Upload
vokhanh
View
218
Download
6
Embed Size (px)
Citation preview
LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM - TẬP I LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM
TẬP MỘT
VĂN HỌC DÂN GIAN
PHẦN HAI
(In lại lần thứ năm có sửa chữa)
Sách dùng trong các trường Đại học và Cao đẳng sư phạm
Tác giả:
BÙI VĂN NGUYÊN – NGUYỄN NGỌC CÔN
– NGUYỄN NGHĨA DÂN – LÝ HỮU TẤN
– HOÀNG TIẾN TỰU – ĐỖ BÌNH TRỊ – LÊ TRÍ VIỄN
Chương VII. CA DAO – DÂN CACũng như tục ngữ, câu đố, thể ca dao – dân ca là một thể quan trọng
trong loại văn vần dân gian. Ca dao, dân ca có chỗ trùng nghĩa với nhau, và
có chỗ lại được coi là khác nhau. Ở đây, cả hai thuật ngữ đó tạm được sử
dụng, và ở chương này, chỉ đề cập tới ca dao, dân ca dưới thời phong kiến
trở về trước.
I. ĐỊNH NGHĨA CA DAO, DÂN CA1. Ca dao:
Theo định nghĩa trong Văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm thì “ca
dao (ca: hát; dao: bài hát không có chương khúc) là những bài hát ngắn lưu
hành trong dân gian, thường tả tính tình phong tục của người bình dân”. Định
nghĩa ấy chưa nêu hết nọi dung và hình thức của ca dao. Thực ra nhân dân
sáng tác ca dao là để hát và có những bài hát có cả chương khúc như làn
nhịp đuổi (thí dụ bài “Tay cầm con dao, làm sao cho sắc”…) hoặc làn hát cách
(thí dụ bài “Làm trai quyết chí tu thân, công danh chớ vội, nợ nần chớ lo”…)
biến thành những bài ca dao và ngược lại nhiều bài ca dao thể lục bát có thể
hát thành các làn điệu khác nhau và có nhạc kèm theo. Như vậy, ca dao là
những bài hát có, hoặc không có chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần
dân tộc (thường là lục bát) để miêu tả, tự sự, ngụ ý và diễn đạt tình cảm. Về
các loại khác, cần phân biệt những bài ca dao nói về phong tục và được
truyền đi gọi là phong dao; đồng dao là những bài hát của trẻ con (như bài:
“ông giẳng ông giăng”, “xúc xắc xúc xẻ”). Theo truyện Đông chu liệt quốc,
tương truyền có một ngôi sao huyền hoặc sa xuống thành đứa trẻ; đứa trẻ đó
hát truyền những câu sấm và do đó, người ta gọi là đồng dao. Ở đây cũng
cần nói đến một loại câu ví, thường có vần điệu như ca dao, được nhân dân
sáng tác trong công việc lao động, trong các dịp hội hè với dụng ý thử trí
thông minh, tài học vấn về việc giải nghĩa những tri thức hoặc bày tỏ tình yêu,
đề cao đạo đức, đề cao giá trị con người lao động, đả kích phong kiến v.v…
Đặc biệt cần chú ý mối liên quan giữa tục ngữ và cao dao. Tục ngữ và
cao dao có khác nhau nhưng cũng có liên hệ với nhau. Về hình thức, thật khó
phân biệt ca dao và tục ngữ nếu chỉ dựa theo câu dài hay câu ngắn. Thực ra
có câu tục ngữ trên 14 tiếng. Thí dụ: “Của làm ra để trên gác, của cờ bạc để
ngoài sân, của phù vân để ngoài ngõ”. Nếu xét vần, thì có tục ngữ không vần,
có nhiều tục ngữ vần lưng, lại có tục ngữ theo đúng hình dạng lục bát. Xét nội
dung và ý nghĩa, vấn đề sẽ rõ hơn. Tục ngữ là những nhận xét, những kinh
nghiệm được khái quát hóa có tính chất phổ biến và nặng nề lý trí, suy luận.
Do đó, từ xưa các triết gia phương Đông, phương Tây phổ biến triết học,
nhận xét của mình dưới hình thức tụ ngữ (như Xô–cơ–rát, Pơ–la–tông, A–rít–
xtốt. Khổng Tử, Mạnh Tử…) thí dụ Xô–cơ–rát có câu: “Anh hãy tự biết lấy
anh”. Khổng Tử có câu: “Tri vi tri chi, bất tri vi bất tri chi, thị vị tri dã”. Ca dao
biểu hiện những rung cảm của tâm hồn, biểu hiện nỗi giận, ghét, vui, buồn,
thương nhớ của con người trước cảnh vật. Ca dao nặng về trữ tình. Với nội
dung khác nhau như vậy cho nên tục ngữ dùng để nói và ca dao dùng để hát.
Tuy nhiên, không phải bao giờ ranh giới giữa ca dao và tục ngữ cũng rõ
rệt. Ở một số trường hợp nào đó, có câu lục bát một nửa là tục ngữ, nửa kia
lại là ca dao.
Thí dụ: Lời nói chẳng mất tiền mua, (có tính chất lý trí gần tục ngữ).
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau (có tính chất tình cảm gần ca dao).
Cũng có khi người ta dựa vào tục ngữ để sáng tác ca dao.
Thí dụ câu:
Trách cha trách mẹ nhà chàng,
Cầm cân chả biết là vàng hay thau.
Thật vàng chẳng phải thau đâu,
Đừng đem thử lửa là đau lòng vàng.
là từ câu tục ngữ “Vàng không sợ lửa” mà ra.
Sau khi đã phân biệt và xét mối liên hệ giữa tục ngữ và ca dao, cần
nhận định tổng quát rằng tuy có liên hệt mật thiết với nhau, đại bộ phận tục
ngữ và ca dao vẫn có ranh giới rõ về hình thức và nội dung. Bao giờ ca dao
cũng có tiết tấu, có nhịp điệu có tính chất thi ca. Rất nhiều tục ngữ tuy có vần
nhưng chỉ là ví von, vần vè cho dễ nhớ. Tục ngữ nặng về lý trí, ca dao nặng
về tình cả. Gô–rơ–ki cũng có phân biệt và đánh giá tục ngữ và ca dao: “Trong
những lời nói giản dị, ta có thể tìm thấy cái trí tuệ vĩ đại nhất, những câu tục
ngữ và những bài dân ca bao giờ cũng ngắn, những trí tuệ và tình cảm ở
trong đó đánh giá hàng pho sách”.
2. Dân ca:
Trên khắp đất nước ta, ở miền Bắc hay miền Nam, ở đồng bằng hay
miền núi, đều có nhiều điệu hát của nhân dân. Trong gia đình có tiếng hát ru
em, tiếng hát quay tơ, ngoài xã hội có tiếng hát tình tứ yêu đời của nam nữ
thanh niên, có tiếng hát của lao động, có tiếng hát của các hội hè đình đám
với làn điệu vô cùng phong phú. Tất cả các làn điệu đó là dân ca Việt Nam.
Bắc bộ có quan họ, trống quân. Trung bộ có hát giặm, hò mái nhì… Nam bộ
có hò lý… miền núi có lượn, khan…. Phạm vi của dân ca thật là rộng rãi. Dân
ca bao gồm nhiều làn điệu khác nhau, được sáng tác trong những hoàn cảnh
khác nhau và lưu truyền trong những vùng khác nhau. Dân ca thường có nội
dung gần giống như ca dao. Chỗ khác nhau nhiều là ở hình thức và nhạc
điệu. Trong một số dân ca, tiếng đệm, tiếng láy hoắc tiếng đưa hơi chen vào
lời thơ lục bát của ca dao.
Thí dụ:
“Trống cơm khéo vỗ lên vông,
Một bầy con kít lội sông đi tìm.
Thương ai con mắt lim dim,
Một bầy con nhện đi tìm chăng tơ.
Thương ai duyên nợ tang bồng”
sẽ hát thành (tình bằng) có cái trống cơm khen ai khéo vỗ (ấy mấy) vông nên
vông (ấy mấy) vông nên vông. Một bầy (tang tình) con kít lội lội sông (ấy mấy)
đi tìm, (em nhớ) thương ai đôi con mắt (ấy mấy) lim dim. Một bầy (tang tình)
con nhện (í– ối –a, ấy mấy) chăng tơ chăng tơ (ấy mấy) đi tìm (em nhớ)
thương ai duyện nợ khách tang bồng.
Như vậy, dân ca là những bài hát có, hoặc không có chương khúc, do
nhân dân sáng tác lưu tuyền trong dân gian ở từng vùng hoặc phỗ biến ở
nhiều vùng có nội dung trữ tình và có giá trị đặc biệt về nhạc.
Đã đến lúc cần lưu ý nghiên cứu ca dao, dân ca theo quan điểm lịch
sử. Mặc dù chưa đủ điều kiện để phân chia ca dao, theo sát các thời kỳ lịch
sử, cũng nên bước đầu phân biệt, ca dao cổ (phong kiến và trước phong
kiến) với ca dao thời Pháp, Nhật thuộc, thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám.
Chúng ta tạm chia sự phát triển của ca dao, dân ca theo hai thời kỳ lớn: ca
dao, dân ca trước và sau Cách mạng tháng Tám. Trước cách mạng tháng
Tám, cần phân biệt với ca dao, dân ca thời Pháp, Nhật thuộc. Sau Cách
mạng tháng Tám, cần phân biệt ca dao, dân ca kháng chiến và sau 1954 (thời
kỳ quá độ tiến lên xã hội chủ nghĩa và thời kỳ chống Mỹ, cứu nước ở ta).
Chúng ta lấy ca dao, dân ca cổ (phong kiến và trước phong kiến) làm trọng
tâm nghiên cứu và bước đầu nói đến ca dao, dân ca các thời kỳ khác.
Dưới sự lãnh dạo của Đảng ta, chúng ta tin rằng với sự trưởng thành
của các ngành dần tộc học, khảo cổ học, ngôn ngữ học, việc sưu tầm ca dao,
dân ca trong cả nước sẽ đưa lại được những kết quả mỹ mãn.
II. NỘI DUNG CA DAO, DÂN CA1. Ca dao, dân ca với lao động sản xuất:
Cũng như tục ngữ, ca dao, dân ca là những sáng tác truyền miệng sản
sinh trên cơ sở lao động, là lời ca của cuộc sống cần cù chất phác của nhân
dân.
Nếu tục ngữ là những kinh nghiệm về trồng trọt, chăn nuôi, ngư nghiệp
thì ca dao, dân ca là những bài hát nhịp nhàng, tiết tấu được sáng tác để làm
cho lao động sản xuất vui tươi và dễ chịu hơn. Bách khoa toàn thư Liên Xô có
viết: “Từ xưa đến nay, dân ca thường vẳng lên ở đồng ruộng và trong thời
gian lao động, nó dùng tiết tấu của bài hát mà giúp đỡ điều chỉnh tiết tấu của
lao động”. Ka–li–nin, cũng cho rằng âm nhạc của dân ca là “một nhân tố trọng
yếu để nâng cao năng xuất lao động”. Dân ca, ca dao phát sinh do nhịp điệu
của lao động và do nguồn cảm hứng (tư duy và tình cảm) khởi phát lên khi
lao động có mục đích thỏa mãn “sự đòi hỏi của đời sống lao động, giảm nhẹ
sức lao động và tăng thêm hiệu suất lao động”. Ca dao, dân ca của ta cũng
có những đặc điểm chung ấy. Có những bài hát nhịp nhàng với động tác đốn
củi (tay cầm con dao, làm sao cho sắc…) có những điệu hò chèo thuyền, giã
gạo, kéo gỗ với điệp khúc “khoan hỡi hò khoan”, “bớ hò bớ hụi” hoặc “dô ta
hò dô ta… “động viên lao động tích cực và có tác dụng làm cho lao động thoải
mái hơn. Nhìn chung, có những bài hát trước khi lao động, trong khi lao động
và sau khi lao động, về nguồn gốc mà xét, những bài hát này đều có cơ sở
thực tế. Trước khi lao động, người ta thường cầu mong, khẩn nguyện, mong
ước lao động được tốt. Người Mường Mẫn Đức có bài ca sắp làm mùa “muốn
đắp bờ gài nước để cho nước vào ruộng”, “muốn cho cá vào mương”, lo “trâu
trật giò cái”, lo “người trật giò con”. Họ cũng có bài khẩn nguyện sắp vãi mạ
với nội dung lo lắng thú dữ phá hoại đám mạ, mong ước “tốt lá cành”, “xanh
lá búp, lá ngọn”… Sau khi lao động, để vui chơi giải trí hoặc để hát mừng
thành quả lao động, nông dân ta hát ví, hát đúm, hát quan họ, trống quân, hát
lượn, hát hạn khuống. Vấn đề đáng chú ý là với nội dung muôn màu, hình
thức muôn vẻ, những bài ca dao dân ca này được sáng tác để phục vụ lao
động, cho lao động và vì lao động.
Với quan điểm phục vụ sản xuất, ca dao, dân ca rất cảm thông với
người lao động. Những bài ca dao hay nhất, ý tứ sàu sắc nhất cũng là những
hình tượng biểu hiện công sức lao động của người nông dân xưa kia:
Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần.
Nỗ lực lao động cho lúa xanh, khoai tốt, kiên trì lao động để chiến thắng
mọi trở lực do thiên nhiên gây ra, người dân Việt Nam bao giờ cũng lạc quan,
phấn khởi. Đồng bào Gia–rai thường hát:
Rìu tốt chặt phải đổ,
Rừng rậm rúc không lọt
Rựa sắt phát phải quang
Nóng ngoài đổ mồ hôi
Lòng nóng lòng thêm sức,
Chân cứng lún đất,
Tay mạnh gẫy rừng
Cây nhường chỗ cho lúa
Nỗi vất vả của người nông dân trong xã hội phong kiến là một hiện
thực. Tuy nhiên, đúng như Gô–rơ–ki đã nhận định, cuộc sống của họ rất nặng
nề khổ cực, nhưng họ không bao giờ bi quan đối với cuộc sống. Họ chịu cực,
chịu khổ để làm nên bát cơm, tắm vải nuôi cả xã hội. Họ biết mình phải làm gì
và mơ ước những gì.
Ơn trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu
Công lênh chẳng quản lâu lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
Khuyên ai chớ bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.
Là bài thư của tâm hồn, ca dao, dân ca không chỉ ca ngợi con người
lao động mà còn ca ngợi bao tình cảm tốt đẹp khác của đồng quê nữa. Cái
“phong cảnh hữu tình” với “dân cư giang khúc như hình con long” ấy đã
chứng kiến biết bao mối tình êm đẹp giữa người và cảnh vật. Có những cảnh
“mặt trời tang tảng rạng đông”, “trời quang mây tạnh”, “yên sóng lặng gió” của
đất nước thân yêu, có những tình người với nội dung hữu ái giai cấp và cũng
có tình yêu đậm đà đấy mến thương của nam nữ thanh niên.
Trong bức tranh thôn dã này, các hình ảnh muôn màu muôn vẻ của
người nông dân được nêu bật lên. Con trâu, cái cày, cái bừa, những cánh tay
của nông dân – cũng chan chứa tình cảm. Nói đến nông nghiệp mà ta quên
con trâu, cái cày là một thiếu sót. Nông dân Việt Nam không biết Gioóc–Xăng
(George Sand) là ai nhưng họ rất đồng với nhà văn Pháp ấy: “Biết khiến bò đi
thẳng đường cày, biết làm cho nó đỡ mệt bằng cách ấn mạnh lưỡi cày hay
nhắc nó lên đúng lúc cũng chưa đủ: người ta sẽ không là một thợ cày hoàn
hảo nếu người ta không biết hát cho bò nghe”. Bài hát sau đây còn sâu sắc
hơn, biểu hiện lòng thương yêu, thái độ âu yếm, chăm sóc của nông dân với
con trâu của mình:
Trâu ơi ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Trâu đây ta đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Để kết luận, chúng ta thêm mấy nhận xét nhỏ về ca dao, dân ca lao
động sản xuất: ca dao, dân ca về lao động sản xuất, tuy số lượng không ít
nhưng chưa phải đã nói đến toàn bộ kinh nghiệm lao động sản xuất của nhân
dân ta. Đó là chưa kể có những ca dao, dân ca nêu những kinh nghiệm chưa
thật đúng, chưa có tính chất phổ biến cho toàn quốc. Hơn nữa những ca dao,
dân ca mà ta thường gặp, thường nghe (có rất nhiều trong các sách sưu tầm
về ca dao, dân ca đã xuất bản) chỉ ứng dụng được trên đồng bằng Bắc bộ mà
thôi. Chúng ta tin rằng nếu sưu tầm thêm ở những vùng khác nhau trên đất
nước ta, chúng ta sẽ có rất nhiều ca dao, dân ca khác về lao động sản xuất
với nội dung phong phú và có giá trị.
2. Đấu tranh giai cấp trong ca dao, dân ca.
Chúng ta đều biết rằng, suốt hơn nghìn năm lịch sử trước Cách mạng
tháng Tám, xã hội ta là xã hội phong kiến trong đó mâu thuẫn chủ yếu là mâu
thuẫn giữa giai cấp phong kiến và nông dân. Đối kháng về quyền lợi, hai giai
cấp ấy luôn luôn đấu tranh vói nhau trên ba mặt trận: kinh tế, chính trị và tư
tưởng. Ca dao, dân ca, tấm gương phản ánh trung thành nhất cuộc đấu tranh
giai cấp ấy, cho chúng ta nhiều tài liệu khá sinh động và đầy đủ.
Trong xã hội cũ, người nông dân quanh năm “đầu tắt mặt tối”, “dãi nắng
dầm sương” để làm ra của cải vật chất nhưng vẫn phải sống cơ cực và thiếu
thốn. Nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám đã chứng kiến bao
nhiêu cảnh “ăn xó mó niêu”, “nhà rách vách nát”, “bán vợ đợ con” hoặc những
cảnh “ngày ba tháng tám” tiêu điều, thê thảm. Đó là kết quả áp bức bóc lột
của giai cấp thống trị, đó là kết quả của tô tức, sưu cao thuế nặng, “những
dây thòng lọng” của địa chủ tròng vào đầu nông dân từ khi có chính quyền
phong kiến. Không thể chịu được cảnh “nghèo xác nghèo xơ” bên cảnh “giàu
nứt đố đổ vách”, nông dân đã vùng lên đấu tranh chống bọn địa chủ.
Quá trình đấu tranh giai cấp cũng là quá trình giác ngộ quyền lợi giai
cấp của người nông dân. Họ bắt đầu bằng những so sánh giản đơn của đời
sống hàng ngày.
Người thì mớ bảy mớ ba,
Người thì áo rách nlhư là áo tơi.
Khi họ biết so sánh, họ cũng biết nhận thức. Từ cảm tính, dần dần họ đi
đến lý tính và biết được bản chất của bọn “ngồi mát ăn bát vàng “như thế nào.
Của mình thì giữ bo bo,
Của người thì thả cho bò nó ăn.
Không những vạch mặt tâm địa tham lam “bòn tro đãi trấu” của bọn địa
chủ, nông dân còn thấv tính chất lừa gạt, phỉnh phờ, dụ dỗ (“Thằng Bờm có
cái quạt mo, phủ ông đòi đổi ba bò chín trâu”), những thái độ hèn mạt, xỏ lá
của chủng nữa:
–… Gĩa gạo tao xem,
Tao may áo đỏ, áo đen cho mày.
–…Chúa ăn rồi chúa lại ngồi,
Bắt thằng con ở dọn nồi dọn niêu.
Ngày trước còn khí yêu yêu,
Về sau chửi mắng ra chiêu tốn cơm.
Trước kia còn để cho đơm,
Sau thì giật lấy: Tao đơm cho mày.
Những câu ca hiện thực trên đây và bao nhiêu câu khác của bài “cố
nông” tố cáo đậm nét sự áp bức kinh tế của địa chủ đối với nông dân.
Từ nay tôi cạch đến già,
Tôi chẳng cấy ruộng nhà bà nữa đâu.
Ruộng bà vừa xấu, vừa sâu,
Vừa bé hạt thóc, vừa lâu đồng tiền.
Đành rằng ngày trước nông dân chưa hiểu rõ sự bất công của việc bóc
lột nhân công, bóc lột tô tức, nhưng không phải họ không nhận thấy nỗi khổ
của mình do đâu mà có. Ít ra họ cũng căm thù và chống lại sự bóc lột khi nó
trở thành một ách đè nén nặng nề lên người lao động.
Quan hệ địa chủ và nông dân ở nông thôn thường nằm ngay trong
quan hệ gia đình như quan hệ dì ghẻ con chồng, vợ cả vợ lẽ, thậm chí có khi
cả trong quan hệ mẹ chồng nàng dâu nữa. Những cảnh “ở hai, mau mau thức
dậy thái khoai băm bèo” không hiếm ở nông thôn cũng như quan niệm “mẹ
chồng không ai nói tốt nàng dâu và nàng dâu không ai nói tốt mẹ chồng” đã
trở thành một định lý phổ biến dưới chế độ phong kiến.
Sự áp bức của địa chủ phong kiến đối với nông dân qua bao nhiêu đời
là giam chặt nông dân trong bấy nhiêu kiếp trong vòng đau khổ luẩn quẩn
không có lối thoát:
Con kiến mà leo cành đa,
Leo phải cành cụt leo ra leo vào.
Con kiến mà leo cành đào,
Leo phải cành cụt leo vào leo ra.
Nhưng cuối cùng họ cũng tìm được một giải pháp:
– Có ăn, vất vả đã cam,
Không ăn, ta nghỉ ta làm làm chi.
– Bớt đồng thì bớt cù lao,
Bứt ăn bớt uống thì tao bớt làm.
Lãn công từ xưa đã là một phương thức đấu tranh của người lao động
bị bóc lột. Và như thế, tuy bước những bước chập chững trong đấu tranh,
nông dân vẫn tin tưởng, không bao giờ tuyệt vọng:
Đừng có chết mất thì thôi,
Sống cũng có lúc no xôi chán chè.
Đấu tranh chống lại sự áp bức bóc lột kinh tế là một mặt trận quan
trọng được phản ánh trong tục ngữ, ca dao, dân ca. Tuy nhiên tục ngữ, ca
dao, dân ca chưa nêu hết các khía cạnh của thủ đoạn bóc lột kinh tế của giai
cấp địa chủ.
Trong lĩnh vực chính trị, sức đấu tranh của nông dân chống chính
quyền phong kiến mạnh mẽ hơn. Số lượng tục ngữ, ca dao, dân ca do đó
cũng khá nhiều và nội dung có bề sâu cũng như có bề rộng hơn.
Bộ máy nhà nước phong kiến là nơi tập trung nhiều quyền lực to lớn
nhất của chế độ phong kiến. Đứng đầu là tên vua khoác áo hoàng bào tự
xưng là con trời (thiên tử) là người “đáng tôn kính” và có quyền sinh sát đối
với muôn dân. Có những minh quân, nhưng nói chung có nhiều hôn quân bạo
chúa. Đối với chúng, do những hạn chế lịch sử, nông dân ít nói đến hơn.
Con vua thì lại làm vua,
Con nhà sãi chùa thì quét lá đa.
Bao giờ dân nổi can qua,
Con vua thất thế lại ra quét chùa.
Và quan niệm “được làm vua, thua làm giặc” đối với nhân dân chỉ là
tương quan của hai thế trận mạnh yếu mà thôi.
Đứng sau vua là một bọn quan lại phong kiến lớn nhỏ. Bọn này, với
danh nghĩa là “cha mẹ dân” là “người cầm cân nảy mực”, thực chất là “lang
sói” đối với nhân dân. Cũng như văn học dân gian của các dân tộc khác, ca
dao, dân ca chĩa thẳng mũi dùi vào bọn này và đấu tranh không khoan
nhượng. Nếu có những tên tướng chỉ biết “xông vào trận tiền cởi khố giặc ra”
hoặc “cưỡi ngựa một mình chẳng phải vịn ai” thì cũng có những tên quan “về
nhà hỏi vợ cám rang đâu mày”. Đáng nguyền rủa là tính tham lam, hối lộ và
tính dâm đãng của bọn chúng. Ngón làm tiền của chúng là “có ít xuýt ra
nhiều”, “chuyện bé xé ra to”, và nhân dân phải bỏ cả công ăn việc làm vì “mõ
réo”, “trát đòi” để rồi phải sạt nghiệp và oan ức! Cái thói “làm quan ăn gian nói
dối”, cái tệ “quan tha nha bắt”, cái sức mạnh “nén bạc đâm toạc tờ giấy” bị
nhân dân chống lại và phỉ nhổ:
Con ơi nhớ lấy câu này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
Những tên lý trưởng, chánh tổng, những tèn lang, phìa, tạo cùng học
đòi những hành vi vô liêm sỉ của bọn quan nha. Xấu xa hơn nữa là đạo đức
của chúng:
Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình,
Ba bộ đồng tình bóp vú con tôi.
Sự cấu kết này của triều đình là điều kiện cho hạ cấp dâm loạn:
Ban ngày quan lớn như thần,
Ban đêm quan lớn tần mần như ma.
Cùng với bộ máy chuyên chế của chính quyền phong kiến, bọn thống trị
còn lợi dụng tư tưởng thiên mệnh để ràng buộc con người vào những khốn
khổ định sẵn. Tư tưởng định mệnh không phải không có tác dụng đến nhận
thức của nhân dân, nhưng mâu thuẫn giai cấp làm cho họ thấy không nên
bằng lòng với hiện thực. Tuy “những tư tưởng của giai cấp thống trị cũng là
những tư tưởng thống trị của một thời đại” và ảnh hưởng nhiều đến đời sống
tinh thần của họ nhưng nông dân, vì những quyền lợi sinh sống, họ luôn luôn
đấu tranh chống lại tư tưởng duy tâm, thần bí ấy. Giai cấp phong kiến đã lợi
dụng thần quyền để mê hoặc nhân dân, tạo điều kiện cho chúng nó dễ áp bức
bóc lột. Bọn chúng đã lợi dụng tính chất bảo thủ, lạc hậu của tôn giáo, lợi
dụng sự dốt nát của nhân dân mà thêu dệt nên Ngọc Hoàng, Tiên, Phật,
Thần, Thánh để củng cố thêm thành trì phong kiến. Đúng như Ăng– ghen
nhận định “sự xuất hiện Ngọc Hoàng chỉ giai cấp thống trị trên trời thích ứng
với sự xuất hiện Hoàng Đế dưới đất”. Cũng theo Ăng–ghen “khái niệm thần
duy nhất” điều khiển chi phối tất cả những hiện tượng tự nhiên “chỉ là rập theo
khuôn bạo chúa thống nhất ở phương Đông”. Những cuộc tế thần, rước sắc
thần (do vua phong) đều là những bịa đặt của chính quyền phong kiến để
tăng thêm quyền lực của mình. Nhưng, với cái nhìn thực tế, nông dân nghi
ngờ những lực lượng siêu nhiên ấy và họ đả kích:
Lạy trời, lạy phật, lạy vua,
Cho tôi sức khỏe tôi xua con ruồi.
Ngày xưa, ở mỗi thôn xóm Việt Nam, những “lò cốt tinh thần” (đình
chùa, miếu mạo, nhà thờ) mọc lên để chế ngự tư tưởng đấu tranh của nông
dân, ẩn thân trong những lô cốt ấy là cả một bọn đội lốt tôn giáo, những sư hỗ
mang, những đồng cốt quàng xiên, những thầy bói, thầy phù thủy gàn dở.
Bọn này buôn nước bọt, “nói thánh nói tướng” để mê hoặc dân gian, làm tay
chân đắc lực cho giai cấp thống trị. Nhưng, khi mà nhân dân không còn vị nể
gì bọn “tai to mặt lớn” của chính quyền phong kiến nữa, thì họ tiếc gì mà
không vạch mặt bọn “tà giáo” chỉ biết nói láo, tham ăn và dâm dật:
– Chập chập thôi lại cheng cheng,
Con gà trống thiến để riêng cho thầy…
– Thầy lo xem tướng cho người;
Tướng thầy thì để cho ruồi nó bu (bâu)…
Những câu ca dao tả thực trên đây là những “đòn bút” đánh vào thành
trì tư tưởng của giai cấp phong kiến. Nói đến ý thức phong kiến trong xã hội
Việt Nam, làm sao có thể quên được thân phận của người phụ nữ. Trước
Cách mạng tháng Tám, họ sống trong lao tù của xã hội phong kiến và bị khinh
miệt đến mức độ không có một chút địa vị trong gia đình hay ngoài xã hội.
Đau khổ của họ cũng gắn liền với đau khổ của giai cấp nông dân. Bị gạt ra
ngoài lề của xã hội phong kiến, họ luôn luôn đấu tranh đồi quyền sống cho
mình, chống trăm nghìn xiềng xích của “tam tòng”, “thất xuất”. Tiếng nói
chống đối của họ đôi khi cũng mạnh mẽ lắm. Khi mà bọn phong kiến quan
niệm giá trị của họ không bằng một phần mười nam giới (nhất nam viết hữu,
thập nữ viết vô) họ mạnh dạn trả lời:
– Ba đồng một mớ đàn ông,
Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha.
Ba trăm một mụ đàn bà,
Mua về mà trải chiếu hoa cho ngồi.
Bộ áo “tam tòng” trồng vào người phụ nữ từ bao đời nay, cũng bị họ lần
hồi xé manh xé vụn. Chế độ gia tộc phụ hệ phong kiến cho phép cha mẹ có
quyền ép buộc con cái phải theo ý kiến độc đoán của mình, có quyền từ bỏ
hoặc đánh chết con cái vô tội vạ. Uy quyền bất khả xâm phạm ấy đã gây bao
thảm cảnh bi kịch trong gia đình. Ở đây mâu thuẫn cũng được giải quyết bằng
đấu tranh của con cái:
Xưa kia ai cấm duyên bà,
Bây giờ bà già bà cấm duyên tôi.
Quan niệm “xuất giá tòng phu” cũng là sợi dây oan nghiệt của lễ giáo
phong kiến cột chặt người phụ nữ vào bếp núc, lệ thuộc hẳn vào người đàn
ông để sống một đời cực nhục trong bất bình đẳng. Người phụ nữ Việt Nam,
với đức tính cần cù, trung hậu, hay chăm lo hạnh phúc cho người khác, rất
biết tôn trọng chồng, thương yêu con, chịu mọi thiệt thòi cho chồng con sung
sướng. Tuy vậy, khi gặp những kẻ vô tình bạc nghĩa, họ cũng mạnh dạn
chống lại và biểu hiện thái độ đứt khoát:
Đất xấu nặn chẳng nên nồi,
Anh đi lấy vợ, cho tôi lấy chồng.
Còn bao nhiêu tai ách khác! Cái gông “phu tử tòng tử” giam hãm biết
bao cuộc đời son trẻ của người quả phụ. Họ nhất định không chịu “thủ tiết”,
họ xem hạnh phúc của mình quý bằng hàng chục sắc phong “tiết hạnh” của
triều đình phong kiến vì họ biết rằng:
Lênh đênh chiếc bách giữa dòng,
Thương thân góa bụa phòng không lỡ thì.
Gió đưa cây trúc ngã quì,
Ba năm chực tiết, còn gì là xuân!
Chúng ta còn nghe nhiều tiếng nói của phụ nữ phản kháng chế độ đa
thê nữa. Giai cấp phong kiến cho phép người đàn ông được lấy nhiều vợ và
có quyền bỏ vợ, trái lại cấm người đàn bà không có quyền ly hôn. Với tinh
thần kiên trì, để bảo vệ hạnh phúc cho mình và cho gia đình mình, người phụ
nữ không thừa nhận những tập tục xấu xa đó. Có khi họ chỉ than thân trách
phận, bộc bạch tâm tình của mình:
Gió đưa bụi chuối sau hè,
Anh ham vợ bé bỏ bè con thơ.
hoặc:
Chàng ơi phụ thiếp làm chi,
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng.
nhưng cũng có lúc họ căm hòn những kẻ phụ bạc:
Từ ngày em ở với anh,
Mẹ anh đánh mắng, anh tình phụ tôi.
Có thịt anh tình phụ xôi,
Có cam phụ quýt, có người phụ ta.
Có quán, tình phụ cây đa,
Ba năm quán đổ cây đa vẫn còn…
Lệ thuộc vào sinh hoạt kinh tế gia đình, sống trong bất bình đẳng của
xã hội có giai cấp, người phụ nữ gặp nhiều nghịch cảnh đau thương, bi thảm.
Tiếng kêu thương của họ vút lên từ cuộc sống bất công ấy nhằm xé tan bầu
trời đen tối của chế độ phong kiến.
Trong cuộc đấu tranh sôi nổi ấy, hình ảnh người phụ nữ hiện lên khá rõ
rệt. Đó là một đặc điểm đáng lưu ý khi nghiên cứu vấn đề đấu tranh giai cấp ở
nông thôn qua tục ngữ, ca dao, dân ca. Đúng như Lê–nin nhận định: “Giai cấp
vô sản sẽ không thể nào tự giải phóng hoàn toàn được nếu họ không
giành quyền tự do hoàn toàn cho phụ nữ”.
Có điều khi nghiên cứu về văn học dân gian, chúng ta nên chú ý đến
những chỗ “vàng thau lẫn lộn”. Dưới ánh sáng của học thuyết Lê–nin về hai
nền văn hóa, chúng ta cần thấy rằng trong văn học truyền miệng cũng có lẫn
lộn cả những sáng tác của giai cấp thống trị. Trên mặt trận đấu tranh giai cấp,
chúng ta sẽ thấy rõ có những ca dao do bọn thống trị tung ra để đối lập với tư
tưởng của nhân dân. Có những câu đề cao giai cấp phong kiến:
– Một ngày dựa mạn thuyền rồng,
Còn hơn muôn kiếp nằm trong thuyền chài.
– Trứng rồng lại nở ra rồng,
Liu điu lại nở ra dòng liu điu.
và cũng có những câu biểu hiện đấu tranh trực diện. Khi nông dân hát:
Ai ơi chớ lấy học trò,
Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm.
thì tầng lớp sĩ phu phong kiến trả lời:
Dài lưng đã có võng đào,
Tốn vải đã có áo trào vua ban.
Tất nhiên, như chúng ta đã có lần nóiđến ý thức hệ phong kiến cũng có
ảnh hưởng đến thế giới quan và nhân sinh quan của nhân dân lao
động, làm cho trong tư tưởng cũng như trong sáng tác văn học của họ, rác
rưởi không phải không có. Bên cạnh những cái nhìn biện chứng “rau nào sâu
nấy” “rút dây động rừng”, có những nhận thức duy tâm thần bí. Tư tưởng định
mệnh làm cho họ nghĩ rằng “giàu nghèo tại số “và từ đấy họ cầu an tiêu cực:
– Số giàu lấy khó cũng giàu;
Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo.
– Cây khô xuống nước cũng khô,
Phận nghèo đi tới nơi mô cũng nghèo.
Những hạn chế ấy cùng với sự ngu muội tăm tối do giai cấp bóc lột gây
ra và tác động đến nhân dân là điều kiện thuận lợi cho bọn thống trị củng cố
thêm địa vị của chúng.
Chúng ta thấy rằng chỉ có khi nào nhân dân hoàn toàn giác ngộ về tư
tưởng, khi nào bóng dáng giai cấp thù địch không còn nữa, khi mà cách mạng
văn hóa và tư tưởng do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo đã hoàn thành
thắng lợi thì lúc ấy trí óc của nhân dân mới hoàn toàn trong sáng, lời nói giọng
ca của họ mới hoàn toàn tốt đẹp được.
3. Đời sống tình cảm của nhân dân lao động trong ca dao, dân ca.
Dân tộc Việt Nam vốn là một dân tộc có truyền thống yêu chuộng thơ
ca. Ca dao, dân ca của họ là thơ, là nhạc nhưng cũng là tình. Đây là những
rung cảm sâu sắc trước thiên nhiên tươi đẹp, đây là những mối tình ấm áp
của gia đình và đây cũng là yêu đương thắm thiết của thanh niên nam nữ.
Phong cảnh Tổ quốc ta là một bức tranh tuyệt đẹp. Con người Việt
Nam sống trên mảnh đất màu mỡ, cây lá tốt tươi, biển trời xanh biếc có thể
nào không cảm thụ cái đẹp của phong cảnh đó? Quan hệ tình cảm của con
người với thiên nhiên từ xưa đến nay vẫn còn ghi trong lời thơ sinh động:
Vì mây cho núi lên trời,
Vì chưng gió thổi hoa cười với trăng.
hay:
Nước trong xanh lặng ngắt như tờ,
Một đàn cá nhớn nhấp nhô đầu ghềnh
Kìa ai đứng ở đầu ghềnh…
Người nông dân “hỏi tuổi trăng“ “hỏi tuổi núi”, nghe tiếng sóng, nghe
tiếng chim, thu cảnh vật vào tâm hồn thi sĩ của mình, hòa lòng với thiên nhiên,
với rừng núi, với đồng ruộng. Nắng mai cũng chân thực và tươi mát như
chính tấm lòng của họ.
Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng
Thấy mênh mông bát ngát…
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng,
Thấy bát ngát mênh mông…
Thân em như chẹn lúa đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn ánh hồng ban mai.
Đằng sau lũy tre xanh, bên dòng sông êm mát hay dưới chân núi rừng
bát ngát, tiếng hát yêu đời của người lao động còn vang lên ca ngợi những
dấu vết lịch sử do bàn tay cha ông ta khai phá và xây đắp.
Đường lên thành Lạng bao xa,
Cách một trái núi, cách ba quãng đồng.
Ai ơi đứng lại mà trông,
Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam cờ…
Hà Nội đẹp vì có Hồ Gươm trong xanh. Hà Nội còn đẹp vì có những
cảnh thơ mộng như một bài Đường thi tuyệt tác:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Ca ngợi Tổ quốc thân yêu, người nông dân bộc lộ tình yêu tha thiết của
mình đối với Tổ quốc. Tổ quốc chúng ta với rừng vàng bể bạc, với lòng đất
tràn đầy tài nguyên phong phú, có đầy đủ sản vật quý báu: lúa “Đồng Nai, hai
huyện”, “chè Vân Thái”, “mía Phú Yên”, “đường Quảng Ngãi”…
Con người lao động sống giữa cảnh đẹp, đất giàu cũng cảm thấy mình
xinh đẹp không kém.
Trai Cầu Vồng, Yên Thế
Gái Nội Duệ, Cầu Lim
Chính trai gái ấy và bao nhiêu trai gái khác đã lao động để xây dựng xã
hội và chính những trai gái ấy đã sống một đời sống tình cảm vô cùng phong
phú.
Trong lịch sử tình yêu trai gái của các dân tộc, đâu đâu cũng có tục tìm
hiểu nhau, ước hẹn, giao duyên giữa những khung cảnh lao động, hội hè.
Đồng ruộng, nương rẫy, sông đầm, đã chứng kiến bao cuộc gặp gỡ của nam
nữ thanh niên. Qua lao động, họ cảm mến nhau và tình yêu nảy nở trong
khung cảnh đó. Có lúc gặp nhau trong buổi “tát nước đầu đình”, dưới bến
sông, bên bờ giếng, một chiều chặt củi, một sáng hái sa nhân. Họ cảm mến
nhau ở tinh thần cần cù lao động, ở tính hồn nhiên cởi mở của đôi bên. Người
con trai lần đầu tiên tiếp xúc với bạn gái thấy lòng mình rung động và mơ
ước.
Cái “dải yếm đào” phát phơ cũng gây được những cảm xúc kỳ diệu.
Bao nhiêu cảnh vật xung quanh người tình là bấy nhiêu lý do, là bấy nhiêu lời
thơ gợi ý xa xôi bóng bẩy:
Hỡi cô gánh nước quang mây,
Cho anh xin gáo tưới cây ngô đồng.
hay:
Cô kia cắt cỏ một mình,
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt nữa hay thôi,
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.
Người con gái cũng có tính hồn nhiên cởi mở ấy. Nếu cô Dao Tiên của
Nguyễn huy Tự (Hoa tiên) bị lễ giáo phong kiến kìm hãm để phải thốt lên “Tự
ta đóng nguyệt cài mây, buồng thơm chứ lọt mảy may gió tà” thì cô gái nông
thôn bộc lộ tình cảm của mình một cách bộc trực:
Đũa tre một chiếc khó cầm,
Thương anh để vậy âm thầm sao nên.
Tình yêu của họ thẳng thắn tự nhiên nhưng cũng khá tế nhị:
Anh đà có vợ hay chưa,
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào.
Núi rừng cao vút của Tây Nguyên cũng có những mối tình bình dị hiền
lành:
Gà anh nuôi đã lởn,
Gà em chăm đã to,
Đôi gà muốn rủ nhau,
Đi đến nhà người mối,
Gà đến em đừng đuổi,
Gà sợ buồn ốm o,
Muốn cho hai mẹ cha,
Đỡ bận lòng lo lắng,
Muốn cho làng cho xóm,
Uống rượu cùng hai ta.
(dân ca Cor)
Xuất phát từ mối tình lao động, mối tình giai cấp, nam nữ thanh niên
nông dân luôn luôn đấu tranh cho tình yêu tự do và lành mạnh. Tình yêu của
họ khác hẳn với quan niệm yêu đương của giai cấp thống trị. Tình yêu trong
trắng của họ không bị mùi tanh của đồng tiền làm vẩn đục:
Mới gặp nhau đây chớ buông lời nói quấy,
Tiền tài chẳng trọng mấy, em quý nghĩa tao khang.
Em có mê chi những hột thủy xoàn,
Miễn anh giữ đặng tấm lòng vàng đừng phai.
hay:
Đói lòng ăn đọt móc lê,
Tìm nơi nhân hậu hơn bề giàu sang.
Và khi không một ràng buộc kinh tế nào phá hoại được tình yêu của họ,
thì những tính toán giàu nghèo, môn đăng hộ đối, những quyền lực gia đình
cũng khó mà ép buộc được họ. Cái quyết tâm của họ cũng là tiếng nói đòi
quyền sống, quyền tự do yêu đương:
– Đã yêu nhau, tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục giang cũng lội, thất
bát cửu đèo cũng qua.
– Chàng đi thiếp cũng xin theo,
Quản chi lội suối vượt đèo chàng ơi.
(Dân ca Tày)
Rõ ràng trong giai cấp bóc lột khó có những tình yêu như vậy. Đúng
như Ăng–ghen đã nói: “Giai cấp thống trị bị những ảnh hưởng kinh tế chi phối
như ta đã biết, nên trong giai cấp ấy những trường hợp thật sự tự do kết hôn
chỉ là ngoại lệ, còn đối với giai cấp bị áp bức, như chúng ta đã thấy, thì những
cuộc hôn nhân thật sự tự do như vậy lại là thường lệ”.
Bọn thống trị với thái độ khinh miệt nhân dân lao động còn cho rằng
tình yêu của nông dân là thấp hèn, là “bản năng”. Thực là một điều thiển cận.
Trương Tửu cũng lập luận như vậy trong “Kinh thi Việt Nam” và cho rằng
“Trong những bản năng chính của con người thì sự ham muốn về nhục thể là
căn bản, nông dân “đòi quyền tự do cho nhục dục” thậm chí còn chứng minh
rằng “cái nhục dục ấy lại là một động cơ chính của các hành vi của dân
chúng”. Trong xã hội cũ, tuy sống cực khổ, không có hạnh phúc, nhưng không
phải vì thế mà nông dân không có một tình yêu cao thượng.
Chúng ta phản đối mọi đánh giá sai lầm của giai cấp bóc lột về tình yêu
của nhân dân lao động.
Bọn thống trị tìm mọi cách để phá hoại tình yêu của nhân dân lao động
nhưng bọn chúng đã thất bại. Nhân dân lao động bất chấp mọi trở ngại do
bọn chúng gây nên và luôn luôn bảo vệ tình yêu trong trắng của mình. Có thể
nói trên lĩnh vực tình cảm, tinh thần phản phong của nông dân khá mãnh liệt.
Họ không cần giai cấp thống trị phải “quan tâm” đến yêu đương của họ.
Trong xã hội tẻ ngắt với quan niệm phong kiến “nam nữ thụ thụ bất
thân” mà có được tiếng cười vang lên làm vui cuộc sống, làm tình yêu gắn
liền với cuộc sống thì tiếng cười ấy có giá trị lớn lao, làm cho họ phấn khởi
sản xuất và đấu tranh mạnh mẽ hơn. Đúng như Nguyễn Đình Thi nhận định:
“Người Việt Nam yêu để được thêm mạnh mẽ, yêu để sống được thêm hăng
hái, tranh đấu được thêm bền vững chứ không phải yêu để mà đắm đuối
trong tình yêu và quên lãng cuộc sống”.
Khi nói đến bài thơ ca ngợi tình yêu tự do, lành mạnh của nam nữ
thanh niên, chúng ta không thể bỏ qua nhiều nghịch cảnh đau đớn làm cho họ
nhiều khi phải rơi nước mắt. Từ thuở lọt lòng mẹ, – người con gái bị xem
thường, đến lúc mười ba, mười bốn tuổi, họ bị cha mẹ ép uổng gả bán. Cảnh
chiếc thuyền trôi lênh đênh “mười hai bến nước trong nhờ, đục chịu” ấy trong
xã hội cũ đã được ca dao, dân ca nhắc đến từ lúc cô gái còn thơ. Nạn tảo hôn
đã gây ra bao chua xót cho tuổi trẻ. Những lời than “mẹ em tham thúng xôi
rền, tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hưng” cũng là bản cáo trạng tệ tục xấu
xa đó. Hãy nghe tiếng nấc uất hận đầy đau thương của một cô gái oán cha và
giận mình:
Cha ơi, khéo liệu cơm gắp mắm,
Gả ép con vào, cố đấm ăn xôi.
Bây giờ dơ dáng con người,
Mẹ cha gả bán vào nơi chẳng vừa.
Trái duyên khôn ép, khôn ưa,
Trách mình đã lỗi, trách cha đã nhầm…
Có người con gái đang độ trăng tròn chẳng những bị cưỡng ép lấy
chồng bé “tẻo teo” mà có khi “vô phúc múc phải ông chồng già”! Có những đôi
nam nữ thanh niên đã cảm mến nhau nhưng vì hoàn cảnh nào đó lại phải xa
nhau để rồi đôi bên phải đau xót:
Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ.
Chim vào lồng biết thủơ nào ra!
Những mối hận tình này xảy ra không ít trong xã hội cũ. Chính chế độ
phong kiến với những hàng rào lễ giáo ngăn cách tình yêu, đã cắt đứt mối tơ
lòng của nam nữ thanh niên.
Ở trên chúng ta đã nói đến tình yêu. Có tình yêu trắc trở, có những mối
hận tình nhưng không ít những mối tình êm đẹp. Khi mà tình yêu nam nữ đã
chuyển thành tình vợ chồng, người ta chăm lo cho hạnh phúc gia đình, xây
dựng một cuộc sống yên vui hòa thuận. Tình nghĩa vợ chồng “đầu ấp tay gối”
làm cho họ thấy thêm thương yêu nhau, cùng gánh vác công việc nặng nhọc
của gia đình và chia nhau những nỗi vui buồn riêng tư của nhau. Đáng ca
ngợi nhất là mối tình chung thủy của nhân dân lao động. Trong sóng gió của
xã hội phong kiến, người lao động bao giờ cũng yêu nhau bền chặt sắt son,
dù có lúc phải xa nhau nhưng họ vẫn kiên tàm chờ đợi.
Trăm năm lòng gắn dạ ghi,
Dù ai đem nút bạc đổi khuy chì cũng không.
Và người phụ nữ luôn luôn giữ phẩm chất của mình:
Chồng ta áo rách ta thương.
Chồng ngườii áo gấm xông hương mặc người.
Trong đời sống tình cảm của con người, tình yêu cha mẹ, vợ con cũng
chiếm một vị trí quan trọng. Cha mẹ là người sinh thành dưỡng dục, là người
có kinh nghiệm sống mà con cái luôn luôn kính yêu. Từ lâu người ta công
nhận “con người có bố, có ông, như cây có cội, như sông có nguồn”. Ca dao,
dân ca nói đến cha mẹ bao giờ cũng thiết tha trìu mến, bao giờ cũng biểu lộ
lòng biết ơn sâu sắc:
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Điều đáng chú ý hơn là trong xã hội phong kiến, uy quyền người cha là
tuyệt đối mà ca dao, dân ca lại nói nhiều về người mẹ. Cũng có lúc “còn cha
gót đỏ như son, một mai cha chết gót con như bùn” nhưng mỗi chúng ta đều
thấy rằng ca dao, dân ca dành những lời thơ đẹp nhất để biểu hiện tình mẹ
con. Nguyên nhân của vấn đề cũng dễ giải thích. Lòng thương của mẹ đối với
con thật vô cùng to lớn. Từ thuở lọt lòng cho đến lúc biết đi biết nói, đứa con
gắn liền với người mẹ trong từng giọt sữa, từng miếng cơm mớm:
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.
Mối tình “chi bằng cơm với cá, chi bằng mẹ với con” ấy sống trong từng
người là mối tình rất nhân loại nuôi dưỡng bao nhiêu mối tình lành mạnh
khác. Và quan hệ ruột thịt ấy có nhiều sắc thái khác nhau. Có cái nhớ
nhung khi xa mẹ:
Vẳng nghe chim vịt kêu chiều,
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.
Có cái âu yếm, chăm sóc chân tình trong cảnh nghèo khổ:
Mẹ già ở chốn lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.
hoặc:
Đói lòng ăn bột chà là,
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
Và đau đớn biết mấy khi mẹ không còn nữa!
Chiều chiều xách giỏ hái rau,
Nhìn lên mả mẹ ruột đau như dần.
Yêu cha mẹ bao nhiêu người ta lại yêu con cái bấy nhiêu. Con cái là
niềm vui của gia đình, là mầm non quý giá của xã hội. Do đó, dù cho đời
sống chật vật khó khăn, ai mà chẳng muốn sinh con đẻ cái. Chúng
ta lại có dịp ca ngợi nhân đạo chủ nghĩa của nông dân :
Có vàng vàng chẳng hay phô,
Có con con nói trầm trồ mẹ nghe.
Còn gì tẻ lạnh hơn đối với người phụ nữ khi họ cảm thấy mình chẳng
khác “hoa nở trên non một mình”! Tuy nhiên, chúng ta đừng vội nhầm lẫn ý
nghĩa này với quan niệm “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” của giai cấp thống
trị. Chính bọn chúng lợi dụng việc không con, bất hiếu để bày ra bao chuyện
xấu xa khác như lấy vợ lẽ, cầu tự con trai để nối dòng, nối dõi.
Tình yêu con cái cũng đòi hỏi cha mẹ phải có trách nhiệm đối với con
cái. Ca dao, dân ca chú ý “dạy con dạy thuở còn thơ” và phản đối mọi sự
chăm sóc không chu đáo đối với con cái:
Đẻ con chẳng dạy chẳng răn,
Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng.
Trong gia đình bên cạnh tình vợ chồng, cha mẹ, con cái còn có tình bà
con họ hàng nữa. Ca dao, dân ca cũng ca tụng “anh em như thể chân tay” ca
tụng “dì ruột thương cháu như con, rủi mà không mẹ cháu còn cậy trông”
nhưng ca dao, dân ca cũng nói lên nhiều thực tế không hay của quan hệ họ
hàng ấy. Do ảnh hưởng của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, do ý thức hệ
phong kiến chi phối, mối tình bà con có nhiều chỗ không đẹp lắm và hình
thành một lối phân biệt đối xử đôi lúc thành một quan hệ đáng phê phán:
Em chồng ở với chị dâu,
Coi chừng kẻo nó giết nhau có ngày
hoặc:
Một trăm ông chú không lo,
Lo về một nỗi mụ o nỏ mồm.
