Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
MỤC LỤC
CHƯƠNG 5 THỊ TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO VÀ VÌ SAO CHÚNG “THẤT
BẠI”? .................................................................................................................................... 2
CHƯƠNG 6 CHÍNH QUYỀN THẤT BẠI TRONG VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG NHƯ THẾ
NÀO? .................................................................................................................................. 20
CHƯƠNG 7 CÁCH SUY NGHĨ VỀ CHI PHÍ – LỢI ÍCH ................................................... 33
CHƯƠNG 8 ĐÁNH GIÁ MỐI QUAN TÂM VỀ THIÊN NHIÊN ....................................... 51
CHƯƠNG 9 ĐỐI PHÓ VỚI ĐIỀU KHÔNG CHẮC CHẮN ................................................ 77
CHƯƠNG 10 SỬ DỤNG THỊ TRƯỜNG ĐỂ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ............................. 91
CHƯƠNG 11 THU LỆ PHÍ CHO VIỆC SỬ DỤNG MÔI TRƯỜNG ................................ 108
CHƯƠNG 12 THUẾ XANH.............................................................................................. 118
CHƯƠNG 13 MUA BÁN GIẤY PHÉP MÔI TRƯỜNG .................................................. 136
CHƯƠNG 14 ẤN ĐỊNH CÁC TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG ......................................... 147
CHƯƠNG 15 TÀI NGUYÊN CÓ THỂ TÁI SINH ............................................................ 160
CHƯƠNG 16 TÀI NGUYÊN KHÔNG TÁI SINH ............................................................ 177
CHƯƠNG 17 KINH DOANH VÀ MÔI TRƯỜNG ........................................................... 191
CHƯƠNG 18 QUẢN LÝ CHẤT THẢI ............................................................................. 208
CHƯƠNG 19 SỰ THAY ĐỔI KHÍ HẬU .......................................................................... 218
CHƯƠNG 20 KINH TẾ HỌC VÀ TẦNG OZONE ........................................................... 232
CHƯƠNG 21 BẢO TỒN SỰ ĐA DẠNG SINH HỌC ....................................................... 242
CHƯƠNG 22 CHÍNH SÁNH MÔI TRƯỜNG QUỐC TẾ: MƯA AXIT ............................ 254
CHƯƠNG 23 MÔI TRƯỜNG TRONG THẾ GIỚI ĐANG PHÁT TRIỂN ........................ 265
2
CHƯƠNG 5
THỊ TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO VÀ VÌ SAO CHÚNG “THẤT BẠI”
Sự quan trọng của thị trường và hiệu quả của thị trường
Các nền kinh tế trên thế giới có thể phân loại làm hai loại ở 2 thái cực: Kinh tế
thị trường nơi mà nhà sản xuất quyết định sản xuất và bán cho người tiêu thụ hàng hóa
gì, và nền kinh tế kế hoạch tập trung trong đó là nhà nước là người quyết định ai sẽ sản
xuất ra cái gì và sản xuất bao nhiêu? Nhiều nền kinh tế trong thực tế là những hệ thống
hỗn hợp của 2 loại này. Loại kinh tế thị trường luôn phổ biến hơn kinh tế kế hoạch tập
trung, xu hướng này càng được cũng cố bởi sự tan vỡ mới đây của của các hệ thống kế
hoạch tập trung tại Đông Âu và các nước Liên Xô cũ. Chính vì thế mà phần lớn những
nguồn tài nguyên trên thế giới đang được sử dụng bới các nền kinh tế theo kiểu thị
trường, và cũng vì vậy mà các nền kinh tế thị trường này chịu trách nhiệm về một tỷ lệ
lớn sự ô nhiễm của thế giới. Do đó, điều quan trọng là chúng ta nên hiểu biết về tiến
trình trong đó các lực lượng thì trường xác định số lượng của một loại tài nguyên mà
nhà sản xuất sẽ sử dụng trong quá trình chế biến và tương tự là tại sao các hoạt động
của thị trường lại ảnh hưởng đến loại và số lượng ô nhiễm tạo ra. Hiểu biết cách thức
hoạt động của thị trường và các loại tín hiệu mà nó báo cho nhà sản xuất sẽ giúp chúng
ta hiểu được là nên điều chỉnh thị trường như thế nào cho tốt nhất để đảm bảo rằng các
nhà sản xuất không khai thác quá mức các tài nguyên môi trường khan hiếm và tạo
cho họ các động cơ kinh tế để giảm bớt số ô nhiễm do họ tạo ra.
Mục tiêu của nhà sản xuất – lợi nhuận
Tại sao các nhà sản xuất lại sản xuất? Sản xuất hàng hóa không phải là mục tiêu
cuối cùng của chính nó, mà là điều kiện để nhà sản xuất có thể trao đổi hàng hóa để
lấy tiền và do đó mà tạo ra thu nhập. Tuy nhiên, sản xuất ra một vật phẩm không phải
là một việc làm không có chi phí, nhà sản xuất phải mua một số tài nguyên (nguyên
liệu, lao động,…) Do đó nhà sản xuất phải đảm bảo rằng số tiền nhận được từ món
hàng sản xuất ra (doanh thu của xí nghiệp) phải cao hơn các chi phí sản xuất để có thể
tạo ra một lợi nhuận (sự chênh lệch giữa doanh thu và chi phí) và xí nghiệp có thể tiếp
tục kinh doanh. Rõ rànglà luôn luôn có một động cơ mạnh mẽ để các xí nghiệm giảm
3
chi phí và do đó mà tối đa hóa lợi nhuận. Mặc dù xí nghiệp có thể có những mục tiêu
khác, nhưng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận vẫn là mục tiêu chính.
Doanh thu và chi phí
Bây giờ chúng ta có thể xem xét các thành phần riêng rẽ của doanh thu và chi
phí, là 2 yếu tố cùng quyết định lợi nhuận. Hãy lấy ví dụ về một nhà máy sản xuất hộp
giấy. Số doanh thu mà nhà máy đạt được do bán một hộp giấy là do giá cả thị trường
của hộp giấy quyết định. Cái giá này, đến lược nó lại được xác định bởi nhu cầu về
giấy của người tiêu thụ và mức cung của những nhà sản xuất xét chung (nghĩa là tất cả
các nhà máy giấy); những yếu tố này thường là ngoài sự kiểm soát của một xí nghiệp
riêng rẻ. Điều này được phản ứng trong khung 1.4, rằng người ta luôn mong muốn gia
tăng số lượng tiêu thụ của một hàng hóa khi giá nó giảm, và sẽ giảm số lượng khi gí
tăng, nghĩa là có mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa giá cả và số lượng được yêu cầu của
một loại hàng hóa. Do đó mà chúng ta có đường “cầu về giấy” có độ dốc đi xuống như
đường D trong hình (a) của khung 5.1. Ở mặt cung của thị trường, nếu giá của một
hàng hóa giảm, các xí nghiệp sẽ giảm số lượng sản xuất ra nó, còn nếu giá tăng họ sẽ
tăng số cung cấp của hàng hóa đó, nghĩa là có mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa giá cả và
số lượng mà các nhà sản xuất sẽ cung cấp của một loại hàng hóa. Do đó, chúng ta có
đường “cung của giấy” với độ dốc đứng lên như đường S trong phần (a) của khung
5.1. Như đã nói trước đây, chỉ có một giá duy nhất (Pe, tức giá cân bằng ở điểm thị
trường) mà tại đó số lượng giấy người sản xuất muốn cung cấp bằng với số lượng giấy
người tiêu dùng muốn mua (số lượng trong khung 5.1). Vì vậy, với bất cứ giá nào của
giấy khác với giá Pe thì tác động của thị trường sẽ là cho giá dịch chuyển về Pe. nghĩa
là hệ thống tự cân bằng.
Giá trị biên tế là một khái niệm chính trong kinh tế, do đó việc hiểu rõ khái
niệm này rất quan trọng. Một giá biên tế đi liền với đơn vị sản phẩm mà thôi; vì vậy,
doanh thu biên tế là số lượng doanh thu (hay số tiền trả) mà một xí nghiệp nhận được
từ việc bán một đơn vị sản phẩm. Dĩ nhiên, điều này có thể xảy ra cho toàn bộ các đơn
vị sản phẩm, nghĩa là doanh thu biên tế của chiếc khung giấy thứ nhất cũng bằng
doanh thu biên tế của chiếc hộp thứ 10.000 được bán ra. Nhưng điều này không phải
luôn luôn xảy ra cho tổng các số lượng biên tế. Ví dụ, chi phí sản xuất đợn vị sản
phẩm đầu tiên (tức là chi phí biên tế của hộp giấy đầu tiên) có thể sẽ không giống với
4
chi phí sản xuất đơn vị sản phẩm thứ 10.000 (chí phí biên tế của đơn vị thứ 10.000).
Điều quan trọng là không nên nhầm lẫn giá trị biên tế với giá trị tổng cộng. Ví dụ,
trong khi doanh thu biên tế (doanh thu tăng thêm do bán được thêm một đơn vị sản
phẩm) là không đổi khi sản xuất tăng, thì tổng doanh thu (tức tổng số tiền xí nghiệp
nhận được từ toàn bộ sản phẩm) rõ ràng gia tăng khi sản xuất tăng.
Bởi vì nhà sản xuất của chúng ta nhận cùng một số tiền cho hộp giấy thứ nhất
cũng như hộp giấy thứ một trăm hay thứ một triệu bán ra nên chúng ta nói rằng nhà
sản xuất có một doanh thu biên tế cố định MR. Đường MR là một đường thẳng trong
hình (b) của khung 5.1. Tổng doanh thu do nhà sản xuất nhận được có thể tính được
chỉ bằng cách nhân số doanh thu biên tế (trên một hộp với tổng số hộp bán ra).
5
Phần phân tích này xác định số tiền mà nhà sản xuất giấy nhận được do bán sản phẩm.
Tuy nhiên, để xác định được số lợi nhuận cho mỗi hộp giấy sản xuất ra, xí nghiệp phải
xem xét chi phí để sản xuất mỗi hộp nghĩa là chi phí trên mỗi đơn vị sản phẩm hay chi
phí biên tế. Chi phí có thể chia làm hai loại: chi phí cố định (định phí) và chi phí biến
đối (biến phí). Chi phí cố định liên quan đến những khoản mục mà xí nghiệp phải trả
ngay cả trước khi sản xuất ra một hộp giấy nhưng chi phí này không thay đổi sau đó.
Lấy ví dụ, chi phí nhà xưởng và đất đai tạo ra cơ sở vật chất cho xí nghiệp giấy sẽ
không thay đổi cho dù một hay rất nhiều hộp giấy được sản xuất ra. Chi phí cố định
không đổi khi số lượng hộp giấy thay đổi. Ngược lại, biến phí liên quan đến những
khoản mục cần phải được mua ngay khi một đợt giấy sản xuất, nghĩa là để gia tăng số
lượng giấy sản xuất, xí nghiệp phải gia tăng việc mua bột giấy và thuê thêm công
nhân, tức là biến phí xí nghiệp gia tăng. Để đơn giản hóa sự phân tích, chúng ta hãy
Q Số lượng (số hộp giấy)
Giá mộ đơn vị (£)
Pe
D
S
Hình (a) Thị trường. Tương tác giữa cung và cầu xác định giá cân bằng thị trường (Pe) của một hàng hóa
A Số lượng (số hộp giấy)
Giá mộ đơn vị (£)
Pe MR
Doanh thu biên từ hộp
A
Hình (b) Một xí nghiệp đơn lẻ. Giá thị trường lại xác định số tiền mà xí nghiệp nhận được từ việc bán một đơn vị sản phẩm, nghĩa là doanh thu biên tê (MR)
Doanh thu biên từ hộp
B
B
a b
Đường thẳng ngang biểu thị doanh thu biên tế nói lên rằng dù cho nhà sản
xuất có bán số lượng nhiều đến đâu, giá cả họ nhận được vẫn không thay đổi. Điều
này, thực ra không phải luôn luôn đúng; ví dụ nếu nhà sản xuất bán tràn ngập trên thị
trường một loại sản phẩm giá cả có thể bắt đầu giảm. Nếu nhà sản xuất không có một
đối thủ cạnh tranh nào cả (như là trường hợp độc quyền) thì nhà độc quyền có thể
giới hạn số lượng cung cấp để tăng giá lên. Đây là những vấn đề nghiêm trọng trong
thực tế nhưng vì mục đích của phần giới thiệu này chúng tôi sẽ bỏ qua vấn đề ấy.
6
tạm gác qua chi phí cố định trên cơ sở là những chi phí này phải trả mà không liên
quan gì tới số lượng xí nghiệp sẽ chọn để sản xuất. Thay vào đó, chúng ta hãy tập
trung vào biến phí của mỗi đơn vị được sản xuất ra tức là biến phí biên tế.
Khác với doanh thu biên tế, biến phí biên tế của việc sản xuất bất kỳ một loại
hàng hóa nào cũng khó có thể cố định bất kể đến số lượng sản xuất. Đó là do sư thay
đổi trong năng suất. Năng suất chủ yếu là một sự đo lường xem xí nghiệp có thể sản
xuất ra một đơn vị sản phẩm rẽ đến chừng nào. Trong trường hợp của nhà máy giấy, số
đo đơn giản của năng suất có thể được tính bằng cách xem số lượng nhân công thuê
được thêm để gia tăng mức sản xuất từng đợt giấy. Nếu chủ nhà máy chỉ thuê một
công nhân thì người này phải làm mọi việc của nhà máy như di chuyển giấy thô từ
máy này sang máy khác. Trong một trường hợp không hiệu quả như thế, người công
nhân độc nhất chỉ có thể sản xuất giả định như 10 hộp giấy một ngày. Tuy nhiên, nếu
người công nhân thứ hai được thuê, họ sẽ có thể phân công công việc với nhau bằng
một cách hiệu quả ví dụ một người điều khiển máy còn người kia di chuyển giấy thô
giữa các máy. Sự phân công lao động này khuyến khích nâng cao năng lực chuyên
môn hóa, do đó, rất có thể hai người làm việc với nhau có thể sản xuất ra nhiều hơn
gấp hai lần số lượng mà một người làm ví dụ như 30 hộp giấy trong một ngày. Chúng
ta gọi đây là sự gia tăng năng suất, hay gia tăng hiệu quả. Bây giờ hãy chú ý rằng khi
chúng tat hay đổi, một công nhân sang hai công nhân, biến phí (tiền lương công nhân)
tăng gấp đôi nhưng số lượng giấy sản xuất tăng gấp 3. Do đó, chi phí trên một hộp
giấy (biến phí biên tế) giảm xuống. Như vậy, khi sản phẩm gia tăng do năng suất gia
tăng thì biến phí biên tế giảm.
Xu hướng tăng năng suất (giảm biến phí biên tế MVC) thường xảy ra khi các xí
nghiệp vừa mở rộng sản xuất, xem khung 5.2. Tuy nhiên, hãy xét xem điều gì đã xảy
ra nếu chúng ta tiếp tục gia tăng sản phẩm và cứ tiếp tục thuê ngày càng nhiều nhân
công. Sự gia tăng năng suất (tức giảm biến phí biên tế MVC) tiếp tục cho đến một
điểm (ví dụ, ở điểm mà mọi máy móc đều có người điều hành và có công nhân để
chuyển sản phẩm sang máy khác) rồi sẽ giảm xuống sau điểm đó. Tiếp tục thuê nhân
công sẽ tăng chí tiền lương mà không làm tăng nhiều số lượng sản phẩm khi năng suất
công nhân bắt đầu giảm, thì chi phí sẽ bắt đầu tăng nhanh hơn số lượng sản phẩm sản
7
xuất, nghĩa là chi phí để sản xuất ra thêm một hộp giấy tăng (biến phí biên tế MVC
tăng).
Chi phí mỗi hộp sản xuất £
Năng suất tăng làm biến phí biên tế giảm
Năng suất giảm làm biến phí biên tế tăng
Số lượng sản xuất (hộp giấy)
Khung 5.2 Đường biểu diễn biến phí biên tế
Nhà máy giấy có thể tăng sản phẩm bằng cách thuê thêm nhân công. Số lượng công
nhân đầu tiên có rất nhiều việc làm và do đó dẫn tới một sự gia tăng lớn về sản phẩm, nghĩa là
chi phí của một hộp giấy giảm (biến phí biên tế MVC giảm). Tuy nhiên, khi toàn bộ máy móc
đã đủ công nhân sử dụng thì những công nhân thuê thêm nữa chỉ dẫn đến một sự gia tăng rất
nhỏ về sản phẩm, gnhĩa là chi phí một hộp giấy bắt đầu tăng (biến phí biên tế MVC tăng).
Dạng của đường biểu diễn biến phí biên tế có thể áp dụng cho đa số các loại chi phí (nhập liệu).
Ví dụ, nhà máy có thể tăng sản phẩm bằng cách tăng nhiệt độ của các bể chức bột giấy, nghĩa
là tăng số lượng nhiên liệu. Thoạt đầu một sự gia tăng nhỏ về nhiệt độ (tức gia tăng một ít biến
phí) dẫn đến một sự gia tăng lớn về sản lượng giấy tức là chi phí trên một đơn vị sản phẩm
(biến phí biên tế MVC) giảm. Tuy nhiên, cuối cùng khi tiến trình này đã đạt gần đến ngưỡng
thì một lượng rất lớn nhiệt độ (tức là một sự gia tăng rất lớn biến phí) chỉ tạo ra một sự gia tăng
nhỏ về số lượng giấy, tức là chi phí trên một đơnvị sản phẩm (biến phí biên tế MVC) tăng.
8
Hiện tượng năng suất giảm xuống ở giai đọn cuối rất phổ biến và xuất hiện
không chỉ cho yếu tố lao động mà cho phần lớn các tài nguyên khác mà xí nghiệp sử
dụng. Hãy lấy ví dụ về loại nguyên liệu cơ bản nhất là năng lượng. Giả thiết là quá
trình chế biến giấy cần đung nóng các bể hóa chất để phân giải các sợi gỗ để tạo ra
giấy. Bắt đầu từ nhiệt độ của bể là 0oC, nếu xí nghiệp tăng nhiệt độ lên 100oC, sản
lượng giấy sẽ tăng gấp đôi. Nếu gia tăng nhiệt độ lên đến 200oC có thể tưang sản phẩm
lên gấp 10 lần, nghĩa tăng năng suất (giảm MVC của năng lượng). Tuy nhiên, tăng
nhiệt độ lên đến 300oC có thể chị tăng sản phẩm lên 200oC và năng suất sẽ giảm sau
đó. Điều quan trọng là tất cả các tài nguyên đều có cùng một tính chất về MVC như
thế, nên khi ta xem xét toàn bộ biến phí, ta sẽ có một đường biểu diễn đi xuống ở giai
đoạn đầu và sẽ đi lên sau đó.
Tối ưu hóa lợi nhuận: Mức sản lượng tối ưu cho thị trường
Số lợi nhuận mà xí nghiệp sản xuất giấy có được từ một hộp giấy (lợi nhuận
biên tế - MC) chỉ là sự chênh lệch giữa số tiền bán một hộp (doanh thu biên tế - MR)
và số tiền để sản xuất ra một hộp giấy (biến phí biên tế - MVC). Trong khi doanh thu
biên tế như nhau cho mỗi chiếc hộp, thì chúng ta đã biết rằng chi phí biên tế của nó lại
thay đổi khi xí nghiệp gia tăng sản lượng sản xuất. Do đó khi tính đến lợi nhuận cho
từng chiếc hộp ta phải khấu trừ phần biến phí biên tế của hộp ấy trong doanh thu biên
tế - như minh hoạ trong khung 5.3.
Khi xí nghiệp tăng mức sản xuất, năng suất thoạt đầu tăng lên, biến phí biên tế
giảm và lợi nhuận biên tế tăng. Khi năng suất bắt đầu giảm, biến phí biên tế tăng và lợi
nhuận biên tế giảm. Tuy nhiên, xí nghiệp sẽ chỉ sản xuất ra những hộp giấy nào mà tối
thiểu còn có một mức lợi nhuận biên tế nào đó. Tại điểm mà mức sản phẩm là tối ưu
cho thị trường, tổng lợi nhuận của xí nghiệp (tức tổng các lợi nhuận biên tế) sẽ là tối
đa. Nếu như xí nghiệp tiếp tục tăng sản phẩm, dù chỉ một hộp giấy nữa thôi thì biến
phí biên tế của chiếc hộp sau cùng này sẽ cao hơn doanh thu biên tế, nghĩa là xí nghiệp
sẽ chịu lỗ cho chiếc hộp đó. Vậy động cơ lợi nhuận của thị trường tự do sẽ chi phối
hoạt động của cac xí nghiệp trên thị trường, dẫn đến một sự mở rộng sản xuất tới điểm
biến phí biên tế bằng với doanh thu biên tế vì điểm này trùng với năng lực mà xí
nghiệp đạt đến mức lợi nhuận tối đa có thể.
9
Bây giờ chúng ta có thể quay lại xét các chi phí cố định (nhà, đất,…) những chi
phí này phải được trừ ra khỏi con số lợi nhuận. Rõ ràng nếu nếu tổng lợi nhuận không
cao hơn tổng chi phí cố định thì con số lợi nhuận thuần là con số âm và xí nghiệp có
nguy cơ phá sản và đóng cửa.
Vì một xí nghiệp luôn luôn ấn định mức sản xuất ở vùng mà biến phí biên tế gia
tăng, các nhà kinh tế thường đơn giản các hình vẽ của họ về đường MVC bằng cách bỏ
qua phần đầu có độ dốc đi xuống và thay vào đó là một đường thẳng dốc lên đơn giản.
Vì đây là một qui ước chung, chúng tôi bây giờ cũng sẽ đổi sang cách này – xem
khung 5.4. Tuy nhiên, cũng hữu ích khi biết rằng trên thực tế năng suất hầu như luôn
tăng trước khi giảm, tức là MVC trên thực tế giảm trước khi tăng.
Ở đây ta chồng nhập đường biểu diễn của doanh thu biên tế MR (Khung 5.1) với đường
biến phí biên tế MVC (Khung 5.2). Bây giờ ta có thể lấy lợi nhuận trên chiếc hộp giấy đầu tiên là sự chênh lệch giữa doanh thu biên tế MR (khoảng cách 1a trên trục tung) và chi phí biên tế của hộp giấy đó (khoảng cách 1b trên trục tung), tức là lợi nhuận biên tế khi sản xuất chiếc hộp giấy đầu tiên là số lượng ab trên trục tung. Tương tự lợi nhuận biên tế khi sản xuất chiếc hộp thứ 2 là sự chênh lệch giữa MR và MVC, tức là khoảng cách cd. Như vậy, lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm (lợi nhuận biên tế) được biểu thị bằng đoạn thẳng liên tục có hai đầu mũi tên. Xí nghiệp sản xuất ra từng đơn vị sản phẩm khi nào mà doanh thu biên tế còn cao hơn hơn biến phí biên tế để sản xuất ra đơn vị sản phẩm đó. Cuối cùng thí xí nghiệp sẽ sản xuất ra toàn bộ các đơn vị sản phẩm cho tới Qm. Đây là mức đơn vị sản phẩm tối ưu cho thị trường. Để có thể duy trì việc kinh doanh về lâu dài, tổng lợi nhuận ở điểm Qm. Đây là mức sản phẩm tối ưu cho thị trường. Để có thể duy trì việc kinh doanh về lâu dài, tổng lợi nhuận ở điểm Qm ít nhất phải bằng những khoản chi phí cố định như chi phí nhà xưởng, tiền thuê đất,…
a c
b d
Tiền MR hay MVC
f e - Số tiền lợi nhuận
trên mỗ hộp giấy cho tới điểm Qm (lợi nhuận biên tế. - Số tiền lỗ của mỗi hộp giấy khi qua điểm Qm
MR
Số lượng hộp giấy 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 Qm
Khung 5.3 Mức sản lượng tối ưu cho thị trường
10
Cách thức thị trường sử dụng tài nguyên có giá và không có giá
(Tài nguyên môi trường)
Chúng ta đã thấy rằng một thị trường tự do, có hai yếu tố mà các xí nghiệp
xem xét đến khi họ quyết định sản xuất:
1. Giá một đơn vị sản phẩm mà họ có thể bán được
2. Chi phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm
11
Xí nghiệp sẽ dừng sản xuất khi biến phí biên tế MVC gia tăng, nghĩa là đường MVC giản lược là một đường có độ dốc lên. Sự chêng lệch giữa MR và MVC tạo cho nhà sản xuất đường lợi ích biên tế thuần của tư nhân MNPB (mà trước đây gọi là lợi nhuận biên tế). Xí nghiệp sẽ sản xuất tất cả đơn vị sản phẩm có khả năng sinh ra lợi ích thuần biên tế tư nhân, nghĩa là MR>MVC, kết quả là số lượng sản phẩm được cố định tai Qm.
Pe
Tiền MR hay MVC
MR
Số lượng hộp giấy 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 Qm
MVC
(Hộp giấy)
TiềnMNPB
Số lượng hộp giấy 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 Qm
MNPB Pe
(Hộp giấy)
Ghi chú: lợi nhuận thu được trên mỗi hộp giấy (Lợi ích thuần biên tế của tư nhân MNPB)
Khung 5.4 Đường MVC giản lược và đường lợi ích biên tế MNPB của tư nhân
12
Ta cũng đã biết rằng chi phí sản xuất ra mỗi đơn vị sản phẩm (biến phí biến tế
MVC) cuối cùng sẽ tăng lên khi xí nghiệp gia tăng số sản phẩm. Hơn nữa khi MVC
bằng với giá bán (tức doanh thu biên tế MR) thì xí nghiệp ngừng sản xuất và ấn định
tổng sản lượng sản xuất ở đó. Điều này có hàm ý gì đối với xí nghiệp sử dụng nguồn
tài nguyên? Hãy nhớ lại trong ví dụ về xí nghiệp sản xuất giấy. MVC để sản xuất ra
thêm một hộp giấy bao gồm các khoản như chi phí thuê nhân công, chi phí mua thêm
bột giấy và chi phí năng lượng tăng thêm để làm nóng bể làm giấy. Sự phân tích thị
trường chỉ ra rằng xí nghiệp chỉ gia tăng sản lượng khi mà giá bán một sản phẩm tăng
thêm cao hơn chi phí để sản xuất ra nó. Có nghĩa là xí nghiệp sẽ rất thận trọng chứ
không hoang phí các nguồn tài nguyên mà xí nghiệp phải trả tiền mua chúng.
Điều này đưa chúng ta đến một kết luận quan trọng, là thị trường tự do tạo ra
một động lực mạnh mẽ để các xí nghiệp phải duy trì hơn là khai thác quá mức các
nguồn tài nguyên mà xí nghiệp phải bỏ tiền mua. Xí nghiệp sẽ chỉ sử dụng các nguồn
tài nguyên này tới điểm mà chi phí sản xuất bằng với số thu và xí nghiệp sẽ không lạm
dụng nguồn tài nguyên vượt quá điểm này. Tuy nhiên, kết luân này trở nên kém hiệu
lực khi chúng ta xét tới những tài nguyên do môi trường cung cấp miễn phí.
Chúng ta hãy xét giả thiết tiềm ẩn trong lời phát biểu rằng thị trường chỉ sử
dụng tài nguyên khi mà giá trị của tài nguyên thấp hơn giá trị thành phẩm làm bằng tài
nguyên đó. Lời phát biểu này cho rằng chi phí của tài nguyên là cái thước đo chính xác
giá trị của tài nguyên ấy. Nhưng hãy xem ký lại năng lượng mà xí nghiệp giấy sử dụng
để tăng mức sản xuất. Năng lượng này chắc chắn là chỉ phụ thuộc vào việc sử dụng
các chất hóa thạch (than, khí đốt, dầu…) hay năng lượng hạt nhân. Trong ví dụ này, xí
nghiệp giấy sử dụng điện trở để đốt nóng bể giấy và năng lượng này được tọa ra bởi
việc đốt than (việc sử dụng các nguồn năng lượng khác cũng đưa đến kết quả tương
tự). Chi phí năng lượng đối với xí nghiệp đơn giản là hóa đơn tiền điên. Nhưng tờ hóa
đơn này chỉ phản ánh số tiền mà công ty điện phải trả cho việc mua than, thuê nhân
công, duy trì các đường ống,…và số tiền công ty trả cho các cổ đông. Cái mà tờ hóa
đơn tiền điện không phản ánh là sự tổn hại tới môi trường do sản xuất điện theo kiểu
này.
13
Đốt than để tạo ra chất Nitrous Oxide và Sulphur dioxide (hai chất này gây
bệnh hô hấp, hại mùa màng cây trồng, làm các đường nước bị axit hóa). Và thải ra
cacbonic (là chất chính gây ra hiệu ứng nhà kính và sự thay đổi thời tiết). Khi không
có những qui định của nhà nước, thì không xí nghiệp nào tạo ra chất thải này phải đền
bù cho những tổn hại mà chất thải ấy gây ra, và do đó, chi phí tổn hại ấy không được
tính đến trong hóa đơn tiền điện của xí nghiệp giấy. Vì thế, chi phí mà xí nghiệp giấy
phải trả cho việc gia tăng sử dụng năng lượng sẽ không phản ánh những tổn hại tăng
thêm về môi trường. Nhưng thay vào đó, những chi phí này xã hội lại phải gánh trả
theo các khoản bênh tật và suy thoái môi trường.
Khi một số giá cả thị trường như giá điện có thể chỉ là sự phản ảnh một phần
của chi phí thực sự cho việc sử dụng nguồn tài nguyên, thì một vấn đề khác không
kém quan trọng được đặt ra là những sự phục vụ của môi trường mà các công ty sử
dụng một cách trực tiếp và chúng rất cần thiết cho quá trình sản xuất thì lại không có
một giá cả nào trên thị trường.
Giả sử xí nghiệp có thể tăng sản lượng hoặc bằng cách tăng nhiệt độ trong
những bể bột giấy hoặc bằng cách gia tăng tỏng việc sử dụng nước vào trong bể và
thải chất lỏng này vào một hồ gần đó. Phương án thứ 2 (sử dụng thêm nước và sau đó
sử dụng năng lực hấp thu hóa giải chất lỏng của sông) sẽ chỉ làm tăng thêm chi phí của
xí nghiệp tới mức độ là phải trả thêm chi phí cho tiền nước mà thôi (và thường là giá
nước này thấp). Rõ ràng là nếu mục tiêu của xí nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận thì xí
nghiệp sẽ thích chọn phương án 2.
Một chiến thuật sử dụng tài nguyên như thế rõ ràng là có lợi cho xí nghiệp tư
nhân, song nó lại rất tốn kém cho môi trường và cho xã hội. Một lần nữa ta thấy khi
không có những qui định của nhà nước, xí nghiệp xả nước bị ô nhiễm vào sông nhưng
không trả tiền cho dịch vụ hấp thu hóa giải chất lỏng của dòng nước mặc dù là nước bị
ô nhiễm do hành động này có thể làm tổn hại môi trường bằng muôn vàn cách. Ví dụ,
do sự ô nhiễm này một số loài cá ở sông sẽ bị giết hại ngư dân sẽ mất đi một nguồn tài
nguyên giá trị. Tương tự các nhà máy nước phải lắp đặt công cụ lọc lắng để đảm bảo
chất lượng nước có thể uống được cho dân chúng. Sự tổn hại do suy thoái môi trường
không ảnh hưởng đến công ty tư nhân gây ô nhiễm kia (nghĩa là chi phí tổn hại không
là một chi phí nội sinh được phản ánh trong biến phí biên tế của xí nghiệp). nhưng lại
14
ảnh hưởng đến toàn xã hôi. Những tổn hại như thế được gọi là chi phí ngoại tác, Ghi
nhớ rằng bất kỳ một sự tổn hại môi trường nào mà không được điều chỉnh bởi người
gây ô nhiễm sẽ tạo ra chi phí ngoại tác cho dù xã hội có trả tiền trực tiếp (như là gắn
công cụ lọc nước) cho sự tổn hại ấy hay không (như sự hủy diệt các loài cá).
Thực ra xí nghiệp đang sử dụng các tài nguyên không có giá cả ấy cùng một
cách thức như bất kỳ một tài nguyên có giá nào khác. Xí nghiệp sẽ luôn luôn gia tăng
việc sử dụng tài nguyên khi mà chi phí của sự gia tăng ấy thấp hơn doanh thu của mỗi
một sản phẩm sản xuất ra. Tai hại thay, chi phí để xí nghiệp sử dụng các nguồn tài
nguyên không có giá này là con số không do đó xí nghiệp gia tăng việc sử dụng các tài
nguyên ấy cho đến khi một sản phẩm nào đó còn có thể tạo ra từ nguồn tài nguyên ấy
được nữa.
Sản lượng ô nhiễm và các chi phí ngoại tác (sản lượng tối ưu cho xã hội)
Mặc dù hệ thống thị trường tỏ ra có hiệu lực khi sử dụng các tài nguyên có giá
cả, song nó không đủ năng lực để hướng dẫn các xí nghiệp một cách đúng đắn trong
việc sử dụng có hiệu quả những tài nguyên môi trường không có giá. Sự thất bại của
thị trường này xảy ra bởi vì các xí nghiệp chỉ quan tâm tới giá thị trường của một loại
tài nguyên khi quyết định số lượng tài nguyên cần được sử dụng. Khi một xí nghiệp sử
dụng và làm thoái hóa một tài nguyên (như khả năng hấp thu hóa giải chất thải của
nước) thì điều này không tạo ra một chi phí nội sinh cho xí nghiệp (nghĩa là đường
MVC của xí nghiệp không tăng) nhưng nó lại tao ra một chi phí ngoại tác cho xã hội.
Khung 5.5 cho thấy cách thức mà việc sản xuất ra sản phẩm dẫn tới ô nhiễm và
do đó tạo ra chi phí ngoại tác. Chỉ khi nào các chi phí ngoại tác này được quan tâm đến
(nghĩa là biến thành chi phí nội sinh cho người gây ô nhiễm), thì chúng ta mới chuyển
từ điểm số lượng tối ưu cho thị trường do động lực lợi nhuận tạo ra sang tới điểm số
lượng tối ưu cho xã hội.
Bây giờ chúng ta đưa những chi phí ngoại tác vào khi quyết định xem có nên
sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm nào đó không. Qui luật quyết định thị trường của
một xí nghiệp tư nhân có liên quan đến câu hỏi này sẽ cho rằng tất cả các đơn vị sản
phẩm tạo ra lợi ích thuần biên tế tư nhân MNPB là một số dương (nghĩa là MR>MVC)
15
đều nên được sản xuất, cho đến điểm mà MR=MVC thì sản lượng tại đó là sản lượng
tối ưu cho thị trường. Và bây giờ, ta có thể phát biểu vềqui luật quyết định xã hội là
các chi phí ngoại tác phải được xét đến, nghĩa là những người gây ô nhiễm phải bị
buộc trả tiền cho ô nhiễm ho gây là (nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền).
Chúng ta sẽ khảo sát sâu hơn về nguyên tắc này ở chương 10.
Hình (a) Số lượng chất thải do xí nghiệp giấy tạo ra khi gia tăng sản lượng và được hấp thụ (A) bới môi trường. Nếu sản lượng vượt khỏi điểm QA, khả năng hóa giải của môi trường bị vượt quá và chi phí ngoại tác phát sinh mà xã hội phải gánh chịu
Số lượng chất ô nhiễm thải ra được hấp thụ
Ô nhiễm thải ra:tổng số ô nhiễm sản sinh (ví dụ: số lít nước bị clo hóa)
Khả năng hóa giải
Sản lượng (số lượng hộp giấy sản xuất ra
QA
A
Khung 5.5 Các chi phí ngoại tác và sản lượng tối ưu cho xã hội
16
Hình (b) Chi phí ngaọi tác do ô nhiễm, ví dụ giá trị của trữ lượng cá bị mất. Đường chi phí ngoại tác biên tế MEC cho thấy rằng ô nhiễm tích lũy lại khiến cho việc tăng gấp đôi sản lượng giấy sẽ làm tăng hơn gấp đôi lượng cá bị giết hại nghĩa là chi phí ngoại tác biên tế gia tăng trên mỗi đơn vị hộp giấy sản xuất. Hình (c) Sản lượng tối ưu cho xã hội Qs. Điểm này được xác định bằng cách trừ chi phí ngoại tác MEC vào lợi nhuận thuần biên tế tư nhân MNPB của doanh nghiệp. Ở đây, một đơn vị sản phẩm chỉ nên được sản xuất nếu MNPB > MEC, tức là sản lượng cần phải giảm từ Qm tới Qs.
Chi phí ngoại tác biên tế
Chi phí ngoại tác biên tế MEC
Sản lượng (số lượng hộp giấy sản xuất ra
QA
Khung 5.5 Các chi phí ngoại tác và sản lượng tối ưu cho xã hội
Tiền MNPB hay MEC
MEC
Sản lượng (số lượng hộp giấy sản xuất ra
QA QS Qm
17
Không cạnh tranh trong tiêu thụ
Độc quyền không dễ dàng hay không thực tế
Khung 5.6 Hàng hóa công cộng và hàng hóa tư nhân
Thất bại thị trường liên quan đến điều kiện (c) cho trong khung 1.4
CÁC LOẠI HÀNG HÓA
Hàng hóa tư nhân thuần túy
Hàng hóa gần như công cộng
Hàng hóa công cộng
Hàng hóa hầu như tư nhân
Độc quyền Phân chia được
Không độc quyền Phân chia được
Không độc quyền Chỉ phân chia được
một phần
Không độc quyền Không thể phân chia
Cạnh tranh trong tiêu thụ Độc quyền dễ
dàng
Trả tiền thường xuyên hàng năm để có hàng hầu như công cộng
Hàng hóa bị đông nghẹt được như bãi biển, trở thành hàng hóa gần như tư nhân
khi hết khả năng dung nạp thêm
Tốt ít Không có thị trường
Vài phương pháp gián tiếp do các nhà kinh tế đặt ra để thay thế cho việc thiếu những giá
trị thị trường
Tốt Hàng hóa tư nhân mua và bán trên thị trường
Ít tốt nhất Các phương pháp đánh giá thay thế thị trường gặp những cưỡng chế
khó khăn
HÀNG HÓA VÀ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG
TRIỂN VỌNG ĐÁNH GIÁ BẰNG TIỀN
ĐẶC TÍNH
18
Hàng hóa công cộng Thị trường hoạt động tất nhất khi phân bổ hàng hóa tư nhân, những thứ hàng
hóa mang tính độc quyền (tức không ai muốn trả với giá thị trường cho hàng hóa tư
nhân thì không được quyền sử dụng) và cạnh tranh trong tiêu thụ (đôi khi gọi là khả
năng phân chia). Đặc tính thứ nhì đảm bảo rằng một tài nguyên có thể được phân chia
để mỗi cá nhân muốn trả giá cho phần đó có thể loại trừ không cho những người (cạnh
tranh) khác được hưởng lợi ích nó. Hàng hóa môi trường có khuynh hướng là loại
không độc quyền và phân chia được (những đàn cá di trú và những mạch nước ngầm),
loại độc quyền và không thể phân chia (như những khu vực bảo tồn thiên nhiên và
những bãi biển tư nhân có một mức sử dụng tối đa) hay loại không độc quyền và
không thể phân chia (như những cảnh đẹp và nước và không khí sạch), xem khung 5.6
Kết luận
Thị trường tự do tính đến giá cả của tài nguyên khi quyết định sử dụng bao
nhiêu tài nguyên đó trong việc sản xuất hàng hóa. Khi những giá cả đó phản ánh chính
xác giá trị thực của tài nguyên, thị trường tự do khuyến khích tiết kiệm và bảo tồn tài
nguyên. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng giá cả của nhiều loại tài nguyên thường không
phản ánh đầy đủ các chi phí liên quan đến việc sử dụng chúng (giá điện không phản
ánh thiệt hại môi trường khi sản xuất ra điện). Hơn nữa, chúng ta biết rằng nhiều tài
nguyên môi trường vô cùng giá trị thường không được tính giá khi sử dụng chúng
(như khả năng hấp thu chất chải của môi trường). Việc sử dụng tài nguyên môi trường
và việc ô nhiễm môi trường liên quan có thể bị các xí nghiệp đánh giá không đúng (tức
là đánh giá thấp). Tuy nhiên chúng gây ra chi phí cho toàn xã hội. Do đó, tình trạng
thất bại thị trường xảy ra khi xí nghiệp sản xuất ra những sản phẩm mang lại lợi nhuận
tư nhân nhưng gây nên chi phí ngoại tác cho xã hội. Chỉ khi những chi phí ngoại tác
này được xét đến (chẳng hạn như buộc xí nghiệp phải trả cho các chi phí ngoại tác mà
họ gây ra theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả) xí nghiệp sẽ xử sự để tránh thất
bại thị trường xảy ra và chuyển từ mức sản xuất tối ưu thị trường sang mức tối ưu xã
19
hội. Chúng ta cũng biết thêm rằng nhiều hàng hóa nhiều hàng hóa môi trường không
có tính chất như hàng hóa trên thị trường: chúng là hàng hóa mang tính chất công cộng
hơn là tư nhân. Tính công cộng là một trong những lý do mà thị trường không tiến
triển một cách tự nhiên đối với hàng hóa và dịch vụ môi trường.
20
CHƯƠNG 6
CHÍNH QUYỀN THẤT BẠI TRONG VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG NHƯ THẾ NÀO?
Tại sao chính quyền can thiệp
Chương 5 cho thấy rằng không thể dựa vào thị trường tự do để bảo vệ môi
trường. Thị trường thất bại vì chúng thường không thiết lập được thị trường cho dịch
vụ và hàng hóa môi trường. Hiện tượng ngoại tác là một lý do chủ yếu của việc này:
hoạt động của một cá nhân hay của một xí nghiệp ảnh hưởng đến phúc lợi của người
khác, nhưng thường không có động lực nào để người gây ra ảnh hưởng này lại cân
nhắc đến việc đó trong các quyết định của mình. Như thế tình trạng này cần có sự can
thiệp của chính quyền vào thị trường để bảo vệ những nạn nhân của tác động ngoại tác
này. Đó chính là những gì chính quyền thường làm trong nhiều trường hợp. Ví dụ như
chính quyền có thể đặt ra những qui định về tiếng ồn của phi cơ bởi vì các hãng hàng
không không tự nguyện làm giảm tiếng ồn cho các hộ ngụ trong vùng lân cận phi
trường. Chính quyền có thể đặt ra tiêu chuẩn cho chất lượng nước sông bởi vì người sử
dụng con sông ở đầu nguồn có thể không quan tâm đến những thiệt hại do ô nhiễm mà
người sử dụng ở cuối nguồn phải hứng chịu. Chính quyền cũng can thiệp khi các hoạt
động mang tính chất quốc gia. Ví dụ, các công dân ở Âu Châu lục địa có thể không tự
nguyện làm giảm lượng ô nhiễm gây mưa axit ở Scandinavia. Các chính quyền cần
phải cùng hoạt động với nhau.
Một lý do quan trọng khác cho sự can thiệp của chính quyền, mà nó quan trọng
đăck biệt đến vấn đề môi trường, là khi có những thiệt hại xảy ra vì không ai thực sự
là chủ của tài nguyên đó cả. Nếu chúng ta cho rằng khí quyển cũng là một loại tài
nguyên – bởi vì nó hoạt động như một bể chứa các chất thải khí như chất carbonic,
metan, v.v.- thì rõ ràng rằng tài nguyên này không thuộc sở hữu của bất kỳ ai cả. Ta
gọi đó là loại tài nguyên tự do tiếp cận. Song bởi vì không ai sở hữu riêng nó, nên
không có cá nhân nào có động lực để làm giảm ô nhiễm thải vào không khí. Mỗi một
cá nhân tiếp tục hưởng lợi theo quan điểm ích kỷ và không hạn chế thải chất ô nhiễm.
Song chừng nào mà mọi người suy nghĩ như vậy, thì nguồn tài nguyên sẽ còn có nguy
cơ lạm dụng. Chính cũng vì lý do này mà hiện tượng bầu khí quyển toàn cầu nóng lên
21
sắp xảy ra và đó chính là một ví dụ cho điều được biết đến – một cách không chính xác
lắm - như là “bi kịch của chung”. (Nói là không chính xác lắm bởi vì “những của
chung” liên quan tới những tài nguyên tài sản chung do một nhóm cá nhân khá xác
định nắm giữ quyền sở hữu, trong khi bi kịch thực sự của sự lạm dụng lại có khả năng
xảy ra nhiều hơn đối với các tài nguyên mà không ai sở hữu cả: những tài nguyên tự
do tiếp cận - xem Chương 15). Trong các trường hợp như thế, chính quyền cần can
thiệp và quản lý nguồn tài nguyên. Chính quyền sẽ can thiệp bằng cách đặt ra những
quy định không cho phép thải các chất gây ô nhiễm vượt quá một mức giới hạn nào
đó.
Tại sao chính quyền thất bại
Mặc dù có nhiều lý do chính đáng để chính quyền can thiệp, song rủi thay việc
quản lý các tài nguyên tự nhiên của chính quyền thường cũng không hơn gì sự quản lý
ấy của thị trường tự do. Việc này có nhiều lý do, một số lý do sẽ được trình bày sau
đây.
Trước hết chúng ta là những người công dân vẫn có xu hướng cho rằng, nhiệm vụ
và mục đích của chính quyền là hoạt động vì quyền lợi chúng ta với tư cách là một
cộng đồng hơn là các cá nhân. Vì thế mà chúng ta có luật pháp, có lực lượng công an,
có bộ máy tư pháp, có các quy định về y tế công cộng…song, các hình ảnh về những
chính quyền hoạt động từ thiện có lẽ không đúng. Ở một thái cực, các chính quyền có
thể chuyên chế và chỉ quan tâm đến quyền lợi của một nhóm người trong cộng đồng
hơn là của toàn thể cộng đồng. Ngay cả trong các quốc gia dân chủ, chính quyền vẫn
có thể chỉ hành động để làm hài lòng một nhóm có áp lực nào đó chứ không phải cho
toàn xã hội. Điều này có nghĩa là chính quyền có thể không hoạt động tốt để bảo vệ
môi trường, đặc biệt nếu họ cho là bảo vệ môi trường sẽ làm tăng chi phí của thành
viên trong các nhóm áp lực có thế mạnh. Bởi vì pháp luật môi trường có xu hướng áp
đặt thêm chi phí cho công nghiệp và nông nghiệp và cho các công dân, nên nó thường
bị nhiều nhóm người quan tâm phản đối.
Thứ hai, chính quyền có thể không đủ khả năng để thu thập các thông tin đúng để
cho phép họ theo dõi toàn bộ hậu quả của một hoạt động nào đó. Ngay cả khi một
22
chính quyền có chủ tâm tốt, thì chủ tâm tốt đó có thể không thực hiện được bởi vì quá
trình nhận thông tin diễn ra hết sức phức tạp. Như chúng ta sẽ thấy, điều này rất quan
trọng đối với vấn đề môi trường bởi vì các chính trị gia thường không thấy được
những hoạt động mà bề ngoài không liên quan gì đến môi trường, lại sẽ có tác động
đến môi trường. Mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường mà chúng ta đã nhấn mạnh ở
Chương 1 có thể gây sự bất lợi cho môi trường, đơn giản vì các chính trị gia có xu
hướng “phân lập hóa” vấn đề. Chúng ta không thể có “một chính sách môi trường”
tách biệt với chính sách năng lượng, hay chính sách phát triển vùng, v.v…Chúng luôn
gắn bó hữu cơ với nhau.
Thứ ba là, chính quyền, dưới hình thức của những chính trị gia, có thể có những ý
định tốt và hình thành ra luật môi trường về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên nó cần phải
được chuyển thành hành động và điều này cần những chuyên gia làm trong bộ máy
chính quyền. Những quan chức này rất quan trọng và có thể ảnh hưởng dễ dàng đến
tính chất của các quy định trong thực tế. Vì các quan chức này thường không phải là
những người được bầu và cũng không giống như công nhân, họ không nhận tiwwnf
lương theo kết quả công việc, do đó họ có rất ít động cơ rõ rệt để hành động vì quyền
lợi của cộng đồng, trừ phi vấn đề được các chính trị gia xem xét kỹ lưỡng, và điều này
cũng rất khó.
Minh họa sự thất bại của chính quyền
Chúng ta có thể minh họa sự thất bại của chính quyền bằng một số ví dụ
Chính sách nông nghiệp chung
Trong Cộng Đồng Âu Châu, ngành nông nghiệp chịu chi phối của Chính Sách
Nông Nghiệp Chung (CAP) được thiết lập năm 1958. Mục tiêu của CAP là để tăng thu
nhập của giới nông dân, ổn định thị trường nông nghiệp, đảm bảo việc cung cấp lương
thực, ngăn ngừa sự đe dọa của việc ngừng cung cấp từ quốc tế và để bảo đảm giá hợp
lý cho người tiêu dùng. Thực tế chính sách này ảnh hưởng quyền thế của nhóm vận
động cho nông nghiệp mà kể từ Thế Chiến Thứ Hai, họ đã đạt được rất nhiều sự bảo
vệ ở mức quốc gia từ các chính quyền. Khung 6.1 trình bày một cách tổng quát CAP
đã hoạt động như thế nào. Thay vì để cho các lực lượng cung cầu trên thị trường lương
23
thực tự do hoạt động “giá can thiệp” lại được đặt ra, cao hơn giá thị trường mà lẽ ra đã
là giá phổ biến. Giá thị trường - nếu được phổ biến - sẽ được xác định bởi “giá thế
giới” và với giá này lương thực nhập khẩu có thể vào Cộng Đồng Âu Châu (EC). Thế
nhưng các lương thực nhập khẩu, phải chịu đóng thuế nhập khẩu, thuế này bằng với
mức chênh lệch giữa giá thế giới và giá can thiệp. Ảnh hưởng của gia can thiệp do đó
là để hạn chế các hàng hóa nhập khẩu rẽ hơn, và để đảm bảo giá cho các sản phẩm của
người nông dân.
CAP là một ví dụ về “sự thất bại cảu chính quyền” bởi vì nó chỉ bảo vệ cho một
nhóm người - nhóm nông dân - với các giá phải trả bởi một nhóm lớn hơn - gồm người
tiêu thụ và người trả thuế - như là một phí tổn ròng đối với toàn xã hội. Người tiêu thụ
rốt cuộc phải trả một giá cao hơn chi phí mà lẽ ra họ sẽ trả nếu có thị trường tự do. Do
đó họ bị thiệt thòi hơn. Người nộp thuế cũng phải trả một số chi phí vì những việc
khác, như là hạn ngạch sản xuất, là những phương tiện được dùng để bảo vệ nền nông
nghiệp của EC. Cho dẫu có lý luận rằng cần bảo vệ thu nhập của nông dân bằng sư
giảm bớt thu nhập của người khác, thì hình thức bảo vệ này cũng rất đắc tiền: người
tiêu thụ và người trả thuế phải hy sinh nhiều hơn một bảng Anh để trả cho nông dân
một bảng Anh. Chi phí phải trả do CAP riêng ở Vương Quốc Anh đã chiếm 1,7 tỷ
bảng Anh năm 1990/1991.
CAP đã gắn với tổn thất môi trường như thế nào? Khung 6.1 cho thấy một ảnh
hưởng của CAP là kích thước sản xuất thừa quá mức. Động cơ sản xuất thừa quá mức
phát sinh bởi vì nông dân có thể mua bán sản phẩm họ sản xuất ra ở giá can thiệp (trừ
phi có hạn ngạch sản xuất như trong vài trường hợp). Sản xuất gia tăng theo hai cách:
bằng cách mở rộng diện tích và bằng biện pháp thâm canh.
Một trong những cách mở rộng diện tích canh tác ở các nước không có đất thừa
là dẹp bỏ những hàng cây phòng hộ. Khung 6.1 cho thấy rằng việc dẹp bỏ bờ rào đã
tăng nhanh ở Đức và Anh trong giai đoạn mà CAP bắt đầu được áp dụng.
Một cách khác để gia tăng sản lượng là tăng cường thâm canh. Việc này có
khuynh hướng sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu nhiều hơn, và một trong những lý do
khuyến khích việc lạm dụng này là sự tồn tại giá bảo đảm cho sản phẩm. Khung 6.1
cho thấy một số bằng chứng về hậu quả của CAP là mức sử dụng phân bón ở các nước
EC cao hơn các quốc gia khác.
24
Khung 6.1 Sản xuất quá mức do CAP và ảnh hưởng của nó đến môi trường
Hình (a) và (b) – Cung và cầu của sản phẩm nông nghiệp trong Cộng Đồng Âu Châu
Hình (a) và (b) biểu diễn đường cung và cầu của sản phẩm nông nghiệp trong
Cộng Đồng Âu Châu. Có hai trường hợp được phân biệt. Ở hình (a) đường cầu thực
phẩm của Cộng Đồng Âu Châu được biểu thị bằng DEC và số lượng mà nông dân sẵn
lòng cung cấp được biểu diễn bằng SEC ; nhưng các nước trên thế giới lại sản xuất thực
phẩm rẽ hơn nhiều và đường cung của họ là Pw . Nếu như thị trường tự do chi phối thì
đường cung thực tế là đường ZABD và Cộng Đồng Âu Châu sẽ tiêu thụ ở mức D.
Thặng dư
25
Nông dân Âu Châu sẽ cung cấp ở mức oa và các nước khác sản xuất ở mức ac (nên
nhớ rằng đường cung tổng cộng bị “gãy” bởi vì, trên mức oa các nước khác sản xuất rẽ
hơn Cộng Đồng Âu Châu). Nhưng Cộng Đồng Âu Châu không cho phép điều này. Họ
không chỉ đặt ra “giá can thiệp” (Pi) cho nông dân, mà còn bảo vệ nông dân bằng cách
đưa ra hàng rào thuế quan, t, trên hàng nhập khẩu từ thế giới bên ngoài làm cho hàng
nhập có giá ngang bằng với giá can thiệp. Kết quả là họ khuyến khích nông dân sản
xuất ra lượng ob, và lượng nhập khẩu là bc, nhu cầu là oc. Tuy nhiên số sản lượng ab
là lượng sản xuất không hiệu quả (bởi vì thế giới có thể sản xuất với giá rẽ hơn).
Hình (b) trình bày một tình thế khác, trong đó tất cả hàng nhập khẩu đều bị loại
hết và nông dân EC có thể sản xuất quá nhiều đến nỗi thị trường không thể tiêu thu
hết. Trong trường hợp này giá can thiệp được nâng cao đến mức nông dân sản xuất
không những thảo mãn mức nhu cầu về lương thực (điểm B) mà còn sản xuất thừa
(điểm C). Mức độ sản xuất không hiệu quả đã mở rộng ra hơn so với hình (a) và lượng
thặng dư cần phải được dự trữ (như “những hồ rượu”, “những núi bơ”) hay phải được
xuất khẩu. Nhưng, nếu xuất khẩu, lượng sản phẩm này sẽ chỉ có thể bán được ở giá thế
giới Pw là giá thấp hơn giá mà nông dân được bảo đảm. Như vậy, sự chênh lệch này là
sự trưoj giá xuất khẩu (được gọi là “tiền bồi thường”). Lưu ý là trong trường hợp này
không có nhập khẩu. Trong thực tế, thị trường có thể chuyển tư tình huống (a) sang (b)
tùy vào lượng cung cấp nội địa và điều kiện thị trường thế giới. Nhập khẩu và cung
thặng dư vẫn có thể tồn tại đồng thời trong trường hợp có sự phân biệt giá cả để dung
nạp những khác biệt về chất lượng sản phẩm và điều kiện không hoàn hảo của thị
trường.
Với chính sách nông nghiệp chung CAP, môi trường của các nước EC chịu thiệt
hại vì sản xuất ở mức không hiệu quả. Sản lượng cao hơn đạt được bằng cách mở rộng
diện tích trồng (phá bỏ hàng cây phòng hộ và thiết lập nền độc canh cơ giới hóa), bằng
việc sử dụng quá nhiều phân bón và thuốc trừ sâu - dẫn tới việc thải nhiều hơn vào
các dòng sông và các mạch nước ngầm - và bằng việc gia tăng đàn gia súc, làm các
đồng cỏ bị ăn gặm quá mức và tạo nên những đám sình lầy đầy phân gia súc có thể
làm ô nhiễm sông.
Hậu quả trên những hàng cây phòng hộ
26
Hình (c) cho thấy chiều dài của hàng cây phòng hộ ở (Tây) Đức, Anh và xứ
Wales trên mỗi mẫu đất nông nghiệp.Ảnh hưởng của chính sách nông nghiệp chung
CAP có thể nhận thấy được dù số liệu rất ít. Ở Đức, Anh và xứ Wales, việc giảm sút
nhanh nhất về chiều dài xảy ra từ đầu đến giữa những năm 1960 (đường biểu diễn của
Đức cho thấy việc giảm sút này xuất hiện sớm hơn do số lượng quan sát giới hạn giữa
1950 và 1960)
Nguồn: Tính toán của các tác giả dựa vào số liệu của bộ Môi Trường.Digest ò
Environmental Protection and Water Statistics 1990 và Vụ Bảo Vệ Môi Trường Hoa
Kỳ (1990).
Hình (c) – Chiều dài của hàng cây phòng hộ ở Anh, xứ Wales và Đức
Sử dụng phân bón
Vì việc mở rộng đât nông nghiệp ở các nước phát triển có xu hướng bị hạn chế,
nên cách chính để tăng sản lượng là bằng con đường thâm canh - tức sử dụng thêm
phân bón, thuốc trừ sâu cho cây trồng. Việc sử dụng phân bón có xu thế tăng ở tất cả
27
các nước, không chỉ ở EC. Nhưng điều quan trọng là vào năm 1988, và so với mức sử
dụng trung bình của OECD, phân đạm được sử dụng nhiều nhất ở các nước EC.Do đó,
so với mức trung bình là 5,7 tấn/km2, thì mức sử dụng phân ở Châu Âu được trình bày
trong Bảng 1 như sau:
Bảng 1- Sử dụng phân bón ở Âu Châu (các nước trong dấu ngoặc không phải là thành
viên của EC)
Vượt hơn 10 tấn/ km2
so với mức trung bình của OECD
Từ 5 – 10 tấn/ km2
so với mức trung bình của OECD
Bỉ
(Nhật)
Đức
Đan mạch
Anh
Pháp
(Thụy sĩ)
(Na uy)
Nguồn: OECD (1991)
Thất bại của chính quyền ở các nước đang phát triển
Ở thế giới thứ ba, thị trường tự do thường không được phép hoạt động. Chính
quyền can thiệp và kiểm soát giá, nhưng không giống trường hợp EC, chính quyền oqr
đây thường giữ giá thấp hơn giá cân bằng của thị trường. Họ làm như vậy thường là do
những động cơ tốt. Ví dụ, họ muốn giữ giá lương thực thấp để có thể trợ giá lương
thực cho người nghèo, hay họ muốn thúc đẩy sự phát triển công nghiệp và điều này
dẫn họ đến chỗ giữ giá năng lượng thấp. Rủi thay, những can thiệp ấy thường tạo ra
nhiều vấn đề hơn. Các ảnh hưởng không tốt là:
* Chính quyền sử dụng hết các nguồn thu quan trọng từ thuế và các thu nhập khác
cho những trợ cấp để kiểm soát giá, mặc dù nguồn thu của chính quyền là cao do nhu
cầu sử dụng những nguồn thu này để phát triển kinh tế.
28
* Việc trợ cấp khuyến khích lạm dụng các nguồn tài nguyên được trợ giá. Dù chúng
ta thường nghĩ rằng các nước nghèo sẽ sử dụng tài nguyên hiếm một cách khôn ngoan
thì ảnh hưởng của việc giữ giá thấp lại khuyến khích sự sử dụng phung phí.
* Trợ giá khiến cho các hoạt động kinh tế có liên quan trở nên hấp dẫn một cách giả
tạo. Nó có xu hướng hấp dẫn nhiều nhân lực hơn vào trong các kỹ nghệ hay các ngành
được trợ giá vì lý do lợi nhuận, hay “mức tô” cao. Nó tách nguồn tài nguyên ra khỏi
những hoạt động quan trọng của nền kinh tế.
Tác động đối với môi trường có thể minh họa bằng vấn đề giá nước tưới và giá
năng lượng.
Nước tưới
Ở nhiều quốc gia, giá phải trả cho nước dùng trong tưới cây trồng thường thấp
hơn chi phí cung cấp, và thường thiếu những khuyến khích để tiết kiệm nước. Ví dụ,
giá phí nước thường được xác định trên cơ sở của diện tích được tưới mà không tính
đến số lượng nước thực tế được sử dụng. Một trong những ảnh hưởng của giá thấp là
việc tưới quá mức làm cho đất được tưới bị úng. Sử dụng nước tưới thường vượt quá
mức cần thiết gấp ba lần. Ở Ấn Độ, 10 triệu mẫu đất không dùng vào trồng trọt được
nữa do bị úng và 25 triệu mẫu bị đe dọa nhiễm mặn. Ở Pakistan, khoảng 12 triệu mẫu
thuộc hệ thống kênh đào vùng Indus bị úng và 40% bị nhiễm mặn. Trên toàn thế giới,
khoảng 40% hệ thống tưới bị nhiễm mặn. Ngăn sông làm thủy lợi dẫn tới những ảnh
hưởng môi trường khác. Các đập lớn gây ra ô nhiễm ở cuối nguồn và sự bồi lắng ở đầu
nguồn bởi vì những khu rừng ở những vùng quanh hồ chứa nước bị đốn. Dân bản xứ
bị di chuyển khỏi quê hương lâu đời của họ khi vùng này chìm trong hồ chứa. Rõ ràng,
không phải tất cả tổn hại của thủy lợi là do giá thấp, hay bằng cách nào đi nữa, những
chi phí môi trường của các đập cũng không thể qui cho việc định giá không hiều quả.
Nhưng có mối quan hệ giữa việc định giá sai và sự tổn hại môi trường. Do giá quá
thấp, nhu cầu về nước tăng hơn mức cần thiết, làm tăng quá mức nhu cầu về hệ thống
thủy lợi lớn như đập nước và các hệ thống khác. Cho dù hệ thống này là cần đi nữa, số
lượng nước được sử dụng có khuynh hướng vượt mức do giá của tài nguyên không sát
với chi phí cung cấp thực tế.
29
Khung 6.2 cho thấy tỉ lệ của số thu thực tế từ hệ thống thủy lợi được chọn với chi
phí hoạt động, bảo trì và với tổng số ước tính khiêm tốn của chi phí đầu tư cộng với
chi phí hoạt động và bảo trì. Trong khi một số quốc gia thành công trong công việc
hoàn lại phần lớn hay tất cả các chi phí điều hành, duy trì, thì mức hoàn vốn cao nhất
của tổng chi phí chỉ khoảng 20% mà thôi.
Khung 6.2 - Mức hoàn vốn của hệ thống thủy lợi (phần trăm)
Sự hạ thấp khuyến khích độ lãng phí vì thế mà các hệ thống thủy lợi vẫn trong
tình trạng sửa chữa tệ hơn. Hệ thống thủy lợi không hiệu quả ảnh hưởng không tốt đế
sản xuất nông nghiệp. Vì khi chi phí thủy lợi thấp, tình trạng cầu thặng dư làm lợi cho
những ai có thể được bảo đảm quyền lấy nước, chẳng hạn như được xếp hàng đầu
trong việc nhận nước. Điều này xảy ra khi hệ thống thủy lợi tưới một số mảnh đất nào
đó trước, và để laị cho nông dân nghèo phần còn thừa khi đã sử dụng nước trước một
cách lãng phí. Hơn nữa, nước được phân phối theo diện tích, chứ không theo nhu cầu
của cây trồng. Điều này dẫn đến hiện tượng đòi hỏi tiền tô: quyền lợi trong việc nắm
quyền kiểm soát hệ thống phân phối. Số tiền tô cao được lấy trong giá trị đất cao hơn,
khiến cho động cơ cạnh tranh giành sự phân phối nước trở nên mãnh liệt hơn. Nhưng
sự cạnh tranh này lại không diễn ra ở thị trường. Nó thể hiện như là hối lộ viên chức
Thực thu Thực thu Quốc gia Phí hoạt động và bảo trì Vốn đầu tư + phí hoạt động và bảo trì Indonesia 78 14 Hàn quốc 91 18 Nepal 57 7 Philippines 120 22 Thái Lan 28 5 Băngladesh 18 Không đáng kể
Ghi chú: Chi phí vốn được ước tính 1 cách vừa phải Nguồn: R.Rêptto (1986) tr.5.
30
nhà nước, tham nhũng, chi phí vận động hành lang, các đóng góp chính trị,v.v.. Những
người nắm quyền phân phối bành trướng bộ máy quan liêu của họ và nắm chắc lợi ích
cho mình. Việc đòi tiền hối lộ này rõ ràng chỉ có lợi cho người giàu và có thế lực, và đi
ngược lại lợi ích của người nghèo và không có tổ chức. Và vì nó khuyến khích việc sử
dụng lãng phí nguồn tài nguyên, việc đòi tiền tô làm hại môi trường, tăng thêm chi phí
xã hội của sự thất bại chính sách trong việc định giá.
Năng lượng
Năng lượng thương mại - than đá, xăng dầu, khí đốt, điện - được trợ giá rộng rãi
ở các nước đang phát triển. Cũng giống như nước thủy lợi, ảnh hưởng của trợ giá là
khuyến khích sự sử dụng lãng phí năng lượng, do đó, về mặt môi trường, nó làm tăng
ô nhiễm không khí và tăng những vấn đề về chất thải. Tác dụng kinh tế của trợ giá lại
càng bi thảm, bỏi vì nó hút hết nguồn thu của nhà nước và do đó chuyển các tài
nguyên giá trị ra khỏi những khu vực sản xuất hiêu quả, chóng làm giảm xuất khẩu các
nguồn năng lượng bản xứ, do đó làm tăng thêm nợ nước ngoài, và khuyến khích các
ngành sử dụng nhiều năng lượng trong khi phải hy sinh các ngành công nghiệp có
hiệu quả hơn.
Có hai cách tính chi phí về trợ giá. Cách tính về mặt tài chính cho thấy sự chênh
lệch giữa các giá phải trả và chi phí sản xuất. Cách tính về mặt kinh tế cho thấy sự
chênh lệch giữa các giá trị của tài nguyên năng lượng trong cách sử dụng hiệu quả nhất
(giá trị chi phí cơ hội) với giá thực của nó. Một cách tính tiện lợi về giá trị chi phí cơ
hội, hay “ giá mờ” là:
a) Hoặc là giá mà nhiên liệu sẽ có nếu nó được xuất khẩu, hay là giá mà người ta
phải trả nếu nó được ngập khẩu (giá thế giới).
b) Hoặc là chi phí biên tế dài hạn của cung nếu nhiên liệu là hàng phi ngoại
thương (như phần lớn lượng điện). Chi phí biên tế dài hạn của cung là chi phí
cung cấp thêm một đơn vị về dài hạn. Trị giá tài chính của trợ giá là khoản chi
phí tài chánh trực tiếp mà quốc gia phải chịu để trợ giá cho năng lượng, nhưng
trị giá kinh tế thì mới thích hợp hơn để biểu thị của “ chi phí thực” của việc trợ
giá, bởi vì nó tính được những gì mà quốc gia có thể đạt được nếu như sử dụng
phương pháp tính giá đầy đủ.
31
Khung 6.3 cho thấy mức độ trợ giá kinh tế ở một số nước xuất khẩu dầu. Ở đây
sự trợ giá có thêm biến dạng thị trường khi nguồn năng lượng có tiềm năng xuất khẩu
được chuyển qua sử dụng nội địa, vì vậy nó làm tăng thêm khó khăn cho cân bằng
thanh toán và do đó tăng nợ nước ngoài. Mức độ biến dạng có thể tổng hợp bằng cách
xem các trợ giá như một tỷ lệ phần trăm của xuất khẩu năng lượng và phần trăm của
tổng xuất khẩu. Lấy ví dụ ở Ai Cập, mức trợ giá bằng với 88% của tổng xuất khẩu và
gấp đôi giá trị của xuất khẩu dầu.
Khung 6.3 - Trợ giá kinh tế cho năng lượng ở một số quốc gia
Kết luận
Chính quyền thường chính là nguyên nhân của sự suy thoái môi trường. Trong
khi chúng ta thường quen với ý kiến là chính quyền phải sửa lại mọi việc cho đúng,
chúng ta ít quen với ý kiến rằng các chính sách nhà nước mà bề ngoài có vẻ không liên
can gì đến môi trường, có thể thường hay gây tổn hại cho môi trường. Đó chính là “sự
Trợ giá (tỷ lệ phần trăm)
Mức trợ giá tổng xuất khẩu Năng lượng xuất khẩu (triệu đô la) Bolivia 224 29 68 Trung quốc 5400 20 82 Ai cập 4000 88 200 Ecuador 370 12 19 Indonesia 600 5 7 Mexico 5000 23 33 Nigeria 5000 21 23 Peru 301 15 73 Tunisia 70 4 10 Venezuela 1900 14 15 Nguồn: M. Kosmo (1989)
32
thất bại của chính quyền”. Rõ ràng, vì thị trường cũng thất bại, vấn đề chính sách là
phải tìm ra sự cân bằng thích hợp giữa thị trường và sự can thiệp của chính quyền.
Điều này sẽ đươc nói đến ở phần IV.
33
CHƯƠNG 7
CÁCH SUY NGHĨ VỀ CHI PHÍ – LỢI ÍCH
Khái niệm phân tích chi phí – lợi ích
Thỏa mãn ý thích của cá nhân
Mọi người thường lập các quyết định dựa trên cơ sở của sự cân bằng về lợi ích
đạt được và thiệt hại phải chịum thuận lợi và bất lợi. Tư tưởng đằng sau sự cân nhắc
đó là chúng ta chỉ làm những việc dẫn đến phần tăng lợi ích ròng và do đó khi chúng ta
phải lựa chọn giữa các khả năng khác nhau thì chúng ta sẽ chọn khả năng nào sẽ đem
lại phần tăng lợi nhuận ròng lớn nhất. Thay vì nói phần tăng lợi chúng ta gọi đó là lợi
ích và thay vì nói thiệt hại chúng ta gọi đó là chi phí. Đó là nền tảng đơn giản của việc
phân tích chi phí – lợi ích ( hoặc ở Mỹ gọi là phân tích lợi ích – chi phí). Tuy nhiên,
phân tích chi phí – lợi ích (CBA cost benefit analysis) định nghĩa chi phí và lợi ích
theo một cách đặc biệt và đi xa hơn ý tưởng cân bằng chi phí và lợi ích của cá nhân mà
đề cập đến chi phí và lợi ích của xã hội.
Chi phí và lợi ích được định nghĩa dựa trên việc thỏa mãn các ước muốn, hoặc
ý thích. Nếu một việc gì đó thỏa mãn ước muốn thì đó là lợi ích. Nói rõ hơn, lợi ích là
gia tăng sự thỏa mãn nhu cầu của con người, và việc gì làm giảm sự thỏa mãn của con
người thì đó là chi phí. Đối với nhà kinh tế, muốn biết sự thỏa mãn có gia tăng hay
không, chú ý vào ý thích của con người. Nếu con người thích tình trạng A hơn điều
kiện hiện tại thì lợi ích ròng khi chuyển sang A đối với người đó phải dương. Tại sao
thích tình trạng A không phải là mối quan tâm quan tâm bây giờ, mặc dù nếu nó liên
quan các hoạt động thiếu đạo đức hoặc trái pháp luật thì không ai lại lập luận rằng
người đó phải được phép chọn tình trạng A. Với những cân nhắc rộng hơn về “đạo
đức” của việc cho con người những gì họ ước muốn, phân tích lợi ích chi phí CBA
hoạt động trên cơ sở rằng một sự phân bổ “tốt hơn” các tài nguyên là sự phân bổ đáp
ứng các ý thích, các ước muốn của con người. Ví dụ, đối với con người thứ i chúng ta
có thể viết rằng i nên chấp nhận để chuyển sang tình trạng A nếu:
0CB AA (7.1)
34
Trong đó B là lợi ích và C là chi phí, và chi phí và lợi ích được đo lường trên cơ sở
phúc lợi của con người.
Tìm quy tắc quyết định của xã hội
Để làm cho việc chấp nhận một người chuyển đổi sang một tình trạng khác trở
thành một nguyên tắc quyết định của xã hội chúng ta cần phải biết mọi người ưa thích
cái gì. Nếu mọi người thích chuyển sang tình trạng A thì không có vấn đề gì cả. Nếu
nhiều người thích chuyển và những người còn lại không bận tâm đến việc đó ( họ bàng
quan, không phân biệt giữa hai tình trạng) thì cũng không có vấn đề gì cả. Trong
trường hợp này, những người thích chuyển là những người được lợi (theo định nghĩa)
và những người bàng quan thì cũng chẳng lợi hơn mà cũng chẳng hại hơn. Nhưng việc
gì sẽ xyar ra nếu gặp tình trạng một số người được lợi hơn (họ thích chuyển) và một số
người khác bị thiệt hại (họ thích giữ nguyên tình trạng cũ)? Để xác định cả xã hội nói
chung được lợi hơn hay bị hại hơn, chúng ta phải so sánh lợi ích và thiệt hại của tất cả
mọi các nhân. Nhiều nhà kinh tế cho rằng việc này không thể làm được. Họ nói rằng
không thể so sánh sự thỏa mãn của từng người (theo biệt ngữ, họ nói rằng so sánh giữa
con người với nhau về thỏa dụng của họ là việc không thể thực hiện được - thỏa dụng
được dùng ở đây đồng nghĩa với sự thỏa mãn). Nhưng trong thực tế chúng ta thực hiện
sư so sánh đó cũng thường xuyên. Chúng ta cũng thường phán đoán xem người khác
cảm giác như thế nào – bằng cách xem họ có vẻ thế nào và ứng xủa ra sao và họ nói gì.
Chúng tôi nói thêm rằng tất cả những quyết dịnh về chính sách thường bao gồm những
so sánh như thế bởi vì không thể nào tìm thấy một chính sách mà tất cả mọi người đều
có lợi – một số người luôn luôn bất lợi. Nếu những so sánh như thế có thể thực hiện,
thì chúng ta có thể đề ra một số nguyên tắc nhằm so sánh sự thay đổi mức thỏa mãn
của từng người sẽ như thế nào khi một chính sách mới được đưa ra.
35
Giá sẵn lòng trả (WTP)
Nhằm mục đích theo đuổi ý tưởng tônngr hợp các ý thích cá nhân, trước tiên
chúng ta nên đặt câu hỏi là làm thế nào đo lường những phần lợi thêm và thiệt mất về
sự thỏa mãn. Một cách để làm việc này có thể là dựa vào sự lựa chọn của dân chúng
trong một cuộc trưng cầu dân ý, nhưng điều này cũng không cho chúng ta biết về
cường độ ưa thích hoặc không thích một việc gì đó. Một cách khác là dựa vào mức sẵn
lòng trả của họ đối với một thứ gì đó. Mức đo lường ý thích của một cá nhân về một
mặt hàng trên thị trường được bộc lộ bằng mức giá sẵn lòng trả (WTP) của họ đối với
mặt hàng đó. Một cách khác ít quen thuộc hơn là dựa vào mức sẵn lòng trả của họ để
tránh một điều gì đó mà họ không thích, hoặc dựa vào mức sẵn lòng nhận (WTA) sự
đền bù để chịu đựng những điều mà họ không thích. Chương 8 sẽ đi vào các khái niệm
này rõ hơn: Bây giờ chỉ cần có một khái niệm trực giác về mối liên hệ giữa WTP và sự
thỏa mãn của con người.
Bằng cách xem xét mức mà người ta sẵn lòng trả cho một mối lợi, hoặc sẵn lòng
nhận để chịu một tổn hại, chúng ta đã tìm được cách đo lường cường độ ý thích của
con người. Khung 7.1 nghiên cứu một cách chi tiết hơn về khái niệm của mức giá sẵn
lòng trả (WTP). Khái niệm WTP là điều chúng ta cần để giải quyết vấn đề tổng hợp
giữa các cá nhân khi có một số người thích tình trạng A như đã nêu ở trên và một số
người khác không thích. Chẳng hạn một hoàn cảnh có thể như sau đây:
Người thứ 1: WTP để chuyển sang tình trạng A = 10 tỷ đồng
Người thứ 2: WTP để chuyển sang tình trạng A = 8 tỷ đồng
Người thứ 3: WTP để chịu đựng việc chuyển sang tình trạng A = 6 tỷ đồng
Người thứ 4: WTP để chịu đựng việc chuyển sang tình trạng A = 5 tỷ đồng
Người thứ nhất và người thứ hai là những người được lợi trong khi người thứ ba
và người thứ tư là những người bị thiệt. Toàn thể xã hội được lợi hay bị hại khi chuyển
sang tình trạng A? Chúng ta có thể sự dụng nguyên tắc như sau:
(WTP1 + WTP2) – (WTA3 + WTA4) > 0 (7.2)
thay thế các số ở trên vào công thức (7.2) ta được: (10+8) –( 6+5) = +7
kết quả là 7 lớn hơn 0, do đó việc chuyển sang tình trạng A sẽ lợi xét trên toàn xã hội.
Khung 7.1 – Mức giá sẵn lòng trả (WTP)
36
Hình (a) Đường cầu
Hình (a) cho thấy đường cầu của một sản phẩm. Đây có thể là một sản phẩm bán
ở thị trường (một mặt hàng thị trường) hoặc có thể là một mặt hàng không có thị
trường (một mặt hàng phi thị trường). Trong trường hợp thứ hai, cần phải tìm đường
cầu bằng phương pháp đặc biệt (sẽ đề cập trong chương 8).
Giả sử rằng giá đang ở mức OA. Đường cầu sẽ là OD. Chúng ta có thể xem
đường cầu là “đường mức sẵn lòng trả”: nó cho thấy mức sẵn lòng trả cho một sản
phẩm thêm vào và đó là đường mức sẵn lòng trả biên tế. Số tiền mà các cá nhân chi trả
thật sự ở ngoài thị trường (hoặc số tiền mà họ sẽ trả nếu có thị trường) cho bởi tổng chi
OACD. Nhưng có WTP giá cao hơn cho các đơn vị đầu tiên, như WTP là OB cho đơn
vị đầu tiên, và giảm xuống DC ứng với đơn vị cuối cùng. Do đó WTP cao hơn phần
chi trả thực sự. Nếu chúng ta cộng phần dôi ra của WTP ở phía trên OA (giá thực sự
trả) của mỗi đơn vị sản phẩm, chúng ta sẽ có hình tam giác ABC. Phần này được gọi là
phần thặng dưu của người tiêu thụ: đó là lợi ích có được trên số tiền mà họ thật sự trả.
WTP gộp là OACD = ABC = OBCD, và phần này được tạo nên bởi phần thật sự chi
trả và phần thặng dư của người tiêu thụ. Nói cách khác, chúng ta gọi OBCD và WTP
gộp và ABC là WTP ròng. Khái niệm quan trọng ở đây là WTP ròng, bởi vì nó đo
lường phần lợi ròng mà người tiêu thụ nhận được.
D Số lượng
Giá
A
B
C
O
37
Đền bù giả định
Dùng nguyên tắc này để tuyên bố rằng việc chuyển sang A sẽ làm cho xã hội tốt
hơn có thể có vẻ kỳ quặc. Rốt cuộc hai người được lợi và hai người bị thiệt hại. Điều
này khó có thể xem là một tiêu chuẩn tốt để nói rằng mọi việc đã được cải thiện trên
đại thể. Nhưng để thấy được rằng có sự gia tăng lợi ích ròng cho xã hội, ta giả định
rằng người thứ nhất và người thứ hai được yêu cầu phải đền bù những thiệt hại cho
người thứ ba và người thứ tư. Do đó người thứ nhất phải bỏ ra 8 đồng cho người thứ
ba và anh ta còn lại 3 đồng. Người thứ nhất được lợi hơn khi chuyển sang A và người
thứ ba không còn bị thiệt nữa khi được đền bù. Người thứ hai có thể đền bù cho người
thứ tư và tình trạng tương tự xảy ra. Bây giờ người thứ ba và người thứ tư không còn
bị thiệt hại nữa, và người thứ nhất và người thứ hai có lợi hơn. Điều này được gọi là sự
cải thiện Pareto. Hoặc ít nhất đó là một sự cải thiện thật sự nếu việc đền bù đươc trả
thật sự, và là một sự cải thiện tiềm năng nếu việc đền bù chỉ được trả trên giả định.
Qui luật chi phí – lợi ích xã hội được biểu hiện bằng phương trình (7.2) là cơ sở
cho phân tích lợi ích – chi phí. Thay vì WTP chúng ta có thể dùng chữ B để thể hiện
lợi ích, và thay cho WTA là C để thể hiện chi phí. Phương trình (7.2) sẽ gần giống như
phương trình (7.1), nhưng được dùng để tổng hợp chi phí và lợi ích của tất cả mọi
người trong xã hội chứ không phải chỉ cho một người. Do đó (7.2) có thể được viết lại
như sau:
i[Bi –Ci] >0 (7.3)
trong đó có nghĩa là “tổng của”, và chỉ số ở phía dưới biểu thị cho từng người. Bây giờ,
chúng ta cần phải cải tiến qui luật này để đưa yếu tố thời gian vào.
Giới thiệu thời gian
Tính chiết khấu
Phương trình (7.1) không chú ý đến đặc điểm thời gian. Phương trình này không
chỉ rõ khoảng thời gian mà chi phí và lợi ích được cộng lại. Nhưng như chúng ta đã
biết chuyển đổi từ tình trạng này sang tình trạng khác sẽ làm cho chi phí và lợi ích xảy
38
ra trong một thời gian dài, hoặc xảy ra tức thời rồi chấm dứt, hoặc xyar ra sau đó một
thời gian. Chúng ta cần cộng lại các lợi ích trong mỗi khoảng thời gian. Cách đơn giản
nhất để hiểu việc này là có thể nói rằng lợi ích 1 đồng của một người trong năm 1 được
cộng với lợi ích 1 đồng trong năm 2, và tiếp tục như thế. Điều này có thể đúng nếu
người ấy không quan tâm đến khi nào lợi ích và chi phí xảy ra. Nhưng thực tế người ta
chú ý đến điều này. Người ta thích có được lợi ích ngay lúc này hơn là sau đó và thích
trả chi phí sau hơn là trả ngay lúc này. Đặc điểm này được gọi là ý thích ưu tiên về
thời gian. Vì cơ sở lý luận của CBA là ý thích ưu tiên, do đó cần phải tính đến ý thích
ưu tiên về thời gian theo cùng cách thức như chúng ta đã làm để đo lường WTA và
WTP. Điều này dẫn chúng ta đến hiện tượng chiết khấu.
