối tượng sở hữu
có vai trò đặc biệt quan trọng.
Quan hệ giữa chủ thể sở hữu với đối
tượng sở hữu dù dưới hình thái nào cũng
bao gồm ba quyền cơ bản: Quyền chiếm
hữu. quyền sử dụng, quyền định đoạt.
Trong phạm trù sở hữu quyền giữ vị trí
trung tâm là quyền định đoạt. Quyền này
đem lại cho chủ thể khả năng thực hiện
tương đối toàn diện đối với đối tượng sở
hữu. Họ có thể định đoạt phương thức sử
dụng đối tượng sở hữu đó như thế nào, có
thể ký kết các hợp đồng bán, cho thuê,
tặng … có thể thay đổi nó thành một đối
tượng sở hữu khác hoặc cũng có thể hủy
bỏ nó đi. Trên thực tế chỉ người nào có
quyền điịnh đoạt đối tượng sở hữu mới
thực sự là chủ sở hữu.
Khi nghiên cứu xem xét vấn đề sở hữu
không những phải thấy được bản chất của
nó là mối quan hệ giữa người với người
thông qua chiếm hữu vật mà còn thấy
được sự luôn vận động của một quan hệ
kinh tế để xác định rõ mức độ sở hữu ra
sao. Đầu tiên là việc xác định đối tượng sở
hữu đó là của ai (của cá nhân? Của nhóm?
Của nhà nước?) Sau đó xem sở hữu ấy
được thể chế về mặt pháp lý như thế nào
và biểu hiện mối quan hệ của nó trong hệ
thống mắt khâu ra sao (ai sở hữu? Ai quản
lý? Ai kinh doanh? Ai sử dụng?); xem việc
thực hiện lợi ích kinh tế ở các mắt khâu đó
như thế nào? Dưới hình thức nào?. Xét ở
mức độ khái quát nhất, nội dung của sở
hữu được thể hiện trên hai mặt: nội dung
pháp lý và nội dung kinh tế của sở hữu.
Quan hệ sở hữu với tư cách là
những quan hệ kinh tế khách quan được
thể chế hóa và mang tính chất pháp lý ( thể
hiện bằng hệ thống pháp luật và cả nhũng
quy định dưới luật) thì gọi là chế độ sở
hữu. Chế độ sở hữu bao gồm các quyền
như quyền sở hữu, quyền quản lý, quyền
sử dụng ( quyền kinh doanh). Trong đó
được chia thành hai nhóm quan trọng đó là
quyền sở hữu và quyền quản lý kinh
doanh. Hai nhóm quyền này có thể thống
nhất ở một chủ thể, cũng có thể phân chia
tách biệt tương đối ở các chủ thể khác
nhau. Sự phát triển kinh tế - xã hội càng
phức tạp thì sự tách biệt, tác động qua lại
giũa hai nhóm quyền này càng phong phú
đa dạng.
2.2. Chế độ sở hữu là cơ sở kinh tế của
chế độ chính trị
Chế độ chính trị là một bộ phận của
kiến trúc thượng tầng về pháp lý và chính
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
54
trị, là thiết chế đảm bảo quyền lực của giai
cấp cầm quyền, là hệ thống tổ chức thực
thi quyền lực chính trị. Trong đó quan
trọng nhất là tổ chức nhà nước – có vai trò
bảo vệ và thực hiện quyền lực về kinh tế
xã hội của giai cấp thống trị.
Quan hệ giữa các giai cấp trong việc
giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước
đó là thực chất của chính trị. Chính trị và
chế độ chính trị chỉ xuất hiện từ khi xã hội
có giai cấp, đồng thời với chế độ sở hữu tư
nhân trong lĩnh vực kinh tế. Chính trị bắt
nguồn từ kinh tế, do kinh tế và vì kinh tế.
Chế độ sở hữu và chế độ chính trị là
những phạm trù phản ánh những quan hệ
xã hội khách quan và mang tính lịch sử mà
thực chất nó phản ánh mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị. Thực tiễn lich sử đã
chứng minh rằng giai cấp nào thống trị
trong kinh tế thì cũng thống trị trong chính
trị và tư tưởng. Chế độ chính trị bao gồm
bộ máy nhà nước, hệ thống luật pháp và
thể chế xã hội bao giờ cũng phản ánh lợi
ích kinh tế và bảo vệ quyền lực thống trị
của giai cấp cầm quyền. Ở trong mỗi một
hình thái kinh tế xã hội đều có một giai
cấp thống trị nắm chủ yếu tư liệu sản xuất
và tương ứng với nó là một chế độ chính
trị đặc trưng và một kiểu nhà nước thích
hợp. Thực chất của chế độ chính trị là thừa
nhận, bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi cho
một loại hình sở hữu nào đó trong hệ thống
kinh tế xã hội. Do vậy khi lực lượng sản
xuất phát triển kéo theo quan hệ sản xuất
thay đổi ( tức là thay đổi quan hệ sở hữu)
thì sớm hay muộn chế độ chính trị cũ cũng
bị sụp đổ và một chế độ chính trị mới sẽ ra
đời thay thế nó. Không có một chế độ
chính trị nào tồn tại vĩnh viễn. Các chế độ
chính trị dần dần cũng phải thay đổi theo
cùng với sự biến đổi của cơ sở kinh tế, của
chế độ sở hữu. Chế độ kinh tế nào cũng chỉ
là sự phản ánh của một chế độ kinh tế nhất
định, một chế độ sở hữu nhất định. Sở hữu
là cơ sở để quyết định hệ thống chính trị vì
sở hữu là quan hệ kinh tế. Khi nào con
người nhận thức được và tôn trọng quan hệ
sở hữu, quan hệ kinh tế thì quyền lợi kinh
tế của chủ sở hữu mới được đảm bảo. Do
vậy mà không phải ngẫu nhiên tất cả các
cuộc cách mạng xã hội đều coi việc xác
lập quyền thống trị của mình đối với tư
liệu sản xuất, đối với tài sản quốc gia như
là một điều kiện tiên quyết để giữ vững
thành quả cách mạng và phát triển kinh tế.
Tuy nhiên chúng ta cũng cần nhận thức
được rằng mặc dù chế độ sở hữu đóng vai
trò cơ sở cho chế độ chính trị nhưng chế
độ chính trị vẫn có sự tác động trở lại,
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
55
nhân tố có ảnh hưởng to lớn đến sự hình
thành và vận động của chế độ sở hữu.
2.3. Chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin
Trong các tác phẩm của mình, Mác,
Ăngghen, Lênin không dành riêng hẳn một
phần nào để bàn về sở hữu và chế độ sở
hữu trong chủ nghĩa xã hội nhưng khi nói
về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội các ông
đã luôn đặt sở hữ lên hàng đầu và coi đó là
vấn đề cơ bản cần giải quyết triệt để.
Các Mác cho rằng: Chế độ sở hữu tư
bản là biểu hiện cuối cùng và hoàn bị nhất
của phương thức sản xuất và chiếm hữu
dựa trên cơ sở những đối kháng giai cấp,
trên cơ sở người này bóc lột người khác.
Mục tiên xây dựng chủ nghĩa Cộng sản
được Mác - Ăng ghen quan niệm thủ tiêu
chế độ tư hữu là một cách nói vắn tắt nhất
và tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ
xã hội. Song trước hết phải trải qua một
giai đoạn phát triển thấp hơn đó là giai
đoạn xã hội chủ nghĩa. Mác – Ăng ghen
cho rằng một trong những nhiệm vụ chủ
yếu của giai cấp vô sản trong sự nghiệp
xây dựng Chủ nghĩa xã hội là xóa bộ chế
độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế
độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất để trên
cơ sở đó phát triển lực lượng sản xuất và
nâng cao đời sống của người lao động.
Theo các ông việc xóa bỏ chế độ tư hữu
không thể diễn ra ngay một lần mà phải
được thực hiện trong cả một quá trình lâu
dài, đặc biệt đối với sở hữu nhỏ lại càng
phải hết sức thận trọng. Điều sai lầm to lớn
xảy ra khi có sự đồng nhất giữa chế độ tư
hữu với sở hữu cá nhân của người lao
động. Quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin là : Đặc trưng của chủ nghĩa Cộng
sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu
nói chung mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư
bản, Chủ nghĩa Cộng sản không tước bỏ của
ai cái quyền chiếm hữu những sản phẩm xã
hội cả. Chủ nghĩa Cộng sản chỉ tước bỏ quyền
dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động
người khác. Còn sở hữu của những người sản
xuất nhỏ, của người tiểu nông là do chính sự
tiến bộ của công nghiệp đã xóa bỏ nó đi. Do
vậy trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa Cộng
sản – giai đoạn Xã hội chủ nghĩa thì chưa thể
có ngay toàn bộ chế độ công hữu.
Khi nhìn nhận các hợp tác xã lao động
trong lòng các nước tư bản phát triển, Mác
đã coi đó là những “lỗ thủng” trong
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là
mầm mống của sự tự phủ định đối với sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, là những
hình thức đáng lưu ý khi tiến hành xây
dựng Xã hội chủ nghĩa. Từ đó theo Mác,
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
56
sở hữu của Chủ nghĩa xã hội là khôi phục
sở hữu cá nhân trên cơ sở hợp tác và sở
hữu công cộng về ruộng đất cùng những tư
liệu sản xuất khác dựa trên một trình độ
của lực lượng sản xuất hiện đại. Tuy
nhiên, đây không phải là sự khôi phục lại
chế độ tư hữu mà là sự thống nhất hữu cơ
giữa chủ sở hữu và người lao động. Người
lao động sử dụng đối tượng sở hữu đồng
thời cũng là chủ thể sở hữu. Nhân dân lao
động bằng chính lao động của mình đã tạo
ra và tái tạo phát triển sở hữu.
Sở hữu Xã hội chủ nghĩa hình thành
một cách khách quan như tất cả các hình
thức sở hữu đã có trong lịch sử. Khi sở
hữu hình thành trên cơ sở sở hữu cá nhân
của những người lao động thì tạo ra được
động lực của những người lao động.
Bổ sung và phát triển thêm cho quan
điểm của Mác – Ăng ghen, Lê nin đã chỉ
ra rằng trước khi đạt được đến chủ nghĩa
xã hội thì tất yếu phải trải qua một thời kì
dài đầy khó khăn phức tạp đó là thời kì
quá độ. Thời kì quá độ là một thời kì lịch
sử mà ở đó có những mảnh, những thành
phần, những bộ phận của chủ nghĩa tư bản
và chủ nghĩa xã hội. Về sở hữu thì đặc
trưng trong thời kì này là sự đan xen hỗn
hợp của nhiều loại hình sở hữu, nhiều hình
thức kinh tế. Tư tưởng này được Lê nin
vận dụng qua việc thực hiện chính sách
kinh tế mới (NEP) và kết quả cho thấy sự
tồn tại nhiều hình thức kinh tế đã tạo động
lực cho sản xuất phát triển và cứu nước
Nga ra khỏi khủng hoảng nặng nề.
III. KẾT LUẬN
Sở hữu về tư liệu sản xuất là yếu tố
hàng đầu của quan hệ sản xuất, quy định
chế độ quản lý và chế độ phân phối. Sở
hữu về tư liệu sản xuất là một trong những
vấn đề cơ bản và sâu xa của mọi cuộc cách
mạng, do vậy trong công cuộc đổi mới ở
Việt Nam hiện nay không thể không quan
tâm và tập trung để giải quyết vấn đề sở
hữu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX, X, XI.
2. Lưu Văn Sùng(1996), Sự phù hợp
giữa chế độ sở hữu và chế độ chính trị ở nước
ta hiện nay, Báo cáo tổng luận đề tài cấp Bộ,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
3. Lê Thanh Sơn (2000), Chính
sách kinh tế mới của Lê nin với công cuộc
đổi mới ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
4. Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh và con đường xây
dựng Chủ nghĩa xã hội – NXB Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
57
VẤN ĐỀ GIÁO DỤC THẾ HỆ TRẺ TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
Th.S. Trần Thị Bình *
“Một năm khởi đầu từ mùa xuân
Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ
Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”(1)
Trong suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng của mình, kể từ khi tìm được
con đường cứu dân, cứu nước cho đến
lúc vĩnh biệt chúng ta, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã không ngừng chăm lo, quan tâm
đến sự nghiệp bồi dưỡng thế hệ trẻ, dành
cho họ “muôn vàn tình thân yêu” và một
niềm tin vững chắc vào khả năng cách
mạng to lớn của tuổi trẻ Việt Nam.
Trước khi đi xa, Người còn căn dặn lại
toàn Đảng, toàn dân ta: “Bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất
quan trọng và rất cần thiết”.
Nhờ có học thuyết Mác – Lênin
soi đường và kinh nghiệm hoạt động
cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ý thức được sâu sắc vai trò của
thế hệ trẻ trong sự nghiệp cách mạng và
sự phát triển của xã hội. Người nhận thấy
tuổi trẻ Việt Nam là lực lượng đông đảo,
hùng hậu, dũng cảm – thế hệ tiêu biểu
cho sức sống, sức phát triển của dân tộc,
nếu được chăm sóc, rèn luyện có thể
đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc. Bằng một trái tim
* GV Tổ Lý luận Chính trị
nhạy cảm Người đã nhận thấy, trong quá
trình Pháp xâm lược Việt Nam và Đông
Dương, thực dân Pháp đã thực hiện
chính sách ngu dân, áp đặt nền văn hoá
nô dịch đã làm tàn tạ, mê muội thế hệ trẻ
Việt Nam, điều đó hết sức nguy hiểm. Vì
thế trong tác phẩm nổi tiếng “Bản án chế
độ thực dân Pháp” xuất bản năm 1925,
Người đã kêu lên tha thiết: “Hỡi Đông
Dương đáng thương hại! Người sẽ chết
mất, nếu đám thanh niên sớm già cỗi của
Người không sớm hồi sinh”. Người cũng
chỉ ra rằng, chỉ có thể dành độc lập dân
tộc khi giác ngộ được quần chúng nhân
dân, mà trước hết là thức tỉnh giác ngộ
thanh niên, hướng cuộc đấu tranh của họ
đi đúng quỹ đạo của cách mạng vô sản,
từ đó thức tỉnh ý thức dân tộc.
Tháng 12 năm 1924 tại Quảng
Châu – Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã
tiếp xúc với những thanh niên yêu nước
trong nhóm Tâm Tâm xã và tổ chức ra
một nhóm cách mạng đầu tiên - Việt
Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí
Hội, mở lớp đào tạo về Chủ nghĩa Mác -
Lênin và xuất bản tờ báo Thanh niên -
Cơ quan tuyên truyền của Hội. Người
khẩn trương bắt tay vào việc đào tạo cán
bộ. Hội đã liên lạc với cơ sở cách mạng
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
58
ở trong nước, chọn những thanh niên yêu
nước và bí mật đưa sang Quảng Châu để
đào tạo thành cán bộ cách mạng. Hàng
trăm cán bộ đã được đào tạo từ các lớp huấn
luyện này. Một số được cử đi đào tạo cơ bản
về lý luận tại trường Đại học Phương Đông
(Liên Xô cũ), một số khác được cử đi học
quân sự, số đông được giao nhiệm vụ trở về
Việt Nam và trở thành những Đảng viên
xuất sắc của Đảng sau này. Lớp thanh niên
cộng sản đầu tiên được Người đào tạo chính
là những hạt giống vô cùng quý giá đối với
sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân ta.
Từ sau cách mạng tháng Tám –
1945, khi nước nhà được độc lập, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng sớm thấy được
tiềm năng, sức mạnh của tuổi trẻ trong
sự nghiệp xây dựng đất nước. Người ân
cần khuyên nhủ thanh niên: “Muốn làm
chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay
hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực
lượng của mình, phải làm việc chuẩn bị
cái tương lai đó”. Thanh niên ta rất hăng
hái, nếu biết tập hợp lòng hăng hái đó lại
vừa dìu dắt đúng đắn thì thanh niên sẽ
thành một lực lượng rất mạnh mẽ. Người
cũng luôn nhấn mạnh tầm quan trọng
công việc học tập của thế hệ trẻ. Trong lá
thư gửi học sinh nhân ngày khai trường
tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đã tin
tưởng gửi gắm vào thế hệ trẻ rằng: Non
sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay
không, dân tộc Việt Nam có được vẻ
vang sánh vai cường quốc năm châu
được hay không, chính là nhờ phần lớn ở
công học tập của các cháu.
Tháng 8 năm 1947, Người lại
khẳng định và đánh giá cao vai trò của
thanh niên: “Thanh niên là người chủ
tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước
nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một
phần lớn là do các thanh niên”.
Bác còn nhìn thấy thanh niên là
lực lượng nòng cốt để xây dựng xã hội
mới trong tương lai, một xã hội tươi đẹp
không có tình trạng người bóc lột người.
Vì vậy thanh niên có vị trí rất quan trọng
và vai trò rất to lớn trong cách mạng.
Trong một buổi nói chuyện với
thanh niên, Người nói: “Bác rất yêu mến
thanh niên.
- Vì thanh niên là người tiếp xúc
cách mạng cho thế hệ thanh niên già,
đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế
hệ thanh niên tương lai – trước là các
cháu nhi đồng.
- Vì thanh niên là người xung
phong trong công cuộc phát triển kinh tế
và văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng
CNXH.
- Vì thanh niên là lực lượng cơ
bản trong bộ đội, công an và dân quân
tự vệ, đang hăng hái giữ gìn trật tự, trị
an, bảo vệ tổ quốc.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
59
- Vì trong mọi việc, thanh niên thi
đua thực hiện khẩu hiệu “Đâu cần thanh
niên có, việc gì khó có thanh niên làm”.
- Vì hai người đầu tiên chinh phục
vũ trụ: hai anh hùng Liên Xô. Đồng chí
Ga-ga-rin và đồng chí Ti-tốp cũng là
thanh niên”(2)
Bác cũng nhận thức sâu sắc rằng,
thanh niên là một bộ phận quan trọng của
dân tộc, dân tộc bị nô lệ thanh niên cũng bị
nô lệ. Dân tộc được giải phóng, thanh niên
mới được tự do. Vì vậy thanh niên cần phải
hăng hái tham gia cuộc đấu tranh của dân
tộc. Trong những năm chống Mỹ cứu nước,
Người nêu 5 điều căn dặn thanh niên. Thấm
nhuần lời căn dặn của Bác, trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thế hệ trẻ
Việt Nam đạt tới đỉnh cao rực rỡ của chủ
nghĩa cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vô
cùng sung sướng khen ngợi các cháu thanh
niên của mình. Các cháu là thế hệ anh hung
trong thời đại anh hùng, xứng đáng là thanh
niên anh hùng của một dân tộc anh hùng.
Để thanh niên phát huy được vai
trò của mình trong cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng: Vấn đề đặt lên
hàng đầu là giáo dục tinh thần yêu nước.
Trong 5 điều Người dạy thiếu niên và nhi
đồng, điều thứ nhất là: “Yêu Tổ quốc, yêu
đồng bào”. Đối với thanh niên: “Trước
hết phải yêu tổ quốc, yêu nhân dân. Phải
có tinh thần dân tộc vững chắc và tinh
thần quốc tế đúng đắn”. Tinh thần yêu
nước là sức mạnh to lớn giúp dân tộc ta
đã đánh thắng mọi kẻ thù và vượt qua bao
khó khăn. Nó được hun đúc từ bao đời và
đã trở thành sức mạnh Việt Nam, biểu
tượng của Việt Nam.
Ngày nay, trong thời đại Hồ Chí
Minh, hơn lúc nào hết tinh thần ấy cần
được đề cao và khơi dậy một cách mạnh
mẽ đưa chúng ta vượt qua đói nghèo và
tụt hậu. Có thể khẳng định rằng: Giáo dục
tinh thần yêu nước cho thanh niên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là việc làm có ý
nghĩa quan trọng trong bối cảnh hiện nay,
nó tiếp nguồn sức mạnh, trí sáng tạo cho
hàng triệu thanh niên đang ngày đêm
chiến đấu, nỗ lực trong lao động để cống
hiến trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội vì sự phát triển phồn thịnh của đất
nước, cho sự đi lên của dân tộc, cho dáng
đứng Việt Nam tạc sâu vào thiên niên kỷ
Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, Người viết: “Đoàn viên
và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc
đều hăng hái xung phong, không ngại khó
khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm
lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào
tạo họ thành những người thừa kế xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
một việc rất quan trọng và rất cần thiết.(3)
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
60
Trong công cuộc giáo dục, bồi
dưỡng cho thế hệ trẻ, cho đất nước Người
nhấn mạnh đến nguyên tắc, quan điểm toàn
diện, Người cho rằng: “Nhà nước chú trọng
đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức
dục, trí dục, và thể dục”. Một con người có
trí tuệ và nhân cách phát triển lệch lạc, con
người đó không thể là chủ nhân tương lai
của đất nước. Đúng như tư tưởng của
Người, chủ nhân tương lai của đất nước – cơ
bản họ phải là những con người gương mẫu
về đạo đức, có sức khoẻ, có trí tuệ, hội tụ
được những tố chất đó họ mới có thể vượt
qua được những khó khăn, thử thách, cám
dỗ, làm tròn được những nhiệm vụ vẻ vang
và đầy trọng trách mà Đảng, dân tộc và
nhân dân giao phó. Đặc biệt họ phải là
những người có trí tuệ cao, thông minh,
sáng tạo, có ý chí vươn lên, muốn tìm tòi,
khám phá cái mới, cái phát triển, tiến bộ,
dám nghĩ, dám làm. Biết vận dụng những
thành tựu của khoa học – công nghệ hiện đại
vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ tổ quốc.
Kế thừa quan điểm của Người về
giáo dục, bồi đưỡng thế hệ trẻ, Đảng ta trong
tư tưởng chỉ đạo, xây dựng mục tiêu giáo
dục – đào tạo là giáo dục các thế hệ con
người Việt Nam sống có lý tưởng, yêu
nước, yêu CNXH, những con người có đạo
đức trong sáng, có ý chí kiên cường trong
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, phát huy các
giá trị văn hóa của dân tộc, tiếp thu những
tinh hoa, văn hóa nhân loại. Có ý thức cộng
đồng, phát huy tính tích cực cá nhân, biết
làm chủ tri thức xã hội và công nghệ, có tư
duy sáng tạo, có khả năng thực hành giỏi,
có tác phong công nghiệp, có tính kỷ luật tổ
chức, có sức khỏe mà theo tư tưởng Hồ Chí
Minh đó là những con người vừa có đức
vừa có tài.
Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được
soi sáng bởi chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh lớp thanh
niên – đoàn viên – sinh viên tiếp nối
nhau nâng cao chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, dũng cảm chiến đấu, hy sinh vượt
khó, học tập rèn luyện, lao động sáng tạo
góp phần xứng đáng vào thắng lợi vẻ
vang của dân tộc, đưa đất nước ta hội
nhập vào nền kinh tế thế giới vững mạnh
như ngày hôm nay.
Thực tế cho thấy, rất nhiều thanh
niên đã và đang xứng đáng với lời dạy của
Người. Những thắng lợi vẻ vang của tuổi trẻ
Việt Nam trong các cuộc thi quốc tế, trong
học tập, sản xuất và kinh doanh… đã chứng
minh vai trò và năng lực của thế hệ trẻ trong
công cuộc xây dựng đất nước như Giáo sư
Ngô Bảo Châu – là nhà toán học đầu tiên
của Việt Nam dành được giải Fields – giải
thưởng toán học cao quý nhất thế giới
(2009), đưa Việt Nam trở thành quốc gia
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
61
Châu Á thứ hai sau Nhật có nhà toán học
đoạt giải Fields. Cô gái vàng hóa học của
Việt Nam Nguyễn Thị Ngọc Minh – Sinh
viên trường Đại học ngoại thương. Sinh viên
Nguyễn Vương Linh – sinh năm 1993 (Đại
học CN, Đại học Quốc gia Hà Nội) – Huy
chương vàng Olympic Tin học Quốc tế năm
2011. Bốn gương mặt sáng giá của Việt
Nam trong cuộc thi tìm kiếm tài năng lãnh
đạo trẻ Châu Á lần thứ XI năm 2011:
Nguyễn Ngọc Quỳnh hiện đang là sinh viên
năm thứ 4, khoa tiếng Anh, Học viện Ngoại
giao Hà Nội – một trong những sinh viên
xuất sắc được chọn trong cuộc thi tìm kiếm
tài năng lãnh đạo trẻ châu Á lần thứ XI năm
2011. Hoàng Minh Thông – Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia
TP.Hồ Chí Minh). Đào Lê Trung Anh (đại
học KTQD Hà Nội). Nguyễn Trường Song
Pha (Đại học KT TP.HCM)…
Bên cạnh đó là hàng triệu nam nữ
thanh niên ưu tú trên tất cả các mặt trận:
quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học, …
ra đời cả một thế hệ thanh niên “Trung
với Đảng, hiếu với nước, nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Tất cả đều tự hào và vinh dự là thanh
niên thế hệ Hồ Chí Minh.
Được ví như mùa xuân của xã hội,
nhiệm vụ của thanh thiếu niên không chỉ
là học tập, rèn luyện, mà còn phải biết
cống hiến và hy sinh. Trong bài nói
chuyện tại buổi lễ khai mạc trường Đại
học Nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh
đã ân cần chỉ bảo: “Nhiệm vụ của thanh
niên không phải là hỏi nước nhà đã cho
mình những gì – mà phải tự hỏi mình đã
làm gì cho nước nhà! Mình phải làm thế
nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn?
Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh
phấn đấu chừng nào?”. Lời nói của
Người tuy giản dị mà thật sâu sắc biết
bao, ngày nay còn nhiều bạn trẻ đang
theo đuổi những thị hiếu, giá trị vật chất
tầm thường, thấp kém, sống bàng quan
với chính bản thân, gia đình, xã hội, với
lý tưởng của Chủ nghĩa xã hội, sống đua
đòi hưởng lạc, chạy theo những thói hư
tật xấu, những tệ nạn xã hội, sống thiếu
lý tưởng, hoài bão, không tự giác học
tập, rèn luyện, thiếu định hướng, không
có mục đích để phấn đấu vươn lên… Đó
cũng chính là một trong những nguyên
nhân dân đến sự gia tăng những vấn đề
rất đáng lo ngại trong giới trẻ ngày nay;
như nghiện ngập, ma tuý, coi thường kỷ
cương pháp luật, xa rời những đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ... trở
thành mối lo ngại của toàn xã hội.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đặt niềm tin: “Thanh niên cần phải có
tinh thần và gan dạ, sáng tạo, cần phải
có chí khí hăng hái, có tinh thần tiến lên,
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
62
vượt mọi khó khăn, gian khổ để tiến mãi
không ngừng”. Dù trong bất kỳ hoàn
cảnh nào người thanh niên cũng phải
sống xứng đáng với truyền thống vẻ
vang của dân tộc. Trong bối cảnh hội
nhập và mở cửa hiện nay, đất nước đang
đứng trước những vận hội và những thử
thách lớn lao, hơn bao giờ hết, vai trò và
trách nhiệm của thanh niên, của tuổi trẻ
lại càng vinh dự và nặng nề. Tương lai
của đất nước, của dân tộc đang nằm
trong tay thế hệ trẻ, chúng ta có thể sánh
vai với cường quốc năm châu hay không,
chúng ta có thể vượt ra khỏi đói nghèo,
lạc hậu để trở thành một quốc gia giàu
có, vững mạnh, phát triển toàn diện được
hay không? Tất cả đang trông chờ vào ý
chí, nghị lực và bản lĩnh của tuổi trẻ,
điều đó đang được quyết định bởi chính
cái TÂM và TÀI NĂNG cùng LÝ
TƯỞNG và các giá trị sống “CHÂN –
THIỆN – MỸ” của chính sự lựa chọn thế
hệ trẻ hôm nay.
Là một biểu tượng cho sự mẫu
mực, cuộc đời cao cả của Người chính là
tấm gương sáng ngời cho thế hệ trẻ hôm
nay noi theo và học tập. Những tư tưởng
nhân văn của Người về thế hệ trẻ mãi
mãi tỏa sáng trong suốt hành trình lịch sử
của dân tộc, đặc biệt trong bối cảnh toàn
cầu hoá hiện nay thì những tư tưởng đó
lại càng có giá trị hơn bao giờ hết. Thấm
nhuần và quán triệt một cách sâu sắc
những lời dạy đó sẽ giúp thanh niên có
thêm niềm tin và sức mạnh, đó cũng là
biểu hiện sinh động của phong trào toàn
dân, trong đó có thanh niên “Sống chiến
đấu, lao động và học tập theo gương Bác
Hồ vĩ đại”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh, Bàn về Thanh niên, Thư
gửi Thanh niên và Nhi đồng toàn quốc
nhân dịp tết sắp đến (1946) , tr17.
2. Hồ Chí Minh – Bàn về Thanh niên,
Bài nói chuyện tại Đại hội Toàn quốc lần
thứ II của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt
Nam, 1961 , tr 92- 93)
3. Song Thành, Hồ Chí Minh- Nhà văn
hoá kiệt xuất. Nxb Chính trị Quốc Gia,
HN, 1999.
4. Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam, Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh , Nxb Chính trị Quốc
gia, tr1.
5. Nguyễn Khắc Mai, Dân chủ di sản văn
hoá Hồ Chí Minh. Nxb Lao động, HN
1997.
6. Trần Đình Huỳnh, Mênh mông trái
tim người, Nxb lao động, HN, 1995.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
63
CHĂM LO NHỮNG NHU CẦU THIẾT YẾU CHO NHÂN DÂN –
MỘT NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ NHÀ NƢỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
Th.S Nguyễn Quốc Sơn *
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng
giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn
hóa lớn, Người đã cống hiến cả đời mình
cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự
do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.
Suốt cuộc đời hoạt động, Người luôn đấu
tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc
và hạnh phúc của nhân dân. Người từng
nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là
phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh
phúc của quốc dân”, “Bất kỳ bao giờ, bất
kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục
đích, làm cho ích quốc lợi dân”(1)
. Để đạt
được mục đích đó, theo Người, sau khi
giành được độc lập, tự do thì nhiệm vụ
chủ yếu của chúng ta là phải đánh thắng
lạc hậu và nghèo nàn, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, làm cho nhân dân ta có một
đời sống thật sung sướng, tốt đẹp.
Cách mạng Tháng Tám thành công,
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời, nhân dân ta từ thân phận những người
nô lệ trở thành những người làm chủ đất
nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đây là
sự đổi đời không chỉ của cả dân tộc mà
còn của từng người dân Việt Nam. Tuy
* Phòng Công tác HSSV
nước ta đã giành được độc lập, nhưng
những ngày đầu xây dựng chính quyền
mới, nhân dân còn đứng trước nhiều khó
khăn to lớn. Đó là giặc đói, giặc dốt hoành
hành khắp nơi. Để giải quyết những nhu
cầu khẩn thiết của nhân dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh kêu gọi Chính phủ và nhân dân
đoàn kết thành một khối để cùng nhau
kiến thiết nước nhà. Cán bộ từ Trung
ương đến địa phương phải nên cao tinh
thần trách nhiệm của mình để phụng sự
nhân dân. Người nói: "Chúng ta đã tranh
được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói,
chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm
gì. Dân chỉ biết giá trị của tự do, của độc
lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ"(2)
.
Đồng thời, Người cũng bắt tay ngay vào
việc chấn chỉnh bộ máy chính quyền các
cấp, làm cho nó thể hiện được bản chất
tốt đẹp của chế độ xã hội mới. Người viết
Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng, nhắc nhở: “Các cơ quan
của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các
làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là
để gánh việc chung cho dân, ... Việc gì
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
64
lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì
hại đến dân, ta phải hết sức tránh” (3)
.
Theo Hồ Chí Minh, việc chăm lo
cho nhân dân hướng tới ấm no, hạnh
phúc là vinh dự to lớn, đồng thời cũng là
trách nhiệm vừa có tính cấp bách, vừa có
tính lâu dài của Đảng và Nhà nước ta. Vì
vậy, ngay phiên họp đầu tiên của Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ngày 3-9-1945, Người đã đề
cập đến 6 nhiệm vụ cấp bách. Đó là
chống nạn đói; chống nạn dốt và các tệ
nạn xã hội khác; xóa bỏ thuế thân, thuế
chợ, thuế đò; thực hiện tín ngưỡng tự do;
lương giáo đoàn kết… Để thực hiện tốt
các nhiệm vụ trên, Người kêu gọi nhân
dân ra sức chống nạn đói, coi cuộc chống
nạn đói cũng như cuộc chống ngoại xâm.
