Upload
duongthuan
View
214
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong sự phát triển của mình, bất kỳ quốc gia, dân tộc nào cũng đều kế
thừa những truyền thống tốt đẹp mà thế hệ trước để lại để vươn tới trình độ
mới cao hơn, đó chính là biện chứng của sự phát triển. Từ lịch sử dựng nước
và giữ nước hàng nghìn năm, ông cha ta đã rút ra nhiều bài học quý báu, cả
trong đối nội và đối ngoại. Ví như, trong quan hệ cộng đồng, mặc dù đất nước
có nhiều dân tộc, tôn giáo khác nhau, nhưng tinh thần chung là: “Bầu ơi
thương nấy bí cùng / Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”; thái độ đối
với những người mắc lỗi lầm nhưng biết ăn năn hối cải thì: “đánh kẻ chạy đi
không ai đánh người chạy lại”; còn đối với kẻ thù xâm lược khi đã đầu hàng:
“Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng / Ta lấy toàn quân là hơn để
nhân dân nghỉ sức”… Nhờ thực hiện những tinh thần ấy, toàn dân tộc đã đoàn
kết, thống nhất, đồng sức, đồng lòng chống thiên tai, giặc ngoại xâm, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế, do chú ý phát huy truyền
thống khoan dung, tăng cường đồng thuận xã hội nên sự nghiệp cách mạng
nước ta đã đạt những thành tựu to lớn: chính trị ổn định, an ninh - quốc phòng
được giữ vững, các vấn đề văn hóa – xã hội bức xúc từng bước được giải
quyết, khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được mở rộng, củng cố
vững chắc, đi vào chiều sâu. Đúng như nhận định của Văn kiện Đại hội XI:
“Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục
được mở rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [27, tr.158].
2
Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phấn đấu đưa nước ta
đến năm 2020 về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, một
trong những động lực quan trọng để đạt mục tiêu trên được Đảng ta xác định
là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Muốn vậy, phải tìm ra điểm tương
đồng, “mẫu số chung” để quy tụ tất cả các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn
giáo, mọi thành phần xã hội, người Việt Nam ở trong và ngoài nước… thành
một khối thống nhất - hay nói cách khác, phải xây dựng đồng thuận xã hội.
Cùng với đó, quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, khi cả nhân loại đang tiến
vào nền kinh tế tri thức, nguồn lực con người được coi là tài nguyên quý giá
nhất, một dân tộc có cường thịnh, hùng mạnh hay không trước hết phụ thuộc
vào sự quy tụ sức người – tức xây dựng và phát huy cho được khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Điều này cho thấy, đồng thuận xã hội càng là yêu cầu cấp
thiết của nước ta.
Tuy nhiên, phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng
thuận xã hội ở nước ta hiện nay cũng đang đặt ra những vấn đề như:
Một là, một bộ phận cán bộ, nhân dân đang có cách hiểu phiến diện về
khoan dung, coi đó là sự “tha thứ”, “ban ơn” của người thắng với kẻ thua, của
người đúng với kẻ sai, người trên với kẻ dưới. Chính nhận thức này đã làm
cho những mâu thuẫn, bất đồng đã có ngày càng trở nên trầm trọng.
Hai là, sự phát triển đời sống kinh tế - xã hội, dân trí tương đối cao làm
nảy sinh hoặc sâu sắc thêm những mâu thuẫn, khác biệt đã có từ trước, như:
các quan điểm khác nhau về con đường phát triển đất nước, một số vấn đề do
lịch sử để lại, tính phức tạp trong quan hệ dân tộc, tôn giáo…
Ba là, những hạn chế trong quản lý xã hội dẫn tới trường hợp một bộ
phận quan chức tham nhũng, các cá nhân làm ăn phi pháp giàu lên nhanh
chóng trong khi đời sống của bộ phận lớn những người lao động còn vô cùng
khó khăn; sự phân hóa thu nhập, trình độ phát triển giữa các giai cấp, dân tộc,
3
vùng miền ngày càng doãng ra làm cho những mâu thuẫn, bất đồng trong xã
hội ngày càng gia tăng.
Bốn là, khi nguồn “năng lượng” đã từng phát huy vai trò tích cực của nó
trong công cuộc đổi mới những năm qua dần cạn kiệt, thì dân chủ hóa đời
sống xã hội phải được xem như một động lực cần được khai thác nhiều hơn
cho sự phát triển đất nước. Muốn vậy, phải tôn trọng, chấp nhận những quan
điểm, ý kiến khác nhau - hay nói cách khác, phải thực hành khoan dung; song,
làm thế nào để các ý kiến khác nhau được tôn trọng nhưng vẫn giữ vững được
vai trò lãnh đạo của Đảng, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa ?
Năm là, những diễn biến phức tạp trên biển Đông gần đây đòi hỏi cả dân
tộc phải đoàn kết, thống nhất để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc. Nhưng, một bộ phận nhỏ quần chúng nhân nhân, vì bất bình
trước các hành vi ngang ngược của Trung Quốc đã có những hành động tự
phát, thiếu kiềm chế với một số doanh nghiệp, doanh nhân, công nhân người
nước ngoài. Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến truyền thống yêu
chuộng hòa bình, hòa hiếu, sức mạnh chính nghĩa của dân tộc trong con mắt
bạn bè quốc tế.
Những yếu tố trên đang tác động bất lợi đến quy tụ sức mạnh toàn dân tộc
để thúc đẩy quá trình đổi mới tiến lên. Trong bối cảnh đó, phát huy truyền
thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội càng trở thành vấn đề
có tính chất quyết định. Có thể nói rằng: chưa bao giờ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải phát huy tối đa sức mạnh toàn dân tộc gắt gao như
hiện nay. Cũng chưa bao giờ sức mạnh dân tộc đòi hỏi nhất thiết phải được
xác lập trên cơ sở phát huy sự giác ngộ và khả năng cống hiến của từng thành
viên trong cộng đồng dân tộc như hiện nay. Điều này có nghĩa: dưới sự lãnh
đạo của Đảng, phát huy cho được truyền thống khoan dung nhằm tăng cường
4
đồng thuận xã hội phải được xem là yếu tố chiến lược, quyết định sự thành bại
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay và cả tương lai.
Với những lý do đó, chúng tôi chọn vấn đề: “Phát huy truyền thống
khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay” làm
đề tài cho luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ
2.1. Mục tiêu: trên cơ sở nghiên cứu truyền thống và thực trạng thực hiện
khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội của dân tộc, luận án đề xuất
một số quan điểm, giải pháp chủ yếu để tiếp tục phát huy truyền thống này ở
Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ: để đạt mục tiêu trên, luận án tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về phát huy truyền thống khoan dung
nhằm tăng cường đồng thuận xã hội;
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát huy truyền thống khoan dung
nhằm tăng cường đồng thuận xã hội trong thời kỳ đổi mới, những vấn đề đang
đặt ra hiện nay;
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu để tiếp tục phát huy truyền
thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Truyền thống khoan dung và tác động của nó
tới xây dựng đồng thuận xã hội trong lịch sử và hiện nay ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: tác động của khoan dung nhằm tạo đồng thuận
xã hội trong lịch sử và hiện nay từ giác độ chính trị - xã hội.
5
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp chung trong nghiên cứu khoa học xã hội
và nhân văn theo quan điểm mácxít như: kết hợp chặt chẽ logic và lịch sử; lý
luận và thực tiễn; phân tích và tổng hợp; nghiên cứu văn bản…
5. Cái mới của luận án
Một là, luận án nghiên cứu khoan dung, đồng thuận xã hội; phát huy
truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội từ phương diện
chính trị - xã hội;
Hai là, luận án xác lập được cơ sở lý luận và thực tiễn về sự cần thiết phát
huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam
hiện nay;
Ba là, luận án làm sáng tỏ những thành tựu, hạn chế phát huy truyền thống
khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới trên một số lĩnh vực chủ yếu; chỉ rõ những vấn đề đang đặt ra cần được
nghiên cứu giải quyết;
Bốn là, luận án đã đề xuất sáu quan điểm, bốn nhóm giải pháp phát huy truyền
thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận: luận án góp phần phát triển thêm một bước nhận
thức về khoan dung, đồng thuận xã hội; vai trò của khoan dung đối với xây
dựng đồng thuận xã hội; từ đó, tổng kết thực tiễn lịch sử dân tộc trong việc
phát huy tinh thần khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội, đoàn kết
dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy các nội dung có liên quan mà luận án đã trình bày;
6
cung cấp cơ sở lý luận cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách về khoan
dung, đồng thuận xã hội; phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường
đồng thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác
giả đã công bố có liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 11 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Những công trình nghiên cứu về khoan dung
Khoan dung là một trong những vấn đề xuất hiện khá sớm trong lịch sử
và tư tưởng nhân loại; đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác
nhau: triết học, tôn giáo học, đạo đức học, văn hóa học, chính trị học…Trong
thời gian gần đây, khi trên thế giới xuất hiện nhiều cuộc chiến tranh, xung đột
liên quan đến các vấn đề dân tộc, sắc tộc, tôn giáo thì khoan dung lại càng được
quan tâm nghiên cứu với mong muốn đưa nó thành một giải pháp để tránh
xung đột, mang lại hòa bình cho nhân loại. Một số công trình tiêu biểu gần đây:
Avery Patricia, Phát triển khoan dung chính trị [54]; trên phương diện
chính trị học, tác giả cho rằng bản chất của khoan dung chính là: “mở rộng
các quyền tự do, dân chủ cho cá nhân và các nhóm có quan điểm khác với
mình” [54]. Bởi theo tác giả, xã hội không phải là thuần nhất, do vậy, lực
lượng cầm quyền phải tôn trọng, mở rộng các quyền tự do, dân chủ cho mọi
công dân, đó chính là cơ sở để tạo ra sự ổn định chính trị, phát triển đất nước.
Hajine Nakamura, Tinh thần khoan dung và sự giải thoát trong tư duy
người Ấn Độ [88]; trong bài viết, tác giã đã làm rõ đặc tính khoan dung trong
văn hóa Ấn Độ. Theo tác giả, nói chung, người Ấn Độ có xu hướng chấp nhận
mọi sự tồn tại của những thế giới quan triết học và tôn giáo trên thế giới. Họ
cho rằng, những tư tưởng khác nhau này dường như mâu thuẫn với nhau
nhưng đều dựa trên cái Tuyệt đối. Quan điểm này, về mặt khách quan, dựa
trên tư tưởng mọi thứ trên thế giới đều là một; về mặt chủ quan, dựa trên sự
phản ánh tất cả những hành động của con người đều bắt nguồn từ quan điểm
siêu hình và nguyên lí nhất nguyên luận.
Nguyễn Dy Niên, 1995 – Năm quốc tế về khoan dung [13, tr. 379-384];
trong bài viết, tác giả đã làm rõ quá trình ra đời, phát triển quan điểm của
8
UNESCO về khoan dung, những tác động của nó đối với việc giữ vững hòa bình
cho nhân loại. Đồng thời, tác giả đã lý giải nguồn gốc ra đời khoan dung Việt
Nam: “Khoan dung là một trong những giá trị tinh thần của văn hóa Việt Nam.
Đó là kết quả của quá trình thích nghi với thiên nhiên và đấu tranh xã hội để sinh
tồn và phát triển của dân tộc” [13, tr.382]; đề xuất một số cách thức nhằm phát
huy truyền thống khoan dung Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Nguyễn Thị Phương Mai, Tư tưởng khoan dung và ý nghĩa hiện thời
của nó [83]; đây là công trình nghiên cứu khoan dung dưới phương diện triết
học. Trong luận án, tác giả đã đi sâu nghiên cứu ba vấn đề cơ bản: một là,
khái niệm và lịch sử tư tưởng khoan dung; hai là, sự tích hợp các giá trị Đông
– Tây của tư tưởng khoan dung trong nhận thức và hoạt động của Mahatma
Ghandi và Hồ Chí Minh; ba là, ý nghĩa tư tưởng khoan dung trong bối cảnh
toàn cầu hóa. Qua đó, tác giả đi đến nhận định tính tất yếu của thực hiện
khoan dung trong giai đoạn hiện nay: “toàn cầu hóa dẫn tới sự giao lưu, tiếp
xúc giữa các dân tộc, tôn giáo, các nền văn hóa khác nhau. Trong khi đó, cả
nhân loại đều có mục tiêu chung là duy trì hòa bình để tồn tại và phát triển.
Do vậy, chấp nhận sự khác nhau để cùng tồn tại, phát triển là yêu cầu tất yếu
của thời đại hiện nay [83, tr.110-117]. Về khoan dung Việt Nam, tác giả cho
rằng: “Đối với dân tộc ta, khoan dung là nhằm xây dựng đoàn kết dân tộc,
hướng đến bảo vệ, phát triển nền văn hóa của dân tộc. Đồng thời, nó thể hiện
rằng, mục đích cao nhất của khoan dung là nhằm xây dựng cuộc sống hòa
bình cho đất nước” [83, tr.139-140]. Về các giải pháp nâng cao chất lượng
khoan dung ở Việt Nam, tác giả đề xuất: “để cho việc bảo vệ và phát huy giá
trị đạo đức khoan dung truyền thống có hiệu quả hơn thì công tác giáo dục
trong và ngoài nhà trường cần được coi trọng hơn” [83, tr.142].
Huỳnh Khái Vinh và Nguyễn Thanh Tuấn, Bàn về khoan dung trong văn
hóa [151]; đây là công trình nghiên cứu khoan dung dưới phương diện văn hóa
9
học. Quan niệm về khoan dung, các tác giả cho rằng đó là thái độ: “phê phán
cái sai, lên án cái xấu, cái ác để cùng nhau hướng tới các giá trị chân, thiện,
mỹ” [151, tr.13]. Về lịch sử hình thành, phát triển tư tưởng khoan dung, các tác
giả đã chỉ rõ: “Những nội dung chính của khoan dung đã có trong các nền văn
hóa Đông – Tây từ thời cổ đại” [151, tr.9]. Về khoan dung Việt Nam, theo các
tác giả, cơ sở hình thành khoan dung Việt Nam bao gồm bốn yếu tố: cơ tầng
văn hóa Đông Nam Á, văn hóa lúa – văn hóa xóm làng; truyền thống tiếp xúc,
giao lưu, tích hợp của văn hóa; ý thức và tình cảm tự tôn dân tộc – quốc gia;
nền phong hóa thuần hậu [151, tr.197-231]. Về phương hướng và giải pháp cơ
bản để phát huy truyền thống khoan dung Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hóa, các tác giả đề xuất ba giải pháp lớn: từ thích nghi đến khoan dung, từ giải
phóng cá nhân đến khoan hòa giữa cá nhân và cộng đồng; xây dựng môi trường
văn hóa cho sự khoan dung; xây dựng gia đình văn hóa mới [151, 297].
Đỗ Lan Hiền, Khoan dung tôn giáo với dân chủ, đoàn kết và đồng
thuận xã hội – Trường hợp Việt Nam [45]; đây là công trình nghiên cứu
khoan dung dưới phương diện tôn giáo – chính trị học. Về quan niệm khoan
dung tôn giáo, tác giả cho là: “phạm trù dùng để chỉ một thái độ, ứng xử tôn
trọng, hòa hợp đới với cái khác biệt, khác lạ, thậm chí là đối lập lại với mình.
Là sự chế ngự, xóa bỏ được thói loại trừ, khai trừ, kỳ thị, lo sợ cái khác lạ, cái
khác mình, cái đối lập với mình. Khoan dung không phải là sự nhượng bộ, sự
hạ mình hay nhận đặc ân, mà khoan dung còn là trách nhiệm, là sự duy trì
mọi quyền con người (trong đó có quyền tự do tư tưởng và tôn giáo” [45, tr.
24]. Về lịch sử hình thành tư tưởng khoan dung, tác giả cho rằng nó đã được
hình thành từ thời cổ đại cả ở phương Đông và phương Tây. Ở phương Đông,
theo tác giả, mặc dù không có khái niệm khoan dung nhưng những tư tưởng
của nó được thể hiện trong các khái niệm tương đương như: “hòa” của Nho
giáo, “hòa nhi bất đồng” của Lão Trang…Ở phương Tây, tư tưởng khoan
10
dung đã xuất hiện rất sớm trong các tôn giáo, tiêu biểu là lý tưởng: “bỏ gươm
vào vỏ, vì ai dùng gươm sẽ chết vì gươm” [45, tr. 12]. Về khoan dung Việt
Nam, tác giả nhận định: “Việt Nam chịu ảnh hưởng từ rất sớm ba lý thuyết
Nho, Phật, Đạo của Trung Hoa và Ấn Độ, nên người Việt thấm nhuần tinh
thần khoan dung. Người Việt dùng thuật ngữ “An - Yên” để diễn đạt trạng
thái khoan dung, hòa hợp [45, tr. 21].
Giang Văn Toàn, Khoan dung một cách giáo dục [133]; trên phương
diện giáo dục học, tác giả nhấn mạnh đặc trưng: “sự cao thượng trong tâm
hồn, sự bao dung trong suy nghĩ, sự độ lượng trong hành động” [133, Lời tựa]
của khoan dung. Trong cuốn sách, ông đã đưa ra nhiều ví dụ điển hình của
tinh thần khoan dung nhằm giáo dục nhân cách con người trên các phương
diện chính trị, đạo đức; trong các môi trường gia đình, nhà trường, xã hội;
trong các quan hệ: bạn - bè, vợ - chồng, cha - con, cấp trên – cấp dưới…
Lương Mỹ Vân, Tư tưởng khoan dung trong triết học Khai sáng Pháp
[142]; trong bài viết này, trên cơ sở triết học, tác giả đã phân tích cơ sở chính
trị - xã hội dẫn đến sự hình thành tư tưởng khoan dung trong triết học Khai
sáng Pháp. Tác giả chỉ ra một số đặc điểm nổi bật của tư tưởng khoan dung
giai đoạn này là: khuynh hướng đa thần, đấu tranh cho các quyền tự do cá
nhân, chấp nhận sự đa dạng văn hóa thế giới... Tác giả đi đến kết luận: “Tư
tưởng khoan dung trong triết học Khai sáng Pháp đã bao chứa phần lớn những
nội dung quan trọng của quan điểm khoan dung được áp dụng trong thời đại
toàn cầu hoá, thời đại mà con người ngày càng nhận thấy – rõ rệt hơn nhiều
so với thời kỳ Khai sáng ở thế kỷ XVIII – rằng, thế giới là một tổng hợp
những sự khác biệt về văn hoá, về niềm tin, về tư tưởng…” [142, tr.62].
Trần Nguyên Việt, Tư tưởng khoan dung của Khổng Tử và sự thể hiện nó
ở Nguyễn Trãi [149]; trong bài viết, tác giả đã làm rõ quan điểm khoan dung của
Khổng Tử và so sánh với quan điểm khoan dung của Nguyễn Trãi. Theo tác giả,
11
mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, song, tư tưởng khoan dung của
Nguyễn Trãi có ý nghĩa nhân văn, rộng mở hơn, thể hiện ở đạo lý nhân nghĩa, tư
tưởng vì dân và theo dân, sự chấp nhận các học thuyết ngoài Nho giáo.
Đỗ Minh Hợp, Đối thoại giữa các nền văn minh theo tinh thần khoan
dung – Nhân tố quyết định sự sống còn và thịnh vượng của nhân loại [50]; bài
viết đề cập đến một vấn đề thời sự liên quan đến toàn cầu hóa đó là đối thoại
giữa các nền văn minh. Trên cơ sở làm rõ sự cần thiết của đối thoại trên tinh
thần khoan dung – một chủ đề đang được thảo luận sôi nổi trên diễn đàn triết
học thế giới, tác giả bài viết đã đi đến khẳng định: Đối thoại giữa các nền văn
minh theo tinh thần khoan dung sẽ góp phần tạo ra một thế giới thống nhất
trong đa dạng, một thế giới được cấu thành từ nhiều nền văn minh độc đáo
đang tương tác với nhau, và đó sẽ là một thế giới hòa bình, hợp tác, hữu nghị
và thịnh vượng. Trong đó, đối thoại trên tinh thần khoan dung trở thành hình
thức giao tiếp phổ biến, nhân tố đảm bảo sự sống còn và thịnh vượng cho mỗi
con người và cả cộng đồng nhân loại.
Phạm Xuân Nam, Đối thoại văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa [89];
trong bài viết này, thông qua việc phân tích bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay,
tác giả cho rằng, toàn cầu hóa ngày càng tăng, chúng ta đang chứng kiến một
thế giới trở nên cởi mở, gắn kết với nhau hơn. Tuy nhiên, chủ nghĩa khủng bố
quốc tế, việc phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, sự lan rộng của chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc, sự không khoan dung về sắc tộc và tôn giáo... đang trở
thành những mối đe dọa cấp thiết đối với cộng đồng quốc tế trong công cuộc
xây dựng một thế giới hòa hợp và hòa bình. Trước những thách thức đó, cộng
đồng quốc tế hơn bao giờ hết cần xác định những biện pháp đối phó. Điều này
đòi hỏi phải tăng cường đối thoại giữa các nền văn hóa, văn minh trên cơ sở
bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.
12
Trần Lê Bảo, Đối thoại giữa các nền văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa
[12]; trong công trình này tác giả đã trình bày tính tất yếu của khoan dung, đối
thoại văn hóa trong giai đoạn hiện nay. Tác giả cho rằng, thế giới tồn tại nhiều nền
văn hóa khác nhau; hiện nay, do sự phát triển của khoa học - công nghệ làm cho
các nền văn hóa giao lưu, tiếp xúc với nhau. Từ đó, tất yếu các nền văn hóa cũng
phải đối thoại với nhau, tôn trọng sự tồn tại của nhau; đặc biệt, giao lưu, đối thoại
còn để học hỏi lẫn nhau: “Đối thoại giữa các nền văn hóa nhằm đưa lại sự đa dạng
văn hóa. Đa dạng văn hóa là di sản chung của nhân loại, là nguồn gốc của sự sáng
tạo, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Đa dạng văn hóa đem
lại sự khoan dung và hòa hợp, đưa tới sự đối thoại và hợp tác” [9].
Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Những giá trị văn hóa truyền thống Việt
Nam [117], trong phần 4, chương VII, từ trang 668 đến 694, các tác giả đã
viết về Truyền thống khoan dung trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Trong đó,
tác giả đã chỉ rõ khoan dung trong lịch sử văn hóa Việt Nam biểu hiện trên ba
nội dung chủ yếu: một là, khoan dung là biểu hiện của tình yêu thương con
người, tinh thần hướng thiện và lòng yêu chuộng hòa bình; hai là, khoan dung
là sự rộng lượng tha thứ cho những thế lực ngoại xâm, kết thúc chiến tranh
bằng con đường hòa bình, thiết lập mối quan hệ hữu hảo, dài lâu; ba là, khoan
dung biểu hiện ở sự chấp nhận, tôn trọng sự khác biệt trong văn hóa của
người khác, cộng đồng khác, nền văn hóa khác [117, tr.668-694].
Nguyễn Đức Lữ, Tính khoan dung của tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam
[75, tr. 563-570], trên phương diện tôn giáo học, tác giả đã làm rõ cơ sở hình
thành, biểu hiện cụ thể của tính khoan dung trong tôn giáo, tín ngưỡng người
Việt. Khoan dung tôn giáo Việt Nam, biểu hiện ở sự tiếp nhận hòa bình các tôn
giáo bên ngoài, sự kết hợp, dung hòa các giáo lý tôn giáo, đối tượng thờ phụng.
Theo tác giả, biểu hiện rõ nhất khoan dung tôn giáo ở Việt Nam là mặc dù có
nhiều tôn giáo khác nhau, nhưng Việt Nam không hề có chiến tranh tôn giáo.
13
Hoàng Thị Thơ, Khoan dung trong lịch sử phật giáo Ấn Độ và phật
giáo Việt Nam [118, tr.571-581], trong bài viết này, tác giả đã phân tích
những biểu hiện cụ thể của tính khoan dung trong Phật giáo nguyên thủy Ấn
Độ và Phật giáo Việt Nam. Qua đó, luận chứng cho vai trò của Phật giáo
trong bối cảnh toàn cầu hóa, tìm kiếm một gợi mở về khoan dung và khoan
dung tôn giáo đối với đoàn kết tôn giáo và đoàn kết dân tộc để có thể đóng
góp cho Việt Nam nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng hiện nay.
Đỗ Thị Hòa Hới, Tính khoan dung của văn hóa truyền thống dân tộc và
sự kế thừa, phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh [48, tr.545-555]. Trong bài
viết, tác giả đã chỉ ra một số biểu hiện của tính khoan dung trong văn hóa
truyền thống Việt Nam như: sự tiếp biến các giá trị văn hóa bên ngoài làm
phong phú thêm giá trị văn hóa dân tộc, sự tha thứ cho kẻ thù xâm lược khi
chúng đã quy hàng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã kế thừa và phát triển
tính khoan dung của văn hóa truyền thống lên tầm cao mới: “Trong văn hóa
truyền thống Việt Nam, khoan dung vừa là một phẩm chất, một đặc điểm, vừa
là hệ quả của quá trình hình thành và phát triển văn hóa truyền thống dân tộc...
Hồ Chí Minh là người đã kế thừa và phát triển những nội hàm mới của tính
khoan dung trong văn hóa truyền thống dân tộc lên tầm cao mới, đưa nó trở
thành một nhân tố của đòi sống thực tiễn cách mạng Việt Nam” [48, tr. 555].
Gần đây, một số công trình đã tiếp cận truyền thống khoan dung Việt Nam
trên phương diện chính trị; biểu hiện rõ nhất là tư tưởng “khoan thư sức dân”.
Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Hoài Văn, Nguyễn Văn Vĩnh, Bước đầu
tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam [61], trong
chương IX của công trình này, các tác giả đã làm rõ luận điểm về: tinh thần
khoan dung, độ lượng, vị tha, thân dân của tư tưởng chính trị truyền thống
Việt Nam. Trong đó, nhiều vấn đề lý luận, ví dụ lịch sử sinh động được các
tác giả trích dẫn nhằm làm rõ tính chất khoan dung trong văn hóa chính trị
14
Việt Nam. Trên lĩnh vực đối nội, đó là đường lối cai trị khoan thư sức dân;
trên lĩnh vực đối ngoại, là tư tưởng hòa bình, hòa hiếu, tha thứ cho giặc ngoại
xâm khi chúng đã xin hàng.
Phùng Văn Khai, Khoan thư sức dân - Quốc sách dụng nước và giữ
nước [62], trong bài viết này, tác giả đã làm rõ đường lối cai trị khoan thư sức
dân trong lịch sử Việt Nam từ thời Hùng Vương dựng nước đến thời nhà Trần.
Thông qua các sự kiện lịch sử, tác giả đã làm rõ khoan thư sức dân là một quy
luật, một chính sách quan trọng hàng đầu trong dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta. Khoan thư sức dân được biểu hiện rõ nhất ở chính sách thuế của nhà
nước với người dân, đặc biệt là những lúc nhân dân gặp khó khăn: “muốn ổn
định được đất nước, đánh thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc thì
khoan thư sức dân luôn là quốc sách và thượng sách giữ nước” [62].
...
Từ những công trình nghiên cứu về khoan dung, cho phép chúng tôi
đưa ra các nhận định sau:
Một là, mặc dù ở các phương diện nghiên cứu khác nhau, các tác giả
nhấn mạnh mặt này hay mặt kia của nội hàm khái niệm; song, các tác giả đều
thừa nhận điểm chung nhất của khoan dung là: tôn trọng, chấp nhận sự khác
biệt; với mục tiêu là tăng cường hiểu biết lẫn nhau nhằm duy trì hòa bình cho
quốc gia, nhân loại.
Hai là, các tác giả đều thống nhất cho rằng khoan dung là phạm trù
xuất hiện khá sớm ở cả phương Đông và phương Tây.
Ba là, thực hiện khoan dung là một yêu cầu tất yếu trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang làm các quốc
gia, dân tộc xích lại gần nhau, nhưng vẫn còn đó những khác biệt về thể chế
chính trị, văn hóa, tôn giáo...
15
Bốn là, về khoan dung Việt Nam, các tác giả có chung nhận định:
khoan dung là truyền thống của người Việt; nó thể hiện trên mọi phương diện:
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Điểm khác biệt trong tư tưởng khoan dung
Việt Nam là coi khoan dung như một hình thức cai trị: “chính sự cốt chuộng
khoan dung, giản dị”; động lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: “khoan thư
sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”.
Tuy nhiên, trong các công trình kể trên, chưa có công trình nào nghiên
cứu khoan dung dưới phương diện chính trị - xã hội (thuộc phạm vi chuyên
ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học).
1.2. Những công trình nghiên cứu về đồng thuận xã hội
Đồng thuận xã hội là một khái niệm mới xuất hiện trong thời gian gần đây
ở nước ta. Đã có một số công trình nghiên cứu vấn đề này ở nhiều phương
diện khác nhau. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu gần đây:
Phạm Ngọc Quang, Quan điểm, định hướng và giải pháp thực hành dân
chủ, đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thuận xã hội [102]; trong công trình này,
các tác giả đã bước đầu đưa ra khái niệm đồng thuận xã hội, mối quan hệ giữa
phát huy dân chủ, đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thuận xã hội. Trình bày
thực trạng đồng thuận xã hội nước ta hiện nay trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, xã hội, tư tưởng. Công trình cũng đã đề xuất một số quan điểm, định
hướng, giải pháp thực hiện dân chủ, đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thuận xã
hội nước ta hiện nay.
Đỗ Lan Hiền, Khoan dung tôn giáo với dân chủ, đoàn kết và đồng thuận
xã hội – Trường hợp Việt Nam [45]. Về đồng thuận xã hội, tác giả cho rằng:
“là phương thức tập hợp lực lượng dựa trên những tiêu chí mà các giai cấp,
tầng lớp, các lực lượng xã hội dù có lợi ích khác nhau những vẫn có thể gắn
16
kết ở mức độ nhất định mà vẫn bảo tồn được những đặc thù riêng của mình,
không bị hòa tan, biến thành kẻ khác” [45, tr. 97].
Nguyễn Thị Lan, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với việc xây dựng đồng
thuận xã hội ở nước ta hiện nay [69]. Trong luận án, tác giả đã trình bày khái
niệm và sự vận động khái niệm đồng thuận xã hội từ cổ đại cho đến hiện đại,
các nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng đồng thuận xã hội tại mỗi quốc gia dân
tộc. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong xây dựng đồng thuận xã hội
ở Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Trần Bạt, Đồng thuận và đồng thuận xã hội [11], trong bài viết
này trên cơ sở làm rõ khái niệm, cơ sở hình thành, bản chất của đồng thuận,
đồng thuận xã hội, tác giả đã chỉ ra những nội dung cơ bản của đồng thuận xã
hội trong thế giới đương đại trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa. Bài
viết cũng làm sáng tỏ một số điều kiện để tăng cường đồng thuận xã hội ở các
quốc gia đang phát triển hiện nay; trong đó nhấn mạnh các yếu tố: nâng cao
mức sống của người dân, giảm khoảng cách về thu nhập và trình độ phát triển
giữa các cộng đồng người; nâng cao dân trí, thực hành dân chủ...Từ đó, tác
giả đi đến kết luận: “Đồng thuận xã hội là sự tự giác thống nhất về cả ba mặt
kinh tế, chính trị, văn hóa. Nói cách khác, dân chủ về chính trị, tự do về kinh
tế và cởi mở về văn hóa là đảm bảo quan trọng của sự đồng thuận xã hội. Đó
cũng chính là sự đồng thuận văn minh của một xã hội văn minh”.
Trần Đắc Hiến, Đồng thuận xã hội một số vấn đề lý luận và thực tiễn [43];
trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra những cơ sở chủ yếu để xác lập đồng thuận
xã hội như: sự thống nhất về lợi ích chung; sự tự nguyện nhất trí, gắn kết; sự
tôn trọng những khác biệt của các thành viên trong một cộng đồng. Trên cơ sở
đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng đồng thuận xã hội ở nước
ta hiện nay như: giải quyết hài hòa lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc,
17
tôn giáo; lấy lợi ích căn bản của đại đa số nhân dân làm điểm xuất phát xây
dựng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; mở rộng và thực
hiện có hiệu quả dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội...
Chu Văn Tuấn, Đồng Thuận xã hội: Một số vấn đề lý luận [141]; bài viết
đã tập trung làm sáng tỏ bốn vấn đề chính sau: một là, trình bày quan điểm
của tác giả về khái niệm đồng thuận xã hội; hai là, phân tích các đặc điểm và
bản chất của đồng thuận xã hội; ba là, phân tích vai trò của đồng thuận xã hội
với tư cách vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội; bốn là,
làm rõ những cơ sở chủ yếu để xây dựng đồng thuận xã hội. Về khái niệm
đồng thuận xã hội, tác giả cho rằng: Đồng thuận xã hội là sự đồng tình, nhất
trí hay tán thành, ủng hộ một cách rõ ràng hay ngầm định của đa số các thành
viên trong xã hội đối với một vấn đề nào đó (chẳng hạn một quan điểm, một
chủ trương, đường lối, chính sách, quyết định...) trên cơ sở những điểm tương
đồng và cùng chung mục đích” [141, tr.26].
Hoàng Chí Bảo, Dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội trong phát triển
bền vững [10, tr. 426-444]. Trong bài viết, trên cơ sở làm rõ mối quan hệ giữa
văn hóa và phát triển bền vững, tác giả đã luận chứng cho quan điểm: dân chủ,
đoàn kết, đồng thuận – là những giá trị văn hóa của phát triển bền vững trong
giai đoạn hiện nay. Theo tác giả: “dân chủ, đoàn kết và đồng thuận là những
giá trị cơ bản của xã hội, là những động lực chủ yếu của phát triển, đồng thời
cũng là những tiêu chí không bao giờ được xem nhẹ, càng không thể lãng quên
trong đánh giá về tiến bộ xã hội” [10, tr.430]. Về mối quan hệ giữa dân chủ,
đoàn kết và đồng thuận xã hội, tác giả cho rằng: “Dân chủ là cơ sở, là điều kiện
và tiền đề của đoàn kết và đồng thuận xã hội. Chỉ khi nào dân chủ là thực chất
(chứ không phải hình thức, giả hiệu, mị dân – mà những biểu hiện này vẫn
thường thấy xuất hiện trong đời sống, nó đi liền với sự vi phạm dân chủ, đối
lập với dân chủ) thì khi đó, mới có đoàn kết thực sự, thực chất, mới tăng cường
18
được đồng thuận” [10, tr.442]. Ở Việt Nam hiện nay, theo tác giả, Đảng Cộng
sản Việt Nam cần thực hiện, phát huy dân chủ trên mọi lĩnh vực, phải làm cho
mọi chủ trường đường lối, chính sách hợp lòng dân, thuận ý dân, được dân ủng
hộ, tin tưởng như thế tất xây dựng được đồng thuận xã hội.
Đặng Hữu Toàn, Đoàn kết dân tộc trên cơ sở đồng thuận xã hội [134, tr.
445-456]. Trong bài viết, qua nhiều chứng cứ lịch sử tác giả đã cho rằng, lịch
sử Việt Nam cũng như lịch sử thế giới đều chứng minh rằng: “bất cứ một dân
tộc nào xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở đồng thuận xã hội
đều chiến thắng không chỉ trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ
chủ quyền và độc lập dân tộc, mà cả trong hòa bình xây dựng đất nước” [134,
tr. 445]. Trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng được đồng thuận xã hội cần
phải: xây dựng được một xã hội dân chủ (cao hơn phải là xã hội dân sự, xã
hội công dân); thực hiện tốt chính sách dân tộc và đoàn kết dân tộc; quan tâm
đặc biệt đến vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo; phải khơi dậy tinh thần tự tôn dân
tộc, quyết tâm chấn hưng đất nước; phát huy tính năng động của mỗi người
dân, mỗi chủ thể trong nền kinh tế thị trường...
Hà Văn Núi, Đoàn kết xã hội – động lực phát triển xã hội [95, tr. 475-
482]. Trong bài viết, tác giả đã làm rõ những cơ sở hình thành truyền thống
đoàn kết của dân tộc Việt Nam, tác động của đoàn kết đến sự thành công
trong quá trình dựng nước, giữ nước, chống giặc ngoại xâm và thiên tai. Tác
giả đã làm rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay trong xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, giàu mạnh.
Nguyễn Tài Thư, Đoàn kết và điều kiện để đoàn kết trong lịch sử Việt Nam
[120, tr. 495-508]. Trong bài viết, tác giả đã chỉ ra những điều kiện cơ bản để
đoàn kết xã hội trong lịch sử Việt Nam như: thứ nhất, tôn chỉ, mục đích của
19
giai cấp cầm quyền phù hợp với ý nguyện của cộng đồng; thứ hai, hành động
của cá nhân kiệt xuất, tổ chức tiến bộ giữ vai trò trung tâm của sự đoàn kết vì
lợi ích của dân, của cộng đồng; thứ ba, sự gần gũi, yêu thương, đồng cam
cộng khổ của vua với dân chúng; thứ tư, người thủ lĩnh, lãnh đạo phải biết
trọng dụng người tài... Từ đó, tác giả chỉ ra tính đặc thù trong đoàn kết xã hội
của dân tộc Việt Nam: “Phải đoàn kết, phải gắn bó với nhau, vì dân tộc ta
hình thành rất sớm và từ lâu trong lịch sử đã là cộng đồng người cùng chung
một lãnh thổ, một nền kinh tế, một tiếng nói và một văn hóa, được huyền
thoại hóa bằng dòng giống từ một bọc trăm trứng mà ra” [120, tr.500].
Lê Bá Trình, Phát huy những điểm tương đồng giữa mục tiêu của chủ nghĩaxã hội và khát vọng giải phóng con người của các tôn giáo để xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc [136, tr. 519-530]. Trong bài viết, tác giả đã làm rõ quan
điểm Việt Nam là nước có nhiều tôn giáo khác nhau, nhưng tất cả các tôn giáo
đều có mục đích chung là giải phóng con người, cho nên các tôn giáo đều đoàn
kết với nhau: “dù có hệ thống giáo lý, giáo luật và phương thức hành đạo khác
nhau nhưng mục tiêu, khát vọng chung của các tôn giáo là giải phóng con người
khỏi sự khổ ải, cầu mong một cuộc sống tốt đẹp ở thiên đàng. Với truyền thống
yêu nước, thương nòi và ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, các chức sắc và
tín đồ tôn giáo ở Việt Nam đã có sự chọn lọc, thích nghi hóa và hòa nhập những
giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo cuộc sống” [136, tr.522].
Trần Tuấn Phong, Đoàn kết xã hội – nhìn từ góc độ truyền thống văn hóa [99,
tr. 483-494]. Trong bài viết, tác giả đã luận chứng cho quan điểm: truyền thống
văn hóa là một trong những cơ sở để gắn kết các cá nhân trong xã hội. Theo tác
giả: “Truyền thống văn hóa chính là nền tảng chung mà mọi người trong một cộng
đồng, một xã hội cùng chia sẻ... Trên cơ sở hòa nhập với truyền thống văn hóa,
con người hình thành những giá trị mới cũng như những nỗi ưu tư chung đối với
các vấn đề môi trường, xã hội và cuộc sống cộng đồng. Tất cả những cái chung đó
là cơ sở quan trọng nhất để liên kết con người với nhau” [99, tr.494].
20
Cù Xuân Trường, Chữ “đồng” trong tinh thần Việt [138], trong bài viết
này, tác giả đã làm rõ truyền thống đoàn kết, đồng thuận của dân tộc ta từ
truyền thuyết “Âu cơ - Lạc Long Quân”. Đặc biệt, sự thể hiện và phát triển tư
tưởng đoàn kết, đồng thuận của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo tác giả: “chữ
đồng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một triết lý tư duy, vừa hội tụ các giá trị
truyền thống vừa mang giá trị hiện đại”. Trong giai đoạn hiện nay, theo tác
giả cần phải tiếp tục phát huy những điểm tương đồng để xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, nhất là với một bộ phận bà con xa xứ.
Tương Lai, Vấn đề ý thức hệ và đồng thuận xã hội [68], trong bài viết này
tác giả đã chỉ ra những sai lầm, hạn chế nhất định trong quan điểm tuyệt đối
hóa sự khác nhau về ý thức hệ dẫn tới những mâu thuẫn, bất đồng diễn ra ở
nước ta trong thời gian vừa qua. Theo quan điểm của tác giả, trong giai đoạn
hiện nay, trên nền tảng dân trí, dân khí cao, người dân Việt Nam nhất là
những người cầm quyền nên vượt qua ý thức hệ hẹp hòi để đoàn kết dân tộc.
Việc Đảng Cộng sản Việt Nam nêu mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh làm điểm tương đồng để tập hợp các giai cấp, tầng lớp
nhân dân là một sự phát triển về nhận thức trong xây dựng đồng thuận xã hội.
Tuy nhiên, trong thực tế việc thực hiện tư tưởng này còn nhiều hạn chế, nhất
là chính sách với một bộ phận người Việt Nam ở nước ngoài.
...
Từ những công trình nghiên cứu trên, có thể rút ra những nhận định sau:
Một là, về nội hàm khái niệm: ở mức độ khác nhau, các tác giả đã tương đối
thống nhất, thừa nhận những nội dung cơ bản của đồng thuận xã hội như: đồng
thuận xã hội là sự đồng tình, nhất trí, bằng lòng của nhiều người trong một
cộng đồng về một vấn đề nào đấy; đồng thuận xã hội là sự đồng ý về cái lớn,
cái đại thể, trong đó vẫn có sự khác biệt về những tiểu tiết; đồng thuận xã hội
21
có tác dụng xây dựng đoàn kết xã hội; cơ sở để xây dựng đồng thuận xã hội là
sự tương đồng giữa các thành viên, trước hết là sự tương đồng về lợi ích...
Hai là, về lịch sử tư tưởng đồng thuận xã hội: các công trình trên cũng cho
rằng, mặc dù không có khái niệm đồng thuận xã hội, nhưng tư tưởng và việc
thực hiện nó đã có rất sớm ở các nền văn minh cả phương Đông và phương Tây.
Ba là, về bản chất của đồng thuận xã hội: hiện có hai luồng ý kiến khác
nhau, nhóm thứ nhất cho là: “liên kết xã hội” [43, tr. 28], “phương thức tập
hợp lực lượng dựa trên điểm tương đồng”; trong khi nhóm thứ hai cho là:
“phương thức tìm kiếm lợi ích” [11].
