18
VỀ VẤN ĐỀ LỢI ÍCH QUỐC GIA TRONG HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 Nguyễn Nam Dương Học viện Ngoại giao Bước sang thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu xác định lợi ích quốc gia và đường lối thực hiện lợi ích quốc gia trong giai đoạn cách mạng mới: hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vào năm 2020. Trải qua 25 năm đổi mới, 15 năm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cục diện trong nước và quốc tế vận động không ngừng, tác động to lớn tới nhận thức của Việt Nam về lợi ích quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Có thể thấy nền tảng lý luận - thực tiễn để xác định lợi ích quốc gia của Việt Nam thời gian qua có nhiều thay đổi, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh nhất định lợi ích quốc gia cho phù hợp với tình hình mới. Việc xác định và xác định lại lợi ích quốc gia trong công tác đối ngoại là một hoạt động chính trị thường xuyên của tất cả các chính quyền kể từ khi xuất hiện các quốc gia dân tộc có quyền tự quyết về đối ngoại. Lợi ích quốc gia bản thân nó bao gồm các mục tiêu chiến lược, đôi khi cả các công cụ thực hiện mục tiêu, mà quốc gia theo đuổi trên trường quốc tế. Lợi ích quốc gia của một nước sẽ chỉ đạo các nguyên tắc, phương châm, chính sách đối ngoại và các hoạt động bang giao của nước đó. Đại hội XI của Đảng tháng 1/2011 nêu rõ “vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội 1

Loi Ich Quoc Gia Nam Duong

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Loi Ich Quoc Gia Nam Duong

VỀ VẤN ĐỀ LỢI ÍCH QUỐC GIA TRONG HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI

CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020

Nguyễn Nam Dương

Học viện Ngoại giao

Bước sang thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu xác định lợi ích quốc gia và đường lối thực hiện lợi ích quốc gia trong giai đoạn cách mạng mới: hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vào năm 2020. Trải qua 25 năm đổi mới, 15 năm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cục diện trong nước và quốc tế vận động không ngừng, tác động to lớn tới nhận thức của Việt Nam về lợi ích quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Có thể thấy nền tảng lý luận - thực tiễn để xác định lợi ích quốc gia của Việt Nam thời gian qua có nhiều thay đổi, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh nhất định lợi ích quốc gia cho phù hợp với tình hình mới.

Việc xác định và xác định lại lợi ích quốc gia trong công tác đối ngoại là một hoạt động chính trị thường xuyên của tất cả các chính quyền kể từ khi xuất hiện các quốc gia dân tộc có quyền tự quyết về đối ngoại. Lợi ích quốc gia bản thân nó bao gồm các mục tiêu chiến lược, đôi khi cả các công cụ thực hiện mục tiêu, mà quốc gia theo đuổi trên trường quốc tế. Lợi ích quốc gia của một nước sẽ chỉ đạo các nguyên tắc, phương châm, chính sách đối ngoại và các hoạt động bang giao của nước đó.

Đại hội XI của Đảng tháng 1/2011 nêu rõ “vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”1 là mục tiêu chiến lược của đường lối đối ngoại mới của Việt Nam. Ta có nhu cầu cụ thể hóa lợi ích quốc gia để phục vụ triển khai thực hiện công tác đối ngoại trong bối cảnh mới. Nội dung lợi ích quốc gia của Việt Nam thời gian tới phải thể hiện quyết tâm, ý chí chính trị của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc trong việc chèo lái con thuyền Việt Nam tiến bước vào kỷ nguyên mới. Nội dung đó cũng phải phản ánh trung thực bản sắc, tư duy của con người, đất nước Việt Nam về dân tộc và quốc tế tại bước ngoặt sắp tới của lịch sử. Bài viết này nêu lên một số suy nghĩ về lợi ích quốc gia của Việt Nam từ nay tới năm 2020, bao gồm cả vấn đề xác định nội dung lợi ích quốc gia của Việt Nam cũng như phác thảo một số đường nét chính sách nhằm theo đuổi lợi ích quốc gia trong giai đoạn mới.