Với một tâm hồn biết yêu và biết ghét, nhân dân đã làm những lời thơ
tiếng hát tuyệt diệu để ca ngợi đời sống tình cảm của mình. Ca dao, dân ca
trữ tình là những viên ngọc quý, trong sáng đáng cho chúng ta trân trọng và
gìn giữ. Đó là tình yêu của những con người lao động, yêu nhau trong lao
động và yêu đương cũng chỉ để làm cho cuộc đời lao động của mình thêm
hạnh phúc, thêm ý nghĩa. Tình yêu ấy bao giờ cũng lạc quan, lành mạnh và
phản đối bất cứ một biểu hiện nào buồn thảm, ủy mị, yếu ớt, vì danh, vì lợi
trong quan niệm yêu đương của giai cấp bóc lột. Tình yêu ấy phản đối mọi
biểu hiện vô tình bạc nghĩa, và ca ngợi lòng chung thủy muôn đời không phai.
III. NGHỆ THUẬT CA DAO, DÂN CA1. Ca dao
Nói đến nghệ thuật ca dao là nói đến lối vận dụng ngữ ngôn, lối kết cấu,
tác dụng của âm thanh, tiết tấu, là nói đến hình tượng vô cùng phong phú, là
nói đến phương pháp trào phúng của ca dao.
Văn học là nghệ thuật của ngữ ngôn. “Ngữ ngôn là yếu tố thứ nhất của
văn học” (Gô–rơ–ki). Nghệ thuật của ca dao trước hết là nghệ thuật vận dụng
ngữ ngôn dân tộc.
Trong cuộc sống lao động cần cù, nhân dân ta đã tạo ra cho mình một
tiếng nói riêng biệt, càng ngày càng phong phú thêm lên. Nhân dân ta đã
dùng tiếng nói ấy để sáng tác bài ca, bài hát. Tuy sống bên cạnh hằng hà sa
số từ Hán – Việt, ca dao vẫn giữ tính trong sáng của ngôn ngữ dân tộc. Ta có
thể tìm thấy bao tiếng nói thông thường trong ca dao: vá, may, thêu, thùa, bắt
tép, chẻ lạt, cấy cày, ta, mình… Thỉnh thoảng ca dao tục ngữ cũng dùng từ
Hán – Việt dễ hiểu, đã Việt hóa. Thí dụ: “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ
giống”; hoặc “yêu em tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, tứ cửu tam
thập lục đèo cũng qua”. Điều này chứng tỏ nhân dân ta không câu nệ, máy
móc và cũng không chút hẹp hòi.
Từ ngữ trong ca dao là những từ ngữ chọn lọc, chính xác vì đã được
gọt giũa qua thời gian, qua lịch sử như những hạt ngọc trong trẻo:
Thuyền về có nhớ bến chăng,
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Nhiều tiếng rất mạnh mẽ, cụ tượng làm cho câu ca dao vững chắc:
– Hoài tiền mua thuốc nhuộm răng,
Để tiền mua mía đánh khăng vào mồm…
– Cờ bạc nó đã khinh anh,
Áo quần bán hết, một manh chẳng còn.
Ca dao cũng có nhiều lời ngụ ý (ám dụ) đẹp đẽ:
– Nhớ ai đứng tủi ngồi sầu,
Mình ve sương tuyết bao lâu mà mòn.
Còn bao nhiêu lối dùng tiếng theo phương pháp mỹ từ. Điệp ngữ sau
đây miêu tả tâm trạng nhớ nhung đến mức độ nóng ruột:
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai!
Một mối tình day dứt với cái khăn đầy tình cảm:
Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất,
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai…
Và mấy tiếng “đó” sau đây nhiều ý nghĩa quá:
Trời mưa trời gió,
Vác đó đi đơm,
Chạy ra ăn cơm,
Chạy vô mất đó.
Ca dao hay, vì lối dùng ngôn ngữ, ca dao cũng hay nếu chúng ta nhìn
toàn bộ kết cấu của nó. Phương pháp cấu tứ của ca dao hoàn toàn tự do theo
biểu hiện tự nhiên của tình cảm. Có những bài “Người cố nông”, “Thằng
Bờm”, “Tát nước đầu đình” với lối kết cấu đặc biệt nhưng nhìn chung nhiều
câu ca dao đơn giản, mộc mạc trong cấu tứ với ba thể chính: phú, hứng, tỉ.
Trực tiếp nói đến cảnh, đến người một cách rõ ràng như tả cảnh Hồ Tây (Gió
đưa cành trúc la đà…) tả “lính thú đời xưa” là thể phú. Thể hứng của ca dao
biểu hiện bằng cách nêu lên hoàn cảnh, sự vật khêu gợi cảm xúc và làm nẩy
nở tình cảm:
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng.
Ước gì anh lấy được nàng,
Thì anh mua gạch Bát tràng về xây…
Người xưa thường nói “đối cảnh sinh tình”. Phải chăng đây là một cảnh
trời mây huy hoàng, tươi vui gây muôn nghìn cảm xúc cho một thanh niên mơ
ước người đẹp. Thể hứng thường là chiếc thuyền tình lướt nhẹ trên dòng
sông tình đem bao ước mong, thương nhớ, gặp gỡ cho nam nữ thanh niên,
cho nên thể hứng được sử dụng nhiều trong ca dao trữ tình. Thể tỉ là lối diễn
tả bằng so sánh, ví von, là phương pháp diễn đạt thông thường của nhân dân
qua hình tượng trong ca dao:
Đôi ta như thể con tằm,
Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong
Đôi ta như thể con ong,
Con quấn, con quýt, con trong, con ngoài…
Các thể phú, hứng, tỉ có khi quyện vói nhau làm cho cấu tứ của ca dao
thêm phong phú, thêm sinh động.
Cá buồn cá lội tung tăng,
Người buồn người biết đãi đằng cùng ai?
Phương đông chưa rạng sao mai,
Đồng hồ chưa cạn, biết lấy ai bạn cùng?
Ca dao còn có một lối kết cấu đặc biệt tạm gọi là “ca dao vòng tròn”.
Con kiến mà leo cành đa,
Leo phải cành cụt leo ra leo vào, v.v…
Đây không chỉ là lối gieo vần mà còn là lối cấu tứ. Câu ca dao trên là
vòng lẩn quẩn của nông dân ta thời phong kiến. Ca dao vòng tròn thường có
bốn câu hát mãi không chán có tác dụng nhấn mạnh một ý, gây một ấn tượng
sâu sắc.
Ca dao giàu về âm thanh, nhịp điệu, tiết tấu. Không một câu ca dao nào
mà âm thanh không dồi dào. Có khi nhẹ nhàng, “êm dịu”:
Ai đi đường ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh.
Có khi réo rắt, nặng nề:
Sóng sình sịch lưng chừng ngoài biển Bắc
Hạt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên…
Vần điệu của ca dao là vần điệu có yếu tố dân tộc. Các thể thơ dân tộc
đều có trong ca dao. Chúng ta gặp các điệu vần hai, ba, bốn trong các bài
đồng dao với nhịp điệu nhanh nhẹn, vui tươi như “trẻ em hát, trẻ em chơi”,
hay trong các bài vè trường thiên thuận tiện cho tự sự. Chúng ta gặp thơ lục
bát, song thất lục bát, (và các lối biến thể) trong nhiều bài ca dao trữ tình, trào
phúng. Các bài vãn hai, vãn ba, vãn bốn vừa có vần lưng và vần chân đơn
giản, mộc mạc:
Xỉa cá mè
Đè cá chép
Chân nào đẹp
Đi buôn men
Chân nào đen…
hoặc:
Lạy giời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày
Lấy bát cơm đầy,
Lấy khúc cá to.
Các bài lục bát, song thất lục bát (và các biến thể), chỉ có vần lưng là
điệu hát tự nhiên, thoải mái, không gò bó như Đường thi, dễ làm, dễ nhớ, dễ
hát. Nguyễn Đình Thi có một nhận xét: “Dùng một hình ảnh ta có thể ví lối thơ
Đường luật như một chiếc bình pha lê kết tinh trong suốt nhưng không đủ sức
lôi cuốn của một dòng sông. Thơ lục bát, trái lại, vì hợp với tiếng nói nước ta
hơn nên có thể dùng được nguồn cảm hứng tràn lan, đó là thể thơ ca hát, kể
chuyện của dân chúng”.
Song thất lục bát được sử dụng ít hơn lục bát trong ca dao. Chúng ta
gặp nhiều câu song thất lục bát trong các điệu hò. Có người cho lục bát và
song thất lục bát biến thể là những hình thức thô sơ, khi chưa tìm ra một thể
lục bát hoặc song thất lục bát hoàn chỉnh. Nhận xét chưa hẳn đã đúng, nhưng
điều chắc chắn số tiếng được tăng thêm trong lục bát hoặc song thất lục bát
biến thể có tác dụng về nội dung, về nhạc điệu (đặc biệt là hò).
Nếu vần bằng của thơ lục bát trong ca dao thanh thoát, êm dịu như mặt
nước dòng sông chảy xuôi:
Thuyền tình đã ghé tới nơi,
Khách tình sao chẳng sang chơi thuyền tình.
thì vần trắc của song thất lục bát (ở câu bảy) cọ sát với nhau, diễn đạt cái gì
khúc mắc, tấm tức, không bình thường của tâm hồn:
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay…
Chúng ta còn gặp thể thơ tự do phóng khoáng cũng như thể hỗn hợp
của dòng văn lục bát trong ca dao.
Ông mai mối ơi!
Ông xách bầu rượu tới đó,
Ông chịu khó,
Ông xách trở về,
Tôi còn ở với cha mẹ cho trọn bề hiếu trung.
Và:
Quả cau nho nhỏ
Cái vỏ vân vân
Nay anh học gần
Mai anh học xa
Em lấy anh từ thuở mười ba,
Đến năm mười tám thiếp đà năm con…
Tiết tấu của ca dao cũng có những tác dụng quan trọng. Thí dụ như
nhịp hai/hai của lục bát như xuôi thuyền êm ái, lâng lâng, hay nhịp ba/bốn của
song thất lục bát như leo dốc núi cao mệt nhọc tăng thêm giá trị nghệ thuật
cho ca dao. Có người cho rằng câu thơ song thất (trong song thất lục bát) gần
Đường luật. Xét về tiết tấu, chúng ta không đồng ý với nhận định đó.
Câu thơ thất ngôn được cấu tạo theo nhịp bốn/ba:
“Khứ niên kim nhật / thử môn trung
Nhân diện đào hoa / tương ánh hồng…
(Thôi Hộ)
Câu thơ song thất của ta theo nhịp ba / bốn:
“Muốn lấy chồng / mà chồng chẳng lấy,
Biết giá chồng / đáng mấy mà mua?…”
Nhìn chung, âm thanh, vần điệu tiết tấu là ba yếu tố của âm nhạc trong
ca dao. Nhân dân đã đem những yếu tố đó làm cho nội dung ca dao được
diễn đạt linh hoạt, sinh động, có duyên, đáng yêu.
Trong ca dao, người ta thường chú ý đến phương pháp sử dụng hình
tượng. Nhân dân lao động phấn đấu hàng ngày với thiên nhiên, con mắt của
họ luôn luôn mở rộng trước thiên nhiên, tâm hồn của họ luôn luôn chan hòa
với thiên nhiên. Nhân dân thông cảm với thiên nhiên: những hình ảnh, những
đường nét kỳ thú của thiên nhiên đã khắc sâu vào tâm tư con người. Mặt
khác, nhân dân lao động trong xã hội cũ thường xuyên bị bóc lột, áp bức và
cũng không ngừng đấu tranh chống lại bọn thống trị. Họ thấy rõ quan hệ bóc
lột áp bức, nhìn rõ sự chênh lệch bất công trong xã hội. Những cảnh tượng
đau lòng xé ruột, những cảnh tượng thống khổ trong cuộc đấu tranh giai cấp
khác sâu vào tâm tư họ. Vì vậy hình tượng dùng trong ca dao là những hình
tượng muôn hình muôn vẻ, xuất hiện từ thực tế phong phú và sinh động.
Hình tượng nghệ thuật của ca dao có tính khái quát nhưng đồng thời có
tính cụ thể. Ca dao đã vẽ nên hình tượng “người cố nông”, “người lính thú đời
xưa” với những chi tiết tỉ mỉ, đầy đủ tính cách của nhân vật. Ca dao trữ tình
cũng dùng hình tượng nghệ thuật để miêu tả linh hoạt tâm trạng của nam nữ
yêu nhau, những cuộc giao duyên nhớ nhung, hy vọng, ly biệt v.v…
Có những hình tượng biểu hiện tính tình chất phác và cũng có những
hình tượng biểu hiện ước mơ của người nông dân Việt Nam:
Đôi ta cách một con sông
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.
Những hình tượng ngữ ngôn trong ca dao là những viên ngọc trong
sáng, long lanh đã được mài giũa từ lâu đời. Âm thanh góp phần tô điểm cho
hình tượng đầy đủ khả năng điễn đạt:
Đi đâu là cả là cà,
Như chim lạc tổ như ma lạc mồ.
Lối so sánh được sử dụng rộng rãi trong hình tượng ngữ ngôn của ca
dao. Khái niệm trừu tượng được diễn tả bằng hình tượng cụ thể:
Còn duyên như tượng tô vàng,
Hết duyên như tổ ong tàn phải mưa.
Kín đáo hơn, ca dao có khi được biểu hiện bằng ẩn dụ, duyên dáng
như những đóa hoa chưa nở:
– Bây giờ mận mới hỏi đào,
Vườn hồng có lối ai vào hay chưa.
– Mận hỏi thì đào xin thưa,
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
Lối hỏi thăm tình tứ như thế thật là lịch sự và tế nhị! Ở môi trường khác,
do cuộc sống phong phú của mình, người nông dân có những liên hệ thực tế.
Lối so sánh kín đáo lại có một khía cạnh khác trong câu hát:
Ếch kêu dưới vũng tre ngâm,
Ếch kêu mặc ếch, tre dầm mặc tre.
hay:
“Thương thay thân phận con rùa,
Trên đình đội hạc, dưới chùa đội bia”.
“Con ếch”, “con rùa”, chỉ thân phận người nông dân ta đã làm cho nội
dung câu hát thêm sâu sắc.
Hòa hợp với những ẩn dụ ấy, phương pháp nhân cách hóa tăng thêm
cho ca dao giá trị khái quát và tượng trưng, gần với những truyện ngụ ngôn:
Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở sách xem ngày làm ma,
Cà cuống uống rượu la đà,
Chim ri ríu rít bò ra lấy phần.
Trong ca dao của ta, con mèo, con chuột, con kiến, con ếch, con rùa,
con vạc, con bống, đặc biệt là con cò là những hình tượng tượng trưng cho
nhiều tầng lớp, nhiều giai cấp trong xã hội phong kiến. Nói đến con cò là nói
đến người nông dân cần cù. Có những “con cò đi ăn đêm”, “con cò bắt tép bờ
sông”, cũng có những “con cò lặn lội bờ sông, gánh gạo đưa chồng tiếng
khóc nỉ non”…
Ca dao của ta có nhiều hình tượng tế nhị, kín đáo nhưng ca dao của ta
cũng có nhiều tiếng cười ròn rã. Ở đây chúng ta lại gặp nghệ thuật ngữ ngôn
trong lộng ngữ, chơi chữ trong đối lập hình tượng tự nhiên và không tự nhiên:
Bà già đi chợ Cầu Đông,
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?
Thầy bói gieo quẻ nói rằng:
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn
hay:
Cóc chết bỏ nhái mồ côi,
Chẫu ngồi chẫu khóc chàng ơi là chàng!
Nơi khác chúng ta gặp lối ngoa dụ (phóng đại hoặc thậm xưng) của ca
dao đẩy sự vật lên điểm đỉnh của mâu thuẫn trái tự nhiên:
Lỗ mũi mười tám gánh lông,
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
Và có khi phóng đại của ca dao hòa lẫn với sức tưởng tượng, với hư
cấu dựng lên một hình tượng hoàn toàn không có trong thực tế:
Xắn quần bắt kiến cưỡi chơi,
Trèo cây rau má đánh rơi mất quần!
Thỉnh thoảng ca dao mang yếu tố tục để tăng cường độ tiếng cười:
Đương khi lửa tắt, cơm sôi,
Lợn đói, con khóc, chồng đòi tòm tem.
Bây giờ bếp đã cháy lên
Lợn no, con nín, tòm tem thì tòm.
Nghệ thuật ca dao như một vườn hoa trăm hồng ngàn tia chen lẫn,
càng ngày càng tươi tốt mãi lên. Thời gian đi qua nhưng thời gian không làm
tàn úa, rụng héo những cánh hoa tuyệt mỹ. Thời gian đem thêm ánh sáng làm
cho ngữ ngôn của ca dao trong suốt như pha lê, làm cho hình tượng ca dao,
cho lời thơ dân tộc đẹp đẽ, trau chuốt.
2. Dân ca:
Khác với nghệ thuật ca dao, nghệ thuật dân ca biểu hiện bằng lời và cả
bằng nhạt nữa. Dân ca của ta rất phong phú. Trên đất nước ta đâu mà không
có tiếng hát ru con, đâu mà không có tiếng trống hội hè đình đám, đâu mà
không có nhịp hát lao động. Đâu có người Việt Nam, đó có lời ca tiếng hát.
Miền xuôi hát, miều núi cũng hát, miền Bắc hát, miền Xam cũng hát, mỗi điệu
hát, mỗi câu hò là một hình thức nghệ thuật, cho nên chúng ta sẽ tìm hiểu
nghệ thuật dân ca qua tiếng hát của nhân dân ở các địa phương khác nhau.
Chúng ta sẽ làm quen với một số dân ca chính của hơn sáu mươi dân tộc ở
nước ta.
a. Dân ca dân tộc Việt:
Dân tộc Việt chiếm đa số ở Việt Nam sống ở đồng bằng, trung du, ven
biển từ Bắc đến Nam. Đồng bằng và trung du Bắc bộ có nhiều điệu hát mà ai
ai cũng biết: hát ru em, cò lả, sa mạc, hát ví, trống quân. Cò lả, sa mạc, hát ví
là loại dân ca đối đáp nam nữ trong lúc làm ruộng, chè. Đó là những câu lục
bát êm dịu, giàu hình tượng và cũng là những câu ca dao được bẻ thành làn
điệu dễ hát.
Tương truyền nghệ thuật hát trống quân có từ thế kỷ thứ XIII, phổ biến
lúc quân ta chống Nguyên. Khi nghỉ, quân lính ngồi gõ vào tang trống mà “hát
xướng” và “hát đối”. Về sau, trong các hội hè Tết Nguyên đán, Trung thu, nam
nữ thanh niên thường tập trung ở sân bãi để hát trống quân với nội dung đối
đáp giao duyên, đề cao tình bạn, ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, đất nước.
Họ vừa gõ vào dây vừa hát. Lời hát mở đầu đẹp đẽ, trữ tình:
Một đàn cò trắng bay tung,
Bên nam bên nữ ta cùng cất lên.
Cất lên một tiếng linh đình,
Cho loan sánh phượng, cho mình sánh ta.
Hát trống quân thường mô tả niềm vui hồn nhiên của nhân dân ta.
Người hát phải ứng khẩu, phải sáng tác đột xuất. Tuy người hát có tài trào
phúng nhưng bao giờ cũng có thái độ thanh nhã, không lố lăng. Trong lúc hát,
tập thể hai bên nam nữ có thể tham gia “mách mước bí” cho người hát.
Bên cạnh những điệu hát phổ biến ấy, mỗi vùng lại có điệu hát của địa
phương. Phú Thọ có xoan, ghẹo, Vĩnh Yên có hát hội Rô. Đáng chú ý nhất là
hát quan họ ở Bắc Ninh. Về nguồn gốc, quan họ Bắc Ninh có nhiều thuyết
khác nhau. Thí dụ: thuyết thứ nhất cho rằng vua Lý Thánh Tông, lúc chưa có
con, năm 1062 có đi chơi qua làng Thổ Lỗi (nay là Thuận Thành – Hà Bắc) và
gặp một người con gái đẹp cắt cỏ đứng tựa gốc lan miệng hát câu:
Tay cầm bán nguyệt xênh xang,
Muôn ngàn cây cỏ lai hàng về ta
Lý Thánh Tông tuyển người thiếu nữ ấy về cung, phong làm Ỷ Lan thái
phi. Về sau trai gái vùng Thuận Thành hay hát điệu hát như Ỷ Lan hát ngày
trước, cho đó là một điệu giao duyên và gọi là quan họ vì điệu này đã làm cho
quan dừng (họ: đứng) lại.
Thuyết thứ hai cho rằng cách đây đã hơn 12 thế hệ có hai người ở Quế
Võ và Tiên Sơn (Hà Bắc) kết bạn với nhau từ lúc còn làm quan, giao ước tiếp
tục giao hiếu trong lúc hưu trí. Trong các ngày giỗ chạp, hội hè, họ thường
mời bạn bè đến vui chơi, ca hát. Từ đó tục kết bạn giữa hai họ lan ra trong
nhân dân.
Thuyết thứ ba cho rằng xưa kia nhân dân làng Lim và Tam Sơn (Hà
Bắc) giao hiếu với nhau rất thân. Thường năm, vào ngày mười ba tháng
giêng âm lịch, người làng Tam Sơn mở hội mời người làng Lim sang dự lễ,
ăn cỗ và hát đối đáp. Cuộc vui thường kéo dài thâu đêm suốt sáng.
Phạm Phúc Minh cũng cho rằng quan họ là một loại dân ca rất phong
phú bắt nguồn từ vùng Tiên Sơn, Quế Võ, Yên Phong thuộc tỉnh Hà Bắc. Ở
đây có tục “kết bạn quan họ” từng nhóm nam nữ năm, sáu người giữa làng
này và làng khác. Trong những ngày hội hè đình đám, họ thường vui chung
ca hát với nhau. Ngồi trên đồi cao, trên bãi cỏ xanh bên cánh đồng ruộng
chiêm tươi xanh bát ngát, bơi thuyền nhẹ lướt trên hồ nước mùa xuân, nam
nữ thanh niên (có khi là trung niên và cả người già nữa) hát lên nhiều làn điệu
quan họ trữ tình với lời thơ chải chuốt.
Hôm nay sum hợp trúc mai,
Tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm.
Hình tượng của quan họ Bắc Ninh gần với hình tượng của ca dao:
Ra đứng đầu cầu
Lược thưa biếng chải, gương tàu biếng soi
Sập đá huê bỏ vắng không ai ngồi.
Buồng không bỏ vắng mượn người quay tơ
Thương ai ra ngẩn vào ngơ
Đêm quên giấc ngủ, ngày mơ trận cười…
Văn chương quan họ thật đặc sắc, có khi là ca dao, có khi là trích Kiều
hoặc tập Kiều, có khi một đoạn thơ phú, chầu văn du nhập vào quan họ biến
thành nhiều lời ca quen thuộc. Một số lớn bài hát quan họ kết thúc bằng câu
sáu treo lửng lơ như muốn kéo dài tình cảm đến vô tận.
Quan họ Bắc Ninh là lối hát đối thoại, đối nhạc và đối lời. Lời ca đi
xuôi xen vào nhiều tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi làm cho kiến trúc
điệu hát phức tạp nhưng đượm thêm màu sắc trữ tình hơn.
Ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ còn có nhiều điệu dân ca của một số
nghệ nhân chuyên nghiệp: Hát cửa đình (màu sắc tôn giáo, có đàn đáy,
phách và trống chầu đệm theo lời hát), hát nhà trò (hát ở đám ca vọng có đàn
đáy, sênh và trống chầu đệm theo lời hát), hát ca trù (gồm nhiều lối hát, trong
đó có lối hát nói hay dùng nhất cũng gọi là hát ả đào; hát trù có đàn đáy, trống
chầu đệm theo), hát văn hoặc chầu văn được dùng nhân dịp tế lễ như “văn
đức thánh Trần”, “văn chầu Hai Bà”, hát xẩm (của những người mù hát rong,
thường có đàn bầu, trống mãnh và phách đệm theo).
Miền Trung nước ta có nhiều điệu hò phục vụ trực tiếp cho lao động
sản xuất, thích hợp với động tác lao động của nhân dân. Ngư dân Quảng
Ngãi thường hát điệu hò giựt chì lúc kéo lưới. Nhân dân Bình–Trị–Thiên, Nam
Trung Bộ vừa lao động vừa hò hụi, hò nện, hò giã gạo nhịp nhàng và dồn
dập. Sông Hương (Thừa Thiên) đẹp, thơ mộng không chỉ vì nước êm đềm
tươi mát mà còn vì tiếng hát nhẹ nhàng, thoải mái của điệu hò mái đẩy nữa.
Về Quảng Nam nổi tiếng vì lối hát bình dị, dịu dàng. Văn vần bốn chữ
(vãn bốn) hoặc lục bát nhịp nhàng, dễ hát của vè Quảng truyền cho người
nghe nhiều câu chuyện đấu tranh phản phong càng nghe càng thích nhưng
càng nghe cũng càng căm giận (như chuyện Quí Ngọc, Lâm Sanh – Xuân
Nương…)
Lý năm canh, lý vãi chài, lý ru con của miền Trung đẹp trong lời, trong ý
cũng mang nhiều sắc thái địa phương rõ rệt.
Vùng Nghệ–Tĩnh có hát ví (như ví phường vải) và đặc biệt là hát giặm.
Theo nghĩa đen, giặm là ghép vào, điền vào, đan vào một chỗ bị khuyết
(địa phương ngữ Nghệ–Tĩnh còn gọi là dắm như dắm nong, dắm rổ…). Theo
các bô lão kể lại thì hát giặm Nghệ–Tĩnh đã thịnh hành hồi thế kỷ XVIII. Với
nội dung phản phong và trữ tình, hát giặm thường kể một câu chuyện có đủ
tình tiết (như chuyện tên Nguyễn Thân) hoặc là đối đáp giữa đôi thanh niên
nam nữ. Đáng chú ý nhất là câu láy của hát dặm, khó đọc nhưng dễ hát, có
giá trị nhịp điệu gây được ấn tượng sâu sắc:
Em đã có chồng rồi,
Em đã có lứa rồi,
Vung úp đã vừa nồi,
Đũa ghép đã thành đôi,
Bạn đừng có ỡm ờ với tôi,
Tôi lấy chân khỏa lại.
Tôi lấy bàn khỏa lại…
Hát giặm Nghệ–Tĩnh có tiết tấu khác ngữ ngôn của thơ Đường, (nhịp
thơ Đường hai/ba và nhịp thơ của hát giặm ba/hai) cho chúng ta nhận xét
thêm tính chất dân tộc của hát giặm. Nhân dân còn sử dụng nhiều thành ngữ,
tục ngữ (“vung úp (đã) vừa nồi”, “đũa ghép (đã) thành đôi”), hoặc sử dụng
Kiều hay tập Kiều để hát làm cho hình thức hát giặm thêm gọn gàng và giàu
hình tượng.
Cũng như ở ngoài Bắc, trong Trung cũng có nhiều điệu hát của một số
người chuyên nghiệp, với hình thức khác nhau ít nhiều, thí dụ như điệu sắc
bùa phát triển ở Nam Trung bộ. Vùng miền Nam Trung bộ có hát lục cúng là
điệu hát tôn giáo như lối chạy đàn ở miền Bắc và hát bá trạo do ngư dân hát
nhân dịp cúng lẽ đầu năm để cầu phúc.
Điệu hát được nhân dân chú ý nhiều là ca Huế và bài chòi. Xét, về tính
chất, thì phần nào ca Huế có thể phỏng theo ca khúc của dân tộc Chàm mà
đặt ra (như Nam ai, Nam thương, Nam bình, Vọng phu…) với nhạc điệu réo
rắt, thê lương và cũng phần nào theo từ khúc của Trung Quốc (như Cổ bản,
Kim tiền, Tứ đại cảnh, Phú lục, Lưu thủy, Hành vân…) với nhạc điệu vui vẻ,
đầm ấm, nhưng vẫn được triển khai trên cơ sở giọng điệu dân gian miền
Trung.
Nghệ thuật ca Huế là nghệ thuật trữ tình. Ngôn ngữ và hình tượng của
ca Huế uyển chuyển; yểu điệu như những cô gái sông Hương, đại bộ phận
các làn điệu ca Huế nhẹ nhàng, trầm lặng giàu tình cảm.
Duyên thắm duyên càng đượm, vì giống đa tình,
Thêm nhiều ngày, mặn nồng càng xinh…
(Tự tình – Điệu cổ bản)
Một đôi lời, một đôi lời,
Nhẳn bạn tình ơi,
Thề non nước, giao ước kết đôi,
Trăm năm tạc dạ,
Dù xa cách song tình thương chớ phụ thì thôi…
(Nhắn tri âm – Điệu hành vân)
Ôi tan hợp xiết bao tháng ngày đợi chờ non nước,
Ngàn dặm chơi vơi
Mấy lời, nào dễ sai lời
(Ưng tình ưa ý) ưng tình thêm càng ưa lý
Thật là đặng mấy người,
Lại sai lời
(Tình ly biệt – Điệu Nam bình)
Vần của ca Huế là vần tiếp nhau mênh mang như sông nước không kể
câu dài hay ngắn, bài hát buồn hay vui:
Kể từ ngày gặp nhau
Trao lời hẹn cho vẹn vàng thau
Dây tơ mành xe chặt lấy nhau…
(Gửi tình nhân – Điệu Lưu thuỷ)
Theo điều tra của đoàn văn còng liên khu V thì bài chòi từ “bài thai” và
lối chơi “cỗ nhơn” mà ra. Cổ nhơn là lối chơi câu đố về người, vật và cây cỏ.
Thí dụ đố cái phản:
Ngã lưng cho thế gian ngồi
Rồi ra lại nói là người bất trung.
Lối chơi “cổ nhơn” phản ánh sự chống đối của các nho sĩ ở nông thôn
đối với giai cấp thống trị cho nên về sau bọn này cấm không cho nhân dân
chơi nữa. Họ đổi ra lối đánh “bài thai” mà người thủ xướng vẫn là nho sĩ.
Lối chơi này không bao lâu được thay thế bằng lối chơi “bài chòi”.
Lối chơi bài chòi gần lối chơi tổ tôm điếm ngoài Bắc. Sân đánh bài
thường có mười chòi con và một chòi trung ương. Người ta dùng bài trùng
dán trên thẻ tre để đánh. Người đánh bài ngồi ở các chòi, được phát một nửa
số thẻ. Nửa số thẻ còn lại được bỏ vào ống thẻ ở chòi trung ương do người
quản trò của cuộc chơi rút và hô tên bài. Bắt đầu cuộc chơi quản trò hát chào
mừng làng xã, bà con rồi tiếp tục hò tên bài đã rút. Mỗi con bài có bài hát
riêng. Ví dụ con “học trò”.
Đi đâu mang sách đi hoài,
Cử nhân không thấy, tú tài cũng không.
Thẻ rút ra được đưa đến tay người đánh bài ở các chòi con. Ai đủ ba
con bài trùng với thẻ đã rút người ấy tới trước.
Điệu bài chòi từ đó thành một điệu dân ca. Về sau bài chòi được nhiều
người hát chuyên nghiệp sử dụng. Họ thường đi đây đi đó, theo điệu bài chòi,
hát những câu chuyện trữ tình, lúc hát có phục trang, có âm nhạc.
Nam bộ nước ta có điệu hò và điệu lý rất phổ biến, mỗi tỉnh có một
giọng hò mang tên địa phương xuất xứ của nó. Hò Đồng Tháp, hò Bạc Liêu
và nhiều điệu hò khác là những bài ca trữ tình phản ánh cuộc sống tình cảm
của nhân dân lao động trên các dòng sông, kênh, lạch, dưới rặng dừa tươi
mát hoặc trên các cánh đồng bát ngát xanh tươi:
Đầu dòng có cây chuối, cuối dòng có cây đa
Ngã ba đường có cái cây đại hồng
Con gái chưa chồng trong lòng hớn hở,
Con trai chưa vợ ruột tợ trái chanh
Ngó lên mây trắng trời xanh,
Thương ai cũng vậy, thương anh cho rồi.
(Hò Bến Tre)
Lý là điệu dân ca ngắn, gọn, mỗi bài có giai điệu, tiết tấu riêng để diễn
tả tình cảm tư tưởng khác nhau. Với đặc điểm có nhiều đoạn láy, lý được hát
để giao duyên hoặc giải trí sau những ngày lao động vất vả. Trong gia đình
nông dân, các cụ thuờng hay lý cho con cháu nghe trong những đêm mùa hè,
sau vụ gặt thu hoạch nông phẩm… Các điệu lý phổ biến là lý giao duyên, lý
cây bông, lý cây chanh, lý con sáo…
(Ơ! Ơ!) Ai xui (mà) con sáo (nó) qua sông (cái nó qua sông ư).
Cho nên (cái mà) con sáo (ơ! ơ!) sổ lồng (kìa) bay xa (kìa bay xa) (Lý
song mã, lý sàng xê) đôi ta về ruộng đồng (ơi) sáo bay ơi.
Đồng bằng Nam Bộ còn vang lên nhiều điệu hát đưa em, hát chòi (có
điệp khúc chòi ơi là chòi). Trong dịp hội hè, bà con còn nói vè, nói thơ (gọi
chung là điệu nói) như nói thơ Lục Vân Tiên, thơ Bạch Viên Tôn Các…
Nam Bộ cũng có những điệu hát của nghệ nhân chuyên nghiệp. Khi
xưa, bà con cũng thờ cúng thần thánh để cầu xin sức khỏe. Vừa cúng, các bà
bóng hát điệu bóng rỗi theo nhịp điệu bóng của trống nhị. Một điệu hát khác
có tính chất tôn giáo, được hát trong dịp tế thần hoàng là điệu học trò lễ. Học
trò lễ do một số trai trẻ được làng chọn để hát và có múa, nhạc (kèn, trống
nhị) phối hợp.
Ngoài ra, nước ta còn có một nền dân ca của các dân tộc thiểu số rất
phong phú. Nước ta có hơn 60 dân tộc thiểu số. Dân số tương đối đông như
Tày, Thái, Mường v.v… (ở Bắc). Ê-đê, Ba–Na v.v… (ở Tây Nguyên). Dân số
tương đối ít có Máng Ủ, Pu–Pieo, U–ní… (ở Bắc) hay Chàm, Muông (ở miền
Nam). Đáng chú ý là mỗi dân tộc đều có một nền văn hóa riêng, một nền
nghệ thuật ca nhạc riêng.
Dân tộc Thái có điệu khắp là điệu hát đối đáp phổ biến của nam nữ
thanh niên. Mỗi địa phương có một điệu khắp mà ai cũng biết và có những
điệu khắp của từng vùng ít phổ biến. Đáng lưu ý là khắp hạn khuống, một loại
hát đối đáp của thanh niên do một thiếu nữ hát giỏi nhất trong bản (gọi là tổn
khuống) đứng ra tổ chức. Người con gái đứng trên chiếc sàn hạn khuống và
hát đối. Thanh niên nào hát đáp hay sẽ được bước lên sàn. Hạn khuống, một
điệu dân ca trữ tình, ca ngợi lao động đã bị mai một dưới chế độ thực dân
phong kiến. Lời ca của hạn khuống mộc mạc, không bay bướm nhưng rất gợi
tả:
Lấy được nhau, ta sẽ xẻ núi cao xuống làm ruộng
Xẻ đồi gianh xuống làm bản.
Khi còn nghèo chúng la còn ăn mănq,
Khi còn khó, ta hãy ăn nấm.
Nhà không có, ta ngủ lều nương…
Dân tộc Tày có lượn, một điệu dân ca phổ biến được hát trong lúc đi
chợ, trong lúc lao động, trong lúc nghỉ ngơi hoặc trong các cuộc họp buổi tối.
Lối kết cấu của lời ca lượn gần thể hứng của ca dao ta nhưng có khi đẹp đẽ
hơn, hợp lý hơn:
Nam:
Duyên may,
Núi rừng ta quyết phen này phát quang
Núi rừng ta quyết phát quang,
Biết ai có thấu con đường tình duyên.
Lời chàng chân thực dễ nghe,
Đôi ta chẳng quản sơn khê phát đường.
Chàng ơi đừng có ngại ngùng,
Phát quang rừng núi ta cùng nhau đi.
Dân tộc Ê–đê, Xơ–rê, Gia–rai có khan là điệu trường ca văn vần do một
người vừa hát vừa làm điệu bộ. Dân bản vây quanh đống lửa để nghe hát.
Cuộc vui kéo dài suốt đêm, sáng mai đi làm và tối mai lại tiếp tục hát, có lúc
kéo bốn năm đêm liền như vậy.
Khan là nghệ thuật trường ca, là hình tượng xây dựng bằng các truyện
thần thoại, cổ tích phản ánh cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân chống
áp bức, tham tàn của quân thù. Phan còn phản ánh ước mơ, nguyện vọng
của nhân dân. Dân tộc E-Đê có khan “Đăm San” kể chuyện một tù trưởng
khỏe, đẹp, có tài võ nghệ, ưa thích phóng khoáng, chống mọi tập tục ràng
buộc. Dân tộc Gia–Rai có khan “Xing Nhã” kể chuyện nột thanh niên hiếu
thảo, chăm lo luyện tập võ nghệ, cuối cùng trả thù cho cha (bị tù trưởng tham
lam giết hại) và cho mẹ (thoát khỏi cuộc đời nô lệ). Dân lộc Xơ–rê có khan
“Đơ–ru và Đơ-rê-ê” là cuộc tình duyên tốt đẹp giữa hai thanh niên giàu có tài
đức và nhan sắc tuyệt vời.
Ngoài các loại kể trên, dân tộc thiểu số còn nhiều loại dân ca khác như
hát trữ tình, hát kể chuyện (thần thoại, cổ tích) hát ru em, hát đưa ma, hát
đám cưới, hát mo, (màu sắc tôn giáo) của dân tộc Mèo; hát hoén lục (ru con),
hát then, hát bụi, hát tào, hát giáo (có tính chất tôn giáo tế lễ) của dân tộc Tày;
dân ca trữ tình Rang, Bỉ, dân ca giáo bùa (hát mừng năm mới, chúc Tết), hát
mo, hát mỡi (do thầy mo và bà mỡi hát cúng vong linh người chết) của dân
tộc Mường; dân ca của dân tộc Ê–đê, dân ca A–took của dân tộc Gia-rai (anh
hùng ca nhiều màu sắc chiến đấu).
Nhìn chung, dân ca miền đồng bằng, trung du hay miền núi có đặc
điểm nghệ thuật nổi bật là nhạc điệu vô cùng phong phú. Dân ca miền Bắc có
giọng ngân vang, tuy có nhiều tiếng đệm, tiếng láy nhưng vẫn rõ ràng, dân ca
miền Trung và miền Nam có nhịp độ nhanh hơn (trừ hò Nam Bộ và hò mái
nhì). Mỗi điệu dân ca lại có những sắc thái khác nhau. Điệu ru em khoan thai,
trìu mến, dịu dàng. Điệu hò hụi, hò nện mạnh khỏe, tiết tấu chắc nịch, nhịp
nhàng với động tác lao động. Điệu cò lả, điệu hò Đồng Tháp bát ngát có bề
rộng vô tận như ruộng đồng mênh mông của Bắc Bộ, Nam Bộ. Các điệu lượn,
khan hay dân ca khác của đồng bào miền núi có âm điệu tiết tấu độc đáo phù
hợp với cảnh núi rừng cao vút với chim hót líu lo, với thác suối chảy quanh
năm đổ xuống vực sâu thăm thẳm, với tiếng muông thú vọng lên trên dốc đá
cheo leo hùng vĩ nhưng cũng giản đơn như tâm hồn chất phác cần cù của
Tây Nguyên, Tây Bắc.
Âm nhạc đóng một vai trò quan trọng đối với nghệ thuật dân ca. Nhân
dân ta sáng tạo đủ loại nhạc cụ với muôn ngàn âm thanh khác nhau. Tiếng
sáo vi vu, êm tai của đồng cỏ, tiếng đàn bầu thánh thót đêm khuya, tiếng đàn
nguyệt, tì bà nhẹ nhàng của sông Hương, núi Ngự, tiếng khèn vui tươi của
hội hè dân tộc Mèo, hòa tấu đàn chiêng, đàn tơ–rưng của Ê–đê, Ba–na, Gia–
rai, Mường, tiếng đàn môi thì thầm của Thái, hòa âm với nghìn lời dân ca
phản ánh tình cảm phong phú của nhân dân ta.
Nghệ thuật dân ca là thơ, là nhạc. Nghệ thuật dân ca, di sản quý báu
của ông cha ta để lại, đã vượt qua muôn trùng sóng gió của chế độ phong
kiến và đế quốc, sẽ sống mãi với nhân dân ta.
Chương VIII. VÈ
I. ĐẠI CƯƠNG VỀ THỂ VÈVè cũng là một loại thể văn học dân gian đặc biệt của dân tộc ta.
Số lượng vè của ta khá đồi dào. Tuy chưa sưu tầm được đầy đủ nhưng
hiện nay chúng ta cũng đã có hàng mấy trăm bài vè khác nhau, mỗi bài
thường dài trên dưới một trăm câu, nhiều bài dài hai, ba trăm câu và cũng có
bài dài hàng nghìn câu, ví dụ vè “Mụ Đội” vè “Thất thủ kinh đô”.
Khác với các danh từ “tục ngữ”, “thành ngữ”, “ca dao”; danh từ “vè”
không phải là tiếng Hán mà là một tiếng thuần Việt, chắc hẳn nó bắt nguồn từ
trong cách nói năng của dân tộc. Trong ngôn ngữ Việt Nam tiếng “vần”
thường đi đôi với tiếng “vè”, nhân dân ta thường gọi những câu nói có vần là
những câu nói “vần vè” Chắc danh từ vè, đã được rút ra từ ấy để chỉ một loại
thể văn học dân gian có những đặc điểm riêng biệt khác với các loại thể văn
học dân gian khác.
Đặc điểm của vè là: bằng hình thức thơ ca, phản ánh một cách khá kịp
thời, đầy đủ và trực tiếp những sự kiện có ý nghĩa về mặt này hoặc mặt khác
trong đời sống hàng ngày của nhân dân.
Do yêu cầu phản ánh kịp thời, đầy đủ và chân thực những sự kiện
trong cuộc sống hàng ngày, cho nên khuôn khổ của vè thường rất dài, đề tài
của vè rất rộng, ngôn ngữ của vè mộc mạc, thô sơ, không trau chuốt như ca
dao, không cô đọng như tục ngữ.
Vè là một hình thức kể chuvện bằng thơ, cốt truyện của vè là những cốt
truyện về người thật việc thật, chứ không phải những truyện hư cấu tưởng
tượng, cho nên vè khác với truyện thơ khuyết danh và cũng khác với các loại
truyện thơ khác.
Vè sử dụng hầu hết các thể thơ dân tộc trong ca dao để kể chuyện. Xét
về thể thơ có thể chia vè thành ba loại: vè lục bát (phổ biến khắp các địa
phương trong cả nước); vè nói lối (các địa phương đều có, nhưng phổ biến
nhất ở các vùng Bình–Trị–Thiên và Nam Trung Bộ), vè hát giặm (một loại
riêng của vùng Nghệ – Tĩnh). Thể song thất lục bát thỉnh thoảng mới xen vào
trong các bài vè lục bát hoặc nói lối.
Nếu xét về đề tài thì có thể chia vè thành hai loại chính:
– Loại lấy đề tài lịch sử như những cuộc khởi nghĩa của nông dân,
những phong trào Văn Thân, Cần Vương (vè Vợ ba Cai Vàng, vè Bà Thiếu
Phó, vè Đề Thám, vè Thất thủ kinh đô…).
– Loại lấy đề tài xã hội, như chuyện đi phu, đi lính, chuyện ma chay
cưới hỏi, chuyện trai để vợ gái rầy chồng, chuyện lụt bão đói kém, chuyện
làm đình làm đám v.v… (Loại vè này chiếm một số lượng khá lớn).
Dù kể chuyện lịch sử hay chuyện sinh hoạt thì vè cũng bộc lộ thái độ
của tác giả một cách khá rõ rệt. Xét về mặt này ta thấy vè có hai khuynh
hướng trái ngược nhau: khen và chê. Có những bài vè chỉ khen (vè ca tụng),
có những bài chỉ chê (vè châm biếm đả kích), có những bài mang cả hai
khuynh hướng (vừa khen vừa chê). Như vậy thái độ của người đặt vè rõ rệt,
ghi bằng lời ca cố định chứ không phải chỉ qua hình tượng như trong truyện
cổ dân gian.
Nhìn chung số vè được lưu hành rộng rãi trong cả nước không nhiều
lắm; những bài được phổ biến rộng rãi thường là những bài có hình thức
nghệ thuật tương đối khá và nội dung ý nghĩa tương đối trọng đại, (ví dụ các
bài vè lịch sử), còn phần lớn vè chỉ được lưu hành trong từng địa
phương thôi. Có những bài vè được lưu hành trong một vài tỉnh (ví dụ một số
bài vè hát giặm), được lưu hành trong huyện, chỉ có những bài vè chỉ được
lưu hành trong một xã hoặc trong một làng (ví dụ những bài vè kể chuyện làm
đình, làm chùa, đám ma, đám cưới).
Nói chung vè không được phổ biến rộng rãi và không truyền tụng lâu
dài như ca dao, tục ngữ. Địa bàn “hoạt động” của mỗi bài vè hẹp, vận mệnh
của mỗi bài vè ngắn ngủi cũng là do đặc điểm của nó quy định. Vè là loại thể
văn nhằm phản ánh kịp thời những sự kiện nóng hổi trong từng địa phương
cụ thể, cho nên chỉ những người ở trong địa phương của vè xuất hiện mới
quan tâm và thích thú nghe những câu chuyện mà vè phản ánh; và cũng chỉ
thích thú trong một thời gian ngắn, lúc câu chuyện còn đang nóng hổi. Khi câu
chuyện đã phai mờ, thì người ta cũng không còn thích thú nghe bài vè cũ nữa
và đòi hỏi có những bài vè mới, phản ánh những sự kiện mới, nóng hổi hơn,
hấp dẫn hơn. Cứ như thế lớp này đến lớp khác, những bài vè thay thế nhau
lần lượt ra đời để phản ánh kịp thời những sự kiện liên tiếp xảy ra trong cuộc
sống diễn biến muôn hình muôn vẻ của nhân dân. Trên đây là những điểm
chung của loại thể vè, dưới đây ta sẽ nói qua vài nét về người đặt vè và kể
vè. Nhân dân thường gọi việc sáng tác vè là “bẻ vè” hoặc “đặt vè” và gọi
những người có khả năng sáng tác vè là những “tay bẻ vè”, “đặt vè”.
Do việc sáng tác vè khó hơn làm ca dao, nên những “tay bẻ vè” không
nhiều lắm, mỗi làng thường chỉ có dăm ba người. Những người này phần lớn
là nhân dân lao động nhưng cũng có một số ít là nhà nho nghèo ở nông thôn.
Những người đặt vè giỏi thường được nhân dân lưu truyền tên tuổi.
Có những bài vè được sáng tác theo lối tập thể dây chuyền mỗi người
tiếp một khúc (bài vè Thất thủ kinh đô có thể thuộc loại này?) nhưng phần lớn
vè là sản phẩm của một số cá nhân nhất định.
Tuy là sản phẩm của cá nhân nhưng vè lại không mang phong cách
riêng; bởi vì những tác giả vè dân gian không phải là những nhà thơ chuyên
nghiệp, họ chưa đạt đến trình độ tạo ra một phong cách riêng mà chỉ sáng tác
dưới hình thái tự nhiên. Đó là chưa nói, vè sáng tác ra thường có nhiều người
khác nhuận sắc.
Bên cạnh người đặt vè, vai trò của người kể vè cũng rất quan trọng.
Một bài vè được phổ biến rộng hay hẹp, một phần cũng do tác dụng của
người kể vè. Có khi người đặt vè không nhất thiết là phải biết kể vè hay
ngược lại cũng thế. Trước đây có những người sinh sống bằng nghề kể vè;
đó là những nghệ nhân dân gian thường đi hát rong ở các làng, các chợ.
Nhân dân rất yêu mến họ, còn bọn phong kiến thì khinh thường coi rẻ họ,
nhiều khi lại đàn áp bắt bớ nếu như họ kể những bài vè có tính chất chống
đối.
Tóm lại, vè là một thể văn vần dân gian có chức năng phản ánh kịp thời
những sự kiện trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Tính chất thời sự,
tính chất hiện thực, tính chất phê phán, tính chất địa phương là những tính
chất nổi bật tạo nên đặc điểm của vè.
Về hình thức thơ, có những bài vè bằng thể 4 từ (xưa gọi là vè tứ tự)
như “vè khởi nghĩa Văn Thân năm Giáp Tuất do Tú Tân, Tú Mai cầm đầu”.
Từ năm Canh Ngọ lại đây
Trong ngoài mới có giặc Tây lạ đời
Gia Định, Đồng Nai,
Nức trời khói lửa
Ninh Bình, Hà Nội,
Dậy đất súng ran…
hoặc vè loại 5 từ (gọi là vè hát giặm Nghệ – Tĩnh) như “Vè Luận đồng tiền”
bắt đầu bằng câu:
Trăm năm trong cuộc vuông tròn
Chữ rằng “vô vị nhi tòn” ấy tiền
Vành ngoài tròn tượng thiên,
Vành trong vuông tượng địa
Vô tiêu dùng cũng dễ
Ra du hí cũng hay
Cánh không chấp mà bay
Chân không đấu (nối) mà chạy…
hay vè Bình Tây là một lối vè theo thể hát giặm biến thể (câu 5 từ xen với câu
4 từ).
Xưa nay mới chộ (thấy), chộ binh loạn hung hoang
Ngoài giặc xâm cương, trong nhân dân khốn nạn
Mồng năm tháng năm, nước hồng thủy dâng lên
Kẻ chìm nốc chìm thuyền, người mất tiền mất bạc.
Lụt sâu mười thước nước, ai ai nỏ chẳng hãi hùng?…
hoặc vè lục bát như vè chàng Lía:
Lía ta võ nghệ đại tài
Đánh cho đại tướng hai tay rụng rời
Hai bên đánh trọn ngày trời
Tướng trào liệu sức, tính vời chạy mau
Kéo binh dông chạy trước sau
Quân Lía hăng sức ào ào đuổi sau
Đại quân kinh sợ xiết bao
Kéo binh mà chạy mạo, bào tả tơi…
…Lương tiền hao tổn trào nghi
Vua đành truyền lệnh tạm thì bãi binh
Từ nay chàng Lía một mình
Oai danh lừng lẫy thần linh nể vì…
hay vè biến thể lục bát có tính chất nói lối như vè Quảng Giang:
Người thì nó đốt trong cùm trong đỉnh,
Người thì đem dây điện nó khảo tra
Người thì dận nước như thể ma rà
Treo cây nó bắn như là bắn chim,
Người thì mất xác nó tìm không thấy,
Người thì còn thây mà lấy không ra
Người thì trôi cuối hói, dầu hà,
Xương rơi thịt nát, sương sa gió lồng…
II. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA VÈ.1. Vè phản ánh trung thực và kịp thời cuộc sống của nhân dân.
Vè cũng như các loại thể văn học dân gian khác, có một giá trị hiện
thực lớn, song tính chất hiện thực của vè lại có những điểm riêng biệt: Vè
nhằm phản ánh kịp thời những người thật việc thật không thông qua hư cấu
tưởng tượng, cho nên nội dung hiện thực trong vè vừa phong phú vừa cụ thể.
Muốn hiểu biết thật cụ thể đời sống của nhân dân trong từng địa
phương, từng thời kỳ lịch sử, ta không thể không tìm đến vè.
Bài vè “Đi phu cửa Rào” sau đây đã phản ánh khá rõ rệt tình cảnh đau
xót của người dân Nghệ Tĩnh bị bắt đi làm đường trong thời Pháp thuộc:
Từ ngày có mặt thằng Tây
Phu phen tạp dịch ngày rầy khốn thân
Tai vạ trửa (giữa) dân
Hắn mần đã nghiệt
Khắp nơi ráo riết
Giở sổ đếm ngài (người)
Kể chi phụ lão con trai
Người đi phu cũng tội
Kẻ ở nhà cũng tội
Việc quan bối rối
Họ đập đánh lút đầu
“Phu phải đi cho mau
“Việc quan cần cho kịp
“Một ngày phải kíp
“Để kiểm phu chợ Lường
Kẻ có vợ vợ thương
Theo lên đưa đón.