Bốn là, về các giải pháp để nâng cao chất lượng đồng thuận xã hội: các
tác giả đề xuất nhiều giải pháp khác nhau, tựu trung lại ở 3 vấn đề chính: trên
lĩnh vực kinh tế, muốn có đồng thuận xã hội phải thực hiện chính sách phân
phối một cách hài hòa; trên lĩnh vực chính trị, phải thực hiện dân chủ, mọi
đường lối, chính sách phải phù hợp với ý chí, nguyện vọng của đông đảo nhân
dân; trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa, phải nâng cao dân trí, phát huy truyền
thống đoàn kết, nhân ái, khoan dung…
1.3. Những công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa khoan dung
và đồng thuận xã hội
Trong các công trình nghiên cứu về khoan dung, đồng thuận xã hội, một số
công trình bước đầu cũng đã chỉ ra mối quan hệ nhân - quả giữa khoan dung
và đồng thuận xã hội; coi thực hiện khoan dung là một biện pháp để xây dựng
đồng thuận xã hội.
Nguyễn Thị Phương Mai, Tư tưởng khoan dung và ý nghĩa hiện thời của
nó [83], trong công trình này tác giả đã giành một phần để trình bày mối quan
hệ giữa thực hiện khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội (từ trang
127-129). Trong đó, tác giả đã luận chứng cho quan điểm thực hiện khoan
22
dung là một nhân tố xây dựng đồng thuận xã hội. Bởi, khoan dung là sự tôn
trọng các khác biệt, trong thế giới đa dạng như hiện nay, nếu các khác biệt
được tôn trọng thì các lực lượng xã hội sẽ dễ dàng đi đến tôn trọng nhau và
thực hiện mục tiêu chung hay thiết lập sự đồng thuận xã hội.
Nguyễn Thị Lan, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với việc xây dựng đồng
thuận xã hội ở nước ta hiện nay [69], trong công trình này, tác giả trình bày
truyền thống khoan dung nhằm xây dựng đồng thuận xã hội của dân tộc Việt
Nam. Tác giả cho rằng, khoan dung trong lịch sử Việt Nam thể hiện trên các
phương diện: đối nội, đối ngoại, dân tộc, tôn giáo, văn hóa... Nhờ thực hiện
khoan dung, cha ông ta đã đoàn kết dân tộc để đấu tranh chống giặc ngoại
xâm, thiên tai để bảo vệ, phát triển đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, theo
tác giả, Đảng Cộng sản Việt Nam cần tiếp tục phát huy truyền thống khoan
dung để xây dựng đồng thuận xã hội ở nước ta [69, tr.38-55].
Đỗ Lan Hiền, Khoan dung tôn giáo với dân chủ, đoàn kết và đồng thuận
xã hội – Trường hợp Việt Nam [45], trong công trình này, tác giả đã làm rõ mối
quan hệ giữa khoan dung tôn giáo với xây dựng dân chủ, đoàn kết và đồng
thuận xã hội trong lịch sử Việt Nam. Theo tác giả, thực hiện khoan dung tôn
giáo là một cơ sở quan trọng để xây dựng đồng thuận xã hội vì: (i), Khoan
dung tôn giáo dẫn đến chấp nhận sự khác biệt về nhân sinh quan, thế giới quan,
từ đó có thể cảm hóa họ (đồng bào tôn giáo) theo mình, đồng ý với mình; (ii),
Khoan dung tôn giáo tạo ra sự gần giũi, thân thiện giữa cộng đồng tôn giáo với
cộng đồng chính trị, đây cũng là cơ sở tạo sự đồng thuận xã hội; (iii), Khoan
dung tôn giáo cũng có nghĩa là không nhìn lại quá khứ, khép lại lỗi lầm của con
người và giáo pháp của họ; (iv), Khoan dung tôn giáo sẽ phát huy được “sức
mạnh tinh thần”, góp phần tạo đồng thuận, gắn kết xã hội. Từ đó, các tác giả đi
đến kết luận: “Trong một xã hội có nhiều giai tầng, nhiều tộc người, đa tôn giáo
với những năng lực, lợi ích và ý thức hệ khác nhau, chúng ta phải tìm ra mẫu
23
số chung – đó là: Độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh phúc cho con người, thì
dù có khác biệt về tư tưởng, chính kiến chúng ta vẫn có thể hoá giải những
khác biệt để hướng tới lý tưởng chung - đây chính là điểm tương đồng để gắn
bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp cách mạng của dân tộc [45, tr.102].
Nguyễn Thế Doanh, Vai trò của khoan dung tôn giáo và đoàn kết xã
hội trong việc kiến tạo nền hòa bình và giữ vững ổn định xã hội [35, tr.469-
474]. Trong bài viết, trên cơ sở phân tích tính chất khoan dung của tôn giáo;
đoàn kết giữa các tôn giáo và đoàn kết trong cùng một tôn giáo qua thực tế thế
giới và Việt Nam, tác giả đã đưa ra những nhận định quan trọng về mối quan
hệ giữa khoan dung và đoàn kết xã hội: “khoan dung là sản phẩm của nhân
loại trong quá trình nhận thức cuộc sống và phục vụ cuộc sống. Lòng vị tha
vốn có của con người, của tôn giáo là nguồn mạch dồi dào nuôi dưỡng hành
vi khoan dung và đến lượt mình, chính hành vi khoan dung này đã trở thành
nhân tố quan trọng góp phần đoàn kết xã hội. Và, đoàn kết xã hội là cơ sở để
kiến tạo một nền hòa bình và giữ vững ổn định xã hội ở mọi quốc gia và vùng
lãnh thổ trên thế giới [35, tr. 474].
Song Thành, Đồng thuận xã hội và tinh thần khoan dung Hồ Chí Minh, một
nhân tố để xây dựng đại đoàn kết toàn dân tộc [114], trong bài viết, tác giả đã
làm rõ đồng thuận xã hội chính là một nội dung mới của đoàn kết dân tộc. Tác
giả cũng phân tích quá trình thực hiện đồng thuận xã hội của Đảng ta, trong đấu
tranh giải phóng dân tộc thì lấy mục tiêu giải phóng dân tộc làm điểm tương
đồng, trong thời kỳ đổi mới thì lấy “sự tôn trọng lợi ích chính đáng” mỗi thành
viên làm điểm tương đồng. Khoan dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là
tôn trọng các khác biệt. Chính nhờ thực hiện chủ trương tôn trọng các khác biệt
(cả về đạo đức, tôn giáo, văn hóa, chính kiến…) mà Người đã đoàn kết được dân
tộc. Trong giai đoạn hiện nay, theo tác giả, bồi dưỡng tinh thần khoan dung Hồ
Chí Minh là một nhân tố góp phần xây dựng đồng thuận xã hội ở nước ta.
24
Nguyễn Tấn Hưng, Kế thừa và phát huy tinh thần khoan dung Hồ Chí
Minh trong xây dựng đồng thuận xã hội và đại đoàn kết toàn dân tộc [59],
trong bài viết này tác giả cũng đã chỉ ra mối quan hệ giữa phát huy tinh thần
khoan dung Hồ Chí Minh với xây dựng đoàn kết, đồng thuận xã hội ở nước
ta. Theo tác giả, biểu hiện khoan dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh trên nhiều
phương diện như: lòng yêu thương con người, tôn trọng sự khác biệt, sự tha
thứ cho những người mắc lỗi lầm biết ăn năn hối cải…Chính nhờ tinh thần
khoan dung ấy, Người đã đoàn kết được tất cả các giai cấp, dân tộc, đảng
phái… cùng tham gia đấu tranh giành độc lập dân tộc. Ở nước ta hiện nay,
theo tác giả, bồi dưỡng, phát huy tinh thần khoan dung cũng là một nhân tố
góp phần xây dựng đồng thuận xã hội.
Từ những sự phân tích trên cho thấy, hầu hết các tác giả đều thừa nhận
rằng thực hiện khoan dung là một phương thức để xác lập đồng thuận xã hội.
Trong lịch sử, ông cha ta cũng đã thực hiện khoan dung và xây dựng được khối
đại đoàn kết dân tộc để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta cần tiếp tục phát huy truyền thống này nhằm xây dựng
Việt Nam thành nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
1.4. Giá trị của những công trình đã nghiên cứu và xác định nội
dung nghiên cứu mới của luận án
Một là, đã có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu lịch sử hình thành,
phát triển của các khái niệm khoan dung, đồng thuận xã hội; quan điểm của
các nhà tư tưởng trong lịch sử thế giới và Việt Nam về hai vấn đề trên. Một số
công trình bước đầu đã chỉ ra sự cần thiết khách quan của thực hiện khoan
dung, đồng thuận xã hội trong giai đoạn hiện nay cả ở Việt Nam và thế giới.
Hai là, một số công trình cũng đã nghiên cứu thực trạng thực hiện
khoan dung, đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay; những thành tựu, hạn chế,
nguyên nhân của thực trạng trên.
25
Ba là, các công trình nghiên cứu cũng đã đề xuất một số giải pháp có
tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng thực hành khoan dung, đồng thuận xã
hội ở nước ta hiện nay.
Những kết quả nghiên cứu này có giá trị tham khảo tốt cho tác giả
trong quá trình thực hiện luận án. Chúng tôi trân trọng kế thừa, tiếp thu có
chọn lọc những kết quả nghiên cứu trên để phục vụ cho thực hiện mục tiêu
nghiên cứu của luận án.
Tuy nhiên, trong các công trình kể trên, chưa công trình nào nghiên cứu
khoan dung, đồng thuận xã hội; tác động của khoan dung đến xây dựng đồng
thuận xã hội dưới phương diện chính trị - xã hội (thuộc chuyên ngành Chủ
nghĩa xã hội khoa học). Đây là hướng mới mà luận án sẽ triển khai làm sáng tỏ.
26
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG KHOAN DUNG NHẰM TĂNG
CƯỜNG ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI
2.1. Cơ sở lý luận phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng
cường đồng thuận xã hội
2.1.1. Khoan dung - quan niệm và sự biểu hiện của nó trong lịch sử
tư tưởng
2.1.1.1. Quan niệm về khoan dung
Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, trên thế giới xuất hiện nhiều
cuộc chiến tranh, xung đột, khủng bố có liên quan đến các vấn đề dân tộc, sắc
tộc, tôn giáo; trong bối cảnh đó, một khái niệm được nhắc tới nhiều với tư
cách là phương thức để hóa giải xung đột, đó là khoan dung. Thậm chí, nhà
triết học người Mêhico Leopoldo Zea đã coi khoan dung là “thuật ngữ then
chốt trong nền văn hóa đương đại” [dẫn theo 151, tr.9].
Khoan dung, trong tiếng Anh là: tolerance, tiếng Pháp: tolérance, tiếng
Đức: toleranz. Các từ này có nguồn gốc từ tiếng Latinh tolerantia, có nghĩa ban
đầu là sự cam chịu, chịu đựng, dung thứ, bền bỉ. Cùng với sự phát triển của lịch
sử, nội hàm khái niệm cũng không ngừng được thay đổi, mở rộng. Đến giai
đoạn cận đại, khoan dung mang những nội hàm mới như cho phép, chấp nhận
những niềm tin khác nhau, nhất là niềm tin tôn giáo.
Ở Việt Nam, khái niệm khoan dung có nguồn gốc từ tiếng Hán. Trong một
số từ điển, khái niệm này được giải thích như sau:
Từ điển từ và ngữ Hán – Việt, Giáo sư Nguyễn Lân giải thích, khoan
dung là rộng lòng bao dung, tha thứ [71, tr.364].
27
Trong Từ nguyên giải nghĩa, tác giả Vũ Ngọc Khánh và Nguyễn Thị Huế
giải thích: khoan nghĩa là rộng rãi, hiền hậu, có lòng khoan dung, tạo điều kiện
cho người ta sống thoải mái, không gò ép, bó buộc, bắt dốc nhiều sức [64, tr.146].
Tác giả Nguyễn Như Ý trong Đại từ điển tiếng Việt cho rằng: Khoan
dung (động từ) có nghĩa là rộng lượng tha thứ cho người phạm lỗi lầm; các từ
cùng nghĩa với khoan dung: khoan đãi (đối xử rộng lượng), khoan hồng (đối
xử rộng lượng với người phạm tội), khoan thứ (rộng lòng tha thứ), khoan
nhân (rộng lượng và nhân từ) [152, tr.909].
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, thì khoan dung là: thái độ ứng xử
rộng lượng, đầy lòng nhân ái của người trên đối với kẻ dưới quyền, của ông
bà cha mẹ đối với con cháu. Những từ sau đây có thể xem là đồng nghĩa với
khoan dung: khoan hòa, khoan nhân, khoan hồng, độ lượng [49, tr.512].
Khái niệm khoan dung mà các nhà triết học phương Tây thời kỳ Khai
sáng sử dụng với nghĩa là khoan dung tôn giáo thì ở Việt Nam được dùng là
tha cẩm và dung chấp. Tha cẩm với nghĩa là từ bên trên rộng lòng tha thứ,
miễn giảm bớt các tội, làm nhẹ các hình phạt. Dung chấp: sự hạ cố, thương
sót kẻ khốn cùng bên dưới. Các từ này có nguồn gốc từ Sắc chỉ dung chấp
(Edit de tolerance) của Lu-I XVI. Đây là những khái niệm thuần túy có ý
nghĩa tôn giáo, nhất là Ki tô giáo [42, tr.335-336].
Gần đây, trong các công trình nghiên cứu khoa học, tùy từng phương
diện khác nhau mà các tác giả nhấn mạnh mặt này hay mặt kia của nội hàm
khái niệm khoan dung:
Trên phương diện Triết học, khoan dung được hiểu là: “Một phạm trù
dùng để chỉ thái độ, cách ứng xử tôn trọng, xóa bỏ kỳ thị đối với cái khác biệt;
là việc chấp nhận có phê phán những cái khác mình trên vũ đài công khai và
có sự thuyết phục tất cả các bên trên cơ sở hiểu mình, hiểu người để cùng tồn
tại trong hòa bình. Khoan dung không phải là sự nhượng bộ, sự hạ mình mà là
28
trách nhiệm của mỗi người để duy trì và bảo đảm quyền con người” [83,
tr.30]. Trên phương diện Văn hóa học, khoan dung là: “Tập hợp những quan
niệm biện chứng và nhân đạo chủ nghĩa, các giá trị tinh thần nhân văn, các
hoạt động xã hội và những hành vi hướng tới cái nhân đạo trong quan hệ giữa
người với người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, phê phán cái sai,
lên án cái xấu, các ác để hướng tới giá trị chân, thiện, mỹ” [151, tr.12-13].
Trong Chính trị học, khoan dung là: “Sẵn sàng mở rộng các quyền tự do, dân
chủ cho cá nhân, các nhóm có quan điểm khác với mình, đây là nguyên lý
trung tâm của nền dân chủ tự do” [54].
Khoan dung theo quan điểm của UNESCO, tại phiên họp toàn thể lần
thứ 28 (11/1995), với sự đồng thuận của 185 nước thành viên, tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã thông qua Bản
tuyên bố các nguyên tắc về khoan dung. Trong đó, khoan dung được hiểu là:
“sự tôn trọng, chấp nhận và hiểu đúng sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa
thế giới; những hình thức tự biểu hiện và những khả năng thể hiện cá tính con
người; là thái độ tích cực công nhận các quyền cơ bản con người; quyền tự do
lựa chọn niềm tin và tôn trọng niềm tin của người khác” [53]. Bản Tuyên bố
thừa nhận: con người khác nhau về hình dạng, địa vị, ngôn ngữ, niềm tin,
cách ứng xử và các giá trị…đều có quyền được sống trong hòa bình và duy trì
bản sắc của mình. Đồng thời nhấn mạnh, thực hiện khoan dung không chỉ đơn
thuần là một yêu cầu đạo đức mà phải là cam kết chính trị mà các quốc gia,
dân tộc phải thực hiện. Khoan dung có sứ mệnh tạo lập môi trường hòa bình
thay thế cho chiến tranh, xung đột.
Từ những quan niệm như trên có thể thấy: trên các phương diện nghiên
cứu khác nhau, các tác giả nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của khái niệm;
tuy nhiên, giữa các quan điểm có điểm chung: khoan dung là chấp nhận, tôn
29
trọng những khác biệt, nhân tố quan trọng góp phần duy trì hòa bình cho mỗi
quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại.
2.1.1.2. Biểu hiện của khoan dung trong lịch sử tư tưởng
Khoan dung trong lịch sử tư tưởng phương Tây
Thời kỳ cổ đại, tư tưởng khoan dung biểu hiện rõ nhất ở việc chấp
nhận sự đa dạng về thế giới quan và các giá trị đạo đức cá nhân. Thoát ly
khỏi thế giới quan thần thoại, triết học Hy Lạp từng bước hình thành tư duy
duy lý kiến giải về thế giới, những ý kiến đó rất đa dạng, phong phú. Thậm
chí, đỉnh cao của nó là ngay trong một hệ thống triết học, giữa những người
cùng trường phái, giữa thầy và trò đã có những quan điểm khác nhau về thế
giới quan, họ công nhiên trao đổi, bàn bạc thậm chí phủ định lẫn nhau mà
không hề có bất kỳ sự phản đối nào (về đạo đức). Tất cả các quan điểm khác
nhau đều được tôn trọng.
Nếu như Thalets (624-547 TCN) cho rằng “tất cả mọi sự vật đều là
nước, nước là bản nguyên của mọi cái tồn tại”, thì Anaximandre (610-546
TCN) lại cho khởi nguyên và bản chất của vũ trụ là “bất định”: “tất cả đều là
bất định” [dẫn theo 91, tr.52]. Giải thích khởi nguyên của vũ trụ, Anaximene
(585-528 TCN) - người trong trường phái Milet (cùng với Thalets và
Anaximandre) nhưng ông lại cho rằng khởi nguyên và bản chất của thế giới là
“khí”. Từ “khí” mà phát sinh ra mọi vật, cả thần linh, “không khác gì linh hồn
là khí nâng đỡ ta, hơi thở và khí cũng nâng đỡ muôn vật” [91, tr.63]. Như vậy,
ngay trong một trường phái triết học, đã có những cách giải thích rất khác nhau
về bản chất, khởi nguyên của vũ trụ, và các quan điểm này đều được tôn trọng.
Đỉnh cao trong tinh thần khoan dung, cũng là sự tự do tư tưởng trong
triết học Hy Lạp cổ đại đó chính là sự thể hiện thế giới quan khác nhau, thậm
chí đối lập nhau, phủ định nhau của hai đại triết gia Hy Lạp là Platon (427-347
TCN) và Aristote (384-322 TCN). Hai ông này vừa có quan hệ là thầy trò, vừa
30
có quan hệ là bạn bè, đồng nghiệp (Platon là thầy dạy của Aristote, nhưng
Aristote cũng là đồng nghiệp, đã từng tham giảng dạy môn hùng biện tại Hàn
lâm viện của Platon, là người đã cùng Platon thường xuyên trao đổi, bàn bạc về
các vấn đề triết học và khoa học) nhưng tư tưởng hai ông có sự đối lập nhau.
Tuy nhiên, điều nổi bật trong tinh thần khoan dung của Platon là, mặc dù là
thầy nhưng Platon không hề có ý phản đối, ngăn cản hay giận dữ; ngược lại,
ông còn đánh giá rất cao trí tuệ và đức hạnh của Aristote, coi Aristote là “bộ óc
của hàn lâm”, hay “một người đọc sách nhiều nhất” [92, tr.248].
Ngoài vấn đề bản thể, trên lĩnh vực đạo đức, khoan dung được thể hiện
ở chỗ chấp nhận sự tồn tại các giá trị đạo đức cá nhân riêng biệt; tính cá
nhân, cá tính trong đạo đức. Hai phạm trù cơ bản được các nhà triết học bàn
tới là: “nhân đức” và “cái thiện”.
Nhân đức, theo Platon là sự khoái trá theo ý muốn riêng tư của mỗi cá
nhân; còn khoái trá là sự thỏa mãn những ước muốn của cá nhân. Như vậy,
Platon đã thừa nhận tính cá nhân trong đạo đức; mỗi người có quyền theo đuổi
những giá trị riêng nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Còn Aristote cho rằng,
cái thiện là đối tượng của hạnh phúc, khoái trá là là đối tượng của sự ước
muốn. Trong phần đầu cuốn Ethica, ông đã đặt vấn đề: cái gì là cái thiện tối
cao và tuyệt đối, có thể được xem là chủ đích cho tất cả mọi hành động của
chúng ta? Ông viết: “Người ta đã có lý khi định nghĩa, cái thiện là điều tất cả
mọi sự hữu đều ước muốn đạt được”. Aristote cũng thừa nhận tính đa dạng về
hạnh phúc, ông cho rằng bất cứ ai cũng đều đồng ý rằng cái thiện tối cao là
hạnh phúc tuyệt đối của con người, nhưng đó chỉ là sự đồng ý bề ngoài. Khi
phải thiết định rõ ràng hơn hạnh phúc ở chỗ nào thì người ta lại bất đồng ý kiến
với nhau, người thì cho hạnh phúc ở sự khoái trá, người khác lại cho rằng ở sự
giàu có, và người thứ ba lại cho ở danh dự [92, tr.437]. Ý niệm về cái thiện,
ông cũng cho rằng, khái niệm “thiện” là có tính cá nhân: “với người thổi tiêu,
31
nhà điêu khắc, với mọi nghệ sĩ, cái thiện là chỗ họ được thực hiện nghề nghiệp
của họ một cách hoàn hảo” [92, tr.438-439].
Từ những luận điểm trên có thể thấy, trong quan niệm của các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại, ngoài việc thừa nhận sự đa dạng trong các quan điểm thế
giới quan thì trên lĩnh vực đạo đức cũng thừa nhận tính cá nhân, cá tính của
các giá trị đạo đức. Mỗi người ở các vị trí xã hội khác nhau đều có quyền xác
định giá trị riêng, phù hợp với đặc điểm, địa vị xã hội của mình; người khác
phải tôn trọng giá trị của cá nhân đó.
Sang giai đoạn trung cổ, tư tưởng khoan dung chủ yếu được biểu hiện ở sự
cho phép hay thừa nhận sự tồn tại khách quan của lý trí so với đức tin, triết
học so với thần học. Trên lĩnh vực tinh thần, trung cổ là giai đoạn thống trị
tuyệt đối của tôn giáo với mọi mặt đời sống tinh thần từ triết học, khoa học,
nghệ thuật hay đạo đức. Đối với một tín hữu, đức tin là tuyệt đối, đối với nhà
triết học lý tính là tri thức tuyệt đối đáng tin cậy. Các nhà triết học giai đoạn
này đồng thời cũng là những nhà thần học. Tuy nhiên, lịch sử tư tưởng giai
đoạn trung cổ cho thấy không có sự phủ nhận hoàn toàn vai trò của triết học
so với thần học, của lý trí với đức tin, mà tùy ở mỗi nhà triết học sự thừa nhận
vai trò của lý tính so với đức tin khác nhau. Thừa nhận sự tồn tại khách quan
và vai trò của lý trí so với đức tin là biểu hiện chính trong tinh thần khoan
dung giai đoạn trung cổ.
St. Augustin (354-430), trong tác phẩm Sự tiền định của các vị thánh đã
viết: “Tin tưởng là suy tư bằng một sự đồng ý; một con người không có khả
năng suy tư thì cũng không có khả năng tin tưởng; vì vậy, người hãy yêu mến
lý tính thật nhiều” [dẫn theo 93, tr.35]. Ông thường hay lặp đi lặp lại rằng,
triết lý đích thực thường phải là tôn giáo đích thực và thần học đích thực. Nếu
triết lý là ham mê minh triết thì minh triết tuyệt đối lại chính là Thiên chúa.
32
Nhưng, chúng ta lại chỉ hiểu được Thiên chúa bằng tín ngưỡng và tín ngưỡng
gặp được mặc khải của Thiên chúa trong Kinh thánh mà thôi. Vậy, chỉ có triết
lý của Kinh thánh mới là triết lý đích thực. Như vậy, ông chủ trương triết học
phải phục vụ cho thần học, khả năng suy luận theo lý trí phải phục vụ cho sự
am tường thêm tín ngưỡng.
Scot Erigene (354-430), là người có ý đồ dung hòa các quan điểm tách
biệt, đối lập giữa niềm tin và lý tính. Theo ông, nhà thần học hoàn toàn tự do
trong việc chấp nhận cách giải thích Kinh thánh nào thích hợp nhất với lý trí
của họ; lý trí và mặc khải thần học đều là hai suối nguồn của chân lý như
nhau, do đó, cả hai đều không thể giao tranh với nhau.
Thomas D’aquin (1224-1274), là nhà thần học đầu tiên phân định sự khác
biệt rõ ràng giữa đức tin và lý trí. Theo ông, lý trí là tất cả những chân lý đã
biết được hay có thể biết được một cách hiển nhiên bằng nội tại kinh nghiệm
hay bằng chứng minh; còn những gì thuộc đức tin là những chân lý không thể
chứng minh bằng hiển nhiên, nội tại mà chỉ duy nhất thông qua sự mặc khải.
Như thế, triết học là môn học thuần túy thuộc lý trí, nên trong địa hạt của nó,
nó có quyền tự trị riêng. Ông đã thiết định sự khác biệt rõ ràng giữa đức tin và
lý trí qua sự khác biệt giữa thần học và triết học như sau: “Thần học là một
môn học thuộc về lý thuyết thánh, nên nó khác biệt về chủng loại với thứ thần
học có một phần của triết học tham gia” [dẫn theo 93, tr.211].
Qua phân tích quan điểm của một số nhà thần học nói trên về mối quan hệ
giữa niềm tin và lý trí cho thấy, ngoài việc thừa nhận sự tồn tại tối cao của
niềm tin, các nhà thần học ở các mức độ khác nhau cũng thừa nhận sự tồn tại
của lý trí. Đây là sự biểu hiện tinh thần khoan dung trong triết học trung cổ.
Tuy nhiên, khoan dung ở đây vẫn là sự “cho phép” của lực lượng có ưu thế, có
quyền lực về mặt tinh thần đối với những người có quan điểm, lập trường khác.
33
Đến giai đoạn Phục hưng, Khai sáng, tư tưởng khoan dung đã mang những
nội hàm mới – tiêu biểu là sự thừa nhận những niềm tin khác nhau, nhất là
niềm tin tôn giáo.
Theo quan điểm của Jean Bodin (1530-1596) nhà triết học chính trị người
Pháp, khoan dung là sự chung sống hòa bình giữa những người có niềm tin, văn
hóa khác nhau. Trong tác phẩm “The Colloqium of the Seven” ông đã mô tả
cuộc trò chuyện của bảy người đàn ông thuộc bảy nền văn hóa, tôn giáo khác
nhau: một nhà triết học tự nhiên, một người theo phái Calvin, một người Hồi
giáo, một La Mã công giáo, một người Lutheran, một người Do thái và một
người theo phái hoài nghi. Cuộc tranh luận cuối cùng đi đến kết luận: tất cả mọi
người đều đồng ý sống trong sự khoan dung, tôn trọng lẫn nhau [53].
John Locke (1632-1704) nhà triết học người Anh trong tác phẩm “Thông
điệp về khoan dung”, là người đầu tiên luận chứng khoan dung như một đặc
trưng cơ bản của tôn giáo chân chính. Theo ông, tôn giáo là giả dối nếu nó
không có tình yêu, ân huệ và lòng nhân từ. Cũng tương tự như vậy, ai truy nã
người khác nhân danh chúa Jesu thì sẽ xuyên tạc tư tưởng của Người. Mọi mưu
toan gán ép niềm tin bằng vũ lực đều chỉ sinh ra sự khinh bỉ đối với Chúa. Chỉ
có thái độ khoan dung đối với những sự khác nhau ấy thì mới có thể đem lại hòa
bình cho nhân loại [dẫn theo 50, tr.298]. Như vậy, trong quan điểm của Locke,
khoan dung là một đặc trưng cơ bản của tôn giáo chân chính, sự tôn trọng các
niềm tin khác nhau, con đường thiết lập hòa bình cho nhân loại; thuyết phục, đối
thoại là phương thức để thực hiện khoan dung.
Trong hệ thống lý luận của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa đề cập đến
khoan dung như một phạm trù triết học, đạo đức hay chính trị một cách đầy đủ
và hệ thống, do lúc đó các ông không có điều kiện để nghiên cứu. Nhưng qua
một số ý kiến, ta thấy hai ông thường đề cập đến khoan dung như một giá trị
đạo đức, đó là sự độ lượng trong quan hệ ứng xử của con người, của các dân
34
tộc với nhau. Trong Thư gửi Côn-Rát Smit ở Xuy rich ngày 4 tháng Hai năm
1882, Mác viết: “Điều rất tốt là một số ngài sinh viên bất mãn về sự phát triển
tình hình công việc của đảng đã trở lại công việc học tập. Họ càng học tập thì
họ càng có thái độ khoan dung đối với những người giữ cương vị thực sự có
tính chất trọng trách và ra sức toàn tâm toàn ý hoàn thành chức trách của mình;
với thời gian họ sẽ thấy rằng, để đạt được mục đích vĩ đại và để đoàn kết được
đạo quân đông hàng triệu người cần thiết cho việc đó, thì phải luôn luôn nhớ
đến cái chủ yếu và không để mình đi lạc hướng bởi những hành động bẻ họe,
nhỏ nhen” [79, tr.362]. Ngoài ra, theo các ông, khoan dung còn là sự tha thứ
với những người đã từng mắc lỗi lầm, là con đường thiết lập hòa bình, xóa đi
chiến tranh, xung đột: “Ở đây, việc xóa bỏ biên giới được tiến hành đi đôi với
việc khoan dung một cách độ lượng nhất với những tỉnh phản động sẽ khôi
phục ngay nội chiến” [77, tr.469]. Cũng với tư tưởng này, trong tác phẩm Tiểu
luận chống A. Bác-ten-xơ, Mác viết: “Khi chúng tôi nghĩ đến kinh nghiệm
đáng buồn mới đây của họ ở Thụy Sĩ, thì chúng tôi sẵn sàng công nhận rằng
những lần họ nghiêm khắc cảnh cáo chúng tôi để chúng tôi tránh được điều cực
đoan ngược lại và mối nguy hiểm tương tự là họ xuất phát từ lòng khoan dung
rất xứng đáng với những tín đồ Cơ đốc giáo đầu tiên” [78, tr.535).
Như vậy, trong tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, khoan dung chủ yếu
được đề cập tới dưới phương diện đạo đức – chính trị, đó là thái độ độ lượng
của con người trong quan hệ xã hội, là con đường để thiết lập hòa bình cho
các dân tộc.
Khoan dung trong lịch sử tư tưởng phương Đông
Trong triết học Trung Quốc cổ đại, tư tưởng khoan dung được nhiều
trường phái quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, so với triết học phương Tây,
quan niệm về khoan dung ở phương Đông có những khác biệt. Trong Luận
ngữ, Khổng Tử nhiều lần đề cập đến “khoan” với tư cách là một hình thức cai
35
trị. Thứ nhất, ông cho rằng, người ở ngôi vị cao phải có lòng khoan dung. Nếu
không có lòng khoan dung thì không được mọi người nể trọng: “cư thượng
bất khoan, ngô hà dĩ quan chi tai” [66, tr.48]. Nguyên văn đoạn đó như sau:
“Cư thượng bất khoan, vi lễ bất kính, lâm tang bất ai, ngô hà dĩ quan chi tai”.
Có nghĩa: người ở ngôi vị cao không có lòng khoan dung, hành lễ mà không
cung kính, ở đám tang mà không buồn rầu, người như vậy mắt ta há nhìn họ
sao? [66, tr.48]. Ở đây, khoan dung được hiểu là yêu cầu đạo đức bắt buộc
của người quân tử, người cai trị, người có địa vị tôn quý trong xã hội. Nếu
những người ở địa vị cao quý đó mà không có lòng khoan dung thì cũng như
người hành lễ mà không có lòng kính trọng, ở đám tang mà không buồn rầu.
Người như vậy, thực không phải là bậc quân tử và không đáng được kính
trọng. “Ngô hà dĩ quan chi tai – ta há thèm nhìn họ sao?” - một cách nói khá
phổ biến trong Luận ngữ dùng để chỉ thái độ của Khổng Tử đối với những
hành vi mà ông cho là không hợp với Lễ, với đạo đức xã hội.
Thứ hai, theo Khổng Tử, người cai trị mà có lòng khoan dung sẽ thu hút,
cảm hóa được số đông dân chúng. Trong Luận ngữ, hai lần ông nhắc “khoan
tắc đắc chúng” (khoan – tất được lòng dân chúng). Lần thứ nhất, khi Tử
Trương – một học trò xuất sắc của ông hỏi về thi hành đức “nhân” trong thiên
hạ, Khổng Tử cho rằng, người có lòng nhân là người phổ cập được năm đức
hạnh: cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Nói riêng về đức khoan, ông cho rằng:
“khoan tắc đắc chúng” (có lòng khoan tất được lòng dân chúng). Lần thứ hai,
khi Khổng Tử viết về thời đại vua Nghiêu (chương XX, sách Luận ngữ). Ông
cho rằng, khi nhà Chu mới thành lập, xuất gạo trong kho chu cấp cho cả thiên
hạ, riêng những người hiền lành thì được trọng thưởng. Vua Võ vương nói
rằng, dẫu vua Trụ có họ hàng thân thích, cũng chẳng bằng ta có người nhân.
Ông nêu quan điểm: “khoan tắc đắc chúng, tín tắc dân nhậm yên, mẫn tắc hữu
công, công tắc duyệt” (nhà cầm quyền có lòng khoan hồng thì được lòng bá
36
tính, ăn nói chắc thật thì được dân tín nhiệm, cần mẫn thì việc làm có kết quả,
công bằng thì được lòng mọi người) [66, tr.312-313]. Xuất phát từ bối cảnh
Trung Quốc lúc đó, nhà Chu đang suy vi, các nước chư hầu dùng bạo lực để
tranh giành quyền lực; Khổng Tử mong muốn khôi phục địa vị cho nhà Chu
nên ông chủ trương dùng các biện pháp hòa bình để thiết lập trật tự; do đó,
ông chủ trương khoan dung để được lòng dân chúng.
Ngoài ra, trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại, tư tưởng khoan dung
còn được thể hiện trong đường lối cai trị “khoan mãnh tương tế” (cai trị xã hội
kết hợp giữa khoan dung và bạo lực). Người đầu tiên đề xuất quan điểm này là
Tử Sản. Lúc đầu, chủ trương của Nho gia dùng các biện pháp mềm dẻo, dùng
“Lễ” để chỉnh đốn xã hội. Tuy nhiên, do bối cảnh xã hội lúc đó, quan điểm này
đã tỏ ra bất lực. Do vậy, Tử Sản đề xuất kết hợp giữa cai trị khoan dung và sử
dụng sức mạnh bạo lực để thiết lập trật tự. Theo giải thích của học giả Lao Tử
thì: “khoan mãnh tương tế” có nghĩa là việc cai trị thiên hạ phải kết hợp hai
nguyên tắc khoan dung (khoan) và nghiêm khắc (mãnh). Sau này, Nho gia phát
triển thêm tư tưởng này, hình thành nguyên tắc cơ bản: “đức chủ hình phụ”,
“khoan mãnh tương tế”, “ân uy tịnh thi” (lấy đức làm chủ, lấy hình làm phụ,
khoan mãnh cùng giúp nhau, ân uy cùng thi hành” [72, tr.622].
Từ sự phân tích trên cho thấy, trong tư tưởng của Nho gia, “khoan” là một đức
tính, yêu cầu đạo đức bắt buộc của người cai trị. “Khoan” kết hợp với “mãnh” sẽ
tạo ra một hình thức cai trị hài hòa, hiệu quả. Tư tưởng này có ảnh hưởng đến
quan điểm chính trị của các nhà triết học – chính trị sau này của Trung Quốc.
Khác với quan điểm của Nho gia, những người thuộc trường phái Lão
Trang lại cho khoan dung chính là sự tôn trọng bản tính tự nhiên của vạn vật.
Người tiêu biểu cho quan điểm này chính là Trang Tử. Căn bản triết lý nhân
sinh trong hệ thống triết học của ông là đạo thể vô danh, vô biên, tuyệt đối; con
người với vạn vật phải “thích ứng với tự nhiên mà hành động”, lúc nào cũng
37
tôn trọng tính tự nhiên của nó. Cho nên, ông chủ trương tôn trọng bản tính tự
nhiên của vạn vật, kịch liệt phản đối hình thức lấy sức mạnh của con người uốn
nắn tự nhiên. Ông cho rằng, những người có chủ ý đem sức mạnh của con
người để cải tạo tự nhiên dù với mục đích đem lại điều thuận tiện cho con
người nhưng như vậy là làm trái với quy luật tự nhiên, làm hại đến thiên tính
của vạn vật. Từ đó, trong quan điểm chính trị - xã hội, Trang Tử cho rằng: “Ta
nghe nói khoan dung để thiên hạ tự tại, không nghe nói trị thiên hạ. Để tự tại thì
sợ thiên hạ loạn mất tính, khoan dung thì sợ thiên hạ rời mất Đức. Thiên hạ
không loạn mất tính, không rời mất Đức thì thiên hạ có trị vậy” [dẫn theo, 123,
tr.225]. Như vậy, trong quan điểm của Trang Tử, khoan dung trong cai trị thực
chất là để thiên hạ tồn tại, vận hành theo quy luật tự nhiên vốn có của nó.
Ở Ấn Độ, khoan dung được biểu hiện cả trên phương diện lịch sử và tư
tưởng. Ngay từ thời cổ đại, người Ấn đã có sự tiếp xúc, giao lưu, học hỏi các
giá trị văn hóa của các tộc người khác. Căn cứ vào kết quả các cuộc khảo cổ
học ở lưu vực sông Ấn, vùng đất Sindh và Penjad, các nhà khảo cổ đã khám
phá ra nền văn minh tối cổ Ấn Độ (khoảng từ 3000 - 4000 năm TCN) với
những pho tượng nhỏ các vị Yogins ngồi tham thiền và các bức tượng đức
Thánh mẫu (Cakti). Điều này cho thấy, đã có sự kết hợp các tín ngưỡng khác
nhau, hoặc các tín ngưỡng khác nhau đã cùng tồn tại đan xen trong đời sống
tinh thần người Ấn Độ. Trên phương diện văn hóa, người Ấn Độ bản địa
Dravidien đã có sự kết hợp với văn hóa của bộ tộc xâm lược là Aryen tạo thành
văn hóa Indo-Aryen. Như vậy, tinh thần khoan dung đã biểu hiện rõ cả trên
phương diện dân tộc, tín ngưỡng, văn hóa. Tinh thần này tiếp tục thể hiện trong
suốt thời trung cổ, khi Ấn Độ bị Hồi giáo xâm lược, người Ấn đã tiếp thu và
biến nó thành tôn giáo chính thống trong một bộ phận cư dân, chung sống hòa
bình với các tôn giáo khác. Từ thế kỷ XVIII, Ấn Độ bị đô hộ bởi nước Anh,
nền văn hóa truyền thống Ấn Độ tiếp tục tiếp thu các giá trị của văn hóa châu
38
Âu; biểu hiện rõ nhất là hình thành một tầng lớp trí thức Tây học với các đại
biểu tiêu biểu như: Ram Mohan Rai (1772-1833), Ramakrishna (1834-1886),
Rabindranath Tagore (1861- 1941), Mahatma Gandhi (1869-1948)... Các đại
biểu này đều có sự tiếp thu văn minh phương Tây trên nền tảng của văn hóa
truyền thống Ấn Độ. Đây là biểu hiện tiêu biểu của tinh thần khoan dung trong
lịch sử cũng như văn hóa Ấn Độ.
Nhận xét về đặc điểm này, đạo sĩ Sidheswarananda đã viết: “Ấn Độ đã luôn
luôn tiếp thu một cách hăm hở những tư tưởng ngoại lai, nó mở cửa cho tất cả
các luồng tư tưởng mới, nó đã thâu hóa các phương pháp khoa học của phương
Tây, nhưng nó vẫn tin tưởng vào quá khứ vẻ vang của nó, quyết chí không bỏ
mất chút gì ở hương hỏa. Đồng hóa văn hóa phương Tây, nó muốn bảo tồn văn
hóa riêng biệt của nó. Chính đấy là khả năng đồng hóa mà Ramakrishna cùng
cao đệ của ngài là đạo sĩ Vivekananda đã chứng minh. Để cho các tư tưởng
ngoại lai xâm nhập, các ngài đã thâu hóa lấy chúng như thể các ngài đã làm
giàu cho cái gia tài tôn giáo và triết học của Ấn Độ… Đặc tính chính của văn
hóa Ấn Độ là tinh thần tập hóa. Nó đã biết và còn biết đồng hóa vào bản chất
của nó tất cả các cống hiến ngoại lai miễn sao những cống hiến ngoại lai đó
không xung khắc với hương hỏa tinh thần Ấn Độ” (dẫn theo 124, tr.15].
Trên phương diện tôn giáo, Phật giáo - một tôn giáo lớn ra đời ở Ấn Độ chứa
đựng rất nhiều tư tưởng khoan dung. Mặc dù trong giáo lý Phật giáo không có
khái niệm khoan dung; nhưng, theo nhiều nhà nghiên cứu, các khái niệm: lòng
trắc ẩn (karuma), vị tha (altruism), từ bi (maitri)…cũng có nghĩa tương tự như
khoan dung. Theo Tiến sĩ Hoàng Thị Thơ, trong bài Khoan dung trong lịch sử
Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Việt Nam [118], thì vị tha của Phật giáo có thể
được coi là thuật ngữ tương đương với từ khoan dung. Tính khoan dung của đạo
Phật được thể hiện ở các phương diện chủ yếu sau:
39
Thời kỳ mới hình thành, Phật giáo bị xếp vào hàng không chính thống
(cùng với đạo Jaina và trường phái duy vật Chakravaka) và đối lập với sáu
trường phái chính thống lúc đó là: Mimansa, Vedanta, Yoga, Samkhya,
Nyaya và Vaisesika. Đạo Phật chủ trương đề xướng một cuộc cách mạng
phản kháng lại uy quyền thần thánh và tính đẳng cấp trong tôn giáo nhưng
đạo Phật không hề có ý phủ nhận các tôn giáo khác, nhất là đạo Bà la môn -
tôn giáo chính thống và cao quý lúc đó tại Ấn Độ. Đạo Phật chủ trương xây
dựng một tôn giáo mà mọi người đều bình đẳng cả về nỗi khổ và con đường
giải thoát. Với tư tưởng đó, Phật giáo đã mở rộng ranh giới, tiếp nhận nhiều
đẳng cấp xã hội bị Bà la môn loại ra ngoài phạm vi tín ngưỡng. Kết quả là,
sau hai thế kỷ, Phật giáo đã phát triển rộng khắp miền Bắc Ấn Độ, trở thành
tôn giáo phổ biến nhất.