1. Đảng xác định lợi ích quốc gia của Việt Nam

1 Đảng Cộng Sản Việt Nam, “Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng” và “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)”

1

Page 2: Loi Ich Quoc Gia Nam Duong

Đảng Cộng Sản Việt Nam, lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam thời kỳ hiện đại, luôn đóng vai trò là chủ thể xác định lợi ích quốc gia của Việt Nam. Trong kỷ nguyên cách mạng thế kỷ XX, Đảng nhận định lợi ích, mục tiêu tối thượng của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Lợi ích đó cô đặc trong câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.2 Các mục tiêu cao cả nói trên đã được Đảng và nhân dân ta bền bỉ theo đuổi trong suốt quá trình đấu tranh giành lại các quyền dân tộc cơ bản, từ cuộc cách mạng tháng Tám cho đến các cuộc chiến tranh giữ nước sau này.

Thời kỳ đổi mới đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam hiện đại, khởi đầu quá trình cải cách do Đảng Cộng Sản Việt Nam phát động từ Đại hội VI (12/1986) nhằm đưa đất nước tiếp tục tiến trên con đường xã hội chủ nghĩa. Đổi mới thực chất đã trở thành một chiến lược lâu dài, nhất quán của Đảng nhằm mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh thế giới sau Chiến tranh lạnh. Trong quá trình xác định lợi ích quốc gia thời kỳ đổi mới, trước mắt để ứng phó với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, Đảng đã đặt lên hàng đầu mục tiêu phát triển trong khi vẫn kiên định mục tiêu bảo đảm an ninh quốc gia. Cương lĩnh 1991 của Đảng khẳng định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.”3

Quá trình theo đuổi lợi ích quốc gia thời kỳ đổi mới của Đảng, với các mục tiêu đã nói ở trên, đã trải qua một số giai đoạn trọng yếu. Giai đoạn 1986-1996 là thời gian định hình nhận thức của Đảng về lợi ích quốc gia mới, thể hiện qua các nghị quyết của Đảng về đối ngoại như Nghị quyết 32 của Bộ Chính Trị (7/1986), Nghị quyết Đại hội VI (12/1986), Nghị quyết 13 của Bộ Chính Trị (5/1988), Nghị quyết Đại hội VII (6/1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6/1991), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (6/1992), v.v. Trong diễn văn khai mạc Hội nghị Trung ương 3 khóa IV, Tổng Bí thư Đỗ Mười nhấn mạnh: “Lợi ích cao nhất của dân tộc ta mà cũng là của giai cấp công nhân hiện nay là nhanh chóng ra khỏi khủng hoảng, giữ vững và tăng cường ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, bảo vệ vững chắc độc lập và tự do của Tổ quốc. Lợi ích đó phù hợp với lợi ích độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của nhân dân các nước trên thế giới.”4

2 Hồ Chí Minh, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” (17/7/1966), Toàn Tập (Tập 12), Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2000.

3 Đảng Cộng Sản Việt Nam, “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (6/1991).

2

Page 3: Loi Ich Quoc Gia Nam Duong

Tại Đại hội VIII (6/1996), Đảng đề ra chiến lược “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đất nước tới năm 2020. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đi đôi với quá trình hội nhập quốc tế, hội nhập khu vực, đã tiếp tục thúc đẩy nhận thức của Đảng về lợi ích quốc gia thời kỳ đổi mới. Quan niệm của Đảng về lợi ích an ninh cũng chuyển biến từ an ninh truyền thống tới “an ninh toàn diện”. Tháng 7/2003, Trung ương Đảng thông qua Nghị quyết 8 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhấn mạnh nhiều khách thể an ninh cần được bảo vệ khỏi các mối đe dọa truyền thống cũng như phi truyền thống. Nghị quyết 8 đã chỉ ra 6 mục tiêu an ninh, tương ứng với những khách thể an ninh cụ thể: “Một là, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; Hai là, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; Ba là, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; Năm là, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; Sáu là, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”5