Trong bài báo Gửi nông gia Việt Nam,
Người khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản
xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia
sản xuất nữa!…Đó là cách thiết thực của
chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc
lập” (4)
. Để cứu nhân dân khỏi nạn đói
đang trầm trọng, Người đề nghị đồng bào
cả nước và bản thân Người đã gương
mẫu thực hiện trước: “Cứ 10 ngày nhịn
ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem
gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân
nghèo” (5)
. Nhờ những biện pháp tích cực
nói trên, chỉ trong một thời gian ngắn,
nhân dân cả nước đã quyên góp được
hàng vạn tấn gạo cứu đói. Phong trào
tăng gia sản xuất được đẩy mạnh, diện
tích trồng lúa và hoa màu tăng lên, nhờ
đó, nạn đói đã sớm được khắc phục.
Cùng với chiến dịch diệt giặc đói,
chiến dịch diệt giặc dốt cũng được phát
động. Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: “Những người đã biết chữ
hãy dạy cho những người chưa biết
chữ,…Vợ chưa biết thì chồng bảo, em
chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết
thì con bảo” (6)
, một phong trào thanh
toán nạn mù chữ đã dâng cao trong cả
nước. Chỉ trong một thời gian ngắn, hơn
hai triệu người đã biết đọc, biết viết.
Công tác văn hóa, giáo dục, y tế cũng
được chính quyền mới quan tâm đẩy
mạnh. Tính ưu việt của chế độ xã hội
mới đã được khẳng định và phát huy.
Phát biểu tại Hội nghị Ủy ban
nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, ngày 10-01-
1946, Người yêu cầu: "Chúng ta phải thực
hiện ngay:“ 1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm
cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 3.
Làm cho dân có học hành" (7)
.
Chăm lo cho dân những việc liên
quan, thiết thực của đời sống hàng ngày
như cái ăn, cái mặc, sự học hành của dân
là trách nhiệm của Đảng và Chính phủ,
Người nói: "Chính sách của Đảng và
Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến
đời sống nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
65
Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và
Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và
Chính phủ có lỗi" (8)
. Người còn nói:
“Dân không đủ muối, Đảng phải lo. Dân
không có gạo ăn đủ no, dân không có áo
mặc đủ ấm, Đảng phải lo... Ngay cả
tương, cà, mắm, muối của dân, Đảng đều
phải lo” (9)
.
Chăm lo cho dân thì mọi
chính sách của Đảng và Nhà nước đều
phải hướng tới mục tiêu từng bước nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Vì vậy, trong quá trình lãnh
đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch
Hồ Chí Minh rất coi trọng các chính sách
nói chung, đặc biệt Người rất coi trọng
các chính sách kinh tế. Các
chính sách kinh tế phải luôn luôn nhằm
đạt tới sự ổn định và phát triển xã hội,
đem lại hạnh phúc cho con người. Theo
Người, việc đề ra các chính sách xã hội
đúng đắn và thực thi chúng có hiệu quả
sẽ trở thành một động lực to lớn, đoàn
kết được toàn dân tộc, ổn định vững chắc
xã hội, phát huy mọi tiềm lực vật chất,
tinh thần, tài năng sáng tạo của các tầng
lớp nhân dân. Kết quả của những
chính sách xã hội đó cũng sẽ là cơ sở
vững chắc ngăn chặn và làm thất bại mọi
âm mưu và thủ đoạn chống phá của bọn
đế quốc và phản động.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám,
dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Bộ trưởng Bộ Tài chính của Chính
phủ lâm thời đã ra Nghị quyết giảm 25%
thuế điền cho nông dân, các địa phương
bị lụt được miễn thuế điền. Trong những
năm kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, khi chưa có điều kiện giải
quyết ruộng đất cho nông dân, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh kịp thời ban
hành nhiều chính sách nhằm từng bước
mang lại quyền lợi dân chủ cho nhân dân
trước hết là nông dân.
Khi bước vào công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện đất
nước vừa có hòa bình vừa có chiến tranh,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc
chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là
một trong những mục tiêu quan trọng của
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta. Điều đó được thể hiện ngay
trong quan điểm của Người về chủ nghĩa
xã hội. Người nói: “Chủ nghĩa xã hội là
làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc,
ngày càng sung sướng, ai nấy được đi
học, ốm đau có thuốc, già không lao
động được thì nghỉ, những phong tục tập
quán không tốt dần dần được xoá bỏ (ví
dụ: lấy vợ, lấy chồng sớm quá, cúng bái,
liên hoan lu bù, lười biếng...). Tóm lại,
xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
66
tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ
nghĩa xã hội” (10)
.
Lo cho dân là trách nhiệm của
Đảng và Chính phủ, nhưng không có
nghĩa Đảng và Chính phủ làm thay mọi
việc của dân. Người yêu cầu nhân dân
phải có ý thức tự giác thực hiện trách
nhiệm của mình. Trong bài nói chuyện
tại Hội nghị cán bộ cải cách miền biển,
Người quán triệt: điều cốt yếu là làm sao
phải quán triệt tinh thần chủ động, sáng
tạo của nhân dân chứ không trông chờ, ỷ
lại. Người viết: “Cứ chờ Đảng và chờ
Chính phủ giúp đỡ, thì không đúng đâu.
Đảng và Chính phủ đề ra chính sách,
phái cán bộ về hướng dẫn, thế là giúp đỡ.
Nhưng đó là phụ. Lực lượng nhân dân tổ
chức nhau lại là chính. Không nên ỷ lại
mà phải tự lực cánh sinh” (11)
.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh để lại cho Đảng ta, nhân dân ta bản
Di chúc lịch sử. Đó là tư tưởng, tình cảm
và niềm tin của Người đối với Đảng và
nhân dân ta. Trong đó, Người đã trăn trở:
“Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng
như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng
gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực
dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều
năm chiến tranh”(12)
. Vì vậy, Người căn
dặn: sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ
thắng lợi, đất nước hòa bình thống nhất:
"Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân"(13)
.
Tóm lại, chăm lo những nhu cầu
thiết yếu cho nhân dân là một nhiệm vụ
và cũng là một mục tiêu của nhà nước
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Trong suốt 24
năm giữ cương vị là Chủ tịch nước, Hồ
Chí Minh đã hoạt động, đấu tranh vì mục
tiêu độc lập cho dân tộc và hạnh phúc
cho nhân dân, làm nên một nước Việt
Nam độc lập, thống nhất, đang không
ngừng đổi mới để tiến lên chủ nghĩa xã
hội./.
CHÚ THÍCH
(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7) Hồ Chí
Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2009, t 4, tr. 240,153, 47, 115,
31, 37, 153.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t 7, tr. 572
(9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t 9, tr.
463, 591
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t 8, tr. 150
(12), (13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t12, tr 511
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
67
MỘT CHẶNG TRONG HÀNH TRÌNH CỨU NƢỚC
CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC (1934-1938)
ThS. Nguyễn Khánh Ly
Bộ môn Lý luận chính trị
Trong suốt những năm tháng khảo
sát tìm con đường cứu nước, cứu dân
khỏi ách ngoại xâm, Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh có 30 năm sống và hoạt
động ở nước ngoài. Trong 30 năm đó, có
tới 3 lần, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sống
và hoạt động trên đất Liên Xô, trong bộ
máy của Quốc tế Cộng sản (QTCS). Lần
thứ ba là khoảng thời gian dài nhất trong
3 lần Người có mặt trên đất nước của
V.I.Lênin: từ tháng 6 – 1934 đến cuối
năm 1938. Đây cũng là một giai đoạn
đặc biệt, đã diễn ra rất nhiều sự kiện lớn,
với rất nhiều khó khăn, thử thách mà
Người đã phải trải qua.
Trước đây, tài liệu về giai đoạn
này không nhiều. Trong các cuốn sách
Hồ Chí Minh Toàn tập, Hồ Chí Minh –
Biên niên tiểu sử chỉ có 3 bức thư của
Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế Cộng sản,
1 bản khai lý lịch, 1 kế hoạch nghiên cứu
sinh, 1 bảng điểm. Ở những cuốn sách
Hồ Chí Minh kể về cuộc đời hoạt động
của mình cũng đề cập rất ít, như: Vừa đi
đường vừa kể chuyện (bút danh T.Lan);
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của
Hồ Chủ tịch (của Trần Dân Tiên)…
Trong các câu chuyện kể của Người đây
đó trong những hội nghị, trả lời phỏng
vấn… hầu như không thấy nhắc đến
những năm tháng này. Hồi ký của các tác
giả viết về thời kỳ này cũng không có
nhiều. Trước năm 1990, hồi ký Gặp Bác
ở Liên Xô (1933-1938), của đồng chí
Nguyễn Khánh Toàn, in trong cuốn Hồi
ký Bác Hồ, có nhắc đến một số hoạt
động của Nguyễn Ái Quốc, nhưng không
đề cập đến những vấn đề khó khăn mà
Người gặp phải. Trong cuốn Bác Hồ trên
đất nước Lênin, đồng chí Hồng Hà viết
về thời gian hoạt động của Nguyễn Ái
Quốc tại Liên Xô (1934-1938), chỉ thấy
thuận lợi trong đại gia đình công nông.
Có thể do mối quan hệ của ĐCS Việt
Nam và ĐCS Liên Xô, hoặc do thiếu
thông tin chính thống, nên trước năm
1990, các nhà nghiên cứu, viết sách
không muốn đi sâu vào những vấn đề tế
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
68
nhị, nhạy cảm này. Sau thập niên 90 của
thế kỷ XX, khi tài liệu ở Kho lưu trữ lịch
sử chính trị - xã hội Nga được khai thác
rộng rãi, chúng ta mới được biết thêm về
những khó khăn, vất vả mà Nguyễn Ái
Quốc đã trải qua trong những năm 1934-
1938. Những năm gần đây, Văn kiện
Đảng Toàn tập cũng đã công bố một số
tài liệu liên quan tới Nguyễn Ái Quốc
trong những năm 1934-1938 làm sáng tỏ
thêm những hoạt động của Người, như:
một số rất ít thư, báo cáo của Nguyễn Ái
Quốc gửi QTCS; thư, báo cáo của Ban
Chấp hành Trung ương và Ban Chỉ huy ở
nước ngoài của ĐCSĐD; báo cáo của các
đồng chí Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập
gửi QTCS; hồ sơ cá nhân của Nguyễn Ái
Quốc…
Sau khi thoát khỏi nhà tù Hồng
Công, năm 1933, Nguyễn Ái Quốc đến
Thượng Hải. Mùa xuân 1934, từ Thượng
Hải, Nguyễn Ái Quốc đi Vladivoxtoc.
Theo báo cáo ngày 29-6-1935(1)
của
V.Vaxilieva, Trưởng phòng Đông
Dương, Ban Phương Đông QTCS, thì
chính bà là người trực tiếp đón Nguyễn
Ái Quốc những ngày đầu tiên đến Liên
Xô tháng 7-1934. Trở về Liên Xô là
Người trở về với gia đình Quốc tế, nơi có
những người bạn ở nhiều nước trên thế
giới đã từng hoạt động cùng Người trong
nhiều năm trước. Thế nhưng sự trở về
này không như mong đợi. Trở về Liên
Xô, Nguyễn Ái Quốc nóng lòng được
tham gia ngay vào các hoạt động, nhưng
Người lại được các đồng chí lãnh đạo
QTCS cho đi nghỉ dưỡng sức một thời
gian ở nhà nghỉ Sochi bên bờ biển Đen
(khoảng cuối tháng 9 - 1934). Chỉ sau
hơn một tuần Nguyễn Ái Quốc đã xin trở
lại Matxcơva và tháng 10 – 1934, Người
lại được QTCS bố trí vào học tại Trường
Quốc tế Lênin khoá 1934 – 1936, nơi bồi
dưỡng lý luận dành riêng cho cán bộ các
đảng anh em. Cuối năm 1936, kết thúc
khóa học, Nguyễn Ái Quốc được chuyển
sang Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc
và thuộc địa và trở thành nghiên cứu sinh
khóa 1937 – 1938, theo báo cáo (ngày
17-11-1936) của V.Vaxilieva (tài liệu
mới sưu tầm ở Nga), viết: “Hiện tại đồng
chí Ái Quốc đang ở tại Matxcơva, học
trường thuộc Viện nghiên cứu các vấn đề
dân tộc và thuộc địa với tư cách nghiên
cứu sinh, là giáo viên của phòng Đông
Dương”(2)
.
Như vậy, suốt 4 năm Người liên
tục được cử “đi học” và “đi học”, như
J.Lacouture đã viết: “Đó là những năm
tháng thanh bình nhất của Nguyễn Ái
Quốc ở Liên Xô. Ông Nguyễn bình tâm
học hành, đứng ngoài những cuộc tranh
chấp, thanh trừng đang diễn ra gay gắt
trong Đảng Cộng sản Liên Xô và Quốc
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
69
tế Cộng sản”(3)
. Thực tế, như nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước nhận
định, thời kỳ 1934 – 1938 của Nguyễn
Ái Quốc là thời kỳ hoàn toàn không
“thoải mái và yên tĩnh” trong mối quan
hệ với QTCS và ĐCS Đông Dương. Như
trong cuốn Hồ Chí Minh, từ Đông
Dương đến Việt Nam, D.Hémery gọi
Nguyễn Ái Quốc là “nhà cách mạng bị
đặt vào thế việt vị”(4)
. Phân tích khoa học
các tài liệu mới sưu tầm có thể thấy
những năm 1934 – 1938, gần như
Nguyễn Ái Quốc bị tách rời khỏi tình
hình thế giới và trong nước. Nguyên do
là vì trong vấn đề dân tộc và giai cấp ở
các nước thuộc địa, quan điểm của
Nguyễn Ái Quốc trái với những nhận
định của các nhà lãnh đạo QTCS. Những
năm 20, 30 của thế kỷ XX, mọi hoạt
động của các đảng cộng sản đều có sự
hoạch định, chỉ đạo của QTCS. Nhưng
với một trí tuệ vượt trước thời đại, với sự
hiểu biết sâu sắc đặc điểm kinh tế - xã
hội và yêu cầu của đất nước Việt Nam,
Nguyễn Ái Quốc đã sáng tạo ra chiến
lược, phương pháp cách mạng của riêng
Việt Nam. Điều đó không phải là đi
ngược với QTCS, mà là sự lựa chọn
bước đi phù hợp điều kiện và hoàn cảnh
cụ thể của Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc
đã tự tin và kiên trì với sự lựa chọn, cách
làm của mình. Sau này lịch sử đã kiểm
chứng sự đúng đắn của chiến lược,
phương pháp cách mạng của Người.
Song vào thời điểm, do tả khuynh, máy
móc, dập khuôn, mà QTCS và một số
nhà lãnh đạo của ĐCS Đông Dương
không hiểu, đã gây nên những khó khăn
cho Người trong suốt thập niên 30 của
thế kỷ XX.
Nguyễn Ái Quốc là người Việt
Nam đầu tiên hiểu rõ những tư tưởng của
V.I.Lênin và đường lối của QTCS về
cách mạng dân tộc và thuộc địa. Trong lá
thư đầu tiên gửi QTCS ngày 5-2-1924,
Nguyễn Ái Quốc đã đề nghị được thảo
luận về chủ đề thuộc địa. Ngày 15-3-
1924, Người gửi tiếp một bức thư cho
đồng chí G.Zinoviev, lưu ý rằng lá thư
tháng 2 của mình đã không được phúc
đáp. Ngày 20-5-1924, Nguyễn Ái Quốc
gửi thư cho Bí thư Phân bộ Phương
Đông, Petrov, đề xuất việc thành lập
Liên đoàn cộng sản Phương Đông, vì
theo Người các chiến sĩ cách mạng châu
Á hiện đang ở trong tình trạng phân lập
và đó là điểm yếu… Ở thời điểm này,
Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định vai
trò quan trọng của cách mạng ở các nước
thuộc địa và cho rằng cách mạng thuộc
địa có thể nổ ra trước cách mạng chính
quốc, có thể giúp đỡ những người anh
em ở chính quốc trong sự nghiệp giải
phóng chung. Đồng thời, ngay từ những
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
70
năm 20, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức
rõ rằng cách mạng ở các nước thuộc địa
trước hết phải là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc. Vì thế, dù chấp nhận
quan điểm của QTCS và các đảng cộng
sản ở thời kỳ này về cuộc cách mạng dân
chủ tư sản kiểu mới, Nguyễn Ái Quốc
vẫn nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân
tộc của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn đầu. Ngay từ năm 1927, Người đã
nhắc đến cụm từ “dân tộc cách mệnh”
trong cuốn Đường Cách mệnh. Từ đặc
điểm của Việt Nam và cho rằng cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng,
Nguyễn Ái Quốc đã có quan điểm đúng
đắn và sáng tạo về lực lượng của cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như
cách thức tập hợp, đoàn kết lực lượng
toàn dân tộc vào một mặt trận thống nhất
để chống đế quốc. Những nhận định sáng
suốt này được Người chỉ rõ trong Đường
Cách mệnh: giai cấp công nhân và nông
dân là “gốc cách mệnh”. Ngoài ra, học
trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị
tư bản áp bức nên họ là “bầu bạn cách
mệnh của công nông”(5)
. Từ đó, Nguyễn
Ái Quốc xây dựng thành chủ trương,
đường lối của cách mạng Việt Nam trong
các văn kiện của Hội nghị hợp nhất năm
1930. Trong Sách lược vắn tắt năm
1930, Người còn chỉ ra việc tập hợp lực
lượng không chỉ ở trong nước mà “…
đồng thời Đảng liên kết với những dân
tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên
thế giới nhất là với quần chúng vô sản
Pháp”(6)
. Thực tế, nội dung của Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của
ĐCS Việt Nam năm 1930 cho thấy con
đường đi của Đảng ta có khác với con
đường đi của các đảng cộng sản ở châu
Âu, kể cả của Liên Xô khi đó. Sự khác
biệt ấy chính là những sáng tạo, những
đóng góp về lý luận của Nguyễn Ái
Quốc vào kho tàng lý luận Mác – Lênin.
Tuy nhiên, QTCS lại cho đó là biểu hiện
của sự xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin, là
đường lối cải lương không đúng đường
lối đấu tranh giai cấp của QTCS và chụp
cho Người cái mũ “dân tộc chủ nghĩa”.
Bởi, sau khi V.I.Lênin qua đời, phong
trào cộng sản quốc tế đã rơi vào tả
khuynh, biệt phái. Những quan điểm tả
khuynh về khả năng của cách mạng
thuộc địa, những nhận định không chính
xác về giai cấp tư sản dân tộc trở nên
phổ biến và thành quan điểm cơ bản của
QTCS tại Đại hội VI QTCS (1928).
Quan điểm tả khuynh, biệt phái đã chi
phối các đảng cộng sản và tác động
mạnh tới phong trào cách mạng ở nhiều
quốc gia, trong đó có Việt Nam. Vì vậy,
ngay sau Hội nghị hợp nhất ba tổ chức
đảng năm 1930, những quan điểm đúng
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
71
đắn, những sáng tạo hợp lý của Nguyễn
Ái Quốc đã không được ghi nhận, mà
ngược lại bị QTCS và những người cộng
sản Đông Dương, chịu ảnh hưởng đường
lối tả khuynh của Đại hội VI QTCS, phê
phán kịch liệt; cho rằng Nguyễn Ái Quốc
đi ngược với chủ trương của QTCS, cả
về việc triệu tập Hội nghị thành lập
Đảng, cũng như tên gọi của đảng và
những văn kiện mà Người khởi thảo
được Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng
thông qua. Năm 1934, khi Nguyễn Ái
Quốc trở lại Matxcơva, vẫn đang hiện
diện những phê phán gay gắt các văn
kiện trên. Những người lãnh đạo ĐCS
Đông Dương được đào tạo, học tập bài
bản tại QTCS vốn là những học trò của
Nguyễn Ái Quốc, nhưng do nhận thức
chưa tới và thiếu sự nhạy bén chính trị,
nên vẫn tiếp tục phê phán mạnh mẽ “chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi” của Nguyễn Ái
Quốc.
Không chỉ có vậy, Nguyễn Ái
Quốc còn sống trong bầu không khí nghi
ngờ ngay từ khi mới đặt chân lên
Matxcơva, do “người ta” không hiểu vì
sao Người đã thoát khỏi vụ án ở Hồng
Công để trở về. Mặc dù trong thời gian
Nguyễn Ái Quốc bị giam cầm ở Hồng
Công, theo báo cáo Tuyệt mật của
V.Vaxilieva, gửi Ban thư ký Ban Phương
Đông ngày 29-6-1935, thì QTCS cũng có
sự tác động giúp Người thoát khỏi nhà tù
của đế quốc Anh ở Hồng Công “Thời
gian này chúng tôi liên hệ với luật sư của
đồng chí thông qua tổ chức cứu trợ quốc
tế (MOPR) Pháp, gửi tiền cho đồng chí
để xử lý công việc của đồng chí để xử lý
công việc của đồng chí (thư của luật sư
được gửi kèm)…”(7)
. Thế nhưng sự thoát
hiểm tài tình của Nguyễn Ái Quốc lại
làm sâu thêm mối ngờ vực của các nhà
lãnh đạo QTCS đối với Người vì “bức
tranh giải thoát là không rõ ràng”. Cũng
trong báo cáo ngày 29-6-1935,
V.Vaxilieva viết “Tháng 7 nawm1934,
Ái Quốc đến Matxcơva. Từ câu chuyện
của đồng chí ấy thật khó xác định được
tại sao đồng chí ấy lại dễ dàng ra khỏi
nhà tù và thoát khỏi tay cảnh sát Pháp và
tóm lại tại sao đồng chí ấy lại nhận được
một bản án nhẹ nhàng như vậy. Tôi đã
nhiều lần yêu cầu đồng chí ấy viết một
bản tường trình về những sự việc liên
quan đến việc đồng chí bị bắt, bị ở tù,
được trả tự do và đến được đây với
chúng ta, nhưng đồng chí đã không thực
hiện. Đồng chí ấy nói rằng chuyến đi này
được tiến hành nhờ sự giúp đỡ của
Vaillant Couturier trong thời gian ở
Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng tất cả những
việc này cần phải được kiểm chứng một
cách cẩn trọng…”(8)
. Năm 1931 hàng
loạt các vụ bắt bớ những chiến sĩ cộng
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
72
sản đã diễn ra tại Hồng Công, Thượng
Hải. Cơ sở của QTCS tại Thượng Hải bị
vỡ. Nhiều nhà lãnh đạo của ĐCS Đông
Dương cũng bị bắt tại Việt Nam. Phân
bộ Viễn Đông và ĐCS Trung Quốc đã
chịu tổn thất nặng nề. Hiển nhiên trong
QTCS đang diễn ra việc điều tra xác
minh và Nguyễn Ái Quốc không thể
tránh khỏi những vất vả đó, khi mà
QTCS đang phải tự rà soát lại tất cả các
mối quan hệ, các cán bộ hoạt động bí
mật.
Hơn thế, vào thời điểm 1934 –
1938, mặc dù đã có nghị quyết Đại hội
VII năm 1935, nhưng ảnh hưởng của Đại
hội VI QTCS vẫn đang gây nên những
biến động trong phong trào cộng sản
quốc tế và tác động mạnh mẽ đến các
đảng cộng sản, trong đó có ĐCS Đông
Dương. Đặc biệt, nội bộ các đảng đã
diễn ra những cuộc đấu tranh gay gắt về
đường lối cách mạng. Trong ĐCS Liên
Xô có sự thanh trừng nội bộ hết sức căng
thẳng và thô bạo. Ngay trong tổ chức
QTCS cũng có sự thanh trừng, loại bỏ.
Trong hoàn cảnh lịch sử ấy cùng sự trái
ngược quan điểm về vấn đề dân tộc, vấn
đề giai cấp giữa Nguyễn Ái Quốc với
QTCS và nhiều lý do khác đã làm cho
Nguyễn Ái Quốc không được giao nhiệm
vụ gì quan trọng của quốc tế và của ĐCS
Đông Dương. Thậm chí có thời điểm,
Người ở vào hoàn cảnh bị tách rời khỏi
những hoạt động liên quan đến những
quyết định chính trị. Tuy nhiên, Nguyễn
Ái Quốc luôn tôn trọng và giữ vững
nguyên tắc tổ chức của Đảng, chỉ phản
ứng bằng biện pháp: luôn đề nghị được
giao công việc.
Những công trình nghiên cứu,
sách, báo của các nhà nghiên cứu trong
và ngoài nước đã từng đề cập đến giai
đoạn hoạt động này của Nguyễn Ái
Quốc, đều có nhận định khá thống nhất
rằng, đây là thời kỳ Hồ Chí Minh chịu
đựng và vượt nhiều khó khăn thử thách.
Bởi thời điểm đó như nữ Tiến sĩ Sử học
Mỹ Jo Sephine Stenon phát biểu trong lễ
kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch
Hồ Chí Minh tại Hà Nội: “Nguyễn Ái
Quốc đúng trong khi mọi người sai.
Nguyễn Ái Quốc thức trong khi mọi
người đang ngủ”(9)
. Nghiên cứu quá trình
hoạt động trong tình thế rất khó khăn của
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh từ 1934
– 1938, do ảnh hưởng tả khuynh của
QTCS và do sự giáo điều của một số
đồng chí lãnh đạo của ĐCS Đông Dương
khi đó, giúp chúng ta nhận thức sâu sắc
hơn những hy sinh lớn lao và cũng là
những đóng góp to lớn của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc cho lợi ích của dân tộc,
lợi ích của ĐCS Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
73
(1) Tài liệu Lưu trữ chính trị - xã hội Nga,
bản sao tiếng Nga, lưu Kho Tư liệu Bảo
tàng Hồ Chí Minh, ký hiệu
495.201.1.154-156.
(2) Tài liệu Lưu trữ chính trị - xã hội Nga,
bản sao tiếng Nga, lưu Kho Tư liệu Bảo
tàng Hồ Chí Minh, ký hiệu
495.201.1.141.
(3)Đỗ Quang Hưng: Thêm những hiểu
biết về Hồ Chí Minh, Nxb.Lao động,
H.1999, tr.23.
(4)Đỗ Quang Hưng: Hồ Chí Minh ở Liên
Xô 1934-1938: Mấy vấn đề lý luận và tổ
chức liên quan đến Đảng Cộng sản
Đông Dương, Báo cáo khoa học lưu Bảo
tàng Hồ Chí Minh.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị
Quốc gia, H.2002, t.2, tr.266.
(6)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị
Quốc gia, H.2002, t.3, tr.4.
(7),(8) Tài liệu Lưu trữ chính trị - xã hội
Nga, bản sao tiếng Nga, lưu Kho Tư liệu
Bảo tàng Hồ Chí Minh, ký hiệu
495.201.1.154-156.
(9)Nguyễn Văn Khoan (2010), Nhớ Bác
lòng ta trong sáng hơn, Nxb. Lao động,
tr.100.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
74
SỬ DỤNG EXCEL ĐỂ LÊN KẾ HOẠCH
PHÂN CÔNG CÁN BỘ COI THI VÀ THANH TOÁN TIỀN COI THI
TẠI TRƢỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT NGHỆ AN
CN. Nguyễn Thị Minh*
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Áp dụng công nghệ thông tin nói
chung và áp dụng tin học văn phòng nói
riêng là một nội dung quan trọng trong
các trường học nói chung và Trường Cao
đẳng Kinh tế - Kỹ thuật nói riêng. Tuy
nhiên, hiện nay mức độ áp dụng tin học
văn phòng của các phòng, ban của nhà
trường đang dừng lại ở mức độ nhất định
trong một số lĩnh vực cơ bản. Đối với
đội ngũ giảng viên sử dụng tin học văn
phòng trong việc soạn thảo các văn bản,
soạn giáo trình, thiết kế bài giảng, đề thi
và một số công việc khác... Đối với cán
bộ các phòng, ban của nhà trường bước
đầu đã sử dụng được tin học văn phòng
phục vụ cho một số lĩnh vực thuộc
chuyên môn mình quản lý, tuy nhiên
mức độ khai thác các tính năng của tin
học văn phòng giúp cho quá trình điều
hành và quản lý một cách hiệu quả cao
nhất là chưa thể thực hiện được.
Đối với Phòng Đào tạo Trường
Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Nghệ An,
trước đây việc lên kế hoạch phân bổ coi
thi, thanh toán tiền coi thi cho cán bộ
* Phòng Đào tạo
thực hiện theo hình thức thủ công, mất
nhiều thời gian, dễ nhầm lẫn và thiếu sự
chính xác... Từ đó ảnh hưởng rất lớn đến
quá trình thực hiện kế hoạch, điều hành
quản lý các hoạt động của nhà trường.
Qua quá trình làm việc tại Phòng
đào tạo Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ
thuật Nghệ An, chúng tôi nhận thấy để
phân công coi thi và thanh toán chế độ
coi thi trong nhà trường từ kỳ 1 năm học
2010-2011 một cách khoa hoc, nhanh
gọn, tránh được sự nhầm lẫn là hết sức
cần thiết và cấp bách, đòi hỏi phải có
một trình độ tin học nhất định để áp dụng
những tính năng ưu việt của hệ thống
phần mềm Excel.
Xuất phát từ thực tiễn thực hiện
nhiệm vụ được giao tôi đã rút ra được
sáng kiến kinh nghiệm: “Sử dụng Excel
để lên kế hoạch phân công cán bộ coi
thi và thanh toán tiền coi thi tại Trường
Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Nghệ An"
nhằm mục đích:
- Khai thác, áp dụng tính ưu việt
của tin học văn phòng để xây dựng kế
hoạch phân công coi thi và thanh toán
tiền coi thi cho cán bộ, giảng viên một
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
75
cách kịp thời, chính xác, tiết kiệm thời
gian.
- Nâng cao chất lượng chuyên
môn của người cán bộ Phòng đào tạo
trong giai đoạn hiện nay.
II. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
2.1. Địa điểm: Thực hiện tại Phòng đào
tạo Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật
Nghệ An .
2.2. Thời gian: Được áp dụng từ thi học
kỳ 1 năm học 2010-2011
2.3. Nội dung: Sử dụng Excel để lên kế
hoạch phân công cán bộ coi thi và thanh
toán tiền coi thi cho từng ca, buổi thi.
2.4 Phƣơng pháp tiến hành
- Sử dụng chương trình Excel để
lên kế hoạch phân bổ, lịch và thanh toán
tiền coi thi.
- Sử dụng mạng LAN lấy lịch
phân công coi thi từ các đơn vị.
III. KẾT QUẢ CỦA SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM
3.1. Sử dụng Excel lên kế hoạch phân
bổ coi thi
Căn cứ vào kế hoạch thi học kỳ
của các khóa ta có số lượng phòng thi
của các ca thi, buổi thi ở bảng 1 như
sau :
Ca 1 ngày 4/1/2011 là 28 phòng
thi ( C4 = 28). Tại ô C13 = C4 *2 = 56
cán bộ coi thi. Tương tự các ca khác
cũng vậy ca 2 (D4 = 33). Tại ô D13 =
D4*2= 66 cán bộ coi thi….. Căn cứ vào
số lượng cán bộ, giảng viên các khoa,
phòng, căn cứ Th«ng b¸o số 36 v/v
phân bổ coi thi coi thi cho các đơn vị ta
có tổng số suất coi thi cho toàn trường là
135 (E31=135). Công thức phân bổ coi
thi cho các khoa, phòng như sau :
Ví dụ : Bộ môn Lý luận chính trị, tại ô
C9 ta nhập công thức
= ROUND(C$13/$E$31*$E28,0)
cho kết quả coi thi của bộ môn Lý luận
chính trị là 6 suất, chỉ cần lập công thức
1 lần là ta sẽ tính ra được số suất coi thi
của cả toàn trường trong 1 kỳ thi mà
không tốn mất nhiều thời gian tính toán.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
76
Bảng 3.1. Bảng phân bổ kế hoạch coi thi học kỳ 1 của các đơn vị
Khi đã có kế hoạch phân bổ coi thi
chung, chúng ta dựa vào kế hoạch đó để
tạo ra lịch phân bổ coi thi cho riêng từng
đơn vị. Bằng sự kết nối giữa các Sheet,
các File lại với nhau và chuyển lịch coi
thi cho các đơn vị (qua mạng LAN), để
các đơn vị phân công cán bộ coi thi cho
từng ngày, từng ca thi.
