Upload
geminilovely1005
View
1.012
Download
5
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Citation preview
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
1.1. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng đối với hoạt động
ngân hàng
1.1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ La tinh là credo có nghĩa là tin tưởng, tín
nhiệm. Trên thực tế, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều cách khác nhau, ngay
cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có
một nội dung riêng.
Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng
được hiểu như sau: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa
bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân,
doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho
bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận. Bên đi vay có
trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh
toán.
1.1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng của các TCTD là “kênh tín dụng chủ yếu đáp ứng nhu
cầu vốn của nền kinh tế”. Thông qua việc cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, hoạt
động tín dụng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu
quả, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế nước ta, thể hiện thông qua tốc độ
tăng trưởng GDP khá cao trong các năm qua.
Qua thực tế hoạt động của các TCTD, trong đó chủ yếu là hoạt động của các
NHTM, chúng ta có thể nêu ra một số đặc điểm của hoạt động tín dụng như sau:
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các NHTM.
Nguồn thu từ tín dụng là nguồn thu lớn nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất của các
NHTM. Vì vậy, lợi nhuận tạo ra từ tín dụng cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi
nhuận ròng hàng năm của các NHTM.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
1
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Số người tham gia hoạt động tín dụng rất nhiều và có quan hệ phức tạp.
Ngoài chủ thể cấp tín dụng, chủ thể vay vốn, còn bao gồm các chủ thể khác như các
tổ chức, cá nhân công chứng, chứng thực trên hồ sơ vay vốn hoặc nếu có tranh chấp
xảy ra thì còn quan hệ đến cơ quan pháp luật điều tra, xét cử, thi hành án.
Hoạt động tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro, có thể do nhiều nguyên nhân,
nhưng cuối cùng đều gây ra một hậu quả, đó là khách hàng không trả được nợ như
đã cam kết trong hợp đồng. Rủi ro tín dụng là tạo ra nguy cơ đe dọa an toàn của các
TCTD và khi hệ thống TCTD mất an toàn thì sự mất an toàn của nền kinh tế là điều
khó tránh khỏi.
Nền kinh tế nước ta đang hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế quốc tế,
với mức độ ngày càng sâu rộng khi hiện nay Việt Nam đã là thành viên chính thức
của tổ chức Thương mại Thế Giới WTO. Trên lĩnh vực tài chính ngân hàng sẽ có
nhiều TCTD hơn, cả trong nước cũng như nước ngoài mở chi nhánh, mở ngân hàng
tại Việt Nam ( Nghị định số 22/2006 của Chính Phủ ban hành ngày 28/2/2006, quy
định rõ về tổ chức, hoạt động của các TCTD nước ngoài hoạt động tại Việt Nam).
Với các sự kiện trên, chắc chắn rằng các sản phẩm tín dụng, các hoạt động cấp tín
dụng cũng như các bên tham gia vào hoạt động tín dụng sẽ ngày càng phong phú,
đa dạng hơn.
1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng rất phong phú và đa dạng bởi vì ngân hàng cung cấp rất
nhiều sản phẩm tín dụng cho nhiều loại khách hàng với các mục đích sử dụng khác
nhau. Do đó, cũng có rất nhiều cách phân loại tín dụng ngân hàng, mỗi cách phân
loại dựa vào một tiêu chí khác nhau. Thông thường, người ta thường căn cứ vào một
số tiêu chí sau :
► Căn cứ vào thời hạn cho vay
-Cho vay ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn đến 1 năm
-Cho vay trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm
-Cho vay dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm
► Căn cứ vào bảo đảm tín dụng
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
2
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
-Tín dụng không có bảo đảm: là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp
hay bảo lãnh của người thứ ba.
-Tín dụng có bảo đảm: là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay có bảo
lãnh của người thứ ba.
► Căn cứ mục đích tín dụng
Tín dụng bất động sản: Đây là các khoản tín dụng tài trợ cho các hoạt
động về bất động sản, bao gồm:
+ Tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai
+ Tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ, cơ sở dịch vụ, trang
trại và bất động sản ở nước ngoài.
Tín dụng công thương nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các
doanh nghiệp để trang trải các chi phí như mua hàng hoá, nguyên vật liệu, trả thuế
và chi trả lương.
Tín dụng nông nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt dộng
nông nghiệp, nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn
nuôi gia súc.
Tín dụng cá nhân: Đây là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để mua
sắm hàng hoá tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, nhà cửa, trang thiết bị trong nhà...
Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản tín dụng cấp cho
các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
Cho thuê tài chính: là việc ngân hàng mua các trang thiết bị, máy móc và
cho các công ty, doanh nghiệp có nhu cầu thuê lại chúng.
Tín dụng khác: Bao gồm các khoản tín dụng khác chưa được phân loại ở
trên (Ví dụ như tín dụng tài trợ kinh doanh chứng khoán).
1.1.3. Các yếu tố cấu thành của một chính sách tín dụng hiệu quả
Một trong những biện pháp quan trọng để các khoản tín dụng của ngân hàng
đáp ứng được các tiêu chuẩn pháp lý, bảo đảm an toàn chính là việc hình thành
“chính sách tín dụng an toàn và hiệu quả”. Chính sách tín dụng cung cấp cho CBTD
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
3
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
và nhà quản lý một khung dẫn chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định hướng
danh mục đầu tư tín dụng của ngân hàng. Thông qua kết cấu danh mục tín dụng của
một ngân hàng, người ta có thể biết được chính sách tín dụng của ngân hàng này là
như thế nào. Nếu một chính sách tín dụng hoạt động không hiệu quả thì phải tiến
hành kiểm tra hoặc tăng cường quản lý bởi ban lãnh đạo ngân hàng.
Để đạt được hiệu quả, chính sách tín dụng của ngân hàng phải được cấu
thành từ các yếu tố sau:
Mục đích của danh mục tín dụng ngân hàng (bao gồm các đặc điểm của
một danh mục tín dụng tốt xét theo các tiêu chí như: các loại tín dụng, những kỳ hạn
tín dụng, các độ lớn tín dụng, và chất lượng tín dụng)
Phân hạng thẩm quyền cho vay đối với từng CBTD và từng hội đồng tín
dụng (quy định mức cho vay tối đa, các loại tín dụng được phép, chữ ký của người
có trách nhiệm).
Phân cấp chịu trách nhiệm trong công việc và báo cáo thông tin trong nội
bộ phòng tín dụng.
Quy trình tiếp nhận, kiểm tra, đánh giá và ra quyết định đối với đơn xin
vay của khách hàng.
Hồ sơ bắt buộc đối với từng đơn xin vay, và những gì phải được lưu giữ
tại ngân hàng (ví dụ như hợp đồng bảo đảm tín dụng, Báo cáo tài chính, Hồ sơ pháp
lý...).
Phân cấp chịu trách nhiệm trong nội bộ ngân hàng, cụ thể ai là người
chịu trách nhiệm duy trì và kiểm tra hồ sơ tín dụng.
Các chỉ dẫn nhận, định giá, hoàn tất hồ sơ bảo đảm tín dụng.
Quy định chính sách và quy trình ấn định mức lãi suất tín dụng, mức phí
và các điều kiện hoàn trả nợ vay.
Quy định những tiêu chuẩn chất lượng áp dụng chung cho tất cả các loại
tín dụng.
Quy định giới hạn tín dụng tối đa, nghĩa là quy định Tổng dư nợ/Tổng tài
sản được pháp tối đa.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
4
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Quy định lĩnh vực hoạt động chính của ngân hàng, từ đó, hướng tín dụng
vào lĩnh vực này.
Quy định các bước cần thiết để tìm kiếm, phân tích, phát hiện và xử lý
các khoản tín dụng có vấn đề.
Tuỳ theo đặc điểm và mục tiêu hoạt động của từng ngân hàng mà nhà quản
lý có thể bổ sung thêm những quy định cho phù hợp.
Chính sách tín dụng ngân hàng mang lại nhiều ưu điểm trong quá trình cho
vay. Đối với CBTD, họ biết được cần phải làm các bước như thế nào khi tiến hành
một khoản cho vay và biết được trách nhiệm của mình đến đâu. Đối với ngân hàng,
thông qua chính sách tín dụng, ngân hàng có thể đạt được một danh mục tín dụng đa
mục đích, như làm tăng khả năng sinh lời, kiểm soát được tìm ẩn rủi ro và đáp ứng
được các đòi hỏi từ phía nhà quản lý. Bất kỳ một sự ngoại lệ nào trong chính sách
tín dụng cũng phải quy định đầy đủ và phải nêu rõ lý do vì sao lại có sự ngoại lệ đó.
1.2. NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Quan điểm về nợ xấu
Nói đến nợ xấu, chúng ta thường nghĩ ngay đến các khoản nợ không có khả
năng thu hồi. Tuy nhiên, khả năng thu hồi được hiểu như thế nào cũng không phải
là đơn giản. Cách hiểu về nợ xấu của quốc tế và của Việt Nam là như thế nào, giống
và khác nhau ra sao. Điều đó sẽ được trình bày ngay sau đây.
Theo quốc tế
Theo một số tiêu chí của NHTW Liên minh Châu Âu thì nợ xấu trong hoạt
động của NHTM không chỉ có những khoản vay quá hạn thông thường không có
khả năng thu hồi hoặc khó thu hồi theo hợp đồng mà còn có các khoản nợ chưa quá
hạn nhưng tiềm ẩn các rủi ro dẫn đến việc có thể không thanh toán đầy đủ cho ngân
hàng. Quan điểm trên không chỉ dựa vào thời hạn cho vay ghi trên hợp đồng mà còn
dựa vào các dự đoán của ngân hàng về tình trạng tài chính của khách hàng trong
tương lai để phân loại nợ xấu.
Còn theo quan điểm nợ xấu của Phòng Thống kê - Liên hợp quốc, “về cơ
bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày;
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
5
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc
chậm trả theo thoả thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày
nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán
đầy đủ”.
Như vậy, nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa trên 2 yếu tố: (I) quá hạn
trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của
Chuẩn mực kiểm toán quốc tế - IAS đang được áp dụng phổ biến hiện hành trên thế
giới.
Một quan điểm mới về nợ xấu theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế
(IFRS) và IAS 39 vừa được Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán quốc tế cho ra đời và được
khuyến cáo áp dụng ở một số nước phát triển vào đầu năm 2005. Về cơ bản IAS 39
chỉ chú trọng đến khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận thời gian quá hạn chưa
tới 90 ngày hoặc chưa quá hạn. Phương pháp để đánh giá khả năng trả nợ của khách
hàng thường là phương pháp phân tích dòng tiền tương lai hoặc xếp hạng khoản vay
(xếp hạng khách hàng). Hệ thống này được coi là chính xác về mặt lý thuyết, nhưng
việc áp dụng thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, nó đang được Uỷ ban Chuẩn mực
Kế toán quốc tế chỉnh sửa lại.
Theo Việt Nam
Ngày 22/4/2005, NHNN đã có quyết định số 493/QĐ-NHNN ban hành quy
định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động ngân hàng của TCTD. Đến ngày 25/4/2007, NHNN lại đưa ra quyết định
18/2007/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 493. Theo
đó, các TCTD có thể phân loại nợ dựa vào điều 6 Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN
hoặc điều 7 Quyết định 493/QĐ-NHNN. Đó là hai phương pháp phân loại nợ khác
nhau, một phương pháp định lượng và một phương pháp định tính.
Theo phương pháp định lượng, tức theo điều 6 quyết định 18, nợ tại các
TCTD được phân thành 5 nhóm như sau:
+ Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là
có khả năng thu hồi gốc và lãi đúng hạn, các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày được
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
6
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
đánh giá là có khả năng thu hồi cả gốc và lãi quá hạn và thu hồi gốc và lãi đúng thời
hạn còn lại
+ Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90
ngày và các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu.
+ Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 91 đến
180 ngày , các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu (trừ các khoản nợ đã
được phân vào nhóm 2), các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng
không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
+ Nhóm 4: Nợ cần chú ý, bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến
360 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn cơ
cấu lại, các khoản nợ cơ cấu lại lần 2.
+ Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360
ngày, các khoản nợ cơ cấu lại lần đầu quá hạn trên 90 ngày, các khoản nợ cơ cấu lần
2 quá hạn (theo thời hạn đã cơ cấu mới nhất), các khoản nợ cơ cấu lần 3, các khoản
nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
So với Quyết định 493, Quyết định 18 đã có sự tiến bộ hơn trong việc đánh
giá các khoản nợ. Nếu điều 6 quyết định 493 chỉ phân loại các khoản nợ chủ yếu
dựa vào thời hạn trả nợ thì với việc ban hành quyết định số 18, cách phân loại nợ đã
có sự khác biệt, khi không chỉ căn cứ vào thời hạn quá hạn của các khoản vay mà
còn dựa các các tiêu chí khác, cụ thể là nếu các khoản nợ của TCTD đã được phân
loại nhưng nếu xảy ra các các trường hợp làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của
khách hàng thì TCTD phải chủ động xếp các khoản nợ ấy vào nhóm nợ có rủi ro
cao hơn. Các trường hợp đó có thể là:
Những diễn biến bất lợi tác động tiêu cực đến môi trường, lĩnh vực kinh
doanh của khách hàng;
Các khoản nợ của khách hàng bị các TCTD khác phân loại vào nhóm nợ
có mức độ rủi ro cao hơn (nếu có thông tin);
Các chỉ tiêu tài chính của khách hàng (về khả năng sinh lời, khả năng
thanh toán, tỷ lệ nợ trên vốn và dòng tiền) hoặc khả năng trả nợ của khách hàng bị
suy giảm liên tục hoặc có biến động lớn theo chiều hướng suy giảm;
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
7
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Khách hàng không cung cấp đầy đủ, kịp thời và trung thực các thông tin
tài chính theo yêu cầu của TCTD để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng;
Theo phương pháp định tính, tức là theo theo điều 7 Quyết định 493, nợ tại
các TCTD cũng được phân thành 5 nhóm tương ứng như phương pháp định lượng,
nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ, mà căn cứ
vào hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro được NHNN
chấp thuận. Các nhóm nợ bao gồm:
+ Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là
có khả năng thu hồi cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
+ Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là có
khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả
năng trả nợ.
+ Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá
là không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn, có khả năng tổn thất một phần
nợ gốc và lãi.
+ Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là khả
năng tổn thất cao.
+ Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm các khoản nợ được TCTD
đánh giá là không có khả năng thu hồi vốn, mất vốn.
Trong đó, nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5. Như vậy nợ xấu được
xác định theo 2 yếu tố: (i) đã quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ đáng lo
ngại. Đây được coi là định nghĩa của VAS.
Như vậy theo định nghĩa về nợ xấu, Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và
Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN về việc sửa đổi Quyết định 493 của NHNN được
coi là sát với thông lệ quốc tế, tuy nhiên việc áp dụng trên thực tế còn nhiều vấn đề
có ảnh hưởng nhất định đến thực trạng nợ xấu của các NHTM.
Cho đến nay hầu hết các NHTM Việt Nam chỉ mới hạch toán nợ xấu theo
thời gian quá hạn (yếu tố 1); việc xác định khả năng trả nợ của khách hàng (yếu tố
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
8
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
2) đang gặp nhiều khó khăn. Phần lớn NHTM chưa hoặc đang thí điểm áp dụng
phương pháp này.
1.2.2. Nợ xấu đối với hoạt động của NHTM
1.2.2.1. Những dấu hiệu của những khoản nợ xấu
Mặc dù đã có những biện pháp quản lý an toán áp dụng trong các chương
trình cho vay, song việc tồn tại các khoản cho vay có vấn đề là một thực tế không
thể tránh khỏi. Thông thường thì điều này có nghĩa rằng người vay không hoàn trả
đúng khoản vay như kế hoạch, một lần hay nhiều lần. Mỗi khoản vay có vấn đề đều
mang những nét đặc thù nhưng dù sao chúng đều mang những nét đặc thù nhưng dù
sao chúng đều có những nét chung góp phần cảnh báo cho ngân hàng về những vấn
đề không bình thường đã bắt đầu nảy sinh như:
Sự trì hoãn bất thường hay không có lồi giải thích của người vay trong
việc nộp các báo cáo tài chính và các khoản thanh toán theo kế hoạch cũng như trì
hoãn trong giao tiếp với nhân viên ngân hàng.
Đối với những món cho vay kinh doanh là những thay đổi bất thường
xuất hiện trong các phương pháp mà người vay sử dụng để tính khấu hao tài sản cố
định, trả tiền trợ cấp, tính trị giá hàng tồn kho, tính thuế hay thu nhập.
Đối với những món cho vay kinh doanh, việc cấu trúc lại số dư nợ,
không chia lợi tức cổ phần, hay sự thay đổi trong mức phân hạng tín dụng của
khách hàng là điều đáng chú ý.
Những thay đổi bất lợi về giá cổ phiếu của khách hàng vay vốn.
Khách hàng hoạt động thua lỗ trong một hoặc nhiều năm, đặc biệt thể
hiện thông qua các chỉ số trên tài sản của người vay (ROA), lãi trên vốn chủ sở hữu
(ROE) hay lợi nhuận sau thuế (EBIT).
Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn của người vay (tỷ lệ nợ trên vốn
chủ sở hữu), khả năng thanh toán (hệ số khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh
toán hiện thời), hay mức độ hoạt động (ví dụ tỷ lệ giữa doanh thu và hàng tồn kho).
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
9
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Độ lệch giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi
khách hàng xin vay.
Những thay đổi bất thường, ngoài dự kiến và không được giải thích trong
số dự kiến tiền gửi của khách hàng.
1.2.2.2. Nguyên nhân của những khoản nợ xấu
Như đã đề cập ở trên, tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh chủ
yếu của các NHTM. Dù rằng quá trình xét duyệt cho vay của các CBTD rất cẩn
thận, vẫn không hoàn toàn tránh được rủi ro tín dụng. Rủi ro vẫn có thể phát sinh,
làm xuất hiện những khoản nợ xấu trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
Những nguyên nhân gây ra những khoản nợ xấu không phải hoàn toàn là các
nguyên nhân khách quan mà cũng bao gồm cả các nguyên nhân chủ quan.
1.2.2.2.1. Nguyên nhân chủ quan
Về phía các NHTM
Thứ nhất, do nhận thức chưa đầy đủ, thực hiện chưa nghiêm túc các quy
định hiện hành, trình độ yếu kém của cán bộ nhân viên ngân hàng, đặc biệt là
CBTD.
Nếu nhận thức đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về hoạt
động tín dụng, nhất là việc thẩm định chặt chẽ khả năng tài chính, hiệu quả của
phương án sản xuất kinh doanh, các điều kiện về bảo đảm tiền vay của khách hàng
rồi mới ra quyết định cho vay thì khả năng thu hồi vốn là rất lớn. Ngược lại, nếu dễ
dãi, buông lỏng quản lý hoặc thẩm tra chưa đến nơi đến chốn đã quyết định đầu tư
thì mức độ rủi ro sẽ gia tăng, có khi còn không thu hồi được vốn.
Thứ hai, do sa sút về phẩm chất, đạo đức, thiếu tinh thần trách nhiệm của
các CBTD cũng như cán bộ công nhân viên trong ngân hàng.
Rủi ro trong cho vay là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên không phải vì thế
mà CBTD có thể lãnh đạm, thờ ơ, thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc thẩm định,
ra quyết định cho vay một cách tuỳ tiện. Nếu CBTD nêu cao phẩm chất đạo đức,
tinh thần trách nhiệm sẽ góp phần quan trọng trong hạn chế rủi ro, giảm bớt nguy cơ
xuất hiện các khoản nợ xấu trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Nếu cán bộ sa
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
10
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
sút về phẩm chất, đạo đức, thiếu trách nhiệm, tiêu cực thì tai họa cho các TCTD là
điều không thể tránh khỏi.
Thứ ba, chính sách cho vay không hợp lý cũng là nguyên nhân gây ra các
khoản nợ quá hạn, nợ xấu của các NHTM. Nếu như ở trên là nguyên nhân từ phía
CBTD - những người trực tiếp thực hiện công việc cho vay, thì ở đây chúng ta lại
đề cập đến vai trò, trách nhiệm của những người làm công tác lãnh đạo. Hoạch định
chính sách tín dụng là một công việc rất quan trọng, nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng của các NHTM. Nếu năng lực của các nhà quản trị yếu kém, không đưa ra
được một chính sách tín dụng thích hợp để quản lý hoạt động tín dụng thì rủi ro tín
dụng là rất cao, và dĩ nhiên khả năng gây ra nợ xấu là điều khó tránh khỏi. Một yếu
tố trong chính sách tín dụng có thể dẫn đến rủi ro tín dụng đó là việc quy định trách
nhiệm của CBTD có gắn kiền với việc ra quyết định tín dụng hay không? Nếu như
người ra quyết định tín dụng không chịu trách nhiệm về quyết định của mình thì các
khoản nợ xấu sẽ ngày càng gia tăng, bởi vì quyết định cho vay không chịu bất cứ sự
ràng buộc nào, do đó, CBTD sẽ không cần quan tâm nhiều đến công tác thẩm định,
phân tích tín dụng, cho vay một cách hời hợt, trong khi không hiểu rõ về khách
hàng vay vốn và phương án sản xuất kinh doanh của họ. Đây chỉ là một ví dụ minh
họa về sự yếu kém trong chính sách tín dụng của các NHTM mà chính nó có thể là
nguyên nhân gây ra các khoản nợ xấu.
Về phía khách hàng vay vốn
Thú nhất, do trình độ quản lý yếu kém, quản trị sản xuất kinh doanh không
hiệu quả, sử dụng vốn vay không có tác dụng thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp dẫn đến doanh nghiệp vay vốn làm ăn kém hiệu quả, nợ
phải trả tăng cao, trong đó có nợ vay ngân hàng.
Thứ hai, do khách hàng vay vốn cố ý không cung cấp các thông tin trung
thực về tình hình tài chính của mình cho các ngân hàng. Đây chính là rủi ro tín dụng
do thông tin bất cân xứng. Một bên là ngân hàng cố gắng tìm hiểu về khách hàng,
còn một bên là khách hàng cố ý che dấu mọi thông tin về mình. Lẽ dĩ nhiên là
khách hàng sẽ hiểu rõ bản thân mình hơn ai hết. Do đó, khi đã cố tình che dấu thông
tin thì các ngân hàng cho dù tìm bằng nhiều cách đi chăng nữa thì cũng khó có thể
tìm ra. Khi các ngân hàng quyết định cho vay dựa trên các thông tin không chính
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
11
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
xác mà khách hàng cung cấp cho mình thì rủi ro tín dụng chắc chắn sẽ xuất hiện,
gây ra các khoản nợ xấu cho ngân hàng.
Thứ ba, bản thân doanh nghiệp thiếu ý thức trong vấn đề trả nợ, không lo
lắng, không quan tâm đến nợ ngân hàng mặc dù khả năng tài chính của doanh
nghiệp đang có.
