Upload
others
View
5
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Lịch Sử Thánh Ca
LỜI TỰA
Mỗi khi hát những bài thánh ca tôn vinh Chúa, tôi thƣờng tự hỏi tại sao những
lời và nhạc của các bài hát này trở nên bất hủ? Tại sao những bài thánh ca đã trải
qua hàng thế kỷ mà những con dân Chúa vẫn gửi gắm tâm hồn vào từng lời thơ,
từng nốt nhạc của những giai điệu mà mỗi khi chúng ta hát dƣờng nhƣ bay cao lên
tận thiên đàng ?
Những thắc mắc suy tƣ của tôi đƣợc giải toả khi tôi đọc đƣợc lịch sử của
những bài thánh ca này. Những bài thơ, những dòng nhạc đƣợc viết ra từ những
tâm hồn cao cả. Những đời sống dâng hiến cho Chúa cả cuộc đời. Họ đã có những
tài năng, danh vọng ở đời, nhƣng họ không dùng vào mục đích tìm kiếm sự giàu có
hay mƣu cầu hạnh phúc cá nhân. Họ đã quả quyết nói nhƣ Phao Lô “Tôi cũng coi
hết thảy mọi sự nhƣ là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Giê Xu Christ là quý hơn
hết, Ngài là Chúa tôi và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó” Phi líp 3 : 8. Có
những bài thánh ca đƣợc viết bằng nƣớc mắt của những nỗi đau thƣơng mất mát
lớn nhất trong cuộc đời, không có bất cứ trƣờng hợp nào khác trên đời so sánh
đƣợc. Thế nhƣng trong cơn tuyệt vọng sầu khổ, chính họ – tác giả của những bài
thánh ca – vẫn viết lên những vần thơ tuyệt tác thể hiện niềm tin tuyệt đối vào
Thiên Chúa. Đó là những bài thánh ca đã làm rơi luỵ hàng triệu ngƣời trên thế giới
và làm nhiều ngƣời dâng cuộc đời cho Chúa.v.v...
Cầu xin Chúa ban cho chúng ta sau khi đọc qua lịch sử những bài thánh ca này
tâm hồn của chúng ta đƣợc nâng cao, đƣợc an ủi mỗi khi chúng ta hát ca ngợi
Chúa. Halêlugia. ----------Người sưu tầm----------
Thánh ca 2: NGUYỆN TỤNG MỸ CHÚA LINH NĂNG
“Praise ye the Lord, The almighty”
“Nguyện tụng mỹ Chúa linh năng. Vua vinh diệu tạo vạn vật chúng dân! Nầy
hồn hỡi, khá ca khen Ngài, là nguồn lực lƣợng, sông cứu ân! Tôn vinh danh Chúa,
đồng tâm mãi trổi khúc kim cầm, cùng ngợi Ba ngôi nhân ái chí thâm.” Lời của bài
Thánh ca này nói lên một tâm hồn nhận biết quyền năng cao cả của Đấng toàn
năng và rất nhân ái. Tác giả của Thánh ca đã họchỏi đƣợc những kinh nghiệm che
chở gìn giữ của Ba ngôi Đức Chúa Trời dành cho những nhà lảnh đạo công cuộc
cải chánh. Martin Luther là ngƣời lãnh đạo tinh thần cuộc cải chánh tại Đức, sau
đó Johh Calvin lãnh đạo tại Pháp, họ bị Giáo hội Thiên Chúa La Mã bắt bớ nên
những ngƣời thuộc phái Calvin phải trốn sang Đức, mang theo niềm tin chân chính
và ao ƣớc đƣợc hát tôn vinh Chúa trong giờ thờ phƣợng. Lúc đó các thanh niên
Đức chịu ảnh hƣởng của phong trào du học, một số du học sinh về nƣớc mang theo
cuốn Geneval Psalter và cuốn giáo lý Calvin. Ngay sau đó các Hội thánh thuộc
giáo phái Calvin phát triển rất mau.
Khi lửa phục hƣng làm nóng lại các trái tim đã nguội lạnh vì chiến tranh, ảnh
hƣởng nầy lan tràn rất mạnh giữa các Hội thánh cải chánh. Tuy nhiên một số ngƣời
theo phái Calvin không đồng ý cho toàn thể Hội chúng có dịp hát tôn vinh. Vào lúc
đó, nơi đó đã xuất hiện thi sĩ Neander, ngƣời sáng tác bản Thánh ca bất hủ:
“Nguyện tụng mỹ Chúa linh năng”. Sơ lƣợc về tiểu sử của tác giả chúng ta đƣợc
biết nhƣ sau:
Neander sinh tại Premen năm 1650 trong một gia đình đã nhiều đời hầu việc
Chúa. Năm 16 tuổi, Neander gia nhập hội mỹ thuật ở Premen và bắt đầu sống cuộc
đời liều lĩnh phóng đảng cho đến năm 20 tuổi.
Một hôm, ông cùng một ngƣời bạn vào nhà thờ để nghe giảng, những lời nói
mãnh liệt của diễn giả hôm ấy đã đốt cháy cái vỏ hoài nghi, nhạo báng mà ông vẫn
khoác cho mình bấy lâu. Sau giờ nhóm, ông ở lại và xƣng nhận đức tin với Mục sƣ
Under Eyck. Ông trở nên một ngƣời mới và trao phó đời mình cho Chúa Giê Xu.
Có 2 biến cố khác đã ảnh hƣởng nhiều trên đời sống thuộc linh của Ông. Biến
cố thứ nhất phát sinh trong một cuộc đi săn, khi ông ở trong một vùng đồi núi cây
cối rậm rạp và có nhiều đá. Hiểu rõ sinh mạng mình đang lâm nguy, Ông đã cầu
xin Đức Chúa Trời giúp đỡ và ông dâng đời mình cho Ngài. Biến cố thứ hai xảy ra
ở Frankfurt, khi ông làm quen với Jakob Spener, ngƣời sáng lập Tân phái, chủ
trƣơng Thánh hóa đời sống tin kính của tín đồ. Phái nầy có vẻ cực đoan nhƣng rất
ích lợi cho những lúc nguội lạnh nhƣ vậy.
Năm 1674, Neander đƣợc cử làm Hiệu trƣởng Trƣờng Sƣ phạm tại Pusseldorf
là nơi Ông bị chính quyền làm khó dễ vì chủ trƣơng cực đoan trong tôn giáo. Sau
đó, Ông bị cách chức. Ông bị xúc phạm nặng nề nhƣng không hề chống trả. Học
sinh đã tìm đến an ủi Ông. Ít lâu sau, ông đƣợc phục chức nhƣng chỉ là một chức
vụ nhỏ.
Năm 1679, Ông đƣợc gọi về Premen làm phụ tá cho Mục sƣ Theodore Under
EYCR tại Hội thánh Martin là nơi ông tin Chúa. Ông rất vui mừng trở lại đó, sau
đó ông mắc bệnh lao rồi qua đời.
Thánh ca của Neander đƣợc cô CatheriSne Winkworth dịch sang tiếng Anh.
Cô là một phụ nữ ngƣời Anh, sinh năm 1827 có một biệt tài vô song về phiên dịch
Thánh ca Cơ Đốc. Cô đã phiên dịch nhiều Thánh ca, trong đó có bài “Nguyện tụng
mỹ Chúa linh năng”.
Thánh ca 8: NGỢI KHEN DANH GIÊ-XU RẤT OAI QUYỀN
“All hall the power of Jesus' name”
“Ngợi danh Giê Xu rất oai quyền thay Các thiên thần sấp trƣớc Ngài; cung
hiến vƣơng miện tôn Christ lên ngai, tung hô danh Chúa quyền oai! Cung hiến
vƣơng miện tôn Christ lên ngai, thành kính tôn Chúa muôn loài.”
Những lời nhạc hùng tráng nhƣ một khúc quân hành này đã đƣợc viết lên bởi
Edward Perronet một ngƣời đã từ bỏ mọi điều danh lợi của trần thế để bƣớc đi theo
tiếng gọi của Chúa Cứu thế Giê Xu và trở nên một tôi tớ khiêm nhu hầu việc Chúa.
Edward Perronet là một ngƣời giàu có, ông tin Chúa năm 21 tuổi lúc đó là năm
1746. Sau đó ông đƣợc Hội thánh tấn phong Mục sƣ. Trong các bài thơ của ông,
chỉ có bài này nổi tiếng nhất, sáng tác năm 1779. Ngƣời ta gọi là bài thánh ca khải
hoàn thuộc linh. Bài thơ nguyên gồm 8 lời, sau có sửa đổi nhỏ nhƣ chúng ta hát
ngày nay.
Tại Ấn Độ có một Mục sƣ đƣợc Đức Thánh Linh cảm động đi giảng Tin Lành
tại nơi chƣa khai hóa. Bạn bè ngăn cản nhƣng ông nhất quyết ra đi. Đang khi ông
đi vào nơi sâu thẳm của miền núi, bỗng ông thấy nhiều thổ dân núp trong bụi cây,
tay cầm lao chuẩn bị phóng vào ông. Cái chết dƣờng nhƣ không tránh khỏi, ông
bèn dừng bƣớc lấy đàn ra, nhắm mắt lại, vừa đàn vừa hát bài Thánh ca này. Lạ
lùng thay, khi ông hát xong, đám thổ dân bƣớc ra khóc to. Thế là ông hầu việc
Chúa giữa họ từ hôm ấy, họ rất yêu mến ông.
Thánh ca 11: NGỢI KHEN CỨU CHÚA
“I will sing redeemer”
“ Ngợi khen Cứu Chúa đã chuộc tôi nay. Lòng nhân ái Chúa lớn rộng thay! Từ
nơi rủa sả Chúa chuộc tôi ra, Ngài đau đớn ở Gô Gô Tha. Ngợi khen Chúa, Đấng
chuộc chính tôi nay, hồng huyết lƣu ra chuộc tôi đây; tại cây gỗ dấu hiệu Chúa tha
tôi, nợ xƣa trả thảnh thơi trọn đời.”
Tâm sự của tác giả thật sâu nhiệm với Chúa khi ông mô tả bằng những lời thơ
từ nơi sâu thẳm của tâm hồn bừng lên niềm hạnh phúc. Tôi sẽ hát về Đấng Cứu
Chuộc tôi. Lòng nhân từ của Chúa cao hơn các từng trời. Thân hèn mọn này trầm
luân trong tội lỗi mà Ngài đã đổ huyết ra trên thập tự, cứu tôi thoát khỏi sự chết đời
đời. Ôi ! dòng huyết vô tội có năng quyền cứu rỗi linh hồn tội nhân. Tâm hồn tôi
mừng vui, hễ tôi còn sống bao lâu, tôi sẽ hát xƣớng cho Đức Giê-Hô-Va bấy lâu.
Hễ tôi còn sống chừng nào, tôi sẽ hát ngợi khen Đức Chúa Trời tôi chừng nấy.
Cuộc sống của Philip Bliss là một tấm gƣơng tận tuỵ sử dụng tài năng, ân tứ
Chúa ban cho để phục vụ Chúa cho đến hơi thở cuối cùng. Ông là một trong những
nhà hƣớng đạo nổi tiếng về Thánh ca phục hƣng hiện đại. Dù trƣớc đó đã có những
tác phẩm Thánh ca truyền giảng nhƣng không ai sánh kịp với những đặc điểm độc
đáo Chúa ban cho ông. Philip Bliss vừa sáng tác vừa ca hát. Với sự kết hợp của hai
yếu tố này. Oâng đƣợc tự do diễn đạt những lời ca ngợi Thƣợng Đế xuất phát từ
rung động của tâm hồn mình.
Philip Bliss giả từ trần thế trên đƣờng ông đi truyền giảng cho thành phố
Chicago. Cuộc đời ông đến giờ phút cuối để lại cho nhiều ngƣời thƣơng tiếc và quí
mến. Mọi ngƣời biết đến tai nạn xe lửa trên đó có ông và bà. Khi tai nạn xảy ra ông
vẫn còn sống và có thể thoát thân đƣợc. Tình yêu vƣợt trên mọi sự sợ hãi, ông cố
gắng tìm cách cứu bà ra khỏi đống đổ nát của toa tàu đang bốc cháy. Nhƣng ý
Chúa đã định cho cả hai cùng đƣợc chung sống với nhau nơi miền Thiên quốc.
Sau khi xảy ra thảm họa đƣa đến cái chết của Philip Bliss, một cái rƣơng của
ông bị chất lầm trên một xe lửa khác đã đến bến Chicago an toàn. Trong số những
đồ đạc, ngƣời ta tìm thấy lời ca của bài “Tôi sẽ hát về Đấng Cứu Chuộc tôi” do
chính tay Bliss viết. Ông không biết số ngày Chúa đã định cho mình, nhƣng trong
những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời, ông dành cho Chúa trọn vẹn. James Mc.
Granahan, một ngƣời bạn chí thân của Philip Bliss thực sự bị thu hút bởi những
dòng chữ quen thuộc của ngƣời bạn quá cố thân yêu, Philip Bliss đã ra đi quá sớm,
vội vã để lại một bài Thánh ca chƣa hoàn tất. Mc. Granahan nâng niu từng lời ca
và trong niềm cảm xúc sâu xa, ông đã phổ nhạc thành bài “Ngợi khen Cứu Chúa”
(I will sing of Redeemer).
Thánh ca 13: GIÊ XU ĐẸP THAY
“Fairest Lord Jesus”
“ Ôi, Giê Xu đẹp thay! Ôi, vua thiên nhiên giới nay! Con Đấng chí tôn cũng
con loài ngƣời, tôi chỉ yêu Ngài thôi, duy Chúa tôi sùng tôn, xem nhƣ kim mão
vinh cho linh hồn.”
Những câu ca dao là những lời thơ của giới bình dân, không cầu kỳ sáo rổng,
họ suy nghĩ thế nào thì nói lên nhƣ vậy. Đặc biệt là ca dao luôn nói lên kinh
nghiệm của con ngƣời và thiên nhiên nhƣ ca dao Việt Nam: “Lạy trời mƣa xuống,
lấy nƣớc tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy bát cơm đầy, lấy khúc cá kho.” Những lời
ca dao thƣờng ít ai biết đƣợc xuất xứ. Thánh ca này cũng vậy, chƣa có ai xác định
đƣợc tên tác giả. Không ai biết tên tác giả, ngƣời ta chỉ biết tên nhà xuất bản. Tuy
vậy Thánh ca này lại đƣợc nhiều ngƣời quan tâm đến.
Có ngƣời kể lại là Thánh ca này đã đƣợc những hiệp sĩ hát trong cuộc hành
hƣơng đất thánh vào thời kỳ viễn chinh của Thập tự quân. Kể từ đó Thánh ca này
có tên là Thập tự quân ca, và ra mắt lần đầu tiên trong cuốn Muensterisch
Gesangbuchn xuất bản tại Muenster, Westphalia, 1677 với lời của ủy ban giáo dục,
Giáo hội Công giáo. Thánh ca này có 6 đoạn, và ít đƣợc sử dụng cho đến khi một
âm điệu mới đƣợc đặt ra cho nó tại Silesia sau hơn 100 năm.
Âm điệu này là của hai nhạc sĩ và học giả chuyên sƣu tầm dân ca. August
Hienrich Hoffman von Fallersleben, vừa là thi nhân vừa là xuất bản và Ernst
Friedrich Richter, Giám đốc trƣờng âm nhạc nổi tiếng của Hội thánh St Thomas
Lutheran tại Leipzig, đã cùng nhau đi đến Silesia... Nơi đó họ đã thƣởng thức dân
ca trong nhiều tháng. Họ vừa nghe hát vừa viết nhạc.
Tại Silesia hai ngƣời này đã kêu gọi sự giúp đỡ của dân chúng trong mọi phạm
vi sinh hoạt. Sự giúp đỡ đã đến từ chủ nhân các xƣởng chế tạo, từ nhạc sĩ, từ các
nhà quí tộc cũng nhƣ những ngƣời ở miền quê. Hàng trăm tác phẩm viết tay đƣợc
gửi đến hay đem đến cho họ, nhƣng phần lớn đó là những bài thơ ngâm vịnh khẩu
truyền.
Dân ca chọn lọc của Richter và Fallersleben đƣợc xuất bản trong cuốn
Schlesische Volkslieder, phát hành tại Leipzig năm 1842. Trong cuốn sách Thánh
ca này mang tên Schonster herr Jesus. Ngoài các sự thay đổi trong nguyên bản của
Thánh ca, đoạn thứ 6 đã bị bỏ sót. Âm điệu của Thánh ca không có tên chi hết
nhƣng hình nhƣ đã đƣợc chép ra trong một lãnh địa nhỏ của bá tƣớc Glatz Richter,
có lẽ ông đã chịu ảnh hƣởng nhiều bởi tài năng âm nhạc của dân chúng Selisia ; âm
điệu của họ thật đơn giản và tiếng hát của họ đẹp đến nỗi không thể nào diễn tả
đƣợc.
Bản dịch Anh văn đầu tiên của Thánh ca Giê Xu đẹp thay ra mắt tại Hoa Kỳ
năm 1850, với ca đội của Richard Storrs Willis. Bác sĩ Willis sau này có viết cho
John Julian biết ông không thể nhớ lại đã nhận đƣợc Thánh ca này tại đâu. Trong
khi cuốn Schlesische Volkslieder đƣợc xuất bản năm 1842, Willis sống tại Đức và
sau đó sống lại Leipzig mấy năm nữa để nghiên cứu với Hauphmann. Khi trở lại
Hoa Kỳ, ông dạy Đức ngữ tại Viện Đại học Yale trong một khoảng thời gian ngắn
trƣớc khi ông vào làng báo và làm chủ bút của những loại sách âm nhạc, Ông cũng
là tác giả của một số ca khúc nhƣ bài hát vui quen thuộc mang tên “It came upon
the Midnight clear”.
Thánh ca 23: TÔN VINH CHÂN THẦN
“Praise God from whom all blessings flow”
Các đại học ở Anh Quốc mang nhiều sắc thái lạ lùng. Giáo hội La Mã và giáo
hội Anh quốc ở đó cũng vậy. Một hôm, khi bài cầu nguyện mẫu đƣợc đọc lên ở đại
học Oxford, vị phó viện trƣởng đã ngồi phịch xuống ghế, đội mũ lên đầu. Cậu học
sinh Thomas Ken có mặt nơi đó thầm nghĩ : “Không thể nhƣ thế đƣợc”.
Ken đƣợc nuôi dƣỡng trong cô nhi viện Winchester rồi vào đại học Oxford.
Học xong ông trở lại Winschester là tuyên úy.
Để khuyến khích sự thờ phƣợng Ken viết một quyển sách mang tựa đề “Cầu
nguyện chỉ nam”. Trong sách Ken khuyên các em cô nhi :
“Chúng ta nhớ hát lúc sáng sớm cũng nhƣ lúc tối khuya”. Đó là vào năm 1667,
đến năm 1674 Ken đƣa vào sách của mình 3 thánh ca.
“Thánh ca buổi sáng” của ông bắt đầu nhƣ sau :
Linh hồn ơi,
Hãy tỉnh thức với mặt trời
Trong bổn phận,
Ta trổi dậy tƣơi mới
Sống hy sinh.
Gƣơng chiếu sáng rạng ngời.
Tiếp đến là 13 điệp khúc. Điệp khúc sau cùng có lời nhƣ sau
Tôn vinh chân thần nguồn ơn vô đối,
Dƣới đất chúng sinh ngợi Chúa khắp nơi,
Trời cao cũng chung khen ngợi Ba Ngôi.
Chúa cha và Con với linh muôn đời.
“Thánh ca buổi tối” của Ken bắt đầu với những lời nhƣ sau :
Vinh hiển thuộc Chúa tôi trong
Ơn phƣớc thuộc Chúa tôi trong ánh sáng
Thánh ca buổi tối kết thúc giống nhƣ Thánh ca buổi sáng : “Tôn vinh chân
thần....”
Trƣớc tiên, nhạc đƣợc phổ cho Thi Thiên 134 vào năm 1551. Sau đó nhạc này
đƣợc phổ cho Thi Thiên 100. Kể từ đó Thánh ca này có hầu hết trong các sách
Thánh ca.
Sau nhiều triều đại, sau nhiều thăng trầm, đƣợc làm giám mục cho hoàng đế
rồi lại phải bị tù vì hoàng đế khác, cuối cùng Ken qua đời với cây tứ huyền cầm
xƣa và con ngựa già. Theo lời yêu cầu, ông đƣợc 6 ngƣời nghèo nhất trong miền
đƣa đám.
Thánh ca 28:
PHƯỚC NGUYÊN TỪ TRỜI XIN CHẢY VÀO LÒNG
“Come! Thou fount of every blessing”
“Phƣớc nguyên từ trời xin chảy vào lòng, bật lên khúc ca chúc ơn Ngài; Suối
nhân từ hằng tuôn chảy ngập dòng, giục tôi thoả vui hát một bài; Nguyện chỉ giáo
tôi thi ca bỗng trầm, mà lƣỡi lửa cõi thiên thƣợng hát, để tôi ngợi ngọn ân điển
ngàn tầm, là non cứu ân, non cực lạc.”
Thánh ca này có nguồn gốc từ một nhân vật sống phóng đãng, truỵ lạc nhƣng
đƣợc quyền năng của Chúa thay đổi thật la lùng. Câu chuyện ấy đƣợc bắt đầu nhƣ
sau:
Gã trẻ tuổi nói :
– Tụi bây rót rƣợu cho mụ nữa đi. Ngƣời đàn bà nghèo khổ có nƣớc da bánh
mật đã say đến mức không có thể đứng vững đƣợc nữa, nhƣng bọn thiếu niên
hoang đàng vô nhân cứ chuốc thêm rƣợu cho bà ta. Gã Robert Robinson 17 tuổi la
lên :
– Đổ rƣợu vào miệng mụ rồi mụ sẽ bói cho tụi mình. Mấy tên kia cứ chuốc
rƣợu cho đến khi ngƣời đàn bà đồng ý đoán tƣơng lai cho chúng mà không lấy tiền.
Một tên không cửa, không nhà nói sau khi bà ta tiên đoán rằng hắn sẽ chết yểu
:
– Mụ say rồi, mụ chẳng còn biết mụ đang nói gì.
Robinson trả lời :
– Mày phải biết điều đó. Mày đã rót rƣợu cho bả mà.
Quay lại tên cầm đầu du đảng, ngƣời đàn bà có nƣớc da bánh mật và cặp mắt
lừ đừ chỉ 1 ngón tay run run nói :
– Còn mầy, gã kia, mày sẽ sống để thấy con cháu mầy.
Robinson đột nhiên xanh mặt nói :
– Mày nói đúng, mụ đã say chẳng còn biết trời trăng gì nữa. Thôi tụi mình rút
bỏ mụ này đi.
Nhƣng lời của ngƣời đàn bà cứ ám ảnh hắn suốt ngày hôm ấy. Hắn nghĩ : nếu
mình sẽ sống để thấy con cháu, mình phải thay đổi cách sống, không thể sống mãi
thế này đƣợc.
Thế là ngay chính đêm hôm ấy, Robinson nửa đùa nửa thật, dắt cả băng đến
buổi giảng phục hƣng ngoài trời gần đó, nơi nhà truyền giáo trứ danh George
Whitefield đang truyền giảng. Hắn giải thích với đồng bọn :
– Tụi mình sẽ đi xuống đó và chế nhạo mấy tên tín đồ Giám lý bịp bợm khốn
kiếp này.
Nhƣng Thánh Linh Đức Chúa Trời đã làm việc trong tấm lòng phiền muộn và
tâm trí hổn độn của ngƣời thanh niên ƣơng ngạnh này. Đêm ấy Whitefield giảng
trong Mathiơ 3:7 “Hỡi giòng dõi rắn lục kia, ai sẽ dạy các ngƣơi tránh khỏi cơn
giận ngày sau.” Sứ điệp ấy làm Robinson vừa tĩnh tâm vừa hãi sợ. Robinson cảm
thấy rằng vị truyền đạo đang nói với mình và chỉ một mình thôi. Vào ngày thứ tƣ
10/12/1755, 2 năm, 7 tháng sau khi nghe bài giảng ấy, Robert Robinson 20 tuổi đã
trở lại phục hòa với Đức Chúa Trời và tìm thấy sự tha thứ trọn vẹn qua huyết báu
của Chúa Giê Xu Christ.
Sau này, Robinson viết thƣ cho nhà truyền đạo đầu tiên kết án tội lỗi mình:
“Thú thật với ông rằng, chính để dò xem sự trơ trẻn của chỗ đó mà tôi đến. Tôi
thƣơng hại sự ngốc nghếch của những nhà truyền đạo, sự mê mẫn của những ngƣời
nghe và ghét cay ghét đắng giáo lý Cơ Đốc. Tôi đến để thƣơng hại những tín đồ
Giám lý khốn nạn bị lừa dối, nhƣng tôi đã ra về với niềm hạnh phúc của họ”.
Gia nhập Hội thánh Giám lý và cảm nhận sự kêu gọi hầu việc Chúa, chàng
Robinson tự học, đƣợc Wesley bổ nhiệm đến nhà nguyện Hội thánh giám lý
Norfolk, Anh Quốc. Tại đó, nhân ngày kỷ niệm Đức Thánh Linh giáng lâm, 1758
ba năm sau sự quy đạo kỳ diệu của mình, Robinson viết ra lời tự thuật tâm linh nhƣ
sau : Phƣớc nguyên từ trời, xin chảy vào lòng...
Nhớ lại tiên tri Samuên sau trận chiến đánh đuổi quân Phi-li-tin đã lấy một hòn
đá dựng lên giữa khoảng Mich Ba và Sen, đặt tên là Ê-bên-Ê-xe, vì ngƣời nói rằng
: “Đức Chúa Trời đã cứu giúp chúng tôi đến bây giờ”. ISamuên 7 : 12. Robinson
thấy rằng mình phải ca ngợi Ê-bên – Ê-xe thuộc linh trong lòng chính mình để ghi
nhớ chiến thắng của Đức Chúa Trời trên satan 3 năm trƣớc. Ý thức rằng bởi sự
giúp đỡ của Đức Chúa Trời mà mình đã đƣợc cứu và dâng mình vào chức vụ.
Robinson mong muốn “Hòn đá tƣợng trƣng” nhắc nhở chính mình : Cho đến nay
tôi đến đây đƣợc là nhờ sự giúp đỡ của Chúa, vì thế Robinson viết tiếp :
“Đến đây là nhờ chân Chúa phò trì....
Một năm sau, bài hát này đƣợc in trong quyển : Sƣu tập những bài Thánh ca
đƣợc dùng trong Hội thánh Đấng Christ ở Angel Alley, Bishopgate và trở thành
bài phổ biến nhất mà Robinson từng sáng tác.
Robinson đƣợc kể nhƣ là một nhà truyền đạo hiếm có, ngƣời có thể nói :
“Chúa vừa lòng điều gì, khi nào và nhƣ thế nào”.
Ngày 9/7/1790, Robinson qua đời nhƣ mình mong muốn : êm đềm, đột ngột và
cô đơn lúc 55 tuổi.
Thánh ca 32: CẦU CHÚA Ở BÊN TÔI HOÀI
“Abide with me”
“Chúa hỡi ở cùng tôi lúc kim ô lặn rồi, màn hoàng hôn bủa giăng, xin Ngài
ngự bên tôi; Lúc hết mong nhờ ai, tôi vô phƣơng kêu nài, lòng đƣơng bối rối, xin
Ngài ở với tôi hoàí!”.
Lời của bài thánh ca đƣợc viết trong một bối cảnh hết sức thanh nhàn và thơ
mộng, bởi sự ban cho của Đức Thánh Linh nên lời thơ không hề gƣợng ép. Hôm
đó vừa giảng xong tại nhà thờ, Henry F.Lyte đi dọc theo bờ biển, lòng hân hoan,
cùng với một cảm giác bình an thƣ thái. Lúc trở về phòng riêng, ông đƣợc cảm
động và viết thánh ca “Cầu Chúa ở bên tôi hoài”. Thánh ca này cũng đƣợc gọi là
“Thánh khúc bình an” hoặc “Vui mừng”. Nó bày tỏ một linh hồn biết nƣơng cậy
Chúa và tìm đƣợc sự bình an ở trong Ngài.
Henry F. Lyte sinh tại Kelso Tô Cách Lan ngày 1-6-1793. Qua đời tại Nice,
nƣớc Pháp ngày 20/11/1847 trong khi đang du lịch tại Italia. Lúc thiếu thời ông là
1 học sinh cần mẫn, và có ƣớc mơ trở thành 1 nhà vật lý học. Nhƣng ông không thể
tự quyết định cho đời sống và chức vụ của mình. Ông Lyte đƣợc kêu gọi vào chức
vụ hầu việc Chúa trong Hội thánh Giám nhiệm (Episcopal Church). Đến năm 1815
ông đƣợc phong chức Mục sƣ. Ông thành hôn với con gái của Rev. W. Maxwell.
Ông Lyte có một đời sống tin kính và sốt sắng phục vụ Chúa cách hết lòng, trong
lúc tuổi già ông cảm thấy đời sống của mình thật quá ngắn ngủi, chỉ nhƣ một
chuyến đi. Ý tƣởng này thúc đẩy ông viết lên thánh ca bất hủ để ngợi khen sự vinh
hiển của Thƣợng đế. Ông đã cầu nguyện cho việc này thật nhiều và đã đƣợc Chúa
nhậm lời.
Thánh ca 40:
THÁNH THAY, THÁNH THAY, THÁNH THAY !
“Holy , Holy, Holy”
“Thánh thay! Thánh thay! Thánh thay! Đấng chủ tể oai quyền! Đang khi tƣng
tƣng sáng, chúng tôi đã dâng khúc hoan ca; Thánh thay! Thánh thay! Thánh thay!
Trí, dõng, ái đức vô biên! Chúa Ba ngôi vốn một thể oai nghi, rạng loà.”
Tác giả của bài Thánh ca đƣợc cảm động bởi những lời tiên tri huyền nhiệm
của Ê Sai: “Về năm vua Ôxia băng, tôi thấy Chúa ngồi trên ngôi sao sang, vạt áo
Ngài đầy dẫy đền thờ. Những Sêraphin đứng bên trên Ngài ; mỗi Sêraphin có sáu
cánh, hai cái che mặt, hai cái che chân, và hai cái dùng để bay. Các Sêraphin cùng
nhau kêu lên rằng : Thánh thay, thánh thay, thánh thay là Đức Giêhôva vạn quân !