Ví dụ: Ta có lịch phân công coi
thi của bộ môn Lý luận chính trị như sau:
A B C D E F G H I J K L M N
1 BẢNG 1. BẢNG PHÂN BỔ KẾ HOẠCH COI THI HỌC KỲ 1 NĂM 2010-2011
2 Ca thi 4/1/2011 thứ 3 5/1/2011 thứ 4 8/1/2011 thứ 7 cộng
3 1 2 3 4 1 2 3 4 1 2 3 4
4 Số ph. thi 28 33 24 22 28 33 24 22 28 33 24 17 316
5 Đơn vị
6 1 Khoa Kế toán - PT 8 9 7 6 8 9 7 6 8 9 7 5 89
7 2 Khoa Cơ sở - CB 17 20 14 13 17 20 14 13 17 20 14 10 187
8 3 Khoa Tài chính -QT 9 11 8 7 9 11 8 7 9 11 8 6 103
9 4 Bộ môn Lý luận c. trị 6 7 5 5 6 7 5 5 6 7 5 4 70
10 5 Khoa Nông Lâm ngư 8 9 7 6 8 9 7 6 8 9 7 5 89
11 6 Phòng ban 8 10 7 7 8 10 7 7 8 10 7 5 94
12 Cộng 56 66 48 44 56 66 48 44 56 66 48 35 632
13 56 66 48 44 56 66 48 44 56 66 48 34 632
.....
22 Quy định tỷ lệ coi thi các đơn vị (Theo TB số 36 của Hiệu trƣởng)
23 TT Khoa/ phòng SL Tỷ lệ coi Ghi chú
24
GV Gviên Cộng
25 1 Khoa Kế toán - PT 19 1.0 19
26 2 Khoa Cơ sở - CB 33 1.2 40
27 3 Khoa Tài chính -QT 22 1.0 22
28 4 Bộ môn Lý luận c. trị 15 1.0 15
29 5 Khoa Nông Lâm ngư 16 1.2 19.2
30 6 Phòng ban 20 1.0 20
31 Cộng 125 135
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
77
Bảng 3.2. Danh sách coi thi học kỳ 1 bộ môn Lý luận chính trị
A B C D E F G H I J K L M N
1 Lý luận Chính trị DANH SÁCH COI THI KỲ 1 NĂM 2010 - 2011
2 Thứ ngày 4/1/2011 thứ 3 5/1/2011 thứ 4 8/1/2011 thứ 7
3 ca thi 1 2 3 4 1 2 3 4 1 2 3 4
4 số phòng 28 33 24 22 28 33 24 22 28 33 24 17
5 S. lượng phân bổ 6 7 5 5 6 7 5 5 6 6 5 4
6 1 Nguyễn Thị Lan 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
7 2 Ng.T. Thuý Cường 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
8 3 Ng.Đình Thắng
9 4 Ng. Thị Mai Anh
10 5 Lê Văn Sỹ
11 6 Nguyễn Quốc Sơn
12 7 Nguyễn Thị Tùng
13 8 Ng.T.Khánh Ly
14 9 Trần Thị Bình
15 10 Hoàng Nam Hưng
16 11 Nguyễn Thị Lam
17 12 Nguyễn Thị Uyên
18 13 Hoàng T. Thu Hoài
19 14 Ng.T.Thanh Hoài
20 15 Ng. Mạnh Hưng
21
Y/C : Các khoa chuyển danh sách coi thi lên mạng LAN vào sáng thứ 4 (28/12/2010)
Qua ví dụ và theo bảng 2 ta có kết quả
phân công coi thi của bộ môn Lý luận
chính trị là:
Tại ô C5 ta nhập =[COI THI
DAO TAO.XLS] KH COI THI!C9
Ta chỉ cần đưa trỏ chuột vào ô C5
đánh dấu = sau đó cik chuột vào ô C9 tại
Sheet: KH COI THI trong File COI
THI DAO TAO, Enter cho kết quả
phân công coi thi của Tổ lý luận chính trị
là 6 suất, các khoa, tổ lấy kế hoạch phân
công coi thi của Phòng đào tạo qua mạng
LAN, sau đó khoa phân công trực tiếp
theo hướng dẫn ( lưu ý), khi phân công
đã xong khoa chỉ cần đẩy danh sách trở
lại qua mạng LAN cho Phòng đào tạo,
nên ta có bảng 3.3
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
78
Bảng 3.3 Danh sách cán bộ, giảng viên coi thi học kỳ 1 năm học 2010-2011
A B C D E F G H I J K L M N O P
3 4/1/2011 thứ 3 5/1/2011 thứ 4 8/1/2011 thứ 7 CONG
4 1 2 3 4 1 2 3 4 1 2 3 4
5 28 33 24 22 28 33 24 22 28 33 24 17 316
6 0
7 1 1 Dương Xuân Thao 0
8 2 2 Ng. Xuân Tạo 0
9 3 3 Hoàng Hoa Quế 0
10 4 1 Nguyễn Thị Lan 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 10
11 5 2 Ng.T. Th. Cường 1 1 1 0 1 0 1 1 1 1 1 1 10
12 6 3 Ng. Đình Thắng 0 0
13 7 4 Ng. Thị Mai Anh 0 0
14 8 5 Lê Văn Sỹ 0 0
15 9 6 Ng.Quốc Sơn 0 0
16 10 7 Nguyễn Thị Tùng 0 0
17 11 8 Ng.T.Khánh Ly 0 0
18 12 9 Trần Thị Bình 0 0
19 13 10 H. Nam Hưng 0 0
20 14 11 Nguyễn Thị Lam 0 0
21 15 12 Nguyễn Thị Uyên 0 0
22 16 13 Hoàng T.T. Hoài 0 0
23 17 14 Ng.T.Thanh Hoài 0 0
24 18 15 Ng. Mạnh Hưng 0 0
25 19 16 Ng. Thanh Nam 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 1 11
26 20 17 Nguyễn Thị Thuỷ 0 0
27 21 18 Võ Thị Nguyên 0 0
Qua ví dụ và theo bảng 3.3 ta có
kết quả phân công coi thi của Tổ lý luận
chính trị . Tại ô D10 ta nhập công thức
= VLOOKUP ($B10, [COI THI
CTRI.XLS] C.trị!$A$6:$N$21,3,0) cho
kết quả là cô Nguyễn Thị Lan, bộ môn
Lý luận chính trị coi thi ở ca 1 ngày 4
tháng 1 năm 2011, chỉ cần lập công thức
1 lần là ta sẽ cho kết quả số cán bộ, giảng
viên coi thi của cả khoa trong ca thi đó.
Thực tế danh sách coi thi này chỉ mới
được mã hóa bằng các ký hiệu 1 và 0;
Nếu ai được phân công coi thi sẽ xuất
hiện số 1, nếu ai không được phân công
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
79
coi thi sẽ xuất hiện số 0. Chính vì thế
chúng ta phải sử dụng hàm IF kết hợp
với hàm VLOOKUP để lên được danh
sách coi thi qua bảng 3.4 sau đây:
Bảng 3.4 Danh sách cán bộ, giảng viên coi thi học kỳ 1năm học 2010-2011
A B C D E F G H I J K L M
1
DANH SÁCH CÁN BỘ COI THI HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2010 - 2011 ( ĐỢT
TỪ NGÀY 04/1 ĐẾN 08/1/2011)
2
Ca 1 sáng : 7 giờ ; chiều : 13 giờ 15 phut . Ca 2 sáng 8 giờ 30 phút ,
chiều 15 gờ
3 4/1/2011 thứ 3 5/1/2011 thứ 4 8/1/2011 thứ 7
4 1 2 3 4 1 2 3 4 1 2 3 4
5 28 33 24 22 28 33 24 22 28 33 24 17
6 1 Ng Thị
Lan
Nguyễn Thị
Lan
Nguyễn
Thị Lan
Nguyễn Thị
Lan
Nguyễn
Thị Lan
Nguyễn
Thị Lan
Nguyễn
Thị Lan
Ng. Thị
Lan
Nguyễn
Thị Lan
Nguyễn Thị
Lan
7 2
Ng.T.
Th Cư-ờng
Ng.T.
T. Cư-ờng
Ng.T. T. Cường
Ng.T. T. Cường
Ng.T. Th Cường
N.T.
T. Cường
Ng.T.
Thuý C-ờng
Ng.T.
Thuý Cờng
Ng.T.
Thuý Cờng
Ng.T.
Thuý Cờng
8 3
...... ...
21 16
Ng.
Thanh
Nam
Ng.
Thanh
Nam
Ng.
Thanh
Nam
Ng.
Thanh
Nam
Ng.
Thanh
Nam
Ng.
Thanh
Nam
Ng.
Thanh
Nam
Nguyễn
Thanh
Nam
Nguyễn
Thanh
Nam
Nguyễn
Thanh
Nam
Nguyễn
Thanh
Nam
22 17
23 18
24 19
25 20
26 21
27 22
28 23
29 24
Cách làm như sau:
Tại ô B6 ta nhập công thức :
=IF(VLOOKUP(„DSCOI‟!$A6,CHON!
$B$10:$O$141,3,0)=1,CHON!$C10“ ”)
cho kết quả là danh sách cán bộ, giảng
viên coi thi chúng tôi đã áp dụng hàm
tìm kiếm VLOOKUP, dựa vào bảng 3.1
đã được lập, kết hợp với việc sử dụng
hàm IF để tìm ra được danh sách coi thi
thật chính xác và nhanh gọn tại bảng 3.4.
Khi đã có danh sách cán bộ, giảng
viên coi thi tại bảng 3.2, chúng ta thực
hiện thao tác dể dán danh sách coi thi,
việc này cũng được thực hiện trên bảng
tính Excel, cách làm như sau:
Bước 1: Tạo bảng
Bước 2 : Chọn vùng đặt lọc B6:B136
Bước 3:Vào Data /Filter /AutoFilter
xuất hiện hộp thoại vào mục
NoBLanKs
Bước 4: Copy và thực hiện thao tác
Paste tại (bảng 3.5) sau đây:
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
80
Bảng 3.5 Danh sách cán bộ, giảng viên coi thi học kỳ 1năm học 2010-2011
(chính thức)
3.2. Sử dụng Excel để thanh toán tiền
coi thi
Từ bảng 3.3 ta tổng hợp được số
buổi coi thi của cán bộ, giảng viên dựa
vào hàm SUM dùng để thanh toán.
Tại ô P10 ta nhập công thức =
SUM(D10: O10)
cho kết qua cô Nguyễn Thị Lan ở bộ
môn Lý luận chính trị có kết quả là 10 ca
coi thi .
Từ bảng 3.3 ta kết nối Sheet dưới
đây, có được kết quả thanh toán coi thi
tại bảng 4.
- Tại ô C4= CHON P7
Cho kết quả là thầy Dương Xuân
Thao không có ca coi thi nào, cô
Nguyễn Thị Lan có 10 ca coi thi và số
tiền coi thi là 500.000 đồng. Chỉ cần thao
tác ở người đầu của bảng thanh toán là
tính ra được kết quả của toàn Trường
một cách nhanh chóng và chính xác. Kết
quả được trình bày trên bảng 3.6.
A B C D E F G H I J K L M
1
DANH SÁCH CÁN BỘ COI THI HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2010 - 2011 ( ĐỢT TỪ NGÀY
04/1 ĐẾN 08/1/2011)
2 Ca 1 sáng : 7 giờ ; chiều : 13 giờ 15 phut . Ca 2 sáng 8 giờ 30 phút , chiều 15 gờ
3 4/1/2011 thứ 3 5/1/2011 thứ 4 8/1/2011 thứ 7
4 1 2 3 4 1 2 3 4 1 2 3 4
5 28 33 24 22 28 33 24 22 28 33 24 17
6 1 Ng Thị Lan
Nguyễn Thị
Lan
Nguyễn
Thị Lan
Nguyễn
Thị Lan
Nguyễn
Thị Lan
Nguyễn
Thị Lan
Nguyễn
Thị Lan
Ng. Thị
Lan
Nguyễn
Thị Lan
Nguyễn
Thị Lan
7 2 Ng.T. Th Cường
Ng.T. T. Cư-ờng
Ng.T. T. Cường
Ng.T. T. Cường
Ng.T. Th Cường
N.T. T. Cường
Ng.T.
Thuý C-ờng
Ng.T.
Thuý C-ờng
Ng.T.
Thuý Cờng
Ng.T.
Thuý Cờng
8 3 Ng. Thanh Nam
Ng. Thanh Nam
Ng.
Thanh Nam
Ng.
Thanh Nam
Ng.
Thanh Nam
Ng.
Thanh Nam
Ng.
Thanh Nam
Nguyễn
Thanh Nam
9 4 Nguyễn Thị Hiền
Nguyễn Thị Hiền
Nguyễn Thị Hiền
Nguyễn Thị Hiền
Nguyễn Thị Hiền
Nguyễn Thị Hiền
Nguyễn Thị Hiền
Nguyễn
Thị Hiền
Nguyễn Thị Hiền
10 5 Ngô Thanh Hoàn
Ngô Thanh Hoàn
Ngô
Thanh Hoàn
Ngô
Thanh Hoàn
Ngô
Thanh Hoàn
Ngô
Thanh Hoàn
Ngô
Thanh Hoàn
Ngô
Thanh Hoàn
Ngô
Thanh Hoàn
11 6
12 7
13 8
14 9
15 10
16 11
17 12
18 13
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
81
Bảng 3.6. Bảng thanh toán coi thi học kỳ 1năm học 2010-2011
(Từ ngày 4/1 đến 8/1/2011)
A B C D E F G
1 BẢNG THANH TOÁN TIỀN COI THI HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2010 -2011
2 ( TỪ NGÀY 04/1 ĐẾN 08/1/2011)
3 TT Họ và tên T.số ca thi S. tiền/ ca Thành tiền Ký nhận Ghi chú
4 1 Dương Xuân Thao 0 50.000 -
5 2 Nguyễn Xuân Tạo 0 50.000 -
6 3 Hoàng Hoa Quế 0 50.000 -
7 4 Nguyễn Thị Lan 10 50.000 500.000
8 5 Ng.T. Thuý Cường 10 50.000 500.000
9 6 Nguyễn Đình Thắng 0 50.000 -
10 7 Nguyễn Thị Mai Anh 0 50.000 -
11 8 Lê Văn Sỹ 0 50.000 -
12 9 Nguyễn Quốc Sơn 0 50.000 -
13 10 Nguyễn Thị Tùng 0 50.000 -
14 11 Ng.T.Khánh Ly 0 50.000 -
15 12 Trần Thị Bình 0 50.000 -
16 13 Hoàng Nam Hưng 0 50.000 -
17 14 Nguyễn Thị Lam 0 50.000 -
22 19 Nguyễn Thanh Nam 11 50.000 550.000
147 1550.000
Một triệu năm trăm năm mƣơi ngàn đồng chãn
Vinh, ngày 5 tháng 2 năm 2011
Thủ trƣởng duyệt T.P.Tài vụ T. P. Đ Tạo Ngƣời lập
Tăng Văn Tân Nguyễn Thị Minh
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Từ kết quả sáng kiến kinh nghiệm chúng
tôi rút ra được kết luận sau:
Việc Sử dụng Excel để vào việc lên kế
hoạch phân công cán bộ coi thi và thanh
toán tiền coi thi tại Trường Cao đẳng Kinh
tế – Kỹ thuật Nghệ An là hết sức cần thiết,
có hiệu quả hơn trước đây ta đã làm, cụ thể :
- Tiết kiệm được thời gian, nhanh chóng
kịp thời
- Độ chính xác cao.
- Thanh toán nhanh gọn.
3.2. Tồn tại
Việc kết nối mạng LAN của các
khoa với Phòng đào tạo chưa được thông
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
82
suốt nên nhiều lúc lấy lịch ở các khoa của
Phòng đào tạo còn gặp nhiều khó khăn
3.3. Đề nghị
- Để tạo điều kiện cho Phòng đào
tạo xâu nối lịch một cách kịp thời, chính xác
yêu cầu các Khoa phải thường xuyên cập
nhật thông tin qua website, hệ thống mạng
LAN;
- Cán bộ làm công tác hành chính
nên thường xuyên nghiên cứu tài liệu, học
hỏi qua bạn bè đồng nghiệp nhằm áp dụng
tin học văn phòng vào công việc chuyên
môn giảm thiểu thời gian.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Ngọc Bích , Phạm Phú Tứ,
Giáo trình tin học văn phòng (1998)
2. PGS-TS: Bùi Thế Tâm, (2003)
WINDOWSXP, WORD, EXCEL Lý
thuyết, bài tập, lời giải.
3. Quy chế chi tiêu nội bộ (2010),
Trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Nghệ
An.
4. Thông báo số 36/TB - HT của
BGH trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật
Nghệ An “V/v phân công coi thi”
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
83
TÌNH HÌNH NHIỄM LEPTOSPIRA TRÊN
ĐÀN LỢN THUỘC TỈNH NGHỆ AN VÀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ
Th.S Hoàng Hữu Chất *
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh do Leptospira
(Leptospirosis) là một bệnh khá phổ biến
ở động vật máu nóng (lợn, trâu, bò, dê,
chó v.v..), đây là một bệnh truyền nhiễm
chung cho cả người và động vật mà nhân
tố truyền lây chính là chuột đồng, chuột
nhà. Bệnh đã được phát hiện và nghiên
cứu từ năm 1886 ở nhiều nơi trên thế
giới, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một
nước nào trên thế giới thanh toán triệt để
được căn bệnh.
Ở Việt Nam, đã có nhiều tác giả
nghiên cứu về bệnh, như Đào Trọng Đạt
(1966), Lê Đại (1972), Phạm Quân
(1976), Vũ Đình Hưng (1979), Nguyễn
Thị Nhân (1999), và gần đây là có Vũ
Đạt, Lê Huỳnh Thanh Phương (2001).
Các tác giả đã tập trung nghiên cứu tình
hình nhiễm Leptospira ở một số loài gia
súc, trong đó có bệnh xảy ra ở lợn.
Ở Nghệ An, bệnh đã xuất hiện từ
lâu và xảy ra ở hầu hết khắp 19 huyện,
thị và thành phố trong tỉnh. Một số vụ
dịch có quy mô một huyện hoặc nhiều
huyện. Tuy nhiên việc tiêm phòng
vacxin chưa được các cấp có thẩm quyền
* TK Nông - Lâm - Ngư
quan tâm triệt để, mặt khác ý thức chấp
hành việc tiêm vacxin phòng bệnh cho
đàn lợn của người chăn nuôi còn kém,
dẫn đến hiệu quả phòng bệnh chưa cao.
Đây là một điều kiện thuận lợi để bệnh
lưu hành rộng rãi và thường xuyên trên
đàn lợn.
Xuất phát từ tình hình đó, chúng
tôi lựa chọn nghiên cứu: “Tình hình
nhiễm bệnh Leptospira trên đàn lợn
thuộc tỉnh Nghệ An và biện pháp phòng
trừ” nhằm xác định được tỷ lệ nhiễm
Leptopirosis trên đàn lợn ở tỉnh Nghệ
An.
II. NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng và phạm vi
nghiên cứu: Lợn ở các lứa tuổi thuộc 4
vùng sinh thái khác nhau của tỉnh Nghệ
An.
2.2.Phạm vi nghiên cứu: Gồm 8
huyện đại diện cho 4 vùng sinh thái khác
nhau của tỉnh Nghệ An, đó là các huyện:
Quế Phòng, Kỳ Sơn (vùng núi cao),
Nghĩa Đàn, Thanh Chương( Vùng bán
sơn địa), Đô Lương, Hưng Nguyên
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
84
(Đồng bằng), Diễn Châu, Thị xã Cửa Lò
(Đồng bằng ven biển).
2.3. Nội dung nghiên cứu:
Một số đặc điểm dịch tễ của bệnh
do Leptospira trên đàn lợn thuộc tỉnh
Nghệ An theo các độ tuổi khác nhau của
lợn, theo tính biệt, theo vùng sinh thái.
2.4. Nguyên vật liệu nghiên cứu:
- Huyết thanh của lợn tại
vùng nghiên cứu
- Bệnh phẩm là nước tiểu
của lợn nghi mắc bệnh.
Các hóa chất, dụng cụ thí nghiệm
cần thiết dùng cho chẩn đoán xét nghiệm
và kháng nguyên chẩn đoán (gồm 12
Serovar Leptospira) và các môi trường
nuôi cấy vi khuẩn (Môi trường Terkish).
Các loại kháng sinh như: Peniciline (Pe),
Steptomycin (Step), Gentamycin (Gen),
các thuốc hỗ trợ điều trị: urotropin (Uro),
Vitamin (VTM), Adrenalin,...
2.5. Xử lý số liệu: số liệu được xử
lý theo phương pháp thống kê sinh vật
trên máy tính.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Tình hình nhiễm Leptospira trên
đàn lợn tại vùng nghiên cứu.
Tiến hành lấy 405 mẫu huyết thanh
lợn ở 8 huyện đại diện cho các vùng sinh
thái khác nhau của tỉnh Nghệ An để xác
định tỷ lệ nhiễm bệnh. Kết quả nghiên cứu
được trình bày ở bảng 3.1.
Bảng 3.1. Tỷ lệ nhiễm Leptospira trên đàn lợn tại các vùng sinh thái khác nhau
Vùng sinh thái Số con xét
nghiệm
Số con
dƣơng tính
Tỷ lệ nhiễm
(%)
Miền núi cao 96 23 23,95
Trung du 102 27 26,47
Đồng bằng 99 31 31,31
Đồng bằng ven biển 108 22 19,45
Tổng 405 102 25,18
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tỷ
lệ nhiễm Leptospira trên đàn lợn tại các
vùng nghiên cứu của tỉnh Nghệ An là
25,18%. Đây là một tỷ lệ nhiễm khá thấp
so với những nghiên cứu trước đây của
Trịnh Thị Quý Hằng (50%) trên đàn lợn
ở tỉnh Thanh Hóa, điều này phản ánh
tình hình chăn nuôi hiện nay đã có nhiều
tiến bộ, người chăn nuôi đã có những
hiểu biết nhất định về căn bệnh cũng như
các yếu tố truyền lây, vì vậy đã có các
biện pháp tích cực, chủ động trong việc
phòng bệnh cho động vật. Tuy nhiên
dịch bệnh vẫn còn xảy ra cho gia súc,
đặc biệt là đối với lợn, vì đây là động vật
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
85
được người chăn nuôi chú trọng và nuôi
phổ biến.
Ở vùng núi cao tỉnh Nghệ An,
chúng tôi xét nghiệm 96 mẫu huyết
thanh của lợn ở các lứa tuổi khác nhau có
tỷ lệ nhiễm 23,95%. Thấp hơn so với kết
luận của Đào Trọng Đạt (1966). Lợn
miền núi có tỷ lệ nhiễm Leptospira
25,4%, cao hơn so với nhiên cứu của Vũ
Đình Hưng (1994). Tỷ lệ nhiễm
Leptospira của lợn ở miền núi 22,94%.
Sự chênh lệch này không lớn và theo
chúng miền núi Nghệ An có đặc thù
riêng so với nhiều tỉnh khác.
Trong 102 mẫu huyết thanh của
lợn thuộc vùng trung du được kiểm tra,
có 27 con dương tính, chiếm tỷ lệ nhiễm
26,47%. Đào Trọng Đạt và cs (1996) có
nhận xét, lợn vùng Trung du có tỷ lệ
nhiễm Leptospira 30,3%. Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi thấp hơn, sở dĩ có kết
quả trên là do trình độ dân trí ngày càng
được nâng cao, điều kiện chăn nuôi cũng
được cải thiện rõ rệt, nên tỷ lệ nhiễm
bệnh thấp hơn. Để minh họa rõ hơn tình
hình nhiễm Leptospira theo các vùng
sinh thái khác nhau, chúng tôi biểu diễn
trên đồ thị sau:
23.95 26.4731.31
19.45
0
20
40
Tỷ lệ nhiễm Leptospira ở lợn theo các vùng sinh thái
khác nhau
Miền núi Trung du Đồng bằng chiêm trũng Đồng bằng ven biển
Để kiểm tra cường độ nhiễm
Leptospira trên đàn lợn thuộc tỉnh Nghệ
An, chúng tôi đã sử dụng kháng thể với
hiệu giá pha loãng khác nhau, kết quả
được trình bày trên bảng sau:
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
86
Bảng 3.2 Cường độ nhiễm Leptospira trên lợn với các hiệu giá kháng thể khác
nhau
Vùng sinh thái Số mẫu
(+)
Hiệu giá kháng thể
1/400 1/800 1/1600
Số
(+)
Tỷ lệ
(%)
Số
(+)
Tỷ lệ
(%)
Số
(+)
Tỷ lệ
(%)
Miền núi 23 4 17.39 9 39,14 10 43,48
Trung du 27 9 33,33 11 40,74 7 25,93
ĐB chiêm trũng 31 7 22,58 13 41,94 11 35,48
ĐB ven biển 21 4 19,05 7 33,33 10 47,62
Tổng 102 24 23,53 43 42,16 35 37,25
Kết quả nghiên cứu cho thấy: hiệu
giá kháng thể cao nhất ở mức 1/00 với tỷ
lệ 42,16% và thấp nhất ở mức hiệu giá
1/400. Kết quả này hoàn toàn phù hợp
với tỷ lệ nhiễm Leptospira mà chúng tôi
đã trình bày ở bảng 3.1.
Xét nghiệm các mẫu huyết thanh
của lợn ở các lứa tuổi: 2 – 5 tháng, 6 – 12
tháng và > 1 năm tuổi. kết quả được trình
bày ở bảng sau:
Bảng 3.3. Tỷ lệ nhiễm Leptospira theo các lứa tuổi khác nhau của lợn
Tuổi gia súc
(tháng) Số con kiểm tra Số con dƣơng tính Tỷ lệ nhiễm (%)
2 – 5 124 17 13,71
6 – 12 189 61 32,28
> 12 92 24 26,09
Cộng 405 102 24,03
Nghiên cứu cho thấy: Lợn con từ
2 – 5 tháng tuổi có tỷ lệ nhiễm
Leptospira thấp nhất 13,71% và tỷ lệ
nhiễm Leptospira cao nhất là ở lợn từ 6-
12 tháng tuổi. Nghiên cứu của chúng tôi
là tương đối phù hợp với kết quả của
Đào Trọng Đạt, khi tác giả cho biết lợn
con có tỷ lệ nhiễm Leptospira 10,63%,
lợn bột có tỷ lệ nhiễm 17,78%. Tuy
nhiên trong nghiên cứu của chúng,
những lợn trên 12 tháng tuổi chủ yếu là
lợn đực giống và lợn nái sinh sản được
nuôi ở các trung tâm giống nên việc chăn
nuôi tuân theo quy trình phòng bệnh chặt
chẽ nên tỷ lệ nhiễm bệnh thấp hơn so với
nghiên cứu của tác giả trên.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
87
Để xác định xem tính biệt có ảnh
hưởng đến tỷ lệ nhiễm Leptospira hay
không? Chúng tôi kiểm tra trên 2 đối
tượng là lợn đực giống và lợn nái sinh
sản, do 2 đối tượng này có điều kiện
chăn nuôi khác hơn so với lợn nuôi
thương phẩm. Kết quả nghiên cứu được
trình bày ở bảng sau:
Bảng 3.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leptospira theo tính biệt của lợn thuộc vùng nghiên
cứu
Tính
biệt
Số con
kiểm tra
Số con
nhiễm
Tỷ lệ
(%)
Hiệu giá kháng thể Leptospira
1/400 1/800 1/1600 1/1800
Lợn đực 53 10 18,87 3 4 3 0
Lợn nái 39 14 35,90 4 5 5 0
Cộng 92 24 26,09 7 9 8 0
Nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ
ra rằng: mặc dù lợn đực giống và lợn nái
sinh sản đều > 1 năm tuổi nhưng do
phương thức chăn nuôi và tính năng sản
xuất khác nhau nên có tỷ lệ nhiễm
Leptospira khác nhau, lợn đực giống có
tỷ lệ nhiễm là 18,87%, lợn nái sinh sản:
35,9%. Theo hiểu biết của chúng tôi thì
do lợn nái với chức năng sinh sản nên dễ
bị viêm nhiễm cơ quan sinh dục khi lợn
sinh đẻ hoặc khi phối tinh nhân tạo hoặc
phối tinh trực tiếp. Do đó tỷ lệ nhiễm
Leptospira ở lợn nái sinh sản cao hơn lợn
đực giống.
3.2. Kết quả điều trị bệnh do
Leptospira ở lợn
Sử dụng các loại kháng sinh,
kháng huyết thanh đặc hiệu theo phác đồ
điều trị khác nhau, kết hợp với thuốc
chữa triệu chứng và trợ sức, trợ lực. Kết
quả được trình bày ở bảng sau:
Bảng 3.5 Kết quả điều trị bệnh Leptospirosis trên lợn tại vùng nghiên cứu
Phác đồ điều trị Số con
điều trị
T/Gian điều trị
đến khi khỏi
bệnh (ngày)
Số con
khỏi bệnh
Tỷ lệ khỏi
bệnh (%)
Pe, Strep, Uro 5%, VTM B1, C (I) 16 5,3 14 87,5
Gen, Uro 5%, VTM B1, C (II) 15 6,3 12 86,67
BaytrilR, Uro5%, VTM B1, C (III) 13 4,8 12 92,31
KHT đặc hiệu, Gen , Uro 5%,
VTM B1, C, Adrenalin (IV) 17 3,8 16 94,12
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
88
Kết quả điều trị cho thấy: tỷ lệ khỏi bệnh
khá cao khi dùng các loại kháng sinh
thông thường, tỷ lệ khỏi bệnh dao động
từ 86,67 % đến 92, 31% và cao nhất khi
dùng kháng huyết thanh đặc hiệu (KHT)
kết hợp với các loại thuốc bổ trợ, đồng
thời thời gian điều trị cũng ngắn hơn (4
ngày). Tỷ lệ khỏi bệnh là khá cao, tuy
nhiên có sự khác nhau về thời gian điều
trị, điều này được giải thích là do sự
quen thuốc của vi khuẩn đối với
peniciline, streptomycin, là các loại
kháng sinh đã được sử dụng thường xuyên
trong hầu hết các bệnh truyền nhiễm của
lợn, trong khi đó loại thuốc BaytrilR 2,5%
mới được sử dụng, nên sự kháng với kháng
sinh ít hơn, hiệu quả điều trị cũng cao hơn.
Đặc biệt khi dùng kháng huyết thanh thì
hiệu quả điều trị cao hơn, thời gian khỏi
bệnh cũng nhanh hơn.
Như vậy, qua nghiên cứu chúng tôi
nhận thấy nếu sử dụng Phác đồ III điều trị
cho lợn mắc bệnh do vi khuẩn Leptospira
thì cho kết quả tốt nhất. Trong thực tế kháng
huyết thanh chi được dùng cho gia súc quý
hiếm, gia súc giống nên ít được người chăn
nuôi áp dụng.
III. KẾT LUẬN
Qua điều tra một số đặc điểm về
dịch tễ học của bệnh do Leptospira trên
đàn lợn thuộc tỉnh Nghệ An, chúng tôi
rút ra một số két luận như sau:
+ Các vùng sinh thái khác nhau có
tỷ lệ nhiễm Leptospira khác nhau và dao
động từ 19,45% đến 31,31%.
+ Cường độ nhiễm Leptospira dao
động từ 23,53% đến 42,16% ở các hiệu
giá kháng thể khác nhau.
+ Tỷ lệ nhiễm Leptospira khác
nhau ở các lứa tuổi khác của lợn, thay
đổi từ 13,71% đến 32,28%, thấp nhất r
lợn 2 – 5 tháng tuổi: 13,71%, cao nhất ở
lợn 6 – 12 tháng tuổi: 32,28%.
+ Lợn đực giống có tỷ lệ nhiễm:
18,87%, thấp hơn so với lợn nái sinh sản:
35,9%.
+ Sử dụng BaytrilR 2,5%, Uro5%,
VTM B1, C trong điều trị bệnh cho kết
quả tốt nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Trọng Đạt và cs (1996), “Về ổ
dịch Leptospirosis ở trại lợn Kim Ngọc,
Hà Tây”, Tạp chí KHKTNN số 5, 148 –
150.