1.2.2.2.2. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do sự biến động bất thường không thể dự đoán trước được của
các yếu tố thị trường như biến động của giá vàng thế giới, giá dầu mỏ, giá một số
ngoại tệ hay giá một số vật tư có xu hướng tăng cao làm ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng đến tình hình tài chính, khả
năng thanh toán, ảnh hưởng đến chất lượng khoản vay của ngân hàng, có thể biến
các khoản nợ đó thành nợ quá hạn, thậm chí nợ xấu trong bảng cân đối kế toán của
các NHTM.
Thứ hai, do doanh nghiệp vay vốn gặp những rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của mình như: thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, khủng bố,… do vậy việc sử
dụng vốn vay và vốn của doanh nghiệp không hiệu quả, mất hoàn toàn về vốn của
cả doanh nghiệp và cả vốn vay của NHTM.
Thứ ba, thông tin đầu vào trong quá trình phân tích tín dụng, hỗ trợ ra quyết
định tín dụng còn thiếu. Thiếu thông tin là nguyên nhân dẫn đến những sai lầm
trong việc phân tích, dẫn đến việc ra quyết định không sáng suốt, gây ra các khoản
nợ xấu. Nhất là đối với Việt Nam, trong điều kiện đang chuyển sang nền kinh tế thị
trường, với sự thông thoáng của Luật doanh nghiệp, các doanh nghiệp tư nhân đã có
sự phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây và đã đóng góp tích cực cho sự
phát triển kinh tế. Do nhận thấy được cơ hội kinh doanh đối với các doanh nghiệp
tư nhân nên các ngân hàng đã chọn đối tượng này làm thị trường mục tiêu của mình.
Tuy nhiên, do các doanh nghiệp tư nhân được thành lập không lâu, lại chủ yếu là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có danh tiếng trên thị trường, các hiệp hội
ngành nghề cũng chưa phát huy vai trò của mình trong việc hỗ trợ các thành viên,
nhất là việc giới thiệu các thành viên cho thị trường. Điều này làm cho việc thu thập
thông tin để đánh giá khu vực kinh tế này của các ngân hàng gặp khó khăn. Thêm
vào đó là thiếu sự hỗ trợ từ phía quản lý nhà nước, đặc biệt là việc xếp loại doanh
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
12
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
nghiệp trên thị trường đã gây ra nhiều khó khăn cho công tác thẩm định của ngân
hàng. Chính sự thiếu thông tin đó đã là làm cho công tác thẩm định tín dụng không
đạt hiệu quả, là nguyên nhân gây ra các khoản nợ xấu cho các NHTM.
1.2.2.3. Ảnh hưởng của nợ xấu đến hoạt động của NHTM và nền kinh tế
Trước hết, nợ xấu ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và an toàn hoạt động
kinh doanh của các NHTM, làm chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn, làm
giảm vòng quay vốn, giảm hiệu quả sử dụng vốn, làm tăng chi phí, dẫn đến giảm lợi
nhuận. Khi những khoản nợ xấu tăng lên, các khoản lỗ cũng tăng lên tương ứng, tác
động tiêu cực đến nguồn vốn thực của ngân hàng. Nợ xấu làm nguồn lực tài chính
bị bào mòn, ngân hàng không còn đủ khả năng cho vay, hạn chế sự mở rộng và tăng
trưởng tín dụng, hạn chế khả năng cạnh tranh và kinh doanh của ngân hàng.
Đồng thời, hoạt động tín dụng có một vai trò to lớn trong sự phát triển nền
kinh tế của đất nước. Nếu không có hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp sẽ không
đủ năng lực tài chính, không thể mở rộng hoạt độnG sản xuất kinh doanh, không tạo
thêm giá trị gia tăng. Điều đó dĩ nhiên gây ra những hậu quả nhất định, ảnh hưởng
đến tốc độ tăng trưởng GDP, kiềm hãm sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Nói khái quát, nợ xấu sẽ có những tác động tiêu cực đến sự tăng trưởng và
phát triển của hoạt động ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
1.3.CÁC NGUYÊN TẮC QUỐC TẾ VỀ QUẢN LÝ NỢ XẤU
Để tình trạng nợ xấu được giải quyết một cách căn bản, các ngân hàng cần
tham khảo các nguyên tắc quốc tế về việc quản lý nợ xấu để có những hướng đi phù
hợp Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản về quản lý nợ xấu của Uỷ ban Basel (1)
1.3.1. Nguyên tắc về phòng ngừa nợ xấu
1.3.1.1. Nguyên tắc nhằm xây dựng môi trường tín dụng phù hợp
Nguyên tắc 1: Hội đồng quản trị có trách nhiệm phê duyệt và định kỳ, ít
nhất hàng năm xem xét chiến lược về rủi ro tín dụng và các chính sách về rủi ro tín
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
13
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
dụng của ngân hàng. Chiến lược hoạt động ngân hàng phản ánh mức độ chấp nhận
rủi ro của ngân hàng với mức sinh lời nhất định mà ngân hàng kỳ vọng.
HĐQT có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giám sát các chức năng tín dụng và
quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng. Mỗi ngân hàng cần phát triển 1 chiến lược(1): Uỷ ban Basel về giám sát nghiệp vụ ngân hàng là một Uỷ ban bao gồm các chuyên gia giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập bởi một số Thống đốc
Ngân hàng Trung ương vào năm 1975. Uỷ ban này bao gồm đại diện cao cấp của các cơ quan giám sát nghiệp vụ ngân hàng tại 10 quốc gia trên thế giới, bao gồm
Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, Italia, Hà Lan, Canada, Thụy Điển và Bỉ.
hay kế hoạch rủi ro tín dụng (chấp nhận 1 tỷ lệ nợ xấu nào đó), trong đó
xây dựng các mục tiêu hướng dẫn cho các hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng và
thực hiện các chính sách thủ tục cần thiết để tiến hành các hoạt dộng này. Chiến
lược chấp nhận 1 tỷ lệ nợ xấu cần được cân nhắc và định lỳ xem xét lại (ít nhất là
hàng năm). HĐQT cần đảm bảo rằng các chiến lược và chính sách bao quát toàn bộ
các hoạt động của ngân hàng, trong đó có khả năng phát sinh nợ xấu. Cụ thể, chiến
lược cần thể hiện tuyên bố của ngân hàng trong việc cấp tín dụng dựa trên loại hình
rủi ro tiềm năng, ngành kinh tế, vị trí địa lý, đồng tiền, kỳ hạn, mức sinh lời dự kiến.
Chiến lược này cũng có thể xác định thị trường mục tiêu và các đặc tính tổng quát
mà ngân hàng mong muốn đạt được trong danh mục tin dụng (bao gồm mức độ đa
dạng hoá và mức độ chấp nhận rủi ro tập trung).
Nguyên tắc 2: Ban Tổng Giám Đốc (Giám Đốc) có chiến lược chấp nhận
một tỷ lệ nợ xấu được HĐQT phê duyệt, phát triển các chính sách, thủ tục nhằm
phát hiện, đo lường, theo dõi, kiểm soát nợ xấu. các chính sách và thủ tục này cần
nhằm vào rủi ro nợ xấu phát sinh trong mọi hoạt động của ngân hàng, ở cấp độ từng
khoản tín dụng cũng như toàn bộ danh mục đầu tư.
Với nguyên tắc này, các thủ tục, quy trình văn bản được xây dựng, triển khai
và có trách nhiệm phê duyệt và xem xét khoản cho vay được phân định rõ ràng và
phù hợp. Yếu tố chính để hoạt động ngân hàng lành mạnh và an toàn là xây dựng và
thực hiện tốt các chính sách và quy trình bằng văn bản liên quan tới việc xác định,
theo dõi, kiểm soát, đo lường rủi ro tín dụng. Các chính sách và quy trình được xây
dựng và thực hiện tốt sẽ giúp cho ngân hàng: Duy trì các tiêu chí cấp tín dụng lành
mạnh, theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng; đánh giá đúng các cơ hội kinh doanh
mới; xác định và quản lý các khoản tín dụng có vấn đề.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
14
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Các ngân hàng xây dựng và thực hiện chính sách và quy trình để danh mục
đầu tư tín dụng đủ đa dạng dựa trên thị trường mục tiêu và chiến lược tín dụng tổng
thể của ngân hàng. Đặc biệt, các chính sách này bao gồm các mục tiêu cho cơ cấu
danh mục đầu tư cũng như xây dựng mức độ rủi ro đối với từng bên vay và các bên
vay có liên quan, đặc biệt, các ngành hay các khu vực kinh tế, khu vực địa lý và các
sản phẩm cụ thể. Các ngân hàng cần đảm bảo rằng, các giới hạn rủi ro nội bộ của
họ phù hợp với các giới hạn thận trọng do cơ quan giám sát ngân hàng quy định.
Các chính sách tín dụng cần được phổ biến trong toàn bộ tổ chức, thực hiện thông
qua các quy trình thích hợp, theo dõi định kỳ và sửa đổi để phù hợp với các điều
kiện bên trong cũng như bên ngoài của các TCTD, có như vậy mới đạt hiệu quả tốt
được. Nếu có thể, chúng cần được áp dụng trên toàn hệ thống hoặc ở mức toàn chi
nhánh. Ngoài ra, các chính sách còn đảm bảo được sự đa dạng phù hợp của danh
mục đầu tư.
Nguyên tắc 3: các ngân hàng cần xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong
mọi sản phẩm của mình. Đối với các sản phẩm mới, các ngân hàng cũng cần định
lượng được rủi ro, đưa ra được các chính sách phát triển sản phẩm và phòng ngừa
rủi ro phù hợp và phải được HĐQT phê duyệt trước khi đưa vào sử dụng . Cơ sở của
quá trình quản lý rủi ro tín dụng có hiệu quả là việc xác định và phân tích các rủi ro
hiện hữu và tiềm tàng trong bất kỳ hoạt động hay sản phẩm nào của ngân hàng. Các
ngân hàng cần hiểu rõ rủi ro tín dụng trong một số sản phẩm ngân hàng phức tạp để
có thể quản lý nó một cách tốt nhất, tuy nhiên nó cũng có nền tảng từ các nguyên
tắc cơ bản của quản lý rủi ro tín dụng.
1.3.1.2. Nguyên tắc nhằm thực hiện quá trinh cấp tín dụng lành mạnh
Nguyên tắc 4: Các ngân hàng phải hoạt động trong phạm vi các tiêu chí cấp
tín dụng lành mạnh được xác định rõ ràng. Những tiêu chí này cần chỉ rõ thị trường
mục tiêu của ngân hàng, đồng thời ngân hàng phải hiểu rõ khách hàng vay vốn cũng
như mục đích và cơ cấu của khoản tín dụng.
Việc xây dựng các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh là căn cứ quan trọng để
phê duyệt tín dụng. Các tiêu chí cần chỉ rõ đối tượng khách hàng đủ tiêu chuẩn cấp
tín dụng, các điều khoản và điều kiện cấp tín dụng. Tuỳ theo loại hình rủi ro tín
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
15
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
dụng và mối quan hệ tín dụng hiện tại, các yếu tố cần được cân nhắc đưa vào quá
tình phê duyệt bao gồm:
- Mục đích của khoản tín dụng và nguồn, kế hoạch hoàn trả; hồ sơ hiện hành
của rủi ro (bao gồm bản chất và tổng giá trị rủi ro) của đối tác hay bên di vay và tài
sản thế chấp cũng như mức độ nhạy cảm đối với các diễn biến của nên kinh tế và thị
trường; lịch sử hoàn trả của bên đi vay và khả năng hoàn trả hiện hành theo các kịch
bản khác nhau; đối với các khoản tín dụng thương mại, cần xem xét năng lực kinh
doanh, thực trạng nền kinh tế cũng như vị thế khách hàng trong ngành này, các điều
khoản và điều kiện dự kiến của các khoản tín dụng, bao gồm các giao kèo nhằm hạn
chế những thay đổi trong hồ sơ rủi ro trong tương lai của khách hàng; mức độ pháp
lý của tài sản thế chấp hay bảo lãnh...
- Các ngân hàng có thể dùng tài sản bảo đảm, bảo lãnh để loại trừ hay hạn
chế các rủi ro trong quan hệ tín dụng với khách hàng, tuy nhiên, việc quyết định cho
vay hay không thì phụ thuộc vào khả năng trả nợ của bên vay, tính hiệu quả của
phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư. Tài sản thế chấp không thể là căn cứ
duy nhất để ra quyết định cho vay và cũng không thể dựa vào nó để đánh giá khách
hàng, không thể dùng nó để bù đắp thông tin còn thiếu hụt từ phía khách hàng.
Nguyên tắc 5: Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại
khách hàng vay vốn và nhóm khách hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro khác
nhau nhưng vẫn có thể theo dõi được trên sổ sách kế toán kinh doanh, nội bảng và
ngoại bảng.
Một yếu tố quan trọng trong quản lý rủi ro tín dụng là xây dựng các mức giới
hạn rủi ro đối với khách hàng. Các giới hạn này thường dựa 1 phần vào xếp hạng tín
nhiệm đối với khách hàng. Cũng cần xây dựng các giới hạn cụ thể đối với từng
ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, lĩnh vực kinh tế, vùng địa lý và các sản phẩm cụ
thể.
Nguyên tắc 6: Ngân hàng cần có quy trình rõ ràng trong việc phê duyệt các
khoản tín dụng mới cũng như sửa đổi, gia hạn, tái cơ cấu, tái tài trợ cho các khoản
tín dụng hiện tại.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
16
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Trong hoạt động cấp tín dụng, có thể có nhiều cán bộ ngân hàng thuộc các
bộ phận khác nhau trong ngân hàng tham gia, ví dụ những người từ bộ phận tiếp thị,
bộ phận phân tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng. Ngoài ra, cùng một đối
tác có thể tiếp cận một số lĩnh vực khác nhau của ngân hàng với nhiều hình thức tín
dụng khác nhau. Ngân hàng có thể chọn nhiều cách gắn trách nhiệm của cán bộ vào
trách nhiệm được giao trong việc ra quyết định tín dụng đúng đắn. Để có được danh
mục đầu tư tín dụng lành mạnh, ngân hàng phải xây dựng quy trình đánh giá và phê
duyệt, trong đó việc phê duyệt cần phân cấp một cách thích hợp tùy theo hạn mức
tín dụng.
Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng cần được thực hiên trên cơ sở giao dịch
công bằng giữa các bên. Đặc biệt các khoản tín dụng cho các công ty và các cá nhân
có liên quan được phê duyệt trên cơ sở ngoại lệ phải được theo dõi cẩn thận và triển
khai các bước cần thiết để loại trừ rủi ro.
Với nguyên tắc này, việc gia hạn tín dụng cần được thực hiện theo các tiêu
chí, trình tự cụ thể và rõ ràng, tạo hệ thống hồ sơ và chứng từ làm cơ sở cho việc ra
quyết định tín dụng một cách đúng đắn. Việc cấp tín dụng cho khách hàng, trong đó
có các khách hàng ưu tiên, cho dù là cá nhân hay tổ chức, rủi ro đạo đức đều có thể
phát sinh trong quá trình cấp tín dụng. Do đó, ngân hàng cần tạo cơ hội tiếp cận như
nhau đối với các đối tượng khách hàng, tiêu chí ưu tiên cần được công khai, các
khách hàng đặc biệt cần được kiểm soát một cách chặt chẽ, nghiêm ngặt.
1.3.2. Các nguyên tắc nhằm duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo
dõi tín dụng phù hợp
Nguyên tắc 8: Các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối
với các danh mục đầu tư có rủi ro tín dụng. Việc quản lý tín dụng là một yếu tố
quan trọng nhằm duy trì sự an toàn và lành mạnh của ngân hàng. Khi đã cấp tín
dụng, trách nhiệm của bộ phận kinh doanh kết hợp với đội ngũ quản lý hỗ trợ tín
dụng là phải đảm bảo cho khoản tín dụng được duy trì. Việc này gồm cập nhật hồ
sơ tín dụng, thu thập thông tin tài chính từ phía khách hàng tại thời điểm hiện hành,
gửi đi các thông báo về gia hạn và soạn thảo hợp đồng vay. Với phạm vi trách
nhiệm của công tác quản lý tín dụng, cơ cấu tổ chức của bộ phận này thay đổi tuỳ
theo quy mô và mức độ phức tạp của ngân hàng. Tại các ngân hàng lớn, trách
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
17
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
nhiệm đối với bộ phận quản lý tín dụng khác nhau thường được giao cho các phòng
ban khác nhau. Tại các ngân hàng nhỏ, một số cá nhân có thể giải quyết công việc
của vài bộ phận nghiệp vụ. Khi cá nhân thực hiện các chức năng nhạy cảm như lưu
trữ các hồ sơ quan trọng, chuyển tiền đi hay nhập các giới hạn về cơ sở dữ liệu trên
máy tính, họ cần báo cáo cho các nhà quản lý độc lập với chức năng tiếp thị và phê
duyệt tín dụng.
Nguyên tắc 9: Ngân hàng cần có hệ thống theo dõi điều kiện của từng khoản
tín dụng, bao gồm mức độ đầy đủ của dự phòng và dự trữ.
Các ngân hàng cần phát triển và triển khai các thủ tục đầy đủ và hệ thông các
thông tin để theo dõi điều kiện của từng khoản tín dụng trong các danh mục đầu tư
của ngân hàng. Những thủ tục này cần quy định rõ các tiêu chí nhằm phát hiện các
khoản tín dụng có thể phát sinh vấn đề. Hệ thống theo dõi tín dụng hiệu quả cần có
các biện pháp để:
- Bảo đảm ngân hàng nắm rõ tình hình tài chính hiện hành của khách
hàng vay;
- Theo dõi sự tuân thủ các giao ước hiện hành;
- Nếu cần thì đánh giá tài sản thế chấp liên quan đến tình hình tài
chính hiện tại của trái chủ;
- Phát hiện kịp thời các trường hợp chậm trả theo hợp đồng và phân
loại các khoản tín dụng có thể phát sinh vấn đề;
- Trực tiếp báo cáo ngay các vấn đề để khắc phục.
Các cán bộ phải có trách nhiệm theo dõi chất lượng tín dụng, bao gồm bảo
đảm rằng thông tin phù hợp được chuyển cho những người có trách nhiệm xếp hạng
rủi ro nội bộ đối với các khoản tín dụng. Ngoài ra, các cá nhân còn phải có trách
nhiệm theo dõi thường xuyên tài sản thế chấp và bảo lãnh. Việc theo dõi này giúp
cho ngân hàng thực hiện được những thay đổi cần thiết đối với các thoả thuận trong
hợp đồng cũng như duy trì đủ dự trữ cho các tổn thất tín dụng.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
18
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Nguyên tắc 10: Khuyến khích ngân hàng phát triển và sử dụng hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng. Hệ thống xếp hạng tín dụng cần
nhất quán với bản chất, quy mô và mức độ phức tạp của hoạt động ngân hàng.
Một công cụ quan trọng trong theo dõi chất lượng của khoản tín dụng cũng
như toàn bộ danh mục đầu tư là phải sử dụng hệ thông xếp hạng rủi ro nội bộ. Một
hệ thống xếp hạng rủi ro nội bô được tổ chức tốt là một phương tiện hữu ích nhằm
phân biệt mức độ rủi ro tín dụng trong các tài sản có tiềm năng rủi ro của ngân
hàng. Điều này cho phép xác định chính xác hơn các đặc điểm tổng thể của danh
mục đầu tư, tập trung rủi ro, các khoản tín dụng có vấn đề và mức độ đủ dự phòng
cho vay khó đòi. Các hệ thông xếp hạng rủi ro nội bộ phức tạp hơn, được sử dụng
chủ yếu tại các ngân hàng lớn, cũng có thể dùng để xác định phân bổ vốn nội bộ,
đánh giá tín dụng và mức sinh lời đối với các giao dịch và quan hệ. Xếp hạng rủi ro
nội bộ là một công cụ quan trọng trong theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng. Để
thuận lợi cho việc phát hiện sớm những thay đổi trong hồ sơ rủi ro, hệ thống xếp
hạng rủi ro nội bộ của ngân hàng cần đáp ứng với những chỉ số về sự xấu đi tiềm
năng hay thực tế của những khoản tín dụng.
Nguyên tắc 11: Ngân hàng cần có hệ thống thông tin và các kỹ thuật phân
tích để đo lường được rủi ro tín dụng trong mọi hoạt động nội bảng và ngoại bảng.
Hệ thống thông tin quản lý phải cung cấp đầy đủ thông tin về cơ cấu của danh mục
đầu tư tín dụng, bao gồm cả sự xác định của tập trung rủi ro.
Với nguyên tắc này, ngân hàng cần có biện pháp để định lượng rủi ro trong
các tài sản đối với từng khách hàng vay. Ngân hàng cũng phải có khả năng phân
tích rủi ro tín dụng để phát hiện bất kỳ sự nhạy cảm hay tập trung rủi ro. Sự đo
lường rủi ro tín dụng cần tính đến: Bản chất cụ thể của khoản tín dụng và các nghĩa
vụ theo hợp đồng và các nghĩa vụ tài chính; hồ sơ rủi ro cho đến khi đáo hạn liên
quan đến những biến động có thể xảy ra trên thị trường; sự tồn tại của tài sản thế
chấp hay bảo lãnh; nguy cơ khách hàng vi phạm dựa trên xếp hạng rủi ro nội bộ.
Việc phân tích dữ liệu rủi ro tín dụng cần được thực hiện với tần suất phù hợp, với
kết quả được so sánh với các giới hạn phù hợp. Ngân hàng cần sử dụng các kỹ thuật
đo lường phù hợp với mức độ phức tạp và mức độ rủi ro liên quan đến các hoạt
động ngân hàng.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
19
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Nguyên tắc 12: Ngân hàng phải có hệ thống theo dõi cơ cấu và chất lượng
của toàn bộ danh mục đầu tư tín dụng.
Các ngân hàng cần có hệ thống theo dõi cơ cấu và chất lượng tổng thể của
các danh mục đầu tư tín dụng. Hệ thống này cần có sự thống nhất với bản chất, quy
mô, và độ phức tạp của các danh mục đầu tư trong ngân hàng. Sự tập trung rủi ro
không chỉ áp dụng đối với việc cho vay mà toàn bộ các hoạt động ngân hàng có liên
quan đến rủi ro khách hàng. Mức độ tập trung cao đặt ra rủi ro cho ngân hàng đối
với những thay đổi bất lợi trong lĩnh vực mà các khoản tín dụng có tập trung.
Nguyên tắc 13: Ngân hàng cần tính đến các thay đổi trong tương lai về các
điều kiện kinh tế khi đánh giá từng khoản tín dụng và danh mục đầu tư tín dụng, và
phải đánh giá mức độ rủi ro tín dụng trong điều kiện phức tạp.
Một yếu tố quan trọng trong quản lý rủi ro tín dụng liên quan đến việc đánh
giá rủi ro với từng khoản tín dụng và trong danh mục đầu tư, đồng thời, đưa thông
tin này vào phân tích mức độ đầy đủ giữa vốn và dự phòng. Trong điều kiện phức
tạp, cần dự tính các sự kiện xảy ra hay các thay đổi trong tương lai có thể ảnh
hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng và đánh giá khả năng chống đỡ rủi ro của
ngân hàng. Ba lĩnh vực mà ngân hàng có thể kiểm tra là: suy thoái kinh tế ngành;
các sự kiện rủi ro thị trường, các điều kiện về thanh khoản.