Khắp đất đầy dẫy sự vinh hiển Ngài” (Êsai 6 : 1-3).
Mặc dầu lẽ đạo Cơ đốc về ba ngôi Đức Chúa Trời chƣa đƣợc hiểu rõ ràng
trƣớc ngày lễ ngũ tuần, nhƣng những Cơ Đốc nhân đều tin rằng điều này đã đƣợc
bày tỏ trong Cựu ƣớc cũng nhƣ Tân Ƣớc rồi. Trong sự hiện thấy của Êsai về ĐCT,
Ba ngôi ĐCT đƣợc đề cập bằng 3 tiếng lập lại của thiên sứ. Những chữ này đã trở
thành bài ca lịch sử của những kẻ tôn thờ ĐCT. Bài này đƣợc gọi là “Trisagion”
hoặc “Tersanctus”. “Ba Ngôi thánh thay”.
Một đoạn tƣơng tự trong Khải 4:8-11. Bài này đƣợc viết bởi Reginald Heber,
chủ tọa một Hội thánh tại Hodnet, Đông Anh Quốc, từ 1807 – 1823.
Heber không giống nhƣ mọi ngƣời, sanh ra trong 1 gia đình giàu có và trí thức,
ông dâng đời sống mình để hầu việc Chúa cả ở quê hƣơng Anh lẫn xứ Ấn Độ xa
xôi. Dầu ông có ân tứ về học thức rất cao và là bạn của nhiều văn sĩ lớn nhƣng hoài
bảo lớn nhất của ông vẫn là hoàn mỹ những thánh ca hát trong chính nhà thờ của
ông.
Khi Heber nhận chức vụ Giám mục tại Calcutta năm 1823 ông đƣợc đi giảng
đạo ở hải ngoại nhƣ ông hằng mong ƣớc. Với chức Giám mục, ông cai quản một
vùng gần hết Nam Thái Bình Dƣơng. Trong 3 năm ông đi từ chỗ này đến chỗ khác,
không mỏi mệt để làm tiến bộ công việc Chúa tại địa phƣơng. Ngày 3 tháng 4 năm
1826, Heber giảng về sự gian ác của giai cấp phong kiến xã hội Ấn Độ trƣớc một
đám đông cử tọa tại Trichinopoly. Sau đó ông đi tắm tại hồ bơi ở nhà. Cách ít lâu
sau ngƣời ta tìm thấy ông bị chết đuối và trên xác có dấu bị đánh đập. Ông mất
năm 43 tuổi, đƣợc chôn tại Trichinopoly. Năm 1875 hoàng tử xứ Wales đến đặt
một tấm biển tƣởng niệm ông.
Heber sống và làm việc trong thời mà nền văn chƣơng Anh đạt trình độ cao về
mỹ từ và cấu trúc thi văn. Đặc điểm này thể hiện rõ ràng hơn trong bài ca này. Câu
1 nói về Ba bản tính của ĐCT Ba ngôi : Thánh, Trí Dõng, Ái đức.
Câu 2 : Các thánh, Chêrubin và Sêraphin tôn thờ Ba ngôi ĐCT. Kết thúc bằng
câu “Ba ngôi” mô tả ĐCT đời đời nguyên hữu, chung vô hạn kỳ. ĐCT cũng là toàn
thiện, sự hiểu biết của chúng ta đối với Ngài hữu hạn, Ngài bị che khuất bởi tội lỗi
chúng ta và sự thiếu hiểu biết của chúng ta. Dầu vậy, chúng ta cũng đủ thấy vinh
quang Ngài để biết rằng Ngài toàn mỹ – toàn mỹ trong linh năng, thánh sạch và
yêu thƣơng. Đây là câu 3 “Ba ngôi”.
Câu chót mƣợn ý của Giăng hiện thấy ở Khải 4:11. ĐCT là Đấng tạo ra mọi sự
và sự vinh hiển Ngài. Do đó, muôn vật trên trời, dƣới đất, nơi biển đều tôn vinh
Ngài.
Điệu nhạc đƣợc soạn bởi John B. Dykes, nhạc sĩ Organe và soạn giả nổi tiếng
nƣớc Anh và cũng là giáo sƣ trong giáo hội Anh.
Khi xuất bản năm 1861, Dykes đặt tên có ý nghĩa là “Nicene” để nhắc đến lẽ
đạo Ba ngôi ĐCT đƣợc giáo hội tuyên ngôn đức tin năm 325 tại Nicene.
Thánh ca 41: CHÚA VỐN BỨC THÀNH KIÊN CỐ
“A mighty fortress is our God"
“Chúa vốn bức thành kiên cố ta rày, thuẫn khiên ta che đỡ hàng ngày; Đấng
cứu giúp hồi nguy khốn ƣu sầu. Đấng giúp ta luôn thắng nhiệm mầu. Ngày đêm
dẫu quân thù xƣa, nghịch ta ta khôn nghiêng ngửa. Tuy nó thâm mƣu đa tài, quyết
chống ta suốt đêm ngày, quả không ai trên đất địch tày.”
Thánh ca này là nguồn ai ủi cho những ai đang lâm phải cảnh buồn bực hay cô
đơn tuyệt vọng. Tác giả của bài thánh ca này đã soạn nên những vần thơ kỳ diệu
đang lúc ông trong tâm trạng nhƣ vậy. Martin Luther thấy chán nản. Bệnh tật cũng
nhƣ nỗi thất vọng đã giang tay trên ông để làm cạn sức lực và tiêu tan lòng hăng
hái của ông. Mƣời hai năm trƣớc, ông đã dũng cảm đóng 95 luận đề của mình lên
cửa nhà thờ Wittenberg nƣớc Đức. Ông nhớ rất rõ những sự kiện đã xảy ra từ sự
kiện đáng nhớ của năm 1517 đó. Ông đã bị Giáo hoàng dứt phép thông công và
ông đã ngang nhiên đốt lịnh ấy trƣớc công chúng, cũng nhƣ Đức Thánh Cha (Giáo
hoàng) đã phải ra lịnh đốt sách của ông sau nầy vậy. Những cuộc tranh luận với
Tiến sĩ John Eck, cuộc họp nghị viện nổi tiếng ở Worms, việc dịch Kinh thánh ra
tiếng Đức phổ thông, cơn lũ sách vở chảy ra từ ngòi bút của ông, cùng với cuộc
hôn nhân của ông với Katherine Von Bora 4 năm trƣớc hiện lên rõ ràng trong tâm
trí ông.
Những năm 1529 là khoảng thời gian buồn bã, không chỉ cho công nhân ông,
song cũng cho cả phong trào ông khởi xƣớng 12 năm về trƣớc. Trong mọi nổ lực
kéo mình ra khỏi trạng thái chán nản, ông phải dùng đến lời khuyên của chính
mình : “Eva sa vào tội lỗi khi bà đi bộ một mình trong vƣờn. Tôi có những cám dỗ
nguy hiểm nhất khi tôi chỉ ở một mình”. Ông đã từng viết nhƣ vậy. Vì thế, ông chủ
ý né tránh sự cô độc và đi tìm bầu bạn với những ngƣời có cùng suy nghĩ.
Ông cho rằng : “Không ăn uống là một cách chuốt lấy sự tệ hại nhất. Không
thấy đói bụng sẽ sinh ra điều tệ hại là sự chán nản. Thế là ông tìm bè bạn ở yến
tiệc. Ăn uống với sự thỏa mãn để giải khuyâu nỗi lòng hoặc để bổ dƣỡng cho thể
xác của ông. Ngó qua mấy tác phẩm mình vừa viết, ông khám phá rằng đã có một
lần ông viết nguyên tắc để kéo mình ra khỏi sự lƣời biếng, nhàm chán và thất vọng
là : “Đức tin nơi Đấng Christ, phát điên, đƣợc tình yêu của một phụ nữ tốt.” Nhƣng
phƣơng thuốc ƣa thích của ông là âm nhạc. Ông nói: “Ma quỉ ghét âm nhạc, vì nó
không chịu đƣợc sự hoan hỉ.” Satan có thể cƣời tự mãn song không thể cƣời vui vẻ
vì thế ông hát với gia đình, bè bạn và ngay cả khi chỉ có một mình.
Ông viết : “Khi tôi ngủ, ma quỉ luôn luôn chờ chực quanh tôi”. Vì vậy ông kéo
mình ra khỏi kẻ thù ghê tởm ấy bằng cách giảng dạy và hát với chính mình. Thử
vài lần ông thấy điều này có hiệu quả kỳ lạ. Ông nói : “Đối với tôi, cuộc sống là
cuộc chiến đấu không ngừng cho đức tin. Nhằm đánh bại kẻ thù, đôi lúc tôi phải
gặp ma quỉ lao vào, và tôi mặt đối mặt với nó. Nhiều lần khác, tôi gặp ma quỉ cách
gián tiếp”. Nhƣng tại Loburg năm 1929, Vào năm 45 tuổi sự chán nản kéo dài hết
ngày này sang ngày khác, đến nỗi ông tƣởng rằng mình sẽ không lấy lại niềm tin
tƣởng và sự bình tịnh đã có trƣớc đó. Ông cố gắng tìm hiểu chính mình và tâm
trạng của mình. Từ sâu thẳm của nỗi thống khổ và tuyệt vọng, ông nhớ đến lời
Chúa Giê Xu kêu trên thập tự : “Đức Chúa Trời tôi ôi! ĐCT tôi ôi! Sao Ngài lìa bỏ
tôi ?” Ông tự nhắc mình rằng : “Chính tiếng kêu tuyệt vọng bắt đầu bằng những
chữ ĐCT tôi ôi! Là một lời khẳng định của đức tin”. Martin Luther, ngƣời đã trao
lại cho đồng bào mình quyển Kinh thánh bằng tiếng mẹ đẻ, là ngƣời phục hồi việc
hát hội chúng, sáng tác Thánh ca bằng ngôn ngữ nƣớc mình, và soạn hòa âm để
đồng bào thích thú hát. Ông làm cho âm nhạc trở thành niềm vui của hội chúng
hơn là bổn phận đơn độc của ca đoàn, và cho nó tính tự phát, đó là biểu thị đặc
điểm của Thánh ca Cơ Đốc ở mức tốt nhất. Ông cho phép phụ nữ đƣợc phép hát
chung với ngƣời khác, ở nơi công cộng, một quyền lợi đã bị cƣớp khỏi họ trong
hơn 1000 năm.
Cuối năm 1529, Thi Thiên 46 là một nguồn an ủi lớn đối với ông. Ông lặp đi
lặp lại câu 1 : “ĐCT là nơi nƣơng náu và sức lực của chúng ta, là nguồn giúp đỡ
sẵn ngay trong cơn gian truân”. Những lời nầy bùng cháy trong lòng, ông nén sự
thúc bách của mình vào những kẻ thù, bất kể là Giáo Hoàng hay nông dân, Satan
hay tội lỗi. Qua ngòi bút, ông kể lại cuộc chiến đấu của mình trong những bài
Thánh ca gồm những lời oai hùng sau :
“Chúa vốn bức thành kiên cố ta rày.... trên đất địch tày”.
Bốn khổ thơ nhắc nhở rằng : “Thiên Chúa là thành lũy, Christ là Đấng quán
quân, và Satan là kẻ thù của linh hồn. Nhƣng chiến thắng cuối cùng sẽ trong Đức
Chúa Trời, Đấng mà vƣơng quốc của Ngài là đời đời”.
Tác giả, nhà soạn nhạc Martin Luther (1483 – 1546), một trong những bậc anh
hùng nổi tiếng của lịch sử, đã phục vụ Hội Thánh cải chánh không mặt nào lớn hơn
là viết và soạn nhạc bài Thánh ca “Chúa vốn bức thành kiên cố”.
Thánh ca 43: THÀNH TÍN CHÚA RẤT LỚN THAY
“Great is Thy faithfulness”
“Giê Hô Va ôi, sự thành tín Chúa rất lớn thay! Không bóng biến thiên, muôn
đời Ngài luôn vững chãi; Ngài không thay đổi, đức yêu thƣơng vô cùng rộng dài,
thật xƣa đã có, hôm nay, mai sau còn hoài. Thánh Chúa thành tín dƣờng nào!
Thánh Chúa thành tín biết bao! Ngày thêm tƣơi mới, lòng tôi cảm thấy ơn dào;
Điều tôi nhu yếu Chúa ban cho dƣ dật dƣờng nào, lòng thành tín Chúa trên tôi rộng
lớn làm sao!”
Nhạc bài này do W.M. Runyan sáng tác. Thomas Chisholm ghi lại cảm tƣởng
của mình về sự thành tín của Chúa khi học Kinh Thánh và gửi nhiều bài thơ về cho
Runyan. Đoạn mở đầu và điệp khúc trích từ Ca Thƣơng 3:22, 23 ; Gia Cơ 1:17.
ĐCT luôn luôn nhƣ là mặt trời chính ngọ, không bao giờ có áng mây che sự thành
tín thành toàn của Ngài.
Sự thành tín của Đức Chúa Trời thoát thai từ một đặc tính khác của Ngài, là sự
bất biến. Đây là câu trả lời của chúng tôi đối với các nhà thần học cho rằng “Đức
Chúa Trời đã chết”. Ngài đang sống và sống đời đời. Ngài không hề thay đổi,
không một chút biến cải.
Bằng nhiều cách, thiên nhiên chứng minh Đức Chúa Trời thành tín. Mỗi hoàng
hôn đƣợc bình minh nối tiếp, mỗi mùa đông có mùa Xuân theo sau. Khi chúng ta
gieo trồng là có thể tính đến chuyện gặt mùa. Trên trời ta thấy vô số ngôi sao di
động theo quỹ đạo mà các nhà thiên văn từ ngàn năm xƣa cũng đã có thể vẽ ra.
Nhƣng càng rõ ràng hơn khi chúng ta biết Ngài thành tín trong những lúc Ngài đối
xử với loài ngƣời tội lỗi, hƣ hoại. Ngài hứa tha thứ tội lỗi chúng ta và ban sự bình
an cho tâm trí chúng ta, khi chúng ta nhận Christ làm cứu Chúa thì Ngài làm trọn
mọi lời Ngài hứa. Sáng qua sáng, ngày qua ngày, chúng ta thấy Đức chúa Trời hiện
diện trong lòng chúng ta, chắc chắn chúng ta trông cậy nơi sự hiện diện của Ngài,
cả đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời.
Chúng ta rất đƣợc an ủi bởi những lời của một tín hữu vô danh nói lên niềm tin
nơi Chúa: “Đừng sợ ngày mai vì Đức Chúa Trời hiện diện sẵn hôm đó”
Thánh ca 44: ĐẤNG XƯA GIÚP CHÚNG TÔI
“Our God, our help in ages past”
“Ôi, lạy Chúa, nguyện Đấng giúp tôi mãi, là ƣớc vọng lúc hậu lai, nơi bảo toàn
giữa giông tố dội vang, là nhà muôn thuở bình an.”
Những lời này do nhà soạn nhạc Isaac Watts, ông sống ở Anh Quốc gần 200
năm sau thời Martin Luther. Isaac là một trong những nhà lãnh đạo đã góp phần
làm cho Thánh ca có những bƣớc phát triển vƣợt bực, Watts có khả năng đặc biệt
cần có cho sự nghiệp quan trọng của một nhà sáng tác Thánh ca. Mẫu chuyện nhỏ
về thời thơ ấu của ông cho thấy rằng ông đã làm thơ rất sớm. Lần kia, cậu bé Watts
phát cƣời to lên giữa lúc gia đình đang cầu nguyện, khi đƣợc hỏi tại sao, cậu trả lời
rằng cậu không nín cƣời đƣợc khi thấy một con chuột leo lên sợi dây chuông ở gần
lò sƣởi, và cậu đã làm vần thơ sau :
“Con chuột muốn đạt bực cao hơn, nên đã leo lên sợi dây để buông lời cầu
nguyện”. Ngày nay, chúng ta khó có thể hình dung ra đƣợc tình hình Thánh nhạc
trong thời gian Watts nhóm lại hết sức nghiêm nhặt, Hội chúng chỉ đƣợc hát những
Thi Thiên trong khi thờ phƣợng. Lý do là vì các Thi Thiên đƣợc lấy trực tiếp từ KT
nên đƣợc xem chính là lời ĐCT. Ngƣời ta nghĩ rằng chỉ những bài hát đó mới xứng
đáng đƣợc hát trong nhà thờ nên gọi là Thánh ca. Những bài hát do loài ngƣời đặt
ra thì đƣợc gọi là “Những kẻ khoe khoang tự phụ” là kẻ dám nghĩ rằng sẽ trau giồi
thêm cho Đức Chúa Trời và “Dạy Đức Chúa Trời sáng tác”.
Sự ca hát lúc ấy thƣờng là buồn bã, bởi vì chỉ có một ít Thánh ca đƣợc hát
trong phần lớn các Hội thánh. Thƣờng thì “Ngƣời hƣớng dẫn” đọc lớn tiếng từng
dòng Thi Thiên, hội chúng hát dòng ấy, rồi dừng lại, chờ nghe đọc dòng kế tiếp.
Chỉ có ít âm điệu đƣợc sử dụng vì ngƣời hƣớng dẫn phải tìm âm điệu nào mọi
ngƣời cùng biết và tất cả đều ê a kéo dài một cách buồn chán.
Nhƣng với Watts và một số nhà lãnh đạo khác, hiển nhiên là cuộc sống mới
phải đƣợc hòa cùng các bài hát thờ phƣợng. Họ cảm thấy rằng hội chúng đã chán
ngán khi chỉ hát toàn Thi Thiên và hẳn là những bài hát mới sẽ đƣợc hoan nghênh
lắm.
Một ngày kia, khi Watts phàn nàn về những câu Thi Thiên đƣợc hát trong Hội
Thánh của Cha ông thì một nhân viên Hội thánh hỏi vặn lại : “Vậy cậu hãy cho
chúng tôi cái gì tốt hơn đi”. Watts nhận lời thách thức đó dù lúc ấy ông hãy còn trẻ
lắm. Ông đã viết một Thánh ca mới có tựa đề là : “Hãy ngắm xem sự vinh hiển của
chiên con”. Khi đem hát vào sáng chúa nhật, bài Thánh ca đƣợc hoan nghênh nồng
nhiệt khiến nhà thi sĩ trẻ tuổi quyết định sẽ viết thêm những bài khác nữa. Trong
những năm kế tiếp, ông đã sáng tác hầu hết trong số 210 bài Thánh ca trong tập
nhạc của ông, có tựa đề là “Thánh ca và linh khúc”, xuất bản năm 1707. Đó thật là
một quyển Thánh ca đầu tiên bằng Anh ngữ.
Watts bắt đầu công việc của mình bằng lòng nhiệt tình tuổi trẻ và luôn tranh
đấu cho sự tự do cởi mở hơn về vấn đề các bài hát trong nhà thờ. Thánh ca của ông
khoảng 600 bài tất cả, đã đánh thức dân tộc Anh vào niềm vui ca hát. Các bài
Thánh ca của ông đã vƣợt Đại Tây Dƣơng sang Châu Mỹ. Benjamin Franklin rất
thích những bài ca ấy. Quyển sách đầu tiên của Franklin là “những Thánh ca và
Thi Thiên của Watts”, xuất bản năm 1741. Do ảnh hƣởng sâu đậm tồn tại trong
lòng ngƣời, cho nên đến nay chƣa có một bài thơ nào vƣợt trội hơn các bài thơ của
Watts.
“Đấng xƣa giúp chúng tôi“ xuất bản năm 1719, là một trong những Thánh ca
hay nhất của Watts. Hãy để ý đến nét đẹp sâu sắc của lời hát, chúng đầy dẫy hình
ảnh và ẩn dụ thật hay (câu 1, 4, 6).
Bài hát mang một sứ điệp tiềm ẩn là dù thời gian có giống nhƣ dòng nƣớc mãi
trôi qua, Đức Chúa Trời vẫn còn đời đời và sẽ là nguồn cứu giúp của chúng ta
trong tƣơng lai cũng nhƣ Ngài từng là nhƣ vậy trong quá khứ. Đƣợc dựa trên Thi
Thiên 90, bài hát nầy thƣờng đƣợc dùng nhƣ một Thánh ca năm mới.
Trong số những thi phẩm khác của ông có bài Thánh ca giáng sinh tuyệt vời
TC 54: “Phƣớc cho nhân loại” (1719). Ngoài ra bài “Jésus shall reigh”, “Where the
sun” (TC 19) chƣa có trong Thánh ca Việt Nam, cũng là một sáng tác của ông. Còn
bài “When I survey the wondrous cross” (1709) Thánh ca 95 cũng đƣợc rất nhiều
ngƣời ƣa thích. Watts không lập gia đình và ông rất yêu trẻ con, những vần thơ của
ông vẫn có cái gì đó gợi về thời thơ ấu. Martin Luther cũng có ơn tƣơng tự khi viết
Thánh ca cho trẻ em cũng nhƣ cho ngƣời lớn. Nhƣng Watts chƣa bị ai vƣợt qua về
các bài Thánh ca viết cho trẻ em. Từ ngòi bút của ông đã cho ra đời bài “Hush my
babe, Lie Still and slumber” (chƣa dịch sang tiếng Việt) có lẽ là bài hát dành cho
trẻ em tuyệt vời nhất trên thế giới.
Năm 1715, ông xuất bản một bản Thánh ca hấp dẫn dành cho thiếu nhi, trong
đó có những bài nổi tiếng nhƣ “Holo doth the little busy bee”, “Birds in their little
nests agree”, “let dogs delight to burk and bite” (nhƣng đều chƣa dịch sang tiếng
Việt).
Isaac Watts mất năm 1748. Tƣợng đài kỷ niệm ông đƣợc dựng ở tu viện
Wesminster, đó là danh dự cao quí nhất dƣới một ngƣời Anh. Trên bia mộ có vẽ
hình Watts đang ngồi bên bàn viết, trong khi các Thiên Thần đang thì thầm những
nhạc khúc bên tai ông. Bạn có nghĩ rằng điều đó đã đƣợc thật sự xảy ra chăng ?
Các bài Thánh ca do Isaac Watts viết lời có trong quyển thánh ca của Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam là Thánh ca số 22, 97, 102, 317, 351.
Thánh ca 49: CHÚA SẼ LO TOAN
“God will take care of you”
“Giờ bạn gặp gian truân chớ hoang mang, nhờ Chúa lo liệu châu toàn, bạn cần
dựa nƣơng trong cánh yêu đang, nhờ Chúa lo liệu bảo an. Chúa sẽ luôn luôn lo
toan, trong mỗi năm ngày, qua cả đời này; Ngài lo chu cấp thích đáng, Chúa sẽ lo
sẳn từng giây.”
Những lời thơ nhƣ là một lời tâm sự của một ngƣời tin cách quả quyết vào
quyền năng bảo bọc lo toan của Cha trên trời và đó chính là câu chuyện của Mục
sƣ W. Stiliman Martin, cũng là nhà soạn nhạc. Ông cùng vợ, cậu con trai và vài
ngƣời bạn đang đi thăm TP. Nữu Ƣớc. MS Martin đƣợc mời giảng Tin Lành vào
một vài Chúa nhật và ông hứa sẽ đến. Nhƣng bà, vốn đã nhuốm bịnh, lại trở nặng
vào ngày Chúa nhật hôm ấy, đến nỗi ông phải gọi điện thoại cho những nhân viên
ở Hội thánh, báo rằng ông không thể giảng đƣợc. Khi ông sắp nhấc ống nghe lên
thì cậu con trai nói với ông : “Ba ơi, Ba không nghĩ rằng Chúa muốn Ba giảng hôm
nay, còn Ngài sẽ lo lắng cho Má trong khi ba đi sao?”
MS Martin cảm thấy nhƣ mình bị quở trách và ông quyết định cứ đi giảng.
Cuối bài giảng của ông, có nhiều ngƣời tin Chúa. MS Martin trở về nhà, lòng vui
mừng vì đã làm tròn trách nhiệm và ĐCT đã chúc phƣớc cho chức vụ của ông. Khi
ông về đến nhà, cậu con trai đón ông ở cửa và đặt vào tay ông một bao thƣ cũ mà
phía sau lƣng có ghi lời của bài Thánh ca này. Từ đức tin đơn sơ của cậu bé, bà
Martin đã đƣợc cảm động viết ra lời của bài Thánh ca ấy. Đọc bài thơ xong, MS
Martin đi đến cây đàn organ trong phòng và soạn xong bài nhạc trong vòng vài
phút.
Nhiều lần có những ngƣời đã sợ hãi hoặc đối diện với những điều lo lắng thì
bài Thánh ca nầy đã làm họ đƣợc an vui một cách diệu kỳ.Chuyện kể rằng, có một
cơn bão thổi qua thành phố. Khi cô bé Virginia đang đến thăm bà. Bầu trời vang
rền tiếng sấm và các tia sét chớp sáng. Bé Virginia leo vào lòng bà. Tay bá cổ, nói :
“Bà ơi, mình hát bài Thánh ca Chúa sẽ lo toan đi”. Cả hai bà cháu đã biết hát bài
này từ lớp Trƣờng Chúa Nhật và sau khi họ hát lên, nỗi sợ hãi tan biến khỏi lòng
Virginia.
Thánh ca 53: KÌA THIÊN BINH CÙNG NHAU TRỔI HÁT
“Hark, the herald angels sing”
Charles Wesley sáng tác bài thơ này năm 1739. Ngƣời ta dùng điệu nhạc khác
để hát. Năm 1840, Felix Mendelssohn sáng tác một bản cantata lấy tên là “ĐCT là
sự sáng” và rút một đoạn trong đó để phổ cho bài thơ này.
Charles Wesley, ngƣời Anh là một nhà sáng tác Thánh ca nổi tiếng. Ông sáng
tác 2 bài Thánh ca đƣợc nhiều ngƣời ƣa thích “Giê-xu đấng hằng yêu thƣơng tôi”
(TC 252) ; “Nguyền tình yêu thƣợng giới giáng lâm” (TC 224). Những bài Thánh
ca của Wesley cảm động lòng nhiều ngƣời. Đến năm trên 80 tuổi, ông vẫn để nhiều
thì giờ suy nghĩ về những việc thuộc linh và sáng tác Thánh ca. Nhiều lần khi cởi
ngựa vừa về đến nhà, ông gấp rút chạy vào lớn tiếng gọi : “Lấy viết mau” vì ông
vừa đƣợc Thánh Linh cảm động sáng tác đƣợc một bài Thánh ca, cần ghi chép
ngay.
Bài “Kìa thiên binh cùng nhau trổi hát” đƣợc sửa chữa nhiều vào năm 1840,
lấy ý trong Êsai 9 : 6 ; 2:3-14. Cũng năm 1739, Wesley sáng tác một bài Thánh ca
phục sinh : “Ngày nay Chúa phục sinh” (TC 104) dựa trên ICôrinhtô 15:55-57. Tác
giả đã cảm động sâu xa về việc Chúa vì loài ngƣời trở nên hài nhi, Chúa đã chịu
chết để đền tội cho con ngƣời và sống lại vì sự cứu rỗi của họ.
Thánh ca 54: PHƯỚC CHO NHÂN LOẠI
“ Joy to the World”
“Phuớc cho nhân loại! Chúa ta ra đời: Trần gian nghinh vua vô đối; kíp mở cửa
lòng tiếp rƣớc con Trời, bầu trời vạn vật hoà thinh, bầu trời vạn vật hoà thinh, trời
đất xƣớng ca kính khen vua mình.”
Tiểu sử của Thánh ca này chúng ta đã biết qua lịch sử Thánh ca 44. Isacc
Watts sinh năm 1674 tại Anh và mất năm 1748, Ông sinh ra trong gia đình Cơ đốc,
cha mẹ đều là CĐN sốt sắng. Khi còn nhỏ, ông đã làm thơ, nhƣng cha ông cấm
không cho. Năm 18 tuổi, ông chê thơ ca trong Hội thánh không hay. Cha ông thách
thức : Con có thể sáng tác những bài thơ hay hơn không ?
Đƣợc dịp, ông sáng tác mỗi tuần một bài thơ, liên tục trong 2 năm. Giữ chức
Mục sƣ năm 21 tuổi, nhƣng vì sức khỏe yếu, ông phải chuyển sang làm công tác
văn tự, đặc biệt về Thần học, Triết học và thơ Thánh. Ông sống độc thân suốt đời,
năm 1719 ông sáng tác bài :”Phƣớc cho nhân loại”. Năm 1830 ông Lowell dùng
bài thơ nầy phổ nhạc của Handell một đoạn của ca khúc Đấng Mêsi, nó nhanh
chóng trở nên bài Thánh ca muôn vạn ngƣời thích hát.
Thánh ca 55: HỠI MÔN ĐỒ TRUNG TÍN
“O! Come, all ye faithful”
“ Hỡi môn đồ trung tín, dìu dắt nhau vui hát du dƣơng, vô nơi Bết Lê Hem
chiêm ngƣỡng thật tận tƣờng, Chúa tể muôn sứ thánh nay giáng sanh chổ tầm
thƣờng. Mau mau cùng nhau đến tôn thờ, mau mau cùng nhau đến tôn thờ, mau
đến nơi đây tôn thờ Chúa Christ, vua ta.”
Có những tác giả vô danh nhƣng lòng yêu mến Chúa lại rất nồng nàn, có
những tâm hồn vĩ đại, dâng công lao khó nhọc của mình để hầu việc Chúa nhƣng
không hề muốn để cho đời sau biết đến tên mình. Tâm tình của những ngƣời trung
tín luôn muốn dâng lên Chúa những của lễ quí giá hơn hết nhƣ là những của lễ có
hƣơng thơm dâng lên cho Chúa của Thiên đàng. Không có một phƣớc hạnh nào
cao hơn phƣớc hạnh đƣợc bƣớc đến tôn thờ Chúa bằng một tâm hồn đơn sơ khiêm
tốn.