Nhân vật điển hình về khoan dung trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ là vua
Asoka (272-231 TCN). Khi lên ngôi, ông đã cải đạo từ Bà la môn sang Phật
giáo và trở thành ông vua sùng đạo Phật. Tinh thần khoan dung của Asoka thể
hiện: mặc dù ông sùng bái đạo Phật, lấy Phật giáo làm quốc giáo nhưng ông
không ngăn cấm các tôn giáo khác mà còn khuyến khích chúng cùng phát
triển. Ông kêu gọi các giáo phái: “Thôi tự khen tụng và chỉ trích các giáo phái
khác mà hãy tập trung vào việc trau dồi đạo đức tốt đẹp của dân tộc Ấn như:
lòng ngay thật, biết kiềm chế, lòng từ bi bác ái, sống thanh tịnh, hòa nhã, tôn
trọng các bậc huynh trưởng và thầy dạy, rộng rãi với bạn bè…ngăn cấm thái
độ ganh đua, hiềm khích, gây chia rẽ…” [dẫn theo 118, tr. 576-577].
Từ sự phân tích trên cho thấy, tinh thần khoan dung chi phối suốt lịch sử
phát triển dân tộc cũng như tư tưởng Ấn Độ. Tinh thần đó biểu thị ở sự tôn
trọng, chấp nhận các niềm tin, tôn giáo khác nhau. Đặc biệt, cũng giống như
khoan dung Việt Nam, người Ấn Độ sẵn sàng tiếp thu các tinh hoa văn hóa
bên ngoài để làm giàu nền văn hóa của mình với một tinh thần hòa bình, cầu
40
tiến. Khoan dung không chỉ trên phương diện tinh thần mà nó còn thấm sâu
vào các quan hệ xã hội, quan hệ chính trị.
Khoan dung trong lịch sử tư tưởng Việt Nam
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, khoan dung là một giá trị phổ biến, diễn ra
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thể hiện trên hai cấp độ là: tâm lý và lý
luận. Ở cấp độ tâm lý, đó là giá trị đạo đức, phản ánh tình cảm yêu thương, gắn
bó giữa các cá nhân trong cộng đồng; sự tôn trọng các đặc điểm, khác biệt của
nhau; sự tha thứ cho những người mắc lỗi lầm nhưng biết ăn năn hối cải: “Nhiễu
điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”, “Đánh
kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại”…
Ở cấp độ lý luận, khoan dung được coi là một hình thức cai trị nhân từ của
nhà cầm quyền với dân chúng; một biện pháp để xây dựng đoàn kết dân tộc;
một phương thức để xác lập hòa bình; một cơ chế phát triển nền văn hóa dân
tộc… Những tư tưởng khoan dung sớm nhất thể hiện trong tác phẩm Lý hoặc
luận của Mâu Tử (198-230); trong tác phẩm này, ông đã trình bày sự dung
hợp của ba học thuyết lớn là: Nho, Phật, Đạo ở Giao Chỉ giai đoạn đầu Công
nguyên. Khi giải thích, tại sao đã có căn bản Nho học, ông còn tiếp thu thêm
Phật, Đạo làm gì? Mâu tử cho rằng: “Sách không cứ phải là lời của Khổng
Khâu, thuốc không cứ phải là cách chữa của Biển Thước. Cái gì hợp lý thì
theo, cái gì chữa được bệnh thì tốt. Người quân tử rộng đường tiếp thu cái
thiện để trợ giúp cho mình” [137, tr.102]. Điều này cho thấy, không có sự đối
lập, mâu thuẫn mà đã có sự dung hợp các tư tưởng với nhau.
Từ thế kỷ X, tư tưởng khoan dung ở Việt Nam đã mang nội hàm chính trị
khá rõ nét, đó là một hình thức cai trị nhân từ và hiệu quả. Khúc Hạo (907-
917), nhà cải cách đầu tiên ở thế kỷ X, đã thực hành đường lối chính trị mà
sau này được các sử gia tổng kết: “chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị”.
Khoan dung trong đường lối cai trị của ông là: không khắt khe, hà khắc với
41
nhân dân, chống bọn tham quan, ô lại. Giản dị là không làm phiền hà, nhũng
nhiễu dân bởi những thủ tục hành chính quan liêu, phức tạp. Mục đích của
khoan dung nhằm đem lại cuộc sống yên vui “an cư lạc nghiệp”. Để thực hiện
mục tiêu đó, Khúc Hạo sửa đổi chế độ điền tô, thuế má, lực dịch nặng nề thời
thuộc Đường. Ông ra lệnh: “bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ
khẩu, kê rõ quê quán, giao cho giáp trưởng trông coi” [73, tr.459]. Vì nhu cầu
xây dựng nền độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc, Khúc Hạo đã biết khoan dung
với nhân dân, phát huy sức mạnh của dân. Ông hiểu rằng, chăm lo, xây dựng,
bồi dưỡng sức dân là chăm lo xây dựng nền tảng độc lập lâu dài của đất nước.
Sang giai đoạn nhà Trần, tư tưởng cai trị khoan dung được thể hiện rõ
trong quan điểm của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1232-1300). Tháng
6 năm Canh Tý (1300), khi ông ốm nặng, vua Trần Anh Tông tới thăm và hỏi
về kế sách giữ nước, ông đã thưa rằng: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ
bền gốc, đó mới là thượng sách giữ nước” [145, tr.79]. “Khoan thư sức dân”
theo quan điểm của Trần Quốc Tuấn là thực hiện các biện pháp miễn giảm
thuế khóa, lao dịch, chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân để bồi dưỡng sức
dân, khi cần có thể huy động vào công cuộc dựng nước, giữ nước. Đây là bài
học mà vị tướng tài rút ra qua thực tiễn chỉ đạo ba cuộc kháng chiến có quy
mô lớn chống quân Nguyên Mông xâm lược và đều giành thắng lợi.
Trong tư tư tưởng của Nguyễn Trãi (1380-1442), khoan dung được thể hiện
rõ nhất ở thái độ đối xử nhân đạo với quân giặc khi chúng đã quy hàng. Hơn hai
mươi năm giặc Minh đô hộ, tội ác của chúng đối với nhân dân ta đến mức: “Tát
cạn nước Đông hải không rửa hết tanh hôi/ Chặt hết trúc Lam Sơn, khó ghi đầy
tội ác”. Nhưng khi quân Minh đã vào thế cùng lực kiệt: “Tướng giặc bị bắt tù,
xin thương hại vẫy đuôi cầu sống”, thì quan điểm của ông là: “Uy thần chẳng
giết hại, lấy khoan hồng để bụng hiếu sinh” [73, tr.261]. Điều này thể hiện rõ
đức hiếu sinh, nhân ái, yêu chuộng hòa bình của dân tộc ta. Nguyễn Trãi cũng
42
như Lê Lợi không chủ trương giết hại kẻ thù đã đầu hàng để hả giận tức thời mà
còn tạo điều kiện cho chúng rút quân về nước. Mục đích cuối cùng của ông cũng
chỉ vì: “Mở nền thái bình cho muôn thuở”, tránh chiến tranh gây hao người, tốn
của cho cả hai nước.
Trong quan điểm chính trị của mình, Nguyễn Đức Đạt (1824-1887) đã đề
xuất một yêu cầu mới của khoan dung đó là: “Trị dân nên khoan, đốc quan
nên nghiêm”. Theo ông, người cai trị đối với dân chúng thì nên dùng các biện
pháp thư thả, nới rộng - “khoan” để nhân dân dễ dàng sinh sống. Còn với
quan lại, cần dùng các biện pháp nghiêm khắc để đốc thúc họ hoàn thành
nhiệm vụ. Trong Nam sơn tùng thoại, ông nói rõ: “Khảo xét quan lại cần có
kỳ hạn, kỳ hạn phải ngặt, khiến cho quan lại không có thì giờ nhàn rỗi mà làm
việc gian tà. Sai khiến dân chúng cũng phải có kỳ hạn, kỳ hạn này phải rộng
để dân chúng có thì giờ mà làm ăn. Cho nên có câu rằng: “Trị dân nên khoan,
đốc quan nên nghiêm” [dẫn theo 113, tr. 141].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy truyền thống khoan dung
của dân tộc lên một tầm cao mới; gắn khoan dung với giải phóng dân tộc, giải
phóng con người. Tư tưởng khoan dung của Người thể hiện trên những
phương diện cơ bản:
Một là, khoan dung thể hiện ở lòng yêu thương con người vô hạn. Bằng thế
giới quan duy vật, lòng yêu thương con người ở Hồ Chí Minh đã mang tính nhân
văn sâu sắc, thông qua hoạt động thực tiễn để từng bước giải phóng con người ra
khỏi những nỗi đau hiện thực. Trước cảnh nước mất nhà tan, Người quyết tâm đi
tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Là một vị Chủ tịch nước, trước cảnh
hàng triệu đồng bào đang bị nạn đói Người nhịn ăn thực hiện “hũ gạo tiết kiệm”.
Trước cảnh hàng nghìn thanh niên Pháp vì chiến tranh mà hy sinh, gạt qua tình
cảm dân tộc hẹp hòi, Người chân thành chia sẻ: “Tôi nghiêng mình trước anh
hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam, đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh.
43
Tôi cũng ngậm ngùi thương xót cho những người Pháp đã tử vong. Than ôi!
Trước lòng bác ái thì máu Pháp hay máu Việt đều là máu, người Pháp hay người
Việt cũng đều là người” [85, tr.457].
Hai là, sự tha thứ cho những người mắc lỗi lầm nhưng biết ăn năn, hối cải.
Trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, một số bà con vì lợi ích trước mắt
mà can tâm theo giặc, Hồ Chí Minh đã ôn tồn giảng giải, phân tích để họ thấy lẽ
hơn thiệt, khơi dậy ý thức dân tộc, lấy nghĩa đồng bào bà cảm hóa họ. Trong thư
gửi đồng bào Nam bộ năm 1947, Người viết: “Nhân dịp này, tôi thiết tha kêu gọi
đồng bào vì một cớ gì mà lầm đường lạc lối hãy kịp trở về với Tổ quốc. Dù sao
các người cũng là ruột thịt. Tôi tin chắc rằng các người không thể nỡ lòng giúp
địch làm cho đồng bào Việt Nam ta khổ mãi; tôi rất đau lòng thấy cảnh nồi da
nấu thịt, huynh đệ tương tàn. Tôi mong rằng các người hãy mau mau tỉnh ngộ.
Và tôi cam đoan rằng Tổ quốc, đồng bào và Chính phủ bao giờ cũng khoan
hồng. Một khi các người đã trở về với Tổ quốc thì các người sẽ được hoan
nghênh rộng rãi như những người con đi lạc mới về” [86, tr.214-215].
Ba là, sự tôn trọng các đặc điểm văn hóa, tín ngưỡng các dân tộc, tôn giáo
trong nước; sự đa dạng văn hóa trên thế giới. Quá trình đi tìm đường cứu
nước, Người đã trải nghiệm nhiều nền văn hóa khác nhau, Người luôn có thái
độ trân trọng, tiếp thu tinh hoa của mỗi nền văn hóa. Người nhận ra điểm
tương đồng trong tính nhân văn của các nền văn hóa: “Tuy phong tục mỗi dân
mỗi khác, nhưng có một điều thì dân nào cũng giống nhau. Ấy là dân nào
cũng ưa sự lành và ghét sự dữ” [85, tr.350].
Đối với đồng bào các tôn giáo trong nước, Người luôn trân trọng các tôn
giáo; các vị sáng lập ra các tôn giáo; niềm tin của đồng bào theo các tôn giáo
khác nhau. Tại cuộc gặp mặt đại biểu các tôn giáo, đảng phái tại chùa Bà Đá
mừng Chính phủ liên hiệp lâm thời vừa thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
“Tín đồ Phật giáo tin ở Phật, tín đồ Gia tô tin ở Đức Chúa Trời, cũng như
44
chúng ta tin ở đạo Khổng. Đó là những vị chí tôn nên chúng ta tin tưởng” [85,
tr.148]. Có thể thấy, hiếm có một người cộng sản nào ở vị trí như Người lại có
thái độ khoan dung, độ lượng như vậy.
Bốn là, mục đích của khoan dung nhằm xây dựng đại đoàn kết dân tộc. Khoan
dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có mục đích tự thân, mà nhằm xây dựng
khối đại đoàn kết để đấu tranh giành độc lập, xây dựng đất nước ngày càng ấm no,
hạnh phúc. Với tinh thần đó, Người đã cảm hóa, vận động được rất nhiều đại thần,
nhân sĩ, trí thức của chế độ cũ tham gia vào sự nghiệp cách mạng.
Từ sự khảo cứu trên đây cho thấy, khoan dung trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam thể hiện trên những nội dung chính sau:
Một là, khoan dung là một hình thức cai trị mang tính nhân từ của nhà cầm
quyền đối với dân chúng. Quan điểm: “Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản
dị” (Khúc Hạo); “Trị dân nên khoan, đốc quan nên nghiêm” (Nguyễn Đức Đạt)
là sự phản ánh tư tưởng đó. Từ đường lối cai trị này, khoan dung được coi là một
động lực để bảo vệ, phát triển đất nước “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền
gốc, đó mới là thượng sách giữ nước” (Trần Quốc Tuấn).
Hai là, khoan dung là sự tha thứ cho những người mắc lỗi lầm nhưng biết
ăn năn, hối cải “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại”.
Ba là, khoan dung là sự chấp nhận, tôn trọng những khác biệt về dân tộc,
tôn giáo, văn hóa giữa các cộng đồng trong phạm vi quốc gia; rộng hơn, tôn
trọng các đặc điểm của các dân tộc khác để cùng chung sống hòa bình, tiếp
thu tinh hoa văn hóa các dân tộc để làm giàu văn hóa của mình.
Bốn là, khoan dung là con đường thiết lập hòa bình, ngăn ngừa chiến tranh
xung đột: “tha hàng mười vạn sĩ binh, lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí
nhân để thay cường bạo”, “lấy khoan hồng để bụng hiếu sinh” (Nguyễn Trãi),
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam: “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”.
45
Năm là, khoan dung với nghĩa là đối thoại để cùng tồn tại trong hòa bình
giữa các quốc gia dân tộc - đây là quan điểm của UNESCO mà Việt Nam là
quốc gia thành viên.
Từ đó, trên phương diện chính trị - xã hội, chúng tôi cho rằng: khoan dung
là hình thức cai trị có tính nhân từ của nhà cầm quyền với dân chúng được
biểu hiện ở chính sách ít huy động sức dân (thuế, phí, lao dịch); sự tha thứ đối
với những người mắc lỗi lầm nhưng biết ăn năn hối cải, đối với kẻ thù xâm
lược khi đã quy hàng; sự tôn trọng tính đa dạng về dân tộc, tôn giáo, bản sắc
văn hóa, lợi ích chính đáng của các cá nhân và cộng đồng người; là cơ chế
bảo vệ và phát triển nền văn hóa; một biện pháp để xây dựng đại đoàn kết toàn
dân tộc, kiến tạo hòa bình; một động lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.1.2. Đồng thuận xã hội – quan niệm và biểu hiện của nó trong lịch sử
2.1.2.1. Quan niệm về đồng thuận xã hội
Đồng thuận trong tiếng Anh là Consensus, tiếng Pháp là Consensus, tiếng
Đức là Konséns. Về mặt từ nguyên, khái niệm này có nguồn gốc từ tiếng
Latinh Consentire, trong đó được ghép bởi hai từ là: con có nghĩa là giống
nhau và sentirre có nghĩa là: cảm giác, cảm nhận, nhận thức. Như vậy, nghĩa
ban đầu Consentire là khái niệm dùng để chỉ những cảm nhận, nhận thức giống
nhau (của nhiều người). Ở thế kỷ XIX, khái niệm Consensus ngoài việc dùng
để chỉ sự ưng thuận, bằng lòng, đồng ý của con người (trong quan hệ xã hội),
khái niệm này còn dùng để chỉ sự phối hợp giữa các bộ phận trong cơ thể sinh
học, mà các tài liệu tiếng Việt dịch là sự liên ứng [52].
Trong thời gian gần đây, một số từ điển chuyên ngành ở Việt Nam mới
dịch consensus là “đồng thuận”.
Từ điển thuật ngữ chính trị Pháp – Việt, đồng thuận (consensus) được giải
thích với hai nghĩa chính: thứ nhất, trong một nhóm, một đảng, một dân tộc…chỉ
sự đồng tình rõ ràng hoặc ngầm định giữa phần lớn các thành viên về một hành
46
động, một chính sách hoặc các giá trị được thừa nhận; thứ hai, trong luật quốc tế,
đó là thủ tục thông qua các văn kiện, được đưa vào thực tiễn hoạt động của các
tổ chức quốc tế và thường xuyên được sử dụng [34, tr.143].
Từ điển xã hội học, đồng thuận (konséns): sự nhất trí có tác dụng như một
xúc tác xã hội hay chỉ sự khác biệt không đáng kể giữa các thành viên trong
một hệ thống xã hội về những vấn đề quan trọng đối với những hoạt động của
hệ thống [38, tr.153].
Trong một số từ điển tiếng Việt, Hán – Việt mà chúng tôi khảo cứu như:
Từ điển tiếng Việt, Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm (chủ biên) [112]; Từ điển
bách khoa Việt Nam [48]; Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý (chủ biên)
[152]; Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nguyễn Lân [71]; Từ nguyên giải nghĩa,
Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Thị Huế [64]; Từ điển từ mới tiếng Việt, Chu Bích
Thu (Viện Ngôn ngữ học, chủ biên) [119]… Thì chỉ duy nhất cuốn Từ điển từ
mới tiếng Việt có giải thích khái niệm đồng thuận. Theo Tiến sĩ Chu Bích
Thu, “Đồng thuận” (động từ) có nghĩa là cùng thỏa thuận, cùng đồng ý, cùng
thống nhất (về những vấn đề quan trọng) [119, tr.84]. Các cuốn từ điển còn
lại, mặc dù không có khái niệm “đồng thuận”, nhưng các từ “đồng”, “thuận”
được giải thích độc lập như sau:
Đại từ điển tiếng Việt, tác giả Nguyễn Như Ý cho rằng: “đồng” (tính
từ): cùng, cùng nhau; “thuận”: bằng lòng. Như vậy, cũng có thể hiểu “đồng
thuận” là cùng nhau bằng lòng về vấn đề nào đấy [152, tr.665, 1598].
Từ điển từ và ngữ Hán Việt, GS Nguyễn Lân giải thích các từ: “đồng”
cùng nhau, “thuận”: theo. Như vậy, đồng thuận có thể được hiểu là cùng theo
một cái gì đó [71, tr.242, 688].
Điều đó cho thấy, đồng thuận là một khái niệm mới trong ngôn ngữ
tiếng Việt.
47
Cũng như khái niệm đồng thuận, trong các từ điển và tài liệu kể trên,
chưa xuất hiện khái niệm đồng thuận xã hội. Thời gian gần đây, trong một số
công trình nghiên cứu khoa học, các tác giả mới đưa ra định nghĩa, cách hiểu
ban đầu về đồng thuận xã hội.
Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Lan trong luận án tiến sĩ Chính trị học: “Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam với việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện
nay” cho rằng: “Đồng thuận xã hội là sự đồng tình, nhất trí của xã hội về một
vấn đề nào đó trên cơ sở những điểm tương đồng trong lúc vẫn thừa nhận
những điểm khác biệt với điều kiện những khác biệt này không làm tổn hại
đến mục tiêu chung, hành động chung” [69, tr.17-18]. Tác giả Nguyễn Trần
Bạt trong bài “Đồng thuận và đồng thuận xã hội” có cái nhìn khái quát hơn:
“Đồng thuận là giới hạn hợp lý của đấu tranh và hợp tác, còn đồng thuận xã
hội là biểu hiện của sự đồng thuận ở mức độ cao nhất, rộng lớn nhất, và nó
tạo ra sự thống nhất chính trị, kinh tế và văn hoá của xã hội” [11]. Tiến sĩ Chu
Văn Tuấn trong bài Đồng thuận xã hội: Một số vấn đề lý luận cho rằng: Đồng
thuận xã hội là sự đồng tình, nhất trí hay tán thành, ủng hộ một cách rõ ràng
hay ngầm định của đa số các thành viên trong xã hội đối với một vấn đề nào
đó (chẳng hạn một quan điểm, một chủ trương, đường lối, chính sách, quyết
định...) trên cơ sở những điểm tương đồng và cùng chung mục đích” [141,
tr.26]. Giáo sư Phạm Ngọc Quang trong đề tài khoa học cấp Nhà nước: Quan
điểm, định hướng và giải pháp thực hành dân chủ, đại đoàn kết toàn dân tộc,
đồng thuận xã hội trình bày một cách cặn kẽ khái niệm đồng thuận xã hội:
“Đồng thuận xã hội là sự đồng tình, nhất trí trong suy nghĩ và hành động của
một cộng đồng xã hội (cộng đồng này có thể rộng hẹp khác nhau, từ cộng
đồng gia đình, làng xóm…đến cộng đồng giai cấp, dân tộc, nhân loại) về một
(hay một số) vấn đề nào đó trên cơ sở những điểm tương đồng về nhu cầu, lợi
ích… trong lúc vẫn thừa nhận, tôn trọng những điểm khác biệt với điều kiện
48
những khác biệt này không làm tổn hại đến mục tiêu chung, hành động chung
của cộng đồng đó” [102, tr.35].
Từ các quan điểm trên, có thể thấy rằng, các tác giả đã có nhiều điểm
thống nhất với nhau khi xác định nội hàm khái niệm đồng thuận xã hội, như:
đồng thuận xã hội là sự đồng tình, nhất trí của xã hội về một vấn đề nào đó;
đồng thuận là sự đồng tình tự giác chứ không phải sự cưỡng bức; cơ sở của
đồng thuận xã hội là dựa trên sự tương đồng giữa các thành viên; đồng thuận
xã hội bao gồm cả sự khác biệt... Tuy nhiên, trong mỗi định nghĩa, theo chúng
tôi còn có những phần chưa thực sự thỏa đáng như: Thứ nhất, “Đồng thuận xã
hội là sự đồng tình, nhất trí của xã hội...”, ở đây “đồng thuận” đã được làm
sáng tỏ là “đồng tình, nhất trí”; nhưng “xã hội” vẫn được trình bày là “xã hội”
thì chưa thỏa đáng. Thứ hai, đồng thuận xã hội: “là sự đồng tình, nhất trí...
trong suy nghĩ và hành động”, có phải mọi sự đồng thuận đều bao gồm cả suy
nghĩ và hành động không? Theo chúng tôi, không phải mọi sự đồng thuận đều
bao gồm cả hai lĩnh vực này, có đồng thuận trong tư tưởng, có đồng thuận
trong hành động và có đồng thuận cả trong tư tưởng và hành động. Trong thực
tế, nhiều sự đồng thuận mới đạt được trên những nhận thức ban đầu. Thứ ba,
đồng thuận xã hội dựa trên những điểm tương đồng “trong lúc vẫn thừa nhận,
tôn trọng những điểm khác biệt với điều kiện những khác biệt này không làm
tổn hại đến mục tiêu chung, hành động chung của cộng đồng đó”. Một cộng
đồng, tại một thời điểm có thể có nhiều mục tiêu, các thành viên trong cộng
đồng đó có thể đồng thuận về một hoặc nhiều vấn đề, nhưng không phải lúc
nào hai cái đó cũng hoàn toàn đồng nhất với nhau. Có thể các thành viên chỉ
đồng thuận về mục tiêu này mà chưa đồng thuận về mục tiêu khác. Ở đây, yêu
cầu của đồng thuận là sự khác biệt giữa các thành viên không làm ảnh hưởng
đến việc thực hiện cái mà các thành viên đã đồng tình, nhất trí với nhau chứ
không phải tất cả mọi mục tiêu, hành động của cộng đồng đó.
49
Từ các quan điểm trên đây, chúng tôi cho rằng: Đồng thuận xã hội là sự tự
giác đồng tình, nhất trí của các thành viên trong một cộng đồng về một hoặc
một số vấn đề nào đó trên cơ sở những điểm tương đồng, trong khi vẫn thừa
nhận những điểm khác biệt, với điều kiện những khác biệt đó không tổn hại
đến việc thực hiện cái đã đồng tình, nhất trí.
Từ khái niệm trên, có thể rút ra những nội dung chính của đồng thuận
xã hội như sau:
Một là, đồng thuận xã hội là một dạng đặc thù của đồng thuận (chỉ
phản ánh sự đồng đồng thuận trong xã hội).
Hai là, đồng thuận xã hội là hoạt động tự giác, có ý thức của các chủ
thể (những hành động cưỡng bức, bắt buộc phải phục tùng, bắt buộc phải quy
thuận, hành động không ý thức không phải là đồng thuận).
Ba là, cơ sở của đồng thuận xã hội là sự tương đồng của các thành viên
(về nhu cầu, lợi ích, sở thích, mục tiêu…).
Bốn là, phạm vi đồng thuận (về lĩnh vực) có thể đồng thuận về tư
tưởng, hành động, cả tư tưởng và hành động; (về phạm vi) có thể rộng, hẹp
khác nhau (trong một đảng, một giai cấp, dân tộc hay toàn nhân loại...)
Năm là, đồng thuận không loại trừ những khác biệt, mâu thuẫn nhưng
đó không phải là những khác biệt, mâu thuẫn căn bản.
Sáu là, xem xét ý nghĩa của sự đồng thuận xã hội phải có quan điểm lịch
sử cụ thể, có đồng thuận xã hội có ý nghĩa tích cực, có sự đồng thuận xã hội có ý
nghĩa tiêu cực (ví dụ: “Thuận vợ thuận chồng biển Đông tát cạn” là sự đồng
thuận có tính chất tích cực, nó thể hiện sự đoàn kết, ý chí quyết tâm của con
người trong chinh phục tự nhiên, còn “Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan,
vợ húp gật đầu khen ngon”, đây cũng là sự đồng thuận nhưng sự đồng thuận này
có tính tiêu cực, nó thể hiện tâm lý an phận thủ thường); trong mối quan hệ này
đồng thuận xã hội có ý nghĩa tích cực, nhưng trong quan hệ khác thì không (ví
50
dụ, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới đồng tình, ủng hộ Việt Nam sử dụng
các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế để đấu tranh chống Trung
Quốc xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam; hành vi đồng tình, ủng hộ đó với
nhân dân Việt Nam là tích cực nhưng với phía Trung Quốc là tiêu cực vì nó bất
lợi cho họ)…
2.1.2.2. Sự biểu hiện của tư tưởng đồng thuận xã hội trong lịch sử
Trong lịch sử tư tưởng phương Tây cổ đại, Platon (427-347 TCN) là
người đầu tiên xây dựng lý thuyết về một xã hội đồng thuận, những tư tưởng
đó được thể hiện trong quan điểm về Nhà nước lý tưởng của ông. Theo ông,
một xã hội lý tưởng là mọi công dân đều tự nguyện thực thi chức trách của
mình theo đúng sự phân công lao động xã hội dựa trên thiên tính tự nhiên của
họ. Ông cho rằng, sở dĩ có cộng đồng xã hội là vì người ta phải trợ giúp nhau
trong thực hiện những nhu cầu sinh sống cần thiết. Nhu cầu ấy phù hợp với sự
phân chia công việc tùy theo năng lực của mỗi cá nhân. Platon phân chia xã
hội thành ba giai cấp cơ bản, mỗi giai cấp có năng lực, đặc tính riêng; phù
hợp với năng lực đó, xã hội sẽ phân công họ một công việc phù hợp với sở
trường của họ. Ba giai cấp ấy, là:
Giai cấp “đồng” và “sắt” bao gồm: thương gia, thợ thủ công, nông dân và
những người lao động chân tay. Phẩm chất cơ bản của giai cấp này là tính tiết
độ; công việc phù hợp cho họ là lao động tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Giai cấp “bạc” gồm: những chiến binh. Phấm chất cơ bản của họ là can đảm.
Công việc phù hợp cho họ là chiến đấu bảo vệ nhà nước và trật tự xã hội.
Giai cấp “vàng” gồm: các triết gia, các nhà chính trị. Phẩm chất cơ bản của
họ là thông thái, khôn ngoan. Công việc phù hợp cho họ là quản lý xã hội và
sản xuất các giá trị tinh thần.
Theo Platon: “Một nhà nước chỉ công chính là khi mỗi một trong ba giai
cấp cấu thành nó chu toàn chức vụ của mình” [dẫn theo 92, tr.239] và khi đó
51
xã hội sẽ thái bình, thịnh trị. Ngược lại, khi nào một trong ba giai cấp dẫm
chân lên chức vụ không phải của mình, xã hội sẽ bất đồng, rối loạn.
Như vậy, cộng đồng hay nhà nước lý tưởng của Platon là một xã hội được
phân công lao động dựa trên năng lực của mỗi thành viên. Nếu mỗi cá nhân
hành động theo đúng bổn phận của mình thì xã hội ổn định, ngược lại, cá
nhân hoạt động ngoài chức phận của mình thì xã hội loạn. Ở đây, đồng thuận
được đồng nhất với khái niệm xã hội công chính. Tuy nhiên, quan điểm này
mang tính duy tâm chủ quan, đó chỉ là mong ước của ông về một xã hội lý
tưởng. Nó cũng gián tiếp bảo vệ lập trường của giai cấp chủ nô muốn duy trì
trật tự xã hội theo nguyện vọng của họ.
Đến thời kỳ Khai sáng, J.J. Rousseau, triết gia Pháp là một trong những
người đầu tiên đưa ra lý thuyết duy vật về đồng thuận xã hội thông qua tác
phẩm Khế ước xã hội. Theo ông, xã hội đồng thuận là xã hội được xây dựng
trên cơ sở một khế ước, trong đó, tất cả các thành viên đều tự nguyện thực
hiện điều mình đã ký kết. Khế ước xã hội chính là kết quả của sự thỏa thuận
dân chủ giữa các thành viên. Nói cách khác, thỏa thuận là phương thức cơ bản
để tìm kiếm đồng thuận hay dân chủ xã hội là nền tảng chính trị học của đồng
thuận xã hội [11].
C.Mác và Ph.Ăngghen mặc dù chưa đề cập đến khái niệm đồng thuận xã
hội nhưng trong tư tưởng của mình, các ông cũng đã trình bày một số nội
dung của thuật ngữ này, nhất là: sự tương đồng của giai cấp công nhân với
nhân dân các dân tộc bị áp bức trong mục tiêu xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Đây chính là cơ sở để xây dựng tình đoàn kết của giai cấp công nhân và nhân
dân các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, xây dựng một xã
hội mới tốt đẹp hơn. Về địa vị xã hội, theo các ông, trong phương thức sản
xuất tư bản, giai cấp công nhân là những người bị áp bức, bóc lột; do vậy, họ
cùng có kẻ thù chung là giai cấp tư sản: “Bởi lẽ tình cảnh của công nhân tất cả
52
các nước đều giống nhau, bởi lẽ lợi ích của họ thống nhất, những kẻ thù của
họ cùng là một, cho nên họ cần hiệp lực đấu tranh chung và họ cần đem liên
minh anh em của công nhân tất cả các dân tộc đối lập với cái liên minh anh
em của giai cấp tư sản tất cả các dân tộc” [80, tr.529]. Về lợi ích kinh tế, các
ông nói rõ sự thống nhất lợi ích kinh tế, nhất là vấn đề sở hữu là cơ sở để xây
dựng tình đoàn kết, thống nhất của phong trào công nhân và các dân tộc:
“Muốn cho các dân tộc có thể thực sự đoàn kết lại thì họ phải có những lợi ích
chung. Muốn cho những lợi ích của họ trở thành lợi ích chung thì những quan
hệ sở hữu hiện có phải bị thủ tiêu” [80, tr.527]. Theo các ông, áp bức giai cấp
và áp bức dân tộc trong chế độ tư bản chủ nghĩa có mối quan hệ với nhau và
đều có nguồn gốc sâu xa từ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất. Do vậy, thủ tiêu chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa cũng có
nghĩa là thủ tiêu nguồn gốc sinh ra áp bức. Sự tương đồng về địa vị xã hội và
lợi ích kinh tế như trên, dẫn tới sự tương đồng về mục tiêu chính trị, đó là
mong muốn thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng xã hội công bằng,
bình đẳng: “…những người xã hội chủ nghĩa, mong muốn giải phóng lao
động, tiêu diệt chế độ nô lệ làm thuê và thiết lập một chế độ xã hội trong đó
toàn thể công nhân, không phân biệt nam, nữ và dân tộc đều có quyền hưởng
những của cải do lao động chung của họ làm ra” [78, tr.775-776].
Như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã bước đầu tìm ra cơ sở kinh tế, chính
trị, xã hội để xây dựng đồng thuận giữa giai cấp công nhân, nhân dân các dân
tộc bị áp bức trong mục tiêu xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Trong lịch sử tư tưởng phương Đông, mặc dù không có khái niệm “đồng
thuận xã hội” nhưng có các khái niệm gần với khái niệm này là quan điểm
“Thuận thiên ứng nhân” của Nho giáo, “Thượng đồng” của Mặc giáo. Theo
quan điểm Nho giáo, một vương triều nổi dậy thay thế một vương triều khác
phải thuận theo mệnh trời, đáp ứng lòng người. Chữ “Thuận” trong tư tưởng
53
Nho giáo Trung Quốc cổ đại là thuận theo mệnh trời, nhưng “mệnh trời” thực
chất lại là “dân ý” cho nên thuận theo mệnh trời là thuận theo dân ý. Trong
Dịch truyện – Cách quái – Thoán truyện viết: “Thang vũ cách mệnh, thuận hồ
thiên nhi ứng hồ dân” (vua Thang, vua Vũ thay đổi vương triều Kiệt, Trụ là
hợp với quy luật của trời, thuận với nguyện vọng của dân chúng). Khổng
Dĩnh Đạt giải thích: “Vua Thang nhà Ân, vua Vũ nhà Chu thông minh, tài trí,
trên thuận mệnh trời, dưới đáp ứng lòng người, đuổi vua Kiệt ở đất Minh
Điểu, giết vua Trụ ở đất Mục Dã, cách bỏ mệnh vua cũ, sửa đổi lại tục ác”. Ý
nói, vua Thang và vua Vũ đánh kẻ vô đạo đã phù hợp với ý trời lại thuận theo
và đáp ứng được lòng dân [72, 1491]. Ở đây ta thấy, gạt bỏ tính chất duy tâm,
quan điểm “Thuận thiên ứng nhân” chứa đựng những tư tưởng của đồng
thuận xã hội, nhà cầm quyền (vua) khi làm việc gì thuận theo ý dân mà hành
động sẽ được nhân dân đồng tình, ủng hộ (đồng thuận).
Quan điểm “Thượng đồng” của Mặc Tử, trong quan điểm chính trị - xã
hội của mình, Mặc Tử cho rằng xã hội loài người lúc đầu rất lộn xộn, vô trật
tự, nguyên nhân là do không có người thống lĩnh, cai quản. Để thiết lập trật
tự, nhân dân tụ họp lại, kén chọn kẻ hiền năng đặt làm người cai quản: “Biết
rõ thiên hạ sở dĩ loạn là do không có người chính trưởng mà ra cả, cho nên
mới kén người hiền năng trong thiên hạ lập nên mà cai quản – đó chính là
Thiên tử - Vua” [122, tr.346]. Khi đã kén được Thiên tử rồi, họ đặt ra thể chế,
pháp độ bắt xã hội phải tuân theo. Ở thời điểm ông sống, nhà Chu đang loạn
lạc, Khổng Tử bước đầu thất bại trong việc thiết lập lại trật tự. Do đó, Mặc Tử
đề xuất, để thống nhất được thiên hạ, trước hết phải thống nhất được tư tưởng
sau đó thống nhất về hành động, ông gọi thuyết đó là “Thượng đồng”. Như vậy
ta thấy, theo Mặc Tử, nguồn gốc ra đời nhà nước là do con người thống nhất
với nhau mà đặt ra; để lập lại trật tự xã hội, bước đầu cũng phải thiết lập được
sự thống nhất về tư tưởng rồi sau đó từng bước thống nhất về pháp độ, thể chế.
54
So sánh quan điểm “Thượng đồng” của Mặc Tử và “Khế ước xã hội” của
Rousseau ta thấy có những điểm tương đồng. Ẩn giấu đằng sau quan điểm
duy tâm khi giải thích nguồn gốc ra đời nhà nước là do mong muốn chủ quan
của con người, thì những quan điểm này cũng thể hiện những nội dung của
đồng thuận xã hội. Nhà nước chính là sản phẩm của sự bàn bạc, thỏa thuận,
thống nhất của nhiều người mà lập nên.
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, mặc dù thời kỳ phong kiến chưa có khái
niệm đồng thuận xã hội nhưng đã có những khái niệm gần với nó là: đồng
lòng, đồng tâm, đoàn kết1. Tổng kết bài học kinh nghiệm trong các cuộc
kháng chiến chống giặc phương Bắc, Trần Quốc Tuấn cho rằng: “thời nhà
Đinh, tiền Lê…trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà
phá được quân Tống”. Còn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên -
Mông ông tổng kết: “Vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức,
giặc phải bị bắt” [145, tr.76-77]. Như vậy: “trên dưới một dạ, lòng dân không
lìa”, “vua tôi đồng tâm, cả nước góp sức” là những thuật ngữ phản ánh nội
dung như khái niệm đồng thuận xã hội hiện nay.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, khi nói sự đồng tình, nhất trí của
quân và tướng, Nguyễn Trãi sử dụng khái niệm “một lòng” (tướng sĩ một lòng
phụ tử - phụ tử chi binh nhất tâm). Thực chất đây cũng là một dạng đồng thuận,
đứng trước nạn xâm lăng của quân giặc, tướng sĩ nghĩa quân Lam Sơn trên
dưới một lòng, quyết chí đánh giặc cứu nước. Đó là sự đồng thuận rất cao, nó
không chỉ là sự đồng thuận trên phương diện chính trị - hành chính mà còn bao
hàm cả những giá trị đạo đức – đồng lòng một dạ cha con.
1 Đồng thuận trong tiếng Anh là Consensus, tiếng Pháp là Consensus, tiếng Đức là Konséns, các từ này khidịch đối chiếu sang tiếng Việt đều được dịch là: nhất trí, đồng ý, đồng lòng, nhất tề, ưng thuận (xem: TrầnKim Nở, Lê Xuân Khuê, Dương Ngọc Dũng, Đỗ Huy Thịnh, Trần Huỳnh Phúc, Từ điển Anh – Việt, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 409; Đào Văn Tập, Từ điển Pháp – Việt, Nhà sách Vĩnh Bảo, Sài Gòn, in lầnthứ tư 1953, tr.248); GS Nguyễn Văn Tuế, Đại từ điển Đức - Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, 2001, tr.1513.
55
Giai đoạn đầu thế kỷ XX, để vận động phong trào yêu nước, các sĩ phu
Việt Nam hay dùng khái niệm “đồng tâm”. Giải phóng dân tộc, xây dựng đất
nước giàu mạnh là mục tiêu chung của mọi người Việt Nam. Để đạt được,
phải đoàn kết dân tộc, muốn đoàn kết dân tộc phải tìm ra điểm tương đồng
giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo…Các ông nhận thấy, người Việt
Nam đều là: “con Lạc cháu Hồng”, là người mất nước, muốn giành độc lập
dân tộc. Đây chính là những điểm tương đồng để xây dựng đoàn kết dân tộc.
Trong Hải ngoại huyết thư, Phan Bội Châu viết: “Thương ôi! Trăm sự tại
người/ Chữ “đồng” ai dám ngăn rời chữ “tâm””. Ông kể ra các hạng người
thuộc các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo như: phú hào, quan tước, sĩ phu (sĩ dịch),
Da Tô, rồi cả “côn đồ, nghịch tử, nhi nữ, anh si…”. Ông kết luận, muốn giành
được độc lập thì: “Người trong cho đến người ngoài/ Chữ “tâm” cốt phải ai ai
cũng “đồng”” [116, tr.412-413]. Nguyễn Quyền trong Kêu hồn nước cũng viết:
“Than ôi! Hồn nước ta ơi/ Tỉnh nghe ta gọi mấy lời đồng tâm”.
Nhận xét về ý nghĩa của chữ “Đồng tâm” trong phong trào Đông kinh
nghĩa thục, Giáo sư Trần Văn Giàu viết: “Đồng bào, đồng chủng là căn
nguyên của đồng tâm. Giai đoạn đầu thế kỷ XX, đồng tâm đóng vai trò tư
tưởng, vai trò chính trị hệ trọng tương tự như “đoàn kết, đại đoàn kết” giai
đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám” [40, tr.86].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mặc dù Người chưa sử dụng khái niệm đồng
thuận xã hội nhưng chữ “đồng” được sử dụng khá phổ biến như: “đồng tâm”,
“đồng sức”, “đồng lòng”… Người coi đó là động lực để giành độc lập dân
tộc. Chuẩn bị những điều kiện cho cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám, trong bài
Kính cáo đồng bào, Nguyễn Ái Quốc viết: “Việc lớn chưa thành không phải
vì đế quốc mạnh, nhưng một là cơ hội chưa chín, hai là dân ta chưa hiệp lực,
đồng tâm” [84, tr.197]. Trong Mười chính sách lớn của Việt Minh, Người
viết: “Khuyên ai nên nhớ chữ đồng/ Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng
56
minh”, “Biết đồng sức/ Biết đồng lòng/ Việc gì khó/ Làm cũng xong” [84,
tr.232]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh “đồng lòng” là nhân tố có vai trò quyết
định đến sự thành công của cuộc Cách mạng lúc đó. Người cũng chỉ rõ: “Sử
ta dạy ta bài học này: lúc nào dân tộc đoàn kết muôn người như một thì nước
ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không biết đoàn kết thì bị nước ngoài
xâm lấn” [84, tr.217]. Do đó, Hồ Chí Minh chủ trương: dân tộc và Tổ quốc là
trên hết, chúng ta phải gạt ra ngoài những thành kiến, rộng lòng với tất cả
những ai có thế đoàn kết được, không phân biệt thành phần xã hội, giai cấp,
đảng phái, xu hướng chính trị, dân tộc, tôn giáo, kể cả những người bóc lột,
những người trước đây là kẻ thù của nhân dân hay quá khứ của họ đã từng
hợp tác với phe phái chính trị nào nhưng nay đã ăn năn hối cải và tán thành sự
nghiệp cách mạng thì chúng ta đều dung nạp và sử dụng họ.
Từ sự phân tích trên cho thấy, trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, mặc dù
chưa có khái niệm “đồng thuận xã hội” nhưng đã có những khái niệm tương
đương, phản ánh những nội dung như đồng thuận xã hội hiện nay.