1.3.3. Các nguyên tắc về xử lý nợ xấu
1.3.3.1. Các nguyên tắc nhằm bảo đảm kiểm soát đầy đủ đối với nợ xấu
Nguyên tắc 14: Ngân hàng cần xây dựng hệ thống đánh giá cập nhật và độc
lập về các quá trình quản lý rủi ro tín dụng và kết quả đánh giá cần được báo cáo
trực tiếp cho HĐQT và Ban Tổng Giám Đốc (Giám đốc).
Ngân hàng cần có hệ thống đánh giá và báo cáo nội bộ để quản lý danh mục
đầu tư của ngân hàng. Hệ thống này có thể cung cấp cho HĐQT và Ban Tổng Giám
Đốc (Giám đốc) đầy đủ thông tin đánh giá hiệu quả hoạt động của các nhân viên và
tình trạng của danh mục đầu tư tín dụng. Đánh giá tín dụng nội bộ được thực hiện
độc lập với từng bộ phận kinh doanh về từng khoản tín dụng cũng như chất lượng
của toàn bộ danh mục đầu tư. Chức năng đánh giá tín dụng có thể hỗ trợ cho việc
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
20
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
đánh giá toàn bộ quá trình quản lý tín dụng. Bộ phận đánh giá tín dụng cần báo cáo
trực tiếp cho HĐQT hay Ban Tổng Giám Đốc (Giám đốc).
Nguyên tắc 15: Chức năng cấp tín dụng của ngân hàng cần được quản lý
hiệu quả và rủi ro tín dụng được nằm trong hệ thống tiêu chuẩn về thận trọng và các
giới hạn nội bộ. Ngân hàng cần xây dựng hệ thống và tăng cường kiểm soát nội bộ
và các hoạt động khác nhằm bảo đảm việc báo cáo kịp thời các cấp lãnh đạo về các
vi phạm chính sách, thủ tục và giới hạn tín dụng.
Mục tiêu quản lý rủi ro tín dụng là duy trì rủi ro tín dụng của ngân hàng
trong phạm vi nhất định do HĐQT và Ban Tổng Giám đốc (Giám đốc) đề ra. Kiểm
soát nội bộ sẽ giúp bảo đảm rủi ro tín dụng không vượt qua mức mà ngân hàng có
thể chấp nhận được, cho phép lãnh đạo ngân hàng theo dõi sự tuân thủ đối với các
mục tiêu rủi ro rín dụng. Hệ thống giới hạn tín dụng giúp lãnh đạo ngân hàng có
những xử lý kịp thời khi việc cấp tín dụng vượt quá hạn mức đã định trước, hỗ trợ
cho lãnh đạo trong việc kiểm soát tín dụng và theo dõi rủi ro thực tế so với các mức
chấp nhận được về rủi ro tín dụng đã xây dựng.
Các tiến hành kiểm soát nội bộ định kỳ đối với các quá trình rủi ro tín dụng
để các hoạt động tín dụng tuân thủ các chính sách và thủ tục tín dụng của ngân
hàng, phát hiện các lĩnh vực yếu kém trong quá trình quản lý rủi ro tín dụng cũng
như các trường hợp vi phạm chính sách, thủ tục và giới hạn tín dụng.
Nguyên tắc 16: Ngân hàng cần có hệ thống khắc phục sớm đối với các
khoản tín dụng xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề.
Ngân hàng cần phát hiện sớm các khoản nợ xấu để có những giải pháp cải
thiện chất lượng tín dụng thông qua việc xây dựng quy trình quản lý, cảnh báo, phát
hiện vấn đề sớm. Các chính sách rủi ro tín dụng của các ngân hàng cần chỉ rõ cách
thức quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Mỗi ngân hàng có một phương thức và
cách tổ chức để quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Trách nhiệm đối với các
khoản tín dụng này có thể giao cho bộ phận tiếp thị hay bộ phận xử lý nợ hay kết
hợp cả hai bộ phận này , tuỳ theo quy mô và bản chất của từng khoản tín dụng.
1.3.3.2. Nguyên tắc nhằm nâng cao vai trò của cơ quan giám sát
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
21
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Nguyên tắc 17: Các cơ quan giám sát cần yêu cầu ngân hàng có hệ thống
phát hiện, đo lường, theo dõi, kiểm soát và xử lý rủi ro tín dụng có hiệu quả, tiến
hành đánh giá độc lập về các chiến lược, chính sách, thủ tục và thực hành có liên
quan đến việc cấp tín dụng và quản lý liên tục đối với danh mục đầu tư, xem xét
việc đặt ra các giới hạn thận trọng để hạn chế rủi ro của các ngân hàng đối với từng
bên vay hay một nhóm đối tác có liên quan.
Cơ quan giám sát ngân hàng cần đánh giá một cách có hệ thống từng ngân
hàng để phát hiện, đo lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro rín dụng như một phần
trong hoạt động giám sát của mình. Việc đánh giá thông qua các công cụ lao động
đo lường (như các mô hình xếp hạng rủi ro nội bộ và rủi ro tín dụng) được ngân
hàng sử dụng. Ngoài ra, cơ quan này còn xác định xem HĐQT có giám sát hiệu quả
đối với quá trình quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng không và có tuân thủ các
chính sách không, cũng như mức độ phù hợp của các chính sách.
Để đánh giá chất lượng hệ thống quản lý rủi ro tín dụng, cơ quan giám sát có
thê thực hiện nhiều cách tiếp cận, trong đó đặc biệt chú trọng xem ngân hàng có sử
dụng đúng các thủ tục định giá tài sản đúng đắn hay không.Thông thường, cơ quan
giám sát hay kiểm soát độc lập thường tiến hành kiểm tra chất lượng các khoản tín
dụng mẫu, đánh giá chất lượng của quá trình xác nhận tính hợp lệ nội bộ của ngân
hàng, trong đó, có sử dụng mô hình xếp hạng rủi ro nội bộ hay rủi ro tín dụng, xem
xét kết quả của báo cáo đánh giá nội bộ độc lập về các bộ phận cấp tín dụng và quản
lý tín dụng và sử dụng các báo cáo đánh giá của kiểm toán độc lập nếu có, cân nhắc
việc xây dựng các giới hạn thận trọng, áp dụng cho ngân hàng, không tính đến chất
lượng của quá trình quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng đó. Những giới hạn này
gồm hạn chế mức rủi ro cho ngân hàng đối với từng khách hàng vay hay một nhóm
khách hàng có liên quan. Cơ quan giám sát có thể áp dụng một số yêu cầu báo cáo
đối với các khoản tín dụng thuộc một loại hình nào đó hay vượt quá mức quy định.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
22
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Tóm tắt chương 1
Ở chương này, em đã trình bày một cách khái quát về tín dụng ngân hàng và
các cơ sở lý luận về nợ xấu của NHTM, trong đó nêu lên một số điểm khác biệt
giữa cách phân loại nợ của Việt Nam và của thế giới, các dấu hiệu và các nguyên
nhân dẫn đến nợ xấu, đồng thời trình bày một số nguyên tắc quốc tế về quản lý nợ
xấu.
Nội dung chương này là cơ sở lý luận, là nến tảng của các chương tiếp theo.
Biết được cách phân loại nợ của Việt Nam, hiểu được sự khác biệt so với cách phân
loại của thế giới mới có thể có cái nhìn tổng quan về nợ xấu của các NHTM tại Việt
Nam. Nghiên cứu các nguyên nhân và các dấu hiệu chung dẫn đến các khoản nợ
xấu, các nguyên tắc quốc tế về quản lý nợ xấu để có thể so sánh với thực trạng của
vấn đề này tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn, từ đó đưa ra các giải pháp quản trị nợ
xấu một cách có hiệu quả.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
23
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG TMCP
SÀI GÒN
2.1.1. Quá trình phát triển của SCB
2.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) tiền thân là Ngân hàng TMCP Quế Đô,
thành lập theo quyết định số 00018/NH-CP ngày 06/06/1992 của Thống Đốc
NHNN Việt Nam với vốn điều lệ ban đầu là 10 tỷ đồng. Sau 10 năm hoạt động kinh
doanh, Ngân hàng Quế Đô vẫn không có bước tiến triển và lâm vào tình trạng thua
lỗ kéo dài, với khoản nợ quá hạn lớn không có khả năng thu hồi. .
Với quyết tâm cải tổ lại bộ máy tổ chức, hoạt động và tên gọi, từ tháng 4
năm 2003, với việc đăng ký kinh doanh lại lần 1 ngày 16/04/2003 và một thương
hiệu mới, NHTMCP Sài Gòn đã hồi sinh và phát triển với những bước khởi đầu khả
quan. Bằng sức bật của một ban điều hành và đội ngũ cán bộ công nhân viên trẻ
trung, năng động, có trình độ chuyên môn cao, nắm vững các nghiệp vụ ngân hàng,
cùng với sự lãnh đạo sáng suốt của của Hội đồng Quản trị và hỗ trợ đắc lực của Ban
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
24
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
tư vấn, SCB đã không ngừng hoàn thiện và phát triển, chiếm được ưu thế trên thị
trường, xây dựng một thương hiệu SCB vững mạnh.
Từ năm 2003 đến cuối năm 2005, tình hình tài chính của SCB đạt được lành
mạnh và hoạt động liên tục có lãi, năm sau cao hơn năm trước. Các chỉ tiêu tổng tài
sản, nguồn vốn huy động, dư nợ đầu tư tín dụng đều có mức tăng trưởng cao và ổn
định. Năm 2004, SCB đã bắt đầu chia cổ tức từ 8% đến 12%./năm.
2.1.1.2. Định hướng phát triển của SCB trong thời gian tới
Mỗi một thời kỳ, SCB đều có những chiến lược kinh doanh cụ thể nhằm tạo
sự khác biệt trên thị trường. SCB đã định ra một lộ trình khá rõ ràng cho giai đoạn
phát triển tiếp theo của mình. Trước sức ép hội nhập ngày càng gay gắt, SCB đã có
những độc chiêu nhằm ổn định tình hình tài chính, tăng sức cạnh tranh trên thị
trường tài chính đầy cam go.
Với định hướng “phát triển phải đi kèm với bền vững”, xây dựng SCB thành
một ngân hàng đa năng, tiện ích dịch vụ phải đạt tiêu chuẩn hiện đại, đưa SCB trở
thành một tập đoàn tài chính vững mạnh trên thị trường trong nước, SCB đã xây
dựng một kế hoạch cụ thể, nỗ lực hoàn thành các mục tiêu đã đề ra một cách tốt
nhất.
Để đạt được các mục tiêu trên, SCB đã đưa ra các chiến lược về sản phẩm,
công nghệ, nhân sự, mạng lưới hoạt động, năng lực quản trị điều hành để có thể
theo kịp tiến trình hội nhập.
Để có thể thực hiện các chiến lược đó, trước tiên SCB cần đề ra chiến lược
về vốn khả thi. Kế hoạch tăng vốn điều lệ đã được hoạch định rõ ràng với những
bước đi cụ thể.
Cuối quý I/2007, kế hoạch tăng vốn năm 2007 đã được Đại hội đồng Cổ
Đông thông qua, NHNN đã chấp thuận tăng vốn điều lệ của SCB lên gấp đôi, đạt
1.200 tỷ đồng. Đây là một trong những bước triển khai nhằm nâng cao năng lực,
tăng khả năng cạnh tranh cả về trình độ công nghệ cũng như nhân sự của SCB.
Tiếp theo đó, toàn bộ số trái phiếu chuyển đổi phát hành vào tháng 11/2006 sẽ được
chuyển đổi thành cổ phiếu vào cuối năm nay, nâng tổng số vốn điều lệ của SCB lên
2.200 tỷ đồng. Đồng thời, trong quý II/2007 sẽ tiếp tục phát hành 1.400 tỷ đồng trái
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
25
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
phiếu chuyển. Đợt phát hành này có sự ưu đãi đối với các cổ đông và nhà đầu tư
trong nước.
Dự kiến quý III/2007, SCB sẽ phát hành trái phiếu chuyển đổi cho một Tổ
chức tài chính nước ngoài (Theo dự kiến sẽ là Công ty Tài chính Quốc tế - IFC), và
hai ngân hàng nước ngoài (một của Anh và một của Đức). Dự kiến đến cuối năm
2008, vốn điều lệ của SCB là 3.000 tỷ đồng. Như vậy, SCB đã hoàn tất lộ trình tăng
vốn trước thời hạn 2 năm, nhằm đảm bảo năng lực tài chính đủ sức cạnh tranh với
các ngân hàng trong nước cũng như trên thế giới trong điều kiện toàn cầu hoá.
2.1.2. Hoạt động kinh doanh của SCB qua các năm
2.1.2.1. Tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn
2.1.2.1.1. Nguồn vốn
Vốn chủ sở hữu: Trong năm 2006, SCB đã tăng vốn điều lệ 2 lần nâng
mức vốn lên 600 tỷ đồng, gấp 2,2 lần so với cuối năm 2005 (271 tỷ đồng) đồng
thời, phát hành trái phiếu chuyển đổi trị giá 1.000 tỷ đồng vào tháng 11/2006, trái
phiếu này sẽ được chuyển đổi thành cổ phiếu vào cuối năm 2007. Lộ trình tăng vốn
điều lệ đã được trình bày ở phần định hướng phát triển. Nguồn vốn này sẽ giúp SCB
nâng cao năng lực tài chính, tạo điều kiện để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phát triển
công nghệ, mở rộng mạng lưới, góp phần tạo sự bền vững trong quá trình phát triển
của ngân hàng.
Vốn huy động: SCB huy động vốn từ các đối tượng như các tổ chức kinh
tế, dân cư, các TCTD khác, phát hành giấy tờ có giá, và vay vốn NHNN.
Trong đó, vốn huy động từ việc phát hành giấy tờ có giá chủ yếu là để bổ
sung vốn điều lệ cho SCB, chủ yếu là để xây dựng và củng cố cơ sở hạ tầng, thay
đổi công nghệ, nhằm tăng năng lực cạnh tranh của SCB trong khối các NHTMCP.
Nguồn vốn vay từ NHNN và các TCTD khác chiếm một tỷ lệ rất thấp trong
tổng nguồn vốn huy động của SCB. Do vậy, nguồn vốn huy động từ tiền gửi của
các TCKT, dân cư và tiền gửi của các TCTD là nguồn vốn chủ yếu để đáp ứng hoạt
động kinh doanh trong từng thời kỳ của SCB. Chính nguồn vốn ngắn hạn này là
nguồn vốn để cho vay và đầu tư, tạo ra lượng doanh thu đáng kể trong con số tổng
thu nhập của SCB qua các năm.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
26
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Tiền gửi của các TCTD tại SCB ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
nguồn vốn huy động, chứng tỏ rằng SCB đã dần dần tạo được uy tín trong mắt các
ngân hàng.
Đối với việc huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư, các sản phẩm
của SCB cũng rất đa dạng, từ tiền gửi thanh toán đến tiền gửi tiết kiệm, từ có thời
hạn đến không thời hạn, từ VNĐ đến USD. Đồng thời áp dụng từng chính sách ưu
đãi đối với từng đối tượng khách hàng như chính sách khuyến mãi, miễn giảm phí
chuyển tiền, chính sách đối với khách hàng chuyển doanh thu về SCB, đáp ứng
đúng thị hiếu và nhu cầu của khách hàng…
Có thể theo dõi sự tăng trưởng nguồn vốn huy động của SCB từ năm 2003
đến năm 2006 qua bảng 2.1.
2.1.2.1.2. Sử dụng nguồn
SCB có những sản phẩm tín dụng rất đa dạng đáp ứng nhu cầu về vốn của
khách hàng đồng thời mang lại tiện ích cho họ và lợi nhuận cho ngân hàng.
Bảng 2.1: Tăng trưởng nguồn vốn huy động (Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Tiền gửi của TCTD 438 662 1.952 5.299
Tiền gửi của TCKT & Dân cư 588 1.396 1.616 3.575
Tổng nguồn vốn huy động từ
tiền gửi
1.026 2.058 3.568 8.874
(Nguồn: Báo cáo tài chính của SCB năm 2004, 2005, 2006)
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
27
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Biểu đồ 2.1: BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN SỰ TĂNG TRƯỞNG NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG
-
1.000
2.000
3.000
4.000
5.000
6.000
7.000
8.000
9.000
Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
TG của TCKT & Dân cư
TG của KBNN & TCTD
Hiện nay, SCB có những sản phẩm tín dụng như cho vay cá nhân, doanh
nghiệp với các thời hạn: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn phục vụ cho các mục đích
như: bổ sung vốn lưu động, vốn đầu tư dự án, hoạt động xuất nhập khẩu (như phát
hành LC trả ngay, trả chậm, chiết khấu bộ chứng từ), cho vay tiêu dùng…
Tính đến hết ngày 31/12/2006, dư nợ cho vay các tổ chức kinh tế, cá nhân
của SCB là 8.206 tỷ đồng, tăng gần 145% so với đầu năm (3.356 tỷ đồng), bao gồm
dư nợ ngắn hạn, trung dại hạn và cho vay chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá. Dư nợ
tín dụng chiếm tỷ trọng rất lớn trong sử dụng nguồn vốn huy động. Tương ứng với
dư nợ đó là một doanh thu khá lớn, đóng góp đáng kể vào doanh thu hoạt động kinh
doanh của SCB.
Biểu đồ 2.2: BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN SỰ TĂNG TRƯỞNG DƯ NỢ TÍN DỤNG
(Đơn vị: tỷ đồng - Nguồn: Báo cáo tài chính của SCB năm 2004, 2005, 2006)
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
28
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
0
2000
4000
6000
8000
10000
Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Ngoài các sản phẩm tín dụng trên, từ tháng 5/2006, SCB đã có thêm một sản
phẩm mới, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho khách hàng khi thị trường chứng
khoán ngày càng phát triển với tốc độ mỗi lúc một nhanh, đó là sản phẩm mua bán
chứng khoán có kỳ hạn – Repo. Với sản phẩm mới này, SCB đã từng bước đa dạng
hoá danh mục kinh doanh, cải thiện cơ cấu nguồn thu, đồng thời, mang lại không ít
lợi nhuận cho ngân hàng.
Ngoài ra, SCB còn phân tán rủi ro bằng cách đầu tư chứng khoán, đầu tư,
góp vốn mua cổ phần, trái phiếu Chính Phủ. Dù phần vốn để đầu tư vào các lĩnh
vực này là không nhiều nhưng có thể chắc chắn rằng điều đó sẽ được cải thiện trong
tương lai, một tương lai không xa, bởi vì đó là các lĩnh vực có nhiều tiềm năng,
mang lại nhiều lợi nhuận cho SCB, nhất là trong giai đoạn thị trường chứng khoán
Việt Nam đang phát triển với tốc độ cực nhanh như hiện nay.
Biểu đồ 2.3: BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN SỰ TĂNG TRƯỞNG DƯ NỢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
(Đơn vị: triệu đồng - Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2004, 2005, 2006 của SCB)
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
29
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
583.255
61.94523.303
7.265
-
200.000
400.000
600.000
Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
2.1.2.2. Hoạt động dịch vụ
Bảo lãnh nội địa: Trong năm 2006, nghiệp vụ bảo lãnh chưa được phát
triển tại tất cả các chi nhánh trên toàn hệ thống SCB. Doanh số bảo lãnh vẫn còn rất
thấp, đến cuối năm 2006, doanh số bảo lãnh chỉ đạt 195 tỷ đồng (dù tốc độ tăng cao,
so với doanh số bảo lãnh của năm 2005 là 23 tỷ đồng thì con số 195 tỷ là quá lớn).
Thanh toán quốc tế: Dịch vụ thanh toán quốc tế tại SCB chưa thu hút được
nhiều khách hàng, lượng khách hàng không đều và không ổn định. Dù không còn lệ
thuộc nhiều vào các ngân hàng hợp tác và tỷ lệ tăng lợi nhuận từ nghiệp vụ này đã
có bước đột biến, tuy nhiên tỷ trọng doanh thu từ hoạt động này so với tổng doanh
thu còn rất ít. Lý do là SCB chỉ mới được NHNN cấp phép thực hiện dịch vụ thanh
toán quốc tế trực tiếp.
Kinh doanh ngoại tệ và vàng, dịch vụ kiều hối, dịch vụ thẻ: trong năm
2006, doanh thu từ các hoạt đông trên cũng tăng đáng kể, số lượng thẻ ATM của
SCB vào cuối năm 2006 là 5.235 thẻ. Do có liên kết thẻ với các Ngân hàng như
Vietcombank, Techcombank, … nên số lượng thẻ phát hành trong năm tới có thể sẽ
nâng cao. Đồng thời, SCB cũng vừa được …về kinh doanh vàng.
Nói chung, các hoạt động dịch vụ của SCB chưa mạnh lắm, một phần là do
quy mô nguồn vốn của ngân hàng. Do đó, doanh thu từ các hoạt động này chưa cao
so với doanh thu của hoạt động đầu tư và tín dụng. Tuy nhiên, với lộ trình tăng vốn
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
30
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
điều lệ như trên, thiết nghĩ việc mở rộng các hoạt động này là điều tất yếu và nó sẽ
mang lại nguồn doanh thu đáng kể cho SCB.
2.1.2.3. Hiệu quả kinh doanh
Lợi nhuận trước thuế EBIT: Nhìn vào báo cáo kết quả kinh doanh của SCB
từ 2004 đến 2006 thì có thể thấy rõ bước chuyển mình đột phá của SCB, từ một
ngân hàng có thu nhập trước thuế là một con số âm, phải dùng vốn điều lệ để cấn
trừ lỗ vào năm 2003, đến nay, lợi nhuận trước thuế của SCB đã đạt trên 154 tỷ
đồng. Đó là một điều đáng mừng, cho dù con số lợi nhuận là không cao lắm so với
khối NHTMCP. Các con số ấy như biết nói, chúng thể hiện sự biến đổi trong chính
sách quản lý điều hành của SCB, chính những sự thay đổi trong chính sách ấy đã
tạo ra bước chuyển mình của SCB hôm nay.
Các chỉ tiêu ROE (Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu bình quân)
và ROA (Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản bình quân) là khá cao, chứng tỏ
được sự hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của SCB. Với chỉ tiêu ROE của năm
2006 là 18,86%, tăng so với năm 2005 là 0,14% và năm 2004 là 4,3% thể hiện rằng
SCB đã sử dụng vốn chủ sở hữu ngày càng có hiệu quả, cứ 100 đồng vốn chủ sở
hữu đã tạo ra được 18,86 đồng lợi nhuận sau thuế.
Như vậy, với kết quả hoạt động như trên, có thể thấy rằng SCB đang ngày
càng làm ăn có hiệu quả, có triển vọng phát triển. SCB đã xây dựng được thương
hiệu của mình trên thị trường, đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng cùng tầm cỡ, tạo
bước chuẩn bị để hội nhập với thị trường tài chính ngân hàng trong nước, khu vực
cũng như trên thế giới.