2. Đào Trọng Đạt và cs (1996), “Báo
cáo kết quả nghiên cứu bệnh
Leptospirosis của gia súc ở một số địa
phương”, Tạp chí KHKTNN
3. Lê Độ và cs (1985), “Nghiên cứu
đặc điểm một số chủng Leptospira phân
lập đực ở Việt nam và kết quả phòng trị”,
Tạp chí KHKTNN
4. Vũ Đình Hưng (1972), “Bệnh
Leptospirosis ở lợn”, Tạp chí KHKTNN
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
89
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG RƠM TƢƠI SAU KHI XỬ LÝ
TRONG CHĂN NUÔI TRÂU, BÕ
Th.S Nguyễn Thị Hoa *
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước ta là một nước nông nghiệp,
dân số chủ yếu sống ở nông thôn. Nguồn
thu nhập chính của nông dân đó là sản
phẩm của các ngành chăn nuôi và trồng
trọt. Trong đó chăn nuôi trâu bò chiếm
một vị trí quan trọng. Trước đây chăn
nuôi trâu bò chủ yếu là cung cấp sức kéo
và phân bón phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp. Ngày nay, cơ khí hoá trong sản xuất
nông nghiệp đang được áp dụng rộng rãi
nhưng ngành chăn nuôi trâu bò vẫn giữ một
vị trí rất quan trọng. Bởi vì, ngoài cung cấp
sức kéo và phân bón thì chăn nuôi trâu bò
còn cung cấp các thực phẩm quý cho xã hội
đó là thịt và sữa.
Tuy nhiên, song song với việc phát
triển đàn bò thì vấn đề đáp ứng đầy đủ
lượng thức ăn thô xanh quanh năm và cân
bằng dinh dưỡng là hết sức quan trọng.
Nguồn thức ăn thô xanh chính cung cấp cho
đàn bò nước ta chủ yếu là dựa vào đồng cỏ
tự nhiên và cỏ trồng, trong khi nhu cầu sản
xuất lương thực cùng với tốc độ đô thị hoá
ngày càng cao làm cho diện tích đồng cỏ tự
nhiên, đất đai trồng cỏ và chăn thả trâu bò
ngày càng hạn chế. Do đó việc sử dụng phụ
phẩm nông nghiệp ngày càng quan trọng
* Trưởng BM Chăn nuôi – Thú y
trong mùa vụ mà cỏ tự nhiên kém phát triển,
không đáp ứng đủ số lượng cũng như chất
lượng cho đàn gia súc.
Chính vì vậy để đảm bảo nguồn thức
ăn thô xanh quanh năm cho trâu bò thì ủ
rơm là một biện pháp rất cần thiết. Trên cơ
sở những nhận thức trên, để nâng cao hiệu
quả sử dụng của gia súc nhai lại với nguồn
thức ăn này chúng tôi tiến hành nghiên cứu
chuyên đề: “Hiệu quả sử dụng rơm tươi
sau khi xử lý trong chăn nuôi trâu bò”.
2. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
Hiệu quả chăn nuôi bò bằng rơm ủ urê
2.2. Chỉ tiêu nghiên cứu
- Xác định khả năng thu nhận (kg)
rơm được xử lý urê của bò.
- Tăng trọng (gam) của bò sinh
trưởng khi sử dụng thức ăn qua xử lý so
với khi sử dụng không xử lý.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Xác định lượng thu nhận rơm
- Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành trên 6
con bò có khối lượng trung bình 131,2 ±
2,5kg được chia thành 2 lô, mỗi lô 3 con và
được cho ăn theo 2 khẩu phần là rơm khô
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
90
(đối chứng) và rơm đã xử lý 1,5% urê (thí
nghiệm).
- Tiến hành
Cho bò ăn tự do để xác định lượng
thu nhận riêng của từng con, theo từng ngày
cho ăn. Ngày hôm sau cho bò ăn khối lượng
thức ăn cao hơn lượng thu nhận ngày hôm
trước là 15%. Lượng thức ăn ăn vào và thức
ăn thừa của bò được tính theo khối lượng
VCK.
2.3.2. Thí nghiệm nuôi bê sinh trưởng
Thí nghiệm nuôi bò sinh trưởng
được tiến hành trên khẩu phần cơ sở là rơm
được bố trí trên tổng số 12 con bò đực
LaiSind ở độ tuổi 12-15 tháng với khối
lượng trung bình 131 ± 2,5 kg được phân
đều thành 2 nhóm nuôi nhốt trong chuồng
theo sơ đồ bố trí thí nghiệm như trong bảng
1.
Bảng 1. Bố trí thí nghiệm nuôi bò sinh trưởng
Chỉ tiêu Lô 1 (lô ĐC)
Lô 2 (lô TN)
Gia súc 6 6
Tuổi 12 - 15 12 - 15
Khối lượng (kg/con) 132,2 ± 2,5 131,2 ± 2,4
Khẩu phần
- Rơm không xử lý Tự do 0
- Rơm tươi ủ 1,5% urê* 0 Tự do
- Cỏ tươi (kg/con/ngày) 5 5
- Tinh hỗn hợp (kg/con/ngày 0,5 0,5
- Nước uống Tự do Tự do
- Vận động (giờ/ngày 2 2
- Thời gian chuẩn bị (ngày 15 15
- Thời gian thí nghiệm(ngày) 75 75 Ghi chú: Tỷ lệ urê ủ đối với rơm khô và rơm tươi là tương đương theoVCK (4%)
Bò được tẩy giun và cho ăn làm
quen với khẩu phần thí nghiệm trong 2 tuần
trước khi theo dõi. Thí nghiệm thực hiện
trong thời gian 75 ngày. Rơm được cho ăn
tự do tại chuồng do yêu cầu của bò. Cỏ xanh
và thức ăn tinh cũng được cung cấp cho
từng con, bò được uống nước sạch tự do.
Mỗi bò được cân khối lượng vào đầu và khi
kết thúc thí nghiệm, mỗi lần trong 2 ngày
liên tiếp vào 7 giờ sáng.
2.4. Địa điểm
Thí nghiệm nuôi dưỡng bò thực
hiện tại các hộ chăn nuôi Xã Công
Thành, Yên Thành, Nghệ An.
2.5. Thời gian
Bắt đầu 20/ 4 2011, kết thúc
ngày 30/7/2011.
2.6. Phƣơng pháp xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý bằng phần
mềm MINITAB, ảnh hưởng của rơm xử lý
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
91
đến khả năng thu nhận của bò thí nghiệm
được đánh giá thông qua phân tích phương
sai GLM (General Lineer Model).
3. KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT
QUẢ
3.1. Lƣợng thu nhận rơm tự do
Tỷ lệ tiêu hoá tăng làm giảm thời
gian thức ăn được giữ lại trong đường
tiêu hoá đã kích thích gia súc ăn nhiều
hơn. Tăng khả năng thu nhận chất khô là
hệ quả của việc tăng tỷ lệ tiêu hoá. Xử lý
rơm bằng urê làm cho rơm mềm hơn,
mùi amoniac làm kích thích bò ăn ngon
miệng hơn, thích ăn hơn và tăng lượng
thu nhận thức ăn trong ngày. Để đánh
giá khả năng thu nhận của bò đối với
rơm lúa tươi sau khi xử lý urê, chúng
tôi tiến hành thí nghiệm trực tiếp trên
bò với 2 khẩu phần ăn khác nhau.
Khẩu phần đối chứng chỉ cho bò ăn
rơm đã được phơi khô và chất thành
đống như ở các nông hộ. Khẩu phần
thí nghiệm sử dụng thức ăn là rơm lúa
tươi được xử lý urê.
Lượng chất khô trong khẩu phần
ăn vào tính trên 100kg khối lượng sống.
Kết quả thí nghiệm được chúng tôi trình
bày ở bảng 2.
Bảng 2. Khả năng thu nhận thức ăn của bò qua các ngày thí nghiệm (kgVCK/100kgW)
Ngày Lô 1
(rơm phơi khô)
Lô 2
(rơm xử lý 1,5% urê)
1 1,15 1,33
2 1,16 1,41
3 1,28 1,51
4 1,47 1,72
5 1,51 1,93
6 1,54 2,08
7 1,69 2,30
8 1,85 2,35
9 1,86 2,37
XSE 1,50
a 1,89
b
Ghi chú: KgVCK/100kgW: Kg vật chất khô /100kg khối lượng cơ thể bò, các chữ số khác nhau
trong cùng một hàng chỉ sự sai khácgiữa 2 lô thí nghiệm, sự sai khác có ý nghĩa thống kê.
Kết quả thí nghiệm chúng tôi
nhận thấy khả năng thu nhận rơm khô và
rơm lúa tươi được xử lý urê của các bò
có sự thay đổi theo thời gian trong quá
trình thí nghiệm. Khả năng thu nhận có
xu hướng tăng lên theo ngày và dao động
trong khoảng từ 1,15 - 1,86% đối với
rơm khô và 1,33 - 2,37% khẩu phần là
rơm lúa tươi sau khi xử lý. Điều này
được giải thích là do trong những ngày
trước thí nghiệm, bò đang ăn quen với
khẩu phần giàu thức ăn xanh và thức ăn
tinh, khi đưa vào thí nghiệm chỉ sử dụng
một loại thức ăn là rơm nên hệ vi sinh
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
92
vật (VSV) dạ cỏ chưa thích ứng kịp làm
cho quá trình phân giải rơm ở dạ cỏ kém
( ăn vào khó tiêu) do đó những ngày đầu
bò chỉ ăn với một lượng rất thấp. Dần
dần bò ăn quen với khẩu phần mới, nên
hệ VSV dạ cỏ thích ứng dần, hoạt lực
phân giải rơm ở dạ cỏ tăng lượng thức
ăn thu nhận tăng theo và đạt tới giá trị ổn
định trong những ngày cuối thí nghiệm.
Kết quả cho thấy khả năng tiêu
hoá rơm dần được tăng cao dẫn tới lượng
thu nhận cũng tăng lên, sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê (P< 0,05). Qua đó
chúng tôi thấy rằng sự thu nhận của bò đối
với hai loại thức ăn trên có sự sai khác lớn
nhưng những ngày đầu thí nghiệm sự sai
khác không nhiều. So sánh giữa 2 lô thí
nghiệm cho thấy sau 4 ngày thí nghiệm.
Lượng chất khô ăn vào ở khẩu phần rơm
lúa tươi sau khi xử lý urê cao hơn so với lô
cho ăn rơm khô. Việc xử lý rơm bằng urê
đã làm tăng tốc độ và quy mô phân giải,
không những chất khô do urê tác động vào
tế bào thực vật của rơm làm cho các liên
kết hoá học trong cấu trúc xơ của rơm lỏng
lẻo giúp cho VSV dạ cỏ dễ dàng tấn công,
cắt nhỏ và tiêu hoá rơm nhanh hơn.
0
5
10
15
20
25
30
35
Tû lÖ tiª
u h
o
Tr í c
xö lý
§ èi
chøng
1%
urª
1.5%
urª
2%
urªMøc bæ sung urª
Møc bæ sung urª
Biểu đồ 1. Khả năng thu nhận thức ăn của bò qua các ngày thí nghiệm
Nồng độ NH3 trong dạ cỏ gia súc
ăn khẩu phần cơ sở là rơm khô thường
rất thấp do hàm lượng protêin trong rơm
thấp, khó phân giải nên hệ VSV dạ cỏ
tăng sinh khối chậm và hoạt động kém
hiệu quả. Khi bổ sung nitơ phi protein
liên tục sẽ cung cấp hơn về nhu cầu N
cho VSV dạ cỏ. Như vậy, nhờ tác dụng
kiềm hóa mà rơm trở nên dễ lên men hơn
và do có nguồn NPN bổ sung nên VSV
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
93
dạ cỏ tăng sinh và hoạt động tốt hơn. Kết
quả là rơm tươi được ủ urê có tỷ lệ tiêu hoá
cao hơn và cũng vì thế lượng nhu nhận cao
hơn so với rơm phơi khô.
3.2. Tăng trọng của bò thí nghiệm
Việc xử lý rơm và các phế phụ
phẩm nông nghiệp bằng kiềm hoá, ủ
chua đều đem lại kết quả là làm cho rơm
mềm hơn, tăng tính thèm ăn, tăng được
lượng thu nhận, tăng được tỷ lệ tiêu hoá
các chất dinh dưỡng trong thức ăn xử lý
đồng thời góp phần cải thiện được hệ
VSV trong dạ cỏ, từ đó ảnh hưởng tốt tới
khả năng tăng trọng của gia súc.
Theo (Lê Viết Ly và Bùi Văn Chính,
1996)[2].cho thấy khi rơm được chế biến
với công thức 2,5% urê + 0,5% vôi làm
nguồn thức ăn chính cho bê thì tốc độ tăng
trọng là 449g, ở bê ăn rơm không xử lý là
363g
Như vậy việc dùng urê, vôi để xử
lý thức ăn thô nghèo dinh dưỡng (rơm
lúa) đã ảnh hưởng rõ rệt làm tăng giá trị
dinh dưỡng, nâng cao được tỷ lệ tiêu
hoá, tăng được lượng thu nhận, đồng thời
cũng ảnh hưởng tốt đến sức sản xuất của
đàn gia súc.
Kết quả thí nghiệm nuôi bò
tăng trưởng bằng rơm như trình bày ở
bảng 3 cho thấy những bò ở lô được ăn
rơm kiềm hoá bằng urê cho tăng trọng
cao hơn những bê ăn rơm khô không xử
lý ( P<0,01).
Bảng 3: Tác dụng của việc xử lý rơm đến tăng trọng của bò
Lô 1
(Rơm khô)
Lô 2
(Rơm tươi ủ urê)
Số gia súc ( con) 6 6
Khối lượng đầu kỳ ( Kg / con) 132,2 131,2
Khối lượng cuối kỳ ( Kg / con) 144,8a 153,7
b
Khối lượng tăng ( Kg / con) 12,6a 22,5
b
Tăng trọng lượng bình quân (g/con/ngày) 168,0a 300,0
b
Ghi chú: Những giá trị trung bình trong cùng một hàng không mang chữ giống nhau thì sai khác
có ý nghĩa (P <0,05).
Bò ăn rơm xử lý urê cho tăng trọng
cao hơn so với ăn rơm khô là phù hợp
với kết quả nghiên cứu trước đây, về tác
dụng của việc kiềm hoá rơm khô bằng
urê (Shiere và cộng sự, 1989)[5] ;
(Nguyễn Xuân Trạch, 2003)[4]. Các
nghiên cứu này đã chứng minh rằng rơm
khô sau khi ủ kiềm hoá với urê đã tăng
hàm lượng protein thô (Vốn rất ít trong
rơm khô) và tăng khả năng phân giải
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
94
trong dạ cỏ (vốn rất thấp). Các tác giả
cũng giải thích rằng nhờ tác dụng của
rơm bởi vi sinh vật trong dạ cỏ tăng lên
làm cho dạ cỏ được giải phóng nhanh hơn
nên Bò ăn được nhiều rơm (có chất lượng
cao hơn), dẫn đến chỗ Bò ăn rơm xử lý urê
cho tăng trọng cao hơn so với Bò đối chứng
ăn rơm khô không kiềm hoá bằng urê.
Cũng chứng minh rằng ủ rơm tươi
ngay khi thu hoạch cũng là một giải pháp
tốt để đồng thời vừa bảo quản vừa tăng
giá trị dinh dưỡng cho rơm và có thể áp
dụng để thay thế cho việc phơi rơm khô
để bảo quản. Điều này có nghĩa là ủ rơm
tươi bằng urê ngay sau khi thu hoạch là
một biện pháp hữu hiệu cho phép tiết
kiệm được thời gian, không gian và công
phơi khô, tránh được ảnh hưởng của thời
tiết xấu. Nếu rơm ủ tươi với urê thực sự
có chất lượng tốt khi cho ăn, các chất dinh
dưỡng đã được bảo quản tốt hơn, không bị
tổn thất trong quá trình phơi khô.
4. KẾT LUẬN
Như vậy, nhờ tác dụng kiềm hóa
mà rơm trở nên dễ lên mem hơn và do có
nguồn NPN bổ sung nên VSV dạ cỏ tăng
sinh và hoạt động tốt hơn. Kết quả là
rơm tươi được ủ urê có tỷ lệ tiêu hoá cao
hơn và cũng vì thế lượng nhu nhận cao
hơn so với rơm phơi khô.
Kiềm hoá rơm tươi với tỷ lệ 1,5-
2% urê cho phép bảo quản được rơm lúa
tươi không bị mốc, không hao hụt chất
hữu cơ, làm tăng hàm lượng protêin thô,
tăng tỷ lệ tiêu hóa, tăng khả năng phân
giải của rơm trong dạ cỏ. Bổ sung N cho
rơm bò ăn được nhiều rơm hơn và trong
cùng một thời gian nuôi cho tăng trọng
cao hơn rõ rệt (22.5kg) so với bò ăn rơm
khô không qua xử lý urê (12,6kg).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Xuân Bả (1997), ”Sử
dụng rơm xử lý urê làm thức ăn cho gia
súc”. Tuyển tập những công trình nghiên
cứu khoa học nông nghiệp và kinh tế nông
nghiệp 1967- 1997, ĐH Nông Lâm Huế,
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr.157 – 160.
2. Lê Viết Ly, Bùi Văn Chinh
(1996), ”Kết quả nghiên cứu chế biến và
sử dụng một số phụ phẩm nông nghiệp
chính ở Việt Nam làm thức ăn cho gia
súc”, Hội thảo Quốc gia về khoa học và
phát triển chăn nuôi đến năm 2000, 26 –
28/11/1996, Hội chăn nuôi Việt Nam.
3. Nguyễn Xuân Trạch và Cù
Xuân Dần (1999b), ”Ảnh hưởng thành
phần hóa học của rơm lúa khi xử lý bằng
urê và vôi”, kết quả nghiên cứu khoa học
kỹ thuật khoa chăn nuôi thú y, 1996-
1998, Nxb Nông nghiệp Hà Nội.
4. Nguyễn Xuân Trạch (2003),
”Ảnh hưởng của kiềm hóa đến giá trị
dinh dưỡng của rơm và sinh trưởng của
Bê”,Tạp chí chăn nuôi, Số 8/2003, tr 6-8.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
95
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHẾ PHẨM ACTISO BỔ SUNG THỨC ĂN
NHẰM HẠN CHẾ TÁC HẠI CỦA AFLATOXIN B1 TRÊN GÀ
Th.S Chu Thị Hải *
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam với khí hậu nhiệt đới,
nóng ẩm, mưa nhiều là điều kiện rất
thuận lợi cho nấm mốc phát triển và sản
sinh độc tố. Sự tồn tại của nó trong thức
ăn gây tác hại cho vật nuôi, nhất là đối
với gà. Kết quả nghiên cứu của nhiều tác
giả cho thấy, thức ăn chăn nuôi nhiễm
nấm mốc và độc tố nấm mốc với tỷ lệ
cao. Thức ăn bị nhiễm Aflatoxin B1
nhiều, thức ăn có giá trị dinh dưỡng càng
cao nhiễm độc tố càng nhiều.
Trong các loại độc tố nấm mốc,
Aflatoxin B1 được coi là nguy hiểm
nhất. Độc tố này gây bệnh về gan, thận
làm giảm năng suất chăn nuôi, gây thiệt
hại lớn về kinh tế. Ngoài ra nó còn tồn
dư trong thực phẩm ảnh hưởng đến sức
khỏe con người. Vì vậy trên thế giới
nhiều nước đã quy định mức Aflatoxin
cho phép có trong thức ăn gia súc, gia
cầm. Từ đó cho thấy việc nghiên cứu các
biện phá phòng, chống các độc tố nấm
mốc luôn là vấn đề thời sự và cấp thiết.
Để góp phần đưa chế phẩm bột
Actiso và thực tiễn sản xuất, nhằm hạn
chế tác hại của Aflatoxin B1, nâng cao
hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi, đồng
* TP Thanh tra - KT - KĐCL
thời giữ gìn vệ sinh an toàn thực phẩm,
chúng tôi tiến hành đề tài: "Nghiên cứu
chế phẩm Actiso bổ sung thức ăn nhằm
hạn chế tác hại của Aflatoxin B1 trên
gà" nhằm mục đích: hạn chế độc hại ở gà
công nghiệp bị nhiễm độc Aflatoxin B1
có trong thức ăn chăn nuôi hàm lượng
100, 300, 500ppb... khi sử dụng chế
phẩm Actiso.
2. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của chế
phẩm bột Actiso bổ sung thức ăn đến khả
năng tăng trọng của gà nhiễm độc tố
Aflatoxin B1 hàm lượng 100, 300,
500ppb.
Nghiên cứu ảnh hưởng của chế
phẩm bột Actiso bổ sung thức ăn đến
hiệu quả sử dụng thức ăn của gà nhiễm
độc tố Aflatoxin B1 hàm lượng 100, 300,
500ppb.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.3. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành trên gà
ISA 1 ngày tuổi khỏe mạnh đồng đều
gồm có 210 con phân làm 7 lô (30 con/
lô). Các lô gà được nuôi trong điều kiện
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
96
như nhau, theo dõi trong 7 tuần (49
ngày).
Lô 1: Gà nuôi bằng thức ăn không
có Aflatoxin B1 và không có Actiso.
Lô 2: Gà nuôi bằng thức ăn có
100ppb Aflatoxin B1 và không có
Actiso.
Lô 3: Gà nuôi bằng thức ăn có
100ppb Aflatoxin B1, đồng thòi bổ sung
Actiso dạng bột với tỷ lệ 0,5% trong thức
ăn hàng ngày
Lô 4: Gà nuôi bằng thức ăn có
300ppb Aflatoxin B1 và không có
Actiso.
Lô 5: Gà nuôi bằng thức ăn có
300ppb Aflatoxin B1, đồng thời bổ sung
Actiso dạng bột với tỷ lệ 0,5% trong thức
ăn hàng ngày
Lô 6: Gà nuôi bằng thức ăn có
500ppb Aflatoxin B1 và không có
Actiso.
Lô 7: Gà nuôi bằng thức ăn có
500ppb Aflatoxin B1, đồng thời bổ sung
Actiso dạng bột với tỷ lệ 0,5% trong thức
ăn hàng ngày.
2.3.1. Nghiên cứu sự ảnh hưởng của chế
phẩm Actiso đến khả năng tăng trọng
của gà thí nghiệm
Được theo dõi bằng cách cân gà ở
các lô vào các giai đoạn 1, 7, 14, 21, 28,
35, 42, 49 ngày tuổi. Từ đó tính được
khối lượng trung bình của từng con ở
mỗi lô ở các thời điểm trên.
2.3.2. Nghiên cứu sự ảnh hưởng của chế
phẩm Actiso đến hiệu quả sử dụng thức
ăn của gà thí nghiệm
Hàng ngày cân lượng thức ăn mới
cho vào và lượng thức ăn dư từ hôm
trước ở mỗi lô lúc 8h sáng, từ đó tính
được lượng thức ăn tiêu thụ của gà ở
từng lô/ngày.
3. KẾT QUẢ
3.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của
chế phẩm bột Actiso bổ sung thức ăn đến
khả năng tăng trọng của gà nhiễm độc
Aflatoxin B1 hàm lượng 100ppb, 300ppb,
500ppb.
Để đánh giá được tác dụng của
chế phẩm bột Actiso đến khả năng tăng
trọng của gà bị nhiễm độc Afatoxin B1 ở
các hàm lượng 100, 300, 500ppb khi
được bổ sung bột Actiso vào thức ăn
theo tỷ lệ 0,5% , chúng tôi tiến hành cân
gà ở các lô vào các buổi sáng trước lúc
cho ăn ở các thời điểm: 1, 7, 14, 21, 28,
35, 42 và 49 ngày tuổi. Kết quả xác định
khối lượng gà ở các lô và tỷ lệ tăng trọng
của gà ở các lô thí nghiệm so với lô đối
chứng được thể hiện qua bảng 1 và minh
họa bằng đồ thị 1
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
97
Bảng 1: Ảnh hưởng của chế phẩm bột Actiso đến khả năng tăng trọng của gà
nhiễm độc Aflatoxin B1 hàm lượng 100ppb, 300ppb, 500ppb.
Ngày tuổi Khối lượng gà thí nghiệm (gram/con)
Lô 1 Lô 2 Lô 3 Lô 4 Lô 5 Lô 6 Lô 7
1 43,5 44,0 43,5 43,0 43,0 43,5 43,8
7 152,3 151,0 152,5 149,5 151,5 139,5 147,2
14 398,2 370,0 397,0 318,0 392,0 302,2 365,0
21 755,1 620,0 732,0 595,0 734,0 545,1 670,0
28 1057,0 995,0 1120,0 920,0 1047,0 855,0 1007,0
35 1532,0 1375,0 1543,0 1210,0 1527,0 1109,0 1452,0
42 1965,0 1650,0 2015,0 1520,0 1954,0 1280,0 1845,0
49 2377,0 1935,0 1825,0 1825,0 2315,0 1540,0 2180,0
TL%SVĐC 100 81 103 77 97 65 92
Đồ thị 1: Tác dụng của chế phẩm bọt Actiso đến khả năng tăng trọng của
gà nhiễm độc Aflatoxin B1.
Từ kết quả bảng 1 cho thấy: gà
trong lô 1 sinh trưởng bình thường từ
ngày thứ nhất cho đến lúc kết thúc thí
nghiệm (49 ngày tuổi), khối lượng trung
bình đạt 2377g/con. Ở thời điểm 7 ngày
tuổi theo dõi gà ở lô 6 (ăn thức ăn có
500ppb Aflatoxin B1 và không bổ sung
Actiso) do nhiễm độc tố Aflatoxin B1
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
98
nên ngay từ đầu đã ảnh hưởng đến mức
tăng trọng của gà, khổi lượng trung bình
của gà chỉ đạt: 139,5g/con. Trong các
tuần tuổi tiếp theo mức tăng trong của
chúng càng mạnh, ở 49 ngày tuổi khối
lượng trung bình của gà ở lô này chỉ đạt
1540,0 g/con.
Theo dõi gà ở lô (ăn thức ăn có
100ppb Aflatoxin B1 và 0,5% Actiso)
chúng tôi thấy, mạc dù gà ở lô này được
ăn có 100ppb Aflatoxin B1 nhưng được
bổ sung với tỷ lệ Actoso với tỷ lệ 0,5%
thì gà phát triển tốt. Mức độ tăng trọng ở
49 ngày đạt 103% so với gà ở lô đối
chứng và 126% so với lô 2...
Như vậy, những lô gà bị nhiễm
Aflatoxin B1 và nhưng được bổ sung
Actiso bột vào thức ăn với tỷ lệ 0,5% thì
mức tăng trọng cao hơn hẳn nhưng lô gà
bị nhiễm độc Aflatoxin B1.
Sự giảm tăng trọng ở các lô gà bị
nhiễm Aflatoxin B1 là bởi sự tác động
của Aflatoxin B1 làm ức chế quá trình
tổng hợp protein, từ đó làm giảm tăng
trọng gà. Osborn và cs (1981) cho rằng,
cân bằng enzym tuyến tụy ở gà bị nhiễm
Aflatoxin B1 bị thay đổi, dẫn đến làm
giảm hàm lượng amilaza và lipaza, khả
năng hấp thu chất dinh dưỡng kém, ảnh
hưởng xấu đến tăng trọng cảu gà. Khi
được bổ sung chế phẩm bột Actiso đã
khắc phục được hiện tượng giảm tăng
trọng của gà bị nhiễm Aflatoxin B1.
Cũng như các loài động vật khác,
gan gà giữ vai trò trung tâm chuyển hóa
gluxxit, protit, lipit, ảnh hưởng rất lớn
đến tăng trọng của gà. Chế phẩm Actiso
làm tăng chức năng của gan, làm thông
mật, nhuận gan, lợi tiểu, giuips cơ thể
loại nhanh độc tố Aflatoxin B1, từ đó
hạn chế tác hại do Aflatoxin B1 gây ra.
3.2. Kết quả nghiên cứu ảnh
hưởng của chế phẩm bột Actiso bổ sung
thức ăn đến hiệu quả sử dụng thức ăn
của gà nhiễm độc Aflatoxin B1 hàm
lượng 100ppb, 300ppb, 500ppb
Để đánh giá tác dụng có lợi của
Actiso đến hiệu quả sử dụng thức ăn của
gà , trong quá trình thí nghiệm, chúng tôi
đã theo dõi thức ăn tiêu thụ hàng ngày
của gà trong từng lô. Từ đó tính mức tiêu
tốn thức ăn cho kg tăng trọng gà. Kết quả
được trình bày ở bảng 2 và minh họa ở
đồ thị 2.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
99
Bảng 2: Ảnh hưởng của chế phẩm bột Actiso đến hiệu quả sử dụng thức ăn của gà nhiễm độc
Aflatoxin B1 hàm lượng 100ppb, 300ppb, 500ppb (kg thức ăn/ kg P)
Lô thí nghiệm Hiệu quả sử dụng thức ăn
(Kg Ta/Kgp)
Tỷ lệ (%)
so với lô 1
Lô 1: 0 ppb Aflatoxin B1
Lô 2: 100 ppb Aflatoxin B1
Lô 3: 100 ppb Aflatoxin B1 + 0,5% Actiso
Lo 4: 300 ppb Aflatoxin B1
Lô 5: 300 ppb Aflatoxin B1 + 0,5% Actiso
Lô 6: 500 ppb Aflatoxin B1
Lô 7: 500 ppb Aflatoxin B1 + 0,5% Actiso
1,90
1,95
1,85
2,03
1,87
2,23
1,92
100
103
97
107
98
117
101
0
0.5
1
1.5
2
2.5
Lô
1:
0
ppb
Afl
ato
xin
Lô
3:
10
0
ppb
Afl
ato
xin
Lô
5:
30
0
ppb
Afl
ato
xin
Lô
7:
50
0
ppb
Afl
ato
xin
Hiệu quả sử dụng
thức ăn (Kg
TA/Kgp)
Đồ thị 2: Tác dụng của chế phẩm bột Actiso đến hiệu quả sử dụng thức ăn
ở gà nhiễm độc Aflatoxin B1
Kết quả bảng 2 và biểu đồ 1 cho
thấy, ở các lô gà nhiễm Aflatoxin B1
nhưng không được bổ sung Actiso thì
mức tiêu tốn thức ăn cho 1kgP cao hơn
từ 0,05 – 0,33 kg so với gà ở lô đối
chứng (không nhiễm Aflatoxin B1). Cụ
thể: ở lô 2 là 1,95; ở lô 4 là 2,03; ở lô 6
là 2,23. Tỷ lệ tiêu tốn thức ăn của gà ở các
lô này so với lô đối chứng lần lượt là: 103%,
107%, 117%.
So sánh với kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Hữu Nam (1999) [11], trên gà
Hybro "Sự sai khác về hiệu quả sử dụng
thức ăn bắt đầu từ liều lượng độc tố 200ppb,
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
100
sự sai khác càng tăng thêm khi hàm lượng
độc tố tăng lên". Còn trong thí nghiệm của
chúng tôi gà nhiễm độc tố Aflatoxin B1 liều
100ppb đã bắt đầu có sự sai khác về hiệu
quả sử dụng thức ăn, đến liều 500ppb tiêu
tốn thức ăn gấp gần 1,2 lần so đối chứng.
Trong khi đó không nhận thấy có sự
khác biệt đáng kể về hiệu quả sử dụng thức
ăn ở các lô gà được bổ sung đồng thời 0,5%
Actiso so với gà đối chứng. Đặc biệt mức
tiêu tốn thức ăn cho 1kgP của gà ở lô 3 và lô
5 còn thấp hơn so với lô đối chứng, cụ thể:
lô 3 là 1,85kgT.A/kgP; lô 5 là 1,87kgT.A
/kgP; trong khi đó lô đối chứng là
1,90kgT.A/kgP. Ở lô 7 (gà bị nhiễm 500ppb
Aflatoxin B1 nhưng được bổ sung 0,5%
Actiso) tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng
trọng là 1,92kg trong khi đó ở lô 6
(không được bổ sung 0,5% Actiso) là
2,23kg.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của
Lê Thị Ngọc Diệp (1999) [4], trên gà
Hybro "Mức tiêu tốn thức ăn của gà ở các lô
bị nhiễm 200ppb và 500ppb Aflatoxin B1 là
1,93 và 2,18 còn ở các lô đối chứng là 1,77.
Trong khi đó không nhận thấy sự khác biệt
về hiệu quả sử dụng thức ăn giữa các lô gà
được bổ sung đồng thời Actiso so với lô đối
chứng.