2.1.3. Mối quan hệ giữa khoan dung và đồng thuận xã hội
2.1.3.1. Khoan dung, đồng thuận xã hội đều là nhu cầu khách quan của sự
tồn tại và phát triển xã hội
Xã hội loài người là sự thống nhất của nhiều bộ phận khác nhau (quốc gia,
dân tộc, giai cấp, tôn giáo, văn hóa…). Mỗi bộ phận có đặc điểm, nhu cầu, lợi
ích khác nhau; nhưng, những sự khác nhau ấy lại tồn tại thống nhất trong một
cộng đồng (cộng đồng nhân loại, khu vực, quốc gia, giai cấp, dân tộc, tôn
giáo…). Nếu mỗi bộ phận đều tuyệt đối hóa sự tồn tại của mình, phủ nhận sự
tồn tại của cái khác, xã hội sẽ rơi vào tình trạng chiến tranh, xung đột. Do vậy,
để tồn tại và phát triển được (cả với tư cách là một bộ phận của hệ thống và cả
hệ thống), mỗi bộ phận cấu thành hệ thống phải chấp nhận, tôn trọng sự tồn tại
của bộ phận khác. Cao hơn, các bộ phận phải liên hệ, tiếp thu, học hỏi lẫn
57
nhau. Chấp nhận, tôn trọng sự tồn tại của cái khác chính là biểu hiện của tinh
thần khoan dung. Chấp nhận, tôn trọng sự khác biệt để cùng tồn tại, phát triển
là biểu hiện của đồng thuận, đồng thuận cả về mục tiêu, phương thức thực hiện.
Khoan dung có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa đa nguyên về triết học (đa
nguyên trong tiếng Latinh là plures – tính đa dạng). Về bản thể luận, đó là thừa
nhận sự tồn tại của vô số khởi nguyên hay hình thức độc lập và không thể quy
cái này về cái khác. Về nhận thức luận, là sự đa dạng các hình thức, nguyên lý,
học thuyết và phương pháp nhận thức. Về đạo đức, là sự thừa nhận các cá nhân
và các nhóm có chủ quyền bình đẳng. Trong giá trị học, các giá trị và định
hướng giá trị được thể hiện trong các hệ tư tưởng và niềm tin đa dạng luôn cạnh
tranh và đấu tranh vì uy tín của mình [148, tr.107]. Từ chủ nghĩa đa nguyên về
bản thể luận đi đến quan điểm đa nguyên về giá trị và nhân cách; mỗi chủ thể (cá
nhân, nhóm, cộng đồng…) đều có quyền duy trì và khẳng định bản sắc của
mình; đồng thời, tôn trọng bản sắc của chủ thể khác.
Đồng thuận xã hội có nguồn gốc khách quan từ phương thức tồn tại của
con người. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, phương thức tồn tại
của con người là lao động. Để tiến hành lao động, tất yếu con người phải liên
hệ, phối hợp cùng hành động để tạo ra của cải vật chất phục vụ cho cuộc
sống. Như vậy, bản thân hành động lao động – phương thức tồn tại của con
người đã đòi hỏi phải có sự đồng thuận. Nếu trong quá trình lao động, mỗi cá
nhân hoạt động độc lập, không cùng hướng đến mục đích chung (không có sự
đồng thuận) thì không đạt được hiệu quả.
Từ đó cho thấy, khoan dung, đồng thuận đều là các yêu cầu khách quan
của sự tồn tại và phát triển xã hội.
2.1.3.2. Thực hiện khoan dung là cơ sở, tiền đề thuận lợi để xây dựng đồngthuận xã hội
Xã hội được cấu thành từ nhiều bộ phận, mỗi bộ phận có đặc điểm, giá trị,
niềm tin, lợi ích… khác nhau. Ngay cả trong một quốc gia đơn dân tộc, tôn
58
giáo cũng có sự khác nhau giữa các cá nhân, giai tầng, nhóm lợi ích. Để các
bộ phận khác nhau ấy cùng đồng ý, thống nhất thực hiện một vấn đề nào đấy,
đòi hỏi phải có sự tôn trọng những mặt khác nhau của mỗi bộ phận – tức phải
khoan dung. Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, tôn trọng sự khác nhau
được biểu hiện ở hai khía cạnh: thứ nhất, nhà nước – chủ thể cầm quyền phải
tôn trọng giá trị của mỗi bộ phận; thứ hai, mỗi bộ phận cấu thành xã hội có
giá trị, niềm tin khác nhau cũng phải tôn trọng lẫn nhau.
Trên phương diện chính trị - xã hội, khoan dung được biểu hiện ở chính
sách cai trị ít khắt khe, hà khắc; tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân sinh sống.
Đây chính là tiền đề để mọi người dân trong xã hội đoàn kết, thống nhất, cùng
nhau xây dựng, phát triển đất nước.
Khoan dung là sự tha thứ với những người đã từng mắc lỗi lầm nhưng biết
ăn năn, hối cải nhằm cảm hóa, lôi kéo họ vào sự nghiệp chung của đất nước.
Do các nguyên nhân khác nhau, có người lúc này hay lúc khác vì lợi ích cá
nhân mà xâm phạm lợi ích cộng đồng, dân tộc. Khi được tha thứ, họ sẽ xóa bỏ
mặc cảm, hòa hợp với cộng đồng; đồng thời lôi kéo, cảm hóa được những
người khác trong khả năng ảnh hưởng của họ cùng hướng về lợi ích chung của
đất nước. Đây là điều kiện thuận lợi để xây dựng đồng thuận xã hội.
Trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc thực hiện khoan dung cũng là một
phương thức để tạo lập đồng thuận xã hội. Các dân tộc dù khác nhau về trình
độ phát triển, thể chế chính trị, bản sắc văn hóa…nhưng mục tiêu cuối cùng
đều là: hòa bình, độc lập, phát triển. Dân tộc này tôn trọng, chấp nhận những
lợi ích chính đáng, đặc thù văn hóa của dân tộc khác đó chính là khoan dung.
Các dân tộc chấp nhận sự đa dạng để cùng tồn tại, phát triển là đồng thuận –
đồng thuận cả về mục tiêu và phương thức thực hiện.
Đối lập với đồng thuận là bất đồng, biểu hiện cao nhất của bất đồng là
chiến tranh, xung đột. Nguyên nhân của chiến tranh, xung đột là do các mâu
59
thuẫn đối kháng phát triển đến đỉnh điểm. Xung đột lợi ích, bất khoan dung là
những nguyên nhân cơ bản dẫn đến chiến tranh, xung đột.
2.1.3.3. Xã hội đồng thuận là môi trường thuận lợi để thực hiện khoan
dung, nâng chất lượng khoan dung lên tầm cao mới
Đồng thuận xã hội là sự phản ánh những lợi ích cơ bản của các bộ phận khác
nhau đã được giải quyết một cách hài hòa. Do vậy, làm cho các bộ phận cùng
hướng tới mục tiêu chung, tôn trọng, chấp nhận khác biệt. Đồng thuận xã hội là
điều kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng thực hiện khoan dung – xã hội đồng
thuận không chỉ làm các bộ phận khác nhau chấp nhận, tôn trọng khác biệt mà
cao hơn còn là sự học hỏi, tiếp thu các giá trị lẫn nhau.
Con đường đi tới đồng thuận thường thông qua sự bàn bạc, thảo luận dân
chủ rồi sau đó đi đến thống nhất, đồng ý, nhất trí. Quá trình bàn bạc, thảo luận
thực chất là quá trình đối thoại, qua đối thoại, các bên khác nhau đã thấu hiểu,
chấp nhận những khác biệt của nhau để cùng hướng tới một cái chung nào đó.
Như vậy, phương thức để xác lập đồng thuận đã hàm chứa trong đó tinh thần,
thái độ khoan dung.
Quan hệ giữa các bộ phận cấu thành xã hội với xã hội là quan hệ bộ phận –
hệ thống (mỗi nhân tố cấu thành xã hội là một bộ phận, xã hội là hệ thống).
Mỗi bộ phận có nhu cầu, lợi ích, đặc điểm… khác nhau, nhưng khi đã là một
thể thống nhất, xã hội có những nhu cầu, lợi ích chung. Nhu cầu, lợi ích chung
có khi không hoàn toàn trùng hợp với lợi ích của một bộ phận riêng lẻ. Khi đó,
đòi hỏi bộ phận riêng lẻ (bộ phận) phải biết hy sinh lợi ích riêng vì cái chung
(hệ thống). Ngược lại, cái hệ thống cũng phải tôn trọng mỗi cái bộ phận (thừa
nhận, tôn trọng sự khác biệt). Đây là sự tác động mang tính hai chiều, một mặt
cái hệ thống tôn trọng cái bộ phận; mặt khác, mỗi cái bộ phận cũng phải tôn
trọng bộ phận khác và tôn trọng những nhu cầu, lợi ích chung của cả hệ thống.
Trong xã hội, đó chính là sự thống nhất và hòa hợp xã hội. Xã hội đồng thuận
60
chứa đựng trong đó tinh thần khoan dung; thực hiện khoan dung tạo điều kiện
thuận lợi để xây dựng đồng thuận xã hội.
2.2. Cơ sở thực tiễn phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng
cường đồng thuận xã hội trong lịch sử Việt Nam
2.2.1. Những nhân tố khách quan tác động đến sự hình thành truyền
thống khoan dung, đồng thuận xã hội trong lịch sử Việt Nam
Hiện nay, trong từ điển tiếng Việt, truyền thống được hiểu là: nền nếp, thói
quen tốt đẹp được lưu giữ từ đời này qua đời khác [152, tr.1734]. Truyền
thống có nhiều loại: gia đình, dòng họ, địa phương, vùng, miền, dân tộc, nhân
loại. Nói đến truyền thống là nói đến cái được định hình trong lịch sử, “cái
gắn với tâm thức con người về mặt thời gian” [108, tr.55]. Tuy nhiên, độ dài
lịch sử không phải là cái quyết định ý nghĩa của truyền thống, mà giá trị của
nó là: “cái nằm trong quan hệ giữa hiện tại với quá khứ. Con người của xã hội
hiện tại có thái độ như thế nào đối với quá khứ, hay nói cách khác, xã hội hiện
tại cần đến quá khứ ở mức độ nào – chính điều này quy định giá trị của truyền
thống” [108, tr.58]. Ngày nay, nhiều ý kiến coi truyền thống không phải là
“lối mòn”, “hoài niệm” của hiện tại; mà là cơ sở, điều kiện tất yếu cho hoạt
động sống của con người. Mỗi cá nhân, cộng đồng, trong hoạt động của mình
dù muốn hay không đều phải bắt đầu từ chính những cái quá khứ để lại, kể cả
quá khứ tổ tiên và quá khứ loài. Vì vậy, truyền thống cần được xem là:
“nguồn”, “dòng” của sự vận động và phát triển xã hội [108, tr. 55].
Truyền thống khoan dung, đồng thuận của dân tộc Việt Nam không phải
được hình thành một cách ngẫu nhiên mà do các nhân tố khách quan chi phối.
Một số nhân tố chủ yếu như:
Điều kiện tự nhiên: Việt Nam nằm ở phía đông nam của lục địa Á – Âu, là
đầu mối giao lưu tự nhiên của Đông Nam Á. Với vị trí địa lý như vậy, trong
lịch sử, Việt Nam là nơi tiếp nhận, chu chuyển của nhiều luồng văn hóa, qua
61
lại của nhiều nhóm cư dân khác nhau. Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới
gió mùa, thời tiết khắc nghiệt. Do ở gần biển, địa hình dốc, nhiều sông suối,
hàng năm phải chống chọi với thiên tai, bão lụt… từ đó hình thành một tinh
thần và năng lực chống thiên tai để duy trì và phát triển sản xuất. Để trị thủy,
người Việt bắt buộc phải đoàn kết, đồng thuận: “lũ lụt thì lút cả làng, đắp đê
ngăn lụt thiếp chàng cùng lo”.
Về dân tộc: Việt Nam là quốc gia đa dân tộc. Nhìn một cách khái quát, cư
dân Việt Nam được cấu thành, hỗn chủng qua nhiều thế kỷ từ các tộc người
cơ bản Mongloid (da vàng phía Bắc) và Australoid (da sẫm phía Nam). Như
vậy, con người và xã hội Việt Nam về nguồn gốc, chủng tộc vốn không phải
là đơn nguyên, đồng nhất; tập quán, phong tục, lối sống, tín ngưỡng…cũng
hết sức đa dạng. Điều này làm hình thành sự đa dạng trong tâm lý, tính cách,
xu hướng tư tưởng, mô hình tổ chức, quản lý xã hội… Để duy trì được sự
đoàn kết, thống nhất, đòi hỏi mỗi dân tộc phải biết tôn trọng các giá trị của
dân tộc khác, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Đây chính là cơ sở hình thành
truyền thống khoan dung, đồng thuận của người Việt.
Về lịch sử: Việt Nam là một nước nhỏ tồn tại bên cạnh một đế chế Trung
Hoa lớn mạnh, do đó, luôn phải chịu một sức ép rất lớn trong mối quan hệ giao
lưu thường trực. Lịch sử dân tộc là lịch sử chống ách đô hộ và âm mưu đồng
hóa của các triều đại phong kiến Trung Quốc hơn một nghìn năm. Sau đó, là
các cuộc kháng chiến trường kỳ chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới từ
phương Tây. Hầu như trong tất cả các cuộc chiến tranh ấy, người Việt luôn
phải đọ sức với những kẻ thù lớn mạnh hơn mình rất nhiều lần. Để chống giặc
ngoại xâm, người Việt phải biết đoàn kết, đồng thuận để đánh giặc. Đồng thời,
đây cũng là cơ sở khách quan hình thành đường lối ngoại giao khoan dung
trong quan hệ với kẻ thù sau khi kết thúc chiến tranh. Ngoài ra, sau mỗi cuộc
chiến tranh, hậu quả để lại không chỉ là sự tàn phá, hủy hoại về kinh tế, môi
62
trường mà còn cả những sự phân ly nhất định về tư tưởng trong một bộ phận
nhân dân. Bởi, khi xâm lược, các thế lực ngoại xâm thường lôi kéo, dụ dỗ, mua
chuộc, cưỡng bức một bộ phận người Việt tham gia vào bộ máy cai trị của họ.
Do vậy, sau khi kết thúc chiến tranh, giải quyết các hậu quả thường phải thực
hiện khoan dung (chia sẻ, giúp đỡ những người bị nạn, tha thứ, khoan hồng cho
những người theo giặc) vừa phải thực hiện xây dựng đồng thuận xã hội (xác lập
những điểm tương đồng để lôi kéo toàn dân tộc xóa đi mặc cảm, hận thù cùng
nhau xây dựng đất nước).
Từ sự phân tích trên cho thấy: khoan dung, đồng thuận là nhu cầu nội tại
của dân tộc Việt, do chính những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội quy định.
2.2.2. Truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội
trong lịch sử Việt Nam trên một số lĩnh vực chủ yếu
2.2.2.1. Chính sách cai trị “khoan dân” nhằm tăng cường đồng thuận
giữa nhà nước và nhân dân
“Khoan” có nghĩa là rộng rãi, “khoan dân” là chính sách rộng rãi với nhân
dân, không khắt khe, hà khắc. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, không có hệ
thống lý luận đầy đủ, chặt chẽ diễn tả thế nào là khoan dân mà chủ yếu được
thể hiện thông qua đường lối cai trị cụ thể, thực hiện xuyên suốt trong các thời
kỳ lịch sử, tạo thành một truyền thống của dân tộc.
Biểu hiện của chính sách khoan dân là: miễn giảm thuế khóa, lao dịch khi
dân dân gặp thiên tai, địch họa, sau chiến tranh; ít huy động sức dân xây dựng
cung điện, thành quách sa sỉ, bằng mọi cách tránh để nhân dân phải hy sinh vì
chiến tranh… Bên cạnh đó, ban hành các chính sách quan tâm giúp đỡ những
người khó khăn, cô quả; chăm lo, phát triển mọi mặt đời sống nhân dân.
Trong thời Lý - Trần, chính sách khoan dân được thực hiện thông qua việc
miễn giảm thuế khóa, lao dịch khi nhân dân mất mùa đói kém, sau thiên tai,
địch họa, chiến tranh. Năm 1010, khánh thành cung Thúy Hoa, vua Lý Thái
63
Tổ đại xá cho thiên hạ trong 3 năm, những người mồ côi, góa chồng, già yếu,
thiếu thuế lâu năm đều miễn cả. Năm 1070, đời Lý Thánh Tông, đại hạn, vua
ra lệnh phát thóc và tiền trong kho để chẩn cấp cho dân nghèo; năm Ất Dậu
(1258), sau chiến thắng Nguyên - Mông (lần hai), Trần Nhân Tông xuống
chiếu định lại hộ khẩu trong nước nhằm: “Xem xét tình trạng hao hụt, điêu
tàn của dân để có chính sách phù hợp” [145, tr.62]. Năm 1288, sau chiến
thắng Nguyên - Mông (lần ba), Trần Nhân Tông đại xá thiên hạ, những nơi bị
binh hỏa cướp phá nhiều thì miễn toàn phần tô, dịch; các nơi khác thì miễn
giảm theo các mức độ khác nhau…
Sau khi giành độc lập dân tộc, nhà Lê thực hiện chính sách khoan dân
bằng việc miễn giảm sưu thuế cho nhân dân, thực hiện các biện pháp khuyến
khích phát triển sản xuất (chia ruộng cho dân nghèo, phát triển thủy lợi - trong
hệ thống chính quyền có thêm các chức danh hà đê sứ và khuyến nông sứ
chuyên trách việc bảo vệ đê điều và phát triển nông nghiệp) [73, tr.264]. Năm
1451, trước cảnh: “tai dị liên tiếp xảy ra, mùa màng mấy năm mất mát, muôn
dân, vạn vật không sao sống nổi…., vua Lê Nhân Tông đã: “miễn giảm các
loại thuế, xét việc oan uổng, chiếu cố những người không vợ, góa chồng, cô
quả” [145, tr.379].
Sau khi đánh tan quân Thanh xâm lược, năm 1789, Quang Trung thực hiện
các biện pháp nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất. Ngay trong năm đó, ông cho
ban hành Chiếu khuyến nông nhằm phục hồi dân điêu tán, khai khẩn ruộng đất
bỏ hoang. Ông ra lệnh bãi bỏ nhiều thứ thuế công thương nghiệp nặng nề trước
đây, đồng thời mở rộng việc buôn bán làm ăn cho thương nhân và thợ thủ công.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công (8/1945), Chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hòa đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm phát triển sản xuất, chăm lo đời sống
nhân dân như: tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và bọn Việt gian chia cho dân
64
cày nghèo; cải cách chế độ thuế, theo đó, nhiều thứ thuế hà khắc của chế độ thực
dân đã bị bãi bỏ hay giảm xuống như thuế thân, thuế điền thổ, thuế môn bài…
Những chính sách trên đã góp phần giảm bớt các khó khăn, làm cho nhân
dân thêm tin tưởng, gắn bó với nhà nước; đồng thời, góp phần bồi dưỡng sức
dân, làm cơ sở chính trị - xã hội để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Lịch sử dân tộc cũng chứng tỏ, khi nào giai cấp cầm quyền không khoan
dân thì cũng không tạo được đồng thuận xã hội và hệ quả kéo theo là sự bất
ổn định về chính trị - xã hội hoặc bị các thế lực ngoại bang xâm lược.
Từ giữa thế kỷ XII, nhà Lý có biểu hiện của sự thoái hóa, suy vong; vua quan
quý tộc chỉ lo vơ vét của dân, ăn chơi xa đọa. Trước sự ăn chơi vô độ của Lý
Cao Tông, Tăng phó Nguyễn Thường đã chỉ trích: “Nay dân loạn, nước nguy,
chúa thượng chơi bời vô độ, chính sự triều đình rối loạn, lòng dân trái lìa, đó là
điềm bại suy vong” [144, tr.299]. Nông dân công xã bị bọn quan lại đục khoét,
đóng tô thuế nặng nề, quanh năm lao dịch vất vả. Hậu quả là, năm 1181, số
người chết đói có nơi lên đến gần một nửa số dân. Nhiều nông dân phải dời bỏ
quê hương, xóm làng trốn đi nơi khác để tránh tô thuế, lao dịch [73, tr.184].
Chính sách cai trị như vậy, hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra như:
cuộc khởi nghĩa do Thân Lợi lãnh đạo diễn ra tại Thái Nguyên (1140-1141);
khởi nghĩa do Lê Vãn cầm đầu tại Thanh Hóa (1188-1192); khởi nghĩa do Phí
Lãng tổ chức tại Ninh Bình (1202-1215)…
Từ giữa thế kỷ XIV, nhà Trần bước vào giai đoạn suy vi, các vua Trần
không quan tâm chính sự, chỉ lo ăn chơi, hưởng lạc. Trong lúc thiên tai mất
mùa, đời sống nhân dân đói kém: “năm 1357, có đói lớn, liền mấy năm luôn bị
mất mùa, một thưng gạo trị giá mấy quan tiền” thì Trần Dụ Tông lại ăn chơi
buông tuồng vô độ. Sử chép: “Năm Nhâm Dần (1362), mùa xuân, ra lệnh bảo
các vương hầu, công chúa cho diễn các trò tạp hí để dâng vua coi, rồi nhà vua
nhận định đám nào trội hơn thì khen thưởng. Nhà vua lại triệu tập những nhà
65
giàu trong nước vào cung đánh bạc…”. Do chính sách thuế má, lao dịch nặng
nề, hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra như: khởi nghĩa của Ngô Bệ
(1344-1360) tại Kim Môn, Hải Dương; khởi nghĩa do Tề lãnh đạo (1354) tại
Lạng Sơn; khởi nghĩa do Phạm Sư Ôn lãnh đạo tại Quốc Oai… Bên ngoài, lợi
dụng lúc nhà Trần suy yếu, vua Chăm-pa là Chế Bồng Nga mở nhiều cuộc tấn
công vào Nghệ An, Thanh Hóa, thậm chí tới tận cả kinh thành Thăng Long.
Hậu quả cuối cùng, nhà Trần mất ngôi về tay nhà Hồ năm 1400.
Sang giai đoạn nhà Lê, sau chiến thắng quân Minh, Lê Thái Tổ bắt tay vào
xây dựng đất nước; trải qua các đời Thái Tổ, Thái Tông đất nước được hưởng
thái bình. Sau thời gian đó, một bộ phận quan lại phong kiến hình thành tư
tưởng hưởng thụ, bóc lột, vơ vét của dân, làm cho đời sống nhân dân điêu tàn,
khốn khó. Sự ăn chơi sa đọa của một bộ phận quan lại triều Lê khiến Lương
Đắc Bằng phải than: “Tước đã hết mà lạm thưởng không hết, dân đã cùng mà
lạm thu không cùng, phú thuế thu đến tơ tóc mà dùng của như bùn đất, bạo
ngược như Tần Chính, đãi công thần như chó ngựa, coi dân chúng như cỏ
rác…” [73, tr.286]. Sự sa đọa của triều đình đã dẫn đến các cuộc tranh giành
quyền lực giữa các phe phái phong kiến. Hậu quả cuối cùng, nhà Mạc cướp
ngôi nhà Lê dẫn đến tình trạng “Nam Bắc phân tranh” rồi “vua Lê chúa
Trịnh”, hậu quả là sự can thiệp của bên ngoài, nhà Thanh xâm lược.
Giai đoạn nhà Nguyễn, chính sách thuế khóa, lao dịch rất nặng nề, mỗi dân
đinh phải chịu 60 ngày lao dịch cho triều đình (thường để làm các việc xây sửa
hệ thống đê điều, đắp thành lũy, xây cung điện, lăng tẩm cho hoàng tộc). Năm
1842, Vua Thiệu Trị trong một cuộc tuần du Bắc kỳ, đã bắt người dân các địa
phương phải xây dựng 44 hành cung cho một phái đoàn đông tới 17.500 người,
44 con voi, 172 con ngựa của nhà vua. Theo nhận xét của giáo sĩ Guerard: “Sự
bất công và lộng hành làm người ta rên xiết hơn cả thời Tây Sơn, thuế khóa và
lao dịch đã tăng lên gấp ba” [dẫn theo 73, tr.375]. Với chính sách cai trị như
66
vậy, trong giai đoạn nhà Nguyễn cầm quyền, xuất hiện nhiều cuộc khởi nghĩa
nông dân nhất. Các nhà sử học tính rằng, số lượng các cuộc nổi dậy nửa đầu
thế kỷ XIX còn nhiều hơn cả thế kỷ XVIII (từ 1802 - 1862, tại Bắc Hà, có
khoảng 400 cuộc khởi nghĩa nông dân).
Tổng kết bài học lịch sử, Ngự sử đài Nguyễn Duy Thì viết: “Kẻ thừa hành
chỉ chăm chăm làm điều hà khắc, bạo ngược, đua nhau xa xỉ, coi một huyện thì
làm khổ dân một huyện, coi một xã thì làm khổ dân một xã, mọi việc nhiễu dân
không gì không làm… Nếu biết thi hành chính sách bảo vệ dân thì dưới thuận
lòng người, trên hợp ý trời, chuyển tai họa thành điềm lành, lúa được mùa luôn,
người người no đủ, trong nước thái bình, cơ nghiệp ức muôn năm của nước nhà
từ nay cũng do đó mà bền vững lâu dài vậy” [146, tr.215].
Thời kỳ hiện đại, trong thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, không phải
không có lúc, có nơi một số đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta cũng
có lập trường quá “tả”. Ví như: chính sách với một bộ phận địa chủ phong kiến
thời kỳ cải cách ruộng đất; đối với các nhân sĩ, trí thức, công chức, viên chức,
những người làm việc trong hệ thống bộ máy của chính quyền Việt Nam Cộng
hòa trước 1975... điều này cũng ảnh hưởng ít nhiều đến xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, đồng thuận xã hội cả cho đến hiện nay.
Xét đến cùng, sự tồn tại của bất kỳ thể chế chính trị nào cũng phải dựa vào
dân. Đặc biệt, trong lịch sử dân tộc Việt Nam, hai yếu tố thường xuyên chi
phối chính trị là trị thủy và chống ngoại xâm. Để làm được, nhà nước tất yếu
phải dựa vào dân, vào sự đồng lòng, nhất trí, ủng hộ của đại đa số các tầng
lớp nhân dân. Muốn vậy, phải thực thi chính sách khoan dân. Còn ngược lại,
nếu hà khắc với nhân dân, bất đồng xảy ra, sức mạnh dân tộc bị suy yếu, khi
đó, các thế lực ngoại bang sẽ tìm cách xâm lược. Đây là bài học còn có giá trị
thời sự trong giai đoạn hiện nay.
67
2.2.1.2. Truyền thống khoan dung trong xử lý mối quan hệ với những
người đã từng mắc lỗi lầm nhằm tăng cường đồng thuận xã hội
Thường trực trong lịch sử dân tộc Việt Nam là chống giặc ngoại xâm, khi
xâm lược, bằng các thủ đoạn khác nhau, chúng lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc
thậm chí cưỡng ép một bộ phận nhân dân làm tay sai, tham gia vào bộ máy
cai trị. Do vậy, khi kết thúc chiến tranh thường diễn ra tình trạng “phân ly”,
mặc cảm, tự ti, mâu thuẫn trong nội bộ dân tộc. Để xây dựng đất nước, các
nhà cầm quyền nước ta thường thi hành chính sách khoan dung, tha thứ cho
những người mắc lỗi lầm để cùng nhau đoàn kết, xây dựng đất nước. Thực tế
đó, đã hình thành một triết lý trong ứng xử đối với những người có lỗi nhưng
biết ăn năn, hối cải: “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại”. Trong
lịch sử, đã có nhiều trường hợp những người mắc lỗi lầm biết ăn năn, hối cải,
được các nhà cầm quyền bao dung, tha thứ; nhờ vậy, đã có đóng góp to lớn
cho công cuộc dựng nước và giữ nước.
Nhân huệ vương Trần Khánh Dư có công lớn được phong “Phiêu kỵ đại
tướng quân”, nhưng vì tư thông với công chúa Thiên Thụy mà bị truất hết
vương hiệu trở thành kẻ bán than, được Trần Nhân Tông tha tội mà lập được
nghiệp lớn ở trận Vân Đồn. Trần Nhật Hiệu lúc quân Nguyên sang xâm lược sợ
hãi dâng kế “nhập Tống”, được tha, sau cũng lập công và được phong “Tướng
quốc Thái úy”. Trần Liễu vì mâu thuẫn với Trần Thái Tông nổi loạn, được tha
tội, sau này con là Trần Quốc Tuấn đã gạt mối bất hòa gia đình mà lo việc
nước… “Khi quân Nguyên vào cướp nước, vương hầu, quan lại nhiều người
đến doanh trại xin hàng. Đến khi giặc thua bắt được cả một hòm biểu xin hàng,
Thượng hoàng Trần Thánh Tông sai đốt hết đi để yên lòng những kẻ phản trắc”
[145, tr.65]. Ở đây ta thấy, quan điểm và hành động của Trần Thánh Tông rất
khoan dung, độ lượng. Trong lúc nước nhà nguy cấp, có kẻ vì mưu lợi riêng mà
ngấm ngầm hàng giặc, kết thúc chiến tranh, nếu là kẻ vũ dũng có thể đem tất cả
68
bọn ấy mà giết đi để làm gương cho những kẻ bán nước hại dân khác. Nhưng
ông đã không làm vậy, hành động cho đốt hòm biểu của những kẻ xin hàng vừa
thể hiện đức độ của ông, vừa tạo cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, biết bỏ qua những lỗi lầm nhất thời của người khác.
Tinh thần khoan dung, độ lượng của dân tộc tiếp tục được phát huy ở Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Với những người lầm lỗi, Người cho rằng: “Không được
báo oán, báo thù. Đối với những kẻ lầm đường, lạc lối đồng bào ta cần dùng
chính sách khoan hồng. Lấy lời khôn, lẽ phải mà bày cho họ... Tuyệt đối
không được dùng cách kịch liệt” [85, tr.420].
Khoan dung với những người mắc lỗi lầm biết ăn năn hối cải là truyền thống
của dân tộc ta, nó vừa phản ánh bản chất nhân hậu của người Việt, vừa phản ánh
nhu cầu đoàn kết dân tộc để dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, cũng phải thấy
rằng, khoan dung không có nghĩa là nhu nhược. Đối với những kẻ bán nước, hại
dân thì những nhà cầm quyền cũng kiên quyết trừng trị. Ngô Quyền giết Kiều
Công Tiễn vì tư thông với quân Nam Hán; nhân dân phỉ báng bọn Trần Ích Tắc,
Lê Chiêu Thống coi họ không bằng loài cầm thú cũng vì lẽ đó.
2.2.1.3. Truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội
giữa các dân tộc, tôn giáo trong nước
Trong quan hệ dân tộc, tinh thần khoan dung được thể hiện trên hai
phương diện chính: thứ nhất, Nhà nước tôn trọng lợi ích, bản sắc văn hóa của
các dân tộc; thứ hai, cộng đồng các dân tộc không phân biệt quy mô (lớn -
nhỏ), trình độ phát triển kinh tế - xã hội (cao – thấp) tôn trọng lẫn nhau.
Là một quốc gia đa dân tộc, có dân tộc đa số, có dân tộc thiểu số, các dân
tộc có trình độ phát triển không đồng đều, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa, cách
thức tổ chức xã hội riêng… Nhưng, các dân tộc đều tồn tại chung trong một
cộng đồng quốc gia thống nhất. Các nhà cầm quyền Việt Nam thường ban hành
chính sách xây dựng đoàn kết dân tộc. Mỗi dân tộc cũng tự xác định, điều hòa
69
lợi ích, tôn trọng bản sắc của dân tộc khác để cùng tồn tại hòa bình, cùng nhau
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngoài nguyên nhân khách quan từ phương thức
sản xuất nông nghiệp, nguồn gốc sâu xa của tình đoàn kết dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bắt nguồn từ truyền thuyết “Âu Cơ và Lạc Long Quân”, một
người gốc Âu, một người gốc Lạc kết hợp với nhau tạo ra cộng đồng dân tộc.
Toàn thể dân tộc Việt Nam đều từ một mẹ, một bọc, cùng chung nguồn cội,
đều là anh em một nhà. Sự khác biệt nếu có chỉ là do những điều kiện sống
“năm mươi người theo cha lên rừng, năm mươi người theo mẹ xuống biển”, đó
chính là nguồn gốc tình đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam.
Chính sách khoan dung của Nhà nước với các dân tộc trong lịch sử
Thời kỳ nhà Lý, chính sách khoan dung nhằm tạo đồng thuận xã hội trong
quan hệ dân tộc chủ yếu thông qua hôn nhân, phong quan tước và giao quyền
cai trị địa phương cho các tù trưởng dân tộc thiểu số. Thông qua chính sách
khôn khéo này, nhà Lý đã quy tụ được các tù trưởng, người dân các dân tộc
thiểu số vào khối đại đoàn kết dân tộc, đó là lực lượng quan trọng của chính
quyền Trung ương trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Giai đoạn nhà Trần, các nhà cầm quyền đã thực hiện đoàn kết, thống nhất
các dân tộc thiểu số bằng cách cử những quý tộc, quan lại có năng lực, danh
tiếng, am hiểu phong tục tập quán các dân tộc thiểu số đi phủ dụ dân chúng.
Chuyện nhà Trần dùng con đường văn hóa để thu phục Trịnh Giác Mật – một
tù trưởng ở đạo Đà Giang là một ví dụ điển hình chính sách hòa bình, khoan
dung về dân tộc của Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư viết: Năm Canh thìn
(1280), Trịnh Giác Mật tù trưởng đạo Đà Giang làm phản, vua sai Trần Nhật
Duật đi dụ hàng. Nhật Duật đã không dùng binh hùng, tướng mạnh để quy
phục mà ông đã: “cùng ăn bốc, uống bằng mũi, khiến người man thích lắm.
Khi trở về thì Mật đã đem theo cả gia thuộc đến doanh trại xin hàng” [145,
tr.46]. Ở đây ta thấy, cách ứng xử khôn ngoan của Trần Nhật Duật cũng là biểu
70
tượng của lối ứng xử của các nhà cầm quyền Việt Nam với đồng bào các dân
tộc thiểu số. Ông đã thu phục đồng bào dân tộc thiểu số bằng sự hiểu biết, tôn
trọng phong tục, tập quán của họ.
Giai đoạn nhà Lê, chính sách khoan dung biểu hiện ở việc tôn trọng luật lệ
của các dân tộc thiếu số. Điều 40, Luật Hồng Đức quy định: “Những người miền
thượng du cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội” [147,
tr.37]. Về chính sách thuế khóa, lao dịch, nhà nước Trung ương luôn ưu ái với
đồng bào các dân tộc thiểu số. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: “Khi các trấn
Tuyên Quang, Quy Hóa, Gia Hưng bị nạn đói, tri tân đạo là Nguyễn Phú đã xin
phát thóc trong kho cho dân vay chống đói. Nhà vua đã xuống chiếu đồng ý”.
Ngay khi lên ngôi, Gia Long đã ban quan tước cho thổ tù các địa phương từ
Thanh Hóa đến Tuyên Quang. Để tăng cường sự thống nhất, quản lý của triều
đình, Minh Mạng đặt ra chế độ buộc các quan, thổ tù các dân tộc thiểu số phải
thường xuyên báo cáo tình hình vùng dân tộc thiểu số lên chính quyền trung
ương. Các quan lại định kỳ hàng năm hoặc trong dịp đại lễ phải về kinh đô
trình diện vua...
Với chính sách khoan dung, độ lượng, cảm hóa bằng con đường hòa bình,
sự tôn trọng phong tục, tập quán, lối sống; qua ràng buộc lợi ích kinh tế, chính
trị, quan hệ hôn nhân… chính quyền Trung ương đã quy tụ được các dân tộc
cùng đoàn kết, đồng lòng, nhất trí xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khoan dung trong quan hệ tôn giáo: Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, có
tôn giáo được hình thành trong lòng dân tộc, có tôn giáo được du nhập từ bên
ngoài vào; số lượng tín đồ, tình cảm tôn giáo, vị thế xã hội của các tôn giáo
cũng không hoàn toàn như nhau. Trong lịch sử, cũng có giai đoạn nhà nước
đề cao tôn giáo này hay tôn giáo kia, tuy nhiên, một điều nổi bật là Việt Nam
không hề xảy ra chiến tranh tôn giáo. Khoan dung tôn giáo được thể hiện trên
hai phương diện chính: một là, nhà nước (chủ thể cầm quyền) tôn trọng các
71
tôn giáo, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; hai là, các tôn giáo,
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau tôn trọng niềm tin của nhau, cùng nhau
đoàn kết xây dựng đất nước.
Ngay từ đầu công nguyên, ba tư tưởng là: Nho, Phật, Đạo đã được truyền bá
vào nước ta. Trong các tầng lớp nhân dân, nhiều người đã theo các tôn giáo đó.
Từ thế kỷ X, khi bắt tay vào xây dựng quốc gia độc lập, các triều đại phong
kiến Việt Nam hoặc sử dụng Phật giáo, hoặc sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng
chủ đạo. Mặc dù có khi đề cao tôn giáo này hay tôn giáo khác, nhưng không
bài bác tôn giáo nào. Trong những thời kỳ nhất định, các triều đại phong kiến
còn đồng thời lấy cả ba tôn giáo làm nội dung giáo dục, thi cử trong chương
trình chính thống (thời Lý, Trần). “Tam giáo đồng nguyên” là một biểu hiện
tiêu biểu của sự kết hợp các tư tưởng (tôn giáo) ở nước ta. Ở cuối thời Trần,
trong giới trí thức có xảy ra việc tranh luận về vị trí, vai trò của Nho giáo, Phật
giáo trong đời sống tư tưởng. Tuy nhiên, đây không phải là quan điểm chính
thống của nhà nước và cũng không phải là sự phủ nhận, bài bác tôn giáo mà chỉ
là xác định địa vị của tôn giáo trong xác lập hệ tư tưởng xã hội. Trong khoảng
thế kỷ XVII-XIX, Ki tô giáo được truyền bá vào nước ta, Ki tô giáo cũng được
chấp nhận một cách hòa bình, được một bộ phận nhân dân đón nhận. Nhà
Nguyễn có một thời kỳ cấm đạo, tuy nhiên, sự cấm đạo này chủ yếu liên quan
đến lý do chính trị chứ không phải tôn giáo.
Biểu hiện thứ hai của khoan dung trong lĩnh vực tôn giáo ở nước ta là, mặc
dù có nhiều tôn giáo khác nhau nhưng người Việt không có chiến tranh tôn
giáo. Không chỉ trong phạm vi quốc gia, ngay trong những đơn vị nhỏ hơn
như trong một làng, một xã, một dòng họ… cũng có trường hợp những người
theo các tôn giáo khác nhau. Dù vậy, đồng bào theo các tôn giáo khác nhau
đều tôn trọng niềm tin, tín ngưỡng của nhau. Đây cũng là một điều khác biệt
72
của Việt Nam so với một số nước trong khu vực và trên thế giới, nó phản ánh
tinh thần khoan dung của người Việt.
Chính nhờ tinh thần khoan dung trên (cả từ chính sách của nhà nước và từ
cộng đồng) mà trong lịch sử đã ít xảy ra mâu thuẫn, bất đồng lớn giữa cộng
đồng các tôn giáo với nhà nước hoặc giữa các tôn giáo với nhau. Các tôn giáo
ở Việt Nam đều có điểm tương đồng, đó là mục tiêu góp phần hoàn thiện
nhân cách con người (hướng thiện); đều tồn tại thống nhất trong phạm vi Tổ
quốc nên lấy lợi ích dân tộc là tối thượng. Đó chính là cơ sở để xây dựng sự
đồng thuận, tình đoàn kết, thống nhất giữa các tôn giáo với đất nước và giữa
các tôn giáo với nhau.
2.2.1.4. Truyền thống khoan dung trong việc xử lý mối quan hệ với kẻ thù
xâm lược sau kết thúc chiến tranh
Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, xét về loại hình, Việt Nam
thuộc văn hóa nông nghiệp, đặc trưng của nó là sống trọng tình, cho nên, nét
nổi bật của văn hóa Việt Nam là tính cách hòa hiếu. Biểu hiện: trong lịch sử
văn chương Việt Nam không có loại tác phẩm anh hùng ca ngợi chiến tranh,
có nhắc tới chiến tranh thì cũng chỉ nói về nỗi buồn của nó (Chinh phụ ngâm);
trong nghệ thuật hình khối Việt Nam, không có loại tác phẩm hội họa, điêu
khắc về đề tài chiến tranh với cảnh đầu rơi, máu chảy rùng rợn. Người Việt
coi trọng văn học hơn võ học, nhà nước phong kiến Việt Nam coi trọng thi
văn hơn võ. Trong đối xử với các nước lân bang, ông cha ta cũng thường có
thái độ hòa hiếu.
Trong mục bang giao chí, sách Lịch triều hiến chương loại chí, nhà sử học
Phan Huy Chú viết: “Trong việc trị nước, hòa hiếu với nước láng giềng là việc
lớn, mà những khi ứng thù, lại rất quan hệ, không thể xem thường, cho nên nghĩa
tu hiếu (sửa việc giao hiếu) chép ở kinh Xuân thu, đạo giao lân (giao thiệp với
73
nước láng giềng) chép ở thiên Hiền truyện (sách Mạnh tử), chính là đem lòng tin
thực mà kết giao, người có quyền trị nước phải nên cẩn thận” [18, tr.135].
Trong giai đoạn phong kiến, lịch sử còn ghi lại ba lần quân dân nước Việt
khoan hồng, tha thứ cho giặc phương Bắc. Lần thứ nhất, năm 1077, sau khi đánh
cho quân Tống đại bại trên phòng tuyến sông Cầu, Lý Thường Kiệt đã chủ động
điều đình, giảng hòa mở lối thoát để quân Tống rút quân về nước. Lần thứ hai,
năm 1427, sau khi nghĩa quân Lam Sơn đánh tan hơn mười vạn viện binh của
giặc Minh tại ải Chi Lăng, Lê Lợi cũng chủ động điều đình để Vương Thông
giảng hòa. Nhìn nhận thực tế chiến trường lúc đó, một mặt, quân Minh đã bị vây
chặt tại thành Đông Quan, mặt khác, đội viện binh hơn mười vạn quân do Liễu
Thăng chỉ huy đã bị quân ta đánh cho tan tác tại Chi lăng, Xương Giang mới
thấy hết tinh thần khoan dung của nghĩa quân Lam Sơn. Dù ở thế thuận lợi về
quân sự, nhưng với tinh thần khoan dung, độ lượng, Lê Lợi vẫn tỏ ra khiêm tốn,
nhún nhường, mong muốn kết thúc chiến tranh bằng con đường hòa bình. Ngày
10/12/1427 diễn ra Hội thề Đông Quan, thực chất là một hình thức đầu hàng
công khai của nhà Minh. Lần thứ ba, sau đại thắng mùa xuân Ất Dậu (1789),
Quang Trung một mặt ra lệnh đối xử tử tế với tất cả tù binh, hàng binh trước khi
tha họ về quê hương; cho thu hài cốt giặc trên chiến trường, chôn thành mười hai
gò đống và lập đàn cúng tế; mặt khác, ông sai Ngô Thì Nhậm thảo văn thư gửi
nhà Thanh xin thiết lập quan hệ bang giao hòa hiếu giữa hai nước.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tinh thần
khoan dung của dân tộc ta một lần nữa lại tỏa sáng. Mặc dù tội ác của giặc ngoại
xâm vô cùng tàn bạo, nhưng khi bắt được tù binh, hàng binh, Chính phủ và nhân
dân ta đều đối đãi rất khoan hồng, độ lượng. Sau kết thúc chiến tranh, Đảng, Nhà
nước Việt Nam chủ động “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, thiết lập quan
hệ hòa bình với các nước.
