252
1 Kinh Hiền Ngu Đại Chánh Tân Tu , Bộ Bản Duyên , Kinh số 202 Nguyên tác Hán ngữ [1 ] [2 ] [3 ] [4 ] [5 ] [6 ] [7 ] [8 ] [9 ] [10 ] [11 ] [12 ] [13 ] Nguyên Ngụy Tuệ Giác đẳng dịch Hán HT Thích Trung Quán dịch Việt Mục Lục Phẩm thứ nhất : PHẠM THIÊN THỈNH PHÁP Phẩm thứ nhì : THÁI TỬ MA HA TÁT ĐÕA ĐEM THÂN CHO CỌP ĂN Phẩm thứ ba : HAI NGƢỜI DÒNG PHẠM CHÍ THỤ PHÁP BÁT QUAN TRAI Phẩm thứ tƣ : ĐI Ở LẤY CÔNG CÚNG DÀNG Phẩm thứ năm : THẦN BỂ VỚI NGƢỜI ĐI BUÔN Phẩm thứ sáu : CẦU TỰ Phẩm thứ bảy :THÁI TỬ TU XÀ ĐỀ Phẩm thứ tám : CÔ KIM CƢƠNG Phẩm thứ chín : TỲ KHƢU KIM TÀI Phẩm thứ mƣời:HOA THIÊN Phẩm thứ mƣời một :TỶ KHƢU BẢO THIÊN Phẩm thứ mƣời hai : SÀN ĐỀ BÀ LA Phẩm thứ mƣời ba : VUA TỪ LỰC CHO HUYẾT Phẩm thứ mƣời bốn : HÀNG PHỤC LỤC SƢ Phẩm thứ mƣời lăm : CỨ ĐÀ THÍ THÂN Phẩm thứ mƣời sáu : VUA ĐẠI QUANG MINH Phẩm thứ mƣời bảy : ƢU BA TƢ NA Phẩm thứ mƣời tám : XUẤT GIA CÔNG ĐỨC Phẩm thứ mƣời chín : SA DI HỘ GIỚI Phẩm thứ hai mƣơi : NGƢỜI KHÔNG TAI, MẮT, MŨI, LƢỠI Phẩm thứ hai mƣơi mốt :HAI VỢ CHỒNG NGHÈO Phẩm thứ hai mƣơi hai :BÀ LÃO BÁN NGHÈO Phẩm thứ hai mƣơi ba : KIM THIÊN Phẩm thứ hai mƣơi bốn : TRÙNG TÍN Phẩm thứ hai mƣơi lăm : TÁN ĐÀN NINH Phẩm thứ hai mƣơi sáu : BỐ THÍ ĐẦU Phẩm thứ hai mƣời bảy : BỐ THÍ MẮT Phẩm thứ hai mƣơi tám : NĂM TRĂM NGƢỜI MÙ Phẩm thứ hai mƣơi chín : PHÚ NA KỲ

Kinh Hiền Ngu - hoavouu.comhoavouu.com/images/file/V5kbW2Ax0QgQALsF/0202-hien-ngu-kinh.pdf · Khi đó quần thần, dân chúng, thấy nhà vua hành động nhƣ vậy, ai nấy

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

1

Kinh Hiền Ngu

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bản Duyên, Kinh số 202

Nguyên tác Hán ngữ [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]

Nguyên Ngụy Tuệ Giác đẳng dịch Hán

HT Thích Trung Quán dịch Việt

Mục Lục

Phẩm thứ nhất : PHẠM THIÊN THỈNH PHÁP

Phẩm thứ nhì : THÁI TỬ MA HA TÁT ĐÕA ĐEM THÂN CHO CỌP ĂN

Phẩm thứ ba : HAI NGƢỜI DÒNG PHẠM CHÍ THỤ PHÁP BÁT QUAN TRAI

Phẩm thứ tƣ : ĐI Ở LẤY CÔNG CÚNG DÀNG

Phẩm thứ năm : THẦN BỂ VỚI NGƢỜI ĐI BUÔN

Phẩm thứ sáu : CẦU TỰ

Phẩm thứ bảy :THÁI TỬ TU XÀ ĐỀ

Phẩm thứ tám : CÔ KIM CƢƠNG

Phẩm thứ chín : TỲ KHƢU KIM TÀI

Phẩm thứ mƣời:HOA THIÊN

Phẩm thứ mƣời một :TỶ KHƢU BẢO THIÊN

Phẩm thứ mƣời hai : SÀN ĐỀ BÀ LA

Phẩm thứ mƣời ba : VUA TỪ LỰC CHO HUYẾT

Phẩm thứ mƣời bốn : HÀNG PHỤC LỤC SƢ

Phẩm thứ mƣời lăm : CỨ ĐÀ THÍ THÂN

Phẩm thứ mƣời sáu : VUA ĐẠI QUANG MINH

Phẩm thứ mƣời bảy : ƢU BA TƢ NA

Phẩm thứ mƣời tám : XUẤT GIA CÔNG ĐỨC

Phẩm thứ mƣời chín : SA DI HỘ GIỚI

Phẩm thứ hai mƣơi : NGƢỜI KHÔNG TAI, MẮT, MŨI, LƢỠI

Phẩm thứ hai mƣơi mốt :HAI VỢ CHỒNG NGHÈO

Phẩm thứ hai mƣơi hai :BÀ LÃO BÁN NGHÈO

Phẩm thứ hai mƣơi ba : KIM THIÊN

Phẩm thứ hai mƣơi bốn : TRÙNG TÍN

Phẩm thứ hai mƣơi lăm : TÁN ĐÀN NINH

Phẩm thứ hai mƣơi sáu : BỐ THÍ ĐẦU

Phẩm thứ hai mƣời bảy : BỐ THÍ MẮT

Phẩm thứ hai mƣơi tám : NĂM TRĂM NGƢỜI MÙ

Phẩm thứ hai mƣơi chín : PHÚ NA KỲ

2

Phẩm thứ ba mƣơi : NI - ĐỀ

Phẩm thứ ba mƣơi mốt : ĐẠI KIẾP TÂN NINH

Phẩm thứ ba mƣơi hai : TỶ KHƢU NI VI DIỆU

Phẩm thứ ba mƣơi ba : LÊ KỲ DI

Phẩm thứ ba mƣơi tƣ :THIẾT ĐẦU LA KIỆN NINH

Phẩm thứ ba mƣơi lăm: A DU CA

Phẩm thứ ba mƣơi sáu : BẢY LỌ VÀNG

Phẩm thứ ba mƣơi bảy : SAI MA

Phẩm thứ ba mƣơi tám : CÁI SỰ

Phẩm thứ ba mƣơi chín :ĐẠI THÍ TÁT BIỂN

Phẩm thứ bốn mƣơi : A NAN TỔNG TRÌ

Phẩm thứ bốn mƣơi mốt : ƢU BÀ TƢ

Phẩm thứ bốn mƣơi hai : CON NGỘ SÁT CHA

Phẩm thứ bốn mƣơi ba : TU ĐẠT LÀM TINH XÁ

Phẩm thứ bốn mƣơi tƣ : LẶC NA SÀ GIA

Phẩm thứ bốn mƣơi lăm : CÁ TRĂM ĐẦU

Phẩm thứ bốn mƣơi sáu : TỊNH CƢ THIÊN

---o0o---

Phẩm thứ nhất : PHẠM THIÊN THỈNH PHÁP

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời Đức Phật ở nƣớc Xá Vệ, tại đạo tràng Thiện Thắng.

Cũng do lòng bi thiết cứu thế, hoằng pháp độ sinh, đã mất bao công gian khổ tu tập. Khi

mới thành Phật, thấy vấn đề trên đối với tất cả chúng sinh khó, nên Ngài tự nghĩ rằng:

"Tất cả chúng sinh mê tối thâm độc qúa, lòng dạ đảo điên, kiến thức hẹp hòi, chỉ mê theo

những lối tà đạo, rất khó giáo hóa, ta có ở đời cũng vô ích, chi bằng ta vào cõi Vô Dƣ

Niết Bàn là hơn".

Khi đó ông vua cõi trời Phạm Thiên biết Ngài tự nghĩ nhƣ vậy, liền từ trên trời bay xuống

tận nơi, tới trƣớc làm lễ, rồi qùy gối chắp tay cung kính thƣa với Ngài rằng:

- Kính lạy Đức Thế Tôn ! Vừa đây con đƣợc biết ý niệm của Ngài, vì thấy chúng sinh

điên đảo khó giáo hóa, nên Ngài muốn vào Niết Bàn, vậy con tới đây xin cầu thỉnh Ngài

ở lại truyền Pháp cho đời, khiến ánh sáng chân lý lan tràn khắp cõi nhân gian thiên

thƣợng muôn loài đƣợc thấm nhuần đức hóa, thoát qua khỏi luân hồi sinh tử trong sáu

thú, đời đời đƣợc an vui tự tại nơi Phật Quốc. Kính xin Ngài hoan hỷ nhận lời thành kính

cầu thỉnh của con.

Phật dạy: - Ông có lòng vì tất cả chúng sinh vậy cũng tốt, song tôi nhận thấy chúng sinh

bị trần cấu che tối, say mê, tài sắc, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ, tham dục, sân si, lòng dạ

đen tối không có chút trí tuệ gì, vì thế tôi có ở đời cũng chỉ luống công thôi! Nên tôi

muốn vào Niết Bàn là một sự an vui hơn.

3

Ông lại thƣa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Xin Ngài nhủ lòng thƣơng đến con và tất cả

chúng sinh trong cõi trời, cõi ngƣời, đƣơng bị màn vô minh che tối, tìm ra không biết lối,

ngày nay biển Pháp đã đầy, cờ Pháp đã dựng, thời đã tới, những chúng sinh có thể độ

đƣợc, con xem số đó cũng khá đông nhiều. Vậy kính mong Ngài thi ân tế độ hoằng pháp

lợi sinh.

Kính lạy Ngài! Con nhớ cách đây vô số kiếp, cũng vì lũ chúng con nên Ngài từng góp

nhặt, một bài kệ, cho đến một câu đạo, đến nỗi quên mạng sống, bỏ cả vợ con yêu dấu, hy

sinh vì Phật pháp, một cách rùng mình sởn gáy, tất cả không ai làm nổi, đƣợc những hạnh

của Ngài đã thực hiện, giờ đây Ngài đã thành tựu trên công cuộc tầm đạo giải thoát,

chúng sinh nhƣ những áng cỏ trên mặt đất bao la bị sƣơng mù phủ đậy đã lâu năm đƣơng

ngóc ngó ánh thái dƣơng phản chiếu, để biến thành những bông hoa tƣơi đẹp. Kính lạy

Ngài, xin chớ bỏ lũ chúng con để vào Niết Bàn.

Con lại nhớ kiếp qúa khứ cách đây đã khá lâu xa có một ông vua tên là Tu Lâu Bà ở

Châu Diêm Phù Đề, cai trị tám mƣơi bốn ngàn nƣớc nhỏ, sáu muôn núi sông, tám mƣơi

ức Tụ Lạc, hai vạn bà Phu nhân và một vạn quan Đại thần.

Đối với thời ấy, phúc đức và thế lực của vua Tu Lâu Bà không ai bì kịp, nhân dân thuở

đó đức vua, đƣợc an lạc thái bình, mƣa hòa gió thuận, vui sƣớng vô cùng vô tận!

Một hôm vua tự nghĩ rằng: - "Đối với vật chất ta đã giúp dân đƣợc đầy đủ, nhƣng về tinh

thần giải thoát cho con ngƣời chƣa có. Nếu con ngƣời chỉ sống theo vật chất, sống theo

tình dục, tâm nhƣ gỗ đá, tâm nhƣ cát sỏi tha hồ cho bốn tƣớng sinh, già, bệnh, chết lôi

quanh, thì không khác chi thú vật, ăn no nằm mát, phơi mình trên đám phân tro, cho qua

ngày đoạn tháng. Nhƣng lẽ đó là lỗi ở ta, ta có trách nhiệm tìm đƣờng giải thoát cho họ".

Nghĩ thế rồi Ngài ra yết thị và báo cho thiên hạ biết rằng: "Nếu ai biết đạo giải thoát của

Phật dạy nói cho ta hay, muốn dùng gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ".

Tuyên lệnh đã lâu, nhƣng không thấy ai đến nói, nhà vua luôn luôn mong mỏi, và tâm ý

lúc nào cũng không đƣợc vui!

Sau đó ông Tỳ Sa Môn, là một ông vua cõi trời Tứ Thiên Vƣơng thấy vậy bèn đến thử

Ngài nhƣ sau.

Ông biến hình làm một con qủi Dạ Xoa, mặt xanh lè, mắt đỏ nhƣ huyết, răng to nhƣ quả

chuối măn, mọc chìa ra ngoài, tóc dựng ngƣợc, mồm phun lửa đến cung vua giựt lấy

bảng rồi nói: - Các ông vào báo cho nhà vua biết, tôi có Phật Pháp, nhà vua muốn nghe,

tôi sẽ giảng cho.

Quan Môn Giám nhận lời, vào tâu vua rằng:

- Tâu bệ hạ ngoài thành có một ngƣời hình thể khá sợ, tự nói có Phật Pháp, và xin nói cho

bệ hạ nghe, việc đó thế nào xin cho hạ thần đƣợc rõ ?

4

Nhà vua nghe nói, vui vẻ đội mũ mặc áo chỉnh tề, tự ra đón tiếp mời vào chánh điệ⮠và

nhƣờng ngồi trên ngai vàng, thiết đãi một cách rất trọng hậu.

Sớm ngày mai nhà vua bày một tòa cao đẹp, trà nƣớc xong xuôi, đánh trống ca nhạc rƣớc

Pháp sƣ thăng tòa thuyết pháp, Pháp sƣ lên tòa ngồi yên tĩnh. Lúc đó có đông đủ quan

quân, dân chúng, nhà vua ra lễ bái Pháp sƣ, rồi quỳ xuống xin Pháp sƣ thuyết pháp.

Pháp sƣ nói:

- Học pháp rất khó, ông muôn đƣợc nghe không phải dễ.

Nhà vua thƣa rằng: - Kính thƣa Pháp sƣ! Thƣơng đến chúng tôi là kẻ ngu si, việc nghe

Pháp phải đúng lễ thế nào, xin cho chúng tôi đƣợc rõ.

Pháp sƣ nói: - Nếu nhà vua đem vợ yêu con quí cho ta ăn, thì ta sẽ nói cho nghe.

Nghe xong nhà vua vui vẻ thọ giáo, bái tạ lui ra trở về cung gọi vợ con nói:

- Tôi xin nói để các ngƣời hay: vợ chồng cha con, yêu nhau trong vòng sinh tử, ân ái có

ngày biệt ly, tôi muốn tìm con đƣờng giải thoát, cho tôi và lũ ngƣơi, vì thế tôi muốn đem

thân mạng của lũ ngƣơi dâng Pháp sƣ để cầu thành Phật; ý thế nào cho tôi đƣợc rõ ?

Nghe xong hoàng hậu và thái tử liền quỳ xuống, xin tuân lời chỉ giáo.

Đƣợc sự đồng ý rồi nhà vua liền đem vợ con dâng Pháp Sƣ. Pháp sƣ nhận rồi, ngồi trên

tòa cao, giữa đám hội đông ngƣời nghiểm nhiên ngồi ăn, nháy mắt đã ăn hết, mọi ngƣời

thấy thế đều lắc đầu, lè lƣỡi, kinh sợ hãi hùng.

Khi đó quần thần, dân chúng, thấy nhà vua hành động nhƣ vậy, ai nấy đều không bằng

lòng, và cho nhà vua qúa ƣ mê chấp. Song họ có biết đâu nhà vua làm những việc mà

ngƣời đời không ai làm đƣợc. Họ nhƣ con ếch nằm trong đáy giếng, chƣa bao giờ nhìn

thấy biển Đông. Sự nhìn xa trông rộng không phải kẻ phàm ngu có thể so sánh.

Tiếp đến Pháp Sƣ đọc bài thơ nhƣ sau:

Nhất thiết hành vô thƣờng.

Sinh giả giai thị khổ !

Ngũ ấm không vô tƣớng.

Vô hữu ngã, ngã sở.

Nghĩa là :

Hết thảy đều vô thường,

Sinh ra tất phải khổ !

Năm ấm không có tướng.

Ta và của đều không.

Nhà vua nghe xong vui vẻ khôn xiết ! Sai ngƣời chép lấy, để ban phát cho mọi ngƣời

trong nƣớc, bắt ai cũng phải tụng đọc.

5

Bấy giờ Pháp Sƣ (quỉ Dạ Xoa) thấy vua có vẻ bình thản nhƣ vậy, liền hiện lại nguyên

hình, nói rằng : "Quí hóa nhà vua ! Biết tôn trọng Chánh Pháp nhƣ vậy không bao lâu

Ngài sẽ đƣợc thành Phât". Nói xong, bỗng nhiên lại thấy phu nhân và thái tử hãy còn toàn

vẹn.

Kính thƣa Ngài ! Vua Tu Lâu Bà thuở đó chính là ngài đẫy. Xƣa kia Ngài đã hy sinh vì

Pháp nhƣ vậy, sao nay Ngài nỡ bỏ chúng sinh để vào Niết Bàn ?

Kính lạy Ngài ! Lại một kiếp nữa, thuộc thời quá khứ, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có

một ông vua tên là Kiền Sá Ni Yết Lê, thống trị nhiều nƣớc, tám vạn bốn ngàn Tụ Lạc,

hai muôn Phu Nhân và thể nữ, một vạn quan Đại Thần. Nhà vua nhân hiền, yêu thƣơng

tất cả, nhân dân sung sƣớng, cây cỏ xanh tƣơi. Dân coi vua nhƣ một ngƣời cha lành.

Nhà Vua tự nghĩ nhƣ vầy : "Ta đƣợc địa vị cao sang, tôn trọng quý giá ! Là do trƣớc kia

ta đã tạo nhân lành. Hiện nay nhân dân đƣợc an vui sung sƣớng ! Tuy thế, chỉ an vui về

vật chất, song vật chất có ngày hoại diệt, không phải một sự an vui lâu dài vĩnh viễn,

muốn cho chính mình và tất cả chúng sanh, đƣợc an vui vĩnh viễn, ta phải tìm đạo giải

thoát do Phật dạy mới có kết quả".

Nghĩ thế rồi vua sai các quan viết bảng cáo thị, và truyền lệnh cho khắp trong nƣớc biết :

"Nếu ai có Diệu Pháp, nói cho ta nghe, ý muốn gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ".

Sau có ngƣời Bà La Môn tên là Lao Độ Sai, đi tới nói rằng: - Tôi có Diệu Pháp, các ông

vào báo cho vua biết.

Quan Môn Giám liền đem tin ấy vào tâu vua. Nhà vua nghe nói, ý rất vui mừng, mũ áo

trang nghiêm, tự ra lễ bái, hỏi han ân cần trịnh trọng rồi mời vào trong chánh điện, bày

giải một tòa cao đẹp, mời Pháp sƣ lên tòa ngồi yên tĩnh. Vua và hai bên tả hữu chắp tay

thƣa rằng:

- Kính thƣa Đại sƣ, đƣợc hạnh phúc cho chúng tôi nhiều lắm! Hôm nay Đại sƣ có lòng

thƣơng đến chúng tôi mà tới đây. Vậy kính xin thể lòng từ bi cao cả, thuyết Diệu Pháp

cho chúng tôi đƣợc thừa thụ.

Lao Độ Sai đáp: - Ta có trí tuệ cũng phải mất bao công khó nhọc, tìm mãi ở phƣơng xa,

dầy công học tập, không phải là một việc dể dàng quá nhƣ vậy.

Nhà vua thƣa: - Kính thƣa Đại sƣ, ý Đại sƣ thế nào xin dạy bảo cho chúng tôi đƣợc rõ ?

Lao Độ Sai nói: - Nhà vua muốn đƣợc nghe Pháp, thì phải khoét trên mình ra một ngàn

lỗ, đổ dầu cho bấc, đốt lửa cúng dàng ta, thì ta sẽ thuyết cho nghe.

Nghe nói, nhà vua vui vẻ nhận lời xin khoét, và khất lại bảy ngày để báo cáo cho dân

chúng biết, lời báo cáo nhƣ sau:

6

"Tất cả quốc dân nên biết: Vua Kiền Sà Ni Yết Lê sau bảy ngày nữa vì sự cầu đạo, sẽ

khoét trên mình ra ngàn lỗ, đốt đèn cúng dàng Pháp Sƣ, ai muốn nghe, và xem sự hy sinh

cúng dàng của nhà vua thì đến".

Bấy giờ các ông vua nƣớc nhỏ và nhân dân các nƣớc, hay tin ai cũng buồn rầu, cùng nhau

đến yết kiến và tâu rằng:

- Kính thƣa Đại Vƣơng ! Tất cả muôn dân nhờ phúc đức của Đại Vƣơng đƣợc an lạc thái

bình, nhƣ kẻ mù đƣợc nhờ cây gậy, con dại ngóng mẹ hiền, nếu Đại Vƣơng khoét mình

đốt đèn, tất nhiên tuyệt mạng, thì muôn dân trông cậy vào ai ? Xin không nên vì một

ngƣời mà nỡ bỏ chúng sinh trong thiên hạ.

Sau đó hai muôn bà phu nhân, và năm trăm thái tử, một vạn Quan Đại Thần, tất cả đều

can vua việc đó.

Nhà vua liền lớn tiếng nói:

- Các ông không nên cản trở tôi, tôi hy sinh thân này để nghe một câu đạo, sau này tôi

thành Phật, tôi sẽ độ cho lũ các ông trƣớc.

Họ thấy nhà vua khẳng khái nhƣ vậy, ai nấy đều tha thiết kêu van! Nhƣng vua cũng quyết

định không thay đổi ý kiến.

Hết hạn bảy ngày nhà vua tới trƣớc Pháp sƣ làm lễ và thƣa rằng:

- Kính thƣa Đại sƣ, chúng tôi xin dốc lòng thành kính, theo lời chỉ giáo của Đại sƣ! Để

bắt đầu khoét mình đốt đèn cúng dàng, xin Đại sƣ hoan hỷ !

Nói xong nhà vua sai khoét, nhƣng không ai dám khoét. Sau đó có ngƣời Chiên Đà La

đến khoét hộ cho vua, anh này khoét xong, vất dao xuống đất chạy mất, khi đổ dầu bỏ

bấc xong mọi ngƣời coi thấy ai cũng rùng mình run sợ !

Nhà vua thƣa rằng:

- Kính xin Đại sƣ thuyết pháp trƣớc, sau sẽ đốt lửa, sợ mạng tôi tuyệt thì không nghe

pháp.

Lao Độ Sai đọc bài thơ rằng:

Thƣờng giả giai tận.

Cao giả tất trụy ?

Hợp hội hữu ly

Sinh giả hữu tử.

Nghĩa là :

Thường rồi có hết,

Cao thì phải rơi,

Hợp rồi có tan,

7

Sinh thì có tử.

Đọc xong vua sai đốt lửa, trong khi lửa cháy dữ dội, vẻ mặt nhà vua vẫn nghiễm nhiên

tƣơi tỉnh, không hề biến sắc. Ngài tự phát thệ rằng:

- Tôi chịu đau khổ để cầu nghe đạo giải thoát, nguyện đem công đức này hƣớng về Phật

qủa, sau khi đƣợc thành, tôi sẽ lấy trí tuệ quang minh, phá ngu si hắc ám cho tất cả chúng

sinh.

Nói dứt lời, thì trời đất tự nhiên chuyển động, tới cõi trời Tịnh Cƣ. Khi đó các ngƣời cõ

Trời ngó xuống xem, thấy một vị Bồ Tát đốt mình làm đèn cúng dƣờng Pháp Sƣ để nghe

pháp, một cách rùng rợn ! Họ bay xuống đứng kín cả hƣ không, ví sự cảm động quá !

Nên nhiều ngƣời sa nƣớc mắt roi xuống thành mƣa, đồng thời họ lại tung hoa xuống để

cúng dàng. Vua Đế Thích đến tận nơi, tới trƣớc khen và hỏi rằng:

- Nhà vua đau khổ nhƣ vậy thì có hối hận gì không?

Nhà vua đáp: - Thƣa không!

Đế Thích nói: - Tôi thấy nhà vua run rẩy không yên nhƣ vầy, tự nói không hối, lấy gì

chúng cớ biết rõ đƣợc?

Đế Thích nói dứt lời, thì Ngài tự thề rằng:

- Nếu tâm tôi thủy chung nhƣ một, không hối hận gì, thì xin lỗ trên mình tôi, lại đƣợc

bình phục nhƣ cũ.

Vì lòng chân thực cầu đạo pháp tha thiết, cảm động mƣời phƣơng, nên những lỗ trên

mình tự nhiên lại đƣợc bình phục nhƣ cũ, thân thể lại tốt lành hơn xƣa.

Kính lạy Ngài! Ông vua khoét mình đốt đèn để cầu đạo thuở đó, chính là Ngài đấy. Ngài

đã cực khổ cầu Pháp nhƣ vậy, tới nay đã đầy đủ, tại sao không thuyết Pháp? Vào Niết

Bàn làm chi, để chúng sanh mất con mắt quang minh trí tuệ ?

Kính lạy ngài ! Lại một đời quá khứ nữa, cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua,

tên là Tỳ Lăng Yết Lê thống trị đƣợc nhiều nƣớc, tám vạn bốn ngàn Tụ Lạc, hai muôn bà

Phu Nhân và thể nữ, năm trăm Thái Tử, một vạn quan Đại Thần. Nhà vua có đức nhân,

coi dân nhƣ con đẻ, lại ham nghe chánh pháp, nên sai quan Đại Thần tuyên lệnh cho toàn

quốc biết nhƣ sau:

- Thông cáo cho toàn quốc biết: Hoàng Thƣợng muốn đƣợc nghe Phật Pháp, ai biết đến

nói cho ngài nghe, Ngài sẽ trọng thƣởng tùy ý muốn.

Cách thời gian lâu, có một ngƣời dòng Bà La Môn, tên là Lao Độ Sai tới cung môn nói: -

Tôi là ngƣời đã từng nghiên cứu và tu tập giáo lý của Phật đã lâu, xin ông hãy vào tâu

Hoàng Thƣợng cho.

Theo lời yêu cầu của Lao Độ Sai, quan Môn Giám vào tâu vua.

8

Nhà vua đƣợc tin rất vui vẻ, đội mũ mặc áo trang nghiêm, thân ra cổng thành, trịnh trọng

chào hỏi, rồi mời vào trong chánh điện, thiết đãi trọng hậu. Sớm ngày mai vua sai bày

một tòa cao đẹp, thỉnh Pháp sƣ thăng tòa ngồi yên tĩnh.

Nhà vua và bá quan, nghiêm chỉnh thân tâm, tới trƣớc Pháp Sƣ cúi đầu lễ lạy, rồi qùy

xuống thƣa rằng: - Kính thƣa Đại Sƣ phát tâm từ bi, thuyết pháp cho chúng tôi đƣợc thừa

ân công đức!

Lao Độ Sai đáp: - Sự hiểu biết của ta đây, là do ta chịu khổ đã lâu năm, đi tìm học ở bốn

phƣơng xa mới đƣợc; nhà vua coi sự học một cách dễ dàng quá !

Nhà vua toát mồ hôi, một lòng kính cẩn thƣa rằng :

- Kính thƣa Đại sƣ ! Việc nghe đạo phải đúng quy tắc thế nào ? Chúng tôi là

kẻ trần tục phàm phu, không biết sự lễ Pháp bao giờ, xin Đại sƣ chỉ dạy cho?

Đáp : - Nhà vua có thể đóng lên mình một ngàn cái đinh sắt, đƣợc nhƣ vậy ta sẽ

thuyết pháp cho nghe.

Nhà vua thƣa : - Dạ ! Xin tuân lời dạy bảo của Đại sƣ, và xin ngài cho lui lại

bảy ngày, để báo cáo cho dân biết.

Nói xong lễ tạ lui ra, lời báo cáo nhƣ sau :

- Tất cả toàn quốc nên biết, tôi là Nhân Chúa Tỳ Lăng Yết Lê, vì muốn đƣợc

đạo giải thoát cho chính tôi, và toàn thể, nên tôi đóng đinh trên mình một ngàn cái, cúng

dàng Pháp sƣ, quốc dân ai muốn biết sự thực hành của tôi, sau bảy ngày nữa xin mời đến.

Dân chúng đƣợc tin nhà vua đóng đinh trên mình, để cầu nghe giảng đạo. Họ nô nức kéo

nhau đến kinh thành rất đông, sau đó một số đại biểu của dân chúng lên tâu vua rằng :

- Kính tâu Hoàng Thƣợng ! Lũ chúng tôi thay mặt cho toàn thể quốc dân, đến

đây kính mừng Thánh thƣợng, thọ lạc thiên thu, hƣởng phúc lâu dài chúng tôi tự biết, nhờ

ơn đức Hoàng Thƣợng nên đƣợc thái bình an lạc, cúi xin thƣơng đến toàn thể quốc dân,

miễn bỏ sự đóng đinh trên mình.

Sau đó, tiếp đến Phu nhân, thể nữ, thái tử, quan đại thần cũng đồng thanh tâu

vua xin miễn bỏ việc đó.

Nhà vua đáp : - Tôi nhận thấy đã bao kiếp tới nay, bị sống thác trong vòng sinh

tử luân hồi, thân mạng đã mất đi vô số; những thân mạng ấy cũng chỉ đeo những tấm

lòng tham dục, giận tức, ngu si, nhìn lại số xƣơng thịt trong những kiếp sinh tử ấy, có thể

chất cao hơn núi Tu Di, đầu rơi máu chảy ra nhiều hơn nƣớc sông lớn; nƣớc mắt khóc

ngƣời thân nhiều hơn nƣớc bốn bể; những thân mạng sống chết đó, chẳng qua cũng chỉ

uổng mà thôi, chƣa từng bao giờ vì đạo pháp má hiến thân. Tôi đóng đinh cúng Pháp Sƣ

9

để cầu thành Phật, sau khi thành Phật, tôi sẽ lấy trí sáng suốt để trừ diệt bệnh kết sử của

lũ các ngƣời, và đƣa dắt các ngƣời lên đƣờng giác ngộ giải thoát thành Phật, một việc ích

lợi chung cho toàn thể chúng sinh, can tôi làm chi ?

Theo lời nhà vua tuyên bố, mọi ngƣời ai nấy đều im lặng, không dám nói năng gì hết.

Tới giờ phút này nhà vua đến trƣớc Pháp sƣ thƣa rằng :

- Kính xin Đại Sƣ ra ân, thuyết pháp trƣớc đóng đinh, nếu đóng trƣớc, thì tôi

sẽ chết không đƣợc nghe.

Đại Sƣ đọc bài thơ rằng :

Nhất thiết giai vô thƣờng,

Sinh giả giai hữu khổ !

Chƣ pháp không vô chủ.

Thực phi ngã sở hữu

Nghĩa là :

Tất cả đều vô thường

Sinh ấy đều có khổ !

Các pháp không có chủ.

Thực chẳng phải ta có.

Pháp Sƣ đọc xong, nhà vua vui mừng, sai ngƣời viết lấy bài thơ ban bố cho quốc dân, bắt

ai cũng phải tụng đọc.

Giờ phút bắt đầu, nhà vua sai ngƣời đóng đinh, thì tất cả các ông vua nƣớc nhỏ, và quân

thần, dân chúng trong đại hội, đều gieo mình xuống đất than thở. Trời đất chấn động sáu

lần, các ông thiên tử trên trời bay xuống, thấy ngài hy sinh cầu đạo nhƣ vậy, ai nấy đều

cảm động, rơi lệ chứa chan, một lòng tôn kính tung hoa xuống cúng dàng. Vua Đế Thích

xuống tận nơi hỏi rằng:

- Nhà vua quyết liệt tâm chí, cầu đạo không tiếc mạng sống nhƣ vậy, để nguyện đời mai

sau làm gì ? Làm Đế Thích ƣ, làm Chuyển Luân Vƣơng ƣ, làm Ma Vƣơng, Phạm Vƣơng

ƣ ?

Đáp: - Thƣa Ngài! Tôi quên mình để cầu đạo giải thoát của Phật, để cầu làm Phật, và tế

độ cho chúng sinh cũng đƣợc giải thoát, chứ tôi không cầu phúc báo ở ba cõi sinh tử, nhƣ

Đế Thích, Chuyển Luân Vƣơng, Ma Vƣơng hoặc Phạm Vƣơng.

Đế Thích hỏi: - Tôi coi nhà vua đau đớn nhƣ thế, thì tâm có hối hận gì không?

Đáp: - Không!

Đế Thích hỏi: - Ngài nói không thì lấy gì chứng tỏ ?

10

Nhà vua liền lập thệ thƣ sau:

- Nam mô tận hƣ không biến pháp giới quá, hiện, vị lai chƣ Phật, tôn Pháp, Bồ Tát Hiền

Thánh Tăng tác đại chứng minh, con chí thành cầu Bồ đề, nếu tâm không hối hận, thì

thân thể lại đƣợc bình phục nhƣ củ.

Phát thệ dứt lời, thì những cái đinh bật hết ra ngoài, thân thể quả nhiên lại đƣợc bình phục

nhƣ cũ.

Khi đó tất cả trời, ngƣời và quan quân, dân chúng chứng tỏ tâm của Ngài thành thật cảm

ứng nhƣ vậy, ai nấy đều vỗ tay vui mừng không tả xiết !

- Kính lạy Ngài! Ông vua đóng đinh trên mình thuở đó, chính là Ngài đấy! Tâm Ngài lớn

nhƣ biển cả, rộng nhƣ hƣ không, đã phá tan những tập kiến chúng sinh, chúng đƣơng

ngoai ngáp trong chốn bùn lầy, nghẹt thở nơi hang tối. Kính lạy Ngài chớ bỏ đàn con đau

khổ mà vào Niết bàn.

- Kính lạy Ngài! Lại một kiếp nữa, thuộc thời qúa khứ đã quá lâu, cũng Châu Diêm Phù

Đề này, có một ông vua tên là Phạm Thiên, sinh đƣợc một thái tử tên là Đàm Ma La

Kiềm.

Thái tử có trí tuệ khôn sáng, ƣa ở nơi thanh vắng, ít sự xa hoa dục vọng, có tính tìm tòi

chân lý, ham nghe chánh pháp, nên thƣờng sai ngƣời đi khắp đông tây, kiếm thầy học

đạo, đã nhiều lần, nhƣng không gặp đƣợc một ai là ngƣời có chánh pháp giải thoát. Trong

thời gian tìm thầy chƣa đƣợc, Thái tử thấy luôn luôn khổ não, làm cho không lúc ngớt ý

nghĩ nói trên.

Bấy giờ vua Đế Thích biết Thái tử lòng thành nhƣ vậy, liền hóa thân làm ngƣời dòng Bà

La Môn, đi đến kinh thành, tới chỗ đông ngƣời nói rằng:

- Các bạn nên biết, tôi là ngƣời hiểu biết Phật Pháp, nếu bạn nào muốn nghe, tôi sẽ giảng

giải cho.

Họ liền đến mách bảo Thái tử, ngoài thành có ngƣời tự xƣng hiểu giáo lý đạo Phật.

Thái tử đƣợc tin thấy lòng vui sƣớng vô cùng, vào phòng đội mũ tề chỉnh, và đem một số

ngƣời theo hầu, ra tiếp đón Pháp sƣ, lễ bái, hỏi han rồi mời vào trong cung nơi biệt thự,

thết đãi trịnh trọng.

Sớm ngày mai trà nƣớc xong xuôi, vầng thái dƣơng mới nhôn khỏi núi ánh bình minh

vừa tỏa khắp cõi không gian, bầu trời yên lặng, thanh khí ôn hòa! Thái tử sai ngƣời bày

tòa giảng thuyết, Pháp Sƣ lên tòa ngồi yên tĩnh. Thái tử tới trƣớc lễ bái, quỳ gối chắp tay

thƣa rằng:

11

- Kính thƣa Đại Sƣ, chúng tôi bị những bức thành mờ tối vô minh dục vọng đã bao kiếp,

là do không đƣợc gặp chánh pháp của Nhƣ Lai, chúng tôi thành kính trƣớc ngài, ngửa

mong từ bi giảng thuyết, để cho hết thảy đƣợc ân triêm đức hóa?

Đại sƣ nghiêm nét mặt đáp:

- Học đạo không phải một việc dễ, ta đã biết bao công trình tìm thấy tu học, mới đƣợc

hiểu biết. Ngƣời chƣa chút khó nhọc, nay muốn đƣợc nghe ngay, thực là coi sự học đạo

dễ dàng quá.

Thái tử thƣa rằng: - "Kính thƣa Đại Sƣ ! Từ thân tôi cho đến vợ con tôi, vàng bạc châu

báu, Đại Sƣ dạy bảo thế nào, chúng tôi xin tuân mệnh không dám trái ý".

- Đại sƣ đáp: "Muốn nghe pháp, Thái tử hãy đào một hố lớn, sâu chừng mƣời trƣợng, ở

dƣới đốt than cho thật đỏ hồng, rồi Thái tử nhảy vào hố lửa ấy, cúng dàng ta, thì ta sẽ

thuyết pháp.

Thái tử nói: - Dạ xin tuân lời dạy của Đại Sƣ.

Sau khi Thái tử sai ngƣời đào hố thì nhà vua biết tin. Từ vua cho đến tất cả mọi ngƣời

trong Hoàng cung ai ai cũng lo phiền, và khuyên can, nhƣng Thái Tử quên mình vì sự

cầu đạo giải thoát, nên không nghe theo những lời khuyên can ấy.

Sau nhà vua và các quan đều thƣa với Đại Sƣ rằng:

- Kính thƣa Đại Sƣ ! Thƣơng đến lũ tôi, để miễn bỏ việc Thái tử nhảy xuống hố lửa,

ngoài ra Đại Sƣ muốn dùng gì chúng tôi xin dâng.

Đại Sƣ đáp: - Việc đó tùy ý Thái tử, ta không bó buộc, đúng thế thì ta thuyết pháp, bằng

không thì thôi!

Nhà vua thấy tâm địa của Đại Sƣ khẳng khái quá, nên ngài cũng vái chào rồi trở ra về,

không nói năng gì nữa.

Trở về nhà vua sai ngƣời đi thông báo cho quốc dân biết rằng:

Lời thông báo nhƣ sau: - Tất cả quốc dân nên biết, sau bảy ngày nữa Thái tử vì sự nghe

đạo, nên xả thân, nhảy xuống hố lửa, ai muốn thấy việc đó, thì lại sớm nơi đây.

Nhân dân đƣợc tin Thái tử nhảy xuống hố lửa, họ nô nức kéo nhau đi đến kinh thành

đông nhƣ hội, sau đó một số Đại biểu của nhân dân, tới thƣa với Thái tử rằng:

- Kính thƣa Thái tử : Lũ chúng tôi hay tin Ngài vì sự nghe đạo nhảy xuống hố lửa, lợi ích

chƣa thấy đã thấy sự tang thƣơng cho quốc dân! Vậy kính mong Ngài miễn bỏ việc đó,

để cho quốc gia đƣợc an lạc.

12

Thái tử đáp: - Các ông lẳng lặng để nghe tôi nói, thiệt hại hay lợi ích. Nhận thấy con

ngƣời sống thác từ đời vô thủy cho tới ngày nay, không số tính, chết cõi này sinh cõi kia

luân chuyển nhƣ bánh xe quay không mối. Trong loài ngƣời vì lòng tham dục, nên giết

hại lẫn nhau; trên cõi trời khi hết tuổi thọ, thì lo về mất sự dục lạc; nơi địa ngục lửa đốt

suốt ngày đêm, nào nƣớc sôi, búa chém, dao đâm, núi dao, rừng kiếm, hành phạt con

ngƣời vô cùng thảm khốc, trong một ngày chết đi sống lại biết bao lần, sự hình ngục

không thể giải bày cho xiết. Cái khổ trăm thứ tên độc xiên dùi vào mình loài ngạ quỉ. Cái

khổ kéo cày chở nặng loài súc sinh, sau lại dâng thân cho ngƣời ăn thịt, những nỗi khổ

nhƣ thế, khó nói hết trong những kiếp đã chịu đoạ đày, xét lại những thân mạng ấy chỉ

uống mà thôi, có làm đƣợc một việc gì về vấn đề giải thoát cho chính mình và chúng sinh

trong pháp giới, ai đã biết đem thân ấy chết về việc nghe đạo bao giờ. Ta đem dâng thân

này, cúng dàng để nghe đạo giải thoát, sau thành Phật, ta sẽ đem lại cho lũ các ông năm

phận pháp thân, can chi phải ngăn cản công việc ta đã quyết định làm.

Mọi ngƣời nghe Thái tử nói xong, ai nấy đều nín thinh, không dám trả lời sao hết.

Khi sắp nhảy xuống hố lửa Thái tử nói:

- Kính thƣa Đại Sƣ ! Xin thuyết pháp trƣớc khi tôi nhảy xuống hố.

Đại Sƣ đọc bài thơ nhƣ sau:

Thƣờng hành ƣ từ tâm,

Trừ khứ khuế, hại tƣởng.

Đại bi mẫn chúng sinh !

Căng thƣơng vị vũ lệ !

Tu hành đại hỷ tâm,

Đồng kỷ sở đắc pháp.

Cứu hộ dĩ đạo ý

Nãi ƣng Bồ Tát hạnh.

Nghĩa là :

Thường làm theo tâm từ

Trừ bỏ tưởng, giận hại.

Đại bi thương chúng sinh !

Quặn lòng rơi nước mắt !

Tu làm tâm đại hỉ,

Với mình cùng đắc pháp,

Cứu giúp bằng đạo lý,

AṠlà hạnh Bồ Tát.

Khi sắp gieo đầu xuống hố lửa thì vua Đế Thích và vua Phạm Vƣơng chạy lại cầm tay

hỏi gạn rằng:

- Thái tử hãy khoan, để tôi nói chuyện đã : Một ông vua có đức nhân, thì muôn dân đƣợc

an lạc ! Chúng tôi nhận thấy Thái tử là ngƣời đức tầy bốn biển, Phụ Hoàng yên lòng có

ngƣời nối trị nuôi dân, hà tất vì một câu đạo mà bỏ tất cả chúng sinh trong thiên hạ, theo

ý chúng tôi thì không nên quá ƣ thiên chấp nhƣ vậy.

13

Thái tử đáp lời rằng:

- Thƣa quý Ngài! Tôi nhận thấy phần nhiều ngƣời, chỉ biết lúc an vui, chớ không lo một

ngày gặp tai nạn! Chỉ biết cái sống hôm nay mà không sợ cái chết của ngày mai. Sở dĩ tôi

làm một việc có thể an vui mãi mãi, cho chúng tôi và tất cả chúng sinh, chứ không phải

tôi không biết thƣơng chúng sinh! Quý Ngài không nên cản trở đạo tâm cao cả của tôi

làm gì.

Nói xong Thái tử nhảy xuống hố lửa! Tự nhiên trời đất chuyển biến làm cảm động cả

thiên cung. Khi đó mọi ngƣời đều sa nƣớc mắt, cũng có ngƣời lên tiếng khóc thƣơng!

Giờ phút đƣơng làm cho mọi ngƣời khủng hoảng, thì hố lửa ấy tự nhiên biến thành một

ao sen, mùi hƣơng thơm ngào ngạt, những làn gió thổi mát, thấu đến tâm phủ của mọi

ngƣời, họ nhìn vào thấy Thái tử ngồi trên đài sen, ai nấy đều vui mừng không tả xiết. Lúc

đó hoa trên trời bay xuống nhƣ mƣa. Vua Đế Thích, vua Phạm Thiên cũng phải cất tiếng

khen rằng:

- Quý hóa! Cầu đạo nhƣ vậy, sau này quyết định thành Phật.

Kính lạy Ngài! Nhà vua thuở đó nay là thân phụ Ngài (Tịnh Phạn Vƣơng), bà Hoàng hậu

thuở đó nay là thân mẫu Ngài (Ma Gia), Thái tử nhảy xuống hố lửa chính nay là Ngài,

cũng vì thƣơng chúnh sinh, cầu pháp nhƣ ngài đó, nay đã thành công, cúi xin Ngài từ bi

thuyết pháp, tế độ quần sinh qua nơi biển khổ !

Kính lạy Ngài! Lại một đời quá khứ nữa, tới nay vô lƣợng kiếp, cũng Châu Diêm Phù

này có một nƣớc tên là Ba La Nại, nƣớc ấy có năm trăm vị Tiên sĩ tu trong núi, ông Uất

Đà La làm thầy các vị Tiên này, tuy ông tu theo Tiên đạo, nhƣng ông hằng mong đƣợc

gặp chánh pháp của Nhƣ Lai (Phật), ông đã từng đi khắp bốn phƣơng trời, và thông báo

cho thiên hạ biết rằng:

- Tôi Đại Tiên sĩ rất muốn đƣợc nghe chánh pháp của đức Nhƣ Lai, ai biết nói cho tôi

nghe, nếu muốn dùng gì tôi xin dâng biếu.

Khi đó có một ngƣời dòng Bà La Môn tới chỗ ông nói rằng:

- Nghe biết Tiên sĩ muốn tìm hiểu chánh pháp của Nhƣ Lai, chính tôi là ngƣời hiểu biết

giáo pháp của Nhƣ Lai, nếu Ngài muốn hocỏi, tôi sẽ thành thực giảng thuyết, nhƣng

nghe là một việc rất khó.

Đại Tiên thƣa: - Kính thƣa Đại sƣ việc nghe pháp phải thế nào xin Ngài dạy bảo cho?

Đáp: - Ngài có thể lột da của Ngài để làm giấy; chẻ xƣơng của Ngài dùng làm bút; lấy

máu của Ngài để làm mực viết lấy giáo pháp của Nhƣ Lai, thì tôi sẽ thuyết cho Ngài

nghe.

- Dạ, rất đa tạ Đại Sƣ, chúng tôi xin tuân lời của Đại Sƣ dạy.

14

Nói dứt lời ông sai ngƣời lấy dao lột da, chẻ xƣơng, lấy máu thực sự, làm xong ông ngửa

mặt thƣa rằng:

- Dạ, kính xin Đại Sƣ đọc để chúng tôi tiện viết ạ !

Đại sƣ đọc bài thơ rằng:

Thƣờng đƣơng nhiếp tâm hành

Nhi bất sát, đạo, dâm;

Bất lƣỡng thiệt ác, khẩu,

Vọng ngôn, cập ỷ ngữ.

Tâm bất tham chƣ dục;

Vô sân, khuể, độc tƣởng;

Xả ly chƣ tà kiến.

Thị vi Bồ tát hạnh.

Nghĩa là :

Thường phải nhiếp tâm hành.

Mà không sát, trộm, dâm,

Không hai lưỡi, nói ác;

Nói dối, nói đơm đặt,

Tâm không tham mọi dục;

Không sân giận, độc tưởng;

Xa lìa mọi tà kiến:

AṠlà hạnh Bồ tát.

Đại Sƣ thuyết xong thì Ngài viết cũng vừa xong. Từ đó Ngài dùng bài thơ này đi khắp

nhân gian để dạy bảo cho mọi ngƣời biết lối tu hành. Những ngƣời đƣợc hàm ơn Ngài

giáo hóa, khi mạng chung đƣợc thoát khỏi ba đƣờng ác sinh lên cõi Trời, cõi Ngƣời,

hƣơng phúc vô cùng vô tận.

- Kính lạy Ngài! Ông Tiên ngày đó chính là Ngài đấy, Ngài đã vì chúng sinh cầu học đạo

một cách khổ cực đến nhƣ vậy, tại sao lại bỏ để vào Niết Bàn mà không thuyết pháp?

- Kính lạy Ngài! Lại một thời quá khứ nữa, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua

tên là Thi Tỳ, ở thành Đế Bà Bạt Đề, dân nƣớc lúc đó giàu thịnh vô cùng. Nhà vua thống

trị tám vạn bốn ngàn nƣớc nhỏ, sáu muôn núi sông, tám ngàn ức dân ấp. Nhà vua có hai

muôn bà phu nhân và thể nữ, năm trăm Thái tử, một vạn quan Đại thần. Vua có hạnh từ

bi, thƣơng dân nhƣ con đỏ.

Trên Trời lúc ấy, Vua Đế Thích gặp lúc năm đức ly thân, sắp tới ngày tận số (chết) khí

sắc ông lúc nào cũng âu sầu, ông Tỳ Thủ Yết Ma thấy thế, bèn hỏi rằng:

- Tâu Bệ hạ ! Hồi này Hạ thần coi khí sắc của Bệ hạ kém xƣa nhiều lắm, chẳng hay có

chuyện chi, xin nói cho Hạ thần đƣợc rõ.

Đế Thích đáp: - Khanh không biết hay sao? Hoa trên đầu ta đã héo, tử chứng đã xuất

hiện, mạng sống chẳng còn đƣợc là bao, hiện nay ở thế gian không có giáo pháp của Nhƣ

Lai, ta không biết qui hƣớng về đâu nên ta buồn!

15

Ông Tỳ Thủ Yết Ma thƣa rằng: - Tâu Bệ hạ hiện nay ở thế gian thuộc Châu Diêm Phù có

một ông vua tu theo hạnh Bồ tát, tên là Thi Tỳ, tâm ý bền vững và tinh tiến lắm, sau này

quyết định thành Phật, xin Bệ hạ tới đó quy y, thì lai sinh sẽ đƣợc đầy ý nguyện, đầy vẻ

tôn vinh trên cõi nhân, thiên, hoặc xuất thế gian".

Vua Đế Thích nói: - Nếu nhƣ qủa nhƣ lời của khanh nói, thì may cho ta lắm, nhƣng phải

thử xem hƣ thực thế nào. Vậy khanh hóa làm con chim Bồ Câu, ta hóa làm chim Cắt,

khanh bay trƣớc ta bay sau, khi tới nơi khanh bay vào lòng nhà vua, và yêu cầu vua cứu,

còn ta đến sau ta sẽ đòi trả để ăn thịt, xem nhà vua giải quyết thế nào.

Tỳ Thủ Yết Ma nói: - Tâu Bệ hạ ! Bồ tát là ngƣời từ bi phúc đức, chúng ta nên cúng

dàng, và ủng hộ là phải, chứ không nên làm những sự đau khổ đến Bồ Tát.

Vua Đế Thích liền đọc bài thơ đáp rằng:

Ngã diệc phi ác tâm,

Nhƣ trân bảo ƣng thí.

Dí thử thí Bồ tát,

Tri vi chí thành phủ ?

Nghĩa là :

Ta cũng chẳng ác tâm.

Nếu thực vàng nên thử.

Để thử Bồ tát xem,

Có thực chí thành không?

Vua Đế Thích đọc xong, bắt đầu Tỳ Thủ Yết Ma hóa làm chim Bồ Câu bay trƣớc, Vua

Đế Thích hóa làm chim Cắt bay sau. Khi tới cung thành, chim Bồ Câu bay thẳng vào

lòng nhà Vua tỏ vẻ sợ hãi, rồi kêu Vua cứu. Chim Cắt bay tới sau, đứng ở trên điện nói:

- Tâu Bệ hạ ! Xin Ngài trả lại cho tôi con chim Bồ Câu ấy?

Đáp: - Trả cho ngƣơi để làm chi?

o Tâu Bệ hạ ! Nó là món ăn của tôi, tôi đƣơng đói trả để tôi ăn.

Đáp: - Ta có nguyện cứu tế cho muôn loài, nó đã lại đây với ta thì ta không trả đâu.

- Tâu Bệ hạ ! Ngài tự nói cứu tế cho muôn loài, mà cƣớp món ăn của tôi, thì tôi phải chết

đói, đối với tôi không phải là một trong muôn loài hay sao!

Đáp: - Ngƣơi đói thì có thể dùng thứ thịt khác đƣợc không?

- Tâu Bệ hạ ! Vâng! Cũng đƣợc nhƣng phải cho tôi thứ thịt hãy còn tƣơi, máu hãy còn

nóng, thì tôi dùng.

Nhà Vua thầm nghĩa: - Nếu thế thì phải giết một con vật khác; nhƣng nếu giết một con,

cứu một con cũng vô ích, chi bằng ta cắt thịt của ta thay thế cho nó là hơn.

16

Nghĩ xong lấy dao cắt một miếng thịt đùi ra trao cho chim Cắt và nói rằng:

- Đây! Ngƣơi dùng miếng thịt của ta để thay chết cho Bồ Câu.

Chim Cắt ra cách không hài lòng nói:

- Tâu Bệ hạ ! Ngài đã mang danh là vị Đại Thí chủ, đã dùng con mắt bình đẳng đối với

tất cả, tôi đây tuy là một con chim nhỏ thực, nhƣng nếu theo sự công bình, thì Ngài phải

bắt cân để chim một bên thịt một bên; thịt và chim bằng nhau thì tôi sẽ nhận.

Theo lời chim nói có lý phải, nên nhà vua sai ngƣời bắt cân, để chim một bên để thịt nhà

vua một bên, bắt đầu để một miếng hãy còn nhẹ, lại cắt thêm miếng nữa, vẫn thấy còn

nhẹ, dĩ chí nhà vua cắt hết một vế đùi, nhƣng vẫn nhẹ nhƣ thƣờng, sau cắt hết hai vế đùi,

cho đến hai cánh tay, hai bạng mỡ, song vẫn còn nhẹ sau róc hết các thớ thịt ra để lên

cũng vẫn còn thấy nhẹ, chim vẫn nặng hơn, nhà vua liền đứng dậy để bƣớc lên bàn cân,

thì đau quá, khí lực đã hết nên Ngài ngã lăn đùng xuống đất, mê mệt không biết gì, giờ

lâu tỉnh lại, thầm nghĩ rằng:

- Ta từ bao kiếp đến nay, cũng chỉ vì có thân này, mà làm cho ta khốn khổ, nổi chìm

trong ba cõi, trôi dạt trong sáu thú, cũng do tham thân sống, tiếc thân sống, nuôi nó bảo

thủ nó, gìn giữ nó, yêu quí nó, vì nó mà làm hại biết bao sinh mạng khác, nhƣng trái lại

rồi một ngày gần đây nó lại tan không, hòa đồng với đất, nƣớc, cây cỏ, chƣa bao giờ vất

nó đi, để hy sinh mà cứu chúng sinh, vậy ta phải tiến lên để đập tan những bức thành ngã

chấp từ bao kiếp tới nay, để đạt tới pháp thân bất diệt.

Nghĩ xong liền ngồi dậy cố gắng đứng lên bàn cân nhìn vẻ mặt vẫn vui tƣơi!

Bấy giờ trời đất tự nhiên chuyển động sáu lần, thiên cung nghiêng ngả, có rất nhiều ngƣời

ở các cõi trời bay xuống xem, họ nhận thấy một ông vua, quên mình để cứu một con vật,

tất cả nhân gian thiên thƣợng, chƣa từng ai làm nổi, họ đều cảm động rơi lệ chứa chan, và

tung các thứ hoa xuống cúng dàng.

Đối với lòng đại bi cứu sinh một cách dũng mãnh nhƣ vậy, vua Đế Thích cũng phải cảm

phục và hiện lại nguyên hình rồi nói rằng:

- Kính thƣa Ngài! Tôi thấy Ngài làm hạnh Bồ tát, nên tôi tới đây để thử Ngài đấy thôi,

chính tôi đây là Đế Thích Vƣơng là chúa cõi trời Đao Lợi. Nhƣng xin hỏi Ngài: Ngài làm

những việc mà ngƣời đời không làm nổi nhƣ vậy, để cầu làm gì ? Làm Đế Thích hay làm

Chuyển Luân Thánh Vƣơng?

Nhà vua đáp: - Thƣa Ngài tôi nguyện đem lòng từ bi cứu hộ chúng sinh để cầu thành

Phật, chứ không có ý cầu làm Đế Thích hay Chuyển Luân Thánh Vƣơng mong hƣởng

những thú vui trong ba cõi.

Vua Đế Thích nói: - Nhà vua cắt thịt đau đớn nhƣ vậy, thì tâm có phàn nàn gì không?

17

Đáp: - Thƣa không!

Vua Đế Thích nói: - Nhà vua nói không, việc đó thì ai biết? Tôi coi thân thể nhà vua run

rẩy nhƣ vậy, khí sắc đã gần tuyệt, tự nói không thì lấy gì làm bằng?

Đáp: - Trƣớc mặt Ngài tôi xin có một cụ thể để chứng tỏ lòng thành của tôi, nói xong

Ngài lập thệ rằng:

- Kính lạy thập phƣơng Đại Giác tam thế Hùng Sƣ ! Nếu con chí thành cầu đạo! Xin cho

con lại đƣợc bình phục nhƣ cũ.

Thệ dứt lời, nhà vua lại đƣợc lành mạnh nhƣ cũ, những vết thƣơng tiêu tan, da dẻ lại tƣơi

sáng hơn xƣa.

Bấy giờ tất cả trời ngƣời phàm thánh ai nấy đều tắc lƣỡi bái phục tâm chí thành của nhà

vua, và coi nhƣ một việc chƣa từng có, thảy đều kinh sợ vui mừng!

- Kính lạy Ngài! Vua Thi Tỳ thuở đó chính là Ngài đấy, Ngài đã vì chúng sinh chịu cực

khổ nhƣ vậy! Giờ phút này chúng sinh đƣơng bị chìm đắm trong bể sinh tử luân hồi; phơi

thây trong rừng tà kiến, dục vọng! Ngóc đầu lên không ai vớt, gào kêu không kẻ chỉ

đƣờng. Kính xin Ngài từ bi cứu tế thuyết pháp độ sinh, khiến cho khắp nhân thiên, phàm

thánh đƣợc mong ân đức hóa.

Vua Phạm Vƣơng đứng trƣớc đức Phật tán dƣơng công đức, và tha thiết cầu thỉnh Ngài

thuyết pháp độ sinh một cách thành thực, nên đức Phật hứa lời ông thỉnh.

Đầu tiên Ngài đến nƣớc Ba La Nại thuyết pháp ở vƣờn Lộc Uyển độ cho nhóm ông Kiều

Trần Nhƣ năm ngƣời. Ngôi Tam Bảo từ đấy mới xuất hiện ở thế gian.

---o0o---

Phẩm thứ nhì : THÁI TỬ MA HA TÁT ĐÕA ĐEM THÂN CHO CỌP ĂN

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một lần Phật ở nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn cây của ông Cấp Cô Độc và

Thái Tử Kỳ Đà.

Tới thời khất thực, đức Phật mặc áo mang bát và tôi (Át Nan) đi theo hầu. Khi vào tới

thành gặp một bà lão và hai cậu con trai; hai cậu này trộm cắp ngang tàng, không có nhân

cách. Giữa hôm ấy sa lƣới chánh quyền bị đem đi xử tử.

Giờ phút hãi hùng này thì tôi và Phật vừa tới, ba mẹ con đều cúi đầu lễ Phật và kêu Phật

cứu mạng. Phật bèn sai tôi (Át Nan) đến xin vua tha cho, sau khi tôi đến nói với nhà vua,

vì có lời Phật đến để xin vua phóng thích cho ba mẹ con bà lão, nên nhà vua tuân lời dạy

tha cho tội chết.

18

Mong ơn cao cả của đức Phật, ba mẹ con bà này đến tạ ơn, tới nơi cúi đầu làm lễ và bạch

Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Mong ơn sơn hải mẹ con đƣợc thoát chết, không biết lấy gì để

đền đáp ơn đức cao dầy ấy. Kính lạy Đức Thế Tôn, mẹ con một lònh thành kính cúi đầu

bái tạ, xin từ bi hoan hỷ nhận tấm lòng thành kính của mẹ con chúng con.

Phật dạy: - Quý hóa! Tội phúc do mình tạo tác gây nhân kết qủa, từ nay chăm tu thiện

nghiệp, lai sinh hƣởng phúc lâu dài.

- Dạ, kính lạy Đức Thế Tôn! Mẹ con xin tuân lời chỉ giáo! Và xin cho cả ba mẹ con

chúng con đƣợc nhập đạo tu hành.

Phật dạy : - Quý hoá ! Muốn trút bỏ những trần duyên ràng buộc của thế tục, để

tìm đƣờng giải thoát thì ta cũng cho.

Nói xong ngài gọi lên rằng : - Thiện Lai Tỳ Khƣu !

Ngài gọi xong, cả ba mẹ con, tự nhiên rụng tóc, áo mặc tại mình biến thành áo

cà sa, lòng tin vững chắc, sau khi nghe Phật thuyết pháp, những trần cấu phiền não đều

tiêu mất, tâm ý sáng tỏ, hiểu thấu đạo chân thật. Lúc đó hai ngƣời con đƣợc chứng quả A

La hán, còn ngƣời mẹ chứng quả A Na Hàm.

- Thấy việc nhƣ thế tôi (A Nan) cũng khen ngợi, và cũng lấy làm kỳ ngộ, không

biết nhân duyên của ba mẹ con ngƣời này, đời trƣớc thế nào ? Nên tôi quỳ xuống bạch

Phật răng :

- Kính lạy Đức Thế Tôn ! Không hay ba mẹ con ngƣời này, đời trƣơc có phƣớc

gì, nay đƣợc gặp Ngài cứu cho thoát nạn, hơn nữalại đƣợc chứng đạo Niết bàn ? Xin nói

cho chúng con đƣợc rõ nguyên nhân.

Phật dạy : - A Nan ! Ông hãy để ý nghe Ta nói.

Dạ, con xin chú ý nghe.

A Nan ! Ông nên biết, cách đây đã vô số kiếp, ở Châu Diêm Phù Đề này có

một ông vua tên là Ma Ha La Đàn Na, cai trị ba ngàn nƣớc nhỏ, vua có ba ngƣời con trai,

ngƣời thứ nhất tên là Ma Ha Phú Na Binh ; ngƣời thứ hai tên là Ma Ha Đề Bà ; ngƣời thứ

ba tên là Ma Ha Tát Đỏa.

Ngƣời con thứ ba Ma Ha Tát Đỏa, có phúc đức lớn, lòng từ bi quảng đại, chí

19

khí cao cả, nhân hiền hiếu thảo, có lòng thƣơng dân giúp vật. Một hôm nhà vua đƣa phu

nhân thể nữ (nàng hầu ) và ba ngƣời con vào rừng chơi. Nhân lúc nhà vua nằm nghỉ dƣới

gốc cây, thì ba Hoàng tử đƣa nhau đi chơi, đi tới rừng kia chợt gặp một con hổ mẹ và hai

hổ con; con hổ mẹ nằm gục đầu vào tảng đá gầy còm, da sát xƣơng, hơi thở thoi thóp, hai

mép phung ra hai bãi bọt lớn, tựa nhƣ bọt xà bông, còn hai con nằm chui đầu vào hông

mẹ, tuy nhìn thấy ngƣời nhƣng không hề cử động, vì bị đói lâu ngày khí lực bạc nhƣợc.

Song có ý muốn ăn thịt con. Thấy thế, Thái tử Ma Ha Tát Đỏa nói với hai anh rằng :

- Thƣa anh ! Con hổ mẹ, em thấy đói khát quá, lại thêm nuôi hai con nhỏ, em xem ý nó

muốn ăn thịt con, có phải chăng ?

Đáp : - Phải ! Anh cũng nghĩ thế.

- Thƣa anh ! Vậy nó hay ăn những thứ gì ?

Đáp : - Nó hay ăn những thứ thịt tƣơi máu nóng.

- Thƣa anh ! Bây giờ phỏng có ai cứu đƣợc nó không ?

Đáp : - Việc ấy khó lắm.

Khi đó Thái tử Ma Ha Tát Đỏa động lòng thƣơng ! Thầm nghĩ rằng : - Ta bị

sống thác trong bao kiếp tới nay, bỏ thân cũng đã nhiều, song những thân ấy chỉ gây thêm

những tội nghiệp, tham, sân, si, chứ chƣa từng đem thân ấy mà làm lợi ích cho nhân vật

bao giờ; ta hãy bỏ thân tham, sân, si, này cho hổ ăn, để đổi lấy thân từ bi trí tuệ bất diệt.

Nghĩ xong rảo đi trƣớc hai anh, đi chƣa đƣợc bao xa, quay lại nói với hai anh rằng : - Hai

anh hãy đi trƣớc, em có chút việc riêng.

Nói rồi cứ nhắm thẳng con đƣờng cũ, đi tới chỗ ba con hổ nằm, tới nơi gieo mình vào cho

hổ ăn thịt. Hổ bị đói lâu ngày run rẩy không thể há mồm ăn đƣợc. Thái tử dùng cây nhọn

đâm vào cổ họng cho phọt máu, hổ thấy máu lè lƣỡi liếm, dần dần tỉnh táo, mới có sức

ngồi dậy để ăn thịt, ăn xong thân thể đƣợc khoẻ mạnh, mẹ con dẫn nhau đi nơi khác trú

ẩn, chỉ còn để lại đống xƣơng trên mặt đất.

Hai ngƣời anh ngồi chờ mãi không thấy em về, tự nhiên ruột nóng nhƣ lửa đốt, nƣớc mắt

chảy dạt dào. Rồi đi tìm em và tự nghĩ rằng : "Em ta có ý định cứu hổ đói". Cứ thẳng lối

tìm đến chỗ con hổ, quả nhiên không thấy hổ mà chỉ thấy đống xƣơng và cái đầu nằm trơ

trên bãi đất, quá thƣơng em, nên hai ngƣời anh ngất đi hồi lâu mới tỉnh lại !

Đoạn nầy nói đến nhà vua và Hoàng hậu nằm nghỉ mát dƣới bóng cây, Hoàng hậu nằm

chiêm bao thấy ba con chim cáp bay vào rừng, con chim thứ ba bị chim ƣng bắt ăn thịt,

sực tỉnh dậy bà sợ quá ! Liền đem chuyện đó nói với vua :

20

- Tâu Bệ Hạ tôi vừa mộng thấy ba con chim cáp bay vào rừng, con chim thứ ba bị chim

ƣng bắt ăn thịt, tôi nghe lời ngạn ngữ nói : Chim cáp thuộc con cháu, cáp nhỏ bị chết tất

nhiên con yêu của tôi gặp sự bất tƣờng.

Bà nói vừa dứt lời thì thấy hai cậu con lớn đã về, bà lật đật hỏi :

Em đâu ? Em đâu ? Hai con ?

Hai cậu quỳ xuống thƣa rằng :

- Thƣa Phụ vƣơng cùng Mẫu hậu ! Em con bị hổ ăn thịt. Nhƣng không biết bị hổ ăn, hay

em con thƣơng nó đói mà cho nó ăn, việc đó chƣa tƣờng.

Đƣợc tin nhƣ sét đánh bên tai; ông bà chết ngất giờ lâu mới tỉnh lại ! Đồng thời vua cùng

Hoàng hậu và quan quân đi đến chỗ thái tử, chao ôi ! Chỉ còn đống xƣơng trắng phơi dãi

trên mặt đất, ai nấy đều than khóc tiếc thƣơng ! Hoàng hậu tự mang lấy cái đầu lâu, còn

vua mang hai ống xƣơng tay, trong lòng rầu rĩ xót đau, ngơ ngẩn ! Tâm hồn nhƣ mơ nhƣ

mộng, chứa chan rơi lệ !

Đoạn này nói đến thái tử, vì lòng từ bi cứu hổ đói, sau khi trút khỏi xác, đƣợc sinh về

Trời. Tự nghĩ rằng:

- Ta đƣợc phép thiên nhãn, coi xa năm cõi nhƣ coi vật trên bàn tay, chắc đời trƣớc đây ta

làm phúc gì, nên mới đƣợc quả báo nhƣ vậy.

Nghĩ xong nhìn xuống nhân gian, thấy mình là thái tử, vì hy sinh cứu hổ đói, tử thi nằm ở

rừng xanh, phụ mẫu hãy còn đƣơng than khóc, Thái tử động lòng thƣơng cha mẹ, ngu si

mê muội, khóc thƣơng quá chừng nhƣ vậy, hoặc nhân thế mà táng mất thân mạng, liền từ

trên Trời bay xuống, đứng trên hƣ không thƣa rằng:

- Kính thƣa Phụ hoàng cùng Mẫu hậu ! Xin hãy khoan tấm lòng, đừng quá thƣơng Thái

tử nữa ! Nên trở về hoàng cung trị quốc an bang tu thiện nghiệp.

Thấy thế nhà vua liền hỏi rằng:

- Ông là vị thần nào xin chỉ bảo cho chúng tôi đƣợc rõ.

Đáp: - Con là Thái tử Ma Ha Tát Đỏa đây, bởi con xả thân cứu hổ nên con đƣợc sinh lên

cõi trời Đâu Suất, kính thƣa Phụ vƣơng tất cả muôn vật cho đến nhân sinh, có hình tất có

hoại, có sinh tất có tử, có rồi phải không, tạo ác thì sa địa ngục, làm lành đƣợc sinh lên

trời, sống chết là một luật nhất định cho tất cả chúng sinh, Phụ vƣơng không lo buồn làm

chi, cho tổn tâm can, nên tỉnh ngộ để tu đạo hạnh.

Nhà vua nòi: - Ngƣời làm hạnh đại từ tế độ cho khắp muôn loài, bỏ ta mà chết ! Lòng ta

thƣơng nhớ, đến nỗi quặn lòng đứt ruột, đau đớn không tả xiết vậy ngƣời tu hạnh đại từ

có xứng hay không ?

21

Nghe nhà vua nói, Thái tử dùng vô ngại biện tài, đem những ý nghĩa nhiệm mầu thiện

đức, cao siêu xuất phàm để báo tạ và khuyên vua.

Khi đó nhà vua mới nguôi nguôi tấm lòng, và tỉnh ngộ tâm thức, rồi sai ngƣời làm hòm

thất bảo thu bỏ hài cốt làm lễ an táng và xây tháp cúng dàng.

Tới đây cha con từ biệt: Thái tử hóa thân về thiên cung; vua, phu nhân và quan quân trở

về kinh thành.

Phật nói tới đây rồi Ngài nhắc lại cho tôi:

- Này A Nan ! Nhà vua thuở đó là cha của ta ngày nay, Hoàng hậu thuở đó, nay là mẫu

thân ta bây giờ, ông Ma Ha Phú Na Ninh nay là ông Di Lặc, Thái tử Ma Ha Đề Bà, nay là

ông Bà Tu Mật, còn Thái tử Ma Ha Tát Đỏa chính là ta đây. Hổ mẹ bấy giờ, nay là bà lão

này, hai hổ con tức là hai ngƣời con trai nầy. Thời đó ta đã cứu sống cho ba mẹ con đƣợc

an toàn tánh mạng, tới nay ta thành Phật ta lại cứu cho khỏi tội chết và đƣợc thoát sinh tử

luân hồi.

Phật thuyết xong thì tôi và tất cả mọi ngƣời trong đại hội hoan hỷ kính mến đức cao cả

của Ngài, ai nấy đều cúi đầu lễ tạ lui ra.

---o0o---

Phẩm thứ ba : HAI NGƢỜI DÒNG PHẠM CHÍ THỤ PHÁP BÁT QUAN TRAI

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một lần Phật ở nƣớc Xá Vẽ, tại vƣờn cây của ông Cấp Cô Độc và

Thái tử Kỳ Đà. Lúc đó trời vừa sẩm tối, có hai ngƣời cõi trời vào yết kiến Phật, thân thể

to lớn đẹp đẽ, ngƣời có hào quang, ánh sáng chiếu khắp rừng Kỳ Hoàn trở thành vàng

ửng. Tới nơi họ cúi đầu lễ Phật nhiễu ba vòng, rồi lui đứng về một bên, và bạch Phật

rằng:

- Kính lạy Đức Thế Tôn! Đấng từ bi cao cả làm thầy cho hết thảy trời, ngƣời, hôm nay

chúng con tới đây cúi xin Ngài chỉ dạy cho một lối tu hành thoát khổ trong sáu thú, đƣợc

an vui đạo Niết Bàn?

Khi đó Ngài cũng tuỳ theo căn khí của họ, thuyết cho họ nghe những pháp thích hợp với

tâm lƣợng của họ, nên hai ngƣời đều chứng đƣợc đạo quả rồi cúi đầu lễ tạ trở về trời.

Sáng hôm sau buổi trà nƣớc dâng Phật vừa xong, giữa lúc bầu trời êm dịu, thanh khí ôn

hòa, trong cuộc thƣ nhàn vấn đạo, tôi (A Nan) tới trƣớc bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn ! Tối hôm qua hai ngƣời cõi trời, lại yết kiến Ngài, coi tƣớng

mạo, và oai nghi tốt đẹp, ánh sáng chói loà, phúc đức đầy đủ, không rõ đời trƣớc họ tu

những hạnh gì, nay đƣợc kết quả tốt lành nhƣ vậy ?

22

Phật bảo tôi rằng:

- Này A Nan ! Ông lắng nghe tôi nói: Thuở xƣa đức Phật Ca Diếp ứng thế độ sinh, sau

khi Ngài đã diệt độ, bấy giờ pháp đã tới thời cuối rốt (thời mạt), thuở ấy có hai ngƣời tu

theo dòng Bà La Môn, họ thấy công đức Pháp Bát quan trai cao cả, nên họ xin thụ trì (tu

giữ ), ngƣời thứ nhất nguyện sinh lên trời, ngƣời thứ hai nguyện làm Quốc vƣơng.

Thụ rồi trở về nhà vào lúc đã quá giờ ngọ, ngƣời thứ nhất đƣợc vợ gọi ăn cơm; anh nói:

- Thôi, em ăn cơm đi, hôm nay anh đã thụ giới Bát quan trai của Phật dạy, cử quá giờ ngọ

không ăn! Vậy anh không ăn đâu, em ăn đi, để cho sự trai giới của anh đƣợc hoàn toàn.

Cô vợ thấy chồng nói thế, bực bội cau mặt nghiến răng nói:

- Anh xƣa nay thuộc dòng Phạm chí (đạo Bà La Môn) đã có đủ giới pháp, cớ sao hôm

nay anh lại đi thụ trai giới của đạo Phật? Nếu anh không chịu bỏ trai giới ấy, mà ăn cơm

với tôi, thì tôi đem chuyện này, nói cho tất cả mọi ngƣời trong đồng đạo họ biết, họ sẽ

đuổi anh ra khổi bọn họ và chính tôi cũng không chung sống với anh nữa.

Cũng do lòng không vững chắc và nhất là nể vợ, sợ vợ ! Nên anh thoái chí bỏ trai pháp,

tức là phá giới "Bát quan trai", ngồi ăn cơm phi thời với vợ.

Hai ngƣời nguyện tu trai pháp ấy, tùy theo tuổi thọ dài vắn rồi cùng chết cả. Ngƣời

nguyện làm vua thì đƣợc sinh vào nhà vua, vì giữ trai giới đƣợc hoàn toàn, sau sẽ đƣợc

làm vua; ngƣời nguyện sinh lên trời, vì phá trai giới phải đọa sinh trong loài Rồng.

Cũng do lòng tin vững chắc, trai giới hoàn toàn thanh tịnh, ngƣời làm vua nói trên đƣợc

hƣởng một cuộc đời vƣơng giả trong boàng cung, đầy vẻ tôn sang, thỏa lòng vui sƣớng

với năm cảnh dục lạc của thế gian! Ông vua này có một vƣờn cây, trong vƣờn trồng đủ

các thứ quả, mùa nào thứ ấy; vƣờn nầy có một ngƣời trông nom, để hàng ngày dâng quả

lên vua, gọi là Viên Giám, vua vẫn tin dùng anh là ngƣời có khả năng trồng cây coi vƣờn,

tƣới bón, tuỳ thời dâng các hoa quả. Một hôm Viên Giám ra giếng nƣớc, quả nầy trên thế

gian chƣa từng có, sắc đẹp mùi thơm lạ thƣờng, anh vớt lấy và đặt tên cho nó là quả nại,

đƣợc quả quý này rồi thầm nghĩ rằng:

- Mỗi khi ta vào thành, quan Môn Giám đã chạy ra đón ta, đối với ta một cách thân mật,

ta chƣa có gì để đền đáp tấm lòng quý hóa ấy, vậy ta đem quả này biếu Ngài.

Nghĩ thế rồi đem quả ấy biếu Môn Giám. Quan Môn Giám đƣợc quả này cũng tự cho là

một vật quý, nên không ăn, lại đem biếu ông bạn thân là quan Hoàng Môn, quan Hoàng

Môn thấy quả quý cũng không ăn, lại dâng lên bà Hoàng hậu, để mua lấy tấm lòng ƣu đãi

của bà. Bà thấy quả đẹp lạ thơm khác đời, nên bà dâng lên vua dùng. Nhà vua dùng quả

này thấy ý vị, mùi thơm từ thuở sinh đến nay chƣa từng ăn thứ quả nào đƣợc ngon nhƣ

vậy, liền gọi bà lên hỏi căn do:

23

- Này bà ! Quả mà tôi vừa ăn xong, ngon lắm! Tôi chƣa từng thấy quả nào quý nhƣ vậy,

quả này ai cho?

Phu nhân đáp: - Tâu Bệ hạ ! Qủa này do quan Hoàng Môn dâng.

Cho gọi Hoàng Môn.

Nhà vua hỏi: - Quả này mua tại xứ nào?

Đáp: - Tâu Bệ ha ! Quả này nhà hạ thần không có, hôm qua quan Môn Giám cho con, xin

bệ hạ khoan thứ.

Cho gọi Môn Giám, vua hỏi:

- Quả ngƣơi cho Hoàng Môn hôm qua là quả gì, mua ở đâu ?

Đáp: - Tâu Bệ hạ quả đó nhà hạ thần không có, hôm qua quan Viên Giám cho, xin Bệ hạ

lƣợng thƣơng.

Cho gọi Viên Giám, hỏi:

- Viên Giám trong vƣờn của ta có những thứ quả ngon lành nhƣ thế, sao không đem dâng

ta lại đem cho kẻ nào?

Đáp: - Tâu Bệ hạ quả này trong vƣờn không có giống trồng, hôm qua hạ thần ra giếng

thấy nổi trên mặt nƣớc, xin Bệ hạ thƣơng xét.

Nhà vua nói: - Từ ngày mai trở đi ngày nào ngƣơi cũng phải đem quả này dâng cho ta,

nếu không thì ngƣơi bị tử hình.

Viên Giám nghe xong chết điếng ngƣời, mắt xanh lè, run sợ toát mồ hôi lễ tạ, trở về

vƣờn, tiu nghĩu một mình, sầu khổ một mình! Không biết kêu ai cho mình thoát đƣợc cái

oan ức ấy? Anh òa lên khóc, đƣơng khóc có ngƣời tới hỏi:

- Anh có việc chi lo sợ hãi hùng nhƣ vậy? Anh nói cho tôi biết, nếu có thể giúp đƣợc tôi

sẽ giúp anh!

Đáp: - Thƣa bác, tôi là một ngƣời coi vƣờn cho nhà vua, chịu trách nhiệm trông coi vƣờn

quả và hàng ngày dâng quả cho nhà vua dùng, hôm qua tôi bắt đƣợc một quả nổi trên mặt

giếng, vì thấy quả lạ, quý nên tôi không ăn, đem biếu quan Môn Giám, sau quả đó đƣa tới

vua; vua ăn thấy ngon lành, giờ đây bắt tôi ngày nào cũng phải dâng, nếu không dâng thì

bị tử hình, tôi không biết tìm đâu ra đƣợc nên tôi khóc.

- Thôi anh khỏi lo nữa! Nhà tôi có rất nhiều, tôi sẽ cho anh một mâm dâng vua.

24

Nói xong từ biệt ra về. Viên Giám vui mừng an lòng đã có ngƣời cứu mình. Chính ngƣời

này là con Rồng hóa hiện ra thân ngƣời để hỏi thử chơi đó thôi.

Một lát anh đã đội lên một mâm đầy quả ngon lạ dƣới Long cung, thuần những quả trên

thế gian không có, trao cho Viên Giám và dặn rằng:

- Khi anh dâng mâm quả này lên vua thì anh nói rằng: Tôi với nhà vua vốn là bạn thân

với nhau, đời trƣớc ở dòng Phạm chí, cùng nhau thọ pháp "Bát quan trai", mỗi ngƣời có

một bản nguyện: Nhà vua tu hành giữ giới hoàn toàn đƣợc làm nhân vƣơng, tôi không

giữ đƣợc toàn, nên phải đọa sinh vào loài Rồng, chịu nhiều cực khổ, thân thể xấu xa, giờ

đây tôi muốn tu theo Trai pháp, để cầu bỏ thân này sinh về cõi trời. Vậy nhà vua tìm hộ

cho tôi bài văn "Bát quan trai" ấy để tôi tu tập, nếu trái lời tôi, thì tôi sẽ lật đổ nƣớc của

nhà vua biến thành biển cả.

Viên Giám mừng rỡ; hai tay cất lấy mâm quả trịnh trọng cảm ơn dâng mâm quả ấy lên

vua và trình bày những lời của Rồng dặn cho vua nghe.

Nhà vua nghe xong, trong tâm thổn thức không yên, trống ngực đập liên hồi, vẻ mặt mất

vui tƣơi ! Tại sao thế ? Là vì thời đó không có kinh của Phật. Nhà vua đêm ngày âm thầm

lo nghĩ cho chính mình và tánh mạng cả một nƣớc, nhƣng không tìm đƣợc một phƣơng

tiện gì để giải quyết, trong lúc đƣơng ngồi suy nghĩ, thì thấy một ông quan Đại thần vào

chơi, ông này là một ngƣời quan trọng nhất thời đó. Nhà vua liền đem câu chuyện Rồng

đòi xin văn "Bát quan trai", nói cho ông nghe và nhờ ông tìm hộ.

Ông thƣa rằng: - Tâu Bệ hạ! Đời này không có Phật pháp, thì không thể tìm đâu ra đƣợc.

Nhà vua nói: - Việc này khanh phải chịu khó tìm cho bằng đƣợc, nếu không tìm đƣợc thì

khanh cũng chết, ta cũng chết, cho đến toàn quốc cũng chết, vậy việc này ta giao cho

khanh phải chịu trọng trách !

Theo lời vua truyền xong, ông bái tạ ra về. Ông là ngƣời rất có hiếu với cha già, mỗi khi

ông đi đâu về, ông cũng làm ra vẻ mặt tƣơi, để cho cha ông yên lòng, mừng con đƣợc an

lạc ! Nhƣng ngày hôm đó ông không thể nào làm nét mặt của ông tƣơi nữa! Cha ông thấy

thế hỏi ông rằng:

- Hôm nay con vào chầu vua có việc gì bất trắc mà lo buồn nhƣ vậy, nói cho cha biết với!

Đáp: - Thƣa cha! Hôm nay nhà vua truyền cho con phải tìm bài văn "Bát quan trai" của

Phật giáo, nếu không tìm đƣợc thì nguy cả một nƣớc nên con lo quá ! Mà con không thể

nào gƣợng sầu làm vui đƣợc!

Ngƣời cha nói: - Con ạ ! Cái cột nhà ta, thƣờng thƣờng cha nhìn thấy có ánh hào quang

hiện lên, con bảo ngƣời phá ra xem trong đó có vật gì ?

Nghe lời ngƣời cha nói, ông sai gia nhân lấy cây cột khác thay vào và bổ ra đƣợc hai

quyển kinh: Một quyển nhan đề là "Thập Nhị Nhân Duyên", một quyển nhan đề là "Văn

25

Bát Quan Trai". Thấy thế, ông vui mừng quá ! Vội đem dâng vua, nhà vua cũng hoan hỷ

cảm ơn, sai ngƣời chép lấy một quyển để lại, còn một quyển cho Viên Giám biếu Rồng.

Rồng đƣợc kinh cũng rất hài lòng với nguyện ƣớc! Trở về đem rất nhiều bảo vật dƣới

Long cung tạ ơn nhà vua.

Từ đó Rồng chuyên tu trai giới, lúc chết đƣợc sinh lên trời, nhà vua cũng chăm tu trai

giới, sau khi mạng chết cũng đƣợc sinh lên trời, hai ngƣời này cùng ở với nhau một nơi.

Nói tới đây Ngài lại nhắc cho tôi biết rằng:

Này A Nan! Hai ngƣời trời đó, chính là hai ngƣời dòng Phạm chí thụ giới "Bát quan trai"

thuở xƣa ấy, hôm qua tới đây nghe ta thuyết pháp chứng quả Tu Đà Hoàn cắt đứt ba

đƣờng ác, là địa ngục, ngạ quỉ và súc sinh, đời đời thƣờng đƣợc sinh trong cõi trởi, cõi

ngƣời. Từ đây trở đi hai ngƣời này sẽ đƣợc đạo Niết Bàn.

Phật thuyết nhân duyên của hai ngƣời xong, tất cả trong đại hội ai ai cũng vui mừng!

Kính tin phúc tu của Bát quan trai giới, đều hoan hỷ phụng hành lễ tạ lui ra.

---o0o---

Phẩm thứ tƣ : ĐI Ở LẤY CÔNG CÚNG DÀNG

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một lần đức Phật ở nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn cây của ông Cấp Cô

Độc và Thái tử Kỳ Đà.

Thuở đó nƣớc Xá Vệ có một Trƣởng giả, sinh đƣợc đứa con trai mặt mũi tốt tƣơi dáng

ngƣời xinh đẹp; mới sinh đã biết nói ngay. Nó tự hỏi rằng:

- Thƣa mẹ ! Đức Phật có còn tại thế không?

Đáp: - Ôi! Sao con biết nói sớm thế ? Ai dạy mà con đã biết nói? Con hỏi Phật làm chi?

Phật hãy con ở đời con ạ !

Nó lại hỏi: - Thƣa mẹ, Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả A Nan có còn không mẹ ?

Đáp: - Các Tôn giả hãy còn đây con ạ !

Cả nhà họ thấy cậu bé biết nói ngay, ai cũng ồn ào hỏi nhau, nghi nghi hoặc hoặc, chắt

môi chắt miệng cho là quái gở ? Rồi ông bố cậu đi hỏi Phật; tới chốn Phật, làm lễ xong,

quỳ xuống bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Con mới sanh đƣợc đứa cháu trai biết nói ngay, không hiểu hay

dở thế nào? Kính xin Ngài chỉ giáo cho chúng con đƣợc đoạn lòng nghi hoặc ấy ?

26

Phật dạy: - Nhà ngƣơi có phúc đấy, đứa trẻ này có tƣớng tốt đẹp, sau sẽ làm cho gia đình

đƣợc tôn vinh trên cõi nhân, cõi thiên nhiều lắm! Không nên hoài nghi làm chi, ngƣơi cứ

an tâm, nuôi nó cho cẩn thận là hơn.

Theo lời Phật dạy ông rất vui mừng! Ông trở về, nó lại nói với ông ấy rằng:

- Thƣa cha! Con rất muốn thỉnh Phật và chƣ Tăng tới nhà cúng dàng, vậy xin cha mẹ vì

con sửa soạn giƣờng tòa cho đẹp trang nghiêm, để ấn định ngày thỉnh.

Đứa trẻ nói: - Thƣa cha! Các vật dụng về sự cúng dàng, cha không phải sắm chi hết, cha

sai ngƣời quét dọn và bao sái nhà cửa cho sạch sẽ, bày bàn ghế tòa ngồi, giƣờng chiếu

cho trang nghiêm, bát đĩa cho trong sạch, mâm bàn dụng cụ về bữa ăn cứ sắp đặt sẵn, còn

về món ăn con đã có đầy đủ. Hiện nay bà thân mẫu con hãy còn ở nƣớc Ba La Nại, xin

mời lại đây cho con, và bày cho con ba tòa cao đẹp.

Ngƣời cha nghe con nói lấy làm vui vẻ lắm! Ông sai ngƣời cỡi voi đi đón bà mẹ ở nƣớc

Ba La Nại về, trong nhà bày tòa trải chiếu trang nghiêm mâm bàn, bát đĩa, cốc chén bày

trên sồi có thứ tự, bày xong các món ngon lạ, bao thứ ăn uống tự nhiên đầy đủ. Bày ba

tòa cao đẹp, tòa thứ nhất để cúng Phật, tòa thứ nhì để bà mẹ ở nƣớc Ba La Nại ngồi, tòa

thứ ba để bà mẹ hiện tại ngồi, các việc đƣợc chu đáo ổn định rồi, ngƣời cha thân đi mời

Phật, tới nơi lễ Phật và bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con cả gia đình thành kính sửa soạn trai nghi, đúng giờ

ngọ ngày mai, xin kính thỉnh Thế Tôn và các hàng Tăng Chúng tới nhà thụ trai và tác

phƣớc cho chúng con đƣợc ân triêm công đức.

Phật dạy: - Quý hóa! Có lòng cầu thỉnh ta sẽ nhận tâm thành ấy cho.

Ông vui vẻ ra về, ngày mai đúng giờ ngọ Phật và Tăng chúng đến đông đủ, thăng tòa

ngồi yên tĩnh, ông ta và hai bà mẹ cậu bé ra lễ Phật, thỉnh Phật và chƣ Tăng thọ trai. Phật

dùng trai xong thăng tòa thuyết pháp đƣợc thấm nhuần đức hóa của Phật, cả nhà đều

chứng sơ quả, vui mừng tạ lễ lui ra.

Cậu bé nay sau lớn tuổi, cũng xin đi xuất gia tu đạo, cậu rất chăm chỉ tu hành không bao

lâu đã chứng đƣợc quả A La Hán.

Thấy việc nhƣ vậy, tôi (A Nan) quỳ xuống bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Cậu

bé này vì duyên gì, đƣợc sinh vào nhà giàu có, tôn sang? Và biết nói ngay? Hơn nữa lại

đƣợc đắc đạo quả ? Kính xin Ngài chỉ giáo để chúng con đƣợc rõ !

Phật dạy: - Này A Nan! Cậu bé này, tiền thân ở nƣớc Ba La Nại là con một ông Trƣởng

giả, sau khi cha chết, gia nghiệp bị suy tàn, ngày một nghèo thiếu. Tuy đƣợc gặp Phật tại

thế, nhƣng không có gì để cúng dàng vì thế nên anh ta lúc nào cũng buồn. Sau tự đi làm

mƣớn đƣợc một năm, anh xin chủ một lạng vàng. Ngƣời chủ thấy anh xin vàng bèn hỏi:

- Anh lấy vàng để cƣới vợ hay sao?

27

Đáp: - Thƣa không!

Hỏi: - Anh lấy vàng làm gì ?

Đáp: - Thƣa! Để mua các món ăn, dâng Phật và các vị thánh Tăng.

Ông chủ nói: - Nếu anh muốn thỉnh Phật và chƣ Tăng, thì ta cũng ƣng lắm! Ta sẽ làm

những cỗ bàn, và ta đi mời Phật về nhà ta cho anh cúng, có ngại chi việc đó.

Đáp: - Dạ quý hóa lắm! Nếu ông bà có lòng vì tôi nhƣ vậy, thì phúc đức vô lƣợng vô

biên!

Ông chủ sai ngƣời sắm lễ vật, sửa soạn trai nghi, trịnh trọng, rồi sai ngƣời đi thỉnh Phật

và các vị thánh Tăng để cúng dàng.

Nói tới đây Phật lại nhắc lại cho tôi hay rằng:

- Này A Nan! Ngƣời nghèo đi làm mƣớn thuở đó, chính là cậu bé này, vì có lòng cúng

Phật và Tăng một bữa cơm, sau khi chết đƣợc sinh làm con ông Trƣởng giả, cũng nhân

phúc đó nay đắc quả A La Hán, từ đây sẽ đƣợc cõi ngƣời, cõi trời cúng dàng.

Khi Phật nói xong câu chuyện này, tất cả mọi ngƣời trong đại hội ai ai cũng vui vẻ, tin

kính sự cúng dàng đƣợc phúc vô lƣợng vô biên, thảy đều lễ Phật mà lui.

---o0o---

Phẩm thứ năm : THẦN BỂ VỚI NGƢỜI ĐI BUÔN

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một lần đức Phật ở nƣớc Xá Vệ tại vƣờn của ông Cấp Cô Độc và

Thái tử Kỳ Đà.

Thuở đó trong nƣớc có năm trăm ngƣời đi buôn, định ra biển tìm châu báu. Nhƣng sự ra

biển có rất nhiều hiểm trở khó khăn! Vì thế họ bàn nhau tìm một ngƣời đủ tài đức để dẫn

đƣờng cho họ. Sau họ tìm đƣợc ngƣời Ƣu Bà Tắc ông này trì ngũ giới và có tài biện

thuyết nhanh chóng.

Khi ra đến biển một trời, một nƣớc, ông thần bể biến thành còn quỉ Dạ Xoa hình thể xấu

xa, mắt xanh lè, răng chìa ra ngoài, trên đầu lửa cháy dữ dội, tới nơi nắm thuyền lại hỏi:

- Này các ông trong thuyền! Trên thế gian có ngƣời nào đáng sợ nhƣ tôi không?

Ngƣời Ƣu Bà Tắc đáp: - Dạ! Thƣa ông! Có rất nhiều ngƣời đáng sợ gấp trăm ngàn triệu

ông, đối với ông có chi đáng sợ.

28

Dạ Xoa hỏi: - Kẻ đó sợ nhƣ thế nào?

Đáp: - Là những kẻ ngu si làm những việc bất thiện, nào sát sinh, hại mạng, trộm cƣớp,

dâm dật vô độ, nói dối, nói lƣỡi đôi chiều, nói ác, nói đơm đặt, tham dục, giận tức, đắm

chìm nơi tà kiến, những kẻ đó chết phải sa xuống địa ngục, chịu khổ muôn phần, quân

ngục tốt bắt kẻ có tội ấy, đem ra nhiều thứ để hành phạt, hoặc lấy dao chém, hoặc lấy xe

nghiền cho tan thân nát thể ra hàng ngàn vạn đoạn; hoặc bỏ vào cối giã, hoặc bỏ vào cối

xay, còn có những hình phạt nhƣ: Núi dao, rừng kiếm, xe lửa, vạc nƣớc giá lạnh. Tất cả

những bình phạt nói trên, kẻ có tội ấy phải chịu trải qua vài ngàn muôn năm. Nhƣ thế mới

đáng sợ hơn ông.

Quỉ Dạ Xoa nghe xong buông thuyền cho đi, rồi ẩn mình biến mất, thuyền tiếp tục đi

đƣợc vài dặm, ông thần bể lại hóa ra một ngƣời hình thể gầy gò đen xấu, gân lộ, da sát

xƣơng tới nắm thuyền kéo lại hỏi:

- Này các ông trong thuyền, trên thế gian có kẻ nào xấu hơn tôi không?

Ông Ƣu Bà Tắc đáp:

- Dạ thƣa ông! Có rất nhiều ngƣời xấu gấp trăm ngàn vạn triệu ông, đối với ông chi đáng

xấu!

Ông thần bể lại hỏi:

- Ngƣời đó xấu nhƣ thế nào?

Đáp: - Dạ thƣa ông! Là những kẻ ngu si, lòng dạ ác độc, tham lam nịnh hót, ghen ghét,

bợ đỡ, tích cóp, làm hạnh xấu không có thẹn hổ, có tiền của không nuôi cha mẹ vợ con,

thậm chí thân mình cũng không dám ăn mặc, khinh mạn giáo pháp, không biết kính trọng

đạo đức, không biết nghe theo lẽ phải, có tính gian lận và không có tâm thƣơng những

ngƣời đói khát, không biết làm hạnh bố thí, kẻ đó khi chết phải đọa làm loài quỉ đói,

muôn ngàn vạn triệu năm đói khát, không biết miếng cơm ngụm nƣớc ra sao! Thân thể

hôi thối có những con vi trùng cắn rứt đau đớn suốt ngày đêm, lửa trong mồm phát ra dữ

dội; trên đầu có những mụn nhọt luôn luôn chảy, tƣới những máu mủ xuống mặt, mắt,

mồm thè lƣỡi liếm ăn. Kẻ đó mới xấu, mới đáng thƣơng họ ngu si, còn nhƣ ông chƣa

phải là xấu.

Ông thần bể nghe xong, lại buông thuyền cho đi rồi ẩn mình biến mất. Thuyền đi chƣa

đƣợc bao xa, ông thần bể lại biến hình thành một ngƣời cực kỳ xinh đẹp. Nắm thuyền lại

hỏi:

- Này! Các ông trong thuyền, trên thế gian có ai xinh đẹp bằng tôi không?

Đáp: - Dạ thƣa ông! Có rất nhiều ngƣời đẹp, gấp trăm ngàn vạn triệu triệu ông, đối với

ông có chi đáng đẹp.

29

Ông thần bể lại hỏi:

- Họ đẹp hơn tôi bằng cách nào?

- Dạ, thƣa ông! Trên thế gian có những ngƣời thông minh trí tuệ, chăm làm các việc

thiện: Thân, miệng, ý; ba nghiệp thƣờng thƣờng trong sạch, biết tôn kính ngôi Tam Bảo,

tùy thời cúng dàng. Ngƣời ấy khi mạng chung đƣợc sinh lên trời, thân thể trong sáng

tƣớng mạo oai nghiêm, phúc đức và thể lực đầy đủ, nhƣ thế mới là đẹp, đem cái đẹp của

ông đối với họ cũng chẳng khác chi đem con khỉ mù mà ví với cô gái tƣơi trẻ vậy! Nhƣ

ông đã lấy gì làm đẹp!

Ông thần bể lại bốc vốc nƣớc bể hỏi:

- Nƣớc trong bàn tay nhiều hay nƣớc bể nhiều?

Đáp: - Dạ thƣa ông! Nƣớc trên bàn tay nhiều hơn!

Hỏi: - Vì lý do gì nƣớc trong bàn tay nhiều, xin ông hãy giải đáp cho?

- Dạ thƣa ông! Nƣớc bể tuy nhiều nhƣng rồi đây cũng có ngày khô cạn, khi trời tai kiếp

đến bắt đầu hai mặt trời ra, thì ngòi lạch suối ao khô cạn! Ba mặt trời ra, thì các sông lớn

và các bể nhỏ cạn! Năm mặt trời ra thì nƣớc bể lớn đã giảm bớt ! Sáu mặt trời ra, thì ba

phần giảm hai! Bảy mặt trời ra, thì nƣớc bể cạn hết tiếp đến núi Tu Di tan đổ cho đến đáy

kim cƣơng dƣới quả địa cầu cũng đều cháy rụi. Nếu kẻ nào có tâm tin sự cúng dàng Phật!

Hoặc các vị Sƣ Tăng, hay cha mẹ hoặc kẻ ăn xin hoặc cho loài cầm thú. Thì công đức ấy

trải bao kiếp cũng không mất. Thƣa ông, ý nghĩa nhiều ít là nhƣ vậy!

Ông thần bể nghe xong vui mừng khôn xiết! Đem tặng ông Ƣu Bà Tắc một số châu báu ở

long cung và gửi thêm một số báo vật về cúng Phật rồi ẩn hình biến mất.

Tới đây mọi ngƣời lái buôn thâu lƣợm vàng bạc trở về nƣớc nhà, chia cấp cho gia đình

rồi cùng nhau đi yết kiến Phật, đem châu ngọc của ông thần bể dâng cúng Phật, và chƣ

Tăng rồi quỳ xuống bạch Phật rằng:

- Kính lậy đức Thế Tôn! Thân ngƣời khó đƣợc, Phật Pháp khó gặp, chúng con sinh thời

may mắn đƣợc gặp Thế Tôn, tới đây một lòng thành cầu xuất gia tu học để thoát khỏi

sinh tử luân hồi, kính xin từ bi tế độ cho chúng con đƣợc ân triêm công đức.

Đức Phật Ngài hoan hỷ nói rằng:

- Thiện lai Tỳ khƣu!

Phật nói dứt lời tóc của những ngƣời này đều rụng hết, áo trên mình tự nhiên biến thành

áo Cà sa, sau nghe Phật thuyết Pháp, tâm dục nhiễm đều sạch không, ngay giờ phút đó họ

chứng đƣợc quả La Hán.

30

Thấy thế mọi ngƣời trong đại hội ai ai cũng vui mừng, lòng tin kính cúng dàng lại thêm

vững chắc, cúi đầu lễ tạ lui ra.

---o0o---

Phẩm thứ sáu : CẦU TỰ

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một lần Phật ờ nƣớc La Duyệt Kỳ, tại tịnh xá vƣờn Trúc.

Nƣớc ấy có quan Phụ tƣớng, nhà rất giàu sang, nhƣng không có con trai. Tại vùng đó có

đền thờ thiên thần ở bên sông, gọi là Ma Ni Bạt La, nhân dân quanh miền ấy tin sùng lễ

bái cầu sao đƣợc vậy. Hay tin thần thiêng, quan Phụ tƣớng tới đền làm lễ và cầu nguyện

rằng:

- Thƣa Ngài, tôi chƣa có con trai, nghe biết thiên thần công đức cô lƣợng, cứu hộ quần

sinh, ai cần gì cũng đƣợc nhƣ ý nguyện. Vậy tôi tới đây cầu xin thiên thần, năm nay sinh

quý tử, nếu đƣợc nhƣ lời nguyện, tôi sẽ lấy vàng bạc để điểm tô thân Ngài, và các hƣơng

tốt để bôi nơi miếu Ngài, bằng vô hiệu quả, tôi sẽ phá miếu và lấy phân trát vào mình

Ngài.

Quan Phụ tƣớng kêu xong lễ tạ ra về.