Có thể thấy rằng, nguyên nhân của
sự giảm tăng trọng ở gà nhiễm Aflatoxin B1
hàm lượng 100ppb, 300ppb, 500ppb, dẫn
đến tiêu tốn thức ăn cho 1 kg thức ăn tăng
trọng cao hơn so với các lô được bổ sung
đồng thời 0,5% Actiso là do tác động của
Aflatoxin B1 đã làm giảm quá trình đồng
hóa của gà. Tuy nhiên khi được bổ sung
Actiso thì quá trình này được khắc phục quá
nhiều.
4. KẾT LUẬN
Chế phẩm bột Actiso 10% bổ
sung vào thức ăn cho gà với tỷ lệ 0,5%
có tác dụng khắc phục hiện tượng giảm
tăng trọng ở gà nhiễm độc Aflatoxin B1.
Tiêu tốn thức ăn ở gà bị nhiễm
Aflatoxin B1 được bổ sung chế phẩm bột
Actiso giảm so với gà bị nhiễm độc
Aflatoxin B1 nhưng không được bổ sung
Actiso.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Ngọc Diệp (1998), Tác
dụng dược lý và một số ứng dụng dược
liệu Actiso trong chăn nuôi thú y, Luận
án tiến sỹ Nông nghiệp, trường Đại học
Nông nghiệp I.
2. Nguyễn Hữu Nam (1999), Một
số chỉ tiêu biến đổi bệnh lý trên gà nhiễm
độc Aflatoxin B1 thực nghiệm, luận án
tiến sỹ Nông nghiệp, trường Đại học
Nông nghiệp I.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
101
NGHIÊN CỨU CẤU TRÖC TRẠNG THÁI VÀ TỔ THÀNH RỪNG
THUỘC KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN PÙ HUỐNG, NGHỆ AN
Th.S Trần Thị Thúy Nga *
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng có nhiều chức năng quan
trọng đối với sinh vật nói chung và con
người nói riêng, đó là chức năng phòng
hộ, duy trì cân bằng sinh thái, bảo vệ đa
dạng sinh học, bảo tồn nguồn gen, cung
cấp lâm sản, thực phẩm và dược phẩm...
đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người,
đặc biệt là các khu rừng nguyên sinh.
Tuy nhiên trước tình trạng chặt phá rừng
bừa bãi như hiện nay đã khiến cho nhiều
khu Bảo tồn thiên nhiên hoang dã bị mất
đi tính đa dạng sinh học vốn có của rừng.
Nạn mất rừng diễn ra liên tục
trong nhiều thập kỷ qua đã làm cho nhiều
khu rừng lớn bị chia cắt thành từng mảng
rừng nhỏ hoặc bị khai thác quá mức làm
cấu trúc rừng biến đổi theo chiều hướng
xấu. Việc mất rừng không chỉ làm cho
diện tích đất trống đồi núi trọc tăng lên,
làm suy giảm tính đa dạng sinh học, một
số loài thực vật, động vật có nguy cơ bị
tuyệt chủng. Trước tình hình đó Đảng và
Nhà nước ta đã và đang thực hiện một số
chủ trương, chính sách và biện pháp
nhằm bảo vệ và phát triển rừng vì lợi ích
của cộng đồng. Ngày 03 tháng 12 năm
* GV khoa Nông - Lâm - Ngư
2004, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
khoá XI đã thông qua Luật bảo vệ và
phát triển rừng; Ngày 17/9/2003 Thủ
tướng chính phủ ban hành quyết định số
192/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt
chiến lược hệ thống quản lý Khu bảo tồn
thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010.
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống
thuộc tỉnh Nghệ An, được thành lập theo
Quyết định số194 QĐ/CT ngày 9/8/1986
của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ). Tổng diện tích tự nhiên là
40127.7ha; có nhiệm vụ: Bảo vệ nghiêm
ngặt vùng lõi khu bảo tồn, phục hồi và phát
triển rừng, nghiên cứu khoa học về bảo tồn
và đa dạng sinh học, tham gia phát triển kinh
tế xã hội vùng đệm để giảm áp lực khai thác
tài nguyên rừng vùng lõi.
Nghiên cứu những đặc điểm của tài
nguyên thực vật rừng để có cơ sở khoa học
xây dựng các chương trình và quản lý, bảo
vệ, phát triển bền vững tài nguyên rừng là
công việc cần thiết phải tiến hành.
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi lựa
chọn thực hiện đề tài “Nghiên cứu cấu trúc
trạng thái và tổ thành rừng tự nhiên thuộc
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
102
khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, Nghệ
an”. Nhằm mục đích đề xuất các biện pháp
quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững tài
nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Pù
Huống, tỉnh Nghệ An.
II. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
2.1.1 Nghiên cứu các trạng thái rừng
2.1.2. Nghiên cứu tổ thành rừng
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử
dụng các phương pháp luận tổng quát,
thường quy trong nghiên cứu điều tra rừng
2.3. Xử lý số liệu
Các số liệu điều tra được sử dụng
bằng phương pháp thống kê toán học để
phân tích, tổng hợp tài liệu và tính toán
đảm bảo độ chính xác trong nghiên cứu
khoa học và xử lý trên phần mềm Excel
của máy vi tính.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Phân loại trạng thái rừng
Qua quá trình điều tra và phân
loại trạng thái rừng, chúng tôi đã phân
loại được các trạng thái rừng bao gồm:
IIA, IIB, IIIA1, IIIA2 và được thể hiện ở
bảng 3.1.
Bảng 3.1. Kết quả phân loại trạng thái rừng ở khu bảo tồn Pù Huống
OTC Trạng thái N/ha (cây) D (cm) H (m) haG / (m2)
1 IIA 870 10.21 10.32 7.35
2 IIA 830 10.15 10.34 6.87
3 IIA 790 9.71 9.59 6.02
4 IIB 1010 14.58 12.33 17.49
5 IIB 970 14.74 11.88 17.49
6 IIB 920 14.05 11.65 15.57
7 IIIA1 485 15.41 12.55 9.83
8 IIIA1 580 14.42 12.13 8.60
9 IIIA1 405 15.07 11.77 8.25
10 IIIA2 510 18.63 14.71 15.27
11 IIIA2 535 20.15 14.93 15.85
12 IIIA2 420 20.82 14.94 15.94
Kết quả ở bảng cho thấy: Có 4
loại trạng thái rừng cơ bản, với sự phân
bố, phẩm chất và diện tích phân bố khác
nhau. Trong đó số lượng cây lớn của
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
103
trạng thái IIA ít, phẩm chất kém, giá trị
kinh tế thấp. Đường kính bình quân/cây
biến động từ 9.71 đến 10.21 cm; tổng tiết
diện ngang trên ha từ 6.02 đến 7.35 m2;
mật độ từ 790 đến 870 cây/ ha, chiều cao
bình quân từ 9.59 đến 10.32m.
Đối với trạng thái rừng loại IIB,
đây chủ yếu là rừng phục hồi sau nương
rẫy hoặc sau khai thác kiệt. Trạng thái
rừng này có số lượng cây lớn đáng kể,
thành phần phức tạp, loài cây ưu thể
không rõ. Đường kính bình quân >10
cm2, tổng tiết diện ngang 10m
2/ ha, dao
động từ 14.05 đến 14.74 cm. Chiều cao
bình quân từ 11.65 đến 12.33 m.
Trạng thái IIIA1 phân bố ở độ cao
400 - 700m, bao gồm một số quần xã
thực vật rừng thuộc kiểu thứ sinh nhân
tác trên đất thoái hóa, do bị tác động
mạnh nên khả năng phục hồi rất khó, vì
vậy mật độ từ 405 đến 580 cây/ha,
đường kính bình quân từ 14.42 đến
15.41cm, chiều cao bình quân từ 11.77
đến 12.55 m.
Trạng thái IIIA2 này bao gồm
những diện tích rừng đã bị khai thác ở
mức trung bình hoặc mạnh trong thời
gian từ 10-12 năm trước, với đặc điểm
tán rừng đã bị phá vở. Hoàn cảnh rừng
cũng như cấu trúc của rừng vốn có bị
thay đổi mạnh, số lượng cây lớn còn lại
ít, phẩm chất kém đến trung bình, độ tàn
che từ 0.65-0.7. Các chỉ tiêu định lượng
cụ thể: haG / từ 15.27 đến 15.94
m2/ha, mật độ từ 420 đến 535 cây/ha,
đường kính bình quân từ 18.63 đến 20.82
cm, chiều cao bình quân từ 14.71 đến
14.94 m.
3.2. Tổ thành rừng
Tổ thành rừng là nhân tố cấu trúc
sinh thái có ảnh hưởng quyết định tới các
nhân tố sinh thái và hình thái khác của
rừng. Tổ thành rừng là một trong những
chỉ tiêu quan trọng dùng để đánh giá tính
bền vững, ổn định và đa dạng sinh học
trong hệ sinh thái rừng, có ảnh hưởng
đến định hướng kinh doanh, lợi dụng
rừng, phản ánh năng lực bảo vệ và duy
trì cân bằng sinh thái. Do tổ thành phức
tạp mà hệ sinh thái rừng tự nhiên luôn
luôn là hệ sinh thái hoàn hảo và có lợi
nhất trong việc sản xuất sinh khối, phòng
trừ sâu bệnh hại, chống xói mòn đất, duy
trì độ phì của đất, bảo vệ môi trường sinh
thái.
Kết quả tính toán tổ thành rừng
được chúng tôi trình bày ở bảng 3.2.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
104
Bảng 3.2. Công thức tổ thành tầng cây cao
Trạng
thái OTC Công thức tổ thành loài theo số cây và tổng tiết diện ngang (%)
IIA
1
2
3
18.20Rr 11.54D 10.83Vtg 8.47Lm 7.86Bb 7.85Bl 7.16Tr
15.07Vtg 13.89Rr 10.92D 10.59Lm 9.61Bb 7.17Bl 5.54Tr
15.94Rr 11.77D 9.79Vtg 7.92Lm 7.66Tr 7.43Bb 6.66Bl 5.11Sl
IIB
4
5
6
16.41Thn 15.66D 6.84Trg 6.76Tr 6.13Bb 5.55T 5.86Va 5.41Mh
4.74Sl 4.63Mc 4.57Ng
17.09D 10.03Mc 8.53Rg 7.12Bl 6.04Cht 5.85Gi 5.49Sl 5.15Trg
5.03Rr
15.50D 9.36Mc 8.65Sl 8.43Gi 7.71Cht 7.29T 5.03Bb 4.58Rg
4.51B
IIIA1
7
8
9
16.38Tm 9.49Dđ 8.10Tb 6.86Tr 5.64Ch 5.18Vt 5.11Vtg
10.07Tm 8.68Tb 8.12Co 7.97 Rr 5.83Ng 5.50S 4.54Tr
15.78Tm 10.07Dđ 8.38Dc 6.21Vt 5.23Tht 4.78Tr
IIIA2
10
11
12
12.82T 12.71Dx 7.84Ch 6.92Tra 5.78Sl 4.93G
18.03T 8.96Gi 7.95Tm 7.15Dx 6.26Trg 6.56Sl
12.82T 10.97Sl 6.80Trg 6.74B 6.48Dđ 6.30Dg 5.27Dx 5.18Lx
Ghi chú: OTC là Ô tiêu chuẩn.
Kết quả xác định tổ thành cho thấy:
Các trạng thái rừng tự nhiên ở đây có số
lượng loài biến động rất lớn, từ 18–37 loài,
cấu trúc tổ thành tương đối phức tạp.
Đối với trạng thái rừng IIA, số
lượng loài dao động từ 18 - 20 loài, trong
đó 7 - 8 loài chiếm ưu thế tham gia vào
công thức tổ thành. Cụ thể: những loài
chiếm tỉ lệ cao như Ràng ràng (18.20%),
Vạng trứng (15.07%), Dẻ (11.54%),; các
loài khác chiếm tỉ lệ thấp hơn như Ba bét
(9.61%), Trám (7.66%). Những loài khác
có mặt trong OTC nhưng không tham gia
vào nhóm loài cây chiếm ưu thế như
Kháo, Hu đay, Lá nến,…
- Trạng thái IIB: Số loài có mặt là
20-22 loài, trong đó 9-11 loài chiếm ưu thế
tham gia vào công thức tổ thành. Các loài
chiếm tỉ lệ cao như Dẻ (17.07%), Thành
ngạnh (16.41%),; Các loài chiếm tỉ lệ thấp
hơn trong tổ thành là Chẹo (7.71%), Táu
(7.29%). Các loài có mặt như Bộp, Dung,
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
105
Kháo, …nhưng không tham gia vào nhóm
loài cây chiếm ưu thế.
- Trạng thái IIIA1: Số loài có mặt
dao động từ 28-34 loài, trong đó 5-7 loài
chiếm ưu thế tham gia vào công thức tổ
thành rừng. Các loài chiếm tỉ lệ cao trong
tổ thành là Táu muối (16.38%), Dẻ đỏ
(10.07%); Các loài chiếm tỉ lệ thấp hơn như,
Ràng ràng (7.97%), Trám (6.86%),... Những
loài có mặt nhưng không tham gia vào
nhóm loài cây ưu thế là Côm, Gội, Chò chỉ,
Kháo, Máu chó, …
- Trạng thái IIIA2: Số loài dao
động từ 27-30 loài, trong đó 5-6 loài
chiếm ưu thế tham gia vào công thức tổ
thành. Chiếm tỉ lệ cao nhất là Táu mật
(18.03%), tiếp đến là Dẻ xanh (12.71%),
các loài chiếm tỉ lệ thấp hơn là Dẻ gai,
Dẻ đỏ. Các loài có mặt nhưng không
tham gia vào nhóm loài cây ưu thế là Ô
rô, Chò, Dung, Mò hương, …
IV. KẾT LUẬN
Kết quả phân loại trạng thái rừng
hiện tại ở khu bảo tồn cho thấy có 4 lại
trạng thái rừng chủ yếu sau:
- IIA: Số lượng dao động từ 18-20
loài, trong đó 7-8 loài chiếm ưu thế tham
gia vào công thức tổ thành.
- IIB: Số loài có mặt là 20-22 loài,
trong đó 9-11 loài chiếm ưu thế tham gia
vào công thức tổ thành.
- IIIA1: Số loài có mặt dao động từ
28-34 loài, trong đó 5-7 loài chiếm ưu thế.
- IIIA2: Số loài dao động từ 27-30
loài, trong đó 5-6 loài chiếm ưu thế tham
gia vào công thức tổ thành.
Như vậy, trạng thái và tổ thành
rừng ở đây phản ánh đặc tính sinh thái
của rừng nhiệt đới, đó là số lượng loài
cây đa dạng và phong phú. Đó là kết
quả của trạng thái rừng phục hồi sau
nương rẫy, sau khai thác trắng và rừng
phục hồi sau khi tác động nhiều lần,
không theo quy tắc.
Chú thích: Các chữ viết tắt biểu thị
tên các loài cây trong bảng 3.2 được hiểu
là: Rr: Ràng ràng; Vtg: vạng trứng, D: dẻ;
Lm: lòng mang; Bb: Ba bét; Tr: Trám; Bl:
Bời bời; Sl: Săng lẻ; K: Kháo; Thn: Thành
ngạnh; Gi: giổi; Ch: Chẻo; B: Bộp; D:
dung; Thb: Thôi ba; Mc: Máu chó; Rg: Re
gừng; ...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Mộng Chân, Lê Thị Huyền
(2000), Thực vật rừng, NXB Nông
Nghiệp
2. Vũ Tiến Hinh (1991), “Về đặc
điểm tái sinh rừng tự nhiên”, Tạp chí
Lâm nghiệp (2), tr 19-21.
3. Phạm Xuân Hoàn (2004), Một số
vấn đề trong lâm học nhiệt đới, Nxb
Nông nghiệp, Hà nội.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
106
4. Vũ Đình Huề (1984), “Phân loại
các kiểu rừng phục vụ sản xuất lâm
nghiệp”, Tạp chí lâm nghiệp (7), tr23-26.
5. Richards P.W (1952), Rừng mưa
nhiệt đới, Tập I, II, III, Nxb Khoa học Hà
Nội.
PHÁT HUY TÍNH CHỦ ĐỘNG CỦA SINH VIÊN
TRONG GIỜ HỌC TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH
Th.S Nguyễn Thị Hoài Ly *
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, việc
tăng cường áp dụng các phương pháp
giảng dạy mang tính giao tiếp được đa số
các giáo viên đánh giá cao và áp dụng
cho các lớp học của mình. Giảng dạy
tiếng Anh cho các lớp chuyên ngành ở
bậc cao đẳng cũng không nằm ngoài xu
hướng đó. Việc tập trung phát triển các
kỹ năng ngôn ngữ cho sinh viên và tạo ra
một môi trường giao tiếp trong lớp học
được các giảng viên rất chú trọng. Tuy
nhiên, có không ít khó khăn trong quá
trình thực hiện. Ngoài những yếu tố
khách quan như lớp đông, thiếu phương
tiện giảng dạy… thì thái độ học tập quá
thụ động của sinh viên là một trong
những trở ngại lớn đối với giảng viên.
Làm thế nào để phát huy tính chủ động
của sinh viên trong việc học ngoại ngữ
(cụ thể là tiếng Anh chuyên ngành) là
một vấn đề cần giải quyết nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy.
Chính vì thế, để nâng cao chất
lương giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành
chúng tôi lựa chọn nghiên cứu chuyên
đề:“Phát huy tính chủ động cuả sinh
viên trong các giờ học tiếng Anh
chuyên ngành”.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
3.1.Cơ sở lý luận
3.1.1. Tính chủ động của sinh viên
được hiểu như thế nào?
Tính chủ động của sinh viên là thái
độ tham gia tích cực của sinh viên vào
quá trình dạy và học. Điều này có nghĩa
là sinh viên phải tư duy, hoạt động và
cộng tác với giảng viên để tiếp cận và
lĩnh hội kiến thức ngôn ngữ qua các hoạt
động ngôn ngữ chứ không chỉ lắng nghe
một cách thụ động và nhận những gì mà
giảng viên truyền thụ cho. Song song với
việc tiếp nhận kiến thức ngôn ngữ, sinh
viên phải được tạo cơ hội để sử dụng
ngay những kiến thức đó.
3.1.2. Tại sao phải phát huy tính chủ
động của sinh viên?
Một lớp học mà trong đó sinh viên
phát huy vai trò chủ động cuả mình sẽ
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
107
mang lại lợi ích không chỉ cho người dạy
mà cả người học. Giảng viên không còn
phải độc thoại suốt buổi học. Sinh viên
có cơ hội để thực hành các kỹ năng ngôn
ngữ trong lớp trước khi sử dụng chúng
vào các tình huống bên ngoài lớp học.
Hiệu quả có thể nhận thấy rõ nhất là
không khí lớp học trở nên sinh động do
sự tương tác nhiều chiều mang lại. Ngoài
việc tạo nên sự hứng thú đối với người
học, việc phát huy tính chủ động của
sinh viên còn giúp họ nhận thức được
trách nhiệm của bản thân đối với hoạt
động học của mình.
3.2.Cơ sở thực tiễn
3.2.1.Thuận lợi
Xu thế hội nhập và toàn cầu hóa
khiến nhu cầu sử dụng ngoại ngữ ngaỳ
càng tăng. Do đó, nhận thức của sinh
viên về việc học ngoại ngữ đã có nhiều
thay đổi. Đa số sinh viên hiểu được rằng
việc học để biết ngoại ngữ không giúp
ích nhiều cho họ trong việc tìm kiếm cơ
hội việc làm tốt hoặc cơ hội học tập ở
nước ngoài sau khi ra trường. Điều quan
trọng là phaỉ sử dụng được ngoại ngữ đó.
Chính vì thế mà sinh viên quan tâm hơn
đến việc thực hành các kỹ năng và tham
gia các hoạt động trong lớp.
Về phía giảng viên, họ cũng có
nhiều cơ hội để tiếp cận với nhiều
phương pháp giảng dạy hiện đại và
nguồn tài liệu phong phú. Các hội thảo
được tổ chức thường xuyên với mục đích
thay đổi nhận thức của mọi người về
mục tiêu và phương pháp giảng dạy
nhằm ngày càng nâng cao chất lượng và
hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của thời
đại mới.
3.2.2 Khó khăn
Việc tạo nên một môi trường học
tập lý thú, giúp sinh viên phát huy tính
chủ động của mình thường không diễn ra
thuận lợi như giảng viên mong muốn do
những yếu tố khách quan như lớp đông,
phương tiện giảng dạy còn thiếu, thời
gian chuẩn bị và tiến hành các hoạt động
hạn chế, vv…
Ngoài ra trình độ ngoại ngữ không
đồng đều của các sinh viên cũng gây khó
khăn cho người dạy. Đa số sinh viên
chưa đủ tự tin khi thực hành giao tiếp
bằng tiếng Anh. Chưa kể đến việc sinh
viên đã quá quen thuộc với lối học thụ
động và phụ thuộc quá nhiều vào giáo
viên từ khi còn học phổ thông.
Khó khăn tiếp theo là từ phiá giảng
viên. Để giải quyết những khó khăn nêu
trên, đòi hỏi giảng viên phải đầu tư
nhiều thời gian công sức trong việc lựa
chọn và thiết kế các hoạt động phù hợp
với đối tượng giảng dạy của mình. Giảng
viên phải rất sáng tạo và linh hoạt để có
thể đóng nhiều vai trò trong lớp học và
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
108
đối mặt với nhiều nguy cơ (ví dụ sinh
viên không hợp tác).
3.3. Các hoạt động đề nghị
Các hoạt động trình bày tiếp theo
đây đã được chọn lọc cho phù hợp với
thực tế giảng dạy các lớp tiếng Anh
chuyên ngành ở trường Cao đẳng Kinh tế
- Kỹ thuật Nghệ An.
3.3.1. Bài trình bày
Thông thường các sinh viên học
tiếng Anh chuyên ngành sau khi đã học
một kỳ 75 tiết tiếng Anh cơ bản. Do vậy
không cần thiết phải dạy lại các chủ
điểm ngữ pháp được trình bày trong các
giáo trình tiếng Anh chuyên ngành.
Nhưng như vậy không có nghĩa là có thể
hoàn toàn bỏ qua bởi vì những điểm ngữ
pháp thường trình bày gắn liền với bài
đọc và bài tập tiếng Anh chuyên ngành.
Do vậy giảng viên có thể chia sinh viên
thành nhiều nhóm. Mỗi nhóm được yêu
cầu chuẩn bị và trình bày một điểm ngữ
pháp vào đầu bài học có sử dụng điểm
ngữ pháp đó. Giảng viên có thể bổ sung
ý kiến nếu cần thiết.
3.3.2. Bài tập lớn
Giảng viên chia lớp thành nhiều
nhóm. Mỗi nhóm được bốc thăm một đề
tài do giảng viên chuẩn bị sẵn, sau đó có
nhiệm vụ sưu tầm tài liệu, tìm kiếm
thông tin về đề tài đó rồi chọn lọc tổng
hợp lại trong khoảng giới hạn từ 3-5
trang. Đề tài nên sát với các chủ đề trong
giáo trình. Sinh viên có thể được yêu cầu
chú thích các thuật ngữ hoặc dịch các bài
tập đó ra tiếng Việt. Nếu có thời gian, có
thể cho các nhóm trình bày trước lớp
hoặc trao đổi các bài tập với nhau nếu
không đủ thời gian. Mục đích của nó là
giúp sinh viên tìm hiểu sâu hơn về các
chủ đề được học và giảng viên cũng có
thêm tài liệu tham khảo để dạy các lớp
sau.
3.3.3. Động não
Giảng viên đưa ra đề tài và yêu cầu
sinh viên suy nghĩ về tất cả những gì liên
quan đến đề tài đó. Đây là một hoạt động
đơn giản để giúp sinh viên hình thành
một số ý tưởng trước khi được cung cấp
thông tin về đề tài. Hoạt động này
thường được dùng trên lớp trước khi sinh
viên được yêu cầu thực hiện một kỹ năng
nào đó như nghe, nói, đọc, viết.
3.3.4. Thảo luận, tranh luận
Sinh viên có thể được yêu cầu thảo
luận theo cặp, theo nhóm hoặc thảo luận
chung cả lớp. Hoạt động này có thể tiến
hành trước, trong và sau khi sinh viên
được cung cấp thông tin về một vấn đề
nào đó. Một hình thức khá sinh động của
hoạt động này là panel discussion, có
nghĩa là sinh viên sẽ trình bày trước lớp
các ý kiến cuả mình và trả lời các câu hỏi
từ những người nghe. Hoặc cũng có thể
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
109
chia lớp thành hai nhóm lớn và tranh
luận về một vấn đề nào đó.
3.3.5.Trò chơi đóng vai
Đây là một hoạt động rất dễ tạo sự
hứng thú cho sinh viên. Có nhiều dạng
trò chơi và hình thức đóng vai. Tuy
nhiên điều quan trọng là trò chơi đó phải
liên quan đến bài học. Hoạt động đóng
vai cho sinh viên cơ hội để sử dụng các
kiến thức vừa học cho các tình huống
thực. (ví dụ sinh viên đóng vai nhân viên
ngân hàng và khách hàng khi học tiếng
Anh chuyên ngành ngân hàng)
3.3.6.Tóm tắt ý kiến
Đây là một hoạt động hữu hiệu để
tăng cường sự tập trung chú ý của sinh
viên vào các hoạt động diễn ra trong lớp
học.
Thông thường sinh viên không mấy
khi chú ý lắng nghe câu trả lời cuả bạn
mình. Yêu cầu sinh viên nhắc lại hoặc
tóm tắt lại ý của những người trước đó sẽ
góp phần giải quyết vấn đề này. Ngoài
ra, giảng viên sẽ gọi những sinh viên ít
phát biểu để tạo cơ hội đồng đều cho mọi
người.
3.3.7. Giải quyết vấn đề
Hoạt động giải quyết vấn đề có thể
sử dụng để thực hành một cấu trúc câu
nào đó hoặc giúp sinh viên sử dụng các
thông tin vừa học để trả lời các câu hỏi
đó. Ví dụ trong bài 10 People at work,
giáo trình tiếng Anh chuyên ngành quản
trị, sinh viên sẽ được cung cấp những
tình huống mà một số doanh nghiệp nhỏ
gặp phải khi kinh doanh. Họ sẽ sử dụng
cấu trúc should + verb ( bare inf) để đưa
ra lời khuyên cho các doanh nghiệp này
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Lớp
Trƣớc khi làm thử nghiệm Sau khi làm thử nghiệm
Sự tập trung
của sinh viên
vào bài học
Hứng thú của
sinh viên
Chủ động
vào các hoạt
động trên lớp
Sự tập
trung của
sinh viên
vào bài học
Hứng thú
của sinh
viên
Chủ động
vào các
hoạt động
trên lớp
QT K7-03 58% 48,8% 44,2% 89% 87% 70%
QT K6-03 50 % 45% 50% 78% 89% 76%
KTDN K6-03 60% 49% 43% 87% 80% 79%
KTDN K6-11 45% 56% 59% 78% 87% 89%
NH K6-02 47,6% 40,8% 30% 80% 73% 74%
NH K7-01 56% 44% 50% 70% 87% 89%
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
110
Sau một thời gian áp dụng, theo
quan sát và điều tra của các giáo viên,
các tiết học tiếng Anh chuyên ngành trở
nên sôi nổi hẳn, sinh viên tích cực tham
gia phát biểu xây dựng bài hơn. Số sinh
viên yếu kém tỏ ra phấn khởi cùng các
bạn tham gia vaò các hoạt động. Mặc dù
mức độ tiếp thu bài học của các em vẫn
chưa đồng đều nhưng hầu hết các em đều
tham gia nhiệt tình, không còn phân biệt
sinh viên yếu kém hay khá giỏi ở các
hoạt động này. Các em tỏ ra rất hào hứng
với các hoạt động. Theo điều tra, một số
em vốn rụt rè cũng đã trở nên mạnh dạn
hơn.
IV. KẾT KUẬN
Phát huy tính chủ động của
sinh viên là một việc làm quan trọng
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
của việc dạy và học tiếng Anh chuyên
ngành. Tuy nhiên, việc làm này đòi hỏi
mất nhiều thời gian và sự nỗ lực từ nhiều
phía, đặc biệt từ phía giảng viên. Những
hoạt động trên đây chỉ mang tính chất
gợi ý và tham khảo. Việc áp dụng nó như
thế nào phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện
giảng dạy, sự linh hoạt và sáng tạo của
mỗi giảng viên. Tin rằng với sự cố gắng
của mỗi người, chúng ta có thể tạo nên
một sự thay đổi trong công tác giảng dạy
tiếng Anh chuyên ngành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Active learning and library
Instruction, Michigan State university
http:/www.libraryreference.org/acti
vebi.html
2.Active learning: creating
Excitement in the classroom.The
National Teaching & Learning Forum
http:/www.ntlf.com/.html/lib/bib.ht
m
3.Active learning
Strategies.Summaries of best practices in
College Teaching
http:/northonline.sccd.ctc.edu/ecepr
og/bstprac..html
4.Teaching and Learning Methods
and Strategies.University of Arizona
http:/www.u.arizina,edu/ic/edtech/st
rategy.html
5.What is active Learning? Buffalo
University Teaching Resources
http:/icarus.ubetc.buffalo.edu/etc/tlr
/whatis..html
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
111
THỦ THUẬT THIẾT KẾ MỘT SỐ TRÕ CHƠI TIẾNG ANH
TRÊN PHẦN MỀM POWERPOINT.
Th.S Ngụy Vân Thùy *
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự bùng nổ của Công nghệ thông tin đã
và đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển
của tất cả cac ngành trong đời sống xã hội.
Vì thế việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào quá trình dạy và học trong giai đoạn
hiện nay là một xu thế tất yếu. Có thể nói,
CNTT là phương tiện hữu hiệu góp phần
thúc đẩy quá trình đổi mới phương pháp dạy
học, làm cho các tiết giảng trở nên sinh động
hơn, lôi cuốn hơn, tạo được sự hứng thú cho
người học.
Các phần mềm hữu dụng của CNTT thì
rất nhiều. Tuy nhiên, trong lĩnh vực dạy học,
Microsoft PowerPoint là một trong những
phần mềm được ứng dụng nhiều nhất .
Trong pham vi bai viêt này, tác giả muốn đề
cập đên thủ thuật thiết kế môt sô trò chơi
tiêng Anh trên phần mềm này.
II. NỘI DUNG
Powerpoint là phần mềm trình chiếu
các nội dung đã được thiêt kê sẵn. Do vậy,
để cho trò chơi được diễn ra một cách ngẫu
nhiên thì cần phải có một số thủ thuật khi
thiết kế. Tác giả xin chia se vơi đôc giả một
số trò chơi được thiết kế bằng cách sử dụng
các thủ thuật đó.
* GV khoa Cơ sở - Cơ bản
2.1 Thiết kế trò chơi ô chƣ (crossword)
- Vẽ một textbox hình vuông
- Đinh vi textbox , chọn phông chữ , cơ
chư, màu chữ và màu nền cho textbox.
- Dùng lệnh copy, past để tạo thành hàng
ngang, dùng lệnh group để nhóm các ô hàng
ngang, dùng lệnh copy, past để tạo thành
một hàng ngang khác tương tự như thế để
làm nắp đậy.
- Điên chữ (đap an) vào các ô hàng ngang.
- Tạo hiệu ứng cho hàng ngang bằng
cách nháy phải chuột , chọn custom
animation, chọn entrance , chọn appear .
(hoăc không cân thiêt)
- Kéo nắp đậy che lên ô chữ hàng ngang.
- Đinh vi năp đây , nhấn chuột phải , chọn
custom animation , chọn exit , chọn fade
(hoăc các hiệu ứng khác) đề làm mất nắp
đậy khi học sinh trả lời đúng câu hỏi.
- Vào autoshapes, chọn basic shapes,
chọn hình tùy thích để điền số cho các từ
hàng ngang.
- Đem chuột đến các ô số , nhấn phải
chuột, chọn hyperlink cac ô sô vơi các
câu hỏi đã chuẩn bị trước.
Thủ thuật- Dùng nắp đậy và hiệu ứng
biên mât cho năp đây , kêt hơp vơi ky
thuât trigger để kich hoat hiêu ưng . Thủ
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
112
thuât nay giup cho tro chơi đươc thưc
hiên môt cach ngâu nhiên theo sư lưa
chọn từ hàng ngang cua ngươi chơi.
2.2. Thiết kế trò chơi ai la triêu phu
(who wants to be a millionaire)
+ Vào google chọn hình ảnh tiền Việt
Nam hoặc tiền nước ngoài tùy thích.
+ Chọn các mệnh giá thích hợp để cho
ngươi chơi lưa chọn khi chơi.
