Upload
conotos
View
570
Download
4
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Citation preview
1
Lê Đại Cang – Tấm gương kẻ sĩ
Trong ba ngày 8, 9, 10 tháng 1 năm 2013, tại TP Quy Nhơn sẽ diễn ra cuộc hội thảo khoa học “Lê Đại Cang – Tấm gương kẻ sĩ” do UBND tỉnh Bình Định, Viện Sử học VN, Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Văn hóa Dân tộc VN phối hợp tổ chức với sự tham gia của các vị lãnh đạo, các nhà khoa học lịch sử, trí thức văn nghệ sĩ hàng đầu thủ đô Hà Nội, TPHCM, Bình Định và các địa phương khác trong cả nước.
Lê Đại Cang (1771-1847) quê ở làng Luật Chánh, xã Phước Hiệp, tỉnh Bình Định là một danh nhân lịch sử văn võ toàn tài thời Nguyễn, dưới ba triều vua Gai Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Ông đã có những đóng góp được sử sách ghi nhận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc ở các lĩnh vực chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, để lại những dấu ấn sâu đậm ở cả ba miền đất nước, nhất là ở mảnh đất ngàn năm văn hiến Hà Nội và miền biên viễn Cực Nam đất nước, nổi tiếng là một kẻ sĩ liêm chính, cương trực, một tấm gương “tôi trung, con hiếu”.
Hội thảo này là dịp để tìm hiểu sâu sắc toàn diện về thân thế sự nghiệp danh nhân Lê Đại Cang cùng những bài học quý giá ông để lại cho hậu thế. VHNVN điện tử xin giới thiệu một số tham luân sẽ được trình bày tại hội thảo.
2
Lê Đại Cang niên biểu
(1771-1847)
Lê Đại Cang - 黎 大 綱 1 (1771-1847), tự là Thống Thiện - 統 善 , hiệu là Kỳ
Phong - 奇 峯 , biệt hiệu là Thường Chánh Thị - 常 正 氏 , người làng Luật Chánh,
xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
1771:
Sinh ra tại Huế.
1776-1786:
Ở Huế, học với cha tại gia đình.
1787:
Về quê ở Luật Chánh, Phước Hiệp, Tuy Phước, Bình Định, được học thầy
Nguyễn Tử Nghiễm, thời Tây Sơn làm quan Thị giảng, cha của Nguyễn Tử Diệu,
Thượng thư bộ Hình của triều Nguyễn, rồi thầy Đặng Đức Siêu, sau làm Thượng thư bộ
Lễ của triều Nguyễn.
1792:
Cha mẹ bệnh, nối nhau qua đời, phải dừng việc học thầy Đặng Đức Siêu, bắt đầu
nghề dạy học để kiếm sống, tiếp tục tự học cả văn và võ tại quê nhà, nổi tiếng là văn võ
song toàn.
1802 -1810:
Năm Gia Long nguyên niên, được Hữu quân Bình Tây tướng quân Quận công
Nguyễn Huỳnh Đức và Hình bộ Thượng thư Tham tri Nguyễn Hoài Quỳnh tiến cử với
triều Nguyễn Gia Long, được bổ chức Tri huyện Tuy Viễn, có thời gian bị vu là tham
tang, bị mất chức, được hậu quân Lê Chất minh oan, được phục chức.
1811:
Năm Gia Long thứ 9, theo giới thiệu của Hậu quân Lê Chất, Tổng hiệp trấn Bắc
thành, được điều ra Bắc Thành, thăng Binh bộ thiêm sự, lo việc từ chương.
1821:
1
3
Năm Minh Mạng thứ 2, sung chức Biện lý bang giao sứ sự ở công quản Gia Quất
lo việc đón tiếp sứ nhà Thanh.
1822:
Giữ chức Hiệp trấn Sơn Tây.
1823 – 1824:
Được điều về Nam làm Cai bạ Quảng Nam. Năm 1824, phụ trách huy động hơn
3000 người khơi đào sông Vĩnh Điện dài 1630 trượng, công trình thủy lợi quan trọng ở
Quảng Nam, thành công, được vua ban thưởng.
1824-1826:
Tháng 9/1824 được điều vào làm Cai bạ Vĩnh Thanh (Vĩnh Long). Tháng 5 năm
1825, sông đào Vĩnh Điện ở Quảng Nam bị sụt lở, bị vua quở trách và cách chức nhưng
cho cách lưu. Đây là lần cách lưu đầu tiên trong lịch sử. Đại Nam thực lục ghi: “Cai bạ
Vĩnh Thanh là Lê Đại Cương vì trước kia trông coi đào sông Vĩnh Điện ở Quảng Nam,
bờ sông vỡ lở bị xử tội đồ. Vua đặc cách gia ơn đổi làm án cách lưu. Bộ Lại tâu rằng án
cách lưu trước đây chưa có làm qua, xin nên truy thu hết bằng sắc từ lúc xuất thân đến
nay, rồi làm bằng cấp của đình thần phát cho giữ lấy, đợi sau được khai phục sẽ xét
phẩm trật mà cấp trả lại. Vua theo. Sau lấy đó làm lệ”.
Tháng 9 năm 1826 được vua triệu về Kinh, Tổng trấn Gia Định thành, Tả quân Lê
Văn Duyệt dâng sở tâu xin giữ lại làm Tuyên phủ sứ phủ Lạc Hóa (tức Trà Vinh ngày
nay). Vua không cho.
1826 - 1827:
Năm Minh Mạng thứ 7, tháng 11, được đưa về triều bổ Thị lang bộ Hình rồi đến
tháng 5/1827 thăng Tham tri bộ Hình. Năm Minh Mạng thứ 8, tháng 7 được vua cử làm
khâm sai ra Bắc thành xem xét xử các vụ án hình tồn đọng. Vua dụ rằng: “Bắc Thành
gần đây bị vỡ đê, bọn tào trưởng Vũ Xuân Cẩn phải đi phát chẩn, việc án để đọng, không
thể chóng làm xong được. Để đọng một ngày thì dân chịu khổ một ngày, ngươi nên thanh
lý cho chóng. Hết thảy các án kiện giao cho, cùng án mạng án cướp trong hạt, đến tháng
11 phải xét xử xong. Còn như tạp án tầm thường thì do thành xét xử, đến cuối năm phải
xong cả, khiến toà không có án để đọng, ngục không có tù giam lâu, để đáp ý trẫm cẩn
thận việc ngục thương xót việc hình”. Tháng 11, đúng thời hạn vua ra hoàn thành nhiệm
vụ, trở về kinh, được vua ban khen.
4
1828 -1830:
Tháng 9 năm 1828 được vua điều sang phụ trách quản lý nha đê chính, Trước khi
Lê Đại Cang lên đường ra Bắc, vua Minh Mạng dụ rằng : "Việc chống lụt quan hệ rất
lớn. Ngươi là người biết lẽ, trước kia việc hình ngục ở Bắc Thành, ngươi đến nơi là làm
xong ngay. Nay trách nhiệm về Đê chính càng nặng nề. Lần này đi, nên hết lòng xếp đặt để
cho nước chảy thuận dòng, cho dân càng mừng êm sóng thì công ấy chẳng nhỏ đâu". .Ông
từ kinh đô ra Bắc thành thi hành nhiệm vụ. Tháng 11/1828, trực tiếp chỉ đạo khởi công
đắp hệ thống đê công mới ở Bắc thành với công trình lớn có 18 sở, công trình nhỏ hơn
1000 sở. Tháng 12/1828 được vua ban thưởng vì công trạng trong việc đắp đê. Tháng 4
năm 1829 vì vỡ đê ở Đa Hòa, Kim Quan, bị giáng chức xuống 3 cấp. Tháng 8/1829, công
việc đăp đê ở Bắc Thành hoàn tất, các đoạn đê vỡ được gia cố vững chắc, Lê Đại Cang
được phục chức. Trong thời gian này, đã biên soạn cuốn sách thống kê hết sức công phu,
cụ thể về hệ thống đê công tư ở Bắc thành. Đại Nam thực lục viết: “Đê chính thần Lê Đại
Cương dâng sách tổng kê các đê công tư ở Bắc Thành: Đê điều các trấn Sơn Tây, Sơn
Nam, Nam Định, Bắc Ninh, Hải Dương và phủ Hoài Đức thuộc hạt thành, đoạn nào đắp
tự năm nào, đời nào, đoạn nào ở địa phận xã thôn nào, cùng dạng thức cao rộng bao
nhiêu, sổ sách không rõ, từ trước đến nay người lãnh chức Đê chính phàm có sửa đắp,
chỉ cứ theo sở tại khai báo mà giao làm, đến khi làm xong, cũng chỉ tới chỗ đê mới mà
khám biện thôi. Từ khi Lê Đại Cương chuyên coi việc đê mới đi khắp xem xét. Những chỗ
đê gần sát bờ sông, thân đê sụt nứt, chiếu lệ đại công trình mà đắp đê mới, tất cả 18 sở,
ngoài ra các đê mới cũ đắp từ đời trước và từ năm Gia Long thứ 2 trở lại, nhiều lần sửa
đắp, phàm chỗ thế nước chảy xói nên quý làm đê công, thì theo lệ tiểu công trình mà sửa
đắp, chỗ nào thế nước tầm thường nên làm đê tư thì cho dân coi giữ, chỗ nào nên bỏ thì
san đi. Đến bấy giờ cứ các đê điều cho đến cống nước ở đê, họp làm sách tổng kê để
phòng xem đến”. Tháng 6/1830, do vỡ đê ở Sơn Nam, Lê Đại Cang lại bị cách chức.
Tháng 8/1830, khắc phục tốt hậu quả vỡ đê lại được phục chức và ban thưởng. Được cữ
kiêm Hình tào Bắc thành.
1831 - 1832:
Tháng 9, được cử làm chủ khảo khoa thi hương ở trường thi Bắc thành. Trong số
hơn 20 người đỗ cử nhân ở trường thi này có Cao Bá Quát.
5
Tháng 10, được quyền giữ ấn triện Tổng trấn Bắc thành và thăng làm thự Binh bộ
Thượng thư, Đô sát viện Hữu đô ngự sử, Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên kiêm Tuần phủ Sơn
Tây, nổi tiếng là chính sự giỏi.
Tháng 11, do ra lệnh chém đầu một kẻ phóng hỏa đốt nhà người khác, bị vua phạt
1 năm bổng. Bị dân hạt Sơn Tây về kinh kiện tội tham nhũng, vua cho tra xét thấy ông
không có tội nên triệu về kinh cho yết kiến và dụ rằng: “Người làm việc nhanh, giỏi.
Trẫm đã chọn biết. Việc tiểu dân kiện, xét ra là kiện vu, thì tâm tính của ngươi đã rõ rồi.
Đại thần vì nước, nên hết sức làm việc nên làm”. Tháng 7 năm 1832, kiêm lĩnh Tổng đốc
Hà Nội - Ninh Bình.
Tháng 10/1832 được triệu về kinh và tháng 11 được giao làm Tổng đốc An Giang
– Hà Tiên, kiêm lĩnh ấn “Bảo hộ Chân Lạp quốc”. Trước khi đi nhậm chức, Minh Mạng
vời Lê Đại Cương vào ra mắt và dụ rằng: “An Giang là tỉnh mới đặt, trong thì trấn thủ, vỗ
về nước Phiên, ngoài thì khống chế nước Xiêm, sự thể rất quan trọng. Ngươi nay cai trị
đất ấy, phàm những việc quân, dân, trọng đại cùng thành trì và kho tàng đều nên hết sức
lo liệu để phu phỉ ý ta mong ngươi làm được thành công”.
1833 – 1838:
Năm Minh Mạng thứ 14, chủ trì việc xây thành mới An Giang, chấn chỉnh quân
đội, huấn luyện binh sĩ tại đây. Chủ trì khai mở đường thủy từ sông Tiền Giang ở Tân
Thành thẳng đến sông Hậu Giang ở Châu Đốc dài hơn 3000 trượng. Chiêu mộ được 10
đội quân Phiên (Chân Lạp) xin đặt tên được vua đặt tên là cơ An Biên.
Tháng 6/1833, họa phản loạn Lê Văn Khôi nổi lên, vua ra lệnh cho Lê Đại Cang
hợp sức đánh dẹp. Lê Đại Cang được vua cấp kính thiên lý cùng Trương Minh Giảng, Lê
Phúc Bảo, Phan Văn Thúy để hội quân đánh giặc. Quan quân triều đình bị hỏa công của
Lê Văn Khôi đánh trả nên thua, để Lê Văn Khôi chiếm Định Tường, An Giang, Hà Tiên.
Lê Đại Cang làm sở xin chịu tội. Vua cách chức Tổng Đốc cho làm “đới lãnh binh dũng
quân tiền hiệu lực”. Được cho tạm quyền quản lĩnh binh dõng dưới quyên, Lê Đại Cang
đã tập hợp tàn quân, tuyển thêm binh lính người Việt và người Miên xây dựng một đội
quân mạnh trên 2000 người phối hợp với viện binh triều đình phản công giặc Khôi và
quân xâm lược Xiêm, tái chiếm lại An Giang và các vùng đất đã mất, kể cả Chân Lạp.
Chỉ trong 4 tháng được thăng liên tục các chức Binh bộ Viên ngoại lang, kiêm Phó lãnh
binh, rồi Án sát sứ, Bố chính sứ kiêm Lãnh binh và thự lý Tuần phủ An Giang.
6
Tháng 3/1834, quân Xiêm lại động binh uy hiếp Chân Lạp, Lê Đại Cang tâu vua
xin đem quân đánh giữ. Sau khi chỉ huy cánh quân theo đường bộ Quang Hóa phối hợp
các cánh quân theo đường thủy do Trương Minh Giảng chỉ huy đảnh đuổi quân Xiêm ra
khỏi Cao Miên. Tháng 6/1834, được thăng Tham tri bộ Binh, Tuần phủ An Giang, được
Minh Mạng giao đưa vua Cao Miên từ Việt Nam về nước, lưu lại Nam Vang lo việc bảo
hộ Cao Miên.
Tháng 12/1834, vua Cao Miên qua đời, vâng mệnh vua lập công chúa con gái vua
Cao Miên làm quận chúa.
Năm 1835, do Cao Miên không có vua, Minh Mạng lập làm Trấn Tây thành thuộc
nước ta, ông được bổ làm Trấn Tây tham tán đại thần cùng Trương Minh Giảng giữ chức
tướng quân cùng sắp đặt việc kinh lý Cao Miên. Được vua nhiều lần ban khen đã làm tốt
chức trách điều hành Trấn Tây Thành. Tháng 7/1835, được quyền lính ấn Tổng đốc quan
phòng An Giang – Hà Tiên.
Năm 1836, năm 65 tuổi, xin vua về hưu nhưng vua Minh Mạng không cho, châu
phê “Lão đương ích tráng” và dụ gắng sức ở lại làm việc. Tiếp tục làm Tuần phủ An
Giang kiêm Trấn Tây tham tán đại thần.
1938 -1840:
Tháng hai 1838, loạn người Cao Miên nổi lên ở Hải Đông, Khai Miên, thổ binh
Cao Miên ở đây theo loạn đảng, Lê Đại Cang bị quy tội “khinh nhờn”, bị cách chức Tuần
phủ An Giang kiêm Trần Tây tham tán đại thần, phải theo quân thứ Hải Đông hiệu lực.
Trương Minh Giảng cũng bị quy tội bao che cho Lê Đại Cang, bị khiển trách. Tại đạo Trà
Gi, quân thứ Hải Đông, Lê Đại Cang đã đứng ra huấn luyện binh đội ở đây từ yếu thành
mạnh, có sức chiến đấu cao rồi đem quân kéo tới hợp với binh triều của Trương Minh
Giảng, Dương Văn Phong đánh dẹp loạn đảng và giặc Xiêm. Giảng và Phong đem việc
ấy tâu vua Minh Mạng mong vua cho Lê Đại Cang đoái công chuộc tội, nhưng vua không
bằng lòng, còn truyền rằng: “Đại Cang bị cách hiệu, sao dám tự tôn mình là đại tướng,
chẳng sợ phép nước, chẳng kiêng công luận. Vậy Đại Cang phải tội trảm giam hậu,
Trương Minh Giảng giáng xuống làm Binh bộ thượng thư, còn Dương Văn Phong giáng
3 cấp”.
Bị đưa về triều giam ít lâu rồi bị phát đi ở đồn điền ở Nguyên Thượng.
1841 -1842:
7
Năm Thiệu Trị thứ nhất, 1841, tháng 7, được vua Thiệu Trị phục chức Viên ngoại
lang, khâm sai Bắc kỳ biện lý bang giao sứ vụ lo việc bang giao với Trung Quốc. Tháng
10 cùng năm được giao nhiệm vụ làm khâm sai mang cờ biển đi đến các nơi hành cung,
sứ quán ở Hà Nội, Bắc Ninh, Lạng Sơn xem xét công việc chuẩn bị cho việc thụ phong
của vua Thiệu Trị. Hoàn thành tốt việc đó, tháng 12, được thăng thự Bố chánh sứ Hà Nội.
Sau hơn 1 năm làm Thự Bố chánh sứ Hà Nội, tháng 10/1842, năm 72 tuổi, xin về
hưu, được vua Thiệu Trị chuẩn y.
1842 -1847:
Ông về quê khôi phục từ đường họ Lê ở làng Luật Chánh, lập ra chùa Giác Am để
tu tâm dưỡng tính và lấy hiệu là Giác Am cư sĩ và lập Văn chỉ Tuy Phước làm nơi tụ họp
văn nhân Tuy Phước, Quy Nhơn.
Ông mất tại quê nhà ngày 24 tháng 8 (âm lịch) 1847, thọ 76 tuổi.
Trần Phương Lan (lập)
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc triều chính biên toát yếu – Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1998.
2. Đại Nam thực lục, Nhà xuất bản Giáo dục, 2004, tập 1,2,3,4,5,6.
3. Đại Nam Liệt truyện chính biên, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2006.
4. Lê Đại Cang và Lê thị gia phả, Nhà xuất bản Dân trí, 2011.
8
SUY NGHĨ VỀ HÀNH TRẠNG, SỰ NGHIỆP
CỦA DANH NHÂN LỊCH SỬ LÊ ĐẠI CANG
PGS.TS. Nguyễn Minh Tường
(Viện Sử học)
Lê Đại Cang - 黎 大 綱2 (1771-1847), tự là Thống Thiện - 統 善, hiệu là
Kỳ Phong - 奇 峯, biệt hiệu là Thường Chánh Thị - 常 正 氏, người làng Luật Chánh, xã
Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, thì tiên tổ của Lê Đại Cang vốn là
người Nghệ An. Ông tổ xa đời là Lê Công Triều từng làm quan dưới triều Lê Trung
hưng. Chính Lê Đại Cang, trong Lê thị gia phả cũng cho biết: “Thủy tổ là Lê Công Triều,
gốc Thừa tuyên Nghệ An, phủ Hà Hoa, huyện Kỳ Hoa, phường Hà Tân, làm quan nhà Lê
có công. Vừa lúc Thái Tổ Hoàng đế (chỉ Nguyễn Hoàng – TG) dời vào Thuận Hóa khai
cơ, ông đem gia quyến theo, đến ở phường Trung An, xã Lê Dương, huyện Bồng Sơn,
phủ Hoài Ninh…”3.
Sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo, lại sớm mồ côi cha lẫn mẹ,
bằng con đường khổ học, đầy ý chí và nghị lực, Lê Đại Cang đã trở thành một danh nhân
lịch sử khá nổi tiếng vào nửa đầu thế kỷ XIX. Tìm hiểu hành trạng và sự nghiệp của Lê
Đại Cang, giúp cho hậu thế chúng ta có được nhiều bài học quý báu.
Dưới đây, chúng tôi xin trình bày đôi điều suy nghĩ của mình về vấn đề trên như
sau:
2. Về tên của Danh nhân lịch sử Lê Đại Cang - 黎 大 綱. Có 2 cách phiên thiết:a. Thuyết văn giải tự: Cổ lang thiết, tức Cang.b. Khang Hy tự điển: - Cổ lang thiết (Quảng Vận), tức Cang.
- Cư lang thiết (Tập Vận), tức Cang.c. Từ Nguyên: Ca khang thiết, âm Cương, tức Cương.- Nhóm Dịch giả (Viện Sử học) dịch Đại Nam thực lục chính biên, dịch là Lê Đại Cương.- Vũ Ngọc Liễn dịch Lê thị gia phả, dịch là Lê Đại Cang.Trong bài viết này, chúng tôi theo cách đọc của Dịch giả Vũ Ngọc Liễn, vì cho rằng âm
Cang là âm đọc của địa phương Bình Định và trong dòng họ Lê của ông.3. Lê Đại Cang: Lê Thị gia phả. Nxb Dân Trí, H. 2011, bản dịch của Vũ Ngọc Liễn, tr. 80.
9
I. Lê Đại Cang – Một nhân cách lớn, một nghị lực kiên cường trước những
sóng gió của cuộc đời
Thuở xưa, kẻ sĩ “thập niên đăng hỏa” theo học đạo Nho, mà thường được gọi một
cách trân trọng là “Đạo Thánh hiền”, luôn cố gắng đạt được hai mục tiêu: “Tu kỷ” và
“Hành đạo”. Trong các sách kinh điển Nho gia còn gọi là “Nội Thánh”, “Ngoại Vương”.
Đó là một hoài bão lớn vừa có tính “Nội hướng” vừa có tính “Ngoại hướng”.
Trong hai tính chất trên, thì cái học “Nội Thánh”, tức việc sửa mình để có đạo
cao, đức trọng, được kẻ sĩ của mọi thời coi là cái gốc của sự xử kỷ, tiếp vật. Điều này
được Tăng tử - một đại môn đồ của Khổng tử (551 – 479 tr. Cn) nói rõ trong sách Đại
học:
- “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản” (自 天 子 以 至
於 庶 人,一 是 皆 以 修 身 為 本 – Từ thiên tử cho đến kẻ thứ nhân, tất cả đều lấy việc
sửa mình làm gốc).
Hoặc vị A′Thánh của đạo Nho là Mạnh tử (khoảng 372-289 tr. Cn) cũng từng
nhấn mạnh trong thiên Tận tâm hạ, sách Mạnh tử:
- “Quân tử chi thủ, tu kỳ thân nhi thiên hạ bình” (君 子 之 守,修 其 身 而 天 下
平 – Điều mà người quân tử luôn giữ gìn là sửa thân mình mà thiên hạ bình trị).
Tuy nhiên, “tu thân” (sửa mình) không phải mục đích cứu cánh của Nho gia. Tư
tưởng luân lý - chính trị của Nho gia là: Tu, Tề, Trị, Bình - 修,齊,治,平. Nói tắt của
“tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Mục đích của việc trị đạo, việc “tu – tề” là “trí
quân, trạch dân”, là “tân dân” - 新 民 : làm cho nền chính trị ngày một đổi mới, hoàn
thiện, đời sống dân chúng ngày một yên bình, no đủ. Có một điều trớ trêu thay của lịch
sử, là kẻ sĩ sinh ra ở “thời loạn”, thì dễ bộc lộ tài năng của mình hơn là “thời trị”. Không
phải ngẫu nhiên thời Tiên Tần, hay còn gọi là thời Xuân Thu – Chiến Quốc (770 – 221 tr.
Cn) của Trung Quốc đã xuất hiện lắm kẻ sĩ tài ba đến như vậy!
Do đó, ở một mức độ nào đó, có thể nói Lê Đại Cang đã “gặp thời”, khi sinh ra
vào lúc xã hội chưa ổn định, nền chính trị chưa hoàn chỉnh, đất nước đang có những xáo
trộn, giằng co lớn. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, tổ tiên ông mặc dù từng làm
10
quan triều Lê, nhưng “đến Cương mới lấy văn học hiển đạt”4. Ở đây, thiết tưởng cũng
nên làm rõ nghĩa của chữ “Hiển đạt” của sử thần Quốc sử quán triều Nguyễn? Sách Từ
Nguyên giải thích: 顯,達 也。 達 而 在 上 曰: 顯,有 聲 聞,名 譽 也 (Hiển, đạt dã.
Đạt nhi tại thượng viết: Hiển, hữu thanh văn, danh dự dã. Nghĩa là: Hiển, tức là thành
đạt. Thành đạt mà ở vào vị trí cao, thì gọi là Hiển. Người hiển đạt là người có danh tiếng
sang trọng, vẻ vang)5. Qua đó, ta thấy theo quan niệm của sử thần thời quân chủ: làm
quan như Thủy tổ họ Lê là Lê Công Triều, có lẽ giữ chức Khám lý đề đốc hoặc huyện
Bồng Sơn, hoặc phủ Hoài Ninh6, hay như Lê Công Miễn, Thượng thư Hình bộ7, cũng
không được coi là “hiển đạt”.
Tôi đọc tiểu sử, hành trạng của Lê Đại Cang, trong các bộ chính sử triều Nguyễn
như: Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam chính biên liệt truyện…, nhận thấy con
đường hoạn lộ của ông có quá nhiều sóng gió, hiểm nguy. Tôi đồng tình với nhận định
dưới đây của hai tác giả Quách Tấn – Quách Giao khi viết: “Là một danh sĩ nổi tiếng về
văn chương cũng như võ nghệ. Cuộc đời làm quan của ông cũng giống như Nguyễn Công
Trứ, lận đận nhiều phen. Khi thì làm quan to, lúc lại làm lính đi khiêng võng. Nhưng tư
cách và chí khí vẫn hiên ngang”8.
Vấn đề được đặt ra là: Vì sao cuộc đời làm quan của Lê Đại Cang “lận đận nhiều
phen” như thế, mà vẫn giữ được “tư cách và chí khí hiên ngang”?
Tôi thiết nghĩ lý giải được vấn đề này không đơn giản chút nào.
Tôi cho rằng ít nhất có 3 nguyên nhân sau đây để làm nên vị danh nhân lịch sử 奇
峯 - 黎 大 綱 : Kỳ Phong9 – Lê Đại Cang vào nửa đầu thế kỷ XIX ấy.
Thứ nhất, là truyền thống “Người xứ Nghệ”, nguyên quán của Lê Đại Cang. Xưa
nay, chúng ta đều hiểu “Xứ Nghệ” là một tiểu vùng văn hóa, bao gồm 2 tỉnh Nghệ An và
4. Đại Nam chính biên liệt truyện. Nxb Thuận Hóa – Huế, 1993, tập 3, tr. 336. Chúng tôi chủ trương nên phiên âm tên ông là “Cang”, nhưng ở đây và kể cả sau này, vì tôn trọng cách dịch của các dịch giả tiền bối, chúng tôi vẫn trích dẫn là “Cương”.5. Từ Nguyên. Bộ Hiệt, tập Tuất, tr. 1632.6. Lê Đại Cang: Lê thị gia phả. Sđd, tr. 81.7. Lê Đại Cang: Lê thị gia phả. Sđd, tr. 94.8. Lê Đại Cang: Lê thị gia phả. Sđd, tr. 17.9. Kỳ Phong - 奇 峯: tên hiệu của Lê Đại Cang. Tên Tự: Thống Thiện - 統 善, có nghĩa là: “Hợp mọi điều thiện”, có liên hệ về nghĩa với tên Nhũ danh Lê Đại Cang (Tam Cang – Ngũ Thường, gọi tắt là “Cang Thường”). Còn tên Hiệu là tên có ý nghĩa gửi gắm hoài bão, chí hướng của mình. “Kỳ Phong” là Ngọn núi kỳ vĩ.
11
Hà Tĩnh. Đó là vùng đất từ huyện Quỳnh Lưu ở phía Bắc cho tới Kỳ Anh ở phía Nam,
chiều dài khoảng 200 km.
Từ khoảng giữa thế kỷ XVI, năm 1558, vị thủy tổ dòng họ Lê này là Lê Công
Triều, người phường Hà Tân, huyện Kỳ Hoa10 (nay là Kỳ Anh), theo Nguyễn Hoàng vào
Thuận Hóa. Sau này, chắc hẳn Lê Công Triều được bổ làm Khám lý đề đốc huyện Bồng
Sơn, Bình Định, nên gia tộc họ Lê của ông đã định cư tại đây. Tuy nhiên, dòng họ Lê của
Lê Đại Cang vẫn giữ nguyên những tính cách ưu trội của người xứ Nghệ là: Ý chí vượt
khó khăn, khắc phục hoàn cảnh, giàu chí tiến thủ; Hiếu học đến mức “khổ học”, cầu học
vì có ý chí thành danh bằng con đường học vấn; Khí khái, thẳng thắn, chân thực trong
ứng xử xã hội, v.v…
Thứ hai, có “hạt giống tốt”, lại cần được gieo trồng trong điều kiện “mảnh đất tốt
lành”, mới mong có mùa thu hoạch như ý. “Mảnh đất tốt lành” của dòng họ Lê (Lê Đại
Cang), đó là vùng đất Bình Định – quê hương mới của ông. Sách Đại Nam nhất thống
chí của Quốc sử quán triều Nguyễn từng nhận định về người dân Bình Định nói chung và
kẻ sĩ nơi đây nói riêng như sau: “Học trò chăm học, nhân dân siêng cày, dệt; tính tình
trầm tĩnh, dũng cảm, thích việc nghĩa; buôn bán và kỹ nghệ chỉ được độ hai, ba phần
mười; người học thức phần nhiều nho nhã, trung hậu…”11.
Nhưng, theo tôi nguyên nhân thứ ba sau đây, có tính chất quyết định để hình
thành nên Nhân cách lớn, một nghị lực kiên cường của danh nhân lịch sử Lê Đại Cang
trước những sóng gió của cuộc đời. Đó là nhân cách của một bậc Quân tử - Đại trượng
phu; mẫu người lý tưởng mà tư tưởng Khổng – Mạnh cấp cho Lê Đại Cang, từ hồi còn
chập chững bước vào đời. Các nhà giáo dục đều thống nhất ý kiến cho rằng: Những gì
con người được học vào cái thời còn trẻ tuổi, tức từ khoảng 7, 8 tuổi đến 18, 20 tuổi, thì
sẽ góp phần quyết định tạo nên nhân cách, tính cách của người ấy và sẽ còn đi mãi với họ
trong suốt cả cuộc đời…
Chúng ta đều biết Nho giáo là một học thuyết chính trị và đạo đức, tồn tại trong
khoảng thời gian hơn 2000 năm dưới thời cổ đại và trung đại ở phương Đông, trong đó có
Việt Nam. Đóng góp quan trọng của tư tưởng Khổng tử và Mạnh tử là học thuyết về đạo
10. Kỳ Hoa. Năm 1841, khi vua Thiệu Trị lên ngôi, vì kỵ húy tên phụ mẫu là Hồ Thị Hoa, nên cho đổi thành Kỳ Anh.11. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí. Nxb Khoa học xã hội, H. 1971, tập 3, tr. 13.
12
đức. Điều cần lưu ý là học thuyết đạo đức của Khổng - Mạnh luôn gắn liền với học thuyết
chính trị của các ông. Khổng tử và Mạnh tử đều coi trọng sự hoàn thiện về đạo đức là sự
hoàn thiện về nhân cách. Khổng tử đề xuất “Tam đức”: Nhân - Trí - Dũng (仁,智,勇),
Mạnh tử đề xuất “Tứ đoan”: Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí (仁,義,禮,智) và coi sự thống
nhất của chúng ở một con người là nhân cách trọn vẹn…
Chúng ta đều biết rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969), vốn xuất thân từ một
gia đình nhà Nho “Xứ Nghệ”. Năm 1923, chính Bác Hồ tự giới thiệu tại Liên Xô rằng:
“Tôi xuất thân từ một gia đình nhà Nho Việt Nam, trong đó các thanh niên đều theo học
Đạo Khổng”12. Ngay từ thời trẻ, Bác Hồ đã học cách “lập chí”, trong việc “thành nhân”
của Đạo Nho, nên Người không sợ và không bao giờ chùn bước trước muôn vàn khó
khăn trong cuộc đời. Vào thập kỷ 40 của thế kỷ XX, Bác Hồ từng khẳng định: “Học
thuyết của Khổng tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân”13.
Trở lại với việc hình thành “Nhân cách lớn, nghị lực kiên cường” của Lê Đại
Cang, chúng tôi cho rằng ông đã tiếp thu trực tiếp từ những lời dạy của Khổng tử, Mạnh
tử và nhiều vị Đại Nho khác được rút ra từ các bộ sách kinh điển của Nho gia. Do giới
hạn của một bài luận văn khoa học, tôi chỉ xin trích dẫn một vài câu để làm minh chứng
cho những nhận định nói trên.
Trong bộ sách Luận ngữ, Khổng tử nói:
“Chí sĩ nhân nhân vô cầu sinh dĩ hại nhân; Hữu sát thân dĩ thành nhân” (志 士 仁
人 無 求 生 以 害 仁; 有 殺 身 以 成 仁: Bậc chí sĩ, nhân nhân chớ vì bảo tồn sinh mạng
mà làm hại điều nhân; trái lại có khi phải hy sinh tín mạng để hoàn thành điều nhân. –
Luận ngữ - Vệ Linh công).
Hoặc, Khổng tử cho rằng chỉ khi nào gặp những điều kiện cực kỳ khó khăn, mới
hiểu rõ được phẩm chất dũng cảm đích thực của một con người.
Khổng tử nói: “Tuế hàn, nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu dã” (歲 寒,然 後
知 松 柏 之 後 彫 也: Chỉ khi nào gặp năm cực rét, mới biết cây tùng, cây bách rụng lá
cuối cùng [sau mọi loại cây khác]. – Luận ngữ - Tử Hãn).
12. Dẫn theo: Nho giáo xưa và nay. Vũ Khiêu (chủ biên). Nxb Khoa học xã hội, H. 1991, tr. 229.13. Dẫn theo: Nho giáo xưa và nay. Sđd, tr. 227.
13
Tuy nhiên, tìm hiểu về hành trạng, sự nghiệp của Lê Đại Cang, tôi nhận thấy mẫu
hình nhân cách lý tưởng của ông muốn đạt tới là bậc Đại Trượng phu của Mạnh tử, hơn
là bậc Quân tử của Khổng tử. Tôi cho rằng cái bản lĩnh đặc biệt mà Lê Đại Cang có
được, một phần không nhỏ là chịu ảnh hưởng và tu dưỡng theo mẫu hình Đại Trượng
phu của Mạnh tử. Tôi thiển nghĩ trong nền văn hóa phương Đông, ít có người bàn về bậc
Đại Trượng phu hay như Mạnh tử.
Đọc những câu mà Mạnh tử luận về vấn đề này, không khi nào tôi tránh khỏi sự
xúc động mạnh mẽ:
“Cư thiên hạ chi quảng cư;
Lập thiên hạ chi chính vị;
Hành thiên hạ chi đại đạo;
Đắc chí, dữ dân do chi;
Bất đắc chí, độc hành kỳ đạo.
Phú quý bất năng dâm; Bần tiện bất năng di; Uy vũ bất năng khuất.
Thử chi vị Đại Trượng phu”.
(居 天 下 之 廣 居
立 天 下 之 正 位
行 天 下 之 大 道
得 志,與 民 由 之
不 得 志,獨 行 其 道
富 貴 不 能 淫; 貧 賤 不 能 移; 威 武 不 能 屈。
此 之 謂 大 丈 夫。
- Sống ở nơi rộng rãi của thiên hạ
Đứng ở vị thế chính đáng của thiên hạ
Đi trên con đường lớn của thiên hạ
Lúc đắc chí gặp thời thì ra làm quan, cùng chung sức với dân để đạt tới điều
“Nhân”.
Khi bất đắc chí, không gặp thời, thì ở ẩn, tu thân một mình giữ “Đạo”.
Lúc giàu sang không buông tuồng quá mức; Khi gặp cảnh nghèo khó, không thay
đổi chí hướng; Gặp uy vũ, bạo lực không chịu để bị khuất phục.
14
Làm được những điều trên, xứng đáng gọi là bậc Đại Trượng phu. – Mạnh tử -
Đằng văn công hạ).
Qua kinh nghiệm trường đời, Mạnh tử đã nhận thấy rằng: Người ta có lầm lỗi,
thất bại, mới có ăn năn, hối hận, và do đó, suy nghĩ mới sâu sắc hơn; người ta có chịu đau
đớn trong lòng, có phải trầm tư mặc tưởng, cân nhắc suy nghĩ mới rút ra được những kinh
nghiệm quý báu trong công việc sau này… Như vậy, theo Mạnh tử, một người trở nên
hữu ích cho xã hội, cần phải được tôi luyện trong gian khổ cả thân xác, lẫn tinh thần, tựa
như vàng ròng chỉ được tinh luyện trong lửa đỏ.
Mạnh tử nói: “Cố thiên tương giáng đại nhiệm ư thị nhân dã; Tất tiên khổ kỳ tâm
chí, lao kỳ cân cốt, ngã kỳ thể phu; không phạp kỳ thân; hành phật loạn kỳ sở vi, sở dĩ
động tâm nhẫn tính, tăng ích kỳ sở bất năng” (故 天 將 降 大 任 於 是 人 也; 必 先 苦
其 心 志,勞 其 筋 骨,餓 其 體 膚; 空 乏 其 身; 行 佛 亂 其 所 為,所 以 動 心 忍
性,曾 益 其 所 不 能 – Cho nên, Trời sắp trao trách nhiệm lớn cho một người nào đó,
thì ắt trước hết làm khổ tâm chí của họ, làm mệt gân cốt của họ, khiến da thịt họ phải đói
lả, khiến thân xác họ phải nghèo túng, gây ra những ngang trái, rối loạn trong các hành vi
của họ, cốt họ động cái tâm, nhẫn nhục cái tính, cho tăng thêm những gì mà họ còn thiếu
hụt, chưa có khả năng. – Mạnh tử - Cáo tử hạ).
Tôi đọc Lê thị gia phả, Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam chính biên liệt
truyện, Quốc triều chính biên toát yếu…, nhận thấy cuộc đời của Lê Đại Cang trước khi
ra xuất chính và thời kỳ làm quan với vương triều Nguyễn gặp khá nhiều biến cố, nhưng
trong đó có hai biến cố lớn, thử thách nhân cách Đại Trượng phu ở ông.
Sách Quốc triều chính biên toát yếu chép rằng: “Tháng 5 năm Quý Tỵ (1833).
Nguyên Tả quân Minh nghĩa Vệ úy Lê Văn khôi… làm loạn, chiếm giữ thành Phiên
An14, giết Bố chánh Bạch Xuân Nguyên… Tháng 6, Lê Văn Khôi cùng đảng chúng xâm
phạm tỉnh Biên Hòa, thự15 Tuần phủ Võ Quýnh, Án sát Lê Văn Trác, Lãnh binh Hồ Kim
Truyền chạy cả, tỉnh lỵ thất thủ… Đảng giặc Phiên An phạm tỉnh Định Tường, tỉnh thành
thất thủ. Tổng đốc Long – Tường (Vĩnh Long – Định Tường) Lê Phúc Bảo, Tổng đốc An
– Hà (An Giang – Hà Tiên) Lê Đại Cương đều bị cách lưu16…”17.
14. Năm 1835, đổi Phiên An thành Gia Định.15. Thự: cũng giống như “Quyền” ngày nay, tạm giữ chức, nếu làm tốt, thì chính thức bổ nhiệm.16. Cách lưu: bị cách chức Tổng đốc, nhưng được lưu lại tại nhiệm sở làm việc.17. Cao Xuân Dục: Quốc triều chính biên toát yếu. Nxb Thuận Hóa – Huế 1998, tr. 211, 212.