Bài Thánh ca nầy đƣợc in lần đầu trong tập Thánh ca bằng chữ La tinh năm
1751. Nhiều ngƣời dịch sang Anh văn, bản dịch của Frederick Oakeley năm 1841
đƣợc nhiều ngƣời ƣa thích. Bản Thánh ca Anh văn xuất bản lần đầu ở Anh năm
1852. Có lẽ tác giả là tín đồ Thiên Chúa Giáo, ngƣời công giáo vẫn hát nguyên văn
La tinh tựa bài là ADESTE FIDELES.
Nhiều ngƣời cho rằng Wantes Cantus Diversi sáng tác nhạc bài Thánh ca nầy.
Nhƣng các nhà lịch sử âm nhạc cho rằng nhạc rất xƣa và không biết do ai sáng tác.
Ngƣời ta thƣờng gọi là Nhạc Thánh Bồ Đào Nha. Bài nhạc nầy cũng dùng để phổ
cho bài “Căn cơ kiên cố” (TC 264).
Thánh ca 59: ĐÊM YÊN LẶNG
"Silent night! Holy night"
“ Đêm yên lặng! Đêm thánh này! Vắng vẻ thay! Sáng láng thay! Chung quanh
chốn Ma-ri đang ngắm con mình, Con trai thánh rất tƣơi vui, rất an bình, đƣơng
ngơi dƣới khung trời vắng, êm đềm giữa đêm yên lặng.”
Nơi xuất xứ bài ca giáng sinh tuyệt diệu này là thung lũng Tyrol vẫn hấp dẫn
nhiều du khách, không phải chỉ vì những bức tƣờng hoặc bờ thấp bằng tuyết thôi,
mà còn vì sự thông biết âm nhạc phổ biến nơi từng em bé ở đây nữa. Năm 1818,
trong làng Obendort bên sƣờn núi, có 2 thanh niên : MS Joseph Mohr và ngƣời bạn
của ông Franz Gruber, giáo sƣ và nhạc sĩ của ngôi nhà thờ tại đây. Cả hai đều yêu
thích âm nhạc.
Một ngày trƣớc lễ Giáng sinh, MS Joseph Mohr ngồi yên lặng trong nhà thờ
nhìn ra cảnh tƣợng bên ngoài đầy tuyết phủ.
Trƣớc cảnh thung lủng đẹp đẽ ông thấy lòng mình bình an và vui vẻ, dƣờng
nhƣ ông đƣợc đƣa về đêm Giáng sinh đầu tiên ở Bếtlêhem. Những vần thơ tiềm
tàng từ lâu, nay thoát ra từng tiếng một : “Đêm yên lặng, đêm thánh này...” Sau đó
ông đem ngay bài thơ cho Gruber. Ông này thấy hay quá, phổ nhạc ngay. Hai
ngƣời tập chung với nhau để tối hôm ấy tôn vinh Chúa trong buổi nhóm. Bài hát ấy
đã cảm động lòng ngƣời, sự bình an của Chúa bao phủ họ, cùng với tấm lòng cung
kính tôn thờ Ngài.
Sau đêm phƣớc hạnh đó, bài hát đã bị bỏ quên. Cuối tháng 11 năm 1819, chiếc
đàn phong cầm của Nhà thờ hƣ, phải sửa. Sau khi sửa xong, ngƣời thợ mời ông
Gruber đàn thử để xem còn hỏng gì chăng. Ông Gruber đàn bài Đêm yên lặng.
Ngƣời thợ sửa đàn xin bài hát ấy về phổ biến ở làng mình. Ở một làng khuất sau
sƣờn núi, có 4 chị em ruột nhà Stasser rất yêu thích bài Thánh ca này. Một lần
chúng đƣợc mời đi hát ở Thành phố Leipsig (Đức). Tại đây, trong ngôi đại giáo
đƣờng, bài Thánh ca Đêm yên lặng đã chinh phục thế giới và quen thuộc với toàn
thể nhân loại ngày nay mỗi khi mùa Giáng sinh về.
Thánh ca 61: Ô BẾT LÊ HEM ẤP NHỎ
“O! Little town of Bethlehem"
“Ô Bết-Lê-Hem ấp nhỏ nầy, chốn ngƣơi thật an bình bấy! Khi ngƣơi đƣơng
giấc mê man không ngờ, ánh sao nhẹ lƣớt êm tờ. Ấy chốn phát chân quang đời đời,
trong đƣờng ngƣời đang tăm tối, bao xƣa hi vọng, kinh hãi đôi đƣờng, bữa nay gặp
giữa đêm trƣờng.”
Ông Phillip Brooks sinh năm 1835, mất năm 1893, là một giáo sĩ truyền giáo.
Năm ấy, ngoài 30 tuổi, ông có dịp đi khảo sát tham quan Bết-lê-hem,
Giê-ru-sa-lem và một số nơi có liên quan đến cuộc đời Chúa Giê-xu. Trong đêm
Giáng sinh tại Bết-lê-hem, ngoài đồng vẫn có những ngƣời chăn chiên. Ít lâu sau,
ông lại có dịp đến Bết-lê-hem dự nhóm tối (năm 1868) tại một nhà thờ.
Gần đến lễ Giáng sinh, ông về Mỹ. Tự nhiên lòng ông cảm động muốn làm
một bài thơ tả cảnh đêm của Bết-lê-hem. Sau khi viết xong bài thơ “Ô Bết-lê-hem
ấp nhỏ” ông nhờ ông Lewis H. Redner soạn nhạc. Redner suy nghĩ trong nhiều
ngày mà chƣa soạn đƣợc. Lạ thay ! giữa đêm trƣớc đêm Giáng sinh, ông dƣờng
nhƣ nghe tiếng hát của Thiên sứ, tỉnh dậy ngay, ông dùng viết ghi lại. Hôm sau ông
vui sƣớng đem bài nhạc đƣa cho MS. Brooks, Redner thƣờng bảo : “Đó là món quà
từ thiên thƣợng ban cho tôi”.
Thánh ca 82: CUNG ĐIỆN BẰNG NGÀ
“Ivory palaces"
“Kìa áo Chúa thơm không chi sánh kịp đƣợc, vì đã tẩm trong một dƣợc; mùi
hƣơng bay vào tâm tôi phảng phất thơm, tƣởng đứng trên đồi hƣơng nam. Lìa đền
bằng ngà Ngài hạ giáng nơi trần, đây nơi ti ô trăm phần, vì lòng đại từ nên Chúa ra
đi, bỏ bửu cung tiếc gì.”
Billy Graham kể lại rằng thánh ca nổi tiếng “Cung điện bằng ngà” đƣợc viết
rất gần nơi ông ở, vùng núi North Califonia. Mùa xuân năm 1915, nhà truyền giáo
Chapman đang giảng tại Montreat, cùng với ông có nhạc trƣởng Alexander, đơn ca
A. Brown và ngƣời đàn dƣơng cầm H. Barraclough.
Barraclough, tác giả của bài hát này, là ngƣời Anh 24 tuổi, đã gặp Chapman
năm trƣớc trong lúc truyền giảng tại Anh quốc.
Trong một buổi tối Chapman nói về Thi 45. Ông tin rằng và Billy Graham
cũng vậy, đây là Thi Thiên tiên tri về sự tƣơng giao giữa Christ là chàng rễ và cô
dâu là Hội thánh.
Câu 8 là bài giảng của Chapman: Thuốc thơm và nƣớc hoa Đông phƣơng đƣợc
dùng nhiều cách, đƣợc đổ trên quần áo để mùi hƣơng tỏa ra nhƣ là từ chính hàng
vải. “Một dƣợc” và nƣớc hoa thơm lạ, đƣợc đồng hóa với sự khoái lạc và vui
mừng, biểu tƣợng cho vẻ đẹp của Christ - Vẻ đẹp lôi kéo chúng ta đến với Ngài.
“Trầm hƣơng” đƣợc dùng để ƣớp, gợi nhớ Chúa Giê Xu có nhiều đau buồn trong
cuộc đời tại thế, điểm cao là cái chết sĩ nhục và đau đớn trên thập tự giá. “Nhục
quế” đƣợc dùng nhƣ thuốc xoa, Giê Xu Christ nhƣ là dầu thoa, chữa lành những
vết thƣơng của tội lỗi khi chúng ta nhìn Ngài trong sự ăn năn.
Sau buổi tối thờ phƣợng, Alexander và Barraclough cùng vài anh em đi xe về
quán trọ YMCA Blue Ridge. Ngồi băng trƣớc, chàng Barraclouh suy nghĩ đến sứ
điệp, và 4 câu ngắn của điệp khúc hiện ra trong óc chàng. Khi họ ngừng tại 1 quán
làng nọ, chàng nhanh chóng viết ra trên một tấm thiệp nhỏ, miếng giấy duy nhất có
sẵn. Trở về quán trọ, chàng sáng tác 3 câu đầu sử dụng đại ý của sứ điệp của
Chapman. Sáng hôm sau, bà Alexander và ông Brown tôn vinh bài hát mới trong
buổi họp tại Montreat.
Về sau, tiến sĩ Chapman đề nghị Barraclough thêm vào đoạn 4 nhắc nhở chúng
ta rằng một ngày kia Christ sẽ trở lại mặc áo vinh hiển. Tôi tin rằng suốt cõi đời
đời, chúng ta sẽ đƣợc nhắc về vẻ đẹp của Chúa, sự thƣơng khó vì chúng ta, và sự
tha thứ và tẩy sạch mà Ngài dự bị cho chúng ta.
Henry Barraclough không phải là nhạc sĩ sáng tác nhiều bài hát. “Đền ngà” là
bài duy nhất nổi tiếng và đƣợc hát khắp thế giới. Sau cái chết của Chapman,
Barraclough nhận Mỹ quốc, xứ sở của Chapman làm quê hƣơng mình. Chàng cũng
gia nhập hệ phái của Chapman (Presbyterian) và hầu việc Chúa gần 40 năm trời.
Quý độc giả cũng thích thú mà biết rằng chính Albert Brown, một trong song
ca đầu tiên hát “Cung điện bằng ngà” đã giới thiệu Cliff, Barrows cho Billy
Graham năm 1945. Lúc ấy Billy Graham đang giảng đạo tại North Carolina cho
nhóm trẻ khi ngƣời hát hôm ấy không đến, ông Brown đề nghị Billy Graham mời
hai nhạc sĩ trẻ là Cliff và Billic Barrows đang ghé thăm trên đƣờng đi hƣởng tuần
trăng mật, đó là khởi đầu của nhiều năm cùng nhau hầu việc Chúa cùng với Billy.
Trong các chiến dịch truyền giảng của Billy Graham, Bev. Shea thƣờng hát bài
này, lắm lúc cùng với Cliff Barrows và ban hát. Họ không tƣởng rằng thiên đàng sẽ
thật có các đền ngà, đây chỉ là trí tƣởng tƣợng đƣợc dùng để mô tả vẻ đẹp nhà
Chúa chúng ta, nơi mà Ngài đã lìa bỏ để sống giữa loài ngƣời trên mặt đất này.
Mỗi lần nghe điệp khúc này, chúng ta cảm thấy sự thấp kém của Chúa Giê Xu.
Ngài là đối tƣợng của sự tôn thờ nơi thiên đàng, cam chịu hạn hẹp và thống khổ
trong thân ngƣời. Tại sao thế ? Vì Ngài yêu chúng ta đến nỗi....
Lìa đền bằng ngà
Ngài hạ giáng nơi trần
Vì lòng đại từ
Nên Chúa ra đi
Thánh ca 84: ÁNH SÁNG CỦA THẾ GIỚI DUY JESUS
“The light of the world is Jesus"
“Toàn dân trên đất đắm trong tội đêm dài tăm tối, sự sáng của thê giới duy Giê
Xu; hào quang chân Chúa giống mặt trời trƣa hè đang chói, sự sáng của thế giới
duy Giê Xu. Anh em đến ngay, Giê Xu liền soi sáng, nhƣ tâm của tôi bữa nay thật
quang đãng. Xƣa lòng này đui, rày nhờ Ngài đƣợc sáng, ánh sáng của thế giới duy
Giê Xu.” Philip Bliss khi soạn lời bài này ông đang suy nghĩ về thế giới đắm chìm
trong đêm dài tuyệt vọng. Tội lỗi ngăn cách loài ngƣời với Đức Chúa Trời. Vì lòng
yêu thƣơng vô bờ, Thiên Chúa đã xuống trần làm ngƣời để hoàn thành công cuộc
cứu rỗi nhân loại. Sự sáng đã đến thế gian mà ngƣời ta ƣa sự tối tăm hơn sự sáng vì
việc làm của họ là xấu xa. Nhƣng kẻ nào làm theo lẽ thật thì đến cùng sự sáng.
Chúa Giê Xu phán : “Ta là sự sáng của thế gian” Chúa mang ánh sáng của tình yêu
đến trần thế cho con ngƣời đang hƣ mất mà sự chết và âm phủ chờ đợi. Những tâm
hồn tìm đến Giê Xu sẽ bƣớc đi trong ánh sáng do chính Ngài đƣa đƣờng, sẽ đƣợc
chiêm ngƣỡng hào quang của Thiên Chúa rực rỡ nhƣ mặt trời không hề tắt.
Đấng yêu thƣơng hằng dẫn dắt tâm linh tôi suốt lối hiểm nguy. Lòng quang
đãng không phút giây tuyệt vọng nhƣ ngày xƣa lầm lạc. Cuộc đời tối tăm không
mục đích, nay nhờ Chúa soi sáng đổi mới tâm hồn. Đôi mắt bị mây mù tội lỗi che
kín, nay đƣợc sáng nhờ linh quyền Thiên Chúa, Ngài là sự sáng của cuộc đời tôi, là
hạnh phúc và bài ca của tôi. Ánh sáng của thế giới duy Giê Xu.
Thánh ca 87: KÌA CHÍN MƯƠI CHÍN CON
“The ninety and nine”
“Kìa chín mƣơi chín con nằm bình yên, trong bốn vách tƣờng ràn chiên, một
con bơ vơ nơi dốc núi xa, xa cách cửa vàng nhà Cha. Ngơ ngác quẩn quanh non
núi gốc gai, vắng bóng Cứu Chúa, ngƣời chăn êm ái, vắng bóng Cứu Chúa dìu dắt
đêm ngày.”
Bài thánh ca này đƣợc soạn ra bởi sự kỳ diệu của một phút xuất thần, Thánh
Linh luôn ban cho tâm hồn ngƣời yêu mến Chúa những giây phút cãm động sâu xa.
Quyền năng nhiệm mầu của Thiên Chúa luôn làm cho những điều tầm thƣờng nhất
trở nên phƣớc hạnh nhất cho mọi ngƣời. Ira D.Sankey sáng tác một nhạc điệu ứng
khẩu cho một bài thơ mới ngay lúc tình thế thúc bách do một tiếng nói bên trong
đã thúc giục ông khiến cho bài Thánh ca phổ biến này đã ra đời đúng lúc.
Nhiều năm về trƣớc, một thanh niên trụy lạc bỏ gia đình mình ở Anh qua làm
ăn ở Gia Nã Đại. Ở đó anh ta vẫn vùi mình uống rƣợu, cờ bạc. Cuộc sống kéo dài
nhƣ vậy một thời gian. Một buổi tối mùa Đông, anh say rƣợu và trƣợt chân ngã
ngoài đƣờng khi đi về nhà. Anh không đứng dậy đƣợc và qua đời vào ngày hôm
sau. Hung tin ấy đồn về gia đình bên Anh nhƣng chẳng khiến ai xúc động. Hình
nhƣ ai cũng muốn anh qua đời.
Tuy nhiên cô em ruột của anh, Elizabeth C. Clephan (1830 – 1869), 1 thiếu nữ
hết lòng yêu mến Chúa, yêu ngƣời, và nhất là rất yêu anh Andrew hoang đàng này.
Cô đã cầu nguyện cho anh cô từ lâu. Khi nghe tin anh cô qua đời, cô vô cùng đau
đớn. Cô vào phòng riêng đóng cửa lại và cầu nguyện. Cô nhớ lời kinh thánh trong
Luca 15 : 3-7. Đúng rồi, chẳng lẽ ân điển Ngài không đủ để chia xẻ cho con chiên
lạc đƣờng sao ? Chẳng lẽ Ngài đã thỏa mãn vì còn 99 con chiên trong chuồng sao ?
Sau một hồi lâu, cô dƣờng nhƣ nhận đƣợc sự trả lời, nét mặt hớn hở, cô đứng dậy,
lấy giấy bút và viết ra những cảm nghĩ của mình : bài thơ “Kìa chín mƣơi chín
con”.
Cô cất tờ giấy vào trong tủ áo. Khi cô qua đời, ngƣời ta tìm thấy, đọc và cảm
động nên gởi đi đăng báo. Chúa cho David Sankey đọc đƣợc và phổ nhạc.
Quả thật, Sankey tự nhiên tìm đƣợc một điệu nhạc phù hợp với lời thơ khi ông
ngồi ở chiếc đàn organ thùng trƣớc cử tọa hàng ngàn ngƣời tại đại sảnh tự do ở thủ
đô Edingburgh xứ Tô Cách Lan vào buổi trƣa năm 1874.
Sau 4 tháng để nhiều sức lực hội họp, giảng luận tại Glasgow, ông và Dwight
L. Moody đang trên đƣờng đến Edinburgh để tổ chức 1 chiến dịch giảng Tin Lành
theo lời mời tha thiết của hội các nhà truyền đạo. Ngay trƣớc khi lên xe lửa Sankey
mua một tờ tuần báo giá 1 xu với chút mộng tƣởng rằng đó chắc là đồng xu tốt
nhất mà ông bỏ ra. Lƣớt qua vài tin tức ở quê nhà, ông chẳng tìm thấy gì có dính
dáng tới Hoa Kỳ, ngoại trừ một bài giảng của Henry Ward Beecher. Chán nản, ông
quẳng tờ báo xuống và một lúc sau ông lại nhặt nó lên chỉ cốt ý giết thì giờ bằng
cách đọc những dòng quảng cáo. Chính lúc ấy ông tìm thấy 1 bài thơ nằm trong 1
cột báo mà ông đã bất cẩn bỏ qua trong lần đọc đầu tiên. Ông đọc, cảm thấy thích
và quả quyết rằng nếu đƣợc ai phổ nhạc thì bài thơ ấy làm cảm động ngƣời nghe.
Khi Sankey đọc cho Moody nghe, nhà truyền đạo không chuyên nổi tiếng nầy chỉ
gật đầu nghe cách lịch sự, bởi ông đang mải mê đọc mấy bức thƣ gia đình gởi sang
từ Hoa Kỳ, đến mức chẳng còn tâm trí nào mà nghe lấy 1 chữ gì. Dầu thế, Sankey
cứ cắt bài thơ ra và để nó trong quyển ghi nhạc của ôâng.
Vào buổi thờ phƣợng lúc trƣa ngày thứ nhì của đợt giảng đặc biệt ở Edinburgh,
Moody giảng về đề tài “Ngƣời chăn chiên hiền lành”. Tiếp theo sứ điệp của ông,
Tấn sĩ Horatius Bornar, tác giả TC “Tôi nghe tiếng Chúa phán”, và những bài phổ
biến khác nữa, nói vài lời làm ngƣời nghe xúc động. Bởi tài hùng biện của ông.
Khi Tấn sĩ Bonar ngồi xuống, Moody quay sang nhà lãnh đạo ban hát của mình hỏi
“Anh có bài đơn ca kêu gọi nào thích hợp với chủ đề nầy để kết thúc buổi nhóm
không ?” Sankey thú thật rằng ông hoàn toàn chẳng có. Chính ngay giây phút đó,
“tiếng nói bên trong” bảo : Sankey, hãy hát bài Thánh ca con bắt gặp trên xe lửa”.
Ông trả lời : “Điều đó không thể đƣợc, bài đó chƣa có nhạc”. Nhƣng giọng ấy cứ
nhất định nhƣ vậy. Sankey phản kháng : “Con có thể hát dở khổ thơ đầu, nhƣng
phần còn lại thì sao ?”. Giọng ấy trả lời : “Con lo khổ thơ đầu, phần còn lại để cho
ta”.
Bình thản nhƣ thể ông đã hát bài ấy cả ngàn lần, Sankey đặt mảnh báo trên cây
đàn ngang trƣớc mặt ông, hƣớng lòng lên trong lời cầu nguyện ngắn ngủi, rồi đặt
tay lên phím, đàn dạo hợp âm la thứ. Với giọng nửa nói, nửa hát, ông đi qua khổ
thơ đầu. Kìa chín mƣơi chín con nằm bình yên. Trong bốn bức tƣờng ràng chiên.
Một con bơ vơ nơi dốc núi xa. Xa cách cửa vàng nhà cha.
Ngơ ngác quẩn quanh, non núi gốc gai. Vắng bóng Cứu Chúa ngƣời chăn êm
ái, Vắng bóng Cứu Chúa dìu dắt đêm ngày. Với tinh thần trông chờ lặng lẽ, cả hội
chúng lắng nghe ông hát hết 5 lời của bài Thánh ca mới tuyệt diệu này. Khi những
âm thanh cuối cùng của dòng chót “Vui quá đã tìm đƣợc chiên” chấm dứt, Moody
đi qua cây đàn organ, hỏi Sankey với cặp mắt đẩm lệ :
– Anh lấy bài hát đó ở đâu vậy ?
– Đó là bài tôi đọc cho anh nghe hôm qua trên xe lửa. Từ ngày ấy đến nay, bài
Thánh ca “Kìa chín mƣơi chín con” chẳng thay đổi nhiều. Điệu nhạc của Thánh ca
ấy đã trở thành nhạc khúc nổi tiếng. Ngày nay phổ biến hơn trong các giờ tôn vinh
Chúa của nhiều Hội Thánh trên thế giới.
Sankey trình bày Thánh ca “Kìa chín mƣơi chín con” lần đầu tiên vào năm
1874, quyển sách có bài trên đƣợc xuất bản năm 1955.
Thánh ca 91: THỐNG KHỔ NHÂN
“Halelujah, what a saviour!”
“Danh chi danh là “Thống khổ nhân”. Danh con Thƣợng Đế xƣa lâm trần!
Thay tâm ô tội rửa ác bẩn, lạ thay Cứu Chúa Ha-lê-lu-gia!”
Philip Bliss một lần nữa cho mọi ngƣời thấy tình yêu hi sinh của Chúa Giê Xu
thật rõ ràng: Tại sao Ngài không sanh ra trong cung vàng điện ngọc ? Tại sao Chúa
không sống cuộc đời cao sang quyền quý mà Ngài làm thân con ngƣời sanh nơi
dƣơng thế đê hèn ? Vì tình yêu vô cùng, Giê Xu đã lìa ngôi báu nơi Thiên Đàng,
chấp nhận con đƣờng thập tự. Ngài mang trên vai tội lỗi con ngƣời trần thế, chịu
chết đau thƣơng để chúng ta đƣợc hƣởng sự sống đời đời.
Hãy tin nhận Chúa Jesus ngay hôm nay, Ngài mong chờ từng ngƣời hối cải tội
lỗi mình. Chúa sẽ thứ tha dù tội lỗi chúng ta đỏ nhƣ hồng điều. Rồi một ngày khi
các từng trời mở ra, là ngày Jesus Christ trở lại để đem hết thảy chúng ta, những kẻ
thuộc về Ngài lên chốn hạnh phúc muôn đời.
Hãy ca vang lên ngợi khen Đấng Cứu Thế đã đến trần gian, đem lại kỷ nguyên
thanh bình cho nhân loại. Danh Ngài là “Thống Khổ Nhân”. Danh con Thƣợng Đế
lâm trần. Thay tâm ô tội, rửa ác bẩn. Lạ thay danh Cứu Chúa ! Halêlugia !.
Thánh ca 92: TA HY SINH VÌ CON HẾT
“I give my life to thee”
“Ta hi sinh vì con hết, huyết tuôn tim này tan tành, đem con ra từ nơi chết,
chuộc tội đặng con lại sanh. Ta đã phó tánh mạng cho con rồi, phó chi cho Ta con
ôi?”
Bài Thánh ca quí báu này đƣợc Frances Redley Havergal sáng tác. Cô sanh
ngày 14/12/1836 tại Anh Quốc. Cha cô là một Mục sƣ. Cô rất vui tính và thích
hoạt động. Niềm vui của cô đƣợc biểu lộ qua sự ham thích ca hát... Cô bƣớc vào
lãnh vực thi phú năm 7 tuổi. Cô học nhạc và trở nên một nhạc sĩ dƣơng cầm. Năm
11 tuổi, một việc buồn đƣa đến cho Frances : Mẹ cô qua đời. Bốn năm sau, vào lúc
đang quì gối cầu nguyện, đời cô cảm thấy tƣơi sáng vì cô đã gặp đƣợc Giê-Xu
Christ là “Mặt trời công nghĩa”.
15 năm sau khi viết bài Thánh ca nầy, Frances thuật lại rằng : “Vâng, bài
Thánh ca Ta hy sinh vì con hết là của tôi, và có lẽ thật rất hào hứng nếu bạn đƣợc
biết thế nào bài ấy đã ra đời và hầu hết thế giới đều biết đến. Đó là bài đầu tiên của
tôi đƣợc liệt vào hàng Thánh ca. Tôi sáng tác bài ấy từ năm 1859, lúc tôi còn là
một thiếu nữ rất trẻ. Tôi không nhớ rõ, lúc đó tôi nhƣ thế nào nữa. Tôi sống trong
sự nghi ngờ và sợ hãi. Tôi tƣởng tôi đến với Giê-Xu bằng một đức tin run rẫy. Tôi
chƣa bao giờ hiểu rõ về Ngài, và chƣa cảm biết thật đƣợc Ngài yêu mến.
Trong một thời gian, cô ở tại nhà một viên chức ngƣời Đức. Một ngày nọ, cô
trở về nhà trông rất mõi mệt và yếu đuối. Cô ngồi xuống ghế, trên bức tƣờng đối
diện có treo hình Chúa Giê Xu bị đóng đinh trên thập tự giá, phía dƣới ghi hàng
chữ : “Ta chịu điều này vì con, con đã hiến gì cho ta ?” Khi đọc xong dòng chữ
này thì những vần thơ đến trong trí cô :
“Ta hy sinh vì con hết... Phó chi cho ta con ôi ?”?
Cô kể tiếp : “Tôi viết vội bài thơ ấy vào một tờ giấy cũ. Tôi đọc lại và tự nghĩ :
“Chẳng có vẻ gì là thơ hết, không cần viết lại làm gì”. Tôi ngồi xuống bên lò
sƣởi. Bỗng nhiên tôi bỏ tờ giấy vào túi. Sau đó tôi đến thăm một bà lão ở trại tế
bần. Tôi lấy bài thơ đọc thử cho bà lão nghe. Bà vốn là ngƣời yêu mến Chúa. Luôn
nói về Chúa, về sự thƣơng yêu của Ngài. Nghe tôi đọc xong bài thơ, bà tỏ ra rất
thích thú, nên tôi chép lại và cất đi.
Trong khoảng 42 năm sống trên đất, cô luôn gặp sự đau yếu. Dầu vậy cô cứ
đứng vững trong Chúa. Từ khi mắc bịnh, cô đã bắt đầu ao ƣớc đƣợc gần Chúa Giê
Xu. Cô coi Chúa là quí hơn cả thế gian và Chúa thuộc về cô là quí báu vô cùng.
Lúc bắt đầu đau ốm, cô viết câu : “Huyết Chúa Giê Xu, Con Ngài làm sạch mọi tội
lỗi” (IGiăng 1 : 7). Câu này đƣợc treo trong phòng cô và đƣợc khắc vào phần mộ
của cô, theo lời cô yêu cầu.
Thánh ca 95: GIỜ ĐƯỢC CHIÊM NGƯỠNG THẬP GIÁ
“When I survey the wondrous cross”
“ Giờ đƣợc chiêm ngƣỡng thập giá quí hoá. Nơi Đông cung thánh xƣa chịu
hình đây. Lòng thật coi phú quí thảy lỗ cả, quyết bỏ hết kiêu ngạo tâm tánh này.”
Tác giả bài Thánh ca này là Isaac Watts mà chúng ta đã đƣợc biết trong phần
tiểu sử của bài Thánh ca 44 và 54. Ông sinh năm 1674 và qua đời năm 1748. Isaac
Watts đã viết bài nầy tại nơi ông dƣỡng bịnh. Thân phụ ông là một chấp sự của
một Hội thánh tại Anh Quốc. Isaac Watts có tài năng về âm nhạc, nhƣng đến năm
18 tuổi ông mới đƣợc Cha ông khuyến khích và bắt đầu nghiên cứu âm nhạc. Sau
ông đƣợc kêu gọi hầu việc Chúa, nhƣng thƣờng đau ốm nên nghỉ hƣu sớm. Ông
dƣỡng bịnh suốt 36 năm. Bài “Giờ đƣợc chiêm ngƣỡng Thập giá” ông viết theo ý
Gal 6 : 14 (tôi hẳn chẳng khoe mình trừ ra khoe mình về Thập tự giá của Đức Chúa
Giêxu Christ (ICor 2 : 2).
Vào một buổi tối, tiến sĩ William M. Taylor truyền giảng cho một xóm dân lao
động nghèo ở Luân Đôn, 1500 thính giả hát bài ca nầy với một tấm lòng kỉnh kiền,
thành thật. Khi vừa hát xong, Thánh Linh thăm viếng họ, ai nấy đều dâng lên lời
cầu nguyện, ăn năn, khóc lóc. Trong cơn phấn hƣng ở xứ Wales, hầu hết các buổi
nhóm, ngƣời ta đều chọn hát bài Thánh ca này. Trong một buổi nhóm khác ở Luân
Đôn, ông Torry và Alezander hƣớng dẫn, ông chỉ hát một câu:... “Nhìn đầu tay
chân Chúa, cám cảnh bấy, yêu thƣơng bi đát chung hòa giọt rơi. Từ nghìn xƣa
chẳng ai sánh cảnh ấy. Há thấy mão miện bằng gai khác đời ?....” Khi vừa dứt
tiếng hát, khoảng 300 ngƣời dự nhóm tiếp nhận Chúa. Danh tƣớng Anh Quốc là
Edward Robert rất buồn khi phải đi theo vợ dự một buổi truyền giảng. Nhƣng hôm
sau Bà bận việc, ông lại đi một mình. Ông làm chứng lại rằng : “Dầu tôi có nói với
quí vị thật nhiều, từ giờ cho đến ngày mai, quí vị cũng không hiểu hết đƣợc niềm
cảm xúc sâu xa của tôi khi tôi hát câu thứ ba của bài ca nầy. Vừa hát xong tôi quì
ngay xuống, nƣớc mắt tuôn tràn. Chƣa bao giờ tôi khóc nhƣ thế. Hoàn toàn do tình
yêu của Chúa cảm động lòng tôi.