Quá trình chiết khấu có thể được hiểu bằng cách nhìn vào cơ chế lãi kép. Nếu
chúng ta đầu tư 1 đồng ở mức lãi suất 5% hàng năm, thì số tiền này sẽ trở thành 1,63
đồng sau 10 năm. Ngược lại, nếu chúng ta đầu tư 0,61 đồng trong năm nay, với mức
lãi suất như trên thì số tiền sẽ trở thành 1 đồng sau 10 năm. Chúng ta có thể nói rằng
0,61 đồng là hệ số giá trị hiện tại hay hệ số hiện giá của thời hạn 10 năm khi suất chiết
khấu là 5 %. Với mối liên hệ trực tiếp giữa cách tính chiết khấu và lãi suất kép, rõ ràng
là suất chiết khấu càng cao thì hệ số hiện giá càng thấp, và khi khoảng thời gian kéo
dài thì hệ số hiện giá sẽ giảm xuống. từ nhận định này, chúng ta có thể thấy rằng tính
chiết khấu thật sự chỉ là tính lãi kép từ sau ra trước. Nếu 1 đồng năm nay có giá trị:
1Đ (1+r)5
Ở thời điểm 5 năm sau với lãi suất r phần trăm. Ngược lại 1 đồng ở thời điểm 5 năm
sau sẽ có giá trị tại thời điểm hiện tại là:
r)5(1
1
Đ
Đây là giá trị hiện tại hay hiện giá của 1 đồng vào 5 năm sau. Nếu chúng ta đầu
tư số lượng này ở mức lãi suất r phần trăm cho 5 năm thì giá trị của nó sẽ là:
rr1Ð = 1Đ
Khung 7.2 cung cấp các dịch vụ tính toán hiện giá. Tổng quát hơn, Hiện giá của
1Đ trong năm thứ t là:
39
r)t(1
1Đ
Việc tính chiết khấu xảy ra bởi vì người ta xem nhẹ lợi ích và chi phí trong tương
lai so với lợi ích và chi phí trong hiện tại. Việc thiếu kiện nhẫn hoặc “ưu tiên về thời
gian” là lý do tại sao hiện tại được ưa thích hơnn tương lai. Lý do thứ hai là, bởi vì tiền
vốn có khả năng sản xuất, giá trị của 1 đồng tài nguyên trong hiện tại sẽ làm ra giá trị
sản phẩm và dịch vụ lớn hơn 1 đồng trong tương lai. Do đó một nhà sản xuất bằng
lòng chi nhiều hơn 1 đồng trong tương lai để lấy 1 đồng giá trị trong hiện tại. Lập luận
này của chiết khấu còn được gọi là “lập luận năng suất biên tế của vốn”, từ “biên tế”
được sử dụng nhằm nói đến năng suất của một đồng tiền vôn thêm vào.
Khung 7.2 Tính toán hiện giá
Công thức căn bản để tính hiện giá là:
r)t(1Bt
trong đó Bt là lợi ích trong năm thứ t và r là suất chiết khấu. Công thức tương tự cũng
được dùng cho chi phí – chỉ cần thay đổi B bằng C. Công thức chung cho việc tính
toán giá trị hiện tại của lợi ích và chi phí xảy ra theo thời gian, được gọi là hiện giá
ròng hay hiện giá lợi ích ròng (NPV) là:
r)t(1Ct -Bt
Do đó áp dụng nguyên tắc phân tích chi phí lợi ích CBA thì mọi chính sách hoặc
dự án muốn được chấp nhận phải có NPV dương.
Để thể hiện qui tắc trên ta xét ví dụ dự án dẫn tới một chuỗi chi phí và lợi ích như
sau:
Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Năm 5
Chi phí -30 -10 0 0 0
Lợi ích 0 5 15 15 15
Lợi ích ròng -30 -5 15 15 15
40
Lưu ý rằng chi phí xuất hiện với dấu trừ và lợi ích với dấu cộng. Giả sử suất chiết
khấu, r, là 10% (được viết là 0,1). Việc tính toán được thực hiện như sau:
-30/1,1 -5/(1,1)2 + 15/(1,1)3 +15/(11)4 + 15/(1,1)5
Thông thường việc tính toán này được thực hiện bằng máy vi tính với chương trình
phần mềm về ngân lưu chiết khấu nhưng trong trường hợp này, việc tính toán chỉ đơn
gian như sau:
-27,3 -4,1 +11,3 +10,3 +9,3 = -0,5
Ta có kết quả là NPV âm và do đó dự án không đáng giá. Lưu ý rằng nếu không
tính chiết khấu vào thì lợi ích 45 mang lại cao hơn chi phí 35. Tính chiết khấu có thể
dẫn tới dự khác biệt rất lớn trong việc quyết định chấp nhận hoặc bác bỏ một dự án.
Sự chọn lựa của người ra quyết định có thể đơn giản như “chấp nhận hoặc bác bỏ”
như ví dụ ở trên, nhưng cũng có thể là một quyết định chọn lựa giữa các phương án
cạnh tranh thay thế nhau, ví dụ như nhà máy thủy điện hoặc nhà máy nhiệt điện than
đá hoặc nhà máy điện nguyên tử. Nếu mỗi phương án lựa chọn đều có NPV dương, sự
quyết định sẽ dựa trên cơ sở chọn NPV cao nhất. Một vấn đề khác nảy sinh trong việc
quyết định là một số đề án có thể lựa chọn nhưng khả năng tài chính bị hạn chế. Lúc
đó nguyên tắc sẽ là xếp hạng các dự án dựa vào tỉ lệ hiện giá của lợi ích trên hiện giá
của chi phí (gọi là “tỉ lệ lợi ích –chi phí”) xếp hạng các dự án đó cho đến khi chi phí
vượt khỏi ngân sách.
Thời gian và quy luật chi phí – lợi ích
Bây giờ chúng ta có thể sửa đổi quy luật CBA trong phương trình (7.3). Với thời
gian được đưa vào phương trình, như chúng ta đã biện luận trước đây, bất cứ việc
chuyển đổi tình trạng có tiềm năng lợi ích nếu:
t(Bt – Ct) (1+r)-t >0 (7.4)
trong đó số mũ t chỉ thời gian và chúng ta xem là đương nhiên rằng B và C được tổng
hợp cho nhiều cá nhân. Nhằm mục đích nhấn mạnh đến môi trường, chúng ta cần nhớ
rằng cả B và C trong phương trình (7.4) bao gồm chi phí và lợi ích của môi trường. Có
nghĩa là nếu có sự thay đổi chất lượng môi trường làm cho con người thích ( mức ưa
thích của họ đối với sự thay đổi là dương) thì chúng ta cần phải tìm WTP của họ cho
sự thay đổi này. WTP này sẽ xuất hiện như một phần của lợi ích của mọi chính sách
41
bao gồm sự thay đổi chất lượng môi trường. Tương tự, nếu sựu thay đổi làm cho môi
trường xấu đi thì chúng ta tìm WTP để tránh sự thay đổi đó, hoặc WTA để chịu đựng
sự thay đổi đó. Giá trị này sẽ xuất hiện trong số hạng C của phương trình (7.4)
Môi trường và qui luật chi phí lợi ích
Để nhấn mạnh chi phí và lợi ích của môi trường, chúng ta sẽ tách phần môi
trường ra thành số hạng E. Lúc đó phương trình (7.4) trở thành:
t(Bt – Ct Et )(1+r)-t >0 (7.5)
Phương trình (7.5) là phương trình cơ bản của phân tích chi phí lợi ích: Nó chỉ ra
rằng để một dự án, chính sách mang đến hiệu quả thì lợi ích không thuộc môi trường
(B) trừ đi chi phí không thuộc môi trường (C) cộng hoặc trừ giá trị thay đổi của môi
trường (E), tất cả chuyển về giá trị hiện tại phải dương.
Khung 7.3 Chi phí – lợi ích trong thực tế: Nghiên cứu trường hợp về chì trong xăng
dầu
Trong Sắc Lệnh 12291 ban hành năm 1981 ở Hoa Kỳ, các công ty nhà nước buộc
phải dùng Phương Pháp Phân Tích Ảnh Hưởng của Qui Định về Môi trường
(Regulatory Impact Analysis – RIA) và áp dụng tiến trình qui định về môi trường để
tối đa hóa “lợi ích ròng của xã hội”. Sắc lệnh nhằm trước tiên xác định mục đích lợi
ích ròng là tiêu chuẩn để áp dụng tiến trình qui định về môi trường, mặc dù việc áp
dụng nó bị hạn chế bởi các luật lệ hiện hành liên quan đến các mục tiêu khác.
Phân tích chi phí – lợi ích đóng vai trò quan trọng trong việc áp dụng những qui
định liên quan đến chì trong xăng dầu. Hàm lượng chì được cho là có liên hệ đến các
hậu quả y tế rất nghiêm trọng như bệnh chậm phát triển, bệnh thận và kể cả tử vong.
Cục Bảo Vệ Môi Trường (EPA) thực hiện một cuộc điều tra nghiên cứu về lợi ích –
chi phí với kết quả nêu trong bảng 1.
Qui định nhằm làm giảm lượng chì trong xăng từ 1,1 gram/galoon (g.p.g) xuống
0,1 g.p.g. Chi phí của luật lệ này thể hiện trong “tổng chi phí tinh chế”. Chi phí gia
tăng bởi vì chì thường được dùng để tăng mức octane trong xăng dầu, và những biện
pháp khác phải được tìm ra để thực hiện việc này. Lợi ích bao gồm:
42
a) Cải thiện sưc khỏe tre em;
b) Cải thiện huyết áp người lớn;
c) Giảm thiệt hại do việc thải hydrocarbon, Nox và Co của xe cộ; và
d) ảnh hưởng đến bảo trì và tiết kiệm nhiên liệu.
Sức khỏe trẻ em
Nghiên cứu của EPA tìm thấy rằng hàm lượng chì trong máu cóa liên hệ chặc chẽ
đến hàm lượng chì trong xăng. Chi phí thuốc men cho việc chăm sóc sức khỏe trẻ em
sẽ giảm bằng cách giảm hàm lượng chì, và do đó giảm nhu cầu giáo dục bồi thường
cho số trẻ em bị chỉ số IQ thấp. Những tiết kiệm này được nêu trong bảng 1 ở mục ảnh
hưởng sức khỏe của trẻ em.
Huyết áp của người lớn
Hàm lượng chì trong máu được cho là có ảnh hưởng đến huyết áp và sự tăng
huyết áp. Chi phí thuốc men sẽ giảm nếu các bệnh này giảm. Hơn nữa bệnh nhồi máu
cơ tim và trụy tim mạch sẽ được tránh khỏi. Giá trị của” thống kê cuộc sống” là 1 triệu
Đôla được dùng cho trường hợp sau. Giá trị của kết quả này được nêu trong hàng
“huyết áp của người lớn” của bảng 1. Giá trị này khá cao bởi vì nó bao gồm lợi ích do
giảm tử vong.
Các chất ô nhiễm khác
Giảm lượng chì trong xăng cũng làm giảm các chất ô nhiễm khác. Bởi vì làm
giảm lượng chì trong xăng đến mức tiêu chuẩn sẽ giảm được rủi ro do việc sử dụng
nhiên liệu không đúng, nghĩa là dùng xăng có chì cho các xe cộ được thiết kế cho xăng
không có chì. Cơ chế nhằm giảm việc sử dụng không đúng nhiên liệu là tính giá cao
cho nhiên liệu có chì ở nồng độ thấp với qui định.Việc này sẽ hạn chế các tài xế mua
xăng có chì. Giảm việc sử dụng nhiên liệu không đúng sẽ làm giảm mức phóng thích
HC, Nox, CO. Các thiệt hại gây ra do những chất ô nhiễm này được ước tính trong các
nghiên cứu về sự thiệt hại đối với tầng ozone (do việc phóng thích HC và CO), nhưng
các ước lượng cũng được tính bằng giá trị của các thiết bị bị phá hủy bởi việc sử dụng
43
nhiên liệu không đúng. Các số liệu xuất hiện trong hàng “các chất ô nhiễm thông
thường” trong bảng 1 được tính từ số trung bình của hai phương pháp.
Bảng 1: Chi phí và lợi ích hàng năm được tính thành tiền của qui định cuối cùng, giả
thiết sử dụng xăng không đúng một phần (triệu dollar của năm 1983)
1985 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992
Lợi ích được tính thành tiền
Ảnh hưởng sức khỏe trẻ em 223 600 547 502 453 414 369 358
Áp suất máu của người lớn 1724 5897 5675 5447 5187 4966 4628 4691
Các ô nhiễm thông thường 0 222 222 224 226 230 239 248
Bảo trì 102 914 859 818 788 767 754 749
Tiết kiệm nhiên liệu 35 187 170 113 134 139 172 164
Tổng lợi ích tính thành tiền 2084 7821 7474 7105 6788 6517 6216 6211
Tổng chi phí lọc 96 608 228 532 504 471 444 441
Lợi ích ròng 1988 7213 6916 6573 6284 6045 5772 5770
Lợi ích ròng không kể áp 264 1316 1241 1125 1096 1079 1090 1079
suất máu
Bảo trì và tiết kiệm nhiên liệu
Chi phí bảo trì xe cộ giảm do giảm ảnh hưởng ăn mòn của chì và bám bẩn của
nó trên động cơ và hệ thống thoát khí. Máy móc ít cần điều chỉnh hơn và ít cần phải
thông thoát khí. Máy móc ít cần điều chỉnh hơn và ít cần phải thay dầu nhờn hơn, hệ
thống thải khí được sử dụng lâu bền hơn. Tiết kiệm nhiên liệu được ước tính sẽ tăng
khi các công nghệ mới tănng mức độ octane trở lại như trước cũng làm tăng mức năng
lượng của nhiên liệu. Các bộ phận cảm biến oxy cũng giảm bị hư hỏng. Lợi ích do
giảm chi phí bảo trì vượt quá lợi ích do tiết kiệm nhiên liệu vào khoảng 6 trên 1.
Lợi ích ròng do việc giảm lượng chì trong xăng có vẻ rất đáng kể ngay cả khi
loại bỏ lợi ích liên quan huyết áp (có ảnh hưởng lớn đến lợi ích chung). Hơn nữa, bảng
trên cho thấy rằng qui định đó vẫn đáng thực hiện ngay cả khi tất cả lợi ích cho sức
44
khỏe được loại ra. Trong trường hợp này, các lợi ích về huyết áp được loại ra khỏi
quyết định cuối cùng bởi vì việc nghiên cứu mối liên hệ này được xét đoán rất gần đây
nên không thể cho phép xem xét lại thật đầy đủ. Qui định về chì cũng rất hấp dẫn bởi
vì việc giới thiệu “hệ thống giấy phép chì” để giảm gánh nặng tài chính cho công
nghiệp lọc dầu. Chủ yếu là việc này cho phép “hạn ngạch về chì” được trao đổi mua
bán giữa các nhà máy lọc dầu. Nhà máy nào có khả năng đạt được mức độ chì dưới
mức giới hạn sẽ được cho phép bán chỉ tiêu còn lại của họ cho những nnhaf máy cảm
thấy tốn kém khi thực hiện mức octane mong muốn mà không có chì. Đặc điểm cụ thể
của việc nghiên cứu chi phí – lợi ích chì trong xăng mà đã thành một công cụ mạnh mẽ
cho việc đưa ra các quyết định là tính chất dứt khoát của lợi ích ròng ngay cả khi đã
xét đến sự không chắc chắn về các lợi ích.
Tính chiết khấu và môi trường
Bởi vì phép tính chiết khấu gắn một tỷ trọng thấp hơn cho lợi ích và chi phí
trong tương lai, nó tạo một số ảnh hưởng không may khi có liên quan đến môi trường.
Khung 7.4 nêu ra điều mà đôi khi được gọi là “sự tàn bạo” của phép chiết khấu.
Những ví dụ về việc chiết khấu ảnh hưởng bất lợi đến quyền lợi của các thế hệ tương
lai được thấy trong các trường hợp sau:
a. Khi mà môi trường bị tàn phá bởi các dự án rất xa trong tương lai, phép chiết
khấu sẽ làm cho hiện giá của những thiệt hại như thế được xem như nhỏ hơn
mức tàn phá thật sự. Ví dụ như sự tàn phá do việc tồn trữ chất thải hạt nhân và
những bụi ô nhiễm cực nhỏ kéo dài dai dẵng như các kim loại nặng.
b. Khi dự án mang đến lợi ích trong khoảng thời gian dài, 50 hoặc 100 năm thì
phép chiết khấu sẽ làm giảm thấp giá trị của những lợi ích như thế và tạo ra khó
khăn trong việc biện minh cho dự án hoặc chính sách. Ví dụ như việc trồng cây
tái tạo rừng, đặc biệt là các cây gỗ cứng phát triển chậm ở khí hậu ôn đới.
c. Khi các quyết định khai thác triệt để nguồn tài nguyên chịu ảnh hưởng bởi suất
chiết khấu. Chương 16 sẽ cho thấy các nguồn tài nguyên có thể cạn kiệt có
khuynh hướng được sử dụng cang nhanh khi suất chiết khấu càng cao, để lại ít
tài nguyên hơn cho các thế hệ mai sau.
45
Khung 7.4 “Sự tàn bạo” của chiết khấu
Ví dụ đơn giản cho thấy phép chiết khấu có thể chuyển các chi phí nặng nề cho
thế hệ tương lai. Hãy tưởng tượng một chỗ chứa chất thải hạt nhân, ở đây sự an toàn
phải được đặt lên hàng đầu. Một số chất thải phóng xạ vẫn còn tiếp tục thải ra các tia
phóng xạ hàng trăm năm sau. Như nhiều chất thải được bỏ ra trong nhiều năm trước,
xã hội thường “quên” nơi bỏ chất thải này hoặc phớt lờ việc kiểm soát. Nếu đieuf này
xảy ra đối với những nơi chứa chất thải phóng xạ, thì có thể dẫn tới rủi ro rất lớn cho
các thế hệ tương lai do sự rò rỉ phóng xạ. Tưởng tượng với giả định rằng chi phí của sự
rò rỉ này là 1 tỷ bảng Anh (1000 triệu) trong thời gian 100 năm. Nếu suất chiết khấu là
8% thì giá trị hiện tại của sự tàn phá do việc rò rỉ trong 100 năm tính từ hôm nay là:
1000 triệu x (1.08)100
1 = 1000 triệu/2200 = 0,45 triệu =450.000
Mức thiệt hại 1 tỷ bảng Anh được ghi nhận trong phân tích chi phí lợ ích chỉ bằng
450.000 bảng.
Bởi vì việc này gây bất lợi cho tương lai rất rõ ràng, do đó các nhà môi trường
học thường chống lại bản thân chiết khấu.
Trong thực tế không có mối liên hệ duy nhất giữa suất chiết khấu cao với suy
thoái môi trường. Suất chiết khấu cao có thể dịch chuyển gánh nặng chi phí cho thế hệ
tương lai vì những lý do trên, nhưng suất chiết khấu tăng sẽ làm cho mức đầu tư chung
giảm, do đó sẽ làm chậm bước phát triển kinh tế nói chung. Vì tài nguyên đươc dùng
cho đầu tư nên nhu cầu về tài nguyên sẽ thấp khi suất chiết khấu tăng. Suất chiết khấu
cao cũng cản trở sự phát triển của các dự án cạnh tranh với việc sử dụng các tài
nguyên tốt hiện có của môi trường. Ví dụ, việc phát triển lưu vực đối nghịch với việc
sử dụng vùng hoang dã hiện hữu. Một cách chính xác, việc chọn suất chiết khấu ảnh
hưởng đến tình trạng chung của tài nguyên tự nhiên và việc sử dụng môi trường như
thế nào còn là điều mơ hồ.Điều này quan trọng vì nó cho thấy sự vô giá trị của việc
tổng quát hóa một cách đơn giản rằng các suất chiết khấu phải được hạ xuống để cho
phù hợp với những cân nhắc về môi trường.
46
Một phương pháp để xác định suất chiết khấu là sử dụng công thức dưới đây:
s = p + u.c
trong đó s là mức ưa thích ưu tiên về thời gian của xã hội ( suất chiết khấu xã hội); p là
“mức đọ ưa thích về thời gian thuần túy”, nghĩa là suất chiết khấu xảy rachir vì người
ta thích hiện tại hơn tương lai (“không kiên nhẫn”); c là tốc độ tăng gia của sự tiêu thụ
thật sự của mỗi người và u đo lường mức độ giảm thõa mãn (hoặc “thỏa dụng”) do tiêu
thụ khi tiêu thụ gia tăng ( nói theo thuật ngữ chuyên môn thì u được xem như là độ co
giãn của thỏa dụng biên tế của tiêu thụ). Giỏa sử, để đơn giản, rằng u = 1. Thì:
s= p + c
Nhiều người cho rằng chiết khấu tương lai là sai lầm vì thế hệ ngày nay “không
kiên nhẫn”. Nếu chúng ta loại bỏ mức độ ảnh hưởng của thời gian thuần túy trong
công thức thì chúng ta còn lại:
s = c
nghĩa là suất chiết khấu của xã hội bằng với mức độ tăng trưởng kinh tế ( được đo
lường bằng sự gia tăng mức tiêu thụ trên mỗi đầu người).
Các nhà môi trường chú ý đến trị số được tin tưởng là dương của c trong công
thức mức ưa thích về thời gian của xã hội. Trước tiên họ lập luận rằng có những giới
hạn ngấm ngầm đối với tiến trình tăng trưởng (xem chương 3). Chúng ta không thể hy
vọng một tốc độ tăng trưởng dương, chẳng hạn 2 đến 3 phần trăm cho một thời gian
dài trong tương lai bởi vì những cưỡng chế của tài nguyên thiên nhiên hoặc các giới
hạn về khả năng của môi trường thiên nhiên hoạt động từ những “vực” chứa các chất
thải. Điểm quan tâm thứ hai làm nổi bật những vấn đề của các vùng cụ thể. Chương 3
cho thấy trong một số quốc gia có mức thu nhập thấp, mức tiêu thụ trên đầu người
thực tế đã giảm trong những năm 1980. Tức là âm. Điều này có nghĩa là suất chiết xã
hội có thể âm hay không? Có thể lập luận rằng suất chiết khấu này phải âm, mặc dù
tốc độ tăng trưởng âm trong quá khứ có thể không liên quan đến suất chiết khấu căn cứ
trên tốc độ tăng trưởng hy vọng xảy ra trong tương lai. Điều có ý nghĩa đặc biệt hơn
nửa là có thể lập luận rằng thành phần ưa thích về thời gian thuần túy của suất chiết
khấu xã hội là rất cao. Các mức lãi vay thực tế ở các nền kinh tế còn nghèo thường vào
khoảng 10 – 15% và chúng cung cấp một mức phỏng đoán đầu tiên về các mức ưa
47
thích ưu tiên về thời gian của cá nhân. Như thế phương pháp được mô tả trên đây để
tìm suất chiết khấu xã hội không dẫn đến kết luận dứt khoát.
Một phương pháp khác xem xét chi phí cơ hội của vốn. Chi phí này được tính
bằng cách xét tỉ lệ sinh lợi của một dự án đầu tư tốt nhất ở mức rủi ro tương tự, vốn
đầu tư này đã bị sử dụng cho việc thực hiện dự án cụ thể được chọn. Thật là hợp lý khi
đòi hỏi dự án đầu tư được thực hiện phải có mức sinh lợi ít nhất là cao bằng mức sinh
lợi có được nếu số vốn được sử dụng cách khác. Ví dụ, nếu hoạt động kinh doanh của
tư nhân có thể đạt tỉ lệ sinh lợi là 10 %, thì các chính quyền phải đạt ít nhất cũng bằng
số đó, nếu không thì nên phân bổ tiền cho khu vực tư nhân. Đây là biện minh cơ bản
cho suất chiết khấu chi phí cơ hội.
Trong các tài liệu về môi trường, đã có vài nổ lực chỉ trích việc chiết khấu vì
các lý do chi phí cơ hội. Vì những sự phê phán này khá phức tạp nên không được bàn
ở đây (xem Markandya và Pearce. 1991). Những cảm tưởng chung là các lập luận về
chi phí cơ hội dẫn đến các suất chiết khấu “quá cao” và suất chiết khấu đó sẽ ảnh
hưởng xấu đến môi trường.
Điều được chấp nhận rộng rãi là một lợi ích và chi phí phải được định giá càng
thấp nếu độ không chắc chắn (hay bất trắc) về lợi ích hay chi phí đó càng cao. Rút
cuộc, nếu cho bạn 1 đồng bây giờ một cách chắc chắn hoặc 1 đồng trong năm tới với
phần nào không chắc chắn là bạn sẽ thật sự nhận được phần đồng đó hay không, thì
hầu như là bạn thích 1 đồng bây giờ hơn. Các loại tình trạng không chắc chắn thường
được xem là liên quan đến việc chiết khấu là:
a) Sự không chắc chắn về việc một cá nhân có còn sống vào một ngày nào đó
trong tương lai không (lập luận về “rủi ro bị chết”)
b) Sự không chắc chắn về các ý thức của cá nhân trong tương lai; và
c) Sự không chắc chắn về quy mô của lợi ích hoặc chi phí
Lập luận rủi ro bị chết thường được dùng làm cơ sở hợp lý cho bản thân nguyên
tắc không kiên nhẫn, lập luận này cho rằng người ta thích tiêu thụ ngay bây giờ hơn là
kiềm chế chờ đến tương lai một phần căn cứ vào sự thật là người ta có thể không còn
sống trong tương lai để mà hưởng thụ những lợi ích của việc kiềm chế đó. Lập luận
phản bác lại lập luận nói trên là mặc dù một cá nhân có thể qua đời, nhưng “xã hội” thì
48
không, và như thế các quyết định của xã hội không được dẫn hướng bởi cùng một việc
cân nhắc như cá nhân.
Thứ hai, sự không chắc chắn về ý thích liên quan đến một số hàng hóa nào đó
và có lẽ của một số khía cạnh nhất định của việc bảo vệ môi trường. Các nhà kinh tế
thường chấp nhận rằng cách thức để tính cả sự không chắc chắn về ý thích là đưa giá
trị lựa chọn vào trong tính toán về lợi ích hoặc chi phí (xem chương 8)
Sự không chắc chắn thứ ba là xác đáng, nhưng khó khăn là ở việc tính đến sự
không chắc chắn này bằng các điều chỉnh suất chiết khấu. Những điều chỉnh như thế
giả thiết rằng quy mô của các rủi ro tăng lên theo cấp số mũ lũy thừa với thời gian. Bởi
vì không có lý do gì để tin rằng yếu tố rủi ro có dạng đặc biệt này. Cho nên thật là
không hợp lý nếu điều chỉnh các rủi ro bằng cách tăng suất chiết khấu. Trên thực tế,
lập luận này được các nhà kinh tế chấp nhận rộng rãi nhưng thực tiễn sử dụng các suất
chiết khấu được điều chỉnh theo rủi ro vẫn còn thông dụng trong số các nhà quyết định
chính sách.
Mức độ các lợi ích của các thế hệ tương lai được bảo vệ khi sử dụng các suất
chiết khấu dương là vấn đề tranh cải. Ví dụ các thế hệ “gối lên nhau” – cha mẹ, con cái
và cháu chắt đồng thời tồn tại. Mỗi thế hệ đều có “chủ nghĩa vị tha”. Chủ nghĩa vị tha
được cho là hiện hữu khi phúc lợi của thế hệ hiện tại chịu ảnh hưởng không những chỉ
bởi sự tiêu thụ của chính họ mà còn bởi sự thỏa dụng của các thế hệ tương lai. Điều
này dựa trên giả thiết rằng phúc lợi của thế hệ hiện tại cũng bị ảnh hưởng bởi phúc lợi
của thế hệ thứ hai và thứ ba. Vì thế cho nên suất chiết khấu của mỗi thế hệ hầu như
phải tính đến lợi ích của thế hệ kế tiếp. Cách tiếp cận này phần nào giải quyết các vấn
đề của thế hệ tương lai. Nhưng theo một cách thức khá cụ thể. Lưu ý rằng điều đang
được đánh giá ở đây là sự phán đoán của thế hệ hiện tại về những gì các thế hệ tương
lai sẽ cho là quan trọng. Vì thế phương pháp này không cho một suất chiết khấu phản
ánh một nguyên tắc rộng hơn nào đó về quyền của các thế hệ tương lai. Sự phân biệt
quan trọng, là giữa việc phán xét của thế hệ thứ nhất về những gì các thế hệ kế tiếp
mong muốn ( chủ nghĩa vị tha ích kỉ) và việc sử dụng tài nguyên của thế hệ thứ nhất,
thế nào để giữ lại cho các thế hệ kế tiếp một mức tối đa để chọn lựa những gì họ muốn
( chủ nghĩa vị tha vô tư)
49
Kết luận về chiết khấu
Chúng ta đã dành một ít thời gian cho vấn đề chiết khấu, dù vậy chúng ta khó
thể hiện đầy đủ nhiều lập luận thường là phức tạp đã được tranh cải về vấn đề này.
Chúng ta không có được những kết luận chắc chắn. Chúng ta phải nhớ rằng mục đích
của suất chiết khấu là để phân biệt đối xử với tương lai nhằm phản ánh sự phán đoán
giá trị làm nền tảng cho sự phân tích lợi ích và chi phí, tức là phải tính đến các ý thức
của cá nhân. Hầu hết các luận điểm phê phán chiết khấu khước từ lí lẽ làm nền tảng
cho chiết khấu và giới thiệu một mục tiêu riêng biệt và mâu thuẫn, ấy là sự công bằng
với tương lai. Vì thế cho nên, không nên quá ngạc nhiên khi biết rằng chúng ta không
thể tìm thấy được một nguyên tắc phù hợp để điều chỉnh suất chiết khấu nhằm phản
ánh các mục tiêu mâu thuẫn này.
Phương pháp khả năng bền vững
Chương 4 đã giới thiệu ý tưởng mọi hình thức tư bản phải được duy trì nguyên
vẹn theo một ý nghĩa nào đó, hoặc thậm chí phải nâng lên. Và chương này đã giới
thiệu một ý tưởng nghiêm ngặt hơn nhiều, đó là dự trữ tư bản tự nhiên phải được giữ
nguyên vẹn. Có thể đưa các ý tưởng này vào phân tích lợi ích chi phí không? Đòi hỏi
không một dự án hay chính sách nào được góp phần làm môi trường thoái hóa là một
điều vô lý. Nhưng đòi hỏi rằng toàn bộ danh mục các dự án không được góp phần làm
thoái hóa môi trường là điều không vô lý. Một cách để đáp ứng điều kiện về khả năng
bền vững là đòi hỏi rằng bất kỳ thiệt hại nào về môi trường đều được bù đắp bằng các
dự án được thiết kế đặc biệt để cải thiện môi trường. Như thế, hãy tưởng tượng một cơ
quan có 10 dự án xây dựng đường xá, mỗi dự án gây thiệt hại nào đó cho môi trường.
Ý tưởng sẽ là, trên cơ sở đảm bảo rằng sự thiệt hại môi trường đã được tối thiểu hóa
trong mỗi dự án, sự thiệt hại về môi trường tích lũy sẽ được đền bù bằng một dự án
đặc biệt nhằm mục đích cải thiện môi trường. Điều này rất có thể có ý nghĩa là chín dự
án được thực hiện còn dự án thứ 10 sẽ bị loại bỏ để thực hiện dự án về môi trường.
Kết luận
Phương pháp khả năng bền vững có một số gợi ý thú vị đối với việc thẩm định
dự án. Một trong những gợi ý này là vấn đề khó khăn trong việc chọn lựa các suất
chiết khấu gần như biến mất. Mục đích của việc điều chỉnh các suất chiết khấu để nắm
bắt các ảnh hưởng về môi trường được đáp ứng tốt hơn bởi điều kiện khả năng bền
50
vững. Nếu điều này đúng thì điều kiện khả năng bền vững đáng được nghiên cứu kỹ
hơn. Mặc dù có thể có những gợi ý hoàn toàn cấp tiến, phương pháp khả năng bền
vững đưa ra triển vọng tránh được sự công kích đối với “sự tàn bạo của chiết khấu” và
đòi hỏi rằng mọi mối quan tâm về môi trường và đạo đức đều được tính đến bằng cách
điều chỉnh suất chiết khấu.
Chú thích
1. Vilfredo Pareto (1848 – 1923) một kinh tế gia người Ý đã hình thành nhiều
nguyên tắc về vấn đề khi nào có thể nói xã hội là tốt hơn hay xấu đi xét về mặc
phúc lợi (sự thỏa mãn). Công trình của ông đã đặt nền tảng cho ngành kinh tế
học phúc lợi hiện đại.
2. Một biến thể của nguyên tắc Pareto, trong đó con người được đền bù giả định,
được biết đến như là nguyên tắc Kaldor – Hicks lấy tên của Nicholas Kaldor và
John Hicks.
51
CHƯƠNG 8
ĐÁNH GIÁ MỐI QUAN TÂM VỀ THIÊN NHIÊN
Đánh giá hàng hóa và dịch vụ phi thị trường
Trên thị trường, mỗi cá nhân đều có những thông tin khá rõ rang (tùy thuộc vào
mức độ mà quảng cáo cung cấp thông tin hơn là lời thuyết phục), để dùng làm cơ sở
cho sự đánh giá và chọn lựa của họ. Sản phẩm có khuynh hướng khả kiến, các đặc tính
của nó nói chung được nhận biết, và nếu có giá trị trường. Mỗi cá nhân, trên cơ sở các
thông tin sẵn có, sẽ cân nhắc đánh giá số lượng, chất lượng và giá cả của sản phẩm
được chào bán. Nhưng, như chúng ta đã biết trong chương 1 và 5, hàng hóa và dịch vụ
môi trường thường không có giá thị trường và khó lòng xác định rõ giá trị đích thực và
tầm quan trọng của chúng. Nhiều tài sản môi trường là tài sản công cộng và đây là một
đặc tính gây khó khăn cho việc vận dụng thị trường để đánh giá các tài sản đó.
Trong đời sống thực tế, các cá nhân tiêu dùng và các nhà hoạch định chính sách
phải có những quyết định lựa chọn, và điều quan trọng là phải biết lựa chọn những cái
gì đổi lấy những cái gì. Chúng ta không thể biết được điều này nếu không có một vài
khái niệm về giá trị kinh tế của tài sản môi trường. Để thực hiện việc so sánh với các
hàng hóa và dịch vụ không có giá, chúng ta cần phải qui ra một trị giá. Các ngành kinh
tế học đã phát triển được những kỹ thuật để qui ra các giá trị này.
Như chúng ta đã thấy trong chương 1 và chương 7, trên thị trường, các cá nhân
tiến hành chọn lựa bằng cách so sánh giá sẵn lòng trả của họ với giá cả của hàng hóa.
Việc xác định giá trị liên quan đến việc tìn kiếm một giá sẵn lòng trả trong trường hợp
không thể hiện được thông tin này. Chúng ta cũng đã lưu ý trong chương 2 rằng các
giá trị được kể đến thuộc về những người thực sự hành sử việc lựa chọn: những người
thuộc thế hệ hiện nay. Nhưng có một điều đặc biệt về chi phí và lợi ích môi trường là
chúng thường tích lũy cho các thế hệ mai sau (tác động liên thế hệ của các chi phí và
lợi ích môi trường). Việc chỉ kể đến ý thích của thế hệ hiện nay làm cho việc chọn lựa
thiên lệch một cách bất lợi cho các thế hệ mai sau, ngoại trừ khi nào có một cơ chế đã
hình thành bảo đảm rằng các thế hệ hiện nay lựa chọn với tư cách đại diện cho quyền
lợi của các thế hệ tương lai và có quan tâm đến lợi ích của các thế hệ đó. Chúng ta đã
52
xem xét những luận điểm đạo lý khác nhau về sự công bằng của các thế hệ trong
chương 2, và sự thiên lệch bất lợi thêm nữa cho các thế hệ tương lai có thể hiện diện
trong quyết định kinh tế do việc áp dụng chiết khấu trong chương 7. Trong chương này
chúng ta sẽ tập trung vào những vấn đề mà các nhà kinh tế học gặp phải khi họ cố
gắng qui ra giá trị cho các tài sản môi trường phi thị trường. Vấn đề trung tâm của
chúng ta trong chương này là:
Việc xác định giá trị kinh tế (tiền tệ) của các tài sản môi trường phi thị trường
có thể gần như không hoàn hão đối với một tài sản nhất định cùng với bối cảnh đánh
giá và môi trường của nó; nhưng luôn luôn, một giá trị rõ ràng nào đó được đưa ra cho
các nhà hoạch định chính sách và công chúng giám định, vẫn tốt hơn là không có, bởi
vì không có một giá trị nào có thể có nghĩa là một đánh giá ngấm ngầm nào đó mà
tránh khỏi giám định của công chúng.
Chúng ta cũng cần phải có một lưu ý sau cùng trước khi tiến hành phân tích
khái niệm tổng giá trị kinh tế (TEV –total economic value) và các phương pháp đánh
giá đã được phát triển để ước tính TEV của các tài sản môi trường.
Lưu ý này liên quan đến ý niệm về giá trị nội tại về bản chất (intrinsic value in
nature) mà chúng ta đã xem xét trong chương 2. Giá trị TEV mà chúng ta quan tâm
liên quan liên quan đến việc đánh giá của các sự lựa chọn của con người (giá trị
phương tiện và giá trị chỉ cho con người) và không bao gồm bất kỳ giá trị nào có thể
tồn tại thực sự “bên trong” tài sản môi trường.
Trong khung 8.1 chúng ta sẽ xem xét một ví dụ giả thiết và đã được đơn giản
hóaveef tài nguyên đất rừng và ngoài các thứ khác, nó còn là một nơi để con người có
thể vui chơi giải trí. Dịch vụ vui chơi giải trí này ban đầu là dịch vụ môi trường không
có giá cả, nhưng chúng ta có thể quan sát vài hành vi của người tiêu thụ, những hành
vi này sẽ cho ta biết đôi chút về nhu cầu giải trí của họ, tức là số lần tham quan khu
rừng này mà một cá nhân trung bình thực hiện trong một năm. Chúng ta có thể thiết
lập một đường cầu bằng cách thay đổi “giá cả” cho một cuộc tham quan và xem có bao
nhiêu cuộc tham quan quan của một du khách trung bình. Làm thế nào để chúng ta qui
ra hay mô phỏng được biến số giá cả? Trong thực hành, chúng ta có thể áp dụng một
vài phương pháp, một số sẽ được xem xét sau trong chương này, còn bây giờ chúng ta
53
bắt đầu bằng một phương pháp đơn giản và giả thiết thu lệ phí vào cửa của khu thắng
cảnh.
Giả sử chúng ta nhận thấy rằng khi lệ phí vào cửa vượt quá 15 bảng Anh (£) thì
một cá nhân sẽ không muốn đến tham quan nữa. Tuy nhiên, nếu lệ phí 15 bảng Anh thì
cá nhân này chỉ muốn đến tham quan 1 lần trong năm mà thôi, tức là WTP tối đa cho
cuộc tham quan đầu tiên là 15 bảng Anh. Bây giờ giả sử rằng lệ phí vào cửa tối đa mà
người ta đồng ý chi trả cho lần tham quan thứ nhì là 8,5 bảng Anh. Giá sẵn lòng trả tối
đa cho lần tham quan sau đó tương tự sẽ giảm dần, ví dụ như 4 bảng Anh cho lần thứ
ba, 2 bảng Anh cho lần thứ tư và chỉ 0,5 bảng Anh cho lần tham quan thứ năm. Thực
vậy, chúng ta giả thiết rằng cá nhân chỉ sẽ đến tham quan lần thứ sáu khi không phải
mất tiền lệ phí, tức là WTP của người ấy cho lần tham quan thứ sáu là 0 bảng Anh.
Như vậy, trong thực tế nếu không thu lệ phí vào cửa để đi dạo trong khu thắng cảnh thì
mỗi cá nhân trung bình sẽ đi tham quan sáu lần trong một năm (có nghĩa là tất cả các
cuộc tham quan khi WTP bằng hoặc vượt quá giá vé (ở đây là không) của một lần
tham quan.
Biểu diễn trên đồ thị các kết hợp giá cả số lần tham quan, chúng ta sẽ thu được
đường cầu D của hoạt động vui chơi giải trí trong hình (b) của khung 8.1. Bây giờ
chúng ta có thể tính toán tổng giá trị của các cuộc tham quan bằng tổng số tiền mà cá
nhân đồng ý chi trả cho mỗi lần tham quan lần lượt, tức là:
15£ + 8,5£ + 4£ + 2£ + 0,5£ + 0£ = 30£
Bây giờ, bởi vì trên thực tế mọi người được vào tham quan tự do không phải
mất tiền lệ phí (không có ràng buộc về cung), nên giá thực tế mà người tiêu thụ phải
trả là bằng không. Chúng ta có thể tính tổng thặng dư giá tiêu thụ là sự khác biệt giữa
tổng giá trị và giá thực phải trả: 30£ - 0£ = 30£
Khung 8.1 – Đường cầu số lần đến vui chơi giải trí tại khu thắng cảnh
54
Bảng 1: WTP, giá sẵn lòng trả và thặng dư giá trị tiêu thụ của một lần tham quan
Số lần tham quan (1) WTP (£) (2) Giá phải trả (£) (3) Thặng dư giá trị tiêu thụ
(£) (4)
1
2
3
4
5
6
Tổng cộng (£)
15
8,5
4
2
0,5
0
30
0
0
0
0
0
0
0
15
8,5
4
2
0,5
0
30
Tổng giá trị (Tổng = Tổng giá phải trả + Tổng thặng dư giá trị tiêu thụ WTP
Lệ phí thực tế phải trả là bằng 0. Ở đây đường cầu biểu thị số tiền tối đa mà
khách tham quan đồng ý chi trả cho mỗi lần thưởng ngoạn phong cảnh (cột 2 trong
Giá một lần tham quan (£)
Số lần tham quan 0
4
8
12
16
20
24
1 2 3 4 5 60
55
bảng 1). Cộng tất cả các số hạng này ta được tổng giá trị của tất cả các lần tham quan
(vùng OBA). Ở đây trong thực tế, không có giá cho 1 lần tham quan, tức là vào tham
quan tự do (hoặc ta hãy tưởng tượng như đường cung chạy dọc theo trục hoành, nghĩa
là tại điểm giá bằng 0, có thể cung cấp bất kỳ bao nhiêu lần tham quan cũng được).
Như vậy tổng giá phải trả là bằng 0 (đường biểu diễn giá cũng là một đường nằm
ngang chạy dọc theo trục hoành) và tổng giá trị bằng với tổng thặng dư giá trị tiêu thụ.
Ở đây chúng ta có thể thấy rằng, đối với các hàng hóa không có giá, tổng thặng
dư giá tiêu thụ bằng với tổng giá trị của hàng hóa đó. Đây chính là trường hợp thường
có của các hàng hóa môi trường. Do đó trong hình (b), tổng giá trị (luôn luôn) được
biểu diễn bằng diện tích nằm dưới đường cầu (OAB), khi đó, chỉ đối với các hàng hóa
không có giá, tổng giá trị này cũng bằng với tổng thặng dư giá trị tiêu thụ do hàng hóa
đó cung cấp.
Tổng giá trị kinh tế
Các nhà kinh tế học môi trường đã làm được rât nhiều khi phân loại giá trị kinh
tế trong mối quan hệ của chúng với môi trường thiên nhiên. Vấn đề thuật ngữ vẫn chưa
được thống nhất hoàn toàn, nhưng phương pháp của họ đặt cơ sở trên cách giải thích
truyền thống về sự hình thành của giá trị (tức là dựa trên cơ sở sự tương tác giữa chủ
thể con người, người định ra giá trị và khách thể - vật được đánh giá). Các cá nhân có
một số giá trị đã hình thành, điều này dẫn đến việc các khách thể sẽ bị gán cho một số
giá trị khác nhau. Trên nguyên tắc, để đo lường tổng giá trị kinh tế, các nhà kinh tế học
bắt đầu bằng việc phân biệt giữa giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng.
Khung 8.2 minh họa giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng của một tài sản
môi trường có nhiều thuộc tính như khu đất rừng chẳng hạn. Theo định nghĩa, giá trị
sử dụng hình thành từ việc thực sự sử dụng đến môi trường. Vấn đề trở nên hơi phức
tạp hơn khi chúng ta đề cập đến giá trị thể hiện bằng việc chọn lựa các cách sử dụng
môi trường trong tương lai (các giá trị nhiệm ý). Thực ra chúng là cách thể hiện ý thích
(giá sẵn lòng chi trả) đối với việc bảo vệ hệ thống môi trường hoặc các thành phần của
hệ thống dựa trên xác suất là vào một ngày nào đó sau này cá nhân sẽ sử dụng chúng.
Giả sử, tính mơ hồ của việc sử dụng môi trường trong tương lai liên quan đến “cung”
của môi trường, thì lý thuyết kinh tế cho thấy rằng giá trị nhiệm ý đó có khả năng là
56
dương. Một dạng khác của giá trị là giá trị kế thừa, tức là giá sẵn lòng trả để bảo tồn
môi trường vì lợi ích của các thế hệ sau. Nó không có giá trị sử dụng đối với một cá
nhân trong hiện tại, nhưng nó có giá trị tiềm năng sử dụng hoặc không sử dụng trong
tương lai đối với con cháu họ.
Giá trị không sử dụng có nhiều vấn đề hơn. Nó thể hiện các giá trị phi phương
tiện nằm trong bản chất thật của sự vật, nhưng nó không liên quan đến việc sử dụng
thực tế, hoặc thậm chí việc chọn lựa sử dụng sự vật này. Thay vào đó các giá trị này
được coi như những yếu tố phản ảnh sự lựa chọn của con người, những sự lựa chọn
này có kể đến cả sự quan tâm đồng cảm và trân trọng đối với quyền lợi hoặc phúc lợi
của các sinh vật không phải là con người. Các giá trị này vẫn con tập trung chú trọng
nhiều đến con người nhưng nó có thể bao hàm cả nhận thức về các giá trị tồn tại của
các giống loài khác nữa hoặc của cả quần thể hệ sinh thái. Như vậy, tổng giá trị kinh tế
được hình thành từ giá trị sử dụng thực tế cộng với giá trị nhiệm ý cộng với giá trị tồn
tại.
Trong suốt những năm 1980 việc sử dụng rộng rãi các phương pháp xác định
giá trị tiền tệ đã được kết hợp với cải tiến kỹ thuật. Kết quả là đã có rất nhiều tài liệu
chứa đựng những nghiên cứu trường hợp hết sức đa dạng về việc xác định giá trị.
Khung 8.2 – Tổng giá trị kinh tế của khu rừng
57
Tổng lợi ích bảo tồn
Như là lợi tức từ gỗ
Tổng lợi ích phát triển
Giá trị sử dụng trực tiếp
Tài nguyên rừng
Giá trị sử dụng Giá trị không sử dụng
Giá trị tồn tại
Như bảo tồn tính đa dạng sinh học
Như là thắng cảnh thuộc cá nhân trong tương lai
Giá trị nhiệm ý Giá trị lưu
truyền
Như là thắng cảnh cho các thế hệ tương lai hoặc ý muốn bảo tồn thiên nhiên
Giá trị sử dụng gián tiếp
Như là khu thắng cảnh xác định carbon
Từ sự phát triển
Từ sự bảo tồn
58
Một vài nhà khoa học tranh cãi rằng sự đóng góp đầy đủ của các giống loài và
các quá trình vào dịch vụ hỗ trợ sự sống cung cấp bởi hệ sinh thái đã không được đưa
vào trong giá trị kinh tế. Có lẽ cũng có lý khi nói rằng các nhà khoa học đã đúng khi
phê bình cách đánh giá về kinh tế là mang tính thiên vị, không phải trong mối tương
quan với các giống loài và quá trình riêng lẻ mà là đối với giá trị trên hết của tổng cấu
trúc hệ sinh thái và khả năng hỗ trợ sự sống của nó. Như vậy, có thể nói rằng tổng hệ
sinh thái có giá trị nguyên thủy. Sự tồn tại trên hết của một hệ sinh thái “lành mạnh” là
cần thiết trước khi giá trị sử dụng và không sử dụng, có liên quan đến cấu trúc và chức
năng của hệ sinh thái, có thể được con người đem ra dùng (xem khung 8.2 hệ sinh thái
rừng). Do đó chúng ta có thể gọi tất cả các giá trị sử dụng và không sử dụng là giá trị
thứ cấp. Đó là các thành phần khác nhau của tổng giá trị thứ cấp và nó được bao gồm
trong tổng giá trị kinh tế (TEV). Nhưng giá trị nguyên thủy của tổng hệ thống thì
không bao hàm trong TEV.
Người ta cũng nhận thấy rằng TEV có thể không thể hiện được đầy đủ tổng giá
trị thứ cấp (ước tính thấp trị giá TEV “thực sự”). Đó là vì việc phân tích khoa học cũng
như định giá trị tiền tệ của một vài quá trình và chức năng hệ sinh thái thường gặp phải
khó khăn. Giá trị sử dụng gián tiếp của hệ sinh thái (xem khung 8.2) thường bị bao phủ
tính mơ hồ, và việc phân biệt giữa các giá trị này với các giá trị không sử dụng còn
không được rõ ràng, một khi chúng ta nhận ra rằng các môi trường thiên nhiên trong
thực tế phức tạp và có liên quan lẫn nhau như thế nào. Điều này mới đây đã dẫn các
nhà kinh tế học đến việc đặt ra một từ mới, thay thế giá trị không sử dụng bằng giá trị
sử dụng thụ động. Từ mới này xem ra thể hiện được rõ ràng hơn tính mơ hồ và rối rắm
chung quanh việc phân biệt giữa giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng.
Các phương pháp đánh giá
Khung 8.3 minh họa một cách (trong các tài liệu hiện có nhiều cách khác nhau)
phân loại các cách tiếp cận và các phương pháp khác nhau nhằm xác định giá trị tiền tệ
cho các tài nguyên môi trường. Chúng ta phân biệt hai phương pháp căn bản: phương
pháp đánh giá một hàng hóa thông qua đường cầu (cách của Marshall hoặc Hicks), và
phương pháp đánh giá hàng hóa không thông qua đường cầu và do đó, nó không thể
cung câp những thông tin đánh giá và các đo lường về phúc lợi “thực”. Tuy nhiên,
59
phương pháp sau còn là một công cụ tìm tòi hữu ích để thẩm định chi phí lợi ích của
các dự án, các chính sách hoặc phương hướng hành động.
Phương pháp liều lượng – đáp ứng đòi hỏi các số liệu kết hợp các phản ứng
sinh lý của con người, thực vật và động vật đối với áp lực của ô nhiễm. Ví dụ như, nếu
có một mức ô nhiễm nào đó làm thay đổi sản lượng, thì thông thường sản lượng có thể
đánh giá bằng giá thị trường hoặc giá ẩn (giá điều chỉnh hay phỏng theo thị trường)
(như sự thiệt hại sản lượng của mùa màng do ô nhiễm không khí). Nhưng đối với
những tình huống có liên quan đến sức khỏe con người, chúng ta phải đối diện với
những câu hỏi liên quan đến giá trị tính mạng con người (một cách chính xác, các nhà
phân tích tìm cách đánh giá mức rủi ro gia tăng của bệnh tật hoặc tử vong).
60
Khung 8.3 – Các phương pháp xác định giá trị tiền tệ của môi trường
Đo lường phúc lợi thặng dư giá trị tiêu dùng
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên
Đường cầu đền bù thu nhập (Hicks)
Phương pháp phát biểu ý thích
Các phương pháp đánh giá bằng tiền tệ
Phương pháp đường cầu Phương pháp không qua đường cầu
Phương pháp hành vi xoa dịu
Phương pháp chi phí cơ hội
Không thể lập được đường cầu
Phương pháp đáp ứng theo liều lượng
Phương pháp chi phí thay thế
Không đo lường được phúc lợi thực tế
Phương pháp bộc lộ ý thích
Phương pháp chi phí du hành
Phương pháp đánh giá hưởng thụ
Đường cầu không đền bù (Marshall)
Đo lường phúc lợi Những thông tin hữu ích đối với các nhà hoạch định chính sách
61
Phương pháp chi phí thay thế xem xét các chi phí để thay thế hoặc phục hồi
những tài sản môi trường đã bị thiệt hại và dùng các chi phí này để đo lường lợi ích
của việc phục hồi (ví dụ chi phí để làm sạch các tòa nhà bị ô nhiễm không khí làm dơ
bẩn). Nhưng việc áp dụng kỹ thuật này đòi hỏi phải suy nghĩ cặn kẽ. Đây là một
phương pháp có giá trị trong những tình huống mà người ta có thể lập luận rằng công
việc phục hồi sử chữa phải tiến hành vì có một cưỡng chế nào đó. Ví dụ như ở nơi nào
có yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng nước, thì chi phí để đạt tiêu chuẩn đó là gần với
lợi ích của việc đạt được tiêu chuẩn.
Một tình huống khác mà phương pháp chi phí thay thế có giá trị là khi có một
cưỡng chế chung (một cưỡng chế “bền vững”) không cho phép suy giảm chất lượng
môi trường. Ví dụ như, hệ sinh thái đất ngập nước đã bị suy kiệt nghiêm trọng trên
toàn cầu và hiện nay đã được “bảo vệ” bằng một hiệp ước quốc tế là hiệp ước Ramsar.
Trong trường hợp này, chi phí thay thế (có thể là chi phí phục hồi, tái tạo, hoặc qui
hoạch lại khu đất ngập nước) có thể bằng với ước tính lợi ích của việc bảo tồn vùng
đất ngập nước trong tương lai, hoặc việc mất nó. Phương pháp được gọi là dự án ẩn
hay dự án thay thế là dựa vào các cưỡng chế như vậy. Nó được lập luận rằng chi phí
cho bất cứ một dự án nào được phát thảo để phục hồi môi trường có một cưỡng chế
bền vững sẽ là giá trị tối thiểu của thiệt hại gây ra (xem chương 7).
Đôi khi người ta cũng quan sát thấy hành vi cắt giảm (dưới dạng những chỉ tiêu
để ngăn tránh ô nhiễm) trong những trường hợp ô nhiễm. Các hộ gia đình có thể mua
thiết bị cách âm để “bảo vệ” gia đình họ khỏi ô nhiễm do tiếng ồn, xem như là một
biện thay thế cho việc giảm thiểu tiếng ồn từ nguồn gốc.
Trong phương pháp chi phí cơ hội, không có những nổ lực trực tiếp để đánh
giá trị lợi ích môi trường. Thay vào đó, người ta ước tính lợi ích của những hoạt động
làm suy thoái môi trường – ví dụ như thoát nước 1 vùng đất ngập úng để thâm canh
tăng vụ. Để thiết lập 1 điểm mốc nhằm định xem mức lợi ích môi trường sẽ phải là bao
nhiêu để việc phát triển (nông nghiệp) trở nên không đáng làm. Phương pháp này
không phải là một kỹ thuật xác định giá trị, nhưng nó tỏ ra rất hữu ích đối với những
người quyết định. Ví dụ, trong thời gian gần đây, việc mất đi những vùng đất ngập
nước ở Châu Âu do việc thi hành Chính Sách Nông Nghiệp Chung tỏ ra không hiệu
quả về mặt xã hội bởi vì nhà nước đã trợ cấp rất nhiều cho các công trình đầu tư thoát
62
nước để biến vùng đất ngập nước thành đất trồng trọt mùa màng. Mọi hoạt động
chuyển đổi như thế, nay đều đã ngưng lại hết vì các khoản trợ cấp đã bị rút lại hoặc
giảm bớt. Khung 8.3 cho thấy có 2 cách căn bản để xác định giá trị đường cầu: thứ
nhất, có thể đo lường nhu cầu bằng cách xem xét sự lựa chọn mà mỗi cá nhân nói ra về
hàng hóa môi trường (thu được bằng cách phỏng vấn lấy ý kiến): thứ hai, nhu cầu có
thể được khám phá qua xem xét việc mua sắm hàng hóa có giá thị trường của cá nhân,
mà các hàng hóa này cần thiết để hưởng thụ các hàng hóa môi trường đi kèm.
Phương pháp chi phí du hành (TCM), là một phương pháp về sự lựa chọn
ngầm, có thể dùng để ước lượng đường cầu đối với các nơi vui chơi giải trí, và từ đó,
đánh giá trị cho các cảnh quan này. Giả thiết cở bản của phương pháp TCM rất đơn
giản đó là chi phí phải tốn để tham quan một nơi nào đó (ví dụ như chi phí nhiên liệu)
phần nào phản ánh được giá trị giải trí nơi đó. Chúng ta sẽ phỏng vấn khách tham quan
xem họ từ đâu đến. Từ những câu trả lời của khách tham quan, chúng ta có thể tính
toán chi phí du hành của họ và liên kết đến số lần tham quan trong 1 năm. Không có gì
đáng ngạc nhiên khi mối quan hệ này phản ánh một đường cầu dốc xuống điển hình,
thể hiện quan hệ giữa chi phí của một lần tham quan và số lần tham quan, có nghĩa là
những người sống ở xa khu du lịch này thì sẽ có số lần tham quan ít hơn (chịu chi phí
du hành cao hơn), còn những người sống ở gần khu du lịch này sẽ có khuynh hướng đi
tham quan thường xuyên hơn (chi phí du hành thấp).
Lẽ đương nhiên, các yếu tố khác ngoài chi phí du hành cũng có thể ảnh hưởng
đến mức độ thường xuyên mà người ta đi tham quan một địa điểm. Ví dụ, khi so sánh
giữa 2 cá nhân, một giàu và một nghèo sống cùng một khoảng cách với khu thắng
cảnh (chi phí du hành là như nhau), chúng ta không ngạc nhiên khi thấy người giàu đi
tham quan nhiều hơn người nghèo. Vì thế, các nhà phân tích thường xem mức thu
nhập của du khách như 1 nhân tố ảnh hưởng đến số lần tham quan trong một năm. Các
yếu tố khác có thể giải thích được điều này bao gồm số lượng các khu du lịch khác
nhau để chọn lựa, sở thích riêng của mỗi người về từng loại hình khu thắng cảnh v.v..
Tuy nhiên, một khi các điều chỉnh này đã được thực hiện, các nhà phân tích có thể tìm
được mối quan hệ đường cầu giữa giá một lần tham quan (tức chi phí du hành) và số
lần tham quan được thực hiện.
63
Khung 8.4 trình bày một một biểu đồ kết quả điển hình thu được từ phương
pháp thăm dò TCM, mỗi điểm thể hiện chi phí du hành cho một lần tham quan và số
lần tham quan trong năm của một du khách du lịch (một cuộc nghiên cứu thực sự sẽ
phỏng vấn vài trăm khách du lịch). Từ các thông tin này, kỹ thuật thống kê có thể ước
tính “đường cầu” của khu thắng cảnh, tức là mối quan hệ tiêu biểu giữa giá một lần
tham quan (chi phí du hành) và số lần đi tham quan. Đối với một khách tham quan
điển hình, đường cầu này sẽ minh họa số lần đi tham quan tương ứng với một mức giá
nhất định nào đó. Như vậy, từ đường cầu, có thể có được giá trị giải trí của khu du
lịch. Chúng ta có thể nhân con số này với tổng số lần tham quan được thực hiện trong
một năm, để có một ước lượng về tổng giá trị giải trí mỗi năm của khu thắng cảnh.
Khung 8.4 – Xác định giá trị giải trí của rừng bằng phương pháp TCM.
Một bảng câu hỏi tại chỗ được sử dụng ở cổng rừng hoặc chỗ đậu xe để ghi lại số lần
du khách tham quan rừng, chi phí của họ cho một lần tham quan, thu nhập của họ là
bao nhiêu, v.v.. Bằng cách điều chỉnh các yếu tố như thu nhập chúng ta có thể xác định
được mối tương quan giữa chi phí tham quan và số lần tham quan trong năm như được
minh họa trong hình (a).
Đường cầu D biểu diễn toàn bộ tương quan giữa chi phí tham quan và số lần tham
quan của các du khách được phỏng vấn. Sử dụng những thông tin này chung ta có thể
ước lượng giá trị giải trí trung bình của du khách đối với địa điểm này. Nhân nó với số
lượng du khách hàng năm cho phép chúng ta ước lượng tổng giá trị giải trí hàng năm
của khu rừng.
64
Hình (a) – Mối tương quan giữa số lần tham quan và chi phí tham quan
Một nghiên cứu TCM qui mô lớn về việc giải trí ở rừng ở Anh quốc đã được tiến hành
vào cuối những năm 80. Bảng 1 tổng kết những kết quả từ nghiên cứu này, trình bày
giá trị giải trí trung bình của một lần tham quan ở các khu rừng khác nhau, số lượng
thăm viếng hàng năm ở các khu vực này và (bằng cách nhân chúng với nhau) tổng giá
trị hàng năm ước lượng của các khu rừng đang nghiên cứu.
Bảng 1 Các ước tính giá trị giải trí rừng từ phương pháp chi phí du hành (TCM)
Địa điểm Giá trị giải trí trung
bình/lần (£)
Số lượng du lịch
hàng năm
Tổng giá trị giải trí
hàng năm (£)
Cheshire
Ruthin
Brecon
New Forest
Loch Awe
Lorne
Newton
Buchan
Aberfoyle*
1,91
2,52
2,60
1,43
3,31
1,44
1,61
2,26
2,57
225 000
48 000
41 000
68 000
3 000
10 000
70 000
84 000
145 000
429 750
120 960
106 600
97 240
9 930
14 400
112 700
189 840
372 650
Số lần tham quan mỗi năm
0
D
Giá của một lần tham quan (chi phí du hành)
65
Chú thích: Tất cả là giá năm 1988 trừ * là của năm 1987
Nguồn: Phỏng theo Benson và Willis (1990)
Thoạt nhiên, phương pháp TCM có vẻ như là một kỹ thuật tương đối đơn giản
dựa trên cơ sở một giả thiết hợp lý rằng giá trị giải trí phải liên quan đến chi phí du
hành. Tuy nhiên, trong thực tế có rất nhiều vấn đề nảy sinh đối với kỹ thuật này mà
chúng ta sẽ nêu lên một vài vấn đề trong số đó.
1. Chi phí thời gian: Giả thiết cơ bản của phương pháp TCM là chi phí du hành
phản ánh giá trị giải trí của một khu thắng cảnh. Một TCM đơn giản có thể giả
thiết rằng chi phí du hành chỉ liên quan duy nhất đến phí tổn nhiên liệu, tuy nhiên
yếu tố thời gian cũng có giá trị, bời vì khoảng cách thời gian dài người ngồi trên
chuyến xe đi du lịch không thể dùng vào công việc khác. Do đó, chúng ta phải
tính thêm giá trị thời gian (“chi phí thời gian”) vào chi phí du hành để phản ánh
giá trị giải trí thực tế mà một khách du lịch có được khi đi thưởng ngoạn phong
cảnh. Như vậy, nói chung người ta tin rằng việc bỏ qua chi phí thời gian sẽ dẫn
đến việc ước tính rất thấp giá trị giải trí mà người ta có được khi đi du lịch. Tuy
nhiên, giá trị thời gian là gì? Có thể tính được giá trị một giờ đồng hồ ngồi trên xe
không? Đã có nhiểu nổ lực được thực hiện nhằm ước lượng giá trị của thời gian.
Ví dụ như, người ta so sánh thời gian du hành của các phương tiện đi làm khác
nhau với chi phí của những cách đo lường sự khác nhau này. Một vấn đề phức
tạp nữa là chi phí, mà là lợi ích. Khi đó chi phí du hành phải trừ bớt đi lợi ích thời
gian, có nghĩa là các phương pháp TCM đơn giản (trên cở sở chi phí du hành)
bây giờ lại đánh giá quá cao giá trị giải trí của cảnh quan trong các trường hợp
như thế.
2. Một hành trình cho nhiều nơi tham quan. Nếu một cá nhân tham quan một vài
cảnh quan trong cùng một hành trình trong ngày, nhưng lại được phỏng vấn theo
phương pháp TCM tại một trong những cảnh quan đó thôi, vậy thì các nhà phân
tích sẽ phân bổ chi phí du hành của cá nhân này như thế nào? Trong suốt một
ngày, người du khách có thể có chi phí du hành cao, nhưng chỉ một phần trong
chi phí đó là phản ánh chi phí cho cảnh quan được phỏng vấn mà thôi. Theo qui
ước, các nhà phân tích đã cố gắng dùng tỷ lệ phần trăm so với tổng chi phí du
66
hành trong ngày, đôi khi họ hỏi khách du lịch để biết tỷ lệ này. Tuy nhiên,
khoảng sai xót trong trường hợp này là không chắc chắn.
3. Các cảnh quan thay thế. Một du khách du lịch có thể phải vượt qua 20 dặm
đường để đến tham quan một phong cảnh mà họ đặc biệt ưa thích, trong khi cũng
có một người khác tương đối không ưa thích phong cảnh này lắm nhưng có thể đi
qua cùng một quãng đường từ một hướng khác để tham quan chỉ đơn giản là vì
chẳng còn một cảnh quan nào khác ở gần nhà họ. Việc dùng phương pháp TCM
đơn giản có thể mang lại kết quả là cả 2 khách đều có cùng 1 giá trị giải trí như
nhau về cảnh quan này, điều này rõ ràng là không đúng. Một vài nhà phân tích cố
gắng cho phép tính cả điều này bằng cách hỏi khách du lịch cho biết tên các cảnh
quan thay thế. Tuy nhiên việc này vừa phức tạp về mặt thống kê, lại vừa dẫn đến
sai sót.
4. Quyết định mua nhà. Cũng rất có thể là những người đánh giá cao thuộc tính
giải trí của những địa điểm khác nhau sẽ lựa chọn để mua nhà gần những địa
điểm này. Trong những trường hợp này, họ sẽ tốn chi phí tương đối thấp để tham
quan những chổ mà họ đánh giá cao, nghĩa là chi phí du hành sẽ thấp hơn ước
lượng của giá trị giải trí. Thú vị là mặc dù vấn đề này được biết đến từ nhiều năm
nay, rất gần đây nó mới được các nhà phân tích cố gắng đem yếu tố này vào bảng
câu hỏi của họ.
5. Các du khách không tốn chi phí. Các nghiên cứu TCM thường bỏ đi những du
khách không tốn chi phí du hành, nghĩa là những người đi bộ đến từ các nhà gần
đó. Tuy nhiên nhóm này có thể đánh giá rất cao vể điểm cảnh quan.
Tóm lại, TCM được xây dựng trên giả thiết đơn giản và khó có căn cứ rằng chi
phí du hành phản ánh giá trị giải trí. Tuy nhiên trong thực tế có nhiều vấn đề áp
dụng cần phải được giải quyết trước khi chúng ta có thể chấp nhận cách đánh giá
bằng tiền của kỹ thuật này.
67
Phương pháp đánh giá theo hưởng thụ (HPM)
Phương pháp đánh giá hưởng thụ cố gắng đánh giá các dịch vụ môi trường mà
sự hiện diện của nó trực tiếp ảnh hưởng đến một số giá thị trường nào đó. Trong thực
tế, ứng dụng thường thấy nhất của HPM là trong thị trường bất động sản. Giá nhà bị
ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố: số phòng, kích thước khu vườn, đường đi đến nơi làm
việc, v.v.. Một yếu tố rất quan trọng là chất lượng môi trường địa phương. Nếu chúng
ta có thể kiểm soát đối với các yếu tố phi môi trường, ví dụ như khi xem xét các ngôi
nhà có cùng số phòng, kich thước khu vườn như nhau, việc đi lại như nhau, v.v.. thì sự
khác biệt còn lại về giá nhà có thể giải thích là do sự khác nhau về môi trường. Ví dụ,
trong một cuộc nghiên cứu mới đây ở Gloucestershire, tính trung bình thì hiện diện
của nước lộ thiên gần nhà đã làm cho giá nhà tăng 5% (Garrod và Willis, 1991). Tuy
nhiên nói chung phương pháp HPM được sử dụng để đánh giá chi phí môi trường hơn
là lợi ích. Ví dụ, cũng giống như việc các nguồn nước đã làm tăng giá trị của nhà ở
khu vực, thì tiếng ồn từ phi trường cũng có thể làm giảm giá nhà địa phương. Khung
8.5 minh họa một nghiên cứu HPM được áp dụng để đánh giá tiếng ồn xe cộ lưu
thông.
Để áp dụng phương pháp HPM, các nhà phân tích trước tiên phải thu nhập
thông tin lien quan đến các yếu tố góp phần xác định giá nhà. Đây có thể là công việc
lâu dài và khó khăn, ví dụ như đo lường khoảng cách từ mỗi nhà đến các cơ sở tiện ích
địa phương như cửa hàng, chỗ làm việc, v.v.. Mãi tới gần đây, việc đo lường này
thường được tính toán bằng tay bằng bản đồ. Tuy nhiên các nhà phân tích có thể đây
nhanh hoạt động này bằng cách sử dụng hệ thống Thông Tin Địa Lý (GIS) nó lưu giữ
những bản đồ mã hóa từ đó việc tính toán khoảng cách như thế được thực hiện bằng
máy tính. Những chương trình máy tính GIS còn có một ứng dụng đặc biệt khi chúng
ta cố gắng sử dụng HPM để đánh giá cho giá trị thắng cảnh; hiện nay phần lớn các
nghiên cứu HPM sử dụng khoảng cách tới các thắng cảnh của địa phương để đánh giá
xem chúng có tác động đến giá nhà hay không. Tuy nhiên, những bản đồ GIS có thể
bao gồm cả các đường ranh của đồi hoặc thung lũng để máy tính có thể tính chính xác
tác động của từng môi trường cụ thể đến từng nhà riêng biệt, như là xem một ngôi nhà
có trực tiếp hứng chịu tiếng ồn của con đường lớn gần đó không hoặc là nó có được
68
che chắn bởi các nhà khác không. Việc sử dụng rộng rãi hơn kỹ thuật đổi mới này có
thể làm gia tăng đáng kể sự chính xác của các nghiên cứu HPM. Mặc dù phương pháp
HPM quả là có vể khá vững vàng, nó cũng còn vài trở ngại.
1. Không được người sử dụng ưa thích. Việc ước tính mối tương quan giữa giá
nhà và chất lượng môi trường đòi hỏi một kỹ năng cao về thống kê để tách riêng
ra những ảnh hưởng khác lên giá nhà như là kích thước nhà, việc thuận tiện đi lại,
v.v..
2. Thị trường bất động sản. Phương pháp này dựa trên giả thiết là người ta có cơ
hội lựa chọn một sự kết hợp các yếu tố nhà ở (kích thước, việc đi lại, chất lượng
môi trường) điều mà họ thích nhất trong giới hạn thu nhập của họ.
Khung 8.5 – Đánh giá tiếng ồn đường phố bằng cách sử dụng phương pháp HPM
Phương pháp HPM dựa trên giả thiết là, trong số các yếu tố khác (số
phòng, đường đi đến cửa hàng, chỗ làm việc, v.v..), chất lượng môi trường địa
phương (hay thiếu nó) sẽ quyết định giá nhà nghĩa là:
Giá nhà = f (phòng, việc đi lại, môi trường)
Phương trình này có nghĩa là giá nhà sẽ là một hàm của số phòng trong căn
nhà đó (phòng), khoảng cách đi từ nhà đến các cơ sở tiện ích địa phương (việc đi
lại) và mức chất lượng môi trường địa phương (môi trường). Giả sử chúng ta
quan tâm đến việc đánh giá tác động của tiếng ồn giao thông ở địa phương đến
môi trường, thì chúng ta sẽ đo bằng số decibel của tiếng ồn giao thông bên trong
căn nhà đang xem xét.
69
Bảng 1 – Tác động của tiếng ồn lên giá nhà
Khu vực ở Hoa Kỳ % giảm giá nhà do việc gia tăng 1 đơn vị tiếng ồn
North Virginia
TideWater
North Springfield
Towson
Washington DC
Kingsgate
North King County
Spokane
Chicago
0,15
0,14
0,18 – 0,50
0,54
0,88
0,48
0,40
0,08
0,65
Chú thích: Tiếng ồn giao thông được đo bằng mức độ âm thanh liên tục tương đương
(tính bằng decibel) mà có cùng âm lượng âm thanh trong khoảng thời gian nhất định
như mức độ âm thanh giao động thực tế đo được tại những nhà đang nghiên cứu.
Nguồn: Nelson (1992)
Tuy nhiên thị trường nhà ở thường có thể bị tác động bởi những ảnh hưởng bên
ngoài, ví dụ như, chính phủ có thể có ảnh hưởng lớn đối với giá nhà do việc thay đổi
chế độ miễn giảm thuế hay lãi suất, v.v.. Tương tự, nếu phương pháp HPM được áp
dụng cho một khu vực rộng lớn (ví dụ từ trung tâm thành thị đến nông thôn hẻo lánh)
thì có một lằn ranh chia cắt mà người được tuyển dụng ở thành phố không thể dọn nhà
đi ra xa hơn về vùng nông thôn. Thậm chí có thể có những nhận thức khác nhau về
cảnh quan trong vùng nông thôn đó. Thực tế, đường cầu đối với những căn nhà có đặc
tính môi trường khác nhau có thể bị khống chế đáng kể bởi đường cung làm cho thị
trường không hoạt động một cách tự do được. Trong những trường hợp như thế cả
đường cầu lẫn đường cung về nhà ở phải được xem xét và làm cho việc phân tích trở
nên rất phức tạp.
Sau đó chúng ta cần đo lường từng khoản mục của giá nhà, phòng, việc đi lại và
môi trường cho nhiều căn nhà để chúng ta có thể bắt đầu thấy, giá nhà thay đổi như thế
nào (tính bình quân) khi mỗi yếu tố tác động thay đổi. Chúng ta dự đoán giá nhà sẽ
tăng khi số phòng tăng, giá nhà sẽ giảm khi khoảng cách đi tới các điểm dịch vụ tăng,
70
và cuối cùng, giá nhà sẽ giảm khi tiếng ồn giao thông gia tăng, nghĩa là một mối quan
hệ đường cầu điển hình. Thực vậy, đó là kết quả thu được từ một nghiên cứu ở Hoa Kỳ
về tiếng ồn đường phố. Bảng 1 trình bày mức giảm trung bình % của giá nhà tương
ứng với một đơn vị gia tăng tiếng ồn ở một số khu vực ở Hoa Kỳ.Vì thế nếu một kế
hoạch làm đường mới có khả năng làm gia tăng tiếng ồn giao thông khoảng 1 đơn vị,
ví dụ ở Washington DC, thì giá trị tính bằng tiền do sự ô nhiễm tiếng ồn giao thông gia
tăng này có thể thấy khoảng 0,88% giá nhà bình quân trong khu vực bị ảnh hưởng.
Phương pháp đánh giá theo ý thích cho biết:
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM)
Trong cách nào đó, cả 2 phương pháp TCM và HPM đều dựa vào những đánh
giá cá nhân đối với hàng hóa môi trường, như được thấy qua việc họ mua các hàng hóa
có giá thị trường (xăng dầu, nhà cửa, v.v..) những cái có liên quan đến việc tiêu thụ
những hàng hóa môi trường này (giải trí, sự thanh bình và yên tĩnh, v.v..). Phương
pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) bỏ qua nhu cầu tham khảo giá thị trường bằng cách
hỏi thẳng từng cá nhân một cách rõ ràng để đánh giá tài sản môi trường. Mặc dù có
nhiều biến tố của kỹ thuật này, phương cách thường được áp dụng nhất là phỏng vấn
các gia đình tại địa điểm môi trường, hoặc tại nhà họ, và hỏi cái giá sẵn lòng trả
(WTP) của họ cho việc bảo vệ môi trường. Sau đó các nhà phân tích có thể tính toán
giá trị WTP trung bình của những người trả lời phỏng vấn và nhân nó với tổng số
người thụ hưởng địa điểm hay tài sản môi trường đang xem xét, để có được tổng giá trị
ước tính của tài sản đó. Khung 8.6 thảo luận về một cuộc nghiên cứu CVM ước lượng
giá trị của việc cải thiện chất lượng nước của một con sông ở Pennsylvania.
Khung 8.6 – Đánh giá việc cải thiện nước sông bằng phương pháp đánh giá ngẫu
nhiên (CVM)
Sông Monongabela là con sông chính chảy qua Pennsylvania, Hoa Kỳ. Các nhà
phân tích đã hỏi một số hộ tiêu biểu ở khu vực này là họ sẵn lòng trả thêm bao nhiêu
thuế để duy trì hoặc nâng cao chất lượng nước của con sông. Các nhà phân tích đã
thực hiện nhiều biến thể cho khảo sát CVM. Trong một biến thể các hộ được đưa ba
tình huống chất lượng nước sông và được hỏi đơn giản là họ sẵn lòng trả bao nhiêu
cho mỗi trường hợp.
71
Tình huống 1: Giữ nguyên chất lượng nước sông (đủ thích hợp cho việc bơi
thuyền) hơn là để nó giảm tới mức không thích hợp cho việc bơi thuyền.
Tình huống 2: Nâng cao chất lượng nước sông từ mức có thể bơi thuyền được tới
mức có thể câu cá được.
Tình huống 3: Nâng cao chất lượng nước hơn nữa từ mức có thể bơi thuyền tới có
thể tắm được.
Trong số những hộ được khảo sát vài hộ sử dụng con sông để giải trí, trong khi
những hộ khác thì không. Vì thế các nhà phân tích xem xét xem người sử dụng có sẵn
lòng trả bao nhiêu so với người không sử dụng. Kết quả cho toàn bộ số hộ được phỏng
vấn cũng được tính toán. Bảng 1 trình bày số tiền sẵn lòng trả của người sử dụng,
người không sử dụng , và toàn bộ mẫu cho mỗi tình huống thay đổi chất lượng cuộc
sống.
Bảng 1: Giá sẵn lòng trả ( WTB) cho các tình huống chất lượng nước sông.
Chất lượng nước WTB trung bình WTB trung bình WTB trung bình
toàn thể mẫu của nhóm sử dụng của nhóm không
sử dụng
($) ($ ) ($)
Giữ nguyên chất lượng có thể
bơi thuyền 24,5 45,5 14,2
Nâng chất lượng từ có thể bơi
thuyền đến có thể câu cá 17,6 31,3 10,8
Nâng chất lượng từ câu cá
đến bơi được 12,4 20,2 8,5
72
Hình a- đường cầu cho chất lượng nước
20
10
Nhiều kết luận rất thú vị rút được từ những kết quả này. Xem các kết quả của
toàn mẫu, chúng ta có thể thấy rằng số tiền sẵn lòng trả đã vẽ ra đường cầu thông
thường cho chất lượng nước sông, nghĩa là người ta sẵn lòng trả một số tiền tương đối
cáo cho mức chất lượng cơ bản ban đầu. Tuy nhiên, tiếp đến họ sẵn lòng trả thêm ít
hơn cho các mưc chất lượng cao hơn của nước sông. Hình (a) vẽ ra đường cầu cho biết
kết quả của khảo sát tổng thể, nghĩa là cho trung bình một hộ.
Từ đường cầu này chúng ta có thể tính toán tổng giá trị chất lượng môi
trường tại con sông. Quan trọng hơn chúng ta có thể tìm được giá trị lợi ích gia tăng
mà mỗi hộ bình quân nhận được khi chất lượng nước sông được cải thiện. Tổng giá trị
lợi ích của một việc cải thiện cụ thể có thể được ước tính bằng cách nhân giá tri trung
bình của mỗi hộ với số hộ được cho là có ảnh hưởng bởi sự cải thiện này. Lợi ích này
có thể đem so sánh với chi phí thực hiện việc cải thiện chất lượng nước đến mức như
vậy để xem nó có đáng giá hay không.
Chất lượng nước
Giá $ (giá sẵn lòng trả)
x
x
x (24,5)
(17,6)
(12,4)
1 2 3
73
Quay lại các kết quả đối với nhóm sử dụng và không sử dụng, chúng ta có thể
thấy rằng cả hai đều có dạng đường cầu cong xuống như thường lệ. Hơn nữa ở mọi
mức chất lượng thì WTP của nhóm sử dụng đều vượt hơn cả nhóm không sử dụng.
Cuối cùng, chú ý rằng WTP của nhóm không sử dụng bằng 0. Điều này là do các hộ
này, dù không phải bản thân họ muốn tham qua giải trí ở con sông, họ cũng sẵn lòng
trả giá cho nó tiếp tục tồn tại và thậm chí được nâng cấp để cho người khác có thể
hưởng lợi ích của nó. Giá trị tồn tại mà không sử dụng này suất phát từ “ý thích cá
nhân” của con người, như đã được chứng minh bởi giá thị trường đối với các hàng hóa
trên thị trường, không phải luôn luôn thể hiện được hoàn toàn các giá trị mà người ta
có đối với sự việc.
Nguồn : Desvousges et al (1987)
Một ưu điểm thú vị của phương pháp CVM là trên lí thuyết nó có thể được sử
dụng để đánh giá các nguồn tài nguyên mà sự tồn tại tiếp tục của nó được người ta
đánh giá cao, nhưng bản thân họ không bao giờ đến tham quan cả. Một ví dụ về một
tài sản như ở nam cực nơi mà người ta sẵn sàng trả cho việc bảo vệ, nói chung là
không bao giờ muốn đến thăm cả. Một ví dụ khác gần hơn về những giá trị không sử
dụng này là việc một công ty Lâm nghiệp của Anh đã thông báo dự định của họ về
việc thoát nước và trồng cây ở vùng Flow Country, một môi trường sinh thái các sinh
thái các sinh vật hoang dã quan trọng và khu vực ngập nước ở miền bắc Scotland. Mặc
dù thự tế có rất ít người đến thăm khu vực này, cuộc nghiên cứu CVM (Lần này được
khảo sát các hộ gia đình qua bưu điện) cho thấy rằng các cá nhân sẵn lòng trả một số
tiền cao hơn nhiều để bảo quản khu vực này so với nguồn lợi do trồng gỗ mang lại.
So với các phương pháp được thảo luận trước đây, Phương pháp CVM có vẻ
tương đối rõ ràng, tuy nhiên có một số trở ngại tiềm ẩn đối với nhà phân tích thiếu
thận trọng mà chúng ta sẽ thảo luận ở đây.