15
Trong Lê thị gia phả, Lê Đại Cang cũng có mô tả khá chi tiết biến cố lớn này, và
tự nhận định rằng: “Cuộc đời đã trải qua của tôi chưa hề gặp sự gian hiểm nào như lúc
này. Nhưng gánh nặng biên cương, sự thất bại ở góc trời Đông, để mất thành An Giang
trước đây tội không nhẹ. Thánh chỉ (tức Chỉ dụ của vua Minh Mệnh – TG) đến cách chức
tôi, nhưng cho “Đái lãnh binh dõng, quân tiền hiệu lực” (帶 領 兵 勇,軍 前 效 力: Phải
xuống làm lính, đến trận tiền ra sức làm việc để chuộc tội18).
Biến cố lớn thứ hai trong cuộc đời làm quan của Lê Đại Cang xảy ra vào năm
1838. Sách Quốc triều chính biên toát yếu chép: “Tháng giêng, năm Mậu Tuất (1838),
chức An phủ ở phủ Khai Biên, thuộc tỉnh Hà Tiên là tên Di làm phản. Trước có tên
Khống (Khống người phủ Khai Biên, năm trước qua Xiêm làm chức Ba Lật), tự Xiêm
trốn về, tên Di giấu đi. Di lại thông mưu với Thổ mục là tên Châu, dụ bọn Mọi Cao (chỉ
đồng bào thiểu số Cao Miên – TG) làm đồ khí giới, toan làm loạn, chúng nó vừa nghe tên
Đô Y ở Hải Đông năm ngoái khởi biến, liền tụ đảng 500 người qua đồn Long Tôn; Quản
cơ phủ Khai Biên là bọn Sô Mịch, Ân Ôn theo nó cả, giết quân trú phòng người mình, rồi
phân đạo đi các xứ… Tháng 2, bãi chức Quản phủ các phủ, đổi đặt làm Trú phòng,
chuyên coi việc chống trộm cướp, giam tù phạm. Tuần phủ An Giang sung Tham tán
Trấn tây là Lê Đại Cương có tội bị cách, phái theo quân thứ Hải Đông hiệu lực” 19. Tiếp
đó, có thể vào khoảng tháng 3 năm Mậu Tuất (1838), Quốc triều chính biên toát yếu còn
cho biết: “Trương Minh Giảng, Dương Văn Phong đem tình hình đánh giặc tâu rằng:
Quan bị cách là Lê Đại Cương đóng ở đạo Trà Di, chia quân kéo tới đánh giặc. Ngài (chỉ
vua Minh Mệnh – TG) xem tờ sớ không bằng lòng, truyền rằng: “Đại Cương bị tội cách
lưu, sao dám tự tôn mình là Đại tướng? Chẳng sợ phép nước, chẳng kể công luận. Vậy
Đại Cương phải tội trảm giam hậu20, còn Trương Minh Giảng giáng xuống Binh bộ
Thượng thư, Dương Văn Phong giáng 3 cấp”21.
18. Thời quân chủ, những người làm quan có tội, mà triều đình xét thấy tội còn có điểm khoan giảm được, thường cho đi: “Quân tiền hiệu lực”, hoặc “Dương trình hiệu lực” (tức theo thuyền của triều đình ra nước ngoài như: Xingapo, Nam Dương làm thủy thủ, buôn bán…). Phan Huy Chú, Lý Văn Phức, Cao Bá Quát… đã từng bị “Dương trình hiệu lực”.19. Cao Xuân Dục: Quốc triều chính biên toát yếu. Sđd, tr. 291, 292.20. Trảm giam hậu: Một trong Ngũ hình (Xuy - Trượng - Đồ - Lưu - Tử) của chế độ quân chủ Việt Nam. Tử là giết chết, có nhiều hình thức xử tử. Giảo (thắt cổ chết): Giảo quyết (thắt cổ chết ngay), Giảo giam hậu (Xử vào tội giảo, nhưng cho giam lại chờ xét lại sau), Trảm: chém đầu; Trảm quyết và Trảm giam hậu.21. Cao Xuân Dục: Quốc triều chính biên toát yếu. Sđd, tr. 292.
16
Theo Lê thị gia phả, thì sau vụ nổi dậy của người Cao Miên, vào đầu năm 1838
nói trên, Lê Đại Cang bị hạch tội là Tham tán Đại thần Trấn tây mà không hoàn thành
nhiệm vụ cai trị, nên bị cách chức làm lính khiêng võng sung tiền quân hiệu lực tại quân
thứ Hải Đông, đạo Trà Gi. Sau đó, vào khoảng tháng 3 năm Mậu Tuất (1838), Lê Đại
Cang lại bị vua Minh Mệnh xử vào tội “Trảm giam hậu” vì “bị tội cách hiệu (tức cách
chức, cho quân tiền hiệu lực – TG), sao dám tự tôn mình là Đại tướng?”.
Có nhà nghiên cứu phê phán cách chấp pháp của vua Minh Mệnh trên đây đối với
“Lê Đại Cang lần này khó có thể nói là chính đáng”. Tôi cũng cho rằng vua Minh Mệnh
trừng phạt tội “tự tôn mình là Đại tướng” của Lê Đại Cang như trên là quá nặng nề.
Tuy nhiên, là người nghiên cứu lịch sử, thiết tưởng chúng ta nên đặt mình vào
hoàn cảnh lúc đó để xem xét. Ta nên lưu ý, cái “tế nhị” và “gượng tay” của hình phạt mà
vua Minh Mệnh định cho Lê Đại Cang, chính là 3 chữ “Trảm giam hậu” ấy! Chính chỉ bị
án “Trảm giam hậu”, mà vào đầu thời Thiệu Trị (1841-1847), Lê Đại Cang mới được
không những tha tội chết, mà còn được ra khỏi ngục mang hàm Điển bộ, lo sắp xếp việc
tiếp đón sứ thần nhà Thanh là Bửu Thanh sang nước ta làm lễ sách phong “Quốc vương”
cho Thiệu Trị22. Công việc bang giao thành công, Lê Đại Cang lại được vua Thiệu Trị
thăng lên chức Bố chánh Hà Nội23 (ở trật Chánh Tam phẩm).
Nhưng vấn đề là cần hiểu lý do vì sao vua Minh Mệnh lại xử phạt nặng nề đối với
những người mắc tội như Lê Đại Cang vừa kể trên?
Thật ra, điều đó không phải là ý thích cá nhân của vua Minh Mệnh, mà nằm trong
luật trị quốc của Nho gia và Pháp gia mà ông vua thứ hai triều Nguyễn này là đại diện.
Chúng ta đều biết trong lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam, có hai vị vua Nho
giáo, rất có tài dùng người và giỏi việc trị quốc, đó là: Hoàng đế Lê Thánh Tông (1460-
1497) triều Lê sơ và Hoàng đế Minh Mệnh (1820-1841) triều Nguyễn. Lê Thánh Tông và
Minh Mệnh đều là các bậc bác lãm quần thư, thông thạo kinh điển Nho gia. Tuy nhiên,
trong phép trị quốc, các vị không chỉ áp dụng đường lối chính trị của Nho gia, mà có sự
kết hợp với Pháp gia. Nhiều nhà nghiên cứu gọi cách cai trị ấy là “Dương nho, âm Pháp”
(陽 儒,陰 法 – Bên ngoài là Nho, thực chất bên trong là Pháp).
22. Cao Xuân Dục: Quốc triều chính biên toát yếu. Sđd, tr. 345.23. Bố chánh là nói tắt chức Bố chánh sứ - vị trưởng quan đứng hàng thứ 2 của tỉnh thời Nguyễn, dưới chức Tuần phủ (ở trật Tòng Nhị phẩm), tương đương với chức Phó Chủ tịch UBND tỉnh, phụ trách vấn đề Tài mậu ngày nay).
17
Trường hợp phạm tội đang “bị cách hiệu mà sao dám tự tôn mình là Đại tướng”
của Lê Đại Cang, là theo cái nhìn “chính danh” của Nho gia, ông đã mắc vào tội “tiếm
việt” (vượt phận).
Khổng tử nói: “Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính” (不 在 其 位,不 謀 其 政 –
Không ở vào chức vị nào, thì chớ có mưu tính, chớ có hành động công việc của chức vị
ấy. – Luận Ngữ - Thái Bá). Như vậy, chúng ta thấy vua Minh Mệnh phạt Lê Đại Cang vì
tội dám mưu tính sang công việc của chức vị khác không thuộc bổn phận, trách nhiệm
của mình. Cái mà vua Minh Mệnh lo xa là: Hành động “tiếm việt” của Lê Đại Cang sẽ tạo
nên một tiền lệ xấu, làm rối loạn trong công việc chính sự sau này.
Tuy nhiên, đấy chưa phải là tất cả lý do hình phạt của vua Minh Mệnh đối với Lê
Đại Cang. Điều này, có lẽ nhà vua không muốn nói ra, vì hơn ai hết, ông rất hiểu “Thuật
trị quan lại” mà Thân Bất Hại ( ? – 337 tr. Cn), một vị thủy tổ của Pháp gia vào đời
Chiến Quốc (480 – 221 tr. Cn), đề xuất.
Trong thiên Ngoại trừ thuyết – Hữu thượng, Hàn Phi dẫn lại một đoạn thuyết về
“Thuật” của Thân Bất Hại. Đại ý, ông khuyên bậc vua chúa phải có các thuật “Bí hiểm”
để trị bề tôi thân cận, khống chế họ. Để minh họa cho thuyết “Phép trị nước là không
được vượt chức” và “Phải có thuật bí hiểm” của Thân Bất Hại, đã được Hàn Chiêu Hầu
(tức vua nước Hàn) “đem áp dụng vào thực tế” như thế nào, trong thiên Nhị Bính, Hàn
Phi đưa ra thí dụ như sau: “Ngày xưa Hàn Chiêu Hầu say rượu ngủ. Viên quan coi mũ
của vua, thấy nhà vua lạnh nên lấy áo đắp cho vua. Nhà vua ngủ dậy, vui lòng hỏi người
xung quanh: “Ai đã lấy áo đắp lên cho ta?”. Những người xung quanh nói: “Đó là viên
quan coi mũ!”. Nhà vua bèn trị tội cả viên quan coi áo lẫn viên quan coi mũ. Trị tội viên
quan coi áo vì anh ta đã không làm nhiệm vụ của mình. Trị tội viên quan coi mũ vì anh ta
vượt chức của mình. Không phải nhà vua không khổ vì lạnh, nhưng cái hại của việc vượt
quá trách nhiệm còn lớn hơn là bị lạnh”24.
Qua đó, chúng ta thấy vua Minh Mệnh không phải là không biết cái hại của việc
“giặc Chân Lạp làm loạn”, nhưng có thể ông cho rằng “cái hại của việc vượt trách nhiệm
còn lớn hơn” là bị giặc tàn phá.
24. Hàn Phi tử - thiên Nhị Bính.
18
Mặc dầu, như Lê Đại Cang tự nhận trên con đường làm quan của mình, ông gặp
quá nhiều nỗi cay cực, nhưng ông luôn tâm niệm “Vì nước quên nhà, vì việc công quên
việc riêng là tiết tháo của kẻ làm bề tôi”25.
II. Lê Đại Cang – Một kẻ sĩ hào mại, phóng dật đậm chất tài tử phong lưu
Trong bài luận văn khoa học Sự nghiệp sử học của Học giả Cao Xuân Dục, vị
Tổng tài Quốc sử quán (1898) thời Thành Thái (1889-1907), chủ biên bộ Đại Nam chính
biên liệt truyện (Nhị tập), chúng tôi có nhận định: “Cao Xuân Dục đã chịu ảnh hưởng khá
sâu sắc phương pháp chép sử của Tư Mã Thiên trong bộ Sử ký. Đó là việc các soạn giả
nhấn mạnh vai trò và tác dụng của con người, nhất là các danh nhân lịch sử trong việc
sáng tạo nền văn hóa dân tộc… Sử bút trong bộ sách này, tuy nghiêm cẩn, nhưng nhẹ
nhàng, tươi tắn. Ở cuối mỗi truyện, phần lớn đều có lời bình… Những lời bình ấy, có tính
chất như người xưa từng nói: “Họa long, điểm nhãn” (Vẽ rồng xong, phải điểm nhỡn),
khiến cho người đọc nắm được “cái thần” của nhân vật”.
Trong phạm vi của bài viết này, như trên đã nói, hai tác giả Quách Tấn – Quách
Giao đã từng so sánh “hai danh sĩ nổi tiếng văn chương cũng như võ nghệ” là Lê Đại
Cang (1771-1847) và Nguyễn Công Trứ (1778-1858), cho nên, tôi cũng xin chỉ trích dẫn
hai lời bình của nhóm soạn giả Đại Nam chính biên liệt truyện (Nhị tập) về hai nhân vật
trên, dưới dây:
- [Lê Đại] Cương là người hào mại, phóng dật, ở đâu cũng thường bày bút mực,
sách vở, đàn, chén uống rượu, hoa cây, để tự thích. Tập văn đã làm và phần nhiều mất đi,
chỉ còn các tập: Nam hành, tập thơ Tỉnh ngu, 3 quyển”26.
- [Nguyễn] Công Trứ là người trác lạc, có tài khí, có tài làm văn, càng giỏi về
Quốc âm (tức chữ Nôm – TG), làm ra thi ca rất nhiều, khí hào mại, phổ đầy trong âm
luật; đến nay hãy còn truyền tụng. Trứ làm quan thường bị cách, rồi lại được cất nhắc lên
ngay; tỏ sức ở chiến trường nhiều lần lập được công chiến trận… Khi tuổi già về nghỉ,
tức thì bỏ qua việc đời, chơi thú sơn thủy, trải hơn 10 năm, có cái hứng thú phớt thoảng
ra ngoài sự vật. Đến nay người ta, phần nhiều tưởng đến phong độ khí khái của ông”27.
25. Lê Đại Cang – Lê thị gia phả. Sđd, tr. 59.26. Đại Nam chính biên liệt truyện. Sđd, tập 3, tr. 337.27. Đại Nam chính biên liệt truyện. Sđd, tập 3, tr. 376.
19
Về sự nghiệp văn chương, có thể nói giữa hai danh sĩ nổi tiếng trên, Nguyễn Công
Trứ may mắn hơn Lê Đại Cương. Hiện nay, chúng ta còn lưu giữ được một số lượng
đáng kể tác phẩm của Nguyễn Công Trứ, bao gồm: 54 bài thơ chữ Nôm, 67 bài Hát nói
(hầu hết là chữ Nôm), 1 bài thơ chữ Hán (Thất thập tự thọ - Tự thọ của bảy mươi tuổi), 1
bài phú Nôm (Hàn Nho phong vị phú), 37 câu đối (25 câu đối chữ Nôm, 12 câu đối chữ
Hán), 1 bài Văn sách đoạt Giải nguyên28 của Nguyễn Công Trứ29. Còn với Lê Đại Cang
không có được cái may mắn trên. Chúng ta đều biết, theo các soạn giả Đại Nam chính
biên liệt truyện, thì vào khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, hai tập văn Nam hành
và Tục Nam hành, là hai tập bút ký ghi lại những công việc Lê Đại Cang đã trải qua trong
thời gian làm quan ở phương Nam của Tổ quốc và ở nước Chân Lạp, cùng với tập thơ
Tỉnh ngu thi tập, 3 quyển vẫn còn. Nhưng thật đáng tiếc, theo tác giả Nguyễn Thế Khoa
thì: “Cho đến nay, các tập Nam hành, Tục Nam hành, Tỉnh ngu thi tập, đều chưa tìm thấy
văn bản; chỉ còn tập Lê thị gia phả, vốn được lưu giữ tại từ đường họ Lê ở Luật Chánh,
sau ngày miền Nam giải phóng được gia tộc hiến cho Bảo tàng Quang Trung, đang được
lưu giữ tại Bảo tàng này”30.
Tôi cho rằng: Nếu như các tác phẩm vừa kể trên của danh sĩ Lê Đại Cang mãi mãi
không tìm thấy, thì đấy không chỉ là mất mát của riêng dòng họ Lê ở Luật Chánh, mà còn
là tổn thất không nhỏ đối với nền văn học sử Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX.
Tôi đọc Lê thị gia phả, cũng đã thấy phần nào văn tài của Lê Đại Cang, nhưng chưa thấy
hết được nét tài hoa “hào mại và phóng dật” ở ông, như nhận xét của các soạn giả sách
Đại Nam chính biên liệt truyện. Tôi tin rằng các soạn giả ấy đã từng được đọc tác phẩm
Tỉnh ngu thi tập, 3 quyển của Lê Đại Cang, nên mới có thể hạ những lời bình phẩm về
ông trên đây.
Ở phần trên, chúng tôi đã luận về nhân cách kẻ sĩ quân tử, đại trượng phu trong
con người Lê Đại Cang, nhưng để dễ dàng thoát khỏi những hoàn cảnh đầy cay cực, để
nhanh chóng vượt lên bao biến cố hiểm nguy trong cuộc đời, Lê Đại Cang cũng cần có
thêm phẩm chất của người Nghệ sĩ, một bậc tài tử phong lưu.
28. Thi Hương: dưới triều Nguyễn đỗ đầu gọi là Giải nguyên (hay Thủ khoa), đỗ thứ hai, gọi là A′nguyên.29. Đoàn Tử Huyến (chủ biên): Nguyễn Công Trứ - Trong dòng lịch sử. Nxb Nghệ An, 2008, tr. 47. 30. Lê Đại Cang: Lê thị gia phả. Sđd, tr. 62, 63.
20
Chúng tôi thiết nghĩ: Kẻ sĩ xưa có đôi điều khác với người trí thức ngày nay, là họ
được đào tạo ngay từ nhỏ khả năng cảm thụ “cái đẹp” khá tinh tế. Từ trong bản chất, kẻ
sĩ là một nghệ sĩ thực thụ. Học trong trường, họ được học “Lục nghệ”: Thi - Thư - Lễ -
Nhạc - Dịch - Xuân Thu, hoặc: Lễ - Nhạc - Xạ (bắn cung) - Ngự (đánh xe) - Thư (viết
chữ) - Số (tính toán), chơi ngoài đời, họ theo đòi Tứ tài tử: Cầm - Kỳ - Thi - Họa, hoặc:
Cầm - Kỳ - Thi - Tửu, trong đó phần lớn là những môn kiến thức về văn hóa, nghệ thuật.
Kẻ sĩ được học, ngoài kiến thức chuyên môn, còn được bồi dưỡng khả năng cảm thụ cái
Chân - Thiện - Mỹ.
Khổng tử có thể nói là người đầu tiên hiểu sâu sắc tác dụng của văn nghệ đối với
việc hình thành phẩm chất nghệ sĩ, hào mại trong con người kẻ sĩ. Ông nói: “Chí ư đạo,
cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ” (志 於 道,據 於 德,依 於 仁,游 於 藝 – Dốc chí ở
đạo, căn cứ ở đức, chỗ dựa ở nhân, vui chơi ở nghệ (tức Lục nghệ: Lễ - Nhạc - Xạ - Ngự -
Thư - Số. – Luận ngữ - Thuật nhi).
Khổng tử còn nói: “Hưng ư Thi, lập ư Lễ, thành ư Nhạc” (興 於 詩,立 於 禮,成 於 樂 – Hưng phấn nhờ Kinh Thi; đứng vững được [trong xã hội] là nhờ Lễ; hoàn
thành được [nhân cách] là nhờ Nhạc. – Luận ngữ - Thái bá).
Lịch sử cổ kim, Đông - Tây thường cho chúng ta những bài học khá đau lòng về
kết cục của những con người quá để tâm vào tham vọng danh lợi, vào quyền chức, một
khi họ bị cách chức, hoặc gặp phải các biến cố lớn trong cuộc đời. Tôi thiết nghĩ căn
nguyên của những bi kịch ấy là do họ thiếu một phẩm chất rất quan trọng, ấy là: chất
nghệ sĩ thực thụ. Những hạng người hào mại, phong lưu như Lê Đại Cang, Nguyễn Công
Trứ… chẳng hạn, họ không quá coi trọng việc làm quan, không tham quyền cố vị. Họ có
tâm hồn nghệ sĩ, coi làm quan với những thú chơi thanh tao thuộc về nghệ thuật để di
dưỡng tính tình: Cầm - Kỳ - Thi - Họa (hay Cầm - Kỳ - Thi - Tửu) chẳng cách xa nhau là
bao. Nhưng những thú chơi này không phải là thú chơi đại chúng vì thuộc về phạm trù tài
năng và nghệ thuật, không phải ai cũng biết chơi và biết thưởng thức, không phải là lĩnh
vực của hạng “phàm phu tục tử”! Đó là nghệ thuật của những con người siêu việt, đi tìm
những tri kỷ, tri âm siêu việt khác.*
* *
Theo tác giả Mịch Quang, tại từ đường họ Lê, làng Luật Chánh hiện nay vẫn còn
đôi câu đối khảm trai “Nhất họa nhất thi”, nghĩa là vừa có tranh vừa có thơ đề:
Miến lan vị cảm tư quân tử
21
Kiến trúc hà tu vấn chủ nhân.
眄 蘭 未 敢 思 君 子
見 竹 何 須 問 主 人
Tạm dịch:
Thấy lan chẳng dám nhớ quân tử!
Ngắm trúc sao còn hỏi chủ nhân?
Tương truyền đó là đôi câu đối, Lê Đại Cang cho treo tại phòng tiếp sứ Thanh31.
Có thể đoán định mà chắc không sai với sự thật rằng: đôi câu đối vừa dẫn trên là
do Lê Đại Cang sáng tác. Và cho dù không phải tự ông làm ra chăng nữa, nhưng Lê Đại
Cang hẳn thấy ưng ý với nội dung của nó, vì theo tôi đã đạt được hai tầng nghĩa:
1. Tự coi mình là Trúc, và ví vị sứ nhà Thanh như hoa Lan. Vì trong văn hóa
phương Đông: Mai - Lan - Cúc - Trúc, được gọi là “Tứ quý”, và tượng trưng cho hạng
người quân tử. Có lẽ, chính vì thế, sau khi tiếp sứ xong, viên sứ giả nhà Thanh đã tặng Lê
Đại Cang hai đôi câu đối bằng sứ:
- Đông Sơn khí khái
Bắc hải phong lưu32.
東 山 氣 概
北 海 風 流
- Tọa đối hiền nhân tửu
Sơn tàng thái sử thi.
坐 對 賢 人 酒
山 藏 太 史 诗
Tạm dịch:
Ngồi trước người hiền uống rượu
Núi tàng trữ thơ thái sử.
31. Lê Đại Cang: Lê thị gia phả. Sđd, tr. 38.Vì tác giả Mịch Quang không ghi chép nguyên văn chữ Hán, nên tôi căn cứ vào phiên âm
Hán – Việt, mà khôi phục như trên. Ở phần dịch nghĩa, tôi cũng sửa một chút cho đúng với nghĩa của văn cảnh – NMT.32. Đôi câu đối này nghĩa đã rõ, thiết tưởng không cần dịch nghĩa.
22
2. Tầng nghĩa thứ hai của đôi câu đối là ngầm kín đáo giới thiệu nhân cách và
phẩm chất của Lê Đại Cang, tức chủ nhân của phòng tiếp khách: vừa là Trúc, bản chất
cứng rắn, tiết tháo, vừa là Lan, phong lưu, hào hoa…
Theo chúng tôi, với 77 năm cuộc đời mình, Lê Đại Cang đã đạt được một sự
nghiệp đáng nể trọng, xứng đáng trở thành một danh nhân lịch sử của Việt Nam vào nửa
đầu thế kỷ XIX. Có được điều ấy, phải chăng trong ông, ngay từ rất sớm đã hàm chứa hai
phẩm chất cao quý, tốt đẹp của Trúc (Đại trượng phu, tiết tháo, kiên cường) và Lan
(Nghệ sĩ, tài tử, phong lưu)?
Lê Đại Cang quả là một “Ngọn núi kỳ vĩ” (Kỳ Phong) đứng chót vót bên cạnh
những “ngọn núi khác” – những danh nhân lịch sử của vùng đất “địa linh” và “thượng
võ” Bình Định – quê hương ông.
Với riêng cá nhân tôi, khi viết bài luận văn khoa học này, luôn luôn tâm niệm coi
như một nén tâm hương, xin dâng lên trước Bàn thờ danh nhân Lê Đại Cang, để thể hiện
sự cảm phục và lòng kính trọng đối với một bậc Danh nhân, Danh sĩ đầy bản lĩnh, khí
phách, nhưng cũng thấm đẫm nét hào mại, tài hoa./.
Viết tại Bạch Liên thư trai
Tháng Mạnh Đông – năm Nhâm Dần (2012)
N.M.T.
23
LÊ ĐẠI CANG VỚI VẤN ĐỀ TRỊ THỦY Ở BẮC THÀNH
TS Ngô Vũ Hải Hằng
(Viện Sử học)
Lê Đại Cang33 (1771 – 1847), tự là Thống Thiện, hiệu là Kỳ Phong, biệt
hiệu là Thường Chánh Thị, người làng Luật Chánh, xã Phước Hiệu, huyện Tuy Phước,
tỉnh Bình Định. Sự nghiệp quan trường của ông bắt đầu từ năm 1802, đời vua Gia Long
năm đầu, trải qua các đời vua Minh Mệnh, Thiệu Trị, với rất nhiều thăng trầm “ngọt,
đắng, lo, vui đã nếm đủ mùi quan”34, có lúc ông từng quyền giữ ấn triện ở Bắc Thành,
Tổng đốc An – Hà, bảo hộ ấn của nước Chân Lạp..., nhưng cũng có lúc ông bị phát đi sở
đồn điền ở Nguyên Thượng, làm một anh lính dõng; đến tháng 10 năm Thiệu Trị thứ hai
(1842), thì ông xin về trí sĩ. Trong suốt hơn 40 năm ấy, Lê Đại Cang đã giữ nhiều trọng
trách, làm được rất nhiều việc có lợi cho dân, cho nước. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ
đề cập đến một trong những sự nghiệp của ông, đó là vấn đề trị thủy, thủy lợi trong thời
gian ông ở Bắc Thành.
Năm Gia Long thứ 9 (1810), Lê Đại Cang được bổ làm Thiêm sự Bộ
Binh, giữ việc từ chương ở Bắc Thành. Sau đấy, năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), ông lần
lượt làm Hiệp trấn Sơn Tây, Cai bạ ở Quảng Nam và Cai bạ ở Vĩnh Long. Phải đến tháng
10 năm 1828, đời Minh Mệnh thứ 9, ông mới được cử kiêm chức quản lý Đê chính ở Bắc
Thành, khi ấy ông đang giữ chức Hữu tham tri Hình bộ.
Đến tháng 5-1830, đời vua Minh Mệnh thứ 11, Lê Đại Cang được bổ Hình
tào Bắc Thành kiêm Đê chính. Nhưng ngay sau đó, đê Sơn Nam bị vỡ, vì việc đê rất khẩn
cấp, nhà vua lại giao quyền Hình tào cho Nguyễn Hữu Gia, để Lê Đại Cang chuyên biện
việc Đê chính.
Sách Đại Nam thực lục chép: Tháng 6-1831, Lê Đại Cương vẫn tham gia
tâu trình về việc đê điều. Tuy nhiên, đến tháng 8-1831 sách này chỉ chép là “Hình bộ Hữu
33 Chữ 綱 có hai cách phiên âm: Cương hoặc Cang. Trong bài viết này, chúng tôi dùng âm Cang, theo cách đọc của dòng họ. Tuy nhiên, trong bài viết, có những đoạn trích trong Đại Nam thực lục, chúng tôi tôn trọng nguyên bản bản dịch của nhóm dịch giả Đại Nam thực lục, nên để tên là Lê Đại Cương.34 Lời dẫn của Lê Đại Cang trong Lê thị gia phả, do Vũ Ngọc Liễn dịch, in trong Lê Đại Cang và Lê thị gia phả, Nxb Dân Trí, Hà Nội, 2011, tr.76.
24
tham tri lĩnh Bắc Thành Hình tào Lê Đại Cương”35; và kể từ đó không thấy sách chép
những sớ trình của ông về việc đê điều nữa. Có lẽ trong khoảng từ tháng 7 đến tháng 8
năm 1831, Lê Đại Cang đã không còn kiêm lĩnh việc Đê chính.
Như vậy là, có thể thấy Lê Đại Cang chỉ kiêm giữ chức Đê chính ở Bắc
Thành trong khoảng thời gian 3 năm. Tuy nhiên, trong thời gian này, ông đã làm được rất
nhiều việc lớn và có ý nghĩa cho sự nghiệp đê điều, trị thủy của Bắc Thành nói riêng và
của nước Đại Nam nói chung.
Khi tiễn Lê Đại Cang kiêm giữ chức Đê chính sứ, vua Minh Mệnh có dặn dò:
“Việc chống lụt quan hệ rất lớn. Ngươi là người biết lẽ, trước kia việc hình ngục ở Bắc
Thành, ngươi đến nơi là làm xong ngay. Nay trách nhiệm về Đê chính càng nặng nề. Lần
này đi, nên hết lòng xếp đặt để cho nước chảy thuận dòng, cho dân càng mừng êm sóng thì
công ấy chẳng nhỏ đâu"36.
Qua lời dặn dò của vua Minh Mệnh, cho thấy Lê Đại Cang là người làm việc rất
giỏi và có uy tín, lần này lại được cử giữ trọng trách rất nặng nề.
Trong một lần khác, vua Minh Mệnh lại nhấn mạnh: “Việc đê Bắc Thành đối với
đời sống nhân dân lợi hại không nhỏ”37. Vì thế, khi việc bất khả kháng, bị vỡ đê, thì
“những nhà bị tai nạn thì phát tiền gạo chẩn cấp. Lúa ruộng tổn thương, thì đợi án khám
cho giảm thuế”38.
Dưới đây là những việc Lê Đại Cang đã làm được trong ba năm làm Đê
chính sứ:
Lập kế hoạch xây dựng các tuyến đê, nạo vét lòng sông
Không chậm trễ, ngay sau khi được bổ nhiệm, Lê Đại Cang đã đi các trấn xem xét
đê cũ, đê mới, để lên kế hoạch chỗ nào nên bồi thêm, chỗ nào nên đắp đê mới. Trong suốt
thời gian giữ trọng trách Đê chính sứ, Lê Đại Cang đã xây dựng được hệ thống đê vĩ đại,
quan hệ rất lớn đến sự an nguy của người dân Bắc Thành, cũng như công việc sản xuất
của họ. Đó là các hệ thống đê dưới đây:
Hệ thống đê sồng Hồng, hay còn gọi là đê sông Nhị.
35 Đại Nam thực lục, Tập Ba, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004, xem các trang 182 và 211.36 Quốc Sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Tập Hai, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.774.37 Đại Nam thực lục, Tập Ba, Sđd, tr.83.38 Đại Nam thực lục, Tập Ba, Sđd, tr.83.
25
Lê Đại Cang đã đi khám xét và lên kế hoạch xây dựng tất cả gồm có 18 sở, “đều
là đại công trình cả”39, trong đó gồm có 11 sở đê mới (Kim Quan, Tiên Lạt, Đỗng Phấn
thuộc Bắc Ninh; Hải Bối, Phụng Nghĩa thuộc Sơn Tây; Phú Thị, Nho Lâm, Viên Nội,
Hào Châu, Lam Điền, thuộc Sơn Nam; Thanh Nga thuộc Nam Định, cộng dài hơn 3.950
trượng; và 7 sở đê cũ cần bồi thêm là: Thụ Ích, Hát Môn, Mạch Lũng, Đại Độ, Thạch
Thán thuộc Sơn Tây, Đại Yên Trường, Thuần Lễ thuộc Sơn Nam40 cộng dài hơn 3.590
trượng.
Công trình đồ sộ như vậy, mà chỉ trong 5 tháng có thể hoàn thành được, quả là
một kỳ tích.
Công trình bắt đầu khởi công tháng 12-1828, với đoạn đê tại xã Kim Quan; đến
tháng 4-1829, theo lời tâu của Lê Đại Cang: “Việc đê phòng, công trình lớn có 18 sở,
trong tháng có thể xong, sở công trình nhỏ thì hiện đương thực đắp”41.
Hệ thống đê sông Ngũ Huyện khê – một chi lưu của sông Đuống, tức sông Thiên Đức -
sông nhánh nhằm chia nước sông Nhị: nạo vét, khơi đào thêm.
Theo lời tâu của Lê Đại Cang, vào tháng 4-1829, nước sông Nhị, nếu thình lình
có mưa lụt, thì thế nước chảy mạnh, qua gò tràn đống rất mau, không thể ngăn được. Nếu
đê không giữ nổi thì tràn vỡ ngay. Hơn nữa, sông Nhị lại là sông xung yếu của Bắc
Thành, bên hữu có sông Hát chia nhánh đổ về hai sông Châu Cầu và Thanh Quyết; bên tả
có sông Nguyệt Đức ở huyện Yên Lạc, sông Thiên Đức ở huyện Đông Ngàn, đều chảy
xuống Bắc Ninh, Hải Dương, rót vào sông Lục Đầu, không sông nào là không chia thế
nước của sông Nhị mà chảy ra biển. Đến khi Lê Đại Cang đến thực tế thì thấy, “hai sông
Hát Môn và Nguyệt Đức có nhiều cát bồi, sông Thiên Đức lại cong queo, nông hẹp, tắc
mà không thông, mỗi lần nước lụt chảy mạnh thì các sông Lô, Thao, Đà, Đáy đổ thẳng
sông Nhị, hai sông Hát Môn, Nguyệt Đức đến kỳ nước lụt còn có thể đầy tràn mà chảy
39 Đại Nam thực lục, Tập Hai, Sđd, tr.792.40 Xã Kim Quan thuộc huyện Gia Lâm, các xã Hải Bối, Mạch Lũng, Đại Độ thuộc huyện Yên Lãng, thôn Dụng Nghĩa, xã Thạch Thán thuộc huyện Yên Sơn [hiện nay là huyện Quốc Oai, Tp. Hà Nội], xã Phú Thị, Thuần Lễ thuộc huyện Đông Yên [hiện nay thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên], xã Nho Lâm thuộc huyện Kim Động [nay thuộc tỉnh Hưng Yên], các xã Viên Nội, Lam Điền, Đại Yên Trường thuộc huyện Chương Đức [hiện nay thuộc huyện Chương Mỹ, Tp. Hà Nội], xã Hào Châu thuộc huyện Nam Xang [hiện nay là huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam], xã Tiên Lạt thuộc huyện Việt Yên [nay thuộc Bắc Giang], xã Đỗng Phấn thuộc huyện Yên Phong [nay thuộc Bắc Ninh], xã Thanh Nga thuộc huyện Hưng Nhân [nay thuộc tỉnh Hà Nam], xã Thụ Ích thuộc huyện Yên Lạc, xã Hát Môn thuộc huyện Phúc Thọ [hiện nay thuộc Tp. Hà Nội].41 Đại Nam thực lục, Tập Hai, Sđd, tr.847.
26
được duy sông Thiên Đức gần thượng lưu của bờ phía bắc của thành, cửa sông từng đã
cạn lấp, lại thêm bờ phía nam cồn cát nhô ra, thế nước chảy mạnh xói vào phía Bắc
Thành, làm cho bờ sông sụt lở. Nơi ấy trước có kè đá, đến nay hầu đã lở mất rồi. Thế
mà sông Thiên Đức thông hay tắc, hình như có quan hệ đến thế nước có xói vào phía
Bắc Thành hay không”42.
Vì thế, ông đã xin vét đào lại cửa sông, muốn làm được vậy thì phải “dời cửa
sông lên trên để hút nước sông, mé dưới thì tuỳ thế mở rộng ra, chỗ quanh co thì nắn cho
thẳng lại”43.
Có thể thấy, cứ những chỗ nào công việc khó khăn, vua Minh Mệnh lại cử Lê Đại
Cang đi nhận lãnh trách nhiệm. Theo chúng tôi, không chỉ bởi ông “có tiếng là chính sự
giỏi”44, mà bởi ông làm việc rất khoa học, nghĩ đến cái lợi cho dân trước tiên, có học hỏi
kinh nghiệm của những người cao tuổi, có khảo cứu nguồn gốc trước sau và khảo sát tình
hình thực tế tại hiện trường, bàn về cái lợi – cái hại của việc đắp đê, từ đó đưa ra kế sách
lâu dài cho việc phòng hộ được tốt nhất.
Ông đã nói rõ trong một bản tấu: “Bọn thần trước đi hội làm, thường hỏi thăm kỳ
mục các địa phương về chỗ hưng lợi trừ hại, thì đều nói rằng ngoài việc đê phòng không
còn cách khác. Thứ nữa thì đến bỏ đê và khai đào dòng sông mà thôi. Thiết nghĩ từ đời
Đinh Lý về trước, chưa có đê phòng, dân địa phương đào giếng cày ruộng, có hại về
nước lụt hay không thì chưa được rõ. Từ đầu đời Trần sai các lộ đắp đê để chống lụt,
dân gian từ đấy đến những nơi thấp trũng mà nhóm ở làm ăn, cho nên các đời theo đó
mà sửa đắp, xem là điều cốt yếu trong việc giữ dân và vệ nông, người ta mới nói rằng
sau khi đã có đê không thể bỏ đê được nữa”45.
Lời tâu tưởng chừng như đơn giản này lại chứa đựng ý nghĩa sâu xa, chính là cái
gốc của việc trị thủy: Xây dựng đê điều. Muốn giữ được dân và bảo vệ được mùa màng,
thì không còn cách nào khác phải xây dựng các tuyến đê phòng. Tại sao lại phải làm
vậy? Như chúng ta đã biết, một trong những đặc điểm địa lý của nước ta là hệ thống
sông ngòi dày đặc, tuy nhiên các con sông này lại không có thủy chế điều hòa. Trong
khi đó, nền kinh tế nước ta dựa căn bản là nông nghiệp, mà kết quả mùa màng phụ
42 Đại Nam thực lục, Tập Hai, Sđd, tr.893.43 Như trên.44 Quốc Sử quán triều Nguyễn: Đại Nam liệt truyện, tập 3: Chính biên – Nhị tập, Viện Sử học và Nxb Thuận Hóa, Huế, 2005, tr.386.45 Đại Nam thực lục, Tập Hai, Sđd, tr.892.
27
thuộc vào “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Yếu tố nước được đặt lên hàng
đầu. Vì thế, vấn đề trị thủy lại càng hệ trọng hơn bao giờ hết.
Viết sách về lịch sử Đê điều ở Bắc Thành
Riêng việc sửa đắp, khơi đào và xây dựng mới các tuyến đê thuộc hệ thống đê
điều của hai hệ thống sông Hồng và sông Ngũ Huyện khê của Lê Đại Cang đã rất vĩ đại
rồi. Nhưng không chỉ dừng lại ở đấy, ông còn có ý thức lưu giữ lại hiện trạng cũng như
lịch sử của các tuyến đê cho hậu thế. Ông cho khảo lược hết đê điều các trấn Sơn Tây,
Sơn Nam, Nam Định, Bắc Ninh, Hải Dương và phủ Hoài Đức, đoạn nào đắp từ năm nào,
đời nào, đoạn nào ở địa phận xã thôn nào, cùng dạng thức cao rộng bao nhiêu, dài bao
nhiêu... chép lại thành sách. Sách tổng kê các đê công tư ở Bắc Thành được làm xong và
dâng trình lên vua Minh Mệnh vào tháng 9-1829.