Đến giờ cầu nguyện tin Chúa tôi mới cố gắng bƣớc lên tòa giảng. Vợ tôi cầu
nguyện đổ nƣớc mắt cho tôi cả 8 năm rồi.
Issac Watts viết bài này dƣờng nhƣ ông đang đứng dƣới chân thập tự của Đấng
Christ. Cùng với ông chúng ta không thể làm gì hơn ngoài việc kinh ngạc trƣớc
cảnh tƣợng “Con vua Thiên đàng” bị đóng đinh vào cây gỗ vì loài ngƣời tội ô.
Chúa Giê Xu chết vì tội tôi. Vì tội tôí! Ngài phải chịu đau thƣơng. Bằng đôi mắt
vƣợt thời gian, chúng ta thấy máu đỗ ra từ vết thƣơng của Ngài cùng với nỗi đau
đớn của Ngài vì cớ chúng ta.
Thánh ca 111: CHÚA SỐNG
“He lives”
“Hầu việc Giê Xu Đấng sống nay, ngự trong dƣơng thế rõ ràng; Lòng biết chắc
Chúa sống trăm phần, mặc ai đa nghi vấn nan; lời Ngài tôi nghe thoả thích thay,
nhìn tay thƣơng xót rõ ràng, Ngài hằng gần tôi khi nhu yếu, phỉ phu mọi đàng.
Ngài sống. Ngài sống. Chúa Giê Xu sống hiện rày! Đi chung trò chuyện suốt lối
hẹp hòi, tâm tôi vui mừng thơ thái; Ngài sống. Ngài sống, để ban ơn cứu ta đấy;
Nếu hỏi chứng cớ Chúa sống đâu nào, rằng Chúa sống trong lòng này.” Năm 1933,
trong một chiến dịch truyền giảng, một thanh niên Do Thái đi dự nhóm nhiều lần.
Đêm cuối cùng, ông hỏi MS. Ackley : “Giê Xu có thần tánh không? MS. Giải thích
cho anh và khuyên anh tiếp nhận Đấng Christ sống lại làm Cứu Chúa của anh. Anh
nói : “Tại sao tôi phải tiếp nhận một ngƣời Do Thái đã chết rồi? Ông MS. trả lời
ngay : “Ngài sống”. Ngƣời thanh niên hỏi tiếp : “Tại sao ông biết rằng Ngài sống
?” MS Ackley dùng 3 điều để chứng minh : một là Kinh thánh, hai là lịch sử, ba là
kinh nghiệm.
Thế nhƣng câu hỏi làm sao ông biết rằng Ngài sống vẫn thƣờng đeo đuổi trong
trí ông. Sau này, bởi sự cảm động của Thánh Linh, ông MS. Ackley đã sáng tác bài
Thánh ca. Ngài sống. Chứng cớ Chúa sống lại : Ngài đã sống trong lòng tôi, và làm
Cứu Chúa của tôi.
Thánh ca 154: LỜI DỊU DÀNG
“Wonderful words of life"
“Tôi xin anh hãy ca thêm lên đi, lời thiêng liêng của sanh mạng; Cho tôi nghe
thấy ý nghĩa tinh vi, lời thiêng liêng của sanh mạng. Lời dịu dàng ban vĩnh sinh,
hằng giục lòng tin sắt đinh; Ôi lời dịu dàng! Ôi lời dịu dàng! Quí thay lời ban
trƣờng sinh.”
Philip Bliss là tác giả của nhiều bài Thánh ca, trong số đó có một bài mà khi
sáng tác xong, ông không thấy hài lòng chút nào về lời nhạc và ông bỏ quên trong
nhiều năm.
Sau khi ông qua đời, một nhà soạn nhạc của Hội Thánh là George C.Stabbins
đã đem bài hát này giới thiệu với Hội Thánh. Mọi ngƣời đều cho rằng đây là một
bài ca mẫu mực nói về Kinh Thánh. Mỗi một câu trong bài Thánh ca đều nói đến
sự kỳ diệu của lời Đức Chúa Trời.
Nhiều ngƣời nhận xét rằng khi sáng tác bài này, Philip Bliss đã thật sự đƣợc
Đức Thánh Linh cảm động. Chúa đã dùng ông để truyền đạt lời Kinh Thánh đến
những cuộc đời còn tăm tối không có ánh sáng của sự cứu rỗi. Chỉ nghe hát bài
Thánh ca này, nhiều linh hồn tội nhân đã bị chinh phục và sẵn sàng tiếp nhận
Chúa:
“... Tai nghe văng vẳng tiếng phƣớc âm vang.
Lời thiêng liêng của sanh mạng.
Ban ơn tha thứ giúp sống khƣơng an.
Lời thiêng liêng của sanh mạng.
Một Jesus Chân Chúa thôi.
Toàn quyền làm nên thánh tôi.
Ôi ! lời dịu dàng, quý thay lời ban trƣờng sinh ....”
Thánh ca 171: VẦNG ĐÁ MUÔN ĐỜI
“Rock of ages”
“ Xin núp trong vầng đá muôn đời, vì tôi phải nứt ra Ngài ôi! Lòng mong suối
huyết kia trào phun, từ hông vỡ Chúa xƣa tràn tuôn. Nên những linh dƣợc chữa
muôn tội, trừ căn ác vốn hay hành tôi.” Mục sƣ Augustus M. Toplady học trƣờng
Thần đạo Holy Trinity ở Ái Nhỉ Lan và hầu việc Chúa suốt đời. Ông đƣợc cứu bởi
lời làm chứng của một tín đồ quê mùa. Điều lạ là ngƣời nầy kém học đến nỗi
không viết đƣợc chính tên của mình. Nhƣng Chúa đã dùng ông ta biến cải Toplady
trở thành ngƣời truyền đạo.
Bài Thánh ca “Vầng đá muôn đời” của Toplady đã an ủi nhiều linh hồn đau
khổ, buồn rầu và củng cố niềm tin cho nhiều ngƣời. Nhiều năm trƣớc đây, một
chiếc tàu buôn bị lâm nạn giữa biển khơi, trong số đó có hai vợ chồng ca sĩ danh
tiếng. Lúc đầu, hai ngƣời đều có phao cứu cấp. Về sau, một ngƣời giựt mất cái
phao của bà, bà phải bám vào lƣng chồng mình. Họ lênh đênh trên biển một thời
gian lâu, bà bảo : “Chắc tôi đuối sức mất”. Ông bảo : “Cố gắng một chút nữa đi,
chúng ta cùng hát bài “Vầng đá muôn đời nhé”.
Khi họ hát, mọi ngƣời đều cảm thấy có sự thêm sức lạ lùng từ Thiên Thƣợng.
Họ cùng cầu nguyện và tiếp tục cho đến khi một chiếc tàu Hải Quân đến cứu họ.
Bài Thánh ca nầy cứu nhiều ngƣời khỏi chết đuối. Nó còn cứu nhiều linh hồn
hấp hối sắp bị diệt vong thoát khỏi hồ lửa nữa.
Thánh ca 181: SUỐI HUYẾT TUÔN
"There is a fountain filled with blood"
“Kìa trông suối thiêng huyết báu tuôn đầy, từ hông Giê Xu phát nguyên. Tôi
nhân tắm mình dƣới suối huyết nầy, sạch hết mọi gian ác liền. Sạch hết mọi gian ác
liền, trắng trong bao nỗi ác khiên; Tội nhân tắm mình dƣới suối huyết nầy, sạch hết
mọi gian ác liền.” Lời của bài thánh ca do một con ngƣời tuyệt vọng nơi cuộc đời
trần thế nhƣng Chúa đã ban cho ông hiểu đƣợc nếu dâng sự vinh hiển cho Chúa thì
ông sẽ là ngƣời mang lại niềm hi vọng để cho mọi ngƣời đƣợc thoả vui. William
Cowper sinh quán tại Anh quốc ngày 26/11/1731 và tạ thế ngày 25/4/1800.
Cowper là con trai của một Mục sƣ. Cuộc đời ông đầy dẫy sự đau buồn, đó là cả 1
bi kịch. Mẹ ông qua đời lúc ông đƣợc 6 tuổi. Khi lớn lên, làm việc trong Chính
phủ, ông cảm thấy mình sống vô vị và lạc lỏng.
Cowper có ngƣời bạn thân là John Newton, một nhà truyền đạo và cũng là một
nhà thơ. Hai ngƣời là bạn chí thân trong nhiều năm. Họ soạn đƣợc một số thánh ca
và thi phẩm đáng kể (Olney Hymns).
Về sau, vì đời sống của quá vô vị, ông mặc cảm, buồn chán... vì thế khiến ông
mất việc trong chính quyền. Cuối cùng ông quyết định chọn cái chết ! Nhƣng ông
không thể nào chết đƣợc vì trong ông còn đầy dẫy tình yêu của Đấng Christ. Một
tia hi vọng thúc đẩy ông đủ can đảm đối diện với con ngƣời của mình. Tháng
7-1764 ông bắt đầu đọc Kinh Thánh trở lại, ông đọc các câu ở sách Rôma 3:24-25.
“Vả họ nhờ ân điển Ngài mà đƣợc xƣng công bình nhƣng không, bởi sự chuộc
tội đã làm trọn trong Đức Chúa Giê Xu Christ, là con ĐCT đã lập làm của lễ chuộc
tội, bởi đức tin trong huyết của Đấng ấy Ngài đã bày tỏ sự công bình nhƣ vậy, vì
đã bỏ qua các tội phạm trƣớc kia”. Những điều này đã ảnh hƣởng mạnh vào ông,
ông đƣợc cảm động và ngợi khen thƣợng đế, qua bài thơ ca ngợi sự vinh hiển của
Ngài.
Thánh ca đó chính là bài “Suối huyết tuôn”, một thánh khúc ẩn tàng lòng bác
ái của Đấng Christ một cách sâu xa. Ngài chịu đổ huyết ra để cứu chuộc loài
ngƣời.
Thánh ca 202: CƠN MƯA PHƯỚC LÀNH
“There shall be showers of blessing”
“Từ trời dội một cơn mƣa phƣớc lành, lời vàng từ lòng yêu hứa ban, dồi dào
nguồn phƣớc mát mẻ hồn linh, do Giê xu tuôn tràn lai láng. Ấy mƣa phƣớc ơn dồi,
chúng tôi đang mong chờ mƣa ấy; Mới lác đác chung quanh vài giọt thôi, nguyền
Ngài dội trận mƣa lớn đây.” Trên bài Thánh ca in tên ngƣời viết lời là EL. Nathan,
đó là bút hiệu của Major D. Whittle. Ông sinh ngày 22-11-1840 tại Mỹ. Trong
cuộc nội chiến, ông nhập ngũ ở miền Bắc. Khi chiến tranh kết thúc, ông mang cấp
bậc Thiếu Tá. Giải ngũ, ông làm việc ở một xƣởng đồng hồ nổi tiếng. Nhƣng lòng
ông cứ bất an. Ở chiến trƣờng, từng chứng kiến cảnh chết chóc, ông cảm thấy sự
sống con ngƣời thật là mỏng manh, đời ngƣời nhanh chóng qua đi, thế mà nhiều
linh hồn vẫn trầm luân trong tội lỗi. Năm 1873, ông quyết định dâng mình hầu việc
Chúa. Lo việc truyền giảng, nhờ cậy Chúa bằng đức tin, lòng ông liền đƣợc bình
an. Chúa ban phƣớc thật nhiều cho ông, dùng ông dắt đƣa nhiều ngƣời tin nhận
Ngài. Ông thƣờng đồng công với Moody, Sankey. Chúa cũng cho ông viết đƣợc
nhiều bài thơ Thánh. Bài “Luôn mỗi phút” (TC 295), “Tôi biết Đấng tôi đang tin”
(TC 262) và “Cơn mƣa phƣớc lành” đều do ông Whittle viết, là từng trải của một
tác giả, cho ta thấy đƣợc đời sống đức tin của một ngƣời dâng mình trọn vẹn. Bài
“Cơn mƣa phƣớc lành” dựa trên ý Thi Thiên 72:6. Tác giả cần có cơn mƣa ơn
phƣớc của Chúa. Hãy yên lặng, suy nghĩ, hát và cầu nguyện cho chính mình và Hội
thánh.
Ông Mc. Granahan (1840 – 1907) soạn nhạc bài Thánh ca nầy. Ông là một nhà
âm nhạc hát giọng nam cao, đƣợc Chúa sử dụng nhiều.
Thánh ca 217: LINH ÂM GIAI ĐIỆU
“He keesp me singing”
“Tâm tôi rày văng vẳng linh âm giai điệu, Giê Xu luôn se sẽ ca ngâm: “Đừng
kinh sợ chi, có Ta đƣơng lo liệu.” trầm bổng trên cuộc thế thăng trầm. Giê Xu, Giê
Xu, Giê Xu, tốt đẹp bấy hồng danh! Ngài làm cho tôi thoả tình, mừng hát trong
mọi bƣớc Thiên trình.”
Cứ mỗi lần nghe Hội thánh hát bài Thánh ca Linh âm giai điệu, tôi bỗng nhớ
tác giả bài Thánh ca ấy. Tôi đƣợc hân hạnh quen biết ông ta tại Hội thánh nhỏ ở
thôn quê miền Bắc tiểu bang Carolina Hoa Kỳ. Bấy giờ ông ta còn là một thanh
niên khỏe mạnh, đẹp trai. Ông có một đức tin mãnh liệt, một lối giảng linh động và
hấp dẫn lạ thƣờng, khiến cho kỷ niệm lần gặp gỡ lần đầu ấy khó phai mờ trong trí
tôi.
Sau đó một thời gian, chúng tôi gặp lại nhau, L.B. Bridgers thủ thỉ với tôi về
cuộc lƣơng duyên tốt đẹp mà Chúa đã sắp đặt cho ông với một thiếu nữ ở
Kentucky, về ơn lành của ĐCT đối với vợ chồng ông, ba đứa con trai kháu khỉnh
làm gia đình ông thêm hạnh phúc. Ông nói : Anh ạ, tôi rất ƣớc ao ĐCT sẽ kêu gọi
cả 3 con trai tôi hầu việc Ngài. Nếu cả 3 con tôi đều đi giảng tin lành thì rất là
phƣớc hạnh cho gia đình tôi.
Chính lúc cuộc đời vợ chồng L.B. Bridgers tƣơi sáng, thơ mộng nhƣ thế, ông
đã sáng tác bài Thánh ca “Linh âm giai điệu”. Tôi còn nhớ một câu trong bài
Thánh ca nầy “Đôi khi Ngài đƣa dắt qua cơn ba đào, dọc đƣờng gặp thử thách
ngăn trở. Dầu lên đèo, lên dốc, xuống thác, qua hào, nhìn dấu chơn Ngài trƣớc sờ
sờ”. Có ai ngờ L.B. Bridgers đã nói tiên tri về cuộc đời của mình sau này.
Một thời gian khá lâu sau, chúng tôi lại gặp nhau, Luther B.Bridgers đã thuật
lại câu chuyện bi đát của đời ông : Một buổi sáng kia, tôi đi giảng tại một chi hội
gần thị xã Kentucky, vợ và 3 con tôi tiễn tôi ra tận đầu ngỏ. Đi một quảng xa, tôi
quay lại nhìn, vẫn thấy vợ tôi tay bồng đứa bé nhất, còn 2 đứa lớn đứng cạnh bà
tƣơi cƣời vẫy tay và nói với theo : Chúc ba đi bình an nhé ! Tôi cƣời vẫy tay với
gia đình rồi lật đật chạy ra ga xe lửa. Tôi đi giảng 2 tuần lễ và trong đêm Chúa nhật
cuối cùng của cuộc phục hƣng, khoảng 1 giờ sáng, giữa lúc tôi đang ngủ thì tiếng
chuông điện thoại reo. Đầu kia, một giọng hối hả vang lên: – Có phải ông L.B
Bridgers đó không ?
– Vâng, tôi đây.
– Thƣa ông, chúng tôi rất đau đớn báo tin ông rõ. Hồi tối, căn nhà của ông bị
hỏa hoạn, bà và 3 cháu đều bị chết cháy cả. Nghe ông thuật đến đó, tôi xúc động
quá, vội hỏi : “Thế rồi anh làm gì ?
L.B Bridgers đáp : Lúc ấy ma quỉ cƣời nhạo tôi : “Luther ơi, ngƣơi thấy chƣa?
ĐCT có thƣơng yêu gì ngƣơi đâu, Ngƣơi đi vắng, chẳng ai bảo vệ gia đình ngƣơi
cả. Vợ con ngƣơi đã làm mồi cho ngọn lửa, ngƣơi còn thờ phƣợng ĐCT chăng ?”
Tôi bèn quì xuống bên chiếc điện thoại mà thƣa rằng: “Lạy ĐCT, con đi giảng
cho bao nhiêu ngƣời, từng nói với họ rằng : Thánh Linh có thể an ủi họ trong cơn
thử thách khổ đau. Chúa ơi ! Giờ đây, con xin Ngài dùng Thánh Linh an ủi con
trong cảnh khốn nạn nầy.”
Cám ơn Chúa ! Giữa cơn ba đào khủng khiếp, lòng tôi đƣợc bình an vì cảm
biết ĐCT gần mình. Cánh tay toàn năng của Ngài đang âu yếm, bao phủ tôi. Sáng
hôm sau, tôi quay về Harro Suburg, đứng nhìn tất cả sản nghiệp của mình chỉ còn
lại đống tro tàn. Tôi thấy ngƣời ta đang nhặt vài mẫu xƣơng đã cháy thành than.
Đó là di tích của mái ấm gia đình của tôi. Họ bỏ những mảnh xƣơng ấy vào chiếc
quan tài. Tôi bỗng nhìn thấy một vật sáng lấp lánh trong đống tro. Tôi cúi xuống
lƣợm lên, đó là mãnh thép của chiếc đồng hồ đeo tay mà tôi đã tặng vợ tôi trong
dịp sinh nhật cuối cùng của đời nàng. Tôi vẫn nhớ rõ, khi nhận chiếc đồng hồ ấy,
vợ tôi rất sung sƣớng và cảm động, khen tôi là ngƣời chồng tốt, ngƣời cha hiền.
Luther bảo : Anh ơi, tôi không còn sức chịu đựng nữa”, tôi quyết định bỏ quê
nhà ra đi với chiếc valy cũ kỹ và tấm lòng tan vỡ để tiếp tục chức vụ. Sáu tuần lễ
sau tấn thảm kịch, nhà truyền đạo Luther B. Bridgers chủ tọa một Hội đồng phục
hƣng tại một chi hội Giám lý ở Richmond, tiểu bang Virginia. Mục sƣ chủ tọa chi
hội ấy là Tấn sĩ Samhatcer tiếp đãi Luther và tôi trong tƣ thất của ông. Chúng tôi
ngủ chung một phòng. Một đêm kia, đang ngủ bỗng tôi nghe tiếng Luther nói :
“Tôi đây mình ơi ! Tôi đang đến đây”. Rồi ông bƣớc xuống khỏi giƣờng, khóc nức
nở và cầu nguyện : “Chúa ơi, con không hiểu vì sao tai nạn nầy xảy ra. Con không
hiểu, Chúa ơi con xin Ngài đừng để con thất vọng. Lạy Chúa Giêxu ! Bao nhiêu
ngƣời đang trông đợi nơi con, xin Ngài giúp con trung tín”.
Sau khi ông lên giƣờng ngủ lại nghe tiếng ngáy đều, tôi mới rón rén thức dậy
bật đèn lên, thấy ông đang gối đầu trên cánh tay ngủ ngon lành, hai má còn ƣớt
nhƣng nét mặt tƣơi tắn. Tôi đứng nhìn ông một lát rồi không ngăn đƣợc nƣớc mắt.
Tôi nói : “Luther ơi, bài giảng vĩ đại hơn hết mà anh giảng cho thế gian nầy chính
là cách anh chịu đựng sự đau khổ của mình trong giờ phút anh phải uống chén
đắng cay”.
Đêm chót của cuộc phục hƣng, Hội thánh hát bài Thánh ca “Tôn vinh giai
điệu”, “Giê Xu, Giê Xu, Giê Xu. Tốt đẹp bấy hồng danh. Ngài làm cho tôi thỏa
tình, mừng hát trong mọi bƣớc Thiên trình”. Tôi bắt đầu suy nghĩ ý nghĩa danh Giê
Xu đối với Luther sâu nhiệm và cao quý dƣờng nào. Nhất là trong cơn thử thách
đớn đau hơn hét của đời ông.
Thánh ca 223: CHÈO RA
“Lauch out”
“Kìa thật hồng ân Cha mênh mông nhƣ biển lớn lao, thăm thẳm bát ngát ai đo
đƣợc nào. Lên thuyền cùng đoạn neo, ra khơi biến tăm ngay, trong dòng hồng ân
kia thẳm sâu thay. Chèo ra ngoài biển thẳm sâu, dứt hết neo dằng bấy lâu; bạn chèo
ta hỡi, cùng chèo ra biển thiêng liêng, chỗ luồng ân điển vẹn tuyền.”
Tiến sĩ A.B. Simpson sinh ngày 15-2-1843 tại Canada. Tin Chúa khi còn học
Trung học, nhận biết Chúa kêu gọi nên ông đã dâng mình khi lên Đại học. Sau khi
tốt nghiệp Thần học, ông hầu việc Chúa tại một Hội thánh Trƣởng lão, đƣợc nổi
tiếng nhƣng ông vẫn thấy công việc mình chƣa đạt kết quả. Chúa cho ông một khải
thị. Ông chú tâm huấn luyện những ngƣời bằng lòng rao truyền Tin Lành cho cả
thế giới. Ông từ chức công việc trong giáo hội. Công việc mới đòi ông phải từ bỏ
tất cả, không có lƣơng bỗng nhất định, ông phải sống bằng đức tin nơi sự tiếp trợ
của Chúa. Đau lòng vì gia đình phản đối, nhƣng ông cam chịu nhiều gian khổ vì
biết chắc Chúa đầy lòng thƣơng xót và nhân từ, luôn ban nhiều ân huệ cho ông.
Ông mất năm 1919. Nhƣng Hội Truyền giáo Phúc âm liên hiệp vẫn tiếp tục khai
hoang những công trƣờng trên thế giới.
Trong bài Thánh ca nầy, ông khuyên tín hữu cùng tiến bƣớc trên con đƣờng
thuộc linh, đừng đứng mãi bên bờ thử nƣớc mà phải chèo ra biển sâu. Tuy ông
không chuyên về âm nhạc, nhƣng ông biết nhờ cậy Chúa. Tâm hồn luôn đƣợc
Thánh Linh cảm động, ông đã đƣợc Chúa ban cho nhiều bài Thánh ca cảm động
lòng ngƣời.
Hãy chèo ra nơi biển sâu, bạn sẽ đƣợc ban cho linh ân phong phú và năng lực
dồi dào.
Thánh ca 231
NGUYỀN CUNG HIẾN CHÚA CẢ ĐỜI TÔI
“Take my life, and let it be”
“Nguyện cung hiến Chúa cả đời tôi, thành tâm dâng tất cả muôn mối; Cũng
đem hết bao nhiêu năm ngày, để khen ngợi chân Chúa tôi nay.”
Bài thánh ca dâng hiến này do cô Francis Ridley Havergal sáng tác vào năm
1874 tại Anh quốc. Lúc đó cô rất kém sức khỏe, thân phụ cô là giám mục Anh
quốc giáo tại Worcester trong nhiều năm. Cô Havergal đã từng sống tại Worcester,
Luân Đôn, Swansea, South Wales và đã du lịch nƣớc Đức và Thụy Sĩ. Sau nhiều
khó khăn thử thách Chúa ban cho cô Thánh ca đẹp đẽ này và một quyển sách có
tựa là “Dâng cho Chúa dùng”. Đây là một tác phẩm quý giá, trong đó có câu sau
đây.
Kính cẩn con xin dâng Ngài
Nguyện con thuộc về Ngài luôn.
Thánh ca 237: NGUYỆN THEO Ý CHA
“Have Thine own way”
“Tôi nguyện theo ý Cha, vâng Ngài không thôi, Cha là thợ gốm thiêng, đất sét
là tôi. tôi nguyện theo ý Cha, xin Ngài nung đúc. Tôi chỉ biết yên lặng, đợi chờ
vâng phục.”
Muốn sáng tác đƣợc lời Thánh ca cao quí và sâu đậm trong lòng ngƣời, đời
sống của ngƣời ấy phải thuận phục theo ý Chúa và vâng lời Ngài không thôi.
Những lời thơ đầy kinh nghiệm quí báu này do bà Adelaide A. Pollard sinh năm
1862 tại Mỹ, bà sớm dâng mình cho Chúa, giúp đỡ nhiều ngƣời hiểu biết lẽ thật.
Bà là ngƣời yên lặng và cũng thật nhu mì, khiêm nhƣờng, thích làm công tác tƣơng
trợ, Chúa cũng ban cho bà ơn tứ làm thơ, viết văn, giải kinh. Bà sáng tác nhiều
Thánh ca, nhƣng chỉ viết tắt tên mình là A.A.P. Bà đi truyền giảng ở nhiều nơi nhƣ
Anh, Phi Châu... Bà chỉ có một mục đích “Giƣơng cao ngọn cờ danh Christ”.
Năm 1902 bà đi dự nhóm cầu nguyện tối, nghe đƣợc lời cầu nguyện của một
bà tín đồ lớn tuổi : “Chúa ơi ! việc gì xảy đến cho chúng con cũng đƣợc.
Miễn là ý chỉ Ngài đƣợc làm nên trong đời sống chúng con”. Bà cảm động
mạnh mẽ. Đêm ấy, bà không ngủ đƣợc.
Ngồi viết bài thơ “Nguyện theo ý Cha”. Nhiều thanh niên hát xong bài Thánh
ca nầy đã cảm động dâng đời mình cho Chúa.
Bà đƣợc gọi về nƣớc Chúa năm 1934, lúc đó bà 72 tuổi nhƣng bà vẫn chuẩn bị
đi hầu việc Chúa tại nƣớc ngoài. Khi đến trạm xe, bịnh tim của bà phát lên, chẳng
bao lâu sau bà yên lặng rời trần thế để về với Chúa.
Thánh ca 240: CÀNG GẦN CHÚA HƠN
“Nearer, My God, to Thee”
“Chúa ôi! Cho tôi càng gần, gần nơi Chúa hơn; Dẫu phải mang cây thập tự,
càng gần Chúa hơn. Trong lúc đau thƣơng sầu ƣu, tôi vẫn luôn xin Giê Xu. Chúa
ôi! Cho tôi gần Ngài, càng gần Chúa nay. Trong phim Titanic, lúc con tàu đang
chìm dần xuống lòng đại dƣơng ban tứ tấu đàn bài Thánh ca này trong khi con tàu
chìm dần xuống lòng đại dƣơng. Mọi ngƣời trên con tàu hoảng hốt tìm đƣờng chạy
đi để cứu sinh mạng mình, trong khi đó bản nhạc thánh vẫn cứ bình thản trỗi lên
bằng tiếng vĩ cầm nghe rất não nùng. Tác giả của thánh ca này là Sara Flowers
Adams sinh năm 1805, mất năm 1848. Bà sáng tác bài thơ này năm 1841. Bà rất
muốn trở thành nhà soạn kịch, nhƣng sức khỏe yếu kém, bịnh hoạn đã ảnh hƣởng
đến việc học. Đấu tranh giằng co trong tâm linh, bà thất vọng vô cùng. Lúc đó bà
mới nhìn thấy đƣợc thập tự giá mà Chúa đã sắm sẵn. Bà yêu Chúa và gần gũi Ngài
nhiều hơn. Cha của bà là ông Benjamin F.Adams, một nhà văn. Vì bất đồng quan
điểm chính trị với chính phủ Anh quốc lúc bấy giờ nên phải vào tù. Trong thời gian
bị giam giữ, nhiều bạn bè đến thăm, có một cô gái yêu ông. Sau đó họ lấy nhau và
sinh ra S.F.Adams, cô bé này tính tình giống hệt cha mình. Dr. Lowell Mason phổ
nhạc năm 1856, ông là ngƣời đầu tiên nhận đƣợc học vị Bác sĩ âm nhạc tại Mỹ.
Thánh ca 244:
NGUYỆN CÀNG YÊU THƯƠNG CHRIST
“More love to Thee”
“Lòng nguyện càng yêu Giê Xu, mến yêu Ngài thêm! Thành tâm quì xin chăm
chú, mến yêu Ngài thêm. Mối sở ƣớc chẳng chi hơn, yêu thƣơng Giê Xu keo sơn,
lòng nguyện ngày đêm, mến yêu Ngài thêm.”
Có những bài thánh ca viết bằng nƣớc mắt và nỗi u buồn của những kinh
nghiệm đau thƣơng trong cuộc đời. Những giờ phút này đã làm bùng cháy trong
tâm hồn bà Elisabeth P. Prentiss cảm xúc sâu xa về tình yêu đối với Đấng Christ.
Bà Elisabeth Prentiss hƣớng về chồng hỏi với cặp mắt đẫm lệ :
– Tại sao tai họa lại xảy đến với chúng ta ?
– Chúng ta nên hỏi chính mình tại sao một điều nhƣ thế này lại không xảy đến
với chính chúng ta? Chúng ta có hơn những gia đình nào khác đã mất những ngƣời
thân yêu trong trận dịch này không? Phải chăng ĐCT nợ chúng ta một lòng sủng ái
đặc biệt mà Ngài không nợ một gia đình nào khác? Hay Ngài sủng ái tất cả mọi
ngƣời .