1. Nói ít đi WTP: Giả thiết chính của kĩ thuật CVM là tổng số WTP được những
người trả lời phát biểu tương ứng với sự đánh giá của họ về tài sản đang xem
xét. Các nhà phê bình đang nghi ngờ tính hiệu lực của một giả thiết như vậy,
cho rằng bản chất giả thiết của phương pháp CVM làm cho câu trả lời của các
cá nhân không đúng với giá trị thực. Tuy nhiên, trong một loạt các thí nghiệm
74
mà các câu hỏi giả định về WTB được tiếp theo bằng việc thực sự yêu cầu họ
trả tiền, người ta thấy rằng số tiền mà họ nói là họ sẵn lòng trả chỉ khoảng 70 –
90 % số tiền mà cuối cùng họ thực sự đã trả. Nó cho thấy rằng người ta “ăn
chùa”, tức có xu hướng nói bớt đi cái giá mà người ta sẽ thực sự trả để cố gắng
làm giảm bớt số tiền thực sự trả sau này. Tuy vậy, do phần nói bớt đi này tương
đối nhỏ, nên đây có thể không phải là vấn đề quá nghiêm trọng.
2. WTP với WTA. Trên lý thuyết câu hỏi về việc trả tiền có thể được đặt ra hoặc
là như thường lệ: “Bạn sẵn lòng trả bao nhiêu (WTP) để có được tài sản môi
trường này?” hoặc là dưới dạng ít gặp hơn “Bạn sẵn lòng nhận bao nhiêu
(WTA) để bồi thường cho việc từ bỏ tài sản môi trường này?”. Khi đem so sánh
2 dạng câu trên các nhà phê bình cho là làm mất hiệu lực của phương pháp
CVM, và cho thấy rằng khi trả lời các câu hỏi như thế các cá nhân muốn nói lên
điều mà họ muốn nó xảy ra hơn là những đánh giá thực. Tuy nhiên, nghiên cứu
gần đây đã chứng minh rằng có những nguyên do về tâm lý và kinh tế chỉ ra
rằng các cá nhân cảm nhận mạnh mẽ “chi phí của việc mất mát” (dạng bồi
thường WTA) hơn là “lợi ích của việc đạt được” (dạng WTP). Nếu đúng như
vậy, thì sự khác biệt mà người ta tìm thấy giữa WTA/WTP thực sự hỗ trợ cho
tính hiệu lực của CVM. Tuy nhiên, cũng đúng nếu nói rằng những người trả lơi
tương đối ít quen thuộc với khái niệm nhận bồi cho việc mất đi cái gì đó hơn là
khái niệm phải trả tiền cho cái gì đó, một khái niệm chúng ta thường gặp hằng
ngày. Điều này có thể sẽ gây ra nhiều điều không chắc chắn và đặc biệt khi trả
lời những câu hỏi WTA hơn là nó xảy ra với những câu hỏi WTP. Vì thế nên
tránh sử dụng dạng đầu mà nên sử dụng dạng sau. Điều này đến lượt nó lại có
những hậu quả đối với khả năng áp dụng của CVM vào những hoàn cảnh nhất
định. Chúng ta có thể hỏi họ một cách rõ rang về WTP của họ đối với một lợi
ích môi trường (ví dụ như xây dựng một công viên mới), nhưng trong trường
hợp có tổn thất môi trường chúng ta phải hỏi về WTP của họ để ngăn ngừa xảy
ra thiệt hại (ví dụ tài trợ cho việc chống lũ lụt để bảo vệ vùng đầm lầy không bị
ngập lụt do nước biển). Tuy nhiên có thể lượng WTP thu được không phản ảnh
cái mà người ta coi là bồi thường đủ cho việc mất đi tài sản môi trường này;
75
thực ra lượng WTP có thể nói ít đi đáng kể so với lượng bồi thường WTA thực
sự. Vấn đề này sẽ là trọng tâm cho nghiên cứu sắp tới.
3. Thiên lệch một phần-toàn phần. Các nhà phê bình phương pháp CVM đã lưu ý
rằng nếu người ta lần đầu tiên được hỏi WTP của họ cho một phần tài sản môi
trường (như một con sông trong hệ thống các con sông) và sau đó được hỏi
đánh giá cho toàn bộ tài sản (nghĩa là toàn bộ hệ thống các con sông) thì số tiền
được phát biểu là như nhau. Tại sao như vậy? Câu trả lời hình như nằm trong
cách phân bố thông thường việc chi tiêu của họ; đầu tiên là chia thu nhập khả
dụng của họ thành nhiều khoản ngân sách (như nhà ở, thực phẩm, xe hơi, giải
trí) sau đó chia tiếp vào những khoản mục thực sự phải mua. Vì thế đối với việc
giải trí, bước đầu là xác định tổng ngân sách mà mỗi cá nhân dành cho giải trí
và sau đó chia tiếp thành số tiền họ sẵn lòng chi tiêu cho mỗi nơi họ muốn
viếng. Một phương pháp giải quyết vấn đề này là đầu tiên hỏi họ để biết tổng
ngân sách dành cho giải trí và kế đó là WTP của họ đối với tài sản môi trường
đang xem xét, nhắc nhở họ về ngân sách giải trí có hạn của họ và rằng số tiền
mà họ dành cho tài sản này không thể chi tiêu cho việc khác. Một phương pháp
thứ hai là giới hạn việc sử dụng CVM trong việc đánh giá một nhóm lớn của
hàng hóa môi trường (toàn bộ hơn là từng phần), nếu cần nên nhắc nhở họ lần
nữa về ngân sách giải trí có hạn của họ. Việc giới hạn này, nếu cần, sẽ hạn chế
đáng kể việc áp dụng CVM ở qui mô rộng lớn và chính nó có thể tạo ra những
trở ngại nhiều hơn đối với khả năng của người trả lời để hiểu nhóm lớn hàng
hóa như vậy.
4. Thiên lệch theo phương tiện. Khi hỏi một câu hỏi về WTP các nhà phân tích
phải xác đinh việc đóng góp theo con đường nào đó (phương tiện đóng góp).
Những người được hỏi có thể thay đổi WTP của họ tùy theo phương tiện đóng
góp được chọn. Ví dụ như, trong một thí nghiệm gần đây đối với WTP cho việc
giải trí ở Norfork Broads, WTP thông qua tổ chức từ thiện thì thấp hơn đáng kể
so với WTP thông quan thuế. Trong trường hợp này, những người được hỏi
nghi ngờ khả năng của các quĩ từ thiện để bảo vệ môi trường và mặc dù họ
không thích đóng thuế, họ vẫn cảm thấy rằng cách này đảm bảo hơn cho việc
bảo vệ môi trường. Nó còn bắt buộc nhiều người đóng góp hơn là nếu việc
76
đóng góp thông qua việc nguyên góp từ thiện. Những kết quả như vậy rõ ràng
cho chúng ta biết có lẻ cả về phương tiện đóng góp cũng như về giá trị của tài
sản đang xem xét. Một giải pháp cho các trở ngại như thế là sử dụng phương
tiện đóng góp nào thường được sử dụng nhất trong thực tế.
5. Thiên lệch điểm khởi đầu. Nhiều nghiên cứu ban đầu đã thử gợi ý cho những
người trả lời bằng cách đề nghị một số tiền khởi đầu sau đó tăng lên hay giảm
đi số tiền này dựa theo người trả lời đồng ý hay từ chối trả số tiền đó. Tuy
nhiên, người ta thấy rằng sự lựa chọn mức tiền ban đầu ảnh hưởng đến số tiền
WTP sau cùng của người trả lời. Như một phần phụ của việc nghiên cứu chất
lượng nước sông được thảo luận ở khung 8.5, một nhóm riêng biệt những người
trả lời đã được đề nghị mức khởi đầu là $25 cho tình huống chất lượng đầu, thu
được mức trung bình của nhóm này là $27,5. Tuy nhiên, khi một nhóm khác
được đề nghị mức khởi đầu là $125 cho tình huống tương tự họ đã đưa ra mức
trung bình cuối cùng là $94,7, nghĩa là mức tiền khởi đầu tác động đáng kể đến
mức tiền cuối cùng. Nhờ có những thu nhập như vậy, những nghiên cứu gần
đây hơn đã bỏ việc sử dụng mức khởi đầu.
Chương này đã kiểm tra nhiều phương pháp mà đã cố gắng mở rộng những đánh
giá CBA bằng cách phản ánh bằng đơn vị tiền tệ giá trị của hàng hóa và dịch vụ môi
trường phi thương mại. Mặc dù nhiều phương pháp trong số này thể hiện cải tiến đáng
kể dựa trên thực nghiệm trước đây, chúng tôi đã cố gắng chỉ ra rằng không có cái nào
trong chúng là thuốc trị bách bệnh cả và mỗi phương pháp có những hạn chế của nó.
Không có câu trả lời đơn giản cho những vấn đề này và chúng vẫn là mục tiêu của các
nghiên cứu đang tiếp diễn. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cho rằng các phương pháp đánh
giá như vậy cũng đóng góp một vai trò quan trọng và, nếu được áp dụng cẩn thận,
cũng cho ta những ước lượng tin cậy và giá trị. Việc đánh giá hiển hiện được ưa thích
hơn việc đánh giá tiềm ẩn khi mà mối liên kết các cá nhân và các ý thích của họ là
không rõ ràng hoặc không tồn tại.
77
CHƯƠNG 9
ĐỐI PHÓ VỚI ĐIỀU KHÔNG CHẮC CHẮN
Giới thiệu
Rủi ro và không chắc chắn là những sự thực của cuộc sống, và không có ở đâu
điều này lại trở nên hiện thực hơn trong lĩnh vực môi trường. Sự thực là chúng ta
thường không biết các hậu quả về mặt môi trường của việc thực hiện một chính sách
hay một dự án nào đó. Phần lớn điều không chắc chắn xảy ra do chúng ta không hiểu
rõ hệ sinh thái hoạt động như thế nào, và do chúng ta không biết những chất nhân tạo –
hoặc số lượng những chất “ thiên nhiên” ngày càng tăng – sẽ tác động đến môi trường
như thế nào. Nếu như chúng ta biết thì chlorofluocarbons (CFCS) có lẽ đã chẳng được
chế tạo và sử dụng. Bây giờ thì chúng ta đã biết rằng CFCS hủy hoại tầng ozone, và
tầng ozone có chức năng bảo vệ an toàn cho trái đất (xem chương 20). Những điều mơ
hồ thuộc loại này đầy dẫy khắp nơi. Chẳng hạn như, chúng ta không thể biết chắc chắn
chuyện gì đang xảy ra với việc thải ra những chất ô nhiễm vi lượng vào môi trường
ngày một gia tăng. Đôi khi hậu quả của những hành động mà không biết chắc chuyện
gì sẽ xảy ra, là chúng ta có thể tạo ra những hậu quả không thể đảo ngược được, như
là cho hủy diệt một chủng loại. Một khi điều này đã xảy ra, chúng ta không thể sáng
tạo lại được chúng. Đến lược chúng ta cũng không thể biết chắc chuyện gì sẽ xảy ra
nếu việc tiếp tục hủy diệt các giống loài cứ tiếp diễn. Điều đó có thể chẳng có vấn đề
gì (trên quan điểm của con người) nếu các loài bị mất đi, nhưng chúng ta cũng chẳng
thể biết chắc được. Qui mô xảy ra có thể lớn hay nhỏ. Vì thế, nội dung của chính sách
môi trường có các đặc tính sau:
Mơ hồ, không chắc chắc về hậu quả
Bất khả hồi hoán của một vài hậu quả
Mơ hồ về quy mô của hậu quả.
Vậy thì, vấn đề là chúng ta đối phó với những điều mơ hồ, không chắc chắn như thế
nào? Hóa ra câu trả lời không phải là dễ dàng. Sau đây, chúng tôi muốn lưu ý độc giả
rằng thuật ngữ rủi ro và mơ hồ và cách tiếp cận chúng cũng chưa được đồng ý rộng
78
rãi. Chúng ta cố gắng cung cấp một cơ sở để có thể hiểu được một khối lượng tài liệu
rất lớn và thường rất rối rắm.
Rủi ro và mơ hồ
Thuật ngữ “rủi ro” và “mơ hồ” thường được sử dụng lẫn lộn. Đó chỉ là sự lựa
chọn thôi, nhưng thông thường chúng ta phân biệt rủi ro và mơ hồ theo cách sau. Rủi
ro liên quan đến một tình huống mà ít ra khi đó chúng ta cũng có một vài ý niệm về
xác suất của hậu quả sẽ xảy ra. Ví dụ như, chúng ta có thể biết rằng sẽ có 1/10.000 cơ
hội xảy ra tai nạn khi chúng ta băng qua đường. 1/10.000 đó chính là xác suất.
Thường thì chúng ta hoàn toàn chẳng biết chút gì về xác suất cả. Đó chính là sự mơ hồ
thật sự. Chương 19 sẽ xem xét sự thay đổi khí hậu trong hoàn cảnh mơ hồ như thế -
chúng ta cũng không thể (dù sao đi nữa) xác định xác suất xảy ra những hậu quả đặc
biệt nào đó của việc thay đổi khí hậu. Sự phân biệt cơ bản giữa rủi ro và mơ hồ là : với
rủi ro, chúng ta có một vài ý niệm về xác suất xảy ra hậu quả, còn mơ hồ thì không.
Quản lí rủi ro
Dĩ nhiên là đã có nhiều nghiên cứu để tìm ra xác suất xảy ra các hậu quả bất lợi.
Quá trình đánh giá rủi ro này nhằm để xác định mối tương quan giữa, ví dụ như, nồng
độ của một chất ô nhiễm trong môi trường và ảnh hưởng của nó đối với sức khỏe con
người. Do đó, chúng ta có thể xem như việc đánh giá rủi ro liên quan đến việc phân
tích “liều lượng” (mức độ ô nhiễm) và “phản ứng”( ảnh hưởng đến sức khỏe của con
người ). Bằng cách này, việc đánh giá rủi ro chuyển từ một nội dung mơ hồ thành ra
một nội dung rủi ro. Một khi việch đánh giá rủi ro đã hoàn tất , bước kế tiếp sẽ là quản
lí rủi ro, đó là toàn bộ quá trình vânh dụng những lí thuyết khác nhau để đưa ra hai
quyết định:
(a) Rủi ro bao nhiêu là chấp nhận được
(b) Những rủi ro không chấp nhận được thì nên giảm bằng cách nào.
Các thuật ngữ “đánh giá rủi ro” và “quản lí rủi ro” có khuynh hướng bao gồm cả sự
mơ hồ. Tức là, ngay cả khi chúng ta không thể chuyển đổi mơ hồ sang các kết quả có
79
tính xác suất, thì chúng ta cũng áp dụng một tiến trình đánh giá liều lượng phản ứng,
và xác định khả năng chấp nhận cũng như quản lí.
Khung 9.1 nêu một ví dụ về đánh giá rủi ro theo mối quan hệ giữa số người tử
vong ở Hoa Kì do các rủi ro môi trường cụ thể. Tiến trình này bao gồm bước đầu tiên
là đánh giá rủi ro của một hành động mạo hiểm nào đó, được tính bằng số tử vong. Để
chuẩn hóa việc đánh giá, số tử vong được nêu lên theo đơn vị là “trên 1 triệu người”,
tiêu chuẩn này được xem như là một xác suất xảy ra của rủi ro.Như vậy, một việc có
mức rủi ro 63.000 trong một triệu người cũng có nghĩa là nó có một xác suất xảy ra là
0.0063 (63.000/1000.000). Khung 9.1 cũng cho thấy chi phí lập pháp nhằm giảm bớt
các rủi ro này chia cho số người được cứu sống, kết quả là ta có “chi phí cho một sinh
mạng”, hoặc “chi phí để tránh một ca tử vong”. Ở đây, một số đã bắt đầu thấy ấy náy
khi liên hệ chi phí với mạng người được cứu. Nó có vẻ như chúng ta quan niệm mạng
sống con người như một món hàng, có thể mua bán trên thị trường. Nhưng hãy bỏ qua
phản ứng cảm tính nhất thời đó trong một lúc, chúng ta thấy rằng Khung 9.1 nêu lên
một vài kết quả thú vị . Chẳng hạn như, nó cho thấy rằng, Hoa Kì có thể cứu sống
người với chi phí bỏ ra là 200.000 đô la mỗi sinh mạng bằng cách giảm bớt lượng
trihalomethane trong nước uống, so với chi phí 19 tỷ đô la để cứu mỗi sinh mạng bằng
cách cải thiện chất lượng của vùng đất đổ phế thải. Nếu như luật lệ về cảnh quan
không tồn tại, chúng ta sẽ không phải tốn chi phí cho nó, và đã có thể sử dụng chi phí
đó cho luật lệ về nước uống và có thể cứu sống nhiều sinh mạng hơn trong quá trình
này. Đây là một ví dụ về phân tích hiệu quả kinh tế của chi phí. Không phải hạ thấp
“ giá trị mạng người, cách phân tích hiệu quả chi phí cho thấy cách làm sao để chúng
ta cứu được tối đa số sinh mạng con người với cùng ngân sách đã cho. Chúng ta biết
rằng ngân sách cho môi trường không phải là vô hạn, mà không thể bao giờ là vô hạn
cả. Cho nên xem xét chi phí để cứu mỗi mạng người là hết sức hợp lí. Thực vậy,
không làm được việc đó cũng giống như nhìn nhận rằng không phải việc cứu sống
mạng người là quan trọng mà là một mục tiêu cảm tính không rõ ràng nào đó. Tuy
nhiên, các yếu tố phức tạp khác liên quan đến cách công chúng nhận thức về rủi ro, đó
là vấn đề của chúng ta sẽ bàn đến dưới đây.
80
Khung 9.1 Rủi ro tử vong ở Hoa Kì: các nguy cơ môi trường và chi phí để giảm
chúng
Số tử vong trên 1
triệu người tiếp
xúc với rủi ro
Chi phí để tránh
một ca tử vong
(triệu đô la)
Trihalomethane trong nước uống
Phóng xạ hạt nhân trong quặng uranium
Phóng thải nhất thời chất benzene
Tiếp xúc benzene trong nghề nghiệp
Tiếp xúc asbesto trong nghề nghiệp
Tiếp xúc arsenic/ đồng
Tiếp xúc acrylonitrile trong nghề nghiệp
Tiếp xúc lò than cốc trong nghề nghiệp
Thải chất độc hại trên đất
Tiêu chuẩn vùng đất đổ phế thải rắn đô
thị
Chất bảo quản gỗ là loại thải độc hại
420
6.300
1.470
39.600
3.015
63.000
42.300
7.200
2
1
< 1
0,2
3,4
3,4
8,9
8,3
23,0
51,5
63,5
4.190,2
19.107,0
5.700.000
Các rủi ro nêu trên liên quan đến số tử vong trong số dân tiếp xúc với chất thải
độc hại tương ứng. Tất cả các nguy hiểm nêu trên là chủ đề của luật lệ môi trường ở
Hoa Kì, vì thế, chẳng hạn, một rủi ro chịu ảnh hưởng của luật lệ này có một trị số
được nêu lên ở đây. Lưu ý rằng việc thể hiện rủi ro theo đơn vị “ trên 1 triệu người”
làm cho một vài trị số có vẻ khá hơn. Rủi ro lớn nhất, tiếp xúc arsenic/ đồng, bằng
0,063 khi viết dưới dạng số thập phân, hay là 63/1.000 hay chỉ trên 6/100 một chút.
Cách thể hiện rủi ro thường ảnh hưởng đến mức độ phản ứng của con người trước
các rủi ro đó.
Luật lệ thì tốn kém. Cột bên phải cho ta thấy trị giá khi ta chia chi phí này cho
số người có thể được cứu sống nhờ luật lệ đó. Như vậy, chúng ta so sánh được chi
phí và “hiệu quả” ( mạng sống được bảo tồn) – xem trong bài.
81
Không may thay, đối với nhiều rủi ro thì loại thông tin như trong khung 9.1 khó
mà thu được. Các chính quyền ít khi nào lưu trữ các thống kê theo một kiểu có thể cho
phép chúng ta thực hiện việc phân tích hiệu quả kinh tế của chi phí. Thường thì đơn
giản là chúng ta không được biết gì về chi phí cho một chính sách, trong khi các chức
năng “phản ứng theo liều lượng” có khuynh hướng được biết đến một cách không đầy
đủ, hoặc đôi khi, hoàn toàn không được biết đến.
Rủi ro và nhận thức rủi ro
Việc phân tích ở Khung 9.1 có vẻ thuyết phục, nhưng nó che dấu nhiều vấn đề.
Các dữ liệu đã cho về rủi ro có tính khách quan theo nghĩa là số tử vong trên 1 triệu
người hoặc là dựa trên số liệu có thật trong quá khứ, hoặc là dựa trên sự tính toán của
các chuyên gia về các rủi ro trong tương lai. Nhưng công chúng lại nhận thức rủi ro
một cách rất khác với các chuyên gia. Sự khác biệt giữa cách đánh giá rủi ro của công
chúng và của các chuyên gia là hết sức căn bản trong vấn đề đối phó với rủi ro và mơ
hồ. Chúng ta hãy nhớ lại rằng cách suy nghĩ lợi ích – chi phí liên quan đến quá trình
ghi nhận sự ưa thích của cá nhân dành cho hoặc không dành cho một thay đổi nào đó.
Chúng ta có khuynh hướng không tìm hiểu xem sự ưa thích đó xuất phát từ đâu, và nó
là “tốt hay xấu” (điều này phụ thuộc vào luật pháp). Đó là vì phương pháp lợi ích – chi
phí cố gắng trở nên “dân chủ” bằng cách sử dụng sự ưa thích cá nhân hơn là quan
điểm của chuyên gia. Nếu không thì phương pháp này mở rộng ngõ cho quyền
“chuyên chế của các chuyên gia” khi mà các trị giá của các chuyên gia sẽ áp đặt lên
người khác. Yêu cầu duy nhất ở đây là phương pháp lợi ích – chi phí cố gắng đo lường
cường độ của sự ưa thích, cũng như là bản thân sự ưa thích.
Tuy nhiên, đến lúc đánh giá rủi ro, chúng ta lại có một vấn đề. Giả sử như theo
đánh giá của các chuyên gia là một biến cố đáng sợ nào đó, ví dụ như việc chảy lỏng
phần tâm của một nhà máy điện hạt nhân, có thể chỉ xảy ra với khả năng là một phần
triệu năm hoạt động của lò phản ứng. Có nghĩa là, một tai nạn thuộc loại này chỉ xảy
ra một lần trong một triệu năm hoạt động sản xuất điện của một lò phản ứng hạt nhân,
hoặc 1 lần trong 1000 năm nếu ta có 100 lò phản ứng. Đây là một khả năng cực kì nhở.
Và đó là xác suất ta thường áp dụng khi thiết kế lò hạt nhân ở các nước phát triển.
82
Phần lớn người ta thường đồng ý rằng một rủi ro nhỏ bé như thế thì có đáng gì để mà
phải bận tâm. Tuy nhiên, mối lo sợ về tai nạn hạt nhân lại lớn đến nỗi Hoa Kì không
có một trạm năng lượng hạt nhân nào đáng kể được thực hiện trong vòng 20 năm qua.
Ở Anh Quốc bất kì một quyết định xây dựng lò hạt nhân nào cũng được chào đón bằng
sự phản đối kiên quyết công khai của các nhà môi trường học, dẫn đến việc điều tra
lâu dài và tốn kém. Rõ ràng là có sự khác biệt giữa những mối bận tâm của công
chúng và những gì mà chuyên gia cho là quan trọng. Và sự khác biệt này ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển các nguồn năng lượng nhất định và việc chọn vị trí cho các nhà
máy được coi là nguy hiểm. Thật ra, nó tạo ra một hội chứng “NIMBY” (not in my
back yard = không được ở trong sân sau của tôi) từ đó người ta phản đối sự tồn tại của
những thứ như là địa điểm bỏ rác phế thải, lò đốt chất thải, và các nhà máy điện trong
khu vực của họ. Họ cứ phản đối mặc dù các chuyên gia đã chứng minh rằng rủi ro đối
với sức khỏe do những phương tiện gây ra là rất nhỏ.
83
Khung 9.2 – So sánh sự nhận thức rủi ro: các chuyên gia đối chiếu với công
chúng
Cục Bảo Vệ Môi Trường Hoa Kỳ
Hội Đồng Cố Vấn Khoa Học
(Không xếp theo thứ tự ưu tiên)
Cuộc thăm dò ý kiến ở
Mỹ tháng 3 năm 1990
% nói rất nghiêm trọng
Cuộc thăm dò ý kiến ở
Anh tháng 5 năm 1989
% nói rất đáng lo ngại
Các rủi ro về sinh thái
Thay đổi khí hậu
Tầng Ozone
Thay đổi môi trường sống
Mất tích đa dạng sinh vật
Các rủi ro về sức khỏe
Các chất ô nhiễm tiêu chuẩn
Các chất ô nhiễm không khí độc
Radon
Ô nhiễm không khí trong nhà
Nước uống
Thuốc trừ sâu
48
60
42
Không có số liệu
56
50
17
22
46
52
44
56
45
45
34-40
33
Không có số liệu
Không có số liệu
41
46
Các vấn đề công chúng cho rằng quan trọng nhưng các chuyên gia cho rằng không:
Tràn dầu
Địa điểm để bỏ chất thải độc hại
Ô nhiễm nước công nghiệp
Tai nạn hạt nhân
Tai nạn do ô nhiễm công nghiệp
Chất thải phóng xạ hạt nhân
Rò rỉ các bồn dự trữ ngầm
Nước tắm bị nhiễm bẩn
60
66
63
60
58
58
54
Không có số liệu
53
Không có số liệu
Không có số liệu
Không có số liệu
64
58
Không có số liệu
59
Nguồn: Bộ Môi Trường Anh Quốc (1991); Tạp chí Science (1990)
Khung 9.2 nêu lên sự tương phản giữa ý kiến các chuyên gia và công chúng.
Thông tin của các chuyên gia là dành cho Hoa Kì, còn ý kiến của công chúng được thu
nhận từ các cuộc điều tra ở Hoa Kì và Anh Quốc. Chúng ta có thể thẩy rằng mối quan
tâm của công chúng là tương tự nhau ở 2 quốc gia, và phần lớn các ngoại lệ có thể dễ
84
dàng được giải thích. Ví dụ như, Hoa Kì tranh cãi rủi ro của việc tiếp xúc với radon (
hoạt tính phóng xạ xảy ra tự nhiên) trong nhà trong một thời gia nào đó và nó là một
đặc tính thông thường của các chương trình truyền hình. Mối quan tâm này còn tương
đối mới ở Anh và vì thế nó không được nêu lên cụ thể trong cuộc thăm dò ý kiến vào
năm 1989. Cũng đã có những cuộc điều tra tương tự về ô nhiễm không khí tổng quát
trong nhà ở Hoa Kì, nhưng ở Anh, người ta hầu như không đề cập đến vấn đề này. Có
lẽ vấn đề đáng lưu tâm nhiều hơn là các vấn đề mà các chuyên gia Hoa Kì có ý cho là
không có hại bao nhiều , nhưng công chúng nghĩ là có hại. Những vấn đề này thường
một nhóm chung của “ các tai nạn” liên quan đến hạt nhân, công nghiệp, tràn dầu, các
bồn dự trữ ngầm ở Hoa Kì và các vấn đề của chu trình nhiên liệu hạt nhân. Ngoại lệ
duy nhất là vấn đề nước tắm ở Anh là vì có một chỉ thị từ Cộng Động Âu Châu về vấn
đề này. Vậy thì, công chúng nhận thức về các loại tai nạn này như thế nào?
Mọi người đều đã quá quen với các mục tin tức về tai nạn giao thông đường bộ
có nhiều xe cùng liên can và số tử vong là vài người hay nhiều người. Đó là một hiện
tượng “tai nạn tập thể”. Điều đó phần nào lí giải được tại sao các tai nạn máy bay, đắm
tàu nổ khí đốt, tai nạn hạt nhân và các thiên tai như bão tổ, lốc xoáy thường được đưa
tin. Tuy nhiên, số tử vong trong các biến cố đó thường không vượt quá 25 người và
bản thân những tai nạn đó cũng không phải là rất phổ biến. Hãy so sánh với con số hơn
5000 người chết hàng năm do tai nạn giao thông ở Anh. Điều này nói lên rằng cá nhân
nhận thức về những tai nạn tập thể khác với những tai nạn trong đó chỉ có 1 người
chết. Hay nói cách khác, nếu như có 10 người chết trong một tai nạn thì dường như
vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều so với trường hợp từng người một chết trong 10 tai nạn
riêng lẻ. Đó chính là khái niệm về mối ác cảm với tai họa. Khi đánh giá các rủi ro
môi trường, việc kể đến mối ác cảm với tai họa là hoàn toàn hợp lí nếu như có yêu cầu
phải tính đến ưa thích cá nhân. Hơn nữa, mối ác cảm với tai họa cũng phù hợp với lí
thuyết kinh tế về mối ác cảm với rủi ro. Để thấy rõ tại sao, chúng ta sẽ xem xét một
cách ngắn gọn về bản chất lí thuyết này. Nhưng chúng ta sẽ nhận thấy rằng các khía
cạnh khác của hành vi con người đối với rủi ro lại không phù hợp với lí thuyết này.
85
Thỏa dụng kì vọng
Phần lớn lí thuyết ác cảm với rủi ro trong kinh tế học dựa trên điều gọi lí thuyết
“thỏa dụng kì vọng”. Khái niệm này rất đơn giản. Vấn đề là một rủi ro mà chúng ta giả
thiết là chúng ta biết xác suất của các hậu quả. Hãy xem xét một dự án đầu tư mà lợi
ích được biết phụ thuộc vào các xác suất nhất định. Giả sử như có 20% cơ hội bị lỗ âm
5 ( vào lúc này, đơn vị không quan trọng), 50% cơ hội có lời dương 1; và 30% cơ hội
có lời dương 20. Chúng ta có thể tính được giá trị kì vọng của lợi ích là:
(0,2 x [-5]) + (0,5 x 15) + (0,3 x 20) = 12.5
Chúng ta có thể so sánh giá trị kì vọng này với chi phí bỏ ra để thực hiện dự án
này. Nếu nó nhỏ hơn 12.5 thì dự án này xem ra cũng đáng thực hiện. Tuy nhiên, hãy
chú ý rằng việc đầu tư có thể được thực hiện và việc bị lỗ 5 cũng có thể sẽ xảy ra. Khi
đó, chúng ta đã đầu tư tiền mà chẳng được lợi lộc gì. Một cách nào đó, giá trị kì vọng
có vẻ như không thể hiện được hết các mối quan tâm liên quan đến các kết quả của dự
án. Nhất là, giá trị kì vọng dường như không nói lên được các mối bận tâm của chúng
ta về các trường hợp cực đoan của những kết quả. Người ta có khuynh hướng ác cảm
với các kết quả xấu như là việc bị lỗ 5 trong ví dụ trên. Phương pháp giá trị kì vọng
không thể hiện được mối ác cảm với rủi ro này.
Điều có khả năng xảy ra hơn có lẽ là người ta sẽ gán cho các kết quả có thể xảy
ra những trị số về mức độ quan trọng khác nhau. Kết quả là phương pháp thỏa dụng
kì vọng ưu thế hơn phương pháp giá trị kì vọng. Thuật ngữ “thỏa dụng’’ có thể được
hiểu theo nghĩa “phúc lợi”. Khi đó thỏa dụng kì vọng sẽ có một công thức tương tự
như giá trị kì vọng nhưng lần này trị số thỏa dụng sẽ được thay thế cho giá trị. Như
vậy, nếu chúng ta rất ghét chuyện thua lỗ, chúng ta có thể gán cho nó một trị số quan
trọng hơn, ví dụ như là 5. ( Tương tự như vậy, việc lời 20 có thể không phải chỉ tốt
hơn việc lời 15 là 20/15 lần, nhưng để đơn giản, chúng ta không xét đến khía cạnh đó).
Bây giờ phép toán sẽ là:
(0.2 x [-5] x 5) + (0.5 x 15) + (0.3 x 20) = 8.5
Đáp số sẽ làm dự án kém hấp dẫn hơn nhiều so với trước.
Phương pháp thỏa dụng kì vọng dường như có thể xử lí được vấn đề của các tai
họa như đã đề cập đến trước đây, bởi vì vấn đề là chúng ta sẽ gán cho một giá trị thỏa
dụng lớn ( hoặc giá trị “bất thỏa dụng” nếu nó là một sự thiệt hại) cho các kết quả mà
86
chúng ta thích hay không thích. Một vài nỗ lực đã được thực hiện để ước tính “ác cảm
với tai họa”.
Khung 9.3 cho thấy một vài quy tắc được đề nghị để quyết định các dự án đầu tư an
toàn.
Khung 9.3 – Ác cảm với tai họa
Bảng 1 nêu lên những quy tắc có thể dùng quyết định “trị giá” của một tai họa. Giả
sử, chúng ta biết rằng “trị giá của một mạng sống về mặt thống kê” (V) là 2 triệu
bảng Anh, tức là xã hội đồng ý chi trả 2 triệu bảng Anh để cứu sống một sinh mạng
trong các tai nạn giao thông, các chương trình sức khỏe… Giả sử tai nạn đang xét
đến có cơ hội xảy ra là 1 phần triệu ( f = tần suất của biến cố) và nó có thể liên quan
đến 100, 500 hoặc 1000 người chết (N = 100, 500, 1000). Như vậy, “trị giá của một
tai nạn” tùy thuộc vào việc người ta xem biến cố tai nạn tập thể như thế nào. Người
ta đề nghị, và một vài cơ quan lập pháp cũng sử dụng quy tắc này, là một tai nạn
liên quan đến 100 người thì được xem như là tương đương với 100 x 100 người chết
trong các tai nạn cá nhân (“quy tắc bình phương”). Những người khác lại đề nghị
rằng nó tương đương với 300 lần số người chết thực sự , và cứ thế. Quy tắc nào
được chọn sẽ rất quan trọng. Trong bảng 1, chúng ta thấy rằng một người chỉ tốn
4000 bảng Anh để tránh một phần triệu cơ hội của 1000 người chết chỉ trong một tai
nạn nếu các yếu tố ác cảm không có, nhưng sẽ tốn đến 4 triệu bảng Anh, nếu sử
dụng quy tắc bình phương.
Bảng 1: Trị giá của tai họa
f = 1/1.000.000
N = 100
fN = 0.0001
fN2 = 0.01
300fN = 0.03
vfN = 400 ₤
vfN2 = 40.000₤
v300fN = 120.000₤
N = 500
fN = 0.0005
fN2 = 0.25
300fN = 0.15
vfN = 2.000₤
vfN2 = 1.000.000 ₤
v300fN = 600.000₤
N = 1.000
fN = 0.001
fN2 = 1.0
300fN = 0.3
vfN = 4.000₤
vfN2 = 4.000.000₤
v300fN = 1.200.000₤
87
Tại sao thuyết thỏa dụng kì vọng không được áp dụng
Mô hình thỏa dụng kì vọng thì hấp dẫn, nhưng các nghiên cứu sâu rộng cho
thấy rằng nó không mô tả được hành vi thực tế của con người như thế nào. Nhắc lại
rằng, nếu tính đến sự ưa thích của cá nhân, thì hành vi thực tế phải được nghiên cứu để
xem người ta thực sự quan tâm đến vấn đề gì và tại sao con người lại xử sự như thế.
Điều này có thể được đối chiếu với quan điểm bỏ qua hành vi thực tế của con người và
chỉ xây dựng một phương pháp dựa trên vấn đề con người sẽ phải ứng xử như thế nào
nếu họ được xem là có lí trí hay nhất quán trong suy nghĩ. Thật không phải lúc nào
cũng dễ dàng ghi nhớ sự khác biệt này. Dù sao đi nữa thì mục đích chính yếu của việc
phân tích các quyết định là làm cho chúng trở nên tốt hơn. Các quyết định tốt hơn sẽ là
các quyết định luôn luôn tuân theo một định đề là cái mà người ta muốn là cái tốt nhất.
Nhưng chúng ta biết rằng xã hội luôn luôn bãi bỏ một vài quyền tự chủ của cá nhân để
giao cho nhà nước nhằm mục đích phủ quyết các ưa thích cá nhân.
Trong thực tế, các nhà tâm lí học và các nhà kinh tế học đã khám phá ra đủ loại
hành vi không nhất quán với thuyết thỏa dụng kì vọng như sau:
1. Người ta thường nhầm lẫn giữa xác suất xảy ra với khả năng có thể xảy ra.
Người ta càng nghĩ rằng nó có thể xảy ra (“ nó có vẻ hợp lí”) thì xác suất xảy ra
mà họ gán cho nó càng cao. Ảo tưởng liên kết này đặc biệt quan trọng nếu biến
cố đang xem xét được mô tả với một vài chi tiết, ví dụ như các ảnh hưởng của
một vụ tai nạn hạt nhân, một hòn đảo bị biến mất dưới mực nước biển… Điều
này thường xảy ra với các biến cố dễ tưởng tượng (các vụ nổ, lụt lội), trong khi
các biến cố khó tưởng tượng thì thường có khuynh hướng được gán cho các xác
suất chủ quan rất thấp. (Vấn đề khả năng có sẵn)
2. Mọi người đều biết về hội chứng “nó không thể xảy ra với tôi’’. Bởi vì nó
chưa từng xảy ra nên họ nghĩ rằng sẽ không xảy ra. Và ai cũng là một tài xế
giỏi hơn là một tài xế trung bình! Đây là một ảo tưởng lạc quan.
3. Thực nghiệm cho thấy rằng người ta thường nhận thức không đúng đắn về các
xác suất thấp. Nhiều người thường coi như chúng không có, và họ phụ thuộc rất
nhiều vào cách thức mô tả các rủi ro ( Xem khung 9.2). Trong nhiều trường hợp
khác, người ta lại phóng đại các xác suất thấp, và tin rằng một số tai nạn sẽ có
88
nhiều khả năng xảy ra hơn, chẳng hạn các rủi ro chết người của một vụ tai nạn
giao thông. Đây là vấn đề xem nhẹ, hoặc coi trọng các xác suất thấp.
4. Người ta dường như bị neo vào thời điểm mà họ được yêu cầu quyết định. Đây
là điểm “tham chiếu” của họ, và họ đánh giá rủi ro với tham chiếu đó theo điểm
đó hơn là theo một cách trừu tượng như phương pháp thỏa dụng kì vọng giả
thiết. Trên quan điểm của điểm tham chiếu này, họ cũng đánh giá các thiệt hại
cao hơn các lợi ích tương đương ( hiện tượng “ác cảm với thiệt hại”), trong khi
kinh tế học trước nay vẫn dạy rằng ít có sự khác nhau giữa các giá trị này. Điều
này giúp giải thích sự khác nhau giữa giá sẵn lòng trả và giá sẵn lòng nhận
trong việc xác định giá trị kinh tế (xem chương 8). Người ta cũng thường có
khuynh hướng làm cho các rủi ro trở nên đơn giản hơn thực tế như thể người ta
không thể đối phó với một vấn đề phức tạp hơn. Những đặc tính này của việc
quyết định, cùng với các nhận thức sai lệch về các xác suất thấp , tạo nên lí
thuyết viễn cảnh. Lí thuyết viễn cảnh tìm cách giải thích hành vi của các cá
nhân đối với rủi ro khi mà lí thuyết thỏa dụng kì vọng rõ ràng không thể giải
thích được hành vi đó.
5. Lí thuyết viễn cảnh cũng đề nghị rằng người ta đặt ra những nội dung đánh giá
rủi ro khác nhau vào những chiếc hộp tinh thần riêng biệt, hay “các tài khoản
tinh thần”. Khi đó họ sẽ không thấy khó khăn trong việc cân nhắc giữa chi phí
và lợi ích của mỗi tài khoản, nhưng họ lại thấy khó khăn khi so sánh giữa các
tài khoản tinh thần với nhau. Nếu thật như thế, chúng ta có thể giải thích được
việc làm thế nào để người ta có thể dường như cùng một lúc có những ý kiến
trái ngược nhau. Ví dụ như, lợi ích có thể nằm trong tài khoản này nhưng lại là
chi phí đối với tài khoản khác! Điều này không làm vô hiệu khái niệm lợi ích –
chi phí bởi vì, như Chương 7 đã nêu, ý tưởng lợi ích - chi phí là để hướng dẫn
hành động. Nhưng nó khơi dậy một vấn đề rắc rối là khi nào thì các hành động
cá nhân được xem như là hợp lí và khi nào không.
6. Phần lớn cũng phải phụ thuộc vào nội dung của “rủi ro”. Một rủi ro bị thương
hoặc bị bệnh được xem như rất khác nhau nếu nó bị mắc phải ngoài ý muốn
hoặc ngược lại là tự nguyện. Như vậy, rủi ro bị chết vì ung thư phổi do thuốc lá
( một quá trình tự nguyện) thì được xem là ít hơn so với rủi ro bị ung thư do
89
phóng xạ hạt nhân ( ngoài ý muốn), dù cho rủi ro do ung thư vì thuốc lá lớn hơn
nhiều so với trường hợp sau. Vấn đề nội dung của rủi ro rất phức tạp. Rủi ro
trong tương lai thường được xem là ít quan trọng hơn nhiều so với rủi ro ở hiện
tại ( hiện tượng chiết khấu), nhưng các nghiên cứu mới đây cho thấy rằng người
ta thường có khuynh hướng đánh giá các rủi ro tương lai cao hơn so với rủi ro
hiện tại, vầ các lợi ích tương lai cao hơn các lợi ích hiện tại. Đó là vì đôi khi
người ta thích “để dành cái tốt nhất sau cùng” ( trong trường hợp lợi ích) hoặc
là họ sợ mình dễ bị tổn thương hơn khi về già và có lẽ ít có khả năng tự chăm
sóc mình ( trong trường hợp rủi ro)
Kết luận
Nói chung, vấn đề con người thực sự ứng xử như thế nào khi có rủi ro và mơ hồ
hóa ra lại phức tạp. Dường như chúng ta đã thấy rõ ràng là cả giá trị kì vọng cũng như
thỏa dụng đều có thể lí giải nhiều vấn đề, như là mối ác cảm với tai họa. Các lí thuyết
khác về chấp nhận rủi ro – như lí thuyết viễn cảnh – đã phát triển để bổ sung cho sự
thiếu sót của lí thuyết thỏa dụng kì vọng. Các lí thuyết này có khuynh hướng cho rằng
nội dung của rủi ro là quan trọng, và chúng ta không thể theo quy tắc một quy tắc duy
nhất để xử lí tất cả các nội dung rủi ro và mơ hồ. Hiện tượng ác cảm với thiệt hại là
quan trọng đối với kinh tế học môi trường bởi vì chúng ta thường xử lí với các thiệt
hại về môi trường hơn là các mối lợi. Mối ác cảm với thiệt hại có nghĩa là các thiệt hại
này có thể được xã hội đánh giá rất cao. Vấn đề nội dung của rủi ro có nghĩa là chúng
ta không thể phân tích được các biến cố gây thiệt hại cao, xác suất thấp theo cùng một
cách như chúng ta đánh giá các rủi ro hàng ngày. Bất luận thế nào, chúng ta cũng phải
tính đến sự nhận thức về các biến cố xác suất thấp. Cuối cùng, các lí thuyết mới về sự
mơ hồ đề nghị đủ các phương pháp khuyến khích người ta đối phó với các rủi ro. Chỉ
kể ở đây một ví dụ thôi, ở một vài quốc gia, người ta thường được bồi thường nếu như
dự án tọa lạc trong vùng họ cư trú được xem là rủi ro. Dự án này có thể được xem như
là một nhà máy điện hạt nhân hoặc có thể là một bãi rác. Việc bồi thường có thể được
sử dụng như là một phương tiện để có được một sự đánh giá “hợp lí” hơn về rủi ro,
không phải chỉ chịu đựng rủi ro nên được bồi thường mà vì việc bồi thường đó tạo nên
một nội dung mới chia sẽ rủi ro với trường hợp không được đền bù, khi đó chủ nhân
của bãi rác hay nhà máy điện hạt nhân được coi là “áp đặt” phương tiện đó.
90
Chú thích
1. Thật thế, chỉ tiêu giá trị kì vọng ám chí tính trung lập rủi ro. Hãy so sánh việc
chắc chắn được 50 bảng Anh với một trò đánh bạc có 0.5 cơ hội có được 100
bảng Anh. Nếu bạn thấy không gì khác nhau giữa việc chắc chắn được 50 bảng
Anh, bạn có ác cảm với rủi ro. Còn nếu bạn thích trò chơi đánh bạc đó thì bạn
là một “ người yêu thích rủi ro”
2. Ví dụ này được làm cho cực kì đơn giản bởi vì tính thỏa dụng kì vọng liên quan
đến việc chuyển đổi mỗi kết quả thành một giá trị thỏa dụng dựa trên cái gọi là
“ chức năng thỏa dụng”
91
CHƯƠNG 10
SỬ DỤNG THỊ TRƯỜNG ĐỂ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Chúng tôi đã nêu ra trong chương 3 và 5 rằng công dụng chính của cơ chế giá
cả thị trường là nó báo hiệu cho những người tiêu thụ về chi phí của việc sản xuất một
sản phẩm nào đó là bao nhiêu, và nó báo hiệu cho những người sản xuất về sự đánh
giá tương ứng của người tiêu thụ là bao nhiêu (căn cứ vào giá sẵn lòng trả WTP -
willingness to pay). “Tóm gọn lại, đây là tính cách và công cụ của các thị trường tự do
mà những nhà kinh tế đã thấy (một cách tổng quát) là rất hấp dẫn kể từ thời Adam
Smith” (Pearce et al., 1989).
Mặt khác, chúng tôi cũng đã chứng minh rằng một cơ chế giá cả tự do sẽ sử
dụng quá nhiều các hàng hóa và dịch vụ môi trường ( do giá cả bằng không). Vấn đề
còn được gộp thêm với các đặc tính “công cộng” của nhiều hàng hóa và dịch vụ môi
trường. Bởi vì giá cả của hàng hóa và dịch vu không phản ánh giá trị thực của toàn thể
các nguồn tài nguyên được sử dụng để sản xuất ra chúng, các thị trường tự do thất bại
trong việc phân bố tài nguyên một cách hiệu quả. Có một sự tách biệt giữa chi phí tư
nhân và chi phí xã hội.
Tuy nhiên, tất cả điều này không phải là để chứng minh rằng các thị trường
hoạt động một cách tự do “không bị trói buộc” không thể thực hiện những cải thiện về
chất lượng môi trường. nếu người tiêu thụ thay đổi thị hiếu bằng cách thích các sản
phẩm ít gây ô nhiễm (như đã cho thấy, ít ra là trên nguyên tắc, bàng việc dán nhãn sinh
thái), sức mạnh thị trường sẽ dẫn đến một sự thay đổi trong “nội dung ô nhiễm” của
sản phẩm và dịch vụ cuối cùng (xem Chương 17). Chủ nghĩa tiêu thụ nhanh có thể làm
thay đổi được ít những quá trình sản xuất vì người tiêu thụ nói chung cũng không biết
rõ về bản chất chính xác của những quá trình đó, và trong bất cứ trường hợp nào cũng
ít có khả năng để làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự lựa chọn những quá trình đó. Những
sự thay đổi quá trình sẽ xảy ra nếu như công nghệ cũng trở nên có ý thức về môi
trường, và/hoặc chí phí báo hiệu cho ngành công nghiệp thay đổi quá trình sản xuất.
Có hai cách mà thị trường có thể được tái cơ cấu sao cho các dịch vụ môi
trường đi vào hệ thống thị trường có hiệu quả hơn. Trước hết, chúng ta có thể tạo ra thị
trường cho những dịch vụ miễn phí trước đây. Điều này sẽ đòi hỏi hạn chế sự tiếp cận
92
các dịch vụ tài nguyên như thế bằng cách đặt ra lệ phí vào cửa và/hoặc thay đổi quyền
sở hữu, ví dụ như thiết lập các khu vực kinh tế độc quyền mở rộng ở các vùng ven
biển. Chúng ta sẽ xem xét kĩ hơn về phương án này vào phần cuối của chương này và
trong các chương 15 và 23, nhưng trước hết chúng tôi tập trung vào phương án thứ hai.
Điều này sẽ là “cải tiến” thị trường bằng việc quyết định từ trung ương giá trị của các
dịch vụ môi trường và bảo đảm rằng các giá trị đó đều được đưa vào giá cả hàng hóa
và dịch vụ. Loại phương pháp điều tiết này được biết đến như là phương pháp khuyến
khích dựa vào thị trường. Nó sẽ được biết đến vói một phương pháp quy định trực tiếp
(“mệnh lệnh và kiểm soát”), phương pháp bao gồm việc đề ra những tiêu chuẩn về môi
trường (ví dụ tiêu chuẩn đối với không khí và nước) và sẽ được thực thi bằng những
điều lệ mà không có sự trợ giúp của những khuyến khích dựa trên cơ sở thị trường.
Các nhà kinh tế đã có thời gian dài lập luận rằng phương pháp dựa vào thị
trường là có hiệu quả hơn phương pháp “mệnh lệnh và kiểm soát” (CAC- command
and control). Tuy nhiên, các hệ thống kiểm soát ô nhiễm môi trường hiện nay đang
hoạt động ở các nước công nghiệp hóa đã bị thống trị bởi cách kiểm soát trực tiếp bằng
luật lệ. Các chương 11, 12 và 13 khảo sát chi tiết hơn các công cụ chính sách có thể
triển khai trong phương pháp khuyến khích dựa vào cơ sở thị trường để kiểm soát ô
nhiễm. Chương 14 đề cập đến hệ thống quy định mà cho đến nay được các cơ quan
kiểm soát ưa thích.
Có 2 lý do tổng quát gây ra sự bất hiệu quả trong phương pháp CAC:
1. CAC đòi hỏi người đặt quy định phải sử dụng các khả năng để thu thập thông tin mà
những người gây ô nhiễm đã có được. Ví dụ, những người gây ô nhiễm biết rất rõ hơn
chính quyền về chi phí để làm giảm hay làm sạch chất thải ô nhiễm. Như vây, theo
phương pháp CAC thì chính quyền phải thu thập đủ hai loại thông tin này.
2. Những người gây ô nhiễm thay đổi cách xử lý tương ứng với phương tiện mà họ sẽ
dùng để chống ô nhiễm. Nói cách khác chi phí kiểm soát của họ khác nhau. Dưới hệ
thống CAC mỗi người gây ô nhiễm phải đạt tới một tiêu chuẩn được xác định, thường
có xét đến loại công nghệ sử dụng và chi phí “quá đáng”. Những tiêu chuẩn dựa vào
công nghệ như thế này được chấp nhận rộng rãi ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Chúng tôi
khảo sát những tiêu chuẩn như “công nghệ kiểm soát tốt nhất có thể có được” (BACT
– Best Available Control Technology) và “công nghệ kiểm soát tốt nhất có thể có
93
được mà không phải chịu chi phí quá đáng” (BATNEEC) trong chương 14. Nhưng đặc
điểm chủ yếu của phương pháp CAC là kiểm soát thì không được tập trung ở những
nơi mà người ta thấy rằng chi phí chống ô nhiễm là rẻ nhất. Thế nhưng, một quá trình
tập trung như thế sẽ giúp hạ thấp đến mức tối thiểu các chi phí cần thiết để tuân thủ
tiêu chuẩn đề ra.
Như vậy, các lệ phí/thuế sẽ giúp một người gây ô nhiễm lựa chọn cách làm thế
nào để điều chỉnh cho phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng môi trường. Những người
gây ô nhiễm với chi phí gây ô nhiễm cao sẽ lựa chọn cách trả lệ phí. Những người gây
ô nhiễm với chi phí chống ô nhiễm thấp sẽ thích trang bị thiết bị chống ô nhiễm. Bằng
cách làm cho việc chống ô nhiễm hấp dẫn hơn cho những người gây ô nhiễm với “chi
phí thấp” hơn là những người có “chi phí cao”, các lệ phí có xu hướng cắt giảm tổng
chi phí để tuân thủ theo các tiêu chuẩn về môi trường.
Rõ ràng khi xã hội đòi hòi gia tăng nghiêm ngặt việc kiểm soát ô nhiễm, các chi
phí và sự can thiệp bằng luật lệ được thiết lập đã leo thang đáng kể. Vì vậy đối với các
nhà kinh tế, cán cân tranh luận sẽ nghiêng đáng kể về phía khai thác các cơ chế thị
trường để tìm ra được các thông tin, so với các chi phí quá đáng gắn với một chiến
lược chỉ dựa vào các sự kiểm soát bằng luật lệ. Các chính quyền sẽ buộc phải tìm kiếm
các phương pháp tối thiểu hóa chi phí để giảm gánh nặng chi phí dự phòng của chính
sách môi trường môi trường trong tương lai. Những biện pháp kích thích kinh tế mang
theo nó một sự hứa hẹn về lợi ích của hiệu quả kinh tế như thế.
Tình hình ô nhiễm nghiêm trọng và phổ biến gia tăng trong các nền kinh tế
công nghiệp đã dẫn đến việc tổ chức OECD (Tổ chức Hợp tác Kinh Tế và Phát triển),
một nhóm hai mươi bốc nước công nghiệp cộng với Ủy Ban của cộng Đồng Châu Âu
và Nam Tư trước đây (nước này có tư cách đặc biệt), soạn thảo và chấp nhận năm
1972 “Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả” (PPP –polluter pays principle) như là
một nguyên tắc kinh tế căn bản cho chính sách môi trường. Hãy nhớ lại về các định
luật nhiệt động lực học ở Chương 1 nêu ra rằng các hoạt động sản xuất và tiêu thụ dẫn
đến kết quả là việc phát ra một loạt các chất thải đủ loại vào môi trường (không khí,
nước và đất). Các chất thải loại ra có gây nên tình trạng ô nhiễn hay không phụ thuộc
vào hoàn cảnh môi trường cụ thể, nhưng nó cũng tùy thuộc vào cách người ta định
nghĩa về ô nhiễm.
94
Định nghĩa kinh tế vế ô nhiễm phụ thuộc vào một số tác động vật chất của chất
thải đến môi trường và cả phản ứng của con người đối với ảnh hưởng vật chất đó,
nghĩa là sự tổn thất về phúc lợi gây ra bởi một chi phí ngoại tác mà con người phải
gánh chịu. Như vậy sự có mặt về khía cạnh vật chất của ô nhiễm không có nghĩa là ô
nhiễm “kinh tế” hiện hữu. Hơn nữa, ngay cả nếu ô nhiễm “kinh tế” hiện hữu đi nữa, thì
cũng không hẵn là luôn luôn phải được hoàn toàn loại trừ.
Nguyên lý căn bản của PPP (nguyên tắc người gây ô nhiễm phài trả) là giá cả
của một hàng hoá hay dịch vụ phải được biểu hiện đầy đủ vào tổng chi phí sản xuất
của nó, bao gồm cả chi phí của tất cả các tài nguyên đuợc sử dụng. Vậy việc sử dụng
không khí, nước hay đất cho việc loại chất thải hay cất giữ chất thải cũng là sử dụng
các tài nguyên giống như lao động hay các nhập lượng làm nguyên liệu cho sản xuất.
Tình trạng thiếu các giá cả đúng mức cho tài nguyên môi trường, và đặc tính ai cũng
sử dụng được đối với nhiều tài nguyên môi trường có nghĩa rằng đang có một nguy cơ
nghiêm trọng về việc khai thác quá mức và tất sẽ dẫn đến việc hủy hoại hoàn toàn
nguồn tài nguyên đó. Nguyên tắc PPP tìm cách để sửa đổi tình trạng thất bại của thị
trường này bằng việc làm cho những người gây ô nhiễm “nội hoá” các chi phí sử dụng
hoặc làm xuống cấp tài nguyên môi trường. Mục tiêu là nhằm kết hợp việc sử dụng
môi trường (bao gồm khả năng hấp thụ chất thải của nó) vào tính toán kinh tế thong
qua việc sử dụng những dấu hiệu về giá cả và việc sử dụng các công cụ kinh tế như
thuế ô nhiễm, lệ phí và giấy phép (xem Chương 11, 12 và 13). Tuy vậy, việc sử dụng
luật lệ để nội hoá những tác động ngoại tác cũng phù hợp với nguyên tắc người gây ô
nhiễm phải trả tiền.
Muốn sử dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền trên qui mô quốc tế
cho có hiệu quả đòi hỏi cần có sự phối hợp vì những luật lệ về môi trường có thể trở
thành nguồn gốc của sự biến dạng trong mậu dịch nếu một vài quốc gia thực hiện việc
trợ cấp cho đầu tư tư nhân trong kiểm soát ô nhiễm trong khi những nước khác lại
không làm như vậy. Để khuyến khích áp dụng đồng nhất nguyên tắc người gây ô
nhiễm phải trả tiền, Hội đồng OECD qui định rằng nguyên tắc này phải trở thành một
nguyên tắc căn bản của việc kiểm soát ô nhiễm trong các quốc gia thành viên vào năm
1972 (thực hiện vào năm 1974). Trên qui mô quốc tế, nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền đã trở thành một nguyên tắc của việc không trợ cấp cho những người gây
95
ô nhiễm. Tuy nhiên, một số chính quyền các quốc gia thành viên đã lấy lý lẽ để bảo vệ
tích cực cho việc đẩy mạnh các chương trình quốc gia về nhựng biện pháp làm giảm ô
nhiễm. Điều này dẫn đến sự chấp nhận một số ngoại lệ đối với nguyên tắc cứng nhắc
về người gây ô nhiễm phải trả tiền. Sư trợ giúp tài chánh có thể được thực hiện đối với
một khu vực ô nhiễm nếu như khu vực đó đã phải gánh chịu những khó khăn kinh tế
đáng kể. Nhưng sự trợ giúp đó chỉ có thể thực hiện trong một thời gian cố định với
một chương trình có hoạch định rõ ràng và pảhi tránh sự biến dạng trong mậu dịch
quốc tế.
Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả (PPP) cũng đã được Cộng Đồng Châu
Âu phê duyệt trong Khuyến Cáo 1975 trong đó có đính kèm những điều kiện áp dụng
tương tự như đối với tổ chức OECD và đã được đưa vào trong đạo luật Singe
European. Vào năm 1989 OECD đã làm theo một Khuyến Cáo về sự áp dụng nguyên
tắc PPP đối với trường hợp ô nhiễm ngoài dự kiến. Điều này liên kết nguyên tắc pháp
lý đối với việc đền bù thiệt hại.
Lý thuyết hiệu quả kinh tế đề nghị người gây ô nhiễm (xí nghiệp, cá nhân hay
chính quyền) phải trả hoàn toàn chi phí về sự phá hoại môi trường do hoạt động của họ
gây ra. Điều này sẽ khuyến khích người ta giảm sự phá hoại đó, ít ra cũng ở mức mà
chi phí biên tế của việc giảm ô nhiễm bằng với chi phí biên tế của sự tổn hại gây ra bởi
ô nhiễm đó. Khung 10.2 sử dụng ví dụ về nhà sản xuất hộp giấy ở chương 5 để trình
bày cách tìm ra mức ô nhiễm tối ưu theo một cách chính thức hơn.
Cách tính theo thực nghiệm của những tác động của tổn hại và quy ra số tiền
tương đương (chi phí thiệt hại do ô nhiễm) có khoảng cách xa với phương pháp chính
xác và vì thế một chính sách thực sự kiểm soát ô nhiễm trên thế giới hoạt động trên cơ
sở các mức ô nhiễm mà “xã hội chấp nhận được” xác định từ bên ngoài (và các trạng
thái chất lượng xung quanh có liên quan). Về nguyên tắc, làm cho tất cả những người
xả chất thải trả cùng giá tiền cho mỗi đơn vị chất thải hoặc thông qua các giấy phép ô
nhiễm chuyển nhưỡng mà những giấy phép này biểu thị quyền xả ra một lượng chất
thải định trước) sẽ đạt đến một sự phân bố hiệu quả kinh tế của chi phí kiểm soát chất
thải. Nó sẽ đưa đến kết quả là bất cứ một tổng lương chất thải nào của tất cả các xí
nghiệp cũng được thực hiện với tổng chi phí chất thải thấp nhất có thể được (Pezzey,
1988). Các nhà kinh tế thường cho rằng những luật lệ (tương phản với các công cụ
96
kinh tế như lệ phí và giầy phép) sẽ đưa đến kết quả là tổng chi phí kiểm soát cao hơn
để đạt tới cùng một mục tiêu về tổng số chất thải. Nhưng hãy chú ý là cách phân tích
này ngầm giả thiết rằng các chất ô nhiễm có tính chất không tồn tại lâu dài đều được
xả ra và rằng hành vi của người gây ô nhiễm phù hợp với các giả thiết của lý thuyết
kinh tế về con người kinh tế có suy luận.
Trong mô hình ô nhiễm đơn giản này (nghĩa là một chất liệu ô nhiễm môi
trường có thể bị trung hòa bởi các quá trình tự nhiên, vật lý và sinh học, và do đó mà
nó không tồn tại dai dẳng và được lưu giữ lại một cách không độc hại trong khu vực
chứa của môi trường), hoạt động của xí nghiệp ở mức Q với mức độ chất thải tương
ứng là W được thể hiện trên trục hoành. Người ta cũng giả thiết rằng ở bất cứ hoạt
động nào dưới mức Qa thì khối lượng chất thải sinh ra có thể được hấp thụ bởi môi
trường, nếu có đủ thời gian, và do đó bất cứ ngoại tác nào cũng chỉ là tạm thời (nghĩa
là có chất gây o nhiễm nhưng không phải là ô nhiễm thường xuyên).
MNPB là lợi ích tăng thêm mà một xí nghiệp đang gây ô nhiễm nhận được từ
việc thay đổi mức độ hoạt động của nó bằng một đơn vị (nghĩa là chi phí tư nhân biến
tế của sản xuất trừ thu nhập biến tế nhận được).
Lợi ích chi phí
Mức độ hoạt động kinh tế Q
Mức độ ô nhiễm 0
Qa
Wa
Q
W
Qn
Wn
MNPB
MEC
Điểm tối ưu kinh tế của ô nhiễm nước Q*
97
MEC là giá trị của một tác hại kinh tế tăng thêm gây ra bởi ô nhiễm có liên
quan tới một đơn vị hoạt động tăng thêm.
Kết quả chính của việc phân tích này là mức tối ưu kinh tế của ô nhiễm được
xác định bởi giao điểm của đường MNPB và MEC tại X (nơi mà MNPB = MEC, với
mức hoạt động Q và số lượng chất thải W). Lưu ý rằng đây là mức ô nhiễm không
bằng không.
Một số điều lưu ý quan trọng áp dụng cho mô hình đơn giản này:
Nó không dúng đối với nhiều chất ô nhiễm độc hại, không phân hủy theo quá trình
sinh học và tồn tại dai dẳng (ví dụ các loại cặn bã tồn tại lâu dài như các chất PCB và
những chất nguy hiểm khác tích lũy thao thời gian và không thể hấp thụ một cách an
toàn được).
Mô hình này giả thiết rằng một chất ô nhiễm đơn nhất được thải ra mà thôi, trong
thực tế người ta thấy nhiều chất ô nhiễm thường được trôn lẫn với nhau và làm tăng
trầm trọng tác động của sự thiệt hại.
Nó giả thiết rằng tác hại của ô nhiễm chỉ xuất hiện khi các cá nhân nhận biết ra
một sự mất mát về phúc lợi; ô nhiễm với liều lượng thấp trong suốt những thời kì dài
có thể không đưa đến những tác động dễ dàng nhận ra được như những kết quả về mặt
sức khỏe cho tới khi nó trở thành quá muộn để trị liệu một cách thích đáng.
Tuy nhiên, mô hình đơn giản thực sự giúp làm nổi bật hàm ý quan trọng về mặt
kinh tế. ô nhiễm bằng không như là một mục tiêu về mặt chính sách xét về mặt kĩ thuật
thực sự là không khả thi, và trong bất cứ trường hợp nào cũng không được chấp nhận
vì quá tốn kém xét về cả hai phương diện đầu tư về thiết bị và các quy trình làm giảm
chất thải cũng như trong việc mất mát các lợi ích sinh ra từ việc sản xuất các sản phẩm
đó.
Khung 10.2 Sản lượng và ô nhiễm
Trong trường hợp thị trường cạnh tranh nơi mà các xí nghiệp bị buộc phải trả
cho các chi phí ô nhiễm ngoại tác do họ sinh ra, thì những xí nghiệp đó sẽ sản xuất ra
tất cả sản phẩm ở nơi mà MR vượt qua MVC (chỉ các chi phí nội tác thôi), tức là họ
mở rộng chi phí sản xuất tới mức Qm trong hình (a).
98
Khi sản lượng tăng lên thì tổng số lượng chất phát thải tăng lên (xem hình (c)). Các
chất thải vượt qua khả năng hấp thụ khi sản lượng vượt quá QA. Khi sản lượng ở dưới
mức QA, tất cả chất thải đều được môi trường hấp thụ an toàn như minh họa ở hình (d).
Những đơn vị ô nhiễm ban đầu vượt quá QA gây ra tương đối ít tác hại so với những
đơn vị tiếp theo đó (vì tác động của tổng mức ô nhiễm tích lũy lại). Điều này có nghĩa
là cứ mỗi đơn vị ô nhiễm tăng lên thì gây ra tác hại nhiều hơn là đơn vị trước đó, nghĩa
là chúng ta có đường MEC dốc lên hinh (e). Chú ý là với sản lượng dưới QA chúng ta
có MEC=0.
Từ hình (b) chúng ta có thể thấy la MEC vượt quá MNEC cho tất cả đơn vị sản
xuất từ QS đến QM trong hình (f), tức là sản lượng nên giảm xuống QS (bằng cách buộc
những người gây ô nhiễm trả chi phí (nội tác và ngoại tác). Vì thế QS là mức sản lượng
tối ưu xã hội và mức ô nhiễm tương ứng là mức ô nhiễm tối ưu.
Lưu ý rằng chúng ta có thể dò theo tác động của việc giảm sản lượng từ QM đến
QS từ (f) lên đến hình (c) để tháy rằng điều này ngụ ý một sự cắt giảm tổng chất thải từ
EM xuống ES.
(a) Thu nhập và chi phí cho mỗi hộp giấy. (£)
MVC
MR
Qm Xuất lượng (hộp giấy)
(b) Lợi ích tư nhân ròng biên tế cho mỗi hộp giấy. (£)
MNPB
Qm Xuất lượng (hộp giấy)
99
(c) Ô nhiễm được thải ra/hấp thụ (của nước bị Clo hóa). (£) Số lượng ô nhiễm
Khả năng hấp thụ
Qm Xuất lượng (hộp giấy) Qs Qa
A
Es Em
(d) Chi phí tác hại. (£) Tổng chi phí phát thải của ô nhiễm
Qm Xuất lượng (hộp giấy) Qs Qa
Cm
Cs
(e) Chi phí ngoại tác biên tế (chi phí ô nhiễm cho mỗi hộp giấy). (£)
Chi phí ngoại tác biên tế (của tác hại ô nhiễm)
Qm Xuất lượng (hộp giấy) Qs Qa
100
Hãy xem xét cái hộp giấy đặc biệt được đánh dấu bằng chữ X trong hình (f).Khi
sản xuất hộp giấy X (số lượng XB), xí nghiệp thu được lượng MNPB rõ ràng là nhỏ
hơn chi phí ô nhiễm ngoại tác gây ra do sản xuất hộp này (số lượng XC). Vì vậy, trong
khi đối với nhà máy giấy thf việc sản xuất hộp giấy này là có lợi thì đối với xã hội thì
lại không có lợi (tổng chi phí nội tác và ngoại tác vượt quá giá tị giấy tiêu thụ được).
Các nhà kinh tế cho rằng đây là sự “bất hiệu quả xã hội” để sản xuất số lượng X hộp.
Làm thế nào để ta có thể tránh được bất hiệu quả xã hội này? Một phương pháp
là buộc các xí nghiệp cho tác hại ô nhiễm do họ gây ra, tức là bắt họ trả chi phí ngoại
tác của sản xuất của họ. Nếu xí nghiệp bị buộc trả chi phí ô nhiễm thì MNPB của họ
khi sản xuất X hộp (tức là XB) sẽ thấp hơn chi phí ô nhiễm (tức XC).Thật vậy điều
này sẽ la trường hợp của tất cả hộp giấy giữa mức QS và QM.
Do đó cách giải thích chuẩn của PPP đòi hỏi những người gây ô nhiễm trả tiền
cho việc kiểm soát làm giảm chất thải xuống một mức chấp nhận được, chứ không
phải cho sự tổn hại môi trường gây ra bởi lượng chất thải chấp nhận được đó. Vì vậy,
nguyên tắc chuẩn về người gây ô nhiễm phải trả tiền cho phép những người gây ô
nhiễm một cái quyền tồn tại thực sự để xả ra một lượng chất thải ở mức chấp nhận
được mà không phải trả lệ phí ô nhiễm. Một lời giải thích mở rộng hơn về PPP sẽ ngụ
ý rằng những người gây ô nhiễm phải trả chi phí làm tổn hại cũng như chi phí kiểm
soát. Cách giải thích này sẽ cho phép tính lệ phí khuyến khích giảm ô nhiễm, làm cho
những người gây ô nhiễm trả tiền cho chất thải xả ra ở mức chấp nhận được. Công cụ
tính lệ phí khuyến khích giảm ô nhiễm có ưu điểm là nó có thể khuyến khích các hành
(f) MNPB và MEC. (£)
Chi phí ngoại tác biên tế (của tác hại ô nhiễm)
Qm Xuất lượng (hộp giấy) Qs Qa
C
B
MNPB
X
101
vi thích hợp (tìm kiếm những công nghệ ít gây ô nhiễm và có hiệu quả kinh tế) của
người gây ô nhiễm trong dài hạn (xem Chương 12).
Mặc dù lệ phí ô nhiễm sử dụng rộng rải ở Châu Âu, nhưng thực ra công cụ này
được thiết lập ra khởi thủy như là một nguồn thu nhập và đã không được kiểm định
trước để đạt tói những mục tiêu chất lượng môi trường cụ thể. Thực tế và nguyên tắc
kinh tế rõ ràng là chênh lệch nhau đáng kể nhưng điều này chẳng có gì là đáng ngạc
nhiên khi người ta nhận ra rằng chính sách kiểm soát môi trường cố nhiên có những
hàm ý mâu thuẫn giữa hiệu quả kinh tế, chính trị và đạo đức, tất cả những điều này
phải được quản lý dưới một tấm màng khoa học không chắc chắn (Lave và Males,
1989).
Các lợi ích vật chất của hệ thống kinh tế hiện đại không thể có được với mức
rủi ro về môi trường bằng không dựa trên cơ sở là không có ô nhiễm về môi trường.
Cần có một quá trình cân bằng chi phí và/ hoặc lợi ích rủi ro nào đó mà trong đó các
lựa chọn hoán đổi “chấp nhận được” giữa các mức độ rủi ro và chi phí ô nhiễm được
giải quyết. Sự lựa chọn hoán đổi được thực hiện ngầm hay công khai phụ thuộc vào
phương pháp chính sách. Hai loại hình chung về phương pháp chính sách hướng đến
việc nội hoá các ngoại tác ô nhiễm có thể được phân biệt – phương pháp lợi ích chi phí
và phương pháp cảnh giác (peare et al, 1992).
Một định nghĩa về nguyên tắc cảnh giác nói rằng những sự không chắc chắn cho
nên cần phải thận trọng khi thiết lập các tiêu chuẩn về phát thải, và cần phải nhấn
mạnh vào việc ngăn ngừa ô nhiễm thông qua các biện pháp làm giảm ô nhiễm từ gốc
(có nghĩa là thay đổi, cải tiến các quá trình sản xuất hoặc sản phẩm) hơn là chỉ dựa vào
các cách xử lý ở đoạn cuối đường ống (tức là các màng lọc ở cuối đường ống và các
phương tiện làm sạch khói ở đường ống và các phương tiện làm sạch khí ở ống khói).
Có sự rủi ro là khả năng hấp thụ của bản thân môi trường có thể bị thương/huỷ hoại,
đặc biệt trong những trường hợp khi có những chất ô nhiễm bền bỉ được tích luỹ trong
môi trường. Với mức độ tối ưu cụ thể về mặt kinh tế của ô nhiễm khác với không và
mức độ không chắc chắn về các tác động cụ thể của việc tích luỹ một số chất liệu nào
đó trong môi trường trong một thời gian dài, thì có khả năng (nhưng không chắc chắn)
là một cái gọi là vấn đề ngoại tác động học có thể xảy ra (Pearce, 1976). Chính cái rủi
ro đáng kể của tác hại do ô nhiễm lâu dài này mà phương pháp cảnh giác tìm cách làm
102
giảm nhẹ đi. Chúng ta sẽ khảo sát chi tiết hơn nguyên tắc cảnh giác trong chương 14 vì
nó hoạt động qua cơ chế luật lệ. Khung 10.3 khảo sàt ngững mặt ô nhiễm con kênh
Love Canal ở Hoa Kỳ để làm nổi bật đến những rủi ro và chí phí hại có thể xảy ra nếu
cái lợi ngắn hạn trước mắt lại chiếm ưu thế hơn là 1 kế hoạch dài hạn đối với những
vấn đề về kiểm soát ô nhiễm.
Khung 10.3 Khi rác ô nhiễm vượt quá khả năng hấp thụ: trường hợp của Love
Canal, Hoa Kỳ
Để thấy được những vấn đề và hậu quả của việc chấp nhận một cách loại thải
ô nhiễm chỉ cung cấp một giải pháp trong ngắn hạn, chúng tôi có thể xem xét một
trường hợp đáng buồn về con kênh đào Love Canal ở bang New York, Hoa Kỳ.Bắt
đầu vào những năm 1890, Love Canal được đề xuất như là một tuyến đường tắt xuyên
qua một khúc quanh của sông Niagara chảy qua thành phố Niagara Falls. Tuy nhiên,
do tình hình kinh tế trì trệ tiếp sau đó, con kênh này đã không bao giờ được hoàn thành
và vào những năm 1940 con kênh đào làm được mọtt phần này đã rơi vào tay của
Công ty Hoá Chất Điện Tử Hooker, một nhà chế tạo hoá chất lớn nhất đã mua con
kênh đào để đổ những chất thải hoá học cực kỳ độc hại của họ.
Trong suốt những năm 1942-1952 công ty Hooker đã đổ vào mương này
khoảng 21.000 tấn chất thải (Levine, 1982), một giải pháp ngắn hạn đối với chi phí
ngoại tác của việc phát thải ô nhiễm. Tuy nhiên, độc hại củ các chất thải ô nhiễm đổ
vào con kênh Love Canal đã vượt quá khả năng hấp thụ một cách an toàn của môi
trường địa phương. Việc tích luỹ các chất thải không hấp thụ được đã bắt đầu làm
nhiễm độc mặt đất và gây quá tải cho môi trường. Điều này đã ngăn chặn được mùi
hôi và khi không còn sự phàn nàn nữa, thì nhà cửa và thậm chí cả một trường học đã
được xây dựng tại hiện trường này. Tuy nhiên, lượng hoá chất quá tải khó tan biến mà
vùng này phải gánh chịu đã làm cho môi trường địa phương hoàn toàn mất hết khả
năng hấp thụ chất thải một cách an toàn và vào giữa nhưng năm 1970 người ta đã ghi
nhận là những luồng nước dưới lòng đất đã đẩy ra những chất độc đậm đặc cao. Vào
năm 1978 trên 200 nhà trong vùng đã được chính quyền mua lại. Thêm 700 gia đình
được di tản khỏi vùng vào năm 1979. Người ta thấy các cư dân địa phương đã mắc
phải một số bệnh tật có liên quan đến ô nhiễm kể cả những vấn đề nghiêm trọng về
mang thai/sinh nở (những phụ nữ mang thai bị nhiễm độc có tỷ lệ khoảng 47% có vấn
103
đề sinh đẻ rắc rối). Tiếp theo đó là Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa kỳ đã phát đơn
kiện công ty Hooker buộc họ bbồi thường $125 triệu trong khi đó những cuộc kiện cáo
của các cá nhân tốn tổng cộng đến 14 tỷ đôla.Trường hợp con kênh Love Canal đã là
công cụ đề ra chương trình “Quỹ đặc biệt” của Hoa Kỳ, quỹ này được lập ra để nhằm
làm sạch những bãi chất thải nguy hại không kiểm soát được. Cho đến ngày nay,
chương trình này đã đề xuất khoảng 1,3 tỉ đôla cho việc làm sạch môi trường (Clay,
1991).
Vậy lẽ ra công ty Hooker đã phải làm gì và những chính sách về ô nhiễm môi
trường phải đề ra những mục tiêu gì để đảm bảo cho mục tiêu phát triển bền vững? Để
đạt được sự phát triển bền vững về lâu dài thì số lượng ô nhiễm chất thải vào môi
trường phải không được vượt quá khả năng hấp thụ của nó.Công ty đã không đánh giá
được khả năng hấp thụ an toàn của con kênh Love Canal đối với các chất thải độc hại
cao thải ra tại đó. Một mức ô nhiễm tối ưu bền vững lẽ ra phải được tính toán và đầu
tư vào các kỹ thuật sản xuất mới (ví dụ tái sinh các chất thải hoá học) phải được tiến
hành sao cho đạt được mục tiêu này. Dĩ nhiên họ đã phải tốn kém hơn là chỉ việc đổ
bừa bãi vàp con kênh Love Canal, nhưng những hậu quả trong dài hạn đối với xã hội
(và trong trường hợp của công ty Hooker này) của việc không chịu giải quyết một cách
căn bản các chi phi của việc loại thải chất ô nhiễm một cách an toàn trong lâu dài rõ
ràng là lớn hơn. Nếu những cách lựa chọn như vậy không khả thi về mặt tài chính cho
công ty thì giải pháp bền vững duy nhất là chấm dứt hoàn toàn việc sản xuất ra chất
thải đó.
Trường hợp này làm nổi bật ngững vấn đề hoạt động của thị trường tự do xét về mặt
chi phí ô nhiễm ngoại tác. Những áp lực làm sao kiếm được lợi nhuận tối đa củ công
ty Hooker, vào thời gian đổ chất thải, thực sự là yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến quyết
định của họ.
Các phương pháp về quyền sở hữu
Trong phần cuối này chúng ta xem xét một trường phái tư tưởng kinh tế gắn với
Coase (1960), trường phái này nhấn mạnh vào sự quan trọng của các quyền sở hữu tài
sản và mặc cả giữa những người gây ô nhiễm và những người bị thiệt hại.Trường phái
104
Coase bác bỏ sự can thiệp của chính quyền (thông qua thuế, trợ cấp hoặc quy định tiêu
chuẩn) và cổ vũ cho biện pháp mặc cả trên thị trường được hỗ trợ bằng các quyền sơ
hữư tài sản thích đáng để đạt đến mức ô nhiễm tối ưu xã hội. Giả thiết có một hệ thống
quyền sở hữu tài sản thích đáng (bảo đảm quyền sở hữu giữa các tài nguyên thông qua
sức mạnh của luật pháp) và một số giả thiết khác, Coase lập luận rằng nên để cho
người gây ô nhiễm và người bị thiệt hại (do ô nhiễm) ở trong một tình trạng không có
qui định gì cả. Một quá trình mặc cả sau đó sẽ được phát triển treen cơ sỡ tự động (với
tiền hối lộ hay bồi thường đổi bên tuỳ thuộc vào bên nào-người gây ô nhiễm hay người
bị thiệt hại-nắm giữ quyền sơ hữu tài sản). Định lý Coase được trình bày trong khung
10.4.
Khung 10.4 Định lý Coase
Hình (a) Giải pháp mặc cả cho vấn đề ô nhiễm
Hình (a) mô tả rằng nếu cứ để mặc không có qui định, thì người gây ô nhiễm sẽ
cố gắng hoạt động ở mức Q╥, là nơi thuận lợi được tối đa hoá. Nhưng điểm tối ưu xã
hội là Q*. Như vậy các điểm tối ưu xã hội và cá nhân xem ra không thích ứng với
nhau. Tuy nhiên đưa quyền sỡ hữu tài sản vào có thể thay đổi tình hình này. Nếu
người bị thiệt hại của ô nhiễm có quyền sỡ hữu tài sản,thì người gây ô nhiễm sẽ có lợi
nếu họ trả tiền đền bù cho người thiệt hại (cho đến mức hoạt động Q*). Trên mức Q*
Lợi ích chi phí Lợi ích tư nhân
ròng biên tế Chi phí ngoại tác biên tế
0 Mức độ hoạt động kinh tế Q*
105
thì thực hiện bồi thường như vậy không khả thi vì lợi ích của người gây oo nhiễm trở
thành ít hơn khoản chi phí củ người thiệt hại .Vì thế khởi đầu ở điểm 0 và cho người bị
thiệt hại có quyền sở hữu tài sản thì xu hướng tự nhiên là di chuyển về điểm tối ưu xã
hội, là Q*.
Nếu quyền sở hữu tài sản được trao cho người gây ô nhiễm thì việc phân tích ở
trong hình bắt đầu tại Q , với người chịu thiệt hại vì ô nhiễm có cơ hội đền bù cho
người gây ô nhiễm cho đến khi đạt tới mức hoạt động Q*.
“Định lý Coase” trình bày rằng bất kể ai là người nắm quyền sở hữu tài sản, vẫn có
một khuynh hướng tự động tiến đến điểm tối ưu xã hội thông qua việc mặc cả. Nếu
cách phân tích này là đúng, thì luật lệ của chính quyền về ngoại tác là thừa, thị trường
tự lo liệu lấy, với việc mặc cả thể hiện một quá trình hiệu quả.
Về sau, nhiều tài liệu đã trình bày một số chỉ trích và những vấn đề phức tạp của
định lý Coase, chúng bao gồm sự hiện hữu của cạnh tranh không hoàn hảo, chi phí
giao dịch cao, khó khăn trong việc xác định người gây ô nhiễm và người bị thiệt hại và
hành vi đe doạ. Pearce và Turner (1990) đã kết luận rằng định lý Coase là quan trọng
trong việc thúc đẩy những người ủng hộ cho sự can thiệp về mặt môi trường xác định
những điều kiện của họ và chứng minh cho họ những lập luận của họ một cách thận
trọng hơn trước đây. Nhưng có nhiều lý do tại sao các cuộc mặc cả lại không và không
thể xảy ra.
Hơn nữa, có thực là đúng không khi cho rằng vì không có sự khác biệt gì về vấn
đề hiệu quả dù bên nào cóp quyền sỡ hữu tài sản, nên chẳng lợi lộc gì bao nhiêu để
làm thay đổi những quyền sỡ hữu tài sản đó? Trong thực tế thì chắc chắn việc bên nào
sở hữu tài sản sẽ rất quan trọng và phần lớn chính sách quan trọng (bao gồm cả chính
sách môi trường) chung qui cũng là để giải quyết những đấu tranh về việc bên nào có
thể kéo chính quyền về phía họ. Bromley và Hodge (1990) đã khảo sát một số hậu quả
của việc xem xét lại cơ cấu các quyền sở hữu tài sản hiện có ở các nước công nghiệp.