Bảng 2.2: Các chỉ tiêu tài chính (Đơn vị: tỷ đồng)
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
31
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Yếu Tố Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Lợi nhuận trước thuế -1 19 47 154
Tổng vốn bình quân 1.133 1.701 3.150 7.503
Vốn chủ sở hữu 92 131 250 590
Lợi nhuận sau thuế 55 19 47 111
ROA 1,12% 1,48% 2,06%
ROE 14,56% 18,72% 18,86%
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2004, 2005, 2006 của SCB)
2.2. NỢ XẤU TẠI SCB
2.2.1. Tỷ lệ nợ xấu tại SCB qua các năm
Như đã phân tích ở trên, dư nợ tín dụng của SCB đã tăng trưởng với một tốc
độ cực nhanh, năm 2006 so với năm 2003 tăng hơn 700%, một con số đáng nể. Tuy
nhiên, tín dụng tăng trưởng với một tốc độ cao như thế không phải là hoàn toàn tốt,
nhất là đối với SCB - một ngân hàng đi lên từ con số âm của lợi nhuận thì càng phải
xem xét lại. Sự tăng trưởng tín dụng phải đi cùng với việc bảo đảm chất lượng của
các khoản vay thì mới tốt. Còn nếu dư nợ lớn nhưng các khoản vay là xấu, khó có
khả năng thu hồi vốn thì tăng trưởng tín dụng với tốc độ bao nhiêu cũng không có ý
nghĩa gì.
Với SCB, nợ quá hạn từ năm 2004 đến năm 2006 được thể hiện qua bảng 2.3
Qua bảng số liệu này, ta có thể thấy rằng sự tăng trưởng tín dụng của SCB là
có chất lượng, thể hiện qua tỷ trọng nợ quá hạn cũng như nợ xấu trên tổng dư nợ
tương đối thấp.
Năm 2003 và năm 2004, khi quyết định 493 chưa được ban hành thì có thể
đánh giá chất lượng tín dụng của SCB qua tỷ trọng nợ quá hạn trên tổng dư nợ.
Năm 2003 là năm đầu tiên của sự cải tổ khi vào tháng 4/2003, tên gọi Ngân hàng
TMCP Sài Gòn lần đầu tiên xuất hiện, thay thế cho tên cũ Quế Đô với số lỗ lũy kế
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
32
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Bảng 2.3: Cơ cấu nợ quá hạn và nợ xấu (Đơn vị: tỷ đồng)
Năm Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Tổng dư nợ 1.004 1.804 3.343 8.206
Nợ quá hạn 0,5 12 94 196
Nợ xấu 32 69
Tỷ trọng nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
1,16% 2,22% 2,81% 2,40%
Tỷ trọng nợ xấu/ Tổng dư nợ
1,17% 0,85%
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2004, 2005, 2006 của SCB)
hơn 49 tỷ đồng. Năm này, con số tuyệt đối của số nợ quá hạn là 517 triệu đồng, chỉ
chiếm 1,16% tổng dư nợ. Có thể thấy rằng con số này là cực nhỏ so với mặt bằng
của các NHTM trong cùng thời điểm. Tuy nhiên, cũng cần nói thêm về nguyên
nhân của sự việc. Khi mà tổng dư nợ của một ngân hàng chỉ hơn 1000 tỷ đồng thì
vốn điều lệ của nó tương ứng như thế nào? Qua bảng cân đối tài sản năm 2004, tổng
vốn và các quỹ của năm 2003 chỉ là 92 tỷ đồng, một con số quá khiêm tốn. So với
số vốn điều lệ ấy thì tỷ trọng nợ quá hạn như thế có thể nói là vừa phải, bởi vì đối
với một ngân hàng đang trong giai đoạn đầu của quá trình “thay máu” thì phải đảm
bảo được chất lượng tín dụng, tăng trưởng phải đi kèm với bền vững thì sự phát
triển mới hiệu quả.
Bước sang năm 2004, năm thứ hai của giai đoạn cải tổ, số nợ quá hạn đã
tăng thêm 11.154 triệu đồng, so với sự tăng lên của tổng dư nợ thì con số này cũng
được coi là khá cao. Tỷ lệ tăng của tổng dư nợ là 81%, trong khi đó, tỷ lệ tăng của
nợ quá hạn là trên 2000%, tức tăng hơn 20 lần. Tỷ lệ của các con số trên là không
phù hợp, không tương xứng. Tuy tổng dư nợ có tăng nhưng quy mô tín dụng vẫn rất
nhỏ, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ là thấp nhưng nếu so sánh với năm 2003 thì
cái thấp ấy vẫn chưa hợp lý. Nhưng nói đi rồi cũng phải nói lại, việc so sánh năm
2004 với năm 2003 thì quá là khập khiễng, bởi vì năm 2003 là năm đầu tiên thay
đổi chính sách, thay đổi bộ máy, năm 2004 là năm thứ hai. Điều chắc chắn là, vạn
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
33
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
sự khởi đầu nan, không điều gì là dễ dàng khi bắt đầu. Với SCB thì khó khăn lại
càng tăng lên gấp bội khi mà điểm xuất phát không phải là số 0 mà là số âm.
Sang năm 2005 và 2006, khi mà SCB đã thực hiện phân loại nợ và trích lập
dự phòng theo Quyết định 493 của Thống đốc NHNN thì sự chênh lệch tỷ lệ nợ quá
hạn (chỉ xét nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5) giữa các năm không đáng kể, thậm chí, tỷ lệ
nợ quá hạn năm 2006 còn giảm so với năm 2005 (-0,41%). Nhìn chung, nếu về mặt
con số thì các tỷ lệ trên được coi là bảo đảm.
2.2.2. Mối tương quan của nợ xấu với tăng trưởng tín dụng
Tuy nhiên, khi xem xét bất kỳ một vấn đề nào thì cũng phải nhìn từ nhiều
phía, không thể nhìn vào một mặt của vấn đề mà đưa ra sự đánh giá chủ quan. Ở
đây cũng vậy, khi nhìn vào tỷ lệ như trên, ta thường đánh giá rằng đây là một tỷ lệ
tốt, đảm bảo được sự an toàn cho hoạt động của ngân hàng. Song sự việc không đơn
giản như thế. Khi nói đến tỷ lệ nợ xấu tăng hay giảm như thế nào thì cần phải xét
đến mối tương quan của nó với tốc độ tăng trưởng của dư nợ tín dụng. (Bảng 2.4).
Qua bảng số liệu và biểu đồ trên, ta có thể dễ dàng thấy rằng nợ quá hạn đã thay đổi
dần dần theo hướng tích cực. Tích cực ở đây thể hiện ở chỗ, tốc độ tăng của nợ quá
hạn đã giảm dần và đang có chiều hướng giảm nhiều hơn so với tăng trưởng dư nợ
tín dụng. Tuy nhiên, các con số ấy vẫn chưa ổn định, sự chênh lệch giữa các năm là
quá lớn. Còn nếu nói về tỷ lệ nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) trên tổng số nợ xấu thì tỷ lệ
này chiếm trên 50% (năm 2005 là 58% và năm 2006 là 64%).
Bảng 2.4: Tương quan dư nợ và nợ quá hạn (Đơn vị: tỷ đồng)
Yếu tố 2004 / 2003 2005 / 2004 2006 / 2005
Tăng trưởng dư nợ 809 1.544 4.850
Tỷ lệ tăng 80,51% 85,17% 144,46%
Thay đổi nợ quá hạn 29 54 102
Tỷ lệ tăng 244,33% 134,76% 108,49%
Thay đổi nợ xấu 30
Tỷ lệ tăng 77,44%
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2004, 2005, 2006 của SCB)
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
34
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Biểu đồ 2.4. BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN TƯƠNG QUAN DƯ NỢ VÀ NỢ QUÁ HẠN
0%
50%
100%
150%
200%
250%
2004 / 2003 2005 / 2004 2006 / 2005
Tăng trưởng dư nợ
Thay đổi nợ quá hạn
2.3. THỰC TRẠNG BIỆN PHÁP HẠN CHẾ VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN
HÀNG TMCP SÀI GÒN– SCB
2.3.1. Các biện pháp SCB đang áp dụng
SCB chưa có một quy trình cụ thể về việc hạn chế và xử lý nợ xấu mà các
biện pháp được áp dụng xuyên suốt trong thời gian cho vay, bao gồm các phòng
tuyến trước, trong và sau khi cấp tín dụng, tuân thủ các quy định của NHNN và các
chính sách quản lý riêng của SCB.
2.3.1.1. Phòng tuyến trước, trong và sau khi cấp tín dụng
2.4.1.1.1. Phòng tuyến trước khi cấp tín dụng
Hiện tại, SCB đã và đang áp dụng nhiều biện pháp để hạn chế rủi ro, tránh
làm phát sinh các khoản nợ xấu trước khi cho vay. Các biện pháp ấy bao gồm tổ
chức về nhân sự, trang bị phương tiện vật chất, chính sách tín dụng và xây dựng hệ
thống thông tin lưu trữ.
Tổ chức về nhân sự: Tại SCB, nghiệp vụ tín dụng được sự hỗ trợ của
các lực lượng chuyên nghiệp. Các nghiệp vụ hỗ trợ hoạt động tín dụng chủ yếu liên
quan đến tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, việc hỗ trợ này còn hạn chế phạm vi hoạt
động, chỉ áp dụng cho các chi nhánh trong địa bàn TPHCM.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
35
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Thứ nhất, về việc công chứng các hồ sơ, giấy tờ có liên quan đến việc cầm
cố, thế chấp tài sản bảo đảm. Công việc này được sự hỗ trợ của phòng pháp chế.
Phòng này có chức năng công chứng các giấy tờ và đăng ký giao dịch đảm bảo đối
với các khoản vay có TSĐB của SCB. Công việc này được thực hiện bởi một phòng
ban riêng như thế thì sẽ đỡ tốn thời gian hơn cho CBTD, giúp CBTD tập trung vào
chuyên môn phân tích, thẩm định hơn.
Thứ hai, về việc định giá tài sản bảo đảm. SCB thường nhờ đến một công ty
chuyên về định giá để xác định giá trị của tài sản bảo đảm. Đó là công ty Sài Gòn
Phú Gia. Trình độ chuyên môn trong việc định giá của các nhân viên trong Sài Gòn
Phú Gia sẽ giúp CBTD xác định đúng giá trị của TSĐB, tiết kiệm thời gian trong
việc điều tra, thăm dò thị trường của TSĐB.
Phương tiện vật chất: Việc trang bị máy vi tính và phần mềm tín dụng
được SCB chú ý quan tâm. Mỗi cán bộ tín dụng được trang bị một máy vi tính để
thực hiện các công việc của mình. Còn về phần mềm hỗ trợ, hiện tại SCB đang sử
dụng phần mềm Smartbank – mua bản quyền của FPT. Phần mềm này hỗ trợ các bộ
tín dụng rất nhiều, đặc biệt là hạch toán theo dõi, đôn đốc khách hàng trả nợ.
Hệ thống thông tin lưu trữ: Hiện tại, SCB lưu trữ thông tin chủ yếu
bằng hệ thống Smartbank và hồ sơ giấy. Trong đó, việc lưu trữ thông tin vẫn được
thực hiện chủ yếu bằng thủ công, tức là lưu trữ trên giấy tờ. Phần mềm Smartbank
chưa thực sự hỗ trợ nhiều trong việc này mà chủ yếu nó chỉ hỗ trợ trong việc thu nợ
khách hàng.
Chấm điểm tín dụng: SCB có ban hành quy trình về chấm điểm tín
dụng đối với khách hàng vay vốn, bao gồm cả khách hàng doanh nghiệp và khách
hàng cá nhân. Quy trình quy định rất cụ thể các tiêu chí cần chấm điểm, việc chấm
điểm đối với từng ngành nghề khác nhau dựa vào một số tiêu chí như nhau nhưng
số điểm đưa ra lại khác nhau. Điểm số cuối cùng là căn cứ để phân loại khách hàng.
CBTD trực tiếp chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng, sau đó, trưởng phó
phòng tín dụng kiểm soát việc chấm điểm và xếp hạng của CBTD. Sau cùng, lãnh
đạo của đơn vị cho vay (hoặc Hội đồng tín dụng) phê duyệt kết quả chấm điểm tín
dụng và xếp hạng khách hàng.
2.4.1.1.2. Phòng tuyến trong khi cấp tín dụng
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
36
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Hoàn tất hồ sơ vay và xử lý thông tin: Trong quá trình xét duyệt cho
vay, việc hoàn tất các hồ sơ liên quan đến khoản vay là rất quan trọng. Trong quy
trình tín dụng ngắn hạn và trung dài hạn của SCB có quy định các giấy tờ cần phải
có trong các hồ sơ bao gồm hồ sơ pháp lý, hồ sơ tài chính, hồ sơ đảm bảo. Việc
khách hàng cung cấp đầy đủ các hồ sơ trên là yêu cầu trước tiên khi xét duyệt cho
vay. SCB quy định rõ các hồ sơ cần thiết, đủ để dùng trong việc thẩm định ý muốn
cũng như khả năng trả nợ của khách hàng.
Tiếp theo là việc xử lý thông tin. Hiện tại, SCB đang thu thập các thông tin
về khách hàng từ các nguồn sau: thông tin từ trung tâm TTTD (CIC), thông tin do
khách hàng cung cấp, thông tin từ báo chí, internet, thông tin được lưu trữ tại ngân
hàng… Các thông tin ấy giúp ích rất nhiều trong việc có cho vay hay không.
Thẩm định tín dụng: CBTD của SCB sau khi tìm kiếm thu thập các
thông tin về khách hàng thì tiến hành thẩm định ý muốn trả nợ và khả năng trả nợ
của khách hàng, dự tính các rủi ro có thể xảy ra trong khi cho vay để đề ra các biện
pháp hạn chế rủi ro cho phù hợp, trong đó, chủ yếu là việc yêu cầu phải có TSĐB.
Trong giai đoạn này, SCB có các quy định để hạn chế rủi ro xảy ra, ví dụ như là quy
định những khoản cho vay như thế nào thì cần phải tái thẩm định, cụ thể là các
khoản cho vay vượt mức phán quyết, các khoản cho vay có TSĐB là tài sản hình
thành trong tương lai, các khoản cho vay ngoài địa bàn của chi nhánh, phòng giao
dịch, các khoản vay có TSĐB toạ lạc ngoài địa bàn của đơn vị cấp tín dụng, các
khoản cho vay để khách hàng góp vốn vào các doanh nghiệp, dự án…Tái thẩm định
là công việc của phòng quản lý rủi ro tín dụng, sau khi tái thẩm định thì trình Phó
Tổng Giám đốc phụ trách tín dụng hoặc Hội đồng Tín dụng hội sở hoặc Tổng Giám
Đốc phê duyệt.
Quyết định tín dụng: Khi đưa ra quyết định tín dụng, CBTD của SCB
đã phải trải qua quá trình phân tích và thẩm định khách hàng một cách kỹ lưỡng,
cẩn thận. Quyết định này phải gắn với đặc điểm của từng khách hàng cụ thể và
được thể hiện trong tờ trình của CBTD lên lãnh đạo. SCB quy định rõ nội dung của
tờ trình, bao gồm các thành phần: tình hình của khách hàng (Giới thiệu về đặc điểm
hoạt động sản xuất kinh doanh, quan hệ của khách hàng với các TCTD, tư cách
pháp lý của khách hàng…), khoản vay (tính pháp lý của khoản vay, phương án sản
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
37
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
xuất kinh doanh, khả năng trả nợ, nguồn trả nợ, lịch trả nợ cụ thể), bảo đảm tín
dụng (bảo đảm tín dụng dưới hình thức nào: thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ
ba, các hình thức bảo đảm khác), các rủi ro chủ yếu của khoản vay và cuối cùng là ý
kiến của CBTD, có cho vay được hay không. Việc quy định rõ ràng nội dung của tờ
trình như thế giúp cho CBTD có cái nhìn kỹ hơn về khoản vay, thẩm định một cách
cẩn thận hơn, đưa ra quyết định có hiệu quả hơn.
Xây dựng hợp đồng tín dụng: Sau khi quyết định cho vay, CBTD lập
hợp đồng tín dụng để cam kết về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, để từ đó,
ràng buộc trách nhiệm của bên đi vay, nhằm hạn chế rủi ro. Hợp đồng tín dụng tại
SCB được lập theo mẫu có sẵn và các thông số trong hợp đồng phải phù hợp với
từng khách hàng với từng đặc điểm cụ thể. SCB có chính sách ưu đãi lãi suất đối
với khách hàng khi chuyển doanh thu về SCB và được quy định rõ trong hợp đồng
tín dụng. Chính sách ưu đãi trên đã tạo điều kiện cho khách hàng, thu hút khách
hàng, đồng thời giúp SCB kiểm soát được nguồn trả nợ của khách hàng, tiến hành
thu nợ đúng hạn.
2.4.1.1.3. Phòng tuyến sau khi cấp tín dụng
Tại SCB, phòng tuyến này được thực hiện thông qua các bước giải ngân,
kiểm tra giám sát sau khi cho vay.
Giải ngân: Đặc thù trong cho vay hạn mức tại SCB là giải ngân phải
đồng thời với việc kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay. Với từng hợp đồng ngắn hạn
cụ thể, khi giải ngân phải kèm theo chứng từ chứng minh cho việc sử dụng tiền vay
là đúng mục đích. Khi giải ngân cho khách hàng vay hạn mức, CBTD phải lập tờ
trình về việc giải ngân bao gồm các nội dung cụ thể trình lãnh đạo, lãnh đạo đồng ý
thì mới được giải ngân. Việc làm này hạn chế được nhiều rủi ro, buộc khách hành
phải có mục đích sử dụng vốn vay hợp lý và hợp pháp.
Xử lý các phát sinh sau khi cho vay: Đối với khách hàng xin cơ cấu lại
thời hạn trả nợ, SCB có quy định rõ rằng CBTD phải xem xét rõ các điều kiện của
khách hàng, trong đó, nguyên nhân không trả được nợ đúng thời hạn là khách quan
(do thiên tai, lũ lụt, hoả hoạn…) hay do sự chậm trả của người mua hàng, và có thể
chứng minh được nguồn trả nợ cho ngân hàng nếu như được cơ cấu lại thời hạn trả
nợ. Nếu như khách hàng cố tình chây ỳ không trả nợ và cũng không yêu cầu cơ cấu
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
38
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
lại thời hạn trả nợ thì CBTD tiến hành chuyển nợ quá hạn đối với khoản vay và áp
dụng lãi suất quá hạn đối với món vay đó.
* Đối với việc xử lý các khoản nợ quá hạn thì cần phải phân tích rõ nguyên
nhân và loại nợ quá hạn (nợ nhóm mấy theo các quyết định của NHNN). Nếu là nợ
không có khả năng thu hồi vốn thì sử dụng các biện pháp xử lý sau đây:
Thứ nhất, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro.
Nguồn trích lập dự phòng là nguồn để xử lý các khoản nợ xấu tại SCB. Các
khoản nợ xấu khi được xử lý bằng nguồn dự phòng sẽ nhập ngoại bảng để tiếp tục
theo dõi.
Thứ hai, xử lý tài sản bảo đảm.
Khi khách hàng không còn khả năng trả nợ và nợ được phân vào nhóm 5 thì
SCB tiến hàng xử lý TSĐB để thu hồi nợ. Việc làm này cũng được phối hợp thực
hiện bởi phòng pháp chế. Tuy nhiên, do việc phát mại tài sản gặp nhiều khó khăn về
pháp lý, thủ tục phức tạp, chi phí bỏ ra và lợi ích mang lại không tương xứng nên
SCB chỉ áp dụng biện pháp này trong một số ít trường hợp.
Thứ ba, khởi kiện.
Biện pháp này được thực hiện sau cùng sau khi việc phát mãi TSĐB không
được, gặp tranh chấp trong việc phát mãi hay nguồn thu nhập từ việc phát mãi
không đủ để trả nợ vay thì SCB tiến hành khởi kiện. Công việc này cũng được phối
hợp thực hiện bởi phòng pháp chế.
2.3.1.2. Tuân thủ các quy định của NHNN
Các văn bản pháp luật về hoạt động tín dụng bao gồm luật các TCTD, quyết
định 1627 và 127 về việc sửa đổi, bổ sung 1627, quyết định 457 về tỷ lệ bảo đảm an
toàn của TCTD được các CBTD của SCB nắm rõ và áp dụng nó một cách chặt chẽ.
SCB tuân thủ nghiêm chỉnh quyết định 493 về phân loại nợ và trích lập dự
phòng của Thống đốc NHNN Lê Đức Thuý. Mỗi tháng các chi nhánh lập bảng báo
cáo về tình hình nợ, bao gồm các nhóm nợ từ 1 đến 5 và trích lập dự phòng (dự
phòng chung và dự phòng cụ thể) đầy đủ cho các nhóm nợ này và nộp cho phòng
quản lý rủi ro. Từ năm 2005 đến nay, SCB phân loại nợ theo điều 6 của Quyết định
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
39
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
493, tức vẫn dựa chủ yếu vào yếu tố định lượng. Từ khi có quyết định 18 bổ sung
quyết định 493 thì việc phân loại nợ tại SCB được thực hiện theo điều 6 của Quyết
định này.
2.3.2. Bàn thêm về các nguyên nhân gây ra nợ xấu tại SCB
Nợ xấu của SCB chiếm một tỷ lệ khá thấp, đảm bảo ổn định cho hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, là thấp chứ không phải là không có. Bàn về
các nguyên nhân gây ra các khoản nợ xấu cho ngân hàng, ngoài nguyên nhân xuất
phát từ một số điểm chưa được của các biện pháp hạn chế nợ xấu nói trên thì còn có
một số nguyên nhân sau:
2.3.3.1. Thông tin bất cân xứng
Hiện tại, tình trạng thông tin không minh bạch là vấn đề của toàn xã hội chứ
không riêng gì đối với một ngành kinh tế nào. Và tất nhiên ngân hàng cũng không
phải là một ngoại lệ. Tại SCB, nguồn thông tin sử dụng trong phân tích chủ yếu là
thông tin do khách hàng cung cấp, thông tin từ trung tâm TTTD (CIC). Ngoài ra,
CBTD còn tìm kiếm thông tin trên internet, các phương tiện thông tin đại chúng
như báo chí, truyền hình,… Các thông tin trên không phản ánh được đầy đủ tình
hình của khách hàng, dẫn đến rủi ro trong việc phân tích tín dụng là điều khó có thể
tránh khỏi. Nếu như khách hàng đã cố ý che dấu thông tin về mình thì dù cho có cố
gắng, CBTD vẫn rất khó khăn để tìm ra thông tin chính xác. Mặt khác, thông tin
CIC không phải lúc nào cũng phản ánh đúng tình hình quan hệ tín dụng của khách
hàng với các TCTD khác. Ở đây, lỗi không hoàn toàn thuộc về Trung tâm TTTD
mà các TCTD cũng có một phần lỗi là chưa báo cáo đầy đủ về khách hàng, còn xảy
ra tình trạng che dấu bớt thông tin. Ngoài ra, các thông tin từ báo chí cũng khó có
thể tin tưởng, vì mỗi nguồn cung cấp một số liệu khác nhau. Nếu muốn sử dụng thì
CBTD phải biết cách sàn lọc thông tin, tìm ra được các thông tin có độ tin cậy cao.