Tay xách cái nón
Vai mang cái bù (bầu)
Phải một kiếp phu
Tai trời ách nước
Vợ về, chồng ngược
Đã cực lắm thay!
Kẻ bắt giữa ruộng cày
Người không cho sắm sửa.
Chồng trốn bắt vợ
Con yếu cha đi
Tiếng khóc như ri
Nóng nỗi nước ni
Ruộng cày bỏ trắng…
Rõ ràng nội dung bài vè có tính chất tố cáo bộ mặt xã hội đương thời.
Ngay những bài vè kể lại cảnh cực khổ do thiên nhiên gây ra (hạn hán lụt
bão) cũng có ý nghĩa tố cáo xã hội như vậy.
Bài vè “Bão năm Tỵ” sau đây, vừa nói lên nỗi khổ sở về bão lụt, vừa nói
lên nỗi khổ sở ở đời vua Thành Thái thứ mười tám:
… Phù sa nước đỏ như son
Chùa kia sóng vỗ tượng còn hay trôi
Người thì lên núi ở đồi
Người thì che túp giữa trời mưa thâm
Chiếu trôi áo ướt cởi trần
Bụng đói cật rét khồ thân thế này
… Trước trình ông sau lại trình bà
Ông bà nghĩ lại cho qua lúc này.
Bán từ cối đâm cho chi cối xay
Phong lưu đâu có ăn mày như không
Được một cái thuế vụ đông
Cầm trâu, cầm ruộng, cầm còng, cầm chiêng.
Được một cái thuế đã yên
Lại lo thóc giống vụ chiêm bây giờ
Lắm người lo ngẩn lo ngơ
Trỗ nào cũng rấp biết nhờ vào đâu
Loại thơ thời sự này, nhờ tác giả sống sát quần chúng nên phản ánh
được những cảnh sống khá điển hình của các tầng lớp nhân dân, nhất là của
những người lao động nghèo khổ và phụ nữ như các bài vè Người đi ở,
Người làm mọn, Người góa bụa…
Ngoài việc kể khổ, vè còn phản ánh những cảnh sinh hoạt về mọi mặt
trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân (ma chay, cưới hỏi, đình đám, hội
hè…). Muốn hiểu biết thật cụ thể những phong tục, tập quán ở mỗi địa
phương, chúng ta không thể không chú ý đến vè. Nếu như tục ngữ chẳng
hạn, chỉ nhắc đến phong tục tập quán của nhân dân các địa phương bằng
những câu nhận xét ngắn gọn “Ma chê, cưới trách” hoặc “Mồng bảy tháng ba
trở vào hội Láng, trở ra hội Thầy” thì vè lại tường thuật khá cụ thể, đầy đủ
những sự việc, những hình thức tổ chức của từng phong tục tập quán đã diễn
ra trong mỗi địa phương, mỗi làng xã, thậm chí của mỗi gia đình (vè đám ma
cố Phi; đám ma cố Lơn; đám ma cố Ba…). Đây là một đoạn bài vè “Đám ma
cố Lơn”.
Nhất vui là đám cố Lơn
Dấu bữa mồng bốn gặp cơn mưa rào
Hoãn lại bữa sau
Cho trời quang biển lặng
Đến giờ dần tảng sáng
Đến giờ mão rạng ngày
Thắp đèn đuốc vui thay
Đưa cố về thiên điện
Nghe ba hồi trống tiến
Làng xã ra áp đòn
Có một bầy cháu con
Khóc ông hời bà hỡi
Khóc ông hời bà hỡi
Trống vang rồi kèn thổi
Vui thiệt đã nên vui,
Đã có nhà thờ trời
Lại có nhà thờ bụt
Minh tinh đi trước
Rồi minh khí đi sau
Còn mâm cỗ hồng cao
Thì lại đi chính giữa
Lại đi vào chính giữa
Dẫn đến nửa bữa (buổi)
Mời đến rạp trung đồ
Kẻ ra với người vô
Kể hằng hà sa số
Thiệt hằng hà sa số…
Như vậy vè phản ánh khá trung thành, và cụ thể cuộc sống của nhân
dân, chủ yếu là của nhân dân lao động nông thôn.
Đương nhiên vè chỉ là một loại thể văn học dân gian, chúng ta không
thể đòi hỏi nó phải khái quát hóa cuộc sống như truyện thơ hay tiểu thuyết
hiện đại được.
2. Vè là một loại sử ca truyền miệng của quần chúng.
So với các thể văn học dân gian, thì giá trị lịch sử của vè có phần nổi
bật hơn.
Có một số ít bài vè kể lại lịch sử thời xưa của dân tộc ta (như bài “vè
Nam sử” trong Hát giặm tập I, Nguyễn Đổng Chi) nhưng phần lớn vè kể lại
những sự kiện đương thời với những chi tiết quan trọng như thời gian, địa
điểm, tên người, sự diễn biến v.v… Căn cứ vào số vè đã thu lượm được thì
hầu hết những sự kiện lịch sử quan trọng của xã hội Việt Nam trong khoảng
hai thế kỷ nay đều được vè phản ánh. Đó là những bài vè về các phong trào
nông dân khởi nghĩa (vè Chàng Lía, vè bà Thiếu Phó…), phong trào Văn
Thân (vè loạn năm Giáp Tuất), phong trào Cần Vương vè Cậu ấm Ninh, (vè
Lê Doãn Nhã nổi quân theo quan tướng cả); phong trào xô viết Nghệ–Tĩnh
(những bài “thơ ca xô viết Nghệ–Tĩnh”) v.v… Nói chung đó là những bài vè
phản ánh những sự kiện lịch sử trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh
giải phóng dân tộc của nhân dân ta.
Vè chẳng những phản ánh trung thực các sự kiện lịch sử mà còn bộc lộ
một cách khá rõ rệt thái độ của nhân dân trước các sự kiện lịch sử ấy.
Đứng trước mỗi sự kiện lịch sử, nhân dân thường sáng suốt phân rõ
đúng sai, vì vậy việc khen chê đối với các lực lượng xã hội, các nhân vật lịch
sử của vè, nói chung là đúng đắn, tiến bộ, trái ngược với quan điểm của các
sử gia phong kiến.
Chẳng hạn Chàng Lía (một thủ lĩnh nông dân miền Bích Khê, Qui Nhơn
(Nghĩa Bình) nổi lên chống phong kiến khoảng giữa thế kỷ 18 (?) nếu triều
đình phong kiến coi là giặc thì nhân dân lại coi là người tướng tài, người bạn
thân thiết của mình, nên đã làm một bài vè dài ngót một nghìn rưởi câu để ca
ngợi chí bất khuất và tài đánh giặc của Lía, một người có sức khỏe phi
thường.
Lía là người con rất có hiếu với mẹ, nhưng vì bực chuyện “lòng người
nham hiểm”, nên đâm ra ngang ngược, làm cho bọn cường hào khiếp sợ, làm
cho bọn tướng lục lâm kính phục:
Lía đây vốn thiệt là tao
Vua quan chẳng sợ, binh trào chẳng kinh!
Quả vậy binh triều có đại tướng, có đô đốc chỉ huy, mà cũng không làm
gì được Lía.
Lía rầy ở chốn sơn trung
Ngày đêm luyện tập ung dung chén nồng…
Có khi Lía bị vây ở Truông Mây, thì nhân dân tỏ niềm thương cảm mà
đặt thành câu ca dao:
Chiều chiều én lượn Truông Mây
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành…
Hoặc như, trong bài “Sại đạo”, xuất hiện ở vùng Quảng Nam năm 1886,
lúc triều đình nhà Nguyễn phái khâm sai Nguyễn Khâm, hợp lực với quân
Pháp đi dẹp cuộc khởi nghĩa của nhân dân vùng Quảng Nam – Đà Nẵng do
Nguyễn Hiệu đứng đầu, nhân dân đã kể lại sự hung bạo và hèn nhát của bọn
quân tướng nhà Nguyễn với một thái độ mỉa mai, khinh bỉ:
… Tướng chi tướng dở
Vị luyện quân tinh
Chẳng có Tây binh
E không khỏi chết.
… Làm chẳng ra chi
Lại thêm ăn bậy
Lũ quân đi lấy
Các tướng về chia
Thôi đã tràn đìa
Cái chi cũng xách
Cái quần đã rách
Cái áo đã xơ
Cũng giành mà vơ
Huống chi cái khá
Kẻ thì đào mả
Kẻ lại phá nhà
Những chó những gà
Những heo những vịt
Bắt mà ăn thịt
Lại bán lấy tiền
Đem về Thừa Thiên
Nghĩa, Bình, Quảng Trị…
Ở bài vè “Thất thủ kinh đô” trong khi để lại sự kiện lịch sử đau thương
của dân tộc, tác giả dân gian đã có sự phân biệt sáng suốt đối với hai lực
lượng: lực lượng yêu nước chống Pháp và lực lượng đầu hàng giặc. Bài vè
ca ngợi Tôn Thất Thuyết là “trung thần” là “anh hùng nước Nam”, phê phán
Nguyễn Văn Tường là “nịnh thần”, “khẩu phật tâm xà”.
Một điều đáng chú ý nữa là, vè của ta thường chú trọng đề cao những
nữ tướng anh hùng đã cầm đầu hoặc tham gia các cuộc khởi nghĩa chống
thực dân phong kiến. Những bài vè hoặc đoạn vè nói về vợ ba Cai Vàng, vợ
ba Đề Thám, vợ Quân Tề, bà Thiếu Phó (tức Bùi Thị Xuân) được nhân dân
nhiều nơi ham thích truyền tụng.
Ví dụ vè vợ ba Cai Vàng, là một trong những bài vè nhân dân truyền
tụng nhiều nhất, đặc biệt là những đoạn nói về tài ba của người nữ anh hùng
trong những trận đánh:
Nửa đêm giờ tí canh ba
Các quan nghe nói “giặc đà gần thay
… Truyền quân vây đánh ra tay
Các quan mới biết giặc nay đàn bà
Ngồi trên ngựa thét tiếng loa
Các quan mới biết vợ ba Cai Vàng.
“Đem tin triều biết rõ ràng:
“Chính ta vợ bé Cai Vàng ra đây
“Hễ mà bắt được ta nay
“Trong đám giặc này không đánh cũng tan
“Còn ta lắm trận gian nan
“Nhiều phen tổn hại quân quan phen này”
Các quan lập trận đánh ngay
Quan chánh ngồi ngựa ngày rày xem sao
Quan phó ngự tượng đánh lao
Quan phủ tiếp dẫn kéo vào tới nơi
Cô con sống thác cũng chơi
Dong gươm bắt mác xem trời bằng vung
Bắt được bảy ngọn mác thông…
Hình ảnh người nữ tướng trên đây thật là oai hùng tráng lệ.
Giá trị lịch sử của vè rất lớn, chưa kể những bài vè phản ánh những sự
kiện quan trọng, nói chung toàn bộ vè đều là những tài liệu lịch sử quý giá.
3. Vè là vũ khí phê bình và đấu tranh sắc bén, là công cụ giáo dục tuyên truyền đắc lực của nhân dân.
Tính chất chiến đấu là một tính chất nổi bật trong các bài vè dân gian
của ta.
Tính chiến đấu của vè biểu hiện trong hai mặt, một mặt phê phán đả
kích những cái xấu xa lỗi thời; một mặt ca ngợi và kêu gọi những việc làm tiến
bộ.
Vè phê phán không nể nang hầu hết những người có hành động xấu
xa: những chị chửa hoang, những anh cờ bạc, những kẻ nhác làm siêng ăn…
(vè đánh bạc, vè thằng nhác, vè không chồng mà chửa…) đặc biệt vè đả kích
không kiêng nể những bọn kỳ hào, tổng lý tham nhũng trong xã hội nông thôn
thời trước. Cách đả kích của vè là cách đả kích trực tiếp “chỉ tên vạch mặt” ít
khi nói xa xôi bóng gió. Trong bài “Kể chuyện Lý Hoa” nhân dân xã Đoài
(Nghệ Tĩnh) đã vạch mặt tên Lý Hoa một cách thẳng thắn:
Ông Lý Hoa vừa làm năm tháng
Đưa địa bộ bán cho Chung đường
Định trái chủ Đông Dương
Làm những điều vi chế
Thậm chưng đến màu sưu thuế
Làm cho oanh liệt, nhất trường
Tru bỏ chạy khắp bốn phương
Người dạt vào một góc
Ăn lâu không hóc
Uống mãi không say
Rượu uống cả ngày
Cơm ăn năm bữa
Ăn ròi lại mửa
Trang cửa trang nhà
Thịt chó thịt gà
Cơm lòn cơm nếp
Ăn rồi thu xếp
Vỗ bụng van làng
Chạy dọc chạy ngang
Van làng đau đáu.
Vè không phải chỉ châm biếm đả kích bọn cường hào quan lại, mà
nhiều khi còn “dám” động đến cả vua. Vè nói đến vua khá nhiều với những
thái độ khác nhau: khi thì lạnh nhạt, khi thì chúc tụng một cách công thức, và
nhiều khi châm biếm mỉa mai ra mặt.
Xét trong sổ vè đã sưu tầm được thì thấy Tự Đức là “ông vua” được
“hân hạnh” nhắc nhiều nhất trong vè. Có bài nêu lên cảnh khổ chung trong
“cái đời Tự Đức”:
Sẵn bút đây ta tả:
Để ghi lại vài câu
Cho ngàn vạn năm sau
Biết cái đời cơ cực
Là cái đời Tự Đức…
Nhiều bài không phải chỉ nhắc đến “cái đời Tự Đức” mà đã chửi thẳng
vào cái “ông vua Tự Đức”:
Từ ngày ta lớn đến giờ,
Ông vua Tự Đức làm hư dần dần.
Cũng có bài châm biếm dưới hình thức kín đáo hơn, ví dụ bài “chúc thọ
Tự Đức”.
Tác giả bài này đã lợi dụng dịp lễ thọ 50 tuổi của Tự Đức (năm Quý
Dậu 1878), làm ra bài vè “chúc thọ Tự Đức” nhưng thực ra là châm biếm mỉa
mai Tự Đức một cách cay độc.
Bài vè mở đầu:
Gửi lời nhắn với ông vua
Sống năm mươi tuổi đã toan đua với cố Bành
(Bành Tổ)
Rồi tiếp tục nêu lên chín điều chúc:
…Tám chúc vua nhà tốt
Chạm đầu phượng đuôi ly
Không mối mọt ăn đi
Không gian mô thốt (giột) nát
Nỏ gian nào thốt nát
Chín chúc vua bảnh bát (bao)
Mụ nhất có mụ nhì
Cưới một dì đôi dì
Được phụ xướng phụ tùy
Không bà mô cãi cưỡng
Nỏ dì nào cãi cưỡng
Bài vè kết luận:
Xin vua đừng tức giận
Trò dân dại dân ngu
Gửi lời chúc thọ thiên thu
Ngoài việc phê phán đả kích bọn vua quan Nam triều, vè cũng động
đến cả “Tây” cả “Đầm”; – một đối tượng thường ít thấy nhắc tới trong các thể
loại văn học dân gian khác. Vè nhắc đến Tây với một thái độ căm thù, oón
ghét và khinh bỉ.
Loại vè kể tội “thằng Tây” xuất hiện ngay từ thời kỳ Văn Thân, Cần
Vương và phát triển mạnh nhất từ 1930, sau khi Đảng cộng sản Đông Dương
ra đời.
Đi đôi với việc phê bình đả kích những hạng người xấu xa, những lực
lượng tàn bạo, phản động, vè lại khuyên nhủ kêu gọi người làm những điều
thiện, những việc ích quốc lợi dân.
Bản thân những bài vè phê hình đả kích cũng đã bao hàm nghĩa giáo
dục khuyên răn, bởi vì phê phán cái xấu cũng tức khuyên người ta làm việc
tốt. Ngoài cách giáo dục gián tiếp, vè còn giáo dục trực tiếp bằng cách nêu
lên những người tốt việc tốt để mọi người noi theo, ví dụ kể chuyện các anh
hùng nông dân khởi nghĩa (vè Chàng Lía, vè vợ ba Cai Vàng), kể chuyện
chống sưu, chống thuế (các bài vè chống sưu, thuế), kể chuyện những người
có công với dân (vè bắc cầu, sửa đường, đào giếng…); hoặc trực tiếp hơn
nữa là những bài vè cổ động (khá nhiều trong phong trào Xô viết Nghệ –
Tĩnh).
Khuynh hướng tuyên truyền cổ động (từ những bài vè trong phong trào
nông dân khởi nghĩa), khuynh hướng này phát triển dần lên trong phong trào
chống Pháp (những bài vè về phong trào Văn Thân, Cần Vương…) và phát
triển mạnh nhất trong phong trào Xô viết Nghệ – Tĩnh là những bài vè cổ động
làm theo thể lục bát và hát giặm.
Vè là một công cụ giáo dục và tuyên truyền cách mạng rất tốt cho nên
trước đây bọn thực dân phong kiến rất sợ vè, và cũng vì thế mà nhiều bài vè
đã bị chúng cấm ngặt.
III. VÀI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT CỦA VÈNghệ thuật của vè là nghệ thuật kể chuyện bằng thơ ca. Như trên đã
nói, chuyện của vè là chuyện về người thực, việc thực nên phương pháp kể
chuyện của vè không giống phương pháp kể chuyện của cổ tích và các loại
chuyện dân gian khác.
Nếu ở cổ tích nổi bật tính chất phiếm chỉ (chỉ chung) thì ở vè lại nổi bật
lên tính chất đích danh xác thực.
Câu chuyện được kể ra trong vè phải nêu rõ thời gian, không gian, tên
người, tên việc. Tính chất đích danh xác thực của vè chẳng những thể hiện
trong nội dung, chi tiết của câu chuyện mà còn thể hiện khá rõ trong tên gọi
của các bài vè. Khi thì bài vè được gọi theo tên của người trong chuyện (vè
“Mụ Hội”, vè “O Hương”, vè “Chàng Lía”…); khi thì được gọi theo tên thời gian
của câu chuyện xảy ra (vè Loạn năm Giáp Tuất, vè Loạn năm Ất Dậu, vè Bão
năm Tỵ…); khi thì gọi theo tên địa điểm của câu chuyện xảy ra (vè Thất thủ
kinh đô, vè Đi phu cửa Rào…). Cũng có những bài vè được gọi theo tên sự
việc (vè chống Thuế, vè Đi ở; vè Đào sông, vè Làm đường…) nhưng phổ biến
nhất là vè gọi tên người, tên địa điểm, thời gian của chuyện.
Mở đầu của nhiều bài vè thường nêu lên thời gian địa điểm của sự việc
xảy ra:
– Cầu Ngu Trụng lễ xưa nay.
Thay trời đổi nước, có anh tài nổi lên.
(Vè cậu Ấm Ninh, Nghệ Tĩnh)
– Bước sang năm Ngọ tháng mười,
Nằm đêm nghĩ lại dạ bồi hồi sầu riêng.
Có bài ghi lại cả ngày giờ sự việc xảy ra:
Nguyễn triều Thành Thái một khi,
Bước lên trị vì mười tám năm nay.
Giữa năm Ất Tỵ khổ thay,
Ba mươi tháng tám, nổi ngay giờ dần.
(Vè bão năm Tỵ – Hà Nam Ninh)
Chính một phần do tính chất đích danh xác thực này mà vè có tác dụng
đấu tranh rất trực tiếp mạnh mẽ, và có giá trị lịch sử chính xác như trên đã
nói.
Tác giả của vè thường chú ý vào nội dung câu chuyện hơn là hình thức
biểu hiện cho nên ngôn ngữ trong vè mộc mạc thô sơ, kết cấu của vè cũng
đơn giản. Như trên đã và được làm theo nhiều hình thức, như 4 từ, 5 từ, lục
bát hay thể hỗn hợp v.v…
Cũng như truyện cổ tích, vè có một số “công thức” mở đầu ngắn gọn có
thể áp dụng chung cho nhiều bài vè khác. Ở loại vè làm theo thể nói lối,
thường mở đầu bằng câu:
Lẳng lặng mà nghe
Nghe vè tôi kể
hoặc:
Ve vẻ vè ve
Cái vè… (đánh bạc, giữ trâu…). Loại vè làm theo thể lục bát thường
mở đầu bằng câu:
Ngồi buồn đặt một chuyện vè,
Làng trên xã dưới ngồi nghe tỏ tường.
Loại vè hát giặm Nghệ – Tĩnh cũng thường mở đầu bằng những câu
lục bát rồi mới chuyển sang thể hát giặm:
Ngồi buồn đặt một chuyện vè,
Nghệ An, Hà Tĩnh ngồi nghe tỏ tường.
Trời đất không thương
Đem thằng Tây sang làm tội…
Loại vè cổ động cách mạng trong phong trào Xô–viết Nghệ–Tĩnh (1930
–1931) thường mở đầu bằng câu:
– Ông ơi ông ngồi lại
Tôi khuyên giải đôi lời…
hoặc:
Chàng ơi chàng ngồi lại
Thiếp khuyên giải đôi lời…
Sau những câu mở đầu ngắn gọn, vè đi ngay vào kể chuyện. Cách kể
chuyện của vè linh hoạt, thay đổi tùy theo nội dung của câu chuyện: khi thì liệt
kê những sự việc xảy ra liên tiếp dồn dập, khi thì vừa kể chuyện vừa kết hợp
miêu tả ngoại cảnh, hình dáng nhân vật, khi thì vừa kể vừa bộc lộ tình cảm…
Nhiều bài vè có những câu, những đoạn miêu tả khá thành công. Thí
dụ: bài vè Bão năm Tỵ có những câu miêu tả cảnh lụt lội khá sinh động:
… Phù sa nước đỏ như son,
Chùa kia sóng vỗ tượng còn hay trôi?
Kẻ thì lên núi, ở đồi,
Người thì che túp giữa trời mưa thâm!…
Trong bài “Loạn năm Giáp Tuất” có hai câu gợi lên cảnh đầu rơi máu
chảy trong thời kỳ Văn Thân thật là rùng rợn:
… Trận này đánh chắc đã to,
Sông thì đặc nước (máu) gươm no cổ người
Ở các bài vè lịch sử, ta thấy tác giả dân gian đã dựng lên được nhiều
hình ảnh oai hùng, tráng lệ về những người tướng lĩnh, những vị anh hùng và
những trận giao phong của họ. Nói chung những bài vè kể chuyện lịch sử
thường giàu yếu tố tưởng tượng và có khuynh hướng truyền thuyết hóa (do
nhân dân muốn ca ngợi các vị anh hùng). Đây là hình ảnh Tôn Thất Thuyết
trong bài vè Thất thủ kinh đô:
… Nước ta quan tướng anh hùng,
Bách quan văn võ cũng không ai tầy.
Người có ngọc vẹt cầm tay,
Đạn vàng Tây bắn ba ngày không nao.
Tài hay văn vũ lược thao,
Khí khái nhâm độn ra vào rất thông.
Bốn bể cự chiến giao công,
Tây phiên nói thực anh hùng nước Nam.
Hình ảnh người nữ tướng trong bài vè vợ ba Cai Vàng cũng rất tráng lệ
(đã dẫn ở phần trên).
Cùng với việc kết hợp tả người tả cảnh, vè còn kết hợp bộc lộ tình cảm
trong khi kể chuyện. Với mức độ khác nhau hầu hết các bài vè đều có yếu tố
trữ tình. Đặc điểm này khiến cho vè gần gũi với ca dao và thực tế vè đã vận
dụng hầu hết các biện pháp trữ tình của ca dao để bộc lộ tình cảm trong khi
kể chuyện.
Có những bài vè, đoạn đầu chủ yếu kể chuyện, đoạn cuối mới bộc lộ
tình cảm nhiều. Ví dụ ở bài “Bão năm Tỵ”, sau khi kể xong chuyện lụt bão…
tác giả kết thúc bài vè bằng những câu trữ tình, tha thiết:
… Lắm người lo ngẩn lo ngơ,
Trỗ nào cũng rấp biết nhờ vào đâu.
Đường như lửa đốt trên đầu,
Ngoài tươi trong héo như bầu đứt dây.
Cũng có những bài mở đầu tác giả bộc lộ tình cảm, rồi mới đi vào kể
chuyện. Bài vè “Chăn trâu” đã bắt đầu bằng những câu cảm động:
Lẳng lặng mà nghe
Nghe vè chăn trâu
Ra đứng đầu cầu
Khóc mẹ van cha
Hai hàng nước mắt nhỏ sa
Cách sông cách hói, biết nhà chú đâu.
Nhưng nhìn chung thì tình cảm trong vè là tình cảm được bộc lộ và
phát triển trên cơ sở những sự việc cụ thể, trong câu chuyện (trữ tình trên cơ
sở tự sự). Vì thế, phải đặt những câu thơ trữ tình của vè vào vị trí của nó
trong bài thì mới thấy hết được nội dung tình cảm của nó. Chỉ có những câu
bộc lộ tình cảm chung một cách cô đọng thì mới có khả năng tách ra khỏi bài
vè và trở thành ca dao (như câu nói về chàng Lía đã dẫn ở trên).
Cũng có một bộ phận vè, tính chất trữ tình khá đậm đà, ví dụ các bài vè
than thân (vè “Người ở than thân”, vè “Mẹ dòng than thở cùng con”…). Ở loại
vè này, tác giả chỉ nêu lên những sự việc chung, để qua đó mà bộc lộ tình
cảm, tâm sự. Bài vè “Công cha nghĩa mẹ” sau đây đã kể lại công lao của mẹ
đối với con cái bằng những lời thơ chứa chan tình cảm:
Đặt con vào trong dạ
Như mang vạ vào thân
Tập cho con quen chân
Kẻo lỡ làng con bổ
Khi khóc dai ngồi dỗ
Khi ngứa ngáy ngồi xoa
Trông tháng trọn ngày qua
Trông từng thi từng thỉ
Trông dần dần từng thỉ
… Khi bữa cơm đang dở
Con tiểu giải lên mình
Ai nấy cũng đều kinh
Cha mẹ ngồi chịu vậy
Mẹ cha ngồi chịu vậy
… Đêm nằm trằn trọc
Lo thúc thối nuôi con
Bữa ăn nọ biết ngon
Giấc nằm không kịp ngủ
Kể trong nhà đói khổ
Trời giá rét căm căm
Nơi ướt để mẹ nằm
Nơi khô xê con lại
Nơi ấm bồng con lại.
Những bài vè vào loại trên đây có thể coi là loại vè tự tình. Loại vè tự
tình này khá phổ biến ở vùng Nghệ–Tĩnh. Có những bài vè đi rất sâu vào thế
giới nội tâm của con người, tương tự như những khúc ngâm. Bài vè người
quả phụ sau đây, lời lẽ trau chuốt, tình cảm dạt dào, là một trong những bài
vè được lưu truyền rộng rãi nhất ở vùng Nghệ– Tĩnh:
Đêm nằm than thở cùng con
Thương tình kể nỗi nước non đường dài.
Trông thấy bóng sao mai
Tưởng tơ tình phận liễu
Xuân đương còn niên thiếu
Trăng vừa xế ngang đầu
Cưởi đã bã ngành dâu
Duyên vì ai dang dở.
Phận liễu bồ dang dở
Nằm quên đi thì nhớ
Ngồi nhớ lại thêm thương
Nghĩ nghìn nỗi trăm đường
Lòng tơ càng thêm rối.
Ruột tằm càng thêm rối.
Con ơi! con thức dậy
Để mẹ nói cùng con
Giừ tuổi mẹ đương son
Nghĩ thân con đương dại.
… Nghĩ buồn ân bể ái
Nghĩ đường dại đường khôn
Nghĩ tiếc của thương con
Nghĩ công lao gây dựng
Mấy năm trời đằng đẵng
Cho hết khó thương này
Mẹ bồng con trên tay
Ru duyên hời phận hỡi…
Ru con ăn con nhởi
Ru non nước tình chung
Ru xuân hạ thu đông,
Ru bốn mùa tình cảnh…
Sau đó tác giả lần theo thời gian (bốn mùa xuân, hạ, thu, đông) mà bộc
lộ tình cảm của người quả phụ – Nhiều đoạn lời rất hay mà tình rất thực:
Bóng câu đưa sỏng sảnh (câu: ngựa câu)
Tiết vừa độ sang xuân
Kẻ rượu thánh thơ thần
Người du tiên, bài phỗng
Nơi này thi trống gióng
Hát trò bội, phường chèo
Nơi kia thì vui reo
Mở bàn cù, cờ thẻ
Người ta đều vui vẻ
Chính giữa tiết giêng hai
Mẹ thiệt lắm con ơi
Giừ tuổi mẹ đôi mươi
Tính làm sao cho tiện
Nghĩ thế nào cho tiện?…
Ngoài những hình thức chính trên đây, vè còn có nhiều hình thức biến
dạng khác như vè nhật trình (nhật trình đường bộ, nhật trình đường bể), vè
nói ngược, vè kể chuyện các loại vật (vè con cua, vè chim, cá)….
Vè đã được sáng tác qua nhiều chặng lịch sử, với nội dung và hình
thức đặc biệt của nó, đã có một địa vị xứng đáng trong loại thể trường ca, bên
cạnh các loại trường ca của các dân tộc ít người nước ta, như trường ca Đăm
San, Đăm Di, Xống chụ sôn sao mà chúng ta sẽ nói ở chương sau.
Trước đây vè là những bài ca tâm tình của nhân dân thì ngày nay vè
vẫn còn có những đóng góp nhất định đối với cuộc sống mới của chúng ta,
Chương IX. TRƯỜNG CA
I. ĐẠI CƯƠNG VỀ TRƯỜNG CA1. Trường ca là gì?
Thuật ngữ trường ca hiện nay dùng cũng chưa được nhất trí, mỗi
người quan niệm một cách. Nói chung, có thể hiểu “trường ca” là những bài
hát dài trong các loại ca khúc dân gian, mà nội dung và hình thức đã ít nhiều
đạt đến tính chất thơ và tính chất truyện. Hiểu theo nghĩa hẹp như vậy, thì
trường ca đã vượt lên trên những bài hát dân gian thông thường hoặc ngắn
hơi mà ít có giá trị văn học; trường ca phải là những khúc hát, những khan,
những hơ–môn của dân tộc Tây Nguyên chẳng hạn.
Cũng cần phải phân biệt trường ca với thơ trường thiên. Thơ trường
thiên nằm trong phạm trù văn học viết, thường đòi hỏi nội dung và nghệ thuật
ở một mức độ nhất định nào đấy, thí dụ như bài Hà thành chính khí ca tương
truyền là của Ba Giai(?) (3), hay bài thơ Hắc hải của Nguyễn đình Thi v.v…
Ttường ca gồm những trường ca anh hùng (gọi tắt là anh hùng ca), trường ca
trữ tình (gọi tắt là tình ca), nhưng đã gọi ca thì phải có chương, có khúc dùng
để mà hát, có khi câu dài câu ngắn, nhịp bằng nhịp trắc phải hợp với xoang
điệu, còn thơ thì không cần phải hát được. Thơ và ca có khác nhau, nhưng
trong một chừng mực nào đó, ranh giới giữa thơ và ca cũng không phải là
cứng nhắc; ngược lại, thơ và ca thường liên hệ mật thiết với nhau. Nhưng
đặc điểm mà chúng ta dễ phân biệt được giữa hai loại trên, đó là tính chất
dân gian của trường ca: trường ca là sáng tác tập thể, được mọi người nhuận
sắc, truyền tụng hay diễn xướng. Đương nhiên, trường ca nói đây lúc đầu
cũng do một cá nhân hoặc một nhóm người nào đó làm ra, nhưng dần dần nó
được quần chúng hóa trong khi đó bản sắc cá nhân mờ dần đi trong tác
phẩm. Những bài thơ trường thiên do các nghệ sĩ chuyên nghiệp sáng tác,
cũng có khi được người ta truyền tụng hay diễn xướng, nhưng thường trong
một phạm vi nào đấy, đặc biệt, yếu tố cá nhân của tác giả ở đây vẫn được
nguyên vẹn, không bị dân gian hóa. Trong thơ trường thiên anh hùng, phải
phân biệt loại thơ trường thiên anh hùng thời trung cổ với loại thơ trường
thiên anh hùng ở thời kỳ sau. Loại thơ trường thiên anh hùng thời trung cổ có
nguồn gốc ở những truyền thuyết và cổ tích, do đó cũng gần giống với anh
hùng ca (sẽ nói rõ ở phần sau); loại thơ trường thiên anh hùng ở những thế
kỷ sau thì chủ yếu dựa vào đề tài lịch sử, thí dụ những thơ trường thiên anh
hùng trong văn học cổ điển Nga ở thế kỷ XIX (Bài Pôn–ta–va của Pút–skin
chẳng hạn) trong văn học Pháp ở thế kỷ XIX (bài thơ Waterloo chẳng hạn của
Victor Hugo). Sau này, nhà thơ Mai–a sáng tác bài thơ trường thiên Lê–nin
cũng có tính chất anh hùng ca, bài thơ này so với những bài thơ Pôn–ta–va,
Oa–téc-lô, có nhiều yếu tố hiện thực hơn. Nói chung, vì đối tượng của thơ
trường thiên anh hùng thường thường là một hiện tượng lớn lao nào đó trong
đời sống của toàn thể nhân dân, hoặc là hành động vĩ đại của một số người
nào đó, đã biểu hiện được những đặc tính của con người mà nhân dân cho là
đẹp đẽ, cho nên khá gần gũi với anh hùng ca, hoặc cũng được gọi là anh
hùng ca theo nghĩa rộng. Riêng loại thơ trường thiên trữ tình, dễ phân biệt
hơn, vì những bài thơ này thời xưa được các sĩ lãng mạn sáng tác, thí dụ
những bài thơ của Pút–skin (Người tù Cô–ca–dơ), của La–mác–tin (Giô–xơ–
lin).
Trong văn học Việt Nam ngoài thơ trường thiên, chúng ta lại cần phân
biệt trường ca với truyện thơ. Phải nói rằng truyện thơ là một hiện tượng đặc
biệt của văn học ta. Trong văn học Kinh, truyện thơ là những truyện nôm (gọi
như vậy để phân biệt với những truyện viết bằng chữ Hán) hoặc có tên tác
giả (hữu danh), hoặc không ghi tên tác giả (khuyết danh), truyện nôm hữu
danh như Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, truyện nôm khuyết danh
như Lý Công. Trong văn học Kinh cần phân biệt vè với truyện thơ. Đương
nhiên, nói phân biệt ở đây, không phải chỉ nói phân biệt về mặt diễn xướng.
Thường thường người ta kể vè và đọc truyện (kể là có ngân nga ít nhiều về
giọng, còn đọc thì không ngân nga). Tuy vậy, thời xưa, có vùng người ta cũng
kể thơ (tức là kể chuyện thơ) và kể thơ như vậy cũng có ngân nga về vọng
như kể vè và thường có đệm đàn bầu, hay nhị, hồ…Thí dụ ở Liên khu 5,
người ta kể Thoại Khanh – Châu Tuấn, Lâm Sanh – Xuân Nương, ở Nam Bộ
người ta kể Lục Vân Tiên… Như vậy, phân biệt vè với truyện thơ là phân biệt
ở mức độ kết cấu, ở mức độ nghệ thuật v.v… Ở đây chúng tôi muốn mở một
dấu ngoặc: truyện thơ Việt Nam (không kể hữu hay khuyết danh) có cần chia
ra làm hai loại thuộc hai phạm trù khác nhau (một phạm trù văn học bác học,
một phạm trù văn học dân gian) không? Sự thật, những loại truyện như Nhị
Độ Mai, Quan Âm Thị Kính rất ít được quần chúng thời xưa chú ý, trái lại
truyện như Lý Thông, Thạch Sanh, Phương Hoa… được phổ biến rộng rãi
trong dân gian. Theo ý chúng tôi, những loại truyện sau nằm trong phạm trù
văn học dân gian, bên cạnh vè. Vấn đề này cần được nghiên cứu kỹ hơn
nữa, chúng tôi tạm dừng lại ở đây. Có một điều trong văn học dân tộc thiểu
số, trường ca với truyện thơ lẫn lộn với nhau khó phân biệt, thí dụ truyện Nam
Kim Thị Đan của dân tộc Tày, truyện Út Lót Vi Điêu hay truyện Hùy Nga Hai
Mối của dân tộc Mường, v.v… thật ra cũng có thể coi là những trường ca của
dân tộc đó. So sánh những truyện thơ trữ tình đó với những bản tình ca Thái
như Tản chụ xiết xương, Xống chụ sôn sao, thì chúng ta thấy cũng không có
gì khác mấy. Đặc biệt các đoạn dặn dò khi tiễn biệt trong Nam Kim Thị Đan,
Út Lót Vi Điêu cũng không khác gì mấy trong Tản chụ xiết xương, Xống chụ
sôn sao. Đương nhiên, xét về mặt cốt truyện thì Nam Kim Thị Đan hay Út Lót
Vi Điêu có nhiều chi tiết hơn trong Xống chụ sôn sao; tuy vậy ở đây yếu tố ca
khúc vẫn rõ nét hơn yếu tố truyện. Các dân tộc nói trên thuộc lòng những
truyện thơ đó như những bản trường ca. Quan niệm như vậy, chúng tôi tạm
xếp những truyện thơ dân tộc đó bên cạnh những trường ca dân tộc.
2. Vài nét về trường ca dân tộc thiểu số Việt Nam.
Trường ca dân tộc thiểu số ta rất phong phú, mỗi dân tộc đều có loại
trường ca của dân tộc mình. Nhìn chung chúng ta đều có thể chia làm hai
loại, một loại trường ca anh hùng và một loại trường ca trữ tình.
Trường ca anh hùng (gọi tắt là anh hùng ca), tiếng Hy Lạp là epopoia
(epos là lời thơ, poiein là sự việc). Theo cuốn Mỹ học của Hê–ghen, thì thể
anh hùng ca diễn biến theo quá trình lịch sử. Ban đầu có những bài thơ ca có
yếu tố anh hùng ca, thí dụ một số bài ca Sáng Thế Ký trong kinh thánh, sau
mới có những bài anh hùng ca chính thức. chúng tôi không thỏa mãn với lối đi
tìm nguồn gốc anh hùng để phân loại của Hê–ghen. Sự thật, trong thời đại
mới hình thành của các bộ tộc và dân tộc ở nhiều nước, đã có những bài anh
hùng ca. Đối tượng của những bài ca đó là những sự kiện quan trọng đối với
đời sống của toàn thể nhân dân.Những sự kiện đó không nhất thiết phải xảy
ra trong thời của người kể chuyện, mà có thể lấy trong quá khứ lâu đời của
các bộ tộc, lấy trong kho tàng thần thoại của các dân tộc, đúng như Mac–xim
Gooc–ki đã nhận định: “Trong cuộc chinh phục thiên nhiên, họ sáng tạo ra
anh hùng ca. Anh hùng ca là kho nhận thức về mình và tự đề yêu cầu cho
mình. Thần thoại và anh hùng ca, có chỗ kết hợp với nhau, là vì nhân dân
sáng tạo ra anh hùng ca cũng dựa vào tinh thần tập thể, có mục đích hoặc đối
kháng với thần linh, hoặc hòa lẫn với thần linh” (Sự hủy diệt của cá tính).
Những anh hùng ca trong thời cổ đại đạt đến mức độ đặc biệt và mạnh mẽ là
những hùng ca của nước cổ Hy Lạp. Nghệ thuật cổ Hy Lạp đánh dấu một thời
đại thi ca trong sự phát triển chung của nghệ thuật loài người. Chính trên cơ
sở những bài ca đó, người ta tạo ra những tác phẩm vĩ đại như I–li–at và Ô–
đi–xê, đây là loại anh hùng ca điển phạm ra đời và tồn tại trong “thời kỳ rạng
đông của lịch sử loài người” như Mác đã nhận định. Nội dung của nó vốn “liên
hệ khăng khít với các quan niệm thần thoại của con người thời bấy giờ” và do
những quan niệm xã hội không phức tạp khi ấy quyết định. Điểm nổi bật trong
anh hùng ca là tính anh hùng tập thể, do đó có tính nhân dân rộng rãi. Theo
Hê–ghen, “hình tượng trong anh hùng ca là do tác giả hư cấu, nhưng tác giả
không được nối lên phần chủ quan của mình, mà chỉ nói lên những hoạt động
và biến cố cụ thể mà thôi”. Những anh hùng từng người một và người này
tiếp theo người kia tham gia đấu tranh và những bộ mặt riêng biệt biến mất
trong cuộc đấu tranh chung ác liệt: tất cả bị xáo trộn và chúng ta chẳng còn
phân biệt những đặc điểm riêng được nữa… Họ giống nhau ở tính phổ biến
nhiều hơn là khác nhau ở tính cá thể… Chính vì vậy, mà sau này, người ta
mới phân biệt tính chất anh hùng ca với thơ trữ tình ở chỗ yếu tố tự sự nổi bật
trong anh hùng ca khác với yếu tố trữ tình nổi bật trong thơ trữ tình, đúng như
nhận định của Hê–ghen về những nhân vật của Hô–me: “Cái cá thể chẳng
qua chỉ là cái bộc lộ bên ngoài và không thấm sâu vào nhân vật, không trở
thành tính chủ quan thật sự nội tại. Tính xác định đó chỉ là cái phần bộc lộ ít
nhiều dính dấp vào bản chất của thần linh”. Sự phân biệt trên này thật xác
đáng, có điều chúng ta không nên so sánh một cách cứng nhắc là anh hùng
ca với loại thơ lịch sử sau này, một loại thơ khác hẳn với thơ trữ tình; sự thật
trong sáng tác của Hô–me, cái cá thể với tính tập thể đồng nhất với nhau, lực
lượng chủ thể và lực lượng khách thể không có tính chất đối lập mà có tính
chất tổng hòa. Cái này cũng dễ hiểu, vì người xưa trong thời đại “thơ ấu của
xã hội loài người” không thể quan niệm sự vật một cách rành mạch như
người đời sau ở một trình độ văn minh cao hơn. Do đó, khi thời đại rạng đông
của loài người không còn nữa, tâm tư con người đổi khác, thì anh hùng ca
cũng mất như Mác đã nói: “Ống thu lôi đã làm tan vữ lưỡi tầm sét của thần
sấm”. Những bài tráng sĩ ca (tiếng Nga bư–li–na) thời trung cổ như bài ca về
đạo quân I–gô–rơ ở Nga, bài ca Rô–lăng (Chanson de Roland) của Pháp, bài
ca Ni–be–lun–gơn của Đức, v.v… đều không còn tính chất anh hùng ca nữa,
nó đã ít nhiều chuyển sang thể thơ trường thiên anh hùng. Đương nhiên,
những bài tráng sĩ ca này rất gần gũi với loại anh hùng ca. Chúng ta nhớ rằng
trong những năm 20 của thế kỷ thứ nhất, nhà thơ La Mã Viêc–giê–lus làm Ê–
nê–i–đờ kể chuyện anh hùng Ê–nê ở thành Tơ–roa.Ông sống trong điều kiện
thành lập ra đế quốc La Mã, cho nên ông không còn tâm tư ca tụng nhân dân
thời xưa, mà chỉ ca tụng nhà cầm quyền La Mã. Sau này có nhiều người làm
anh hùng ca theo kiểu đó, Vôn–te ở thế kỷ XVIII bên Pháp làm Hăng–a–đơ
(ca tụng Henri IV). Người ta gọi loại anh hùng ca này là loại anh hùng ca mô
phỏng (tiếng Pháp: épopée artificielle). Biê–lin–xki và Đa–bra–liu–bôp đã chế
giễu sự bắt chước vô hiệu quả đó.
Theo ý chúng tôi, một số trường ca như khan, hơ–môn của dân tộc Tây
Nguyên có yếu tố anh hùng ca. Đương nhiên đây chưa phải là loại anh hùng
ca hoàn chỉnh như I–li–at. Ô–đi–xê của Hô–me. Các nhân vật chính trong các
bài ca như Đía Đon, Đăm Di, Đăm San, Xinh Nhã… tuy có cá tính của mình,
nhưng vẫn đại diện cho tinh thần tập thể của bộ tộc mình. Những nhân vật đó
không phải chỉ chiến đấu cho hạnh phúc riêng của mình, mà còn và trước hết
là chiến đấu cho sự sống còn của bộ tộc mình. Những chiến công oanh liệt
của họ đều có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống toàn bộ tộc, có tác dụng giải
phóng cho bộ tộc, cho nô lệ khỏi sự áp bức bóc lột của những tên tù trưởng
ác bá. Nếu Đía Đon là anh hùng của dân tộc Ba–na thì Đăm San, Xinh Nhã là
anh hùng của dân tộc Ê–đê, Gia–rai v.v… Không khí trong các bài ca này là
không khí thần thoại, nhưng từ đó người ta cũng rút ra được những nét chân
thực về đời sống cổ đại của đồng bào Tây Nguyên. Đây là nhận định khái
quát về nội dung. Về mặt ngôn ngữ, về mặt kết cấu, chúng ta thấy trong các
bài ca này có nhiều ẩn dụ, nhiều tính từ cụ thể, nhiều sự so sánh phức tạp rất
gần với ngôn ngữ và kết cấu của anh hùng ca.
Chúng ta hãy đọc vài đoạn văn hùng tráng của các anh hùng ca đó.
Hãy xem Xinh Nhã bắn quay của Tông Á:
“Tiếng quay của Xinh Nhã kêu như giông rú ù ù, tiếng gió thổi, tiếng
quay bay lên trời, lượn trên không làm cho trâu bò không yên gậm cỏ, lợn gà
bị chết, voi, tê giác gầm la như sấm động…”
Và hãy xem Xinh Nhã đi chặt cây “Kơ–lơng lớn! ngọn nó đụng tới mặt
trời”.
“Những nhát rìu của Xinh Nhã tóe lửa, bắn những mảnh cây Kơ–lơng
tung bay tứ phía, bay tới nhà Jaro Bú trúng trai gái ở bến nước, trúng bà già
đi hái củi, trúng nhà Jaro Bú, gẫy xà ngang, tan xà dọc, vỡ ché tuk trị giá bằng
con voi, vỡ ché ba trị giá bằng con bò…”.
Trong các trường ca Đăm San, Đăm Di, Đía Đon, chúng ta sẽ đọc
nhiều đoạn văn tương tự. Thí dụ đoạn tả anh em Đía Đon và dân làng đi nhận
đầu Bok Rok bi Hơ–rít giết là một đoạn văn có tính chất bi tráng:
“Nhờ ánh lửa đuốc, Đía và Đon nhìn thấy được đầu cha. Những người
đang múa nhảy ca hát đều ngừng lại. Họ mang đầu Bok Rok về nhà, khóc lóc;
họ mổ lợn, đâm trâu để cúng linh hồn cho Bok Rok. Dân làng đi đào huyệt,
giã gạo, sàng lúa. Hai anh em Đía Đon ôm lấy đầu cha, kêu khóc thảm
thương…” và sau đó thì hai anh em đi trả thù cho cha; hai anh em cầm khiên
và xuất hiện như những vị thiên thần được dân làng ủng hộ:
“Hai anh em Đía Đon cầm lấy khiên, nắm cán dao có khắc ngôi sao,
hoa thị xanh đỏ, vung lên vun vút. Đía Đon bay vụt lên, rồi nghiêng mình, bay
nhẹ nhàng, nhẹ nhàng… như những cánh chim giữa lưng trời. Dân làng đi
dưới đất…
… Hơ–rít chống lại không nổi. Tiếng nổ “đùng” một cái hắn hóa phép
bay vụt lên trời. Để đuổi kịp hắn Đía Đon lấy đầu gối của mình ấn xuống, tức
thì cả làng Hơ–rit ngập chìm trong nước lũ, biến thành một cái hồ rộng mênh
mang…”
Đặc biệt, trường ca Tây Nguyên không những có yếu tố sử thi, mà còn
có yếu tố trữ tình nữa. Xinh Nhã, Đăm Di vừa là một bản hùng ca vừa là một
bản tình ca. Chúng ta hãy nghe Đấm Di thổ lộ tất cả tấm tình yêu nồng cháy
của mình với Hơ Lung:
“Hơ Lung ơi! Nếu nàng là một cái trăng thì tôi sẽ là một cái sao, nếu
nàng là một cái diều thì tôi sẽ là thần gió, nếu nàng là một quả Kơi bang thì tôi
sẽ trở thành những con chim, nếu nàng là cái nhụy hoa thì tôi sẽ trở thành
những con ong mật. Giọt sữa của một con cọp cái không thể để cho con nai
bú thì ngôi sao Đăm Di, và cái trăng Hơ Lung cũng sẽ không bao giờ xa nhau
được, dù cho đến lúc mà thần sao ấy có phải để khiên đao của mình bị tuốt
khỏi tay…
… Hơ Lung ơi! Tôi xa nàng tlhì tim gan tôi sẽ buồn như lá héo lúc trời
trưa, như trâu không buồn gặm cỏ, ruột gan ta sẽ chán chường như ong
không hút được nhụy, như chim chẳng hót ca. Bạn ơi! Trên trời tôi chỉ thấy
một cái trăng. Cái trăng đó đi lên rẫy cao, có muốn đến những nơi mà bầy
ong vàng sống xa đất, có đi thăm bến nước gốc chanh, nơi mà cá của nàng
Hơ-Điêu bơi lội thì cái sao ấy cũng đi theo. Mà dù cho cái sao ấy có bị
gậy thần của Thần Sao Băng cuốn đi thì nó cũng ôm cả cái trăng xinh
đẹp đó, từ trên trời mà rơi xuống một nơi…”
Chúng ta thấy loại anh hùng ca trong văn học dân tộc thiểu số đã
phong phú, loại tình ca cũng phong phú không kém. Có thể nói dân tộc nào
cùng có những bản tình ca của mình, những bản tình ca nổi tiếng mà
không mấy người trong dân tộc mình không biết đến. Những bản tình ca đó
đã truyền từ người này đến người khác, từ đời này qua đời khác. Yếu tố trữ
tình trong những bản tình ca này so với tếu tố trữ tình trong những bài thơ
trường thiên đời sau cũng đậm đà không kém. Mối tình ở đây, và phần lớn là
mối tình tuyệt vọng cũng thật là cảm động! Đương nhiên, chúng ta không đòi
hỏi màu sắc cá nhân trong những bài ca dân gian cũng phải đậm nét như
màu sắc cá nhân trong thơ trường thiên lãng mạn của những thi sĩ ở thế kỷ
XIX. Có chăng đấy là một điểm khác biệt đáng chú ý giữa trường ca và thơ
trường thiên? Còn về niềm thương nỗi nhớ thì ở đây hay ở đó cũng vẫn rạt
rào khôn xiết! Ở đây, không cần thiết đưa ra nhiều thí dụ, mà chỉ nêu lên vài
nét về một vài bản trường ca hay truyện thơ quen thuộc như Tản chụ xiết
xương (Thái), Xống chụ sôn sao (Thái), Nam Kim – Thị Đan (Tày), Út Lót – Vi
Điêu, Hùy Nga – Hai Mối (Mường).
Tản chụ xiết xương (lời nói bóng gió trao đổi tình yêu) là một bản tình
ca dài khoảng 130, 140 bài, gồm chừng 3500 câu cũng na ná như Xống chụ
sôn sao (sẽ phân tích kỹ ở sau). Đoạn tiễn dặn người yêu trong Tản chụ xiết
xương cũng là một đoạn cảm động:
“Em đừng tham đầy bồ bông nén
Đừng tham vàng rồi bạc đầy hòm,
Đừng sợ một xó lều anh nghèo khổ,
Đừng ước làm dâu nhà giàu ăn cá ngon,
Đừng vội dứt tình anh sắt son
Đừng mê vải nhiều chầu bạc đúc tràn kho.
Đừng thích ăn không trên đống của chất to
Em ơi chẳng bằng sức của ta, ra sức ta làm,
Vàng với bạc như dòng nước qua thác,
Của trong sạo như trận gió, cơn mưa.