74
Có tác giả đã khái quát: “Truyền thống của chính trị Việt Nam là khoan
dung, khoan dung của dân tộc Việt Nam không chỉ thể hiện trong chính trị mà
cả trong quân sự, ngoại giao, trong các hoạt động kinh tế, xã hội và trong ứng
xử hàng ngày. Khoan dung là phẩm chất phổ biến của dân tộc Việt Nam, nó
cũng là giá trị văn hóa chính trị đặc sắc và độc đáo, có thể nói là hiếm thấy
trong các nền chính trị thế giới” [61, tr.166].
2.2.1.5. Truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội
trong tiếp thu các tư tưởng, văn hóa tiến bộ bên ngoài
Tính khoan dung trên lĩnh vực tư tưởng thể hiện: người Việt tiếp nhận hòa
bình các tư tưởng tiến bộ bên ngoài. Sau khi được tiếp nhận, các tư tưởng
cùng đóng góp, đồng hành, cố kết dân tộc thành một khối, làm cho các thành
viên trong cộng đồng cùng đồng thuận, hướng về một mục tiêu đó là xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp nhận các tư tưởng từ Ấn Độ: người Việt tiếp nhận các tư tưởng Ấn Độ
chủ yếu trên lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, tiêu biểu là đạo Bà la môn và Phật
giáo. Ảnh hưởng của Bà la môn giáo với người Việt chủ yếu ở khu vực phía Nam
với người Chăm. Theo sử liệu, từ đầu Công nguyên, lợi dụng lúc nhà Hán suy
yếu, một viên chức quận Tượng Lâm là Khu Liên đã lãnh đạo người Chăm khởi
nghĩa lập nên vương quốc Lâm Ấp. Sau khi lập quốc, người Chăm thoát khỏi ảnh
hưởng của văn hóa Trung Hoa, thay vào đó, người Ấn Độ đến ngày một nhiều, và
khác với người Trung Hoa, họ không mang theo chiến tranh. Vì vậy, văn hóa Ấn
Độ được người Chăm vui vẻ tiếp nhận. Ảnh hưởng của Bà la môn đối với người
Chăm Việt Nam diễn ra từ khoảng thế kỷ VII đến thế kỷ XV, khi Chăm pa chấm
dứt sự tồn tại với tư cách quốc gia của mình. Biểu hiện rõ nhất sự ảnh hưởng này
là việc hình thành đạo Bà Chăm, vừa có những dấu ấn của Bà la môn giáo Ấn Độ
vừa có những đặc điểm của tín ngưỡng Việt Nam.
75
Đạo Phật được truyền bá vào Việt Nam từ những năm đầu Công nguyên.
Ở phía Bắc, các nhà sư Ấn Độ theo đường biển đã đến Việt Nam; Luy Lâu, trị
sở quận Giao Chỉ đã sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Do thâm
nhập một cách hòa bình, ngay từ thời Bắc thuộc, Phật giáo đã phổ biến rộng
khắp các tầng lớp nhân dân và có ảnh hưởng to lớn tới đời sống tâm lý, tín
ngưỡng người Việt. Đến thời Lý, Trần, Phật giáo ở Việt Nam phát triển cực
thịnh, nó trở thành một trong những bộ phận hợp thành hệ tư tưởng của giai
cấp thống trị. Các nhà cầm quyền Việt Nam thời đó thường là những người có
tín ngưỡng, am hiểu phật pháp, thậm chí, có những nhà cầm quyền đồng thời
là nhà tu hành, người sáng lập ra các hệ phái mới của Phật giáo (như Trần
Nhân Tông sáng lập hệ phái Trúc Lâm).
Như vậy, người Việt tiếp nhận một cách hòa bình các tư tưởng, tín
ngưỡng, văn hóa từ Ấn Độ. Sau khi tiếp nhận, đã cải biến các tôn giáo, tín
ngưỡng cho phù hợp với đặc điểm tâm lý của mình. Sự kết hợp Phật giáo với
tín ngưỡng bản địa như việc thờ các vị thần tự nhiên (tứ pháp), các anh hùng
dân tộc, cải biến Phật giáo thành tôn giáo Việt Nam như Phật giáo Cao Đài,
Hòa Hảo… là những minh chứng cho tư tưởng khoan dung của người Việt.
Tiếp nhận các tư tưởng từ Trung Quốc: đầu Công nguyên, Nho giáo theo
chân các lực lượng cai trị Trung Quốc từng bước được du nhập vào Việt Nam.
Lúc đầu, vì gắn với kẻ xâm lược, Nho giáo chỉ đến với một bộ phận trong tầng
lớp “bên trên” của xã hội. Sau khi giành độc lập, do nhu cầu xây dựng một nhà
nước tự chủ, Nho giáo được người Việt tiếp nhận và sử dụng làm hệ tư tưởng
của mình. Từ 1070, với việc nhà Lý cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng
Tử, Nho giáo được xem là tiếp nhận chính thức ở Việt Nam. Tuy nhiên, lúc này
nhiều yếu tố của Nho giáo Trung Hoa đã bị văn hóa truyền thống Việt đồng hóa.
Đây chính là sự biểu hiện của tinh thần khoan dung trên lĩnh vực tư tưởng: tiếp
thu hòa bình các tư tưởng bên ngoài, sau đó cải tạo, biến đổi cho phù hợp với
76
đặc điểm, nhu cầu, lợi ích của mình. Ngoài Nho giáo, Đạo giáo cũng là một tư
tưởng từ Trung Quốc được người Việt tiếp nhận và cải biến. Và cũng như Nho
giáo, khi vào Việt Nam, Đạo giáo cũng được người Việt cải biến như: kết hợp
với các tín ngưỡng bản địa: thờ Đức thánh Trần, Bà chúa Liễu…
Tiếp nhận tư tưởng phương Tây: Từ giữa thế kỷ XVI, các nhà truyền giáo
phương Tây đã truyền bá Ki tô giáo vào Việt Nam. Cho đến năm 1593, họ đã
lôi kéo được 5 vạn người theo đạo và đào tạo được 40 tu sĩ người Việt. Như
vậy, Ki tô giáo đã đóng vai trò mở đầu cho sự giao lưu rộng rãi giữa văn hóa
Việt Nam với phương Tây [115, tr.548]. Thông qua hoạt động truyền giáo, ảnh
hưởng của văn hóa phương Tây tới văn hóa Việt Nam diễn ra trên nhiều
phương diện, như: hình thành chữ quốc ngữ (thay thế chữ Hán Nôm), hình
thành nền báo chí theo kiểu phương Tây (năm 1865 xuất bản tờ Gia Định báo).
Ngoài ra, trên các lĩnh vực văn học nghệ thuật, giáo dục, khoa học đều có sự
ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Cùng với đó, trong xã hội xuất hiện một
tầng lớp trí thức Tây học tích cực cổ động tư tưởng dân chủ tư sản, chống lại tư
tưởng phong kiến, bảo thủ tại Việt Nam lúc đó. Như vậy, tư tưởng phương Tây
đã ảnh hưởng và từng bước được người Việt tiếp nhận.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tư tưởng tư sản phương Tây được truyền
bá vào Việt Nam qua “Tân thư, tân văn”, theo hai con đường Trung Quốc và
Nhật Bản. Những cuốn sách này bao gồm tri thức về khoa học tự nhiên, xã hội,
triết học, chính trị, công nghệ, địa lý, lịch sử... được dịch từ tác phẩm của các
nhà Khai sáng như: Khế ước xã hội của J.J. Rousseau; Tinh thần pháp luật của
Montesquier; hoặc các nhà cải cách Trung Quốc như: Khang Hữu Vi, Lương
Khải Siêu, Đàm Tự Đồng…; các nhà cải cách Nhật Bản: Yoshida (Cát Điền
Tùng Âm), Fukuzawa Yukichi (Phúc Trạch Dụ Cát)…đề cập tới các yêu cầu
cải cách thể chế chính trị, tổ chức kinh tế, giáo dục, xã hội…theo lối phương
Tây. Từ đó, hình thành các phong trào học tập, tiếp thu văn minh phương Tây;
77
tinh thần “túy tân văn hóa” (say mê học tập tư tưởng mới của châu Âu) lan
rộng trong tầng lớp trí thức Việt Nam. Họ háo hức tìm hiểu cái mới, ôm ấp hoài
bão đổi mới, cải cách đất nước theo gương các nước phương Tây. Xuất hiện
các cá nhân tiêu biểu như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can,
Nguyễn Quyền… với các phong trào như Duy Tân, Đông kinh nghĩa thục…
Những thập niên đầu của thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền
bá vào nước ta. Cùng với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, chủ
nghĩa Mác – Lênin là một trong ba nhân tố dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đến những năm 1950-1960, khi tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, văn hóa xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là văn hóa xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô được tiếp thu một cách rộng rãi và có hệ thống ở nước ta, nó
ảnh hưởng trên tất cả các mặt của đời sống tinh thần từ khoa học, giáo dục,
nghệ thuật, đạo đức, chính trị, luật pháp… Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt
Nam vẫn xác định chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng.
Các tư tưởng bên ngoài du nhập vào Việt Nam thuộc nhiều lĩnh vực: chính
trị, văn học, nghệ thuật, tín ngưỡng, tôn giáo ...; có những tư tưởng khi vào
Việt Nam chỉ ảnh hưởng đến một bộ phận dân chúng nhưng cũng có tư tưởng
ảnh hưởng đến toàn thể dân tộc. Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy, tất cả các
tư tưởng trên khi vào Việt Nam đều trở thành một bộ phận trong nền văn hóa,
đồng hành cùng dân tộc. Những người tin theo các niềm tin khác nhau tôn
trọng, không bài bác cực đoạn hay xung đột lẫn nhau; lấy lợi ích dân tộc là
điểm tương đồng tối cao để cùng nhau đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, khoan dung (tiếp thu tinh hoa văn hóa bên ngoài, tôn trọng niềm tin
của người khác) chính là một truyền thống, một cơ sở để xây dựng đồng
thuận xã hội trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
78
Từ sự phân tích trên cho thấy, trong quá trình dựng nước và giữ nước, văn
hóa Việt Nam đã có những cuộc tiếp xúc, tiếp biến các luồng tư tưởng bên
ngoài. Khoan dung văn hóa là: “phương thức hữu hiệu để bảo vệ và phát triển
các giá trị văn hóa, tiếp biến các giá trị tích cực để nâng cao giá trị văn hóa
dân tộc” [83, tr.132 ]. Ông cha ta đã tiến hành bảo vệ, phát triển văn hóa dân
tộc không phải bằng tư tưởng bảo thủ, cố chấp hay tự cao tự đại mà đã có sự
học hỏi, tiếp thu những yếu tố từ bên ngoài làm phong phú hơn nền văn hóa
dân tộc. Khoan dung văn hóa là một truyền thống, cao hơn, là một quy luật
trong sự phát triển của dân tộc Việt Nam. Bài học này vẫn có ý nghĩa thời sự
trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay.
79
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Khoan dung, đồng thuận xã hội là những phạm trù cơ bản trong lịch sử
tư tưởng nhân loại, là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác
nhau; mỗi ngành khoa học, tùy theo đặc điểm của mình mà nhấn mạnh mặt
này hay mặt kia của khái niệm. Tuy nhiên, giữa các quan điểm khác nhau về
khoan dung, vẫn có sự thống nhất, đó là: “tôn trọng, chấp nhận những khác
biệt”. Mục tiêu của khoan dung nhằm duy trì hòa bình, tạo nền tảng cho sự
phát triển xã hội. Đồng thuận xã hội là sự đồng ý, nhất trí của nhiều thành
viên trong cộng đồng về cùng một vấn đề nào đấy.
Do điều kiện tự nhiên, xã hội, lịch sử... dân tộc Việt Nam đã hình thành
truyền thống khoan dung, đồng thuận từ rất sớm. Chúng được biểu hiện trên tất
cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Khoan dung trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam vừa có điểm tương đồng, vừa có điểm khác biệt so với tư tưởng
khoan dung của nhân loại. Điểm tương đồng là: sự tôn trọng những khác biệt
(của cá nhân và cộng đồng); mục đích của khoan dung nhằm tạo ra môi trường
hòa bình cho sự phát triển. Điểm khác biệt cơ bản là, ở Việt Nam, khoan dung
vừa được coi là một giá trị đạo đức, vừa được coi là một hình thức cai trị. Những
đặc điểm này xuất phát từ chính điều kiện cụ thể Việt Nam, phản ánh nhu cầu,
nguyện vọng của nhân dân và cũng có thể xem là một ứng xử khôn ngoan của
chính trị Việt Nam.
Khoan dung, đồng thuận xã hội có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau,
trong đó thực hiện khoan dung là một biện pháp nhằm tăng cường đồng thuận
xã hội; xã hội đồng thuận là môi trường thuận lợi để phát triển tinh thần
khoan dung, nâng chất lượng khoan dung lên tầm cao mới.
Nghiên cứu lịch sử dân tộc ta thấy: khoan dung, đồng thuận không phải
là mong muốn chủ quan của bất kỳ một chủ thể nào, mà đó là sự phản ánh các
đặc điểm và nhu cầu khách quan trên con đường phát triển của dân tộc. Điều
80
kiện tự nhiên, xã hội, lịch sử và cả nhu cầu xây dựng đất nước là nhân tố
khách quan quy định truyền thống khoan dung, đồng thuận của người Việt.
Tính bản chất, lặp lại của khoan dung, đồng thuận và tác động của
chúng đến sự hưng thịnh - suy vong của đất nước khiến ta nhận thấy đó không
chỉ đơn thuần là bài học, mà cao hơn có thể coi đó là những vấn đề có tính
quy luật trong sự phát triển của dân tộc. Lịch sử cho thấy, khi nào giai cấp
cầm quyền thực thi các biện pháp khoan dung thì xây dựng được xã hội đồng
thuận. Ngược lại, khi nào giai cấp cầm quyền thực hành các biện pháp bất
khoan dung thì xã hội rơi vào trạng thái mâu thuẫn, bất đồng. Bài học này vẫn
còn nguyên giá trị thời sự trong bối cảnh hiện nay.
81
Chương 3
PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG KHOAN DUNG NHẰM TĂNG
CƯỜNG ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI;
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY
3.1. Tính tất yếu khách quan của phát huy truyền thống khoan dung
nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
3.1.1. Bối cảnh quốc tế
Thứ nhất, toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân
tộc. Những thập kỷ cuối của thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, do sự phát triển mạnh
mẽ của lực lượng sản xuất đã dẫn đến quá trình toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa là:
“sự hợp nhất các nền kinh tế dân tộc thành một hệ thống thống nhất toàn thế
giới, dựa trên sự lưu thông nhanh chóng tư bản, tính cởi mở về thông tin, cách
mạng khoa học công nghệ, thái độ trung thành của các nước công nghiệp phát
triển đối với quá trình tự do lưu thông hàng hóa và tư bản, quá trình giao tiếp
chặt chẽ toàn hành tinh” [51, tr. 454-455]. Đặc trưng của toàn cầu hóa là các
hoạt động xã hội liên dân tộc, quá trình xích lại gần nhau giữa các quốc gia,
các nền văn hóa. Điều này đòi hỏi các quốc gia, dân tộc vừa phải thực thi
chính sách khoan dung, vừa phải có sự đồng thuận. Khoan dung thể hiện ở sự
chấp nhận, tôn trọng những khác biệt của nhau; đồng thuận ở mục tiêu nhân
văn, tiến bộ mà nhân loại cùng hướng tới; đồng thời ngăn chặn các nguy cơ
mà loài người có thể phải gánh chịu, cả do tự nhiên lẫn con người mang lại.
Mặt khác, quá trình toàn cầu hóa tất yếu dẫn đến việc hình thành các tổ
chức quốc tế và khu vực. Những tổ chức này được hình thành trên cơ sở thành
viên là các quốc gia, dân tộc có trình độ phát triển kinh tế, thể chế chính trị,
đặc điểm văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng… khác nhau. Việc hình thành các tổ
chức như vậy chứa đựng trong nó cả tinh thần khoan dung và đồng thuận.
Khoan dung chính là thái độ tôn trọng sự khác biệt, đồng thuận ở mục tiêu và
82
phương thức hoạt động của các tổ chức quốc tế đó. Về vấn đề này, nguyên
Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải trong một bài viết về ASEAN đã cho
rằng: “Hoạt động của ASEAN vừa củng cố sự liên kết kinh tế, sự hợp tác
chính trị - an ninh nhằm thực hiện mục tiêu bao trùm là duy trì hòa bình, ổn
định và hợp tác trong khu vực, vừa tôn trọng sự đa dạng về văn hóa, ngôn
ngữ, tôn giáo… giữa các nước thành viên” [63]. Ở đây, mục tiêu củng cố liên
kết kinh tế, chính trị, an ninh nhằm duy trì hòa bình, hợp tác là biểu hiện của
đồng thuận; còn tôn trọng sự đa dạng về văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo là biểu
hiện của khoan dung. Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã
từng bước chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, trở thành thành
viên của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực. Khi đã trở thành thành viên của
các tổ chức đó, việc thực hiện khoan dung, đồng thuận cũng là một tất yếu
khách quan đối với nước ta.
Đối với Việt Nam, quá trình hội nhập quốc tế đòi hỏi thực hiện khoan
dung ở những khía cạnh: một là, quan điểm “gác lại quá khứ, hướng tới tương
lai” với một số quốc gia, tổ chức mà trong quá khứ đã từng là kẻ thù; hai là,
tôn trọng các đặc điểm, lợi ích, giá trị khác biệt của nhau (từ kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội...); ba là, học hỏi, tiếp thu các giá trị tiến bộ của quốc gia, dân
tộc khác. Mục đích của khoan dung nhằm cùng nhau hướng tới bình, độc lập
và phát triển - đây chính là điểm tương đồng để xây dựng đồng thuận quốc tế
trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, Tuyên bố của Tổ chức Giáo dục, Văn hóa, Khoa học của Liên
hợp quốc (UNESCO) các nguyên tắc về khoan dung. Như chương 2 đã phân
tích, năm 1995, với sự đồng thuận của các nước thành viên, UNESCO đã
thông qua Bản Tuyên bố các nguyên tắc về khoan dung. Việt Nam là một
quốc gia thành viên của UNESCO. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam:
“Việt Nam là một quốc gia có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” [27, tr.
83
236]. Vì lẽ đó, Việt Nam nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc khoan dung
của UNESCO cũng là một tất yếu khách quan.
3.1.2. Bối cảnh trong nước
Thứ nhất, vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: Việt Nam là nước thường
xuyên hứng chịu thiên tai, bão lụt, hậu quả để lại rất nặng nề. Theo thống kê
của Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn, trong vòng 10 năm qua (từ 2002-
2012) mỗi năm nước ta có khoảng gần 1.000 người chết, mất tích do thiên tai;
thiệt hại tài sản ước tính khoảng 1,5% GDP. Việt Nam là một trong 10 nước
hàng đầu về tần suất bị thiên tai trên thế giới [7]. Thiên tai làm hàng vạn hộ
gia đình bị mất nhà cửa; thậm chí mất cả những tư liệu sản xuất chủ yếu như
như: đất đai, ruộng vườn, ao đầm… Thực trạng này đòi hỏi: một, Nhà nước
phải thực hiện chính sách “khoan thư sức dân” (miễn giảm thuế khóa, hỗ trợ
tư liệu sản xuất cho những gia đình bị nạn); hai, cộng đồng bằng các hình
thức khác nhau chia sẻ, giúp đỡ đồng bào bị nạn vượt qua những khó khăn do
thiên tai – thực hiện khoan dung (cả nhà nước và cộng đồng).
Thứ hai, điều kiện lịch sử: cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đã kết thúc
gần 40 năm, nhưng những hậu quả của nó để lại còn rất nặng nề. Hàng triệu
người Việt đã rời quê hương ra nước ngoài sinh sống, hàng vạn gia đình trong
nước tham gia vào bộ máy chính quyền của chế độ cũ còn tâm lý nghi kỵ,
mặc cảm, định kiến… Nhu cầu hòa giải, hòa hợp dân tộc để cùng nhau xây
dựng đất nước vẫn là một thực tế khách quan của đất nước hiện nay.
Thứ ba, đất nước ta có nhiều dân tộc, tôn giáo, tầng lớp, giai cấp với đặc
điểm, lợi ích, nhu cầu khác nhau. Dù vậy, các bộ phận ấy đều tồn tại thống
nhất trong cộng đồng Việt Nam; lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm điểm tương
đồng tối thượng để cùng nhau đoàn kết, thống nhất. Như vậy, tính đa dạng về
dân tộc, tôn giáo, giai cấp đòi hỏi tất yếu phải thực hành khoan dung (khoan
dung cả ở đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, cả ở ứng xử của mỗi
84
cộng đồng người). Thực hiện khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ tư, tính đặc thù về sở hữu và thành phần kinh tế. Trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, do sự phát triển đa dạng của lực lượng sản xuất, ở nước
ta tồn tại nhiều loại hình sở hữu, thành phần kinh tế khác nhau. Mặc dù đặc
điểm, tính chất, lợi ích mỗi loại hình sở hữu, thành phần kinh tế là không
hoàn toàn đồng nhất, cá biệt có những hình thức đối lập nhau; nhưng, chúng
đều là các bộ phận cấu thành nền kinh tế Việt Nam, bình đẳng trước pháp
luật. Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế đều lấy lợi ích quốc gia là điểm
tương đồng, lấy pháp luật làm căn cứ để tôn trọng, chấp nhận sự tồn tại, lợi
ích chính đáng của nhau, cùng nhau hướng đến mục tiêu: “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng văn minh”. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực
hiện nhất quán, lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần, tôn trọng lợi ích
chính đáng của mỗi thành phần kinh tế.
Thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước đòi hỏi phải xây dựng
được khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Muốn vậy, phải thực hiện chính sách
khoan dung, tôn trọng lợi ích, bản sắc, đặc điểm văn hóa của mỗi dân tộc, tôn
giáo, cộng đồng người; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ; đồng thời,
phải xác lập được những mục tiêu chung làm điểm tương đồng để cố kết toàn
dân tộc, xây dựng đồng thuận xã hội.
3.2. Thực trạng phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường
đồng thuận xã hội trên một số lĩnh vực chủ yếu trong thời kỳ đổi mới
3.2.1. Chính sách “khoan thư sức dân” nhằm tăng cường đồng thuận giữa
nhà nước và nhân dân
Những thành tựu của chính sách “khoan thư sức dân” nhằm xây dựng
đồng thuận xã hội thời kỳ đổi mới.
85
Một là, hệ thống chính sách thuế và phí. Khoan thư sức dân được biểu
hiện ở việc ít huy động sức dân, mà tiêu biểu là chính sách thuế và phí của
Nhà nước đối với người dân và doanh nghiệp. Trong thời kỳ đổi mới, chính
sách thuế và phí của nước ta được thực hiện theo hướng giảm dần.
Trên lĩnh vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nhiều khoản thu đã
được miễn, giảm. Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong hai
năm 1990, 1991, Nhà nước đã thực hiện giảm 50% thuế nông nghiệp cho
nông dân. Đây chính là biểu hiện của tinh thần “khoan thư sức dân” của Đảng
và Nhà nước ta. Bởi, nước ta trải qua hàng trăm năm chiến tranh, sản xuất
nông nghiệp bị đình trệ, đời sống nhân dân gặp vô vàn khó khăn, việc miễn
giảm này đã góp phần giảm bớt những khó khăn, tạo điều kiện bồi dưỡng sức
dân. Năm 2003, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 15/2003/QH11 (ngày 17
tháng 6 năm 2003) Về việc miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp (giai
đoạn 2003-2010). Trong đó quy định: “Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp
trong hạn mức theo quy định của pháp luật cho từng vùng đối với hộ nông
dân, hộ nông trường xã viên, xã viên hợp tác xã sản xuất nông nghiệp nhận
đất giao khoán của doanh nghiệp, hợp tác xã để sản xuất nông nghiệp…miễn
thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích đất của hộ nghèo, hộ
sản xuất nông nghiệp ở các xã đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính
phủ” (điều 1, Nghị quyết số 15/2003/QH11). Tiếp tục thực hiện tinh thần trên,
năm 2010, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 55/2010/QH12 (ngày 24 tháng
11 năm 2010) Về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp (giai đoạn 2011-
2020). Nghị quyết tiếp tục quy định việc miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp
cho nông dân đến năm 2020. Về thủy lợi phí, năm 2003, Chính phủ ban hành
Nghị định số 143/2003/NĐ-CP (ngày 28/11/2003) Hướng dẫn Pháp lệnh khai
thác và bảo vệ công trình thủy lợi; năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định
115/2008/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 143/2003/NĐ-CP, trong đó quy định:
86
“Miễn thủy lợi phí đối với diện tích mặt đất, mặt nước trong hạn mức giao đất
nông nghiệp của các hộ gia đình, cá nhân dùng vào sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối…Miễn thủy lợi phí đối với toàn bộ
diện tích đất, mặt nước dùng vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi
trồng thủy sản và làm muối của hộ gia đình, cá nhân tại địa bàn có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn” [15]. Việc miễn giảm thuế nông nghiệp, thủy lợi phí như trên làm cho
đông đảo bà con nông dân được giảm bớt một phần chi phí sản xuất, có thêm
thu nhập để cải thiện đời sống. Đây chính là động lực mới để người nông dân
phát triển sản xuất, phấn khởi, lạc quan tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
vào sự thành công của công cuộc đổi mới.
Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp: từ năm 1999 đến nay, Nhà nước đã
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh thuế suất theo hướng
giảm dần. Mức thuế suất từ 32%/năm (1999) đã được điều chỉnh giảm xuống
28%/năm (2004), còn 25%/năm (2009). Hiện nay, ngoài thuế phổ thông 25%,
còn có thuế suất ưu đãi 10% và 20% tùy theo địa phương, lĩnh vực và địa bàn
ưu đãi đầu tư. Bình quân thuế suất chung của thuế thu nhập doanh nghiệp ở
Việt Nam là 16,32%. So với các nước, bình quân thuế thu nhập doanh nghiệp
của 83 nước trên thế giới khoảng 27%. Trong khu vực, thì Philippines, Thái
Lan thuế suất bình quân chung là 30%; Trung Quốc, Malaysia là 25% [135].
Như vậy, rõ ràng ta thấy chính sách thuế đối với doanh nghiệp của nước ta so
với các nước trong khu vực và bình quân chung trên thế giới là thấp.
Đối với thuế giá trị gia tăng: theo Bộ Tài chính, hiện có hai mức thuế suất
là 5% và 10%. Thống kê 112 nước trên thế giới cho thấy, có 88 nước có thuế
suất từ 12-25%, còn lại 24 nước mức thuế ở khoảng 10%. Các nước trong khu
vực như Lào, Campuchia, Indonesia có thuế suất 10%, Trung Quốc có hai
mức thuế suất là 17% và 15%. Như vậy, ta cũng thấy thuế giá trị gia tăng của
87
nước ta so với các nước trong khu vực và trên thế giới là thấp. Đây chính là
sự khuyến khích, “khoan thư” của Nhà nước với các doanh nghiệp nhằm tạo
điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp, doanh nhân phát triển, mở rộng sản xuất,
đóng góp chung vào sự phát triển của đất nước. Sự ưu đãi này góp phần làm
cho các doanh nghiệp, doanh nhân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự
thành công của công cuộc đổi mới.
Đối với thuế thu nhập cá nhân: năm 2001, thuế thu nhập cá nhân nước ta quy
định lũy tiến từ 10-60%, đến năm 2004 giảm xuống còn từ 10-40%. Theo quy
định năm 2009, mức giảm trừ gia cảnh là 4 triệu đồng cho người nộp thuế, giảm
trừ 1,6 triệu đồng cho người phụ thuộc. Tại kỳ họp thứ năm, khóa XIII (2012),
Quốc hội đã thống nhất điều chỉnh mức chịu thuế và giảm trừ gia cảnh lên 9
triệu và 3,6 triệu đồng. Đây cũng là biểu hiện tinh thần “khoan thư sức dân”, việc
điều chỉnh này đã nhận được sự đồng thuận cao của các tầng lớp nhân dân.
Về chính sách phí và lệ phí: Bộ Tài chính cho biết, từ năm 2003 đến nay
Việt Nam đã rà soát, bãi bỏ trên 340 loại phí và lệ phí. Việc giảm dần nghĩa
vụ về thuế, phí thường xuyên được thực hiện đã tạo điều kiện khuyến khích
sản xuất kinh doanh phát triển. Trong Chiến lược phát triển, cải cách, hiện đại
hóa ngành thuế đến năm 2020 mà Thủ tướng đã phê duyệt cũng khẳng định sẽ
giảm tỷ lệ động viên về thuế/đơn vị hàng hóa.
Với chính sách thuế và phí như trên, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện
đường lối “khoan thư sức dân”, tạo điều kiện thuận lợi để người dân và doanh
nghiệp phát triển đời sống, sản xuất. Qua đó, làm cho người dân thêm tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, cùng chung sức,
chung lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Như vậy, miễn giảm thuế khóa nhằm chăm lo, bồi dưỡng sức dân, tạo sự tin
tưởng, gắn kết giữa nhân dân và nhà nước là một biểu hiện của phát huy truyền
88
thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội của dân tộc. Đây là sự kế
thừa, phát huy bài học từ lịch sử. Tuy nhiên, so với lịch sử, việc thực hiện chính
sách này đã có những sự phát triển, miễn giảm thuế khóa không chỉ thực hiện
sau kết thúc chiến tranh, thiên tai, địch họa mà trong thời kỳ đổi mới, Đảng và
Nhà nước ta đã chủ động miễn giảm thuế khóa để tạo động lực cho người dân và
doanh nghiệp nâng cao đòi sống, phát triển sản xuất; đã được quy định trong
pháp luật và thống nhất thực hiện trên phạm vi toàn quốc; có sự so sánh, đối
chiếu với những quốc gia khác.
Hai là, hệ thống chính sách an sinh xã hội. Một biểu hiện khác của chính
sách khoan dung trong giai đoạn hiện nay là hệ thống chính sách an sinh xã
hội. Khoan dung trong lịch sử là sự chia sẻ, giúp đỡ của nhà nước với người
dân; của các tầng lớp nhân dân với nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn, sau
thiên tai, địch họa. Hiện nay, Nhà nước ta đã hình thành cả một hệ thống các
chính sách về an sinh xã hội. Hệ thống chính sách này đã có cơ sở pháp lý cho
việc trợ giúp những người nhất thời gặp khó khăn, hoạn nạn.
An sinh xã hội là một hệ thống chính sách và giải pháp được áp dụng rộng
rãi để trợ giúp các thành viên trong xã hội đối phó với những khó khăn và rủi
ro gặp phải, dẫn đến mất hoặc làm suy giảm nghiêm trọng nguồn thu nhập và
cung cấp các dịch vụ chăm sóc về y tế [36, tr.152].
Trong thời kỳ đổi mới, chính sách an sinh xã hội nước ta đã đạt được một
số thành tựu chủ yếu như sau:
Thứ nhất, các chương trình và chính sách giảm nghèo đã tập trung nguồn
lực ưu tiên cho các huyện, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Công
tác giảm nghèo đã đạt nhiều thành tích đáng khích lệ, người nghèo được hỗ
trợ bằng nhiều chương trình và chính sách để cải thiện điều kiện sống và sản
xuất, tiếp cận tốt hơn các chính sách và nguồn lực của nhà nước, cộng đồng;
có thêm cơ hội vươn lên, tạo thu nhập để thoát nghèo, ổn định cuộc sống. Tỷ
89
lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 22% năm 2006 xuống còn 12,6% năm 2013 (theo
chuẩn mới); thu nhập bình quân của hộ nghèo năm 2013 tăng 2,3 lần so với
năm 2005. Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn 62 huyện nghèo (theo Nghị quyết 30a)
đã giảm từ 58,33% (năm 2010) xuống còn 43,89% năm 2013 (bình quân giảm
7%/năm) [3, tr.11]. Các địa phương đã hoàn thành hỗ trợ 530.294 căn nhà cho
các hộ đặc biệt khó khăn, đạt 107% so với kế hoạch ban đầu và 99,9% so với
số hộ cần hỗ trợ, trong đó có 95.486 hộ ở các huyện 30a.
Thứ hai, bảo hiểm xã hội có bước phát triển đáng kể, đối tượng tham gia
bảo hiểm xã hội bắt buộc năm 2011 đạt 10,1 triệu người, bằng gần 20% lực
lượng lao động. Bảo hiểm xã hội tự nguyện thu hút 104 nghìn người; có
khoảng 7,9 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Tính riêng ở địa bàn
nông thôn, đến năm 2013, số người tham gia bảo hiểm xã hội là 10,3 triệu
(tăng 24,1% so với 2008). Có 59,3 triệu người tham gia bảo hiểm y tế (tăng
6,9 triệu người so với 2009) [3, tr. 12] .
Thứ ba, các chính sách trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng với các đối
tượng có hoàn cảnh khó khăn đã đóng vai trò quan trọng trong bảo đảm thu
nhập tối thiểu cho người dân. Số người được hưởng trợ cấp xã hội thường
xuyên tăng từ 700 nghìn người năm 2007 lên 1,7 triệu người năm 2011. Năm
2013, số người được hưởng trợ cấp thường xuyên là 2,5 triệu người; chăm
sóc, nôi dưỡng hơn 40 nghìn người trong các cơ sở bảo trợ xã hội [3, tr.12].
Các đối tượng như: người 80 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp
thường xuyên, người già cô đơn, người khuyết tật nặng, người bị bênh tâm
thần, trẻ mồ côi…được hỗ trợ đảm bảo cuộc sống tối thiểu.
Thứ tư, công tác trợ giúp đột xuất được tăng thêm và phát huy hiệu quả.
Mỗi năm nhà nước chi khoảng 1.000 tỷ đồng và khoảng 50-60 nghìn tấn gạo
hỗ trợ người dân các địa phương khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định cuộc
sống; các phong trào tương thân tương ái được phát động rộng rãi đã đóng
90
góp đáng kể vào hỗ trợ đột xuất cho những người gặp rủi ro. Nhà nước không
ngừng tăng đầu tư cho phát triển các dịch vụ cơ bản bao gồm giáo dục, y tế,
nhà ở, nước sạch, thông tin tuyên truyền… để nâng cao mọi mặt đời sống
nhân dân. Mức chi cho an sinh xã hội liên tục tăng, trong giai đoạn 2003-
2011, bình quân mỗi năm chi 95 nghìn tỷ đồng, bằng 6,6% GDP [21].
Nhờ thực hiện chính sách an sinh xã hội như vậy, các tầng lớp nhân dân,
đặc biệt là các nhóm yếu thế đã phần nào khắc phục được những khó khăn
trước mắt. Họ thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, cùng nhau đoàn kết
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khi thực hiện chính sách an sinh xã hội, trên cơ
sở truyền thống: “lá lành đùm lá rách”, “nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người
trong một nước thì thương nhau cùng” đã động viên, lôi kéo được tất cả các
giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài cùng tham
gia; qua đó, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Như vậy ta thấy, nếu như trong giai đoạn phong kiến, việc trợ giúp cho
những người khó khăn chỉ là biểu hiện của sự thương sót mang tính đồng loại,
dựa trên tình cảm lương tri; thì, hệ thống chính sách an sinh xã hội hiện nay
đã được luật hóa, đã có cơ sở pháp lý; đó là nghĩa vụ của Nhà nước và cộng
đồng trong việc đảm bảo quyền con người. Chính sách khoan dung này là sự
tiếp nối truyền thống khoan dung trong lịch sử dân tộc nhưng đã được nâng
lên ở một tầm cao mới.
Một số vấn đề còn tồn tại trong thực hiện “khoan thư sức dân” nhằm xây
dựng đồng thuận xã hội thời kỳ đổi mới:
Một là, bên cạnh những khoản thuế và phí chính, ở Việt Nam còn nhiều
loại phí khác mà người dân hàng ngày phải trả, nhất là những loại phí và quỹ
đóng góp tại các địa phương. Theo khảo sát tại thành phố Hồ Chí Minh tháng
10 năm 2010, ngoài quỹ bắt buộc phải đóng là quỹ phòng chống lụt bão,
người dân còn phải tham gia đóng rất nhiều quỹ khác như: quỹ khuyến học,
91
quỹ quốc phòng an ninh, quỹ đến ơn đáp nghĩa, quỹ xóa đói giảm nghèo, quỹ
chăm sóc người cao tuổi….Theo khảo sát của báo Dân Việt, tại xã Trường
Sơn, Nông Cống, Thanh Hóa mỗi vụ người dân phải nộp đến gần 20 loại phí
và quỹ… [5]. Việc thu phí và quỹ quá nặng tại các địa phương là nguyên nhân
dẫn đến mâu thuẫn, bất đồng giữa nhân dân và chính quyền cơ sở; điển hình
là “điểm nóng” Thái Bình xảy ra những năm 1997-1998.
Hai là, việc thực hiện chế độ thuế, phí chưa được thực hiện nghiên túc, một
bộ phận người dân, doanh nghiệp có thu nhập cao (nghệ sĩ, ca sĩ, người mẫu,
diễn viên, doanh nhân, doanh nghiệp…) tìm mọi cách trốn, tránh thuế trong khi
những người lao động chân chính (bác sĩ, giáo viên, nhà khoa học…) được tính,
thu thuế triệt để; từ đó vừa làm giảm nguồn thu của nhà nước vừa gây tâm lý bất
bình trong xã hội.
Ba là, trong thực tế còn biểu hiện sự bất công trong thụ hưởng thành quả
của chính sách an sinh xã hội giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc vùng miền.
Trong đó, những người nông dân, công nhân, lao động tự do thành thị, người
dân tộc thiểu số được tiếp cận, thụ hưởng các thành quả, dịch vụ của chính
sách an sinh xã hội thấp hơn các nhóm khác, nhất là trên các lĩnh vực: hỗ trợ
tạo việc làm, giáo dục, chăm sóc sức khỏe…Đây cũng là nguyên nhân dẫn
đến mâu thuẫn, bất đồng trong xã hội, là cớ để một số thế lực thù địch lôi kéo,
kích động một bộ phận nhân dân chống lại đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước.
3.2.2. Phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã
hội trong quan hệ giữa các dân tộc
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Các dân tộc đã kề vai sát cánh với
nhau trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Đồng bào các dân tộc nước
ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh chống thiên tai và giặc ngoại xâm.
Mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong
92
phú của nền văn hóa Việt Nam thống nhất. Ngay từ khi ra đời và suốt quá
trình lãnh đạo, Đảng ta luôn xác định vấn đề đoàn kết dân tộc có vị trí chiến
lược quan trọng trong cách mạng nước ta.
Trong thời kỳ đổi mới, đường lối, chính sách khoan dung nhằm tăng
cường đồng thuận xã hội trong quan hệ dân tộc được thể hiện ở những
phương diện chủ yếu sau:
Thứ nhất, chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là thực hiện bình
đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ giữa các dân
tộc. Các dân tộc không phân biệt thiểu số, đa số, trình độ phát triển đều bình
đẳng trước pháp luật; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển 2011) nêu rõ: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát
triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt
Nam” [27, tr. 81]. Điều 5, Hiến pháp 2013 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống
trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc” [44,
10]. Những quy định của Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng nhất thực
hiện sự bình đẳng dân tộc trong quốc gia đa tộc người. Thực tế cũng cho thấy,
những năm gần đây, mặc dù trên thế giới và các nước trong khu vực, xu
hướng ly khai, dân tộc cực đoan có xu hướng trỗi dậy. Nhưng ở nước ta
không xảy ra xung đột dân tộc.
Thứ hai, Đảng, Nhà nước tôn trọng bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc; tạo
điều kiện thuận lợi để các dân tộc bảo tồn tiếng nói, chữ viết, phong tục tập
quán của mình. Khoản 3, điều 5 Hiến pháp quy định: “Các dân tộc có quyền
dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập
93
quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình” [44, tr.10]. Để bảo tồn, phát
triển văn hóa các dân tộc thiểu số, ngày 17/6/2003 Thủ tướng Chính phủ ký
quyết định phê duyệt: “Đề án bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
Việt Nam” (Quyết định số: 124/2003/QĐ-TTg); năm 2011, Thủ tướng Chính
phủ tiếp tục ký quyết định phê duyệt “Đề án Bảo tồn, phát triển văn hóa các
dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” (Quyết định số: 1270/QĐ-TTg
ngày 27/7/2011). Với những chính sách đó, nhiều giá trị văn hóa của các dân
tộc thiểu số đã được bảo tồn, phát triển; nhiều loại hình văn hóa bị mai một đã
từng bước được khôi phục.
Thứ ba, Đảng, Nhà nước có các chính sách quan tâm phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội vùng các dân tộc thiểu số; làm cho đời sống các dân tộc
không ngừng nâng lên; tạo điều kiện để các dân tộc được thụ hưởng các thành
quả phát triển của đất nước ngang bằng nhau. Chỉ tính trong giai đoạn từ 2006
– 2012, đã có gần 160 văn bản quy phạm pháp luật được ban hành nhằm thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số (gồm 14 Nghị định của
Chính phủ, 40 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 27 Quyết định phê duyệt
các đề án…) [47]. Một số chương trình nổi bật như: Chương trình 135 giai
đoạn I - Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng
dân tộc thiểu số và miền núi (Quyết định số: 135/1998/QĐ-TTg, ngày 31
tháng 7 năm 1998 của Thủ tướng chính phủ); Chương trình 134 - Chương
trình hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân
tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn (Quyết định số: 134/2004/QĐ-TTg,
ngày 20/4/2007) và Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cưcho đồng bào dân tộc thiểu số (Quyết định số: 33/QĐ-TTg, ngày 5/3/2007);
Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ - Chương trình hỗ trợ giảmnghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo ngày 27/12/2008… Tổng
đầu tư kinh phí của Chính phủ cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội
vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2006 - 2012 là 54.770 tỷ đồng [47].
94
Qua thực hiện các chương trình trên, kết quả thu được là: Về kinh tế, số hộ
đói nghèo vùng đồng bào các dân tộc đã giảm từ 86% năm 1993 xuống còn
38% năm 2012. Chương trình định canh, định cư đã giúp 9.827 hộ với 46.187
nhân khẩu đã hoàn thành định canh, định cư [74]. Về văn hóa – xã hội: 100%
xã đặc biệt khó khăn có trường học, nhà mẫu giáo và các lớp bán trú dân nuôi;
95% trẻ em trong độ tuổi được đến trường; 97,42% các xã vùng đặc biệt khó
khăn đã có đường ô tô đến trung tâm xã; 98% số huyện, 64% số xã đặc biệt khó
khăn đã có điện lưới quốc gia; 100% số huyện khó khăn có trung tâm y tế, 90%
số xã khó khăn có trạm y tế xã, 85% số dân được xem truyền hình… [2].
