24
MỘT SỐ GIẢ THUYẾT VỀ SỰ NGẬP NGỪNG VÀ CÁC BIỂU HIỆN KHÔNG LỜI TRONG THỰC HÀNH LIỆU PHÁP GIA ĐÌNH PETER ROBER Nhà tâm lý lâm sàng, nhà trị liệu gia đình, đào tạo viên liệu pháp gia đình tại Bệnh viện Đại học Leuven (Louvain), Vương quốc Bỉ. Journal of Family Therapy (2002) 24: 187-204 Ngưi dch: BS NGUYN MINH TIẾN Trưng Chi hi Trăng Non, Hi KH Tâm l – Gio dc Tp.HCM Khi thân chủ tìm đến với việc trị liệu, họ có những câu chuyện muốn kể. Trong qu trình đối thoại trị liệu (therapeutic conversation), thân chủ thường xuyên thực hiện việc lựa chọn điều gì họ muốn kể ra và điều gì họ muốn giữ lại không nói ra. Trong bài viết này, tc giả sẽ tập trung nói về “vùng gip ranh” giữa những điều đã được nói và những điều chưa được nói, và đề xuất ba giả thuyết về thi đ ngập ngừng khi nói của thân chủ trong cc phiên trị liệu gia đình. Trong cc giả thuyết này, sự ngập ngừng được sử dng như mt ẩn d (metaphor) để mang đến những nghĩa cho cc pht biểu không lời của thân chủ, và việc này được thực hiện theo mt cch thức sao cho có mt khoảng không gian được m ra để đón nhận mt cch trân trọng những câu chuyện mà cho đến lúc đó vẫn chưa được kể. Thật hữu ích khi ta xem cc pht biểu không lời của thân chủ như là những thi đ ngập ngừng trước khi dấn thân vào cuc đối thoại, và cũng sẽ hữu ích khi sử dng những pht biểu không lời này, theo cch suy nghĩ của Tom Andersen (1995), như là điểm khi đầu cho mt cuc đối thoại đầy trân trọng với gia đình về những l do chính đng khiến họ không nói ra những chuyện như thế. Việc này không chỉ giúp tạo nên không gian cho những câu chuyện đến lúc đó vẫn chưa được kể, mà còn giúp nhà trị liệu thiết lập nên mt mối quan hệ hợp tc có tính trị liệu với gia đình mà mình đang làm việc. Những tưng này sẽ được minh họa qua mt số trường hợp lâm sàng.

Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

MỘT SỐ GIẢ THUYẾT VỀ SỰ NGẬP NGỪNG VÀ CÁC BIỂU HIỆN KHÔNG LỜI TRONG THỰC HÀNH LIỆU PHÁP GIA ĐÌNH

PETER ROBERNhà tâm lý lâm sàng, nhà trị liệu gia đình, đào tạo viên liệu pháp gia đình tại Bệnh viện Đại học Leuven (Louvain), Vương quốc Bỉ.Journal of Family Therapy (2002) 24: 187-204

Ngươi dich: BS NGUYÊN MINH TIẾNTrương Chi hôi Trăng Non, Hôi KH Tâm ly – Giao duc Tp.HCM