Ăn ở xấu sẽ như gươm, đao sắc bén
Giết chết chủ như nước lũ bất ngờ
Người xấu, vàng bạc như sắt gỉ đồng vụn,
Chẳng bằng được ta, mai vác dao đeo tay làm nên của.
Đời đang thì đang lứa, ngày thêm ngày no đủ em ơi!…
Mối tình tuyệt vọng đẫm lệ ấy cũng là mối tình của Nam Kim – Thị Đan.
Nam Kim nhà nghèo, lại mồ côi cha mẹ, nên không lấy được Thị Đan. Thị
Đan bị ép gả cho người khác. Đến ngày nàng về nhà chồng mà nàng mặt
buồn rưởi rượi như đi đưa ma:
“Áo xanh lệ trắng má sầu
Đêm dài đường khuất đưa nàng
Xuất giá như ngày đưa tang…
Nam Kim đến thăm người yêu lần cuối và khi anh ra về, Thị Đan đưa
tiễn: hai người than thở thống thiết và thề cùng chết cho trọn mối tình xưa:
“Chết đi hồn vẫn còn mơ
Mối tình bạn gái phải chia hai dằng…”
Mối tình Nam Kim – Thị Đan cũng đau đớn như mối tình của Hùy Nga –
Hai Mối.
Hùy Nga, Hai Mối yêu nhau thắm thiết, cha mẹ Hùy Nga ham giàu ép
gả nàng cho một tên chúa đất có uy quyền. Nhưng Hùy Nga, Hai Mối vẫn
không chịu khuất phục và lứa đôi quyết một lòng quyên sinh cho trọn mối tình
trong sáng. Chúng ta hãy đọc đoạn văn sau đây tả nỗi thất vọng của Hai Mối
để thấy rõ bút pháp trữ tình của tác giả:
“Rồi chàng đi
Bốn đêm trắng
Bảy ngày ròng
Chẳng thấy đâu là làng là xóm
Chỉ thấy ngàn cây bát ngát xanh xanh!!!”
Đến mối tình Út Lót – Vi Điêu lại cũng là mối tình thật thơ mộng! Út Lót
là con gái thứ ba của ông Cún Pú Gia. Ông này không có con trai nối dõi. Út
Lót mặc giả trai vào triều chầu vua thay bố. Giữa đường nàng gặp Vi Điêu.
Hai bên thông cảm mối tình và cùng nhau kết bạn. Khi biết Út Lót là giả trai, Vi
Điêu ngỏ ý yêu nàng. Thế rồi, hai bên cùng nhau thề thốt. Nhưng Vi Điêu bị
cha mẹ bắt về cưới vợ. Đau đớn quá, Vi Điêu tự tử để giữ trọn mối tình, Út
Lót cũng bị ép gả cho người khác. Đến ngày cưới, nàng xin cha mẹ đi qua mồ
người yêu cũ. Nàng vừa tới nơi, thì nắp quan tài chồng tự nhiên mở tung. Gió
bão nổi lên, trời mờ mịt tối, nàng chạy vào quan tài và quan tài từ từ khép lại.
Trời lại trở nên trong sáng. Một đôi bướm trắng từ trong mồ Vi Điêu bay ra,
quấn quít bên nhau, xiết bao lưu luyến.
Đồng bào Tây Nguyên cũng có một bản tình ca Khan Di Dật. Mối tình ở
đây cũng khá thơ mộng không kém gì mối tình của Út Lót – Vi Điêu, và đặc
biệt có chiều phảng phất mối tình trong truyện thơ Bích Câu kỳ ngộ của dân
tộc Kinh hay mối tình trong truyện “Mẫu đơn tiên” của Trung Quốc.
Những bản tình ca như thế không thiếu gì trong văn học dân tộc ít
người.
Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ giới thiệu sơ qua vài nét có tính
chất khái quát. Sau đây chúng tôi cố gắng giới thiệu hai bản trường ca dân
tộc, một của Tây Nguyên (Đăm San), một của Thái (Xống chụ sôn sao).
II. TRƯỜNG CA ĐĂM SANBài ca Đăm San là một khan của đồng bào Ê–đê, một trường ca anh
hùng có giá trị lớn về nội dung cũng như về hình thức nghệ thuật.
– Đối tượng của bài ca là những tính cách đẹp đẽ, những hành động
anh hùng của tù trưởng Đăm San. Qua việc biểu hiện những đặc điểm của
con người được nhân dân coi là lý tưởng đó, bài ca đã phản ánh những sự
kiện lớn lao của đời sống toàn dân trong giai đoạn mà xã hội Ê–đê đang trải
qua những chuyển biến có tính chất lịch sử.
Chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa nội dung của bài ca từ hai mặt đó.
1. Đăm San, người anh hùng lý tưởng của một thời đại.
Trong khung cảnh những cuộc đấu tranh gian khổ chống thiên nhiên,
những cuộc chiến đấu quyết liệt chống kẻ thù hung ác của bộ lạc, trong khung
cảnh một cuộc sống sôi nổi, phong phú đang trên đà vươn tới tương lai phồn
vinh mơ ước, Đăm San nhân vật trung tâm của thiên trường ca, người tù
trưởng “hùng cường từ trong lòng mẹ” đã nổi bật lên như một người anh
hùng lý tưởng của thời cổ.
Đó là một con người có sức mạnh và tài năng xuất chúng. Chàng có vẻ
đẹp khiến cho “mọi người nhìn trộm không chán”, có sức khoẻ “như con voi
đực”, hơi thở “như sấm vang”, tiếng nói, tiếng cười “như sét đánh”; chàng
nằm xuống thì “gẫy cả sàn nhà”, ngủ thì “đổ thiếc vào lỗ tai chưa tỉnh”, đi trên
đường thì “thoăn thoắt như con rắn prao huê”, ngồi giữa nhà thì “như con
hùm bên bờ suối”, uống rượu thì “suốt một ngày đêm chẳng say”,… khi sản
xuất thì lên tận trên trời để xin thóc giống, trong chiến đấu thì “đã từng đánh
thắng không biết bao nhiêu là địch”,… Tóm lại người ta đã gán cho Đăm San
mọi sức khoẻ có thể quan sát được và tất cả những tài năng mà con người
bấy giờ mơ ước.
Ở Đăm San, đức tính coi như đẹp đẽ nhất là lòng dũng cảm. Những kẻ
thù bốn chân và hai chân hung tợn nhất đều quỳ gối trước Đăm San. Những
lực lượng huyền bí, đáng sợ nhất của thiên nhiên cũng không thể làm chùn
bước con người “gan dạ anh dũng đến mức dầu sắp chết hay ngất đi cũng
không lùi” ấy.
Không phải ngẫu nhiên mà lòng dũng cảm đã được coi là đức tính cao
quý nhất của con người ở đây. Chủ đề về lòng dũng cảm là một chủ đề khá
phổ biến trong văn học dân gian của đồng bào Tây Nguyên. Ngay trong đời
sống bình thường của người Tây Nguyên, lòng dũng cảm cũng được coi là
một trong những đức tính đáng yêu nhất. Người mẹ Catu qua những bài hát
ru con trầm và buồn lặng đã dạy con phải siêng năng và dũng cảm hơn
người. Ở dân tộc Hơ–rê, trong những cuộc đánh lộn với tính chất là trò chơi
giải trí, người con có thể ở phe đối lập với người cha và sẽ được người cha
khen ngợi nếu đã tỏ ra thiện chiến can trường. Cũng ở dân tộc ấy – một dân
tộc có những điệu dân ca chứa chan cảm xúc êm đềm – người phụ nữ lại đặc
biệt khinh ghét những chàng trai hèn nhát. Người vợ sẽ không chăm sóc cho
chồng nếu anh chồng đi săn về tay không hoặc đi đánh nhau về mà lại mang
những vết thương không phải ở phía trước người, vì đó là những vết thương
chứng tỏ rằng anh đã bỏ chạy, anh đã quay lưng về phía kẻ địch.
Ở một xã hội như vậy và trong một thời đại căng thẳng vì chiến tranh,
thật là tự nhiên khi lòng dũng cảm đã được người ta đề cao và coi trọng hơn
tất cả.
Đương nhiên, đó không phải là đặc điểm riêng biệt của trường ca Tây
Nguyên. Nếu như trạng thái chiến tranh là cơ sở của hành động anh hùng ca
thì có thể nói lòng dũng cảm đã đóng vai trò chủ yếu trong những hành động,
những sự kiện miêu tả trong thơ anh hùng ca cổ điển của các dân tộc. Có
điều là, về mặt này, nếu ta so sánh Đăm San với những người anh hùng của
Hô–me chẳng hạn, chúng ta sẽ cảm thấy Đăm San có một vẻ đẹp riêng: cái
dũng cảm của A–si–lơ, Ec–to–rơ, Uy–lit–xơ… có phần do Thần ban cho và
con đường chiến thắng của họ phần nhiều được thần vạch trước, còn Đăm
San có cái khí thế hùng cường của chính mình; trong I–li–át và Ô–đi–xê
những tướng lĩnh gan dạ nhất cũng vẫn run sợ trước sấm sét của chúa thần
Dứt nhưng ở trường ca Đăm San con người có lúc đã mài gươm lên dọa cả
trời: “Tôi chặt ngay cái đầu trời đây”.
Đặc điểm nổi bật nhất, đặc điểm bao trùm trong tính cách nhân vật
Đăm San là ý chí kiên cường và khát vọng lớn lao của người tù trưởng trẻ
tuổi ấy. Hình tượng nhân vật Đăm San thể hiện lý tưởng quang vinh và giàu
mạnh của xã hội Ê–đê thời cổ đại. Lý tưởng ấy chính là khát vọng luôn luôn
rực cháy trong trái tim Đăm San, khát vọng trở thành “một người tù trưởng oai
hùng”, “một tù trưởng hết sức giàu mạnh có nhiều chiêng núm chiêng bằng,
trên đời không ai bì kịp”.
Khát vọng ấy thoạt tiên đã dẫn Đăm San tới những hành động có tính
chất phản kháng, tới những hành động mà có người cho rằng “thực chất là sự
chống đối không thỏa hiệp chống lại khuôn khổ chật hẹp của xã hội”.
Quả rằng Đăm San đã tỏ ra không muốn nối dây và nhất là đã không
muốn thực hiện những nhiệm vụ trong gia đình mà xã hội quy định – bằng
những luật lệ không thành văn – cho kẻ làm chồng. Nhưng phải chăng hành
động đó của Đăm San thực chất là sự chống đối không thỏa hiệp chống lại
khuôn khổ chật hẹp của xã hội, phải chăng “toàn bộ ý chí và hành động của
Đăm San từ đầu chí cuối chỉ là một loạt những phản kháng chống lại phong
tục nối dây và những tàn tích của chế độ mẫu quyền đang còn mạnh”? Muốn
giải quyết vấn đề này từ gốc, chúng ta phải tìm hiểu xem xã hội được phản
ánh trong tác phẩm là một xã hội như thế nào.
Xã hội Đăm San về căn bản vẫn thuộc phạm trù chế độ công xã nguyên
thủy, tuy trong đó đã xuất hiện những dấu hiệu của sự phân chia giai cấp và
sự bất bình đẳng về tài sản, người tù trưởng lúc này còn tiêu biểu cho cái xu
thế đang lên của lịch sử, vai trò của họ còn có tác dụng thúc đẩy đối với sự
phát triển của xã hội, quyền lợi của họ và của thị tộc còn gắn bó với nhau
trong cuộc đấu tranh nhằm vươn tới một cuộc sống yên vui, đầy đủ. Nói cách
khác, xã hội phản ánh trong thiên trường ca “chưa phát triển tới chỗ mâu
thuẫn tự mình không thể giải quyết được và phân chia thành những lực lượng
đối lập không thể điều hòa được”.
Việc đưa nhân vật tù trưởng vào trung tâm tác phẩm văn học dân gian
này, việc xây dựng hình tượng tù trưởng Đăm San thành một nhân vật anh
hùng lý tưởng của quần chúng không thể tách rời điều kiện ấy về đặc điểm xã
hội.
Mặt khác, xã hội Ê–đê trong bản trường ca vẫn chưa vượt qua thời kỳ
mà “các quan hệ xã hội và ngay cả xã hội nữa, kỷ luật, tổ chức lao động đều
duy trì được là nhờ có sức mạnh của phong tục tập quán, nhờ có uy tín và sự
kính trọng đối với những bô lão của thị tộc hoặc phụ nữ…”. Vậy thì khuôn khổ
của xã hội ấy có gì là “chật hẹp”, những phong tục tập quán của xã hội ấy có
gì là “khắc nghiệt” đối với con người?
Nếu chúng ta xuất phát từ sự nhận thức tác phẩm, từ sự tổng hòa các
mặt và các mối quan hệ trong tác phẩm mà phân tích thì chúng ta sẽ thấy tác
giả bài ca không phải đã miêu tả xã hội Đăm San như một cái gì “ngăn cản sự
thực hiện những khát vọng về hạnh phúc của con người”. Khuôn khổ xã hội ở
đây, với tập tục chuê–nuê và các tàn tích của chế độ mẫu quyền, chưa phải là
cái gì bóp nghẹt hạnh phúc của con người hoặc ràng buộc không cho con
người vươn lên phía trước. Trái lại, hạnh phúc của con người – những hạnh
phúc cụ thể, lịch sử – xét về một mặt nào đó, lại gắn với việc tuân theo tập
tục. Trong toàn bộ bài ca chúng ta không hề bắt gặp một chi tiết nào chứng tỏ
rằng những con người trong xã hội ấy, kể cả Đăm San, “đã thấy được cái vô
lý bất công” của tập tục. Người đặt truyện chẳng những không miêu tả tập tục
xã hội như bốn bức tường chật hẹp giam hãm tâm hồn con người, không cho
con người trong đó sống tự do phóng khoáng mà lại còn tỏ ra “quá bênh vực
cho chế độ mẫu quyền lúc ấy”. Như vậy tác giả sẽ tự mâu thuẫn với mình khi
một mặt tác giả “quá bênh vực cho chế độ mẫu quyền”, mặt khác lại hết sức
ca ngợi một nhân vật mà “toàn bộ ý chí và hành động chỉ là một loạt những
phản kháng chống lại phong tục nối dây và những tàn tích của chế độ mẫu
quyền”. Và chúng ta nữa, chúng ta cũng sẽ giống như anh chàng vừa bán
giáo vừa bán mộc của Hàn Phi tử nếu một mặt chúng ta coi tác phẩm này là
anh hùng ca (theo nghĩa chặt chẽ của danh từ ấy) mặt khác lại gán cho nó cái
ý nghĩa “ca ngợi tinh thần và hành động quật khởi của Đăm San chống lại
khuôn khổ chật hẹp của xã hội đương thời”. Bởi vì trong các tác phẩm gọi là
anh hùng ca (anh hùng ca “cổ điển”, không phải anh hùng ca mô phỏng)
không có và không thể có mâu thuẫn đối kháng giữa cá nhân và xã hội. Bởi vì
mặc dù “nhân vật tích cực của thơ anh hùng có ý thức tự do hành động”, cái
tạo nên nội dung của anh hùng ca “không phải là một hành động cô độc tùy
tiện, cũng không phải là một sự kiện ngẫu nhiên, bất kỳ mà là một hành động
mà mọi ngọn ngành của nó đều liên kết với toàn thể của thời đại và với đời
sống toàn dân”. Bởi vì mặc dù tình trạng xung đột, chiến tranh, nói chung, là
cơ sở của hành động anh hùng ca, cái tạo nên nội dung anh hùng ca không
phải là một cuộc xung đột của cá nhân chống lại lối sống của tập đoàn mình,
cũng không phải là một cuộc chiến tranh lương tâm trong nội bộ một tập đoàn
mà thường là một cuộc chiến tranh chống những kẻ thù bên ngoài, giữa tập
đoàn này và một tập đoàn khác”.
Chúng ta phải tiếp tục tìm hiểu: Đăm San chống lại việc nối dây để làm
gì và vì sao chàng đã tỏ ra thờ ơ với nhiệm vụ làm chồng mà Hơ Âng, trước
khi chàng về nhà vợ, đã căn dặn: “Ơ em! Em hãy săn sóc cho vợ em được
sung sướng. Đừng lêu lổng, đừng chơi bời. Buổi sáng em đi làm nương rẫy.
Buổi chiều em căng bẩy bắt chim bắt thú cho vợ em có thức ăn ngon lành”?
Trước hết vấn đề là ở chỗ: Đăm San muốn khẳng định vai trò và địa vị
tù trưởng của mình khi chàng phải tuân theo tập tục nối dây.
Đăm San phải lấy Hơ Nhí, Hơ Bhí, đó là yêu cầu “khắc nghiệt” của tập
tục. Trở thành một người tù trưởng giàu mạnh, oai hùng, đó là khát vọng
mãnh liệt của Đăm San. Hai yêu cầu đó chẳng những không có gì mâu thuẫn
mà còn có liên hệ khăng khít với nhau trong điều kiện lịch sử xã hội bấy giờ:
“Lấy Hơ Nhí, Đăm San sẽ trở thành một người tù trưởng có nhiều chiêng”.
Nhưng về phía mình, Đăm San muốn biến sự thúc ép của tập tục – tập tục
thể hiện ý chí của thị tộc – thành yêu cầu của bản thân mình. Điều đó chứng
tỏ Đăm San đã có ý thức khá sâu sắc về cá nhân mình, về địa vị của cá nhân
mình.
Chúng ta có thể nêu ra một vài dẫn chứng.
Thoạt tiên Đăm San có vẻ “bắc bậc kiêu kỳ” không chịu ra tiếp bọn Y
Dhing, Y Linh nhưng rồi chàng lại ra tiếp ngay với trang phục, dáng điệu, tư
thế xứng đáng với địa vị và vai trò mà chàng đòi hỏi. Trong khi đó Trời phải
chống gậy hèo xuống nhà Hơ Nhí để khuyên nàng: “Chỉ để cho các anh ấy thì
việc không xong đâu! Con phải đi. Như vậy mới thành vợ thành chồng”. Đó là
một chi tiết rất có ý nghĩa.
Một điều đáng chú ý là Đăm San đã thuận lấy Hơ Nhí, Hơ Bhí ngay,
chứ không phải chàng đã khăng khăng từ chối từ đầu. Ngay sau khi Hơ Nhí,
Hơ Bhí tới cầu hôn, Đăm San đã đến nhà người vợ cũ để ly hôn. Do đó một
câu hỏi cần đặt ra là: tại sao Đăm San không kiên quyết “phản kháng” ngay từ
đầu, mà sau khi đã thành vợ thành chồng rồi thì nay “giận dữ bỏ đi” mai “nhất
định không chịu lấy” thậm chí còn thề với Trời rằng: “Thà con chết còn hơn
bắt con phải lấy Hơ Nhí, Hơ Nhí?” Nói cách khác, chúng ta cảm thấy lúc đầu
Đăm San đã không tỏ ra phản đối việc thi hành tục nối dây lắm. Mâu thuẫn chỉ
phát sinh và trở nên sâu sắc khi Đăm San về ở nhà vợ. Vậy nguồn gốc của
mâu thuẫn này là ở đâu?
Như đã phân tích, Đăm San muốn khẳng định vai trò và địa vị tù trưởng
của mình cho nên chàng không chịu ở địa vị phụ thuộc, địa vị bị chi phối. Sau
lễ cưới, Đăm San phải theo Hơ Nhí, Hơ Bhí nhưng Hơ Nhí, Hơ Bhí đã phải
nhượng bộ xuống đi đất vì anh Nuê ngang ngạnh đó không chịu lên voi. Tiếp
đó Đăm San lại đặt điều kiện: “này Hơ Nhí, chúng ta chạy từ đây về làng! Nếu
cùng đến một lần thì thành vợ thành chồng. Nếu không đến cùng một lần thì
không thành vợ thành chồng”. Với điều kiện đó, Đăm San chỉ muốn biến việc
mình phải lấy Hơ Nhí, Hơ Bhí thành việc Hơ Nhí, Hơ Bhí muốn lấy mình,
nghĩa là muốn tránh cái thế phụ thuộc. Sự thực, nếu Đăm San quả thật không
muốn nối dây thì đâu phải vì cái mụn bỏng nơi chân Hơ Nhí mà chàng chịu về
cùng một lúc. Ở nhà vợ lần thứ nhất Đăm San bỏ về nhà mình vì chàng
không chịu để Hơ Nhí điều khiển, vì theo lời Đăm San, Hơ Nhí đã tỏ ra “không
cần” đến chàng nữa. Nhưng ngay sau đó Đăm San đã sốt sắng bảo vệ địa vị
của “con gái của những tù trưởng giàu và mạnh nhất” khi thấy địa vị đó có vẻ
không được tôn trọng: chàng đã cao giọng mắng tôi tớ trong nhà khi thấy họ
không đi cõng trước thay cho Hư Nhí, Hơ Bhí. Rồi Đăm San lại hăng hái đi
bắt con voi dữ khi Hơ Nhí đã biết “cần đến chàng”: “này anh Đăm San! Làm
thế nào bây giờ? Không ai bắt voi ta được”. Lần thứ hai, Đăm San không chú
ý tới vợ để voi mang vợ vào tận rừng sâu nhưng thật ra cũng không có ai
ngoài Đăm San có thể cứu được Hơ Nhí. Và cuối cùng Đăm San cũng chỉ
chịu theo ý Trời với điều kiện là Trời phải đảm bảo cho chàng trở thành một
người tù trưởng giàu mạnh.
Thật là rõ ràng: vấn đề không phải ở chỗ Đăm San muốn chống lại việc
lấy Hơ Nhí, Hơ Bhí hoặc chống lại tập tục nối dây. Từng bước một, dưới hình
thức phản kháng việc nối dây, Đăm San đã biểu thị ý chí của mình đối với
điều mình mong ước, biểu thị thái độ xứng đáng với vai trò mà mình đòi hỏi,
Đăm San đã phấn đấu để xác lập địa vị tù trưởng của mình trong nội bộ thị
tộc.
Luôn tiện cũng cần nói về việc Đăm San chặt cây Smuk. Có người cho
rằng: “Cây thần Smuk tượng trưng cho kỷ cương của gia đình bất diệt, hùng
mạnh, không thể lay chuyển phá vỡ”. Thật ra thì cây đó chỉ là tô tem của thị
tộc Hơ Nhí, Hơ Bhí. Cho nên chặt gẫy cành Smuk cũng có ý nghĩa là đánh
vào uy thế của thị tộc ấy và ý nghĩa đó hoàn toàn phù hợp với những điều
chúng ta đương phân tích về thực chất của hành động có tính chất phản
kháng của Đăm San, lúc đầu. Nói rộng ra, việc chặt cái cây khổng lồ đó, đặt
trong phạm vi hoạt động đốn cây rừng của đoàn người do Đăm San điều
khiển còn phản ánh một phương diện của cuộc đấu tranh gian khổ của đồng
bào miền núi xưa kia trong hoạt động nông nghiệp làm rẫy cũng như trong
hoạt động xây dựng nơi cư trú của họ.
Những điều trên đây cho ta thấy tính chất thống nhất từ đầu đến cuối
của những hành động của Đăm San. Trong con người ấy không hề có cái gọi
là mâu thuẫn giữa lý trí và tình cảm. Cơ sở của niềm thương tiếc Hơ Nhí, Hơ
Bhí (khi Hơ Nhí, Hơ Bhí bị cây thần Smuk sập chết) và cơ sở của những hành
động nhìn bề ngoài như chống lại việc lấy Hơ Nhí, Hơ Bhí về căn bản chỉ là
một: đó là khát vọng trở thành một người tù trưởng giàu mạnh.
Tuy nhiên đây cũng mới chỉ là một mặt của vấn đề.
Chúng ta không thể coi “mâu thuẫn” giữa Đăm San và Hơ Nhí, Hơ Bhí
phát sinh là hoàn toàn do ý định chủ quan của Đăm San. Nếu chúng ta chú ý
tới ý nghĩa khách quan của hình tượng nghệ thuật thì chúng ta không thể
không thấy rằng xã hội phản ánh trong bài ca đã thấp thoáng bộc lộ một số
hiện tượng biểu hiện sự thay đổi địa vị của người đàn ông và người đàn bà
trong nền sản xuất xã hội và trong nền kinh tế gia đình, và trên những hiện
tượng ấy hình như đã manh nha cái mâu thuẫn giữa vai trò ngày càng có tính
chất trọng yếu của người đàn ông trong chế độ sản xuất và địa vị còn bị phụ
thuộc của họ trong gia đình.
Một mặt xã hội Đăm San phơi bày những biểu hiện rất rõ của chế độ
mẫu quyền còn tồn tại, mặt khác bài ca cũng phản ánh sự xuất hiện những
yếu tố sau này sẽ trở thành cơ sở của sự chuyển biến từ chế độ mẫu quyền
sang chế độ phụ quyền: trong lao động và sản xuất ta thấy:
Chỉ có Đăm San mới đủ sức mạnh thuần phục những con voi dữ.
Chỉ có Đăm San đốc xuất, chỉ huy tôi tớ dân làng đi đánh cá, đốn cây,
làm nương rẫy.
Chỉ có Đăm San đảm đương việc giữ nương lúa, đuổi thú rừng, v.v…
Trong khi đó người đàn bà làm gì?
– “Còn Hơ Nhí, Hơ Bhí thì kẻ ngồi may áo bên cửa, người dệt vải ở
dưới sàn nhà”.
Tình trạng đó có thể là nguyên nhân sâu xa của những biểu hiện hành
động không chịu ở địa vị bị phụ thuộc, bị chi phối của Đăm San khi chàng ở
nhà vợ.
Nhưng bài ca đã không phát triển theo hướng khai thác mâu thuẫn ấy,
vì vậy chúng ta cũng không nên đi quá xa.
Sau những chuyện gay go xung quanh việc nối dây và trong những
buổi đầu ở nhà vợ, cuộc đời của Đăm San từ đây mở ra một giai đoạn mới,
đầy thành tích và chiến công kỳ diệu. Ý chí và khát vọng của “người tù trưởng
đầu đội khăn kép vai mang túi da” ấy lại được tiếp tục miêu tả trong khung
cảnh những cuộc chiến đấu gay go quyết liệt chống thiên nhiên và chống kẻ
thù bên ngoài, tức là trong những hoàn cảnh tiêu biểu nhất của thời đại.
Những thành tích phi thường trong lao động, những chiến công rực rỡ
trong chiến đấu của Đăm San tưởng như đã đưa chàng lên tới tuyệt đỉnh của
sự giàu mạnh. Nhưng tất cả của cải và vinh quang chàng đã có, và cả hai
người vợ đẹp “trong như nước trong ống, sáng như nước trong bầu” đều
không thể ngăn bước chân chàng đi lên phía trước. Mặc dù Đăm San đã có
tất cả, như Hơ Nhí ca ngợi: “Ơ anh! Bao nhiêu chiêng núm đều là của anh,
bao nhiêu voi đều là của anh. Anh là một tù trưởng giàu mạnh, đầu đội khăn
kép vai mang túi da. Trăm chiêng núm anh đã có. Trăm chiêng bằng anh đã
có. Trăm con voi anh đã có. Rừng tràn đầy nồi đồng của anh, đồng nước tràn
đầy nồi đồng của anh. Lợn dê anh đầy sàn. Tiếng tăm anh vang đến tận thần
núi; từ phía Tây đến phía Đông, ai cũng phải khen anh là gan dạ anh dũng
đến nỗi bị thương hay ngất đi cũng không lùi trước kẻ địch.
Mặc dù vậy Đăm San vẫn muốn “đi vào rừng không cùng tận”, tức là đi
tìm một cuộc sống tự do hơn, hiểu theo nghĩa giải phóng con người khỏi sự
áp bức chi phối của những lực lượng tự nhiên huyền bí. Cái điệp khúc “của
anh”, “đã có” mà Hơ Nhí hát lên không thể dập tắt được khát vọng anh hùng
trong trái tim sôi nổi của Đăm San.
“Tôi sẽ đi tới chỗ tôi muốn”, đó là câu nói thể hiện được tất cả tính cách
của người tù trưởng oanh liệt ấy. Đó không phải là một khát vọng ngông
cuồng bởi vì nó phản ánh cái khí thế vươn lên mạnh mẽ của một tập thể
người đầy tin tưởng ở những khả năng mới của mình trong cuộc đấu tranh
chinh phục thiên nhiên.
Có thể nói đoạn miêu tả cuộc viễn chinh thần kỳ của Đăm San lên xứ
sở của nữ thần Mặt trời là cả một bài ca anh hùng ca ngợi sức mạnh và lòng
dũng cảm, ca ngợi ý chí và khát vọng của con người trong cuộc đấu tranh
chinh phục thiên nhiên.
Cái chết của Đăm San chứng tỏ rằng con người bấy giờ chưa phải là
kẻ hoàn toàn chiến thắng trong cuộc đấu tranh ấy. Trí tưởng tượng của người
xưa dù phong phú, dù được chủ nghĩa thần linh chắp cánh cho, cũng không
thể thoát ly hiện thực. Con người muốn chinh phục tự nhiên nhưng vì hiểu
biết của họ còn thấp kém, mỏng manh nên họ còn bị nhiều lực lượng tự nhiên
đè nặng trên mình. Một lần nữa chúng ta lại nhớ tới ý kiến của M. Gôrơki về
câu chuyện anh chàng Tăng–ta–lơ khi M. Gôrơki nói về thần thoại và cổ tích
thời thượng cổ. Cái chết của Đăm San, trên ý nghĩa đó mà nói, không phải là
bi kịch của một cá nhân mà là bi kịch của một thời đại.
Song dù sao, việc Đăm San dám đi vào rừng U–minh đen như mực của
bà Sun Y Rít cùng tượng trưng cho ý thức của con người muốn vén màn bí
mật của vũ trụ. Đó là ý chí và khát vọng vĩ đại của con người, đó là bản chất
của loài người vậy.
***
Trở lên trên chúng ta đã phân tích nhân vật Đăm San trên mấy nét căn
bản. Chúng ta đã thấy đó là một con người có sức mạnh và tài năng kỳ diệu,
có tinh thần dũng cảm tuyệt vời, có ý chí phi thường và khát vọng lớn lao.
Ở một xã hội đương trải qua giai đoạn lịch sử đã phát sinh chiến tranh
cướp bóc mà nguyên nhân là “sự theo đuổi của cải người khác và sự khao
khát làm giàu của các tù trưởng tham lam hiếu chiến”, một lù trưởng như
Đăm San quả là một tù trưởng mà người ta mơ ước có để bảo vệ cuộc sống
lao động hòa bình của công xã. Ở một xã hội đương trải qua giai đoạn lịch sử
mà vai trò của người tù trưởng còn có tác dụng thúc đẩy đối với sự phát triển
của xã hội, quyền lợi của họ và của mọi thành viên trong công xã còn gắn bó
với nhau trong cuộc đấu tranh để xây dựng một đời sống mơ ước (“cầu cho
chúng ta được khỏe mạnh, để chúng ta được sống yên vui, để cho đất lại
xanh tươi, nước chảy đều đặn, cho chuối và mía mọc tốt và lên nhiều mầm
non”), thật là dễ hiểu khi mọi thành viên của công xã “trong lòng ai cũng hoan
hỉ vì có người tù trưởng thật oai hùng” như vậy.
Và cũng chính vì lẽ đó mà người ta đã giữ lấy Đăm San mặc dù thể xác
chàng đã lút sâu trong rừng đen. Tác dụng của đoạn cuối bài ca không phải là
tác dụng của một thứ kết cấu vòng tròn hay của lối kết cấu “đầu, cuối tương
ứng” gây ấn tượng về một cuộc sống quẩn quanh “trôi theo dòng cũ”… và
cũng hoàn toàn không phải là tác dụng tiêu cực như có người đã nhận định.
Bởi vì sự láy lại ở đoạn cuối bài ca là sự láy lại với một tầm mức được nâng
cao hơn (như một vòng tròn trôn ốc) nó vừa gây ấn tượng về một cái gì bất
diệt vừa gợi sự suy nghĩ về một sự tiến triển không cùng.
Chúng ta thấy chú bé Đăm San tuy còn đương vọc đất nhưng đã có
những biểu hiện tài năng đặc biệt khiến cho “ai cũng nói mặc dầu em còn nhỏ
em đã là một tù trưởng như cậu em trước kia”. Chúng ta lại thấy chú bé Đăm
San không biết ai là cha ấy đã vui vẻ nối dây ngay, khác với cậu em xưa kia.
Vì sao? Vì em đã được thừa hưởng tất cả của cải, địa vị, uy thế do cậu em để
lại. Hà tất phải đấu tranh để đòi hỏi cái mà mình đã có. Cho nên hình ảnh chú
bé Đăm San “lớn mới bằng dưa chuột, lớn bằng quả dưa hồng đã biết chọn
chiêng mua voi và đổi tôi tớ”, “biết làm nhà trong rẫy”, “biết làm cỏ rẫy, biết
chặt cây”, ấy quả là “báo hiệu cho những ngày bão táp”, nhưng không phải
trong cuộc đấu tranh chống tập tục nối dây mà trong cuộc đấu tranh để trở
thành một tù trưởng giàu mạnh như Đăm San cậu em xưa kia đã mơ ước,
trong cuộc đấu tranh để tiếp tục đưa bộ lạc tới cuộc sống khỏe mạnh no đủ
yên vui.
Đó là một kết cục tràn đầy tinh thần lạc quan và mang nặng niềm tin
của những sáng tạo, lưu truyền, ấp ủ tác phẩm này vào sức sống, vào tương
lai tươi đẹp của mình.
Tóm lại, xây dựng hình ảnh một người tù trưởng giàu mạnh oai hùng lý
tưởng, ca ngợi người tù trưởng lý tưởng ấy và qua đó nói lên khát vọng vươn
tới cuộc sống phồn vinh của toàn dân Ê–đê, đó là vấn đề chủ yếu được đặt ra
và giải quyết trong thiên trường ca anh hùng xuất sắc này.
2. Bài ca Đăm San, một pho lịch sử văn hóa của xã hội Ê–đê thời cổ đại.
Tuy nhiên, những hành động của cá nhân chưa phải là toàn bộ nội
dung của một tác phẩm anh hùng ca. Cái tạo nên nội dung một thiên anh
hùng ca là cả một xã hội trong đó một hành động cá nhân được thực hiện.
Cho nên ngoài hành động của cá nhân, nội dung anh hùng ca còn bao gồm
cả những đối tượng miêu tả khác nhau, phù hợp với những quan niệm và
những trạng huống của một xã hội xác định. Chính những đối tượng được
miêu tả này liên kết hành động của cá nhân với toàn thể của thời đại và đời
sống toàn dân, đem lại tính thống nhất cho tác phẩm và khiến cho tác phẩm
trở thành bức chân dung của một dân tộc trong thời đại mà họ vừa “thoát khỏi
sự u mê và cảm thấy ý thức của mình thức tỉnh”.
Nội dung của bài ca Đăm San cũng có phần tiếp cận với đặc điểm ấy
của những anh hùng ca cổ điển.
Bài ca đã miêu tả hiện thực xã hội Ê–đê thời cổ đại trên một bình diện
rộng rãi và với nhiều chi tiết tỉ mỉ, từ những cảnh chém giết khủng khiếp tới
những sinh hoạt tươi vui của cuộc sống thanh bình.
Giữa khung cảnh hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên, những làng mạc
Ê–đê hiện ra trù phú và đẹp như trong một giấc mơ:
“… Làng cất trên một ngọn đồi lum lum như một mu rùa. Các rẫy lưng
chừng trên sườn núi. Trâu bò nhi nhúc như bầy mối và bầy kiến. Đường từ
bên trái qua bên phải rộng đến nỗi hai người đứng hai bên đường một người
thẳng tay giơ lên một cái lao và một người thẳng tay giơ lên một con dao dài
cũng chưa chạm nhau. Dấu chân ngựa và voi trên đường làm cho đường
giống như một sợi dây đanh. Tớ trai đi lại chen nhau ngực sát ngực. Tớ gái
vú sát vú. Thật không có gì đẹp và nhộn nhịp như làng này. Dấu chân ngựa
nhiều như dấu chân con rết. Dấu chân voi to và sâu như đáy cối. Nồi đồng
nhiều như ốc sên trong rừng. Nhà dài như tiếng chiêng. Hiên nhà dài bằng
sức bay một con chim. Trên sân, trước hiên, chim vàng anh và chim sáo nhảy
đi, nhảy lại. Các khăn ngũ sắc phơi đầy sào!
Trong khung cảnh kỳ lạ đó đi về những con người đối với chúng ta
ngày nay vừa xa xôi vừa gần gũi; đàn bà thì duyên dáng xinh đẹp, “đẹp như
một bầu trời lấp lánh đầy sao”; đàn ông thì lịch sự oai hùng, “oai linh vang đến
tận thần linh sông núi”. Những con người ấy đã sống một cuộc sống “gần
cuộc sống thật nhưng phong phú hơn, phóng khoáng hơn, cao xa hơn” với
những cảnh vui chơi như hội hè “khách khứa đầy nhà, ăn uống linh đình,
nhạc đánh inh rừng núi suốt ngày đêm”.
“… Nhà Đăm San đông đặc cả người đến uống rượu… Tất cả mọi
người dự lễ uống rượu ăn thịt lợn và thịt dê. Thịt lợn thì nấu trong ống tre alê.
Thịt dê thì nấu trong ống tre mơố. Trong nhà các dây treo chiêng nhiều đến
nỗi chằng chịt lấy nhau như mạng nhện. Ngoài hiên vải sợi xanh, đỏ, vàng
treo đầy sân trông như hoa… Đất dưới nhà bị rượu chảy xuống tràn ngập đến
nỗi giun phải bò ra khỏi đất, dế bò ra khỏi lỗ, ếch nhái nổi lên kêu như là có
mưa lụt…”.
Cuộc sống phong phú ấy mở ra trước mắt chúng ta những cảnh sinh
hoạt không phải chỉ của một cá nhân, một gia đình mà của một tập thể. Đó là
những cảnh lao động sản xuất tấp nập như làm rẫy, bắt cá. Đó là những nét
tiêu biểu nhất của phong tục tập quán: tục chuê–nuê đầy sức mạnh, nghi thức
kết hôn kỳ lạ, những trò giải trí hồn nhiên, lễ đãi khách ân cần trang trọng,
cách tổ chức tang lễ phức tạp và đủ các loại tế lễ cầu thần linh… Cho tới cả
những chi tiết như kiểu phục trang, cách ăn uống, v v… cũng đều được miêu
tả khá tỉ mỉ. Nhà thơ đã trình bày những chi tiết ấy như những bộ phận hữu
cơ của cuộc sống con người với một niềm say sưa, tự hào đặc biệt, tựa như
người nông dân sau này đã dùng lại khi trò chuyện về cái sân phơi, mái gà
ấp, về một ấm nước chè xanh giữa ngày hội lúa hay một năm tháng mưa
thuận gió hòa.
Trên cái nền rộng lớn đó của đời sống toàn dân nổi bật lên hai loại sự
kiện có ý nghĩa lịch sử: những cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc in dấu giai
đoạn tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và những chuyển biến sâu sắc
trong lòng công xã: sự tích lũy của cải của những người chịu trách nhiệm tù
trưởng, sự xuất hiện những yếu tố sẽ làm lung lay gốc rễ của chế độ mẫu
quyền.
Với một nội dung phong phú như thế, bài ca Đăm San, bên cạnh giá trị
văn học, còn có ý nghĩa như một pho lịch sử văn hóa của dân tộc Ê–đê trong
thời niên thiếu xa xăm của họ.
3. Nghệ thuật khan Đăm San, một thứ “kiểu mẫu không thể nào bắt chước được
Khan Đăm San sở dĩ có sức hấp dẫn phi thường đối với người nghe,
khiến cho mỗi lần kề thì “trai gái trẻ già không sót một ai không đến nghe…
nhiều khi nghe xong còn yêu cầu kể lại, kể tiếp hai ba đêm vẫn nghe, không ai
buồn ngủ, không ai bỏ về” là vì nội dung có gía trị của nó, đã được biểu hiện
bằng một nghệ thuật đặc sắc.
Khan hầu như là một nghệ thuật tổng hợp: là thơ, là truyện, lại là kịch.
Vì vậy về hình thức nghệ thuật, có nhiều vấn đề đáng nghiên cứu. Ở đây
chúng ta tìm hiểu bài ca ở phương diện coi nó là một trườmg ca anh hùng,
nhưng phân tích trên một bản dịch, nên chỉ có thể đi sâu vào hai đặc điểm:
nghệ thuật tự sự và nghệ thuật xây dựng hình tượng.
Tính chất tự sự là một tính chất căn bản của hình thức anh hùng ca.
Trong khan Đăm San yêu cầu của nghệ thuật tự sự và yêu cầu của tính chất
truyền miệng đã được chú ý đầy đủ.
Trước hết ta thấy cách kết cấu của bài ca cũng na ná như cách kết cấu
của các truyện chương hồi. Mỗi chương khúc kể trọn vẹn một sự việc, một
thử thách, một chiến công của nhân vật anh hùng ca. Điều đáng chú ý là các
chương khúc đó đã được sắp xếp theo một trình tự phát triển dồn dập từ thấp
đến cao càng ngày càng gay go quyết liệt, có tính kịch khá cao–đồng thời lại
không rời rạc mà kết hợp chặt chẽ với nhau để tạo thành một tác phẩm duy
nhất, hoàn chỉnh. Tất cả sự việc bố trí trong bảy chương khúc đều xoay
quanh một nhân vật trung tâm là Đăm San, với một tính cách thống nhất ngày
càng phát triển, gây ra những hành động ngày càng quyết liệt, tạo ra những
thành tích chiến công ngày càng lớn lao. Về tính kịch nếu chúng ta so sánh
bài ca Đăm San với hai thiên anh hùng ca I–li–at và Ô–đi–xê, chúng ta sẽ
thấy có một điểm đáng chú ý. Trong Ô–đi–xê, sự diễn biến của hành động tuy
rất gay go nhưng người nghe chuyện thường được báo trước bằng những lời
“sấm” của thần. Tất cả câu chuyện chiến đấu ác liệt quanh thành I–li–ông đều
đã được bàn bạc xếp đặt trước ở những cuộc hội nghị trên đỉnh Ô–lanh–pơ.
Vì thế, xét về nghệ thuật tự sự, câu chuyện phần nào bớt gây hồi hộp. Ở khan
Đăm San thì khác, người nghe chỉ còn biết theo dõi, chờ đợi lo lắng cho số
phận của nhân vật mình yên mến. Đó là vì trong khan Đăm San thế giới thần
linh đã khá mờ nhạt (so với I–li–at và Ô–đi–xê) thần thánh nói chung không
giữ vai trò gì đáng kể trong sự diễn biến của cốt truyện, trong xu hướng hành
động của con người.
Nghệ thuật tự sự của bài ca còn hấp dẫn ở chỗ nó được sử dụng qua
phương pháp tương phản khá tài tình, một phương tiện quan trọng của nghệ
thuật anh hùng ca. Nội dung của anh hùng ca đã là một chuỗi những tương
phản giữa con người với những trở lực gặp phải khi họ thực hiện những mục
đích nhất định. Có dùng những phương pháp tương phản mới diễn tả được
đầy đủ cũng như đề cao được đầy đủ hành động anh hùng. Đối với thơ anh
hùng ca thì điều quan trọng hơn cả không phải là bản thân những mục đích,
những ước vọng của các anh hùng mà là tất cả những cái gì đã xảy ra khi họ
phấn đấu để thực hiện những mục đích, thỏa mãn những ước vọng của mình.
Thí dụ, trong đoạn Đăm San đi bắt nữ thần Mặt Trời chẳng hạn, chúng ta thấy
phương pháp tương phản đã được vận dụng như thế nào? Con đường lên
gặp vị nữ thần xinh đẹp bầy ra bao nhiêu khó khăn nguy hiểm.
– “… Dưới nước thì đỉa, trên cây thì sên, nó cắn chết. Xương người
đầy bìa rừng, xương trâu xương bò đầy núi. Chỗ ấy đã chết biết bao tù
trưởng khỏe mạnh và cương quyết. Đất trong rừng là đất đen nhão như
nước. Nhiều tù trưởng đã chết lún trong đất lỏng ấy… rừng đầy chông gai,
nhiều đến nỗi con sóc có nhảy vào thì thân đã bị đâm thủng trước lúc chân sờ
đất”. Đó là con đường mà “tù trưởng vào, chết tù trưởng. Người giàu sang
vào, chết người giàu sang. Người gan dạ vào, chết người gan dạ”.
– “Mặc kệ! Để tôi kiếm một lối đi”. Đăm San đã trả lời tù trưởng Đam
Pác Quây như vậy. Chàng vẫn vừng lòng tin ở sức mạnh và ý chí của mình.
Thế tương phản giữa hai lực lượng được dựng lên hết sức sinh động: một
bên là lực lượng thiên nhiên huyền bí, đáng sợ nhưng đầy vẻ kích thích, một
bên là người dũng cảm kiên cường, song cũng có phần bé nhỏ vì đơn độc.
Trên thế tương phản ấy, trong quá trình sự việc biến diễn, hình ảnh người
anh hùng Đăm San một mặt tượng trưng cho ý chí vĩ đại của con người, mặt
khác lại phản ánh sự bất lực của họ trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên ở
thời cổ.
Phương pháp tương phản cũng làm cho câu chuyện giàu màu sắc và
lôi cuốn. Ai nấy đều biết I–li–át là một thiên anh hùng ca đầy cảnh chém giết
như đầu rơi máu chảy. Nhưng các đoạn miêu tả những cảnh yến tiệc tưng
bừng, cuộc gặp gỡ giữa Ec–to–rơ và Ăng-đrô–mác ở cửa thành Tơ–roa khói
lửa, những trò chơi trong đám tang Pa–trôk, những hình ảnh khắc họa trên
cái khiên của Asilơ v.v… là gì nếu không phải là những bức tranh phập
phồng, hơi thở của cuộc sống thanh bình? Và ta cũng không thể nào quên
được rằng phần lớn những hình ảnh so sánh mà Hô–me dùng khi kể lại
những trận giao tranh khủng khiếp giữa các dũng sĩ Hy Lạp và Troay–ăng,
chính lại là những hình ảnh đậm đà màu sắc của hòa bình hạnh phúc và lao
động.
Còn ở Ô–đi–xê, bản trường ca về cuộc sống thanh bình như người ta
thường nói, ta cũng thấy một nét tương phản tương tự. Đọc Ô–đi–xê, chúng
ta như bước vào một cuộc sống tươi vui với những yến tiệc xa hoa náo nhiệt,
những cuộc đua ngựa, đấu quyền, bắn cung thú vị, những cảnh gặp gỡ thơ
mộng, những cuộc dạo chơi êm đềm, cảnh đoàn viên xúc động lòng người…
Nhưng đâu phải cuộc hồi hương cô độc của Uy–lít–xơ là thuận buồm xuôi
gió. Trái lại người anh hùng đầy mưu trí ấy đã phải chịu bao nỗi gian truân
khổ ải; bao nhiêu biến cố đẫm máu đã xảy ra trước khi chàng được gặp lại
người vợ thủy chung sau hai mươi năm xa cách.
Khan Đăm San của chúng ta cũng vậy, không phải chỉ có những cuộc
thử thách gay go và những trận chiến đấu dữ dội. Điểm xen vào những cảnh
tượng hùng tráng là những hình ảnh êm đềm. Bên cạnh không khí sôi sục
của những cuộc hành quân, những đợt giáp chiến, bên cạnh hình thù cổ quái
ghê sợ của những tù trưởng hung tợn như Mơ–tao Grư, Mơ–tao Mơ–xây,
bên cạnh ánh sáng lạnh lẽo của vũ khí… thỉnh thoảng lại hiện lên hình ảnh
dịu dàng của những thiếu nữ xinh đẹp, “đẹp cũng bằng hai vườn hoa quả” Lối
cư xử nhã nhặn, niềm nở, tế nhị của một xã hội quý khách đôi lúc lại thay thế
cho những lời nạt nộ hùng hổ trong chiến trận. Lồng vào hình thức đối thoại,
tả cảnh, kể việc, đây đó có những bài thơ trữ tình – những lời than khóc của
con tim tha thiết yêu thương. Cách kể chuyện của bài ca vì vậy đỡ khô khan
đơn điệu.
Một đặc điểm nữa của nghệ thuật tự sự ở đây là lối dùng điệp khúc.
Một tác phẩm truyền miệng dài muốn làm cho người nghe dễ theo dõi, khỏi
quên mất những điều đã được nghe ở đoạn trước, thỉnh thoảng không thể
không nhắc lại. Hơn nữa sự lắp lại ấy còn có tác dụng tô đậm khắc sâu thêm
những hình ảnh, những chi tiết nghệ thuật nào đó, đồng thời góp phần tạo ra
phong cách trang trọng của anh hùng ca. Trong I–li–at, Ô–đi–xê có những
đoạn dài được nhắc lại đầy đủ, từ nội dung lời phán bảo của Dớt cho tới
những chi tiết trong các cuộc tiếp khách, trong thủ tục tế lễ thần linh. Ở bài ca
Đăm San cũng vậy, có những hình ảnh, những chi tiết được nhắc lại nguyên
vẹn, không thêm bớt một tiếng. Sự lắp lại ở đây không làm cho người ta thấy
nhàm, thấy ngấy, trái lại nhiều khi ta thấy rất cần thiết phải tô lại một hình ảnh
tập trung, nhắc lại một lời nói cô đúc để rung cảm sâu sắc. Điệp khúc tiếng
chiêng được nhắc lại bốn lần, mỗi lần láy lại như vọng ra một âm hưởng mới.
Điệp khúc “người tù trưởng đầu đội khăn kép vai mang túi da” đã in sâu hình
dáng đường bệ riêng biệt của Đăm San vào ký ức người nghe kể khan.
Ngoài ra trong cách kiến trúc câu văn hình như có một sự cân đối về ý
và nhịp điệu làm cho lời thơ có vẻ trang trọng cầu kỳ và thêm dễ nhớ. Có thể
coi đoạn văn sau đây là một đoạn văn tiêu biểu về mặt này:
“Hỡi anh Y–su, Y–sa, Y–la, Y–pui! Các anh biết sắp xếp công việc, hãy
sắp xếp đem theo dây buộc, thùng đựng. Hãy mời tới đây tất cả bà con, tất cả
bộ tộc, từ người Muông miệng rộng đến người Bih tai sề. Tập trung giáo mác
và tên nỏ. Hãy gọi về tất cả dân trong vùng để cùng ta đi đánh một tướng giàu
mạnh. Gọi về các tù trưởng Bih những người đeo vòng cổ bằng răng hùm.
Gọi về các tù trưởng Muông mang vòng răng rắn. Gọi về hết, tất cả những
người ở phía Đông cũng như ở phía Tây. Các con! Tôi tớ của ta! Hãy theo ta
đi đánh một trận to”. Về nghệ thuật xây dựng hình tượng của bài ca Đăm San,
nhiều người đã chú ý tìm hiểu vì đây là một đặc điểm nổi bật của tác phẩm.
Ngôn ngữ trong các bản trường ca là một thứ ngôn ngữ cụ thể, hình ảnh.
Như chúng ta đã biết, đặc điểm ấy có liên quan mật thiết với tính chất cụ thể,
hình ảnh, với lối nhân cách hóa các vật vô tri và các hiện tượng, với lối biểu
hiện những cái mà tri giác cụ thể không thể hiểu thấu được như là một cái gì
cụ thể xác thực, của tư duy cổ đại. Mặt khác, việc cấu tạo hình ảnh nói chung
thường cần sử dụng phương pháp so sánh. Trong các bản anh hùng ca do
sự cần thiết phải kỳ vĩ hóa mọi hiện tượng nên phương pháp so sánh càng
được chú trọng. Sự so sánh ở đây do đó luôn luôn đi đôi với lối cường điệu
hóa. Trí tưởng tượng của người xưa, với ảnh hưởng mạnh mẽ cùng những
quan niệm ấu trĩ về giới tự nhiên, là cơ sở thuận lợi của việc sáng tạo ra
những hình ảnh thần kỳ.