Thứ tư, mục tiêu đường lối, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta nhằm:
“thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước
đi lên chủ nghĩa xã hội”[30, tr.12-13]. Đây chính là điểm tương đồng lớn nhất để
quy tụ, đoàn kết các dân tộc - hay xây dựng đồng thuận xã hội.
Việc thực hiện các chính sách trên, làm cho đời sống đồng bào các dân tộc
thiểu số được nâng lên; từ đó, củng cố niềm tin của họ vào sự lãnh đạo của
Đảng, sự thắng lợi của công cuộc đổi mới. Các dân tộc đoàn kết, thống nhất dưới
sự lãnh đạo của Đảng cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đông đảo bà con
các dân tộc đã tích cực tham gia các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
do Đảng, Nhà nước, Mặt trận các cấp phát động như: định canh định cư, xóa đói
giảm nghèo, cho con em đến trường, tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp, tham gia xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư…
Ngoài đường lối, chính sách khoan dung của Đảng, Nhà nước nhằm tăng
cường đồng thuận xã hội, đồng bào các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
cũng thương yêu, đùm bọc, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Những biểu
hiện cụ thể như: Giúp nhau phát triển sản xuất, tôn trọng đặc điểm văn hóa,
tín ngưỡng, lối sống, tiếp thu các thành tựu phát triển của nhau…
95
Như vậy, trong giai đoạn mới, chính sách khoan dung trên lĩnh vực dân tộc
đã có bước phát triển mới, đó là quan hệ bình đẳng dân tộc đã được luật hóa,
được điều chỉnh bởi pháp luật mà cao nhất là Hiến pháp. Chính sách bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trở thành một hệ thống tương đối
đồng bộ (từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…).
Tuy nhiên, thực hiện chính sách dân tộc cũng còn một số tồn tại cản trở
quá trình xây dựng đồng thuận xã hội như:
Một là, mức độ hưởng thụ các thành quả phát triển đất nước giữa các dân tộc
không ngang bằng, trong đó, các dân tộc thiểu số sống ở vùng miền núi, vùng
sâu, vùng xa được hưởng thụ thành quả ít hơn các dân tộc khác. Thực tế cho
thấy, sự phân hóa thu nhập, mức sống giữa khu vực miền núi và đồng bằng
không được thu hẹp mà ngày càng doãng ra. Không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà
cả các lĩnh vực văn hóa, xã hội. Tỷ lệ hộ đói nghèo trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, miền núi vẫn ở mức cao. Năm 2012, trong khi tỷ lệ hộ nghèo chung của
cả nước là 9,64% thì ở các vùng miền núi, dân tộc thiểu số, tỷ lệ này là: Tây Bắc:
28,55%, Đông Bắc: 17,39%, Tây Nguyên: 15,58% [47]. Điều này cho thấy,
đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn là đối tượng nghèo đói cao nhất.
Hai là, cho đến nay, nước ta vẫn thiếu một chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội đồng bộ, lâu dài vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Tình trạng khai
thác tài nguyên thiên nhiên diễn ra tự phát, thiếu quy hoạch, nhất là việc quản
lý, sử dụng đất đai, trong khi chính quyền các cấp chưa quan tâm một cách
đúng mức điều kiện bảo đảm cuộc sống cho người dân tộc thiểu số; đây là
nguyên nhân sâu xa dẫn đến mâu thuẫn, xung đột giữa các dân tộc với nhau.
Trong các điểm nóng chính trị - xã hội xảy ra ở Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây
Nam Bộ những năm gần đây một phần cũng do các nguyên nhân kể trên.
Ba là, công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện
chủ trương, chính sách chưa thực sự hiệu quả, một số nơi còn bị động; do đó,
96
các thế lực thù địch đã lợi dụng những vấn đề do lịch sử để lại để lôi kéo, kích
động một bộ phận bà con dân tộc chống lại các chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước chia rẽ khối đại đoàn kêt toàn dân tộc.
Bốn là, trong vài năm gần đây, nổi lên hiện tượng, một bộ phận đồng bào
dân tộc thiểu số đã hy sinh lợi ích cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhưng không được thụ hưởng các thành quả tương ứng. Một số nơi, bà con đã
tự nguyện di rời nhà cửa, ruộng nương cho xây dựng các công trình thủy điện
nhưng hiện tại họ chưa được sử dụng điện lưới quốc gia; họ hy sinh lợi ích để
làm thủy điện nhưng đang phải gánh chịu những hậu quả tác động trái chiều
của thủy điện; mất đất sản xuất nhưng chưa tạo được sinh kế bền vững...
Những hạn chế như trên là nguyên nhân dẫn đến những mâu thuẫn, bất
đồng giữa một bộ phận đồng bào dân tộc với Đảng, Nhà nước; một số nơi xảy
ra mâu thuẫn, xung đột cục bộ giữa các dân tộc với nhau.
3.2.3. Phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã
hội trong quan hệ tôn giáo
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo nhưng không có quốc giáo. Mỗi tôn giáo
có đặc điểm riêng về tổ chức, lễ nghi, nguyên tắc hoạt động… Trong thời kỳ
đổi mới, đường lối, chính sách khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã
hội của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực tôn giáo được biểu hiện ở những
phương diện chủ yếu:
Một là, chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tôn giáo của nhân dân; các tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật - đây là biểu hiện rõ nhất của tinh thần khoan
dung tôn giáo. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011), Đảng ta đã xác định rõ: “Tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân theo quy định của pháp luật” [27, tr. 324]. Điều 24, Hiến pháp 2013
97
quy định: "Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước
tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo" [44, tr.17-18]. Các tôn
giáo ở nước ta hiện nay, có tôn giáo có tính chất dân tộc, có tôn giáo có tính
chất quốc tế; có tôn giáo có số lượng tín đồ đông, có tôn giáo có số lượng tín
đồ ít; có tôn giáo đã hình thành và đồng hành cùng dân tộc hàng nghìn năm,
nhưng cũng có những tôn giáo mới hình thành chỉ vài chục năm… Nhưng, tất
cả các tôn giáo đều được tôn trọng và bình đẳng trước pháp luật.
Qua gần 30 năm tiến hành đổi mới, quan điểm, chính sách tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước được nhất quán quy định và thực
hiện. Đời sống tôn giáo ngày càng sinh động, nếu như trước năm 1990, ở Việt
Nam chỉ có ba tổ chức tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân về mặt tổ
chức là: Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc), Giáo hội Công giáo Việt
Nam và Giáo hội Phật giáo Việt Nam thì cho đến nay, đã có 13 tôn giáo được
công nhận. Hiện tại, ở nước ta có tới hơn 22 nghìn chùa chiền, nhà thờ, 10
chủng viện tôn giáo, 3 học viện Phật giáo, 6 trường dòng và hơn 40 cơ sở đào
tạo tôn giáo khác. Số người theo các tôn giáo khác nhau khoảng hơn 20 triệu
người [45, tr. 119]. Đó là những kết quả phản ánh đường lối, chính sách tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Hai là, công tác tôn giáo có vai trò quan trọng trong xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng ta khẳng định là
đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý
nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Để thực hiện được sự đoàn kết, phải tìm ra mẫu số chung quy tụ
được ý chí, sự thống nhất của các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo khác
nhau trong xã hội, hay nói cách khác phải tạo lập được sự đồng thuận xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay “mẫu số chung” được Đảng ta xác định là: “Một
98
nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đồng bào tôn giáo trước hết là
công dân của nước Việt Nam; dù có niềm tin, tín ngưỡng tôn giáo khác nhau,
nhưng tất cả mọi người dân Việt Nam đều lấy mục trên làm điểm tương đồng
để cùng nhau đoàn kết xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Trong Nghị quyết số 25-
NQ/TW, Đảng ta khẳng định: “Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải
nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh” [30, tr. 48].
Chính sách đúng đắn về tôn giáo của Đảng, Nhà nước đã nhận được sự
đồng thuận trong đông đảo các tầng lớp nhân dân, nhất là những người có tín
ngưỡng, tôn giáo. Một số biểu hiện cụ thể như:
Một là, các tổ chức tôn giáo gắn phương hướng hành đạo của mình với thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Đến nay, hầu hết các tôn
giáo ở Việt Nam trong chương trình hành động đều xác định phương hướng
hành đạo của mình đồng thuận với chủ trương, chính sách phát triển đất nước
của Đảng, Nhà nước. Giáo hội Phật giáo Việt Nam: “Đạo pháp – Dân tộc và chủ
nghĩa xã hội”, Giáo hội Công giáo Việt Nam: “Sống phúc âm giữa lòng dân
tộc”, Hội thánh Tin Lành Việt Nam: “Phụng sự thiên chúa, phụng sự Tổ quốc và
dân tộc”, các hệ phái Cao Đài: “Nước vinh – Đạo sáng”…Bởi xét đến cùng, mục
tiêu xây dựng đất nước của Đảng và Nhà nước ta với mục tiêu hướng tới của các
tôn giáo có điểm tương đồng đó là vì hạnh phúc của con người.
Hai là, các tổ chức tôn giáo vận động bà con giáo dân, bà con giáo dân tự
giác tham gia thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước như:
xóa đói giảm nghèo, kế hoạch hóa gia đình, xây dựng đời sống văn hóa mới ở
99
khu dân cư, xây dựng nông thôn mới…Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX Về công tác tôn giáo cũng đã tổng
kết: “các tôn giáo được Nhà nước công nhận đã hành đạo gắn bó với dân tộc,
tập hợp đông đảo tín đồ trong khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống
tốt đời, đẹp đạo, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước” [30, tr.46].
Như vậy, có thể thấy, tư tưởng xuyên suốt trong đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân; coi tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ còn tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội; đồng bào tôn giáo là một bộ phận quan trọng của dân tộc, có vai trò
tích cực trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng, Nhà nước nhất quán thực
hiện lâu dài chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo và
giáo dân cũng tự nguyện, tích cực tham gia thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước.
Ngoài đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, tinh thần khoan dung
còn được thể hiện trong cộng đồng những người có tôn giáo và không tôn
giáo, giữa những tôn giáo khác nhau - đó là sự hợp tác, giúp đỡ, tôn trọng lẫn
nhau. Trong lịch sử cũng như hiện tại, không xảy ra sự kỳ thị, mâu thuẫn,
xung đột lớn liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là một đặc điểm của tín
ngưỡng, tôn giáo Việt Nam so với một số nước trong khu vực hiện nay.
Như vậy, thực hiện khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội trên
lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo vừa có sự kế thừa những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc; vừa có sự phát triển cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của tình
hình mới. Điểm nổi bật đó là, sự tôn trọng, quyền bình đẳng tôn giáo đã được
luật hóa, cao nhất là được quy định trong Hiến pháp, được thể chế hóa trong
Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (2003). Đây chính là biểu hiện của tinh thần
khoan dung tôn giáo trong xã hội dân chủ, pháp quyền.
100
Một số vấn đề còn tồn tại trong thực hiện chính sách tôn giáo làm cản trở
quá trình xây dựng đồng thuận xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Một là, trong thực tế vẫn còn những biểu hiện của sự thiếu bình đẳng, phân
biệt đối xử giữa các tôn giáo. Có tôn giáo được chính quyền các cấp tạo điều
kiện thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở vật chất (thờ tự, đào tạo); có tôn giáo bị
gây khó khăn; người có tôn giáo này có thể tham gia lực lượng vũ trang, người
có tôn giáo khác thì không…
Hai là, công tác dân vận, thông tin, tuyên truyền đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước về tự do tín ngưỡng tôn giáo; đoàn kết, bình đẳng tôn giáo
chưa được thực hiện một cách khoa học, hiệu quả. Từ đó, làm cho một số tôn
giáo có cảm giác “bên trọng, bên khinh”, hình thành tâm lý nghi kỵ, mặc cảm,
định kiến trong một bộ phận chức sắc tôn giáo và giáo dân. Thậm chí, cá biệt
có lúc, có nơi còn có sự ngộ nhận sự đối lập giữa Đảng Cộng sản và tôn giáo.
Ba là, trong những năm gần đây xảy ra nhiều mâu thuẫn, tranh chấp nhất
là tranh chấp đất đai giữa một số tổ chức tôn giáo với chính quyền nhà nước.
Số liệu thống kê cho thấy, hiện có khoảng 720 điểm tranh chấp đất đai giữa
các tổ chức tôn giáo với chính quyền các cấp. Một số điểm tiêu biểu như: Trà
Cổ (Đồng Nai), Hòa Khánh (Đà Nẵng), Nguyệt Biều (Huế), Con Cuông
(Nghệ An), Thái Hà (Hà Nội)… [45, tr.274]. Chính quyền các cấp chưa xử lý
một cách dứt điểm, “thấu tình đạt lý” các tranh chấp, từ đó dẫn đến mâu thuẫn
kéo dài làm ảnh hưởng không nhỏ đến mối quan hệ giữa tổ chức tôn giáo với
chính quyền và cả thành viên các tôn giáo đó với nhân dân trên địa bàn cư trú.
3.2.4. Phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã
hội trong quan hệ quốc tế (với các nước, các tổ chức quốc tế)
Trong lịch sử hiện đại, Việt Nam trải qua hai cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, sau khi kết thúc chiến tranh, do những mâu thuẫn, bất đồng nhất
định, mối quan hệ ngoại giao giữa nước ta với một số nước tham chiến (cả
101
trực tiếp và gián tiếp) trong một thời gian dài gián đoạn. Hậu quả, tội ác của
giặc xâm lược là vô cùng tàn nhẫn, tuy nhiên, phát huy truyền thống khoan
dung, hòa hiếu của dân tộc, trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã
thực hiện chủ trương “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, bình thường hóa
quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế. Tháng 8 năm 1988, Bộ Chính trị
Ban chấp hành Trung ương khóa VI đã ra Nghị quyết số 13-NQ/TW Về
nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Đây là mốc quan trọng
thể hiện sự đổi mới tư duy trên lĩnh vực đối ngoại. Với chủ đề “giữ vững hòa
bình, phát triển kinh tế”, Nghị quyết nhấn mạnh nhiệm vụ ngoại giao nhằm
phục vụ ổn định chính trị, ưu tiên phát triển kinh tế, bảo vệ Tổ quốc.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển 2011) Đảng ta xác định quan điểm: “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”
[27, tr, 83]. Mục tiêu chính sách đối ngoại nhằm: “tạo điều kiện quốc tế thuận
lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần vào sự nghiệp đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội” [27, tr.326]. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là hợp tác
bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị
- xã hội, trên cơ sở những nguyên tắc chung cùng tồn tại hòa bình. Với tinh
thần đó, Việt Nam đã từng bước bình thường hóa quan hệ ngoại giao với các
nước, các tổ chức quốc tế và khu vực; ngay cả với những nước đã từng xâm
lược, gây tội ác với nhân dân ta.
Việc Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN là một biểu hiện rõ của
phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội trong
quan hệ quốc tế. Vì, nước ta có thể chế chính trị khác biệt, trong quá khứ đã
từng xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng giữa nước ta với một số nước thành
102
viên của ASEAN. Nhưng cả nước ta và các nước thành viên ASEAN đã thống
nhất cùng gác lại quá khứ, tôn trọng, chấp nhận những khác biệt để cùng nhau
xây dựng một cộng đồng khu vực hòa bình, thịnh vượng. Đây là một biểu
hiện của tinh thần phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng
thuận trong quan hệ quốc tế được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện
có hiệu quả trong thời kỳ đổi mới.
Với đường lối đối ngoại đó, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao
với 197 quốc gia và vùng lãnh thổ, có quan hệ bình thường với 5 nước ủy
viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, có chân trong hầu hết
các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng như: Liên hợp quốc, Phong trào
không liên kết, ASEAN, APEC, ASEM, Diễn đàn Đông Á, Cộng đồng Pháp
ngữ…. Vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng
được nâng cao [65, tr.46].
Như vậy, chính sách khoan dung thể hiện trên cả hai phương diện: một là,
Việt Nam “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai” với những quốc gia, lực
lượng đã từng là kẻ thù, những kẻ đã gây ra tội ác với nhân dân ta; hai là,
trong hội nhập quốc tế, chúng ta tôn trọng các đặc điểm, bản sắc, lợi ích chính
đáng của các quốc gia, dân tộc khác. Chính sách khoan dung đó với mục tiêu
cùng nhau hướng đến hòa bình, độc lập và phát triển cho mỗi quốc gia và cho
nhân loại – đó chính là biểu hiện của sự đồng thuận trong quan hệ quốc tế.
Như vậy, so với lịch sử, việc phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng
cường đồng thuận xã hội trong quan hệ quốc tế đã có sự thay đổi, phát triển
vượt bậc. Khoan dung không còn là sự “tha thứ” mà cao hơn đã là sự tôn
trọng, học hỏi lẫn nhau; được thực hiện đa dạng từ đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước đến khoan dung nhân dân, dựa trên các hội, đoàn quần
chúng; cơ sở thực hiện khoan dung, đồng thuận dựa trên Tuyên bố UNESCO,
các công ước, quy định Liên hợp quốc (có tính pháp lý ràng buộc).
103
Tuy nhiên thực tế cũng cho thấy, trong quan hệ quốc tế, đồng thuận không
thể được xác lập chỉ từ một phía. Nhân dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình
nhưng một số thế lực bên ngoài với tham vọng bành trướng, tìm mọi cách
xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, lợi ích hợp pháp, chính đáng của dân tộc Việt
Nam. Trong trường hợp đó, toàn thể dân tộc Việt Nam cũng cần thiết áp dụng
các biện pháp bất khoan dung để bảo vệ lợi ích của mình phù hợp với luật
pháp quốc tế.
3.2.5. Phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã
hội với người Việt Nam ở nước ngoài
Ở nước ta hiện nay, có nhiều cách gọi khác nhau về cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài như: kiều bào, kiều dân, kiều cư…Các từ này đều dùng để
chỉ những người Việt Nam di cư ra sinh sống ở bên ngoài lãnh thổ Việt Nam
với nhiều lý do khác nhau. Cách hiểu chung nhất, người Việt Nam ở nước
ngoài chính là những người thuộc dân tộc Việt định cư bên ngoài nước Việt
Nam; trong đó, dân tộc Việt được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các dân
tộc anh em sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiện nay có khoảng hơn 4 triệu
người, đang sinh sống, làm việc tại tại 104 quốc gia và vùng lãnh thổ [111].
Về thái độ chính trị, tình cảm dân tộc: đại đa số bà con luôn nuôi dưỡng, phát
huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống, hướng về cội
nguồn. Đông đảo bà con hoan nghênh công cuộc đổi mới và chính sách đại
đoàn kết của Đảng và Nhà nước, mong muốn đất nước cường thịnh, nhiều
người đã về thăm quê hương, gia đình, tham gia các hoạt động đầu tư, kinh
doanh, hợp tác khoa học, công nghệ, giáo dục, nhân đạo từ thiện….Tuy nhiên,
bên cạnh đó, một bộ phận đồng bào vì các lý do khác nhau chưa thực sự hòa
giải, hòa hợp; một bộ phận nhỏ còn có thái độ chống phá chế độ, phá hoại mối
quan hệ giữa nước sở tại và Việt Nam, đi ngược lợi ích chung của dân tộc.
104
Trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài, những người có liên quan đến sự
kiện giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975) là nhóm còn
nhiều bất đồng nhất với chế độ hiện nay.
Nhận thức tầm quan trọng đặc biệt về vị trí, vai trò của cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW (ngày 26/3/2004) Về công tác đối
với người Việt Nam ở nước ngoài. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 110/2004/QĐ-TTg Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện
Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị (ngày 23 tháng 6 năm 2004); Chỉ thị số
19/2008/CT-TTg Về việc tiếp tục tăng cường triển khai thực hiện Chương
trình hành động của Chính phủ về công tác với người Việt Nam ở nước ngoài
(ngày 6/6/ 2008). Trong đó, những nội dung cụ thể thể hiện tinh thần khoan
dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội là:
Một là, người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời, là
nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Bà con vì các lý do khác nhau rời
quê hương đi sinh sống, làm ăn tại quốc gia khác nhưng nguồn gốc vẫn là con
Lạc cháu Hồng, vẫn chung một tổ tiên, một truyền thống văn hóa, vẫn là một bộ
phận khăng khít của dân tộc. Trong giai đoạn hiện tại, với những tiềm lực sẵn có,
bà con là nguồn lực to lớn đóng góp cho sự phát triển của quê hương, đất nước.
Hai là, thực hiện chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài là một
bộ phận quan trọng trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng với đoàn kết các giai cấp, các dân
tộc, tôn giáo thì đoàn kết với người Việt Nam ở nước ngoài có vị trí rất quan
trọng. Bởi, bà con người Việt Nam ở nước ngoài có số lượng lớn, địa bàn cư
trú rộng, có tiềm lực kinh tế, tri thức, vị thế xã hội cao.
Ba là, một trong những phương thức cơ bản để xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc là xác định mục tiêu để tạo đồng thuận xã hội. Người Việt Nam
105
dù ở trong hay ngoài nước, dù có lập trường, chính kiến khác nhau đều có
mong muốn xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, giàu
mạnh, có vị thế cao trên trường quốc tế. Đây chính là mục tiêu chung, là điểm
tương đồng để tạo sự đồng thuận giữa người Việt Nam ở nước ngoài với đồng
bào, chính quyền trong nước: “Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc,
tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần
thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân
tộc” [22]. Ngoài xác định mục tiêu chung, phương thức thứ hai Đảng ta cũng
xác định đó là: phát huy truyền thống dân tộc, nhân nghĩa, khoan dung, gác lại
quá khứ, hướng tới tương lai để cùng nhau hòa giải, hòa hợp.
Khép lại những vấn đề quá khứ, cùng hướng tới tương lai, sự kiện nghĩa
trang Biên Hòa - nơi chôn cất các tử sĩ dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa trước
đây, chính thức được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định chuyển sang dân sự
là một bước ngoặt đánh dấu sự hòa giải, hòa hợp dân tộc (Quyết định số
1568/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2006). Hiện nay, nghĩa trang được
chính quyền và nhân dân địa phương thường xuyên chăm nom, bảo vệ; tất cả
các gia đình có hài cốt đều có quyền thăm viếng, chăm sóc phần mộ người
thân. Đây là một biểu hiện tiêu biểu tinh thần khoan dung, khép lại quá khứ,
hướng tới tương lai của Chính phủ và dân tộc ta. Ngoài ra, Ủy ban nhà nước
về người Việt Nam ở nước ngoài, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức
nhiều hoạt động như: đối thoại với những cá nhân, nhóm bất đồng chính kiến;
ngày hội Xuân quê hương, Trại hè kiều bào, Hội nghị người Việt Nam ở nước
ngoài… qua đó, đã thu hút, quy tụ được đông đảo bà con kiều bào hướng về
Tổ quốc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 36, mối quan hệ giữa cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài với đất nước ngày càng được củng cố, tăng cường. Hàng
năm, có trên 500 nghìn lượt kiều bào về thăm thân, tìm cơ hội đầu tư. Từ năm
106
2009 đến nay, lượng kiều hối gửi về nước liên tục tăng từ 6,2 tỷ USD năm 2009
lên 8,8 tỷ USD năm 2012, đóng góp 1/10 GDP của đất nước [111]. Một số cá
nhân có vị thế trong chế độ cũ cũng đã về thăm quê hương, tìm cơ hội đầu tư,
làm ăn, sinh sống (như Nguyễn Cao Kỳ - nguyên Phó Tổng thống Việt Nam
cộng hòa). Trong thời gian vừa qua, vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ
quốc được đại đa số bà con người Việt trên khắp thế giới đồng tình, ủng hộ.
*
* *
Thực trạng thực hiện chính sách khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận
xã hội trong thời kỳ đổi mới cho thấy: chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước muốn thành công phải xuất phát từ hiện thực khách quan, đó là điều
kiện cụ thể của đất nước và quốc tế. Xét đến cùng, chủ trương, chính sách là
sự phản ánh những nhu cầu, điều kiện của thực tế của đất nước và thời đại;
thoát ly điều kiện thực tế, những chủ trương, chính sách đó sẽ rơi vào bệnh
chủ quan duy ý chí. Những điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội, nhu cầu phát
triển đất nước…là cơ sở khách quan cho thực hiện chính sách khoan dung
nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay.
Bối cảnh cụ thể của thực hiện khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã
hội nước ta trong giai đoạn hiện nay vừa có những điểm tương đồng, vừa có
sự khác biệt so với lịch sử. Điểm tương đồng là: trong lịch sử, khi có thiên tai,
địch họa, sau kết thúc chiến tranh các nhà cầm quyền thường thực hiện chính
sách “khoan thư sức dân” để bồi dưỡng sức dân, làm cơ sở chính trị cho sự
tồn tại của chế độ; hòa hiếu với kẻ thù xâm lược nhằm tạo ra môi trường hòa
bình để phát triển đất nước; tha thứ cho những người vì lý do nhất thời mà
theo giặc… Nhưng, so với lịch sử, những nhân tố trong thời kỳ đổi mới có
nhiều điểm khác biệt. Ví như: trong lịch sử chưa từng diễn ra sự di cư lớn (về
số lượng) vì lý do chính trị như sau giai đoạn 1975; trong lịch sử cũng không
107
có quá trình toàn cầu hóa, sự tác động, phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia,
dân tộc; không có sự hình thành các tổ chức quốc tế và khu vực mang tính
chất đa dạng như giai đoạn hiện nay. Trong lịch sử, chiến tranh bảo vệ độc lập
dân tộc chủ yếu trong mối quan hệ với Trung Quốc, sau kết thúc chiến tranh,
mối quan hệ hòa bình chủ yếu với Trung Quốc. Nhưng, Trung Quốc so với
Việt Nam vẫn có sự tương đồng về thể chế chính trị (đều là quốc gia phong
kiến). Hiện nay, sau khi kết thúc chiến tranh, nước ta thiết lập hòa bình “gác
lại quá khứ, hướng tới tương lai” trong mối quan hệ với những đối tác hết sức
đa dạng, thậm chí đối lập về chể chế chính trị. Cùng tồn tại hòa bình trong
điều kiện hiện nay là sự tôn trọng nhiều mặt từ kinh tế, chính trị, văn
hóa…lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc. Như vậy, khoan dung, đồng thuận
trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi ở tầm cao hơn, không đơn thuần là sự tha thứ
mà là sự tôn trọng, học hỏi lẫn nhau; không chỉ ở phạm vi quốc gia, khu vực
mà ở phạm vi thế giới.
Từ đó cho thấy, thực hiện khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội
là bài học xuyên suốt trong lịch sử dân tộc nhưng trong bối cảnh mới, điều
kiện mới, chính sách đó cũng đặt ra những yêu cầu, cách thức thực hiện mới.
Xuất phát từ thực tế của đất nước và quốc tế để thực hiện chính sách khoan
dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội chứ không phải là sự sao chép máy
móc bài học từ lịch sử.
3.3. Một số vấn đề đang đặt ra hiện nay trong phát huy truyền thống
khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội
Một là, những yêu cầu cao của phát huy truyền thống khoan dung nhằm
tăng cường đồng thuận xã hội trong khi nhận thức về khoan dung của một bộ
phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn nhiều phiến diện.
Công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh hội nhập
quốc tế đòi hỏi tất yếu nước ta phải tạo lập được đồng thuận xã hội để tạo ra
108
sức mạnh tổng hợp quốc gia. Muốn vậy phải thực hành khoan dung, phải:
“xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận
những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh
thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa khoan dung…” [27, tr.240]. Khoan
dung từ đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và cả từ các tầng lớp nhân
dân. Nhưng, thực tế hiện nay, nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên
và nhân dân về khoan dung còn mang tính phiến diện. Biểu hiện cụ thể là,
trong cách hiểu thông thường, trong các từ điển, khoan dung chủ yếu được
hiểu, giải thích là thái độ “rộng lượng của kẻ trên với người dưới”, là “tha thứ
cho người mắc lỗi lầm”. Trong nhiều trường hợp, nhận thức như vậy, không
những không tạo ra đồng thuận, đoàn kết, trái lại còn gây ra mâu thuẫn, bất
đồng. Ví dụ, đối với một bộ phận bà con người Việt Nam vì lý do lịch sử, ra
nước ngoài (sau sự kiện giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 30 tháng
Tư năm 1975), nếu hiểu và thực hiện khoan dung theo tinh thần ấy thì không
những không tạo ra sự đoàn kết, đồng thuận, không xây dựng được đại đoàn
kết toàn dân tộc mà ngược lại. Hoặc hiện nay, trong nhân dân, một số người có
quan điểm về con đường phát triển đất nước không trùng hợp hoàn toàn với
quan điểm chính thống của Đảng, Nhà nước. Nếu hiểu khoan dung là “tha thứ”
cho họ để xây dựng đồng thuận xã hội thì tất yếu cũng không có đồng thuận.
Bởi họ không phải là người có lỗi để cần được tha thứ.
Trong quan hệ đối ngoại, nhận thức về truyền thống khoan dung cũng
tương tự, khoan dung chủ yếu được hiểu là “tha thứ cho giặc ngoại xâm khi
chúng đã quy hàng. Nếu trong quan hệ quốc tế, ở tầm quốc gia, trong quan hệ
với các nước trước đây đã từng là kẻ thù xâm lược, khoan dung được hiểu
như vậy cũng tất yếu không thể tạo ra sự đồng thuận, sự hợp tác.
Từ đó cho thấy, những nhận thức phiến diện về khoan dung trên đây đang
là lực cản cho các nỗ lực xây dựng đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay.
109
Hai là, phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã
hội trong quan hệ quốc tế với vấn đề bảo vệ độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc
gia hiện nay
Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tham gia vào quá trình
toàn cầu hóa là yêu cầu khách quan của nước ta. Tham gia vào quá trình đó,
nước ta vừa phải thực hành khoan dung, đồng thuận, một số vấn đề đặt ra trong
việc bảo vệ độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia như:
Trên phương diện kinh tế: tham gia quá trình toàn cầu hóa, nước ta phải
chấp nhận (đồng thuận) những quy định, “luật chơi” do các tổ chức kinh tế
quốc tế quy định; nhiều trong số đó đã được xác lập trước khi nước ta trở
thành thành viên. Trong khi: “cái có ý nghĩa mang tính nguyên tắc là các dân
tộc và các quốc gia không được chuẩn bị như nhau cho việc tiếp cận với hệ
thống thế giới mở cửa, đang toàn cầu hóa, khác nhau đáng kể về tiềm năng
kinh tế” [51, tr.459-460]. Thực tế cho thấy, tham gia vào toàn cầu hóa làm
giảm sút năng lực kiểm soát tín dụng, tiền tệ và ngân sách của nhà nước. Các
lý thuyết kinh điển về nhà nước đều cho rằng, tài chính là một trụ đỡ quan
trọng quyết định sự tồn vong của nhà nước dân tộc (theo lý thuyết Bretton
Wood, nhà nước phải có toàn quyền ấn định tỷ giá hối đoái, đặc quyền phát
hành tiền tệ và năng lực nuôi dưỡng đội ngũ cán bộ hành chính bằng thuế).
Tất cả những cái đó đang bị thay thế bởi những yếu tố mới như: hệ thống tỷ
giá hối đoái thả nổi, sự dỡ bỏ hàng rào thuế quan và mậu dịch bằng các hiệp
ước khu vực hay đa phương... Ngoài ra, tham gia vào quá trình toàn cầu hóa,
nền kinh tế cũng dễ phải gánh chịu những cơn khủng hoảng tài chính mà
nguyên nhân chủ yếu là do tự do hóa các luồng vốn đầu tư. Trong khi khả
năng can thiệp của chính phủ là rất hạn chế, một mặt do tính chất quốc tế của
vấn đề, mặt khác do các quy định nghiêm ngặt của các quy định quốc tế. Từ
110
đó cho thấy, hội nhập quốc tế đang đặt ra rất nhiều thách thức cho bảo vệ độc
lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia trên lĩnh vực kinh tế.
Trên phương diện chính trị: thực hiện khoan dung nhằm tăng cường đồng
thuận xã hội trong quan hệ quốc tế đối với nước ta cũng gặp một số thách
thức sau: thứ nhất, vấn đề bảo vệ sự độc lập về con đường phát triển đất nước
trước áp lực của các tổ chức chính trị phản động bên ngoài, cái nhìn định kiến
về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản của một số quốc gia, tổ chức quốc tế.
Thứ hai, sự can thiệp của các tổ chức phi chính phủ, các phong trào xã hội
toàn cầu đối với các vấn đề dân chủ, nhân quyền dưới danh nghĩa các giá trị
con người phổ quát, nhằm đẩy các vấn đề có tính chất nội bộ quốc gia thành
vấn đề quốc tế. Thứ ba, sự trỗi dậy của “chủ nghĩa Đác uyn xã hội”. Thứ tư,
trong những năm gần đây, trên thế giới xuất hiện các biểu hiện “đồng thuận
của kẻ mạnh”, đó là trường hợp một vài quốc gia có vị thế ưu trội về kinh tế,
chính trị, quân sự cùng nhau thỏa thuận can thiệp, thậm chí tấn công vào một
quốc gia có chủ quyền bất chấp luật pháp quốc tế; hoặc, dùng các biện pháp
về kinh tế nhằm bao vây, cấm vận, cô lập những quốc gia yếu hơn nhằm mục
tiêu tạo ra những mâu thuẫn, bất đồng để thay đổi thể chế chính trị tại quốc
gia khác. Đã có ý kiến cảnh báo rằng: “…những kẻ bảo vệ triệt để nhất thế
giới toàn cầu, tuyên truyền cho xã hội mở, thống nhất, không có ranh giới và
hàng rào ngăn cách là những nước hùng mạnh và phát triển nhất. Bởi họ nhận
thấy khả năng làm suy yếu các quốc gia có chủ quyền làm cơ sở cho sự bành
trướng kinh tế, chính trị, văn hóa…Họ coi toàn cầu hóa như một không gian
chọn lọc tự nhiên, mở rộng địa bàn như mở rộng không gian sinh tồn cho dân
tộc mình. Những quốc gia, dân tộc, chính phủ cầm quyền kém thích nghi sẽ bị
đào thải theo quy luật tự nhiên sinh học” [51, tr.340].
Trên phương diện văn hóa, xã hội: trong hội nhập quốc tế, về mặt hình
thức, các nền văn hóa đều bình đẳng và được tôn trọng. Nhưng, với sức mạnh
111
công nghệ vượt trội, văn hóa phương Tây đang có biểu hiện lấn át các nền văn
hóa khác, “xâm lăng văn hóa” là một thuật ngữ được nhắc tới, được cảnh báo
đối với các nước chậm phát triển, trong đó có nước ta. Ngoài ra, những vấn đề
xã hội như thất nghiệp, di dân, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Bởi, hội nhập
quốc tế làm cho sản phẩm hàng hóa phải cạnh tranh quốc tế, trong khi các
năng lực về vốn, khoa học công nghệ của nước ta lạc hậu; mặt khác, hội nhập
quốc tế bắt buộc nước ta phải mở cửa thị trường, trong đó có thị trường lao
động trong khi thực trạng đào tạo nguồn nhân lực của nước ta thấp…đó là
những nguy cơ dẫn đến tình trạng thất nghiệp, di dân. Khi nghiên cứu về vấn
đề này, có tác giả đã cảnh báo: “Dưới áp lực của toàn cầu hóa, khoảng cách
giàu nghèo trên thế giới ngày một gia tăng, bất chấp nỗ lực của các chính phủ.
Toàn cầu hóa đang đẩy hàng triệu người đến chỗ thất nghiệp, phá vỡ những
phương thức sinh sống của họ, trực tiếp hay gián tiếp tạo ra những dòng di cư,
sự tàn phá môi trường thiên nhiên ở các nước thứ ba. Nó tạo cơ hội cho giới
đầu cơ và gieo dắt sự khốn cùng cho người lao động: ngân sách giáo dục và y
tế bị cắt giảm để trả nợ khiến hàng triệu trẻ em thất học, hàng triệu người mất
việc làm, đồng lương thực tế suy giảm, cấu trúc gia đình phá vỡ, sự mất ổn
định xã hội kèm theo tội phạm và bạo lực gia tăng” [150, tr.103]
Mặt khác, trong quan hệ quốc tế hiện nay, cộng đồng quốc tế chưa có
các chế tài đủ mạnh để ngăn chặn, xử lý kịp thời, thích đáng các hành vi bất
khoan dung; tuyên truyền, lôi kéo, kích động tư tưởng, hành vi bất khoan
dung nhằm gây mâu thuẫn, chia rẽ, bất đồng giữa các quốc gia, dân tộc.
Như vậy, thực hành khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội trong
mở rộng quan hệ quốc tế đối với nước ta là một tất yếu nhưng nó cũng đặt ra
rất nhiều vấn đề trong bảo vệ độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia hiện nay.
Ba là, phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã
hội với những cá nhân, tổ chức có quan điểm khác nhau về con đường pháttriển đất nước với vấn đề đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa
112
Trong những năm gần đây, trên thế giới, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào
thoái trào. Trong nước, những yếu kém trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội;
tình trạng tham nhũng, lãng phí diễn ra khá trầm trọng: “Một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả
một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với
những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân
ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ,
tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…” [31, tr.22], đó là nguyên nhân
dẫn đến xuất hiện một số quan điểm hồ nghi về con đường phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thậm chí, một số cá nhân, tổ chức đã đề xuấtcác con đường phát triển đất nước khác nhau. Trong đó, có quan điểm đề nghị
nước ta cần có một giai đoạn phát triển dân chủ trước rồi sau đó mới thực hiện
mục tiêu xã hội chủ nghĩa, có quan điểm đề cao chủ nghĩa dân tộc, đòi đa
nguyên về chính trị, cải tổ Đảng Cộng sản Việt Nam, thay đổi nền tảng tư tưởng
của Đảng… Sự phát triển của công nghệ thông tin làm cho các ý kiến đó, bằng
các con đường khác nhau lan truyền nhanh và rộng trong xã hội, ảnh hưởng
không nhỏ đến tâm tư, tình cảm, nhận thức trong một bộ phận nhân dân.
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng, mở rộng các
quyền tự do, dân chủ cho công dân, trong đó có các quyền tự do tư tưởng, ngôn
luận. Đây chính là cơ sở pháp lý cho các cá nhân, tổ chức bày tỏ quan điểm của
mình về con đường phát triển đất nước. Tự do tư tưởng, ngôn luận không
những là quyền cơ bản của con người trong phạm vi của pháp luật Việt Nam
mà còn là những quyền cơ bản được quy định trong Công ước quốc tế về quyền
con người mà nước ta đã tham gia phê chuẩn. Như vậy, tôn trọng, thực hiện các
quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận của công dân là tất yếu với nước ta.
Vấn đề đặt ra ở đây là, một mặt Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vẫn kiên
định những vấn đề có tính nguyên tắc như: mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, nhất nguyên về chính trị, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng
113
sản Việt Nam với Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; mặt khác
Đảng, Nhà nước ta tôn trọng các quan điểm, ý kiến khác nhau về con đường
phát triển đất nước. Trong các quan điểm đó, có quan điểm khác biệt, thậm
chí đối lập với những nguyên tắc mà Đảng ta kiên định.
Ngay cả khi đã có đồng thuận về mục tiêu, nhưng vẫn có sự khác biệt về cách
thức thực hiện. Bởi để đi đến: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” không chỉ duy nhất có một con đường và không phải mọi cá nhân đều
mặc nhiên thừa nhận tính hiệu quả của con đường đó. Do vậy, để có đồng thuận
xã hội thì những quan điểm, ý kiến khác nhau cần phải được tranh luận công
khai trên cơ sở khoa học. Đối thoại phải được xem là hình thức hữu hiệu để để
xây dựng đồng thuận xã hội. Muốn vậy, Đảng, Nhà nước phải tạo ra cơ chế, môi
trường để các quan điểm khác nhau có thể trao đổi, tranh luận công khai. Nhưng,
do nhiều nguyên nhân, cho đến nay nước ta vẫn thiếu các “kênh”, diễn đàn như
vậy. Do đó, những quan điểm, ý kiến khác nhau vẫn được phát biểu “ngầm”, qua
các kênh không chính thống. Những điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến
quá trình xây dựng đồng thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Bốn là, những mâu thuẫn, bất đồng do thiếu nhất quán giữa chủ trương,
chính sách về phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng
thuận xã hội và việc thực hiện nó trong thực tế
Chủ trương của Đảng và nhà nước ta là “gác lại quá khứ, hướng tới tương
lai”, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, cùng hướng đến mục tiêu xây dựng: “một
nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng
văn minh”. Tuy nhiên, một số chính sách, pháp luật cụ thể lại chưa thể hiện rõ
tinh thần này. Ví dụ, Đảng ta chủ trương “gác lại quá khứ” nhưng trong thực tế,
việc xét duyệt, tuyển dụng, đề bạt cán bộ thì lại rất quan tâm đến yếu tố “lý
lịch”; chủ trương coi: “Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không
114
tách rời của dân tộc” nhưng trong chính sách thuế, phí, mua và sở hữu nhà lại
có sự phân biệt giữa người Việt ở trong và ngoài nước. Trong đợt lấy ý kiến
nhân dân góp ý cho bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (năm 2013) vừa qua,
chủ trương của Ban soạn thảo là: “tôn trọng, chấp nhận các ý kiến khác nhau”,
nhưng khi xuất hiện ý kiến không trùng hợp với những quan điểm chính thống
thì hoặc là bị “phủ định” mà không có sự giải thích lý do rõ ràng, hoặc bị coi là
trái đường lối, quan điểm thậm chí có cả những sự “quy kết” không đáng có.
Điều này cho thấy, còn thiếu sự nhất quán giữa chủ trương khoan dung và việc
thực hiện nó trong thực tế nhằm xây dựng đồng thuận xã hội.