Khi thân chủ tìm đến với việc trị liệu, họ có những câu chuyện muốn kể. Trong qua trình đối thoại trị liệu (therapeutic conversation), thân chủ thường xuyên thực hiện việc lựa chọn điều gì họ muốn kể ra và điều gì họ muốn giữ lại không nói ra. Trong bài viết này, tac giả sẽ tập trung nói về “vùng giap ranh” giữa những điều đã được nói và những điều chưa được nói, và đề xuất ba giả thuyết về thai đô ngập ngừng khi nói của thân chủ trong cac phiên trị liệu gia đình. Trong cac giả thuyết này, sự ngập ngừng được sử dung như môt ẩn du (metaphor) để mang đến những y nghĩa cho cac phat biểu không lời của thân chủ, và việc này được thực hiện theo môt cach thức sao cho có môt khoảng không gian được mơ ra để đón nhận môt cach trân trọng những câu chuyện mà cho đến lúc đó vẫn chưa được kể. Thật hữu ích khi ta xem cac phat biểu không lời của thân chủ như là những thai đô ngập ngừng trước khi dấn thân vào cuôc đối thoại, và cũng sẽ hữu ích khi sử dung những phat biểu không lời này, theo cach suy nghĩ của Tom Andersen (1995), như là điểm khơi đầu cho môt cuôc đối thoại đầy trân trọng với gia đình về những ly do chính đang khiến họ không nói ra những chuyện như thế. Việc này không chỉ giúp tạo nên không gian cho những câu chuyện đến lúc đó vẫn chưa được kể, mà còn giúp nhà trị liệu thiết lập nên môt mối quan hệ hợp tac có tính trị liệu với gia đình mà mình đang làm việc. Những y tương này sẽ được minh họa qua môt số trường hợp lâm sàng.

PHẦN DẪN NHẬP

Khi thân chủ tìm đến việc trị liệu, họ có những câu chuyện muốn kể. Tuy nhiên, trong cac cuôc đối thoại trị liệu, cũng có những câu chuyện không được kể. Môt số chuyện không được kể bơi vì thân chủ thấy chúng không thích hợp với những mối bận tâm dẫn họ đến với việc trị liệu. Môt số chuyện khac có thể thích hợp nhưng họ lại thấy khó nói, chẳng hạn như khi thân chủ nhận thấy bối cảnh đối thoại không an toàn để họ có thể kể câu chuyện ấy, đặc biệt là những câu chuyện rất dễ gây tổn thương cho họ, những câu chuyện gây ra sự ngờ vực, tôi lỗi, xấu hổ và đau đớn. Rogers và cs. (1999) đã nhận ra rằng có rất nhiều chuyện không được nói đến ơ nhiều mức đô khac nhau: “Từ chuyện chưa được kể (đơn giản là vì chưa nói đến hoặc đã bị quên đi), cho đến chuyện không thể kể ra (những chuyện khó nói đến nhưng lại có thể biểu lô môt cach có hàm y qua cac thai đô như phủ nhận, xét duyệt lại, lãng tranh hoặc giữ im lặng), và thậm chí là những chuyện không thể nhắc đến (những chuyện có thể khơi ra môt sự nguy hiểm hoặc như môt

Page 2: Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

điều cấm kỵ)” (tr.91-92). Griffith và Griffith (1994) cho rằng trong qua trình đối thoại, thân chủ thường quyết định chuyện gì được kể và chuyện gì giữ lại trong im lặng: môt sự bảo vệ thường xuyên của thân chủ ngăn họ không bôc lô những câu chuyện mà họ chỉ thấy an toàn khi chúng được đặt trong những cuôc đối thoại bên trong có tính riêng tư” (Griffith và Griffith, 1994: 40). Qua trình chọn lọc này biểu lô ra bên ngoài khi thân chủ trơ nên ngập ngừng trước khi nói. Môt thai đô ngập ngừng có thể được thể hiện không chỉ bằng môt sự im lặng kéo dài mà còn có thể bằng những dấu hiệu không lời từ thân chủ: môt cai liếc mắt, môt tiếng thơ dài, môt khoảng nghỉ trong mạch văn đang nói, môt sự chuyển dịch tư thế trên ghế ngồi, vân vân... Thường thì đây chỉ là những dấu hiệu không lời lướt thoang qua khiến nhà trị liệu nếu không chú tâm môt cach đầy đủ thì cũng có thể bỏ qua. Tuy nhiên, những khoảnh khắc ngập ngừng như thế là rất quan trọng, bơi vì đó là lúc thân chủ lượng gia về bối cảnh đối thoại lúc đó có an toàn hay không đối vối tính mẫn cảm của câu chuyện mà họ sắp kể ra.