Họ tập trung sụ chú ý vào các quyền sở hữu các nhân đối với đất đai và khu vực nông
nghiệp. Chính sách nông nghiệp hiện thời trong những nước này dựa trên cơ sở hệ
thống quyền sở hữu tài sản này.
Như chúng tôi đã nếu trong Chương 6 về Chính sách Nông nghiệp Chung ở châu
Âu, vấn đề thâm canh nông nghiệp trong tất cả các nước công nghiệp đã dẫn đến hàng
106
loạt những vấn đề ngoại tác môi trường tiêu cực (ví dụ như ô nhiễm, mất đi những
cảnh quan đẹp đẽ thú vị, khu nghỉ mát giải trí bị huỷ hoại,v.v.). Khi chính quyền can
thiệp để sửa chữa sự thất bại về mặt chính sách thì khu nông nghiệp (nông dân và giới
kinh doanh nông nghiệp) chống lại với những nổ lực làm thay đổi tình trạng quyền sở
hữu tài sản hiện hành. Một cuộc đấu tranh diễn ra giữa cái được coi là “quyền” của chủ
đất và “quyền” của các thành viên khác trong xã hội nhằm tránh khỏi những tác động
tiêu cực do hoạt động nông nghiệp gây ra. Chính quyền can thiệp để giảm bớt những
chi phi ngoại tác ở một phạm vi nào đó thông qua các luật lệ qui định hoặc thông qua
những khuyến khích về tài chính cho nông dân. Bromley và Hodge kết luận rằng “bất
cứ sự thay đổi nào về hiện trạng sản xuất của nông dân nhất định phải được chính
quyền mua lại qua hình thức hối lộ, trợ cấp, hay cho hưởng những ân huệ đặc biệt ở
các nơi khác trong phạm vi chính sách” (1990, tr.199).
Nhưng tại sao không thiết lập một chế độ quyền sở hữu tài sản theo kiểu khác,
một chế độ mà trong đó xã hội sử dụng nông dân để sản xuất ra loại hàng hoá và dịch
vụ môi trường (Bromley và Hodge gọi chúng là “những thuộc tính của nông thôn và
cộng đồng”, CCA –countryside and community attributes) và cũng để sản xuất ra
lương thực và tơ sợi theo một chất lượng qui định? Trong hệ thống nguyên trạng, sản
xuất lương thực và tơ sợi xuất hiện đầu tiên và CCA xuất hiện như tác động phụ.
Trong hệ thống thay thế, mức độ mong muốn của CCA sẽ được xác định thông qua
hành động tập thể ở phạm vi quốc gia và/hoặc địa phương. Vậy, các quyền sở hữu tài
sản để xác định những thuộc tính sẽ hiện hữu trong phong cảnh nông thôn bây giờ sẽ
không dành cho nông dân mà cho xã hội. Nếu một nông dân nào đó muốn thực hiện
một hình thức sản xuất tách khỏi mức xác định của CCA, thì chính người nông dân
phải sẵn lòng chi trả cho ngân khố quốc gia để có được quyền đi chệch khỏi kế hoạch.
Cho đến đây cuộc thảo luận đã đi theo hai lập trường rất khác hẳn nhau, một là
các quyền sở hữu tài sản toàn thể thuộc về chủ đất, và lập trường khác là tất cả quyền
sở hữu thuộc về chính quyền (hoạt động như đại diện của chúng ta và như là đại diện
cho các thế hệ tương lai). Trong thực tế, mức độ của CCA sẽ được xác định bằng
những hành động tuỳ vào nhiều lọai quyền sở hữu tài sản khác nhau, một số thuộc chủ
đất và một số thuộc chính quyền. Ví dụ hiện nay những người chủ đất không có quyền
đổ những hoá chất nguy hiểm vào luồng nước và không nhận một sự bồi thường nào
107
cho việc mất quyền này. Chủ đất có quyền lựa chọn mức độ vốn và nhân công theo ý
mình. Ở giữa hai trạng thái này là hàng loạt các trường hợp đang được tranh cãi như –
cho phép để đất bị xói mòn, mất đi những vùng đất ngập nước do xây dựng hệ thống
tưới tiêu, sử dụng phân bón hoá học và thuốc trừ sâu, v.v.. Việc ủng hộ một chế độ
quyền sở hữu tài sản khác có thể làm giống đi những ngoại tác và cải thiện sự cung
cấp lương thực của CCA, trong khi đồng thời làm giảm tác động của “cối xay tài
chính” (trợ giá, cấp phát, thanh toán cho những thoả thuận về quản lý, chi trả cho
những vùng nhạy cảm với môi trường, v.v..) mà một chính quyền hiện đại đang vướng
vào.
Kết luận
Trong chương này chúng tôi đã trình bày rằng chính sách bảo vệ môi
trườngcó thể hoạt độnh thông qua phương pháp khuyến khích kinh tế (sử dụng
những công cụ kinh tế như thuế khoá/lệ phí) hoặc thông qua phương pháp mệnh lệnh
và kiểm soát (CCA), và được hỗ trợ bởi nguyên tắc cảnh giác; hoặc thông qua các hệ
thống quyền sở hữu tài sản (tài nguyên). Mỗi phương pháp có những ưu điểm và hạn
chế của nó và một phương pháp phối hợp thì tốt hơn. Nói chung,vì môi trường không
nên để phó mặc cho các thị trường tự do (hoặc thi trường được trợ giá cao độ), do đó
cần phải có những qui định luật lệ để làm nền tảng cho phần lớn các hệ thống quyền sở
hữu tài sản và các hệ thống khuyến khích kinh tế.
108
CHƯƠNG 11
THU LỆ PHÍ CHO VIỆC SỬ DỤNG MÔI TRƯỜNG
Có một hệ thống các công cụ khuyến khích kinh tế(EI- economic incentive ) có
thể được triển khai ngay để khuyến khích đầu tư và khuyến khích hành vi tích cực đối
với môi trường. Khung 11.1 minh họa các công cụ, mà phần lớn là thu lệ phí dươi
hình thức này hay hình thức khác hiện đang áp dụng tại các nước OECD. Những
khuyến khích kinh tế mà các công cụ này tạo ra có thể có các dạng như sau:
(a) thay đổi trực tiếp các mức giá cả hoặc chi phí;
(b) thay đổi gián tiếp các mức giá cả hoặc chi phí thông qua những biện pháp tài
chính hoặc thuế khóa, ngân sách;
(c) tạo lập thị trường và hỗ trợ thị trường.
Thay đổi trực tiếp mức giá hoặc phí tổn xảy ra, ví dụ như khi lệ phí được đánh
trên sản phẩm sản xuất ra( lệ phí theo sản phẩm) hoặc trên quy trình sản xuất ra những
sản phẩm đó( lệ phí phát thải( xem chương 12), lệ phí nhập lượng, lệ phí nguyên vật
liệu), hay khi các hệ thống ký quỹ- hoàn trả (xem chương 18) được đưa vào hoạt động.
Thay đổi gián tiếp xảy ra, ví dụ như khi trợ cấp trực tiếp, tín dụng ưu đãi hay khuyến
khích tài chính ( như khấu hao nhanh) được áp dụng để khuyến khích các công nghệ
sạch cho môi trường; khuyến khích kinh tế để thực hiện quy định môi trường( như lệ
phí không tuân thủ và tín phiếu thực hiện) cũng có thể xếp vào loại này. Tạo lập thị
trường thường được thực hiện trên cơ sở luật lệ hay quy định được thay đổi, ví dụ như
buôn bán giấy phép phát thải( xem chương 13), đấu giá hạn ngạch nhằm hạn chế mức
phát thải hay mức đánh bắt trong một khu vực nhất định nào đó, các chương trình bảo
hiểm đáp ứng với sự thay đổi luật lệ về phạm vi trách nhiệm,…. Hỗ trợ cho thị trường
xảy ra khi các cơ quan công hay bán công nhận trách nhiệm công tác ổn định giá cả
hay ổn định một số thị trường nhất định( ví dụ đối với nguyên liệu thứ cấp như giấy tái
sinh hay sắt tái sinh), xem Opchool và Vos(1989); Opschool và Turner(1993).
Nếu chúng ta các công cụ khuyến khích kinh tế EI một cách lỏng lẽo, nghĩa là
nếu chúng ta đưa vào cả các công cụ tài chính và thuế khóa ngân sách không nhằm
làm biến đổi hành vi của người gây ô nhiễm và những người sử dụng tài nguyên, thì
có khả năng là sẽ có một danh sách đánh kể các EI thực sự đang được sử dụng.
109
Opschool và Vos(1989) đã trình bày một bản khảo sát tổng quát về tình hình của sáu
nước( Ý, Thụy Điển, Hoa Kì, Pháp, CHLB Đức, Hà Lan). Khảo sát những trường
hợp này ta có tổng cộng tám mươi lăm EI, hay mười bốn cho mỗi quốc gia. Khoảng
50 phần trăm số này là lệ phí, chỉ khoảng 30 phần trăm là trợ giá, và số còn lại là loại
khác như ccá hệ thống kí quỹ, hoàn chi và các chương trình chuyển nhượng. Trong
số đó, những EI thành công nhất là lệ phí ô nhiễm nước ở Hà Lan, một số kinh
nghiệm của Hoa Kì trong việc chuyển nhượng giấy phép phát thải, và một số hệ
thống kí quỹ, hoàn chi ở Thụy Điển.
110
Khung 11.1- Các biện pháp khuyến khích về kinh tế tại các nước OECD
Nước Lệ phí ô nhiễm Lệ phí theo
sử dụng
Lệ phí theo
sản phẩm
Lệ phí hành
chính về cấp
giấy phép và
quản lí
Đánh thuế phân
biệt
Trợ giá( kể cả trợ
cấp,vay ưu
đãi,miễn giảm
thuế)
Hoàn trả tiền
ký thác
Tạo ra thị
trường
Không
khí
Nước Phế
thải
Tiếng
ồn
Mua bán
giấy phép
Can thiệp thị
trường
Australia x x x x
Bỉ x x x
Canada x x x
Đan mạch x x x x x
Phần lan x x x x x x
CHLB Đức x x x x x x x
Ý x x x x
Nhật x x x
Hà lan x x x x x x x x
Nauy x x x x x
Thụy điển x x x x x x
Thụy sĩ x x x
Anh x x x x
Hoa kì x x x x x x
pháp x x x x x x x
111
Khung 11.2-Các chỉ tiêu lựa chọn cho các công cụ chính sách
Hiệu quả kinh tế
Đòi hỏi thông tin thấp- đòi hỏi thông tin chính xác ở mức tối thiểu và chi phí
cập nhật hóa nó tương đối không quá cao.
Chi phí quản lí- phức tạp, các chương trình có kĩ thuật cao đòi hỏi lượng
thông tin lớn dễ gặp nhiều rủi ro thất bại hoặc có hiệu quả hạn chế.
Công bằng , tránh sử dụng nhữnh chương trình lũy thoái quá gây bất lợi cho
người nghèo.
Độ tin cậy- hiệu quả môi trường của hệ thống càng đáng tin cậy càng tốt
trong điều kiện những sự bấp bênh không chắc chắn là không thể tránh
được.
Tính thích nghi- hệ thống cần phải có khả năng thích nghi trong điều kiện
thay đổi của công nghệ và thời tiết.
Khuyến khích động học- hệ thống tiếp tục thúc đẩy sự cải thiện môi trường
và cải tiến kĩ thuật, vượt cả những mục tiêu chính sách nếu điều này là khả
thi.
Chấp nhận được về mặt chính trị- không khác biệt quá triệt để so với những
tập quán hiện hành cũng như những gì có thể có trong tương lai và những
triết lí nền tảng. Theo nguồn : Young(1992).
112
Khung 11.3 Đánh giá so sánh các khuôn mẫu quyết định khác nhau
Phương pháp
quy định luật lệ
Hiệu quả
kinh tế
Công
bằng
Đơn giản
trong
quản trị
Có thể
chấp nhận
Giảm
rủi ro
Không rủi ro
(cấm mức thải
bằng không)
PP Rất thấp Rất cao cao Rất cao Rất cao
Có rủi ro (quy
định luật lệ)
thấp cao cao cao cao
Theo công nghệ
(tiêu chuẩn)
Rất thấp thấp Rất cao cao cao
Phân tích lợi ích
rủi ro
CBA cao thấp thấp thấp thấp
Phân tích lợi ích
chi phí (cộng
thêm các khuyến
khích kinh tế)
Rất cao thấp thấp thấp thấp
Ghi chú: PP = nguyên tắc cảnh giác; CBA= phương pháp phân tích lợi ích-chi phí.
Nguồn : theo Lave và Males(1989).
Việc lựa chọn công cụ ( hay một tập hợp các công cụ) phụ thuộc vào nhiều
điều cân nhắc thực dụng(không chỉ là hiệu quả kinh tế) mà nhiều nhàphân tích chính
sách thường bỏ qua. Vấn đề quan trọng ở chỗ là tập hợp các công cụ vừa phải có hiệu
quả vừa có tính công bằng, khả ti về mặt quản lí, tin cây được và cung cấp những
khuyến khích kinh tế năng động và liên tục cho việc cải thiện môi trường(xem khung
11.2). một phương pháp hỗn hợp thường là cần thiết, với mỗi một công cụ tập trung
vào một phần của vấn đề bảo vệ môi trường.
Rõ ràng là bảng liệt kê hoàn chỉnh về các chỉ tiêu trong khung 11.2 biểu hiện
tình trạng lí tưởng và vấn đề thách thức là phác thảo những chương trình quản trị tài
nguyên và kiểm soát ô nhiễm có thể đáp ứng càng nhiều chỉ tiêu càng tốt. Vì vậy việc
113
lựa chọn hoán đổi ở mức độ nào đó là khong thể tránh được vì một số chỉ tiêu mâu
thuẫn với nhau. Khung 11.3 cho thấy trên cơ sở của một bảng các chỉ tiêu đơn giản
hóa, không một phương pháp tổng quát nào được đánh giá là tốt xét theo cả năm chỉ
tiêu tổng hợp lại. Bây giờ chúng ta xem xét kĩ từng công cụ kinh tế một và hãy lưu ý
đén các chỉ tiêu có thể lựa chọn.
LỆ PHÍ
Những công cụ này cho thấy cách trực tiếp định giá cho việc sử dụng môi
trường.
Khung 11.4 Lệ phí ô nhiễm: lệ phí phát thải.
Mục tiêu căn bản
vàưu đãi
Điều kiện thực hành
tốt nhất
Sự thích hợp với môi
trường
Những hạn chế
Tiết kiệm chi
chi phí tuân thủ
các luật lệ
Tác dụng của
các khuyến khích
năng động.
Tiềm năng tăng
nguồn thu
Hệ thống mềm
dẻo
Ô nhiễm ở địa điểm
cố định
Chi phí biên tế
chống ô nhiễm khác
nhau giữa những
người gây ô nhiễm
Giám sát phát thải
có thể thực hiện được.
Tiềm năng cho
những ngượi gây ô
nhiễm giảm phát thải
và thay đổi hành vi
Tiềm năng cho phát
minh kĩ thuật
Nước – triển vọng tốt
ví dụ lệ phí mặt nước ở
Pháp, Đức và Hà Lan.
Không khí – triển
vọng trung bình, có vấn
đề về giám sát, ví dụ lệ
phí NOX ở Thụy Điển
Chất thải – triển vọng
thấp
Tiến ồn – triển vọng
cao cho máy bay, thấp
cho các loại xe cộ khác,
ví dụ chi phí tiếng ồn
máy bay ở Hà Lan và
Thụy Sĩ
Hạn chế về chất thải
coa thể áp dụng được
Tác dụng về phân
phối thu nhập
Khi nguồn thu tăng
lên được để riêng, cần
một hệ thống phân bổ
chặt chẽ
Lệ phí chất thải
Đây là những lệ phí đánh vào việc thải chất ô nhiễm vào không khí, nước hoặc
vào đất và vào việc gây tiếng ồn. Lệ phí phát thải liên quan với số lượng và chất
lượng của chất gây ô nhiễm và chi phí tác hại gây cho môi trường ( xem khung 11.4).
114
Lệ phí sử dụng
Lệ phí sử dụng có hàm số tăng nguồn thu và liên quan đễn chi phí sử lí, chi phí
thu gom và thải bỏ, hoặc việc thu hồi lại chi phí quản lí tùy vào từng tình huống mà
chúng được áp dụng. Lệ phí sử dụng không liên quan trực tiếp đến chi phí tác hại đến
môi trường
Khung 11.5 : Lệ phí theo sản phẩm
Mục tiêu căn
bản và ưu điểm
Điều kiện thực
hành tốt nhất
Thích hợp với môi trường Những hạn chế
- Giảm sử dụng
sản phẩm hoặc
kích thích thay
thế sản phẩm
- Tác dụng
khuyến khích
- Nguồn thu
tăng lên
- Mềm dẻo
- Tiềm năng có
thể ứng dụng
cho các nguồn
ô nhiễm di
động và phân
tán
- Sản phẩm
được sử dụng
với số lượng
hoặc khối lượng
lớn
- Sản phẩm
nhận dạng được
- Cầu co dãn giá
đối với sản
phẩm được
chọn
- Khả năng thay
thế
- Thích ứng đối
với các hệ
thống quản lí và
tài chánh hiện
hữu
- Nước , triển vọng trung bình, ví
dụ lệ phí đối với phân bón và
thuốc sát trùng đối với Na uy và
Thụy Điển, lệ phí đối với dầu
nhờn ở Phần Lan và Đức
- Không khí – triển vọng cao, đặc
biệt đối với nhiên liệu, ví dụ lệ phí
đối với chất sunphua trong nhiên
liệu ở Pháp, lệ phí đối với xăng
dầu cho xe cộ ở Phần Lan và Thụy
Điển, các loại thuế khác nhau đối
với xăng có chất chì hay không có
chất chì(Pháp, Đức, Nauy, Anh)
- Chất thải – triển vọng cao ví dụ
lệ phí đối với bao bì cho thức uống
không hoàn trả lại ở Phần Lan và
đối với bao plastic ở Ý
- Tiếng ồn – triển vọng trung bình,
ví dụ đối với xe máy chưa có các
hệ thông thực tế
- Không áp dụng
đối với các chất
thải nguy hiểm(
tốt nhất là cấm)
- Hệ số co dãn
thấp và khả năng
thay thế cản trở
mạnh mẽ hiệu lực
của công cụ
- Các liên can về
mậu dịch và tính
cạnh tranh
- Các hạn chế
tiêm năng về
quản lí hành
chánh
Nguồn : Theo OECD(1991)
115
Lệ phí sản phẩm
Lệ phí này được đánh vào sản phẩm có hại cho môi trường khi được sử dụng
trong các quy trình sản xuất, hoặc khi tiêu thụ hay loại thải nó. Mức lệ phí này tùy
thuộc chi phí tác hại đến môi trường có liên quan gắn liền với sản phẩm đó.( Xem
khung 11.6).
Giấy phép mua bán được
Đây là hạn ngạch sử dụng môi trường, tiền trợ cấp hoặc giới hạn trần cho mức
ô nhiễm. Việc phân phối ban đầu của các giấy phép liên quan đến một tiêu chuẩn
mục tiêu nào đó của môi trường chung quanh, nhưng sau đó giấy phép có thể được
đem ra mua bán chuyển nhượng dựa trên một số luật lệ đã định sẵn (xem khung
11.6).
Khung 11.6: Giấy phép mua bán được: Mục tiêu căn bản và
ưu điểm
Điều kiện thực hành
tốt nhất
Mức thích hợp với
môi trường
Những hạn chế
- Tiết kiệm chi phí
tuân thủ
- Có thể bao hàm tác
dụng của tăng trưởng
kinh tế
- Mềm dẻo
- Làm giảm ô nhiễm
trên bình diện quốc tế
- Sự khác biệt trong
cho phí tuân thủ biên
tế
- Mức tập trung tối đa
chất ô nhiễm chung
quanh được quy định
- Số lượng người gây
ô nhiễm đủ nhiều để
thị trường hình thành
và hoạt động
- Ưng dụng tốt đối
với các nguồn ô
nhiễm cố định
- Tiềm năng cho cải
tiến kĩ thuật
- Nước- thấp
- Không khí – cao, ví
dụ các chương trình
gây hụi ô nhiễm và bù
trừ khu vực của Hoa
Kì(xem chương 13)
- Chất thải- thấp
- Tiếng ồn- thấp
- Ưng dụng hạn chế
khi có nhiều hơn một
chất ô nhiễm cùng lúc
- Những điểm nóng ô
nhiễm có thể trầm
trọng thêm
- Sự phân phối ban
đầu các giấy phép đòi
hỏi việc xem xét cẩn
thận
- Quản lí phức tạp
- Chi phí giao dịch
cao nếu có nhiều
người gây ô nhiễm
- Mức độ buôn bán và
giao dịch ngân hàng
giấy phép thấp trong
các hệ thống ở Hoa
Kì.
116
Các hệ thống kí quỹ hoàn chi
Các hệ thống này bao gồm việc ký quỹ một số tiền cho các sản phẩm có tiềm
năng gây ô nhiễm. Nếu các sản phẩm được đưa trả về một số điểm thu hồi quy định
hợp pháp sau khi sử dụng, tức là tránh khỏi bị ô nhiễm, thì tiền ký quỹ sẽ hoàn
trả(xem khung 11.7). cam kết bảo đảm và cam kết thực hiện là những hệ thống tương
tự đòi hỏi một xí nghiệp khai thác mỏ, khai thác gỗ, hoặc xí nghiệp khai thác khác
phải tiền cam kết thực hiện hay quyền kí quỹ bảo đảm an toàn môi trường. Nếu các
hoạt động của các xí nghiệp này không tuân thủ theo những tập tục chấp nhận được
về môi trường(khai hoang đất đai, bảo vệ vùng đất ngập nước…) thì bất cứ các chi
phí làm sạch hoặc phục hồi nào cũng phải được trả từ số tiền kí quỹ/ cam kết.
Khung 11.7 Các hệ thống kí quỹ hoàn chi
Mục tiêu căn bản
và ưu điểm
Điều kiện thực
hành tốt nhất
Mức thích hợp với
môi trường
Những hạn chế
- Sắp xếp việc đổ
chất thải an toàn,
sử dụng lại hoặc
tái sinh sản phẩm
- Mềm dẻo
- Tưởng thưởng
cho hành vi thích
đáng
-Những thành
phần nguy hiểm
hay khó khăn của
dòng chất thải gây
vấn đề cho việc
phế bỏ
- Thị trường hiện
hữu cho vật liệu
có thể tái sinh
- Những sắp xếp
hợp tác giữa người
sản xuất, người
phân phối và
người sử dụng
- Nước- thấp
-Không khí- trung
bình
-Chất thải – cao,ví
dụ thân xe phế
thải ở Na uy và
Thụy điển, bao bì
thức uống ở nhiều
nước
- Tiếng ồn- không
áp dụng
- Chi phí thiết lập
ban đầu,chi phí
phân phối và vô
chai vô thùng lại
- Có khả năng mua
bán
Nguồn : theo OECD(1991)
117
Kết luận
Điểm qua kinh nghiệm trong việc sử dụng các công cụ khuyến khích kinh tế ở
các nước OECD cho thấy rằng giữa lí thuyết và thực tiễn khác nhau rất nhiều
(Opschool and Vos, 1989). Vì vậy mặc dù việc thu lệ phí chiếm phần lớn các công cụ
kinh tế thông dụng, ứng dụng của chúng nói chung là chư tối ưu. Chúng có khuynh
hướng được quy định ở một mức quá thấp và không đạt được các mục tiêu về môi
trường mà các nhà quản trị công quyền đã định sẵn trong đầu. Vì vậy chúng thất bại
trong việc đưa ra một tác dụng là khuyến khích đầy đủ và như vậy chỉ phục vụ cho
việc gia tăng nguồn thu ngân sách. Một vài quốc gia rồi lại tái sử dụng những quỹ
này giúp những người gây ô nhiễm đầu tư vào công nghệ kiểm soát ô nhiễm. Một vài
quốc gia khác phân bổ nguồn thu này cho việc tài trợ những hàng hóa và dịch vụ
công cộng liên quan tới vấn đề môi trường như những phương tiện xử lý tập thể.
Những công cụ khuyến khích kinh tế hiếm khi hoạt động riêng lẽ( hệ thống kí quỹ
hoàn chi là một ví dụ của việc này) và thông thường là sự kết hợp một công cụ kinh
tế(EI) và một quy định trực tiếp. Trong chương 10, chúng ta kết luận rằng trong
tương lai người ta cần suy nghĩ nhiều hơn về những phương pháp kết hợp- những
công cụ kinh tế kết hợp với các luật lệ quy định cùng với những hệ thống về quyền sỡ
hữu tài nguyên. Trong hai chương tiếp chúng ta sẽ xem xét một cách chi tiết hơn về
thuế/ lệ phí ô niễm và những hệ thống giấy phép chuyển nhượng.
118
CHƯƠNG 12
THUẾ XANH
Trong chương này chúng ta sẽ khảo sát các luận cứ ủng hộ hay chống lại việc
đặt ra thuế ô nhiễm, đó là thuế đánh vào các xí nghiệp đang phát thải chất ô nhiễm
thuế này được tính theo tác hại mà ô nhiễm của xí nghiệp đó gây ra cho môi trường.
Thuế ô nhiễm tối ưu
Ý tưởng về thuế ô nhiễm đầu tiên do Pigou, một kinh tế gia người Anh đưa ra
vào năm 1920, ông đã đề nghị rằng những người gây ô nhiễm phải trả một khoản thuế
căn cứ tác hại ước tính do việc phát thải ô nhiễm của họ gây ra. Vì thế, những lệ phí
như vậy được gọi là thuế Pigou. Để xem thuế Pigou nên được xác định như thế nào,
một lần nữa chúng ta lại xem xét trường hợp của nhà máy giấy sản xuất ra hộp giấy và
phát thải ô nhiễm dưới dạng nước bị Clo hóa, xem khung 12.1.
Một phương pháp để đạt được việc giảm sản lượng (và cũng là giảm phát thải ô
nhiễm) cho đến mức tối ưu xã hội Qs là chính quyền đặt ra một khoản thuế vừa bằng
với chi phí tác hại biên tế của ô nhiễm (MEC) tại Qs. Một khoản thuế Pigou như vậy
được biểu diễn bằng đường t* trong khung 12.1. Giờ đây, cứ mỗi đơn vị ô nhiễm mà
đơn vị sản xuất ra thì họ phải trả một khoản thuế t* cho chính quyền. Khi MEC bằng
với MNPB tại Qs thì nếu xí nghiệp sản xuất ra bất cứ sản phẩm nào vượt quá Qs số
lượng tiền họ thu được do sản xuất hộp giấy tăng thêm (cho bới MNPB) thì thấp hơn
khoản thuế họ phải trả cho những hộp giấy đó (t*). Vì thế, sử dụng phương pháp này
xí nghiệp có một động lực khuyến khích kinh tế mạnh để giảm sản lượng xuống Qs và
do đó giảm ô nhiễm xuống mức ô nhiễm tối ưu là Ws.
Thuế Pigou lý tưởng, trên cơ sở hiệu quả, phải phản ánh chính xác chi phí của ô
nhiễm tại điểm cận biên. Tuy nhiên, đánh giá thuế ô nhiễm một cách chính xác thường
là không thực tế và vì thế một số giải pháp thay thế thường được chấp nhận. Nhưng vì
những lệ phí hoặc những công cụ dựa vào thị trường khác như giấy phép làm cân bằng
mức chi phí làm giảm ô nhiễm biên tế giữa các xí nghiệp, chúng tạo ra khuyến khích
đúng đắn cho tổng số đầu tư có hiệu quả chi phí cao nhất cho việc làm sạch ô nhiễm.
Như vậy so sánh với các tiêu chuẩn đề ra không có thuế, các lệ phí sẽ có xu hướng là
phương pháp có chi phí thấp hơn để đạt tới một tiêu chuẩn qui định – xem khung 12.2.
119
Thuế ô nhiễm có nhiều ưu điểm khi so sánh với phương pháp qui định luật lệ
truyền thống của Anh là xác định số lượng ô nhiễm tiêu chuẩn đi kèm với phạt tài
chính nếu không làm theo đúng những tiêu chuẩn này. Những ưu điểm này được minh
họa trong khung 12.3. Việc xác định một tiêu chuẩn thường được thực hiện mà không
tham khảo đến giá trị của hàng hóa sản xuất ra (đường MNPB). Vì điều này, tiêu
chuẩn chỉ được ngẫu nhiên xác định tại mức ô nhiễm tối ưu Ws. Nếu tiêu chuẩn đó
được xác định ở trên mức Ws thì nhà máy giấy sẽ vẫn có cơ may để sản xuất ra hộp
giấy có một giá trị (MNPB) nhỏ hơn chi phí ngoại tác mà nó áp đặt lên xã hội, tức là
quá nhiều sản lượng và cho phép gây ô nhiễm.
Xí nghiệp tối đa hóa lợi ích bằng cách sản xuất ra tất cả các đơn vị sản phẩm có MNPB>0,
tức là bằng việc mở rộng sản xuất đến Qm. Tuy nhiên, điểm tối ưu xã hội chỉ đạt được ở mức
MEC>MNPB, tức là bằng việc giới hạn sản phẩm ở Qs. Đặt ra khoản thuế ở mức t* đối với xí
nghiệp làm cho họ ngưng sản xuất khi t*>MNPB, tức xí nghiệp giới hạn sản xuất sản phẩm ở Qs,
mức tối ưu xã hội của sản lượng. Như vậy, việc làm này giảm phát thải ô nhiễm từ Wm đến Ws.
MNPB MEC
t* Mức thuế
Xuất lượng hàng hóa của xí nghiệp Q
Qm Qs 0
Ô nhiễm do xí nghiệp gây ra Wm Ws 0
a
b
c d
Chi phí thuế
Khung 12.1 Thuế ô nhiễm tối ưu (thuế Pigou)
120
Tuy nhiên trong khung 12.3 chúng ta minh họa trường hợp mà tiêu chuẩn cố
định cho chất thải (WF) được xác định dưới mức ô nhiễm tối ưu (Ws). Nếu sau đó nhà
máy giấy giảm sản lượng giấy xuống QF, bỏ đi các sản phẩm giữa QF và Qs với một giá
trị lớn hơn là chi phí ô nhiễm của nó, một lần nữa điều này lại là một tổn thất cho xã
hội. Tuy nhiên, bây giờ giả sử rằng chính quyền xác định tiền phạt vượt quá tiêu chuẩn
đề ra và đây là mức thấp (một đặc điểm chung của phương pháp qui định luật lệ ở
Anh, trình bày trong khung 12.3 bằng đường chấm nằm ngang đánh dấu “phạt”). Đối
với các sản phẩm cho đến mức Qp xí nghiệp sẽ có một lợi ích biên tế vượt quá mức
tiền phạt. Trong khi ở khung 12.1 thuế t* tạo cho xí nghiệp một sự khuyến khích kinh
tế mạnh để giảm sản lượng từ mức thị trường đã được chấp thuận Qm xuống mức tối
ưu Qs (và giảm ô nhiễm xuống mức tối ưu Ws), thì trong khung 12.3 tiêu chuẩn (hay là
tiền phạt gắn với việc ko làm theo qui định) chỉ có một sự khuyến khích tương đối yếu
để giảm sản lượng từ Qm xuống Qp (giảm mức ô nhiễm từ Wm xuống Wp). Đối với
những đơn vị sản phẩm từ QF đến Qp xí nghiệp thu được nhiều tiền hốn với chi phí tiền
phạt và như vậy họ thích trả tiền phạt hơn là giảm sản lượng.
121
Ba xí nghiệp gây ô nhiễm đang được qui định để đạt một tiêu chuẩn tổng thể tương đương
với mức làm giảm ô nhiễm S2. Ví dụ chính quyền có thể vừa thiết lập một tiêu chuẩn sao cho mỗi
xí nghiệp buộc phải giảm một lượng ô nhiễm OSs hoặc có thể xác lập một mức thuế t* sao cho xí
nghiệp 1 đến điểm X, xí nghiệp 2 đến điểm B và xí nghiệp 3 đến điểm Y trên các đường cong chi
phí làm giảm ô nhiễm biên tế. Tổng chi phí làm giảm ô nhiễm bằng giải pháp xác lập tiêu chuẩn sẽ
cao hơn là giải pháp thuế.
Bằng cách xác lập tiêu chuẩn
Tổng chi phí lầm giảm ô nhiễm = TACst = OAS2 + OBS2 + OCS2
Bằng cách đánh thuế
TACtax = OXS1 + OBS2 + OYS3
TACst – TACtax = S1XAS2 – S2CYS3
Nhưng S1XAS2 > S2CYS3
Do đó TACst > TACtax
Nguồn: Pearce và Turner (1990)
MAC1
MAC2
t*
Giảm ô nhiễm S2
O
X B
A
Y
Chi phí Thuế
Khung 12.2 So sánh thuế với xác lập tiêu chuẩn đồng bộ
S1
MAC3
122
Đặt ra một tiêu chuẩn phát thải ô nhiễm cố định tại QF làm giảm ô nhiễm tại WF. Tuy nhiên, nếu
việc qui phạm tiêu chuẩn này chỉ dẫn đến một mức tiền phạt tương đối thấp thì xí nghiệp có lẽ chỉ
sẽ giảm bớt số lượng sản xuất khi tiền phạt >MNPB, tức là giảm sản lượng từ Qm xuống Qp (chất
thải giảm xuống từ Wm xuống Wp). Tiền phạt sẽ phải tăng lên đến mức thuế t* trong hiình trược
khi sản lượng và chất thải được giảm xuống các mức tối ưu xã hội.
Nguồn: Pearce và Turner (1990)
MNPB
MEC
t* t*
Xuất lượng hàng hóa của xí nghiệp
Q Qm Qs
0
Ô nhiễm do xí nghiệp gây ra Wm Ws 0
a
b
c d
Giá trị hàng hóa, chi phí ô nhiễm
Khung 12.3 So sánh thuế ô nhiễm với tiêu chuẩn phát thải cố định gắn với phạt tiền
Phạt
QF Qp
WF Wp
Tiêu chuẩn cố định
123
Người ta cũng có thể kể ra một số các ưu điểm khác của thuế ô nhiễm so với
phương pháp hiện nay của Anh về lượng hóa tiêu chuẩn phát thải với tiền phạt thấp.
Trước hết, vì thuế ô nhiễm sẽ được quản lý thông qua khung thuế hiện hành của chính
quyền nên có ít rủi ro về thất thu hơn khi so sánh với các tiêu chuẩn phát thải cố định
được giám sát thông qua các cuộc kiểm tra bất thường tại hiện trường. Hai là, một khi
tiêu chuẩn ô nhiễm được thiết lập thì xí nghiệp sẽ không có khuyến khích gì để giảm
phát thải xuống dưới mức này. Điều này không đúng đối với thuế o nhiễm vì nó luôn
luôn thúc đẩy các nhà sản xuất giảm nhiều hơn nữa mức phát thải, vì giảm số lượng
phát thải có nghĩa là giảm số lượng thuế mà xí nghiệp phải trả. Đến đây, thì điều này
lại dẫn đến ưu điểm thứ 3; thuế tạo cho xí nghiệp một động lực khuyến khích sử dụnh
quĩ cho việc nghiên cứu và phát triển công nghệ mới về giảm ô nhiễm hoặc các
phương pháp sản xuất mới ít ô nhiễm hơn. Thứ tư, thuế đánh trên chất thải hiện hành
có thể làm giảm các chất thải phụ kèm theo, ví dụ đánh thuế trên chất thải carbon từ
việc đốt cháy nhiên liệu có thể thúc đẩy nhà sản xuất đổi sang sử dụng nhiên liệu phi
địa khai và do vậy làm giảm việc phát thải SO2 là chất cũng gắn liền với loại nhiên liệu
điạ khai. Các nghiên cứu gần đây ước tính rằng giảm 20% lượng chất thải carbon thì
cũng có nghĩa là giảm 21% lượng SO2 và 14% lượng NOx (Bye et al, 1989).
Những vấn đề trong việc xác lập thuế
Trong khi các loại thuế ô nhiễm về mặt lý thuyết có vẻ có nhiều thuộc tính hấp
dẫn, xác lập một loại thuế Pigou tối ưu trong thực tế là khó khăn, có lẽ cơ bản nhất là
vì tính không chắc chắn về các chi phí tác hại thực tế gắn liền với bất cứ một chất ô
nhiễm nào. Định nghĩa về MEC là một bước tiến hết sức quan trọng cho việc xác lập
thuế Pigou. Tuy nhiên điều này đòi hỏi dữ liệu cũng như hiểu biết về khoa học và kinh
tế của sáu yếu tố riêng biệt. ( Pearce và Turner, 1990):
1. Sản lượng hóa hàng hóa của xí nghiệp
2. “ Liều lượng” ô nhiễm mà sản lượng này tạo ra
3. Bất cứ sự tích lũy dài hạn nào của chất ô nhiễm
4. Mức tiếp xúc của con người đối với ô nhiễm này
5. Phản ứng tác hại của sự tiếp xúc này
124
6. Việc đánh giá bằng tiền đối với chi phí tác hại ô nhiễm
Phân tích mối quan hệ “liều lượng - phản ứng” rõ ràng là sẽ phức tạp và dễ dẫn
đến tranh luận giữa các bên quan tâm ( các nhà công nghiệp, các nhóm bảo vệ môi
trường, vv). Tuy nhiên, thêm vào đó còn có một việc phức tạp hơn, đó là để đánh giá
một mức thuế Pigou tối ưu chúng ta cần biết giá trị lợi ích của hàng hóa đang được sản
xuất, tức là một cách lý tưởng chúng ta cần biết đường MNPB sao cho chúng ta có thể
tìm ra giao điểm của nó với MEC. Diều này một lần nữa dẫn đến sự tranh cải các bên
liên quan.
Thế thị trong thực tiễn, việc tính toán một mức thuế ô nhiễm tối ưu chính xác
gần như là một mục tiêu không thực tế. Điều tốt nhất mà ta có thể hy vọng là xác định
một sự thỏa hiệp có thể chấp nhận được trong điều kiện thông tin không hoàn hảo.
Điều có thể khả thi hơn là tính toán mức độ tương đối giữa thuế đánh vào một chất ô
nhiễm và thuế đánh vào chất ô nhiễm thứ hai bằng cách so sánh mức độ tác hại mà
mỗi loại gây ra. Có thể tìm ra một ví dụ phản ứng tốt trường hợp này là bằng việc khảo
sát các đề xuất về thuế carbon – đó là một loại thuế đánh trên nhiên liệu mà khi cháy
lên thì phát thải ra khí CO2 vào khí quyển từ đó làm tăng thêm hiệu ứng nhà kính. Đôt
than đá là nguyên nhân chính của sự ô nhiễm đó vì nó chứa một tỷ lệ carbon cao. Mặt
khác, khí tự nhiên chỉ chứa đựng 60% carbon cho cùng một đơn vị nhiệt năng tạo ra so
với than đá. Vì vậy, không nên đưa ra một loại thuế carbon thống nhất như nhau cho
tất cả các loại nhiên liệu mà nên tính thuế thấp hơn đối với loại nhiên liệu có carbon
thấp như khí tự nhiên chẳng hạn, và thuế cao hơn đối với loại nhiên liệu thải nhiều
carbon hơn như than đá chẳng hạn. Tuy nhiên, điều này không giải quyết vấn đề căn
bản của việc xác định một mức thuế tuyệt đối mà từ đó người ta có thể tính được các
loại thuế tương đối này. Nhiều nhà nghiên cứu đang khỏa sát vấn đề căn bản của việc
đánh giá tác hại gây ra bởi sự phát thải carbon, nhưng tuy vậy cho đến nay không có
sự thống nhất ý kiến và giữa các ý kiến vẫn còn khoảng cách xa nhau trong việc đề ra
một mức thuế carbon chính xác ( Barret, 1991).
Bây giờ chúng ta chuyển sang xem xét một trong những câu hỏi gây nhiều tranh
cãi nhất chung quanh việc sử dụng thuế ô nhiễm: ai thật sự phải trả thuế và họ có bổn
phận phải trả không?
125
Ai trả - và họ có bổn phận phải trả không?
Thuế Pigou là một công cụ để đạt tới “nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả
tiền” (PPP – Polluter Pays Princible), nguyên tắc mà ai gây ra ô nhiễm (người sản xuất
và/hoặc người tiêu thụ) phải là những người chịu trách nhiệm trả tiền cho chi phí tác
hại (hơn là như hiện nay xã hôi gánh chịu hầu hết những chi phí tác hại này). Xem trở
lại khung 12.1 chúng ta có thể thấy thuế ô nhiễm tác động như thế nào đối với xí
nghiệp gây ô nhiễm. Trước khi áp dụng loại thuế này xí nghiệp nhận được lợi ích biên
tế ròng (là MNPB trên đồ thị) cho tất cả các đơn vị sản xuất tới mức sản lượng Qm.
Khoản lợi ích này bằng với diện tích (a + b + c + d), tức là toàn bộ diện tích nằm dưới
đường MNPB. Tuy nhiên với việc áp dụng thuế ô nhiễm t* xí nghiệp giảm sản lượng
từ Q m xuống Qs, từ đó mất đi diện tích lợi ích biên tế d do giảm bớt sản lượng và mất
đi các diện tích b+c trong số thuế ô nhiễm trả cho chính quyền, vì thế giảm số lợi ích
còn lại chỉ còn diện tích a. Mặc dù hình dạng của các đường vẻ ở bảng phía trên đơn
thuần để mô tả, khoản mất mát mát lợi ích này có thể rất đáng kể và hãy nhớ phần thảo
luận của chúng ta trong khung 12.3, nó có khả năng vượt quá mức đó nếu theo chế độ
tiêu chuẩn phát thải cố định. Một số người bình luận cho rằng sự khác biệt về lợi ích
này đã khiến ngành công nghiệp gây áp lực với chính quyền để duy trì chế độ tiêu
chuẩn phát thải hơn là chấp nhận phương pháp thuế ô nhiễm (Buchnan và Tullock,
1975 ; Theeuwwes, 1991).
Buộc xí nghiệp gây ô nhiễm phải trả tiền cho sự tác hại ô nhiễm của họ xem ra
là ý tưởng công bằng. Tuy nhiên, lưu ý rằng mức sản lượng Qs có nghĩa là mức ô
nhiễm bền vững tối ưu Ws, vậy mà xí nghiệp vẫn còn đang bị buộc phải trả thuế cho
tất cả các đơn vị sản phẩm sản xuất ra đến mức này; làm như vậy có đúng hay không?
Vì Ws là mức bền vững vậy thì ở cuối một thời kỳ nào đó, môi trường có thể hấp thụ
an toàn tất cả ô nhiễm gây ra trong thời kỳ này. Do đó không có chi phí ròng nào gây
ra cho xã hội, vậy tại sao xí nghiệp lại phải trả thuế ngay cả cho phần ô nhiễm này? Vì
vậy, khoản thuế thể hiện bởi diện tích b+c xem ra là không công bằng, chúng ta sẽ
chọn một công cụ khác mà nó buộc xí nghiệp giới hạn ô nhiễm đến mức Ws mà không
có khoản lệ phí tăng thêm này. Sự không chắc chắn này về tính công bằng của thuế
Pigou đã được nêu ra như một lý do tại sao những nhà làm chính sách đã không triển
126
khai thực hiện nó (Pezzey, 1988). Tuy nhiên, hầu hết vấn đề liên quan đến thuế ô
nhiễm chính yếu là tập trung vào tác động đối với người tiêu thụ và đó là điều mà giờ
đây chúng ta sẽ xét đến.
Hình (a) của khung 12.4 cho thấy các đường cung và cầu của giấy do xí nghiệp
giấy giả định của chúng ta sản xuất. Trước khi áp dụng thuế ô nhiễm nhà máy giấy có
đường cung So. Đường cung này cắt đường cầu D tại điểm cân bằng Eo tức là chỉ tại
điểm này thì giá (Po) sẽ trả một mức sao cho số lượng giấy mà người ta muốn mua thì
vừa bằng với số lượng mà xí nghiệp muốn bán (Qo).
Bây giờ giả sử xí nghiệp phải trả một mức thuế ô nhiễm t* cho mỗi hộp giấy
sản xuất và bán ra. Thuế này làm tăng chi phí sản xuất giấy của xí nghiệp một lượng
t*, tức là xí nghiệp sẽ chỉ cung ứng cùng số lượng Qo nếu họ có được một giá bán mới
cao hơn giá cũ (mức giá mới này là Po+t*). Đường cung dịch chuyển sang S1 nơi mà
số lượng cung Qo tương đương với giá Po+t*, tức là đường cung mới S1 là khoảng cách
thẳng đứng t* nằm trên đường cung cũ So.
Phản ứng đầu tiên của xí nghiệp có khả năng là cố gắng và duy trì sản lượng và
lợi ích hiện có bằng cách thử chuyển thế này cho những người tiêu thụ với hình thức
giá bán sản phẩm cao hơn tức là tăng giá từ Po lên Po+t*, trong khi vẫn cung ứng số
lượng Qo (di chuyển từ điểm Eo sang điểm E*). Tuy nhiên, như đường cầu cho thấy, vì
xí nghiệp tăng giá cho nên người ta mua giấy ít hơn. Nếu xí nghiệp tăng giá bán bằng
đúng số tiền thuế lên Po+t* thì sẽ tạo ra một mức giảm trầm trọng về số lượng hàng mà
người tiêu dùng sẽ mua. Một khi thuế buộc xí nghiệp phải dịch chuyển đường cung
sang S1 thì điểm cân bằng duy nhất nơi mà cung bằng cầu sẽ là điểm E1, ở đó giá bán
là P1và kết quả là số lượng sản xuất bán ra giảm từ Qo xuống Q1.
Những sự thay đổi này có ảnh hưởng gì tới những người tiêu dùng (là những
người mua giấy) và những người sản xuất? Trước hết chúng ta xem xét về phía người
sản xuất; mặc dù giá sản phẩm đã tăng lên từ Po đến P1, bây giờ họ phải trả một khoản
thuế t* cho mỗi đơn vị bán ra vì vậy họ thực sự chỉ nhận được giá P1 –t*. Vì vây, giá
này ở dưới giá Po trước đây, kết quả là thu nhập biên tế mà họ nhận được ít đi trên mỗi
đơn vị hộp giấy bởi sự khác biệt giữa Po và P1 –t*. Sự khác biệt này biểu hiện một
phần thuế của khoản thuế ô nhiễm t* mà các nhà sản xuất trả cho mỗi đơn vị bán ra.
127
Hơn nữa sự gia tăng về giá cả tại cửa hàng (Po lên P1) đã làm giảm số lượng bán từ Qo
xuống Q1 cho nên nhà sản xuất cũng bị mất thu nhập vì doanh số bán thấp hơn.
Bởi vì sự áp dụng của thuế ô nhiễm dẫn đến sự gia tăng về giá cả từ Po
lên P1 mà người tiêu thụ trả nên người tiêu thụ trả phần P1 - Po của khoản thuế
t*. Sự tăng giá này cũng dẫn đến việc giảm về số lượng mua của người tiêu
dùng từ Qo đến Q1. Sự gia tăng về giá sẽ và giảm về tiêu thụ gây ra một khoản
tổn thất phúc lợi cho người tiêu dùng mặc dù khoản tổn thất này ít hơn chi phí
tác hại của ô nhiễm tránh được bằng cách áp dụng thuế, tức là người tiêu thụ có
thể thêm được một khoản phúc lợi ròng do việc áp dụng thuế ô nhiễm (xem
khung 12.1).
Đối với bất kỳ loại thuế nào, tỷ lệ người mà người tiêu thụ trả so với phần
người sản xuất sẽ phụ thuộc vào hình dạng của đường cung và đường cầu hàng hóa
trên. Trong hình (a) của khung 12.4, tỷ lệ giữa người tiêu thụ và sản xuất gần bằng
nhau. Tuy nhiên trong hình (b) - minh họa thuế ô nhiễm áp dụng cho việc mua xăng
dầu. Ở đây, đường cung được vẽ như trước nhưng đường cầu thì dốc hơn, cho nên nếu
giá cả tăng mạnh thì người tiêu thụ cũng chỉ giảm một lượng rất ít (điều này được gọi
là đường cầu không co dãn vì không có một loại hàng hóa nào có thể thay thế xăng
dầu). Giả sử rằng một loại thuế Carbon t* được áp dụng cho xăng dầu làm dịch chuyển
đường cung từ So sang S1. Ở đây giá bán mà người tiêu thụ phải trả tăng mạnh từ Po
lên P1 trong khi thu nhập mà các nàh sản xuất nhận được chỉ giảm từ Po xuống P1-t*.
Vậy trong trường hợp cầu không co dãn thì người tiêu thụ hầu như phải trả phần lớn
bất cứ thuế ô nhiễm nào.
Hình (c) mô tả trường hợp của bột giặt có chất phốt phát. Giả sử một loại thuế ô
nhiễm được áp dụng đối với các loại bột giặt có chứa chất phốt phát. Vì có nhiều loại
bột giặt khác nhau cho nên người tiêu thụ có thể chuyển sang sử dụng các loại bột giặt
khác không có chất phốt phát mà vẫn có cùng chức năng tẩy sạch quần áo. Khả năng
có những sản phẩm thay thế khác nhau làm cho làm cho đường cầu có hình dáng
tương đối phẳng cho thấy nếu giá tăng thì người tiêu thụ sẽ cắt giảm mạnh tiêu dùng
loại bột giặt này. Trong trường hợp này, các nhà sản xuất khó có khả năng đẩy phần
thuế sang người tiêu thụ dưới dạng tăng giá bán và phải chịu trả phần lớn số tiền thuế.
Vì thế, giá người sản xuất nhận được giảm từ Po xuống P1-t*. Trong tất cả các hình (a),
128
(b) và (c) sử dụng các đường cung giống nhau cho thấy tác động của các đường cầu
khác nhau. Tuy nhiên, những thay đổi tương tự trong việc chịu thuế ô nhiễm (ai trả
thuế) có thể suy ra bằng cách thay đổi độ dốc của các đường cung (có thể kiểm chứng
điều này bằng cách giữ nguyên đường cầu không thay đổi và thay đổi độ dốc các
đường cung).
Chúng ta đã xem xét sự công bằng của việc buộc các nhà sản xuất phải trả thuế
ô nhiễm nhưng điều này có công bằng không khi người tiêu thụ cũng thường xuyên bị
buộc phải trả giá cao hơn do kết quả của việc áp dụng một loại thuế như vậy? Về
nguyên tắc câu trả lời phải là “có”. Để đơn giản hóa một chút, các nhà sản xuất chỉ sản
xuất loại hàng hóa mà người tiêu thụ yêu cầu. Vì thế, người tiêu thụ có thể được xem
như ít ra có một phần trách nhiệm về ô nhiễm mà việc sản xuất đó gây ra. Một trong
những ưu điểm chủ yếu của thuế ô nhiễm là nó phát ra những tín hiệu đúng đắn cho cả
người tiêu thụ và người sản xuất. Bằng cách giảm bớt lợi ích của nhà sản xuất và tăng
giá cả của người tiêu thụ, thuế này cho cả 2 thấy chi phí của tác hại do ô nhiễm gây ra
của những sản phẩm này và thúc đẩy họ chuyển sang sản xuất và tiêu thụ những sản
phẩm ít ô nhiễm hơn.
129
(Pi - t* ; Po): Phần thuế ô nhiễm do người sản xuất trả (Po ; Pi): Phần thuế ô nhiễm do người tiêu thụ trả
a
Si
Pi
Số lượng (Hộ giấy sản xuất) Qi
O
A
E1 E*
Eo
Giá
Khung 12.4 Ai trả cho khoản thuế ô nhiễm
Po + t*
Qo
So
Hình (a)
t*
t*
D (giấy)
Po Pi - t*
Hình (b)
P1 - t* Po
P1
Eo
E1 t*
S1
S1
D (xăng dầu)
Số lượng xăng dầu
Q1 Qo
Giá xăng dầu
130
Tuy nhiên, những người chỉ trích lý luận rằng tác dụng của giá bán lẻ cho người
tiêu thụ cao hơn sẽ là sự trừng phạt đối với người nghèo nhiều hơn là đối với người
giàu. Những loại thuế như vậy được gọi là thuế không tiến bộ về phân phối thu nhập vì
người giàu sẽ dễ dàng trả khi tăng so với người nghèo. Khung 12.5 trình bày việc đưa
vào một khoản thuế giá trị gia tăng (VAT) giả định 15% đối với nhiên liệu nội địa (áp
dụng để cắt giảm các khí thải gây hiệu ứng nhà kính như CO2) sẽ tác động mạnh mẽ
như thế nào đến các thành phần nghèo nhất trong xã hội. Cột 1 chia nước Anh ra làm
10 nhóm bằng nhau từ 10% thấp nhất đến 10% có thu nhập cao nhất. Cột 2 trình bày
phần trăm mà mỗi nhóm thay đổi mức tiêu thụ nhiên liệu của mình khi thuế ô nhiễm
được áp dụng, Như dự kiến, nhóm thu nhập càng thấp thì họ càng giảm tiêu thụ nhiên
liệu, điều này tự bản thân nó là không tiến bộ bởi vì những nhà nghèo nhất cũng là
những nhà thiếu nhiên liệu để sưởi nhất. Cột 3 trình bày một gia đình trung bình trong
mỗi nhóm thu nhập sẽ gia tăng chi tiêu cho nhiên liệu hàng tuần của họ khi có thuế ô
nhiễm. Vì những nhà nghèo đã tiêu thụ ít nhiên liệu hơn những nhà giàu nên những
nhóm thu nhập càng nghèo thì lại trả ít phần thuế tăng thêm. Tuy nhiên, khi chúng ta
tính đến thu nhập thấp hơn của những nhóm này chúng ta sẽ thấy ở cột 4 những nhà
càng nghèo sẽ trả một tỷ lệ cao hơn của tổng chi tiêu của họ cho thuế (1,8%) hơn là
So
Hình (c)
P1 - t*
Po
P1
Eo E1
t*
S1
D (bột giặt)
Số lượng bột giặt
Q1 Qo
Giá bột giặt
131
những nhà giàu (0,4%). Điều này cho ta một chứng cớ quan trọng là thuế ô nhiễm có
tiềm năng không tiến bộ, có hại cho các thành viên yếu kém về mặt tài chính trong xã
hội.
Khung 12.5 Tác dụng không tiến bộ của thuế Carbon
(1)
Phân bố (nhóm
10%) của tổng thu
nhập
(2)
Thay đổi trong tiêu
thụ nhiên liệu (%)
(3)
Thay đổi của thuế
trả theo tuần (bảng
Anh)
(4)
Thay đổi của thuế
trả theo một tỷ lệ
phần trăm của tổng
chi tiêu
Nghèo nhất -9,6 1,08 1,8
2 -9,5 1,36 1,5
3 -8,3 1,41 1,2
4 -6,8 1,49 0,9
5 -4,8 1,49 0,7
6 -4,1 1,44 0,7
7 -3,4 1,57 0,6
8 -1,9 1,59 0,5
9 -0,1 1,69 0,5
Giàu nhất +1,1 2,05 0,4
Trung bình -4,1 1,52 0,7 a Thuế được giả định là 15% thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với nhiên liệu nội địa, tác
động được trình bày trên đây đối với các nhóm thu nhập xếp hạng từ nhóm 10% thấp
nhất đến nhóm 10% cai nhất của dân số. b Điều này giả định rằng tất cả các điều chỉnh tiếp theo đối với sự áp dụng thuế này là
hoàn toàn do những người tiêu thụ thực hiện, ví dụ tái xếp thứ tự ưu tiên của các khoản
chi tiêu.
Nguồn: Johnson và các cộng sự (1990) được in lại trong Pearce (1991).
Trong khi thuế ô nhiễm có tiềm năng tạo ra sự phân phối không công bằng,
nhưng lại có lý do đúng để tin rằng vấn đề này có thể khắc phục. Điều này là ví số tiền
tăng thêm thông qua áp dụng thuế không bị mất đi nhưng lại về tay chính quyền. Xem
132
trở lại hình (a) của khung 12.4 chúng ta có thể thấy rằng chính quyền nhận tổng số
thuế bằng với tiền thuế trên đơn vị t* nhân với số đơn vị được sản xuất và bán có cộng
thuế Q1. Đổi lại chính quyền phải đền bù cho trạng thái thụt lùi không mong muốn của
thuế bằng cách trả tiền lại cho những người bị tác động xấu nhất. Một sự tái phân phối
cho người tiêu thụ như vậy có thể thực hiện hoặc dưới hình thức gia tăng mức thu
nhập được miễn thuế hoặc thông qua việc giảm thuế đối với những hàng hóa căn bản
khác ( cả 2 biện pháp này đều sẽ là những sự trợ giúp lớn đối với đối với người nghèo
hơn là người giàu).
Một nghiên cứu ở Anh (Barker và Lewney, 1990) cho thấy thu nhập đạt được
bằng cách đánh thuế đối với chất thải nhiên liệu có thể giúp bù lại phần cắt giảm đáng
kể trong tỷ lệ thuế giá trị gia tăng hiện hành. Loại hình tái phân phối thuế này cũng có
thể áp dụng cho các xí nghiệp bị ảnh hưởng bởi tác động của thuế ô nhiễm, ví dụ chính
quyền có thể dùng các quĩ thu được để cấp phát cho việc lắp đặt công nghệ ít ô nhiễm
hoặc có thể được dùng để giảm tỷ lệ thuế doanh nghiệp hiện hành, một biện pháp được
ưa chuộng và giúp đẩy mạnh hoạt động của các xí nghiệp ở Anh.
Thông qua sự tái phân phối của các quĩ thuế, thuế ô nhiễm vì vậy có thể làm
cho trung lập tài chính, đó là, không có tác động ròng đối với thu nhập thuế trong khi
vẫn thúc đẩy cho cả tiêu thụ người sản xuất chuyển hướng đến những sản phẩm ít ô
nhiễm. Một loại thuế ô nhiễm cũng có những phần lợi ích thêm là, trong khi hầu hết
các thứ thuế (thuế thu nhập, thuế đầu tư,…) làm biến dạng nền kinh tế qua việc làm
giảm những họat động thực chất là tốt (như kiếm tiền, đầu tư,…) thuế ô nhiễm cố gắng
sữa chữa thất bại của thị trường bằng việc ngăn chặn một cái gì đó thật sự là “xấu” tức
là ô nhiễm.
Sức mạnh của thuế ô nhiễm
Thuế ô nhiễm sẽ có hiệu quả như thế nào trong việc làm giảm mức độ phát thải
hoặc đúng hơn là, thuế phải được xác lập cao như thế nào để trở thành có hiệu quả?
Như chúng ta đã chỉ ra ở khung 12.4 câu trả lời của câu hỏi này phụ thuộc vào hình
dạng tương đối (độ co dãn) của các đường cung và cầu có liên quan. Nếu cầu của sản
phẩm là rất co dãn đối với giá và người tiêu thụ có thể dễ dàng chuyển sang mua
những sản phẩm thay thế phù hợp thì việc áp dụng thuế ô nhiễm là có hiệu quả. Các ví
133
dụ về những trường hợp như vậy có thể bao gồm chất nước tẩy rửa trong nhà nhà sản
xuất trong nước có chất kẽm và vì vậy gây ô nhiễm nước. Vì có nhiều loại sản phẩm
tẩy rửa không có chất kẽ được sản xuất cho nên thuế ô nhiễm làm tăng giá của sản
phẩm thì người tiêu thụ sẽ chuyển sang mua các sản phẩm khác không có ô nhiễm.
Hiệu quả của thuế ô nhiễm có thể sẽ thấp hơn nhiều khi cầu không co dãn đối
với những thay đổi của giá cả và/hoặc có ít các sản phẩm thay thế thích hợp. Cho đến
cách đây 10 năm thì ví dụ về xăng dầu được nêu ra ở trên lẽ ra vẫn còn thích hợp ở
đây. Tuy nhiên, công nghệ mới và các sản phẩm mới được đưa ra như xăng dầu không
có kim loại chì tạo cơ hội cho thuế ô nhiễm hoạt động hiệu quả trong trường hợp này
(Opschoor,1991). Nhưng trong trường hợp không có những sản phẩm thay thế thích
hợp, sức mạnh của thuế để giảm ô nhiễm có thê bị giới hạn viẹc người tiêu thụ sẵn
sàng tiếp tục mua số lượng lớn các sản phẩm liên quan ngay cả trong trường hợp giá
cả cao hơn. Các loại thuế carbon đối với nhiên liệu có thể phải đương đầu đối với
những vấn đề như vậy và Barrett (1991) kết luận bài tóm lược của ông bằng cách nêu
ra rằng “để giảm bớt một cách đáng kể sự phát thải CO2 thì cần phải có một loại thuế
carbon cao – chắc chắn là cao hơn các loại thuế đã được thực hiện hoặc đang có những
đề xuất mạnh”.
Những vấn đề quốc tế
Trước khi kết luận chúng ta cần phải nhấn mạnh cái mà các nhà phê bình coi
như một trong những nhược điểm chủ yếu trong việc áp dụng thuế ô nhiễm, ý nghĩa
đối với một quốc gia riêng lẻ nào đó đã đơn phương áp dụng những loại thuế như vậy
đối với nền kinh tế của mình. Nếu một quốc gia đặt ra thuế ô nhiễm đối với ngành
công nghiệp của mình thì những ngành này sẽ bị đặt vào thế bất lợi so với những nhà
sản xuất nước ngoài, cho nên hàng hóa sản xuất trong nước có thể trở thành ít hấp dẫn
đối với người tiêu dùng so với hàng nhập khẩu. Điều này có nghĩa là, ví dụ một loại
thuế carbon có thể “được đưa vào áp dụng trên một qui mô rộng lớn nếu nó được
nhiều quốc gia cùng đưa vào thực hiện” (Pearce, 1991).
Một hành động hòa điệu như vậy sẽ đòi hỏi một hình thức hiệp ước hay
thỏa ước quốc tế nào đó. Tuy nhiên, một lần nữa ở đây lại có những vấn đề. Trước hết,
bất cứ một quốc gia nào cũng muốn thấy tất cả các nước khác, ngoại trừ quốc gia đó
134
ký kết một thỏa ước như vậy. Theo cách này, nó thu lợi từ việc giảm sự phát thải trên
toàn cầu mà nó không phải chịu gánh nặng của việc gia tăng chi phí sản xuất, nhờ vậy
mà nó có được một lợi thế cạnh tranh đối với tất cả các quốc gia bên ngoài mà những
xí nghiệp của họ bây giờ phải trả thuế ô nhiễm. Hậu quả “ăn chùa” này là một động cơ
rất mạnh chống lại những thỏa ước như vậy. Vấn đề thứ 2 là nguyên tắc ngay cả khi
đạt được một thỏa ước như vậy, trong thực tế hiệp ước này sẽ không bình thường ở
chỗ để đảm bảo công bằng, thay vì tất cả các nước tuân theo một luật chung thì luật
của mỗi quốc gia sẽ phải khác nhau. Điều này là vì mỗi quốc gia gây ra một lượng tác
hại khác nhau căn cứ vào qui mô công nghệ của nền kinh tế đó. Hơn nữa, vì những sự
khác biệt về mức độ công nghệ giữa các quốc gia, mỗi nước cũng sẽ đối diện với một
chi phí làm giảm ô nhiễm khác nhau trong quá trình đạt đến các mục tiêu làm giảm ô
nhiêmc riêng biệt. Vì vậy, sẽ rất khó khăn để làm cho tất cả các quốc gia đồng ý với
nhau về một mức thuế ô nhiễm chung trên từng đơn vị phát thải.
Một vấn đề phứ tạp hơn mang tính quốc tế phát sinh do có những quốc gia dứt
khoát không chịu ký vào hiệp ước thuế ô nhiễm quốc tế như vây. Giả sử một lần nữa
chúng ta xem xét thuế carbon đánh vào giá nhiên liệu. Nếu một hiệp ước về thếu
carbon được ký kết thì điều này sẽ có tác dụng làm giảm nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu ở
các quốc gia tham gia ký kết hiệp ước. Nhu cầu nhiên liệu thế giới giảm này sẽ làm
cho các quốc gia xuất khẩu dầu hỏa giảm gía bán của họ để bảo vệ mức lợi ích đang
sụt giảm. Tuy nhiên, sự sút giảm này sẽ có 2 tác động; một là làm triệt tiêu một số
những tác dụng của thuế trong các quốc gia ký kết hiệp ước cho nên sự giảm sút về
cầu sẽ phần nào được bù lại; hai là các quốc gia không tham gia ký kết sẽ được lợi ích
khi mở rộng nhu cầu đối với nhiên liệu rẻ hơn này. Vì thế những tác động ròng của
một hiệp ước thuế carbon như vậy, xét về mặt giảm phát thải có thể là nhỏ hơn nhiều
so với những gì mà chúng ta có thể mong đợi lúc ban đầu (Barrett, 1991).
Kết luận
Về lý thuyết, thuế ô nhiễm dọn một con đường quan trọng cho việc nội hóa các
chi phí tác hại do ô nhiễm bên ngoài gây ra bởi các công ty và hạn chế sự phát thải ô
nhiễm của họ ở một mức tối ưu bền vững. Thuế ô nhiễm cũng có nhiều tác dụng phụ
tốt ở chỗ nó cũng có thể phát ra những tín hiệu cho người tiêu thụ liên quan đến những
135
hậu quả ô nhiễm của những hàng hóa họ đã mua sắm. Hơn nữa những tác động thụt lùi
của các loại thuế này đối với những bộ phận nghèo đối trọng xã hội có thể được đền bù
một cách thỏa đáng nhờ một hệ thống tái phân phối thuế. Vì những yếu tố này, thuế
đáng được xem như là một công cụ khuyến khích kinh tế cho việc giảm ô nhiễm. Tuy
nhiên trong thực tế có một số vấn đề quan trọng cần phải lưu ý đến. Xác định chính
xác một mức thuế ô nhiễm thích hợp phụ thuộc vào những thông tin chính xác liên
quan đến chi phí tác hại của sự ô nhiễm đó và những lợi ích của việc sản xuất hàng hóa
đi kèm với ô nhiễm đó. Hơn nữa để cho thuế ô nhiễm có thể được chấp nhận thực hiện
ở qui mô rộng lớn, một mức độ thỏa thuận quốc tế trước đây chưa được biết đến thì
giờ đây được xem ra là cần thiêt. Tính khả thi của một thỏa ước như vậy vẫn còn là
một điều kiện không chắc chắn.
136
CHƯƠNG 13
MUA BÁN GIẤY PHÉP MÔI TRƯỜNG
Phần giới thiệu
Giấy phép mua bán được hay được quyền chuyển nhuợng lad ví duk về những
công cụthị trường để kiểm soát ô nhiểm môi trường và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Như chương 10 đã cho thấy,phương pháp công cụ thị trường(MBI_market based
instrument)cuae chính sách môi trường bằng cách điều chính những tín hiệu thị trường
nhằm tạo ra hành vi thân thiện hơn đối với môi trường. phương pháp MBI xem những
quy định trước nay dựa vào “mệnh lệnh và kiểm sóat” là rất quan liêu và không hiệu
quả.
Ý nghĩa cơ bản trong giấy phép được quyền chuyển nhượng rất đơn giản. đầu
tiên,một mức độ ô nhiễm có thể chấp nhận được xác định. Nó có thể được thể hiện qua
một nồng độ cho phép nào đó,ví dụ như chì triong xăng,một mục tiêu sản xuất hay tiêu
thụ hóa chất(ví dụ CFCs),hay môt mức độ phát thải cho phép trong toàn quốc như đối
với cảbonic mà chắc chản sẻ áp dụng trong tương lai. Giấy phép sẻ đựoc cấp ở mức độ
phát thải ..v.v.cho tới mức chấp nhận được. giả sử100 đơn vị ô nhiễm được cho
phép,thì sẻ cấp 100 giấy phép mỗi đơn vị giấy phép có giá trị một đơn vị ô nhiễm. có
nhiều cách để quy định cách cẩp phất ban đầu của giấy phép. Bởi vậy thay đổi cách
phân phối giấy phép có thể dẩn đến rối loạn sản xuất,một cách phân phối ban đầu khá
phố biến là dựa trên mức độ thải chất ô nhiễm từ trứơc đến nay. Cách này thừa nhận
quyền gây ô nhiễm căn cứ theo mức độ thải chất ô nhiễm trong quá khứ. Tuy rằng
trong đó không phải là cách duy nhất để xác định phân bố giấy phép lúc ban đầu,kinh
nghiệm từ trứơc tới nay đối với giấy phép được chuyển nhượng cho thấy việc tìm kiếm
một công thức chấp nhận được cho việc phân phối ban đầu là rất quan trọng,và cách
cho thừa kế quyền gây ô nhiễm quá khứ có vẻ được mọi bên liên quan chấp nhận. rỏ
ràng là thừa kế quyền gây ô nhiễm không đóng góp gìcho việc làm giảm mức ô nhiễm
hay sử dụng hay lãng phí tài nguyên trù phi(a)phan phối ban đầu thấp hơn số lượng
của giấy phép họ có thì họ nhận được môt khoản tín dụng. thí dụ người gây ô nhiễm A
được phép thải ra 10 đơn vị ô nhiễm, nhưng họ chị thải ra 8. khoản dư 2 có thể được
137
mua bán. Điều này có lợi cho người gây ô nhiễm A nếu việc giảm ô nhiễm rẻ hơn việc
bán giấy phépcho 2 đơn vị đó. Về phương diện kỉ thuật,nên bán giấy phép nếu chỉ xử
lí ô nhiễm biên tế thấp hơn giá trị hiện tại của giấy phép,và nên mua nếu chi phí này
cao hơn chi phí giấy phép
Một khi có được mức phân phối ban đầu thì người gây ô nhiễm đươc tự do mua
bán quyền ô nhiễm. chính khả năng mua bán được này là một bảo đảm phẩm chất cho
hệ thống vì chính đặc tính khả năng mua bán mua bán này giải thích cho sự hấp dẫn
của hệ thống-vai trò của nó trong việc làm giảm các chi phí tuân theo quy định. Về cơ
bản,nột xí nghiệp khác thấy xử lí ô nhiễm là tốn kém. Chủ yếu là nó sẽ bán giấy nếu
nhận được giá cao hơn chi phí mà nó phải tốn để làm giảm ô nhiễm nếu không có giấy
phép. Mặt khác xí nghiệp gây o nhiễm mà tốn chi phí cao để làm giảm ô nhiễm sẽ
thấy có lợi trong việc mua giấy phép nếu giá thấp hơn chi phí đó. Vì thế cả bên tốn chi
phí thấp và bên tốn chi phí cao để làm giảm ô nhiễm đều thấy có lợi và điều này
khuyến khích họ mua bán giấy phép. Ngào ra,việc mua bán giấy phép có xu hứong
tập trung vào những người gây o nhiễm mà thấy rẻ trong việc tự hạn chế ô nhiễm.
việc giữ giấy phép để sử dụng có xu hướng tập trung vào những xí nghiệp thấy việc tự
hạn chế ô nhiễm là quá tổn kém. Tuy nhiên tiêu chuẩn về môi trường tổng thể thì an
toàn bởi vì không có gì thay đổi về số lượng giấy phép toàn thể và các giấy phép này
xác định mức độ ô nhiễm.
Rõ ràng trình bày như thế thì rất đơn giản,nhưng nó chỉ nói lên điều cốt lõi của
hệ thống giấy phép được chuỷên nhượng. một điểm quan trọng cần chú ý là việc
chuyển nhượng không nhất thiết là giữa các người gây ô nhiễm khác nhau(chuyển
nhượng bên ngoài). Nó có thể xảy ra giữa các nguồn thải ô nhiễm khác nhau trong
cùng một xí nghiệp(chuyễn nhượng bên trong). Tuy nhiên,kết quả là như nhau bởi xí
nghiệp sẽ không có lợi do tập trung làm giảm những nguồn ô nhiễm có chi phí thấp và
tập trung giấy phép cho những nguồn có chi phí cao. Khung 13.1 đưa số liệu ví dụ về
giấy phép chuyển nhượng hoạt động như thế nào.
138
Khung 13.1 –Giấy phép được chuyển nhượng hoạt động như thế nào?
Ta hãy hình dung có hai xí nghiệp A và B thải sulphur oxide vào khí
quyển. mỗi xí nghiệp có chi phí kiểm soát viẹc thải khí khác nhau:chi phí để kiểm
soát khí thải ở xí nghiêp A là 20 bảng anh/tấn,và ở xí nghiệp B là 30 bảng anh
/tấn. những chi phí biên tế này được biểu diễn bằng độ cao của hai khối trên hình
vẽ. giả sử toàn bộ khí thải của mỗi xí nghiệp là 5 tấn. bây giờ giả sử rằng chính
quyền dùng giải pháp ra lệnh và kiểm soát yêu cầu mỗi xí nghiệp giảm lượng thải
một tấn,giảm tổng cộng hai xí nghiệp là hai tấn. chi phí cho A là 20 bảng,cho B là
30 bảng,do đó tổng chi phí thực hiện là 50 bảng. lượng thải bây giờ là 10 tấn trừ đi
phần giảm-nghĩa là 8 tấn.
Thay vì dùng phương pháp CAC, chính quyền cấp giấy phép cho 8 tấn khí thải
sulphur oxide. A và B cùng là những người gây ô nhiễm”bình đẳng”bởi vì mỗi xí
nghiêp thải ra 5 tấn khí ô nhiễm. do đó,chính phủ quyết định phân phối 8 tấn đều
cho cả A và B:mỗi xí nghiệp được giấy phép cho 4 tấn sulphur oxide (giải pháp
thừa kế -xem bài chính). Nhưng chính quyền cho phép mua bán. Điều này có
nghiã là giấy phép phải có giá trị thị trường bởi vì chúng có thể mua và bán. Giả
sử giá thị trường là 24 bảng/tấn sulphur oxide như được trình bày trong hình (a).
139
Hình (a) –thiết lập giấy phép ô nhiễm
A có thể giảm 1 tấn sulphur với chi phí 20 bảng. vì thế A sẽ có lợi do hạn chế
khí thái thấp hơn mức cho phép. Mặc dù A chỉ cần giảm một tấn(từ 5 xuống 4)nó thu
lợi do giảm nhiều hơn số này,thí dụ xuống còn 3 tấn. nó sẽ tạo ra khoản dư 1 tấn có
thwr đem bán cho B .B sẽ rất vui mừng mua giấy phép này vì giúp B khỏi cắt giảm khi
thải. kết quả cuối cùng là A cắt giảm 2 tấn và B không cắt chút naò cả. đó chính là cái
chính quyền mong muốn-lựong cất giảm tổng cộng 2 tấn. vì thể mức chất lượng moi
Bảng 1 – Lợi ích của việc mua bán giấy phép
Xi nghiệp A Xí nghiệp B
Tổng chi phí để cắt giảm 1 tấn khỉ thải:
không chuyển nhượng 20 30
Chí phí kiểm soát ô nhiễm thực tế
do chuyển nhượng 40 0
Trừ khoản bán giấy phép 24 0
Cộng khoản mua giấy phép 0 24
Chi phí ròng qua mua bán 16 24
Thu lợi qua mua bán 20- 16=4 30-24=6
Lưu ý khoản lợi mua bán 4+6=10,là khoản chênh lệch giữa các chi
phí biên tế
140
trường vãn tốt như phương pháp CAC. Tuy nhiên, thú vị thay ,cả A và B đều có lợi
qua việc mua bán giấy phép. Các số liệu được trình bày ở bảng 1
Việc mua bán giấy phép trong thự tế :kinh nghiệm của Hoa kỳ
Chúng ta sẽ hi vọng rằnkinh nghiệm thực tế của việc mua bán giấy phép sẽ
không làm giảm tiêu chuẩn môi trường và giảm chi phí do giảm do tuân thủ những quy
định về ô nhiễm khi so sánh với chi phí phải tốn trong hệ thống “mệnh lệnh và kiểm
soát”(CAC). Nói chung đó là kinh nghiệm của hoa kỳ nơi mà hệ thống giấy phép
chuyển nhượng tồn tại như môt phần của Đạo Luật Không Khí Sạch của Hoa Kỳ vào
những năm 1970,và được mở rộng trong Đạo Luật Không Khí Sạch mới năm 1991
Chúng ta cần biêt vài thuật ngữ để hiểu hệ thống của Hoa kỳ. N ối mạng nội
bộ(netting)được giới thiệu năm1974,là phương thức mà xí nghiệp tại ra nguồn thải
mới miễn là nó bù lại việc thải ô nhiễm này bằng ccách cắt giảm chổ nào đó trong
cùng xí nghiệp. nối mạng lưới ô nhiễm luôn luôn liên quan đến việc chuyển nhượng
nội bộ,nghĩa là xí nghiệp không được phép mua giấy phép từ bên ngoài. Bù trừ khu
vực được giới thiệu năm 1976 ở những vùng klhông đạt tiêu chuãn của đạo luật không
khí sạch(vùng không đạt). những quy định nghiêm ngặt được áp dụngcho các nguồn
thải mới khiwns những vung mới này có thể thu hút rất it hay thậm chí không thu hut
nghành công nghiệp mới. tuy nhiên do việc bù trừ nguôn thải mớibằng cách giảm
nhiều hơn các nguồn thải hại tại,các vùng này được phép có nghành công nghiệp mới.
việc bù trừ này có thể thực hiện bằng cách chuyển nhượng nội bộ hay chuyển nhượng
bên nghoài,nghĩa la mua giáy phép trong cùng một xí nghiệp hay từ xí nghiệp khác.
Những giây hụi ô nhiễm (bubbles)có lẽ là phần nối tiếng nhất trong hệ thống giấy phép
được chuyển nhượng ở Hoa Kỳ . chúng được giới thiệu năm 1979. một dây hụi ô
nhiễm là một tổng giới hạn giả định đối với các nguồn ô nhiễm hiện tại(trong khi nối
mạn nội bộvà bù trừ khu vực liên quan đến các nguồn thải mới). trong phạm vi tổng
giới hạn tổng giây hụi ô nhiễm ,xí nghiệp được tự do thay đổi các nguồn ô nhiễm
miễm là không vượt qua giới hạn. dây hụi ô nhiễm được phép vượt qua phạm vi của
một xí nghiệp,nhưng trong thực tế nó có xu hướng áp dụng ở những xí nghiệp riêng lẻ.
Ngân hàng ô nhiễm(banking)được giới thiệu năm 1979 và hoạt động giống như dây
141
hụi ô nhiễm nhưng theo thời gian,nghĩa là xí nghiệp được mở tín dụng ô nhiễm và sử
dụng chúng ở giai đoạn nào đó trong tương lai.
Khung 13.2 Tổng kết kinh nghiệm của Hoa Kỳ và trình bày những tác động lên
tiết kiệm chi phí và chất lưọng môi trường. khung 13.2 cho biết những điểm sau đây;
1. Gần như tất cả việc chuyển nhượng là nội bộ. chỉ có hệ thống bù trừ khu vực là
dẫn đến mua bán với bên ngoài trong chừng mực nào đó. Trong khi hệ thống
dây hụi cho phép mua bán với bên ngoài,vẫn hiếm có trường hợp xảy ra. Điều
này xem ra là do tốn chi phí cao để nắm thông tin về giá sẵn lòng bán của xí
nghiệp khác,và các chi phí để dược chính quyền chấp thuận việc mua bán
2. khoản chi phi tiết kiệm là rất đáng kể,ít nhất là 1 tỷ đôla và có thể lên đến 13 tỷ.
3. phương pháp ngân hàng ô nhiễm hiếm khi được sử dụng
4. việc sử dụng rộng rãi nội bộ,đã gây ngac nhiên bỡi dây hụi ô nhiễm áp dụng
cho các nguồn ô nhiễm hiện tại trong khi nối mạng nội bộ chỉ áp dụng cho các
nguồn mới hoặc nguồn được tải tạo.
Khung 13.2 kinh nghiệm của Hoa Kỳ với giấy phép có thể mua bán
Dây hụi bù trừ lập mạng.
Ngân hàng
Liên bang. Tiểu bang
Số lượng mua bán 42 89 2000 5000-12000 <120
Tiíet kiệm chi phí 300 135 nhiều 525-12300 ít
(triệu đô la)
Tác động chất lượng
không khí 0 0 0 Không
đáng kể Không đáng kể
Bản chất của mua bán
Nội bộ 40 89 1800 5000-1200
<100
Bên ngoài 2 0 200 0 0 <20
Nguồn:R .Hahn and G.hester(1989),và R.hahn(1987)
142
Mức độ chuyển nhượng trong hệ thống giay phép ở Hoa Kỳ thấp hơn mức
mong muốn. Cho đến nay,giải thích cho việc này không phải dễ dàng. Những xí
nghiệp như Armco,Dupont,USX và 3M đã mua bán khoản tín dụng giấy phép ô
nhiễm,nhưng mặt khác việc áp dụng còn rất thấp. Các nhà bình luận đã đưa ra 5
nguyên do chính sau đây:
1. Các nguồn mới phải chịu những quy định nghiêm ngặt hơn về chất lượng khỉ
thải. điều này có nghĩa là các xí nghiệp rất muốn chấp nhận bất kì phương án bù
trừ nào khi nguồn thải mới bắt đầu hoạt động. nối mạng nội bộ là phương án
thích hợp nhất trongnhững trường hợpnhư thế và nó giải thích cho việc chiếm
vị trí phổ biến của nối mạng nội bộ trong hệ thông chuyển nhương giấy phép ô
nhiễm của Hoa Kỳ. Ngoài ra các nguồn thải hiện nay đã thừa hướng được
những thiết bị làm ô nhiễm được mua sắm trước khi chính sách dây hụi ô nhiễm
bắt đầu được áp dụng năm 1979,do đó những điều chỉnh theo chính sách mơi sẽ
tốn kém hơn
2. sự không chắc chắn về khoản tin dụng gây ô nhiễm.Có nhiều điều còn mơ hồ về
giá trị của các tín dụng ô nhiễm dưới luật lệ về ngân hàng ô nhiễm.Các xi
nghiệp không luôn luôn chắc chắn về cách chính quyền xác định mức khí thải
cơ bản và khoản tín dụng ô nhiễm.Điều mơ hồ này cao nhất khi khoản tỉn dụng
ô nhiễm của xi nghiệp khác được đem ra mua bán(tức khi liên quan đến sự việc
mua bán bên ngoài).Xí nghiệp Aphải chắc chẳn rằng xí nghiệp B thực sự cắt
giảm chất thải để tạo ra khoản tín dụng ô nhiễm có thể chuyển nhượng
được.ngược lại,mua bán nội bộ chắc ăn hơn bỡi vì xí nghiệp chỉ giao dịch với
chính nó.