Bởi những lẽ đó, nói tới nghệ thuật anh hùng ca là nói tới ngôn ngữ
giàu hình tượng, nói tới phương pháp so sánh trong cách cấu tạo hình ảnh.
Để tránh ý nghĩ sai lầm cho rằng chỉ có trường ca Tây Nguyên mới có đặc
điểm này, chúng ta hãy đọc lại một đoạn văn trong anh hùng ca I–li–at, đoạn
văn tả cảnh hành quân của các chiến sĩ Akêen (Achéens).
“Như một ngọn lửa phá hoại đốt cháy cánh rừng mênh mông trên các
đỉnh núi, và từ xa người ta trông thấy ánh sáng của nó, như vậy, các chiến sĩ
bước đi, vũ khí tuyệt diệu của họ bắt phản quang chói lọi qua bầu khí ête, lên
tận trời xanh. Như những con chim có cánh, thành từng bầy đông đảo, những
ngỗng trời, giang sếu cổ dài trong thảo nguyên A–di–a, trên dòng sông Cây–
xtơ–rơ, hay đây đó, tự hào về cặp cánh của chúng đậu xuống và kêu vang cả
đồng cỏ, như vậy, đoàn quân từ các chiến thuyền, lều trải, tràn ra khắp thảo
nguyên Xca–măng–đơ–rơ. Mặt đất rền vang một cách kinh khủng dưới gót
chân và vó ngựa của họ. Họ dừng lại trong thảo nguyên đầy hoa, hàng ngàn
vạn người, như lá và hoa trong mùa nở hoa nẩy lộc. Như những đám ruồi
dông nghịt bay vơ vẩn trong chuồng cừu vào mùa xuân, khi sữa tràn đầy các
bình chứa. Cũng đông như vậy, đối diện với quân Troay– ăng, các chiến sĩ
Akê–en để tóc dài dừng bước ở đồng bằng, nóng lòng muốn đánh tan ngay
kẻ địch. Và như những bầy dê đang tải mát, những chàng mục đồng dễ dàng
lùa bắt sau khi chúng lẩn vào đồng cỏ, cũng vậy các thủ lĩnh chỉnh đốn quân
sĩ vào đội ngũ, chuẩn bị lao vào cuộc chiến đấu cùng với Agamemnông oai
hùng, người giống ở cách nhìn và dáng đầu với Dớt gieo sấm sét, với thần
Arét ở đai lưng, và ở bộ ngực với thần Pô–xê–đông…” (I–li–át – chương II).
Trong bài ca Đăm San, phương pháp so sánh – so sánh có cường điệu
hóa – được sử dụng hết sức rộng rãi, từ tả người, tả cảnh, tả việc tới tả tình,
kể cả việc diễn đạt những ý trừu tượng. Ngoài những hình ảnh kỳ thú, độc
đáo, thi vị và bên cạnh sự biểu đạt một khái niệm, diễn tả một đối tượng bằng
nhiều hình ảnh chúng ta cũng nên chú ý tới những hình ảnh ngôn ngữ hầu
như đã được cố định lại. Thí dụ, người ta thường nói: “đông như mối, như
kiến”, “trắng như hoa ê–pạng”, v.v…; một người tù trưởng hùng cường khi
bước vào nhà ai cũng “giẫm chân hai cái trước hiên nhà làm cho nhà lắc đi
lắc lại bảy lần”; đãi khách ăn thì có một “công thức”, từ cách nấu nướng: “đốt
một con gà ấp, giết một con gà đẻ, giã gạo trắng long lanh”, tới lời mời mọc:
“Kính mời khách ăn cơm. Cơm tôi có mùi mốc, nước tôi có mùi tanh và người
đãi ông là một con diều con quạ”, và người khách nào cùng đưa đẩy: “Như
thế này là quý lắm… Tôi tới nhà bà tôi mới được ăn cơm. Ở nhà tôi, một quả
dưa tôi ăn ba năm, một quả chuối tôi ăn ba ngày”.
Đấy có thể là những nguyên liệu lấy từ lời ăn tiếng nói thường ngày của
quần chúng, đồng thời, ở một số trường hợp có thể là mầm mống của yếu tố
cách điệu hóa trong nghệ thuật sân khấu dân gian…
***
Một nội dung chứa đựng quá khứ trọn vẹn của một xã hội, ước mơ lớn
lao của một dân tộc, một hình thức nghệ thuật độc đáo, đầy vẻ phác dã
nhưng giàu chất thơ và rực rỡ màu sắc sinh động, gắn liền với những điều
kiện lịch sử một đi không trở lại – đó là tất cả sức hấp dẫn và sức sống của
khan Đăm San.
III. XỐNG CHỤ SÔN SAODân tộc Thái vốn có một nền văn nghệ lâu đời. Từ xưa đã truyền tụng
những bản tình ca nổi tiếng như Tản chụ xiết xương, Khún Lú Nàng Ủa… Có
thể nói Xống chụ sôn sao là một bản tình ca hay vào bậc nhất trong các bản
tình ca đó. Nhân dân Thái nâng niu ấp ủ Xống chụ sôn sao như nâng niu ấp ủ
viên ngọc quý, gắn bó với Xống chụ sôn sao như gắn bó với người bạn tâm
tình. Thế mà bọn phong kiến và thực dân lại tìm cách dìm Xống chụ sôn sao,
xuyên tạc nội dung Xống chụ sôn sao; chúng phao lên rằng: “đọc Xống chụ
sôn sao không nên đọc hết, đọc hết ma quỉ sẽ làm cho điên hoặc vợ chồng
mới cưới đọc Xống chụ sôn sao, gia đình sẽ tan vỡ…”. Có chăng thì ma quỉ
đó là những kiếp người bằng xương bằng thịt phải chịu bao uất hận thương
đau dưới áp bức bóc lột của giai cấp thống trị, nên đã phải điên cuồng vùng
lên chiến đấu giành lấy quyền sống của họ và như vậy không phải làm cho
gia đình họ tan vỡ, mà chính làm cho gia đình họ vốn đã tan vỡ, sẽ lại đoàn tụ
êm ấm như họ thường mong ước. Như vậy, bọn phong kiến và thực dân sợ
“Xống chụ sôn sao” là lẽ tất nhiên, vì “Xống chụ sôn sao” đã gián tiếp tố cáo
bộ mặt gian ác của chúng bằng cách nêu lên một thảm kịch đầy nước mắt về
tình yêu trong xã hội cũ.
1. Xống chụ sôn sao: một thảm kịch đầy nước mắt về tình yêu trong xã hội cũ.
Từ hai gia đình quen thuộc, đôi lứa sống bên nhau từ thuở còn “lẫm
chẫm, thơ ngây”:
Đi một mình nhớ mẹ,
Thút thít cạnh chuồng trâu.
Bê dưa bở làm em,
Lấy dây leo chằng cột nhà làm vải…
Thế rồi chị “lớn thành gái”, biết nhuộm răng, che vú độn tóc, biết lên
sàn nhóm lửa và anh cũng “lớn thành trai” biết cắt sáo, cắt đàn môi. Qua bao
lần “gặp nhau nơi sàn hoa, tâm tình bên bếp lửa”, lứa đôi hẹn hò và “trao
duyên gửi nghĩa”:
Tình đôi ta nắm xôi nhuyễn chặt
Chung trái tim không thể xẻ làm đôi.
Có điều, yêu nhau đã chắc gì lấy được nhau, tình đời còn trăm nỗi éo
le! Còn có số mệnh, mà chính là còn có ràng buộc của lễ nghi, của tiền bạc,
của cường quyền! Ngẫm lại những mối duyên xưa trắc trở, như mối duyên
“Khún Lú nàng Ủa, lứa đôi dường như đã linh cảm được bước đi của mình.
Có những lời tâm tình thật là tội nghiệp. Chị cảm thấy duyên mình rồi bị ép:
Yêu nhau sợ Then không thương,
Then thương, sợ trời cao không giúp
Trời giúp, sợ mẹ cha không ưng:
Cây không ngả, sợ cha em cứ bắt ngả,
Lòng không yêu, sợ mẹ em cứ buộc phải yêu!…
và anh cũng cảm thấy tình mình rồi sẽ tan:
Anh ước cùng nhau dựng nhà
Nhưng e làm nhà rách, người mắng
Dựng nhà hoang, người chê.
Người qua trước ngõ, người cười!…
Sống trong hoàn cảnh tối tăm thời bấy giờ, con người tất nhiên thường
tin ở số mệnh. Cuộc đời đôi lứa rồi đây không biết có thoát được cảnh bị
Then đầy đọa từ trần gian đến thượng giới như Khún Lú Nàng Ủa, để rồi làm
cái kiếp sao hôm, sao mai biết bao giờ đoàn tụ? Làm thế nào biết được ý của
Then? Mẹ anh đã bói cho anh một quẻ và quẻ bói hình như hay nhiều hơn
dở. Anh nhà nghèo, xoay xở chạy người mối người mai, kiếm cho được gói
“trầu xanh tươi”, buồng cau “sai quả” rồi vội vàng đến đặt lễ dạm.
Anh lạy cha em bốn lạy
Nộp mẹ em bốn lễ
Xin làm gà gô, cun cút cỗ trơn…
Làm rể quý, rể yêu nằm quản
Nhưng anh bị cha mẹ chị từ chối, để chọn một người rể khác có nhiều
bạc nén hơn anh, mặc dù anh này tư cách kém anh, hình thù kém anh và
nhất là không được cô con gái yêu thương. Anh ra về tủi nhục, uất hận trào
nước mắt:
Cúi mặt nước mắt rỏ,
Ngẩng đầu hàng lệ rưng!
Bước đầu, anh đã thấy được lòng người đen bạc:
Người ta trầu vàng, cau rụng,
Gừng gà quắt gói lá dong khô.
Trèo lên quản, cha mẹ em vui mừng hớn hở.
Còn anh cau cả buồng sai quả;
Trầu xanh tươi, muôn lá gói mang về,
Bước lên quản, cha mẹ em hất xuống…
Không giàu có, không nhiều tiền nhiều bạc, không thể giữ trọn được
tình yêu!
Bạc không nặng bằng người, giành em yêu được sao? Anh đành bỏ
ruộng rẫy “đeo gươm khoác túi” đi Lào buôn bán, qua đồi rậm rừng quang,
“vượt bao gian lao khổ sở” “nghe hổ báo rừng sâu gầm thét”.
Núi tiếp núi trập trùng
Khe tiếp khe gập ghềnh đá dựng…
Anh tưởng chạy theo đồng tiền và nhờ đồng tiền nối lại tấm tình đã tan,
nhưng anh vẫn không thắng được bao nhiêu trắc trở mà anh không tính trước
được. Ngót chín mười năm trời buôn thua bán lỗ, đến khi dành được số tiền
quay về định chuộc lại người yêu, thì khốn nỗi, chị đã có con:
Khi anh đi khăn piêu đen em còn vắt ngang sào
Khi anh về áo con nhỏ đã dăng dăng đầy sàn.
Tình cảnh bi đát của anh giống như tình cảnh bi đát của chàng trai nọ
trong câu ca dao:
Ngày đi trúc chửa mọc măng,
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre…
Anh thấy “trồng chuối thành buồng nhiều quả” cũng dễ, hay “trồng mây
thành búi nhiều cành” cũng dễ, nhưng vun vén chút hạnh phúc lứa đôi sao mà
ba chìm bảy nổi!
Dựng một mối tình sao nghiêng ngửa nát tan!
Anh vươn lên cho giàu có, thì giàu có, anh vươn lên nối lại mối tình
xưa, thì duyên trăm năm vẫn đành đứt đoạn, anh đành nhắm mắt xây dựng
một cuộc đời tuy bề ngoài “cười nụ”, nhưng bề trong “khóc thầm”. Tội nghiệp
cho anh khi nghĩ đến người xưa thì chỉ thấy “khác nào hoa tươi đỉnh núi; mắt
nhìn tay vươn chẳng tới”.
Anh khóc trước thì chị khóc sau. Chị đi vắng, cha mẹ chị đã nhận lễ của
người; khi chị về thì mọi việc đã xong xuôi. Mối linh cảm của chị thời xưa đã
thành sự thật. Có ai không đau xót với mối tình đau xót của chị, khi chị lòng
run lên hoảng hốt được tin mình đã bị gả bán cho người:
Em lập cập chạy ra sàn
Mâm cơm chiều dọn vội
Nghĩ đến anh mà nát ruột gan…
… Run lập cập chạy vào đằng quản
Cất tiếng xa gần trách chú:
Giúp cháu với, bác trai bác gái nhà trên,
Giúp cháu với, ơi chú, ơi thím nhà dưới!
Quả là một tiếng kêu đau thương của mối tình đứt đoạn, một tiếng kêu
cấp cứu, của cuộc đời nát tan! Khốn nỗi cha mẹ chị, bà con chị có biết đâu?
Cha mẹ chị có tham tiền tham bạc, nhưng đâu có phải mục đích làm cho cuộc
đời chị bị dập vùi? Sống trong xã hội tối tăm thời đó, cha mẹ chị, họ hàng chị
tưởng làm như vậy là tự mình tìm được hạnh phúc và đồng thời cũng tìm
được hạnh phúc cho cái con! Các người đó có biết đâu họ đương sống trong
một thảm kịch và tự tay mình lại dắt cái con mình vào một thảm kịch khác gây
ra do mâu thuẫn giữa ràng buộc của chế độ phong kiến với quyền sống con
người. Không cắt nghĩa được tình đời, không tìm ra lối thoát, cũng như anh,
chị đành hướng về số mệnh, rồi lặp lại cái điệp khúc tự trách mình mà anh
thường hay nói khi cùng chị chia tay.
Em đã tính mà tính không đủ
Em đã lo mà lo chẳng tròn…
Buồn tủi, chị cũng chưa biết làm gì hơn là khóc như anh, đành rằng
khóc cũng chưa hẳn đã giảm được đau thương. Nếu nước mắt anh
đầm gối, thấm đệm thì nước mắt chị:
… Rỏ hai dòng… rỏ ba dòng
Dòng rơi đằng trước đủ rửa rau muôn giỏ
Dòng rơi đằng sau đủ rửa rau muôn vườn…
Trong tấn thảm kịch này, chị khóc nhiều hơn anh, vì đời chị ba chìm
bảy nổi hơn đời anh:
Máu không rớt mà đau tận ruột
Máu không rơi mà buốt tận tim
Đau trong ruột, không người đoái hoài,
Buốt trong tim, thăm hỏi nào ai?
Xót xa em trùm chăn thầm khóc
Cúi mặt nước mắt rỏ:
Ngửng đầu hàng lệ rưng!…
Chị có vươn lên phản kháng, nhưng rồi cũng dành theo người chồng
mà cha mẹ đã “đặt”. Chị đau khỏ ra đi trong khi mọi người ”tiệc rượu đang
nồng”. Thuở biệt ly thật là buồn thảm, chị chào cha, chào mẹ, chào bà con họ
hàng, chào đàn vịt thường mắn đẻ, chào đàn gà thường chăm gáy, chào
khung cửi, guồng xa, con thoi, cái suốt, chào vườn gừng nhỏ bên suối, chào
vườn riềng xinh trước ngõ… Tính biệt ly của chị xiết bao chan chứa, đau
thương, cũng chan chứa đau thương như tình của Cao Bá Nhạ khi rời nơi ẩn
náu để bước đến chỗ có đoạn đầu đài:
“Phút nửa khắc muôn vàn thê thảm
Trong một mình bảy, tám biệt ly…”
Có khác chăng là Cao Bá Nhạ đi đến cái chết oan khốc, còn chị thì đi
đến một cuộc đời đày đọa, đến cái kiếp làm vợ, làm dâu mấy lần dưới chế độ
cũ. Quả là cái kiếp “bụi lấm chôn vùi”. Nàng Kiều bán mình cứu cha, còn có
chút chủ động để tự an ủi mình là đã gắng cho tròn chữ hiếu. Chị ở đây thì bị
động từ đầu chí cuối, ngẫm thân mình như “con bọ ngựa”. Kiếp làm dâu của
chị chính là kiếp ngựa trâu, khi làm thì trăm công nghìn nỗi, từ việc đuổi vịt
phá ngoài ruộng cho đến việc vặt lông gà bên xó cửa, nhưng khi ăn thì “xuống
sàn ăn cám”, rưng nước mắt trước bát cơm thừa canh cặn:
Em đi cơm chưa dọn
Canh cá ngon đầu nồi
Em về cơm xong rồi
Miếng nhai thừa bỏ lại!…
Chị thấy rõ ràng cuộc đời đen bạc: khi người ta chưa cưới được chị, thì
người ta “vồ vập”, “xun xoe”, nay thì người ta bắt đầu ruồng rẫy. Nhưng chị
cũng không vì thế mà nhụt ý chí chống đối của mình, có lúc chị tỏ ra phản
ứng “kiếm rau không đủ đĩa, thái gỏi thái không xong”. Tuy vậy, chị cũng chưa
vượt ra được mọi ràng buộc của lễ giáo phong kiến, nên đến khi bị dồn vào
thế quẫn, chị có lúc đã phải kể lại một cách tội nghiệp:
“Em van người em nói:
– Lỗi cha con xin khất
Lỗi mẹ con xin đền…
Chị xin “cúng gà người không thèm, cúng lợn người khẽ liếc”; người đòi
cúng voi, phận chị nghèo lấy đâu ra, nên đành phải để cho chồng theo lệnh
bố, đánh đập chị tàn nhẫn mấy phen:
Người mới bảo chồng em vác gậy to xuống đánh
Cầm gậy dài xuống phang
Đánh em khi chập tối
Nện em hồi nửa đêm
Nện em như nện bịch
Như chúa Mường nện chiêng…
Nhưng rồi, tức nước thì vỡ bờ, chị bèn rứt áo để trở về quê mẹ. Qua
cái đỗ vỡ của gia đình đó, tác giả muốn nói lên sự bất hợp lý và tàn nhẫn đối
với phụ nữ. Khi ra về, dù chị có mâu thuẫn trong tâm tư, chị cũng đã đạt được
một bước thắng lợi và được quần chúng đứng về phía chính nghĩa tán thành.
Chị trở về nhà cha mẹ mình, đau đớn, nói rõ với cha mẹ chị là chị làm đã kiệt
sức:
Làm đến rách áo cho nhà “ông”
Làm bằng trời không mảnh cót lót lưng.
Nhưng khốn nỗi miệng thế mỉa mai, có người đã không thông cảm lại
còn “ùa đến mắng”, dồn xuôi, dồn ngược… khiến cho cha mẹ chị cũng mất
bình tĩnh mà đẩy chị đi bước nữa. Lại thêm một lần chị dấn thân vào kiếp bảy
nổi ba chìm, để rồi bị người ta đưa ra chợ đổi ngang một cuộn lá dong! Tình
cờ chị gặp anh, gặp người yêu cũ, chị đổ thêm một ít nước mắt nữa, để bước
sang một cuộc đời mới. Và cuộc đời mới đến với chị lúc tuổi thanh xuân đã
tàn! Dựng lên toàn cuộc đời của chị, tác giả muốn vạch sự giả dối trong đạo
đức phong kiến và đồng thời tố cáo cảnh bất công trong xã hội cũ, nhất là bất
công đối với phụ nữ. Hẳn là tác giả muốn nói tấn thảm kịch của chị chấm dứt
từ đây? Cũng có thể là như vậy. Có điều, trong xã hội cũ, phụ nữ phải trải qua
không biết bao nhiêu kiếp trầm luân. Chúng ta hy vọng rằng từ đây, hạnh
phúc lứa đôi muôn thuở sáng ngời. Nhưng trong vòng luẩn quẩn của xã hội
cũ, trong cái tối tăm của bể thảm muôn trùng đó, nếu như chị được cứu vớt
khỏi khổ đau, thì người vợ cũ của anh lại đắm chìm trong đau khổ. Hãy lắng
nghe người vợ cũ đó van xin được chồng rủ mối tình thương:
Đừng rũ em như rũ chỉ
Đừng vứt em như khách vứt tầu dong.
Thì ra ở đây, giá trị người phụ nữ vẫn chỉ là một tầu dong! Lời tự hạ
mình của chị xin làm kẻ hầu người hạ thật thảm thê. Biết không cưỡng được
“sự thay bậc đổi ngôi”, nên chỉ muốn được làm “con đòi” “đứa ở” “đỡ chuôi
kiếm cho chồng”, “múc nước rửa chân cho vợ”:
Anh đã có kiềng, xin làm gạch cạch…
Nhưng cuối cùng, chị cũng phải từ biệt con nhỏ, từ biệt người quen
thuộc để ra đi, “quay về nơi mái cũ mẹ hiền”, chị đã dẫm lên con đường uất
hận của người yêu cũ chồng mình. Có khác chăng là khi xưa người yêu cũ
chồng chị ra về trong tiếng chửi rủa, còn nay chị ra về được chồng tiễn đưa
êm ái.
Buổi tiễn đưa, “ngoài xa mưa rơi núi trám, trời chớp nhoáng đồi dong”.
Trong mưa rơi chớp nhoáng đó, có một người vừa đi qua thoát nạn, thì lại có
một người nối gót dấn thân vào. Đấy là cái vòng luẩn quẩn tựa sợi dây trầu
không ràng buộc người phụ nữ Thái trong xã hội thời xưa, như lời mẹ người
bạn gái đã nói với con từ thuở nọ:
Dây trầu không ràng cuốn tình con.
Tuy chế độ phong kiến có thể vùi dập con người, nhưng vẫn không kìm
hãm được mơ ước của con người. Anh chị ở đây tuy chịu không biết bao
nhiêu cảnh bi đát, nhưng vẫn cố vươn lên đấu tranh cho mối tình chung thủy
của mình.
2. Xống chụ sôn sao: Một bài ca chiến đấu cho mối tình chung thủy sáng ngời
Đôi bạn tình ở đây không phải chỉ biết gục đầu trước số mệnh, trước
những ràng buộc của chế độ phong kiến, rnà vẫn cố gắng đấu tranh cho hạnh
phúc của mình. Có người cho rằng cuộc tái ngộ của hai người chỉ là một sự
ngẫu nhiên. Cũng có thể là như vậy? Nhưng dù duyên xưa có nối lại hay
không, thì cũng không ai phủ nhận được quá trình vươn lên giành quyền sống
của lứa đôi.
Ngay từ lúc đầu người bạn gái đã quyết tâm cưỡng lại việc ép duyên
của mẹ cha, và đồng thời cũng bất chấp việc miệng thế mỉa mai:
Chuyện dang dở, người ta thích nói cứ nói,
Duyên không thành, người ta thích chê cứ chê.
Hàm răng sít, ai muốn mắng cứ mắng,
Hàm răng đen, ai muốn nhe cứ nhe…
Ngót mười năm chờ đợi của chị cũng là ngót mười năm thử thách lòng
chung thủy qua bao nhiêu chịu đựng gian khổ. Chị đã tìm hết cách để trì hoãn
việc về nhà chồng. Câu nói để lòng tự nhủ lòng:
Không đi không không đến
Không đến không không lên
đã trở thành một điệp khúc của bài ca chiến đấu chống lẽ bất công. Lòng chị
vẫn sắt son, nhưng thời gian không ủng hộ chị. Trong những năm tháng đợi
chờ, có lẽ chị là người sợ cái vùn vụt của thời gian hơn ai hết:
Năm tiếp năm, năm trôi
Tháng tiếp tháng, tháng hết
Phải chăng chị sợ tuổi thanh xuân tàn lụi, khiến cho “hương thơm hết
tuyết”? Đương nhiên, đấy là lẽ thường tình. Riêng ở đây, chị ở vào cái thế
bức thiết: làm cách gì để thay đổi được hạn rể ngoài của người chồng phải
chung chăn mà không chung tình? Cái tháng “đưa vịt tía về phủ” không xa
nữa. Chị đã nghĩ đến cái viễn ảnh ghê sự:
Măng đắng xanh đã nẩy lộc đâm chồi
Cha đã dăng màn chia khoang dành chỗ,
Mẹ sắp xách tay em canh gà gáy khuya…
Ngoài xa “thác dồn thác cuồn cuộn, sóng tiếp sóng lò xô”, nhưng bóng
người yêu vẫn tuyệt mù. Nghĩ đến ngày tháng vùn vụt trôi qua, lòng chị càng
se lại. Chị nhớ những kỷ niệm thời xưa, nhất là kỷ niệm cái thuở “ngồi khuống
tận gà gáy, đeo mộng về nhà lúc trăng xế đầu non”. Chị vẫn nhớ lời anh dặn
dò: “mùa hoa bưởi ngắt hoa bưởi ngồi mong, mùa hoa vông ngắt hoa vông
ngồi đợi”. Chị vẫn tưởng như lời anh còn văng vẳng bên tai:
– Em cố khoẻ, cố vui
Yên lòng đợi,
Đợi anh vài tháng thôi…
… Lìa anh, em đừng ngủ chạ,
Xa anh, em đừng nằm đôi.
Đợi anh về nằm đôi,
Đợi anh về, ta chung chăn gối…
Nhưng không phải vài tháng mà ngót mười năm. Ngót mười năm trời
qua, chị vẫn không quên hình ảnh của anh. Có điều, khi đã về nhà người ta,
khi đã có con với người ta, thì lời anh dặn “làm ra ương bướng” để người ta
giận mà phải bỏ cũng không phải là việc dễ dàng, đơn giản. “Không phải
ngang nhiên cứ việc bỏ gừng già vào nước chấm chua, giồng khoai leo cột
buồng thờ hay rửa ốc từng con, rửa bát xóc rổ v.v.”. Còn bao nhiêu ràng buộc
của gia đình hai bên, ràng buộc của xã hội, ràng buộc của bản thân mình.
Đâu có phải chỉ phút chốc vung kiếm lên như chàng kỵ sĩ nọ trong truyện thần
thoại? Hẳn không phải chị không biết rằng “gái lỡ bước giá tiền hạ” theo cách
nhìn nhận của xã hội cũ? Hẳn không phải chị không biết bao cảnh đau xót đã
diễn ra cho gái lộn chồng:
Khi bước đi, còn bác mẹ đưa chân đến bản
Khi lộn về, bỏ chơ vơ như kẻ lạc loài…?
Hơn nữa, có lộn về, đã chắc gì gặp được anh? Quả đúng như vậy, chị
trở về, nhưng cha mẹ họ hàng hắt hủi; chị bị dồn vào cái thế không biết
nương tựa vào đâu? Có điều, phải ép buộc đi bước nữa, dù lấy chồng làm
quan, lòng chị vẫn hướng về anh:
Em búi tóc mượt theo về chồng mới,
Nhưng trái tim lớn em còn treo đó,
Trái tim con còn bên chỉ xe đôi,
Người đi xa nhưng vía quấn không rời…
Một mặt chị khăng khăng nhớ tình, mặt khác, ở nhà người chồng thứ
hai, lại thấy đau khổ chơ vô hơn trước, nên chị đã đến lúc làm được ương
bướng như lời anh dặn: nào là “giã gạo quăng chầy”, “chửi sàn mắng cót”,
nào là “gắt giữa mặt khách”, “đêm ngủ ché đệm”, “tỉnh dậy nhiếc chồng” v.v…
Làm như vậy, đương nhiên chị cũng không dám chắc rằng mình sẽ gặp
người yêu thuở trước, nhưng dù sao thì cũng phá bỏ được cuộc sống bất
mãn và làm trọn được lời dặn của kẻ tình chung.
Quả vậy, dù đã hai đời chồng, dù đã có con, dù đã ngót mười mấy năm
trời, chị vẫn không quên được hình ảnh của anh, một người từ thuở nhỏ đã
yêu chị tha thiết, lớn lên biết không lấy được chị, vẫn đeo đẳng cho đến phút
cuối cùng. Trong tâm tư của anh, hiện thực và ước mơ xen kẽ lẫn nhau,
quyện lấy nhau, khi mâu thuẫn, khi thống nhất. Tình anh đẹp lắm, nhưng anh
vừa bước vào đời thì đã thấy tối tăm. Hình như có bàn tay số mệnh dăng sợi
dây chặn bước anh đi, anh quyết vươn lên nắm lấy sợi dây đó:
Ta ước mọc cánh bay, cánh quạ,
Mắt tinh tường, mắt én,
Lượn khắp vòm trời đỗ ngọn cây thơm
Ta ước cánh ta như cánh ve đen vàng,
Bay muôn phương tìm xem thử mệnh nàng.
Mệnh nàng xa ta một với, hay xa ta một sải?
Xa một sải ta kéo gần một với,
Xa một với ta kéo gần một gang
Xa một gang đôi mệnh gắn liền…
Nhưng đó chỉ là ước mơ. Trong thực tế, anh phải bỏ ruộng rẫy đi buôn,
kiếm tiền chuộc chị. Bao nhiêu nguy hiểm gian nan không làm anh nản chí:
Nai không lách, anh lách
Dím không chui, anh chui
Rắn không vượt, anh vượt
Rẽ rừng cỏ phăng phăng
Mở rừng gai rào rào…
Và anh cứ “cưỡi ngựa đi băng băng, qua hết núi mịt mùng, hết gò khúc
khuỷu, hết bãi trập trùng, vượt từng chục trăm núi thấp đồi cao”… Nếu chị sợ
cái vùn vụt của thời gian, thì anh lại sợ cái trùng trùng điệp điệp của không
gian. Qua rừng núi thấy cảnh “chim liền cánh cây liền cành”, anh nghĩ thân
mình, rồi thương vợ chồng con nai, thương vợ chồng con phượng, anh không
nỡ bắn. Có điều, anh buồn mà không bi quan, anh truyền tình cảm lạc quan
cho người yêu:
Hoa sắp héo sương mai em nhúng
Hoa sắp tàn, nước rượu em ngâm
Hoa sắp úa, khăn đào em gói
Hon gói khăn đào hai mươi năm không phai…
… Đôi ta yêu nhau, anh gửi em chiếc đàn môi đồng
Còn thương anh, môi đồng nhớ mãi
Duyên mai sau, đàn môi đây, giữ lấy nhận người…
Nếu cô Kiều có nghĩ đến cảnh mai sau khi “đốt lò hương ấy, so tơ
phiếm này” thì anh cũng nghĩ đến ngày người yêu treo đàn trên cổ ngựa bay,
nhưng anh vẫn hy vọng “đàn bay lên thành một cánh bướm vàng”.
Quả thật, mối tình trở nên tuyệt vọng, anh chỉ sống trong mộng tưởng.
Phẫn uất quá, đôi khi anh có những ý nghĩ táo bạo:
Ta chém đứa kia, giành lại vợ
Không lấy được nàng ta làm giặc giữa phủ,
Không lấy được em, anh làm loạn giữa mường…
… Rồi sẽ ra sao mặc lòng
Dù khăn trắng bay lên ngọn móc,
Dù khăn đen quấn chặt ngọn gươm
Chuôi gươm gẫy, gầm sàn thành củi,
Dù đầu, mình chín khúc phanh phui…
Nhưng đấy cũng chỉ là một sự ước mơ. Trong thực tế, người yêu đã
có con. Nhìn vợ chồng chim nhạn, nhìn đôi uyên ương ngấp nghé cửa hang,
anh chỉ còn cách nghĩ đến người yêu trong mộng:
Yêu em anh thăm em trong mộng
Trong cuộc tiễn dặn người yêu, anh cũng chỉ sống bằng tưởng tượng,
anh bế con của chồng người yêu mà cứ tưởng má đứa bé lúm lúm giống má
của mình, rồi cố gắng đi cạnh người yêu một tí để mong ấp ủ lấy hương
người:
Cho mai sau lửa xác đượm hơi
Một lát bên em thay lời tiễn dặn!
Thật là đau đớn. Nhưng anh vẫn nuôi một niềm hy vọng, anh dặn đi
dặn lại chị “chớ quên” anh và chữ “chớ quên” được nhắc đến ba mươi lần:
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi góa bụa về già!
Và khi anh thấy bị chồng đánh đập tàn nhẫn, anh vẫn không quên nhắc
lại niềm lạc quan của mình:
Dù đôi ta có chết
Chết thành sông, vực nước uốngi mát lòng,
Chết thành đất, tỏa dây trầu xanh thắm
Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung
Chết thành núi, ta múc xuống cùng bát,
Chết thành hồn, chung một mái song song…
Quả thật là mối tình thương “trăm lớp nghìn trùng” “chắc như vàng đá”,
gió không rung chuyển.
Qua bao nhiêu cảnh gian khổ đau thương, cuối cùng đôi lứa gặp nhau
và gặp nhau trong tiếng đàn môi như thuở xưa hằng mong ước. Ở đây tuy
không còn là tiếng đàn môi của tuổi hoa niên, nhưng tình cảm lứa đôi vẫn
nguyên vẹn sáng ngời. Đã trôi qua một chặng dài của cuộc đời tối tăm và lúc
này tiếng đàn ngân rung của người cũ vẫn nói lên được tất cả cái nao nức
của mối tình chung thủy.
Đương nhiên, qua cái thảm kịch của tình yêu, để nói lên tấm gương
chung thủy, tác giả tập trường ca Xống chụ sôn sao cũng chỉ muốn nói một
mặt mà thôi, vì nếu ở đây có sự thủy chung của đôi bạn tình cũ thì lại thiếu sự
chung thủy giữa đôi vợ chồng mới. Nỗi éo le này không phải do ý muốn chủ
quan của người trong cuộc, mà như ở phần trên chúng ta đã nói, là do hoàn
cảnh khách quan, do những khe khắt, những ràng buộc của chế độ cũ xui
nên. Cái đáng ca ngợi nhất ở đây là sự phản kháng chống những ràng buộc
bất công của xã hội, qua sự chịu đựng bền bĩ để giành lấy quyền sống con
người. Chính cái đáng ca ngợi đó là cái làm cho giai cấp thống trị e sợ và vì e
sợ nên đã đang tay vùi dập bản trường ca cũng như chúng đã vùi dập mối
tình chung thủy của lứa đôi. Đọc Xống chụ sôn sao, chúng ta thấy có nhiều
điểm hấp dẫn, tất nhiên chủ yếu vẫn là hấp dẫn về nội dung, nhưng không
phải không hấp dẫn về nghệ thuật. Xống chụ sôn sao được diễn đạt với một
nghệ thuật trữ tình đặc sắc.
3. Vài nét về nghệ thuật của Xống chụ sôn sao
Xống chụ sôn sao là một trường ca, nhưng cũng ít nhiều có dáng dấp
một truyện thơ, tất nhiên cũng chỉ dáng dấp mà thôi, vì tác giả không chú ý
kết cấu truyện theo sự xây dựng tính cách nhân vật, mà chỉ kể chuyện theo
trật tự thời gian như tác giả đã nói ngay từ lúc mở đầu:
Nay hãy kể từ trước đến sau
Kể chuyện qua về bù chuyện tới
Kể từ thời ấy ngày xưa…
Tính chất cố sự của loại thể truyện dân gian ở đây khá rõ rệt: tác giả kể
hết truyện anh, rồi sang truyện chị, hết truyện chị, rồi lại sang truyện anh…
và cứ như thế cho đến hết. Tác giả cũng chú ý đến tâm lý nhân vật, đến trạng
thái tâm hồn và như vậy cũng chú ý đến sự phát triển những mâu thuẫn của
đôi bạn tình trong những chặng đường éo le của họ. Nhưng mức độ kết cấu ở
đây còn ở dưới hình thái tự nhiên cho nên thường lỏng lẻo và đơn điệu.
Ngoài đôi bạn tình là nhân vật chính, còn có những nhân vật phụ: cha mẹ,
chú bác của chị hay mẹ của anh… là những nhân vật chỉ xuất hiện một vài lần
và mỗi người cũng nói lên một khía cạnh tâm tư của mình, nằm trong hệ
thống tâm tư chung của ý thức hệ thời đại. Có hai nhân vật phụ đáng chú ý
hơn đó là người chồng cũ của chị, với thái độ lầm lì và tư cách ít nhiều giả tạo
của hắn, hay người vợ cũ của anh, tỏ ra hiền hòa và ngoan ngoãn chịu theo
số phận! Thật ra, hai nhân vật này cũng là những hình ảnh mờ nhạt, bên cạnh
anh và chị, đôi bạn tình.
Đôi bạn tình được tác giả miêu tả đậm nét: anh là một thanh niên có
nghị lực, chung tình; chị chẳng những là một phụ nữ Thái, mà cũng là phụ nữ
Việt Nam thời xưa nói chung luôn luôn tỏ ra nhẫn nhục, kiên trì; nhưng không
phải, trong một chừng mực nào đấy, không có tinh thần phản kháng lẽ bất
công. Đương nhiên, chúng ta không đòi hỏi ở đây tính cách nổi bật của hai
nhân vật đó, như tính cách của những nhân vật trong tiểu thuyết hay kịch bản
hiện đại. Đành rằng ở đây có yếu tố tự sự, nhưng yếu tố tự sự lại kết hợp rất
chặt chẽ với yếu tố trữ tình và đứng về mặt bài ca mà nói thì yếu tố trữ tình là
chủ yếu.
Ở một trăm câu đoạn đầu, tác giả mới chỉ giới thiệu hoàn cảnh gia đình
đôi bên cũng như cuộc đời thơ ấu của đôi bạn; từ lúc cuộc tình duyên của
anh chị bị trắc trở và chị bị ép duyên, thì tác giả đi sâu vào diễn biến tâm tình
nhân vật. Đọc những đoạn đối thoại giữa hai người, hay đọc những đoạn độc
thoại của anh hay của chị khi vắng bạn tri âm, chúng ta thấy mối lòng mỗi
người tuôn rủ như tơ tằm, càng về sau càng rối và càng rối lại càng đau. Ban
đầu anh cứ tưởng sự đời đơn giản như lời quẻ bói:
Quẻ bói này, hai bốn một năm
Lấy được nhau, thuận vợ thuận chồng!
và chị cũng cho việc đuổi người chồng bị gia đình gán ghép cho mình là một
việc dễ dàng:
Lúa đầy bịch mới đuổi nó ra,
Thóc đầy bồ mới bắt nó về.
Đuổi không về, sợi chỉ rối không vương!…
Nhưng tình đời đâu có chuyển biến theo một đường thẳng như anh chị
tưởng; sau này, bao lần anh chị “nước mắt rỏ”, “hàng lệ rưng” và cái điệp
khúc “lo không đủ” “tính không tròn” vẳng lên thành một lời tự trách móc.
Những ý nghĩ ngang bướng của anh cũng chỉ nằm trong tưởng tượng,
anh truyền cho chị tinh thần phản kháng nhưng không dễ gì một lúc mà chị
thực hiện được như ý muốn của anh. Chị có thể trì hoãn đến mười hai tháng,
anh có thể leo đến từng chục trăm đèo núi, anh có thể dặn chị ba mươi lần
“chứ quên”, nhưng rồi một phần cuộc đời của anh chị ở trong một tấn thảm
kịch đầy nước mắt. Lối trùng điệp ở đây, trùng điệp về ý cũng như trùng điệp
về lời, được áp dụng rất đắc thể để diễn đạt mối tình đau thương, dang dở
kéo dài chín mười năm đó:
… Trồng khoai thành rừng bon, chớ quên,
Trồng dâu thành rừng rút, chớ quên
Gieo kê biến thành bãi cát, chớ quên
Trâu chết thành đống mối, chớ quên…
… Sông Mã cạn bằng lòng đĩa, hãy quên
Sông Đà cạn bằng chiếc đũa, hãy quên
Cá bống văng mình đớp sao, hãy quên,
Cát trắng nhẩy tung hớp sương, hãy quên.
Cũng nên nói thêm rằng trong một trường ca, thường những chỗ trùng
điệp như vậy, tạo thành những điệp khúc rất cần để đưa đẩy giọng hát. Có
điều là những điệp khúc đó tạo ra thế nào cho nhịp với nội dung, để biểu hiện
được cảnh tình của các nhân vật. Thí dụ khi nói về cái vùn vụt của thời gian
thì điệp khúc: “Năm tiếp năm, năm trôi…” được nhắc đến mấy lần, hay khi nói
đến cái bát ngát của không gian, thì điệp khúc: “Núi tiếp núi trập trùng…” cũng
được nhắc rất nhiều lần.
Để diễn tả tình cảm sâu sắc hơn, bên cạnh lối trùng điệp, tác giả còn
hay sử dụng lối tương phản. Lối này thường làm nhiệm vụ bồi thấn cho lối
trên, nhất là khi mô tả những mâu thuẫn của tâm tư hay những nghịch cảnh
trường đời. Ngay như cái vùn vụt của thời gian và cái bát ngát của không gian
nói ở trên cũng là hai hình ảnh và hai ý niệm tương phản. Chị thì thấy thời
gian ngắn quá, anh lại thấy không gian rộng quá. Và ngay trong một khoảnh
khắc của thời gian, nếu chị muốn năm tháng duỗi ra, thì anh lại muốn tranh
thủ thời gian thế nào cho gọn lại để chóng về. Cho nên, cũng một chữ “tiếp”,
mà chữ tiếp ở trong “năm tiếp năm” khác với chữ tiếp trong “núi tiếp núi”, vì
mỗi chữ tiếp trong từng mệnh đề nhịp với từng trạng thái tâm linh của từng
nhân vật nhất định.
Lối tương phản đó tác giả dùng khá nhiều trong tập trường ca này, như
dùng hình tượng ngoa dụ để nói lên hai ý tương phản về hình thức và thực
chất thì ý sau bồi thấn cho ý trước, thí dụ: như đoạn anh dặn chị “chớ quên”
và “hãy quên” ở trên. Ý “hãy quên” ở đây thật ra là bỗ trợ cho ý “chứ quên”
mà thôi. Có khi, tác giả dùng những hình ảnh tương phản để biểu hiện những
ý niệm tương phản, thích đáng với từng lúc vui buồn khác nhau. Thí dụ ở giai
đoạn đầu, khi chị chưa chính thức là vợ người ta, lời dặn dò của anh còn
đượm vẻ tươi vui, anh gửi tình anh trong những cánh hoa dịu dàng tươi thắm:
Mùa hoa bưởi ngắt hoa bưởi ngồi mong
Mùa hoa vông ngắt hoa vông ngồi đợi
Mùa hoa mạ ngắt hoa mạ ngồi chờ.
Nhưng đến khi chị bế con bước theo chồng và dù có anh đi tiễn chân
bên cạnh, mối tơ duyên dứt đoạn lại thể hiện trong nỗi đắng cay qua lá ớt, lá
ngón, lá cà:
Em tới rừng ớt, ngắt lá ớt ngồi chờ,
Tới rừng cà, ngắt lá cà ngồi đợi.
Tới rừng lá ngón ngóng trông…
Những hình tượng hoa, lá tương phản ở đây nói lên được cái nghịch
cảnh chua cay. Giấc mơ hoa của anh cái thuở ban đầu có khi gần như trở
thành mối tình tuyệt vọng.
Sử dụng bút pháp trữ tình, tác giả đã khéo dùng cảnh ngụ tình, đã khéo
tạo nên một sự hài hòa giữa lòng người và cảnh vật. Có thể nói cảnh trí thiên
nhiên nơi quê hương của đồng bào Thái luôn luôn ẩn hiện trong suốt cả tập
trường ca Xống chụ sôn sao: Có “dòng trăm thác reo vang”, có “sóng tung
sóng dâng tràn”, có hoa mạ vàng tươi, có con mang sợ gió, có cả “hùm beo
rống trong rừng sâu kinh lạ”, có cả “chóp bóp kêu trong khe núi mịt mù”…
Cảnh vật ở đây hình như quyện lấy lòng người, cảnh vật trong lòng
người, lòng người qua cảnh vật. Đoạn tác giả tả mặt trời lặn khi chị ở trên
nương là một đoạn văn sinh động và độc đáo:
Chiều tới, mặt trời rụng
Mặt trời rơi xuống thấp
Mặt trời sát mặt phai
Mặt trời qua sàn ngoài người thương,
Mặt trời quấn ngọn dang sắp lặn,
Mặt trời quấn ngọn tre, ngọn bương sắp tắt
Mặt trời lặn, mặt trời không gọi
Mặt trời đi, mặt trời không chờ,
Mặt trời khuất mây mờ, sập tối…
Trên đường xuống núi, mặt trời có vẻ hối hả, nhưng rồi lại có vẻ ngập
ngừng, quyến luyến qua sàn ngoài người thương, muốn báo một tin gì đó mà
không nói được, chỉ quấn ngọn dang, ngọn tre, ngọn bương và cuối cùng
đành lặn đi, không nói! Hôm đó, gánh củi về nhà, chị cảm thấy có cái gì ngờ
ngợ, tự nhiên đâm ra bối rối, vừa “hạ củi xuống gầm, bỏ đòn dưới dàn” thì đã
vội đi múc nước, xuống bến vục lấy vục để, ruột gan bàng hoàng, chân trái
bước đi, chân phải bước tới. Đến khi biết sự không hay, chị “lập cập chạy ra
sàn”, “lập cập váy đằng quản”. Chữ “lập cập” tả rất đúng tâm trạng hoang
mang của chị. Tạo ra một sự hài hòa giữa thiên nhiên và lòng người, tác giả
đã đạt mục đích lấy ngoại cảnh để biểu hiện nội tâm. Phương pháp đó tác giả
đã áp dụng nhiều chổ thành công. Thí dụ: để tả mối tơ duyên lỡ dở, tác giả hạ
một chữ “quằn quại” rất gợi cảm:
Duyên xe duyên lỡ dở không thành
Gió thốc sông Đà quằn quại…
hay để tả mối tình chung trong cảnh vật đổi sao dời, tác giả có một ý nghĩ táo
bạo: “ước xẻ đôi người”:
Đôi ta yêu nhau, bao giờ gặp nhau?
Mây mù bay sao trôi trên đầu
Khói quyện trời sương nghi ngút.
Ước xẻ đôi người, ta lấy nhau!…
Mối tình ở đây thật là đau đớn, muốn lấy nhau thì chỉ có cách là “ước
xẻ đôi người, nửa hóa nên em”.
Như vậy, đọc Xống chụ sôn sao, chúng ta hứng thú, nhưng hứng thú
không phải chỉ vì nội dung phong phú, mà còn hứng thú ở cách phô diễn lời
văn, ở cách sử dụng hình tượng, cũng như ở cách phối tri âm thanh. Cũng
như ở các trường ca dân tộc khác, hình tượng và nhạc điệu trong câu văn
Xống chụ sôn sao quyện lấy nhau:
Khi anh đi, cải chia cánh bướm
Khi anh trở về, cải già đơm hoa…
Mùa hoa vông ngắt hoa vông ngồi đợi
Mùa hoa mạ ngắt hoa mạ ngồi chờ…
Chúng ta đọc được rất nhiều câu như thế trong Xống chụ sôn sao.
Rất tiếc là khi nghiên cứu về lời văn và nhạc điệu ở đây chúng ta cũng
chỉ mới nghiên cứu qua bản dịch. Tuy nhiên, các dịch giả cũng đã cố gắng
dịch theo điệu trường đoản cú xen nhau của dân ca Thái mà tác giả dùng
trong Xống chụ sôn sao, từ thể khống khái câu ngắn 5, 6 chữ, đến thể khắp
bắc câu dài 11, 12 chữ. Nhạc điệu trong một trường ca rất cần thiết; ở đây
chúng ta chỉ lướt qua, mà đặc biệt chú trọng về ý nghĩa văn học của lời thơ.
Về mặt này, tác giả đã cố gắng láy chữ, láy ý và có khi mượn cả lời ca
mà hàng ngày đồnq bào Thái thường dùng. Thí dụ: tác giả mượn câu chào để
diễn thành mấy câu ca:
Xin đau đừng đau luôn
Xin ốm đừng ốm nặng
Nóng lạnh bất kỳ, xin gửi lời nhắn gọi con hay! hoặc có khi tác giả
mượn từng lời, từng câu trong dân ca Thái như những chữ “cải chia cánh
bướm”, “cải già đơm hoa, mùa hoa vông, mùa hoa mạ…”. Những hình ảnh
đó, những câu nói đó là những hình ảnh, những câu nói quen thuộc của đồng
bào Thái, như ông Cầm Biêu đã nhận xét:
“Bao nhiêu lời thương nhớ, lời tình tự gái trai, cả đến lời vè, lời giễu, lời
vẫn quen trôi trên cửa miệng người các nơi của nhân dân dân tộc Thái chúng
ta, đều hợp nhất vào đấy (mà vẫn) không trộn lộn không biến chất. Đọc đến
Xống chụ sôn sao, thật ai cũng phải nhận rằng dân tộc Thái từ lâu quả đã có
một tiếng nói thật giàu, thật đẹp…”. Quả vậy, chúng ta đọc Xống chụ sôn sao,
chúng ta cứ tưởng như chúng ta cùng sống với đồng bào Thái. Bao nhiêu
trăng mây đèo núi, bao nhiêu muôn thú cây hoa rung rinh trong tâm trí chúng
ta. Thiên nhiên ở đấy rất gần với chúng ta. Hình như có một sự hòa hợp giữa
lòng ta và cảnh trời. Và từ cảnh trời gió lộng đèo cao đó, vẳng lên một tiếng
hát xa vời trong vắt, tiếng hát có khi ai oán như ngậm một mỗi bi thương,
hoặc có khi dồn dập vui tươi như báo hiệu một chặng đường chiến thắng.
Tiếng hát của đồng bào Thái thời xưa hiện còn ghi lại trong nhiều bản
tình ca bất hủ mà Xống chụ sôn sao được coi như một tuyệt tác. Đương
nhiên, về nội dung tư tưởng, Xống chụ sôn sao còn nhiều mặt hạn chế, cũng
như có những vấn đề mà tác giả nên ra và giải quyết chưa được thỏa đáng.
Đọc Xống chụ sôn sao, chúng ta thấy cuộc đời của đôi lứa thật là cảm động,
nhưng tác giả đã để cho cuộc đời đó đắm chìm trong một nỗi buồn tủi đau
thương u ám, có thể nói đắm chìm trong nước mắt, trong bể khổ! Chị cũng
như anh đều có phản kháng, nhưng nghiêm khắc mà nói thì tinh thần phản
khán có nhiều yếu tố tiêu cực, hơn là tích cực. Anh hay chị hầu như đã cúi
đầu trước số mệnh, trước ràng buộc của lễ giáo. Thảng hoặc anh có vươn
lên cũng chỉ vươn lên trong suy tưởng; anh phản đối cái cách dùng tiền tài để
cướp người đẹp, nhưng rồi anh cũng luẩn quẩn chạy theo tiền tài, mong
chuộc lại người yêu! Muốn cho anh chị tái hợp, tác giả đưa anh chị đến một
sự ngẫu nhiên. Đương nhiên, ở đây tác giả nói lên được cái kiếp bèo bọt, cái
phận “con ong cái kiến” của người phụ nữ thời xưa, nhưng mặt khác, lại làm
giảm mất ý nghĩa đấu tranh của người trong cuộc. Và khi tạo nên cái cảnh
đoàn tụ của một đời bạn tình thì tác giả lại dựng sự đoàn tụ ấy trên sự tan vỡ
một gia đình đã xây dựng từ trước. Phải chăng như trên chúng ta đã nói là tác
giả muốn vạch ra cái vòng luẩn quẩn của kiếp người phụ nữ trong chế độ
phong kiến như con kiến leo phải cành cụt:
Con kiến mà leo cành đào
Leo phải cành cụt, leo vào leo ra.
Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cụt, leo ra leo vào.
Nhưng dù sao, khi đọc đến đoạn này, chúng ta cảm thấy có cái gì bứt
rứt khó chịu toát ra từ cách nêu và giải quyết vấn đề chưa thỏa đáng. Cho
nên bài ca đã đầm đìa nước mắt, đã buồn lại càng thêm buồn, buồn với cái
buồn khá quyến rũ đối với những khía cạnh yếu đuối của tâm hồn.