Khi đó quan Giám điện nghe xong, toát mồ hôi thầm nghĩ rằng: "Ngƣời này hào phú, thế

lực hùng cƣờng, tới đây cầu xin quý tử, ta thiếu đức làm sao cho đặng, nếu không giúp

đƣợc hắn thì hắn làm ô nhục". Nghĩ rồi lên tâu với thần Ma Ni Bạt La:

- Kính tâu thiên thần chúng tôi vâng lệnh coi đền, hôm qua quan Phụ tƣớng nƣớc La

Duyệt Kỳ đến nói rằng: Xin thiên thần cho sinh quý tử, nếu đƣợc nhƣ lời, thì lấy vàng

bạc điểm tô thân Ngài, và lấy các thứ hƣơng tốt để bôi nơi miếu Ngài, bằng vô hiệu quả,

sẽ phá miếu và lấy phân trát vào mình Ngài, việc đó hạ thần bất lực xin thiên thần chỉ

giáo cho?

Nghe xong, thần Ma Ni Bạt La lên tâu với ông Tỳ Sa Môn Thiên vƣơng.

Tỳ Sa Môn Thiên vƣơng nói: - Việc này để ta lên tâu vua Đế Thích, chứ ta cũng bất lực.

Nói rồi bay lên cung trời Đao Lợi tâu vua Đế Thích rằng:

- Kính tâu Thiên Đế ! Tôi có một hạ thần tên là Ma Ni Bạt La lên kêu rằng: Quan Phụ

tƣớng tại thành Vƣơng Xá cầu xin quý tử, và hẹn nếu đƣợc nhƣ lời thì xin cúng dàng

trọng hậu, bằng không sẽ phá miếu, và hủy nhục, kính mong Thiên Đế cứu giúp.

Nhân lúc trên trời có ngƣời sắp tận số. Đế Thích cho gọi tới bảo rằng:

31

- Ta xem Khanh sắp tới ngày mệnh hết, hiện nay quan Phụ tƣớng ở thành Vƣơng Xá

đƣơng cầu tự, vậy sau khi Khanh mệnh chung thì thác sinh vào nhà đó an hƣởng sự vinh

hoa phú quý.

Đáp: - Kính tâu Thiên Đế ! Cái bả phú quý hay làm mê hoặc lòng ngƣời, nhân sự vinh

hoa phú quý khiến bao ngƣời sa xuống hố sâu, ý định của hạ thần muốn sinh vào nhà dân

thƣờng, để dễ bề xuất gia tu đạo, cho thoát khỏi sinh tử luân hồi, là hơn nhất, xin bệ hạ

tha thứ !

Đế Thích nói: - Không lo, Khanh hãy nghe ta sinh vào nhà đó, rồi ta giúp chớ ngại.

Đáp: - Dạ muôn tâu bệ hạ ! Lời thánh chỉ hạ thần không dám trái, nhƣng xin bệ hạ luôn

luôn giúp đỡ cho, kẻo sợ tham về phú quí mà bỏ mất đại nguyện.

Đế Thích nói: - Khanh yên trí không sao.

Nói xong lễ tạ ra về, ít ngày mệnh chết, thần hồn thác thai vào nhà quan Phụ Tƣớng.

Đoạn này nói đến Phụ Tƣớng Phu nhân, sau ngày cầu tự trở về không lâu bà đã có thai,

mãn tháng no ngày tới tuần hoa nở, sinh đƣợc cậu con trai đầy đủ tƣớng đức, ông bà yêu

quý lắm. Từ khi sinh cậu trong nhà thấy nhiều điềm ứng cát tƣờng, sự trông nom săn sóc

một cách phi phàm, một hôm ông bà mời thầy đến xem tƣớng cho cậu và nhờ đặt tên

giùm. Tƣớng sƣ đến căn do, rồi đặt cho cậu là Hằng Gia Đạt. Một mai khôn lớn học hành

thông sáng nhƣng có một điểm cậu ham học đạo và ham nghe đạo các vị Sa môn giảng,

đƣợc thấm nhuần đạo đức, thấy đời không có gì vững chắc nhƣ mây trôi, nhƣ bọt nổi nên

cậu quyết tâm xuất gia tu đạo, để cầu giải thoát, rồi lên tâu với ông bà Phụ tƣớng rằng:

- Kính lạy song thân, đƣợc làm ngƣời là khó, đƣợc gặp Phật tại thế lại khó hơn nữa, hiện

nay đức Phật ra đời, mục đích cứu ngƣời ra khỏi vòng trầm luân khổ hải. Vậy xin song

thân cho con đi xuất gia tu đạo, đƣợc phúc vô lƣợng vô biên.

Đáp: - Con ơi ! Việc tu đạo cũng tốt nhƣng con khổ cực chi, mà đày thân hoại thể nơi

chùa chiền, muối dƣa khô quạnh, cha làm quan Phụ tƣớng quyền cao, giàu sang tội bực,

quốc gia chƣa ai sánh kịp, cha mẹ chỉ sinh đƣợc mình con, để nối nghiệp nhà, nay con đi

xuất gia thì của này để cho ai, và nhất là cha mẹ già sớm hôm vò võ, lấy ai là ngƣời trông

cậy lúc bình sinh cho vui ý chí.

Hằng Gia Đạt thấy ông bà không đồng ý với ý nguyện của mình, bèn lễ tạ lui ra, từ ngày

đó ngày đêm âu sầu buồn bã ! Rồi tự nghĩ rằng:

- Ta sẽ tự sát thân này đi, để sinh vào nhà thƣờng dân đạt đƣợc chí nguyện xuất gia của

ta.

32

Nghĩ rồi một mình ra đi, lên ngọn núi cao tự gieo mình lăn từ trên đỉnh núi xuống chân

núi, tƣởng làm thế cho chết, nhƣng trái lại thân thể vẫn còn toàn vẹn không xây sát chút

nào; lần này ra sông để tự vẫn, nhƣng nhảy xuống không chìm, cuối cùng lấy thuốc độc

uống, song cũng không chết, rồi dùng đủ cách để chết, nhƣng cũng không chết đƣợc, sau

định kế phạm quốc pháp cho vua giết. Một hôm Hằng Gia Đạt thấy hoàng hậu và mỹ nữ

của nhà vua ra giếng nƣớc giữa vƣờn tắm, họ cởi áo giắt trên cành cây rồi xuống giếng,

anh lẻ vào trộm lấy quần áo và trang phục đem ra, ngƣời Môn giám bắt anh tâu vua A Xà

Thế.

- Nhà vua nổi giận sai ngƣời đem ra pháp tràng xử tử, thoạt đầu sai ngƣời giƣơng cung

bắn, mỗi khi bắn thì cái tên quay đầu trở lại nhà vua, bắn luôn ba phát đều nhƣ thế cả.

Nhà vua chột dạ hỏi rằng:

- Nhà ngƣơi là bộ thiên, bộ long hay quỷ thần mà có phép lạ nhƣ vậy?

Đáp: - Tâu Bệ hạ tôi có một việc riêng, nếu Bệ hạ giúp tôi đƣợc thì tôi xin nói.

Nhà vua hỏi: - Ngƣơi có việc gì cứ nói, nếu ta giúp đƣợc thì ta giúp.

Tâu Bệ hạ ! Tôi chẳng phải là thiên long quỷ thần chi hết, chính tôi là con quan Phụ

tƣớng bản triều, vì muốn xuất gia tu học nhƣng cha mẹ tôi không cho, nên tôi muốn chết

để sinh nơi khác, cho toại nguyện vọng ấy, vừa rồi tôi lên núi, gieo mình xuống vực sâu,

và uống thuốc độc nhƣng vẫn không chết, còn một kế là tôi phạm pháp để mong nhà vua

xử tử thì mới đạt đƣợc nguyện vọng ấy, sự thể nhƣ vậy, kính xin bệ hạ lƣợng thƣơng,

truyền lệnh cho cha mẹ tôi, để tôi đƣợc xuất gia đầu Phật.

Đáp: - Việc ấy không khó con cứ an tâm, ta sẽ bảo Phụ tƣớng cho.

Qua thời gian sau nhân buổi đi thính pháp nhà vua dẫn cậu đến chốn Phật, tới nơi làm lễ

xong nhà vua trình bày ý nguyện của Hằng Gia Đạt cho Phật nghe, Phật mỉm cƣời nói:

- Thiện lai Tỳ khƣu.

Hằng Gia Đạt nghe dứt lời tự nhiên tóc rụng hết, áo trên mình biến thành áo Cà sa, thành

tƣớng Tỳ khƣu, sau nghe Phật thuyết pháp, tâm ý khai ngộ chứng La Hán quả, đƣợc ba

phép "Minh", sáu pháp "thần thông", tám phép "giải thoát".

Thấy thế vua A Xà Thế quì xuống bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Hằng Gia Đạt trồng nhân lành gì, gieo đầu từ trên núi xuống mà

không chết, nhảy xuống sông không chìm, uống thuốc độc không hại, tên bắn không

trúng, hơn nữa lại gặp Thế Tôn đƣợc thoát khỏi sinh tử luân hồi đại khổ, xin nói cho

chúng con đƣợc rõ ?

Phật dạy: - Cách đây đời quá khứ đã vô số kiếp, có một nƣớc lớn tên là Ba La Nại, vua

nƣớc ấy là Phạm Ma Đạt, một hôm đƣa các ngƣời mỹ nữ trong ấy là Phạm Ma Đạt, một

33

hôm đƣa các ngƣời mỹ nữ trong cung vào rừng uống rƣợu ăn thịt, thƣởng thức những

khúc đàn hay, tiếng nhạc xéo, giọng hát cao, đƣơng lúc các mỹ nữ cất tiếng ca khúc thì

bên ngoài có ngƣời cất tiếng để họa lại. Nhà vua nghe thấy nổi giận sai ngƣời bắt rồi giao

cho lính đem đi xử tử.

Vừa lúc ông quan đại thần đi chơi về bắt gặp, ông hỏi họ rằng: Ngƣời này tội gì ?

Đáp: - Dạ bẩm quan lớn ! Anh này bị tội họa lại giọng hát của các mỹ nữ.

Nghe xong ông thầm nghĩ : "Chà, có thế mà cũng giết ngƣời! Thực là vô lý quá". Ông

nói:

- Hãy khoan để ta vào tâu vua đã.

Ông vào tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, kẻ kia chƣa đến tội chết, vì chƣa lấy gì làm nặng lắm, tuy có họa lại tiếng

nhƣng chƣa thấy hình và cũng không có sự giao thông dâm dục, cúi xin Bệ hạ tha cho

hắn tội chết.

Nghe nói có lý, nhà vua hạ lệnh tha cho ngƣời đó tội chết. Muốn đền đáp ân cao cả ông

Đại thần, từ đó anh ta đến hầu hạ phụng sự một cách tôn kính đã lâu năm, giữ một lòng

trung thành, trƣớc sau nhƣ một, rồi thầm nghĩ nhƣ vậy:

Sự dâm dục giết ngƣời ta hơn dao kiếm sắc, trƣớc đây ta suýt chết cũng do lòng dục vọng

phát động. Rồi thƣa với ông rằng:

- Kính thƣa ông! Chúng tôi tự nghĩ sự sinh tử vô thƣờng nhanh nhƣ chớp nhoáng, nhƣ

đèn ở trƣớc gió, nhƣ giọt sƣơng trên đầu ngọn cỏ, sớm có chiều không, thân này chẳng

lâu sẽ vào cửa chết. Vì vậy chúng tôi xin ông để đi tầm đạo giải thoát.

Đáp: - Việc ấy rất hay, nếu học đạo đƣợc thành công thì đến đây cho tôi gặp mặt một lần

nữa.

Bắt đầu lên núi tu học, chuyên tâm suy xét đạo lý, không bao lâu tinh thần tự nhiên khai

ngộ, hiểu thấu nguồn chân, thành ngôi Bích Chi Phật, và giữ lời hứa trƣớc nên Ngài trở

về nhà ông quan Đại Thần, và hiện ra mƣời tám pháp thần thông: bay trên hƣ không mình

phun ra nƣớc lửa, hoặc phóng đại quang minh chói lòa khắp trời đất, ông Đại Thần coi

thầy phép thần cao siêu, trong lòng vui vẻ, kính trọng và khấn rằng:

- Kính lạy Ngài, tôi có phúc duyên đƣợc cứu Ngài năm trƣớc, vậy xin cho tôi đời đời

đƣợc phú quý tràng thọ cao đẹp hơn đời, và trí tuệ đức tƣớng của tôi cũng đƣợc nhƣ

Ngài.

Nói tới đây đức Phật lại nhắc cho vua A Xà Thế biết rằng:

34

- Nhà vua nên biết quan Đại Thần cứu sống một ngƣời thuở đó, nay chính là Hằng Gia

Đạt. Bởi duyên lành ấy nên sinh vào nơi nào cũng không bị chết yểu, và cũng do phúc

duyên ấy mà nay đƣợc gặp ta chứng đạo giải thoát.

Phật nói xong, tất cả mọi ngƣời trong Đại Hội ai rấy đều kính tin vui mừng cúi đầu lễ tạ

lui ra.

---o0o---

Phẩm thứ bảy :THÁI TỬ TU XÀ ĐỀ

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một lần Phật ở nƣớc La Duyệt Kỳ, tại Tinh Xá vƣờn Trúc.

Bấy giờ đức Phật và tôi (A Nan) vào thành khất thực gặp hai ông bà già đã lòa đôi mắt,

nhà nghèo ở trú dƣới cổng thành. Ông bà chỉ đƣợc một cậu con trai năm ấy mới lên mƣời

tuổi, hàng ngày cậu phải đi xin để nuôi cha mẹ, đƣợc quả gì tƣơi chín, hoặc thức ăn ngon

thì dâng cha mẹ, còn thứ gì không ngon thì mình ăn.

Tôi thấy đứa bé hiếu thảo với cha mẹ nhƣ vậy, động lòng thƣơng và yêu nó lắm! Sau lúc

về Tinh Xá tôi bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Vừa đây con đi theo hầu Ngài vào thành Xá Vệ, thấy một đứa bé

con, biết báo hiếu, đi xin đƣợc món gì ngon thì để dâng cha mẹ, món gì dở để mình dùng,

còn nhỏ dại mà đã có từ tâm hiếu kính nhƣ vậy, thực là hiếm có.

Phật bèn dạy rằng:

- Ngƣời xuất gia hoặc tại gia có từ tâm hiếu dƣỡng với cha mẹ thì đƣợc phúc vô lƣợng vô

biên, ta tự nhớ rằng thời quá khứ có một lần cắt thịt nuôi cha mẹ trong lúc đói khát nguy

nạn! Bởi công đức ấy ta sinh lên trời đƣợc làm Thiên Đế, sinh xuống nhân gian đƣợc làm

Thánh Vƣơng, cho đến nay đƣợc thành Phật, đặc tôn trong ba cõi cũng do phúc ấy.

Thấy Phật nói thế, tôi hỏi Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Thời quá khứ Ngài cắt thịt

nuôi cha mẹ trong lúc nguy nạn, việc đó thế nào xin nói chúng con đƣợc rõ ?

- Này A Nan: Ông hãy đễ ý nghe! Cách đây vô lƣợng vô số kiếp, cũng Châu Diêm Phù

Đề này có một nƣớc lớn tên là Đặc Xoa Thi Lợi. Ông vua nƣớc ấy tên là Đề Bà, đƣợc

mƣời con trai, mỗi ngƣời cai trị một nƣớc, ngƣời con trai út tên là Tu Đề La Chi, (Tàu

dịch là Thiện Trụ ) trị dân đƣợc an lạc, giàu thịnh mƣa gió thuận hòa, thái bình thịnh trị

nhân dân mến chuộng.

Thời đó ở nƣớc vua cha có quan Đại Thần tên là La Hầu, tính hung ác tàn bạo, nổi dậy

làm phản cƣớp ngôi giết vua rồi đem quân đi giết Thái Tử ở các nƣớc nhỏ. Thái Tử ứt là

35

ngƣời có đức lớn, nên các bộ quỉ thần thƣờng hay ủng hộ, hôm ấy nhà vua ra vƣờn chơi

chợt gặp một con quỉ Dạ Xoa, rẽ đất chui lên thƣa rằng:

- Là Hầu Đại Thần làm phản giết vua cha rồi, đƣơng đem quân đi giết các anh của nhà

vua, nay mai sắp tới đây để giết nhà vua đó, vậy mau mau sửa soạn lánh đi nơi khác. Nhà

vua gật đầu cảm ơn trở về cung, không nói cho ai biết, nửa đêm lẻn ra đi một mình, đi

chƣa đƣợc bao xa, sực nhớ con yêu của mình là Tu Xà Đề mới bảy tuổi, tính rất thông

minh khôn sáng, trở về ẵm đi vừa đi vừa sụt sùi rơi lệ chứa chan! Bà phu nhân thấy có vẻ

lật đật lo sợ, ngạc nhiên hỏi:

- Nhà vua lo việc chi mà lật đật nhƣ vậy ? Nói cho tôi biết với.

Đáp: - Việc chi bà không cần phải biết.

Bà bèn nắm vạt áo kéo lại hỏi: - Tôi với nhà vua hai thân nhƣ một, cam khổ cùng chung

chịu, sống thác có nhau, điều chi xin nói cho tôi biết?

Nhà vua bất đắc dĩ nói rằng: - Hôm qua tôi ra vƣờn chơi gặp con quỉ Dạ Xoa bảo cho biết

rằng: Hiện nay ở nƣớc nhà La Hầu đại thần đã giết mất vua cha rồi, đang đem quân đi

giết các anh ta, nay mai sắp tới đây giết ta, vì thế ta không kịp nói cho ai biết.

Hoàng Hậu nói: - Chao ôi! Một việc nguy nhƣ vậy mà ông nỡ bỏ tôi, chực đi một mình,

thôi để tôi đi cùng, sống chết có nhau.

Nói rồi bắt đầu đi, mục đích sang nƣớc láng giềng là một ông vua bạn thân, sang nƣớc ấy

có hai lối: Một lối đi bảy ngày, một lối đi mƣời bốn ngày, vì lo sợ quá nên lúc ra đi không

chuẩn bị lƣơng thực, nhà vua chỉ đem lƣơng đủ có một ngƣời ăn trong bảy ngày, nhƣng

không may đi phải con đƣờng mƣời bốn ngày, đi đƣợc vài hôm lƣơng thực đã hết, đói

khát mê man giữa rừng thực vô phƣơng kế ! Vì sợ Thái tử chết nên nhà vua định giết

Hoàng Hậu để cứu con, nghĩ rồi giục bà đi trƣớc, rút dao định chém. Thái Tử thấy vậy

chắp tay thƣa rằng:

- Kính lạy cha, cha cầm dao để làm gì ?

Đáp: - Ta giết mẹ để lấy thịt cho con ăn kẻo con chết mất.

Thái Tử thƣa: - Kính lạy cha! Xin cha giết con, để ăn dùng cho qua lúc tai nạn này, cha

chớ giết mẹ con, không bao giờ con lại ăn thịt mẹ, con tuy chết nhƣng cha mẹ lại sinh

đƣợc con khác, nếu mẹ con chết, thì không bao giờ có mẹ con lần thứ hai nữa, cứ mỗi

ngày con xin cắt thịt con để dâng cha mẹ dùng cho tới nƣớc kia.

Thấy Thái Tử nói thế, nhà Vua lòng đau nhƣ cắt không biết tính kế gì, nếu không ăn thịt

chết cả ba ngƣời cũng vô ích, nếu ăn thịt thì thƣơng con, và nhất là sự cứu vãn nƣớc nhà

là cần thiết hơn, nghe xong nhà Vua đành nhận lời của Thái Tử, cứ nhƣ thế mỗi ngày cắt

hai miếng thịt ăn cho khỏi mệt mỏi, để lấy sức đi đƣờng, đã gần hết mà chƣa tới, sự đói

36

thúc giục nghèo ngặt quá, nhà Vua cầm dao cắt thêm đƣợc chút thịt nữa, tới lúc cha con

sắp chia tay thì Thái Tử thƣa với cha rằng:

- Thƣa cha, mạng con sắp chết, vừa rồi cha cắt đƣợc chút thịt xin cho con một phần.

Nhà Vua bèn phân số thịt đó ra làm ba, hai phần để ăn, còn một phần trao cho Thái Tử.

Tới đây cha con từ giã nhau, nhà Vua và Hoàng Hậu hai ngƣời đi không lâu đã tới nƣớc

kia. Còn Thái Tử nằm trơ trên mặt đất giữa khoảng rừng xanh, khi đó Thái Tử nguyện

rằng:

- Kính lạy Thập Phƣơng đại giác Tam Hùng Sƣ chứng minh lòng thành kính của con cắt

thịt dâng cha mẹ, xin đem công đức này để cầu thành Phật, tế độ mƣời phƣơng chúng

sinh, hết mọi sự đau khổ, đƣa chúng sanh đến cõi Niết Bàn an lạc.

Phát nguyện xong ba ngàn thế giới chấn động sáu lần, cõi trời Dục Giới và Sắc Giới,

ngạc nhiên không biết chuyện chi mà chuyển động cả cung điện, họ nhìn xuống nhân

gian thấy Thái Tử Tu Xà Đề cắt thịt nuôi cha mẹ, vì lòng hiếu thảo làm chuyển động trời

đất, họ bay xuống rất đông, vì lòng hiếu của Thái Tử làm cho mọi ngƣời rơi lệ thành

mƣa. Vua Đế Thích tự hóa thân làm đứa bé con lại xin Thái Tử trao cho miếng thịt đƣơng

cầm tay, Đế Thích lại hóa ra con sƣ tử chồm nhảy gào thét ý muốn ăn thịt, Thái Tử thầm

nghĩ :

- Những loài muông thú kia, muốn ăn thịt ta thì cứ ăn, ta rất vui lòng có tiếc chi.

Vua Đế Thích thấy Thái Tử một dạ bền bỉ vững chắc, liền hiện lại nguyên hình, rồi thƣa

rằng:

- Thƣa Thái Tử tôi đây là Thiên Đế, thấy Thái Tử có hiếu đối với cha mẹ một cách tuyệt

đãi, tất cả trời ngƣời phàm thánh không ai làm nổi, xin hỏi, Thái Tử đem công đức ấy

hƣớng về ngôi Đế Thích, Phạm Thiên, Ma Vƣơng hay sao?

Đáp: - Thƣa Ngài tôi đem công dức này hƣớng về cõi Phật, cầu thành Phật độ sinh, chứ

không cầu làm những ông vua cõi trời, cõi ngƣời nhƣ Đế Thích, Phạm Vƣơng, Ma

Vƣơng hay Chuyển Luân Thánh Vƣơng để hƣởng những dục lạc trong ba cõi.

Đế Thích hỏi: - Thái tử đau đớn nhƣ thế thì tâm có hối hận gì không?

- Thƣa không có hối gì ?

Thái Tử nói không, chúng tôi không lấy gì để làm chứng tỏ.

Nếu Ngài không tin thì xin phát nguyện rằng: - Nếu tâm tôi không hối thì thân tôi lại

đƣợc phục nhƣ cũ.

Tuyên thệ xong, thân thể tự nhiên lại đƣợc lành mạnh nhƣ cũ, các vết thƣơng biến mất,

da dẻ tốt đẹp thân ngƣời rạng rỡ.

37

Thấy sự chứng tỏ có cụ thể nhƣ vậy, vua Đế Thích và tất cả mọi ngƣời cõi trời ai ai cũng

vỗ tay vui mừng và khen Thái Tử chí thành, chí hiếu, rồi cùng nhau biến thân về thiên

cung.

Đoạn này nói đến nhà vua khi tới nƣớc kia vào yết kiến vua nƣớc ấy, hai ngƣời nói

chuyện với nhau hồi lâu và trình bày công cuộc đi, sự hiếu của Thái Tử Tu Xà Đề cho

vua láng giềng nghe, nhà vua láng giềng nghe xong, vừa thƣơng vừa cảm động, đồng thời

tất cả vua quan sĩ chúng đi thăm Thái Tử, đến nơi thấy Thái Tử đƣợc lành mạnh, tới

trƣớc chào mừng và thuật rõ câu chuyện để vua nghe. Thấy thế ai ai cũng vui mừng

không tả xiết. Nhà vua láng giềng thấy Thái Tử có sự ly kỳ nhƣ vậy, lại càng thêm phần

kính trọng rồi tất cả trở về kinh thành.

Sau thời gian ấy, vua láng giềng sửa soạn binh nhung xa quân, mã quân, bộ quân. Cùng

với vua Thiện Trụ và Thái Tử Tu Xà Đề về bản quốc tiêu diệt bọn La Hầu, và lập Đại

vƣơng cho vua Thiên Trụ, từ đó trở đi trong nƣớc lại đƣợc thái bình thịnh trị.

Phật nói tới đây lại nhắc cho tôi biết rằng: "Này A Nan vua Thiện Trụ thuở đó chính là

tiền thân Phụ Vƣơng của ta ngày nay (vua Tịnh Phạn), bà mẫu lúc đó chính là tiền thân

của ta bây giờ (Ma Gia), Thái Tử Tu Xà Đề chính là tiền thân của ta. Cũng do đời quá

khứ ta có từ tâm hiếu hạnh, cắt thịt nuôi cha mẹ trong lúc nguy nạn, bởi phúc ấy trên cõi

nhân, cõi thiên ta thƣờng đƣợc sinh vào nhà tôn quý hƣởng phúc vô cùng vô tận, và nhân

thế cho đến ngày nay ta đƣợc thành Phật, đặc tôn trên ba cõi.

Bấy giờ trong đại hội đƣợc nghe thuở tiền sinh của Phật, ai ai cũng cảm lòng hiếu hạnh

của Ngài, thực là hiếm có. Ngay lúc ấy có ngƣời đắc quả Tu Đà Hoàn, Tƣ Đà Hàm, A Na

Hàm cho đến quả A La Hán, có ngƣời phát bồ đề tâm, có ngƣời trụ ngôi bất thoái, mọi

ngƣời đều vui vẻ cúi đầu tạ lễ mà lui.

---o0o---

Phẩm thứ tám : CÔ KIM CƢƠNG

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn cây của ông Cấp Cô

Độc và Thái Tử Kỳ Đà.

Khi đó phu nhân của Vua Ba Tƣ Nặc là Mạt Lợi, sinh đƣợc cô con gái đặt tên là Ba Xà

La, (Tàu dịch là Kim Cƣơng). Tƣớng ngƣời rất xấu ! Da sần sù hình nhƣ da ngựa, tóc tựa

long đuôi ngựa, hình vóc không giống ngƣời, chẳng khác gì quỷ Dạ Xoa, thực là trên đời

chƣa từng có một ngƣời thứ hai nhƣ cô.

Nhà vua thấy Công chúa nhƣ vậy, lấy làm buồn giận! Nhƣng, không biết làm thế nào

phải giao cho một ngƣời nuôi riêng nơi nhà kín ngoài ra không dám cho ai biết.

38

Khi lớn tuổi nhà vua lại càng thêm khó nghĩ, chẳng lẽ nuôi con mãi, không lập gia đình,

nếu gả chồng, thì sánh vào hạng ngƣời nào? Nhà vua và Hoàng hậu bàn nhau nhƣ vầy:

Vua nói: - Bây giờ Kim Cƣơng đã lớn tuổi, bà tính sao, có gả chồng cho nó không?

Hoàng hậu nói: - Tậu Bệ hạ ! Tôi nghĩ rất khó ! Trong triều văn võ bách quan, ai là ngƣời

lấy nó, nếu họ nhìn thấy nó họ cũng phải chết khiếp.

Vua nói: - Tôi tính nhƣ vầy: Bây giờ sẽ tìm cho nó một ngƣời dân thƣờng, nhƣng phải

dòng quý phái và có học thức, bà nghĩ có đƣợc không?

- Vâng! Bệ hạ ! Tôi cũng đang nghĩ nhƣ vậy!

Ngày mai nhà vua gọi quan Lại thần vào nói rằng:

- Ta có một chút việc riêng. Khanh vào các thôn quê tìm cho ta một ngƣời học trò nhà

nghèo, chừng hai mƣơi tuổi, nhƣng phải dòng quý phái mới đƣợc!

Quan Lại thần đáp:

- Dạ ! Hạ thần xin tuân mạng!

Cách ít bữa sau, ông tìm đƣợc một thanh niên khôi ngô tuấn tú, ra vẻ bút nghiên kinh sử,

và cũng đúng nhƣ lời vua dặn. Cậu con nhà quý phái, nhƣng chỉ một nỗi nghèo. Chàng

đƣợc thấy vua triệu vào cung trong dạ mừng thầm và cũng lo thầm! Chƣa biết cát hung

thế nào? Rồi cùng ông quan này lên đƣờng về kinh.

Tới kinh, Lại thần nói:

- Anh hãy đứng đây để tôi vào tâu vua trƣớc.

- Dạ ! Xin đứng đây chờ Ngài.

Lại thần vào trƣớc sân rồng quỳ xuống tâu rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ ! Theo thánh chỉ hạ thần đã đi tìm đƣợc một thanh niên hiện đƣơng ở

ngoài cổng thành!

Nhà vua nói: - Trẫm cho phép, khanh đƣa nó vào đây!

Lại thần bái tạ, trở ra đƣa chàng vào cung.

Vua hỏi chàng: - Anh năm nay bao nhiêu tuổi?

Đáp: - Kính tâu Hoàng thƣợng! Con năm nay hai mƣơi tuổi !

39

- Học hành thế nào?

- Dạ ! Con đƣơng theo học khoa tú tài!

- Cha mẹ còn sống hay chết?

- Dạ ! Cha chết đã lâu, còn mẹ già hàng ngày làm mƣớn cho con đi học!

Vua nói: - Hôm nay kêu ngƣơi vào đây, vì trẫm có ngƣời con gái hình thù xấu xa, trong

triều không thể sánh duyên cùng ai đƣợc, nghe biết ngƣơi tuy nghèo, nhƣng dòng hào tộc,

vậy ta gả con ta cho, ngƣơi có ƣng thuận không?

- Dạ ! Muôn tâu Thánh thƣợng, nhà con có đầy phúc đức nên nay mới đƣợc Hoàng

thƣợng ngó tới, thực là "hữu duyên thiên lý năng tƣơng ngộ" con xin tuân theo lời ngọc

chỉ, không dám trái mạng. Tâu Thánh thƣợng! Con gái của Thánh thƣợng tuy xấu, nhƣng

dầu sao cũng là con của Thánh thƣợng, là khí huyết của Thánh thƣợng sinh ra, thực là

phƣớc đức cho con vô cùng vô tận, hôm nay nếu Thánh thƣợng có gả con chó cho con,

thì con cũng không dám từ chối, nữa là đƣợc diễm phúc sánh hàng Phò mã.

Nhà vua nghe anh nói mỉm cƣời, rồi định ngày làm lễ đính hôn cho con gái.

Ngày lễ này nhà vua cũng giấu, không cho bá quan và nhân dân biết, chỉ trong hoàng

cung làm lễ sơ sơ. Sau cuộc này nhà vua cho hai vợ chồng chàng rể ở riêng một tƣ thất

nơi hậu viên bảy lần cửa khóa cây cối âm u, có vẻ kín đáo. Vua dặn riêng chàng: Luôn

luôn để vợ trong cung cấm, nếu có đi đâu phải khóa cửa, và một điều ngặt nhất chớ cho ai

ngó thấy, vì lỡ để thiên hạ chê cƣời!

Từ đó anh học trò nghèo vinh hạnh đƣợc nhà vua thâu nạp làm Phò mã, vinh hoa nhất

mực lộc nƣớc phấn vua, thoát khỏi nỗi cơ hàn bần khổ nơi hƣơng thôn hủ tục, đƣợc dự

với những hàng quan liêu trong triều chính, chẳng khác gì đại long thoát khỏi chốn ao tù

ra nơi biển cả, phƣợng hoàng sổ cánh bay bổng chốn mây xanh.

Gặp thời buổi thanh bình bốn phƣơng an lạc, nơi kinh thành những thú vui dồn dập. Khi

ấy các quan triều và các nhà quý phái, kết hội với nhau, hàng tháng có những ngày họp

mặt, để thƣởng thức những thú vui! Ông Phò mã này cũng vào một chân. Khi tới hội ai

cũng đem theo vợ, nhƣng riêng ông Phò mã chỉ đi có một mình, nên một số ngƣời tò mò

thắc mắc, tự nói với nhau rằng:

- Ông Phò mã này kỳ nào cũng đi một mình, không thấy vợ đi! Một là vợ đẹp, hai là vợ

ông xấu, hôm nay chúng ta tìm cách để xem vợ hắn vì lý do gì mà không tới hội.

Mọi ngƣời đều thuận lời bàn ấy, hôm đó họ mời ông Phò mã uống rƣợu rất say, xong

cuộc ăn uống, Phò mã bị say ngủ bất tỉnh, họ cởi trộm lấy chìa khóa rồi sai năm ngƣời tới

nhà xem cô vợ của ông ra sao?

40

Giữa lúc Phò mã đi dự hội, cô Kim Cƣơng một mình ngồi trong nhà, thơ thẩn buồn bực

tự than rằng:

- Không biết kiếp trƣớc ta tạo tội gì, kiếp này bị thân hình xấu ác, suốt tháng quanh năm

vua cha giam giữ trong nhà kín, không nhìn ngó thấy bóng mặt trời mặt trăng cho đến

một ai, là thân ngƣời không khác gì loài chim lồng cá chậu, thực là khổ quá không biết

bày tỏ cùng ai!

Cô lại nghĩ nhƣ vậy:

- Hiện nay đức Phật ra đời cứu giúp quần sinh muôn loại, rất nhiều ngƣời đƣợc hàm ân

thoát khổ, ta cũng không đƣợc tới nơi Ngài mà chiêm ngƣỡng, để cầu Ngài cứu khổ ban

vui!

Nói rồi cô lấy hƣơng đốt, hƣớng về núi Linh Sơn nơi đức Phật ngự, một mình chí thành

đảnh lễ khấn rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Mở lƣợng từ bi thƣơng xót đến con, tới đây để con đƣợc cúng

dàng, và giáo hóa cho con.

Vì lòng thành kính thiết tha cầu nguyện của cô, nên đức Phật dùng thần túc hiện bay đến

chỗ cô ở, đầu tiên Ngài cho cô nhìn thấy tóc của Ngài xanh, nhỏ mềm, có ánh quang

minh.

Cô quỳ xuống lễ lạy vui mừng! Nên bộ tóc đuôi ngựa của cô tƣ nhiên biến thành tóc xanh

nhỏ mƣớt. Lần thứ hai Ngài cho cô nhìn thấy dung nhan nhƣ vầng mặt trăng đêm rằm,

tƣơi đẹp siêu phàm. Thấy thế, cô vui mừng! Một lòng tha thiết lễ kính. Vì thế bộ diện sù

xì của cô đã biến thành cô gái tiên nga, mắt sáng tựa sao, mồm tƣơi hoa nở.

Lần thứ ba Ngài hiện toàn thân cho cô chiêm ngƣỡng, thân tƣớng của Ngài nhƣ quả núi

vàng, làm sáng rực cả căn nhà của cô. Cô sung sƣớng quá ! Lễ kính dƣới chân, ăn năn hối

lỗi ! Vì thế nên những tƣớng xấu da thô, đƣợc tiêu tan, thân cô tự nhiên đoan chính, tƣơi

đẹp siêu nhân.

Tới đây đức Thế Tôn thuyết pháp cho cô nghe. Những diều kiêu mạn sân si nên bỏ, lòng

từ bi khiêm nhƣợng nên tu.

Cô nghe lời giáo hóa, nhƣ ngƣời đƣợc uống nƣớc cam lồ, vội vàng thụp lạy xin thọ giáo.

Cũng do lòng thành phát khởi, nên những nghiệp ác của cô đã tạo từ đời quá khứ đƣợc

tiêu tan, ngay giờ phút ấy tự nhiên trí óc sáng tỏ, chứng đƣợc quả Tu Đà Hoàn.

Đức Phật nhận thấy cô đã thoát nghiệp, và chứng quả nên Ngài ẩn hình biến về Linh Sơn.

Đoạn này nói đến năm ngƣời, vừa lúc đức Phật ra về thì họ mở cửa bƣớc vào. Nhìn thấy

cô họ thƣa rằng:

41

- Thƣa cô ! Xin lỗi cô, có phải cô là vợ Phò Mã không?

- Thƣa phải, các ông tới đây có việc gì ?

- Thƣa, chúng tôi tới đây có chút việc tƣ, muốn gặp Phò Mã !

- Hôm nay Phò Mã đi chơi!

Năm ngƣời xin cáo lui, ra đƣờng, họ nói cùng nhau rằng:

- Quả nhiên vợ anh đẹp nên anh không mang đi đấy thôi.

Trở về họ trả lại chìa khóa cho Phò Mã. Sau đó Phò Mã tỉnh rƣợu về nhà nhìn không thấy

vợ, chỉ thấy cô gái đẹp!

Ông hỏi:

- Xin lỗi cô tới đây có việc gì ?

- Thƣa ông tôi là bạn của Kim Cƣơng đây !

- Thƣa! Kim Cƣơng đi đâu cô biết không à ?

Cô phì cƣời thƣa rằng:

- Đố anh tìm thấy Kim Cƣơng đấy?

Phồ Mã còn đƣơng hoang mang, cô nói tiếp:

- Em chính là Kim Cƣơng, không phải ai đâu? Anh đừng có lạ ! Hôm nay em buồn vì sự

xấu xa của em nên em đốt hƣơng cầu nguyện đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ tâm cứu tế,

Ngài tới đây em đƣợc lễ kính nên những tội ác nhiều đời của em đƣợc tiêu tan, biến thân

gái xấu, đổi thành đẹp, nên anh không nhận đƣợc, có phải ai đâu, cửa anh khóa còn ai vào

đƣợc. Bây giờ anh đến tâu Phụ Vƣơng và Mẫu Hậu để em lên yết kiến.

Phò Mã vui quá ! Biết đích là vợ mình, vội lên vƣơng cung tâu vua rằng:

- Tâu Phụ Vƣơng, Kim Cƣơng muốn lên để yết kiến Phụ Vƣơng !

Đáp: - Thôi! Ta bận việc anh cẩn thận, chớ cho nó đi đâu để khi nào ta đến thăm!

Phò Mã tâu: - Tâu Phụ Vƣơng! Kim Cƣơng hôm nay đƣợc nhờ công đức Phật biến thân

gái xấu đổi thành đoan chính tƣơi đẹp, giờ đây Phụ Vƣơng có nhìn cũng không nhận

đƣợc!

Vua nói: - Thế à ! Quả nhƣ vậy thì anh về mau đem nó lại ta xem.

42

Phò Mã tất tƣởi về đƣa vợ lên yết kiến vua và Hoàng hậu, nhìn thấy Kim Cƣơng tƣơi đẹp

khác xƣa trong tâm vui vẻ nói:

- Nam mô Phật! Đức Phật xuất thế làm lợi ích cho muôn loài chúnh sinh, con ta hôm nay

đƣợc Ngài giải thoát tội lỗi, lại đƣợc đổi xấu thành đẹp, thực là phúc đức vô lƣợng! Biết

lấy gì đền đáp đƣợc Ngài.

Sớm ngày mai nhà vua sửa soan lễ vật, rồi cùng đi yết kiến Phật, tới nơi mọi ngƣời đều lễ

Phật rồi lui về một bên, vua Ba Tƣ Nặc bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Chẳng hay đứa con gái của con đời quá khứ làm phƣớc gì, nay

đƣợc sinh vào nhà tôn quý, và không rõ tạo tội gì, phải chịu thân gái xấu, da tóc thô kịch

hình nhƣ súc sinh, kính xin Ngài chỉ bảo cho chúng con đƣợc biết nguyên do?

Phật nói: - Ông muốn biết tội căn và phƣớc bào của Kim Cƣơng tôi sẽ nói ông hay.

Ngƣời ta ở trên đời đẹp tốt hay xấu xa cũng do nghiệp hành đời trƣớc, tội hay phƣớc

cũng do báo ứng của trần thế.

Thuở đời quá khứ đã lâu lắm, bấy giờ có một nƣớc lớn tên là Ba La Nại, nƣớc ấy có ông

Trƣởng giả giàu có vô chừng, ông biết tôn kính ngôi Tam Bảo cúng dàng chƣ Tăng. Ông

phát nguyện xin suốt đời cúng dàng một vị Bích Chi Phật, vị ấy thân thể thô kịch hình

dáng nhem nhuốc xấu xa, ông có cô con gái còn nhỏ tuổi, khi thấy vị Bích Chi Phật lại

nhà, thì sinh lòng khinh mạn rồi nói: Ông này thân thể thô kịch xấu xa, da dẻ sần sù, ghê

tớm lắm nhƣ vậy. Song Ngài vẫn làm thinh, và thƣờng thƣờng đến nhận các món cúng

dàng của ông trƣởng giả.

Vị Bích Chi Phật khi sắp tịch diệt vào Niết Bàn, muốn để những ngƣời tin theo ngôi Tam

Bảo phát khởi lòng tu cho bền chắc, cho tinh tiến; nên Ngài bay lên hƣ không để hiện các

phép thần thông; trên mình Ngài phun ra lửa, dƣới phun ra nƣớc, đầy cả hƣ không rồi

hiện bên Đông, lặn bên Tây, hiện bên Nam, lặn bên Bắc; hoặc nằm, hoặc ngồi, hoặc đi,

hoặc đứng, trên hƣ không. Khiến cho cả nhà ông Tƣởng giả coi thấy phép thần biến, rồi

từ trên hƣ không bƣớc xuống đi vào nhà ông Trƣởng giả. Ông rất vui mừng và thận trọng

kính mến. Ngƣơi蠣on gái nhỏ lúc đó tự biết mình có tội nói xấu Ngài, kiếp sau quyết bị

quả báo, sợ hãi ăn năn, tới trƣớc chắp tay quỳ thẳng thƣa với Ngài rằng: "Muôn xin Tôn

giả tha thứ, trƣớc đây con không biết Ngài là bậc Thánh, đem lòng khinh mạn, ác tâm nói

xấu tội con quá nặng, kính xin Tôn giả xá tội và chớ để tâm". Vị Bích Chi Phật cũng thể

lòng từ bi cho cô sám hối.

Đại Vƣơng nên biết, ngƣời con gái ấy nay là Kim Cƣơng, con của ông, lúc đó ác tâm chê

dèm bậc Thánh nhân, cho nên từ kiếp ấy đến nay, sinh vào thế giới nào cũng phải chịu

thân hình xấu ác, vì biết hối lỗi, nên nay mới đƣợc đoan chính tốt tƣơi, anh tài vƣợt

chúng, cũng do sự cúng dàng vị Bích Chi Phật nên đời đời thƣờng đƣợc sinh vào nhà tôn

quý hƣởng sự giàu sang sung sƣớng, và cũng do nhân duyên này mà đƣợc giải thoát, nhƣ

thế đó. Đại Vƣơng! Tất cả chúng sinh phải nên gìn giữ thân, miệng, ý cho cẩn thận chớ

nên càn dỡ khinh ngƣời chê bai mắng chửi, sau chịu quả báo đau khổ khó mà thoát khỏi.

43

Bấy giờ vau Ba Tƣ Nặc và quần thần cùng tất cả đại chúng, nghe Phật nói căn do quả báo

của Kim Cƣơng nhƣ vậy, ai nấy đều sợ hãi, và phát tâm tin kính, tụ cảm thấy trƣớc Phật,

nhân sự tín tâm, nên có ngƣời chứng sơ quả cho đến tứ quả, cũng có ngƣời phát tâm bình

đẳng vô thƣợng và cũng có ngƣời trụ ngôi bất thoái, ai nấy đều khát ngƣỡng lời giáo hóa

của Phật, vui vẻ tuân theo cúi đầu tạ lễ lui ra.

---o0o---

Phẩm thứ chín : TỲ KHƢU KIM TÀI

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Xá Vệ, vƣờn cây của ông Cấp Cô Độc

và Thái tử Kỳ Đà, cùng các vị tôn đệ tử một ngàn hai trăm năm mƣơi ngƣời ở đó.

Trong thành này có ông Đại Trƣởng Giả, bà phu nhân của ông khi đó sinh đƣợc một cậu

con trai hình dáng tốt đẹp, trên đời hiếm có, đặt tên là Kim Tài. Nhƣng lạ thay, từ lúc cậu

lọt lòng ra, đã thấy hai tay nắm chặt, tròn nhƣ quả thủ, bà mẹ mở tay cậu xem thấy mỗi

tay nắm một đồng tiền vàng, bà liền nhặt lấy hai đồng này lại có hai đồng khác ở tay cậu,

bà mẹ lƣợm mãi, đến nỗi đầy một kho tiền vàng mà tay cậu vẫn có không hết. Nhà ông

Trƣởng Giả đã giàu, sinh cậu ra lại giàu thêm, thực là một việc kỳ lạ nhất thời đó.

Sau khi lớn tuổi, cậu rất thông minh nghe thấy Phật xuất thế độ sinh, nhiều ngƣời theo

Ngài tu đạo đều đƣợc đắc quả giải thoát, cậu vui mừng và để ý xuất gia theo Phật, nên

không lập gia đình. Một hôm cậu lên thƣa với cha mẹ rằng:

- Kính thƣa song thân! Ở đời tuy giàu có sung sƣớng, gia đình hạnh phúc vui tƣơi, nhƣng

chỉ có tạm thời, không bao lâu đã thấy cảnh già chết đƣa lại, nƣớc mắt khóc lẫn nhau, kẻ

tham tình ân ái ở thế gian khác chi đứa trẻ con tham mật trên lƣỡi dao, đầu tiên liếm thấy

ngon ngọt, nhƣng đứt lƣỡi lúc nào không biết, chỉ có xuất gia tu đạo tìm đƣờng giải thoát

là an vui hơn. Vậy cúi xin cho con theo Phật xuất gia tu hành.

Đáp: - Ừ, con nói có lý, việc đó cha mẹ không cấm đoán, cho con đƣợc tuỳ ý muốn, cha

mẹ vui lòng.

Sau khi đƣợc sự đồng ý của ông bà. Kim Tài tìm đến chốn Phật, thấy Phật đoan nghiêm

tƣớng hảo, sinh lòng tin kính vui mừng, sụp lễ trƣớc Phật rằ讧:

- Kính lạy đức Thế Tôn không biết phúc duyên gì, sinh thời gặp Phật, con tới đây cầu xin

Ngài từ bi tế độ, cho con nƣơng dƣới bóng Ngài, đƣợc tu hành, tìm đƣờng giải thoát!

Đức Phật nhìn thấy Kim Tài có đủ duyên lành, quả Bồ đề sắp đƣợc phát sinh, nên Ngài

nhận cho nhập đạo rồi nói:

- Kim Tài! Ngƣơi có túc duyên nên nay đƣợc gặp ta, muốn theo giáo pháp của ta, cần

phải chăm chỉ thuyền tụng mới chóng đƣợc khai ngộ.

44

Kim Tài thƣa: - Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn, con xin thọ giáo.

Đức Phật sai ông Thƣợng Túc đệ tử cạo đầu may áo, và làm lễ truyền giới Sa di, từ đó

Kim Tài đƣợc theo hầu Phật tu hành.

Trải qua thời gian lâu năm, Kim Tài đã hai mƣơi tuổi. Đức Phậ và các vị Đại Đức đăng

đàn truyền giới Cụ Túc. Trƣớc khi truyền giới, Kim Tài phải đi đỉnh lể các vị Hòa

Thƣợng, A Xà Lê, mỗi khi lễ xuống đất hai tay rơi ra hai đồng tiền vàng, cứ thế, lễ vị nào

cũng nẩy ra hai đồng tiền vàng, tùy theo lễ nhiều thì rơi nhiều, lễ í thì rơi ít. Sau khi đƣợc

nhận lãnh giới Cụ Túc, Kim Tài chăm chỉ tu hành không bao lâu đã chứng quả A La Hán.

Thấy việc lạ! Nên tôi (A Nan) quỳ xuống bạch Phật rằng:

- Lạy đức Thế Tôn! Không hay Tỷ Khƣu Kim Tài trƣớc đây tạo phúc gì lúc mới sinh ra

đã có tiền vàng nắm trong tay, kính xin Ngài chỉ giáo cho chúng con đƣợc rõ.

Phật nói: - A Nan! Ông muốn biết nguyên do hãy bình tĩnh để ta kể chuyện cho ông và

đại chúng hay!

- Dạ chúng con xin lắng nghe.

Phật nói: - A Nan, ông nên biết, đời quá khứ cách đây chín mƣơi mốt kiếp, Có đức Phật

ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi, Phật lấy pháp giáo hóa thế gian, độ thoát chúng sinh nhiều

không tính xuể. Lúc ấy Phật và Tăng chúng du hành trong nƣớc, các nhà hào phú trƣởng

giả nhân dân sửa soạn cỗ bàn các món ăn, dùng thuốc thang, chăn áo, đệm gối, mùng

màn, đem dâng cúng cầu phƣớc, thuở ấy có một ngƣời nhà nghèo hàng ngày phải ra

những nơi đồng hoan kiếm củi để độ nhật, vừa lúc anh bán củi đƣợc hai đồng tiền, thấy

nhà vua thỉnh Phật và Tăng vào cung cúng dàng. Anh tựận mình thuở tiền sinh không

biết cúng dàng cầu phƣớc, nay bị nghèo khổ; nhà vua phƣớc đức lớn lao mà còn ham

phƣớc nhƣ vậy, huống ta làm kẻ bần tiện lại không biết cúng dàng hay sao? Nghĩ xong

dốc lòng lễ kính dƣới chân Phật dâng hai đồng tiền lên cúng đức Phật, thƣơng anh Ngài

nhận rồi làm phép chú nguyện cho.

A Nan ông nên biết ngƣời nghèo thuở đó do phát tâm cúng hai đồng tiền cho nên từ đó

tới nay đã trải qua chín mƣơi mốt kiếp sinh vào thế giới nào cũng đƣợc hƣởng giàu sang

và có hai đồng tiền vàng nằm trong tay; ngƣời nghèo nay chính là Tỷ Khƣu Kim Tài, ví

nay chƣa đƣợc đạo quả, thì đời vị lai còn đƣợc rất nhiều phƣớc báu.

A Nan! Tất cả chúng sinh nên lấy sự cúng dàng bố thí làm sự nghiệp, kẻo kiếp sống dễ

qua, khó lại, mà không có chút duyên lành gì làm tƣ lƣơng cho hậu thế.

Khi bấy giờ tôi (A Nan) và tất cả mọi ngƣời trong đại hội nghe Phật nói xong, ai cũng tin

kính và phát tâm cúng dàng bố thí, rồi đó, có ngƣời đƣợc quả Tu Đà Hoàn, ngƣời phát ý

vô thƣợng cầu đạo chánh chân, lại cũng có ngƣời trụ ngôi bất thoái, mọi ngƣời đều tôn

kính tuân theo phụng hành, cúi đầu lễ tạ lui ra.

45

---o0o---

Phẩm thứ mƣời:HOA THIÊN

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Xá Vệ, tại rừng cây của ông Cấp Cô

Độc và Thái tử Kỳ Đà, cùng với những vị Tỷ Khƣu lớn, cả thảy một ngàn hai trăm năm

mƣơi vị tại đó.

Nƣớc Xá Vệ khi ấy có một ngƣời Hào Trƣởng, bà vợ của ông năm đó sinh đƣợc cậu con

trai, đầu tròn, mặt vuông, khôi ngô tuấn tú tƣơi đẹp. Giữa lúc sinh cậu, trên trời tự nhiện

hoa rơi xuống đầy sân, nhân điềm tƣớng này ông bà đặt tên cho cậu: Phất Ba Đề Bà. Tàu

dịch "Hoa Thiên".

Dân làng ai cũng khen ông bà nhiều phúc đức, sinh đƣợc ngƣời con quý. Hào Trƣởng vui

mừng! Nuôi cậu một cách sung sƣớng, hy vọng sau này làm nên danh giá cho gia đình

chủng tộc, nên ông bà không lúc nào rời lòng yêu dấu cậu, luôn luôn làm những phúc

lành để hƣớng cho cậu. Song tính nết cậu cũng ngoan ngoãn hiếu kính cha mẹ, lại có trí

óc minh mẫn và hiền hậu. Đối với mọi ngƣời trong nhà nhƣ hàng xóm, không làm mất

lòng ai bao giờ, lại hay có tâm giúp đỡ ngƣời, nên đƣợc nhiều ngƣời kính mến, xa gần

đều cảm phục.

Sau khi lớn tuổi học hành tiến đạt, một hôm theo ngƣời thân tín đi cúng dàng Phật. Tới

chốn Phật, nhìn thấy Ngài có oai đức phi thƣờng đầy đủ tƣớng từ bi, quan minh chói

sáng, tự phát lòng kính ngƣỡng, vui mừng hớn hở rồi thầm nghĩ rằng:

- Ngƣời ta sinh trên đời, đƣợc gặp Phật là một sự khó, những ngƣời đƣợc hạnh ngộ, là túc

duyên lắm.

Nghĩ xong cậu tới trƣớc Phật, thụp lạy thƣa rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con không biết có phƣớc lành gì hôm nay đƣợc tới đây

chiêm ngƣỡng Ngài, cúi xin Ngài từ bi giáo hóa cho chúng con đƣợc biết lối tu hành

thoát khổ, đời đời đƣợc an vui sung sƣớng.

Phật nói: - Hay lắm! Ngƣơi có duyên lành, muốn đƣợc an vui lâu kiếp, hãy ghi nhớ

những lời ta nói:

- Con ngƣời phú quý hoặc bần tiện, cũng do tự mình tạo tác, gây nhân ngũ giới đƣợc sinh

làm ngƣời, tạo mƣời điều lành đƣợc sinh thiên, tham xẻn đọa làm quỷ đói, sát hại sinh

mạng sân si phải đọa địa ngục, tà kiến vô nhân đạo làm loài súc sinh v.v…

Cậu nghe xong nhƣ ngƣời đói đƣợc ăn, khát đƣợc uống, bạch Phật rằng:

46

- Kính lạy đức Thế Tôn, ngày mai chúng con thành kính sửa trai nghi, cúi xin Ngài và các

vị Thánh Tăng dời gót ngọc tới nhà con dùng ngọ và thuyết pháp để cho cha mẹ con, họ

hàng con, đƣợc ân triêm công đức.

Phật nói: - Con có lòng thành kính Ta và Tăng chúng sẽ chứng lòng cho.

Cậu ta lễ tạ lui ra, về nhà trình bày cùng cha mẹ công việc mời Phật ngày mai, thì hai ông

bà rất vui vẻ! Đêm ấy cả nhà đều tấp nập bày tòa trải chiếu tới sáng mới xong, trong nhà

chƣa sửa soạn đƣợc các món ăn, ông bà liền hỏi cậu:

- Bây giờ phải làm những món gì con?

Cậu đáp: - Thƣa mẹ! Việc ấy để con lo liệu, mẹ không phải lo!

Khi đức Phật tới, do phúc đức của Hoa Thiên hóa hiện ra những tòa ngồi, bằng thất bảo,

nơi nằm, nơi nghỉ, trang nghiêm vô cùng tốt đẹp. Phật và Tăng chúng thăng tòa ngồi yên

tĩnh, thì các món ăn ngon lành tự nhiên đầy đủ hiện ra.

Sau khi dùng cơm xong, đức Phật thuyết Pháp nói về "Tứ Diệu Đế". Hoa Thiên và cả nhà

đƣợc chứng quả Tu Đà Hoàn.

Sau khi đức Phật về Tịnh Xá. Hoa Thiên xin cha mẹ theo Phật xuất gia cầu đạo giải thoát,

vì ông bà đã hiểu đạo, nên thuận lòng cho cậu đi theo Phật tu hành, cậu từ tạ cha mẹ đến

Tinh Xá cúi đầu lễ Phật xong thƣa rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Xin Ngài từ bi hoan hỷ cho con đƣợc xuất gia nhập đạo tu hành,

vì đã đƣợc sự đồng ý của cha mẹ con.

Phật nói: - Thiện Lai Tỷ Khƣu.

Ngài nói dứt lời, tóc trên đầu Hoa Thiên tự nhiên rụng hết, áo mặc tại mình biến thành áo

cà sa, thành một hình tƣớng Sa Môn, tu hành gắng gỏi chẳng bao lâu đã chứng quả A La

Hán.

Thấy việc của Hoa Thiên, tôi (A Nan) lấy làm lạ, nên tôi tới trƣớc Phật làm lễ bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Tỷ Khƣu Hoa Thiên thuở quá khứ làm phƣớc gì, lúc sơ sinh có

hoa trên trời bay xuống, khi cúng dàng Phật tự nhiên lại có giƣờng tòa và các món ăn, cúi

xin Ngài chỉ giáo để chúng con đƣợc rõ.

Phật nói: - A Nan ông muốn biết chuyện của Hoa Thiên hãy lắng nghe ta nói cho ông

hay.

Dạ! Chúng con xin chú ý nghe!

47

Đời quá khứ cách đây đã quá xa xƣa, thuở đó có đức Phật hiệu là Tỳ Bà Thi. Phật ứng thế

độ sinh, thƣờng thƣờng cùng Tăng chúng vào các làng ấp để giáo hóa, những nhà tôn quý

và nhân dân đem các món ăn và dụng cụ ra cúng dàng. Lúc ấy có một ngƣời nhà nghèo

thấy họ sùng kính cúng dàng cầu phƣớc trong lòng tuy hoan hỷ, nhƣng hận mình nghèo,

không có gì dâng cúng để làm duyên cho tƣơng lai, anh liền hái hoa cỏ bên lề đƣờng, một

lòng thành kính lễ lạy tung lên trên chƣ Tăng rồi đi.

A Nan chính ngƣời nghèo cúng hoa thuở đó, nay là Tỷ Khƣu Hoa Thiên, đấy cũng do đời

quá khứ có lòng tin kính cúng hoa chí tâm cầu nguyện từ đó tới nay đã trải qua chín mƣơi

mốt kiếp. Hoa Thiên đƣợc phƣớc báu sinh vào thế giới nào thân thể cũng tốt đẹp, ý muốn

dùng gì cũng đƣợc đầy đủ; thức ăn uống giƣờng tòa các dụng cụ nghĩ đến thì tự nhiên có,

và lúc sơ sinh có hoa trên trời bay xuống, do phƣớc duyên đó mà nay đƣợc đắc đạo.

A Nan! Tất cả chúng sinh chớ coi sự cúng dàng nhỏ mọn mà khinh thƣờng, xem Hoa

Thiên thì tự biết.

Bấy giờ tôi và tất cả đại chúng nghe Phật nói xong ai nấy đều vui mừng tạ lễ mà lui.

---o0o---

Phẩm thứ mƣời một :TỶ KHƢU BẢO THIÊN

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Xá Vệ tại vƣờn cây của ông Cấp Cô

Độc và Thái Tử Kỳ Đà. Ở thành này có ông Trƣởng giả, bà vợ sinh đƣợc cậu con trai mặt

mũi đầy đặn xinh đẹp, giữa lúc sinh, trên trời tự nhiên châu bảo rơi xuống nhƣ mƣa:

Vàng, bạc, nhọc lƣu ly, ngọc xa cừ, ngọc mã não, ngọc san hô, ngọc phách; nơi vƣờn,

ngoài sân, đầy dẫy.

Dân làng hàng xóm xúm đến xem và lƣợm châu bảo giùm. Họ lại ca tụng ông bà có

nhiều phúc đức, và ngƣời con quý, nên trời ban thƣởng những châu bảo này ƣ.

Trƣởng gia vui mừng vừa đƣợc quý tử, lại đƣợc châu bảo, tự nghĩ: "- Việc này từ cổ đến

kim chƣa từng thấy." Hồ nghi không biết tốt hay xấu, nên sai ngƣời đi tìm thầy tƣớng đến

xem hung cát thế nào.

Thầy tƣớng tới nhà, ông nói:

- Thƣa ngài nhà tôi mới sinh đƣợc một mụn con trai, lại thấy có châu bảo rơi xuống

nhiều, không biết hay dở thế nào, xin Ngài xem giùm và coi tƣớng cháu có thể nuôi đƣợc

nên ngƣời không?

Thầy tƣớng nói: - Dạ! Ngài ẵm cháu ra đây!

Bà Trƣởng giả nghe thầy nói vội bế con ra. Thầy ngắm nghía hồi lâu rồi nói:

48

- Thƣa Trƣởng giả cháu có nhiều tƣớng quý: Đầu tròn, mũi thẳng, tai dầy và trán vuông,

mặt dầy, bàn chân bàn tay đầy, sau này có thể làm ích cho gia đình, xã hội. Nếu xuất gia

sẽ đƣợc chứng quả giải thoát, ông bà cứ yên trí nuôi cháu cho cẩn thận, không còn nghi

ngờ gì nữa.

Nghe tƣớng sƣ nói ông rất lấy làm hoan hỷ và nói :

- Xin phiền thầy đặt tên cho cháu.

Tƣớng sƣ nói: - Theo điềm có châu bảo rơi xuống, đặt tên cho cháu là Lặc Na Đề Bà

(Tàu dịch là Bảo Thiên).

Nói rồi tƣớng sƣ đứng lên cáo lui ra về, ông Trƣởng giả thận trọng cám ơn và tạ lễ.

Quả nhƣ lời tƣớng sƣ nói, Bảo Thiên khi lớn tuổi học hành, thông minh tài năng lỗi lạc,

nhƣng rất ham đạo đức và có trí suy tầm đạo giáo. Một hôm cậu sang chơi nhà thân quen

tỉnh khác, họ đƣa cậu đến yết kiến Phật, tới nơi mọi ngƣời đều nhiễu Phật ba vòng, cậu

cũng theo nhƣ họ lễ và nhiễu, rồi lui ngồi một bên, nhìn thấy Phật oai đức phi thƣờng

khắp trời đất không ai sánh kịp, sinh lòng mến mộ, phát ý xả tục nhập đạo nối chí nhƣ

Phật.

Tới đây đức Phật thăng tòa thuyết pháp cho đại chúng nghe nói về mƣời hai nhân duyên,

chúng sinh bị luân chuyển trong sáu đạo, xong cuộc thuyết pháp mọi ngƣời tạ lễ lui ra.

Bảo Thiên đƣợc nghe lời vàng ngọc của Phật giáo hoá, lấy làm sung sƣớng định tâm lần

này quyết xuất gia tu đạo.

Khi về tớí nhà cậu quỳ xuống thƣa cha mẹ rằng:

- Kính lạy song thân! Đƣợc làm ngƣời là khó, đƣợc gặp Phật tại thế lại khó hơn, hôm qua

con đƣợc yết kiến Thế Tôn, lại đƣợc nghe chánh pháp con nhận thấy ngoài đạo Phật ra

không còn đạo nào có thể giải thoát cho con ngƣời, vậy kính xin song thân cho con xuất

gia học đạo.

Ông bà thấy cậu hƣớng việc tu hành, vui vẻ nói:

- Cha mẹ sinh ngƣời chứ không sinh đƣợc tánh, ý con muốn xuất gia thì cha mẹ cũng vui

lòng.

Đƣợc sự đồng ý của cha mẹ rồi lễ tạ ra đi, tới nơi cúi đầu lễ Phật thƣa rẳng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, chúng con từ vô thủy kiếp, bị nổi chìm trong biển sinh tử, không

ngƣời cứu vớt, Ngài nhƣ một chiếc thuyền từ cứu ngƣời giải thoát, hôm nay chúng con

tới đây một lòng thành kính cầu xuất gia học đạo, để lên nơi giác ngạn, cúi xin Ngài từ bi

tiếp hóa.

49

Phật nói: - Thiện Lai Tỳ Khƣu.

Nói dứt lời tóc trên đầu Hoa Thiên rụng hết, áo trên mình biến thành áo Cà Sa, từ đó theo

Phật tu hành, vốn có trí óc thông minh sẵn, nên không bao lau đã chứng đƣợc quả A La

Hán, cắt đứt đƣờng sinh tử, không phải thụ sinh trong ba cõi.

Nhân buổi thƣ nhàn vấn đạo, tôi (A Nan) muốn biết rõ câu chuyện này nên bạch Phật

rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Không hay Tỳ Khƣu Bảo Thiên đời trƣớc làm phƣớc gì lúc sơ

sinh lại có châu bảo trên trời bay xuống. Và những món ăn dùng tự nhiên biến hiện tuỳ

theo ý muốn, xin Ngài nói cho chúng con đƣợc rõ.

Phật dạy rằng: - A Nan! Đời quá khứ cách đây đã lâu lắm có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ

Bà Thi tế độ cho quần sinh đƣợc giải thoát rất nhiều không tính xuể. Một hôm các vị

Tăng đi vào các thôn xóm khất thực, ngƣời dân chen nhau mang các món ăn ra cúng

dàng. Lúc ấy có một ngƣời nghèo, phát sinh lòng hoan hỷ! Muốn cầu phƣớc cúng dàng,

nhƣng không có tiền của, cùng bất đắc dĩ, lấy một nắm đá tròn nhƣ hạt châu với một lòng

thành kính thiết tha, tung nắm đá ấy lên các vi Tăng và khấn nguyện rằng: - Nguyện cho

con đời đời phú quý trƣờng thọ và đƣợc đạo giải thoát nhƣ các ngài.

A Nan ông nên biết! Ngƣời nghèo cúng đá thuở đó, chính nay là Tỷ Khƣu Bảo Thiên,

cũng do đời quá khứ có lòng kính tin ngôi Tam bảo, đem đá cúng chƣ Tăng cho nên từ đó

tới nay trải qua chín mƣơi mốt kiếp, đƣợc hƣởng vô lƣợng phƣớc báu, sinh về xứ nào,

cũng an hƣởng tự nhiên, cũng bởi duyên ấy nay đƣợc gặp Ta và đắc đạo quả.

Bấy giờ tất cả mọi ngƣời trong đại hội, nghe Phật nói xong ai nấy đều phát tâm cung kính

sự cúng dàng, rồi có ngƣời đắc sơ quả, cho đến tứ quả, cũng có ngƣời đƣợc ngôi bất

thoái, vui mừng tạ lễ mà lui

---o0o---

Phẩm thứ mƣời hai : SÀN ĐỀ BÀ LA

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc La Duyệt Kỳ, tại rừng Trúc khi Ngài

mới thành Phật bắt đầu độ nhóm ông Kiều Trần Nhƣ cả thảy năm ngƣời, sau độ cho anh

em ông Uất Tỳ La Ca Diếp, ngàn ngƣời, độ ngƣời đã nhiều đƣợc thoát khổ cũng lắm.

Bấy giờ nhân dân nƣớc La Duyệt Kỳ vui mừng đƣợc bậc đại Thánh Nhân xuất thế, ai ai

cũng ca tụng khen ngợi đức Thế Tôn: Một đấng cứu thế, biết bao chúng sinh đƣợc hàm

ân thoát khổ, hơn nữa Ngài còn hóa phục đƣợc những tà đạo trở lại theo Ngài, thực là

một việc lại còn khó hơn. Họ lại khen nhóm ông Kiều Trần Nhƣ và anh em ông Uất Tỳ

La Ca Diếp với các vị đại đức Tỷ Khƣu khác, đối với đức Thế Tôn chẳng hay đời trƣớc

có duyên gì? Trống pháp mới đánh đã đƣợc nghe trƣớc, nƣớc cam lồ đƣợc uống trƣớc.

50

Các Tỳ Khƣu thấy họ ca tụng nhƣ vậy liền đem chuyện ấy lên thƣa với Phật.

Phật nói: - Đó không chi lạ đâu! Ta với các ông ấy đã có lời thệ nguyện từ đời quá khứ:

Nếu Ta đƣợc thành Phật, Ta sẽ độ cho các ông ấy trƣớc.

Các Thầy thƣa rằng: - Kính lạy Ngài! Thuở xƣa Ngài thệ nguyện thế nào, cúi xin nói cho

chúng con đƣợc rõ.

Phật dạy: - Muốn biết sự tích Ta với các ông ấy đời quá khứ, hãy để ý nghe cho kỹ Ta sẽ

nói cho hay: Đời quá khứ cách đây đã lâu lắm có đến vô lƣợng vô biên A tăng kỳ kiếp

không thể dùng tâm suy nghĩ và lời nói mà tính đƣợc. Cũng Châu Diêm Phù này, có một

nƣớc lớn gọi là Ba La Nại, ông vua nƣớc ấy tên là Ca Lợi cũng thời đó có một vị đại tiên

tên là Sàn Đề Bà La và cả thảy năm trăm đệ tử ở trên một quả núi tu theo phép nhẫn

nhục.

Một hôm nhà vua nƣớc ấy cùng với phu nhân, thể nữ, quần thần vào núi để du ngoạn:

Săn bắn các thú vật, bày các cuộc vui, uống rƣợu, ăn thịt, các thể nữ múa hát, làm cho

nhà vua vui tai, thích mắt, thỏa thích với dục lạc, rồi tiệc rƣợu, nhà vua nằm nghỉ nhọc

dƣới gốc cây, thừa cơ ấy các cô rủ nhau đi xem hoa trong rừng, tới một hang núi, thấy

ông Sàn Đề Bà La đƣơng ngồi yên tĩnh có vẻ trầm tƣ suy xét, các cô này thấy ông đạo

mạo với nét mặt siêu phàm, ngoài cuộc trần tục, nên các cô sinh lòng kính trọng! Hái các

thứ hoa tung lên cúng dàng rồi ngồi xúm lại xung quanh để nghe thuyết pháp.

Khi hết hơi men nhà vua thức dậy, nhìn xung quanh không thấy một ngƣời con gái nào

hầu cạnh, ông nổi giận quá đứng phắt dậy, cùng với bốn ông quan đại thần đi tìm, một lát

tới chỗ ông Tiên, thấy bọn các cô đang ngồi vây quanh trƣớc sau, nhà vua cất tiếng la

lớn, các cô này sợ hãi chạy dạt ra, nhà vua tới trƣớc chỗ ông Tiên hỏi rằng:

- Nhà ngƣơi đã đắc định Tƣ Không chƣa?

- Thƣa chƣa đƣợc.

- Nhà ngƣơi đã đƣợc Tứ Vô lƣợng Tâm chƣa?

- Thƣa chƣa đƣợc.

Nhà vua lớn tiếng nạt rằng:

- Từng ấy công đức đều nói chƣa đƣợc, nhƣ vậy, nhà ngƣơi có hơn gì kẻ phàm phu, thế

mà dám ngồi chung với những đứa con gái này ở nơi vắng vẻ tin sao đƣợc?

Ông Tiên lặng yên không đáp lời nào hết, nhà vua lại hỏi:

- Ở đây ngƣời là ngƣời thế nào? Tu đạo gì?

- Thƣa! Tôi tu theo hạnh nhẫn nhục!

51

Nhà vua có vẻ tức giận rút kiếm ở sau lƣng ra nói:

- Nhà ngƣơi tu nhẫn nhục ƣ! Nhẫn nhục để ta thử xem ngƣơi có nhẫn nhục đựợc không?

Nói xong chém phắt hai cánh tay ông Tiên rơi xuống đất, rồi hỏi tiếp:

- Đã nhẩn nhục đƣợc chƣa?

Tiên đáp: - Nhẫn nhục đƣợc!

Ông laị chém phát hai nhát vào hai vế đùi nhả ra, rồi hỏi tiếp:

- Đã nhẫn nhục đƣợc chƣa?

- Nhẫn nhục đƣợc!

Nhà vua lại xẻo hai tai và mũi trông rất ghê sợ. Tất cả quan quân thể nữ, nhìn thấy nhà

vua quá ƣ ác nghiệp với ông Tiên ai cũng sám đen mặt lại, nhƣng không dám can ngăn,

vì sợ cơn ghen của ông đƣơng bộc phát, song họ nhìn thấy ông Tiên nét mặt bình tĩnh

không chút biến đổi.

Nhà vua đứng ngƣớc mắt nhìn xem ông Tiên này có phản kháng với mình gì không?

Nhƣng không.

Ngay giờ phút ấy quả đất tự nhiên rung động sáu lần, năm trăm vị tiên đệ tử theo Ngài tu

học bay vót lên hƣ không ngó xuống hỏi rằng:

- Lạy thầy! Thầy bị đau khổ nhƣ vậy có khỏi mất tâm nhẫn không?

Đáp: - Tâm ta vẫn bình tĩnh và cũng là tăng thƣợng duyên cho tâm nhẫn của ta lại càng

thêm vững chắc!

Tới đây ông vua đã từ từ hạ cơn ghen, nhìn thấy ông Tiên vẫn thản nhiên, sự nhẫn đã thế,

lại còn sự đau cũng không thấy hoài tâm, dịu giọng hỏi:

- Nhà ngƣơi tự nói tu phép nhẫn nhục lấy gì làm bằng cớ, cho có sự thậ?

Đáp: - Ta không nói nhà vua cũng thấy đƣợc sự thật của ta, một là ta không khuất phục

dƣới thế lực áp bức bất minh thiếu nhận xét, hai là ta không quan tâm đến lƣỡi kiếm của

nhà vua chém ta, và ta cũng không có ác niệm gì đối với sự hung tàn của nhà vua, muốn

biết rõ sự thật ta sẽ nguyện rằng: Nếu quả ta có thực hành đạo nhẫn nhục, huyết sẽ biến ra

sữa, thân sẽ bình phục nhƣ cũ.

Đại Tiên nói xong, huyết tự nhiên biến ra sữa, thân thể lại hoàn toàn nhƣ xƣa.

52

Nhà vua thấy sự nhẫn nhục của đại tiên hiển nhiên quá! Cảm động quá rùng mình, sởn

gáy, sợ toát mồ hôi! Là mình đã quá ƣ 讦#243;ng giận với tâm mê chấp tham dục nếu ta

không xin lỗi sẽ bị chiêu họa.

Nhà vua vội vất kiếm xuống đất, quỳ trƣớc mặt đại tiên thƣa rằng:

- Thƣa đại Tiên, chúng tôi hiểu lầm, vì quá si mê nên hôm nay đối với Ngài một cách quá

đáng, vô nhân đạo, cúi xin Ngài tha thứ nhận lòng thành sám hối của tôi.

Đại Tiên đáp: Hôm nay nhà vua cũng vì nữ sắc, quá giận dùng kiếm chém ta tâm nhẫn

của ta nhƣ đại địa, ta thề rằng sau khi ta đƣợc thành Phật ta sẽ dùng tuệ đao, chém ba cái

độc, tham, sân, si cho nhà vua trƣớc.

Nhà vua thấy Đại Tiên đã hoan hỷ tha thứ, và nhận lời tạ lỗi của mình, vái chào ra về.

Lúc ấy trong núi có các bộ Long, Vƣơng, bộ quỷ thần thấy vua Ca Lợi vô cớ làm huỷ

nhục vị Đại Tiên, tức giận nổi cơn lôi đình làm cho mây khói u ám rợp trời, sấm sét vang

dội, ý muốn hại vua và đánh chết họ hàng nhà vua cho bằng hết.

Đại Tiên thấy thế ngửa mặt lên trời nói rằng:

- Các ông nên buông lòng bao toả khắp muôn loài, nếu có thiện chí với tôi, bênh tôi, thì

xin đừng làm hại nhà vua!

Từ đó vua Ca Lợi, tự hạ mình xuống nhƣ ngƣời đệ tử tôn kính Đại Tiên nhƣ thầy, luôn

luôn đến thăm viếng cúng dàng, cũng có lúc mời về vƣơng cung giảng dạy.

Thời ấy cũng có một bọn Phạm Chí chừng ngàn ngƣời tu theo tà đạo, thấy vua Ca Lợi

kính trọng biệt đãi vị Đại Tiên, sinh lòng ghen ghét thuê ngƣời lấy phân trát lên toà ngồi

của Đại Tiên, lúc vắng mặt, đã nhiều lần nhƣng không biết rõ kẻ nào có tâm nham hiểm

xấu xa, một thái độ đê hèn; sau cùng do sự điều tra chắc chắn của nhà vua, bắt đƣợc

những kẻ gian ác đem ra tra hỏi, chúng tự xƣng là bọn Phạm Chí mƣớn. Lập tức vua Ca

Lợi hạ lệnh bắt hết nhóm Phạm Chí lại cung môn.

Đại Tiên vốn lòng từ bi và đƣơng thực hành đạo nhẫn nhục, nên xin vua tha tội cho họ.

Trƣớc nhà vua và đại chúng, Đại Tiên phát thệ rằng :

- Tôi vì chúng sinh tu hạnh nhẫn nhục tích góp công phu không lƣời mỏi, để cầu thành

Phật, sau khi đƣợc thành tựu, tôi sẽ lấy nƣớc pháp trí tuệ tẩy trừ cho hết trần cấu uế dục

lũ các ngƣời này đƣợc trong sạch trƣớc.

Tớ⩠ đây Phật nhắc lại cho tôi hay rằng:

- A Nan! Ông Sàn Đề Bà La thuở đó chính là tiền thân của ta, vua Ca Lợi nay là ông

Kiều Trần Nhƣ, bốn quan đại thần thuở đó nay là bốn vị Tỷ Khƣu cùng nhóm với ông

53

năm ngƣời, còn ngoài đạo Phàm Chí lúc đó nay là ông Uất Tỳ La Ca Diếp và ngàn vị Tỷ

khƣu này.

Thuở đó ta thề nguyện độ cho các ông ấy trƣớc, nay ta thành Phật nên các ông ấy đƣợc

độ trƣớc. Nhƣ vậy biết lời thề nguyện không sai.

Khi đại chúng nghe Phật nói xong, ai nấy đều vui mừng, tán thán hạnh nhẫn nhục của

Ngài thực là hy hữu, rồi cùng nhau lễ tạ lui ra

---o0o---

Phẩm thứ mƣời ba : VUA TỪ LỰC CHO HUYẾT

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Xá Vệ tại vƣờn Kỳ Hoàn buổi sáng ấy,

bầu trời êm ả, thả làn gió nhẹ qua những hàng cây vi vút; buổi trà nƣớc dâng Phật vừa

xong, tôi (A Nan) ra khoảng rừng vắng tọa thiền dƣới gốc cây tự nghĩ nhƣ vầy: Đức Phật

ra đời biết bao ngƣời đƣợc nhờ ơn tế độ, thế giới thanh bình, nhân dân an lạc, cây cỏ xinh

tƣơi, muôn loài hớn hở, là do nhờ đức hóa của Ngài, lại nghĩ rằng: Nhóm ông Kiều Trần

Nhƣ trồng nhân lành gì? Nƣơng nhân duyên gì? Cửa từ bi thuyết pháp cứu sinh, bọn ông

đƣợc vào trƣớc? Trận mƣa cam lồ bắt đầu bọn ông đƣợc tắm trƣớc? Nghĩ xong tôi đứng

dậy về Tịnh Xá đem ý nghĩ trên bạch Phật, Phật bảo tôi rằng:

- A Nan, nhóm ông Kiều Trần Nhƣ đã một lần bị chết đói, vì lòng từ bi nên ta trích huyết

trong ngƣời ra cho các ông ấy uống, bởi thế nay đƣợc nghe pháp trƣớc, giải thoát trƣớc.

- Kính lạy đức Thế Tôn! Vì duyên gì mà các ông ấy bị đói? Tại sao không ăn các món

khác lại phải uống huyết mới sống? Cúi xin Ngài nói lại cho con và đại chúng đây đƣợc

rõ!

Phật dạy rằng: - A Nan! Ông muốn biết câu chuyện ấy hãy chú ý nghe: Thuở đó tới nay

tính số kiếp A Tăng kỳ đã quá lâu, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua nƣớc

lớn, tên là Di Già La Bát La (Tàu dịch: Từ Lực) cai trị tám mƣơi bốn ngàn nƣớc nhỏ, hai

vạn bà phu nhân, một vạn quan đại thần, nhà vua từ bi khoan hậu, đủ bốn tâm bình đẳng,

thƣơng dân giúp vật, thƣờng đem mƣời điều lành giáo hóa, trong nƣớc đƣợc thanh bình

an lạc, muôn phƣơng kính nể.

Thời ấy có các loài Dịch Quỷ, hay đi bắt ngƣời để uống máu ăn tiết, chứ không sống

bằng cơm gạo, ngô, khoai.

Những ngƣời dân thuở đó theo lệnh của nhà vua bắt buộc ai cũng phải tu mƣời điều lành,

giữ thân miệng, ý thanh tịnh. Vì thế bọn ác quỷ không dám đến gần, không thể bắt ai ăn

đƣợc, nên chúng bị đói, chỉ còn da bọc xƣơng, khí lực đã gần tuyệt. Bấy giờ có năm con

quỷ đến tâu vua rằng:

54

- Tâu bệ hạ: Chúng tôi sống bằng sự ăn uống khí huyết của loài ngƣời. Nhà vua dạy dân

tu theo mƣời điều lành; vì họ tu theo mƣời điều lành, nên có các thiên thần ủng hộ, chúng

tôi không dám bắt ăn thịt, bị đói đã lâu, chỉ còn chờ chết. Vậy nhà vua làm hạnh từ bi há

không thƣơng lũ chúng tôi sao?

Nhà vua nghe quỷ nói, trong tâm rất cảm động, hỏi rằng:

- Ngoài máu thịt ngƣời các ngƣơi dùng gì?

- Tâu Đại Vƣơng máu thịt ngƣời là món chính, ngoài ra không dùng món gì có thể bảo

tồn đƣợc thể xác.

Vì quá thƣơng họ đói, nên nhà vua lấy dao khoét mình ra năm lỗ rồi nói:

- Máu của ta đây các ngƣơi lấy bát lại hứng mà uống.

Bọn quỷ vui sƣớng quá! Đƣơng đói, tranh nhau cầm bát lại vừa hứng vừa uống, uống

xong lạy tạ xin về.

Nhà vua nói: - Hãy khoan! Ta bảo đã: Các ngƣời bị nghiệp báo làm thân quỷ là do đời

trƣớc ham uống máu ăn thịt chúng sinh, lại thêm lòng tham sẻn, nên rán tu theo mƣời

điều lành, tƣơng lai ta thành Phật ra sẽ lấy Pháp thân và huyết giới, định, huệ, để trừ tâm

tham dục ba độc đói khát cho lũ ngƣơi, và sẽ đƣa lũ ngƣơi tới chỗ an vui vĩnh viễn.

Tới đây đức Phật nhắc lại rằng:

- A Nan! Nên biết: Vua Từ Lực thuở đó chính là tiền thân của ta đây, năm quỷ dạ xoa,

nay là nhóm ông Kiều Trần Nhƣ năm ngƣời. Thuở đó ta hứa độ cho bọn ông ấy trƣớc,

nên nay các ông ấy đƣợc nghe thuyết pháp trƣớc, và đƣợc giải thoát trƣớc.

Bây giờ, tôi và đại chúng đƣợc nghe câu chuyện đời quá khứ của Ngài và năm ông, ai ai

cũng sợ toát mồ hôi, với lòng đại bi của Ngài, với chí sắt đá của Ngài ai mà bì kịp, rồi

cùng nhau lễ tạ lui ra

---o0o---

Phẩm thứ mƣời bốn : HÀNG PHỤC LỤC SƢ

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở thành Vƣơng Xá, tại vƣờn Trúc cùng với một

ngàn hai trăm năm mƣơi vị Tỳ Khƣu ở đó.

Vua Bình Sa là ngƣời mến mộ Phật giáo, ông theo Phật nghe thuyết pháp đã lâu, và thực

hành tu tiến, nên bấy giờ ông đã chứng đƣợc sơ quả, bởi vậy, lòng tin của ông lại càng

kiên cố. Ông thƣờng dâng thuốc thang, áo cà sa, giƣờng đệm, món ăn quí lên cúng Phật

55

và chƣ Tăng; ông rất tôn trọng, những ngƣời hay làm điều lành, và khi tới đâu, ông cũng

khuyên ngƣời tu theo Phật giáo.

Trong nƣớc ông có bọn Phú La Na Lục Sƣ, làm giáo chủ ngoại đạo, cũng thời đó, nhƣng

ra đời trƣớc Phật ít năm, họ đem tà thuyết để dối bịp dân, những kẻ cuồng si không biết

nhận xét chánh tà theo họ rất đông. Song em nhà vua cũng theo học bọn chúng, làm một

con tin thuần cẩn, trí óc ngâm chìm dƣới nguồn sau của bọn họ. Đem tiền của cung cấp

đã lâu ngày, tài sản bị khuynh vong, gia đình bại hoại, cũng nhƣ kẻ bị bùa mê, bánh mến,

không khác.

Đức Phật ra đời nhƣ vầng thái dƣơng, xuất hiện luồng quang minh, soi khắp không gian

muôn loài ấm áp, cây cỏ xinh tƣơi; ánh tuệ sáng đã tung tỏa khắp muôn phƣơng, biết bao

ngƣời đắc quả thành công trên đƣờng giải thoát. Kẻ không biết theo một đạo giáo chân

thật, khác gì loài rùa nằm dƣới đầm sâu, cóng rét chịu quanh năm, mà không biết có ánh

mặt trời trên đại địa, cũng nhƣ em vua Bình Sa, chịu buộc mình nơi tà giáo ngoại đạo,

không biết nhận xét chánh tà.

Vua Bình Sa thƣơng em mê muội, với tính cố chấp, hết sức thuyết đạo lý của Phật giáo

cho nghe, và giục em mời Phật; phải tôn kính Phật, phải bỏ tà đạo, ngƣời em vẫn không

chịu nhận lời và thƣa rằng:

- Thƣa anh! Muôn triệu ngƣời trên vũ trụ bao la, mỗi ngƣời một ý nghĩ khác nhau, không

ai giống ai; mỗi ngƣời có sự nhận xét riêng, mỗi ngƣời có một sở thích riêng, anh theo

giáo lý đạo Phật, anh khen Phật hay, tôi theo phái Lục Sƣ dĩ nhiên tôi hợp với lý trí của

tôi là phải là đúng, là cao, tôi mới theo, nhƣng anh đã nói tôi sẽ mời thầy tôi và Phật đàm

luận về đạo lý hơn kém sẽ bày tỏ.

Nhà vua cƣời nói: - Hay lắm! Nay mai chú mời luôn đi, nhƣng chú phải cam đoan với tôi.

Nếu Phật hơn thì chú phải bỏ thầy chú theo Phật cùng tôi, nếu Phật kém tôi sẽ bỏ Phật để

theo cùng chú!

- Vâng! Dĩ nhiên.

Ngày mai vua Bình Sa lên bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Muốn cho toàn quốc dân thoát khỏi vòng ác đạo, cùng đƣợc

hƣởng sự an vui từ đời này cho đến kiếp khác, con nhận thấy ngoài sự giáo hóa của Ngài

ra thì không có đạo giáo nào hơn đƣợc, dân con có bọn Lục Sƣ, cũng đƣờng một tôn giáo,

đem những tà thuyết mị dân, đƣa ngƣời vào hố sâu hang hiểm làm mồi cho hùm, beo,

lang sói, chết đọa tam ác đạo. Con có ngƣời em cũng theo bọn chúng, hết sức răn bảo mà

không chuyển lòng, con định bảy ngày nữa, mời Thế Tôn ra thí tràng, sau đó cho tìm bọn

Lục Sƣ tới, để Ngài hóa phục dẹp bỏ đạo tà, hiển dƣơng chánh đạo, một yếu điểm nhất là

muốn cho quần chúng biết sức thần biến và đạo lý của Ngài để họ tự bỏ rơi bọn Lục Sƣ,

cúi xin từ bi hoan hỷ cho chúng con đƣợc trƣợng thừa công đức!

Đừc Phật mỉm cƣời nói:

56

- Việc ấy cũng nên, làm Nhân Chúa có trách nhiệm mở mang trí óc khôn sáng cho dân,

làm gấp ta vui lòng!

Nhà vua hoan hỷ lễ tạ lui ra, khi về hạ lệnh cho toàn quốc biết rằng:

- Quốc dân nên biết! Trong bảy ngày nữa, đức Thế Tôn và Lụ Sƣ dẽ đàm luận về đạo

giáo, ai muốn biết, thì đến nơi thí tràng.

Em vua Bình Sa sửa soạn bàn, ghế, tòa ngồi rất trang nghiêm, tới ngày thứ bảy Lục Sƣ

tới trƣớc tiên, em vua trịnh trọng mời lên ngồi tòa cao đẹp, các nhà văn hào dân chúng

đến đông nhƣ kiến cỏ, nhƣng không thấy Phật đến, ngƣời em vua hỏi:

- Anh giục tôi mời ông Cù Đàm (Phật) các thầy tôi và dân chúng tới đông sao không thấy

Ông ấy tới?

- Chú đã đi mời Ngài chƣa.

- Chƣa!

- Chú sai ngƣời đi mời Ngài hoặc chú đi, hôm trƣớc tôi mời Ngài đã hứa.

Đƣơng nói thì Phật đến, vua Bình Sa ra đón Phật, khi vào tới nơi, những tòa cao đẹp bọn

Lục Sƣ đã ngồi hết cả, thấy thế nhà vua nóng lòng, nhƣng không biết nói sao, chỉ riêng

trách em mình. Đức Phật và chƣ Tăng phải ngồi tất cả những hàng ghế dƣới.

Khi Phật ngồi yên tĩnh chừng đƣợc ba phút, bỗng nhiên thấy Ngài và chƣ Tăng ngồi trên

ghế cao, bọn Lục Sƣ ngồi dƣới chót, Lục Sƣ hổ thẹn đứng dậy, em nhà vua lại vác ghế

lên cao mời Lục Sƣ ngồi, ngồi xong chừng một phút lại thấy ghế dƣới chót, Phật ngồi

trên cao, cứ nhƣ thế đến ba bốn lần, nhƣng vẫn bị ngồi hàng ghế cuối, tới đây họ biết

không có năng lực gì địch thủ, nên chịu ngồi ngƣợng ở đó.

Khi dâng nƣớc, họ cứ theo thứ tự, tòa trên dâng trƣớc, tòa dƣới dâng sau. Đầu tiên dâng

lên Phật.

Phật nói:

- Dâng Thầy của các ngƣơi trƣớc, dâng ta sau cũng đƣợc!

Theo lời Phật phán bảo, họ đƣa nƣớc dâng Lục Sƣ, khi giơ bình rót, tắc không chảy, sau

dâng Phật, rót chảy, Phật rửa tay xúc miệng xong, làm phép chú nguyện.

Xong việc trà nƣớc bắt đầu dâng cơm, họ dâng Phật trƣớc, Phật nói:

- Hôm nay các ngƣơi không phải vì ta mà thết bữa cơm nay, ta chỉ là khách, Thầy các

ngƣơi là mục đích hơn, ngƣơi hãy dâng Thầy ngƣơi trƣớc để Thầy ngƣơi chú nguyện

cho.

57

Theo lời Phật dạy, bắt buộc họ mời Lục Sƣ chú nguyện, lúc chƣa mời không sao, sau khi

mời họ nhìn thấy Lục Sƣ hai hàm răng cắn chặt, không thấy nói năng cầu nguyện gì, chỉ

biết giơ tay làm hiệu, xua những ngƣời ấy đến chỗ Phật, Phật làm phép chú nguyện

xong.

Bắt đầu dâng món ăn, Phật nói:

- Hãy dâng Thầy các ngƣơi trƣớc!

Họ phải theo lời Phật dạy, khi dâng lên Lục Sƣ, các món ăn bay bổng lên hƣ không lơ

lửng trên đó và không rơi, làm cách nào cũng không thể lấy đƣợc, chờ khi dâng món ăn

lên Phật và Tăng Chúng xong, thì các món ăn ấy rơi xuống trƣớc mặt Lục Sƣ.

Khi dùng cơm xong, Phật gọi em vua bảo rằng:

- Khanh mời thầy khanh thuyết pháp trƣớc đi.

Ngƣời em mời thuyết pháp, Lục Sƣ im thít không nói năng gì, té ra hi hàm răng cắn chặt

lúc nào không biết, đồng thời bọn chúng giơ tay làm hiệu; ý nói đến mời Phật thuyết pháp

còn ta bị câm họng ráo trọi.

Bọn đồ đệ của Lục Sƣ biết thầy mình thất thế và kém hẳn đã có ý chán nản phát ra tự đáy

lòng, bấy giờ em vua và dân chúng lại lễ Phật và mời Ngài thuyết pháp.

Trƣớc khi Phật thuyết pháp quả đất động chuyển sáu lần, hào quang năm sắc chiếu khắp

đại thiên thế giới. Đức Phật nhƣ một đấng cha hiền thƣơng đàn con dại, nhƣ một bực đại

Giáo Sƣ đối với kẻ sơ tâm mới học, với đại chúng Ngài ra những lời hòa nhã dịu dàng,

diễn thuyết các pháp, tính, tƣớng, phân biệt nghĩa lý sâu huyền, thế gian, và xuất thế

gian.

Đại chúng nghe xong có rất nhiều ngƣời đƣợc giác ngộ, em vua Bình Sa chứng đƣợc

Pháp Nhãn Tịnh, ngoài ra còn có ngƣời sơ quả cho đến tam quả, còn những vị xuất gia

đƣợc lậu tận, có vị phát tâm vô thƣợng chứng quả bất thoái. Toàn thể đại chúng dự hội

hôm ấy ai ai cũng phân biệt đƣợc chánh tà, họ phát tâm tin kính ngôi Tam Bảo, trở về

quy y Phật, thờ Phật làm Thầy và bỏ rơi bọn Lục Sƣ, không cúng dàng thừa sự chúng

nữa.

Tới đây mọi ngƣời đều đứng lên, ca tụng những công đức Ngài đã ban cho và phát

nguyên xin theo làm đệ tử, đảnh lễ lui ra.

Lục Sƣ vừa bị nhục, vừa mất thể diện căm hờn tụ tập lại một nơi bàn kế để trả thù đức

Phật, họ ra nơi rừng vắng học tập các phép lạ, và nghiên cứu các kỹ thuật.

Lúc ấy Thiên ma Ba Tuần thấy đồ chúng của mình thua Phật, dân chúng chán ghét, tất

nhiên đạo của họ không truyền bá đƣợc, y liền bay xuống hóa làm hình Lục Sƣ tới để

biểu diễn các phép lạ, và truyền phép cho Lục Sƣ, xong lại bay về Thiên Đàng.

58

Lục Sƣ sau khi đƣợc phép của Ba Tuần truyền thụ vui mừng quá! Tự đắc chí cho là cao

diệu, là tối thắng, chúng tập hợp bàn nhau rằng: - Hôm trƣớc bọn ta bị nhục, mọi ngƣời

phải ly tán, giờ đây xem sự thần biến của Thầy chúng ta truyền thụ, có dƣ để hàng phục

ông Cô Đàm Sa Môn, bây giờ yêu cầu vua lập một cuộc thi thần thông, để xem hơn thua

thế nào, bàn nhau xong họ lên tâu rằng:

- Tâu Bệ Hạ, chúng tôi sẽ có đủ pháp lực tài năng thần biến, xin Bệ Hạ lập một cuộc đấu

phép với Phật, để cho quốc dân biết tài năng của chúng tôi.

Nhavua cƣời nói: - Lũ bây thực là ngu si quá, Phật có đạo đức cao siêu phép thần túc vô

ngại, các ngƣơi muốn thi với Phật, chẳng khác lửa đom đóm muốn tranh ánh mặt trời,

nƣớc vết chân trâu đem ví với biển cả, hoại Dã Can lại muốn thi hùng với muôn sƣ tử,

đống đất tổ kiến đem ví với lực cao núi Tu Di, những hình lớn nhỏ coi thấy rõ ràng, thấp

kém lại muốn nghển cao, các ngƣơi sao lại ngu lỗ quá nhƣ vậy?

Lục Sƣ nói: - Tâu Bệ Hạ! Ngài chƣa biết phép luật của chúng tôi, đó là Ngài thiên vị, tự

cho ông Cô Đàm (Phật) là ngƣời tuyệt đối không còn ai hơn, chúng tôi quyết thử tài một

phen hay dở Ngài sẽ rõ!

Vua nói: - Tại sao bữa trƣớc các ngƣơi không đem tài ra đối phó, nay còn nói khéo nói

khôn làm chi?

- Tâu Bệ Hạ! Hôm đó chúng tôi chƣa đủ phép lực, bây giờ có đủ khả năng đối thủ!

- Không sao! Muốn thì ta sẽ lên thƣa với Phật, nhƣng chỉ sợ các ngƣơi tự để nhục cho hậu

thế!

- Tâu Bệ Hạ! Chúng tôi xin hẹn bảy ngày nữa, Bệ Hạ hãy cho dân chúng sửa sang nơi thí

tràng bằng phẳng.

Sau khi Lục Sƣ ra về, nhà vua lên xe đi đến chốn Phật, lễ xong quỳ gối chắp tay thƣa

rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sƣ còn rắc rối quá; hôm qua chúng lên xin thi thần lực

với Thế Tôn, con đã lấy lý luận phân trần và la mắng nhƣng bọn chúng còn ra vẻ không

chịu. Vậy kính xin Ngài ra sức thần biến để hóa phục bọn tà ác trở về chánh đạo, nhân

đấy con và dân chúng đƣợc coi sự thần thông biến hóa của Ngài.

Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời.

Vua Bình Sa lễ tạ lui ra, về vƣơng cung sắc lệnh cho quân dân sửa sang nơi thí trƣờng,

đặt bàn ghế, kê tòa ngồi cao đẹp cúng Phật, chung quanh kết hoa, treo phan phƣớn, các

ngả đƣờng kéo biểu ngữ để cổ động cho dân chúng đến xem.

Tới ngày thứ bảy Đức Phật và các vị đệ tử, từ thành Vƣớng Xá đi sang nƣớc Tỳ Xá Ly,

nƣớc ấy có bọn ông Luật Xƣơng và nhân dân ra đón rƣớc.

59

Buổi sáng ấy, dân chúng thành Vƣơng Xá xôn xao, không biết Phật đi đâu, hỏi thăm mãi

mới biết Ngài đi sang nƣớc Tỳ Xa Ly.

Lục Sƣ hay tin Phật đi, không ở lại đấu phép đắc chí nói:

Ông Cô Đàm (Phật) trí tuệ và thần biến kém, biết sức không địch nổi nên tìm đƣờng tẩu

thoát, thế mà mọi ngƣời còn do dự không tin.

Tâm ngã mạn của Lục Sƣ lên cao quá, tự tuyên bố rằng:

- Chúng tôi sẽ đuổi cho tới cùng.

Đƣợc tin Phật sang nƣớc Tỳ Xá Ly, vua Bình Sa lập tức sai sửa soạn lƣơng thực năm

trăm con ngựa, năm trăm xe, tổng số quan quân mƣời bốn ức ngƣời, sang nƣớc Tỳ Xá

Ly, Lục Sƣ cũng theo vua sang, chúng thƣa với Luật Xƣơng rằng:

- Thƣa Ngài! Chúng tôi tới đây muốn để thi thần thông, và đàm luận về thực tính với ông

Cô Đàm, xin Ngài cho ông ấy rõ, và hẹn bảy ngày nữa sẽ bắt đầu!

- Vâng! Quí Ngài muốn thế, tôi sẽ thƣa với Phật giùm.

Luật Xƣơng tới lễ Phật thƣa rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sƣ si mê quá! Tự nói có đạo lực nên xin lên thi thần

biến. Vậy kính xin Thế Tôn hàng phục bọn gian ác ấy!

Phật nói: Hãy biết thế, ta tự tri thời!

Luật Xƣơng lễ tạ lui ra, về sửa soạn nơi thí tràng, lƣơng thực các đồ cúng dàng trọng hậu,

dân chúng nôn nao, chờ ngày để xem cuộc đấu thần thông.

Sáng ngày hôm sau, Phật và Tăng chúng đi sang nƣớc Châu Diệm Di, vua Ƣu Điền đem

quan quân ra đón tiếp. Cũng buổi sáng ấy nhân dân nƣớc Tỳ Xá Ly xôn xao hỏi nhau

rằng:

- Sáng nay Đức Phật đi đâu?

- Có ngƣời nói: Đức Phật và chúng Tăng sang nƣớc Câu Diệm Di buổi sáng sớm.

Lục Sƣ thấy thế, tâm ngã mạn lại càng lên cao, và đắc chí lắm, bảo nhau phải theo đuổi

cho bằng cùng.

Đƣợc tin Phật đi khỏi ông Luật Xƣơng đem năm trăm cỗ xe chở lƣơng lực và bảy ức

ngƣời cùng với vua Bình Sa sang nƣớc Câu Diệm Di.

Lục Sƣ vào yết kiến vua Ƣu Điền rồi thƣa rằng:

60

- Tâu Hoàng Đế! Sa Môn Cồ Đàm, tự biết lực không địch nổi, nên thầy trò phải trốn sang

đây, xin Hoàng đế cho chúng tôi thi thần thông với ông ấy!

- Vâng! Quí Ngài muốn thế tôi sẽ thƣa với Phật giùm!

Ngày mai vua Ƣu Điền lên bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, Lục Sƣ ngày qua lên yêu cầu để thi thần thông, kính lạy Ngài có

nhận lời ấy không!

Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời!

Vua Ƣu Điền lễ tạ ra về, sửa soạn nơi thí tràng chờ Phật định ngày đối thí. Sáng hôm sau

Phật và Tăng chúng đi sang nƣớc Việt Kỳ, vua Chuân Chân Đà La cùng với nhân dân ra

nghinh tiếp đức Thế Tôn.