Trong bài viết này, tôi sẽ nêu tầm quan trọng của việc thân chủ ngập ngừng trước khi nói và nhà trị liệu có thể sử dung sự ngập ngừng đó như môt công cu quan trọng giúp mơ ra khoảng không cho những câu chuyện chưa được kể. Tôi sẽ đề xuất ba giả thuyết mà tôi thấy hữu ích cho tôi khi làm việc với cac gia đình.

1. Thân chủ thể hiện sự ngập ngừng khi nói ra những câu chuyện chủ yếu thông qua những cach thức không lời.

2. Thân chủ thường có những ly do chính đang để ngập ngừng. Sự ngập ngừng của họ thường cho thấy họ có những câu chuyện quan trọng chưa được nói.

3. Trong cac phiên trị liệu gia đình, trẻ em thường là những người thể hiện những sự ngập ngừng này bơi vì cac em là những người dễ mẫn cảm nhất đối với những mối nguy có thể có bên trong gia đình.

Muc đích của bài viết này là nhằm ghi nhận sự góp phần có tính xây dựng mà cac giả thuyết này có thể mang đế cho việc thực hành liệu phap gia đình, đặc biệt trong việc tạo cơ hôi giúp thiết lập mối quan hệ hợp tac trị liệu với thân chủ và trong việc giúp mơ ra khoảng không gian cho những câu chuyện chưa được kể.

NHỮNG CÂU CHUYỆN KỂ VÀ NHỮNG CUỘC ĐỐI THOẠI

Anderson và Goolischian (1988) cho rằng công việc của nhà trị liệu chính là lắng nghe những câu chuyện của thân chủ và mơ ra khoảng không gian cho những câu chuyện chưa được kể. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa chuyện đã được kể và chuyện chưa được kể không phải là điều đơn giản. Ngược lại, đó là môt mối liên hệ đông năng (dynamic) và phức tạp khi mà điều được nói ra chỉ có thể được hiểu trong bối cảnh của điều chưa được nói (Rogers và cs., 1999), và khi điều được nói đồng thời vừa như được bôc lô vừa như bị che đậy (Lakoff và Johnson, 1980; Billig, 1997). Trong bài viết này, tôi muốn tập trung vào khu vực giap ranh giữa điều đã được nói và điều chưa

Page 3: Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

được nói. Thật vậy, mặc dù lời nói của thân chủ có những lúc diễn ra rất hối hả trong khi đối thoại, nhưng cũng vẫn có những lúc thân chủ ngưng lại, chọn lựa nói gì và không nói gì.

CA GIA ĐINH VANSTEEN

Tôi đã nói chuyện với môt gia đình, trong đó Kurt, người cha, đã trải qua môt cơn đau tim nặng đe dọa tử vong trước đó vài thang. Kể từ lúc đó, Kurt trơ nên trông rất già nua và rất sợ phải sống tiếp. Người mẹ, Nancy, kể cho tôi nghe về những thay đổi mà đợt bệnh ấy đã gây ra cho gia đình bà. Bà cũng nêu ra những ảnh hương mà việc ấy đã gây ra cho Sid, đứa con trai duy nhất của họ.

Rồi bà nói: “Tuần sau sẽ có thêm môt cuôc kiểm tra sức khỏe cho Kurt”, vừa nói bà vừa liếc nhìn sang chồng, rồi im lặng. Sự im lặng chỉ diễn ra trong khoảng môt, hai giây, nhưng cũng đủ khiến tôi nhận ra rằng Nancy ngập ngừng khi muốn nói tiếp câu chuyện của bà.