Như vậy, nhận định của Đảng về lợi ích quốc gia của Việt Nam cho thấy sự liên tục và nhất quán trong suốt 25 năm đổi mới. Việc coi trọng mục tiêu phát triển và đổi mới tư duy về mục tiêu an ninh là hạt nhân cốt lõi của lợi ích quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn này. Lợi ích đó đã nhận được sự đồng thuận cao của nhân dân và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Những thành công trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hoạt động đối ngoại thời gian qua đã cho thấy nhận thức của Đảng về lợi ích quốc gia cơ bản là đúng đắn. Cho đến nay, các quyết sách thể hiện tư duy của Đảng về lợi ích quốc gia nói trên vẫn giữ nguyên giá trị. Tuy nhiên, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang bước vào giai đoạn quyết định, nhiều vấn đề nảy sinh, cần tiếp tục phát triển nhận thức của Đảng về lợi ích quốc gia cho phù hợp với yêu cầu của đất nước.

2. Một số cơ sở xác định lợi ích quốc gia của Việt Nam từ nay đến năm 2020

Giai đoạn 2011-2020 là nấc thang phát triển mới trong công cuộc đổi mới, với mục tiêu tổng quát là “phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ

4 Đỗ Mười, “Thời cuộc hiện nay và nhiệm vụ của chúng ta”, Bài phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (18/6/1992), Văn kiện Đảng toàn tập (Tập 52), Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội 2007, tr. 65.

5 Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, “Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám, Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX,” Hà Nội, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2003.

3

Page 4: Loi Ich Quoc Gia Nam Duong

vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”.6 Cùng với việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, Đảng ta cần xác định rõ lợi ích quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới để từ đó đặt ra các nhiệm vụ, triển khai các hoạt động đối ngoại cụ thể. Do cùng phục vụ lợi ích quốc gia nên các hoạt động đối ngoại cần phải được nhận thức, triển khai trong sự gắn kết chặt chẽ với các hoạt động đối nội thì mới phát huy được sức mạnh tổng hợp để có thể thực hiện thắng lợi lợi ích quốc gia.

Đảng xác định lợi ích quốc gia của Việt Nam dựa trên sự nhận định của Đảng về dân tộc và quốc tế tại từng thời điểm lịch sử nhất định, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân Việt Nam và kỳ vọng của cộng đồng quốc tế. Cụ thể, Đảng xác định lợi ích, mục tiêu quốc gia của Việt Nam thông qua việc đánh giá mối tương quan lực lượng và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa Việt Nam và các đối tác tại một thời điểm lịch sử nhất định, trên cơ sở quan niệm của Đảng về bản sắc dân tộc cũng như các chuẩn mực quốc tế. Thông qua đó, Đảng xác định nhu cầu và khả năng, thế và lực của quốc gia dân tộc, từ đó cụ thể hóa nội dung lợi ích quốc gia tại thời điểm lịch sử tương ứng.

Trước thềm Đại hội XI của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 so với năm 2000 theo giá thực tế gấp 3,26 lần; GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD.7 Nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển; chính trị - xã hội ổn định; đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Bên cạnh đó, Đảng ta cũng chỉ ra những hạn chế: kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước... Nhìn tổng quát, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, đất nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển, sức mạnh về mọi mặt được tăng cường.8 Đây là tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới, hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Ngày nay, Việt Nam có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế: nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, hoàn thành tốt vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009, đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010, đóng góp quan trọng vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN... Việt Nam có quan hệ ổn định với tất cả các

6 Đảng Cộng Sản Việt Nam, “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020”.

7 Đảng Cộng Sản Việt Nam, “Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng”.