3. lấy thông tin về việc chuyển nhượng bên ngoài càng tốn kém hơn bởi vì xí
nghiệp A cần phải biết các xí nghiệp khác đã gửi tín dụng ô nhiẽm những gì,và
giá cả chuyển nhượng là bao nhiêu.Những khó khăn tương tự cũng phát sinh ở
các nước khác,nơi đang có những cố gắng để thành lập các dịch vụ trao đổi
thông tin về chất thải
4. Các xí nghiệp không chuyển nhượng cho xí nghiệp khác bỡi vì triển vọng giá
giấy phép gia tăng.Giấy phép sẽ được dầu cơ tích trữ cho tới khi mức tăng giá
mong muốn lớn hơn chi phí tích trữ,nghĩa là lơn hơn lãi suất
143
5. Giấy phép được tích trữ có thể dùng như một rào cản việc gia nhập cùng
nghành sản xuất của các xí nghiệp mới
Việc mua bán giấy phép là đặc điểm trung tâm của Đạo Luật Không Khí Sạch
gần đây hơn của Hoa Kỳ với nôi dung kiểm soát mưa axit.Những người đặt ra luât lệ ô
nhiễm cho rằng họ đã học tập từ kinh nghiệm của các hệ thống giấy phép chuyển
nhượng trứoc đây và hầu hết những trở ngại co thể tránh được trong hệ thống mới.
Các phản đối về giấy phép chuyển nhượng
Các phản đối đươch đưa ra bỡi các ”nhóm quyền lợi”khác nhau:các nhà
môi trường,giới công kỹ nghệ và chính quyền.
ở Hoa Kỳ,các phản đối của các nhà môi trường tập trung vào 2 vấn đề
chính:chất lượng môi trường có bị hi sinh hay không trong hệ thống giấy phép chuyển
nhuợng,và về mậtđọ đức có đúng hay không khi cho phép gây ô nhiễm ngay cả với
một giá nào đó. Khung 13.2 chứng tỏ rằng điều phản đối về chất lượng môi trường là
thiếu hoặc không có cơ sở. phản đố thứ 2 phải được đáp lại bằng quá trình tuyên
truyền giáo dục. Tất cả hệ thống luật lệ”cho phép”ô nhiễm nếu ô nhiễm có nghĩa là
chất thải.Không có quá trình kinh tế nào mà không gây ra chất thải.Vì thế vấn đề ở đây
là liệu hệ thống giấy phép chuyển nhượng có cho phép thải nhiều hơn hệ thống CAC
hay không.Và như chúng ta đã thấy,không có lí do gì cho việc đặt vấn đề này cả.Và
đáng kể là hiện nay nhiều tổ chức môi trường ở Hoa Kỳ giờ đây ủng hộ giấy phép
chuyển nhuợng.
Kinh nghiệm của Hoa Kỳ cho thấy sự chắc chắn về hệ thống luật lệ được đánh
giá cao. Với hệ thống CAC ,nhìn chung,xí nghiệp rất rõ về bản chất của luật lệ và về
cái gì cho phép và cái gì không cho phép. Điều này cũng đúng cho những hệ thống ít
cứng nhắc hơn,như hệ thống Anh trong đó có dành chỗ đáng kể cho những điều chỉnh
mềm dẻo hơn khi trao đổi với cơ quan kiểm soát ô nhiễm.Tuy nhiên,vì những chỉ thị
của EC đóng vai trò ngày càng quan trọng,có lẽ chúng ta mong muốn ngày càngnhiều
hơn nữa việc đặt ra tiêu chuẩn để thay thế cho hệ thống đàm phán đẻ thực hiện tiêu
chuẩn.
144
Chính quyền tất nhiên sẽ nhạy cảm với những mối quan tâm lo lắng của các nhà
môi trường cũng như các nhà kỹ nghệ. Tuy nhiên họ cũng xó những mối bận tâm của
riêng họ,chủ yếu phát sinh từ những chi phí của việc xem xét,tính toán và thực hiện bất
kỳ điều gì khác biệt với phương pháp CAC đã được thiết lập. cần ghi nhớ cach nghĩ
CAC đã ăn sâu vào quy định của môi trừơng của hầu hết các nước,nó phản ảnh kinh
nghiệm hơn 100 năm về luật lệ y tế công cộng,nơi làm việc và môi trường. Sự lo lắng
cũng có xu hướng gia tăng khi người ta không biểt nhiều về một hệ thống mới.
Chính quyền và giới công kỹ nghệ cũng có thể quan tâm về chi phí quản lí hành
chính có thể rất cao nếu có nhiều người gây ô nhiễm. Nơi đâu có tương đối ít,thì chi
phí hành chính sẽ thấp,nhưng có một vấn đề mới phát sinh là một hoặc hai cơ sở gây ô
nhiễm có thể ép thị trường giấy phép và không chịu bán chúng ra. Điều này tạo thành
rào cản đói với các xí nghiệp mới và do đó sẽ góp phần vào hành vi canh tranh.
Hạn ngạch đánh cá ở New Zealand
Giấy phép chuyển nhượng còn có thể được sử dụng để kiếm soát việc sử dụng
tài nguyên bừa bãi,như việc đánh bắt cá quả mức.Chương Trình Hạn Ngạch Chuyển
Nhượng Cá Nhân của New Zealand(ITQ) được áp dụng năm 1986. Australia cũng có
hệ thống ITQ chó cá ngừ xanh ở phía nam và đề xuất một hệ thống khác cho nghành
đánh cá ở phía Đông nam và Hoa Kỳ mới đây cũng đưa ra một hệ thống cho các
nghành đánh bẳt nghêu ở Atlantic. Trong hệ thống của New zealand,mức hạn nghạch
ban đầu được cấp theo số lượng đánh bắt trước nay(ngư dân được quyền thắc mắc về
thành tích đánh bắt ghi nhận trước nay của họ).Chính phủ sau đó mua lại một số hạn
nghạch với giá thị trường hiện hành,vì thế sẽ giảm được tổng lượng đánh bắtcho
phép(TAC).Sau đó,một mức cố định bằng 80%giá ban đầu được đề nghị đối với
những ngư dân còn lại. Cuối cùng ,nếu cần giảm thêm để đạt mức TAC thì số lượng
cần giảm này được chia theo tỷ lệ cho các ngư dân còn lại.Các ngư dân có thể bán lại
hạn nghạch cho các ngư dân New Zealand khác.Những ngư dân mới vào đánh bắt sẽ
được phân phối mức hạn nghạch tối thiểu. hạnh nghạch và và lượng đánh bắt thực tế
phải tương ứng với nhau vào cuối mỗi tháng.Các ngư dân cũng phải trả tiền tô cho
145
chỉnh phủ để có giấy phép hạn ghạch,và tiền này được tính gấp đôi nếu thêu tàu nước
ngoài để đánh bắt,Bỡi vì việc đánh bắt đãc được theo dõi,nên hệ thống ITQ tạo thêm
rất ít gánh nặng về mặt hành chính.
Hệ thống hạn nghạch đã hoạt động tổt,cho dù phải đối phó với những thay đổi
đáng kể vài số lượng TAC khi có thêm được thông tin tốt hơn.Chính quyền đã tránh
việc chi nhiều tiền cho việc mua lại hạn nghạch bằng cách làm cho hạn ngạch là một
phần tỷ lệ của TAC. Việc chuyển nhượng hạn nghạch được thuận tiện nhờ Thị
Trường Mua Bán Hạn Ngạch ,nơi có những người môi giới đóng vai trò trung gian.
Nhưng thực tế,hầu hết các cuộc mua bán đều diễn đều diễn ra một cách riêng tư,tất cả
việc mua bán được báo cáo cho các những người quản lí hạn ngạch. Vài điều kỳ lạ đã
phát sinh. Giá hạn ngạch quan sát được đôi khi có vẻ cao hơn nhiều so với giá trị của
lượng đánh bắt cho phép của chúng.và có sự chênh lệch đáng kể về giá hạn ngạch cho
cùng một lượng đánh bắtViệc phân tích cho thấy rằng những sự kiện này có thể đoán
trước được trong giai đoạn chuyển tiếp từ việc đánh bắt tự do sang chế độ quản
lý,nhưng việc thiếu thông tin và sự ổn định cố hữu ở thị trường thì vẫn tồn tại. Việc
nâng giá nhằm cản trở nhau có thể có thể xảy ra,ở đó các xí nghiệp sẽ nâng giá giá
hạn ngạch để cản trở sự tham gia của các ngư dân mới(một số vấn đề có thể xảy ra đối
với hệ thống giấy phép chuyển nhượng được). ván đề lớn khác là những tranh chấp về
những thay đổi của chỉnh phủ về tiền tô phải trả-và điều này được giải quyết bằng việc
thỏa thuận về những lệ phí cố định trong từng khoảng thời gian năm năm.
Khinh ngiệm New Zealand cho thấy:
a) Phân phối kể thừa là một hệ thống chấp nhận được về mặt chính trị, tiếp theo sau bằng
việc mua lại hay cắt giảm theo tỷ lệ. Nó rất thích hợp cho bất kỳ hệ thống kiểm soát
việc sử dụng tài nguyên nào ở Châu Âu.
b) Tiền tô cần được xác định từ đầu và duy trì để tạo sự yên tâm về hệ thống
c) Việc kiểm soát tương đói dể dàng khi có một hệ thống theo dõi bên trong – về số
lượng đánh bắt.Trong vấn đề ô nhiễm,có một nhu cầu hiển nhiên về việc theo dỏi
chính những chất ô nhiễm,do đó người ta có thể tiên đoán một hệ thống như thế sẽ
hoạt động kém hiệu qủa khi việc theo dõi gặp những sai sót lớn
146
Kết luận
Giấy phép ô nhiễm và sử dụng tài nguyên đã đưa ra một phương pháp có tính
đổi mới và đầy thách thức cho việc giải quyết các vấn đề về môi trường. bỡi vì chúng
ta cho phép những người gây ô nhiễm được linh động trong cách điều chỉnh thế nào
cho đạt tiêu chuẩn môi trường,chúng làm cho việc chấp hành luật lệ ít tổn kém hơn
trong hệ thống CAC.Chúng không hy sinh chất lượng môi trường bỡi vì mức chất
lượng tổng quát được xá định bởi tổng só lượng giấy phép, và được đặt ra bỡi cơ quan
điều tiết.Chúng có vẻ dể được người sử dụng tài nguyên và người gây ô nhiễm chấp
nhận hơn,ít ra là khi chúng được đưa vào hoạt động một thời gian và thủ tục kiểm soát
hành chính rườm rà được hạn chế ở mức tối thiểu.Tiềm năng của chúng không bị giới
hạn đối với các tác nhân gây ô nhiễm xưa nay.Như chúng ta đã thấy,chúng được thể
nghiệm rất thành công trong việc kiểm soát sự lạm dụng tài nguyên.Chúng cũng có
tiềm năng đáng kể trong việc kiểm soát việc thải khí CO2.Thực thế,có những đề nghị
rộng rãi về việc có nhữung giấy phép chuyển nhượng quốc tế về CO2 .Điều háp dẫn là
các nước thấy tốn kém trong việc cắt giảm thải khí CO2 có thể mua giấy phép,trong
khi các nước thấy dễ cắt giảm thải khí có thể đem bán nó.Cũng có thể có một mức độ
hấp dẫn nào đó trong việc phát giấy phép nhiều hơn cho cac nước nghèo để họ có thể
đem bán lại cho các nước giàu hơn.Chương 19 xem xétvấn đề này chi tiết hơn.
147
CHƯƠNG 14
ẤN ĐỊNH CÁC TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG
Hiệu quả của CAC, việc đòi tiền tô và sự thông đồng quy định
Ngày nay các chính quyền quốc gia có những trách nhiệm rộng rãi trong việc
bảo vệ sức khỏe, phúc lợi và môi trường của xã hội khỏi bị những rủi ro do ô nhiễm
gây ra. Bất kể lời khuyên của các nhà kinh tế (trên cơ sở phân tích màchúng ta đã
xem lại trong các chương từ 10 đến 13) hầu hết các nhà quản trị hành chính có
khuynh hướng ưa thích các công cụ quy định CAC (command and control ) (đặc biệt
là các tiêu chuẩn và hoặc các mục tiêu môi trường) và giới hạn mức triển khai áp
dụng của các công cụ kinh tế thị trường, cho dù như chúng ta đã xem trong chương
11, các công cụ kinh tế như thế chưa hoàn toàn vắng bóng tại các nước công nghiệp
phát triển.
Theo các nhà kinh tế thì phương pháp CAC có hiệu quả kém hơn so với một
phương pháp đặt cơ sở trên lệ phí/thuế má v.v… nhưng có một câu hỏi liên quan cần
đặt ra là liệu các tiêu chuẩn môi trưòng tự nó có đạt hiệu “nội tại’’ hay không? Tới
một chừng mực mà phương pháp CAC dựa trên cơ sở tiêu chuẩn đạt được thành
công, thì xã hội sẽ có lợi do việc giảm bớt hoặc loại trừ các thiệt hại môi trường.
Nhưng xã hội phải trả giá cho các lợi ích này vì chi phí hàng hoá và dịch vụ đều
tăng. Vì thế chương trình CAC của quốc gia có thể xem là có kết quả khi các lợi ích
từ môi trường tốt hơn/sạch hơn có giá trị cao hơn so với chi phí mà xã hội phải trả để
có chúng (luken và clack 1991). Trong chương này ở phần sau chúng ta sẽ xem xét
một công trình nghiên cứu chi tiết duy nhất đã đặt ra vấn đề đó, trong bối cảnh của
chính sách kiểm soát ô nhiểm nước và không khí của hoa kỳ. Như chúng ta đã thấy
kết quả sẽ không khích lệ lắm cho những người ủng hộ CAC.
Bây giờ chúng ta sẽ tập trung vào việc tại sao các nhà quản trị hành chính lại ưa
thích chương trình CAC và nhân tố chính của chính của phương pháp này là gì. Theo
young (1992) lý do chính khiến CAC được ưa chuộng là nó đòi hỏi ít thông tin để
ban hành các luật lệ; có thể dựa vào chúng để đạt được nhiều mục tiêu chính sách đề
ra; chúng được chấp thuận dễ dàng là do tạo ra được sự hổ trợ hành chính và chính
trị (xem lại khung 11.1) và kiểm tra danh sách lựa chọn công cụ.
148
Chúng ta cũng có thể hiểu được tại sao ngành công nghiệp có lẽ cũng ưa thích
phương pháp CAC đối với các doanh nghiệp đã có uy tín trong một ngành công
nghiệp được điều tiết, lợi ích tiềm tàn của cái gọi là “thông đồng về quy định” là rất
lớn. Khái niệm “thông đồng” đề cập đến khuynh hướng của những người đặt ra quy
định và những người gây ô nhiểm tìm kiếm một nền tảng chung và sự hợp tác với
nhau. Một khi đã thông đồng, các nhà quản trị hành chính bắt đầu nhận thấy rằng họ
phải bảo vệ những thành viên hiện hữu của ngành công nghiệp và do đó sẽ điều tiết
cho phù hợp. Họ sẽ cho những người mới tham gia các ngành công nghiệp này và do
đó sẽ điều tiết cho phù hợp họ sẽ không cho những người mới tham gia các ngành
công nghiệp này, họ đề nghị các khoảng trợ cấp cho các thành viên hiện hữu và họ trì
hoãn những quyết định khó khăn lại cho đến khi tình hình có triển vọng được cải
thiện.
Khuynh hướng của các doanh nghiệp hiện hữu tìm kiếm sự bảo vệ thông qua
việc điều tiết như là sự thông đồng về tiền tô. Hành vi đòi tiền tô (thuyết phục chính
quyền rằng các khoảng trợ giá v.v… là cần thiết) có khuynh hướng dẫn đến những
thiên lệch trong những quyết định đầu tư, làm mất hiệu quả và làm tăng hơn nữa việc
thông đồng về quy định (young, 1992) do đó CAC không mang lại sự khuyến khích
năng động cho những đổi mới hoặc hoàn thiện nhằm vượt lên trên những chỉ tiêu đã
đặt ra, và nói chung CAC dẫn đến việc sử dụng tài nguyên một cách không hiệu quả.
Các biện pháp quy định luật lệ nên được tăng cường bằng các công cụ khuyến khích
kinh tế khi nào có thể được.
Nguyên tắc đề phòng
Khi có những chất thải liên tục được đưa vào môi trường hoặc khi có nguy cơ
ảnh hưởng nguy hại đến sức khoẻ con người hoặc trong trường hợp có nghi ngờ cao
thì sự đề phòng là cần thiết nếu mục đích ngăn ngừa hoàn toàn một chất thải nào đó
hoặc một hành động nào khác thì việc quy định luật lệ rất có thể sẽ có hiệu quả hơn,
tin cậy hơn và dễ được chấp nhận về mặt chính trị hơn so với các công cụ kinh tế
việc bồi tiền đặt cọc có thể đóng một vai trò đặt biệt trong trường hợp này (xem
chương 11)
149
Nhưng đôi khi các quy định dưới hình thức tiêu chuẩn an toàn tối thiểu SMS
(safe minimum standard) (xem chương 4) và việc phân tích rủi ro lợi ích và việc
đánh đổi là cần thiết. Phương pháp SMS có thể được tăng cường bằng các khoảng
thuế má/lệ phí ô nhiễm và đặc biệt bằng các giấy phép chuyển nhượng (bù trừ). Hãy
nhớ lại công cụ bù trừ sau dựa trên cơ sở một hạn ngạch nào đó về tổng mức thải mà
được liên quan với SMS. Giả sử chúng ta thừa nhận rằng có thể còn rất nhiều mơ hồ
thì vẫn có lý để lập luận rằng khi nào người ta nghi ngờ cường độ sử dụng các nguồn
tài nguyên (tức là hành vi gây ô nhiểm) đã gần đến mức vi phạm ngưỡng sinh thái
(trong trường hợp này là khả năng hấp thu hoá giải chất thải của môi trường tiếp
nhận, không khí đất hay nước) thì biện pháp quy định có lẽ đáng tin cậy hơn so với
thuế hơn nữa về lâu dài biện pháp quy định có nhiều khả năng đảm bảo cho việc sử
dụng các nguồn tài nguyên được duy trì trong mức giới hạn cần thiết để đảm bảo tính
bền vững.
Trong khung 14.1 chúng ta sẽ thấy những cách định nghĩa về nguyên tắc đề
phòng pp (precautionary principle) nó đặt nền tản trên ba nguyên tắc căn bản khi
chưa có đầy đủ bằng chứng khoa học, chúng ta nên cẩn thận hành động trước khi biết
chắc chắn dựa trên cơ sở là hành động kịp lúc dù không được chính xác lắm và luôn
luôn nghỉ đến những hậu quả của việc ta có thể sai còn hơn là thật chính xác mà quá
trể.
Khi sự nguy hại đến hệ thống sinh thái có nguy cơ gây ra các thiệt hại cho các
dịch vụ và chức năng môi trường có dịch vụ cao (tức là hệ thống hổ trợ sự sống) thì
khả năng chung của các hệ thống đó trong nhiệm vụ che chắn cho môi trường lành
mạnh phải được bảo vệ một cách thích đáng. Điều này có nghĩa là phải có một lớp
đệm thiên nhiên (SMS) trong các trạng thái cân bằng chức năng của các hệ tự nhiên.
Gánh nặng chứng cớ để bảo vệ lớp đệm thiên nhiên bắt đầu rơi vào những
người sẽ gây ô nhiểm hơn sẽ là những người nạn nhân, hoặc các nhóm áp lực những
người tranh đấu cho sự nghiệp bảo vệ cho sự toàn vẹn của hệ sinh thái. Điều này có
nghĩa là chi phí sửa chữa hoặc đền bù ngày càng biến thành chi phí hoạt động kinh
doanh (O’Riordan, 1992).
150
Khung 14.1 các thanh phần của phương pháp quy định để kiểm soát ô nhiểm
Hình (a) minh họa các cách định nghĩa của nguyên tắc đề phòng. Ơ phía thái
cực là phần được gọi là nguyên tắc đề phòng nghiêm ngặt SPP (strict precautionary
principle) việc áp dụng một tiêu chuẩn như thế vẫn dựa trên giả thiết là chúng ta
không biết được ảnh hưởng tương lai của các chất thải hiện thới nhưng có thể tương
lai sẻ phải gánh chịu một chi phí thiệt hại nặng nề. Ý nghĩa của phương pháp này là
tất cả các chất đều có tiềm năng nguy hại được xem như là rủi ro không thể chấp
nhận được đối với sự an toàn của môi trường đối với tương lai. Do đó, SPP có mục
tiêu chất thải bằng không, tuy nhiên trong thực tế, mục tiêu chất thải bằng không là
bất khả thi do hạn chế về công nghệ hoặc không thực tế do chi phí tốn kém quá mức.
Tiêu chuẩn chất thải đề phòng theo nguyên tắc đề phòng dựa trên cơ sở chất lượng
chất thải và tình trạng chất lượng môi trường tiếp nhận có ít hoặc không có ảnh
hưởng gì đối với việc xác định các tiêu chuẩn đó.
Mặt khác, khái niệm tải lượng tới hạn CL (critical load) được áp dụng gần đây
như là nền tản cho các cuộc thương lượng quốc tế về giảm bớt chất thải sunful va
nitrogen trong không khí (để khắc phục sự axid hoá eutrophication) rõ ràng lại tính
đến môi trường tiếp nhận. Các tải lượng tới hạn là ngưỡng của nguy hại mà chúng ta
thấy tới mức độ mà chúng ta thấy tới mức độ nào thì giảm bớt chất thải nếu muốn
được chấp nhận về mặt môi trường (tức là không có ảnh hưởng sinh học có hại), chất
thải vượt quá ngưỡng cửa đó bắt buộc phải được giảm xuống. Không còn nghi ngờ
nào nửa CL là một sự cải thiện về hiệu quả chi phí so với phương pháp đơn giản của
việc giảm chất thải theo tỷ lệ đồng đều bởi vì hiệu quả và chi phí của việc giảm ô
nhiễm nhất định thay đổi theo các khu vực. Tuy nhiên, CL vẫn nên được sử dụng với
sự dè dặt nếu muốn tránh trường hợp chính sách môi trường không có hiệu qua.
Trong hình(b), CL hiện hữu tại mức mật độ chung quanh là OC “thiệt hại” xảy ra do
vi phạm vượt khả năng hấp thu hoá giải của môi trường hoặc do chỉ tiêu vượt quá
ngưỡng cửa mức tích luỹ các chất ô nhiểm tồn tại lâu dài không thể hoá giải. Nhung
một mức CL xác định về mặt sinh học không nhất thiết bằng với một mức CL về mặt
kinh tế, CL được định nghĩa theo mức phúc lợi của con người và sự nhận thức và
đánh giá về các thay đổi môi trường.
151
Trong hình (b) để thuận tiện chúng ta giả thiết rằng hai mức tải lượng giới hạn
là như nhau (C). Nếu chúng ta chỉ xét hai địa điểm 1 va 2, thiệt hại kinh tế của điểm
1 la MD (maginal damage )(thiệt hại biên tế ) và của địa điểm 2 là MD ngay cả khi
hai nơi này là giống hệt nhau về mặt sinh học v.v… Chúng ta có thể khác nhau về
thiệt hại kinh tế (đo lường theo giá sẵn sàng trả để ngăn ngừa thiệt hại) như vậy địa
điểm một thiệt hại là C d C, còn tại địa điểm hai thiệt hại là và ta có vì
thế phương pháp CL có nguy cơ là sẽ không hiệu quả về mặt kinh tế.
Vì lý do đó các tỉ lượng chỉ tiêu, được thiết lập theo từng quốc gia, cần phải xét
đến không phải chỉ vì tính nhạy cảm của môi trường, mà còn cả khía cạnh kinh tế và
kĩ thuật cũng như nhiều mặt khác. Như vậy phương pháp CL và phương pháp SPP
có thể được sửa đổi bổ sung bằng cách tham khảo các khả năng công nghệ, khi đó
việc gây ra ô nhiễm có thể được kiểm soát bằng công nghệ hiện có tốt nhất (PP+BAT
(Best availabie technology) trong hình (a)) vấn đềtiếp theo là không phải vào bất kỳ
lúc nào cũng luôn có sẳn một công nghệ tốt nhất. Một tầng kiểm soát khác luôn có
thể được bổ sung hoặc là có một công nghệ bản lề đang được thử nghiệm mà hứa hẹn
một sự kiểm soát ô nhiểm có hiệu quả hơn (lave và males, 1989). Ơ hoa kỳ và ở Đức
chính quyền chọn công nghệ tiên tiến nhất, đáng tin cậy nhất hiện có trên thị trường,
0
spp PP+BAT
PP+BAT+NEEC
Mật độ chất thải
Mật độ chung quanh
Tổng chi phí làm ô nhiễm
Nguồn :Theo Ramchandani và Pearce(1992)
152
có mức độ kiểm soát chấp nhận được và có giá cả hợp lý. Tai Anh quốc, BAT được
giải thích như một kĩ thuật có vẻ có sẵn chỉ khi có thể đạt được và khi được phát
triển (hoặc chứng minh ở một quy mô cho phép thực hiện nó trong một bối cảnh
công nghiệp thích hợp với độ tin cậy kinh doanh).
Giả sử chỉ có trình độ công nghệ và sáng kiến đổi mới như hiện nay thì giải
pháp PP+BAT có thể ban hành những tiêu chuẩn về chất thải tương đối nghiêm ngặt
gần như phương pháp CL mức độ tiêu chuẩn PP+BAT trong thực tế sẽ tùy thuộc vào
tính chất có sẵn và loại hình của các công nghệ hiện hữu, cách giải thích khái niệm
BAT của các cấp có thẩm quyền kiểm soát ô nhiểm mức độ chấp nhận PP tại một số
nơi và một số nước và khả năng hấp thu hoá tải của môi trướng.
Phương pháp PP va BAT thậm chí còn được định hướng một cách thực tế hơn
khi chi phí để đạt được chỉ tiêu ô nhiểm xác định được đưa ra xem xét một cách
thẳng thắng. Việc này dẫn đến kết quả là phương pháp PP+BATNEEC (xem hình a).
Chữ NEEC (Not Entailing Excessive Cost) trong BATNEEC ở đây có nghĩa là giả
thiết ủng hộ BAT có thể được bổ xung sửa đổi bằng hai cách xem xét về “chi phí
kinh tế” tức là liệu chi phí áp dụng BAT có quá mức so với tính chất của ngành công
nghiệp và tình trạng cạnh tranh của nó. Tuy nhiên không có sự nhất quán cao trong
cách chính quyền giải thích thế là quá mức. Đôi khi người ta coi đó là chi phí tài
chính của các doanh nghiệp gây ô nhiểm v.v… và/hoặc sự thiệt hại và cạnh tranh
trên thị trường; và có những lúc khác, nó lại bao gồm các chi phí ô nhiễm ngoại tác
rộng lớn hơn.
Các nhà phê bình phương pháp tiêu chuẩn trên cơ sở công nghệ có xu hướng
tập trung vào tính mơ hồ xét theo các vấn đề như là môi trường được tạo ra sẽ trong
sạch như thế nào, những rủi ro có thể chấp nhận được là gì và một cách chính xác chi
phí vượt qúa là gì (chẳng hạn chúng ta sẽ làm gì với các kết luận về một dự án bị đe
dọa trong những khu vực có tình trạng thấp thiệt cao?). Các câu hỏi khó trả lời về
hiệu quả kinh tế, chính trị, đạo lý lại bị lập lờ thay vì được làm sáng tỏ hơn bởi
phương pháp này, những phán xét về giá trị được thực hiện một cách bóng gió hơn là
thẳng thắn.
Người ta cũng có thể lập luận rằng phương pháp kiểm soát ô nhiểm này có
khuynh hướng chống lại sự thay đổi mới công nghệ (tức là, nó không khuyến khích
153
người gây ô nhiễm đã được điều tiết vượt quá chỉ tiêu giảm ô nhiễm đã quy định cho
họ). Tuy nhiên, nó còn tỏ ra hấp dẫn đối với các cơ quan xử lý ô nhiểm. Điều này nó
mang lại sự đo lường tính chắc chắn của chất lượng môi trường (miễn là có sự giám
sát và thi hành luật lệ đầy đủ). Quan điểm “tính chắc chắn” này đặc biệt hiện diện khi
có mặt của các chất độc hại tồn tại lâu và có đặc tính tích luỹ sinh học. Nhưng vẫn
còn một vấn đề là trong khi còn các yếu tố lâu bền, độc hại và tính tích luỹ sinh học
là những dấu hiệu quan trọng của mối nguy hiểm mà một chất nào có thể gây ra là
hợp lý, thì chúng cũng không dễ dàng áp dụng trong thực tiễn quản trị môi trường
(Grey et al, 1991).
Chính sách môi trường và chương trình nghị sự về môi trường trong thập niên
90 phần lớn việc đưa ra quyết định môi trường đã tiến hành lắc nhắc nghĩa là chỉ
phối hợp một cách lõng lẻo và cục bộ cho các vấn đề và các trở ngại riêng biệt. Tuy
nhiên mục tiêu chung của tất cả các nước là một quá trình cải tiến về quản trị và kế
hoạch hoá môi trưóng, có chú trọng hơn về dài hạn sự cải tiến nhằm các mục tiêu
như tình trạng chất lượng môi trường chung quanh tốt hơn, giảm các rủi ro cho sức
khoẻ con người và một hệ thống kiểm soát môi trường hiệu quả (hiệu quả về chi phí)
hơn nửa.
Đối với nhiều nhà môi trường đường lối cải tiến dứt khoát sẽ dẫn tới một quá
trình quyết định toàn diện hợp lý và lý tưởng. Nhưng một quá trình toàn diện như
vậy, ngay cả có thể đi (điều này rất đáng ngờ) có lẽ vừa không thực tế vừa không ai
mong muốn. Do đó, ví dụ ở Hoa Kỳ, triết lý “từ nôi đến mộ’’ về quản trị chất thải
đòi hỏi báo cáo quá nhiều và những biện pháp kiểm soát quá tốn kém, mà thành quả
đạt được vẫn khiêm tốn. Mặt khác, các khó khăn của phương pháp hạn chế quá mức
trong quá khứ của Anh đối với việc kiểm soát ô nhiểm là quá rõ và trong nhiều
trường hợp có thể còn trầm trọng hơn trong tương lai. Vì thế những chính sách nào
tìm cách giảm bớt thiệt hại ô nhiểm. Trong một môi trường đơn lẻ và chỉ khuyến
khích các biện pháp làm giảm ô nhiễm ở đầu cuối (ví dụ bộ lọc khí thải v.v…) là
ngược lại các biện pháp cơ bản hơn làm giàu nguồn ô nhiễm (như thay đổi quy trình
và các hệ thống tái sử dụng trong nhà máy v.v…) chỉ có thể có hiệu quả hạn chế.
Do đó, có thể là áp lực “xanh” ở Anh sẽ gia tăng cố gắng không ngừng để cải
thiện chất lượng môi trường chung quanh thông qua một phương pháp thống nhất
154
hơn với chính sách kiểm soát ô nhiểm. Đạo luật kiểm soát môi trường của Anh đã
dựa trên phương pháp điều tiết, nó sẽ nhấn mạnh vào hai hệ thống kiểm soát mới
“kiểm soát ô nhiễm thống nhất” (IPC –integrated pollution control) buộc cơ quan
thanh tra ô nhiễm hoàng gia (HMIP –Her Majesty’s Inspectorate of pollution) chấp
nhận một phương pháp kiểm soát đa phương diện, có nghĩa là trong trường hợp các
chất được thải vào nhiều hơn một loại môi trường thì người gây ô nhiểm phải lựa
chọn “phương án môi trường thực tế tốt nhất có thể” (BPEO-Best practicable
Environmental Option).
Theo truyền thống chính sách kiểm soát môi trường của Anh đã dựa trên
phương pháp điều tiết các tiêu chuẩn (tiêu chuẩn chất lượng chung quanh và tiêu
chuẩn phát thải) chính sách mới này vẫn giữ lại phương pháp tiêu chuẩn dựa trên cơ
sở công nghệ sử dụng từ trước đến nay, với những cốt lõi của công nghệ hiện có tốt
nhất không gây chi phí vượt mức (BATNEEC –Best Avaikabal Technology Not
Entailing Excessive Cost) triết lý BATNEEC buộc HMIP làm cho những người gây
ô nhiễm chú ý tới các công nghệ sạch hơn những gì đang có, miễn là chúng không
quá mức tốn kém. Cả IPC và BATNEEC sẽ làm tăng thêm một cách đáng kể chi phí
công nghiệp.
Trên mức độ Châu Âu trung tâm điểm của luật môi trướng, dĩ nhiên đã chuyển
sang Brussels thông qua các chỉ thị về môi trường (xem khung 14.2) chỉ thị về nước
uống cũng đã chứng tỏ quyền lực của Brussels trong việc thực hiện các tiêu chuẩn
gắt gao dẫn đến chi phí đáng kể cho ngành công nghiệp và người tiêu dùng. Chỉ thị
về đánh giá tác động môi trường (áp dụng cho một số loại dự án phát triển) đã được
thực hiện năm 1988 và sắp tới là những đề nghị về quản lý chất thải và trách nhiệm
dân sự về quyền tự do tiếp cận của cộng đồng đối với các thông tin về chất thải công
nghiệp; về cấp nhãn hiệu sinh thái và kiểm toán môi trường (dựa trên cái gọi là phân
tích chu kỳ hay vòng đời sản phẩm) đối với các công ty. Các chi phí liên quan trong
mỗi trường hợp thì rất đáng kể.
Trên mức độ toàn cầu, các cuộc đàm phán vẫn tiếp tục để đạt được những thoả
thuận khung về việc bảo vệ rừng nhiệt đới và sự đa dạng sinh học. Các cuộc thảo
luận của GATT hiện nay bao gồm những tranh cải về tác động đối với môi trường và
các hiệp ước mậu dịch. Điều đáng kể hơn nữa là các nền tảng đang được xây dựng
155
cho một hiệp ước toàn cầu về việc kiểm soát khí nhà kính để giảm mối đe doạ về bầu
khí quyển nóng dần lên theo sau hiệp ước nghi thức ở Montreal 1987 (được củng cố
năm 1990) mà nó tìm cách kiểm soát việc thải khí chloro-fluorocarbon (CFC) làm
suy yếu tầng ôzôn (xem chương 19 và 20).
Khung 14.2 – Các chỉ thị của EC
Thông điệp chung dường như đã rõ, luật lệ và các áp lực về môi trường tiếp tục
gia tăng ảnh hưởng chung của chúng là chi phí gia tăng một cách đáng kể đối với
ngành công nghiệp trong một thập kỷ tới, và dẫn đến giá tiêu thụ sản phẩm gây ô
nhiễm sẽ cao hơn.
Trong khi nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả PPP [Polluter Pays Principle]
vẫn tiếp tục tiến triển, hiện nay nó đang được củng cố, theo chừng mực nhiều hay ít,
Dựa theo điều khoản 189 của hiệp ước Rome của EEC, một chỉ thị sẽ có
tính chất ràng buộc, đối với kết quả đạt được của mỗi quốc gia thành viên, tuy
nhiên sẽ để cho giới hữu trách của mỗi quốc gia đó lựa chọn hình thức và phương
pháp. Những hoạt động lẻ tẻ nhằm bảo vệ môi trường trước khi có đạo luật Châu
Au duy nhất năm 1987 đã được củng cố bởi đạo luật này và vấn đề bảo vệ môi
trường đã có được một chỗ đứng rõ ràng trong hiệp ước qua các điều khoản
130R, 130S, và 130T. Việc thiết lập thị trường nội bộ kể từ ngày 1/1/1993 sẽ đòi
hỏi sự kết hợp hài hoà các bộ luật của các quốc gia khác nhau, và các biện pháp
môi trường cũng được lưu ý trong bối cảnh này. Mục đích của “những tiêu chuẩn
môi trường tối thiểu đồng nhất” có ưu điểm trong việc ngăn chặn khu vực dung
túng ô nhiễm và cho phép thiết lập “biên an toàn” ở những khu vực có hại cho
sức khoẻ con người và hệ sinh thái là những nơi mà số lượng khoa học còn thiếu,
và sự không chắc chắn lại cao. Mặt khác, “các tiêu chuẩn tối thiểu biến đổi” có
vẻ thực tế hớn trong tình hình hiện có những khác biệt giữa các khu vực của EC
về mặt mật độ dân số và công nghiệp. Người ta cũng có thể tranh cãi rằng các
khu vực gây ô nhiễm nặng xuyên biên giới thì phải bị bắt buộc duy trì những tiêu
chuẩn cao hơn. Một cơ quan môi trường Châu Âu sẽ phải đàm phán những tiêu
chuẩn như thế.
156
bởi 4 nguyên tắc cơ bản khác, mà tất cả đều góp phần vào việc hướng dẫn để hình
thành các chính sách môi trường trong tương lai. Danh mục đầy đủ các nguyên tắc
như sau:
(a) “Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả”, (PPP) bắt buộc những người gây ra ô
nhiễm phải trả các chi phí để đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường được xã hội chấp
nhận.
(b)“Nguyên tắc ngăn ngừa hay đề phòng”, (PP) thẳng thắn công nhận sự tồn tại của
bất trắc (môi trường và xã hội) và tìm cách tránh những tổn thất bất khả hoán thông
qua việc áp đặt một biên an toàn vào chính sách (các tiêu chuẩn an toàn tối thiểu) nó
cũng tìm cách ngăn chặn việc phát sinh chất thải tại nguồn, cũng như giữ lại vài
“biện pháp cuối đường ống”
(c)“Nguyên tắc hiệu quả kinh tế”, áp dụng cho cả việc thiết lập những tiêu chuẩn lẫn
thiết kế các phương tiện (công cụ chính sách) để đạt được những tiêu chuẩn đó.
(d) “Nguyên tắc trực thuộc”, giao các quyết định về môi trường và việc thực thi các
quyết định đó cho cấp chính quyền thấp nhất có khả năng giải quyết chúng mà không
có những ngoại tác còn lại đáng kể nào.
(e) “Nguyên tắc hiệu quả luật pháp”, để loại trừ việc đưa ra những quy định mà về
mặt thực tế không thể buộc chấp nhận được.
Các tiêu chuẩn môi trường quốc gia có hiệu quả không?
Cuối cùng chúng ta quay lại câu hỏi mà chúng ta đã đặt ra ở đầu chương này:
các tiêu chuẩn có hiệu quả “trong nước” không? Vài bằng chứng liên quan đã được
trình bày gần đây trong một công trình nghiên cứu ở Hoa Kỳ (Luke và Clark, 1991).
Cục bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (EPA- Environmental Protection Agency) chịu trách
nhiệm quản lý chương trình bảo vệ môi trường ở Hoa Kỳ. EPA thực hiện các quyền
hạn được uỷ nhiệm của mình bằng cách thiết lập và buộc chấp hành các tiêu chuẩn
môi trường quốc gia. EPA có 3 phương pháp điều tiết là chính:
1. Các tiêu chuẩn dựa trên công nghệ (được uỷ nhiệm bởi đạo luật nước sạch 1972),
nó phản ánh khả năng của các công nghệ kiểm soát ô nhiễm tốt nhất có được
(BACT) các tiêu chuẩn này đòi hỏi người gây ô nhiễm đáp ứng giới hạn phát thải
đồng nhất.
157
2. Các tiêu chuẩn dựa trên môi trường chung quanh (được uỷ nhiệm bởi đạo luật
không khí sạch 1970) đặt ra để bảo vệ pháp luật và sức khoẻ con người. Những
người gây ô nhiễm công nghiệp được yêu cầu lắp đặt thiết bị kiểm soát ô nhiễm chỉ
tới mức cần thiết để đáp ứng tiêu chuẩn môi trường chung quanh.
3. Tiêu chuẩn dựa trên lợi ích cũng được uỷ nhiệm bởi đạo luật không khí sạch 1970
nó đòi hỏi các chi phí để làm giảm rủi ro ô nhiễm phải bù đắp được các rủi ro ô
nhiễm cho xã hội. Do đó những người gây ô nhiễm công nghiệp hiện tại được yêu
cầu lắp đặt thiết bị kiểm soát ô nhiễm chỉ tới mức có sự cân bằng hợp lý giữa lợi ích
của việc giảm ô nhiễm và chi phí của công nghệ kiểm soát ô nhiễm.
Công trình nghiên cứu của Luke và Clark (1991) là một đánh giá đầu tiên có
tính đặc thù địa lý và có hệ thống về hiệu quả của chính sách luật lệ môi trường Hoa
Kỳ (hay của bất kỳ nước nào khác). Đó là một đánh giá những gì đã xảy ra trước đó
và tìm cách đo lợi ích ròng (nếu có) phát sinh từ luật lệ của EPA về ô nhiễm nước và
không khí từ trước đến giờ của ngành công nghiệp bột giấy và giấy từ năm 1973 đến
năm 1984. Những kết quả nghiên cứu đã được tổng kết trong khung 14.3. Tuy nhiên
nỗi bật 2 kết luận chủ yếu sau đây:
1. Tiêu chuẩn dựa trên lợi ích và môi trường chung quanh thì hiệu quả hơn các tiêu
chuẩn dựa trên cơ sở công nghệ, bởi vì tiêu chuẩn sau này không đòi hỏi sự đo lường
nào các kết quả môi trường thực tế.
2. Các chính sách kiểm soat môi trường hiệu quả phải đủ linh hoạt để tính đến các
điều kiện “địa phương”, bao gồm những người hưởng lợi và những người thiệt hại từ
chính sách. Điều này cho thấy rằng các tiêu chuẩn quốc gia về môi trường tự nó có
thể không hiệu quả.
158
Khung 14.3 – Lợi ích và chi phí của các tiêu chuẩn quy định ở Hoa Kỳ (1973-1984)
Các kết quả ở bảng 1 chứng tỏ rằng tiêu chuẩn dựa trên công nghệ đối với việc
quản lý ơ nhiểm nước đ thất bại nhưng xét về mặt hiệu quả ,cho toàn bộ lĩnh vực lẫn
cho 57 trong số 68 nhà máy giấy và bột giấy được nghiên cứu . tiêu chuẩn dựa trên
môi trường chung quanh đối với ô nhiễm không khí đ thnh cơng hơn ,tạo ra được lợi
ích rịng tồn bộ v lợi ích rịng địa phương ở 22 trong số 60 nhà máy được điều tra
.nhưng tiêu chuẩn dựa trên lợi ích là phương pháp thnh cơng nhất tạo ra lợi ích rịng
tồn bộ v lợi ích rịng địa phương ở 29 trong số 60 nhà máy được nghiên cứu .
Bảng 1
Loại
Tiêu chuẩn
Số nhà máy phân tích với
lợi ích lớn hơn chi phí
Tổng lợi
ích
Tổng chi
phí
Lợi ích
ròng
Công nghệ
Môi trường
chung quanh
lợi ích
11/68
22/60
29/60
36,6
25,2
86,9
96,6
23,8
55,8
-60
1,4
31,1
Nguồn :Luken và Clack(1991)
Thêm một loạt các tranh cải về đạo đức được đưa ra mới đây để giải thích cho
việc chính quyền thích chọn biện pháp quy định luật lệ. Frey (1992) cho rằng việc sử
dụng các công cụ khuyến khích kinh tế (cái mà ông gọi là định giá) có thể làm loại
trừ bớt một chuẩn mực đạo đức môi trường nào đó đang có trong lĩnh vực mà chính
sách không nhắm tới bởi chính sách kích thích kinh tế, dẫn đến việc làm giảm công
hiệu của mối ràng buộc đạo đức môi trường ở những lĩnh vực này. Kết quả cuối cùng
của việc mất đi ràng buộc đạo đức trong công nghiệp do áp dụng chính sách định giá
có thể (mặc dù không phải lúc nào cũng nhất thiết như vậy) dẫn đến việc gia tăng ô
nhiễm ở những lĩnh vực nhắm tới và cả những việc khác nói chung. Kết quả có thể
xảy ra này là điều mà các nhóm áp lực môi trường ơ nhiều nước đã bày tỏ sự lo ngại.
Hiện nay còn một vấn đề nữa là việc quy định (CAC) cũng có thể gây ra suy
giảm đạo đức môi trường bởi vì những người gây ô nhiễm cảm thấy “qúa chính
đáng” (nghĩa là phải làm nhiều hơn họ phải làm theo tiêu chuẩn môi trường). Tuy
159
nhiên, Frey (1992) cho rằng điều này ít có khả năng xảy ra bởi vì những quy định
thường đi kèm bởi tín hiệu rõ ràng về việc không chấp thuận cho các hoạt động ô
nhiễm. Việc đánh giá không mang tín hiệu xã hội như vậy. Nói cho cùng, có lẻ trợ
giá (thường không được các nhà kinh tế chấp nhận) có tính chất hỗ trợ cho đạo đức
môi trường hiện có trong công nghiệp và lĩnh vực công cộng. Trợ giá cho phép giữ
lại sự tự xác định của cá nhân và cũng chấp nhận lập luận cho rằng thiên nhiên phải
được bảo tồn trên cơ sở giá trị nội tại (xem chương 2).
Kết luận
Có lẻ cũng công bằng để kết luận rằng những quy định (tiêu chuẩn) về môi
trường thường vừa không hiệu quả tự chúng vừa không hiệu quả trong mối quan hệ
với các công cụ khuyến khích kinh tế. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh không chắc chắn
về thiệt hại môi trường có thể có do ô nhiễm, hay những rủi ro đã biết do chất thải
độc hại, những tiêu chuẩn quy định là phương pháp tốt nhất. Một phương pháp quy
định như vậy thì phù hợp với nguyên tắc đề phòng và có thể mang lại lợi ích về mặt
đạo đức cho một số cá nhân.
160
CHƯƠNG 15
TÀI NGUYÊN CÓ THỂ TÁI SINH
Giới thiệu
Tài nguyên thiên nhiên thường được phân loại là tài nguyên có thể tái sinh và tài
nguyên có khả năng bị cạn kiệt. Một tài nguyên có thể tái sinh có khả năng tự tái tạo,
chẳng hạn cá và cây cối là những tài nguyên có thể tái sinh. Một tài nguyên có khả
năng cạn kiệt có tổng trữ lượng cố định, do đó sử dụng nó chút naìo trong thời kỳ này
nghĩa là nó sẽ ít đi vào lúc khác. Tuy nhiên, phân biệt như vậy thực ra không hợp lý.
Thứ nhất có rất nhiều tài nguyên có thể tái sinh, vi dụ như cá và cây cối, cũng có khả
năng bị cạn kiệt nếu chúng không được quản lý theo kiểu bền vững. Do đó, một sự
phân biệt đúng hơn có thể là sự phân biệt giữa tài nguyên có thể tái sinh và tài nguyên
không thể tái sinh. Loại thứ nhất sẽ tái tạo bản thân chúng trong chế độ quản lý thích
hợp. Loại kia không có khả năng đó. Thú hai, nhiều tài nguyên là hỗn hợp của những
nhân tố có thể tái sinh và không thể tái sinh: như đất chẳng hạn.
Chương này xem xét các tài nguyên có thể tái sinh và đặt ra vấn đề xem những
tài nguyên đó đang được quản lý như thế nào và chúng cần phải được quản lý như thế
nào. Các câu trả lời cho phép chúng ta hiểu rõ vì sao các tài nguyên có thể tái sinh
thường bị lạm dụng, thậm chí bị hủy diệt.
Hải sản
Một trong những tài nguyên có thể tái sinh được viết đến nhiều nhất là cá. Mỗi
năm chúng ta đánh bắt một số lượng cá, và chừa số còn lại để chúng phát triển, trưởng
thành và sinh sản. Năm sau chúng ta có thể đánh bắt phần tăng thêm của số lượng còn
lại trong năm nay và để lại một lượng như cũ để chúng lại phát triển, và cứ như vậy.
Ví dụ, hãy tưởng tượng có 1000 con cá và mỗi năm tăng thêm 10%, tức là 100. Chúng
ta có thể đánh bắt 100 con và trữ lượng giảm xuống là 1000, sau đó chúng lại tăng
thêm một cách tự nhiên 100, chúng ta đánh băt 100 và cứ tiếp tục như vậy. 100 con cá
đánh bắt hàng năm là sản lượng có tính bền vững. Cần lưu ý rằng bằng việc khai thác
sản lượng bền vững thì trữ lượng cá không thay đổi (1000).
161
Tuy nhiên, điều đặt biệt là sản lượng đánh bắt sẽ phụ thuộc vào mức độ của trữ
lượng. Nếu thay vì có 1000 con cá, chúng ta bắt đầu với 500, chúng ta không thể giả
thuyết rằng sẽ thu hoạch được 10% tức là 50 con. Thông thường sản lượng đánh bắt
tahy đổi theo những trữ lượng theo những cách khá phức tạp. Có sự khác biệt quan
trọng nếu trữ lượng trở nên rất nhỏ. Nếu chúng ta chỉ có 20 con cá, thì sẽ không thể
cho rằng chúng sẽ tăng thêm 2 con mỗi năm (10%). Một khi trữ lượn giảm xuống một
mức rất thấp chúng htường không sinh tồn được, tức là chúng không thể sinh trưởng
thêm nữa. Do đó có thể co một số lượng tối thiểu mang tính sống còn đối với trữ
lượng. Nếu xuống dưới mức tối thiểu đó, trữ lượng sẽ tuyệt chủng và không sinh
trưởng thêm nữa. Số liệu tối thiểu mang tính sống còn là quan trọng đối với một số
loài động vật như voi chẳng hạn. Nó cũng rất quan trọng đối với nơi cư trú tự nhiên,
tức là khi một vùng quần cư của một số loài nào đó bị giảm xuống một kích thước nào
đó, thì nó sẽ kkhông thể nuôi sống được các loài hoang dã.
Khung 15.1 trình bày sản lượng có thể thay đổi thoe trữ lượng như thế nào. Khi
trữ lượng rất nhỏ, lý luận về số lượng tối thiểu mang tính sống còn có thể áp dụng và
trữ lượng không tăng. Nhưng để cho tiện lợi chúng ta không tính tới khả năng đó ở đây
(chúng ta sẽ trở lại vấn đề này). Như vậy thì khi trữ lượng nhỏ, chúng tăng trưởng
nhanh chóng . Một lý do có thể là thức ăn sẽ dồi dào cho từng cá thể trong trường hợp
trữ lượng nhỏ. Nhưng sự tăng lên về trữ lượng (cũng tức là tăng sản lượng) sẽ có xu
hướng giảm xuống khi phải tranh nhau kiếm thức ăn. Như vậy có một mức sản lượng
tối đa- gọilà mức sản lượng tối đa bền vững (MSY-Maximum Suistainable Yield) sau
đó sản lượng là giảm xuống. Nó sẽ tiếp tục giảm cho đến khi sản lượng bằng không.
Điều này sẽ xả ra khi trữ lượng cá đạt đến mức có thể chịu được của môi trường xung
quanh. Mọi sự gia tăng hơn trữ lượng sẽ dẫ đến một số cá chết do thiếu nguồn thức ăn.
Trữ lượng cá tương quan đến khả năng có thể gánh chịu của môi trường gọi là trữ
lượng cân bằng tự nhiên: đó là số lượng cá sẽ tồn tại nếu chúng hoàn toàn không bị
đánh bắt. Trong sự cân bằng tự nhiên số lượng cá chết đi sẽ cân đối bằng số lượng cá
sinh ra. Nếu vì một vài lý do nào đó, số lượng chết tăng lên, thì nguồn cá có thể xuống
dưới mức có thể gánh chịu của môi trường và quá trình phát triển sẽ tăng nhanh hơn để
đạt mức có thể gánh chịu. Nếu số lượng cá vượt quá mức này, thì tốc độ chết sẽ tăng
nhanh hơn số lượng cá sinh và nguồn cá sẽ trở lại cân bằng.
162
Khung 15.1 trình bày mối quan hệ giữa sản lượng và trữ lượng theo 2 cách. Nó
cho thấy sản lượng thấy trữ lượng thay đổi theo sản lượng như thế nào và sản lượng
thay đổi theo nổ lực đánh bắt như thế nào. Nổ lực đánh bắt là thời gian và tài nguyên
dành ra để đánh bắt, nên nó có thể được tính bằng giờ làm việc hoặc số lượng thuyền
đánh lưới rà, họac số lượng và kích cỡ của lưới v.v...Chúng ta sẽ thấy là nổ lực thay
đổi tỷ lệ nghịch với trữ lượng. Mối quan hệ đích thực là phức tạp. Điều chúng ta cần là
cảm nhận được rằng nổ lực càng lớn thì trữ lượng càng thấp, và nổ lực càng thấp thì
trữ lượng lớn lên. Khung 15. 1 trình bày làm thế nào đi từ quan hệ trữ lượng - sản
lượng đến mối quan hệ nổ lực- sản lượng và làm thế nào đi từ một biểu đồ sinh học
thuần túy sang biểu đồ diễn tả bằng thu nhập và chi phí. Biểu đồ chi phí – thu nhẩptình
bày một cách rất rõ ràng rằng thực hiện việc khai thác ở mức MSY là không hiệu quả
kinh tế. Tốt hơn là hạn chế việc khai thác bằng cách bỏ ra một mức nổ lực đánh bắt
thấp hơn và tạo ra lợi ích lớn hơn so với nổ lực ở mức khai thác MSY.
Khung 15.1- Phép phân tích đơn giản về cá
Hình (a) diễn tả sản lượng đánh bắt và trữ lượng liên hệ lẫn nhau như thế nào.
Khi mà trữ lượng nhỏ thì sản lượng của cá sẽ cao. Khi sự cạnh tranh các nguồn thức ăn
diễn ra, tốc độ gia tăng của sản lượng (độ dốc của đường cong) bát đầu nhỏ đi và sản
lượng đạt cực đại tại MSY. Tốc độ tâưng trưởng của sản lượng sau đó sẽ trở nên âm (
tức là đường cong bắt đầu nghiêng dốc xuống) cho đến điểm Scc’, nơi mà sản lượng
bằng không, nghĩa là tốc độ sinh đẻ và tốc độ tử vong hoàn toàn bằng nhau. Khi giải
thích hình (a) lưu ý rằng sản lượng là khoảng cách tung độ giữa trục hoành và đường
cong tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng của sản lượng chính là độ dốc của đuờng cong
tăng trưởng đó.
Nếu chúng ta cho rằng nổ lực đánh bắt và quy mô của trữ lượng có quan hệ
nghịch đảo – khi nổ lực tăng lên thì trữ lượng giảm xuống và ngược lại – thì hình (a)
có thể quay ngược lại và có thể đọc được sản lượng và nổ lực đánh bắt, như trìinh bày
trong hình (b).
Bây giờ mỗi tấn cá thu hoạch bán cùng một giá và lượng cá đánh bắt luôn bằng
mức sản lượng. Thế thì đuờng cong sản lượng có thể diên giải lại như là đường cong
thu nhập ( xem hình (c) bởi vì (lượng đánh bắt) x (giá) = thu nhập. Bây giờ chúng ta
bắt đầu giải thích đồ thịi khai thác cá như đồ thị kinh tế học. Để tính được chi phí thì
163
cũng đơn giản thôi, nổ lực được tính bằng số ngày làm việc và mỗi ngày đều phải chịu
phí tổn như nhau dù co đánh bắt bao nhiêu ngày đi nữa. Như vậy nổ lực đánh bắt càng
lớn chi phí càng cao. Đường cong tổng chi phí sẽ xuất hiện như trong hình (c).
Bây giờ chúng ta có tổng thu nhập và tổng chi phí, và sự chuyển đổi từ một đồ
thị “sinh học” thuần túy sang một đồ thị kinh tế, vậy là hoàn chỉnh. Trong thuật ngữ
chuyên môn của ngành kinh tế, thì đồ tị này là tĩnhvì nó không cho phép đưa vào yếu
tố thời gian. Tiếc thay, ngay khi thời gian được đưa vào thì việc trình bày vấn đề một
cách tương đối đơn giản sẽ trở thành khó khăn (xin xem trong bài để thấy những ý
nghĩa tổng quát của việc đưa vào yếu tố thời gian). Tuy vậy, đồ thị tĩnh vẫn hữu ích.
Thứ nhất, nó cho thấy cái có rằng cái có vẻ như một điểm hợp lý để nhắm đến - sản
lượng tối đa bền vững - lại không phải là điểm lợic ích tối đa theo cách nhìn của ngành
cá. MYS không đề cập gì điểm “hiệu quả”. Tuy vậy, nhiều người vẫn ngĩ một cách sai
lầm rằng khai thác cá ở MYS là phương cách tốt nhất để quản lý nguồn cá. Đồ thị tĩnh
còn có một số sử dụng khác nữa (xem phần thảo luận thêm trong bài).
a)Việc khai thác cá có lợi nhất là tại điểm EPROF. Lưu ý rằng đó là điểm có mức
nổ lực thấp hơn so với mức cần thiết tại MSY.
b)Nếu lợi ích thu hút những người đánh cá mới vào ngành bắt thì ngành này sẽ
mở rộng đến chừng nào vẫn còn có lợi. Giới hạn của nó là tại điểm EOA nơi lợi ích (tức
phần lời ngoài mức thu nhập vừa đủ cho một tàu lưới cá tiếp tục hành nghề) bằng
không.EOA là điểm cân bằng “tự do tiếp cận” hay điểm cân bằng khai thác tự do.
Hình (a) - Số lượng cá chết do đánh bắt (F.y-1)
Hình (b) - Tổng mã lực của tàu thuyền trung bình hàng năm (HP.102)
Hình (c) - Nổ lực đánh bắt tối đa (EMAX) sẽ dẫn đến nguy cơ của việc khai thác
quá mức. Trên đồ thị này không phải là sự tối đa hóa lợi nhuận hoạc sự khai thác tự do
dẫn đến nguy cơ đó. Tuy nhiên, nếu đường tổng chiphí ít dốc hơn thì điểm cân bằng
khác tự do sẽ tiến gần vùng nguy cơ hơn.
Đồ thị cũng cho thấy một số khám phá quan trọng khác. Nếu nghề cá được mở
rộng cho mọi người tham gia, như tình trạng của nhiều ngành cá trên thế giới, thì bất
cứ một mức lợi ích nàocũng sẽ thu hút được những nguời mới miễn là nó cao hơn mức
cần thiết 15.1, phần lợi ích được thể hiện ở khoảng cách giữa đường tổng thu nhập và
tổng chi phí. Miễn là mức lợi ích này là dương, thì sẽ có thêm những htuyền đánh cá
164
mới gia nhập ngành khai thác - đặc biệt là những thuyền đánh cá nước ngoài, đánh cá
trên vùng biển mà một quốc gai có thể coi là của rieeng họ. Việc “cảnh sát” đánh bắt
cá khó bao nhiêu, thì việc những tàu thuyền nước ngoài thâm nhập lại dễ bấy nhiêu.
Nhưng thậm chí tại những nước có sự canh phòng nghiêm ngặt thì vẫn có thể có quá
nhiều cư dân địa phương. Theo như hình (c) thì việc những ngư dân mới tham gia
đánh bắt sẽ chỉ dừng lại ở điểm EOA, nơi mà lợi ích bằng không. Tất cả những thuyền
đánh bắt chừng đó sẽ chỉ thulại lợi ích vừa đủ để tiếp tục hành nghề và không hơn.
Tuy nhiên, nếu có thêm ngư dân vào nữa thì sẽ lỗ. Vì thế một số sẽ phải bỏ nghề. Vậy
điểm EOA là điểm cân bằng vì mọi số lượng tàu thuyền đánh bắt nhỏ hơn tại điểm EOA
đều tạo ra lợi ích và điều đó sẽ hấp dẫn những ngư dân mới, và một nổ lực cao hơn
điểm EOA sẽ dẫn đến thua lỗ và nổ lực sẽ phải giảm xuống. EOA là giải pháp tự do tiếp
cận hay khai thác tự do cho vấn đề quản lý do có khuynh hướng xuất hiện khi không
có quyền sở hữu hoặc khi quyền sỡ hữu không xác định rõ ràng, có nghĩa là không có
người nào làm chủ nguồn cá, hoặc nếu có sự tuyên bố của họ về quyền sở hữu có thể
dễ dàng bị thách thức hoặc lờ đi. Giải pháp khai thác tự do là không có hiệu quả.
Nguồn cá có thể được sử dụng tố hơn bằng cách hạn hcế tham gia và đặt nguồn cá
dưới một sở hữu duy nhất, có thể là một công ty hoặc một tập đoàn. Như vậy thì điểm
EPROF trở nên thích hợp.
Bi kịch về của chung
Chính kiểu phân tích trên đã dẫn đến nhiều nhà bình luận lý luận rằng không
nên cho phép “tham gia tự do “ vào khia thác các tài nguyên có thể tái sinh như cá.
Không phải chỉ vì điều đó là không có hiệu quả như khung 15.1 cho thấy, mà nó còn
tạo nguy cơ tuyệt chủng tài nguyên. Để thấy được điều này, hã xem điểm EOA là điểm
cân bằng gần nhất với điểm nổ lực tối đa. Trên các đồ thị trước đây, chúng ta thấy nổ
lực tối đa trùng với trữ lượng tối thiểu. Nếu chúng ta có một trữ lượng tối thiểu tới hạn
thì có nguy cơ thực sự là nổ lực đánh bắt tối đa sẽ làm cho
Tài nguyên bị tuyệt chủng . Bởi vì giải pháp tự do là gần EMAX nhất, khai thác
tự do dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng lớn nhất. Hơn nữa đường tổng chi phí càng thấp
bao nhiêu tì nguy cơ càng cao bấy nhiêu. Tổng chi phí thấp tức là đánh bắt sẽ tương
đối dễ dàng. Chính vì vậy mà các nguồn cá gần bờ, hoặc trong những vùng biển dễ
đến càng có nguy cơ cao hơn các khu vực khác. Điều đó cũng lý giải được rằng một
165
phần vì sao voi Châu Phi càng tiến gần đến nguy cơ tuyệt chủng: những khẩu súng bắn
nhanh và phương tiện chuyên chở cho việc bắn hạ một con voi để lấy ngà trở nên
tương đối dễ dàng. Có thể nói rằng chi phí trên một con voi rất thấp. Chúng ta có thể
nghĩ đến những biện pháp mạnh để ngăn ngừa, chẳng hạn như chính sách “bắn ngay
khi thấy vi phạm” của một số nước, do đó đường chi phí lại tăng. Tuy nhiên, có một số
yếu tố khác khuyến khích mạnh việc bắn voi là giá ngà voi cao hơn so với chi phí bắn
trộm. Điều đó gợi ý đến một biện pháp khác kiển soát sự săn bắn trộm là giảm nhu cầu
ngà để cho giá cùa nó hạ xuống. Đó là logic của việc cấm buôn bán ngà voi.
Những nguy cơ có liên quan đến giải pháp khai thác tự do thường được nói
ngắn gọn là “Bi kịch về của chung”. Cách diễn đạt này không hay lắm vì từ “của
chung” ám chỉ tới những tài sản chung, tức là những tài nguyên được sở hữu bởi cộng
đồng. Trong khi đó khai thác tự do nói đến một tình trạng không ai làm chủ cả. Vậy
thực ra thì phải nói là “Bi kịch của khai thác tự do”. Mặc dù vậy, điều đó chưa chắc đã
dẫ đến trường hợp khai thác tự do và thậm chí là khi đó cũng không nhất thiết là khai
thác tự do sẽ làm cho nguồn tài nguyên bị tuyệt chủng, nhưng nó còn phụ thuộc vào
chi phí và thu nhập.
Thời gian và chiết khấu
Đồ thị trong khung 15.1 về cơ bản là tĩnh – nó không nói lên điều gì về cách
thức mà thời gian có thề ảnh hưởng đến tình hình. Chương 7 đã giới thiệu đến khái
niệm chiết khấu phản ánh sự kiện lầ chúng ta coi chi phí và lợi ích trong tương lai
không quan trọng bằng chi phí và lợi ích hiện tại. Một đơn vị tiền tệ sau tời gain một
năm có giá trị nhỏ hơn so với một đơn vị tiền tệ hiện tại (loại trừ ảnh hưởng lạm phát).
Chúng ta thường không kiên nhẫn, thích chọn lợi ích hiện tại hơn lợi ích trong tương
lai. Hơn nữa con người trong tương lai có khả năng giàu hơn con người trong hiện tại,
do đó một đồng trong hiện tại có khả năng tạo ra nhiều phúc lợi hơn so vói một đồng ở
thế hệ sau. Cuối cùng còn có vấn đề hiệu suất tư băn: nếu chúng ta đầu tư vào máy
móc thì thời gian nó sẽ tạo ra một chuỗi tiền lãi có giá trị cao hơn chi phí đầu tư. Dù
chúng ta xem xét nó theo quan niệm của việc đánh giá của cá nhân theo thời gian (“lựa
chọn thời gian”), hay nhìn từ góc đồ thị trường vốn (“hiệu suất tư bản”), thì chúng ta
đều chiết khấu tương lai theo một số dương.Suất chiết khấu hết sức quan trọng trong
166
việc xác định tỷ lệ mà theo đó các tài nguyên có thể tái sinh (và có thể cạn kiệt) được
sử dụng. Không đi sâu vào chi tiết, chúng ta có thể trình bày quy tắc cơ bản như sau:
Tốc độ tăng trưởng sinh học + Tốc độ tăng giá trị vốn = Suất chiết khấu.
Tốc độ tăng trưởng sinh học là tốc độ sinh truởng của cá, tức là sự tăng trọng
lượng của trữ lượng cá. Tốc độ tăng trưởng trong giá trị tư bản là khả năng thu được
lợi ích do việckhông thu hoạch cá. Cái lợi này sẽ xảy ra nếu giá cá tăng lên theo thời
gian, cho nên việc để lại cá dưới biển làm cho giảtị của nó tăng thêm.
Điều mà quy tắc này muốn nói là lượng cá cần phải được thu hoạch như thế nào
để theo đúng quy tắc này. Chúng ta hãy xem xét vài con số giả định nhằm minh họa
cho quy tắc đó. Tưởng tượng rằng suất chiết khấu là 10%, tốc độ tăng truởng sinh học
là 3%, giá tăng 5%. Việc chọ lựa là giữa thu hoạch 100 tấn cá hiện tại với 100 đô
la/tấn, hoặc chờ đợi. Những tính toán tương ứng là:
Thu hoạch hiện tại Chờ ( Thu hoạch sau)
Thu nhập $ 10 000 $ 10 800a
Giá trị chiết khấu $ 10 000 $ 9 818b
a Thực tế $ 10 815 bởi vì trữ lượng tăng 3% tức 103 tấn, chúng được bán với giá
105 $/tấn. b $ 9 828 = $ 10 800/1,1
Chờ đợi là không đáng và việc thu hoạch được tiến hành ngay. Nếu suất chiết
khấu cao hơn tổng cộng của phần tự tăng của sản lượng và của tư bản cộng lại, tài
nguyên sẽ được khai thác sớm tốt hơn là muộn. Nếu suất chiết khấu là 6%, các bài
toán được tính lại để có kết quả sau:
Thu họach cá hiện tại Chờ (Thu hoạch sau)
Thu nhập $ 10 000 $ 10 800
Giá trị chiết khấu $ 10 000 $ 10 189
167
Bây giờ chờ đợi là có lợi vì suất chiết khấu thấp hơn tăng sinh học và tăng tư
bản cộng lại.
Cuối cùng nếu tốc độ chiết khấu vừa bằng tổng mức tăng trưởng sinh học và
tăng tư bản, giá trị chiết khấu tính cho khai thác hiện atị hay chờ một thời gian sẽ bằng
nhau. Như vậy thì, nếu suất chiết khấu trong ví dụ trên là 8%, giá trị của việc khai thác
thực hiện sau sẽ là $ 10 000, cũng bằng với giá trị chiết khấu của khai thác hiện tại.
Tại sao suất chiết khấu lại quan trọng và nó có liên quan như thế nào đến vấn đề
bảo tồn ? Các ví dụ cho thấy nếu suất chiết khấu của người sử dụng tài nguyên rất cao,
hoặc chỉ đơn giản là cao so với tốc độ tăng trưởng sinh học của cá, thì người ta sẽ co
khuynh hướng khai thác ngay hơn là chờ. Hơn nữa suất chiết khấu cao dẫn tới việc
khai thác quá mức và điều đó tạo ra nguy cơ tuyệt chủng hoặc bên bờ tuyệt chủng,
chúng ta sẽ dễ dàngnhận thấy rằng chúng là loại phát triển chậm, có nghĩa là chúng
không thể sinh sản một cách tự nhiên ở một tốc độ rất nhanh. Voi và cá voi là những ví
dụ tiêu biểu. Nhưng điều đó có nghĩa rằng tốc độ phát triển sinh học của chúng có khả
năng thấp hơn suất chiết khấu và do đó chúng có nguy cơ bị khai thác quá mức.
Một vài ví dụ của việc khai thác quá mức
Nguồn cá ở Đông Nam Á
Việc đánh bắt cá quá mức ở vùng Đông Nam Á ( chủ yếu là các nước Thái Lan,
Singapore, Indonesia, Philippiné, Malaysia và Brunei) có nhiều bằng chứng rõ ràng.
Lượng cá đánh bắt được trên mỗi đơn vị nổ lực đánh bắt có sự suy giảm rõ rệt từ năm
1961, giảm ít nhất 10 lần so với phần lớn các chủng loại. Các cuộc nghiên cứu cho
thấy 60-70% mức suy giảm trọng lượng cá đánh bắt được là do nổ lực khai thác. Hầu
hết việc đánh bắt được thực hiện bởi một số lượng rất lớn các thuyền rà lưới loại nhỏ
với các lưới rà có kích cỡ mắt lưới nhỏ, có nghĩa là chúng ta đã bắt rất nhiều cá đang
còn nhỏ. Khung 15.2 biểu diễn một cách rõ ràng về cách thức trong nổ lực đánh bắt cá
ở ven biển và ngoài khơi Philippines được di chuyển xung quanh đường cong tăng
trưởng như đã giới thiệu ở phần trước. Vượt xa điểm lợi ích kinh tế tối đa và hướng tới
điểm cân bằng khai thác tự do hiệu quả. Kết quả là sự tiêu hao lợi nhuận trong đánh
bắt cá dẫn đến thu nhập trungbình của ngư dân thấp đi. Gia tăng rất lớn về lợi nhuận
có thể được thực hiện bằng việc hạn chế nổ lực đánh bắt như đã xảy ra ở nhiều nước
trên thế giới. Một số cấm đoán cũng có được áp dụng ở một số vùng. Năm 1976 một
168
lệnh cấm bắt được ban hành ở vùng biển Nam Samar, và ở Indonesia lệnh cấm đánh
lưới rà được ban hành năm 1980.
Hình (a) và (b) môt tả các mức đánh bắt thực tế, thu nhập và chi phí trong ngành
đánh cá biển sâu ở Philippines. Sản lượng đánh bắt thể hiện ở trục tung (tấn) và “nổ
lực đánh bắt” được tính bằng mã lực của đội tàu thuyền. Các điểm trình bày theo
những năm cụ thể, chẳng hạn 1965, 1970...Như vậy, vào năm 1960 sản lượng đánh
bắtlà 300.000 tấn/năm với khoảng 100.000 mã lực. Đến cuối những năm 1970 việc
đánh bắt đã tới vùng MSY - khoảng 500.000 tấn với 300.000 mã lực. Tới năm 1985,
việc đánh bắt đã đạt đến điểm khai thác tự do, sản lượng giảm xuống dưới 500.000 tấn
với 500.000 mã lực (HP) gấp 5 lần nổ lực của năm 1960. Chi phí và thu nhập hầu như
bằng nhau, có nghĩa rằng lợi nhuận bằng không. Sau 19985, nổ lực mở rộng thậm chí
đến dưới mức khai thác tự do, thu nhập thấp hơn chi phí.
Nguồn: D. Pauly và C. Thia-Eng (1988)
Công nghiệp lông hải cẩu ở Bắc Thái Bình Dương
Vào thến kỷ 19 việc săn bắt một số lượng lớn hải cẩ lông dày ở vùng Bắc Thái
Bình Dương xả ra trong thời kỳ di trú của hải cẩu dọc theo bờ biển châu Mỹ dọc theo
eo biển Bering. Tài nguyên trở thành loại khai thác tự do vơi những chiếc tàu đánh cá
từ Hoa Kỳ, Canada, Nhật và Anh. Vào những năm 1980, chúng đã bị săn bắt dữ dội,
và sau đó việc khai thác suy giảm và nhiều công ty phải đóng cửa. Những cố gắng
khác nhau nhằm hạn chế việc đánh bắt đã được thực hiện, kết thúc bằng một hiệp ước
được ký kết năm 1911 quy định mức đánh bắt (Hiệp ước đó còn tồn tại cho đến ngày
nay). Ngành công nghiệp này là một điển hình cho điều gì sẽ xảy ra từ tình trạng khai
thác tự do. Như chúng ta đã thấy, sự khai thác tự do có thể dẫn đến nguy cơ tuyệt
chủng. Mặt khác, có những động cơ kinh tế trong tình trạng khai thác tự do dẫn đến
một phương hướng đưa ra một sở hữu công cộng bằng cách cùng nhau quy định việc
đánh bắt. Vấn đề đặt ra là, ngành công nghiệp này có thể dẫn đến mức tuyệtchủng tài
nguyên không, hay nó đang hướng tới sự tự điều chỉnh bằng hình thức sở hữư công
cộng.
Một mô hình “kinh tế sinh học” cho ngành công nghiệp này đã được xây dựng
bởi các nhà nghiên cứu (Paterrson và Wilen, 1977) trình bày những điều kiện để một
169
công ty có thể tham gia hoặc rút khỏi ngành khai thác cá. Về cơ bản, nếu có lợi nhuận
thì người ta sẽ tham gia. Nếu thua lỗ, các công ty sẽ rút lui. Bằng cách đưa vào các dữ
kiện về giá cả và sử dụng số lượng tàu đánh cá để tính đến nổ lực, trữ lượng “ổn định”
của hải cẩu (tức là trữ lượng bền vững lâu dài) được ước lượng khoảng 580.000 con,
với một sản lượng tối đa ổn định là khoảng 75.000 con. Trên thực tế, trữ lượng hải cẩu
vào năm 1867 có trên 1.500.000 con, giảm xuống dưới 400.000 con vào năm 1897 và
sau đó phục hồi đôi chút cho đến năm 1900. Mô hình cho thấy tốc độ đánh bắt thực sự
dao động giữa trữ lượng kinh doanh tối ưu và mức đánh bắt. Nói một cách khác, mặc
dù có một tình trạng khai thác tự do, vấn đề sinh tồn của hải cẩu ở biển Bắc Thái Bình
Dương có thể đã không thành vấn đề. Nhhư khung 15.1 đã dự đoán, có một số tình
trạng khai thác tự do nhưng không dẫn đến kết quả tuyệt chủng. Tuy vậy, mối nguy cơ
là có thực, và ít nhất thì số phận của ngành khai thác này đã tạo ra chia rẽ chính trị sâu
sắc giữa các nước đánh bắt loại cá này. Cuối cùng, Hiệp định về hải cẩu lông dày Bắc
thái bình dương 1911 đã giứoi hạn việc khai thác và thực sự biến Hoa Kỳ là “ông chủ
duy nhất” của nguồn tài nguyên này. Khung 15.1 cho thấy rằng sở hữu chủ duy nhất sẽ
bảo tồn tài nguyên vì nó tạo ra lợi ích, trong khi khai thác tự do laị có nguy cơ tuyệt
chủng. Vậy tại sao các nước khác lại cho phép Hoa Kỳ trở thành ông chủ thực sự? Câu
trả lời vì sở hữu chủ duy nhất có khả năng tạo lợi ích. Hoa Kỳ đã có khả năng bồi
thường và hiện vẫn còn bồi thường cho các nước káhc về việc từ bỏ quyền khai thác
của họ.
170
Cá voi xanh
Cá voi xanh là động vật lớn nhất thế giới. Chỉ điều này thôi đã giả thích cho
những cố gắng mà người ta đã bỏ ra để bảo vệ nó sau khi có sự sát hại đại trà, đặc biệt
giữa 1928 và 1938 khi mà sản lượng săn bắn ở mức 26.000 con/năm. Bảng sản lượng
săn bắt như sau:
1910-1919 26.819 cho một thập kỷ
1920-1929 61.217
1930-1939 170.427
1940-1949 46.149
1950-1959 35.948
1960-1969 7.434
1970-1979 23
1980-1991 0
Trước khi có sự khai thác của con người có thể đã có 220.000 cá voi xanh ở
Nam bán cầu và 8.000 ở Bắc bán cầu. Những ước lượng hiện nay cho rằng số lượng cá
voi còn lại ở hai vùng nói trên là 11.000 và 3.000. Một số tác giả khác còn cho rằng
sản lượng đánh bắt tối đa ổn định khoảng 9.900 con mỗi năm, một con số mà rõ ràng
là trong thời gian 1930-1939, việc khai thác đã vượt quá, bình quân hàng năm khai
thác khoảng 17.000 cá voi.Sau khi tính toán chi phí săn bắt , và giá trị thương mại của
thịt, đầu.v..v. thì một sản lượng đánh bắt tối ưu (về mặt thương mại) có thể là 9000 con
trong một năm, miễn là trữ lượng cá được cho phép đạt tới mức tối ưu là 67.000 con.
Điều này chỉ có thể làm được bằng cách ngưng đánh bắt hoàn toàn cá voi xanh cho
đến khi đạt đến mức trữ lượng là 67.000. Ta có thể đem so sánh con số 67.000 đó với
số lượng cá voi xanh tồn tại hiện thời là 14.000 hoặc thấp hơn nữa.
Việc phân tích như trên thật là thú vị vì nó cho thấy rằng trên cơ sở thương mại
thuần tuý, thì mức khai thác cá voi xanh đã không tối ưu. Sự đánh bắt có khuynh
hướng thể hiện một giải pháp khai thác tự do hơn là đạt được tình trạng tối đa lợi ích.
Tuy nhiên nếu nhìn nhận giá trị khoa học của cá voi xanh và “giá trị tồn tại của
chúng”, rõ ràng rằng sự phân tích thương mại dù sao cũng đưa ra quy định một mức
trữ lượng quá thấp.
171
Quyền sở hữu tài sản và việc quản lý các tài nguyên có thể tái sinh
Có những ý kiến rộng rãi cho rắng sự quản lý công cộng các tài nguyên tự nhiên
sẽ thất bại vì nó khuyến khích ăn theo, tức là người ta sẽ cố gắng tạo lợi ích riêng mà
không đóng góp vào việc kiểm soát tập thể nguồn tài nguyên này. Tuy nhiên việc quản
lý cộng đồng có thể thực hiện được nếu “tập thể” có thể có được có sự bảo đảm, nghĩa
là những người khác sẽ tuân theo những quy tắc quản lý và bảo tồn chung nếu như
chúng ta làm điều đó. Bởi vì sụ khai thác tự do tạo ra nguy cơ của sự tuyệt chủng và sở
hữu công cộng cũng có thể thất bại, có người cho rằng tư nhân hoá là một giải pháp
cho việc sử dụng những tài nguyên không hiệu quả và sự kiểm soát của nhà nước là
giải pháp duy nhất thứ hai có thể thực hiện được.
Khung 15.3 trình bày 4 loại chế độ quản lý tài nguyên dựa trên các đặc tính về
quyền hạn, trách nhiệm và những đặc lợi. Quyền sở hữu tài sản là quyền được hưởng
một số lợi ích, và quyền lợi đó chỉ được bảo đảm khi những người khác làm bổn phận
của họ đối với quyền này. Quyền đó cũng được bảo vệ để khỏi bị nguời khác tranh
chấp, bởi những người này có trách nhiệm phải tôn trọng những quyền đó. Mặt khác,
đặc quyền là được quyền sử dụng mà không có quyền lợi nào đi kèm và có thể thực thi
vì những người khác cũng không có quyền gì: đây là trường hợp khai thác tự do.
Chúng ta hãy khảo sát một cách ngắn gọn những khă năng áp dụng các quyền
sở hữu khác nhau để quản lý
Các tài nguyên có thề tái sinh (và những tài nguyên khác).
Khung 15.3 – Các chế độ quản lý tài nguyên
Sở hữu nhà nước: Mọi người có trách nhiệm tuân theo những quy tắc sử dụng
tài nguyên do cơ quan kiểm soát Nhà nước xác lập. Cơ quan kiểm soát có quyền xác
định các quy tắc.
Sở hữu tư nhân: Cá nhân có quyền sử dụng theo cách mà xã hội chấp nhận và có
trách nhiệm kiềm chế đối với những sử dụng không được chấp nhận. Những người
khác có trách nhiêm tôn trọng quyền sở hữu cá nhân của mỗi người.
Sở hữu cộng đồng: Một nhóm quản lý có quyền loại trừ những người không
phải là thành viên. Những người không phải thành viên có trách nhiệm tuân theo
những quyết định loại trừ này. Các đồng sở hữu chủ lập thành một nhóm quản lý và có
quyền lợi cũng như trách nhiệm đối với các việc sử dụng các tài nguyên.
172
Sự khai thác tự do: Không xác định người sử dụng và người sở hữu. Mỗi người
đếu có đặc quyền, nhưng không có quyền sở hữu trong việc sử dụng tài nguyên.
Cách phân loại trên đây cho thấy những hình thức khác nhau của chế độ quản lý
tài nguyên. Cả việc khai thác tự do (không có sở hữu chủ) lẫn sở hữu cộng đồng đều
có thể có rủi ro trong việc bảo tồn tài nguyên. Nhưng sự khai thác tự do cũng không tất
yếu dẫn đến việc sử dụng quá mức và các chế độ sở hữu cộng đồng có thể rất thành
công trong việc quản lý các tài nguyên có khả năng tái sinh một cách bền vững. Sở
hữu cá nhân có khả năng bảo tồn tài nguyên trừ khi chiết khấu của chủ sở hữu cao
(xem bài).Sở hữu nhà nước có thể bảo tồn tài nguyên - điều này phụ thuộc rất nhiều
vào các động cơ của nhà nước và khả năng của họ trong việc kiểm soát tài nguyên.