Điều đã diễn ra trên đây cho thấy môt việc kha thường gặp đó là thân chủ thường ngừng nói khi họ ngập ngừng trước khi nói tiếp. Tom Andersen (1995) cho rằng khi thân chủ ngập ngừng, dường như họ đang chuyển đổi qua lại giữa sự “đối thoại bên ngoài” (outer conversation) và sự “đối thoại bên trong” (inner conversation). Sự im lặng khi đó là biểu hiện của những phản ảnh hoặc suy ngẫm bên trong (inner reflection) qua đó thân chủ tìm kiếm những cach thức tốt nhất để thể hiện bản thân ra bên ngoài (Andersen, 1995). Cùng lúc đó, việc ngưng nói này cũng tạo nên môt khoảng không mà qua đó, bằng cach thực hiện cuôc đối thoại bên trong (Rober, 1999), thân chủ sẽ quyết định điều gì được nói và điều gì cần giữ im lặng (ít nhất là cho đến lúc đó) (Griffith và Griffith, 1994). Thân chủ tự hỏi với bản thân: “Mình sẽ nói điều này chứ, với nhà trị liệu này, ngay lúc này, trong phiên trị liệu này?”. Với y nghĩa đó, sự ngưng nói có thể được xem là thai đô ngập ngừng khi nói.

Như đã minh họa trong trường hợp của Kurt, Nancy và Sid, môt sự ngập ngừng thường được thể hiện bằng cach thức không lời. Việc này có thể được hiểu nếu như sự ngập ngừng được quan niệm như là môt sự thương lượng giữa hai đông thai: môt là nói ra câu chuyện và hai là giữ lại không nói. Sự thương lượng này sẽ được thể hiện thông qua cach thức không lời. Cac biểu hiện không lời đôi khi rất tinh tế và dễ bị bỏ qua nếu nhà trị liệu không chú tâm môt cach đầy đủ. Việc chú tâm đến những biểu hiện không lời vốn đã là môt việc hiển nhiên trong thực hành liệu phap gia đình, nhưng kể từ khi những ẩn du bằng lời (narrative metaphors), chẳng hạn như câu chuyện kể và cuôc đối thoại, được dùng để làm nền tảng nhận thức luận (epistemological foundation) cho việc thực hành lâm sàng, thì tầm quan trọng của giao tiếp không lời có nguy cơ bị xem nhẹ trong liệu phap gia đình. Thật vậy, việc sử dung những ẩn du bằng lời, như những “metaphor to live by” (Lakoff và Johnson, 1980), đã có tac dung mời gọi nhà trị liệu hướng sự chú tâm của mình vào những câu từ, giọng nói và những câu chuyện. Hậu quả là họ chỉ giới hạn lĩnh vực nghiên cứu của họ vào những chuyện được “nói ra”, còn những thông điệp không lời thì đã bị bỏ lại trong khoảng mờ mịt không được hiểu.

Page 4: Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

NHỮNG THÔNG ĐIỆP KHÔNG LỜI BỊ CHE KHUẤT

Điều này có lẽ cần môt chút giải thích thêm. Khai niệm “metaphor to live by” được mô tả lúc ban đầu bơi Lakoff và Johnson (1980). Chủ yếu dựa trên những bằng chứng về ngôn ngữ học, Lakoff và Johnson đã cho rằng ẩn du không đơn thuần chỉ là sự tô vẽ về mặt thơ văn hoặc tu từ, mà còn như là môt thành phần trong ngôn ngữ mà từ đó chúng ảnh hương lên trên cach thức chúng ta nhận biết, suy nghĩ và hành đông. Ngoài ra, cac tac giả này còn nêu ra khai niệm về “sự hệ thống hóa có tính ẩn du” (metaphorical systematicity). Với khai niệm này, họ có y nói rằng môt ẩn du luôn luôn nêu bật lên môt khía cạnh nào đó trong trải nghiệm của chúng ta, và để lại môt khía cạnh khac của trải nghiệm trong sự mơ hồ khó hiểu. Chẳng hạn như trong trong liệu phap gia đình, ẩn du “hệ thống” nêu bật lên mối tương tac giữa cac thành viên trong gia đình, nhưng nó lại làm lu mờ đi cac khía cạnh như tính ngẫu nhiên của cac sự kiện xảy ra trong gia đình, hoặc mức đô chủ quan của người quan sat khi phân tích hệ thống (Rosenblatt, 1994). Môt ví du khac đó là “ẩn du điều khiển học” (cybernetic metaphor), môt mặt, có thể giúp chúng ta nhìn thấy sự tuần hoàn và những vòng cung phản hồi (feedback loop) bên trong đời sống gia đình, nhưng mặt khac, lại che khuất cac khía cạnh như trach nhiệm ca nhân và sự mất quân bình về quyền lực. Với cach thức này, mọi ẩn du đều làm “sang lên” môt phần trải nghiệm của chúng ta và đồng thời để lại môt phần khac của trải nghiệm ơ trong bóng tối.