2.3.3.2. Năng lực của một số ít CBTD còn hạn chế
Trừ một số khách hàng có phát sinh nợ xấu bắt nguồn từ nguyên nhân khách
quan như công nợ khó đòi, khó khăn do thay đổi cơ chế, thay đổi chính sách tăng
trưởng của Nhà nước thì các khoản nợ xấu còn lại phát sinh từ khâu thẩm định
không kỹ càng của CBTD. Do không xác định được quy mô kinh doanh thực sự của
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
40
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
khách hàng, khả năng cạnh tranh của khách hàng đối với ngành nghề mà khách
hàng đang kinh doanh, không xác định được nguồn thu thực sự của khách hàng từ
đâu và về đâu để xác định được mức cho vay hợp lý và cách thức giám sát thích
hợp. Một số CBTD đôi khi còn hời hợt trong việc kiểm tra sử dụng vốn vay, dẫn
đến không phát hiện kịp thời những khó khăn của khách hàng ngay từ khi vừa nhen
nhóm. Mặt khác, tư cách khách hàng là yếu tố quan trọng gắn liền với thiện chí trả
nợ vay của khách hàng thường bị lãng quên trong quá trình thẩm định ban đầu.
Bên cạnh đó, việc theo dõi nợ nhóm 2 và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho
khách hàng không được CBTD quan tâm đúng mức.
Trong quan hệ vay vốn, việc chậm trả nợ là điều khó tránh khỏi. Vẫn biết,
chậm trả nợ dẫn đến gia hạn nợ phải xuất phát từ yếu tố khách quan, song một số ít
trường hợp lại xuất phát từ yếu tố chủ quan của chính người vay vốn. Điều đó
CBTD khó có thể biết được. Tuy nhiên, vẫn có nhiều trường hợp khách hàng đến
làm giấy đề nghị xin gia hạn nợ, CBTD chưa tìm hiểu nguyên nhân sâu xa mà đã
đồng ý với đề nghị của khách hàng. Nếu như khách hàng có nguyên nhân chính
đáng thì không có gì để bàn cãi. Nhưng ngược lại, nếu khách hàng cố tình chây ỳ,
có tiền nhưng không trả nợ thì xác suất phát sinh nợ xấu là rất cao.
Một nguyên nhân khác dẫn đến nợ xấu tại SCB xuất phát từ khâu theo dõi
nợ nhóm 2. Ở đây, việc theo dõi nợ nhóm 2 chưa được quan tâm một cách sâu sắc
và CBTD cũng chưa nhìn thấy được hậu quả do việc làm này gây ra. CBTD thường
gọi điện nhắc nhở khách hàng về món nợ sắp đến hạn. Khi đến hạn trả nợ mà khách
hàng vẫn chưa trả nợ thì CBTD tiếp tục gọi điện đôn đốc khách hàng và mới chỉ
dừng lại ở việc đôn đốc mà chưa tìm hiểu kỹ về nguyên nhân của việc chậm trả tạm
thời ấy. Việc làm này sẽ dần dần tạo tâm lý chủ quan cho khách hàng, đến khi quá
hạn nhiều ngày, phát hiện khách hàng thực sự suy giảm khả năng trả nợ thì nợ xấu
là điều khó có thể tránh khỏi và mọi biện pháp xử lý lúc này là quá trễ và kém tác
dụng.
2.3.3. Đánh giá về các biện pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại SCB
2.3.3.1. Điểm mạnh
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
41
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Theo kết quả phân tích ở trên, chúng ta phải thừa nhận rằng SCB đã và đang
áp dụng các biện pháp hạn chế và xử lý nợ xấu một cách hiệu quả, điều đó cho
chúng ta kết quả là tỷ lệ nợ xấu cũng như nợ quá hạn của Ngân hàng TMCP Sài
Gòn là khá thấp và đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh.
Một là, về chuyên môn hóa trong công việc. Các chi nhánh của SCB trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh được sự hỗ trợ tích cực trong các công việc có liên
quan đến TSĐB của các phòng ban, các tổ chức chuyên môn. Đó là phòng pháp chế
(Hội sở) hỗ trợ cho việc công chứng, đăng ký các giấy tờ liên quan đến TSĐB, xử
lý TSĐB khi rủi ro tín dụng xảy ra và việc định giá tài sản được thực hiện bởi công
ty Sài Gòn Phú Gia – một công ty chuyên về định giá. Như vậy, CBTD sẽ ít tốn thời
gian cho các công việc ấy.
Hai là, tuy SCB không có Sổ tay Tín dụng nhưng đã ban hành các văn bản
hướng dẫn cụ thể giúp CBTD hiểu rõ các công việc phải làm để hạn chế rủi ro.
Trong đó có các quy trình tín dụng ngắn hạn, trung dài hạn. quy chế bảo đảm tiền
vay, quy định về ủy quyền phán quyết tín dụng, quy định về tổ chức và hoạt động
của hội đồng tín dụng, xác định rõ quyền và trách nhiệm của CBTD. Chính các quy
trình này đã tạo ra các phòng tuyến trong và sau khi cho vay tại SCB.
Các quy trình này chủ yếu quy định các việc làm cụ thể trong từng giai đoạn
của quy trình tín dụng. Do đó, buộc CBTD phải thực hiện đầy đủ các bước, giúp
cho các công đoạn không bị bỏ sót, giảm thiểu được rủi ro, ngăn ngừa các khoản nợ
xấu đến mức có thể.
Ba là, về hệ thống lưu trữ thông tin, SCB hiện đang sử dụng phần mềm
Smartbank, mang lại nhiều tiện ích, từ đó tránh được sai sót xảy ra khi CBTD phải
làm quá nhiều việc bằng thủ công.
Bốn là, việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của NHNN cũng giúp ích rất
nhiều trong việc hạn chế rủi ro. Ví dụ như việc phân loại các nhóm nợ và trích lập
dự phòng hàng tháng đối với các nhóm nợ này đã tạo ra một nguồn xử lý các khoản
nợ xấu, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng bình thường. Ngoài ra,
các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong cho vay cũng được SCB tuân theo một cách triệt để,
như là không cho vay đối với một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có, tổng mức
cho vay và bảo lãnh đối với một khách hàng không vượt quá 25% vốn tự có…. Các
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
42
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
quy định trên của NHNN cuối cùng là để nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế rủi
ro đối với các NHTM. SCB thực hiện đúng các quy định này cũng là một biện pháp
quan trọng để giảm thiểu nợ xấu.
2.3.3.2. Điểm yếu
Dù rằng thực trạng nợ xấu hiện tại của SCB không phải là vấn đề bức xúc,
tuy nhiên qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, các rủi ro trong các biện pháp hạn
chế và xử lý nợ xấu của SCB không phải là không có, mà ngược lại có khi còn tiềm
ẩn nhiều rủi ro. Cụ thể ở một số điểm sau:
Thứ nhất, về phòng tuyến trước khi cấp tín dụng. Ở phòng tuyến này gặp
phải một số vấn đề như:Vấn đề tổ chức nhân sự cho hoạt động tín dụng, về phương
tiện vật chất và về chính sách tín dụng. SCB chưa có bộ phận kế toán tín dụng làm
công việc thu nợ khi đến kỳ trả nợ của khách hàng. Đây là công việc chiếm khá
nhiều thời gian của CBTD, làm cho quỹ thời gian bị thu hẹp và điều tất nhiên là
CBTD không còn nhiều thời gian để tập trung vào việc phân tích, thẩm định, đưa ra
quyết định cho vay một cách có hiệu quả nhất. Còn về phần mềm tín dụng
Smartbank, tuy giúp ích nhiều cho CBTD trong việc theo dõi, lưu thông tin…
nhưng nó vẫn còn rất nhiều hạn chế, gây tốn thời gian vô ích đối với CBTD, đặc
biệt là trong việc thu nợ theo định kỳ.
Việc áp dụng chấm điểm tín dụng chỉ mang tính hình thức, chưa thực sự làm
cơ sở để ra quyết định cho vay, phân nhóm nợ và trích lập dự phòng đối với từng
khoản vay. Việc ra quyết định cho vay vẫn phải tuân thủ theo quy trình cho vay của
SCB, vẫn dựa chủ yếu vào phương pháp phán đoán của CBTD.
Thứ hai, về phòng tuyến trong khi cấp tín dụng. Việc xây dựng hợp đồng tín
dụng vẫn chưa nổi bật được chức năng của nó, đó là chia sẻ được rủi ro, lợi ích và
kiểm soát rủi ro. Nội dung chủ yếu của hợp đồng tín dụng vẫn chỉ dừng lại ở mức
quy định quyền và nghĩa vụ của các bên mà thôi. Thiết nghĩ, đối với từng khách
hàng, với từng đặc điểm sản xuất kinh doanh cụ thể thì phải có những yêu cầu riêng
biệt để hạn chế được rủi ro. Ví dụ như cần quy định tỷ lệ hàng tồn kho tối thiểu để
có thể thích ứng với sự thay đổi của thị trường, hay tỷ lệ các khoản phải thu, khoản
phải trả như thế nào để cho dòng tiền không biến đông mạnh… Một điểm khác cần
lưu ý trong giai đoạn này là việc tái thẩm định các khoản vay vượt mức phán quyết
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
43
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
hay các khoản vay phức tạp tại SCB. Việc tái thẩm định được thực hiện bởi phòng
quản lý rủi ro tín dụng, tất nhiên sẽ giảm thiểu bớt rủi ro. Tuy nhiên, việc tái thẩm
định tại phòng này chỉ có chức năng như việc rà soát lại xem các bước có được thực
hiện đúng như trong quy trình hay không, tờ trình thẩm định có chỗ nào không hợp
lý hay không. Nhưng thiết nghĩ tái thẩm định thì trước hết phải am hiểu khách hàng
và có kiến thức sâu về lĩnh vực các lĩnh vực khác nhau thì mới có thể tái thẩm định
có hiệu quả. Đây là điều đáng quan tâm bởi vì các khoản vay lớn thì rủi ro có thể
xảy ra sẽ gây ra một hậu quả không nhỏ.
Đồng thời, kỹ thuật phân tích tín dụng còn gặp nhiều rủi ro. Tại SCB, cho
vay theo dự án được phân tích rất kỹ càng, theo quy trình thẩm định dự án rất bài
bản. Còn đối với việc cho vay theo hạn mức, việc xác định hạn mức đối với các
doanh nghiệp vẫn con đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi tại SCB. Hiện tại, SCB
đang xác định hạn mức dựa vào vòng quay vốn lưu động là chủ yếu. Cho vay theo
hạn mức tại SCB chưa thể hiện rõ bản chất của nó, mà đơn thuần vẫn là cho vay
luân chuyển. Xác định mức thiếu hụt hay dư thừa trong nguồn vốn của các doanh
nghiệp theo từng quý hay từng tháng để tìm ra hạn mức tín dụng vẫn chưa có giải
pháp hiệu quả. Một khi chưa xác định được nhu cầu vốn lưu động thực sự của
doanh nghiệp, khó kiểm soát được dòng tiền của doanh nghiệp sẽ đi đâu và về đâu
thì rủi ro là rất lớn. Tuy cho vay hạn mức tại SCB hiện nay không phải là nguyên
nhân chủ yếu gây ra nợ xấu, nhưng nó tiềm ẩn nhiều rủi ro, là nguyên nhân gây ra
các khoản nợ xấu của ngân hàng trong tương lai.
Thứ ba, việc phân tán rủi ro sau khi cấp tín dụng chưa được SCB quan tâm,
trong đó bao gồm việc bán một phần hay toàn bộ khoản tín dụng cho các tổ chức
mua bán nợ hay chứng khoán hoá các khoản vay. Các việc làm này không những
giảm bớt rủi ro cho SCB mà còn tạo ra nguồn vốn để cho vay mới. Cũng nói thêm
rằng, đây không phải là vấn đề của riêng SCB mà là của cả hệ thống ngân hàng Việt
Nam.
Thứ tư, việc phân tán rủi ro bằng các hoạt động khác chưa được chú trọng.
Đầu tư góp vốn hay kinh doanh chứng khoán chưa mang lại nhiều kết quả, bởi vì
phần vốn để thực hiện các hoạt động này còn quá ít ỏi, thể hiện qua thu nhập của
hoạt động đầu tư so với hoạt đông tín dụng chiếm một tỷ lệ rất nhỏ.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
44
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Bảng 2.5: Tỷ lệ thu nhập từ đầu tư và tín dụng (Đơn vị: tỷ đồng)
Yếu tố Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Thu từ lãi cho vay 189 268 690
Thu từ hoạt động đầu tư 0,072 0,595 0,816
Tỷ lệ thu nhập Đầu tư/Tín dụng
0,0381% 0,2220% 0,1183%
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2004, 2005, 2006 của SCB)
Ngoài ra, thu nhập từ hoạt động dịch vụ cũng chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong
tổng thu nhập của SCB (Biểu đồ 2.5). Trong khi hiện nay, các NHTM đang đẩy
mạnh hoạt động bán lẻ thì SCB vẫn chưa có sự chuyển dịch cơ cấu. Nếu như SCB
đẩy mạnh lĩnh vực dịch vụ thì rủi ro tín dụng sẽ được giảm thiểu tối đa, các khoản
nợ xấu cũng được hạn chế tương ứng.
Biểu đồ 2.5: BIỂU ĐỒ TỶ LỆ THU NHẬP NGOÀI LÃI TRÊN TỔNG THU NHẬP
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2004, 2005, 2006 của SCB)
7,09%
92,91%
6,93%
93,07%
6,37%
93,63%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Thu từ lãi
Thu ngoài lãi
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
45
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Tóm tắt chương 2
Ở chương này, em đã trình bày thực trạng nợ xấu của SCB, nhận xét về các
biện pháp hạn chế và xử lý nợ xấu mà ngân hàng đang áp dụng.
Qua quá trình phân tích ở trên, cần xác định lại một điều rằng, tỷ lệ nợ xấu
của SCB là rất thấp, tỷ lệ như thế là khá an toàn đối với hoạt động của ngân hàng
trong thời điểm hiện tại.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà không chú trọng đến các biện pháp đối với
giảm thiểu nợ xấu. Hiểu được đặc thù trong hoạt động tín dụng của SCB thì ta mới
có thể có một nhận định chính xác về vấn đề này. Đối với SCB, do quy mô tín dụng
còn quá nhỏ, quan hệ tín dụng chủ yếu được thực hiện với các khách hàng thân
thiết, có uy tín, có mối quan hệ lâu dài với SCB. Mặt khác, tỷ lệ nợ quá hạn không
thể hiện được chất lượng của các khoản tín dụng trung dài hạn chưa đến thời hạn trả
nợ hay đối với các khách hàng vay ngắn hạn, dù vẫn trả nợ gốc và lãi đúng hạn
nhưng biết đâu khách hàng đang cầm cự, vay tiền các TCTD khác để đảo nợ và đến
một lúc nào đó, khách hàng kiệt sức thì rủi ro đối với SCB là không thể tránh khỏi.
Do đó, về khách quan mà nói thì hoạt động tín dụng tại SCB còn tiềm ẩn nhiều rủi
ro. Đặc biệt là trong thời gian tới, với lộ trình tăng vốn điều lệ đã được xác định rõ
thì việc mở rộng quy mô tín dụng là điều đơn nhiên. Nhận thấy được tầm quan
trọng của vấn đề cũng như các kẽ hở trong các biện pháp hạn chế và xử lý nợ xấu
mà SCB đang áp dụng thì việc đưa ra các giải pháp là cực kỳ quan trọng, góp phần
tạo nên hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của SCB
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
46
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
3.1. GIẢI PHÁP DÀNH CHO SCB
3.1.1. Xây dựng các phòng tuyến cấp tín dụng một cách chặt chẽ
Hiện nay, SCB có các quy trình và các quy định tương đối đầy đủ và chặt
chẽ đối với hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, trong thời gian sắp tới, với việc lộ trình
tăng vốn điều lệ đã được hoạch định một cách cụ thể, rõ ràng, việc mở rộng hoạt
động kinh doanh của SCB là điều chắc chắn. Việc mở rộng quy mô hoạt động kinh
doanh tất yếu làm tăng quy mô hoạt động tín dụng. Vì các phòng tuyến cấp tín dụng
tại SCB còn nhiều điểm đáng lưu tâm, do đó, cần xây dựng lại hệ thống phòng
tuyến cấp tín dụng chặt chẽ hơn nữa để hạn chế tối đa các khoản nợ xấu, góp phần
vào quá trình phát triển của SCB. Các phòng tuyến ấy có thể được thể hiện trong sổ
tay Tín dụng của SCB trong tương lai.
3.1.1.1. Giải pháp cho phòng tuyến trước khi cấp tín dụng
Tổ chức nhân sự: Để hoạt động tín dụng thực sự mang lại hiệu quả cần
xây dựng bộ máy tổ chức nhân sự của hoạt động tín dụng với sự phân chia công
việc cụ thể, tạo sự chuyên môn hoá. Hiện nay, tại SCB đã có sự chuyên môn hoá
nhưng chưa sâu và chủ yếu chỉ áp dụng đối với sở giao dịch, các chi nhánh, các
phòng giao dịch trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, còn tại các chi nhánh, các
phòng giao dịch ở các địa bàn khác thì chưa áp dụng.
- Tại Hội Sở chính SCB: Hiện tại, SCB đã cơ cấu lại mô hình tổ chức hoạt
động tương đối chặt chẽ, nhiệm vụ của các phòng ban đã được xác định cụ thể, rõ
ràng (Sơ đồ 3.1.) Tuy nhiên, việc thực hiện các nhiệm vụ ấy không phải có thể tiến
hành ngay lập tức mà phải cần phải có thời gian, bởi vì đây là một cơ cấu tổ chức
hoàn toàn mới mà SCB đang muốn xây dựng trong quá trình cải tổ của mình. Hội
đồng quản trị cũng như ban Tổng giám đốc cần có các chính sách cụ thể để các
phòng ban này mau chóng thực hiện nhiệm vụ của mình, quản lý hoạt động tín dụng
trong toàn hệ thống ngân hàng một cách có hiệu quả, góp phần hạn chế rủi ro.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
47
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ tổ chức hoạt động tín dụng tại Hội sở
- Thực hiện chuyên môn hóa công việc tại phòng tín dụng tại Sở giao dịch
và các chi nhánh theo mô hình như sau:
Sơ đồ 3.2: Sơ đồ tổ chức hoạt động tín dụng tại Sở giao dịch, chi nhánh
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
48
Phòng tín dụng tại Sở giao dịch, Chi nhánh
Bộ phận quan hệ
khách hàng
Bộ phận thẩm định
TSĐB
Bộ phận phân tích tín dụng
Bộ phận quản lý và thu hồi nợ
Hội đồng quản trị
Tổng Giám Đốc
Phó Tổng Giám Đốc khối doanh nghiệp
Phó Tổng Giám Đốc khối bán lẻ
Phó Tổng Giám Đốc phụ trách quản trị rủi ro
P. Kinh doanh doanh nghiệp nhỏ
P. Kinh doanh doanh nghiệp vừa và lớn
P. Bán sĩ, đầu tư trực tiếp và kinh doanh chứng khoán
P. Tín dụng Tiêu dùng
P. Tiết kiệm và huy động vốn
P. Quản lý rủi ro tín dụng
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
+ Bộ phận thẩm định TSĐB: Công việc của bộ phận này là định giá
TSĐB và thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật về TSĐB như công
chứng, đăng ký giao dịch đảm bảo và việc xử lý TSĐB để thu hồi nợ xấu trên toàn
hệ thống SCB.
Việc định giá tài sản không phải là công việc đơn giản. Công việc này
cần tới những chuyên gia am hiểu về thị trường, đặc biệt là đối với lĩnh vực bất
động sản. Định giá tài sản bảo đảm phải dựa trên giá thị trường, mà giá thị trường là
do quan hệ cung cầu quyết định. Do đó, những người làm công việc định giá phải
có kiến thức rộng, biết phân tích nhu cầu của thị trường, các yếu tố ảnh hưởng đến
cung - cầu của TSĐB thì mới có thể đưa ra một mức giá đáng tin cậy. Cho dù giá trị
TSĐB không phải là căn cứ chính để xác định mức cho vay nhưng việc lựa chọn và
định giá TSĐB cũng là một công việc hết sức quan trọng, góp phần hạn chế rủi ro
tín dụng, và là nguồn thu nợ khi rủi ro tín dụng xảy ra. Hiện nay, việc thẩm định giá
TSĐB gây nhiều khó khăn đối với CBTD của các NHTM nói chung và của SCB
nói riêng. Lý do là CBTD chưa đủ kinh nghiệm cũng như kiến thức định giá. Do đó,
cần phải nhờ đến một tổ chức chuyên môn, họ sẽ giúp chúng ta xác định giá trị của
TSĐB dựa trên sự phân tích, nghiên cứu thị trường. Từ đó có nhận định chính xác
hơn về của TSĐB và có thể đưa ra một quyết định tín dụng phù hợp.
Đồng thời, việc công chứng các giấy tờ có liên quan đến việc cầm cố,
thế chấp TSĐB cũng như việc xử lý các TSĐB để thu hồi các khoản nợ có khả năng
mất vốn chiếm rất nhiều thời gian của CBTD. Công việc này đòi hỏi người thực
hiện phải có sự hiểu biết kỹ càng, nắm vững các văn bản pháp luật có liên quan và
phải luôn luôn cập nhật các văn bản, quyết định, nghị định mới. Tất nhiên CBTD
cũng phải có kiến thức, tuy nhiên, hệ thống văn bản pháp luật của nước ta hiện nay
chưa được ổn định mà thường xuyên có sự điều chỉnh, thay đổi. Do đó, để hoạt
động tín dụng tại thực sự hiệu quả thì cần có một ban chuyên trách làm các công
việc công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm khi có phát
sinh xảy ra.
+Bộ phận quan hệ khách hàng. Bộ phận này sẽ có nhiệm vụ tìm kiếm
và chăm sóc khách hàng. Việc tìm kiếm khách hàng được thực hiện bằng các cách
như gửi thư, email, gọi điện, tiếp xúc trực tiếp với khách hàng tại địa điểm kinh
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
49
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
doanh của họ, tìm hiểu nhu cầu vốn của họ để có thể đưa ra các sản phẩm tín dụng
phù hợp với các nhu cầu ấy. Đồng thời, nhóm này cũng thực hiện luôn nhiệm vụ
tiếp nhận và hoàn thiện hồ sơ của khách hàng, bao gồm các khách hàng tìm kiếm
được cũng như các khách hàng tự tìm đến mình. Chăm sóc khách hàng cũng là một
biện pháp hữu hiệu trong hạn chế rủi ro. Tạo được các mối quan hệ tốt với khách
hàng, hiểu được nhu cầu của khách hàng và đáp ứng các nhu cầu ấy sẽ tạo điều kiện
thuận lợi hơn trong việc tìm kiếm và nâng cao chất lượng nguồn thông tin.