Thứ năm, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự
ảnh hưởng của nó đến xây dựng đồng thuận xã hội ở Việt Nam. Trong thời kỳ
đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng có
những tác động nhất định đến xây dựng đồng thuận xã hội ở nước ta. Thứ nhất,
một bộ phận cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lão thành cách mạng cho rằng,
phát triển kinh tế thị trường là đi theo chủ nghĩa tư bản, xa rời mục tiêu xã hội
chủ nghĩa, các nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đó, hình thành những
sự “hồ nghi” nhất định với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Thứ
hai, phát triển kinh tế thị trường có mặt tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển
nhưng cũng chứa đựng mặt tiêu cực là tạo ra sự phân hóa giàu nghèo trong xã
hội. Để hạn chế mặt tiêu cực của nó, Đảng ta đã đặt ra nhiệm vụ phát triển kinh
tế thị trường gắn với định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên lĩnh vực kinh tế, khoan
dung là sự tôn trọng các lợi ích chính đáng của các chủ thể khác nhau trong nền
kinh tế. Thông thường, sự tôn trọng này được thực hiện thông qua hệ thống
pháp luật - quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể. Tuy nhiên, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề lý luận và thực tiễn còn rất
mới mẻ, thời gian thực hiện ở nước ta chưa dài, cho nên hệ thống pháp luật
điều chỉnh các quan hệ này chưa đồng bộ, hoàn thiện. Trong thực tế, mặt “định
115
hướng xã hội chủ nghĩa” của nền kinh tế thị trường nước ta chưa được thực
hiện tốt (hệ thống chính sách an sinh xã hội, thực hiện phân phối qua phúc lợi,
hỗ trợ người nghèo…). Điều đó dẫn đến sự ngộ nhận của một bộ phận nhân
dân cho kinh tế thị trường là nguyên nhân dẫn đến bất công xã hội, hình thành
mâu thuẫn, bất đồng giữa các nhóm thụ hưởng thành quả phát triển kinh tế thị
trường khác nhau (những người giàu lên và nghèo đi, thậm chí phá sản trong
kinh tế thị trường). Tất cả những yêu tố trên cũng ảnh hưởng tiêu cực đến xây
dựng đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay.
Trong giai đoạn toàn cầu hóa, cạnh tranh giữa các quốc gia, dân tộc diễn ra
gay gắt, quyết liệt. Muốn thắng lợi, phải xây dựng được khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, phải làm cho các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, thành phần
xã hội kết thành một khối thống nhất - hay nói cách khác phải xây dựng đồng
thuận xã hội. Nhưng, những vấn đề nêu trên vẫn là những nhân tố cản trở quá
trình xây dựng đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay.
116
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Thực hiện khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội là một truyền
thống của dân tộc Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã
tiếp tục phát huy truyền thống này nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng
văn minh.
Khoan dung, đồng thuận xã hội là những phạm trù thuộc ý thức xã hội,
bản chất của nó là sự phản ánh những mặt, những mối quan hệ khác nhau của
tồn tại xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, do bối cảnh, yêu cầu mới nên việc vận
dụng, phát huy truyền thống này cũng có những biểu hiện, cách thức thực
hiện mới. Rõ nhất là, nhiều giá trị, yêu cầu của khoan dung đã được luật hóa,
trở thành các quy định có tính chất bắt buộc và được thực hiện thống nhất
trong phạm vi quốc gia. Ví dụ chính sách miễn giảm thuế khóa, chính sách an
sinh xã hội, các quyền bình đẳng dân tộc, tự do tín ngưỡng tôn giáo… Phạm
vi thực hiện khoan dung, đồng thuận xã hội được mở rộng, không chỉ trong
quốc gia, khu vực mà đã mang tính toàn cầu.
Trong thời kỳ đổi mới, nhờ phát huy truyền thống khoan dung, trên nhiều
mặt, nhiều quan hệ xã hội, sự đồng thuận đã được xác lập và ngày càng được
củng cố vững chắc, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy, ở một số lĩnh vực, vẫn tồn tại những
khác biệt, mâu thuẫn, bất đồng; thậm chí có những khác biệt, bất đồng rất cơ
bản. Ví như, ngày càng có nhiều ý kiến đề xuất việc thực thi một nền chính trị
dân chủ tự do; trong khi Đảng ta kiên định nguyên tắc nhất nguyên về chính
trị, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng;
sự buông lỏng vai trò quản lý của nhà nước trong phát triển kinh tế thị trường
đã dẫn đến một bộ phận cán bộ tham nhũng, làm ăn phi pháp giàu lên nhanh
chóng trong khi bộ phận lớn những người lao động công nhân, nông dân đời
117
sống còn nhiều khó khăn, khoảng cách thu nhập, trình độ phát triển giữa các
giai cấp, tầng lớp, vùng miền ngày càng doãng ra… điều này càng làm xuất
hiện những mâu thuẫn, bất đồng trong xã hội.
Ngoài ra, thực tế sự phát triển của đất nước đang đặt ra một số vấn đề đòi
hỏi Đảng, Nhà nước tiếp tục nghiên cứu, tìm các giải pháp thực hiện như: làm
thế nào để vừa thực hiện khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội
trong quan hệ quốc tế vừa bảo đảm độc lập, chủ quyền lợi ích quốc gia; làm
thế nào để vừa chấp nhận, tôn trọng những người có quan điểm, ý kiến khác
nhau về con đường phát triển đất nước trong khi vẫn giữ vững mục tiêu, định
hướng xã hội chủ nghĩa…
118
Chương 4
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CƠ BẢN
PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG KHOAN DUNG NHẰM TĂNG
CƯỜNG ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Một số quan điểm cơ bản phát huy truyền thống khoan dung
nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay
Một là, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc
gia khi thực hiện chính sách khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận trong
quan hệ quốc tế
Hội nhập quốc tế là khái niệm phản ánh sự tham gia vào đời sống quốc
tế của một quốc gia, dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay, do sự phát triển của
lực lượng sản xuất, tham gia hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan đối
với các nước, trong đó có nước ta. Hội nhập quốc tế có tính hai mặt: nó vừa
tạo ra những khả năng tích cực cho sự phát triển; đồng thời, nó cũng tiềm ẩn
những nguy cơ ảnh hưởng đến độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia.
Ở Việt Nam, khái niệm “hội nhập quốc tế” lần đầu được Đảng Cộng
sản Việt Nam sử dụng tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Tuy
nhiên, khi đó, “hội nhập quốc tế” chỉ trong khuôn khổ kinh tế - “hội nhập
kinh tế quốc tế”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta nêu quan
điểm: “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Như vậy, hội nhập quốc tế
không chỉ trong giới hạn kinh tế, mà mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác. Tham
gia hội nhập quốc tế, nước ta buộc phải tôn trọng các cam kết quốc tế đã ký
kết; các đặc điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa của các quốc gia, dân tộc khác.
Nhưng, chúng ta cũng kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lợi
ích quốc gia: “bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc” [28,
tr.664]. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, hội nhập quốc tế phải: “vì
119
lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”
[27, tr.236]. Tham gia vào quá trình đó, Việt Nam kiên quyết đấu tranh, bảo
vệ các nguyên tắc: bình đẳng, cùng có lợi, dựa trên Hiến chương Liên hợp
quốc và luật pháp quốc tế. Điều đó có nghĩa, thực hiện khoan dung, đồng
thuận trong quan hệ quốc tế phải theo tinh thần: “độc lập và chủ quyền quốc
gia, tự do và hạnh phúc của đồng bào, hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc.
Xa rời những thước đo ấy, vi phạm thước đo ấy sẽ rơi vào một thứ khoan
dung tiêu cực, lẫn lộn phải trái, đảo lộn trắng đen, không thể chấp nhận” [89].
Gần đây, việc Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan HD
981 xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam, người đứng đầu Chính phủ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thể hiện rõ quan điểm: “luôn
tha thiết có hòa bình, hữu nghị để xây dựng, phát triển đất nước… nhất quán
sử dụng các biện pháp hòa bình, tận dụng mọi kênh đối thoại để giải quyết
tình hình một cách hòa bình” nhưng phải trên cơ sở: “đảm độc lập, tự chủ,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh
đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông,
lệ thuộc nào đó” [46]. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc không chỉ riêng với
Đảng, Chính phủ mà là toàn thể dân tộc Việt Nam.
Hai là, giữ vững ổn định chính trị, định hướng xã hội chủ nghĩa trong
thực hiện khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội
Giữ vững ổn định chính trị, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là:
giữ vững quyền làm chủ đất nước thuộc về nhân dân; bảo đảm vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; chức năng quản lý, điều hành xã hội của
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thực hiện thắng lợi mục tiêu:
“hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng văn minh”. Tất cả đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước về khoan dung, đồng thuận xã hội phải đảm bảo nguyên tắc đó. Các
120
quan điểm trong chính sách đối ngoại như: “gác lại quá khứ, hướng tới tương
lai”, “bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”; các quan điểm trong chính sách đối nội:
“khoan thư sức dân”, tôn trọng các đặc điểm dân tộc, tôn giáo, “xóa bỏ mặc
cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác
nhau”… mục tiêu cuối cùng cũng nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, thực hiện thắng lợi những mục tiêu như trên.
Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch đã và đang dùng âm
mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam,
một trong những hình thức họ sử dụng là tìm cách chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc, cô lập Việt Nam trên trường quốc tế. Để đạt mục tiêu đó, họ tuyên
truyền các quan điểm bất khoan dung như: tuyệt đối hóa sự khác biệt, khơi lại
những vấn đề quá khứ nhằm chia rẽ các dân tộc, tôn giáo với Đảng, Nhà nước
hoặc giữa các dân tộc, tôn giáo với nhau; giữa người trong Đảng và người
ngoài Đảng; giữa người Việt Nam ở nước ngoài với đồng bào, chính quyền
trong nước; họ đấu tranh đòi đa nguyên, đa đảng… Do vậy, “nguyên tắc cơ
bản của tinh thần khoan dung Việt Nam là độc lập, chủ quyền của dân tộc, tự
do, hạnh phúc của nhân dân, …Tuyệt đối không mơ hồ, lẫn lộn và thụ động
chấp nhận quan điểm về một thứ “khoan dung” vô nguyên tắc, xóa nhòa ranh
giới giai cấp, lẫn lộn tư tưởng “đa nguyên chính trị”, tiếp thu xô bồ những
quan điểm, lối sống, văn hóa xa lạ với truyền thống đạo đức, thuần phong, mỹ
tục của dân tộc Việt Nam” [13, tr.382-383].
Ba là, phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận
xã hội với mục tiêu phát huy tối đa sức mạnh của cả dân tộc, sớm đưa nước ta
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
Khoan dung, đồng thuận xã hội không có mục đích tự thân mà nó phục
vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần nhân dân; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền; nâng cao vị thế nước ta
121
trên trường quốc tế. Trong lịch sử cũng như hiện tại, thực hiện khoan dung
nhằm tăng cường đồng thuận xã hội với mục tiêu xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc nhằm bảo vệ, phát triển đất nước. Do vậy, việc phát huy truyền
thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay cuối
cùng cũng phải vì mục tiêu phát triển của đất nước. Lấy mục tiêu giữ vững ổn
định chính trị - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân làm
thước đo, tiêu chuẩn cao nhất để kiểm nghiệm tính hiệu quả của phát huy
truyền thống khoan dung, tăng cường đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 được Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua, Đảng ta nêu mục tiêu tổng quát: “Phấn
đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai
đoạn sau” [27, tr.103]. Cùng với các giải pháp về kinh tế, đồng bộ thực hiện
các giải pháp về chính trị, xã hội, tư tưởng cũng nhằm đạt mục tiêu đó.
Trong một đất nước có nhiều dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp với
những đặc điểm, lợi ích khác nhau, việc xây dựng đồng thuận xã hội nhằm
thống nhất các giai cấp, dân tộc, tôn giáo thành một khối thống nhất, tất yếu
phải thực hành khoan dung. Mặt khác, nước ta tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong bối cảnh nền kinh tế thế giới cạnh tranh gay gắt, trong khi
thực lực nước ta còn hạn chế. Do vậy, để thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân
tộc; không chỉ các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo trong nước mà cả đông
đảo bà con người Việt Nam ở nước ngoài. Mục tiêu của khoan dung nhằm xây
dựng đồng thuận xã hội, đồng thuận xã hội để thực hiện đoàn kết xã hội; qua đó,
122
tạo ra sức mạnh tổng hợp của dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu trước
mắt đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Bốn là, phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng
thuận xã hội phải được xem là một nhân tố trong “sức mạnh mềm” tạo nên
sức mạnh tổng hợp Việt Nam
"Sức mạnh mềm" (soft power) là một khái niệm mới do giáo sư Joseph
Nye, nguyên Hiệu trưởng trường J.Kennedy thuộc đại học Haward (Hoa Kỳ)
đề ra năm 1990. Trong lý thuyết của mình, ông đã chia sức mạnh tổng hợp
quốc gia thành hai loại: "sức mạnh cứng" và "sức mạnh mềm". "Sức mạnh
cứng" được hiểu là tổng thể các yếu tố chiếm vị trí chi phối, bao gồm tài
nguyên cơ bản (như diện tích đất đai, dân số, tài nguyên tự nhiên), sức mạnh
quân sự, sức mạnh kinh tế và sức mạnh khoa học – công nghệ. Còn "sức
mạnh mềm" là sức hội tụ, lôi cuốn, hấp dẫn quốc gia thông qua văn hóa; là
khả năng để người khác làm theo ý muốn của mình một cách tự nguyện. Theo
ông, “sức mạnh mềm” được tạo bởi ba yếu tố: văn hóa, hệ giá trị và chính
sách quốc gia [96].
Những năm gần đây, khái niệm "sức mạnh mềm" đã được chấp nhận
rộng rãi trong giới nghiên cứu và các nhà hoạt động chính trị. Bởi, nó thể hiện
một tư tưởng mới, không dựa vào sức mạnh quân sự, chính trị mà dựa vào
văn hóa để thể hiện sức mạnh quốc gia. Trong một cuộc trả lời trực tuyến do
báo Vietnamnet tổ chức ngày 16 tháng 11 năm 2007 tại Hà Nội, bản thân ông
J.Nye đã cho rằng: “Việt Nam có nhiều điểm thu hút các quốc gia khác: sự
nổi danh từ cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, sự chuyển đổi thành công
trở thành một nền kinh tế bùng nổ…” [96], đó là những biểu hiện sức mạnh
mềm Việt Nam trong thế giới đương đại.
Nghiên cứu lịch sử dân tộc Việt Nam ta thấy, ngay từ thế kỷ XV, trong
bài Cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã khẳng định: “Như nước Đại Việt ta từ
123
trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. “Nền văn hiến” chính là “sức mạnh
mềm” tạo nên sức mạnh tổng hợp Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc
lập dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta cho rằng: “lòng yêu nước nồng
nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá
nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa
tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử,
tính giản dị trong lối sống…” [32, tr.56], đó là bản sắc văn hóa Việt Nam;
những giá trị bền vững, tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được
bồi đắp qua hàng nghìn năm lịch sử. Những giá trị ấy đang góp phần tạo nên
sức mạnh Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Dân tộc Việt Nam yêu
hòa bình, trong lịch sử, dù bị ngoại bang xâm lược, giày xéo, đô hộ nhưng khi
kết thúc chiến tranh, chúng ta sẵn sàng tha thứ, thiết lập quan hệ bang giao.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta thực hiện đường lối đối ngoại
hòa bình, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế. Cùng với phát triển kinh tế, chính trị, quân sự; phát huy
truyền thống khoan dung, tăng cường đồng thuận xã hội phải được xem là
những nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
Trong những ngày đầu tháng 5 năm 2014, trong khi Trung Quốc ngang
nhiên đưa giàn khoan HD 981 xâm phạm trái phép chủ quyền lãnh hải, hung
hăng sử dụng bạo lực khiêu khích, tấn công các lực lượng bảo vệ pháp luật
Việt Nam; thì Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã kiên trì sử dụng các
biện pháp hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế để đấu tranh bảo vệ chủ quyền,
độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đã nhận được sự đồng thuận, ủng hộ
của đông đảo nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Tính chính nghĩa,
truyền thống yêu chuộng hòa bình là sức mạnh mềm tạo nên sức mạnh tổng
hợp quốc gia trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của dân tộc ta hiện nay.
124
Năm là, quán triệt những vấn đề có tính nguyên tắc trong vận dụng và
phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở
nước ta hiện nay
Thứ nhất, trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, cần thấy rằng
nguyên nhân sâu xa của cả khoan dung, đồng thuận xã hội từ các quan hệ lợi
ích. Khi lợi ích của các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, quốc gia… chưa
được giải quyết hài hòa thì không thể xây dựng được đồng thuận xã hội, cả
trong quan hệ đối nội và quan hệ đối ngoại.
Thứ hai, khoan dung, đồng thuận không phải là những giá trị nhất
thành bất biến, mà nó cần được nhận thức, vận dụng, phát triển theo sự phát
triển của điều kiện kinh tế - xã hội. Do vậy, việc phát huy truyền thống khoan
dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay cũng cần được
phát triển phù hợp với đặc điểm, yêu cầu cụ thể của đất nước và thời đại.
Trong thực tế, cần tránh hai khuynh hướng hoặc là sao chép máy móc, hoặc là
phủ định sạch trơn bài học lịch sử.
Thứ ba, cần nhận thức rằng, trong xã hội còn tồn tại các giai cấp, dân
tộc, tôn giáo, nhóm lợi ích khác nhau thì sẽ không bao giờ có đồng thuận trên
mọi lĩnh vực, và càng không có đồng thuận tuyệt đối. Do đó, về nguyên tắc,
cần nâng cao đồng thuận tối đa, chấp nhận bất đồng ở mức tối thiểu.
Thứ tư, phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng
thuận xã hội là một quá trình, do đó, không thể nôn nóng, vội vàng mà cần
bình tĩnh thực hiện nguyên nguyên tắc “cầu đồng, tồn dị”, phát huy tối đa
những điểm tương đồng, chấp nhận những điểm khác biệt; lấy lợi ích tối cao
của dân tộc làm điểm tương đồng lớn nhất để đoàn kết, thống nhất dân tộc.
Đối với những vấn đề còn mâu thuẫn, khác biệt, tuyệt đối không sử dụng các
hình thức áp đặt hay triệt thoái tư tưởng, mà cần thực hiện đối thoại; thông
qua đối thoại, các bên từng bước đi đến thống nhất những nhận thức, cách
125
thức giải quyết chung. Biện pháp xây dựng đồng thuận là: từng bước chuyển
hóa những mâu thuẫn lớn thành mâu thuẫn nhỏ, từ mâu thuẫn sang khác biệt,
từ khác biệt sang đồng thuận, từ đồng thuận đến thống nhất.
Thứ năm, phát huy truyền thống khoan dung, tăng cường đồng thuận xã
hội xuất phát từ mỗi người dân, mỗi giai cấp, dân tộc, tôn giáo, cộng đồng dân
cư. Nhưng, quan trọng nhất, quyết định nhất là từ đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước. Bởi, đường lối, chính sách có phạm vi ảnh hưởng rộng, mức
độ ảnh hưởng sâu sắc nhất. Ở Việt Nam hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam
là đảng duy nhất cầm quyền, sự gương mẫu trong Đảng về khoan dung, đồng
thuận là tấm gương có sức lan tỏa lớn trong toàn xã hội. Những biểu hiện của
bất khoan dung, bất đồng trong nội bộ Đảng thường kéo theo những hệ lụy,
sự ảnh hưởng tiêu cực trong xã hội.
4.2. Một số giải pháp chủ yếu phát huy truyền thống khoan dung
nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay
4.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức
Một là, nâng cao nhận thức về truyền thống khoan dung, đồng thuận xã
hội của dân tộc trong toàn hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân
Hành vi của con người là hành vi có ý thức, được điều khiển, dẫn dắt
bởi ý thức; cho nên, để nâng cao mức độ khoan dung, đồng thuận, trước hết cần
nâng cao nhận thức về khoan dung và đồng thuận xã hội. Phải làm cho mỗi cơ
quan, tổ chức, người dân thấy được bài học: trong lịch sử nhờ thực hiện khoan
dung mà dân tộc đã đoàn kết, thống nhất, đồng sức, đồng lòng chinh phục
thiên nhiên, đánh thắng kẻ thù xâm lược, xây dựng quốc gia hùng mạnh.
Khoan dung được thực hiện trên các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hóa, tư tưởng; từ đối nội đến đối ngoại. Tư tưởng ấy xuyên suốt trong lịch sử
tạo thành một hằng số, một truyền thống của dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay,
126
phải làm cho truyền thống ấy thấm sâu vào mỗi con người, cộng đồng trở thành
nhân sinh quan, giá trị thường trực trong hành vi, ứng xử hàng ngày.
Ở nước ta hiện nay, nâng cao nhận thức về truyền thống khoan dung,
đồng thuận xã hội phải gắn liền với nâng cao nhận thức, hiểu biết về lịch sử
dân tộc. Bởi thông qua mỗi bài học lịch sử, giá trị về khoan dung, đồng thuận
thể hiện ra như những quy luật nội tại của sự phát triển đất nước.
Không những vậy, còn cần làm rõ, khoan dung đã có những nội dung,
yêu cầu, nhiệm vụ, cách thức thực hiện mới. Khoan dung không đơn thuần là
“tha thứ” mà cao hơn là sự tôn trọng, học hỏi lẫn nhau. Khoan dung không
chỉ là yêu cầu đạo đức cần có mà phải là các cam kết chính trị phải có của
một quốc gia dân chủ, văn minh. Do vậy, trong các từ điển, tài liệu học thuật,
trong tuyên truyền cần có cái nhìn toàn diện hơn về khoan dung.
Trong lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước, khoan dung phải được
thực hiện cụ thể ở từng chính sách: miễn giảm thuế khóa, tôn trọng các khác
biệt, biết bỏ qua những sai lầm nhất thời của người khác, gác lại quá khứ,
chấp nhận niềm tin, tín ngưỡng người khác dù có khác biệt, đối lập với
mình… Đồng thuận không phải là quyết định một chiều, mệnh lệnh áp đặt
trên cơ sở sức mạnh bạo lực mà phải là sự tự giác của mỗi cá nhân, tổ chức;
không chỉ giới hạn ở phạm vi quốc gia mà mang tính quốc tế. Phải nhận thức
rằng, khoan dung, đồng thuận hiện nay là những biện pháp hữu hiệu góp phần
ngăn ngừa nguy cơ chạy đua vũ trang, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo bảo
vệ hòa bình, sự sống cho nhân loại.
Trong thực tế, trên nhiều phương diện của đời sống xã hội, nhất là
trong hoạt động chính trị, không phải không có các biểu hiện “đồng thuận
hình thức”, “đồng thuận bên ngoài” chứ không phải là đồng thuận thực sự.
Đây chủ yếu do cơ chế, môi trường không cho phép cá nhân dám thể hiện
chính kiến vì những rủi ro mà họ có thể gặp phải; do chủ đích của truyền
127
thông nhằm tạo dư luận một chiều… Những sự đồng thuận như vậy chưa chắc
tạo ra sự đoàn kết, động lực cho sự ổn định, phát triển mà có thể còn tiềm ẩn
những nguy cơ của sự khủng hoảng. Do đó, cần loại bỏ những rào cản cho
việc xây dựng sự đồng thuận thực chất; các bất cập về cơ chế, chính sách
dung dưỡng cho sự đồng thuận giả tạo.
Chỉ khi nhận thức như vậy, khoan dung mới là cách ứng xử thường
trực, trở thành hoạt động tự giác; khoan dung thật sẽ tạo ra đồng thuận thật và
đoàn kết thật, tạo ra sức mạnh dân tộc thực sự.
Hai là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc phát huy truyền
thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay.
Phải làm cho mỗi cán bộ, người dân thấy được, trong thời kỳ đổi mới, đất
nước ta thu được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các mặt từ kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, những thành quả phát triển đó có phần đóng góp rất lớn
của thực hiện khoan dung, tăng cường đồng thuận xã hội. Trong đối ngoại,
việc thực hiện chính sách: “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, “tôn trọng
độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi” đã tạo ra môi trường hòa bình,
mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển đất nước. Chính sách đối nội: “khoan
thư sức dân”, đoàn kết rộng rãi các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo... đã
tạo ra sức mạnh tổng hợp, đưa nước ta thoát ra khỏi tình trạng nước nghèo,
kém phát triển; từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Cũng cần làm rõ bài học, khi nào thiếu khoan dung tất yếu dẫn đến
những mâu thuẫn, bất đồng trong một bộ phận dân tộc. Khi đó, sức mạnh dân
tộc bị suy giảm. Bài học từ thực tế chính sách đối với tầng lớp địa chủ, phong
kiến trong cải cách ruộng đất; đối với một số nhân sĩ, trí thức miền Nam sau
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước đã minh chứng điều đó.
Trên bình diện quốc tế, bài học về thiếu khoan dung trong quan hệ dân
tộc, tôn giáo đã dẫn đến các cuộc chiến tranh, xung đột, khủng bố đẫm máu.
128
Ngay tại một số quốc gia trong khu vực, do thiếu khoan dung, cũng đã dẫn
đến các hành vi bạo lực, khủng hoảng xã hội. Làm rõ bài học này để nhận ra
tác động của khoan dung trong xây dựng đồng thuận xã hội và ý nghĩa của nó
đói với sự tồn tại, phát triển của xã hội.
Trong những năm gần đây, trên thế giới xuất hiện những xung đột dân
tộc, sắc tộc, tôn giáo mà nguyên nhân chủ yếu cũng do thiếu tinh thần khoan
dung. Thậm chí, có người còn đang muốn cường điệu hóa, cho đó là nguyên
nhân dẫn đến xung đột toàn cầu giữa các nền văn minh. Ở trong nước, núp
dưới vỏ bọc dân tộc, tôn giáo, một số cá nhân, tổ chức câu kết với các thế lực
thù địch bên ngoài lôi kéo, kích động một bộ phận nhân dân chống lại đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Do vậy, cũng cần làm rõ bài học về sự thiếu khoan dung dẫn đến những mâu
thuẫn, bất đồng, thậm chí chiến tranh, xung đột cả trên bình diện quốc tế cũng
như nội bộ quốc gia, dân tộc.
Tại Hội nghị cấp cao Á – Âu lần thứ 5 (ASEM5) tổ chức tại Hà Nội (từ
ngày 8 đến ngày 9 tháng 10 năm 2004), những người đứng đầu nhà nước và
chính phủ của 13 nước châu Á, 25 nước châu Âu và Chủ tịch Ủy ban châu Âu
đã thảo luận chủ đề: “Đa dạng văn hóa và các nền văn hóa quốc gia trong thời
đại công nghệ thông tin và toàn cầu hóa”. Hội nghị đã chỉ ra các nguy cơ mà
loài người có thể mắc phải: “Chủ nghĩa khủng bố quốc tế, việc phổ biến vũ khí
giết người hàng loạt, sự lan rộng của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, cũng như
sự không khoan dung về tôn giáo, sắc tộc và chủng tộc đang trở thành những
mối đe dọa cấp thiết đối với cộng đồng quốc tế và thách thức nhân loại trong
xây dựng một nền hòa bình, hòa hợp thế giới” [58]. Các nhà lãnh đạo cũng đã
đi đến nhất trí giải pháp nhằm hóa giải các nguy cơ đó là: “Đối thoại giữa các
nền văn hóa, văn minh trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau”. Tại Hội
nghị, các nhà lãnh đạo cũng khẳng định: “Đa dạng văn hóa là di sản chung của
129
nhân loại, là nguồn sáng tạo, cổ vũ và là một động lực quan trọng của phát triển
kinh tế và tiến bộ xã hội loài người. Đa dạng văn hóa là cơ hội to lớn để xây
dựng một thế giới hòa bình và ổn định hơn bởi đa dạng văn hóa không loại bỏ
mà đem lại sự hòa hợp, khoan dung, đối thoại và hợp tác” [58].
Do vậy, nghiên cứu tìm ra nguyên nhân dẫn đến xung đột, từ đó cho
thấy, khoan dung là một phương thức đẩy lùi xung đột: “Tuy không giải quyết
được mọi vấn đề, song thực hiện tinh thần khoan dung có thể góp phần giải
quyết hòa bình các xung đột về dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ, góp phần
tìm ra cách xử trí theo hướng tiến bộ và công bằng để đẩy lùi sự nghèo khổ,
nạn thất nghiệp, tình trạng bạo lực, nạn khủng bố, tội phạm và sự phá hoại
môi trường đang có xu hướng gia tăng ở nhiều nơi” [13, tr.381].
Thế giới hay một quốc gia, dân tộc không bao giờ hết sự khác biệt, toàn
cầu hóa làm cho những khác biệt càng xích lại gần, cọ xát lẫn nhau; muốn tồn
tại, những khác biệt đó phải chấp nhận, tôn trọng nhau; do đó, khoan dung là
con đường tất yếu, giải pháp hữu hiệu nhất để cùng tồn tại trong giai đoạn
hiện nay.
4.2.2. Nhóm giải pháp tuyên truyền, giáo dục truyền thống khoan
dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội
Tuyên truyền là hành động truyền bá thông tin với mục đích làm thay
đổi thái độ, suy nghĩ, tâm lý; qua đó, định hướng hành động cho quần chúng
theo chiều hướng có lợi cho chủ thể tuyên truyền. Tuyên truyền được thực
hiện qua nhiều hình thức khác nhau như: báo chí, truyền hình, điện ảnh, văn
học, nghệ thuật, giáo dục… So với các hình thức khác, tuyên truyền cho hiệu
quả cao vì cùng một nội dung, trong một thời gian có thể tác động đến nhiều
đối tượng. Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển của khoa học công nghệ
dẫn đến sự đa dạng của các hình thức, sự mở rộng của không gian, điều này
càng làm tăng hiệu quả của công tác tuyên truyền. Ngoài các hình thức truyền
130
thống, xuất hiện các hình thức mới như tuyên truyền qua công nghệ kỹ thuật
số, mạng internet…
Ở nước ta hiện nay, để nâng cao chất lượng khoan dung, qua đó nâng
cao chất lượng đồng thuận xã hội cần thực hiện tuyên truyền rộng rãi trong
quần chúng nhân dân truyền thống khoan dung, đồng thuận; tác dụng của
chúng đối với sự phát triển của đất nước; qua đó, khơi dậy ý thức thực hiện
khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội.
Về hình thức tuyên truyền, chúng tôi cho rằng cần thực hiện đa dạng các
hình thức, nhưng chú trọng các hình thức có mức độ ảnh hưởng ở phạm vi rộng
và dễ đi vào lòng người, như: phát thanh, truyền hình. Vì, không phải ai cũng
thường xuyên được đến trường, ai cũng có thời gian và điều kiện để đọc sách,
xem phim… nhưng đại đa số người Việt Nam hàng ngày đều nghe đài, xem ti
vi; do đó, đây là kênh đem lại hiệu quả cao. Hiện nay, trên truyền hình Việt
Nam có một số chương trình có tác dụng tuyên truyền, giáo dục lòng khoan
dung khá hiệu quả, ví như chương trình: “Sống đẹp”, “Danh ngôn cuộc sống”
(phát sóng trên kênh truyền hình VTV1 vào 20h và VTV3 vào 22h mỗi ngày).
Mặc dù mỗi buổi phát sóng chỉ diễn ra khoảng 1 đến 2 phút, nói về một câu
chuyện, ẩn dấu đằng sau đó là bài học về lòng khoan dung. Hình thức thực hiện
khá sinh động, cuốn hút người xem, nhất là thiếu nhi. Đây là một biện pháp
tuyên truyền rất hữu hiệu cần được phát huy, nhân rộng.
Trong những ngày đầu tháng 5 năm 2014, việc Trung Quốc ngang
nhiên đưa giàn khoan HD 981 xâm phạm chủ quyền Việt Nam đã bị các tầng
lớp nhân dân Việt Nam phản đối quyết liệt, bằng nhiều hình thức khác nhau.
Tuy nhiên, một vài hành động thái quá mang tính bạo lực, tấn công cả doanh
nghiệp, doanh nhân, công nhân Trung Quốc đang làm ăn tại Việt Nam. Trước
thực trạng đó, các mạng viễn thông di động đã phát đi Chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ yêu cầu các cuộc đấu tranh phải phù hợp với pháp luật, không sử
131
dụng bạo lực đối với doanh nhân, công nhân lao động Trung Quốc. Chúng tôi
cho rằng, đây là một hình thức tuyên truyền mới có hiệu quả cao – tuyên
truyền qua tin nhắn điện thoại. Bởi ở Việt Nam hiện nay, đã có hơn 60 triệu
thuê bao điện thoại, thành phần sử dụng hầu hết là giới trẻ, công chức, viên
chức, học sinh, sinh viên… nếu mỗi người đều được nhắc nhở về thái độ
khoan dung như vậy sẽ tạo ra hiệu ứng tích cực trong thực hành khoan dung.
Cả nước đồng lòng lên án Trung Quốc, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ
quyền đất nước nhưng thông qua các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật
pháp Việt Nam và quốc tế.
Ngoài ra, thông qua các tổ chức quần chúng tiến hành các hoạt động
tuyên truyền trong nhân dân về lòng nhân ái, vị tha, đoàn kết, yêu thương, hòa
hợp trong từng gia đình, làng xóm, đường phố, trong các cơ quan, đoàn thể để
nhân lên sức mạnh cộng đồng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Với thế hệ trẻ, tổ chức các buổi tọa đàm, hoạt động ngoại khóa trong và
ngoài nhà trường, chú trọng tăng cường các bài học về chủ đề hiểu biết quốc
tế, sự đa dạng các nền văn hóa là điều cần thiết nhằm giúp họ tránh tư tưởng
dân tộc cực đoan hoặc tự ti dân tộc.
Trong giai đoạn toàn cầu hóa, ngoài thực hiện thông tin tuyên truyền
đối nội; cần mở rộng tuyên truyền đối ngoại, chủ động giới thiệu, truyền bá
truyền thống khoan dung, đồng thuận của dân tộc Việt Nam ra bạn bè quốc tế.
Hiện nay, kênh truyền hình VTV4 dành cho người Việt Nam ở nước ngoài
cũng có tác dụng tích cực trong tuyên truyền truyền thống nhân ái, khoan dung
của dân tộc, chủ trương đại đoàn kết của Đảng và Nhà nước với bà con Việt
kiều, nhất là với các thế hệ Việt kiều thứ hai, thứ ba.
Trong hội nhập quốc tế, Việt Nam sẵn sàng học hỏi, tiếp thu các giá trị,
kinh nghiệm thực hiện khoan dung nhằm xây dựng đồng thuận xã hội của các
quốc gia, dân tộc. Cũng với sự kiện Trung Quốc xâm phạm chủ quyền lãnh
132
hải, nhờ mở rộng thông tin tuyên truyền quốc tế mà Việt Nam đã nhận được
sự ủng hộ, đồng thuận của các quốc gia, tổ chức yêu chuộng hòa bình trên thế
giới. Việt Nam đã cho thế giới thấy, trong khi chúng ta sử dụng hợp pháp các
biện pháp hòa bình trong khuôn khổ pháp luật để giải quyết thì Trung Quốc
hung hăng sử dụng, đe dọa sử dụng các biện pháp bạo lực.
Giáo dục là một hình thức đặc biệt của tuyên truyền, thông qua nội dung
giáo dục mà tác động đến tâm tư, tình cảm làm thay đổi thái độ, hành vi của
người được giáo dục. Giáo dục có vai trò quan trọng trong bồi dưỡng lòng khoan
dung vì: trên phương diện chính trị, những giá trị, yêu cầu của khoan dung có thể
luật hóa, trở thành các quy định bắt buộc (ví như các quy định về quyền tự do cá
nhân, tự do, tín ngưỡng tôn giáo, bình đẳng dân tộc...). Nhưng trên phương diện
đạo đức, nhiều giá trị khoan dung không thể luật hóa, do đó không thể cưỡng chế
thực hiện mà nó phải là các hành vi tự giác. Giáo dục là con đường tốt nhất để
những yêu cầu khoan dung được mỗi cá nhân tự nguyện thực hiện.
Bản thân Liên hợp quốc khi thực hiện chương trình tăng cường lòng
khoan dung cũng đề xuất biện pháp đầu tiên là giáo dục. Ngày 16 tháng 11
năm 2011, kỷ niệm 16 năm ngày ban hành Tuyên bố các nguyên tắc về khoan
dung, các quan chức cấp cao của Liên hợp quốc đã đề xuất các giải pháp
nhằm thúc đẩy tinh thần khoan dung. Một trong những giải pháp cơ bản được
đưa ra là tăng cường giáo dục lòng khoan dung, nhất là cho thế hệ trẻ. Trong
thông điệp nhân ngày này, Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban-ki-moon đã kêu
gọi cộng đồng thế giới tôn trọng sự đa dạng, chống mọi hình thức phân biệt
đối xử và nỗ lực tăng cường giáo dục các quyền con người. Ông cho rằng:
“Thực hành khoan dung là liều thuốc hóa giải mọi thành kiến và lòng hận
thù”. Còn Tổng giám đốc tổ chức UNESCO, bà Irina Bokova, cho rằng:
“Chìa khóa của khoan dung chủ động là một nền giáo dục tốt để mọi cá nhân
có thể tham gia tranh luận rộng rãi, lắng nghe và hòa nhập các quan điểm
133
khác nhau” [57]. Trên tinh thần đó, ngày 18 tháng 1 năm 2012, UNESCO đã
phát động chương trình giáo dục lòng khoan dung với tên gọi “Giáo dục sự
tôn trọng mọi người” với mong muốn nâng cao nhận thức nhằm chống lại nạn
phân biệt chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo.
Hình thức giáo dục, cần chú ý phát triển cả ba loại hình: giáo dục gia
đình, nhà trường và xã hội. Nội dung giáo dục, giáo dục lòng khoan dung gắn
với nhân ái, vị tha, yêu thương con người và đồng loại. Ở nước ta hiện nay,
cần thiết phải rà soát lại nội dung giáo dục để kịp thời bổ sung hoặc điều
chỉnh, loại bỏ các nội dung không phản ánh đúng tính khoan dung trong
chương trình giáo dục. Trong thời gian qua, dư luận xã hội diễn ra sự tranh
luận về giảng dạy chuyện Tấm cám trong nhà trường. Bởi kết thúc câu chuyện
là hành vi bất khoan dung (hành vi trả thù tàn ác của cô Tấm với mẹ con cô
Cám). Chúng tôi cho rằng, ở một mức độ hiểu biết nhất định, sẽ nhận thức
được cơ sở xã hội, văn hóa, tín ngưỡng hình thành nội dung cốt chuyện; dụng
ý sâu xa trong triết lý nhân sinh của câu chuyện (quan hệ nhân quả - “ở hiền
gặp lành, ở dữ gặp ác” - ảnh hưởng luân lý Phật giáo…), nhưng với học sinh
phổ thông, chưa đủ hiểu biết để tự giác nhận thức như vậy, cho nên nội dung
giáo dục này cần đặt ở tầm cao hơn.
Ngoài ra, nêu gương cũng là một hình thức giáo dục, trong gia đình ông
bà, cha mẹ làm gương cho con cháu; trong nhà trường, thầy cô làm gương cho
học trò; trong xã hội người có uy tín, vị trí xã hội cao làm gương cho các tầng
lớp nhân dân về tinh thần khoan dung, đồng thuận. Trong đó, phương diện
đạo đức của khoan dung cần thực hiện thông qua sự nêu gương của ông bà,
thầy cô còn phương diện chính trị của khoan dung cần thực hiện thông qua
những người có địa vị trong xã hội. Một người có uy tín, địa vị xã hội cao nếu
có lòng khoan dung, thực hành khoan dung sẽ có sự ảnh hưởng và mức độ lan
tỏa sâu, rộng trong xã hội.
134
Trong thời điểm hiện tại, khi Đảng ta đang thực hiện cuộc vận động
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, việc giáo dục tấm
gương về lòng khoan dung Hồ Chí Minh cũng có giá trị tích cực trong việc
hình thành đạo đức khoan dung trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đặc
biệt, cần làm rõ nội dung và những bài học về thực hiện khoan dung nhằm
xây dựng đồng thuận xã hội trong sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người
để mỗi người trong xã hội, tùy vị trí làm việc của mình mà noi theo.
Giáo dục đa văn hóa là bài học mà nhiều quốc gia đã thực hiện thành
công, có thể coi là những ví dụ điển hình để chúng ta học tập.
4.2.3. Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách phát huy truyền
thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay
Một là, tiếp tục thực hiện, từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách
thuế, phí và an sinh xã hội.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện “khoan thư
sức dân” qua chính sách thuế, phí và hệ thống chính sách an sinh xã hội. Tuy
nhiên, thực tế thực hiện còn bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định. Do vậy,
trong thời gian tới cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện miễn giảm thuế, phí trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông dân, nông thôn. Ngoài miễn giảm thuế nông nghiệp và thủy lợi
phí, cần nghiên cứu mở rộng giảm thuế và phí cho các doanh nghiệp đầu tư
sản xuất ở nông thôn. Bởi, nông thôn nước ta địa bàn rộng, cơ sở vật chất kỹ
thuật tương đối lạc hậu; đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp lợi nhuận thấp, rủi
ro cao. Để thúc đẩy nông thôn phát triển không chỉ trông chờ vào nhà nước
mà cần huy động đa dạng các nguồn lực xã hội. Miễn giảm thuế cho nông
dân, doanh nghiệp đầu tư phát triển ở nông thôn chính là hình thức “khoan
thư sức dân” có hiệu quả để xây dựng nông thôn mới hiện nay.
135
Thứ hai, trong một vài năm lại đây, suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm quá
trình sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, do đó, cần
điều chỉnh chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp cho phù hợp. Tại buổi đối
thoại của Thủ tướng Chính phủ với các doanh nghiệp tại Hà Nội ngày 28 tháng
4 năm 2014, hầu hết các doanh nghiệp đề nghị, Chính phủ cần giảm thuế thu
nhập doanh nghiệp từ 20 xuống còn 18% để doanh nghiệp có điều kiện phát
triển sản xuất. Đây là kiến nghị xác đáng cần được nghiên cứu thực hiện.
Thứ ba, tạo sự công bằng trong thực hiện chính sách thuế và phí, ngăn
chặn có hiệu quả việc trốn thuế của các cá nhân, doanh nghiệp, nhất là doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thông qua hình thức chuyển giá “lãi thật lỗ
giả”; rà soát bãi bỏ các loại “thuế chồng thuế”, “phí chồng phí”. Xử lý nghiêm
các tổ chức, cá nhân có hành vi trốn thuế.
Thứ tư, trong thực hiện chính sách an sinh xã hội, cần quan tâm chú ý
đến những nhóm yếu thế: công nhân, nông dân, người dân tộc thiểu số, những
người mất tư liệu sản xuất do bị hồi đất đai, giải phóng mặt bằng phục vụ cho
công nghiệp hóa, đô thị thị hóa…thông qua các chính sách bảo hiểm, tín
dụng. Mở rộng diện được tham gia bảo hiểm thất nghiệp cho công nhân, sản
phẩm bảo hiểm nông nghiệp cho nông dân, hỗ trợ vay ưu đãi cho người nghèo
thông qua ngân hàng chính sách xã hội. Đặc biệt, trong xã hội đang diễn ra
tình trạng phân hóa giàu nghèo, một bộ phận làm ăn bất chính, quan chức
tham nhũng giàu lên nhanh chóng trong khi phần lớn những người lao động
cuộc sống vô cùng khó khăn… những bất công đó không thể tạo ra sự đồng
thuận xã hội. Do vậy, quan tâm đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng khó
khăn, giảm chênh lệch mức sống, thu nhập, trình độ phát triển giữa các giai
cấp, vùng miền là cách để tăng cường đồng thuận xã hội.