Nếu chúng ta chấp nhận những y tương của Lakoff và Johnson (1980), cũng sẽ hợp ly khi ta đặt ra câu hỏi: Cac ẩn du bằng lời (narrative metaphors) liệu có thể che khuất điều gì khi chúng ta sử dung chúng làm nền tảng nhận thức luận trong liệu phap gia đình? Minuchin (1998) đã cố gắng trả lời câu hỏi này trong môt bài viết có nhan đề “Gia đình ơ đâu trong liệu phap gia đình dựa trên chuyện kể?” (Where is family in narrative family therapy?), và ông cho rằng việc sử dung cac ẩn du bằng lời trong liệu phap gia đình sẽ làm che khuất gia đình (Nguyên văn: “The use of narrative metaphors in family therapy obscures the family”):

Liệu pháp dựa trên chuyện kể đã rời xa các nguyên tắc hệ thống nhằm nêu bật lên bối cảnh sống và nền văn hóa, nhưng có điều gì đó nghịch lý trong động thái này. Trong quá trình này, các lý thuyết gia đã đặt gia đình vào nhầm chỗ - là chính ngay tại điểm tức thời và rõ rệt của bối cảnh và nền văn hóa mà người ta đang sống trong đó. (Trang 403)

Xem qua tư liệu, dường như có môt khía cạnh trong thực hành liệu phap gia đình đã bị làm lu mờ đi trong mô hình sử dung chuyện kể (narrative paradigm): đó chính là tầm quan trọng của giao tiếp không lời.

(Lược bỏ một đoạn tác giả trích dẫn nhiều tài liệu chuyên môn về ngôn ngữ không lời)

KHÔNG TỪ NGỮ KHÔNG HẲN LÀ KHÔNG CÓ GIÁ TRỊ

Page 5: Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

Tuy nhiên, không phải tất cả những nhà trị liệu dựa trên tương tac đối thoại đều xem “những điều thân chủ nói” như là trọng tâm duy nhất của cuôc đối thoại trị liệu. Chẳng hạn như Tom Andersen (1995) nhấn mạnh rằng nhà trị liệu không chỉ phải lắng nghe tất cả những gì được nói mà còn phải nhìn thấy những điều ấy được phat biểu như thế nào: “Để nghe cũng phải biết nhìn” (Andersen, 1995: 23). Ông đã cho ví du về môt người cha thơ dài khi nói về nổi buồn của đứa con trai. Điều này đã mời gọi Andersen khơi đầu việc đối thoại về chuyện buồn ấy và ông đặt câu hỏi: “Khi con trai ông buồn, bên trong nỗi buồn ấy chỉ toàn là buồn hay còn có thêm cảm giac nào khac?”. Người cha nói “Nó còn có thêm cả sự giận dữ nữa”. Andersen tiếp tuc hỏi “Nếu như con trai ông có thể nói ra được nỗi buồn ấy, đó sẽ là những lời lẽ như thế nào?” vânvân và vân vân. Với cach đặt những câu hỏi như thế, Andersen không có muc đích tìm kiếm những y nghĩa sâu xa đằng sau những gì được nói, như những nhà trị liệu của trường phai cấu trúc (structurist) thường làm. Thay vào đó, ông muốn hiểu những gì thực sự “bên trong” cac diễn đạt bằng lời của thân chủ (Andersen, 1995). Ông chú tâm vào sự phong phú của cac phat biểu không lời, và xem chúng như những lời mời gọi để đặt thêm những câu hỏi vừa có tính hiếu kỳ vừa có tính trân trọng thân chủ.