Tư hữu hoá
Một biện pháp chính sách thường được nhắc đi nhắc lại nhiều lần để giải quyết
vấn đề sử dụng quá mức tài nguyên do việc khai thác tự do và sở hữu cộng đồng là tư
nhân hoá. Biện pháp này có thể có nhiều hình thức, một trong những hình thức đó là
nhà nước trao giấy chứng nhận quyền sở hữu đất, cùng với việc thực hiện quyền này
bởi các cấp có thẫm quyền. Có quyền sử dụng đất mà không thực thi thì hoàn toàn vô
nghĩa. Quyền sở hữu đất có giấy tờ xác nhận thường cần thiết trong trường hợp sở hữu
chủ có thể bị đe doạ bởi những người ngoài muốn tranh chấp về đất hoặc trường hợp
miếng đất được cải thiện và đưa đến tăng giá trị của đất, điều đó như một thanh nam
châm đối với những kẻ đầu cơ đất. Thiếu sự bảo đảm quyền sở hữu đất có thể dẫn đến
nhiều hình thức không chắc chắn và góp phần làm suy giảm tài nguyên. Thứ nhất, chủ
đất không thấy được giá trị của việc cải tạo đất, do đó sẽ có ít động cơ thúc đẩy họ đầu
tư có tính chất dài hạn vào việc bảo tồn đất, cũng là bảo vệ môi trường. Hai là nếu giá
đất tăng, thì những người có đất không thể cưỡng lại việc bán đất hco những kẻ đầu cơ
đất hoặc những kẻ giàu có, nhiều thế lực hơn. Nhóm người này thậm chí còn ít quan
tâm hơn đến việc bảo vệ đất, có lẽ vì mua đất chỉ để đối phó với việc lạm phát hoặc để
được giảm thuế. Thứ ba là, có quyền sở hữu chắc chắn giúp ngnười chủ sở hữu có thể
vay vốn ở ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác. Không có quyền sở hữu chắc
chắn nghĩa là người chủ đất không có gì để thế chấp được với định chế tín dụng.
173
Vì những lý do trên và cả những lý do khác nữa, một trường phái tư tưởng cho
rằng “tư hữu hoá” là giải pháp thực sự duy nhất đối với những nguy cơ môi trường
gây ra bởi chế độ khai thác tự do và sở hữu cộng đồng. Một số còn đi xa hơn nữa, và
lập luận rằng trong nhừng xã hội mà ấp lực về dân số thâp thì không cần phải cấp độc
quyền cho những vùng đất không bị một áp lực bức bách. Cũng không cần luật về mua
bán đất vì đất đai ở đây trong tình trạng cung cấp dư thừa. Khi dân số gia tăng thì các
áp lực lên các tài nguyên cho đến nay vẫn được kahi thác tự do có thể đưa đến sự tăng
cường những quy định và thoả thuận về sử dụng tài nguyên vầ kết quả là các tài
nguyên khai thác tự do biến thành tài nguyên thuộc quyền sở hữu công cộng , không
chỉ đối với đất hiện tượng đó mới xảy ra. Vì thế giới đã nhận ra mối đe doạ của sự suy
giảm của tầng ozone, nó đòi hỏi tìm cách làm giảm tình trạng đó và sau đó đã cấm
clorofluorocarbones (CFCs), nguyên nhân gây ra suy giảm tần ozone. Chúng ta có thể
nghĩ về trường hợp này như là một trường hợp chuyển đổi một tài nguyên khai thác tự
do sang tài nguyên sở hữu cộng đồng.
Tuy nhiên, tư nhân hoá rất khó làm đối với nhều tài nguyên. Tầng ozone lại là
một ví dụ tốt và bầu khí quyển cũng vậy. Hơn nữa, việc tư nhân hóa có thể dẫn đến
những vấn đề khác ở chỗ chủ nhân có thể chẳng cần biết đến những ảnh hưởng ngoại
tác tác động lên những người khác. Như vậy, khuôn mẫu tư nhân hóa không phải là
một phương cách “tối ưu” nhìn dưới quan điểm xã hội vẫn cần phải đến luật lệ.
Sở hữu nhà nước
Thoạt nhìn, sở hữu nhà nước về đất đai và các tài nguyên thiên nhiên phải “giải
quyết” được “bi kịch chung”. Vì những ảnh hưởng ngoại tác trong việc sử dụng quá
mức những tài nguyên chung được nội hoá sang một người chủ duy nhất, đó là nhà
nước. Nhưng để sở hữu nàh nước hoạt động có hiệu quả, nhà nước cần có khả năng
giám sát việc dử dụng các tài nguyên, xây dựng những luật lệ về sử dụng có thể chấp
nhận được bởi những cá nhân và cộng đồng thực thi những luật lệ đó. Đặc biệt việcnày
không xảy ra với sở hữu nàh nước. Chương 6 đã giải thích vì sao nhà nước thường bị
tác động bởi những yếu tố khác hơn là lợi ích của quần chúng - chúng ta sẽ không đi
sâu về vấn đề đó trong chương này.
174
Quản lý cộng đồng
Nhiều người cho rằng cộng đồng địa phương hiểu môi trường sống của họ nhất
vì thế họ có khả năng tốt nhất để quản lý các tài nguyên một cách bền vững. Những
kinh nghiệm thực tế có khuynh hướng ủng hộ cả những người ủng hộ lẫn những nguời
phản đối chế độ quản lý cộng đồng. Những lý do thất bại của mô hình quản lý cộng
đồng rất khác nhau và không tất yếu phát sinh từ “bi kịch của sở hữu cộng đồng”, tức
là từ sự xung đột giữa mục tiêu cá nhân và mục tiêu cộng đồng. Một số nhân tố tác
động đến hoạt động quản lý cộng đồng bao gồm:
(a) Sự gia tăng dân số - việc này đặt sức ép hiển nhiên lên hệ thống cộng đồng
khi số lượng đất đai họên có phải chia coh số lượng người gia tăng. Điều đó cũng xảy
ra cho các tài nguyên khác: khi dân số tăng thì nhu cầu, ví dụ các nguồn năng lượng
dẫn đến tác nhân ô nhiễm gia tăng , chẳn hạn khí CO2. Việc này sẽ làm “cạn
kiệt” khả năng hấp thụ những chất gây ô nhiễm đó của khí quyển. Mặc dù chế độ quản
lý cộng đồng có thể tồn tại, thí dụ thông qua một số hội nghị quốc tế, sự gia tăng dân
số nhanh chóng có thể làm cho các quốc gia rất khó khăn trong việc tực hiện đúng mọi
hiệp ước họ đã ký kết.
(b) Kỹ thuật - việcnày có thể gây ra lạm dụng quá mức, như đối với việc sử
dụng kỹ thuật cưa xích ở rừng Amazone và những khẩu súng bắn nhanh để ăn trộm
voi Phi châu. Nhưng những dữ kiện này cũng không nhất quán.
Tuy vậy, quản lý cộng đồng có thể thành công . Một nghiên cứu ở 41 ngôi làng
ở Nam Ấn độ cho thấy các làng vẫn cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng mà
không có sự quy định nào bên ngoài của nhà nước (Wade, 1986), những người dân tổ
chức quỹ thường xuyên của chính họ, khác với những khoản tiền cảu nàh nước địa
phương, duy trì những người bảo vệ của làng để bảo vệ mùa màng và trả lương cho
những người “thuỷ nông”, những người thực hiện phân phối nước cho những cánh
đồng lúa. Các làng này cũng tổ chức học tập, sữa chửa giếng nước, giải thoát làng khỏi
nạn khỉ v.v...Nbhững con bò đực và trâu để kéo cày, nhưng các làng không có những
khoảng đất chung cho chúng, vì vậy gia súc ăn cỏ gần bên những cánh đồng trong mùa
vụ, và việc cho đàn gia súc ăn được kiểm soát nghiêm ngặt bởi những nguời bảo vệ
cánh đồng. Một con gia súc bị phát hiện ăn cỏ trên ruộng sẽ “bị bắt” và chủ của nó sẽ
phải nộp phạt để cho nó được thả ra. Cuối vụ thu hoạch, các gốc rạ trở thành tài sản
175
chung cho sử dụng chăn nuôi. Nhưng việc sử dụng tài sản chung này được diều khiển
bởi thỏa thuận giữa hội đồng xã và người chăn dắt, thậm chí cả việc cắt đặt gia súc vào
từng khu đất vào ban đêm để lấy phân bón. Những gì người chăn nuôi phải trả cho
làng để gia súc của họ được ăn cỏ trong khoảng đất chung sẽ được trả lại bằng tiền
phân bón mà họ cung cấp cho cánh đồng. Có những quyết định chi tiết và rộng rãi đối
với chăn nuôi.
Một hình thức quản lý tương tự áp dụng cho việc tưới tiêu nước, một nguyên
nhân xung đột đáng kể. Các nhà thuỷ lợi của cộng đồng quyết định nước sẽ được phân
phối như thế nào. Mỗi cánh đồng có quyền được “tưới đầy đủ” để cho không có người
sử dụng cuối dòng nào phải chịu bất lợi bởi những nông dân sống ở gần nguồn tưới
tiêu hơn. Động lực trong những vấn đề nói trên về quản lý cộng đồng chặt chẽ là gì?
Động lực chính dường như là mức lợi ích tập thể. Tức là vẫn còn tồn tại một số trường
hợp muốn bỏ, muốn “ăn chùa – ăn theo không trả tiền”, nhưng các viên chức trong
làng dành phần lớn thời gian và sức lực cho thấy rằng số người trở lại với cách quản lý
tập thể là cao hơn nhiều. Hơn nữa một hệ thống phạt vạ việc xé rào được thực hiện từ
trong cộng đồng hơnlà bên ngoài. Công trình nghiên cứu này cho thấy rằng những
người dân làng quản lý tài nguyên vì tài nguyên của họ có nhu cầu rất lớn. Nếu họ
không bảo vệ chúng một cách tập thể họ sẽ thiệt hại lớn.
Kết luận
Các tài nguyên có khả năng tái sinh hầu hết đang ở mức báo động của việc sử
dụng quá mức thậm chí tuyệt chủng trong điều kiện khai thác tự do và không có các
quyền sở hữu. Những điều kiện đó thường được nói đến như là những tình trạng “bi
kịch của chung”. Thuật ngữ này thật không hay bởi từ “chung” nói đến những của cải
chung, tức là các tài nguên được sở hữu bởi một cộng đồng và không để cho mọi
người khai thác tự do. Sự quản lý có hiệu quả ác tài nguyên có thể tái sinh đòi hỏi một
chế độ quản lý dựa trên quyền sở hữu nhà nước về tài nguyên. Cả hai đểu có vấn đề
đối với nhiều tài nguyên môi trường. Điều đó dẫn đến nhiều người cho rằng sự quản lý
cộng đồng các tài nguên là phương thức tốt nhất để có được việc sử dụng bền vững.
Những bằng chứng thực tế của các hệ thống quảnlý tài nguyên theo cộng đồng địa
phương như vậy thường là không nhất quán nhưng không phải là hoàn toàn bât lợi.
176
Khi nào và nếu mức lợi ích tập thể thu được từ việc quản lý cộng đồng nghiêm ngặt
còn lớn, thì cộng đồng sẽ là sao để bảo vệ quy định sử dụng bền vững còn tuân theo.
177
CHƯƠNG 16
TÀI NGUYÊN KHÔNG TÁI SINH
Giới thiệu
Trong chương này ta chuyển chú ý đến nguồn tài nguyên không tái sinh. Đặc
tính riêng biệt của nguồn tài nguyên như thế là tổng số trữ lượng cố định và do đó
ngày nay càng khai thác và sử dụng nhiều thì trong tương lai càng ít đi. Khái niệm sản
lượng bền vững không phù hợp với nguồn tài nguyên này, và thay vào đó các câu hỏi
chủ yếu cần được trả lời liên quan đến tốc độ các tài nguyên này cạn kiệt dần và số
lượng tài nguyên nên khai thác. Nhưng trước khi chúng ta xem xét các nguyên tắc kinh
tế của việc sử dụng tài nguyên không tái sinh, chúng ta cần nghiên cứu kỹ khái niệm
khan hiếm tài nguyên thiên nhiên và cách đo lường sự khan hiếm đó.
Khả năng có sẵn sự và sự khan hiếm tài nguyên
Trong thuật ngữ kinh tế đơn giản, sự khan hiếm sẽ được phản ánh bằng chi phí
và giá cả. Trong thực tế việc đo lường và dự đoán khả năng có sẵn và sự khan hiếm
của tài nguyên môi trường hiện nay và tương lai thật phức tạp. Việc đó đòi hỏi phải kết
hợp khoa học vật lý, kho học kyư thuật nguyên vật liệu và dữ liệu, phương pháp và kỹ
thuật kinh tế. Đem đối chiếu các trữ lượng tài nguyên tiềm năng của các tìa nguyên
không tái sinh với tốc độ sử dụng tài nguyên trong tương lai (gắn với sự gai tăng dân
số, tiến bộ kỷ thuật, khả năng kinh tế và xã hội v.v...) rõ ràng vẫn là một việc làm
không chắc chắn. Do đó việc “tranh luận về sự khan hiếm” sẽ tiếp tục là một phần của
vấn đề ý thứ hệ môi trường (chúng ta đã phác thảo các luận điểm khác nhau của chủ
nghĩa sinh thái trung tâm và công nghệ trung tâm ở chương 2.
Quan điểm “các giới hạn về tăng trưởng” (LTG-limits to growth) mà chúng ta
đã xem xét ở Chương 3 gắn liền gắn liền với điều chúng ta gọi là triển vọng Malthus
(theo tên của Malthus người có bài viết nổi tiếng về sự khan hiếm được xuất bản năm
1798. Từ triển vọng này, sự khan hiếm vật chất tuyệt đối (tức là cạn kiệt nguồn tài
nguyên) được tiên đóan có thể hậu quả xảy ra nhất trong tương lai gần và trung hạn.
Một luận điểm của liên hệ của học thuyết tân Malthus nhấn mạnh sự quan trọng của
các giới hạn môi trường đối với các hoạt động khai thác tài nguyên có chất lượng
(phẩm cấp) càng ngày càng thấp hớn sẽ đòi hỏi một số lượng rất lớn của năng lượng
178
và sẽ tạo một mức độ ô nhiễm không thể chấp nhận được và làm tổ hại đến phong
cảnh và tiện nghi con người.
Với quan điểm đối lập lại của Ricardo (sau khi tác phẩm của Ricardo được xuất
bản năm 1817) một bức tranh lạc quan hơn nhiều về sụkhan hiếm tài nguyên nổi lên.
Các ảnh hưởng của sự cạn kiệt tài nguyên sẽ biểu hiện ở việc tăng chi phí và giá
nguyên vật liệu theo thời gian khi các công ty khai thác buộc phải khai thác các mỏ tài
nguyên phẩm cấp tương đối thấp. Tuy nhiên, những ảnh hưởng này sẽ được bù trừ bởi
những yếu tố khác. Các công ty khai thác sẽ đặt nhiều nổ lực về sự thăm dò và khám
phá những mỏ mới và các tiến bộ công nghệ cho phép sử dụng mỏ như thế (ví dụ các
phương pháp khoan, khai thác hiệu quả hơn là các phương pháp chế biến mới để nâng
cao chất lượng tài nguyên).Ngoài ra, thị trường sẽ phản ứng lại đối với các tín hiệu
tăng chi phí/giá cả bằng cách khuyến khích cho sự thay thế (nguyên vât liệu mới
và/hoặc cách thức mới về sử dụng tài nguyên vật liệu),cách dùng tài nguyên hiệu quả
hơn và tăng các hoạt động tái sử dụng phế liệu.
Với các quan điểm khác nhau này, có bằng chứng những gì liên quan đến sự
khan hiếm tài nguyên?
Một số bằng chứng liên quan sự khan hiếm tài nguyên:
Các chỉ thị khan hiếm vật chất
Những đo lường vật lý của sự khan hiếm có thể tính toán bằng cách kết hợp số
liệu địa lý về trữ lượng các khoáng sản hoặc năng lượng với vài dự đoán nhu cầu cho
những nguồn tài nguyên này. Nhưng các ước tính quy mô của trữ lượng tài nguyên
không tái sinh được điều chỉnh thường xuyên. Cơ Quan Điều Chất Hoa Kỳ đưa ra các
ước tính quốc gia và toàn cầu về trữ lượng và trữ lượng tiềm năng của các khoáng sản.
Hệ thống phân loại 1972 của cơ quan này (được biết như hộp MeKelvey) được chấo
nhận rộng rãi nhất và phân biệt rõ ràng giữa trữ lượng và nguồn tài nguyên. Loại trữ
lượng bao gồm các khoáng sản xác định về mặt địa chất mà có thể khai thác một cách
kinh tế và được phân thành nhóm trữ lượng đã được xác định, trữ lượng có khả năng,
và trữ lượng có thể , trên cơ sở sự chắc chắn về địa chất. Tất cả các mỏ khai thác được
gọi là nguồn tài nguyên, hoặc vì chưa được khám phá hoặc vì sự khai thác không khả
thi (các vấn đề khó khăn về kinh tế và kỷ thuật đang ngăn cản sự khai thác). Loại tài
nguyên này được chia thành các nhóm cận biên tế và dưới biên tế. Nhóm cận biên tế là
179
nhóm tài nguyên có thể khai thác với giá cao gấp 1,5 lần mức giá hiện hành và nhóm
dưới biên tế là nhóm tài nguyên không thể khai thác ngay cả giá cao hơn này. Năm
1976, một bản phân loại MeKelvey được xuất bản và chúng ta xem xét này ở khung
16.1
Mục đích cơ bản của hệ thống Mekelvey là trợ giúp cho việc hoạch định dài hạn
bằng cách kết hợp các thông tin về khả năng có thể khám phá các kháng sản mới, về
sự phát triển quy trình khai thác kinh tế cho các khoáng sản không thể khai thác hiện
nay và các khoáng sản đã biết có thể khai thác ngay. Như thế các tài nguyên liên tục
được đánh giá lại trên cơ sở kiến thức địa chất mới, tiến bộ khoa học kỷ thuật và sự
thay đổi các điều kiện kinh tế và chính trị. Vì thế cho nên, nguồn tài nguyên đã được
biết, phânlloại trên cơ sở của hai dạng thông tin: các tính chất vế địa địa chất hoạc vật
lý/hoá học (phẩm cấp, chất lượng, trọng tải, độ dày và độ sâu của nguyên vật liệu ở địa
điểm mỏ); và khả năng sinh lợi về mặt tài chính dựa trên chi phí khai thác và tiếp thị ở
một thời điểm nhất định.
Khung 16.1 Biểu đồ dạng hộp Mekelvey: Tài nguyên và các vùng đất mỏ
Đã được xác định Chưa được khám phá
Được chứng minh
Được suy ra
Giả định
(các vùng đã
biết)
Suy đoán
(các vùng
chưa được
khám phá
Được đo lường Đượcc hỉ báo
LƯỢNG TRỮ KINH TẾ
Dưới kinh tế
NGUỒN TÀI
NGUYÊN
Tăng mức độ của tính khả thi về kinh tế (giá cả, chi phí, công nghệ)
Tăng mức độ chắc chắn về mặt địa chất (thành phần hóa học, độ tập trung, định hướng và phạm vi các khoáng sản cộng với các hạn chế)
180
Nguồn: Bản Điều Tra Địa Chất Hoa Kỳ 1450-A (1976)
- Tài nguyên ban đầu - số lượng của một tài nguyên trước sản xuất.
- Tài nguyên xác định - những tài nguyên mà địa điểm, phẩm cấp, chất lượng và số
lượng cảu chúng được biết hoặc được ước tính từ chứng cứ địa chất cụ thể. Loại này bao
gồm các thành phần: kinh tế và dưới kinh tế có thể được chia nhỏ dựa vào các lý do chắc
chắn về mặt địa chất thành các nhóm đã đo lường (đã chứng minh được), được chỉ báo
(có khả năng cao), được suy ra (có thể có).
- Tài nguyên đã được chứng minh – đã đuợc đo lường cộng với đã được chỉ báo.
- Được đo lường – quy mô, hình dạng, độ sâu và hàm lườngnj khoáng sản các nguồn tài
nguyên được xác lập rõ.
- Được chỉ báo - số lượng địa chất không đầy đủ như số lượng tài nguyên được đo lường
nhưng vẫn có thể đủ tốt để ước tính quy mô, hình dạng, v.v, các đặc tính của khoáng sản.
- Được suy ra – tính liên tục được giả thiết cho số liệu, các ước tính không được hổ trợ
bởi mẫu và đo đạc.
- Cơ sở trữ lượng - bộ phận của nguồn tài nguyên đã được xác định thoả mãn các tiêu
hcuẩn tối thiểu về vật lý và hoá học đã được định trước liên quan đến việc khai thác mỏ
hiện nay và thực tiễn sản xuất, bao gồm những tiêu chuẩn về phẩm cấp, chất lượng độ
dày và chiều sâu. Cơ sở trữ lượng này là nguồn tài nguyên đã được chứng minh ở địa
điểm, trữ lượng được ước tính từ nguồn tài nguyên được chứng minh này. Căn cứ trữ
lượng bao gồm nguồn tài nguyên là trữ lượngkinh tế hiện tại, kinh tế biên tế giới hạn và
một số hiện tại là dưới kinh tế.
- Trữ lượng - bộ phận của cơ sở trữ lượng có thể khai thác hoặc sản xuất một cách kinh
tế ở thời điểm xác định.
- Tài nguyên không được khám phá - sự tồn tại của tài nguyên này chỉ được giả định là
có thật gồm các khoáng sản tách biệt khỏi các tài nguyên đã xác định rõ.
- Tài nguyên giả định – tài nguyên chưa được khám phá tương tự như các khối thể
khoáng sản đã nhận biết và có khả năng tồn tại hợp lý trong cùng khu vực đang sản xuất
hoặc trong vùng cod điều kiện địa chất tương tự.
- Tài nguyên suy đoán - những tài nguyên chưa được khám phá, có thể xảy ra hoặc ở các
loại mỏ được nhận biết trong các lớp địa chất thuận lợi, nơi đây khoáng sản chưa được
khám phá, hoặc ở loại mỏ cho đến ngày nay chưa được nhận biết tiềm năng kinh tế.
Có khả năng mở rộng nữa cuả hộp bằng cách bao gồm thêm nguyên vật liệu thứ
cấp (tái sử dụng). Loại trữ lượng này bao gồm trữ lượng phế liệu tái sử dụng (xem
chương 1 và chương 18) và loại tài nguyên bao gồm chất thải rắn đô thị dạng lớn xác
mà cho đến ngày nay vẫn chưa được sử dụng.
181
Các nhà bi quan về sự khan hiếm tài nguyên có khuynh hướng dùng các tính
toán được gọi là trữ lượng tĩnh để hổ trợ cho lập luận của họ. Loại tính toán này chỉ
được sử dụng nhữg số liệu về trữ lượng đã được xác minh (ước tính khả năng cung cấp
“thật sự” hoặc nguồn tài nguyên rốt cuộc có thể khai thác) và kết hợp nó với cac ước
tính nhu cầu tài nguyên đã được dự báo tăng cấp số mũ theo nhu cầu thời gian ( tức là
nhu cầu đang tăng rất mạnh mẽ). Kết quả là sự cạn kiệt nhanh chóng của nhiều trữ
lượng tài nguyên quan trọng (khoáng sản và nhiên liệu), một số sẽ cạn kiệt trước khi
kết thúc thế kỷ 20.
Nếu trường hợp này là đúng, tại sao điều này không thành tin tức lớn trong
những năm 1980 hoặc 1990? Câu trả lời là cho dù chúng ta chỉ thay thế một vế tính
toán của các nàh bi quan (vế cung cấp) chúng ta sẽ có kết quả hoàn toàn khác. Căn cứ
trên sự tính toán về trữ lượng được ước tính, không chỉ những thứ đó được xác định
rồi hoặc về các nguồn tài nguyên có thể khôi phục chỉ ra rằng chúng ta sẽ an toàn
không bị cạn kiệt tuyệt đối các trữ lượng khoáng sản quan trọng ít nhất trong 100 năm
tới. Tuy nhiên, những sự tính toán này giả thiết rằng chúng ta không bị bất kỳ khó
khăn nào không thể vượt quá được về công nghệ, về cung cấp năng lượng, hoặc về tồn
tại về môi trường trong khoảng thời gian đó. Ở khung 16.2 chúng tôi trình bày vài ví
dụ về các dự báo bi quan cung như lạc quan hơn về khan hiếm tài nguyên.
Khung 16.2 Các dự báo về khan hiếm tài nguyên
Theo phương pháp “giới hạn đối với tăng trưởng” (LTG), Bảng 1 đề xuất
rằng một số tài nguyên không tái sinh đương đầu với sự cạn kiệt gần kề. Ví dụ
không có các khám phá mới thì vàng bạc, tuỷ ngân “trong lòng đất” đã bị cạn kiệt
hết rổi. Nhưng vì khái niệm trữ lượng thay đổi thường xuyên, vào năm 1980, vài số
ước tính trữ lượng kim loại đã tăng lên rất nhiều hoặc vẫn tương đối không đổi
(Bảng 2). Với luận điểm Ricardo và luận điểm công nghệ trung tâm, có thể chỉ ra sự
ra rằng sự khan hiếm vật chất hầu như không phải là vấn đề khó khăn quan trọng
cho hầu hết nguyên vật liệu đang sử dụng hiện nay. Các dự đoán lạc quan này đã
được ước tính dựa trên cả ước tính dự trữ lượng được xác định lẫn về nguồn tài
nguyên có thể khôi phục (xem Bảng 3). Ở đây cũng giả thiết rằng không có vấn đề
khó khăn quan trọng nào về công nghệ, năng lượng hoặc môi trường gắn liền với sự
khai thác tài nguyên sẽ phải được giải quyết trong 100 năm tới.
182
Bảng 1 – Các chỉ số cạn kiệt năm 1972 theo số mũ ở các năm (S: trữ lượng toàn cầu đã
biết)
S 5 x S S 5 x S
Nhôm
Crôm
Than
Cô-ban
Đồng
Vàng
Sắt
Chì
Mangan
31
95
111
60
21
19
93
21
46
55
154
150
148
48
29
173
64
94
Molybdenum
Khí tự nhiên
Nicken
Dầu lửa
Platinum
Bạc
Thiếc
Tunsten
Kẽm
34
22
53
20
47
13
15
28
18
45
49
96
50
85
42
61
72
50
Nguồn: Meadow (1972) trang 56 – 60
Bảng 2 – Các ước tính đã được điều chỉnh của trữ lượng toàn cầu:
Các kim loại và khoáng sản chọn lọc
LTC 1972 (106 TẤN)a US BOM 1980 (106 TẤ)b
Đồng 308 505
Nicken 66 64
Chì 91 127
Kẽm 123 162
183
Bảng 3-Các triển vọng cạn kiệt dựa trên các ước tính tài nguyên có thể khôi phục:
Kim loại và khoáng sản chọn lọc
Nguyên vật liệu Nhu cầu tăng
trưởng mỗi năm
(%)
Trữ lượng đuợc
xác định được
ước tính (tấn)
Cạn kiệt trữ lượng
được ước tính vào
năm 2100 (%)
Krôm
Coban
Mangan
Molyndin
Nicken
Titanium
Tungsten
Kẽm
3,3
2,8
2,7 – 3,3
4,5
4,0
3,8
3,4
2,0
1,1 x 1010
5,4 x 106
2,8 x 109
2,1 x 107
2,1 x 108
7,1 x 108
6,8 x 106
3,3 x108
12
150
120
249
152
102
236
581
36
18
5
35
38
11
37
Nguồn: Goeller và Zucker
Các chỉ tiêu khan hiếm dựa trên chi phí hay giá cả
Trên ba số đo lường kinh tế của sự khan hiếm được dùng trong tài liệu đã đạt
xuất bản:
a.Chi phí thực tiễn của sản xuất (tức là chi phí của các nhập lượng cần để khai
thác và chế biến một đơn vị sản phẩm đầu ra):
b.Giá thực (tức là giá tương đối);
c.Giá mờ (tức là giá đại diện như chi phí của việc sản xuất thêm một đơn vị trữ
lượng đã xác định) cho chi phí người sử dụng không thể quan sát được của tài nguyên
(giá trị bị mất do việc sử dụng một tài nguyên hiện nay hơn là trong tương lai). Chúng
ta sẽ nói nhiều về chi phí người sử dụng trong phần kế củâ chương này.
Kết quả các nghiên cứu áp dụng cách đo lường sự khan hiếm kinh tế này đối với
các số liệu khoáng sản và nhiên liệu đã không đặt biệt thich hợp. Các kết quả được
tổng kết ở khung 16.3. Nhìn chung, chứng cứ như nó hiện có, không hổ trợ cho sự tiên
184
đoán thê thảm của trường phái LTG. Thế giới không đi đến sự thiếu hụt đột ngột các
khoáng sản và nhiên liệu quan trọng cần thiết cho sụ phát triển kinh tế.
Khai thác tài nguyên không tái sinh: một số nguyên tắc kinh tế cơ bản
Các công ty khai thác phải trải qua một quá trình 3 giai đoạn quan hệ lẫn nhau
và phức tạp (dò tìm, phát triển và khai thác – xem ở khung 16.4) để cung cấp cho thị
trường. Một đặc điểm của công nghiệp khai thác khoáng sản là, không giống hầu hết
các khu vực sản xuất khác, sản xuất trong thời kỳ bất kỳ nào đó không độc lập với sản
xuất trong thời kỳ bất kỳ nào khác. Tốc độ hiện nay của việc khai thác khoáng sản ảnh
hưởng tới lươjng có thể khai thác của khoáng sản đó trong thời kỳ tương lai. Do đó phí
tổn của việc khai thác một đơn vị khoáng sản hôm nay phụ thuộc không chỉ vào mức
độ sử dụng hiện tại các đầu vào sản xuất cần thiết (lao động , năng lượng .v.v.) và giá
của chúng, mà còn vào mức đo sử dụng đầu vào trong quá khứ và sự ảnh hưởng của
việc khai thác hiện nay vào khả năng sinh lợi tương lai của mổ khoáng sản.
Hoạt động khai thác hiện nay có thể ảnh hưởng đến trữ lượng có sẵn để dùng
trong tương lai bằng hai cách ngược nhau. Một sự tăng tỷ lệ khai thác ở giai đoạn hiện
nay có thể làm giảm mức độ trữ lượng của một mỏ cụ thể. Ngược lại, một tỷ lệ khai
thác như thế có thể tăng hoạt động dò tìm và phát triển sẽ dẫn tới sự tăng mức trữ
lượng tương lai.
Công nghiệp khai thác khoáng sản cũng chịu sự can thiệp đáng kể của chính
phủ. Sự can thiệp này do các mục tiêu chính sách như sự kích thích tăng trưởng kinh
tế, sự cần thiết phải đảm bảo sự tự túc cho quốc gia đối với nguyên vật liệu chiến lược,
tăng tính chặt chẽ chính xác cho các biện pháp bảo vệ môi trường và bảo quản tài
nguyên.
Trong Chương 15 chúng ta chỉ ra rằng suất chiết khấu có tính quan trọng thiết
yếu trong việc xác định tốc độ mà tài nguyên tái sinh và không tái sinh được sử dụng.
Công thức cơ bản cho tài nguyên tái sinh là:
Tốc độ tăng trưởng sinh học + Tăng cường giá trị vốn = Suất chiết khấu
Tài nguyên không tái sinh không có chức năng tăng trưởng và có một quy mô
cố định, vì thế công thức trở thành:
Tăng trưởng giá trị vốn = Suất chiết khấu
185
Khung 16.3 – Các chỉ báo của sự khan hiếm tài nguyên “kinh tế”
Hai nghiên cứu nổi tiếng ở Mỹ (Banett và Morse, 1964, Barnett, 1979) đã xem xét
xu hướng của chi phí đơn vị của sản xuất cho một loạt nhiên liệu và khoáng sản và không
tìm ra bằng chứng của việc tăng sự khan hiếm theo thời gian. Sự tăng thấy rõ nét trong
những năm 1970 không được xem là phản ánh “thật sự” của sự khan hiếm, mà đúnghơn là
ảnh hưởng (được xem chỉ là tạm thời) của khối dầu hoả OPEC và chính sách leo thang giá
cả của họ.
Nhiều công trình vừa qua của Slade (1982) đã đề xuất rằng lợi ích của việc khai
thác, khả năng thay thế và tiến bộ kỹ thuật hiện nay đã bị áp đảo bởi sự khan hiếm. Mô
hình Slade hình như chỉ ra rằng xu hướng giá cả tương đối của tài nguyên là bậc 2 (tức là
hình chữ U) cho 11 hàng hoá và tăng hoàn toàn nhanh trong suốt các thời gian vừa qua
(xem hình (a)). Nhưng Anderson (1985) xem xét cùng một số liệu giá cả và đi đến một kết
luận ngược lại. Kết quả của ông ấy đã tiết lộ rất ít sự khác nhau giữa các xu hướng giá cả
tương đối bậc 2 tuyến tính (hình (b)). Chúng ta minh họa kết quả của Slade lẫn Anderson
cho nicken ở hình (a) và (b).
Các mức dự phóng tiêu thụ:
A 3% mỗi năm từ năm gốc 1980
B 2 % mỗi năm từ năm gốc 1980
C 1 % mỗi năm từ năm gốc 1980
D 0,5 % mỗi năm từ năm gốc 1980
E Ước tính tuyến tính, dựa trên loạt năm 1970/19980
F Ước tính tuyến tính dựa trên loạt năm 1973/1983
G Ước tính tuyến tính , dựa trên loạt năm 1973/1981
H Dựa trên mô hình hiện nay giả định tăng trưởng kinh tế thế giới
Nguồn: Bộ Tài Nguyên Thiên Nhiên Ontario, Thị trường khoáng sản thế giới – Giai
đoạn 2 (10 – 1981); được trích từ Anderson (1985)
Chú ý rằng Anderson đã dùng một loạt thời gian dài hơn, ở cả hai giai đoạn cuối, và
cũng trình bày các số liệu trên trên trục y với tỷ lệ nhỏ hơn. Chúng ta cám ơn đồng nghiệp
của chúng ta Norm Henderson, về việc chỉ ra ví dụ này cho chúng ta.
Nghiên cứu toàn diện nhất tính đến hôm nay (Hall và Hall, 1984) đã kiểm định giả
thiết rằng sự khan hiếm (được đo lường bởi chi phí một đơn vị sản phẩm và giá tương đối)
đã giảm trong trong những năm 1960 nhưng tăng trong những năm 1970 ở Mỹ. Kết quả
được biểu hiện ở Bảng 1 chỉ ra rằng dầu, khí và điện đã trở nên khan hiếm hơn trong những
năm 1970 (và tương tự như thế với gỗ).
186
Bảng 1: Sự khan hiếm tài nguyên
Tài nguyên Kiểm tra chi phí đơn vị Kiểm tra giá tương đối
Than
Dầu hoả
Khí
Điện
Kim loại không chứa sắt
1960s xuống, 1970s lên
1960s xuống, 1970s lên
1960 s xuống, 1970s lên (?)
1960s lên, 1970s xuống
Không quan trọng
1960s xuống, 1970s lên
1960s ?, 1970s lên
1960s xuống, 1970s lên
1960s xuống, 1970s lên?
Chú ý: “xuống “ có nghĩa sự khan hiếm giảm, “lên” có nghĩa sự khan hiếm
tăng “?” có nghĩa kết quả theo thống kê là không quan trọng hoặc chiều hướng thay
đổi là không xác định được
Nguồn: Hall và Hall (1984) tr.369-70
Khung 16.4 – Mô hfinh kinh tế đơn giản của khai thác tài nguyên
Cung cấp tài ngnuyên không tái sinh là một quá trình 3 giai đoạn quan hệ lẫn
nhau
Hình (a) – Quá trình cung cấp tài nguyên không tái sinh
Các quyết định hiện nay liên quan đến các quyết định trong quá khứ, cũng như
đối với các khả năng giá cả và chiphí ở tương lai. Tốc độ khai thác hiện nay ảnh hưởng
Thăm dò Phát triển Khai thác
Ước tính quy mô và địa điểm vật lý
Xác định mỏ tài nguyên
Chuẩn bị địa điểm khai thác
Chuẩn bị cho phân phối và bán
187
số lượng có thể khai thác ở tương lai. Do đó, chi phí khai thác một đơn vị sản phẩm
của một vài khoáng sản hôm nay phụ thuộc không chỉ vào mức độ sử dụng khoáng sản
hôm nay và các nhập lượng cần thiết và các giá cả của chúng, mà còn mức độ sử dụng
nhập lượng trong quá khứ, cũng như phụ thuộc vào sự ảnh hưởng của khai thác hiện
nay trên khả năng sinh lợi của mỏ. Với một bảng kê những địa điểm đã được khám
phá, một quyết định phát triển các địa điểm có chi phí thấp hôm nay sẽ chỉ để lại
những địa điểm có chi phí cao trong tương lai. Việc giảm tổng trữ lượng của các địa
điểm chứa các tài nguyên và khuynh hướng khám phá sớm hơn các địa điểm dễ tiếp
cận và lớn dẫ đến chi phí thăm dò theo thời gian.
Hoạt động của mỗi quá trình cung cấp thoả mãn một nhu cầu nảy sinh cho các
đầu vào đối với giai đoạn sau, ví dụ việc khai thác, khám phá mới là một đầu vào cho
sự thay đổi giá cả của đầu ra cuối cùng và sự thay đổi chi phí cung cấp ảnh hưởng tới
các quyết định thăm dò và phát triển, cũng như các quyết định khai thác. Sự thay đổi
chi phí phát triển rõ ràng ảnh hưởng không những tới hoạt động phát triển, mà còn tới
các nhu cầu phát sinh cho các quyết định khám phá mới và khai thác thông qua sự thay
đổi chi phí thay thế trữ lượng.
Quá trình quyết định phải chịu một mức độ quan trọng của sự không chắc chắn.
Bởi vì các thông tin khai thác thiếu hiểu biết đầy đủ về giá cả và chi phí tương lai, họ
cần dự đoán về giá cả tương lai lẫn những hậu quả không chắc chắn của cac quyết định
hiện nay đối với giá cả tương lai, họ cần phải dự đoán về giá cả tương lẫn các hậu quả
không chắc chắn của các quyết định hiện nay đối với giá cả tương lai.
Quá trình cung cấp cũng bị ảnh hưởng bởi tác động của các thay đổi lớn về quy
định của chính phủ( đựâc biệt về các chính sách thuế và chính sách bảo vệ môi
trường). Nó cũng bị ảnh hưởng bởi các cơ cấu thị trường khác nhau, ví dụ các thị
trường độc quyền hay gần như độc quyền.
Người chủ tài nguyên cố gắng tối đa hóa tổng số doanh thu ròng đã chiết khấu
hơn là các lợi nhuận hiện thời. Tuỳ thuộc vào dự đoán của họ về giá cả và chi phí
tương lai, các chủ tài nguyên cố gắng cân đối lựo ích đạt được từ việc tăng khai thác
tuỳ thuộc giá cả (doanh thu), với chi phí của gia tăng khai thác. Các chi phí khai thác
được hình thành từ các chi phí hoạt động gia tăng cộng với chi phí người sử dụng việc
khai thác. Ở biên tế, chi phí biên tế của hoạt động khai thác (tức là mỗi đơn vị của đầu
188
ra). cộng với chi phí người sử dụng được đem so sánh với giá tài nguyên để xác định
đầu ra tối ưu (hiệu quả kinh tế) theo thời gian, tức là sản lượng, Y1 ở hình (b). Để xác
định đầy đủ chi phí người sử dụng, tất cả chi phí bên ngoài của việc khai thác tài
nguyên phải được tính vào như tổn hại ô nhiễm và các thiệt hại về phong cảnh và tiện
nghi cho con người.
Sự phân tích bắt đầu trong thời gian t, thời gian hiện tại. Công ty khai thác
đương đầu với các chi phí hoạt động cho mỗi đơn vị đầu ra (khai thác) được hco bởi
đường cong MCt (chi phi biên tế ở thời gian t). MC tăng với một khoảng đầu ra thích
hợp. Đường cong chi phí cao nhất MCt + UC bao gồm thành phần chi phí người sử
dụng.
Hình (b) Sự phụ thuộc của sản lượng khai thác vào chi phí giá cả
Nếu chúng ta giả sử rằng công ty không có ảnh hưởng vào giá cả (tức là các
điều kiện thị trường cạnh tranh) như thế giá cả ở thời điểm t, Pt, được biểu diễn như 1
đường thẳng nằm ngang. Bây giờ công ty sẽ tăng tốc độ khai thác của mình miễn là
giá cả công ty nhận được, Pt, lớn hơn chi phí biên tế khai thác (MC). Công ty sẽ không
tăng tốc độ khai thác nếu MC > giá cả. Ở điểm cân bằng P = MC. Nếu chỉ chi phí biên
tế hoạt động khai thác được cân nhắc, công ty sẽ khai thác một số lượng Yt. Ảnh
hưởng của khai thác hiện nay vào chi phí và lợi nhuận tương lai làm giảm đầu ra hiện
nay dưới mức mà đáng lẽ phải đạt nếu không có ảnh hưởng tương lai này.
Nguồn: Phỏng theo Anders et al. (1980)
Nói cách khác, tài nguyên không tái sinh phải bị cạn dần theo cách mà tốc độ
tăng giá của các tài nguyên được khai thác phải bằng suất chiết khấu. Công thức này
được biết như công thức Hotelling đơn giản ( sau bài phân tích của Hotelling được
xuất bản 1931), và nó chỉ ứng dụng cho trường hợp đơn giản nhất, ví dụ, những tình
huống mà các hãng có chi phí của việc khai thác là không.
Kinh tế học tài nguyên thiên nhiên coi là tài nguyên “trong lòng đất” như vốn
tư bản. Bằng cách để tài nguyên trong đất (bảo tồn chúng), người chủ tài nguyên có
thể chờ đợi thu nhập tư bản vì giá tài nguyên tăng theo thời gian. Người chủ thể sẽ
189
không quan tâm giữa việc giữ tài nguyên ở mặt đất và khai thác nó nếu suất sinh lợi
thu nhập của vốn bằng các lãi suất ở các tài sản thay thế khác, bởi vì người chủ có thể
khai thác bây giờ và bán để đầu tư doanh thu ở bất kỳ nơi nào khác trong nền kinh tế
(ở một lãi suất dương ).
Miễn là chúng ta duy trì giả thiết không thực tế về sự khai thác không có chi
phí, giá cả tài nguyên trong lòng đất giống như giá cả cảu tài nguyên đã được khai thác
(được hiểu biết như giá nguồn). Tuy nhiên, khi chúng ta bỏ giả thiết này (và bây giờ
chúng ta có các chi phí khác dương), chúng ta có hai giá khác nhau. Giá trong lòng đất
(được hiểu một cách khác nhau như tiền thuê mỏ hoặc tiền tô) bây giờ là nhỏ hơn giá
nguồn (sự khác nhau là ở chiphí khai thác). Với một số lượng cố định của khoáng sản
cho khai thác, chi phí toàn bộ của việc khai thác sẽ bao gồm một số yếu tố bổ sung (
bây giờ được gọi là chi phí người sử dụng). Chi phí người sử dụng phản ánh phí cơ hội
của việc khai thác hiện nay vào lợi nhuận tương lai, bởi vì một đơn vị đầu ra được khai
thác hiện nay không còn được khai thác ở tương lai). Lợi nhuận tương lai “bị mất” gây
ra sự giảm số lượng khoáng sản có sẵn thực sự là một chi phí cho người khai thác
giống như một chi phí đầu vào hiện nay. Vì thế,
Chi phí khai thác = Chi phí người sử dụng + chi phí hoạt động hiện nay; và
Giá tối ưu = chi phí khai thác + chi phí người sử dụng (xem khung 16.4)
Người chủ tài nguyên cố gắng tối đa hóa tổng lợi nhuận (doanh thu – chi phí)
theo trục thời gian nằm ngang và sẽ chọn tốc độ khai thác và vì toàn bộ lượng khoáng
sản nói chung không bị khai thác hết, và chọn mức khai thác để tối đa hóa hiện giá của
dòng lợi nhuận được chiết khấu. Một người chủ có thể thực hiện tối đa hóa lợi nhuận
bằng cách trì hoãn sự khai thác nếu, ví dụ, họ hy vọng rằng giá cả của khoáng sản sẽ
tăng đáng kể trong tương lai (tức là sự tăng chi phí người sử dụng ở khai thác hiện
nay); hoặc nếu chi phí khai thác được cho là hầu như giảm trong tương lai vì một sự
đột phá kỷ thuật trong các phương pháp khai thác/chế biến quặng.
Mặt khác, nếu lãi suất hiện nay đối với đầu tư tài chính tăng thì mức tăng này sẽ
làm tăng tốc độ khai thác khoáng sản hiện nay ở các mỏ được biết đến. Một người chủ
tài nguyên có phương án lựa chọn khai thác mỏ đến mức độ tối đa hiện nay và đầu tư
lợi nhuận cảu ông ta có thể được lãi suất cao. Trên thực tế, lợi nhuận này tạo nên giá
190
trị lớn hơn so với lợi nhuận tương lai ( theo thuật ngữ kinh tế, người chủ chiết khấu lợi
nhuận tương lai cao hơn).
Sự thay đổi lãi suất cũng có thể ảnh hưởng mức độ các công ty khai thác nổ lực
tăhm dò và phát triển địa điểm mới để khai thác trong tương lai. Sự thay đổi lãi suất
cũng ảnh hưởng đến việc đầu tư vào thiết bị cơ bản mới ở các mỏ đang hoạt động lẫn ở
các mỏ mới. Sự tăng lãi suất sẽ làm giảm nổ lực khai thác và giảm đầu tư thiết bị mới,
vì thế giảm bớy khuynh hướng tăng tốc độ khai thác ở các mỏ đã biết.
Kết luận
Tóm tắ mô hình kinh tế đơn giản của chúng ta, chúng ta có thể hiêu rằng đối
phó với hai quyết định liên quan và cơ bản:
(i) Tốc độ khai thác tài nguyên, và
(ii) Khoảng thời gian khai thác ( hoặc tổng số dự trữ khai thác)
Tốc độ khai thác kinh tế được xác định bằng cách cân bằng giá bán mong muốn
đã được chiết khấu với chiphí biên tế khai thác đã được chiết khấu, nhớ rằng các chi
phí khai thác bao gồm không chỉ ảnh hưởng cảu khai thác hiện nay vào chi phí mà
còn ảnh hưởng của khai thác hiện nay vào chi phí và lợi nhuận khai thác tương lai (chi
phí người sử dụng).
Tổng số của một trữ lượng có thể khai thác một cách kinh tế phụ thuộc vào giá
tương lai của một tài nguyên được nói đến và ảnh hưởng của việc hiện nay với chi phí
khai thác tương lai.
Nhìn chung, là sự đo lường khan hiếm tài nguyên là công việc không dễ dàng và
các kết quả nghiên cứu sự khan hiếm “kinh tế” khác nhau đã được xuất bản là không
nhất quán, nhưng hầu như thế giới sẽ không đột nhiên thiếu hụt hẳn các khoáng sản và
nhiên liệu mà thế giới cần cho sự phát triển kinh tế tươnglai.
191
CHƯƠNG 17
KINH DOANH VÀ MÔI TRƯỜNG
Lời giới thiệu
Phần một đã nói rõ rằng trách nhiệm đối với việc suy thoái môi trường thuộc về
tất cả các thành phần trong cộng đồng của quốc gia và toàn cầu :ngành công nghiệp,
các nông dân các chính quyền cũng như các công dân. nhiều tài liệu môi trường có
khuynh hướng ngụ ý rằng chỉ có nông nghiệp và công nghiệp gây ô nhiễm .nhưng các
công dân bình thường xã rác và tạo ra phần lớn chất thải rắn ở thành thị .với tư cách là
người tiêu thụ , người dân gởi các tín hiệu lên thị trường đến các nhà sản xuất để nói
rằng họ muốn các sản phẩm ở các cửa hàng siêu thị sao cho vệ sinh và thuận tiện
.người tiêu thụ có thể thay đổi các hệ thống sản xuất và phân phối để làm cho các hệ
thống này thân thiện hơn đối với môi trường chung quanh ,như hiện tượng”người tiêu
thụ xanh” đã chứng tỏ . người dân bình thường lái xe ,trong khi họ có thể lựa chọn các
kiểu đi lại khác ít gây ô nhiễm hơn (đi xe lửa ,dùng phương tiện giao thông công cộng
). Như chúng ta đã thấy ở chương 6 ,chính quyền thường hoạt động ngược lại các lợi
ích của môi trường , đôi lúc vì thờ ơ ,nhưng thường là họ không hiểu biết các hành
động của họ ảnh hưởng tới môi trường như thế nào .
tuy nhiên ngành công nghiệp và nông nghiệp vẫn là các người gây ô nhiễm đáng kể
.thế thì các khu kinh doanh hoà nhập như thế nào vào cấu trúc rộng lớn của kinh tế
học môi trường đã dược phát hoạ ở phần trước của cuốn sách này ?trong khi có một số
tài liệu đáng sợ về đề tài kinh doanh và môi trường phần lớn của tài liệu này được
dành cho yêu sách “xanh”bởi chính các cơ sở kinh doanh , đằng sau thái độ dè dặt của
nhiều công ty trong việc tán thành vấn đề môi trường là mối quan tâm lo lắng về
cácchi phí mà chính sách môi trường , ở cả cấp quyền lẫn cấp kinh doanh ,sẽ áp đặt lên
giới kinh doanh các chi phí của chính sách môi trường ngăn chặn hoặc làm giảm đi
thiệt hại môi trương khong phải là không tốn kém. việc cải thiện môi trường có nghĩa
là chi ra .tiêu biểu là các quốc gia OECD chi tiêu khoảng 1,5 đến 2,0%thu nhập quốc
dân của họ cho việc làm giảm ô nhiễm (gồm các chi tiêu của khu vực công cộng và
khu vực tư nhân ). hiện có sự so sánh giữa lợi ích và chi phí quốc gia cho việc kiểm
192
soát ô nhiễm . ở mỹ năm 1981 ,các lợi ích được tích luỹ từ những quy định để kiểm
soát ô nhiễm không khí và nước là khoảng 37 tỷ USD ,cáckhoảng chi phí cho việc ra
những quy định này năm đó là khoảng 14 tỷ USD , điều này cho thấy có những
khoảng lãi ròng lớn có được từ việc kiểm soát ô nhiễm (porney,1990 ) . hoạt động
phong ngừa ô nhiểm ở mức quốc gia là có lợi nhiều khoảng lợi ích đó đã không được
tích luỹ trực tiếp ở các cơ sở kinh doanh . để có vài ý niệm về tác động của chính sách
môi trường vào khu vực kinh doanh ,chúng ta cần xét xem sự tăng trưởng GDP và
công ăn việc làm bị ảnh hưởng như thế nào . điều này được thực hiện ở khung 17.1
,trong đó tập hợp một số chứng cứ liên quan đến tác động của chính sách môi trường
đối với GDP và việc làm .
193
Khung 17.1 ảnh hưởng của chính sách môi trường đến sự tăng trưởng kinh tế và việc
làm .
Trong khi ngành công nhiệp lo một cách chính đáng về các chi phí mà chính sách môi trường bắt
họ phải chụi , có ít bằng chứng cho rằng ,nhìn chung ,chính sách môi trường hạn chế sự tăng trưởng
kinh tế ,một phần nguyên nhân là các chi tiêu không đến nổi lớn như thế ,nhưng phần nguyên nhân
kháclà các chi tiêu đó lại là thu nhập đối với thành phần khác của ngành công nghiệp ,tức là các
thành phần làm giảm ô nhiễm . nếu thành phần đó rất mạnh ,có lẽ trường hợp mà các quy định môi
trường được áp dụng cho một số nước ngay tức khắc sẽ thực sự kích thích tăng trưởng kinh tế và
tạo ra việc làm nhờ tạo ra các thị trường xuất khẩu ,các nghiên cứu được tóm tắt dưới đây cho thấy
tác động của chính sách váo sự tăng trưởng kinh tế và việc làm ,cho tới nay ,là khiêm tốn hoặc
không đáng kể .
Chính sách Ảnh hưởng đến tăng trưởng
kinh tế
Ảnh hưởng đến việc làm
ế ho ạch b Bảo vệ môi trường quốc gia Hà Lan Không đáng kể Không hoặc dương
Tăng khoang gấp đôi chi tiêu môi trường
Thuế cacbon giả định ở Anh;gia tăng chi Không đáng kể Dương
Tiêu để giảm ô nhiễm và làm sạch nước
Thuế cacbon giả định ở Na-uy Không đáng kể
Giảm 0,4% mỗi năm Không đáng kể
Chính sách môi trường ở Mỹ: Giảm 0,2% mỗi năm Không biết được
Nghiên cưú 1
Chính sách môi trường trước đây ở Mỹ: Không đáng kể Không biết được
Nghiên cưú 2
Chính sách môi trường trước đây ở Pháp Không đáng kể Không đáng kể
ức Nguồn D. W.P arce(1991)
Trong khi chứng từ còn đang được thu thập ,phương pháp kinh tế còn cho rằng
(a) thiệt hại môi trường có thể xâm nhập đàn kể vào trong hoạt động kinh tế của một
quốc gia và (b) các chính sách kiểm soát thiệt hại tạo lại lợi ích về mặt kinh tế .
194
Có nhiều điều báo trước cho cho một kết luận như thế ,nhưng có vẻ như kết luận đó là
đúng đắn , ít là đối với những chính sách về môi trường trong quá khứ . điều này
không có nghĩa là nó sẽ đúng trong tương lai và cũng không có nghĩa là chính sách cũ
có hiệu quả ,các chi phí điều tiết hầu như chắt chắn là sẽ thấp hơn .lơi ích có thể là cao
hơn ,nhưng chính sách trong tương lai có thể tốn kém hơn .
Kết luận này liên quan đến công ty như thế nào ?thứ nhất nó nhấn đến trọng
tâm khác hơn cách thức mà giới kinh doanh đã quen nghĩ về môi trường tức là trở ngại
cho xí ngiệp và hoạt động kinh tế .một cách tổng quát nó cho rằng hoạt đọng kinh tế
không bị xấu đi bởi chất lượng môi trường đã được cải thiện và thậm chí còn có tốt
hơn .
thứ hai nó chỉ ra nhu cầu cần phải có sự đáp ứng tập thể của các doanh nghiệp bất kỳ
xí nghiệp riêng lẻ nào ,rỏ ràng là chẳng làm được bao nhiêu để cải thiện sức khoẻ và
nền kinh tế của một quốc gia bằng cách đơn phương đầu tư vào việc cải thiện môi
trường ,chỉ khi nào giới kinh doanh cùng nhau đầu tư cho sự lành mạnh môi trường
mới có sự cải thiện .dù sao thì ,chỉ ngành công nghiệp chuyển hoá năng lượng thành
sản phẩm , đó chính là sự tiêu thụ năng lượng và nguyên liệu thô tạo ô nhiễm .
vài vấn đề môi trường và ý nghĩa của chúng đối với việc kinh doanh
nhiều mối quan tâm về môi trường hiện nay mang tính quốc tế hoặc toàn cầu :mưa a-
xít , ô nhiễm đại dương ,phá rừng nhiệt đới ,tăng nhiệt toàn cầu ,huỷ hoại tầng ô zôn
chúng tôi có thể cho thấy sự liên quan của các vấn đề này với việc kinh doanh .
Mưa a- xít
Chương 22 xem xét một cách chi tiết hơn hiện tượng mưa axít :một thuật ngữ
chung để chỉ cả sự lắng động khô lẫn ướt của các chất ô nhiễm được hình thành chủ
yếu bởi sunphur dioxide và nirtrogen oxide .dường như rõ ràng là mưa a-xit liên can
đến sự thiệt hại gây ra cho cá và các loài khác ở ao hồ , đặc biệt ở phía nam Nauy và
một số vùng của thuỵ điển ,và nhà cầm quyền cũng nghĩ rằng sự rụng lá và sự tăng
trưởng chậm của các cánh rừng là do mưa a-xít gây ra .sự sói mòn dần bề mặt của các
toà nhà lớn cũngcó thể do các chất ô nhiễm này .bằng chứng cho việc làm tổn hại sức
khoẻ một cách liên tục có thể làm hạn chế ,làm sạch mưa acid có nghĩa là sử dụng các
nguyên liệu hoá thạch có sulphur hơn, và lắp đặt thiết bị làm gỉam ô nhiễm ở các nhà
máy điện chạy bằng than và các nhà máy lớn khấc. trong khi sự cân bằng giữa chi phí
195
và lợi ích có thể còn chưa chắc chắn, có những thoả ứơc quốc tế để giảm bớt sự thải
khí ở các nước OECD. Các bên ký kết bao gồm Anh Quốc. Nghị định thư về ô nhiễm
không khí Xuyên Biên Giới trên 1 vùng lớn có hiệu lực từ năm 1987 dứt khoát sẽ giảm
sunphuf diocide khoảng 30% so với mức phát thải năm 1980. Một hiệp ước nitrogen
oxide của năm 1988có nghĩa là việ thải khí này không được tăng hơn mức của năm
1987, sau đó chúng phẩi giảm xuống.
Tại sao xảy ra mưa acid? Trong các hệ thống kinh tế nhấn mạnh nhiều đến hoạt
động tự do của thị trường thì sẽ không khuyến khích bất kỳ người gây ô nhễm nào
phải tính đến những thiệt hại về môi trường mà hoạt động của họ gây ra, dĩ nhiên trừ
khi quy định của quyền về ô nhiễm buộc họ phải làm như thế. Chương 5 và 6 nói về
hiện tượng ngoại tác. Yếu tố ngoại tác thường là đặc tính của các hệ thống kinh tế dựa
trên các thị trường tự do hoặc hầu như tự do. Nhưng các nạn nhân của ô nhiễm ít ra
cũng có thể vận động quyền “bắt các người gây ra ô nhiễm phải chi trả”, đó chính là
những gì thực sự xảy ra kh luật lệ về môi trường được đưa vào hoạt động. Tất cả các
quy định đều bắt các người gây ô nhiễm phải gánh chịu 1 số chi phí của việc ngăn
chặn, làm giảm hoặc làm sạch ô nhiễm. Một số chi phí có thể chuyển sang ngươiì tiêu
thụ chịu, nhưng người gây ra ô nhiễm vẫn khổ, bởi vì kết quả là giá cả sản phẩm của
họ trên thị trường sẽ cao hơn nên có khuynh hướng làm giảm nhu càu của thị trường.
Khung 17.2 cho thấy làm thế nào giới kinh doanh sẽ không phải gánh chịu tất cả chi
phí của bất kì 1 quy định nào: một số chi phí được chuyển cho người tiêu thụ gánh
chịu.
196
Khung 17.2 Tai nạn của 1 quy đinh môi trường gây cho ngành công nghiệp và người
tiêu thụ
Khi một qui định được áp đặt lên ngành công nghiệp thì nó làm tăng chi phí của
công ty.Ví dụ, kiểm soát mưa axit có nghĩa là đưa vào thiết bị ống khói giảm khí
sulphur hoặc chuyển sang nhiên liệu đắt tiền hơn,chứa sulphur ít hơn. Điều này được
trình bày dưới đây như một một sư chuyển dịch về hướng trái của đường MC(chi phí
biên tế). Để cho thuận lợi giả sử rằng các công ty định giá cho sản phẩm sao cho giá
bằng chi phí biên tế *(MC). Thế thì giá cả trong thị trường mua bán sẽ tăng từ p1đến
p2. Nhưng thực ra chi phí tăng nhiều hơn P1P2_sự tăng chi phí thật sự là P1C.Do đó
người ta người tiêu thụ gánh chịu một phần chi phí của giá cả thong qua giá cả cao hơn
(P1P2 ). Nhưng hang sản xuất cũng phải chịu một phần nữa của gánh nặng này(P2C).
Trừ phi đường cầu hoàn toàn không đàn hồi(tức là thẳng đứng) người tiêu thụ và
người sản xuất luôn luôn phải chia sẻ gánh nặng tài chính của một qui định.
Tuy nhiên mưa acid liên quan đến 1 khía cạnh khác nữa. Trong khi những nạn
nhân của mưa acid có thể là trong cùng một đất nước đang thải ra ô nhiễm, thực ra
phần lớn những thiệt hại này là do các nước khác gánh chịu . Ví dụ như lục địa Châu
Âu gây ô nhiễm cho bán đảo Scandinavia - xem chương 22. Các lực lượng xưa nay
vận động cho các nạn nhân giờ đây phải được thay thế bằng sự vận động quốc tế nhằm
197
đạt tới mục tiêu bắt nứoc gây ra ô nhiẽm phải chi trả. Điều này khó khăn hơn, đơn giản
là vì hông có nhà cầm quyền cao hơn cấp quốc gia để xác định ai là người có lỗi, lỗi
như thế nào và phải làm gì? Hai yếu tố này - sự thất bại của thị trường trong việc
chứng minh cho các thiệt hại bên ngoài và sự việc vài chất gây ô nhiễm không khí
vượt qua biên giới quốc gia – góp phân tất nhiên vào việc giải thích hiện tượng mưa
acid.
Ý nghĩa của những vấn đề này đối với việc kinh doanh? thứ nhất là thị trường không
cần phải là kẻ thù của môi trường, điều này làm ngạc nhiên các nhà nghiên cứu môi
trường hơn các nhà kinh doanh. Bằng cách kiềm lại các chi phí nguyên liệu và năng
lượng, các đơn vị kinh doanh giảm xuống tới mức tối thiểu việc sử dụng vật liệu và
năng lượng , và do đó giảm đựơc ô nhiễm trên mỗi đơn vị đầu ra. Tối thiểu hoá chi phí
tối thiểu hoá chất thải, miễn là các công ty cũng quan tâm đến các chi phí năng lượng
và nguyên liệu như đối với chi phí lao động và chi phí tư bản.
Ý nghĩa thứ 2 là thị trường không làm đúng mức. Thị trường không tính đầy đủ các chi
phí môi trường bên trong một quốc gia, và càng thất bại trên quy mô lớn hơn khi các
chi phí môi trường được vượt qua biên giới quốc gia. Thật là không logic khi lập luận
rằng môi trường sẽ an toàn với các thị trường tự do hoàn toàn không ràng buộc. Ít nhà
kinh doanh nào có thể nêu ra 1 điều như vậy nhưng những người khác thì làm được.
Phải có những quy định về môi trường thôi.
Sự phá rừng nhiệt đới
Các cánh rừng nhiệt đới trên thế giới đang biến mất dần ở tỉ lệ khoảng 2% mỗi
năm – chương 23 xem xét tỉ mỉ hơn về vấn đề nay. Cho đến nay vẫn chưa có các hiệp
ước quốc tế để đặt ra các chỉ tiêu làm giảm tỷ lệ này – các cuộc thảo luận bắt đầu ở
những năm cuối thập kỉ 1980 trong một nổ lực để đạt được một hiệp đinh quốc tế về
sử dụng bền vững tất cả các cánh trên thế giới bao gồm rừng nhiệt đới. Sự mất mát
rừng nhiệt đới lien quan đến nhiều loại chi phí kinh tế. Việc đốn gỗ hoặc khai hoang
cho trồng trọt và chăn nuôi thường không phải là cách sử dụng có lợi nhất về mặt tài
chính đối với rừng nhiệt đới. Nó cũng không phải là bền vững bởi vì sau một vài thập
niên đất rừng chỉ có khả năng hạn chế nếu dung fvào việc trồng trọt hay chăn nuôi. Sự
phá huỷ rừng làm chuyển dời chỗ ở của những dân tộc địa phương. Nó gây ô nhiễm
198
cho sông ngòi, khi đất rừng bị cuốn trôi đi; nó làm mất chức năng bảo vệ của rừng đối
với các dòng nước chảy ở rừng; nó làm giảm đi trữ lượng mức độ đa dạng của hệ sinh
vật, và gây nên nỗi đau xót cho những người muốn nhìn thấy hệ thống sinh thái này
được bảo tồn và được sử dụng một cách bền vững. Tất cả những việc đều tốn các chi
phí kinh tế. Lúc này chúng ta không biết được những chi phí này sẽ lên đến bao nhiêu
nhưng những chứng cứ bắt đàu cho thấy sự phá rừng nhiệt đới đơn giản là không lợi
về mặt kinh tế - xem chương 23.
Tại sao xảy ra sự phá rừng nhiệt đới? Nguyên nhân thì phức tạp và không phải
lúc nào cũng dễ dàng đổ cho sự tăng trưởng dân số và sự nghèo khổ, như các lời giải
thích xưa nay. Cả hai nguyên nhân trên có vai trò của nó khi dân số bùng nổ, áp lực
cần nhiều đất nông nghiệp tăng lên và biên giới bị xâm chiếm bởi dân định cư nông
nghiệp. Nhưng việc xâm chiếm rừng không phải là luôn dễ dàng như vậy – các chương
trình xây dựng đường xá giúp mở ra các vùng đất rừng. Các con đường thường được
xây dựng bởi các công ty lâm sản, rồi các nông dân đi theo sau. Điều thường ít được
tán thành là chính bản than chính quyền đã khuyến khích khai phá rừng - một lần nữa
đó chính là hiện tượng của sự thất bại của chính quyền. Triết lí phổ biến trước giờ
thường xem rừng như một tài nguyên để khai thác chứ không phải để sử dụng bền
vững. Các hình thức miễn thuế và trợ cấp đôi khi được dành cho các chủ trại chăn nuôi
để khai hoang đất (một chính sách gần như được chấm dứt ở vùng Amazon của Brazil
trong năm 1987 khi các chi phí phá rừng trở nên rõ ràng hơn). Quyền sở hữu đất đai
thường nhận được chỉ khi khai hoang đất xong , việc khai hoang được xem như là cách
thức để cấp quyền này. Các quyền hạn của người dân bản xứ rất hay bị lãng quên, nhất
là khi họ không đăng kí hoặc chính thức hoá nơi chốn ở.
Giống như phần lớn các sự suy thoái môi trường, việc phá rừng xảy ra do sự kết hợp
của các yếu tố quan trọng sau:
a) Thị trường và chính quyền có khuynh hướng chỉ thừa nhận giá trị bằng
tiền của rừng, mà không thừa nhận sự quan trọng về mặt kinh tế dưới
dạng những lợi ích không tiếp thị được, như sự bảo vệ các dòng nước.
b) Các quyền sở hữu đất có khuynh hướng bị thiên vị và dành cho dạng thực
dân và nhà kinh doanh hơn là dành cho người dân bản xứ.
199
c) Có những áp lực cơ bản từ vấn đề tăng dân số nó làm tăng nhu cầu đất
nông nghiệp và củi đốt; và các yếu tố cơ bản mang tính khuyến khích trợ
giúp như xây dựng đường sá vào rừng.
Các cơ sở kinh doanh có đóng vai trò trong việc bảo vệ rừng nhiệt đới trên thế
giới hay không? Có lẽ cũng công bằng khi nói rằng: chỉ khi nào các nước đang làm
chủ các cánh rừng xem xét lại chính sách của họ thì mới tạo ra được những thay đổi
lớn với tỷ lệ phá rừng, cùng với sự thừa nhận về phía các nước giàu có rằng các nước
nghèo cần được trợ giúp các phương sách để bảo vệ rừng của họ. Nhưng kinh doanh
đóng vai trò quyết định trong quá trình này. Chính các công ty khai thác gỗ trên thế
giới đang mở ra nhiều khu rừng ,nổi bật nhất là vùng Viễn Đông. Chính nhu cầu củi
đốt đã gây nên một số vụ phá rừng ở Châu phi. Tuy nhiên, những nguồn năng lượng
có hiệu quả không dựa vào cây gỗ có thể phát triển với giá rẻ, một phần của áp lực này
có thể được giải tỏa. Tương tự một số đồn điền trồng củi đốt có thể làm giảm bớt nhu
cầu gỗ rừng tự nhiên. Ở Indonexia và Nam Mỹ, có những sản phẩmtừ rừng tự nhiên có
thể được sản xuất mà không cần phá huỷ rừng. Để giảm bớt nhu cầu dung đất rừng
làm đất nông nghiệp, điều quan trọng là phải tăng năng suất của những vùng đất hiện
đang bị suy thoái. Một khi mà năng suất của những vùng đất thực sự là một hoạt động
cần đên chuyên môn của nghành công nghiệp. Điều mà thoạt nhìn có vẽ như là một
mối quan tâm xa vời vì lạ lẫm đối với thành phần kinh doanh thì thực ra lại không phải
như vậy. Ít nhất thì lần này các tiến trình gây ra sự phá rừng đã được hiểu rõ, nguời ta
sẽ thấy các công ty sẽ đảm trách vai trò thiết yếu trong việc giảm bớt các áp lực gây ra
phá rừng.
Tăng nhiệt toàn cầu
Chương 19 xem xét chi tiết hơn vấn đề trái đất đang nóng lên. Trong khi khoa
học vẫn rất là chưa chắc chắn, ngày càng có them bằng chứng mức thải các chất khí
“hiệu ứng nhà kính” được phóng vào bầu khí quyển đang gây nên một sự tăng nhiệt độ
trung bình của bề mặt trái đất. Các chất khí chính yếu tạo nên hiệu ứng nhà kính tăng
lên là khí CO2 (sinh ra khi đốt các nhiên liệu hoá thạch và khi đốt rừng nhiệt đới);
chlorofluorcarbon (CFSs - đựơc dung cho chất nổ, chất làm lạnh, các dung dịch hoà
200
tan và các tác nhân thổi bọt, trong nhiều các chất khác); metan (sinh ra từ quặng than,
loài vật nuôi thuộc bộ nhai lại, trấu, rò rỉ khí, và các chất khác); nitrogen oxide (nguồn
sinh ra chưa biết rõ, nhưng liên quan đến phân bón và sự đốt các nhiên liệu hoá thạch).
Rõ ràng, các khí nhà kính bắt nguồn chủ yếu từ các quy trình công nghiệp, từ việc phát
điện, và từ nông nghiệp. Hoạt động kinh doanh có lien can nhiều vào việc tạo ra chất
khí thủ phạm gây hại.
Phương trinh chính sách là một phương trình của những chi phí phát sinh hiện
nay để ngăn cản thiệt hại trong tương lai. Một số thiệt hại xem ra khá chắc chắn, một
số chưa rõ ràng. Một số nước đã quyết định rằng vấn đề này là quá quan trọng đến
mức không thể bỏ mặc cho sự may rủi. Họ đã hình thành các mức phấn đấu giảm khí
nhà kính chính yếu - CO2- Hầu hết những việc làm này tập trung vào ý nghĩ đừng để
các sự thải khí tăng trên mức độ ở những năm cuối của thập kỷ 1980. Bởi vì theo thời
gian sự tiêu thụ năng lượng có khả năng tăng lên cùng lúc với áp lực dân số và tăng
trưởng kinh tế, phải cần 1 thời gian để thực hiện mức phấn đấu đó. Các quốc gia cam
kết này đã nói một cách khái quát rằng họ sẽ ổn định hoá sự thải khí CO2 ở mức độ
năm 1990 vào năm 2000 hoặc 2005. Vài nứơc như Đức có thể lâu hơn.
Việc đạt được mộth hiệp ước về tăng nhiệt toàn cầu là khó khăn. Việc cắt giảm
phát thải khí CO2 có thể lúc đầu là rất rẻ - các biện pháp tiết kiệm năng lượng đơn
giản sẽ làm nên một cuộc đột nhập lớn vào việc phát thải khí CO2 và chúng có thể rất
rẻ. Khí tự nhiên có hàm lượng cacbon thấp hơn dầu và than đá – thay thế dầu và than
đá bằng khí tự nhiên sẽ làm giảm mức phát thải CO2. Các biện pháp về sau có thể trở
nên đắt hơn – các hệ thống năng lượng sẽ đắt hơn thay thế cho các nhà máy dùng
nhiên liệu hoá thạch. Nhiều nước không có những lợi ích khuyến khích để “nhập cuộc
chơi” họ sẽ gánh chịu các hci phí mà có thể là không tương ứng với các lợi ích không
chắc chắn. Mỹ đã nhin vấn đề như thế. Một vài nước có thể có cái nhìn không rõ ràng
về các lợi ích nhưng họ cảm thấy không có đủ khả năng tài chính để áp dụng những
biện pháp kiểm tra việc thải khí – ví dụ Ấn Độ và Trung Quốc. Các nước khác như
Liên xô cũ và Đông Âu có nhiều vấn đề kinh tế cấp bách khác cần phải giải quyết.
Một trong những cách chắc chắn nhất để khuyến khích việc tiết kiệm năng
lượng và sử dụng nhiên liệu có hàm lượng Cacbon thấp là đưa vào một loại thuế nhiên
liệu cacbon. Than đá sẽ thu hút thuế cao nhất, thứ 2 là dầu, khí tự nhiên là thấp nhất
201
theo hàm lượng cacbon của chúng. Các nguồn năng lượng như gió, sóng, mặt trời và
hạt nhân sẽ được miễn thuế. Sức mạnh của thuế cacbon ở chỗ nó ảnh hưởng trực tiếp
vào giá của năng lượng, và kinh nghiệm tư những năm 1970 và 1980 với giá năng
lượng cho chúng ta thấy rằng có một mối liên hệ trực tiếp và mạnh mẽ giữa giá năng
lượng và việc tiết kiệm năng lượng (khung 17.3). Nhưng dù cho vấn đề thải khí
cacbon được giải quyết thế nào đi nữa, thì nó vẫn có những ảnh hưởng khá rõ ràng đối
với nghành công nghiệp. Vì thậm chí các mục tiêu giảm CO2 được thực hiện mà
không có thuế thì nghành công nghiệp sẽ phải gánh chịu c ác chi phí ban đầu c ủa c ác
qui định.Hơn nữa vì sự sử dụng nhiên liệu hoá thạch đã thâm nhập vào nền kinh tế
công ngiệp hiện đại quá nhiều,nên ít người sẽ thoát khỏi gánh nặng của việc kiểm soát
phát thải khí CO2.
Khung 17.4 cho thấy các ngành công nghiệp của Anh là những thành phần sử
dụng nhiều năng lượng so với tổng chi phí sản xuất của họ, sử dụng dưới dạng nguyên
vật liệu thô khác nhau ma mua cũng như năng lượng họ tiêu thụ trực tiếp.Nhìn chung
đây là những ngành công nghiêp sẽ chịu đựng những chi phí ban đầu của việc kiểm
soát phát thải khí CO2.Khác với những gì người ta có thể mong đợi,thuế môi trường,ví
dụ như thuế cacbon có thể làm cho ngành công nghiệp có lợi hơn.Không giống như
những loại thuế khác ,thuế môi thường không có mục đích chính là tăng doanh số
thuế.Mục tiêu của nó là để thay đổi hành vi của ngàng công nghiệp.
Thuế này có thể tránh được bằng cách áp dụng công nghệ tiêu trừ ô nhiễm,làm
giảm ô nhiễm xuống và do đó làm giảm tiền trả thuế _như chương 11 đã cho thấy. Có
hai nguyên nhân chính yếu tại sao các loại thuế khuyến khích như thế lại có lợi cho
nghành công nghiệp:
1 – Như chương 11 và 13 đã cho thấy, chi phí của nghành công nghiệp khi tuân
thủ các qui định về môi trường dựa trên cơ sở đánh thuế có thể thực sự là ít hơn chi phí
khi tuân thủ các hình thức khác của qui định về môi trường. Điều mà người ta thường
không nhìn thấy là mọi qui định luật lệ đều áp đặt 1 chi phí cao hơn cần thiết là để đạt
được một chi tiêu chất lượng môi trường định trước.
2 - Nếu thuế môi trường không đặt mục tiêu chính yếu là nâng doanh số thuế
thu, rồi sẽ có trường hợp chính đáng để hoàn trả doanh số thuế đã thực sự thu được trở
lại cho nghành công nghiệp. Trong khi một tay thì thu thuế, tay kia lại hoàn trả cho họ,
202
có vẻ như là kỳ quái, tuy thế mà vai trò khuyến khích của thuế môi trường vẫn có.
Ngành công nghiệp vẫn có thể tránh thuế bằng cách gây ô nhiễm ít hơn. Việc hoàn trả
thuế có thể mang hình thức của sự giảm thuế doanh nghiệp, như thế lại là thêm một sự
khuyến khích nữa cho xí nghiệp. Điếu này thỉnh thoảng được gọi là đặc tính hưởng lợi
gấp đôi của một thuế khuyến khích.
600
70 65
75 80
85 90
95 100
105
50 51
52
60 65
89
70
80
Giá nhiên liệu thực
Tiêu thụ năng lượng/1000 GDP
Mức tiết kiệm năng lượng có thể đo lường đại khái bằng tỷ lệ năng lượng. Tỷ lệ
này biểu hiện số năng lượng cần để sản xuất 100 bảng Anh giá trị của hoạt động
kinh tế (“GDP”=tổng sản phẩm nội địa) và đ ược đo lường dọc theo trục hoành. Tỷ
lệ này càng thầp ,hiệu quả càng cao Gía của năng lương được đo trên trục tung .
Trong khi có những ảnh hưởng khác vào tiết kiệm năng lượng ,biểu đồ trên cho th
ấy một sự liên kết rõ ràng giữa giá năng lượng sạch và việc tiết kiệm năng lượng.
Khung 17.3 Ảnh hửơng của giá năng lượng vào việc bảo tồn năng lượng ở Anh
203
Các động cơ khiến ngành công nghiệp tỏ ra sự quan tâm về môi trường.
Có ít nhất 5 lí do tại sao ngành công nghiệp có thể có lợi khi chấp nhận 1 thái độ mạnh
dạn ủng hộ môi trường.
Môi trường và hiệu quả
Bất kì điều gì có thể làm được để giảm lưu lượng nguyên vật liệu và năng lượng
đã qua hệ thống kinh tế sẽ làm giảm gánh nặng ô nhiễm vào môi trường. Nhưng
nguyên vật liệu và năng lượng là những tài nguyên được mua bán trên thị trường.
Chúng có giá cả và do đó vịêc sử dụng chúng sẽ thể hiện như 1 chi phí trong sổ sách
kế tóan của 1 công ty trung bình. Việc cắt giảm chi phí nguyên vật liệu và năng lưọng
khi ấy làm giảm ô nhiễm.
Kinh nghiệm từ việc kiểm tra và đánh giá môi trường trong kinh doanh cho
thấy rằng nhiều cở sở kinh doanh không quan tâm nhiều đến các chi phí nguyên vật
liệu và năng lượng như đối với các chi phí lao động và vốn. Thông thường các chi phí
nguyên vật liệu và năng lượng là 1 phần nhỏ của tổng chi phí và trong trường hợp
không phải vậy thì ngành công nghiệp thường tỏ ra rất có hiệu quả trong cách nó sư
dụng năng lượng. Nhưng trong khi quy mô chi phí nguyên vật liệu và năng lượng thì
nhỏ so với tổng chi phí hoặc với sản phẩm đầu ra, có thể là 1 sự giải thích cho sự sao
lãng tương đối của hiệu qua nguyên vật liệu và năng lượng ở cơ sở kinh doanh, nó
không phải là 1 sự bào chữa. Mỗi 1 bảng Anh được tiết kiệm trên hoá đơn nguyên vật
liệu mà không phải hy sinh đầu ra là 1 bảng Anh tăng them cho lợi nhuận. Riêng chi
phí của nguyên vật liệu chiếm 15% GNP của Anh quốc. Một số công ty lớn đã nghĩ ra
các khẩu hiệu ngắn gọn để nắm bắt được sự lien kết giữa môi trường và hiệu quả: “
phòng ngừa ô nhiễm thì có lợi” (PPP – pollution prevention pays), “tiến kiệm tiền và
giảm thải chất độc” (SMART – save money reduce toxics) , “tẩy sạch chất thải”
(WOW – wipe out waste), và “giảm thải luôn luôn có lợi” (WRAP – waste reduction
always pays).
204
Khung 17.4 Cường độ sử dụng năng lượng trong các ngành công nghiệp ở Anh vào
thập niên 1980
Ngành công nghiệp Chi phí năng lượng tính theo % của tổng chi phí (gần dung)
Lọc dầu 80+
Sản xuất điện 60
Hoa chất hữu cơ 35
Hàng không 25
Xi măng 22
Khai thác than 20
Hoá chất vô cơ 15+
Đường sắt 15
Gạch 15
Phân bón 15-
Sắt và thép 10
Thuỷ tinh 10
Bột giấy và giấy 10
205
Môi trường như ý là hình tượng của công ty
Có 1 thái độ tích cực đối với môi trường có thể là tốt cho hình tượng của công
ty và do đó là tốt cho thị phần. Việc đạt được thị phần thong qua việc “làm xanh là
quan trọng”, nếu đó là phong trào người tiêu thụ xanh tiếo tục, hình ảnh của công ty sẽ
chỉ thành công nếu bản than người tiêu thụ nghĩ răng phong trào người tiêu thụ xanh
với 1 sự rối rắm về thong tin môi trường của 1 sản phẩm. Sự hình thành 1 hệ thống dán
nhãn sinh thái nhất quán như những hệ thống được chấp nhận ở các nước Châu Âu
giúp người tiêu thụ phân biệt được cái nào là nói thật, cái nào là giả về môi trường của
sản phẩm. Ví dụ, không có sản phẩm nào có thể là hoàn toàn tốt cho môi trường. Một
khi mà nó dung hết nguyên vật liệu và năng lượng thì nó sẽ tác động đến môi trường
như chương 1 đã chứn tỏ. Tác động lên môi trường của nhiều sản phẩm cũng không
thể biết được 1 cách chính xác – cách đây không lâu CFCs được coi như 1 chất an
toàn, hiệu quả và vô hại.
Một hình ảnh xanh còn quan trọng vì một lẽ ít rõ ràng hơn thị phần. Kiếm được những
người nhân viên giỏi nhất có thể cũng phụ thuộc vào thái độ thật sự ủng hộ môi
trường, một vài cuộc điều tra đã cho thấy rằng những nhân viên tiềm năng nghĩ rằng 1
hình ảnh ủng hộ môi trường, một vài cuộc điều tra đã cho thấy rằng những nhân viên
tiềm năng nghĩ rằng một hình ảnh ủng hộ môi trường là rất quan trọng đối với sự lựa
chọn công ty để làm việc. Thực vậy, nhiều công ty kể đến yếu tố “ nhân viên xanh”
như 1 sức mạnh lớn trong việc đánh giá lại hình ảnh của công ty.