+Bộ phận phân tích tín dụng: công việc của bộ phận này là phân tích
tín dụng dựa vào các thông tin từ bộ phận quan hệ khách hàng và các thông tin tự
thu thập được từ các nguồn khác. Sau khi phân tích, bộ phận này đưa ra quyết định
tín dụng để trình cấp lãnh đạo.
+Bộ phận quản lý và thu hồi nợ: Công việc của bộ phận này là giải
ngân, kiểm tra, giám sát sau khi cho vay, phân loại nhóm nợ và có các biện pháp
quản trị phù hợp đối với từng nhóm; bộ phận này cũng kiêm luôn việc thu gốc, lãi,
phí của các khoản nợ, bao gồm các khoản trả trước hạn, đến hạn và các khoản quá
hạn.
Xây dựng một hệ thống lưu trữ TTTD tốt, có hiệu quả. Để làm được
như vậy thì cần có một chương trình phần mềm hỗ trợ và hệ thống máy vi tính hiện
đại. SCB cũng đang trong quá trình chọn nhà thầu để viết chương trình khác để thay
thế cho chương trình Smartbank vì nó có quá nhiều nhược điểm. Thiết nghĩ với việc
trang bị lại hệ thống máy vi tính, tốc độ xử lý nhanh, chương trình mới có thể khắc
phục được các nhược điểm của chương trình cũ, lưu giữ thông tin một cách hệ
thống, khi cần đến thì có thể truy cập một cách nhanh chóng, dễ dàng. SCB cần
nhanh chóng tìm nhà thầu viết chương trình phần mềm này để tiết kiệm thời gian vì
hiện tại, CBTD đang tiêu tốn rất nhiều thời gian cho các thao tác trên phần mềm
Smartbank.
Xây dựng chính sách tín dụng cụ thể cho từng chi nhánh, trong đó,
đặc biệt chú trọng đến ngành nghề, lĩnh vực kinh tế mà chi nhánh nên đẩy mạnh đầu
tư ứng với từng địa bàn hoạt động. Việc đưa ra thị trường mục tiêu cho từng chi
nhánh là rất quan trọng, giúp các chi nhánh tập trung nguồn lực vào những ngành
nghề chính, tìm hiểu sâu về các ngành nghề ấy. Một khi đã có kiến thức sâu rộng về
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
50
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
ngành nghề mà mình cho vay thì sẽ giảm thiều được rất nhiều rủi ro, nâng cao hiệu
quả cho công tác tín dụng. SCB nên lựa chọn những ngành nghề kinh doanh thế
mạnh của từng địa phương để đầu tư. Song song với việc làm này, vấn đề quản trị
danh mục đầu tư vẫn cần được chú trọng. Quản trị danh mục tín dụng tức là phân
tán danh mục, không nên tập trung quá nhiều vào một lĩnh vực, một ngành nghề,
bởi như thế thì thiệt hại khi rủi ro xảy ra là rất cao. Hiện nay, SCB có một bộ phận
chuyên quản lý danh mục, đó là phòng Quản lý Rủi Ro Tín Dụng. Tuy nhiên, công
tác thực hiện vẫn còn hạn chế vì nhiều nguyên nhân như phần mềm quản lý không
hiệu quả, nhân sự còn quá trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm và tầm nhìn còn hạn chế.
Do đó, cần khắc phục những điểm trên để có thể đẩy nhanh thực hiện công việc này
tại SCB, góp phần hạn chế rủi ro, cũng tức là hạn chế nợ xấu cho ngân hàng.
Áp dụng một cách đồng bộ và có hiệu quả hệ thống xếp hạng tín
nhiệm khách hàng
Hiện nay, tuy SCB đã có quy định rõ ràng về việc chấm điểm và xếp hạng
khách hàng, tuy nhiên, việc áp dụng còn rất nhiều hạn chế. Cần nhắc lại rằng, xây
dựng hệ thống tín nhiệm nội bộ là một công việc quan trọng, nó giúp ích rất nhiều
cho giai đoạn ra quyết định tín dụng và phân loại khoản vay, từ đó có một chính
sách dự phòng hợp lý, đủ để bù đắp nếu rủi ro tín dụng xảy ra. Vì thế, giải pháp
dành cho SCB là áp dụng chấm điểm khách hàng đồng bộ trên toàn hệ thống, đồng
thời việc chấm điểm này phải giúp ích cho việc phân tích, ra quyết định và phân
loại khoản vay. Bởi vì, nếu chấm điểm tín dụng mà không dùng kết quả ấy phục vụ
cho hoạt động tín dụng thì việc làm ấy không có ý nghĩa gì.
Việc xếp hạng tín nhiệm nên được áp dụng ngay từ bây giờ, trên tất cả các
chi nhánh, phòng giao dịch của SCB. Trước hết, nên áp dụng việc chấm điểm tín
dụng theo quy trình mà SCB đã ban hành. Nếu áp dụng một cách rộng rãi trên toàn
hệ thống thì mới có thể đánh giá được ưu, nhược điểm của quy trình này. Từ các ưu,
nhược điểm đó mới có thể đưa ra các giải pháp giúp cho hệ thống xếp hạng tín
nhiệm ngày càng hoàn thiện hơn.
3.1.1.2. Giải pháp cho phòng tuyến trong khi cấp tín dụng
Công tác thu thập thông tin: Thông tin trong hoạt động tín dụng là rất
quan trọng, hỗ trợ rất nhiều cho giai đoạn phân tích tín dụng. CBTD tại SCB cần
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
51
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
tăng cường việc thu thập thông tin qua các kênh như: báo chí, internet, khách hàng,
đối tác của khách hàng, trung tâm TTTD CIC. Việc thu thập các thông tin này cần
được tiến hành một cách thường xuyên để nắm bắt được tình hình thị trường, sự
biến động của các yếu tố làm ảnh hưởng đến thị trường, các thông tin về khách
hàng vay vốn. Việc thu thập thông tin này vừa là để CBTD có cái nhìn tổng quát đối
với nền kinh tế (thị trường, giá cả, lạm phát, lãi suất), vừa là để có cái nhìn cụ thể,
sâu hơn đối với từng khách hàng vay vốn. Như vậy, công việc phân tích tín dụng sẽ
mang lại hiệu quả hơn.
Để công tác thu thập thông tin thực sự mang lại hiệu quả, cần thực hiện một
số giải pháp sau:
- Quán triệt đến tất cả cán bộ để mọi người nhận thấy được vai trò, tác dụng
của những thông tin trên báo chí liên quan đến hoạt động ngân hàng nói chung và
khách hàng nói riêng.
- Việc thu thập, xử lý nguồn thông tin từ báo chí phải được thực hiện thường
xuyên và có sự sàng lọc kỹ càng.
- Xây dựng hệ thống thông tin thu thập được trên báo chí đảm bảo tính đồng
nhất về nội dung thông tin; Nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng thông tin trên
báo chí của CBTD; Hoàn thiện kỹ năng sử dụng thông tin trên báo chí trong thẩm
định khách hàng tại cơ sở.
- CBTD phải không ngừng hoàn thiện kỹ năng sử dụng hệ thống thông tin trên
báo chí phục vụ tốt công tác, nhằm rút ngắn thời, hỗ trợ tốt trong thẩm định khách
hàng;
- Thiết lập mối quan hệ với một số cơ quan thông tấn báo chí nhằm nắm bắt
thêm những thông tin có liên quan đến công tác tín dụng.
- Ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại trong cập nhật thông tin từ nhiều ấn
phẩm báo chí trong nước và báo chí nước ngoài.
- Ngoài ra hệ thống thông tin quan trọng gồm các văn bản quy phạm pháp luật
mới nhưng Ngành chưa có hướng dẫn trong khi các phương tiện thông tin đại chúng
và báo chí đã đăng tải, hay có những ý kiến xoay quanh nó, CBTD cần quan tâm,
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
52
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
nghiên cứu trước. Đây là những cơ sở pháp lý để những người làm công tác tín
dụng sử dụng phục vụ cho việc thẩm định khách hàng vay vốn.
- Trong xã hội hiện đại, có tới 70-80% thông tin là do các phương tiện truyền
thông nói chung và báo chí nói riêng mang lại. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta
đang trong quá trình đổi mới, các chính sách điều hành, quản lý nền kinh tế chưa
hoàn thiện, hệ thống TTTD chưa đáp ứng kịp thời cho hoạt động tín dụng và công
tác thẩm định khách hàng vay vón. Do đó, rủi ro thiếu thông tin về khách hàng và
môi trường cho vay rất dễ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
- Xuất phát từ những yêu cầu thực tế này, đòi hỏi những người làm công tác
tín dụng cần xây dựng hệ thống thông tin chuyên môn phục vụ cho công tác tín
dụng. Trong hệ thống thông tin trên, nguồn thông tin trên báo chí là không thể
thiếu. Việc xây dựng hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng có quan hệ với ngân
hàng và sử dụng hiệu quả những thông tin trên trong thẩm định sẽ giảm bớt được
yếu tố chủ quan trong việc thẩm định khách hàng, góp phần nâng cao chất lượng
công tác tín dụng.
Kỹ thuật phân tích tín dụng: Điểm nổi bật tại SCB là kỹ thuật xác định
hạn mức tín dụng trong cho vay ngắn hạn. Để việc cho vay theo hạn mức mang lại
hiệu quả, hạn chế rủi ro thì cần chú trọng hơn đến kỹ thuật phân tích. Hiện tại, việc
xác định hạn mức và thời hạn trả nợ đối với loại hình cho vay này còn tiềm ẩn nhiều
rủi ro. Do đó, SCB nên nhanh chóng cải tiến phương pháp xác định hạn mức, từ
việc xác định dựa vào vòng quay vốn lưu động chuyển sang xác định dựa vào lưu
chuyển tiền tệ. Khi xác định hạn mức tín dụng dựa vào lưu chuyển tiền tệ thì chúng
ta sẽ xác định được dòng tiền của doanh nghiệp đi đâu, về đâu, trong khoảng thời
gian bao lâu. Do đó, việc sử dụng kỹ thuật này sẽ xác định đúng nhu cầu vốn lưu
động, dự toán được dòng tiền, đảm bảo được nguồn trả nợ vay của doanh nghiệp,
tránh được tình trạng doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, hạn chế được nhiều
rủi ro cho ngân hàng. Tuy nhiên, để xác định được dòng tiền ròng của doanh nghiệp
thì thông tin đóng một vai trò quan trọng. CBTD cần phải có trình độ, kinh nghiệm,
biết cách sàn lọc thông tin, tìm ra các thông tin đáng tin cậy để sử dụng. Do đó, cần
đẩy mạnh công tác thu thập và xử lý thông tin, như thế mới mang lại hiệu quả cho
việc xác định hạn mức theo lưu chuyển tiền tệ.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
53
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Đồng thời, cần chú trọng đến công tác tái thẩm định của phòng quản lý rủi ro
tín dụng. SCB đã có các quy định cụ thể về các khoản vay như thế nào thì cần phải
tái thẩm định, trình hội đồng tín dụng. Công việc tái thẩm định cần được tiến hành
một cách cẩn thận, phải rà soát lại tất cả các bước trước khi cấp tín dụng và đặc biệt
là quá trình phân tích tín dụng của các chi nhánh. Để công tác tái thẩm định thực sự
có hiệu quả, nên nâng cao trình độ của CBTD tại phòng này. CBTD phải thực sự có
hiểu biết sâu rộng, có bề dày kinh nghiệm thì mới có thể nhìn ra các vấn đề của
khoản vay. Như thế mới có thể đưa ra các biện pháp quản lý thích hợp.
Vấn đề xây dựng hợp đồng tín dụng: Hợp đồng tín dụng không những
là thỏa thuận của bên vay và bên cho vay trong việc trả nợ và việc xử lý các phát
sinh xảy ra khi bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ của mình mà cón là
công cụ để chia sẻ lợi ích và rủi ro, giúp ngân hàng có thể kiểm soát được rủi ro.
Thiết nghĩ, việc quy định một tỷ lệ tối thiểu đối với hàng tồn kho, các khoản phải
thu, các khoản phải trả đối với từng doanh nghiệp, tương ứng từng ngành nghề kinh
doanh trong hợp đồng tín dụng là cần thiết. Bởi vì đây là các khoản ảnh hưởng trực
tiếp đến lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp. Nếu như không xác đinh một mức tối
thiểu cho các khoản mục ấy thì rủi ro xảy ra là rất lớn. Vì thế, việc quy định cụ thể
trong hợp đồng tín dụng sẽ là một công cụ hữu ích giúp ngân hàng hạn chế rủi ro,
dự tính được trường hợp xấu nhất cói thể xảy ra với mình để có thể có các biện
pháp quản trị phù hợp.
3.1.1.3. Giải pháp cho phòng tuyến sau khi cấp tín dụng
Sau khi cấp tín dụng, tức là sau khi đã giải ngân cho khách hàng, trách
nhiệm của CBTD lại càng nặng nề hơn. Việc phân tích để đưa ra quyết định cho
vay là rất quan trọng, đòi hỏi CBTD mất nhiều thời gian, song việc theo dõi giám
sát sau khi cho vay cũng đòi hỏi sự cẩn thận không kém. Công việc này diễn ra
trong suốt thời gian vay vốn của khách hàng, đòi hỏi CBTD phải theo dõi thường
xuyên, không được lơ là trong việc giám sát khách hàng.
Phòng tuyến này có thể được xây dựng theo Sơ đồ 3.2.
3.1.1.3.1. Nhận diện các dấu hiệu cảnh báo:
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
54
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Theo sơ đồ trên, CBTD của bộ phận quản lý và thu hồi nợ của phòng tín
dụng tại các chi nhánh, sở giao dịch và phòng quản lý rủi ro tín dụng sẽ là người
thực hiện các phòng tuyến sau khi cấp tín dụng.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
55
Quyết
định tín dụng
Nhận
diện các dấu hiện cảnh
báo
Thu thập
thông tin
Phân tích tình
hình qua các dấu hiệu
Phân
loại khoản vay
Khoản vay nhóm 1
Khoản vay nhóm
2→5
Biện
pháp
phòng
ngừa
Biện
pháp
khắc
phục
Biện
pháp
xử lý
Bổ sung TS ĐB
Cơ cấu nợ
Thu hồi nợ
Phát
mại tài sản
Các biện pháp khuyế
n khích trả nợ
Bán nợ
Khởi
kiện
Xử lý rủi ro
Quản lý, giám sát
Rà soát TSĐB
Hoàn thiện hồ sơ
pháp lý
Điề
u ch
ỉnh
kỳ h
ạn n
ợ
Sơ
đồ
3.3:
Sơ
đồ
theo
dõi
kh
oản
vay
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Các dấu hiệu phát sinh rủi ro từ phía khách hàng: nhóm các dấu hiệu này
được bộ phận quản lý và thu hồi nợ của phòng tín dụng chi nhánh, sở giao
dịch theo dõi và xử lý.
● Nhóm dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng:
- Trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với ngân hàng trong quá
trình kiểm tra theo định kỳ hoặc kiểm tra đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình
hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng mà không có sự giải
thích minh bạch và thuyết phục;
- Chậm gửi hoặc trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu mà
không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục;
- Chậm thanh toán các khoản lãi khi đến hạn; thanh toán các khoản nợ
gốc không đầy đủ, không đúng hạn;
- Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả
hoặc khách hàng không muốn trả nợ do việc tiêu thụ hàng hoá, thu hồi công nợ
chậm hơn dự tính;
- Mức độ vay thường xuyên gia tăng, thường yêu cầu các khoản vay
vượt quá nhu cầu dự kiến;
- Giá trị tài sản bị giảm sút so với khi định giá cho vay, có dấu hiệu tài
sản đã cho người khác thuê, bán hay trao đổi;
- Có dấu hiệu sử dụng nhiều khoản tài trợ ngắn hạn để đầu tư dài hạn;
- Chấp nhận sử dụng vốn với lãi suất cao, với mọi điều kiện;
- Có dấu hiệu tìm kiếm nguồn tài trợ vốn lưu động từ nhiều nguồn
khác, đặc biệt là đối thủ cạnh tranh của ngân hàng.
● Nhóm dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính
và hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng:
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
56
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
- Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức
dự kiến mà khách hàng đề nghị cung cấp;
- Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức
độ hoạt động của khách hàng;
- Xuất hiện ngày càng nhiều các khoản chi phí bất hợp lý như sự gia
tăng đột biến trong chi phí quảng cáo, tiếp khách, các chi phí không cần thiết khác;
- Thay đổi thường xuyên tổ chức của ban điều hành, xuất hiện bất
đồng, mâu thuẫn trong quản trị điều hành;
- Khó khăn trong việc phát triển sản phẩm, dịch vụ mới;
- Tung ra thị trường các sản phẩm dịch vụ quá sớm khi chưa hội đủ các
điều kiện chín muồi hoặc đặt ra hạn mức thời gian kinh doanh, doanh số không thực
tế;
Các dấu hiệu xuất phát từ chính sách tín dụng của ngân hàng: Nhóm các
dấu hiệu này sẽ được theo dõi bởi phòng quản lý rủi ro tín dụng.
- Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng và năng
lực kiểm soát cũng như nguồn vốn của ngân hàng;
- Soạn thảo các điều kiện trong hợp đồng mập mờ, không rõ ràng,
không xác định rõ lịch trả nợ đối với từng khoản vay;
- Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng không
thuộc phân đoạn thị trường tối ưu của Ngân hàng;
Hồ sơ tín dụng không đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đủ các quy định về
phê duyệt tín dụng;
3.1.1.3.2. Phân loại khoản vay:
Sau khi cho vay, CBTD tiến hành theo dõi khoản vay một cách kỹ lưỡng.
Khi nhận thấy các dấu hiệu cảnh báo trên, CBTD tiến hành thu thập và xử lý các
thông tin, tìm hiểu nguyên nhân của các dấu hiệu, và kết quả cuối cùng là phải đưa
ra được nhận định chính xác về nguyên nhân của các dấu hiệu đó. Từ những nhận
định đó, CBTD tiến hành phân loại khoản vay. Đây là cách phân loại theo phương
pháp định tính. Cách phân loại này đòi hỏi Ban lãnh đạo công tác tín dụng cũng như
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
57
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
CBTD - người trực tiếp thực hiện công việc này cần phải có những nỗ lực nhất
định. Việc phân loại khoản vay theo phương pháp này có thể được thực hiện thông
qua hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ đối với từng khách hàng. Nếu như SCB
thực hiện việc chấm điểm và xếp hạng khách hàng một cách đồng bộ thì việc phân
loại khoản vay đơn giản hơn.
Hiện nay, việc phân loại khoản vay tại SCB đang thực hiện theo điều 6 quyết
đinh 493 của NHNN, sắp tới sẽ tiến hành phân loại theo điều 6 nghị định 18 của
NHNN về việc sửa đổi quyết định 493 (theo phương pháp định lượng). Tuy nhiên
việc phân loại theo phương pháp định lượng sẽ không hạn chế được rủi ro, mà chỉ
phân loại khi sự việc đã xảy ra rồi, tức là khi nhận thấy các khoản nợ đã quá hạn
mới tiến hành phân loại nợ. Do đó, phân loại theo phương pháp định tính rất cần
thiết. Khi có đủ căn cứ thì ngân hàng có thể phân loại khoản vay mà không cần
quan tâm đến việc khoản vay đã quá hạn chưa, quá hạn bao nhiêu ngày, đã cơ cấu
hay điều chỉnh lại kỳ hạn trả nợ bao nhiêu lần …
3.1.1.3.3. Biện pháp quản lý đối với từng nhóm nợ
Sau khi phân loại khoản vay, tiến hành thực hiện các biện pháp quản trị phù
hợp.
Thứ nhất, đối với các khoản vay được phân nhóm 1, vẫn tiếp tục theo dõi
định kỳ. Nếu phát hiện thấy có dấu hiệu cảnh báo thì tiến hành phân loại lại. Cứ như
vậy, sơ đồ quản lý sẽ được thực hiện một cách liên tục, không bị đứt quãng. Nếu
như có thể, SCB nên thực hiện bán một phần các khoản nợ này. Một mặt, đáp ứng
nhu cầu vốn, nắm bắt cơ hội đối với các khách hàng tốt, mặt khác, tránh được các
rủi ro có thể phát sinh vì các nguyên nhân khách quan mà ngân hàng không thể
kiểm soát được.
Thứ hai, đối với khoản vay bị phân xuống nhóm 2 cần đưa ra các biện pháp
phòng ngừa như sau:
- Quản lý, giám sát khoản vay: thực hiện ngay việc giám sát và thu thập các
báo cáo tài chính mới nhất của khách hàng cũng như các thông tin về tình hình tài
chính và các thông tin cần thiết khác có liên quan để giám sát khoản vay một cách
chặt chẽ để xem người vay có dấu hiệu tiến triển tốt hay không. Khi nhận thấy sự
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
58
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
bất ổn của khách hàng thì cần xác định rõ nguyên nhân của nó, là tạm thời hay do
tài chính yếu kém hay do thị trường hay do yếu kém trong quản lý…
- Rà soát lại TSĐB nợ vay của khách hàng: Trong trường hợp khoản vay bị
đánh giá xuống hạng, ngân hàng phải rà soát và đánh giá lại ngay TSĐB của khách
hàng. Ngân hàng cần xem xét đánh giá liệu TSĐB có bán được trong điều kiện kinh
doanh bình thường hay không, nếu bán trong điều kiện kinh doanh không bình
thường thì như thế nào?
- Hoàn thiện hồ sơ pháp lý: Ngân hàng cần rà soát lại ngay hồ sơ pháp lý
khoản vay, trong trường hợp hồ sơ pháp lý chưa chặt chẽ hoặc cần phải bổ sung,
ngân hàng cần phải bổ sung một cách đầy đủ.
- Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ: khi tìm hiểu sâu sắc nguyên nhân của các dấu
hiệu trên, ngân hàng nhận thấy khách hàng vẫn có thể trả được nợ trong thời hạn
vay vốn, ngân hàng tiến hành điều chỉnh kỳ hạn trả nợ để thuận tiện cho việc trả nợ
của khách hàng (ví dụ như khách hàng sẽ trả nợ tại thời điểm có dòng tiền vào).
Thứ ba, đối với các khoản vay bị phân xuống nhóm 3 và nhóm 4, cần đưa
ra các biện pháp khắc phục như sau:
- Yêu cầu bổ sung TSĐB nợ vay: ngay khi khoản vay có nguy cơ là có vấn
đề, ngân hàng phải tìm mọi cách để tăng thêm TSĐB, cần xác định tài sản thế chấp
có thể bán được hoặc chuyển đổi ngay sang tiền mặt mà không ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hoạt động kinh doanh của con nợ.