Hôm sau ngƣời nƣớc Câu Diệm Di không thấy Phật, xôn xao hỏi nhau thì có ngƣời nói:

- Phật và chƣ Tăng sang nƣớc Việt Kỳ sáng qua.

Hay tin Phật đi khỏi, Lục Sƣ và vua Ƣu Điền, vua Bình Sa và quan quân dân chúng, cũng

đi sang nƣớc Việt Kỳ. Lục Sƣ vào yết kiến Chuân Chân Đà La và trình bày ý kiến của

mình, sau yêu cầu vua làm thế nào đƣợc đấu phép với ông Cô Đàm.

Đáp: - Vâng, quí Ngài muốn đấu tôi sẽ thƣa với Phật."

Vua Chuân Chân Đà La lễ lên Phật xong, rồi quỳ thƣa những ý định của Lục Sƣ.

Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời!

Nhà vua lễ tạ lui ra, về cung sắc lệnh cho quân sửa soạn và trƣng bày nơi thí tràng, sắp tới

ngày thi Phật và chƣ Tăng lại sang nƣớc Đặc Xoa Thi Lợi, vua Nhân Đà Bà Di cùng với

quan quân ra đón rƣớc.

Hay tin Phật đi khỏi, vua Chuân Chân Đà La với năm ức ngƣời, cùng với Lục Sƣ vua

Bình Sa và tất cả đều theo Phật sang nƣớc Đặc Xoa Thi Lợi.

Lục Sƣ vào yết kiến vua Nhân Đà Bà Di và khoe khoang những lời cao đại rồi nhờ vua

giới thiệu để thi thần thông với Phật. Nhà Vua nhận lời, lên bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, hôm qua Vua các nƣớc và quan quân đến đây đông lắm về việc

thi thần thông với Lục Sƣ, cúi xin Ngài Từ Bi ra phép thần hàng phục kẻ tà đạo, để cho

tất cả chúng sanh trong Châu Diêm Phù Đề theo về chánh giáo.

Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời!

61

Ngày thi gần tới, đức Phật lại sang nƣớc Ba La Nại, vua Phạm Ma Đạt hay tin Phật tới,

đem quan quân ra biên giới đón Phật về thành.

Buổi sớm mai dân chúng nƣớc Đặc Xoa Thi Lợi, mang các món ăn ra đƣờng đón Phật và

Chƣ Tăng không thấy, hay tin Phật sang nƣớc Ba La Nại, khi đó vua Nhân Đà Bà Di, vua

Bình Sa, Lục Sƣ và tất cả các ông vua đều theo Phật sang nƣớc Ba La Nại.

Lục Sƣ vào yết kiến vua Phạm Ma Đạt và trình bày ý kiến của mình, lại yêu cầu vua làm

cách nào đƣợc thi thần thông vời Phật, nhà vua nhận lời.

Sáng hôm sau vua Phạm Ma Đạt lên bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, Lục Sƣ hôm qua lên xin thi thần thông với Ngài, cúi lạy Ngài ra

phép thần biến tiêu diệt bọn ác quỉ hại dân vô ích.

Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời!

Đêm ấy và Tăng chúng đi sang Ca Tỳ La Vệ.

Hay tin Phật tới, ông Thích Chủng Bối và đại chúng ra đón Phật về Kinh.

Sớm ngày mai, dân chúng nƣớc Ba La Nại mới biết đức Phật đi du hóa nơi khác.

Hay tin Phật đi khỏi, vua Phạm Ma Đạt, vua Bình Sa, Lục Sƣ và tất cả quan quân các

nƣớc, đi theo Phật, sang nƣớc Ca Tỳ La Vệ.

Lục Sƣ vào yết kiến ông Thích Chủng Bối và trình rằng: Đến đây mục đích để thi thần

thông với Phật, nhà vua nhận lời, và hứa sẽ thƣa với Phật giừm.

Ngày mai ông lên lễ Phật xong bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, Lục Sƣ cố tình theo Ngài đòi thi thần thông, cúi xin từ bi hoan

hỷ dẹp bỏ lũ ngoan cố mị dân, cho toàn cõi theo về một mối!

Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời!

Ông Thích Chủng Bối sắc lệnh sửa sang nơi thí tràng, và ấn định ngày thi, xong sắp tới

ngày thi, đức Phật và Tăng chúng sang nƣớc Xá Vệ, vua Ba Tƣ Nặc nghe tin Phật tới

đem quan quân ra biên giới đón.

Ngày mai ông Thích Chủng Bối mới hay tin Phật đi khỏi. Ông Thích Chủng Bối đem

chín ức ngƣời, vua Bình Xa, Lục Sƣ và Vua quan dân chúng các nƣớc, đồng thời kéo

sang nƣớc Xá Vệ.

Lục Sƣ vào tâu vua Ba Tƣ Nặc rằng:

62

- Tâu Bệ Hạ! Chúng tôi muốn thi thần thông với ông Sa Môn Cù Đàm đã qua bao nhiêu

nƣớc, sắp kỳ thi ông tự biết không có lực địch nổi nên cùng đại chúng lẩn trốn sang đây,

mong Bệ Hạ cho chúng tôi đƣợc thi thần thông với ông ấy!

Vua Ba Tƣ Nặc mỉm cƣời nói: - Đức Phật có phép thần túc vô ngại, khi mới thành đạo,

Thiên Ma Ba Tuần, thiên biến vạn hóa còn phải phục đầu xƣng tội, quy y làm đệ tử, lũ

ngƣơi đã ra gì, kẻ hèn mạt, thấp hèn, sao có thể đối với ngôi Đại Pháp Vƣơng đƣợc.

Lục Sƣ nghe nói, nổi giận khí sắc biến đổi, tỏ vẻ bực tức vô cùng nói:

Chẳng qua Ngài quá ƣ thiên lệch nói thế, Ngài đã biết thần biến của chúng tôi chƣa?

Nói xong ra về, tỏ vẻ bất mãn trƣớc nhà vua.

Ngày mai vua Ba Tƣ Nặc đến chốn Phật đầu mặt lễ sát đất quỳ thẳng chắp tay bạch Phật

rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sƣ ân cần xin thi thần thông, cúi xin ngài ra sức thần,

tiêu diệt bọn con buôn không vốn, bịp bợm một cách giả đạo đức, nếu để chúng thì dân

tộc trên thế giới này bị đau khổ về vật chất lẫn tinh thần, vì chúng đủ mƣu mô mánh khóe

lừa gạt lòng ngƣời. Xong những ngƣời trí thức mới hiểu biết tâm thâm đọc của bọn

chúng.

Phật nói: - Hãy biết thế, ta tự tri thời!

Lần này vua Ba Tƣ Nặc quyết định mời Phật để đấu thần thông, ông sắc lệnh cho quan

quân sửa sang nơi thí tràng bằng phẳng, bàn ghế tòa ngồi trang nghiêm, treo cờ phan

phƣớn, lọng, kéo biểu ngữ, kết hoa treo đèn, mua rất nhiều hƣơng hoa trình bày rất đẹp

đẽ, ông lên điện nơi đức Thế Tôn ngự, ân cần tha thiết cầu thỉnh. Phật thấy ông nhiệt tâm

thành khẩn, nên Ngài nhận lời. Giữa ngày mồng một tháng mƣời hai Phật ra thí tràng,

Lục Sƣ với vua các nƣớc, dân chúng đều đến đông đảo.

Ngày ấy vua Ba Tƣ Nặc sửa soạn các món ăn ngon lành, buổi tinh sƣơng dâng Phật một

cành dƣơng. Phật dùng nạo răng, nạo xong Ngài vẩy bựa xuống đất, tự nhiên sinh ra

những cây cối xanh om, um tùm râm mát, cao đến năm trăm do tuần, cành lá rƣờm rà,

sinh ra những bông hoa to nhƣ vòng bánh xe, kết thành những quả to, bằng cái bình đựng

năm đấu lớn, cành cây gốc rễ hoa quả thuần bằng thất bảo, vàng bạc, lƣu ly, xa cừ, mã

não, san hô, hổ phách v.v…, màu sắc tƣơi đẹp, phát sinh ra những ánh sáng lấn mặt trời,

mặt trăng, ngƣời đƣợc nếm mùi vị quả ấy, thấy sung sƣớng ngon lành một cách siêu

nhiên, nghĩa là trên thế gian chƣa từng có, hƣơng thơm tung tỏa, khắp không gian, qua

mũi ai, họ thấy tính tình vui vẻ, gió hƣơng ấy thổi tới đâu, làm cho muôn vật hớn hở xinh

tƣơi, các cành lá đều phát ra những tiếng thuyết pháp, trong đại hội im phắc không một

tiếng động để đón nghe những âm thanh dịu dàng hòa nhã, nghe vui không chán! Càng

nghe càng cảm mến đạo mầu vô thƣợng, tất cả mọi ngƣời trong đại hội thấy sự biến hóa

của cây này, tâm sinh tin kính ngôi Tam Bảo càng thêm khắng khít. Sau Phật giải đáp

63

những nghĩa lý sâu huyền cho hợp với lý trí mọi ngƣời nên tất cả đều đƣợc hiểu ngộ, khi

đó những ngƣời nhiệt tâm cầu Phật Pháp kết quả đƣợc sinh thiên, một số rất đông.

Ngày thứ hai, vua Ƣu Điền thỉnh Phật cúng trai. Hôm ấy đức Phật hóa ra hai quả núi báu

đứng hai bên, núi này toàn bằng vàng bạc trân bảo hợp lại thành năm sắc huy hoàng, coi

rất đẹp đẽ, trên núi có những cây mọc thành từng hàng, hoa quả tốt tƣơi, trong núi phát ra

những mùi thơm ngào ngạt, một trái núi trên đỉnh sinh ra thứ lúa tám cánh, lúa này là một

thứ lúa quý nhất trong các lúa, nếu đem nấu cơm thì mềm dẻo hƣơng vị thơm ngon; một

trái, ở trên đỉnh có thứ cỏ mềm nhũn thơm tho, béo bổ, những loài súc sinh tới ăn, ăn rồi

khí lực sung túc có ánh sánh, phát sinh trí tuệ, tâm tình hòa vui.

Tất cả mọi ngƣời thấy phát hiện hai trái núi lạ thƣờng, và họ đƣợc ăn quả thấy an vui,

thân thể cƣờng tráng hết bệnh tật hết sầu não, nên họ một lòng tín ngƣỡng ngôi Tam Bảo,

đức Phật tùy theo căn cơ để diễn thuyết nghĩa lý cao diệu nhân quả luân hồi cho hợp với

trình độ của họ, ai nấy trí óc khai sáng thấu rõ đạo mầu, phát tâm cầu đạo Bồ đề, kết quả

sinh thiên một số rất đông.

Đến ngày thứ ba, vua Chuân Chân Đà La thỉnh Phật cúng dàng, buổi sáng sớm ông dâng

Phật chén tịnh thủy, Ngài súc miệng rồi nhổ xuống đất, chốn đó tự nhiên thành một cái ao

mỗi bề dài hai mƣơi dặm, quanh bờ ao thuần bằng ngọc thất bảo trộn lẫn nhau, các sắc

phát ra chiếu sáng tƣng bừng, nƣớc đủ tám công đức, dƣới lòng ao thuần cát thất bảo,

trong ao có tám thứ hoa sen lớn nhƣ vành bánh xe, xanh, đỏ, trắng, hồng, tía, biếc đủ các

sắc, lan tràn bốn mặt, ánh sáng của hoa tùy theo các sắc phát sinh, làm sáng choang trời

đất.

Thấy thế tất cả đại chúng đều vui mừng và ca ngợi Phật có đức vô lƣợng vô biên.

Phật quan sát tâm niệm của từng cá nhân xong, Ngài tùy theo lý tƣởng của mỗi ngƣời, để

thuyết pháp, sau cuộc thuyết pháp này đƣợc rất nhiều ngƣời phát tâm cao thƣợng tăng

phần phúc nghiệp, sinh thiên rất đông.

Đến ngày thứ tƣ, vua Nhân Đà Bà Di thỉnh Phật cúng dàng, ngày hôm ấy đức Phật làm

cho nơi bảo địa đó, bốn mặt tự nhiên có tám dòng nƣớc, sức chảy mạnh và xoáy kêu

thành tiếng, phát ra những âm thanh mầu nhiệm thuần nói các pháp: "Ngũ Căn" "Ngũ

Lực" "Lục Độ" "Thất Giác" "Bát Đạo" "Tam Minh" "Lục Thông" "Tứ Đẳng" "Đại Từ,

Đại Bi", mọi ngƣời nghe rồi đều đƣợc giác ngộ và quán triệt đạo lý, tăng phần phúc tuệ,

kết quả sinh Thiên rất đông.

Ngày thứ năm, vua Phạm Ma Đạt thỉnh Phật cúng dàng, hôm ấy nơi miệng đức Phật

phóng ra hào quang sắc vàng bao trùm khắp cõi đại thiên; hào quang ấy soi phải chúng

sinh nào, thì "ba độc", "năm ấm" của chúng sinh ấy tiêu tan, thần tâm an lạc, cũng nhƣ

các vị Tỷ Khƣu nhập đệ tam thiền. Khi đó mọi ngƣời đều vui vẻ tán thán kính mến đức

Phật rất tha thiết. Sau khi nghe thuyết pháp xong ai nấy đều khai tỏ lý trí, phát đạo tâm,

tiến tu phúc tuệ, một số khá nhiều.

64

Đến ngày thứ sáu, ông Luật Xƣơng thỉnh Phật, hôm đó đức Phật làm cho tất cả mọi ngƣời

trong đại hội tâm hiểu biết lẫn nhau, mỗi ngƣời đều có thể hiểu ý nghĩ của từng ngƣời, họ

đang nghĩ thiện hay nghĩ ác, chí hƣớng hay hành nghiệp thế nào. Thấy thế ai cũng kính

sợ Phật! Những sự mến mộ và vui mừng lại càng nồng nhiệt. Sau khi đƣợc nghe lời giảng

của đức Phật, ai nấy sung sƣớng tâm trí mở mang, kết quả sinh Thiên cũng nhiều.

Ngày thứ bảy, ông Thích Chủng Bối thỉnh Phật. Hôm đó Phật dùng sức thần tức vô ngại,

khiến cho mọi ngƣời trong hội tự thấy mình làm vua Chuyển Luân, có đủ cung điện, quan

quân, ngọc nữ, thất bảo, lại thêm một ngàn ngƣời con, vua các quan văn võ đều đến triều

phục nơi mình. Thấy thế ai cũng kinh hoảng ngơ ngác, không biết tại sao? Sau đó tự thấy

nhƣ một giấc chiêm bao, ai cũng chứng tỏ do sức thần của Đức Phật hóa hiện, nên lại

càng tăng phần tín hƣớng và phát tâm vô thƣợng Bồ Đề, kết quả sinh Thiên rất đông.

Đến ngày thứ tám, vua Đế Thích thỉnh Phật, ngày đó vua Đế Thích bày tòa sƣ tử trang trí

nơi Phật ngự, thuần bằng bảo vật trên thiên cung hƣơng trời, nhạc trời, các món ngon quý

dâng Phật, một bầu không khí khác hẳn với trần gian.

Đức Phật và Tăng Chúng bƣớc ra, theo sau có vua Đế Thích, vua Phạm Vƣơng, các ông

Thiên Tử, tiếp đến quan quân, dân chúng. Tới nơi Phật thăng tòa ngồi yên tĩnh, vua Đế

Thích đứng hầu bên tả, vua Phạm Vƣơng đứng hầu bên hữu tất cả đại chúng yên lặng,

chờ đón đức Thế Tôn thuyết pháp và hiện thần biến cho xem, muôn ngàn triệu con mắt

đều chiếu hƣớng đức Thế Tôn.

Đức Phật dung nhan nhƣ vầng nhật nguyệt, hào quang sáng chói tựa núi vàng, miệng tƣơi

nhƣ hoa nở, cất lời nói âm thanh vang xa khắp thế giới đại thiên, muôn loại chúng sinh

đều hiểu thấu.

Khi đó Ngài cất cánh tay vàng, vịn xuống tòa ngồi, tự nhiên có tiếng gầm lớn, vang động

nhƣ sét đánh, mọi ngƣời đều giật mình run sợ! Ở dƣới tòa sƣ tử của Ngài nhảy ra năm vị

Đại Thần Quỷ nhìn nhƣ mặt sắt da đồng gầm tiếng nhƣ muôn sƣ tử thét, chạy xông lại

kéo bọn Lục Sƣ xuống đất đạp tòa ngồi gẫy tan nát, tiếp đến Kim Cƣơng mật Tích, tay

cầm chày Kim Cƣơng, trên đầu đầy lửa bốc lên vùn vụt, xông lại đánh bổ vào đầu Lục

Sƣ.

Lục Sƣ hoảng hồn chạy tán loạn, vừa thẹn vừa nhục, bị thần Kim Cƣơng đuổi, cùng

đƣờng, nên chúng đâm đầu xuống sông chết cả. Còn chín ức đồ chúng trở lại theo Phật

cầu xin làm đệ tử. Thể theo lòng từ bi, Phật cũng dung thứ và thâu nhận.

Phật nói: - Thiện Lai Tỷ Khƣu.

Nói xong, những ngƣời ấy rụng hết tóc, áo trên mình biến thành áo Cà Sa, biến thành các

vị Sa Môn theo Phật tu hành, không bao lâu hết lậu nghiệp thành La Hán.

Ngày thứ chín, vua Phạm Thiên thỉnh Phật. Ngài hóa thân cao lớn tới cõi trời Phạm Thiên

uy nghiêm hiển hách phóng hào quang sáng lớn, tƣng bừng khắp cõi Đại Thiên thế giới,

khi đó đại chúng ai ai cũng nghe thấy tiếng nói:

65

Phật vì tất cả chúng sinh, diễn thuyết pháp yếu, khiến cho đại đa số ngƣời phát tâm cầu

Phật, kết quả sinh Thiên nhiều không kể xiết.

Ngày thứ mƣời, Tứ Thiên Vƣơng thỉnh Phật. Lúc ấy đức Phật dùng phép Tam Muội vô

ngại, khiến cho mọi ngƣời thân ấy đều phóng quang minh, và đƣơng thuyết pháp cho đại

chúng nghe.

Trong đại hội hiển nhiên tai nghe, mắt thấy những thần thông biến hóa vô ngại của đức

Thế Tôn, ai nấy đều tha thiết tôn kính Ngài nhƣ đấng Cha Lành. Sau đƣợc nghe Ngài giải

thích sự diệu dụng của tâm Chân Nhƣ vô ngại thể tánh bất diệt vô sinh của mỗi chúng

sinh đều có, nên nhiều ngƣời giác ngộ dự vào hàng "Bất Thoái" còn những ngƣời đắc quả

sinh Thiên rất đông.

Ngày thứ mƣời một, ông Tu Đạt thỉnh Phật. Hôm đó đức Phật đƣơng ngồi trên tòa cao tự

ẩn hình đi phóng quang minh sáng lòa trời đất, phát ra những tiếng dịu dàng, diễn thuyết

phân minh các pháp yếu. Đại chúng nhiều ngƣời thấu tỏ đạo mầu, phát tâm vô thƣợng

chứng ngôi A Duy Việt Chí, đắc quả sinh Thiên khá đông.

Ngày thứ mƣời hai, ông Cƣ Sĩ Chất Đà La thỉnh Phật cúng dàng. Ngày đó Phật nhập

phép từ bi tam muội phóng quang minh sắc vàng, so khắp cõi đại thiên, hào quang ấy soi

vào chúng sinh nào, thì chúng sinh ấy hết tâm "Tam độc" nảy tâm Từ bi, lại có con mắt

"Bình đẳng"coi chúng sinh nhƣ cha nhƣ mẹ, nhƣ anh, nhƣ em, lòng yêu không thêm bớt,

sau khi thuyết pháp nhiều ngƣời lên ngôi "Bất Thoái" và đắc quả sinh Thiên khá nhiều.

Ngày thứ mƣời ba, vua Chuân Chân Đà La thỉnh Phật. Khi Phật thăng tòa ngồi yên tĩnh,

nơi rốn Ngài phóng ra hai tia hào quang tỏa ra hai bên, cách thân bảy "nhận" (tức 56

thƣớc) trên đầu hào quang đều có hoa sen, trên hoa có đức Phật hóa hiện, hình tƣớng

cũng nhƣ đức Phật Thích Ca, các đức Phật ấy nơi rốn cũng phóng hào quang tẻ ra hai bên

cách bảy nhật, trên những tia hào quang đều có hoa sen, trên hoa sen có đức Phật hóa

hiện, cứ nhƣ thế chuyển biến lan tràn khắp cõi đại thiên, ai coi thấy cũng ngạc nhiên, vừa

sợ vừa mừng, trộn lẫn!

Lúc ấy đức Phật theo trình độ của từng ngƣời mà thuyết pháp nên nhiều ngƣời đắc quả

sinh Thiên không kể xiết.

Ngày thứ mƣời bốn, vua Ƣu Điền thỉnh Phật. Hôm đó ông ra sắc lệnh cho các hàng

hƣơng hoa phải đem các thứ hƣơng tốt, hoa tƣơi, quý đẹp vào dâng.

Buổi sáng sớm Hoàng Đế Ƣu Điền, Hoàng hậu hoàng phi thể nữ quan quân, âm nhạc ra

thí tràng, nhìn thấy Phật ngồi tòa sƣ tử nghiễm nhiên nhƣ quả núi, hai mắt chiếu tinh

quang, trông rất tôn nghiêm, ông và toàn thể gia đình cúi đầu lễ Phật rồi dâng hoa lên

cúng dàng.

Phật nhiếp phép thần túc biến những hoa ấy thành một ngàn hai trăm năm mƣơi bảy cỗ xe

quý đẹp cao tới cõi trời Phạm thiên sáng nhƣ mặt trăng đêm rằm các bảo vật có ánh sáng

66

phản chiếu nhau tƣng bừng rực rỡ, nhƣ thần châu, tràng anh lạc, trang nghiêm nơi xe ấy,

vô cùng tráng lệ.

Trong các xe đều có các đức Phật ngồi, phóng quang minh bao phủ ba ngàn cõi.

Đại chúng coi thấy sức thần biến nhƣ thế, trong tâm vừa kính mến, vừa vui mừng pha

trộn lẫn nhau.

Đức Phật thuyết pháp cũng nhƣ ông thầy thuốc tùy theo bệnh cho thuốc. Vì thế sau cuộc

thuyết pháp, có rất nhiều ngƣời phát tâm hƣớng đạo, cũng có ngƣời đƣợc ngôi "Bất

Thoái" kết quả sinh Thiên cũng nhiều.

Ngày thứ mƣời lăm, vua Bình Sa thỉnh Phật cúng dàng. Hôm đó Phật phán cho ông sửa

soạn các món ăn. Theo lời Phật dạy nhà vua sai ngƣời bày rất nhiều chén bát và các đồ để

chứa món ăn trên bàn, khi bày xong tự nhiên các chén bát đầy các món ăn ngon quý trên

thiên cung, mùi cơm thơm ngào ngạt. Tất cả những ngƣời trong đại hội ăn cơm xong thân

tâm dũng mãnh an vui.

Sau bữa ăn, đức Thế Tôn chỉ ngón tay xuống đất, ai ai cũng đƣợc nhìn thấy mƣời tám Địa

Ngục, và thầy rất nhiều tội nhân, những tội nhân ấy, tự nói những tội ác của mình đã tạo

đời trƣớc, nên nay họ phải chịu tội khổ.

Thấy thế ai cũng thƣơng hại và sợ hãi cho mình, nên thân thể đều run rẩy không yên!

Để cho mọi ngƣời chứng tỏ của sự ác báo, có cụ thể, rồi Ngài phân tách những tội lỗi đó

cũng do từ nơi thân miệng ý gây nên, và Ngài vạch vẽ những lối thoát khổ, nên nhiều

ngƣời phát tâm đại đạo, kết quả sinh Thiên rất nhiều.

Những tội nhân đƣợc thấy Phật và nghe thuyết pháp, họ tự phát sinh lòng tôn kính quay

đầu về nơi Phật, thì những tội nhân ấy đƣợc sinh Thiên hoặc sinh làm ngƣời tất cả.

Tới đây vua Bình Sa đến trƣớc đức Thế Tôn, năm thể gieo xuống đất, lễ xuống ba lần, rồi

quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, Ngài có ba mƣơi hai tƣớng tốt đẹp, chúng con chỉ đƣợc coi thấy

tƣớng ở thân Ngài, hoặc ở tay Ngài, nhƣng chƣa từng bao giờ đƣợc nhìn thấy luân tƣớng

ở gan bàn chân, vậy kính xin cho con và đại chúng ở đây đƣợc chiêm ngƣỡng.

Theo lời cầu thỉnh của nhà vua, nên Phật ngửa hai bàn chân lên. Đại chúng nhìn thấy

trang nghiêm nƣớc da sáng suốt, những đƣờng chỉ thẳng thắn phân minh, rành rẽ, càng

xem càng mến! Nhà vua mừng bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Chẳng hay đời quá khứ Ngài làm phƣớc gì, đƣợc tƣớng đẹp này,

cúi xin chỉ giáo?

67

Phật dạy: - Đại Vƣơng nên biết, đời quá khứ ta tu thập thiện và đem thập thiện dạy cho

ngƣời ta cùng tu, cho nên đƣợc luân tƣớng nhƣ thế!

- Kính lạy Ngài! Khi tu và dạy ngƣời nghe hãy nhƣ thế nào, cúi xin chỉ giáo cho chúng

con đƣợc biết.

Phật dạy: - Đại Vƣơng muốn nghe hãy chú ý nghe kỹ: Cách đây vô số kiếp A Tăng Kỳ,

cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua nƣớc lớn tên là Đà La Ni Di, thống trị tám

mƣơi tƣ ngàn nƣớc nhỏ, tám mƣơi ức tụ lạc, một vạn quan Đại thần, hai vạn bà Phu nhân,

nhƣng không ai có con. Nhà vua lo tuyệt tự không ngƣời kế vị, nên thƣờng hay cầu đạo ở

miền Thiên Vƣơng, đƣợc ít lâu bà Tu Lê Bà La là đệ nhất Phu nhân có thai, lòng nhân từ

bác ái lại hay khuyên ngƣời làm lành. Mãn tháng khai hoa, sinh đƣợc Thái Tử tƣớng mạo

khôi ngô tuấn tú, một vẻ trƣợng phu đầu phúc đức, những lỗ chân lông đều có ánh sáng.

Khi bà sanh đƣợc Thái Tử nhà vua vui vẻ khôn cùng! Triệu các thầy tƣớng đến coi. Các

thầy tƣớng đều khen ngợi và nói:

- Tâu Bệ Hạ! Hoàng tử có đầy đủ phƣớc đức oai nghi, sau này có thể trị an bốn bể, thiên

hạ phải tùng phục, muôn phƣơng kính nể.

Nghe tƣớng Sƣ nói, nhà vua rất hài lòng và nhờ đặt tên cho Thái tử.

Tƣớng Sƣ nói: - Tâu Bệ Hạ, trong khi hoài thai có điềm tƣớng gì lạ không?

Đáp: - Khi đó Hoàng hậu có trí tuệ thông sáng và nhân từ, lại hay khuyên ngƣời tu thiện,

còn các điềm lành cũng rất nhiều, nhƣng có hai điềm ấy lạ hơn.

Tƣớng sƣ nói: - Tâu Bệ Hạ! Cứ theo Hoàng hậu có trí tuệ, và Hoàng tử có ánh sáng nơi

thân thể thì xin đặt Na Bà La Mãn (Tàu dịch: "Tuệ Quang")

Quả nhiên Thái tử lớn lên có trí tuệ siêu nhân, tất cả các môn học thuyết đều thông hiểu,

các danh nhân hiền triết trên thế giới đều bái phục, lực thông minh của Thái tử. Năm ấy

Thái tử chƣa đến tuổi trƣởng thành, thì vua cha băng hà (chết).

Trong triều các quan và nội cung hoàng tộc làm lễ an táng vua xong. Giữa lúc ấy có đông

đủ tám vạn bốn ngàn vua nƣớc nhỏ và triều thần văn võ bản quốc hội họp, bầu Thái tử

lên kế vị đại Quốc vƣơng. Thái tử nói:

- Kính thƣa các Quốc vƣơng quý quốc và văn võ bá quan, bản triều tôi thực không có

năng lực đảm đƣơng đại sự, xin suy tôn các vị có tài đức trị dân!

Các quan đều thƣa:

- Thƣa Thái tử, đại vƣơng đã qua đời, chỉ sinh đƣợc mình Thái tử anh em không có một

ai, nếu Thái tử không chịu ra chấp chính bây giờ nhƣờng ai? Ai là ngƣời đƣơng nổi?

68

Thái tử đáp: - Tôi nhận thấy trên đời lắm kẻ tàn ác, nếu ra lệnh hành phạt họ, thì tội ấy

không phải nhỏ, nếu các Ngài trị dân chúng dùng chánh pháp và bắt dân tu theo pháp

thập thiện thì tôi sẽ nhận chức bảo lãnh việc nƣớc!

Các quan nói:

- Thƣa Thái Tử! Xin Thái tử thăng điện nhậm chức!

Theo lời nói, Thái tử thăng điện nhậm chức.

Sau ngày Thái Tử lên làm vua, sửa sang việc nƣớc rất có chánh thể ích quốc lợi dân, bãi

bỏ hủ tục mê tín cờ bạc, mãi dâm, hút xách, rƣợu chè, và bắt dân phải thực hành tu theo

thập thiện. Thái tử có đức lớn, lòng từ bi cứu thế cảm động trời đất nên muôn dân vui vẻ

tuân theo tu thập thiện, cải tà quy chính, đổi ác làm lành.

Khi đó Ma Vƣơng thấy nhà vua bắt dân tu thiện, lòng đố kỵ nổi giận dùng mƣu phá

chánh sách tu thiện của muôn dân, chúng muốn cho dân làm nô lệ chết sa vào tam ác đạo,

thực là đại ác nham hiểm vô cùng. Chúng mật làm một phong thơ báo cáo cho vua các

nƣớc để phá hoại sự giáo hóa tu thập thiện của nhà vua. Thƣ nói:

"Trƣớc đây tôi có sắc lệnh cho nhân dân tu theo pháp thập thiện nhƣng xét ra không đƣợc

lợi ích gì! Chỉ luống công đau khổ thôi! Thực là một việc không có kết quả cho nhân

sinh. Vậy từ nay trở đi cho muôn dân làm mƣời điều ác, các ông không đƣợc cử phạt"

Vua các nƣớc tiếp đƣợc lá thơ ấy, lấy làm kỳ dị quá nói:

- Tờ chiếu chỉ của đại quốc vƣơng không biết tại duyên gì bắt dân bỏ điều lành làm điều

ác.

Sau các ông vua đều cho sứ thần đến hỏi nguyên ủy của bức thơ.

Khi nhà vua nghe thấy nói có tờ chiếu chỉ do chính mình hạ lệnh bắt dân bỏ thiện làm ác,

ngạc nhiên nói:

- Ta tuyệt nhiên không có sắc lệnh nhƣ thế, tại sao có tờ chiếu chỉ này.

Lập tức nhà vua và các quan đại thần bản triều lên xe đi các nƣớc, quả nhiên đã thấy nhân

dân làm ác, đổi lệnh cũ, theo lệnh mới.

Ma Vƣơng thấy nhà vua đi trên đƣờng lớn tự hóa làm ngƣời, đứng giữa đống lửa cháy ở

bên lề, kêu khóc thảm thiết, nhà vua đến tận nơi hỏi:

- Tại sao ngƣơi khóc?

- Tâu Bệ Hạ! Tôi lúc tiền sinh hay khuyên ngƣời tu thập thiện nên ngày nay bị quả báo

thống khổ nhƣ vậy!

69

Nhà vua nói: - Sao lại có chuyện ngƣời tu thiện, mình phải chịu đau khổ?

Nhà vua hỏi tiếp:

- Thế! Anh khuyên ngƣời tu thập thiện; mà anh phải đau khổ, thì những ngƣời đƣợc anh

khuyên tu kia có đƣợc phƣớc lành gì không?

Đáp: - Tâu Bệ Hạ, những ngƣời đó đƣợc phƣớc nhiều lắm! Chỉ vì dạy ngƣời tu thập thiện

nên riêng mình phải chịu quả báo đau khổ, lửa đốt suốt ngày đêm nhƣ vầy.

Đây là Ma Vƣơng muốn làm thoái tâm khuyến tu thập thiện của nhà vua, trái lại nhà vua

nghe xong rất vui vẻ đáp rằng:

Vâng! Phải lắm tốt lắm! Cốt sao cho chúng sinh hết đau khổ tội lỗi, đƣợc phƣớc báu

nhiều, còn mình chịu khổ có hận chi!

Ma Vƣơng thấy nhà vua không thoái tâm, liền ẩn hình biến mất rồi đi khắp các nƣớc để

tuyên truyền cho dân tu thập thiện. Từ đó nhân dân đều tu theo pháp thập thiện giữ gìn

thân, khẩu, ý, ba nghiệp hoàn toàn, chánh pháp lan tràn khắp thiên hạ, tất cả nhân dân

tòng phúc, nên đức của nhà vua mỗi ngày một lớn, vì phúc lành ấy xe kim luân và thất

bảo tự nhiên hiển xuất, nhà vua bay đi giáo hóa khắp thiên hạ; Nhƣng bao giờ nhà vua

cũng lấy pháp thập thiện làm đích để chỉ đạo.

Tôi đây Phật nhắc lại cho vua biết rằng:

- Đai Vƣơng! Vua Thi Đà Ni Di thuở đó tức là Phụ vƣơng của ta bây giờ (vua Tịnh

Phạn), bà Phu nhân sanh Thái tử lúc đó chính là thân mẫu của ta ngày nay, vua Tuệ

Quang dạy dân tu thập thiện là tiền thân của ta. Cũng do đời ấy ta tự tu thập thiện và

khuyên dân tu thiện nên nay đƣợc phƣớc báu nơi gan bàn chân có ánh quang minh, và

ngàn hoa tƣơi thắm nhƣ vậy.

Khi đó vua Bình Sa tới trƣớc lễ Phật quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:

Kính lạy đức Thế Tôn! Bọn Lục Sƣ mê muội quá! Không biết lƣợng sức mình, vì lòng

tham danh trục lợi, đem tâm ghen ghét, đòi thi thần thông với Ngài, chúng tự nói: Phật

làm đƣợc một phần, chúng sẽ làm đƣợc hai. Sau khi bị sức thần thông của Thế Tôn làm

trấn át, chúng hết thế lực tẩu thoát, cùng đƣờng đâm đầu xuống sông tự tử, còn đồ đệ

chạy tán loạn tự chúng gây nên tai nạn muôn đời, con nghĩ lũ mê cuồng ấy không biết

căn duyên tại sao, xin Thế Tôn chỉ giáo?

Phật đáp: - Đại Vƣơng! Nên biết bọn Lục Sƣ chẳng những ngày nay tranh lợi tranh danh

với ta, mất thân mạng thế đâu! Đời quá khứ chúng đã tranh với Ta một lần, nhƣng đều bị

thất bại. Ta lại đoạt đƣợc cả đồ đảng của chúng nữa.

Vua Bình Sa lại bạch Phật rằng:

70

- Kính lạy đức Thế Tôn! Việc đó thế nào cúi xin chỉ giáo?

Phật dạy: - Đại vƣơng hãy để ý nghe, trƣớc đây đời quá khứ vô lƣợng vô số kiếp A Tăng

Kỳ cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua tên là Ma Ha Xa Cừu Lợi, thống trị năm

trăm nƣớc nhỏ, vua có năm trăm phu nhân nhƣng chƣa bà nào có con trai. Vua tự nghĩ

rằng: "Tuổi ta đã cao lại không có con để nối quốc vị, một sớm băng hà lấy ai để bảo tồn

chính thể của quốc gia biết giao phó cho ai? Tất nhiên trong nƣớc có sự tranh giành tàn

sát lẫn nhau nhân dân sẽ bị nguy ngập.

Nghĩ thế rồi chƣa biết giải quyết ra sao? Nên lúc nào ông cũng buồn!

Vua Đế Thích trên thiên cung biết ý nghĩ của nhà vua nhƣ thế, liền từ trên trời bay xuống

hóa làm một ông thầy thuốc đến vƣơng cung xin vào yết kiến vua, và hỏi ngay ý nghĩ lo

buồn của nhà vua. Nhà vua cũng đem ý nghĩ của mình nhƣ trên nói cho ông rõ.

Ông trả lời rằng:

- Xin Bệ Hạ chớ lo! Để tôi đi vào núi tuyết lấy các vị thuốc cho các phu nhân của Bệ Hạ

uống thì sẽ có thai.

Nhà vua nghe nói tâm buồn đã nguôi nguôi, và bảo thầy thuốc rằng:

- Thƣa Ngài nếu đƣợc nhƣ thế thì còn gì hay hơn nữa.

Thầy thuốc từ biệt lên đƣờng vào núi, cách ít ngày lấy đƣợc rất nhiều dƣợc thảo đem về

dâng vua, bạch rằng:

Nói rồi vái chào ra về, vua hỏi:

- Thƣa Ngài, thuốc này sẽ lấy bao nhiêu tiền?

Đáp: - Tâu Bệ Hạ, đây tôi xin giúp Bệ Hạ chứ không lấy tiền.

Nói xong ẩn hình biến mất, nhà vua thầm nghĩ: "Ngƣời này là thần nhân ủng hộ có lẽ hay

lắm, rất có kết qủa cho ta".

Sau khi Đế Thích về, nhà vua sai ngƣời lấy sữa nấu lẫn với thuốc, dâng bà Đệ nhất Phu

nhân uống. Song bà chê bẩn và không tin, nên không chịu uống thuốc đó, các bà Tiểu

Phu nhân chia nhau uống hết quả nhiên đƣợc ít lâu các bà ấy đều có thai, và đem sự kết

quả uống thuốc nói cho bà lớn biết. Bà lớn có ý hối hận hỏi:

- Thuộc ấy có còn thừa chút nào không?

Các bà đáp: - Thƣa bà! Hết cả!

- Vậy các đƣợc thảo có còn không?

71

Các bà đáp: - Thƣa bà hãy còn một ít!

Bà Đại Phu nhân sai ngƣời lấy sữa nấu thuốc dùng đƣợc ít lâu thấy có thai, bà vui mừng

thầm trong dạ và cũng không nói cho các bà biết.

Các bà Tiểu Phu nhân đầy tháng đều sinh con trai, nhân tƣớng khôi ngô tuấn tú, nhà rất

sung sƣớng, vì các bà đã sinh đƣợc nhiều quý tử. Nhƣng vua vẫn áy náy trong lòng, là vì

Đại Phu nhân chƣa có con!

Một thời gian sau trăng tròn nguyệt mãn, bà Đại Phu nhân sinh đƣợc cậu con trai, nhƣng

rất buồn thay cho bà, cậu con trai của bà xấu quá, mặt mũi xù xì hình nhƣ quỷ sứ. Buồn

quá! Đặt lên là Đa La Hầu Đà (Tàu dịch "Chu Ngột"), Hoàng hậu giao cho ngƣời vú nuôi

nấng ở một nơi và không cho ai biết.

Từ đấy trở đi trong nƣớc vẫn đƣợc thanh bình, nhân dân an lạc, sau khi các Thái Tử nhà

vua đều cƣới vợ cho cả, duy Chu Ngột xấu quá nên nhà vua không để ý tới.

Bấy giờ nƣớc bên cạnh có sự bất bình với vua Ma Ha Xa Cừu Lợi, mang binh tiến sang

để khởi chiến, năm trăm Vƣơng Tử mang quân ra chống cự, song bị thất bại chạy về.

Chu Ngột thấy thế hỏi:

- Hôm nay các anh ra chiến đấu thắng hay bại, coi có vẻ sợ hãi thế?

Đáp: - Hôm nay chiến đấu bất lợi, bị giặc đuổi lui!

Chu Ngột nói: - Các anh chớ lo, tôi sẽ đánh đuổi cho bằng hết, tổ tiên chúng ta trƣớc làm

Chuyển Luân Thánh Vƣơng còn để lại trong Thiên Tự một cái cung lớn và một cái bối,

tôi sẽ dùng hai bảo vật ấy đuổi giặc thành công. Chu Ngột vào Thiên Tự lấy cung và bối

đem ra giƣơng thử, tiếng kêu nhƣ sấm, vang xa bốn mƣơi dặm. Rồi một mình ra đi, khi

tới chỗ giặc đóng quân, Chu Ngột cầm bối thổi tiếng kêu nhƣ sét đánh, giặc nghe sợ kinh

hồn chạy tán loạn; nhƣ vậy không cần phải đánh cũng tan. Khi dẹp yên đƣợc địch quân

xong, trở về nhà, vua và quần thần văn võ bá quan ra đón chào về cung, từ đó mới đƣợc

sự yêu đãi của Vƣơng phụ.

Sau cuộc ăn mừng đuổi giặc nhà vua nghĩ đến sự kết hôn cho Thái Tử, nhƣng cũng khó,

là vì Thái tử xấu quá.

Thời đó có ông vua nƣớc láng giềng tên là Luật Sƣ Bạt Ta, có ngƣời Công Chúa xinh đẹp

nhƣng chƣa lấy chồng.

Một hôm nhà vua gọi quan đại thần vào nói rằng:

- Vua Luật Sƣ Bạt Ta có một Công Chúa nghe biết chƣa lấy chồng, ta muốn nhờ ngƣơi

sang xin đẹp duyên cùng Thái Tử Chu Ngột, nhà vua có hỏi đến tƣớng mạo của Thái Tử

thì ngƣời coi tƣớng anh của Thái Tử mà diễn tả bộ dạng cho biết.

72

Đại thần vâng lệnh ra đi, sang tới nơi lên tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Tôi là sứ thần của vua Ma Ha Xa Cừu Lợi vâng lệnh sang đây, xin Bệ Hạ

cho Thái Tử Chu Ngột đƣợc làm Phò Mã của ngài.

Nhà vua hỏi: - Thái tử bao nhiêu tuổi? Hình dáng ra sao? Học vấn thế nào?

Đáp: - Thái tử năm nay tuổi vừa đôi tám, tƣớng ngƣời đẹp đẽ, sức lực hùng mạnh, trí óc

thông minh.

Nhà vua gật đầu nói: - Nhà ngƣơi về tâu vua: Ta đồng ý gả Công Chúa cho Thái Tử. Đại

thần về tâu vua sự thỏa thuận của Quốc Vƣơng láng giềng hứa gả Công Chúa cho Thái

Tử, vua rất hoan hỷ! Sai ngƣời sửa soạn lễ vật đính lễ nghinh hôn, cuộc lễ này cũng rất

buồn cƣời: Là vì chú rể mƣợn!

Khi về đến hoàng cung yến tiệc rất linh đình, mọi ngƣời vui vẻ ca hát mừng đôi loan

phƣợng. Nhƣng có một điểm là Công Chúa khi về tới hoàng cung không nhìn thấy mặt

chồng.

Nhà vua dặn Chu Ngột ban ngày chớ để vợ nhìn thấy mặt.

Theo lời Vƣơng Phụ dặn, cứ tối khuya im lặng. Chu Ngột mới đến để vui thú cùng vợ…

Chu Ngột đến, Công Chúa hỏi:

- Lúc ban ngày anh đi đâu không thấy?

Đáp: - Ban ngày anh phải đem quân ra trấn các cửa ải, hồi này nƣớc ngoài luôn luôn đem

binh sang xâm lƣợc nƣớc nhà, anh đều đẩy lui đƣợc bọn chúng, nên mới có trọng thƣởng

của nhà vua.

Công Chúa hỏi: - Anh đƣợc trọng thƣởng những bảo vật gì?

- Trộng thƣởng thứ nhất là đƣợc em, ngoài ra thì không đáng kể.

Công Chúa nghe nói rất hân hạnh vui dạ!

Một buổi nọ vợ các vƣơng tử hội họp với nhau, cô nào cũng khoe tài đức của chồng mình

có lực hùng mạnh, tƣơi đẹp, có công đuổi giặc dẹp nƣớc yên dân, có thiếu phụ khác lắc

đầu lè lƣỡi nói:

Thôi cô đừng nên nói nữa, chồng cô xấu lắm, ngƣời chẳng khác, phải quỷ thì không, ban

ngày nếu cô nhìn thấy, cô sẽ thất kinh hoảng hồn.

Vợ Chu Ngột nghe nói khí sắc biến đổi, vừa nhục vừa thẹn. Nhƣng cố nhẫn lẳng lặng ghi

lại tâm. Trở về tƣ thất giấu đi một cái nến để nơi kín, chờ tối chồng đến an nghỉ xong, cô

73

đƣa nến soi xem mặt, quả nhiên thấy hình tƣớng đáng sợ hãi thật, xấu thật, thực là trên

đời chƣa có một ai xấu đến nhƣ vậy! Cô chờ chồng ngủ mệt, giữa đêm khuya thanh vắng

ra xe trở về nƣớc nhà.

Trời vừa tảng sáng, Chu Ngột thức giấc không thấy vợ; chạy trƣớc nhìn sau tuyệt nhiên

không thấy ảnh bóng một ai, biết đích vợ mình đã bỏ đi; trong lòng buồn tức, giận đâu

nổi lên, ầm ầm vác cung cầm bối lên ngựa đuổi theo không kịp. Khi tới nƣớc kia nghi trọ

tại một nhà ông quan bên đó.

Thời ấy có sáu ông vua nƣớc bên cạnh, biết vua Luật Sƣ Bạt Ta có ngƣời con gái đẹp,

hay tin cô đã trở về nƣớc, nên sáu ông đồng thời tiến quân sang biên thùy, đƣa thƣ cho

vua xin cầu hôn.

Vua Luật Sƣ Bạt Ta rất phiền não, trong lòng bối rối, vì không biết giải quyết thế nào?

Nên nhà vua cho triệu tập tất cả các triều thần văn võ bá quan lại thảo luận.

Luật Sƣ Bạt Ta nói:

- Công Chúa hiện đã về tới bản quốc, tôi vừa mới tiếp đƣợc sáu phong thƣ của sáu quý

quốc, xin đính hôn cùng Công Chúa, nếu cho một ông thì đối năm ông kia làm thế nào

cho khỏi gây lòng oán hận, giờ đây bá quan giải quyết thế nào cho đẹp lòng cả thì hơn?

Có một ông quan đứng lên thƣa rằng:

- Tâu Bệ Hạ đem phanh công chúa ra làm sáu phần, chia cho mỗi ngƣời một phần thì việc

đó sẽ yên.

Lại có một ông đứng lên thƣa rằng:

- Tâu Bệ Hạ bây giờ hãy ra một tờ cáo thị nhƣ sau: Nếu ai có tài đánh đuổi đƣợc quân

giặc thì sẽ gả Công Chúavà chia nƣớc cho một nữa, ngoài ra còn ân thƣởng rất nhiều.

Vua đồng ý viết bảng cáo thị.

Đa La Hầu Đà (Chu Ngột) nghe biết giật bảng cáo thị, mang cung cầm bối xuất trận, thổi

còi giƣơng cung bắn, các quan quân của sáu ông vua đều kinh khủng chạy tán loạn mất

cả. Chu Ngột tiến vào hạ thủ sáu ông vua, thu bắt rất nhiều binh nhung sĩ chúng.

Vua Luật Sƣ Bạt Ta hay tin Chu Ngột đã chiến thắng, thân ngự ra ngoài thành đón tiếp,

và biết rằng: Chính Chu Ngột con vua Ma Ha Xa Cừu Lợi, anh hùng đã nổi tiếng, hơn

nữa lại là con rể của ngài, nhà vua rất hoan hỷ.

Sau khi về hoàng thành xong cuộc yến tiệc ăn mừng thắng trận, nhà vua và bá quan suy

tôn Chu Ngột làm Đại Vƣơng thống trị bảy nƣớc.

74

Chu Ngột thăng điện nhậm chức bảo lãnh chánh quyền, đặt lại các việc triều chính, sửa

đổi chính sách, mở mang văn hóa, đặt các lễ nghi theo chánh giáo, dạy dân có đạo đức,

phế bỏ hủ tục, và những tà thuyết mị dân, xếp đặt các công việc xong xuôi rồi cùng vợ

kép quân về nƣớc.

Hay tin Thái Tử Chu Ngột về nƣớc, nhà vua và các quan quân thân ra ngoài biên cƣơng

đón. Khi về tới hoàng cung, nhà vua biết Chu Ngột có đủ tài đức, nên cất làm Đại Vƣơng.

Chu Ngột không chịu tâu rằng:

- Muôn tâu Vƣơng Phụ! Xin ở tại ngôi, việc ấy sẽ chƣa nên.

Nhà vua cũng phải chiều theo ý định của Thái Tử, xong cuộc vui mừng này, quan quân

đều giải tán đâu về đấy.

Chu Ngột Thái Tử đƣa vợ về cung an nghỉ, lúc đó trách vợ ăn ở bạc tình, có ý phàn nàn

không thật làm giao kết lƣơng duyên, trăm năm trọn đạo!

Công Chúa thƣa rằng:

- Thƣa Thái Tử! Vì Thá Tử xấu quá, coi dữ dằn quá em rất kinh và hình nhƣ không giống

ngƣời nên em mạn phép ra đi.

Chu Ngột lấy gƣơng soi thấy mình quả nhiên xấu thật, sự thật không khác gì quỷ, tự nghĩ

rằng:

- Mình vị thân hình xấu ác, không sống với vợ, để vợ sợ hãi cũng không nên.

Tự phát tâm chán ghét không muốn có thân ấy nữa, ra nơi rừng xanh để tự sát, khi sắp

buộc dây treo lên cành cây, vua Đế Thích ở xa ngó thấy liền bay đến tận nơi hỏi.

Chu Ngột đáp: - Tôi bị thân hình xấu quá nên muốn tự sát ở nơi đây.

Vua Đế Thích khuyên can đem cho hạt ngọc minh châu dặn rằng:

- Xin dâng tặng Ngài hạt ngọc minh châu này để trên đầu, sẽ đƣợc thân hình đoan chính

tƣơi đẹp nhƣ tôi.

Chu Ngột cảm tạ nhận lấy bạt châu để trên đỉnh đầu, quả nhiên thân thể đổi xấu thành

đẹp.

Khi trở về nhà, không bảo cho vợ hay, đi luôn vào bảo tàng lấy cung và bối. Công Chúa

thấy chàng thanh niên tƣơi trẻ tự do vào lấy cung và bối, ngạc nhiên hỏi:

- Anh là ngƣời nào dám tự tiện vào lấy cung của chồng tôi?

Chu Ngột mỉm cƣời đáp: - Anh là chồng của em đây!

75

Công Chúa nói: - Anh này điên dở, chồng ta lẽ ta không biết sao? Anh là kẻ nào dám vô

lễ tự xƣng là chồng ta?

Chu Ngột cƣời nấc cƣời nở đƣa tay lên đầu lấy hạt minh châu xuống, hiện lại nguyên

hình xấu, thấy sự biến chuyển lạ, Công Chúa nửa mừng nửa lo hỏi tiếp:

- Tại sao có sự lạ nhƣ vậy, xin nói cho tôi rõ?

Chu Ngột nói rõ câu chuyện đƣợc hạt minh châu cho Công Chúa xem, Công Chúa vui

mừng tin thực.

Từ đó vợ chồng yêu nhau không có sự ngang trái nữa, và bỏ tên Chu Ngột đổi là Tu Đà

La Phiến.

Sau một thời gian Tu Đà La Phiến muốn xây cất một thành trì lớn, tìm nơi đất bằng

phẳng cao mát rộng rãi, sắc lệnh cho nhân dân kiến lập tại đó.

Khi đó bốn ông Long Vƣơng hóa hình làm ngƣời, lại tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ, nghe biết Bệ Hạ muốn xây thành, vậy dùng vật gì để làm?

Nhà vua đáp:

- Tôi làm bằng đất!

Long Vƣơng thƣa: - Sao ngài không dùng thất bảo mà kiến thiết?

Đáp: - Thất bảo là thứ quý giá nhất, và ít ỏi nhất, thành lớn, quý ngài tính lấy đâu mà

đƣợc?

Long Vƣơng thƣa: - Tâu Bệ Hạ! Để chúng tôi xin cung cấp đủ cho ngài làm!

Long Vƣơng nói xong, ngay bốn bên khu vực đất ấy, biến thành bốn cái suối lớn. Long

Vƣơng chỉ vào bốn cái suối ấy thƣa rằng:

- Bệ Hạ dùng nƣớc suối phƣơng Đông xây cất, thì thành này hóa ra ngọc lƣu ly; dùng

nƣớc suối phƣơng Nam xây cất, thì thành này hóa ra vàng; dùng nƣớc suối phƣơng Tây

xây cất, thì thành này hóa ra bạc; dùng nƣớc suối phƣơng Bắc xây cất, thì thành này hóa

ra pha lê.

Nhà vua nghe nói, cảm tạ Long Vƣơng. Bắt đầu xây cất, quả nhiên lời nói của Long

Vƣơng là đúng.

Thành ấy quy vuông bốn trăm dặm, trong thành làm các cung điện lầu các; mỗi cung quy

vuông bốn mƣơi dặm: Cung điện, đƣờng đi, nhà lớn, nhà nhỏ, rừng cây, ao tắm, trƣờng

thành, thuần bằng ngọc lƣu ly, pha lê, vàng, bạc, cực kỳ trang nghiêm đẹp đẽ, chẳng khác

76

Thiên Cung. Ngày hoàn thành này đƣợc bãy thứ báu ngọc tự nhiên đầy kho đụn. Tu Đà

La Phiến ngự trị thành này, từ đó bắt đầu dạy dân tu theo mƣời điều lành (Thập Thiện).

Nói tới đây, Phật nhắc cho vua Bình Sa biết rằng:

Bình Sa! Ông nên biết vua Ma Ha Xa Cừu Lợi thuở đó hiện nay là Vƣơng Phụ của ta

(Tịnh Phạn Vƣơng), bà mẹ sinh Chu Ngột thuở đó nay là Thân Mẫu của ta (Ma Da Phu

nhân). Vƣơng Tử xấu (Chu Ngột) thuở đó chính là tiền thân ta, vợ Vƣơng Tử xấu lúc đó

chính là Cù Di ngày nay; ông thân của vợ Vƣơng Tử lúc đó ngày nay là ông Ma Ha Ca

Diếp. Sáu ông vua lúc ấy dùng binh sĩ áp bức để lấy Công Chúa của vua Luật Sƣ Bạt Ta,

chính là Lục Sƣ bây giờ.

Thời ấy bọn ông ấy đã tranh sắc thanh tài với ta, bị thất bại; ngày nay cũng do lòng tham

danh trục lợi, đòi đấu sức thần thông, không đủ lực chống đỡ, cùng đƣờng đâm đầu

xuống sông tự sát, còn chín ức đồ chúng quay về theo ta làm đệ tử.

Vua Bình Sa lại bạch Phật:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Thái Tử Chu Ngột đời trƣớc trồng nhân lành gì đƣợc sinh làm

con vua, có sức lực hùng mạnh và tại sao bị thân thể xấu, cúi xin chỉ giáo cho chúng con

đƣợc rõ.

Phật nói:

- Đó là một nhân duyên từ đơi蠱uá khứ, tới nay đã vô lƣợng kiếp không thể tính đƣợc,

cũng Châu Diêm Phù Đề có một nƣớc lớn tên Ba La Nại, nƣớc ấy có một ông tiên, tu

trong núi tên là Luật Sƣ. Trong núi ông tiên ấy có một vị Bích Chi Phật, ngƣời bị chứng

bệnh phong, một hôm ngài đến nhà hàng dầu, xin dầu muốn để trị bịnh. Ngƣời chủ nhà

hàng dầu phát lòng nóng giận lớn tiếng la mắng nói:

- Đầu anh nhƣ Chu Ngột (gốc cây cụt), nhƣ cục gỗ, tay chân phê tởm, khờ khờ khoạng

khoạng chỉ rình ròm xin ngƣời không đem tiền mua chỉ muốn lấy không?

Tuy nói thế nhƣng anh hàng dầu cũng cho một chút dầu cặn, song Ngài cũng không buồn

giận gì lời nói lỗ mãng ấy, vẫn thản nhiên lấy dầu. Khi ra khỏi nhà gặp vợ ông hàng dầu

về, bà ta bả lả hỏi han, một vẻ kính trọng nói:

- Khoái Sĩ từ đâu tới đây, dùng dầu cặn làm gì?

Đáp: - Tôi dùng để chữa bịnh phong.

- Thƣa Ngài xin trở lại để con xin dâng cúng thứ dầu tốt!

Ngài cũng hoan hỷ đi. Tớn nhà, bà dâng một chén dầu trong trẻo, dâng rồi la chồng rằng:

77

- Anh thật không hiểu biết chi cả, tại sao anh lại cúng Ngài dầu cặn, anh phải sám hối

Ngài cho khỏi cái tội của miệng anh.

Ông hàng dầu này cũng có thiện tâm, hối hận trong lòng ra xin lỗi, Ngài cũng hoan hỷ.

Khi đó hai vợ chồng đều thƣa với Ngài rằng:

- Thƣa Ngài: Vợ chồng con xin nguyện chung thân cúng dàng, ngài muốn dùng gì xin cứ

lại đây chúng con dâng.

Từ đó vị Bích Chi Phật hằng ngày lại lấy các món ăn dùng và dầu.

Trƣớc khi vào Niết Bàn, nhân cảm cái ơn ấy vị Bích Chi Phật hiện ra mƣời tám phép thần

túc cho vợ chồng hàng dầu biết.

Bay trên hƣ không, trong mình phun ra nƣớc, dƣới mình hóa ra lửa, thân thể khi phân khi

hợp, hiện biến rất nhiều phép lạ.

Vợ chồng hàng dầu thấy thế, biết rằng Ngài đã đắc đạo vui mừng khôn xiết, tự hận mình

có lỗi nên bảo vợ rằng:

- Em hoan hỷ cúng dàng Ngài, tƣơng lai sẽ đƣợc nhờ phúc báo thì cho tôi chung hƣởng

và cùng làm vợ chồng nhƣ nay nhé!

Đáp: - Anh đối với Ngài tệ ác và cúng dầu cặn, sau này có sinh nơi nào, dĩ nhiên phải

chịu quả báo xấu, thì làm sao kết duyên cùng anh đƣợc?

Chồng nói: - Tôi cũng chịu sự cực khổ làm ăn, của là của chung, đâu có phải một mình

em làm ra đƣợc, mà nói: không cho chung và không cho làm vợ chồng. Nghĩa là phúc là

phúc chung, đâu phải một mình em hƣởng đƣợc.

- Vâng! Nếu kiếp sau tôi có phải làm vợ anh đi chăng nữa, nếu anh xấu đêm tôi sẽ bỏ anh

tôi đi!

- Nếu em đi anh sẽ đuổi cho bằng đƣợc!

Hai vợ chồng nói xong, rồi hứơng lên vị Bích Chi Phật thành tâm sám hối.

Khi đó Ngài bảo rằng:

- Do sự cúng dàng dầu của vợ chồn anh, nên ta đƣợc khỏi bịnh, muốn cầu nguyện gì ta

cho tùy ý.

Hai vợ chồng hoan hỷ quỳ thẳng chắp tay phát nguyện rằng:

- Kính xin Tôn giả, nguyện cho vợ chồng con trên trời hoặc nhân gian, sinh chốn nào

cũng đƣợc tôn sang phúc tuệ đầy đủ, muốn gì cũng đƣợc toại ý.

78

Tới đây, Phật nhắc lại cho vua Bình Sa biết rằng:

Nhà vua nên biết: Ngƣời hàng dầu thuở đó chính là Chu Ngột, vợ của hàng dầu chính là

vợ của Chu Ngột thời ấy, thuở đó ông hàng dầu mắng vị Bích Chi Phật thân ngƣời xấu

nhƣ Chu Ngột (gốc cây tre cụt) và tay nhƣ cái trục, lúc cho dầu có sắc giận tức. Vì thế

nên bị quả báo xấu, cũng theo đúng nhƣ khi phát lời nói mắng vị Bích Chi Phật không

khác, sau biết ăn năn sám hối vui vẻ cúng dầu tốt, cho nên sinh xứ nào cũng đƣợc tốt đẹp;

cũng do sự cúng dầu nên đƣợc nhiều sức khỏe, ngàn muôn ngƣời không địch nổi, hơn

nữa lại còn đƣợc làm Chuyển Luân Vƣơng, hƣởng phúc bốn cõi, năm món dục đầy đủ

thụ dụng. Thiện nghiệp hay ác nghiệp, báo ứng không sai thù, vì thế tất cả chúng sinh

phải nên giữ đạo làm thiết yếu, cẩn thận nơi thân miệng, ý chớ nên dùng nó mà tạo những

điều xấu ác!

Phật nói xong vua Bình Sa và tất cả vua, quan dân chúng các nƣớc với bốn bộ đệ tử, trời

rồng, quỷ thần có ngƣời chứng quỉ thần, có ngƣời chứng quả Tu Đa Hoàn, ngƣời đƣợc

quả Tƣ Đà Hàm, quả A Na Hàm; cho đến quả A La Hán, cũng có ngƣời gây nhân Bích

Chi Phật, cũng có ngƣời phát tâm Bồ Đề cho đến ngôi Bất Thoái, tất cả đều hoan hỷ lễ

kính dƣới chân Phật mà lui

---o0o---

Phẩm thứ mƣời lăm : CỨ ĐÀ THÍ THÂN

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc La Duyệt Kỳ, tại núi Kỳ Xà Quật.

Đức Thế Tôn khi đó bị cảm chứng phong, các đệ tử đi triệu ông Kỳ Vực Y Vƣơng vào

điều trị, ông hòa ba mƣơi hai vị dƣợc tô dâng lên và bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Thời khí năm nay bất hòa, biến nhiều thứ bệnh lạ, con thành

kính luyện thứ thuốc này, cúi xin mỗi ngày dùng ba mƣơi hai lạng.

Đức Thế Tôn hoan hỷ nạp thụ và chú nguyện cho ông.

Thuở đó ông Đề Bà Đạt Đa thƣờng đem lòng ghen ghét với Phật, tự cao tự đại, ý muốn

ngang hàng với Phật, nghe biết Phật uống dƣợc tô cũng gọi ông Kỳ Vực luyện thuốc cho

uống.

Khi ông luyện xong dâng Ngài và thƣa rằng:

- Thƣa Ngài! Thuốc này mạnh lắm, mỗi ngày chỉ dùng đƣợc bốn lạng!

Ông Đề Bà Đạt Đa hỏi: - Phật uống ngày mấy lạng?

- Thƣa Ngài! Phật uống mỗi ngày ba mƣơi hai lạng!

79

Ông Đề Bà Đạt Đa hỏi:

- Vì lẽ gì Phật uống nổi ba mƣơi hai lạng mỗi ngày? Ta chỉ uống đƣợc bốn lạng thôi?

- Thƣa Ngài! Phật khác! Ngài khác! Nếu Ngài uống nhƣ Phật, tất bị tổn thƣơng đến thân

thể!

- Ta uống cũng có đủ lực tiêu hóa, thân ta, thân Phật khác chi, để ta uống coi, có hiệu lực

nhƣ Phật không!

- Thƣa Ngài! Việc đó xin tùy ý, nhƣng xảy ra chúng tôi không chịu trách nhiệm!

- Dĩ nhiên! Ông khỏi lo.

Ông Đề Bà Đạt Đa cân đủ ba mƣơi hai lạng uống luôn một lúc, uống xong ông ngã quay

lơ, sùi bọt mép nhƣ đống xà bông, vật giƣờng trên, lăn xuống giƣờng dƣới, kêu lên rầm

rĩ.

Đức Thế Tôn thƣơng ông đau đớn, nên Ngài từ xa duỗi cánh tay vàng, bằng lực thần

thông tới xoa đầu cho ông, thuốc ấy nhờ sức từ bi đƣợc tiêu hóa, bệnh hoạn tan không,

thân tâm an lạc! Nhìn lên thấy tay Phật, ông tự nói rằng:

- Tất Đạt có nhiều phép lạ, với đời vô dụng, giờ lại học nghề thuốc đều cầu danh lợi.

Tôi (A Nan) nghe thấy ông thốt ra lời vô nhân nghĩa quá nên quỳ xuống bạch Phật:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Ông Đề Bà Đạt Đa vô ân bất nghĩa quá! Ngài cứu cho khỏi,

không cảm ơn thì thôi, lai thốt ra những lời tệ bạc, sao lại có những lòng dạ nhƣ vậy?

Luôn luôn chỉ một niềm ghen ghét với Thế Tôn?

Phật bảo tôi rằng:

- A Nan! Đề Bà Đạt Đa, chẳng những ngày nay mang lòng nham hiểm hại ta đâu, đời quá

khứ đã dùng mƣu này kế khác hại ta.

Tôi lại thƣa rằng: - Kính lạy Ngài, không hay đời quá khứ ông ấy làm hại thế nào, cúi xin

chỉ giáo cho chúng con đƣợc rõ?

Phật dạy: - Ông hãy nghe kỹ, tôi vì ông mà nói!

- Dạ! Con xin đón nghe.

Phật dạy: - A Nan! Ông nên biết, đời quá khứ cách đã rất lâu kiếp A Tăng Kỳ tới số

không thể tính xuể, cũng ở Châu Diêm Phù Đề này, có một nƣớc lớn tên là Ba La Nại,

ông vua nƣớc ấy tên là Phạm Ma Đạt tính nết hung tàn không có từ tâm, lại ham mê sắc

dục làm tổn thƣơng cho muôn loài, nọc độc nằm chặt trong đáy lòng.

80

Một hôm ông nằm mộng thấy con thú lông vàng, trên những đầu lông tía ánh sáng sắc

vàng tỏa ra hai bên tả hữu. Khi tỉnh giấc ông tự nghĩ con thú ta vừa mộng thấy trên đời

này ắt phải có. Nghĩ rồi cho triệu tập các ngƣời đi săn lại phán rằng:

- Các khanh! Hôm nay mời các khanh vào đây, muốn nói một câu chuyện trong mộng

của ta cho các khanh rõ: Đêm qua vào lúc canh ba đƣơng ngon giấc, ta thấy một con thú,

lông trên mình toàn sắc vàng, trên những đầu lông phóng ra những tia sáng, ta chắc rằng

trên rừng cũng có loài thú nhƣ vậy các khanh tìm bắt lấy nó, rồi lột lấy da cho ta, ta sẽ

trọng thƣởng cho con cháu các khanh bảy đời đƣợc đầy đủ vật dụng ăn uống, nếu không

để tâm tìm bắt cho ta, ta sẽ tiêu diệt hết họ hàng nhà các khanh.

Các ngƣời sợ toát mồ hôi! Nhƣng không biết trình bày làm sao! Đều lạy tạ lui ra.

Trở về họ hội họp lại một nơi để giải quyết công việc nhà vua vừa giao phó nhƣ sau:

- Thƣa các bạn, việc này rất khó cho bọn mình: Nhận thấy từ thuở biết cầm cái súng đi

săn đến nay, tôi chƣa từng nhìn thấy con thú nhƣ nhà vua nằm mộng! Nếu bọn ta không

bắt đƣợc con thú lông vàng, họ hàng chúng ta sẽ bị hạ sát dƣới tay cƣờng quyền áp bức

của nhà vua. Chi bằng tụi mình đƣa vợ con trốn sang nƣớc ngoài làm ăn cho thoát!

Một thanh niên tiếp rằng:

- Thƣa quý bạn! Nhận thấy trong núi này độc trùng ác thú rất nhiều, đƣờng sá nguy hiểm,

có ngày đi không hẹn ngày về, ngụ ý của tôi chỉ mƣợn ngƣời hộ là hơn!

Mọi ngƣời đều tán thành! Sau mƣợn đƣợc một ngƣời đến, họ sẽ làm lời cam đoan rằng: -

Anh hãy tận tâm vào rừng săn hộ tôi con thú lông vàng, trên đầu lông có ánh sáng, nếu

anh đƣợc tốt lành trở về, chúng tôi sẽ trọng thƣởng cho anh một số vàng bạc; nếu anh bị

hại nơi rừng xanh, chúng tôi sẽ đem số vàng bạc đó cho vợ con anh ăn dùng.

Ngƣời ấy tự nghĩ nhƣ vầy: - Ta vì sự cứu ngƣời, dầu mất mạng cũng cam lòng.

Nghĩ xong nói: - Thƣa quý bạn, tôi xin bảo lãnh việc đó giúp quý bạn và tôi nguyện rằng

nếu đƣợc thành công mới trở về.

Họ đều vui mừng! Sắm sửa lƣơng thực tiền bạc để anh đi ăn đƣờng.

Khi bắt đầu ra đi, mọi ngƣời đều chúc anh đƣợc mọi sự tốt lành trở về, anh từ giã ra đi, đi

lâu ngày trải bao những sự gian hiểm, lƣơng thực gần hết, bị đói khát, thân thể gầy còm,

sức lực mỏi mệt, qua bãi sa mạc trời nắng làm cho bãi cát nhƣ rang, nhƣ nấu, khí nóng

bức lên ngùn ngụt, mồm khát, cổ khô, chỉ còn chờ tắt hơi là qua đời. Đƣơng lúc cùng cực

đau khổ, thốt ra lời nói:

- Ai là ngƣời có lòng từ bi, thƣơng đến tôi, cứu đƣợc thân mạng tôi giờ?

81

Trong núi ấy có loài dã thú tên là Cứ Đà, lông vàng vì trên đầu lông có ánh sáng, nó nghe

thấy đằng xa có tiếng ngƣời kêu cứu; động lòng thƣơng dấn thân đi tìm qua những dòng

suối nƣớc lạnh, tới nơi thấy một ngƣời nằm phơi trên mặt đất hình nhƣ sắp chết, nó ủ ấp

bằng thân của nó, hồi lâu tỉnh táo, nó bế tới một khe nƣớc, tắm gội cho mát, rồi đi lấy các

thứ quả ngon về cho ăn, ăn xong thân thể đƣợc khỏe mạnh.

Ngƣời đó khi tỉnh dậy tự nghĩ nhƣ vầy:

- Con thú lông vàng này! Chính ta đƣơng đi săn bắt nó đem nộp cho nhà vua, song lúc ta

gặp cơn nguy biến, đƣợc nó cứu thoát, ơn ấy ta chƣa đền đáp nỡ đâu lại còn hại nó.

Nhƣng nếu không bắt nó nộp cho nhà vua thì tất cả nhà những ngƣời đi săn kia đều bị

giết chết.

Nghĩ thế rồi trong lòng rầu rĩ khó giải quyết.

Cứ Đà hỏi: - Tại sao anh không vui?

Anh rơi lệ đáp: - Tôi đƣơng nghĩ một việc riêng!

Cứ Đà hỏi tiếp: - Việc gì xin nói cho tôi rõ!

- Việc này khó giải quyết và cũng không dám nói.

Cứ Đà hỏi luôn: - Anh hãy nói ra, nếu tôi có thể giúp đƣợc thì tôi xin giúp.

Anh chàng này ngẫm nghĩ hồi lâu rồi thực tình nói mục đích bắt thú lông vàng cho Cứ Đà

nghe.

Cứ Đà hoan hỷ nói: - Việc không khó, da của tôi có thể đem biếu anh đƣợc! Anh nên biết

rằng: Nếu cứ tính cái thân chết của tôi từ quá khứ tới nay, vô lƣợng vô số, không thể đếm

đƣợc. Nhƣng xét rằng những thân ấy chƣa từng làm đƣợc việt gì hữu ích, hôm nay tôi

đƣợc đem cái da vàng mạng sống của tôi để cứu ngƣời thì còn gì vui thú hơn. Vậy anh cứ

việc lột lấy, tôi vui lòng nhƣng chớ làm tuyệt mạng tôi vội, với sự cho anh đây tôi rất

hoan hỷ, không hối hận chút nào!

Anh chàng đi săn nghe Cứ Đà nói trong lòng vẫn băn khoăn hối hận bất đắc dĩ phải rút

dao lột da của Cừ Đà.

Đầu tiên anh đặt dao vào mũi, rạch mạnh, máu tƣơi chảy ra nhƣ rót rồi kéo qua đầu

xuống tận đuôi, bắt tay vào kép xả ra hai bên.

Nhìn Cứ Đà vẫn thản nhiên không hề dãy dụa, rồi nguyện rằng: - Tôi thành thực hy sinh

da tôi để cứu sống mọi ngƣời, nguyện đem công đức này, hƣớng về tất cả chúng sinh, qua

thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi về nơi Niết Bàn an lạc.

82

Lời của Cứ Đà phát nguyện vừa xong, ba ngàn thế giới tự nhiên chấn động sáu lần, các

cung điện cõi Trời nghiêng ngửa, những Thiên Tử đều kinh ngạc! Ngó nhìn xem chuyện

chi, thấy Bồ Tát lột da bố thí cứu sinh, họ bay xuống tận nơi, tung hoa cúng dàng ai nấy

đều sa nƣớc mắt.

Lột da xong, thân thể Cứ Đà đỏ nhƣ gấc chín, huyết chảy lênh láng, nhìn rất rùng rợn

không dám ngó lâu, ruồi kiến bâu xúm xít đầy mình, rỉa thịt uống huyết. Đau quá! Định

trở mình, nhƣng sợ tổn thƣơng loài ruồi kiến, đành phải nhẫn khổ không dám động đậy.

Những loài ruồi kiến ấy nhân đƣợc ăn thịt của Bồ Tát sau khi mệnh chết đƣợc sinh Thiên.

Ngƣời đƣợc da mang về dâng vua, nhà vua rất hài lòng, khen ngợi kẻ đã tử công phu vì

ta; ban thƣởng cho tƣớc lộc ngôi cao, vàng bạc rất nhiều.

Nhà vua dùng nó để trải nằm, khi nằm cảm thấy tâm an vui khoái lạc.

Tới đây đức Phật nhắc lại cho tôi biết rằng:

- A Nan! Ông nên biết: Cứ Đà có phải ai đâu? Chính tiền thân của ta đấy, vua Phạm Ma

Đạt nay là ông Đề Bà Đạt Đa, những ruồi kiến ăn thịt uống huyết của Cứ Đà thuở đó, khi

ta mới thành Phật chuyển Pháp Luân đều đƣợc đắc đạo sinh lên các cõi Trời, ông Đề Bà

Đạt Đa thời đó làm tổn thƣơng tánh mạng ta cho đến ngày nay không có một chút thiện

tâm gì đối với ta, suốt ngày chỉ muốn tìm cách để hại ta thôi!

Lúc đó tôi và tất cả đại chúng, nghe Phật nói thế, ai nấy cũng buồn và cảm động! Nhiều

ngƣời thấy vậy gắng công cầu phép yếu, nên có ngƣời đƣợc quả Tu Đà Hoàn, Tƣ Đà

Hàm, A Na Hàm cho đến quả A La Hán, cũng có ngƣời gây nhân Bích Chi Phật, cũng có

ngƣời phát tâm Vô Thƣợng Đạo; có ngƣời trụ ngôi bất thoái, ai nấy đều vui vẻ kính tin

phụng hành tạ lễ mà lui

---o0o---

Phẩm thứ mƣời sáu : VUA ĐẠI QUANG MINH

NGƢỜI có trí lanh lợi, thì sự nhận xét minh mẫn, gặp việc gì trở ngại cũng giải quyết

mau lẹ, gặp một duyên nhỏ có thể làm đại nghiệp. Kẻ biến nhác ngoan độn, dẫu có gặp

thắng duyên cũng không thể phát tâm cao cả.

Bởi thế con ngƣời luôn luôn phải có sự tiến hóa làm lòng, lập chí tạo tác những thiện

duyên gây thành đại nguyện thì mai này sẽ kết quả rực rỡ tôn nghiêm.

Khi đó đức Thế Tôn ở nƣớc Xá Vệ tại vƣờn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái Tử Kỳ Đà.

83

Bấy giờ có bốn bộ đệ tử vua quan dân chúng đƣơng vây quanh đức Thế Tôn để cúng

dàng. Trong đại hội có nhiều ngƣời nghĩ nhƣ vậy:

- Không rõ đức Thế Tôn bởi nhân duyên gì phát tâm vô thƣợng Bồ Đề lúc ban đầu? Tới

nay thành Phật làm lợi ích cho muôn loài chúng sinh, vậy chúng ta cũng nên phát tâm cầu

thành Phật đạo để nối chí của Ngài mà làm lợi ích chúng sinh.

Tôi (A Nan) biết họ nghĩ nhƣ vậy đi lấy áo mặc chỉnh tề tới trƣớc Phật quỳ gối chắp tay

bạch rằng:

Kính lạy đức Thế Tôn! Đại chúng đây đều muốn biết rõ xƣa kia Ngài từ nhân duyên gì

phát Bồ Đề tâm, kính xin chỉ giáo để cho tất cả mọi ngƣời đều đƣợc lợi ích!

Phật dạy rằng: - Này ông A Nan! Hay lắm! Hay lắm! Ông hỏi nhƣ vậy có rất nhiều sự lợi

ích, ông hãy nghe cho kỹ và suy nghĩ cho rành, tôi sẽ vì ông mà nói.

Bấy giờ trong đại hội đều im lặng, tất cả núi sông gió nƣớc chim bay thú chạy cũng đều

chiêm ngƣỡng, không một tiếng động, đại chúng, trời, rồng, quỉ thần đều dốc lòng trông

Phật, ai nấy vừa sợ vừa ham nghe.

Phật dạy rằng: A Nan ông nên biết, thời quá khứ đã quá lâu xa kiếp, A Tăng Kỳ vô lƣợng

vô biên không tính xuể, cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua nƣớc lớn tên là Đại

Quang Minh, trí tuệ thông minh phúc đức cao dày, nhân tƣớng oai nghiêm thuần hậu, có

chơi thân với ông vua nƣớc láng giềng, hai ông giúp đỡ nhau từ tinh thần đến vật chất,

nhất là có vật gì quý cũng tặng lẫn cho nhau.

Một hôm ông vua nƣớc láng giềng đi săn đƣợc hai con voi còn nhỏ, mình trắng nhƣ pha

lê rất là quý đẹp, nhà vua mừng thầm và tự nghĩ nhƣ vầy:

- Ta đem voi này tặng vua Quang Minh.

Đƣa về trang sức cho voi rất đẹp rồi sai ngƣời dắt sang hiến vua Quang Minh.

Vua Quang Minh coi thấy con voi lạ cũng cho là một bảo vật đáng quý, nên trao cho

ngƣời quản tƣợng tên là Tán Xà dặn rằng: - Trông coi cho cẩn thận, dạy bảo cho thuần

thực, cho ăn uống ngon lành.

Quản tƣợng đƣa về dạy bảo một thời gian đƣợc thuần thục, rồi đến tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Hạ thần vâng mệnh nuôi voi đã lớn, sự điều voi của hạ thần nhất mực bảo

sao nghe vậy, cúi xin Bệ Hạ cho voi ra thí trƣờng để dân chúng coi sự điều khiển của hạ

thần.

Nhà vua vui vẻ đáp rằng: - Hãy khoan ít ngày để ta truyền cho quan quân, dân chúng hay

tin trƣớc.

84

Sau khi đƣợc chiếu chỉ của nhà vua, từ thành thị cho đến thôn quê kéo nhau đi xem rất

đông đảo, nhà vua cỡi voi ra thí tràng, trông rất oai nghiêm, đi sau có các quan văn võ.

Con voi trai trẻ này, khí lực đƣơng cƣờng tráng, dục vọng nồng nàn, đi sắp tới thì trƣờng

nó nhìn thấy mấy chị voi cái đang ăn ngó sen bên mé hồ, tự nhiên lửa dâm dục bốc khởi,

túm cẳng chạy thẳng đến mấy chị voi cái kia, voi cái hoảng chạy! Đuổi mãi, đuổi mãi!

Cho đến rừng xanh cũng không thôi. Làm cho nhà vua áo rách mũ rơi, gai góc đâm xiên

vào mình, máu huyết chảy đẫm áo, nhà vua tối mắt chẳng biết đông tây, sợ quá tự nghĩ

rằng:

- Bây giờ làm cách nào để xuống đƣợc?

Quản tƣợng thƣa: - Xin Bệ Hạ hãy níu lấy cành cây để sa xuống đất.

Nghe lời quản tƣợng, nhà vua níu lấy cành cây xuống đất đƣợc vô sự, nhƣng sờ lên đầu

thấy mất mũ áo, trên mình rách ngang rách dọc và đẫm máu, thân thể đau đớn! Đƣơng

lúc đau khổ lại không biết lối ra.

Quản tƣợng cũng níu lấy cành cây nhảy theo rồi đi tìm vua. Một lát thấy nhà vua đƣơng

ngồi dƣới gốc cây coi vẻ âu sầu buồn bã, quản tƣợng quỳ xuống thƣa:

- Cúi xin Bệ Hạ xá tội cho, và đừng buồn phiền nữa! Con voi này khi hạ cơn dâm dục nó

sẽ nhớ cỏ ngon nƣớc sạch thì lại trở về.

Nhà vua nói: - Thôi nhà ngƣơi còn nói chi nữa, từ nay ta sẽ không nhận ngƣơi và con voi

ấy nữa.

Quản tƣợng không biết nói sao! Đành phải ngồi yên chờ vua nguôi cơn giận.

Khi đó các ông quan chạy theo sau, có ông nhặt đƣợc cái mũ, cái áo, cái hia, hoặc thấy

máu me rải rắc từng giọt, đột nhiên thấy nhà vua cởi con voi khác trở về. Khi đó có các

bà Hoàng Hậu, Hoàng Phi, Hoàng Tử, Công Chúa nhân dân đều lo xanh mặt, vì sợ nhà

vua bị chết ai nấy đều rơi lệ nhƣ mƣa.

Khi thấy nhà vua đã trở về, mọi ngƣời vui vẻ!

Qua thời gian ngắn con voi đã thỏa mãn lòng dâm, bị ăn cỏ hôi, uống nƣớc bẩn nơi rừng

xanh, lại trở về kinh thành.

Quản tƣợng thấy voi về, vội vào triều tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Con voi hôm nay đã trở về, xin Bệ hạ ra coi.

- Thôi, từ nay ta không muốn nhìn thấy ngƣơi và con voi ấy nữa.

Quản tƣợng lại thƣa: - Tâu Bệ Hạ, nếu Bệ Hạ không muốn thấy hạ thần và con voi ấy

nữa, nhƣng xin Bệ Hạ hãy xem cách điều phục voi của hạ thần một lần nữa.

85

Nhà vua nói: - Khanh đã nói thế ta cũng cho!

Quản tƣợng bái tạ ra về, sửa soạn nơi thí tràng và định ngày cáo thị cho dân chúng đến

xem.

Tới ngày đó, vua quan ra thí tràng, nhân dân đến xem rất đông. Quản tƣợng dắt voi ra và

đem theo bảy viên sắt lớn thầm nghĩ nhƣ vầy:

- Giờ đây ta bắt voi nuốt sắt, voi chết cũng hoài, vậy ta hãy tâu vua may ra ngài có hối

tâm chăng.

- Tâu Bệ Hạ! Con voi trắng này, chỉ vua Chuyển Luân mới có, nó phạm chút lỗi nhỏ xin

Bệ hạ tha thứ, không nên hủy bỏ.

Nhà vua nói: - Nếu ngƣơi không điều phục đƣợc nó, thì mời ta ra đây làm chi? Dầu ngƣơi

có điều phục đƣợc, ta cũng không dùng nó và ngƣơi nữa.

Quản tƣợng thƣa: Tâu Bệ Hạ! Bệ Hạ không dùng hạ thần thì thôi, nhƣng rất tiếc không

dùng voi.

Nhà vua giận nói: - Khanh đi ngay, bƣớc ngay lập tức bây giờ!

Quản tƣợng đứng dậy vừa khóc vừa nói: - Bệ Hạ không có thân sơ, chỉ ƣa những lời nói

khéo, nói ngọt, nịnh hót!

Tất cả mọi ngƣời nghe đều sa đôi hàng lệ, và chăm chú nhìn voi, vì họ nhìn thấy bảy viên

sắt đƣơng nung đỏ tại lò, quản tƣợng sẽ bắt voi nuốt.

Quản tƣợng thị oai lớn tiếng nói:

- Voi mày nuốt viên sắt này đi, nếu không nuốt ta sẽ lấy móc sắt móc óc mày ra.

Voi thấyquản tƣợng nói, sợ hãi run rầy, quỳ hai gối xuống đất, chầu về nơi nhà vua ngự

nƣớc mắt chảy ròng! Có ý xin vua xá tội, nhƣng nhà vua vẫn chƣa nguôi cơn giận, lại

càng bực tức thêm, rồi ngoảnh mặt đi. Quản tƣợng lớn tiếng nói:

- Mày không chịu nuốt à, còn chờ tao móc ƣ!

Voi liếc mắt nhìn xung quanh xem có ai can gián để cứu mình không! Nhƣng không! Tự

biết mình phải chết, vì không còn một thế lực gì nữa có thể trông cậy, bất đắc dĩ nằm

ngửa há mồm.

Quản tƣợng bỏ bảy viên sắt nóng vào mồm bắt phải nuốt hết, nuốt xong nổ ruột chết liền.

Tất cả mọi ngƣời thấy thế cảm động thƣơng voi. Ai nấy đều phải sa lệ.

86

Nhà vua cũng phải kinh sợ và ngạc nhiên, kêu Quản tƣợng lại hỏi:

- Quản tƣợng, khanh có tài điều phục voi nhƣ vậy, tại sao lúc ở rừng không ngăn đƣợc

nó.

Lúc ấy ông Tịnh Cƣ Thiên biết vua Quang Minh đã phát tâm Bồ Đề, dùng thần lực khiến

Quản tƣợng quỳ xuống thƣa rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Kẻ hạ thần này chỉ có thể điều phục đƣợc thân nó chứ không thể điều phục

đƣợc tâm của nó.

Nhà vua hỏi: - Vậy có ngƣời nào đều phục đƣợc cả thân lẫn tâm nó không!

Đáp: - Tâu Bệ Hạ, chỉ có Phật điều phục đƣợc cả thân lẫn tâm của nó.

Nhà vua hỏi tiếp: - Khanh nói Phật, thì lấy chủng tính gì sinh ra Phật?

Đáp: - Tâu Bệ Hạ! Có hai chủng tính sinh ra Phật: Một là trí tuệ, hai từ bi! Chăm làm sáu

việc: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thuyền định, trí huệ cũng gọi là sáu Ba La Mật,

công đức và trí tuệ của sáu việc đầy tròn nên gọi là Phật! Nhƣ vậy có thể điều phục đƣợc

mình và tất cả chúng sinh.

Nhà vua nghe quản tƣợng tâu xong, có vẻ vui sƣớng! Đứng dậy vào hậu cung tắm rửa

sạch sẽ, mặc áo đội mũ tề chỉnh, lên lầu cao một mình, đốt trầm hƣớng về bốn phƣơng

thề nguyện rằng:

- Từ đây tôi sẽ đối với tất cả chúng sinh, phải có một tâm "Đại Từ Đại Bi", rồi đọc bài kệ

khấn rằng:

Nguyện đem công đức này

Hồi hướng về Phật đạo,

Sau này được thành Phật,

Tự điều phục tâm mình,

Và tất cả chúng sinh.

Nếu một chúng sinh nào.

Ở địa ngục A Tỳ.

Trải qua đến một kiếp.

87

Có thể làm lợi ích,

Và cứu khổ họ được,

Tôi sẽ vào ngục ấy,

Không bỏ tâm Bồ Đề.

Nhà vua thệ nguyện dứt lời, thì sáu phƣơng chấn động, trời đất rung chuyển, trên hƣ

không văng vẳng, có tiếng âm nhạc, các ông thiên tử đánh đàn ngợi khen rằng:

- Ngài phát nguyện cao cả ấy, chẳng bao lâu nữa đƣợc thành Phật, xin độ cho lũ chúng tôi

trứơc ở pháp hội thanh tịnh này.

Tới đây Phật nhắc lại cho các vị Tỷ Khƣu biết rằng:

- Tỷ Khƣu các ông nên biết! Con voi trắng bị quản tƣợng bắt nuốt viên sắt nóng thuở đó

nay là ông Nan Đà. Quản tƣợng nay là ông Xá Lợi Phất, vua Đại Quang Minh chính tiền

thân của ta. Nhân lúc thấy quản tƣợng điều phục voi ta phát khởi tâm cầu đạo Phật bắt

đầu.

Trong đại hội khi nghe Phật nói sự phát khởi tu đạo của Ngài xong, ai nấy vui mừng, rồi

có ngƣời đƣợc chứng quả thứ tƣ, có ngƣời phát đại đạo tâm, mỗi ngƣời đều kính tin cúi

đầu tạ lễ mà lui.

Vua Quang Minh gặp một tiểu duyên, mà giải quyết đƣợc đại sự, là do trí dũng mãnh tinh

tiến. Còn nhƣ kẻ lƣời biếng, dầu có gặp đƣợc duyên lớn cũng chẳng thành sự nghiệp gì.

Chúng ta phải nên mạnh dạn bớt bỏ lòng tham dục si mê, chuyển theo con đƣờng sáng

của đức Phật đã vạch ra, thì một ngày kia ta sẽ ngồi trên đài liên hoa, bay đi khắp thế giới

nhiếp phục chúng sinh cũng nhƣ Ngài không khác, mục đích cứu họ ra khỏi vòng phiền

não ô trọc, xấu xa, đƣợc trí tuệ thần thông cao sáng, qua thoát khỏi sinh, già, bịnh, chết

---o0o---

Phẩm thứ mƣời bảy : ƢU BA TƢ NA

MUỐN thành Phật phải tôn trọng Phật, phải khao khát giáo lý của Ngài, phải đọc tụng

thọ trì, phải diễn thuyết kinh pháp. Chính những ngƣời cƣ gia tụng kinh thuyết pháp, chƣ

thiên quỷ thần còn ham nghe, phƣơng chi ngƣời xuất gia cho đến ngƣời đi đƣờng tụng

kinh đọc kệ thƣờng thƣờng vẫn có chƣ thiên theo nghe.

Là Phật tử phải chăm niệm Phật, tụng kinh, trì chú, thuyết pháp thì đời vị lai sẽ đƣợc quả

báo trang nghiêm rực rỡ.

88

Thuở đó đức Thế Tôn ở nƣớc Xá Vệ, tại Kỳ Hoàn tinh xá cùng với vô lƣợng vô biên. Các

ngƣời lƣơng thiện nghe thấy danh đức của Phật, họ đều hoan hỷ và tán dƣơng. Trái lại

những kẻ ác, nghe thấy ngƣời lƣơng thiện thì sinh lòng thù ghét.

Ngƣời hiền thiện không bao giờ bới xấu ngƣời, mà chỉ đem những điều lành của ngƣời ra

nói thôi, vì muốn điều lành ấy lan ra cho nhiều ngƣời đƣợc nghe, thấy kẻ làm ác biết sự

hành động ấy của nghiệp kết sử thì thƣơng họ và tha thứ cho họ không chấp nhặt sự ngu

si của họ.

Nhƣ vậy những ngƣời cõi nhân, cõi thiên đã đầy thiện duyên gặp Phật xuất thế thì họ tán

dƣơng, và đem giáo pháp của Ngài tuyên truyền cho các nƣớc.

Thuở đó có một nƣớc nhỏ thuộc quyền cai trị của vua Ba Tƣ Nặc, phần nhiều những

ngƣời tà kiến vì không có giáo lý của Phật truyền bá, song thôn xóm kia có một ngƣời

con gái tên là Ƣu Ba Tƣ Na, hôm ấy đi sang nƣớc Xá Vệ, nơi vua Ba Tƣ Nặc ở, công

việc đã xong, ra về cùng ngƣời thân tín đạo Phật, trọ tại bên nhà ngƣời Ƣu Bà Tắc. Sau

đƣợc nghe họ nói công đức của Phật cô liền theo họ, đến rừng Kỳ Hoàn để yết kiến Phật,

tới nơi thấy Phật tƣớng hảo đoan nghiêm, uy nghi lẫm liệt quang minh sáng lạn, tâm sinh

vui vẻ khát ngƣỡng, cúi đầu lễ sát đất rồi lui ngồi về một bên.

Lú đó đức Thế Tôn thuyết công đức của năm giới cho đại chúng nghe nhƣ sau:

1. - Không sát sinh, đƣợc quả báo sống lâu, không bệnh tật.

2. - Không trộm cƣớp, đƣợc quả báo giàu sang, không bị ngũ gia cƣớp đoạt.

3. - Không tà dâm, đƣợc quả báo nhân thiên kính trọng, thân ngƣời tốt đẹp.

4. - Không nói dối, đƣợc quả báo ngƣời đời kính trọng yêu mến, nói ai cũng tin theo.

5. - Không uống rƣợu, đƣợc quả báo thông minh.

Cô Ƣu Ba Tƣ Na nghe xong tâm rất hoan hỷ! Cảm mến đức Phật, tới trƣớc quỳ bạch

rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Con không biết có phúc duyên gì hạnh ngộ, hôm nay tới đây,

đƣợc chiêm ngƣỡng Ngài và đƣợc nghe công đức của năm giới, con thành tâm cúi xin

năm giới của Thế Tôn, xin Thế Tôn trao cho con, con nguyện suốt đời vâng giữ, dẫu cho

chết mất thân mạng con quyết không hủy phạm. Năm giới đối với con, cũng nhƣ ngƣời

đói giữ cơm, ngƣời khát giữ nƣớc, nhƣ ngƣời bệnh giữ mạng, con giữ năm giới cũng thế.

Phật dạy: - Con biết tuân hành thọ trì năm giới là ngƣời có phƣớc lành đã trồng nhiều

kiếp, con hãy lắng lòng nghe cho kỹ và ghi vào tâm thức chớ quên, ta nói đến đâu con

lãnh thọ đến đó.

Ƣu Ba Tƣ Na bạch: - Dạ kính lạy đức Thế Tôn, con xin chú ý lãnh thọ!

Khi cô lãnh giới xong, lại bạch Phật rằng:

89

- Kính lạy đức Thế Tôn! Con ở nƣớc xa xôi, giờ đây con phải trở về, cúi xin trao cho con

một bài kinh để hằng ngày tụng đọc và thờ kính. Các đức Phật quá khứ, các đức Phật đời

vị lai cũng một kinh pháp ấy.

Theo lời cầu nguyện của cô, Ngài trao cho cô một quyển kinh "Pháp Cú" và đặn rằng:

- Con mang kinh này về, chiều sớm ban hôm chăm chỉ thụ trì đọc tụng, sẽ đƣợc công đức

vô lƣợng.

Cô cúi đầu lễ ba lễ, nhiễu ba vòng rồi trở ra về.

Từ khi đƣợc thấm nhuần giáo lý đạo Phật, cô coi đời nhƣ giấc chiêm bao, tất cả gia đình

sự nghiệp chỉ là trò huyễn ảo gây ra trong thời gian vô định, nên cô chỉ chăm chú vào

quyển kinh sớm hôm đọc tụng, suy nghĩ giáo pháp cao siêu của tam thế chƣ Phật. Một

buổi nọ lúc giữa canh khuya cô ngồi tụng kinh trên lầu cao, văng vẳng nghe trên không

gian có tiếng nói rằng:

- Hay lắm! Hay lắm! Chị tụng kinh hay lắm! Chúng em muốn tặng chị một chút bảo vật

song không thích hợp với tƣ tƣởng của chị, vậy xin giới thiệu một lời để dâng chị. Hiện

nay Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả Mục Kiền Liên tới đây đƣơng nghĩ trong rừng, sáng

ngày mai chị mời hai Tôn giả cúng dàng thì đƣợc phúc vô lƣợng, khi Tôn giả chú nguyện

thì hô đến tên của chúng tôi.

Ƣu Ba Tƣ Na nghe xong ngửa mặt lên hỏi:

- Ông là ai? Xin cho tôi đƣợc biết quý danh.

Đáp: - Tôi là Quỷ Vƣơng tức là Tỳ Sa Môn Thiên Vƣơng nhân sang nam phƣơng qua đây

vì muốn nghe tụng kinh nên đứng lại!

Cô trả lời: - Ngƣời cõi Thiên không bao giờ nói lầm nhƣ vậy, ông là ngƣời trời, tôi là

ngƣời thế, tuyệt không có nhân do, tại sao gọi tôi là chị.

Tỳ Sa Môn đáp: - Đức Phật là ngôi Pháp Vƣơng cũng là cha lành cõi nhân cõi thiên, tôi

là Ƣu Bà Tắc, chị là Ƣu Bà Di cùng chung một cha lành tu học một pháp vị, cho nên

cũng có thể kêu là chị em đƣợc.

Cô vui vẻ hỏi tiếp: - Khi cúng dàng xƣng tên của ông thì đƣợc lợi ích gì.

Thiên Vƣơng đáp: - Tôi là Thiên Vƣơng, tai nghe đƣợc rất xa, xƣng tên tôi nghe thấy thì

thêm thế lực của tôi và uy đức của tôi, khi đó tôi dùng thần lực sai khiến các quỷ thần

ủng hộ ngƣời đó đƣợc phƣớc lộc nhiều, và khiến cho họ thoát khỏi khổ nạn.

Thiên Vƣơng nói xong rồi từ biệt. Ƣu Ba Tƣ Na trong lòng vui vẻ! Và thầm nghĩ nhƣ

vầy:

90

- Đức Phật trăm kiếp ngàn đời, chăm tu khổ hạnh cũng là vì ta, và tất cả chúng sinh. Hôm

nay cũng do uy đức của Phật nên ông Thiên Vƣơng đối với ta một cách thận trọng, lại

còn xƣng tên ta là chị, đức Phật là một đấng cha lành cho muôn loài.

Cô ngồi tƣ duy nhận xét đạo lý mãi đến gần sáng mới thiu thỉu ngủ; trời vừa tang tảng,

các cô gái vào rừng kiếm củi trèo lên cây cao chặt những cành cây khô, xa xa nhìn thấy

hai vị Thánh Tăng, một vị là Xá Lợi Phất, một vị là Mục Kiền Liên, với năm trăm thầy

Tỷ Khƣu đƣơng ngồi tĩnh tọa dƣới gốc cây, cô gái ở nhớ rằng "độ nọ đƣợc đi hầu bà sang

nƣớc Xá Vệ, gặp hai vị Thánh Tăng này một lần bà chủ ta tôn kính lắm".

Ngừng lấy củi cô lại tận nơi lễ bái thƣa rằng:

- Kính thƣa Tôn giả, chúng con là gia nhân của Ƣu Ba Tƣ Na tới đây để bái mừng và đến

thăm Tôn giả.

Tôn giả đáp: - Ƣu Ba Tƣ Na có đƣợc vui vẻ không, có đƣợc an lạc giải thoát không?

- Thƣa Tôn giả: - Ƣu Ba Tƣ Na vẫn đƣợc an vui kể từ ngày đƣợc thọ giáo đức Thế Tôn,

Ƣu Ba Tƣ Na xin thỉnh hai Tôn giả tới nhà dùng bữa cơm hôm nay.

Tôn giả đáp: - Ngƣơi hãy về nói với Ƣu Ba Tƣ Na. Hay lắm! Hay lắm! Ƣu Ba Tƣ Na, là

Ƣu Bà Di khéo biết thời và khéo biết việc thích ứng, Phật vẫn thƣờng khen năm pháp thí

đƣợc phúc vô lƣợng.

Một là, bố⠴hí cho ngƣời ở nơi xa tới,

Hai bố, thí cho ngƣời đi xa.

Ba là, bố thí cho bệnh nhân.

Bốn là, bố thí thức ăn cho ngƣời đang bị đói.

Năm là, bố thí pháp cho ngƣời biết pháp.

Năm pháp bố thí này nếu ai thực hành làm ngay, thì đƣợc phúc báo hiện tại.

Các cô nghe xong, vâng lời lễ tạ lui ra, về nhà gặp cô gái ở nhỏ bèn hỏi:

- Bà chủ ở đâu mày?

- Bà đang ở trên gác, đem qua bà ngủ không đƣợc, vừa mới ngủ đấy.

- Mày đi lên gọi bà dậy.

Đáp: - Em không dám!

91

- Không dám gọi thì để chị gọi.

- Tùy ý.

- Bà ơi! Mời bà dậy!

- Ngƣơi hỏi gì?

- Thƣa bà, Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả Mục Kiền Liên đến rừng này con đã mời Ngài

đến nhà dùng bữa cơm ngọ hôm nay.

Cô Ƣu Ba Tƣ Na vui vẻ! Lấy bộ khoen vàng thƣởng cho cô gái ở.

- Thƣa bà, Tôn giả có những lời rất hay giáo hóa cho con.

- Con nhớ không? Nói cho ta nghe!

- Thƣa bà, Tôn giả nói rằng: - Ƣu Ba Tƣ Na là ngƣời Ƣu Bà Di, khéo biết thời và khéo

biết việc thích ứng. Phật vẫn thƣờng khen năm pháp thí đƣợc phục vô lƣợng.

Thứ nhất là thí cho ngƣời ở xa tới.

Thứ hai là cho ngƣời đi đƣờng xa.

Thứ ba là thí cho ngƣời có bệnh hoạn.

Thứ tƣ là bố thí thức ăn cho ngƣời đƣơng bị đói.