Môi trường và cơ hội thị trường
Các chi tiêu cho môi trường phải tạo nên thu nhập cho một ai đó: nhà sản xuất
thiết bị giảm ô nhiễm, người cung cấp công nghệ ít gây ô nhiễm, người tái chế, ngành
công nghiệp làm sạch. Anh quốc chi ít nhất 6,5 tỉ bảng Anh mỗi năm vào kiểm soát ô
nhiễm. Một báo cáo cho rằng thị trường này sẽ tăng đến cỡ 14 tỉ bảng Anh hàng năm
trong 10 năm tới, với thị trường Châu Âu khoảng 86 tỉ bảng Anh hang năm và thị
trường Mỹ khoảng 100 tỷ bảng Anh hang năm. Đây là những cơ hội thị trường khổng
lồ cho các công nghệ từ các thiết bị khử khí sulphur trong ống khói cho đến các công
cụ lọc nứơc và máy chuyển đổi.
206
Việc giảm ô nhiễm diễn ra theo 2 cách: bằng các công nghệ “cuối đường ống”
làm giảm ô nhiễm từ quá trình công nghệ và nguyên vật liệu thô đã có, bằng cách
“giảm ở nguồn” , tức là thiết lại sản phẩm từ gốc để nó chứa ít nguyên vật liệu và năng
lượng mà sau này biến thành chất thải. Nhìn chung, chính sách môi trường hiện nay
dựa trên công nghệ cuối đường ống. Trong tương lai, chính việc giảm ô nhiễm ở gốc
mới quan trọng hơn vì ngày nay người ta thừa nhận 1 cách rộng rãi rằng viêc sản phẩm
công nghệ có chất thải thấp thì hiệu quả nhiều hơn so với tìm kiếm các giải pháp về
sau. Thực vậy, đây sẽ là một phần của sự chuyển hướng mới trong chính sách chung
nhằm vào dự đoán và ngăn ngừa hơn là phản ứng đối phó và quét dọn. Các thuật ngữ
như “nguyên tắc cảnh giác thận trọng” trong quản lí môi trường sẽ trở nên phổ biến.
Nếu dự đoán này là đúng, sẽ có 1 phần thưởng lớn cho các thiết kế mới cho xe cộ,
thùng chứa, bao bì đóng gói… Chỉ có giới kinh doanh mới có thể làm được sự chuyển
đổi từ các giải pháp “cuối đường ống” đến các giải pháp “giảm chất thải ở nguồn vào”.
Sự tuân thủ các luật lệ về môi trường
Quan điểm tiêu biểu của ngành công nghiệp đối với các luật lệ về môi trường là
phải tuân theo. Kiểu phản ứng của ngành công nghiệp là: chính quyền ra luật, ngành
công nghiệp đối phó. Như thế không phải là ngành công nghiệp luôn luôn biết hệ
thống luật lệ đó ra sao dù là luật đang có hoặc mới dự định như 1 số cuộc điều tra đã
cho thấy. Không tuân thủ có thể tốn kém, nhưng có thể cũng sẽ tốn kém y như vậy nếu
không đếm xỉa đến những phát triển trong tương lai của chính sách môi trường ở mức
độ quốc gia, Châu Âu và toàn cầu. Điều mà chúng ta gọi là “sự tuân thủ tiên đoán” có
khả năng trở thành một vấn đề sống còn đối với ngành công nghiệp. Có một nhu cầu
phải phân tích các vấn đề môi trường sẽ xảy ra và suy nghĩ xem các chính quyền các tổ
chức quốc tế và thế giới nói chung sẽ phản ứng với những vấn đề này như thế nào.
Quan trọng hơn, như tiên đoán các khuynh hướng này, giới kinh doanh có thể làm
giảm tối đa sự ngưng trệ sản xuất do phải tuân theo các yêu cầu mới về môi trường, có
thể nắm bắt các cơ hội thị trường mà các yêu cầu này có thể tạo ra.
207
Kết luận
Bốn lợi ích trong kinh doanh do thay đổi về môi trường có một đặc tính
chung - lợi ích cho chính mình. Chính vì lợi ích riêng của ngành công nghiệp mà cắt
giảm chi phí, tăng thị phần, chiếm giữ thị trường mới và tuân thủ các quy định môi
trường. Trong kinh doanh tất cả các trường hợp, đơn vị kinh doanh có thể thoát khỏi
“kiếu đối phó” và đi vào “kiểu tiên đoán” nhưng mọi thứ đều có thể xảy ra mà không
có sự quan tâm thực sự tới môi trường. Dù sao thì, động cơ chính yếu nhất cho sự tồn
tại của giới doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận. Chúng tôi đã lập luận rằng động cơ này
không nhất thiết là trái với việc cải thiện môi trường. Điều cần là quản lí thận trọng để
làm sao tách việc theo đuổi lợi nhuận một cách chính đáng khỏi tác động của nó vào
môi trường. Thị trường hoạt động tự do sẽ không làm điều đó khi không có sự trợ
giúp. Sự can thiệp chung chung của nhà nứơc hầu như chắc chắn là cũng sẽ không
thực hiện được điều đó: chính quyền có thể có ý định tốt, nhưng họ thường điều hành
các nền kinh tế vào môi trường cũng chẳng hay hơn thị trường tự do.
Có thể thấy được rằng sự theo đuổi lợi ích cho chính mình trong khuôn khổ luật pháp
sẽ đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Nhưng vẫn còn đó vấn đề đạo đ ức môi trường
và nó biều hi ện thông qua cách mà giới kinh doanh tiếp một cận với môi trường. Nó
biểu hiện như một cam kết-mà chúng ta có thể định nghĩa như một sự quan tâm tới
chính mình đã được bàn cãi trước đây. Thể hiện và đo lường sự cam kết là khó khăn,
có thể không làm được. Nhưng thật không dễ dàng để hiểu một số phương pháp của g
ới kinh doanh đối với môi trường trừ phi có sự cam kết.
208
CHƯƠNG 18
QUẢN LÝ CHẤT THẢI.
Giới thiệu.
Sự phát và vứt bỏ các chất thỉa rắn đo thị (MSW- munycipal soloid waste) có vẻ
đang trở thành một vấn đề chính sách quam trọng trong tất cả các nền kinh tế công
nghiệp hoá. Theo thống kê chính thức, các quốc gia thuộc OECD (tổ chức hợp tác kinh
tế và phát triển) hàng năm thải ra 240 triệu tấn MSW vào cuổi những năm 1980.
Thành phần cấu tạo chính của các loại chất thải này khác nhau giữa cá nước nhưng hầu
hêt ở các nước, bao bì đang trở thành một thành phần quan trọng (25-50%) trong tổng
số. Việc vứt bỏ chất thâi cũng khác nhau giữa các nước và giữa các vùng trong một
nước. Ngoại trừ một số nước như Nhật Bản, Đan Mạch và Thuỵ Sỹ, phần lớn các nước
công nghiệp hoá vứt bỏ MSW bằng cách chôn vào đất.
các nhà làm chính sách và ở một mức độ cao hơn, toàn xã hội nói chung, ngày
càn chú ý nhiều hơn về MSW, đặc biệt là các vùng thị tứ, vì các vùng chôn rác hiện có
đã đóng cửa hoặc đã hoạt động đến công sức tối đa vì sự chống đối (với các lý do về
khả năng chấp nhận của xã hội) ngày càng tăng đối với việc mở thêm các điểm chôn
rác mới, nghĩa là hội chứng “không ở trong vườn tôi” NIMBY (not in my back yard).
Những trở ngại đối với chính sách quản lý hợp lý chất thải.
mặc dù trong những năm gần đây vấn đề quản lý chất thải, đã được các giới
hoạt động chính trị xã hội quan tâm, việc đưa ra các quyết định hợp lý, nghĩa là việc
tìm thêm một phương pháp rẻ nhất hoặc một nhóm các phương pháp thích hợp để quản
lý MSW trong một cộng đồng nào đó, cũng như đưa ra các quyết định có tính công
bằng (nghĩa là việc tránh các tác động chính sách quá bất lợi cho người nghèo) vẫn
còn bị giới hạn bởi một số các “thất bại” (Turner,1994; turner powell, 1991).
Các cơ sở dữ liệu cơ bản về sự phát sinh và vứt bỏ chất thải thì không đầy đủ
(khó khăn về thông tin). Hầu hết các nước thiếu một cơ sở dữ liệu toàn quốc, toàn diện
và cập nhật, trong khi đó họ có nhiều nguồn dữ liệu về MSW và các dòng lwu chuyển
chất thải khác. Hơn nữa, ít các quốc có các cơ quan chịu trách nhiệm tổng quát toàn hệ
thống để giải quyết vấn đề quy hoạch và quản lý chất thải và sự thiếu hiểu biết về mặt
phân tích chi phí-lợi ích kinh tế cũng thường xảy ra (thất bại về phân tích).
209
Tuy nhiên, ngay cả khi có thu thập dữ liệu và phân tích, sự quản lý chất thải hữu
hiệu vẫn còn bị trở ngại do thất bại về thị trường. Chính quyền đã thất bại trong việc
định giá dịch vụ thu gom và vứt bỏ MSW. Việc định giá quá thấp các dịch vụ về MSW
(nghĩa là việc không thể thực hiện được toàn bộ chi phí xã hội của việc thu gom và vứt
bỏ chất thải dẫn đến một mức tổng cộng quá lớn về MSW, cúng như sử dụng quá ít
các biện pháp tía chế hoặc giảm thải tại nguồn trong một nền kinh tế thị trường. Các
nguyên nhân của xã hội tiêu thụ kiểu vứt bỏ là từ những khuyến khích lợi ích của thị
trường biến dạng làm ảnh hưởng đến hành vi của cả người tiêu thụ lẫn người sản xuất.
Một số nhà phân tích cho rằng kết quả là việc thiết kế sản phẩm, lựa chọn sản phẩm và
các quyết định về vứt bỏ chất thải đều quá thâm dụng tài nguyên (Menell, 1990). Chất
thải được tạo ra quá nhiều, và hơn nữa tổ hợp sản phẩm không phải là tối ưu. Nó
không phải là tổ hợp các sản phẩm có tác động môi trường với chi phí thấp nhất.
Khung 18.1 mức vứt bỏ chất thỉa tối ưu về mặt kinh tế.
Các công cụ chính sách để quản lý chất thải: Phương pháp “mệnh lệnh và
kiểm soát” so với phương pháp dùng “công cụ kinh tế”
Phương pháp mệnh lệnh và kiểm soát
Chính sách môi trường (bao gồm cả quản lý chất thải) đã từ lâu được thực hiện
thông qua việc sử dụng biện pháp ban hành các tiêu chuẩn định sẵn theo kiểu “mệnh
lệnh và kiểm soát”. Trong phương pháp này, cơ quan điều hành đặt ra tiêu chuẩn môi
trường (chỉ tiêu) và đòi hỏi những kẻ gây ô nhiễm phải tuân theo tiêu chuẩn nếu không
muốn bị phạt vạ.
Khung 18.2. Các ví dụ về phương pháp chế định đối với sự tái chế chất
thải. Tiêu chuẩn quy định (chỉ tiêu)
Nước này đã thông qua một quy chế định ra các mức độ đóng chai/tái chế cho
chai thuỷ tinh và lon như sau:
Bia: 70% đối với chai bằng thuỷ tinh năm 1992; 90% đối với lon trong năm
1994.
Nước trái cây: 25% đối với chai thuỷ tinh năm 1992; 40% đối với lon năm
1994.
Nước carbonate: 60% đối với chai thuỷ tinh năm 1992; 80% đối với lon năm
1994.
210
Mức chỉ tiêu là 30% chất thải được tái chế năm 1995; phần còn lại được thiêu
huỷ; chôn vào đất chỉ được dùng như là phương cách giải quyết cuối cùng.
Nghị định nhà nước về bao bì được chấp nhận năm 1990 nhằm vào việc giảm
bao bì 20% trong MSW (kể từ mức của năm 1989) vào năm 1992 và 50% vào năm
2000.
Chỉ tiêu là tái chế 50%, gồm cả tái chế vật liệu hoặc sản xuất năng lượng.
Chỉ tiêu tái chế là 64% vào năm 1995, thiên về tái chế vậtliệu hơn là sản xuất
năng lượng.
Giảm 10% trong tất cả các chỉ tiêu về chất thải; mức tối thiểu là 50% đối với
việc tái sử dụng/ tái chế MSW, 30% chất thải đô thị được dùng cho việc tái sinh năng
lượng
Các công cụ chính sách để quản lý chất thải: Phương pháp “mệnh lệnh và
kiểm soát” so với các phương pháp dùng công cụ “kinh tế”
Phương pháp mệnh lệnh và kiểm soát.
Chính sách môi trường (bao gồm cả quản lý và chất thải) đã từ lâu được thực
hiện thông qua việc sử dụng biện pháp ban hành các tiêu chuẩn định sẵn theo kiểu
“mệnh lệnh và kiểm soát”. Trong phương pháp này , cơ quan điều hành đặt ra tiêu
chuẩn môi trường (chỉ tiêu) và đòi hỏi những kẻ gây ô nhiễm phải tuân thoe tiêu chuẩn
nếu không muốn bị phạt vạ.
Khung 18.2. Các ví dụ về phương pháp chế định đối với sự tái chế chất thải.
Quốc gia Chỉ tiêu chuẩn qui định (chỉ tiêu)
Áo Nước này đã thông qua một qui chế định ra các mức
độ đóng chai/ tái chế cho chai thuỷ tinh và lon như sau:
Bia: 70% đối với chai bằng thuỷ tinh năm 1992;
90% đối với lon trong năm 1994.
Nước trái cây: 25% đối với chai thuỷ tinh năm
1992; 40% đối với lon năm 1994.
Nước carbonate: 60% đối với chai thuỷ tinh năm 1992; 80%
đối với lon năm 1994.
211
Bỉ Mức chỉ tiêu là 30% chất thải được tái chế năm 1995;
phần còn lại được thiêu huỷ; chôn vào đất chỉ được dùng
như là phương cách giải quyết cuối cùng.
Canada Nghị định nhà nước về bao bì được chấp nhận năm
1990 nhằm vào việc giảm bao bì 20% trong MSW (kể từ
mức của năm 1989) vào năm 1992 và 50% vào năm 2000.
Pháp Chỉ tiêu là tái chế 50%, gồm cả tái chế vật liệu hoặc
sản xuất năng lượng.
Đức Chỉ tiêu tái chế là 64% vào năm 1995, thiên về tái
chế vật liệu hơn là sản xuất năng lượng.
Hà Lan Giảm 10% trong tất cả các chỉ tiêu về chất thải; mức
tối thiểu là 50% đối với việc tái sử dụng / tái chế MSW,
30% chất thải đô thị được dùng cho việc tái sinh năng
lượng; chôn rác chỉ ở mức tối đa 10% vào năm 2000 ( các
chỉ tiêu trung gian đạt được vào năm 1994.
Ý Luật đã đưa ra chỉ tiêu tái chế 50% đối với cả thuỷ
tinh và lon, đạt được vào năm 1992. Từ tháng 4 năm
1993, các vật chứa không thõa mãn chỉ tiêu này sẽ bị thuế
phạt.
Thuỵ Sỹ Luật quy định rằng lượng bao bì các thức uống đưa
vào rác thải không vượt quá 10% vào cuối năm 1993. Các
chai lọ PVC bị cấm, đối với lonbia bằng lon phải đạt mức
tái chế 50% vào năm 1991.
Anh Quốc Vào năm 2000 sẽ tái chế 50% chất có thể tái chế
được (khoảng 25% của tổng MSW).
Hoa Kỳ Năm 1988, Cơ quan Bảo vệ Môi trường định ra mục
tiêu quốc gia là giảm lượng chất thải 25% vào năm 1992
thông qua việc tái chế và phân loại chất thải từ gốc.
EC Điều luật về bao bì đang được xem xét, những đề
xuất gồm có “nguyên tắc không thay đổi” lượng chất thải
bao bì, dựa vào mức cơ bản của năm 1990, thực hiện
212
trong vòng 5 năm sau khi luật được áp dụng. Sau 5 năm,
lượng vật chất tái chế phải đến mức 60% lượng thải,
thuhồi năng lượng tối đa 30% và chôn vào đất tối đa 10%
cảu tổng lượng chất thải.
Nguồn tài liệu: Pearce và Tuner (1992)
Khung 18.2 tóm tắt một số tiêu chuẩn vừa mới được chấp nhận hoặc mới được
xem xét về vấn đề tái chế chất thải trong nền kinh tế công nghiệp hóa.
Tiến trình ấn định mục tiêu này rất có ý nghĩa nhưng có thể không luôn đại diện
cho mục tiêu khả thi của chính sách bởi vì sự thiếu thông tin và thiếu một nhận định
:hệ thống đúng đắn”. Ở Hoa Kỳ, Alter (1991) đã kết luận rằng việc phân tích đúng dữ
kiện về MSW có sẵn cho thấy trong tương lai sẽ có sự suy giảm về số lượng các vật có
thể tái chế trong MSW, và do đó tạo ra sự thay đổi về mặt lợi ích kinh tế của việc tái
chế. Ông cũng cho rằng việc phân tích về cường đoọ phát sinh chất thải (tương tự
cường độ vật chất trong cách tính GNP; (Evans và Szekeley, 1985) đã dẫn đến câu hỏi
là liệu mức phát sinh MSW ở Hoa Kỳ có thể gia tăng hay không khi nền kinh tế phát
triển. Ngay cả nếu mức độ tham gia vào kế hoạch tái chế hiệu quả của hệ thống thu
gom được cải thiện, Alter tin rằng các chỉ tiêu tái chế do nhà nước quy định vượt qua
25% lượng MSW là không thể đạt đến được.
Trong mọi trường hợp chúng ta có thể nói rằng sự bỏ quên yếu tố kinh tế trong
quản lý chất có thể dẫn đến sự quy định các chỉ tiêu môi trường mặc dù có tính chất
khả thi vẫn sẽ không giúp giảm thiểu lượng chất thải lưu chuyển tổng cộng.
Trong khung 18.1, giả thiết thải Ws là mục tiêu cần đạt. Sự thay đổi lượng thải
từ W đến Ws có thể liên quan đến sự thiệt hại lợi ích ròng của xã hội.
Menell (1990) đã kết luận rằng mặc dù các chính sách như là sự phân loại bắt
buột đối với các loại chất thải từ các hộ gia đình v cc lệnh cấm sản phẩm đ đạt được
một số kết quả đối với các thể hiện mặt ngoài của vấn đề MSW, nhưng đ thất bại trong
việc giải quyết một cch cĩ hệ thống cc nguyn nhn của vấn đề. Chúng không thể thay
đổi các kích thích sai lệch đ gắn liền với hnh vi của nh sản xuất v người tiêu thụ. Sự
lựa chọn sản phẩm, cũng như quyết định về cách thải xác định chi phí x hội của
MSW: Nếu chỉ ch trọng vo quyết định phân loại chất thải (ví dụ phân loại bắt buột) có
thể sẽ thu được những kết quả trái ngược.
213
Phương pháp sử dụng các công cụ kinh tế
Phương pháp kinh tế áp dụng cho các chính sách về môi truờng ngày nay được
chấp nhận rộng ri (ít nhất về mặt nguyn tắc) trong hầu hết cc quơc gia cơng nghiệp
hóa. Phương pháp nàcy nhấn mạnh sự ích lợi của công cụ kinh tế (EI- economic
instrument) được dùng thay đổi thái độ của con người thông qua cơ chế về giá cả. Ý
tưởng cơ bản là các EI có rhể đưa vào nền kinh tế để sửa chữa các sai lầm của thị
trường. EI có thuận lợi hơn nữa là nó thích ứng tốt với các phương pháp chi phí lợi ích
và nguyên lý quản lý. Tuy nhin, cc EI tự chng khơng thể lm giảm nhẹ khĩ khăn về mặt
sai lạc thông tin và địi hỏi sự triển khai cẩn thận, ch ý đến hiệu quả của toàn hệ thống
và nhu cầu quản lý tổng hợp.
Một loại các EI khác nhau có thể được triển khai mạnh mẽ (xem khung 18.3)
gồm có chi phí đánh vào sản phẩm, thuế vứt bỏ chất thải, các hệ thống ký quỹ hồn chi
(thực chất l phối hợp giữa thuế v trợ cấp). Phí quản lý (phí cấp phép quy định chỗ thảo
và các phí khác).Tín dụng tái chế (tiền trả cho các cơ quan có trách nhiệm thu hồi các
thành phần của MSW và bằng với chi phí thải thu được bởi cơ quan có trách nhiệm
gom thải) và thuế nguyên liệu, tất cả đều biểu thị cho những bước đi của phương pháp
dùng các EI. Người ta cũng đưa ra một hệ thống giấy phép có thể bán lại được, dùnh
như là một cơ chế thúc đẩy việc tai chế giấy và bìa bỏ đi (Dinnan, 1990). Các EI hiện
rất được ưa chuộng ở Uỷ Ban Cộng Đồng Châu Âu và chúng ta có thể hy vọng thấy
được áp lực đang tăng dần lên ở Châu Âu địi hỏi sử dụng cc EI một cch rộng ri hơn
trong hệ thống quản lý chất thải tương lai.
Các EI có thể dùng trong hệ thống quản lý chất thải gia tăng mức tài chính và/
hoặc kích thích sự thực hiện một hành vi được định sẵn thông qua các khuyến khích
vật chất. Các chi phí thành tiền (phí đối với người sử dụng ) đã được sử dụng để tạo
thuận lợi cho sự thu gom, chế biến và tồn trữ chất thải, hoặc để phục hồi các vị trí cũ
chứa rác độc hại. Tiền khích lệ có thể được dùng để đạt được nhiều mục tiêu như là
giảm thiểu chất thải, giảm thải ở nguồn và gia tăng sự tái sử dụng/tái chế. Trong
chương nầy chỉ nói đến các EI trực tiếp nhằm vào việc làm giảm và/hoặc tái chế (tái sử
dụng) các MSW. Bởi vậy chúng tôi không đề cập đến việc sử dụng các phí đối với sự
thải khí vào không gian va nước, các loại thuế khai thác tài nguyên và thuế đánh trên
214
người tiêu thụ, mặc dù chúng phục vụ một cách gián tiếp việc làm giảm toàn diện sự
vứt bỏ chất thải.
Khung 18.3 Các ví dụ về việc sử dụng các công cụ kinh tế trong việc quản lý chất thải bao bì
Quốc gia
Loại công cụ kinh tếb Cách áp dụng
Đang sử dụng (u)
Đang nghiên cứu/đề xuất (p)
Áo
Ký quỹ - hoàn chi
Các vật chứa thức uống bằng nhựa có thể
dùng lại phải ký quỹ bắt buột 4 đồng Áo
(u)
Phí thu trên sản phẩm
Các vật chứa thức uống không thể thu
hồi laị được phải đóng 0,5-1 đồng Áo
cho mỗi đơn vị sản phẩm
Bỉ
Thu phí xả thải
(Khuyến khích)
MSW (u)
Canada
Ký quỹ - hoàn chi Các vật chứa bia và nước ngọt
Thu phí xả thải Các vật chứa không dùng lại được
Đan Mạch
Ký quỹ - hoàn chi
Các vật chứa dùng lại được của bia và
nước ngọt, các thức uống, các nông dược
loại chai nhỏ (u)
Phí thu trên sản phẩm
Đối với các sản phẩm đóng gói khác
nhau
Phần Lan
Phí thu trên sản phẩm Các vật chứa đồ uống có Carbonate
Ký quỹ - hoàn chi
Các vật chứa đồ uống có carbonate dùng
lại.
Pháp Thu phí xả thải (khuyến khích) MSW (p)
Đức Ký quỹ - hoàn chi Các vật chứa đồ uống bằng nhựa (u) mở
rộng ra các loại bao bì khác.c
Ý Thu phí trên sản phẩm Các bao bì nhựa không phân hủy sinh
học.
Hà Lan Thu phí xả thải (khuyến khích) MSW (p)
Phí thi trên sản phẩm Bao bì không tái chế được (p)
Các sản phẩm PVC có thời gian sử dụng
215
ngắn. (p)
Ký quỹ - hoàn chi
Các sản phẩm chứa nhôm và PVC có độ
trường tồn cao (p)
Na Uy Phí thu trên sản phẩm Các vật chứa thức uống carbonate có thể
vứt bỏ (u)
Ký quỹ - hoàn chi Các vật chứa thức uống dùng lại được (u)
Bồ Đào Nha Ký quỹ - hoàn chi Các khung kimloại (p)
Thụy Điển Phí thu trên sản phẩm Các vật chứa thức uống (u)
Ký quỹ - hoàn chi Các khung nhôm (u)
Thu phí xả thải (khuyến khích) Không định rõ (p)
Thụy Sĩ Phí thu trên sản phẩm Các vật chứa thức uống có thể thải bỏ
Anh Chứng chỉ tái chế MSW (p)
Mỹ Ký quĩ - tái chế Các vật chứa thức uống (4)
Giấy phép bán được Giấy báo (p)
Thu phí xả thải Các chất thải không phân lập được.
Nguồn tài liệu: Pearce va Turner (1993)
a. Một số công cụ kinh tế chỉ áp dụng ở mức tiểu bang , tỉnh hoặc vùng.
b. Phí tính cho người tiêu dùng để trang trải cho việc thu gom à xử lý MSW được áp dụng
tronghầu hết các quốc gia công nghiệp hóa; thuế đánh trên việc sử dụng các nguyên liệu đã
được thực hiện ở Đan Mạch và đề xuất cho việc khai thác tài nguyên cát và sỏi của Phần
Lan.
c. Một “Hệ Thống Đôi” đã đuợc đề ra vao năm 1991 liên quan đến yêu cầu bắt buộc lấy
bao bì trở lại từ hệ thống cung ứng, hệ thống này chỉ có thê thay thế bởi các công nghiệp đã
hình thành xong câc hệ thống thu gom rác và thu hồi phế phẩm riêng biệt ( ngoài hệ thống
thu rác đô thị thông thường). Hệ Thống Đôi được tài trợ bởi các hệ thống yểm trợ gọi là
“ĐIểm Xanh” căn cứ vào sự lý giải và ủng hộ cho khả năng tái chế các bao bì. Tuỳ vào
kích cỡ, sẽ tính thêm khoản chi (trên người tiêu dùng) 0.22 đồng Đức cho một bao bì để
trang trải chi phí thu gom và phân lập sơ khởi. Thêm một phí ở dạng trợ cấp để tái chế
cũng đang được xem xét.
216
Tiêu chuẩn để lựa chọn các công cụ kinh tế
Theo bảng hướng dẫn của OECD đôi với việc áp dụng các EI (1991), có thể liệt
kê một số tiêu chuẩn tổng quát, dựa vào đó để đánh giá các EI khác nhau (xem
Chương 11).
a) EI được lựa chọn phải có thể giảm bớt phạm vi ô nhiễm và tác động về mặt sử dụng
tài nguyên đi kèm với việc đsong bao bì . Đâylà nguyên lý hiệu quả về mặt môi
trường.
b) EI nên mang lại sự khích lệ liên tục hầu tìm ssược giải pháp ít chi phí nhất. Đây là
nguyên lý hiệu quả về mặt kinh tế (tĩnh và động).
c) Sự tác động của EI không nên quá mạnh mẽ, ví dụ: không nên đặt một gánh nặng
không cân xứng lên một xã hội khá phồn vinh. Đây là nguyên lý về mặt công bằng .
d) EI nên có chi phí hành chính và chấp hành thấp (ví dụ: các khó khăn thực tế về định
mức, thu nhập, giám sát và kiểm soát cần phải ở mức tối thiểu). Đây là nguyên lý hiêtụ
quả về mặt chi phí quản lý.
e) Các EI đơn giản và dễ hiểu sẽ dễ đưa vào thị trừơng và hệ thống pháp chế hiện hữu.
Đây là nguyên lý về tính chấp nhận được.
Có thêm hai tiêu chuẩn cần được thêm vào:
f) EI được lựa chọn cần phải tương thích với các mục tiêu điều tiết và quy chế hiện
hữu của quốc gia ( trong trường hợp của Cộng đồng Châu Âu). Trong cộng đồng Châu
Âu, EI nên đưa ra những yêu cầu tối thiểu đối với những nước mới bắt đầu áp dụng
chính sách, không vi phạm hiệp ước La Mã và các điều khoản về thị trừơng nội bộ.
Thêm vào đó, EI cần được xem là một thay thế đáng tin cậy hoặc một bổ sung cho qui
chế điều tiết. Đây là nguyên lý phù hợp về mặt pháp chế.
g) Nếu kế hoạch phân rác tại hộ gia đình và tái chế phải chịu một chi phí cao do về
mặt thu gom, cần phải xem xét đến tính chất tích luỹ lợi ích của EI đó.
Các loại công cụ kinh tế
- Thuế nguyên liệu là một ví dụ cho laọi thuế đầu vào và cần phải được đánh
vào các nguyên liệu thô dùng chế tạo bao bì có chiếu cố đúng mức đến các tỷ lệ tái
chế và tái sử dụng hiện hữu. Để đáp ứng đúng tiêu chuẩn hiêu quả về mặt kinh tế và
phù hợp với nguyen tắc Người Gây Ô Nhiễm Phải Trả (PPP) đã được chấp nhận bởi
csc quốc gia thành viên trong khối OECD, mức độ thuế cần phải có liên hệ trực tiếp
217
với sự thiệt hại môi trừơng gây ra do việc sản xuất và tiêu thụ các loại bao bì cộng với
bất kỳ chi phí về khan hiếm tài nguyên nếu có. Tuy nhiên, trong khi quy chế hiện hữu
đề cập đến tác động môi trường từ các gai đoạn ban đầu của chu kỳ sản phẩm, thuế chỉ
nên phản ánh các chi phí môi trừơng của MSW.
- Phí thu trên sản phẩm
- Phí xả thải (đối với người tiêu dùng)
Đánh giá so sánh các loại thuế, kỹ quĩ hoàn chi và giấy phép
218
CHƯƠNG 19
SỰ THAY ĐỔI KHÍ HẬU
Phần giới thiệu :Hiệu ứng nhà kính
Nếu trái đất không có khí quyển thì nhiệt độ đóng băng rất nhiều (khoảng-190C).
Một số các chất khí-hơi nước, carbonic (CO2), clorofluorocarbons (CFCS),
mêtan(CH4)và oxitnitơ (N2O)-trong bầu khío quyển hấp thụ bức xạ hồng ngoại (tức
bức xạ sóng dài) và tác động như một tấn phủ giúp giữ lại nhiệt lượng của mặt trời
được hấp thụ qua bầu khí quyển (bởi vì đó là các tia bức xạ sóng ngắn thấy được ) và
phát xạ trở lại khí quyển từ bề mặt của trái đất (dưới dạng bức xạ sóng dài ). Hậu quả
là tổng sản lượng bức xạ đến mặt đất tăng lên, vì vậy nhiệt độ trung bình của mặt đất
gia tăng .
Hoạt động kinh tế (đặc biệt trong vòng vài trăm năm qua ) làm gia tăng tốc độ
thải khí và nồng độ và các loại khí “nhà kính” trong khí quyển. Sự tương “nhà kính”
dược sử dụng bởi vì, giống như kính, hơi nước và CO2 trong khí qyển là trong suốt đối
với ánh sáng thấy được (từ mặt trời )nhưng lại tương đối đục đối với bức xạ hồng
ngoại được phản hồi từ mặt đất. Bởi vậy nhà kính là một cấu trúc kềm giữ bức xạ mặt
trời rất có hiệu quả. Công nghiệp hoá đã dẫn đến sự khai thác mạnh mẽ các nhiên liệu
địa khai (than, khí và dầu) cho việc sản xuất và vận chuyển. Năng lượng địa khai bị
đốt cháy phóng thích CO2 vào trong khí quyển, nồng độ của chúng tăng lên 33% kể từ
năm 1800. Hoạt đông nông nghiệp và công nghiệp sinh ra các khí nhà kính khác như
mêtan, N2O và các CFCS. theo Uỷ Ban Liên Chính Phủ về sự thay đổi khí hậu (IPCC-
intergovernmental Panel on Climate Change ),một cơ quan được thành lập vào năm
1988 để khảo cứu về sự tăng nhiệt toàn cầu, thì sự gia tăng các khí nhà kính trong khí
quyển sẽ tạo nên một sự gia tăng nhiệt độ, tính trung bình, cho bề mặt trái đất.
Trong số các nhà kính thì CO2 có lẽ là quan trọng nhất. Nó chịu trách nhiệm cho
khoảng 60% hiệu ứng nhà kính do con người gây nên. điều không may là hện nay các
nền kinh tế công nghiệp đang đốt các nhiên liệu địa khai để sản xuất năng lượng và
chúng là nguôn khí nhà kính chủ yếu. Hơn nữa, năng lương là vô cùng thiết yếu cho sự
phát triển kinh tế đang rất cần ở các nước đang phát triển. khung 19.1 tốm tắt các phân
tích của IPCC về sự thải khí nhà kính và những đặc điểm của chung. Các loại khí nhà
219
kính sẵn có trong khí quyển có thể làm nhiệt độ trái đất tăng từ 0,90C đến 2,60C, cho
đến nay thì chỉ mới thấy tăng khoang 0,50C. để so sánh, nhiệt độ châu có lần chỉ giảm
có 10C và kết quả là thời kì tiểu băng giá (từ thế kỉ 14 đến 17).
Mức độ gia tăng trhựic tế của nhiệt độ, tốc độ tăng nhiệt và sự phân bố nhiệt
chung quanh quả đất là những vấn đềg rất không chắc chắn. đó là vì khí hậu của chung
ta bị chi phối bởi hai hệ thống cực kì phức tạp là khí quyển và đại dương, mà chúng ta
có liên hệ qua lại với nhau. Nhưng giờ đây dường như phần lớn các khí hậu học đều
đồng ý với nhau rằng nhiệt độ trung bình toàn cầu của bề mặt trái đất sẽ tăng thêm từ
20C đến 50C trong vòng 100 năm tới nếu các khí nhà kính dop con người tạo ra tăng
gấp đôi trong thời kì. IPCC(1992) đã là một tổng kết đầy đủ các thông tin gần đây nhất
về vấn đề khí nhà kính. Dường như vấn đề trở nên phức tạp hơn so với người ta tưởng
kúc ban đầu, nhưng các thông tin mới giúp điều chỉnh thấp xuống những con số dự
đoán về mức gia tăng nhiệt độ hiện nay mức tăng nhiệt độ trung bình của trái đát dược
tinh là 2,50C (wigley và raper,1992).các loại tác độnh khác cũng có thể được đanh giá
lại, bởi vậy nay chúng ta cần phải biết hậu quả của sự gia tăng nhiệt độ trái đất sẽ ra
sao.
Hậu quả của sự tăng nhiệt toàn cầu
Sự gia tăng nhiệt độ tiềm tàng hậu quả tai hại và một số lợi íh. IPCC đã không thể
có những kết luận rõ ràng những tác động do những thay đổi tiềm tàng của khí hậu.
các tác động về mặt nông nghiệp có thể đáng kể ở phạm vi từng vùng nhưng các
nghiên cứu chưa xác định dứt khoát rằng, tính trung bình, tiềm năng sản xuất nông
nghiệp toàn cầu bị suy giẩm hay gia tăng tăng các nguồn nước có thể bị thay đổi tương
đối về khí hậu có thể tạo ra những vấn đề lớn về nguồn nước các vùng khô hạn. Các
loại bệnh tật cũng có thể bị thay đổi và sự gia tăng mực nước biển trung bình toàn cầu
kèm với sự tăng nhiệt có thể sẽ sinh ra rủi ro nghiêm trọng đối với vùng duyên hải nếu
mực nước biển tăng đi kềm theo sự gia tăng thường xuyên của bão tố. hàng triệu “gười
di dân môi trường” buộc phải di cư khỏi các vùng dễ bị tai hoạ, sẽ tạo ra các phí tổn
đáng kể về mặt con người và kinh tế.
Tuy nhiên, một tính chất chính yếu của vấn đề thay đổi khí hậu mà trang thái quá
độ mà nó có thể gây ra, là mức độ bấp bênh mơ hồ của nó, đặc biệt là sự không chắc
chắn về tốc độ thay đổi khí hậu. Bởi vì bất kể rằng một thế giới ấm hơn thì tốt hơn
220
hoặc tồi hơn, sự thay đổi nhanh chóng có thể làm phá vỡ cả xã hội và nền kinh tế cũng
như các hệ thống sinh thái tự nhiên. Khi thành phần của hệ sinh thái thay đổi, một số
chủng loài có thể hưởng lợi nhưng một số khác không thể di trú hoặc thích ứng theo
một tốc độ cần thiết để có thể sông còn được, sẽ bị tuyệt chủng(trong trường hợp của
con người, là sự khốn khó vô cùng và những phế tổn dồn ép). Các tác động tai hai có
thể sẽ nghiêm trọng nhất ở những vùng đã từng bị dồn ép căng thẳng và do đó đặc biệt
dễ bị nguy hại. Chẳng hạn như các vùng hay bị thiên tai mhư ngập lụt và xói mòn bởi
nước biển và sông hạn hán nặng, hoặc những vùng ở các khu vực hay bị bão tố.cơn lốc
Andrew ở mĩ đã là một ví dụ gần đây về sự tàn phá do các biến cố thời tiết quá mức
gây ra. Cơn bão andrew có lẽ đã làm 250 ngàn người mất nhà, phá huỷ 85 ngàn căn
nhà và gây thiệt hại khỏng 10 tỷ đô la.
Khả năng có thể bị huỷ hoại có thể được định nghĩa là một mức độ mà một hệ
thống có thể phản ưng một cách bất lợi khi một tai ương xảy ra như sự gia tăng mức
nmước biển. wireley và raper(1992) đã tính toán rằng ước đoán đúng nhất cho mức gia
tăng nước biển là 48cm vào năm 2100(19cm vào năm 2050). Vậy là giảm 20 đến 30%
so với mức phỏng tính trước đây (66cm vào năm 2100) nhưng nó vẫn ở mức cao
khoảng gấp 4 lần so với mức thực tế xảy ra trong thế kỷ vừa qua. Trái lại tính bền bỉ
trong một hệ thống là một số đo về khả năng hấp thu, thích ứng và phục hồi của hệ
thông đối với sự xuất hiện của các biến cố tai hại. nguy cơ được xác định bởi các yếu
tố “môi trường” “vị trí, loại khí hậu và thực vật, độ cao so với mực nước biển …” và
“kinh tế” “thu nhập và sự giàu có của vùng và quốc gia liên quan và khr năng kỷ thuật
của họ”. Nhưng rõ ràng là nhiều vùng duyên hải, ví dụ kể cả các thành phố lớn, đã đối
diện những khó khăn liên quan tới sự gia tăng mực nước biển. Những khó khăn này là
cực kì lớn ở các nước đang phát triển vì nhiều khó khăn do “thất bại” đã kết hợp với
tác động của sự thay đổi khí hậu. những vấn đề thất bại thị trường (ô nhiễm và cạn kiệt
tài nguyên) kết hợp với các thất bại can thiệp (các chính sách tồi và thiếu sự phối hợp
vơi nhau của chính phủ ở các khu vực duyên hải) đã làm cho vùng dễ bị nguy hại vật
chất trở lầm vào tình thế hết sức rủi ro. Đặc trưng cho vùng rủi ro cao loại này là vùng
châu thổ sông NiLê, miền nam Bangladesh, và hầu hết các quốc nhỏ nằm ở vùng thấp
như Maldives. Đó toàn là những ví dụ rút ra từ nhóm các nước đang phát triển, nhưng
các quốc gia công nghiệp hoá không phải được miễn những rủi ro như thế chẳng hạn
221
châu thổ sông Mississippi ở mỹ, châu thổ sông Po ở Ý và vùng duyên hải phía đông
của anh quốc. Khung19.2 phác hoạ một số ví dụ điển hình của những vung dễ bi rủi
ro.
Khung 19.2: nghiên cứu trường hợp về tính dễ bị nguy hại.
Châu Thổ Sông NiLe
Vùng này là vùng thực phẩm sống còn của Ai Cập bởi vì nó bao gồm hầu hết các
đất liền sát với bờ biển cung ứng phần lớn cá cho Ai Cập. Các hồ này được những đụn
cát bảo vệ, nhưng những đụn cát có thể bị xâm phạm nếu mực nước biển dâng cao.
Thêm vào đó, vùng châu thổ bị lún dần xuống, quá trình này có thể tăng tốc do áp lực
của việc lấy nước ngầm.
Các ảnh hưởng của những trường gia tăng mực nước biển được tóm tắt ở bảng 1.
Một trường hợp tốt nhất BC giả thiết rằng ở một mức tăng nước biển nước biển tối
thiểu, với sự lún tự nhiên đang được bù đắp lại bằng sự lắng tụ của vùng châu thổ.
Trường hợp xấu nhất WC giả thiết rằng một mức tăng tối đa mực nước biển và sự lún
tự nhiên không bù đắp được kể từ khi sông NiLe bị ngăn dập hoàn toàn. bối cảnh xấu
tuyệt đối của AWS giả thiết rằng các điều kiện xấu nhất cộng với hậu quả của sự thất
bại thị trường, có nghĩa là việc sử dụng quá mức lương nước ngầm dự trữ dẫn đến gia
tăng sự lún đất.
222
Bảng 1: Các trường hợp tác động do sự gia tăng mực nước biển ở châu thổ sông
Lile, năm 2050 và 2100.
2050 2100
BC WC AWC BC WC AWC
độ tăng mực nước biển (cm) 13 79 79 28 217 217
sự lún đất cục bộ 0 22 65 0 40 115
tổng số 13 101 114 28 257 332
xói mòn vùng bờ biển(km) 0 1 1 0 2 2
%đất cư trú bị mất - 15 19 - 22 26
%dân số bị di chuyển - 14 16 - 19 24
%GDP trong khu vực bị ảnh - 14 17 - 19 24
hưởng(chẳng hạn như thu
nhập và tài sản)
ghi chú: -có nghĩa là không có số liệu
nguồn: Milliman và cộng sự (1989)
223
Dhaka, Bangladesh
Dhaka, thủ đô của Bangladesh nằ ở trung tâm của một trong số nước các châu thổ duyên hải
lớn nhất thế giới do phù sa của ba sông lớn nhất của thế giới tạo thành, đó là sông Gangges,
Brâhmpủta và Meghna. Sự tương tác giữa các con sông này với thuỷ triều, sóng và bão tố của
vịnh Bengal đã tạo nên một trong số những môi trường vật chất phức tạp và năng động nhất trên
quả đất này.
Bangladesh có một tổng số dân là 108 triệu người, tăng trưởng với tốc độ 2,17% mỗi năm.
Diện tích Bangladesh là 144.000 km2 trong số đó 4.470 km2 là sông ngòi. kết quả là mật độ dân
số nước này cao nhất thế giới. Tuy nhiên, tỷ lệ của dân số nông thôn cũng là một trong những
con số lớn nhất thế giới. Lớp đất châu thổ phì nhiêu và nước ngọt đầy đủ trong suốt thời kì gió
mùa đã tạo ra một chế độ canh tác nông nghiệp và đánh cá cổ truyền rất thích hợp.
Dhaka nằm giữa hai sông Burhiganga và Lakhya khoảng 50km phía bắc của nơi tiếp giáp
các sông Ganges, Brâhmpủta và Meghna. Phần lớn thành phố Dhaka nằm trên vùng cực nam
phần trồi lên của dải đất sét Madhupur thuộc kỷ Pleistocene. Bởi vậy, Dhaka có vị trí cao so với
dòng sông Burhiganga tạo thành vùng biên giữa các vùng đất bậc thang kỷ Pleistocene và tầm
trích phù sa trẻ hơn và thấp hơn của canh đồng ngập nước Ganges-Brâhmputra ở về hướng nam
và hương tây của Dhaka. Thành phố cũ được xây dựng gần sông Burhiganga, một vị trí giúp cho
sự liên lạc giữa sông và biển và vùng nội địa với Âns Độ. Thành phố ngày càng phát triển xa
dòng sông.
Dhaka là một thành phố quan trọng, ít nhất kể từ thế kỷ 15, với dân số gần 1 triệu người vào
giữa thể kỷ 17. Tuy nhiên, quy mô thành phố suy giảm trong suốt thể kỷ 18và 19. trong năm
1891dân số ghi nhận là 100.000. Dân số của thành phố gia tăng đều đặn trong khoảng 1891 và
1961. Dhaka, cũng như nhiều thành phố lớn khác trong thế giới đang phát triển, bành trướng
nhanh chóng trong suốt 30 năm qua đẻ đạt đến một dân số ước tính khoảng 3,8 triệu dân vào
năm 1981.
Dhaka bị lụt nghiêm trọng vào năm 1988 do tác động phối hợp giữa sự tắc nghẽn hộ thống
cống rãnh có từ thời kì trung cổ và sự chảy tràn của nước sông dọc theo vùng ven thành phố. sự
nghậo lụt đã thúc đẩy dự án chông lũ lụt Dhaka xây dựng một loạt các bờ đê, vách ngăn lũ, cửa
cống và trạm bơm bao quanh thành phố trước 1993 với tổng chi phí là 110 triệu đo la. Tuy
nhiên, các nỗ lực xây dựng đã không thành công. Một số đê đã bị hỏng sau khi xây dựng vài
thang, vị trí của chúng bị lệch đi so với kế hoạch ban đầu và để lại cư dân bên ngoài vùng bảo vệ
lũ.
224
Trong thành phố cũ, bức tường xi măng không liên tục, thường xuyên có các khoảng trống.
không ai rõ là nên bít các khoảng trống này lại hay đẻ trống cho con người và hàng hoá vận
chuyển qua lại.
Hơn nữa, những bức chắn lũ bằng xi măng đã khoá cứng hệ thống tiêu nước và xả thải hiện
có. Vấn đề trở nên phức tạp bởi những chỗ hổng trong tương do cơ quan nhà nước hoặc do cơn
quan nhà nước làm ra. về những hậu quả đối với môi trường và xã hội.
Kết quả là việc nghập nước ở các vùng trở nên tồi tệ hơn bởi hệ thống thoát nước của thành
phố. Phần lớn các khó khăn này là bị quy kết do sự thiếu hợp tác của các bộ, và cứ muốn xây
dựng trước khi có các đánh giá đầy đủ Vùng ven là một trong những mật đọ dân số dày đặc nhất
thế giới với 26 triệu người sống trong một phần tư của đất Bangladesh (36.000 km2 )vùng ven
biển rất quan trọng đối với nền kinh tế của Bangladesh. Vùng này bao gồm một phần ba đất canh
tác của Bagladesh và chiếm khoảng 27% các công nghiệp chế tạo. Các khu vực này cũng là điểm
tập trung của xuất nhập khẩu của Bangladesh. Hơn nữa, nuôi tôm công nghiệp là một công
nghiệp xuất khẩu phát triển nhanh chóng nhất của Bangladesh.
Các hệ sinh thái biển cũng là nguồn tài nguyên giàu có. Rừng đước ven biển mang lại 50%
thu nhập từ lâm nghiệp của Bangladesh, Sundarban, một vùng rừng đước lớn nhất thế giới, chứa
nhiều loài quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Chúng cũng đóng vai trò như nơi sinh sản của
nhiều loài cá thương mại, và đóng vai trò của một hàng rào bảo vệ biển tự nhiên.
Mặc dù vùng ven biển trù phú, vẫn có một số khó khăn diễn ra triền miên. Do đó, hiệu ứng
tăng cao mực nước biển có thể xảy ra trong tương lai và sự thay đổi khí hậu ở các vùng ven biển
không thể tách rời ra khỏi tác động hiện hữu của sự tăng dân số quá nhanh, sự khai thác quá độ
các nguồn tài nguyên, xói mòn, lún đất và xoáy nhiệt đới.các tác động này có thể tiếp tục trong
tương lai, có hoặc không có hiệu ứng nhà kính. Thay vào đó sự gia tăng mực nước biển và thay
đổi khí hậu cần được xem như một yếu tố làm gia tăng các thất bại nghiêm trọng hiện có ở các
vùng ven biển, không nên xem như là một vấn đề riêng rẽ, cô lập.
Nguồn: Turner và cộng sự (1990)
225
Như vậy tác động tai hại có thể có sự thay đổi khí hậu và các hậu quả ngưng trệ
của sự thay đổi khí hậu nhanh chóng là rất đáng kể. Tuy vậy, các nhà khoa học không
thể nói rằng cho đến nay chúng ta đã nhận được tín hiệu xác định những việc đang xảy
ra sự tăng nhiệt toàn cầu chính sự không chắc chắn là một yếu tố then chốt, khoa học
vẫn chưa thể tìm ra được những sự kiện cụ thể liên quan đến các tác động trong tương
lai. Sự gia tăng nhiệt độ trong thế kỷ phù hợp với lý thuyết về thay đổi khí hậu nhưng
không có tính xác định trong việc chứng minh cho lý thuyết này. Tuy nhiên, những
nhà khí hậu học gần như đều đồng ý rằng các khí nhà kính sẽ làm ấm khí quyển. Hoạt
động kinh tế sẽ tiếp tục dẫn đến sự phát thải các loại khí do đốt các nhiên liệu địa
khai…Như vậy câu hỏi đặt ra là, các nhà quyết định chính sách sẽ phải làm thế nào để
đối phó với vấn đề hiệu ứng nhà kính?
Những ứng phó chính sách đối với hiệu ứng nhà kính
Đối với nhiều vấn đề ô nhiễm mà chúng ta đã xem qua trong các chương trước
của sách này thì không có một thời gian cách biệt rất lâu giữa lúc phát thải chất ô
nhiễm với lúc tạo ra các tác động tai hại. Hơn nữa, các vấn đề này đã kích thích một
sự ứng phó mang tính phản ứng của chính sách. Đó cũng là trường hợp mà những
người gây ô nhiễm có đươc-hoặc ít hoặc nhiều- các kỹ thuật “cuối đường ống” vốn có
thể giảm tác động tai hại của ô nhễm.
Trái lại vấn đề tăng nhiệt toàn cầu lại khác, bởi vì:
1. có một thời gian cách biệt lâu dài giữa lúc phát thải và lúc xảy ra tác động.
2. có thể vtiên đoán các hậu quả tai hại, nhưng quy mô và mức độ nghiêm trộng
của chúng thì rất không chắc chắn, bởi vậy sự ứng phó của chính sách có thể phải vừa
có khả năng tiên đoán vừa khả năng ứng phó với “bất ngờ”. Sự thi hành chính sách
hiện nay cũng có tác động đén các thế hệ mai sau. Điều đáng lo ngại là đến khi chúng
ta biết chắc chắn rằng quá trình tăng nhiệt của quả đất đang diễn ra, thì sự việc tạo ra
nó đã xảy ra từ lâu rồi, và diễn bến các tác động trong tương lai có thể đã được ấn
định một cách không thể đảo ngược được.
3. cho đén nay, không có “kỹ thuật đầu cuối cùng” để làm giảm trữ lượng hiện có
của các loại khí nhà kính chủ yếu, phát thải CO2, ra trên một quy mô lớn. Trong một
226
thời gian ngắn chúng ta không có khả năng để loại bỏ trong một thời gian ngắn (như
hiện đang làm với việc sản xuất CFCS xem chương 20) việc phát thải CO2 trên quy mô
thế giới. Đốt nhiên liệu địa khai là tao ra nguồn năng lượng chính để cung cấp cho các
hoạt động kinh tế ở các nước đã và đang phát triển.
Chúng ta không thể chắc chắn răbgf các tác động của sự thay đổi khí hậu sẽ diễn
ra từ từ và do đó một sự ứng phó chính sách tối thiểu có thể là phương pháp tốt nhất.
Có thể sử dụng ba chính sách lớn để đối phó với vấn đề hiệu ứng nhà kính. Các
biện pháp này có thể áp dụng đơn phương (tức là một quốc gia đơn lẻ nào đó hành
động một mình) hoặc đa phương (tức là một số quốc gia hợp tác hành động). Hành
động đơn phương rất khó có thể ảnh hưởng đáng kể đén sự thiệt hại do việc tăng nhiệt
toàn cầu, nhưng một quốc gia có thể tin tưởng rằng hành động của họ là đáng làm như
là một phaanf của sách lược “chính trị” nhắm đến một thoả ước sau này. Ba chính
sách hành động là:
1. “không là gì cả” và chỉ “chờ xem” việc gì xảy ra. Không cần phải thực hiện một
chính sách nào cả cho đén khi xác định được chắc chắn về khoa học thời biểu, phân
bố và mức nghiêm trọng của sự thay đổi khí hậu diễn ra từ từ thì những cá nhân và
doanh nghiệp có thể sẽ thích ứng mà không cần phải chi pjí cho các chinh sách can
thiệp. Trong bất kì trường hợp nào, nghiên cứu mới có thể tạo ra các giải pháp có hiệu
quả kinh tế hơn để giải quyết một số tác động. mặt bất lợi của lập trường này là mức
tăng nhiệt tạo ra sẽ gia tăng và gánh nặng chi phí tác hại sẽ có thể cao nhơn nhiều do
can thiệp chậm trễ.
2. Thực hiện các biện pháp “không hối tiếc”mà chúng tạo ra ích lợi kinh tế ròng ngay
cả khi không kể đến các lợi ích do khí hậu mang lại. Các biện pháp này có thể tăng
phạm vi thích ứng hoặc giảm việc phat thải các khí nhà kính cũng như mang lại được
các lợi ích khác, ví dụ như các biện pháp tiết kiệm năng lượng và các biện pháp để
chấn chỉnh các thất bại thị trường trong việc định giá nhiên liệu địa khai và loại bỏ các
trợ cấp khác vốn góp phần vào sự phá rừng.
3. Giảm phát thải khí nhà khí nhà kính để tạo sự ổn định khí hậu sao cho nhiệt độ thay
đổi vừa phải và có thể chịu được, nghĩa là dùng các biện pháp cảnh giác. Mục tiêu của
sự ổn định khí hậu phù hợp với các Công Ước về tăng nhiệt toàn cầu mới đượ kí gần
đây (1992), nó nlà một phần trong Hội Nghị Liên Hợp Quốc về môi trường và tiến
227
trình phát triển –xem khung 19.3. Một lợi ích khác trông thấy được của sự ổn định của
khí hậu là việc cân bằng lợi ích của những thế hệ hiện nay và mai sau cũng như của
các dân tộc ở các vùng đất khác nhau trên thế giới có lợi cho những nhóm bị nguy cơ
cao, những người nghèo trong thế hệ hiện nay và mai sau.
Cuộc thảo luận quốc tế giữa các tành viên trong nhóm OECD đã có ý tập trung cố
gắng bình ổn mức phát thải ở mức của năm 1990 vào năm 2000 hay 2005. Nếu không
có hành động gì được thực hiện thì một số mô hình tiên đoán được rằng trong một
thập niên tới nhiệt độ sẽ tăng 0,270C. Hành động mà OECD đề xuất cũng chỉ giảm ở
mức tăng nhiệt độ có lẻ xuống mức 0,250C mỗi thập niên. Một số nhà khoa học tin
tưởng rằng giới hạn an toàn sinh thái tương như tiêu chuẩn an toàn tối thiểu hoặc quy
luật vốn tư bản hằng của một quốc gia thì phải thấp khoảng 0,10C cho mỗi thập niên.
Khung 19.3: Công ước về thay đổi khí hậu
Khuôn khổ công ước của Liên Hợp Quốc về thay đổi khí hậu có mục đích tối hậu
là ổn định các nồng độ khí nhà kính trong bầu khí quyển để tránh “sự gây nhiễu nguy
hiểm do con người tạo ra đối với hệ thống khí hậu”. Mặc dù không bị ràng buộc về
các mục tiêu phải đạt về mức xả khí, và bên ký kết đã thống nhất cung cấp thông tin
cho hội nghị quốc tế về những sách lược của họ nhằm giảm phát thải khí do con
người tạo ra và thúc đẩy tiến trình làn giẩm phát thải đến mức của năm 1990 vào năm
2000. Đây không phải là hoạt động không tốn kém cho các quốc gia đã phát triển
hoặc đang phát triển nếu xét đến việc phải trừ bỏ một sự phát triển dựa trên cơ sở sử
dụng các công nghệ thải ra khí nhà kính hoặc các phí tổn thương gặp khác. Sự thiệt
hại ntiềm tàng do thay đổi khí hậu và sự gia tăng mực nước biển là những hiện tượng
được biết rất rõ.
228
Chẳng hạn tổn hại do gia tăng mực nước biển ở các vùng châu thổ sông Nile và
Bengale là 13 và 14% của dân số Bangladesh và Ai Cập bị di dời ra khỏi nơi sinh
sống hiện tại, và sự mất mát đi theo các tỉ lệ tương tự các vùng đất có thể sinh sống
được ở các quốc gia đó vào năm 2050. Phí tổn do sự thay đổi khí hậu và các hiện
tượng liên quan có tiềm năng là sẽ rất đáng kể trong các kế hoạch phát triển của các
nước đang phát triển.
Cần nhấn mạnh rằng các khu vực có nguy cơ bị thay đổi khí hậu với tốc độ gia
tăng và chịu những tác động của chúng cũng như nguy cơ gặp phải tác hại nặng nề
khác. Tính nguy cơ có că hai mặt là sinh vật lý và kinh tế xã hội, chẳng hạn như chỉ
những vùng thấp mới có thể nguy cơ ngập lụt. Ở các vùng ven biển những khó khăn
hiện hữu trở nên tệ hại hơn do sự xuất hiện của những rối loạn kinh tế, định chế,
thông tin và thị trường có tương tác lẫn nhau cũng như các sách lược kém hiệu quả và
kém phối hợp trong quá khứ đã qua. sự kém chắc chắn về tác động khác biệt tuỳ từng
khu vực đã tăng thêm trọng lượng cho luận cứ về hành động đề phòng. Lúc đó công
ước về thay đổi khí hậu có định ra những quy chế để làm giảm nhẹ các tác động này
hoặc để hiểm trợ các nước đang phát triển trong việc giẩm bớt khí thải nhằm tránh các
hậu quả xấu hay không?
Công ước nêu rõ những tác động tiềm tàng của sự thay đổi khí hậu trong các hệ
sinh thái đặc trưng, chẳng hạn như các môi trường núi và các quốc gia có đất thấp.
Trong công ước có một sự nhất trí nhằm giảm nhẹ các ảnh hưởng sau:
Các bên thuộc những nước đang phát triển…sẽ yễm trợ các bên thuộc các nước
đang phát triển đặc biệt đang có nguy cơ bị tác động có hại của sự thay đổi khí hậu để
đáp ứng các phí tổn để thích nghi với các tác động xấu đó (điều 2, đoạn 4 trong khuôn
khổ Công Ước của Liên Hợp Quốc về thay đổi khí hậu,1992)
Các quốc gia được ghi nhận là có nguy cơ đặc biệt bao gồm các đảo quốc nhỏ và
những vùng đất thấp, những quốc gia dễ bị thiên tai, hạn hán và sa mạc hoá, những
quốc gia bị ô nhiễm không khí đô thị:hội nghị của các bên ký kết vào hiệp ước đã
thống nhất một cơ chế yểm trợ. Tuy nhiên theo sự dàn xếp tạm thời thì phương tiện
môi trường toàn cầu của UNDP, UNEP và ngân hàng thế giới vận hành các bộ máy
tài chính cho đến 4 năm, vậy nhóm này sẽ mở rộng để đảm bảo “thể hiện tính công
bằng và cân đối của tất cả các bên trong một hệ thông điều hanh thông suốt” (điều 11,
đoạn2 ).
229
Khung 19.4: Ước tính chi phí tổn hại do sự thay đổi khí hậu .
Như vậy công ước về thay đổi khí hậu ngầm chấp nhận thiệt hại gây ra bởi sự
tăng nhiệt do hiệu ứng nhà kính - một thiệt hại đã diễn ra là không thể tránh được. Để
đạt được các mục tiêu đã đề ra trong công ước, sự ổn định nồng độ các khí thải trong
không khí nhằm tránh các nhiễu loạn nguy hiểm do con người gây ra cho hệ thống khí
hậu đòi hỏi nhiều tài nguyên to lớn và một sự kiên quyết về mạt chính trị. Công ước
và tiến trình diễn ra khi UNCED đàm phán những cơ chế khác để chuyển giao tài
nguyên, như là hạn nghạch phát thải và các giấy phép liên quan có thể mua bán được,
hoặc những thoả thuận theo đó các quốc gia tuân theo công ước một cách “riêng rẽ
theo nhóm” thông qua sự chuyển giao song phương được đặt ra dự trên mức phát thải
của riêng họ. Sự công bằng và tính khả thi về mặt chính trị của bất kỳ cơ chế nào
cũng tuỳ thuộc vào cách thức đo đạc các mức phát thải, và cách giải quyết trách
nhiệm lịch sử của tùnh trạng hiện nay(có thể xem Brown và Adger,(1992) và Grubb
và cộng sự (1992).
Công trình nghiên cứu chi phí lợi ích của Nordhaus (1991) có thể bị phê phán bởi
vì nó đã ngoại suy các hàm số về thiệt hại và tiêu trừ theo một mô hình của điều kiện
kinh tế Hoa Kì để áp dụng cho phần còn lại của thế giới. Trong nghiên cứu này mức
gia tăng mực nước biển có thể gây tổn thất cho nền kinh tế Hoa Kỳ khoảng 50 triệu
USD (chi phí để bảo vệ và các thiệt hại ở vùng đất thấp ).
Ayres và Walter (1991) đã lập luận rằng sự phân tích của Nordhaus đã đánh giá
quá thấp các thiệt hại tương lai. Họ sử dụng các giả thiết về trị giá đất đai, sự mất mát
đất đai, chi phí tái định cư và bảo vệ vùng ven biển, tổng chi phí khoảng 18,5-21 ngàn
tỷ đô la. Con số này là 2,1-2,4%của tổng thu nhập thế giới.
Tuy nhiên, cả hai nghiên cứu đều cộng thêm các chi phí ước tính để bảo vệ vào
phí tổn của việc mất mát vùng đất này, và trong trường hợp của Ayres và Walter, vào
chi phí của việc tái định cư dân chúng. bảng1 tóm tắt các ước tính về thiêt hại của cả
hai nghên cứu do sự gia tăng mực nước biển. Mặc dù đưa ra mức gia tăng mực nước
biển vào hàm thiệt hại là hợp lý, nhưng điều đó có vẻ không được rõ ràng lắm là tại
sao phải cộng thêm chi phí ngăn ngừa những tác động chính của việc tăng nước biển
vào những phí tổn phải chịu khi xảy ra việc tăng nước biển này.
230
Bảng1. các ước tính về chi phí gộp trên toàn thế giới của sự gia tăng mực nước
biển do khí hậu gây ra.
Loại tác động do sự gia
tăng mực nước biển Nordhaus(1991) Ayres và Walter(1991)
Bảo vệ vùng bờ biển 20.000 km bờ biển 0,5-1 triệu km (bờ biển
TG)*$ 5 triệu/km
Mất mát tài sản và đất đai 4.000 dặm vuông 500 triệu ha*$30.000/ha
Tái định cư lánh nạn - 100 triệu người lánh
nạn*$1000
Tổng chi phí bằng tiền 405 tỷ đô la 8.500-21.000 tỷ đô la
(nền kinh tế thế giới)
Các công cụ chính sách nhằm đạt các chỉ tiêu về tăng nhiệt toàn cầu.
Trong phần 4 chúng ta đã xem xét hai phương pháp cơ bản đối với việc kiểm soát
ô nhiễm, đó là phương pháp ra lệnh kiểm tra và công cụ kinh tế. Nếu chúng ta áp dụng
cách phân tích này trong bối cảnh theo đó các mục tiêu về môi trường toàn cầu đã
được quốc tế công nhận thì sẽ đạt được cùng một loại kết luận tổng quát. Đây là
những quy chế (ở dạng hiệp định đòi hỏi cùng một mức giảm phát thải cho mọi quốc
gia bất kể sự khác biệt về mặt phí tổn để đạt được mục tiêu.
Vì sự tăng nhiệt toàn cầu không tạo ra hậu quả đồng đều trên thế giới đạt được
thoả hiệp chính trị về những chỉ tiêu và sự phân bố mức giảm phát thải giữa các quốc
gia cũng khó khăn. rồi sẽ nảy sinh vấn đề ăn chùa. nếu sự tăng nhiệt toàn cầu được
giảm bớt tất cả các quốc gia sẽ được hưởng lợi bất kể họ có tham gia trong thoả ước
và gánh chịu phí tổn giảm bớt khí thải hay không. Sự hiện diện tiềm tàng của các kẻ
xé rào có nghĩa rằng bất kể một hiệp ước nào cũng phải chứa đựng những cơ chế
khuyến khích để tao điều kiện cho hợp tác.
Chúng tôi phân tích công cụ thuế carbon trong chương 12, do đó ở đay chúng tôi giới
hạn sự thảo luận vào trường hợp giấy phép. Như đã đề cập ở chương 13 giải pháp giấy
phép giúp cho cơ quan kinh tế một khích lệ để buôn bán với các giấy phép với các cơ
231
quan khác để bằng cách này có thu nhập ròng mà không vi phạm đến chỉ tiêu phát thải
chung.
Bất kỳ hệ thống giấy phép thực dụng nào cho việc phát thải khí CO2 sẽ phải đề cập
đến các vấn đề sau:
1. Các quốc gia lớn phát thải lương khí lớn và việc mua bán của những quốc gia này
có thể ảnh hưởng đến mức giá cả và làm cho thị trường trở nên ít cạnh trạnh.
2.Phải áp dụng những biện pháp xử phạt nào cho các quốc gia cứ tiếp tục vượt quá
mức phát thải cho phép?
3. giấy phép phải được phân bổ như thế nào ở giai đoạn ban đầu kế hoạch.
Việc cấp giấy phép dựa theo mức phát thải hiện hữu tạo thuận lợi cho các quốc
gia đã công nghiệp hoá và không khích lệ sự hợp tác của các nước đang phát triển. đẻ
tránh tác động khuyến khích sự tăng dân số quá mức chương trình chỉ phân bổ dựa
vào những người trưởng thành mà thôi. dường như các thực tế chính trị chống lại một
sự phân bổ dựa vào dân số, và việc cấp giấy phép một cách nào đó theo hiện trạng
phát thải là cách phân bổ duy nhất mà phần lớn nước công nghiệp chấp nhận dược.
Kết luận
Hậu quả tiềm tàng của sự tăng nhiệt toàn cầu và sự thay đổi khí hậu là đáng kể.
Nhưng như chúng ta nhân thấy, đặc điểm chủ yếu của các vấn đề này là sự kém chắc
chắn. Nhiều vùng trên thế giới đã ở trong tình trạng nguy cơ do sự tổng hợp của điều
kiện vật chất và kinh tế xà hội hiện có. Nếu hậu quả do thay đổi khí hậu xảy ra, nó sẽ
làm trầm trọng hơn tính dễ lâm nguy của các vùng này và cư dân sống trong đó. Đưa
phương pháp cảnh giác vào chính sách, điều mà người ta cần là một phản ứng mang
tính tiên đoán hơn là mang tính đối phó cấp thời.
Cần có các thoả hiệp ước quốc tế để thực hiện phương pháp dự phòng. Tuy nhiên,
vì sự tăng nhiệt toàn cầu không đưa đến những hậu quả đồng đều, một số nước sẽ thu
lợi và một số nước khác sẽ mất mát. việc tiến đến những thoả ước chính trị về các chỉ
tiêu và sự phân bố lượng giảm khí thải giữa các nước sẽ còn gặp khó khăn. thuế
carbon và giấy phép phát thải đã được ủng hộ như là một công cụ chính sách khả dĩ
nhằm đạt được các chỉi tiêu liên quan đến sự tăng nhiệt độ toàn cầu. Tính dễ chấp
nhận về mặt chính trị là tiêu chuẩn khó nhất mà công cụ kể trên phải thoả mãn nếu
chúng sẽ đóng một vai trò quan trong việc làm giảm nhẹ vấn đề thay đổi khí hậu.
232
CHƯƠNG 20
KINH TẾ HỌC VÀ TẦNG OZONE
“Vấn đề ozone ” có thể khá rắc rối vì ozone hiện diện ở hai mức khác nhau
trong bầu khí quyển: ở tầng bình lưu vào khoảng 15-50km cao hơn mặt đất,và ở tầng
đối lưu – phần dưới của bầu khí quyển cho đến độ cao cách mặt đất khoảng 15km.
Ozone là một loại khí sinh ra một cách tự nhiên ,và ở tầng bình lưu nó tích tụ lại cái
gọi là tầng ozone như một vành đai dày bao quanh trái đất .Sự tích tụ của ozone là một
“điều tốt” vì nó bảo vệ trái đất đối với bức xạ cực tím .Ozone tích tụ ở tầng dưới của
bầu khí quyển,tầng đối lưu ,có thể là “điều tốt”vì nó bảo vệ trái đất đối với bưc xạ cực
tím (UV-ultrviolet)từ mặt trời,loại trừ được 90% số lượng tia cực tím.Ozone tích tụ ở
tầng dưới của bầu khí quyển, tầng đối lưa co thể là “điều xấu” vì nó có hại cho sức
khỏe con người và thực vật, và nó cũng có liên quan tới quá trình chung của việc hình
thành mưa axit – xem chương 22.mặc dù sự hình thành ozone ở tầng đối lưu là tự
nhiên,nó có thể được tăng cường bởi tác động của nitrogen oxide(Nox),oxygen(O) và
những hợp chất hữu cơ dễ bóc hơi(VOC-volatile organic cumpound).Cho nên sự tích
tụ cao ozone ở tẩng bình lưu lại là tốt.Chương trình này sẽ nói về ozone ở tầng bình
lưu.
CFCs (Chlorofluorcarbons) và sự hủy hoại tầng ozone
Đã có những đo đạt thường xuyên đối với tầng ozone .Thí dụ khung 20.1cho thấy
những con số đo được ở Arosa .Thụy sĩ từ năm 1926. Trục tung thể hiện thay đổi độ
dày .Vậylà từ năm 1926 cho đến khoảng năm 1970 không có vấn đề gì xảy ra mức
thay đổi trung bình là 0,do đó tầng ozone không dày thêm và cũng không mỏng
đi.Nhưng biểu đồ cho thấy rằng từ sau năm 1970 đường biểu diễn đi xuống thấy
rõ:tầng ozone đã bắt đầu “mỏng đi”.Sự mỏng đi đó quan trọng vì điều đó có nghĩa
rằng tầng ozone sẽ để cho nhiều tia cực tím lọt qua hơn.Mặc dù sự tăng thêm ánh sáng
mặt trời trên trái đất có vẻ như là tốt, nhưng bức xạ UV tăng thêm lại gây ra đủ vấn
đề,như chúng ta sẽ sớm thấy.(Chính xác thì chỉ có một loại phóng xạ cực tím –UV-B-
là liên quan mà thôi.)
233
Mãi cho đến đầu những năm 1970 các nhà khoa học mới bắt đầu khảo sát
mối quan hệ giữa một chất hóa học nhất định và sự hủy hoại tầng ozone .Hai nhà khoa
học California,Mario Molina và Sherwood Rojand đã tập trung vào các chất
“Chlorofluorocarbon”,viết tắt làCFCs, như là những thủ phạm đáng ngờ.Thông thường
hầu hết các hóa chất đều bị tiêu hủy hoặc trở nên phân tán khi chúng được thả vào môi
trường,nhưng CFCs lại duy trì sự bền vững hóa học của chúng.Hơn nữa chúng “di
chuyễn” lên phía trên vào trong vùng khí quyển, nơi mà tác động của ánh sáng mặt trời
cũng xẽ phá hủy chúng , nhưng trong quá trình đó một số lượng lớn nhất chlorine lại
đươc phóng ra.Người ta đã biết rằng chất chlorine có khả năng gây ra một phản ứng
dây chuyền có thể hủy diệt những phân tử ozone một cách nhanh chóng.Thêm vào
đó,vì tính bền vững của chúng,CFCs có thể ở trong bầu khí quyển một thời gian
dài,tiếp tục phá huỷ tầng ozone rất lâu sau khi chúng được thả ra khỏi mặt trất.Năm
1986 đã có một báo cáo quan trọng được công bố với sự bảo trợ của Cơ Quan Khí
Tượng Thế giới và Chương Trình Môi Trường Liên Hiệp Quốc.Báo cáo xác nhận quan
điểm rằng CFCs đã tồn tại trong bầu khí quyển và hủy hoại tầng ozone thông qua việc
giải phóng chất chlorine.Báo cáo cũng tiên đoán xu hướng chung của sự hủy hoại tầng
ozone trên phạm vi toàn thế giới ,sự gia tăng theo mùa của việc hủy hoại đó( có nghĩa
là tầng ozone có thể bị hủy hoại nhiều hơn trong những mùa nhất định), và sự hủy hoại
theo những vĩ tuyến nhất định.Một báo cáo cho rằngCFCs cũng có liên can đến tác
động hiệu ứng nhà kính( xem chương 19).Cũng trong cùng khoảng thời gian ấy,các
nhà khoa học Anh cũng đưa ra một khám phá quan trọng ở vùng Nam Cực.Họ ước
tính rằng mức độ ozone giữa tháng Chín và tháng Mười Một phía trên vùng Nam cực
giảm đi 50% trong năm 1986 so với những năm 1960.Kết quả là xuất hiện những “lỗ
hổng”khổng lồ và kích cỡ của nó khoảng bằng diện tích của nước Mỹ.Các lỗ hỗng có
xu hướng tự vá lành lại sau thời kỳ bị hủy hoại này và rồi xuất hiện lại trong những
năm sau.Những khảo sát sau đó cũng cho thấy những lỗ hổng tương tự trên vùng Bắc
Cực và sự mong đi của tầng ozone trên vùng Bán Cầu Bắc,thậm chí ngay cả ở những
vùng nhiệt đới.
234
Khung 20.1 Sự hủy hoại tầng ozone
CFCs được đưa vào sử dụng vào những năm 1930 như một chất “khí kỳ diệu”.
CFCs có tính bền vững, không dễ cháy, không độc và không ăn mòn. Không ngạc
nhiên khi chúng có nhiều công dụng. Khung 20.2 thể hiện những sử dụng CFCs và ta
sẽ thấy chúng được sử dụng rất nhiều từ việc làm lạnh, nhiên liệu đẩy bình phun, sản
xuất bọt, chất dung môi, v.v… Sản lượng và việc sử dụng CFCs đã giảm xuống từ năm
1986 bởi vì sau phát hiện của các nhà khoa học về mối quan hệ giữa CFCs và sự hủy
hoại tầng ozon, thế giới đã hành động nhanh chóng nhằm kiểm soát việc sử dụng
chúng. Năm 1985Công Ước Vienna về Bảo Vệ Tầng Ozon đã được ký kết, và vào
năm 1987, hai mươi lăm nước đã chấp thuận Nghị Định Thư Montreal về Những Chất
Hủy Hoại Tầng Ozon. Nghị Định Montreal đã có hiệu lực từ mùng một tháng Giêng
Sơ đồ ghi nhận tỷ lệ thay đổi trên tầng Ozon từ năm 1926 đến năm 1988 được thực hiện tại Arosa, Thụy Sĩ. Xu hướng này giữ ở mức ổn định cho đến năm 1970, sau đó mức thay đổi trung bình trở nên âm, do đó đến năm 1988 thì tầng ozon bị mỏng đi 6%. Arosa, Switzerland 1926 to 1988 Đo đạt được
1926 1940 1950 1960 1970 1980 1988
235
năm 1989. Tuy nhiên khi những hiểu biết khoa học gia tăng thì Nghị Định Thư
Montreal phải nhanh chóng được xem xét lại và được làm cho khắc khe hơn nữa.
Khung 20.3 phát thảo những phát triển chính trong những thỏa ước quốc tế này.
Khung 20.2 Việc sản xuất và sử dụng chlorofluorocarbons
Bảng 1 Sản lượng CFCs toàn thế giới
Sản phẩm 1986 1991 1991
1000 tấn 1000 tấn tỷ lệ % so với năm 1986
CFC-11 415 263 63
CFC-12 441 259 59
CFC-113 241 143 59
CFC-114 18 5 30
CFC-13 13 11 85
Tổng cộng 1128 681 60
Bảng 2 Cơ cấu sử dụng CFCs
Ứng dụng % năm 1986 Mức giảm cho đến năm 1991
Kể từ năm 1986 (%)
Khí đẩy cho bình phun 28 58
Làm sạch 21 41
Thổi bọt 26 35
Lãnh chất (làm lạnh) 23 7
Những ứng dụng khác 2 -
Tổng cộng 100 40
Nguồn: Nghị Định Thư Montreal, theo đánh giá năm 1991
236
Khung 20.3 Sự phát triển của Nghị Định Thư Montreal
Biện pháp đã Mục tiêu cho thế giới Mục tiêu cho thế giới
Thực hiện phát triển đang phát triển
Nghị Định Thư * Đến năm 1988 phải giảm việc * Cho phép một thời gian ân
Montreal sản xuất và tiêu thụ CFCs xuống huệ là 10 năm trước khi đạt
( (1987 - 1989) 50% so với mức của năm 1986 được chỉ tiêu đề ra cho CFCs
* Sản xuất thiết bị đông lạnh và * Tiềm kiếm trước các kỹ thuật
Tiêu thụ halon ở mức của năm thay thế để bù đắp cho việc
không sử dụng CFCs
Hội nghị London * Đến năm 1995 phải giảm việc
những thành viên sản xuất và tiêu thụ CFCs và
Nghị Định Thư halon 50% so với mức năm 1986
tháng 6 năm 1990 * Đến năm 1997 phải làm việc
sản xuất và tiêu thụ CFCs xuống
50% so với mức năm 1986
* Hoàn toàn lại bỏ việc tiêu thụ
CFCs và halon vào năm 2000
* Cắt giảm việc tiêu thụ cacbon
tetrachloride xuống 85% vào
năm 1995 và loại bỏ hoàn toàn
vào năm 2000
* Cắt giảm việc tiêu thụ
1,1,1 – trichloroethane
30% vào năm 1995, 70% vào
năm 2000 và xóa bỏ hoàn
toàn vào năm 2005
Những hành động * Việc sản xuất CFCs ở Mỹ sẽ
trong năm 1992 chấm dứt vào năm 1995
237
Sự thiệt hại do hủy hoại tầng Ozone
Tại sao việc gia tăng tia cực tím trở thành vấn đề nghiêm trọng ?
Những tác động đến sức khỏe con người
Sự quan tâm phổ biến nhất là ảnh hưởng của bức xạ tăng thêm đối với sự cháy
nắng và ung thư da. Ung thư da có 2 dạng : carcinoma và melanoma. Những dạng ung
thư melanoma (dạng ung thư của các tế bào sắc tố) có thể gây nên tử vong, và tất cả
các hình thức khác của ung thư da đều tăng. Sự gia tăng này có bao nhiêu là do những
thay đổi trong hành vi cá nhân (mốt có làn da rám nắng) và bao nhiêu là do sự gia tăng
bức xạ tử ngoại thông qua việc hủy hoại tầng ozone thì không chắc lắm, nhưng một
ước tính cho thấy rằng, nếu như không có một hành động nào làm giảm bớt sự hủy
hoại tầng ozone, thì số lượng người chết do ung thư da trong số dân hiện nay hoặc sinh
ra trước năm 2075 ở Mỹ có thể là khoảng 3 triệu người. Cứ tính nhẩm thôi thì sẽ thấy
là cứ 1% ozone giảm xuống sẽ làm tăng 1-2% bức xạ cực tím và bệnh ung thư da loại
không phải là melanoma tăng 3-4%.
Những ảnh hưởng sức khỏe khác cũng ít chắc chắn hơn. Một số bằng chứng cho
thấy bức xạ tử ngoại có thể làm tổn hại hệ thống miễn dịch của con người, làm tăng
những bệnh truyền nhiễm và làm giảm tác dụng của chương trình. Sự lien quan đến
việc tăng bệnh đục nhãn cầu thì trực tiếp hơn và cứ giảm 1% ozone có thể làm tăng lên
thêm 100.000 đến 150.000 trường hợp bệnh đục nhãn cầu trên toàn thế giới.
Những ảnh hưởng đến hệ sinh thái
Có lẽ còn đáng ngại hơn ảnh hưởng tới sức khỏe – nhiều điều có thể thay đổi
được thông qua sự thay đổi hành vi, chẳng hạn như tăng cường bảo vệ cá nhân chống
lại ánh nắng mặt trời là những ảnh hưởng tiềm tàng tới hệ sinh thái. Một tác động lớn
là đối với một loại tảo đơn bào – phytoplankton – loại sản sinh ra khoảng một nửa
lượng sinh khối của thế giới mỗi năm, và giải quyết (hấp thụ) một tỉ lệ lớn khí CO2
trên thế giới vào trong biển cả. Bức xạ UV ảnh hưởng đến phytoplankton bằng việc
can thiệp vào quá trình quang hợp và nó cũng làm tổn hại AND vì vậy cũng hại đến sự
238
phát triển và sinh sản của loài tảo này. Loài tảo này bị các loài giáp sát nhỏ ăn và rồi
chúng lại là nguồn thức ăn của các loài sinh vật biển lớn hơn trong đó có cá voi và các
loại cá. Một số nghiên cứu cho thấy, lỗ hỏng ở vùng nam cực đang làm giảm năng suất
của phytoplankton đến 12%. Một số nghiên cứu còn cho thấy rằng một mức giảm 16%
lượng tích tụ ozone thì có thể dẫn đến mức giảm 5% sản lượng sinh khối cơ bản và
giảm 6 – 9% trữ lượng cá. Khoa học vẫn chưa chắc chắn rằng có những cơ chế tự vệ tự
nhiên, nhờ đó một số phytoplankton loại ra được một phần bức xạ. Những loài này
cuối cùng cũng có thể bành trướng để bù đắp cho sự mất mát của những loài khác,
nhưng những tác động đến những giây chuyền thực phẩm phức tạp vẫn còn không
chắc chắn.
Những ảnh hưởng tiềm năng tương tự cũng tác động lên hệ sinh thái trên đất
liền bởi vì sự gia tăng bức xạ cực tím có mối tương quan với hoạt động quang hợp
kém đi và giảm sự tăng trưởng của thực vật. Do đó tác động đến mùa màng là rất đáng
kể.
Chi phí và lợi ích của việc kiểm soát CFCs
Đứng trước những bằng chứng khoa học đáng ngại đó, các chính phủ trên thế
giới đã hành động nhanh chóng đối với sự hủy hoại tầng ozone. Trong khoảng hơn
mười năm kể từ khi phát hiện ra mối quan hệ giữa CFCs và tầng Ozone, Nghị Định
Thư Montreal đã được đặt ra. Nhưng không nên phóng đại quá mức tốc độ mà bản
thân Nghị Định thư này sẽ ảnh hưởng đến hủy hoại tầng ozone. Khung 20.4 cho thấy
sự tích tụ Chlorine nếu việc thải CFCs được ngưng lại năm 1995, 2000 hoặc 2005. Để
trở lại tích tụ của năm 1975 (khoảng 1,5 đến 2,0 phần tỷ theo dung tích PPb.v) sẽ phải
mất từ nay đến cuối thế kỷ tới. Biểu đồ thể hiện một điểm quan trọng – đôi khi chỉ đơn
giản là “đã quá trễ” để khôi phục tình trạng cũ. Điều này đặc biệt quan trọng ở nơi nào
mà lượng chất độc tích lũy lại, nghĩa là những nơi chúng có thời gian lưu lại lâu dài
trong môi trường như CFCs.