- Xác định phương án cơ cấu nợ: nếu ngân hàng quyết định tiếp tục quan hệ
với khách hàng thì ngân hàng sẽ cơ cấu lại khoản nợ. Tuy nhiên, nếu cơ cấu nợ một
cách tùy tiện thì nguy cơ phát sinh các khoản nợ xấu lại càng cao hơn. Do đó, để
thực hiện hiệu quả cơ cấu lại thời hạn trả nợ, hạn chế rủi ro và nâng cao chất lượng
của từng khoản vay, CBTD không chỉ căn cứ vào đơn xin cơ cấu của khách hàng
vay mà phải yêu cầu khách hàng gửi kèm theo các tài liệu chứng minh nguyên nhân
không trả được nợ đúng hạn, khả năng trả nợ trong thời gian xin cơ cấu lại thời hạn
trả nợ. Trên cơ sở các tài liệu của khách hàng, CBTD cần tiến hành kiểm tra tình
hình tài chính (phân tích công nợ, nguồn và khả năng thanh toán nợ của khách
hàng). Xem xét kỹ khả năng phát huy hiệu quả của dự án so với công suất thiết kế
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
59
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
(nếu là khoản vay trung, dài hạn) và những lý do làm ảnh hưởng nguồn trả nợ ,
kiểm tra nguyên nhân xin cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xem xét khách hàng có khả
năng đảm bảo được nguồn trả nợ trong các kỳ hạn tiếp theo (nếu là điều chỉnh lỳ
hạn trả nợ) hoặc trong một khoản thời gian nhất định sau thời hạn cho vay (nếu gia
hạn nợ) hay không; phân tích những tác động gây ảnh hưởng bất lợi do phải kéo dài
thời gian cho vay. Đặc biệt, không cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với mọi trường
hợp do nguyên nhân chủ quan như: khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích,
thường xuyên vi phạm hợp đồng tín dụng, ý thức trả nợ kém…Đồng thời, nội dung
quy định cơ cấu lại thời hạn trả nợ của SCB phải thống nhất trong toàn hệ thống,
đảm bảo tính chặt chẽ, phản ánh đúng bản chất khoản vay. Vì vậy, quy trình cơ cấu
lại thời hạn trả nợ phải được SCB xây dựng cụ thể các bước thực hiện, nhiệm vụ
mỗi cấp, mỗi cá nhân, bộ phận, hồ sơ xin cơ cấu lại thời hạn trả nợ bao gồm những
tài liệu gì, điều kiện, nguyên nhân nào thì mới được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, số lần
xét cho cơ cấu, có được cho điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ
được mấy lần khi khách hàng không không thực hiện trả nợ theo cam kết của các kỳ
hạn trước… Bên cạnh đó, các quy định cũng phải xác định rõ trách nhiệm và xử lý
nghiêm chỉnh đối với những cá nhân có liên quan đến việc thực hiện cơ cấu lại thời
hạn trả nợ, cố ý làm sai quy trình, quy định, thủ tục, gây tăng nguy cơ rủi ro.
- Thu hồi nợ: Khi đã rà soát khoản vay một cách cẩn thận và kỹ lưỡng mà
ngân hàng nhận thấy không thể phục hồi khoản vay, khi đó ngân hàng nên chọn giải
pháp không tiếp tục cho vay nữa mà phải thu hồi các khoản vay trước. Ngân hàng
phải cố gắng bằng mọi cách để có thể thu hồi được gốc, lãi, phí.
Thứ tư, nếu khoản vay bị phân xuống vào nhóm 5, ngân hàng nên nhanh
chóng áp dụng các giải pháp: phát mại tài sản, trả nợ thay, khởi kiện, bán nợ cho
công ty mua bán nợ, các biện pháp khuyến khích trả nợ, xử lý bằng quỹ dự phòng
rủi ro. Trong các giải pháp trên, cần chú trọng đến việc bán các khoản nợ xấu cho
công ty mua bán nợ. Hiện tại, Việt Nam đã có công ty mua bán nợ của Bộ Tài
Chính – DATC. Song, công ty này chỉ chuyên mua lại các khoản nợ xấu của các
NHTM quốc doanh, các doanh nghiệp nhà nước đang trong tiến trình cổ phần hóa.
Tuy nhiên, trong tương lai, rất có thể Chính phủ sẽ cải cách công ty này thành một
công ty mua bán nợ chuyên nghiệp, xử lý cả các khoản nợ tồn đọng của nền kinh tế.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
60
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Đây là một giải pháp mang lại hiệu quả đối với việc xử lý nợ xấu của các NHTMCP
bởi vì việc phát mại tài sản, việc khởi kiện doanh nghiệp sẽ tiêu tốn rất nhiều thời
gian và chi phí làm cho lợi ích mang lại (nếu có) cũng đã giảm đi rất nhiều.
Ngoài giải pháp trên, thiết nghĩ việc thành lập công ty quản lý nợ của Ngân
hàng TMCP Sài Gòn (AMC SCB) cũng là cần thiết, nó sẽ mang lại rất nhiều lợi ích
cho ngân hàng. Nhiệm vụ của công ty này là tiếp nhận và xử lý các khoản nợ xấu
của ngân hàng. Việc xử lý sẽ được thực hiện theo 2 hướng: thứ nhất là xử lý TSĐB
để thu hồi nợ, thưa hai là vực dậy doanh nghiệp. Do là công ty con nên khi bán các
khoản nợ xấu của SCB cho AMC SCB, ngân hàng vẫn có thể tối đa hóa lợi nhuận
nếu như AMC xử lý các khoản nợ xấu này có lời.
Trước hết, khi xử lý TSĐB, công ty sẽ có nhiều thời gian hơn, có đội ngũ cán bộ
chuyên nghiệp am hiểu thị trường, mà đặc biệt là thị trường bất động sản, vì hiện
nay, TSĐB chủ yếu cho các khoản vay tại ngân hàng là bất động sản. Do đó, việc
xử lý TSĐB sẽ linh hoạt hơn, tùy vào thời điểm mà có thể phát mãi TSĐB sao cho
có lợi nhất.
Ngoài ra, nên đào tạo đội ngũ nhân viên của công ty này một cách chuyên nghiệp,
am hiểu các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau để có cái nhìn chính xác về
doanh nghiệp, nhận định về năng lực của doanh nghiệp. Nếu như khả năng của
doanh nghiệp có thể vượt qua khủng hoảng thì nên có các biện pháp phù hợp như
chuyển nợ thành vốn góp, sau đó quản lý hoạt động của doanh nghiệp, tư vấn kế
hoạch phát triển kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai, đưa doanh nghiệp trở
về hoạt động một cách bình thường.
3.1.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của hoạt động tín dụng
3.1.2.1. Năng lực quản trị điều hành của các cấp lãnh đạo
Trong hoạt động cấp tín dụng, vai trò của nhà lãnh đạo là vô cùng quan trọng
bởi vì tất cả các quyết định của CBTD đều phải thông qua lãnh đạo. Do đó, năng
lực quản trị của các cấp lãnh đạo là vấn đề đáng quan tâm trong hoạt động tín dụng
nói chung cũng như tại SCB nói riêng.
Để nâng cao năng lực quản trị điều hành của các nhà lãnh đạo cần chú trọng
các vấn đề sau:
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
61
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
- Các cấp lãnh đạo cao hơn cẩn cân nhắc trong việc đề cử các nhân viên lên đảm
nhận công việc lãnh đạo hoạt động tín dụng. Cần chú trọng nhất là phẩm chất của
CBTD, bởi vì công việc tín dụng đòi hỏi người thực hiện phải có những phẩm chất
đạo đức tốt, không vì lợi ích cá nhân mà hành động sai nguyên tắc, ép buộc CBTD
phải hành động theo chỉ thị sai trái của mình.
- Các cấp lãnh đạo phải có tư duy tiến bộ, có nhìn nhận tổng quan và sâu rộng đối
với các vấn đề vĩ mô của nền kinh tế, có sự liên hệ thực tiễn nhanh chóng, để đánh
giá đúng khoản vay, từ đó mới có sự chỉ đạo sát sao đối với công việc của CBTD.
- Thường xuyên tổ chức các lớp học quản lý dành cho các cấp lãnh đạo, cập nhật
những thay đổi trong các chính sách của ngân hàng, của các Tổ chức ban ngành các
cấp có liên quan, thảo luận về các văn bản hướng dẫn những thay đổi ấy để có thể
thực hiện một cách thành thạo trong thực tế, cũng như đề xuất những kiến nghị kịp
thời nhằm hoàn thiện hơn hoạt động tín dụng của SCB.
3.1.2.2. Đào tạo đội ngũ CBTD đủ phẩm chất và trình độ
Vấn đề tư cách đạo đức của CBTD đang là vấn đề mang tính cấp bách hiện
nay đối với hoạt động tín dụng của các NHTM nói chung và của SCB nói riêng.
Hiện nay, SCB đang có kế hoạch mở rộng mạng lưới các chi nhánh, các phòng giao
dịch. Do đó, vấn đề nhân sự đang là vấn đề cấp bách tại SCB. Việc tuyển thêm nhân
sự mới không phải là điều đơn giản, cần phải nâng cao chất lượng CBTD cả về mặt
định tính lẫn định lượng thì mới có thể đáp ứng được vấn đề nhân sự. SCB cần xây
dựng các tiêu chí đối với CBTD và có các giải pháp thích hợp để xây dựng đội ngũ
CBTD đáp ứng yêu cầu của hoạt động tín dụng trong những năm tới.
3.1.2.2.1. Các yêu cầu đối với CBTD
o Về mặt định tính
- CBTD phải có bản lĩnh kinh doanh vững vàng:
Trong cơ chế thị trường, luôn luôn có những mặt trái, là người trực tiếp tiếp
xúc với khách hàng, tiếp xúc trực tiếp với mặt trái cơ chế, nếu CBTD không rèn
luyện bản lĩnh vững vàng rất có thể sẽ bị cuốn theo các cám dỗ tầm thường, không
tự làm chủ bản thân, hạ thấp các tiêu chuẩn tín dụng dẫn đến thất thoát vốn. Thực
tế, thời kỳ kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp đã chứng minh điều đó.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
62
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Bản lĩnh kinh doanh của CBTD còn thể hiện ở chỗ đánh giá, thẩm định, nhìn
nhận khách hàng một cách chính xác, không co cụm trong cho vay, biết tiếp cận,
thu hút, sàn lọc khách hàng để tìm ra được khách hàng tốt. Trong xử lý nghiệp vụ
không manh động, làm việc đúng chức năng, vai trò và nhiệm vụ được giao và có
tính cầu tiến. Có tính tập thể, tính kỷ luật và tinh thần sáng tạo.
- CBTD phải có bản lĩnh chính trị vững vàng:
Bản lĩnh chính trị của CBTD thể hiện ở chỗ phải nắm bắt kịp thời chủ
trương, đường lối của Đảng, các cấp về phát triển các lĩnh vực kinh tế – xã hội –
văn hóa, an ninh quốc phòng. Có khả năng am hiểu phân tích kinh tế. Hiểu, sống và
làm việc theo pháp luật của Nhà nước, nhất là các bộ luật có liên quan đến hoạt
động của NHTM.
- CBTD phải có phẩm chất đạo đức tốt, thái độ phục vụ tần tình, chu đáo.
Trong hoạt động của ngân hàng, hoạt động tín dụng là một hoạt động mang
tính truyền thống và đem lại lợi nhuận lớn nhất. Hoạt động tín dụng muốn phát triển
được lại phụ thuộc rất lớn về vấn đề khách hàng. CBTD là cầu nối giữa khách hàng
và ngân hàng, là thể hiện hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng, giúp khách
hàng hiểu được về tính chất hoạt động của ngân hàng. Đạo đức nghề nghiệp của
CBTD phải luôn lấy mục đích sự nghiệp phát triển ngân hàng làm mục đích phấn
đấu. Nâng cao tính kỷ luật, tính liêm khiết, chấp hành tốt chủ trương của ngành, quy
chế, cơ chế của ngân hàng.
o Yêu cầu về mặt đinh lượng
- CBTD phải có trình độ học vấn, năng lực chuyên môn nghiệp vụ.
Một trong những tiêu chuẩn hàng đầu về mặt định lượng đối với CBTD là
trình độ học vấn và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. Bởi vì trong hoạt động
NHTM thì công tác tín dụng là một loại công tác mang tính phức tạp, đòi hỏi những
người làm công tác này phải thực sự có năng lực mới đảm đương được khối lượng
công việc. Năng lực chuyên môn, nghiệp cụ của CBTD thể hiện ở các mặt như đánh
giá, phân tích tài chính khách hàng một cách chính xác, thẩm định phương án, dự
cán sản xuất kinh doanh một cách khoa học trên cả hai phương diện là tính chính
xác và thời gian thực hiện, thẩm định giá trị TSĐB tiền vay đúng quy trình chế độ,
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
63
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
xử lý tốt các phát sinh trong quá trình cho vay, quản lý các khoản vay sau khi cho
vay, vấn đề tham mưu cho khách hàng trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, CBTD
phải có khả năng nắm bắt và cập nhật được rất nhiều thông tin về các lĩnh vực, nhất
là vấn đề về khách hàng, vấn đề về đầu tư để có thể tham mưu cho lãnh đạo ra quyết
sách đầu tư đúng đắn, mang lại hiệu quả trong hoạt động
- CBTD phải có khả năng giao tiếp với khách hàng
Hoạt động của NHTM mang tính chất phục vụ, trong điều kiện môi trường
cạnh tranh, để duy trì và phát triển khách hàng là vấn đề quan trọng. Khách hàng có
hiểu được tính chất hoạt động của ngân hàng hay không thì phần lớn cũng dựa trên
những thông tin từ CBTD cung cấp qua những lần giao tiếp với khách hàng. Khả
năng giao tiếp thể hiện ở việc phải làm sao để khách hàng bày tỏ được tâm tư
nguyện vọng của mình. Nắm được thông tin từ khách hàng cũng như đối tác của
khách hàng. Phải có trình độ tư vấn cho khách hàng để làm sao khách hàng có thêm
điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh của mình, hạn chế được những rủi
ro trong hoạt động.
- CBTD phải có khả năng tiếp thị thu hút khách hàng
Thực tiễn cho thấy rằng, những khách hàng mà Ngân hàng thu hút về đặt
quan hệ vay vốn thường là những khách hàng có tình hình sản xuất kinh doanh ổn
định, làm ăn hiệu quả, có năng lực tài chính vững vàng, vay trả sòng phẳng. Vấn đề
là làm sao thu hút được nhiều khách hàng này đến quan hệ vay vốn tại Ngân hàng
mình... Điều này phụ thuộc phần lớn đến chính sách tiếp thị, chính sách khách hàng
của ngân hàng trong đó vai trò của CBTD là người tiên phong.
Để có được khả năng tiếp thị, CBTD cũng phải được trang bị đầy đủ về kiến
thức tổng hợp, bởi khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, lĩnh vực kinh doanh.
Mỗi đối tượng khách hàng đều phải có cách tiếp cận, phương pháp tư vấn, biện
pháp thu hút chăm sóc... khác nhau, đòi hỏi người CBTD phải là người có kiến thức
hiểu biết sâu rộng mới gây được tin tưởng, ấn tượng tốt đối với khách hàng. Từ đó
khách hàng mới có bước lựa chọn đúng đắn ngân hàng phục vụ mình để đem lại
hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
64
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
- CBTD phải có năng lực điều tra thu thập, liên kết, xử lý và tổng hợp thông
tin.
Hoạt động của Ngân hàng là một hoạt động mang tính tổng hợp, có rất nhiều
mối quan hệ từ nhiều phía, nhất là quan hệ với khách hàng. Chính vì vậy trước,
trong và sau khi cho vay, cán bộ phải thu thập một khối lượng lớn thông tin về dự
án / phương án vay vốn, cơ chế, chính sách của ngành, của nhà nước liên quan đến
phương án / dự án SXKD. Do khối lượng thông tin lớn, đòi hỏi phải có quá trình
sàng lọc, xử lý, tổng hợp để có được những thông tin chuẩn xác. Từ đó CBTD mới
có cơ sở để đánh giá, phân tích và kết luận chính xác về khách hàng.
Vấn đề cập nhật thông tin rất cần thiết, vì trong mối tương quan kinh tế,
khách hàng có thể gặp rủi ro vì nhiều nguyên nhân. Nếu CBTD thiếu sự cập nhật
thông tin về khách hàng để có biện pháp xử lý nợ, thì khả năng rủi ro cho hoạt động
ngân hàng là rất lớn.
Yêu cầu phải hiểu, nắm bắt và vận hành tốt công nghệ thông tin vào trong
công việc; phải có trình độ ngoại ngữ nhất định. Đây là một yêu cầu bắt buộc bởi vì
hoạt động ngân hàng hiện nay đã công nghệ hoá, việc xử lý nghiệp vụ, nắm bắt
thông tin... đều vận hành bằng công nghệ.
Tóm lại, yêu cầu về định tính, định lượng đối với CBTD là một yêu cầu cấp
thiết trong nền kinh tế thị trường và hoạt động ngân hàng có sự cạnh tranh. Đây
cũng là điều kiện cần và đủ để nâng cao chất lượng CBTD. Chính vì vậy, vấn đề
nâng cao chất lượng CBTD là một nhiệm vụ trọng tâm của NHTM và cần phải có
những giải pháp thực hiện có hiệu quả.
3.1.2.2.2. Một số giải pháp để nâng cao chất lượng CBTD tại SCB
- Đổi mới công tác quản lý CBTD
Trong công tác quản lý, phải thường xuyên quan tâm việc xác định đúng
nhiệm vụ chính trị, tư tưởng cho đội ngũ CBTD. Kiên quyết không sử dụng những
cán bộ thiếu bản lĩnh chính trị; bản lĩnh kinh doanh, thiếu trung thực, không công
tâm, kém năng lực... làm công tác tín dụng. Quản lý CBTD trong công việc, trong
sinh hoạt một cách chặt chẽ, khoa học. Có biện pháp chủ động, tích cực giáo dục
CBTD không để CBTD bị lôi cuốn vào những vấn đề tiêu cực của xã hội, bị lôi
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
65
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
cuốn của đồng tiền mà hạ thấp nhân phẩm, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, làm phương
hại đến bản thân cũng như phương hại về kinh tế và uy tín của ngành.
- Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ CBTD
Việc đào tạo và đào tại lại CBTD phải được coi là thường xuyên, liên tục.
Bên cạnh đó là công tác tuyển dụng mới phải đảm bảo đúng quy trình, yêu cầu công
việc. Công tác đào tạo cần tập trung vào một số vấn đề như tăng cường hình thức
đào tạo tập trung, kết hợp hình thức tập huấn tại chỗ, hình thức đào tạo này nhằm
làm cho CBTD nắm bắt được một số nghiệp vụ nhất định trong thời gian ngắn như:
Tổ chức các buổi sinh hoạt nghiệp vụ theo định kỳ, thảo luận các vướng mắc trong
công tác tín dụng, văn bản, quy trình nghiệp vụ. Phát động phong trào tự học, tự
nghiên cứu, tự nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tránh sự tụt
hậu trước sự thay đổi của nền kinh tế thị trường, của công nghệ trong quá trình phát
triển và hội nhập của ngân hàng. Tổ chức thi tay nghề hàng năm và có khen thưởng
hợp lý để khuyến khích những CBTD giỏi, có nhiều cống hiến.
Đi đôi với việc đào tạo, thì việc tuyển dụng cán bộ lao động phải thực hiện
tốt, đúng quy định của ngành và cần tuyệt đối có sự công bằng trong khâu tuyển
dụng. Tiêu chuẩn tuyển dụng CBTD mới cần có là: tiêu chuẩn đạo đức, tư cách
(Liêm khiết, trung thực, tự tin, tháo vát), tiêu chuẩn chuyên môn (Học vấn, trình độ
nghiệp vụ, kỹ năng tay nghề) tiêu chuẩn về thể chất (sức khoẻ, hình thức, chiều
cao)...
- Có chính sách sàng lọc, sử dụng có hiệu quả đội ngũ CBTD
Hàng năm cần thực hiện việc rà soát, đánh giá phân loại CBTD để có hướng
đào tạo, bổ sung kịp thời tránh sự hững hụt về đội ngũ CBTD. Đồng thời qua phân
loại CBTD để thực hiện việc tiêu chuẩn hoá CBTD trên cả 2 mặt định tính và định
lượng, tạo ra đội ngũ CBTD mạnh toàn diện, có sức cống hiến cao.
- Đổi mới chính sách đãi ngộ CBTD, thực hiện chế định đi đôi với chế tài.
Trong điều kiện cơ chế thị trường chính sách đãi ngộ hợp lý về tiền lương,
tiền thưởng, hệ số tiền lương... càng có ý nghĩa quan trọng bởi vì có thể đội ngũ này
có sự cống hiến nhiều nhất, chịu áp lực nhiều nhất do công việc mang tính rủi ro
cao. Có như vậy, đội ngũ CBTD mới phát huy được khả năng và nhiệt tình lâu dài
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
66
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
của mình. Đồng thời thực hiện cơ chế thưởng, phạt nghiêm minh, tạo ra bầu không
khí thi đua, khuyến khích, sáng tạo, phát huy trách nhiệm và quyền hạn cá nhân
trong việc đầu tư vốn sao cho an toàn hiệu quả nhất. Những CBTD vi phạm quy
chế, quy trình nghiệp vụ tín dụng, làm thất thoát vốn Nhà nước phải xử lý nghiêm
khắc, đặc biệt đối với cán bộ thái hoá biến chất. Những CBTD có đạo đức tốt, yêu
ngành, yêu nghề, có khả năng tiếp thị, kinh doanh tốt, mang lại hiệu quả cao cho
Ngân hàng thì có chế độ khen thưởng xứng đáng như nâng lương trước hạn...
- Tăng cường tính kỷ luật, tính kỷ cương đối với CBTD.
Thường xuyên quán triệt cho CBTD về chức năng, vai trò, nhiệm vụ của
mình đối với công tác, từ đó CBTD xác đúng vị trí của mình. Tính kỷ luật; kỷ
cương của CBTD được thể hiện trên các mặt như chấp hành nghiêm mọi chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước, của Ngành của cơ quan đề ra.
Thực hiện nghiêm về quy trình nghiệp vụ trong công tác, chấp hành và hoàn thành
tốt nhiệm vụ được phân công. Nâng cao tính chủ động trong công tác; sự phối hợp
với đồng nghiệp, giải quyết công việc. Tính kỷ luật kỷ cương của CBTD, ngoài việc
bản thân CBTD tự điều chỉnh, rèn luyện thì việc giáo dục của các đoàn thể, sự thắt
chặt vấn đề quản lý cán bộ của lãnh đạo cơ quan cũng là yếu tố quan trọng để
hướng mọi hành vi CBTD đi đúng hướng.
3.1.3.Chuyển dịch cơ cấu sang đầu tư và dịch vụ bán lẻ
Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, thì việc
đầu tư của ngân hàng vào lĩnh vực này không những góp phần phân tán rủi ro đố
với hoạt động tín dụng mà còn mang lại một nguồn lợi nhuận lớn. Tuy nhiên, do thị
trường chứng khoán của nước ta hiện nay chưa ổn định, do đó, khi đầu tư vào lĩnh
vực này, SCB nên cẩn thận, cần phải có sự hiểu biết rõ ràng, phân tích cẩn thận
trước khi đầu tư. Có như vậy thì hoạt động này mới có thể mang lại hiệu quả trong
việc phân tán rủi ro., nếu không, việc làm này sẽ phản tác dụng.