8 nt.4

Page 5: Loi Ich Quoc Gia Nam Duong

nước lớn, đã và đang thiết lập khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược với hầu hết các nước lớn trên thế giới. Đất nước hội nhập ngày càng sâu vào đời sống quốc tế, mức độ liên kết kinh tế-xã hội ngày càng lớn. Thế và lực của đất nước ta ở vào mức cao nhất kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới tới nay. Đất nước ta có nhu cầu tiếp tục nâng cao ảnh hưởng trên trường quốc tế, trở thành đối tác tin cậy, thành viên tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Về nền tảng lý luận để xác định lợi ích quốc gia, một trong những thành tựu chính của quá trình đổi mới tư duy về đối ngoại là đã đưa tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành cơ sở lý luận trong các quyết sách về đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Nói cách khác, “tư duy đối ngoại Hồ Chí Minh” đã trở thành dòng chủ lưu trong hệ thống quan điểm và giá trị về đối ngoại của Đảng trong thời kỳ hiện nay. Quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lợi ích, mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Phục vụ các quyền cơ bản của dân tộc đi đôi với đoàn kết quốc tế là trọng tâm của tư duy đối ngoại Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó nhấn mạnh hạnh phúc của nhân dân, phồn vinh của quốc gia, chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo, đã trở thành giá trị độc đáo trong mục tiêu cách mạng của Việt Nam.9 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xác định lợi ích quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần coi trọng mục tiêu phồn vinh cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân, bên cạnh các mục tiêu truyền thống là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Để đẩy tới công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh thế giới đầy phức tạp hiện nay, cần nhận định một cách sáng suốt những đặc điểm của thế giới đương đại và xác định lợi ích quốc gia phù hợp với dòng chủ lưu của thế giới. Trong một thập kỷ tới, nhiều khả năng thế giới tiếp tục vận hành theo những xu thế chủ đạo đã được Đảng nhận định qua các kỳ đại hội gần đây, nhưng chúng sẽ tiến triển không theo đường thẳng mà quanh co phức tạp, khó lường. Hai nhân tố quốc tế thiết yếu chi phối sự nhận thức của bất kỳ quốc gia nào khi xác định lợi ích quốc gia là tương quan lực lượng trên thế giới và các chuẩn mực hành vi trong đời sống xã hội quốc tế. Về tương quan lực lượng, Đại hội XI đã nhận định “cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế (...); tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có quan hệ ảnh hưởng nhiều với nước ta, có nhiều thay đổi”.10

Cục diện quyền lực đó lại vận hành trong bối cảnh các vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai... không ngừng chi phối sự quan tâm lo lắng của các nhà lãnh đạo quốc gia, đặc biệt là ở các nước vừa và nhỏ. Những sự kiện gần đây như biến động chính 9 Nguyễn Duy Quý, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội”, Tạp Chí Cộng Sản, Số 15 (135), 2007.

10 Đảng Cộng Sản Việt Nam, “Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng”.

5

Page 6: Loi Ich Quoc Gia Nam Duong

trị ở Bắc Phi – Trung Đông hay động đất, sóng thần ở Nhật Bản là những ví dụ điển hình của tính khó lường trong quan hệ quốc tế.

Ở Châu Á – Thái Bình Dương, mối quan hệ quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc tiếp tục đóng vai trò là trục chính trong quan hệ quốc tế ở khu vực. Cuộc đấu tranh gay gắt trong cùng tồn tại hòa bình giữa Mỹ và Trung Quốc, đôi khi xen lẫn sự hợp tác và thỏa hiệp giữa hai cường quốc, sẽ tạo ra những thách thức to lớn đối với lợi ích an ninh và phát triển của các nước vừa và nhỏ ở khu vực, trong đó có Việt Nam, đặc biệt đối với vấn đề độc lập tự chủ của các nước này. Cạnh tranh quyền lực các nước lớn và quan hệ nước lớn – nước nhỏ sẽ càng phức tạp thêm trong tình hình “tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt; xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới”.11

Bên cạnh đó, hệ thống quan hệ quốc tế vẫn vận động trong khuôn khổ những chuẩn mực hành vi đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Hòa bình, hợp tác để phát triển tiếp tục là xu thế lớn điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia, mặc dù không loại trừ những bất trắc khó lường. Sự hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề toàn cầu và khu vực ngày càng trở thành một yêu cầu cấp thiết. Luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc tiếp tục đóng vai trò nền tảng cơ bản của xã hội quốc tế đương đại. Ngoài ra, sự tôn trọng các quyền cơ bản của con người đã và đang trở thành một chuẩn mực được cộng đồng quốc tế và nhiều tổ chức quốc tế ủng hộ. Tại khu vực Đông Nam Á, các nguyên tắc và chuẩn mực của ASEAN nêu trong Hiến chương ASEAN vẫn được công nhận là nền tảng của bang giao khu vực, nhưng việc áp dụng những nguyên tắc này sẽ theo hướng linh hoạt, thực tế chứ không cứng nhắc. Là một thành viên có trách nhiệm và đối tác tin cậy trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam cần nhận thức rõ và tiếp thu những chuẩn mực này vào nội dung lợi ích quốc gia của mình.