239
Khung 20.4 Việc giảm phát thải CFCs và sự tích tụ chlorine trong khí quyển
Đồ thị diễn tả sự gia tăng tích tụ chlorine trong khí quyển (đường đậm tăng lên)
và ảnh hưởng của việc ngừng hoàn toàn việc phát thải CFCs nếu được thực hiện vào
năm 1995, 2000 và 2005 (đường trên cùng thể hiện cho năm 2005, đường giữa cho
năm 2000 và đường dưới cho năm 2005). Mức tích tụ chlorine 1,5 – 2 phần tỷ theo
dung tích (P.P.b.v) sẽ không thể nào tái lập được cho mãi đến năm 2100 cho dù có
những hành động tức thời và nghiêm ngặt.
Ngoài những bằng chứng rất đáng ngại về sự hủy hoại tầng ozone,còn có
một lý do quan trọng khác đòi hỏi quốc sớm có hành động đối với CFCs.Cơ bản là
thay thế chúng không tốn kém lắm. Chi phí đền bù cho thế giới đang phát triển để
không sử dụngCFCs có thể là 2 tỷ đô-la trong khoảng từ năm 1990 đến năm 2000,số
tiền đó thực sự không đáng kể so với số tiền viện trợ chính thức hàng năm lên tới 45 tỷ
đô-la.
Tất nhiên, chấp thuận mục tiêu trở lại điểm khởi thủy không phải bằng việc
phân tích chi phí lợi ích (trừ phi tình cờ kết quả là như vậy). Điều này cũng giải thích
tại sao việc chấp nhận một số quy tắc đơn giản về khôi phục môi trường không nhất
thiết phải phù hợp với những phương pháp kinh tế thông thường về vấn đề môi trường.
Mặc dù những quy tắc đó có thể rất phù hợp với quan điểm về “tính bền vững”và “vốn
1980 2000 2020 2040 2060 2080 2100
240
tư bản không đổi”-xem Chương 4. Như vậy thực hiện được 1,5-2,0 p.p.b.v cho
chlorine thì tương đương với một tiêu chuẩn “bền vững”,nhưng chúng ta không biết
đến điều đó có được chấp thuận hay không khi dùng cách so sánh chi phí và lợi ích.
Thực ra mới chỉ có một sự phân tích chi phí- lợi ích về sự kiểm soátCFCs và nó
được Cơ Quan Bảo Vệ Môi Trường Hoa Kỳ soạn thảo dưới cái tên “Phân Tích Tác
Động Điều Tiết”. khung 20.5 đưa ra những phát hiện chủ yếu của cuộc nghiên cứu đó,
nhưng điều quan trọng cần lưu ý là nó có liên quan tới những đánh giá của Nghị Định
Thư Montreal ban đầu, tức là chưa có tu chỉnh bởi những thõa ước về sau để quy định
việc kiểm soát nghiêm ngặt hơn.Nghiên cứu chi phí lợi ích chứng tỏ rằng đã có những
lợi ích hết sức to lớn cho Hoa Kỳ do việc thực hiện sự kiểm soát quy định bởi Nghị
Định Thư Montrea,ngay cả khi tất cả những lợi ích đó là không thể đo lường được.Cần
nhắc lại rằng có thể tới 3 triệu người chết được cứu thoát nhờ việc kiểm soát CFCs.
Nếu như mọi “sinh mạng theo thống kê”trị giá là 3 triệu đô-la,thì giá trị kinh tế của
riêng những sinh mạng tương lai được cứu sống đã là 9 triệu triệu đô-la hay 9 ngàn tỷ
đô-la. Thậm chỉ khi kể đến ảnh hưởng của “chiết khấu”- theo đó những sinh mạng
tương lai được cứu giả thiết là không có giá trị bằng những sinh mạng hiện tại- ảnh
hưởng nảy làm cho lợi ích tạo ra từ việc kiểm soát CFCs vẫn còn vô cùng to lớn. Điều
đó được thể hiện rõ hơn trong tính toán lợi ích ròng ở khung 20.5.
Khung 20.5 Chi phí và lợi ích của việc kiểm soát CFCs ở Mỹ
Bảng 1 cho thấy chi phí của nước Mỹ cho việc giảm khoảng 80% lượng CFCs thải ra ước
tính là 22 tỷ đô- la Mỹ ,nhưng lợi ích về y tế và môi trường được ước tính với con số sửng sốt là
3500 tỷ đô-la hay 3,5 ngàn tỷ đô la. Việc đánh giá lợi ích về mặt sức khỏe giải thích rằng “giá trị của
một sinh mạng theo thống kê ” (thường bị gọi lầm là giá trị một nhân mạng) là 3 triệu đô-la.
Bảng 1 Chi phí của việc giảm mức thải CFCs ở Mỹ (Tỷ đô-la năm 1985)
1989-2075, chiết khấu 2% Không có kiểm soát 80 % cắt giảm mức thải CFCs
Chi phí 0 22
Lợi ích y tế và môi trường 0 3553
Lợi ích ròng 0 3531
Nguồn: Cơ quan Bảo Vệ Môi Trường Hoa Kỳ (US E viroment Protection Agency), 1988
241
Kết luận
Phản ánh nhanh nhẹn của các chính phủ trước sự thử thách của vấn đề hủy hoại
tầng ozone và ký kết hiệp ước quốc tế (Nghị Định Thư Montrea) nhằm loại trừ CFCs
có thể coi như một thành công của chuyện chính sách .Tuy nhiên những thỏa ước quốc
tế về ảnh hưởng của những thay đổi toàn cầu đòi hỏi nhiều thương lượng kéo dài hơn.
Sự kiện thành công đối với CFCs trên tùy thuộc rất nhiều vào 2 yếu tố thuận lợi sau:
1. Có một số lượng lớn những bằng chứng khoa học (“chắc chắn”) về nguyên nhân và
hậu quả của vấn đề .
2. Sự thay thế CFCs tỏ ra tương đối rẻ.
Như chúng ta đã thấy trong việc giảm khí gây hiệu ứng nhà kính, và như
chúng ta sẽ thấy trong hai chương tiếp theo, nhiều thay đổi môi trường có tính chất
toàn cầu trở thành rắc rối bởi chưa có kết quả chắc chắn của khoa học và lại bao gồm
những gánh nặng chi phí đáng kể không được chia sẽ một cách đồng đều.
242
CHƯƠNG 21
BẢO TỒN SỰ ĐA DẠNG SINH HỌC
Đa dạng sinh học là gì ?
Đa dạng sinh học là một từ tổng quát để chỉ về mức độ đa dạng của các
giao61ng loài khác nhau trong thiên nhiên. Các giống loài này bao gồm các loài thực
vật, các loài động vật, các loài vi sinh vật, và các hệ sinh thái và các quá trình sinh thái
mà trong trong đó các loài trên dự phần. Lưu ý rằng đa dạng ở đây nói đến giống loài
hơn là số lượng cá thể trpong một loài.
Thực vật, động vật và vi sinh vật co gen di truyền và những thông tin chứa
trong các gen này là nhữnh thông tin di truyền hay sự đa dạng di truyền. số lượng
các loài khác nhau cho ta một số đo về sự đa dạng giống loài. Trạng thái khác nhau
của môi trường cư trú, của cộng đồng sinh vật và quá trình sinh thái được gọi là sự đa
dạng sinh thái, và từ này cũng bao gồm trạng thái muôn màu muôn vẻ trong các hệ
sinh thái và các quá trình sinh thái. Vì thế đa dạng sinh học thường được phân tích về
sự đa dạng di truyền, chủng loài Và hệ sinh thái. Khung 21.1 cho thấy số lượng giống
loài được biết đến. Rất đáng chú ý là mức độ đa dạng chủng loài không được biết và
con số ước đoán là từ 5 đến 50 triệu. Trong số đó, co lẽ chỉ 1,4 triệu được mô tả.
Vì sao đa dạng sinh học quan trọng ?
Lý do đạo đức
Đối với nhiều người, bản thân việc đặt câu hỏi về giá trị của đa dạng sinh học là
sai. Họ lập luận rằng loài người có nghĩa vụ đạo đức là phải bảo tồn đa dạng sinh học,
một nghĩa vụ đi kèm với sự kiện là con người có khả năng phá hủy phần lớn hệ thống
đa dạng sinh học đó. Có quyền lực thì co trách nhiệm. Ý thức nghĩa vụ này thường kết
hợp với quan niệm rằng hệ sinh thái và giống loài có quyền, giống như những quyền
được ban cho một số động vật, ngay cả đôi khi đó chỉ là quyền được chết một cách
nhân đạo ( hãy nghĩ đến những lò sát sinh và pháp luật chung quanh việc giết mỗ thú
lấy thịt làm thực phẩm).Những người khác lấy lý do tôn giáo để bảo vệ quan điểm ấy –
trách nhiệm quản lý nhân danh đấng tối thượng nào đó.
243
Những quan điểm đạo đức như thế rõ ràng là đang tồn tại và thỉnh thoảng lại
thể hiện trong những qui tắc hành đạo. Một vấn đề đối với quan điểm đạo đức là nó
thường mâu thuẫn với quan điểm đạo đức khác, ví dụ, quyền kiếm sống, quyền cói
được những nhu cầu cơ bản như thực phẩm và nhà ở,v.v.. Nếu bảo tồn đa dạng sinh
học thì mâu thuẫn với các quyền đó, thì một số nguyên tắc “siêu đạo đức” nào đó là
cần thiết để quyết định xem quan điểm nào nên tồn tại. Theo ngôn ngữ của nhà kinh tế,
thì thường hay có một sự đánh đổi. Vì một số quan điểm đạo đức thường có xu hướng
tuyệt đối (một điều gì đó luôn đúng hay luôn sai), chúng giúp xác định những chọn lựa
chỉ khi chúng ta biết chắc là không có những mâu thuẫn trong những quan điểm tuyệt
đối. Sự thật là thường có mâu thuẫn như thế đã góp phần rất lớn trong việc giải thích
vì sao, ví dụ, một số nước đang phát triểnphản đối việc các quốc gia giàu có bảo họ
đừng chặt phá hay đốt rừng. Theo quan điểm của các nước đang phát triển, sự mất
rừng được biện minh bởi cái thường gọi là sự phát triển kinh tế và sự phát triển thì
thường nhằm cho người nghèo trong xã hội là người có “quyền”được hưởng lợi từ sự
phát triển. Cuộc tranh luận “việc làm hay môi trường” cũng thuộc vào loại này. Vì vậy
mà đã có những nỗ lực lớn nhằm tìm kiếm những giá trị khác của việc bảo tồn đa dạng
sinh học, những giá trị nằm trong những lợi ích hướng về con người của việc bảo tồn.
244
Khung 21.1 – Có bao nhiêu loài tồn tại ?
Con số thực của các giống loài trên quả đất chưa được biết. Một số lớn đượ mô tả dưới
đây đang tồn tại, phần lơn là thuộc rừng nhiêt đới. Bảng dưới đây mô tả những loài đã
xác định. Bao nhiêu loài chưa được xác định thì chưa được biết, song có thể là 10, 30 hay
40 lần nhiều hơn số đã xác định.
Nhóm Số loài đã mô tả
Vi khuẩn và thanh tảo 4.760
Nấm 46.983
Tảo 26.900
Khuyết thực vật (rêu) 17.000
Khỏa thực vật (cây lá kim) 750
Bí tử thực vật (cây cho hoa) 250.000
Nguyên sinh động vật 30.800
Hải miên 5.000
San hô và sứa 9.000
Giun tròn và giun đất 24.000
Gía xác 38.000
Côn trùng 751.000
Những loài chân khớp và động vật không xương nhỏ 132.000
Nhuyển thể 50.000
Sao biển 6.100
Cá 19.056
Lưỡng thê 4.184
Bò sát 6.300
Chim 9.198
Thú (động vật hữu nhủ) 4.170
Tổng số được xác định 1.435.662
Nguồn : J. McNeely et al. (1990)
245
Lợi ích kinh tế
Bảo tồn đa dạng sinh học co thể diễn ra theo 2 cách chính. Nổ lực nhằm giữ gìn
sự đa dạng sinh học bằng cách đặt ra những giới hạn trong việc sử dụng môi trường cư
trú. Điều này thường được thực hiện bằng cách tuyên bố nhửng khu vực như “công viên
quốc gia” hay “những khu di tích” và co nhiều cách phân loại các địa điểm như thế trên
thế giới. Một cách khác để bảo tồn đa dạng sinh học là khuyến khích sự sử dụng một
cách bền vững. Điều này co nghĩa là phải xem xét danh sách các tài sản tự nhiên mà một
vùng co thể co và khai thác các tài sản này sao cho trữ lượng của chúng không giảm đi.
Điều này cũng tương tự với ý niệm về năng suất bền vững trong ngành đánh cá hay trong
lâm nghiệp. Do đó, thay vì đốn sạch một khu rừng nhiệt đới, sự sử dụng bền vững có thể
chỉ lấy một số cây rừng, sự sử dụng các phương pháp thu hoạch chọn lọc, và khai thác
rừng lấy các sản phẩm khác như trái cây, hạt, mây, mật ong…
“Những người theo xu hướng bảo tồn” thường không thích cái ý tưởng sử dụng
bền vững bởi vì họ cảm thấy nó đồng nghĩa với việc con người khai thác và mâu thuẫn
với quan điểm đạo đức đã được nói qua ở phần trên. Về thực tế, họ cho rằng bất cứ sự sử
dụng nào rồi cuối cùng cũng dẫn đến sự hủy hoại đa dạng sinh học bởi vì không thể tin
mà giao tài nguyên thiên nhiên cho con người. những nguờ ủng hộ phương pháp sử dụng
bền vững lại nêu lên khả năng hầu như không thể co của việc “vô trung hóa” bất cứ trong
khu vực nào trên thế giới khi mà phải đối diện với sự tăng trưởng dân số và phát triển
kinh tế. quan điểm của họ là chúng ta phải chứng minh rằng bảo tồn đa dang sinh học là
đáng làm về mặt kinh tế, và chung ta phải thiết kế ra những lợi ích khuyến khích để đảm
bảo co được sự bảo tồn ấy.
Chương 8 đã thảo luận khái niệm “tổng giá trị kinh tế” và cho thấy nó bao gồm
các giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng. tiếp đến, các giá trị sử dụng bao gồm cac giá
trị “trực tiếp” và “gián tiếp”.
Khung 21.2 đưa một số ví dụ về các giá trị này. Ví dụ, các giá trị sử dụng trực
tiếp của rừng nhiệt đới bao gồm vai trò của chúng trong việc cung cấp cho cả thị trường
thế giới lẫn địa phương những chất liệu di truyền của cây trồng co thể dùng làm thuốc
(các cây thuốc). rừng nhiệt đới hiện cũng là nơi tập trung của “du lịch sinh thái”. Chúng
246
cung cấp những lâm sản phụ như là các loại hạt trái cây v.v… rừng nhiệt đới cũng tích
trữ chất carbon. Co nghĩa là nếu rừng bị đốt phá và bị đốt, chất carbon sẽ bị phóng thích
thành chất carbonic, góp phần tạo ảnh hưởng nóng lên toàn cầu. do đó cần một số “tin
dụng” cho việc bảo tồn môi trường vì bảo tồn loại trừ việc carbon bị phóng thích và gây
hại. giá trị tồn trữ carbon là một thí dụ về giá trị sử dụng gián tiếp. giá trị của các vùng
đất ẩm ướt là một thí dụ khác: nhiều vùng đất ẩm ướt đóng vai trò như những tác nhân
ngưà dông bão. Nghĩa là các cơn dông sẽ giảm khi chúng đi qua vùng đất ẩm ướt, bảo vệ
vùng đất nội dịa. cac vùng đất ẩm ướt cũng làm trong sạch nguồn nước, và thực sự là tại
một vài nơi trên thế giới. các vùng đất ẩm ướt đuoc5 con người tạo ra như là cơ chế xử lý
nước uống. du lịch sinh thái và cây thuốc là các ví dụ của giá trị sử dụng trực tiếp.
Khung 21.2 – Giá trị kinh tế của đa dạng sinh học
Bảng 1, 2 và 3 minh họa một số giá trị kinh tế co thể suy ra từ việc sử dụng đa dạng sinh
học như một tài nguyên kinh tế.
Bảng 1: hệ sinh thái rừng nhiệt đới (hiện giá USD/ha, r = 5%, T = 20)
Lợi ích Địa phương Toàn cầu Địa phương + Toàn cầu
Giá trị sử dụng: Trực tiếp
Cây thuốc 250-750 12-250 262-1000
Du lịch 20-1250 20-1250
Sản phẩm phụ >0-7000 >0-700
Giá trị sử dụng: Gián tiếp
Cố định carbon 0? 500-1500 500-1500
Khống chế lũ 23 23
Giá trị không sử dụng + 5 5+
Tổng số >293-9023 517-1755 810-10778
Tổng hợp cũng phiền toái như thế vì giả thiết rằng các giá trị “co thể chuyển
đổi” từ vùng này tới vùng khác.
Xem trong bài về phần thảo luận các mục.
247
Bảng 2: Hệ sinh thái: Đất ướt (Hiện giá USD/ha, r = 5%, T = 20)
Lợi ích Địa phương Địa phương Toàn cầu Tổng
LDC DC
Giá trị sử dụng: Trực tiếp
Nông nghiệp + cá + nhiên liệu 23
Rừng + cá + nơi nghỉ ngơi 5200-7155 n.a. n.a.
Lông thú 90
Nơi nghỉ ngơi 27-1624
Nước 38000
Giá trị sử dụng: Gián tiếp
Phòng ngừa dông bão 1134
Giá trị không sử dụng 300-350
Tổng số 23-7155 1600-3200 n.a. n.a.
Cho tới 40000
n.a. : không co số liệu
xem trong bài về phần thảo luận các mục
248
Bảng 3: hệ sinh thái: Đất chăn thả (Hiện giá USD/ha, r = 5%, T = 20)
Lợi ích Quốc gia Lợi ích địa phương
Giá trị sử dụng: Trực tiếp
Sản phẩm hoang dại Zimbabwe 7,5
Vật săn bắn Zimbabwe 1,2
Cảnh quan Kenya <40,0
Chăn nuôi Zimbabwe 2,0
Giá trị sử dụng: Gián tiếp Không co số liệu Không co số liệu
Giá trị không sử dụng
Voi Thái Lan 22,0
Vùng hoang dã Úc 796.800 tới 1.907.600
Nguồn: D. W. Pearce và cộng sự (1992)
Xem trong bài về phần thảo luận các mục.
Để tiện lợi, những giá trị này đã được “bình thường hóa” và “tính trên một ha”.
Điều này không hoàn toàn chính đáng vì nó co thể làm cho người ta tưởng là nếu chúng
ta chỉ co một mẫu (ha) rừng nhiệt đới chẳng hạn, thì sẽ co những giá trị này. Các hệ
thống sinh thái rừng nhiệt đới thường co những kích thước tối thiểu để tồn tại về mặt
sinh thái, cho nên sẽ hơi sai lệch khi biểu thị các giá trị kinh tế trên một mẫu. Nhưng sự
quan trọng của việc biểu thị giá trị theo cách này là nó giúp chung ta một khái niệm nào
đó về cách người ta so sánh bảo tồn đa dạng sinh học, thuần túy về mặt kinh tế, với các
cách sử dụng khác của đất như nông nghiệp hay rừng hay sự phát triển công nghiệp. Các
giá trị đã được biểu thị bằng từ “hiện giá”, sử dụng chiết khấu 5 phần trăm và xem xét
các lợi ích trong khoảng thời gian 20 năm.
Các giá trị không sử dụng cũng có thể ước tính được, dù chúng ta co rất ít kinh
nghiệm trong việc kiếm được những số ước tính đó. Một cách để ước tính là xem xét
249
cách “đổi nợ lấy thiên nhiên”, hoạt động theo cách sau. Một cơ quan quan tâm đến việc
bảo tồn mua lại hết nợ nước ngoài của một quốc gia đang phát triển. Đây dược gọi là nợ
“thứ cấp” và có thể mua được trên thị trường tiền tệ thế giới. Giá mua thường thấp hơn
giá trị trên giấy tờ của nó. Ví dụ, nếu quốc gia A nợ 1 tỷ đô la, mỗi đô la trên giấy tờ đó
co thể được mua bằng một phần của giá này mà thôi, như 50 xu chẳng hạn. Giá trị thực tế
khác với giá trị trên giấy tờ bởi vìco1 nguy cơ là quốc gia mắc nợ sẽ không hoàn trả được
nợ. Vì vậy nợ thứ cấp thường rất rẻ. Cơ quan bảo tồn sau đó hứa sẽ trừ nợ nếu quốc gia
mắc nợ hứa sẽ chăm sóc một khu bảo tồn nào đó, ví dụ, một công viên quốc gia. Sự đổi
chác thường rất phức tạp và luôn luôn gắn với một loại kế hoạch nào đó và sự hoán đổi
nợ nước ngoài (thường được biểu thị bằng đồng tiền quốc tế) để lấy phiếu nợ bằng đồng
tiền nội địa. cho đến nay đã xảy ra một số trường hợp “đổi nợ lấy thiên nhiên”, từ Bolivia
đến Philippines và Zambia. Tổng số nợ này là khiem nhượng nếu so với tình trạng nợ nần
của các quốc gia đó (mặc dù trong trường hợp Costa Rica là khá lớn) song nó lại thường
giúp bảo tồn những vùng đất rộng lớn. Bằng cách xem xét số tiền cơ quan bảo tồn thực
sự trả và diện tích được bảo tồn, một giá trị “tính trên mỗi mẫu đất” co thể được tính ra.
Đây là một cách mà giá trị không sử dụng ở bảng 1 của khung 21.1.
Giá trị không sử dụng của đất hoang được trình bày ở khung 21.2 cho Thái Lan và
Úc. Những giá trị này đạt được bằng cách “định giá ngẫu nhiên”, nghĩa là, bằng cách hỏi
người ta về sự sẵng lòng chi trả của họ để bảo tồn các vùng này (xem chương 8). Ví dụ
về Thái Lan liên quan việc phỏng vấn người ở Thái và ví dụ về Úc liên quan việc hỏi
người Úc. Những sự khác biệt rất lớn về giá trị này không chỉ làdo sự khác biiệt về thu
nhập, mà còn phản ánh tính độc đáo nhận thấy được ợ ở một vùng ợ Úc vốn là đối
tượngcho một thí nghiệm đánh giá (vùng “Kakadu” ở bắc Úc) và trở thành nổi tiếng
trong một cuốn phim.
Chú ý là các giá trị kinh tế được liệt kê trong khung 21.2 được tách ra thành
những loại “điạ phương và toàn cầu”. Điều này quan trọng vì nhiều cách sử dụng bền
vững môi trường sẽ co lợi cho người dân địa phương, nhưng một số giá trị khác lại co lợi
cho thế giới nói chung – ví dụ cho sự tích trữ carbon co nghĩa là làm giảm sự nóng lên
toàn cầu và co nghĩa là làm lợi cho mọi quốc gia (nói chung). Tương tự, giá trị không sử
250
dụng, giá trị “tồn tại” thường đổ dồn về các nước giàu. Nhưng một số các giá trị này gắn
với tiền mặt và một số thì không. Các giá trị tồn tại toàn cầu, chẳng hạn, thì không gắn
với tiền mặt. Chẳng hạn không ai trả cho Brazil để họ không đốt rừng của họ. Vì thế một
cách để khuyến khích giảm bớt sự mất mát sự đa dạng sinh học là để cho các quốc gia sở
hữu sự đa dạng sinh học được chiếm hữu các lợi ích mà họ cung cấp cho các nước khác
trên thế giới. điều này không co gì khác hơn việc áp dụng đơn giản khía niệm về lợi ích
ngoại tác. Cũng như ta lập luận rằng người ta tạo ra ô nhiễm phải trả thuế hay chịu phạt
dưới dạng nào đó (nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả), thì cũng hợp lý để cho người
tạo ra lợi ích ngoại tác cũng thu được một mức giá nào đó từ những người thụ hưởng.
Chính ý tưởng chiếm hữu lợi ích toàn cầu đó được thảo luận tại “Hội Nghị Cấp
Cao Về Trái Đất” ở Rio năm 1992. Ở đó, người ta nhất trí rằng các nước giàu phải trả cho
các nước nghèo nhiều hơn để khuyến khích họ bảo tồn đa dạng sinh học. Cơ chế cho việc
này là Phương Tiện Môi Trường Thế Giới (Global Environment Facility – GEF), cơ quan
này sẽ chuyển tiền từ nước giàu sang nước nghèo để nước nghèo bảo tồn đa dạng sinh
học, giảm ô nhiễm cho vùng hải phận quốc tế, kiểm soát việc phóng chất carbonic và
phương pháp để chống lại việc phá rừng và sa mạc hóa.
Chi phí cơ hội của bảo tồn đa dạng sinh học
Vì sao đa dạng sinh học đang mất dần?
Những giá trị kinh tế của sự bảo tồn, từ bản thân chúng, không mấy hấp dẫn.
Chúng cần phải được liên hệ với những cách sử dụng đất đai khác co tính chất cạnh tranh
với sự bảo tồn đa dạng sinh học. Ví dụ nếu ta co thể thấy là bảo tồn đa dạng sinh học sẽ
tạo ra X đồng trên một mẫu đất và ngành nông nghiệp chỉ tạo ra 0,5 X thì chúng ta co lý
lẽ mạnh mẽ cho sự bảo tồn. Nó không co nghĩa là sự so sánh sẽ diễn ra – ít khi các quyết
định sử dụng đất lại dựa trên sự so sánh cặn kẽ chi phí và lợi ích của các phương án sử
dụng khác nhau. Nhưng sự so sánh là một phần của lập luận kinh tế để bảo vệ môi
trường nhiều hơn. Vậy thì, qui tắc cơ bản để biện minh về mặt kinh tế cho sự bảo tồn là:
251
| Bc - Cc | > | Bd – Cd |
Với Bc là lợi ích của sự bảo tồn, Cc là chi phí để bảo tồn, Bd là lợi ích của “phát triển” và
Cd là chi phí của phát triển. Ở đây, từ “phát triển” được sử dụng để mô tả việc sử dụng
không bảo tồn đất, nhưng đúng ra, bảo tồn như được xem là hình thức khác của phát
triển. Biểu thức Bd – Cd là chi phí cơ hội của sự bảo tồn, nghĩa là những lợi ích ròng co
từ việc sử dụng đất mà phải chịu từ bỏ đi nếu sự bảo tồn được thực hiện.
Khung 21.3 trình bày một số ước tinh về giá trị kinh tế của việc sư dụng đất cho
mục đích phát triển. một lần nữa, những con số này chỉ mang tính hướng dẫn mà thôi, vì
giá trị của sự phát triển sẽ biến động từ nước này sang nước khác và từ nơi này đến nơi
khác, song chúng lại cho biết một điều quan trọng. Những gì mà chủ đất hay người sử
dung đất nhận được dưới dạng lợi ích của phát triển co thể liên quan rất ít đến lợi ích mà
sự hát triển đó mang lại cho quốc gia. Nguyên nhân là nhiều chương trình phát triển được
chính quyền trợ giá hay khuyến khích bằng một cách nào đó. Các biện pháp khuyến
khích bao gồm trợ giá sản phẩm, miễn thuế, tín dụng lãi suất thấp, trợ giá máy móc, phân
bón, thủy lợi, v.v… Chúng ta co thể cho là những trợ giá này phản ánh những ưu tiên cho
phát triển của quốc gia mà chung ta đang xem xét. Trong trường hợp như vậy, chúng sẽ
co một số lý do chính đáng về kihn tế. Nhưng trong thực tế, chúng tùy thuộc rất nhiều
đến thế lực vận động chính trị, của các nhóm thụ hưởng lợi ích, dù đó là nông dân hay
công ty khai thác gỗ. Cũng không phải là sự biến dạng kinh tế này chỉ giới hạn ở các
quốc gia đang phát triển – chính sách nông nghiệp chung của châu âu là một ví dụ điển
hình về một mức bảo vệ về mặt tài chính một cách đặt biệt và tốn kém đối với một nhóm
người trong xã hội (nông dân). Trợ giá ở các quốc gia khác thì thậm chí còn ghê gớm
hơn, chẳng hạn như ở Nhật Bản.
Khung 21.3 cho thấy lợi ích kinh tế của phát triển thì cao cho cá nhân chủ đất hơn
là quốc gia (giá trị cho quốc gia được tính sau khi đã trừ đi biến dạng tài chính khác
nhau). Diều naỳ co nghĩa là sự bảo tồn đa dạng sinh học bắt đầu bằng một sự bất lợi. Bảo
tồn thường không được trợ giá nhưng những cách sử dụng đất khác thì thường được trợ
252
giá. Vì vậy, sự bảo tồn đa dang sinh học phải đối diện với sự cạnh tranh công bằng, và sự
cạnh tranh không công bằng này giải thích mot cách mạnh mẽ tại sao sự đa dạng sinh học
đang mất dần với một mức độ báo động.
Dĩ nhiên, co những lý do khác cho sự biến mất này hay “sự xói mòn tính đa
dạng”. ngoài sự biến dạng kinh tế trong các cách sử dụng đất khác, chúng ta đã thấy giá
trị đa dạng sinh học thường không co thị trường – giá trị bảo vệ nguồn nước của rừng
nhiệt đới, chẳng hạn, hay giá trị làm trong sạch nước của vùng đất ướt. Và ở những nơi
mà lợi ích này co thể ước tính được, thì chúng lại mang tính chất toàn cầu và chỉ co thể
được thực hiện khi co một định chế mới nào đó cho phép các quốc gia liên quan được
chiếm hữ các lợi ích toàn cầu này.
Khung 21.3 Hiện giá của các phương án “phát triển” (USD/ha, r = 5%, T = 20)
Tư nhân Quốc gia
Rừng 200 – 500 (bền vững) không co số liệu
1000-2500 (không bền vững)
Cây trồng
LDC, USA 2700-4630 1660-2320
Nhật, NICs cho tới 100.000 5800
Gia súc lớn từ âm đến nhỏ
Các giá trị “tư nhân” là số thu về tài chính của chủ đất hay người sử dụng đất. Số thu
này khác biệt, thường là lớn, với số thu của quốc gia vì chủ đất thường được nhận nhiều
hing thức trợ giá. Bảng này cho thấy “sự biến dạng” của mức thu lợi kinh tế đối với
ngành nông nghiệp và lâm nghiệp không chỉ giới hạn ở các nước đang phát triển. Bảo
tồn đa dạng sinh học phải cạnh tranh không chỉ với mức thu lợi cua “quốc gia” mà còn
với mức thu lợi tài chính của cá nhân. Cho nên nó không đảm bảo cho điều mà nhà
doanh nghiệp gọi là “một sân chơi công bằng”.
253
Như thế, kinh tế môi trường đã làm sáng tỏ tại sao đa dạng sinh học đang biến mất dần.
Lý do chính nằm trong tính chất “hàng hóa công cộng” của sự đa dạng sinh học và những
biến dạng kinh tế trên thị trường. Hàng hóa công cộng là hàng hóa khi được cung cấp sẽ
lam lợi cho nhiều người cùng một lúc và lợi ích của một người này không bị ảnh hưởng
bởi lợi ích của một người khác (“cùng tiêu thụ”). Hơn nữa, rất khó mà ngăn cản một
ngượi nào không cho họ thụ hưởng lợi ích một khi nó đã đuợc cung cấp – đây là vấn đề
“chiếm dụng”:
Các phương án sử dụng đất thường được trợ giá một cách công khai hay ngấm
ngầm.
Lợi ích địa phương của sự đa dạng sinh học thường không co thị trường. điều này
đặc biệt đúng cho những giá trị sử dụng gián tiếp như là bảo vệ nguồn nước.
chúng ta nói đó là những hàng hóa công cộng địa phương.
Một số lợi ích của đa dạng sinh học mang tính chất toàn cầu, khiến cho các quốc
gia khó mà chiếm hữu được nó. Chúng ta nói những lợi ích này mang tính chất
hàng hóa công cộng toàn cầu.
Kết luận
Đa dạng sinh học quan trọng cả về lý do đạo đức lẫn kinh tế. Nhưng nếu lý do đạo
đức của sự bảo tồn co thể bị tranh luận, thì lý do kinh tế của bảo tồn lại trở nên ngày càng
mạnh mẽ. Điều này co ý nghĩa là cần phải khảo sát về giá trị kinh tế của sự bảo tồn và
trên hết là, khảo sát các yếu tố kinh tế tạo nên sự xói mòn tính đa dạng.
254
CHƯƠNG 22
CHÍNH SÁNH MÔI TRƯỜNG QUỐC TẾ: MƯA AXIT
Phần giới thiệu
Chính sách môi trường ngày càng đi vào khía cạnh quốc tê. Có hai lý do cho điều
này:
A) Nhiều tài nguyên thiên nhiên của thới giơi đang bị đe dọa là những tài nguyên dùng
chung,hoặc “tài sản công “như là đại dương,bầu khí quyển.
B) Vì các hoạt động tại một nơi trên thế giới ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của nơi
khác trên giới. điều này có thể do ô nhiễm “di chuyển “và không tôn trọng biên giới
chính trị, hoặc vì phúc lợi tinh thần các cá nhân của một đất nước bị ảnh hưởng bởi sự
mất mát tài sản môi trường ở một nước khác ( ví dụ như sự mất rừng nhiệt đới).
“Tính chất quốc tế” của vấn đề môi trường đặt ra nhiều thách thức đặc biệt cho
kinh tế học môi trường. ví dụ: việc áp dụng một loại thế vào người gây ô nhiễm trong
một nước là một việc, nhưng việc gì sẽ xảy ra khi sự ô nhiễm mang tính quốc tế? có thể
không có được mọt nhà cầm quyền liên quốc gia có quyền lực để đánh thuế. Cũng có
cùng một vấn đề tương tự nếu chúng ta muốn thành lập một hệ thông giấy phép ô nhiễm
mua bán được: có thể là các nước sẽ phải mua bán các giấy phép này với các nước khác
và điều này có nghĩa là phải thành lập các cơ quan chơcs năng liên quốc gia để theo dỏi
sự mua bán và đảm bảo sự tuân thủ. Vì chúng ta không có “chính phủ thế giới” sự áp
dụng bất kỳ biện pháp nào về chính sách môi trường đều trở nên rất phức tạp trong phạm
vi quốc tế.
Mưa axits là một ví dụ về chất gây ô nhiễm quốc tế như thế. Mưa axit là một thuật
ngữ chung chỉ sự lắng động (dưới đạng khô hoặc ẩm,do đó nó mang một cái tên hơi sai
lệch) của chất gây ô nhiểm sulphur dioxide(SO2 ) nitrogen oxide(NOx )và gốc Cloride
(CL ) dưới dạng axit. Sự chuyển đổi thành axit xảy ra trong bầu khí quyển. Mưa axit gây
thiệt hại cho các nhà cửa và các vật liệu khác (qua các đạt tính ãn mòn của chúng),cây cối
(qua tổn hại lá và có thể suy thoái sự tăng trưởng),mùa màng ,nguồn nước qua sự axit hóa
mà giảm khả năng hổ trợi sự sống các loài thủy hải sản của sông ngòi và ao hồ,và cũng
255
có thể đối với sức khỏe con người. các chất ô nhiểm này “di chuyển “vì chúng được
mang trong khí quyển ở điểm thải ra và có thể lắng động cách nguồn thải vài trăm cây
số. về mặt này ,chúng là chất gây ô nhiểm “xuyên biên giới “ băng qua các biên giới quốc
gia . điều này nói lên tại sao việc kiểm soát mưa axit trở thành một vấn đề quốc tế(xem
khung 20.1)
Hành động quốc tế về mưa axit
Ở mỹ ,đạo luật không khí sạch năm 1990 yêu cầu giảm 10 triệu tấn chất thải
sulphur. Bất kì một chương trình nghiên cứu cặn kẽ tìm thấy rằng tác hại của mưa axit
trong nước Mỹ là tương dối nhỏ (chương trình đánh giá mưa axit quốc gia –NAPAP),các
áp lực chính trị kể cả áp lực từ nước láng giềng Canada, nơi nhận một số axit thải từ Mỹ,
buộc phải có biện pháp với nó. Đạo luật không khí sạch cunhx nổi tiếng vì sữ dụng hệ
thống tín dụng ô nhiển có thể mua bán(xem trương 13) như cơ chế cho việc thực hiện
mục tiêu giảm ô nhiểm một cách hiệu quả.
Các nước châu âu ,kể cả “các nền kinh tế Đông Âu đang trong thời kì chuyển đổi
“và LIÊN XÔ cũ đang đàm phán (1992) một nghi định thư thứ hai về sulphur. Nghị định
thư thứ nhất (sau công ước về ô nhiểm không khí xuyên biên giới trên phạm vi rộng lớn )
yêu cầu tất cả các nước ký kết để giảm khí so2 khoảng 30% vào năm 1993 so với năm
1980. anh và Mỹ không kí nghi định thứ nhất, nhưng tất cả các nước sẽ bị áp lực phải kí
nghị định thứ hai . chỉ tiêu về lâu dài có thể rất gắt gao , vì nó được dẫn dắt bởi “các
ngưỡng gây hại “. Ngưỡng gây hại là một mức lắng động của chất ô nhiễm, dưới mức độ
này không có sự tổn hại nào phải quan tâm. Nói cách khác, đề ra được ngương gây hại có
nghĩa là nhầm tới mục tiêu tổn hại sinh thái bằng không. Để có một khái niệm về ý nghĩa
của điều này trong thực tế , việc thực hiện ngưỡng gây hại ở Châu Âu sẽ đòi hỏi phải
giảm khí thải so2 trên 80% , làm cho nghị định thư thứ nhất trởi nên vừa phải.. khung
22.1 minh họa khái niệmcủa ngưỡng gây hại bằng cho thấy nó liên quan tới khái niệm
kinh tế về tổn hại môi trường như thế nào.
Các ngưỡng gây hại có thể không đạt được vì nó có ít nhất hai lý do. Chúng không
thể thực hiện được về mặt kĩ thuật, tức là chúng có thể yêu cầu giảm thải khí ngoài khả
năng của công nghệ hiện nay . chúng cũng có thể không khả thi về mặt kinh tế, vì sẽ dặt
256
ra chi phí qua cao không thể chấp nhận được đối với ngành công nghiệp. vấn đề còn phức
tạp hơn nữa bởi sự kiện rằng các nước Đông Âu và Liên Xô cũ không chịu nổi chi làm
sạch cho chính đất nước họ. các nước còn lại của Châu Âu sẽ phải trả chi phí làm sạch
của chính họ và của các nước Đông Âu. Chính vì lợi ích của họ mà họ làm như thế nào ,
có thể hiểu được bằng cách xem khung 22.2 trong đó cho thấy ma trạn của những người
phát thải và những người nhận thải về axit sulphur ở Châu Âu. Vì sự phát thải từ phái
Đông gây ô nhiểm phía Tây,nên việc giúp đỡ phía Đông làm sạch là có lợi..
Các chi phí này lớn cỡ nào? Không ai biết chắt chắn. các mô hình toán học được
sử dụng để mô phỏng các biện pháp chính sách khác nhau đề xuất”mức giảm ô nhiểm
khả thi tối đa “vào năm 2000 có thể tạo tốn kém tới 30 tỷ Bảng Anh mổi năm. Trong thực
tế , có thể hy vọng những mục tiêu vùa phải hơn . các kế hoạch làm giảm ô nhiểm hiện
nay của các nước dự kiến phải tốn đến 5 tỷ Bảng Anh mổi năm, nhưng các kế hoạch này
sẽ để lại trên 20% của hệ thống sinh thái trên ngưỡng gây hại ,tức là tổn hại vẫn xãy ra.
Hơn nữa, có những nhân tố khác có thể làm cho mục tiêu mức giảm 80% thành
qua đòi hỏi một cách không cần thiết. Vì công nghiệp Đông Âu đang được cơ cáu lại, các
ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng sẽ nhường chổ cho những ngành công
nghiệp sử dụng ít năng lượng thì hiệu quả sử dụng năng lượng sẽ tăng lên, và ô nhiểm
axit sẽ giảm xuống “một cách tự nhiên” . Ngoài ra một số nước,bao gồm cộng đồng Châu
Âu, đang cân nhắc việc đua ra áp dụng thuế carbon , một loại thuế đánh vào hàm lượng
carbon của các nhiên liệu hóa thạch ,để thực hiện mục tiêu cắt giảm mức thải khí co2 vào
năm 2000 như sự cam kết đã khẳng định ở hội nghị RIO. Nhưng các chính sách giảm khí
thải co2 cũng có khuynh hướng làm giảm khí thải sulphur oxide (sox) và nitrogen oxide
(nox). Tiết kiệm năng và thay thế nhiên liệu là những trường hợp điển hình nhất. nếu thuế
cacbon được tiến hành rồi thì việc giảm SOx và NOx bảo đảm sẽ xảy ra một cách đương
nhiên như là “hàng miễn phí”.
257
Khung 22.1 các ngưỡng gây hại và các khái niệm kinh tế
Biểu đồ biểu diễn tổng số thiệt hại gây ra bởi mưa axit và tổng chi phí của việc
làm giảm thiệt hại đó . đường cong tổng thiệt hại TDC (total damage curve )được đọc
từ trái sang phải : khi ô nhiễm tăng , thiệt hại tăng theo . đường cong tổng chi phí tiêu
trừ TAC(total abatement cóst curve) tăng từ phải sang trái ,điều này là vì chi phí của
việc tiêu trừ ô nhiễm tăng theo tổng số ô nhiễm được giảm . tối ưu kinh tế là khi tổng
cộng của tổng chi phí thiệt hại và tổng chi phí tiêu trừ là tối thiểu (không phải là nơi
các đường cong giao nhau –điều này sẽ đúng nếu chỉ khi các đường cong là thiệt hại
biên tế và chi phí tiêu trừ biên tế ). Tức là mục tiêu là tối thiểu hóa tổng chi phí đói
với xã hội dù là chi phí thiệt hại môi trường hay chi phí bằng tiền đễ làm giảm thiệt
hại. nhưng khái niệm ngưỡng gay hại CL(critical load) liên quan tới một tình huống
mà không có thiệt hại nào xảy ra. Vì thế CL đánh dấu điểm ngưỡng gây hại. rõ ràng là
phương pháp kinh tế và phương pháp ngưỡng gây hại là không nhất quán với nhau.
Chỉ có một cách mà các ngưỡng gây hại và tối ưu kinh tế có thể gần nhau là nếu
đương cong thiệt hại tăng đọ dốc rất cao ngay sau điểm CL, hoặc nếu đương cong
TAC là rất phẳng , tức là rất rẽ để kiểm soát ô nhiễm.
258
Cuối cùng , việc ước tính chi phí liên quan đên công nghệ “bổ sung “ như thiết bị
giảm khí sulphur trong khí (flue gas desulphurization –FGD). Đây là công nghệ đươc bổ
sung thêm vào , chẳng hạn , một nhà máy nhiệt điện và nó lấy hầu hết khí sulphur trong
ống khói. Trong thực tế nhiều biện pháp rẽ có thể được dùng trước khi những công nghệ
này được đưa vào trong, đặt biệt là biện pháp tiêt kiệm năng lượng. Và thậm chí công
nghệ bổ sung này là cần thiết , trường hợp của mỹ về giấy phép ô nhiễm dưới tiêu chuẩn
đã định đều bảo đảo có được một tín dụng. Tín dụng có thể được bán cho người khác,
như các điều khoảng của đạo luật không khí sạch đã qui định. Điều liên quan ở đây là các
trương trình như thế rất có thể tiết kiệm chi phí tuân thủ so với biện pháp “mệnh lệnh và
kiểm soát” như chương 13 đã cho thấy.
Chi phí lợi ích của việc kiểm soát mưa axit
Việc chi tiền để kiểm soát mưa axit co đáng hay không là tùy thuộc vào lợi ích mà
Châu Âu có thể hy vọng nhận được dưới dạng giảm bớt các tổn hại mùa màng và rừng,
259
giảm bớt các hư hại nhà cửa , cải thiện sức khỏe và giảm bớt mức độ axit hóa của nước.
Dữ liệu để so sánh lợi ích và chi phí thì có, nhưng chưa có sự phân tích kĩ lưỡng nào để
làm cái việc so sánh đó. Trên cơ sở kinh tế của phân tích chi phí – lợi ích thì thực hiện
ngưỡng gây hại có thể có một lý do mà cũng có thể không . Tuy nhiên sự phân tích trong
khung 22.2 cho thấy rằng tổn hại mưa axit là rất nghiêm trọng để biện minh cho việc thực
hiện các ngưỡng gây hại , ngay cả như là mục tiêu dài hạn. Chúng tôi có thể minh họa
cho thấy một nghiên cứu lợi ích – chi phí có thể được thực hiện như thế nào . Các con số
được dùng ở đây liên quan đến Anh quốc, nhưng chúng là những con số rất thô sơ. Điều
đáng quan tâm là phương pháp chứ không phải kết quả.
Khung 22.2 mưa axit ở châu âu:ai gây ô nhiễm ai (triệu tấn sulphur, s)
Người nhận Người phát thải
Đông
âu
Đông
đức
Liên
xô cũ
Khối
EC
Bán đảo
scandinavia
Nước
khác
Tổng số
Đông âu
Đông đức
Liên xô cũ
Khối EC
Scandivania
Nước khác
Tổng số
2,2
0,1
0,5
0,2
0,1
0,5
3,6
0,5
0,6
0,2
0,2
0,1
0,3
1,9
0,1
0,0
2,2
0,0
0,1
0,3
2,7
0,3
0,1
0,1
2,3
0,1
1,7
4,6
0,0
0,0
0,0
0,0
0,1
0,1
0,2
0,2
0,0
0,5
0,4
0,1
1,5
2,7
3,3
0,8
3,5
3,1
0,6
4,4
15,7
Để đọc ma trận này , chỗ một nước trong hàng đầu tiên, như khối EC. Ma trận này cho
biết đây là nước phát thải. Đọc xuống cột thích hợp và chọn nước hoặc chọn vùng bị ô
nhiễm. Ví dụ , thải khi của khối EC tạo nên 0,1 triệu tấn sulphur đọng ở bán đảo
scandinavia. Chú ý rằng các lượng ô nhiễm lớn là do”tự gây ô nhiễm “ tức là sự thải
trong một vùng có khuynh hướng rơi xuống vùng đó.
260
Đầu tiên chúng ta có vài khái niệm nào dó về chi phí để lắp đặt thiết bị giãm khí
sulphur của khói. Các chi phí cho các mức độ giảm ô nhiễm khác nhau được cho thấy
trên biểu đồ ở khung 22.3 như đã nói trên, những chi phí này tập trung đã bị thổi phồng
quá đáng so chi phí thật , bởi vì sẽ có nhiều lựa chọn về việc chuyển sang nhiên liệu sạch
hơn (như khí thiên nhiên) và tiết kiệm năng lượng , cả hai đều rẽ hơn việc lắp đặt các
thiết bị bổ sung. Vì thế , chúng tôi nghĩ đường cong chi phí “MAC” (chi phí biên tế tiêu
trừ trên mỗi kg SOx được giảm) như là một loại giới hạn trên đối với đường cong chi phí
thật , mặc dù hình dạng của đường này có thể thay đổi ở đầu dưới vì đây là nơi chuyển
đổi nhiên liệu và tiết kiệm năng lượng sẽ có khung hướng áp dụng.
261
Khung 23.3 chi phí và lợi ích của việc kiểm soát SO2 ở MỸ
Biểu đồ cho thấy biên tế của việc giảm ô nhiễm dựa trên giả thiết rằng tất cả chi phí kiểm
soát liên quan việc bổ xung thiết bị giảm khí sulphur. Ta đặt trên đường cong này giá trị
lợi ích biên tế 0,375 Bảng Anh cho mổi kg SO2 được suy ra tư trong bài. Nơi lợi ích biên
tế bằng chi phí biên tế là mức tối ưu kinh tế , và điều này nói lên mưc giảm 74%khí SO2
so với mức năm 1980 dựa trên quan điểm rằng Anh Quốc là chỉ quan tam thiệt hại của
chính họ , không có liên quan đến nhuãng thiệt hại mà họ gây ra cho các nước khác qua
việc xuất ra khỏi nước những chất ô nhiễm . điều này rõ rằng là đơn giản quá khi ta đã
biết tính chất quốc tế của mưa axit và các bổn phận phải có đối với các nước khác. Tuy
nhiên , sư phân tích này cũng cho thấy chỉ với một quan điểm “ích kỉ” của Anh Quốc thôi
cũng có vài cơ sở để nghỉ rằng việc kiểm soát mưa axit là đúng dắn về mặt kinh tế.
262
Hiện có một số ước tính khác nhau về thiệt hại gây ra bởi mưa axit ở Anh Quốc.
Vài kết quả rất sơ bô cho thấy rằng chi phí cho sửa chửa và bảo trì tăng vào khoảng 400
triệu Bảng Anh mổi năm ở Anh Quốc do mưa axit rơi xuống. Hiện nay Anh Quốc nhận
khoảng 1 triệu tấn SO2 mỗi năm do mưa axit. Do dó , mọt cách sơ bộ , tổn hại là vào
khoảng 400 Bảng Anh cho mỗi tấn SO2 hay 0,4 Bảng Anh cho mỗi kg SO2. Chi phí thiệt
hại về sức khỏe từ SO2 được cho là rất thấp có lẽ chỉ ở khoảng 0,007 Bảng Anh cho mỗi
kg SO2. Nhưng tổn hại về sức khỏe từ các chất gây ô nhiễm khác là rất quan trọng , một
vấn đê mà chúng ta sẽ quay trở lại ở phía dưới . Tổn hại đói với rừng có thể lên đến 0,6
Bảng Anh cho mỗi kg, mặc dù có những nguyên nhân nghĩ rằng ước tính này là quá cao
bởi vì nó liên quan đến sự điều chỉnh tùy tiện cho giá trị giải trí cho các khung rừng. Tổn
hại mùa màng được tính khoảng 0,11 Bảng Anh và tổn hại đối với nước chắc chắn là
được. Như thế , cộng dồn tất cả thiệt hại SO2 mà chung ta đã ước tính thì sẽ có được.
Nhà cửa 0,400 Bảng Anh
Sức khỏe 0,007 Bảng Anh
Rừng <0,600 Bảng Anh
Mùa màng 0,110 Bảng Anh
Tức là 1 Bảng Anh tổn hại cho mỗi kg SO2. tất cả những ước tinh này có được
từ”hàm nhiều lượng đáp ứng “ . tuy nhiên , nếu chúng ta đang cân nhắc các chính sách để
tiêu trừ SO2 , những chính sách này cũng tiêu trừ một số chất NOx và vài chất khác (bụi
và khói “). Chúng ta không thể nói chính xác là bao nhiêu , vì việc này liên quan tới sự
phân tích kĩ lưỡng hơn , và tiêu trừ mỗi 1 kg bụi sẽ tạo ra mười Bảng Anh lợi ích. Cũng
sẽ có một lợi ích đi kèm theo từ thực tế rằng cùng những chính sách đó có thể kiweemr
soát khí carbon dioxide, những điều này không đơn giản vì thiết bị để giảm SO2 có thể
thực sự tăng phát thải CO2.
Bao giờ, giá trị của mổi Bảng Anh cho mổi kg SO2 là giả trị cho SO2 đã được lắng
động. nhưng chung ta đã thấy rằng những gì lắng đọng là những gì được thải ra. Anh
Quốc thực tế đã phát thải khoảng 3,8 triệu tấn SO2 hàng năm, trong số lắng đọng của
Anh là chỉ khoảng 1 triệu tấn . Anh Quốc cũng là “nước nhạp khẩu” một số lượng SO2
263
tương đối nhỏ, vì thế chúng ta có thể chấp nhận một quy tắc đơn giản là cứ mổi tấn SO2
thải ra,thật sự là nchir 25%ở lại bên Anh Quốc và 75%được thải ra các nước ngoài . giả
thiết răng Anh Quốc chủi yếu quan tâm tổn hại bên trong đất nước họ, thì chính sách
kiểm soát phát thải khí SO2 sẽ tạo ra một lợi ở Anh Quốc là khoảng 25% của tổng lợi ích
kinh tế của khoảng một Bảng Anh cho mỗi kg. như thế, phần của Anh Quốc trở thành
0,25 Bảng Anh cho mỗi kg SO2 gây thiệt hại . tương tự , con số NOx phải được giảm nếu
chỉ nhầm tới lợi ích của Anh Quốc mà thôi. Nước này thải khoảng 2,7 triệu tấn NOx mỗi
năm nhưng có lượng tích tụ chỉ khoảng 0,3 triệu tấn. vì thế tổn hại gây ra bởi 1kg của
chất thải NOx được giảm tới một phần mười hoặc 0,08 Bảng Anh. Sự điều chỉnh cuổi
cùng đã tinh đến việc tiêu trừ 1 tấn SO2 sẽ không tiêu trừ 1 tấn của NOx và chất bụi bặm.
ở khu vực sản xuất điện ở Anh Quốc, chẳng hạn, là khu vực tập trung nhiều vào việc
kiểm soát mưa axit, mổi tấn của SO2 được kết hợp với khoảng 0,3 tấn NOx và 0,01 tấn
chất thải bụi bặm. vì thế mỗi tấn của SO2 được tiêu trừ sẽ tạo ra:
Khung 22.3 cho thấy những gì sẽ xãy ra nếu chúng ta chồng nhập lợi ích trung bình
0,37 Bảng Anh mỗi kg trên đường cong chi phí tiêu trừ biên tế . chúng ta thấy rằng con
số ước tinh thấp hơn sẽ biện minh sự ô nhiễm giảm xuống khoảng 74%so với mức 1980.
mặc dù rất sơ sài và đơn giản , phương pháp này cho thấy sự kiểm soát chặt chẽ đói với
mưa axit sẽ được biện minh. Vào năm 1990 Anh Quốc đã thực hiện mưc giảm phát khí
thải khí SO2 khoảng 25% so với năm 1980 . giảm 50% thêm nửa rõ rằng rất khó khăn.
Kết luận
Cách thức tinh lợi ích- chi phí đánh một vai trò quý giá trong bắt kì đánh giá nào
về kiểm soát ô nhiễm mưa axit. nhưng một số người không tin tưởng rằng so sánh lợi ích
chi phí là rất quan trọng . họ lập luận rằng sự hiểu biết của chúng ta về các hiệu quả của
tổn hại hệ thống sinh thái là quá kém cỏi, và nếu chúng ta không làm được diều gì hoặc
làm quá ít thiof các chi phí của việc làm sai hiện nay là quá đến mức mà việc hành động
được biện minh bằng “nguyên tắt cảnh giác”nguyên tắc cảnh giắc chủ trương rằng ngăn
chặn ô nhiễm là việc làm đánh giá ngay cả trong các trường hợp mà chúng ta khong có
264
những hiểu biết vững chắc về thiệt hại to lớn sẽ xảy ra.nguyên tắc này phản ánh tình
trạng không chắc chắn về sự hiểu biết của chúng ta về hệ thống sinh thái, nhưng nó cũng
phản ánh áp lực của những người bảo vệ môi trường hoàn toàn đẻ đẩy việc phát thải ô
nhiễm xuống mức độ “thiệt hại bằng không”, tức là theo như ở khung 22.2 xuống tới mức
mà chúng ta gọi là ngưỡng gây hại.
265
CHƯƠNG 23
MÔI TRƯỜNG TRONG THẾ GIỚI ĐANG PHÁT TRIỂN
Giới Thiệu
Kinh tế môi trường có thể đóng vai trò gì trong thế giới đang phát triển? Trong khi
việc ứng dụng kinh tế môi trường đến sau sự phát triển vấn đề này ở thế giới phát triển
khoảng một thập kỷ nghiên cứu đã cho thấy rằng các vấn đề ở các nước đang phát triển
cunmgx tương tự, và các giải pháp nói chung là như nhau. Khi xem xét một vấn đề môi
trường, một trình tự hữu ích cần nhớ là:
Quy mô
Nguyên Nhân
Những lợi ích khuyến khích
Đề cập đến quy mô, chúng ta muốn nói đến vấn đề môi trường lớn cỡ nào: nó nghiêm
trọng đến mức nào; với nguyên nhân chúng ta muốn nói đến cái điều mà tới nay đã trở
thành quen thuộc, sau khi đã xem những phần trứoc của cuốn sách này, đó là nguyên
nhân của nhiều trường hợp sinh thái môi trường nằm trong những hoạt động của nền kinh
tế. Do đó chúng ta cần xét xem nền kinh tế được quản lý (hay quản lý sai) như thế nào, để
tìm những manh mối của sự suy thoái môi trường. Đề cập đến những lợi ích khuyến
khích là mặt chính của sự phân tích nguyên nhân: nếu chúng ta muốn bảo tồn các tài sản
môi trường thì con người phải được khuyến khích làm việc đó. Kinh tế môi trường cho
rằng con người phải có lọi ích nếu môi trường cần được bảo tồn.
Chúng ta theo đúng trình tự này: quy mô, nguyên nhân và các lợi ích khuyến khích
trong chương trình này và minh họa mỗi vấn đề với một số tư liệu thực tế. Nhưng một
vào nhận xét sơ bộ là cần thiết.
Quyền sở hữu môi trường và phát triển
Nhiều người lập luận rằng môi trường có thể được bảo vệ tôt hơn nếu bộ máy
chính trị được xây dựng trên cơ sở một hình thức này hay hình thức khác về quyền sở hữ.
Quan điểm về sự khai thác tự do đã được xem xét (xem chương 5,6 và 15) và những
266
chương này đã làm rõ rằng nếu không ai sở hữu một tài nguyên, môi trường thực sự có
khả năng bị nguy cơ. Một số người lập luận rằng tài sản cộng đồng – khi tài nguyên
được sở hữu hoặc có quyền sử dụng bởi một cộng đồng được xác định rõ ràng – cũng vẫn
có nguy cơ suy thoái môi trường. Có những bằng chứng không ủng hộ cách nhìn vơ đũa
cả nắm như vậy: một số chế độ sở hữu cộng đồng “thất bại”, nhưng cũng có nhiều chế độ
thành công. Nguyên nhân của thất bại thường là một số sự kiện bên ngoài tác động đến
những quy định và luật lệ bên trongvề việc sử dụng các tài nguyên và làm cho chúng bị
phá vỡ… Nhà nước trung ương có thể can thiệp, sự gia tăng dân số cũng có thể chỉ làm
tăng áp lực lên hệ thống sở hữu công cộng đến tình trạng bị phá vỡ. Điều này có khuynh
hướng đưa đến những lựa chọn cuối cùng là tài sản tư nhân. Trong đó quyền sở hữu
được trao chomột cá nhân duy nhất hoặc những hộ gia đình hoặc các công ty, và tài sản
nhà nước. Mặc dù không có sự kết hợp tuyệt đối và cần thiêt nào, sở hữu nhà nước
thường được gắn liền với việc điều tiết thị trường. Những hệ thống sở sữu tư nhân có xu
hướng quay về “thị trường tự do” với sự can thiệp của nhà nước ít hơn. Trong thế giới
các nước phát triến, hầu hết các hệ thống sở hữu đều được xây dựng trên cơ sở quyền sở
hữu tư nhân có điều tiết, với mức độ điều tiết khác nhau nhiều. . Trong thế giới các nước
đang phát triến, xu hướng có tính chất lịch sử là quyền sở hữu được trao cho nhà nước và
nó dần dần được “tư nhân hóa”, tiến trình này cho đến nay vẫn tiếp tục. Điều quan trong
cần phải hiểu rằng sở hữu tư nhân lẫn sở hữu nhà nước đều không bảo đảm sự bảo tồn
môi trường. Một số những suy thoái môi trường tồi tệ nhất xẩy ra ở những nước mà sở
hữu nhà nước có tính chất truyền thống và nhà nước thực hiện việc kiểm soát môi trường.
(ví dụ: Liên xô cũ, hay Trung Âu – xem chương 6). Hệ thống thị trường không kiềm chế
cũng có xu hướng làm suy thoái môi trường do sự “thất bại của thị trường”(xem chương
5).
Những xem xét trên là đáng nhắc lại vì có một lối suy nghĩ cám giỗ rằng thế giới
đang phát triến thế sẽ phát triến tốt hơn và bảo vệ môi trường của mình. Nếu như nó theo
đuổi đường lối phát triển khác trên cơ sở một cấu trúc khác về quyền sở hữu so với thế
giới phát triến. Chúng ta không có những bằng chứng cho thấy điều đó đúng, néu như nói
như thế có nghĩa là họ phải theo đuổi những hệ thống thị trường không giới hạn hay nhà
267
nước kiểm soát. Nhưng nó lại là quan điểm khá hấp dẫn nếu vấn đề tập trung vào hướng
thị trường có điều tiết. Nhừng nhà kinh tế môi trường có xu hướng ủng hộ quan điểm hệ
thống thị trường hỗ trợ bởi những can thiệp được xây dựng trên cơ sở những lợi ích
khuyến khích qua kinh tế thị trườn, đó có thể là phương cách tốt nhất để phát triển. Trong
các nước đang phát triến, quan điểm đó trở nên phức tạp do thường khống có những định
chế quản lý hệ thống điều tiết như vậy – thị trường thường bị kiểm soát và các cơ quan
làm luật thiếu người và thông tin, và thường là không có. Cuộc tranh luận về một phương
cách tốt nhất để phát triển do đó vẫn còn đang tiếp tục.
Các nước đang phát triến có khác không ?
Nghèo đói và môi trường
Có những khía cạnh hiển nhiên cho thấy các nước đang phát triếncó sự khác biệt so với
các nước phát triển. Chẳng hạn, mức phát triển của họ, khi được tính theo thu nhập, là
thấp hơn nhiều. Khung 23.1 cho thấy những chỉ số phát triển con người HDI (Human
Development Index) của một số nước được chọn lựa, một số do sự phát triển trên cở sở
những thành tựu tương đối trong tăng trưởng kinh tế, giáo dục và sức khỏe. Hình ảnh của
chúng ta về các nước đang phát triến thường là một hình ảnh của sự nghèo đói và bệnh
tật, điều đó quả là đúng đối với những nướ nghèo nhất. Nhưng cũng là điều đáng ngạc
nhiên khi chúng ta biết rằng Uruguay chẳng hạn được xếp cao Singapre trong những chỉ
số phát triển con người (vì sự thành công về giáo dục của nó) và Mexico ở Saudia Arabia
(thnhà công về giáo dục và tuổi thọ). Cũng không phải Hoa Kỳ là nước “phát triển nhất”
nếu dựa trên cơ sở đó.
268
Khung 23.1 Chỉ số phát triển con người Chỉ số phát triển con người (HDI - Human Development Index) được ấn hành hàng năm bởi Chương
trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP, đóng tại New york). Đó là mức trung bình khá tinh vi về 3
mặt: trình độ giáo dục – được tính bằng tỷ lệ biết chữ của người lớn trong toàn dân và số năm trung
bình người dân được đi học - mức thu nhập – mà được tính với tỷ trọng thấp hơn cho một Đola thu
nhập tăng thêm đối với một nước giàu so với một nước nghèo – và tuổi thọ trung bình , tượng trưng
tình trạng sức khỏe. Mỗi số đo lại được trình bày như nức độ của “sự mất mát” chẳng hạn nếu ở
Singapore có tuổi thọ trung bình là 70 năm, tuổi thọ trung bình tối đa của một nước nào đó là 78,6 năm
và nếu tuổi thọ tối thiểu ở một nước nào đó là 42 năm, thì trình độ sức khỏe của Singapore tính như
mức độ mất mát là:
(78,6 b- 74,0)/(78,6 – 42,0) = 0,126
Chỉ số mất mát này sẽ càng nhỏ nếu như tuổi thọ trung bình của Songapore càng cao so với mức tuổi
thọ tối đa. Nó cũng bị ảnh hưởng bởi mức tuổii thọ tối thiểu của các nước khác, nếu tuổi thọ tối thiểu
càng cao thì chỉ số mất mát của Singapore càng cao . biếnđổi từ chỉ số mất mát thành chỉ số thành tựu
(achievenmentindex) chỉ đơn giản là lấy 1 trừ bớt nó , chẳng hạn thành tựu sức khỏe của Singapore sẽ
là 1-0,126.
Một quá trình tương tự được sử dụng đẻ có số do chỉ số mất mát và thành tựu của thu nhập và giáo
dục , sau đó chỉ cần lấy trung bình của 3 con số này. Bảng dưới đây cho thấy 10 nèn kinh tế “ phát
triển nhất” và một số chọn lựa từ 150 nước còn lại đươc sắp hạng theo HDI
Quôc gia HDI Quốc gia HID
1 canada 0,982 29 Uruguay 0,880
3 Phần lan 0,978 33 Liên xô 0,873
4 THụy Sĩ 0,977 40,Singapore 0,848
5 Thụy Điển 0,976 46 Mexico 0,804
6 Hoa kì 0,976 67 Saudia Arabia 0,687
7Uc 0,971 79 Trung Quốc 0,612
8 Pháp 0,969 135 Indonexia 0,491
9 Hà lan 0,968 160 Bangladesh 0,185
10 Anh quốc 0,962 Guinea 0,052
Nguồn:UNDP(1992)
269
Tuy nhiên, nói chung , những quốc gia nghèo cũng là những quốc gia phát triển
kémnhất.Nhìn trên góc dộ của mot trường , sự khác biệt giàu nghèo có tạo ranhững vấn
đề môi trường khác nhau không. Lập luận có tính trực giác này khá hấp dẫn .
Khung 23.2 Thu nhập và chất lường môi trường
Một quôc gia càng ngèo ,thi càng có ít khuynh hướng lo lắng cho ngày mai ,moi quan
tâm câp thời là lương thực cho hôm nay, Điều đó cho thấy những cộng đồng ngèo sẽ it
quan tâm đến “sự bền vững” và sẽ không thực hiện bảo tồn nhằm ngăn chặn sự xoi mòn
đât hoặc cây trông cây. Đúng là những người ngèo thường bị mắc kẹt trong những tình
huống như vậy.Nhưng cũng không hẳn là họ không lo lắng gì cho tương lai, chính ra là
họ chỉ có khả năng giới hạn để làm một việc gì đó để bảo tồn nêu việc nay lấy bơt đi các
nguồn tài nguyên mà họ cần cho nhu cầu của ngày hôm nay. Qủa thật cũng khong hoàn
toàn đúng khi cho rằng những cộng đồng ngèo nhât thât bại trong việc bảo vệ nguồn tài
nguyên. Nhiều nước đã có những cơ cấu quy định và luật lệ khá tỉ mỉ nhằm mục đích bảo
vệ nguồn tài nguyên.
Khung 23.2 trình bày một số tương quan có thể có giữa thu nhập và sự suy thoái
môi trường. những chỉ sưố này cho thấy một số chỉ số đã được cải thiện khi thu nhập
tăng –dân chúng có đượcnước sạch và các điều kiện vệ sinh và cũng như một số biện
pháp đôi vơi ô nhiễm không khí một khi thu nhập vượt qua một số nước tối thiểu nào đó.
Đường hướng này cũng diễn lại đôi vơi vấn đề phá dừng (không nêu ra ở đây). Nhưng
mốt số chỉ số khác lại trở nên tồi tệ hơn khi thu nhập gia tăng, như với chất thải rắn và
carbon dioxide. Neu như ngèo khó và suy thoái mổi trường luôn có quan hệ vơi nhau,
chúng ta có thể dựđoán tât cả các đường cong sẽ giống như các đường cong về vệ sinh và
nước sạch. Thực chât chúng không như vậy cho thấy rằng không có môi quan hệ đơn
giản giữa ngèo đoi và suy thoái môi trường. Khung 23.3 những nước giàu hơn sử dụng
nhiều hơn các nguồn tài nguyên của thế giới so vơi những nước ngèo. Nhưng như khung
23.2 cho thấy sự thu nhập thường tạo ra những biện pháp để giảm bơt những vân đề môi
trường.
270
Khung 23.3 Sự tiêu dùng quá mức ở các nước phía Bắc (phát triển)
Sự tiêu thụ các nguồn tài nguyên tương đối ở Bắc và Nam
Khung 23.4 Phí tổn kinh tế của sự suy thoái môi trường
Qui mô của vấn đề
Bây giờ chúng ta có thể quay trở về vấn đề qui mô. Vấn đề môi trường ở các nước
đang phát triển lớn lao như thế này? Có nhiều cách thức khác nhau để cho thấy mức độ
của vấn đề. Các nhà kinh tế môi trường có xu hướng lựa chọn quan điểm diễn tả qui mô
theo mức độ mất mát phát sinh về mặt kinh tế, Khung 23.4 trình bày một số thiệt hại về
mặt kinh tế do sự suy thoái môi trường và sự hủy hoại nguồn tài nguyên ở các nước khác
nhau trên thế giới. Những ước tính được thực hiện bằng việc xét xem sản xuất kinh tế -
nghĩa là sản lượng mùa màng bị ảnh hưởng như thế nào bởi những chỉ số môi trường như
sự xói mòn đất. Trong một số trường hợp, sự thiệt hại tạo ra bỡi ô nhiễm môi trường cũng
được tính tới. Một lần nữa, các số liệu lại rất không hoàn hảo (điều đó vừa là vấn đề, vừa
là thử thách trong việc ứng dụng kinh tế môi trường tại thế giới đang phát triển), nhưng
có lẽ chúng cho thấy rằng các nước đang phát triển chắc chắn sẽ thiệt hại một tỷ lệ lớn
sản lượng kinh tế của họ do suy thoái môi trường. Nếu đúng như vậy thiư nó làm sáng tỏ
một điều thú vị trong việc tranh cãi về môi trường và phát triển. Vì nhiều ngườn cho rằng
các quốc gia đang phát triển phải hi sinh môi trường để phát triển kinh tế. Dù gì đi nữa thì
thế giới các nước hiện đang giàu có đã phát triển như vậy. Ví dụ như Anh Quốc, đã một
thời là một quốc gia giàu có về rừng vậy mà ngày nay là một nước có một tỷ lệ rất nhỏ
đất đai có cây xanh. Vấn đề có thể trnh cãi là phá rừng đã là một trong những biện pháp
nhờ nó mà Anh Quốc phát triển. Những ước tính trong 23.4 cho thấy một điều, sự suy
thoái môi trường có thể làm tốn tới 10% hoặc hơn trong sản phẩm quốc gia của một nước
(GNP). Nói một cách khác, một quốc gia có giàu lên 10% nếu không có suy thoái môi
trường hơn là có suy thoái môi trường. Nhưng điều này vẫn phù hợp với quan điểm cho
271
rằng sự suy thoái môi trường là cái gía cần thiết phải trả trong sự phảt triển, vì cũng có
thể GDP bị thấp hơn khi không có thiệt hại về môi trường. Phần sau chúng ta sẽ xét xem
tại sao điều đó lại khó thể xẩy ra.
Những nguyên nhân kinh tế của suy thoái môi trường
Chương 5 và 6 đã cho thấy vì sao suy thoái môi trường lại xẩy ra, và chương 21 đã
thảo luận vấn đề một cách chi tiết hơn trong bối cảnh của sự mất dần tính đa dạng sinh
học. Cả thị trường hoạt động tự do lẫn nhà nước đều “thất bại” trong việc bảo đảm một
mức chất lượng môi trường đúng đắn (tối ưu). Những thị trường không có ràng buộc
thường thất bại trong việc tính toán chi phí đầy đủ của việc sử dụng các nguồn tài nguyên
thiên nhiên. Chính sách công công có thể làm giảm bớt những thất bại đó, bằng việc bảo
đảm rằng thị trường phản ánh nhưng giá trị môi trường. Mặt khác, những chính sách
không thỏa đáng tự bản thân nó có thể tạo ra những vấn đề môi trường. Những định chế
thích hợp và những lợi ích khuyến khích về kinh tế là cần thiết để khuyến khích những
nhà sản xuất và người tiêu dùng, kể cả nhà nước, trở thành những người sử dụng thận
trong các nguồn tài nguyên.
Việc sử dụng không có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên là do nhiều
nguyên nhâ, bao gồm:
Khi những tác động ngoại ứng tích cực hoặc tiêu cực do việc sản xuất và tiêu thụ
không được bù đắp, đó là trường hợp phổ biến của thất bại thị trường (xem
chương 5)
Sự mơ hồ và không bảo đảm các quyền sở hữu và quyền sử dụng dẫn đến sự khai
thác quá mức các nguồn tài nguyên. Cơ bản là nếu quyền sở hữu của một cá nhân
đối với mảnh đất hoặc các nguồn tài nguyên tự nhiên càng bảo đảm bao nhiêu thì
người đó càng có nhiều động cơ để chăm sóc chúng hơn. Nếu không bảo đảm
quyền sở hữu, các cá nhân sẽ không đầu tư cho việc bảo tồn bởi vì thành quả của
việc đầu tư sẽ bị mất khi những người khác tìm cách chiếm lấy đấy. Một thất bại
thị trường phổ biến trong các nước đang phát triển là thiếu sự bảo đảm và rõ ràng
về quyền sở hữu các nguồn tài nguyên có khả năng tái sinh, chẳng hạn như rừng,
272
hải sản và đất có thể canh tác. Những cộng đồng dân cư và những nền kinh tế đang
phát triển có nhu cầu cao hơn đối với các nguồn này. Những hệ thống quyền sở
hữu yếu hoặc không xác định rõ dễ dàng bị phá vỡ bởi áp lực đó và dẫn tới việc
khai thác quá mức và sự suy thoái nhanh chóng các nguồn tài nguyên có giá trị. Ví
dụ, một nghiên cứu những nguyên nhân của nạn phá rừng ở Ecuador cho thấy rằng
áp lực dân số chỉ chịu trách một phần. Sự phát quang đất ở vùng “biên giới” nông
nghiệp phản ánh những nỗ lực của nông dân nhằm bảo đảm lợi ích kinh tế và xác
định quyền sở hữu của họ đối với đất rừng mới khai phá. Tình trạng khai thác tự
do thường diễn ra dưới sự tác động mạnh mẽ của quyền lợi kinh tế to lớn, tạo ra sự
kháng cự vững chắc đối với những hạn chế trong việc sử dụng các nguồn tài
nguyên. Trong những trường hợp khác, việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên một
cách vô chính phủ có thể được bỏ qua bởi các nhà chức trách như một cách thức
có tính chất ngắn hạn để làm dịu đi tình trạng thất nghiệp và nghèo đói ở nông
thôn.
Chính sách cộng đồng có thể làm dịu đi hoặc làm trầm trọng thêm những thất bại
thị trường về môi trường bằng cách cải thiện những lợi ích khuyến khích có tác động chi
phối việc sử dụng các nguồn tài nguyên. Hơn nữa những chính sách đề ra để kích thích
phát triển kinh tế và tăng cường phúc lợi xã hội có thể mang lại những tác động tốt hoặc
xấu đối với môi trường. Tác động môi trường của các chính sách kinh tế thường mơ hồ vì
mối quan hệ giữa chúng không trực tiếp hoặc những nguyên nhân gây ra sự suy thoái các
nguồn tài nguyên không được hiểu rõ. Những nghiên cứu về chính sách giá cả phân bón
ở một số nước đang phát triển cho thấy những ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực. Ví dụ
những bằng chứng từ Indonesia cho thấy rằng những sự trợ giá có khuyến khích việc sử
dụng phân bón quá mức và không có hiệu quả trong những trang trại có vùng đất thấp. Sự
trợ giá cũng không khuyến khích việc bảo tồn đất ở những vùng cao bởi vì nó hạ thấp chi
phí của các tập quán canh tác gây xói mòn đó.
Mặt khác nghiên cứu ở Malawi và Nepal lại cho thấy rằng trợ giá phân bón có thể
mang lại những tác động tích cực, bởi việc này làm giảm đói nghèo trong nông thôn.
Những người nông dân nghèo thường vấp phải cái vòng luẩn quẩn: họ không có những
273
biện pháp để đầu tư bảo tồn, mặc dầu sự suy thoái các nguồn tài nguyên dẫn tới sự gảm
sút năng suất và thu nhập, và lại càng nghèo thê. Những cắt giảm sự trợ giá nông nghiệp
có thể trở nên phản tác dụng. Thu nhập nông trại thấp hơn sẽ làm giảm sự đầu tư hơn
nữa, và khiến cho nông dân cố gắng một cách tuyệt vọng nhằm bòn rút tối đa lợi tức hiện
tại từ những nguồn tài nguyên hạn chế.
Cải tổ những lợi ích khuyến khích về giá cả cần kết hợp với khuôn khổ định chế
và luật lệ thích hợp. Những người sử dụng nguồn tài nguyên sẽ không đáp ứng lại những
công cụ dựa vào giá cả nếu như họ nhận thấy quyền khai thác các nguồn tài nguyên
không được bảo đảm hoặc những diều tiết đó là không nhất quán. Một ưu tiên hàng đầu,
đặc biệt là ở những nước đang phát triển, là xác định và buộc phải tuân thủ những quyền
rõ ràng về khai thác và sử dụng cho từng cá nhân riêng biệt, công ty hoặc cho cả công
đồng.
Nếu như các chính sách được xây dựng cẩn thận, chúng có thể bảo đảm rằng mỗi
người đều thu được lợi ích từ việc giải quyết những vấn đề môi trường. chẳng hạn ở Mỹ
việc trợ giá nước cho những vùng đất nông nghiệp phải được tưới ở những vùng đất miền
tây khô cằn đã dẫn đến sự phân phối sai và sử dụng không có hiệu quả các nguồn tài
nguyên nước khan hiếm.Các nhà nônh chỉ phải trả dưới 20% chi phí cung cấp nước mà
họ mua. Trong khi những trợ giá đó chắc chắn tạo ra lợi nhuận cao cho nông dân, trong
phần lớn các trường hợp giá trị kinh tế của nước tưới không bù đắp được chi phí để cung
cấp nó. Những người sử dụng nước ở những vùng đô thị và ngoại thành phải trả giá nước
cao hơn nhiều, nhưng những lợi ích của nông dân và nông thô đã chống lại những cố
gắng nhằm phân phối lại quyền lợi về nước để bảo vệ khoản lợi nhuận được trợ cấp của
họ. Một giải pháp có thể làm được là giao quyền sử dụng nước sinh hoạt nông thôn,
nhưng những người nông dân cần phải thực hiện việc mua bán với nhau và với các thành
phố. Cách này sẽ bảo đảm rằng nước đựơc sử dụng có lợi nhất, trong khi vẫn bảo vệ
những lợi ích kinh tế của cộng đồng nông thôn.
274
Những khuyến khích kinh tế
Sự thảo luận về những nguyên nhân giúp xác định bản chất của các biện pháp kinh
tế đối với những vấn đê môi trường ở các nước đang phát triển. Trước hết, các quyền về
đất và các nguồn tài nguyên phải được xác định rõ ràng. Điều đó có thể được thực hiện
thông qua quá trình đăng ký đất nhờ đó quyền sử dụng đất được ghi nhận và những sự
trao đổi đất được giám sát và điều tiết.Thứhai, các mức giá có cần phải được sửa cho
đúng .Như chương 6 đã trình bày ,việc định giá tưới ,thuốc trừ sâu , phân bón có xu
hướng được kiểm soát ở mức giá của thị trường .Diều đó khuyến khích người ta sử dụng
phí phạm .Việc kiểnm soát giá cả nông sản chỉ làm chop nông dân thu nhập ít hơn ở mức
họ có thể thu được nếu để giá cả cho thị trường qui dịnh và có nghĩa rằng các nguồn
thặng dư ít đi đểm đầutư vào việc bảo tồn các nguồn tài nguyên như xây dựng các con
kênh và các rãnh chống xói mòn ,bảo vệ nước và trồng các vành đai cây bảo vệ . Khung
23.5 trình bày những phân tích đơn giản tại sao sự việc này xảy ra.
Khung 23.5 Sự kiểm soát giá cả nông nghiệp có hại cho môi trường như thế nào
Biểu đồ trình bày một đồ thị cung và cầu đơn giản .Tuy nhiên thay vì mức
giá cả cầu tự nhiên P ,nó lại bị kiểm soát ở Pc thông qua sự diều tiết của nhà nước
.Kết quả lượng cung là Qc , trong khi số lượng mà người tiêu thụ muốn mua là Q d
.Song một điểm quan trọng là ở chỗ sự kiểm soát giá cả rõ ràng là làm giảm thu
nhập của nông dân ,trong trường hợp này người nông dân nhận phần thu nhập là Pc
.Qc thể hiện bởi phần gạch chéo đậm nét ,do đó sự kiểm soát giá cả làm giảm mức
thu của anh ta , cho nên nó cũng làm giảm khả năng để đầu tư bảo tồn dài hạn như
đào rãnh chống xói mòn ,làm đê ,lấy nước và trồng cây.
275
Kết luận
Vậy thì , nói chung việc áp dụng kinh tế môi trường vào những vấn đề của các
nước đanh phát triển cũng thể hiện nhiều vấn đề tương tự xảy ra trong bối cảnh các nước
phát triển .Ở thế giới đang phát triển những nhân tố khácbiệt chủ yếu là :
a) Mức độ quyền hạn của cá nhân về khai thác các nguồn tài nguyên và môi trường
không được xác định rõ .Trong thế giới đang phát triển ,những quyền đó có xu hướng
được xác định tốt hơn thông qua hệ thống sở hữu tư nhân và hệ thống điều tiết của nhà
nước .
b) Sự yếu kém về mặt định chế :nơi nào có chính sách môi trường ,ví dụ như đối với
những công viên quốc gia ,thì thường chỉ có các nguồn lực giới hạn để giám sát và thi
hành luật lệ .Điều đó giải thích tại sao “tăng cường luật lệ “ là một trong những nét nổi bật
chủ yếu của viện trợ quốc tế ,đặc biệt trong lĩnh vực môi trường
c) Sự can thiệp vào những lĩnh vực của thị trường với hậu quả là sự “thất bại của chính
quyền “.Đăc điểm này không rõ ràng như đối với hai điểm đầu tiên (a) và (b) ,bởi vì các
nền kinh tế đã phát triển cũng có những biến dạng thị trường đáng kể .Dẫu sao nó cũng
quan trọng.