Thứ năm là bố thí pháp cho ngƣời biết pháp.

Năm pháp thí này nếu ai thực hành làm ngay, thì đƣợc phúc báo hiện tại.

Ƣu Ba Tƣ Na nghe xong sung sƣớng quá, cũng nhƣ hoa sen khi gặp ánh nắng của mặt

trời mà tung nở, trong lòng sáng tỏ tự nhiện phấn khởi tinh thần cũng nhƣ hoa sen kia đua

nở vậy.

Ƣu Ba Tƣ Na tháo chuỗi hột vàng trên cổ tặng thêm cho cô gái ở.

Cô gái ở vui mừng, đỡ lấy rồi nói:

- Mời bà dậy đi! Rửa tay, rửa mặt sửa soạn các món ăn mà cúng dàng, con sẽ đi mời các

Ngài hầu bà.

- Ta vui lòng lắm! Nếu con đã vì ta làm việc này, hãy cứ làm đi, không phải nói nữa, ta

cho tùy ý, và cũng không riêng gì cho ta, nếu cho làm việc tốt lành ấy, bất luận tại gia,

hay xuất gia, nơi tụ lạc, thành ấp đều đƣợc sáng thịnh yên vui.

92

Nói xong đứng lên đi rửa tay bảo gia nhân và các ngƣời lân cận, ngƣời nấu cơm kẻ đốt

lửa, gánh nƣớc hái rau, kê bàn, trải chiếu, hái hoa phân phó các việc xong, còn mình lấy

thuốc giã rây hòa luyện cẩn thận. Khi các thứ đã đầy đủ rồi sai ngƣời đi mời hai Tôn giả

và các thầy Tỳ Khƣu.

Đƣợc tin mời, hai Tôn giả và các thầy Tỳ Khƣu mặc áo tề chỉnh đi phó trai. Các vị tới

nhà thăng tòa ngồi yên tĩnh.

Ƣu Ba Tƣ Na ra lễ bái mừng! Cầm thau món ăn sẻ vào các bát, sắc hƣơng thơm ngát một

lòng thành kính dâng lên.

Sự cúng dàng đƣợc phúc báo tùy theo lòng thành kính:

Làm thức ăn ngon, lại đẹp thì đƣợc nhan sắc đẹp, mùi ngon thơm tốt thì đƣợc phúc danh

thơm đồn xa, món ăn đầy đủ, đƣợc phúc báo tuỳ ý muốn gì đƣợc nấy, thân ngƣời vạm vỡ

khỏe mạnh.

Chúng Tăng độ xong, Ngài Tôn giả Xá Lợi Phất làm phép chú nguyện.

Ƣu Ba Tƣ Na thƣa: - Kính xin Tôn giả hô đến tên ông Tỳ Sa Môn Thiên Vƣơng.

Ngài chú nguyện, xong, hỏi:

- Con đối với Tỳ Sa Môn Thiên Vƣơng có nhân duyên gì mà hô tên ông ấy?

- Kính bạch Tôn giả! Thực là một việc ly kỳ quá! Tối hôm qua con đƣơng tụng kinh, ông

Thiên Vƣơng ấy đứng ở trên hƣ không, khen con và gọi con là chị. Lúc ấy con hỏi ông là

ai nghe tiếng, mà không thấy ngƣời, ông ấy nói: - Tôi là Quỷ Vƣơng Tỳ Sa Môn Thiên

Vƣơng thấy ngƣời tụng kinh tôi đứng đây nghe, tôi muốn lấy trân bảo cõi Trời tặng

nhƣng không phải một thứ mà chị ƣa muốn, nên xin tặng một lời đó thôi! – Con lại hỏi,

ông muốn bảo gì?

Ông ta nói:

- Sáng mai Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả Mục Kiền Liên, đến rừng này, chị nên sửa

trai cúng dàng, khi cúng thì hô đến tên tôi.

Con lại hỏi: - Xƣng tên ông thì đƣợc lợi ích gì?

Ông ta nói:

- Tai tôi nghe đƣợc rất xa, nếu xƣng tên tôi thì thêm thế lực của tôi, và uy đức của họ

hàng tôi, tôi sẽ dùng thần lực sai quỷ thần ủng hộ cho ngƣời đó, thoát khỏi những khổ

nạn, bởi nhân duyên ấy nên xƣng tên.

93

Tôn giả nói: - Đấy, cũng là một việc lạ, con ở đạo ngƣời, kẻ kia ở đạo trời, họ đối với con

có lòng kính trọng lại còn nhận là chị em.

- Kính thƣa Tôn giả! Còn một việc lạ nữa: Trong nhà con thƣờng có thần nhân đi lại

viếng thăm một cách thân mật và cũng nhƣ một bạn gái vậy, khi con bố thí, thì vị thần

bảo con rằng: Vị này là A La Hán, vị này là Tu Đà Hoàn, vị này là Tƣ Đà Hàm, kẻ này là

phàm phu, ngƣời này là trì giới, kẻ này phá giới, ngƣời này trí tuệ, kẻ này ngu si. Con tuy

nghe thấy nhƣng ý của con không phân biệt phá giới hay trì giới, trí tuệ hay ngu si, bất

luận vị nào con đều coi nhƣ một vị La Hán.

Tôn giả nói: - Cũng hay lắm, ngay đấy con có tâm bình đẳng không phân biệt.

- Bạch Tôn giả! Con lại có một việc lạ nhất: Con là phận nữ nhi tại gia mà tiêu diệt đƣợc

hai ngƣời thân kiến, đắc quả Tu Đà Hoàn!

Tôn giả nói: - Đấy con có phƣớc lớn làm thân gái mà chứng đƣợc quả Tu Đà Hoàn!

- Bạch Tôn giả: - Con lại có một việc kỳ nữa, con sinh hạ đƣợc bốn đứa con đều ác kiến,

chồng con cũng là tà ác quá đỗi, đối với Phật Pháp Tăng chẳng biết tin kính, con cúng

dàng Tam Bảo, hoặc cho kẻ bần cùng, lại sinh lòng giận tức tiếc của, và nói rằng: - Ta

làm khổ sở mới có tiền, lại đem làm việc vô ích, tuy thế, nhƣng đạo tâm bố thí cúng dàng

tu thiện của con, không hề thay đổi và cũng không buồn hận gì!

Tôn giả nói: - Làm thân đàn bà suốt đời không bao giờ đƣợc tự tại, khi còn bé nhỏ ở với

cha mẹ, thì cha mẹ cấm đoán, khi có chồng thì chồng đàn áp dƣới ách di nô, khi già thì

con cái ngăn đón, riêng đối với phúc lực của con thì không bị chồng cấm đoán, tùy ý tu

thiện, này Ƣu Ba Tƣ Na, tối hôm nay đức Thế Tôn sang rừng Tỳ Nữu Can Đặc, con lại

viếng thăm Ngài.

Nói xong hai Tôn giả và các thầy Tỳ Khƣu ra về. Ƣu Ba Tƣ Na thầm nghĩ:

- Tôn giả mách bảo thật là một việc rất hay, ta sắm sửa vật thực để cúng dàng.

Ngày mai Ƣu Ba Tƣ Na gọi các ngƣời thân tín đi viếng thăm Phật, tới nơi rừng Tỳ Nữu

Can Đặc, thấy đức Thế Tôn dung nhan tƣơi sáng nhƣ vừng nhật nguyệt, uy phong lẫm

liệt. Cô và mọi ngƣời thụp lạy trƣớc Ngài, dâng hoa lên cúng rồi lui ngồi về một bên.

Hôm đó đức Thế Tôn thuyết pháp nói về công đức bố thí trì giới, sinh thiên, đoạn dục và

Niết Bàn, nghe thuyết pháp xong nàng bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Thôn xóm con thuần những ngƣời tà kiến, không biết Phật Pháp

Tăng, và không ƣa việc bố thí. Cho nên những vị Sa Môn, Bà La Môn, có vào làng không

ai biết cúng dàng, nên các vị chỉ vào nhà con. Kính xin Ngài có thời gian nào đến ấp làng

con giáo hóa cho mọi ngƣời biết tín ngôi Tam Bảo, hơn nữa chúng con lại đƣợc cúng

dàng.

94

Bạch xong lễ tạ lui ra, lần lƣợt đi thăm các vị Tỳ Khƣu, cuối cùng thấy một vị mang bệnh

nằm trong hang cỏ, liền hỏi:

- Đại Đức bệnh hoạn thế nào? Đau lâu mau thế nào? Phải dùng những thức gì điều trị, xin

cho con đƣợc rõ.

Đáp: - Tới đây thủy thổ bất hòa, tôi không hợp nên phải thụ bệnh, giờ đây nếu đƣợc thứ

thịt tƣơi ăn thì khỏi.

- Bạch Đại Đức, ngày mai con xin dâng Đại Đức dùng, việc ấy không khó!

- Hay lắm! Quý hóa lắm!

Ƣu Ba Tƣ Na lễ sát dƣới chân xin phép ra về, đi đƣờng thầm nghĩ rằng:

- Ta có phƣớc đức lớn, hôm nay đƣợc yết kiến Phật và các Tôn giả.

Ngày mai sai ngƣời ở đi chợ mua thịt, không mua đƣợc trở về thƣa rằng:

- Thƣa bà, hôm nay ngày rằm chợ không bán thịt, và hôm nay ngày quốc cấm, nếu ai sát

sinh bán thịt sẽ bị trọng phạt!

- Thế à! Mày cầm một ngàn đi mua, chỉ lấy số thịt giá một trăm đồng thôi, hoặc có kẻ nào

ham lợi thì họ bán!

Kẻ đó mang tiền đi chợ lần nữa, nhƣng vì luật nhà vua quá nặng nên không ai giết lợn

bán, vế thƣa rằng:

- Thƣa bà, hôm nay ngày quốc cấm không ai dám giết thịt bán.

- Mày cầm tiền vàng đi các nhà đồ tể mua một giá rất đắt!

Vâng lời bà chủ đi mua, nhƣng các nhà sát sinh cũng không ai dám mổ heo bán, về thƣa

cùng bà chủ rằng:

- Thƣa bà con đã hết lời năn nỉ họ, nhƣng luật nƣớc quá nặng, không ai dám giết heo bán,

xin bà liệu cách khác.

- Thôi để ta liệu!

Ƣu Ba Tƣ Na thầm nghĩ rằng:

- Ta đã hứa dâng Ngài dùng mà không có thì Ngài mong ta, hoặc vì thế mà Ngài chết thì

lỗi tại ta. Song lại nhớ tới vị Bồ Tát ngày xƣa vì một con chim bồ câu, còn cắt thịt để cứu

mạng sống của nó, phƣơng chi đây là một vị Tỳ Khƣu ta không nên quá yêu thân ta, ta

95

nên cắt thịt của ta để cứu lấy bịnh của Ngài. Nghĩ xong đi tắm rửa sạch sẽ gọi một ngƣời

thân tín nhất vào phòng nói rằng:

Ngƣơi làm ơn lấy dao này cắt thịt bên vế đừi cho ta một cân.

Ngƣời đó cầm dao cắt, trong lúc xẻo thịt, mặc lòng đau đớn khổ não; nhƣng cứ bấm gan

chịu, đứa ở gái lấy băng buộc chặt lấy chỗ đau. Sau mang ra nhào các thứ dƣợc thảo nấu

chín, bỏ vào cà mèn, đƣa đến rừng dâng lên vị Tỳ Khƣu có bệnh.

Tỳ Khƣu ăn thịt xong, thân thể an lạc các bệnh đều khỏi, lành mạnh nhƣ xƣa.

Đoạn này chồng của Ƣu Ba Tƣ Na về, không thấy vợ liền hỏi gia nhân rằng:

- Chúng bây đâu!

- Dạ! Ông chủ hỏi gì ạ.

- Chúng bây có biết Ƣu Ba Tƣ Na đi đâu không?

- Dạ! Thƣa ông, bà đƣơng nghỉ trong phòng!

Vào phòng thấy vợ nhan sắc biến đổi, có vẻ đau đớn, hỏi:

- Em đau à? Coi vẻ ủ rũ đấy!

Bƣớc ra sai ngƣời gọi thầy lang về chẩn mạch.

Thầy lang đế⮠

- Thƣa bác nhà tôi bị đau, nhờ bác chẩn mạch cho thuốc.

- Vâng! Chị ấy nằm đâu?

- Trong nhà, mời bác vào!

- Thế nào, bác đau sao?

- Bệnh tôi lúc nào cũng đau, hiện đang đau lắm không ngớt đau chút nào.

Thầy lang chẩn mạch không biết bịnh gì, yên lặng lui ra.

Thầy lang nói: - Bác ạ, tôi không rõ bác gái bệnh gì!

Anh chàng hỏi:

- Bệnh em làm sao nói cho tôi biết?

96

Thầy lang có giỏi cũng không biết đƣợc bệnh tôi! Thôi anh không phải lo, ít ngày em sẽ

khỏi bệnh.

Anh chàng lui ra, gọi gia nhân hỏi:

- Lũ bây có biết Ƣu Ba Tƣ Na bệnh gì không?

- Thƣa ông bọn tôi không biết, ông hỏi ngƣời hầu cận bà thì biết.

Anh chàng gọi đứa ở gái ra chỗ vắng hỏi:

- Mi có biết Ƣu Ba Tƣ Na bệnh gì không, nói thực cho ta biết.

- Thƣa ông! Bà cắt thịt đừi ra, nấu cúng dàng cho một vị Tỳ Khƣu ăn, nên bà bị đau đó!

Anh chàng nghe nói, hầm hầm nổi giận ra ngoài đƣờng lớn tiếng nói:

- Làm Sa Môn Thích Tử mà ăn thịt ngƣời, có khác gì Đồ Bác Túc Vƣơng ngày xƣa

không?

Chàng lê la nói mãi, khiến cho những ngƣời tín đồ của Phật vừa tủi thẹn vừa tức bực!

Anh chàng dám mạ Phật, Pháp, Tăng, rồi một số đông đến chỗ Phật lễ xong lui ngồi một

bên.

Phật hỏi: - Các ngƣơi tại sao buồn thế.

- Kính lạy đức Thế Tôn! Có một chành dòng Phạm Chí ra chỗ đông ngƣời lớn tiếng phỉ

báng Phật, Pháp, Tăng rằng: - Trƣớc đây Đồ Bác Túc Vƣơng ăn thịt ngƣời, ngày nay thầy

Sa Môn đệ tử của Phật cũng ăn thịt ngƣời, cúi xin đức Thế Tôn ra lịnh cho các vị, từ nay

không đƣợc ăn thịt nữa.

Đức Phật đánh chuông họp chúng rồi gọi vị Tỷ Khƣu có bệnh lên hỏi.

Vị Tỷ Khƣu lên lễ Phật xong lui ngồi về một bên.

Phật hỏi:

- Quý tử bệnh gì?

- Kính lạy đức Thế Tôn, vài hôm trƣớc con mắc chứng bệnh sốt, nhƣng hôm nay đã bớt

nhiều.

Phật hỏi:

- Hôm nay ngƣơi ăn món gì?

97

- Bạch lạy Thế Tôn! Con ăn thịt và uống nƣớc thịt.

- Ăn thịt tƣơi hay thịt khô?

- Dạ con ăn thịt tƣơi!

- Thịt tƣơi tức là thịt không để cách đêm.

Phật nói: - Nghe đây! Bất luận tƣơi hay kho trƣớc khi ăn ngƣơi có hỏi tịnh hay bất tịnh

không?

- Dạ! Lạy đức Thế Tôn, bệnh con đau quá, đƣợc thịt thì ăn ngay chứ không kịp hỏi.

Phật nói: - Tỷ Khƣu tại sao lại dùng món ăn bất tịnh? Phép của Tỷ Khƣu những món ăn

của thí chủ, trƣớc khi ta ăn phải hỏi, đây là thịt gì? Nếu thí chủ nói: Đây là tịnh nhục, thì

phải xem xét có thể tin đƣợc mới ăn, nếu không tin đƣợc thì không ăn.

Từ đấy Phật cấm các vị Tỷ Khƣu không đƣợc ăn thịt bất tịnh nhƣ sau:

1. Nếu Tỷ Khƣu nhìn thấy họ giết con vật ấy, thì không đƣợc ăn.

2. Nghe thấy tiếng nó kêu khi bị ngƣời giết, cũng không đƣợc ăn.

3. Nghi ngờ không đƣợc ăn.

Nhƣ thế là phân biệt nên ăn hay không, khi đó Ƣu Ba Tƣ Na đƣợc tin Phật cấm các vị Tỷ

Khƣu không đƣợc ăn thịt, chính bởi tại mình, trong lòng phát sinh đau khổ, buồn phiền,

bởi vì mình mà các vị sƣ không đƣợc ăn thịt liền kêu chồng đến nói rằng:

- Anh mạ Phật, Pháp, Tăng có tội lớn, ngày mai anh mời Phật và chƣ Sƣ về nhà cúng

dàng và sám hối, nếu anh nghe lời tôi thì đi ngay, bằng không thì tôi sẽ tự sát thân tôi

trƣớc mặt anh cho biết.

Anh chàng vốn không có lòng kính tin Phật, sau cũng vì sợ vợ tự tử, đáp rằng:

- Vâng! Tôi xin tuân lời của cô, xin cô đừng nói nữa, tôi sẽ đi mời Phật ngay bây giờ!

Nói xong anh chàng đi ngay, tới thƣa rằng:

- Thƣa Ngài Cồ Đàm Sa Môn, ngày mai chúng tôi xin mời Ngài, và mấy vị đệ tử đến nhà

dùng cơm.

Đức Phật thấy anh lỗ mãng vô lễ, Ngài từ bi lẳng lặng tỏ ý nhận lời.

Anh chàng cũng biết Ngài nhận lời của mình, vái tạ ra về, khi tới nhà nói với vợ rằng:

- Ông Cô Đàm đã nhận lời mời của tôi rồi đấy!

98

Ƣu BaTƣ Na sai gia nhân sửa soạn các món ăn, hƣơng hoa, ghế ngồi trang trí trong nhà

rất tôn nghiêm, sớm mai sai ngƣời vào rừng mời Phật.

Khi Phật và các vị Tỷ Khƣu đến nhà ngồi an tĩnh, không thấy Ƣu Ba Tƣ Na Ngài hỏi:

- Ƣu Ba Tƣ Na đâu? Không thấy ra chào?

Anh chàng đáp:

- Dạ! Đƣơng bị đau bệnh nằm trong giƣờng.

Nói xong chạy vào phòng gọi:

- Thầy cô gọi cô đó!

- Anh ra bạch rằng: - Ƣu Ba Tƣ Na lễ dƣới chân Phật và các vị Thánh Tăng, vì có bệnh

đau quá không thể ra đƣợc, cúi xin xá tội. Nhƣng anh ăn nói cho có lễ độ mới đƣợc!

Anh chàng ra thƣa rằng:

- Dạ! Thƣa Ngài, Ƣu Ba Tƣ Na lễ dƣới chân Phật, Pháp, Tăng, vì mang bệnh đau quá

không thể ra chào đƣợc.

Phật kêu: - A Nan

- Dạ!

Ông vào phòng gọi Ƣu Ba Tƣ Na ra ta hỏi.

- Dạ!

Tôi vào tới phòng, Ƣu Ba Tƣ Na cố gƣợng ngồi dậy chắp tay nói:

- Kính bạch Đại Đức, con xin lễ dƣớc chân Phật, Pháp, Tăng, rất muốn ra yết kiến đức

Thế Tôn, nhƣ kẻ đói đƣợc cơm, kẻ rét đƣợc áo mặc, nhƣ khi nóng nực đƣợc mát mẻ, nhƣ

kẻ lạc đƣờng muốn về lối cũ. Con muốn ra lễ kính Phật cũng nhƣ thế, tâm con khao khát,

nhƣng thân con hiện giờ đau lắm không ra đƣợc! Kính xin Đại Đức ra bạch Phật hộ con.

Tôi đi ra trình Phật những lời của Ƣu Ba Tƣ Na vừa nói, thì Phật bảo tôi rằng:

- Ông cho ngƣời khiêng Ƣu Ba Tƣ Na ra đây!

- Dạ! Con xin tuân lệnh.

Tôi bảo gia nhân khiêng đến trƣớc Phật.

99

Khi đó đức Nhƣ Lai phóng quang minh, ánh sáng chiếu vào chúng sinh nào thì chúng

sinh ấy đƣợc phần lợi ích, kẻ điên rồ đƣợc an chính, kẻ loạn tâm đƣợc bình tĩnh, kẻ bệnh

hoạn đƣợc hết bệnh hoạn. Ƣu Ba Tƣ Na nhờ oai thần của Phật ánh hào quang soi tỏ cõi

lòng, ngay giờ phút đó đƣợc lành mạnh hết đau.

Ƣu Ba Tƣ Na kính sợ vui mừng giao cảm, đứng lên thụp lễ dƣới chân đức Thế Tôn, lui ra

cầm một cái bình bằng vàng lấy nƣớc rửa chân Phật, đặt các món ăn, sắc đẹp mầu thơm

ngào ngạt dâng cúng đức Thế Tôn và các hàng Thánh Tăng. Dùng cơm xong Phật thuyết

về luận "Bố thí", luật "Trì Giới", tu "Thập Thiện", quả báo sinh thiên, sinh tử là tội lỗi của

tham dục, muốn xuất ly sinh tử phải tu "Tịch Diệt", diệt khổ đƣợc an vui, nói về Mười

Hai Nhân Duyên luân duyển không dứt.

Ƣu Ba Tƣ Na nghe Phật thuyết pháp xong thì đoạn tuyệt đƣợc lòng tham dục, giận tức, si

mê, chứng quả "A Na Hàm". Ngƣời chồng cô tự bỏ đƣợc tà kiến, biết tôn kính ngôi Tam

Bảo, và xin thụ giới Ƣu Bà Tắc, tất cả họ hàng quyến thuộc đều xin thụ Tam Quy Ngũ

Giới.

Bốn chúng đệ tử Phật, khi đó có ngƣời đắc quả Tu Đà Hoàn, có ngƣời đắc quả Tƣ Đà

Hàm, có ngƣời đắc quả A La Hán, mọi ngƣời ai nấy đều vui vẻ khát ngƣỡng Pháp Bảo

Vô Lƣợng.

Ngoài ra còn có nhiều ngƣời nghĩ nhƣ vầy:

- Kẻ nữ nhân dám cả gan cắt thịt cúng dàng Sa Môn, thực là một chuyện chƣa từng thấy

bao giờ! Chúng ta nếu bỏ quê hƣơng nhà cửa, cũng là một việc khó.

Sau đó những ngƣời dân bản xứ, có nhiều ngƣời bỏ nhà cửa họ hàng đi xuất gia, chăm

chỉ tƣ hành đoạn trừ kết lậu, thành ngôi a La Hán từ đó nơi thôn dã ấy nhiều ngƣời biết

tin theo đạo Phật, giáo pháp đƣợc lan rộng khắp nơi.

Cũng bởi thế, những ngƣời có trí tuệ sáng suốg cho đến kẻ nữ nhân cũng chăm tụng đọc

kinh Phật, tinh siêng không biết mỏi mệt, nên cũng nhiều ngƣời đắc quả. Kẻ trƣợng phu

lòng chăm tu đạo, há lại không thành công sao?

Coi đây, các thiện nam tử, thiện nữ nhân cần phải tu đạo nghiệp, sợ sinh tử khiến cho kết

sử nhẹ bớt, có ngày sẽ lìa đƣợc sinh tử, tuy đời mạt pháp chƣa đƣợc độ song công đức ấy

cũng đƣợc sinh nhân thiên, hƣởng phúc vô cùng tận.

Ngài Di Lặc Thế Tôn cách năm mƣơi sáu ức bảy ngàn muôn năm sẽ thành Phật thuyết

pháp độ sinh, bấy giờ tùy lòng cầu nguyện của mình muốn chứng đạo quả nào sẽ đƣợc

đạo quả ấy

---o0o---

100

Phẩm thứ mƣời tám : XUẤT GIA CÔNG ĐỨC

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thuở nọ đức Phật ở nƣớc Ma Già Đà, tại thành Vƣơng Xá

trong vƣờn Trúc Ca Lan Đà.

Buổi thuyết pháp này đức Phật nói về công đức xuất gia. Ngài nói rằng:

- Nếu ngƣời nào cho con trai con gái, đứa ở trai đứa ở gái, hoặc ngƣời dân hay chính

mình đi xuất gia, công đức ấy thực là vô biên nếu đem tỷ với phƣớc báu của bố thí, dầu

có đƣợc hƣởng phúc đến mƣời đời trên cõi nhân, cõi thiên cũng không bằng công đức

cho một ngƣời đi xuất gia hay tự mình đi xuất gia.

Tại sao thế? Vì phúc báo bố thí chỉ có hạn định, còn phúc xuất gia không có hạn định,

nên không thể bì kịp, hoặc phúc báu trì giới, hoặc phúc của các vị thần tiên có đủ năm

phép thần thông, cho đến phúc báu cùng tột của cõi trời Phạm Thiên, đem ví với phƣớc

báu xuất gia trong Phật – Pháp cũng không sánh nổi, hơn nữa ngƣời xuất gia còn đƣợc

đạo Niết bàn, nên phƣớc ấy không thể nói bàn cho xiết đƣợc.

Giả nhƣ có ngƣời nào, xây tháp bằng Thất Bảo, cao tới cõi trời Đao Lợi, công đức ấy

cũng chƣa bằng cho ngƣời đi xuất gia, vì tháp Thất Bảo kia có ngày bị kẻ gian ác ngu si

phá hủy.

Muốn cầu một pháp lành, ngoài Phật Pháp ra không còn pháp gì có thể cao hơn. Cũng tỷ

nhƣ một trăm ngƣời, bị lòa đôi mắt, gặp thầy thuốc chữa lành sáng tỏ, hoặc trăm ngƣời bị

tội móc mắt gặp đƣợc ngƣời có sức hùng mạnh cứu thoát, phƣớc cứu hai ngƣời nói trên,

tuy lớn nhƣng không bằng cho một ngƣời đi xuất gia.

Đức xuất gia cao cả, phƣớc cứu hai ngƣời lành đôi mắt chỉ đƣợc một đời, rồi đây nó cũng

bị hoại.

Cho ngƣời đi xuất gia, hay tự mình đi xuất gia, sau khi đƣợc thành tựu quả Bồ Đề họ sẽ

đem giáo lý đạo Phật giáo hóa chúng sinh, đƣợc con mắt trí tuệ muôn ngàn kiếp bất diệt,

vì con mắt trí tuệ không bao giờ bị hoại.

Những ngƣời đƣợc hƣởng phúc trong cõi nhân cõi thiên, chỉ phóng túng say mê về dục

vọng, họ không có con mắt trí tuệ nhận xét: Nó là giả dối, không sự thật, nó là hố lửa sâu,

thui đốt con ngƣời ngu si tham vọng, nó làm hầm cạm bẫy đƣa dắt ngƣời vào nơi ác thú

luân hồi.

Pháp xuất gia tiêu diệt họ hàng nhà ma, làm lợi ích cho dòng xuất thế của Phật Pháp, nuôi

thiện pháp, trừ tội cấu, thêm phúc lành, đƣợc thành Phật.

Đức Phật nói: - Công đức xuất gia cao nhƣ núi Tu Di, sâu nhƣ biển cả, rộng nhƣ hƣ

không.

101

Những ai làm cản trở ngƣời phát tâm đi xuất gia, kẻ đó sẻ bị tội đọa vào địa ngục hắc ám,

và không có mắt, cũng ví nhƣ tất cả các nƣớc sông lớn sông nhỏ, ngòi, lạch, suối, ao, đều

chảy về biển, tội báo của kẻ đó cũng thế, những tội ác chất ở thân kẻ đó cũng ví nhƣ núi

Tu Di bị thời tai kiếp đốt cháy tiêu tan, kẻ đó vào địa ngục hỏa thiêu vô thời hạn, cũng

nhƣ vị thuốc độc Ca Lƣu Lâu Hê Ni đem tỉ với vị thạch, một sự báo ứng của thiện ác

cũng thế.

Cho ngƣời đi xuất gia, hay chính mình đi xuất gia, công đức nhƣ trời xanh, nhƣ biển

thẳm. Ngƣời xuất gia lấy kinh điển làm nƣớc, để rửa những cấu nhơ của nghiệp kết sử,

trừ bỏ đƣợc khổ, sinh, già, bệnh, chết, và làm cái nhân của đạo Niết bàn, lấy giới làm

chân bƣớc lên đất thanh tịnh trang nghiêm, lấy luật làm mắt để coi xem những thiện ác

của thế gian, đi trên đƣờng Bát Chánh tới thành Niết Bàn, vì những lợi ích ấy nên cho

ngƣời đi xuất gia, hay tự mình đi xuất gia.

Thời đó có một Trƣởng giả tên là Thi Lợi Bí Đề (Tàu dịch là Phúc Tăng) tuổi đã một

trăm, nghe biết ngƣời ta thuật lại công đức xuất gia cao cả nhƣ vậy, ông thầm nghĩ nhƣ

vầy:

- Ta nay tuổi đã già yếu đối với việc xuất gia tu đạo trong Phật Pháp, phúc đức lớn lao,

sao lại không xuất gia chả uổng lắm ƣ?

Nghĩ xong gọi vợ con lên bảo:

- Bà và các con ở nhà làm ăn, tôi muốn đi xuất gia tu đạo, có vui lòng không?

Ông lão này vợ con đều ghét bỏ, vì ông chỉ ăn hại, không làm đƣợc việc gì, lại hay bẳn

gắt, nên họ đều mừng và trả lời:

- Dạ! Phải, nguyện ông đi cho rồi, đi sớm đƣợc giờ phút nào, là hay cho lũ tôi giờ phút

đó!

Ông lên đƣờng đi hỏi thăm đến vƣờn Trúc nơi đức Thế Tôn ngự. Tới nơi không may

ngày đó Phật đi vắng, ông vào hỏi các vị Tỷ Khƣu rằng:

- Bạch Đại Đức, Phật Ngài ngự phòng nào, xin chỉ giùm tôi?

- Đức Thế Tôn, Ngài đi giáo hóa nơi khác không có ở nhà!

- Bạch Đại Đức, Phật đi vắng thì vị thƣợng túc của Ngài là ai?

Các vị đều chỉ tay đến chỗ ngài Xá Lợi Phất, ông lão lọm khọm chống gậy tới, bỏ gậy

xuống đất chắp tay làm lễ thƣa rằng:

- Bạch lạy Đại Đức Thế Tôn Giả con một lòng thành kính tới đây xin xuất gia học đạo,

cúi xin Ngài từ bi thâu nạp, đƣợc đội ơn vạn bội!

102

Ngài Xá Lợi Phất đƣa mắt nhìn xong tự nghĩ rằng:

Ngƣời này già yếu, học hỏi, tọa thiền, trợ việc chúng, trong ba việc, không làm đƣợc một,

có tu cũng vô ích.

Nghĩ rồi đáp rằng: - Ông già yếu lắm rồi, không thể xuất gia đƣợc.

Sau ông đi thƣa với Ngài Ca Diếp, Ngài Ƣu Ba Ly, Ngài A Nâu Lâu Đà, cuối cùng đến

năm trăm vị La Hán, các vị đều hỏi:

- Ông đã thƣa với vị nào chƣa?

Ông đều thƣa với các vị rằng:

- Trƣớc hết con hƣớng đức Thế Tôn, nhƣng Ngài không có ở Tịnh xá, con có thƣa với

Ngài Tôn Giả Xá Lợi Phất, Ngài nói rằng ông già yếu lắm rồi, không thể xuất gia đƣợc.

Thì các vị đều trả lời rằng:

- Ngài Xá Lợi Phất là một vị trí tuệ thứ nhất, còn không dám thâu nạp vào hàng xuất gia,

ta cũng thế, cũng tỷ nhƣ một ông thầy thuốc giỏi, biết bệnh nhân không thể chữa đƣợc,

ngoài ra các thầy lang khác cũng phải khoanh tay, còn chữa sao nổi, độ sao đƣợc!

Có lẻ ông lão này tử tƣớng đã xuất hiện, nên Ngài Xá Lợi Phất không độ, cho đế⮠các vị

Tỷ Khƣu cũng từ chối.

Ông Thi Lợi Bí Đề xin xuất gia không đƣợc, trở ra ngoài ngõ Trúc viên than khóc một

mình rồi lẩm bẩm nói:

- Ta từ thuở sinh làm ngƣời đến nay, chƣa làm một lỗi gì lớn, thế mà tại sao chỉ riêng một

mình ta không đƣợc xuất gia? Ông Ƣu Ba Ly là ngƣời bần tiện, ông Ni Đề là ngƣời hốt

phân thuê, ông Ƣơng Quật Ma La là kẻ giết ngƣời rất nhiều, ông Đà Tắc Ky là kẻ ác nhân

làm giặc, mà còn đƣợc xuất gia? Vậy mình có tội gì không đƣợc xuất gia?

Đƣơng phàn nàn một mình, hốt nhiên thấy Phật đứng ở trƣớc mặt, ông nhìn thấy quang

minh chói sáng, tƣớng mạo đoan nghiêm, tựa nhƣ vua Thiên Đế Thích trên cung trời Đao

Lợi.

Phật hỏi: - Thi Lợi Bí Đề làm sao khóc?

Ông vui mừng quá! Vội vàng cúi đầu lễ dƣới chân khóc mà bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Có những chúng sinh: Kẻ giết ngƣời, kẻ làm giặc, kẻ nói dối, kẻ

phỉ báng, kẻ hạ tiện, những kẻ đó đều xuất gia, con xét thân con từ thuở sinh làm ngƣời

đến nay đã một trăm tuổi chƣa từng làm điều gì ác, mà các vị Tỷ Khƣu không thâu nhập

cho con đƣợc xuất gia! Bạch lạy đức Thế Tôn! Ở nhà thì vợ con ghét bỏ, đến đây nƣơng

103

bóng từ bi Ngài không có ở Tịnh Xá, các vị Tỷ Khƣu cho con già quá không nhận, bây

giờ về cũng khốn nên con muốn bỏ mạng ở nơi đây.

Phật hỏi: - Ai nói ngƣời này đƣợc xuất gia kẻ kia già không đƣợc xuất gia?

- Kính lạy đức Thế Tôn, Ngài Thƣợng Túc Xá Lợi Phất!

Ngài an ủi ông rằng:

- Thôi chớ buồn nữa, ta sẽ cho xuất gia tu học, ông Xá Lợi Phất không phải là một ngƣời

đã chăm làm những hạnh khổ trong ba đại kiếp A Tăng Kỳ và đã tu phúc trong trăm kiếp,

ông không phải đời ấy đời khác đã chăm làm những việc rất khó, nhƣ: Chặt đầu móc mắt,

chẻ xƣơng lấy tủy, óc, cắt thịt chọc tiết, lột da, chẻ xƣơng chân tay, cắt cái mũi bố thí;

ông không phải là ngƣời đã đem mình cứu hổ đói nhảy xuống hố lửa sâu, đóng trên mình

một ngàn cái đinh để cầu nghe đạo, khoét mình ra một ngàn lỗ để đốt đèn; ông không

phải là ngƣời đã đem quốc, thành thê, tử, nô tỳ, voi, ngựa, thất bảo ra bố thí, ông không

phải là ngƣời kiếp sơ A Tăng Kỳ cúng dàng tám vạn tám ngàn đức Phật, kiếp hậu A Tăng

Kỳ cúng dàng mƣời vạn ức đức Phật, xuất gia giữ giới đầy đủ đối với pháp tự tại ông Xá

Lợi Phất không có thể nói: Ngƣời này đƣợc xuất gia, hay kẻ kia không đƣợc xuất gia, Ta

một ngƣời đối với pháp tự tại cỡi xe Lục Độ, mặc áo giáp Nhẫn Nhục, ngồi tòa Kim

Cƣơng, dƣới cội cây Bồ Đề hàng phục Ma Vƣơng thành ngôi Vô Thƣợng Pháp Vƣơng,

không ai bằng ta, ngƣời an tâm theo ta về Tinh Xá, ta sẽ cho xuất gia.

Đức Thế Tôn an ủi xong làm cho nỗi phiền não của ông đƣợc tiêu tan, trong lòng vui vẻ

sạch lâng! Theo sau Phật về.

Khi về tới Tinh Xá đức Phật, gọi ông đại Mục Kiền Liên giao cho phải chịu trách nghiệm

dạy bảo và thế phát làm lễ xuất gia.

Vì Đức Phật, Ngài có con mắt trí tuệ nhận thấy những chúng sinh có duyên với ngƣời nào

thì ngƣời ấy mới độ đƣợc. Tỷ nhƣ ngƣời có duyên với Phật thì Phật độ cho họ, ngƣời

khác không độ đƣợc, ngƣời có duyên với ngƣời khác thì ngƣời khác độ, Phật không độ

đƣợc, ngƣời có duyên với Ngài Xá Lợi Phất thì Ngài Xá Lợi Phát độ cho họ, chứ Ngài

Mục Liên, Ngài Ca Diếp, Ngài A Na Luật, Ngài Kim Tỳ La và tất cả vị Thanh Văn sao

độ cho họ đƣợc, vì họ không có duyên với các vị. Nói tóm lại những ngƣời có duyên với

mình, thì mình độ, không có duyên thì không thể độ đƣợc.

Ngài Mục Liên vâng lời Phật lãnh trách nhiệm, rồi thầm nghĩ nhƣ vậy:

- Ông lão này niên cao già yếu, tụng kinh, tọa thiền, trợ việc chúng ba việc không đƣợc

một. Song Phật đã giao cho, ta lẽ nào dám trái mạng.

Sau ít bữa thế phát đăng đàn thọ giới cụ túc.

104

Tuy thế nhƣng ông lão đã có trồng nhân lành với Phật Pháp từ đời quá khứ, đã từng tu tập

các công đức, các pháp môn của Phật giáo, nên kiếp này tuy xuất gia muộn, nhƣng sự

tinh anh học hiểu rất mau chóng.

Từ khi ông đƣợc thế phát xuất gia làm Sa môn ngày đêm cố gắng tu tập nghe rành hiểu

rõ, nên chẳng bao lâu đã khai ngộ.

Hiềm vì tuổi già sức yếu nên oai nghi lễ kính đối với các Thƣợng Tọa không đủ bổn

phận, các vị niên thiếu Tỷ Khƣu, thấy ông có những hành vi thô tháo, không có lễ độ nhà

thiền, cũng có khi răn bảo hoặc quở trách, thì ông lại kiêu căng tự đại, cậy mình niên cao

học rộng, không chịu cung kính thừa sự. Thấy các vị có cử chỉ đối với mình nhƣ vậy, ông

thầm nghĩ vầy:

- Ta ở tại gia vợ con ghét bỏ xúc não, nay đi xuất gia, mong đƣợc chỗ an vui, qua con mắt

trái ngƣợc nơi tục lụy, ai ngờ lại bị các Tỷ Khƣu niên thiếu khinh miệt, không biết ta phải

tội gì đến thế, lại thêm nghiệp phiền não cho ta, thà bỏ mạng cho qua đời là hết chuyện.

Ông liền đi sang khu rừng, bên đó có một con sông, vừa sâu vừa chảy mạnh, cởi áo Cà Sa

vắt trên cành cây, quỳ thẳng chắp tay hƣớng lên tấm áo khóc mà thề rằng:

- Con xin bỏ mạng nơi đây, nhƣng không bỏ Phật, Pháp, Tăng, cái áo của con đây, xin

dâng cúng các vị Tỷ Khƣu trì giới thanh tịnh tinh tiến tu hành, nguyện xả thân này, đƣợc

sinh vào nhà phú quý vui vẻ! Họ hòa thuận không làm ngăn cản những thiện pháp con

muốn làm, và đƣợc gặp ngôi Tam Bảo xuất gia tu đạo, đắc ngộ minh sƣ thiện hữu, chỉ

bảo cho những ý nghĩa lý sâu huyền tu chứng thành công trên đƣờng giải thoát an lạc.

Thế rồi, ông nhảy xuống sông. Khi đó Ngài Mục Kiền Liên ở trong rừng Trúc, dùng thiên

nhãn nhìn xem ông đệ tử già mình làm gì, chợt thấy ông nhảy xuống sông, Ngài dùng lực

thần túc vớt ông lên bờ, rồi bay tới tận nơi hỏi:

- Pháp Tử làm gì thế?

Thi Lợi Bí Đề ngửa mặt nhìn thấy thầy, thẹn hổ quá! Và cũng không biết dùng lời lẽ gì

để thƣa cùng thầy, ông thầm nghĩ:

- Ta không nên nói dối thầy, đời đời bị tội không lƣỡi. Song thầy ta có thần thông biết

trƣớc, nếu ta nói dối thầy ta cũng biết. Trên đời những ngƣời có trí tuệ thông mình tính

chất thật thà ngay thẳng, các ông trời còn phải kính trọng, nếu ngƣời có trí tuệ mà tâm

siểm dối, cũng làm nhân sƣ và đƣợc ngƣời ta cúng dàng, ngƣời không có trí tuệ mà tâm

ngay thẳng, tuy không giúp đƣợc ngƣời, nhƣng đã tự cứu đƣợc mình, nếu kẻ vừa ngu si

vừa siểm nịnh lừa dối thì bị ngƣời ta khinh rẻ chê bai, là đồ hèn hạ, dẫu có nói gì ngƣời ta

đều cho là kẻ lừa bịp không tin dùng, ấy thế nếu nói dối thầy dĩ nhiên không hay cho bản

thân ta.

105

Thƣa rằng: - Bạch thầy con đã chán cái cảnh tục lụy, đi xuất gia để cầu an lạc, trái lại

không thấy an lạc, mà chỉ thấy phiền não nhiều! Vì thế con muốn bỏ mạng ở đây, xin

thầy xá tội!

Ngài Mục Liên thầm nghĩ:

- Ông lão này nếu ta không dùng một phƣơng pháp sợ hãi thì đối với việc xuất gia của

ông không kết quả.

Nghĩ xong nói: Pháp Tử hãy nắm chặt lấy góc áo Cà Sa của ta, khi bay lên hƣ không phải

chính niệm chớ có loạn tƣởng.

- Dạ! Thầy dạy con xin tuân mạng.

Ông nắm áo cẩn thận, Ngài bay vút lên hƣ không nhƣ cơn gió thổi mạnh, ông đệ tử nắm

áo Ngài, cũng nhƣ luồng gió cuốn bụi, nhƣ chiếc bông bay trên không gian. Chỉ một chớp

loáng đã tới biển cả. Ngài hạ chân xuống bãi, hai thầy trò đi trên bãi biển, gặp một ngƣời

con gái mới chết nằm phơi thây dƣới ánh mặt trời, ruồi nhặng ào ào bâu kín, nhìn thấy

một con trùng bò ra rồi chui vào lỗ mũi, sau lại luồn ra hai mắt, qua mắt rút vào lỗ tai, coi

rất ghê sợ. Ngài đứng lại lập phép quán tƣởng, quán xong lại đi.

- Bạch Hòa Thƣợng! Ngƣời con gái này vì lý do gì chết tại đây? Lại có con trùng bò ra,

rúc vào nhƣ vậy?

- Một lát ta sẽ nói cho hay!

Hai thầy trò đi đƣợc vài dặm, gặp một nguời con gái, đội cái vạc bằng đồng đến mé biển

đổ nƣớc đầy lửa đun sôi sùng sục, cởi áo nhảy vào trong vạc nƣớc sôi ấy, tóc lông rụng

hết, chân tay rã rời, xƣơng thịt tả tơi, nhừ nát thân thể, nƣớc sôi mạnh quá làm cho xƣơng

thịt tung hết ra ngoài, gặp một cơn gió làm cho da thịt chắp liền với nhau, thành lại hình

ngƣời nhƣ cũ, ngƣời con gái ấy cứ xé thịt mình ra, rồi bỏ vào mồm ăn nhƣ ngon lành lắm.

Ông đệ tử già sợ quá hỏi:

- Bạch Hòa Thƣợng, cô này tội gì nhƣ vậy, xin thầy nói cho con đƣợc rõ?

- Hãy khoan! Lát nữa ta nói cho hay!

Hai thầy trò đi khoảng vài dặm, thấy một thân cây to lớn, có rất nhiều sâu bám kín, cho

đến cành lá chỗ nào cũng có sâu ăn rúc, lại nghe thấy tiếng kêu khóc! Làm cho chấn

động, nhƣ tiếng kêu trong địa ngục, sợ quá! Hỏi:

- Bạch Hòa Thƣợng tiếng kêu đó là những ngƣời nào, tại nguyên nhân gì?

- Hãy khoan! Rồi ta sẽ렮ói.

106

Thầy trò lại bắt đầu đi, vừa đƣợc một lát, thấy một quả núi lớn có rất nhiều dao kiếm

nhọn sắc, cắm ngƣợc mũi lên trời, tua tủa nhƣ các hàng cây mọc, lại thấy một ngƣời nằm

lăn mình từ trên đỉnh núi xuống đến chân, thân thể ngƣời ấy bị dao kiếm đâm nát tƣơm,

máu chảy lênh lánh coi rất rùng rợn, hoặc có cái dao, cái kiếm nào bị đổ, ngƣời ấy lại

dựng đứng lên nhƣ cũ, rồi bắt đầu trèo lên đỉnh núi lăn nhƣ trƣớc, cứ nhƣ thế mãi không

thôi.

Sợ quá! Hỏi: - Bạch Hòa Thƣợng ngƣời này tại sao khổ nhƣ thế?

- Hãy khoan, tới thời ta sẽ nói!

Qua quả núi này thấy một ngƣời con trai to lớn, chung quanh mình mọc hình những đầu

các con thú rất ghê gớm, lại thấy các quỷ thần ác, tay cầm cung hoặc nỏ, mỗi cái tên có

ba ngạnh, đầu bịt sắt nhọn có thuốc độc, và cháy đỏ, họ thi nhau, tranh nhau bắn ngƣời

con trai ấy, thân thể cháy xám đen, kêu la thảm thiết!

Sợ quá hỏi: - Bạch Hòa Thƣợng! Ngƣời này phải tội gì nhƣ vậy?

- Hãy khoan, rồi ta sẽ nói.

Thầy trò đi đƣợc vài dặm thấy một quả núi lớn, núi này thuần xƣơng không có đất đá, cao

tới bảy trăm do tuần, che khí sáng mặt trời, làm cho khoảnh bể ấy vị tối om, thầy trò trèo

lên đi trên sƣờng núi một cách dạo chơi ung dung, thong thả. Thi Lợi Bí Đề tự nghĩ, giờ

đây ta hỏi những việc vừa qua có lẽ thầy ta nói, nghĩ xong hỏi:

- Bạch Hòa Thƣợng! Xin thuật lại những chuyện việc vừa qua cho con rõ ƣ.

- Pháp Tử để ý nghe cho kỹ, ta sẽ nói cho rõ nguyên nhân các câu chuyện vừa qua cho

biết.

- Dạ con xin chú ý nghe.

Đầu tiên ngƣời con gái chết nằm trên bãi biển: Cô đó vợ của anh Tát Bạc ngƣời nƣớc Xá

Vệ có nhan sắc đẹp, nên anh chồng cô yêu mến lắm. Tát Bạc đi buôn, vì quá yêu vợ, nên

anh đƣa vợ đi buôn, cùng với năm trăm ngƣời khách buôn ra biển. Cô này hay điểm tô

má phấn môi son trâm gài, lƣợc giắt ra ngắm vào vuốt, soi gƣơng nhìn thấy mặt đẹp khởi

lòng kiêu mạn lại thêm ham mến cái đẹp của mình. Thuyền đƣơng đi gặp phải con rùa

lớn, nó đạp thuyền bị thủng đắm chìm dƣới đáy biển, mọi ngƣời đều bị chết cả, biển

không chứa tử thi. Vì thế các quỷ Dạ Xoa, quỷ La Sát làm sóng gió đánh giạt những thây

ấy lên bờ, chúng sinh tùy theo tâm ái luyến và lòng tƣởng niệm khi chết sẽ bị đọa vào nơi

ƣớc muốn ấy. Cô này vì yêu sắc đẹp của mặt mình, tiếc sắc đẹp nên bị đọa làm con trùng

để coi cái bộ mặt, thế cho nên con trùng cứ vơ vẩn từ mồm rúc ra, lại luồn qua mũi sang

tai, vào mắt, mà không đƣợc giải thoát.

Nếu ai hỏi: Cứ theo tâm ái luyến tham trƣợc đâu, thì sinh nơi đó, vậy ai yêu địa ngục làm

chi, mà vào địa ngục cho khổ, thì trả lời họ rằng:

107

- Kẻ nào lúc bình sinh ăn trộm tiền của Tam Bảo hoặc của cha mẹ, hoặc sát nhân, tội ấy

rất lớn phải đọa vào địa ngực hỏa thiêu. Kẻ đó trƣớc hết mắc phải bệnh phong hàn lãnh,

làm cho bức não thân tâm, trong lúc óc bệnh luôn luôn nghĩ đến nóng vì trong ngƣời

lạnh, nên muốn tìm đến chỗ có lửa, đƣơng khi trƣởng niệm thì chết, hồn trút khỏi xác, tất

nhiên nó sẽ theo lòng tƣởng niệm mà đọa vào hỏa ngục.

Nếu kẻ nào ăn trộm đèn thờ Phật cùng các đồ vật khác, hoặc của chƣ Tăng đèn đuốc, củi

cỏ, hoặc phá phòng Tăng, giảng đƣờng, hoặc mùa đông rét mƣớt lột áo của ngƣời, hoặc

cậy thế lực, trời rét lấy nƣớc hành phạt ngƣời bằng cách dội nƣớc lên đầu, khiến ngƣời ta

chết rét, hoặc cƣớp trộm lột áo ngƣời ta. Tội báo ấy sẽ bị đọa vào địa ngực hàn băng.

Trƣớc hết kẻ đó bị chứng bệnh nhiệt, làm nóng sốt thân thể cƣờng nhiệt luôn luôn nghĩ

đến giá lạnh, trong khi tƣởng niệm ấy thì chết, hồn trút khỏi xác liền đọa vào địa ngục

lạnh, nhƣ địa ngục: Ƣu Bát La, Bát Đâu Ma, Câu Vật Đà, Phan Đà Lợi v.v…trong những

ngục hàn lãnh này, kẻ tội nhẩn lạnh buốt, thân thể khô khan nhƣ hạt đậu rang, óc tủy nhƣ

gạo rang, xƣơng đầu tan vụn ra trăm ngàn muôn phần, xƣơng mình gãy nát nhƣ tên vót

nhọn.

Nếu kẻ nào mang lòng ham sẻn giựt của ngƣời, làm cho ngƣời ta chết đói, đói hoặc ăn

uống không có thời tiết, kẻ ấy sẽ đọa vào loài quỉ đói, trƣớc hết mắc phải bệnh khí, bụng

đầy, ăn uống không tiêu, thầy thuốc xem bệnh lấ⮠những thức ăn dỗ dành: Thứ này ngon,

thứ này ngọt, thứ này chua, để dễ tiêu, ngƣơi cố gắng ăn đi thì bệnh sẽ khỏi. Kẻ bệnh

nhân ấy tự phát lòng nóng giận nói: - Tôi ghê lắm! Tôi sợ lắm! Bao giờ cho con mắt tôi

không trông thấy các món ăn này, trong lúc đƣơng tƣởng niệm ấy thì chết, hồn trút khỏi

xác cứ theo tâm tƣ tƣởng, ấy đọa vào quỉ đói (ngạ quỷ).

Cũng có kẻ ngu si không tin ngôi Tam Bảo, hoặc phỉ báng hoặc khinh hủy, không theo

đú鮧 đạo làm ngƣời: Cha con hoặc mẹ con, anh em, tông thân dâm dục hỗn độn không

phân biệt, hoặc bất hiếu không tin tội phúc vân vân…

Khi ốm nằm tựa nhƣ con chó, co quắp không thẳng, đó là do nghiệp sử nhiên, không

muốn nghe lời nói lành. Cha mẹ anh em họ biết rằng: Bệnh nhân phải chết, họ khuyên

rằng:

- Tụng kinh cho ngƣơi nhé! Quy y Phật cho ngƣơi nhé! Ngƣơi nên ngắm kính hình tƣợng

Phật và mời chƣ Tăng về thuyết pháp cho ngƣơi nghe nhé, ngƣơi chịu khó niệm Phật cho

khỏi tội lỗi đƣợc nhiều phúc đức, những của vật này đem bố thí cầu phƣớc cho ngƣơi

nhé!

Khuyên thế, nhƣng tâm kẻ đó vẫn không vui vẻ! Lại sân nộ ác ý nói: Tôi nguyện rằng

"không bao giờ nghe thấy những lời nói nhƣ vậy, đối với tôi, là không có gì hết, không

phúc đức chi hết, chết là hết".

Kẻ đó chết, hồn trút khỏi xác đọa vào loài súc sinh, vì súc sinh không có văn hóa, đạo

đức, không tôn thân cha mẹ, anh em, cũng do tâm niệm của họ gây nên cả.

108

Nếu ai ham tu điều lành, trồng nhân cõi ngƣời, giữ năm giới, ngƣời ấy sẽ không bị bệnh

hoạn làm bức bách thân tâm tới khi chết tâm ý không rối loạn, biết rằng sắp chết, nên anh

em họ khuyên rằng:

Ngƣời muốn nghe Kinh Pháp không? Muốn ngắm hình tƣợng Phật không? Muốn gặp

chƣ Tăng nghe thuyết pháp không? Muốn thọ trai thọ giới không? Muốn cúng dàng Tam

Bảo không?

Bệnh nhân đáp: - Hay lắm! Tôi muốn nhƣ thế lắm!

Họ lại nói tiếp cho nghe:

- Tụng kinh ngắm hình Phật, sẽ đƣợc thành Phật đạo; cúng dàng in kinh Pháp, sinh nơi

nào cũng có trí tuệ cao sáng hiểu thấu các pháp tƣớng; cúng dàng Tăng, sinh nơi nào

cũng đƣợc giàu sang sung sƣớng, ý muốn dùng gì cũng đầy đủ.

Bệnh nhân nghe xong sung sƣớng phát nguyện rằng:

- Nguyện cho con sinh nơi nào cũng đƣợc gặp ngôi Tam Bảo nghe Pháp ngộ đạo.

Ngƣời đó khi chết đƣợc sinh làm ngƣời, nếu ngƣời nào trồng nhân thập thiện để cầu sinh

thiên hoặc trì giới thanh tịnh làm hạnh bố thí ham nghe kinh Pháp, chăm tu mƣời điều:

Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lƣỡi đôi chiều,

không nói ác, không giận tức, không ngu si, ngƣời ấy lúc mệnh chung đƣợc an vui và

nằm ngửa, đƣợc nhìn thấy hình tƣớng Phật, và nghe nhạc trời, nhan sắc hòa vui, cất tay

hƣớng lên, phút cuối cùng tắt thở hồn bay lên Trời.

Đây vợ Tát Bác vì ham luyến cái sắc đẹp của mình, cho nên lúc chết, phải sinh làm con

trùng, ở ngay xác chết của mình, sau khi bỏ thân trùng phải đọa vào địa ngục chịu khổ vô

cùng.

- Bạch Hòa Thƣợng! Kẻ thiếu phụ tự ăn thịt của mình căn nguyên tại sao xin nói cho con

đƣợc rõ?

- Ngƣời này ở nƣớc Xá Vệ là đứa ở gái của một ngƣời Ƣu Bà Di. Ngƣời Ƣu Bà Di này,

nguyện cúng dàng một vị Tỷ Khƣu trì giới thanh tịnh trong một khóa an cƣ là chín mƣơi

ngày, làm riêng một căn nhà, cho vị đó ở, hàng ngày sửa soạn các món ăn ngon lành

thơm sạch, tới bữa ăn sai đứa ở gái dâng Ngài, xong các món ăn ngon nó đều sơi hết, chỉ

dâng Ngài các món thừa không ngon.

Qua một thời gian, Ƣu Bà Di thấy nhan sắc nó béo tốt đẹp đẽ, hỏi:

- Mi ăn vụng các món ăn của thầy ta hay sao độ nầy mập mạp vậy?

109

- Thƣa bà đâu có, con cũng tin tội phúc chứ, con đây không phải là kẻ tà kiến đâu, có lẽ

nào con dám ăn trƣớc, thầy ăn xong có còn thừa cho con, con mới dám ăn! Con thề rằng:

Nếu con ăn trƣớc thầy thì đời đời con phải tự ăn thịt của con.

- Pháp Tử nên biết! Chính đứa ở gái ăn vụng thức ăn của vị Tỷ Khƣu, sau chối và thề

nguyện nên phải thụ quả báo tự ăn thịt mình. Nhƣ nay tức là Hoa báo, sau phải đọa vào

địa ngục, lúc bấy giờ mới chính là quả báo, khổ đau vô cùng tận, nói không xiết.

- Bạch Hòa Thƣợng còn cây to lớn có những con trùng ăn rúc, tiếng kêu dữ dội nhƣ thế là

do nhân duyên gì?

- Đó là một vị Tỷ Khƣu giữ của thƣờng trụ, tên là Lại Lợi Cha, lấy của thƣờng trụ và

những hoa quả, thức ăn uống cho anh em họ hàng và ngƣời bạch y, những ngƣời ấy sau

khi chết, phải đọa vào địa ngục lớn làm những con trùng con sâu này để ăn rúc thân cây,

còn thân cây này, là vị Tỷ Khƣu nói trên (Lại Lợi Cha).

- Bạch Hòa Thƣợng! Cái ngƣời bị bắn kêu khóc lửa cháy cả toàn thân đó là vì tội gì nhƣ

vậy?

- Ngƣời này lúc sinh thời, là một gã đi săn, sát hại các loại cầm thú, bởi tội ấy chết phải

đọa xuống địa ngực, chịu khổ báo nhƣ vậy, chƣa biết ngày nào đƣợc thoát!

Bạch Hòa Thƣợng, cái ngƣời lăn từ trên đỉnh núi xuống, máu me đẫm mình, họ tạo tác tội

gì, xin nói cho con đƣợc rõ?

Ngƣời này ở thành Vƣơng Xá, là một ông Đại Tƣớng đi tiên phong sát hại nhân dân, giết

ngƣời không nhởn, vì thế phải tội báo này, sau phải đọa vào đại địa ngục chịu lấy sự thốn

khổ vô thời hạn.

- Bạch Hòa Thƣợng, còn cái núi xƣơng đây là gì?

- Núi xƣơng này là con cá Ma Kiệt, chính nó là tiền thân của ông, vì ngƣơi còn là phàm

phu, cách ấm bị mê, nên không biết đấy thôi!

Thi Lợi Bí Đề nghe xong tâmhồn thổn thức, sợ hãi thƣa rằng:

- Bạch Hòa Thƣợng tâm hồn con còn mê tối không hiểu biết, cúi xin Hòa Thƣợng nói cá

nguyên nhân tội gì con phải làm thân cá?

- Pháp Tử nên biết, sinh tử luân chuyển không có bờ bến, nhƣng đối với nghiệp báo của

thiện ác thì không sai lạc, không tài nào trốn thoát đƣợc, tạo nghiệp gì phải báo nghiệp

đó. Đây từ đời quá khứ, có một ông vua ở Châu Diêm Phù Đề, tên là Đàm Ma La Bí Đề

(Tàu dịch là Pháp Tăng). Ông chăm làm việc bố thí, giữ giới, nghe kinh, có tâm từ bi,

tính không bạo ác, không bao giờ làm tổn thƣơng đến tính mạng của một loài nào. Xứng

đáng một ông vua có đạo đức. Ông dùng chánh pháp để trị dân, làm vua đã đƣợc hai

110

mƣơi năm, đƣơng buổi thừa nhàn đánh bạc chơi vui, lúc ấy có ngƣời phạm tội sát nhân,

quan tòa vào tâu rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Ngoài thành có kẻ phạm tội ghét ngƣời, trị tội thế nào xin cho hạ thần đƣợc

rõ?

Nhà vua mãi chơi không suy xét rõ, đáp rằng:

- Cứ theo quốc pháp mà trị tội.

Theo quốc pháp, nếu kẻ nào mà giết ngƣời thì bị tử hình, chiếu luật đem ngƣời đó ra xử

trảm.

Xong cuộc vui chơi nhà vua hỏi các quan rằng:

- Kẻ tội nhân ấy nay ở đâu, để ta đoán quyết?

- Theo quốc pháp, phạm nhân đã đem ra xử tử rồi.

Nhà vua nghe nói giựt mình! Lo sợ ngã xuống đất, tả hữu đỡ dậy hồi lâu tỉnh lại, thân

phiền nói:

- Các cung tần mỹ nữ, voi ngựa ở lại đây, riêng ta phải vào địa ngục chịu đau khổ một

mình. Khi ta chƣa làm vua thì cung điện này cũng có ngƣời cai trị, chẳng bao lâu ta chết,

cung này tiếp tục cũng có ngƣời thống ngự, ta làm vua giết hại mạng ngƣời, đó là làm

vua đồ tể. Chẳng biết đời đời kiếp kiếp nó sẽ đƣa ta đến chốn nào? Ta quyết định không

làm vua nữa, từ nay quyền chính giao cho các ông ở lại trông coi việc nƣớc, tôi vào núi

để tu đạo, cầu giải thoát từ đây.

Sau một thời gian, ông vua này chết phải đọa sinh làm loài cá Ma Kiệt ở trên bể lớn thân

dài bảy trăm do tuần. Các ông vua kế vị và các ông quan đại thần nƣớc ấy, cậy có quyền

thế ức hiếp nhân dân làm những điều tàn nhẫn, vợ bỏ chồng, con lìa cha, bóc lột dân đen,

sau khi chết bị đọa làm cá Ma Kiệt hết thảy, có những con vi trùng ở trong vẩy rỉa rúc ăn

thịt, đau nhƣ lƣỡi câu sắt móc mình. Lúc bị cắn đau sát mình vào núi pha lê làm cho

những con trùng bị giập chết, máu chảy đỏ ngầu trong trăm dặm bể, vì tội ấy chết phải

đọa vào địa ngục. Những con cá này, cứ mỗi giấc ngủ là một trăm năm lúc tỉnh dậy đói

quá không có thức ăn phải há mồm cho nƣớc biển thuyền bè tôm, cá chảy vào. Giữa lúc

há miệng thì có năm trăm ngƣời lái buôn trong thuyền vì nƣớc chảy mạnh quá nên chiếc

thuyền này theo dòng trôi thẳng vào mồm cá. Mọi ngƣời đều khủng khiếp lo sợ! Gào

khóc la, kẻ niệm Phật, ngƣời cầu kinh, kẻ kêu trời! Ngƣời khấn đất! Kẻ cầu thần! Cũng

có ngƣời kêu gọi cha mẹ vợ con! Rồi kể lể rằng: Hôm nay là phút cuối cùng từ biệt cõi

nhân gian thôi! Thôi! Không bao giờ ta đƣợc thấy gia đình lần thứ hai nữa. Thuyền sắp

tới mồm cá, sự sợ hãi dồn dập vì thế nên nhiều ngƣời lớn tiếng niệm "Nam Mô Phật".

Cá Ma Kiệt nghe tiếng niệm Phật, động lòng từ bi ngậm mồm lại, nƣớc hết chảy, thuyền

đƣợc yên, mọi ngƣời thoát chết trong mồm cá.

111

Cũng vì thế nên cá bị chết đói, thần hồn đƣợc sinh vào thành Vƣơng Xá. Sau khi cá chết,

quỷ Dạ Xoa, La Sát vứt con cá ấy lên bãi biển, trải qua những ngày tháng mƣa gió dãi

dầu da thịt tiêu tan còn đống xƣơng tại đây. Lắng nghe, ông vua Pháp Tăng thuở đó nay

chính là Thi Lợi Bí Đề, bởi tội sát nhân phải đọa làm con cá Ma Kiệt ở dƣới bể này, nay

đã đƣợc làm thân ngƣời sao không chán ghét sinh tử để an tâm tu đạo giải thoát hay sao?

Lại còn muốn chết ở nơi đây làm chi? Nếu chết sẽ bị đọa vào địa ngục, bấy giờ muốn ra

cũng khó.

Thi Lợi Bí Đề nghe Hòa Thƣợng giảng thuyết xong biết rõ thân cũ của mình tự xét biết

sợ sinh tử, nhớ nghĩ phép tu, để lòng chú ý quan sát đống xƣơng cá là tiền thân của mình,

thấu hiểu pháp vô thƣờng, chán lìa sinh tử, giữa giờ phút ấy đƣợc trút hết lậu, đắc quả La

Hán. Ngài Mục Kiền Liên hoan hỷ nói:

- Pháp Tử, công việc của ngƣời làm đã đƣợc thành tựu hãy theo đây nhân lực của ta,

ngƣời tự dùng lấy thần túc mà đi.

Nói xong, Ngài rƣớn mình lên hƣ không nhƣ chim phƣợng hoàng vô cánh, ông Thi Lợi

Bí Đề cũng bay theo sau, nhƣ chim mẹ bay trƣớc chim con bay sau, một lát đã tới rừng

Trúc từ từ hạ xuống Tinh Xá.

Các vị niên thiếu Tỷ Khƣu chƣa biết ông đã đắc đạo, nên các Ngài vẫn coi thƣờng và có

khi còn la mắng. Vì ông đắc đạo, tâm đã điều thuận, nên vẫn êm đềm vui vẻ, không nói

sao hết.

Đức Phật thấy thế, muốn ngăn đón tâm ngã mạn của các niên thiếu Tỷ Khƣu và muốn

hiển dƣơng cái đức của vị lão thành nên giữa trong đại chúng Phật nói:

- Thi Lợi Bí Đề hôm nay ra biển về phải không?

- Dạ! Lạy đức Thế Tôn có đấy ạ!

- Ra bê thấy những gì nói cho ta nghe?

Thi Lợi Bí Đề cung kính trình bày những việc nói trên cho Phật nghe.

Phật nói: - Quí hóa! Hộmnay thấy sự thật nhƣ vậy có lẽ từ nay ngƣơi đƣợc thoát cái khổ

sinh tử, chứng đạo Niết Bàn, và có thể nạp thụ sự cúng dàng của ngƣời cõi nhân, cõi

thiên, công việc làm của Tỷ Khƣu ngƣơi đã đƣợc đầy đủ.

Nghe Phật nói xong các niên thiếu Tỷ Khƣu vừa lo vừa sợ, hối hận thầm nghĩ:

- Chính ông lão này là ngƣời hiền nhân trí tuệ, lũ ta thực không hiểu biết gì, từ trƣớc đến

nay tự cao tự đại, phải tội phạm đến hiền giả, tội ấy không phải nhẹ, ta nên xin sám hối

trƣớc là hơn!

112

Các niên thiếu Tỷ Khƣu đều đứng dậy, tới trƣớc ông Thi Lợi Bí Đề năm thể chạm xuống

đất bạch rằng:

- Bạch Đại Đức các thiện nhân sinh, lòng từ bi cũng sinh theo! Trƣớc đây chúng tôi đối

với Đại Đức lầm lỗi, cúi xin từ bi xá bỏ, đƣợc ân triêm công đức.

- Tôi đối với tất cả mọi ngƣời đều có thiện tâm, hối quá có thể đƣợc lắm! Hay lắm!

Ông Thi Lợi Bí Đề thấy các niên thiếu Tỷ Khƣu còn có ý sợ sệt, nên ông thuyết pháp

xuất ly sinh tử cho các vị nghe, từ đó các Tỷ Khƣu gắng tiến tu hành, không lâu đã ngắt

bỏ đƣợc lậu nghiệp thành ngôi La Hán. Cũng do nhân duyên nay mà tiếng khen đồn khắp

thành Vƣơng Xá.

Thật lạ quá! Ông lão một trăm tuổi mới xuất gia còn thành công đắc quả, thuyết pháp cao

siêu thực là chƣa từng có!

Từ đó trong thành nhiều ngƣời cho con trai, con gái, đứa ở trai, đứa ở gái đi xuất gia hoặc

tự họ đi xuất gia.

Công đức xuất gia vô lƣợng vô biên nhƣ thế! Ông Thi Lợi Bí Đề đã một trăm tuổi mới

xuất gia tu hành còn đắc đạo quả, thành tựu công đức lớn lao, những ai đã luống tuổi tại

sao không xuất gia tu đạo, chăm chỉ tinh tiến tu hành để cầu một phúc báo vô biên ấy?

---o0o---

Phẩm thứ mƣời chín : SA DI HỘ GIỚI

NGƢỜI đã thọ giới phải giữ giới, dầu cho mất thân mạng cũng không nên phá giới. Tại

sao? Giới là nền tảng của ngƣời tu Đạo, là một lối đi vững chắc qua Trời Ngƣời lên cõi

Phật, là một bí pháp hết lậu nghiệp, là con đƣờng thẳng vào thành Niết Bàn, là chốn an

lạc giải thoát đời đời.

Ngƣời giữ giới đƣợc thanh tịnh, công đức ấy vô lƣợng vô biên; ví nhƣ biển lớn, sâu

không đáy, rộng không bờ, thâu nạp muôn loài, nhƣ A Tu La Ma Kiệt ngƣ, cùng tất cả

các loài thủy tộc.

Giới cũng nhƣ thế, thâu nạp những ngƣời tam thừa, sinh trƣởng ở đó.

Biển lớn kia có rất nhiều vàng, bạc, ngọc lƣu ly, pha lê, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách.

Nhân có giới mới sinh ra các pháp lành; bốn phi thƣờng, ba mƣơi bảy phẩm trợ đạo,

thiền, tam muội, giải thoát, giải thoát tri kiến v.v…

113

Bể lớn kia đáy bằng ngọc kim cƣơng, chung quanh bằng núi kim cƣơng, có bốn sông lớn

chảy vào luôn luôn, mà nƣớc bể vẫn không đầy vơi.

Biển giới cũng thế, lấy giới làm đáy, lấy luận làm núi vây quanh, bốn A hàm làm sông,

muôn dòng nƣớc chảy vào trong bằng phẳng không thêm bớt.

Tại sao các sông vẫn chảy vào biển, mà nứơc biển vẫn không đầy? Vì sức lửa ở ngục A

Tỳ bốc lên, nên nƣớc biển vẫn không đầy, các sông thƣờng chảy ra biển, nên nƣớc biển

không bao giờ vơi.

Biển giới của Phật Pháp cũng thế, không phóng dật tham lam cảnh dục nên không tăng,

đủ công đức nên không giảm. Nhƣ thế biết rằng giữ giới là một công đức lớn lao.

Sau thời Phật vào Niết Bàn, nƣớc An Đà có một vị Tỷ Khƣu, tu hạnh Đầu Đà thích ở nơi

vắng vẻ, oai nghi đầy đủ, giới đức hoàn toàn.

Khi Phật còn tại thế, Ngài thƣờng khen các vị tu hành Đầu Đà!

Những vị Tỷ Khƣu tu hạnh Đầu Đà không hay ở chung với Tăng chúng; vì những vị ấy ít

lòng dục, tri túc, không bỏn xẻn tham lam tích trữ, thƣờng ngày đi xin ăn ngồi trơ trên

mặt đất, không nhà không cửa, ngày chỉ một bữa ăn, với một tấm áo là đủ, lại chăm tọa

thiền tụng kinh. Những ngƣời nhƣ thế rất đáng tôn trọng, mới xƣng đáng ngôi Pháp

Vƣơng Tử.

Trái lại những vị Tăng không có một trong đức hạnh nói trên, phần nhiều chỉ đa dục, lòng

tham không biết chán, súc tích tiền của, tham lam tật đố, ghen ghét đầy lòng si ái mê

muội, bởi thế cho nên mất công đức lớn, khiến cho ngƣời dân chán ghét, có khi còn làm

cho ngƣời ta phỉ báng Tam Bảo là khác.

Vị Tỷ Khƣu nói trên đức hạnh thuận hòa, có đủ lục thông, tam minh và tám phép giải

thoát oai nghi đĩnh đạc, tiếng khen vang dội muôn phƣơng, đáng làm một vị Sa Môn.

Bấy giờ có một ngƣời Ƣu Bà Tắc tin kính ngôi Tam Bảo, giữ năm điều răn cẩn thận, lại

chăm bố thí tu đức, đƣợc nhiều ngƣời khen ngợi Ƣu Bà Tắc nguyện chung thân cúng

dàng vị Tỷ Khƣu nói trên.

Phúc cúng dàng theo nhân hƣởng quả: Nếu thỉnh Tăng đến nhà cúng dàng các vị phải đi

đƣờng xa, hoặc nóng, lạnh, gió, giá, rét, bị mỏi mệt xảy ra thì làm phế bỏ sự hành đạo của

chƣ Tăng. Ngƣời thí chủ sau có đƣợc hƣởng quả báo tốt lành nhƣng phải mệt nhọc, còn

các vị đi ngoài đƣờng khất thực thì không kể, mới có thể đƣợc, phúc báo ấy thì hơn, còn

những vị tại chùa mình mang thức ăn lại nơi cúng dàng thì lai sinh đƣợc hƣởng phúc báo

tự nhiên, không khó nhọc mà vật chất tự nhiên đầy đủ tùy ý muốn.

Ông Ƣu Bà Tắc này vì lòng tin chắc chắn, nên ông sai ngƣời mang đến tận nơi cúng

dàng.

114

Sa Môn có bốn thứ hay dở khó nhận xét, cũng nhƣ quả Am La xanh chín khó hiểu biết.

1. - Cũng có vị Tỷ Khƣu coi tƣớng mạo oai nghi đĩnh đạc, ung dung văn vẻ thế mà

trong bụng đầy sân si, làm các hạnh phi pháp phá giới. Tỷ nhƣ quả Am La ngoài

vỏ coi chín đẹp, nhƣng trong lòng sống sƣợng.

2. - Cũng có vị bề ngoài coi thô sơ, oai nghi tầm thƣờng bên trong có đầy đủ đức

hạnh nào trí tuệ thiền định đạo đức. Cũng nhƣ quả Am La trong chín, ngoài xanh.

3. - Cũng có vị hình tƣớng cục mịch nói năng thô lỗ, không có oai nghi đức độ, phá

giới tạo ác, trong lòng dầy sân si, ngã mạn tật đố tham dục. Cũng nhƣ quả Am La

trong ngoài đều xanh.

4. - Cũng có vị oai nghi nghiêm chỉnh giữ giới thanh tịnh, bên trong đầy đủ đạo đức,

trí tuệ rộng sâu, thiền định giải thoát, cũng nhƣ quả Am La trong ngoài đều chín.

Tại thành này có ông Trƣởng Giả tin kính ngôi Tam Bảo, sinh đƣợc cậu con trai, ông

muốn cho cậu đi xuất gia và nghĩ rằng:

- Phải tìm một vị Minh Sƣ đạo đức học vấn tinh thông, cho con mình nƣơng theo, ở bầu

thì tròn, ở ống thì dài, gần ngƣời lành, thì phát sinh lòng lành, gần kẻ ác sẽ tập nhiễm thói

ác. Ví nhƣ gió không có thơm hôi, thổi qua rừng Thiên Đàn thì thấy gió thơm tho, nếu

thổi qua Thiêm Bặc thì thấy gió hôi thối, cũng nhƣ tấm áo sạch để ở bồ hƣơng, áo ấy sẽ

thơm, nếu để chỗ hôi dĩ nhiên bị hôi. Gần bậc thiện trí thức, tính tình cao thƣợng, gần kẻ

hèn hạ lòng dạ xấu xa.

Nghĩ nhƣ vậy rồi ông dẫn con đến vị Tỷ Khƣu nói trên thƣa rằng:

- Bạch Đại Đức! Cháu trai này là con của tôi, muốn để xuất gia tu học, kính xin Đại Đức

từ bi tế độ!

Vị Tỷ Khƣu dùng đạo nhãn quan sát, xem căn khí có lớn lao không? Có thể làm hƣng

long cho Phật Giáo đƣợc không? Có thể tu trì giới hạnh đƣợc không? Mới nhận lời, xem

xong đáp:

- Quý hóa! Ông cho cháu đi xuất gia để nối chí Phật chủng, hay lắm tôi vui lòng tế độ!

Trƣởng Giả vui mừng lễ tạ ra về.

Đoạn này nói ngƣời Ƣu Bà Tắc cúng dàng vị Tỷ Khƣu: Một hôm Ƣu Bà Tắc có ngƣời

bạn thân rủ đi xem hội, ông muốn cho cả nhà cùng đi, nhƣng nghĩ "ai là ngƣời coi nhà,

nếu bắt buộc một ngƣời ở lại thì không đành lòng" ông họp gia đình lại nói rằng:

- Mai đi xem hội, ai vui lòng ở lại coi nhà?

Cô con gái của ông đáp: - Thƣa cha! Con xin coi nhà để cha mẹ và toàn gia đi xem hội!

115

Ông vui vẻ nói: - Hay lắm! Con ở nhà trông nhà cho cha, chớ đi chơi đâu nhé!

Sáng ngày mai cả nhà đi hết, ông quên không dặn con gái dâng cơm vị Tỷ Khƣu, cô đóng

chặt cửa ngõ vào nhà ngồi xem sách, đọc chuyện để giải buồn.

Bữa cơm ngọ đã tới mặt trời chừng xết trƣa. Vị Tỷ Khƣu không thấy mang cơm đến,

thầm nghĩ rằng:

- Ngƣời trần tục bận nhiều công việc, hôm nay có lẽ họ quên dâng cơm?

Ngài gọi chú Sa Di con ông Trƣởng Giả lại bảo:

Con đi lại nhà ông Ƣu Bà Tắc lấy cơm, hôm nay có lẽ họ quên. Theo lời Phật dạy, con

phải giữ oai nghi cho cẩn thận, vào các thôn xóm không đƣợc sinh tâm tham trƣớc, tỷ

nhƣ con ong lấy mật, chỉ cốt lấy mật, chứ không làm tổn thƣơng đến sắc hƣơng của hoa.

Con cũng phải nhƣ thế, đến nhà ngƣời ta, chớ sinh lòng tham sắc đẹp v.v…giữ đƣợc cấm

giới, là giữ đƣợc đạo. Ông Đề Bà Đạt Đa tuy tụng đƣợc nhiều kinh, vì tạo ác phá giới

phải đọa vào địa ngục A Tỳ, ông Cù Ca Lợi tội phỉ báng phá giới phải đọa địa ngục, ông

Chu Lợi Bàn Đặc chỉ tụng đƣợc câu kệ, vì giữ giới hoàn toàn nên đƣợc chứng quả La

Hán. Giới là lối vào đạo Niết Bàn, là nhân thụ hƣởng khoái lạc, cõi trời cõi ngƣời.

Tỷ nhƣ quy chế trƣờng trai ba hoặc bốn tháng, của phái Bà La Môn họ mời những vị cao

minh giữ giới trong sạch trƣớc hết họ đƣa cho mỗi vị một phong bao, trong để vị ngọt.

Bọn ấy có một ngƣời tuy học cao nhƣng tính tình không đƣợc liêm khiết tham mùi ngọt

ăn hết, tới ngày nhập hội mọi ngƣời xuất trình phong bao để vào, ông này không có

phong bao cũng bƣớc vào, ngƣời gác cửa hỏi:

- Phong bao của ông đâu?

- Có, nhƣng đã ăn hết vị ngọt!

- Thôi! Ông không đƣợc vào nữa, ông tham một chút mùi ngọt thiệt hại cho ông bốn

tháng các mùi thơm ngon và các trân bảo khác, thôi ông đi ra!

Cũng thế! Con vào thôn xóm chớ tham một việc nhỏ, lỡ phá giới của tam thế chƣ Phật,

thì mất các sự khoái lạc của năm món dục, vui trong cõi nhân, thiên, và những Pháp Bảo!

Vô lậu ba mƣơi bảy phẩm trợ đạo Niết Bàn v.v…Phải nhớ! Chớ phá giới của tam thế chƣ

Phật, làm ô nhục cho Tam Bảo cha mẹ, Sƣ Tăng.

- Dạ! Lạy thầy con xin ghi nhớ!

Sa Di lễ tạ lui ra, mang bình đeo bát đến nhà kia, gõ cửa. Cô gái chạy ra hỏi:

- Ai gõ cửa đấy! Có việc gì?

- Thƣa! Tôi là Sa Di lại lấy cơm về dâng thầy!

116

Cô ngó thấy Sa Di đến vui vẻ bụng bảo dạ rằng:

- Ta hằng mong ƣớc đƣợc gặp, hôm nay thật là toại nguyện cho ta lắm!

Mở cửa chắp tay vái chào:

- Mô Phật! Mời Ngài vào nhà con!

Cô này xinh đẹp vô song, dong tƣ yểu điệu, năm ấy mới mƣời sáu tuổi, vì tình yêu nồng

nhiệt phát động lòng dâm dục mạnh nhƣ lửa đốt! Cô làm ra vẻ õng ẹo, chớp mắt dƣơng

mi, lƣờm nguýt cƣời nói lộ tƣớng dâm dục.

Sa Di nói: - Cô này có chứng bệnh phong hay sao? Điên cuồn nhƣ vậy hay bệnh dƣơng

giản?

Cô đáp: - Em không có bệnh chi hết!

Sa Di thầm nghĩ: - Cô gái này ý muốn phá hủy giới đức thanh tịnh của ta đây, ta phải nhớ

lời thầy dạy: Cẩn thận giữ oai nghi. Sa Di vốn vững lòng không thay đổi ý chí, cô này lễ

dƣới chân thƣa rằng:

- Bạch ngài! Em luôn luôn ƣớc nguyện đƣợc gặp để ngỏ bày tâm sự, nhƣng chƣa gặp lúc

nào vắng vẻ em tƣởng tƣợng Ngài có tâm thƣơng em, nhà em giàu có vàng bạc đầy kho

chẳng khác gì bảo tàng của nhà vua Tỳ Sa Môn Thiên Vƣơng trên thƣợng giới, nhƣng

chƣa có ngƣời làm chủ. Vậy Ngài hãy ném lòng làm chủ nhà em, em cùng Ngài loan

phƣợng trăm năm, suốt đời em xin tôn kính hầu hạ, xin đừng từ chối để mãn nguyện lòng

mông ƣớc của em.

Sa Di thầm nghĩ: - Ta có tội gì gặp các duyên này? Ta thà chết ở đây chứ không chịu phá

giới của tam thế chƣ Phật. Ngày xƣa có vị Tỳ Khƣu đến nhà dâm nữ, bị cƣỡng bách hành

dục, còn đâm đầu vào hố lửa chết, quyết không chịu phạm giới, các Tỷ Khƣu bị cƣớp lấy

cỏ trói, chịu gió gào, nắng hét, trùng cắn, vì giữ giới không dám dứt cỏ mà đi, con ngang

nuốt chuỗi ngọc, Tỷ Khƣu nhìn thấy, vì giữ giới bị đánh vỡ đầu mà không nói; thuyền bị

ngụp vào biển, Hạ Tọa Tỷ Khƣu dâng phao cho Thƣợng Tọa, còn mình chịu chết chìm

nơi biền cả. Các tiền bối đã khinh thân hộ giới mình là kẻ nào mà không giữ giới? Riêng

những ngƣời đó là đệ tử Phật hay sao? Là vì họ giữ đƣợc giới cấm, đức Thế Tôn là thầy

của họ, không phải là thầy của ta hay sao? Hột hồ ma ép chung với hoa thiềm bặc thì hôi,

ta đã gặp đƣợc bậc thiện trí thức dạy bảo ta, dắt dìu ta, học đạo vô vi giải thoát an lạc, còn

tham chi tình ái, tạo nghiệp luân hồi sinh tử làm gì, thà chết thân nầy quyết không phá

giới để ô nhục cho Tam Bảo, phụ mẫu Sƣ Tăng. Nếu ta ra về, sợ cô tránh sự hổ thẹn, với

sự nồng nàn của lòng dâm dục của cô, lôi kéo ta, phỉ báng ta, thôn xóm họ biết thì không

tránh đƣợc sự ô nhục! Ta sẽ quyên sinh tại đây!

Đáp rằng: - Cô hãy cho tôi vào phòng nghỉ, thƣ thả tôi sẽ thƣa chuyện cùng cô.

- Vâng! Mời Ngài vào phòng khách!

117

Vào phòng, Sa Di đóng cửa chặt, cởi áo giắt lên giá hoan hỷ quỳ thẳng chắp tay hƣớng về

thành Câu Thi Na, nơi Phật nhập Niết Bàn tự thệ nguyện:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Con không bỏ Phật, Pháp, Tăng, không bỏ Hòa Thƣợng A Xà

Lê và không bỏ chánh giới của Nhƣ Lai, chính con vì hộ trì giới để xin bỏ thân này.

Nguyện cho con sinh vào nơi nào cũng đƣợc hạnh phùng ngôi Tam Bảo, và đƣợc xuất gia

học đạo, tu phạm hạnh thanh tịnh tẩy trừ cho hết lậu nghiệp, thành đạo vộ thƣợng Bồ Đề.

Khấn nguyện xong rút dao đâm cổ chết! Máu chảy linh láng thân thể đỏ ngầu.

Cô đứng ngoài chờ lâu quá, nóng ruột bƣớc lên gõ cửa bƣớc vào, nhìn thấy tình nhân Sa

Di của mình chết nằm trên mặt đất, coi rất rùng rợn, cô thất sắc, lúc đó lòng dục nguội

lạnh, tâm hồn tán loạn hoảng hốt, lấy tay cào lên đầu làm cho tóc rối nhƣ tơ, tỏa che khắp

mặt, lăn khóc mê hồn, rồi ngất đi.

Khi cha mẹ cô trẩy hội về đứng ngoài cửa gọi con gái, gọi mãi không thấy trả lời, sai

ngƣời trèo qua vào trong mở cổng, ông vào phòng thấy con gái nhƣ thế, sửng sốt hỏi:

- Ôi! Con sao thế con? Cha đi vắng ở nhà ai làm phạm đến tiết hạnh con đấy ƣ? Con nói

cho cha hay.

Cô yên lặng không nói sao cả, và thầm nghĩ:

- Nếu mình nói thật cho cha nghe thì rất xấu hổ, nếu đổ lỗi cho bác Sa Di, thì vô tình

mình đã vu oan cho ngƣời lƣơng thiện, tội ấy đọa địa ngục chịu khổ vô cùng, thôi cứ nói

rõ cho cha ta nghe là hơn.

- Thƣa cha! Hôm nay Hòa Thƣợng sai bác Sa Di đến nhà ta lấy cơm, con quá yêu ngƣời

đòi hỏi lòng yêu cho toại ý muốn, nên con quấy nhiễu ngƣời, và bắt theo ý muốn của con.

Sƣ bác Sa Di quyết giữ giới thanh tịnh nên ngƣời vào phòng tự sát, con nghĩ thân con nhơ

bẩn lại làm hạ thanh tịnh của ngƣời, tội ấy không phải nhỏ, con sợ quá, cũng không biết

làm thế nào đƣợc nữa, xin cha xá tội.

Ông vẫn thản nhiên không kinh khủng gì, vì ông tự biết đó là do nghiệp báo sử nhiên,

ông nói:

- Tất cả muôn pháp đều thuộc vô thƣờng, con chớ có lo!

Ông bƣớc vào phòng tới trƣớc thi hài Sa Di, lễ bái khen rằng:

- Quý hóa thay! Khí cao nhƣ trời mây, tri kiến nhƣ sắt đá, bỏ mạng để họ giới của tam thế

chƣ Phật, trên đời có một không hai.

Luật nƣớc ấy, nếu tu sĩ nào chết ở nhà ai thì nhà ấy phải nộp cho chính phủ một ngàn

quan tiền vàng. Theo lệ có một không hai.

118

Nhà vua hỏi:

- Khanh có lỗi gì?

- Tâu bệ hạ! Có một tu sĩ chết tại nhà hạ thần.

- Vì lý do gì?

Ông cứ thực trình bày nhƣ trên cho vua nghe.

Nhà vua nghe xong, cũng cảm phục tâm hồn cao thƣợng của Sa Di và nói:

- Sa Di bỏ mạng để họ giới, không có lỗi gì, khanh mang tiền về, ta sẽ đi cùng khanh.

Nhà vua lên xe đi đến nhà ông Ƣu Bà Tắc, thấy Sa Di thân đỏ nhƣ cây gỗ chiên đàn, một

lòng kính cẩn lễ sát đất, khen lao công đức. Nhà vua đƣa một cỗ xe quý nhất rƣớc ông Sa

Di ra nơi bằng phẳng cao sạch, lấy các thứ gỗ để đứng trên đài cao cho các ngƣời dân

xem coi, giữa lúc đó vua tuyên bố rằng:

- Ngƣời con gái này có thể đẹp nhất thời nay, trong hàng nữ lƣu, nhƣng con ngƣời còn

chịu ách đƣợc dục vọng kìm hãm nơi tâm ai là không yêu quý mê say! Đây ông Sa Di vì

chƣa đắc đạo, đem thân sinh tử hộ giới bỏ mạng thực là hiếm có trên thế gian này!

Sau nhà vua mời Hòa Thƣợng lên đài thuyết pháp, xong cuộc thuyết pháp này có rất

nhiều ngƣời phát tâm xuất gia trì giới, ai nấy đều cảm mến đức tin cao thƣợng của Sa Di,

cúi đầu lễ Hòa Thƣợng mà lui

---o0o---

Phẩm thứ hai mƣơi : NGƢỜI KHÔNG TAI, MẮT, MŨI, LƢỠI

KHI bấy giờ đức Thế Tôn ở nƣớc Xá Vệ tại tinh xá Kỳ Đà giảng thuyết chính pháp cho

bốn chúng.

Nƣớc ấy có ông Trƣởng Giả nhah giàu sinh hạ năm cô con gái, không có con trai.

Giữa lúc vợ ông có mang thì ông chết.

Luật nƣớc: - Nếu ai không có con trai, sau khi chết tài sản sẽ thuộc về Chánh phủ.

Sau khi ông Trƣởng Giả nầy chết chính quyền địa phƣơng lại tịch biên tài sản. Ngƣời con

gái lớn của ông đến tâu vua:

119

- Tâu Bệ Hạ! Cha con mới chết, không có con trai, nhƣng hiện nay mẹ con đƣơng có

mang, không rõ trai hay gái. Vậy xin bệ hạ khoan thứ cho một thời gian, để mẹ con ở cữ

xong, nếu là con gái, khi đó chính phủ tịch thâu tài sản cũng không muộn, xin Bệ Hạ

minh xét.

Vua Ba Tƣ Nặc, nghe lời cô tâu rất có lý, khen phải và nói:

- Con nói có lý, phải lắm, ta sẽ cho quan địa phƣơng biết, không lo.

Cô bái tạ lui ra.

Chẳng bao lâu bà Trƣởng Giả sinh đƣợc đứa con trai nhƣng không có chân, tay, tai, mắt,

có mồm, không lƣỡi cũng nhƣ một cục thịt lại có nam căn (buồi) nên họ cho là con trai,

đặt tên là Man Từ Tỳ Lê.

Khi bấy giờ cô gái lớn lên tâu vua và trình bày rõ cho ông nghe.

Vua nghe xong, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói rằng:

- Em con tuy thế nhƣng cũng có thể là con trai, vậy tài sản này em con có quyền đƣợc

hƣởng hết, chính phủ sẽ không thâu biên nữa!

- Dạ! Đội ơn Bệ Hạ! Con xin cáo lui!

Tuy thế nhƣng cô vẫn buồn, vì sao? Một đứa em chẳng ra giống ngƣời đƣợc hƣởng cả

một gia nghiệp, con gái thực là vô ích, luật chi mà luật lạ nhƣ vậy?

Cô giận thân gái đớn hèn, luật nƣớc bất công, từ đó bỏ nhà đi hầu hạ các phu chủ nhà

khác, một cách kính trọng từ tốn, khi nấu ăn, khi dâng nƣớc, chẳng khác đứa ở gái nhà

họ.

Gần đấy có ông Trƣởng Giả thấy cô nhƣ vậy tới hỏi:

- Con ơi! Nhà con giàu có, đâu con phải đi hầu hạ ngƣời, đạo vợ chồng nhà ai, có lễ phép

của nhà ấy, tại sao con làm thế?

- Thƣa bác, cha con chết rồi! Của cải đầy kho tài sản rất nhiều, sinh hạ đƣợc năm chúng

con là gái, gia nghiệp này phải nộp cho chính phủ, chúng con không có quyền an hƣởng.

May sao mẹ con mới sinh đƣợc đứa em trai, lại không có tai, mắt, mũi, lƣỡi, tay chân,

nên nhà vua cho em con đƣợc làm chủ ăn hƣơng của này, con gái thực là vô ích nên con

buồn mà làm thế!

- Thôi con đừng buồn làm chi, muốn thoát thân con gái, đời sau đƣợc thân nam tử trƣợng

phu, con đi cùng bác đến yết kiến Phật.

- Dạ! Bác cho con đi cùng.

120

Tới chốn Phật cúi đầu làm lễ xong, ông Trƣởng Giả bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Man Từ Tỳ Lê có phƣớc duyên gì, đƣợc sinh vào nhà giàu sang,

và không biết có tội gì mà không có tai, mắt, mũi, lƣỡi, cúi xin Ngài chỉ bảo cho chúng

con đƣợc rõ.

Phật dạy: - Trƣởng Giả muốn biết chuyện ấy, ta sẽ vì ông mà nói.

- Dạ! Con xin chú ý nghe!

- Trƣởng Giả! Việc này về đời quá khứ, có hai anh em con ông Trƣởng Giả, ngƣời anh

tên là Đàn Nhã Thế Chất, ngƣời em tên là Thi La Thế Chất.

Ngƣời anh nết na trung chính thành thực và hay làm hạnh bố thí, cứu đỡ kẻ bần cùng cô

lộ, bởi thế nên trong nƣớc đều kính nể tôn trọng, sau nhà vua dùng ông làm chức Bình Sự

để xử đoán những việc kiện tụng trong nƣớc.

Luật pháp nƣớc ấy thời đó, những ngƣời vay nợ không phải viết văn tự, nếu ai có việc gì

chỉ đến quan Bình Sự chứng nhận cho là đủ.

Ông Thi La Thế Chất nhà giàu hay cho vay nợ lấy lãi, hôm đó có ngƣời lái buôn đến vay

ông một số tiền lớn để đi buôn, ông đồng ý cho vay. Ngày giao tiền ra tòa Bình Sự, ông

đem theo đứa con trai nhỏ của ông, vì ông chỉ có một mình nó.

Ông thƣa rằng: - Thƣa anh Bình Sự! Ngƣời lái buôn đây, vay em một số tiền ngần này, để

ra biển buôn bán, anh chứng nhận cho, nếu tôi không may chết thì số tiền này trả về cho

con tôi.

Bình Sự gật đầu nói: Đƣợc, không sao, chú cứ yên tâm cho vay, chỉ cốt sao họ đi buôn

đƣợc tốt lành trở về là hơn!

Qua thời gian không lâu Thi La Thế Chất chết, ngƣời lái buôn ra bể không may gặp trận

bão đánh đắm thuyền mất cả, nhƣng anh ta bám đƣợc một khúc gỗ trôi giạt vào bờ, thoát

chết về nƣớc nhà!

Ngƣời con ông Thi La Thế Chất biềt tin ông lái buôn vay tiền của cha mình, ra biển bị

đắm thuyền đƣợc thoát chết trở về, song biết rằng bị tổn hại mất cả, nên không đòi nợ.

Khi đó có một ngƣời lái buôn khác thƣơng tình anh buôn bán thất bại, cho anh mƣợn một

số tiền đi buôn chuyến nữa. Lần này đi gặp sự tốt lành trở về đƣợc lãi rất nhiều, chở đầy

thuyền các quý vật ở hải ngoại về, nào là vàng bạc châu ngọc vân vân.

Chuyến này anh đƣợc phát tài, mời anh em họ hàng thân quen, ăn uống vui mừng trả các

món nợ, nhƣng món nợ của ông Thi La Thế Chất to quá anh thầm nghĩ rằng:

121

- Chuyến trƣớc ta về, không thấy con ông ta đòi hỏi gì, một là lúc ta vay cậu còn bé quá

không nhớ, hai là thấy ta buôn thua lỗ mà không hỏi, vậy ta hãy thử xem cậu ta còn nhớ

hay không, thì biết.

Hôm đó anh ta mặc áo mới đẹp cỡi ngựa đi chợ, tới chợ gặp cậu con trai ông Thi La Thế

Chất, cậu hỏi:

- Tát Bạt! Hồi này nghe biết anh buôn bán phát tài, hôm nay mang tiền trả số nợ của cha

tôi ngày trƣớc có phải không?

Anh giả đò, ngẩn ngơ ra một lúc, rồi đáp rằng:

- Thực thế ƣ? Tôi không rõ, cậu lầm đấy không phải đâu, hay là ai? Cậu về mở sổ coi?

Anh dùng mƣu để quỵt số tiền nợ, về nhà lấy một viên bảo châu đến nhà ông Bình Sự nói

với bà ấy rằng:

- Thƣa bà! Tôi có vay của ông Thi La Thế Chất một số tiền nhỏ, bây giờ con ông ta đòi

trả, đối với gia đình tôi không thể trả đƣợc, vậy tôi xin biếu bà viên ngọc này, trị giá

mƣời vạn, nếu cậu ấy kiện tôi thì bà nói với quan lớn, bác đơn đi, để tôi không phải trả số

nợ ấy!

Đáp: - Quan lớn nhà tôi trung trực lắm anh ạ, tôi không dám nói đâu!

Anh ta năn nỉ mãi thí dỗ bà một cách khéo léo, bà bùi tai nói: Thôi anh để đó về đi, mai

lại đây tôi trả lời.

Đến tối quan lớn về, bà đem chuyện đó nói nhƣng ông ta gạt phắt đi, rồi nói rằng:

- Bà chỉ lôi thôi! Điều thứ nhất nó là cháu tôi, và chẳng tôi là ngƣời trung chính thành

thực nên nhà vua mới cử làm chức Bình Sự, không làm càn thế đƣợc đâu, mai nó lại đây

bà cho lính đuổi nó ra.

Anh lái buôn buổi sáng mai đến.

Bà nói rằng: Không đƣợc đâu anh ạ! Tôi có nói nhƣng quan không nghe, trả lại anh viên

ngọc.

Anh lái buôn ngẫm nghĩ hồi lâu, đƣa thêm hai viên ngọc nữa rồi nói:

- Thƣa bà lớn! Cũng là một việc nhỏ, bà chỉ mất một lời nói, mà đƣợc ba mƣơi vạn đồng,

cậu ấy là chấu của ông, dẫu có thắng kiện đƣợc số tiền thƣờng của tôi bà cũng chẳng

đƣợc gì vào tiền đó, xin bà hoan hỷ nhận cho viên ngọc này, thƣa bà ngọc này đắt lắm và

hiếm lắm, bà để cho các cậu, các cô sau này có hơn không?

Bà nghe êm tai và lòng tham của bà nổi lên, nhận liền và hứa rằng:

122

- Anh cứ yên tâm, tôi sẽ thu xếp bằng xong.

Đến tối quan lớn về, bà nói năn nỉ mãi, nhƣng Ngài không nghe, ông gắt nói:

- Không có lý nhƣ vậy, tôi là một ngƣời có tin cho thiên hạ, nếu tôi làm điều gian dối ăn

hối lộ, thì hiện đời này họ không tin tôi, hơn nữa đời sau tôi sẽ bị đau khổ nhiều kiếp.

Nói xong ông đứng lên vào phòng nghỉ.

Lúc đó bà mới sanh đƣợc một cậu con trai chƣa biết đi.

Bà cũng giận bế con theo vào phòng nói rằng:

- Tôi với ông kết duyên với nhau hai thân nhƣ một, gặp việc gì dẫu chết cũng không bỏ

nhau và cũng không làm trái ý nhau, huống đây là một việc nhỏ, tôi nói với ông hết lời

mà ông không nghe, thì tôi còn sống làm chi nữa, nếu ông không giúp tôi việc này, tôi sẽ

giết đứa con tôi trƣớc, sau tôi tự sát thân tôi cho qua đời.

Bình Sự nghe vợ nói tắt cổ nhƣ ngƣời bị nghẹt, muốn nuốt vào không đƣợc, khạc ra thì

vƣớng! Thầm nghĩ:

- Ta có một đứa con, nếu chết thì gia nghiệp này giao phó cho ai? Nếu theo ý muốn của

đàn bà làm trái pháp luật, hiện đời này không ai tín dụng, đời sau sẽ bị khổ, khó tả xiết.

Một việc khó giải quyết cho ông quá! Không thể từ chối đƣợc, ông phải tắc lƣỡi nhận lời,

rồi đáp:

- Thôi bà cứ yên tâm.

Thấy ông đã vui lòng nhận lời, nên bà rất vui vẻ! Sớm mai anh lái buôn đến bà tƣơi cƣời

nói:

- Việc đó quan đã nhận lời cho anh rồi đấy! Hôm qua tôi phải làm ráo riết quan mới nhận,

chứ chẳng dễ đâu.

Lái buôn nghe bà nói nét mặt tƣơi hơn hớn!

- Dạ! Thƣa bà lớn, quí hóa lắm muôn đội ơn bà! Dạ xin phép bà cháu về!

- Phải anh về, cứ an tâm đừng lo.