Sách Đại Nam thực lục chép: “Từ trước đến nay người lãnh chức Đê chính phàm
có sửa đắp, chỉ cứ theo sở tại khai báo mà giao làm, đến khi làm xong, cũng chỉ tới chỗ
đê mới mà khám biện thôi. Từ khi Lê Đại Cương chuyên coi việc đê mới đi khắp xem
xét. (...). Đến bấy giờ cứ các đê điều cho đến cống nước ở đê, họp làm sách tổng kê để
phòng xem đến”46.
Xây dựng trụ sở của cơ quan Đê chính
Khi nhận chức Đê chính, Lê Đại Cang một mình lăn lộn với cả núi công việc. Đến
tháng 2-1829, nhà vua đã nhìn nhận ra: “Việc sông bận nhiều, một mình Lê Đại Cương
khó làm xong được. Trước sai Nguyễn Văn Khoa làm Tham biện, lại là tay mới, nên
không phái thêm các viên giỏi việc cùng làm thì sợ được việc này hỏng việc kia. Nay
mưa xuân bắt đầu, việc đê chính là khẩn yếu, dẫu đã có người chuyên trách, nhưng việc
nước thì sao”47. Vì thế, vua Minh Mệnh đã “Sai Chưởng cơ Lê Thuận Tĩnh và nguyên thự
Hiệp trấn Nam Định là Hoàng Quýnh giúp việc Đê chính Bắc Thành”48.
Số người chuyên biện việc Đê chính tăng lên, vì thế, việc cần phải xây dựng một
trụ sở để làm việc là tất yếu. Cho nên, tháng 2-1829, “Dựng công đường Đê chính ở Bắc
Thành (ở cửa Nam trong thành)”49.
Phát hiện tham tang
46 Đại Nam thực lục, Tập Hai, Sđd, tr.899-890. Xem các tuyến đê cụ thể ở từng địa phương trong sách này.47 Đại Nam thực lục, Tập Hai, Sđd, tr.829.48 Đại Nam thực lục, Tập Hai, Sđd, tr.829.49 Đại Nam thực lục, Tập Hai, Sđd, tr.829.
28
Khi xét đến hai đoạn đê ở xã Dục Dương và Đường Sâm, thuộc huyện Chân Định,
tỉnh Nam Định, Lê Đại Cang phát hiện “viên Đê chính trước thiện tiện bồi đắp cao rộng
quá”, vừa gây lãng phí tiền bạc của Nhà nước, vừa làm mệt sức dân. Khi bộ Hộ và bộ
Công xét ra thì biết được, đó chỉ là đê ngăn nước biển, không phải đê chống lụt. Viên
quản Đê chính lẽ ra phải “trù tính kỹ tính giá cho xác đáng mà tâu lên rõ ràng, thế mà lại
khinh thường vội đắp đê ngăn chặn nước mặn mà làm như đê chống nước lụt, đến nỗi hại
nhiều công của thế là trong việc không đúng lại không đúng nữa”50. Phải là người rất
công tâm, thì mới phát hiện ra được những tham tang như vậy.
Luôn nghĩ đến người khác: Xin ân thưởng cho nhân viên các sở, Cai tổng, Lý
dịch
Tháng 5-1829, vì đê Kim Quan, chỗ giáp ranh giữa đoạn mới xây và đoạn cũ, đã
đắp nhiều lần nhưng thường hay bị sụt lún, vào lúc ấy nước lên cao, đe dọa bị vỡ đê; hơn
nữa, lại đê ở làng Đa Hòa, huyện Đông An [nay thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng
Yên], sửa đắp chưa xong, mà những người đắp thuê phần nhiều lười mà bỏ đi, là người
chịu trách nhiệm công việc Đê chính, Lê Đại Cang bị giáng 3 cấp.
Đến tháng 8-1829, sau khi nước rút, đê phòng hộ đã khôi phục kịp thời, không bị
vỡ, bảo đảm được tính mạng người dân và mùa màng, vì thế, nhà vua đã khôi phục lại
phẩm cấp cho Lê Đại Cang và những người liên quan.
Lê Đại Cang không hưởng ân một mình, mà còn nghĩ đến cả những Cai tổng, Lý
dịch cũng tham dự vào công việc đắp đê, mà chưa được dự thưởng, vì thế ông đã tâu xin:
“Các quan trấn, phủ, huyện ở các trấn Sơn Nam, Nam Định, Sơn Tây, Bắc Ninh cùng Cai
tổng, lý dịch, dự vào việc đê, tự năm trước hưng công đến năm nay nước yên, ngày đêm
làm việc công, không dám lười bỏ, xin lượng gia ân thưởng”51.
Tuy nhà vua còn trách “nghĩ lại đến việc vỡ đê năm trước, các viên làm việc phần
nhiều mắc tội, mới giáng ân dụ khai phục đó là đặc cách vậy. Sao được thấy thế mà nhất
khái xin ơn cho nhân viên các sở, cho đến lý dịch ty tiện”52, nhưng cũng hạ lệnh “Duy sở
Kim Quan tình hình gian hiểm gấp mấy chỗ thường, mà ngày đêm sang hộ, nguy mà lại
50 Đại Nam thực lục, Tập Hai, Sđd, tr.804.51 Đại Nam thực lục, Tập Hai, Sđd, tr.887-888.52 Đại Nam thực lục, Tập Hai, Sđd, tr.887-888.
29
yên thì cũng nên nghĩ đến. Nay nên xét rõ tự trấn, phủ, huyện đến Cai tổng, từ trước đến
nay làm việc đê, như người nào đắc lực nhất thì khai danh sách tâu lên đợi chỉ, chớ được
giả mạo quá lạm chút nào”53.
Trong thời gian làm Khâm sai quản lý việc đê chính, Lê Đại Cang không
chỉ được khen thưởng nhiều lần, mà cũng có lúc bị phạt.
Dưới đây là những lần được thưởng và bị phạt của ông, cũng như nguyên nhân
của nó, được chép trong sách Đại Nam thực lục54:
Thời gian
Thưởng Phạt
2-1828
- Thưởng 100 quan tiền.Lý do: Vì công trình đê điều
trên sông Hồng “lớn như vậy” mà “duy một mình Cương làm, kể cũng khó nhọc”55.
2-1829
- Thưởng 50 quan tiền.Lý do: Khích lệ làm việc.
5-1829
- Giáng 3 cấp.Lý do: Vì nước lên cao, đê
Kim Quan có nguy cơ bị vỡ. Đồng thời, đê ở làng Đa Hòa đang khởi công, thợ lười việc bỏ nhiều. Lê Đại Cang là quan chuyên biện, phải chịu trách nhiệm.
8-1829
- Được khôi phục lại phẩm hàm.
Lý do: Đê Kim Quan đã được cứu chữa kịp thời.
7-1830
- Bị giáng cấp.Lý do: Vì việc đê ở xã Lưu
Khê, thuộc Sơn Nam bị vỡ.9
-1830- Khôi phục phẩm hàm, bổ
nhiệm Hình tào Bắc Thành, kiêm lĩnh Đê chính.
Lý do: Khắc phục được đoạn đê vỡ ở Lưu Khê.
53 Đại Nam thực lục, Tập Hai, Sđd, tr.887-888.54 Xem trong Đại Nam thực lục, Tập Hai và Tập Ba, Sđd.55 Đại Nam thực lục, Tập Hai, Sđd, tr.804.
30
Như vậy, có thể thấy rõ, trong 3 năm kiêm quản công việc đê chính, ông
đã được thưởng 4 lần và bị phạt 2 lần, đều liên quan đến việc đê điều.
Qua tần suất được thưởng của Lê Đại Cang, cho thấy nhà vua và triều đình nhà
Nguyễn rất quan tâm đến công việc đê điều, thủy lợi của Bắc Thành, mặt khác, cũng cho
thấy sự ghi nhận của triều đình về công lao của Lê Đại Cang trong nỗ lực xây dựng hệ
thống đê phòng lũ lụt cũng như trong việc khắc phục những hậu quả của lũ lụt gây ra.
Tóm lại, với thời gian làm việc đê điều, trị thủy không nhiều - 3 năm,
nhưng Lê Đại Cang đã để chỉ đạo xây dựng được một “đại công trình”, gồm xây dựng
mới và tu bổ được 18 tuyến đê; đồng thời cho nạo vét và gia cố các tuyến đê sông Ngũ
Huyện khê, một giải pháp giải phóng nước từ thượng nguồn đổ về khi bị lũ lụt, tránh
nguy hại đến những tuyến đê sông Nhị, ngay sát thành Bắc Thành. Không những thế, ông
còn lăn lộn tới hiện trường, để lại dấu ấn của mình trên từng tuyến đê. Điều đó được thể
hiện trong bộ sách tổng kê các đê công tư ở Bắc Thành mà ông dâng lên triều đình. Đây
chính là một trong những sự nghiệp để đời của ông, nó vẫn còn giá trị cho đến hôm nay.
Hà Nội, Chớm Đông, 2012
NVHH
31
NHO TƯỚNG LÊ ĐẠI CANG VÀ BÍ TRUYỀN QUA MỘT CUỐN GIA
PHẢ
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
Sau khi đọc xong cuốn sách "Lê Đại Cang và Lê thị gia phả"(1), trong trí óc tôi
chợt hiển hiện một vị nho tướng "lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa" (Huy Cận) - một
hình ảnh lãng mạn đầy sức cuốn hút của thời mới bước chân vào học đường văn
khoa...Cái cảm xúc ban đầu ấy của tuổi trẻ hòa nhập vào cái âm hưởng bi tráng do văn
chương cổ- trung- cận đại Việt Nam đem lại cho tôi suốt mấy chục năm ròng sau đó. Cái
bi tráng của những sự nghiệp cháy bỏng khát vọng "đền nợ nước trả thù nhà", cái bi tráng
của những số phận oan trái giữa cơn lốc lịch sử- trong khi vượt qua tấn "bi kịch nhân
cách của nhà nho và bi kịch của hệ tư tưởng quan lại"(2) đã tự bộc lộ phẩm chất kẻ sĩ gửi
cho đời sau những bài học làm người sâu sắc và thấm thía...
Danh nhân Lê Đại Cang mà tôi mới được biết đến từ sau khi được nhà báo
Nguyễn Thế Khoa đưa tới thăm nhà thờ họ Lê làng Luật Chánh, huyện Tuy Phước, Bình
Định vào giữa năm 2012 đã giúp tôi thêm hoàn chỉnh "bức chân dung" về các nho tướng
mà tôi hằng yêu kính, ngưỡng vọng- tiếp nối vào cái danh sách đáng tự hào đối với mỗi
con dân nước Việt: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ,
Cao Bá Quát, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Cao, Phan Đình Phùng, Lê Văn Duyệt, v.v.
Đọc kỹ "Lê thị gia phả", tôi ngẫm thấy: thân thế, hành trạng và đời sống tâm hồn
của cụ Lê Đại Cang có nhiều nét song trùng với cụ Nguyễn Công Trứ, cụ Cao Bá Quát...-
những danh nhân đã được một số nhà nghiên cứu văn học xếp vào loại "nhà nho tài tử".
Trong một công trình nghiên cứu, ông Trần Ngọc Vương viết: "Ra đời trong một xã hội
có Nho giáo là hệ tư tưởng chính thống, nhà nho tài tử bị hấp dẫn bởi một hình tượng
chính thống, quan niệm về người "đại trượng phu". Đại trượng phu, hay người hào kiệt là
loại nhân vật xuất chúng, vượt lên trên quần chúng cả về tầm cỡ của trí tuệ, tài năng, lẫn
những hoài bão, ước vọng to lớn"(3). Theo ông Trần Đình Hượu, nhà nho tài tử là người
có tài trị nước, cầm quân, học vấn cao siêu, tài văn chương ở mức "nhả ngọc phun châu",
biết "cầm kỳ thi họa", và phải có cả "tình" nữa! (4) Soi lại Gia phả họ Lê làng Luật Chánh,
ta đọc chính lời cụ Lê Đại Cang kể: cụ đã được theo học hai vị tôn sư danh tiếng là Thị
giảng triều Tây Sơn Nguyễn Tử Nghiễm và Thượng thư bộ Lễ triều Nguyễn Đặng Đức
Siêu, "Trong vòng năm sáu năm quên ăn quên ngủ để dùi mài kinh sử. Khi được bạn giỏi
văn liền theo học hỏi, bất chấp người ta cười chê". Nhờ đó mà cụ "sớm nổi tiếng là một
danh sĩ học vấn uyên thâm văn chương lỗi lạc."(Chuyện cũ kẻ sĩ Bình Định-Lộc Xuyên
32
Đặng Quý Địch). Sách "Đại Nam nhất thống chí" (Quốc sử quán triều Nguyễn) ghi lại:
"Lê Đại Cang nổi tiếng văn học...Ông có soạn các sách Nam hành, Tục Nam hành, Tĩnh
ngu thi tập". Sách "Đại Nam chính biên liệt truyện" (Cao Xuân Dục) chép: "Đến Cang
mới lấy văn học được hiển đạt...Có tiếng là người giỏi thời bấy giờ...Cang là người hào
mại phóng dật, ở đâu thường bày bút mực, sách vở, đàn, chén uống rượu, hoa, cây để tự
thích...". Theo nhà báo Nguyễn Thế Khoa, cụ là người đã sáng lập nên Văn chỉ Tuy
Phước, thu hút nhiều văn nhân tài hoa tỉnh Bình Định tới để đàm đạo văn chương thế
sự... Tuy chưa tìm thấy ba tác phẩm cụ để lại, nhưng qua sử sách và những lời truyền
tụng của người đương thời cho tới nay, với học vấn, tâm hồn, khí phách mà cụ đã bộc lộ
qua hành trạng cùng Gia phả, chúng ta có cơ sở tin rằng đó là những áng văn chương có
khả năng lưu danh thiên cổ; và sinh thời, chắc hẳn tác giả của chúng cũng là người mắc
"Nợ phong lưu" (Nguyễn Công Trứ), thậm chí còn trầm trọng hơn với "Phong vận kỳ oan
ngã tự cư"- (Chính tự mình chuốc lấy cái oan phong vận- Nguyễn Du). Dễ hiểu vì sao
con người "Giắt lỏng giang sơn vào nửa túi" tựa Nguyễn Công Trứ đó đã chinh phục
được bà Lê Ngọc Phiên xinh đẹp làm vợ thứ, để một quận chúa triều Lê có đủ công dung
ngôn hạnh theo cụ rong ruổi "nợ tang bồng" khắp Bắc Nam... Còn tài kinh bang tế thế, tài
cầm quân kiệt xuất- như tiêu chí của loại hình nhà nho tài tử đòi hỏi, thì ở cụ Lê Đại
Cang đã trở thành "huyền thoại" mà rất nhiều công trình nghiên cứu, bài báo viết về cụ đã
khẳng định và xác nhận những điều chép trong Gia phả. Là một người làm phim truyện,
tôi đặc biệt thích thú với hai sự kiện trong cuộc đời binh nghiệp đầy bi hùng gian khổ
những cũng đượm màu sắc "tài tử" của cụ: sự kiện đầu tiên, vào năm 1833, trong cảnh
ngộ từ một đại quan văn bị cách chức thành lính khiêng võng phải ra trận đi đầu lập công
chuộc tội, cụ đã tự chiêu tập binh mã, trở thành một võ quan đích thân huấn luyện một
đội quân hỗn hợp Việt - Miên và góp phần đánh bại quân phiến loạn & quân xâm lược.
Và sự kiện thứ hai, vào năm 1839, khi đang là tham tán đại thần bảo hộ Cao Miên, cụ lại
bị cách chức một cách nhục nhã bởi bất tuân mệnh triều đình theo lối ngu trung; và trong
thân phận một anh lính khiêng võng sung tiền quân hiệu lực, cụ lại nhận lãnh việc tổ chức
và huấn luyện lại đội binh đang rời rã kỷ luật và yếu kém kỹ năng chiến đấu, biến nó
thành đội hùng binh đánh giặc Chân Lạp. Vì sự kiện này mà cụ đã bị vua Minh Mạng
khép vào tội mất đầu cho "trảm giam hậu": "Đại Cang tội cách hiệu, sao dám tôn mình là
đại tướng? Chẳng sợ phép nước, chẳng kể công luận."(Theo "Quốc triều chính biên toát
yếu"). Hai sự kiện khá giống nhau như trên giúp chúng ta càng nhận rõ bản lĩnh và nhân
cách của cụ Lê Đại Cang. Thử nghĩ: một người đang là lính khênh võng, sao lại có thể
kêu gọi được người khác quy tụ dưới ngọn cờ lệnh của mình, sao có thể thuyết phục nổi
vị thống lĩnh nọ trao quyền cho mình huấn luyện quân sĩ? Cụ không có thuật phù thủy gì
cả, ngoài tiếng tăm về đức độ và tài năng đã thấm sâu vào nhiều tầng lớp "dân đen con
33
đỏ", ngoài những việc làm cụ thể với tất cả ý thức trách nhiệm về công vụ, với lòng yêu
nước thương dân sâu xa, và cả lòng nhẫn nhịn phi thường nữa trên cơ sở đại lượng, hiểu
thấu sự đời & lòng người như một trong những biểu hiện của Phật tính. Cái bí quyết
thành công để "huấn luyện kỹ càng biến dân ô hợp thành đội quân chính quy" cụ kể lại
thật chân chất, cảm động cho thấy nó có sức thuyết phục hơn mọi lời rao giảng đạo nghĩa
hùng biện, đó là: "Cùng sống với họ như con em"... Tôi cứ miên man nghĩ ngợi mãi về
những bí ẩn đằng sau hai sự kiện lạ lùng đó mà trong lịch sử chiến trận xưa nay, có lẽ
trường hợp của cụ là độc nhất vô nhị! Biết bao tình tiết thú vị, gay cấn, xoay quanh cái
thử thách khổng lồ đối với một người ở cương vị quá bé nhỏ mà dám kiên cường chọi lại
định mệnh sắt thép, buộc nó phải phục tùng mình khiến người đọc người xem phải hồi
hộp chờ đợi, phải lo lắng thắt tim hay dạt dào xúc động, cảm phục- một khi chúng được
thể hiện bằng tiểu thuyết hoặc phim lịch sử! Phải là một trái tim kiên cường và tha thiết
với vận mệnh đất nước & dân tộc đến thế nào mới "Chẳng sợ phép nước, chẳng kể công
luận" như vua đã quy tội một cách bất công mà ở tầm trí thức đó cụ thừa hiểu là nó sẽ
giáng vào mình khi hành động như vậy! Mặc dù cụ không rơi vào bi kịch "Thiên giáng
kỳ tài vô dụng xứ"- trời cho tài lạ nhưng chẳng dùng được vào đâu (Nguyễn Du-Bắc hành
tạp lục), nhưng vốn là một "anh hùng thời loạn", với học vấn và từng trải, cụ chắc thấm
hiểu cái nóng lạnh của thời thế đảo điên mà Cao Bá Quát từng hãi hùng: "Bước đường
bằng phẳng thì mờ mịt, bước đường ghê sợ thì nhiều" (Thản lộ mang mang úy lộ đa- Sa
hành đoản ca). Nguyên nhân sâu xa của thực tế này đã được nhiều nhà nghiên cứu vạch
rõ, đây là một nhận định tiêu biểu: "Các nhà vua Nguyễn cho đến trước khi thực dân
Pháp xâm lược đã áp dụng hàng loạt chính sách đi ngược lại với hướng vận động tiến hóa
của lịch sử, ngược lại với những đường lối, chủ trương trước kia của các chúa Nguyễn,
các bậc tiền bối trực tiếp, hay trong trường hợp vua sáng nghiệp Gia Long, là đi ngược lại
chính mình."(5) Chúng ta hãy cùng nhớ lại những lần Nguyễn Công Trứ hoảng hồn kêu
than "Trời già sao tai ác thế" khi bị đóng gông giải về kinh bởi buộc tội mưu phản, hoặc
bị khép tội "trảm giam hậu" bởi kháng chỉ; hãy nhớ đến cái án bị đóng xiềng lên mộ sau
khi chết đối với Tả quân Lê Văn Duyệt; hãy nhớ đến cái chết oan nghiệt của cha con
thống chế Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường vì án văn tự...
Sau khi đã tạm thỏa cái "Chí nam nhi" như tên một bài thơ của Nguyễn Công Trứ,
trên "con đường làm quan cay cực", khi hưu quan, cụ Lê Đại Cang đã dồn sức làm công
việc "Chép lại chuyện cũ/Nhằm phát triển đạo hiếu" cùng với việc sửa sang Từ đường
dòng họ. Và, có một điều rất lý thú song không hề bất ngờ là: cụ đã cho làm một cái am
nhỏ gần từ đường đặt tên là Giác Am, tự lấy hiệu là Giác Am cư sĩ để bắt đầu sống với
"độc hạc, cô vân", ngẫm về lẽ vô thường của cõi đời và tu thiền trong thế giới ẩn dật hằng
mong mỏi (Thời loạn đi về như hạc độc/Tuổi già hình bóng tựa mây côi). Thực ra đó
34
cũng là chí hướng của những danh nho tiết tháo mọi thời. Nguyễn Trãi từng tâm sự:
Đừng lạ, nếu một ngày nào đó tôi cũng sẽ tu thiền (Lân kỳ ngã diệc thượng thừa thiền).
Vua Trần Nhân Tông sau khi cùng quân dân Đại Việt hai lần đánh thắng giặc Nguyên
Mông đã cởi hoàng bào mặc áo tu hành trên ngọn Yên Tử, trở thành Phật hoàng. Nguyễn
Bỉnh Khiêm khi rời thế sự liền dựng quán Trung Tân, lập am Bạch Vân. Ngô Thời Nhiệm
bỏ mũ quan trường liền tự mệnh là Trúc Lâm đệ tứ tổ, viết sách về Phật giáo (Trúc Lâm
tông chỉ nguyên thanh). Trong phần IV "Thuật lại sự việc nhà Lê" của "Lê thị gia phả",
đặc biệt là với những người chuyên tâm xuất gia sùng đạo Phật trong dòng họ mình, cụ
Cang đã kể lại bằng một niềm say mê, yêu kính, trân trọng khác thường- như về cụ tổ đời
thứ 5 thuộc chi thứ nhất, cụ Bá Hòa, là người "thờ thầy rất kính cẩn...Tuy rằng gia kế
ngày càng sa sút, song vẫn tự tin, bảo vợ con chăm nghề làm ruộng và dệt vải mà sống,
không bao giờ bước đến cửa nhà giàu...lúc 50 tuổi quyết chí xuất gia, tu ở chùa Sa Môn
Thiện xá, với pháp danh Hải Thuận"; như về chi thứ hai (tổ thứ 5) cụ Thúc Linh có người
con trai đầu "là người từ nhỏ đã hâm mộ đạo Phật, tự quy y, chuyên học Phạn giáo lập
chùa làm tăng, lớn lên tinh thông và giảng giải nghĩa các kinh Phật, tăng đồ đều tôn xưng
là đại sư, chết chôn ở vườn chùa Vinh Hoa". Về người con trai thứ 4 của cụ Thúc Linh là
cụ Bá Nam- Thủ tọa đại sư chùa Linh Sơn, một danh y: "Ông thường nói với mọi người:
sinh chẳng gặp thời, vừa đi tu, vừa làm thuốc, há có lòng nào khác, cái đạo là ở chỗ để
cứu người. Cho nên ông chữa bệnh không cần đền đáp, không cần tiền, chu tất với người
nghèo khổ. Mọi người trong họ không ai chịu ơn..." Đặc biệt nhất là những dòng viết về
người con trai thứ ba của cụ Thúc Linh- ông Khắc Văn: "Lúc còn trẻ đã khác
thường...Nhà sư tính khoan hậu, hay cứu người, không tiếc của, thấy việc nghĩa là làm dù
hết nhà cũng được, đứng trước việc ngang trái không hề sợ sệt, làm người như vậy rõ trời
phú tính".Vị sư này viết chữ đẹp nên được tiến cử vua làm bổ dụng làm Thị thư, nhưng
"mỗi khi nhìn việc nước ngày càng tệ hại" thì đều khóc những giọt nước mắt của lòng tự
trọng, của nỗi khát khao được làm nhiều điều thực có ích cho Dân Nước: "Ăn thì ăn tới
nơi, khi có việc thì chết điếng, cái chức của kẻ bầy tôi này nó thế, phận tôi cầm bút chép
sách, nhưng chẳng lấy việc bút nghiên thờ người khác làm đủ". Và tác giả cuốn Gia phả
đã hạ lời bình luận khá kỳ lạ: "Vì chiếc mão quan của một thời, cho nên lúc bấy giờ từ
công khanh, đại phu, đến sĩ thứ chen nhau chi chít mỗi nhà đội mấy chiếc, vậy mà nhà sư
há còn mang danh nhà thư pháp (của cung đình- Người viết chú thêm) nữa ư?" Cụ Lê Đại
Cang đặt mình trong tâm trạng của nhà sư viết chữ đẹp đó để tự thán và thốt lên nỗi thất
vọng của mình đối với triều đình & thời cuộc.
Qua những thân thế vừa kể trên, chúng ta có thể nhận ra tâm sự thầm kín của cụ
Lê Đại Cang: việc cụ phải sử dụng tới thanh đại đao để dẹp loạn, diệt giặc ngoại xâm là
tuy là việc nghĩa nhưng đó là công việc bất đắc dĩ của một thời, còn việc lâu dài có ý
35
nghĩa cao thượng nhất chính là tu dưỡng tâm tính để hoàn thiện mình đặng có thể quảng
bá lòng nhân hậu và các vẻ đẹp khác của tình người cho đồng bào trên tinh thần của Phật
tính. Trong thời đại nho giáo độc tôn, và bản thân cụ Cang tự nhận "Nhà ta đời đời vốn
theo nghiệp nho" (Lời dẫn của Gia phả), mà cụ Cang vẫn nhận thấy sự cấp bách phải khôi
phục lại tinh thần Phật giáo chân chính của dân tộc - như một biểu hiện sáng rõ của Nhân
tính, Việt tính- điều này cho tới hôm nay càng có ý nghĩa thời sự nóng hổi! Phải chăng đó
cũng là một trong những bí truyền lớn nhất được ẩn sâu trong tập gia phả quý báu này- có
giá trị không kém nếu không muốn nói là hơn những bí truyền được lưu giữ trong các gia
phả quý khác- ví như các bí truyền về ba phái võ Tây Sơn ở miền trung của các họ Trần
(Trần Quang Diệu), họ Bùi (Bùi Thị Xuân), họ Hồ (môn phái chính của ba anh em
nguyễn Huệ)- đều đã trở thành tài sản tinh thần vô giá, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam
ta...
Hà Nội, cuối tháng tháng 11-2012
_________________
1. Nxb Dân Trí- Hà Nội, 2011 (Vũ Ngọc Liễn dịch)
2.Viện sĩ Alêchxêep - Dẫn theo Trần Ngọc Vương- "Loại hình học tác giả văn
học: Nhà nho tài tử và văn học VN"-Nxb Giáo dục, 1995- tr.64
3. Sđd. Tr. 83
4. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng- "Văn học VN 1900-1930"- Nxb Giáo dục,
1988
5. Trần Ngọc Vương... Sđd. Tr. 98
36
LÊ ĐẠI CANG –
TÀI HOA KẺ SĨ TUNG HOÀNH TƯỚNG TRẬN
Phạm Đức Hùng
Một con người, một nhân cách, sừng sững trước bão táp, oai hùng và nồng ấm
trong lòng dân, ngang tàng và dũng mãnh trước kẻ thù, chinh phục vua và quan triều đình
bằng khí phách và tính phóng khoáng, bản lĩnh nhẫn nhịn: đó là Lê Đại Cang.
Cuộc đời ông, sự nghiệp ông đầy tài hoa, văn võ song toàn, ngời ngời bản sắc.
Hơn 40 năm làm quan, từng tung hoành ngang dọc, ngược xuôi dẹp loạn quân Chân Lạp,
đánh đuổi tan tác quân ngoại xâm Xiêm La, từng được thăng quan tiến chức 14 lần, rồi
hai lần bị giáng chức, mất quan. Hơn thế, là ông quan đã một lần bị kết án "Trảm giam
hậu", là phạm nhân bị giam cầm chờ chém.
Lê Đại Cang sinh vào năm 1771 tại làng Phú Nhơn, huyện Tuy Viễn xưa, còn nay
là thôn Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, Bình Định. Thủy tổ của ông là Lê
Công Triều, từng làm quan dưới triều Nguyễn, sau đó tháp tùng chúa Nguyễn Hoàng vào
lập nghiệp nơi huyện Bồng Sơn - Bình Định. Theo Lê thị gia phả ông biên soạn năm
1826, ông tự sự: Cả nhà ta đời đời theo nghiệp nho... Thuở nhỏ, cha dạy tôi kinh thi, kinh
lễ, 16 tuổi từng theo học quan thị giảng tuần Tây Sơn - Nguyễn Tử Nghiêm là cha của
Thượng thư Bộ hình triều Nguyễn là Nguyễn Tử Diệu. Rồi ông lại được thọ giáo Thượng
thư bộ lễ triều Nguyễn Đặng Đức Siêu. Đến năm 21 tuổi (1792) vào thời loạn chiến
tranh, không có điều kiện làm theo chí hướng và lời chỉ dẫn của tổ tiên... Bởi vậy, chỉ
biết nhờ thầy mà ôn luyện, rèn dũa văn chương trong suốt 10 năm. Mười năm đó vừa dạy
học, vừa kiếm sống, vừa lặng lẽ miệt mài học võ, nghiên cứu nghiêm túc, sâu sắc các tập
binh pháp, rèn quân... Vốn có một dáng vóc cường tráng, sức mạnh phi thường nên côn
đao hay vũ khí gì ông cũng sử dụng thành thục và linh hoạt. Đặc biệt, thanh đại đao Lê
Đại Cang thường sử dụng trong trận mạc vừa dài, vừa nặng, không khác gì các thanh đại
đao mà Thái tổ Cao nhân Mạc Đăng Dung hay Hoàng đế Quang Trung năm xưa sử
dụng...
37
Thân thế và sự nghiệp văn chương cũng như quan triều của Lê Đại Cang được ghi
lại trong nhiều sử sách như: Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam chính biên liệt truyện,
Danh nhân bình định, Các nhân vật lịch sử Bình Định... Bởi vậy, trong các trang viết
này, tôi không đề cập nhiều về sự nổi tiếng và văn chương thơ phú, trí tuệ và tài năng
ngoại giao của Lê Đại Cang mà chỉ đề cập chủ yếu về tài thao lược, nghệ thuật quân sự
và nghệ thuật làm quan của ông.
Năm đầu Gia Long (1802) trấn thần Bình Định là Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn
Hoài Quỳnh tiến cử Lê Đại Cang dự tuyển và được chọn rồi bổ vào chức Huyện Doãn (tri
huyện) Tuy Viễn. Và từ đó, con đường làm quan của ông cứ tiến đều đều: Làm Kiểm sự
bộ binh (1810), Làm Hiệp trấn Sơn Tây năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) rồi dần dần ông
tiến về phương Nam làm Cai bộ Quảng Nam, Cai bộ Vĩnh Long, tham tri bộ hình 1829,
rồi lại tiến ra Bắc làm quản lý bờ đê Bắc Thành (1831), Thượng thư Bộ binh kiêm Hữu
đô Ngự sử (1832)...
Hình như có một sự trùng lặp nào đó giữa 3 con người này, 3 tầm vóc lớn lao của
lịch sử phong kiến Việt Nam: Thái tổ Mạc Đăng Dung, Hoàng đế Quang Trung và Lê
Đại Cang - 3 thời khác nhau, nhưng cùng là người con của biển, được hít thở không khí
trong lành và giàu âm thanh của Biển Đông, được phóng tầm mắt ra mênh mông biển cả
nên 3 nhân vật lịch sử nổi tiếng này đã hội tụ, kết tinh chung không chỉ một dáng vóc
vạm vỡ của một dân chài, mà còn cao vút trí tuệ bản lĩnh và tầm nhìn thật xa và khoáng
đạt...
Một người con xứ Bình Định - Tây Sơn, Lê Đại Cang cũng từng được vua Minh
Mệnh điều ra làm Quyền Tổng trấn Bắc thành, Tổng đốc 3 tỉnh Sơn - Hương - Tuyên
kiêm lãnh Hà Nội rồi Ninh Bình Tổng đốc sự vụ... Vào năm Minh Mệnh thứ 14, Lê Đại
Cang lại được đưa vào làm Tổng Đốc 2 tỉnh An Giang, Hà Tiên kiêm lãnh trách vụ bảo
hộ Chân Lạp. Giữa năm Minh Mệnh thứ 14, Lê Văn Khôi nổi loạn làm binh biến, tỉnh An
Giang bị thất thủ. Vì lẽ đó, Lê Đại Cang bị triều đình giáng chức xuống làm "đoái tì binh
dõng tiền quân hiệu lực" có nghĩa là khi xông trận phải luôn là quân tiên phong để lập
chiến công chuộc tội!
Với bản lĩnh của một tướng tài, một nhân cách lớn cùng với quân chi viện của
triều đình, Lê Đại Cang đã điều binh khiển tướng đầy mưu lược, tả xung hữu đột xông
38
pha trận tuyến và đã giành chiến thắng: tái thu hồi được cả vùng đất thị thành dân cư đã
mất trước đó! Với chiến tích hiển hách này, Lê Đại Cang đã được triều đình khôi phục
chức Viên ngoại lang lãnh án sát sứ An Giang. Thế nhưng gió chưa lặng, sóng chưa yên,
cuối năm Minh Mệnh thứ 14 (1838), Lê Văn Khôi ôm hận và nhục nhã cầu cứu vua
Xiêm. Nhân cơ hội, vua Xiêm xua quân ào ạt tiến đánh Hà Tiên, Cam Lộ, Cam Cát, Nam
Vang và Trấn Ninh bằng 5 cánh quân thủy bộ và mũi tiến công và mục tiêu cơ bản của
vua Xiêm chính là Chân Lạp và Nam Kỳ! Trong thế cuộc nước sôi lửa bỏng đó, triều
đình cấp tốc điều quân lính thủy bộ vào kết hợp với quân sĩ tiền tiêu giao chiến ác liệt với
quân Xiêm để bảo vệ bờ cõi. Vào thời khắc đó, Lê Đại Cang điều bộ binh theo hướng
Quan Hóa tiến về chi viện và giành giật lại Nam Vang - một địa bàn chiến lược!
Tuy vậy, vừa mới đến Chân Lạp, Lê Đại Cang đã được tin Nam Vang đã thất thủ,
Quốc vương Nặc Ông Chân bỏ kinh thành mà chạy tháo thân. Bằng ý chí và tài thao
lược, ông đã động viên binh lính, tập hợp các lực lượng quân nghĩa dõng địa phương,
quân Miên đã tan tác cùng với quân bản bộ thành một đạo quân hùng mạnh được truyền
niềm tin và ý chí xả thân vì sự nghiệp lớn tung hoành ngang dọc, lập công giòn dã, chiến
thắng liên tục, chia cắt các đội quân đối phương, chặn đứng và triệt phá các hướng tiếp tế
lương thực của quân Xiêm. Tướng Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân sau khi dẹp yên
và giành lại Hà Tiên, dồn binh thủy bộ đến Chân Lạp phối hợp với đoàn quân của Lê Đại
Cang đánh tơi tả quân Xiêm, buộc tướng Xiêm là Phi Nhã Chất Tri phải thu gom tàn
quân rút chạy khỏi Nam Vang chuồn về nước.
Nhờ chiến công oanh liệt này, Lê Đại Cang được triều đình tái bổ nhiệm làm
Tuần phủ An Giang và Hà Tiên! Và từ đấy, ông lưu lại xứ Nam Vang để giữ yên bờ cõi
thiêng liêng!
Năm Minh Mệnh thứ 15 (1834), vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân được đón về
nước. Cuối năm, vua Chân Lạp băng hà, nhưng bởi ông vua này không có con trai nối
ngôi nên vua Minh Mệnh đã phong con gái ông là Angmey làm Quận chúa, với danh là
Ngọc Vân quận chúa, đồng thời vua Minh Mệnh đổi tên nước Chân Lạp thành trấn Tây
Thành, vua cũng đã bổ nhiệm Trương Minh Giảng làm tướng quân và Lê Đại Cang làm
Trấn Tây Tham Tán Đại thần. Nhưng Lê Đại Cang năm ấy đã vào tuổi 65, dâng sớ lên
vua xin từ quan về điền viên nơi quê nhà vì nước đã yên bình. Tuy vậy, vua Minh Mệnh
không phê chuẩn bởi lý do "Lão đương ích tráng" (tuy có tuổi già mà còn khỏe) nên Lê
39
Đại Cang lại tiếp tục phụng sự triều đình. Với tính khảng khái, cương trực của người
miền Trung và miền biển, thời khắc này Lê Đại Cang có một số tư duy và nhận định
không trùng với chủ trương của triều đình.
Lê Đại Cang không đồng tình với ý định cai trị Chân Lạp trực tiếp, biến Chân Lạp
thành một nước chư hầu của Đại Việt! Lê Đại Cang đề xuất chỉ nên bảo trợ và giúp đỡ
Chân Lạp, để cho người Chân Lạp tự cai quản và phát triển. Còn quân lính Việt Nam chỉ
đồn trú, đóng quân canh giữ bảo vệ biên giới, bờ cõi.
Bởi vậy, triều đình điều ông về làm tuần phủ An Giang là chính, còn giao cho
Trương Minh Giảng lo bảo hộ Cao Miên. Năm 1838, uất ức trước sự cai trị hà khắc, dân
bản xứ lập thành các đội quân nhỏ lẻ nổi lên khắp nơi, làm rối loạn vùng Tây Nam buộc
quân triều đình phải rút về đất An Giang. Trớ trêu thay, Trương Minh Giảng lại làm sớ
tâu với triều đình đổ lỗi thất thủ tại Cao Miên là do Lê Đại Cang. Thế là, một lần nữa soái
tướng lừng danh Lê Đại Cang lại bị giáng chức xuống lính trơn và điều ra làm quân thứ
Hải Đông ở Đạo Trà Gi. Buồn thay, trên đường đến miền đất mới tướng Lê Đại Cang
phải làm lính cáng võng. Chưa hết, tưởng thế là tận cùng của số phận - của sự nghiệp làm
quan (quá thấu hiểu cái sự đời "quan nhất thời - dân vạn đại" - mà ông đã dấn thân),
nhưng than ôi, khi về đến Trà Gi, dù đã bị lột hết chức tước - hàm quan - dù hôm qua
còn là lính khiêng võng, trước cảnh tổ chức quân thứ quá lộn xộn, kỷ luật quá lỏng lẻo,
quân đội mà không có sức chiến đấu - Lê Đại Cang lại nổi máu "vị quốc quên thân" vận
dụng năng lực tổ chức từng được tích lũy nhiều năm qua lập lại trật tự, xây dựng hệ thống
quân đội có nề nếp, quy củ, chỉnh đốn lại mọi hoạt động của binh lính để sẵn sàng bảo vệ
quê hương. Nào ngờ, lòng trung với nước, lo cho dân cao cả của vị tướng già đã bị tên
"quan tham - quan đểu", kẻ vừa lên thay ông làm Tham Tán Đại thần Trương Minh
Giảng lại hèn hạ dâng sớ tố cáo Lê Đại Cang lạm quyền ! Vua xa, chỉ loanh quanh chốn
triều đình lại nghe lời xu nịnh, tâu đểu, đã kết án vị tướng già đầy công trạng, thừa lòng
yêu nước như sau: "...Đại Cang là kẻ bị cách chức, phải xung tiến quân hiệu lực mà hành
động như một viên đại tướng, không sợ phép nước, chẳng kiêng công luận, đáng làm án
trảm giam hậu (chờ sau sẽ chém!)...". Thế là, Lê Đại Cang bị giải về cung và nhốt vào
ngục tối! Vậy mà, vị tướng già bị vua coi đã tung hoành như một vị đại tướng khi bị hạ
tuốt luốt thành lính trơn (như binh nhì ngày nay), mà sao khéo cầm cương "chữ Nhẫn"
40
đến vậy! Đau quá, uất ức quá, nhục quá, thế mà Lê Đại Cang vẫn "hiên ngang - ngạo
nghễ" tuân lệnh vua vì nghiệp lớn!