Như vậy, những đặc điểm của môi trường chiến lược trong nước và quốc tế thời gian tới sẽ mang lại nhiều tác động phức tạp đối với lợi ích quốc gia của Việt Nam. Một mặt, nội dung của lợi ích quốc gia được xác định từ khi đổi mới tới nay vẫn còn phù hợp ở góc độ ưu tiên mục tiêu phát triển và tiếp cận toàn diện đối với mục tiêu an ninh. Mặt khác, cần tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung và phát triển lợi ích quốc gia của Việt Nam để theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội cao hơn của đất nước và sự hội nhập ngày càng rộng và sâu của đất nước vào đời sống quốc tế.

3. Vài suy nghĩ về nội dung lợi ích quốc gia của Việt Nam tới năm 2020

Những yếu tố dân tộc và quốc tế nói trên là cơ sở lý luận – thực tiễn cho việc xác định nội dung lợi ích quốc gia của Việt Nam hiện nay cũng như trong thời gian tới. Nội dung lợi ích đó không nằm ngoài những mục tiêu chiến lược của đường lối đổi mới Đảng đã đề ra từ giữa thập kỷ 80, nhưng cần có những 11 nt.

6

Page 7: Loi Ich Quoc Gia Nam Duong

cập nhật, cụ thể hóa, điều chỉnh cần thiết cho phù hợp với tình hình mới. Bên cạnh việc tập trung vào các mục tiêu an ninh và phát triển theo truyền thống, cần coi trọng các mục tiêu nâng cao ảnh hưởng của Việt Nam trên “đấu trường” quốc tế và khu vực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo đảm phát triển con người và an ninh con người.

- Tiếp tục ưu tiên mục tiêu phát triển đất nước, xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tiếp tục quan điểm chiến lược xuyên suốt thời kỳ đổi mới của Đảng là ưu tiên mục tiêu phát triển, xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; phát triển kinh tế là lợi ích quốc gia quan trọng hàng đầu trong lĩnh vực đối nội cũng như đối ngoại trong thời kỳ hiện nay. Mọi hoạt động ngoại giao của Việt Nam đều phục vụ lợi ích phát triển, tạo điều kiện cao nhất có thể được để tập trung phát triển kinh tế. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn là nguy cơ lớn nhất đe dọa đến sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Bối cảnh trong nước và quốc tế thời gian tới tuy có nhiều phức tạp nhưng vẫn cho phép Việt Nam tập trung phát triển kinh tế nếu biết cách tận dụng thời cơ. Không nên vì những diễn biến phức tạp trong tình hình quốc tế, tình hình khu vực thời gian qua mà sao lãng nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế.

Đổi mới là quá trình cách mạng liên tục và không thể đảo ngược. Nội dung kinh tế của đổi mới là phát triển nền kinh tế Việt Nam mở cửa, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ giữa thập kỷ 90, quá trình đổi mới về kinh tế được Đảng nâng lên một bước với chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Các hoạt động ngoại giao cần nêu cao khẩu hiệu “ngoại giao phục vụ kinh tế”, thúc đẩy tiến trình hội nhập ngày càng sâu của nền kinh tế Việt Nam vào kinh tế thế giới, điều kiện cốt yếu để phát triển trong bối cảnh hiện nay. Tại Đại hội XI, Đảng tiếp tục nâng tầm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế lên thành hội nhập toàn diện, nhưng nội dung hội nhập kinh tế, ngoại giao kinh tế vẫn tiếp tục là trọng tâm trong quá trình hội nhập quốc tế của ta.