Ngày mai anh lái buôn sớm rửa mặt mặc áo mới đẹp đeo rất nhiều vàng ngọc trên mình

cỡi voi đi chợ. Cậu con ông Thi La Thế Chất thấy anh ra cách lắm tiền, nhiều của thầm

nghĩ rằng:

- Có lẽ anh lái buôn hôm nay đem tiền ra trả mình đây!

123

Nhƣng không! Không thấy anh nói gì, có vẻ làm lơ, cậu tới nơi hỏi: - Tát Bạt! Món tiền

cha tôi anh trả đi chứ?

- Tôi không nhớ vay lúc nào cả! Nếu vay tất phải có ai chứng kiến chứ?

- Anh quên rồi quan Bình Sự chứng kiến.

Nói xong hai ngƣời đua nhau đến quan Bình Sự.

- Thƣa bác, anh này có vay của cha con một số tiền đi buôn, bác làm chứng, lúc ấy con

cũng ở đó, thực thế xin bác xét.

Bình Sự nói: - Cháu quên đấy, việc này bác không biết, thôi cháu ạ, đừng kiện tụng lôi

thôi nữa.

- Không! Thƣa bác lúc đó bác bảo với cha con rằng: "Đƣợc không sao! Chú cứ an tâm

cho họ vay!" Bác không lấy tay chỉ vào số tiền ấy là gì, nay bác lại bảo là không biết!

Bình Sự nói: - Bác là ngƣời xử đoán cho toàn quốc, có lẽ nào bác làm trái pháp, cháu chớ

nói nhiều nữa.

- Thƣa bác! Bác là ngƣời trung chính nên nhà vua cử bác làm Bình Sự, ngƣời trong nƣớc

tin dụng bác, tôi là cháu ruột của bác mà bác xử phi lý nhƣ vậy nữa là ngƣời ngoài, bác

còn làm oan uổng đến đâu. Thôi! Cháu cũng không biết nói sao, hƣ thực đời sau sẽ biết.

Nói tới đây đức Phật nhắc lại cho ông Trƣởng giả biết rằng:

Trƣởng giả ông nên biết! Quan Bình Sự thuở đó nay chính là Man Từ Tỳ Lê, không tai,

mắt, mũi, lƣỡi, hỗn độn nhƣ vậy. Bởi một câu nói dối ngày đó phải đọa vào địa ngục lớn,

chịu khổ không cùng, khi thoát khỏi địa ngục, trong năm trăm đời chịu thân hỗn độn nhƣ

vậy do cũng hay làm việc bố thí nên sinh vào nhà phú quý sang trọng và đƣợc làm tài

chủ. Sự báo ứng của thiện ác dẫu cho lâu bao nhiêu kiếp, cũng không xóa nhòa đƣợc. Vì

thế các ông cũng nên chăm chỉ giữ gìn thân miệng ý cho cẩn thận, chớ tạo ác nghiệp.

Tất cả đại chúng nghe Phật nói xong, có ngƣời đắc sơ quả cho đến tứ quả, cũng có ngƣời

phát tâm vô thƣợng Bồ Đề, ai ai cũng vui mừng kính mến đức Phật làm lễ mà lui

---o0o---

Phẩm thứ hai mƣơi mốt :HAI VỢ CHỒNG NGHÈO

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời Đức Thế Tôn ở nƣớc Xá Vệ, tại tinh xá Kỳ Hoàn giảng

thuyết cho bốn chúng tu tập.

124

Thuở đó có ông Trƣởng giả sinh đƣợc cô con gái, dong nghi tốt đẹp, vào bậc nhất nhì

hạng nữ lƣu trong nƣớc, lạ thay! Cô này sinh ra đã có miếng lụa trắng bọc quanh ngƣời.

Thấy thế cha mẹ cô cho là quái gở, mời thầy về coi, thầy nói:

- Ông bà không lo, cô gái của ông bà có phƣớc đức lớn, và tôi xin đặt tên cho cô là Thúc

Ly.

Thúc Ly lớn thì miếng lụa cũng lớn theo. Cô xinh đẹp lại con nhà sang trọng, nên trong

nƣớc nơi xa, nơi gần, đều đến cầu hôn, nhƣng cô không ƣng thuận một ai.

Hôm ấy cha cô gọi thợ gốm về nhà làm các đồ nữ trang, cô hỏi:

- Thƣa cha! Cha làm những vật này để làm gì?

- Con đã lớn tuổi, cha làm cho những vật này để gả chồng cho con.

- Thƣa cha! Vợ chồng chỉ có nhất thời, con xét vô ích, chỉ gây thêm cái đau khổ cho mình

mà thôi, ý con muốn xuất gia tu đạo giải thoát là hơn.

Ông bà chỉ sinh đƣợc mình cô, nên tùy ý chứ không cƣỡng ép.

Hôm sau ông đi mua lụa sạch điệp về may áo, cô hỏi:

- Thƣa cha! Lụa này để may áo gì?

- Cha may áo Ngũ Điều cho con đi xuất gia!

- Thƣa cha! Khỏi phải may nữa! Tấm áo con đƣơng mặc đây đủ rồi, xin cha dẫn con đến

nơi Phật ngự!

Hôm sau cả hai ông bà và cô cùng đi yết kiến Phật tới nơi cúi đầu làm lễ bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Thân ngƣời khó đƣợc, gặp Phật tại thế lại khó hơn, cúi xin Ngài

từ bi tế độ cho con đƣợc xuất gia tu đạo!

Phật dạy: Thiện Lai Tỷ Khƣu! Ngài nói dứt lời đầu cô rụng hết tóc, còn tấm lụa trên mình

cô biến thành áo Cà Sa Ngũ Điều. Phật giao cô cho bà Đại A驠Đạo Tỷ Khƣu Ni dạy bảo

pháp tu, cô tu hành tinh tiến, chẳng bao lâu chứng quả A La Hán.

Tôi thấy thế cho làm lạ nên tôi (A Nan) quỳ xuống thƣa rằng:

- Kính lạy Đức Thế Tôn! Thúc Ly Tỷ Khƣu Ni xƣa tu công đức gì, nay đƣợc sinh vào

nhà tôn quý, lại có mảnh lụa trắng sinh theo, xuất gia chƣa đƣợc bao lâu đã chứng quả La

Hán, cúi xin chỉ giáo cho chúng con đƣợc rõ.

Phật dạy rằng: - Này ông A Nan hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ nói cho ông hay!

125

- Dạ con xin chú ý nghe!

- A Nan! Đời quá khứ đã quá lâu xa, có đức Phật ra đời, hiệu là Tỳ Bà Thi, thƣờng ngày

Ngài cùng các đệ tử đi tế độ nhân gian, đi đến đâu vua quan dân chúng cúng dàng rất

đông, và đặt ra những kỳ đại hội để thỉnh Phật thuyết pháp.

Khi đó một thầy Tỷ Khƣu có lòng quảng đại, muốn tiếp phúc cho nhân dân, nên ngài

chăm đi khuyến hóa từng nhà, làm hạnh bố thí và nghe giảng thuyết chánh pháp của Nhƣ

Lai.

Thuở đó có một thiếu phụ nhà rất nghèo khổ, hai vợ chồng chỉ có mảnh vải che thân, nếu

chồng đi xin thì chồng mặc, vợ trần truồng ngồi trong đống cỏ khô, nếu vợ đi xin thì vợ

mặc, chồng trần truồng ngồi trong đống cỏ khô.

Thầy Tỷ Khƣu đi qua ngó thấy cô, Ngài nói rằng:

- Cô nên biết: Đƣợc sinh làm ngƣời là khó, gặp Phật tại thế lại khó hơn, hiện nay đức

Phật đang thuyết pháp, cô đi đến nghe thuyết pháp đƣợc phƣớc vô lƣợng, con ngƣời tham

sẻn bị tội nghèo đói, chăm làm hạnh bốt thí đƣợc phƣớc giàu sang.

- Dạ! Kính bạch Đại Đức, con rất sung sƣớng đƣợc nghe lời của Ngài giáo hóa, xin Ngài

hãy đứng đây chờ con một chút!

Cô vào nhà bảo chồng rằng:

- Anh ơi! Ngoài ngõ có một vị Sa Môn khuyên chúng ta nên đến gặp Phật, để nghe Phật

thuyết pháp, và khuyên ta nên làm việc bố thí, là vì đời trƣớc không biết bố thí nên kiếp

này bị nghèo cùng khổ não, bây giờ ta phải làm cách gì, để trồng cái nhân lành, ngõ hầu

kiếp sau mới có phần an hƣởng.

Đáp: - Nhà ta nghèo đói nhƣ thế này, đƣợc bữa hôm mất bữa mai, biết lấy gì mà bố thí.

- Anh ơi! Đời trƣớc tham sẻn, lại không biết làm hạnh bố thí cho nên đời này, bị nghèo

khốn, nếu kiếp này không làm nhân bố thí đời sau lấy phƣớc gì để nƣơng cậy? Bây giờ

anh hãy nghe tôi, tôi quyết định bố thí.

Ngƣời chồng thầm nghĩ: "Hay là vợ ta có chút của riêng", thì cứ đồng ý đi:

- Phải em cứ bố thí đi, việc đó anh rất vui lòng!

- Thƣa anh! Em muốn đem mảnh vải của em đang khoác đây ra để cúng dàng, anh có ƣng

thuận không?

- Hai vợ chồng chúng ta chỉ có một mảnh vải này, che thân để hằng ngày đi xin nuôi

nhau, bây giờ đem cúng dàng thì lấy gì che thân mà đi xin, ngồi nhìn nhau mà chết hay

sao?

126

- Anh ơi! Con ngƣời ai cũng phải chết, không bố thí với bố thí, rồi cũng chết cả, thà bố

thí mà chết, đời sau còn có phƣớc lành, hƣởng quả báo giàu sang, không làm hạnh cúng

dàng bố thí sau rồi cũng chết, trái lại đời sau không có nhân lành trông cậy.

Ngƣời chồng nghe vợ nói phải, vui vẻ đáp:

- Em nói thế hay lắm! Bây giờ chúng ta giữ lấy phần chết, đem cúng dàng cầu phƣớc lành

cho đời sau!

Cô thấy chồng có lòng cƣơng quyết và vui vẻ, nên ra thƣa rằng:

- Kính bạch Đại Đức, xin Ngài trèo lên mái nhà, con có chút vật mọn dâng Ngài về cúng

Phật.

- Muốn cúng thì dâng trƣớc mặt ta, để ta chú nguyện cho, trèo lên mái nhà làm chi?

- Bạch Đại Đức, vợ chồng con chỉ có một mảnh vải này, trong nhà không có vật gì khác

nữa, sợ lõa lồ thân thể đàn bà xấu ác, tội nghiệp, nói xong vào nhà đóng cửa, cởi mảnh

vải vất qua cửa sổ cúng dàng.

Thầy Tỷ Khƣu thấy vợ chồng nhiệt tâm nhƣ vậy, mặc dầu bẩn cũng cứ nhận làm phép

chú nguyện mang về dâng Phật.

Vừa về tới Tinh Xá, Phật hỏi ngay:

- Tỷ Khƣu mang mảnh vải ấy lại đây cho ta!

- Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn, nhận lòng thành cúng dàng của vợ chồng nhà nghèo.

Phật liền đỡ lấy, và có vẻ thƣơng!

Lúc đó có ông vua, hoàng hậu, cung phi, thể nữ, quan đại thần, dân chúng đƣơng ngồi

nghe Phật thuyết pháp, ai cũng có chút tâm lạ với Phật, vì Phật cầm cái mảnh vải đầy nhơ

bẩn cáu ghét tanh hôi. Phật biết tâm của đa số ngƣời nhƣ thế, ngài nói:

- Ta xem trong đại hội này, phát tâm làm việc bốt thí lớn và thanh tịnh, thì không ai hơn

đƣợc ngƣời này!

Nghe Phật nói, tất cả đại hội đều sợ, Bà Hoàng hậu vui vẻ cởi áo của mình và nữ trang,

vua cũng lấy áo và tiền bạc, sai ngƣời mang đến cho hai vợ chồng Đàn Ly Già, và mời

ngay đến chốn Phật nghe pháp.

Nhân thế đức Phật thuyết về phƣớc báu bố thí và tội keo sẻn trộm cắp cho đại chúng

nghe, khi đó có rất nhiều ngƣời phát tâm tu hạnh bố thí!

Tới đây Phật nhắc lại rằng:

127

- A Nan! Ông nên biết vợ Đàn Ly Già, thuở đó nay là Tỷ Khƣu Ni Thúc Ly vì phát tâm

thanh tịnh cúng dàng, nên trong chín mƣơi mốt kiếp, sinh nơi đâu cũng có tấm lụa sinh

theo, lại đƣợc giàu sang sung sƣớng an vui. Cũng bởi nghe Phật thuyết pháp và có tâm

cầu giải thoát, nên đời nay đƣợc gặp ta chứng quả A La Hán nhƣ thế đó, các ông cũng

nên tinh tiến nghe pháp và bố thí, ngày sau sẽ kết quả trang nghiêm.

Phật thuyết xong, có rất nhiều ngƣời phát tâm cúng dàng, làm hạnh bố thí, ai nấy đều vui

vẻ lễ kính mà lui

---o0o---

Phẩm thứ hai mƣơi hai :BÀ LÃO BÁN NGHÈO

KHI bấy giơ T ôn Giả Ca Chiên Diên đi giáo hóa ở nƣớc A Bàn Đề, gặp một bà lão

đƣơng ngồi khóc ở bên bờ sông! Ngài hỏi:

- Bà lão tại sao khóc?

- Bạch Tôn Giả! Con tuổi tác già yếu, vì túng thiếu nghèo khổ phải đi ở mƣớn cho nhà

ông Trƣởng giả; ông ấy cay nghiệt quá! Nhà giàu lòng tham sẻn bạo ác, không có từ tâm.

Sớm hôm bắt con hầu hạ, ngoài ra còn làm các việc, ít khi đƣợc nghỉ ngơi, hoặc có lầm

lỗi gì, thì bị đánh đập, áo không đủ che thân, cơm không đủ no miệng, chết cũng không

đƣợc, sống thì khổ, vì thế nên con khóc!

Ngài nói: Nghèo sao bà không bán nó đi?

- Bạch Tôn Giả nghèo làm sao bán? Và ai là ngƣời mua?

- Nghèo có thể bán đƣợc lắm! Muốn bán để ta bán hộ!

- Bạch Tôn Giả! Bán bằng cách nào, xin Ngài nói cho con đƣợc biết?

- Muốn bán phải nghe lời ta dạy.

- Dạ! Con xin tuân mạng!

- Trƣớc khi bán bà phải đi tắm rửa cho sạch sẽ.

Khi tắm xong Ngài dạy:

- Ngƣời thế gian khi có phƣớc đƣợc hƣởng giàu sang, chỉ buông lung tâm tính say mê

dục lạc, đã không bố thí, lại còn sinh lòng gian lận hiếp đáp ngƣời lấy của, keo sẻn tham

lam nên bị quả báo nghèo đói đau khổ về thể xác lẫn tinh thần. Bà muốn đƣợc an vui

sung sƣớng trên cõi nhân thiên, phải thành kính thụ trì Tam Quy Ngũ giới, mỗi tháng sáu

128

ngày thụ phép Bát Quan Trai, ngoài ra chăm niệm Phật, trồng các công đức lành; làm

hạnh bố thí đời đƣợc hƣởng phúc an lành!

- Bạch Tôn Giả, con nghèo cùng lắm, thân con hoàn toàn không có một chút gì. Còn cái

bình này là của chủ con, không biết lấy gì bố thí đƣợc?

- Bà đem cái bát lấy ít nƣớc lại đây dâng ta. Ta sẽ chú nguyện cho.

Bà lão vui mừng! Thành kính cầm bát ra sông múc nƣớc dâng Ngài.

Chú nguyện xong Ngài hỏi rằng:

- Bà có chỗ nằm ngồi gì không?

- Bạch Tôn Giả! Không có! Nếu lúc nào xay lúa giã gạo xong con nằm ngay bên cối ngủ,

mùa xuân, mùa thu, làm lụng xong, cũng ngủ ở đó, ngoài ra không xay lúa, thì ra đồng

phân trâu trữ để bón lúa, nằm ngủ tại bên.

Tôn Giả nói: - Bà giữ tâm cho khéo, làm lụng hầu hạ phải cung kính cẩn thận, chớ sinh

lòng hiềm thù, oán giận, chờ chủ nhà đi ngủ xong, mở cổng ra ngoài, lấy nắm cỏ khô trải

một bên, cung kính chắp tay quan sát hình tƣớng Phật, chớ có ác niệm.

Theo lời Tôn Giả dạy, cũng làm đúng nhƣ thế, đến quá nửa đêm bà lão chết, thần hồn

đƣợc sinh lên cõi trời Đao Lợi.

Sớm mai ông Trƣởng giả thấy mụ già chết nằm ngoài ngõ, giận nói:

- Con mụ này đã chết tại đây tối qua rồi, lũ bay lôi nó ra rừng cho ta!

Tụi gia nhân Trƣởng giả, lấy dây buộc vào chân lôi mụ ra rừng lạnh vất bỏ, không chôn

cất chi hết.

Khi đó trên cung trời Đao Lợi có ông Thiên Tử mệnh chung, họ hàng có năm trăm ngƣời,

thần hồn bà lão đƣợc thay thế.

Phép sinh thiên, những ngƣời lợi căn thông minh có thể nhớ đƣợc nhân do đời trƣớc của

mình tại nhân duyên gì đƣợc sinh: Còn kẻ độn căn ngu tối thì quên hết, ham hƣởng dục

lạc cõi thiên, chứ không biết nguyên uy lúc tiền sinh. Bà lão này cũng thế quên hết, chỉ

mãi vui dục lạc với năm trăm thiên tử. Lúc đó Ngài Xá Lợi Phất cũng ở cõi trời Đao Lợi

biết thế hỏi:

- Ngƣơi nhân phƣớc gì đƣợc sinh lên đây?

- Bạch Tôn Giả con không nhớ, xin Tôn Giả chỉ giáo cho!

129

Ngài bèn cho mƣợn phép đạo nhãn, xem biết tiền thân của mình, là mụ già ở của ông

Trƣởng giả, do nhờ Ngài Ca Chiên Diên dạy phép niệm Phật và lực của Ngài mà đƣợc

thác sinh lên đây.

Cảm ơn Ngài Xá Lợi Phất, rồi đƣa năm trăm thiên tử xuống nhân gian, nơi rừng lạnh đốt

hƣơng cúng dàng tử thi bà lão. Những thiên tử thân có hào quang chiếu sáng khắp rừng

và nơi thôn dã ấy. Ông Trƣởng giả thấy biến tƣớng nhƣ thế, không biết tại sao, gọi tất cả

mọi ngƣời xa gần đến xem, đến tận nơi, thấy các ông thiên tử đƣơng cúng dàng tử thi mụ

già của nhà mình. Thƣa rằng:

- Thƣa quý ông! Mụ già này là ngƣời ở nhà tôi, bẩn lắm. Lúc sinh thời là kẻ ác kiến, nay

đã chết, tại sao quý Ngài lại cúng dàng?

Ông thiên tử ấy, liền nói nguyên nhân cho mọi ngƣời nghe.

Nói xong ai nấy đều sợ hãi! Một lòng thành kính làm lễ thi hài cho mụ già xong, rũ nhau

đên yết kiến Tôn Giả Ca Chiên Diên.

Mọi ngƣời tới nơi làm lễ xong lui ngồi về một bên. Ngài thuyết pháp nói về luận "bố thí",

luật "trì giới", luận "sinh thiên" tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ là nhân của

tâm ác đạo: Nó tạm thời khoái lạc! Lại bị lâu kiếp đau khổ: Ly dục là một pháp an vui,

bất diệt.

Năm trăm thiên nữ nghe xong đƣợc xa lìa trần cấu; đắc "pháp nhân tịnh", cúi đầu bái tạ

bay về thiên cung.

Nhân gian những ngƣời đƣợc nghe Tôn Giả nói, ai nấy đều phát tâm ly dục, làm hạnh bố

thí, cầu đạo giải thoát bái tạ lui ra

---o0o---

Phẩm thứ hai mƣơi ba : KIM THIÊN

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn cây của ông Cấp Cô

Độc và Thái Tử Kỳ Đà giảng thuyết chánh pháp cho bốn chúng tu tập.

Tại thành này có ông Trƣởng giả nhà giàu sinh đƣợc cậu con trai mình sắc vàng, phúc

đức đầy đủ.

Cũng lạ thay: Khi sinh cậu tự nhiên nứt ra một cái giếng ngay giữa vƣờng, ngang dọc mỗi

bề tám thƣớc, sâu tám thƣớc, giếng nƣớc ngọt thơm, uống vào mát mẻ khoái lạc, và cũng

thấy no đủ, nếu không ăn cơm cũng đƣợc sức mạnh nhƣ thƣờng, dƣới lòng giếng lại có

nhiều vàng bạc. Ông Trƣởng giả lấy phân cấp cho mọi ngƣời, nhân thế ai muốn gì cũng

đƣợc, là vì ai cũng đƣợc ông ban phát vàng bạc cho họ tiêu xài.

130

Đặt tên cậu là Tu Việt Na Xà Đề (Tàu dịch là Kim Thiên). Sau khi cậu lớn tài nghệ tinh

thông, nhân từ đạo hạnh, vì thế nên ông bà yêu quý không bao giờ làm trái ý. Sau ông

nhờ những ngƣời lái buông tìm một cô gái có đức hạnh sánh duyên cùng cậu.

Thuở đó ở nƣớc Diêm Ba có cô con gái ông Trƣởng giả tên là Bạt Na Ba Bà Tô (Tàu dịch

là Kim Quang Minh). Cô này dong tƣ yểu điệu, thân thể vàng chói. Khi sinh cô ra điềm

lành cũng biến hiện, nhƣ sinh cậu Kim Thiên không khác.

Ông thân phụ cô nghĩ nhƣ vầy:

- Con ta phúc đức xinh đẹp, ít ngƣời sánh kịp, phải tìm gả cho một ngƣời hiền sĩ, tƣớng

mạo anh tuấn trƣợng phu, chứ không thể gả cho kẻ tầm thƣờng đƣợc.

Danh đức cô này đồn khắp nƣớc Xá Vệ, trái lại tiếng khen của cậu Kim Thiên cũng làm

cho nhà cô nghe biết.

Nên chi hai ông Trƣởng giả rất hoan hỷ, vì thân thế đôi bên cũng là một nhà thế phiệt,

anh đức không kém nhau. Hai ông đồng ý gả con cho nhau, từ đó trai tài gái sắc kết

duyên về nƣớc Xá Vệ, chung hƣởng cuộc đời vui thú.

Ông thân phụ của Kim Thiên muốn cho vợ chồng Kim Thiên thấm nhuần giáo lý đạo

Phật, một hôm mời Phật về nhà cúng trai. Khi Phật và chƣ Tăng dùng cơm xong, Ngài

thăng tòa thuyết pháp nói về "Bát Khổ" tức là: sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ái

biệt ly khổ, cầu chẳng đƣợc khổ, oán ghét ở với nhau là khổ, năm ấm nồng nhiệt khổ, và

nói về tám giải thoát an lạc.

Vợ chồng Kim Thiên nghe xong nhƣ ngƣời tỉnh giấc mơ, nhƣ kẻ khát đƣợc uống nƣớc

cam lộ, tâm trí mở mang, hiểu thấu đời là vô thƣờng, ngay giờ phút đó ông bà Trƣởng giả

và vợ chồng cậu, phá tan đƣợc những ác kiến trong hai mƣơi ức kiếp, đắc quả Tu Đà

Hoàn.

Đức Thế Tôn sau khi trở về Tịnh Xá, vợ chồng Kim Thiên đều xin đi xuất gia, vì đã hiểu

đạo nên ông bà chấp thuận không ngăn cản.

Hai ngƣời đến cúi đầu lễ Phật bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Đƣợc Pháp Bảo vô thƣợng của Nhƣ Lai tuyên diễn, chúng con

nhận thấy đời là vô thƣờng, ảo mộng, đạo an lạc vô vi phải cầu, nên chúng con thành

kính xin Ngài từ bi tế độ cho xuất gia tu đạo.

Phật dạy: - Thiện lai Tỷ Khƣu.

Ngài nói dứt lời, tóc của hai ngƣời đều rụng hết, áo mặc tại mình biến thành áo Cà Sa.

Kim Thiên đƣợc ở chung với Tỷ Khƣu Tăng, còn Kim Quang Minh Phật giao cho bà Đại

Ái Đạo giáo hóa.

131

Tu học không bao lâu, hai ngƣời đều đắc quả A La Hán "Tam Minh", "Lục Thông",

"Tám Giải Thoát" công đức rất viên mãn.

Thấy thế tôi hỏi Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, chẳng hay vợ chồng Kim Thiên trƣớc tu công đức gì, mới sinh

ra đã nhiều trân bảo, thân thể có sắc vàng, tu hành chƣa đƣợc bao lâu đã đắc quả giải

thoát, cúi xin nói cho chúng con đƣợc rõ?

Phật dạy: - A Nan! Ông nên biết: Cách đây chín mƣơi mốt kiếp, hồi ấy có Đức Phật ra

đời hiệu là Tỳ Bà Thi, sau khi Ngài nhập Niết Bàn, các Thầy Tỷ Khƣu đi giáo hóa nhân

gian, đến thôn xóm kia dân chúng tranh nhau cúng dàng. Lúc đó có hai vợ chồng nhà

nghèo tự niệm rằng:

- Lúc sinh thời cha mẹ ta giàu có, tiền của đầy kho, nay ta bị nghèo cùng cơ khổ! Nằm

ngồi trên chiếc chiếu manh, áo không đủ che thân, nhà không một đấu gạo. Khi nhà giàu

sang, lắm tiền nhiều của, thì không đƣợc gặp các vị Thánh Tăng, rồi òa lên khóc, nƣớc

mắt rơi xuống cánh tay vợ hỏi:

- Tại sao anh khóc?

- Em không biết hay sao? Các vị Thánh Tăng tới đây, nhân dân tranh nhau cúng dàng,

nhà ta nghèo không có gì để trồng thiện duyên với các Vị đời nay bần cùng, rồi sau lại

khốn khó, thế nên anh khóc!

- Thôi anh khóc làm gì! Anh vào kho tìm xem có đƣợc đồng nào thì đem cúng dàng.

Anh đứng lên vào kho tìm mãi, may sao đƣợc một đồng tiền vàng, mừng quá mua một

cái bình mới đựng nƣớc trong sạch rồi bỏ đồng tiền vàng ấy vào trong, cô vợ mua một cái

gƣơng sáng, chung đem cúng dàng, Tới nơi Tinh Xá dâng lên chƣ Tăng.

Chƣ Tăng nhận và làm phép chú nguyện, vợ chồng vui vẻ ra về.

Qua đƣợc ít năm, hai vợ chồng đều chết cả, do nhân duyên ấy đƣợc sinh lên cõi trời Đao

Lợi.

Tới đây Phật nhắc lại rằng:

- A Nan! Hai vợ chồng nghèo thuở đó, nay chính là vợ chồng Kim Thiên bởi kiếp trƣớc

thành kính cúng tiền vàng, gƣơng nƣớc, nên đời đời đƣợc phƣớc báo thân thể tƣơi đẹp,

sắc vàng. Từ đó đến nay đã chín mƣơi mốt kiếp đều đƣợc hƣởng quả báo tốt lành nhƣ

nay. Thuở ấy vì phát tâm cầu đạo vô thƣợng nên đời nay gặp ta đƣợc thoát sinh tử, đắc

đạo Niết Bàn. A Nan! Phúc đức phải nên tu, nhƣ kẻ nghèo kia cúng dàng một chút mà

phƣớc báo lớn lao nhƣ vậy.

132

Bấy giờ tôi và đại chúng nghe Phật nói xong, ai nấy đều ham làm việc cúng dàng bố thí,

vui mừng lễ tạ lui ra

---o0o---

Phẩm thứ hai mƣơi bốn : TRÙNG TÍN

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Xá Vệ tại vƣờn cây của ông Cấp Cô

Độc và Thái Tử Kỳ Đà.

Thuở đó có ông Trƣởng giả, nhà giàu lại không có con trai, ông bà thƣờng hay đi cầu đạo

ở các miếu thần, vì lòng thành kính khẩn nguyền, nên bà sinh đƣợc cậu con trai quý.

Một hôm ông bà ẵm cậu đến bờ sông, để thƣởng thức các thú vui ngày đầu năm của gia

tộc: Ăn các mùi ngon, uống các rƣợu tốt, ca hát, nhảy múa xem các trò vui.

Ông vừa bế cậu vừa nhảy múa, múa xong lại trao cho bà. Muốn cho cậu bé tƣơi cƣời vui

vẻ, nên bà cứ tung cậu lên lại đỡ lấy, vừa cƣời, vừa đi trên mé sông, vì bỡn với cậu con

quý của bà, nên tâm hồn tán loạn không cẩn thận, sảy tay đánh rơi cậu bé xuống sông kêu

chỏm, bà hô la khản tiếng, có nhiều ngƣời nhảy xuống mò nhƣng ôi thôi! Sông sâu nƣớc

chảy mạnh tuyệt vô tăm tích! Ông bà Trƣởng giả ngất đi hồi lâu mới tỉnh.

Cuối dòng sông này có một thôn nhỏ, thôn ấy có một nhà giàu cũng không có con. Hết

sức cầu Trời khẩn đất, đền nọ, miếu kia, vẫn vô hiệu quả.

Hôm ấy ông sai ngƣời ở trại thả lƣới tại cuối con sông này, bắt đƣợc con cá lớn đem về

mổ ra, thấy một đứa bé trai bị con cá nuốt mà vẫn còn sống; anh bế nó ra tắm rửa sạch sẽ

rồi đƣa cho ông chủ. Ông chủ xem xong vui vẻ nói:

- Nhà ta từ trƣớc đến nay chí thành cầu đảo, hôm nay thực là trời cho ta đứa con này, ông

trao cho bà ẵm nuôi bú mớm cẩn thận.

Ông Trƣởng giả mấc con hay tin có ngƣời mách bảo, cuối dòng sông này có ngƣời bắt

đƣợc con cá lớn mổ ra đƣợc đứa con trai vẫn còn sống.

Ông bà rủ nhau đến xem, quả nhiên là con của ông thật.

Ông thƣa rằng:

- Thƣa ông! Đây chính là con tôi, bữa trƣớc bà cháu giỡn chơi với nó không may đánh rơi

xuống sông, phúc đức quá! Ông bà lại cứu đƣợc cháu. Vậy xin ông bà cho tôi chuộc lại,

bao nhiêu chúng tôi cũng xin trả?

133

- Đáp: Thƣa ông, nhà tôi thành kính cầu đảo thần kỳ đã lâu, đƣợc sự báo ứng cho tôi đứa

con này, tôi để nuôi chứ không thể bán đƣợc!

- Thƣa ông bà, chúng tôi thƣơng con đứt ruột, giờ đây đƣợc thấy cháu nhƣ ngƣời sống lại,

ông bà hoan hỷ, nếu ông bà có lấy nửa gia tài tôi cũng xin vâng!

- Thôi ông đừng nói nữa làm chi có chuyện lạ nhƣ vậy. Con ông rơi xuống sông là mất

rồi, nếu bị cá nuốt thì chết rồi, còn sống sao đƣợc, đây là cái thai của con cá, đâu phải

ngƣời đẻ.

Hai ông tranh luận mãi không giải quyết đƣợc, đƣa nhau lên vua xử đoán.

Ông mất con tâu rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Bữa trƣớc vợ tôi ẵm nó đi chơi xẩy tay rơi xuống sông, xin Bệ Hạ minh xét.

Ông đƣợc con nói:

- Tâu Bệ Hạ! Ngƣời ở nhà tôi đánh lƣới đƣợc con cá, đem về thấy đứa bé nầy ở trong

bụng, chứ không phải anh ấy sinh nó ra.

Nhà vua nói: - Bây giờ có một đứa bé hai nhà cùng nhận. Trẫm không biết cho ai là phải.

Vậy hãy nghe ta giải quyết, đứa bé này ta cho hai nhà nuôi chung, sau nó sẽ là con của

hai nhà, mỗi nhà cƣới cho nó một con vợ, vợ nhà ai sinh thì thuộc con nhà ấy.

Hai ông đều thƣa:

- Dạ! Muôn Tâu Bệ Hạ, chúng con xin tuân mạng.

Cứ thế, hai ông về nuôi chung, năm qua tháng lại không bao lâu đã lớn, mỗi nhà đều cƣới

cho một cô vợ, đôi bên cha mẹ giàu một mình cậu tận hƣởng.

Nhân có việc cậu đi sang xứ khác, cũng là đại nhân duyên, khi xong việc ra về gặp Phật

đi du hóa nhân gian, cậu nhìn thấy Phật oai đức lớn lao, quang minh sáng sủa, đầy vẻ tôn

nghiêm và thấy các ngƣời dân theo Phật tu học rất nhiều, cậu tới trƣớc lễ Phật rồi lui ngồi

về một bên nghe Phật thuyết pháp nhƣ cây kia bị nắng héo khô hạn, gặp trận mƣa tƣới

mát, cành lá xanh tƣơi, cậu đƣợc nghe Phật thuyết pháp cũng thế, nghe xong lễ tạ lui ra.

Về nhà cậu rất sung sƣớng, với một ý niệm xuất gia sắt đá đã phát khởi tự đáy lòng, mặc

dầu cho đôi bên cha mẹ lắm bạc nhiều tiền, vinh hoa phú quý, cậu coi nó nhƣ mây bay,

nhƣ bọt nƣớc, thƣa với cha mẹ đôi bên rằng:

- Kính thƣa song thân, lúc con mới sinh, đã mắc nạn rơi xuống sông bị cá nuốt mạng

thoát chết, con nhìn lại đời không có gì vững chắc, dù cho lắm bạc nhiều tiền, quyền cao

chức trọng, vợ đẹp hầu sinh, không ai tránh khỏi hai chữ vô thƣờng, chỉ có xuất gia cầu

đạo giải thoát là vui thú nhất. Vậy kính xin cho con xuất gia tu học!

134

Ông bà trƣởng giả nghe cậu nói có lý cao siêu, nên vui lòng cho tùy ý cậu.

Sau khi đƣợc sự đồng ý của đôi bên cha mẹ, cậu lên đƣờng đi đến chốn Phật cúi đầu làm

lễ bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, thân ngƣời khó đƣợc, đời là ảo mộng con thành thực trút bỏ nơi

tục lụy, tới đây cầu Thế Tôn cho con đƣợc nhập đạo tu hanh, xin từ bi tế độ!

Phật nói: - Thiện Lai Tỷ Khƣu!

Ngài nói dứt lời tóc trên đầu cậu tự nhiên rụng hết, áo mặc trên mình biến thành áo Cà

Sa. Phật đặt pháp hiệu cho là "Trùng Tín".

Chăm chỉ tu hành không lâu đã đắc quả A La Hán.

Thấy thế tôi hỏi Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Không hay Trùng Tín quá khứ kiếp làm hạnh gì, trồng nhân lành

gì, rơi vào mồm cá không chết, hơn nữa lại đƣợc hƣởng hai gia nghiệp giàu có, cúi xin

Ngài chỉ giáo cho chúng con đƣợc rõ nguyên nhân?

Phật dạy rằng: A Nan! Ông nên biết, đời quá khứ đã quá lâu có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ

Bà Thi, một hôm Ngài đƣơng thuyết pháp cho đại chúng, khi đó có một ông Trƣởng giả

đến dự thính. Buổi ấy Phật nói về phúc Bố thí, phúc Trì giới, ông vui mừng phát khởi

lòng tin mạnh mẽ, xin Phật thụ Tam quy và thụ giới bất sát, thụ xong đem một đồng tiền

dâng Phật. Bởi thế cho nên đời đời đƣợc phúc báo vô biên, trên cõi nhân gian, ít ngƣời bì

kịp. A Nan! Ông Trƣởng giả thuở đó nay chính là Trùng Tín Tỷ Khƣu. Từ đó tới nay

Trùng Tín đã đƣợc hƣởng phú quý trong chín mƣơi mốt kiếp, nay đƣợc hƣởng thụ gia

nghiệp của đôi nhà. Do Trùng Tín giữ giới bất sát đƣợc hoàn toàn, nên cá nuốt không

chết, và cũng thụ Tam quy nên nay mới đƣợc gặp ta, tắm gội pháp hóa của ta và đắc quả

A La Hán, giải thoát sinh tử ba cõi.

Khi đó tôi và tất cả mọi ngƣời nghe Phật nói xong, ai nấy đều sung sƣớng phát tâm tu

đạo, cúi đầu lễ tạ lui ra

---o0o---

Phẩm thứ hai mƣơi lăm : TÁN ĐÀN NINH

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn cây của ông Cấp Cô

Độc và Thái Tử Kỳ Đà, cùng với một ngàn hai trăm năm mƣơi vị đại Tỷ Khƣu ơ đó.

Khi bấy giờ có năm trăm ngƣời ăn mày, bằng ngày cứ theo Phật và chƣ Tăng xin ăn,

ngoài ra không xin ai hết, đã lâu năm vẫn không thôi. Khi đó tự bảo nhau rằng:

135

- Lũ ta sống nhờ dƣới bóng Phật và chƣ Tăng, đã lâu ngày, xét rằng: Cứ nhƣ thế này mãi

cũng vô ích, ngày qua tháng lại, không lại hoàn không, một mai quỷ Vô Thƣờng tới bắt,

chúng ta nhờ thế lực gì cứu thoát, chi bằng chúng ta xin Phật xuất gia tu đạo, cầu giải

thoát là tối diệu.

Bàn xong họ đến lễ Phật bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, chúng con bạc phúc sinh nơi hạ tiện, mong ơn cao cả hàng ngày

đƣợc sống dƣới bóng Từ Quang, hôm nay bọn chúng con tất cả năm trăm ngƣời một lòng

thành kính cầu xin xuất gia tu đạo, cúi mong từ bi tế độ! Sợ rằng chúng con là kẻ ăn xin,

vào chúng tu hành làm nhơ tiếng của ngôi Pháp Vƣơng, việc đó có đƣợc xin Ngài chỉ

giáo?

Phật dạy! Pháp của ta thanh tịnh, không phân biệt giàu, nghèo, sang , hèn, cũng ví nhƣ

nƣớc trong sạch, đem rửa những đồ nhơ bẩn thì các vật quý vật hèn, của tốt của xấu, trai

hay gái đều trong sạch cả. Pháp của ta ví nhƣ lửa cháy, tất cả núi, sông, đá, đất, hoặc trên

trời dƣới biển muôn vật bất luận lớn nhỏ, nếu đốt đều cháy tiêu tan. Pháp của ta cũng nhƣ

hƣ không, con trai, con gái, giàu nghèo, sang hèn, ai cũng có thể vào đƣợc.

Nghe Phật nói xong, tất cả bọn đều vui mừng! Cúi đầu lạy sát đất đồng thành xin nhập

đạo tu hành.

Phật nói: - Thiện Lai Tỷ Khƣu!

Tất cả năm trăm ngƣời đều rụng hết tóc, áo Cà Sa thấy mặc tại mình, biến thành những

Vị Sa Môn tu hành không bao lâu đã dứt hết lậu nghiệp, thành ngôi A La Hán.

Khi đó trong nƣớc các nhà hào trƣởng và nhân dân hay tin Phật cho những ngƣời ăn mày

xuất gia nhập đạo, họ rất không bằng lòng và nói:

- Những kẻ ăn mày hèn hạ, Phật cũng cho họ xuất gia đứng vào hàng Tăng chúng. Chúng

ta có tác phúc mời Phật và chƣ Tăng, quyết không cúng dàng bọn họ, và cũng không thể

cho họ ngồi giƣờng chiếu của nhà mình đƣợc.

Thái Tử Kỳ Đà biết thế, sửa soạn cơm chay chu đáo, sai ngƣời đi mời Phật, dặn rằng:

- Anh đi mời Phật và chƣ Tăng, chứ không mời bọn ăn mày.

Ngƣời đó đến lễ Phật và bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Thái Tử Kỳ Đà ngày mai xin mời Thế Tôn và chƣ Tăng đến

vƣơng cung thụ trai, cho Hoàng gia đƣợc ân triêm công đức, song Thái Tử có dặn con,

không mời những ông ăn mày, xin Ngài từ bi hỷ xả cho?

Phật mỉm cƣời nhận lời!

136

Sáng mai lúc sắp đi phó trai, Phật bảo năm trăm Khất Sĩ rằng:

- Hôm nay ta và các Thánh Tăng đi phó trai tại nhà Thái Tử Kỳ Đà, các ngƣơi đi sang xứ

Uất Đan Việt ở bắc phƣơng, lấy thứ lúa tám cánh, mang về nhà Thái Tử, nơi ta phó trai,

rồi cứ theo thứ tự mà ngồi!

- Dạ lạy Đức Thế Tôn, chúng con xin thụ giáo.

Khi Phật đi khỏi các vị La Hán dùng thần túc bay đi lấy lúa, trở về nhƣ đàn chim nhạn

trên hƣ không, tới vƣơng cung từ từ hạ xuống, oai nghi đĩnh đạc, bƣớc vào thứ tự ngồi

nghiêm chỉnh.

Thái Tử thấy các vị này có thần túc tƣớng mạo oai nghiêm, phúc đức đầy đử, khen thầm

trong bụng! Tự nghĩ: Hôm nay nhà ta có phƣớc lắm! Mừng lắm!

Tới trƣớc Phật quỳ thẳng chắp tay bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Các vị Hiền Thánh Đại Đức từ đâu lại, cúi xin Ngài chỉ giáo?

- Phật nói: Kỳ Đà! Chắc ông không biết! Các vị Tỷ Khƣu này trƣớc đây là ngƣời ăn mày,

mới theo ta tu học đã chứng thánh quả, bữa qua Thái Tử không mời, hôm nay sang xứ

Uất Đan Việc lấy lúa tám cánh về ăn đấy!

- Thế Tôn công đức vô lƣợng vô biên khó tả xiết, những ngƣời ăn xin đứng vào hàng hèn

hạ nhất còn đƣợc đặc ân cao quý, đời hiện tại an lạc, lai sinh nhàn cƣ đạo Vô Vi. Lòng

đại bi vô cùng cực không bỏ sót một chúng sinh nào.

Bạch rằng: Kính lạy đức Thế Tôn! Các vị Tỷ Khƣu quá khứ trồng nhân lành gì? Tu công

đức gì? Nay đƣợc gặp Thế Tôn! Và không rõ tại tội gì sinh nơi nghèo khổ phải đi ăn mày,

kính xin Ngài chỉ giáo cho!

Phật dạy: Kỳ Đà ông nên biết: Đời quá khứ không biết lƣợng nào kiếp số, cũng Châu

Diêm Phù Đề này, có một nƣớc lớn tên là Lợi Ba La Nại, nƣớc ấy có một quả núi rất lớn

tên là Sự Bạt Ta (Tàu dịch là Tiên Sơn). Trƣớc những thời cổ xƣa, có các thứ Đức Phật tu

trong núi này, thời nào không có Phật lại có các vị Bích Chi Phật, hoặc có các vị Tiên Sĩ,

chứ không bao giờ vắng các vị Hiền Thánh.

Thời đó, núi này có hai ngàn vị Bích Chi Phật, gặp lúc hỏa tinh xuất hiện kéo dài mƣời

năm, đồng ruộng khô khan, không cày cấy gì đƣợc, nhân dân bị đói khát đau khổ. Lúc ấy

có ông Trƣởng giả tên là Tán Đàn Ninh, nhà giàu thóc gạo nhiều, ông thƣờng cung cấp

cho các đạo sĩ. Hôm ấy có một ngàn vị Bích Chi Phật đến nói với ông rằng:

- Thƣa Trƣởng giả! Chúng tôi ở trong núi, gặp lúc hạn, nhân dân đói thiếu, đi xin không

đƣợc, Trƣởng Giả có thể cung cấp cho chúng tôi ở tại đây tu hành đƣợc không? Bằng

không chúng tôi sẽ đi nơi khác!

137

Đáp: - Kính xin quý vị ngồi chơi để chúng tôi trả lời sau!

Ông gọi ngƣời coi kho hỏi:

- Thủ kho! Gạo còn nhiều không? Có thể cúng dàng đƣợc một ngàn tu sĩ ở tại đây đƣợc

không?

- Dạ! Thƣa Trƣởng giả! Số thóc gạo còn rất nhiều, có thể cúng dàng đƣợc.

Ông ra đáp lời rằng:

- Dạ! Thƣa quý vị, chúng tôi xin thành tâm cúng dàng, quý vị hoan hỷ và xin ở luôn tại

nhà tôi cho tiện.

Hôm sau lại có một ngàn vị nữa đến thƣa với ông rằng:

- Thƣa Trƣởng giả! Chúng tôi có một ngàn vị tu tại núi này, Ngài có thể cúng dàng đƣợc,

thì quý hóa lắm, bằng không phải đi nơi khác.

- Dạ! Xin quý Ngài ngồi chơi!

Trƣởng giả gọi thủ kho hỏi:

- Anh xem có thể cúng dàng đƣợc một ngàn vị nữa không?

- Dạ! Thƣa Trƣởng giả đủ.

Ông ra đáp lời quý vị rằng:

- Dạ! Thƣa quý Ngài chúng tôi xin thành tâm chúng dàng!

Ông cúng dàng hai ngàn vị Bích Chi Phật, thuê năm trăm ngƣời hàng ngày để thổi cơm

gánh nƣớc giặt giũ quần áo, hầu hạ các vị đầy đủ, và một ngƣời coi đúng giờ đi mời các

vị ăn cơm.

Bọn năm trăm ngƣời thấy sự hầu hạ mỏi mệt, phát giận nói với nhau rằng:

- Chúng ta chịu sự cực khổ buổi sớm ban hôm không đƣợc lúc nào nhàn rỗi cũng chỉ vì

bọn ăn mày này.

Ngƣời mời này nuôi một con chó, mỗi khi đi mời cũng cho nó đi theo, một hôm mải chơi

quên không đi mời, con chó có linh giác, biết rằng chủ quên mời nó tự đi đến chỗ các vị

Bích Chi, cắn lớn mấy tiếng. Các vị hiểu nó đến mời, chú nguyện cho nó thoát khỏi thân

súc sinh, sớm đƣợc gặp gỡ ngôi Tam Bảo.

Hôm đó thụ trai ngọ xong, các vị nói với ông Trƣởng giả rằng:

138

- Thƣa Trƣởng giả, trời sắp mƣa ông nên cấy lúa là đƣợc.

- Dạ! Các Ngài dạy bảo chúng tôi xin thọ giáo.

Ông sai canh điền bắt trâu cày ruộng, quả nhiên trời mƣa, trồng các thứ lúa đều đƣợc tốt

tƣơi. Nhƣng lạ thay, những cây lúa ấy sinh ra những quả bầu, ông Trƣởng giả cho làm lạ,

đến hỏi các vị, các vị nói rằng:

- Trƣởng giả không lo! Cứ tƣới bón vun sới cho nó, một mai nó sẽ kết thành thóc gạo.

Sau ngày bầu chín, ngƣời ta mang về bổ xem, quả nhiên thấy lúa ở trong đầy ăm ắp.

Ông Trƣởng giả vui mừng, nhân dân cho là điềm lạ! Vụ lúa này ông Trƣởng giả đƣợc rất

nhiều thóc, chứa đầy kho đụn, còn thừa phân cấp cho nhân dân, từ đó mỗi ngƣời đƣợc no

nê sung sƣớng, mƣa thuận gió hòa, đƣợc mùa lúa tốt.

Khi đó bọn năm trăm ngƣời nói với nhau rằng:

Năm nay đƣợc mùa lúa tốt no nê sung sƣớng là do nơi các vị Đại Sĩ. Trƣớc đây chúng ta

nói xấu các vị, phải đối trƣớc quý Ngài tạ lỗi, kẻo lại sinh chịu quả báo đau khổ.

Mọi ngƣời ai nấy đều sợ nghiệp báo, nên cùng nhau đến trƣớc các vị Bích Chi Phật, thụp

lạy thiết tha sám hối.

- Các vị thấy họ đã phát thiện tâm, cũng vui lòng! Hỷ xả cứu tế.

Họ thấy các vị đã hoan hỷ rồi, mọi ngƣời đồng thanh phát nguyện rằng:

- Nguyện cho chúng con đƣợc thoát ba đƣờng ác, lại sinh tri ngộ Hiền Thánh đắc quả giải

thoát!

Tới đây Phật nhắc lại rằng:

Thái tử ông nên biết: Năm trăm ngƣời nói xấu các vị Bích Chi Phật thuở đó nay là năm

trăm vị ăn mày, vì một lời nói ác nên trong năm trăm đời, phải đi ăn mày, cũng do có

lòng sám hối phát nguyện, ông Trƣởng giả Tán Đàn Ninh, chính là tiền thân của ta, ngƣời

coi kho này là ông Tu Đạt, ngƣời đi mời hằng ngày, nay là vua Ƣu Điền, con chó lúc ấy

vì cắn mấy tiếng, nên đời đời đƣợc âm thanh tốt, nay là ông Mỹ Âm Trƣởng giả.

Thái Tử Kỳ Đà và tất cả trong Hoàng cung dân chúng nghe Phật nói xong, ai nấy đều

cảm mến lòng từ bi thƣơng đời của Ngài một cách bình đẳng tuyệt đối, nên nhiều ngƣời

phát khởi lòng hƣớng theo tâm cao cả, tiêu trừ tâm ngã mạn kiêu căng.

Lúc đó có ngƣời đắc sơ quả cho đến tứ quả. Tất cả đều tạ lễ lui ra

139

---o0o---

Phẩm thứ hai mƣơi sáu : BỐ THÍ ĐẦU

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở một nƣớc Tỳ Xá Ly, trong vƣờn cây A La.

Khi đó đức Thế Tôn hỏi tôi (A Nan) rằng:

- Những ngƣời đƣợc phép tứ thần túc thì thọ đƣợc một kiếp, nhƣ ta đƣợc tứ thần túc còn

phải tu tập. Vậy có biết Nhƣ Lai thọ đƣợc bao nhiêu không? Ngài hỏi luôn ba lần nhƣ

thế.

Lúc đó tôi bị ma yếm chăng? Nên cứ lặng yên không trả lời. Phật lại bảo:

- A Nan! Ông hãy đi đến chỗ tĩnh mịch mà suy xét.

Tôi vâng lời đứng dậy đi vào trong rừng.

Vừa đi khỏi, thì ma Ba Tuần đến bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài ở đời giáo hóa đã lâu, tế độ nhân gian đƣợc thoát sinh tử,

nhiều nhƣ số cát sông Hằng, nay tuổi đã già yếu, Ngài nên vào Niết Bàn đi!

Phật lấy chút đất để trên móng tay hỏi Ba Tuần rằng:

- Đất trên móng tay ta nhiều hay đất quả địa cầu nhiều?

- Kính lạy Ngài, đất quả địa cầu nhiều.

Ta độ chúng sinh cũng ít nhƣ đất trên móng tay vậy, còn những chúng sinh chƣa đƣợc độ

cũng nhiều nhƣ đất quả địa cầu, cách ba tháng nữa, ta sẽ vào Niết Bàn.

Ba Tuần nghe Phật nói xong vui mừng bái tạ lui ra!

Tôi ngồi trong rừng, chợt ngủ mê thấy một cây to lớn che khắp cả hƣ không, cành lá um

tùm hoa quả tốt tƣơi, cống đức của cây này vi diệu vô cùng, không thể tả xiết. Bỗng

nhiên có một trận cuồng phong làm cho cành lá tan nát tơi bời! Tôi lo sợ quá! Giật mình

tỉnh dậy lồng ngực hãy còn đập liền hồi, tôi thầm nghĩ nhƣ vầy: Ta mộng thấy cây này là

một cây mà tất cả thiên hạ đuợc nhờ, tự nhiên lại bị trận gió làm tan nát nhƣ thế, Đức Thế

Tôn của ta tế độ cho khắp nhân Thiên, Phàm Thánh, muôn loài hàm sinh đều lợi ích.

Cũng nhƣ cây này che chở cho khắp thiên hạ, mộng này có lẽ đức Thế Tôn vào Niết Bàn,

tôi đứng lên vào Tinh Xá cúi đầu làm lễ bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Vừa đây con mộng thấy, một cây to lớn che chở cho muôn loài

bỗng gặp cơn gió lớn, đập gẩy tan tành, con dự đoán hay Thế Tôn sắp vào Niết Bàn, lạy

Ngày có phải, cúi xin chỉ giáo?

140

Phật dạy rằng: - Thực thế đấy! Sau ba tháng nữa ta vào Niết Bàn, cũng nhƣ lời ta vừa nói

đây, những ngƣời đƣợc phép tứ thần túc thì thọ một kiếp, nhƣ ta đƣợc tứ thần túc còn

phải tu tập. Vậy Nhƣ Lai thọ đƣợc bao nhiêu ƣ? Ta hỏi luôn ba lần nhƣ thế mà ngƣơi

không đáp, ngƣơi đi khỏi ma Ba Tuần lại mời ta vào Niết Bàn và ta đã hứa.

Tôi nghe xong nhƣ sét đánh bên tai, lo sợ quá! Buồn khổ quá! Giờ đây Ngài vào Niết

Bàn, chúng sinh biết nƣơng tựa vào đâu?

Sau đó các đệ tử ai ai cũng âu sầu buồn bã, xúm xít thăm hỏi Ngài.

Phật dạy rằng: - Tất cả thế gian đều bị luật vô thƣờng chuyển biến luôn luôn, nay còn mai

mất, không có nhất định, từ loài ngƣời, loài vật cho đến núi sông vũ trụ bao la, không có

một vật gì đƣợc tồn tại mãi mãi đâu. Ta vì chúng sinh trong pháp giới, việc nên làm ta đã

làm xong, những việc phải nói, ta đã nói hết, các ông nên chăm chỉ tu hành, lo buồn làm

chi vô ích.

Ngài Xá Lợi Phất than rằng:

- Than ôi! Con mắt sáng của thế gian đến ngày diệt, đức Nhƣ Lai vào Niết Bàn, chúng

sinh hết chỗ trông nhờ!

Ông nói xong quỳ bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, con không nỡ nào nhìn thấy Ngài nhập Niết Bàn, con xin nhập

Niết Bàn trƣớc, cúi xin Ngài hoan hỷ cho con đƣợc thỏa nguyện.

Ông thƣa luôn ba lần nhƣ vậy.

- Phật nói: Nếu tới thời ông nên biết các Hiền Thánh cũng nên tịch diệt.

Nghe Phật nói xong, ông quỳ thẳng đi bằng hai gối, nhiễu Phật một trăm vòng, rồi đỡ lấy

chân Phật để lên đầu ba lần, bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Hôm nay là lần cuối cùng con từ biệt Ngài! Nói rồi cúi đầu

khoanh tay nghiêm kính đi ra, Ngài trở về nƣớc La Duyệt Kỳ là nơi sinh quán, ông Sa Di

Quân Đề đƣa tin cho vua quan và các nhà thân tín hay, để họ đến thăm viếng.

Vua A Xà Thế biết tin Ngài vào Niết Bàn, tự nói rằng:

- Tôn giả Xá Lợi Phất là một vị đại tƣớng trong Phật Pháp, than ôi! Ngài nhập Niết Bàn

chi sớm thế? Biết lấy ai để trấn tĩnh lũ tà gian.

Khi vua quan dân chúng đến đông đủ, họ thƣa rằng:

- Kính lạy đức Tôn Giả! Đƣợc tin Ngài sắp vào Niết Bàn, chúng tôi đây nhƣ con mất cha,

nhƣ gà mất mẹ, không chốn nƣơng thân, không bề trông cậy.

141

Ngài đáp rằng: Các Phật tử chớ buồn chi! Tất cả muôn vật trên thế gian này đều thuộc hai

chữ "Vô Thường", đã có sinh tất nhiên phải có tử, ba cõi đều khổ, ai là ngƣời đƣợc an vui,

các vị đời trƣớc trồng nhân lành sinh gặp Phật tại thế, kinh pháp khó đƣợc nghe, thân

ngƣời khó đƣợc, phải chăm tu phúc nghiệp, để cầu thoát khỏi sinh tử luân hồi là cốt yếu.

Cứ nhƣ thế, Ngài tùy theo tâm chúng sinh mà giảng giải rất khéo léo, cũng nhƣ thầy

thuốc tùy theo bệnh mà cắt thuốc, để khiến cho họ đƣợc phần lợi ích.

Khi giảng xong, cũng có ngƣời đắc sơ quả cho đến tứ quả, cũng có ngƣời phát tâm cầu

đạo vô thƣợng, ai nấy tâm ý an hòa tạ lễ lui ra.

Khi giảng xong, cũng có ngƣời đắc sơ quả cho đến tứ quả, cũng có ngƣời phát tâm cầu

đạo vô thƣợng, ai nấy tâm ý an hòa tạ lễ lui ra.

Giờ này đã quá nửa đêm, Ngài nghiêm tĩnh tâm ý để tại trƣớc mặt, vào cõi sơ thiền, từ sơ

thiền vào cõi nhị thiền, từ cõi nhị thiền vào cõi tam thiền, từ cõi tam thiền vào cõi tứ

thiền, từ cõi tứ thiền vào cõi không xứ, từ cõi không xứ vào cõi thức xứ, từ cõi thức xứ

vào cõi bất dụng xứ, từ cõi bất dụng xứ vào cõi phi hữu tƣởng phi vô tƣởng xứ, lại từ cõi

phi hữu tƣởng phi vô tƣởng vào định diệt tận, từ định diệt tận nhập Niết Bàn.

Ông Thiên Đế Thích biết thế, đem họ hàng một trăm ngàn ngƣời mang hƣơng hoa xuống

cúng dàng rồi than rằng:

- Tôn giả trí tuệ rộng sâu, nhƣ trời cao, nhƣ biển lớn, biện luận ứng cơ, mau hƣ chớp

loáng, âm thanh nhƣ nƣớc chảy, giới, định, tuệ hoàn toàn, là một đại tƣớng trong Phật

Pháp, thay đức Nhƣ Lai chuyển Pháp luân. Ôi! Ngài nhập Niết Bàn, mất con mắt sáng cõi

nhân thiên.

Từ thành thị cho đến thôn quê, ngƣời đông nhƣ kiến cỏ, mang hƣơng hoa đến cúng dàng,

ai nấy đều sa nƣớc mắt.

Ông Thiên Đế Thích và ông Tỳ Thủ Yết Ma đem xe cõi trời xuống rƣớc: Ngài đi trƣớc,

đi sau có bộ Thiên, bộ Long, quỷ thần, vua quan, dân dung, đến một nơi bình thản cao

sạch. Vua Đế Thích sai các quỷ Dạ Xoa ra bờ biển lấy gỗ chiên đàn, gỗ ngƣu đầu về chất

thành một đống, đổ dầu Tô phóng hỏa thiêu thi hài Tôn Giả.

Đốt xong mọi ngƣời bái tạ ra về. Chờ cho lửa tắt, ông Sa Di Quân Đề thu Xá Lợi của

thầy và tấm áo Cà Sa đem về chốn Phật, bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Thầy con là Xá Lợi Phất đã nhập Niết Bàn, đây là Xá Lợi và áo

bát, xin Thế Tôn chứng minh.

Thấy ông Quân Đề bạch xong cảm động quá! Tôi quỳ xuống bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Ông Xá Lợi Phất với Phật Pháp là một đại tƣớng, vào Niết Bàn

sớm quá, sau khi Ngài nhập diệt chúng con biết nƣơng cậy vào đâu?

142

Phật dạy rằng: Tuy ông Xá Lợi Phất nhập Niết Bàn, song pháp thân và giới, định, huệ,

giải thoát, giải thoát tri kiến của ông đâu có nhập Niết Bàn, vì ông không nỡ nhìn thấy ta

nhập Niết Bàn, nên ông nhập trƣớc ta đấy thôi. Chẳng những đời nay nhƣ thế, đời quá

khứ, ông cũng không đành lòng nhìn ta chết, ông còn tự chết trƣớc ta.

- Kính lạy đức Thế Tôn! Đời quá khứ Tôn giả Xá Lợ Phất chết trƣớc Ngài, việc đó thế

nào, cúi xin nói cho chúng con và chúng sinh đời sau đƣợc rõ.

- A Nan ông nên biết! Đời quá khứ đã lâu lắm, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông

vua tên là Chiên Đà Bà La Tỳ (Tàu dịch là Nguyệt Quang) thống lãnh tám vạn bốn ngàn

nƣớc nhỏ, sáu muôn núi sông, tám muôn ức tụ lạc, ông có hai muôn phu nhân và thể nữ,

bà thứ nhứt tên là Tu Ma Đàn (Tàu dịch là Hoa Thị), một vạn quan đại thần, ông quan lớn

nhất tên là Ma Chiên Đà (Tàu dịch là Đại Nguyệt), năm trăm Thái tử, ngƣời thứ nhất tên

là Thi La Bạt Đà (Tàu dịch là Hiền Thọ).

Thành ấy ngang dọc bốn trăm do tuần, làm thuần bằng vàng bạc, lƣu ly, pha lê, bốn mặt

có bốn trăm hai mƣơi cửa, đƣờng sá thành phố trang nghiêm. Trong nƣớc ấy có bốn hàng

cây bằng vàng, bạc, lƣu ly, pha lê, cành vàng lá bạc, hoặc pha lê lá lƣu ly. Những hồ ao

bằng bốn thứ trân bảo, cát dƣới lòng ao bằng bốn thứ bảo nói trên. Trong cung nhà vua

chu vi bốn mƣơi dặm, làm thuần bằng vàng bạc, lƣu ly, pha lê. Thời đó nƣớc giàu dân

mạnh, an vui sung sƣớng!

Một hôm vua ngồi trên bảo điện thốt nhiên nghĩ nhƣ vầy: Ngƣời ta ở trên đời tôn vinh

hay phú quý, thiên hạ kính nể muốn gì đƣợc nấy cũng do quả báo tích đức tu thiện đời

trƣớc đem lại. Cũng ví nhƣ kẻ nôn phu, mùa Xuân mất công cày bừa gieo mạ cấy lúa, tới

mùa Hạ, mùa Thu gặt hái đƣợc thóc gạo đem về ăn uống. Nếu mùa Xuân họ không mất

công cày cấy, dĩ nhiên mùa Hạ, mùa Thu không gặt hái thu hoạch đƣợc.

Ta cũng thế, đời trƣớc tu phúc lành, đời nay hƣởng quả tốt, nếu bây giờ ta không tiếp tục

tu theo, đời sau lấy gì an hƣởng?

Nghĩ rồi bảo các quan đem tiền của ở trong kho ra bố thí, và sắc lệnh cho tám vạn bốn

ngàn ông vua, cũng phải mở kho bố thí cho dân.

Khi đó các ông vua phải tuân theo mệnh lệnh, thông cáo cho toàn cõi biết.

Ngày phát chẩn nhân dân kéo nhau đến Kinh thành đông nhƣ kiến cỏ, kẻ mạnh cõng

ngƣời yếu, kẻ sáng dắt ngƣời mù, ai nấy đều đƣợc nhà vua phân cấp tiền gạo, áo quần

đầy đủ, từ đó muôn dân đƣợc an vui sung sƣớng. Danh đức lừng lẫy, tiếng khen đồn khắp

bốn phƣơng.

Thuở đó có một ông vua nƣớc nhỏ ở bên cạnh, tên là Tỳ Ma Tƣ Na, thấy nhân dân ca

tụng và cảm phục vua Nguyệt Quang, đem lòng ghen ghét, ngày quên ăn, đêm quên ngủ,

ông thầm nghĩ nhƣ vầy:

143

- Nếu ta không dùng mƣu tiêu diệt đƣợc Nguyệt Quang, có lẽ danh tiếng của ta không

bao giờ hiển đạt! Nghĩ xong ông triệu tập các thầy Bà La Môn trong nƣớc đến, cúng dàng

ba tháng rất trịnh trọng, xong ba tháng ông nói với các vị rằng:

- Thƣa quý giáo sĩ! Tôi có một việc đáng lo! Đến nỗi ngày quên ăn, đêm mất ngủ, quý

Ngài có phƣơng tiện gì giải quyết hộ?

Thầy Bà La Môn hỏi:

- Tâu Bệ Hạ! Có việc chi xin nói cho chúng tôi rõ, nếu giúp đƣợc chúng tôi xin hết sức.

- Thƣa quý Ngài! Hiện nay vua Nguyệt Quang muôn phƣơng mến phục, phúc đức lớn

lao! Dĩ nhiên có sự lo lớn cho tôi sau này! Quý Ngài có thần phép gì tiêu diệt ông đó hộ?

- Tâu Bệ Hạ! Vua Nguyệt Quang là ngƣời có đức lớn, thƣơng dân nhƣ con, dân coi vua

nhƣ cha mẹ, chúng tôi nỡ đem tâm gì để mƣu hại, thà chịu chết chứ không nỡ hại ngƣời

hiền.

Nói xong mấy ông đều xin cáo thoái.

Vua Tỳ Ma Tƣ Na rất bực mình, liền hạ chiếu cho toàn quốc biết:

- Nếu ai lấy đƣợc đầu vua Nguyệt Quang tôi sẽ gả con gái, và phân nƣớc cho một nửa để

cai trị!

Khi đó có một ngƣời dòng Bà La Môn tên là Lao Độ Sai, ở núi Hiếp, đến xin đi lấy đầu

vua Nguyệt Quang, nhà vua vui vẻ nói:

- Nếu khanh làm đƣợc việc này, ta sẽ giữ lời hứa và định đến hôm nào đi, xin cho biết.

Lao Độ Sai nói: - Xin khất Bệ Hạ bảy ngày nữa.

Nói xong từ tạ ra về, về nhà nhập thất bảy ngày, trì chú hộ thân.

Qua bảy ngày, đến cung vua, nhà vua cung cấp lƣơng thực tiền lộ phí, khi bƣớc ra đi

cƣơng quyết nói:

- Xin Bệ Hạ chớ lo! Tôi thề rằng: Nếu không lấy đƣợc đầu vua Nguyệt Quang, quyết

không về, cam đoan thế nào cũng lấy cho bằng đƣợc!

Khi đó trong nƣớc vua Nguyệt Quang có những điềm bất tƣờng xuất hiện:

1. - Động đất.

2. - Chớp giật, tinh rơi, sấm động.

3. - Ban ngày sƣơng khói kéo mờ mịt.

4. - Sao chổi mọc.

144

5. - Mƣa đá, sét đánh tứ tung.

6. - Các loài chim kêu rất thảm thiết ở hƣ không, và nó tự nhổ lông cánh rơi

đầy mặt đất.

7. - Hổ, Báo, Sài, Lang, tự đâm mình xuống hố, hoặc kêu gào thảm khốc.

8. - Tám vạn bốn ngàn ông vua nƣớc nhỏ đều mộng thấy cành phƣớn vàng

của nhà vua, bị gẫy, trống vàng vị thủng.

9. - Ông vua Đại Nguyệt mơ thấy quỷ lại cƣớp mũ vàng của vua mang đi.

Thấy điềm bất tƣờng biến hiện, bá quan văn võ đều lo.

Khi đó ông thần coi thành biết Lao Độ Sai đến xin đầu vua. Ông hóa phép làm cho mơ

màng không biết lối vào, cứ đi lẩn quẩn bên ngoài thành.

Ông trời Tịnh Cƣ thấy thế báo động cho nhà vua hay rằng:

- Bệ Hạ làm hạnh bố thí, hiện có ngƣời đến xin, đƣơng ở bên ngoài thành mà không đƣợc

vào.

Nhà vua thức dậy ngạc nhiên rồi gọi ông Đại Nguyệt vào:

- Ông ra ngoài cổng thành, cấm không đƣợc ai ngăn giữ ngƣời nào vào xin.

Đại Nguyệt ra cổng thành, nhìn ngơ ngác không thấy ai là ngƣời ngăn cấm cả. Khi đó

ông thần coi thành hiện lên nói rằng:

- Thƣa Đại Thần! Hiện có một ngƣời dòng Bà La Môn, ở nƣớc khác đến xin đầu vua, vì

thế nên tôi không cho vào.

- Nếu quả nhƣ vậy, là một tai hại lớn, xong vua đã ra lệnh chúng ta không đƣợc trái ý.

Theo lời ông Đại Nguyệt nói, nên ông thần tha cho Lao Độ Sai.

Đại Nguyệt thầm nghĩ rằng:

- Nếu kẻ này xin đầu vua, thì ta dự lấy năm trăm đầu bằng thất bảo, về đặt thợ làm.

Lao Độ Sai nhƣ ngƣời tỉnh giấc mơ, bƣớc vào cung vua lớn tiếng nói:

- Tôi ở nơi xa nghe biết nhà vua làm hạnh bốt thí, ai muốn xin gì cũng cho, tôi tới đây xin

một việc rất khó.

Nhà vua thấy ngƣời có vẻ ngỗ nghịch, ăn nói thô lỗ biết rằng kẻ này thử thách ta mừng

thầm! Tự đứng dậy ra đón chào, và hỏi thăm từ đâu tới, và đi đƣờng có đỡ mỏi mệt

không, rồi hỏi:

- Ngài muốn dùng gì xin cứ nói, dầu khó khăn đến đâu, nếu có thể tôi xin biếu Ngài!

145

Lao Độ Sai nói: Ngài bố thí tiền, của, thức ăn, cho đến mọi vật, tuy có phúc báu nhƣng

chƣa lớn bằng phúc bố thí vật trong thân mình. Vậy tôi chỉ xin cái đầu của nhà vua, có

thể đƣợc xin cho biết?

Nhà vua nói: - Dạ! Xin vui lòng biếu Ngài một cách thành thực.

- Ngài cho tôi bây giờ, hay ngày nào?

- Dạ! Xin khất Đại Đức bảy ngày nữa.

Vừa lúc đó ông Đại Nguyệt đem năm trăm cái đầu thất bảo đến, đấm tay vào ngực nói

với Lao Độ Sai rằng:

- Đầu vua bằng xƣơng thịt, huyết máu hợp thành, hôi thối và là vật bất tịnh nhơ bẩn, bác

xin làm chi? Bác lấy đầu thất bảo này mang về có thể sung sƣớng suốt đời.

- Thƣa Ngài đầu thất bảo tôi cũng không thiếu, chỉ thiếu đầu vua mới đến đây.

Thấy Lao Độ Sai ƣơng ngạnh quá, nói không vào, ông dịu giọng năn nỉ thì dỗ rất ngọt

ngào. Song Lao Độ Sai quyết định không nghe.

Ông phẫn uất quá, quả tim nổ thành bảy miếng, chết liền trƣớc mặt nhà vua.

Khi đó nhà vua và triều thần văn võ thƣơng ông quá! Mọi ngƣời đều sa nƣớc mắt! Và thu

xếp làm lễ an táng cho ông.

Xong việc an táng cho ông Đại Nguyệt, nhà vua sai các quan cỡi voi đi tám ngàn dặm

báo cáo cho trong nƣớc biết rằng:

- Quốc dân nên biết, vua Nguyệt Quang thực hành bố thí, trƣớc đây phân cấp cho nhân

dân các món ăn dùng, bây giờ có tên Lao Độ Sai ở nƣớc khác đến xin đầu, Ngài quyết

định bố thí cho thành đại nguyện, vậy để quốc dân đƣợc rõ.

Đƣợc tin nhƣ vậy, ai cũng buồn, tám vạn bốn ngàn vua nƣớc nhỏ, khi tới đủ đều tâu với

vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Tất cả Châu Diêm Phù Đề nhờ đức độ của Ngài đƣợc mƣa hòa gió thuận,

thái bình thịnh trị, cây cỏ xinh tƣơi, mùa màng lúa tốt, no nê sung sƣớng, thóc gạo ngon

thơm, muôn dân an lạc. Tại sao Ngài vì một ngƣời mà không thƣờng tất cả muôn

phƣơng?

Một vạn quan Đại thần đồng thanh nói:

- Xin Bệ Hạ miễn bỏ việc bố thí đầu, chƣa từng thấy có sự quái lạ nhƣ vậy! Bây giờ Ngài

nghe một kẻ khốn nạn, dở hơi để lũ chúng tôi buồn bực!

146

Hai muôn bà phu nhân và năm trăm Thái Tử, gieo mình xuống đất khóc lóc! Xin vua

miễn bỏ việc bố thí đầu, nhƣng nhà vua vẫn khoan hòa nét mặt an ủi nói:

- Xin các vƣơng hầu khanh tƣớng, hãy bình tĩnh nghe tôi nói, con ngƣời vì kết buộc tình

ân ái từ kiếp vô thủy, nên chịu ách sinh tử lâu dài, chƣa thấy ai đã thực hành bỏ đƣợc,

nhất là yêu tiếc bản thân. Xét rằng từ vô biên kiếp đến nay, sống chết đã bao đời không tả

xiết, lúc ở trong địa ngục, một ngày bỏ thân vô số, chết trong nƣớc sông phân, nằm sắt,

ôm cột đồng, ngâm mình trong nƣớc phân sôi, khi ngồi trên xe lửa, khi nằm dƣới hố than.

Còn nhiều địa ngục không kể, bị đau khổ vô cùng không nói hết, thì những thân ấy đã bỏ

đi nhiều vô hạn lƣợng lại không có phúc báu gì.

Khi làm loài súc sinh bị loại ngƣời chém giết, thịt nát xƣơng tan, thì những thân ấy toàn

là vô phúc đọa lạc.

Khi làm loài quỷ đói, lửa trong mình phát ra, hoặc vòng dao lửa bay tới chém thân chặt

đầu, chết đi sống lại vô số, những thân ấy đều không có phúc báu, nên bị đọa đày.

Khi ở nhân gian vì lòng tham giận tàn sát lẫn nhau, cũng do tài sắc kết buộc, những thân

ấy bị chết rất nhiều, hoàn toàn không làm đƣợc một chút chi cho bản giác.

Hiện tại thân tôi đây toàn thị nhơ bẩn, rồi một ngày kia cũng bị tiêu không, tôi bỏ cái đầu

nhơ uế xấu xa này, để đổi lấy pháp thân thƣờng, lạc, ngã, tịnh, an vui vô cùng kiếp! Hơn

nữa tôi còn có thể đem lợi ích cho toàn thể đời vị lại, phải nhìn xa, phải trông rộng,

không cục hạn mặt cái thân hèn mọn bé nhỏ này, có lợi ích lớn nhƣ thế, can tôi làm chi.

Tôi bố thí cái đầu này để cầu thành Phật, sau khi thành tôi sẽ độ thoát cho lũ các ông qua

khỏi nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết, đƣợc an vui giải thoát đời đời, ngăn cản đạo tâm vô

thƣợng của tôi làm chi?

Tất cả mọi ngƣời nghe nhà vua giảng thuyết vừa xong ai nấy đều phải nín thinh, không

dám trả lời sao hết.

Nhà vua thấy quần chúng đã an tâm, ngoảnh bảo Lao Độ Sai rằng:

- Bây giờ ta cho nhà ngƣơi đƣợc tự do lấy đầu.

Lao Độ Sai đáp: - Tâu Bệ Hạ, hiện tôi có một mình, lực yếu thế cô, chung quanh vua

quan dân chúng nhiều, nếu nhà vua có cho, xin ra hậu viên, nơi vắng, chỉ riêng một mình

tôi với nhà vua mà thôi, thì mới dám chặt đầu.

Nhà vua tuyên bốt với đại chúng rằng:

- Tất cả các ông có yêu tôi! Kính tôi, xin chớ làm hại Lao Độ Sai.

Nói xong cùng Lao Độ Sai ra hậu viên.

Lao Độ Sai nói:

147

- Sức vua hùng tráng khỏa mạnh, cắt đầu đau đớn, lúc đó lại hối tiếc thì sao? Vậy nhà vua

hãy lấy dây buộc cổ treo lên cành cây để tôi cắt cho dễ.

Nhà vua ngồi dƣới gốc cây to lớn, lấy tóc buộc và thân cây nói rằng:

- Ông cắt đầu xong để lên trên bàn tay tôi, tôi dâng biếu ông.

Chắp tay kính cẩn nguyện rằng:

- Kính lạy thập phƣơng tam thế Hùng Sƣ, nguyện công đức này không cầu làm Phạm

Vƣơng, Ma Vƣơng, Đế Thích, Chuyển Luân Thánh Vƣơng để vui sƣớng ở ba cõi, con

xin cầu thành Phật, độ chúng sinh, đƣa dắt muôn loài đến cõi Niết Bàn an lạc.

Lao Độ Sai vừa giơ dao lên chém, trên cây có ông Thụ Thần, chỉ ngón tay vào đầu làm

cho Lao Độ Sai rời rụng chân tay vất dao xuống đất, mê mệt ngã quay lơ.

Nhà vua ngửa mặt bảo Thụ Thần rằng:

- Thụ Thần ông nên biết, từ đời quá khứ tới nay, dƣới gốc cây này, tôi đã bố thí chín trăm

chín mƣơi chín cái đầu, hôm nay bố thí cái nữa, là đủ ngàn. Đối với nguyện bố thí của tôi

đã sắp đƣợc hoàn toàn, ông đừng làm rắc rối nữa, cản trở đạo tâm bố thí của tôi làm chi!

Ông Thụ Thần nghe vua nói xong, liền buông thả Lao Độ Sai đƣợc bình phục nhƣ cũ.

Thoát ách ông Thụ Thần làm ám ảnh, Lao Độ Sai đứng dậy múa dao chém ngang cổ vua

một nhát rất mạnh, đầu rơi vào tay, nhà vua kính cẩn dâng lên biếu Lao Độ Sai.

Ngay giờ phút này, trời đất đều chấn động, các cung điện trên thiên cung nghiêng ngã,

các ông thiên tử không biết điềm tƣớng gì, ngó cõi nhân gian, thấy một vị Bồ Tát vì

chúng sinh bố thí đầu, đều bay xuống xem, cảm động quá! Rơi lệ nhƣ mƣa, lại khen rằng:

- Bồ Tát, Ngài làm hạnh xuất tục siêu phàm, chƣa từng ai dám cả gan làm hạnh bố thí

đƣợc nhƣ Ngài, vô cùng tận chúng sinh đều phải thán phục, sự thực hành vô ngã tƣớng

này.

Vua Tỳ Ma Tƣ Na sau khi hay tin Lao Độ Sai đã lấy đƣợc đầu trở về nƣớc vui mừng quá!

Vì sức vui lên cực độ nổ tim chết.

Lao Độ Sai xách đầu ra về, vua quan dân chúng, phu nhân Thái tử nhìn thấy đều lăn đùng

ra đất, gảo khóc! Có ngƣời cảm thƣơng quá thổ quyết chết! Có ngƣời đứng ngay đơ

không biết gì, các bà dứt tóc ra từng mảnh, ngƣời xé quần xé áo, ngƣời cào mặt be bét,

máu chảy đầm địa, lăn lộn trên mặt đất!

Lao Độ Sai đem đầu đi đƣợc mấy hôm, thấy hôi thối ghê tởm, vất xuống đạp lên trên mà

đi, nhân dân thấy, họ la mắng dữ dội. Anh là kẻ bất lƣơng, ác độc, không dùng xin làm

chi, đi tới đâu họ cũng nguyền rủa chửi mắng, họ lại ngăn cấm không đƣợc ai cho ăn, nên

148

anh chịu nhịn đói, nửa đƣờng gặp ngƣời quen, anh hỏi thăm vua Tỳ Ma Tƣ Na họ đáp

rằng: "Nhà vua mừng quá nổ tim chết".

Lao Độ Sai buồn quá, vỡ tim chết liền. Hai ngƣời đều phải vào địa ngục A Tỳ Nê Lộ, còn

những ngƣời vì thƣơng vua mà chết, nên đƣợc sinh thiên.

Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:

- A Nan! Ông nên biết vua Nguyệt Quang thuở đó chính là tiền thân của ta, vua Tỳ Ma

Tƣ Na nay là Ma Ba Tuần, Lao Độ Sai nay là ông Điều Đạt, ông Thụ Thần nay là ông

Mục Kiền Liên, ông quan Đại Nguyệt nay là ông Xá Lợi Phất. Thời bấy giờ ông không

nỡ thấy ta chết, mà ông tự chết trƣớc, cho đến ngày nay ông cũng không nỡ nhìn thấy ta

vào Niết Bàn mà ông nhập trƣớc đấy thôi.

Tôi cùng tất cả đại chúng nghe Ngài nói xong, vừa thƣơng Phật vừa cảm tấm lòng nhiệt

thành của ông Xá Lợi Phất, có thủy chung với Phật, đồng thanh tán thán công đức rất

nhiều, ai nấy đều phát tâm hiếu kính, nên có ngƣời đắc sơ quả, đến tứ quả, có ngƣời phát

tâm vô thƣợng, tạ lễ mà lui

---o0o---

Phẩm thứ hai mƣời bảy : BỐ THÍ MẮT

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thuở nọ đức Phật ở nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn cây của ông Cấp

Cô Độc và Thái Tử Kỳ Đà.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đƣơng tuyên diễn Chánh Pháp cho Đại chúng nghe, những ngƣời

dự thính cũng đông, họ kéo nhau đi toán này toán khác tấp nập.

Lúc đó có một ngƣời dòng Bà La Môn mù, ngồi bên lề đƣờng, thấy ngƣời đi nhộn nhịp

hỏi rằng:

- Hôm nay các ông đi đâu đông thế?

Họ đáp rằng:

- Anh không biết hay sao?

- Dạ! Chúng tôi không đƣợc biết!

- Ít đƣợc gặp Phật ra đời lắm anh ạ, hiện Ngài đƣơng thuyết pháp ở nƣớc ta, chúng tôi đi

nghe thuyết pháp đây!

149

Ngƣời này tuy mù nhƣng có một đặc tài là hiểu biết tám thứ tiếng, anh ta chỉ nghe lời nói

là phân biệt đƣợc, kẻ tôn sang, hay ngƣời bần tiện. Tám thứ tiếng là:

1. - Điểu thanh

2. - Tam xích điểu thanh

3. - Phá thanh

4. - Nhạn thanh

5. - Cổ thanh

6. - Lôi thanh

7. - Kim linh thanh

8. - Phạm thanh

Diểu thanh: là ngƣời nói tiếng nhƣ chim kêu, ngƣời này có tính quên ơn sinh thành

dƣỡng dục (bất hiếu), tâm địa không có liêm khiết.

Tam xích điểu thanh: ngƣời này bẩm tính hung tàn bạo ngƣợc, hay làm hại ngƣời

thƣơng tổn cho nhân vật, ít có lòng từ bi hòa thuận.

Phá thanh: tức là ngƣời con trai nói tiếng nhƣ đàn bà, đàn bà nói tiếng nhƣ đàn

ông, kẻ này bạc phúc bần cùng hà tiện.

Nhạn thanh: tiếng nói nhƣ chim nhạn kêu (ken két) ngƣời nay có tính hớt của ngƣời

làm của mình, ăn cắp lời của ngƣời làm lời của mình. Nhƣng hay chơi nhiều bạn

thân, và hay đón tiếp ngƣời xa lạ bốn phƣơng.

Cổ thanh: tiếng nói vang vang nhƣ tiếng trống, ngƣời này biện luận nhanh chóng,

giải thích đạo lý sâu huyền có thể làm quốc sƣ.

Lôi thanh: tiếng nói ầm ầm nhƣ tiếng sấm vang, ngƣời này trí tuệ sâu rộng, phân

tách đƣợc pháp tính giáo hóa cho thiên hạ.

Kim linh thanh: tiếng nói nhƣ tiếng chuông, ngƣời này giàu có, lắm tiền của vàng

bạc.

150

Phạm thanh: tiếng nói nhƣ cõi Trời Phạm thiên, ngƣời này phúc đức cao dày, nếu

tại gia thì làm Chuyển Luân Thánh Vƣơng, nếu xuất gia thì thành Phật.

Anh mù nói: - Các ông làm ơn dắt tôi đi với: tôi có thể phân biệt đƣợc tám thứ tiếng, nếu

thực là Phật tôi nghe tiếng nói, thì tôi biết, vì Phật nói thuộc tiếng Phạm Thiên.

- Phải! Anh có đi tôi vui lòng dắt anh.

Khi tới nơi anh lắng tai nghe Phật thuyết pháp, quả nhiên âm thanh của Ngài nhƣ tiếng

Phạm, vui mừng quá!…Tự nhiên hai con mắt của anh hết mù, đƣợc sáng tỏ nhƣ mọi

ngƣời, nhìn thấy Phật sắc vàng chói lọi, đủ ba mƣơi hai tƣớng tốt, và tám mƣơi vẻ đẹp,

một lòng cung kính lễ dƣới chân Phật. Khi Ngài thuyết pháp, anh chí tâm nghe nhận, nên

phá tan đƣợc ác kiến trong hai mƣơi ức kiếp, chứng quả Tu Đà Hoàn, đắc tuệ nhãn, cúi

đầu bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Không biết đƣợc duyên lành gì, con tới đây nhờ sức từ bi hai

mắt đƣợc sáng tỏ, đời là vô thƣờng không thể bảo đảm, cúi xin Thế Tôn cho con đƣợc

nhập đạo tu hành?

Phật nói: - Thiện Lai Tỷ Khƣu!

Nói dứt lời tóc anh rụng hết, áo mặc trên mình biến thành áo Cà Sa, đầy đủ vẻ Sa Môn.

Theo Phật tu học không bao lâu, đƣợc đắc quả La Hán, cắt đứt đƣờng luân hồi sinh tử,

thấy thế đại chúng đều cho làm lạ, tôi từ tòa đứng lên tới trƣớc Phật quỳ thẳng chắp tay

bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài xuất thế làm lợi ích cho muôn loài chúng sinh, kẻ mù đƣợc

sáng tỏ con mắt, ơn ấy vô cùng cao cả. Nhƣ ngƣời Bà La Môn này, trong chốc lát đƣợc

sáng con mắt thịt, hơn nữa lại đƣợc con mắt tuệ, không biết đời trƣớc có duyên gì với

Ngài, cúi xin nói cho chúng con đƣợc rõ?

Phật nói: - A Nan ông nên biết không những nay ta cho ngƣời này đƣợc con mắt sáng,

đời quá khứ ta đã khoét con mắt của ta cho họ một lần.

Kính lạy Ngài! Việc cho mắt đời quá khứ thế nào, xin nói cho chúng con đƣợc biết?

- A Nan! Đời quá khứ cách đây đã lâu lắm, không biết bao nhiêu kiếp A Tăng Kỳ, cũng

Châu Diêm Phù Đề này, có một thành tên là Phú Ca La Bạt, ông vua đó tên là Tu Đề La

(Tàu dịch là Khoái Mục). Ông có con mắt sáng trông xa bốn mƣơi dặm, coi suốt qua

tƣờng vách, bởi thế nên đặt tên là Khoái Mục.

151

Vua Khóai Mục, thống trị tám vạn bốn ngàn nƣớc nhỏ, sáu muôn núi sông, tám ức tụ lạc,

hai muôn phu nhân thể nữ, một vạn quan đại thần, năm trăm Thái Tử. Ngƣời thứ nhất tên

là Thi La Bạt Đề (Tàu dịch Giới Hiền). Nhà vua từ bi đạo hạnh đối với dân nhƣ cha hiền

thƣơng con. Chăm dạy dân tu thiện, vì thế nên trong nƣớc thanh bình không có đao binh

biến khởi, mƣa hòa gió thuận, đƣợc mùa lúa tốt nhân dân an vui sung sƣớng.

Một hôm nhà vua ngồi trên bảo điện tự nghĩ nhƣ vậy:

- Ta đƣợc làm nhân chúa, phúc nhƣ tứ hải, ra lời nói thiên hạ tùng phúc, nhƣ gió thổi lƣớt

ngọn cỏ, đó cũng do phƣớc đã gây từ bao đời trƣớc, nếu đời nay không tạo nhân lành, đời

sau lấy gì trông cậy, dĩ nhiên bị đau khổ. Tỷ nhƣ kẻ nông phu, mùa xuân mất công cấy

lúa, mùa hạ đƣợc gặt, hái, thâu hoạch, nếu mùa xuân trễ biếng không làm, dĩ nhiên mùa

hạ không có lúa gặt, sự đói thiếu sẽ đƣa lại cho họ.

Định xong, hạ lệnh cho bá quan văn võ, mở kho lấy vàng bạc tiền của quần áo, thóc gạo

thức ăn dùng, đem ra ngoài thành bố thí cho nhân dân, và sắc lệnh cho tám vạn bốn ngàn

nƣớc nhỏ, mở kho bố thí. Từ đó nhân dân đƣợc no nê sung sƣớng ca tụng ân đức của nhà

vua, vang dội khắp thiên hạ.

Bấy giờ có một ông vua nƣớc nhỏ, tên là: Ba La Bà Bạt Di, ông này không tuân theo sắc

lệnh của vua Khoái Mục, trị dân có năm điều quá trớn. Tính nết vội vàng ít suy nghĩ, lại

hay ham sắc dục, không để ý đến việc nƣớc, không biết thâu dụng những ngƣời trung

lƣơng hiền sĩ, bắt dân làm nhiều việc vô ích, các nhà thƣơng mại ngoại quốc đến buôn

bán, đánh thuế quá nặng, nhân dân oán ghét trong triều lúc đó có một quan tên là Lao Đà

Đạt thông minh, thao lƣợc, hiểu biết đạo lý can vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Ngài có năm điều không hay, nếu không sửa đổi lại, một ngày gần đây tai

họa sẽ tới!

Nhà vua nói: - Những việc gì khanh nói cho ta hay?

1.- Bệ Hạ có tính vội vàng ít suy nghĩ, không lo việc lớn sau sẽ hối.

2.- Ham mê sắc dục, không đoái đến việc nƣớc, để cho những kẻ gian thần làm phi pháp,

oan uổng nhân dân, muốn kêu không có chỗ minh xét.

3.- Trong nƣớc có những ngƣời trung lƣơng, hiền sĩ không thâu dụng, không biết phòng

ngừa việc chƣa xảy ra.

4.- Bắt nhân dân cực khổ làm những việc vô ích, oán hận rất nhiều.

5.- Nhà thƣơng mại các nƣớc tới buôn bán, đánh thuế quá nặng! Cho nên các hàng hóa bị

ách tắc đỏ. Năm việc này là triệu chứng vong quốc, xin Bệ Hạ ra lệnh đổi ngay để theo

chánh sách cũ.

152

Hiện nay vua Tu Đề La (Khoái Mục) ban ơn cho dân chúng, các nƣớc đều khâm phục,

chỉ có nƣớc ta không chịu theo, nên dân chúng oán hận. Xin Bệ Hạ mở kho bố thí cho

nhân dân, thì con cháu sẽ đƣợc hƣởng phúc lâu dài.

Ông nghe xong, thay sắc mặt nổi giận nói:

- Khanh biết trƣớc thế ƣ? Để thử xem, chúng oán hay tự miệng khanh nói ra, ta quyết

định không thay đổi chánh sách.

Lao Đà Đạt thầm nghĩ nhƣ vầy:

- Mình thấy nhà vua trị chính không khéo để giới thiệu những ngƣời trung thành ra giúp

nƣớc, đã không nghe, lại còn phát giận với ta, tất nhiên có nguy hại cho ta. Vậy ta phải

lập kế cứu lấy dân.

Lao Đà Đạt bị tiết lộ kế hoạch.

Nhà vua sai quân vây bắt. Lao Đà Đạt cũng biết trƣớc, lên ngựa chạy tẩu thoát, quân sĩ

đuổi theo sau, ông quay súng bắn chết mƣời tám ngƣời, còn thì chạy tán loạn.

Sang nƣớc Phú Ca La Bạt vào yết kiến vua Khoái Mục, vua hỏi han vui vẻ, đối đáp sự lý

phân minh. Thấy ngƣời có tài, nên nhà vua dùng ông làm việc triều chính, dần dần thân

cận, ông trình bày sự hành động của Ba La Đà Bạt Di cho vua Khoái Mục nghe.

Khi đó vua Khoái Mục hỏi bá quan rằng:

- Nƣớc vua Ba La Bà Bạt Di có thuộc quyền ta cai trị không?

Bá quan đáp: - Tâu Bệ Hạ! Có, nhƣng họ dè chừng làm lơ, ít khi lui tới, và không chịu

tuân lệnh của Bệ Hạ!

Lao Đà Đạt nói:

- Tâu Bệ Hạ! Ông đó ngoan cố và mờ ám lắm! Có tính hoang dân vô độ, dân chúng chán

ghét, coi nhƣ một kẻ thù, xin Bệ Hạ cấp cho binh mã, hạ thần sang tiêu diệt.

Vua Khoái Mục đồng ý cấp binh mã và hạ lệnh cho các nƣớc đem binh đến trợ chiến.

Vua nƣớc bên cạnh thấy thế sang mách. Vua Ba La Bà Bạt Di chạy trốn, ra đi mặc một

cái áo rách, lẩn thân nơi kín đáo.

Quan phụ tƣớng tìm hỏi:

- Bệ Hạ lo gì xin cho biết?

153

- Khanh không biết sao! Trƣớc đây Lao Đà Đạt trốn sang nƣớc Phú Ca La Bạt, hắn mƣu

với vua Khoái Mục sắc lệnh cho tám vạn bốn ngàn nƣớc đem đại hùng binh tiêu diệt

nƣớc ta, và bắt ta đó.

Đại Thần thƣa: - Xin Bệ Hạ hãy yên trí, để tập họp bá quan bàn tính, và cũng không lo,

Hạ thần đã có biện pháp.

Nhà vua nghe theo phụ tƣớng, trở về bảo điện triệu tập quần thần văn võ đông đủ nói:

- Bá quan nên biết! Nƣớc nhà nguy ngập đến nơi, vua Khoái Mục sắp đem quân sang

đánh, bá quan làm thế nào kháng cự nổi?

Khi đó mỗi ông bàn một cách, đều vô hiệu quả. Ông phụ tƣớng này đứng lên nói rằng:

- Tôi nghe vua Khoái Mục tự thề rằng: chỉ trừ cha mẹ không bố thí, còn thân mình cho

đến quốc thành thê tử ngoại vật, ai xin gì cũng cho. Nƣớc ta có một ngƣời Bà La Môn mù

bây giờ sai họ đến xin mắt, nếu đƣợc ta không cần phải đánh, họ cũng tự rút lui.

Lập tức cho kêu ngƣời Bà La Môn đến.

Quan phụ tƣớng nói: - Nƣớc ta sắp bị giặc đến xâm chiếm, mong ngƣời giúp cho một

việc.

- Kính thƣa phụ tƣớng! Tôi hèn đớn mù lòa thế này thì làm gì đƣợc mà phụ tƣớng nói

giúp nƣớc.

- Anh hãy nghe tôi nói: Bây giờ vua Khoái Mục nay mai sẽ đem quân đến đây đánh nƣớc

ta, chúng tôi khỏe mạnh và có con mắt sáng, còn có thể chạy đƣợc, anh mù lòa nhƣ vậy

thì chạy sao? Tất nhiên bị nó giết. Tôi biết vua Khoái Mục có nguyện rằng: ai xin gì cũng

cho, chỉ trừ cha mẹ là không cho thôi, bây giờ anh đến xin mắt, quyết thế nào cũng đƣợc,

nếu anh xin đƣợc, thì không đánh họ cũng phải rút quân, vì thế mà vua kiếm anh đến đây

để nhờ việc đó.

- Thƣa phụ tƣớng! Vậy tôi đi bằng cách nào?

- Ta sẽ cho ngƣời dắt anh đi, lo gì việc đó!

Khi đó nƣớc vua Khoái Mục có nhiều điềm bất tƣờng biến hiện: đất động, sao chổi mọc,

mƣa đá, mây kéo mờ mịt suốt ngày, chim chóc kêu thảm thiết, hổ, báo, sài, lang gầm hét,

dân chúng đều kháo nhau là điềm bất tƣờng.

Khi anh Bà La Môn đã tới nƣớc vua Khoái Mục, vào trƣớc sân rồng lớn tiếng nói rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Hạ thần ở nƣớc ngoài, nghe thấy danh đức Ngài làm hạnh bố thí, nên không

quản xa xôi đến đây để ăn xin.

154

Nhà vua từ trên ngai rồng bƣớc xuống hỏi:

- Ông ở đâu tới đây? Đƣờng sá xa xôi đi khỏi mệt không, tới đây muốn xin gì?

Tâu Bệ Hạ! Phƣớc bố thí về ngoại vật bé nhỏ, chỉ có bố thí nội thân mới lớn, tôi vị mù

đôi mắt đã lâu, đến đây để xin Ngài hai con mắt.

Nhà vua nghiêm nét mặt nói:

- Cũng đƣợc, ta vui lòng!

- Tâu Bệ Hạ, việc đó lâu mau thế nào ạ?

- Anh yên tâm, bảy ngày nữa.

Vua Khoái Mục sau khi nhận lời cho mắt, làm chiếu chỉ thông tƣ cho tám vạn bốn ngàn

nƣớc biết rằng:

- Các Vƣơng Hầu nên biết, tôi vì thực hành hạnh bố thí sau bảy ngày nữa sẽ khoét mắt

cho ngƣời Bà La Môn, vậy hôm đó quý Ngài đến đông đủ.

Vua quan các nƣớc tiếp đƣợc chiếu chỉ, khi đến đông đủ đều thƣa rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Hạnh bố thí công đức của Ngài nhận thấy lớn lao vô cùng cực, việc khoét

mắt cho kẻ Bà La Môn, xét rằng vô ích quá, Ngài là đấng nhân chúa dùng con mắt sáng,

đƣa dắt dân làm những công đức lành, phúc đức nhƣ trời biển, nhƣ núi non, giờ đây mất

hai con mắt, cũng nhƣ cả quốc dân mất con mắt sáng, cúi xin miễn bỏ việc đó.

Quan bản triều, Hoàng Hậu, cung phi thể nữ, Thái Tử, ai nấy, đều tức bực trong lòng, vì

can vua không đƣợc, toàn thể đều âu sầu buồn bã, đến nỗi đêm quên ngủ ngày quên ăn.

Ông Thái Tử Giới Hiền tâu rằng:

- Kính lạy Phụ Vƣơng! Cho con xin thay để kẻ Bà La Môn khoét mắt con, con tuy chết

nhƣng thiên hạ không bị nguy ngập.

Nhà vua thấy họ can gián nhiều quá, đứng trƣớc đại chúng lớn tiếng nói rằng:

- Kính thƣa quý Vƣơng hầu, cùng toàn thể! Chính tôi bố thí mắt này phải có một mục

đích: tôi xét rằng từ đời quá khứ đến nay, trong kiếp sinh tử lâu dài, nếu góp lại những

xƣơng thân ấy, có thể lớn gấp bao lần núi Tu Di, máu tiết chảy ra, có lẽ nhiều hơn nƣớc

bốn biển, những lúc biệt ly nƣớc mắt khóc ngƣời thân nhiều hơn nƣớc đại hải, khi ở trong

địa ngục, những thân bị đốt cháy hoặc mổ xẻ thì những con mắt ấy bỏ đi vô số. Khi làm

loài Ngạ Quỷ lửa trong mình phát ra thui đốt, từ thân này qua thân khác, phá hoại bao

nhiêu con mắt.

155

Lúc đọa làm súc sinh bị loài ngƣời đâm chém, nấu rang, hết thân này lại thân khác. Thì

những thân ấy đã tiêu hủy mất bao nhiêu con mắt kể sao cho xiết.

Khi làm ngƣời sống lâu hoặc chết non, tranh tài, tranh sắc, tranh danh, đánh giết lẫn

nhau, nhiều ai tính xuể, thì những con mắt ấy, đều tan không, tóm lại cũng là vô ích vì

không dùng nó để làm công đức.

Hoặc ở cõi Trời vui năm cảnh dục chốn thiên cung, khi hết phúc, cũng phải đọa đày theo

nghiệp, những thân mạng nhiều không số tính. Xét lại từ đời vô thỉ, nổi chìm trong ba

cõi, sống thác theo năm thú, cũng do ái tình bổn thân của nghiệp tham, sân, si tạo tác,

thân ngƣời tan vụn nhƣ vi trần, ai đã từng đem thân ấy bố thí để cầu thành Phật. Đây là

một bộ mắt tanh hôi chẳng bao lâu sẽ bị tiêu không vô ích. Tôi bố thí đôi mắt tanh này,

nguyện mƣời phƣơng chƣ Phật cho tôi con mắt "Nhất Thiết Trí". Sau này thành Phật tôi

sẽ đem lại con mắt trí tuệ thanh tịnh cho tất cả quý Vƣơng hầu cùng pháp giới chúng

sinh, can tôi làm chi! Ngăn cản làm chi!

Tất cả mọi ngƣời nghe vua vói xong, không ai dám trả lời sao hết, nín thinh nhƣ thóc lép.

Vua Khoái Mục thấy mọi ngƣời đã an lòng, ngoảnh bảo tả hữu rằng:

- Các ông hã lấy dao khoét đôi mắt hộ tôi.

Họ thƣa: Tâu Bệ Hạ! Thà cái thân của chúng tôi có chịu chết tan nhƣ hạt cải, chứ không

nỡ nào đem cái tay này mà khoét mắt của Bệ Hạ.

- Các ông hãy tìm hộ cho một ngƣời, con mắt họ đen hắc, và hay nhòm xuống lại đây.