Năm 1840, vua Minh Mệnh băng hà, năm sau Thiệu Trị lên ngôi. Còn lúng túng
trên cái ngôi vừa có, mà công việc triều đình bề bộn, nhất là về ngoại giao với nhà Thanh.
Lúc đó, Lê Đại Cang từng là kẻ sĩ - là đại thần - là "đại tướng" tung hoành ngang dọc, là
người duy nhất của triều đình thông hiểu thể lệ ngoại giao nên ông lại được nhà vua tân
quân xá tội, từ nhà giam hiên ngang mang hàm Điển bộ, lo việc bang giao với nhà Thanh.
Thế rồi, từ đó - với trí tuệ uyên thâm và tài ngoại giao khôn khéo mà đầy bản lĩnh và bản
sắc, con đường quan lộ của Lê Đại Cang lại vút lên: tháng 4/1841 được vua thăng Phụng
nghị Đại phu Viên ngoại lang, tháng 7 được ban tiếp làm Trung thuận Đại phu Lang
trung; rồi tháng 12/1841 được thăng Bố chánh sứ Tỉnh Hà Nội, Hà Đông! Một đời làm
tướng, một nghiệp làm quan, dù "năm chìm bảy nổi" mà danh tướng Lê Đại Cang ngời
ngời khí phách và tâm đức, cũng mấy lần về làm Tổng đốc Hà Nội. Vậy phải đạo chăng
Hà Nội - Thủ đô ta hôm nay cũng nên có một con đường, một ngôi trường... mang tên Lê
Đại Cang !
Khi làm Bố chánh sứ Hà Nội - Hà Đông, Lê Đại Cang đã 70 tuổi, tự coi đã làm
tròn phận nước, trả nợ non sông dù rằng sự nghiệp đó, mạng đời đó lúc vút lên đỉnh cao,
khi bị chìm xuống đáy sâu - mà vẫn sừng sững một tượng đài huyền thoại, đã tâu sớ một
mực xin về hưu. Thế rồi, cũng mất hai năm, mãi đến năm Thiệu Trị thứ 3, vua thì kiên
quyết không phê chuẩn cho Lê Đại Cang về nghỉ hưu, ông thì cố từ - một mực xin về
vườn! Khi vua đành phải chuẩn y hưu trí, thì Lê Đại Cang đã 72 tuổi.
Về điền viên với quê hương, làng xóm, bà con - nhưng vị quan đại thần, một
mảnh tướng lừng danh đất Việt nào có yên nghỉ tuổi già, vẫn đau đáu lo cho dân, cho vận
nước, cho quê hương... Ông vận động sáng lập Văn chỉ Trung tín (tức Văn chỉ Tuy
Phước) nhằm mục đích truyền bá và giáo dục nâng cao dân trí. Tiếp theo, ông lập Giác
Am làm nơi tu tâm dưỡng tính và làm gương cho nhân thế (nay là chùa Bảo Thọ) - Lê
Đại Cang lấy hiệu là Giác Am cư sĩ ! Và chính tại Giác Am này, ông đã về cõi thần tiên
năm Kỷ Dậu (1849) thọ 78 tuổi!
Cuộc đời võ tướng oanh liệt Lê Đại Cang còn để lại cho nền văn chương đất Việt
nhiều tác phẩm nay vẫn lưu truyền: Tục Nam hành thi tập, Nam hành thi tập, Hành dư, Tỉnh
nam thi tập... Ngày nay, dòng họ còn giữ nguyên vẹn bốn sắc phong của vua Thiệu Trị ban
41
cho ông vào cuối đời. Chính bởi tài năng xuất chúng, trung thành với triều đình, tâm đạo luôn
ngời sáng nên các vua nhà Nguyễn đã tin dùng ông - dù có đôi ba lần nghe kẻ xấu mà xuống
tay với ông. Mặc khác, thuở ấy thật hiếm nhân tài - đại đức nên triều đình rất cần đến Lê Đại
Cang. Chính vua Minh Mệnh đã xác nhận và tôn vinh con người huyền thoại đó: "Người làm
việc nhanh, giỏi - Trẫm đã chọn biết..." (Liệt truyện, truyện Lê Đại Cang).
Mùa thu Nhâm Thìn
42
MỘT SỐ NÉT VỀ HOẠN LỘ CỦA LÊ ĐẠI CƯƠNG
PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ
Viện Sử học
Theo Lê thị gia phả do Lê Đại Cương soạn năm Minh Mệnh thứ 17 (1836) cho
biết tổ tiên của dòng họ là Lê Công Triều, quê gốc ở huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa, Thừa
tuyên Nghệ An (nay là huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh). Năm 1558, triều đình Lê Trung
hưng cứ Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa để mở rộng miền đất phía Nam, xây
dựng cơ sở hậu cần cho sự nghiệp trung hưng của nhà Lê. Trong đoàn quân Nam tiến của
Nguyễn Hoàng thời kỳ này chủ yếu là các nghĩa dũng người Thanh - Nghệ. Năm 1570,
Nguyễn Hoàng được cử kiêm Trấn thủ Quảng Nam. Có lẽ vị thủy tổ của dòng họ Lê nhập
cư ở huyện Bồng Sơn, phủ Hoài Nhơn trong thời gian này56.
Lê Đại Cương thuộc đời thứ 7, ông sinh năm Tân Mão (1771) tại làng Luật
Chánh, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay là thôn Luật Chánh, huyện Tuy Phước, tỉnh
Bình Định). Năm ông sinh cũng là thời điểm cuộc khởi nghĩa nông dân Tây sơn do ba
anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo bùng nổ trên đất Bình Định.
Thuở thiếu thời, do chiến tranh loạn lạc nên Lê Đại Cương không có điều kiện đi
học. Mãi đến năm 16 tuổi (1787), ông mới được theo học Nguyễn Tử Nghiễm (giữ chức
Thị giảng học sĩ triều Tây Sơn, thời Hoàng đế Thái Đức Nguyễn Nhạc). Sau đó, Lê Đại
Cang được thụ nghiệp với Đặng Đức Siêu - một danh sĩ của Bình Định lúc bấy giờ57.
“Trong vòng sáu năm quên ăn, quên ngủ để dùi mài kinh sử”58 nên trong chốn quan trường
Lê Đại Cương được đánh giá là người “nổi tiếng văn học”.
56 Phủ Hoài Nhơn được lập năm 1470 thời Lê Thánh tông gồm 3 huyện Tuy Viễn, Bồng Sơn và Phù Lý, lệ vào Thừa tuyên Quảng Nam. Năm 1602, phủ Hoài Nhơn được đổi tên thành phủ Quy Nhơn. Theo Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Nxb Thuận Hóa, 2006, tr. 6.
57 Đặng Đức Siêu người huyện Bình Sơn, đỗ Hương tiến thời các chúa Nguyễn, được bổ làm Hàn lâm viện. Khi Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định, Đặng Đức Siêu vào theo Nguyễn Ánh, dâng kế sách giúp Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn. Khi nhà Nguyễn được thành lập (1802), Đặng Đức Siêu được giao công việc soạn thảo các điển lệ của vương triều. Ông được thăng đến chức Thượng thư sung vào việc giảng dạy cho các hoàng thân. Ông từng là thầy học của vua Minh Mệnh… (Theo Đại Nam nhất thống chí, tập 3, sđd, tr. 61).
58 Lê Đại Cương và Lê thị gia phả, Nxb Dân trí, 2011, tr. 73.
43
Năm 1801, trong khi đưa quân ra Phú Xuân, Nguyễn Ánh đã sai Nguyễn Huỳnh
Đức và Nguyễn Hoài Quỳnh trấn giữ thành Quy Nhơn. Được biết về tài học của Lê Đại
Cương, hai người đã tiến cử ông với Nguyễn Ánh và được bổ vào chức Tri huyện (hay
Huyện doãn59) huyện Tuy Viễn. Lúc này, Lê Đại Cương đã 31 tuổi. Đầu đời Gia Long, có
lệ tuyển Tri huyện như sau: Lấy Lễ sinh (viên chức giúp việc cho viên Tự thừa lo việc
cúng tế ở Văn Miếu) làm Tri huyện; lấy những người có học làm Phân tri văn (một chức
có văn học làm việc ở huyện thuộc các trấn, thành Gia Định, Hà Nội, giúp cho Phân suất
võ lo việc binh ở huyện) chia mỗi người về mỗi huyện thực tập, nếu thành thạo thì cho
thực thụ Tri huyện. Có thể trong 3 năm đầu, Lê Đại Cương vẫn trong hạn Thí sai60 và
khoảng năm 1803, ông mới chính thức nhận chức Tri huyện (hàm Chánh lục phẩm)61.
Tháng 7 năm Gia Long thứ 10 (8-1811), biết Lê Đại Cương là “người có tài làm việc”
Tổng trấn Bắc Thành là Lê Chất đã đề cử ông chuyên biện việc từ chương ở Bắc Thành.
Đến đầu năm 1819, Lê Đại Cương được giao giữ chức Thiêm sự Binh bộ, sung biện Hộ
tào và Binh tào ở Bắc Thành62.
Có lẽ hoạt động đa diện nhất, đóng góp to lớn nhất và hoạn lộ cũng muôn phần
trắc trở của Lê Đại Cương chính là trong khoảng 20 năm dưới triều Minh Mệnh (1820-
1841).
Tháng 4 năm Quý Mùi, niên hiệu Minh Mệnh thứ 4 (1823), Lê Đại Cương được
thăng lên chức Cai bạ Quảng Nam63.
Thời kỳ đầu nhà Nguyễn (trước cải cách hành chính của Minh Mệnh 1831-1832),
hệ thống hành chính boa gồm các thành (Gia Định thành, Bắc Thành) và các dinh, trấn.
Triều đình Trung ương dưới thời Gia Long trực tiếp quản lý 4 dinh, 7 trấn từ Thanh Hoa
ngoại đến Bình Thuận; còn phía Bắc từ Sơn Nam hạ trở ra (11 nội, ngoại trấn) và phía
59 Huyện doãn là danh xưng người đứng đầu một huyện như Tri huyện, Huyện thừa. Doãn là từ chỉ người cai quản chứ không phải là chức danh trong quan chế nhà Nguyễn.
60 Thực thụ là quy chế cho những người hết hạn Thí sai, được chính thức nhận nhiệm vụ trong chính ngạch nhà nước. Còn Thí sai là chế độ thực tập đối với những người tập sự trong cơ quan nhà nước. Những người tạm tuyển (chưa bổ dụng chính thức) phải qua một thời gian 3 năm thực tập gọi là hạn Thí sai. Khi mãn hạn Thí sai, phải qua một khóa sát hạch mới được bổ dụng chính thức vào chính ngạch.
61 Trong bài tự dẫn Lê thị gia phả, Lê Đại Cương viết: “Làm quan tám năm, vãn quần vải thô, áo ngắn”.
62 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 820, 992.63Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr. 275.
44
Nam từ trấn Biên Hòa trở vào chỉ quản lý gián tiếp thông quan viên Tổng trấn Bắc Thành
và Gia Định thành. Cai bạ và Ký lục là hai những chức quan đứng đầu một dinh, trấn.
Đầu năm Minh Mệnh thứ 5 (1824), nhà Nguyễn tổ chức duyệt tuyển (điều tra dân
số) ở Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Bình, Quảng Trị và Quảng Ngãi. Trong các địa
phương trên thì: “trấn thần Quảng Nam vỗ về chăn nuôi đúng đắn, hộ khẩu ngày càng
đông, mà tuyển quan thì phép cũng vừa phải, không có ý thiên khinh thiên trọng, vậy
nên xét công” và Lê Đại Cương được thưởng 1 thứ kỷ lục64 (ghi công vào sổ 1 lần).
Tháng 3 năm Giáp Thân (1824), Minh Mệnh sai Cai bạ Lê Đại Cương đốc suất
3.000 dân trong hạt để đào tổ chức đào sông Vĩnh Điện (dài hơn 1.640 trượng) ở Quảng
Nam. Sau hơn 2 tháng thì công việc hoàn tất, Lê Đại Cương được thưởng 80 quan tiền, 2
tấm sa, 1 thứ kỷ lục65.
Tháng 9 năm Giáp Thân (1824), Lê Đại Cương được điều chuyển về làm Cai bạ
trấn Vĩnh Thanh (tỉnh Vĩnh Long sau này). Tuy nhiên, đến tháng 8 năm Ất Dậu (1825),
vì lý do sông Vĩnh Điện do Lê Đại Cương tổ chức đào năm trước bị nước xói vào vỡ lở,
nên ông bị cách chức, nhưng được lưu lại làm việc và bị “truy thu hết bằng sắc từ lúc
xuất thân (ra làm quan) đến nay … đợi sau được khai phục sẽ xét phẩm trật mà cấp trả
lại”66.
Tháng 9 năm Bính Tuất (1826), Cai bạ Vĩnh Thanh là Lê Đại Cương được điều về
Kinh và đến thánh 11 năm ấy ông được đổi bổ chức Hữu Thị lang Hình bộ67.
Tháng 5 năm Đinh Hợi (1827), từ chức Hữu Thị lang Hình bộ, Lê Đại Cương
được thăng lên thự Hữu Tham tri Hình bộ68.
Theo quan chế nhà Nguyễn, đến thời Minh Mệnh (1820 - 1841) đặt chức Thị
lang, nhưng ban đầu gọi là Thiêm sự, sau đối đổi làm Thị lang (Tả, Hữu). Thị lang có
chức nhiệm giúp Tham tri (Tả, Hữu) phụ trách một số ty trong mỗi bộ. Tả - Hữu thị lang
có hàm chánh Tam phẩm văn giai, cáo thụ Gia Nghị đại phu.
Tả - Hữu tham tri là hai chức quan đặt ra từ thời nhà Nguyễn. Hai chức Tham tri
(Tả - Hữu) là chức quan phó của Thượng thư 6 bộ, giúp Thượng thư điều hành mọi công
64 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập II, sđd, tr.335.65 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập II, sđd, tr.338.66 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập II, sđd, tr.377, 429, 446.67 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập II, sđd, tr. 540, 553.68 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập II, sđd, tr. 632.
45
việc trong bộ. Mỗi bộ có 2 Tham tri (hàm tòng Nhị phẩm văn giai), cáo thụ Trung phụng
Đại phu. Dưới quyền có Thị lang, Lang trung, Viên ngoại lang, Chủ sự, Tư vụ và nhiều
Thông lại giúp việc.
Tháng 8 năm Đinh Hợi (1827) Minh Mệnh sai thự Hữu Tham tri Hình bộ là Lê
Đại Cương, mang cờ bài và đem hai người liêu thuộc đi Bắc Thành xem xét việc xử hình
ngục. Minh Mệnh dụ Lê Đại Cương rằng : “Bắc Thành gần đây bị vỡ đê, Tào trưởng Vũ
Xuân Cẩn phải đi phát chẩn, việc án để đọng, không thể chóng làm xong được. Để đọng
một ngày thì dân chịu khổ một ngày, ngươi nên thanh lý cho chóng. Hết thảy các án kiện
giao cho, cùng án mạng án cướp trong hạt, đến tháng 11 phải xét xử xong. Còn như tạp
án tầm thường thì do thành xét xử, đến cuối năm phải xong cả, khiến tào không có án để
đọng, ngục không có tù giam lâu, để đáp ý trẫm cẩn thận việc ngục thương xót việc
hình”69.
Sau 3 tháng làm Khâm phái thanh lý hình ngục ở Bắc Thành, công việc hoàn tất,
tháng 11 năm Đinh Hợi (1827), Lê Đại Cương về Kinh, vào yết kiến Minh Mệnh, tâu
trình: “Viên dịch Hình tào nhiều người tham nhũng, thần xét ra được hơn mười người, có
đủ thực trạng, còn người ngày đêm cần cù có ích cho Hình tào thì chỉ có Đoàn Khiêm
Quang, Trương Hảo Hợp và Bạch Xuân Nguyên vài ba người thôi”70. Do có công giải
quyết nhanh chóng việc hình án tồn đọng ở Bắc Thành nên đầu năm Mậu Tý (1828), Lê
Đại Cương được thực thụ chức Hữu Tham tri Hình bộ71.
Tháng 9 năm Mậu Tý (1828), Lê Đại Cương lấy bản chức Hữu Tham tri Hình bộ
sung chức quản lý Đê chính ở Bắc Thành. Trước khi Lê Đại Cương lên đường ra Bắc,
vua Minh Mệnh dụ rằng : "Việc chống lụt quan hệ rất lớn. Ngươi là người biết lẽ, trước
kia việc hình ngục ở Bắc Thành, ngươi đến nơi là làm xong ngay. Nay trách nhiệm về Đê
chính càng nặng nề. Lần này đi, nên hết lòng xếp đặt để cho nước chảy thuận dòng, cho
dân càng mừng êm sóng thì công ấy chẳng nhỏ đâu"72 .
Dưới thời Minh Mệnh Công cuộc trị thuỷ ở các địa phương Bắc Thành được triều
đình rất quan tâm. Trong khoảng hơn 10 năm (1820-1832), Minh Mệnh hoàn toàn tuân
thủ những nguyên tắc về công tác củng cố đê điều mà Gia Long đã vạch ra. Đặc biệt với
69 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập II, sđd, tr. 662.70 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập II, sđd, tr. 680.71 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập II, sđd, tr. 706.72 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập II, sđd, tr. 774.
46
việc kiện toàn tổ chức Nha Đê chính vào năm 1828 cho thấy sự quyết tâm của Minh
Mệnh trong công cuộc trị thuỷ. Sau nhiều lần bàn bạc, Minh Mệnh quyết định đặt một
nha Đê chính, lấy quan văn Nhị phẩm một người làm quản lý, quan võ Tam phẩm một
người làm tham biện, sở thuộc thì đặt ty Thận cần với Viên ngoại lang một người, Chủ sự
và Tư vụ đều 2 người, Bát, Cửu phẩm thư lại đều 4 người, Vị nhập lưu thư lại 30 người,
lại trích 2 đội thành binh cho lệ vào. Có việc quan trọng thì quan Đê chính cùng với Tổng
trấn Bắc thành bàn tính, hội hàm làm sớ tâu lên. Phàm công thức đê điều đều theo thể lệ
đời Gia Long 73. Như vây, Lê Đại Cương là người đầu tiên giữ chức đứng đầu Nha Đê
chính ở Bắc Thành. Công việc trị thủy ở Bắc Thành có thể nói là rất gian nan. Trong
khoảng 12 năm, hệ thống đê điều ở Bắc Thành thường xuyên được bồi trúc, đắp mới.
Những đoạn sông bị bùn đất úng tắc cũng được khơi thông. Ở các địa phương một số
kênh mương được khơi đào mới.
Từ năm 1820 đến 1832, hầu như năm nào Minh Mệnh cũng cho tổ chức đắp đê ở
Bắc Thành. Với những biện pháp tích cực trong công tác trị thuỷ mà đến năm 1828, Minh
Mệnh đã mạnh dạn tuyên bố: “Việc đắp đê đã thành công đặc biệt”74. Những người phụ
trách và tham gia công việc chỉ đạo công việc trị thủy đều được ban thưởng, nhưng mỗi khi
có đoạn đê nào bọ vỡ hay sụt lún lại bị triều đình luận tội, giáng chức hoặc cách chức. Lê
Đại Cương có khi được Minh Mệnh gia ân thưởng cho 100 quan tiền vì “cần lao khó nhọc”
nhưng cũng có lần bị giáng xuống 3 cấp vì trông coi “việc sửa đắp không đúng cách thức”
khiến đê bị vỡ. Sau đợt tổng điều tra về đê công, đê tư do Nha Đê chính thực hiện năm
1829, quan trấn Bắc Thành đã làm tờ tâu về triều báo cáo cụ thể tình hình: Việc đắp đê năm
nay, công trình lớn 18 sở, công trình nhỏ 10 sở, tuy 9 lần nước lên to mà không có nạn tràn
ngập...”. Trong khoảng 3 năm (1829 -1831) ở Bắc Thành không xảy ra lũ lụt, điều ấy đã
chứng minh cho hiệu quả ban đầu của công tác trị thuỷ thời Minh Mệnh.
Tuy nhiên, từ năm 1832 trở đi, tình hình lũ lụt ở Bắc Thành lại xảy ra trầm trọng.
Đặc biệt năm 1833, hàng loạt đê ở Hưng Yên, Bắc Ninh, Sơn Tây bị vỡ gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sản xuất và cuộc sống của người dân. Vấn đề đê điều lúc này trở thành
một đề tài tranh luận sôi nổi xoay quanh việc giữ đê hay bỏ đê. Những người chủ trương
“có đê không lợi bằng không đê” như Đặng Văn Thiêm, Trịnh Quang Khanh đề nghị
phân lũ bằng biện pháp nạo vét sông ngòi, kênh rạch, uốn nắn dòng chảy và đào thêm
73 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập II, tr. 771-772.74 Minh Mệnh chính yếu, tập III, Sài Gòn 1974, tr.25
47
sông mới để chia nước với sông chính. Còn Lê Đại Cương, nguyên phụ trách Nha Đê
chính lại chủ trương giữ đê và coi việc khai sông chỉ là biện pháp hỗ trợ. Chấp nhận ý
kiến của đình thần và theo sở nguyện của dân, trong đó “người xin để đê chỉ có 2,3 phần,
người xin bỏ đê có đến 7, 8 phần mười”, Minh Mệnh đành phải sai Đặng Văn Thiêm và
Trịnh Quang Khanh tuyên cáo cho dân sở tại biết “đình chỉ việc đắp đê là cúi theo dân
tình, chứ triều đình không phải không quan tâm đến dân sự” 75.
Từ năm 1833 đến 1840 là thời kỳ Minh Mệnh thử chọn giải pháp bỏ đê. Nha Đê
chính cũng bãi bỏ, công việc trị thuỷ giao cho các quan sở tại đảm nhiệm. Tuy nhiên,
triều Minh Mệnh không chủ trương bỏ hết đê mà chỉ bỏ ở vùng hạ lưu sông Hồng. Trong
giai đoạn từ 1833 đến 1840, công việc đắp đê, tu bổ đê vẫn được thực hiện nhưng với quy
mô nhỏ.
Tháng 5 năm Canh Dần (1830), Hữu tham tri Hình bộ Lê Đại Cương được giao
kiêm lĩnh Hình tào ở Bắc Thành và kiêm Đê chính76.
Tháng 9 năm Tân Mão, nhà Nguyễn mở khoa thi Hương ở Thanh Hoa, Bắc
Thành và Nam Định, Hình bộ Hữu tham tri lĩnh Bắc Thành Hình tào Lê Đại Cương làm
chủ khảo trường Bắc Thành. Khoa này Lấy 61 người đỗ cử nhân trường Bắc Thành lấy
đỗ 20 Cử nhân77.
Tháng 10 năm Tân Mão (1831), vua Minh Mệnh tiến hành cuộc cải cách hành
chính, xếp đặt lại các đơn vị hành chính ở các địa phương từ Quảng Trị ra Bắc, chia Bắc
thành thành 11 tỉnh. Cùng với việc xếp đặt lại lại các đơn vị hành chính trong cả nước, hệ
thống quan chức ở các địa phương cũng dần dần được Minh Mệnh cho kiện toàn. Đối với
tỉnh lớn như Thanh Hóa (là đất thang mộc của nhà Nguyễn) Minh Mệnh cho đặt chức Tổng
đốc, phần lớn cử những người Tôn thất đảm nhiệm, còn ngoài ra cứ 2 tỉnh hoặc 3 tỉnh đặt
một viên Tổng đốc và 1 viên Tuần phủ (phụ trách một tỉnh, dưới quyền viên Tổng đốc).
Giúp việc cho Tổng đốc, Tuần phủ có hai ty Bố chính và Án sát; về quân sự do Lãnh binh
đảm trách. Tổng đốc có quyền lực tối cao về hành pháp và tư pháp của những tỉnh được cai
quản.
Tổng đốc như người thay triều đình về nắm bắt và chỉ đạo mọi mặt ở các
tỉnh đó, đồng thời kiêm luôn cả chức Phó đô Ngự sửa và cả chức Đề đốc các tỉnh đó để
75 Minh Mệnh chính yếu, tập III, Sài Gòn 1974, tr.4576 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội 2004, tr. 61.77 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập III, sđd, tr. 211.
48
chỉ huy võ trang (đứng trên vị Lãnh binh ở tỉnh đó). Do đó, nếu đã đặt Tổng đốc, thì
không có chức Đề đốc, chỉ khi nào, bãi chức Tổng đốc thì mới đặt chức Tuần phủ ở từng
tỉnh.
Trong đợt cải cách hành chính này, Tham tri lĩnh Hình tào Bắc Thành Lê Đại
Cương được thăng thự Binh bộ Thượng thư, Tổng đốc ba tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa và
Tuyên Quang, kiêm lĩnh Tuần phủ Sơn Tây78.
Thời nhà Nguyễn, bộ Binh chia làm 5 bộ phận: Ty Võ tuyến, ty Kinh kỳ, ty Trực
tỉnh, ty Khảo công và xứ Binh trực. Năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) đặt thêm 2 ty nữa là
Kiểm duyệt và Hỏa pháo. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), bỏ 2 ty Binh ấn và Kiểm duyệt, lại
đưa Thái Bộc tự và Bưu chính lệ vào. Nhân viên của Bộ có lúc lên đến 70 người, gồm
Lang trung, Viên ngoại lang, Chủ sự, Tư vụ và nhiều Thư lại khác. Chức Thượng thư,
Tổng đốc thời Nguyễn hàm Chánh nhị phẩm.
Trong thời gia giữ chức Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, Lê Đại Cương đã cho tổ
chức lại lực lượng quân lính bố phòng ở nơi biên giới, tổ chức xây đắp lại thành Tuyên
Quang, đồng thời cho người xem xét kiểm tra lại các nguồn lợi về khoáng sản trong hạt
như các mỏ vàng, bạc đồng … để khai thác và chế biến79. Đặc biệt, ông rất quan tâm đến
việc phòng thủ nơi biên giới và được Minh Mệnh sai bộ Binh mật dụ “để tâm bí mật dò
xét” những động tĩnh ở các động giáp biên, kịp thời tâu báo lên.
Tháng 7 năm Nhâm Thìn (1832), Tổng đốc Hà - Ninh là Nguyễn Văn Hiến
được triệu về Kinh, Lê Đại Cương được giao kiêm lĩnh cả ấn quan phòng Tổng đốc Hà -
Ninh (Hà Nội - Ninh Bình). Tỉnh Ninh Bình đã có Tuần phủ Hồ Hựu chuyên làm việc
trong hạt, duy có việc trọng đại mới phải hội bàn (với Lê Đại Cương). Bố chính, Án sát
Hà Nội, đều chiếu theo chức vụ làm việc, nếu có việc trọng yếu, tức thì trình lên để Lê
Đại Cương điều khiển80. Tuy nhiên, đến tháng 9 năm ấy, Tổng đốc Hải - Yên là Nguyễn
Kim Bảng được điều chuyển về làm Tổng đốc Hà - Ninh thì Lê Đại Cương lại về cung
chức ở Sơn - Hưng - Tuyên81.
78 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập III, sđd, tr. 242.79 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập III, sđd, tr. 257, 258, 315.80 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập III, sđd, tr. 348.81 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập III, sđd, tr. 365.
49
Tháng 10 năm Nhâm Thìn (1832), Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên là Lê Đại
Cương được triệu về Kinh đợi chỉ82 và được cử làm Tổng đốc An - Hà (An Giang - Hà
Tiên) kiêm lĩnh ấn “bảo hộ nước Chân Lạp”.
Trước khi đi nhậm chức, Minh Mệnh vời Lê Đại Cương vào ra mắt và dụ rằng:
“Ngươi làm việc nhanh nhẹn giỏi giang, đã hiểu biết rõ... Đại thần vì nước, nên hết sức
làm việc nên làm, chớ vì cớ điêu toa, ngang ngạnh của kẻ xấu, mà cho rằng đường làm
quan, lắm chỗ gập ghềnh, rồi đem lòng chán ngán chùn lại, một mực dựa dẫm hùn theo
thì chẳng hoá ra phụ ơn nhà nước lắm sao?” và “An Giang là tỉnh mới đặt, trong thì trấn
thủ, vỗ về nước Phiên, ngoài thì khống chế nước Xiêm, sự thể rất quan trọng. Ngươi nay
cai trị đất ấy, phàm những việc quân, dân, trọng đại cùng thành trì và kho tàng đều nên
hết sức lo liệu để phu phỉ ý ta mong ngươi làm được thành công”83.
Giữ chức Tổng đốc An - Hà, kiêm bảo hộ nước Chân Lạp là công việc vô cùng
trọng đại, liên quan trực tiếp đến vùng biên giới phía Nam.
Ngay từ thời Gia Long, quan hệ giữa nước ta với Chân Lạp-Xiêm La đã tương đối
phức tạp. Các vua Chân Lạp thường xuyên được nhà Nguyễn bảo trợ để chống lại sự xâm
lược của Xiêm La, do đó có thể coi Chân Lạp là một phiên thần của nhà Nguyễn. Tuy
nhiên, không phải lúc nào tình hình cũng diễn ra êm thấm. Xiêm La luôn tìm mọi cách để
tranh giành ảnh hưởng đối với Chân Lạp, do đó thường tạo nên những mâu thuẫn trong
nội bộ hoàng thất Chân Lạp để lấy cớ đưa quân sang xâm lấn. Từ thời Gia Long, triều
Nguyễn đã cứ nhiều viên quan tài năng giữ chức bảo hộ Chân Lạp như Nguyễn Văn
Thoại, Nguyễn Văn Tồn, Bùi Đức Minh, Trần Văn Năng … để giúp đỡ Chân Lạp chống
nhau với người Xiêm và ràng buộc chặt chẽ Chân Lạp với nhà Nguyễn trong mối quan hệ
phụ thuộc. Được vua Minh Mệnh giao cho kiêm giữ chức bảo hộ Chân Lạp, chứng tỏ Lê
Đại Cương có đầy đủ uy tín và năng lực của một vị quan từng trải trong Nam, ngoài Bắc,
từng đảm nhiệm nhiều trọng trách to lớn mà chưa hề phụ lòng tin tưởng của các bậc quân
vương. Tuy nhiên, đây lại là những thách thức to lớn nhất mà ông từng gặp phải trong
cuộc đời quan trường của mình.
Trong thời gian giữ chức Tổng đốc An - Hà, Lê Đại Cương đã tổ chức quân dân ở
4 huyện Vĩnh An, Vĩnh Định, Đông Xuyên, Tây Xuyên thuộc bản hạt và dân 2 huyện
82 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập III, sđd, tr. 391.83 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập III, sđd, tr. 426-427.
50
Vĩnh Bình thuộc Vĩnh Long và Kiến Đăng thuộc Định Tường xây dựng tỉnh thành An
Giang đồng thời huy động dân ở 5 huyện Vĩnh Trị, Tân Minh, Bảo An thuộc Vĩnh Long
và Kiến Hưng, Kiên Hòa thuộc Định Tường khai đường thủy từ sông Tiền Giang ở Tân
Thành thẳng đến sông Hậu Giang ở Châu Đốc hơn 3.800 trượng”84 tiện lợi cho việc đi lại
và phát triển kinh tế trong vùng.
Lê Đại Cương đảm nhiệm chức vụ Tổng đốc An - Hà chưa được bao lâu thì ở Gia
Định xảy ra cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi.
Đêm 18 tháng 5 năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi cùng 27 người đồng mưu giết
viên Bố chính Bạch Xuân Nguyên. Tổng đốc An - Biên (Phiên An-Biên Hòa) Nguyễn
Văn Quế cũng bị giết. Quân nổi dậy chiếm được thành Phiên An, tha hết tù phạm và phát
khí giới cho họ. Lê Văn Khôi tự xưng là đại nguyên súy, phiên chế lực lượng thành 5
quân (trung quân, tiền quân, hậu quân, tả quân, hữu quân), đặt chức quan và làm tờ hịch
phát đi kêu gọi nhân dân các tỉnh. Lực lượng của quân nổi dậy bao gồm binh lính trong
đội Hồi Lương, An Thuận, Thanh Thuận, Bắc Thuận, người thiểu số ở đạo Quang Hoá,
người Hoa và cả giáo dân. Thời điểm cao nhất lên đến 5.000 người 85. Chỉ trong vòng
một tháng, Lê Văn Khôi đã chiếm được cả 6 tỉnh Nam Kỳ và cắt đôi đất Nam Kỳ giao
một nửa cho Thái Công Triều trực tiếp quản lĩnh.
Minh Mệnh sai các tướng Tống Phúc Lương, Phan Văn Thúy, Trần Văn Năng,
Nguyễn Xuân và Phạm Hữu Tâm chỉ huy mấy đạo quân kéo vào đàn áp cuộc nổi dậy.
Bọn địa chủ, phú hào quay về với quân triều đình. Ngay cả Thái Công Triều cũng đầu
hàng triều đình làm cho lực lượng khởi nghĩa yếu hẳn đi.
Trước sự đàn áp và bao vây của quân Triều đình, Lê Văn Khôi liền dựa vào giáo sĩ
phương Tây và đi cầu viện quân Xiêm. Đây là một sai lầm nghiêm trọng, làm cho tinh thần
quân nổi dậy thêm nao núng. Quân Triều đình nhanh chóng thu phục các tỉnh đã mất, Lê
Văn Khôi phải rút vào cố thủ trong thành Phiên An (Sài Gòn). Số quân lúc này chỉ còn độ
2000 người. Phiên An là một thành xây bằng đá ong, có nhiều kho chứa lương thực và vũ
khí. Dựa vào thành lũy kiên cố và lương thực, đạn dược được tích trữ từ trước, quân nổi
dậy tiếp tục cầm cự trong một thời gian.
84 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập III, sđd, tr. 50385. Nam Kỳ tiễu phỉ, Q.47 . Theo Đại Nam Liệt truyện thì "bấy giờ quân theo đạo Gia-tô ở các
tỉnh, bọn người Mãn Thanh đến ngụ, bọn Mường Quang Hóa, lính trốn ở các đội Thanh Thuận, An Thuận, Bắc Thuận đều hùa theo, trong khoảng tuần nhật đông đến vài ngàn".
51
Đầu năm 1834, Lê Văn Khôi bị bệnh phù thũng, chết ở trong thành. Con trai của
Khôi là Lê Văn Cù, 8 tuổi, được cử lên thay làm Đại nguyên súy. Quân nổi dậy cố thủ
trong thành, nhưng vòng vây của quân Triều đình ngày càng xiết chặt, tình hình lương
thực, đạn dược thiếu thốn, lực lượng quân nổi dậy bị phân hoá. Một số lớn lần lượt trèo
thành ra đầu hàng quân Triều đình.
Tháng 7 năm Ất Mùi (1835), quân Triều đình chiếm được thành Phiên An và tàn
sát những người còn lại trong thành hết sức dã man. Theo những bản mật tấu của quan
tướng gửi về triều thì số người bị bắt sống ở trong thành là 1.278 người, bao gồm cả đàn
bà và trẻ con. Trừ 6 người là Lê Văn Cù (8 tuổi), Giáo sĩ Mác-săng (Marchand, tức Cố
Du), Bốn Bang, Nguyễn Văn Hoành, Nguyễn Văn Trắm, Nguyễn Văn Bột bị đóng cũi
gửi về Huế xử lăng trì, số còn lại đều bị chém chết cùng một lúc và chôn cùng một chỗ,
sau này chỗ ấy gọi là “Đồng mả ngụy”.
Trong quá trình đàn áp cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi, quân triều đình cũng bị tổn
thất nặng nề. Số quân bị chết là 2.431 người, và hàng ngàn người bị thương.
Trong suốt thời gian cuộc nổi dậy diễn ra, vì liên đới đến việc thành Phiên An thất
thủ, không ứng cứu kịp thời nên Lê Đại Cương bị triều đình luận tội, cách tuột hết quan
chức, trở thành một người phu khiêng võng. Tuy nhiên, ông không hề bất mãn và nản chí.
Tháng 10 năm Quý Tỵ (1833), Lê Đại Cương được khai phục làm Viên ngoại
lang bộ Binh (Chánh ngũ phẩm), quyền sung chức Phó lãnh binh An Giang. Tiếp đó, đến
tháng 12 ông được thăng thự Án sát, sung làm Lãnh binh tỉnh An Giang86.
Tháng 2 năm Giáp Ngọ, Lê Đại Cương được thăng Bố chính sứ An Giang87, tiếp
đó thăng thự Tuần phủ An Giang.
Đầu năm Giáp Ngọ (1834), thự Tuần phủ An Giang là Lê Đại Cương mật tâu về
mọi sự nghi trù tính làm việc biên phòng, xin đóng đại doanh ở nhà Nhu viễn Nam Vang
rồi liệu lấy quan quân đóng giữ, để làm kế lâu dài. Đồng thời, ông đề nghị tổ chức nhân
dân khai khẩn phần đất hoang dọc con đường bộ từ Quang Hóa trở lên giáp sông lớn, cho
một bộ phận người Chăm xiêu giạt được lưu lại tại đó mà cày cấy, gây dựng sản nghiệp88.
86 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập III, sđd, tr. 831, 901.87 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr. 53.88 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập IV, sđd, tr. 103.
52
Đầu năm Ất Mùi (1835), Minh Mệnh cho đổi đồn An Man ở Nam Vang làm
thành Trấn Tây, sai chọn những viên chức, lại dịch ở các nha trong Lục bộ và Tự, Viện,
từ Chủ sự đến Vị nhập lưu thư lại lấy 20 người, đều cho thăng lên một trật, rồi cho đi
theo Tổng đốc Trương Minh Giảng và Tuần phủ Lê Đại Cương để sai phái công việc.
Với cương vị là Tuần phủ An Giang, Lê Đại Cương được giao cùng với Tổng đốc
Trương Minh Giảng, kiêm lĩnh ấn bảo hộ nước Chân Lạp89. Tiếp đó, Minh Mệnh trao cho
thự Đông các điện đại học sĩ Trương Minh Giảng làm Trấn Tây thành Tướng quân, cho
đeo ấn Trấn Tây tướng quân, vẫn lĩnh chức Tổng đốc An - Hà; Tuần phủ An Giang Lê
Đại Cương sung làm Trấn Tây thành Tham tán, vẫn lĩnh chức Tuần phủ An Giang. Mọi
công việc toàn hạt thành Trấn Tây đều đặt dưới quyền cai quản của hai người này.