Tuv vậy, nhìn toàn bộ, Xống chụ sôn sao vẫn là một trường ca xuất
sắc, có một sức gợi cảm sâu xa. Qua câu truyện bi thảm, Xống chụ sôn sao
đã vạch lên được cuộc đời tối tăm đau đớn của người nghèo khổ và đồng
thời đã nói lến được mối tình sắt son của họ, ý chí phấn đấu của họ để giành
lấy – dù chỉ là một phần – quyền sống thiêng liêng của mình. Có thể nói đấy là
điểm cơ bản của chủ đề bản trường ca. Khi đọc Xống chụ sôn sao, chúng ta
hãy gạt đi cái phần buồn thảm của nó để thấy cho được thực chất của cuộc
sống lứa đôi bị ràng buộc trong khuôn khổ xã hội cũ và có như vậy, mới lắng
nghe hết được tiếng hát tuyệt diệu, tiếng hát đấu tranh cho mối tình chung
thủy sáng ngời.
Chương X. CA DAO, DÂN CA THỜI CHỐNG PHÁP – NHẬT VÀ CA DAO, DÂN CA TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
I. CA DAO, DÂN CA THỜI CHỐNG PHÁP – NHẬTNhư đã nói ở phần đại cương về ca dao và dân ca, trọng tâm nghiên
cứu của chúng ta là ca dao, dân ca thời phong kiến. Về ca dao, dân ca thời
chống Pháp – Nhật, chúng ta chỉ đề cập đến một số nét tổng quát mà không
đi sâu vào chi tiết. Chúng ta có thể nghiên cứu thêm ở phần văn học cách
mạng và yêu nước từ 1858 đến 1945. Bên cạnh sáng tác của các chiến sĩ
cách mạng, còn có văn học khuyết danh hoặc sáng tác của quần chúng như
những bài hịch, bài ca, vè của các phong trào yêu nước khác nhau (đặc biệt
thơ ca Xô–viết Nghệ – Tĩnh, thơ ca thời kỳ 1936–1939, thơ ca thời kỳ mặt
trận Việt Minh, v.v…)
A. NỘI DUNG DÂN TỘC CỦA CA DAO, DÂN CA THỜI CHỐNG PHÁP – NHẬT
Ai cũng biết rằng từ 1858 thực dân Pháp đánh chiếm nước ta. Giai cấp
phong kiến đầu hàng thực dân Pháp, câu kết với bọn giặc ngoại xâm để tiếp
tục bóc lột nhân dân ta. Từ đó, thực dân Pháp khai thác cướp bóc tài nguyên
phong phú của Tổ quốc ta, thi hành chính sách cai trị khốc liệt nhất. Đến năm
1940, phát–xít Nhật tràn vào Đông Dương. Nhân dân ta bị ba từng áp bức
của thực dân Pháp, phong kiến vàu phát–xít Nhật. Nhưng nhân dân ta luôn
luôn đấu tranh cách mạng. Sự lãnh đạo cách mạng của sĩ phu phong kiến yêu
nước, sự lãnh đạo cách mạng của tiểu tư sản bị thất bại phải nhường độc
quyền lãnh đạo cách mạng cho Đảng ta từ 1930. Qua cơn sóng gió thử thách,
cách mạng Việt Nam đã thành công năm 1945 và nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa được thành lập. Suốt thời kỳ gần một trăm năm ấy, mâu thuẫn lớn
nhất của xã hội ta là mâu thuẫn giữa nhân dân ta và bọn thống trị Pháp –
Nhật cùng lũ phong kiến tay sai.
Văn học cách mạng gần một trăm năm ấy lù tấm gương trung thành
của lịch sử cách mạng Việt Xam cận đại và hiện đại. Là một bộ phận của văn
học cách mạng, ca dao, dân ca – những sáng tác của quần chúng nhân dân –
đi sát thời sự phản ánh đầy đủ các khía cạnh khác nhau của cách mạng, của
đời sống vô cùng đau khổ của nhân dân ta dưới chế độ thực dân bán phong
kiến và trở thành những tài liệu rất tốt chứng minh thêm nhiều nét sinh động
cho lịch sử cách mạng của chúng ta. Nội dung ca dao, dân ca thời chống
Pháp – Nhật do đó mang tính chất dân tộc rõ rệt, chủ đề của ca dao, dân ca
khá tập trung: kể tội vua quan bán nước, kể tội thực dân Pháp, phát–xít Nhật,
nêu lên lòng căm thù yêu nước của nhân dân, nêu lên đời sống cơ cực ở
nông thôn, ở nhà máy, ở đồn điền, ở hầm mỏ, nêu lên phẩm chất con người
cách mạng, kêu gọi đoàn kết tranh đấu theo hướng đi của cách mạng. Với
hình tượng nghệ thuật, ca dao, dân ca phản ánh từng bước đi lên của cách
mạng và động viên nhân dân làm cách mạng. Có nhũng ca dao, dân ca về
phong trào Cần Vương, có những ca dao, dân ca chống chính sách thuế khóa
của giặc trong những năm 1908, có những ca dao, dân ca về phong trào Xô
viết Nghệ – Tĩnh, thời kỳ Việt Minh, thời kỳ tiền khởi nghĩa…
Ca dao, dân ca thời chống Pháp – Nhật đã đề cập đến đối tượng của
cách mạng Việt Nam. Tinh thần dân tộc trong ca dao, dân ca chống Pháp –
Nhật trước hết là tinh thần đấu tranh chống bọn thống trị Pháp – Nhật và bè lũ
phong kiến bán nước. Ngay từ ngày mất nước, nhân dân ta đã
thấy rõ ai cướp nước và ai bán nước rồi
Nhâm Ngọ (1882) thi có sao đuôi,
Đến năm Quý Kị (1883) giặc liền phá ra..
Nhà vua thân với Lang sa
Để Tây an hại trứng gà An Nam.
Ca dao, dân ca nói lên lòng căm giận tập đoàn phong kiến, ca dao, dân
ca không dung thứ bọn xu nịnh theo gót thực dân để đàn áp nhân dân. Căm
ghét bọn tay sai không còn là tư tưởng mà đã thành hành động:
Trái khổ qua xanh.
Ngoài xanh tronq trắng,
Trái khổ qua đắng.
Trong trắng ngoài xanh.
Liệu mẹ không đẻ, liệu cha không sanh,
Chém đầu đứa nịnh cho đành dạ em.
Nhưng phải nói đối tượng chính của cách mạng là thực dân Pháp. Ca
dao, dân ca sôi sục lòng căm hờn: Bài vè “Thất thủ kinh đô” là gì nên không
phải là một bản cáo trạng với nội dung căm giận thực dân đốt phá, tàn sát,
cướp bóc làm cho trăm họ tan nát, gia đình ly tán, sa cơ thất nghiệp, mất cả
cơ sở làm ăn sinh sống:
Nỗi oán giận bốc lên ngùn ngụt:
Thợ nề mất phương, mất xẻng
Mất bay, mất búa chửi dòng ông Tây…
Hoặc:
Hãy còn một chú thợ sơn,
Mất chạm, mất phấn giận hờn ông Tây.
Thợ lọng mất lưới mất dây,
Mất đồ chạm lọng thấy Tây chửi vòng…
Đó là những ngày cuối của cuộc đời xâm lăng. Lúc đã bình định xong,
thực dân Pháp ra tay vơ vét của cải đất nước ta mà lịch sử đã gọi là hai cuộc
khai thác lớn. Ca dao, dân ca ghi lại nhiều cảnh cụ thể mà đây là một:
Bên kia Hà Thân nước xanh như tàu lá,
Ngó qua bên đất Hàn phố xá nghênh ngang.
Từ ngày Tây lại cửa Hàn
Đào sông Cu Nhí, đắp đàng Bồng Miêu…
Và khi người Việt Nam đã thành nô lệ của thực dân Pháp, khi mà
chúng nó đã toàn quyền làm chủ đất này, tính mạng quần chúng nhân dân sẽ
ra sao? Bản chất đê tiện của thực dân bộc lộ khá rõ rệt ở đây. Hình ảnh con
cò quen thuộc của ca dao, dân ca lại sống dậy tố cáo những hành động bất
nhân, những cuộc đàn áp vô cớ, tàn nhẫn của giặc Pháp:
Con cò mày đậu cành tre,
Thằng Tây bắn súng cò què một chân,
Đến mai ra chợ Đồng xuân,
Chú khách mới hỏi sao chân cò què?
Cò rằng cò đứng bụi tre
Thằng Tây bắn súng cò què một chân!
Đối với những ai chống lại chúng thì đã có đầy đủ mọi hình phạt để làm
cho “vô số những người dân bảo hộ Pháp được hân hạnh nếm ân huệ của
mẫu quốc trên máy chém, trong nhà tù và trên đường biệt xứ”. Nếu thơ Tố
Hữu nói lên lòng căm hờn nhà tù Lao Bảo, thì ca dao cũng nói lên lòng căm
hờn Côn Lôn trong câu lục bát giản dị:
Xa xa Côn đảo nhà tù,
Biển sâu mấy khúc, lòng thù bấy nhiêu.
Bên cạnh thực dâu Pháp là phát xít Nhật. Phát–xít Nhật, chỉ thống trị
nhân dân ta năm năm, nhưng tai họa của chúng gieo trên đầu nhân dân ta
thảm khốc chẳng kém gì bọn thực dân Pháp. Nói đến giặc Nhật, ai mà không
nhớ cái cảnh nhổ lúa trồng đay:
Chém cha lũ Nhật côn đồ,
Bắt người cướp của tha hồ thẳng tay
Dân ta trăm đắng ngàn cay
Thóc ăn chẳng có, trồng đay cho người.
Nói đến giặc Nhật ai mà không nhớ âm mưu “độc lập bánh vẽ” của
chúng. Cái “chính sách Đại Đông Á “của chúng không thể lừa bịp được nhân
dân ta:
Việt Nam độc lập thế nào,
Phải chăng thằng Nhật thay vào thằng Tây.
Việt Nam độc lập thế này
Có quân lùn ở có ngày diệt vong.
Muốn biết xã hội Việt Nam đầu năm 1915 như thế nào, hãy đọc sử liệu
này:
Khách cười, Tây khóc, Nhật no,
Việt Nam độc lập nằm co chết đường.
Ca dao, dân ca thời chống Pháp – Nhật là bản thống kê tội ác giặc
Pháp, giặc Nhật và bè lũ phong kiến tay sai. Bên cạnh chiếc dây thòng lọng tô
tức của phong kiến siết chặt cổ người nông dân, sưu thuế của thực dân còn
đè nặng trên lưng họ nữa. Văn học cách mạng đã nói nhiều đến vấn đề này,
đặc biệt thơ ca của phong trào kháng thuế (1908) và nhiều thơ ca khác (bài
hát xin sưu, bài vè sưu cao thuế nặng, bài vè sưu thuế lạm thu, văn tế tử sĩ
chống sưu thuế…). Văn học hiện thực 1930 – 1945 cũng nêu vấn đề này với
tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Đây là chủ đề trung tâm của vấn đề câu
kết giữa thực dân và phong kiến để bóc lột nông dân. Ca dao cũng lớn tiếng
tố cáo, nêu lên hậu quả của sưu thuế:
Đời ông cho chí đời cha,
Đời nào khổ cực cho qua đời này.
Từ ngày mất nước cho Tây,
Tiêu hao thì có, sum vầy thì không.
Thuế thân phải chịu ba đồng
Công sưu công ích mà không ra gì.
Đêm nằm luống những sầu bi,
Sưu cao thuế nặng, lấy chi thanh nhàn.
Kẻ thời bỏ xứ đi hoang,
Xa chồng xa vợ ly tan gia đình.
Người nào xuất ngũ hành binh,
Chết thay cho chúng, dân mình ích chi!
Người nào phản hộ hồi quy,
Chịu ba đồng sáu cắc cũng y như thường.
Ôi thôi! chua xót đoạn trường,
Thuế tranh, thuế củi thảm thương cho đứa nghèo…
Trong tình hình khai thác Đông Dương của thực dân Pháp, giai cấp
công nhân Việt Nam ra đời. Họ là những người vô sản ở nông thôn phải đi
phu đồn điền, phu mỏ, đi làm “cu– li” cho thực dân Pháp. Họ đi làm thuê cho
thực dân với giá nhân công rẻ mạt. Họ sống như nô lệ trung cổ. Cái “kiếp cu–
li” vùng mỏ đau xót lắm:
Ai ra Cẩm Phả mà xem,
Rừng xanh ngăn ngắt, đất đen sì sì.
Đã làm cái kiếp cu–li,
Có gì là đẹp, có gì là vui.
Cuộc đời khổ cực ấy lặp lại hàng ngày với “tiếng còi tầm” như tiếng gọi
“từ âm phủ” kéo dài năm này sang năm khác. Tình cảm, hạnh phúc cũng
không còn:
Ăn với chồng một bữa;
Ngủ với chồng nửa đêm,
Một ngày hai bửa cơm đèn,
Còn gì má phấn răng đen hỡi chàng?
Trong lúc bọn chủ mỏ “phè phữn vui chơi nô đùa” trong nhà “xéc” sáng
ngời ánh điện thì nhân dân:
Ngoài đường củ rủ cù rù,
Mấy người hành khất bù lu kêu đường.
Đó là sự thực của “mỏ thời Tây” theo danh từ thường dùng của công
nhân mỏ. Ngày nay ai đến thăm phòng bảo tàng Hòn Gay chắc không quên
được những tài liệu, tang vật về thủ đoạn bóc lột của những tên chủ mỏ.
Chúng cứu đói nhân dân bằng cách lấy vạc lớn đựng vôi đễ nấu bánh đúc,
chúng cứu rét bằng bao đay cho người mặc:
Tấm bánh đúc cầm hơi
Chiếc bao gai chống rét,
Đó đây người gục chết
Mà than vẫn đầy toa.
Bần tiệu và hiểm sâu nhất là cái “càn ma” đổ một ki–lô gạo vào quav
mạnh chỉ còn tám lạng, một dụng cụ bóc lột rất tinh vi:
Cái cân có quỷ hay ma,
Ní vào một lối, nó ra một đàng.
Thẻ tôi băm sáu ký rõ ràng,
Vê nhà khảo lại chỉ còn ba mươi
Vùng mỏ kẽm chợ Điền (Bắc Thái) cũng không kém Hòn Gay. Bao đau
thương biến thành ngạn ngữ “Bản Thi có đi không về”, “Đầm Hồng không
chồng mà chửa”, “Pia–khao chẳng sao cũng chết” không phải nói về tài
nguyên phong phú của đất này, mà nói về tội ác của thực dân. Cũng ở khu
mỏ ấy, cuộc sống mới đang vươn lên:
Kẽm chì lấp lánh ánh sao,
Mỗi goòng đất đổ vun bao mối tình.
Cờ hồng phấp phới xinh xinh,
Sản xuất học tập, ta mình thi đua.
Một trung tâm khác đầy mồ hôi và máu của công nhân là đồn điền cao
su của thực dân Pháp. Nhân dân xem đây là những “nhà giam chung thân”,
nơi đó “đi dễ khó về”, nơi đó là những “nghĩa địa thành rừng su xanh”:
Cao su xanh tốt lạ đời,
Mỗi cây bón một xác người công nhân.
Dưới sự bóc lột đè nén của thực dân, phát xít, phong kiến, nhân dân ta
chỉ có một con đường thoát là làm cách mạng. Cùng với văn học cách mạng,
ca dao, dân ca đã đánh những hồi trống cổ động đấu tranh chống phong kiến
và đế quốc. Về mức độ mà xét, ca dao, dân ca trước và sau 1930 có chỗ
khác nhau. Khi chưa có đường lối cách mạng do Đảng ta lãnh đạo, các sĩ phu
phong kiến cũng như nhiều chiến sĩ khác chưa tìm được con đường cứu
nước một cách chính xác. Con đường đấu tranh cách mạng chưa rõ rệt.
Trước kia, ca dao, dân ca nặng về tố cáo thực dân và phong kiến tay sai,
nặng về tố khổ và có lúc pha màu sắc than vãn:
Tiếc quả hồng ngâm mà đem cho chuột vọc,
Tiếc con người ngọc mà đem cho ngâu vầy,
Tiếc của Nam ta xây dựng cho Tây tung hoành.
Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời và lãnh đạo cách mạng, khí
thế đấu tranh được thể hiện trong ca dao, dân ca rõ rệt. Ca dao, dân ca thời
Xô–viết Nghệ – Tĩnh chứng minh điều đó và đánh dấu bước tiến từ tính tự
phát qua tính tự giác cách mạng trong văn học. Thế nào là “tri, phú, địa, hào”
phải “đào tận gốc tróc tận rễ”, thế nào là “ngoại tặc quân Tây”, thế nào là
“quân tư bản quân đi mật thám” phải tiểu trừ cho hết, cũng như thế nào là
“đoàn kết”, là “liên hiệp lại”, v.v…; ca dao, dân ca đều nêu lên khá rõ. Ca
dao, dân ca cũng nói lên phương hướng dân chủ của cách mạng và đề cập
đến vấn đề dân cày, vấn đề ruộng đất:
Đánh đổ đế quốc cho yên,
Lập nên Xô–viết chính quyền khởi cương.
Tịch thu ruộng đất hào cường,
Địa chủ, cố đạo, quan trường ngày nay.
Chia cho binh lính dân cày,
Nông dân cải thiện, đủ đầy đất đai.
Bao nhiêu xí nghiệp, lâu đài,
Của quân tư bản nước ngoài tịch thu.
Lời hát của quần chúng đã có ý thức rõ rệt. Con người dần dần giác
ngộ hơn lên với ý chí đấu tranh cách mạng, với sự chỉ dẫn của Đảng, của giai
cấp công nhân:
Ấy ai nô lệ trên đời,
Ai mà khổ cực đồng thời đứng lên
Bất bình nay chịu sao yên
Phá cho tan nát một phen cho rồi.
Bao nhiêu áp bức trên đời,
Sạch sành sanh phá cho rồi mới tha.
Đó là những biến chuyển trong nội dung, trong hướng đi của ca dao,
dân ca từ 1930 về sau. Ca dao, dân ca bắt đầu có tính Đảng và phát triển dần
sau này. Sự hòa hợp tương hỗ của ca dao, dân ca và văn học cách mạng đã
bắt đầu hình thành, để chuẩn bị cho một dòng thơ ca dân tộc, thống nhất về
nội dung cũng như về ý thức hệ vô sản sau Cách mạng tháng Tám.
B. VÀI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT
Như đã phân tích trên đây, ca dao dân ca thời chống Pháp – Nhật có
một nội dung phong phú, là tấm gương phản ánh lịch sử xã hội ta một trăm
năm trước Cách mạng tháng Tám. Bên cạnh những đặc điểm về nội dung, ca
dao, dân ca thời chống Pháp – Nhật cũng sử dụng nghệ thuật của ca dao,
dân ca xưa, đặc biệt là nghệ thuật trữ tình và trào phúng.
Trong cảnh nhà tan nước mất, tình cảm bị kích động nhiều nhất là lòng
yêu nước. Có những câu hát với nhạc điệu buồn, gợi cảm như câu hò mái nhì
về Trần Cao Vân.
Chiều chiều trước bến Văn lâu,
Ai ngồi ai câu
Ai sầu ai thảm,
Ai thương ai cảm,
Ai nhớ ai mong,
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
Và cũng có những câu ấm ức của người lính mộ đau xót lúc phải xa
nhà. Đây là một tiếng kêu thương tuyệt vọng:
Bớ em ơ! Ráng mà nuôi con chim khuyên cho biết liệng biết bay,
Mai kia anh có thác, hắn giữ cái ngày tiên linh.
Sâu sắc hơn và được sử dụng nhiều là nghệ thuật trào phúng. Từ ngày
xưa, đây là một phương pháp đấu tranh có hiệu lực nhất của văn học dân
gian. Ca dao, dân ca thời chống Pháp – Nhật đả kích mãnh liệt bọn phong
kiến bán nước, bọn thực dân Pháp và phát–xít Nhật bằng lời thơ trào phúng.
Lối nêu sự kiện trái ngược của một “quan Đề” nào đó cũng là một lối cổ điển
của ca dao cũ:
Ai về nhắn nhủ quan Đề,
Bình Tây chẳng được, cứ kéo quân về hại dân
Chúng ta cũng tìm thấy những ẩn dụ cay độc đánh vào bọn Việt gian:
Nhảy bay chưa chắc đã tài
Loẹt lòe chi lắm cái đời nhố nhăng.
Ca dao, dân ca phê phán nghiêm khắc nhiều cái xấu xa khác của bọn
xếp cu–li “ve gái”, bọn thống lý “ăn quỵt”, bọn cai quản “lén mặt”. Ca dao cũng
đập vào tụi mật thám bằng nhiều hình tượng tế nhị:
Con tôm nó bảo con cò,
Ngày nào mày cũng đi mò chúng tao.
Nhìn chung, bằng nghệ thuật dân tộc, bằng lời ca lục bát, bằng các
điệu hò, vè, ca dao, dân ca thời chống Pháp – Nhật đã làm được nhiệm vụ
văn học của nó là phản ánh hiện thực đen tối thời chống Pháp – Nhật, đồng
thời nêu lên tội áo của đế quốc và phong kiến, miêu tả đời sống cơ cực của
nhân dân, cổ vũ nhân dân làm cách mạng theo hướng đi của dân tộc, của
Đảng. Lòng yêu nước căm thù giặc là tình cảm nổi bật của ca dao, dân ca
thời kỳ này. Tình cảm cách mạng ấy sẽ được phát triển ở hoàn cảnh lịch sử
mới sau Cách mạng tháng Tám với ca dao và dân ca kháng chiến chống
Pháp khi chúng trở lại.
II. CA DAO, DÂN CA TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁMKế thừa truyền thống văn học dân gian, ca dao, dân ca sau Cách mạng
tháng Tám vẫn được sáng tác, lưu truyền trong nhân dân và có tác dụng rộng
rãi động viên nhân dân xây dựng và bảo vệ đất nước. Số lượng ca dao, dân
ca rất nhiều, nhưng việc sưu tầm, đãi cát tìm vàng chưa làm được bao nhiêu.
Hơn nữa ca dao, dân ca đang được nhân dân ta tiếp tục sáng tác và đang
biến chuyển với thời gian, với cách mạng. Chưa có điều kiện nghiên cứu toàn
diện vấn đề này, chúng ta chỉ sơ bộ nhận xét qua một số đặc điểm.
A. VÀI NÉT VỀ HOÀN CẢSH LỊCH SỬ
Sau mười lăm năm đấu tranh cách mạng (1915–1960), Đảng ta đã lãnh
đạo Cách mạng tháng Tám thành công, thành lập chính quyền dân chủ nhân
dân, xây dựng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng bọn thực dân Pháp
trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Với tinh thần đoàn kết kháng chiến suốt
tám, chín năm liền, nhân dân ta mới giải phóng được một nửa đất nước.
Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ (5–1954) và thắng lợi của Hội nghị Giơ–ne–
vơ (7–1954) đã lập lại nền hòa bình ở Đông Dương, trên cơ sở công nhận
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, Lào và
Cam–pu–chia. Nhưng đế quốc Mỹ lại can thiệp vào miền Nam nước ta, biến
miền Nam thành thuộc địa và căn cứ quân sự của chúng, âm mưu chia cắt
lâu dài đất nước ta cho nên sau 7–1954, nước ta tạm thời bị chia làm hai
miền: miền Bắc chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, còn miền
Nam vẫn tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhân dân ta từ Bắc
đến Nam nỗ lực phấn đấu thực hiện nhiệm vụ cách mạng mà Đại hội toàn
quốc lần thứ 3 của Đảng ta đã đề ra: “Tăng cường đoàn kết toàn dân kiên
quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa
bình ở Đông Nam Á và thế giới”.
Trải qua một quá trình đấu tranh đầy hy sinh, cực kỳ gian khổ, chống
các thế lực đế quốc to lớn nhất trong thời đại hiện nay, cuối cùng nhân dân
Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã giành được
thắng lợi lịch sử: hoàn toàn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, xây
dựng Tổ quốc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đưa cả nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
B. ĐẶC ĐIỂM CỦA CA DAO, DÂN CA SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
1. Ca dao, dân ca đi sát thời sự, phản ánh hiện thực sâu sắc và nóng hổi của thời đại, động viên nhân dân ta đấu tranh cách mạng mạnh mẽ.
Đặc điểm nổi bật của ca dao, dân ca kháng chiến là lòng yêu nước,
căm thù. Yêu nước và căm thù có liên hệ hữu cơ với nhau, là hai mặt gắn
liền nhau trong ca dao và dân ca kháng chiến. Có khi là những lời chửi
rủa giặc Pháp cướp bóc “bắt heo, bắt vịt, bắt gà, quýt cam chặt ngọn, bí cà
nhổ ngang”, có khi là bản cáo trạng vạch toàn bộ tội ác của giặc, một “bản
thống kê về đầu rơi máu chảy” một cảnh tra tấn thảm khốc hơn cả Thập điện
Diêm vương:
Người chọc huyết như hình gà vịt,
Người đem ra xẻo thịt như trâu,
Người thì lấy búa bửa đầu,
Nấn nước sôi nó đổ, nấu dầu nó chưng
Người thì cho chó cắn tràn lưng tràn cổ,
Người thì xô vào trong lỗ, trong hang,
Phơi khô những lúc nắng chang
Đem dầm những trận mưa sang lạnh lùng
Người thì nó đốt trong cùm, trong đỉnh,
Người thì đem dây điện khảo tra,
Người thi dận nước như thể ma rà,
Treo cây nó bắn như là bắn chim
Người thì mất xác nó tìm không thấy.
Người còn thây mà lấy không ra,
Người thì trôi cuối hói, đầu hà,
Xương rơi thịt nát, sương sa gió lồng
Bàn tay lấy dây đồng xâu lỗ
Nặn máu hồng mà mổ lấy gan
Cực hình chi lắm dã man,
Máu me Hồng Lạc kêu vang không thấu trời
Căm thù giặc Pháp, nhân dân ta đã đấu tranh anh dũng. Lòng yêu
nước được biểu hiện bằng ý chí quyết tâm kháng chiến của toàn dân. Ngay
từ những ngày đầu, ý thức trường kỳ kháng chiến đã rõ rệt:
Một năm đánh giặc chưa tan,
Mười năm đánh giặc, giặc tàn mới thôi.
Lòng yêu nước được biểu hiện bằng những hành động cứu quốc của
các tầng lớp nhân dân từ em bé “giao thông liên lạc cho đoàn vệ binh” đến
“tấm lòng yêu nước già đâu có già” của các cụ phụ lão; đặc biệt tính chiến
đấu mãnh liệt của thanh niên, trụ cột của lực lượng kháng Pháp, những du
kích, những dân quân “vừa lính giữ nước, vừa dân giữ làng” và của bộ đội
chính quy quyết tâm ra đi giết giặc đến bao giờ “cao cờ độc lập” mới về. Nếu
tiền tuyến thi đua lập nhiều chiến công thì hậu phương ra sức sản xuất. Vấn
đề sản xuất lương thực không chỉ để có cơm no áo ấm, vấn đề sản xuất gắn
liền với giết giặc đến mức độ:
Giết thù không súng không gươm,
Khí giới chỉ có sắn đơm bẩy vồng.
Mặt trận diệt dốt cũng là mặt trận kháng chiến. Bình dân học vụ phát
triển mạnh mẽ. Chính động cơ “học là yêu nước nên ghi vào lòng” đã thúc
đẩy đồng bào thi đua học tập để rồi khi kháng chiến thành công, 14 triệu
người dân Việt Nam hoàn toàn thoát nạn mù chữ.
Lòng yêu nước là trung tâm chi phối nhiều tình cảm khác của nhân dân
ta trong kháng chiến. Khác với ca dao, dân ca cũ, ca dao, dân ca kháng chiến
nêu lên lòng tin yêu lãnh tụ, tin yêu Đảng. Ca dao, dân ca về lãnh tụ Hồ Chí
Minh được sáng tác sau Cách mạng tháng Tám, số lượng khá nhiều, lưu
truyền khắp Trung, Nam, Bắc, miền xuôi, miền núi đều bộc lộ tình cảm chân
thành nhất của nhân dân toàn quốc ta mong ước lãnh tụ sống lâu muôn tuổi.
Đẹp biết mấy “cái tên yêu quý Hồ Chi Minh”:
Tháp Mười đẹp nhất hoa sen,
Nước Nam đẹp nhất có tên Cụ Hồ.
Ca dao đánh dấu một thời đại lịch sử vô cùng tốt đẹp, thời đại Hồ Chí
Minh:
Bia xanh còn chép để đời,
Từ khi có Cụ, người người ấm no.
Do hoàn cảnh lịch sử, ca dao, dân ca về Đảng xuất hiện sau ca dao,
dân ca về lãnh tụ lúc này, có nhiều câu được truyền tụng phản ánh lòng tin
tưởng tuyệt đối của nhân dân đối với Đảng lao động Việt Xam kính yêu, hứa
hẹn hoàn thành mọi nhiệm vụ để tỏ lòng biết ơn Đảng, để chào mừng Bảng ra
đời:
Đảng ra đời sáng ngời mọi chỗ,
Đảng ra đời lúa trổ nhiều bông,
Xốn xang tiếng hát trên đồng,
Tin anh vệ quốc lập công chào mừng.
Ca dao, dân ca kháng chiến cũng có tác dụng đoàn kết nhân dân đấu
tranh chống thực dân Pháp. Truyền thống “nhiễu điều phủ lấy giá gương,
người trong một nước phải thương nhau cùng” được phát huy trong ca dao
kháng chiến. Những câu hát:
Đôi ta lương giáo mặc dầu,
Cùng chung Tổ quốc, cùng sầu nước non.
Một ngày nhiệm vụ chưa tròn,
Một ngày dân tộc hãy còn thương đau.
Đôi ta quyết sát vai nhau,
Xông ra chiến địa đuổi mau quân thù.
thực tế là những đòn đánh bại âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt”
của quân thù.
Đáng chú ý hơn là mối tình quân dân nhất trí trong cuộc kháng chiến
trường kỳ. Ca dao, dân ca kháng chiến đã hòa hợp được lý trí và tình cảm,
nhiệm vụ và yêu thương khi nói đến mối tình cả nước ấy. Từ quan niệm “còn
anh còn nước còn non, còn làng còn xóm, bà con yên lành” mà nhân dân có
những hành động đáng yêu trong cảnh đón tiếp bộ đội với “dăm ba quả bí”,
với “thúng gạo nhà”, trong trao tay vật kỷ niệm “chiếc khăn xanh viền quanh
chỉ đỏ”. Người phụ nữ xuất hiện trong ca dao, dân ca kháng chiến với những
tình cảm chân thật, với nhũng hành vi cách mạng chăm lo cho hạnh phúc của
người khác hơn là hạnh phúc của chính mình. Nhiều mẹ, nhiều chị chăm lo
nuôi nấng thương binh với ý nghĩ “có anh đến ở hóa ra em giàu” và cao hơn
là lòng nhân đạo:
Rừnq xanh ai nhuộm mà Xanh,
Má hồng ai nhuộm mà quanh năm hồng.
Rừng xanh lấy núi làm chồng,
Má hồng em muốn lấy chồng thương binh.
Ca dao, dân ca kháng chiến, tấm gương phản chiếu lòng yêu nước
nồng nàn của dân ta sẽ sống mãi với dân tộc ta, với Hồ Chủ tịch, với Điện
Biên Phủ vĩ đại.
Với hoàn cảnh mới của lịch sử, ca dao, dân ca từ ngày miền Bắc hoàn
toàn được giải phóng, có nội dung xây dựng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh
thống nhất đất nước. Quan hệ sản xuất mới được củng cố và phát triển. Nội
dung yêu nước cũng thay đổi vì yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội và ngược
lại, yêu chủ nghĩa xã hội thì càng yêu nước thấm thía. Ca dao, dân ca mới
tuyên truyền giáo dục quần chúng đấu tranh xóa bỏ bóc lột giai cấp, tiến hành
hợp tác hóa nông nghiệp, xây dựng công nghiệp. Nhiều ca dao, dân ca phản
ánh phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, biểu hiện các khía cạnh khác nhau
của vấn đề này, vận động nông dân vào tổ đổi công, hợp tác xã chấm dứt cái
cảnh “con kiến mà leo cành đào”, luôn luôn tin tưởng “cầm vàng còn sợ vàng
rơi, vào hợp tác xã đời đời ấm no”. Ca dao, dân ca mới tán thành “phá cái bờ
tư hữu” để cho cánh đồng tươi trẻ mãi ra, ca ngợi con đường làm ăn tập thể
“sáng ngời ngời”. Ca dao, dân ca mới vận động nông dân cải tiến kỹ thuật để
tăng năng suất lúa:
Lúa vàng ở dưới đất đen,
Đem cày cải tiến khơi lên lúa vàng.
hoặc:
Nhiều phân lúa tốt như rừng,
Mẹ vui cơm trắng, con mừng áo hoa.
Với hợp tác hóa nông nghiệp, kỹ thuật sản xuất được cải tiến, quan hệ
sản xuất tiến lên và nhận thức, lối nhìn của nông dân cũng đang thay đổi:
Trước kia gieo mạ ruộng nhà,
Mắt nhìn chật hẹp tay đà khó vung.
Bây giờ gieo mạ ruộng chung,
Mắt nhìn rộng lớn, tay vung dễ dàng.
Con người nông dân cũng đổi mới. Người xã viên hợp tác cần cù lao
động, gương mẫu sản xuất, người đảng viên Đảng Cộng sản ở nông thôn
cũng tiền phong trong mọi công tác:
Đảng viển đi trước
Làng nước theo sau
Hợp tác xã giàu
Nông thôn đổi mới.
So sánh với số lượng ca dao, dân ca nói về hợp tác hóa nông nghiệp,
thì ca dao, dân ca nói về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa có ít hơn. Tuy vậy
nội dung ca dao, dân ca công nghiệp hóa khá phong phú, phản ánh đời sống
lao động và tình cảm của công nhân trong các xí nghiệp, hầm mỏ. Ca dao đặc
biệt là hò, vè phát triển nhịp nhàng với mức độ kiến thiết càng ngày càng tiến
của các công trường. Ca dao, hò, vè động viên lao động, giáo dục nâng cao
năng suất, ca ngợi cái đẹp của đôi “cánh tay thép gang” cùa người công nhân
công trường, ca ngợi nhịp độ kiến thiết xã hội chủ nghĩa dồn dập tươi vui:
Tầng cao cao ngút lưng trời,
Xe lên, lên mãi như đời bay lên,
Xe lăn rầm rập ngày đêm;
Chở đoàn thợ mỏ vào tim đất dày.
Ca dao, dân ca về đấu tranh thống nhất đất nước chắc chắn có nhiều ở
miền Nam, bộc lộ lòng yêu nước căm thù Mỹ – ngụy của đồng bào ta, vạch
âm mưu dinh điền “thực ra Mỹ–Diệm bắt dân đi cày” hoặc chỉ rõ cho mọi
người biết “phen ni hết cửa hết nhà, cần lao nhân vị chỉ là giết dân”. Có câu
hò chống âm mưu phản bội hiệp định Giơ–ne–vơ của bè lũ Mỹ – Diệm lúc
bấy giờ– Do đó, có rất nhiều câu ca dao đả kích chủ trương “bán nước cầu
vinh” của bọn Ngô Đình Diệm, thí dụ như câu:
Cây bồ hòn: “trái tròn, hột đắng”
Ngô Đình Diệm nói trắng làm đen
Theo chân đế quốc Mỹ đê hèn,
Không thi hành hiệp định đã nhiều phen lắm rồi.
hay như câu:
Gió đưa bông cải về trời,
Gió đưa gió đẩy đi đời họ Ngô v.v…
Tội ác của Mỹ – ngụy tràn trên cả núi rừng Tây Nguyên. Người dân Ê–
đê, Gia–rai đã hồi ức:
Vùng Tây Nguyên rừng thiêng nước độc,
Tám chín năm ở với Bác Hô lúa mọc đầy nương.
Ba năm ở với “quốc gia” khổ sở trăm đường,
Nay bắt phu, bắt lính, mai nói gạt, nói lường hại dân.
Ca dao, dân ca đấu tranh thống nhất cũng đi sâu vào tâm tình đồng
bào. Có những câu gợi lên quang cảnh miền Nam yêu quý như nhắc nhở mối
tình ruột thịt Bắc – Nam. Đây, Quảng Trị với “Nước Cửa Tùng vừa trong vừa
mát” với “Thơm, mít Cam Gia vừa to vừa ngọt”, đây Cửu Long với “Nước
sông càng ngọt, lúa đồng càng xanh”. Những lời hẹn ước từ ngày ra đi tập kết
còn ghi mãi ở đây:
Muối mặn ba năm còn mặn,
Gừng cay chín tháng còn cay.
Dù ai xuyên tạc lá lay,
Sắt son nguyện giữ lòng này thủy chung.
Trỗi hẳn lên là ý chí đoàn kết đấu tranh, lòng tin tưởng vững chắc ở
ngày thống nhất toàn quốc:
Nhiều tay vỗ lên bộp
Nhiều cột dựng nên nhà,
Dù cho Mỹ, Diệm ỳ ra,
Cú Cụ Hồ lãnh đạo, việc thống nhất nước nhà thành công.
2. Ca dao, dân ca sau Cách mạng tháng Tám có tính tư tưởng cao, tính giai cấp và tính Đảng rõ rệt.
Ca dao, dân ca cổ thường có xu hướng tự phát, cho nên tuy trong đấu
tranh giai cấp, đã có tiếng nói phản phong đôi lúc mạnh mẽ “dân nổi can qua”,
nhưng rồi nhân dân phải làm gì thì hướng đi lên không rõ rệt. Điều này một
phần do giác ngộ của con người còn thấp nhưng, phần khác do điều kiện lịch
sử hạn chế. Phương thức sản xuất phong kiến với lối làm ăn cá thể rời rạc,
không cho con người thấy con đường tổ chức giải phóng cuộc đời của mình,
thay thế trật tự xã hội mới cho trật tự phong kiến. Từ ngày có Đảng, đặc biệt
từ sau Cách mạng tháng Tám thành công (trong kháng chiến và hiện nay)
nhân dân càng ngày càng có ý thức về cuộc sống của mình. Ca dao, dân ca
mới được ánh sáng của ý thức, của trí tuệ, được hướng đi của cách mạng,
của kháng chiến, của xã hội chủ nghĩa chỉ đạo. Đảng cộng sản đã đem trí tuệ
soi cho bản năng – Trí tuệ lại được phát triển với chiến đấu, với lao động xây
dựng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, của chủ nghĩa Mác – Lê–
nin. Nguyễn Đình Thi có một nhận định: “Nghệ thuật mới không nghiêng ngả
như ca dao xưa. Nó có hướng đi lên chắc chắn rõ rệt, hướng đi lên của dân
tộc, của đoàn thể, của khoa học. Ý thức đoàn thể, ý thức dân tộc đem trí tuệ
soi cho bản năng… Nghệ thuật mới hòa hợp bản năng và trí tuệ, nó làm nảy
nở cuộc sống tự nhiên của con người theo hướng dẫn của trí tuệ”.
Cho nên ca dao, dân ca kháng chiến, phát động quần chúng giảm tô,
cải cách ruộng đất, ca dao và dân ca xây dựng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh
thống nhất đất nước là tiếng hát của những con người giác ngộ cách mạng.
Họ nhìn rõ quân thù, căm hờn và đấu tranh quyết liệt với quân thù. Cái kiên
quyết không đội trời chung trong câu ca dao kháng chiến Nam Bộ:
Bao giờ hết cỏ Tháp Mười,
Thì dân ta mới hết người đánh Tây.
là của cả một dân tộc giác ngộ cách mạng. Trên mặt trận chống phong kiến,
ca dao, dân ca không chỉ tố khổ bọn địa chủ mà khẳng định một con đường
cách mạng:
Nông dân đã nói thì làm,
Đã đi phải đến, đã bàn phải thông.
Đã quyết là quyết một lòng,
Đã phát là động, đã vùng là lên,
Đã lật lật dưới lật lên,
Đã chuyển là chuyển bốn bên chân trời.
Qua sự thay đổi của quan hệ sản xuất, khả năng con người thật sự
được phát huy. Cái khi thế “nghiêng đồng đồ nước ra sông”, “vắt đất ra nước
thay trời làm mưa”, không cần “lạy trời mưa xuống” nữa đã chứng minh điều
đó.
Chính lòng tin ở mình trong đấu tranh thiên nhiên, đấu tranh giai cấp đã
đem đến cho quần chúng nhân dân tinh thần lạc quan lao động và chiến đấu.
Ca dao, dân ca mới là những sáng tác của người dân độc lập – của công,
nông, binh – những con người luôn luôn lạc quan dù gặp muôn vàn khó khăn.
Ca dao, dân ca mới – đặc biệt là ca dao, dân ca kháng chiến – chỉ có vui
không có buồn, không có những thứ mà Hoài Thanh đã gọi là “đạo rớt”,
“mộng rớt”, “ngắm rớt”, “nhắm rớt” và cả “buồm rớt” nữa như một số thơ nào
đó hồi đầu kháng chiến:
Bao nhiêu gian khổ đã từng,
Muối tiêu, mít luộc vang lừng hát reo.
Chúng mình có nước thì yêu,
Đã theo nghĩa cả thì theo đến cùng.
Lạc quan, tin tưởng đã dẫn người dân hát lên những lời ca lãng mạn
cách mạng với sức tưởng tượng “tự do rong ruổi như ngựa buông cương”:
Mau lên hỡi bạn xe thồ,
Đường đi rầm rập vui mô cho bằng,
Qua rừng qua núi bănq băng,
Xe thồ đè bẹp xe tănq quân thù.
Đó là một mơ ước và đây là một mơ ước lớn:
Ta đi tranh đấu tới cùng,
Làm cho nhân loại thoát vùng xiềng dây.
Cho nên tư tưởng của ca dao, dân ca mới là tính chiến đấu, ý thức làm
chủ và tinh thần lạc quan tin tưởng. Đó là chất thép tốt nhất của ca dao, dân
ca mới. Bên cạnh tính tư tưởng, và cũng là một khía cạnh vô cùng quan trọng
của tính tư tưởng, là tính Đảng của ca dao, dân ca mới. Trước Cách mạng
tháng Tám, ca dao, dân ca (cũng như các loại hình khác của văn học dân
gian) chỉ có tính nhân dân. Ngày nay, ca dao, dân ca mới mang cả tính nhân
dân và tính Đảng. Tính Đảng trong ca dao, dân ca mới không chỉ đơn thuần là
vấn đề nói đến Đảng, là sự biết ơn Đảng, biết ơn lãnh tụ của Đảng, nêu lên
lòng tin tưởng tuyệt đối ở Đảng, ở lãnh tụ (như đã nghiên cứu ở trên). Lớn
hơn và quan trọng hơn nữa là ca dao, dân ca mới phản ánh tuyên truyền,
giáo dục toàn dân theo con đường cách mạng do Đảng (Đảng Cộng sản
Đông Dương trước kia, tức Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay) vạch ra và nỗ
lực chiến đấu thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng. Để ý nghiên
cứu kỹ, chúng ta sẽ thấy ca dao, dân ca mới đề cập đến mọi mặt của cuộc,
kháng chiến chống Pháp, của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc hiện
nay và của đấu tranh thống nhất đất nước (từ những đường lối lớn như toàn
dân, toàn diện trường kỳ kháng chiến, cải cách ruộng đất, kiến thiết xã hội
chủ nghĩa… cho đến những cuộc vận động nhỏ như đấu tranh kinh tế với địch
trong kháng chiến, xây dựng nếp sống mới trong hòa bình…). Từ ngày có
Đảng lãnh đạo, Đảng đã dùng văn học, nghệ thuật làm vũ khí đấu tranh cách
mạng. Ca dao, dân ca mới chung một dòng sông với văn học cách mạng
hoàn toàn nhất trí về mục đích với văn học cách mạng, cùng với văn học cách
mạng trở thành “một bộ phận trong toàn bộ sự nghiệp của giai cấp vô sản” trở
thành “một bánh xe”, “một đinh ốc” của bộ máy cách mạng do Đảng ta lãnh
đạo. Qua lời thơ lục bát, qua hình tượng nghệ thuật, ca dao, dân ca mới là
tiếng hát trung thành nhất của giai cấp vô sản, của những con người làm cách
mạng đánh đuổi đế quốc phong kiến và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Từ ngày
Đảng ra đời, trong những năm đấu tranh trước Cách mạng tháng Tám, Đảng
đã phát động quần chúng công nông làm thơ ca để phục vụ cách mạng. Đặc
biệt sau 1945, trong cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc cho đến ngày
nay, Đảng đã chỉ đường vạch lối cho văn nghệ phục vụ chính trị, phục vụ
cách mạng. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ rằng ca dao, dân ca – những
sáng tác của quần chúng nhân dân–mang tính Đảng khá mạnh mẽ. Đảng đã
đi vào văn nghệ của quần chúng và quần chúng đã sáng tác những bài ca
hay nhất để hòa nhịp với lời kêu gọi tranh đấu cho cách mạng của Đảng.
3. Ca dao, dân ca mới kế thừa và phát huy nghệ thuật của ca dao, dân ca cổ truyền.
Ca dao và dân ca mới kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của
nghệ thuật ca dao, dân ca cổ truyền. Ca dao, dân ca mới là tiếng hát của
những trái tim cách mạng cho nên màu sắc trữ tình của nghệ thuật mới có cái
đẹp của ca dao, dân ca xưa đồng thời có cái mạnh mẽ của tình cảm con
người mới. Phong cách trữ tình trong ca dao, dân ca mới ca ngợi tình cảm
lớn của thời đại, ca ngợi lòng yêu nước, yêu Đảng, yêu lãnh tụ, yêu lao động,
yêu tập thể. Câu hát mộc mạc sau đây là một mối tình chân thực, mối tình
chưa hề có trong ca dao cũ:
Nắng lên cho lúa mau vàng,
Cho anh đi gặt cho nàng quảy cơm.
Đếm người lấy bát mà đơm,
Ăn cơm ở tổ ngon hơn ở nhà.
Tình cảm cá nhân, tình yêu trai gái trong ca dao, dân ca mới phong phú
và không đi theo hướng đi của xưa nữa vì hoàn cảnh đã đổi mới. Tình cảm cá
nhân gắn liền với tình cảm cách mạng:
Chị em du kích Thái Bình
Ca lô đội lệch vừa xinh vừa giòn,
Người ta nhắc chuyện chồng con;
Lắc đầu nguây nguẩy: em còn giết Tây.
Những hình tượng gợi cảm được ca dao, dân ca khai thác triệt để. Có
những khung cảnh êm dịu:
Trăng soi sáng ngọn hoa cà,
Em ngồi đan áo gởi ra cho người.
Chiến trường vất vả người ơi,
Sợi len em vẫn một đôi sợi tình.
Có những câu hò giàu nhạc điệu, giàu tình cảm bộc lộ cái quyến luyến
quê hương làng xóm mà cũng có cái căm thù Mỹ–ngụy sâu sắc:
“Nâng cao lá khoai nhìn hoài chưa cắt, sửa lại mái tranh sợi lạt không
rời, quê hương mình quen từng bước thuộc từng nơi, nay hắn bắt ra đi phu
nơi rừng thiêng nước độc, e bỏ xác xứ người còn chi”.
Về nghệ thuật trào phúng, ca dao, dân ca mới phát huy lối châm biếm
và đả kích của ca dao, dân ca xưa. Khi đã nhận định được đâu là bạn đâu là
thù của cách mạng, nghệ thuật trào phúng của ca dao, dân ca mới đi đúng
hướng hơn, có tác dụng giáo dục quần chúng và khơi sâu được mối căm hờn
đối với kẻ thù. Nghệ thuật trào phúng của ca dao, dân ca mới bài trừ mọi mê
tín dị đoan, dốt nát. Hồi kháng chiến, nhân dân hát nhiều câu ca dao xét ra
chưa thật đúng đắn lắm nhưng thật là cay độc khi nói về bình dân học vụ:
Lấy chồng biết chữ là tiên,
Lấy chồng mù chữ là duyên con bò.
Ngày nay, ca dao, dân ca cười những kẻ còn mang tàn tích phong kiến,
cười những kẻ bảo thủ trong sản xuất, cười những kẻ không có đầy đủ đạo
đức xã hội chủ nghĩa. Nghệ thuật trào phúng nhấn mạnh những hình ảnh đối
lập để cười những ai lười lao động:
Nghe đồn đại lãn nổi danh,
Bùn gánh vào dành bằng vệt mắm tôm.
Bứt cỏ vừa gánh vừa ôm,
Bằng cái búi rác trám mồm con bê.
Thưởng tài anh một vác tre,
Để anh đóng bè tiễn cái lười đi.
Ca dao, dân ca mới còn nói đúng bản chất của kẻ thù. Ca dao,
dân ca kháng chiến đả kích giặc Pháp, việt gian, ca dao cải cách ruộng đất đả
kích bọn địa chủ và ca dao đấu tranh thống nhất chĩa mũi dùi vào đế quốc Mỹ
xâm lược và bè lũ tay sai. Cái gọi là “cơ sở triết học” của tên tay sai bán nước
Ngô Đình Diệm trước kia là gì? Nhân dân đã vạch rõ:
“Cần lao” sao dân nghèo lao đao thất nqhiệp,
“Nhân vị” là mọi người phải bị bần cùng,
Dù có tô son điểm phấn mấy lần,
Trắng đen, trong đục mười phân rõ mười.
Về hình thức, ca dao, dân ca mới không khác ca dao, dân ca cũ bao
nhiêu. Thể thơ lục bát, song thất lục bát, thể thơ bốn chữ vẫn là những hình
thức phổ biến nhất trong ca dao, dân ca mới. Đôi lúc cũng có những nét đặc
biệt. Câu ca dao Bình – Trị – Thiên sau đây thay đổi số từ nhưng vẫn giữ
được âm điệu dân tộc:
Cắc bụp, cắc bụp, xòa
Ba thằng giặc Pháp bắt gà bắt heo.
Cắc bụp, cắc bụp, xèo,
Ba thằng giặc Pháp bắt heo bắt gà.
Lối chắp vần nối tiếp ca dao cũ để nói một nội dung mới là một phương
pháp hay dùng trong ca dao mới:
Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
– Ánh trăng em chẳng thiếu gì,
Anh có thóc giống em thì đổi cho.
Có khi ca dao mới lấy nội dung mội câu ca dao cũ để so sánh với cuộc
sống mới bằng cách đưa cả câu ca dao cũ vào một bài ca dao mới:
Nhớ xưa nợ trả ba đời,
Chiều ba mươi Tết mẹ ngồi nhìn con.
Gánh cực mà đổ lên non,
Còng lưng mà chạy cực còn chạy theo
Chừ đây hết cực hết nghèo,
Vui theo ra ruộng, mừng theo về nhả.
Ngoài ra, ca dao mới cũng theo phương pháp cường điệu, nhân cách
hóa của ca dao cũ để phô diễn một nội dung mới.
Dân ca, hò vè là hai hình thức được sử dụng nhiều trong kháng chiến.
Vè kể tội việt gian, đế quốc, kể chuyện chiến thắng của bộ đội. Hò đã đi trên
khắp các nẻo đường của kháng chiến, sống trong lòng các anh các chị dân
công vận tải. Hò Nghệ – Tĩnh có nhịp độ rộn ràng động viên tinh thần phấn
đấu rõ rệt;
(Ơ hò…) đèo cao thì mặc đèo cao,
Tấm lòng yêu nước còn cao hơn đèo (đơn ca)
là dô hò, thinh lặng mà nghe, thinh lặng mà nghe mà nghe câu hò… (đồng
ca). Có khi người ta thay điệp khúc “thinh lặng mà nghe” bằng điệp khúc
“thắng lợi về ta, thất bại về Tây” để tăng thêm lạc quan tin tưởng.
Trong các cuộc hội nghị, “hò lơ” là điệu dân ca được hát nhiều trong lúc
giải trí. Cũng như hò Nghệ – Tĩnh, hò lơ cũng dùng câu lục bát để hát và đồng
ca điệp khúc “a li hò lờ”, “lắng tai nghe tiếng ai hò lờ” xen vào.