Đúng nhƣ trực, tìm một ngƣời tới vua đƣa cho con dao, bảo anh chàng Hắc Mục Thị Hạ

rằng:

- Anh hãy khoét mắt cho ta.

Anh không e dè gì, vua bảo làm ngay, cầm dao khoét luôn con mắt bên tả để vào tay vua.

Nhà vua nâng lên trán lập thệ rằng:

- Nguyện đem mắt này bố thí cho kẻ mù, để cầu thành Phật, kẻ Bà La Môn đƣợc mắt này

có thể trông sáng suốt.

Nói rồi nhà vua để vào hố mắt cho họ. Khi đƣợc mắt để vào, anh Bà La Môn nhìn thấy

vua và tất cả mọi ngƣời chung quanh mừng quá tâu rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Thôi xin một con là đủ nhìn, Bệ Hạ để lại dùng, tôi không lấy nữa.

- Ta đã hứa cho nhà ngƣơi cả, thì ta cứ cho, vui lòng mà lấy, không sao!

156

Khoét luôn mắt nữa để vào tay vua, vua lập thệ rằng:

- Nguyện đem mắt này, một lòng thành thực bố thí để cầu thành Phật, kẻ Bà La Môn

đƣợc mắt này coi xem sáng tỏ.

Nói xong để vào hố mắt cho anh Bà La Môn. Quí hóa thay! Lạ lùng thay! Anh chàng mù

đƣợc mắt ông Quốc Vƣơng nhìn xa trông suốt, đang tối đƣợc sáng, đang mù đƣợc mở.

Nhà vua hy sinh con mắt ai dám cả gan, phải chăng ngƣời siêu phàm xuất tục coi thân

mình tựa đống tro tàn, đem đổi lấy Pháp Thân Bất Diệt. Đổi mắt đã lạ chƣa? Một phƣơng

thuốc huyền diệu phát xuất từ đây.

Ngay lúc ấy, trời đất chuyển động, các cung điện trên thiên cung đều nghiêng ngã, những

ông Thiên Tử thấy sự chuyển biến, nhìn xem có một vị Bồ Tát khoét mắt bố thí, họ đều

bay xuống tung hoa cúng dàng, và khen rằng:

- Bồ Tát làm hạnh bố thí không đoái thân mình, phƣớc ấy Ngài cầu làm gì?

- Thƣa Ngài! Tôi hy sinh cặp mắt này, không cần làm vua Ma Vƣơng, Phạm Thiên, Đế

Thích hay Chuyển Luân Thánh Vƣơng để hƣởng dục lạc trong ba cõi, mục đích cầu thành

Phật và độ sinh thoát khỏi luân hồi, cho họ đƣợc an vui đạo Niết Bàn.

- Rất quý tấm lòng cao thƣợng của Ngài, nhƣng xin hỏi Ngài đau đớn nhƣ vậy có phàn

nàn gì không?

- Sự phàn nàn hối hận quyết không có một mảy may!

Tôi thấy Ngài huyết chảy nhƣ lƣu ly, thân thể xanh lợt, tự nói không, việc đó khó tin.

- Quý Ngài không tin, tôi xin thề rằng: "Tôi một lòng thành thực làm hạnh bố thí để cầu

thành Phật, nếu miệng nói tâm nghĩ đúng, thì cặp mắt tôi lại đƣợc bình phục nhƣ cũ".

Nói dứt lời cặp mắt của Ngài, tự nhiên lại đƣợc hoàn toàn, xem coi sáng tỏ hơn xƣa. Khi

đó, tất cả trời ngƣời ai nấy đều vui mừng và cảm tâm sắt đá của nhà vua, ai ai cũng khen

rằng: - Sau này Ngài thể nào cũng đƣợc thành Phật.

Khi đó vua Khoái Mục bảo anh Bà La Môn rằng:

- Hôm nay tôi cho ông cặp mắt thịt, lai sinh thành Phật tôi sẽ cho ông con mắt trí tuệ.

Nói xong sai ngƣời dẫn anh vào kho, tha hồ cho lấy vàng bạc mang về bản quốc.

Vua Ba La Bà Bạt Di hay tin ra đón, bắt gặp hỏi rằng:

- Anh xin mắt đƣợc chăng?

- Tậu Bệ Hạ! Xin đƣợc và đã nhìn thấy sáng suốt.

157

- Thế nào! Vua Khoái Mục sống hay chết?

- Tậu Bệ Hạ! Khi mổ mắt nhà vua đau đớn huyết chảy đẫm ngƣời coi rất ghê sợ, các ông

Thiên Tử đến hỏi thăm, Ngài có thệ nguyện, khi tuyên thệ xong, tự nhiên hai mắt lại

đƣợc bình phục nhƣ cũ, có lẽ còn sáng suốt hơn trƣớc.

Ông vua này nghe nói tức giận quá, nổ tim chết.

Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:

- A Nan! Ông nên biết: Vua Khoái Mục thuở đó chính là tiền thân của ta đấy, vua Ba La

Bà Bạt Đi nay là ông Điều Đạt, anh Bà La Môn xin mắt vua Khoái Mục thuở đó chính là

anh mù vừa đắc đạo đây.

Đời quá khứ, đƣợc hàm ân ta, khỏi mù, đời nay gặp ta sáng tỏ con mắt thịt, đồng thời lại

đƣợc cả mắt tuệ, ta cũng vì chúng sanh đời đời làm những hạnh khổ tích công tu đức đến

nay đƣợc thành Phật. Vậy các ông cũng nên chăm chỉ mà tu hành cầu đạo vô vi an lạc

làm lòng.

Nghe Phật nói xong, tôi và toàn thể, đều cảm niệm ân đức bao la của Ngài, rồi đó có

ngƣời đắc sơ quả, cho đến tứ quả, vui mừng tạ lễ mà lui

---o0o---

Phẩm thứ hai mƣơi tám : NĂM TRĂM NGƢỜI MÙ

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở một nƣớc Xá Vệ tại vƣờn ông Cấp Cô Độc

và rặng cây của Thái Tử Kỳ Đà.

Bấy giờ nƣớc Tỳ Xá Ly có năm trăm ngƣời mù đi ăn mày, nghe thấy ngƣời ta nói: Đức

Nhƣ Lai ra đời rất là hiếm có, nếu chúng sinh nào đƣợc gặp, bất luận có bệnh hoạn gì

cũng nhờ Ngài cứu đƣợc, kẻ mù sẽ đƣợc sáng con mắt, kẻ điếc sẽ đƣợc nghe rõ, kẻ còng

gù sẽ đƣợc thẳng thiu, kẻ khễnh kiễng sẽ đƣợc duỗi thẳng, kẻ cuồng si sẽ đƣợc áo cơm,

kẻ sầu khổ sẽ đƣợc an vui.

Năm trăm ngƣời bàn nhau rằng:

- Lũ ta sinh nơi hạ tiện, đã bị nghèo đói, lại mù đôi mắt, trên đời không ai khổ hơn, vậy

chúng ta đến chốn Phật nhờ Ngài tế độ.

Bàn nhau xong rồi hỏi thăm ngƣời đi đƣờng rằng:

- Đức Thế Tôn bây giờ ở nƣớc nào, các ông bảo cho biết?

158

- Họ đáp rằng: - Ngài đang ở nƣớc Xá Vệ.

Lẩm bẩm nói rằng:

- Ai là ngƣời thƣơng lũ chúng tôi? Làm phúc đƣa chúng tôi đến nƣớc Xá Vệ nơi Phật

ngự.

Nhƣng không! Không ai giúp.

Sau họ đi xin tiền, góp lại đƣợc năm trăm đồng, đứng bên lề đƣờng lớn tiếng nói:

- Ai đắt chúng tôi đến nƣớc Xá Vệ, xin trả năm trăm đồng!

Khi đó có một ngƣời nhận, lấy tiền rồi bảo năm trăm ngƣời rằng:

- Các anh hãy nắm vào vai nhau, làm thành một hàng dọc, còn tôi đi trƣớc đắt.

- Khi đến nƣớc Ma Kiệt Đề, tới một cánh đồng rộng thấy mỏi mệt quá, anh lẩn mất, năm

trăm ngƣời trơ trọi không biết lối đi, lúng túng, đƣờng đi chẳng đi, đi xuống ruộng, dẵm

nát nhừ đồng lúa. Thấy năm trăm ngƣời mù đi trên ruộng của ông, đầy xéo tan nát lúa mạ

mất nhiều.

Ông nổi giận mắng rằng:

- Các anh mù, đƣờng chẳng đi, đi giữa ruộng làm nát lúa, có lên không?

- Dạ! Thƣa ông, chúng tôi mù lòa không nhìn rõ, xin ông tha cho.

Các anh ở đâu tới đây?

- Thƣa ông, chúng tôi ở nƣớc Tỳ Xá Ly, nghe đồn đức Phật từ bi cứu thế, hiện Ngài ở

nƣớc Xá Vệ, chúng tôi thuê một ngƣời dắt, tới đây họ bỏ trốn mất, thành ra lẩn quẩn ở

chốn này, ông làm phúc cứu giúp, ơn ấy không bao giờ dám quên!

Nghe họ nói thế, ông cũng thƣơng, về sai ngƣời dắt họ đến nƣớc Xá Vệ, thì Phật sang

nƣớc Ma Kiệt Đề, ngƣời ấy lại đắt đến nƣớc Ma Kiệt Đề, thì Phật vừa sang nƣớc Xá Vệ,

cứ thế đến bảy lần vẫn không gặp Phật.

Họ mong muốn đƣợc gặp Phật, nhƣ kẻ đói mong đƣợc cơm ăn, kẻ khát mong đƣợc nƣớc

uống, một lòng chân thành khát ngƣỡng đức Thế Tôn, vì thế tuy mù con mắt thịt, nhƣng

con mắt tâm của họ đã từng nhìn thấy Phật, nên họ vẫn hoan hỷ không biết mỏi mệt. Khi

đó đức Thế Tôn xem biết thiện căn của họ đã thục, lòng tin đã chắc, nên Ngài ở lại nƣớc

Xá Vệ cho họ đƣợc gặp.

159

Lần này đến nƣớc Xá Vệ, năm trăm ngƣời đƣợc gặp Phật, nhờ ánh hào quang, mọi ngƣời

hết mù, sáng tỏ đôi mắt, nhìn thấy Phật thân vàng chói lọi, vui mừng quá! Cùng nhau tới

trƣớc lễ Phật đồng thanh bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con sinh nơi hèn hạ, ra đời thuần thấy đau khổ! Hôm nay

nhờ oai thần của ngài đƣợc sáng tỏ con mắt, chúng con một lòng thành kính, cúi xin từ bi

tế độ cho nhập đạo tu hành.

Phật mỉm cƣời nói:

- Thiện Lai Tỷ Khƣu!

Ngài nói dứt lời, năm trăm ngƣời đều rụng hết tóc, áo Cà Sa thấy mặc tại mình, theo Phật

tu hành, không bao lâu đã đắc A La Hán.

Thấy thế tôi thƣa Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài xuất thế làm lợi ích cho muôn loài chúng sinh, những

ngƣời này trong giây phút đƣợc sáng tỏ con mắt thịt, hơn nữa lại đắc quả La Hán, không

rõ kiếp xƣa họ tạo tội gì, cúi xin nói cho chúng con đƣợc rõ?

Phật dạy rằng:

- A Nan! Không những kiếp này ta cứu họ khỏi tối con mắt, mà đời quá khứ cách đây vô

lƣợng kiếp ta đã cứu họ thoát khỏi khổ hắc ám một lần.

- Kính lạy Ngài, cúi xin chỉ giáo cho chúng con đƣợc ân triêm công đức.

- A Nan! Ông lắng nghe: Cách đây đã nhiều vô lƣợng kiếp, cũng tại Châu Diêm Phù Đề

này, thuở ấy có năm trăm ngƣời lái buôn đi qua một cánh đồng rộng, tới con đƣờng hiểm

vào một hang núi hóa, hang ấy tối om, sợ kẻ cƣớp đánh giết lấy tiền và hàng hóa, không

biết làm thế nào, họ chỉ biết khấn trời vái tất cả thần kỳ trên rừng dƣới biển ủng hộ cho

họ. Trong bọn ấy có một ngƣời thấy anh em lo sợ bảo rằng:

- Các bạn cứ an tâm, đừng lo nữa, tôi có cách làm cho sáng sủa để các anh đi.

Ngƣời đó lấy lụa Bạch Điệp cuốn vào cánh tay tẩm dầu đốt, đi bảy ngày mới qua hang

núi. Khi đƣợc an lành vô sự, mọi ngƣời vui mừng và cám ơn lắm!

A Nan! Ngƣời đốt cánh tay thuở đó, có phải là ai đâu, chính là ta đấy. Ta từ đời vô thỉ tới

nay, đem quốc thành vợ con huyềt nhục bố thí chúng sinh, bởi thế đời nay đƣợc đặc tôn

trong ba cõi, còn năm trăm ngƣời lái buôn tức là năm trăm ngƣời mù nay. Đời quá khứ ta

lấy thân sinh tử bố thí cho họ đƣợc sáng sủa, giờ đây thành Phật, ta lại cho họ con mắt trí

tuệ.

160

Tất cả đại chúng nghe Phật nói xong, ai nấy đều hoan hỷ. Nhân nghe thuyết pháp cũng có

ngƣời đắc sơ quả cho đến tứ quả, cũng có ngƣời đắc nhân Bích Chi Phật, ngoài ra còn rất

nhiều ngƣời đƣợc độ, cúi đầu tạ lễ mà lui.

---o0o---

Phẩm thứ hai mƣơi chín : PHÚ NA KỲ

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở một nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn của ông Cấp Cô

Độc và rặng cây của Thái Tử Kỳ Đà.

Thuở bấy giờ nƣớc Phóng Bát có ông Trƣởng giả tên là Đàm Ma Tiện (Tàu dịch: Pháp

Quân), nhà giàu nhất nƣớc ấy, vợ ông sinh đƣợc đứa con trai, nhân gặp lúc nhà vua xuất

quân đi đánh trận, nên đặt tên là Tiện Na (Tàu dịch: Quân). Sau bà lại sinh đƣợc cậu nữa,

giữa lúc nhà vua thắng trận, nên đặt tên là: Tỷ Kỳ Đà Tiện Na (Tàu dịch: Thắng Quân).

Phải khi ông Trƣởng giả mắc bệnh, các thầy lang đến chữa đƣợc tiếp đãi trọng hậu, ăn

uống rất đàng hoàng, tiền vàng khá nhiều. Nhƣng không may gặp bọn thầy lang gian ác,

cho trái thuốc, cốt ngâm bệnh ông lê nhê mãi không khỏi để chúng kiếm nhiều tiền.

Ông có một ngƣời ở gái, hàng ngày thuốc thang cơm cháo hầu hạ, nó biết mƣu của bọn

thầy lang nhƣ thế, nên nó thƣa với ông rằng:

- Thƣa ông! Các ông lang không tốt đâu! Họ ác lắm! Thấy ông giàu có, cho ông uống trái

thuốc, dềnh dang cho lâu khỏi, để cầu lợi. Vậy để tôi cứ nhƣ lần trƣớc, theo đúng phép

điều trị thì khỏi!

Ông nói:

- Phải! Mi nói đúng, cho mi đƣợc tùy ý!

Sau, cô điều dƣỡng cho ông đƣợc khỏi bệnh. Một thời gian sau Trƣởng giả khỏe mạnh,

cô thƣa với ông rằng:

- Thƣa Trƣởng giả! Tôi hầu hạ thuốc thang cho ông nay ông đã khỏi bệnh. Vậy tôi xin

ông một điều, nếu ông vui lòng tôi xin nói?

Trƣởng giả đáp: - Mi cứ việc nói.

- Tôi mong ƣớc đã lâu, muốn để vui thú ân tình với ông một đêm, xin ông đừng từ chối!

Ông Trƣởng giả mỉm cƣời gật đầu.

161

Cô mừng quá, đêm hôm ấy cùng ông thỏa mãn ân tình, sau cô có thai, qua thời gian sinh

một cậu con trai, vì đƣợc mãn nguyện vọng, nên đật tên là Phú Na Kỳ (Tàu dịch là Mãn

Nguyện).

Song cũng hay! Cậu bé kháu khỉnh, khi lớn có đức tƣớng khôi ngô, lòng dạ ngay thẳng

trung chính, và thông minh, về mặt thƣơng mãi có tinh thần hơn ngƣời, lại biết cách trồng

cây, nuôi súc vật, đi đến đâu cũng gặp tốt lành. Nhƣ vậy, là do tinh khí của ông Trƣởng

giả, nên đƣợc thông minh xuất chúng, chỉ nỗi làm con ngƣời ở gái, nên đứng vào hàng nô

tỳ hèn hạ, không đƣợc cao quý bằng con bà lớn.

Khi đó Trƣởng giả mắc bệnh, biết mình phải chết, gọi hai con lên dặn rằng:

- Con ngƣời có sinh phải có tử, xem trong mình cha không có phần nào ở với con đƣợc

nữa, vậy sau khi cha chết, các con nên ở với nhau, chớ phân chia tài sản!

Đáp: - Dạ! Xin cha cứ an tâm điều dƣỡng thuốc thang, nếu cha có mệnh hệ nào, chúng

con, anh em ở với nhau, xin nhớ lời cha dạy.

Đƣợc ít ngày ông chế, anh em ăn ở với nhau, trên thuận dƣới hòa, sống chung một nhà

đoàn viên vui vẻ! Không xảy ra chuyện chi xích mích. Qua thời gian khá lâu, cũng vì sự

sinh sống, hai ngƣời anh con bà lớn đi ra nƣớc ngoài buôn bán, vợ con và tài sản đều giao

cho Phú Na Kỳ là em thứ ba ở nhà coi sóc, đảm nhiệm việc gia đình.

Theo lời hai anh, Phú Na Kỳ ở nhà phụng sự gia nghiệp, tăng gia sản xuất để nuôi gia

đình một cách rất chu đáo, đối với hai chị dâu và các cháu. Một hôm đứa con trai nhỏ của

Thắng Quân đến xin tiền Phú Na Kỳ, phải lúc không sẵn, Phú Na Kỳ nói:

- Hôm nay chú không sẵn, cháu muốn mua gì để chú mua cho!

Nó giận chạy về mách mẹ rằng:

- Mẹ ơi! Chú Phú Na Kỳ không có công tâm, con bác muốn gì chú cũng cho; hôm nay

con xin tiền mua quà chú không cho!

- Thế à! Làm sao con đứa ở lại thiên lệch nhƣ vậy? Thôi không thèm để mẹ bảo cho.

Sau khi Thắng Quân về, chị hai chƣa nguôi cơn giận, đem chuyện đó nói với chồng.

Thắng Quân cũng si mê nổi giận nói:

- Con đứa ở sao dám thiên lệch nhƣ vậy? Nó muốn chết ƣ? Ta sẽ giết nó cho xem!

Thắng Quân lên nói với anh cả rằng:

- Thƣa anh, theo lời cha dặn lúc sinh thời, anh em ở chung nhau, nhƣng em thấy chú Phú

Na Kỳ quá đáng, em xin anh cho ở riếng!

162

- Thôi chú ạ! Phú Na Kỳ tốt lắm đấy, chú nghe chi trẻ con đàn bà, trái lời cha dặn là bất

hiếu!

Thắng Quân nói tới hai lần không thôi.

Ngƣời anh biết rằng nếu ở chung rồi sẽ xảy ra những chuyện không hay, bất đắc dĩ phải

cho phân cƣ. Tất cả ruộng vƣờn, của cải, súc vật chia ra bốn phần:

Anh cả hai phần, Thắng Quân một phần, còn một phần cho Phú Na Kỳ, chia gia tài xong,

Thắng Quân nói:

- Phần anh thì anh lấy, còn của Phú Na Kỳ để em giữ.

Ngƣời anh biết ý Thắng Quân muốn hại Phú Na Kỳ, nên khéo léo cho Phú Na Kỳ đi ở

nơi xa. Lúc bƣớc ra đi, Phú Na Kỳ đƣợc chị cả cho năm đồng tiền ăn đƣờng.

Phú Na Kỳ sang tỉnh khác làm ăn, hôm ấy ra chợ mua củi, đƣa về cởi ra đƣợc mấy đoạn

gỗ chiên đàn và mấy đoạn gỗ ngƣu đầu, đem chặt ra mƣời đoạn cất đi.

Cũng do phúc của Phú Na Kỳ đến ngày phát hiển, khi đó Hoàng hậu mắc bệnh nhiệt, phải

dùng hai thứ gỗ nói trên uống thì khỏi, nhà vua cho ngƣời đi tìm không đƣợc, phải viết

bản cáo thị: "Nếu ai tìm đƣợc gỗ chiên đàn, ngƣu đầu sẽ trả cho ngàn lạng vàng".

Phú Na Kỳ mừng quá, đem vâng vua một đoạn, vua cho một ngàn lạng vàng, cứ thế,

dâng vua hết mƣời đoạn, đƣợc mƣời ngàn lạng vàng.

Đem về mua mƣời mẫu đất, xây cất nhà cửa, xe, ngựa, lục súc, nuôi nô tỳ, thuê ngƣời

làm lụng, từ đó gia nghiệp trở nên phong phú.

Bấy giờ có năm trăm ngƣời buôn biết Phú Na Kỳ khá vốn, rủ ra biển buôn bán. Phú Na

Kỳ thƣa với anh cả rằng:

- Thƣa anh, em muốn ra biển buôn bán, và tìm trân bảo, có đƣợc xin anh cho phép?

- Đƣợc lắm, tôi sẽ cấp thêm tiền và cho một ngƣời đi cùng chú.

Phú Na Kỳ ra biển buôn bán phát tài, và lấy đƣợc rất nhiều ngọc thạch, hột xoàn, trân

bảo, vàng bạc nên mừng thầm, lớp này về nhà đƣợc giàu có, của này ăn đến bảy đời

không hết.

Đƣơng lúc thuyền trôi lênh đênh trên mặt biển, một trời một vực, thốt nhiên mọi ngƣời

đều nhìn thấy ba mặt tời xuất hiện, lạ quá hỏi ngƣời lái đò rằng:

- Hôm nay, sao lại có ba mặt trời, ông có biết là điềm gì không?

163

- Các ông nên biết: đây là điềm nguy biến cho chúng ta đấy, không bao giờ có ba mặt

trời, ở biển này có loài cá Ma Kiệt lớn dày bảy trăm do tuần, mỗi giấc ngủ của nó là một

trăm năm, khi thức giấc, nó há mồm cho nƣớc biển và tôm cá chảy vào làm món ăn, trên

kia là mặt trời chính, còn hai là mắt cá, giữa khoảng trắng kia là răng nó, nƣớc đƣơng

chảy vào chỗ tối kia là mồm nó, nguy đến nơi rồi các bạn ơi! Bọn ta chết trong mồm cá

này đây, thật là hết lối tẩu thoát, thuyền cứ theo dòng nƣớc chảy vào mồm cá, khi gần tới

nơi, có một ngƣời Ƣu Bà Tắc theo Phật giáo lớn tiếng nói rằng:

- Các bạn! Cái chết của chúng ta tới nơi rồi, các bạn mau mau, dốc lòng kính niệm "Nam

mô Phật"; Ngài là một đấng đức nhân trong ba cõi, không ai bằng. Ngài có đại lực cứu

khổ ban vui trong chớp mắt!

Ai nấy đều lo chết, nghe ông Hiền giả nói xong, một lòng thành kính tha thiết, đồng

thanh niệm Nam mô Phật.

Cá Ma Kiệt nghe đƣợc danh hiệu Phật, phát từ tâm, ngậm mồm lại, rồi lăn xuống đáy

biển, mọi ngƣời đều thoát nạn trở về nƣớc.

Về đến nhà, Phú Na Kỳ lấy mâm đựng các của quý ngoài biển, đem biếu ngƣời anh cả

tên là Tiện Na rồi nói rằng:

- Thƣa anh, em đã vì gia đình, sinh kế mà lập nghiệp, bây giờ nhà cửa ruộng đất, các

trang vật đầy đủ, con cháu ăn đến bảy đời không hết, xin biếu anh cả, em xin anh cho

xuất gia theo Phật tu hành cho thoát ách đau khổ!

- Phải! Chú nói hay, tôi cũng không muốn trái ý, song chú hãy còn ít tuổi, chƣa hiểu lẽ

nhân luân, Phật Pháp cao sâu, làm sao theo nổi, chú hãy lui lại vài năm nữa hãy đi tôi rất

đồng ý!

- Thƣa anh! Mạng ngƣời vô thƣờng, sớm còn chiều mất không có nhất định, không có

bảo đảm, bữa trƣớc đây em ra biển gặp cá Ma Kiệt suýt chết! Chết hụt, cũng nhờ ơn đức

của Phật cứu sống, vậy anh hãy hoan hỷ cho em đi, đừng gàn em nữa, vì em đã quyết

định nhƣ vậy.

- Thôi, chú đã có tâm nhƣ vậy, tôi cũng không dám cản chú xuất gia, tôi vui lòng!

- Dạ! Anh hoan hỷ nhé!

Phú Na Kỳ rủ năm trăm ngƣời lái buôn đến nƣớc Xá Vệ yết kiến Phật, tới nơi cúi đầu lễ

sát đất bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con tới đây cầu xin xuất gia tu đạo, cúi xin Ngài từ bi tế

độ.

Đức Thế Tôn nhìn thấy họ tội căn đã hết, quả Bồ đề đã phát sinh, nên Ngài mỉm cƣời nói:

164

- Thiện Lai Tỷ Khƣu!

Nói dứt lời, năm trăm ngƣời đều biến thành các vị Sa Môn theo Phật tu học, chẳng bao

lâu tâm trí giác ngộ, dứt hết lậu nghiệp ba cõi, đắc quả La Hán. Duy có Phú Na Kỳ kết sử

nặng quá, phải giảng thuyết cho nghe nhiều cũng không giác ngộ, sau thành tâm cố gắng

lập chí tu học, đƣợc chứng sơ quả, từ đó tinh tiến ngồi thuyền tụng kinh, không dám lƣời

biếng.

Ngày an cƣ đã tới: Đức Thế Tôn cho các vị Tỷ Khƣu ai muốn an cƣ ở đâu cũng đƣợc tùy

ý. Phú Na Kỳ tới trƣớc Phật bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Khóa hạ năm nay, đệ tử xin đến nƣớc Phóng Bát an cƣ, xin từ bi

hoan hỷ.

Phật dạy: - Pháp Tử, ngƣời nƣớc Phóng Bát bạc ác, tin theo tà đạo, kiến thức hẹp hòi, con

là kẻ sơ học, đối với giáo pháp của ta chƣa hiểu bao nhiêu, nếu bị họ hủy nhục thì làm thế

nào?

- Kính lạy đức Thế Tôn! Nếu họ có hủy nhục con, một cách tệ mạt đi nữa, nhƣng họ

không làm hại con thì cũng đƣợc!

- Nếu kẻ gian ác nó làm hại con, thì sao?

- Kính lạy Ngài! Nếu nó làm hại, mà không giết con cũng còn hàm ơn họ!

- Nó giết con không ích gì cho con, lúc đó con làm thế nào?

- Kính lạy Ngài! Tất cả vạn vật, có hình phải có hoại, nếu họ giết con thì con chịu chết!

- Nó hủy hoại con, làm nhục con, mà nó không giết con, thì con có giận nó không?

- Dạ, lạy đức Thế Tôn! Con không có giân, chính kẻ đó lấy một sự không có căn cứ, vô

cớ hủy nhục con, phỉ báng con, hoặc đem dao gậy đánh đập con, sau giết con, mà chƣa

chết hẳn, tới phút cuối cùng, con cũng không có một niệm giận họ!

Phật khen rằng: - Đệ tử! Nếu con thực hành đƣợc nhƣ vậy thì rất hay, sẽ làm hiển dƣơng

cho ngôi Tam Bảo!

Phú Na Kỳ cúi đầu lễ Phật, rồi cầm bát mang áo ra đi. Tớ驠nƣớc Phóng Bát, nghĩ tại

rừng một đêm, sớm ngày mai vào thành khất thực, đến một nhà đại phú Bà La Môn, anh

chủ nhà chạy ra đuổi mắng!

Phú Na Kỳ qua nhà khác, anh này cứ theo sau phỉ báng, mắng nhiếc và đánh đập luôn

tay. Nhƣng Phú Na Kỳ vẫn bình tĩnh coi nhƣ không, nét mặt vẫn tƣơi nhƣ hoa mới nở!

Vui vẻ! Và không nói năng gì. Anh chàng đánh chán tay, mỏi cánh, mắng rát cổ, thấy

165

Phú Na Kỳ không thay đổi sắc mặt và oán giận gì, nên anh tự thẹn hổ trong lòng, là vì vô

cớ đánh ngƣời, trách mình là kẻ tàn nhẫn quá, rồi đến xin tạ lỗi.

Trong ba tháng an cƣ, Phú Na Kỳ chăm chỉ tu hành, đƣợc hết mọi kết sử, tội chƣớng tiêu

tan, hốt nhiên giác ngộ: đắ quả vô lậu, giải thoát sinh tử ba cõi, thành ngôi A La Hán.

Hết ba tháng an cƣ: từ giã các ngƣời thân tính, về nhà dặn anh rằng:

- Anh chớ có ra biển, ngoài biển có nhiều sự nguy hiểm, tiền của em để lại cho anh, có

thể anh dùng trong bảy đời không hết.

Dặn xong ra về, khi tới Tịnh Xá và lễ Phật, chúc mừng Phật, rồi về phòng nghỉ.

Tiện Na không nghe lời Phú Na Kỳ dặn, một hôm cùng với những ngƣời lái buôn ra biển,

lấy rất nhiều gỗ chiên đàn, gỗ ngƣu đầu, đầy thuyền chở về. Giữa biển thuyền trôi lênh

đênh, gặp một con rồng, làm giông tố dữ dội, nó muốn đánh đắm thuyền để cƣớp lại gỗ,

tất cả mọi ngƣời la ó, khóc than! Kêu trời vái đất ầm ĩ! Tiện Na nhớ rằng vì không nghe

lời em, nên nay bị nạn, khi đó chỉ lớn tiếng gọi chú Phú Na Kỳ, gọi liên hồi khan tiếng!

Khi đó Phú Na Kỳ ở nƣớc Xá Vệ tại tinh xá Kỳ Hoàn, đƣơng tọa thiền, bỗng nghe thấy

tiếng anh mình kêu mắc nạn, lấy thiên nhãn nhìn thấy Tiện Na đƣơng ở ngoài biển bị con

rồng hãm hại, bèn dùng La Hán thần túc hóa ra một con chim Kim Xúy Điểu, xòe cánh

dài tám vạn do tuần, bay đến khủng bố Rồng! Rồng thấy chim sợ hãi, lặn chìm xuống đáy

biển, nhờ sức thần túc của Phú Na Kỳ mà sóng gió đều im, mọi ngƣời thoát nạn trở về

nƣớc nhà.

Khi Tiện Na về tới nhà, Phú Na Kỳ thƣa với anh rằng:

- Anh muốn đƣợc phƣớc báo trang nghiêm trên cõi Nhân Thiên, cho muôn ngàn thế hệ

sau này, thì lấy gỗ chiên đàn làm một tòa lâu đài, mời Phật về ngự, và thuyết pháp cho

quốc dân nghe.

- Việc làm tôi xin làm chu đáo, nhƣng còn thỉnh Phật thì phải làm thế nào? Và sắm sửa

những gì cúng dàng? Chú cho biết để sắp đặt.

- Việc đó anh không lo! Để em chịu trách nhiệm!

Sau khi Tiện Na làm xong các tòa lâu đài bằng gỗ chiên đàn các công việc sắp đặt chu

đáo. Phú Na Kỳ lấy lò đốt hƣơng trầm lên một lầu cao, hƣớng về rừng Kỳ Hoàn, lễ Phật

cùng Thánh chúng khấn rằng:

- Kính lạy đức Bổn Sƣ Thích Ca Mâu Ni Phật! Cùng chƣ vị Hiền Thánh từ bi chứng

giám, sớm ngày mai tới nƣớc hèn mạt này, giáo hóa cho lũ ngu si mê muội, đƣợc dùng

thần thông phóng nƣớc đến rửa chân Phật.

166

Khấn nguyện xong, khói hƣơng ấy bay tới đầu đức Thế Tôn, kết thành cái tán bằng khói

hƣơng. Sau Phú Na Kỳ dùng thần thông phóng nƣớc đến rửa chân Phật.

Tôi thấy điềmlạ, quỳ xuống bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Ai phóng nƣớc và khói tới đây, xin nói cho chúng con đƣợc rõ?

- Hôm nay Tỷ Khƣu Phú Na Kỳ ở nƣớc Phóng Bát, khuyên ngƣời anh thỉnh mời ta và các

Tăng chúng, nên phóng nƣớc và khói tới đây để làm tin về việc thỉnh. Vậy ông đi phát

thẻ cho các vị Thần túc Tỷ Khƣu sớm mai đến nhà Tiện Na thụ trai.

Tôi theo lời Ngài đi phát thẻ cho các vị có thần túc và dặn sớm mai đến nƣớc Phóng Bát.

Ông Kỳ Kiền Trực Kỳ (Tàu dịch: Tục Sinh), giữ chức trực nhật (làm cơm hàng ngày),

ông đã đắc quả A Na Hàm, ngồi kết già phu, thân phóng quang minh, chiếu sáng bốn

phƣơng, đem theo các thứ dùng bữa ăn, bay trên hƣ không tới nƣớc Phóng Bát.

Tiện Na trông thấy hỏi:

- Đây là thầy em hay sao?

- Không phải, đây là ngƣời sửa soạn cơm cho các Tỷ Khƣu, tới trƣớc để giúp bữa trai

hôm nay.

Tiện Na đem âm nhạc ra cúng dàng, Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

Lần thứ hai có mƣời sáu vị Sa Di, trong đó có ông Quân Đề, dùng thần túc biến hóa ra

rừng cây, hái các thứ hoa quả, biến hóa rất nhiều, phóng quang minh chiếu sáng cả trời

đất, ngƣời cỡi ngựa hoặc cỡi lạc đà đi tới.

Tiện Na hỏi: - Đây là thầy của em hay sao?

- Không phải! Đây là những đệ tử Sa Di cùng thầy với em; mới có bảy tuổi đã đắc quả La

Hán, lậu nghiệp đã hết, thần túc đầy đủ, lại đây trƣớc để hái hoa cúng dàng.

Tiện Na đem hƣơng hoa, âm nhạc ra cúng dàng, các vị từ từ hạ xuống vào nhà.

Sau có các vị cao niên trƣởng lão Đại A La Hán, hóa ra ngàn con rồng kế thân làm tòa,

đầu ngóc ra bốn bên, gầm thét vang trời, mồm rồng phun ra nƣớc mƣa thất bảo, ở trên đặt

những tòa lớn, bằng bảy thứ báu ngọc, bay bổng trên không gian, phóng quang minh

chiếu sáng khắp thiên hạ, đến nƣớc Phóng Bát.

Tiện Na hỏi: - Đây là thầy của em hay sao?

- Không phải, đây là nhóm ông Kiều Trần Nhƣ, lúc Phật mới thành đạo, thuyết pháp ở

vƣờng Lộc Uyển, bọn ông cả thảy năm ngƣời đƣợc độ đầu tiên, có thần thông vô ngại.

167

Tiện Na nghe nói thêm lòng cung kính, đem hƣơng hoa âm nhạc ra cúng dàng, các vị từ

từ hạ xuống vào nhà.

Sau ngài Ca Diếp hóa ra một ngàn nhà giảng, bằng thất bảo, phóng quang minh ở trong

mình ra, chiếu khắp bốn phƣơng, bay đến nƣớc Phóng Bát.

Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em hay sao?

- Không phải, đó là ngài Ma Ha Ca Diếp, hay tu hạnh Đầu Đà thƣơng kẻ ty tiện, chăm

cấp giúp kẻ nghèo cùng.

Tiện Na vui vẻ đem hƣơng hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

Sau Ngài Xá Lợi Phất, ngồi tòa ngàn con Sƣ tử, hƣớng đầu ra bốn phƣơng, mồm phun

nƣớc mƣa thất bảo, gầm thét, làm chấn động cả trời đất, trên mình Sƣ Tử bày tòa bằng

thất bảo, thân ngài phóng quang minh chiếu soi bốn phƣơng, bay trên hƣ không, đi đến

nƣớc Phóng Bát.

Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em phải không?

- Không phải, đó là vị đại đệ tử của thầy em! Trí tuệ bậc nhất, tên là Xá Lợi Phất.

Tiện Na vui mừng, lấy hƣơng hoa âm nhạc ra cúng dàng, ngài từ từ hạ xuống nhà.

Sau ngài Mục Kiền Liên hóa ra một ngàn con voi, quay đầu ra bốn bên, mỗi con có sáu

ngà, mỗi đầu ngà có bảy hồ tắm, trong mỗi hồ có bảy hoa sen, trên mỗi hoa có bảy ngƣời

ngọc nữ, ngoài ra còn biến hiện rất nhiều, phóng hào quang sáng lớn, làm vang động cả

bốn phƣơng trời, trên đầu voi bảy tòa thất bảo, ngài ngồi trên, bay đến nƣớc Phóng Bát.

Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em phải không?

- Không phải, đó là đệ tử của thầy em, tên là Đại Mục Kiền Liên, thần thông bực nhất,

đức hạnh đầy đủ.

Tiện Na vui mừng đem hƣơng hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

Sau ngài A Na Luật tự hóa ra bảy ao tắm bằng thất bảo; trong ao có hoa sắc vàng; hoa lá

bằng thất bảo. Ngài ngồi kiết già phu trên hoa, cổ ngài đeo chiếc nhật quang soi khắp

thiên hạ, những ánh hào quang ấy thuần sắc vàng bay trên không gian đến nƣớc Phóng

Bạt.

Tiện Na hỏi: - Đây là thầy của em phải không?

- Không phải, đó là đệ tử của thầy em tên là A Na Luật Đề, đối với đại chúng, là một vị

thiên nhãn bực nhất.

168

Tiện Na vui mừng! Cung kính lấy hƣơng hoa kỹ nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống

vào nhà.

Sau em Phật là Nan Đà, hóa ra ngàn cỗ xe ngựa thất bảo trên xe che tán thất bảo, phóng

quang minh chiếu ra bốn phƣơng, bay trên hƣ không, đến nƣớc Phóng Bát.

Tiện Na hỏi: - Đây là thầy của em phải không?

- Không phải, đó là em của Phật tên là Nan Đà, tƣớng mạo và đức hạnh đầy đủ.

Tiện Na vui mừng! Lấy hƣơng hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

Sau Ngài Tu Bồ Đề hóa ra bảy quả núi ngọc, ngài ngồi trong hang lƣu ly, thân phóng

quang minh nhiều sắc lẫn nhau, chiếu sáng trời đất, bay đến nƣớc Phóng Bát.

Tiện Na hỏi: - Đây là thầy của em phải không?

- Không phải, đó là đệ tử của thầy em tên là Tu Bồ Đề, học nhiều trí tuệ sâu rộng, là một

vị bậc nhất giải rõ pháp "Không".

Tiện Na vui mừng! Lấy hƣơng hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

Sau đó ông Phân Nậu Văn Đà Ni Tử, hóa ra một ngàn thân Ca Lâu La Vƣơng, kết thành

toà ngồi, đầu hƣớng ra bốn bên, mồm ngậm các thứ châu bảo, phát ra những tiếng hòa

nhã, ở trên bảy tòa thất bảo, bay trên không gian đến nƣớc Phóng Bát.

Tiện Na hỏi: - Đây là thầy của em phải không?

- Không phải, ông đó cùng đồng thầy với em, tên là Phân Nậu Văn Đà Ni Từ, một vị biện

tài đệ nhất.

Tiện Na vui vẻ! Lấy hƣơng hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

Sau có Ngài Ƣu Bà Ly hóa ra ngàn con nhạn giụm mình vào nhau đầu quay ra ngoài,

tiếng kêu hòa nhã! Mồm ngậm các thứ châu bảo, bay liệng trên không gian, trên mình

bày tòa quý đẹp, phóng đại quang minh chiếu khắp bốn phƣơng, bay đến Phóng Bát.

Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em phải chăng?

- Không phải, đó là đệ tử của thầy em, tên là Ƣu Ba Ly, một vị trì luật bực nhất trong

hàng Tỷ Khƣu.

Tiện Na vui mừng! Lấy hƣơng hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

169

Sau đó hai mƣơi ức vị Sa Môn, hóa ra những hàng cây ở trên hƣ không, dùng ngọc lƣu ly

xanh làm lối kinh hành, giữa hai hàng cây giáp nhau, làm bằng thất bảo, bên lề đƣờng

cũng bằng thất bảo, các vị đi trên lối kinh hành đến nƣớc Phóng Bát.

Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em phải chăng?

- Không phải, đây là hai mƣơi ức vị Sa Môn, đệ tử trong các hàng Tỷ Khƣu, tinh tiến hơn

hết.

Tiện Na vui mừng, đem hƣơng hoa âm nhạc ra cúng dàng, các Ngài từ từ hạ xuống vào

nhà.

Sau có ông Đại Kiếp Tân Ninh, hóa ra bảy hàng cây báu, trên cây có rất nhiều hoa quả,

dƣới gốc có bảy tòa cao đẹp, Ngài ngồi trên tòa phóng quang minh. Bay trên hƣ không

đến nƣớc Phóng Bát.

Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em phải chăng?

- Không phải, đây là một vị cùng thầy với em, tên là Đại Kiếp Tân Ninh, oai nghi đĩnh

đạc, dũng mãnh nghiêm chỉnh đệ nhất.

Tiện Na vui mừng, đem hƣơng hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

Sau có ông Tân Đầu Lƣ Phả La Đỏa Sà ngồi tòa hoa sen, cổ đeo chiếc nguyệt quang,

phóng ra ngàn tia sáng, soi khắp trời đất, bay trên không gian đến nƣớc Phóng Bát.

Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em phải chăng?

- Không phải, đó là đệ tử Phật, tên là Tân Đầu Lƣ Phả La Đỏa Sà, một vị tọa thiền giỏi

nhất.

Tiện Na vui vẻ, đem hƣơng hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

Sau có ông La Hầu La hóa làm vua Chuyển Luân; có ngàn ngƣời con và thất bảo vây

quanh trƣớc sau, bay trên không gian đến nƣớc Phóng Bát.

Tiện Na hỏi: - Đây là thầy em phải không?

Đáp: - Không phải, đó là con Phật, tên là La Hầu La ở tại gia sẽ thống trị bốn thiên hạ,

thất bảo tự nhiên đầy đủ, không phải dùng quân đội và khí giới, mà có thể dẹp yên đƣợc

giặc, bỏ ngôi cao quý xuất gia tu đạo, đƣợc đắc quả A La Hán, đủ sáu phép thần thông,

giờ đây biến thân để biểu lộ cái ngôi của Ngài.

Tiện Na vui vẻ đem hƣơng hoa âm nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà.

170

Đây là năm trăm đệ tử của Phật, có phép thần thông vô ngại biến hiện phi thƣờng không

tả xiết. Khi đó đức Thế Tôn biết các vị đã đi đến nƣớc Phóng Bát rồi. Ngài bèn phóng

hào quang chiếu sáng trời đất thuần sắc vàng.

Thấy điềm tƣớng này, Phú Na Kỳ bảo Tiện Na rằng:

- Thƣa anh! Đức Thế Tôn sắp đến, nên Ngài phóng hào quang cho biết trƣớc!

Đức Thế Tôn đƣơng ngồi trên tòa, la chân xuống đất, tất cả trên trời dƣới đất đều rung

động sáu lần.

Phú Na Kỳ nói: - Động đất này là do đức Thế Tôn, Ngài la chân xuống đất làm chấn

động nhƣ thế đó.

Đức Thế Tôn vừa ra khỏi Tinh Xá, Ngài dừng lại nhập định, thì thần kim cƣơng đứng ở

tám mặt; bốn ông Thiên Vƣơng đi trƣớc, vua Đế Thích với các ông Thiên Tử cõi Dục và

năm trăm ngàn muôn chúng thị vệ bên tả, vua Trời Đại Phạm và các ông Thiên Tử cõi

Sắc, với vô số ngƣời đứng bên hữu. Tôi (A Nan) đứng sau Phật cùng với đại chúng,

phóng quang minh chiếu khắp trời đất, bay trên hƣ không đến nƣớc Phóng Bát.

Đi đƣợc nữa đƣờng, gặp năm trăm nông phu đƣơng cày ruộng, các con trâu tự nhiên

đứng dừng lại không kéo cày nữa, một vẻ trầm tĩnh và kính cẩn biểu lộ, ngửa mặt nhìn

lên trời, các ngƣời nông phu ngửa nhìn theo trâu, họ đều quỳ xuống bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thê Tôn! Để lòng thƣơng lũ chúng con, tạm xuống chỗ này giáo hóa

chúng con thoát ly đƣợc những nỗi đọa đày thể xác lẫn tinh thần, đời đời đƣợc an vui

sung sƣớng!

Phật lấy lòng từ bi và biết những ngƣời này duyên lành đã tới, nên Ngài từ từ hạ xuống

thuyết pháp cho họ nghe.

Họ đƣợc lãnh hội giáo lý của Ngài, tâm trí tự nhiên sáng tỏ, hiểu thấu đời là vô thƣờng

không gì vững chắc, liền ngắt dứt đƣợc hai mƣơi ức kiếp tội ác, thành ngôi Tu Đà Hoàn,

còn những con trâu, sau khi chết đƣợc sinh lên trời, ai nấy đều vui mừng khôn xiết, lễ sát

dƣới chân Phật.

Thuyết pháp xong, đức Phật lại bay lên hƣ không mà đi, đi chƣa đƣợc bao xa có năm

trăm kẻ đồng nữ chơi ở một cánh đồng rộng, nhìn xuống đất có ánh sắc vàng, ngửa mặt

lên trời thấy Phật, chúng nó vui mừng chắp tay bạch Phật rằng:

- Kính lạy Phật! Xin Ngài xuống đây thuyết pháp cho lũ con nghe!

Phật biết những đứa này có túc duyên, căn lành với Tam Bảo đã chín, Ngài từ từ hạ

xuống, mọi đứa tới gần cúi đầu lễ kính, đức Phật tùy theo căn cơ của nó, nói những lời

đạo đức, giảng dạy môn tu. Chúng nghe xong đều phát trí sáng, đắc quả Tu Đà Hoàn,

chúng vui mừng tha thiết lễ dƣới chân Phật.

171

Cảm hóa đã xong, Ngài cùng với các đệ tử đi bộ trên hƣ không, qua khoảng rừng xanh,

có năm trăm ông tiên nhìn thấy Phật và đại chúng, họ đều tha thiết lễ kính và bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Nhân Ngài qua đây, chúng con đƣợc hạnh ngộ, ngửa mong ơn từ

bi cao cả tế độ lũ chúng con đƣợc nhập đạo tu hành.

Phật coi duyên trƣớc của những ngƣời này, biết có thể độ đƣợc, nên Ngài từ từ hạ xuống

trƣớc mặt, mọi ngƣời cúi đầu lễ sát đất. Phật nói:

- Thiện Lai Tỷ Khƣu!

Nói xong râu tóc họ rụng hết, biến thành các vị Sa Môn, Ngài giảng giải cho nghe, mọi

ngƣời đều đƣợc sáng tỏ cõi lòng, hết lậu nghiệp đắc quả A La Hán. Phật bay lên hƣ

không thì những ngƣời này họ cũng bay theo.

Phú Na Kỳ xa ngó thấy Phật và đại chúng sắp tới bảo anh rằng:

- Phật sắp tới anh ạ!

Tiện Na vui mừng, lấy hƣớng hoa âm nhạc ra cúng dàng, Phật và dại chúng Tăng từ từ hạ

xuống vào nhà thứ tự ngồi an tĩnh.

Tiện Na và gia quyến, sửa soạn cỗ bàn trai nghi trịnh trọng thành kính dâng Phật và đại

chúng.

Phật dùng cơm xong, rửa tay súc miệng, thăng tòa thuyết pháp cho cả nhà Tiện Na và

toàn thể dân nƣớc nghe. Xong cuộc thuyết pháp này, gia quyến Tiện Na đều chứng quả

Tu Đà Hoàn, còn những ngƣời trong nƣớc một số rất đông đƣợc độ.

Thấy thế, tôi (A Nan) hỏi Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Phú Na Kỳ đời quá khứ tạo ác nghiễp gì phải sinh làm con kẻ hạ

tiện? Thuộc nô tỳ nhà ngƣời? Và có phƣớc gì gặp Phật đƣợc thoát sinh tử? Cúi xin đức

Thế Tôn từ bi chỉ thị.

Phật dạy: - A Nan! Ông muốn biết hãy nghe cho kỹ và nghĩ cho khéo, tôi sẽ nói cho hay!

- Dạ! Lạy đức Thế Tôn, chúng con xin chú ý nghe!

- A Nan! Đời quá khứ đã lâu, thời Đức Phật Ca Diếp giáng thế độ sinh. Bấy giờ có ông

Trƣởng giả, nhà rất giàu có, cũng vì việc cầu phƣớc, nên ông làm một ngôi chùa và

phòng Tăng, dâng bốn món: áo mặc, thức ăn, giƣờng tòa, thuốc thang đầy đủ, cúng dàng

Phật và các vị Thánh Tăng. Sau khi ông chết, ngƣời con trai của ông đi xuất gia, không

có ngƣời thừa tự, nên sự cúng dàng ngày một thiếu hụt, các sƣ phải giải tán đi nơi khác,

chùa chiền bỏ hoang vu, không ngƣời sửa chửa, bị mục nát, điêu tàn! Ngƣời con trai ông

đi xuất gia, khi trở về thấy thế, đi nói với dân làng và bè bạn thân quen, bỏ tiền ra tu bổ

172

lại ngôi chùa, và mời các Sƣ Tăng về cúng dàng nhƣ xƣa, bấy giờ các Sƣ Tăng đến tu rất

đông, phần nhiều là những vị Cao Tăng đại đức tu hành tinh tiến, đức hạnh đầy đủ.

Ngƣới con trai ông khi đó làm chủ chùa. Trong các Sƣ Tăng phân công mỗi ngƣời một

chức, để chấp tác việc chùa, hôm đó có một vị phải phiên trực nhật, nhổ cỏ quét đất vun

thành một đống ở giữa sân chƣa kịp hốt. Ông chủ chùa bẳn gắt mắng rằng:

- Ai quét sân nhổ cỏ để đây không hốt đi, làm ăn thế à? Không khác gì đứa nô tỳ, lƣời

lẫm nhƣ vậy? Trái lại sƣ này đã tu chứng đến quả vị La Hán, mà ông không biết!

Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:

- A Nan! Ông chủ chùa thuở đó chính là Phú Na Kỳ, bởi một lời nói ác, mắng vị La Hán

thành nhân, tỷ dụ Ngài nhƣ đứa nô tỳ, vì tội ấy nên trong năm trăm năm, thƣờng phải làm

thân nô tỳ. Cũng do công đức sửa lại chùa chiền, khuyên ngƣời cúng dàng Tăng, đền tội

đã xong, nay đƣợc gặp ta đắc giải thoát; những ngƣời nƣớc này đƣợc giáo hóa, là những

ngƣời ngày xƣa giúp việc làm chùa và cúng dàng chúng Tăng, nên đời đời sung sƣớng,

hôm nay gặp ta đều giải thoát cả.

Khi đó tôi và đại chúng nghe xong đều vui mừng, tạ lễ mà lui.

---o0o---

Phẩm thứ ba mƣơi : NI - ĐỀ

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn của ông Cấp Cô Độc,

và rặng cây của Thái Tử Kỳ Đà.

Bấy giờ trong thành Xá Vệ ngƣời ở đông đúc, chỗ cƣ xử chật hẹp, nhà xí ít, đi đại tiểu

tiện phần nhiều phải ra ngoài thành, những nhà giàu sang họ đi vào trong một cái bô, đậy

nắp cẩn thận, mƣớn ngƣời xách ra ngoại thành đổ.

Khi đó có ông Ni Đề nhà nghèo, hàng ngày sinh sống bằng nghề đổ phân thuê. Đức Thế

Tôn luôn luôn nghĩ đến chúng sinh có duyên, kẻ nên độ trƣớc thì độ trƣớc, kẻ nên độ sau

thì độ sau, cũng nhƣ cây kia nở hoa trƣớc, thì kết quả trƣớc, cây này nở hoa sau, thì kết

quả sau, tùy theo những chúng sinh căn lành đã thục, hoặc sớm hoặc muộn đều đƣợc độ

cả. Ngài biết ông Ni Đề căn lành đã thục, nghiệp chƣớng đã tiêu, nên một hôm tôi theo

Ngài vào thành để cứu ông ra con đƣờng giải thoát.

Khi đức Thế Tôn và tôi tới đầu phố, thì ông Ni Đề gánh hai cái thúng phân đi đổ, ông

nhìn thấy Phật trong lòng tủi hổ, quẹo đi ra con đƣờng khác để lánh mặt, vừa ra khỏi

đƣờng, bỗng nhiên gặp Phật, sợ quá! Tẻ ra lối khác, tâm ý lộn xộn, đập thùng vào bờ

tƣờng gạch, phẩn bắn đầy ngƣời, ông ngồi thụp xuống và không dám nhìn Phật.

173

Đức Thế Tôn tới gần an ủi và nói rằng:

- Ni Đề, muốn theo ta xuất gia tu đạo cho thoát khỏi các nỗi đau khổ không?

- Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài là dòng Kim Luân Vƣơng, các đệ tử của Ngài là

những quý nhân, con là kẻ hạ tiện hèn hạ, đâu dám xuất gia đồng hàng cùng các đệ tử của

Ngài đƣợc!

- Ni Đề! Nghe ta nói: pháp của ta thanh tịnh nhiệm mầu, cũng ví nhƣ nƣớc sạch có thể

tẩy trừ đƣợc tất cả cấu uế nhơ bẩn, cũng nhƣ đống lửa cháy lớn có thể đốt tiêu mọi vật,

mặc dù vật lớn hay nhỏ, cứng hay mềm, tốt hay xấu, đã bỏ vào thì thành tro than hết,

pháp của ta cũng thế, rộng rãi vô biên, giàu nghèo, sang hèn, trai gái, nếu ai muốn tu ta sẽ

độ hết.

Ông Ni Đề nghe Phật nói xong, lòng tin chắc chắn, phục xuống lạy và thƣa rằng:

- Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài đã giàu lòng thƣơng đến con, vậy cúi xin Ngài cho con

đƣợc nhập đạo tu hành.

Thấy ông bẩn thỉu quá, Phật sai tôi đƣa ông ra sông tắm, và cho ông một tấm áo mới, mặc

về tịnh xá Kỳ Hoàn, Phật thuyết pháp cho ông nghe nhƣ sau:

- Sinh tử là đau khổ phải nên sợ! Niết Bàn là pháp an vui lâu kiếp bất diệt, phải nên kính.

Ông nghe Phật thuyết pháp xong hốt nhiên giác ngộ, chứng đƣợc sơ quả, chắp tay lễ kính

thọ giáo làm Sa Môn.

Phật nói: - Thiện Lai Tỷ Khƣu!

Ngài nói dứt lời, tóc của ông rụng hết, áo Cà Sa thấy mặc tại mình.

Phật dạy: - Ni Đề! Ông nên biết: Sắc thân năm ấm nầy là khổ, những ác nghiệp gây ra từ

mắt, tai, mũi, lƣỡi, thân, ý, tập họp ở tâm thức nên đoạn nó đi. Diệt phải nên chứng, đạo

phải nên tu.

Nghe Phật nói xong, tự nhiên giác ngộ, dứt hết lậu độ cho ông Ni Đề, ai cũng lắc đầu lè

lƣỡi có ý khinh bỉ, nói cùng nhau rằng:

- Ông Ni Đề là ngƣời đổ phân thuê, đứng vào hàng hạ tiện, tại sao Phật lại độ cho ông ấy

đi xuất gia. Lũ ta lễ bái làm sao? Thỉnh Phật và Tăng đến cúng dàng không mời kẻ đó!

Lúc làm trai nghi họ lại ngồi bẩn giƣờng nhà ta.

Họ xôn xao đồn khắp trong thành, ai ai cũng nghe biết, sau đến tai vua, vua nghe thấy

cũng không hoan hỉ tâm, thầm nghĩ rằng:

174

- Ta phải can thiệp việc này, nếu để Phật độ những ngƣời nghèo hèn xuất gia thì khi cúng

dàng lễ bái không tiện.

Nghĩ xong lên xe đi đến rừng Kỳ Hoàn, khi tới cửa rừng, vua dừng chân đứng nghỉ, nhìn

thấy một vị sƣ ngồi trên tảng đá lớn vá áo, ở dƣới có bảy trăm ngƣời cõi trời dâng hoa

cúng dàng, lễ kính, đi nhiễu xung quanh, nhà vua tới gần thƣa rằng:

- Kính thƣa Tôn Giả! Tôi muốn vào yết kiến Phật xin ngài vào thông bạch cho.

- Phải! Bệ Hạ để tôi vào thƣa trƣớc giùm.

Nói xong rẽ qua hòn đá đi vào trong bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Vua Ba Tƣ Nặc ở ngoài cửa rừng muốn xin vào yết kiến đức

Thế Tôn.

Phật nói: - Ni Đề hãy dùng đạo lực đi ra nói rằng: Ta cho vào.

Ông Ni Đề từ tảng đá lớn ấy bƣớc ra cũng nhƣ ngƣời nhô khỏi mặt nƣớc không có vƣớng

vít gì, bảo nhà vua rằng:

- Thƣa Bệ Hạ! Tôi đã thƣa với Phật, xin ngài cứ việc đi vào.

Vua Ba Tƣ Nặc thầm nghĩ nhƣ vầy:

- Việc ta định hỏi trƣớc, hãy khoan, ta sẽ hỏi Phật, vị Tỷ Khƣu này ở đâu tới đây có thần

lực cao siêu, hơn nữa lại đƣợc các ngƣời cõi trời kính phục cúng dàng nhƣ vậy?

Khi tới nơi cúi đầu dƣới chân Phật, đi ngang về bên hữu ba vòng, lui đứng về một bên

bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Bên ngoài cửa rừng có một vị Tỷ Khƣu, thần lực cao siêu đi vào

trong hòn đá cũng nhƣ ngƣời đi dƣới nƣớc, đá vẫn không nứt vỡ, họ tên gì, và ở đâu tới

đây xin nói cho con đƣợc biết?

Phật dạy: - Đó là một ngƣời hèn hạ nhất ở trong nƣớc nhà vua đấy, tên là Ni Đề hàng

ngày đi đổ phân thuê, tôi thƣơng tình độ cho xuất gia tu học, chƣa đƣợc bao lâu đã thành

Thánh quả, hôm nay nhà vua đến đây cũng định hỏi tôi việc đó!

Nghe Phật nói thế nhà vua tàm quý, tự bỏ hết tâm kiêu mạn, nhân thế Phật nói rằng:

- Phàm con ngƣời ở trên đời, tôn, ty, sang, hèn, giàu, nghèo, khổ, vui, cũng do tạo ác

nghiệp, hay thiện nghiệp đời quá khứ. Ngƣời nhận từ đạo đức, khiêm nhƣợng, kính trên

nhƣờng dƣới, đó là bậc quý nhân, kẻ hung ác tàn bạo, ƣơng ngạnh, kiêu ngông vô lễ độ,

không phân phải trái thiện ác là kẻ hạ ngu tiểu nhân.

175

- Kính lạy đức Thế Tôn! Bậc Đại Thánh xuất thế! Cứu tế cho muôn loài đến những ngƣời

hạ tiện, đê hèn còn cứu khổ ban vui, không bỏ sót từng lớp ngƣời nào, nếu có duyên lành.

Ông Ni Đề tại nhân duyên gì phải sinh nơi hạ tiện? Làm phúc gì đƣợc gặp Thế Tôn? Hơn

nữa lại đƣợc chứng quả La Hán cúi xin từ bi chỉ thị.

- Nhà vua nghe cho kỹ, tôi sẽ nói rõ nguyên nhân cho biết.

- Dạ! Lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe, cúi xin chỉ giáo.

Đây cũng một câu truyện đời quá khứ, thời đức Phật Ca Diếp giáng thế độ sinh, sau khi

Ngài vào Niết Bàn, có mƣời vạn vị Tăng cùng ở với nhau một Tùng Lâm. Hôm ấy vị Sa

Môn chủ Tùng Lâm mắc bệnh phải uống thuốc hạ, ông cậy thế làm một vị chủ không

chịu đi ra nhà cầu, mua một cái bình bằng bạc mạ vàng, đi đại tiểu tiện vào trong, rồi bắt

một ngƣời đệ tử đem ra ngoài đổ. Song ngƣời đệ tử ấy đã đắc quả Tu Đà Hoàn.

Bởi thế! Vì không có tâm khiêm nhƣờng, không phân biệt đƣợc ngƣời hay kẻ dở, cậy

mình có thế lực, giữ việc Tăng chúng, gặp chút bệnh nhẹ lƣời biếng không chịu đi, sai vị

Thánh nhân đổ phân cho mình. Vì nhân duyên ấy bị lƣu lãng trong vòng sinh tử, thƣờng

phải làm kẻ hạ tiện trong năn trăm đời, đi đổ phân thuê, cho đến ngày nay không thôi.

Cũng do công đức xuất gia trì giới, nên gặp ta cứu thoát. Nhà vua nên biết ông chủ Tùng

Lâm thuở đó, nay là Tỷ Khƣu Ni Đề đấy.

- Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn quý hóa thay, Ngài xuất thế thực là hiếm có, làm lợi ích cho

không biết lƣợng nào chúng sinh đau khổ.

- Quý hóa! Nhƣ thế đấy, ông nói cũng phải, chúng sinh luân chuyển trong ba cõi không

có định, ngƣời tích thiện tu nhân, đƣợc sinh vào nhà tôn quý, kẻ tạo ác phóng túng vô lễ

độ, phải sinh nơi hèn hạ.

Nghe Phật nói! Nhà vua rất vui mừng bỏ hết tâm kiêu mạn, khinh ngƣời, đứng lên quỳ

thẳng ôm lấy chân ông Ni Đề lễ lạy, và cầu xin ông xá tội.

Đức Thế Tôn nhân vì ông thuyết pháp nói về luận "Bố Thí", Luật "Trì Giới", luận "Sinh

Thiên". Kẻ tà dâm phạm dục là hạnh bất chính, đoạn dục là hạnh an vui.

Bấy giờ tất cả mọi ngƣời dự thính, ai nấy đều vui mừng, tự thệ bỏ tâm kiêu ngạo tuân lời

Phật dạy, tu hành tạ lễ mà lui

---o0o---

Phẩm thứ ba mƣơi mốt : ĐẠI KIẾP TÂN NINH

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời Phật ở nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn Cấp Cô Độc, cây của Thái

Tử Kỳ Đà.

176

Về phƣơng nam nƣớc Xá Vệ có một nƣớc tên là Kim Địa, ông vua đó tên là Kiếp Tàn

Ninh, con trai ông tên là Đại Kiếp Tân Ninh. Trí óc thông sáng sức lực khỏe mạnh, sau

khi nhà vua băng hà, Thái Tử Đại Kiếp Tân Ninh lên nối ngôi, thống trị ba vạn sáu nƣớc,

quân lính rất nhiều, thiên hạ vô địch, tiếng anh hùng đã lừng lẫy bốn phƣơng. Nhƣng xứ

Trung Quốc họ không tùng phục.

Bấy giờ có một ngƣời lái buôn đến nƣớc Kim Địa buôn bán, đem dâng vua bốn thứ lụa

Bạch Điệp rất tốt. Vua nhận rồi hỏi rằng:

- Vật này mua ở xứ nào?

- Tâu Bệ Hạ! Mua ở Trung Quốc!

- Trung Quốc tên chi?

- Tâu Bệ Hạ! Tên là La Duyệt Kỳ, Xá Vệ, và còn nhiều nƣớc khác nữa.

- Các vua xứ Trung Quốc, tại sao không đem lụa này dâng ta?

- Tâu Bệ Hạ, đối với lực lƣợng họ cũng chẳng kém gì nên họ không dâng!

Vua Kim Địa thầm nghĩ nhƣ vầy:

- Thế lực của ta có thể toàn thu đƣợc thiên hạ về một mối, họ không chịu thần phục ta, ta

sẽ cử đại hùng binh sang đánh!

Nghĩ xong hỏi lái buôn rằng:

- Các nƣớc xứ Trung Quốc, nƣớc nào lớn hơn và hùng mạnh hơn?

- Tâu Bệ Hạ, nƣớc Xá Vệ lớn nhất, và hùng mạnh nhất!

Nhà vua nói:

- Tốt lắm, Trẫm nhận lẽ này cho anh, và cho anh ra!

- Dạ! Tâu Bệ Hạ, con xin cáo lui.

Nhà vua thảo tờ chiếu chỉ, sai ngƣời mang sang cho vua Ba Tƣ Nặc nhƣ sau:

- Ba Tƣ Nặc! Ông nên biết: Nƣớc ta hùng mạnh khắp cõi Diêm Phù Đề đều biết, Khanh

tuyệt giao với ta; Ta sai ngƣời mang chiếu chỉ này, bảo cho Khanh biết: Nếu Khanh

đƣơng nằm nghe thấy chiếu chỉ của ta đến, thì phải ngồi dậy ngay! Nếu đƣơng ngồi phải

đứng dậy ngay! Nếu đƣơng ăn phải nhổ ra ngay! Nếu đƣơng tắm phải quấn tóc lại ngay!

Nếu đƣơng đứng phải chạy đến đỡ lấy ngay, sau bảy ngày nữa sẽ biết ta! Nếu không theo

đúng lời nói đây, ta sẽ đem đại hùng binh sang tiêu diệt nƣớc của nhà ngƣời!

177

Vua Ba Tƣ Nặc tiếp đƣợc tờ chiếu chỉ vua Kim Địa, sợ toát mồ hôi! Bối rối không biết

nghĩ sao liền đi cầu Phật giải quyết.

Bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Vua Kim Địa cậy sức hùng mạnh, hẹn bảy ngày

nữa đem binh sang đánh, con vừa nhận đƣợc thơ. Cúi xin đức Thế Tôn đoán cho!

Phật dạy: - Nhà vua không lo! Về bảo sứ giả rằng: Ta cũng có một ông Đại Vƣơng nƣớc

lớn, ông đó theo Phật giáo, cũng gần đây, vậy nhà ngƣơi mang tờ chiếu này đến cho Đại

Vƣơng ta coi!

Sứ giả đi cùng vua Ba Tƣ Nặc đến rừng Kỳ Hoàn.

Đức Thế Tôn tự biến ra vua Chuyển Luân, sai ông Mục Kiền Liên làm một vị đại tƣớng

cầm quân, cơ nào đội ấy rất hùng mạnh, biến rừng Kỳ Hoàn ra một cái thành lớn, bằng

thất bảo, chung quanh thành có bảy lần hào lũy, thành có bảy lần hàng cây cũng bằng

thấy bảo, dƣới hào có hoa sen, đủ các sắc, quang minh sáng sủa, các cung điện trong

thành thuần bằng thất bảo. Vua Chuyển Luân ngồi trên bảo điện tôn nghiêm đáng sợ.

Sứ Giả vào tới thành, nhìn thấy vua Chuyển Luân, lẫm liệt nhƣ ông Thiên Đế Thích trên

cung trời Đao Lợi, tâm hồn kinh ngạc, sợ hãi! Thầm nghĩ nhƣ vầy:

- Vua Kim Địa vô cố lại chiêu cái họa vào thân!

Vừa run, vừa sợ! Không biết tính cách gì nói cho tiện, quỳ xuống dâng lá thơ thƣa rằng:

- Kính tâu Đại Vƣơng! Con là sứ thần của vua Kim Địa, tuân mạng dâng bức thơ này lên

Đại Vƣơng!

Vua Chuyển Luân, vất tờ thơ ấy xuống, đất, đạp lên trên nói:

- Ta làm một ông Đại Vƣơng thống trị bốn thiên hạ, chúa nhà ngƣơi điên cuồng sao dám

vô lễ, về ngay bảo cho chúa nhà ngƣơi biết rằng: Mau mau lại đây triều cống nƣớc ta,

đƣơng nằm nghe thấy lời của ta đến, phải ngồi dậy ngay! Đƣơng đứng phải bƣớc lại

ngay! Hẹn bảy ngày nữa phải đến! Nếu trái lệnh ta, khi chịu chết đừng có hối hận!

- Dạ muôn tâu Đại Vƣơng! Hạ thần xin phụng mạng!

Sứ Giả về nƣớc nhà! Tâu vua Kim Địa những lời nói trên, và trình bày thế lực cho nghe.

Kim Địa nghe xong núng thế, tự trách mình đã quá kiêu ngạo, rồi thảo thơ đi mời các vua

nƣớc nhỏ đến, để điyết kiến vua Chuyển Luân (Phật).

Song hãy còn ngờ sai sứ đến tâu rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Tiểu Vƣơng Kim Đại phái hạ thần đến đây, kêu với Bệ Hạ đƣa ba vạn sáu

ngàn vua các nƣớc đến yết kiến, hay đi một nữa, xin cho hạ thần đƣợc rõ?

178

- Đại Vƣơng đáp: "Cho để lại một nữa, tới đây một nữa?"

Sứ Giả về tâu rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Đại Vƣơng cho để lại một nữa, sang một nữa!

Vua Kim Địa sửa soạn binh nhung đầy đủ lƣơng thực, và đƣa một vạn tám ngàn vua

nƣớc nhỏ sang. Tới nơi thấy thành quách trang nghiêm thuần bằng thất bảo, quân đội

hùng mạnh, vua Chuyển Luân nhƣ ông trời Đế Thích, oai phong lẫm liệt, cảm giới không

khác thiên cung. Song lại nghĩ nhƣ vầy:

Đức tƣớng và cảnh giới tuy hơn, nhƣng lực lƣợng chƣa chắc đã hơn ta.

- Vua Chuyển Luân biết ý nghĩ của ông nhƣ vậy, sai quân lấy cung cho vua Kim Địa

giƣơng thử. Kim Địa cầm cung giƣơng không nổi.

Thấy giƣơng không nổi, vua Chuyển Luân cầm lấy cung giƣơng lên nhƣ bỡn, rồi Ngài

trao cho Kim Địa bắn thử, nhƣng bắn không nổi.

Vua Chuyển Luân cầm lấy cung, bắn tiếng kêu, làm chấn động ba ngàn thế giới, lại bắn

thêm một phát nữa, hóa ra năm mũi tên, các đầu tên đều tảo ra vô số quang minh, trên

đầu tia sáng đều có các hoa sen lớn, to nhƣ vành bánh xe, trên mỗi một hoa, đều có một

ông Chuyển Luân Vƣơng ngồi tòa thất bảo, ngọc nữ đông đủ. Những tia sáng của hoa

làm đoạt ánh sáng mặt trời, mặt trăng, trong ba ngàn cõi, hào quang ấy làm cho tất cả

chúng sinh trong năm thú đƣợc lợi ích.

Trên các cõi trời, những ngƣời đƣợc thấy ánh hào quang, và đƣợc nghe thuyết pháp, thân

tâm họ đều đƣợc thanh tịnh an vui! Rồi có ngƣời đắc quả thứ hai, hoặc thứ ba; cũng có

ngƣời phát tâm cầu đạo vô thƣợng chánh đẳng chánh giác, dự vào ngôi bất thoái.

Những chúng sinh ở đạo ngƣời đƣợc thấy hào quang, và nghe tiếng thuyết pháp, ai nấy

đều vui mừng! Sau có ngƣời đắc nhị quả hoặc tam quả, cũng có ngƣời phát tâm xuất gia,

và phát tâm cầu đạo vô thƣợng Bồ Đề, dự vào ngôi bất thoái.

Trong loài ngạ quỷ đƣợc thấy hào quang này và nghe tiếng thuyết pháp, đều tiêu hết

nghiệp, thân tâm an lạc, nhiệt não tiêu tan, phát sinh tâm tôn kính Đức Phật, họ đều đƣợc

giải thoát loài ngạ quỷ, sinh lên thiên đƣờng hoặc sinh cõi nhân gian.

Loài súc sinh đƣợc gặp ánh quang minh này, lòng tham dục, sân si tự nhiên tiêu diệt, sinh

lòng tôn kính Đức Phật, đều thoát khỏi loài súc sinh, hóa sinh về cõi ngƣời cõi trời.

Những ngƣời trong địa ngục, đƣợc gặp ánh quang minh này, kẻ rét đƣợc ấm áp, kẻ nóng

đƣợc mát mẻ, kẻ đau khổ đƣợc an lành, thân tâm vui sƣớng kính mến Phật, liền thoát

khoải địa ngục sinh về cõi ngƣời, cõi trời.

179

Đại Kiếp Tân Ninh và các ông vua thuộc xứ Kim Địa, thấy phép thần biến nhƣ vậy, vui

sƣớng, tôn kính, cảm phục, sợ hãi vua Chuyển Luân có thần biến và đức độ vô biên, ngay

lúc ấy tâm của các ông vua đều giũ hết mọi trần cấu Đắc Pháp Nhãn Tịnh.

Đức Phật thấy các ông đã chuyển tâm quy hƣớng, nên Ngài thu nhiếp thần lực, hiện lại

nguyên hình, các đệ tử vây quanh trƣớc sau.

Kim Địa và các ông vua thấy Phật, oai đức phi thƣờng thần thông hiển hách, sinh tâm

cung kính, cùng nhau quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con tuy làm nhân chúa, còn mê muội chịu ách luân hồi

sinh tử, muốn trút bỏ kiến thức hẹp hòi của chúng sinh, ràng buộc, cúi xin ngài từ bi cho

xuất gia học đạo!

Đức Phật khen ngợi! Và nói lên rằng:

- Thiện Lai Tỷ Khƣu!

Nói dứt lời râu tóc các ông đều rụng hết, áo Cà Sa thấy mặc tại mình, nghe Phật thuyết

pháp đƣợc hết lậu nghiệp thành ngôi La Hán.

Thấy thế, tôi (A Nan) tới trƣớc quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Vua Kim Địa, trƣớc tu hạnh gì, nay đƣợc làm nhân chúa, lại

đƣợc gặp Thế Tôn, đắc quả La Hán cúi xin nói cho chúng con, và chúng sinh đời vị lai

đƣợc rõ?

Phật dạy: - A Nan, tất cả chúng sinh do tạo, công đức lành đời trƣớc mà đƣợc hƣởng quả

báo tốt đời này. Đây cũng một thời quá khứ sau, Phật Ca Diếp nhập Niết Bàn, có một ông

Trƣởng giả, bỏ tiền ra xây tháp, làm chùa, và các phòng xá, cúng dàng chƣ Tăng, nào áo

mặc, thuốc thang giƣờng tòa, các món ăn, sau khi ông chết trải qua lâu năm, chùa tháp hƣ

hỏng và các món ăn cũng không còn nữa, nên các sƣ phải đi xứ khác. Con ông ta đi xuất

gia làm Tỷ Khƣu, trở về nhà thấy thế, ra khuyến hóa nhân dân, tu sửa chùa tháp, đặt các

giƣờng tòa, và các đồ ăn dùng cúng dàng chƣ Tăng đầy đủ, rồi phát nguyện rằng:

- Nguyện công đức này, đời mai sau cho con đƣợc phú quý tràng thọ, gặp Phật nghe pháp

và đắc đạo quả!

A Nan ông nên biết, con Trƣởng giả ở thời đó, chính là vua Kim Địa tên là Đại Kiếp Tân

Ninh, còn những ngƣời dân góp tiền của chúng dàng, nay là một vạn tám ngàn các ông

vua nƣớc nhỏ bây giờ.

Nghe Phật nói xong ai nấy vui vẻ! Phát tâm cầu đạo tu phúc, tuân theo lời vàng ngọc, tạ

lễ lui ra

180

---o0o---

Phẩm thứ ba mƣơi hai : TỶ KHƢU NI VI DIỆU

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Xá Vệ, tại tinh xá Kỳ Hoàn, sau khi

vua Ba Tƣ Nặc đã băng hà, Thái Tử Lƣu Ly chấp chính, bạo ngƣợc tham tàn, thả voi đạp

chết nhân dân vô kể.

Bấy giờ các con gái trong nhà quý phái, thấy thế chán đời, rủ nhau đi xuất gia tu đạo để

cầu giải tháot rất đông.

Nhân dân họ thấy các cô hoặc họ Thích, hoặc các nhà Hầu Tƣớc, là những dòng họ tôn

sang bỏ sự vinh hoa sung sƣớng, xuất gia tu đạo, cả thảy năm trăm ngƣời, nên họ rất tôn

kính, tranh nhau cúng dàng.

Một hôm các cô ấy bàn nhau nhƣ vầy:

- Chúng ta tuy đƣợc xuất gia, mang danh là Tỷ Khƣu Ni, song đối với Phật Pháp chƣa

hiểu biết gì; chƣa đƣợc uống Pháp Dƣợc, để tiêu những tập chƣớng Dâm, Nộ, Si từ đời

vô thuỷ. Bây giờ phải đến bà Thâu Lan Nan Đà Tỷ Khƣu Ni xin học hỏi, và để bà truyền

pháp Bát kính cho. Các cô cùng nhau đến làm lễ và thƣa rằng:

- Kính thƣa bà, chúng con không biết có phúc duyên gì, đƣợc hạnh phùng Tam Bảo xuất

gia tu đạo, làm Tỷ Khƣu Ni, song đối với giáo lý cao siêu của đức Phật chƣa hiểu biết gì,

hôm nay chúng con cả thảy năm trăm ngƣời, đến đây cầu xin bà từ bi thí Pháp Nhũ, cho

chúng con đƣợc ân triêm công đức!

Bà Thâu Lan Nan Đà nói:

- Các cô sinh trƣởng nơi tôn sang, tôn vinh phú quý, vinh hoa thiếu chi, đƣơng tầm tuổi

trẻ, xuất gia học đạo làm gì cho khổ một đời tƣơi trẻ! Thôi đem áo bát cho tôi, trở về lấy

chồng, hƣởng cuộc đời êm ấm nơi khuê các, cho khoái lạc, tội chi làm Tỷ Khƣu Ni ở nơi

chốn chùa chiền khô quạnh, chôn dìm cuộc đời nhƣ đống tro tàn lạnh lẽo!

Các cô nghe bà nói xong, lòng dạ hoang mang, sa nƣớc mắt tạ lễ lui ra. Trong khi đi bảo

nhau rằng:

- Chúng ta muốn thoát khỏi con đƣờng tình ái, ngu si, mê muội của thế gian, đến đây bà

đã không khuyên bảo lũ ta đƣợc gì, lại đem những lời lẽ lôi kéo chúng ta vào nơi hang

hầm miệng sói, trụy lạc đời đời. Vậy chị em ta đến bà Tỷ Khƣu Ni Vi Diệu, cầu bà tế độ.

Năm trăm cô đến chỗ bà Tỷ Khƣu Ni Vi Diệu, cúi đầu lễ sát đất thƣa rằng:

- Kính thƣa bà, chúng con ở tại tập tục mê muội, tuy đã đi xuất gia, nhƣng tâm ý vẫn còn

tham ái, lòng dục vẫn thƣờng phát khởi nhƣ lửa đốt, không cách gì ngăn cản nổi, xin bà

thuyết pháp để giải thoát cái tội căn ấy cho lũ chúng con!

181

Bà Tỷ Khƣu Ni Vi Diệu đáp rằng:

- Trong ba đời: Quá khứ, hiện tại, vị lai, các cô muốn hỏi gì?

- Dạ! Kính thƣa bà, đời quá khứ, và đời vị lai, còn viễn vọng, chúng con không dám hỏi,

xin hỏi bà: Cái tội thắt chặt của sự dâm dục đời hiện tại, nó xấu hay tốt, nó hay hay nó

dở, có kết quả gì cho mình không? Có lợi ích hay không có lợi cho tƣơng lai, xin bà giải

thích!

- Các cô muốn biết rõ hãy để ý nghe!

- Dạ chúng con xin chú ý nghe!

- Các cô nên biết! Tất cả trời ngƣời, cho đến vạn vật có hình thức trên vũ trụ này, loài nào

cũng do nghiệp ái dục mà sinh ra; Dâm dục ví một dám lửa cháy dữ dội nó có thể đốt tiêu

hủy núi rừng, cây, cỏ, gỗ, đá cho đến vũ trụ bao la, kẻ mắc phải dâm dục, cũng nhƣ bị

giặc vào phá nhà; kẻ đó sẽ đọa xuống tam đồ ác đạo, không có kỳ hẹn đƣợc ra.

Những ai luyến gia nghiệp, đó là tham sự sum họp ân yêu vui vầy! Vì nhân duyên ấy nên

sanh già bệnh chết, biệt ly, huyễn quan xúc não! Đƣơng yêu nhau bị ly biệt, thƣơng tiếc

khóc than! Luyến ái tổn hại đến tâm can ngất đi sống lại, tâm ý trói buộc nhƣ lao ngục.

Tôi vốn là một con nhà dòng Phạm Chí, cha tôi là một ngƣời đƣợc tôn quý nhất trong

nƣớc. Buổi đó ông Trƣởng giả dòng Phạm Chí, có ngƣời con trai xinh đẹp trí óc thông

minh. Thấy ta xinh đẹp lại dòng quý phái, nên ông nói với cha mẹ ta, cƣới ta về cho con

trai ông. Sau khi đã thành gia thất, vợ chồng ăn ở với nhau đƣợc một đứa con trai, đã lâu

ngày xa cha cách mẹ, lòng nhớ mong không tả xiết? Giữa lúc ta đang có mang, sợ sinh tử

vô thƣờng nên ta, xin phép chồng về nhà thăm cha mẹ; chồng ta ƣng thuận cho đi. Buổi

sáng ấy, hai vợ chồng ẵm con và mang đồ hành lý ra đi, đi chừng đƣợc nữa đƣờng trời

vừa sẩm tối, vợ chồng nằm nghỉ dƣới gốc cây to, không may lúc canh khuya ta đau bụng

sinh, huyết chảy ra lênh láng, các loài rắn độc, thấy mùi tanh tìm lại, cắn chết chồng ta!

Đƣơng lúc ngủ say! Ta gọi mãi không thấy trả lời. Trời vừa tảng sáng, cầm tay kéo dậy,

thấy lạnh buốt ngay đờ nhƣ cục gỗ, không còn tri giác, xem kỹ biết rằng rắn cắn, thƣơng

quá! Tời ơi! Khổ chi đến nỗi thế này! Khi đó hồn phách ta không biết bay đâu? Ngất đi

mê mết! Thằng nhỏ ngồi bên vừa gọi vừa khóc! Dần dần tỉnh dậy. Rồi ta cõng thằng nhỏ

trên vai, tay ẵm đứa con mới nở, vừa đi vừa khóc! Qua quãng đƣờng vắng, tới một con

sông lớn, nƣớc không sâu lắm, không có thuyền qua, ta phải để thằng nhỏ trên bờ, ẵm

đứa bé bơi qua sông, sang tới bờ đễ đứa bé bên này, lại ngồi sang đón thằng nhỏ, không

may, thằng nhỏ té xuống sông lúc nào mất, ta lại bơi sang bờ sông bên này, thì đứa bé

mới sinh đã bị hổ tha, chỉ thấy những giọt máu chảy ròng ròng trên mặt đất, ta buồn khổ

quá! Chết ngất đi hồi mới tỉnh lại. Thơ thẩn một mình bƣớc trên đƣờng đi, vừa đƣợc vài

dặm, gặp một ngƣời bạn thân của cha ta, ông hỏi rằng:

- Con đi đâu về? Sao bác coi con nhem nhuốc tiều tụy nhƣ vậy?

182

- Thƣa bác! Hôm qua vợ chồng nhà con ẵm cháu về thăm cha mẹ, đêm qua không may

chồng con bị rắn cắn chết, sáng hôm nay mất hai đứa cháu: Một đứa lăn xuống sông, một

đứa bị hổ tha, thực là đau khổ cho con quá!

- Ôi thế ƣ! Hôm qua nhà con bị phát hỏa, cha mẹ con, và cả nhà con đều bị chết hết rồi,

còn gì đau khổ hơn cho con nữa!

Nghe xong nhƣ sét đánh bên tai, ta ngã lăn ra đất, chết ngất đi hồi lâu mới tỉnh lại! Hết

khóc lại than, thực là một sự vô cùng thảm khốc! Ông ấy thƣơng ta đau khổ! Đƣa ta về

nhà nuôi nấng coi ta nhƣ con đẻ.

Qua thời gian lâu, ta dần dần nguôi cơn đau khổ, nơi đó có ngƣời con trai, cũng dòng

Phạm Chí, thấy ta xinh đẹp, cậy ngƣời mối lái, muốn cùng ta kết bạn trăm năm. Thôi

cũng liều nhắm mắt đƣa chân, thử xem cuộc thế xoay vần đến đâu? Ta cùng ngƣời ấy kết

duyên với nhau, thấm thoát đã có mang mãn tháng nọ ngày tới kỳ hoa nở, hôm đó giữa

lúc canh khuya, ta đau bụng sanh, thì chồng của ta đi ăn uống nhậu nhẹt, hay cờ bạc ở

đâu về, gõ cửa gọi, giữa giờ phút sanh cháu nhỏ, nên không ra mở cửa đƣợc, anh chàng

tức giận phá cửa vào, đánh đập liên hồi, ta kêu van và nói:

- Thƣa anh, em đƣơng đau bụnh sanh, chứ không phải lƣời hay khinh mà không ra mở

cửa cho anh! Kẻ vũ phu nổi giận giết tƣơi đứa con của ta mới sanh, rồi bắt ta phải ăn

sống đứa con ấy. Ta không chịu ăn, vì đánh đau quá! Nên ta nhắm mắt ăn liều, ăn xong tự

hối hận trong lòng: "Đời mình bạc phúc, gặp kẻ bất nhân". Sáng ngày hôm sau, bỏ nhà ấy

đi đến nƣớc Ba La Nại, ngồi ở ngoài thành, con trai ông Trƣởng giả tại đây mới chết vợ,

hàng ngày ra viếng mộ ở ngoài thành, thấy ta anh hỏi:

- Cô ở đâu tới, tại sao ngồi một mình ở đây?

Khi đó ta nói thật những chuyện nhƣ trên cho anh nghe, anh bảo ta rằng:

- Cô cùng tôi vào nơi quán uống nƣớc!

Khi ngồi chơi uống nƣớc chuyện trò vui vẻ, anh hỏi:

- Bây giờ có ngƣời muốn kết duyên cùng cô, vậy cô có đồng ý không?

- Thƣa anh, em thấy ngán lắm! Vui không đƣợc bao nhiêu, mà sự khổ đƣa lại dồn dập, kẻ

hiền lƣơng không gặp, gặp kẻ bất nhân, lại gây thêm phần đau khổ.

- Đời ở một mình sao?

- Em không ở một mình, nhƣng nếu gặp hiền nhân, có đạo đức có học vấn.

- Thôi cô ơi! Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, chính tôi con trai ông Trƣởng giả thành

này vừa mới chế vợ, thấy cô là ngƣời hiền đức, muốn làm bạn trăm năm cô nghĩ sao?

183

Ta thấy có vẻ tƣớng hiền hòa, lại dòng quý phái, nên đồng ý kết duyên cùng anh. Nhƣng

cũng không may cho ta, vợ chồng ăn ở với nhau chƣa đƣợc ba năm, anh mắc bệnh chết.

Luật ấy, "nếu vợ chết thì chồng đƣợc phép lấy vợ khác, nhƣng nếu chồng chết thì chôn

theo cả vợ". Nhƣ thế, ta cũng bị chôn luôn với chồng một huyệt! Nhƣng ta chƣa chết hẳn,

tối hôm đó tụi cƣớp đến đào mả để lấy những trang vật vàng bạc của ta, anh tƣớng cƣớp

thấy ta xinh đẹp bắt về làm vợ, anh giặc này chƣa đƣợc bao ngày, bị họ bắt đƣợc chém

mất đầu, bọn bộ hạ của anh cƣớp lấy xác mang về bắt ta đem chôn sống cùng anh giặc

một thể. Vừa đƣợc ba ngày các con hổ bới mả định ăn thịt, trời tang tảng sáng chúng thấy

ngƣời đi chợ đông, bỏ chạy, nhân thế ta dùn mả lên, ngồi than một mình rằng:

- Chẳng biết kiếp trƣớc ta làm tội gì, mà nay gặp nhiều tai nạn nhƣ vậy? Chết đi sống lại

mấy lần, làm thân nữ nhi thực là tội nghiệp. Xét rằng: Muôn vàn các bạn gái khác, chồng

con cũng chẳng qua dƣới ách nô lệ, của tâm hồn mê muội ngu si, không biết nhận thức

một hạnh trong sáng thanh cao, bƣớc lên con đƣờng chân chính, tìm hiểu chân lý, tu hành

cho thoát khỏi nơi phàm tục! Đó cũng chỉ vì nghiệp tham ái vô minh che tối, khi mới biế

nhận thức con ngƣời, đã ngăm ngăm trong đáy lòng toan tính những đƣờng duyên nợ,

chịu chết nơi sào huyệt của dục vọng cám dỗ, vì thế mới chìm đắm nơi biển cả sinh tử

luân hồi, ta sực nhớ rằng: Trƣớc đây có ngƣời họ Thích xuất gai tu đạo, nay đã thành

Phật, vậy đến đó để nƣơng thân cho thoát khổ. Đứng dậy bƣớc đi, dạ đói thân đau, đƣờng

xa nhiều hiểm trở, vừa đi vừa hỏi thăm, đến nơi rừng Kỳ Hoàn trời vừasẩm tối, xa xa

nhìn thấy đức Nhƣ Lai sáng rực nhƣ quả núi vàng, oai phong lẫm liệt, đầy vẻ từ bi, sung

sƣớng quá! Ta quỳ xuống một lòng thành kính hƣớng về Ngài, tha thiết ân cần cầu tế độ.

Ngài đến tận nơi, khi đó hình thể ta lõa lồ ngồi dƣới đất, thẹn hổ phải lấy tay che vú, Phật

sai Ngài A Nan đem cho ta tấm áo, ta tới trƣớc đức Thế Tôn cúi đầu lễ dƣới chân, và

trình bày những thống khổ vừa qua và xin xuất gia tu đạo.

Ngài sai ông A Nan đem ta giao cho bà Đại Ái Đạo dạy bảo, theo lời dạy bà thọ giới Tỷ

Khƣu, rồi bảo ta pháp "Tứ Đế" là Khổ, Tập, Diệt, Đạo, Vô Thƣờng, Vô Ngã.

Ta chăm chỉ tu hành chẳng bao lâu đã chúng đƣợc đạo quả, hiểu biết đời quá khứ, và đời

vị lai, coi thấy những tội ta đã tạo từ đời quá khứ, nên phải chịu ác báo không sai một tí

nào!

- Kính thƣa bà, đời quá khứ bà phạm tội gì, đời này bị quả báo nhƣ vậy? Xin bà nói cho

chúng con đƣợc rõ?

- Muốn biết các cô hãy để ý nghe!

- Dạ, chúng con xin chú ý nghe!

- Đời ấy cách đây đã quá lâu, thuở đó có ông Trƣởng giả nhà giàu, nhƣng không có con,

sau ông lấy một ngƣời vợ lẽ; vì có sắc đẹp nên ông mến lắm! Hai ngƣời với tình yêu

khắng khít, chẳng bao lâu sinh đƣợc đứa con trai; từ đó ông lại càng đằm thắm hơn xƣa,

thấy thế ngƣời vợ cả thầm nghĩ nhƣ vầy:

184

- Công ta khó nhọc, làm ăn chắt bóp nên đƣợc giàu có, sau này đứa con vợ lẽ nó hƣởng

tất, thật là luống công vô ích cho ta, chi bằng ta giết quách nó đi là xong!

Định kế nhƣ vậy rồi lấy một cái kim dài, chờ lúc vắng ngƣời, cấm ngập vào giữa đỉnh

đầu đứa bé. Cách ít ngày đứa trẻ ấy chết, vợ nhỏ thƣơng con khóc suốt ngày đêm không

ngớt tiếng! Rồi tự nghĩ rằng:

- Con ta không ốm không đau, tự nhiên mà chết, chắc rằng chị cả giết nó đây!

- Hỏi: - Con tôi có tội gì, mà chị nỡ giết nó?

Vợ lớn đáp: - Ô hay! Cô nói quàng nói điên nhƣ vậy? Tôi thề rằng nếu tôi giết con cô, thì

đời đời chồng tôi bị rắn cắn chết, có con thì bị nƣớc ngập hổ tha, lang bắt, còn thân tôi sẽ

bị chôn sống, và tôi tự ăn thịt con tôi, cha mẹ và cả nhà tôi sẽ vị chết cháy trong đống lửa.

Các cô nên biết ngƣời vợ lớn của ông Trƣởng giả thuở đó chính là tiền thân của ta; vì ta

không biết tin tội phúc báo ứng, ác tâm giết đứa con trai của ngƣời vợ bé ngày đó, rồi lại

tự thề nhƣ vậy, cho nên kiếp này chịu lấy quả báo đau khổ, cũng đúng nhƣ lời thề ngày

xƣa không khác.

- Kính thƣa bà! Bà tu công đức gì, kiếp này đƣợc gặp Phật và đắc đạo giải thoát, xin bà

nói cho chúng con đƣợc biết?

- Các cô để ý nghe: Đời quá khứ đã xa xƣa, ở nƣớc Ba La Nại có một quả núi lớn gọi là

Tiên Sơn, trong núi có nhiều những vị Bích Chi Phật, Thanh Văn và ngoại đạo thần tiên.

Khi đó có vị Duyên Giác vào thành khất thực bà Trƣởng giả thành ấy hoan hỷ cúng dàng,

Ngài dùng cơm xong bay lên hƣ không hiện ra các phép thần biến. Thấy thế bà Trƣởng

giả chắp tay cung kính, hƣớng lên Ngài mà khấn rằng:

- Kính lạy Đức Tôn Giả! Xin cho con đời sau cũng đƣợc đắc đạo nhƣ Ngài!

- Các cô nên biết: Bà Trƣởng Giả ngày đó, chính là tiền thân của ta, vì sự thành kính cúng

dàng vị Thánh Tăng, và phát nguyện nên đời nay đƣợc gặp Phật, đắc quả La Hán! Thân

ta bây giờ tuy đắc quả La Hán nhƣng thƣờng thƣờng bị đau nhói một cái từ đầu xuống

chân không khác chi cái kim đâm đau thấu tận xƣơng! Nhƣ thế đó, tội báo mặc dầu cho

lâu kiếp đến đâu cũng không thể xóa nhòa đƣợc.

Năm trăm Ni Cô nghe bà kể lại lịch kiếp tiền sinh nhƣ vậy, ai nấy trong lòng run sợ, tự

quan sát cái căn bản của dâm dục, cũng nhƣ một đám lửa cháy hừng, tâm tham dục mất

hẳn. Coi những nỗi đau khổ của thế gian, khác chi lao ngục, trần cấu tự nhiên tiêu hết,

tâm ý sáng tỏ, hiểu thấu đạo mầu. Bình tĩnh thâm tâm, nhập định Diệt Tận, thành ngôi La

Hán, khi xuất định thƣa với bà Vi Diệu rằng:

- Thƣa bà, chúng con bị triền miên với lòng dâm dục không gỡ nổi, hôm nay nhờ ơn bà

đã đƣợc giải thoát.

Phật khen bà Vi Diệu rằng:

185

- Quý hóa, bà Vi Diệu thuyết pháp lợi mình lợi ngƣời, chính là đệ tử của Tam thế chƣ

Phật!

Các cô, và đại chúng dự thính ai nấy đều hoan hỷ tạ lễ mà lui.

---o0o---

Phẩm thứ ba mƣơi ba : LÊ KỲ DI

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn cây của ông Cấp Cô

Độc và Thấi Tử Kỳ Đà. Tại bản triều vua Ba Tƣ Nặc có ông quan đại thần tên là Lê Kỳ

Di, nhà giàu, sinh đƣợc bảy ngƣời con trai; sáu cậu đã lập gia đình xong xuôi, còn cậu

thứ bảy chƣa có vợ, ông tự nghĩ:

Tuổi đã già yếu, còn đứa con trai út, nếu lập gia đình cho nó thì phải tìm nơi xứng đáng,

và con ngƣời xinh đẹp.

Một hôm có ngƣời bạn thân dòng Phạm Chí đến chơi, trong lúc chuyện trò vui vẻ! Ông

nói:

- Thƣa bác! Tôi còn thằng cháu trai út, muốn lấy vợ cho nó, nhƣng chƣa tìm đƣợc nơi đâu

xứng đáng. Bác từ trƣớc đến nay đi du lịch các nƣớc đã nhiều, vậy phiền bác nơi đâu con

nhà tử tế, có nết tinh khiết, hiền hậu hòa nhã, để bác giới thiệu cho cháu một ngƣời!

- Dạ! Việc chi chứ việc ấy, tôi có thể giúp đƣợc.

Qua thời gian sau, ông bạn thân này sang nƣớc Đặc Xoa Thị Lợi, gặp năm trăm đồng nữ

đi hái hoa. Ông theo sau để quan sát, tới một suối nƣớc chảy cô nào cô ấy đều tụt giày

dẹp lội qua, duy có một cô để cả giày lội theo, đi một lát tới con sông nhỏ, các cô kia đều

vén quần lội qua, nhƣng cô nói trên, không vén để cả quần lội theo, khi đi tới rừng cây,

các cô kia đều trèo lên cây hái hoa, bắt trái, cô này không trèo, đợi các cô kia xuống, xin

đƣợc rất nhiều, ông tới trƣớc hỏi cô kia rằng:

- Thƣa cô, tôi xin hỏi cô một vài điều có đƣợc không?

- Dạ, xin ông cứ hỏi, không sao!

- Vừa đây qua suối, các cô kia đều tụt giày dép lội qua riêng cô không tụt là có ý gì?

- Thƣa ông, sở dĩ giày dép, chính là để giữ cho cái chân, khỏi dẫm phải gai góc mảnh

sành, và các vật có thể làm hại chân; trên mặt đất, còn có thể trong thấy mà tránh, dƣới

nƣớc làm sao trông thấy, những gai góc độc trùng mà tránh, vì thế nên tôi không tụt!

Ông hỏi tiếp: - Qua sông, các cô kia đều vén quần lội, riêng cô để cả quần là ý nghĩa chi?

186

- Thƣa ông ngƣời con gái, phải có sự kín đáo nhiệm nhặt, lõa lồ thân thể, thô con mắt

bàng quang, và tự thẹn cho mình nên tôi không vén!

Ông hỏi tiếp: - Các cô kia đều trèo cây, tại sao cô không trèo?

- Thƣa ông leo cây sợ càng gãy, làm nguy hai cho mình, vì thế nên tôi không trèo?

Xin lỗi cô tên chi, cha mẹ cô thế nào!

- Thƣa ông tên tôi là Tỳ Xá Ly, mẹ tôi là em vua Ba Tƣ Nặc tên là Đàm Ma La Tiện.

Phạm tội trốn sang nƣớc này, làm bạn với ba tôi sinh ra tôi.

- Cha mẹ cô bình sinh cả chứ?

- Dạ, thƣa ông, cha mẹ cháu hãy còn bình sinh cả!

- Tôi muốn theo cô về thăm ông bà có đƣợc không?

- Dạ, thƣa ông đƣợc!

- Cô đƣa ông về tới nhà, rồi vào thƣa với cha rằng:

- Thƣa cha, có ngƣời Bà La Môn muốn vào thăm cha!

Ba cô bƣớc ra nhà khách, hai ngƣời gặp nhau, chuyện trò vui vẻ! Ông Bà La Môn thƣa

rằng:

- Thƣa ông, cô gái này là con ông phải không?

- Dạ, thƣa phải cháu ngoan lắm!

- Ông đã lập gia đình cho cháu chƣa?

- Dạ, chƣa có, cháu còn đi học!

- Thƣa ông, nƣớc Xá Vệ có quan Đại thần là Lê Kỳ Di ông có quen không à?

- Dạ, chính tôi quen ông ấy đã lâu.

- Thƣa ông, cậu con trai út của ông Lê Kỳ Di, ngƣời thông minh lắm muốn để xin cô gái

của ông cho cậu ấy, có đƣợc không ạ?

- Dạ, đƣợc lắm, tôi rất bằng lòng, là vì ông ấy với tôi là bạn thân, hơn nữa nhà ông ấy là

dòng quý phái, đôi bên đều xứng đôi cả.

- Dạ, xin ông tôi cáo lui.

187

Ông định về báo tin cho ông Lê Kỳ Di nhƣng lại gặp một ngƣời bạn thân về nƣớc Xá Vệ,

ông biên thơ gửi cho ông Lê Kỳ Di.

Đƣợc thơ rồi, ông Lê Kỳ Di sắm sửa lễ vật, và tiền bạc lên xe sang nƣớc Đặc Xoa Thị

Lợi, đến nơi ông sai ngƣời vào hỏi han các công việc trƣớc.