Đồng thuận xã hội không phải được tạo ra bằng cách trưng lên những
khẩu hiệu thật hay, thật kêu mà phải thông qua những chính sách cụ thể để
136
mọi giai cấp, tầng lớp xã hội được thụ hưởng các thành quả phát triển công
bằng. Phát huy truyền thống “khoan thư sức dân” là một phương thức hữu
hiệu để xây dựng đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay.
Hai là, đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Nguyên tắc cơ bản đó đã được hiến định gắn với cơ chế bảo đảm thực
hiện quyền lực thực sự của nhân dân, được thể hiện trong các quy định về
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước từ Trung ương xuống
địa phương, của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Phát huy truyền
thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội gắn liền với quá trình
xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì:
Thứ nhất, trong nhà nước pháp quyền, các quan hệ xã hội cơ bản đều được
điều chỉnh bởi pháp luật. Khoan dung là sự tôn trọng mọi sự khác biệt của cá
nhân và cộng đồng. Sự tôn trọng này trong nhà nước pháp quyền đã được quy
định và bảo đảm thực thi bởi pháp luật. Quyền bình đẳng dân tộc, quyền tự do
tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, chính sách cứu trợ, ưu đãi xã hội, chính
sách miễn giảm thuế, phí… phải được quy định, đảm bảo thực thi, thống nhất
thực hiện trên phạm vi toàn quốc.
Thứ hai, trong nhà nước pháp quyền, Hiến pháp, pháp luật giữ vị trí tối
thượng, mọi cá nhân, tổ chức đều phải nghiêm chỉnh thực hiện theo pháp luật:
“Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý
xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật” [44, tr.11]. Pháp luật là ý chí chung, mọi
công dân đều tự giác nhận thức, thực hiện, lấy pháp luật làm cơ sở, tiêu chuẩn
để hành động; khi đó, sự đồng thuận đã là đồng thuận tự giác.
Thứ ba, trong nhà nước pháp quyền, Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy
đủ các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký
137
kết. Điều 12, Hiến pháp 2013 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam… tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” [44, tr.13]. Trong thời kỳ
đổi mới, nước ta đã ký kết nhiều điều ước, là thành viên của nhiều tổ chức
quốc tế và khu vực. Việt Nam nghiêm chỉnh thực thi các điều ước, tôn trọng
các đối tác, các quốc gia khác biệt về thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa…;
cùng hướng tới mục tiêu chung, hành động dựa trên những quy tắc chung mà
các tổ chức quốc tế quy định đó chính là biểu hiện của đồng thuận xã hội.
Để phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã
hội gắn với xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay cần:
Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là những luật
quy định về các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng của công dân; các quyền về
dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo. Ở nước ta, quyền tự do, bình đẳng tín ngưỡng,
tôn giáo được quy định trong Hiến pháp và đã được cụ thể hóa ở Pháp lệnh
tín ngưỡng tôn giáo. Quyền bình đẳng dân tộc cũng được quy định trong Hiến
pháp; do vậy, cần nghiên cứu ban hành luật dân tộc, tạo cơ sở pháp lý cho
thực hiện các quyền trên một cách cụ thể.
Thứ hai, cần nghiên cứu bổ sung Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về
người Việt Nam ở nước ngoài và các văn bản hướng dẫn thực hiện. Trong đó,
thừa nhận những quyền bình đẳng rộng rãi hơn của người Việt Nam ở nước
ngoài với đồng bào trong nước. Đây là cơ sở pháp lý cho thực hành khoan
dung trong bối cảnh hiện nay. Khi coi người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ
phận không tách rời của dân tộc, các cơ quan Nhà nước cần ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật quy định sự bình đẳng của người Việt Nam ở nước
ngoài như người Việt ở trong nước (các chính sách về thuế, phí, lệ phí; chính
sách mua và sở hữu nhà, chính sách sử dụng, đãi ngộ nhân tài…). Một ví dụ cụ
138
thể: hiện nay nước ta đã thực hiện việc miễn visa cho công dân một số nước
nhập cảnh vào Việt Nam, trong khi kiều bào được coi là “một bộ phận không
tách rời của dân tộc” thì vẫn phải làm visa, mà thủ tục thì rất nhiêu khê. Điều
này cho thấy, chính sách cụ thể quy định quyền bình đẳng của người Việt Nam
ở nước ngoài chưa được thực hiện một cách đồng bộ, thông suốt.
Thứ ba, nâng cao ý thức pháp luật để các cơ quan nhà nước và mọi
công dân tự giác thực hiện pháp luật, qua đó, tự giác thực hiện khoan dung,
xây dựng đồng thuận xã hội. Muốn vậy, nâng cao hiệu quả công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật trong nhà trường và xã hội.
Thứ tư, thực tế cho thấy, những vấn đề thông qua bàn bạc, thảo luận đã
đi đến thống nhất thì tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội. Dó đó, cần mở
rộng, đa dạng hóa các “kênh”, diễn đàn để người dân có thêm nhiều môi
trường, cơ hội để tranh luận, thảo luận, nhất là những vấn đề hệ trọng của đất
nước. Hội đồng lý luận Trung ương, cơ quan Dân nguyện của Quốc hội, Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải là các cơ quan đóng vai trò
trung tâm trong tham mưu, tổ chức các hoạt động tranh luận, thảo luận.
Thứ năm, cần thiết phải thể chế hóa nội dung các công ước quốc tế có
liên quan đến khoan dung mà nước ta đã phê chuẩn thành các chuẩn mực
pháp lý để mọi người dân, các cơ quan nhà nước biết và nghiêm túc thực hiện.
Thứ sáu, nghiên cứu việc ban hành quy định giới thiệu đại diện người
Việt Nam ở nước ngoài tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội. Thực hiện việc
này, Quốc hội vừa nắm được tâm tư, nguyện vọng của bà con Việt kiều, vừa
thay đổi quan niệm, cách nhìn của bà con về Nhà nước, chế độ ta hiện nay;
qua đó, tăng cường đồng thuận xã hội.
Thứ bảy, hoàn thiện hệ thống pháp luật về phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, chú trọng các biện pháp khắc phục
mặt trái của kinh tế thị trường, thực hiện có hiệu quả hình thức phân phối qua
phúc lợi xã hội.
139
Ba là, tiếp tục thực hành, từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức thể hiện quyền tự do, bình
đẳng của công dân, xác định nhân dân là chủ thể của quyền lực. Phát huy
quyền làm chủ của nhân dân là điều kiện cơ bản để thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Sự
sáng tạo của nhân dân, quyền lực của nhân dân và sự bình đẳng, tự do của cá
nhân là cơ sở lý luận, thực tiễn của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trên quan
điểm quyền lực nhân dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, đặt ra nhiệm vụ phấn
đấu để mọi thành viên trong xã hội đều tham gia vào việc hoạch định chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ghi nhận toàn bộ các quyền tự do cá nhân, tự do
ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, đi lại, tự do tín ngưỡng tôn giáo, quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, quyền nghỉ ngơi và học hành... Nhà nước
xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho tất cả công dân được hưởng những quyền đó;
tạo cho công dân những khả năng rộng rãi để bày tỏ nguyện vọng và trình bày
những ý kiến của mình về những vấn đề của đời sống xã hội.
Thực hành dân chủ là một phương thức hữu hiệu để xác lập đồng thuận xã
hội, đồng thời, thực hành dân chủ là một yêu cầu tất yếu của khoan dung.
Khoan dung, đồng thuận gắn với dân chủ, vì khoan dung gắn với sự tôn trọng
các quyền của cá nhân và cộng đồng mà các quyền này có liên hệ mật thiết
với chế độ dân chủ. Trong giai đoạn phong kiến, đồng thuận xã hội có thể
xuất phát từ mệnh lệnh hành chính, từ sự tự giác nhận thức bổn phận đạo đức,
trách nhiệm cá nhân. Ví dụ, khi đất nước bị xâm lăng, giai cấp cầm quyền
hoặc một cá nhân phất cờ khởi nghĩa có thể quy tụ được đông đảo nhân dân
đồng lòng ủng hộ đánh giặc cứu nước. Sự đồng lòng này chính là sự tự nhận
thức trách nhiệm đạo đức cá nhân với vận mệnh đất nước. Trong giai đoạn
140
hiện tại, đồng thuận xã hội được xác lập trên cơ sở có sự bàn bạc, thảo luận để
đi đến sự đồng ý, thống nhất. Muốn vậy, phải phát huy dân chủ, phải làm cho
người dân có quyền, cơ hội thực sự để tham gia vào quá trình bàn bạc, thảo
luận đó. Như vậy, dân chủ là nền tảng của đồng thuận, đồng thuận là kết quả
của quá trình phát huy dân chủ. Có phát huy dân chủ thực sự mới có sự đồng
thuận thực sự, có đồng thuận thực sự mới xây dựng được khối đại đoàn kết
thực sự vào tạo ra sức mạnh của dân tộc.
Để phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội
gắn với thực hành, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay cần:
Thứ nhất, có quy định cụ thể về cơ chế tiếp thu, phản hồi ý kiến, kiến
nghị của nhân dân, không để góp ý của nhân dân trở thành “đá ném ao bèo”,
nhất là ý kiến với những dự thảo văn kiện quan trọng (Văn kiện Đảng, dự
thảo luật).
Thứ hai, các quyền tự do dân chủ được quy định trong Hiến pháp 2013
phải được luật hóa để người dân dễ dàng hưởng các quyền đó. Ví dụ: tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin…(điều 25, Hiến pháp 2013), chỉ
khi các quyền đó được thực hiện hiệu quả, mọi cá nhân đều có quyền trình
bày quan điểm của mình, khi đó mới tạo ra sự đồng thuận.
Thứ ba, trong giai đoạn hiện tại, sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của
nhân dân không chỉ được thực hiện trực tiếp ở từng cá nhân riêng lẻ mà còn
được thể hiện qua các tổ chức, hội, đoàn thể mà cá nhân đó là thành viên. Do
vậy, luật hóa quyền tự do lập hội của công dân cũng là một phương thức vừa
thực hiện khoan dung, vừa nhằm xây dựng đồng thuận xã hội. Bởi, mỗi cá
nhân có nhu cầu thực thụ tham gia các hội, đoàn thể; mỗi hội, đoàn thể dựa
trên những đặc thù riêng biệt của nhóm cá nhân, Nhà nước tôn trọng các nhu
cầu chính đáng của công dân, tôn trọng tính đặc thù của mỗi hội, đoàn thể đó
141
chính là biểu hiện của khoan dung. Các cá nhân thông qua các hội, đoàn thể
của mình đóng góp ý kiến cho Đảng, Nhà nước; tự giác thực hiện các chủ
trương, đường lối chính sách đó chính là biểu hiện của sự đồng thuận.
Thứ tư, thực tế cho thấy, những vấn đề đã mang ra bàn bạc, thảo luận
dân chủ, lấy ý kiến rộng rãi; nếu được nhân dân đồng tình, vấn đề đó sẽ nhận
được sự đồng thuận cao (ví như: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 vừa qua).
Do vậy, để nâng cao chất lượng đồng thuận xã hội, cần mở rộng các hình
thức dân chủ trực tiếp, luật hóa những vấn đề hệ trọng, bắt buộc phải lấy ýkiến nhân dân trước khi Nhà nước thông qua luật, chính sách – sự cần thiết
phải có luật trưng cầu dân ý.Thứ năm, trong hòa giải, hòa hợp dân tộc, cần có các biện pháp đối
thoại phù hợp để vận động bà con người Việt ở nước ngoài; những người còn
có ý kiến khác nhau; người thuộc các giai cấp, thành phần xã hội đối lập trước
đây cùng hiểu chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về đại đoàn kết
toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay để thực hiện. Phải coi hòa
giải, hòa hợp dân tộc là một động lực cho sự phát triển đất nước chứ khôngphải một sách lược có tính chất tạm thời.
Thứ sáu, ở nước ta, để mở rộng, nâng cao chất lượng thực hành dân chủ
trong xã hội, trước hết cần mở rộng thực hiện dân chủ trong Đảng. Trên cơ sở
chấp nhận, tôn trọng các ý kiến khác nhau, chúng tôi tán thành kiến nghị của
Giáo sư Nguyễn Đức Bình đề xuất việc cho ra đời nội san Tranh luận để các
quan điểm, ý kiến khác nhau có thể công khai tranh luận những vấn đề lý luận
còn có ý kiến khác nhau. Bởi thực tế: “những quan điểm khác nhau trong
Đảng nay đã bộc lộ công khai hay nửa công khai bằng phát ngôn và phát tán
tài liệu…” [94, tr.12]; từ tranh luận sẽ đi đến: “sự xích lại gần nhau những ý
kiến khác nhau, tạo dần sự nhất trí” [94, tr.12].
Bốn là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiệnkhoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội
142
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp, các dân tộc, tôn giáo và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận có vai trò to lớn trong phát
huy truyền thống khoan dung, tăng cường đồng thuận xã hội vì: Thứ nhất,
thành phần tham gia Mặt trận rất đa dạng, bao gồm tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các cá nhân tiêu biểu của các dân tộc, tôn
giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài… Khi tham gia Mặt trận, các
thành viên tôn trọng khác biệt của nhau (biểu hiện của khoan dung), các thành
viên cùng hướng tới mục tiêu chung là xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc
(biểu hiện của đồng thuận). Như vậy, bản thân việc tổ chức, hoạt động của
Mặt trận đã chứa đựng những giá trị khoan dung và đồng thuận. Thứ hai,nguyên tắc hoạt động, nhiệm vụ của Mặt trận cũng thể hiện rõ ưu thế trong
xây dựng đồng thuận xã hội. Về nguyên tắc, Mặt trận hoạt động theo nguyên
tắc: “tự nguyện, hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động” [104]; các
thành viên trong Mặt trận dân chủ, bình đẳng bàn bạc, thảo luận các vấn đề
chung, đi đến kết luận, tự giác thực hiện đó là biểu hiện của sự đồng thuận.
Về nhiệm vụ của Mặt trận, tại khoản 1, điều 9 Hiến pháp 2013 quy định: “Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng
thuận xã hội” [44, tr.11]. Trong thực tế, Mặt trận đã đóng vai trò trung tâm
trong việc phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức thực hiện thành công
nhiều hoạt động tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết như: vận động toàn dân
tham gia xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư; tổ chức Hội nghị
người Việt Nam ở nước ngoài; tập hợp nhân sĩ, trí thức trao đổi, bàn bạc đóng
góp ý kiến góp ý các dự thảo luật, chương trình phát triển quốc gia... Thông
qua các hoạt động đó, nhiều quan điểm, ý kiến khác biệt đã từng bước được
143
giải quyết, tạo ra sự thống nhất, qua đó, xây dựng đồng thuận xã hội. Trong
quá trình đổi mới, ở một số nơi có xảy ra những mâu thuẫn, xung đột, bất
đồng giữa một bộ phận quần chúng nhân dân với cấp ủy đảng, chính quyền
hoặc giữa các tầng lớp, bộ phận quần chúng nhân dân với nhau. Nhưng, nhờ
Mặt trận sớm tham gia vào quá trình hòa giải nên nhiều mâu thuẫn, xung đột
đã được giải quyết, nhất là những mâu thuẫn, xung đột ở cơ sở.
Để nâng cao vài trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong phát huy truyền
thống khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội, trong thời gian tới cần
thực hiện:
Thứ nhất, tăng tính độc lập tương đối của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mặc dù Mặt trận là một bộ phận trong hệ thống chính trị, chịu sự lãnh đạo của
Đảng; nhưng, Mặt trận có vai trò giám sát, phản biện xã hội, cho nên phải
tăng tính độc lập tương đối mới phát huy hết vai trò của Mặt trận. Có như
vậy, Mặt trận thẳng thắn đóng góp ý kiến, phản biện các chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Thứ hai, ban hành quy định có tính chất ràng buộc các cơ quan nhà nước,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội trong việc tiếp thu,
phản hồi những ý kiến giám sát, phản biện của Mặt trận. Tuyệt đối tránh tình
trạng hình thức, tránh né trong tiếp nhận phản biện, giám sát của các cơ quan,
tổ chức bị giám sát, phản biện.
Thứ ba, bản thân Mặt trận tự đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động
nhằm tăng tính hiệu quả, thiết thực trong vai trò đại diện, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
144
4.2.4. Nhóm giải pháp đấu tranh, phê phán các quan điểm, hành vi
bất khoan dung gây chia rẽ, bất đồng trong xã hội
Đối lập với khoan dung là bất khoan dung, đối lập với đồng thuận là
mâu thuẫn, bất đồng, xung đột. Trong quan hệ quốc tế, biểu hiện của bất
khoan dung là các hành vi kỳ thị dân tộc, tôn giáo, văn hóa; xâm phạm các
quyền bình đẳng, tự quyết dân tộc… Những hành vi đó dẫn tới hậu quả tạo ra
các mâu thuẫn, thù hằn, thậm chí xung đột giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo.
Trong phạm vi quốc gia, bất khoan dung biểu hiện ở chính sách thiếu tôn
trọng đặc điểm dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo của các cộng đồng; ở sự vi phạm
các quyền tự do cơ bản của con người. Sự thiếu khoan dung có thể xuất phát
từ chính sách của giai cấp cầm quyền, hoặc từ phía các cộng đồng dân tộc, tôn
giáo khác nhau. Hậu quả của nó là tạo ra những mâu thuẫn, bất đồng giữa các
cộng đồng với nhà nước, hoặc giữa các cộng đồng với nhau. Thực tế những
năm qua, ở nước ta, tại một số khu vực, các thế lực thù địch đã tuyên truyền
các luận điệu nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Dưới vỏ bọc dân
tộc, tôn giáo chúng đã lôi kéo, kích động một số đồng bào dân tộc thiểu số ở
Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ đấu tranh chống chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước, đòi ly khai, tự trị, gây mâu thuẫn giữa các
dân tộc, tôn giáo. Dưới chiêu bài tự do, dân chủ, các thế lực này xuyên tạc
đường lối, chính sách, lôi kéo, kích động một bộ phận nhân dân đấu tranh gây
chia rẽ đoàn kết giữa người trong Đảng và ngoài Đảng; người Việt Nam ở
nước ngoài với chính quyền trong nước; gây chia rẽ quần chúng nhân dân với
Đảng, Nhà nước. Do vậy, việc đấu tranh, phê phán chỉ ra ý đồ chính trị của
các thế lực thù địch để các cơ quan nhà nước và mọi người dân thấy rõ bản
chất, cảnh giác trước mưu đồ của chúng là một biện pháp để xây dựng đồng
thuận xã hội.
145
Ngoài ra, ở nước ta hiện nay, cũng cần đấu tranh chống các hành vi lợi
dụng bảo vệ chế độ để quy chụp, xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của
công dân. Trong thực tế, không phải không có hiện tượng lợi dụng danh nghĩa
bảo vệ chế độ để xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân. Trong xã
hội dân chủ, các quyền tự do, dân chủ (như tự do tư tưởng, ngôn luận, báo
chí…) đã được pháp luật quy định. Ngay cả các ý kiến đối lập, bất đồng nếu
không trái với lợi ích chung của dân tộc, quy định của pháp luật cũng phải
được tôn trọng. Trong trường hợp, những vấn đề còn có ý kiến khác nhau,
chưa có kết luận chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì việc nêu
quan điểm, tranh luận phải được coi là việc làm bình thường, là phương thức
hữu hiệu để tìm ra chân lý, qua đó, xác lập đồng thuận xã hội.
Đấu tranh, phê phán các quan điểm, hành vi bất khoan dung gây chia rẽ
bất đồng trong trong xã hội là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị, mỗi
người dân nhưng quan trọng nhất là những người làm công tác tư tưởng, lý
luận. Bởi, các thế lực thù địch, phản động thường lợi dụng những sơ hở trong
chủ trương, chính sách để khoét sâu, tuyệt đối hóa những khác biệt, làm cho
một bộ phận quần chúng ngộ nhận, tin theo. Do vậy, cần phát huy vai trò của
những người làm lý luận sắc bén để đấu tranh, phản bác luận điệu của các thế
lực thù địch.
Trong quan hệ quốc tế, đấu tranh chống lại các quan điểm chủ nghĩa
sôvanh dân tộc, các quan điểm, hành vi tôn giáo cực đoan, các luận thuyết
kích động xung đột văn minh. Kiên quyết phản đối thái độ ngạo mạn của một
số thế lực tự xem xét các giá trị văn hóa của dân tộc mình là “ưu việt”, “tối
thượng” rồi gán ép giá trị, chuẩn mục ấy cho các dân tộc khác. Những sự áp
đặt như vậy chỉ châm ngòi cho mâu thuẫn, xung đột, hận thù chứ không tạo
được hòa bình cho nhân loại.
146
Cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc cần có các quy định, chế
tài đủ mạnh để ngăn ngừa, xử lý kịp thời, thích đáng đối với các cá nhân, tổ
chức có hành vi bất khoan dung, tuyên truyền các luận điệu bất khoan dung
gây chia rẽ, bất đồng giữa cộng đồng các quốc gia, dân tộc, tôn giáo. Những
hành vi vi phạm quyền bình đẳng, tự quyết của các dân tộc.
147
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Khoan dung, đồng thuận xã hội không phải là mong muốn chủ quan
của một cá nhân hay giai cấp nào, mà đó là yêu cầu khách quan cho sự tồn tại,
phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại. Đặc biệt, trong những
quốc gia đa dân tộc, tôn giáo như nước ta, việc thực hiện khoan dung nhằm
tăng cường đồng thuận xã hội càng là một yêu cầu bức thiết. Để nâng cao chất
lượng thực hành khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội phải xuất
phát từ cả hai phía: chủ thể cầm quyền (nhà nước, đảng chính trị) và từ cộng
đồng, mỗi người dân.
Ở Việt Nam hiện nay, để phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng
cường đồng thuận xã hội phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp: từ nâng cao
nhận thức về truyền thống khoan dung, đồng thuận xã hội; tầm quan trọng của
phát huy truyền thống này trong giai đoạn hiện nay; đến đẩy mạnh tổ chức
thực hiện đồng bộ các giải pháp: tuyên truyền, giáo dục; hoàn thiện các cơ
chế, chính sách; đấu tranh, phê phán, xử lý nghiêm minh những hành vi bất
khoan dung gây mâu thuẫn, bất đồng trong xã hội. Trong quá trình đó, phải
kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc như: bảo đảm độc lập, chủ quyền,
lợi ích quốc gia; bảo đảm ổn định chính trị, định hướng xã hội chủ nghĩa
trong thực hiện khoan dung, đồng thuận xã hội. Thực hiện khoan dung, đồng
thuận xã hội nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, qua đó nâng
cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, thực hiện thắng lợi mục tiêu trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020…
Để nâng cao chất lượng thực hành khoan dung nhằm tăng cường đồng
thuận xã hội ở nước ta hiện nay, theo chúng tôi, trước mắt cần chú trọng đẩy
mạnh việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách, nhất là xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bởi, để đi vào cuộc sống một cách
nhanh nhất, khoan dung, đồng thuận phải được quy định, bắt buộc thực thi
148
thông qua hệ thống pháp luật. Về lâu dài, cần đẩy mạnh các giải pháp tuyên
truyền, giáo dục để các giá trị khoan dung, đồng thuận ăn sâu, bám rễ vào tâm
thức, trở thành hoạt động tự giác của mỗi cá nhân và cộng đồng.
149
KẾT LUẬN
Từ những sự phân tích trên, có thể rút ra một số kết luận sau đây:
Một là, khoan dung, đồng thuận xã hội là những vấn đề cơ bản trong
lịch sử tư tưởng nhân loại. Tuy nhiên, trong mỗi thời kỳ, các khái niệm này có
nội hàm khác nhau, tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, nhận
thức của nhân loại.
Hai là, thực hiện khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội là
một truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử, các nhà cầm quyền đã
không ngừng thực hiện, phát huy truyền thống này, nhờ đó dân tộc đã đánh
thắng giặc ngoại xâm, chống thiên tai, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tính
khách quan, phổ biến, lặp lại của nó khiến ta có thể nhận thức: thực hiện
khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội là vấn đề có tính quy luật
của nước ta.
Ba là, ở nước ta hiện nay, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hội nhập quốc tế đang đặt ra yêu cầu tất yếu phát huy sức mạnh tổng
hợp quốc gia. Muốn vậy, phải tạo lập được sự đồng thuận giữa các giai cấp,
tầng lớp, dân tộc, tôn giáo trong xã hội… để làm được việc đó, phát huy
truyền thống khoan dung là một nhân tố quan trọng.
Bốn là, trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã không ngừng phát huy truyền thống
khoan dung nhằm tăng cường đồng thuận xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu cơ bản đã đạt được, còn một số vấn đề đặt ra đòi hỏi tiếp tục được
nghiên cứu, giải quyết để nâng cao chất lượng đồng thuận xã hội ở nước ta
hiện nay.
Năm là, để phát huy truyền thống khoan dung nhằm tăng cường đồng
thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải thực hiện kiên trì, đồng bộ
nhiều giải pháp: từ nâng cao nhận thức đến đẩy mạnh tổ chức thực hiện; từ
150
tuyên truyền giáo dục, đến hoàn thiện các cơ chế, chính sách; đấu tranh, ngăn
chặn kịp thời, có hiệu quả các hành vi bất khoan dung nhằm chia rẽ đoàn kết
dân tộc. Trong quá trình đó, phải kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc
như: bảo đảm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia khi thực hiện khoan dung
nhằm tăng cường đồng thuận thuận xã hội trong quan hệ quốc tế; giữ vững ổn
định chính trị - xã hội, mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong thực hiện khoan dung
nhằm tăng cường đồng thuận xã hội; phát huy truyền thống khoan dung nhằm
tăng cường đồng thuận xã hội với mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; phát huy truyền thống khoan
dung, tăng cường đồng thuận xã hội nhằm góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp
Việt Nam…
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1 Nguyễn Văn Quyết, Chính sách tôn giáo với việc xây dựng đồng
thuận xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 10
(86)-2013, tr. 9-12
2 Nguyễn Văn Quyết, Người Việt Nam ở nước ngoài với xây dựng đồng
thuận xã hội, Tạp chí Mặt trận, số 1/2013, tr. 77-80
3 Nguyễn Văn Quyết, Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về đoàn
kết dân tộc, đoàn kết giai cấp của giai cấp công nhân, Tạp chí Thông
tin khoa học Chính trị - Hành chính, số 5/2012, tr. 35-38
4 Nguyễn Văn Quyết, Đồng thuận xã hội: Quan niệm và sự kiểm
nghiệm của thực tiễn, Tạp chí Thông tin khoa học Chính trị - Hành
chính, số 1/2013, tr. 14-18
5 Nguyễn Văn Quyết, Bài học kinh nghiệm xây dựng đồng thuận xã
hội, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1/2013, tr. 85-89
6 Nguyễn Văn Quyết, Xây dựng đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay,
Bản tin Chủ nghĩa xã hội Lý luận và thực tiễn, số 38/2013, tr. 31-34
7 Nguyễn Văn Quyết, Giải quyết bất đồng trong nội bộ đảng (Bài học
kinh nghiệm từ Đảng Cộng sản Nga), Tạp chí Thông tin khoa học
Chính trị - Hành chính, số 8/2013, 18-22
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh
2 Kinh Anh, Chính sách dân tộc của Việt Nam,
http://www.baomoi.com
3 Ban chỉ đạo sơ kết 05 năm thục hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa
X, Báo cáo sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa
X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Hà Nội, ngày 25 tháng 12
năm 2013
4 Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2005), Đối ngoại Việt Nam
thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
5 Báo Dân Việt, Một vụ lúa – 17 khoản đóng góp nông dân khiếp vía,
http://www.danviet.vn
6 Báo Dân Trí, Gánh nặng thuế và phí Việt Nam cao nhất khu vực,
http://dantri.com.vn
7 Báo Quân đội nhân dân, Chủ động phòng, chống thiên tai,
http://www.qdnd.vn
8 Báo Quân đội nhân dân, ngày 5/8/1995
9 Trần Lê Bảo, Đối thoại giữa các nền văn hóa trong bối cảnh toàn
cầu hóa, http://www.vns.hnue.edu.vn
10 Hoàng Chí Bảo (2008), “Dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội trong
phát triển bền vững”, in trong: Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và
đoàn kết xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 426-444
11 Nguyễn Trần Bạt, Bàn về tính đồng thuận xã hội,
http://www.chungta.com
12 Nancy Birdsall; Francis Fukuyama (2012), Sự đồng thuận sau
“Đồng thuận Oasinhton”, Tạp chí Thông tin những vấn đề lý luận,
153
số, 6/2012, Hà Nội, tr.28-37
13 Bộ ngoại giao (1995), Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc dân
tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14 Bộ Thương Mại (1998), Từ điển ASEAN, Nxb. Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
15 Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 143/2003/NĐ-CP ngày
28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều
của Pháp lệnh Khai thác và Bảo vệ công trình thủy lợi,
http://www.chinhphu.vn
16 Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Sử học,
Hà Nội, t.1.
17 Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Sử học,
Hà Nội, t.2.
18 Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Sử học,
Hà Nội, t.3.
19 Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Sử học,
Hà Nội, t.4.
20 Đại học quốc gia Hà Nội (1997), Tân thư và xã hội Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội.
21 Nguyễn Trọng Đàm, An sinh xã hội ở Việt Nam: Những quan niệm
và cách tiếp cận cần thống nhất,
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Viet-nam-tren-duong-doi-
moi/2012/16871/An-sinh-xa-hoi-o-Viet-Nam-Nhung-quan-diem-va-
22 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết sô 36/NQ-TW, ngày
26/3/2004, http://www.mofa.gov.vn
23 Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
154
24 Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ
đổi mới (VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29 Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30 Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31 Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban
chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Về đại đoàn kết toàn dân tộc,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33 Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam (2001), Chính sách dân tộc của các
chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam (X-XIX), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
34 Charles Debbasch, Jacque Bourdon, Từ điển thuật ngữ chính trị
Pháp – Việt, Nxb. Thế giới
35 Nguyễn Thế Doanh (2008), “Vai trò của khoan dung tôn giáo và
đoàn kết xã hội trong việc kiến tạo nền hòa bình và giữ vững ổn
định xã hội”, in trong: Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và
đoàn kết xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 469-474
155
36 Ngô Văn Dụ, Hồng Hà, Trần Xuân Giá (2006), Tìm hiểu một số
thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của Đảng, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
37 Phạm Văn Đức (2008), “Vai trò và cơ sở của đoàn kết xã hội ở Việt
Nam hiện nay”, in trong: Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và
đoàn kết xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 409-425
38 G. Endruweit và G.Trommsdroff (2001), Từ điển xã hội học, Nxb.
Thế giới, Hà Nội.
39 Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
40 Trần Văn Giàu (1975), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ giữa thế
kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, t.I.
41 Trần Văn Giàu (1975), Sự phát triển tư tưởng ở Việt Nam từ giữa thế kỷ
XIX đến Cách mạng tháng Tám, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, t.II.
42 Mai Thanh Hải, Từ điển tôn giáo, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội
43 Trần Đắc Hiến, Đồng thuận xã hội một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, http://www.tapchicongsan.org.vn
44 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45 Đỗ Lan Hiền (2011), Khoan dung tôn giáo với dân chủ, đoàn kết và đồng
thuận xã hội – Trường hợp Việt Nam, Nxb. Chính trị - Hành chính.
46 Nguyễn Hoàng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời báo chí nước
ngoài,http://baodientu.chinhphu.vn/Tieu-diem/Thu-tuong-Nguyen-
Tan-Dung-tra-loi-phong-van-bao-chi-nuoc-ngoai/200027.vgp
47 Nguyễn Hoàng, Nhật Bắc, Hơn 54.000 tỷ đồng phát triển dân tộc,
miền núi, www.http://chinhphu.vn
48 Đỗ Thị Hòa Hới (2008), “Tính khoan dung của văn hóa truyền
156
thống dân tộc và sự kế thừa, phát triển trong tư tưởng Hồ Chí
Minh”, in trong: Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết
xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 545-555
49 Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển (2002), Từ điển bách
khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.
50 Đỗ Minh Hợp (2011), Đối thoại giữa các nền văn minh theo tinh
thần khoan dung – nhân tố quyết định sự sống còn, thịnh vượng của
nhân loại, Tạp chí Triết học, số 2, tr. 31-40.
51 Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Kim Lai (2006), Những vấn đề toàn cầu
trong thời đại ngày nay, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
52 http://www.dictionary.reference.com/browse/consensus
53 http://portal.unesco.org/en/ev.php-
URL_ID=13175&URL_DO=DO_TOPIC&URL_SECTION=201.html
54 http://www.ericdigests.org/2002-2/tolerance.htm
55 http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/ctc
56 http://www.unesco.org/webworld
57 http://.www.vietnamplus.vn
58 http://.www.vietnamembassy-slovakia.vn/vi/vnemb/tin_hddn
59 Nguyễn Tấn Hưng, Kế thừa và phát huy tinh thần khoan dung Hồ
Chí Minh trong xây dựng đồng thuận xã hội và đại đoàn kết dân tộc,
http://www.vientriethoc.com.vn
60 Hoàng Hường, Tại sao người Việt Nam không ghét người Mỹ,
http://www.vietnamnet.vn
61 Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Hoài Văn, Nguyễn Văn Vĩnh (2009),
Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị trong truyền
thống Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62 Phùng Văn Khai, Khoan thư sức dân – Quốc sách dựng nước và giữ
157
nước, http://www.daidoanket.vn
63 Phan Văn Khải (2004), Văn hóa là nguồn sức mạnh để duy trì bản
sắc châu Á và từ đó duy trì các nguyên tắc của ASEAN, Báo Nhân
dân, ngày 9/8.
64 Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Thị Huế (2005), Từ Nguyên giải nghĩa,
Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
65 Vũ Khoan (2013), Ngoại giao Việt Nam – Truyền thống và hiện đại,
Tạp chí Thông tin những vấn đề lý luận, số 1/2013, tr.45-52
66 Khổng Tử, Luận ngữ, dịch giả Đoàn Trung Còn, Nhà sách Trí Đức,
Sài Gòn.
67 Tương Lai, Nghĩ về đạo lý dân tộc, http://www.tuanvietnam.vn
68 Tương Lai, Vấn đề ý thức hệ và đồng thuận xã hội,
http://www.ncpl.org.vn
69 Nguyễn Thị Lan (2008), Mặt trận Tổ quốc Việt nam với việc xây
dựng đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Chính
trị học, Hà Nội.
70 Nguyễn Thị Lan, Xây dựng đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay,
http://www.tapchicongsan.org.vn
71 Nguyễn Lân (2002), Từ điển từ và ngữ Hán – Việt, Nxb. Từ điển
bách khoa, Hà Nội.
72 Lao Tử, Thịnh Lê (2001), Từ điển Nho, Phật, Đạo, Nxb. Văn học, Hà Nội.
73 Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Lương Ninh (1971),
Lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, t.1.
74 Phương Liên, Hỗ trợ di dân định canh, định cư và những vấn đề đặt
ra, http://www.cpv.org.vn
75 Nguyễn Đức Lữ (2008), “Tính khoan dung của tôn giáo, tín ngưỡng
ở Việt Nam”, in trong: Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và
158
đoàn kết xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 563-570
76 Hoàng Xuân Lương, Một số thành tựu, biện pháp trong bảo đảm
quyền các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, http://www.ubdt.gov.vn
77 C.Mác và Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, t.18.
78 C.Mác và Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, t.21.
79 C.Mác và Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, t.38.
80 C.Mác và Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, t.4.
81 Nguyễn Thị Phương Mai (2010), Bài học về ý nghĩa của khoan dung từlịch sử đối với hiện tại ở Việt Nam, Tạp chí Triết học, số 9, tr.57-62.
82 Nguyễn Thị Phương Mai (2007), Khoan dung thuật ngữ và sự vận độngcủa nó trong lịch sử triết học phương Tây, Tạp chí triết học, số 8, tr.41-46.
83 Nguyễn Thị Phương Mai (2012), Tư tưởng khoan dung và ý nghĩahiện thời của nó, Luận án Tiến sĩ triết học, Hà Nội.
84 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.3.
85 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.4.
86 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.5.
87 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.6.
88 Hajine Nakamura, Tinh thần khoan dung và sự giải thoát trong tưduy người Ấn Độ, http://www.vanhoahoc.edu.vn
89 Phạm Xuân Nam, Đối thoại văn hóa trong bối cảnh toàn cấu hóa,
http://.www.tapchicongsan.org.vn
90 Phạm Xuân Nam (2008), Sự đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các nềnvăn hóa – Một góc nhìn từ Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
159
91 Lê Tôn Nghiêm (2000), Lịch sử Triết học phương Tây, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, t.1.
92 Lê Tôn Nghiêm (2000), Lịch sử Triết học phương Tây, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, t.2.
93 Lê Tôn Nghiêm (2000), Lịch sử Triết học phương Tây, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, t.3.
94 Nhiều tác giả (2006), Tranh luận để đồng thuận, Nxb Tri thức, Hà Nội.
95 Hà Văn Núi (2008), “Đoàn kết xã hội - động lực phát triển xã hội”,
in trong: Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 475-482
96 J. Nye, Sức mạnh mềm Việt Nam, http://.www.tuanvietnam.net
97 Hoàng Phê (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng – Trung tâm
từ điển học, Hà Nội.
98 Nguyễn Hồng Phong (1998), Văn hóa chính trị Việt Nam – truyền
thống và hiện đại, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
99 Trần Tuấn Phong (2008), “Đoàn kết xã hội – nhìn từ góc độ truyền
thống văn hóa”, in trong: Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và
đoàn kết xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 483-494
100 Bùi Nhật Quang, Tìm hiểu về người Việt Nam ở nước ngoài trong
tương quan với trường hợp Italia, http://www.tinmoi.vn
101 Phạm Ngọc Quang, Đồng tình, đồng ý, đồng thuận và sự tác động
của chúng tới sự đoàn kết thống nhất trong Đảng,
http://www.vientriethoc.com.vn
102 Phạm Ngọc Quang (chủ nhiệm) (2010), Quan điểm, định hướng và
giải pháp thực hành dân chủ, đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thuận xã
hội, Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số KX.04-27/06-10, Hà Nội.
103 Phạm Ngọc Quang (2013), Tăng cường dân chủ, đồng thuận và
160
đoàn kết ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam,
số 68, tr.50-56
104 Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, http://www.mattran.org.vn/home/gioithieumt/
105 Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Việt sử thông giám cương mục,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, t.1.
106 Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Việt sử thông giám cương mục,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, t.2.
107 Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn (2010), Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108 Hồ Sĩ Quý (2005), Về giá trị và giá trị châu Á, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
109 Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng
(2009), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến
nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110 Albert Schweitzer (2003), Những nhà tư tưởng lớn của Ấn Độ, Nxb.
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
111 Nguyễn Thanh Sơn, Người Việt Nam ở nước ngoài hội nhập phát
triển cùng đất nước, http://www.quehuongonline.vn
112 Văn Tân (1991), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
113 Lê Sỹ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, t.2.
114 Song Thành, Đồng thuận xã hội và tinh thần khoan dung Hồ Chí
Minh, một nhân tố để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
http://www.giaithuong.vn
115 Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb.
Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
161
116 Chương Thâu (1997) Đông kinh nghĩa thục và phong trào cải cách
văn hóa đầu thế kỷ XX, Nxb. Văn hóa, Hà Nội
117 Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2010), Những giá trị văn hóa truyền
thống Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118 Hoàng Thị Thơ (2008), “Khoan dung trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ và
lịch sử Phật giáo Việt Nam”, in trong: Công bằng xã hội, trách nhiệm
xã hội và đoàn kết xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 571-581
119 Chu Bích Thu, Từ điển từ mới tiếng Việt, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh,
120 Nguyễn Tài Thư (2008), “Đoàn kết và điều kiện để đoàn kết trong lịch
sử dân tộc Việt Nam”, in trong: Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội
và đoàn kết xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 495-508
121 Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội, t.1.
122 Nguyễn Đăng Thục (2001), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, t.1.
123 Nguyễn Đăng Thục (2001), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, t.2.
124 Nguyễn Đăng Thục (2001), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, t.3.
125 Nguyễn Đăng Thục (2001), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, t.4.
126 Nguyễn Đăng Thục (2001), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, t.5.
127 Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, t.1.
128 Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, t.2.
162
129 Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, t.3.
130 Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, t.4.
131 Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, t.5.
132 Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, t.6.
133 Giang Văn Toàn, Khoan dung là một cách giáo dục, Nxb. Lao động
134 Đặng Hữu Toàn (2008), “Đoàn kết dân tộc trên cơ sở đồng thuận xã
hội”, in trong: Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã
hội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 445-456
135 Huyền Trang, Thuế, phí của Việt Nam là phù hợp,
http://www.tapchitaichinh.vn/Kinh-te-vi-mo/Thue-phi-cua-Viet-
Nam-la-phu-hop/13876.tctc
136 Lê Bá Trình (2008), “Phát huy những điểm tương đồng giữa mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội và khát vọng giải phóng con người của các
tôn giáo để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”, in trong: Công
bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội, tr. 419-530
137 Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Triết học
(2002), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Văn tuyển, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, t.1.
138 Cù Xuân Trường, Chữ “Đồng” trong tinh thần Việt,
http://.www.hanoimoi.com.vn
139 Hoàng Tuấn (2011), Khoan dung để gắn kết, Báo An ninh thủ đô,
ngày 17/11.
163
140 Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (2000), Binh thư yếu lược, Nxb.
Thanh Hóa.
141 Chu Văn Tuấn (2009), Đồng Thuận xã hội: Một số vấn đề lý luận,
Tạp chí Triết học, số 218, tr. 25-31
142 Lương Mỹ Vân (2007), Tư tưởng khoan dung trong triết học Khai
sáng Pháp, Tạp chí Triết học, số 4, tr.57-62
143 Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
144 Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Đại việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, t.1.
145 Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Đại việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, t.2.
146 Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Đại việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, t.3.
147 Viện Sử học (1991), Quốc triều hình luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội.
148 Viện Triết học (1996), Từ điển triết học phương Tây, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
149 Trần Nguyên Việt (2011), Tư tưởng khoan dung của Khổng Tử và
sự thể hiện nó ở Nguyễn Trãi, Tạp chí Triết học, số1, tr.10-16
150 Phạm Thái Việt (2006), Toàn cầu hóa những biến đổi lớn trong đời
sống chính trị quốc tế và văn hóa, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
151 Huỳnh Khái Vinh và Nguyễn Thanh Tuấn (2004), Bàn về khoan
dung trong văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
152 Nguyễn Như Ý, Từ điển tiếng Việt, Nxb.Văn hóa thông tin, Hà Nội.