Từ sau 1954, dân ca của dân tộc ta đã phục sinh và phát triển dưới ánh
sáng văn học nghệ thuật của Đảng ta. Có những loại dân ca trước kia chỉ lưu
hành từng vùng như quan họ Bắc Ninh thì ngày nay đã được phổ biến rộng
rãi trong và ngoài nước (như điệu “cây trúc xinh”, “xe chỉ luồn kim”, “trèo lên
trên núi Thiên Thai”, “ba mươi sáu thứ chim”). Nhiều dân ca khác cũng vượt
“lũy tre sinh quán” của nó và được nhiều nơi ca hát. Bài chòi liên khu năm
được sử dụng vào kịch dân ca, một hình thức mới trong nghệ thuật sân khấu
của ta (như vở Thoại Khanh – Châu Tuấn). Hạn khuống của đồng bào Thái
đang được phục hồi. Khan của Tây Nguyên đã được sưu tầm dịch ra tiếng
phổ thông và giới thiệu với đồng bào trong cả nước. Các điệu dân ca khác
của đồng bào miền núi đã được trình diễn ở nhiều nơi đem lại cho miền xuôi
tiếng hát chân thực, chất phác của các dân tộc anh em.
Trước khi kết luận, cũng cần nói thêm phong trào và lực lượng sáng tác
ca dao, dân ca mới. Sau Cách mạng tháng Tám, trong trường kỳ kháng
chiến, phong trào sáng tác ca dao, dân ca phát triển mạnh mẽ. Ban đầu là
phong trào tự phát nhưng từ 1948 về sau, việc sáng tác ca dao, dân ca đi vào
nền nếp đề cập đến mọi khía cạnh của cuộc kháng chiến. Phong trào cứ lớn
mạnh mãi cho đến ngày nay với sự phát triển của cách mạng. Lực lượng chủ
yếu sáng tác ca dao, dân ca mới là quần chúng, công, nông, binh. Bộ đội làm
thơ báng súng để động viên luyện tập quân sự, họ ca ngợi cái mũ nan, khẫu
súng, viên đạn, tàu lá ngụy trang với nhiệt tình cách mạng của mình. Nông
dân hát dân ca trong lúc sản xuất, trong lúc đi dân công. Họ sáng tác kịp thời
để phục vụ mùa thắng lợi, để cổ động một chiến dịch giao lương… Trong
công binh xưởng, ca dao, dân ca cũng vang lên bên tiếng đe, tiếng búa, bên
dòng gang đúc bom, đạn. Bên cạnh công, nông, binh, có một số nhà thơ cũng
sáng tác ca dao. Họ học tập quần chúng nhưng cũng hướng dẫn quần chúng
sáng tác. Những sáng tác của họ hòa lẫn vào sáng tác của quần chúng cho
nên có những bài ca dao còn mang tên tác giả mà cũng có bài không mang
tên tác giả nữa, cũng vì thế mà có những bài thơ hay đượm màu sắc ca dao
như Việt Bắc, Thăm lúa.
C. KẾT LUẬN
Qua sự phân tích một số đặc điểm của ca dao, dân ca mới sau Cách
mạng tháng Tám, chúng ta thấy ca dao, dân ca mới thể hiện tình cảm lớn
nhất của nhân dân ta. Sống mãnh liệt trong ngọn lửa kháng chiến và cách
mạng, bắt nguồn trong hiện thực của cuộc sống sản xuất và chiến đấu, ca
dao, dân ca mới là tiếng thét căm thù giặc Pháp, căm thù Mỹ – ngụy, nhưng
cũng là tình yêu đồng bào, yêu giai cấp, yêu Đảng và lãnh tụ, yêu nước, yêu
chính nghĩa và hòa bình. Tiếp tục truyền thống nghệ thuật từ ngàn xưa, bằng
lời thơ lục bát, bằng các làn điệu phong phú, ca dao, dân ca mới là phương
tiện tuyên truyền tổ chức quần chúng đấu tranh chính trị làm cách mạng dân
tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa, thắt chặt thêm tình đoàn kết toàn
dân, hướng dẫn họ tiến lên giành những thắng lợi mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Chương XI. CHÈO
I. SƠ QUA VÀI NÉT VỀ SÂN KHẤU VIỆT NAMNgành sân khấu nước ta ngày nay có đầy đủ các hình thức như ca
kịch, thoại kịch, vũ kịch, nhạc kịch, múa rối. Từ xưa kia, nước ta đã có các
loại múa rối, tuồng, chèo. Đến đầu thế kỷ XX, một số hình thức mới được đưa
lên sân khấu như cải lương, dân ca kịch, kịch nói, nhạc kịch. Hiện nay chúng
ta lại có thêm loại vũ kịch.
Nghệ thuật múa rối Việt Nam có từ lâu đời, ngay ở các triều đại Lý,
Trần đã thịnh hành. Vua Lý Nhân Tông hay các vương tôn công tử đời Trần
rất thích xem múa rối. Trước đây, ở các làng Lý Nhân, Nam Châu, Nam
Xương (Hà Nam Ninh), Ngũ Thái (Hà Bắc), Thạch Xá (Hà Sơn Bình), v.v…
đều có trò múa rối trong những dịp hội hè đình đám, thí dụ như ngày lễ công
chúa Mị–Ê ở Hà Nam Ninh, ngày hội chùa Thầy ở Hà Sơn Bình. Múa rối có
hai loại: múa rối cạn và múa rối nước. Nghệ thuật múa rối nước được phát
triển hơn. Một tiết mục của chèo như Từ Thức, Quan Âm Thị Kính được áp
dụng vào múa rối. Tuồng là một hình thức ca kịch dân tộc có từ lâu đời.
Tuồng có hai loại chính: tuồng pho và tuồng đồ. Tuồng ban đầu cũng là một
sản phẩm của quần chúng, làn điệu cũng dựa vào dân ca, dân vũ; dần dần nó
bị cung đình hóa; nội dung các vở tuồng pho lấy trong lịch sử hay đời sống
của phong kiến Trung Quốc hoặc Việt Nam. Những vở tuồng pho còn lại ngày
nay đều có tên tác giả, nên chúng tôi sẽ nghiên cứu thành mục riêng. Tuồng
đồ có nhiều tính chất dân gian hơn; diễn viên ở đây thường nói nhiều hơn hát
và lời hát cũng ít pha chữ Hán như ở tuồng pho. Đặc biệt nội dung các vở
tuồng đồ như Trương Ngáo, Di tinh, v.v… gần giống với nội dung trong các
truyện vui nhâu dân. Tính chất hài kịch trong tuồng đồ gần giống như tính
chất hài kịch trong chèo. Cải lương cũng là một hình thức ca kịch mới phát
sinh từ đầu thế kỷ XX. Hình thức sân khấu này ban đầu còn giản đơn như
những bài độc tấu có thêm một ít điệu sau lại dùng cả áo mạo cân đai như
tuồng, đánh võ như tuồng. Thường thường các diễn viên cải lương rút kinh
nghiệm kịch nói mà giảm hát, tăng nói cho thích hợp với thời đại. Ban đầu các
nghệ sĩ cải lương sử dụng nhiều âm nhạc tài tử cổ điển như các bài Kim tiền,
Bình bán, Xàng xê, Tây thi, Văn Thiên Tường, v.v…, sau dựa vào dân ca
Nam Bộ mà sáng tác ra điệu mới như Vọng cổ hoài lang và cũng dùng cả một
số điệu hò, lý. Ngoài ra, âm nhạc cải lương lại phỏng theo giọng Hồ Quảng do
đội Triều Châu (Quảng Đông) truyền cho và phỏng theo ca một số điệu hát
của Pháp. Về nội dung, các nghệ sĩ cải lương ban đầu rút cốt truyện ở tuồng,
sau mới soạn ra những vở mới. Ngay từ khi mới ra đời, cải lương đã sớm
được chuyên nghiệp hóa và được quần chúng rất ưa thích, nhất là quần
chúng Nam Bộ.
Dân ca kịch bài chòi là một loại kịch giống như cải lương, nhưng các
làn điệu hầu hết dựa vào dân ca Liên khu V, thí dụ như vở Thoại Khanh –
Châu Tuấn.
Đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng phương Tây, loại kịch nói và nhạc kịch ra
đời. Ban đầu ta chưa soạn được những vở kịch nói Việt Nam mà chỉ dịch
những vở kịch cổ điển của Pháp. Dần dần những vở kịch như Chén thuốc
độc, Tòa án lương tâm mới được xây dựng. Hiện nay, kịch nói có một địa vị
quan trọng trong ngành sân khấu Việt Nam. Nhạc kịch ra đời sau kịch nói và ít
được sử dụng. Trước đây đã có những vở nhạc kịch pha với ca kịch kiểu mới
như Tục lụy (1943), Nguyễn Thị Chiên, bên cầu vó ngựa (1953), Qua cầu
sông Cái (1058), ngoài những nhạc cảnh nhỏ như nhạc cảnh dân công, nhạc
cảnh đóng lúa thuế,… Vừa rồi, lần đầu tiên vở nhạc kịch Ep–ghê–ni Ô–nê–
ghin. một vở nhạc kịch cổ điển quy mô lớn, được đưa lên sân khấu Việt Nam.
Từ 1954, chúng ta có thêm một loại mới: đó là loại vũ kịch. Vũ kịch chịu
ảnh hưởng vũ ba–lê, nhưng cũng có dựa vào vũ đạo dân tộc; những vở nổi
tiếng là các vở Tấm Cám và Xô-viết Nghệ – Tĩnh.
Riêng chèo là một hình thức sân khấu dân gian rất phổ biến ở đồng
bằng Bắc Bộ và lan vào một số tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh.
II. NGUỒN GỐC CỦA CHÈOLâu nay bàn về nguồn gốc tuồng cũng như chèo, các nhà nghiên cứu
văn học, nghệ thuật có nhiều kiến giải khác nhau. Có người đi từ lối định
nghĩa duy danh cho rằng tuồng là do chữ tượng mà ra, chèo là do chữ trào
mà ra. Chèo là trào, tức là vui cười, khôi hài. Quả thật chèo cũng có nhiều
tính chất hài kịch, nhưng không phải không có chỗ bi thảm. Lối tìm nguồn gốc
đó chỉ là hình thức. Có người cho nghệ thuật sân khấu ta đều có nguồn gốc
ngoại lai, hoặc do từ Chiêm Thành; hoặc từ Ai Lao sang, vin vào cớ thời nhà
Lý, vua Ai Lao thường lệ cho một đoàn vũ nữ sang múa hát ở Hội Gióng. Hai
giả thuyết này không có cơ sở chắc chắn, do đó không được ai hưởng ứng.
Lại có người khẳng định rằng tuồng và chèo đều từ Trung Quốc sang. Người
nêu ý đó đầu tiên có thể nói là Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút. Trong
bài Biện về âm nhạc, ông viết: “Những lối nhạc ca từ đời Đường, Tống trở
xuống chia ra có hai lối là: Vãn ca và Ban hí. Vãn ca là những kẻ ở xóm, chợ
đi theo xe đại dư mà hát những giọng bi ai thảm thiết, cũng như là đời cổ hát,
khúc ca Phỉ lộ, Cao lý để thăm viếng người chết vậy. Ban hí là những con hát
ở giáo phường vẽ mặt ra làm trò, diễn những sự tích các nước và đời Tam
quốc, tức như đời cổ có những thằng lùn, chú kép ra làm trò tuồng, để mua
vui cho quan khách. Tự đời Nguyên, Minh trở xuống, duy có lối Ban hí là thịnh
hành. Kẻ văn nhân tài tử thường tùy chuyện mà vẽ vời thêm ra thành vở
tuồng, để nói lên cái khí bất bình uất ức như bản tuồng Tây sương, Tì bà,
Mẫu đơn đình và các truyện tiểu thuyết cổ kim nhiều không sao kể xiết.
Nước Nam ta từ đời nhà Lý có người đạo dĩ nhà Tống bên Trung Quốc
sang dạy người dân trong nước múa hát làm trò và trò tuồng ơe nước ta khởi
điểm ra từ đấy...”.
Lê Dư khi bàn về ca vũ và âm nhạc trong tạp chí Nam Phong, nhắc lại ý
đó, dẫn thêm việc Lý Nguyên Cát sang dạy hát ở ta để khẳng định rằng nghệ
thuật sân khấu ta có nguồn gốc ngoại quốc. Gần đây, các tác giả Sơ thảo lịch
sử văn học Việt Xam (quyển 1), cũng dựa theo ý đó mà cho rằng tuồng có
nguồn gốc ở Trung Quốc và chèo lại ở tuồng mà ra, tóm lại cho chèo và
tuồng đều ở Trung Quốc sang. Ca, vũ, nhạc ta xưa tuy có chịu ảnh hưởng
của Chiêm Thành hoặc của Trung Quốc, nhưng vẫn có bản sắc dân tộc rõ rệt.
Vở tuồng cổ Sơn hậu tuy có dẫn tích trong lịch sử Trung Quốc, nhưng là một
vở tuồng đặc biệt Việt Nam, không phải là một vở dịch hay phỏng theo hí
khúc Trung Quốc. Đó là chưa nói phong cách, trang trí và âm nhạc tuồng ta
so với hí khúc Trung Quốc khác nhau nhiều. Chèo thì rõ ràng không thể nói
do Trung Quốc sang được: từ nội dung đến phong cách, ca nhạc, cái gì cũng
hoàn toàn Việt Nam. Giả thuyết cho tuồng chèo từ Trung Quốc sang hoàn
toàn không vững chắc và sai lầm về căn bản.
Có người cho rằng tuồng, chèo, tuy không phải ở ngoài vào, nhưng do
từ các nghi lễ tôn giáo hay du hí cung đình mà ra. Sự thật, thời trung cổ
phương Đông hay ở phương Tây, các hình thức sân khấu thường được sử
dụng vào miếu điện, cung đình, nhà thờ. Nếu ta truy đến gốc, thì nghệ thuật
sân khấu cũng như nghệ thuật nói chung, không phải từ tôn giáo và du hí mà
ra. Cung đình, miếu chùa, nhà thờ đã khéo lợi dụng một số hình thức sân
khấu để phục vụ cho tôn giáo và triều đình.
Khoa nhân chủng và khoa khảo cổ học cho ta biết rằng ngay từ thời
nguyên thủy, nghệ thuật ca, vũ, nhạc đã xuất hiện trên cơ sở lao động tập
thể. Tất cả các dân tộc trên thế giới, dù lạc hậu đến đâu, đều có một hình
thức biễu diễn sân khấu. Trước khi bắt tay vào lao động (săn bắn, hái lượm,
đánh cá, cày cấy,…) người ta thường tập dượt lao động, biểu diễn các động
tác, hát lên những bài ca có tính chất những lời cầu nguyện; các động tác và
lời ca đó đều có nội dung xuất phát từ lao động. Trong khi sản xuất, người ta
vừa làm vừa hát để điều hòa nhịp điệu, cầm sức, lấy sức để đẩy mạnh công
việc. Những lúc nghỉ ngơi, sau khi sản xuất, người ta cũng ca múa, hoặc để
giải trí, hoặc để ca ngợi thành quả lao động. Ở một số bộ lạc man rợ, khi sắp
đi săn, người ta vẽ con thú lên vách đá, các người đi săn vừa hát, vừa làm
các động tác đi săn, có khi bắn vào hình con thú, miệng lẩm nhẫm đọc thần
chú. Đành rằng ở đấy cũng có khía cạnh thần bí duy tâm, nhưng xét kỹ,
chúng ta thấy đó chẳng qua cũng là một cách tập dượt động tác săn bắn cho
thành thục và gây thêm tin tưởng vào kết quả sắp tới của lao động. Săn xong
trở về, người ta thường tập họp nhau hát múa để ăn mừng; các điệu múa,
nhảy diễn tả lại quang cảnh những buổi lao động vừa qua, với mục đích ca
ngợi những thành tích, hoặc rút ra những kinh nghiệm. Đôi khi người ta thêm
vào đó những chi tiết lãng mạn do trí tưởng tượng và lòng ước mơ mà ra. Thí
dụ: cũng trong một người đóng vai con chim. Người đi săn làm ra dáng thấy
con chim đẹp, vui mừng, nhưng chưa muốn giết. Con chim định trốn, người đi
săn do dự một tí, sau mới giương cung bắn. Chim bị thương, lảo đảo rồi quay
ra chết. Người đi săn nhảy múa vui sướng; đoạn, tỏ vẻ thương tâm, ta thán,
hối hận đã giết con chim mỹ lệ. Bỗng nhiên, chim biến thành một người con
gái cực đẹp, gieo mình vào lòng người đi săn mà cùng đi.
Ngoài các dịp múa hát, biểu diễn khung cảnh lao động, người nguyên
thủy lại còn múa hát, biểu diễn các sự việc có liên quan đến gốc tích của công
xã, các cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc, các buổi ăn thề, xuất quân hay cúc
buổi khải hoàn. Rõ ràng ca, vũ, nhạc và nghệ thuật sân khấu bắt nguồn từ lao
động và chiến đấu. Vũ thuật áp dụng trong lối múa tuồng chính là vũ thuật áp
dụng trong chiến tranh thời xưa, vũ thuật trong múa tuồng của ta so với vũ
thuật trong hi khúc Trung Quốc như Kinh kịch đều có nhiều điểm khác nhau.
Nghệ thuật tuồng phản ánh động tác chiến đấu nhiều hơn. Trái lại, ở chèo,
động tác tay được sử dụng nhiều trong múa; vì nghệ thuật chèo phản ánh
nhiều về động tác sản xuất: săn bắn, hái lượm, bắt cá, cấy lúa, dệt vải, v.v…
Một số làn hát trong tuồng và hầu hết các làn hát trong chèo là những làn hát
dân gian, dần dần được sửa đổi và cách điệu hóa cho pbù hợp với hình thức
sân khấu. Diễn viên chèo lại chính là những nông dân chứ không phải nghệ sĩ
chuyên nghiệp như sau này.
Tóm lại, chèo vốn bắt nguồn từ lao động và chiến đấu, nghệ thuật chèo
là một sự tổng hợp giữa dân ca, dân vũ, dân nhạc. Cốt chuyện, làn điệu, diễn
xuất tiến triển dần dần từ đơn giản đến phức tạp, từ thô sơ đến nhuần nhụy.
Có điều, từ xưa, không biết chèo có trước hay tuồng có trước, hay cả hai đều
có một lần. Lối trò hề của Liêu Thủ Tâm đời Tiền Lê hay lối hát cởi trần, hát
giấu mặt đời Trần chắc chắn chưa phải là hình thức sân khấu và nếu phải,
cũng chỉ là tiền đề của hình thức đó, theo kiểu “ban hí”. Lối “Long ngâm” đời
Trần chỉ là lối hát “đưa vong”, theo kiểu “vãn ca”. Không biết tích “Tây vương
mẫu dâng quả bàn đào” do vợ chồng Dương Khương trình diễn có phải là
một hình thức tuồng không? Về vấn đề này, hiện nay chưa đủ tài liệu để xác
minh, chúng ta chỉ biết rầng hai hình thức chèo cũng như tuồng là hai loại ca
kịch dân tộc có từ lâu đời ở nước ta. Tuy vậy, những kịch bản còn lại chỉ là
những vở được sáng tác dưới thời phong kiến.
III. ĐẶC ĐIỂM CỦA CHÈOChèo là một nghệ thuật sân khấu đặc biệt của dân tộc ta ở đồng bằng
Bắc Bộ. Do đó, ngoài những tính chất chung của kịch, nó lại có những nét
riêng biệt của nó. Trước hết, cũng như kịch, trong chèo cũng có sự kết hợp
giữa tính chất tự sự với yếu tố trữ tình. Đương nhiên, chèo chưa đạt đến
nghệ thuật kịch cổ điển Tây phương. Tính tự sự trong chèo còn giản đơn, nối
tiếp tính kể chuyện trong truyện thơ. Cổ tích, truyện thơ và chèo vốn liên quan
chặt chẽ với nhau. Có thể nói chèo là một “lối kể chuyện trên sân khấu”. Qua
nhiều vở chèo cổ (chèo sân đình), chúng ta thấy chèo là một loại hài kịch,
thường nặng về diễn tả những chi tiết, sự việc vui cười, ít đi vào phân tích
sâu tâm trạng nhân vật như kịch phương Tây, dựa theo luận điểm của A–rix–
tốt. Diễn viên chuyển từ tâm trạng vui sang buồn hay ngược lại và thường
thoát ra khỏi nhân vật. Phần độc thoại không nhằm biểu hiện những nét sâu
kín, khiến người xem phải “tựa gối”, phải “cúi đầu”, phải “vò chín khúc”, phải
“chau đôi mày”. Cuộc tình duyên giữa Trương Viên và Thị Phương; giữa Trần
Tử Lê và Bích Ngọc bị dang dở vì lệnh động binh của triều đình. Tình người ở
đây có đau đớn, nhưng rồi cũng qua nhanh bằng một pha khôi hài của hề.
Tuy vậy, chèo cũng là một thể kịch, cho nên không thể nói ở đây tuyệt đối
không có sự biểu hiện ít nhiều thế giới nội tâm. Ở truyện cổ tích, chỉ có tính
chất tự sự, ở truyện thơ, đã có yếu tố trữ tình, nhưng yếu tố trữ tình ở đây lại
thông qua người kể chuyện. Chèo khác với hai loại trên là tái hiện cuộc sống
trên sân khấu. Hành động và biến cố ở đây được tổ chức trong cốt truyện.
Tâm trạng và hành động chủ yếu biểu hiện qua lời nói và cử chỉ nhân vật, hay
nói một cách khác, nhân vật ở đây tự hộc lộ tâm tình của mình. “Kịch là một
loại thể văn học tổng hợp trong đó kết hợp được cả những đặc điểm của hai
loại văn trữ tình và tự sự” (Biê–lin– xki). Đành rằng đây đó, có pha nét khôi
hài do hề xen vào, nhưng yếu tố trữ tình đã khá đậm đà ở một số nhân vật:
nỗi lòng Thị Phương khi dắt mẹ chạy loạn, phần thì thương chồng, phần thì
thương mình; nỗi lòng Thị Kính khi quyết tâm bỏ nhà đi tu, đau đớn biết
chừng nào; rồi nỗi lồng Thị Mầu, nỗi lòng nàng Kiều, nỗi lòng Phan Sinh,
v.v… Châu Long trong vở Lưu Bình Dương Lễ, ra đi nuôi bạn thay chồng
không phải không băn khoăn phiền não. “Chị cả, chị Hai đã thoái thác không
chịu đi, mình cũng không đi nốt thì còn thể thống gì nữa”. Châu Long không
phải không có một đấu tranh nội tâm!. Đến cô Xúy Vân giả dại: có thể nói đây
là cả một mối tình nồng cháy của một tâm hồn ngây ngô, chạy theo tình yêu
một cách mù quáng. Xúy Vân đã đóng kịch, một tấn kịch khôi hài mà bi đát. Ở
trong một số vở hài kịch phương Tây, chúng ta thấy tính hài khi đạt đến đỉnh
cao của nó, sẽ tiếp cận với tính bi. Điểm này chúng ta cũng thấy ở vở chèo
Kim Nham. Do đó, đóng vai Thị Mầu đã khó, đóng vai Xúy Vân lại còn khó
hơn. Cũng như kịch, trong một chừng mực nào đó, chèo đã tái hiện cuộc
sống với những nét khá đậm đà qua sân khấu. Người xem sẽ khoái trá đọc
được tâm tình nhân vật một cách trực tiếp không cần phải qua lời bàn của tác
giả kịch bản, đúng như lời Gô–gôn đã nói: “Kịch chỉ sống trên sân khấu, sân
khấu thể hiện cụ thể các hình tượng của kịch, nó kết hợp cảm tưởng cụ thể
của thi ca với sự tự giác trực tiếp và thị giác. Không những lời nói của diễn
viên mà điệu bộ của họ cũng nói rất nhiều với trái tim và lý trí của người
xem… Hình tượng của cái chân thực, cái sinh động, cái đang diễn ra trước
mắt chúng ta chính là do sự thể hiện của vở kịch trên sân khấu tạo ra. Chúng
ta nghe thấy các nhân vật nói như thế nào, chúng ta nhìn thấy họ làm gì và
hành động của họ diễn ra trong hoàn cảnh nào, chúng ta biết được cái cười
của họ và nhìn thấy nước mắt của họ, chúng ta thông cảm với tiếng hò thắng
lợi hay với lời than thở đau thương do họ thốt ra, tất cả cuộc sống đầy đủ
đang diễn ra đó đều do kịch đem lại”.
Có điều, chúng ta xem chèo khác với xem kịch ở chỗ còn nghe hát và
xem múa. Chèo là một loại ca kịch kết hợp với vũ đạo. Ở phương Tây, nhạc
kịch và vũ kịch là hai loại khác nhau. Chèo, tuồng, cải lương, kịch, dân ca của
ta là một thể tổng hợp giữa hai loại đó. Cố nhiên ca, vũ trong chèo có khác
với ca, vũ trong tuồng và cải lương mà chúng ta chưa có dịp phân biệt ở đây.
Nhạc trong chèo bắt nguồn từ các làn dân ca đồng bằng Bắc Bộ (trừ một vài
điệu như điệu nồi niêu trong tuồng, hay điệu ngâm thơ cổ vốn mượn lối ngâm
thơ của nhà nho). Làn điệu trong chèo cũng có buồn, có vui, khi cao, khi thấp,
nhịp nhàng với tâm lý và động dung nhân vật, phù trợ cho lời nói và động tác
nhân vật. Đành rằng nhạc chèo chỉ có tác dụng đưa đẩy, chứ không có một tư
tưởng chủ đề rõ nét như trong opéra của Tây phương; nhưng nếu diễn viên
hát kém cũng sẽ làm giảm một phần lớn cảm hứng của người xem. Làn điệu
chèo thường vui nhiều hơn buồn và có buồn cũng không quá bi lụy như ở cải
lương; mặt khác lời hát chèo thường nhẹ nhàng, không kịch liệt dùng đến hơi
óc, hơi hàm như trong tuồng; tuy vậy lối hát chèo réo rắt, thấm thía đi sâu vào
tình cảm người xem. Sự thật, cốt truyện kịch bản không có gì mới lạ và hấp
dẫn mà vấn đề mới lạ và hấp dẫn chính là lời ca, điệu múa của diễn viên.
Múa chèo bắt nguồn từ dân vũ, do đó dộng tác cũng giản dị thích hợp
với sinh hoạt của những nghệ nhân nghiệp dư ở nông thôn. Thường thường
các cử chỉ động tác hàng ngày khi đưa vào chèo, được chọn lọc và cách điệu
hóa lên với mục đích để minh họa lời nói của nhân vật. Khi diễn viên hát:
“Bước vào tôi chúc mừng bề trên…”, thì tay đưa lên cung kính chắp lại trước
mặt; khi diễn viên nói: “Trời cao đất thấp”, thì tay chỉ lên trời, chỉ xuống đất;
hay khi hát: “Đau lòng thiếp lắm chàng ơi…”, thì uốn quạt chỉ vào lòng. Tuy
vậy múa chèo không phải chỉ có tính chất trang trí, mà cũng giống như lời ca,
góp phần tích cực vào việc biểu hiện tư tưởng tình cảm của nhân vật. Trong
chèo, từng cử chỉ của diễn viên không bao hàm một ý riêng như ở tuồng.
Cùng một động tác hoa tay, tất cả các loại vai, các loại tâm lý đều dùng được,
nhưng cũng có những điệu múa nhất định biểu hiện tính cách từng loại nhân
vật nhất định như múa đơn (Vân Dại, Thị Mầu), múa đôi (múa vu quy, múa
quỷ), múa nhiều người (múa tắm tiên, múa chạy chái trong Từ Thức, múa
chạy đàn trong Quan Âm Thị Kính). Ngoài ra có những diệu múa hề mồi, hề
gậy, lão say, mụ đồng, mụ quán, v.v… Đó là những điệu múa mà người ta
không thể thấy ở tuồng, cải lương hay ở bất cứ mật loại ca kịch nào trên thế
giới kể cả nô Nhật Bản hay Kinh kịch, Côn kịch Trung Quốc.
Trong chèo, điệu múa kết hợp rất chặt chẽ với lời ra. Giọng hát réo rắt
theo tiếng trống, tiếng nhị, nhịp phách bao nhiêu, thì điệu múa lại uyển chuyển
như mây bay, như gió cuốn bấy nhiêu. Những khuôn múa đuổi ngón và múa
hoa cổ tay quấn xuyến tất cả động tác tay một cách hài hòa với lời ca trầm
bổng du dương. Thí dụ: múa của vai Vân Dại rất dồn dập, linh hoạt; đương
múa đuổi ngón chậm rãi bỗng nhiên diễn viên xòe mạnh cả bàn tay, rồi đột
ngột dừng lại giữa một tiếng hú đau thương. Vai Thị Mầu khi hát đến câu
“người đâu đến ở chùa này, cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang” thì thân
mình đu đưa, con mắt lúng liếng, tay phải xoè quạt chống nạnh, tay trái múa
đuổi ngón chỉ vào Thị Kính và nhẹ đặt cổ tay xuống, làm cho người xem thấy
động tác vừa ỡm ờ, vừa lẳng lơ. Một sự biểu hiện nội tâm và ngoại hình của
các nhân vật, rất nhịp nhàng và đặc sắc, khiến người xem phải say sưa sảng
khoái. Ngoài sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình, sự kết hợp giữa ca
nhạc và vũ đạo, chèo còn có một đặc điểm thứ ba, đó là tính chất truyền
miệng và tính chất tập thể.
Truyền miệng và tập thể là hai đặc tính gần như chủ yếu của văn học
dân gian và cũng là đặc điểm của chèo. Có người nói chèo có tính chất “tứ
chiếng” là như vậy. Thường thường, người ta dựa vào một sự tích nào đó
như truyện cổ dân gian, truyện lịch sử, truyện thơ để soạn chèo. Người trùm
phường bàn bạc với các diễn viên khá để sắp xếp các lớp và dựng lên cốt
truyện của vở. Lời hát thường là các bài ca dao được “bẻ” theo các làn hát
chèo: Lời hát của mỗi vai thường do diễn viên đóng vai đó sáng tác, các diễn
viên tùy tiện đặt các câu hát thế nào cho hợp với tính cách và tâm lý của vai
mình đóng. Lời thơ các câu hát phần nhiều dựa vào lời của ca dao, dân ca
hoặc có khi truyện thơ nữa và thay đổi chút ít cho thích hợp với tính cách
nhân vật. Riêng lời nói các vai thì lúc đầu được “cương” lên, nhất là lời nói
của các vai hề. Trong khi trình diễn, các lời hát, lời nói lại tùy thị hiếu của
khán giả từng địa phương mà thay đổi, chế biến cho thích hợp. Các thế hệ
diễn viên kế tục sửa đổi thêm bớt lời nói, câu hát cho đến khi thật hoàn chỉnh
và lưu loát. Các vở chèo sáng tác tập thể như vậy được truyền miệng qua
không gian và thời gian. Dưới thời phong kiến, một số vở được ghi lại bằng
chữ nôm; nhưng chủ yếu vẫn là truyền miệng, vì không phải diễn viên nào
cũng biết chữ. Tính chất truyền miệng này một mặt làm cho chèo được phổ
biến rộng rãi trong quần chúng, nhưng một mặt khác gây ra tình trạng không
cố định: thí dụ: một vở chèo như Lưu Bình, Dương Lễ chẳng hạn, ở Thanh
Hóa diễn khác, ở Hưng Yên diễn khác, ở Thái Bình lại khác, v.v…
Tính chất truyền miệng và tập thể còn thể hiện cả trong diễn xuất, giữa
diễn viên với nhau và giữa diễn viên với quần chúng. Mỗi diễn viên không
những thuộc lời vai mình, mà còn thuộc lời của các vai khác; do đó, khi cần,
họ đổi vai cho nhau một cách dễ dàng. Khi một diễn viên hát một làn điệu dài
chia thành nhiều khúc, thì thường đến một khúc nào đó, tất cả diễn viên có
mặt ở sân khấu (thậm chí cả ở hậu trường nữa) cũng đồng thanh hát theo.
Đó là lối hát “đỡ giọng” có tính chất đồng ca từng khúc trong chèo. Tính chất
tập thể còn mở rộng cả trong quần chúng đi xem nữa. Trong một vở chèo, có
nhiều chỗ khán giả và nhạc công cùng tham gia vào việc biễu diễn: ý nghĩa
của tiếng “đế” là ở đó. Có khi quần chúng “đế” một câu để tán thêm vào lời
hát, câu nói của vai trò (Dương Lễ nói một câu: sang rủ bạn phải chăng?
Tiếng đế: phải rồi); có khi, vai trò đặt câu hỏi và quần chúng “đế” trả lời (vợ
Trương Sinh: sông này là sông gì chị em ơi? Tiếng đế: sông này là sông
Hoàng Giang đấy); hay ngược lại, quần chúng “đế” để hỏi lại vai trò (xá trong
chèo Trương Viên đi bắt lính: Ba năm mới đặng chuyến sai. Tiếng đế: sai làm
sao?), v.v…, Nhiều khi quần chúng đồng thanh hát lại một đoạn cuối khúc hát
của diễn viên. Trong chèo sân đình, giữa diễn viên và quần chúng chưa có
một sự ngăn cách nào: do đó việc quần chúng tham gia diễn xuất là lẽ tự
nhiên.
Ở đây, rõ ràng “sân khấu là một diễn đàn đầy sức mạnh để giao lưu với
quần chúng” (Xta–ni–lep–xki). Quần chúng ngồi xúm quanh sân khấu mà
xem; có khi vai hề bế một em bé đương mải mê xem và đưa ra pha trò cho
mọi người cười hả hê. Quả có một sự cảm thông sâu sắc giữa người diễn và
người xem. Nhiều người xem thuộc tích hát, lời nói, câu ca của các vai. Nông
dân đi xem chèo là để tìm lại người bạn quen thuộc hàng năm cứ đến dip hội
hè (thường vào mùa xuân) lại trở về với họ; họ đi xem chèo, chẳng những để
thưởng thức lời ca, điệu múa, mà còn để tìm mối tâm tình quen thuộc, để
sống những cảnh sống quen thuộc. Sân khấu chèo cho ta thấy rõ bản chất
văn nghệ có liên hệ mật thiết với cuộc sống, với quần chúng, đồng thời cũng
lôi cuốn được quần chúng tham gia văn nghệ.
IV. NỘI DUNG CỦA CHÈONhư ở trên, chúng ta đã nói, đề tài của chèo thường rút từ các truyện
cổ dân gian, truyện lịch sử hay truyện thơ. Do đó, chủ đề nổi bật trong chèo
cũng giống như trong các loại truyện trên là sự đề cao chính nghĩa. Chính
nghĩa ở đây thể hiện như thế nào? Nói đến chính nghĩa, là phải nói đến gian
tà, nói đến chống áp bức bóc lột. Người xưa chưa quan niệm được rõ rệt ý
nghĩa áp bức bóc lột như chúng ta ngày nay, mà chỉ thấy một cách chung
chung như nước lớn xâm lăng nước bé, kẻ mạnh hiếp kẻ yếu, người giàu lấn
người nghèo đều là không hợp với lẽ tự nhiên, lẽ công bằng. Nhìn một cách
khái quát, ta thấy rõ việc đề cao chính nghĩa trong chèo thể hiện ở hai mặt:
tính dân tộc và tính dân chủ.
Tính dân tộc biểu hiện ở nhiều mặt về hình thức cũng như về nội dung.
Các thể ca, vũ, nhạc, các lời ca, điệu múa mà chúng ta đã có dịp nói ở trên có
một vị trí quan trọng trong chèo, nó có những nét độc đáo của dân tộc, nó
“biểu hiện về mặt vật chất bề ngoài của các tư tưởng và tình cảm của con
người” (Ka–li–nin). Có điều, những hình thức đó sống được năm này qua
năm khác, thế kỷ này qua thế kỷ khác, không phải vì nó chỉ có cái vẻ bề
ngoài, mà vì nó bao hàm một nội dung dân tộc. Nông dân đi xem chèo không
phải chỉ thưởng thức cái đẹp bề ngoài của làn điệu, của bài trí, của hóa trang,
mà chính là để “sống” với nhân vật trong chèo, để thông cảm” với làn điệu
được trình diễn. Điệu múa mò cua bắt cá của Tấm, điệu múa khâu vá của Thị
Kính, hay cả điệu múa quay tơ, xe chỉ của Vân Dại,…đều chứa đựng cả một
mẩu tâm hồn của nông dân. Cô Tấm đây phải là cô Tấm Việt Nam ca lời ca
dân gian Việt Nam, múa điệu múa dân gian Việt Nam. Cô Tấm trong vũ kịch
vừa mới được xây dựng, có pha cả múa ba–lê cũng có sắc thải tân kỳ, nhưng
vẫn chưa thể hiện được đầy đủ phong cách của các điệu múa dân tộc. Cô Thị
Kính trong tích nhà Phật thì không riêng gì nước ta có, mà những nước theo
đạo Phật như Ấn Độ, Triều Tiên, Trung Quốc, Cam–pu–chia, v.v… đều có thể
có. Tuy vậy, cô Thị Kính Việt Nam chít khăn và mặc áo the thâm khi ở nhà,
mặc áo nâu sồng khi đi tu, thường ngày chăm lo may vá thêu thùa, biết hát
những làn điệu dân ca của ta. Ở đây hình thức dân tộc đã biểu hiện nội dung
dân tộc và ngược lại nội dung dân tộc thể hiện qua hình thức dân tộc. Hình
thức và nội dung quả đã thâm nhập lẫn nhau, khó tách rời ra từng mảnh. Bi–
ê–lin–ski đã từng nhận xét đúng đắn điều đó khi ông viết: “Một khi mà hình
thức là sự biển hiện của nội dung thì nó liên hệ chặt chẽ với nội dung đến nỗi
mà nếu người ta đem tách rời nó khỏi nội dung thì tức là phá hoại cả bản thân
nội dung; và ngược lại nếu người ta đem tách nội dung khỏi hình thức thì là
phá hoại hình thức.
Một điểm nổi bật trong chèo về tính dân tộc mà người ta thường nói tới
đó là vấn đề cốt truyện kịch bản. Đề tài trong chèo thường lấy ở sự tích trong
nước: Trương Viên, Xúy Vân, Tống Trân, Cúc Hoa, Trương Sinh, Lưu Bình,
Dương Lễ, v.v… Khi xưng danh, nhân vật chèo thường nói rõ quê quán ở
làng nào, tỉnh nào, thí dụ: Lưu Bình quê ở Hà Bắc, Dương Lễ quê ở Hà Sơn
Bình. Ngoài ra, cũng có những vở chèo rút đề tài ở truyện thơ như Kiều hay
chàng Phan Sinh ở đây đã được Việt Nam hóa từ hình thức đến nội dung tư
tưởng, tình cảm. Rõ ràng chủ đề trong chèo đã thể hiện được lòng tự tôn dân
tộc.
Dù rút từ sự tích nào, nước ngoài hay trong nước, các nhân vật trong
chèo đều tiêu biểu cho các tầng lớp trong xã hội Việt Nam. Trước hết là
những con người lao động: Thạch Sanh, Tống Trân, Trương Viên, Trần Tử
Lệ, hề gậy, hề mồi, lão tiều, mụ quán, v.v… Những người lao động này nhờ
có tài, có đức và qua bao nhiêu chiến đấu gian khổ, đã đạt đến địa vị cao
sang trong khuôn khổ xã hội phong kiến. Làm vua, lấy công chúa, trị vìi thiên
hạ, xây dựng hạnh phúc thần tiên: đó là ước mơ của nông dân thuở trước.
Phải có vua sáng tôi hiền để đưa lại thái bình cho muôn dân, người xứng
đáng ở địa vị ấy phải là những người nông dân có tài đức như Thạch Sanh,
Tống Trân,… Trong chèo còn có những mối tình đẹp đẽ khác như tình bạn
(“Lưu Bình, Dương Lễ”), tình anh em (“Tôn Trọng, Tôn Mạnh”); tình vợ chồng
(“Trương Viên”, “Trần Tử Lệ”). Tuy vậy, tình đời không giản đơn: nhan nhản
những bộ mặt nham hiểm, giả dối (trưởng giả, Lý Thông, Sở Khanh, Sùng Bà,
quan lại cường hào gian ác, v.v…). Nhiều hoạt cảnh của xã hội Việt Nam
được đưa lên sân khấu chèo như cảnh họp làng trong Quan Âm Thị Kính,
cảnh xử kiện trong Tôn Trọng – Tôn Mạnh, cảnh ngày trẩy hội trong Tấm –
Cám, cảnh tiểu phá giới trong Từ Thức, v.v… Yếu tố tả thực, trong chèo đã
có nhiều nét đậm đà và sâu sắc. Nhưng đậm đà và sâu sắc hơn chính là cuộc
đấu tranh chống phong kiến. Người xem sẽ thích thú thấy cuộc sống được tái
hiện một cách cụ thể và trực tiếp, với tất cả tinh thần sinh động của nghệ
thuật chèo. Ở đây có hai mặt: vừa đả kích giai cấp thống trị phong kiến, vừa
đề cao phẩm giá người nông dân lao dộng.
Đối với tầng lớp trên, chèo không tha ai, kể từ ông trời, bậc “tối linh”,
cho đến vua quan, hào lý cùng các loại tay sai gián tiếp hay trực tiếp khác.
Vai hề của Trần Phương trong vở Kim Nham đã hạ ông trời từ bậc thượng đế
xuống hàng dượng: “Tôi có bà cô lấy trời đấy” và đã gán cho trời tính bủn xỉn
của phú ông: “Tôi kiết, lên trời, định tảo mấy quan tiền tiêu, trời trông thấy tôi,
trời xanh… mắt. Tôi hỏi vay tiền, trời bảo năm nay thủy lạo, mất cả cày cấy”.
Vua ít xuất hiện trong chèo, nhưng tên vua đại gian ác, Trang Vương trong vở
Phạm Tải, Ngọc Hoa, cũng bị xử tội một cách thích đáng. Riêng quan và hào
lý là những cái đầu têu cho hề chèo đả kích. Quan tự ví mình là đèn trời thì hề
giễu:
– Ngán cho đèn trời soi xét người ta,
Soi đời, đời chẳng sánq; soi nhà, nhà tối om.
– Ngài lờ đờ như đom đóm đực,
Soi hết gầm giường nhà nọ đến gầm giường nhà kia.
Quan tự xưng là “dân chi phụ mẫu”, hề đập vào mặt quan:
Ngài làm quan, ngài quân dân;
Chúng con là dân, chúng con dần quan.
Vai Từ Thức là một vai hấp dẫn. Vai đó bước ra sân khấu trong lời
châm biếm của hề: “Quan đã ra, nhà ai có gà con thì nhốt lại!” Sự thực, Từ
Thức chỉ giơ cái mặt ra cho Khán Thị, một vai hề độc đáo, chế giễu từ đầu
đến cuối. Khán Thị tới lễ quan mới đến nhận chức một lọ mắm “ruột cá
mương đã bảy ngày, mà bu nó quên không bỏ muối”, rồi ăn vạ quan, rủ quan
về bắt phu với mình… Bọn hào lý lại bị mất mặt nhiều hơn nữa. Cảnh mẹ Đốp
đối đáp với xã trưởng trong Quan Âm Thị Kính là một cảnh tiêu biểu về tính
phản phong: mẹ Đốp đã “lý sự” hơn cả “thầy lý”:
Mẹ Đốp (xưng danh):
Một mình tôi cả xã ngóng trông,
Điều phải trái là tôi lên trước bảo.
Xã trưởng:
Con này láo, mày vứt tao đi hay sao mà mày lại lên trước bảo tao à?
Mẹ Đốp:
Thưa thầy, có việc gì thầy bắt con đi rao mõ thì dân làng mới biết, thế
không phải là con lên trước bảo à?
Xã trưởng:
Ừ, thôi cũng được.
Mẹ Đốp:
Từ việc hỷ cho đến việc háo (hiếu),
Trát quan về là phải báo đến tôi.
Tôi chưa ra thì các cụ chửa được ngồi.
Xã trưởng:
À con này, mày mỗi ngày một láo (giơ roi),
Mày bảo mày chưa ra, các cụ chửa được ngồi.
Thế ra mày là bà tiên chỉ làng tao à?
Mẹ Đốp:
Ấy ấy, thầy để con nói cái đã, con chưa ra các cụ chửa được ngồi là
thế này: con chưa ra giải chiếu thì các cụ ngồi xuống đất à?
Xã trưởng:
Ừ, mà nói cũng có lý.
Chèo còn lôi lên sân khấu những bộ mặt khác như hủ nho, thầy bói,
phù thủy, sư tiểu phá giới,… Có một điều khá thú vị là chính quan lại, hào lý
trong chèo khi nói ra với hình thức là để tự bênh vực, nhưng thực chất là để
“tự bêu riếu”, “tự đả kích”. Ở đây vẫn là bóng dáng của người nông dân,
người nông dân bị áp bức, tìm mọi cách nói lên tiếng nói phản kháng của
mình, để phủ định tất cả thế lực mà giai cấp phong kiến dùng để kìm hãm đời
họ. Nổi bật trong cuộc đấu tranh giai cấp này vẫn là phẩm giá người nông dân
lao động. Thế tấn công, thế chủ động về người lao động: người lao động cuối
cùng chiến thắng trên thất bại chua cay của kẻ thù: Thạch Sanh, Tống Trân,
Phương Hoa…, đã thành công sau bao đắng cay khổ hận.
Một điểm khác cũng rất thú vị là trong cuộc chiếu đấu về lý sự, về ngôn
ngữ trong chèo, tiếng nói của vai hề, của con người thấp kém thời bấy giờ,
thường khuynh át những tiếng nói khác. Xem vở Từ Thức, chúng ta thấy vai
Khán Thị làm chủ từ đầu chí cuối; trong cảnh họp làng ở vở Quan Âm Thị
Kính, mẹ Đốp cũng giữ thế chủ động đối với các “ông làng”; vai hề trong Lưu
Bình, Dương Lễ vai hề trong Kim Nham, v.v… đều là những vai đậm đà nhất,
ý nhị nhất. Thiếu mặt vai hề trong chèo, là coi như thiếu mất bản sắc hài hước
và chiến đấu của chèo. Trong trò múa rối của nước Nga xưa, vai Pê–tờ–út–
ka được coi như vai tiêu biểu ai cũng thích vì vai này đã dám đả kích cả vua
quan, cả cha cố. Vai hề trong chèo chúng ta cũng dũng cảm không kém, vì có
trừ ai?
Trong văn học dân gian ta, tiếng nói chính nghĩa và vai trò của phụ nữ
cũng được chú ý, ở vở chèo Quan Âm Thị Kính tiếng nói mẹ Đốp là tiếng nói
đả kích hào cường. Nhưng bên cạnh đó, có tiếng than vãn oán trầch của Thị
Kính, một kiếp người chịu đựng oan trái, nhưng đồng thời là một tấm gương
bác ái cao cả. Nhân dân thời xưa ca tụng Bích Ngọc trong vở Trần Tử Lệ hay
Thị Phương trong vở Trương Viên, hai kiếp người bị thất cơ lỡ vận trong một
xã hội loạn ly, nhưng vì kiên trinh và chung thủy, có tình, có hiếu nên được
đoàn tụ với chồng. Nhân dân ghét cay ghét đắng mụ dì ghẻ của Tấm, cũng
như ghét cay ghét đắng mẹ Thiện Sĩ mà lại khâm phục liệt nữ Trinh Nguyên.
Đến vai Thị Mầu và vai Vân Dại lại có một sắc thái đặc biệt. Thị Mầu lẳng lơ,
Vận Dại si tình thì ai mà chẳng ghét? Có điều, ghét rồi lại thương! Chẳng qua
xét đến cùng thì hai người đó cũng là nạn nhân của xã hội.
Trong xã hội phong kiến, người nghèo khó, người lương thiện là người
có phẩm chất tốt, nhưng thường gặp bao cảnh chông gai do giai cấp thống trị
gây ra. Ở đây, số kiếp người phụ nữ thường đau đớn nhất. Qua cuộc đấu
tranh giai cấp trong chèo, tính dân chủ có chỗ khá đậm nét, nhưng phần hạn
chế về tư tưởng không phải là không có. Do sự chi phối của ý thức hệ phong
kiến, nông dân thời bấy giờ có khi uất ức vùng lên, nhưng thường lại thụ động
trước định mệnh chủ nghĩa: Trương Viên, Trần Tử Lệ gần như cúi đầu trước
số kiếp và được đoàn tụ gia đình là nhờ có “ơn huệ Thiên Tào!”. Tấm và Thị
Kính là những con người có bị vùi dập dưới bàn tay oan nghiệt của thần “Định
mệnh”. Mỗi lần Tấm thất bại là Tấm khóc và phải có Bụt giúp sức mới thắng
nổi. Đương nhiên, Bụt cũng chẳng phải là ai xa lạ mà chính là tượng trưng
cho lực lượng tích cực của nhân dân lao động. Nhưng sự vươn lên của Tấm
cũng yếu ớt thật! Đến Thị Kính thì thật là một kiểu người thụ động từ đầu chí
cuối. Bản thân bị ức hiếp mà chẳng nói với ai một lời, Thị Kính đã ngậm oan
cho đến ngày tận số! Thị Kính lên “tòa sen” bằng con đường thụ động như
vậy, chứ nhân dân lên “tòa sen” chắc chắn phải qua đường tranh đấu. Nhìn
chung về chủ đề trong một số vở chèo, chúng ta thấy chính nghĩa bao giờ
cũng thắng gian tà. Cái đó đã dĩ nhiên. Có điều, quán xuyến toàn vỡ chèo,
vẫn bàng bạc một sức mạnh huyền bí nào đó của định mệnh. Thạch Sanh và
Phương Hoa là những người có nhiều tính chủ động, nhưng Thạch Sanh
cũng như Phương Hoa, trong một chừng mực nào đó, vẫn phải chịu sự chi
phối của định mệnh, của hệ ý thức phong kiến.
V. NGHỆ THUẬT CỦA CHÈOMuốn thưởng thức chèo, chúng ta đọc kịch bản chưa đủ, mà cần phải
xem trình diễn. Nghệ thuật chèo khá phong phú, ở đây chúng ta chủ yếu xét
đến mặt văn họục của vấn đề.