Ông Đàm Ma La Tiện tiếp đãi rất trịnh trọng. Lê Kỳ Di tới sau, chủ khách tƣơng kiến hai

họ vui vẻ! Hỏi han trao đổi ý kiến, thỏa thuận cuộc hôn thú của hai nhà, công việc đã

xong, họ trai đƣa cô dâu về nƣớc Xá Vệ. Khi bƣớc ra đi bà mẹ dặn cô rằng:

- Con về nhà chồng luôn phải mặc áo mới đẹp, ăn uống cho ngon lành, ngày nào cũng

phải soi gƣơng, chớ quên lời mẹ dặn!

- Dạ, lạy mẹ con xin vâng lời mẹ dăn không dám trái.

Ông Lê Kỳ Di nghe thấy bà dâu gia dặn con gái nhƣ vậy, tự hậu để tâm và thầm nghĩ

rằng:

- Nhân sinh nhất thế, khổ, vui, áo mặc, miếng ăn ngon đâu có nhất định, ngày nào cũng

soi gƣơng, thực là cả một sự vô lý.

Sau khi hai họ từ biệt bƣớc lên đƣờng, cô dâu cùng chàng rể, ngựa võng nghênh ngang,

ngƣời đông nhƣ hội, pháo nổ vang trời, cũng hình nhƣ một đám rƣớc thần. Nửa đƣờng tới

một nhà hàng có hiên mát mẻ, những ngƣời đi trƣớc đều vào nhà này nghĩ, cô dâu tới sau

thƣa với bố chồng rằng:

- Thƣa cha! Nhà này không nghỉ đƣợc, mau mau phải ra ngoài nghỉ!

Ông cũng phải theo ý cô ra nghỉ một nơi khác, cũng có số ngƣời không chịu đi, một lát có

đàn voi tới, cọ vào cột làm đổ nhà đè chết mấy ngƣời. Ông Lê Kỳ Di thầm nghĩ rằng:

- Mình thoát chết là nhờ con dâu!

Rồi lại bắt đầu đi, tới một bờ khe suối, mọi ngƣời dừng chân đứng nghỉ. Cô đến sau nói

rằng:

- Nghỉ ở đây không hay, phải lên ngàn cao kia mới đƣợc!

Khi đó mọi ngƣời đều phải theo lời cô, lên tới ngàn cao, chỉ trong chốc lát mây kéo đen,

sấm sét vang dội, mƣa nhƣ trút nƣớc xuống, chảy tràn ngập cả bờ khe suối ấy, ông Lê Kỳ

Di tự niệm rằng:

- Ta thoát chết hai lần là do con dâu cứu sống!

Lại bắt đầu đi, lúc về tới nhà, họ hàng thân quen kẻ xa ngƣời gần, tấp nập đến chào

mừng.

188

Hôm đó ông Lê Kỳ Di thiết đãi họ hàng ăn uống rất linh đình vui vẻ! Cuộc nghinh hôn

tới đây đã xong.

Một hôm ông Lê Kỳ Di họp gia đình lại nói rằng:

- Các con, bây giờ cha đã già yếu, việc gia đình cha không thể kham nổi, tất cả cơ nghiệp

tài sản này, kho tàng chìa khóa, con nào đảm đang nổi, cha sẽ giao phó cho?

Sáu cô dâu đều từ chối không dám nhận, cô Tỳ Xá Ly thứ bảy, đứng lên thƣa rằng:

- Thƣa cha các chị con không ai dám nhận, vậy con xin nhận để đỡ cha!

Ông Lê Kỳ Di vui vẻ giao phó cho cô tất cả công việc trong gia đình. Từ đó cô chăm chỉ

thức khuya dậy sớm, bảo ban thầy tớ các công việc rất chu đáo, tới bữa dâng cơm cha mẹ

ăn trƣớc, sau đến các anh các chị cháu trai cháu gái, rồi đến các gia nhân, phân phó công

việc đƣợc ổn thỏa, rồi cô mới đi ăn cơm, thƣờng thƣờng cứ nhƣ thế.

Ông thấy cô là một ngƣời trung kiên cẩn thận, khác hẳn những ngƣời thƣờng, và quái

sao? Không thấy cô theo lời mẹ dặn lúc bƣớc ra đi.

Ông hỏi: - Trƣớc khi con về làm dâu, mẹ con có dặn: Phải mặc áo mới đẹp, ăn thức ăn

ngon lành, và ngày nào cũng soi gƣơng, thế sao con không theo lời của mẹ con đã dặn?

Cô quỳ xuống thƣa rằng:

- Thƣa cha! Mẹ con dặn mặc áo mới đẹp nghĩa là: Áo mặc bao giờ cũng phải cho sạch sẽ,

lúc khách tới nhà quan chiêm cho khỏi thô con mắt. Dặn con ăn thức ăn ngon lành:

Không phải ăn những thứ thịt ngon béo, ý mẹ con dặn bao giờ cũng phải ăn sau, lúc đói

gặp thứ ngon cũng tốt cả. Còn soi gƣơng, là không phải gƣơng bằng đồng bằng kính, ý

nói phải dậy sớm bao phất trong nhà những giƣờng ghế cho sạch sẽ cẩn thận, chăn chiếu

mền mùng cho gọn gàng. Mẹ con dặn là ý nhƣ vậy!

- Ừ, hay lắm! Mẹ con là ngƣời có đức lớn, cha cũng phải kính phục.

Ông mừng thầm con dâu có tài, có đức, tinh thần minh mẫn, biệt đãi hơn trƣớc, từ đó

công việc trong gia đình ông cứ thản nhiên, không phải nghĩ tới.

Một hôm nhà vua cùng triều thần văn võ bá quan, đƣơng ngồi trên bảo điện để bàn việc

nƣớc, tự nhiên thấy những chùm lúa tám cánh rơi xuống sân rồng, họ nhìn lên trời thấy

một đàn chim nhạn bay qua, thấy thứ lúa quý, nhà vua giao cho mỗi ông quan một ít về

trồng.

Ông Lê Kỳ Di đem về giao cho cô Tỳ Xá Ly là con dâu thứ bảy, đặn rằng: - Lúa này nhà

vua giao cho đem về trồng, con hộ cha việc đó.

189

Sau một thời gian Vƣơng Phu Nhân mắc bệnh, các thầy lang chẩn mạch xong tâu với vua

rằng:

- Tâu Bệ Hạ, bệnh của phu nhân, phải dùng thứ lúa tám cánh ở bãi biển thì khỏi!

Nhà vua triệu các quan vào nói rằng:

- Trƣớc đây tôi có giao cho các ông thứ lúa tám cánh, đem về trồng, nay lúa đã chín

chƣa?

Các ông kia tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ! Vì không hợp thủy thổ, lúa có lên, nhƣng không kết

quả. Ông Lê Kỳ Di về nhà hỏi con dâu rằng:

- Con trồng lúa tám cánh có tốt không? Nhiều hột không? Nhà vua đƣơng cần làm thuốc

cho Hoàng Hậu!

- Thƣa cha mùa này con trồng đƣợc nhiều lúa, tốt lắm, nếu dùng làm thuốc thì cấp cho

toàn quốc cũng đủ!

- Con đem cho cha một ít vào dâng vua?

- Dạ, để con cho ngƣời xay giã cẩn thận đã.

Hôm sau ông đem gạo tám cánh vào dâng vua rồi tâu rằng:

- Tâu Bệ Hạ, tuân theo thánh chỉ, hạ thần trồng đƣợc rất nhiều, nay xin dâng Hoàng

Thƣợng một mớ gạo tám cánh đã làm cẩn thận!

- Tốt lắm, Khanh khéo tay trồng cấy!

Vua sai ngƣời đem gạo ấy nấu cơm.

Hoàng Hậu ăn xong thì khỏi bệnh.

Thời đó nƣớc Đặc Xoa Thị Lợi với nƣớc Xá Vệ có sự xích mích về việc thƣơng mãi, nên

thƣờng hay xảy ra cuộc xung đột giữa hai nƣớc.

Tuy thế nhƣng vua nƣớc Đặc Xoa Thị Lợi vẫn còn e dè, sợ nƣớc Xá Vệ có nhiều nhân

tài, nên nhà vua lập thế để thử xem có hay không thì biết.

Lần đầu sai ngƣời mang sang nƣớc Xá Vệ hai con ngựa cái, để xem có thể phân biệt đƣợc

con nào là mẹ: con nào là con? Vì hai con đều lớn bằng nhau.

Khi đó tất cả vua quan triều thần văn võ bá quan đều không thể phân biệt nổi, đâu là mẹ,

đâu là con.

190

Ông Lê Kỳ Di về nhà có vẻ buồn!

Cô dâu hỏi: - Thƣa cha, hôm nay cha vào triều có chuyện chi? Thấy cha không vui!

- Con ơi! Nƣớc Đặc Xoa Thị Lợi, cử ngƣời mang sang hai con ngựa cái, để xem con nào

là mẹ, con nào là con, tất cả triều thần văn võ bá quan đều không ai biết, nếu không giảng

nổi, họ sẽ đem quân sang đánh, vì thế nên cha buồn!

- Thƣa cha việc ấy không khó! Chỉ lấy một bó cỏ ngon, cho ăn, nếu thấy con nào ăn

thong thả và nhƣờng, là mẹ, con nào ăn dành và hốp tốp là con.

Cha nghe có lý, vào tâu vua nhƣ lời cô nói. Nhà vua sai ngƣời lấy cỏ cho ngựa ăn thử,

quả thấy nhƣ lời cô nói là đúng. Nhà vua kêu sứ thần đến chỉ vào con ngựa ăn chậm là

mẹ, con ăn bốp là con, Sứ thần chịu nhận là phải. Sau khi sứ ra về, nhà vua rất mừng!

Phong thƣởng tƣớc lộc cho ông Lê Kỳ Di rất nhiều.

Sứ thần về tới nƣớc nhà tâu vua đúng sự thật nhƣ trên. Nhà vua lại mang sang hai con

rắn, dài bằng nhau, lớn bằng nhau, đố biết con nào đực, con nào cái.

Tuân lệnh lần thứ hai, Sứ thần mang rắn sang hỏi vua Ba Tƣ Nặc, lần này từ vua đến

quan tịt mít, không ai giải đáp nổi.

Ông Lê Kỳ Di về nhà nói với con dâu rằng:

- Con ơi: Hôm nay nƣớc Đạc Xoa Thị Lợi, mang sang hai con rắn hỏi con nào đực, con

nào cái, tất cả vua quan trong triều không ai đoán quyết nổi, vậy con có cách gì biết, nói

cho cha rõ?

- Thƣa cha, việc ấy cũng không khó! Chỉ lấy một thƣớc lụa rất nhẵn, mềm, nhũn trải trên

một cái nong, bỏ nó vào rồi nhìn xem: con nào nằm im, con hay chạy thì biết: vì con cái

thuộc âm tính, thấy mát êm bụng, lòng dục phát động, nên nó nằm im; con đực thuộc

dƣơng tính (nóng động tính) thấy ngƣời thì sợ muốn tìm lối tẩu thoát nên chạy lung tung.

Ông nghe có lý, vào tâu vua nhƣ lời nói trên. Vua sai ngƣời lấy lụa làm đúng, quả nhiên

thấy rõ sự thực.

Một diệu kế này biết đúng, nên nhà vua sai ngƣời gọi Sứ đến bảo cho biết. Sứ thần phải

phục cái tài của nhà vua nhận xét đúng sự thật.

Sau khi Sứ thần ra về, nhà vua rất hài lòng và thƣởng cho ông Lê Kỳ Di rất nhiều vàng

bạc.

Sứ thần về tâu vua Đặc Xoa Thị Lợi sự nhận xét đúng của vua Ba Tƣ Nặc, nhà vua vẫn

còn chƣa tin hẳn, nên lại bắt sứ thần mang sang cây gỗ dài một trƣợng, gốc ngọn bằng

nhau nhẵn trơn không óc dấu, vết, đố biết gốc ngọn?

191

Sứ thần tuân mạng mang sang nƣớc Xá Vệ, lần này cũng không ai biết. Ông Lê Kỳ Di lại

về hỏi con dâu:

- Con ơi! Lần này nƣớc Đặc Xoa Thị Lợi mang sang một cây gỗ nhẵn trơn không có mấu

vết, đố biết gốc ngọn, trong triều không ai quyết đoán nổi, vậy con có cách gì nói cho cha

hay?

- Thƣa cha, việc ấy càng không khó, chỉ đem bỏ xuống sông thì biết: đầu nào chìm là

gốc; đầu nào nổi là ngọn; vì gốc bao giờ cũng nặng, nên chìm; ngọn bao giờ cũng nhẹ,

nên nổi.

Ông Lê Kỳ Di tâu vua nhƣ lời nói trên, vua sai đem ra sông bỏ, quả nhiên một đầu chìm,

và một đầu nổi, vua gọi Sứ ra nói rằng:

- Sứ thần ông nên biết: đầu chìm kia là gốc, đầu nổi là ngon.

Sứ thần nói: - Dạ Tâu Bệ Hạ, đúng nhƣ lời Ngài nói, hạ thần xin chịu!

Sứ thần về bản quốc tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Lần này vâng lệnh Bệ Hạ đƣa gỗ sang, họ đều nói đúng cả, nhƣ vậy biết

rằng nƣớc Xá Vệ có rất nhiều nhân tài, theo nhƣ hạ thần nhận thấy.

Nhà vua nghe nói cũng phải cảm phục, và thôi việc gây chiến với nƣớc Xá Vệ. Muốn để

hai nƣớc có tình thân mật, nên nhà vua nƣớc Đặc Xoa Thị Lợi sai ngƣời mang vàng bạc

và các của quý sang biếu vua Ba Tƣ Nặc rồi gởi lời nói:

- Chúng tôi đáng khen ngợi trong nƣớc của nhà vua, lắm hiền tài vậy từ nay nên gắng

công tu nghĩa hiếu, và dạy dân theo chánh giáo.

Khi đó vua Ba Tƣ Nặc triệu ông Lê Kỳ Di bào cung hỏi rằng:

- Các việc giải đáp vừa qua, tại sao Khanh biết?

- Tâu Bệ Hạ! Đó là con dâu của hạ thần, chứ tiểu thần đâu có trí tuệ siêu nhân, hơn các

hàng nam tử văn khoa nhà vua nghe nói rất quý kính, rồi tặng cho có chức "Đệ tam

muội".

Qua một thời gian nữa, cô Tỳ Xá Ly đẻ đƣợc ba mƣơi quả trứng, bửa ra đƣợc ba mƣơi

hai cậu con trai, cậu thứ nhất, đoan nghiêm đặc sắc, sau lớn tuổi, sức lực hùng mạnh vô

song, có thể đánh nổi ngàn ngƣời, cha mẹ rất yêu quý! Trong nƣớc ai cũng kính nể. Sau

cƣới vợ cho các cậu, nguyên những con gái các nhà hào hiền trong nƣớc.

Bà Tỳ Xá Ly vốn là ngƣời tín sùng ngôi Tam Bảo, thƣờng hay đi nghe Phật thuyết pháp.

Hôm ấy bà thỉnh Phật và chƣ Sƣ về cúng trai. Khi Phật dùng cơm xong thăng tòa thuyết

pháp, cả nhà ngƣời lớn ngƣời nhỏ đều đắc quả Tu Đà Hoàn, duy có cậu con út của bà, sự

192

hiểu biết kém, nên không đắc đạo quả gì. Cậu hãy còn có tính hung hăng, ngày ngày cỡi

voi trắng đi chơi, hôm đó đi qua một cái cầu gỗ lớn, giữa cầu con trai quan Phụ Tƣớng

ngồi trên xe, hai cậu tranh nhau: cậu nào cũng cậy ta là con nhà quan lớn, không chịu

tránh. Cậu con bà Tỳ Xá Ly nổi giận, trên mình voi nhảy xuống, đẩy đổ xe và con quan

con Phụ Tƣớng xuống hào lầy, thấy trƣợc cả thân thể, máu me chảy đầm đìa trở dậy vừa

đi vừa khóc, về nhà thƣa với cha rằng:

- Thƣa cha, con ứt của bà Tỳ Xá Ly vô cớ đẩy xe và con xuống hào; làm con bị đau đớn

nhƣ thế này!

Quan Phụ Tƣớng thấy con đau quá nổi giận nói:

- Nó sức lực khỏe mạnh, hơn nũa lại thân với nhà vua, thôi con đừng khóc nữa, để cha trả

thù cho!

Ông quan Phụ Tƣớng này mƣợn ngƣời làm ba mƣơi hai cái roi ngựa bằng thất bảo, trong

ruột roi, cắm một con dao nhọn, rồi ông mang đi tặng cho con trai bà Tỳ Xá Ly mỗi cậu

một cái.

Các cậu này còn ít tuổi, tính khí nông nổi, đƣợc roi vui mừng thƣờng mang roi đi chơi, vô

tâm, không hiểu cái thâm ý của quan Phụ Tƣớng.

Luật nƣớc cấm ngặt khi vào nhà vua không đƣợc đeo dao, nếu ai trái lệnh sẽ bị tội tử

hình.

Những con bà Tỳ Xá Ly ra vào nhà vua, là chuyện thƣờng, không ai đƣợc cấm đoán, vì

nhà vua rất yêu đãi đối với bà Tỳ Xá Ly.

Hôm đó quan Phụ Tƣớng vào tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ, ba mƣơi con bà Tỳ Xá Ly, khỏe mạnh lắm, một ngƣời có thể địch đƣợc

ngàn ngƣời, chúng đƣơng mƣu kế để hại nhà vua!

Nhà vua nghe ông nói, nhƣng cũng chƣa lấy gì làm tin; ông lại thƣa rằng:

- Tâu Bệ Hạ, việc này hạ thần quan sát có sự thật, và có bằng chứng lắm! Vì hạ thần thấy

mỗi cậu có một cái roi; trong roi đều có một con dao nhọn ở trong ruột!

Nhà vua liền sai ngƣời lấy roi xem, quả nhiên thấy con dao ở trong roi thực, chứng tỏ nhƣ

thế, nhà vua sai các lực sĩ, gọi ba mƣơi hai cậu vào trong cung, thu hết roi, rồi xử tử ngầm

không cho ai biết, chặt đầu ba mƣơi hai cậu bỏ vào hòm gỗ niêm phong cẩn thận, mang

lại cho bà Tỳ Xá Ly.

Giữa ngày hôm ấy, bà Tỳ Xá Ly mời Phật và chƣ Sƣ về nhà cúng trai, trong nhà đƣơng

nhộn nhịp; kẻ bƣng cơm ngƣời rót nƣớc tấp nập, bà thấy ngƣời nhà vua khiêng một cái

hòm đến, tự mừng thầm và nói rằng:

193

- Hôm nay có lẽ nhà vua cho ngƣời mang các món ăn tốt đến giúp ta cúng dàng hẳn!

Bà sai ngƣời mở xem.

Phật nói: - Hãy khoan! Để ta dùng cơm xong rồi sẽ mở!

Khi thụ trai xong, đức Phật gọi bà lên ngồi một bên Ngài nói rằng:

- Thân này vô thƣờng, nó chịu đựng những sự đau khổ! Rồi lại thành không, chính là

không có ta; kiếp sống rất nhiều nguy hiểm tai nạn, sợ hãi mà nó không tồn lập đƣợc bao

lâu; nó trói buộc bằng mọi sự phiền não, chua xót khó tả xiết, ân ái có ngày biệt ly!

Thƣơng luyến lẫn nhau, làm thân mình và thức tâm mệt nhọc, không ích gì cho đạo, ta

nói đây, chỉ riêng những ngƣời có trí tuệ, mới nhận thức đƣợc pháp thiết yếu này.

Nghe Phật nói xong bà tín ngộ, liền chứng đƣợc quả A Na Hàm, vui mừng chắp tay bạch

Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, con xin bốn đều nhƣ sau:

1. Con xin cúng dàng các vị Tỷ Khƣu bệnh, và các món ăn tùy theo bệnh.

2. Con xin cúng dàng các vị khán bệnh.

3. Các vị Tỷ Khƣu ở xa tới con xin cúng dàng trƣớc.

4. Các vị Tỷ Khƣu đi xa con xin cúng dàng lƣơng thực.

Lạy Đức Thế Tôn! Các vị bệnh hoạn vì không có thuốc tốt và món ăn ngon lành nên

bệnh lâu khỏi, hoặc khó chữa, hoặc nhân thế mà bị mạng chung. Các vị khám bệnh phải

trông nom bệnh nhân, nên không đi khất thực đƣợc, vì thế nên con xin cúng. Các vị ở nơi

xa mới tới, chƣa quen biết ai, đi khất thực gặp chó dữ hoặc gặp kẻ bất nhân làm thƣơng

tổn đến thân thể, hoặc sỉ nhục, vì thế nên con xin cúng dàng trƣớc. Các vị đi xa phải có

bè bạn, nếu không có lƣơng thực đem theo hoặc đi không kịp, đƣờng sá nguy hiểm, nhiều

độc thú, đi một mình, sợ mắc tai nạn, vì thế nên con xin cung cấp lƣơng thực.

Đức Thế Tôn thấy bà xin bốn việc ấy nên Ngài khen rằng:

- Quý hóa có tâm nhƣ thế công đức rất lớn, nhƣ thế cũng khác chi cúng Phật!

Nói xong đức Phật và chƣ sƣ trở về rừng Kỳ Hoàn.

Sau khi đức Phật đã về, bà sai ngƣời mở hòm xem nhà vua cho cái gì, trái lại thấy ba

mƣơi hai cái đầu lâu ngƣời, chính là con trai của bà. Vì bà đã hiểu biết đời là vô thƣờng,

và đắc quả A Na Hàm, tâm ái luyến thế gian đã đoạn hết, nên không có ảo não khóc than

gì mà chỉ nghĩ thoáng câu:

- Đau khổ thay! Thƣơng xót thay có sinh tất có tử; nổi chìm trong năm thú; khổ gì đến

nhƣ thế!

194

Bấy giờ ba mƣơi hai nhà vợ, nghe biết con rể chết về tay nhà vua, họ nói rằng:

- Nhà vua vô cớ giết oan ngƣời lƣơng thiện!

Lòng thƣơng con rể phẫn uất nổi lên cực độ! Họ đem quân đến vây kinh thành nhà vua để

báo thù.

Vua Ba Tƣ Nặc chạy sang với Phật, họ đuổi theo, sang vây rừng Kỳ Hoàn. Khi đó tôi (A

Nan) ra mời họ vào để hỏi nguyên ủy là câu chuyện gì.

Ba mƣơi hai ông bố vợ của con bà Tỳ Xá Ly vào lễ Phật xong lui về một bên, tôi quỳ

thẳng bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Ba mƣơi hai ngƣời con của bà Tỳ Xá Ly, đời quá khứ có tạo ác

gì với nhà vua không? Mà nay bị ông giết, cúi xin Ngài chỉ giáo cho chúng con đƣợc rõ?

Phật dạy: - Truyện oan trái tiền khiên này, về đời quá khứ, cách đây đã lâu lắm. Thuở bấy

giờ có ba mƣơi hai ngƣời chơi thân với nhau, một hôm đi bắt trộm đƣợc một trâu, để ăn

uống cùng nhau cho thỏa chí. Gần đấy có một bà lão nhà nghèo, lại không có con, nên

các anh này đƣa trâu để giết nhờ. Bà cũng vui vẻ cho giết, trong nhà bà có đủ củi đóm,

nồi nấu, dao, quạt, cho mƣợn. Lúc sắp giết, con trâu quỳ xuống nói rằng:

- Xin các anh tha tôi! Nếu các anh giết tôi đời sau tôi cũng không tha các anh đâu, dầu

cho các anh tới ngày đƣợc đạo giải thoát, tôi quyết định trả thù bằng đƣợc.

Mấy anh thấy trâu nói, nhƣng lòng bất nhân không nghe, xúm nhau lại vật trâu ra giết,

mổ, sả, xào xáo, chƣng kho, ăn uống no say. Bà lão hôm đó cũng đƣợc bữa no, rồi nói

rằng:

Nhờ các anh đƣợc bữa thịt nên thân, hết thèm thuồng.

A Nan ông nên biết: Con trâu thuở đó, nay là vua Ba Tƣ Nặc, các anh ăn trộm trâu, ngày

đó, nay là ba mƣơi hai ngƣời con của bà Tỳ Xá Ly. Bởi quả báo ấy nên trong năm trăm

đời thƣờng bị ông giết lại, cho đến ngày nay không thôi. Bà lão là ngƣời giúp đỡ và vui

mừng trong cuộc giết trâu, nên trong năm trăm đời phải làm mẹ những ngƣời này, mà

chịu lấy sự thống khổ chua xót ấy!

Nghe xong biết rõ câu chuyện oán báo của đôi bên, tôi lại hỏi Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Những ngƣời này có phúc gì đƣợc sinh vào nhà giàu sang và

thân thể khỏe mạnh, cúi xin Ngài chỉ bảo cho?

Phật dạy: - A Nan ông nên biết: Đây cũng là một đời quá khứ, thời đức Phật Ca Diếp, có

một bà lão biết tin kính ngôi Tam Bảo, nhà rất giàu một hôm bà lấy các thứ hƣơng hoa

với dầu để sơn tháp, đi nữa đƣờng gặp ba mƣơi hai cậu con trai, nhân dịp bà khuyên các

cậu ấy rằng:

195

- Các cậu đi đâu? Đây có một việc phúc đức lắm, hôm nay tôi đi sơn tháp Phật, nếu các

cậu sơn giúp tôi, thì đời đƣợc sức lực khỏe mạnh và đẹp đẽ!

- Thế ƣ cụ? Vâng cụ đã dạy, các cháu xin đi. Sơn xong các cậu ấy đều thƣa rằng:

- Thƣa cụ! Do cụ khuyên các cháu trồng phúc lành, xin đem công đức này, nguyện cho

cháu sinh nơi nào cũng đƣợc tôn vinh phú quý, và đời đời chúng cháu đƣợc làm con cụ;

cụ là mẹ chúng cháu, và đƣợc gặp Phật nghe pháp chóng đắc đạo quả!

Bà lão nói: - Quý hóa! Các cậu phát nguyện nhƣ thế! Nhờ công đức Tam Bảo gia hộ, sau

này thế nào chả đƣợc nhƣ nguyện!

A Nan ông nên biết: Bà lão thuở đó nay là bà Tỳ Xá Ly, ba mƣơi cậu con trai này đó, nay

làm con trai bà.

Khi đó những quan quân vây rừng Kỳ Hoàn, nghe Phật nói xong họ biết rằng đó là do sự

oan báo trả nợ của đôi bên, nên lòng căm giận của họ tự nhiên tiêu mất, rồi tự đến trƣớc

vua Ba Tƣ Nặc tạ lỗi.

Tới đây đức Thế Tôn, nhân vì bốn chúng đệ tử, nói rộng các thiện nghiệp nên tu, ác

nghiệp nên bỏ, và giảng giải rõ ràng pháp Tứ Diệu Đế.

Đức Phật thuyết xong, tất cả mọi ngƣời ai nấy đều vui mừng, tạ lễ lui ra

---o0o---

Phẩm thứ ba mƣơi tƣ :THIẾT ĐẦU LA KIỆN NINH

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Thế Tôn ở nƣớc La Duyệt Kỳ, tại vƣờn Trúc. Khi

đó tôi mặc áo chỉnh tề, tới trƣớc quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Nhóm ông Kiều Trần Nhƣ đời trƣớc có nhân gì tốt với Ngài,

trống Pháp bắt đầu kêu, bọn ông đƣợc nghe trƣớc, nƣớc Cam Lồ đƣợc uống trƣớc, cúi xin

nói rõ cho chúng con và chúng sinh đời sau đƣợc biết nguyên do?

Phật dạy: - A Nan ông nên biết: năm ngƣời này, đời xƣa ăn thịt của ta trƣớc tiên, nên

đƣợc lành mạnh, qua lúc đói khổ, vì nhân duyên ấy, nên đời nay đƣợc nghe pháp của ta

trƣớc, và đƣợc giải thoát đầu tiên!

Tôi lại thƣa rằng: Kính lạy Ngài! Đời trƣớc bọn ông ấy ăn thịt của ta trƣớc tiên, nên đƣợc

lành mạnh, qua lúc đói khổ, vì nhân duyên ấy, nên đời nay đƣợc nghe pháp của ta trƣớc,

và đƣợc giải thoát đầu tiên!

196

Tôi lại thƣa rằng: Kính lạy Ngài! Đời trƣớc bọn ông ấy ăn thịt Ngài, câu chuyện đó tại

nhân duyên sao! Cúi xin Ngài dạy bảo cho chúng con đƣợc biết?

Phật dạy: A Nan ông nên biết: Từ khi đó tới nay đã lâu lắm, có tới vô lƣợng vô kiếp A

Tăng Kỳ, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua nƣớc lớn, tên là Thiết Đầu La

Kiện Ninh, thống trị tám vạn bốn ngàn nƣớc nhỏ, sáu muôn núi sông, tám mƣơi ức tụ lạc,

hai muôn phu nhân thể nữ. Nhà vua rất có từ bi, luôn luôn thƣơng dân chăm làm những

việc lợi ích cho quốc gia xã hội, ít có sự lợi ích cho riêng mình, gia đình mình, nên họ

yêu quí ông nhƣ một ngƣời cha lành.

Thời ấy gặp hỏa tinh xuất hiện, các nhà thiên văn học tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Điềm bỏa tinh xuất hiện là triệu chứng đại hạn, có lẽ kéo dài mƣời hai năm.

Vậy Bệ Hạ nên làm thế nào cho dân tránh khỏi sự chết đói?

Nghe lời các nhà thiên văn nói thế, nhà vua lo buồn quá! Đến nỗi ngày quên ăn, đêm

quên ngủ! Nhƣ thế thì nhân dân sống sao? Quốc gia sẽ bị điêu đứng.

Liền triệu tập tất cả văn võ bá quan để cứu xét về việc này:

- Bây giờ các ông tính sao? Có cách gì làm mƣa đƣợc, hay có biện pháp gì cho dân qua

lúc hạn hán này mà sống đƣợc.

Các quan tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Bây giờ thông cáo cho các nƣớc tính số dân hiện có bao nhiêu, và tính xem

trong mƣời hai năm mỗi ngƣời ăn hết bao nhiêu?

Xong cuộc hội nghi này, theo sắc lệnh tính nhân khẩu và thóc biết rằng mỗi ngƣời dân,

chỉ đƣợc một thăng gạo. Vì thế nên bị chết đói rất nhiều.

Nhà vua thƣơng dân ngày đêm không ngớt nƣớc mắt! Riêng mình đƣợc an vui! Nhìn thấy

nhân dân đau khổ, không nỡ lòng nhƣ vậy. Nhân lúc phu nhân thể nữ, Thái Tử đi du

ngoạn nơi viên quán, nhà vua cúi đầu lễ bốn phƣơng khấn rằng:

- Kính lạy thập phƣơng tam thế chƣ Phật! Hiện nay nhân dân bị chết đói rất nhiều, con

xin bỏ thân này, nguyện làm một con cá lớn, để cung cấp thịt cho dân ăn qua lúc đói

khát!

Khấn xong trèo lên cây đâm đầu xuống đất mà chết! Thần thức của ông hóa làm con cá

lớn, mình dài năm trăm do tuần.

Khi đó có năm ngƣời thợ mộc, vác búa ra bờ sông đốn củi. Con cá nhìn thấy bảo họ rằng:

197

- Lũ các ông có đói thì lấy thịt tôi mà ăn, ăn no và cho đem về, sau này tôi thành Phật, tôi

sẽ lấy pháp thực cứu thoát cho bọn các ông trƣớc, và gọi nhân dân ra lấy thịt của tôi về

mà ăn.

Nghe cá nói, năm ngƣời vui mừng quá! Đƣơng đói, vác búa ra bổ lấy một tảng lớn đem

củi đốt lửa thui ăn; ăn no, lại mang về, mách bảo mọi ngƣời lấy thịt cá.

Họ ồ ạt tranh nhau, kẻ vác búa, ngƣời cầm dao, kẻ cầm rổ, ngƣời mang thúng ra bổ xa lấy

thịt, vì thế nên nhân dân hết nạn chết đói. Khi lấy hết một nửa mình bên hữu, cá xoay lại

mình bên tả, cho lấy; lấy hết mình bên tả thì mình bên hữu đã mọc đầy thịt! Cứ nhƣ thế

hết bên nọ lại chuyển sang bên kia, tất cả nhân dân, Châu Diêm Phù Đề tâm từ bi, sau khi

chết đƣợc sinh lên Trời.

Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:

- A Nan, ông nên biết vua Thiết Đầu La Kiền Ninh thuở đó, chính là tiền thân ta đấy!

Năm ngƣời thợ mộc đƣợc ăn thịt cá đầu tiên, nay là nhóm ông Kiều Trần Nhƣ năm

ngƣời; các nhân dân lúc đó, nay là tám vạn chƣ thiên, và các đệ tử đƣợc độ.

Lúc đó bọn ông đƣợc ăn thịt ta mà sống, vì thế nay ta bắt đầu thuyết pháp bọn ông đƣợc

nghe trƣớc, ta chỉ lấy một chút thịt của pháp thân, để trừ khỏi sự đói khát tam độc của họ

ngày đó.

Khi đó tôi và tất cả hàng đệ tử nghe Phật nói xong, ai nấy đều tôn kính lòng từ bi bố thí

của Ngài đã thực hành đƣợc, cúi đầu lễ tạ lui ra

---o0o---

Phẩm thứ ba mƣơi lăm: A DU CA

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Thế Tôn ở nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn Cấp Cô Độc cây

của Kỳ Đà.

Một buổi sớm ấy đức Phật và tôi vào thành khất thực, gặp lũ trẻ con, đƣơng nô nghịch đất

giữa đƣờng, nó đắp một cái thành, có đủ nhà cửa kho tàng thóc lúa bằng đất. Một đứa nó

nhìn thấy Phật có hào quang sáng, tự phát tâm cung kính, vui mừng! Khi Phật đi tới nơi,

nó chắp tay vái, và dâng một mẩu đất cúng dàng.

Phật cầm lấy giao cho tôi, và dặn tôi mang về bôi trên thềm nhà chỗ Ngài ngủ. Khi trở về

rừng Kỳ Hoàn, tôi đem đất làm theo lời Ngài dạy. Ngài bảo rằng:

- A Nan vừa rồi đứa nhỏ hoan hỷ cúng đất công đức ấy sau khi ta vào Niết Bàn, khoảng

độ trăm năm; nó sẽ đƣợc làm vua tên là A Du Ca còn các trẻ nhỏ đồng bạn, đƣợc làm

quan đại thần cai trị tất cả các nƣớc Châu Diêm Phù Đề; làm hƣng long cho ngôi Tam

198

Bảo phân phát Xá Lợi, xây tám vạn bốn ngàn ngọn tháp, khắp Châu Diêm Phù Đề cúng

dàng ta.

Tôi vui mừng bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Đời quá khứ Ngài tu công đức gì, mà đƣợc phú báu nhiều tháp

nhƣ thế? Cúi xin chỉ bảo cho chúng con đƣợc rõ?

- Phật dạy: - A Nan ông muốn biết hãy nghe cho kỹ ta sẽ nói cho hay!

- Dạ, lạy đức Thế Tôn con xin chú ý nghe!

- A Nan, thuở đời quá khứ đã xa xƣa, có một ông vua nƣớc lớn tên là Ba Tắc Kỳ, cai trị

tám vạn bốn ngàn nƣớc nhỏ, thời đó có đức Phật tên là Phất Sa ra đời. Nhà vua và nhân

dân tôn sùng đạo Phật, thƣờng ngày dâng lên bốn món cúng dàng thức ăn uống, áo mặc,

giƣờng tòa, thuốc thang rất trịnh trọng. Nhà vua nghĩ thầm nhƣ vầy:

- Đức Phật là phúc điền cõi nhân gian thiên thƣợng, ai trồng nhân lành gì đƣợc kết quả

ấy, nhân dân nƣớc ta thƣờng đƣợc thấy Phật lễ Phật; cúng dàng Phật, còn các nƣớc nhỏ ở

xa xôi, nhân dân không biết nƣơng đâu tu phúc, vậy ta hãy thuê ngƣời vẽ hình tƣợng

Phật, ban phát cho các nƣớc để cúng dàng cầu phƣớc.

Nghĩ thế rồi gọi họa sĩ đến chốn Phật, nhìn vẽ cho đúng tƣớng của Ngài. Song họ vẽ mãi

không thành. Sau đức Phật Phất Sa, Ngài sẽ tự vẽ lấy một kiểu để cho họ họa lại.

Các họa sĩ cứ thế phóng ra đƣợc tám vạn bốn ngàn bức rất đẹp, cũng giống nhƣ bức tranh

Ngài vẽ.

Vua Ba Tắc Kỳ đem tranh ấy ban cho mỗi nƣớc một bức, và truyền lệnh cho nhân dân

các nƣớc đem hƣơng hoa âm nhạc nghinh thỉnh rƣớc về.

Vua quan nhân dân các nƣớc, tuy đƣợc bức tranh, nhƣng lòng tôn kính cúng dàng nhƣ

thấy đức Phật hiện tại không khác.

- A Nan ông nên biết: Vua Ba Tắc Kỳ thuở đó chính là tiền thân của ta đấy, do thời đó

thuê một thợ vẽ tám vạn bốn ngàn hình tƣợng đức Phật Phất Sa, ban phát cho nhân dân

các nƣớc cúng dàng lễ lạy. Bởi công đức ấy đời đời đƣợc làm Đế Chúa trong cõi nhân

thiên, sinh xứ nào thân thể cũng đƣợc đẹp đẽ tốt tƣơi, đủ ba mƣơi hai tƣớng tốt và tám

mƣơi vẻ đẹp, đến nay thành Phật cũng do một trong công đức ấy; và sau khi vào Niết Bàn

đƣợc quả báo tám vạn bốn ngàn tháp.

Tôi và tất cả mọi ngƣời nghe Phật nói xong, ai nấy đều vui vẻ phát tâm tu phúc cúng

dàng, cúi đầu tạ lễ lui ra

199

---o0o---

Phẩm thứ ba mƣơi sáu : BẢY LỌ VÀNG

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn Cấp Cô Độc, cây của

Thái Tử Kỳ Đà.

Khóa an cƣ năm ấy, đức Phật cho các vị Tỳ Khƣu đƣợc tùy ý đi các nơi kết tập.

Khi hết hạn, các vị đều về thăm Phật và nhận chịu lời dạy bảo của Ngài. Phật và các vị

trong chín tuần xa cách, hôm nay về nơi Ngài đông đảo Ngài vui vẻ! Với lòng từ bi cất

cánh tay ngàn vòng xoáy, xoa đầu các vị rồi hỏi:

- Các ngƣời ở xa, sự an cƣ có đƣợc yên không? Ăn uống có đầy đủ không? Ít bệnh ít não

không?

- Dạ, lạy đức Thế Tôn! Nhờ công đức Thế Tôn, năm nay đƣợc an cƣ yên ổn! Mọi điều

kiện đều đƣợc đầy đủ. Sự giáo hóa dễ dàng, chúng sinh vui vẻ!

Công đức của Phật nhƣ trời cao! Nhƣ biển cả! Khắp nhân gian thiên thƣợng ai bì kịp,

hôm nay thấy Ngài tuy hỏi han các vị, nhƣng có một vẻ khiêm kính, khác mọi lúc, chắc

có một thâm ý gì khác, nên tôi tới trƣớc quỳ thẳng chắp tay bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài xuất thế là một việc rất hiếm có, công đức và trí tuệ, rộng

nhƣ hƣ không, lớn nhƣ pháp giới. Hôm nay Ngài hạ ý hỏi han các vị Tỳ Khƣu một cách

khiêm kính. Không rõ lời nói khiêm kính ấy là gần hay xa, cúi đầu chỉ bảo cho chúng con

đƣợc rõ?

Phật dạy: - A Nan, muốn biết hãy để ý nghe, tôi sẽ vì ông mà nói!

- Dạ lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe!

- A Nan, câu chuyện này từ đời quá khứ, đã lâu lắm, không thể tính đƣợc, cũng Châu

Diêm Phù Đề này, có một nƣớc lớn tên là Ba La Nại, có một ngƣời chăm làm giàu, đƣợc

đồng nào chỉ mua vàng cất kỹ, không dám ăn uống may sắm dần dần đƣợc một lọ vàng

đem chôn, cứ nhƣ thế chăm chỉ làm ăn cực khổ đã lâu năm không dám tiêu xài, và giúp

đỡ cha mẹ anh em, sau đƣợc sáu lọ nữa cũng đem chôn giấu hết.

Qua thời gian chẳng may bị bệnh chết mất, vì tiếc vàng nên phải đọa làm thân con rắn

độc, ở ngay nhà mình, để coi bảy lọ vàng. Trải qua lâu năm nhà ấy bị mục nát hƣ hỏng,

con rắn ấy cũng chết: Bởi linh hồn rắn còn tham tiếc vàng, nên bị đọa làm thân rắn một

lần nữa, chừng vài muôn năm, quanh quẩn coi giữ, trên đống đất chôn vàng; coi giữ mãi,

thấy không có ích gì, sinh lòng chán ghét, thầm nghĩ nhƣ vầy:

- Ta vì tham tiếc vàng nên phải chịu thân thể xấu ác, vậy đem số vàng này cúng dàng, để

cầu cho ta đời đời đƣợc nhiều phƣớc tốt lành trên cõi nhân, thiên.

200

Nghĩ xong bò tới bên lề đƣờng lẩn thân trong đám cỏ, chợt thấy một ngƣời đi qua, lớn

tiếng gọi: Ngƣời ấy nghe tiếng gọi đứng lại nhìn xung quanh không thấy ai, lại bắt đầu đi,

con rắn liền bò ra giữa đƣờng gọi rằng:

- Này bác kia ơi! Bác lại gần đây tôi nhờ bác việc này!

Đáp: - Ngƣơi độc ác nhƣ vậy! Gọi ta làm chi, lại gần để hại ta hay sao?

- Phải, tôi ác nhƣ thế này, nếu không lại tôi sẽ tác hại đấy!

Ngƣời đó tuy sợ nhƣng cũng phải đến gần.

Rắn nói: - Nhà tôi có lọ vàng, muốn nhờ bác đem đi cúng dàng cầu phƣớc, bác có thể hộ

tôi đƣợc không? Nếu không hộ, tôi sẽ cắn chết!

- Vâng, tôi xin giúp, không sao!

Rắn dẫn ông này về đống đất chôn vàng, bảo ông bới lên một lọ rồi nói rằng:

- Bác mang vàng này đến chùa cúng dàng, và lấy ra một ít, nhờ bác bán lấy tiền, mua gạo

và các món ăn, hoa quả làm cơm chay cúng sƣ Tăng, định ngày nào cúng thì mang một

cái gậy đến đây khiêng tôi đến chùa!

Ngƣời ấy mang vàng đến chùa đƣa cho ông Tăng Duy Na, và nói lý do nhƣ trên cho ông

nghe.

Ông Duy Na cƣời nói: - Rắn độc sao lại biết cúng dàng nhƣ vậy? Muốn cúng tôi sẽ định

ngày cho!

- Thƣa Ngài hôm nào ngài cho biết trƣớc để sửa soạn?

- Ngày mƣời rằm tới, là ngày trai, cũng là ngày sám hối, cúng ngày đó công đức vô

lƣợng!

- Dạ, xin phép Ngài tôi về để thu xếp công việc!

Tới ngày nói trên, ông mang một cái gậy đến, rắn thấy ông vui vẻ hỏi han? Rồi quấn

mình vào cây gậy phủ cái chăn chiên lên trên cho ngƣời ta khỏi nhìn thấy, đi đƣờng gặp

ngƣời hỏi:

- Ông khiêng cái gì đẹp thế?

Ông lặng yên không trả lời, họ lại hỏi:

- Ông khiêng gì đẹp thế?

201

Họ hỏi đến ba lần, ông vẫn làm thinh không trả lời. Rằn thấy ông không trả lời, giận quá!

Nghĩ nhƣ vầy:

- Anh này dở quá, ngƣời ta trịnh trọng hỏi đến ba lần, mà không nói, thực là ngu si quá!

Nghĩ nhƣ thế thì độc tâm lại càng bộc phát, định nhả độc phun chết ông. Xong lại thầm

nghĩ:

- Ngƣời này vì ta làm phƣớc, ơn đó chƣa trả, vậy ta nên nhẫn đi.

Một lát đi tới chỗ đất không đồng vắng, rắn tự nói rằng:

- Bác để tôi xuống đây!

Vừa để xuống, rắn mắng rằng:

- Con ngƣời ta có mồm để nói để ăn, anh có mồm để làm gì? Mà ngƣời ta hỏi đến ba lần

không nói? Anh ngu si quá!

Ông nghe rắn mắng, nhƣng tâm không có giận, tự hối hận một vẻ khiêm tốn và xin lỗi.

Rắn lại dặn rằng:

- Từ đây trở đi, anh không đƣợc thế nữa, ai hỏi phải nói đàng hoàng.

- Dạ từ nay tôi xin thọ giáo, không dám nhƣ trƣớc nữa!

Khi đến chùa để rắn trƣớc giảng đƣờng, vừa đúng thời trai chƣ Tăng, ông đứng ở lối kinh

hành.

Rắn sai ông dâng hƣơng cúng sƣ Tăng; rắn nhìn ông dâng hƣơng, bằng cặp mắt thành

kính tín ngƣỡng, không hề chớp. Khi Tăng chúng đi nhiễu quanh tháp. Rắn sai ông dâng

nƣớc, và giƣơng đôi mắt cung kính quan sát!

Chƣ Tăng dùng cơm xong thuyết pháp cho nghe nhƣ sau:

- Bố thí cúng dàng đƣợc phƣớc báu giàu sang, thân hình khỏe mạnh.

Giữ giới đƣợc sinh nhân, thiên, hƣởng phúc tốt lành. Thấy Phật và sƣ Tăng hoan hỷ

chiêm bái thì đƣợc thân tƣớng đoan nghiêm tƣơi đẹp. Keo sẻn tích trữ, không chịu bố thí,

thì đọa làm loài quỷ đói. Tâm tham độc sân si, bị loài thú ác độc trùng, trăn, rắn.

Rắn nghe xong vui vẻ thƣa rằng:

- Kính thƣa Đại Đức! Mời Ngài đến chỗ con ở, hãy còn sáu lọ đem về chùa dâng lên Tam

Bảo, làm lễ cầu nguyện, hƣớng phúc cho rắn, nhân sự cầu nguyện ấy và phƣớc cúng

dàng, rắn chết đƣợc lên cõi trời Đao Lợi.

202

Tới đây Phật thuật lại rằng:

- A Nan, ông nên biết: Ngƣời khiêng rắn ấy há phải ai đâu; chính là tiền thân của ta đấy!

Rắn độc thuở đó; nay là ông Xá Lợi Phất.

Ngày ấy ta bị rắn mắng trách còn tự thẹn hổ, và sinh lòng khiêm hạ, kông những thế, ta

đối với tất cả muôn loài, đều coi bình đẳng, cho đến nay không thoái chuyển.

Khi đó tôi và các vị Tỳ Khƣu, nghe Phật nói xong, ai nấy đều kính phục, tâm bình đẳng

khiêm nhƣợng của ngƣời, một lòng lễ kính, bái tạ lui ra

---o0o---

Phẩm thứ ba mƣơi bảy : SAI MA

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc La Duyệt Kỳ tại Tinh Xá rừng Trúc,

với vô số đệ tử ở đó.

Bấy giờ có một ngƣời dòng Bà La Môn, nhà nghèo, tuy có chăm làm nhƣng cũng không

đủ ăn, đủ mặc, anh nghèo ấy hỏi ngƣời ta rằng:

- Ở thế gian làm những hạnh gì đƣợc phúc báu hiện tại?

Có ngƣời mách bảo rằng:

- Anh không biết ƣ? Hiện nay Đức Phật xuất thế độ sinh, làm lợi ích cho tất cả muôn loài.

Ngài có bốn vị tôn đệ tử là: MA HA CA DIẾP, MỤC KIỀN LIÊN, XÁ LỢI PHẬT, A

NA LUẬT. Bốn vị Hiền Sĩ này, hay thƣơng những ngƣời nghèo đói, và tác phúc cho

những chúng sinh đau khổ.

Nếu ai chí tâm tin kính cúng dàng những vị ấy, thì đời hiện tại này, muốn cầu gì cũng

đƣợc toại nguyện.

Anh chàng Bà La Môn nghe mọi ngƣời đều nói nhƣ vậy, rất vui mừng! Tự đi làm thuê

đƣợc món tiền nhỏ đem về mua sắm các món ăn, sửa soạn trai nghi trịnh trọng mời các vị

Hiền Thánh Tăng đến nhà cúng dàng với lòng thành kính, thiết tha cầu phúc báu hiện tại.

Vợ anh tên là Sai Ma (Tàu dịch: An Ôn).

Các vị tôn đệ tử tới nhà dùng cơm xong, thuyết pháp cho vợ chồng anh nghe nhƣ sau:

- Tội phúc, nhƣ bóng theo hình, nhƣ vang ứng tiếng, trồng nhân gì sẽ kết quả ấy. Muốn

cho tội chƣớng tiêu trừ, phúc đức lớn lao, phải biết tôn kính ngôi Tam Bảo, thọ trì Tam

Quy, Ngũ Giới; Bát Quan Trai giới, bố thí, cúng dàng, thì đời hiện tại, hay tƣơng lai

muốn cầu gì cũng đƣợc toại nguyện.

203

Vợ chồng cúi đầu lễ kính, xin thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới và Bát Quan Trai giới, truyền

giới xong các vị trở về Tinh Xá.

Bấy giờ vua Bình Sa vào rừng trở về, gặp một ngƣời phạm tội bị trói treo trên đầu cột

dựng bên đƣờng.

Ngƣời có tội ấy xin vua món ăn, nhà vua nhận lời cho, nhƣng về thành quên mất, chợt

nhớ ra thì trời đã tối; nhà vua sai ngƣời hầu hạ trong Hoàng cung mang cơm cho tội nhân,

nhƣng không ai dám đi, họ thƣa với vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ, giờ đã tối khuya, mãnh thú; ác quỷ rất nhiều, chúng tôi thà chết ở đây chứ

không dám đi.

Nhà vua hết sức thƣơng ngƣời đó đói khổ, sai ngƣời ra ngoài thành báo cáo rằng:

- Đêm nay nếu ai đem món ăn cho ngƣời có tội ở nơi mổ, thì nhà vua thƣởng cho ngàn

lạng vàng!

Không ai dám đi, Sai Ma thƣờng nghe họ nói rằng:

- Nếu ai thọ phép Bát Quan Trai giới, thì ma quỷ, ác thú không dám làm hại!

Mạnh dạn với một lòng tin vững chắc, đến xin vua đi. Khi đi, nhà vua dặn: - Nếu đƣợc

hoàn toàn trở về, ta sẽ cho ngàn lạng vàng.

Ra đi, Sai Ma chí thành, chí kính trì phép Bát Quan Trai, ra khỏi thành đã xa xa gặp một

con quỷ La Sát tên là Lam Bà, vừa lúc ấy nó mới sinh đƣợc năm trăm quỷ con, đƣơng lúc

đói thấy Sai Ma muốn bắt ăn. Nhƣng Sai Ma trì trai, quỷ trông thấy sợ hãi không dám ăn,

quỷ hỏi Sai Ma rằng:

- Chị đi đâu? Có món ăn cho tôi một chút!

- Sai Ma trao cho một chút món ăn, tuy ít nhƣng vì lực của quỷ nên cũng đƣợc no đủ.

Quỷ La Sát hỏi: - Chị tên chi?

- Tôi tên là Sai Ma!

Quỷ vui vẻ nói: - Hôm nay tôi sinh cháu đƣợc lành mạnh, cũng do phúc của chị, mà tôi

đƣợc sống, lại đƣợc nghe danh hiệu tốt, nhà tôi có cái búa vàng, xin đền đáp ơn chị, lúc

về qua đây, chị nhớ vào lấy.

- Dạ, chị có lòng tốt em xin nhớ lời dặn.

Quỷ lại hỏi: - Bây giờ chị đi đâu?

204

- Thƣa chị, em mang thức ăn cho ngƣời có tội ở nơi mổ!

- Tôi có một em gái cũng ở gần đấy, tên là A Lam Bà, tôi gởi lời thăm và bảo cho biết:

Tôi mới sanh đƣợc năm trăm cháu, thân thể lành mạnh.

Sai Ma đi tới chỗ quỷ A Lam Bà cũng nói nhƣ trên cho quỷ nghe.

A Lam Bà nghe xong vui vẻ hỏi:

- Chị tên chi?

- Em tên là Sai Ma!

Cô quỷ vui vẻ nói: - Chị tôi sinh đƣợc lành mạnh, tên cô cũng tốt lành lắm, nhà tôi có cái

búa vàng, xin biếu cô, lúc về nhớ vào qua mà lấy.

- Dạ, quý hóa! Chị có lòng tốt tôi xin nhận!

Cô quỷ lại hỏi: - Bây giờ cô đi đâu?

- Thƣa chị, theo lệnh nhà vua em mang món ăn, cho tội nhân nơi mổ!

Cô quỷ A Lam Bà nói: - Tôi cũng có một ngƣời em tên là Phân Na Kỳ ở gần đấy, tôi gởi

lời hỏi thăm.

Sai Ma từ giã cô quỷ, đi đến chỗ quỷ Phân Na Kỳ, cũng đem lời hỏi thăm của hai bà chị

nói cho nghe, và nói thêm bà chị cả sinh đƣợc năm trăm cháu đều vô sự. Đƣợc tin hai bà

chị bình an rất vui vẻ và hỏi:

- Cô tên chi?

- Tôi tên là Sai Ma!

- Tên cô tốt lành, và đƣợc tin hai chị tôi mạnh khỏe, thực là quý hóa! Nhà tôi có cái búa

vàng xin biếu cô, lúc về qua nhớ vào lấy.

- Quý hóa, có lòng cho, tôi xin nhận.

Sai Ma đi một lát tới nơi chỗ tội nhân, đƣa món ăn và nói rằng:

- Nhà vua cho món ăn này, anh lấy mà dùng cho khỏi đói!

Anh vui mừng! Nhận cơm, và cảm tạ một cách rất tha thiết. Sai Ma trở về lấy ba cái búa

vàng, và đến nhà vua lấy thƣởng một ngàn lạng vàng.

205

Từ đó vợ chồng Sai Ma đƣợc giàu sang sung sƣớng, làm nhà cửa mua ruộng nƣơng, nuôi

đầy tớ, nhân dân đến làm thuê rất đông.

Vua Bình Sa thấy Sai Ma là ngƣời có đức, triệu vào cung cho làm quan đại thần, đƣợc lộc

nƣớc ơn vua, nhà lại giàu thêm, từ đó lòng tín kính Phật Pháp của Sai Ma càng tiến tới.

Một hôm Sai Ma sửa soạn trai nghi, mời Phật và Sƣ Tăng về nhà cúng dàng.

Khi Phật dùng cơm xong Ngài lên tòa thuyết pháp nói về phúc bố thí và phép trì giới,

phép sinh thiên.

Sai Ma nghe xong tâm ý sáng tỏ, dắc quả Tu Đà Hoàn.

Bấy giờ tất cả mọi ngƣời dự cuộc thuyết pháp này, ai nấy đều hoan hỷ, phát tâm cúng

dàng bố thí, giữ giới tu đức, cúi đầu lễ tạ mà lui

---o0o---

Phẩm thứ ba mƣơi tám : CÁI SỰ

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc La Duyệt Kỳ, tại tinh xá vƣờn Trúc.

Lúc ấy tôi đƣơng tọa thiền trong rừng tự nghĩ rằng:

- Đức Phật xuất thế thực là một điềm lạ lùng, độ ngƣời nhiều nhƣ vậy. Sự ăn uống đầy

đủ, hơn nữa lại đƣợc hết khổ, tất cả vua, quan, dân chúng đƣợc lợi ích vô cùng tận. Vì

sao? Vì Ngài vạch đƣờng chỉ lối, cho thoát khỏi tam đồ ác đạo, đời vị lai đƣợc hƣởng

phúc báu trên cõi nhân thiên, hơn nữa lại đƣợc đạo Niết Bàn. Nghĩ thế rồi tôi đứng dậy về

tinh xá. Khi đó đức Thế Tôn đƣơng thuyết pháp cho đại chúng nghe. Tôi mặc áo chễ vai

bên hữu, tới trƣớc quỳ gối bên hữu xuống đất, chắp tay, chiêm ngƣỡng rồi đem ý nghĩ

trên bạch Phật.

Phật dạy: - A Nan! Ông nghĩ nhƣ thế phải đấy, Nhƣ Lai ra đời cũng rất lạ, vì tất cả chúng

sinh đƣợc lợi ích lớn, và cũng không cứ gì ngày nay thế đâu, đời quá khứ ta cũng đã làm

lợi ích cho nhiều.

- Kính lạy Ngài! Đời quá khứ Ngài làm lợi cho chúng sinh thế nào, cúi xin nói lại cho

chúng con đƣợc biết?

- A Nan! Đời quá khứ tính số kiếp A Tăng Kỳ đã quá lâu, cũng Châu Diêm Phù Đề này,

có bốn con sông, và hai ông vua nƣớc lớn. Một ông tên là Ba La Đề Bà (Tàu dịch Phạm

Thiên), ông này chiếm cứ ba con sông, nhân dân giàu thịnh, nhƣng quân sự kém.

Một ông tên là Phạt Sà Kiện Đề (Tàu dịch: Kim Cƣơng Tụ), ông này có một con sông,

dân chúng ít, nhƣng quân sự giỏi.

206

Vua Kim Cƣơng Tụ thầm nghĩ nhƣ vầy:

- Quân ta hùng mạnh, có một con sông ít nƣớc, vua Phạm Thiên quân lực kém, chiếm giữ

ba con sông, phải sai ngƣời sang đòi lại một con sông, nếu trả thì ta chơi thân với, có của

gì tốt ta sẽ biếu, nếu gặp sự nguy biến ta sẽ đem quân sang cứu; nếu không, ta sẽ mang

quân đánh lấy lại!

Nghĩ thế rồi triệu các quan Đại Thần vào bàn việc nƣớc. Sau cuộc hội nghị, nhà vua sai

sứ mang thƣ sang cho vua Phạm Thiên, nhƣ trên đã định.

Vua Phạm Thiên xem thƣ xong, thần nghĩ nhƣ vầy:

- Giang sơn đất nƣớc là của cha ta để lại, chớ không phải ta cƣớp đoạt của hắn mà hắn

đòi.

Nghĩ xong bảo Sứ giả rằng:

- Giang sơn đất nƣớc không phải tự ta mà có, đây là của cha ta truyền lại, vô cớ đem trả

cho chúa nhà ngƣơi, cả một sự vô lý. Nếu chúa nhà ngƣơi dùng quân lực chiến đấu, thì ta

đây cũng không hẹp gì!

Sứ giả về nƣớc tâu vua nhƣ lời nói trên. Vua Kim Cƣơng Tụ đem đại hùng binh sang

đánh một trận. Quân vua Phạm Thiên thất trận chạy tán loạn! Thừa cơ, quân Kim Cƣơng

Tụ đuổi tới kinh thành, vây bốn mặt.

Quân vua Phạm Thiên sợ không dám ra chiến đấu, các quan thấy sự nguy ngập nên tâu

rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Quân họ mạnh, quân ta yếu. Bệ Hạ tiếc chi một con sông mà để di hại cho

muôn dân, không chừng còn mất nƣớc là đàng khác, cúi xin Bệ Hạ trả lại cho họ còn có

tình nghĩa hơn.

Nhà vua đồng ý, sai ngƣời ra thƣa với vua Kim Cƣơng Tụ rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Chúa công tôi xin chấp thuận lời yêu cầu trƣớc của Bệ Hạ, để trả lại một

con sông, và dâng vua thêm một ngƣời con gái. Từ đây trở đi nếu nƣớc nào có vật gì quý

thì tặng lẫn cho nhau, gặp lúc nguy hiểm thì sẽ bênh vực nhau!

Vua Kim Cƣơng Tụ đồng ý rút quân, rồi đem ngƣời con gái ấy về làm vợ.

Qua một thời gian cô có thai, và luôn có một chiếc tán thất bảo che trên đầu, đi, đứng,

nằm, ngồi thƣờng nhƣ vậy. Mãn kỳ sinh đƣợc cậu con trai, thân sắc vàng, tóc xanh mƣớt,

có bóng sáng lóng lánh nơi thân thể. Từ khi sinh cậu ra, thì cái tán ấy lại che trên đầu cậu.

Nhà vua với các thầy tƣớng vào xem, các thầy đều khen! Và tâu vua rằng:

207

- Tâu Bệ Hạ! Quý hóa lắm. Thái tử nhân tƣớng đầy đủ, đức lực viên mãn, trên đời có một

không hai!

Nghe tƣớng sƣ nói, nhà Vua và Hoàng hậu rất vui mừng! Lại nhờ đặt tên cho Thái Tử.

Theo cổ truyền, đặt tên phải căn cứ vào hai việc:

1. Điềm lành.

2. Tinh tú.

Tƣớng sƣ tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Khi hoài thai có điềm gì lạ không?

- Trong khi hoài thai, có tán bằng thất bảo che trên đầu.

- Tâu Bệ Hạ! Cứ theo điềm này xin đặt là: Sái La Già Lợi (Tàu dịch: Cái Sự).

Thái tử đến tuổi trƣởng thành thì vua chết, an táng cho vua xong, Thái tử lên nối ngôi,

chấp chính đƣợc vài năm, thƣờng đi chơi các miền quê để quan sát dân sự làm ăn.

Trời nắng nhƣ đốt, những ngƣời nông phu cởi trần trùng trục, với con trâu kéo cày, tiếng

kêu "cót két", dƣới bãi đất lầy một cách lao khổ, đọa đày thể xác.

Nhà vua hỏi tả hữu rằng: - Những ngƣời này làm gì khó nhọc thế?

- Tâu Bệ Hạ! Nƣớc lấy dân làm gốc, dân lấy thóc làm mạng sống, nếu không làm lụng

khó nhọc, thì không lấy gì bảo tồn đƣợc mạng sống của dân; dân nếu nghèo thì nƣớc phải

nguy vong!

Nhà vua nói: - Nếu phúc đức của tôi đƣợc làm vua, thì nhân dân không phải cấy cày, thóc

lúa tự nhiên có đủ ăn dùng.

Nhà vua nguyện xong, thì tất cả trong nƣớc nhà ai cũng có lúa thóc, tuỳ lòng ƣớc muốn

thứ lúa nào, thì có thứ lúa ấy, từ đó nhân dân không phải cày cấy, thức ăn tự nhiên có sẵn.

Thời gian sau, nhà vua đi ra lần thứ hai, thấy những ngƣời dân, đẵn củi, gánh nƣớc, giã

gạo mồ hôi nhễ nhại, coi rất khó nhọc. Nhà vua hỏi các quan rằng:

- Những ngƣời này làm gì mà lao khổ nhƣ thế?

- Tâu Bệ Hạ! Nhân dân mong ơn Bệ Hạ, đƣợc lúa thóc tự nhiên, không phải cày cấy.

Nhƣng phải xay giã, kiếm củi nấu chín mới ăn đƣợc; vì thế họ còn phải khó nhọc!

Nhà vua nói: - Nếu phúc đức tôi đƣợc làm vua, thì xin cho dân nƣớc tôi, khi muốn thì các

món ăn tự nhiên hiện ra trƣớc mặt.

208

Nhà vua nói sao đƣợc vậy. Từ đó nhân dân đều đƣợc các món ăn tự nhiên chứ không phải

làm.

Qua thời gian ấy vua lại đi chơi, thấy ngƣời kéo bông, se chỉ, dệt vải may áo, vua hỏi

rằng:

- Những ngƣời này làm gì, coi vẻ khó nhọc nhƣ thế?

- Tâu Bệ Hạ! Nhân dân nhờ ơn đức hóa của Bệ Hạ, đƣợc món ăn tự nhiên, giờ đây họ dệt

vải để may áo mặc.

Nhà vua nói: - Nếu phúc đức của tôi đƣợc làm vua, thì khiến cho những cây cối trong

nƣớc sinh ra các thứ áo!

Nói xong, tất cả cây cối trên mặt đất đều sinh ra các thứ áo xanh, vàng, đỏ, trắng, tuỳ theo

ý muốn của từng ngƣời ƣa thích.

Qua thời gian ấy vua lại đi chơi, thấy các ngƣời dân đua nhau làm các thứ âm nhạc, hỏi

rằng:

- Những ngƣời này họ làm cái gì nhƣ vậy?

- Tâu Bệ Hạ! Nhân dân mong ơn Bệ Hạ, ăn mặc đƣợc đầy đủ, giờ đây họ làm các thứ âm

nhạc, để ca hát vui chơi cho khoái chí!

Nhà vua nói: - Nếu phúc đức của tôi đƣợc làm vua, thì khiến cho các cây cối trên mặt đất,

sinh ra các đồ âm nhạc, theo ý muốn của từng ngƣời ƣa thích.

Nói xong, thì tất cả các cây trên mặt đất đều sinh ra các thứ nhạc khí.

Qua thời gian sau, các quan bản triều đến bái tạ! Nơi điện tiền nhà vua, khi tới bữa ăn,

vua lƣu lại dùng cơm. Hôm ấy các quân đƣợc thƣởng thức các món ăn của nhà vua, nhận

thấy ngon lành quá, nghĩa là chƣa từng đƣợc ăn bao giờ, ăn vào thân thể khỏe mạnh sung

sƣớng, họ đều tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Nhà Hạ Thần không bao giờ có các món ăn này, vừa ngon lành lại vừa khỏe

mạnh, ăn vào thấy thân tâm an lạc.

- Nhà vua nói: - Các ông muốn thƣờng đƣợc thức ăn nhƣ hôm nay, cứ theo đúng giờ ăn

của tôi mà ăn, thì sẽ đƣợc các món ăn ngon lành.

Sau nhà vua sắc lệnh cho toàn quốc, khi tới giờ vua ăn, phải đánh trống báo cho nhân dân

biết. Từ đó nhân dân hễ nghe tiếng trống báo, thì họ nghĩ đến việc ăn, cho nên toàn thể

dân chúng trong nƣớc, ai ai cũng đƣợc thức ăn ngon nhƣ nhà vua.

Khi đó vua Phạm Vƣơng sai sứ sang nói với vua Cái Sự rằng:

209

- Tại thời cha ngƣơi, ta cho một con sông, bây giờ cha ngƣơi chết rồi thì trả lại cho ta!

Cái Sự bảo Sứ rằng:

- Bờ cõi giang sơn đây, cũng không phải ta áp bức của nhà ngƣơi mà lấy. Song ta làm vua

không để mệt sức cho dân, nhƣng đó là một việc nhỏ, hãy hoãn lại, sau đây ta với chúa

của nhà ngƣơi đƣợc gặp nhau, để nói cái việc thiết yếu của giữa hai nƣớc.

Sứ giả về tâu vua nhƣ lời nói trên. Phạm Vƣơng đồng ý, định ngày để gặp.

Ngày hẹn đã tới, hai ông đều đem quân ra bờ sông giáp ranh giới, lên thuyền ra giữa sông

để tƣơng kiến.

Vua Phạm Thiên thấy vua Cái Sự thân sáng rực nhƣ núi vàng, tóc mƣợt nhƣ lƣu ly, mắt

sáng tợ sao ngôi, mồm tƣơi nhƣ hoa nở, mũi thẳng, mặt vuông, tai chùng, oai phong lẫm

liệt, tự phát sinh lòng kính trọng, cho rằng: - Một ông Trời Đại Phạm, hai ngƣời gặp nhau

bàn luận về việc đời nƣớc sông!

Cái Sự nói: - Nhân dân nƣớc tôi sự ăn dùng tự nhiên có, không phải tạo tác mệt nhọc, và

cũng không phải thâu thuế phạt tiền, tôi không bao giờ bắt dân công làm việc cho nhà

vua.

Đƣơng đàm luận thì tới giờ ăn, quân gia của vua Cái Sự đánh trống. Vua Phạm Thiên run

sợ! Cho rằng họ bắt mình để giết, liền đứng dậy tạ lỗi, chân tay lẩy bẩy.

Vua Cái Sự đứng lên đỡ ông ngồi xuống và nói rằng:

- Nhà vua làm sao sợ hãi nhƣ vậy? Đó là tới giờ ăn, quân đội của tôi đánh trống báo! Vì

theo đúng giờ ăn của tôi, thì dân chúng sẽ đƣợc nhiều thức ăn ngon!

Vua Phạm Thiên chắp tay thƣa rằng:

- Muôn xin Đại Vƣơng thƣơng đên quốc dân chúng tôi, cũng đƣợc các món ăn tự nhiên

và từ nay chúng tôi xin hàng phục.

Từ đó vua Cái Sự cai trị tất cả nhân dân các nƣớc Châu Diêm Phù Đề.

Sau ngày đăng vị ngồi trên bảo điện, quần liêu bách Quan đứng hầu túc trực suốt ngày

đêm.

Buổi sớm ấy, khi mặt trời mới mọc, có xe Kim Luân bảo, bay từ phƣơng Đông tới, vua

Cái Sự từ trên tòa bƣớc xuống, quỳ thẳng chắp tay hƣớng lên, lấy tay với, xe ấy dừng lại

ngay, đẹp đẽ có quang minh chiếu ra bốn mặt.

Nhà vua nói rằng: - Nếu tôi đƣợc làm Chuyển Luân Vƣơng, thì xin xe này ở lại đây!

210

Nói xong, xe Kim Luân ấy đứng trên hƣ không trƣớc điện nhà Vua, cách đất bảy cây Đa

La, rồi đó tƣợng bảo, thần châu, ngọc nữ, điển binh, điện tạng, lần lƣợt bay tới.

Vua Cái Sự từ đó đƣợc làm Chuyển Luân Vƣơng, thất bảo đầy đủ, cai trị bốn thiên hạ, tất

cả chúng sinh nhờ đức hóa an vui sung sƣớng. Theo chính sách của nhà Vua nhân dân tu

theo mƣời điều lành:

1. - Không sát sinh

2. - Không trộm cƣớp

3. - Không tà dâm

4. - Không nói dối

5. - Không nói lƣỡi đôi chiều

6. - Không nói ác

7. - Không nói đơm đặt

8. - Không tham lam

9. - Không giận tức

10. - Không si mê.

Sau khi mạng chung đƣợc sinh lên cõi Trời tất cả.

Nói tới đây, Phật nhắc lại rằng:

- A Nan! Ông nên biết: vua Cái Sự thuở đó, há phải là ai đâu, chính là tiền thân của ta

đấy; vua Kim Cƣơng Tụ là thân phụ ta ngày nay (vua Tịnh Phạn), và sinh ra vua Cái Sự,

nay là mẫu thân ta (Ma Gia).

Bởi ta có từ tâm thƣơng chúng sinh, thƣờng cho của cải, cho đạo pháp, để dắt dẫn họ, vì

nhân duyên ấy đến nay thành Phật, đặc tôn trong ba cõi, không ai sánh kịp. Cũng vì thế

chúng sinh biết tu tập lòng từ bi rộng lớn, lợi ích vô biên.

Tôi lại thƣa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Không hay đời quá khứ, vua Cái Sự làm

Chuyện Luân Vƣơng, tại nhân duyên gì mà đƣợc? Và khi nhập thai đã có tán thất bảo che

theo, kính xin nói cho chúng con đƣợc rõ?

Phật dạy: - A Nan! Đời quá khứ cách nay đã lâu lắm, tính số kiếp A Tăng Kỳ có đến vô

lƣợng, cũng Châu Diêm Phù Đề này, trong quả núi Tiên có vị Bích Chi Phật, mắc chứng

bệnh phong, thầy thuốc nói phải dùng sữa bò mới khỏi.

Bấy giờ ngƣời lái buôn tên là A Lợi Gia Mật La (Tàu dịch: Thánh Hữu). Ngài Bích Chi

Phật nói bệnh cho ông nghe và để ông cúng dàng sữa.

Ông lài buôn Thánh Hữu hoan hỷ cúng dàng. Ngài dùng đƣợc ba tháng thì khỏi bệnh.

Cảm ơn ấy muốn cho thí chủ đƣợc ích lợi lớn nên Ngài bay lên hƣ không đi, đứng, nằm,

ngồi, thân phun ra nƣớc lửa, lúc hiện thân lớn đầy hƣ không, rồi thu nhỏ lại nhƣ chiếc

lông mùa Thu; cứ nhƣ thế biến hiện ra mƣời tám lần.

211

Ông Thấnh Hữu thấy thế rất vui mừng! Và từ trên hƣ không hạ xuống để nạp thụ sự cúng

dàng. Qua một thời gian ngài nhập Niết Bàn.

Ông Thánh Hữu thƣơng nhớ, làm lễ hỏa thiêu cúng dàng, thu lấy Xá Lợi đựng vào bình

vàng, và xây một bảo tháp, để bình vàng Xá Lợi vào trong, lại làm một cái tán che trên,

hàng ngày đem hƣơng hoa âm nhạc cúng dàng, suốt đời thờ phụng.

Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:

- A Nan! Ông nên biết: ông Thánh Hữu do công đức cúng dàng vị Bích Chi Phật, nên

đƣợc phúc báo vô lƣợng kiếp, sinhl lên cõi Trời hoặc cõi nhân gian, đều đƣợc tôn vinh

sung sƣớng, khi ở thai có tán báu che trên. Ông nên biết: Thánh Hữu thuở đó chính là tiền

thân ta đấy. Vậy tất cả chúng sinh bất luận xuất gia hay tại gia cũng nên tu phúc làm sự

nhiệp, đời đời kiếp kiếp sẽ đƣợc lợi ích vô lƣợng vô biên nhƣ thế đó.

Bấy giờ tôi và mọi ngƣời trong cuộc thuyết pháp này, ai nấy đều vui sƣớng phát tâm tu

phúc cúng dàng, cúi đầu tạ lễ lui ra

---o0o---

Phẩm thứ ba mƣơi chín :ĐẠI THÍ TÁT BIỂN

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc La Duyệt Kỳ, tại núi Linh Thứu, với

các Tôn đệ tử, cùng một ngàn hai trăm năm mƣơi vị Tỷ Khƣu ở đó. Khi ấy đức Thế Tôn

muốn dùng một ngƣời Thị Giả.

Các vị Tôn đệ tử đều biết ý của Ngài nhƣ vậy. Khi đó ông Kiều Trần Nhƣ mặc áo trễ vai

hữu, tới trƣớc quỳ thẳng chắp tay bạch rằng.

- Kính lạy đức Thế Tôn! Con xin nguyện suốt đời làm Thị Giả hầu hạ Ngài, cúi xin từ bi

hoan hỷ, chấp thuận cho con đƣợc ân triêm công đức!

Phật dạy: - Ông nay tuổi đã già yếu, việc hầu hạ không nỡ phiền ông!

Ông lễ tạ lui ra. Tiếp đến Ngài Ma Ha Ca Diếp, Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên,

và năm trăm đệ tử lần lƣợt ra tác lễ cầu xin làm Thị Giả. Nhƣng Phật không cho ai.

Khi đó, Ngài A Nan Luật xem biết ý Phật muốn dùng ông A Nan, và các bậc đại để tử

cũng đều hiểu nhƣ thế.

Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên đứng dậy lại bên tôi nói sẽ rằng:

212

- Này ông A Nan! Ý Phật muốn dùng ông làm Thị Giả đấy! Riêng ông đƣợc diễm phúc

hơn chúng tôi! Vậy ông mau mau đứng lên làm lễ bạch Phật xin thân thừa Ngài, để cho

toàn thể Tăng chúng cũng đƣợc nhờ ông một phần lớn!

Tôi nghe lời hai Thƣợng Tọa nói rồi, chắp tay thƣa rằng:

- Kính thƣa hai Thƣợng Tọa! Thế Tôn đức rộng, tuệ sâu, tôi thân cận hầu hạ sợ sơ xuất

phải tội, và chiêu họa thì sao?

Ngài Xá Lợi Phất nói:

- Chúng tôi xem biết đức Thế Tôn chú ý đến ông nhiều hơn, vì xét có thể kham năng

đƣợc, nên Ngài muốn dùng ông làm Thị Giả!

Tôi thấy hai Thƣợng Tọa nói nhƣ vậy, chẳng biết làm thế nào! Tôi thƣa rằng:

- Dạ! Nếu hai Thƣợng Tọa, thƣa với Phật cho đƣợc ba điều nguyện này, thì tôi xin làm

Thị Giả:

1. - Áo cũ của đức Thế Tôn xin Ngài đừng cho tôi dùng.

2. - Đức Thế Tôn ăn thừa xin chớ cho tôi ăn.

3. - Thờit tiết tiến hiện (Chỉ), tùy tôi lo liệu, đƣợc nhƣ thế thì tôi xin làm.

Hai Thƣợng Tọa đem ý kiến của tôi lên bạch Phật, Phật bảo rằng:

- Ông A Nan sở dĩ không muốn mặc áo cũ của ta, là do lòng ông nghĩ xa, sợ các đệ tử

sinh tâm hiềm khích. Vua quan nhân dân cúng Phật, những cái áo quý đẹp, cho rằng ông

tham cầu mà làm Thị Giả. Hai là chuyện không ăn cơm của ta, là lo các đệ tử sinh lòng

nhƣ vầy: Trong bát của Nhƣ Lai ăn thừa, trăm mùi ngon bổ, trên đời hiếm có, cho rằng

ông tham cầu những món ấy mà thân cận Phật hay sao? Còn nguyện thứ ba, tự lo lƣợng

thời tiết tiến hiện, là sợ các đệ tử, và các ngoại đạo lại nạn vấn, trong những thời giờ

không hợp pháp, làm xúc não ta. Song làm Thị Giả, phải xem thời tiết mà dâng các món

ăn cho thích hợp, để lợi ích thân thể Nhƣ Lai, mỗi mỗi việc đều phải có chế độ. Vì thế mà

ông nguyện xin ba điều ấy. Nhƣng cũng không cứ gì thời nay ông tự biết thời tiết mà xin

thế đâu! Thời quá khứ ông đã hầu ta, và cũng khéo biết sự tiến hiện (Chỉ) nhƣ vậy:

Khi đó Ngài Xá Lợi Phất thƣa rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Không hay đời quá khứ, ông A Nan hầu hạ Ngài, khép biết thời

tiết, việc ấy thế nào xin nói cho chúng con đƣợc biết nguyên do?

Phật dạy: - Xá Lợi Phất! Ông muốn biết, hãy để ý nghe, ta sẽ nói cho ông hay!

- Dạ, lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe!

213

- Xá Lợi Phất! Đời quá khứ cách đây tính theo số A Tăng Kỳ có đến vô lƣợng, thuở đó có

một ông vua nƣớc lớn cai trị tám vạn bốn ngàn nƣớc nhỏ, tám mƣơi ức tụ lạc, tại Châu

Diêm Phù Đề, vua ngự ở thành Bà Lâu Thi Xá. Trong thành ấy có một ngƣời Bà La Môn,

có trí thông sáng, nhà vua tôn kính nhƣ một ông thầy, tám vạn bốn ngàn ông vua nƣớc

nhỏ đều mến mộ khâm phục, bốn phƣơng hiến tặng, và thƣờng sai Sứ sang thăm viếng,

nói tóm lại cũng nhƣ bầy tôi thờ vua không khác. Nhà giàu ngang với nƣớc, nhƣng không

có con để nối nghiệp nên lúc nào ông cũng buồn! Không biết nơi đâu có thể cầu nguyện

đƣợc. Bấy giờ ông lên miếu thờ Phạm Thiên "Thiên Đế", Tứ Vƣơng Ma Hê Thu La và tất

cả chƣ Thiên khác, cầu đạo ròng rã mƣời hai năm, do sự cầu nguyện thành kính ấy, nên

bà vợ lớn của ông có thai. Ông cho gọi ngƣời về xem trai hay gái; có một thiếu phụ đến

xem nói: - Bà có mang con trai. Ông mừng thầm! Giao cho các cô con gái hầu hạ bà một

cách chăm chỉ cẩn thận, không đƣợc làm trái ý.

Đủ tháng sinh đƣợc cậu con trai mình sắc vàng, tóc xanh mƣợt, trán cao, mũi thẳng, tai

dày, mắt sáng, mồm tƣơi rộng, nhân tƣớng đầy đủ, ông vui mừng quá! Cho mời thầy về

coi tƣớng.

Tƣớng Sƣ xem xong nói:

- Cậu đầy đủ phúc đức, thiên hạ chƣa từng có, sau này có thể làm đến Quốc Sƣ!

Nghe Tƣớng Sƣ nói, ông rất hoan tâm, và nhờ đặt tên giùm. Lệ đặt tên bao giờ cũng y

vào hai điều kiện:

1. - Tinh tú.

2. - Biến điềm lạ.

Tƣớng Sƣ hỏi: - Thƣa ông! Trong khi bà có mang cậu bé này, thì có điềm gì lạ không?

- Thƣa Ngài! Bà ác nghiệp lắm, ít lòng nhân, lại không chăm tu phƣớc tuệ gì, từ khi có

thai cháu, thì tâm tính cải đổi, thƣơng xót kẻ nguy nạn, hay giúp đỡ kẻ nghèo đói, chăm

bố thí, không tham lam tích cóp nhƣ xƣa!

Tƣớng Sƣ hoan hỷ nói:

- Đó là trí lý của cậu con trai sử nhiên nhƣ vậy. Tôi xin đặt tên là Ma Ha Sà Ca Phàn (Tàu

dịch: Đại Thí).

Sau khi lớn tuổi, ông bà quý lắm! Làm riêng cho một lâu đài chia làm ba cung, để tùy

theo thời tiếc nóng lạnh của một năm: mùa đông ở cung ấm áp, mùa hạ ở cung mát, mùa

xuân mùa thu ở cung giữa, sự nóng lạnh thuần hòa, cắt đặt những thiếu nữ hầu hạ, đêm

ngày cho cậu vui chơi! Cậu có tính ham học, lại sẵn có trí thông minh, đọc thuộc mƣời

tám bộ kinh của thế tục, học các kỹ thuật đều tinh xảo. Một hôm cậu thƣa với ông rằng:

- Thƣa cha! Con ở trong cung điện này đã lâu, xin cho con du ngoạn ngoài thôn quê, để

xem dân chúng làm ăn.

214

- Ừ! Con đi chơi, cha cho con đi.

Ông sai ngƣời sửa sang đừơng sá, vảy nƣớc thơm, dựng cờ treo phan đốt hƣơng, một con

voi trắng lớn, trên lƣng đặt bành bằng thất bảo phủ vải gấm, teo chuông trang nghiêm cho

cậu cỡi. Những ngƣời đi trƣớc gảy các đồ âm nhạc, đánh trống thổi kèm; đi sau có hàng

ngàn ngƣời cỡi voi cỡi ngựa theo cậu đi, trên một con đƣờng lớn bằng phẳng, bầu trời

mát mẻ, bóng tinh quang chiếu thành năm sắc, không khác một ông Chuyển Luân Vƣơng

giáng thế. Nhân dân nô nức ra xem, nhìn không chán mắt, ai nấy đều khen rằng:

- Thực là hiếm có, oai phong vòi vọi, lẫm liệt nhƣ một ông trời Phạm Thiên!

Một lát gặp bọn khất nhi, áo quần tả tơi, chân đi thất thểu, cầm cái bát vỡ kêu xin một

chút món ăn, hoặc tiền. Đại Thí hỏi:

- Các ngƣơi tại sao mà khổ cực nhƣ vậy?

- Thƣa cậu! Chúng tôi không có cha mẹ, anh em, vợ con, nghèo khổ không có chỗ nƣơng

thân!

Cũng có ngƣời nói rằng: - Chúng tôi mắc bệnh liên miên, không làm ăn gì đƣợc, hết lối

sinh sống!

Cũng có ngƣời nói rằng: - Chúng tội gặp lúc cơ nguy, gia đình phá tán, nợ nần nhiều quá

hết lối làm ăn, phải hành khất để nuôi thân trốn nợ!

Đại Thí nghe họ nói xong, trong lòng chua xót, than lòng mà bƣớc đi! Đi đƣợc vài dặm,

thấy lũ đồ tể mổ giết súc sinh.

Đại Thí hỏi: - Chao ôi, các ông làm gì thế?

- Thƣa cậu! Tổ Phụ chúng tôi chỉ làm nghề sát sinh, để nuôi sống gia đình, nay nếu bỏ

nghề này thì hết lối!

Đại Thí than thở rồi bƣớc đi. Đi một quãng thấy các ngƣời cày ruộng: những sá cày lật

đất, các con giun, con dế, con vi trùng chui lên, lại bị những con ếch, con chẫu bắt ăn; lại

thấy những con rắn bắt ếch, bắt chẫu ăn, tiếng kêu thảm thiết; lại thấy giống chim khổng

tƣớc bắt rắn tha lên cành cây ăn.

Đại Thí hỏi: - Đây là họ làm gì?

- Thƣa cậu! Họ cày ruộng để trồng lúa, đến mùa đƣợc thóc ăn và nộp thuế cho nhà Vua.

Đại Thí nghe xong, thƣơng chúng sinh, than thở trong lòng mà đi. Đi một quãng thấy

những ngƣời đi săn, giăng lƣới, đặt cạm, giật bẫy, để bắt cầm thú, thấy chúng bị sa lƣới,

quằn mình quại thể, dãy dụa hết sức, gào kêu! Sợ hãi! Trông rất đau lòng.

215

Đại Thí hỏi: - Các ông làm gì đó?

- Thƣa cậu! Chúng tôi chỉ chuyên nghề đi săn bắn, nếu không làm việc này, thì cũng

không có nghề gì sinh sống!

Đại Thí nghe nói vừa thƣơng, vừa ngậm ngùi! Rồi bƣớc đi. Đi đƣợc một lúc thấy một con

sông lớn, trên những chiếc thuyền lênh đênh, các anh thuyền chài, tung lƣới kéo lên đƣợc

rất nhiều cá, đổ lên bờ, con dãy, con ngáp, ngổn ngang.

Đại Thí hỏi: - Các ông làm gì thế?

- Thƣa cậu! Từ cha ông chúng tôi, đến chúng tôi không có nghề gì khác, chỉ có nghề bắt

cá để sinh sống.

Đại Thí nghe nói, để lòng thƣơng! Và thầm nghĩ rằng:

- Tất cả ngƣời dân vì thiếu thốn áo mặc cơm ăn, nên tạo những ác nghiệp sát hại chúng

sinh, sau chết đọa xuống Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Bàng Sinh, từ chỗ mê tối lại sa vào chỗ mê

tối hơn, thực đáng thƣơng thay!

Tớiđây Đại Thí bảo với mọi ngƣời rằng:

- Thôi, các ông cho tôi về an nghỉ.

Vì thƣơng đời lầm lạc, tạo áo nghiệp, nên Đại Thí không lúc nào đƣợc vui! Tìm cách để

cứu tế chúng sinh khỏi sự đói thiếu về thể xác lẫn tinh thần, rồi lên thƣa với cha rằng:

- Thƣa cha, vừa rồi con đi về các miền thôn quê, thấy nhân dân vì sự ăn mặc, phải lao

hình khổ trí sát hại muôn sinh để nuôi đời sống, lƣờng gạt dối trá, lẫn nhau, tạo ác nghiệp

ấy sau chết phải đọa vào ba đƣờng ác, con rất thƣơng họ! Vậy cho con một kho gạo để bố

thí cho những kẻ nghèo đói.

- Tùy ý, của cha là của con, ý con muốn bố thí thì cha cũng vui lòng!

Đƣợc cha đồng ý, Đại Thí bá cáo cho nhân dân rằng:

- Tất cả nhân dân, ai thiếu thốn về cơm ăn áo mặc, tiền xài; xin lại nhà lấy, tùy theo ý

muốn, tôi sẽ cấp giúp đầy đủ!

Quốc dân hay tin ông Đại Thí mở cuộc bố thí, tất cả những ngƣời nghèo khổ, bệnh tật, cô

cùng, kéo nhau đến đông nhƣ hội; cũng có ngƣời ở xa từ trăm dặm, ngƣời hai, ba trăm

ngàn dặm tới, có ngƣời từ ba ngàn, năm ngàn dặm tới; kẻ mạnh cõng ngƣời yếu, kẻ sáng

dắt ngƣời mù, muốn cơm đƣợc cơm, muốn áo đƣợc áo, tất cả ai muốn gì cũng đƣợc toại

ý.

216

Bố thí trong một thời gian, các kho ba phần đã hết một, ngƣời coi kho đến thƣa với ông

chủ rằng:

- Thƣa ông, cậu Đại Thí ban phát cho dân các kho tàng ba phần đã hết một. Vua quan

khách khứa đi lại còn đâu mà thết đãi! Ông nghĩ kỹ, kẻo hết rồi lại trách tôi không thƣa

trƣớc!

Ông nghĩ nhƣ vầy: - Thà để kho không, chứ không làm trái ý con ta!

Bố thí trong một thời gian nữa thì ba phần đã hết hai. Ngƣời coi kho lại lên thƣa với ông

rằng:

- Thƣa ông chủ! Kho tàng ba phần đã hết hai, nếu ông không đình chỉ việc bố thí lại, thì

không còn cái gì mà ăn dùng nữa!

Ông nói: - Ta nặng tình yêu con quí của ta, nên không muốn làm trái ý. Vậy anh có

phƣơng tiện gì, giả thác ra một cách khác, nếu kẻ lại xin làm cho họ ít đến nữa may ra

còn chút nào để dùng chăng!

Anh coi kho đƣợc ông cho phép, đóng luôn cửa lại rồi đi nơi khác.

Vì kho đóng nên những ngƣời xin đều đến chỗ cậu Đại Thí; cậu dẫn họ đến kho, thì anh

coi kho đi vắng. Cậu sai ngƣời tìm mãi mới thấy, anh về mở kho cho, nhƣng cũng không

cho đƣợc bao nhiêu.

Đại Thí thầm nghĩ nhƣ vầy:

- Việc đình chỉ bố thí không phải kẻ giữ kho dám tự quyền, chắc là thừa lệnh của cha ta.

Song phép làm con cũng không nên làm khánh kiệt kho tàng của cha mẹ, vả trong kho

bây giờ cũng không còn đƣợc bao nhiêu nữa. Vậy ta phải làm thế nào, có tiền của cấp tế

cho nhân dân, đƣợc no nê sung sƣớng! Mới mãn bổn nguyện bố thí của ta.

Khi đó Đại Thí hỏi mọi ngƣời rằng:

- Ở thế gian này, làm nghề nghiệp gì đƣợc nhiều tiền của?

Cáo ngƣời mách rằng:

- Thƣa cậu! Bây giờ chỉ trồng cấy năm giống thóc thì đƣợc nhiều của.

Có ngƣời nói rằng:

- Nuôi thú vật bán có thể đƣợc nhiều tiền.

Cũng có ngƣời nói:

217

- Nếu không sợ tai nạn nguy hiểm, đi xa buôn bán có thể đƣợc nhiều tiền của.

Lại có ngƣời giới thiệu rằng:

- Thƣa cậu! Mọi kế nói trên đều không kết quả đƣợc bao nhiêu, muốn cho tất cả chúng

sinh trên cõi Diêm Phù Đề, đƣợc đầy đủ cơm áo mặc, chỉ vào biển tìm châu bảo là một

diệu kế hơn hết!

Đại Thí nói: - Trồng cây, nuôi thú, đi xa buôn bán, không đƣợc lợi mấy, có lẽ vào biển

tìm ngọc châu là một diệu kế hơn. Vậy tôi quyết định đi tìm ngọc châu.

Nói xong lên thƣa với cha mẹ rằng:

- Thƣa cha mẹ! Con xin ra biển tìm ngọc châu về cấp tế cho dân, xin cha mẹ vui lòng?

Ông bà lo quá, nói rằng:

- Con ơi! Những ngƣời ra biển là những ngƣời nghèo khổ vô kế sinh sống, không hòng

đời sống của mình. Con nghèo khổ chi mà vào biển? Để cha mẹ lo sợ thân mạng của con!

Muốn bố thí, thì trong kho còn bao nhiêu con cứ việc bố thí. Đi biển có nhiều tai nạn,

sóng to, gió lớn, Cá Ma Kiệt, Rồng Độc, Quỷ La Sát, núi, nƣớc khó mà qua nổi! Con

đem thân vào chỗ tai nạn ấy làm chi? Không thể đi đƣợc đâu, thôi đừng giở hơi nữa.

Đại Thí buồn quá! Tự nghĩ nhƣ vầy:

- Ta muốn gây một đại nghiệp cho tƣơng lai, mà tham tiếc thân sống thì sao thành?

Nghĩ xong, phục mình xuống trƣớc cha mẹ mà thƣa rằng:

- Kính lạy Song thân! Nếu Song thân ngăn chí nguyện của con, không cho con đi biển

tìm ngọc châu để cứu dân, thì con nằm ở đây không đứng lên nữa!

Ông bà nghe câu nói ấy, tâm can não nhiệt nhƣ lửa đốt! Cùng với mọi ngƣời khuyên bảo

rằng:

- Đƣơng biển xa xôi nhiều hiểm trở, đi nhiều về ít, con nên nghĩ đến cha mẹ cầu đảo

thành kính, trong mƣời hai năm ở miếu thần tiên mới có con ngày nay. Bây giờ lớn khôn

lại bỏ cha mẹ đi thì không nên! Dậy đi con, ăn uống để cha mẹ vui lòng!

Cậu một lòng thƣa rằng:

- Cha mẹ cho con đi thì con dậy, không thì con không dậy!

Cậu nằm mãi đến sáu ngày không ăn uống, ông bà luôn luôn khuyên bảo, dỗ dành, nhƣng

cậu quyết định không dậy, chịu nhịn đói.

218

Ông bà lo sợ quá! Bàn với nhau rằng:

- Con ta trƣớc sau khăng khăng một mực không hề thoái tâm. Thôi, ta cũng nhắm mắt

cho đi, còn mong có ngày về, nếu nằm quá bảy ngày chết lại đây, thực là vô ích.

Bàn xong, ông bà đến đỡ cậu dậy, và nói rằng:

- Thôi, con dậy ăn cơm, rồi cha mẹ cho con đi.

Đại Thí mừng quá! Đứng dậy đi ăn cơm, ăn xong, viết bảng cáo thị rằng:

- Tôi đi ra biển tìm ngọc châu, ai muốn đi thì cùng đi, tôi xin cung cấp đầy đủ hành lý.

Bấy giờ có năm trăm ngƣời đồng ý theo cậu. Giữa hôm lên đƣờng ra đi, cha mẹ, vua,

quan, dân chúng, số ngàn muôn ngƣời đƣa chân đem tặng lƣơng thực và tiền bạc để ăn

đƣờng. Cuộc tiễn đƣa này, rất vui vẻ! Mọi ngƣời đều cầu chúc: "Cậu đi đƣợc bình an mau

trở về".

Đi chừng vài ngày, tới một bãi cát rộng mênh mông, mọi ngƣời đều lên đó nghỉ, không

may gặp bọn cƣớp đông quá, biết sức không chống nổi, nên Đại Thí đem tiền của lƣơng

thực cho họ hết rồi lại bắt đầu đi, đi tới một cái thành, gọi là thành Phóng Bát. Thành này

có ông Trƣởng Giả tên là Ca Tỳ Lệ dòng Bà La Môn, ông có cô con gái, mình sắc vàng,

tóc xanh nhƣ ngọc lƣu ly, xinh đẹp nhất thời, tám vạn bốn ngàn vƣơng tử, ở các nƣớc đến

hỏi cô không ƣng.

Đại Thí định đến vay tiền, đứng ngoài gõ cửa, cô thấy ngƣời gọi chạy ra, nhìn cậu, tự

nhiên cảm động, vui mừng; vào nhà thƣa với cha rằng:

- Thƣa cha! Bên ngoài có ngƣời gõ cửa gọi, ngƣời đó chính là chồng con đấy!

Ông Ca Tỳ Lê mở cửa bƣớc ra, thấy cậu tƣớng mạo oai nghi phi thƣờng, mừng thầm hỏi

rằng:

- Cậu tới đây có việc chi?

- Thƣa Trƣởng giả! Tôi vì lòng thƣơng dân đói khát, đi ra biển tìm ngọc châu về phân cấp

cho họ, không may đi nữa đƣờng gặp bọn cƣớp lấy hết lƣơng thực, muốn phiền Trƣởng

Giả cho vay ba ngàn lạng vàng, lúc trở về xin trả!

Ông vui vẻ nói:

- Mời cậu vào chơi, không khó, tôi xin cho cậu mƣợn ba ngàn hoặc mƣời ngàn, nhà tôi

cũng sẵn.

Ông vào kho lấy vàng, dắt con gái đi theo, vừa cƣời vừa nói:

219

- Tôi xin tặng số vàng này cho cậu; đây là con gái tôi, nhiều Vƣơng Tử đến hỏi nhƣng tôi

không gả. Hôm nay gặp cậu tôi rất vui lòng! Con gái tôi nó đồng ý kết duyên với cậu.

Vậy cậu có nhận lời nói đây? Xin cho biết.

- Dạ! Thƣa Trƣởng Giả, hiện nay tôi đi ra biển, tai nạn nguy hiểm nhiều, có ngày đi

không biết có ngày về, giờ nhận lời với ông, một ngày gần đây bị tai nạn, băng mình

trong biển cả! Sai lời hẹn thì làm thế nào?

- Không sao! Nếu cậu đƣợc tốt lành trở về, thì xin nhận lời hứa!

Ông vui vẻ đƣa cho cậu ba ngàn lạng vàng, và rất nhiều các thực phẩm khác. Cậu cảm ơn

ông, rồi từ biệt lên đƣờng đi.

Đƣa vàng về, cậu bảo các ngƣời theo, đi mua thuyền tốt, dày bảy lần ván, để chống đỡ

với sóng gió.

Mua thuyền xong, cột bằng bảy cái dây.

Đại Thí lắc chuông, lớn tiếng nói:

- Các bạn lắng tai nghe! Chú ý! Chú ý, đi biển nhiều nguy hiểm, nào hắc phong, quỷ La

Sát, ác phong, độc khí, thuỷ hắc, núi đá, cá Ma Kiệt, tai nạn rất nhiều. Các bạn đi cùng

tôi! Tới đây, ai muốn về, thì ở lại, kẻo đến khi gặp tai nạn, lúc ấy dầu có hối cũng không

đƣợc; còn ai vững lòng bền chí, không tiếc thân mạng, vợ con, anh em, cha mẹ thì đi.

Trái lại, nếu đƣợc an toàn trở về, tiền của con cháu bảy đời ăn không hết.

Nói xong, cắt một dây; cứ nhƣ thế, mỗi ngày tuyên bố một lần, lại cắt một dây; bảy ngày

cắt hết bảy dây, thuyền bắt đầu đi, trƣơng buồm thuận gió, thuyền chạy nhƣ bay.

Qua một thời gian khá lâu, mới đến chỗ có nhiều ngọc châu và vàng bạc.

Đại Thí là ngƣời tinh anh, học rộng, biết rành các thứ ngọc châu: thứ nặng, thứ nhẹ, hạng

quý, hạng thƣờng, hình sắc tốt hay xấu, để chỉ bảo cho mọi ngƣời lấy, và dặn lấy vừa

phải đừng tham, sợ nặng bị đắm thuyền; nếu lấy ít thì không bõ công đi.

Anh em chăm chú lấy xong, khi sắp ra về, Đại Thí không muốn lên thuyền, anh em hỏi:

- Thƣa cậu! Các thứ ngọc châu, bảo vật, chúng tôi lấy cho xuống thuyền đã đầy đủ, mời

cậu lên thuyền đi về!

- Các bạn hãy về trƣớc! Giờ đây tôi muốn đến điện vua Long Vƣơng, để xin ngọc Nhƣ Ý,

thì có thể bố thí cho chúng sinh toàn cõi Diêm Phù Đề đƣợc. Tôi cƣơng quyết đi, nếu

không xin đƣợc tôi quyết không về!

220

- Thƣa cậu! Chúng tôi nhờ sự mạo hiểm và cƣơng quyết của cậu mà ra tới đây, lấy đƣợc

nhiều bảo vật, châu ngọc, mong đƣợc hoàn toàn trở về, bây giờ cậu lại bỏ rơi lũ chúng tôi

mà đi một mình, chúng tôi rất không bằng lòng! Yêu cầu cậu trở về cùng chúng tôi.

- Thôi, các bạn cứ an tâm, tôi sẽ cầu nguyện cho các bạn đƣợc an lành trở về nƣớc nhà,

sung sƣớng cùng cha mẹ vợ con, riêng tôi các bạn không lo!

Toàn thể anh em ai cũng buồn! Họ đều chắp tay, cầu chúc cậu đi đƣợc tốt lành, và xin giã

biệt trở về.

Buồm đã trƣơng, những chiếc thuyền từ từ quay mũi. Anh em đứng trên thuyền nhìn cậu

mà rớt nƣớc mắt!

Thuyền đã chạy xa xa, bóng mờ mờ ngoài biển. Đại Thí dâng hƣơng lễ mƣời phƣơng chƣ

Phật lập thề rằng:

- Kính lạy thập phƣơng Đại Giác từ bi chứng giám! Con không quản đƣờng xa dặm thẳm,

nguy hiểm khó khăn, vào biển tìm châu để cứu tế quần sinh, qua khỏi nạn đói khát, khốn

khổ! Nguyện đem công đức này, cầu thành Phật, xin dốc một lòng thành kính, cho lời thề

nguyện của con đƣợc thành tựu, và những ngƣời này đƣợc an lành, về không gặp các tai

nạn.