Mục tiêu cụ thể của nước ta đến năm 2020 là hoàn thành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với những chỉ tiêu kinh tế-xã hội hết sức cụ thể, chi tiết. Công tác đối ngoại cần đáp ứng nhu cầu về vốn, công nghệ, thị trường… để phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong khoảng thời gian quyết định tới đây. Hơn nữa, sự hội nhập vào nền kinh tế tri thức đã nâng cao nhu cầu tiếp cận với tri thức tiên tiến của nhân loại, đòi hỏi công tác đối ngoại phải nâng cao nội dung tri thức, công nghệ trong các hoạt động phục vụ kinh tế của mình.

- Bảo đảm an ninh quốc gia, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ trong quá trình hội nhập toàn diện vào đời sống quốc tế.

7

Page 8: Loi Ich Quoc Gia Nam Duong

Trong khi ưu tiên mục tiêu phát triển thì mục tiêu bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn tiếp tục là mục tiêu thiết yếu. Tinh thần của Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX năm 2003 về các mục tiêu cần bảo đảm an ninh trong bối cảnh chiến lược mới vẫn có tính chỉ đạo thực tiễn to lớn sau nhiều năm thực hiện. Trong số các khách thể an ninh đã được Đảng xác định, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa vẫn là các mục tiêu đang chịu nhiều thách thức. Những tiến triển phức tạp ở biển Đông thời gian gần đây và âm mưu “diễn biến hòa bình” vẫn là các nguy cơ đối với lợi ích độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.

Việc xử lý đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa an ninh và phát triển trong lợi ích đối ngoại tiếp tục là chủ đề cần nghiên cứu, quán triệt. Trong khi kiên quyết bảo toàn lãnh thổ và chế độ chính trị thì giữ vững môi trường hòa bình vẫn là một nhiệm vụ chủ chốt của đối ngoại Việt Nam từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới tới nay. Môi trường hòa bình ổn định hiện nay cần được hiểu là cả bên ngoài lẫn bên trong. Giữ vững môi trường hòa bình ổn định là điều kiện cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia, phát triển nhanh và bền vững. Chính vì vậy, việc huy động các nguồn lực để bảo đảm an ninh quốc phòng không mâu thuẫn với việc ưu tiên phát triển kinh tế, do hai mục tiêu chiến lược này có mối quan hệ qua lại với nhau. Sự phối hợp đồng điệu chính sách đối nội-đối ngoại, giữa các ngành ngoại giao-quốc phòng-an ninh-truyền thông sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp để xử lý một cách khôn khéo những vấn đề chính trị tế nhị trong bang giao quốc tế của ta.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục đổi mới quan niệm về an ninh, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Các quốc gia đều phải tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế yêu cầu họ phải điều chỉnh các vấn đề nội bộ cho phù hợp với luật pháp quốc tế và chuẩn mực quốc tế hiện đại. Điều này đòi hỏi một sự nhận thức rõ ràng về khái niệm chủ quyền quốc gia của Việt Nam để áp dụng cho công tác đối ngoại thời kỳ hiện nay. Chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế không triệt tiêu lẫn nhau, ngược lại chúng bổ sung cho nhau, nếu ta có chính sách bảo vệ chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế đúng đắn.

- Không ngừng nâng cao vị thế quốc tế của đất nước

Trên thực tế, mục tiêu nâng cao ảnh hưởng quốc tế luôn là một trong những hợp phần quan trọng của lợi ích quốc gia Việt Nam từ trước tới nay.12

Tuy nhiên, thời gian qua dường như ta chưa chủ động tích cực thực hiện mục tiêu này mà chỉ chú trọng vào phát triển và an ninh. Tuy vị thế của một quốc gia phụ thuộc vào phát triển và an ninh của quốc gia đó, nhưng chủ động nâng cao ảnh hưởng quốc gia cũng sẽ có tác động tích cực trở lại an ninh và phát triển, cũng như “sức mạnh mềm” sẽ bổ sung cho “sức mạnh cứng”.