Tháng 7 năm Đinh Dậu (1837), Lê Đại Cương được thăng quyền lĩnh ấn Tổng
đốc quan phòng tỉnh An - Hà90. Tuy nhiên, đến đầu năm 1838 ông lại bị triều đình đoạt
hết chức tước, đưa đi làm đồn điền ở miền đầu nguồn91.
Sang thời Thiệu Trị, tháng 7 năm Tân Sửu (1841), Lê Đại Cương được khởi phục
làm Lang trung bộ Binh, biện lý công việc của bộ92.
Tháng 10 năm Tân Sửu (1841), xét thấy Lê Đại Cương là người am tường các địa
phương ở Bắc Kỳ nên Thiệu Trị cử ông phụng mệnh mang cờ biển đi đến các nơi hành
cung, sứ quán ở Hà Nội, Bắc Ninh và Lạng Sơn xem xét công việc đã làm để chuẩn bị
cho việc Thiệu Trị Bắc tuần thụ phong. Thiệu Trị yêu cầu các địa phương khi xây dựng
các công trình phải “mộc mạc, chất phác, không được đua làm xa xỉ, hoa lệ”93. Khi công
việc Khâm phái hoàn tất, việc thụ phong của Thiệu Trị diễn ra tốt đẹp, tháng 12 năm Tân
Sửu (đầu năm 1842), Lê Đại Cương được thăng làm thự Bố chính sứ Hà Nội. Ở Bắc Kỳ,
Hà Nội là một tỉnh lớn quan trọng, toàn bộ công việc (bên ngạch văn) đều do Lê Đại
Cương xử lý, còn việc binh chính thì do Hữu quân đô thống phủ Đô thống, Tổng đốc Hà
- Ninh Mai Công Ngôn nắm giữ94.
89 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập IV, sđd, tr. 493.90 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập V, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr. 141.91 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập V, sđd, tr. 259, 507.92 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập VI, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 197.93 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tậpVI, sđd, tr. 235.94 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tậpVI, sđd, tr. 264, 380.
53
Tháng 10 năm Nhâm Dần (1842), Lê Đại Cương đã 72 tuổi, ông xin trí sĩ95 . Năm
Đinh Sửu (1847), Lê Đại Cương qua đời tại quê nhà, hưởng thọ 77 tuổi.
Hơn 40 năm trên quan trường, hoạt động của Lê Đại Cương khá đa diện và đa
dạng. Là một văn quan nhưng ông tham gia xử lý nhiều công việc thuộc bộ Binh, bộ
Hình, nhiều năm phụ trách Nha Đê chính, thuộc phạm vi hoạt động ở bộ Công, và đã
từng tham gia làm chủ khảo trường thi Hương ở Bắc Thành (thuộc công việc của bộ Lễ).
Hai dấu mốc quan trọng nhất gắn liền với hoạn lộ gập ghềnh của ông là thời gian phụ
trách Nha Đê chính và thời gian giữ chức An Hà Tổng đốc kiêm bảo hộ Chân Lạp.
Những năm tháng cần lao khó nhọc ấy của ông không được triều đình ghi nhận đúng
mức, nhưng ông không hề oán trách, bất mãn mà chỉ một lòng dốc hết tâm sức và trí tuệ
phụng sự vương triều với mong muốn đem lại cuộc sống an lành cho nhân dân.
95 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tậpVI, sđd, tr. 427.
54
LÊ ĐẠI CANG (CƯƠNG) VỚI THĂNG LONG – HÀ NỘI
TS. Nguyễn Hữu Tâm – Viện Sử học
Lê Đại Cang sinh năm 1771, tại làng Phú Nhơn, huyện Tuy Viễn (nay là làng
Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước), tỉnh Bình Định, mất năm 1847 tại quê
nhà, hưởng thọ 77 tuổi.
Có lẽ ít có nhân vật lịch sử nào được các sử thần triều Nguyễn ghi chép nhiều như
Lê Đại Cang. Đại Nam thực lục từ triều vua Gia Long (1802-1820) đến triều vua Thiệu
Trị (1841-1847) đều có chép về ông. Lê Đại Cang đã phụng sự trải qua 3 triều vua đầu
tiên của vương triều Nguyễn. Theo thống kê: Đại Nam thực lục - bộ Quốc sử triều
Nguyễn đã có tới 194 đoạn ghi chép khá đầy đủ những hoạt động của ông trong quá trình
làm quan96. Đại Nam liệt truyện chính biên, trong Truyện các quan, Lê Đại Cang cũng
được các sử quan triều Nguyễn dành cho một số trang để chép về tiểu sử, sự nghiệp của
ông97.
Nếu theo đoạn ghi chép đầu tiên của Đại Nam thực lục, chúng ta biết rằng Lê Đại
Cang bước vào con đường hoạn lộ với chức quan Tri huyện huyện Tuy Viễn. Thư tịch
đều không xác định rõ Lê Đại Cang giữ chức quan này vào năm nào. Lời dẫn (Tự dẫn)
trong Gia phả họ Lê do chính ông chấp bút, lại viết năm Tân Dậu 1801, khi 31 tuổi Lê
Đại Cang bắt đầu được các vị quan triều Nguyễn tiến cử ra làm quan: Năm Tân Dậu
(1801), gặp lúc Thế tổ Cao Hoàng đế (vua Gia Long) đánh chiếm kinh thành, giao cho
Hữu quân bình Tây tướng quân Quận công Nguyễn Huỳnh Đức và Hình bộ Tham tri
Nguyễn Hoài Quỳnh trấn thủ thành Quy Nhơn. Hai ông hỏi thăm biết tôi có tiếng tăm
(nhân thủ thời danh), chẳng nề là danh tiếng hão huyền, bèn tiến cử tôi với triều đình, lúc
này tôi đã 31 tuổi98.
Chúng tôi cho rằng khi viết Gia phả, Lê Đại Cang đã nhớ nhầm khi cho rằng mình
được làm Tri huyện năm Tân Dậu. Chúng tôi tìm thấy một đoạn chép trong Đại Nam
thực lục như sau:
Nhâm Tuất, năm Gia Long thứ nhất (1802), mùa hạ, tháng 5…sai Nguyễn Hoàng
(Huỳnh) Đức làm án trấn trấn dinh Quy Nhơn, Nguyễn Hoài Quỳnh làm Hiệp trấn kiêm 96 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Một, Nxb.Giáo dục, H, 2002. Đại Nam thực lục, T.Hai, T.Ba, Nxb.Giáo dục, H, 2004. Đại Nam thực lục, T. Bốn, T. Năm, T.Sáu, Nxb.Giáo dục, H, 2007.97 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam liệt truyện, Tập 3: Chính biên-nhị tập, Viện Sử học, Nxb.Thuận Hóa, Huế, 2005, tr.385-387.98 Lê Đại Cang và Lê Thị gia phả, Nxb.Dân trí, 2011.
55
lãnh hai dinh Phú Yên và Quảng Ngãi…Bọn Hoàng (Huỳnh) Đức dâng sớ cử sáu người
có thể bổ làm Huyện lệnh, xin bổ Tri huyện ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly (sau chia làm
Phù Mỹ, Phù Cát) và Tuy Viễn (sau chia làm Tuy Viễn và Tuy Phước), Vua y cho 99.
Như vậy, căn cứ theo Quốc sử, có thể khẳng định vào mùa hè tháng 5 năm Nhâm
Tuất, (vì tháng 5 Nhâm Tuất (âm lịch) là tháng đủ, tương ứng từ ngày 31 tháng 5 đến 29
tháng 6 năm 1802 (dương lịch), Lê Đại Cương là một trong sáu người được cử giữ chức
Tri huyện huyện Tuy Viễn. Sau đó, do mắc phải khuyết điểm tham tang nên ông đã bị
cách100.
Khoảng ít năm sau, Hậu quân Lê Chất làm Tổng trấn Bắc thành biết được Lê Đại
Cương là “người có tài làm việc” đã dâng tâu lên vua Minh Mệnh xin đưa ông ra làm
việc tại miền Bắc101. Cũng không rõ khi mới ra Bắc ông được giao chức vụ gì, có phải
chức Tri huyện như Đại Nam liệt truyện chép hay không: Hậu quân là Lê Chất dâng sớ
tiến cử Cang là người có tài làm việc nên được phục chức Tri huyện 102. Chỉ biết rằng đến
năm 1819, Lê Đại Cang được bổ chức Thiêm sự Binh bộ, làm việc tại Hộ tào và Binh tào,
phụ trách việc từ chương, giấy tờ tại Bắc thành. Sử chép: Gia Long thứ 18 (1819), mùa
hè, tháng 6, Cựu Tri huyện Lê Đại Cang làm Thiêm sự Binh bộ103, sung biện Hộ tào và
Binh tào Bắc thành…Đại Cang kiêm làm giấy tờ ở thành104.
Sau lần đầu bị huyền chức, Lê Đại Cang được chuyển ra Bắc và bố trí làm việc tại
Thăng Long với chức trách soạn thảo từ chương giấy tờ. Năm 1823, ông lại được điều về
Quảng Nam trông coi việc đào sông Vĩnh Điện, đến năm 1825 bị xử tội về việc để sông
bị sụt lở. Sau khi được giảm án về Kinh đô Huế, ông lần lượt giữ các chức trong bộ Hình.
Năm 1827, khi đương chức Hữu Tham tri Hình bộ, Minh Mệnh lệnh cho ông làm
quan Khâm sai thay mặt nhà vua đem cờ bài và hai mươi người liêu thuộc đi Bắc thành
thẩm tra, thanh lý việc xét xử hình ngục tại đây. Khi về Kinh báo cáo kết quả với nhà
vua, Lê Đại Cang đã mạnh dạn chỉ rõ tình trạng tham nhũng phổ biến trong tầng lớp quan
lại thuộc bộ Hình, có một số ít còn tương đối thanh liêm. Sử chép: Cương nhân tâu rằng:
Viên dịch Hình tào nhiều người tham nhũng, thần xét ra được hơn mười người, có đủ
99 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Một, Sđd, tr.493.100 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T. Một, Sđd, tr.820.101 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T. Một, Sđd, tr.820.102 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam liệt truyện, Tập 3: Chính biên-nhị tập, Sđd, tr.386.103 Bản dịch Gia phả họ Lê đã dịch nhầm từ Thiêm sự 簽事 sang thành Kiểm sự 檢事, chúng tôi đã xem bản chữ Hán trang 101 cũng chép là Thiêm sự 簽事. Lê Đại Cang và Lê Thị gia phả, Sđd, tr.73.104Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T. Một, Sđd, tr.992.
56
thực trạng, còn người ngày đêm cần cù có ích cho Hình tào thì chỉ có vài ba người
thôi105.
Lần thứ hai Lê Đại Cang xuất hiện tại Thăng Long, đã hoàn thành chức trách xuất
sắc dưới vai trò quan Khâm sai kiểm tra xét xử các án hình ngục tại Bắc thành trong thời
gian bốn tháng (từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1827). Vua Minh Mệnh khen ngợi lần công
du Bắc kỳ này của ông như sau: Ngươi là người biết lẽ, trước kia (chỉ năm 1827) việc
hình ngục người đến nơi là làm xong ngay106.
Đến năm 1828, triều đình lại cử Lê Đại Cang đi phụ trách cơ quan Đê chính tại
Thăng Long. Đồng thời, nhà vua còn cho phép ông được quyền xem xét, kiện toàn lại
nhân sự trong tổ chức Đê chính. Thời gian phụ trách Đê chính từ tháng 9 năm 1828 đến
1830, Lê Đại Cang đã ở trong trị sở đóng tại Cửa Nam thành Thăng Long: Tháng 2, năm
1829, Dựng công đường Đê chính ở Bắc thành (ở Cửa Nam trong thành)107. Ông đã tận
tâm, say sưa công việc phụ trách đào đắp đê, khơi thông dòng chảy với chức nhiệm nặng
nề được giao và bằng cả nhiệt huyết của một vị quan chăm lo đến đời sống của dân
chúng.
Qua thực tiễn quản lý của bản thân cộng thêm kinh nghiệm được đúc rút trong
lịch sử, Lê Đại Cang đã dâng bản tâu kiến nghị nhằm giải quyết thấu đáo việc phòng, đắp
đê của các tỉnh Bắc kỳ108. Sau khi đọc xong bản tâu lên vua, chúng ta cảm nhận được Lê
Đại Cang là một vị quan đầy tâm huyết và trách nhiệm đối với công tác thủy lợi quốc gia.
Ông đã cùng triều thần đi thăm hỏi những bậc cao tuổi, dân chúng địa phương về các
điều có lợi và thiệt hại trong thủy lợi và đưa ra kết luận phải tiến hành phòng hộ đê. Lê
Đại Cang còn tìm hiểu quá trình đắp đê và đào sông trong lịch sử nước ta…Đặc biệt, ông
đưa ra một bản thống kê cụ thể về lịch sử cùng hiện trạng toàn bộ hệ thống đê công và đê
tư đến tận các xã, thôn của các trấn Sơn Tây, Sơn Nam, Nam Định, Bắc Ninh, Hải Dương
và phủ Hoài Đức thuộc Bắc thành109. Vì những thành tích quản lý đê hữu hiệu trong lần
thứ ba ra công cán tại Thăng Long, ông nhiều lần được triều đình ban thưởng tiền bạc và
chức tước110.
Cùng với nhiệm vụ quản lý cơ quan Đê chính tại Thăng Long, Lê Đại Cang còn
được bổ làm Hình tào Bắc thành (tức phụ trách công việc luật pháp, hình pháp của các
tỉnh phía Bắc): Minh Mệnh thứ 11 (1830), tháng 9, lại lấy Hữu tham tri Hình bộ là Lê
105 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Hai, Sđd, tr.680.106 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Hai, Sđd, tr.774.107 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Hai, Sđd, tr.829.108 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Hai, Sđd, tr.892-893.109 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Hai, Sđd, tr.899-900.110 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Hai, Sđd, tr.804, 829, 887.
57
Đại Cương lĩnh Hình tào Bắc thành vẫn kiêm lĩnh Đê chính111. Trong thời gian này, ông
còn tham gia chủ trì khoa thi được tổ chức tại Thăng Long, tháng 9 năm 1831, Lê Đại
Cang làm Chủ khảo trường thi hương Bắc Thành. Cần phải lưu ý, 61 người đỗ Cử nhân
khoa thi này, đặc biệt trong số 20 người đỗ tại trường thi Bắc Thành có Cao Bá Quát
người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, Bắc Ninh (nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm,
Hà Nội) cũng tham gia và thi đỗ112.
Một tháng sau khi hoàn thành chức trách Chủ khảo, đến tháng 10 năm Minh
Mệnh 11 (1830), Lê Đại Cang cùng với các Đại thần khác được giao quyền Tổng trấn
Bắc thành: Triệu Đô thống thự Hậu quân ấn vụ, lĩnh Phó tổng trấn Bắc thành Phan Văn
Thúy về Kinh cung chức. Sai bọn Chưởng cơ Lê Văn Quý, Hình tào Tham tri Lê Đại
Cương…cùng nhau quyền giữ ấn triện Tổng trấn Bắc thành. Khi có việc tâu báo chuẩn
cho đều hội hàm cùng ký vào tờ tâu113.
Tháng 7, năm Minh Mệnh 13 (1832), Lê Đại Cang đương giữ chức Tổng đốc Sơn
– Hưng – Tuyên lại được giao quyền kiêm lĩnh cả ấn Quan phòng Tổng đốc Hà –Ninh
(tức Hà Nội và Ninh Bình). Đồng thời, ông được quyền quyết định những công việc
trọng yếu của Hà Nội. Sử chép: …Bố chánh, Án sát Hà Nội đều chiếu theo chức vụ làm
việc, nếu có việc trọng yếu, tức thì bẩm lên để Đại Cang (Cương) điều khiển 114. Như vậy,
cùng một lúc ông kiêm giữ chức Tổng đốc của 2 tỉnh lớn trong số 18 tỉnh miền Bắc
đương thời. Khi đó, địa dư Hà Nội phía nam là huyện Bình Lục, huyện Nam Xang, kéo
dài đến sát địa phận Ninh Bình.
Lần thứ ba Lê Đại Cang ra Thăng Long 4 năm (1828-1832), thời gian này có lẽ là
một trong những thời kỳ đẹp nhất cuộc đời làm quan của ông. Để phục vụ cho công cuộc
cải tổ cơ cấu hành chính do Minh Mệnh thực hiện ở miền Bắc, Lê Đại Cang đã đảm
nhiệm nhiều trọng trách tại Bắc thành gồm Tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên, quyền Tổng đốc
Hà Nội-Ninh Bình…Phong cách làm việc của ông rất dứt khoát, hiệu quả, vua Minh
Mệnh đã phải công nhận: Người (chỉ Lê Đại Cang) làm việc nhanh nhẹn, giỏi giang,
(trẫm) đã hiểu biết rất rõ115. Chính vị vua nổi tiếng triều Nguyễn này, từng sai bộ Hình
truyền chỉ rửa oan cho Lê Đại Cang khi có đơn kiện vu khống, đổ vấy việc tham tang thời
kỳ giữ chức Hiệp trấn Sơn Tây. Nhà vua có niềm tin vào vị “lương thần” có năng lực và
thanh liêm như sau: Trước đây, có đơn tiểu dân kiện bậy, ta cũng tin rằng chắc ngươi
111 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Ba, Sđd, tr.103.112 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Ba, Sđd, tr.211.113 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Ba, Sđd, tr.221.114 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Ba, Sđd, tr.348.115 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Ba, Sđd, tr.426.
58
không có việc ấy…Nay đã xét ra đơn ấy là vu khống, tâm tính ngươi của ngươi đã tỏ
rõ116.
Chúng ta đều hiểu một vị triều quan, mà lại dành được sự tin tưởng cao như vậy
của đương kim hoàng đế, chắc phải có những phẩm chất, đạo đức cùng năng lực làm việc
xuất sắc. Điều này đã được thể hiện rõ trong các lời ngợi khen cùng việc thăng bổ nhiều
chức vụ cao tại những địa phương trọng yếu hay cử làm quan Khâm sai thay mặt nhà vua
ra Bắc giải quyết công vụ của hai vua Minh Mệnh và Thiệu Trị đối với Lê Đại Cang.
Sau 9 năm (1832-1841) làm việc tại các vùng đất nam Trung bộ, miền Nam và
Chân Lạp, thăng trải nhiều trọng chức và cũng hai phen bị giáng hết quyền lực, bị kết tội
trảm giam hậu, bắt làm lính ở nơi quân ngũ, Lê Đại Cang được dịp trở lại Thăng Long-
Hà Nội. Nếu như ba lần trước Lê Đại Cang xuất hiện tại Thăng Long – Hà Nội đã đem lại
cho ông rất nhiều hiệu quả trong công việc và đời tư, thì lần thứ tư Lê Đại Cang “tái hồi”,
cũng chứng tỏ ông rất “có duyên” với vùng đất cổ nghìn năm tuổi này
Tháng 10 năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), triều đình sai Lang trung bộ Binh biện
lý công việc của bộ là Lê Đại Cang phụng mạng mang cờ biển đi đến các nơi hành cung,
sứ quán ở Hà Nội, Bắc Ninh và Lạng Sơn, xem xét công việc đã làm117. Sách Đại Nam
liệt truyện có chép hơi khác như sau: Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), khởi phục (Lê Đại
Cang) làm Viên ngoại lang, Khâm sai Bắc kỳ Biện lý bang giao sứ vụ, sau thăng lên
Lang trung118. Theo Đại Nam liệt truyện Lê Đại Cang ra Bắc lần này để đảm đương chức
nhiệm xử lý công việc bang giao (ngoại giao) và được bổ chức Viên ngoại lang, sau đó
mới thăng lên Lang trung. Mặc dù có sự xuất nhập nhỏ trong ghi chép, nhưng cả hai sách
đều chép thống nhất: Ông được cử đi với chức trách của một vị Khâm sai thay mặt nhà
vua giải quyết công việc trọng đại quốc gia, bởi xuất phát từ lý do được bộ Quốc sử ghi
lại: Vì Cang (Lê Đại Cang) trước ở Bắc thành, hiểu rõ điển lệ cũ, cho nên có việc sai đi
này119.
Cũng chỉ với 2 tháng trong vai trò Khâm sai, ông quan Lê Đại Cang lúc này đang
ở độ tuổi “xưa nay hiếm” (tròn 70) bằng nhiệt tình, trách nhiệm cao cùng kinh nghiệm
điều hành công việc hiệu quả đã được các bạn đồng liêu tiến cử và vua Thiệu Trị ban cho
giữ chức Thự Bố chính sứ Hà Nội vào tháng 12 năm 1841. Sau một năm đảm nhiệm chức
trách này, Lê Đại Cang xin về hưu tại vùng đất Thăng Long-Hà Nội, nơi ông gắn bó với
nhiều kỷ niệm đẹp.
116 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Ba, Sđd, tr.426.117 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Sáu, Sđd, tr.234.118 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam liệt truyện, Tập 3: Chính biên-nhị tập, Sđd, tr.387.119 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Sáu, Sđd, tr.235.
59
Thời gian cả 4 lần Lê Đại Cang được điều ra làm việc và sinh sống tại Thăng
Long – Hà Nội (trong khoảng từ năm 1819 đến 1842) ước tính chỉ độ 10 năm. Mười năm
này đã để lại cho Lê Đại Cương nhiều ấn tượng sâu sắc, đường thăng quan tiến chức khá
“thuận buồm xuôi gió”. Ông đã nhiều năm làm quan trên kinh đô của các triều đại Lý-
Trần-Lê, lại là một người có ý thức chịu khó quan sát, tìm hiểu vùng đất cổ hội tụ tinh
hoa văn hóa dân tộc, cho nên đã tích lũy được một khối kiến thức sâu sắc về phong tục
tập quán cùng đặc điểm tâm lý của người dân nơi đây. Vì vậy, khi giải quyết những vấn
đề có liên quan đến địa phương, khá hợp lý, hợp tình được dân chúng cùng triều thần vị
nể, đương thời ông “có tiếng là chính sự giỏi”120.
Mặt khác, Lê Đại Cang được nhiều bạn đồng liêu yêu mến, kính trọng bởi tính
cách thẳng thắn, nghiêm khắc trong giải quyết công việc của một vị quan xuất thân từ
một nhà Nho quê gốc Bình Định. Có lần Lê Đại Cang đã từ chối không nhận toàn bộ tiền
thưởng của nhà vua ban cho với lý do quê hương xa xôi, lại mới bị phạt.
Sử chép: Mùa đông, tháng 12 năm Minh Mệnh 9 (1828) Thưởng quản lý Đê chính
là Lê Đại Cương 100 quan tiền. Nhà vua thấy việc bận nhiều …duy một mình Cương
làm, kể cũng khó nhọc, nên thưởng cho, Cương nhân đó tâu rằng: quê nhà xa xôi, trước
bị phạt bổng, nay xin lĩnh một nửa để chi dung. Vua bảo bộ Hộ: Cương xin là muốn tỏ
cho Trẫm biết là thanh bạch thôi121.
Trong cuộc đời làm quan, có một lần Lê Đại Cang thực hiện quyền “tiền trảm hậu
tấu” (chém trước tâu sau) của một đại thần. Khi giữ quyền ấn triện Tổng trấn Bắc Thành,
Lê Đại Cương đã xử lý một vụ cố tình đốt cháy nhà trong khu vực dân cư của Thăng
Long. Sử chép về sự kiện này: Nguyên quyền giữ ấn triện Bắc Thành là bọn Lê Đại
Cương, bắt được kẻ phóng hỏa đốt nhà cửa người ta, lập tức sai chém rồi mới tâu lên122.
Vua Minh Mệnh nhằm tránh cho Lê Đại Cang bị xử tội nặng, giải thích rằng: cách giải
quyết của ông là việc làm tùy tiện, vì đương thời có bọn côn đồ vô lại, nhân cơ hội gây
rối, chứ không phải do tự tiện chuyên quyền.123
Vùng đất cổ Thăng Long – Hà Nội có lẽ là nơi “đất lành” đối với một con dân
nam Trung bộ như ông. Lê Đại Cang tìm được niềm vui trong thời gian sinh sống và làm
việc ở đây. Các vua Minh Mệnh, Thiệu Trị đều tỏ ra tin tưởng, giao cho ông nhiều trọng
chức tại Thăng Long – Hà Nội.
120 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam liệt truyện, Tập 3: Chính biên-nhị tập, Sđd, tr.386.121 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Hai, Sđd, tr.804.122 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Ba, Sđd, tr.254.123 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Ba, Sđd, tr.254-255.
60
Thăng Long-Hà Nội không chỉ để lại cho Lê Đại Cang những năm tháng vinh
quang của cuộc đời hoạn lộ, mà còn ghi nhận một thiên tình sử nồng nàn của ông với một
vị Quận chúa xinh đẹp xứ kinh Bắc. Bà Quận chúa có tên là Lê Ngọc Phiên, cháu nội của
vua Lê Hiển tông, cháu của Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân, người làng Nành (nay là
xã Ninh Hiệp, Hà Nội). Bà Ngọc Phiên là vợ thứ của Lê Đại Cang, xuất thân dòng dõi
hoàng tộc, được học tập chu đáo từ nhỏ, cho nên rất hiền thục, chăm chỉ, giỏi nội trợ, yêu
thích văn chương124. Bà đã cùng ông vào Nam ra Bắc, chịu mọi gian truân khổ ải, đầy
sóng gió hiểm nguy của con đường làm quan cay cực như Lê Đại Cang đã viết125.
Nhân dịp kỷ niệm 165 năm ngày Lê Đại Cang giã từ dương thế (1847-2012), hậu
học xin được dâng nén tâm hương để tưởng nhớ tới bậc tiền nhân – người đã cống hiến
cho sự nghiệp dựng xây của triều Nguyễn và góp phần vào công cuộc phát triển Thăng
Long-Hà Nội trong thế kỷ XIX.
Nhâm Thìn, Mạnh đông (11/2012)
Viết tại Hà Thành, Quan Nhân thư trai
124 Lê Đại Cang và Lê Thị gia phả, Sđd, tr.25, 46-47.125 Lê Đại Cang và Lê Thị gia phả, Sđd, tr.74.
61
Lê Đại Cang – thời đại và lựa chọn
Nguyễn Thụy Kha
Trong lịch sử, có những trùng lặp tưởng là ngẫu nhiên giữa những mốc sự
kiện thời đại với những mốc sự kiện thời đại với những mốc sự kiện của một đời người,
nhưng có khi lại chẳng hề ngẫu nhiên. Điều đó, rất đúng với cuộc đời của danh nhân văn
võ song toàn đất thang mộc Bình Định – Lê Đại Cang.
Trùng lặp đầu tiên là năm Lê Đại Cang ra đời Tân Mão 1771 cũng là năm
Tây Sơn dấy nghĩa. Trùng lặp thứ hai là năm ông 21 tuổi – năm Nhâm Tý 1792, năm mà
Lê Đại Cang phải chịu tang song thân, cũng là năm cả nước chịu tang Hoàng đế Quang
Trung. Trùng lặp thứ ba là năm ông 31 tuổi – năm Nhâm Tuất 1802 – khi Lê Đại Cang
được thăng tri huyện Tuy Viễn thì cũng là năm kết thúc lịch sử nội chiến ở Việt Nam
trong giai đoạn từ 1771 đến 1802 – một lịch sử nội chiến với đầy biến động để khi khép
lại thì đã thống nhất bờ cõi thành một đường thái cực từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà
Mau trong quốc hiệu chính thức mang tên Việt Nam. Còn phủ Quy Nhơn quê ông được
đổi là Bình Định.
Theo “Lê thị gia phả” – một áng văn chương duy nhất còn sót lại của sự
nghiệp văn chương Lê Đại Cang, cụ thân sinh ra ông – Cụ Thiệu Long (tên húy là Hậu) –
một hàn lâm viện thi đốc học sĩ tuy quê hương ở đất Quy Nhơn “từ nhỏ đã anh tú, theo
anh là Bá Nho học nghề, lớn lên ra kinh đô Huế sống với anh Khánh Phong, đọc sách tìm
chân lý, thông đại nghĩa, lại viết chữ hay nữa”. Cụ lấy vợ ở Huế và dựng nhà cạnh Tịnh
xá Đức Tông của người anh. Vậy là Lê Đại Cang sinh ở Huế. Cũng theo “Lê thị gia phả”,
mùa thu năm Bính Thân 1776, gia đình ông về cửa chùa huyện Đăng Xương (nay là
huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị), rồi đến năm Bính Ngọ 1786 mới trở về nhà cũ ở
Dương Xuân (nay thuộc Tuy Phước, Bình Định). Chính thời đại nội chiến khốc liệt này
đã khiến gia đình ông nay đây mai đó, con cái thất học, chỉ có thể tự học mà thôi. Nhưng
cũng chính do thời đại này mà khi trở về quê nhà, Lê Đại Cang được học người thày đầu
tiên là Nguyễn Tử Nghiễm – quan thị giảng thời Tây Sơn. Nhưng quan trọng và duyên
ngộ nhất là ông được học văn của Thượng Thư Bộ Lễ Đặng Đức Siêu. Đặng Đức Siêu là
một danh nhân lớn (có tên trong từ điển Văn hóa Việt Nam), người Bồng Sơn, phủ Quy
62
Nhơn (nay là huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định). Và cũng ở đó, ông đã được thụ giáo võ
nghệ của các võ sư thâm hậu đất thang mộc. Quê hương đất võ, trời văn đã hun đúc lên
con người Lê Đại Cang văn võ song toàn. Cũng theo “Lê thị gia phả”, Lê Đại Cang tâm
sự: “Năm 21 tuổi, cha mẹ đều ngã bệnh, tôi hầu hạ thuốc thang chạy chữa nhưng vô
phương, cha mẹ nối nhau qua đời. Cha mẹ mất lúc cả nhà đang sống rất đạm bạc, ra khe
nước suối, lạt lẽo như vị nước mùa thu”. Lê Đại Cang nghỉ học thày, chỉ ôn sách cũ, sống
bằng nghề dạy học. Song chính trong mười năm ấy, vừa chứng kiến cảnh mẹ cha qua đời,
cảnh người anh hùng áo vải Quang Trung như vì tinh tú vụt tắt, để lại một triều đại chứa
chất nhiều phe phái mâu thuẫn, vừa ngẫm nghĩ về lực lượng chúa Nguyễn mới mẻ, trong
vô thức đi tìm vượt thoát khỏi vòng kiềm thúc của truyền thống cổ hủ, bắt đầu giao hòa
với văn minh phương Tây tiến bộ, Lê Đại Cang ngẫm nghĩ lời căn dặn của cha, với quyết
định ở tuổi “tam thập nhi lập” đã sẵn sàng nhận chức tri huyện Tuy Viễn, để bắt đầu một
hành trình đầy trắc trở trên con đường làm quan phục vụ triều đại mới đến tận cùng sức
lực. Đó là sự lựa chọn đúng đắn mà ông đã nhận ra từ Hậu quân Lê Chất, Bình Tây tướng
quân Nguyễn Huỳnh Đức, Huỳnh bộ tham tri Nguyễn Hoài Quỳnh – những người tiến cử
ông.
Trong suốt 45 năm làm quan trải qua 3 triều Nguyễn: Gia Long, Minh
Mạng và Thiệu Trị, những đóng góp của Lê Đại Cang đánh đông dẹp bắc và đào sông,
mở đất ở cả ba miền Nam Bắc, nhất là ở Hà Nội và miền biên viễn Cực Nam tổ quốc, đã
được lịch sử ghi nhận đầy vinh quang. Giữ đê Bắc, bình giặc Nam, từ tri huyện quê nhà
đến quyền Tổng trấn Bắc thành, Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên, Tổng đốc An – Hà, Trấn
Tây tham tán đại thần, Lê Đại Cang trong cuộc đời có một số phận có gì tương tự như
Hoàng đế Quang Trung. Người đánh tan quân Xiêm ở Rạch Gầm – Xoài Mút, người dẹp
đuổi quân Xiêm ra khỏi Phnông-pênh. Người đại phá quân Thanh ở Thăng Long, người
hai lần thuần phục sứ Thanh tại phòng tiếp sứ ở Hà Nội. Người lấy Ngọc Hân công chúa
– con vua Lê làm Bắc cung hoàng hậu. Người lấy Ngọc Phiên quận chúa cháu vua Lê
làm thiếp. Họ đều xứng danh kiệt hiệt đất thang mộc tuy ở các cấp độ khác nhau trong vị
trí lịch sử.
Cũng do vị trí lịch sử, một người xuất chúng siêu phàm có công tạo ra một
thời đại vẻ vang, mở đường cho thời đại sau bắt đầu công cuộc giao hòa thế giới, thì lại vì
quá sức mà mắc bệnh chết sớm. Còn người kia, do bị ám ngữ bởi tư tưởng độc tài và
63
bành trướng của Minh Mạng, thì đã kịp tự giác ngộ mình trong một giải thoát khác. Suốt
cuộc hành trình liên tục gần nửa thế kỷ, Lê Đại Cang đã lựa chọn tâm thế tĩnh trong động
để có thể dâng hiến toàn bộ năng lực mình đến tận cùng. Vừa ra trận, vừa chỉ đạo xây
dựng kinh tế, ông vừa để lại những tập thơ văn và tập “Lê thị gia phả” độc đáo. Thơ của
ông tuy đã bay theo làn khói thuốc lá của một cuộc chiến tranh ở một thời đại sau, nhưng
tập “Lê thị gia phả” đã cho ta soi chiếu từ một dòng họ để nhận ra mọi tác động lịch sử
suốt chiều dài mấy ngàn năm đến từng số phận con người. Có lẽ vì là con dân một đất
nước liên miên chiến tranh, chứng kiến bao cảnh loạn ly chết chóc, mà con người thường
tìm đến sự giải thoát bằng tâm linh. Dòng họ Lê của Lê Đại Cang bao người vào cửa Phật
để xa lánh sự đời? Bao người theo đạo Lão để nhập thế cứu đời. Ngay Lê Đại Cang, khi
cuối đời lập ra chùa Giác Am và trở thành Giác Am cư sĩ thì chính cả sự nghiệp của ông,
với cách ứng xử lúc lên voi, lúc xuống chó thì lại có gì đó rất vô vi từ vô thức. Ông vẫn là
người trong Lão, ngoài Khổng, rồi Phật.
Thật không dễ gì mà sứ giả nhà Thanh sau khi tiếp xúc, đàm phán đã tặng
ông hai câu đối trên liễng sứ: “Đông Sơn khí khái – Bắc hải phong lưu” và “Tọa đối hiền
nhân tửu – Sơn tàng thái sử thơ”. Có lẽ ngoài khí phách và phong nhã của ông chính là
đôi câu liễng khảm trai “Nhứt họa nhứt thi” của ông treo trong phòng tiếp sứ Thanh:
“Miến lan vị cảm tư quân tử - Kiến trúc hà tu vấn chủ nhân” mà sứ Thanh đã đọc được
mà kiêng nể. Một Lê Đại Cang năm Tân Sửu 1841 tiếp sứ Thanh hào khí có kém gì một
sư Khuông Việt năm Đinh Hợi 987 tiếp sứ Tống, cũng như Trần Huy Liệu thời đại Hồ
Chí Minh khi Trần Nghị hỏi: “Các ông có sợ chúng tôi không?” thì nhận được câu trả lời:
“Sợ hay không thì cứ nhìn lại lịch sử”. Cứ thế, các bậc trí giả mọi thời đại Việt Nam đều
như cái đòn khiêng võng kiên nhẫn đưa các thời đại đi qua lịch sử. Còn riêng nó thì trở về
im lặng ở góc từ đường.
Lê Đại Cang xứng đáng được tôn vinh như một danh nhân lịch sử đáng tự hào của
mảnh đát địa linh nhân kiệt Bình Định và của đất nước ta..
64
CHÍNH SỬ TRIÊU NGUYÊN
GHI CHEP VỀ LÊ ĐẠI CƯƠNG
PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Chi
(Viện Sử học)
Lê Đại Cương sinh năm 1771 tại thôn Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện
Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Ông là người văn, võ song toàn. Cuộc đời và sự
nghiệp của ông đã được một số tác giả đề cập, trong bài viết này, tôi muốn cung
cấp những tư liệu gốc, tức là những tư liệu được Quôc sư quan triều Nguyễn ghi
chép về Lê Đại Cương (Cang). Đo la bô Đai Nam thưc luc.
1. Thời gian làm việc ở Bắc Thành (1810 – 1823)
Lê Đại Cương được Đại Nam thực lục, chép sớm nhất vào năm 1811: “Lê
Chất tâu cử Lê Đại Cương theo làm việc ở thành. Cương trước làm Tri huyện
Tuy Viễn, vì tham tang phải mất chức, Chất thấy Cương là người có tài làm
việc, mới tâu xin. Vua y cho”126. Lê Chất đã từng ở Bình Định cùng với một số
tướng lĩnh của vua Gia Long và là người thân tín của nhà vua127. Sau đó, vào năm
1810, Lê Chất được vua Gia Long cử ra Bắc Thành làm Tổng hiệp trấn128. Vốn là
một tướng tài nên Ông nhìn người khá tinh tường và sớm phát hiện Lê Đại Cương.
Nên, một năm sau khi Lê Chất nhận chức Tổng hiệp trấn, Ông đã tâu xin vua cho
Lê Đại Cương ra Bắc cùng làm việc với mình. Lê Đại Cương được thăng chức
Thiêm sự Bộ binh, giữ việc từ chương. Đại Nam thực lục chép: Năm 1819, “Lấy
Câu kê Thị hàn viện là Trần Chính Đức làm Thiêm sự Hộ bộ, cựu Tri huyện 126 Đại Nam thực lục (ĐNTL), Tập Một, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.820.127 Năm 1802, “Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Nguyễn Hoàng Đức, Phạm Văn Nhân từ Bình Định về, vào yết kiến. Vua yên ủi hồi lâu, ban cho áo mũ…” (Đại Nam thực lục, Tập Một, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.488).128 Năm 1810, “Lấy Nguyễn Hoàng Đức làm Tổng trấn Bắc Thành. Lê Chất làm Hiệp tổng trấn, Phạm Như Đăng làm Tham hiệp tổng trấn. Chiếu dụ rằng: “Cõi Bắc là nơi trọng trấn, hết thảy ủy cho các ngươi. Các ngươi nên gia tâm vỗ về, dẹp trộm cướp để yên dân, cho vừa lòng trẫm. Về việc quân lữ thì từ phó tướng trở xuống, có ai trái luật thì đều được tiện nghi làm việc, rồi sau tâu lên” (Đại Nam thực lục, Tập Một, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.780). Ông còn được vua Minh Mang ban cho một thanh gươm mạ vàng, một khẩu súng dát vàng, năm 1821, “Cho Tổng trấn Bắc Thành Lê Chất một thanh gươm Tây chạm mạ vàng, một khẩu súng Tây dát vàng, cho Phó tổng trấn Lê Văn Phong một thanh gươm Tây chạm mạ vàng, một khẩu súng Tây dát bạc ; các liêu thuộc ở thành tất cả 125 người, từ Tòng nhị phẩm đến Tứ phẩm, mỗi người đều thưởng gươm mạ bạc và súng chữ vàng theo thứ bậc khác nhau” (Đại Nam thực lục, Tập Hai, Nxb. Giáo dục, 2004, tr.163).