Đại Thí ra đi ngày thứ nhất, nƣớc ngập đến đầu gối; đi trong bảy ngày nƣớc sâu đến tận

mông; đi bảy ngày nƣớc đến ngang lƣng; bảy ngày nữa nƣớc ngập tới cổ; bơi bảy ngày

nữa tới một quả núi. Đại Thí bẻ hai cành cây làm gậy chống, để leo núi; leo bảy ngày tới

ngọn, đi bảy ngày trên đỉnh núi ấy, rồi lại trở xuống; suốt bảy ngày đến chân núi, tới một

ven nƣớc, dƣới nƣớc có hoa sen sắc vàng, lại có các con rắn độc nằm trên hoa, hoặc trên

ngó.

Đại Thí thấy vậy, ngồi kết vòng tròn ngay ngắn, hệ tâm nhiếp niệm, nhập phép quán từ bi

tam muội. Nghĩ tới những con rắn này, do kiếp trƣớc tạo nghiệp sân nộ ghét ghen, nên

đọa sinh ở nơi đây, chịu thân hình độc ác xấu xa. Bởi lòng từ bi của Đại Thí giao cảm,

nên những con rắn đó, đƣợc hết nọc đọc.

Đại Thí đứng dậy đi trên những bông hoa ấy suốt bảy ngày thoát nạn rắn độc, nhìn trƣớc

mặt xa xa, thấy những con quỷ La Sát, vì chúng ngửi thấy hơi ngƣời mà tìm lại. Thấy thế,

Đại Thí nhiếp tâm niệm nhập phép Từ Bi quán; nhờ phép quán ấy, nên các con quỷ tự

phát tâm cung kính, vui vẻ tới gần hỏi:

- Bồ tát ở đâu tới đây?

- Thƣa Ngài, tôi đi tìm ngọc Nhƣ Ý!

Quỷ vui vẻ, nghĩ nhƣ vầy:

221

- Ngƣời này có phúc đức đi đến chỗ vua Long Vƣơng, nhƣng hãy còn xa, làm sao đi nổi?

Vậy chúng ta hãy đƣa giúp, qua chỗ nguy hiểm này.

Nghĩ rồi, chúng dùng lực thần của quỷ, đƣa Đại Thí qua bốn trăm do tuần, rồi trở về.

Tới đây, Đại Thí ngắm thẳng đƣờng đi, thấy một cái thành lớn bằng bạc, sáng quắc nhƣ

mặt trời. Đại Thí biết đích thành này của Long Vƣơng, vui vẻ đi thẳng vào, thấy bên

ngoài thành có bảy lần hào nhiễu quanh, trong hào thuần rắn độc coi rất ghê sợ!

Đại Thí tự nghĩ: - Những con rắn này lúc tiền sinh, ác tâm nộ hại nhiều, nên nay phải đọa

làm rắn, chịu thân hình cực ác.

Đem lòng từ bi thƣơng xót, thì các con rắn ấy tự nhiên lẩn mất. Đại Thí đi thẳng vào

thành. Ở cổng thành thấy có hai con rồn cuộn khúc, hai đầu giao nhau, dáng nhƣ cánh

cửa. Thấy Đại Thí vào, chúng ngóc đầu nhìn. Đại Thí nhập Từ Bi quán; Rồng cúi đầu

không dám ngó nữa. Đại Thí bƣớc lên đầu Rồng đi vào.

Giữa lúc vua Long Vƣơng đƣơng ngồi ở điện Thất Bảo, nhìn thấy có ngƣời vào lấy làm

ngạc nhiên, thầm nghĩ:

- Thành của ta có bảy lần hào lũy, trong hào có rất nhiều Rắn độc, ngoài ra lại còn có các

loài độc Long, Quỷ Dạ Xoa; ngƣời này làm sao vào đƣợc? Chắc họ có đức lớn!

Vua Long Vƣơng phát khởi lòng cung kính, đón chào hỏi han, mời ngồi giƣờng thất bảo,

đem các món ăn ngon ra thết đãi. Ăn xong, vua Long Vƣơng hỏi rằng:

- Ngài tới đây có chuyện gì cần thiết không?

- Thƣa Long Vƣơng! Nhân dân trên cõi Diêm Phù Đề, nghèo đói đau khổ! Do cơm ăn, áo

mặc mà tạo các nghiệp ác, nhƣ: sát sanh, trộm cắp, nói dối, lừa bịp lẫn nhau, bởi thế chết

đọa vào ba ngả ác. Tôi vì lòng thƣơng! Muốn cứu chúng sinh, nên không quản đƣờng xa

dặm thẳm tới đây yết kiến Đại Vƣơng để xin viên ngọc Nhƣ Ý về cứu giúp dân chúng,

mong Đại Vƣơng mở lƣợng từ bi bố thí cho!

- Dạ, ngọc Nhƣ Ý là một vật quý nhất, Ngài tới đây cũng là một công phu mạo hiểm quên

thân; tôi đâu dám từ chối, nhƣng xin Ngài lƣu tâm ở lại đây một tháng; nhận chút cúng

dàng mọn của tôi, và thuyết Pháp cho tôi nghe, thì tôi xin biếu Ngài!

- Dạ, quý hóa! Đại Vƣơng có lòng cố lƣu, và muốn nghe thuyết Pháp, tôi xin ở nán lại,

không dám từ chối.

Vua Long Vƣơng ngày ngày cúng dàng rất trịnh trọng, dâng đủ các món ngoan lạ dƣới

Long cung. Trong giờ ăn, các nhạc sĩ, vũ nữ, múa hát cúng dàng, gảy những cung đàn rất

tuyệt! Ca những bài hát cực hay!

222

Đại Thí dùng biện tài vô ngại, giảng thuyết pháp Tứ Niệm Xứ cho Vua nghe. Hết một

tháng, từ biệt lên đƣờng. Vua Long Vƣơng lấy ngọc Nhƣ Ý trong búi tóc ra tặng, và nói

rằng:

- Đại Thí có lòng từ bi rộng lớn, tâm chí mãnh liệt, quyết định thành Phật. Sau khi Ngài

đƣợc thành Phật. Tôi xin làm một để tử trí tuệ!

- Quý hóa! Thƣa Long Vƣơng, ngọc này có năng lực thế nào?

- Dạ! Thƣa Đại Thí, ngọc này có năng lực làm mƣa trong hai ngàn do tuần vuông bốn

mặt; nƣớc mƣa ấy hóa ra những món chúng sinh cần dùng trong đời sống.

Đại Thí hoan hỷ đỡ lấy ngọc, rồi thầm nghĩ:

- Hạt ngọc này tuy quý thực, nhƣng chỉ có hạn định, chƣa cứu tế cho chúng sinh đƣợc

nhiều, nhƣ ý nguyện của ta đã định.

Vua Long Vƣơng và quần thần, đƣa chân ra ngoài cổng thành; Đại Thí từ tạ bƣớc lên

đƣờng. Đi đƣợc ít lâu, tới một cái thành, thuần bằng lƣu ly xanh, ngoài thành có bảy lần

hào vây xung quanh, trong hào có rất nhiều rắn độc.

Đại Thí thầm nghĩ nhƣ vầy:

- Những con rắn này, lúc tiền sinh tạo nhiều sân si tật đố, nên phải chịu thân hình xấu ác

nhƣ vậy.

Nghĩ xong, ngồi ngay nghiêm nhập phép Từ Bi Quán, vì thƣơng chúng đau khổ. Lòng từ

bi lan cảm, làm cho bạt hết tâm độc của chúng.

Đại Thí đứng dậy, bƣớc lên đầu những con rắn ấy, đi thẳng vào cổng thành; thấy hai con

rồng, mình cuộn quanh thành, hai đầu giao nhau ở trƣớc cửa, cũng nhƣ cách canh gác.

Rồng thấy ngƣời, ngóc đầu, nháo mắt, nhìn một cách ác liệt.

Đại Thí liền nhập quán Đại Bi; Từ Tâm thông cảm. Rồng gục đầu, biểu lộ một vẻ hiền

lành. Đại Thí tiến bƣớc vào trong.

Vua Long Vƣơng đƣơng ngồi ở điện Thất Bảo, nhìn thấy có ngƣời vào, thầm nghĩ nhƣ

vầy:

- Quái sao? Ngài thành có bảy lần hào, nào những Rắn độc, Rồng độc, quỷ Dạ Xoa, khó

đi nhƣ thế, mà ngƣời này vào đây đƣợc? Chắc họ có đức lớn, không phải ngƣời thƣờng!

Nghĩ xong, đứng lên ra đón chào hỏi han, rất kính cẩn, mời lên bảo điện ngồi tòa thất

bảo, đem các món ngon quý ra thết đãi. Ăn xong, niềm nở nói chuyện, và hỏi:

Ngài ở đâu đến đây, có chuyện gì cần thiết không?

223

- Thƣa Đại Vƣơng! Tôi ở Châu Diêm Phù Đề, xuống đây để xin ngài hạt ngọc Nhƣ Ý!

- Thƣa Ngài, ngọc Nhƣ Ý hiếm có lắm! Nếu Ngài muốn dùng xin ở lại đây hai tháng,

giảng thuyết hạnh Bồ Tát và nhậm chút cúng dàng của chúng tôi.

- Dạ, quý hóa! Nếu Đại Vƣơng có tâm mến mộ vô thƣợng Pháp Bảo của chƣ Phật, việc

đó tôi xin thành kính, giảng giải.

Vua Long Vƣơng sai bày tòa cao, mỗi ngày hai thời thỉnh thuyết Pháp, và sửa trai nghi

cúng dàng rất trịnh trọng.

Đại Thí dùng vô ngại biện tài, phân biệt nói về "Tứ Thần Túc", hết hai tháng từ biệt ra về.

Vua Long Vƣơng lấy ngọc Nhƣ Ý ra tặng và phát nguyện rằng:

- Đại Thí Từ Tâm phổ tế quần sinh, quảng đại vô biên, quyết đƣợc thành Phật, khi đó tôi

nguyện làm một thần túc đệ tử.

- Dạ, hay lắm! Đại Vƣơng nguyện nhƣ vậy, sẽ đƣợc thành tựu! Còn viên ngọc này có

năng lực thế nào?

- Thƣa Đại Thí! Viên ngọc này có năng lực làm mƣa tất cả các món ăn dùng của chúng

sinh, quy vuông bốn ngàn do tuần?

Đại Thí hoan hỷ, nhận lấy viên ngọc, rồi tự nghĩ rằng:

- Hòn ngọc này tuy cũng khá nhƣng chƣa xứng ý của ta đã định!

Vua Long Vƣơng và quần thần tiễn chân ra ngoài cổng thành, chờ đi xa mới trở về.

Đại Thí đi chƣa đƣợc bao lâu, thấy một cái thành bằng vàng, rất mỹ quan, sáng rực một

trăm dặm, tới gần thấy bảy lần hào vây quanh, trong hào có rất nhiều rắn độc. Đại Thí

thầm nghĩ:

- Những con rắn này, do đời trƣớc đây tâm ác độc, ghen ghét nộ hại, nên phải chịu thân

độc ác nhƣ vậy!

Nghĩ xong nhập Từ Tâm ái niệm, đánh bạt ác tâm rắn độc, chúng nằm rạp xuống, Đại Thí

bƣớc lên trên mà đi, tới cổng, thấy hai con Rồng cuộn khúc quanh thành hai đầu giao

nhau, gác hai bên cổng, thấy ngƣời, chúng ngóc cổ trố mắt nhìn một các ác nghiệt.

Đại Thí liền nhập quán Từ Bi; Rồng cúi đầu, Ngài bƣớc vào trong cổng.

Lúc đó vua Long Vƣơng đƣơng ngồi ở bảo điện thấy ngƣời vào, ngạc nhiên, thầm nghĩ:

224

- Ngoài thành có bảy lần hào vây quanh, nào Rắn độc, Rồng độc, quỷ Dạ Xoa, khó khăn

nhƣ thế mà sao ngƣời này vào đƣợc? Chắc họ có đức lớn!

Nghĩ thế rồi khởi lòng tôn trọng kính cẩn, bƣớc ra đón tiếp hỏi han, rồi mời Ngài vào

điện, ngồi tòa thất bảo, đem các món ăn ngon quý dƣới Long Cung thết đãi rất trịnh

trọng. Ăn xong vua hỏi:

- Ngài ở đâu tới đây? Và có cần dùng việc gì không?

- Dạ, thƣa Đại Vƣơng! Chúng sinh trên cõi Diêm Phù Đề bạc đức cùng khổ; làm ăn lao

lực, đến nỗi sát hại lẫn nhau, cũng chỉ vì miếng cơm manh áo, hoàn toàn làm mƣời điều

ác, sau khi chết đọa vào ba đƣờng sá xa xôi, bao lần nguy hiểm! Nghe biết Đại Vƣơng có

hạt ngọc Nhƣ Ý, có thể làm cho chúng sinh hết đau khổ, vì thế tới đây xin Ngài, để cứu tế

cho nhân dân.

- Dạ, thƣa Đại Thí! Ngọc Nhƣ Ý là một vật quý nhất dƣới Hải Tạng, nếu Ngài muốn

dùng xin ở lại đây bốn tháng nhận chút cúng dàng, và giảng giải cho chúng tôi đƣợc biết

đạo lý.

- Dạ, nhƣ vậy hay lắm! Nếu Đại Vƣơng muốn nghe giảng thuyết về Chánh Pháp của Nhƣ

Lai, tôi xin thành thực cúng dàng Vô Thƣợng Pháp Bảo!

Vua Long Vƣơng hoan hỷ! Ngày ngày dâng cúng các món ăn ngon quý dƣới Long cung,

lại bắt các nhạc sĩ mỗi ngày hai thời tấu nhạc cúng dàng.

Đại Thí dùng biện tài vô ngại giảng thuyết chân lý cao siêu.

Nhà vua chăm chỉ nghe pháp, chiều sớm ban hôm không để mất thời tiết. Các hàng Long

và quỷ Dạ Xoa, đến xin hầu hạ, lúc tiến, khi lui, tự đặt ra thời giờ phụng sự, trong bốn

tháng rất nghiêm kính và hợp phép tắc.

Hết kỳ bốn tháng từ giã ra về. Vua Long Vƣơng cởi búi tóc lấy hạt ngọc Nhƣ Ý cúng

dàng và thề nguyện rằng:

- Đại Thí hoằng thệ vô biên, Từ Tâm cao cả! Vì thƣơng quần sinh, không quản khó nhọc,

sau này quyết đƣợc thành Phật, tôi nguyện làm Thị Giả một đệ tử tổng trì!

- Quý hóa! Đại nguyện của Ngài sẽ đƣợc thành tựu mau chóng, còn năng lực của hòn

ngọc này nhƣ thế nào?

- Dạ, thƣa Đại Thí! Hạt ngọc này có năng lực, mƣa thất bảo xuống tám ngàn do tuần quy

vuông bốn mặt.

Đại Thí hoan hỷ nhận ngọc rồi tự nghĩ rằng:

225

- Đất Diêm Phù Đề này rộng bảy ngàn do tuần, công năng hạt ngọc này tám ngàn do

tuần, nhƣ vậy mới đạt đƣợc nguyện vọng của ta!

Tất cả ba hạt ngọc đem gói vào góc vạt áo. Cảm tạ Long Vƣơng lên đƣờng. Vua và quần

thần đƣa chân ra khỏi cổng thành.

Đại Thí đi khỏi thành xa xa, để hạt ngọc trên bàn tay khấn rằng:

- Nếu thực hạt ngọc Nhƣ Ý, xin cho tôi bay đƣợc lên hƣ không!

Khấn xong, rƣớn mình bay lên hƣ không tựa nhƣ chim cắt. Một lát bay qua biển, tới bãi,

xuống nghỉ.

Tới đây, Đại Thí nằm ngủ trên bải cát; bãi này có mấy con Rồng biết rằng Đại Thí đi xin

ngọc của vua Long Vƣơng về, chúng khởi tâm tham; thừa cơ Đại Thí ngủ cởi trộm, lặn

xuống bể mất.

Đại Thí thấy động, mở choàng mắt ra, nhìn không thấy ngƣời, mất ba viên ngọc, nghĩ

nhƣ vầy:

- Ở đây làm gì có ngƣời, mất ba viên ngọc này, chỉ có những con Rồng lấy của ta thôi! Ta

mất bao công trình lao khổ mới đƣợc, đem về cứu chúng sinh cho mãn nguyện bố thí của

ta; lũ bây lấy của ta, ta thề nếu không lấy lại đƣợc, quyết định không về, ta sẽ tát cho hết

nƣớc để bắt lũ bay, đầu chết cũng cam tâm, chứ chẳng chịu về không!

Vừa đi vừa nói trên bãi biển, bắt đƣợc cái mai rừa.

Ông Thần Biển hiện lên nói rằng:

- Biển này sâu ba trăm ba mƣơi sáu muôn dặm, dầu cho tất cả toàn cõi Diêm Phù Đề tát

cũng không thể cạn nổi, huống một mình ông tát gì đƣợc?

Đáp: - Ông nên biết: ai cƣơng quyết làm việc gì, thì việc ấy sẽ thành công. Tôi đi tìm hạt

ngọc Nhƣ Ý, để giúp ích cho nhân loại, khó đến nhƣ thế, mà tôi cƣơng quyết không lui

chí hƣớng, để cầu thành Phật, thì việc tát bể đã lấy gì khó hơn.

Khi đó có một ngƣời ở cõi Trời Tịnh Cƣ, thấy Đại Thí nhất thân nhất ý với bao công trình

khó nhọc, để cứu tế chúng sinh, bị Rồng ăn cắp ngọc, ông gọi một số đông ngƣời ẩn hình

đến giúp việc tát biển.

Cứ mỗi khi Đại Thí múc nƣớc, thì các ông ấy lấy áo cõi Trời, nhúng xuống biển, rồi lại

đem áo vắt nƣớc đi nơi khác. Cứ mỗi lần Đại Thí múc nƣớc nhƣ vậy, thì nƣớc biển cạn đi

bốn mƣơi dặm; hai lần múc, cạn tám mƣơi dặm; ba lần múc cạn một trăm hai mƣơi dặm.

Thấy cạn nƣớc nhiều quá, mấy con Rồng ăn cắp sợ hãi! Lên tận nơi nói rằng:

226

- Thôi! Thôi! Đại Thí đừng múc nƣớc nữa! Đại Thí dùng hạt ngọc này để làm gì?

- Dùng để cứu cấp cho tất cả chúng sinh, Châu Diêm Phù Đề!

- Theo nhƣ lời Đại Thí nói; thì chúng tôi ở trong biển này nhiều lắm, sao Ngài không cho

chúng tôi, lại lấy đi?

- Trong biển này tuy có chúng sinh, nhƣng không bị đau khổ nhƣ chúng sinh Châu Diêm

Phù Đề, vì miếng ăn manh mặc mà sát hại lẫn nhau, lừa bịp, dối trá lẫn nhau, tạo đủ mƣời

điều ác, chết đọa xuống tam đồ ác đạo, ta muốn cho họ hiểu đƣợc Pháp ấy, nên xuống

đây xin ngọc, trƣớc cho họ ăn mặc đầy đủ, sau cho họ tu theo mƣời điều lành (Thập

Thiện).

Rồng nghe xong, đem ba hạt ngọc Nhƣ Ý trả lại.

Khi đó ông Thần Biển thấy Ngài tinh tiến cứng rắn nhƣ vậy, đối trƣớc Ngài lập thệ

nguyện rằng:

- Đại Thí tinh tiến nhƣ thế, quyết định đƣợc thành Phật, khi đó tôi nguyện làm một tinh

tiến đệ tử!

Nhận hạt châu rồi bay lên hƣ không, một lát gặp các ngƣời cùng đi với mình, đáp xuống.

Các ngƣời đó nhìn thấy Đại Thí vừa ngạc nhiên vừa vui mừng! Hỏi rằng:

- Cậu ở đâu tới đây? Thật là vô cùng sung sƣớng, hôm nay lại gặp đƣợc ông bạn chí thân.

Nói xong tay bắt mặt mừng, cùng nhau về tới nƣớc Phóng Bát.

Ông Ca Tỳ Lê đƣợc tin Đại Thí ra biển tốt lành trở về, vui vẻ ra đón chào hỏi han niềm

nở, rồi mời tất cả về đãi ăn.

Ăn xong nói chuyện những công việc hành lộ vừa qua, rất là vui vẻ! Đại Thí đƣa ngọc

Nhƣ Ý chỉ vào các kho tàng, thì những kho tàng nhà ông đều đầy dẫy vàng bạc ngọc ngà,

trân bảo. Mọi ngƣời đều tắc lƣỡi khen lạ!

Ông Ca Tỳ Lê trang điểm cho con gái đẹp đẽ, trƣớc rửa tay, sau dắt con gái giao cho Đại

Thí!

Khi ra về, ông cho năm trăm ngƣời kỹ nữ có đủ tài năng, và năm trăm bạch tƣợng theo

hầu con gái.

Đại Thí giao cho các bạn cỡi voi lên đƣờng về nƣớc nhà; hôm ấy cuộc tiễn chân rất là náo

nhiệt! Rất vui vẻ! Tiếng hay đồn khắp muôn phƣơng.

Từ khi Đại Thí đi, cha mẹ ở nhà, quá thƣơng, khóc nhớ! Đêm ngày sầu khổ! Đến nỗi lòa

cả đôi mắt.

227

Đại Thí ra lễ cha mẹ, và hỏi han sức khỏe, cùng các công việc nhà.

Ông bà mừng quá! Vì lòa không nhìn thấy con, lấy tay xoa đầu vuốt mặt một cách nồng

nhiệt, nói rằng:

- Con nỡ bỏ cha mẹ đi xa xôi từ bấy đến nay, để cha mẹ ở nhà thƣơng nhớ. Vậy con vào

biển đƣợc những bảo vật gì?

- Dạ, thƣa cha! Con xin vua Long Vƣơng đƣợc hạt ngọc Nhƣ Ý, cha cầm thử xem có quý

không?

Ông đỡ lấy rồi nói rằng:

- Hòn đá này trong kho của nhà ta, nào có thiếu chi; thế mà con liều thân hoại thể, trải

bao tân khổ nơi biển cả với ba đào hiểm trở, lấy về đây làm gì?

Đại Thí cầm hạt châu chỉ vào mắt ông bà, tự nhiên cặp mắt trông sáng hơn xƣa, cũng nhƣ

một cơn gió thổi tan mây khói, bóng bình minh sáng giữa không gian. Ông bà đƣợc cặp

mắt sáng tinh, cảm niệm lực oai thần của hạt ngọc châu vô biên công đức! Rồi nói:

- Quý hóa! Con tuy chịu đau khổ nhƣng cũng không luống cống.

Đại Thí lại dâng hạt châu lên nguyện rằng:

- Nguyện xin tòa ngồi của cha mẹ tôi biến thành tòa Thất Bảo vào có tán Thất Bảo che

trên!

Nguyện xong liền đƣợc nhƣ ý ngay.

Lại nguyện rằng: - Nguyện cho kho tàng của cha mẹ tôi, và vua quan, dân chúng đầy chật

vàng bạc, của báu!

Nguyện xong, tất cả toàn quốc từ vua chí dân, nhà nào cũng có rất nhiều vàng, bạc, ngọc,

ngà của cải.

Thấy thế ai cũng ngạc nhiên và vui mừng!

Sau thời gian này, Đại Thí sai ngƣời cỡi voi đi tám ngàn dặm báo cáo cho toàn thể quốc

dân biết rằng:

- Cậu Đại Thí ra biển đƣợc tốt lành trở về, sau bảy ngày nữa, ngọc Nhƣ Ý sẽ mƣa xuống

tất cả áo mặc, thức ăn uống, tuỳ theo ai muốn dùng gì cũng đƣợc nhƣ ý.

Nhƣng nhân dân trai giới thanh tịnh và thành kính mới đƣợc hƣởng phúc vô biên ấy!

228

Đến ngày thứ bảy, Đại Thí tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới; rồi đi đến một khu đất bằng

phẳng cao rộng, để hạt ngọc Nhƣ Ý trên đầu ngọn phƣớn cao, tay cầm lƣ hƣơng nguyện

rằng:

- Tất cả chúng sinh trong cõi Diêm Phù Đề bần cùng tân khổ, tôi muốn cứu họ khỏi sự

thiếu thốn, nếu thực là ngọc Nhƣ Ý, thì xin lần lƣợt, mƣa xuống những món cần về đời

sống của chúng sinh!

Lời cầu nguyện vừa xong, bốn phƣơng mây kéo râm mát, một làn gió thổi mạnh làm tiêu

tan tất cả những vật nhơ bẩn trên mặt đất, sau mƣa qua một lƣợt cho sạch bụi, rồi bay

xuống các món ăn ngon lành, tiếp tục năm thứ thóc rơi đầy mặt đất, quần áo, lụa vải,

vàng bạc khắp nhân gian đầy dẫy.

Từ đây toàn cõi Diêm Phù Đề, nhà nào cũng đầy kho vàng bạc, lƣu ly, kim cƣơng, thức

ăn, áo mặc thừa thãi.

Vì nhiều quá, nên bấy giờ họ coi vàng bạc, kim cƣơng nhƣ đất đá, vô giá trị.

Đại Thí thấy dân đã đầy đủ các nguyện vọng, bèn sai ngƣời đi báo cáo cho toàn cõi Diêm

Phù Đề biết rằng:

- Tất cả dân chúng trƣớc đây, bị thiếu thốn về áo mặc thức ăn uống, châu bảo, vì thế sát

hại lẫn nhau, thấy lợi quên nghĩa, không e dè tội phúc, chết đọa vào tam đồ ác đạo, cũng

nhƣ ngƣời từ chỗ tối, lại đi vô chỗ tối thêm, đày đọa tội khổ nhiều kiếp lâu dài. Tôi

thƣờng thƣơng xót không ngƣời cứu tế, vì thế mà tôi quên mình dấn thân nơi biển cả, trải

bao sự khó khăn gian hiểm lấy đƣợc viện ngọc Nhƣ Ý, về cung cấp cho toàn thể quốc dân

đầy đủ sung sƣớng! Giờ đây tôi mong tất cả nhân dân, gắng sức tu mƣời điều lành, giữ

gìn thân, miệng, ý và có nhân từ, hiếu thảo, chớ nên phóng túng mới mong thoát khỏi ba

đƣờng ác, đời đời đƣợc sinh Nhân Thiên, phú quý tự tại tu chứng đạo Bồ Đề.

Sau viết thƣ cho vua quan các nƣớc khuyên dân tu theo pháp Thập Thiện, ngoài ra còn

dùng nhiều phƣơng tiện dìu dắt chúng sinh, cải tà quy chính, bỏ ác làm lành.

Thuở đó tất cả nhân dân, trên Châu Diêm Phù Đề, đƣợc nhờ ơn Đại Thí đầy đủ về vật

chất, với tinh thần khuyên tu Thập Thiện. Họ nghĩ không biết lấy gì đền đáp ơn cao cả

ấy; họ chỉ biết tuân theo lời giáo hóa tu Thập Thiện, và chuyên rèn luyện lòng từ bi

khiêm nhƣợng, giữ gìn thân, miệng, ý thanh tịnh, để trả ơn ông Đại Thí. Sau khi mạng

chung đều đƣợc sinh về các tầng Trời cả.

Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:

- Xá Lợi Phất! Ông nên biết: ông Ni Câu Lƣ Đà thuở đó, chính là cha ta (Tinh Phạn), bà

sinh Đại Thí đó, nay là mẹ của ta (Ma Gia), còn ông Đại Thí chính là thiền thân của ta;

ông vua Long Vƣơng ở thành bằng bạc, nay là ông Xá Lợi Phất; vua Long Vƣơng ở

thành lƣu ly nay là ông Mục Kiền Liên; ông Long Vƣơng ở thành bằng vàng, nay là ông

A Nan; ông Thần Bể nay là ông Ly Việt.

229

Ông A Nan khi đó làm Long Vƣơng thết đãi ta một cách khiêm kính, khéo biết thời nghi,

ngày nay cũng muốn hầu ta, cho đú鮧 thời tiết; ông ƣng đƣợc ba nguyện ấy, là tùy ý

muốn của ông.

Tôi rất hoan hỷ, khi đức Phật nói lại thuở tiền sinh, nên tôi liền đứng dậy, tới trƣớc quỳ

thẳng, chắp tay bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Con xin thân hành thọ làm Thị Giả, cúi xin Ngài từ bi hứa khả

cho!

Tất cả mọi ngƣời lúc đó ai nấy đều cảm niệm ơn đức lớn lao của Phật đã quên mình vì

chúng sinh, rồi ngồi ngay nghiệm suy xét pháp Tứ Đế. Sau có ngƣời đắc quả Tu Đà

Hoàn, cho đến quả A La Hán, cũng có ngƣời đắc nhân Bích Chi Phật, cũng có ngƣời phát

tâm cầu đạo Vô Thƣợng Bồ Đề, có ngƣời dự ngôi Bất Thoát, tất cả đều vui mừng tạ lễ mà

lui

---o0o---

Phẩm thứ bốn mƣơi : A NAN TỔNG TRÌ

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn Cấp Cô Độc, rặng cây

của Thái Tử Kỳ Đà.

Vào thời bấy giờ tôi là một ngƣời thông mình nhất, có trí nhớ nhất, nên các vị Tỷ Khƣu

sanh lòng nghĩ nhƣ vầy:

- Không rõ ông A Nan đời quá khứ làm công đức gì? Mà nay đƣợc Tổng trì? Nghe Phật

nói đến đâu là nhớ đến đó, không quên một câu!

Các vị nghĩ thế rồi lên bạch Phật rằng:

- Kính đức Thế Tôn! Ông A Nan đời trƣớc có công đức gì? Kiếp này đƣợc vô lƣợng

Tổng Trì nhƣ vậy? Cúi xin Ngài dạy bảo cho chúng con đƣợc rõ?

Phật: - Hay lắm! Các ông muốn biết phúc đức Tổng trì của ông A Nan, hãy để ý nghe cho

kỹ! Đây cũng là một đời thuộc kiếp quá khứ, có một vị Tỷ Khƣu nuôi một bác Sa Di,

ngày ngày bắt bác ấy, phải chăm tụng kinh và đúng thời khóa. Nếu bác tụng niệm thời

khóa đầy đủ thì ông vui! Nếu trễ, hoặc tụng thiếu sót, không đủ thời khóa, thì ông buồn,

và quở trách!

Nhƣ thế nên bác Sa Di, lúc nào cũng lo và buồn vì đƣợc ăn thì mất tụng; đƣợc tụng thì

mất ăn. Hôm nào đi khất thực về sớm thì tụng niệm đủ khóa, hôm muộn thì mất khóa

tụng kinh.

230

Không may ngày hôm đó ngƣời dân ít cúng dàng, nên phải đi mãi gần trƣa mà chƣa đủ

hai thầy trò ăn, thành ra trễ khóa bị thầy mắng! Ngày hôm sau buồn quá, vừa đi vừa

khóc!

Ông trƣởng giả thấy thế hỏi rằng:

- Tại sao sƣ bác khóc thế?

- Thƣa trƣởng giả! Thầy tôi nghiêm khắc quá! Ngày ngày bắt tôi tụng kinh định hạn theo

thời khóa; nếu hôm nào tụng đủ thời khóa thì Ngài hoan hỷ! Nếu thiếu trễ thì bẳn gắt. Vì

đi khất thực không có nhất định, hôm nào ngƣời dân cúng dàng đông, thì về sớm, tụng

niệm thời khóa đầy đủ; hôm nào ngƣời dân ít cúng dàng, phải đi mãi, về đến chùa bị trễ,

thiếu khóa tụng kinh, vì thế nên tôi khóc?

Trƣởng giả nói: Vậy từ ngày hôm nay trở đi, sƣ bác cứ đến nhà tôi, tôi xin cúng dàng đầy

đủ để khỏi lo việc ăn uống, cứ việc chuyên tâm tụng kinh tu học!

Từ đó sƣ bác đƣợc cúng dàng đầy đủ của ông trƣởng giả, hàng ngày chuyên tâm tụng

kinh tu học, thời khóa lễ niệm hoàn toàn, cả hai thầy trò đều vui vẻ!

Phật nhắc lại rằng:

- Tỷ Khƣu các ông nên biết! Ông thầy của bác Sa Di khi đó, là đức Phật Định Quang, còn

bác Sa Di là tiền thân của ta, ông trƣởng giả cúng dàng hằng ngày, nay là ông A Nan.

Do thời quá khứ ông làm hạnh tụng kinh, nên kiếp này đƣợc phúc báo Tổng trì không

quên một câu kinh, hay một bài kệ, cho đến một chữ; do ta tuyên giảng chánh pháp. Bấy

giờ các vị Tỷ Khƣu nghe Phật nói xong, ai nấy đều vui vẻ! Khát ngƣỡng công đức trì

tụng, và cúng dàng cúi đầu tạ lễ mà lui.

---o0o---

Phẩm thứ bốn mƣơi mốt : ƢU BÀ TƢ

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời ở nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn Cấp Cô Độc, cây của Kỳ Đà.

Thuở đó nƣớc La Duyệt Kỳ có hai anh em ngƣời lái buôn, cùng ở một nơi. Ngƣời anh hỏi

con gái ông Trƣởng Giả, nhƣng cô ấy hãy còn ít tuổi, nên chƣa cho xin cƣới.

Vì sự sinh kế cho đời, nên ngƣời anh ra nƣớc ngoài buôn bán, không biết vì lý do gì mà

lâu năm không về. Cô con ông Trƣởng Giả đã lớn, chờ đợi sợ muộn xuân, tục thƣờng

nói:

"Trai trẻ mãi, gái có thời".

231

Nên ông Trƣởng giả gọi cậu em đến bảo rằng:

- Anh của chú đi xa, chắc chết rồi nên không thấy về, vậy tôi gả con gái tôi cho chú, ý

chú nghĩ sao?

- Dạ, thƣa Trƣởng giả! Không đƣợc! Anh tôi hãy còn sống và tôi không bao giờ làm

những chuyện kỳ quặc nhƣ vậy!

Từ đó trở đi, ông Trƣởng giả luôn luôn thúc đẩy phải lấy con gái ông, nhƣng anh vẫn

kiên nhẫn không nghe.

Ông bất đắc dĩ phải mạo ra một lá thƣ, cho ngƣời lái buôn khác mang lại, ý nói rằng:

- Anh của chú đã chết lâu rồi.

Khi bắt đƣợc thơ, mở xem biết rằng anh mình đã chết, đƣơng buồn phiền thƣơng anh!

Thì ông Trƣởng giả đến hỏi:

- Hôm nay tại sao chú buồn thế?

- Thƣa Trƣởng giả, tôi vừa nhận đƣợc tin anh tôi đã chết từ lâu!

- Thôi chú ạ! Sự sinh tử chết sống của con ngƣời là thƣờng! Việc chết thì lo việc chết,

còn việc sống phải lo việc sống! Giờ đây tôi hỏi thực chú: con gái tôi có định kết duyên

với nó thì xin trả lời, bằng không tôi sẽ định liệu cho nó?

Cũng do ông ép uổng quá, nên anh phải nhận lời.

Từ đó trai gái hai ngƣời kết duyên với nhau, chẳng bao lâu cô vợ đã có mang.

Ngƣời em yên trí rằng: Anh mình chết, mình chẳng lấy vợ của anh, thì kẻ khác cũng lấy,

đƣơng cuộc nồng nhiệt yêu nhau của đôi vợ chồng trẻ! Bỗng nhiên đƣợc tin anh ở nƣớc

ngoài trở về, ngƣời em sợ quá! Chạy trốn sang nƣớc Xá Vệ.

Sau khi chạy trốn thì các bạn thân của ngƣời anh lại khám nghiệm té ra cô đã đánh đọa

thai từ lâu.

Ngƣời em tìm đến chốn Phật ngự, thấy Phật anh ta tủi thẹn, cúi đầu lễ dƣới chân, bạch

Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Con tới đây một lòng thành kính, cầu xuất gia tu học, cúi xin

Ngài từ bi tế độ!

Phật hoan hỷ cho nhập làm Sa Môn và cải tên là Ƣu Bà Tƣ, Chăm chỉ tu hành, chẳng bao

lâu đã đắc quả A La Hán, đủ thần thông đạo lực.

232

Ngƣời anh khi về tới nhà, biết em đã lấy vợ của mình, nổi giận hầm hầm đi tìm để giết,

tìm mãi không thấy. Có ngƣời họ mách em anh sang nƣớc Xá Vệ, và đã theo Phật làm Sa

Môn.

Anh ấy bỏ ra năm trăm lƣợng vàng, thuê ngƣời giết, và cùng đi sang nƣớc Xá Vệ, tới nơi

thấy Ƣu Bà Tƣ đƣơng tọa thiền, ngƣời đó tự phát sinh tâm từ bi nghĩ nhƣ vầy:

- Ta nỡ nào giết ông Tỷ Khƣu kia, ông có thù oán gì với ta, nhƣng nếu ta không giết thì

sao lấy đƣợc số vàng này?

Trƣơng cung bắn soành một tiếng, cái tên ấy trúng phải ngƣời anh, kêu la dữ dội oán hận

mà chết, linh hồn đọa sinh làm con rắn độc, ở hố cổng nơi ấy, chờ thời cơ để cắn chết báo

thù; một hôm bò qua ngƣỡng cửa bị cánh cổng khép lại chết mất, tuy chết nhƣng lòng uất

hận chƣa nguôi, nên lại nguyện sinh làm con trùng độc ở ngay phòng Ƣu Bà Tƣ. Chờ khi

Ƣu Bà Tƣ tọa thiền nhảy xuống giữa đỉnh đầu đốt chết.

Trong chúng Đại Khƣu, thấy ông Ƣu Bà Tƣ chết một cách tự nhiên, không hiểu tại sao?

Ngài Xá Lợi Phât biết nguyên uỷ nhƣ vậy, bạch với Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Ƣu Bà Tƣ Tỷ Khƣu hiện đã đắc La Hán quả; còn bị trùng đốt

chết, cúi xin chỉ giáo cho chúng con đƣợc biết nguyên do?

Phật nói: - Xá Lợi Phất ông nên biết: Đây cũng một nghiệp báo từ thời quá khứ; thuở bấy

giờ có một vị Bích Chi Phật tu trong rừng đá đắc quả, một hôm có ngƣời đi săn, đặt lƣới

bắt cầm thú, vị Bích Chi Phật vì lòng thƣơng nhân vật, nên Ngài hóa phép làm cho họ

không bắt đƣợc con nào. Vì thế ngƣời đi săn tức giận, dùng tên độc bắn Ngài. Muốn cho

ngƣời đó khỏi tội báo lâu đời, biết ăn năn tội lỗi của mình, nên Ngài bay lên hƣ không

hiện ra mƣời tám phép thần túc.

Ngƣời đi săn thấy thế, sợ hãi trách mình, sinh lòng kính cẩn tới trƣớc tạ lỗi, cầu xin xá

tội.

Ngài cũng hoan hỷ cho sám hối. Sau khi về nhà bị trùng độc đốt chết, thần hồn đọa

xuống địa ngục; khi hết tội địa ngục trong năm trăm kiếp bị trùng độc mà chết, cho đến

ngày nay đắc đạo A La Hán, còn phải tội bị trùng độc cắn chết. Ngƣời đi săn thuở đó

chính là Tỷ Khƣu Ƣu Bà Tƣ ngày nay, bởi lúc đó ác tâm hại vị Bích Chi Phật, nhƣng lại

biết sám hối, và phát nguyện đời sau đƣợc gặp Thánh Sƣ, tu đắc phép thần túc, bởi thế

đƣợc gặp Ta và đắc đạo quả.

Khi Phật nói xong, Ngài Xá Lợi Phất và tất cả mọi ngƣời trong đại chúng, ai nấy đều sợ

hãi nghiệp báo từ tâm nóng giận phát khởi chuyên lòng khắc ý, tẩy trừ sân hỏa, nguyện

thanh tam độc, vui mừng tạ lễ lui ra

---o0o---

233

Phẩm thứ bốn mƣơi hai : CON NGỘ SÁT CHA

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời ở nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn cây của ông Cấp Cô Độc và

Thái Tử Kỳ Đà.

Thuở đó có một ông lão, vợ chết sớm, nhà nghèo, hai cha con ở với nhau. Tự giác ngộ

thấy đời là vô thƣờng tất cả muôn loài đều bị khổ: sinh, già, bệnh, chết, ƣu sầu, khổ não,

bất luận sang hèn bần tiện, đã có thân tất có khổ, chỉ theo Phật xuất gia là một đặc điểm

giải thoát hơn tất cả.

Vì thế nên hai cha con đến chốn Phật ngự, cúi đầu lễ sát đất bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con một lòng thành kính tới đây, cầu xin xuất gia tu học,

cúi xin Ngài từ bi tế độ!

Phật dạy: Hay lắm! Theo ta tu học phải chăm chỉ mới chóng có kết quả!

- Dạ, lạy đức Thế Tôn, chúng con xin phụng giáo!

Đức Phật ngài cho ngƣời cha thọ Tỷ Khƣu giới, ngƣời con thọ Sa Di Giới.

Cứ nhƣ thế cha con hằng ngày hầu Phật và Tăng, sớm đi khất thực, tối về chùa tụng kinh

tọa thiền.

Một hôm hai cha con đến thôn xa khất thực, gần tối mới ra về qua một khu rừng nhiều

thú dữ, ngƣời con sợ. Nắm tay cha, vừa lôi vừa đun đi cho mau. Cha già sức yếu, bị con

lôi mạnh quá, xảy chân vấp ngã đập đầu vào tảng đá chết mất! Ngƣời con thấy cha chết,

bỏ chạy về một mình. Song cũng không thƣa trình gì với Phật và sƣ Tăng chuyện đó, lặng

yên nhƣ không.

Các vị Tỷ Khƣu không thấy ông già, hỏi Sa Di rằng:

- Cha con đâu? Không thấy ở Tinh Xá?

- Bạch chƣ Đại Đức, hôm qua cha con đi khất thực xa quá đƣờng tối sợ ác thú hổ lang vồ

bắt, nên con đẩy cha đi cho mau, không may cha con trƣợt chân ngã chết mất, lúc đó con

sợ hãi quá chạy về một mình!

Các thầy Tỷ Khƣu mắng rằng:

- Mi là kẻ đại ác, mi giết cha mi, giết sƣ của mi, thế mà từ hôm qua đến nay, cứ lặng yên

không nói chi cả! Không hỏi đến cũng làm thinh!

Rồi quý thầy đem chuyện ấy thƣa với Phật, để lo liệu cho ông.

234

Phật nói: - Tuy có mang danh giết cha, nhƣng nó không có ý ác, là vì không thật tâm định

giết, chỉ là một sự ngộ sát thôi!

Phật hỏi Sa Di rằng:

- Con giết cha con phải không?

- Dạ, lạy đức Thế Tôn, con chỉ có đẩy cha con đi cho mau, chớ không có ý gì ác đối với

cha con, mà thành ra con giết cha con!

Phật dạy: - Con nói phải rồi! Ta biết tâm con không có ác, đời quá khứ cũng nhƣ thế; vì

đời đó cha con cũng giết con; lúc đó cha con cũng không có ý ác, nhƣ thế là do thiện ác,

sự báo ứng trả đáp.

Các thầy Tỷ Khƣu nghe Phật nói xong, thƣa rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Đời quá khứ cha con ông Tỷ Khƣu già này, tại nhân duyên gì

mà giết nhau một cách vô tâm nhƣ vậy, cúi xin Ngài nói lại cho chúng con đƣợc biết?

Phật dạy: - Các ông hãy lắng tai nghe tôi nói: từ đời đó tới đây đã lâu lắm, có hai cha con

ở với nhau, gặp lúc ngƣời cha có bệnh nằm trên giƣờng bị ruồi muỗi làm xúc não, cha

bảo con rằng:

- Con ngồi cầm quạt, đuổi ruồi cho cha!

Ngƣời con đuổi luôn tay, nhƣng hễ ngơi tay đuổi thì ruồi lại đến bâu. Ngƣời con đuổi mãi

giận quá? Đi tìm một cây gậy lớn, chờ cho ruồi đến bậu vào mắt, mặt trán nhiều, giơ gậy

đập vào giữa trán, ngƣời cha vỡ trán, máu chảy đẫm mặt chết tƣơi, thì lúc đó ngƣời con

cũng không chủ tâm giết cha.

Các ông nên biết rằng: Ngƣời con lúc đó nay là ông Tỷ Khƣu già, chính cha là Sa Di bấy

giờ, mà ngƣời cha bị con đập chết thuở đó, nay là Sa Di. Bởi lúc đó vô tình đập chết cha,

chứ không cố định, thì nay trả báo, cũng không cố sát!

Từ đó Sa Di chăm chỉ tu hành chẳng bao lâu đã đắc quả A Na Hàm. Các vị nghe Phật nói

quả báo nhƣ vậy, ai nấy đều tin thực, và biết rằng quả báo không bao giờ xóa nhòa đƣợc,

dầu cho lâu kiếp cũng phải đền trả, mọi ngƣời cúi đầu tạ lễ lui ra

---o0o---

Phẩm thứ bốn mƣơi ba : TU ĐẠT LÀM TINH XÁ

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời Phật ở thành Vƣơng Xá, tại vƣờn Trúc.

235

Khi đó nƣớc Xá Vệ có một ông quan đại thần tên là Tu Đạt, nhà giàu, lại chăm làm hạnh

bố thí, và hay cứu cấp kẻ nghèo khốn cùng khổ, vì thế nên thời bấy giờ ngƣời gọi ông là:

Cấp Cô Độc.

Ông sinh đƣợc bảy ngƣời con trai và đã cƣới vợ cho sáu cậu. Cậu thứ bảy có đầy đủ phúc

đức tài năng, tƣớng ngƣời tốt đẹp, nên ông yêu quý hơn các cậu kia.

Một hôm có ngƣời bạn thân dòng Bà La Môn đến chơi, ông nói rằng:

- Thƣa bác tôi sinh hạ đƣợc bảy cháu trai, đã lập gia đình cho sáu cháu, còn cháu thứ bảy,

muốn nhờ bác, tìm hộ cho cháu, một nơi con nhà thế phiệt có đức hạnh tinh khiết, nết na

hòa nhã, thân tƣớng xinh đẹp.

- Dạ, việc đó tôi xin giúp bác, không khó, vì tôi quen biết nhiều.

Hôm ấy ông sang thành Vƣơng Xá, vào nhà quan Đại Thần tên là Hộ Di khất thực.

Cô con gái ông đƣa món ăn cúng dàng, nhìn thấy con ngƣời có đức hạnh và xinh, nên

ông hỏi cô rằng:

- Thƣa cô, xin lỗi, tôi muốn hỏi thăm cô một lời có đƣợc không?

- Dạ, xin ông cứ việc hỏi, không sao.

- Dầu tốt lành, hay không tốt lành cô đừng buồn nhé!

- Dạ ông cứ hỏi!

- Thế này không phải! Cô đã lập gia đình chƣa?

- Thƣa ông chƣa có, cháu còn đƣơng ở với ba má cháu.

- Đã có ai bỏ cau chƣa à?

- Thƣa ông chƣa có!

- Quan đại thần hôm nay có nhà không?

- Thƣa ông, ba cháu hôm nay ở nhà!

- Cô thƣa với quan lớn, tôi muốn vào thăm quan, và nói câu chuyện.

Cô vào thƣa với quan đại thần rằng:

- Thƣa cha, ngoài có ngƣời Bà La Môn, muốn vào gặp cha thƣa chuyện?

236

Ông ra nhà khách, hai ngƣời gặp nhau, hỏi han vui vẻ! Bà La Môn nói:

- Thƣa Phụ Tƣớng! Ngài có biết ông Tu Đạt làm quan đại thần ở nƣớc Xá Vệ không?

- Thƣa, chƣa gặp ông lần nào; nhƣng có biết tiếng!

- Thƣa, Phụ Tƣớng! Ông nầy nhà giàu nhất nƣớc Xá Vệ; đƣợc ngƣời con trai út, thông

minh tuấn tú, sau này có thể làm lớn, tôi có nhận một lời ông ấy đi kén vợ cho cậu nhƣng

đã đi nhiều nơi. Song chƣa tìm đâu đƣợc ngƣời có thể hợp ý, tình cờ hôm nay vào đây,

thấy con gái của Ngài là một ngƣời đoan chính hơn đời.

Vậy tôi xin mối cho con ông Tu Đạt thì Ngài có vui lòng không?

- Dạ, đƣợc lắm tƣởng nhà ai, chứ nhà ông Tu Đạt tôi rất bằng lòng.

Định về báo tin, nhƣng gặp ngƣời lái buôn về nƣớc Xá Vệ, nên ông biên thơ gởi cho ông

Tu Đạt.

Khi bắt đƣợc thƣ ông vào tâu rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Hạ thần có chút việc bên nƣớc Xá Vệ, xin phép Hoàng Thƣợng đi ít ngày

thu xếp.

- Khanh có việc chi bên đó?

- Tâu Bệ Hạ! Còn thằng cháu thứ bạy, để sang cƣới vợ cho cháu.

- Con nhà ai bên đó?

- Tâu Bệ Hạ! Quan Phụ Tƣớng Hộ Di.

- Trẫm mừng cho Khanh! Đƣợc lắm!

Ông sắm đủ các lễ vật, mang đi rất nhiều vàng bạc. Trong khi đi đƣờng gặp ai nghèo đói

đều cấp tế cho họ.

Khi tới nơi, ông Hộ Di ra tiếp chào mừng vui vẻ! Rồi đƣa vào nhà an nghỉ.

Hôm ấy ông Tu Đạt thấy nhà ông Hộ Di, nhiều ngƣời tấp nập, sửa sang nhà cửa, kê

giƣờng đặt ghế, trải chiếu, gối nệm trang nghiêm và thấy nấu nhiều các món ăn ngon lạ,

hỏi rằng:

- Thƣa Phụ Tƣớng, ngày mai có mời vua quan quý khách, hay có việc chi, mà làm nhiều

cỗ bàn nhƣ vậy?

237

- Dạ, thƣa không phải, muốn để cầu phƣớc, nên nhà tôi ngày mai mời Phật và chƣ Tăng

đến nhà cúng dàng!

Ông Tu Đạt đƣợc nghe thấy danh hiệu Phật và chƣ Tăng ngạc nhiên quá! Hình nhƣ đƣợc

một điềm gì hay! Vui vẻ hỏi:

- Thƣa Phụ Tƣớng, Phật là thế nào, xin nói cho chúng tôi đƣợc rõ?

- Ôi! Ngài không biết ƣ? Phật là con vua Tịnh Phạn. Tên là Tất Đạt Đa, lúc sơ sinh có ba

mƣơi hai vạn ông thần; xuống thị vệ và có nhiều thụy ứng khác: Đi bảy bƣớc trong bốn

phƣơng, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất phán:

- Thiên thƣợng thiên hạ duy ngã độc tôn!

Thân sắc vàng, có ba mƣơi hai tƣớng tốt và tám mƣơi vẻ đẹp, nếu ở tại gia thì làm Kim

Luân Vƣơng, cai trị bốn thiên hạ. Vì thấy chúng sinh có bốn tƣớng sinh, già, bệnh, chết,

nên Ngài xuất gia, tu khổ hạnh trong sáu năm đƣợc nhất thiết trí, hết kết sử thành Phật,

hàng phục đƣợc mƣời tám ức vạn thiên ma ngoại đạo hiệu là Năng Nhân. Có thập lực, tứ

vô úy, thập bát cộng pháp, quang minh chói sáng, soi suốt ba cõi nên gọi là Phật.

- Dạ, thƣa Phụ Tƣớng! Thế nào gọi là Tăng, xin nói cho biết?

- Khi Ngài thành Phật rồi, ông vua cõi Trời Phạm Thiên xuống ân cần cầu thỉnh thuyết

pháp. Sau khi nhận lời mời của ông. Ngài đến nƣớc Ba La Nại tại vƣờn Lộc Uyển thuyết

pháp nói về tứ chân đế, độ nhóm ông Kiều Trần Nhƣ năm ngƣời đắc quả La Hán hết lậu

nghiệp đủ sáu thần thông, tứ nhƣ ý túc, thất giác, bát đạo, trên hƣ không có tám vạn

ngƣời cõi Trời đắc quả Tu Đà Hoàn, và vô lƣợng ngƣời phát Bồ Đề tâm. Sau độ cho anh

em ông Uất Bệ Ca Diếp ngàn ngƣời, cũng đƣợc hết lậu nghiệp thành La Hán quả, thứ ba

độ ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, và tất cả đồ chúng của các ông ấy cả thảy năm

trăm ngƣời đều đƣợc đắc quả giải thoát, có thể tác phúc cho nhân gian thiên thƣợng nên

gọi là Tăng.

Tu Đạt nghe nói một việc quý hóa, vui mừng bủn rủn chân tay một lòng tin kính, mong

cho chóng sáng, để đến yết kiến Phật. Vì lòng thành kính thiết tha có thần cảm ứng,

đƣơng nữa đêm tối mà ông tự thấy ánh sáng tỏ soi khắp mặt đất nhƣ ban ngày, lòng hoan

hỷ khôn xiết! Đứng dậy đi sang nƣớc La Duyệt Kỳ để yết kiến đức Thế Tôn, vừa ra khỏi

thành gặp ngôi thiên từ, ông bƣớc vào làm lễ, tự nhiên quên mất tâm khát vọng Phật lại

thấy tối om, sợ mãnh thú ác quỷ, định trở về thành chờ đợi sáng sẽ đi.

Cũng may ông có ngƣời bạn thân, chết đƣợc sinh lên cõi Trời Tứ Thiên Vƣơng, thấy ông

hối hận trở về, liền xuống bảo rằng:

- Cƣ Sĩ ông chớ hối nữa! Đi yết kiến Phật đƣợc phúc vô biên, ví nay đƣợc một trăm cỗ xe

chở châu bảo, không bằng cất chân một bƣớc, đi yết kiến đức Thế Tôn, còn đƣợc lợi gấp

238

muôn ngàn; Cƣ Sĩ ông đi yết kiến Phật, chớ hối nữa ví nhƣ kiếp này đƣợc một trăm con

voi chở châu bảo, cũng không bằng rời chân một bƣớc đi yết kiến đức Thế Tôn còn đƣợc

lợi ích khôn kể, Cƣ Sĩ ông nên đi, chớ hối nữa, chính nhƣ ông có đƣợc vàng bạc châu

bảo, đầy cõi Diêm Phù Đề chăng nữa, cũng không bằng dời chân một bƣớc đi yết kiến

đức Thế Tôn, còn đƣợc lợi trăm muôn ngàn triệu; Cƣ Sĩ ông nên đi chớ hối nữa, ví nhƣ

kiếp nay ông đƣợc vàng bạc châu bảo đầy bốn thiên hạ, cũng không bằng cất chân một

bƣớc đi viếng đức Thế Tôn, còn đƣợc lợi ích gấp trăm muôn ngàn triệu kể trên.

Ông Tu Đạt nghe nói, vui vẻ, cảm mến đức Thế Tôn, tự nhiên u tối băng tiêu, ánh bình

minh tỏa soi trên đại địa nhƣ ban ngày, sung sƣớng đi yết kiến đức Thế Tôn.

Phật biết ông có duyên lành từ lâu kiếp nên Ngài ra ngoài đi kinh hành để ông gặp. Tu

Đạt, đằng xa nhìn thấy đức Thế Tôn, thân sáng nhƣ quả núi vàng, oai nghi đĩnh đạc, tôn

nghiêm lẫm liệt, tuy thấy Ngài nhƣng ông không biết, vì chƣa từng đƣợc gặp, tới nơi hỏi

rằng:

- Thƣa Ngài, đức Thế Tôn ở nơi nào xin làm ơn chỉ hộ?

Phật nói:

- Cƣ Sĩ ông hãy ngồi tạm chơi.

Khi ấy ông Tịnh Cƣ Thiên ở xa ngó thấy ông Tu Đạt gặp đức Thế Tôn mà không biết lễ

bái viếng thăm, ông bèn hóa ra bốn ngƣời đi tới, cúi đầu lễ dƣới chân, nhiễu về bên hữu

ba vòng rồi lui ngồi về một phía.

Ông Tu Đạt thấy thế cũng bắt chƣớc lễ bái nhƣ mấy ngƣời kia, rồi lui ngồi về một bên.

Khi đó đức Thế Tôn, giảng phép Tứ Diệu Đế, khổ, không, vô thƣờng.

Ông Tu Đạt nghe xong, đắc quả Tu Đà Hoàn vui mừng! Nhƣ ngƣời đói đƣợc ăn, khát

đƣợc uống, cũng nhƣ lụa Bạch Điệp nhuộm các sắc. Ông quỳ chắp tay thƣa rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Trong thành Xá Vệ, những ngƣời nghe pháp, chóng giác ngộ

nhƣ con có đƣợc nhiều không? Cúi xin ngài chỉ giáo cho?

Phật dạy: "Trong thành Xá Vệ đối với sự nghe pháp mau hiểu ngộ, không đƣợc một

ngƣời thứ hai nhƣ khanh, phần nhiều kẻ tà kiến khó đƣợc ngƣời tin theo chánh giáo".

- Kính lạy đức Thế Tôn! Con nguyện xin Ngài sang nƣớc Xá Vệ thuyết pháp để khiến

cho nhân dân biết bỏ tà quy chính!

Phật nói: - Ngài xuất gia phải xa nơi thế tục, làm thế nào có một tinh xá, thì mới tiện nghi

cho việc giảng diễn Chánh Pháp!

- Dạ, kính lạy đức Thế Tôn! Con xin về làm Tinh Xá, cúi xin ngài hứa khả cho?

239

- Muốn cho lợi ích chúng sinh, và gây phúc cho chính mình, ông nên gắng sức, công đức

vô lƣợng!

Ông lễ tạ lui ra, về nhà lo việc cƣới vợ cho con xong đâu đấy, lại sang nƣớc La Duyệt Kỳ

bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Con về bản quốc lập Tinh Xá, nhƣng không biết phƣơng pháp

làm thế nào? Kính xin Ngài cho một vị Sa Môn sang chỉ bảo cách thức?

Ngài nghĩ nhƣ vầy: "Nƣớc Xá Vệ nguyên những kẻ Bà La Môn tin theo tà giáo, ai là

ngƣời hàng phục nổi! Chỉ có ông Xá Lợi Phất trƣớc là dòng Bà La Môn. Cũng có chút

đỉnh thông minh và phép thần túc, sai đi có lẽ đắc lực".

Phật gọi ông Xá Lợi Phất bảo rằng:

- Xá Lợi Phất! Ông Tu Đạt muốn cho hƣng long ngôi Tam Bảo, đƣa dắt chúng sinh cải tà

quy chính, nên ông định lập tinh xá tại nƣới Xá Vệ, mời ta về thuyết pháp, nhƣng không

biết cách thức làm. Vậy ông sang đó, góp sức với ông ấy xây cất tinh xá cho ta!

- Dạ! Lạy đức Thế Tôn con xin phụng giáo!

Ông Tu Đạt hỏi Ngài Xá Lợi Phất rằng:

- Kính thƣa Tôn Giả! Đức Thế Tôn đi bộ mỗi ngày đƣợc mấy dặm?

Đức Thế Tôn đi mỗi ngày đƣợc nữa do tuần; cũng bằng vua Chuyển Luân Thánh Vƣơng.

Bắt đầu từ thành Vƣơng Xá, cứ cách hai mƣơi dặm ông làm một Khách Xá (nhà nghỉ

chân) cho tới nƣớc Xá Vệ.

Khi về tới nhà hai ngƣời an nghỉ vài ngày cho mạnh sức, rồi đi tìm đất làm Tịnh Xá. Hai

ông đi khắp nƣớc không tìm đƣợc nơi nào chỉ có khu vƣờn của Thái Tử Kỳ Đà bằng

phẳng rộng rãi mát mẻ, cây cối tốt tƣơi có thể đắc xứ sở. Ngài Xá Lợi Phất bảo ông Tu

Đạt rằng:

- Chỉ có khu vƣờn này làm đƣợc, không gần thành thị, và cũng không xa, nếu xa chƣ

Tăng đi khất thực khó; gần thì huyên náo, sợ phế bỏ sự hành đạo.

- Thƣa Thái Tử, tôi có một việc muốn phiền Thái Tử đƣợc không.

- Ngài có việc gì; nếu có thể tôi xin giúp.

- Thƣa Thái Tử! Vƣờn đất nhà tôi rất nhiều, nhƣng không dùng đƣợc khu nào để làm

Tịnh Xá, mời Phật về nƣớc ta thuyết pháp, giáo hóa cho nhân dân, nhận thấy khu vƣờn

của Thái Tử nơi rộng rãi mát mẻ, muốn mua lại khu vƣờn ấy, để kiến tạo Tịnh Xá, Thái

Tử có vui lòng không?

240

Thái Tử cƣời nói: - Tôi có thiếu thốn gì mà phải bán, để lúc thƣ nhàn ra hóng mát chỉ tiêu

dao ý chí!

Tu Đạt ân cần nói đến hai ba lần. Bất đắc dĩ Thái Tử, nói một giá rất đắt, để ông về nhà

cho yên chuyện.

- Vâng, nếu Đại Thần muốn mua thì đem vàng lát khắp mặt đất không hở một chỗ nào thì

tôi bán!

- Dạ! Thái Tử lấy từng ấy tôi cũng xin trả!

Thái Tử nói: - Tôi nói đùa vậy chứ bán làm sao đƣợc!

Tu Đạt nói: - Ngài làm Thái Tử không thể nói dối đƣợc. Nói dối sau này Ngài trị dân làm

sao?

Ông Tu Đạt định tâm nếu thái tử không bán, thì kiện. Vì thế ông Tịnh Cƣ Thiên, sợ các

quan xử thiên lệch, nên hiện thân xuống nói với Thái Tử rằng:

- Phép làm Thái Tử không đƣợc nói dối: Ngài đã hứa thì không nên sai lời!

Thái Tử nghe có lý đáp lời rằng:

- Phải! Tôi vui lòng bán cho Đại Thần đấy!

Tu Đạt vui vẻ, về nhà lập tức sai gia nhân, đƣa voi chở vàng đến, chỉ trong tám mƣơi

khoảnh khắc đã lát vàng khắp mặt đất, riêng còn đám gốc cây chƣa lát xong.

Tu Đạt thầm nghĩ: "Đám gốc cây này, chẳng còn bao nhiêu, ta cứ lát hết!"

Thái Tử Kỳ Đà, nghĩ nhƣ vầy:

- Đức Phật phải là ngƣời thế nào cho nên ông này, mới khinh của nhƣ thế; chắc rằng cúng

Ngài có phúc đức lớn, vậy ta cũng nên cầu phƣớc.

Nghĩ xong ngăn lại nói rằng:

- Thôi! Ông đừng cho lấy vàng đến nữa! Vƣờn là thuộc ông, còn cây tôi xin dâng Phật

làm Tinh Xá.

Thấy Thái Tử đã phát tâm kính mộ Phật. Ông Tu Đạt rất vui lòng! Về nhà đặt công tác

xây cất.

Đoạn này bọn Lục Sƣ nghe biết ông Tu Đạt xây cất Tịnh Xá, để mời Phật về thuyết pháp,

lên tâu vua rằng:

241

- Tâu Bệ Hạ! Trƣởng giả Tu Đạt mua rừng Kỳ Hoàn, làm Tinh Xá mời Sa Môn Cồ Đàm

về giảng đạo, xin Bệ Hạ cho chúng tôi đấu phép: nếu Sa Môn thắng thì cho làm; nếu

chúng tôi thắng thì không cho làm. Hiện nay đồ chúng của Sa Môn Cồ Đàm ở thành Xá

Vệ chúng tôi ở tại đây.

Nhà vua triệu ông Tu Đạt vào cung hỏi:

- Tu Đạt, Lục Sƣ nói Khanh mua rừng Kỳ Hoàn làm Tinh Xá, để mời Sa Môn Cồ Đàm về

giảng đạo phải không?

- Dạ! Tâu Bệ Hạ! Việc đó có thực, xin Bệ Hạ thứ lỗi cho!

- Chúng xin ta đấu phép với đệ tử của Sa Môn: nếu thắng đƣợc chúng thì cho làm, nếu

thua thì không đƣợc làm. Khanh nghĩ sao?

- Tâu Bệ Hạ! Việc đó để Hạ Thần về hỏi xem, nếu đệ tử của Sa Môn vui lòng đấu, thì Hạ

Thần xin tâu sau!

Tu Đạt hết vui, vừa lo vừa buồn!

Sớm ngày mai ông Xá Lợi Phất mặc áo cầm bát đến nhà, thấy ông có vẻ buồn liền hỏi

rằng:

- Hôm nay coi ông có vẻ buồn! Hay việc chi cản trở chăng?

- Thƣa Tôn Giả! Việc làm Tịnh Xá không biết có thành không? Vì thế nên tôi buồn!

- Có việc chi mà ông sợ không thành?

- Thƣa Tôn Giả bọn Lục Sƣ lên tâu vua, xin đấu phép với Tôn Giả; nếu Tôn Giả thắng thì

cho làm, nếu thua chúng thì không đƣợc làm. Bọn chúng xuất gia, tu học đã lâu năm,

pháp thuật cao cƣờng khó ngƣời địch nổi, tôi không biết Tôn Giả có thắng đƣợc không,

nên từ qua đến nay cứ tƣ lự mãi!

- Không sao! Ông cứ yên tâm, dầu cho bọn chúng nhiều nhƣ tre gỗ khắp mặt đất, cũng

không có thể làm động nổi trên cái lông chân của tôi, muốn đấu thì đấu, tôi hẹp chi!

Tu Đạt mừng quá! Tắm rửa sạch sẽ, mặc áo tề chỉnh lên tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Hạ Thần về hỏi đệ tử của Sa Môn vui lòng đấu với Lục Sƣ, xin Bệ Hạ

thông cáo!

Nhà vua gọi Lục Sƣ lên nói rằng:

- Trẫm đã hỏi đệ tử của Sa Môn rồi! Họ bằng lòng đấu phép, các ông sửa soạn đi, ta cho

phép sau bảy ngày nữa sẽ đấu.

242

- Dạ! Tâu Bệ Hạ, để thông cáo cho quốc dân biết đến xem.

- Đƣợc tuỳ ý!

Nƣớc Xá Vệ có mƣời tám ức ngƣời, luật đánh trống hội họp nhƣ sau: nếu nhân dân nghe

thấy đánh trống đồng, thì số mƣời hai ức ngƣời lại họp; nếu nghe thấy đánh trống bạc, thì

mƣời bốn ức ngƣời lại họp tất cả. Khi tới ngày đấu phép họ đánh trống vàng.

Nhà vua sắc lệnh cho dân sửa sang nơi thí vàng, treo cờ, dựng biểu ngữ, bày tòa đặt ghế

trang nghiêm. Vua quan dân chúng ra trƣớc; vua ngồi trên, các quan ngồi dƣới, dân

chúng đứng vây quanh. Lục Sƣ đồ chúng có hai ức ngƣời tới sau, thứ tự ngồi yên tĩnh.

Ông Tu Đạt cũng bày một tòa cao đẹp để dành riêng cho Ngài Xá Lợi Phất.

Giữa lúc đó Ngài Xá Lợi Phất đƣơng ngồi thiền dƣới gốc cây, sáu căn vắng lặng, du chơi

các thiền định, vô chƣớng ngại, thầm nghĩ nhƣ vầy:

- Đại hội này chúng tập thói tà Kiền Đà Lâu, kiêu ngạo tự cao tự đại cũng nhƣ lối cỏ rác,

ta biết lấy đức gì để hóa phục họ?

Nghĩ thế rồi xuất định đứng lên dùng tam đức, và lập thệ rằng:

- Nếu tôi trong vô số kiếp đã tu từ hiếu với cha mẹ, kính trọng Sa Môn, Bà La Môn, xin

cho tôi mới tới hội, thì tất cả đại chúng đều phải đứng dậy tác lễ!

Khi đó Lục Sƣ thấy ngƣời đến đã đông đủ mà ông Xá Lợi Phất chƣa đến, lên tâu vua

rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Sa Môn đệ tử biết không có tài, đánh bạo nói đấu, giờ đây thấy dân chúng

đến đông đảo, chắc sợ không lại!

Vua gọi ông Tu Đạt hỏi rằng:

- Tu Đạt, để tử của Thầy khanh nhận lời đấu phép, tại sao giờ chƣa tới?

- Dạ, Tâu Bệ Hạ để hạ thần về tìm.

Ông Tu Đạt về nơi Ngài ngự, quỳ bạch rằng:

- Kính bạch Đại Đức Tôn Giả! Vua quan dân chúng, và bọn Lục Sƣ đã tới đông đủ, xin

Ngài ra hội.

Ngài Xá Lợi Phất lấy áo mặc tề chỉnh, tấm Ni Sƣ Đàn vắt vai bên tả đi ung dung đĩnh

đạc, nhƣ Sƣ Tử Vƣơng tới nơi. Tất cả vua quan dân chúng, Lục Sƣ, nhìn thấy oai phong

của Ngài đáng sợ; thốt nhiên toàn thể đứng lên, lễ Ngài nhƣ giã gạo, chẳng khác chi một

cơn gió mạnh thổi lƣớt trên làn cỏ lau.

243

Ngài thăng tòa ngồi nghiễm nhiên nhƣ núi Tu Di. Bọn Lục Sƣ có một ngƣời tên là Lao

Độ Sai, pháp thuật giỏi nhất, trƣớc mặt đại chúng đọc chú, hóa ra một cây to lớn che rợp

cả đại hội, cành lá xanh tƣơi, hoa quả tốt đẹp, mọi ngƣời đều vỗ tay reo, hoan hô thần

biến của Lao Độ Sai!

Ngài Xá Lợi Phất dùng thần lực hóa thành cơn gió lốc, đập gẫy tan cây ấy ra nhƣ vi trần.

Đại chúng đều vỗ tay hô lớn, thần biến của Ngài Xá Lợi Phất giỏi, Lao Độ Sai kém!

Lao Độ Sai đọc chú hóa ra một cái ao, bốn bề đều bằng thất bảo, trong ao có rất nhiều

hoa. Đại hội đều vỗ tay khen tài!

Ngài Xá Lợi Phất hóa ra con bạch tƣợng sáu ngà, trên mỗi ngà có bảy ao sen, trên mỗi

hoa sen có bảy ngƣời ngọc nữ. Bạch tƣợng từ từ đi đến ao của Lao Độ Sai hóa, thả voi

hút hết nƣớc. Đại hội đều vỗ tay khen thần thông Ngài Xá Lợi Phất giỏi!

Lao Độ Sai lại hóa ra một quả núi trang nghiêm bằng thất bảo có suối nƣớc chảy, cây cối

um tùm, hoa quả tốt tƣơi. Đại chúng đều vỗ tay reo!

Ngài Xá Lợi Phất hóa ra rất nhiều các vị Kim Cƣơng lực sĩ, đứng xa cầm chày chỉ, tự

nhiên núi ấy tan bay ra nhƣ bụi nhỏ. Đại chúng đều vỗ tay khen Ngài Xá Lợi Phất giỏi!

Lao Độ Sai hóa ra một con rồng mƣời đầu bay trên không gian, mƣa các thứ châu bảo

xuống, và làm sấm chớp dữ dội. Đại chúng đều kinh sợ, và hoan hô giỏi!

Ngài Xá Lợi Phất liền hóa ra một con chim Kỳ Súy Điểu, lấy chân bắt rồng xé nát bỏ

mồm nuốt chửng. Đại chúng vỗ tay kêu nhƣ pháo nổ, hoan hô thần biến của Ngài Xá Lợi

Phất đại thắng!

Lao Độ Sai hóa ra một con trâu thân thể lớn, béo tốt khỏe mạnh, chân to móng sắc, quỳ

dƣới đất kêu rống mấy tiếng rất dữ dội, rồi chồm nhảy lại trƣớc mặt Ngài Xá Lợi Phất.

Ngài Xá Lợi Phất hóa ra một con Sƣ Tử, lấy chân móc họng trâu rồi xé nát ra ăn hết. Đại

chúng đều vỗ tay reo. Khen Ngài Xá Lợi Phất thắng, Lao Độ Sai bại.

Lao Độ Sai biến thân thành con quỷ Dạ Xoa cao lớn, trên đầu lửa cháy dữ dội, mắt đỏ

nhƣ huyết, bốn răng khóe dài nhọn mọc chìa ra ngoài, mồm phun ra lửa, chồm nhảy rất

ghê sợ!

Ngài Xá Lợi Phất tự hóa thân làm ông Tì Sa Môn Thiên Vƣơng, quỷ Dạ Xoa sợ hãi chạy

trốn, bị bốn bên lửa cháy vây nhƣ một bức thành, hết lối tẩu thoát, chỉ nơi Ngài Xá Lợi

Phất mát mẻ.

Đến đây Lao Độ Sai chịu khuất phục, năm thê gieo xuống đất cúi đầu xin tha mệnh,

nhƣng vì bị nhục quá nên lửa ở quả tim, phát ra cháy thiêu mất thân thể. Khi đó tất cả đại

chúng, đều vỗ tay kêu nhƣ sấm! Vui mừng! Và hoan hô Ngài Xá Lợi Phất đại thắng.

244

Muốn cho toàn thể vua quan, dân chúng, cải tà quy chính, biết tôn sùng ngôi Tam Bảo,

nên Ngài bay lên hƣ không, hiện ra bốn oai nghi: đi đứng nằm ngồi trên hƣ không, trên

mình phun ra nƣớc, dƣới mình phun ra lửa, ẩn bên đông, hiện bên tây, nhô bên nam, hiện

bên bắc; hoặc hiện thân to lớn chật hƣ không, rồi thu hình lại rất nhỏ; hoặc biến ra trăm

ngàn muôn ức thân, xong lại hợp nhất; đƣơng trên không hốt nhiên ở dƣới đất; hoặc đi

trên mặt nƣớc, cũng nhƣ ngƣời đi trên đất, biến hiện rất nhiều phép thần túc, lại về ngồi

trên bảo tọa nhƣ cũ.

Tất cả đại chúng từ vua đến dân, nhìn thấy phép thần vô ngại, ai nấy đều kính phúc, phát

tâm tín kính ngôi Tam Bảo.

Ngài thấy họ đã phát tâm chuyển hƣớng theo Phật, nên Ngài nói về tội phúc báo ứng,

nhân duyên sinh Pháp. Nghe xong có ngƣời đắc quả Tu Đà Hoàn, Tƣ Đà Hàm, cho đến

quả A La Hán. Còn ba ức đồ chúng của Lục Sƣ, quay đầu về theo Ngài, làm đệ tử xuất

gia, tất cả cúi đầu tạ lễ lui ra, rồi giải tán.

Cách mấy bữa sau, Ngài và ông Tu Đạt, đo đất tại khu vƣờn Kỳ Hoàn, mỗi ngƣời cầm

một đầu dây, thấy Ngài mỉm cƣời! Ông hỏi:

- Tôn Giả cƣời gì?

- Tôi cùng ông cầm dây đo, vừa hết một vòng vƣờn này, thì cung điện ở trên sáu cõi trời

đã làm xong! Vì thế mà tôi cƣời!

- Vì lý do gì Tôn Giả cƣời?

- Vì ông làm Tinh Xá cúng Phật nên phúc của ông đƣợc ở các cung điện cõi trời, hiện ra

nhanh nhƣ vậy! Tôi sẽ cho ông mƣợn đạo nhãn mà coi!

Ông Tu Đạt nhờ đạo nhãn, nhìn thấy những cung điện rất trang nghiêm đẹp đẽ, giành

riêng cho mình trên sáu cõi trời, thƣa rằng:

- Kính thƣa Tôn Giả trong sáu cõi này; cõi nào vui hơn nhất.

- Ba cõi dƣới đam hoang về sắc dục nhiều, đến cõi thứ tƣ, là những ngƣời ít dục biết đủ,

thƣờng có những Bồ Tát nhất sinh bổ xứ sinh tới, tiếng thuyết pháp không lúc nào ngớt.

Trên, còn hai cõi nữa, chúng sinh ở đấy có tính kiêu mạn dậc lạc; buông lung lu bù.

- Kính thƣa Tôn Giả! Nếu vậy, đời sau con nguyện sinh lên cõi thứ tƣ!

Ông nguyện xong, các cung điện kia đều diệt hết, mà chỉ nhìn thấy cung điện cõi thứ tƣ,

yên nhiên không biến động, bắt đầu đo, ông nhìn thấy Ngài có sắc buồn! Bèn hỏi:

- Tôn Giả, tại sao Ngài có vẻ buồn?

- Trƣởng giả có nhìn thấy đàn kiến này không?

245

- Dạ, thƣa Tôn Giả, có nhìn thấy!

- Trƣởng giả, vì chƣa có đạo nhãn, nên không biết nguyên uỷ đám kiến này. Đời quá khứ

cũng ở khu đất này, ông làm Tinh Xá cúng dàng đức Phật Tỳ Bà Thi, thì đàn kiến này nó

ở đây! Đến đời đức Phật Thi Khí, ông cũng làm Tinh Xá ở khu đất này cúng Phật, đàn

kiến này nó cũng sinh ở đây! Đến đời đức Phật Tỳ Xá Phú ông cũng làm Tinh Xá ở khu

đất này cúng Phật, thì đàn kiến này nó cũng sinh đây! Đến đời đức Phật Câu Lƣu Tôn

ông cũng làm Tinh Xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến này nó cũng sinh ở đây! Cho

đến nay đã chín mƣơi mốt kiếp, còn phải làm thân con kiến không thôi, biết ngày nào giải

thoát? Ông nên coi sinh tử đọa lạc lâu dài nhƣ thế, đã mấy ai biết sợ mà cầu giải thoát,

cho nên con ngƣời có trí phải biết bớt bỏ lòng tham dục si mê mà tu đạo làm thiết yếu.

Tu Đạt nghe xong rơi lệ chứa chan! Thƣơng mình và thƣơng chúng sinh; mê đƣờng lạc

nẻo, tham chút vinh lạc nhơ bẩn của thế gian, đến nỗi bỏ thân này, thụ thân kia, lộn vòng

xoay trong các thú!

Đo đất xong bắt đầu xây cất Tinh Xá, làm riêng một lầu gác bằng gỗ chiên đàn cúng

Phật, nơi biệt cƣ cúng Tăng, làm hai mƣơi khu, gồm có một ngàn hai trăm năm mƣơi vị,

để hiệp lệnh riêng. Làm xong ông tự nghĩ rằng:

- Dầu sao mình cũng là một kẻ hạ thần của nhà vua, nếu cứ tự do mời Phật, sợ có chƣớng

ngại hoặc vua không hài lòng, vậy ta tâu vua xem ý thế nào?

- Tâu Bệ Hạ! Hạ thần làm Tinh Xá, để mời Phật về nƣớc nhà, giảng đạo, cho dân chúng

bớt bỏ lòng bạo ngƣợc tham tàn, tu theo chánh giáo, ngõ hầu quốc gia đƣợc an lạc thái

bình. Cúi xin Bệ Hạ, cho sứ đi mời Phật, hạ thần đƣợc đội ơn vạn bội!

Nhà vua nghe nói rất hợp ý mình, liền sai ngƣời sang thành Vƣơng Xá mời Phật và chƣ

Tăng. Tuân lệnh, Sứ sang Vƣơng Xá, vào yết kiến Phật, cúi đầu làm lễ thƣa rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Chúa công con và hạ thần Tu Đạt, cho con tới đây câu thỉnh Thế

Tôn hạ cố quang lâm sang nƣớc Xá Vệ, để tuyên đƣơng chánh pháp, cho quần sinh đƣợc

ân triêm đức hóa, cúi xin Ngài từ bi hoan hỷ! Cho chúa con và hạ thần Tu Đạt đƣợc ăn

mày công đức!

Phật dạy: - Quý hóa! Chúa khanh và hạ thần Tu Đạt muốn cho quốc dân đƣợc an vui

sung sƣớng trên cõi nhân thiên, mãi mãi, ta hứa một ngày gần đây sẽ đến.

Sứ thần tạ lễ lui ra!

Đức Thế Tôn sau khi nhận lời mời của nhà vua, muốn cho chánh pháp chóng soi tỏ lòng

ngƣời, nên đầu tiên Ngài phóng Đại Quang Minh ở trên đỉnh đầu, làm chấn động thiên

địa, khắp nƣớc Xá Vệ mọi ngƣời đều biết oai thần của ngài.

Khi đi sang nƣớc Xá Vệ có rất nhiều đệ tử theo hầu, tới khách xá, Ngài cùng đại chúng

vào nghỉ chân. Trong lúc đi đƣờng, Ngài cũng giáo hóa đƣợc rất nhiều ngƣời quy y Tam

246

Bảo. Dần dần tới nƣớc, Quốc Vƣơng quần thần nhân dân, mang hƣơng ra đón, ngƣời

đông nhƣ hội, ai nấy đều lễ sát đất, nhƣ một làn gió thổi lƣớt trên đám cỏ lau, thực là một

buổi vô cùng vui vẻ! Ngựa xe chật đƣờng, ngƣời đi nhƣ nƣớc chảy. Nơi tiếp Ngài, một

khu đất cao sạch mát mẻ, quy vuông năm ngàn mẫu, trang trí tôn nghiêm, treo cờ, dựng

biểu ngữ, phƣớn lọng rợp trời. Đức Phật tới nơi ngồi trên bảo tọa oai nghiêm phóng Đại

Quang Minh chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, ngón chân bấm xuống đất làm chuyển

động hoàn cầu, các nhạc tự nhiên vang động, không ngƣời điều khiển. Nhờ đức hóa của

Phật, kẻ mù đƣợc sáng con mắt; kẻ điếc đƣợc nghe rõ; kẻ câm ngọng đƣợc nói năng; kẻ

còng đƣợc ngay thẳng, nói tóm lại tất cả toàn quốc đều hết tật bệnh đau khổ. Nhân dân

lớn nhỏ trai gái trẻ già đều vui mừng hớn hở chen nhau đến lễ Phật.

Khi đó, đức Phật tùy theo căn khí mà thuyết pháp cho họ nghe. Cũng nhƣ ông thầy thuốc,

tuỳ theo bệnh nhân mà cho thuốc, những ngƣời có phúc duyên nhiều, nghe pháp chóng

đƣợc chứng đạo; có ngƣời chứng quả Tu Đà Hoàn; Tƣ Đà Hàm; A Na Hàm; cho đến quả

A La Hán; cũng có ngƣời gây nhân Bích Chi Phật, cũng có ngƣời phát tâm cầu đạo vô

thƣợng Bồ Đề.

Khi đó Phật bảo tôi (A Nan) rằng:

- Vuờn này thuộc ông Cấp Cô Độc, cây thuộc Thái Tử Kỳ Đà, hai ngƣời chung sức làm

Tinh Xá. Vậy nên đề rằng: Cây của Thái Tử Kỳ Đà, vƣờn của ông Cấp Cô Độc, lƣu

truyền cho hậu thế.

Đức Phật dạy thế, tôi xin phụng mạng, rồi đó mọi ngƣời đều cúi đầu, lễ Phật lui ra

---o0o---

Phẩm thứ bốn mƣơi tƣ : LẶC NA SÀ GIA

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Ca Tỳ La Vệ, tại Tịnh Xá Ni Câu Lƣ

Đà.

Khi bây giờ giòng họ Thích và nhân dân thấy đức Thế Tôn có quang minh thần biến,

tuyên dƣơng chánh giáo, đƣờng đƣờng chính chính, khắp nhân thiên phàm thánh đều quy

ngƣỡng. Họ ca tụng nhóm ông Kiều Trần Nhƣ năm ngƣời đối với Phật có duyên gì tốt,

mà đƣợc nghe pháp đầu tiên; đƣợc đắc giải thoát trƣớc, trong thành ngoài ấp đều tùng

phục tôn kính.

Các vị Tỳ Khƣu nghe biết, lên bạch Phật rằng:

Kính lạy đức Thế Tôn! Nhân dân họ đƣơng tán tụng Thế Tôn! Và khen nhóm ông Kiều

Trần Nhƣ, tiền thế có phúc lành gì mà đƣợc độ trƣớc, cúi xin Ngài chỉ bảo cho. Phật dạy:

Các ông nên biết kiếp xƣa đã quá lâu, ta phải lấy thân làm thuyền để cứu bọn ông; cũng

do duyên lành ấy, mà nay ta độ cho bọn ông trƣớc!

247

Các thầy lại thƣa với Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, đời trƣớc Ngài cứu bọn ông ấy, việc đó thế nào cúi xin chỉ giáo

cho chúng con đƣợc biết?

- Các ông hãy để ý nghe cho kỹ! Cũng ở Châu Diêm Phù Đề này, thời đó có một nƣớc

gọi là Ba La Nại, vua nƣớc ấy là Phạm Ma Đạt.

Ông Lặc Na Sà Gia là một nhà buôn, hôm đó ra chơi nơi khu rừng gặp một ngƣời khóc

và đƣơng thắt cổ tự tử! Ông tới nơi hỏi rằng:

- Anh tại sao thế? Thân ngƣời khó đƣợc, mạng sống mỏng manh suy biến luôn luôn, nay

còn mai thác! Thôi, anh hãy cởi dây ra, đừng chết đi cho uổng, muốn gì nói cho tôi nghe,

nếu có thể giúp đƣợc, tôi xin giúp.

- Thƣa ông! Thôi nghèo khổ quá! Cùng cực khổ! Công nợ nhiều, hết phƣơng kế sống!

Chủ nợ lại đòi sỉ nhục thậm tệ, nhà cửa ruộng nƣơng họ tịch thâu hết, tuy ông có tâm can

tôi, nhƣng sống không chỗ dung thân, tôi định bỏ mạng ở đây cho hết khổ!

- Anh cởi dây ra, công nợ nhiều ít tôi sẽ trả cho, đừng lo!

- Anh ta vui mừng quá! Cởi dây, rồi theo về nhà. Ngày mai ra chợ để gặp các chủ nợ, bảo

cho họ biết sẽ trả, và dặn đến nhà ông Lặc Na Sà Gia.

Hôm sau họ đến đông quá, ông trả tận gia tài mà chƣa hết nợ, đến nỗi vợ con ông phải đi

ăn xin, cha mẹ anh em làng xóm đều ghét ông là kẻ cuồng si, phá hoại gia nghiệp, để vợ

con đói khổ!

Đƣơng lúc ông bị cùng đƣờng, có bọn nhà luôn mời ông ra biển buôn một chuyến, ông

nói:

- Tôi là một ngƣời hƣớng đạo cho các bạn, lý ra tôi phải mua thuyền cho các bạn đi, hồi

này hết tiền thì các bạn tính sao?

Đáp: - Chúng tôi có năm trăm ngƣời, xin bỏ tiền mua thuyền.

Sau họ góp nhau lại đƣợc rất nhiều vàng đƣa cho ông, ông mua thuyền một ngàn lạng;

mua lƣơng ăn đƣờng một ngàn lạng, sắm các đồ trên thuyền một ngàn lạng. Còn bao

nhiêu cho vợ con, và cấp đỡ cho anh nhà nghèo nói trên.

Chiếc thuyền dầy khỏe bảy lần ván, dùng bảy dây buộc neo trên bờ, rồi phát lệnh cho các

khách buôn để sửa soạn nhập hải, khi đến đông đủ, ông lớn tiếng nói rằng:

- Ai không mến gia đình vợ con, thân mạng, cho đến quốc gia thì đi, vì ra biển rất nhiều

nguy hiểm, nào sóng to gío lớn, cá Ma Kiệt, quỷ dạ xoa, rồng độc, nói xong cắt một dây

neo, bảy ngày cắt bảy dây.

248

Thuyền bắt đầu đi, biển cả mênh mông, một trời một nƣớc, hốt nhiên gặp sóng gió lớn,

làm cho thuyền nghiêng ngả chực đắm, mọi ngƣời đều sợ hãi, khi đó kẻ dùng phao, dùng

gỗ, ngƣời nhảy xuống biển; ngƣời ở trên thuyền, trong số đó có năm ngƣời thƣa với ông

rằng:

- Chúng tôi theo ông tới đây, giờ chết sắp đến, mong ông cứu chúng tôi!

- Dạ, tôi nghe trong biện cả, không bao giờ chứa nạp tử thi, vậy các ông nắm lấy tôi, tôi

sẽ tự sát thân này cứu các ông, nguyện đem công đức cầu thành Phật, khi đó tôi sẽ lấy

thuyền vô thƣợng chánh pháp chở các ông sang qua bể lớn sinh tử trƣớc.

Nói xong lấy dao đâm cổ chết, đại hải bất nạp tử thi, ông thần biển dùng gió thổi xác ông

dạt vào bờ, bọn năm ngƣời đƣợc thoát chết trở về nƣớc.

Nói tới đây Ngài nhắc lại rằng:

- Tỷ Khƣu các ông nên biết: Ông Lặc Na Sà Gia thuở đó, chính là tiền thân của ta, còn

năm ngƣời bám vào xác chết nay là nhóm ông Kiều Trần Nhƣ năm ngƣời, tới nay ta

thành Phật, bọn ông đƣợc nghe pháp đắc quả đầu tiên, là vì lý do ấy.

Nghe lời Phật nói, các vị đều tán thán công đức của Phật vô cùng to lớn, ai nấy đều gắng

sức tiến tu, cúi đầu tạ lễ lui ra

---o0o---

Phẩm thứ bốn mƣơi lăm : CÁ TRĂM ĐẦU

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Ma Kiệt Đề, tại vƣờn Trúc.

Một hôm đức Thế Tôn và các vị Tỷ Khƣu, sang nƣớc Tỳ Xá Ly, ngồi nghỉ mát trên bờ

sông Lê Việt. Trên bờ có năm trăm ngƣời chăn trâu và năm trăm ngƣời đánh cá; những

ngƣời đánh cá này, họ có ba thứ lƣới: một thứ hai trăm ngƣời kéo; một thứ ba trăm ngƣời

kéo; một thứ năm trăm ngƣời kéo.

Đức Nhƣ Lai và các vị Tỷ Khƣu ngồi cách họ cũng không xa, một lát thấy năm trăm

ngƣời nọ, kéo hết sức cũng không nổi, sau họ gọi bọn năm trăm ngƣời chăn trâu lại kéo

giùm, một lúc kéo lên đƣợc con cá rất lớn; trên mình cá có đủ trăm đầu thú: đầu ngựa,

đầu lạc đà, đầu hổ, đầu chó sói, đầu lợn v.v… cá lạ xúm nhau lại xem.

Thấy thế, Phật sai tôi lại coi. Tôi vâng lời, lại nhìn thấy con cá lớn trên mình có đủ trăm

đầu thú khác nhau, tôi lại trở về bạch Ngài biết rõ căn nguyên.

Ngài cùng đại chúng đi lại xem, khi tới nơi Ngài hỏi cá rằng:

249

- Cá, có phải là Ca Tỳ Lê không?

Cá đáp: - Thƣa phải.

Ngài hỏi tiếp:

- Kiếp này làm cá, kiếp sau biết về đâu không?

- Thƣa Ngài, kiếp sau về địa ngục A Tỳ.

Tôi và đại chúng không rõ tại sao, bèn hỏi Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài gọi con cá này là Ca Tỳ Lê vì lý do gì, xin nói cho chúng

con đƣợc rõ?

Phật dạy: - Các ông hãy lắng nghe tôi nói nguyên ủy con cá này cho biết: Trƣớc đây, về

thời đức Phật Ca Diếp có một ngƣời Bà La Môn sinh đƣợc cậu con trai, đặt tên là Ca Tỳ

Lê; cậu này thông minh tài trí, đối với hàng văn hoa trí thức thời đó; anh ta giỏi nhất. Tuy

thế nhƣng đối với trí tuệ học vấn của các vị Sa Môn thì anh ta kém đặc.

Khi cha anh chết có dặn anh rằng:

- Con chớ đàm luận với các vị Sa Môn của đức Phật Ca Diếp; vì các vị có trí tuệ sâu

rộng, con không thể bì kịp.

Sau khi cha anh chết: anh vẫn còn đi học; và anh đƣợc tiếng khen trong nƣớc là ngƣời tài

biện luận, nhƣng không bao giờ anh ngồi đàm luận với các vị Sa Môn, thấy con khuyết

diểm ấy, nên một hôm mẹ anh hỏi rằng:

- Con vốn là ngƣời cao minh học vấn; đời nay có ai hơn đƣợc con không?

- Dạ! Thƣa mẹ, các vị Sa Môn hơn con nhiều lắm!

- Hơn con thế nào?

- Thƣa mẹ! Nếu con có chỗ nào không biết, đến hỏi thì các vị giải đáp rõ ràng dễ hiểu;

nếu các vị hỏi lại thì con không đáp nổi, bởi vậy nên con biết kém!

- Vậy sao con không đến học hỏi phƣơng pháp ấy?

- Thƣa mẹ! Nếu học phƣơng pháp ấy, thì phải làm Sa Môn, con là kẻ thế tục làm sao học

đƣợc!

- Con sẽ giả làm Sa Môn, học tập cho giỏi, rồi lại trở về với mẹ có hại gì!

- Dạ, mẹ dạy con nghe!

250

Cách một thời gian, anh mang áo cầm bình giả làm Sa Môn, vào tu học, vì anh có trí

thông minh sẵn, chỉ một thời gian đã quán thông tam tạng, một hôm về nhà chơi, mẹ anh

hỏi: - Con học đã giỏi hơn các vị Sa Môn chƣa?

- Thƣa mẹ! Học vấn con giỏi ngang, còn tọa thiền con kém.

- Tại sao con biết kém?

- Thƣa mẹ, vì phép tọa thiền khó, lý thú siêu hình, con tập cũng không đƣợc, học cũng

không đạt, vì thế mỗi khi con đàm luận đều bị thua!

- Từ nay trở đi, có đàm luận nếu thua, thì con cứ la mắng sỉ nhục!

- Thƣa mẹ, các vị Sa Môn tu đạo từ bi, có tội gì mà mẹ bảo con mắng!

- Vì con có mắng, thì con đƣợc!

Ca Tỳ Lê nghe lời mẹ dạy, cứ mỗi khi đàm luận với các vị Sa Môn bị thua, mắng liền:

ngƣời là kẻ ngu! Ngƣời là loài súc sinh hiểu biết gì? Rồi lại tỷ các vị nhƣ đầu con thú

này; đầu con thú khác, luôn luôn có thái độ ác liệt đối với cá vị Sa Môn!

Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:

- A Nan, ông nên biết Ca Tỳ Lê vì ác tâm mắng các vị Sa Môn thuở đó, nay phải chịu báo

làm con cá trăm đầu!

- Kính lạy đức Thế Tôn, Ca Tỳ Lê bao giờ đƣợc thoát khỏi thân cá!

- A Nan ông nên biết: nhƣ ta lấy Phật nhãn mà coi, hãy còn lâu lắm, trong đời hiền kiếp,

một ngàn đức Phật đã quá khứ đi rồi, cũng chƣa đƣợc thoát.

Khi đó tôi và các vị Tỷ Khƣu nghe Phật nói xong, ai nấy đều rùng mình rởn gáy, bi

thƣơng giao cảm! Đồng thanh nói: Tất cả chúng sanh thân, miệng, và ý nghĩ, phải nên

cẩn thận!

Thấy Phật và đại chúng hỏi đáp nhƣ vậy, các ngƣời đánh cá và chăn trâu, đều chắp tay

bái Phật, xin xuất gia tu phạm hạnh.

Phật khen họ tốt và nói:

- Thiện Lai Tỷ Khƣu!

Ngài nói dứt lời, râu tóc họ rụng hết, áo mặc mình họ hóa ra áo Cà Sa, biến thành các vị

Sa Môn.

Theo Phật tu học không bao lâu, đã hết lậu nghiệp, đắc quả A La Hán.

251

Vì đại chúng, Phật giảng về Tứ Diệu Đế, tất cả mọi ngƣời đƣợc nghe diệu pháp đều phát

tâm hƣớng đạo vô thƣợng Bồ Đề, cúi đầu tạ lễ mà lui

---o0o---

Phẩm thứ bốn mƣơi sáu : TỊNH CƢ THIÊN

CHÍNH tôi đƣợc nghe: Một thời đức Phật ở nƣớc Xá Vệ, tại vƣờn Cấp Cô Độc cậy của

Kỳ Đà.

Khi bấy giờ vào khoảng chập tối, thấy một đạo quang minh sáng lòe từ trên trời, chiếu

xuống rừng Kỳ Hoàn; trong đạo hào quang có một ngƣời cao lớn tƣơi đẹp, mình có ánh

sáng nhƣ ngọc kim cƣơng, bay xuống vào yết kiến Phật, lễ ba lễ nhiễu ba vòng, quỳ

thẳng chắp tay bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Con ở trên cõi trời Tịnh Cƣ, nghe thấy Ngài xuất thế độ sinh, tác

phƣớc điền cho cõi nhân gian thiên thƣợng. Con tƣởng rất khó gặp, với một tấm lòng

thành kính, cung thỉnh đức Thế Tôn và Tăng chúng, nhận cho ngày mai con đƣợc cúng

dàng trai và tắm gội?

Đức Phật khen có tâm cầu phúc và hứa lời mời của ông. Đƣợc Phật hứa khả, ông bay về

trời đem các món ăn ngon quý trên thiên cung và các đồ tắm gội, áo mặc xuống rừng Kỳ

Hoàn, ông tự hóa ra nhà ôn thất, nƣớc pha không nóng, không lạnh, dâu bôi cỏ kỵ, đầy đủ

các vật, rồi lên mời Phật đi tắm. Khi tắm xong, đức Thế Tôn, về tƣ phòng, ông lên bạch

rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, trai thời đã đến, cúi xin Ngài chứng giám thọ trai.

Đức Phật và Tăng chúng tắm gội xong, chỉnh phục, ra trai đƣờng, dùng bữa ngọ xong, lại

trở về bản tòa.

Tôi liền đứng lên, tới đức Thế Tôn, quỳ thẳng chắp tay hỏi rằng:

- Kinh lạy đức Thế Tôn, ngƣời ở cõi Trời Tịnh Cƣ cúng tắm gội hôm nay, trƣớc làm công

đức gì, mà đƣợc thân hình tốt đẹp, uy đức đoan nghiêm, quanh minh chói sáng, nhƣ quả

núi báu, cúi xin nói cho chúng con đƣợc biết?

Phật dạy: A Nan, muốn biết hãy lắng tai nghe!

- Dạ lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe.

- Ngƣời này ở thời đức Phật Tỳ Bà Thi; là một ngƣời nghèo. Thƣờng đi làm mƣớn để

nuôi thân. Một hôm đƣợc nghe đức Phật Tỳ Bà Thi nói công đức cúng dàng tắm gội lớn

lao. Anh ta vui mừng muốn đƣợc công đức ấy! Cố gắng đi làm mƣớn đƣợc chút gạo tiền,

252

mua các thứ hàng dùng tắm gội, cùng các món ăn, xếp đặt xong, đi mời Phật và chƣ Tăng

về nhà cúng dàng, do phƣớc ấy lúc chết đƣợc sinh lên cõi trời Tịnh Cƣ, và có quang

minh. A Nan, ông nên biết ngƣời này, chẳng những hôm nay mời ta và chƣ Tăng cúng

dàng, cho đến thời đức Phật Thi Khí đã xuống thế gian cúng dàng, cho đến thời đức Phật

Ca Diếp cũng cúng dàng nhƣ hôm nay; ngƣời này chẳng những cúng dàng bảy đức Phật;

mà sau này còn cúng dàng một ngàn đức Phật đời hiền kiếp, cũng nhƣ hôm nay.

Nói xong Ngài thụ ký cho ông đủ một trăm kiếp A Tăng Kỳ sẽ đƣợc thành Phật, hiệu là

Tịnh Thân, mƣời hiệu đầy đủ, giáo hóa chúng sinh nhiều không số lƣợng. Khi đó tôi và

tứ chúng ai nấy đều vui mừng đồng thanh nói rằng:

- Đức Nhƣ Lai ra đời rất có lợi cho muôn loài chúng sinh, nhƣ ông Tịnh Cƣ Thiên này

cúng dàng ít, mà phúc báo vô cùng to lớn!

Phật khen rằng: - Các ông nói thế cũng hay lắm! Nhƣ Lai ra đời một mục đích cứu quần

sinh, khỏi đau khổ, và làm lợi ích cho tất cả mà thôi!

Nói xong, Ngài lại tuyên diễn chánh pháp cho đại chúng nghe, nghe xong có ngƣời đắc

vãng lai, quả bất hoàn, cũng có ngƣời phát tâm cầu đạo vô thƣợng Bồ Đề, ai nấy đều vui

mừng tạ lễ mà lui

---o0o---

HẾT

Nội dung được tải về từ website Văn Hóa Phật Giáo www.Hoavouu.com.

Trên con đường Hoằng Pháp, cần sự thấu hiểu và chia sẻ để cùng nhau có được sự an

lạc cho mình và cho mọi người.

Chúng tôi, khuyến khích sự giới thiệu, phổ biến nguyên tác này đến tất cả mọi người

bằng hình thức phi lợi nhuận.

Nguyện đem công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sanh, đều trọn thành

Phật đạo.

Hoavouu.com