+ Săp xêp cac đông tiên đo theo y muôn
của người thiết kế.
- Đinh vi tưng đông tiên , nhấn phải
chuột, chọn hyperlink để liên kết cac
đông tiên với câu hỏi đa soan trươc.
- Đinh vi cac đông tiên, chọn hiệu ứng
biên mât, chọn yếu tô kich hoat cac hiêu
ứng biến mất đó khi chúng đã được lựa
chọn
Thủ thuật: - Dùng lệnh hyperlink
kêt hơp vơi ky thuât sư dung trigger.
2.3. Thiết kế trò chơi vong quay ky
diêu (Magic wheel)
- Vào google , đanh dong chư “von g
quay ky diêu” hoăc “magic wheel” đê
chọn hình ảnh các vòng quay thích
hơp, sao chep vê may . Tạo một slide
như hinh ve dươi đây.
1 2 3
6
9
5
8 7
4
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
113
- Dùng text box để thêm điểm hoặc
các yếu tố may mắn , mât điêm … đê
tạo thành 9 vòng quay đăt ơ 9 slide
tiêp theo như sau:
+ Vào custom animation, chọn effect,
chọn emphasis, chọn spin để tạo hiệu
ứng quay cho các vòng quay có điểm .
+ Liên kêt cac vong quay co sô (slide
1) vơi cac vong quay co điêm t ương
ứng bằng lệnh hyperlink.
+ Tạo biểu tượng câu hỏi ở các slide
có chứa vòng quay có
điêm
+ Liên kết biêu tương
câu hoi với cac slide co chưa câu hỏi
theo thiết kế của người soạn bằng
lệnh hyperlink.
+ Tạo biểu tượng quay lại ở các slide
có chứa câu hỏi.
+ Dùng lệnh hyperlink để liên kết
biêu tương đo vơi slide (1)
Thủ thuật: Dùng hiệu ứng quay kết
hơp vơi transition khi chuyên tiêp
slide đê cho ngươi chơi cam thây tro
chơi đươc diên ra môt cach n gâu
nhiên. Dùng hợp lý lệnh hyperlink .
Chọn thời điểm tạo hiệu ứng quay
cho cac vong quay la with previous
2.3. Thiết kế trò chơi bƣc tranh bi
mât (hidden picture)
+ Chọn một bức tranh theo chủ đề bài
học, hoặc theo ý tưởng của người
thiết kế trò chơi.
+ Vào Autoshapes, chọn basic
shapes, chọn hình vuông hoặc chữ
nhật
+ Vẽ đè các hình vuông, hình chữ
nhật lên toàn bộ bức tranh
PPooiinnttss
88
00
GG 22
00 44
00
11
00
00
33
00
77
77
77
00
77
00
55
00
11
00 99
00 PPooiinnttss
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
114
+ Nhấn phải chuột để điền số vào các
ô vuông bằng lệnh add text
+ Chọn hyperlink để liên kết các sô
với các slide co chưa câu hỏi.
+ Chọn hiệu ứng biến mất cho các
con số và các hình vuông nếu học
sinh trả lời đúng . Nâng cao hiêu ưng
biên mât băng ky thuât trigger .
Thủ thuật - Thủ thuật được sử dụng
để thiết kế trò chơi này chính là cá ch
sư dung trigger và kích hoạt hiệu ứng
theo các yếu tố phù hợp trong các
slide.
2.2 Thiết kế trò chơi con sô may
măn (lucky number)
- Chọn Autoshapes, chọn basic
shapes, chọn một biểu tượng nào đó
mà bạn thích (bông hoa hoặc ngôi
sao…)
- Vẽ thành các bông hoa hoặc ngôi
sao.
- Chỉnh sửa, tô màu cho ngôi sao
hoặc bông hoa bằng lệnh Format
autoshapes
- Ghép các ngôi sao hoặc bông hoa lại
với nhau tạo thành một khối liên kết.
- Dùng lệnh hyperlink để liên kết các
số với cac slide co câu hỏi hoặc cac
slide may mắn
- Dùng custom animation để tạo hiệu
ứng cho các slides
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
115
Thủ thuật: - Thủ thuật được sử dụng
ở trò chơi này cũng là cách sử dụng
phù hợp lệnh hyperlink
2.4. Thiết kế trò chơi săp xêp câu
(ordering sentences)
+ Chọn Autoshapes, chọn basic
shapes, chọn một hình mà bạn thích.
+ Vẽ thành 8 hình như nhau.
+ Để 4 hình ở hàng trên cùng của
slide và 4 hình ở dưới , 4 hình ở trên
là vị trí sắp xếp , 4 hình ở dưới là các
tư hoăc cum tư bi xao trôn đê ngươi
chơi sắp xếp.
Vào custom animation, chọn effect, chọn motion path, chọn draw custom path,
chọn line để vẽ các hướng chuyển động của các hình ơ dươi .
Vẽ thêm các ô số ở dưới các ô có chữ
và sử dụng kỹ thuật trigger để kích
hoạt các hiệu ứng chuyển hướng trên
Thủ thuật- Thủ thuật ở trò chơi này
là sự kết hợp lệnh hyperlink vơi lênh
motion path (hương chuyên đông ).
Đê tăng thêm tinh ngâu nhiên cua tro
chơi.
2.4. Thiết kế trò chơi noughts and
crosses
+ Vẽ các hình theo ý thích bằng
Autoshapes, tô màu theo ý thích.
+ Đánh số cho các hình vừa vẽ
After dinner I Drinking
coffee
like
After
dinner
I Drinkin
g
coffee
like
1
1
2
1 3
1
4
1
1
1
2
1 3
1
4
1
1
1
2
1 3
1
4
1
1
1
2
1 3
1
4
1
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
116
+ Tạo liên kết với các câu hỏi
+ Nhấp phải chuột ở thanh công
cụ bên phải màn hình (mũi tên xuống
ở bên cạnh “type a question”), chọn
controlbox để vẽ textbox
+ Chỉnh màu và phông cữ cho
textbox
+ Cho học sinh chơi và vẽ ký hiệu
của các đội ngay trên màn hình đang
trình chiếu.
Thủ thuật: Thủ thuật trong trò chơi
này là cách sử dụng controlbox để vẽ
ký hiệu X , O ngay trên man hinh
đang trinh chiêu.
2.5. Thiết kế trò chơi đuôi hinh băt
chƣ
+ Suy nghi vê cac tư va cac tranh
ảnh dùng để thể hiện nghĩa của các từ
đo.
+ Tìm trên mạng và sao chép lại
vào máy để sử dụng
+ Dùng powerpoint để thiết kế trò
chơi
+ Tạo slide đầu tiên và sao chép
các hình dùng để thể hiện nghĩa của
tư
+ Chọn hiệu ứng cho các hình ảnh
đo băng cach:
+ Nháy phải chuột, chọn group
+ Vào custom animation, chọn
affect, chọn fly (slow, to left, with
previous, repeat until next click).
+ Tạo slide thứ hai để cho ra đáp
án.
Thủ thuật: dùng hiệu ứng Fly vơi tôc đô
châm, nâng cao hiệu ứng Fly với repeat
until next click.
III. KẾT LUẬN
Dạy học là nghệ thuật . Công nghê
thông tin la môt trong nhưng đao cụ hữu
hiêu nhăm giup cho nghê thuât day hoc
vươn tơi nhưng tâm cao . Tuy nhiên, việc
ứng dụng công nghệ thông tin vao qua
trình dạy học thực sự là một công việc
lâu dài, khó khăn đòi hỏi sư tim toi , học
hỏi nhiều ở mỗi giảng vi ên. Trong pham
vi bai viêt nay , tác giả chỉ đề cập đến
môt khia canh nho trong vô van nhưng
tính năng hữu ích của công nghệ thông
tin. Hy vong răng , các độc giả tham khảo
và đóng g óp thêm ý kiến đồng thời sẻ
chia cac kin h nghiêm trong moi linh vưc
chuyên môn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Rechard C. New ways in TESOL
series. Paul Nation, editor. Inc.
2. Peter Watsyn-Jones. (1993)
Vocabulary games and activities for
teachers. Illustrated by Nigel Andrews.
3. Jill Hadfield. (2000) Elemrentary
communication games. Longman.
4. Đậu Quang Tuấn (2005) Tự học thiết
kế trình diện bằng microsoft powerpoint
2003. NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
117
TÌM HIỂU VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ XINGAPO
Th.S Nguyễn Xuân Tạo *
Trong các nước công nghiệp hoá
mới ở Châu Á, Xingapo đã đạt được nhiều
thành tựu hết sức to lớn cả trên lĩnh vực kinh
tế và chính trị. Theo đó, quốc gia này không
chỉ được xếp vào hàng một trong "bốn con
rồng" Châu Á, mà còn được biết đến như là
một một hiện tượng đặc biệt, một tấm
gương tiêu biểu cho các nước đang phát
triển noi theo. Theo chúng tôi, nguyên nhân
cơ bản nhất để đạt được kết quả đó là do
quốc gia này đã sáng lập và vận dụng thành
công một mô hình phát triển kinh tế, chính
trị độc đáo - mô hình CNXH dân chủ kiểu
Singapo.
Cộng hòa Xingapo bao gồm đảo
Xingapo và khoảng 58 đảo nhỏ trong lãnh
hải của mình. Đảo Xingapo có diện tích
580,6km2 và 150,5 km bờ biển, nơi dài nhất
42 km, rộng nhất 23 km. Sau nhiều lần mở
mang bờ cõi thông qua việc lấn biển và khai
thác sâu vào lòng đất Xingapo đã nâng tổng
diện tích từ chỗ chỉ có 639,1km2 vào những
năm 60 và hiện nay lên đến 697,5km2 (gần
bằng 1/3 diện tích huyện Cần Giờ, thành
phố Hồ Chí Minh).
Quốc đảo Xingapo giáp Malaixia
cả ở phía Bắc, phía Đông với các bang Xaba
và Xaraoắc. Xa hơn một chút về phía Nam
* Phó Hiệu trưởng – Bí thư Đảng ủy
là Inđônêxia. Thủ đô là Xingapo. Cho đến
nay, Xingapo đã trải qua ba đời thủ tướng:
Lý Quang Diệu (1959-1990), Goh Chok
Tong (1990-2004), Lý Hiển Long- con trai
Lý Quang Diệu (2004- nay). Xingapo thực
hiện chế độ đa đảng. Từ khi giành độc lập
đến nay, Đảng nhân dân hành động
(People's Action Party– PAP) liên tục cầm
quyền. Từ tháng 12 năm 1992 đến tháng 12
năm 2004, Tổng thư ký Đảng này là Goh
Chok Tong và từ tháng 12/2004 đến nay là
Thủ tướng Lý Hiển Long.
Quốc kỳ của Xingapo gồm 2 phần:
Nửa trên màu đỏ, nửa dưới màu trắng; rieng
ở nửa phần trên còn có thêm hình trăng lưỡi
liềm và 5 ngôi sao. Mỗi một màu, một hình
ảnh trên quốc kỳ Xingapo có ý nghĩa riêng
của nó; trong đó màu đỏ tượng trưng cho
mối tình anh em giữa người với người, giữa
các dân tộc trên thế giới và sự bình đẳng của
con người. Ngoài ra, còn một cách hiểu
khác đó là vì Xingapo là một nước đa dân
tộc (gồm Trung Quốc, Malaysia, Ấn Độ...)
nên có thể hiểu màu đỏ này theo nhiều mặt:
Đó là sự can đảm và dũng cảm của những
người Malaysia, sự may mắn của những
người Trung Quốc. Màu trắng là biểu tượng
của sự trong sạch và tinh khôi vĩnh viễn; còn
trăng lưỡi liềm biểu trưng cho một quốc gia
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
118
trẻ còn đang trên đường phát triển. Năm
ngôi sao nhỏ gần mặt trăng tượng trưng cho
năm lý tưởng của quốc gia Singapo: Dân
chủ, bình đẳng, hòa bình, phát triển và công
lý.
CNXH dân chủ màu sắc Xingapo do
một nhóm các lão thành của Đảng hành
động nhân dân (thời trẻ lưu học ở Anh) như
Lý Quang Diệu, Ngô Khánh Thuỵ v.v... đề
ra. Sau khi tách khỏi Malayxia và trở thành
một quốc gia độc lập (09/8/1965), Đảng
hành động nhân dân bắt đầu đem ý tưởng
xây dựng "CNXH dân chủ" áp dụng vào
thực tiễn. Vậy, “CNXH dân chủ" Xingapo
là gì? Về vấn đề này, các học giả Xingapo
đã giải thích: "Cái gọi là con đường CNXH
dân chủ Xingapo, chính là CNXH về chính
trị, CNTB về kinh tế".
Từ sự giải thích này có thể thấy cái
gọi là mô hình CNXH dân chủ Xingapo về
bản chất là một sự dung hợp giữa CNXH và
CNTB. Sở dĩ Đảng hành động nhân dân lựa
chọn con đường phát triển như vậy, là xuất
phát từ suy nghĩ có tính thiết thực, chứ
không phải từ hình thái ý thức.
Vậy thì làm thế nào để có thể lãnh
đạo đất nước Xingapo bước vào một xã hội
vừa phát triển nhanh, lại vừa có công bằng
xã hội? Lý Quang Diệu cho rằng "một chế
độ về bản chất vẫn là một xí nghiệp tự do
TBCN" và "một chính phủ XHCN". Về điều
này theo giải thích của các học giả Xingapo,
đó là lợi dụng các biện pháp của CNTB để
tạo ra của cải và thông qua phương pháp của
CNXH để phân phối của cải. Từ đó cho
thấy, CNXH dân chủ Xingapo bao gồm hai
nội dung cơ bản, chủ yếu là: Phát triển kinh
tế và bảo vệ lợi ích của toàn xã hội. Trong
đó, thông qua mô hình kinh tế thị trường tự
do TBCN nhanh chóng phát triển kinh tế là
nền tảng của "CNXH dân chủ" màu sắc
Xingapo, thông qua việc công bằng phân
phối lại của CNXH để bảo vệ và cải thiện
lợi ích chỉnh thể của xã hội lại là mục tiêu
của "CHXH dân chủ".
Mục tiêu quan trọng hàng đầu
của CNXH dân chủ Xingapo là phát triển
lực lượng sản xuất. Lý Quang Diệu cho
rằng, phát triển lực lượng sản xuất, phát triển
kinh tế là sự đảm bảo vật chất quan trọng
nhất cho việc nâng cao mức sống của nhân
dân. Ngoài ra, phát triển kinh tế cũng là sự
bảo đảm quan trọng về vật chất cho một
chính thể dân chủ. Vấn đề then chốt hiện
nay là, chế độ kinh tế như thế nào mới có lợi
nhất cho việc phát triển kinh tế và phát triển
lực lượng sản xuất? Các nhà lãnh đạo
Xingapo cho rằng, chế độ kinh tế tư bản có
thể kích thích và huy động một cách tối đa
tính tích cực và tính sáng tạo của mỗi người,
là con đường hay nhất để thực hiện sự tăng
trưởng kinh tế với tốc độ nhanh.
Với sự nỗ lực của chính phủ, nền
kinh tế thị trường TBCN của Xingapo được
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
119
phát triển rất nhanh, nhất là thương mại và
dịch vụ; còn công nghiệp thì tập trung vào
chế tạo, sản xuất các sản phẩm công nghệ
cao và hàng hóa có giá trị cao. Xingapo chủ
yếu xuất khẩu các thành phẩm sang các
nước phát triển và cũng buộc phải nhập máy
móc, thiết bị từ các nước này. Xingapo có
một hệ thông ngân hàng - tài chính mang
tầm cỡ thế giới và một đội ngũ công nhân
lành nghề có trình độ cao.
Còn về sở hữu, ngành chế tạo và đại
bộ phận các hoạt động kinh tế khác hầu hết
do các xí nghiệp tư nhân kinh doanh. Các
loại thị trường: Hàng hoá, sức lao động, tài
chính, kĩ thuật, công nghệ thông tin... về cơ
bản đều là thị trường tự do, nhà nước rất ít
can thiệp và áp đặt.
Tuy nhiên, nền kinh tế Xingapo cũng
không hẳn là kinh tế TBCN hoàn toàn tự do
thả nổi. Lý Quang Diệu cho rằng, duy trì thể
chế chính trị tư bản có nghĩa là không có bất
kỳ hạn chế nào. Kinh tế thị trường TBCN tự
do thả nổi có thể mang lại những hạn chế
như kết cấu kinh tế không hợp lý. Vì vậy,
nền kinh tế mà ông chủ trương là nên kinh tế
thị trường TBCN có sự can thiệp của nhà
nước. Theo đó, mà tăng cường năng lực
điều hành của nhà nước, đồng thời với việc
giữ nguyên chủ thể kinh tế TBCN.
Xingapo còn xây dựng nên một loạt
xí nghiệp quốc doanh và xí nghiệp tư doanh.
Hoạt động đầu tư của các công ty lớn của
nhà nước thể hiện chính sách và phương
hướng phát triển của nhà nước, tập trung
vào các hạng mục nhà nước cần mà các
công ty tư doanh không có sức đầu tư hoặc
không muốn đầu tư. Đồng thời, chính phủ
còn phải phát huy chức năng quyết sách,
thông qua việc điều chỉnh thuế, lãi suất và
chế định chính sách pháp quy để điều hành
vĩ mô đối với nền kinh tế, thông qua việc
phát triển giao thông vận tải, xây dựng các
công trình hạ tầng về thông tin, nhà ở, giáo
dục, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.
Tóm lại, ngoài việc gánh vác nhiệm
vụ truyền thống của chính phủ do áp dụng
kinh tế học của chủ nghĩa tự do, Chính phủ
Xingapo còn đảm đương vai trò của người
hoạch định mục tiêu, người sản xuất, người
điều tiết và người đại lý tài chính....
Chính sách kinh tế thiết thực, linh
hoạt đó của chính phủ Xingapo do đảng
Hành động nhân dân làm đại diện thực thi
rộng rãi đã làm cho nền kinh tế Xingapo
phát triển với tốc độ nhanh chưa từng thấy,
khiến cả thế giới phải kinh ngạc. Những
năm 1960-1970 kinh tế Xingapo tăng
trưởng đạt 9%/năm, sau đó tốc độ phát triển
cơ bản không giảm. Năm 1990, tốc độ tăng
trưởng là 8,3 %, năm 1995 là 8,7%, thậm
chí vào năm 1997 mặc dù bị ảnh hưởng bởi
khủng hoảng tài chính Châu Á tác động
nhưng vẫn đạt 7,8%. Đến giữa thập kỷ 90,
thế kỷ XX thu nhập quốc dân bình quân đầu
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
120
người của Xingapo là 30.343 đôla Mỹ, đứng
thứ 3 Châu Á và thứ 11 thế giới.
Mục tiêu thứ hai của CNXH dân
chủ Xingapo là xây dựng một xã hội bình
đẳng, công bằng, hợp lý để cho mọi người
có cơ hội ngang nhau trong một xã hội ổn
định và có trật tự, đồng thời có thể sống tốt
dẹp trong xã hội đó. Họ cũng nhấn mạnh
rằng với chế độ tư bản tự do cạnh tranh thì
rất khó thực hiện mục tiêu đó. Lý Quang
Diệu cho rằng, biện pháp giải quyết vấn đề
này có hiệu quả nhất chính là việc chính phủ
tiến hành phân phối lại của cải, tạo điều kiện
cho toàn thể nhân dân được hưởng những
thành quả kinh tế.
Vì thế Xingapo đã áp dụng một loạt
biện pháp thông qua thu thuế thu nhập luỹ
tiến cá nhân, thuế vốn, thuế lợi tức, thuế bất
động sản... để gìm nén người có thu nhập
cao và rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu
nghèo. Chính phủ khống chế giá cả các dịch
vụ về hạ tầng và dịch vụ xã hội phục vụ toàn
quốc như giao thông, chữa bệnh, thuỷ điện,
khí đốt nhằm bảo đảm sự ổn định cho đời
sống cơ bản của nhân dân, thi hành rộng rãi
chính sách người dân có sở hữu nhà ở, chế
độ trợ cấp giáo dục để cho những người yếu
thế trong xã hội được ưu tiên và có sự bảo
đảm của chính phủ về các mặt nhà ở, việc
làm, giáo dục, khám chữa bệnh...
Thành tựu nổi bật là chính sách
"người dân có sở hữu nhà để ở ". Đến cuối
thập kỷ 80 của thế kỷ XX Xingapo đã cung
cấp nhà ở công cộng cho 80% nhân dân.
Đây là thành tích mà các nước khác khó có
thể đạt được. Việc phân phối lại thành quả
kinh tế của Xingapo không phải là phương
thức phân phối bình quân chủ nghĩa.
Chính phủ Xingapo cho rằng một
nước dù có giàu có đến mấy cũng không thể
một mình gánh nổi toàn bộ gánh nặng về
bảo vệ sức khoẻ, thất nghiệp và phúc lợi
dưỡng lão. Chính sách phúc lợi quá mức
ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế đồng thời có
thể khuyến khích mọi người không chịu
trách nhiệm với xã hội, gia đình. Vì thế, nhà
nước chỉ cung cấp, giúp đỡ chứ không bao
biện và xây dựng chức năng "tạo máu" cho
nhân dân chứ nhà nước không trực tiếp
"truyền máu" cho họ, tức là chính phủ chỉ
cho công cụ và tạo cho kỹ năng để mọi
người tự tạo phúc lợi cho chính mình.
Các nguyên tắc nói trên được thể
hiện đầy đủ trong chế độ vốn tích luỹ chung
của trung ương ở Xingapo. Chế độ này mới
bắt đầu là một loại chế độ thông qua gửi tiết
kiệm có tính cưỡng bức để cung cấp phí tổn
cho nghỉ hưu, dưỡng lão. Trải qua hơn 40
năm phát triển và hoàn thiện đã hình thành
một chế độ bảo đảm xã hội có nhiều chức
năng như dưỡng lão, nhà ở, khám chữa bệnh
và giáo dục.
Một đặc điểm lớn của chế độ này là
nhấn mạnh đến việc tự bảo hiểm. Quốc hội
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
121
Xingapo quy định, tất cả nhân viên làm thuê
đều là hội viên của quỹ tích luỹ chung trung
ương. Chủ thuê mướn và nhân viên làm
thuê phải trích một tỷ lệ nhất định trong tiền
lương hàng tháng nộp vào tiền tích luỹ
chung. Số tiền gửi đó trở thành nguồn chủ
yếu của kinh phí phúc lợi cho nghỉ hưu,
dưỡng lão, nhà ở, khám chữa bệnh, bảo
hiểm sức khoẻ, giáo dục.
Để giúp đỡ các gia đình nghèo khổ
thoát khỏi đói nghèo, Xingapo đã thực thi
một kế họach tự lo cứu trợ, khuyến khích
nhân dân tìm việc làm, cung cấp các khoản
vay không tính lãi suất, bồi dưỡng nghề
nghiệp và trợ cấp giáo dục cho gia đình
nghèo để họ dựa vào lao động của mình mà
nâng cao đời sống. Chế độ xã hội đó của
Xingapo bảo đảm nhân dân sống vô lo và
tránh được những tác hại của "nhà nước
phúc lợi chung" kiểu phương Tây mà hậu
quả của nó hiện nay đã rõ (vấn đề nợ công).
Một nội dung đặc sắc khác của
CNXH dân chủ ở Xingapo là quan điểm
chính trị dân chủ kiểu phương Đông. Về cơ
bản Xingapo giữ nguyên chế độ dân chủ
nghị viện, bầu cử dân chủ, tam quyền phân
lập kiểu phương Tây, nhưng Lý Quang Diệu
không rập khuôn máy móc mà vận dụng căn
cứ vào tình hình thực tế đất nước và ông gọi
đó là chủ nghĩa dân chủ kiểu phương Đông.
Đặc sắc đó được biểu hiện qua những nội
dung sau:
Thứ nhất, các nhà lãnh đạo chính trị
cao nhất của Xingapo coi ổn định chính trị
là quan trọng hàng đầu và dân chủ chỉ có thể
được thực hiện trong phạm vi ổn định chính
trị, bởi vì chỉ trong môi trường ổn định, kinh
tế mới phát triển được. Lý Quang Diệu đã
từng nói rằng chúng ta không thể không coi
ổn định chinh trị là nhiệm vụ hàng đầu. Trên
cơ sở ổn định chính trị, cùng với bước tiến
về giáo dục và kinh tế, Xingapo sẽ từng
bước thực hành dân chủ.
Thủ tướng Goh Chok Tong chỉ ra:
"Điều kiện tiên quyết cho sự phồn vinh tiến
bộ là sự ổn định chính trị của đất nước", "chỉ
có ổn định, các nhà đầu tư mới có lòng tin".
Các nhà lãnh đạo Xingapo coi ổn định chính
trị lâu dài là một bí quyết quan trọng cho
việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, lấy "chế độ chỉ có một đảng
lớn" thay thế cho nền chính trị đa đảng hoặc
nền chính trị lưỡng đảng. Xingapo cũng đã
kế thừa chế độ chính trị bầu cử dân chủ và
cạnh tranh nhiều đảng của phương Tây, cho
rằng chế độ đó có thể đòi hỏi đảng cầm
quyền phải hăng hái lo toan việc trị nước
yên dân, làm tốt đươc điều đó mới có được
sự tín nhiệm và uỷ thác của nhân dân.
Nhưng chế độ đó củng có những hạn chế
nhất định. Do ảnh hưởng của các nhân tố,
nhân dân thường không thể hành xử đúng
đắn quyền bỏ phiếu của mình, dẫn đến việc
những kẻ đầu cơ lên nắm quyền, ảnh hưởng
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
122
đến ổn định chính trị. Vì thế, Lý Quang
Diệu và các nhà lãnh đạo khác không chủ
trương thực hành chế độ đảng đối lập, mà
thiết lập "chế độ chỉ có một đảng lớn".
Để duy trì cục diện chỉ có một đảng
lớn, Đảng hành động nhân dân một mặt lợi
dụng sự chấp chính để củng cố địa vị thống
trị của mình, hạn chế sự tham chính của các
đảng đối lập; mặt khác, phát huy những
thành tựu to lớn đã đạt được và tác phong
liêm khiết để giành được sự tín nhiệm và
phiếu bầu của nhân dân.
Từ ngày độc lập đến nay, Đảng hành
động nhân dân luôn nắm giữ chính quyền.
Khi nói đến việc vì sao phải thực hành chế
độ chỉ có một đảng lớn, Goh Chok Tong đã
giải thích: Nếu mấy chính đảng chủ yếu của
Xingapo đều có trình độ tương đương, đảng
nào củng muốn được cầm quyền, nếu
Xingapo xuất hiện một chính phủ liên hợp,
liên tục nội bộ chính phủ tranh cãi không
dứt, "thì sẽ là một cuộc biến động lớn".
Ngoài ra, ở Xingapo còn có các đảng như
Đảng công nhân, Đảng dân chủ, Đảng đoàn
kết dân tộc, Đảng nhân dân Xingapo, Đảng
hành động dân chủ.
Thứ ba, thực hành nền dân chủ
chính trị phải phù hợp với truyền thống dân
tộc. Xingapo phản đối quyết liệt việc bê
nguyên xi chế độ dân chủ phương Tây.
Theo Lý Quang Diệu, nền dân chủ phương
Đông thì nhấn mạnh đến phục tùng tập thể
và nhà nước; nhấn mạnh sức hội tụ, tinh
thần đoàn kết và có sự hoá thân của chế độ
gia trưởng. Còn nền dân chủ phương Tây
quá chú ý đến lợi ích cá nhân mà xem nhẹ
lợi ích toàn thể của xã hội. Đương nhiên các
nhà lãnh đạo Xingapo cũng không hoàn
toàn phủ định nền chính trị dân chủ kiểu
phương Tây và cho rằng, nếu điều kiện chín
muồi thì có thể áp dụng một số nội dung tích
cực của nó vào thực tế đất nước.
Như vậy, thực tiễn xây dựng
"CNXH dân chủ của Xingapo" phải nói là
khá thành công. Điều đó cho ta thấy, mô
hình phát triển của xã hội loài người là rất
phong phú, đa dạng mỗi nước có thể căn cứ
tình hình thực tế của đất nước mình để lựa
chọn mô hình thích hợp./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện thông tin khoa học, Học
viện Chính trị- Quốc gia Hồ Chí Minh, Trào
lưu xã hội dân chủ thời kỳ sau chiến tranh
lạnh, tháng 11/2006.
2. Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia.
3. Ngô Đức Tính (chủ biên), Một số
đảng chính trị trên thế giới, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2001.
4. Bộ Ngoại giao, Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội 1998.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
123
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QÖA TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
CN. Lê Thanh Huyền *
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một nước nông
nghiệp với khoảng trên 70% dân số sống
ở khu vực nông thôn và hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Chính vì
vậy, việc phát triển toàn diện nông
nghiệp, nông thôn nói riêng có một ý
nghĩa vô cùng to lớn đối với sự nghiệp
phát triển chung của đất nước. Kinh
nghiệm của những nền kinh tế mới công
nghiệp hóa thành công cho thấy coi trọng
phát triển nông nghiệp là một trong
những điều kiện quan trọng nhất để đảm
bảo phát triển kinh tế - xã hội nhanh và
bền vững.
Trong quá trình lãnh đạo đất nước,
với nhận thức sâu sắc về đặc điểm của
nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một
nền nông nghiệp lạc hậu, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn khẳng định tầm quan
trọng của nông nghiệp, nông dân, nông
thôn. Để theo kịp sự phát triển của các
nước trên thế giới, nước ta phải tiến hành
công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại
hóa. Đảng ta đã xác định phấn đấu đến
năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
* Phòng Khoa học và HTQT
Đây là một mục tiêu và định hướng rất cơ
bản, vừa to lớn, vừa nặng nề với nhiều
thử thách. Trong đó vấn đề công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
được đặt ở vị trí rất quan trọng. Vì vậy từ
nhiều năm nay Đảng ta đã chủ trương
thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp, nông
thôn và coi đây là một nội dung quan
trọng có tính quyết định đến thành công
của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
II. NỘI DUNG
2.1. Khái niệm công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
CNH-HĐH nông nghiệp, nông
thôn là quá trình xây dựng cơ sở vật chất,
kĩ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp và nông thôn theo định
hướng sản xuất hàng hoá lớn, hiện đại;
gắn nông nghiệp với công nghiệp và dịch
vụ, cho phép phát huy có hiệu quả cao
mọi nguồn lực và lợi thế của nền nông
nghiệp nhiệt đới, mở rộng giao lưu trong
nước và quốc tế, nhằm nâng cao năng
suất lao động xã hội trong nông nghiệp,
nông thôn; xây dựng nông thôn mới giàu
có, công bằng, dân chủ, văn minh và xã
hội chủ nghĩa. Thực chất CNH, HĐH
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
124
nông nghiệp, nông thôn là quá trình phát
triển nông thôn theo hướng tiến bộ. Điều
đó có nghĩa là không chỉ phát triển công
nghiệp nông thôn mà bao gồm cả việc
phát triển toàn bộ các hoạt động, các lĩnh
vực sản xuất, dịch vụ, và đời sống văn
hoá, tinh thần ở nông thôn phù hợp với
nền sản xuất công nghiệp ở nông thôn và
cả nước nói chung.
2.2. Khái quát thực trạng của
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn trong giai
đoạn hiện nay
Đại hội XI đã khẳng định những
thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội
nói chung, những kết quả đạt được của
nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói
riêng và nhấn mạnh: “Sự phát triển ổn
định trong ngành nông nghiệp, nhất là
sản xuất lương thực đã đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia. Kinh tế nông thôn
và đời sống nông dân được cải thiện hơn
trước. Việc tập trung đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư, phát triển
giống mới có năng suất, chất lượng cao,
phát triển các cụm công nghiệp, làng
nghề, tiểu thủ công nghiệp... đã có tác
động tích cực đến việc sản xuất, tạo việc
làm và xóa đói, giảm nghèo”(1)
. Có thể
khẳng định rằng, thành tựu trong nông
nghiệp, nông dân, nông thôn không chỉ
góp phần quan trọng vào việc ổn định
chính trị-xã hội nông thôn và nâng cao
đời sống nông dân trên phạm vi cả nước,
mà còn ngày càng tạo thêm những tiền
đề vật chất cần thiết, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, cùng với những thành
tựu đạt được, nông nghiệp, nông dân,
nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện
nay cũng còn tồn tại nhiều hạn chế và yếu
kém. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn
chậm. Tình trạng thiếu việc làm còn cao.
Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là
ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều
khó khăn. Xóa đói, giảm nghèo chưa bền
vững, tình trạng tái nghèo cao. Khoảng
cách chênh lệch giàu nghèo còn khá lớn.
Chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe còn thấp, hệ thống y tế và chất
lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng được
yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân,
nhất là đối với người nghèo, đồng bào
vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển chậm,
thiếu đồng bộ, đặc biệt đối với khu vực
đồng bào dân tộc thiểu số. Trình độ phát
triển giữa các vùng cách biệt lớn và có xu
hướng mở rộng. Môi trường ở nhiều nơi
đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên đất đai
chưa được quản lý tốt, khai thác và sử
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
125
dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có
mặt chưa phù hợp.
2. 3. Một số giải pháp thực hiện
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn
Thứ nhất, phát triển nền nông
nghiệp hàng hoá đa dạng, xây dựng các
vùng chuyên canh sản xuất trên quy mô
lớn và từng bước hiện đại hoá.
Dựa vào điều kiện của từng vùng,
từng địa phương về khí hậu, đất đai… và
các ngành truyền thống để thúc đẩy
nhanh tiến độ áp dụng các thành tựu khoa
học, kỹ thuật tạo ra các vùng chuyên canh
sản xuất với quy mô lớn. Tạo ra một dây
chuyền thông suốt từ khâu sản xuất, phân
phối và tiêu thụ sản phẩm. Phát triển,
nâng cao sức cạnh tranh của các sản
phẩm. Từng bước phát triển các ngành
nghề mới có khả năng, coi trọng các
ngành sản xuất nông sản quý hiếm có lợi
thế để phát huy tiềm lực đa dạng của nền
nông nghiệp. Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng đặt chỉ tiêu trong 5 năm (giai đoạn
2011-2015): “Phấn đấu giá trị gia tăng
nông nghiệp bình quân 5 năm đạt 2,6 –
3%/năm. Tỉ trọng lao động nông nghiệp
năm 2015 chiếm 40 – 41% lao động xã
hội. Thu nhập của người dân nông thôn
tăng 1,8 – 2 lần so với năm 2010”(2)
.
Thứ hai, thúc đẩy công nghiệp hoá
- hiện đại hoá nông nghiệp
Tiếp tục phát triển và hoàn thiện
về cơ bản hệ thống thuỷ lợi ngăn mặn,
giữ ngọt, kiểm soát lũ, đảm bảo tưới tiêu,
an toàn, chủ động trong sản xuất nông
nghiệp (kể cả cây công nghiệp, nuôi
trồng thuỷ sản) và đời sống nông dân.
Đối với những khu vực thường bị bão,
lũ, cùng với các giải pháp hạn chế thiên
tai, phải điều chỉnh quy hoạch sản xuất
và dân cư thích nghi với điều kiện thiên
nhiên. Nâng cao năng lực dự báo thời tiết
và khả năng chủ động phòng chống thiên
tai, hạn chế thiệt hại. Tới năm 2020 hoàn
thành cơ bản việc xây dựng các công
trình tưới tiêu nước cho các vùng trồng
lúa, tưới nước và tiêu úng cho 2 triệu ha
rau màu.
Phát triển hệ thống đường giao
thông chất lượng tốt tới các tụ điểm công
nghiệp nông thôn và trong các vùng
chuyên canh tập trung. Từng bước làm
đường tới những xã chưa có đường ôtô
tới trung tâm xã, nâng cấp hệ thống
đường giao thông nông thôn, các tuyến
quốc lộ nối với các vùng trong nước
quốc tế; nâng cấp một số cảng biển, sân
bay để tạo điều kiện thuận lợi cho việc
giao thông, vận chuyển. Phát triển mạng
lưới cung cấp điện ở nông thôn, đảm bảo
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
126
đáp ứng yêu cầu về điện của các ngành
sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp
ở nông thôn. Nhà nước tập trung đầu tư
để nhanh chóng hoàn thành phủ sóng
phát thanh truyền hình, phát triển mạng
điện thoại, đa dạng hoá và hỗ trợ các
hình thức đưa thông tin tới người dân,
nhất là các thông tin về thị trường và
công nghệ.
Áp dụng nhanh các thành tựu của
cách mạng sinh học để tạo và nhân
nhanh giống cây trồng, vật nuôi, đặc biệt
là áp dụng các thành tựu về giống có ưu
thế lai. Đưa nhanh công nghệ mới vào
sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến,
vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp, ứng dụng công nghệ sạch trong
nuôi, trồng và chế biến rau quả, thực
phẩm. Hạn chế sử dụng hoá chất độc hại
trong nông nghiệp. Xây dựng một số khu
vực công nghệ cao. Tăng cường đội ngũ,
nâng cao năng lực phát huy tác dụng của
cán bộ khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư.
Thứ ba, phát triển công nghiệp,
dịch vụ nông thôn
Về chế biến nông sản: Công
nghiệp chế biến nông sản tập trung vào
những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có
thế mạnh cạnh tranh trên thế giới, đem
lại kim ngạch xuất khẩu lớn cho đất nước
như gạo, cà phê, cao su, chè, hạt điều.
Chuyển một phần doanh nghiệp chế biến
nông sản từ thành phố về nông thôn.
“Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp
nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng hóa
lớn với năng suất, chất lượng, hiệu quả
và khả năng cạnh tranh cao. Tăng nhanh
sản lượng và kim ngạch xuất khẩu nông
sản, nâng cao thu nhập và đời sống nông
dân, bảo đảm vững chắc an ninh lương
thực quốc gia. Xây dựng mô hình sản
xuất kinh doanh phù hợp với từng loại
cây, con. Khuyến khích tập trung ruộng
đất; phát triển trang trại, doanh nghiệp
nông nghiệp phù hợp về quy mô và điều
kiện của từng vùng. Gắn kết chặt chẽ,
hài hoà lợi ích giữa người sản xuất,
người chế biến và người tiêu thụ, giữa
việc áp dụng kỹ thuật và công nghệ với
tổ chức sản xuất, giữa phát triển nông
nghiệp với xây dựng nông thôn mới”.(3)
Về chế biến lâm sản: Cần phát
triển ngành công nghiệp chế biến lâm
sản của nước ta để tới năm 2020 đạt
ngang tầm với các nước ASEAN và sau
đó là các nước châu Á khác. Tiếp tục tạo
điều kiện thuận lợi để khuyến khích làm
các mặt hàng thủ công, mỹ nghệ, sử
dụng ít nguyên liệu, nhiều lao động, đạt
giá trị cao. “Phát triển lâm nghiệp bền
vững. Quy hoạch và có chính sách phát
triển phù hợp các loại rừng sản xuất,
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
127
rừng phòng hộ và rừng đặc dụng với
chất lượng được nâng cao. Nhà nước
đầu tư và có chính sách đồng bộ để quản
lý và phát triển rừng phòng hộ và rừng
đặc dụng, đồng thời bảo đảm cho người
nhận khoán chăm sóc, bảo vệ rừng có
cuộc sống ổn định. Khuyến khích các tổ
chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh
tế đầu tư trồng rừng sản xuất; gắn trồng
rừng nguyên liệu với công nghiệp chế
biến ngay từ trong quy hoạch và dự án
đầu tư; lấy nguồn thu từ rừng để phát
triển rừng và làm giàu từ rừng”.(4)
Về chế biến thuỷ sản: Tiếp tục
tăng cường trang bị nâng cao chất lượng
sản phẩm của các cơ sở hiện có, đồng
thời mở cửa rộng công suất chế biến.
“Khai thác bền vững, có hiệu quả nguồn
lợi thủy sản, phát triển đánh bắt xa bờ,
gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và
bảo vệ môi trường biển. Phát triển nuôi
trồng thuỷ sản theo quy hoạch, tập trung
vào những sản phẩm có thế mạnh, có giá
trị cao; xây dựng đồng bộ kết cấu hạ
tầng vùng nuôi; đẩy mạnh áp dụng tiến
bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất
và chế biến, nâng cao năng suất, chất
lượng, sức cạnh tranh và đáp ứng yêu
cầu vệ sinh, an toàn thực phẩm. Xây
dựng ngành thuỷ sản Việt Nam đạt trình
độ tiên tiến trong khu vực. Quy hoạch và
phát triển có hiệu quả nghề muối, bảo
đảm nhu cầu của đất nước và đời sống
diêm dân”.(5)
Thứ tư, phát triển các ngành công
nghiệp không dùng nguyên liệu là sản
phẩm nông lâm ngư nghiệp
Đẩy mạnh phát triển các ngành
công nghiệp ở nông thôn không sử dụng
nguyên liệu là sản phẩm của nông, lâm,
ngư nghiệp nhưng sử dụng nhiều lao
động và vật liệu tại chỗ như: dệt may
mặc, sành sứ, thuỷ tinh. Nhà nước có
chính sách hỗ trợ tích cực để khôi phục
các làng nghề, khuyến khích các hộ gia
đình bỏ vốn đầu tư vào các loại ngành
nghề đa dạng khác bao gồm: chế biến
nông, lâm thuỷ sản, sản xuất gốm, sứ.
Phát triển các làng nghề truyền thống để
khai thác các tiềm năng kinh tế của các
địa phương và phù hợp với xu hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
theo hướng CNH-HĐH. Phá thế độc
canh trong nông nghiệp, đa dạng hoá sản
phẩm nông nghiệp hình thành những
vùng chuyên canh quy mô lớn nhằm đáp
ứng nhu cầu nguyên liệu cho công
nghiệp nhẹ và xuất khẩu. Có chính sách
ưu đãi để thu hút đầu tư của mọi thành
phần kinh tế vào phát triển công nghiệp
và dịch vụ ở nông thôn. Trên cơ sở
chuyển một bộ phận lao động nông
nghiệp sang các ngành nghề khác, từng
bước tăng quỹ đất canh tác cho mỗi lao
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
128
động nông nghiệp, mở rộng quy mô sản
xuất, tăng việc làm và thu nhập cho dân
cư nông thôn.
Thứ năm, giảm bớt tỷ trọng lao động làm
nông nghiệp
Có thể xem đây là một khâu, một
tiêu chí quan trọng bậc nhất để thực hiện
và đánh giá kết quả quá trình CNH ở
nông thôn. Hiện nay, số lao động làm
nông nghiệp còn chiếm trên 62% lao
động toàn xã hội. Với thực tiễn này,
chương trình Chiến lược đã đề ra mục
tiêu đến năm 2020 còn khoảng 25-30%.
Để đạt được mục tiêu đó, phải có thêm
nhiều việc làm phi nông nghiệp được tạo
ra ngay tại khu vực nông thôn và ở
những đô thị vừa và nhỏ nằm rải rác trên
khắp các vùng ngay sát với các làng xóm
nông thôn còn xa các thành phố lớn.
Thứ sáu, đẩy mạnh ứng dụng khoa
học công nghệ trong nông nghiệp và
nông thôn.
CNH-HĐH đất nước đòi hỏi phải
trang bị kỹ thuật cho các ngành của nền
kinh tế theo hướng hiện đại.Do đó phát
triển kinh tế nông thôn trong điều kiện
CNH - HĐH cần phải đẩy mạnh ứng
dụng của tiến bộ KHCN vào sản xuất
nông nghiệp. Chú trọng tạo và sử dụng
giống cây con có năng suất chất lượng
và giá trị cao. Đưa nhanh công nghệ mới
vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế
biến, vận chuyển, và tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp; ứng dụng công nghệ sạch
trong nuôi trồng và chế biến rau quả,
thực phẩm. Hạn chế việc sử dụng hoá
chất độc hại trong nông nghiệp. Xây
dựng một số khu nông nghiệp công nghệ
cao. Tăng cường đội ngũ cán bộ khoa
học và kỹ thuật viên bám sát đồng
ruộng, huấn luyện về kỹ năng cho người
nông dân. Tổ chức các công việc này rất
thiết thực, cụ thể và có nguồn kinh phí
hỗ trợ. Do đó cần có sự hỗ trợ tối đa của
Chính phủ, các cơ quan khoa học, chính
quyền cấp xã, và càng tốt hơn là có sự
hợp tác quốc tế (chuyên gia, tài trợ...)
Thứ bảy, đào tạo nguồn nhân lực
cho nông nghiệp nông thôn.
Trong tất cả các lĩnh vực nhân tố
con người luôn giữ vai trò quyết định.
Nguồn nhân lực ở nông thôn có đặc điểm
là trình độ học vấn rất thấp và phần lớn
người lao động không qua đào tạo là cản
trở lớn trong quá trình CNH-HĐH nông
nghiệp nông thôn. Do khả năng và nhận
thức của cư dân nông thôn có hạn việc
đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp
nông thôn phải có sự trợ giúp của nhà
nước. Nhà nước phải có chính sách giáo
dục đào tạo riêng cho nông nghiệp nông
thôn đặc biệt cho vùng sâu vùng xa biên
giới hải đảo. Chính sách đào tạo không
chỉ phải tính đến trình độ đầu vào, ưu đãi
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
129
về tài chính cho khu vực nông nghiệp,
nông thôn…mà còn phải tính tới nhu cầu
về số lượng, chất lượng, cơ cấu lao động
được đào tạo trong hiện tại và tương
lai…
Thứ tám, xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế -xã hội ở nông thôn
Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở
nông thôn bao gồm: hệ thống đường sá,
thông tin, hệ thống thuỷ lợi, đường dây,
trạm biến thế, trạm giống, trường học,
nhà văn hoá…hết sức cần thiết cho sự
phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cần
quy hoạch hợp lý và nâng cao hiệu quả
sử dụng quỹ đất, nguồn nước, vốn, rừng
gắn với bảo vệ môi trường. Quy hoạch
các khu dân cư, phát triển các thị trấn, thị
tứ, các điểm văn hoá ở làng xã, nâng cao
đời sống vật chất văn hoá tinh thần, xây
dựng cuộc sống dân chủ công bằng văn
minh ở nông thôn.
III. KẾT LUẬN
Phát triển nông nghiệp, nông thôn
luôn là một vấn đề mà Đảng và Nhà nước
hết sức quan tâm bởi Việt Nam là một
nước nông nghiệp, muốn phát triển đất
nước tới năm 2020 cơ bản trở thành một
nước công nghiệp thì trước hết phải phát
triển các tiềm lực sẵn có của mình. Chúng
ta có thể tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo
của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà
nước, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng và
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
nói chung sẽ đạt được những thành tựu to
lớn, đạt được mục tiêu mà đại hội Đảng
XI đã đề ra.
CHÚ THÍCH
1. (1), (2), (3), (4), (5): Tìm hiểu Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc và Điều
lệ Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI
(2011), Nxb Thời Đại, tr.111-112, 146,
84, 85.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
130
QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG THEO ISO 9000
VỚI VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
Th.S Đinh Chung Thành *
Sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo của
nước ta trong những năm qua đã đạt được
những thành tựu đáng ghi nhận: Cả nước
đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học,
đang triển khai phổ cập giáo dục trung
học cơ sở; hệ thống giáo dục từ phổ thông
đến đại học ngày càng hoàn thiện và đang
phát triển theo hướng đa dạng hoá, đáp
ứng yêu cầu học tập ngày càng cao của xã
hội. Với 22 triệu người đi học trên tổng số
80 triệu dân, Việt Nam đã được UNESCO
xếp thứ 64/127 nước về phát triển giáo
dục. Tuy nhiên, vấn đề chất lượng giáo
dục lại đang là thách thức lớn đối với toàn
xã hội và Ngành Giáo dục nước ta. Trước
yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước
trong xu thế toàn cầu hoá và bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế, việc nâng cao chất
lượng giáo dục đã trở thành một đòi hỏi
bức bách và ngày càng khẩn thiết. Xây
dựng Hệ thống Quản lý Chất lượng giáo
dục theo ISO 9000 đang được các nhà
quản lý giáo dục quan tâm và được coi là
một trong những giải pháp quan trọng
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn về hệ
thống quản lý chất lượng do Tổ chức Tiêu
chuẩn hóa Quốc tế ban hành, có thể áp
dụng cho mọi đối tượng, kể cả dịch vụ
* Phòng Thanh tra - KT - KĐCL
hành chính. Việc áp dụng ISO 9000 vào
dịch vụ hành chính ở một số nước trên
thế giới trong nhiều năm qua đã tạo được
cách làm việc khoa học, loại bỏ được
nhiều thủ tục rườm rà, rút ngắn thời gian
và giảm chi phí, đồng thời làm cho năng
lực, trách nhiệm cũng như ý thức phục
vụ của công chức nâng lên rõ rệt, quan
hệ giữa các cơ quan nhà nước với dân
được cải thiện…Chính nhờ những tác
dụng ấy mà ISO 9000 hiện nay được
xem là một trong những giải pháp hay và
cần thiết để nâng cao hiệu lực và hiệu
quả quản lý nhà nước, đảm bảo chất
lượng dịch vụ hành chính, giảm nhẹ bộ
máy và nâng cao năng lực đội ngũ công
chức. Những năm gần đây tiêu chuẩn
quốc tế ISO 9000 đã được tuyên truyền
và vận động áp dụng mạnh mẽ ở nước ta.
Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế
(Tiếng Anh: International Organization
for Standardisation - IOS) được gọi theo
tên viết tắt là ISO. Chữ ISO có nguồn
gốc từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là tương
đồng, bình đẳng, hàm nghĩa: những tiêu
chuẩn của tổ chức này có giá trị tương
đương nhau giữa các quốc gia trên toàn
thế giới. ISO ra đời từ năm 1947. Trụ sở
chính của ISO đặt tại Geneve (Thụy Sỹ).
Ngôn ngữ sử dụng là tiếng Anh, Pháp,
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
131
Tây Ban Nha. Ban đầu với tư cách là một
tổ chức của Liên hợp quốc nhằm khắc
phục sự khác biệt trong nhận thức về
chất lượng giữa các nước trên cơ sở phát
triển các tiêu chuẩn quốc tế về kỹ thuật
và đảm bảo thực hành đảm bảo chất
lượng theo hệ thống tiêu chuẩn đó. Tới
nay, ISO đã có trên 140 nước thành viên
chấp nhận ISO 9000 như tiêu chuẩn chất
lượng quốc gia; trong đó Việt Nam là
thành viên chính thức từ năm 1977 và là
thành viên thứ 72 của ISO. Cơ quan đại
diện là Tổng cục tiêu chuẩn – Đo lường -
Chất lượng thuộc Bộ Khoa học và Công
nghệ.
Khả năng ứng dụng của ISO
9000 trong giáo dục đào tạo
Những hướng dẫn của ISO 9000
mang tính khái quát cao nên có khả năng
ứng dụng rộng rãi. Đã có trên 40 ngành
ứng dụng phương thức quản lý này.
Riêng trong lĩnh vực giáo dục, hiện trên
thế giới có trên 500 trường và cơ sở giáo
dục thực hiện quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn ISO 9000, trong đó có các
trường nổi tiếng như Harvard (Mỹ),
Cambridge (Anh), Chulalongkorn (Thái
lan), một số trường đại học ở Ấn độ...
Gần đây, giáo dục Trung Quốc đã đưa
vào ứng dụng ở gần 20 trường học.
Tại Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật
Nghệ An, cùng với việc thực hiện kiểm
định định chất lượng nhà trường và
chương trình đào tạo, việc áp dụng hệ
thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
ISO sẽ nâng cao một bước về trình độ
quản lý, đồng thời nâng cao chất lượng
công việc của từng cá nhân để đảm bảo
chất lượng “sản phẩm” tốt nhất; xây
dựng Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật
Nghệ An ngày càng ổn định và phát
triển. cùng với việc thực hiện kiểm định
định chất lượng nhà trường và chương
trình đào tạo, việc áp dụng hệ thống quản
lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000
được coi là một công cụ quan trọng hỗ
trợ cho hoạt động quản trị trường theo
phương pháp hiện đại nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa
học.
Khác với các quá trình sản xuất
công nghiệp, trong môi trường giáo dục,
đào tạo có những đặc điểm riêng, nó
cung ứng những sản phẩm tiêu dùng
mang tính phục vụ. Nó lấy “các yếu tố
đầu vào” như chương trình, nội dung
giảng dạy, cơ sở vật chất - trang thiết bị,
đội ngũ giáo viên, học sinh...và một loạt
các hoạt động có tính tuần hoàn như
chuẩn bị bài giảng, chuẩn bị thiết bị thí
nghiệm, lên lớp, kiểm tra đánh giá...làm
nội dung. Ứng dụng ISO 9000 là nhằm
xây dựng một hệ thống quản lý chất
lượng có hiệu quả dựa trên cơ sở kết hợp
hệ thống chuẩn mực chung của ngành,
của quốc gia với những tiêu chuẩn chất
lượng riêng phù hợp với đặc điểm của
từng cơ sở giáo dục, từng nhà trường.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
132
Trong tình hình hiện nay, quá trình
hội nhập quốc tế đang đặt ra những yêu
cầu gay gắt đối với việc nâng cao chất
lượng giáo dục các cấp học, bậc học.
Trong khi đó, chất lượng giáo dục nước
ta đang có nhiều vấn đề “bất cập và yếu
kém” (NQTƯ 2, Khoá VIII). Trong khi
việc xem xét, đánh giá chất lượng chỉ tập
trung vào kết quả cuối cùng còn việc
kiểm soát diễn biến chất lượng của toàn
bộ quá trình giáo dục lại bị xem nhẹ thì
việc ứng dụng ISO 9000 và các phương
thức quản lý chất lượng tiên tiến khác có
thể coi là giải pháp đột phá làm thay đổi
tình hình. Nhờ đó, các chức năng quản lý
sẽ thực sự hướng vào chất lượng và việc
đổi mới đánh giá chất lượng giáo dục.
Những lợi ích cơ bản khi nhà
trƣờng áp dụng ISO 9000 là:
+ Gia tăng khả năng đáp ứng linh
hoạt và nhanh chóng trước các cơ hội
của thị trường giáo dục.
+ Gia tăng hiệu lực khi sử dụng các
nguồn lực của nhà trường để nâng cao sự
thoả mãn của khách hàng giáo dục.
+ Xây dựng và giữ gìn uy tín nhà
trường, tạo ra sự tín nhiệm dài lâu với
khách hàng
+ Mọi người sẽ hiểu và có động cơ,
được động viên để hướng tới quá trình
những mục tiêu của tổ chức.
+ Các hoạt động giáo dục được
định chuẩn, định lượng, được lựa chọn
và hoạch định, thực hiện một cách suôn
sẻ, thuận lợi theo sự lãnh đạo thống nhất.
+ Giảm tối đa những bất cập, sai
lệch về thông tin giữa các cấp lãnh đạo,
quản lý trong nhà trường.
+ Mọi cán bộ, giáo viên trong nhà
trường được động viên, kích thích động
cơ, cộng đồng trách nhiệm cũng như tình
cảm trong việc cam kết tham gia các hoạt
động giáo dục của nhà trường.
+ Mọi cán bộ, giáo viên có sự sáng
tạo không ngừng để cải tiến, đổi mới
phương pháp tiến hành các hoạt động,
nhất là hoạt động đổi mới phương pháp
giảng dạy vì các mục tiêu chất lượng của
nhà trường.
+ Mọi cán bộ, giáo viên hăng hái
tham gia và đóng góp vào việc cải tiến
liên tục các công việc, hoạt động của bản
thân và của nhà trường.
+ Mọi cán bộ, giáo viên sẽ có sự
chia sẻ trách nhiệm về những thành quả
đạt được.
+ Chi phí cho các hoạt động GD sẽ
thấp hơn và việc sử dụng những nguồn
lực có hiệu quả hơn.
+ Các kết quả được dự đoán trước
và trong quá trình hình thành có thể duy
trì chất lượng một cách ổn định, chắc
chắn, đồng thời cải tiến để các sản phẩm
không ngừng nâng cao chất lượng.
+ Có thể tập trung và ưu tiên cho
các cơ hội cải tiến, đổi mới phương thức
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
133
tiến hành các hoạt động nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục.
+ Tạo nên sự tin tưởng đối với các
bên quan tâm về sự ổn định, tính hiệu lực
và hiệu quả của tổ chức nhà trường.
+ Tạo ra lợi thế cho sự tiến triển
các công việc, các hoạt động nhằm đạt
chất lượng và hiệu quả giáo dục, thông
qua quá trình cải tiến các năng lực của tổ
chức nhà trường.
+ Tạo ra tính linh hoạt, tính thích
ứng để đáp ứng nhanh và hiệu quả trước
những thay đổi và yêu cầu ngày càng cao
của sự phát triển KT-XH.
+ Tăng cường khả năng xem xét,
thách thức và thay đổi các ý kiến và
quyết định quản lý trong nhà trường,
nhất là các quyết định quản lý nhằm
nâng cao chất lượng các hoạt động
chuyên môn .
Tiếp cận và ứng dụng ISO 9000
vào đổi mới công tác quản lý nhà trường
ở nước ta là một quá trình gồm nhiều
bước được tổ chức một cách chặt chẽ. Từ
kinh nghiệm của các tổ chức, các trường
đã ứng dụng ISO, xin đề xuất lộ trình
ứng dụng ISO 9000 vào Trường CĐ
Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An gồm các
bước sau:
1) Xây dựng sự đồng thuận giữa
lãnh đạo nhà trường và cán bộ giáo viên
về vấn đề chất lượng: tiên quyết là đội
ngũ phải có nhận thức thấu suốt về ý
nghĩa và sự cần thiết phải nâng cao chất
lượng giáo dục của nhà trường, tổ chức
học tập về quản lý chất lượng, tiến hành
cam kết giữa Ban giám hiệu và tập thể
cán bộ, giáo viên về việc ứng dụng quản
lý chất lượng trong nhà trường.
2) Thành lập các bộ phận tổ chức
thực hiện ISO 9000: thành lập ban chỉ
đạo chất lượng và các bộ phận chức năng
về QLCL trên cơ sở cơ cấu tổ chức đã có
như tổ nhóm chuyên môn và các ban, các
bộ phận trong nhà trường, quy định
nhiệm vụ, trách nhiệm.
3) Đào tạo cho cán bộ, giáo viên
trong nhà trường về kiến thức và kỹ
năng cơ bản để thực hiện ISO 9000 với
nội dung, yêu cầu và thời gian khác nhau
theo từng đối tượng.
Với đặc điểm của ISO 9000 là các
yêu cầu mang tính khái quát cao, hướng
tới “đảm bảo chất lượng”, “thoả mãn
khách hàng” với cách tiếp cận và phương
thức quản lý theo quá trình, có thể thấy
việc vận dụng, áp dụng ISO 9000 vào
lĩnh vực giáo dục để nâng cao chất lượng
giáo dục là hoàn toàn có tính khả thi. Cơ
sở lý luận và cơ sở thực tiễn đều đã cho
thấy tính khả thi này. Còn vấn đề hiệu
quả nhanh hay chậm, cao hay thấp, đột
phá hay nửa vời... thì lại phụ thuộc rất
nhiều vào nhận thức, quyết tâm, kinh phí
và đặc biệt là cách “làm ISO 9000” của
lãnh đạo, Ban giám hiệu nhà trường.
Cuối cùng, cần thấy rằng, ứng dụng
ISO 9000 vào giáo dục không phải là
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
134
chuyện ngày một ngày hai mà là cả quá
trình không ít khó khăn. Bắt đầu từ việc
thay đổi nhận thức của cả chủ thể và đối
tượng quản lý về chất lượng, từ việc học
tập nhận thức về ISO và các phương
pháp quản lý chất lượng khác đến quá
trình cùng nhau từng bước thiết lập mô
thức quản lý mới và xác lập cơ chế để nó
có thể vận hành. Nhưng điều tiên quyết
là tất cả phải dựa trên sự vận động nội
tại, sự đồng tâm nhất trí của đội ngũ cán
bộ quản lý và giáo viên khi thấy được sự
cần thiết của việc tiếp thu những yếu tố
tinh hoa, mới mẻ của khoa học quản lý
trên thế giới để đổi mới mạnh mẽ hơn
công tác quản lý, nâng cao chất lượng
giáo dục theo những định hướng mà các
nghị quyết của Đảng và Chiến lược phát
triển giáo dục của Chính phủ đã đề ra./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Quang Huân (2004). Tiếp cận
ISO 9000 trong đổi mới quản lý giáo dục
phổ thông ở nước ta. Tạp chí Giáo dục,
số 96.
2. Phạm Quang Huân (2004). Triết lý
mới trong quản lý chất lượng giáo dục.
T/c Thông tin Khoa học giáo dục. Viện
CL và CT giáo dục, số 112.
3. Tiêu chuẩn Việt Nam (2001), Bộ Tiêu
chuẩn Việt Nam TCVN ISO 9000. NXB
Xây dựng.
4. Nguyễn Đức Chính (2003), Kiểm định
chất lượng giáo dục đại học. NXB Đại
học quốc gia Hà Nội.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
135
SỬ DỤNG EXCEL ĐỂ QUẢN LÝ VẬT TƢ
Th.S Trịnh Sơn Hải *
GV khoa Cơ sở - Cơ bản
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc quản lý vật tư ở các doanh
nghiệp là một phần việc làm tốn nhiều thời
gian, công sức của các nhân viên kế toán.
Khai thác, sử dụng Excel trong quản lý vật
tư giúp họ tiết kiệm rất nhiều thời gian công
sức. Bài viết này giới thiệu cách sử dụng
Excel để nhanh chóng tính toán, tạo các
bảng tổng hợp, bảng chi tiết của từng loại
vật tư trong quản lý vật tư.
II. NỘI DUNG
Muốn sử dụng excel để tính toán, tạo
các bảng tổng hợp, bảng chi tiết của từng
loại vật tư thì trước hết chúng ta sẽ
căn cứ vào thực tế hoạt động của doanh
nghiệp để xây dựng bảng mã vật tư, hàng
hóa: Ta chọn một bảng tính của tệp – chẳng
hạn Sheet1, đổi tên nó thành bảng tính
DMVT (Danh mục vật tư), bảng này có các
cột Mã VT, Tên VT, ĐVT. Với chú ý mỗi
một vật tư có mã riêng không trùng nhau .
Sau đo chung ta chon bang tinh khac đôi tên
nó thành TONDAU (Tôn đâu). Bảng này có
các cột Mã VT, Tên VT, Sô lương, Thành
tiên. Tiến hành nhập dữ liệu vào các bảng.