65
Lê Đại Cương làm Thiêm sự Binh bộ, sung biện Hộ tào và Binh tào Bắc
Thành. Lại sai Chính Đức kiêm quản cục Bảo tuyền, Đại Cương kiêm làm
giấy tờ ở thành”129.
2. Thời gian làm việc ở Quảng Nam (Tháng Giêng / 1823 đến tháng
9/1826)
Năm 1823, sau 12 năm làm việc ở Bắc Thành, Lê Đại Cương được triều đình
điều vào Quảng Nam lãnh chức Cai bạ, “Lấy Thiêm sự Binh bộ chuyên biện việc
từ chương ở Bắc Thành là Lê Đại Cương làm Cai bạ Quảng Nam”130.
Tháng Giêng, năm 1824, triều đình tiến hành duyệt tuyển131 ở Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Bình, Quảng Trị và Quảng Ngãi. Ở Quảng Nam, địa bàn do Lê Đại Cương phụ trách, số đinh hơn trước 1 phần 10. Do làm tốt công việc được giao nên một số quan chức được triều đình ban thưởng, trong đó có Lê Đại Cang. “Duyệt tuyển là để biết rõ số dân nhiều ít, chẳng phải lấy tăng lên hay kém đi làm tốt xấu ; duy Trấn thần Quảng Nam vỗ về chăn nuôi đúng đắn, hộ khẩu ngày đông, mà tuyển quan thì phép cũng vừa phải, không có thiên khinh thiên trọng, vậy nên xét công. Tuyển quan Nguyễn Văn Quế, Trần Minh Nghĩa, dinh thần Phạm Văn Tín, Trần Lợi Trinh, Lê Đại Cương đều thưởng 1 thứ kỷ lục. Từ sau phàm những người vâng mệnh đi làm duyệt đều nên đem lòng công bằng tin chắc, chớ có cầu công càn bậy mà hư trương số hộ làm hại dân”132.
Tháng 3 năm 1924, triều đình cho khơi rộng sông Vĩnh Điện ở Quảng Nam. Đây là con sông quan trọng lại dài 1.640 trượng, nhưng đường nước nông, hẹp, nên việc khơi đào cần huy động số người đông tới 3.000 người và Lê Đại Cương được cử đảm trách việc này. Sau khi hoàn thành, Lê Đại Cương được thưởng 80 quan tiền, 2 tấm sa, 1 thứ kỷ lục. Đại Nam thực lục chép: “Đào sông Vĩnh Điện ở Quảng Nam. Xứ ấy có con sông nhỏ, từ xã Cẩm Sa (dài hơn 1.640 trượng), đường nước nông hẹp, sai Cai bạ Lê Đại Cương đốc suất 3.000 dân trong hạt để đào cho rộng ra. Người làm việc được cấp hậu tiền gạo (mỗi người mỗi tháng cấp tiền 3
129 ĐNTL, Tập Một, sđd, tr.992.130 ĐNTL, Tập Hai, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.275.131 Duyệt tuyển: Kê khai nhân khẩu, trong đó chủ yếu là số đinh.132 ĐNTL, Tập Hai, sđd, tr.335.
66
quan gạo 1 phương). Đào hơn 2 tháng thì xong. Cho tên là sông Vĩnh Điện. Cầu sông ấy cũng gọi là cầu Vĩnh Điện. Thưởng cho Đại Cương 80 quan tiền, 2 tấm sa, 1 thứ kỷ lục, từ chuyên biện trở xuống thưởng tiền theo thứ bậc…”133.
Sau đó, tháng 9 năm 1824, triều đình lại điều Lê Đại Cương làm cai bạ Vĩnh Thanh. “Lấy Cai bạ Quảng Nam là Lê Đại Cương làm Cai bạ Vĩnh Thanh, Thiêm sự Binh bộ là Bùi Phổ làm Thiêm sự Hình bộ sung biện Hình tào Gia Định, Tham hiệp Nam Định là Nguyễn Hữu Thị làm thự Ký lục Phú Yên”134.
Tháng 5 năm 1825, do sông Vĩnh Điện bị sụt lở nhiều, Lê Đại Cương bị vua
quở trách. Sử chép: “Đào lại sông Vĩnh Điện. Trước vua đi tuần Quảng Nam, trải
qua sông ấy, thấy đường sông nông hẹp, bảo bầy tôi rằng : “Trước kia đào khai
sông ấy, hạn bề ngang trên bờ là 5 trượng, dòng nước rộng 3 trượng 4 thước, nay
mới hơn một năm mà đã sụt lở, chỗ rộng chẳng quá 2 trượng, chỗ hẹp chỉ hơn 10
thước; lại hai bờ cao quá, đứng dựng như vách thì thế nước chảy mau sụt lở càng
nhiều, của nhà nước và công của dân, cả hai đều uổng phí, cái tội của Đổng lý Lê
Đại Cương nói sao cho xiết. Bọn giám tu và chuyên biện đều giao xuống hai bộ Lại
Binh bàn xử”135. Vì thế, tháng 7 năm 1825, Lê Đại Cương bị cách chức. “Cai bạ
Vĩnh Thanh là Lê Đại Cương vì trước kia trông coi đào sông Vĩnh Điện ở Quảng
Nam, bờ sông vỡ lở bị xử tội đồ. Vua đặc cách gia ơn đổi làm án cách lưu. Bộ Lại
tâu rằng án cách lưu trước đây chưa có làm qua, xin nên truy thu hết bằng sắc từ
lúc xuất thân đến nay, rồi làm bằng cấp của đình thần phát cho giữ lấy, đợi sau
được khai phục sẽ xét phẩm trật mà cấp trả lại. Vua theo. Sau lấy đó làm lệ”136.
3. Trở về Kinh đô làm Hữu Thị lang Hình bộ (11/1826) và Thự Hữu Tham
tri Hình bộ (Tháng 5 nhuận năm 1827)
Tháng 9 năm 1826, Lê Đại Cương được triều về Kinh đô: “Triệu Cai bạ
Vĩnh Thanh là Lê Đại Cương về Kinh. Lấy Lang trung Công bộ thự Thiêm sự hiệp
lý trấn vụ Phú Yên là Vũ Huy Đạt làm Thiêm sự Công bộ thự Cai bạ Vĩnh Thanh.
Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt tâu xin cho Cương ở lại làm Tuyên phủ sứ phủ
Lạc Hoá. Vua không cho, dụ rằng : “Đặt quan chia chức là việc lớn của triều
đình ; tuỳ tài bổ dụng là phép công của vương giả. Cương đã có mệnh lệnh rồi mà
còn xin lưu lại là sao? Nếu bảo rằng người ấy hợp với đất ấy thì sao không tâu
133 ĐNTL, Tập Hai, sđd, tr.338.134 ĐNTL, Tập Hai, sđd, tr.376.135 ĐNTL, Tập Hai, sđd, tr.429.136 ĐNTL, Tập Hai, sđd, tr.446.
67
xin từ trước khi chưa có lệnh triệu ?”. Duyệt sợ hãi, dâng biểu xin nhận tội. Vua
tha cho”137.
Tuy nhiên, chỉ 2 tháng sau, vào tháng 11- 1826, triều đình đã bổ nhiệm Lê Đại
Cương giữ chức Hữu Thị lang Hình bộ, “lấy Ký lục Bình Thuận là Đoàn Viết
Nguyên làm thự Hữu Tham tri Hộ bộ, nguyên Cai bạ Vĩnh Thanh là Lê Đại
Cương đổi bổ Hữu Thị lang Hình bộ”138.
Đến tháng 5 Nhuận năm 1827, Lê Đại Cương được giữ chức thự Hữu Tham tri
Hình bộ, “Cho Hữu Thị lang Hình bộ là Lê Đại Cương làm thự Hữu Tham tri
Hình bộ, Hữu Thị lang Binh bộ là Lê Văn Đức làm Tả Thị lang Binh bộ”139.
4. Lê Đại Cương trở lại Bắc Thành (7-1827 đến Thang 10 năm 1832)
(Trong thời gian này, Lê Đại Cương phụ trách việc xét án, quản lý đê chính,
rồi kiêm Hình tào Bắc Thành. Chức vụ thăng từ thự Hữu Tham tri Hình bộ lên
Hữu Tham tri Hình bộ, đươc quyên giư ân triên Tông trân Băc Thanh. Sau đó,
thăng từ Hữu Tham tri Hình bộ lên thự Binh bộ Thượng thư, làm Tổng đốc Sơn
Hưng Tuyên lĩnh Tuần phủ Sơn Tây, rồi, quyền kiêm lĩnh cả ấn quan phòng Tổng
đốc Hà – Ninh. Tuy nhiên, do phụ trách đê chính do sửa đắp đê không đúng quy
định nên bị giáng cấp nhưng sau đó lại được phục hồi.)
Tháng 7 năm 1827, do án ở Bắc Thành nhiều nên việc xử việc xử án chậm trễ,
nên vua Minh mạng sai Lê Đại Cương ra Bắc Thành giải quyết: “Sai thự Hữu
Tham tri Hình bộ là Lê Đại Cương, mang cờ bài và đem hai người liêu thuộc đi
Bắc Thành xem xử hình ngục. Dụ rằng: “Bắc Thành gần đây bị vỡ đê, bọn tào
trưởng Vũ Xuân Cẩn phải đi phát chẩn, việc án để đọng, không thể chóng làm
xong được. Để đọng một ngày thì dân chịu khổ một ngày, ngươi nên thanh lý cho
chóng. Hết thảy các án kiện giao cho, cùng án mạng án cướp trong hạt, đến tháng
11 phải xét xử xong. Còn như tạp án tầm thường thì do thành xét xử, đến cuối năm
phải xong cả, khiến tào không có án để đọng, ngục không có tù giam lâu, để đáp ý
trẫm cẩn thận việc ngục thương xót việc hình”140.
Tháng 11 năm 1827, Lê Đại Cương hoàn thành nhiệm vụ, từ Bắc Thành trở về
Kinh sư bẩm với nhà vua về việc hình án: “Thự Hữu Tham tri Hình bộ Khâm phái
thanh lý hình ngục là Lê Đại Cương tự Bắc Thành về phục mệnh. Vua triệu vào
yết kiến. Cương nhân tâu rằng : “Viên dịch Hình tào nhiều người tham nhũng,
137 ĐNTL, Tập Hai, sđd, tr.540.138 ĐNTL, Tập Hai, sđd, tr.553.139 ĐNTL, Tập Hai, sđd, tr.632.140 Đại Nam thực lục, Tập Hai, sđd, tr.662.
68
thần xét ra được hơn mười người, có đủ thực trạng, còn người ngày đêm cần cù
có ích cho Hình tào thì chỉ có Đoàn Khiêm Quang, Trương Hảo Hợp và Bạch
Xuân Nguyên vài ba người thôi”141.
Tháng Giêng năm 1828, Lê Đại Cương được giữ chức Hữu Tham tri Hình bộ,
“Cho Lê Đăng Doanh làm Tả Tham tri Lại bộ, Đoàn Viết Nguyên làm Tả Tham tri
Lễ bộ, Lê Đại Cương làm Hữu Tham tri Hình bộ, Hồ Hữu Thẩm làm Tả Thị lang
Lễ bộ”142.
Tháng 9 năm 1828, Lê Đại Cương lại được vua Minh Mạng điều sang quản lý
Đê chính: “Sai Hữu Tham tri Hình bộ là Lê Đại Cương sung chức quản lý Đê
chính, Vệ uý vệ Cường võ Ngô Tiến Đức sung chức Tham biện, Tri phủ Thiên
Trường là Nguyễn Lý Nhân làm Viên ngoại lang ty Thận cần Đê chính”143. Ông lại
từ Kinh đô ra Bắc Thành thực thi nhiệm vụ mới.
Tháng 11 năm 1828, triều đình ra lệnh đắp đê công ở Bắc Thành: “Đê chính
thần là bon Lê Đại Cương đi các trấn xem xét đê cũ đê mới, thấy có chỗ nên đắp
đê mới, coc hỗ nhân đê cũ mà bồi đắp thêm, phàm 18 sở, đều là đại công trình cả,
duy một sở mới Kim Quan thuộc Bắc Ninh dài hơn 890 trượng, đất ấy ruộng
chiêm thấp ướt, thi công rất khó, xin đến thượng tuần tháng 12 năm nay khởi
công, ngoài ra như 10 sở đê mới Hải Bối, Phụng Nghĩa thuộc Sơn Tây, Phú Thị,
Nho Lâm, Viên Nội, hào Châu, Lam Điền, thuộc Sơn Nam, Tiên Lạt, Đỗng Phấn
thuộc Bắc Ninh, Thanh Nga thuộc Nam Định cộng dài hơn 3.060 trượng; 7 sở đê
cũ Thụ Ích, Hát Môn, Mạch Lũng, Đại Độ, Thạch Thán thuộc Sơn Tây, Đại Yên
Trường, Thuần Lễ thuộc Sơn Nam cộng dài hơn 3.590 trượng, đều xin đến hạ tuần
tháng giêng sang năm khởi công. Vua y cho. Chi phí cả thảy hết hơn 175.500
quan…”144.
141 Đại Nam thực lục, Tập Hai, sđd, tr.680.142 Đại Nam thực lục, Tập Hai, sđd, tr.706.143 Đại Nam thực lục chép tiếp: “Cương vào bệ từ. Vua dụ rằng : "Việc chống lụt quan hệ rất lớn. Ngươi là người biết lẽ, trước kia việc hình ngục ở Bắc Thành, ngươi đến nơi là làm xong ngay. Nay trách nhiệm về Đê chính càng nặng nề. Lần này đi, nên hết lòng xếp đặt để cho nước chảy thuận dòng, cho dân càng mừng êm sóng thì công ấy chẳng nhỏ đâu". Vua lại nói : "Ngày trước Văn thư phòng là Trần Văn Trung xin theo Đê chính làm việc, trẫm đã y cho, nhưng chưa biết y làm việc thế nào. Ngươi xét kỹ xem, nếu quả là người siêng năng được việc thì lập tức tâu lên, không được như thế thì nên xét hoặc trị tội. Phàm việc biết người, từ xưa vẫn cho là việc khó. Trẫm thường dặn rằng vì không biết rõ người nên dùng thường lầm. Như Trương Văn Minh cũng là người siêng năng cẩn thận. Năm trước Thanh Nghệ nhiều giặc, cho đi xét bắt cả cõi được yên. Lại phải đi đào sông Vĩnh Điện ở Quảng Nam, cũng làm xong việc. Đến lúc uỷ cho trọng trấn Bắc Thành thì sinh lòng tự mãn, kiêu căng, công việc làm sai lầm. Là một Trương Văn Minh mà trước sau hai người khác nhau. Thế thì biết người cũng chẳng khó lắm ư ?" (Tập Hai, tr.774)Huyện Đông144 Đại Nam thực lục, Tập Hai, sđd, tr.793.
69
Tháng 12 năm 1828, Lê Đại Cương được vua thưởng cho 100 quan tiền do có
nhiều nỗ lực trong việc đắp đê: “Thưởng quản lý đê chính là Lê Đại Cương 100
quan tiền. Nhà vua thấy việc đê điều bận nhiều mà Tham biện là Ngô Tiến Đức lại
ốm chết, duy một mình Cương làm, kể cũng khó nhọc, nên thưởng cho
Cương…”145.
Công việc đắp đê ở Bắc Thành ngày càng bận rộn, triều đình cho dựng công
đường Đê chính ở Bắc Thành (ở cửa Nam trong thành) vào tháng Giêng năm
1829. Rồi sai Chưởng cơ Lê Thuận Tĩnh và nguyên thự Hiệp trấn Nam Định là
Hoàng Quýnh giúp việc Đê chính Bắc Thành.
Vua bảo bộ Công rằng : “Việc sông bận nhiều, một mình Lê Đại Cương khó
làm xong được. Trước sai Nguyễn Văn Khoa làm Tham biện, lại là tay mới, nên
không phái thêm các viên giỏi việc cùng làm thì sợ được việc này hỏng việc kia.
Nay mưa xuân bắt đầu việc đê chính là khẩn yếu, dẫu đã có người chuyên trách,
nhưng việc nước thì sao”. Bèn sai bọn Thuận Tĩnh đi. Nhân cho Đại Cương 50
lạng bạc, Thuận Tĩnh và Quýnh, Khoa đều 40 lạng”146.
Tháng 4 năm 1829, trong Kinh kỳ mưa mãi. Vua lo việc đê phòng ở Bắc
Thành, sắc cho quan Đê chính đem tình trạng đê điều và nước mưa tâu lên. “Bọn
Lê Đại Cương tâu rằng : “Việc đê phòng, công trình lớn có 18 sở, trong tháng có
thể xong, sở công trình nhỏ thì hiện đương thực đắp. Vả tự cuối xuân đến nay,
mưa không liên miên, xem xét thuỷ chí (1), cũng chưa tràn quá bờ sông”. Vừa mới
vài ngày thì nước sông lên hơn 10 thước, thành thần Phan Văn Thuý đem việc phi
báo. Vua xem tờ tâu bảo bộ Hộ rằng : “Mới qua tiết Tiểu mãn (2) chưa đến kỳ
nước lớn tam phục (3) mà nước sông đã lên mau như thế, lòng ta rất lấy làm lo.
Phải phi dụ ngay cho bọn Lê Đại Cương xem việc đê có chỗ nào quan yếu chưa
đắp xong, thì báo gấp cho Phan Văn Thuý lập tức phái biền binh ngày đêm sửa
đắp, để khỏi chậm trễ không kịp việc”147. Khúc đê mới ở Kim Quan đầu đuôi và
đoạn giữa, tất cả hơn 140 trượng, thường thường sụt lún,thường hay sụt lún nên,
Lê Đại Cương được phân công chuyên phụ trách đoạn đê này, “Lê Đại Cương và
Lê Thuận Tĩnh thì chuyên đóng công trường Kim Quan”148.
145 Đại Nam thực lục, Tập Hai, sđd, tr.804.146 Đại Nam thực lục, Tập Hai, sđd, tr.829.(1) Thuỷ chí : cái mấp đo nước sông.(2) Tiểu mãn : khí tiết, cứ 21, 22 tháng 5 dương lịch là Tiểu mãn.(3) Tam phục : sau tiết Hạ chí, ngày canh thứ ba là sơ phục, ngày canh thứ tư là trung phục, ngày canh sau lập thu là mạt phục.147 Đại Nam thực lục, Tập Hai, sđd, tr.847.148 Đại Nam thực lục, Tập Hai, sđd, tr.848.
70
Tuy nhiên, ngay sau đó, Lê Đại Cương bị giáng chức xuống 3 cấp do sửa đắp
đê không đúng quy định. Tháng 4 năm 1829: “Đê mới ở làng Đa Hòa thuộc huyện
Đông An149, Sơn Nam, Bắc Thành sửa đắp chưa xong, người đắp thuê phần nhiều
lười bỏ. Đê chính là bọn Lê Đại Cương báo thành trù làm. Thành thần phái ngay
Phó thống Thập cơ là Phạm Đình Bảo đem biền binh 1.400 người đến đắp hộ, và
đem việc tâu lên. Vua bảo bộ Công rằng : “Việc đắp đê, lợi hại rất quan trọng.
Trẫm trông về miền bắc, lòng bối rối không khuây giờ phút nào. Thế mà bọn Đại
Cương, mình có trọng trách lại làm việc không chu đáo, tức như việc đê nguy
hiểm ở Kim Quan, đã không biết trù liệu trước, nay đê này lại sửa đắp không
đúng thức để thiếu đến 5, 6, 7 thước, coi thường nhỡ việc như thế há lại theo phép
khoan hồng được sao ? Đại Cương trước hết giáng 3 cấp, Nguyễn Văn Khoa, Lê
Thuận Tĩnh, Hoàng Quýnh đều giáng 2 cấp, trấn, phủ, huyện sở tại cũng đều
giáng 1 cấp”150.
Tháng 6 năm 1829, “Quan Đê chính là bọn Lê Đại Cương tâu : “Đê Kim
Quan từ đầu mùa hạ trở đi trải 4, 5 lần ngập lụt, tuy nhiều chỗ sụt lở, nhưng suốt
đê không có thấm lâu, ví thử đến kỳ nước mùa thu có bình dân hết sức sang hộ thì
có thể giữ được không lo”. Vua phê bảo : “Không nên vội nói là không lo. Duy
còn mong nhờ thần giúp để trẫm cùng bọn ngươi được ngủ yên thì may”. Thành
thần Phan Văn Thuý lại tâu : “Tháng này nước sông lên đến hơn 13 thước, rồi lại
giảm xuống, hơn lúc thường chỉ trên 9 thước”. Vua lại phê bảo : “Xem lời tâu,
hơi đỡ được lo phiền. Nhưng sợ mưa ít, hoặc đến vụ thu có hại chăng”151.
Tháng 8 năm 1829, công việc đắp đê ở Bắc Thành đã hoàn tất, đoạn đê Kim
Quan do Lê Đại Cương phụ trách cũng được gia cố vững chắc. Trong tờ sớ tâu lên
vua Minh Mạng viết: “Việc đắp đê năm nay công trình lớn 18 sở, công trình nhỏ
hơn 1.000 sở, tuy chín lần nước lên to, mà đều giữ vững, không có nạn tràn ngập.
Nay kỳ trước mùa thu đã qua, nước lụt sắp hết, nước sông hơi trong, thật là nhờ
Hoàng thượng chăm lo nghĩ cho dân, trù tính chu đáo. Cho nên lòng trời thuận
giúp, sông ngòi linh thiêng mà có sự mừng nước yên lặng này”.
Vua phê bảo : “Mở xem sớ chưa hết, mà vui vẻ xiết bao, sâu cảm ơn trời, lại
nhờ phúc của thần kỳ giúp đỡ, nên nước lụt vụ hạ lên vọt khác thường mà giữ
được dòng sông thuận nẻo, việc giữ đê nguy hiểm ở Kim Quan thường xảy ra và
cuối cùng đã giữ được vững chắc không lo. Việc yên sông này công lao các khanh
149 Huyện Đông An : nay là huyện Khoái Châu, Hưng Yên.150 Đại Nam thực lục, Tập Hai, sđd, tr.856.151 Đại Nam thực lục, Tập Hai, sđd, tr.864.
71
cũng đáng thưởng đó”152. Phần thưởng vua ban lần này, Lê Đại Cương được phục
chức như trước: “Lê Đại Cương, Lê Thuận Tĩnh và Hoàng Quýnh trước bị giáng
cấp đều cho khai phục”153.
Để giữ được đê điều phát huy hiệu quả thì việc nạo vét sông, thông dòng chảy
là hết sức quan trọng, Lê Đại Cương và Hoàng Quýnh đã dâng sớ lên vua. Sớ viết:
“Việc đắp đê do lai xa lắm. Vài năm gần đây, nước sông làm hại, Hoàng thượng
đã nhiều lần sắc bảo kinh dinh công việc đê phòng, không điều gì là không rõ
ràng đầy đủ. Bọn thần trước đi hội làm, thường hỏi thăm kỳ mục các địa phương
về chỗ hưng lợi trừ hại, thì đều nói rằng ngoài việc đê phòng không còn cách
khác. Thứ nữa thì đến bỏ đê và khai đào dòng sông mà thôi. Thiết nghĩ từ đời
Đinh Lý về trước, chưa có đê phòng, dân địa phương đào giếng cày ruộng, có
hại về nước lụt hay không thì chưa được rõ. Từ đầu đời Trần sai các lộ đắp đê
để chống lụt, dân gian từ đấy đến những nơi thấp trũng mà nhóm ở làm ăn, cho
nên các đời theo đó mà sửa đắp, xem là điều cốt yếu trong việc giữ dân và vệ
nông, người ta mới nói rằng sau khi đã có đê không thể bỏ đê được nữa. Cho
nên lời bàn bỏ đê, bọn thần chưa dám chắc là định luận. Duy việc đào sông thì
từ xưa đã có. Nay xem đầu nguồn của các đường sông ở Bắc Thành, ở Hưng Hóa
thì có sông Thao, sông Đà, ở Tuyên Quang thì có sông Lô, sông Đáy, đến hai
huyện Tiên Phong, Bạch Hạc thuộc Sơn Tây thì bốn sông hợp lưu vào sông Nhị,
rồi sau chia chảy ra biển. Khoảng đó, dòng sông quanh co khúc khuỷu đến lúc
thình lình mưa lụt, thế nước chảy mạnh, qua gò tràn đống rất mau, không thể
ngăn được. Đê giữ hai bên bờ, khúc nọ ôm khúc kia, thế nước ngoằn ngoèo như
chứa trong ống vậy. Nếu đê không giữ nổi thì tràn vỡ ngay, vì cớ nước chảy không
thông vậy. Vả lại sông Nhị là sông xung yếu của Bắc Thành : bên hữu có sông Hát
chia nhánh đổ về hai sông Châu Cầu và Thanh Quyết ; bên tả có sông Nguyệt
Đức ở huyện Yên Lạc, sông Thiên Đức ở huyện Đông Ngàn, đều chảy xuống Bắc
Ninh, Hải Dương, rót vào sông Lục Đầu, không sông nào là không chia thế nước
của sông Nhị mà chảy ra biển. Nay hai sông Hát Môn và Nguyệt Đức có nhiều cát
bồi, sông Thiên Đức lại cong queo, nông hẹp, tắc mà không thông, mỗi lần nước
lụt chảy mạnh thì các sông Lô, Thao, Đà, Đáy đổ thẳng sông Nhị, hai sông Hát
Môn, Nguyệt Đức đến kỳ nước lụt còn có thể đầy tràn mà chảy được duy sông
Thiên Đức gần thượng lưu của bờ phía bắc của thành, cửa sông từng đã cạn lấp,
lại thêm bờ phía nam cồn cát nhô ra, thế nước chảy mạnh xói vào phía Bắc
Thành, làm cho bờ sông sụt lở. Nơi ấy trước có kè đá, đến nay hầu đã lở mất rồi.
152 Đại Nam thực lục, Tập Hai, sđd, tr.887.153 Đại Nam thực lục, Tập Hai, sđd, tr.887.
72
Thế mà sông Thiên Đức thông hay tắc, hình như có quan hệ đến thế nước có xói
vào phía Bắc Thành hay không. Năm trước thấy có xin vét sông ấy, bọn thần còn
chưa rõ ra sao. Đến nay thân hành đến nơi mà xét rõ mới biết lời nói của người
ta không phải là không có sở kiến. Nhân nghĩ một đoạn cửa sông ấy lại đâm
ngang ra, thế nước không thuận nên bồi lấp đã lâu mà lòng sông ở hạ lưu thì hãy
còn. Như muốn vét đào thì nên dời cửa sông lên trên để hút nước sông, mé dưới
thì tuỳ thế mở rộng ra, chỗ quanh co thì nắn cho thẳng lại. Ấy là kiến thức hẹp hòi
của bọn thần, như có dùng được xin sắc xuống cho đo đạc để trù tính mà làm”.
Vua phê bảo : “Trẫm cũng có ý ấy, nhưng chưa dám cho là phải, nay ý kiến
bọn ngươi cũng thế. Nhưng công trình không phải là nhỏ, nên phải được trí mọi
người như một, mới mong được thật tốt !”154.
Trong thời gian phụ trách việc đê điều ở Bắc Thành, Lê Đại Cương còn biên
soạn cuốn sách thống kê các đê công tư. “Đê chính thần Lê Đại Cương dâng sách
tổng kê các đê công tư ở Bắc Thành: Đê điều các trấn Sơn Tây, Sơn Nam, Nam
Định, Bắc Ninh, Hải Dương và phủ Hoài Đức thuộc hạt thành, đoạn nào đắp tự
năm nào, đời nào, đoạn nào ở địa phận xã thôn nào, cùng dạng thức cao rộng bao
nhiêu, sổ sách không rõ, từ trước đến nay người lãnh chức Đê chính phàm có sửa
đắp, chỉ cứ theo sở tại khai báo mà giao làm, đến khi làm xong, cũng chỉ tới chỗ
đê mới mà khám biện thôi. Từ khi Lê Đại Cương chuyên coi việc đê mới đi khắp
xem xét. Những chỗ đê gần sát bờ sông, thân đê sụt nứt, chiếu lệ đại công trình
mà đắp đê mới, tất cả 18 sở, ngoài ra các đê mới cũ đắp từ đời trước và từ năm
Gia Long thứ 2 trở lại, nhiều lần sửa đắp, phàm chỗ thế nước chảy xói nên quý
làm đê công, thì theo lệ tiểu công trình mà sửa đắp, chỗ nào thế nước tầm thường
nên làm đê tư thì cho dân coi giữ, chỗ nào nên bỏ thì san đi. Đến bấy giờ cứ các
đê điều cho đến cống nước ở đê, họp làm sách tổng kê để phòng xem đến. (Trấn
Sơn Tây : 8 huyện Tiên Phong, Phúc Lộc, Đan Phượng, Yên Sơn, Từ Liêm, Bạch
Hạc, Yên Lạc, Yên Lãng, 212 xã thôn, trang trại, đê công cũ mới ở các sông lớn,
sông vừa, sông nhỏ cộng 248 đoạn, dài suốt hơn 59.093 trượng, đời trước đắp
45.136 trượng, năm Gia Long thứ 2 đến nay đắp hơn 13.957 trượng, và cống công
16 cửa. Đệ tư sông nhỏ ở đầu nguồn và dòng khe, dài suốt hơn 10.393 trượng và
cống tư 16 cửa. Hai huyện Vĩnh Thuận, Thọ Xương phủ Hoài Đức, 8 phường
thôn, 2 đê công cũ ở sông lớn, dài suốt 1.272 trượng, đắp từ đời trước, lại 1 con
đê bỏ, dài 102 trượng. Trấn Sơn Nam : 16 huyện Thanh Trì, Thượng Phúc, Phú
Xuyên, Đông An, Kim Động, Nam Xang, Tiên Lữ, Phù Dung, Thanh Oai, Chương
154 Đại Nam thực lục, Tập Hai, sđd, tr. 892-893.
73
Đức, Sơn Minh, Hoài An, Kim Bảng, Duy Tiên, Bình Lục, Thanh Liêm, 287 xã
thôn, trang, đê công cũ mới ở sông lớn, sông vừa 368 đoạn, dài suốt hơn 88.363
trượng, đời trước đắp 73.683 trượng, năm Gia Long thứ 2 đến nay đắp hơn
14.679 trượng, và cống công 3 cửa. Trấn Bắc Ninh : 11 huyện Đông Ngàn, Gia
Lâm, Văn Giang, Tiên Du, Yên Phong, Thiên Phúc, Việt Yên, Bảo Lộc, Phượng
Nhỡn, Yên Thế, Yên Dũng, 154 xã, đê công cũ mới ở các sông lớn, vừa, nhỏ 164
đoạn, dài suốt hơn 65.318 trượng, đời trước đắp hơn 53.358 trượng, năm Gia
Long thứ 2 đến nay đắp hơn 1.959 trượng, và cống công 31 cửa. Đê tư sông nhỏ ở
đầu nguồn và dòng khe, dài suốt hơn 45.705 trượng. Trấn Nam Định : 12 huyện
Thượng Nguyên, Mỹ Lộc, Thiên Bản, Hưng Nhân, Duyên Hà, Thư Trì, Ý Yên, Vũ
Tiên, Chân Định, Thanh Quan, Đông Quan, Thuỵ Anh, 78 xã thôn trang tại, đê
công cũ mới ở sông lớn, sông vừa dài suốt hơn 24.861 trượng, đê ngăn nước mặn
hơn 9.804 trượng, đời trước đắp hơn 19.132 trượng, năm Gia Long thứ 2 đến nay
đắp hơn 5.532 trượng. Đê tư sông nhỏ và dòng khe cùng là đê ngăn nước mặn,
dài suốt hơn 42.971 trượng. Trấn Hải Dương : huyện Vĩnh Lại1553 xã, đê công cũ
ở sông vừa ngăn nước mặn dài suốt hơn 1.221 trượng đời trước đắp. Đê tư ngăn
nước mặn dài suốt hơn 75.432 trượng”156.
Thang 4 năm 1830, “Quan Đê chính Bắc Thành là bọn Lê Đại Cương, Nguyễn
Văn Khoa tâu rằng năm nay nước sông lên sớm, tự tháng 2 đến nay (tháng 4) lên
xuống đã 3 lần. Nay cây đo nước ở bờ sông so với mức nước đầu xuân cao hơn
trên một thước, những đoạn đê mới đắp thêm, đều được vững vàng, liệu đến vụ
nước mùa thu sẽ không lo ngại.
Vua phê rằng : “Xem tờ tâu hơi yên lòng Trẫm, mong sao cho công việc bền,
vật liệu chắc, đê được vững, nước yên dòng, để Trẫm cùng thần dân vui mừng với
nhau”157.
Thang 5 năm 1830, “Hữu tham tri Hình bộ là Lê Đại Cương lĩnh Hình tào và
kiêm Đê chính. Gia chưa lên đường về Kinh, thì vì việc đê rất khẩn lại giữ lại
quyền làm Hình tào cho Đại Cương được nghỉ việc tào mà chuyên biện Đê
chính”158.
Thang 6 năm 1830, do vơ đê ơ Sơn Nam, nên Lê Đai Cương bi cach chưc,
“Đê Sơn Nam ở Bắc Thành vỡ. Đê cũ ở xã Lưu Khê (thuộc huyện Thượng Phúc)
có phó tổng Đặng Văn Mai đào Trẫm để bắt cá, nước chảy xuôi, đê bị vỡ. Việc ấy
155 Vĩnh Lại : nay là Vĩnh Bảo (Hải Phòng).156 Đại Nam thực lục, Tập Hai, sđd, tr. 899-900.157 Đại Nam thực lục, Tập Ba, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.31.158 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.61.
74
đến tai vua. Vua dụ rằng : "Việc đê Bắc Thành đối với đời sống nhân dân lợi hại
không nhỏ. Trước đã giao cho Đê chính chuyên biện, đinh ninh dạy bảo đến hai
ba lần. Lúc đầu mùa hạ cứ lời tâu thì các đoạn đê lớn nhỏ đã hoàn thành, tin có
thể giữ vững được. Nhưng Trẫm vẫn chưa dám chắc. Nay đê lại vỡ, sơ phòng đến
hại, như thế tội ấy khó chối được. Đê chính Lê Đại Cương và Nguyễn Văn Khoa
các viên trấn phủ huyện sở tại cùng với Phó tổng trấn Phan Văn Thuý đều giáng
cách theo bậc khác nhau”159.
Thang 8 năm 1830, đê đươc sưa đăp, nươc sông đa yên, Lê Đai Cương lai
đươc thương va phuc chưc như trươc: “Bắc Thành tâu báo nước sông đã yên. Vua
dụ rằng năm nay việc sửa đê lần lượt hoàn thành. Đầu mùa thu, đoạn đê Lưu Khê,
nhân tên dân mọn đào trộm, đến nỗi bị vỡ, may chỗ ấy là hạ lưu, tổn hại không
mấy, sang hộ có thể giữ chắc được ngay. Nay mừng sông nước thuận dòng, các sở
công trình lớn nhỏ đều được yên hà. Nghĩ rằng ngăn nước giữ đê thực nhờ phúc
thần phù hộ. Vậy phát hương lụa ở Nội thảng giao cho Đê chính là Lê Đại Cương
biện lễ tam sinh, đến tế ở miếu Hà thần để tạ. Lại một nghìn lạng bạc treo thưởng
trước thì dụ chỉ chia cho binh dân làm đê. Những người bị giáng cách theo án
trước, đều cho khởi phục. Những người không dự án trước thì nhân viên đốc công
đều thưởng cấp kỷ theo thứ bậc. Rồi nước sông lại lên to, bốn ngày mới xuống, đê
phòng đều không ngại gì. Sớ tâu lên vua mừng lắm. Phê rằng : “Sau khi thôi
không phòng đê, lại có nước sông lên to, mà đê phòng đều được vững chắc, thực
nhờ phúc thần nhiều lắm…”160.
Mây thang trươc, Lê Đai Cương đươc giao chi chuyên viêc đê chinh, nay, ông
đươc giao thêm Hinh tao Băc Thanh: “Lại lấy Hữu tham tri Hình bộ là Lê Đại
Cương lĩnh Hình tào Bắc Thành vẫn kiêm lĩnh Đê chính, thự Hữu thị lang Hộ bộ
quyền biện Hình tào là Nguyễn Hữu Gia đổi làm thự Hữu thị lang Binh bộ Bình
tào Bắc Thành”161
Thang 4 năm 1831, “Quan coi việc đê ở Bắc Thành là bọn Lê Đại Cương tâu
nói : “Các nơi sửa chữa đê đều đã xong cả, từ tiết tiểu mãn đầu mùa hạ, thường
có những trận mưa lớn, nước sông dâng mau, to hơn nước mùa xuân đến hơn 13
thước, nay mới xuống dần, nhưng các đê điều không quan ngại gì”.
Vua phê bảo : “Nay đê điều đã nhất luật làm xong, nước sông tuy dâng mau,
mà đê điều đều được vững chắc, xem tờ tâu, ta rất yên lòng. Các ngươi đã cẩn
159 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.84.160 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr. 102.161 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.103.
75
thận lại nên cẩn thận thêm, sao cho sông lặng sóng êm, dân yên, vật thịnh. Đó là
điều mong mỏi thiết tha của ta đấy”162.
Thang 6 năm 1831, Vua dụ Nội các : “Nay sắp đến kỳ nước lên to, chính là
lúc cần phải săn sóc đê điều. Gần đây nghe nói Sơn Nam mưa to luôn mãi, tuy
mừng lúa được nước cấy, nhưng lại lo nước sông lên to. Vậy sai bộ Công truyền
chỉ cho các viên Đê chính Lê Đại Cương xét xem nước sông có lên to hay không,
và mức nước ở cột đo ven sông lên xuống thế nào, kíp phi tâu vua biết.
Lũ Lê Đại Cương tâu : “Nước sông nay đã rút xuống hơn lúc thường, mực
nước ở cột đo nước cao hơn mực thường ngoại 10 thước. Vả, nghiệm ra trước giờ
nước sông dẫy to, phần nhiều vì nước ở trên nguồn đổ về. Còn như các trấn đông,
tây, nam, bắc thành hạt, dẫu mưa nhiều, cũng không đến nỗi làm nước sông lên to
lắm. Lại, hằng năm nước to hay vào tuần mạt phục163 hiện đã phân phái ty thuộc
đến các phần đê tuần tra xem xét và dự bị vật liệu hộ đê”. Vua phê bảo : “Xem tờ
tâu, ta hơi yên lòng”164.
Thang 9 năm 1831, triêu đinh mơ khoa thi Hương ơ Thanh Hoa, Băc Thanh va
Nam Đinh, Lê Đai Cương đươc cư lam chu khao trương Băc Thanh: “Sai thự Hộ
bộ Hữu tham tri Bùi Phổ làm chủ khảo trường Thanh Hoa, thự Hiệp trấn Hải
Dương Hoàng Tế Mỹ làm phó chủ khảo ; Hình bộ Hữu tham tri lĩnh Bắc Thành
Hình tào Lê Đại Cương làm chủ khảo trường Bắc Thành, thự Hiệp trấn Nam Định
là Nguyễn Khắc Hài làm phó chủ khảo, Hiệp trấn Nghệ An là Hồ Hựu làm chủ
khảo trường Nam Định, Hiệp trấn Ninh Bình là Nguyễn Khắc Biểu sung làm phó
chủ khảo. Lấy 61 người đỗ cử nhân”165.