Bà Prentiss giấu mặt trong đôi tay và khóc một lúc lâu cho đến khi bà cảm thấy
không còn nƣớc mắt để khóc nữa. Bà nghĩ về tất cả những điều bà đã làm cho đến
lúc ấy, khi chết chóc đến thình lình và nhanh nhảu, lấy mất đi những ngƣời thân
yêu của bà. Sinh ở Portland, Maine, là con gái của một tu sĩ sùng kính. Ngay thuở
thiếu thời, bà đã bộc lộ một năng khiếu văn chƣơng lỗi lạc. Mới 16 tuổi, bà đã là
một cộng tác viên thƣờng xuyên của một trong những tạp chí hàng đầu của Quốc
gia, tờ “Ngƣời bạn đồng hành” của thanh niên, xuất bản ở Boston. Sau khi học
xong bà đã đi dạy trong nhiều năm. Năm 27 tuổi, bà lập gia đình với MS. George
L. Prentiss và chuyển đến T.P Nữu Ƣớc, nơi ông là MS của Hội thánh Trƣởng Lão,
đƣờng Mercer.
Đó là năm 1856, 11 nămsau ngày thành hôn, thảm kịch ập đến cƣớp đi những
ngƣời thân yêu khỏi gia đình ông bà. Trong nhiều tuần lễ, nỗi buồn vẫn không
nguôi, dù đức tin của bà đặt nơi chúa rất chân thành nhƣng không lay động. Suốt
những ngày đau buồn ấy, những tín đồ vẫn yêu thƣơng , ân cần giúp đỡ ông bà MS
của họ, thu xếp nhà cửa, chuẩn bị bữa ăn, trông nom công việc trong nhà mỗi ngày.
Vào một buổi chiều tối, bà nói với ông, khi họ từ nghĩa trang về :
– Anh George, đêm tối tăm và em thì ở xa gia đình, chúng ta phải làm gì bây
giờ? Chẳng lẽ chỉ ngồi yên lặng khi gia đình chúng ta tan vỡ. Đời sống chúng ta
khốn nạn, hy vọng chúng ta không còn, ƣớc mơ chúng ta tan biến ?
Đây là cơ hội để chúng ta bày tỏ trong đời sống mình những điều mà chúng ta
cũng cứ luôn giảng luận dạy dỗ và tin tƣởng bao nhiêu năm nay.
Đôi lúc em nghĩ rằng em không thể đứng nỗi trong một giây phút nữa, dầu
khoảng thời gian này chẳng thấm thía gì với cả đời ngƣời .
Nhƣng chính trong những lúc nhƣ thế này, ĐCT càng gần chúng ta hơn, nhƣ
chúng ta yêu thƣơng con mình nhiều hơn khi chúng bệnh tật, buồn phiền hoặc đau
đớn. Chúa Giê Xu phán rằng :” Các ngƣời sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, song
hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi”. Sự đau khổ không đến từ ĐCT nhƣ là
một sự đo lƣờng có tính rèn luyện, và ở đây nó cũng không cần đƣợc tranh cải, lý
lẽ hóa, thảo luận hay triết lý hóa. Ở đây nó phải đƣợc sử dụng và điều khiển cho sự
vinh hiển của ĐCT.
Sau một vài phút yên lặng nặng nề, bà Prentiss nhìn chồng nói :
– Em nhớ rất rõ một câu mình đã giảng trong ngày Chúa nhật tuần vừa qua.
Câu ấy giúp đỡ an ủi em rất nhiều.
– Câu đó là gì?
– Tình thƣơng yêu của ĐCT có thể giữ linh hồn khỏi mù quáng.
– Quả đúng nhƣ vậy em yêu ạ! Chúng ta càng yêu ĐCT nhƣ chúng ta nhận biết
Ngài trong chúa Giêsu, thì phép lạ chữa lành của Ngài lại càng xảy ra trong lòng
của chúng ta. Càng ít yêu Chúa thì càng có ít cơ hội cho chúng ta chống cự nỗi với
những thống khổ đau đớn của những mất mát trong đời sống của chúng ta.
Khi ông rời nhà để đi thăm nhiều nơi trƣớc bữa ăn tối, bà ngồi trong phòng
khách thổn thức bên quyển Kinh Thánh, đọc qua nhiều phần, lúc thì đọc thầm, lúc
thì đọc lớn tiếng, vì tiếng đọc to hỗ trợ đức tin của bà. Sau đó dặt quyển Kinh
Thánh xuống, bà mở quyển Thánh ca tìm kiếm ánh sáng và sự an ủi từ các bài hát
phản ảnh những nỗi buồn và chiến thắng của các Cơ Đốc nhân khác trong hoàn
cảnh tƣơng tự. Khi lật qua bài “Càng gần Chúa hơn” (Thánh ca 240), bà đọc lớn
tiếng nhiều lần, lòng thầm nguyện rằng : Từng trải của chính bà cũng sẽ tƣơng tự,
ít nhất cũng về thời gian, nhƣ từng trải của Gia cốp ở Bêtên. Bài thơ của bà bắt đầu
nhƣ sau :
“Lòng nguyện càng yêu GiêXu, mến yêu Ngài thêm
Thành tâm quì xin chăm chú, mến yêu Ngài thêm
Mỗi sở ƣớc chẳng chi hơn: yêu thƣơng Giê Xu keo sơn
Lòng sở nguyện ngày đêm, mến yêu Ngài thêm”.
Bà viết bốn khổ thơ vào buổi chiều ấy, nhƣng bà không đƣa cho ông xem, cho
đến 13 năm sau. Bài Thánh ca này đƣợc in rời lần đầu tiên năm 1869 và 1870 thì
đƣợc in trong một quyển Thánh ca.
Dù đã viết năm quyển sách trƣớc khi bà về với Chúa năm 1878 (60 tuổi). Và
trong những quyển ấy, quyển “Bƣớc về Thiên đàng” đƣợc nhiều ngƣời thích nhất.
Bà Prentiss đã sống trong lòng ngƣời Cơ đốc bởi bản dịch Tân ƣớc của bà. (Nhƣ
bản dịch Cựu ƣớc của Sarah Flower Adams).
Thánh ca 252
JESUS ĐẤNG HẰNG YÊU THƯƠNG TÔI
“Jesus, lover of my soul”
“Giê Xu Đấng hằng yêu thƣơng tôi, tôi mong đến nghiêng trên ngực Ngài. Lúc
sóng bủa ầm bên chơn tôi, trong khi bão tố đang vang dội. Xin che tôi, xin giấu kín
luôn. Cho qua cơn mƣa ác, gió ôn. Thẳng đến bến bình yên thiên môn, mong ơn
Chúa tiếp rƣớc linh hồn.
Tác giả của bài thánh ca này là nhân vật rất sùng kính với lời của Thánh Kinh,
ông có đời sống đạo đức tin kính mạnh mẽ nên ông và anh của ông đã tạo nên một
cuộc cải cách tôn giáo tại nƣớc Anh. Charles Wesley sinh ngày 18-12-1707 tại
Epworth, Anh quốc. Qua đời ngày 29-3-1788 là em ruột của nhà truyền đạo John
Wesley. Hai ông là nhà sáng lập Hội Thánh Giám lý và đã từng xuôi ngƣợc Anh
Mỹ để giảng Tin Lành.
Charles Wesley là soạn giả vĩ đại của Thánh ca trong mọi thời. Ông soạn 6.500
ca khúc có giá trị về văn chƣơng. “Jesus, lover of my soul” là một bài ca bất tử
đƣợc nhiều ngƣời hâm mộ. Thánh ca này đƣợc dùng trong các cuộc bố đạo vĩ đại
của các diễn giả trứ danh nhƣ Charles H. Spurgeon, D.L. Moody. Điểm độc đáo
của bài thánh ca là thỏa mãn đƣợc linh hồn của kẻ vui và an ủi có hiệu lực những
linh hồn khốn khổ. Nói về bối cảnh khi sáng tác Thánh ca này thì có nhiều giả
thuyết đƣa ra:
– Một hôm, khi ông Wesley đi trên một chiếc tàu vƣợt đại dƣơng, trên đƣờng
đi tàu gặp bão to. Sóng to gió lớn, dồi dập chiếc tàu của ông, viên hoa tiêu cũng
không có cách nào xoay sở, mọi ngƣời trên tàu đều bối rối, họ cùng dâng lời cầu
nguyện. Một lúc sau sóng yên gió lặng mọi ngƣời đƣợc thoát nạn. Wesley đã sống
trong kinh nghiệm này nên ông viết ra một thánh ca ngợi khen tình yêu cao cả của
ĐCT.
– Một lần ông đứng bên cửa sổ và nhìn ra ngoài vƣờn, bỗng nhiên một con
chim bị trúng đạn và sa vào tay mình, hình ảnh này làm ông cảm động và nhớ đến
những linh hồn hƣ mất đang trở về cùng Chúa để tìm lại sự bình yên.
– Một cuộc bắt bớ tại Kilales, Country Down Ireland, nhƣng nhờ vợ của một
nông gia, anh em ông Wesley đã đƣợc thoát nạn và bà Jane Lowrie Moore giấu
ông trong nhà và giúp ông trốn thoát bằng cửa sổ nhỏ phía sau. Qua từng trải này
ông cảm nhận một cách sâu sa về lòng yêu thƣơng giải cứu của ĐCT đối với loài
ngƣời.
Thánh ca 253: GIÊ XU LÀ BẠN THẬT
“What a friend we have in Jesus”
“Ôi! Giê Xu Chúa ta là bạn thật, bằng lòng gánh tội lỗi chúng ta; Ban ơn chúng
ta hôm mai thân mật, trình cho Chúa bao tâm sự ta. Bao lần ta bối rối dặp sầu tƣ,
lắm lúc tâm hồn bỗng bồi hồi. Nguyên do chúng ta chẳng đem tâm sự trình ra
trƣớc Giê Xu mà thôi.”
Cuộc đời của tác giả bài thánh ca này là những chuổi buồn nối tiếp theo nhau.
Từ lúc là thanh niên gặp trắc trở trong hôn nhân cho đến lúc muốn lập lại hôn
nhân, đau đớn vẫn tiếp tục theo đuổi, nhƣng cuộc đời dầu không đạt đƣợc điều mơ
ƣớc vẫn còn có Chúa Giê Xu là ngƣời bạn thật. Sau khi tốt nghiệp tại đại học
đƣờng Dublin, Ái Nhĩ Lan với bằng cử nhân,vào năm 1842. Scriven 23 tuổi đã bỏ
chạy khỏi bờ biển quê hƣơng sau cái chết đuối của vị hôn thê vào buổi chiều trƣớc
hôn lễ của họ. Dầu cách ly ngàn trùng với những khung cảnh, mùi vị của TP.
Dublin, ông cũng chỉ tìm đƣợc chút khuây khỏa trong sự chạy trốn của mình mà
thôi.
Cuối cùng, ông đặt chân đến cảng “Hy Vọng”, nằm ở bờ bắc hồ Ontario, thuộc
tỉnh Ontario, Canada. Xa hơn đó 10 dặm (16 km) về phía Bắc, nằm bên bờ hồ Rice
tuyệt đẹp, là một khu định cƣ nhỏ tên là Bewdley. Cách khu này vài dặm nữa là
đồn điền Pengelley, nơi Scriven làm thầy giáo cho lũ trẻ của gia đình trong nhiều
năm.
Vài năm sau, Scriven bắt đầu phân chia thì giờ của mình cho 2 nhà Pengelley
và James Sackville mà Scriven đƣợc cảm hứng sáng tác bài thơ mãi mãi gắn liền
với tên ông.
Vào một đêm khuya năm 1855, Scriven nặng nề với cô đơn, thất vọng và buồn
rầu, đã dốc đổ lòng mình với ĐCT, van nài Ngài ban sự giải thoát khỏi gánh nặng
và hứa rằng ông sẽ trung tín hầu việc Ngài khi Chúa đáp lời cầu nguyện của ông.
ĐCT nghe và trả lời, Joseph Scriven cảm thấy gánh nặng mình đƣợc cất khỏi một
cách kỳ diệu.
Trong niềm hoan hỉ vừa tìm thấy, Scriven vội thảo nhanh một bài thơ đơn sơ
với nhiều khổ thơ mô tả cuộc chiến đấu và chiến thắng của ông. Với tựa đề là “Cầu
nguyện không thôi”. Bài thơ đại ý nhƣ sau :
“Kỳ diệu thay là tình bạn chúng ta có với Chúa Giê Xu Ngài mang lấy tất cả
tội lỗi, đau đớn của chúng ta
Lạ lùng bấy là đặc ân đƣợc trình dâng mọi sự
Với ĐCT trong lời cầu nguyện
Ôi, chúng ta thƣờng đánh mất sự bình an
Và mang lấy những nỗi đau khổ không cần thiết
Tất cả chỉ vì chúng ta không tỏ bày
Nỗi niềm với Chúa trong lời nguyện cầu.”
Bi kịch theo đuổi những bƣớc chân của Joseph Scriven nhƣ hình với bóng.
Bƣớc vào tình yêu lần thứ nhì, ông đính ƣớc với cô Eliza Catherine Roche, con gái
độc nhất của Đại úy Hải quân Hoàng gia Andrew Roche. Nhƣng một lần nữa hạnh
phúc lại khƣớc từ ông : Nàng mắc bệnh lao phổi và chết năm 1860, trƣớc ngày lễ
cƣới của họ.
Sau 2 nỗi bất hạnh đau thƣơng nhƣ vậy, ông lại càng dấn mình thêm trong
công việc tôn giáo và từ thiện. Ông kết hợp với nhóm anh em Plymouth và phục vụ
nhƣ một nhà giảng đạo tình nguyện trong nhiều năm. Ông cũng giảng cho HT
Baptit Bailicboro gần đó trong một thời gian. Những ngƣời ở Bewdly và vùng phụ
cận yêu mến ông vì đời sống ông giống Chúa của ông và thói quen chia sẻ tất cả
lợi ích cá nhân của ông cho những ngƣời nghèo mà ông coi là cần yếu và cấp bách
hơn chính mình. Vào những năm sau đó, ông đƣợc tả nhƣ là “một ngƣời có vóc
thấp với mái tóc hoa râm, râu cạo sạch và cặp mắt xanh lơ long lanh mỗi khi ông
nói”. Một vài ngƣời khác cho rằng “ông có khuôn mặt của một thiên sứ”. Những
ngƣời biết rõ ông thì nói “ông có thói quen nói với tất cả mọi ngƣời về tình yêu của
Chúa Giê Xu”.
Khi thể xác ông đã hƣ mòn bởi sự lao nhọc, Sacville đem ông về nhà lần nữa,
và chính tại đó, năm 1886, Scriven trải qua những ngày cuối cùng của cuộc đời.
Trong chính ngôi nhà 31 năm trƣớc ông đã sáng tác bài thơ, Sackville tìm thấy bài
ấy trong quyển vở dán sƣu tập tranh ảnh, trong cơn bịnh chí tử và cuối cùng của
Scriven. Ông giải thích rằng ĐCT và tôi đã sáng tác bài thơ đó.
Bài thơ đƣợc in lần đầu tiên khi Scriven để lại một bản sao cho mình và gởi
một bản khác cho một tờ báo Cơ Đốc. Thời gian ngắn sau, Scriven qua đời. Trong
cơn mê sảng, ông bƣớc lảo đảo từ phòng ngủ ra ngoài, kiệt sức, vấp té xuống một
lạch nƣớc nhỏ cách nhà chừng 100 yard (92m), chìm ngƣời xuống không đầy 61 in
(15cm). Những ngƣời bạn ông thuật lại rằng: “Ông chết quì gối trong dáng điệu
Cầu nguyện”. Ba đài kỷ niệm ông đã đƣợc dựng lên tại Bewdley và vùng phụ cận
vào năm 1919, nhân dịp kỷ niệm năm thứ 100 ngày sinh của ông. Bài thơ của ông
do C.C. Converse phổ nhạc, từ lâu đã đƣợc trân trọng bảo tồn trong lòng các Cơ
Đốc nhân trên toàn thế giới. Bài Thánh ca ấy đã tìm thấy một chỗ đứng vững chắc
trong Thánh ca của Hội Thánh chung.
Thánh ca 255
LÒNG TIN NGÓ CHÚA CHẲNG THÔI
“My faith looks up to Thee”
“Lòng tin ngó Chúa chẳng thôi, Gô gô tha, chiên con Trời. Thật là Chúa tôi;
Xin nhậm lời tôi, Chúa ôi! Quăng mọi tội xa khỏi tôi, quyét hiến cả thân, hồn này.
Thuộc về Chúa hoài.”
Tác giả của bài thánh ca này là một thanh niên trẻ tuổi: Plamer viết lúc mới 22
tuổi, đây là bài thơ đầu tiên và hay nhất. Trong khi bài thơ hay nhất của Tennyson,
bài “Crossing the Bar”, là bài cuối cùng của Tennyson viết lúc 81 tuổi.
Mùa thu năm 1830, Ray Plamer, chàng sinh viên tốt nghiệp trƣờng Yale, đến
TP. Nữu Ƣớc với tƣ cách là thầy giáo tại một trƣờng nữ sinh đƣợc kén chọn, đang
ở dƣới sự điều khiển của một nữ tín hữu HT Saint George. Tại đó, sống với gia
đình của vị hiệu trƣởng, ông chia thì giờ của mình ra giữa việc dạy học và học thần
đạo. Từ nhỏ, vốn đã quen diễn tả qua thi ca, những gì mà lòng mình cảm nhận.
Vào một đêm đầu mùa đông năm 1830, ông ngồi tại bàn và viết một bài thơ mới.
Đó là giờ mà Đấng Christ với sự giàu có của tình yêu và ân điển, Ngài đƣợc nhận
thấy cách sống động, nhƣ thể tràn đầy tâm linh với cảm xúc sâu lắng nhất. Chàng
có suy nghĩ gì về việc viết một bài Thánh ca cũng chẳng có dụng ý gì về việc viết
một bài thơ cho ngƣời khác đọc. Ông ghi ra 6 khổ với vần 6.6.4.666.4. bất thƣờng
mà khổ đầu là :
“Lòng tin ngó Chúa chẳng thôi, .... thuộc về Chúa hoài” Ông cảm động sâu xa
đến mức làm những dòng cuối bị lem bởi những giọt nƣớc mắt tuôn tràn. Trƣớc
khi đi ngủ, ông viết câu sau đây trong nhật ký :”Tối nay tôi đã viết một bài thơ đơn
sơ. Tôi chỉ viết những điều tôi cảm nhận đƣợc. Tôi viết những chữ cuối cùng với
cảm xúc dịu dàng”.
Sau này, ông ghi lại bài thơ đó trong một quyển sách bìa da mà ông luôn mang
theo bên mình. Mùa thu năm 1832, hai năm sau khi ông viết bài thơ trên, ông Ray
Plamer đi thăm các tín hữu ở TP. Boston, tình cờ gặp ngƣời bạn, Tấn sĩ Lowell
Mason, trên một đƣờng phố nhộn nhịp. Mason, cha đẻ của TC Hoa Kỳ, hỏi chàng
trai trẻ rằng :”Ông có thấy bài Thánh ca nào hay để dành cho quyển: “Tập Thánh
ca và giai điệu” mà ông định xuất bản trong một thời gian nữa, với sự giúp đỡ của
Tấn Sĩ Hastings ở Nữu Ƣớc không? Plamer ngần ngại đề cập đến quyển sách nhỏ
của mình. Bất đắc dĩ lắm ông mới để ngƣời khác đọc đến những dòng thơ tƣờng
thuật kinh nghiệm tâm linh sâu xa và cảm động của mình. Nhƣng khi đọc mấy khổ
thơ, Mason hỏi xin một bản sao, và ngƣời ghé vào một nhà kho, ghi lại bài thơ, và
Mason bỏ vào túi mình. Trên đƣờng về nhà, vị nhạc sĩ cẩn thận đọc lại nhiều lần
các câu thơ và chịu xúc động đến nỗi ông soạn một giai điệu cho bài thơ và ông đặt
tên là OLIVET.
Hai hôm sau, hai ngƣời bạn gặp lại nhau trên một con đƣờng nhộn nhịp khác ở
Boston, không chào nhà thơ trẻ tuổi, Tấn Sĩ Mason kêu lên : Plamer, anh có thể
sống lâu và làm nhiều điều tốt. Nhƣng tôi nghĩ anh sẽ đƣợc biết đến nhiều nhất vì
là tác giả của bài “Lòng tin ngó Chúa chẳng thôi” đấy!
Nhà thơ đƣợc phong chức MS vào năm 1835 và giữ nhiều chức vụ thuộc linh
cũng nhƣ hành chính ở tiểu bang Maine và Newyork. Khi ông bà kỷ niệm ngày
thành hôn năm 1882, một ngƣời bạn đã dùng những lời sau đây để tỏ lòng kính
trọng :”Đặc ân lớn nhất mà Thiên Chúa đã từng ban cho con cái Ngài trên đất và
cho một số ngƣời là sáng tác một bài Thánh ca Cơ Đốc cao quí đƣợc các HT tiếp
nhận đƣợc những tấm lòng yêu thƣơng, thành kính ở những miền khác nhau với
những tiếng nói khác nhau hát và sẽ còn tiếp tục đƣợc hát khi tƣơng lai mở ra
những thế kỷ tƣơi sáng. Dầu ông đã viết nhiều bài Thánh ca khác, cũng nhƣ dịch từ
tiếng Latinh những viên ngọc quí thơ ca, nhƣ bài :”Đức Thánh Linh đến trong tình
yêu” và “Giêxu, Ngài là niềm vui của những tấm lòng yêu thƣơng”. Trƣớc khi ông
mất năm 1887 những tín hữu ngƣời Anh đều đồng ý rằng bài Thánh ca đầu tiên của
Ray Plamer là bài Thánh ca hay nhất mà ông đã viết.
Thánh ca 258: ÔI CHÚA ! ĐẤNG TÔI CẦN LUÔN
“I need Thee every hour”
“Ôi Chúa! Đấng tôi cần luôn, duy Chúa nhơn lành, dịu êm ấy duy lời Chúa,
giúp tôi an bình. Mỗi phút cần Chúa giúp đỡ tôi, nƣơng nhờ cánh Giê Xu hoài. Xin
ban phƣớc cho tôi từng giây, tôi đến đây Ngài.”
Lời của Thánh ca xuất phát từ tâm hồn thi sĩ là những vần thơ bộc bạch tâm
hồn chân thật, nói lên nổi niềm khao khát của con ngƣời. Theo nhƣ lời của tác giả
thì bài Thánh ca quen thuộc trên đây đã đƣợc “Thổi bay đến trần gian trên đôi cánh
tình yêu và hoan hỉ”.
Nhà thơ, bà Annie Sherwood Hawks, đã từ Hoosick, Nữu Ƣớc, nơi bà sinh ra,
chuyển đến Brooklyn, và trong nhiều năm là một tín hữu sốt sắng của HT Baptit
Hanson Phace. Khoảng năm 1868, vị chủ tọa Hội thánh, cũng là nhà thơ và sáng
tác Thánh ca, MS Robert Lowry khám phá rằng bà có năng khiếu thi ca kỳ lạ và
ông đã khuyến khích bà dùng đặc ân đó sáng tác thơ cho thiếu nhi. Suốt 80 năm
chức vụ của ông tại đó, bà đã sáng tác rất nhiều bài thơ. Phần lớn giai điệu của các
bài ấy do Tấn Sĩ Lowry soạn nhạc.
Một buổi sáng rực rỡ, tháng 6 – 1872, bà Hawks, lúc ấy đã 37 tuổi, đang bận
bịu với những công việc thông thƣờng vốn hay chiếm nhiều thì giờ của các bà nội
trợ và các bà mẹ. Thình lình bà bị tràn ngập bởi ý thức về sự hiện diện gần gũi của
ĐCT. Bà nghĩ: Làm sao một ngƣời có thể sống không có ĐCT ? Tách rời ĐCT làm
sao con ngƣời có thể đối diện với đau thƣơng hay kinh nghiệm đƣợc niềm vui sâu
xa vững bền? Tách rời sự đồng hành luôn luôn với Chúa thì làm sao con ngƣời có
thể đắc thắng cám dỗ ? Ý nghĩ về nhu cầu Đấng Christ đối với con ngƣời đã hoàn
toàn chiếm hữu bà. Chẳng bao lâu, không cần nhiều nỗ lực lắm, một loạt các câu
thơ đã hình thành trong trí bà. Bà viết ngay những dòng sau :
“Ôi Chúa, Đấng tôi cần luôn ... khi Chúa ở gần”. Những vần thơ của bà quá
đơn sơ đến đổi bà thấy mắc cỡ nếu nhƣ đƣa cho vị MS của mình. Song ông cứ
khăng khăng rằng bà phải đƣa cho ông từng bài thơ của bà. Nên bà buộc lòng trao
bài thơ trên cho ông sau buổi sáng chúa nhật tiếp theo đó, với chút mơ ƣớc : trên
đôi cánh âm nhạc của vị MS tài ba, tiếng hát đi vào hằng triệu tấm lòng con ngƣời.
Tấn sĩ Lowry đọc đi đọc lại những khổ thơ đơn sơ cho đến lúc ông nhận thấy
rằng bà Hawks đã sáng tác bài thơ hay nhất. Tuy nhiên ông cảm thấy bài Thánh ca
sẽ không trọn vẹn nếu thiếu phần điệp khúc. Thế là, trong lúc ngồi bên cây đàn
organ bé nhỏ, trong phòng khách tƣ thất ở Brooklyn, phổ nhạc bài thơ của bà
Hawks Tấn sĩ Lowry đã thêm phần điệp khúc của chính ông nhƣ sau :
“Mỗi phút cần Chúa giúp đỡ tôi ... Tôi đến đây Ngài”.
Đây không phải là lần đầu tiên Tấn sĩ viết một điệp khúc. Ông ái mộ bài Thánh
ca vĩ đại: “Chúng ta những ngƣời yêu mến ĐGHV, hãy đến !” của Issac Watts đến
mức ông thấy bài hát ấy xứng đáng có một giai điệu du dƣơng trữ tình hơn là giai
điệu uy nghi của bài Thánh Thomas nhƣ bài ấy vẫn đƣợc hát. Thế là ông soạn một
giai điệu của chính mình và thêm phần điệp khúc nhƣ sau :
“Ta bƣớc lên Siôn hè ... ... vinh quang muôn đời”. Ông ngƣỡng mộ bài Thánh
ca phục sinh oai nghiêm “Halêlugia, Chúa phục sinh hôm nay” của Wesley cũng
đến mức nhƣ vậy. Ông không thể an nghỉ cho đến khi viết và soạn xong phần điệp
khúc của chính ông, bài thánh ca này đƣợc ƣa chuộng mãi mãi và đƣợc cả ngƣời
lớn lẫn trẻ em trên toàn thế giới hát trong mùa Phục sinh.
Bài hát mới: “Ôi Chúa Đấng tôi cần luôn” đƣợc trình bày lần đầu tiên tại hội
nghị trƣờng Chúa nhật HT Baptit toàn quốc họp tại Cinninati, Ohio tháng 11 –
1872. Năm sau, bài hát ấy đƣợc in trong một quyển nhạc mới có tựa là: “Vƣơng
miện Hoàng gia” do Tấn sĩ Lowry và W.H Doane biên soạn.
Những năm sau, tác giả nói: “Bài thơ của tôi có tánh tiên tri hơn là diễn tả kinh
nghiệm của chính tôi.” Tôi không hiểu nổi vì sao bài hát ấy lại đụng đến trái tim
lớn, phập phòng của nhân loại nhƣ vậy. Phải mãi đến những năm sau này, khi bóng
dáng của sự mất mát lớn ngã trên tôi, tôi mới hiểu đƣợc cái gì đó của sự an ủi trong
những lời tôi đƣợc phép viết ra trong những giờ phút bình tịnh, yên ninh và ngọt
ngào của tôi”.
Sau khi chồng bà mất vào năm 1888, bà Hawks về với một trong những ngƣời
con của bà ở Bennington, Vermont, cho đến lúc bà về với Chúa năm 1918, thọ 83
tuổi.
Thánh ca 261: TIN CẬY VÂNG LỜI
“Trust and obey”
“Cùng đi với Chúa mỗi ngày, lời Kinh Thánh sáng soi đây. Đƣợc sự vinh hiển
huy hoàng Chúa muôn đời. Vì vâng ý Chúa trên trời, Ngài vui dẫn dắt ta hoài và
cùng mọi kẻ hay tin cậy vâng lời. Tin cậy vâng lời, nào nhờ cách gì trong đời.
Muốn hƣởng phƣớc thiên thƣợng ai ơi! hằng duy tin cậy vâng lời.”
Kinh nghiệm tin cậy Chúa mỗi ngày mà Mục sƣ J.H. Sammis (1855 – 1919),
Giáo sƣ Thần học viện, đã sáng tác khoảng 100 lời Thánh ca. Ông mất ngày
1-6-1919. Tiến sĩ D.B.Towner (1850 – 1819), ngƣời Mỹ, chuyên lo phần âm nhạc
trong HT. Cha của ông cũng là một nhà âm nhạc. Ông có giọng nam trầm rất tốt,
gia nhập ban hát Hội Truyền Giảng của Moody. Sau này, ông giảng dạy ở Thần
học viện Moody, giúp đỡ nhiều học viên. Ông qua đời ngày 3-10-1919, trong khi
đang hƣớng dẫn ban hát.
Một hôm, trong buổi nhóm bố đạo của Moody, Towner hƣớng dẫn hát. Có một
thanh niên đứng lên làm chứng: “Có nhiều việc tôi không hiểu, nhƣng có một điều
tôi biết chắc, là phải hoàn toàn tin cậy vâng lời Chúa”. Towner cảm động mạnh
mẽ, kể lại cho Mục Sƣ Sammis nghe. Trong thƣ trả lời, Mục Sƣ Sammis gởi kèm
bài thơ “Tin cậy vâng lời”. Moody rất thích. Thế là Towner phổ nhạc.
Thánh ca 266:
HỒN TÔI CHỈ QUYẾT NEO TRONG HUYẾT GIÊ XU
“My hope is built on nothing less”
“Hồn tôi chỉ quyết neo luôn trong nơi công nghĩa với huyết Giê Xu mà thôi.
Thật tôi không dám ỷ sở năng tôi, duy đứng vững chắc trên Giê Xu thôi. Nƣơng
trên Giê Xu nhƣ tảng đá khối, các chỗ đứng khác dƣờng cát lún thôi. Thật bao nơi
kia giống nhƣ sa bồi.”