Chèo thường có hai loại; chèo cương và chèo vở –chèo vở ban đầu
một phần có thể là cương, nhưng dần dần được bổ sung, soạn thành vở, rồi
được ghi chép thành bản. Cũng như các loại kịch khác, nói đến chèo là phải
nói đến kịch tính; nói đến kịch tính là nói đến mâu thuẫn của cuộc sống mà từ
đó vở kịch được xây dựng. Bi–ê–lin–xki cho rằng tính chất kịch không phải là
ở một cuộc hội thoại, mà ở hành động sinh động của những người nói
chuyện. Quả vậy, kịch tính dù thể hiện dưới hình thức bi thảm, hài hước hay
bình thường, cũng đều phải dựa trên cơ sở những xung đột trong đời sống,
những mâu thuẫn có ý nghĩa xã hội rộng rãi, có sự tác động qua lại và sự
chuyển hóa liên tục của những tính cách nhân vật. Cố nhiên, chèo chưa đạt
đến hình thức kịch cổ điễn phương Tây, nhưng không phải không có kịch
tính. Kịch cổ điển phương Tây có luật tam đồng nhất và mâu thuẫn ở đây tập
trung rất cao độ. Ở chèo có khác, cốt truyện thường dựa vào các sự tích sẵn
có trong truyện cổ dân gian, trong dã sử hay trong truyện thơ, chi tiết trong
các truyện này rườm rà, mâu thuẫn không tập trung; chèo chỉ kể lại truyện đó
qua sân khấu, do đó thường thiếu tính chất “duy nhất”; tuy có chỗ thắt nút
nhưng thường không được đẩy lên cao như ở kịch phương Tây. Nhịp điệu
mâu thuẫn ở đây có khi dãn ra như trong truyện. Đó là tính chất mà người ta
gọi là “cố sự tính” như đã nói ở phần đặc điểm. Không gian và thời gian trong
chèo cũng dãn ra như không gian và thời gian trong truvện. Một vở chèo có
khi gồm hàng chục cảnh khác nhau (ở nhà, ở chiến trường, ở rừng núi, ở
cung đường,…) và diễn lại sự tích kéo dài hàng hai ba năm, dăm bảy năm…
Đương ở nhà, vai chèo hát một bài đường trường, đi một hai vòng sân khấu
là đã ra tới cảnh trường thi (Lưu Bình, Dương Lễ). Thị Kính bế con nói câu
sử: “Cha nuôi con tính đã ba thu” là người xem hiểu ngay là đã qua ba năm
rồi (Quan Âm Thị Kính). Sự xếp đật các lớp của một vở chèo có phần giống
với sự xếp đặt các lớp của một hí khúc Trung Quốc, nó có tính chất tự nhiên,
sinh động, do đó làm cho kịch tính phát triển nhanh. Trong vở Quan Âm Thị
Kính, những lớp Thị Mầu lên chùa được bố trí khá chặt chẽ, đẩy kịch tính
phát triển nhanh đến điểm nút của nó. Nhưng trong lớp Thị Kính cắt râu
chồng thì động tác chuyển hóa nhanh quá, do đó mâu thuẫn của tính cách
nhân vật không được nâng lên một cách thích đáng. Người xem có cảm
tưởng rằng Sùng bà đuổi con dâu, không phải vì nghi nó giết chồng, mà vì nó
không thuộc nhà “cao môn lệnh tộc”, không phải “giống phượng giống công”,
mà chỉ là “con nhà cua ốc”, là “dòng liu điu” (qua lời Sùng bà). Giết chồng ở
đây chỉ là một cái cớ bề ngoài để che mắt thế gian. Nhưng tính cách nhân vật
cũng không được mô tả rõ, mà chỉ lướt qua: Sự quyết định của Sùng bà
nhanh quá; tâm lý của Thiện Sĩ và Sùng ông cũng hời hợt: chỉ qua vài động
tác lướt nhanh. Trong lớp Thị Kính đi tu, sự đấu tranh nội tâm có được chú ý,
Thị Kính đã kể nổi oan ức của mình trong tám câu ca (nói sử rầu, rồi nói vãn
cầm), trước khi quyết định đi tu. Ở kịch phương Tây, những đoạn này thường
là đoạn độc thoại quan trọng diễn tả sự đấu tranh tư tưởng gay go, quyết liệt
của nhân vật. Đi hay ở đối với Thị Kính là một việc mệnh hệ đến cuộc đời của
mình, thì làm thế nào mà đơn giản được? Có điều trong ca kịch kiểu phương
Đông người ta ít chú ý đi sâu vào phân tích tâm lý nhân vật, mà chỉ biểu hiện
tâm lý đó qua những động tác có tính chất tượng trưng và diễn viên không
nhằm thâm nhập nhân vật thực sự từ đầu chí cuối. Đây là đặc điểm của nghệ
thuật chèo. Sự việc Thị Kính đi tu đã nói lên đầy đủ tất cả cái suy nghĩ, cái
băn khoăn, cái đau đớn của người xem trước một kiếp người oan khốc.
Chính như vậy, cho nên chèo khác hẳn kịch cổ điển phương Tây ở mặt
kết cấu. Một vở kịch thường gồm có ba giai đoạn: đặt vấn đề (có mâu thuẫn),
thắt nút (mâu thuẫn phát triển) đạt đến mức có kịch tính, đòi hỏi phải giải
quyết cởi nút (giải quyết mâu thuẫn đó). Ở chèo vì sự tích ly kỳ, nên thường
không phải chỉ có một nút. Thí dụ: vở Quan Âm Thị Kính gồm hai nút: mối oan
thứ nhất là oan giết chồng, mối oan thứ hai là oan hoang thai. Mối oan thứ
nhất biểu hiện tình cảnh người phụ nữ trong gia đình phong kiến, mối oan thứ
hai biểu hiện tình cảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Kể ra cũng có
thể cắt vở chèo làm hai vở. Vở chèo Thạch Sanh lại còn phức tạp hơn và
không phải chỉ có hai nút như trong vở Quan Âm Thị Kính…
Kịch tính trong chèo còn biểu hiện ở phong cách nhân vật. Tìm hiểu
nhân vật chèo qua kịch bản chỉ có thể biết được một phần rất nhỏ. Diễn
xuất ở đây giữ vai trò quan trọng: trong kịch phương Tây, người ta tìm hiểu
nhân vật dần dần qua trình tự phát triển của kịch, trong chèo, các nhân vật
giao tiếp thân mật ngay với người xem từ lúc đầu, bằng cách tự giới thiệu đầy
đủ về tên tuổi, quê quán và cá tính của mình. Nhân vật ra sân khấu bằng mấy
câu vỉa, sau đó chuyển sang hát và múa để tự giới thiệu, chứ không phải nói
thường.
Vai Thị Mầu, khi còn khuất sau sân khấu, nói lệch:
Này chị em ơi! Nay mười tư mai đã là rằm,
Ai muốn ăn oản thời năng lên chùa.
(Bắt đầu ra) Chị em ơi! Các già lên chùa từ bao giờ nhỉ?
Tiếng đế: “Rằm, mười tư!”.
Thị Mầu tiếp tục nói lệch và chuyển sang múa hát cấm giá:
Ấy thế mà Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ
Đò đưa cấm giá lên chùa từ mười ba,v.v…
Mỗi nhân vật tùy theo tính cách của mình mà tự giới thiệu bằng lời ca
điệu múa, vai lệch như Thị Mầu có một kiểu riêng, vai chính như Thị Kính lại
có một kiểu riêng, vai hề cũng có một lối giới thiệu riêng. Có người cho rằng
lối giới thiệu như vậy quá giản đơn, mang nhiều màu sắc của hình thái tự
nhiên. Sự thật, lời giới thiệu này có đặc sắc của nó, nếu diễn xuất khá, vai trò
vẫn hấp dẫn người xem rất nhiều. Trong chèo hiện đại, người ta vẫn duy trì
phong cách tự giới thiệu nhân vật nói trên, có điều cũng biến hóa chút ít cho
hợp với tinh thần mới. Thủy trong Mối tình Điện Biên hay Thảo trong Vẹn cả
đôi đường, đều có xưng danh, tuy mỗi người mỗi cách. Lối xưng danh của
Thảo cũng có vẻ độc đáo:
Tôi bước chân ra đây!…
(Tiếng đế) Ra xưng danh phải không?
– Không phải… Tôi ra đây không phải xưng danh mà là xưng tội…
Đương nhiên không phải vai nào cũng tự giới thiệu, mà chỉ có vai chính
hay vai phụ có tính cách rõ ràng.
Nhân vật trong chèo nhiều, nhưng có thể chia ra hai loại chính; vai
chính và vai lệch. Các vai chính – nhân vật tích cực – như Thị Kính, Thị
Phương, Thạch Sanh, Tống Trân,… thể hiện những đức tính tốt của con
người. Các vai lệch – nhân vật tiêu cực – nhữ Vân Dại, Lý Thông… thể hiện
những thói hư tật xấu trong xã hội cũ. Hai loại nhân vật này được xây dựng
một cách đối lập nhau rõ ràng, vì đây thuộc về hai phe thiện, ác trong xã hội.
Phe thiện là phe được nhân dân ủng hộ. Bụt trong Tấm Cám hay tiên trong Lọ
nước thần đều đứng về phe thiện. Quan niệm như vậy, các tác giả chèo
muốn vai chính phải hoàn toàn không có khuyết điểm và vai lệch hoàn toàn
không có ưu điểm. Đương nhiên, nếu so với nhân vật trong kịch cổ điển
phương Tây hay trong kịch nói ta hiện nay, có thể có ý kiến cho rằng các vai
trong chèo chưa có được một tâm lý sâu sắc, mà có phần nào còn sơ lược
dưới hình thái tự nhiên. Nhưng, như phần trên chúng ta đã nói, chèo là một
loại ca vũ kịch, xem chèo còn phải chú ý ở làn điệu, chứ không phải chú ý ở
tâm lý nhân vật mà thôi. Tuy vậy, chúng ta cũng không thể kết luận được rằng
nhân vật chèo không có tính cách. Trong chèo, có một số nhân vật chung cho
các vở như ông quán, mụ đồng, tiều phu, tuần, mõ…, nhưng đó là nhân vật
phụ, thường là vai hề. Hề chèo có hai loại: một loại thấp kém thuộc tầng lớp
cố nông như anh Nô, mẹ Đốp, một loại đại biểu cho phong kiến tự đả kích nó
như đồ dốt, phù thủy sợ ma v.v… Như trên đã nói, vai hề tuy là phụ, nhưng
có khi lại là một vai nổi nhất vở hay nổi nhất một lớp trong vở. Đối với vai
chính, tính cách ở một số nhân vật khá rõ rệt: Thị Kính và Thị Phương đều là
con người hiền hòa, chiu đựng gian khổ, nhưng Thị Phương còn tỏ ra chủ
động hơn Thị Kính. Thị Phương còn dám xông xáo vào cuộc sống nuôi mẹ
thay chồng, còn Thị Kính quá trầm lặng tìm đến Thích Ca. Thị Mầu và Vân
Dại đều được cường điệu hóa, đều có chỗ giống nhau như lẵng lơ, gian dối;
nhưng Thị Mầu thì trắng trợn, trơ trẽn và Vân Dại thì khôn khéo, đảo điên.
Cùng một bản chất lẳng lơ, Thị Mầu và Vân Dại được dựng lên với hai tính
cách khác nhau, với lời ca điệu múa khác nhau. Chỉ xem qua một lần, người
ta cũng không thể quên được con mắt “lúng liếng” của Thị Mầu hay mái tóc
“rối bù” của Vân Dại. Để biểu hiện tính cách trên, có điệu hát riêng cho vai nữ
lệch như cấm giá, bình thảo, nói lệch, nói lửng, có điệu hát riêng cho vai nữ
chính như hát sử, đường trường phải chiều, vãn, than… Về hóa trang, các lối
vẽ mặt, ăn mặc đơn giản hơn ở tuồng nhiều: vai lệch chỉ khác vai chính ở hai
miếng cao dán hai bên thái dương (Sùng bà), hay môi có vết đen và một
chấm trắng như người ăn trầu cấn chỉ (Tú Bà), v.v…
Nói đến kịch tính hay nói đến tính cách nhân vật là phải nói đến ngôn
ngữ các vai. Trong sân khấu, phương tiện chủ yếu để tạo ra hình ảnh nghệ
thuật là diễn xuất các vai trò, nhưng vì sân khấu là nghệ thuật tổng hợp, nên
cũng bao hàm dưới một hình thái đặc biệt cả phương diện mô tả của văn học.
Bàn về vấn đề này, Gô–rơ–ki cho rằng: “Hình thức kịch là một hình thức văn
học khó khăn nhất”. Quả vậy, ngôn ngữ được dùng vào sân khấu, vừa phải
văn vẻ, vừa phải tự nhiên, tính chất tự sự phải kết hợp với tính chất trữ tình.
Trong chèo, ngôn ngữ thường phải hợp với lời ca và điệu múa. Ở đây, nghệ
thuật trào phúng được sử dụng nhiều nhất là những lúc đả kích bọn thống trị
phong kiến. Lối trào lộng có khi bóng bẩy, ví von, có khi hơi pha tục kiểu “tiếu
lâm”.
Có lão lý trưởng đục khoét dân thì nhiều mà lại keo cú, cầm trống chầu
mà ít thưởng, diễn viên chụp lấy cơ hội đó đả kích ngay:
– Hôm nay cày khá không?
– Không, trâu không chịu đi.
– Thế sao không đánh cho nó đi? Da trâu là da bố anh à, mà anh không
dám đánh?
Lưu Bình sang chơi nhà Dương Lễ gọi thêm phu gánh kiệu, người lính
hầu nói.
– Gọi thêm phu, rồi lại còn cơm nước đãi họ nữa, bận lắm cơ, xin giản
tiện đi cho, hay là con lấy cái rá to, quan ngồi vào đó, con bưng quan sang!
Hai cách nói bóng gió trên thể hiện hai khia cạnh khác nhau: một mặt
thì sâu cay, một mặt thì hóm hỉnh. Nghệ thuật trào phúng trong chèo còn thể
hiện ở nhiều cách khác nhau, rất phong phú: chèo đã rút tất cả cái “đắc thể”
trong lối chơi chữ của ta: nói bóng, nói chệch, nói lái v.v… Cả Sứt trong vỏ
Kim Nham khi xướng lễ tơ hồng, không xứng bước vào, mà lại xướng “báo
vược”. Cả Sứt nằm chiêm bao, lại nói là “đứng” chiêm bao. Dương Lễ dặn
tiểu đồng sỉ nhục Lưu Bình để khích lòng phẫn chí của bạn, thì tiểu đồng
tưởng là ra chợ mua thịt mà “nhét vào răng” Lưu Bình (Xỉ nhục)!
Những đoạn pha tiếu lâm trong chèo cũng không phải là hiếm: Tú Bà
và Mã Giám Sinh khấn tiên sư. Tiên sư hiện ra và bảo:
– Cúng tao ba tối thì tao phù hộ, không cúng thì tao bóp.
– Bóp gì? Bóp đầu hay bóp cổ?
– Bóp đầu hay bóp cổ thì nó đau, có chỗ nào không đau thì tao bóp?
Tuy vậy, cũng có đoạn “tiếu lâm” nhưng mà tế nhị:
Vai hề của Từ Thức hỏi cô tiên Giáng Hương xem tu ở động nào:
– Cô ở động thứ mấy?
– Động thứ tám.
– Cô ở gần động bu cháu đấy chứ?
– Động thứ mấy?
– Động cỡn!
Đặc biệt, lối dùng chữ rất thích đáng và bao hàm ý nghĩa phản phong
cao độ. Các vai hề dùng chữ rất giỏi, bẻ chữ rất nhanh, nói lên được trí thông
minh của quần chúng. Vai Khán Thị (trong vở Từ Thức) trình bày chuyện con
gà, con chó với quan:
– Bẩm cụ lớn như con chó (Bẫm cụ lớn: hô vị ngữ)
– Thằng này láo!
– Con xin nói lại cho rõ câu: Bẩm cụ lớn còn như con chó!
Quả là một lối đặt câu hóc hiểm mà cụ lớn chỉ nạt dọa, chứ cũng khó
bắt bẽ, vì nếu bắt bẻ thì chỉ tạo thêm dịp tốt cho Khán Thị lắp lại câu nói lập lờ
của mình!
Giá trị ngôn ngữ và giá trị văn học trong chèo còn ở các lời ca của làn
điệu, mà chúng ta không thể nói hết được. Theo các nghệ nhân lão thành, thì
có đến hàng trăm làn điệu khác nhau. Trừ một số làn điệu trực tiếp mượn ở
dân ca như sa mạc, trống quân, cò lả, ví, hò hay một số làn điệu mượn ở điệu
hát tôn giáo như chầu văn, phụ đồng, nói hạnh, ru kệ, v.v… tất cả những làn
điệu chèo đều có bản sắc độc đáo và được sắp xếp theo từng “trổ” ngắn dài
nhất định. Cố nhiên, như trên đã nói, những làn điệu chèo ban đầu cũng do
dân ca, dân vũ mà ra, nhưng khi đưa lên sân khấu, thì dần dần được chính
quy hóa. Tuy vậy, tính đại đồng tiểu dị không phải là không có: cùng một làn
điệu, nhưng mỗi địa phương hát một cách. Đó cũng là một điểm khó khăn cho
việc nghiên cứu nhạc chèo hiện nay.
Theo Nguyễn Thúc Khiêm trong Khảo sát về hát tuồng và hát chèo, thì
hát chèo chỉ có hai cách là cách nói và cách hát, nói thì có nói sử và nói lối,
hát thì có hát đường trường và hát nhịp đuổi. Các cách nói và hát khác sẽ từ
đó biến hóa ra các điệu. Trong phần kết luận, ông Khiêm cho rằng hát tuồng
và hát chèo đều từ Trung Quốc truyền sang. Đây, chúng ta chưa nói luận
điểm về nguồn gốc của ông Khiêm sai về căn bản, mà chỉ nói cách chia làn
điệu của ông cũng quả giản đơn. Sự thật, các làn điệu chèo khá phức tạp và
chưa biết nên chia thế nào cho hợp lý, theo thể từ dễ đến khó, theo thể thơ
hay theo tình cảm vui buồn? Ở phần trên ta đã nói rõ là hát chèo hoặc mượn
làn điệu ở dân ca, hoặc được sáng tác ra sau này. Những điệu phỏng theo
dân ca như xẩm chợ biến thành xẩm chèo, điệu quan họ “Trống cơm” biến
thành điệu hề mồi “Phủ Lý, Hưng Yên”; lại, có những điệu được sáng tạo và
phảng phất hơi nhạc dân ca như điệu đường trường, sa lệch, làn thảm, v.v…
Từ những điệu đó, người ta lại đặt ra những điệu biến thể như sử thì có sử
xuân, sử rầu, sa lệch thì có sa lệch chênh, sa lệch xếp, vãn thì có vãn cấp,
vãn ba than, v.v…
Nhìn chung, trong chèo chúng ta thấy có mấy loại nói và hát:
Loại nói thường: thỉnh thoảng mới có ở phần đối thoại. Trong chèo hiện
đại, phần nói thường được tăng nhiều hơn.
Loại nửa nói nửa hát: đó là loại nói sử, nói lối, nói đếm, cách cú. Nói sử
ở chèo, cũng như ở tuồng, là lối văn song thất của Việt Nam, cứ bốn câu là
một khổ. Từ đó, người ta chế biến ra loại câu từ 4, 5 từ đến 8, 9 từ. Từ loại
nói sử, người ta đặt ra loại nói lối, câu đặt có khi cách cú, giống như hướng
trong tuồng, chỉ khác là không có tán. Nhịp điệu của nói lối so với nói sử thì
mau, gọn hơn. Nói đếm và cách cú thì dùng vè bốn từ, nhịp điệu vui mạnh,
hoạt bát.
Loại hát: thật là phong phú, thường dùng thể lục bát, (trừ điệu sắp cổ
phong lại dùng bát lục); hát theo giọng đường trường thì nhạc điệu ngân nga,
thiết tha, phấn khởi hay đau thương, vui hay buồn tùy điệu nào hợp với nhân
vật nào, vui thì sắp đan lồng, sắp qua cầu, buồn thì như làn thảm, vãn…, hát
theo giọng nhịp đuổi thì điệu nhanh hơn, tính chất thường vui nhộn, đôi khi
cũng ngậm ngùi chút ít, v.v… Làn điệu chèo nhiều không thể kể xiết, đó là
chưa nói tới những điệu có tính chất tôn giáo như chầu văn, nói hạnh, vãn
hạnh, ru kệ,…
Đặc biệt, có những làn điệu múa hát đã trở thành tiêu biểu như điệu
“Trấn thủ lưu đồn” trong “Tuần ty Đào Huế”, điệu “Con gà rừng”, trong “Kim
Nham”, hay điệu “Bình thảo”, điệu “Cấm giá” mà Thị Mầu hay dùng. Ngoài ra,
những điệu hề mồi, hề gậy, điệu hát vỡ nước… là những điệu quen thuộc
trong chèo.
Loại ngâm thơ: có lối ngâm thơ kiểu dân ca như ngâm sa mạc, có lối
ngâm thơ cổ (Đường luật), điệu ngâm vui hay buồn cũng tùy cảnh. Thường
thường sau khi kết thúc phần nói sử, vai giáo đầu ngâm một bài thơ. Ngâm
thơ xướng họa, tả cảnh, tả tình như trong chèo Từ Thức, Lưu Bình – Dương
Lễ, v.v…,
Nói đến ca nhạc trong chèo, cũng cần phải nói đến nhạc cụ, đạo cụ.
Đạo cụ trong chèo có thể nói cái quạt là quan trọng, cái quạt đề thơ, đọc thơ,
cái quạt vái chào, cái quạt trang sức, cái quạt làm duyên,… Hề gậy thường
sử dụng cái gậy. Về nhạc cụ, xưa chỉ có trống, mõ, sênh, nay thêm đàn, sáo,
nhị,…; trong chèo văn minh và chèo cải cách, lại có cả nhạc cụ phương Tây
như mandoline, violon,… Trong chèo cổ, cái trống chầu rất quan trọng, nó
vừa làm nhiệm vụ tập hợp quần chúng, vừa làm nhiệm vụ điểm nhạc lại vừa
làm nhiệm vụ phê bình. Các “ông làng” sành chèo thường đóng vai trò cầm
chầu; nay thì người hậu trường làm nhiệm vụ đó (ở chèo mới, có xu hướng
bỏ trống chầu).
VI. QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN CỦA CHÈONghệ thuật hát chèo từ trước đến nay đã diễn biến qua nhiều chặng
lịch sử và do đó qua nhiều hình thái khác nhau, tuy rằng về căn bản vẫn giữ
được phong cách độc đáo của nó. Hình thức chèo sân đình là hình thức cơ
nhất; đến đầu thế kỷ XX, chèo được cải biên và đưa lên sân khấu thành thị,
gọi là chèo văn minh. Chèo văn minh chịu ảnh hưởng tuồng lúc bấy giờ. Từ
1920, chèo lại chịu ảnh hưởng nghệ thuật cải lương mà biến thành chèo cải
lương. Sau Cách mạng tháng Tám, chèo cổ được phục hồi, một số vở được
cải biên, trong khi đó những vở chèo mới được sáng tác ngày càng nhiều.
Chèo sân đình là hình thức sân khấu dân gian trải hàng bao nhiêu thế
kỷ ở nông thôn. Đây là một hình thức sân khấu rất giản đơn. Tất cả việc đời
diễn ra trên một chiếc chiếu giải giữa sân đình. Sân khấu trống bốn mặt,
người xem ngồi quây quần bốn phía. Đôi khi có hậu trường, một tấm màn sơ
sài ngăn cách hậu trường với sân khấu; hoặc có khi sân khấu được dựa vào
một cổng làng hay dưới mái tam quan và như vậy, hậu trường ở sau cánh
cửa và sân khấu chỉ có một mặt quay ra khán giả. Hình thức sân khấu dân
gian thời xưa ở Nga hay ở Trung Quốc cùng đơn giản như vậy, thí dụ ở
Trung Quốc xưa, hí kịch được trình bày trên một gò đất, phông cảnh chẳng có
gì cả. Trong chèo sân đình cũng vậy, không có phông cảnh, bàn ghế. Vài
chiếc hòm đựng áo quần, nhạc cụ khi di chuyển sẽ được sử dụng để bố trí
khung cảnh khi cần thiết. Chiếc hòm đó khi thì biến thành cái án thư của nho
sĩ, khi thì biến thành ngai vàng của vua, khi thì tượng trưng cho quả núi,...
Trong chèo Kiều, chúng ta thấy Thúc Sinh ngồi nói chuyện với Hoạn Thư ở
đó, nằm ngủ cũng ở đó. Việc đạo diễn cũng đơn giản: không có màn lớp,
tượng Phật trong Quan Âm Thị Kính hay tượng thần mày trắng trong Kiều là
người thật. Khi diễn xong “tượng” cứ việc đứng dậy đi vào. Nhạc cụ gồm có
một trống chầu, hai trống con, một bộ sênh, v.v… khi sắp diễn có một hồi
trống dạo, tiếp đó bài hát vỡ nước vang lên; sau dó, chèo bắt đầu. Khi kết
thúc lại có một hồi trống rã đám.
Diễn viên chèo không có tính chất chuyên nghiệp, mà chính là nông
dân, thường thì làm ăn, đến ngày hội hè thì tập hợp theo ông trùm phường để
đến các cửa đình xin đám. Có khi các phường đua nhau hát ngày đêm để giật
giải thưởng. Trong không khí tranh giải như vậy, có cái hay là phường nào
cũng phát huy hết khả năng của mình, đồng thời cũng học tập được kinh
nghiệm phường khác; nhưng cũng có cái dở là chạy theo thị hiếu từng làng
mà cương lên nhiều đoạn, không tôn trọng vở, hay không tôn trọng các làn
điệu. Kết quả là lối hát nơi này khác với nơi kia, như hề Thanh Hóa pha trò
khác hề Bắc Ninh. Thị Mầu Thái Bình múa khác Thị Mầu Hà Nam, v.v…
Trong khi chèo ở Đàng ngoài diễn biến một cách tự phát như vậy thì
tuồng ở Đàng trong được chúa Nguyễn chú trọng đưa vào nền nếp làm một
phương tiện phục vụ cung đình, phục vụ ý thức hệ phong kiến. Tuồng phát
triển mạnh mãi cho đến thời Nguyễn thì tràn ra Bắc Hà. Ở Huế, Minh Mệnh đã
cho lập nhà Trường xuân, sau đổi là Thanh bình thự, Thành Thái lại đổi là Võ
Cán đội để huấn luyện kỹ thuật diễn xuất múa hát. Các đội hát này được dùng
trong các lễ tiết như tế Nam, giao, Văn thánh, Xã tắc,…
Nghệ thuật chèo ở tình trạng tự phát, thiếu quy củ, nên dễ tiếp thu vội
vã ảnh hưởng của tuồng. Do đó người ta không lấy làm lạ là có những vở
chèo pha tuồng như vở Tiền Hán, Hậu Hán (ở đây Lưu Bị hát chèo, Quan
Công nói lối). Đó là tình trạng chung của chèo vào những năm đầu thế kỷ XX.
Để cạnh tranh với tuồng, vào khoảng năm 1913 –1914, chèo ra thành
thị và được đưa lên sân khấu rạp hát với cái tên Chèo văn minh.
Ra thành thị, với những phương tiện mớii của một xã hội tư sản bước
đầu, với những thị hiếu của quần chúng phức tạp hơn, chèo phải thay đổi để
thu hút người xem. Về phương tiện sân khấu, chèo có tổ chức, có bố trí hơn,
có mở màn, hạ màn, có phông cảnh đủ màu sắc. Không còn lối diễn liên miên
ở sân đình nữa. Mỗi vở đã chia thành từng cảnh, từng lớp rõ ràng, thời gian
cũng được quy định. Phục trang cũng đựợc cải tiến, thêm màu sắc sặc sỡ
cho hợp với thời thượng. Cô Kiều ở chèo sân đình bận áo quần như cô gái
nông thôn Việt Nam, cô Kiều trong chèo văn minh đã tha thướt áo xiêm, lóng
lánh trâm cài kiểu y phục Trung Quốc, về diễn xuất, chèo văn minh đã pha
tuồng nhiều, do đó nhiều làn điệu của chèo cổ bị tước đi mà thay bằng làn
điệu tuồng.
Nguyễn Đình Nghị soạn các vở mới như Tô Thị vọng phu, Nhị Độ Mai,
Tống Trân – Cúc Hoa,… Về căn bản, ông dựa theo tích cũ, nhưng sắp xếp
cảnh lớp theo lối mới. Diễn viên chèo văn minh đã bắt đầu chuyên nghiệp hóa
và thoát ly sản xuất. Nhìn chung về nghệ thuật, chèo văn minh có tiến hơn
chèo sân đình, nhất là về mặt đạo diễn, trang trí, phục sức, nhưng nó có
nhược điểm là pha tạp chạy theo thị hiếu quần chúng thành thị, do đó làm
giảm mất phần lớn bản sắc độc đáo của chèo cổ.
Cũng với tính chất thời thượng đó, chèo văn minh chỉ sống được
khoảng chục năm, là chuyển sang chèo cải lương.
Từ năm 1920, nghệ thuật cải lương từ Nam Kỳ tràn ra Bắc và rất được
quần chúng hâm mộ. Do đó để cạnh tranh với cải lương, chèo ở thành thị
cũng phải chuyển hướng. Nguyễn Đình Nghị mạnh bạo đi vào cải biên các vở
cũ cho hợp với tình hình lúc bấy giờ, thí dụ trong cảnh việc làng ở vở Quan
Âm Thị Kính, người ta thấy xuất hiện các tên chức dịch lúc đó như hội đồng
tộc biểu, lý trưởng và hào cường thì uống rượu, hút thuốc phiện, v.v… Mặt
khác, Nguyễn Đình Nghị còn sáng tác những vở mới như Năm trận cười,
Đáng đời cô ả, Cái nhầm to hay cả những vở dưới dạug tiên thánh để nói thời
sự như Bà chúa Thoải, Thiên chúa giáng sinh, v.v… Các tác phẩm của ông
xuất hiện trên sân khấu nhiều nhất vào khoảng 1924–1925. Rút kinh nghiệm
thất bại trong việc sáng tác chèo văn minh, Nguyễn Đình Nghị đã biết giữ lấy
đặc tính của chèo, gạt bỏ những phần pha tuồng ra; ông đưa thêm dân ca
vào, nhưng cũng có cái lệch lạc là đưa vào cả ca Huế, hay cả điệu hát Tây
như Madelon, Ville d’amour,… Về diễn xuất, nhân vật trong chèo cải lương,
vừa sử dụng những làn điệu chèo vừa sử dụng những động tác bình thường
và câu nói thường như trong cải lương. Về phục trang, diễn viên ăn mặc tân
thời như dùng áo cài khuy, cỗ và tay có dây hột vàng, đuôi gà buông thõng,
nam thì khăn xếp, giày Gia Định, nữ thì vấn khăn nhung, quần lĩnh tía, v.v…
So với chèo văn minh, thì chèo cải lương tiến hơn một bước, về phương diện
hiện đại hóa cũng như về phương diện phong cách cũ, trừ những chỗ pha tạp
cải lương. Chính cái sinh khí đó đã giúp nó tồn tại cho đến Cách mạng tháng
Tám. Sự thật, từ 1935 trở đi, quần chúng thành thị chú ý nhiều đến điện ảnh
và cải lương Nam Kỳ, do đó nghệ thuật chèo cũng có phần sút kém. Chèo chỉ
phát triển ở nông thôn miền Bắc với hình thức sân đình cũ, nhưng cũng chỉ
trong chừng mực của một xã hội bị thực dân đô hộ, đang bị bần cùng hóa đến
cao độ. Đến khoảng năm 1933 – 1934, chèo chỉ còn thoi thóp ở thành thị
cũng như ở nông thôn.
Cách mạng tháng Tám thành công, phương châm cách mạng văn hóa
“dân tộc, khoa học, đại chúng” do Trung ương Đảng ta đề ra chưa kịp đem áp
dụng triệt để vào ngành ca kịch thì kháng chiến toàn quốc đã bùng nổ. Nghệ
thuật chèo bị mờ đi trong giai đoạn đầu bận rộn, nhưng rồi được phục hồi
nhanh chóng trong kháng chiến. Khu 12 cũ có vở Nhà sư giết giặc. Khu 3 có
vở Tiếng súng miền Nam; tiếp đó những vở chèo mới ra đời: Trên đồng lúa
chín, Giết giặc trừ gian, Tổng động viên, Lưu Bình – Dương Lễ tân thời… Ở
khu 4, Nguyễn Đình Nghị được giúp đỡ để phục hồi chèo; ở Việt Bắc, các
nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Tô Vũ cùng với một số nghệ nhân có tên tuổi
như bác Năm Ngũ, chị Dịu Hương bước đầu nghiên cứu chèo. Đến 1952,
nhờ sự quan tâm của Trung ương Đảng về nghệ thuật sân khấu, ngành chèo
đã phát triển mạnh hơn. Tổ chèo trong đoàn Văn công nhân dân trung ương
được thành lập. Các đoàn Văn công khác như Văn công Tổng cục chính trị,
Văn công cải cách ruộng đất, Văn công Điện Biên, Đoàn ca kịch dân doanh
Quyết Tiến… cũng đều có diễn chèo. Những vở như: Tát nước cấy chiêm, chị
Trầm, chị Đôi, Vui tổ đổi công, Gà gáy nửa đêm, Anh Tào giác ngộ, Chiếc vai
cày, Chị Tấm – Anh Điền v.v… được biễu diễn khắp nơi để phục vụ giai đoạn
chuẩn bị tổng phản công và cải cách ruộng đất. Nhìn chung, các vở chèo
trong giai đoạn này đã có nội dung chính trị tốt, phục vụ kịp thời giai đoạn;
hình thức nghệ thuật không cón bị pha tạp tuồng hoặc cải lương như trước
1945 nữa. Riêng đối với những vở cải biên, vì thiếu kinh nghiệm, nên ta đã
phạm sai lầm về quan điểm lịch sử trong việc thừa kế và phát triển, thí dụ
Kiều đã biến thành “Kiều tăng gia sản xuất”, Kim Trọng đã biến thành chiến sĩ
nông nghiệp, Đạm Tiên thành cô gái “bạc mệnh” bị tàu bay địch bắn chết;
hoàng tử trong “Tấm Cám” thành đức ông độc ác, và thay bằng anh Điền
nông dân tích cực và thủy chung v.v…
Từ 1954, nghệ thuật chèo được đẩy lên một mức, các đội chèo trong
đoàn Văn công nhân dân trung ương, Văn công Tổng cục chính trị, v.v…
được thành lập. Năm 1958, các đội văn công các tỉnh, các địa phương đều có
diễn chèo. Cũng năm 1958, Ban nghiên cứu chèo được thành lập và năm
1959, trường ca kịch dân tộc ra đời, trong đó khoa chèo gồm hai lớp ngắn
hạn và dài hạn. Việc nghiên cứu chèo hiện nay còn được tiếp tục một cách
nghiêm túc. Về hình thức, người ta đã chú ý tôn trọng truyền thống cũ, đồng
thời cũng có kết hợp với tính hiện đại cho sát với tâm lý thời nay. Về nội dung
các vở, các nhà nghiên cứu và nghệ nhân chèo vừa cải biên chỉnh lý một số
vở cũ như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình – Dương Lễ, Vân Dại, Trương Viên,
… vừa soạn một số vở mới, hoặc dựa theo tích cũ như Lọ nước thần, Tấm
Cám, hoặc dựa theo đề tài mới như Con trâu hai nhà, Đường đi đôi ngả, Vẹn
cả đôi đường, Tiếng trống hội mùa, Mối tình Điện Biên, Theo ngọn cờ hồng,…
Các mặt diễn xuất, ca nhạc, trang trí, phục trang đã được nâng cao đúng với
tinh thần “dân tộc, khoa học, đại chúng”. Ngày nay, nghệ thuật chèo được
nhân dân hưởng ứng và coi trọng như các bộ môn nghệ thuật khác.
Tiếng hát chèo chẳng những vang vang khắp miền Bắc nước ta, mà
còn tỏa ra ở nước ngoài. Nhiều điệu múa và làn hát, biểu diễn ở Mông cổ,
Trung Quốc, Tiệp Khắc, Ấn Độ, Miến Điện…, được nhân dân thế giới nhiệt
liệt ca ngợi.
Được sự dìu dắt của Đảng và Chính phủ, được sự ủng hộ và xây dựng
của quần chúng, nghệ thuật chèo đương trên đà phát triển mạnh mẽ để phục
vụ công cuộc xây dựng tổ quốc Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
VII. KẾT LUẬNChèo là một nghệ thuật cổ truyền của dân tộc ta, sống trong lòng nhân
dân ta không biết bao nhiêu thế kỷ. Trong chế độ phong kiến và thực dân, bao
phen nó bị vùi lên dập xuống, bị cắt xén xuyên tạc, cho mãi đến ngày nay mới
được phát triển trong cảnh trăm hoa đua nở của nền nghệ thuật dân tộc. Nếu
ngày xưa chèo có ý nghĩa phản phong và phản đế, thì sau Cách mạng tháng
Tám, nó có tác dụng phục vụ kháng chiến, phục vụ cải cách ruộng đất, và
hiện nay có tác dụng phục vụ xây dựng hòa bình đất nước ta. Có điều chèo
cũng là một loại thể văn học nghệ thuật như bất cứ loại thể nào khác, do đó,
nó cũng biến chuyển theo lịch sử, theo đà đi lên của quá trình lịch sử; vì vậy,
nó mới không bị mai một theo thời gian và không bị “xếp vào viện Bảo tàng”
như Đoàn Phú Tứ đã đánh giá một cách sai lầm ở Hội nghị tranh luận về Kịch
năm 1950 do Ban Thường vụ hội văn nghệ và đoàn sân khấu tổ chức.
Chèo hiện nay phát triển theo hai hướng: Chèo cổ như Xúy Vân, Thị
Mầu, chèo cổ cải biên (kể cả những vở tuy mới xây dựng nhưng dựa vào tích
cũ như Lọ nước thần, Tấm Cám) và chèo mới. Chèo mới lấy đề tài trong cuộc
sống như Đường đi đôi ngả, Vẹn cả đôi đường được biểu diễn nhiều nơi kể
cả ở nước ngoài và thu được nhiều kết quả tốt. Nói chung, trừ một số khuyết
điểm không phải là căn bản, các vở chèo mới vừa tái hiện được cuộc sống
đương lên, vừa thừa kế được phong cách chèo cổ. Riêng đối với vấn đề cải
biên chèo cổ hay dựng chèo theo tích cũ, thì hiện nay còn nhiều ý kiến khác
nhau. Đành rằng “gạn cũ lấy mới”, nhưng gạn gì và lấy gì? Cái khó là ở đó.
Thừa kế và phát triển cho đúng mức không phải là dễ. Thí dụ: Trong Quan
Âm Thị Kính nên xây dựng nhân vật Thị Mầu và Thị Kinh thế nào? Thị Mầu có
hoàn toàn là một nhân vật phản diện không, hay còn là một nạn nhân của chế
độ phong kiến? Thị Kính bi quan tiêu cực như tích cũ có lợi gì cho việc giáo
dục tư tưởng tình cảm hiện nay? Đó là những vấn đề cần nghiên cứu nhiều.
Sau khi xem vở Tấm Cám của Lưu Quang Thuận, Huyền Kiêu phát biểu:
“Xem vở Tấm Cám, tôi không thấy cái nên thơ mộc mạc, cái cổ kính toát ra
được bao nhiêu, mà có cái gì lẫn lộn giữa xưa và nay – nặng về nay – khiến
không khí cổ tích mờ nhạt đi rất nhiều”. Trong công tác sân khấu hiện nay,
người ta tránh hai khuynh hướng: thô bạo và bảo thủ. Thô bạo là phá hoại
truyền thống cũ, nhưng bảo thủ lại giữ lại những cái phá hoại trong ca kịch cũ.
Vấn đề là phải khôi phục bộ mặt thật của lịch sử, đã từng bị giai cấp phong
kiến trước kia che đậy, xuyên tạc, để tìm ra người chủ nhân chính trên sân
khấu lịch sử, lấy chủ nghĩa duy vật lịch sử để phản ánh sự thật của lịch sử,
truyền đạt bài học của lịch sử để biễu dương những tính chất tiến bộ, những
phẩm chất cao thượng của những anh hùng thuở trước, dưới những điều
kiện lịch sử thời đó, để học tập người xưa chứ không nên hiện đại hóa một
cách miễn cưỡng những nhân vật lịch sử. Với sự góp sức của mọi người theo
đường lối văn nghệ của Đảng, nghệ thuật chèo nhất định sẽ ngày càng phát
triển và phong phú.
TỔNG KẾT VỀ VĂN KỌC DÂN GIANChúng ta đã nghiên cứu sơ lược văn học dân gian Việt Nam qua các
loại thể của nó. Trong thần thoại và truyền thuyết, chúng ta hiểu được sự tích
và cũng nghiên cứu được nội dung tư tưởng của tác phẩm; còn về mặt nghệ
thuật, ta chỉ tìm hiểu được tính hình tượng, việc xây dựng hình tượng. Trong
các loại trường ca, các loại truyện cổ tích, truyện cười, ngụ ngôn, ngoài các
vấn đề trên, ta có dịp đi sâu vào bố cục của các tác phẩm hay đi sâu vào
ngôn ngữ trong một số trường hợp; riêng trong một số trường ca, ta đã sơ bộ
tìm hiểu cách xây dựng hình tượng nhân vật. Đối với tục ngữ, câu đố, ca dao,
dân ca, vè không những chúng ta đi sâu vào nội dung tư tưởng, mà còn phân
tích cả phương pháp suy luận, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, nghệ thuật cấu
tạo hình ảnh. Chèo là một loại thể tổng hợp; ở đây, chúng ta thấy, ngoài
những truyện cổ dân gian, tục ngữ, câu đố, ca dao, dân ca, vè, người ta còn
sử dụng cả vũ nhạc dân gian nữa. Nhìn chung, văn học dân gian ta rất phong
phú bao gồm nhiều loại thể từ đơn giản đến phức tạp; tất cả đều do quần
chúng lao động sáng tác trong quá trình sản xuất và chiến đấu để trở lại phục
vụ sản xuất và chiến đấu.
Sáng tác dân gian là sáng tác của người lao động. Người lao động
cũng là người nghệ sĩ. “Về bản tính tự nhiên của mình, con người là nghệ sĩ.
Khắp mọi nơi, bằng cách này hay cách khác, con người đều muốn đưa cái
đẹp vào cuộc sống của mình. Họ không muốn mãi mãi làm một con thú chỉ
biết ăn, uống, sản xuất ra con cái một cách hầu như vô ý thức, hầu như máy
móc. Họ đã tạo nên xung quanh mình một thiên nhiên thứ hai, cái thiên nhiên
được mệnh danh là nền văn hóa. Người là một nghệ sĩ. Nền văn học dân
gian truyền miệng được xây dựng bởi những con người “bé nhỏ”, tất cả
truyện thàn tiên, cổ tích, truyện tôn giáo có tính chất mê tín, những bài ca,
những câu cách ngôn, tục ngữ, v.v… đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Tất cả
những cái ấy là sự sáng tạo của những con người “bé nhỏ” và trong đó chứa
đựng một trí anh minh tuyệt vời không bao giờ khô cạn…” (Gô–rơ–ki). Xuất
phát từ lao động sản xuất, văn học dân gian, sáng tác của con người “bé nhỏ”
đó, trước hết phục vụ cho sản xuất, cho cuộc đấu tranh chống thiên nhiên.
Khi xã hội chia thành giai cấp, đã có sự bóc lột giữa người và người, thì văn
học dân gian lại có thêm một nội dung nữa; nó phản ánh cuộc đấu tranh giai
cấp không ngừng tiến lên.
Khác với văn học viết, văn học dân gian bao gồm tính chất tập thể và
truyền miệng trong khuôn khổ của nó, bên cạnh những tính chất hệ luận khác.
Nội dung và hình thức của nó rất sinh động và phong phú nhưng cũng khá
phức tạp. Do đó, khi nghiên cứu văn học dân gian, chúng ta phải đứng trên
quan điểm Mác – Lê–nin mà phê phán, nhận định và học tập; chúng ta trân
trọng tiếp thu phần quý báu trong vốn cũ dân tộc, nhưng tước bỏ những tàn
dư và ảnh hưởng của ý thức hệ giai cấp thống trị.
Quả vậy, nghiên cứu văn học dân gian tức là đi sâu vào đời sống của
nhân dân, đi sâu vào tâm hồn dân tộc. Gạt đi hết những yếu tố xấu xa do ảnh
hưởng của ý thức hệ giai cấp thống trị, văn học dân gian phản ánh khá trung
thành thế giới quan tiến bộ của quần chúng lao động. Ở đây, chúng ta thấy
luôn luôn có một sự kết hợp giữa yếu tố dân tộc và yếu tố dân chủ. Nói đến
văn học dân gian là nói đến tính dân tộc. Tính dân tộc không phải một cái gì
làm sẵn một lần, nó biến chuyển dần dần theo sự thay đổi của điều kiện sinh
hoạt, nhưng nó tồn tại trong một lúc nào đó, thì nó để lại một dấu vết trên cục
diện của một dân tộc. Trải hàng nghìn năm sản xuất và chiến đấu gay go gian
khổ, nhưng anh dũng vươn lên, dân tộc ta có một nếp sống độc đáo, có một
truyền thống vẻ vang về nhiều mặt gắn chặt ta với đất nước tươi đẹp của ta,
với lịch sử huy hoàng của ta. Văn học dân gian là tấm gương trung thành của
đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc ta. Ở đây, chúng ta thấy nhiều đề
liệu lấy trong hoàn cảnh đất nước (non sông gấm vóc, đồng ruộng tốt tươi, từ
những thú vật quen thuộc như con trâu, con cò, đến những cây cỏ quen thuộc
như cây đa, bụi tre), trong lề lối sinh hoạt của dân tộc (tình cảm đối với quê
hương, quan hệ thân thiết “trong họ ngoài làng” giũa nhân dân lao động),
trong cuộc đấu tranh của dân tộc (lao động sản xuất, lao động chiến đấu
chống ngoại xâm, chống phong kiến). Văn học dân gian thể hiện trung thành
tâm lý của dân tộc (tình cảm phóng khoáng, lạc quan, chuộng tín nghĩa, nhân
đạo… có đầu óc thực tiễn, không cuồng tín,… có đức tính cần cù, tiết
kiệm…); văn học dân gian biểu hiện phương pháp suy luận, cách nhận thức
của dân tộc (ưa dùng hình tượng, thích so sánh ví von, thích trào phúng); văn
học dân gian cũng nêu cao đặc tính của ngôn ngữ dân tộc (thanh âm phong
phú, tính chất nhịp nhàng, cân đối, có vần có điệu, thể thơ dân tộc, câu hát
dân tộc,v.v…).
Văn học dân gian phản ánh tâm hồn dân tộc, tức là phản ánh cuộc
sống nhân dân. Đó là một vấn đề mà các tác giả phần văn học viết thời phong
kiến hay thời thực dân không muốn và cũng không thể làm được đầy đủ. Nội
dung chủ yếu của văn học dân gian là cuộc sống chân thực của xã hội, chân
thực ở chỗ phản ánh cuộc đấu tranh sản xuất của nhân dân, chân thực ở chỗ,
nó phản ánh cuộc đấu tranh chống ngoại xâm và chân thực ở chỗ nó bộc lộ
mâu thuẫn của xã hội lúc bấy giờ: mâu thuẫn giữa địa chủ với nông dân, giữa
đế quốc với nhân dân, giữa chính quyền của giai cấp thống trị với quần chúng
lao động… Cuộc sống của nhân dân trước Cách mạng tháng Tám là một
cuộc sống đầy uất ức đau khổ, nhưng cũng là cuộc sống đầy chiến đấu quật
cường. Dưới chế độ cũ, không phải mọi việc đều êm đẹp. Nhưng dầu khó
khăn đến đâu nhân dân không bao giờ tuyệt vọng. Trong bản báo cáo đọc
trước Đại hội nhà văn Xô–viết lần I, Gô–rơ–ki đã phát biểu rất đúng: “Một điều
rất quan trọng cần chú ý là văn học truyền miệng hoàn toàn không biết đến bi
quan, mặc dầu những người sáng tạo ra nó sống trong những điều kiện vất
vả, mặc dầu sự lao động của họ đã bị bọn bóc lột tước hết mọi ý nghĩa và đời
sống riêng của họ bị tước hết mọi quyền. Ấy thế mà cái tập thể những người
lao động hình như vẫn có ý thức mình sẽ bất diệt và thế nào cũng thắng tất cả
mọi lực lượng thù địch…”. Cũng vì thế mà trong văn học dân gian chân thực
gắn liền với lòng ước mơ. Trong đời, người cùng khổ có tài có đức như Tấm,
như Thạch Sanh, như Sọ Dừa, như Phạm Tải gặp nhiều điều oái oăm gian
khổ, nhưng cuối cùng vẫn sống và sống một cách vẻ vang. “Chính sự tưởng
tượng, sự bịa đặt ra ấy cũng đã tạo nên và nuôi dưỡng một trong những ưu
điểm tuyệt diệu của con người, đó là sự trực cảm, tức là sự đoán trước” (Gô–
rơ–ki). Đương nhiên trong văn học dân gian vẫn có tàn tích thần linh chủ
nghĩa; nhưng quần chúng lao động không
*** thiếu trang 199-200 ***
Lâm truy chút nghĩa đèo bòng
Nước non để chữ tương phùng kiếp sau
Và câu:
… Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua
phải chăng có nguồn gốc ở câu ca dao tình tứ này:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Thất bát sông cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua.
Tố Hữu cũng sống với ca dao xưa khi sáng tác bài Việt Bắc lịch sử của
mình. Dáng dấp “mình về có nhớ ta chăng, ta về ta nhớ hàm răng mình cười”
còn in đậm bóng ở đây:
Mình về mình có nhớ ta,
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
hoặc:
Ta về mình có nhớ ta,
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Ngày nay, phương châm của Đảng đề ra cho nền văn hóa mới là nền
văn hóa có: “Nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc”, Đó là một nền
văn hóa có tính Đảng và tính nhân dân (Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ IV)
Sau Cách mạng tháng Tám, dòng văn học dân gian của ta hòa mình
trong dòng văn học dân tộc nói chung, tuy vậy nó vẫn giữ được tính chất
riêng biệt của nó bên cạnh dòng văn học chuyên nghiệp của văn nghệ sĩ.
Đành rằng lực lượng sáng tác chuyên nghiệp ngày nay mạnh hơn lại có tổ
chức, có lãnh đạo, có điều kiện tiến lên, nhưng vẫn không thể biểu hiện được
hết mọi khía cạnh của cuộc sống vĩ đại của nhân dân ta ngày nay đương biến
chuyển hàng ngày hàng giờ với muôn hình muôn vẻ của nó. Trong công cuộc
lao động sản xuất xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhân dân ta vẫn không
ngừng sáng tác văn học. Có thể nói chưa bao giờ sáng tác văn nghệ của
nhân dân ta lại phong phú như bây giờ. Chúng ta làm thế nào mà đi khắp
những hầm mỏ, xí nghiệp, công trường, nông trường, đồng ruộng, rừng núi,
rẻo cao, mặt biển, hải đảo xa xôi, biên thùy vắng vẻ,… để ghi lấy những câu
thơ, bài hát, câu chuyện của nhân dân ta sáng tác trong nhiều trường hợp
đặc biệt sinh động.
Thật vậy, nền văn học dân gian ta trải qua nhiều thời kỳ, thời kỳ phong
kiến, thời kỳ chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược và thời kỳ
xây dựng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Đặc biệt, từ Cách mạng tháng Tám lại
đây, nó có điều kiện phát triển lên một mức cao: trong kháng chiến, các tầng
lớp công, nông, binh đã làm rất nhiều thơ, ca, hò, vè để phục vụ tiền tuyến và
hậu phương; trong hòa bình, phong trào sáng tác của nhân dân vẫn được đẩy
mạnh theo hướng xây dựng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nhiệm vụ của chúng
ta là phải tiếp tục phát hiện, sưu tầm nghiên cứu và nhận định những tác
phẩm dân gian thời xưa, đồng thời phải chú ý ghi chép và giới thiệu những
sáng tác mới của quần chúng lao động trong cả nước. Trong luận văn “Đi đến
chiến thắng và sáng tạo” (1930) Gô–rơ–ki nhấn mạnh ý nghĩa của văn học
dân gian đối với nhà văn: “Những bài ca dân gian, những truyền thuyết,
những truyện dân gian, nói chung, tất cả những sáng tác dân gian gọi là
folklore phải là tài liệu dùng thường xuvên cho chúng ta”. Học tập văn học dân
gian là nhiệm vụ của chúng ta, nhưng chúng ta còn có nhiệm vụ góp phần
vào việc phát triển nền văn học đó bằng công tác sưu tầm và nghiên cứu.
MỤC LỤCChương VII. Ca dao, dân ca
Chương VIII. Vè
Chương IX. Trường ca
Chương X. Ca dao, dân ca thời chống Pháp – Nhật và ca dao, dân ca
từ sau cách mạng tháng Tám
Chương XI. Chèo
Tổng kết về văn học dân gian
–––//–––
LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM
Tập I
Văn học dân gian
Phần II
(In lại lần thứ năm có sửa chữa)
Sách dùng trong các trường Đại học và Cao đẳng sư phạm
Tác giả:
BÙI VĂN NGUYÊN – NGUYỄN NGỌC CÔN – NGUYỄN NGHĨA DÂN – LÝ
HỮU TẤN – HOÀNG TIẾN TỰU – ĐỖ BÌNH TRỊ – LÊ TRÍ VIỄN
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
In 15.000 cuốn khổ 14,5 x 20,3cm tại CTQDI/VĂN HỮU. Số 59/6, Phan Đăng
Lưu Thành phố HỒ CHÍ MINH. In xong tháng 10-1978. Nộp lưu chiểu tháng
10-1978.