Thang 10 năm 1831, Lê Đai Cương đươc quyên giư ân triên Tông trân Băc
Thanh: “Triệu Đô thống thự Hậu quân ấn vụ, lĩnh Phó tổng trấn Bắc Thành Phan
Văn Thuý về Kinh sung chức. Sai bọn Chưởng cơ Lê Văn Quý, Hình tào Tham tri
Lê Đại Cương, Hộ tào Tham tri Đặng Văn Thiêm và kiêm biện Binh tào Nguyễn
Văn Mưu cùng nhau quyền giữ ấn triện Tổng trấn Bắc Thành. Khi có việc tâu báo
chuẩn cho đều hội hàm cùng ký tên vào tờ tâu”166. Cung trong thang nay, Lê Đai
Cương đươc thăng chưc thư Binh Bô Thương thư, Tông đôc Sơn Hưng Tuyên,
Tuân phu Sơn Tây: “Cho Tham tri lĩnh Hình tào Bắc Thành Lê Đại Cương thăng
162 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.171.163 Mạt phục : có 3 ngày phục là sơ phục, trung phục và mạt phục. Mạt phục là ngày canh đầu, sau lập thu thường vào thượng tuần tháng 7.164 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.182.165 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.211.166 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.220.
76
thự Binh bộ Thượng thư, làm Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên lĩnh Tuần phủ Sơn
Tây”167.
Thang 11 năm 1831, Lê Đai Cương do tư minh ra lênh chem đâu ke phong hoa
đôt nha ngươi khac, bi vua phat môt năm bông: “Nguyên quyền giữ ấn triện Bắc
Thành là bọn Lê Đại Cương, bắt được kẻ phóng hoả đốt nhà cửa người ta, lập tức
sai chém rồi mới tâu lên.
Vua bảo bộ Hình: “Đối với quyền lớn sinh sát, bề tôi Bắc Thành khinh suất
như thế, đáng lẽ giao bộ nghiêm ngặt bàn xử, nhưng nghĩ hiện nay đương chia
phái biền binh đi đóng giữ các nơi, hoặc giả những kẻ côn đồ vô lại, nhân dịp gây
sự đó cũng là tuỳ tiện tạm làm chứ không phải là tự tiện chuyên quyền. Vậy gia
ơn, chỉ phạt mỗi người một năm bổng”168.
Lê Đại Cương, Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên tâu vơi vua cho biên binh 5 đôi
Tung Thiên ơ Băc Thanh cho lê vao Sơn Tây: “Biền binh ở 5 đội Tùng thiện nhất,
nhị, tam, tứ, ngũ thuộc Bắc Thành trước đều là tù phạm dồn lại và bổ sung. Nay
chia đặt tỉnh hạt, chưa có lệ thuộc vào đâu. Vả, bọn ấy chỉ để dùng ở nơi ven biên
giới là phải, xin đổi cho lệ thuộc về Sơn Tây, để phòng sai khiến”. Vua chuẩn y.
Lại cho rằng quân đội phần nhiều không đủ số ngạch, bèn sai dồn làm 4 đội nhất,
nhị, tam, tứ”169.
“Lê Đại Cương, Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên tâu nói: “Số binh 2 cơ kiêm hạt
Tuyên Quang chỉ có hơn 200 người, không đủ phân phái. Trước kia đã bàn định
lấy 1 cơ Bắc Thành ở Sơn Tây, chia đi phòng giữ Hưng Hoá. Nay xin trích lấy 500
biền binh ở cơ Hậu dũng Hữu quân, chia 300 người lệ thuộc Hưng Hoá, 200
người lệ thuộc Tuyên Quang; đợi sau khi Tuyên Quang mộ đủ cơ binh, sẽ lại rút
về Hưng Hoá cho đủ số 1 cơ”.
Lại số người coi kho ở Sơn Tây theo lệ thì phái một suất đội 50 biền binh cứ 3
năm tới kỳ thanh tra thì thay đổi một lần. Nay chia đặt tỉnh hạt sự trưng thu thuế
khoá ở 7 huyện thuộc thành cũ đều gộp cả vào tỉnh, thì số tiền và thóc thu vào,
phát ra nhiều bội hơn trước. Vậy xin tới kỳ thanh tra sang năm, phái 2 suất đội và
100 biền binh ở Hữu quân sẽ cùng với những người giám phủ cũ, giao nhận với
nhau. Từ nay về sau, tới kỳ thanh tra, cũng theo lệ ấy.
Vua đều ưng thuận”170.
167 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.242.168 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.254.169 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.257.170 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.258.
77
“Lê Đại Cương, Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, tâu nói : “Thuộc hạt có phủ Quốc Oai, nguyên coi 5 huyện. Trước kia, định đặt phủ thành ở xã Trung Thuỵ, thuộc huyện Đan Phượng là hạt kiêm lý ; tới lúc chia đặt ra tỉnh hạt, lại trích lấy huyện Từ Liêm cho thuộc về Hà Nội, thế là thuộc hạt chỉ còn có 4 huyện. Thần đã đi xem địa thế, thì các huyện An Sơn, Mỹ Lương và Thạch Thất đều ở phía đông sông Hát mà huyện Đan Phượng riêng ở phía tây, địa thế Đan Phượng chưa phải là trung độ. Vậy xin dời đặt phủ thành ở địa phận xã Hoàng Xá, huyện An Sơn, và lấy An Sơn làm phủ nha, kiêm lý phủ cũ và vẫn dùng là huyện lỵ Đan Phượng, nhưng thôi việc xây đắp thành huyện thành”. Vua chuẩn y”171.
Thang 3 năm 1832, vua “truyền dụ các Tổng đốc, Tuần phủ các tỉnh lớn từ Hà Tĩnh ra Bắc : gần đây đã mưa hay chưa, lập tức tâu lên. Gặp ngay sớ ở Sơn Tây tâu báo có mưa, vua cả mừng, bèn sai lấy hương lụa ở kho Nội phủ giao cho đốc thần Lê Đại Cương đem làm lễ tạ ở đền thần núi Tản Viên. Rồi đó, các tỉnh lại kế tiếp báo tin có mưa”172.
Thang 5 năm 1832, “Lê Đại Cương Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên tâu nói : “Thuế mỏ và thuế sơn ở tỉnh hạt, nguyên chưa có thợ để xét màu sắc, xin tư đòi các thợ sơn và các thợ nấu vàng, bạc, đồng ở hạt bên là Hà Nội và Bắc Ninh cho lệ thuộc dưới quyền để phân phái”.
Vua bảo bộ Công rằng: “Kể một tỉnh đã rộng, nhân dân đã nhiều, há không
có người sung vào làm thợ, nay lại muốn lấy người hạt khác đến, chỉ là thêm việc,
sao không nghĩ các đồ vật nhà dân thường dùng từ trước đến nay tìm kiếm ở đâu,
mà vẫn không thiếu ?”. Vậy truyền dụ : “Từ nay về sau, các hạt ở Bắc Kỳ, hễ hạt
nào không có ngạch thợ vàng, bạc, đồng, sắt, sơn, thì cho chiểu theo công việc
nhiều ít mà chiêu mộ thợ để có thường số, miễn trừ cho họ không phải đi lính và
dao dịch. Lúc có việc thì cấp cho tiền, gạo, để chi dùng ; lúc không việc thì thôi,
cốt cho không thiếu người làm việc, kỹ nghệ đều tinh, không được lấy nên không
có mà cầu xin (lấy thợ)”173.
171 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.263.172 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.307.173 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.315.
78
Thang 7 năm 1832, triêu đinh triệu Nguyễn Văn Hiến, Tổng đốc Hà Ninh về
Kinh nên giao cho Lê Đai Cương kiêm linh tông đôc Ha – Ninh: “Chuẩn cho Lê
Đại Cương, Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên, quyền kiêm lĩnh cả ấn quan phòng
Tổng đốc Hà - Ninh. Ninh Bình đã có Tuần phủ Hồ Hựu chuyên làm việc trong
hạt, duy có việc trọng đại mới phải hội bàn. Bố chính, Án sát Hà Nội, đều chiếu
theo chức vụ làm việc, nếu có việc trọng yếu, tức thì bẩm lên để Đại Cương điều
khiển”174.
Thang 9 năm 1832, triêu đinh lai “Đổi bổ Tổng đốc Hải - Yên là Nguyễn Kim
Bảng làm Tổng đốc Hà - Ninh, Lê Đại Cương lại về Sung chức ở Sơn - Hưng –
Tuyên”175. Rôi, “sai bộ Binh mật tư cho Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên là Lê Đại
Cương, thăm dò tình trạng gần đây của người Thanh ở động Phong Thu thuộc
Hưng Hoá, rồi cứ thực tâu lên”176.
Thang 10 năm 1832, triêu đinh “triệu Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên là Lê Đại
Cương, Tổng đốc Thanh Hoa là Đoàn Văn Trường về Kinh đợi chỉ”177.
5. Thời gian làm Tổng đốc An - Hà178 kiêm lĩnh ấn “Bảo hộ Chân Lạp
quốc” (từ 11- 1832 đến thang 7 năm 1841).
Đại Nam thực lục chép: Thang 11 năm 1832, “Dùng nguyên Tổng đốc Sơn -
Hưng - Tuyên là Lê Đại Cương làm Tổng đốc An - Hà kiêm lĩnh ấn “Bảo hộ Chân
Lạp quốc”. Trước đây, Đại Cương được triệu về Kinh, bấy giờ có dân hạt Sơn
Tây đem việc tham tang đưa đơn kiện. Vua giao cho hộ đốc là Hồ Hựu xét, không
có tang chứng gì. Vua liền vời Lê Đại Cương vào ra mắt và dụ rằng: “Ngươi làm
việc nhanh nhẹn giỏi giang, đã hiểu biết rõ. Trước đây, có đơn tiểu dân kiện bậy,
ta cũng tin rằng chắc ngươi không có việc ấy ; nhưng pháp luật là phép công,
chẳng tư vị ai, nên sai Hồ Hựu xét ngay. Nay đã xét ra đơn ấy là vu khống, tâm
tích của ngươi đã tỏ rõ. Đại thần vì nước, nên hết sức làm việc nên làm, chớ vì cớ
điêu toa, ngang ngạnh của kẻ xấu, mà cho rằng đường làm quan, lắm chỗ gập
ghềnh, rồi đem lòng chán ngán chùn lại, một mực dựa dẫm hùn theo thì chẳng
hoá ra phụ ơn nhà nước lắm sao?”. Vua bèn sai bộ Hình truyền chỉ rửa oan việc
đó cho được rõ ràng. Sau đó bổ Cương làm chức ấy. Lại cho rằng Hựu xét rõ
được vụ án ấy, không có cong queo dung túng, rất khen và dụ rằng : “Việc này ta
khen ở chỗ là chỉ giữ pháp luật cho được công bằng chứ không vì cớ cốt để cứu
174 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.348.175 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.365.176 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.366.177 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.391.178 An – Hà: An Giang và Hà Tiên.
79
gỡ cho quan lại. Từ nay, nên một niềm trung trực, giữ phép công phá bỏ tình diện,
chớ thấy lần này được khen rồi có khi lại giữ ý kiến quan lại bênh nhau, thì phụ
lòng ta uỷ thác và cũng không thể trốn khỏi sự soi xét của ta được”. Đại Cương
đến trước bệ, bái biệt. Vua gọi đến trước mặt dụ rằng: “An Giang là tỉnh mới đặt,
trong thì trấn thủ, vỗ về nước Phiên (1), ngoài thì khống chế nước Xiêm, sự thể rất
quan trọng. Ngươi nay cai trị đất ấy, phàm những việc quân, dân, trọng đại cùng
thành trì và kho tàng đều nên hết sức lo liệu để phu phỉ ý ta mong ngươi làm được
thành công”179.
Thang 12 năm 1832, An Phủ Ốc Nha là Sô Đột Lục Cố, ở phủ Phủ Lật, nước Chân Lạp, nhân vua Phiên180 gọi về Nam Vang và uỷ người khác đến thay chức ấy, Lục Cố trong lòng ngờ vực, đem bộ thuộc hơn 100 người trốn sang Xiêm, vua Minh Mang to ra không hai long, mât du răng: “Địa đầu nước Chân Lạp liền với đất Xiêm, một khi nó đã phản bội trốn đi chỉ nhấc chân là đến Xiêm ngay. Trước đây cứ theo Nguyễn Văn Quế tâu báo, ta đã biết rõ đuổi cũng không kịp ; nay lại nghe báo quả nhiên chẳng bắt được. Ngươi Ngô Bá Nhân, việc này làm không hợp cơ nghi và khiến cho lũ nhãi nhép có thể nhòm thấy tình hình hư thực của ta ! Năm trước nước Phiên đã có Ốc Nha Chiết Ma trốn đi, nay lại có việc này. Vua tôi nó đã không hoà hợp, thì việc nước ấy không hỏi cũng đủ biết. Tổng đốc Lê Đại Cương có trách nhiệm kiêm việc bảo hộ, càng nên thông thạo hết cả tình hình biên giới. Ngày từ biệt trước bệ, ta đã đem tình hình ấy bảo rõ tận mặt, chắc ngươi đã lĩnh ý cả rồi. Nay lũ ngươi Lê Đại Cương và Ngô Bá Nhân phàm những việc có quan hệ đến mềm dẻo để lấy lòng thuộc quốc, đề phòng chế ngự nước láng giềng thì nên cùng lòng bàn bạc làm cho đúng sự cơ, không nên khinh suất như trước. Nếu có điều gì nên làm, thì đừng chậm trễ lỡ việc. Lại nữa, trước kia, Nguyễn Văn Thuỵ và Bùi Đức Minh rông rỡ làm liều, không giữ thể diện, đến nỗi tự chuốc lấy tội lỗi. Gương cũ còn sờ sờ đấy. Hai ngươi càng nên tỉnh táo và đề phòng hơn nữa. Lại nên ngăn cấm thuộc viên, thân thích lính tráng, chớ để cho họ tạ sự, sách nhiễu dân
(
179 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.426-427.180 Vua Phiên : đây chỉ vua Chân Lạp.
80
man. Nếu các ngươi chỉ biết giữ mình mà không biết ngăn cấm người dưới, thì cũng như chính mình đã làm, sau hối sao kịp. Các ngươi đều nên kính cẩn tuân theo ! Thềm vua dù xa muôn dặm nhưng ánh sáng mặt trời ở ngay gang tấc, khó che đậy được”181.
Thang Giêng năm 1833, tên phản thần nước Chân Lạp là Ốc Nha Cố ở Bắc
Tầm Bôn, cầu viện quân Xiêm sang khuấy rối cướp bóc phủ Phủ Lật. Vua Chân
Lạp là Nặc Chân sai quân đi bắt. Ốc Nha Cố lại trốn đi. Nặc Chân đem việc đó
báo cho Tổng đốc An Giang kiêm lĩnh bảo hộ là Lê Đại Cương. Ngô Bá Nhân cho
rằng việc ấy có quan hệ đến biên giới, chưa nên vội động binh đao, hãy nên sai
đưa thư nhờ nước Xiêm bắt trị cho và trách hỏi viên phủ mục phủ Bắc Tầm Bôn
về cớ chứa chấp kẻ phản thần ; đợi xem hắn xử trí ra sao, rồi sau sẽ làm cho thỏa
đáng. Sớ tâu lên, Vua phê bảo : "Việc ấy quyết không phải tự ý vua Xiêm, chẳng
qua do lũ quan ở biên giới tham của, gây vạ, nghe theo phạm nhân đang trốn,
những mong cướp bắt nhân khẩu mà thôi. Lũ ngươi làm thế, phải lắm !"182.
Đê giư gin an ninh tôt hơn, Lê Đai Cương cung Nguyên Văn Quê xin triêu
đinh cho thêm Kinh binh, nhưng vua không cho. “Tổng đốc An - Biên Nguyễn
Văn Quế, Tổng đốc An - Hà Lê Đại Cương cùng ký tâu lên nói : "Hai tỉnh Phiên
An, An Giang, nơi thì xe thuyền tụ họp, nơi thì địa thế xung yếu, cần phải có nhiều
quân để đóng giữ. Thế mà cơ binh thuộc tỉnh phần nhiều chưa tập luyện thành
thạo ! Vậy xin lượng cấp cho mỗi tỉnh 1 vệ Kinh binh đến thú, mỗi năm một lần
thay đổi, để lúc hoãn lúc cấp có quân nanh vuốt giúp đỡ"183. Vua du bao: “…Các
ngươi đều là người do ta kén chọn cử ra chính mình gánh vác trách nhiệm nặng
nề. Các ngươi phải nên chấn chỉnh quân đội, huấn luyện quân sĩ và nghiêm chấp
quan võ dưới quyền không được làm một chút gì khó chịu phiền lụy để cho sức
quân có thừa, thao diễn thành thục, chuẩn bị để dùng trong lúc có việc. Sau này,
nếu cần phái thêm quân đến thì ta sẽ ban chỉ điều khiển ngay, nào có muộn
gì !"184.
Thang 3 năm 1833, Lê Đại Cương đê nghi vua cho Hô Công Chi linh chưc
Chu sư Bô Binh: “Cho Tư vụ thự Chủ sự là Hồ Công Chỉ làm Chủ sự bộ Binh,
theo Tổng đốc và Tuần phủ An - Hà kiêm lĩnh Bảo hộ là Lê Đại Cương và Ngô Bá
Nhân làm việc công thành Nam Vang. Hồ Công Chỉ, trước đây do chức thự Tư vụ
làm việc ở Binh tào thành Gia Định cũ, nhân việc đưa người Xiêm gặp nạn về
181 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.446.182 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.461-462.183 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.466.184 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.466.
81
nước, do thám được tình hình nước ấy, biên chép rõ ràng. Vua sai vời về Kinh, hỏi
lại. Chỉ tấu đối rất tường tận. Vua khen, liền cho thực thụ Tư vụ, thự Chủ sự và
thưởng 15 lạng bạc. Đến bấy giờ lũ Lê Đại Cương cho Chỉ là người lanh lẹn, được
việc lại am hiểu tình hình biên giới, xin bổ chức ấy. Vua y cho”185.
“Tổng đốc An - Hà, kiêm lĩnh Bảo hộ là Lê Đại Cương và Ngô Bá Nhân tâu
nói: "Bọn Thiều Ma là bộ thuộc của bọn thần Ốc Nha Cố ở nước Chân Lạp từ Bắc
Tầm Bôn trốn về, bị người xét hỏi bắt được, nó nói : "Nghe nói tướng Xiêm là Phi
Nhã Chất Tri, đem 3.000 quân ra Sốc Châm Nặc gần địa giới Bắc Tầm Bôn". Bây
giờ nhân dịp Chân Lạp có tiết thưởng xuân, thần đã phái quân thuyền đi trấn áp
rồi". Vua nói : "Lời nói đó hoặc là do người Xiêm vô cố hoảng sợ mà tìm cách
phòng bị, hay là vì tên Ốc Nha Cố sai nó lẻn về, đến lúc bị bắt nó bèn đặt ra
những lời ấy để phô trương thanh thế, cũng chưa biết chừng. Nói tóm lại chẳng
qua chỉ là những lời nói nghe đầu đường xó chợ cũng như những chuyện đồn
nhảm năm trước mà thôi. Vậy nên lấy bình tĩnh mà trấn áp, chớ nên rối rít hoang
mang để kẻ địch dòm biết tình hình nông sâu của mình. Còn toán biền binh đi đàn
áp, sau một tuần, không có việc gì, nên rút về ngay"186.
Thang 3 -1833, Xây dựng tỉnh thành An Giang. Tổng đốc An - Hà là Lê Đại
Cương, Tuần phủ An Giang là Ngô Bá Nhân tâu nói: "Chỗ đất thành mới, bên tả
gần sông dài, đằng trước, đằng sau và bên hữu đều là rừng rậm. Trước phải chặt
cây phát rừng, rồi mới có thể khởi công. Vả lại đằng trước và bên hữu nên đào
thủy đạo để lấy đất đắp thành quách, nền hành cung, nhà kho, dinh thự và làm
chỗ cho sau này nhân dân dựng nhà ở chung quanh. Nhưng công trình này khó
khăn to lớn, xin mướn một phần ba dân ở 4 huyện Vĩnh An, Vĩnh Định, Đông
Xuyên, Tây Xuyên thuộc bản hạt, và một phần hai dân 2 huyện Vĩnh Bình thuộc
Vĩnh Long và Kiến Đăng thuộc Định Tường góp sức cùng làm. Vua cho rằng :
"Thời tiết đã muộn, nên xuống dụ bảo phải gia tâm đốc thúc làm nhanh, cho khỏi
đến kỳ mưa lụt khó làm". Lũ Lê Đại Cương lại bàn khai thủy đạo từ sông Tiền
Giang ở Tân Thành thẳng đến sông Hậu Giang ở Châu Đốc hơn 3.800 trượng ;
xin mướn thêm một phần hai dân 5 huyện Vĩnh Trị, Tân Minh, Bảo An thuộc Vĩnh
Long và Kiến Hưng, Kiên Hòa thuộc Định Tường đến làm việc". Vua chuẩn y”187.
“Tổng đốc An - Hà la Lê Đại Cương, Tuần phủ An Giang là Ngô Bá Nhân tâu
nói : "Ốc Nha Bồ Nô Sơn Liêm Mộc ở phủ Chân Niêm, chiêu mộ được 10 đội
quân Phiên, xin đặt cho tên cơ binh, ban chức hàm và họ tên, đợi sau khi tỉnh 185 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.487.186 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr. 490-491.187 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.503.
82
thành dời đi nơi khác, sẽ cho cứ đóng giữ ở đồn Châu Đốc. Vua ưng cho và đặt
tên là cơ An Biên…”188.
Thang 3 – 1833, “Tổng đốc An - Hà là Lê Đại Cương tâu nói : "Quốc vương
Chân Lạp là Nặc Chân báo rằng thám thấy tướng Xiêm là Phi Nhã Chất Tri đóng
quân ở sóc Tà Nặc, đưa hịch hiệu triệu dân phủ Bắc Tầm Bôn, cùng với Ốc Nha
Cố phân phái việc quân. Hắn lại sai đắp đồn ở phủ Lô Khu Vật. Thần lấy làm ngờ
lắm, đã phái 300 biền binh đến thành Nam Vang trấn áp, để cho yên lòng thần
dân nước Phiên. Vua phê bảo rằng : "Tình hình Chân Lạp do thám được đó chưa
chắc đã thực. Ngươi chịu trọng trách ở biên khổn, phải xem xét cho kỹ, tùy cơ
điều khiển thế nào, cốt cho trúng khớp. Nếu có thực trạng, lập tức tâu lên"189.
Thang 4 -1833, “Thự Tuần phủ Hà Tiên là Phạm Xuân Bích tâu nói : "Trong
dịp điểm binh đầu xuân, số binh các cơ trong tỉnh trốn đến hơn 800 người. Thành
khẩn xin để tra rõ, rồi tâu tiếp". Vua dụ : "Ngươi nên hội đồng với Tổng đốc Lê
Đại Cương, liệu khéo xử trí, cốt sao vừa khoan dung vừa nghiêm ngặt khiến binh
lính vui vẻ để cho ta dùng mới phải"190.
‘Tổng đốc An - Hà là Lê Đại Cương, Tuần phủ An Giang là Ngô Bá Nhân tâu xin dồn bổ các lính ở đồn điền cũ vào 4 cơ thuộc tỉnh là An nghị tả, An nghị hữu, An nghị tiền và An nghị hậu, đặt mỗi cơ 1 Phó quản cơ, lấy các nguyên Chánh phó trưởng chi bổ làm Cai đội thí sai, Phó quản cơ. Vua y cho’191.
Thang 5- 1833, Sứ bộ Nguyễn Hữu Thức sang Xiêm va dò biết đươc quan nước Phiên là Ốc Nha Xô Ca Lộc làm phản Chân Lạp, theo vê nước Xiêm, xin quân tiếp hộ. Người Xiêm đã nhiều lần có phái binh, voi, thuyền đi sang các xứ Bắc Tầm Bôn và Đại Đồng Chân Bôn. Khi sứ bộ về đến An Giang, nói với Tổng đốc Lê Đại Cương. Đại Cương đem việc đó tâu lên và nói : "Xô Ca Lộc trước làm An phủ ở Phủ Lật, theo em vua Phiên là Nặc Giun ở lâu bên Xiêm, hoặc giả y vẫn thông mưu với Ốc Nha để phản Chân Lạp". Vua dụ rằng : "Việc này phần nhiều là do nghe đồn, ở đầu đường xó chợ, đem so với lý thế, chửa chắc đã đúng. Duy việc đề phòng biên giới mà có chuẩn bị thì không lo ngại. Thành tỉnh An Giang hiện đương xây đắp, lính tỉnh phần nhiều làm ở công sở ; nếu có sai phái có lẽ
188 Ban tên cho Ốc Nha Bồ Nô Sơn Liêm Mộc là Liêm Mộc, cho làm Phó quản cơ ; còn những người thuộc hạ như Ốc Nha Bồ Nô Mô cho tên là Phiên Mô, Ốc Nha Tốt cho tên là Phiên Tốt, Bồn Nha Biện cho tên là Phiên Biện, Bồn Nha Sốc cho tên là Phiên Dục, Bồn Nha Lục cho tên là Phiên Lục, Bồn Nha Mịch cho tên là Phiên Mịch. Người nào đáng đốc suất đội nào, do quan tỉnh sắp xếp thứ tự tâu lên sẽ chuẩn cho thực thụ. Còn tên họ cơ binh thì lấy mười chữ : Hán, Đường, Triệu, Ngụy, Yên, Hàn, Tề, Lương, Trần, Tùy đặt cho. Sau đó cho Liêm Mộc chiểu theo phẩm hàm mà chi lương. Quân chia làm 5 ban. Những người đương ở ban, hàng tháng cấp gạo 1 phương (Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.504). 189 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.516.190 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.529.191 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.532.
83
cũng không đủ”192. “Lê Đại Cương, Tổng đốc An - Hà, tâu nói: Việc sửa đắp thành mới An Giang đã dần dần xong. Duy còn đường thủy đạo hiện đương khai đào một đoạn giáp Hậu Giang dài hơn 1.050 trượng. Nay đương mưa luôn, việc làm ruộng đang cần, vậy những dân các huyện hiện đương làm việc ở đó, hễ ngày nào xong thì xin cho họ về ngay để làm ăn. Đến như cái hào dưới chân thành và các đoạn sông đào chưa khai, xin chờ đến chính mùa đông khô ráo, hãy theo thứ tự mà làm. Vả lại, nay công việc làm thành tuy mới tạm ổn, nhưng thế cục đã thành, cơ chỉ đã định. Phàm đường lối trong ngoài ra vào cùng với chợ búa phố xá đều đã dự vạch ra trước, để cho người ta biết đến đấy ở, sớm thành nơi vui vẻ. Nếu lại trở về Châu Đốc, sợ rằng dân mới tụ họp sẽ lại tản mát nơi khác. Thần đã đem số tre chặt rồi rào giậu 4 mặt, tạm làm cái thành bằng tre, và tạm thời dựng nhà kho, công đường và nhà làm việc để tiện việc dọn đến ở. Còn tòa hành cung dựng ở Châu Đốc trước, thì gỗ lim còn dùng được, nên dỡ mang về Tân Thành để xây dựng. Lại nữa, huyện Tây Xuyên là kiêm lý của phủ Tuy Biên, chính Châu Đốc ở trong địa hạt ấy. Vậy, xin lấy đồn ấy dùng làm phủ lỵ để cho sự ở được hùng tráng. Vua đều nghe theo”193.
Thang 6 – 1833, nha vua ra lênh cho Lê Đai Cương hơp sưc đanh dep cuôc khơi nghia cua Lê Văn Khôi: “Truyền dụ Tổng đốc An - Hà là Lê Đại Cương lập tức xét theo số binh và dân hiện đang làm việc xây thành, cấp cho khí giới, tiền, lương, vát lấy nhiều thuyền, đốc thúc quan quân, hương dõng thuận dòng xuôi xuống, hội với quan quân Long - Tường cùng đi đánh dẹp194. Rôi, nha vua con câp cho Lê Đai Cương kinh thiên ly: “Sai thị vệ mang cấp cho Phan Văn Thúy, Trương Minh Giảng, Lê Đại Cương và Lê Phúc Bảo mỗi người 1 chiếc thiên lý kính”195.
Viêc đanh dep Lê Văn Khôi đôi vơi triêu đinh la hêt sưc khân thiêt luc nay. Kinh đô đã phái đại đội quan quân thủy lục cùng với quân, voi và thuyền của 6 tỉnh từ Quảng Nam đến Bình Thuận điều động trước, chia đường cùng tiến đê đanh dep Lê Văn Khôi. Nha vua truyên du: “cho Lê Phúc Bảo, Tô Trân và Tổng đốc An - Hà là Lê Đại Cương trước hãy đem chém đầu một loạt lũ lính Hồi lương để dứt mối lo bên trong. Còn tù phạm nào có tình trạng hung ác, cũng tức khắc đem chính pháp, chớ có cẩu thả xuê xoa. Đó là việc cần làm”, “Lê Đại Cương nên đem ngay binh thuyền đến hội với Lê Phúc Bảo nếu có cơ hội đưa đến, có thể trước khi Kinh binh chưa tới, đốc thúc binh, dõng, sớm bắt hoặc chém đầu tướng giặc Lê Văn Khôi, thu phục được tỉnh thành, giữ yên dân chúng, thế là lũ ngươi lập được công to đời chưa từng có, thì ta sẽ ban cho phần thưởng vượt bậc. Nếu
192 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.564.193 Đại Nam thực lục, Tập Ba, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.583-584.194 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.601.195 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.603.
84
xem xét đo đắn hình thế, có nên dừng lại chờ đại binh, thì lập tức nên giữ vững cương giới, chiêu tập nhân dân để trước hết nắm lấy cái thế tất thắng”196.
Tổng đốc An - Hà Lê Đại Cương, tâu nói : "Khi mới nghe tin Phiên An có giặc gây biến, thần đã phái Lãnh binh Lê Văn Thường đem binh thuyền hội với quan quân 2 tỉnh Vĩnh Long, Định Tường tiến đánh. Sau đó hỏi ra biết rằng tướng giặc là Lê Văn Khôi tụ họp bè đảng, chiếm giữ tỉnh thành, giết hại Nguyễn Văn Quế và Bạch Xuân Nguyên, thần trước đã phi tư cho thự Tổng đốc Long - Tường là Lê Phúc Bảo gấp đi ngay. Lại nghĩ : bọn ấy nhân khi sơ hở, lén lút nổi dậy, một khi có quân đến đánh, thế tất phải do đường rừng tìm về đất cũ, hoặc nhân Phiên An có nhiều thuyền, sẽ do đường biển lủi trốn. Thần lại phi tư cho 2 tỉnh Khánh Hòa, Bình Thuận, tỉnh nào cũng ngăn chặn các đường thủy bộ hiểm yếu. Lại sợ phía đầu rừng đạo Quang Hóa, cả Nam lẫn Bắc đều đi qua được, nên nghĩ cũng phi sức cho viên quản đạo Quang Hóa nghiêm chặn lối ấy. Rồi liệu gọi các biền binh ở hạt lân cận đang hạ ban nghỉ ngơi, ủy cho đóng giữ Tân Thành và theo 2 ty Bố, Án, giữ đồn Châu Đốc. Lại phi sức cho Hà Tiên cũng phòng bị sẵn. Rồi chính mình đem Phó lãnh binh Vũ Văn Thường dẫn đại đội binh thuyền đến gần tiếp ứng. Vua phê bảo rằng : "Nhận được sớ tâu, ta biết ngươi đã có chuẩn bị trước và đem quân đi đánh dẹp, cơ hội chính là hay. Ta ngày ngày mong tin thắng trận"197. “Đạo quân Tổng đốc An - Hà Lê Đại Cương tiến đóng Định Tường. Họ đều đệ tập tấu lên vua”198.
Lê Đai Cương cung quan quân triêu đinh tiên đanh thanh Phiên An do Lê Văn Khôi chiêm giư: “Vua dụ đình thần rằng : "Nhiều lần điều bát quan quân các tỉnh và thủy quân ở Kinh xuất phát, chắc rằng hiện nay đã đến địa hạt Bình Thuận, Biên Hòa. Còn quan quân do Tổng đốc Long - Tường là Lê Phúc Bảo, Tổng đốc An - Hà là Lê Đại Cương tâu nói đã đốc thúc đó cũng đã đến đủ. Vậy truyền dụ cho bọn Lãnh binh Nguyễn Văn Hòa, Mai Công Ngôn, Lê Sách, Lê Văn Nghĩa và Nguyễn Văn Thị một mặt thông tin cho Lê Phúc Bảo và Lê Đại Cương tiến đánh, một mặt tức khắc đốc suất quan quân, voi chiến và thuyền các tỉnh, chia đường thủy, bộ, đến thẳng tỉnh thành Phiên An, cốt phải bắt hoặc chém được lũ tướng giặc Lê Văn Khôi để làm cho ra án. Nếu có kẻ nào rụt rè, thì lập tức đem chém để rao ở trước quân. Mọi người đều nên đồng lòng gắng sức, gấp diệt giặc này rồi hãy ăn sáng để lập công danh, giành lấy hậu thưởng, chính là cơ hội này. Đã cố gắng lại cố gắng thêm". Lại truyền dụ cho Lê Phúc Bảo và Lê Đại Cương đều biết việc này”199.
Quan quân triêu đinh bi hoa công cua Lê văn khôi đanh tra nên thua. Lê Đai Cương biêt tin, tâu lên vua: “Súng ống, hỏa dược của thành Gia Định trước đều
196 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.605.197 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.606-607.198 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.612.199 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.617.
85
còn ở Phiên An chưa từng chia cấp. Lại nữa, Lê Văn Duyệt trước kia làm nhiều hỏa khí để dùng hỏa công dự bị cho việc biên phòng, nay bị lũ giặc chiếm lấy, dùng để phản công, cho nên biền binh không đủ sức địch lại". Vua bảo Nội các rằng : "Hai đạo quan quân của Lê Đại Cương là Lê Phúc Bảo không phải không nhiều, sao lại không hợp sức cùng lòng đều tiến đánh giặc, mà lại trùng trình nghe ngóng đề phòng không chu đáo, để đến nỗi có sự thua trận nhỏ này ! Đáng lý ra phải trị tội nặng, nhưng nghĩ trong khi đang có việc nên chuẩn cho bọn Lê Đại Cương, Lê Phúc Bảo và các Lãnh binh đều phải đới tội lập công, để chờ xem gắng sức sau này"200.
Cung trong thang 6 -1833, quan quân triêu đinh đánh phá đồn do Lê văn Khôi chiêm giư, thu phục được tỉnh lỵ, vua dụ: “Tổng đốc Long - Tường là Lê Phúc Bảo và Tổng đốc An Giang là Lê Đại Cương rằng : "Quan quân Biên Hòa nay đã giết tan đảng giặc, lấy lại được tỉnh lỵ, mũi nhọn của quân lính chính đương mạnh mẽ sắc bén, đang mưu đồ tiến đánh. Binh, voi và chiến thuyền do các tỉnh và Kinh đô phái đi có thể hẹn ngày đến được Biên Hòa. Bọn ngươi nên chỉnh đốn chiến thuyền, đốc thúc quân lính đến thẳng Phiên An hội tiễu. Lại truyền dụ cho bọn vua, quan nước Chân Lạp đều biết để họ được yên tâm đừng nghe tin đồn trước mà trong lòng hoang mang sợ hãi"201.
Quân cua Lê Văn Khôi chiêm đươc Tỉnh thành Định Tường. “Tổng đốc An - Hà Lê Đại Cương ở Định Tường nghe tin, lập tức dẫn đại đội binh thuyền lui về phía sông Ba Lầy (thuộc huyện Kiến Đăng, giáp đầu tỉnh An Giang). Binh và dân giữ Định Tường, đều xao xuyến, chạy trốn đến hết”202. Lê Đại Cương, Lê Phúc Bảo đều làm sớ tâu xin chịu tội.
Vua dụ rằng : "Cứ theo tin tức dò thám lần lượt báo đến, thì việc giặc Khôi làm loạn chẳng qua là bọn tù tội vô loại, tụ họp lại thành bè đảng, chắc tụi giặc quèn ấy chẳng có khí lực gì đâu ! Bọn ngươi, Lê Đại Cương, Lê Phúc Bảo đều là quan to thống trị cả kiêm hạt, thân đốc binh thuyền đến hội tiễu, vậy mà sai phái ủy thác phần nhiều không được người giỏi, điều khiển lại lỡ cơ hội. Trước đó, ở Tra Giang thua một trận nhỏ, nên giặc mới hư trương thanh thế làm cho lòng dân nao núng sợ hãi. Lại không biết góp sức hợp mưu, cùng lo giết giặc, mà lại nửa kế không nghĩ ra, mới thoạt giao chiến với giặc, đã vội lui quân, làm hỏng việc, thế mà còn làm biểu chương đổ lỗi cho nhau, đáng lý ra phải trị tội nặng, nhưng nghĩ bây giờ đương lúc cần phải đánh dẹp, nên hãy khoan thứ cho Lê Đại Cương và Lê Phúc Bảo: đều được cách lưu. Còn Tô Trân và Ngô Bá Tuấn lập tức phải cách chức làm binh, chuẩn cho được ở trong quân gắng sức chuộc tội… Bọn ngươi, Lê Đại Cương, Lê Phúc Bảo, nên liệu tùy thế lực, trù tính cho chín. Nếu tình thế có
200 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.618-619. 201 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr. 622.202 Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.625.
86
thể tiến đánh thì nên tập hợp binh, dõng, chỉnh đốn khí giới, hăng hái, can đảm, tiến lên giết giặc, thu phục Định Tường để chuộc tội trước”203.
Quân tướng của lê Văn Khôi là Thái Công Triều đã lấy Định Tường, thẳng đường tiến lên. Các tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên đều thất thủ. Lê Văn Khôi đặt quan chức ở các phủ huyện. Trước tình hình đó, vua Minh Mạng đã tập trung binh lực để đánh dẹp quân của Lê Văn Khôi. Đồng thời, vua ra lệnh ban thưởng hậu hỹ cho những ai lập công làm tiêu hao sinh lực204.
Tháng 7 -1833, Lê Văn Khôi “đã lấy được Định Tường, đốc suất thuyền quân tiến đến đậu ở sông Đồi Giang (thuộc tỉnh Vĩnh Long, giáp đầu địa giới An Giang), Tổng đốc Lê Đại Cương đánh nhau, bị thua, lui về An Giang”205. Lê Văn Khôi chiếm cứ tỉnh thành.