Tác giả của bài thánh ca này đƣợc sự từng trãi sâu nhiệm qua lời của Chúa nên
tâm hồn ông muốn bày tỏ điều này qua các lời thơ và để lại lòng của nhiều con cái
Chúa sự cảm thông sâu lắng với những gì mà ông đã nhận đƣợc. Edward Mote
(1779 – 1874) sanh ra trong một gia đình ngoại đạo. Lúc ngoài 20 tuổi, ông tin
Chúa khi nghe MS. H. John giảng. Ông là một công nhân chế tạo dụng cụ gia đình.
Kinh nghiệm đƣợc cứu của ông thật sâu nhiệm, thật rõ ràng. Ông đặc biệt quí trọng
và rất thích nghiên cứu Kinh Thánh.
Năm 1834, một hôm, trong lúc đang làm việc, câu “Nƣơng trên Giê Xu nhƣ
tảng đá khối, các chỗ đứng khác dƣờng nhƣ cát lún thôi, thật bao nơi kia giống nhƣ
sa bồi” cứ quanh quẩn trong đầu, khiến ông phải bỏ công việc về nhà. Khi viết
xong bài thơ “Hồn tôi chỉ quyết neo trong huyết Giê Xu” lòng ông cảm thấy sung
sƣớng vô cùng. Tuần lễ sau ông đến thăm một vị Mục sƣ, vì bà Mục sƣ bịnh nặng.
Ngồi bên giƣờng bịnh, ông đọc bài thơ này cho bà nghe, ngƣời bịnh đƣợc niềm an
ủi lớn. Sau đó, ông in ra 1000 bản, gởi tặng các nơi. Dần dần ông cảm thấy cần
phải nhờ cậy Chúa, chuyên tâm hầu việc và tìm kiếm Chúa. Năm 50 tuổi, Hội
Baptit phong chức MS cho ông tại đó đến khi ông về với Chúa. Một tín hữu trong
HT cho rằng nhà thờ là tài sản của riêng ông, nên muốn ghi tên ông trên văn tự
nhà, nhƣng ông kiên quyết phản đối và nói rằng đây là sản nghiệp thuộc về Christ.
Năm 77 tuổi, khi hấp hối, ngƣời nhà quây quần chung quanh, ông nói : Tôi đứng
trên lẽ thật mà bao năm nay tôi đã tin và rao giảng. Wm. BRADBURY (1816 –
1868), nhà âm nhạc Mỹ soạn nhạc bài Thánh ca này năm 1834. Ông đã viết 59 loại
sách âm nhạc, nhiều Thánh ca, xuất bản trên 2 triệu cuốn.
Thánh ca 269: NÀY LÀ TRUYỆN KÝ TÔI
“Blessed assurance”
“Chúa thuộc về tôi, nguyền tin sắt son, tôi từng vui nếm trƣớc phƣớc vĩnh sinh
bùi ngon. Huởng cơ nghiệp cứu rỗi, nhờ ơn hiếu sinh. Sạch tội bởi huyết, tái sanh
bởi thần linh. Nầy là truyện ký tôi, bản hát của tôi. Tôn vinh danh Chúa không khi
nào thôi. Nầy trang sử tôi, nầy bản ca của tôi. Ngợi khen Cứu Chúa tôi, không lúc
nào thôi.”
Tật nguyền không phải là tội. Nhất là ngƣời tật nguyền nhƣ Fanny Crosby
đáng đƣợc toàn thể giáo hội Cơ Đốc giáo kính phục. Fanny Crosby (1820 – 1915)
là một ngƣời mù nhƣng có hai điểm nổi bật :
– Bà thuộc lòng nhiều câu Kinh Thánh, gần nhƣ toàn bộ Tân Ƣớc, ngũ kinh
Môise, Thi Thiên, Rutơ. – Sáng tác khoảng 8.000 bài thơ.
Trong một nghĩa trang tại thành phố Bridgeport thuộc bang Connecticut, một
chiếc bia mộ khiêm tốn có ghi : “Aunt Fanny...”
Đó là một hồi tƣởng về cuộc đời của ngƣời phụ nữ phi thƣờng, bị mù từ lúc
mới sinh, mà lại là tác giả của những bài Thánh ca mang tên Fanny Crosby ! Một
trong những ngƣời bạn thân của Fanny Crosby là bà Joseph Knapp vợ của nhân vật
sáng lập công ty Bảo hiểm Nhân Thọ Quốc tế ở Newyork. Bà Knapp là một nhạc sĩ
nghiệp dƣ, và nhân trong cuộc viếng thăm nữ thi sĩ mù nầy, bà đã mang theo một
bản nhạc bà sáng tác đƣợc.
Sau khi đàn giai điệu vài lần, bà Knapp hỏi : “Điệu ca nầy nói gì đây ?”.
Lập tức Fanny Crosby trả lời : “Chúa thuộc về tôi, tôi nguyền tin sắt son, tôi
từng vui nếm trƣớc phƣớc vĩnh sanh bùi ngon, hƣởng cơ nghiệp cứu rổi, nhờ ơn
hiếu sinh. Sạch tội bởi huyết, tái sinh bởi thần linh”...
Cứ nhƣ thế, lời ca đƣợc viết ra theo giai điệu cho đến khi hoàn tất. Cách sáng
tác lời cho một giai điệu có sẵn là một thói quen của bà Fanny Crosby. Bà đã dùng
cách nầy viết nhiều bài hát trong số 7.000 bài của bà. Trong các chƣơng trình
truyền giảng Tin lành, vào giờ kêu gọi, ngƣời ta đã dùng nhiều bài Thánh ca làm
“Nhạc chính của đài”. Bài Thánh ca “Nầy là truyện ký tôi” là bài hát sống lâu hơn
cả. Thật là một bài ca lý tƣởng làm chứng về niềm vui và bình an không dứt của
một ngƣời biết mình đã đƣợc Thƣợng đế thừa nhận qua công việc chết thay của
Chúa Giê Xu.
Bài Thánh ca này kế thừa lối diễn tả hoàn toàn có tính cách cá nhân của một cá
nhân biết rằng mình đã tìm đƣợc một cuộc sống mới trong Chúa. Trong niềm tự
hào về hạnh phúc nầy, anh ta bèn hát : “Chúa thuộc về tôi, tôi nguyền tin sắt son”.
Anh ta hoàn toàn tin rằng mình đã kinh nghiệm đƣợc Thiên đàng, một sự “Nếm
trƣớc phƣớc vĩnh sanh bùi ngon”.
Cả hai câu 2 và 3 bắt đầu bằng sự nhắc nhở rằng khi chúng ta tiếp nhận Chúa
làm Chúa của đời mình, thì chúng ta đã đem ý chí đầu phục Ngài. Đầu tiên điều
này dƣờng nhƣ là chúng ta đã đánh mất tự do cá nhân. Nhƣng chẳng bao lâu, ta
khám phá ra rằng đời sống đầu phục này mang tới bình an và yên nghỉ, vui mừng
thỏa thích.
Trên bề mặt mộ bia của Crosby có một câu trích mà ngƣời xem nếu chỉ nhìn
thoáng qua sẽ rất dễ dàng bỏ sót, đó là câu mà Đức Chúa Giê Xu đã nói tại làng
Bê-tha-ni sau khi Ma-ri em gái La-xa-rơ đã xức cho Chúa bằng một thứ dầu thơm
đắt tiền. Khi có vài ngƣời chống đối hành động “lãng phí” dầu đó, Chúa Giê Xu
bèn nói “ Nàng đã làm điều nàng có thể làm đƣợc”.
Chúa chúng ta cũng chấp nhận của lễ của Fanny Crosby tƣơng tự nhƣ thế. Các
bản Thánh ca của bà chứa đựng hƣơng thơm ngọt ngào của tình yêu bà dành cho
Chúa. Nếu bà chỉ viết nổi bài này thôi, nó cũng đáng cho Chúa chấp nhận rồi !.
Thánh ca 271 NGÀI DÌU DẮT TÔI
“He leadth me! O blessed thought”
“Phƣớc thay trong lòng suy nghĩ về lời; Giê Xu dẫn dắt đƣờng lối của tôi! Ở
đâu, làm gì, khi sáng hoặc tối, có tay Giê Xu dìu dắt trọn đời. Giê Xu dắt tôi, Giê
Xu dắt tôi, chính tay Giê Xu hằng dẫn dắt tôi; Nguyền làm môn đồ tín trung suốt
đời, bởi tay Giê Xu dìu dắt không rời.”
Lời của bài thánh ca do Mục sƣ trẻ tuổi Josheph. H.Gilmore từ những phút
giây cảm hứng trong một chuyến đi truyền giảng năm ông 28 tuổi. Câu chuyện
đƣợc nhắc lại nhƣ sau: Tòa nhà giáo hội Baptit đầu tiên ở góc Tây Bắc của đƣờng
Broad và Arch ở Tp. Philadelphia đang bị phá xuống để dành chỗ cho một tòa nhà
hiện đại dùng làm văn phòng của Cônh ty Liên Hiệp cải thiện khí đốt của Thành
phố đó. Trong lúc đứng nhìn ngôi nhà thờ cũ bị kéo xuống, một tu sĩ Baptit nói với
một nhân viên của Công ty : “Tòa nhà cũ kỹ đó có một lịch sử đặc biệt.” Bài Thánh
ca tuyệt diệu “Ngài dìu dắt tôi” đã đƣợc sáng tác tại đó.
Khi tòa nhà đƣợc xây dựng xong, ngƣời ta đúc một tấm bảng đồng tƣởng nhớ
tác giả và việc đã tạo cảm hứng cho việc sáng tác bài Thánh ca nổi tiếng nhất của
ông. Tấm bảng đồng ghi “Ngài dìu dắt tôi”, bài Thánh ca mà cả thế giới hát đã
đƣợc sáng tác bởi MS Tấn sĩ Joseph H.Gilmore, là con trai của vị Thống Đốc tiểu
bang New Hamsphire, tại nhà của chấp sự Wattson, ngay sau khi ông giảng luận
trong nhà thờ HT Baptit đầu tiên ở góc tây bắc của đƣờng Broad và Arch, vào ngày
26-3-1862. Ngôi nhà thờ và nhà riêng của chấp sự Wattson ở ngay trên chỗ tòa nhà
này, trong sự ngƣỡng mộ vẻ đẹp và danh tiếng của bài Thánh ca và cũng để tƣởng
nhớ tác giả của bài Thánh ca đó, Công ty Liên Hiệp cải thiện khí đốt đã thực hiện
tấm bảng cố định này vào ngày 1-6-1926.
Những kỷ niệm trở về, với đêm thứ tƣ, tháng 3-1862 : Suốt trong những ngày
tháng tuyệt vọng của cuộc nội chiến, vị MS trẻ cứ giảng dạy trong ngôi nhà thờ
lịch sử này. MS. Joseph Henry Gilmore đã đƣợc chuẩn bị tốt cho chức vụ của ông
lúc ông 21 tuổi. Ông tốt nghiệp với lời khen tặng tại đại học đƣờng Brown và
chủng viện Thần học Newton nhiều năm trƣớc khi Ông Bà đến Thành phố của tình
huynh đệ. “Họ có chút mơ mộng rằng họ đang bƣớc vào chuyến đi quan trọng nhất
của đời mình. Mục sƣ chọn Thi Thiên 23 cho buổi thờ phƣợng giữa tuần và đặt
mình vào sự dẫn dắt của ĐCT, trong một thời gian rất lâu, của những ngày tháng
ảm đạm ấy. Ông nhắc đi nhắc lại câu :”Chúa dẫn tôi đến mé nƣớc bình tịnh, đƣa
tôi đi trong các lối công bình”. Ông thúc giục tín đồ đi theo sự dẫn dắt của Chúa
nhƣ chiên theo ngƣời chăn. Ông nài khuyên họ tìm kiếm trụ mây ban ngày và trụ
lửa ban đêm nhƣ ĐCT đã ban cho dân Do Thái, dẫn dắt họ thoát khỏi vòng nô lệ
tại Ai Cập để đến sự tƣ do nơi miền đất hứa.
Sau buổi nhóm, Ông Bà MS. Gilmore cùng đi với Ông Bà Chấp sự Wattson
đến ngôi nhà đã mời họ ở, cạnh nhà thờ, phía khu trung tâm TP. MS không thể
kềm chế việc giảng giải lại đề tài ông đã chọn. Đề tài ấy cứ theo đuổi ông, cho đến
khi, để tìm sự khuây khoả cho tâm hồn, ông bắt đầu ghi ra vài khổ thơ trong tờ
giấy, mặt sau, mà ông đã dùng để ghi chép bài giảng vừa qua:
“Chúa dìu dắt tôi, ôi ý nghĩa hạnh phƣớc thay !... cứ dắt dẫn tôi”.
Khi ông ngừng viết thì đã có 4 khổ thơ và điệp khúc. Trong khi ông quên đi
bài thơ này thì bà lại sao một bản gởi đến tòa soạn tạp chí :”Ngƣời canh gác và
ngƣời phản ảnh”. Bài thơ đƣợc in lần đầu tiên. William Bradbury xem thấy và phổ
nhạc ngay.
Joseph Gilmore đã giữ nhiều chức vụ cao quí trong giới tôn giáo, giáo dục và
là ngƣời nhận nhiều vinh dự xứng đáng trong suốt cuộc đời 84 năm dài đầy bông
trái. Ngày nay ông đƣợc nhớ đến bởi chuyến đi giảng ở Philadelphia, khi ông 28
tuổi, bởi 4 khổ thơ đƣợc thảo nhanh trong giây phút cảm hứng, bởi một ngƣời vợ
nhạy cảm đủ để nhận thấy một việc làm tốt khi bắt gặp bài thơ hay, và bởi một nhà
soạn nhạc không bao giờ để một bài thơ đƣợc cảm tác thoát khỏi mình.
Thánh ca 277: TÂM LINH TÔI YÊN NINH THAY"
“It is well with my soul”
“Khi tôi đƣợc bình tịnh dƣờng sông chảy theo đƣờng đời, hoặc lắm thống bi
nhƣ ba đào sôi, hoàn cảnh dẫu ra sao, Christ khuyên cứ nói sắt đinh: “Linh hồn ôi!
Ta yên ninh, thật yên ninh!” Tâm linh tôi, yên ninh thay! Lòng tôi nay bình an
thay, bình an thay! “
Lời thánh ca do ông Spafford viết bằng tất cả sự đầu phục Chúa trƣớc số phận
nghiệt ngã trong cuộc đời của hai ông bà: “Khi sự bình an nhƣ một dòng sông chảy
ngang đƣờng tôi đi. Khi nỗi buồn cuộn sôi nhƣ sóng biển. Dù chân tôi có ra sao đi
nữa, song Ngài đã dạy cho tôi nói rằng. Yên ninh thay linh hồn tôi !”. Câu chuyện
đƣợc kể lại trong niềm xúc động không nguôi, Lời ca phát xuất từ tấm lòng tan vỡ
và đau đớn trƣớc những thử thách liên tục đến với H.G. Spafford. Bi kịch xảy ra
ngay trƣớc khi lời bài Thánh ca này đƣợc viết ra cũng nhƣ liền sau khi nó đƣợc
phổ nhạc.
“S.S.Ville du Hanvre” là chiếc thuyền Pháp sang trọng nhất trên biển khi nó
khởi hành từ Nữu Ƣớc vào tháng11 năm 1873. Trong số hành khách trên thuyền có
bà H.G. Spafford ở Chicago đi cùng với 4 con là Maggie, Taretta, Annie, và
Bessie. Ông Spafford không thể cùng đi với gia đình vì bận chuyện ở Chicago
Thành phố vừa bị tàn phá bởi cơn hỏa hoạn lớn. Dầu vui vẻ vì gia đình ông cùng đi
một chuyến tàu với những anh em trong Chúa, song một linh cảm không hay trƣớc
phút chia tay, đã khiến ông đổi phòng họ đã đặt đến một phòng ở phía mũi tàu.
Ông chào gia đình, tạm biệt và hứa sẽ gặp họ tại Pháp trong một vài tuần nữa.
Lúc 2 giờ sáng ngày 22 – 11 – 1873, chiếc tàu sang trọng đã rời bến đƣợc
nhiều ngày và đang lƣớt trên mặt biển yên tịnh, thình lình nó bị một chiếc tàu sắt
Anh Locheair đâm vào. Trong vòng 2 giờ, chiếc SS Ville Du Havre, một trong
những chiếc thuyền lớn nhất trên biển, đã chìm xuống đáy đại dƣơng cùng với 226
hành khách. Chín ngày sau, những ngƣời sống sót cặp bến Cardiff xứ Wales, bà
Spafford đánh một bức điện cho chồng vẻn vẹn mấy chữ :”Đƣợc cứu một mình”.
Khi nhận đƣợc điện tín của bà, ông Spafford nói với một ngƣời bạn thân rằng “Tôi
vui mà tin cậy ĐCT khi điều đó khiến tôi phải trả giá”. Đối với ông, đây là một thử
thách thứ hai, đến hầu nhƣ quá sớm, ngay sau gót chân của thử thách thứ nhất.
Trong trận hỏa hoạn ở Chicago ông đã mất những của cải. Trong bi kịch ở đại
dƣơng ông đã mất 4 đứa con yêu quý. Cố gắng sớm đến mức tối đa, ông đáp tàu
qua Âu châu để gặp lại vợ. Trên đƣờng đi, tháng 12 – 1873 vị thuyền trƣởng gọi
ông vào phòng ông ta và nói :”Tôi tin rằng chúng ta đang đi qua chỗ chiếc Ville
Du Havre đã chìm”.
Đêm ấy, ông Spafford trằn trọc mãi, nhƣng chẳng bao lâu, đức tin đã chiến
thắng nghi ngờ, và tại giữa lòng đại dƣơng, từ nỗi thống khổ thƣơng tâm, ông đã
viết 5 khổ thơ, khổ thơ thứ nhất là : “Khi tôi đƣợc bình tịnh dƣờng sông chảy theo
đƣờng đời Hoặc lúc thống bi nhƣ ba đào sôi Hoàn cảnh dẫu ra sao, Christ khuyên
cứ nói sắt đinh Linh hồn tôi yên ninh thay, bình an thay”
Vài tuần sau họ gặp lại, ông Spafford nói :”Tôi không mất các con tôi, chúng
tôi chỉ xa nhau một thời gian ngắn thôi”.
Ông Spafford và ông Philip Paul Bliss, nhà lãnh đạo ban hát và nhà soạn nhạc
vốn quen biết nhau. Cả hai nhiều lần cộng tác với Moody và Sankey trong những
chuyến truyền giảng. Trong vài dịp, Bliss hƣớng dẫn hát khi Spafford giảng. Theo
lời yêu cầu của Spafford, Bliss đồng ý phổ nhạc bài thơ trên. Thứ sáu cuối tháng
11 – 1876, tại buổi gặp gỡ ở Farwell Hall, Chicago, có mặt khoảng 1000 MS, Bliss
đã giới thiệu bài “Tâm linh tôi yên ninh thay” nhƣ một bài đơn ca. Một tháng sau,
ông Bliss để 2 đứa con lại với Mẹ ông rồi đi xe lửa từ Buffalo, Nữu Ƣớc, đến
Chicago, nơi một loạt những buổi truyền giảng đã đƣợc dự định bắt đầu ngay sau
ngày đầu năm. Họ rời Buffalo vào trƣa ngày thứ sáu 29 – 12 – 1876. Khoảng 8 giờ
tối đêm ấy, lúc chuyến xe đang tiến gần Astabula, Ohio, thì cây cầu bắc ngang một
thung lũng hẹp và sâu đã gãy, chiếc xe lửa cùng 7 toa hành khách đâm xuống dòng
sông phủ băng bên dƣới. Ngay lập tức, hỏa họan xảy ra giết chết nhiều ngƣời –
những ngƣời không bị chết chìm nhƣng bị nhốt lại bởi sƣờn tàu ngã xuống và
những thanh gỗ xoắn lại – Trong số 160 hành khách, chỉ có 59 thi thể đƣợc tìm
thấy và 14 ngƣời sống sót. Một trong những ngƣời còn sống thuật lại rằng : Ông
Bliss có thể thoát ra đƣợc, nhƣng vì bà còn bị kẹt trong đống đổ nát, ông đã ở lại
bên bà, ngọn lửa đã xông tới và cả hai chắc chắn đã chết.
Bạn bè ông đã ở lại nơi xảy ra thảm họa trong 3 ngày, nhƣng họ chẳng tìm thấy
dấu vết gì của nhà lãnh đạo ban hát hoặc vợ ông, dầu hằng tá đồ vật đã đƣợc moi ra
từ tro tàn và từ đáy sông. Họ không có một ngôi mộ trần thế nào. Bốn ngƣời con
của ông Spafford chìm giữa lòng đại dƣơng và ông bà Bliss chết trong tai nạn xe
lửa ở Ohio. Nhƣng bài Thánh ca với một bi kịch đi trƣớc và một bi kịch khác theo
sau, sẽ mãi mãi sống trong lòng những con cái Chúa là những ngƣời cùng một lòng
với gia đình Spafford và Bliss đều có thể hát cách trung thực và khải hoàn rằng
:”Tâm linh tôi yên ninh thay”.
Thánh ca 290: NƯƠNG CÁNH VĨNH SINH
“Leaning on the ever lasting arms”
“Phƣớc bấy mối giao thân, phƣớc bấy mối vui thần. Giờ mà tôi dựa nƣơng tay
Chúa vĩnh sinh; Lớn bấy chốn an thân, lớn bấy phƣớc siêu trần, giờ mà tôi dựa
nƣơng tay Chúa vĩnh sinh. Quyết nƣơng, nƣơng vào. Bình an vƣợt bao nguy biến
khiếp kinh. Quyết nƣơng, nƣơng vào. Giờ mà tôi dựa nƣơng tay Chúa vĩnh sinh.”
Lời bài thánh ca này do Mục sƣ Hoffman(1839 – 1929) viết để an ủi những
ngƣời có hoàn cảnh đau buồn khi chia tay với ngƣời thân yêu trên đời, câu chuyện
đƣợc kể lại nhƣ sau: E.A.Hoffman ở cùng một thành phố với A.J.Showalter.
Hoffman là một Mục sƣ sáng tác nhiều thơ thánh còn A.J.Showalter sinh năm 1858
tại Mỹ. Một hôm, Showalter nhận thơ của hai ngƣời bạn. Thật trùng hợp, cả hai
đều mất vợ trong cùng một khoảng thời gian. Showalter cầm bút viết thƣ trả lời,
nhƣng chẳng biết viết gì để an ủi hai tấm lòng tan vỡ. Cả hai ngƣời đều đau buồn
khi ngƣời vợ yêu thƣơng chết đi. Sau khi cầu nguyện, câu KT Phục Truyền 33:27
hiện ra trong trí ông. Cánh tay quyền năng của Chúa nâng đỡ chúng ta. Vì vậy, ông
viết ý này trong thơ trả lời :”Hãy ngã mình trong cánh tay quyền năng của ĐCT”.
Đồng thời, ông cảm thấy nên viết một bài Thánh ca. Sau khi soạn nhạc và dùng ý
của Phục truyền 33:27 viết lời cho phần điệp khúc, ông không viết đƣợc lời cho
phần phiên khúc. Ông bèn tìm đến bạn mình là MS. Hoffman. Hoffman dựa vào ý
của Showlater sáng tác 3 lời thơ chính.
Bài Thánh ca này an ủi nhiều tấm lòng đau thƣơng khi chịu thử luyện. Dù thử
thách đó to lớn đến đâu, chúng ta cũng có cánh tay quyền năng của Chúa nâng đỡ.
Cho dù chúng ta không chịu đựng nổi, phải ngã xuống, cũng ngã vào vòng tay đời
đời của ĐCT.
Thánh ca 291: ĐI TỪNG BƯỚC
“Step by step”
“Nhẹ nhàng thay bƣớc theo chơn Giê Xu. Ngài đêm bƣớc, bƣớc đi vững an;
Hằng noi theo dấu chân Ngài chăm chú. Đồng bƣớc đi, bƣớc đi suốt đàng. Đi từng
bƣớc, bƣớc bƣớc đi, theo Giê Xu tôi băng sƣơng. Đêm ngày bƣớc, bƣớc bƣớc đi,
theo gót Giê Xu trọn đƣờng.” Lời của bài thánh ca này do Mục sƣ Simpson mà tiểu
sử chúng ta đã biết qua bài thánh ca 223. ĐCT ban khải thị cho những ngƣời theo
Ngài không phải là toàn bộ khải thị một lúc : Từ khi ra đời cho đến khi chết. Vì
Chúa muốn chúng ta dùng đức tin để nhờ cậy Ngài, muốn chúng ta dùng nhiều thì
giờ tâm giao mật thiết với Ngài.
Tiến sĩ A.B. Simpson từng là MS của một nhà thờ lớn ở TP. Newyork – Hoa
Kỳ. Nhà thờ này có nhiều nhà giàu có, quyền thế dự nhóm. Nhƣng họ chƣa mang
lấy món nợ của những ngƣời chƣa từng nghe giảng Tin Lành. Tiến sĩ Simpson chợt
nhận ra mình thiếu nợ Tin Lành ngƣời khác. Sau một thời kỳ đấu tranh trong lòng,
ông tiếp nhận ý chí của Chúa, từ chức mục sƣ của Hội thánh ấy.
Ông thành lập Thánh Kinh học viện đầu tiên tại Mỵõ. Cho đến nay, hàng ngàn
Giáo sĩ thuộc Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên Hiệp đã đi khắp thế giới giảng Tin
Lành, Tiến sĩ Simpson cũng viết sách, giúp đỡ rất nhiều cho những ngƣời tìm kiếm
Chúa trong đời sống thuộc linh.
Có nhiều ngƣời thích dùng bài Thánh ca này trong hôn lễ của họ. Nếu bạn
chƣa kết hôn, hãy để ý ngƣời yêu của bạn, xem họ có bằng lòng đi từng bƣớc theo
Chúa không? Nếu không, xin bạn chờ đợi thêm.
Hãy đặt tay mình trong tay Chúa và thƣa rằng : Lạy Chúa, con nguyện đi từng
bƣớc theo Ngài. Bất cứ đi đâu hoặc làm việc gì, xin ý chỉ Ngài đƣợc nên trong đời
sống con.
Hãy bƣớc đi bƣớc thứ nhất, tiếp nhận sự dạy dỗ bƣớc đầu của Chúa, Ngài sẽ
giúp chúng ta đi bƣớc thứ hai, và những bƣớc kế tiếp.
Thánh ca 314: TINH BINH GIÊ-XU TIẾN LÊN
“Onward, Christian soldiers”
“Tinh binh Giê Xu tiến lên! Xung phong vào trận tuyến, cờ thập tự Chúa Giê
Xu, phất lãnh đạo binh thiêng; Kìa đại tƣớng Krist trƣớc ta, thêm can đãm ta tiến;
Nhứt tâm nhìn xem lá cờ, quyết xông pha trận tiền. Xông lên tinh binh Giê Xu! Đi
nhƣ xông trận tuyến, Cờ thập giá luôn phất cao, quyết tiến ra trận tiền.”
Thánh ca không phải chỉ là những nhạc khúc buồn thảm nhƣng còn là những
nhạc khúc mạnh mẻ nhƣ những khúc quân hành để thúc giục đời sống con cái
Chúa phải mạnh dạn trên bƣớc đƣờng theo Chúa. MS. S. Baring Gould, ngƣời
Anh, sinh năm 1834, mất năm 1924, sáng tác bài thơ này năm 1865. Ông Arthur
Sulivan, nhà âm nhạc nổi tiếng ở Anh phổ nhạc năm 1871, sinh năm 1842, mất
năm 1900.
Năm 1865, MS Baring Gould sửa soạn cử hành buổi nhóm Thanh niên tại hội
nghị TCN thành phố Horbury, Anh quốc. Nhóm Thanh niên ấy phải xếp hàng đi
đến một nhà thờ khác trong đêm trƣớc ngày có buổi nhóm. Ông tìm trong Thánh ca
một bài tiến hành khúc nhƣng không có. Đêm ấy, ông đi ngủ rất trễ để viết bài thơ :
“Tinh binh Giê Xu tiến lên”. Nhóm Thanh niên rất phấn khởi vừa đi vừa hát bài
thơ này theo điệu nhạc St. Alban năm 1871, Arthur Sulivan phổ nhạc bài thơ này.
MS. Baring Gould cũng là một nhà văn nổi tiếng, trên 30 tuổi ông mới lập gia đình
với một cô gái nghèo, ông chu cấp cho cô học tốt nghiệp Đại Học rồì mới làm lễ
cƣới. Hai vợ chồng yêu thƣơng nhau và đƣợc Chúa đại dụng. Bà qua đời trƣớc ông
8 năm, trên mộ bà có ghi: “Phân nữa cuộc đời tôi an nghỉ tại đây”.
Ông viết nhiều sách lịch sử, tôn giáo, truyện thiếu nhi ... nhƣng nhiều ngƣời
biết đến tên ông vì ông đã viết bài “ Tinh binh Giê Xu tiến lên”.
Thánh ca 315:
TINH BINH CỦA QUÂN THẬP TỰ MAU ĐỨNG LÊN
“Stand up, Stand up, for Jesus”
“Nầy tinh binh của quân thập tự, vâng lệnh trên mau đứng lên! Cờ thiêng ta
quyết giƣơng cao hoài, ra trận xông giáo lƣớt tên. Dẹp tan quân thù ta cứ tiến,
trông Krist lãnh đạo tấn công, kỳ cho đến lúc ca khải hoàn, Krist làm chân Chúa vô
song.”