12 Xem Vũ Khoan, “An ninh, phát triển và ảnh hưởng trong hoạt động đối ngoại”, Nghiên cứu quốc tế số 12, 1993.

8

Page 9: Loi Ich Quoc Gia Nam Duong

Nguyện vọng của nhân dân Việt Nam cũng như kỳ vọng của cộng đồng quốc tế là đất nước, chính phủ Việt Nam cần tham gia tích cực hơn nữa, đóng một vai trò năng động hơn nữa vào công việc của cộng đồng quốc tế, cộng đồng khu vực. Những thành tựu của nhân dân Việt Nam ngày hôm qua và hôm nay cho phép Việt Nam tiếp tục nâng cao hình ảnh quốc tế của đất nước trên trường quốc tế, giữ một ví trí cao hơn trong con mắt nhân dân và bạn bè thế giới. Đây cũng là cách Việt Nam đóng góp vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, hợp tác và phát triển.

Trong khi mở rộng không gian ngoại giao của ta ra quy mô toàn cầu, Việt Nam cần chú trọng phát huy ảnh hưởng của ta ở khu vực Đông Nam Á và Châu Á – Thái Bình Dương. Nâng cao vị thế quốc tế của ta tại khu vực kế cận này sẽ phục vụ trực tiếp cho lợi ích an ninh và phát triển của ta, đồng thời phát huy được các thế mạnh của ta trên “sân nhà”. Những thành tựu đối ngoại của ta trong quan hệ với các nước láng giềng khu vực thời gian qua như đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN sẽ là nền tảng để ta chủ động phát huy ảnh hưởng hơn nữa trong thời gian tới.

- Bảo tồn và phát huy nền văn hóa, bản sắc dân tộc Việt Nam

Bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề liên quan đến phần hồn của dân tộc Việt Nam, cũng là một khách thể bị thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. Vấn đề bản sắc liên quan đến tư duy, nhận thức của lãnh đạo và nhân dân về cộng đồng dân tộc và cộng đồng quốc tế, chịu ảnh hưởng của các giá trị truyền thống dân tộc cũng như các giá trị hiện đại như tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản sắc văn hóa liên quan đến toàn bộ đời sống tinh thần của nhân dân Việt Nam, đặc trưng cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam bên cạnh các nền văn hóa, văn minh của thế giới.

Trong bối cảnh giao lưu văn hóa hiện nay, sự mai một, thậm chí suy thoái bản sắc dân tộc là nguy cơ thực sự đối với mọi nền văn hóa trên thế giới. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cần được coi là một mũi nhọn trong các hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong thập kỷ tới. Xuất phát từ quan điểm văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng Việt Nam, đã đến lúc nâng cao hàm lượng văn hóa trong các hoạt động ngoại giao, kể cả về mục tiêu và phong cách.

- Bảo đảm an ninh và phát triển cho người dân trong cộng đồng dân tộc Việt Nam

Quốc gia – dân tộc Việt Nam là một cộng đồng thống nhất, bao gồm các cá thể con người Việt Nam đoàn kết với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ độc lập chủ quyền, phát triển kinh tế dân tộc. Lợi ích của cộng đồng dân tộc cũng bao hàm lợi ích của mỗi cá thể con người, an ninh quốc gia cũng không thể tách rời an ninh con người. Các hoạt động đối ngoại xét cho cùng cũng là nhằm mang lại quyền lợi thiết thân cho người dân. Chính vì thế, bên cạnh

9

Page 10: Loi Ich Quoc Gia Nam Duong

những vấn đề quốc gia đại sự truyền thống, đối ngoại của Việt Nam cũng cần xác định những lợi ích cụ thể nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân, tạo điều kiện cho nhân dân Việt Nam cơ hội phát triển toàn diện. Điều này cũng phù hợp với bối cảnh các nhà lãnh đạo ASEAN đang tập trung xây dựng Cộng đồng ASEAN “hướng tới người dân”.