Việc chuyển dịch cơ cấu sang các dịch vụ ngân hàng bán lẻ vẫn đang được
SCB thực hiện, song chưa sâu, bởi vì hiện nay, SCB đang mở rộng các chi nhánh và
hoạt động truyền thống vẫn là tín dụng. Tại các nước phát triển, dịch vụ ngân hàng
bán lẻ mang lại rất nhiều lợi nhuận cho ngân hàng, đồng thời rủi ro cho hoạt động
này là rất thấp. Không chỉ ở các nước phát triển mà tại Việt Nam, các NHTM cũng
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
67
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
đang có xu hướng chuyển sang dịch vụ bán lẻ, một số ngân hàng đã rất thành công
ở mảng dịch vụ này như ACB, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Do vậy, trong
tương lai, khi mà đã xây dựng được một thương hiệu vững mạnh trên thị trường,
thiết nghĩ việc chuyển dịch cơ cấu của SCB là cần thiết, vừa hạn chế được rủi ro,
vừa mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Trong giai đoạn hiện nay, SCB cũng nên
đẩy mạnh thực hiện một số sản phẩm dịch vụ, như thẻ ATM, chuyển tiền trong
ngoài nước…. tạo tiền đề cho việc thực hiện chuyển dịch trong tương lai.
3.2. GIẢI PHÁP DÀNH CHO NHNN, CHÍNH PHỦ VÀ CÁC BAN NGÀNH
CÓ LIÊN QUAN
3.2.1. Các giải pháp hạn chế nợ xấu
3.2.1.1. Minh bạch hoá thông tin
3.2.1.1.1. Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm TTTD CIC
Hiện nay, tại Việt Nam chỉ mới có một trung tâm TTTD CIC, đây là tổ chức
chuyên cung cấp thông tin về các thể nhân, các pháp nhân cho các NHTM nếu như
NHTM có nhu cầu. Đây là nguồn thông tin giúp ích nhiều cho ngân hàng, giúp ngân
hàng có thể biết được quan hệ tín dụng của khách hàng với các ngân hàng khác, dư
nơ được xếp loại ở nhóm mấy? Đây cũng là một thông tin quan trọng hỗ trợ quá
trình ra quyết định tín dụng. Tuy nhiên, chất lượng TTTD chưa thực sự tốt, chưa
đảm bảo cung cấp thông tin nhanh, kịp thời, chính xác. Để nâng cao chất lượng
thông tin, NHNN cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Phối hợp hiệu quả với các cơ quan ban ngành liên quan như Chi cục Thuế,
Sở Kế Hoạch và Đầu tư, các Bộ ngành có liên quan… để có những thông tin khác
về khách hàng, làm cho nguồn thông tin trở nên phong phú, nhằm giúp cho ngân
hàng hiểu rõ hơn về doanh nghiệp.
- Cải thiện đường truyền thông tin: tốc độ đường truyền thông tin chưa
nhanh, và thường hay bị gián đoạn trong quá tình hỏi tin. Do đó, NHNN nên cải tiến
chất lượng đường truyền, đảm bảo cung cấp các thông tin một cách kịp thời và
chính xác cho các TCTD.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
68
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
- Nhanh chóng củng cố đội ngũ cán bộ, áp dụng công nghệ mới, hiện đại hóa
và tự động hó tất cả các ông đoạn xử lý nghiệp vụ để tạo ra nhiều sản phẩm thông
tin, đẩy mạnh việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin nhằm hỗ trợ có hiệu quả
cho hoạt động của các TCTD và phục vụ hoạt động giám sát của NHNN. Đồng thời
đi sâu phân tích, đánh giá xếp loại tín dụng doanh nghiệp, kịp thời dự báo, cảnh báo
nhằm hạn chế rủi ro.
- Thanh tra NHNN các cấp và CIC phối hợp đôn đốc, kiểm tra việc báo cáo,
khai thác thông tin của các TCTD đồng thời có biện pháp xử lý kiên quyết, kịp thời
đối với những đơn vị không cung cấp các thông tin xác thực về khách hàng đang có
quan hệ tín dụng tại ngân hàng mình, gây thiệt hại cho các ngân hàng bạn.
3.2.1.1.2. Nỗ lực thành lập trung tâm TTTD tư nhân
Tốc độ tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là tín dụng cho DNNVV và tín dụng
tiêu dùng trong những năm gần đây, đang tạo ra một nhu cầu rất lớn về TTTD mà
khả năng và nguồn lực của CIC không thể đáp ứng hết. Nhu cầu TTTD về DNVVN
và cá nhân tăng cao không được đáp ứng đang ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động
kinh doanh của các ngân hàng.
Song cần nhận thức rằng TTTD là một lĩnh vực khá nhạy cảm vì nó không
chỉ liên quan đến quyền và trách nhiệm của các TCTD mà còn có thể ảnh hưởng
đến tính riêng tư và bảo mật về dữ liệu của các doanh nghiệp và cá nhân. Ở hầu hết
các quốc gia đang phát triển, việc thành lập trung tâm TTTD tư nhân là một công
việc rất khó khăn. Để có được một trung tâm TTTD tư nhân hoạt động hiệu quả,
cần (i) xây dựng một khuôn khổ pháp lý phù hợp; (ii) có sự cam kết tham gia của
các đối tác liên quan, đặc biệt là các tổ chức tài chính lớn; (iii) có sự hợp tác giữa
khu vực công–tư và sự hiểu biết của toàn xã hội; và cuối cùng là (iv) tham khảo
chuyên môn và kinh nghiệm quốc tế. Trong gần hai năm qua, NHNN đã quan tâm
tới vấn đề này và tham vấn sự hỗ trợ kỹ thuật từ Công ty Tài chính Quốc tế IFC.
Những nỗ lực này cần được đẩy nhanh hơn nữa để trung tâm TTTD tư nhân có thể
sớm ra đời và hoạt động hiệu quả ở Việt Nam.
3.2.1.1.3. Tăng cường mối quan hệ giữa các Hiệp hội ngành nghề với các thành
viên
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
69
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Hiện Việt Nam đã thành lập rất nhiều các hiệp hội ngành nghề, với các lĩnh
vực khác nhau của nền kinh tế. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng thông tin từ thị
trường, minh bạch hóa các thông tin của các doanh nghiệp thành viên thì vai trò của
các Hiệp Hội là khá quan trọng. Do đó, Chính Phủ và các ban ngành liên quan cần
đẩy mạnh mối quan hệ giữa các Hiệp hội này với các thành viên của nó, vừa giúp
đỡ, tư vấn các doanh nghiệp trong những lúc gặp khó khăn, mang lại hiệu quả cho
sự phát triển chung của toàn ngành, vừa giúp cho các ngân hàng có được những
thông tin chính xác về doanh nghiệp, hiểu rõ hơn về thế mạnh, năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong ngành. Đây là nguồn thông tin rất cần thiết cho các
ngân hàng khi cấp tín dụng cho các doanh nghiệp.
3.2.1.2. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động tín dụng tại các NHTM
- NHNN nên tăng cường hiệu quả thanh tra, kiểm soát hoạt động tín dụng tại
các NHTM nhằm hạn chế, phòng ngừa rủi ro tín dụng. Việc kiểm tra, giám sát có
thể được thực hiện định kỳ hay đột xuất tại các NHTM để nắm được tình hình tín
dụng tại đây, đề ra các biện pháp xử lý kịp thời nếu như các NHTM không tuân thủ
đúng quy trình, quy định của NHNN ban hành.
- NHNN kiểm tra việc thực hiện xếp loại khách hàng, xây dựng hệ thống tín
nhiệm nội bộ tại các NHTM, thúc đẩy các NHTM thực hiện việc phân loại khách
hàng một cách có hiệu quả, giúp ích cho các NHTM trong việc ra quyết định cho
vay, phân loại khoản vay và góp phần hạn chế rủi ro.
3.2.1.3. Thành lập tổ chức bảo hiểm rủi ro tín dụng
Việt Nam vẫn chưa hình thành một tổ chức bảo hiểm rủi ro tín dụng trong
khi nhiều nước trên thế giới đã có tổ chức này. NHNN Việt Nam đã cho thành lập
tổ chức bảo hiểm tiền gửi và tổ chức này đã đi vào hoạt động khá hiệu quả. Tuy
nhiên việc bảo hiểm tiền cho vay hiện vẫn dựa vào các quỹ dự phòng rủi ro của các
ngân hàng. Việc thành lập một tổ chức bảo hiểm rủi ro tín dụng nên được NHNH
xem xét vì tổ chức này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các TCTD cũng như ngành
ngân hàng.
Hiện các ngân hàng đều có phòng ngừa rủi ro bằng nhiều cách khác nhau.
Ðó là quy trình cho vay với việc tăng cường kiểm tra giám sát trước, trong và sau
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
70
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
khi cho vay. Vì phát hiện kịp thời những dấu hiệu cảnh báo rủi ro tín dụng có thể
xảy ra để tư vấn và cùng người vay tìm biện pháp xử lý, hạn chế kịp thời. Các
NHTM còn trích lập quỹ dự phòng rủi ro tiến hành xóa nợ cho các khoản tín dụng
không thể thu hồi được sau khi đã áp dụng quy trình cho vay và giám sát.
Tuy nhiên, dù có làm tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất, phòng ngừa rủi
ro bao nhiêu chăng nữa thì rủi ro và tổn thất vẫn có thể xảy ra vì những nguyên
nhân khách quan không thể lường trước được.
Các NHTM đã phải đầu tư không ít công sức trong việc xử lý các khoản nợ
có vấn đề như gian hạn nợ, miễn giảm lãi, khoanh nợ cho những khoản tín dụng của
doanh nghiệp gặp khó khăn khách quan mang lại và theo quy định của NHNN. Còn
về quỹ dự phòng rủi ro, khi có các quỹ này tại các ngân hàng thì các NHTM phải
giảm lãi kinh doanh vì phải trích lập quỹ dự phòng và thậm chí mất vốn kinh doanh
khi quỹ dự phòng không đủ bù đắp.
Về phía ngành ngân hàng, có thể thấy theo cơ chế hiện hành các NHTM chỉ
được cho doanh nghiệp vay với tổng mức các hợp đồng tín dụng không vượt quá
15% vốn tự có của ngân hàng mình. Nhiều NHTM, nhất là các NHTMCP có vốn tự
có thấp lại phải đáp ứng cơ chế trên nên mức cho vay cao nhất cho một doanh
nghiệp chỉ vào khoảng trên dưới 10 tỷ, nếu cao hơn phải hợp vốn. Và như vậy thì
chỉ có thể đáp ứng được khoản vay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Điều này sẽ làm cho các NHTM ngoài quốc doanh buộc phải xử lý vấn đề
cho vay là giữ được khách hàng hoặc không cho vay sẽ mất khách hàng. Và nói một
cách khác là họ phải lựa chọn giữa an toàn sinh lời thấp hoặc là mạo hiểm sinh lời
cao trong kinh doanh. Nếu mạo hiểm, chấp nhận rủi ro cao trong khi vốn tự có thấp,
dư nợ cho vay không cao, quỹ dự phòng rủi ro không nhiều và nếu xảy ra rủi ro thì
hậu quả sẽ là ngân hàng gặp khó khăn về tài chính, mất khả năng thanh toán nguồn
vốn huy động đã đến hạn.
Vấn đề đặt ra là nếu đã có những biện pháp như vậy và với cơ chế nêu trên
thì tại sao các ngân hàng không sử dụng một nhân tố thứ ba là tổ chức bảo hiểm để
bảo hiểm tín dụng. Bởi vì, quỹ dự phòng rủi ro của các NHTM chính là quỹ bảo
hiểm tín dụng. Nhưng việc thành lập quỹ này đang phân tán tại các ngân hàng và
không được kịp thời bù đắp những khoản ứ đọng hoặc mất vốn kinh doanh ngân
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
71
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
hàng. Và một điều cơ bản nữa là khi gặp rủi ro các ngân hàng không có lá chắn kinh
tế bù đắp kịp thời và phải đưa ra nhiều biện pháp, nhiều người tham gia vào công
việc ứng phó làm việc kinh doanh bị gián đoạn.
Về cơ bản thì việc có bảo hiểm tín dụng là cần thiết. Tuy nhiên, ở nền kinh
tế Việt Nam hiện nay, làm sao để có thể có được một cơ chế bảo hiểm hữu hiệu là
vấn đề nên suy nghĩ, nhất là khi mà dư nợ cho vay của các ngân hàng đang chiếm
tới khoảng 60% GDP. Và sự lớn mạnh của ngành bảo hiểm thì còn đang ở chừng
mực ban đầu nhất định, chưa thể đảm nhận vai trò là tổ chức bảo hiểm rủi ro tín
dụng cho các ngân hàng ở Việt Nam.
Giải pháp đưa ra là NHNN Việt Nam cần đứng ra thành lập một tổ chức bảo
hiểm tín dụng sau khi yêu cầu tất cả các ngân hàng xây dựng quy trình tín dụng
theo tiêu chuẩn ISO. Một cách tốt hơn nữa là thành lập Hội bảo hiểm tương hỗ rủi
ro tín dụng giữa các ngân hàng. Mức phí tương hỗ ban đầu đóng trên cơ sở dư nợ
cho vay của năm trước. Trong năm bảo hiểm, nếu ngân hàng nào được trả tiền bồi
thường lớn hơn tiền đóng góp thì phí năm sau sẽ phải nộp cao hơn với số tiền tương
ứng.
3.2.2. Các giải pháp xử lý nợ xấu
3.2.2.1. Hoàn thiện hành lang pháp lý
Việc xử lý nợ xấu của các NHTM gặp phải khá nhiều khó khăn mà trước hết
là về môi trường pháp lý - các văn bản hướng dẫn liên quan đến xử lý nợ còn chưa
cụ thể, chồng chéo do đó ngân hàng chưa tự chủ động xử lý được TSĐB.
Trên thực tế ngân hàng gặp không ít khó khăn trong việc xử lý TSĐB. Hầu
hết các khoản vay của khách hàng đều có TSĐB nhưng việc xử lý nó để thu hồi nợ
là hết sức khó khăn. Loại trừ một số ít tài sản được định giá vượt khung, tài sản gặp
rắc rối về quyền sở hữu, các tài sản đầy đủ giấy tờ sở hữu cũng gặp không ít khó
khăn trong quá trình xử lý. Sự chồng chéo giữa các văn bản pháp luật cũng làm cho
ngân hàng lúng túng trong việc xử lý. Ví dụ, Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT –
NHNN – BTP – BTC – TCĐC giữa NHNN, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài
chính, Tổng cục địa chính ngày 29.4.2001 quy định TCTD không được trực tiếp
bán hay được trực tiếp nhận quyền sử dụng đất để thay thế cho việc thực hiện nghĩa
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
72
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
vụ bảo đảm. Theo khoản 3, Mục III của Thông tư này, nếu không đạt được sự thoả
thuận của các bên thì TCTD phải đưa ra bán đấu giá hay khởi kiện ra toà. Trong khi
đó, Nghị định số 178 lại cho phép TCTD có quyền xử lý TSĐB nếu không đạt được
sự thoả thuận của các bên. Việc này làm phát sinh những khó khăn trong thực tế
như sau:
+ Trong các điều khoản của Hợp đồng đảm bảo, ngân hàng luôn ràng buộc
điều kiện “Khi khách hàng vi phạm các điều khoản của Hợp đồng tín dụng thì ngân
hàng được toàn quyền xử lý TSĐB để thu hồi nợ”. Trên thực tế, nếu không đạt được
sự thoả thuận với khách hàng hoặc khách hàng không hợp tác, cố tình chây lỳ để
kéo dài thời gian trả nợ thì ngân hàng chỉ còn cách chuyển hồ sơ khởi kiện.
+ Luật pháp và các công cụ thực thi pháp luật chưa thực sự nghiêm minh,
chưa hỗ trợ đầy đủ cho ngân hàng chủ động xử lý TSĐB mà không có sự can thiệp
của Toà án. Do đó, dù có phán quyết của Toà, ngân hàng vẫn còn gặp trở ngại vì
khâu thi hành án còn chậm. Tiếp đến là sự phối hợp không đồng bộ giữa cơ quan
thẩm định, cơ quan bán đấu giá... Từ lúc khởi kiện đến cưỡng chế, thi hành một vụ
mất ít nhất 2 năm, trung bình mất 8-9 năm.
+ Một khó khăn khác mà ngân hàng thường gặp phải là khi tài sản của doanh
nghiệp là các máy móc thiết bị chuyên dùng có giá trị cao thì rất khó thanh lý. Khi
bán được thì phải ưu tiên thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu vì hầu hết các thiết
bị này đều được miễn thuế nhập khẩu vì thường được coi là tài sản cố định khi
thành lập công ty.
Ngoài ra, hiện chưa có văn bản cụ thể về việc ngân hàng trực tiếp quản lý,
khôi phục hoạt động doanh nghiệp để kinh doanh hoặc bán và ngân hàng cũng bị
hạn chế tỷ lệ góp vốn vào doanh nghiệp. Xử lý tài sản cũng là một trở ngại đối với
ngân hàng khi họ chưa được tự phát mại tài sản - nhất là khi khách hàng không hợp
tác và các cơ quan chức năng nhiều khi chưa hỗ trợ hiệu quả. Hay khi bán tài sản
trên đất của doanh nghiệp nhà nước, giá trị quyền sử dụng đất thường bị chính
quyền địa phương thu vào ngân sách nhà nước, không dùng để trả ngân hàng. Có
trường hợp Ủy ban nhân dân tỉnh thu hồi đất đang thế chấp ngân hàng cho đơn vị
khác thuê, chỉ đền bù giá trị tài sản trên đất với mức thấp. Việc bán tài sản công
khai chưa có hướng dẫn cụ thể vì tổ chức đấu giá liên quan đến giấy phép và quy
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
73
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
định đấu giá. Nên cho phép các ngân hàng được tự bán TSĐB, không phụ thuộc cơ
quan chức năng và cho ngân hàng cơ chế đặc biệt hoàn thiện thủ tục pháp lý khi bán
TSĐB.
Ngoài ra, ngân hàng cần được tham gia vào quá trình cơ cấu lại doanh
nghiệp và Nhà nước cần ban hành cơ chế cụ thể chuyển nợ thành vốn góp và tham
gia điều hành doanh nghiệp.
3.2.2.2. Mở rộng phạm vi hoạt động của công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của
Bộ Tài Chính – DATC, cho phép thành lập thêm các công ty mua bán nợ
Trong thời gian tới, Việt Nam đang hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế
cao liên tục, đòi hỏi một lượng vốn lớn cần được huy động cho đầu tư phát triển.
Các khoản nợ sẽ tăng nhanh và thị trường mua bán nợ hình thành là một tất yếu
khách quan. Điều này đòi hỏi môi trường pháp lý cần được hoàn thiện theo hướng
xây dựng hoàn chỉnh hệ thống văn bản qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
trên thị trường mua bán nợ, mà DATC là một trong các đối tượng chịu sự điều
chỉnh của hệ thống văn bản qui phạm pháp luật này.
Các bước đi cụ thể là phải rà soát lại và xây dựng các văn bản qui phạm
pháp luật điều chỉnh mối quan hệ mua bán nợ giữa DATC với các TCTD, giữa
DATC với các tổ chức kinh tế và cá nhân. Các quan hệ nào thiếu sẽ được bổ sung,
quan hệ nào mâu thuẫn, chồng chéo sẽ được chỉnh sửa cho thống nhất. Đồng thời,
nâng cao quyền tự chủ hơn nữa trong kinh doanh cho DATC.
Về xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường mua bán nợ, trước mắt, khi thị
trường đang trong giai đoạn hình thành, chỉ nên xây dựng, ban hành nghị định về
mua bán nợ. Nghị định mới xây dựng cần làm rõ các nội dung như: đảm bảo lợi ích
của các bên tham gia hoạt động mua bán nợ, như lợi ích của chủ nợ, khách nợ, các
công ty môi giới, kinh doanh nợ; xác định rõ địa vị pháp lý và các quyền đặc biệt
của chủ nợ; các ưu đãi của Nhà nước đối với hoạt động mua bán nợ, ví dụ như truy
cập hệ thống dữ liệu tài chính doanh nghiệp và các TCTD...
Hiện nay, DATC chủ yếu thực hiện nhiệm vụ mua lại các khoản nợ xấu của
các NHTM quốc doanh và các doanh nghiệp nhà nước đang trong tiến trình cổ phần
hóa, góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa một cách nhanh chóng, thuận lợi. Tuy
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
74
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
nhiên, trong xu thế hiện nay, khi mà nền kinh tế đang trong quá trình toàn cầu hóa,
trong đó, với sự mở cửa của ngành tài chính ngân hàng thì mức độ cạnh tranh trong
lĩnh vực này là rất cao. Cạnh tranh nhiều tất yếu dẫn đến rủi ro cao. Do đó, chính
phủ nên mở rộng hoạt động của công ty này, tăng cường các chức năng, quyền hạn
cho công ty, cho phép các công ty mua lại các khoản nợ xấu của các NHTM, với
các nghiệp vụ cụ thể, nâng cao hiệu quả trong việc xử lý nợ xấu của các NHTM,
đồng thời, giúp nền kinh tế phát triển một cách ổn định.
Ngoài ra, Chính phủ cũng nên cho phép thành lập các công ty mua bán nợ,
bao gồm cả những khoản nợ thông thường. Việc thành lập các công ty này sẽ giúp
ích rất nhiều cho hoạt động của các NHTM, giúp các NHTM có thể bán bớt các
khoản nợ để có nguồn vốn đầu tư vào các dự án khác, tận dụng được cơ hội kinh
doanh, mang lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, góp phần
vào sự phát triển nền kinh tế.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
75
Một số giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Tóm tắt chương 3
Ở chương này, em đã đưa ra một số giải pháp đối với Ngân Hàng TMCP Sài
Gòn nhằm hạn chế các khoản nợ xấu tại đây, đồng thời cũng có một số kiến nghị
với với các Ban ngành có liên quan, nhằm giúp hạn chế nợ xấu tại các NHTM nói
chung và tại SCB nói riêng. Bên cạnh đó cũng đưa ra các giải pháp ở tầm vĩ mô
giúp cho việc xử lý nợ xấu tai SCB mang lại hiệu quả.
Tuy hiện nay, vấn đề nợ xấu của SCB chưa đáng báo động, nhưng các giải
pháp cho vấn đề nợ xấu vẫn không hề thừa. Dân gian có câu:“Phòng bệnh còn hơn
chữa bệnh”, hiện tại chưa có bệnh nhưng không phải là không xảy ra trong tương
lai. Do đó, thiết nghĩ, việc thực hiện các giải pháp trên để hạn chế rủi ro tín dụng,
giảm thiểu nợ xấu vẫn rất cần thiết đối với SCB. Đồng thời các cơ quan chức năng
cũng cần có sự quan tâm đúng mức, góp phần giải quyết vấn đề nợ xấu tại các
NHTM trong những năm tới.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Quỳnh GVHD: PGS. TS Hà Quang Đào
76