Tác giả của lời Thánh ca này đƣợc khích lệ tinh thần bởi tấm gƣơng nhiệt
thành hầu việc Chúa và trung tín với Chúa cho đến hơi thở của cùng của Mục sƣ
D.Tyng là Mục sƣ tại một Thành phố ở Mỹ. Mục sƣ D.Tyng nổi tiếng từ khi còn là
thanh niên năm 1850. Ông cực lực phản đối chế độ hắc nô, một số ngƣời ghét ông,
đòi ông từ chức, nhƣng ông không nãn lòng, vẫn trung tín với Chúa vì lẽ thật đánh
trận tốt đẹp. Ông có ảnh hƣởng lớn với thanh niên. Năm 33 tuổi, ngày 30-3-1858,
ông tổ chức một buổi nhóm đặc biệt, chủ đề bài giảng là kẻ tráng niên hãy đi hầu
việc Đức Giê Hô Va, Xuất 10:11. Có 5.000 thanh niên nhóm, 1.000 thanh niên
đứng lên dâng mình hầu việc Chúa. Sứ điệp ông giảng lần đó là một trong những
bài giảng hay và có nhiều hiệu quả tại Anh. Sau đó hai tuần ông bị tai nạn trọng
thƣơng và chết. Trƣớc khi chết, ông lớn tiếng kêu gọi Thanh niên phải tận trung
với Chúa, và yêu cầu các bạn hữu mình hát Thánh ca. Ông nói :”Hát ! Hát ! các
bạn không hát đƣợc sao ?” Ông đã hát bài “Vầng đá muôn đời”.
Sau khi đƣa đám tang MS. D. Tyng, lòng MS. Duffield không thể quên đi sứ
điệp cuối cùng của ngƣời bạn tốt: “Tinh binh của quân thập tự mau đứng lên” và
dùng ý này viết nên bài thơ Thánh. Sau đó ông dùng sứ điệp này làm đề tài giảng
luận cho những Chúa nhật sau, trên nền tảng Êphêsô 6:10 sau khi giảng xong, ông
đọc bài thơ này.
Bài thơ này viết lên để kỷ niệm ngƣời đầy tớ yêu Chúa và có lòng dũng cảm
lớn. Ƣớc mong chúng ta cũng đồng có một trái tim tận trung với Chúa.
Thánh ca 327: HÃY CHIẾU ÁNH HẢI ĐĂNG
"Let the lower light be burning"
“Lòng đại từ của Chúa Cha soi rạng. Từ lời thánh, nhƣ vọng đăng sáng. Ngài
giao việc ta trông đăng tháp nầy, hằng đêm chiếu nơi biển trần đây. Mọi đời sống
hãy chiếu giống hải đăng, chiếu sáng giữa ba đào hung hăng, hầu rọi đƣờng cho
bao thuỷ thủ kìa, vƣợt bao hiểm nguy lúc trời khuya.”
Tác giả bài thánh ca này chúng ta đã quen thuộc, Philip Paul Bliss (1838 –
1876). Ông có những đặc ân hiếm có : Giáo hội toàn thế giới có thể nghe một câu
chuyện hay còn ông đƣợc cảm hứng để sáng tác một bài hát mới.
Lúc 12 tuổi, ông bị lôi cuốn vào mối thông công của Hội thánh Baptit Cherry
Flast, Hat Tiôga, Pennsylvania, nhƣng chẳng bao lâu ông bắt đầu tham dự vào
những kỳ trại và giảng phục hƣng của Hội thánh Giám lý. Khi lập gia đình, ông kết
hợp với Hội thánh Trƣởng Lão, mà bà là một tín đồ tích cực. Trong vài năm, ông là
chủ tọa trƣờng chúa nhật và là thành viên ban hát của Hội thánh đầu tiên ở
Chicago.
Vì sự thiếu thốn của mình, ông ít đƣợc trang bị âm nhạc trong nhiều năm. Ông
nghe tiếng đàn dƣơng cầm lần đầu khi ông còn là một cậu bé 10 tuổi, đi chân đất.
Bị thu hút bởi tiếng đàn đến mức ông bƣớc vào nhà và nói với ngƣời phụ nữ đang
đàn: “Ồ ! Hay quá, thƣa bà. Xin bà cứ đàn nữa đi.”
Cuộc sống chật vật cũng không làm nản chí cậu bé say mê âm nhạc. Có một
lần Philip Eliss viết một bản nhạc gởi cho nhà soạn nhạc nổi tiếng lúc bấy giờ là
George F. Root, xin sửa giùm và nhắn theo rằng nếu nhƣ bản nhạc có vẻ viết đƣợc
thì xin gửi về kèm theo một cây sáo cho cậu, vì quá nghèo cậu không có tiền để
mua nó. Nhận đƣợc thƣ và bản nhạc của Philip Bliss, George F. Root cảm động vì
lời thƣ bộc trực, lại ngạc nhiên vì khám phá ra một tài năng còn non nớt, quý báu
nhƣ một viên ngọc cần phải đƣợc mài dũa. George F. Root trả lời thƣ và kèm theo
một cây sáo tặng Bliss để khích lệ. Cứ nhƣ thế, mỗi lần nhận thêm một sáng tác
của Philip Bliss là George F. Root gửi quà. Dần dần Philip Bliss đã đạt đƣợc thành
tích đáng kể, xứng đáng với lòng mong chờ của G. F. Root.
Một buổi tối nọ, Philip Bliss chăm chỉ nghe Mục sƣ Dwight L. Moody giảng,
ông kể câu chuyện về một viên thuyền trƣởng khi tàu của ông đến gần cảng
Cleveland trong một đêm tăm tối và bão tố. Sóng biển nổi lên nhƣ ngọn núi và bầu
trời không một vì sao, ngƣời tài công cố gắng hƣớng con tàu về cảng Cleveland,
ông ta biết rằng trong bóng đêm nhƣ thế này thì chỉ tìm đƣợc hải cảng và lối vào
nếu giữ hƣớng đi nhƣ thế nào mà hai ngọn đèn ở trên bờ và ngọn hải đăng tạo
thành một đƣờng thẳng. Lúc ấy vị thuyền trƣởng chỉ nhìn thấy có một ngọn đèn từ
hải đăng chiếu ra, bèn hỏi ngƣời tài công :
– Anh có chắc đây là Cleveland không ?
– Chắc chắn hoàn toàn”. Ngƣời tài công đáp.
– Thế những ngọn đèn thấp hơn ở đâu ? Ông lại hỏi.
– Hƣ rồi, thƣa thuyền trƣởng”. Ngƣời tài công đáp.
– Anh có thể vào cảng đƣợc không ? Ông lại hỏi thêm.
– Chúng ta phải vào hoặc là phải chết, thƣa thuyền trƣởng! Đó là câu trả lời.
Dù ngƣời cầm lái có bàn tay vững chắc và tấm lòng can đảm nhƣng trong đêm
tối anh đã nhắm hụt lối vào và chiếc tàu đâm vào đá, gây thiệt hại sinh mạng lớn
lao.
Mục sƣ Dwight L. Moody kết luận : “Chúa sẽ đảm trách ngọn đèn hải đăng
lớn, còn chúng ta phải giữ những ngọn đèn ở dƣới luôn cháy sáng.
Ngay trong đêm đó, Philip Bliss đã viết lời và nhacï cho bài Phúc âm ca này,
bài “Hãy chiếu giống hải đăng” là một trong những bài nổi tiếng của ông :
“Lòng thƣơng xót của Cha chúng ta chiếu sáng ngời, Từ đăng tháp của Ngài
mãi mãi.
Nhƣng Ngài giao cho chúng ta giữ những ngọn đèn dọc bờ
Hãy khiến những ngọn đèn ở dƣới luôn cháy sáng
Hãy rọi một tia sáng giữa ba đào
Anh sẽ cứu thoát, giải cứu một thủy thủ nào đó đang đuối sức vẫy vùng....”
Trong đời sống hàng ngày, mỗi khi chúng ta giao dịch, tiếp xúc với nhiều
ngƣời, chúng ta có thể làm chứng cho họ về Tin Lành cứu rỗi của Chúa, trừ khi
chúng ta không nói thì họ không nghe đƣợc.
Keller đang hát Thánh ca trong một chiến dịch truyền giảng tại Los Angeles,
California, hội trƣờng bổng tối tăm vì mất điện. Keller bật 1 cây diêm và kêu gọi
100.000 ngƣời có mặt tại đó cùng làm nhƣ vậy. Trong một lúc lửa từ mỗi cây diêm
nhỏ bé ấy thắp sáng cả hội trƣờng. Lửa của đời sống chứng nhân Cơ Đốc có thể tỏa
sáng nhƣng nó có thể hữu hiệu hơn nếu đƣợc dự phần chung với ánh sáng của
những chứng nhân cơ đốc khác.
Ánh sáng soi của hải đăng là Kinh Thánh, là những phƣơng tiện truyền giảng
Tin Lành. Nhƣng mỗi chúng ta là một ngọn đèn thấp bé mà ánh sáng của nó cần để
hƣớng dẫn những linh hồn thất lạc về Giê Xu Christ là bến an toàn.
Thánh ca 334: RẤT AN NINH TRONG CÁNH CHRIST
"Safe in the arms of Jesus"
“Rất an ninh tại trong cánh Krist, êm bấy trên ngực Ngài nay, bóng yêu thƣơng
Ngài bao phủ kín, ắt tâm linh an lạc thay! Kìa, thiên sứ hoan ca thi thánh, reo trong
tôi nhạc điệu hay, trông quang cảnh thiên quốc hiển vinh, tại bên biển sáng ngời
đây. rất an ninh tại trong cánh Krist, êm bấy trên ngực Ngài nay, bóng yêu thƣơng
Ngài bao phủ kín, ắt tâm linh an lạc thay”
Tác giả bài thánh ca này là một thiên tài đặc biệt đƣợc Chúa dùng để tôn cao
sự vinh hiển và quyền năng của Ngài. Cuộc đời mù loà của bà đã trở nên sáng tƣơi
nhờ lời của Chúa và tình yêu của Ngài. Fanny Crosby đƣợc sinh ra trong một mái
nhà tranh nhỏ ở Southeast Dutnam, hạt Putran, Nữu Ƣớc, vào ngày 24-3-1820. Bà
bị mù vĩnh viễn khi chỉ mới đƣợc sáu tuần bởi một ngƣời thầy lang dốt nát, đã
dùng thuốc đắp lên cặp mắt bị viêm của bà. Trƣớc khi đƣợc một tuổi, Crosby đã
mồ côi cha. Mẹ và bà của Crosby đã giáo dục cô suốt những năm còn thơ ấu. Khi
Crosby lên sáu, gia đình dời đến Ridgefield, bang Connecticut, nơi họ đã sống “sáu
năm thơ mộng và ích lợi”. Năm lên 9, Crosby đã sáng tác bài thơ đầu tiên. Một
chiều ở ngoài đồng, Crosby đã cầu xin ĐCT sử dụng mình cho một mục đích cao
quí, thanh khiết và tốt lành. Tại đó cô đã dâng cuộc đời thanh xuân của mình cho
Ngài. Vài tiếng đồng hồ sau, cô trở về nhà, thảo nhanh trên giấy bài thơ đầu tiên
của mình. So với lứa tuổi và điều kiện thể chất của nhà thơ thì những vần thơ này
thuộc trong số những vần thơ tuyệt nhất nhất trong mọi nền văn chƣơng :
Oh what a happy soul am I !
Although I can not see
I am resolved that in this word
Contented I will be
How many blessing I enjoy
That other people don’t
To weep and sigh because I’m blind
I can not, and I won’t
Ôi ! Tôi hạnh phúc biết là dƣờng bao !
Dẫu mắt tôi không thấy
Song tôi đã đƣợc định rằng trong trần gian này
Tôi sẽ sống thỏa vui,
Tôi đã hƣởng biết bao nhiêu phƣớc hạnh
Mà ngƣời khác không có đƣợc Ấy là tôi không thể
Và sẽ không khóc hay thở dài, bởi vì tôi vốn mù.
Năm 15 tuổi, Crosby vào học trƣờng dành cho ngƣời mù ở Tp. Nữu Ƣớc.
Chẳng bao lâu cô đã chứng tỏ khả năng tuyệt vời của mình trong việc sáng tác thơ
văn.
Năm 1858, Crosby thành hôn với Alexander Van Alstyne, một nhạc sĩ và Giáo
sƣ mù tại trƣờng cho ngƣời mù Tp. Nữu Ƣớc, nhƣng bà cứ tiếp tục sáng tác và
xuất bản những tác phẩm của mình dƣới tên phụ nữ rất nổi tiếng của bà. Bà và ông
là tín hữu Hội thánh Giám lý ở Đại Lộ thứ 13 – Nữu Ƣớc. Mãi đến năm 44 tuổi,
Crosby mới bắt đầu viết lời cho Thánh ca. Năm 1864, Crosby gặp W.B. Bradbury,
nhà soạn nhạc nổi tiếng, ngƣời đề nghị bà hãy viết Thánh ca. Chẳng bao lâu,
Crosby khám phá ra chức vụ thật của đời sống mình và bà trở thành “ngƣời hạnh
phúc nhất trên trái đất”.
Từ đó trở đi, cho đến khi bà về với Chúa, năm 1915 (95t) Crosby tuôn đổ lòng
mình vào những bài hát chinh phục ngƣời khác về với Đấng Christ.
Bà đã sáng tác gần 8.000 bài thơ trong suốt cuộc đời. Thƣờng thì những lời bài
hát đến với bà thật nhanh. Một buổi chiều mùa hè năm 1868, William H.Doane
một thƣơng gia tài giỏi và là một tín hữu Cơ Đốc, ngƣời sáng tác nhạc để tiêu
khiển, đến gõ cửa nhà Crosby. Khi cửa mở, ông lao vào và nói :
– Bà Fanny, tôi có đúng 40 phút trƣớc khi rời đây đến Cincinati. Tháng tới có
một hội nghị trƣờng Chúa nhật lớn rộng, cả tiểu bang ở Cincinati. Thêm vào những
đoàn đại biểu đông đúc của ngƣời lớn, còn có nhiều thanh thiếu niên đến dự nữa.
Tôi muốn có một bài TC mà tôi có thể giới thiệu lần đầu tiên ở Hội nghị này để
nắm lấy những trái tim và trí tƣởng tƣợng của các thanh thiếu niên.
Fanny mỉm cƣời, ngƣớc nhìn ông với đôi mắt mù của mình và nói :
– Ông đã viết nhạc rồi phải không ?
– Làm sao bà biết đƣợc ?
– Trực giác của phụ nữ.
– Vì bà đã biết, bà cũng nên nghe. Hãy lắng nghe cẩn thận, vì chuyến xe lửa
của tôi sẽ chạy trong vòng 35 phút nữa, và tôi muốn đem bài TC mới đó khi tôi đi.
Quay sang cây đàn dƣơng cầm, ông ngồi xuống và đàn giai điệu mới của mình
cách thật cảm động. Khi ông đàn xong, Crosby nói:
– Có một câu luôn reo vang trong tâm trí tôi cả ngày: “Ở bên dƣới là cánh tay
muôn đời.”
– Còn bài Thánh ca thì sao ?
– Bài Thánh ca ở ngay trong câu ấy, ông William ạ! Khúc nhạc của ông nói
rằng “Rất yên ninh trong cánh Christ.” Còn điều gì thích hợp hơn cho các cô cậu ở
hội nghị thanh thiếu niên nữa ?
Ông Doane xem đồng hồ nói có vẻ hơi mất kiên nhẫn :
– Chỉ còn 30 phút nữa thôi.
– Ông sẽ có bài Thánh ca của mình.
Crosby đi lại bàn, lấy ra một mảnh giấy, tìm cây bút rồi ngồi xuống bắt đầu
viết. Sau khi viết ra nhiều vần thơ, Crosby yêu cầu ông Doane đàn lại vài lần bài
Thánh ca của ông. Trong lúc ông đàn, Crosby tiếp tục viết. Khi đã xong, Crosby
xếp tấm giấy lại, bỏ trong một bì thơ và trao cho ông :
– Bài hát đây, William. Ông có thể đọc trên xe lửa. Thôi, nhanh lên, ông không
muốn trễ mà.
Ông Doane cám ơn, chào tạm biệt, chộp lấy mũ và phóng ra chiếc xe ngựa
đang chờ ông trƣớc nhà. Trên chuyến tàu đến Cincinati, ông mở bao thƣ, lấy mảnh
giấy ra và đọc những gì Crosby đã viết cho khúc nhạc của ông. Khổ thơ đầu tiên và
điệp khúc là :
Rất an ninh trong cánh Christ, êm bấy trên ngực Ngài nay. Bóng yêu thƣơng
Ngài bao phủ kín. Ắt tâm linh an lạc thay.
Kìa Thiên Sứ hoan ca thi thánh. Reo trong tôi điệu nhạc hay.
Trong quang cảnh Thiên Quốc hiển vinh. Tại bên biển sáng ngời đây.
Đk : Rất an ninh trong cánh Christ. Êm bấy trên ngực Ngài nay bóng yêu
thƣơng Ngài bao phủ kín. Ắt tâm linh an lạc thay.
Nhiều trong số những bài hát của Fanny Crosby đƣợc sáng tác theo lối ngƣợc.
Thay vì viết một bài thơ để cho ngƣời khác phổ nhạc, bà lại viết hẳn một vài khổ
thơ của mình để đặt vào những giai điệu của ngƣời khác.
Nhiều lời có hàm ý thật cảm động, nói đến sự mù lòa của Crosby, đã đƣợc bắt
gặp trong các bài hát của bà. Bài “Chúa dẫn đƣa đời tôi” (TC 272) nói lên một
cánh tay dẫn dắt mạnh mẽ có ý nghĩa thế nào đối với ngƣời mù. Khi đọc những bài
thơ của Crosby trong quyển Thánh ca của mình, bạn có thể tìm thấy những lời hàm
ý nghĩa thế nào đối với ngƣời mù khác về nỗi hoạn nạn của bà cũng nhƣ cách bà
nhìn đến Chúa để tìm sự giúp đỡ không ?
Năm 1869, Crosby thăm những khu nhà ổ chuột ở Tp. Nữu Ƣớc. Dù không thể
nhìn thấy song bà có thể cảm nhận đƣợc cảnh khốn khổ của cuộc sống tại đó. Hãy
cứu lấy ngƣời đang chết mất (Rescue the Perishing) là bài Thánh ca bà viết nhƣ
một lời kêu gọi khắp nƣớc Hoa Kỳ, Anh và những xứ xa hơn nữa.
Bạn sẽ thích thú nếu nhƣ bạn thử tìm xem mình đã biết đƣợc bao nhiêu bài của
Crosby. Trong số những bài hát nổi tiếng “Xin đừng qua khỏi con, hỡi Chúa nhu
mì” (TC 256) (Pass me not, o gentle Saviour) “Giê Xu đang êm dịu gọi tôi về”
(Jesus is tenderly calling me home), “Nầy là truyện ký tôi” (TC 269) (Blessed
Assurance, Jesus is mine),...
Không có một ai có thể đạt đƣợc sự toàn thiện trong thể chất hay tinh thần.
Nhƣng mỗi chúng ta đều có thể cố gắng phát triển một đặc điểm của mình, và giúp
đỡ ngƣời khác, nhƣ Fanny Crosby đã làm. Bởi tâm tính nhiệt thành, dũng cảm và
lòng tin trong Chúa Giê Xu mà cô bé mù này, ngƣời sẽ không “khóc hay thở dài
bởi vì tôi vẫn mù” đã cảm thúc hàng triệu ngƣời đến một đời sống hạnh phúc và
hữu dụng. Những bài thánh ca khác mà chúng ta rất thƣờng hay tôn vinh Chúa do
bà sáng tác đó là các bài thánh ca: “Lo vực ngƣời đang luân vong” số 323. “Có Giê
Xu phần tôi thoả rồi” số 212, “Gần thập tự” số 193, “Dầu ác khiên đỏ nhƣ đơn
hồng” số 176, “Chúa ơi! Xin dừng chơn lại gần tôi” số 256, “Chỗ kẻ đá vững an”
số 267.v.v...
Thánh ca 336: GIỜ DANH SÁCH TUYÊN ĐỌC
“When the roll is called up yonder”
“Thời gian sẽ chấm dứt lúc tiếng loa rao tin Chúa lai lâm từ trời. Bình minh sẽ
chiếu ánh mãi mãi sáng choang đẹp tƣơi, mọi dân đắc-cứu dƣới đất, lúc bay lên vui
nhóm bên kia bờ rồi. Giờ danh sách khởi xƣớng mừng nghe Giê Xu gọi tôi. Giờ
danh sách tuyên đọc, vui quá vui! Khi danh sách tuyên đọc, vui quá vui! Giøờ danh
sách xƣớng lên thật mừng vui! Lúc danh sách khởi xƣớng, mừng nghe Giê Xu gọi
tôi.”
J.M.Black là Trƣởng đoàn thanh niên. Một hôm anh bắt gặp một cô bé nghèo
khổ, đáng thƣơng khoảng 15 tuổi. Cha cô là bợm nhậu, gia đình chẳng có niềm vui.
Anh mời cô đến dự nhóm với đoàn thanh niên.
Một thời gian sau, theo lệ thƣờng, phải điểm danh trƣớc khi nhóm, khi đọc tên
cô gái thì không có tiếng trả lời, cô không đến nhóm. Anh nói, điều đáng tiếc nhất
là khi chiên con tuyên đọc danh sách, tôi không có tên trong đó. Sau đó, anh cầu
nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con có tên con trong danh sách của Ngài.”
Anh muốn tìm một bài hát có tâm tình nhƣ vậy, nhƣng trong Thánh ca chƣa có.
Trên đƣờng về nhà, anh ƣớc ao sáng tác một bài Thánh ca nói lên ý nghĩa trên,
nhƣng biết rằng mình không đủ khả năng. Khi về đến nhà, vợ anh thấy anh ƣu sầu
nên hỏi han, anh chẳng trả lời. Nửa giờ sau, anh sáng tác đƣợc 3 lời thơ, rồi anh
đến cây dƣơng cầm để soạn nhạc. Thế là từ buổi tối hôm ấy, âm điệu của bài
Thánh ca phổ biến nhƣ chúng ta hát ngày nay.
Thánh ca 342: TA SẼ CHUNG NHÓM Ở THIÊN HÀ
“Shall we gather at the river"
“ Phải chăng sau này họp trên sông vàng, nơi muôn thiên sứ hay lai vãng; Sông
kia tuôn dòng lƣu ly muôn đời, lƣu ra từ ngôi Đức Chúa Trời. Vâng, ta sẽ chung
nhóm ở Thiên hà, là sông đẹp xinh, đẹp xinh không thể thuật ra; Sông đây nơi họp
của Thánh dân muôn đời, sông tràn từ ngôi Đức Chúa Trời.”
Tác giả của bài thánh ca chứng kiến cái chết của nhiều ngƣời trong một cơn
dịch bệnh, những ngƣời mất vợ, những kẻ mất chồng, những đứa con mất cha mẹ,
những cha mẹ mất con cái.v.v... Thảm cảnh thê lƣơng này nếu không có gì an ủi
hoặc nhắc nhở về một nơi sum họp tƣơng lai chắc sẽ còn làm cho nhiều ngƣời kéo
dài cuộc sống đau thƣơng khốn khổ hơn nữa. Trong bối cảnh này lời Chúa đã cảm
động và nhắc nhở Mục sƣ Lowry phải đem lại sự an ủi cho mọi ngƣời. Mặc dù MS
Robert Lowry nói rằng : Tôi thích giảng một bài giảng hơn là viết một bài Thánh
ca song ông cứ đƣợc nhắc đến qua những bài hát hơn là những bài giảng của ông.
Thực tế là nếu không bởi những bài Thánh ca của ông thì tên ông khó đƣợc nhớ
đến dầu ông chẳng có một sự học hỏi âm nhạc chính qui nào cho đến sau sinh nhật
thứ 40. Có thể thật không bình thƣờng để chờ mong một giáo sƣ đại học sáng tác
một bài hát đƣợc công chúng ƣa thích. Nhƣng Lowry, giáo sƣ khoa hùng biện đại
học đƣờng Buckneil đã viết lời và nhạc của một bài hát gây đổ nƣớc mắt nhất trong
thời đó có tựa là “Đứa con vắng mặt”. Bài hát đƣợc biết cách gần gũi hơn bởi dòng
thứ nhất: “Đứa con lang thang của tôi ở đâu đêm nay ?” Không còn nghi ngờ gì
nữa bài hát đã nảy sinh bởi chỉ một câu hỏi của một tín đồ khi ông đi thăm viếng
từng gia đình trong Hội Thánh mình.
Khi đƣợc hỏi ông đã sáng tác các bài hát của mình nhƣ thế nào, vị tu sĩ Baptit
này trả lời: “Tôi xem xét tâm trạng của mình và khi có bất cứ điều gì đó đập vào
tâm trí tôi thì bất kể tôi đang ở đâu, tôi ghi nhanh ra giấy, không kể lời hay nhạc,
thƣờng thì bên lề của một tờ báo hay mặt sau của một bì thƣ. Thông thƣờng lời và
nhạc đƣợc viết cùng một lúc”.
Lowry đã có một đóng góp hiển nhiên vào âm nhạc Trƣờng Chúa nhật khi ông
sử dụng tốt phần điệp khúc. Ông nhận thấy rằng phần này cần thiết không chỉ để
hoàn tất ý nghĩa của các khổ thơ, song cũng giúp các em nhỏ, vốn chƣa biết chữ,
có thể hát chung với ngƣời lớn. Ông dạy phần điệp khúc cho lũ trẻ và khuyến
khích chúng hát với ngƣời lớn sau mỗi phiên khúc.
Sau những năm hầu việc Chúa tại các HT Baptit ở West Chester, Pennsylvania
và TP Nữu Ƣớc, ông đến Brooklyn (Nữu Ƣớc) làm ngƣời chăn bầy cho HT Baptit
ở đó. Mùa hè năm 1864, thời tiết oi bức và ẩm ƣớt lạ thƣờng. Trong những ngày
nóng bức cực độ này, một tấn kịch bắt đầu quét ra trong các đƣờng phố, ngõ hẻm
của đô thị đông nghịch ngƣời ấy. Hết ngƣời này đến ngƣời kia ngã xuống và cơn
dịch thay vì giảm bớt, lại có vẻ nổi thịnh nộ, số bệnh nhân ngày càng tăng lên làm
hàng trăm ngƣời chết, nhiều ngƣời đang nằm chờ chết. Robert Lowry tận tuỵ đi
thăm từ nhà này sang nhà khác, ủy lạo ngƣời bệnh, an ủi ngƣời có tang. “Thƣa
Mục sƣ, chúng tôi đã chia tay nhau ở tử hà, liệu chúng tôi có gặp nhau ở sinh hà
không ?” Ngƣời ta cứ hỏi mãi ông câu ấy. Ông an ủi họ :”Gia đình này tan vỡ thì
sẽ lại toàn vẹn ở dòng sông của sự sống chảy bên ngai ĐCT. Theo ý Khải 22 : 1
“Thiên sứ chỉ cho tôi xem sông nƣớc sự sống, trong nhƣ lƣu ly, từ ngôi ĐCT và
Chiên con chảy ra”. Ông nhắc đi nhắc lại lời hứa này với hàng trăm gia đình. Khi
hết nhà này đến nhà kia trong sự tang chế, khi bạn bè và ngƣời thân nằm xuống
hàng loạt.
Vào lúc xế trƣa một ngày nọ, cái nóng tàn bạo hơn mọi ngày, số ngƣời chết
tăng thêm nhiều hơn, vị Mục sƣ mệt mỏi đi vào phòng khách. Ông ngồi vào cây
organ nhỏ bé của mình, cố tìm sự xoa dịu, giải thóat trong âm nhạc, và cũng để tìm
lối thoát cho những cảm xúc bị đè nén trong lòng ông. Ông nghĩ về những đứa trẻ,
“Những Thiên sứ quí báu của ĐCT, đã không chịu nổi sự tàn hại của trận dịch, và
về những ngƣời đã ra đi trƣớc. Đột nhiên, lời và nhạc của một bài hát mới bắt đầu
tuôn ra nhƣ thể bởi cảm hứng vậy. Chẳng mấy chốc ông cất tiếng hát :
“Phải chăng sau này họp trên sông vàng.... từ ngôi ĐCT”
Năm sau, 1865 bài hát đƣợc in trong tập : “Những giọng hát hân hoan.” với tựa
đề: “Gặp nhau trong đời sau”. Từ đó, bài hát ấy đƣợc in trong những quyển Thánh
ca và là bài hát của nhiều giáo phái.
Khi William Bradbury mất, Tấn sĩ Lowry đƣợc Cty Bigelow và Marn chọn kế
tục, và trong điều kiện ấy, ông cho in rất nhiều quyển bài hát trƣờng chúa nhật.
Dù đã bị sử dụng cách sai lầm bởi một vài giáo phái, hay bị đã kích, phê bình
sai lầm bởi những nhóm khác, hoặc là đầu đề cho rất nhiều trò cƣời nhạo thô thiển
của vài diễn giả công cộng, bài Thánh ca “Ta sẽ chung nhóm ở Thiên Hà” vẫn còn
an ủi nhiều tấm lòng tan vỡ và làm mạnh mẽ những tấm lòng phiền muộn, với lời
bảo đảm về sự tái ngộ sẽ đến với những ngƣời thân yêu, những ngƣời mà “chúng ta
đã yêu trong một thời gian dài và mất đi trong thời gian ngắn”.
Thánh ca 344: MIỀN VINH HIỂN
“The sweet by and by"
“Miền vinh hiển kia rạng soi hơn ô vàng, nhờ lòng tin ta trông thấy cảnh hiển
vinh; Vì Cha ở bên kia mong ta trọn đàng, Ngài đang sắm cho phần ta nơi đẹp
xinh. Trong chốn ấy rất êm dịu, bờ bên đó thoả mãn bấy ta gặp nhau. Trong chốn
ấy rất êm dịu, bên bờ đẹp nơi chúng ta mong gặp nhau.”
Có những bài thánh ca đƣợc soạn trong nơi thanh vắng với lòng suy tƣ, trầm
lắng. Nhƣng cũng có lúc Thánh Linh Chúa ban cho một bài thánh ca đƣợc sáng tác
trong một hoàn cảnh hết sức lạ lùng nhƣ một phƣơng thuốc để chửa trị lòng ngƣời,
bản thánh ca này đƣợc sáng tác và soạn nhạc trong một hiệu thuốc tây. Bài hát đã
ra đời vì dƣợc sĩ Samuel Fillmore Bennett, 31 tuổi đã kê một toa thuốc đúng lúc.