Ngày hôm nay, người dân Việt Nam đang đứng trước những nguy cơ đối với cuộc sống thường nhật của họ, từ vấn đề an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, đến những vấn đề khác như sức khỏe, giáo dục, môi trường… Vấn đề an ninh nguồn nước quốc gia nói chung và vấn đề sông Mekong, sông Hồng nói riêng sẽ trở thành một trong những mối quan ngại an ninh hàng đầu, có tính toàn diện, lâu dài của Việt Nam thời gian tới. Bên cạnh đó, hiện tượng biến đổi khí hậu cũng là một trong những mối đe dọa chính đối với các nguồn nước và sự phát triển bền vững nói chung. Mục tiêu đối ngoại chính của ta đối với vấn đề an ninh nguồn nước quốc gia thời gian tới là bảo đảm sự an toàn của các nguồn nước cả về khối lượng và chất lượng, đồng thời phối hợp với các nước bảo đảm phát triển bền vững các nguồn nước quốc tế, ứng phó và thích nghi có hiệu quả trước hiện tượng biến đổi khí hậu.

Ngoài ra, sự phát triển của thế hệ hôm nay không được ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của các thế hệ mai sau. Đây là lợi ích trong tương lai cần phải được tính đến do nó liên quan đến các vấn đề trước mắt như vay nợ nước ngoài, khai thác tài nguyên thiên nhiên, an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường... Nói cách khác, chúng ta cần phải mua “bảo hiểm” cho tương lai. Cần phải có tầm nhìn dài hạn trong các mục tiêu, lợi ích chiến lược, bởi vì chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 phải làm cơ sở cho đất nước cất cánh cao hơn, xa hơn.

*

* *

Xác định lợi ích quốc gia là bước đầu để thực hiện lợi ích quốc gia. Nội hàm lợi ích quốc gia đôi khi cũng bao gồm cả công cụ được lựa chọn để thực hiện mục tiêu chiến lược, đi đôi với định hướng áp dụng công cụ đó. Đối chiếu với cơ sở xác định lợi ích quốc gia và nội dung lợi ích quốc gia của Việt Nam như đã nói ở trên, có thể thấy ngoại giao phải được coi là công cụ đối ngoại quan trọng hàng đầu để thực hiện lợi ích quốc gia đến năm 2020.

Trên thực tế, ngoại giao đã được Đảng nâng lên thành biện pháp ưu tiên để xử lý các vấn đề an ninh, phát triển của đất nước từ đầu thời kỳ đổi mới tới nay, đã mang lại những kết quả đầy khích lệ. Cần tiếp tục nâng tầm, phát triển công cụ ngoại giao để xứng đáng với vai trò công cụ hữu hiệu nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh quốc gia và thực hiện các lợi ích đối ngoại

10

Page 11: Loi Ich Quoc Gia Nam Duong

phi truyền thống khác. Trong thời kỳ hiện nay, cần cải tiến công cụ ngoại giao cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đối ngoại mới, đặc biệt là đường lối ngoại giao toàn diện đang đuợc Đảng và Nhà nước ta triển khai thực hiện. Một trong những cách làm là tích hợp công cụ ngoại giao với các công cụ khác như kinh tế, an ninh, quốc phòng, văn hóa, truyền thông… Ngoại giao phải là mũi nhọn đưa đất nước hội nhập sâu, toàn diện vào khu vực và thế giới thì mới tạo được một cú huých đủ mạnh, đưa đất nước tới vạch cất cánh.

Bên cạnh đó, cần tạo nên sự đồng thuận, thống nhất về tư duy, nhận thức về lợi ích quốc gia của Việt Nam giữa các Bộ, ngành và các tầng lớp nhân dân. Trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thì việc tồn tại nhiều nhóm lợi ích đan xen trong đời sống chính trị - xã hội Việt Nam là điều tất yếu. Tuy nhiên, lợi ích quốc gia – dân tộc là tối thượng, là điều kiện tiên quyết để đảm bảo thực hiện các lợi ích khác trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Để đạt được sự đồng thuận về lợi ích quốc gia – dân tộc, cần thiết phải tăng cường đối thoại, chia sẻ thông tin giữa các Bộ, ngành và các tầng lớp nhân dân, xử lý hài hòa những xung đột lợi ích có thể nảy sinh trong quá trình xác định và thực hiện lợi ích quốc gia./.

------------------------

11