Để dễ hình dung, chúng tôi sẽ lấy số liệu gia
đinh như sau:
BẢNG DANH MỤC VẬT TƯ
Mã VT Tên vật tư ĐVT
ST745 Sắt tấm Kg
GC825 Gang Kg
TT060 Thép Kg
CP400 Xi măng P400 Tấn
CP200 Xi măng P200 Tấn
CT100 Xi măng trắng Tấn
GT010 Gạch thẻ Viên
GK019 Gạch khía Viên
TD012 Tấm đan Tấm
TỒN ĐẦU KỲ
Mã VT Tên vât tư Sô lương Đơn giá Th.tiền
ST745 Sắt tấm 20 3,000 60,000
GC825 Gang 50 610 30,500
TT060 Thép 200 1,700 340,000
CP400 Xi măng P400 4 2,200,000 8,800,000
CP200 Xi măng P200 10 1,000,000 10,000,000
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
136
CT100 Xi măng trắng 2 4,200,000 8,400,000
GT010 Gạch thẻ 3000 1,300 3,900,000
GK019 Gạch khía 950 2,000 1,900,000
TD012 Tấm đan 30 12,000 360,000
Chúng ta tiếp tục tạo bảng
NHAPXUAT (Nhâp xuât ) để cập nhật
nhưng lân nhâp xuât trong ky. Bảng này có
nhưng côt: Ngày, Mã VT, Tên VT, SLNhap,
Giá nhập , Tiền nhập, SLXuat, Giá xuất,
Tiền Xuất. Giả sử có số liệu những lần nhập
xuât như sau:
NHẬP XUẤT VẬT TƯ (Tháng 1 năm 2012)
Ngày Mã VT Tên VT SLNhap Giá nhập Tiền nhập SLXuat Giá
xuất
Tiền
Xuất
01/01 TD012 Tấm đan 25 12,000 300,000
01/01 ST745 Sắt tấm 400 3000 1,200,000
01/01 CP400 XM P400 12 2,100,000 25,200,000
01/01 CP200 XM P200 20 1,000,000 20,000,000
02/01 GC825 Gang 80 600 48,000
02/01 TT060 Thép 2,000 1,800 3,600,000
02/01 CP400 XM P400 - 40
02/01 CP200 XM P200 12 1,100,000 13,200,000
02/01 CT100 XM trắng 22 4,200,000 92,400,000
04/01 TD012 Tấm đan -
04/01 GK019 Gạch
khía
7000 2000 14,000,000
04/01 TD012 Tấm đan -
05/01 GT010 Gạch thẻ 7000 1500 10,500,000
05/01 GK019 Gạchkhía - 2000
05/01 TD012 Tấm đan 60 12,000 720,000
07/01 GT010 Gạch thẻ - 6000
07/01 CP400 XM P400 - 20
07/01 GT010 Gạch thẻ 2000 1200 2,400,000
07/01 GT010 Gạch thẻ - 5000
07/01 CT100 XM trắng - 15
07/01 ST745 Sắt tấm - 300
07/01 GC825 Gang - 40
10/01 TD012 Tấm đan -
10/01 GK019 Gạchkhía - 4000
10/01 TT060 Thép 2,500 1,700 4,250,000
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
137
10/01 CT100 XM trắng - 8
10/01 TD012 Tấm đan 50 13,000 650,000
15/01 ST745 Sắt tấm 700 3100 2,170,000
15/01 GC825 Gang 40 620 24,800
15/01 TT060 Thép - 1,000
18/01 ST745 Sắt tấm - 500
18/01 TT060 Thép 3,000 1,900 5,700,000
18/01 CP200 XM P200 - 5
18/01 CP400 XM P400 10 2,100,000 21,000,000
18/01 TT060 Thép - 1,400
18/01 CP200 XM P200 15 1,050,000 15,750,000
18/01 GK019 Gạchkhía 3000 2100 6,300,000
20/01 CP400 XM P400 - 18
20/01 CP200 XM P200 - 21
22/01 GC825 Gang 60 650 39,000
22/01 GK019 Gạchkhía - 5000
22/01 TT060 Thép 3,200 2,100 6,720,000
22/01 CT100 XM trắng - 23
22/01 GC825 Gang - 50
22/01 TT060 Thép - 500
22/01 GK019 Gạchkhía 6000 2200 13,200,000
26/01 CT100 XM trắng 40 4,200,000 168,000,000
26/01 GT010 Gạch thẻ 4000 1400 5,600,000
28/01 GK019 Gạchkhía 4500 2000 9,000,000
28/01 TT060 Thép 1,000 1,700 1,700,000
28/01 TT060 Thép - 1,500
28/01 CT100 XM trắng 10 4,250,000 42,500,000
28/01 TD012 Tấm đan 65 14,000 910,000
28/01 ST745 Sắt tấm 1000 3200 3,200,000
30/01 GC825 Gang 50 610 30,500
30/01 TT060 Thép 1,200 2,300 2,760,000
30/01 CT100 XM trắng - 16
30/01 CP400 XM P400 60 2,200,000 132,000,000
30/01 TT060 Thép - 600
30/01 CP200 XM P200 25 1,200,000 30,000,000
30/01 GK019 Gạchkhía - 3000
30/01 CP400 XM P400 6 2,300,000 13,800,000
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
138
Phần việc nhập dữ liệu đã xong,
chúng ta tiến hành làm các sổ:
Để tiện sử dụng, ta chọn các vùng dữ
liệu cần thiêt và tiến hành đặt tên cho chúng.
Sau khi đã đặt tên các vùng dữ liệu. Chúng
ta làm bảng tổng hợp nhập – xuất vật tư.
Chọn bảng tính tiếp theo, đổi tên là
TongHopVT (Tổng hợp vật tư). Tạo mẫu
sổ:
BẢNG KÊ TỔNG HỢP NHẬP - XUẤT - TỒN KHO VẬT TƯ (Tháng 1 năm 2012)
Mã
VT Tồn đầu tháng
Nhập trong
tháng Xuất trong tháng Tồn cuối tháng
SL Th.Tiền SL Th.Tiền SL Đơn giá
xuất Th.tiền SL Th.tiền
Để đưa số liệu 2 cột Tồn đầu tháng, ta chỉ
cần nhập công thức =
VLOOKUP(A6,tondau,3,0) và =
VLOOKUP(A6,tondau,5,0) vào 2 ô đầu cột
rồi sao chép công thức xuống; công thức
=SUMIF(mavt,A6,slnhap) và
=SUMIF(mavt,A6,tiennhap) sẽ giúp ta
nhanh chóng hợp có số liệu tổng của 2 cột
Nhập trong tháng về Số lượng và Thành
tiền; Tương tự ta cũng sẽ có số liệu cột SL
xuất trong tháng, với cột Đơn giá xuất thì ta
sử dụng công thức tính đơn giá bình quân
gia quyền, thành tiền bằng SL nhân Đơn giá;
Cuối cùng ta tính các cột Tồn cuối tháng.
Bảng Tổng hợp nhập – xuất đã hoàn thành.
BẢNG KÊ TỔNG HỢP NHẬP - XUẤT - TỒN KHO VẬT TƢ ( Tháng 1 năm 2012)
Mã VT Tồn đầu tháng Nhập trong tháng Xuất trong tháng Tồn cuối tháng
SL Th.Tiền SL Th.Tiền SL
Đơn giá
xuất Th.tiền SL Th.tiền
ST745 20
60,000
2,100
6,570,000 800
3,127
2,501,887
1,320
4,128,113
GC825 50
30,500
230
142,300 90
617
55,543
190
117,257
TT060 200
340,000
12,900
24,730,000 5,000
1,914
9,568,702
8,100
15,501,298
CP400 4
8,800,000
88
192,000,000 78
2,182,609
170,243,478
14
30,556,522
CP200 10
10,000,000
72
78,950,000 26
1,084,756
28,203,659
56
60,746,341
CT100 2
8,400,000
72
302,900,000 62
4,206,757
260,818,919
12
50,481,081
GT010 3000
3,900,000
13,000
18,500,000
11,000
1,400
15,400,000
5,000
7,000,000
K019 950
1,900,000
20,500
42,500,000
14,000
2,070
28,979,021
7,450
15,420,979
TD012 30
360,000
200
2,580,000
-
12,783 -
230
2,940,000
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
139
Thiết lập các công thức của excel, ta
sẽ hoàn thành được các cột còn lại của bảng
tính nhập – xuất. Tiếp theo, ta sẽ làm sổ chi
tiết cho một loại vật tư.
Chọn một bảng tính khác của tệp,
đổi tên là ChitietVT (Chi tiết vật tư), rồi
dùng kiến thức đã học ở phần rút trích dữ
liệu trong Excel (đã học ở phần Tin học ứng
dụng). Ta sẽ có ngay sổ chi tiết của bất kỳ
một loại vật tư nào, chẳng hạn loại vật tư có
mã vt là TT060 (Thép). Khi in dữ liệu,
chúng ta có thể cho ẩn các cột: Mã VT, tên
vật tư, đơn giá, để bảng gọn hơn.
III. Kết quả đạt đƣợc
Việc sử dụng excel trong quản lý vật
tư giúp nhân viên kế toán nhanh chóng tính
toán, tạo được các bảng tổng hợp vật tư
cũng như các bảng chi tiết của từng loại vật
tư. Đặc biệt công thức tính đơn giá xuất đã
giúp họ xác định ngay được đơn giá xuất và
máy tính tự động cập nhật nó vào các bảng
cần thiết. Tuy nhiên, chương trình còn chưa
đầy đủ, hoàn chỉnh, còn thiếu các ràng buộc
dữ liệu. Rất mong nhận được sự góp ý, bổ
sung của các bạn./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Thanh Ngân (1995), Hướng dẫn sử
dụng Microsoft Excel For
Windows, NXB Đồng Nai
2. Cao Bá Thành (2000), Học nhanh Excel
và ứng dụng kế toán, NXB Thanh Niên
3. Bùi Thế Tâm (2004), Giáo trình tin học
văn phòng, NXB Giao thông vận tải
Mã VT SỔ KẾ TOÁN CHI TIẾT VẬT TƯ
TT060 Mã VT: TT060
Tên vật tư: Thép
Tồn đầu SL: 200 Thành tiền: 340,000
Ngày MãVT TênVT SL Nhap Giá nhập Tiền nhập SL Xuat Giá xuất Tiền Xuất
02/01 TT060 Thép 2,000 1,800 3,600,000 1,914 -
10/01 TT060 Thép 2,500 1,700 4,250,000 1,914 -
15/01 TT060 Thép - 1,000 1,914 1,913,740
18/01 TT060 Thép 3,000 1,900 5,700,000 1,914 -
18/01 TT060 Thép - 1,400 1,914 2,679,237
22/01 TT060 Thép 3,200 2,100 6,720,000 1,914 -
22/01 TT060 Thép - 500 1,914 956,870
28/01 TT060 Thép 1,000 1,700 1,700,000 1,914 -
28/01 TT060 Thép - 1,500 1,914 2,870,611
30/01 TT060 Thép 1,200 2,300 2,760,000 1,914 -
30/01 TT060 Thép - 600 1,914 1,148,244
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
140
THỰC TRẠNG COI THI, CHẤM BÀI THI
THỜI GIAN QUA VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
CN Nguyễn Đình Thắng *
Chất lượng đào tạo là kết quả tổng
hợp của nhiều yếu tố, trong đó vấn đề coi
thi, chấm bài thi là khâu quan trọng góp
phần tạo nên kết quả đó. Thế nhưng việc
coi thi chấm bài thời gian qua còn không
ít vấn đề phải bàn tới.
I. Thực trạng
1.1. Vấn đề coi thi
Thực hiện cuộc vận động "nói
không với tiêu cực trong giảng dạy và thi
cử", trong suốt nhiều năm qua ở trường
cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An,
việc tổ chức tuyển sinh, thi tốt nghiệp,
học kỳ và thi lại tương đối nghiêm túc,
giảng viên làm việc đều tay, có trách
nhiệm, đảm bảo công bằng, khách quan
nên đã khắc phục được hiện tượng gửi
gắm, đánh dấu bài, quay cóp, sử dụng
phao thi...v.v..từ đó có tác dụng bắt buộc
học sinh, sinh viên phải lo lắng học
tậpthực sự, không trông chờ, ỉ lại. Tìm
tòi sáng tạo trong học tập, tham khảo tài
liệu, cải tiến phương pháp học tập để đạt
kết quả tốt. Thi cử nghiêm túc công bằng
đã đem lại niềm tin cho người học, tránh
được hiện tượng chạy chọt, xin điểm,
mua điểm... Tuy nhiên bên cạnh những
* GV Tổ Lý luận Chính trị
ưu điểm cơ bản đó thì vấn đề coi thi vẫn
còn có nhưng hạn chế sau đây:
Trước hết là do không nắm vững
quy chế nên khi tiến hành xử lý vi phạm
có trường hợp không đúng với quy định.
Ví dụ: sinh viên mang tài liệu vào phòng
thi, cán bộ coi thi lập biên bản là "khiển
trách" và điều này đồng nghĩ với việc
sinh viên đó bị trừ 25% số điểm bài thi.
Ngược lại có sinh viên chỉ mắc lỗi: trao
đổi bài khi còn mấy phút nữa là hết thời
gian làm bài, cán bộ coi thi lập biên bản
với hình thức "đình chỉ" và kết quả là bài
thi đó bị 0 điểm.
Trong quá trình coi thi, có cán bộ
coi thi lại quá dễ, dẫn đến trong phòng
thi ồn áo, tự do trao đổi bài, xem tài liệu,
cả phòng làm được bài, ra về sớm kết
quả cao. Ngược lại có những cán bộ coi
thi quá nghiêm khắc, nói nhiều cùng với
những hành động thái quá (không cần
thiết) làm cho không khí phòng thi căng
thẳng, ảnh hưởng tới tâm lý sinh viên khi
làm bài...v.v..
Có những sai sót được coi là dễ
khắc phục, vậy mà vẫn diễn ra thường
xuyên: 2 cán bộ coi thi ngồi không đúng
vị trí quy định trong phòng thi, hoặc ngồi
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
141
một chỗ nói chuyện, làm việc riêng, đi
lại uống nước nhiều lần trong một ca thi,
khi không có thanh tra thậm chí còn túm
tụm nói chuyện ngoài hành lang hoặc
gọi, nghe điện thoại. Giám thị kiểm tra
thẻ sinh viên, ngược lại mình không có
thẻ. Việc đổi người coi thi, đi coi thi
muộn vẫn chưa được khắc phục, nhất là
sai sót và lỗi ở đề thi.
Một số phòng thi, cán bộ coi thi
phát đề thi trắc nghiệm sớm hơn so với
giờ quy định nên phòng thi đó ra về sớm
hơn so với phòng khác. Sự việc này diễn
ra nhiều lần nhưng thanh tra không biết
hoặc biết nhưng không nhắc nhở. Các em
nộp bài về sớm đứng ngoài cửa sổ hoặc
tranh luận từng nhóm ồn ào, ảnh hưởng
đến các phòng thi khác. Cá biệt có sinh
viên lười học không làm được bài, mượn
cớ "đau bụng" xin ra ngoài, lấy tài liệu
đọc, chép nội dung với thời gian tương
đối lâu, nhưng cán bộ coi thi mất cảnh
giác, không kiểm tra giám sát. Sau khi
phát đề thi trắc nghiệm nếu giám thị nhắc
nhở và kiểm tra từng sinh viên ghi mã đề
thì chắc chắn không có hiện tượng quên
ghi mã đề như những kỳ thi vừa qua.
Nhất là thi tốt nghiệp.
Trong các kỳ thi lại, một số giảng
viên còn xem nhẹ, nên coi thi không
nghiêm túc, làm cho các em đã vốn ít
học nay lại càng lười học hơn vì cho rằng
thi lại thì kiểu gì cũng qua, các em không
có động cơ thái độ học tập đúng đắn, coi
thường thầy cô, nhất là những em môn
nào cũng phải học lại thi lại.
1.2. Vấn đề chấm bài thi
Việc chấm bài thi tốt nghiệp, thi
học kỳ, thi lại do được tổ chức chặt chẽ
và quán triệt đầy đủ, có thanh tra, có
giám sát, có kiểm tra nhắc nhở thường
xuyên nên về cơ bản là tốt, chấm chính
xác, đều tay, đảm bảo khách quan, công
bằng. Nhưng gần đây ở các khoa, tổ bộ
môn vẫn mắc phải những sai sót không
cần thiết như: vào nhầm điểm, cộng sót
điểm, kể cả người chấm vòng 1 và chấm
vòng 2 vẫn không chính xác đẫn đến sinh
viên gửi đơn phúc khảo ngày càng nhiều.
Kết quả chấm phúc khảo khác với kết
quả trước đó, nên dễ thiệt thòi cho sinh
viên..v.v...
Để khắc phục những vấn đề còn
tồn tại nêu trên, bản thân tôi xin đề xuất
một số giải pháp cơ bản sau:
II. Những giải pháp cơ bản
1. Ban giám hiệu, phòng đào tạo,
phòng thanh tra phải tiến hành kiểm tra
quán triệt nhắc nhở thường xuyên, đặc
biệt là trước các buổi phân công coi thi.
Còn phí giảng viên và cán bộ làm công
tác coi thi, phải xem coi thi là một nhiệm
vụ thường xuyên bắt buộc, quan trọng.
Thậm chí còn quan trọng hơn, yêu cầu
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
142
cao hơn cả việc dạy học hàng ngày, xác
định rõ trách nhiệm và thực hiện nghiêm
túc nội quy, quy chế thi. Nếu cán bộ coi
thi nào vi phạm một lần thì nhắc nhở,
khiển trách. Nếu vi phạm nhiều lần phải
xử lý kỷ luật thật nghiêm túc: không
được coi thi trong vòng 3 - 6 tháng, hạ
kết quả thi đua.
2. Cần phân công cán bộ coi thi
cho đồng đều về lứa tuổi, trình độ kinh
nghiệm, có sự xen kẽ giảng viên, cán bộ
coi thi giữa các khoa, tổ. Đặc biệt các
buổi coi thi ở Hội trường A, do có nhiều
phòng thi nên càng phải cần các giảng
viên, cán bộ nhiều kinh nghiệm, trách
nhiệm cao. Các đợt thi lại phải tổ chức
chặt chẽ, nghiêm túc hơn, cán bộ coi thi
phải nghiêm túc hơn. Đề thi lại, phải vừa
sức không nên quá khó hoặc quá dễ vì đa
số các sinh viên thi lại là những em có
trình độ hạn chế.
3. Tăng cường công tác thanh tra,
giám sát thi. Cần có sự kết hợp giữa Ban
giám hiệu, phòng Thanh tra, điều động
hết lực lượng hiện có, cần thiết cử thêm
Trưởng, Phó khoa tăng cường cho công
tác giám sát thi, đặc biệt là các lớp học
ngoài trường.
4. Công tác đánh phách cần cải
tiến một cách khoa học hơn. Vì thực tế
cứ đánh dấu phách như nhau ở các khoa,
tổ thì dễ dẫn đến nhầm lẫn giữa khoa này
với khoa khác. Nếu đánh số phách liên
tục từ 1 - n thì không thể nhầm lẫn được.
5. Phân công giảng viên chấm thi
ở các khoa, tổ theo từng cặp phải khách
quan, đảm bảo trình độ chuyên môn. Cần
quán triệt, nhắc nhở thống nhất một số
nội dung cần thiết trước khi chấm, ví dụ:
về nội dung đáp an, thang điểm, lên kết
quả điểm, thường xuyên theo dõi chấn
chỉnh những sai sót trước khi nộp bài về
cho phòng Đạo tạo.
6. Nên tổ chức chấm thi học kỳ,
thi tốt nghiệp theo hình thức tập trung, có
sự giám sát quản lý của phòng thanh tra,
và Ban giám hiệu. Nếu giáo viên nào vi
phạm nội quy nhiều lần cần nhắc nhở và
có hình thức kỷ luật tùy theo mức độ vi
phạm. Khi có sự sai sót thì cần phối hợp
giữa các bộ phận có liên quan để đảm
bảo quyền lợi cho sinh viên và giữ được
uy tín cho giáo viên, cho Nhà trường.
7. Ra đề, chọn đề thi phải vừa sức
người học, không nên khó quá hoặc dễ
quá. Chúng ta không nên có quan điểm
dễ dàng trong khi thi và trong khi chấm
bài vì "thương học trò". Nếu nhận thức
và làm như vậy là tự đánh mất mình,
chất lượng và uy tín của Nhà trường sẽ đi
xuống. Hậu quả sẽ khôn lường.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
143
TRAO ĐỔI ĐÔI ĐIỀU KINH NGHIỆM QUA HỘI THI
"GIÁO VIÊN DẠY GIỎI CẤP TRƢỜNG"
KS. Bùi Minh Đức*
Nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả
trong giảng dạy và học tập, tháng 4/2012
trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An
đã tổ chức "Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp
trường". Tham gia dự giờ giảng là lãnh đạo
nhà trường và những giảng viên đã từng
tham dự hội thi giáo viên giỏi các cấp. Nghe
trao đổi của lãnh đạo nhà trường và các giảng
viên sau mỗi giờ giảng tôi đã rút ra đôi điều
kinh nghiệm mạnh dạn trao đổi cùng các
giảng viên.
Về cách chọn bài dự thi nên chọn bài
giảng mà mình tâm đắc, có phông kiến thức
rộng, đã tham gia giảng nhiều lần ở nhiều
lớp, nhiều khóa và đã tự đúc rút được kinh
nghiệm sau mỗi lần giảng. Nội dung của bài
giảng phải đảm bảo tính chính thống. Phân
biệt rõ loại bài giảng lý thuyết, tích hợp hay
thực hành, khi chọn bài nội dung bài đã toát
lên được phương pháp áp dụng để truyền đạt
nội dung cho học sinh.
Một số bài giảng đã áp dụng đan xen,
kết hợp được nhiều phương pháp giảng dạy,
đặc biệt là phương pháp giảng dạy tích cực,
mong muốn phát huy cao nhất, hiệu quả của
phương tiện dạy học hiện đại. Có những bài
giảng của Khoa Tài chính Quản trị đã đưa
* GV khoa Nông - Lâm - Ngư
được những phim ảnh, sơ đồ, bảng biểu để
minh họa, hệ thống có sức hấp dẫn dễ lôi
cuốn người học. Các bài giảng đã chọn nội
dung tương đối phù hợp với lượng thời gian
trong một tiết giảng, nhưng phần nhiều các
bài giảng chưa đảm bảo sự cân đối thời gian
giữa các phần của nội dung.
Về chuẩn bị giáo án : Đây là yếu tố
có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả và sự
thành công của giờ giảng. Muốn soạn được
một giáo án có chất lượng phải nắm chắc bố
cục của một giáo án bài giảng lý thuyết, giáo
án bài giảng tích hợp hay giáo án của bài
giảng thực hành. Nắm chắc nội dung kiến
thức của bài học để xác định đúng mục đích,
yêu cầu của bài và xác định đúng kiến thức
trọng tâm. Nhiều giáo án của giáo viên tham
gia hội giảng chưa chú ý đến bố cục, phông
chữ, ghi các số liệu, xác định các yêu cầu về
kiến thức, kỹ năng, thái độ chưa sát với mục
tiêu của bài giảng nên kết cấu, mỹ thuật bài
giảng chưa đẹp, chưa hợp lý và chưa đúng
quy định. Sắp tới nhà trường chắc chắn sẽ tổ
chức tập huấn cho giáo viên về vấn đề này.
Nguồn tư liệu thông tin phong phú
đối với mỗi bài giảng rất cần thiết. Thông tin
thu thập phải mới, có nguồn gốc xuất xứ rõ
ràng hoặc những thông tin cũ có giá trị lịch
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
144
sử. Cần cài đặt thông tin vào bài giảng hợp
lý, suôn chảy thì giá trị sử dụng thông tin mới
mang tính khoa học và hiệu quả.
Cần dự kiến các phương pháp giảng
dạy phù hợp với nội dung kiến thức từng
phần thể hiện trong lúc soạn giáo án. Xác
định rõ phương pháp phải linh hoạt chủ đạo
trong lúc kết hợp các phương pháp để thể
hiện từng phần hay từng phần bài giảng.
Nhiệm vụ người dạy là phải cắt nghĩa
những nội dung giáo trình và có thể tạo ra
một số tình huống chuẩn bị sẵn ngay từ khi
soạn giáo án. Sự trăn trở và những kỳ vọng
đạt chất lượng bài giảng được thể hiện ở nội
dung bài giảng. Kiến thức đưa vào giáo án
không phải chép nguyên giáo trình hay trích
dẫn ôm đồm từ các tài liệu mà cần được chắt
lọc, đảm bảo tính chính xác, tính khoa học,
tính logic của tri thức. Không nên trình bày
quá dài dòng khi soạn giáo án. Theo đánh giá
của các thành viên hội đồng thì giáo án của
các giáo viên thao giảng đã phản ánh được
các nội dung cơ bản của giáo trình song tính
cập nhật, xác định phương pháp truyền thụ,
việc làm của giáo viên và học sinh mới chỉ là
hình thức, chưa trở thành phương châm hành
động chỉ đạo suốt quá trình giảng bài, nhất là
việc phân bố thời gian còn khập khiễng.
Ai cũng hiểu rằng : Việc sử dụng các
phương pháp phát vấn, tạo tình huống, thảo
luận nhóm để lôi cuốn học sinh vào giờ giảng
nhằm phát huy tính chủ động của học sinh là
rất cần thiết. Hầu hết các giáo viên thao giảng
đều muốn và đã thể hiện vấn đề đó nhằm tôn
vinh những phương pháp dạy học tích cực,
song có những câu hỏi quá dễ, đơn điệu dễ
gây nhàm chán. Các phương pháp cần được
vận dụng uyển chuyển, linh hoạt, phù hợp
với nội dung, đối tượng, điều kiện và quy mô
lớp học, nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất
trong quá trình dạy học. Rất cần quan tâm
những tính huống đột nhiên có khả năng xuất
hiện, rất hay và sinh động hấp dẫn. Người
học cảm thấy tình huống đó tới một cách tự
nhiên và tự giác nhận thức vấn đề là một biện
pháp độc lập, đồng thời có liên kết tương hỗ
với các biện pháp khác như chuyển tiếp các
phần lôi cuốn báo hiệu lí do của vấn đề cần
giải quyết, việc này cô Đinh Thị Thúy Hằng
khoa Tài chính đã làm thành công trong bài
giảng "Quản lý sử dụng vốn kinh doanh của
doanh nghiệp".
Với những tình huống đã thiết kế,
giáo viên cần chuẩn bị sẵn phương án xử lý
hiệu quả và sáng tạo. Việc xử lý tình huống
hiệu quả phụ thuộc kỹ năng thiết kế tình
huống, có vấn đề của mỗi giáo viên. Với
những tình huống nảy sinh ngay trong thực tế
khi hoạt động dạy học đang diễn ra. Giáo
viên rất cần sự chuẩn bị ứng phó hiệu quả và
sáng tạo chuyển thành hiệu quả, trong đó chú
ý khai thác tình huống : người học trả lời sai,
hỏi sai hoặc làm lạc hướng chủ đề bài học.
Về việc vấn đáp tái hiện, liên hệ vùng kiến
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
145
thức học sinh đã đi qua khi hỏi bài cũ, cũng
như khi giảng bài mới nhằm xâu chuỗi kiến
thức hiện tại các giáo viên đã thực hiện được,
song cần tạo tình huống có vấn đề ngay ở
phần khởi động thì lôi cuốn và hấp dẫn hơn,
khi đó người học đã được kích thích óc tìm
tòi sáng tạo và tự thấy vấn đề cần xử lý trong
bài học.
Cần chú ý khi sử dụng học sinh trả lời
bài cũ, nên nêu câu hỏi thoát ly tài liệu, có
vận dụng kỹ năng thực tiễn để học sinh
không học thuộc lòng một cách máy móc và
các câu trả lời nên có những phương án sai để
giáo viên còn hoàn thiện thì hấp dẫn hơn.
Phương tiện dạy học hiện đại có vai trò rất
quan trọng nhưng nó có thể trở thành "phản
mục đích" nếu giảng viên quá lạm dụng hoặc
không đủ kỹ năng cần thiết. Để phát huy vai
trò của phương tiện dạy học, giảng viên nên
đầu tư thời gian chuẩn bị những hình ảnh,
đoạn video phù hợp để giúp cho bài giảng
thêm sinh động, lôi cuốn. Tác dụng của thiết
bị nghe nhìn chỉ được phát huy khi giảng bài
hay dùng phương pháp vấn đáp, giải thích
nhằm gợi mở nêu dẫn chứng bằng hình ảnh,
mô hình nhằm củng cố khắc sâu kiến thức
cho học sinh. Cần lưu ý nếu lạm dụng hoặc
thiếu sự chọn lọc hình ảnh sẽ gây nhiễu loạn
cho quá trình lĩnh hội kiến thức. Giảng viên
phải biết chắt lọc, cô đọng kiến thức trên các
slide đảm bảo súc tích, ngắn gọn nhưng vẫn
thể hiện được nội dung cơ bản. Nếu thể hiện
nội dung bài giảng bằng sơ đồ hóa dưới dạng
bảng biểu hoặc củng cố bài giảng bằng mô
hình học cụ làm như bài giảng Thủy nông
của giảng viên Nguyễn Văn Toàn thì hiệu
quả ghi nhớ của học sinh sẽ tốt hơn. Tránh
đưa nhiều chữ vào một slide, nên lựa chọn
phông chữ, cỡ chữ, màu chữ, màu nền phù
hợp cho các slide. Giảng viên cần nắm vững
kỹ thuật sử dụng phần mềm Powerpoint để
chủ động tự tin trong thao tác sử dụng máy
chiếu và tự xử lý những sự cố cần thiết.
Việc giao tiếp trực tiếp giữa những
người dạy và người học trong bài giảng là
yếu tố quyết định trực tiếp sự thành công của
bài giảng. Khi giảng bài, giảng viên phải
trình bày ngôn ngữ nói rõ ràng, mạch lạc,
đảm bảo chuẩn tiếng phổ thông, không sai lỗi
chính tả, phải thể hiện trường độ, cao độ bằng
âm thanh phát ra, chọn vị trí nhấn giọng trong
mỗi câu, tránh âm lượng đều đều khi giảng.
Giọng nói giảng viên phải thể hiện ngọn lửa
nhiệt tình, sự tâm huyết và thái độ tôn trọng
đối với học sinh. Ngôn ngữ viết phải rõ ràng,
khoa học, mang tính thẩm mỹ trong việc
trình bày bảng, không nên viết tắt quá nhiều
vượt ra ngoài quy định.
Một điều không kém phần quang
trọng là những phương tiện phi ngôn từ trong
giảng bài. Nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, hành vi,
điệu bộ, cách đi đứng, trang phục phải đặc
biệt chú ý, đó là tấm gương sống trực tiếp
đập vào mắt học sinh. Giảng viên biết biểu lộ
cảm xúc, thái độ nhiệt tình, vui vẻ, phấn khởi
hài lòng, thân thiện tạo được sự thoải mái
giữa giảng viên và học sinh, thể hiện ở khả
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
146
năng bao quát lớp, tư thế tác phong trong giờ
giảng thì kết quả bài giảng sẽ tốt hơn rất
nhiều và ngược lại. Hết sức tránh trả lời học
sinh câu hỏi đơn điệu một chiều, khi học sinh
trả lời xong câu hỏi, giảng viên chỉ nói em
ngồi xuống, mời em khác mà không nhận xét
phát biểu của học sinh đó, làm cho học sinh
đó dễ cảm thấy thất vọng và chán nản. Do
vậy việc xử lý các tình huống sư phạm diễn
ra trong giờ giảng như lời trao đổi và thái độ
cử chỉ của giảng viên về câu trả lời của các
em là rất cần thiết và quan trọng không chỉ
với học sinh đã có phát biểu mà còn ảnh
hưởng đối với tâm lý nhận thức và không khí
học tập của toàn lớp.
Tất nhiên một bài giảng có kết quả tốt
ngoài việc tài năng biểu diễn và truyền đạt
kiến thức của giảng viên, học sinh cần có "kỹ
năng nghe giảng". Muốn vậy giảng viên cần
quan tâm đến việc rèn luyện "kỹ năng nghe
giảng" của học sinh trong mỗi bài giảng và
giao nhiệm vụ về nhà sau mỗi tiết giảng.
Giảng viên phải nắm bắt được nguyên nhân
nghe giảng kém hiệu quả của học sinh như
học sinh không nỗ lực nghe, lâu lâu nghe một
chút theo kiểu "phục kích", nghe một phần
hoặc giả vờ nghe, vừa nghe vừa võ đoán, ngộ
nhận vì vậy khi giảng phải chú ý quan sát
những em lơ đễnh trên lớp, có phương pháp
xử lý tình huống sư phạm hợp lí. Đối với
giảng viên để học sinh rèn luyện kỹ năng
nghe giảng, không nên truyền đạt quá nhiều
thông điệp, làm rối nhiễu tâm lý học sinh,
phải tạo môi trường học tập thuận lợi luyện
tập cho học sinh gác tất cả các việc khác lại,
tự kiểm soát được cảm xúc bản thân, nỗ lực
và tập trung nghe giảng, phải chú ý nhiều vào
người giảng và học sinh mạnh dạn hồi đáp
đối với giảng viên. Đó là sự thể hiện tính giáo
dục và nhân cách học sinh trong mỗi bài
giảng.
Qua thời gian dự giảng cùng các
giảng viên, qua sự nhận xét trao đổi đối với
các tiết giảng của lãnh đạo nhà trường và các
bạn đồng nghiệp, cũng như kinh nghiệm bản
thân, tôi mạnh dạn trao đổi đôi điều kinh
nghiệm. Mong sao các ý kiến trao đổi tháo
gỡ được phần nào những băn khoăn, vướng
mắc của những giảng viên đang chuẩn bị
tham gia hội thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh
năm 2012 giành kết quả tốt, mà còn có một
chút ý nghĩa thiết thực đối với các thầy cô
giáo tham gia giảng dạy tại trường Cao đẳng
Kinh tế Kỹ thuật Nghệ An. Sự chia sẻ của
lãnh đạo nhà trường và các giảng viên đã
kinh qua các kỳ thi giáo viên dạy giỏi các
cấp, cũng như những ý kiến đóng góp của
các thầy cô giáo mong sao trở thành ngọn lửa
quyết tâm, tiếp thêm niềm tin và sức mạnh để
vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, phấn đấu
hoàn thành tốt nhiệm vụ trồng người.
Thông tin khoa học Kinh tế - Kỹ thuật – Số 3/tháng 5/2012
147