Ông là một ngƣời thuộc hạt Eric, Nữu Ƣớc, Bennett cùng gia đình chuyển đến
Elkhon, Wisconcil vào giữa thế kỷ 19, nơi ông lớn lên và trở thành chủ bút một tờ
báo tỉnh nhỏ, tờ Độc Lập. Khi cuộc nội chiến nổ ra, ông gia nhập quân đội và trực
thuộc đơn vị tình nguyện Wisconcil thứ 40, và ở trong quân ngũ cho đến khi cuộc
chiến chấm dứt vào năm 1865. Trở về Elkhon, ông mở một hiệu thuốc lúc đó còn
gọi là cửa hàng bào chế và bán dƣợc phẩm, dƣợc cụ.
Trong vòng bạn bè Bennett có Joseph P.Webster, một nhạc sĩ địa phƣơng có
tài ngƣời vừa mới đi một vòng các tiểu bang Miền Bắc với ban tứ tấu do chính ông
thành lập. Suốt hai năm sau đó, hai ngƣời đã hợp tác với nhau rất nhiều, Bennet
viết lời bài hát, còn Webster, vốn là một nhạc sĩ violon tài năng, soạn nhạc.
Một buổi sáng cuối mùa thu năm 1867, một phụ nữ bƣớc vào hiệu thuốc và nói
với ông chủ:
– Ông Bennett này, cách đây mấy phút tôi gặp bạn ông, ông Joseph Webster.
Ông ta có vẻ nhƣ vừa mất một ngƣời bạn tốt nhất của ông ta vậy đó, có chuyện gì
thế ?
– Ông bà biết mấy ông nhạc sĩ thế nào mà, nay thì nóng, mai thì lạnh. Nhƣng
nếu bà muốn biết làm sao để chữa trị ông ta thì tôi sẽ kê cho bà một toa thuốc chƣa
bao giờ thất bại.
– Toa thuốc ấy viết bằng tiếng La Tinh?
– Không, toa thuốc ấy viết bằng tiếng Anh đơn giản mà chúng tôi dùng hằng
ngày. Bà biết đó, tôi và Joe đã bỏ công sức cho quyển bài hát mới của chúng tôi
trong gần hai năm nay. Ông ấy viết nhạc cho những bài thơ của tôi. Cứ lần nào ông
ta đến đây mà trông có vẻ buồn bã u sầu và chán nản, tôi để ông ta một mình trong
chốc lát, nếu ông ta không bứt mình ra khỏi tình trạng ấy thì tôi sẽ vực ông ta ra
bằng cách viết một bài thơ mới cho ông ta phổ nhạc. Đó là toa thuốc đặc biệt của
tôi. Khi ông ta bắt đầu nghĩ về một điệu nhạc mới thì ông ta quên mất những nỗi lo
lắng phiền muộn của mình và trở nên thƣ thái trong nháy mắt.
Nghe vậy, bà khách cƣời, lắc đầu, cầm lấy túi đồ của mình ra về. Một chút sau
đó, Webster đi vào hiệu thuốc, chẳng nói chẳng rằng, cũng chẳng liếc chào mà đi
ngay đến lò sƣởi. Chờ đợi ít phút, Bennett nói :
– Chào Joesph. Khi bạn chẳng trả lời ông nói thêm.
– Sớm muộn gì ông cũng nói, vậy nên nói hết những gì trong lòng ông ngay
bây giờ đi. Chuyện gì đã xảy ra vậy ông bạn ?
Webster bắt đầu đổ ra tất cả những nỗi nhức nhối, đau đớn, chán nản, thất bại
chồng chất, trong khi Bennett yên lặng lắng nghe. Cuối cùng ông kết thúc bằng câu
:”Thôi, tôi nghĩ chẳng ích lợi gì để mà cứ nóng nảy nhƣ vậy. Rồi đây mọi điều sẽ
tốt đẹp trong miền vinh hiển”.
– Cái gì ? Anh vừa nói gì đó hở Joe ?
– Tôi vừa nói rằng rồi đây mọi điều sẽ tốt đẹp trong miền vinh hiển. Bỏ ngƣời
bạn ngồi bên lò sƣởi, nhà dƣợc sĩ đi đến bàn mình, cầm lên một tờ giấy và bắt đầu
viết. Hai khách hàng bƣớc vào tiệm, nhƣng vị chủ nhân từ chối phục vụ họ cho đến
khi ông hoàn tất công việc đang làm. Vì thế họ đƣợc Webster tiếp chuyện. Khi một
khách hàng nói với bạn mình rằng : Ông Webster trông giống nhƣ vừa rơi vào
đống rác vậy. Vị nhạc sĩ trả lời :”Xin các ông khỏi lo cho tôi. Tôi vừa mới bảo với
Sam rằng rồi đây mọi sự sẽ tốt đẹp trong miền vinh hiển”.
Bennett đứng lên, rời bàn đi lấy viết và mực ở quầy gần bên rồi tiếp tục viết.
Vài phút sau, ông đƣa tờ giấy cho Webster và nói:
– Đây là đơn thuốc của anh, anh Joe. Tôi hy vọng nó sẽ hiệu nghiệm nhƣ trong
quá khứ vậy.
Wesbter liếc nhìn tờ giấy và đọc to những gì bạn ông đã viết :
“Miền vinh hiển kia rạng soi hơn ô vàng ... mong gặp nhau”.
Cầm cây violon lên, Wesbter bắt đầu phổ ngay một giai điệu đơn giản cho mấy
khổ thơ mới. Trong chốc lát, ông đã ngâm nga điệu “điệp khúc”.
Wesbter nói : – Đƣa cho tôi tờ giấy, để tôi có thể ghi nhanh những nốt nhạc.
Ông dạo qua điệu hát 2, 3 lần rồi nói với bạn và những ngƣời khách : – Chúng
ta họp thành ban tứ ca nhé ! Hãy cùng hát bài này xem thử thế nào.
Khi họ đang hát bài “Miền vinh hiển” lần đầu tiên thì R.R. Crosby, chú của bà
Bennett bƣớc vào. Sau khi họ hát xong lời hai, ông nói :
– Thƣa các ông, bài hát hay quá. Khi đang băng qua đƣờng, tôi nghe thấy tiếng
hát và không thể không bƣớc vào để lắng nghe.
Vài ngày sau, bài hát đƣợc giới thiệu với công chúng : trong vòng hai tuần lễ,
bài hát mà hai vị dƣợc sĩ và nhạc sĩ đã sáng tác mất không đầy nửa giờ đã đƣợc các
Thanh niên ở Elkhon hát. Đƣợc in trong quyển “The Signet Ring”, Hội ấn chứng,
của Wesbter và Bennett vào năm 1868. Bài hát này trở thành bài hát phổ biến nhất
và thành công nhất mà hai ông đã từng sáng tác. Nguyên thủy, bài miền vinh hiển
chỉ đƣợc viết trên một tờ giấy khổ 5×7 inch (13×18) nhƣng bài hát ấy đã đủ tầm
vóc để đi vào lòng của tín hữu Cơ Đốc trên toàn thế giới.
Thánh ca 355: QUYẾT RAO TIN LÀNH
“To the regions beyond”
“Giờ đây tôi quyết đi đến chốn xa xăm mịt mù, là nơi chƣa truyền danh Giê
Xu. Nguyền lấy cổ tích hay truyền cho kẻ chƣa am tƣờng Tin lành đạo ân điển,
nguồn yêu thƣơng. Nầy tôi quyết rao Tin Lành, miền xa xăm, vùng hẻo lánh. Để
muôn dân, nhận cứu ân, nhờ chân Chúa, chuộc hồn thân.”
Bài thánh ca này do Mục sƣ A.B. Simpson sáng tác bài thơ năm 1885, sau đó
con gái ông là Margaret Simpson đã phổ nhạc.
Sau khi tốt nghiệp Đại học, tiến sĩ A.B.Simpson sinh năm 1843, lần lƣợt phục
vụ qua nhiều Hội thánh. Trải qua nhiều thử nghiệm, ông cảm thấy cần phải học tập
đời sống đức tin. Về sau, đƣợc Chúa Khải thị, ông cảm nhận rằng trên khắp thế
giới còn nhiều dân tộc chƣa có cơ hội nghe giảng Tin lành. Nhớ đến sứ mạng Chúa
giao trong Mat 28 : 19 – 20 lòng ông cảm thấy bất an. Sau đó ông quyết định từ
chức ở một Nhà thờ lớn tại New – York, Hoa Kỳ. Năm 1887, ông sáng lập Hội
truyền Giáo Phúc âm Liên Hiệp, theo tôn chỉ đem Tin Lành đến những nơi chƣa
đƣợc nghe giảng Tin Lành. Sau đó, ông sáng lập Thần học viện, đào tạo nhiều giáo
sĩ đi ra truyền Tin Lành ở những nơi xa xôi. Ông cũng sáng lập một nguyệt san
thuộc linh, ra hàng tuần. ÔÂng cũng viết nhiều sách thuộc linh.
Phần điệp khúc : “Miền xa xăm tôi quyết rao Tin Lành”, thể hiện tâm tƣ sâu
sắc của ông. Nhiều ngƣời hát bài Thánh ca này, hết lòng dâng hiến cho việc rao
truyền Tin Lành. Đây là mục đích ông cầu xin Chúa từ đầu, và Chúa đã làm trọn.
Thánh ca 364: GIÉ XU HẰNG YÊU MẾN TÔI
"Jesus loves me"
“Hằng ngày lòng nầy thật mừng vì Cha minh chánh, ơn yêu thƣơng cao sâu
Ngài sách thánh ghi tƣờng; Mọi điều lạ lùng từng tìm đƣợc trong Kinh Thánh, duy
Giê Xu yêu tôi là quí báu phi thƣờng. Giê Xu yêu tôi, Chúa mến tôi trọn đời, Ngài
đầy lòng yêu, Ngài yêu tôi mãi: Giê Xu yêu tôi, khiến tôi vui mừng hoài, Giê Xu
hằng yêu mến tôi.”
Đây là bài hát mà Philip Bliss đã sáng tác trong năm 1870. Một lần trong buổi
nhóm phấn hƣng, cả hội chúng cất tiếng hát lớn : “Chúng tôi thật yêu mến Giê Xu”
và hát đi hát lại nhiều lần. Trong lúc nghe hát, Philip Bliss nảy sinh trong lòng một
suy nghĩ : “Ôi ! thật vô ích nếu chỉ nói chúng ta yêu Giê Xu mà không nói tại sao
chúng ta yêu Ngài. Chính Ngài đã yêu chúng ta bằng tình yêu tuyệt vời của Ngài”.
Thế là ông cầm bút viết bài Thánh ca “Giê Xu hằng yêu mến tôi”. Lời ca thân
thuộc nhƣ in sâu trong lòng chúng ta từ khi còn nhỏ bé, êm ái nhƣ tiếng mẹ ru từ
những năm tháng xa xôi trong quá khứ. Chính lời ca ấy đã đƣa chúng ta vào đời,
trƣởng thành trong tình yêu Thiên Chúa. Có tình yêu nào sánh đƣợc tình yêu Giê
Xu đã hy sinh chính mạng sống mình, chịu nhục hình trên thập tự vì tội lỗi của tất
cả mọi ngƣời. Bằng tình yêu tuyệt vời Chúa đã thể hiện một lần trọn vẹn là sự chết
của chính Ngài.
Đƣờng đời nguy nan, có Chúa luôn bên mình, yêu thƣơng tôi dù bao phen tôi
bội bạc cách xa chân Chúa. Tai văng vẳng lời yêu dấu : “Hỡi con ! Ta yêu con
bằng tình yêu muôn đời chẳng phai”.
Ôi ! Kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa ! Lòng tôi hát khúc hoan ca chẳng thôi
vì Giê Xu hằng yêu mến tôi.
Thánh ca 383: HIẾN CẢ THẢY CHO NGÀI
“I surrender all"
“Xin dâng hết thảy cho Giê Xu, tôi tình nguyện hiến chính thân thể này; Luôn
yêu mến trông mong nơi Chúa thôi, hằng ngày sống dƣới ân điển Ngài. Hiến cả
thảy cho Ngài, hiến cả thảy cho Ngài, lạy Giê Xu, tôi hiến cả thảy đây, hiến cả thảy
cho Ngài.” Tác giả bài thơ là ông J.W.Wan Deventer, là một mỹ thuật gia, từng bỏ
nhiều thời gian và tiền của để chuyên tu mỹ thuật. Sau khi tốt nghiệp Đại học ông
giữ chức Giáo Sƣ mỹ thuật. Một hôm ông đi dự một buổi nhóm phấn hƣng, tại đó
ông bằng lòng dâng mình cho Chúa. Lúc đầu, ông làm chứng vì nghĩa vụ, nhƣng
Chúa trọng dụng ông, nhiều ngƣời tin Chúa qua lời làm chứng của ông. Sau đó,
các lãnh tụ Hội thánh khuyên ông dành tất cả cho Chúa sử dụng. Lòng ông có sự
tranh chiến, vì ông yêu ngành mỹ thuật. Thời gian này kéo dài 5 năm. Một hôm
đƣợc Thánh Linh cảm động, ông chịu đầu phục Chúa, từ bỏ chức vụ Giáo sƣ mỹ
thuật, dâng hiến đời mình, ông đƣợc Thánh Linh ban cho ân tứ về âm nhạc. Ông
viết lời và nhạc các bài Thánh ca. Trong lúc ông tổ chức truyền giảng, Chúa ban
cho ông bài thơ “Hiến cả thảy cho Ngài” để kỷ niệm việc ông dâng đời mình cho
Chúa.
Một ngƣời thật sự kính yêu Chúa mới có thể bày tỏ kinh nghiệm theo Chúa.
Ngƣợc lại, nếu không có lòng dâng hiến triệt để, ngƣời ấy không thể có đƣợc sự
bình an thật và các phƣớc hạnh ngọt ngào.
Ngƣời soạn nhạc bài Thánh ca này là ông Weeden, bạn của ông Deventer. Hai
ông thƣờng cùng nhau tổ chức và chủ trì các buổi truyền giảng. Một ngƣời giảng,
một ngƣời lo âm nhạc. Một bài Thánh ca do Thánh Linh cảm động viết nên, giúp
ích cho chính mình lẫn nhiều ngƣời khác. Chúng ta biết rằng một bài Thánh ca có
hiệu quả lớn, chẳng bởi ý riêng của một ngƣời viết nên mà là có Thánh Linh cùng
làm việc, để ngƣời ấy viết ra những kinh nghiệm sống động. Ƣớc gì sự dâng hiến
của chúng ta cũng hết lòng nhƣ tác giả.
THẬP TỰ XƯA
"The old rugged cross"
“Thập tự xƣa sừng sững cao, dựng tận trên sƣờn núi xa, nhƣ tiêu biểu cho
muôn sầu khổ sỉ nhục. Lòng tôi yêu thập giá xƣa, nơi vua vinh diệu chí cao, thay
nhân thế hƣ hoại chết cách đau thƣơng. Lòng tôi say mê bóng dáng thập tự xƣa.
Vui lòng đầu phục tận hiến cả cuộc đời. Lòng ôm ấp mối quyến luyến với thập tự.
Sẽ biến nên mão vinh diệu cho chính tôi.”
MS. George Bennard sinh ở vùng Young – Ohio. Cha ông mất năm ông 16
tuổi, để lại gánh nặng gia đình gồm bà mẹ và 4 em gái trên vai ngƣời thiếu niên
này. Vì thế ông không thể học hành nhƣ ý muốn trong sự chuẩn bị cho sự hầu việc
Chúa sau này. Vài năm sau, gia đình ông chuyển đến Illinois. Tại đây, ông lập gia
đình. Ông và bà đƣợc huấn luyện phục vụ một thời gian nhƣ nhân viên trong tổ
chức Cứu thế quân mà sau này kết hợp với Hội giám lý. Ông hợp tác với Hội thánh
Methodist Episcopal và trở nên nhà truyền đạo liên giáo phái. Bạn bè cổ vũ ông
phát huy tài năng của mình và họ đã làm hết sức mình để giúp đỡ ông thành đạt
việc này. Suốt trong những năm đầu của chức vụ, ông đã luôn cầu nguyện cho một
sự hiểu biết trọn vẹn về Thập tự giá và chƣơng trình của Thập tự giá trong Cơ đốc
giáo. Kết quả là ông đã dành rất nhiều thì giờ để nghiên cứu, cầu nguyện, suy gẫm
cho đến khi ông có thể nói: “Tôi đã thấy Đấng Christ của Thập tự giá nhƣ thể tôi
đang thấy. Ngài mặc lấy hình dạng con ngƣời và hành động bằng ý nghĩa của sự
cứu chuộc.” Suốt trong những ngày này, đề tài “Thập tự xƣa” đã đến với ông năm
1913, tại Abbion, Michigan. Ông kể lại rằng, chủ đề của bài hát đến với ông trƣớc,
sau đó ông soạn nhạc, và sau một cuộc thử thách đức tin qua chính đời sống mình,
ông mới sáng tác ra lời của bài hát.
Những cuộc truyền giảng ở Michigan và Nữu Ƣớc đã ngăn trở ông viết ra bài
hát ông muốn. Trên chuyến hành trình trở về Michigan, ông trãi qua một kinh
nghiệm khá gay go. Khi ông cảm nhận đƣợc ý nghĩa lời của Thánh Phaolô : Thông
công trong sự thƣơng khó của Đấng Christ.
Những cảm xúc cá nhân cùng với những thành công trong kỳ giảng phục hƣng
đã khiến ông có thể đạt đến chỗ tập trung hơn bao giờ hết. Cuối cùng, bài hát đƣợc
hoàn tất tại tƣ thất Hội thánh Giám lý ở Pokdagon, Michigan. Lúc ấy, một loạt
những buổi thờ phƣợng ở Hội thánh Pokdagon cũng đƣợc xếp đặt. Ông cầm lấy
cây ghi ta thân yêu của mình và nhờ ông bà chủ nhà, Mục sƣ và bà L.O.Bostwich
nghe những lời thơ khi ông đàn và hát. Trong gian bếp của tƣ thất Hội thánh, ông
bà Mục sƣ chủ nhà là những ngƣời đầu tiên thƣởng thức bài “Thập tự xƣa” do
chính tác giả trình bày. Ông hát xong và hồi hộp hỏi: “Đƣợc không ?” Mục sƣ
Boswich trả lời : “Đức Chúa Trời đã ban cho ông một bài hát bất tử. Không một
bài nào đã làm chúng tôi cảm động bằng bài hát này”. Lập tức họ xin ông quyền
xuất bản bài hát để phổ biến cho nhiều ngƣời biết. Đêm 7-6-1913, Mục sƣ Bennard
giới thiệu bài hát “Thập tự xƣa” tại một Hội thánh gần đó và xin ban hát 4 giọng đã
hát bài Thánh ca ấy từ những ghi chép bằng bút chì của ông. Thành viên của ban
hát lịch sử ấy gồm : Frank Virgil, Olive Mars, Clara Virgil, William Thaldorf và
Florence Jonen, cũng là nhạc sĩ organ đầu tiên đàn hát bài mới ấy. Hằng năm, ngày
“Thập tự xƣa” đƣợc giữ ở Hội thánh này và tên của những ngƣời hát đầu tiên cùng
ý nghĩa của sự kiện này đã đƣợc khắc trên một tảng đá to gần đó.
Ngay lập tức, bài hát trở nên phổ biến. Đƣợc giới thiệu trƣớc một Đại hội đồng
lớn ở Thần học viện Chicago, Illinois. Danh tiếng của bài hát nhanh chóng lan tràn
khắp thế giới Cơ Đốc. Tác giả gởi một bản sao đến Charles H.Gabriel, nhà soạn
nhạc Thánh, hòa âm, phối âm nổi tiếng và ông này đã giữ lại nó với lời tiên tri :
Ông sẽ nghe từ bài hát này ...
Ở khắp mọi nơi nhƣ tƣ gia, buổi nhóm, bệnh viện, nhà thờ ... bài hát đều trình
bày sứ điệp của nó. Ngay các phạm nhân trong tù cũng gọi là : “Bài Thánh ca của
tù nhân”. Ông Homer Rodeheaver, một nhà truyền đạo hay hát, một ngƣời chuyên
xuất bản Thánh ca rất nổi tiếng, đã tiếp tục lan truyền ảnh hƣởng của bài hát này tại
bất cứ nơi nào ông đặt chân tới. Cuối cùng, đài phát thanh đã sử dụng đến bài hát
và đạt đến kết quả nhƣ ta thấy ngày nay.
Thánh Phaolô đã viết : “Đức Chúa Trời cấm tôi khoe (hãnh diện) trừ ra khoe
Thập tự giá của Chúa Giê Xu Christ của chúng ta (Ga 6 : 14). Đƣợc cảm hứng bởi
lời này, John Browing sáng tác bài Thánh ca “Đời tôi lấy Thập tự làm hiển vinh”.
Từ trong bóng đêm nghèo nàn, thống khổ, với sự tự nguyện cầu của mình,
George Bennard đã hát về năng quyền của Thập tự, và càng ngày bài hát của ông
càng đƣợc thêm nhiều ngƣời biết đến.
Với năng lực tối cao của Thánh ca, để chữa lành tâm linh, để khích lệ, an ủi và
thêm sức cho lòng ngƣời bài Thập Tự xƣa chứa đựng một nhiệm vụ, một sứ điệp sẽ
còn tồn tại lâu dài.
Một cây Thập tự bằng gỗ cao 3,6m, đứng bên vệ đƣờng gần Thành phố Reed
Michigan, đã làm vinh danh nhà biên soạn. Trên cây Thập tự ấy có ghi dòng chữ
“Thập tự xƣa”. Aáy là một dấu hiệu nhắc nhở khách qua lại rằng :”Nơi đây là nhà
của tác giả Mục sƣ George Bennard”.
Những bài hát do Phaolô và Sila hát giữa đêm khuya đã gây một trận động đất
ở nhà giam, thành Philip. Bài hát George Bennard hát từ giữa đêm tối của tâm linh
ông đã gây nên một cơn chấn động thuộc linh trong vô số tấm lòng và đem không
biết bao nhiêu con ngƣời đến với Thập Tự mà ông đã hát một cách hùng hồn.
TRẦN THẾ CHẲNG PHẢI QUÊ TÔI
"This world is not my home"
“Trần thế chẳng phải quê hƣơng, chính tôi đây thân lữ hành, nhà Cha trên nơi
Thiên quốc chất chứa bao châu báu tôi. Sứ thánh hát sƣớng tƣng bừng xuống lên
trên thang chờ mong. Lòng tôi còn gì vƣơng vấn dƣới thế gian ô dơ này. Chúa biết
tỏ tƣờng thiết hữu tôi ai ngoài Ngài. Hồn tôi nơi nao nƣơng náu nếu chẳng mong
lên nƣớc Cha. Quyết chí bƣớc tới theo Ngài mỗi khi đi lên càng cao. Lòng tôi còn
gì vƣơng vấn với thế gian ô dơ này.”
Albert E.Brumley là ngƣời da đen, Phi Châu. Dân tộc ông chịu nhiều đau khổ,
đói khát, bị bán làm nô lệ, bị đánh đập. Họ nếm chịu cay đắng của trần gian.
Nhƣng Đức Chúa Trời đã soi sáng họ và thƣơng xót họ. Họ tìm đƣợc nguồn an ủi
lớn lao nơi Đức Chúa Trời. Vì thế, trong đau khổ, họ cất tiếng ngợi ca, tôn vinh
Đức Chúa Trời, cảm động nhiều ngƣời.
Trong Thánh ca chúng ta thấy đƣợc lời cầu nguyện của họ trong đau khổ. Có
vài nhà âm nhạc nói rằng : gần 100 năm nay, nhiều ngƣời da đen đã cống hiến cho
nhân loại không ít bài hát phong phú. Âm nhạc của họ có một phong cách riêng,
một phƣơng thức riêng.
LỚN BẤY DUY NGÀI
“How great thou art”
“Khi xem muôn vật do tay Chân Chúa sáng tạo chúng. Cứu Chúa của tôi!
Lòng cảm xúc bao kinh sợ. Tôi xem sao trời, tôi nghe muôn tiếng sấm rền nổ, khắp
khắp đó đây, quyền của Chúa ôi vô bờ.
Hồn ngợi khen Chúa, Cứu Chúa tôi Đức Chúa Trời. Lớn bấy duy Ngài. Quyền
bính thay Ngài. Hồn ngợi khen Chúa. Cứu Chúa tôi Đức Chúa Trời. Duy Ngài đại
năng, cao cả quyền oai.”
Theo lời kể của GEORGE BEVERLY SHEA: Trong chiến dịch truyền giảng
tại vận động trƣờng Harringay (Luân Đôn) năm 1954, bạn tôi là ông Andrew Gray
ở nhà xuất bản Pickering và Inglis trao cho tôi một truyền đạo đơn gồm 04 trang
trong đó có 1 bài ca mới. Chúng tôi nhận đƣợc nhiều sự đóng góp theo cách này,
và ban đầu tôi không xem kỹ bài này, nhƣng tôi nhận ra rằng nó có lời Anh và
Nga, và có tựa rất tôn kính mạnh mẽ : “How great thou art” (Chúa lớn bấy) Vài
tuần sau, tôi học biết bài ca mới này của S.K. Hine là kết quả của gần 7 năm hoạt
động văn chƣơng, có sự đóng góp của nhiều tác giả và dịch giả. Bài đƣợc viết
trƣớc tiên vào năm 1885 hoặc 1886 tại Thụy Điển với Mục sƣ Carl Boberg, nhà
truyền giáo danh tiếng cũng là nghị viên của Quốc hội Thụy Điển trong 15 năm.
Nguyên tựa của bài là “O great God” (ĐCT cao sâu thay) Bài dịch ra Anh văn ấn
hành năm 1925 dƣới tựa “O mighty (ĐCT quyền năng thay), nhƣng không đƣợc ƣa
thích và phổ biến lắm. “How great thou art” đến Hoa Kỳ rất là dài dòng. Bản dịch
Đức Ngữ đƣợc dịch từ nguyên bản tiếng Thụy Điển bởi Manfred von Glehn năm
1907. Năm năm sau, 1912 Mục sƣ Ivan S. Prokchanoff đƣợc biết nhƣ là Martin
Luther của nƣớc Nga mới – cho xuất bản ở Petersburg bằng tiếng bản xứ có lẽ dịch
từ bài của Glohn. Bài này đƣợc in trong tập có tựa “Cymbals”, gom góp những bài
thánh ca dịch từ nhiều thứ tiếng. Tựa của tập hát này đƣợc lấy trong Thi Thiên
150:5 (Cymbals : chập chỏa).
Năm 1922, nhiều tập hát của Prokchanoff, trong đó có Cymbals, đƣợc tập họp
thành 1 cuốn lớn là “Bài ca của Cơ đốc nhân”, đƣợc xuất bản bằng tiếng Nga ở
New York City, đƣợc ủng hộ bởi bạn của Prokchanoff. Quyển này khiến cho ông
bà giáo sĩ Stuart và Hine chú ý đến bài “How great thou art” và sử dụng để truyền
giảng rất nhiều tại Đông Ukraine (Nga). Sau nhiều năm tôn vinh bằng Nga ngữ,
ông Hine dịch 3 đoạn sang Anh ngữ. Khi đệ nhị thế chiến bùng nổ, ông bà Hine về
Anh Quốc, và đoạn thứ tƣ đƣợc thêm vào năm 1948.
Toàn bộ bài đƣợc in năm 1949 trong 1 tờ báo Tin Lành Liên Xô do ông Hine
xuất bản. Trên khắp thế giới các giáo sĩ yêu cầu cho in lại bài này và nó là một
trong những truyền đạo đơn mà chúng tôi nhận đƣợc vào năm 1954. Chúng tôi tôn
vinh bài này đầu tiên trong chiến dịch truyền giảng tại Canada năm 1955. Cliff
Barrows và ban hát lớn của ông đóng góp phần điệp khúc... Không lâu sau đó
chúng tôi dùng bài này trong “Giờ quyết định” (Hour of decision) và trong các
chiến dịch truyền giảng ở Mỹ. Ở kỳ họp tại New York năm 1957, ban hát gia nhập
với tôi để tôn vinh 95 lần. Nó đã trở thành bài nồng cốt trong mỗi tối ngợi khen
Chúa.
Đọc đoạn đầu của bài hát, chúng tôi liên tƣởng đến Thi 19:1. Carl Boberg có
lần nói cảm hứng của bài là vẻ đẹp của đồng cỏ và hồ ở Thụy Điển sau 1 cơn mƣa
rào mùa thu.
Stuart Hine cũng viết rằng bản dịch Anh ngữ của ông đƣợc thành hình sau một
cơn giông tố ở núi Carpathian trong một ngôi làng tại Tiệp Khắc, nơi ông tìm chỗ
trú qua đêm. Trong một dịp khác sau này, ông viếng thăm vùng núi Bukovine ở
Rumani, và nghe một nhóm tín đồ trẻ tuổi khởi hát với mandoline và guitar trong
cảnh đẹp đẽ của rừng núi. Bài họ hát là “How great thou art” với bản Nga ngữ của
Prokcharroff, và chính trƣờng hợp này đã cảm động Hine sáng tác đoạn 2.
Phải, ĐCT nói chuyện với chúng ta qua sự sáng tạo của Ngài, trời đất rao sự
vinh hiển của ĐCT. Nhƣng lớn hơn nữa là sự cứu rỗi dành cho chúng ta. Khôn
ngoan thay ! Yêu thƣơng thay ! Nhƣ đoạn 3 nói rằng, sự lớn lao hơn sự suy tƣởng
của tôi, “Tôi không thấu hiểu nổi”.
Ông Hine cũng nói rằng đoạn cuối đƣợc sáng tác sau đệ nhị thế chiến, khi
nhiều ngƣời chạy tị nạn từ Đông Âu sang Anh. Dầu họ tìm đƣợc an toàn và tự do,
câu hỏi thƣờng đƣợc đặt ra với họ là “Khi nào chúng ta trở về quê hƣơng”. Chỉ khi
nào chúng ta tới đƣợc quê hƣơng trên trời mới hiểu đƣợc ĐCT cao cả nhƣ thế nào.
Nhƣ Phao Lô nói : ICor 13:12 trong ngày ấy chúng ta sẽ “Hạ mình khiêm nhƣờng
tôn thờ Ngài” và tung hô “ĐCT cao cả thay !”.