“Án sát tỉnh An Giang là Bùi Văn Lý lấy lại được hai tỉnh An Giang, Hà Tiên. Trước đây, Tổng đốc Lê Đại Cương đánh nhau với giặc bị thua, rút về tỉnh lỵ (tức là đồn bảo Châu Đốc), quân đều tan tác cả, bèn thương lượng giao cho Bố chính Nguyễn Văn Bỉnh cùng với Lý vẫn cứ ở lại phòng hộ, còn mình thì đi Nam Vang, điều động lính Phiên đến cứu”206. Thái Công Triều (tướng quân thuộc quyền Lê Văn Khôi còn ở An Giang, mưu toan việc quy thuận nên đã mật báo cho Lê Đại Cương chóng đem quân về tiếp ứng Bùi Văn Lý ẩn ở đồn Vĩnh Hùng…Lê Đại Cương cũng từ Chế Lăng quay về, trước hết đem chém Trần Hiệu Trung và các tên phạm là đầu mục giặc mà sau đó tiếp tục bắt được. Rồi quyền phái Binh bộ Chủ sự thừa biện Nam Vang thành biên vụ là Hồ Công Chỉ và Phó quản cơ cơ An Giang là Nguyễn Văn Tây đến tỉnh Hà Tiên làm công việc ở tỉnh. Lại cho rằng Mạc Công Du vốn được nhân dân xứ ấy mến phục, bèn tạm quyền lưu lại ở tỉnh lỵ để trấn tĩnh [nhân tâm]”207.
Tháng 8 – 1833, Lê Đại Cương bị vua cách chức, từ Tổng đốc An Hà xuống làm lính: “Đến như Lê Đại Cương là một quan to, có nhiệm vụ giữ bờ cõi, trước đây, trận đánh ở Lật Giang, không tức thì đến cứu, lại dẫn quân về trước, đã là nhút nhát rồi. Đến khi quân giặc tới nơi, lại không cố chết giữ lấy thành trì, chỉ lo trốn xa, đến lúc nghe thấy người ta lấy lại được tỉnh lỵ, bấy giờ mới ló đầu ra ! Xét dấu vết của hắn đã làm rất là ươn hèn đớn kém ! Chuẩn cho lập tức cách chức, bắt làm lính ở nơi quân ngũ đua sức làm việc để chuộc tội ; đợi khi việc yên 203 ĐNTL, Tập Ba, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr. 626.204 Vua chuẩn cho thi hành theo cách thức ban thưởng đã định. Nay, truyền chỉ cho quan quân các đạo: Nếu ai ở ngay trước trận, giết chết được 1 voi của giặc sẽ thưởng cho 20 lạng bạc, bắn què voi của giặc khiến voi không chạy, không cử động được, thưởng cho 10 lạng bạc, nổ súng bắn vỡ thuyền to của giặc, thưởng 30 lạng bạc, thuyền vừa thưởng 20 lạng, hiệu nhỏ, 10 lạng. Ai có thể bắn súng vào giữa đám giặc đông, và giữa đoàn thuyền giặc khiến quân giặc tan vỡ tả tơi và trong thuyền giặc bị bắn phá nhiều kẻ thương vong, cũng đều được theo lệ, trọng thưởng. Ngoài ra, hết thảy người có công trạng đều chuẩn cho châm chước nặng nhẹ mà phân biệt khen thưởng" (ĐNTL, Tập Ba, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.631).205 ĐNTL, Tập Ba, sđd, tr.700.206 ĐNTL, Tập Ba, sđd, tr.707.207 ĐNTL, Tập Ba, sđd, tr.708.
87
rồi, sẽ xuống chỉ dụ quyết định. Còn ấn quan phòng Tổng đốc An Giang, Hà Tiên giao cho Bố chính Đặng Văn Bằng, Án sát Bùi Văn Lý và Lãnh binh Nguyễn Đăng Huyên hợp đồng hộ lý làm việc”208.
Tháng 9 -1833, Bình khấu đạo Tướng quân là Trần Văn Năng, Tham tán là Lê Đăng Doanh ở quân thứ Gia Định tâu xin: “Tạm quyền cấp cho viên quan bị cách là Lê Đại Cương vẫn quản lĩnh binh dõng dưới quyền được ở trong quân để đua sức làm việc”. Vua ưng cho”209.
Tháng 10 -1833, Lê Đại Cương tiếp tục bị vua quở trách do: “Khâm phái Hộ bộ Tả thị lang Đặng Chương từ quân thứ Gia Định về Kinh tâu : “Đồ đảng giặc trong thành, ngày nọ, có họp thành đến hơn 100 tên, đi ra ngoài thành, tìm kiếm vật liệu. Binh dõng do Lê Đại Cương đốc suất ở địa phận tấn sở chỉ chém được 1 đầu và đâm bị thương 5, 6 đứa mà thôi”210. Vua “Truyền chỉ ban quở cả các Tướng quân và các Tham tán. Lại truyền chỉ nghiêm quở Lê Đại Cương : Từ nay, bọn giặc còn dám đi ra, tất nên nghiêm sức cho các tướng, biền binh, đang ở các đồn tấn sở tại phải hết sức đón đánh, dẫu dưới làn tên đạn tơi bời cũng không quản ngại. Cốt sao giặc phải đến một đứa thì giết chết một đứa, không cho trốn thoát, tất có hậu thưởng. Nếu cứ bất lực mãi, dung túng cho giặc muốn đi đâu tuỳ ý thì khó trốn được lỗi đấy!”211.
Quân lính của Lê Văn Khôi liều chết ra khỏi thành chiến đấu, quan quân triều đình bắt và chém không được nhiều, nhưng linh triều đình bị thương và chết đến hơn trăm, nên “Lê Đại Cương, Vũ Phi Giám có nhiệm vụ chia giữ đồn tấn đều bị giáng 2 cấp”212.
Tháng 12 năm 1833, lời Dụ của vua Minh Mạng đề cập đến việc dẹp đánh dẹp Lê Văn Khôi, trong đó cho biết, Lê Đại Cương đã được gia ơn và phục chức: “Thái Công Triều và Lê Đại Cương đã được gia ơn khai phục và nhiệm dụng rồi”213.
Tháng 3 -1834, tiếp tục đánh dẹp Lê Văn Khôi. Lê Đại Cương và quan tướng của triều đình và nhà vua thường xuyên báo cáo tình hình, theo dõi sát cuộc chiến. Vua phê: “Giặc đã khốn cùng như thế sao không đánh gấp? Đã có Chỉ đốc thúc rồi đấy”. Quan quân triều đình do Nguyễn Xuân, Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương ở quân thứ Nam Vang tâu: “Quan Phiên tham chính báo rằng tướng Xiêm là Phi Nhã Chất Tri từ Chân Lạp rút về Bắc Tầm Bôn, có độ 3000 quân, chia làm 4 nơi đóng giữ. Và em vua Xiêm là Thôn Kha Long Danh Hòa từ Vọng Các đem 2000 quân đến đóng Bàn Khương (tên đất) truyền hịch giục Chất Tri về. Chất Tri
208 ĐNTL, Tập Ba, sđd, tr.708.209 ĐNTL, Tập Ba, sđd, tr.755.210 ĐNTL, Tập Ba, sđd, tr.845.211 ĐNTL, Tập Ba, sđd, tr.845.212 ĐNTL, Tập Ba, sđd, tr.852.213 ĐNTL, Tập Ba, sđd, tr.945.
88
không chịu về, nói rằng quân của ta không đến thì nó cũng đến lấy Chân Lạp, thề chẳng về nước Xiêm. Người Xiêm đã nhiều lần bị thua đau, trốn chạy, sợ quân ta đuổi cùng, hỏi tội, cho nên huênh hoang đóng quân ở Bàn Khương và Bắc Tầm Bôn cũng là có lý. Còn như Chất Tri nói thề lấy Chân Lạp, chẳng chịu về Xiêm, chẳng qua nó sợ bại trận trở về, chẳng được người nước đếm xỉa đến nữa, nên thả lời để lừa bịp mọi người đó thôi. Tuy vậy, việc phòng ngự địa đầu biên giới, thực không nên trễ nải. Bọn thần đã sức cho quan Phiên lính Phiên đóng giữ Phủ Lật và Bông Xui để phòng bị nghiêm cẩn”. Vua phê: “Liệu đoán kẻ địch như vậy thực đúng khớp, rất hợp ý ta. Phía ta chỉ nên cứ im hơi lặng tiếng, mà chuẩn bị sẵn sàng, lâu ngày chúng mỏi mệt, tự khắc quay về sào huyệt”. Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương lại tâu: “Tỉnh An Giang mới lập, đất rộng, người ít, lại ở vào nơi xung yếu giữa hai ngả đường Hà Tiên – Nam Vang, binh lửa mới yên, thành trì chưa vững, công việc chính là lúc đương bận rộn. Vậy mà các cơ binh thuộc tỉnh, phần nhiều bỏ trốn, hiện số không còn được bao nhiêu, sợ khi động đụng không đủ người. Những lính đồn điền khi trước, dồn lại thành đội ngũ, cho lệ thuộc hạt khác như hai cơ Định thắng Tả, Hữu và Thủy cơ Biên Hòa, đều là người thổ trước trong hạt [An Giang]. Nay xin rút về cho theo tỉnh sai phái để tự phòng thủ lấy”. Vua phê: “Đó cũng là việc cần kíp trước mắt. Cho làm theo điều thỉnh cầu”214.
Tháng 4- 1834, quân Xiêm động binh, uy hiếp Chân Lạp, Lê Đại Cương tâu xin vua cho đem quân đánh giữ: “Tổng đốc Trương Minh Giảng, Thự phủ Lê Đại Cương ở quân thứ Nam Vang, tâu nói : “Dân ta có người từ nước Xiêm trốn về, khi qua Biển Hồ, nghe tiếng súng gần Phủ Lật. Cứ theo chúng nói, thì người Xiêm quả đã động binh, muốn uy hiếp Chân Lạp. Bọn thần hiện đã chỉnh đốn binh thuyền tiến lên để tùy cơ đánh, giữ”215.
Tháng 5 -1834, “Tổng đốc Trương Minh Giảng và Thự phủ Lê Đại Cương ở quân thứ Nam Vang tiến quân đến bến sông thuộc phủ Long Tôn. Giặc Xiêm, các đường thủy, bộ ở Mật Vi Xà và Trúc Đồn (đầu đất Xiêm, tiếp giáp cuối địa giới Chân Lạp) nghe quân ta đến, đều bắn súng ra hiệu cho nhau rút lui. Bọn Giảng bèn liệu để lại 300 biền binh đóng ở vụng Xà Năng để làm thanh thế cho đồn Tịch Biên. Lại sai người Phiên lập ở đấy một tấn sở lớn để phòng thủ. Rồi trở về Nam Vang, đem việc tâu lên”216.
Tháng 6 -1834, Lê Đại Cương được thăng chức lên Tham tri bộ Binh, Tuần phủ An Giang: “Thăng Bố chính, thự lý Tuần phủ An
214 ĐNTL, Tập Bốn, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.134.215 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.172.216 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.182.
89
Giang là Lê Đại Cương, lên Tham tri bộ Binh, làm Tuần phủ An Giang”217.
Tháng 7 - 1834, Đốc, phủ quân thứ Nam Vang, Trương Minh Giảng và Lê Đại
Cương, tâu với vua kế hoạch giữ đất Phiên:
“1. Chia đặt quan Phiên coi giữ những nơi trọng yếu. Chọn lấy người trội
trong các quan Phiên : Chưởng cơ tên Vu, tên Long, Vệ uý tên Kê và Ốc Nha
Bông Sa Tiệp Bà Đê (bát phẩm) tên Đáp, Ốc Nha Y Trách (thập phẩm) tên Sô, Ốc
Nha Đô Tha (cửu phẩm) tên Liêm, Ốc Nha Di Đô Tha (lục phẩm) tên Triết. Thứ
đến tên Lạp, tên Úc, tên Tiên, tên Miệt, tên Mộc, tên Sâm, tên Phúc và bọn Mục
Mân Tri (lục phẩm) tên Nộn, bàn cùng vua Phiên, phái uỷ tên Vu lấy nguyên hàm,
quản lý việc phủ Bông Xui, tên Liêm làm Đê đô (tức An phủ, thập phẩm) phủ
Bông Xui, tên Long lấy nguyên hàm, quản lý công việc Phủ Lật, tên Kê làm Sô
Đột Lục (tức An phủ, thập phẩm) phủ Phủ Lật. Lại dùng Ốc Nha Bông Sa Tiệp Bà
Đê, tên là Đáp, giúp việc; tên Sô làm Điểu Đôn (tức An phủ, thập phẩm) phủ Kha
Lăng; tên Lạp làm Ốc Nha Thi Na Ân Dặc (tức An phủ, lục phẩm) phủ Quảng
Biên; tên Đô làm Ốc Nha Trà Biệt Sơn Lam (tức An phủ, lục phẩm) phủ Khai
Biên; tên Tiên làm Ốc Nha Na Chiền (thập phẩm) đóng giữ đồn phủ Sơn phủ,
kiêm coi quản các phủ Sơn Bốc, Sơn Trung; tên Miệt làm Ốc Nha Tham My Tiệp
Bà Đê (tức An phủ, bát phẩm) phủ Sơn Phủ; tên Sâm làm Ốc Nha Bồ Đề (lục
phẩm) sung làm Quản thủ tấn sở Xà Năng ; tên Mộc làm Ân Vi Di (lục phẩm)
tuần tiễu các đường thuỷ Biển Hồ; tên Phúc làm Trì Sơn Liêm (tứ phẩm) để giúp
việc; tên Nộn làm tấn thủ ở tấn sở Lô An. Thảy đều đốc suất những kẻ thuộc hạ,
đem quân vào đồn, theo từng địa hạt mà phòng ngự. Lại nữa, phủ Chân Chiêm lệ
thuộc tỉnh An Giang sai phái, chọn tên Triết làm Việt Lục (tức An phủ, thập
phẩm) coi giữ.
2 – Xem xét đất Phiên, thiết lập đồn trại. (Xét đất nước Phiên có 4 chỗ rất
quan trọng: phủ Phủ Lật là xung yếu nhất, thứ đến Bông Xui, lại thứ nữa đến Khai
Biên, Quang Biên, lại thứ nữa đến Sơn Phủ. Trong đó có phủ Bông Xui địa thế
rộng lớn. Hiện đã thiết lập ở chỗ đồn cũ Phủ Lật và 2 xứ Sa Tôn, Bông Tham
thuộc phủ Bông Xui, mỗi nơi 1 đồn. Đồn ở Phủ Lật, xin đặt tên là đồn Tịch Biên
thứ nhất, đồn ở Sa Tôn đặt là đồn Tịch Biên thứ nhì, đồn ở Bông Tham đặt là đồn
Tịch Biên thứ ba. Khai Biên, Quảng Biên, Sơn Phủ cũng đều chọn đất đặt đồn.
Duy có đất phủ Khai Biên rất rộng và xa, dân số ít lắm. Dân gian làm tổ mà ở, hễ
thấy người xứ khác đến, thì chạy ẩn vào trong rừng, gần giống như loài vượn.
217 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.253.
90
Thuỷ thổ lại nhiều lam chướng. Chỉ nên lấy những dân ở gần đấy để theo An phủ
đóng giữ. Lại nữa, đường thuỷ Xà Năng là lối từ hai phủ Phủ Lật và Bông Xui đến
Nam Vang tất phải qua lại cũng đặt 1 tấn sở ở bờ sông).
3 – Lựa lấy lính Phiên. (Tuỳ theo số dân các phủ nhiều hay ít, liệu trích lấy 1
phần 3 hoặc 1 phần lấy 2, phân phái đóng giữ : ở Phủ Lật 1700 người, ở Bông Xui
2000 người, ở Quảng Biên 700 người, ở Sơn Phủ 600 người, ở Khai Biên và Xà
Năng mỗi nơi 300 người ; còn thì để ở lại Nam Vang, dùng 2000 người xây đắp
thành trì cho vua Phiên).
4 – Lựa lấy thổ binh người Chàm (dòng dõi người Thuận Hoá), người Chà
(dòng giống Chà Và cư trú đất Phiên). (Tạm sắp xếp những dân này làm 2 cơ An
Man Nhất và Nhị. Mỗi cơ 10 đội, mỗi đội 50 người. Dùng người đầu mục, là Hu
Khiêm, quyền sai làm Suất cơ cơ An Man Nhất ; Đỗ Cố làm Phó suất cơ ; Tôn Ly
làm Suất cơ cơ An Man Nhị, Hàn Ông làm Phó suất cơ. Sai họ chiêu tập cho đủ
số, để phòng khi có việc sẽ trưng dụng. Còn việc chia cấp ruộng đất bỏ không cho
mọi người để ở và trồng cấy sẽ tiếp tục làm sau).
5 – Chỉnh đốn sửa sang đồ quân dụng cho nước Phiên. (Sai kiếm sào tre và sắt
sống để làm trường thương, đóng thuyền và luyện thuốc súng).
6 – Chiêu tập cơ binh An Biên. (Cơ An Biên lệ thuộc tỉnh An Giang, điều động
lấy 500 dân Phiên phủ Chân Chiêm sung vào. Trước kia vì có giặc, họ lẩn trốn tản
mát, chỉ còn vài mươi người. Nay cho Việt Lục tên là Triết, làm Ngoại uỷ suất cơ
vẫn kiêm lĩnh chức An phủ, hiệp cùng nguyên Phó suất cơ là Liêm và Mộc, chiêu
tập cơ binh, cốt được đủ số).
7 – Khám xét các thuyền buôn ở Quảng Biên. (Cửa biển Cần Bột thuộc phủ
Quảng Biên, nếu có thuyền buôn của người nhà Thanh chở hàng hoá vào cảng thì
nên báo cho tỉnh Hà Tiên xét thực tình hình, tuỳ việc mà làm, nếu người nhiều
hàng ít, thì đuổi đi).
8 – Kinh lý biên phòng tỉnh Hà Tiên. (Luỹ dài Phù Dung ở Hà Tiên và pháo
đài Kim Dữ hiện đã sửa sang thêm, lại đem cấp cho dầu mỡ để dùng vào việc tu
bổ thuyền mành. Về số biền binh đi thú, xin do quân thứ Gia Định trích lấy 1, 2
vệ, 500 người, để giúp toàn lực vào việc đó).
Vua đều cho làm đúng như lời đã kiến nghị. Và dụ cho Tướng quân, Tham tán
ở Gia Định liệu phái lính Kinh, hay lính các tỉnh từ Bình Thuận trở ra Bắc, cho đủ
91
1 vệ 500 người để đi thú Hà Tiên. Sau đó, lại điều 500 binh dõng 2 tỉnh Long –
Tường đến đóng giữ"218.
Tháng 8 -1834, tiếp tục công việc ở Nam Vang: "Trương Minh Giảng và Lê
Đại Cương, đốc, phủ quân thứ Nam Vang, tâu nói : “Nước Phiên mới bắt đầu sửa
sang, công việc còn bề bộn. Hai phủ Quảng Biên, Khai Biên đã đặt án phủ sứ,
nhưng chưa có lại dịch. Vậy xin đặt ty thừa biện ở thành Nam Vang, 1 chánh cửu
phẩm thư lại và 10 vị nhập lưu thư lại, hợp 2 phủ Quảng Biên, Khai Biên làm 1
nha, đặt 1 lại mục và 6 thông lại. Lại xin kế tiếp cấp lương tháng cho những
hương dõng đóng giữ thành Nam Vang, đợi các tỉnh Vĩnh Long, Định Tường và
An Giang xong việc tuyển lính, sẽ tư đi lấy người thay đổi”. Vua đều y theo”219.
Tháng 9 -1834, "Người Chân Lạp, có tên Sâm và 2 người đàn bà Man dùng tà
thuật làm mê hoặc vua Phiên. Vua này sinh ra dâm dật, bán quan buôn ngục.
Nhiều người oán. Tổng đốc Trương Minh Giảng và Tuần phủ Lê Đại Cương ở An
– Hà dò thám được tình trạng, bắt chúng đem chém và rao cho mọi người biết ;
còn tài sản của phạm nhân thì đưa hết cho Phiên vương. Việc đến tai vua. Vua
cho là phải”220.
"Dân Chân Lạp bị đói, đến nỗi có những người phải ăn tấm cám. Vua hay tin,
dụ bọn Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương rằng : “Chân Lạp dẫu là dân Man,
nhưng cũng thuộc vào bản đồ và dân tịch của triều đình. Trong tình vỗ về thương
xót, ta coi cũng như dân ta vậy. Trước đây, giặc Xiêm xâm lấn tàn bạo, ta đã vì
người Chân Lạp mà giữ đánh dẹp khu trừ, lại phái trọng binh đến giữ bờ cõi nước
ấy, để nhân dân họ không phải ly tán, đệm chiếu nằm yên. Nay họ gặp lúc đói kém
này, cũng nên giấn chân, vén xiêm, hối hả cứu giúp, chứ đâu nỡ ngồi trông họ
chết đói mà không thương ? Được tin này, lòng ta không nỡ, huống chi lũ ngươi
lại làm ngơ được ư ? Nếu quả có sự ấy thì việc phát chẩn không thể trì hoãn được.
Chuẩn cho một mặt tâu lên, một mặt tư ngay cho 2 tỉnh Vĩnh Long và Định Tường
đều chở 10000 phương gạo đến để phân phát, chớ để họ mất nơi ăn chốn ở, thì
mới phu phỉ lòng ta vun trồng cho dân ở nơi biên giới”221.
Tháng 11- 1834, Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương, đốc phủ quân thứ
Nam Vang, xin lập nhạc hộ ở nhà Nhu viễn. Vua cho việc ấy có quan hệ đến sự vỗ
yên nước Phiên, chuẩn y lời xin. Bọn Giảng lại tâu nói : “Nước Chân Lạp trước
đây, vì giặc Xiêm lấn cướp quấy nhiễu, nên kho tàng hết sạch. Bọn thần đã từng
218 ĐNTL, Tập Bốn, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.297-299.219 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.336.220 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr. 374.221 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.382.
92
khuyên chăm cày cấy và tùy đất khai khẩn, trồng đậu và lúa mạch, hiện đã lục tục
được thu hoạch, có thể đỡ được sự khẩn cấp trước mắt. Duy thành Nam Vang trở
về phía tây, rất điêu tàn. Bọn thần đã tư cho các tỉnh Vĩnh Long, Định Tường chở
cho 10.000 hộc thóc để phân phát”. Vua dụ rằng : “Làm thế cũng phải. Lũ ngươi
nên để tâm trù liệu cốt cho ngoài êm thì mới có thể trong ấm được”222.
"Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương, đốc, phủ ở quân thứ Nam Vang, tâu
xin trích lấy những biền binh ở quân thứ Gia Định để đi đóng giữ An Giang và
cho xuống thuyền, diễn tập thủy chiến ; những cơ binh mới tuyển được lưu lại, đều
cho kế tiếp cấp lương tháng. Lại xin trả thêm giá thoả thuận mua thóc gạo để
sung vào kho tích trữ. Vua dụ bảo : “Về biền binh trú phòng, quân thứ Gia Định
đã phái đi rồi ; còn việc tập thủy chiến và việc giản binh lưu lại, đều chuẩn cho
làm như lời đã xin, cốt nên để tâm xếp đặt cho được chỉnh đốn, để vững mạnh việc
biên phòng, xứng đáng với trách nhiệm đã giao cho"223.
Tháng 12- 1834, "Vua nước Chân Lạp là Nặc Chăn chết. Bọn Tổng đốc
Trương Minh Giảng, Tuần phủ Lê Đại Cương ở quân thứ Nam Vang đem việc tâu
lên.
Vua dụ bộ Lễ: “Vua Phiên là Chăn, đời đời làm phiên thuộc triều đình, một
lòng kính thuận, trước sau không thay đổi, nay được tin Chăn mất, ta rất ngậm
ngùi. Vả lại, vua Phiên không có người kế tự mà tục nước lại không có lễ nghi
tang tế gì. Vậy chuẩn cho bọn Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương chuyển sức
cho các quan Phiên hãy quàn linh cữu vua Phiên ở nhà trong, đừng cho đồn đại
gì, chờ sang đầu năm, ta sẽ giáng chỉ ân thưởng phẩm vật và ban dụ tế. Nghi thức
sẽ do bộ Lễ gửi đến để theo đó tuân hành. Ấn triện của vua Phiên, chuẩn giao cho
quan Phiên là lũ Chưởng cơ Trà Long và Vệ uý La Kiên theo [sự điều khiển của]
Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương quyền làm việc nước Chân Lạp. Phàm
những việc lớn như tổ chức binh phòng, cất đặt quan lại, đều phải bẩm rõ để xử
trí, không được trái lệnh vượt quyền. Còn những việc nhỏ nhặt tầm thường, cho
được hội bàn cùng các quan Phiên mà làm”224.
Tháng Giêng năm 1835, quân thứ Nam Vang của Trương Minh Giảng và Lê
Đại Cương được vua bổ sung thêm 20 viên chức, lại dịch: "Vua thấy thành Trấn
Tây buổi đầu mới thiết lập, công việc bề bộn, sai bộ Lại chọn những viên chức, lại
dịch ở các nha trong Lục bộ và Tự, Viện, từ Chủ sự đến Vị nhập lưu thư lại lấy 20
222 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.415.223 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.420.224 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.475.
93
người, đều cho thăng lên một trật, rồi cho đi theo Tổng đốc Trương Minh Giảng
và Tuần phủ Lê Đại Cương để sai phái công việc"225.
Lê Đại Cương cùng Trương Minh Giảng được lĩnh ấn bảo hộ nước Chân Lạp:
“Sai Tuần phủ An Giang Lê Đại Cương hiệp cùng Tổng đốc Trương Minh Giảng,
kiêm lĩnh ấn bảo hộ nước Chân Lạp”226.
Lê Đại Cương được vua ban khen do làm tốt chức trách: “Lĩnh bảo hộ ở thành
Trấn Tây là Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương tâu nói: “Địa hạt Chân Lạp,
lúa mới đương chín, lương thực của dân có thể tiếp tế được đủ; duy việc biên
phòng đương khẩn. Về số quân Phiên đóng giữ, hiện đã tuân theo dụ, trích 5.000
phương gạo phân phát rồi. Lại nữa, nước Phiên từ khi chọn lựa sắp xếp quân ngũ
đến giờ, đội ngũ đã dần dần được chỉnh đốn. Bọn đầu mục cũng biết cảm kích mà
hăng hái lên”. Vua ban khen”227.
Tháng 4- 1835, Lĩnh chức bảo hộ là Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương ở
thành Trấn Tây nhân việc mật báo, phúc tư cho viện Cơ mật. Quan ở viện đem
việc ấy tâu lên. Hai ông bị vua “truyền chỉ ban quở” là “không thông suốt” nguyên
tắc228. Sau đó, vua ra lệnh: “Sai chế tín bài và cờ lệnh cho thành Trấn Tây, đem
giao Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương thu giữ để phòng sai phái về việc quân
(10 cái bài ngà, mỗi cái ở phía trên mặt trước, khắc ngang 2 chữ “Trấn Tây”,
dưới khắc dọc 2 chữ “Quân lệnh”. Mặt sau khắc dọc những chữ : “Tín bài số thứ
mấy”, ở bên chua rõ : “Minh Mệnh thập lục niên quan cấp”, 10 lá cờ 5 sắc, mỗi
sắc 2 lá, đều trình bày 4 chữ “Trấn Tây quân lệnh”229
Tháng 6 -1835, “Lãnh chức bảo hộ là Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương
ở thành Trấn Tây tuân Chỉ dụ, xét hạch tài năng phẩm cách các quan Phiên,
làm thành danh sách tâu lên. Vua chuẩn cho…”230.
Tháng 6 Nhuận năm 1835, “Lãnh chức bảo hộ là bọn Trương Minh Giảng và
Lê Đại Cương ở thành Trấn Tây đem địa đồ thuộc thành và ngoài biên cương
thành ấy dâng lên. Vua mở xem, thấy vẽ đường sá, hình thế, rõ ràng dễ coi, ban
khen. Chuẩn cho xét viên quan Phiên nào đã chỉ dẫn để vẽ thì thưởng cho đồ
dùng quần áo...”231.
225 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.490.226 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.493.227 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.502.228 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.604.229 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.605.230 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.654.231 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.701.
94
Tháng 7 -1835, Quan tỉnh Hà Tiên tâu nói : “Trong tỉnh có 1 đoạn ven biển,
đông từ Dương Đà, tây đến sông Trà Diên thuộc phủ Chân Chiêm tỉnh An Giang,
xen vào khoảng giữa hai huyện Hà Châu và Kiên Giang. Vậy xin đổi thuộc về
Kiên Giang cho địa thế được liền nhau”. Vua sai Tổng đốc Trương Minh Giảng và
Tuần phủ Lê Đại Cương bàn cho ổn thoả. Họ cho rằng hạt phủ Chân Chiêm ở vào
khoảng giữa đông tây sông Vĩnh Tế, bắc giáp huyện Tây Xuyên tỉnh An Giang,
nam giáp tỉnh Biên Hoà, kéo dài đến bãi biển. Công việc quan tuy theo về An
Giang, nhưng binh, dân, thuế khoá và những việc đốc suất, vỗ về, vẫn đều còn do
Chân Lạp phân phát điều khiển. Vả, triều đình sửa sang bờ cõi, cốt nhằm vào
những điều rộng lớn sâu xa. Nay giặc ngoài biên mới yên, nhân tâm vừa được ổn
định. Các việc lớn, hãy tính xếp đặt dần dần. Chỗ đất nhỏ mọn kia không quan
trọng lắm, chưa nên vội vàng sắn lấy. Huống chi, đất Phiên đã thuộc bản đồ của ta,
tuy đường có cách biệt, nhưng thực vẫn liền nhau. Tỉnh Biên Hoà có Chân Chiêm
cũng như tỉnh An Giang có Ba Thắc. Vậy, dải đất ấy hãy cứ để cho quan Phiên vỗ
yên cai quản như cũ, đợi khi có dịp bàn công việc thiện hậu, bấy giờ sẽ làm một
thể”. Vua phê bảo rằng : “Những lời bàn luận chính đại quang minh rất biết đại
thể, nên theo lời nghị đó mà làm”232.
Tháng 12 – 1835, Lê Đại Cương và Trương Minh Giảng xin vua cho được đặt
chức Án phủ ở 3 phủ là Hải Tây, Hải Đông và Sơn Phủ, được vua chấp thuận:
“Tướng quân Trương Minh Giảng và Tham tán Lê Đại Cương ở Trấn Tây cho
rằng 3 phủ Hải Tây, Hải Đông và Sơn Phủ đều là địa đầu quan trọng xung yếu ,
xin đặt mỗi nơi một chức Án phủ. Vua dụ sai chọn trong thuộc hạ ai làm nổi việc,
thì tâu xin bổ. Và răn dạy rằng : “Những phủ ấy mới thiết lập, chọn được người là
khó. Người được đề cử ra đó, không những phải cẩn thận giữ mình, mà đến cả
những người nhà và đầy tớ theo hầu, nếu không giữ gìn để làm mất lòng người, thì
còn tội nào to hơn nữa. Phải cẩn thận đó !”233.
Trong suốt năm 1836, Lê Đại Cương tiếp tục trấn trị ở thành Trấn Tây. Ông
không chỉ lo việc quân mà còn lo cả việc dân, tích trữ lương thực nuôi quân, đảm
bảo an ninh ở vùng đất này.
Thang 3- 1837, vua Minh Mang mât du cho Tham tan Lê Đai Cương va Tướng
quân Trương Minh Giang vê viêc thu phuc, cam hoa dân Chân Lap. Lơi du viêt:
“Thành Trấn Tây là nơi trọng yếu ở biên cương, trẫm thương dân như một, muốn
khiến dân phiên sớm nhiễm phong tục người Kinh, đều thấm nhuần đức hóa nhà
232 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.708-709.233 ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.844.
95
vua, lũ ngươi mình đảm đương gánh nặng, từ trước đến nay tuyên dương đức ý,
người phiên đã vui theo giáo hóa chưa ? Tình trạng thế nào ? Xét xem súc man
các phủ, đã nên đổi đặt danh hiệu xã thôn ? Cùng các sự việc, việc gì đổi định mà
lòng dân phiên đều thỏa thuận, nên cứ thực tâu lên, việc nào còn quen tục cũ chưa
tiện đổi ngay, không hại gì tạm để theo cũ, nên làm thế nào yên ủi dạy dỗ, khiến
cho chúng chịu ảnh hưởng ngày càng cảm hóa mà không tự biết, mới là cách tốt
dùng thói Kinh biến hóa thói man rợ, nên khéo xét mà làm”234.
Thang 7 -1835, Lê Đại Cương đươc “quyền lĩnh ấn Tổng đốc quan phòng tỉnh
An –Hà”235.
Thang Giêng năm 1838, “Án phủ là Phạm Ngọc Oánh, Hiệp lý là Đoàn Đức
Giảng ở đạo Hải Đông phái vận lương thực, đạn dược đến quân thứ, khi đi đến
đường rừng Ca Thi bị giặc cướp mất, biền binh gián hoặc có người bị thương, bị
chết, quan thành ấy là bọn Đoàn Văn Phú đem việc tâu lên”. Vua truyền Chỉ quở
mắng Lê Đai Cương va Trương Minh Giang236.
Cung trong thơi gian nay, Lê Đai Cương bi cach hoan toan quan chưc cho lam
thuộc viên thành Trấn Tây. ĐNTL chep: “Tuần phủ An Giang sung làm Tham tán
Trấn Tây là Lê Đại Cương có tội bị miễn chức, cho quyền hộ Tổng đốc Long
Tường là Dương Văn Phong đổi lĩnh Tuần phủ An Giang, sung làm Tham tán đại
thần ở thành Trấn Tây. Vua dụ rằng : "Lê Đại Cương trước làm Tổng đốc An Hà,
có tội bị cách nhiều lần, được khởi phục đến chức Tuần phủ An Giang, lại uỷ cho
giữ chức Tham tán ở Trấn Tây, long trọng biết là chừng nào ? Chính phải trình
bày mưu mô để chuộc lỗi trước. Thế mà từ trước đến nay, ở thành đã lâu ngày, mà
công việc ở ngoài biên, nên chăng chỉ theo người. Nay dân Man không yên, quấy
rối ở biên giới, lại sợ việc, sợ khó nhọc, rụt cổ ở trong thành, nhiều lần tâu báo,
chỉ cốt bàn suông, không từng đánh bắt một lần nào, ốm yếu không tài như thế,
hầu dùng hắn làm gì, nếu cho dời khỏi chức về Kinh thì là để mình ra ngoài việc,
lại là đắc sách, chuẩn cho cách chức, cho làm thuộc viên thành Trấn Tây, phái đi
theo quân thứ ở Hải Đông làm việc chuộc tội"237.
Thang 3 năm 1838, Lê Đai Cương con bi vua ra lênh bắt xích ngay giải về
Kinh, giao cho bộ Hình nghiêm nghị. “Trấn Tây tướng quân là Trương Minh
Giảng, Tham tán là Dương Văn Phong tâu báo tình hình đánh dẹp và nói viên
quan bị cách là Lê Đại Cương ở đạo Trà Di, ở đồn canh giữ, chia sai quân lính
234 ĐNTL, Tập Năm, Nxb. Giao duc, Hà Nội, 2004, tr.58.235 ĐNTL, Tập Năm, sđd, tr. 141.236 ĐNTL, Tập Năm, sđd, tr.238-239.237 ĐNTL, Tập Năm, sđd, tr. 259.
96
tìm đường tiến đi. Vua xem tờ tâu, không hài lòng, bảo rằng : "Lê Đại Cương xuất
thân hèn mọn, không có công lao, đã từng cất làm Tổng đốc An - Hà, ơn nước sâu
nặng biết bao, thế mà trước đây Nam Kỳ có việc biến động, cùng với Lê Phúc Bảo
cùng đem đại binh tiến đánh, chưa thấy giặc mà chạy, toàn quân chết hết, bèn bỏ
thành trốn, không lấy bờ cõi làm lo nghĩ, tội ấy đã không tha giết, tạm nghĩ trong
lúc dùng quân, nên cho tự sửa đổi, đặc ân cho giáng cách, chưa bao lâu lại được
khôi phục, làm đến chức Trấn Tây tham tán đại thần, lại kiêm Tuần phủ An
Giang, thế mà không biết tuyên dương đức hoá, để đến nỗi người Thổ nổi lên như
ong quấy rối, điềm nhiên không biết xét làm việc để lo cho vua cha, pháp luật
không thể tha được, bèn cách chức, phát đến trại quân gắng sức chuộc tội, chính
phải cầm khí giới đi trước, hăng hái xông lên giết giặc, vẫn chưa thể báo được
mảy may, lại nghiễm nhiên theo địa vị đại tướng, tuỳ ý phóng túng chỉ bảo. Kìa
như triều đình thưởng người có công, phạt kẻ có tội, pháp kỷ rõ ràng, đã phải
cách chức làm lính thì thân mình còn có quan chức gì, sao được bừa bãi như thế.
Không ngờ một kẻ già yếu không có tài, lại dám trên không sợ phép nước, dưới
không nghĩ công luận, quá đến như thế, nếu không trị tội sao tỏ được hình pháp.
Lê Đại Cương phải bắt xích ngay giải về Kinh, giao cho bộ Hình nghiêm nghị ”238.
Lê Đại Cương sau phải tội chém giam hậu.
Trong suôt mây năm liên, tư thang 3 năm 1838 đên thang 7 -1841, tên tuôi cua
Lê Đai Cương không thây đươc chep trong chinh sư. Đên thang 7 năm 1841, Lê
Đai Cương mơi đươc vua Thiêu Tri cho lam Lang trung bộ Binh, biện lý công việc
của bộ239.
6. Lê Đai Cương trơ lai Băc Thanh (tư thang 10 /1841 đên 10/1842)
Thang 10 năm 1841, Lê Đai Cương thưc thi nhiêm vu ơ Băc Thanh. Vua “sai
Lang trung bộ Binh biện lý công việc của bộ là Lê Đại Cương phụng mạng mang
cờ biển đi đến các nơi hành cung, sứ quán ở Hà Nội, Bắc Ninh và Lạng Sơn xem
xét công việc đã làm. Phàm công trình gì cũng phải mộc mạc, chất phác, không
được đua làm xa xỉ, hoa lệ. Vì Cương trước ở Bắc thành, hiểu rõ điển lệ cũ, cho
nên có việc sai đi này”240.
Thang 12- 1841, Lê Đại Cương đươc đôi làm thự Bố chính sứ Hà Nội241.
238 ĐNTL, Tập Năm, sđd, tr.298.239 ĐNTL, Tập Sau, Nxb. Giao duc, Ha Nôi, 2004, tr.197.240 ĐNTL, Tập Sau, sđd, tr. 234-235.241 ĐNTL, Tập Sau, sđd, tr.264.
97
Thang 10 -1842, “Thự Bố chính sứ Hà Nội Lê Đại Cương tuổi già, về hưu
trí”242. Năm 1847, ông trut hơi thơ cuôi cung.
Môt cuôc đơi 76 tuôi, trong đo 40 năm công hiên cho đât nươc va triêu đinh
nha Nguyên, trai qua 3 đơi vua: Gia Long, Minh Mênh, Thiêu Tri, Lê Đai Cương
đươc chinh sư triêu Nguyên – Bô Đai Nam thưc luc ghi chep trong 6 tâp: tư tâp
môt đên tâp sau vơi dung lương sô trang rât lơn. Trong bai viêt nay, chung tôi du
đa lươc bơt va han chê lơi binh nhưng sư phong phu tư liêu vê cuôc đơi va sư
nghiêp vơi nhưng thăng trâm kho tương đã nói lên tầm vóc của Lê Đai Cương
trong lịch sử VN thời Nguyễn..
242 ĐNTL, Tập Sau, sđd, tr.427.