Trơ lại trường hợp gia đình Vansteen, chúng ta thấy rằng nhà trị liệu, được truyền cảm hứng bơi những kiểu hỏi chuyện của Tom Andersen, đã sử dung sự im lặng kéo dài của Nancy như môt điểm khơi đầu cho môt cuôc đối thoại đầy trân trọng.

Tôi để sự im lặng trôi qua ít phút, rồi hỏi Nancy:“Nếu sự im lặng này của bà có thể phat biểu ra được, đó sẽ là những lời lẽ như thế nào?”“Tôi không biết... Tôi không muốn làm ông ấy sợ [vừa nói vừa cuối đầu về phía Kurt]. Ông ấy đã sợ như thế đấy, và nếu như tôi lại nói ra nỗi lo sợ của mình...”“Bà e rằng ông ấy sẽ càng sợ nhiều hơn nếu bà nói ra nỗi sợ của mình?”“Vâng”

Đôi khi sự ngập ngừng có thể được diễn giải như là những phản ứng phòng vệ của thân chủ: nghĩa là thân chủ phản khang lại tiến trình trị liệu bằng cach không nói gì cả. Tuy nhiên, cac tac giả khac lại cho rằng “Sự im lặng thực sự mang nhiều dang vẻ và âm điệu khac nhau” (Serani, 2000: 505): Trong trị liệu, đối với những thân chủ khac nhau, sự im lặng lại có thể có nhiều y nghĩa khac nhau. Học thuyết kiến tạo xã hôi (social constructionism) cho ta biết rằng y nghĩa không thể được phat hiện bên trong y định của thân chủ, thay vào đó, y nghĩa được tạo nên bơi cuôc “thương thảo” (negotiation) khi nhà trị liệu đối thoại với thân chủ (Gergen, 1999). Trong trường hợp gia đình Vansteen, y nghĩa của sự im lặng ơ bà Nancy được tạo nên môt phần bơi chính bản thân sự im lặng, môt phần bơi đap ứng của nhà trị liệu. Nhà trị liệu không xem sự im lặng này như môt sự vắng lặng, mà vẫn như môt sự hiện diện của lời nói: SỰ IM LẶNG CHỨA ĐẦY NHỮNG CÂU CHUYỆN CHƯA ĐƯỢC NÓI VÀ NHỮNG LÝ DO KHIẾN CHÚNG KHÔNG ĐƯỢC NÓI. Nhà trị liệu xem sự im lặng của Nancy như là phản ảnh sự ngập ngừng khi nói của bà: Có điều gì đó làm bà muốn nói và cũng có điều gì đó khi bà không thể nói. Nhà trị liệu đặt câu hỏi về sự im lặng này: “Nếu sự im lặng này có thể nói ra được, đó sẽ là những lời

Page 6: Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

lẽ như thế nào?”. Câu trả lời của Nancy cho thấy rằng bà đã chấp nhận đề nghị của nhà trị liệu ơ điểm sự im lặng của bà không phải là môt sự trống không. Bà chấp nhận y kiến của nhà trị liệu khi ông đã làm cho sự ngập ngừng nói ra nỗi sợ của mình trơ nên có y nghĩa, và bà làm rõ ly do chính đang khiến bà ngập ngừng đó là vì bà không muốn làm chồng mình sợ hãi thêm môt cach không cần thiết.

Ví du đơn giản này đã soi sang giả thuyết thứ nhất trong bài viết này: Sự ngập ngừng của thân chủ khi đối thoại thường được thể hiện bằng những cach thức không lời (chẳng hạn như giữ im lặng). Nó cũng minh họa cho giả thuyết thứ hai: Thân chủ có những ly do chính đang để ngập ngừng. Đôi khi việc nói ra có thể gây nguy hiểm (Griffith và Griffith, 1994), thân chủ có thể làm tổn thương ai đó trong gia đình hoặc cũng có thể chính mình bị tổn thương.

SỰ NGẬP NGỪNG TRONG NHỮNG PHIÊN TRỊ LIỆU GIA ĐINH

John Byng-Hall đã mô tả cach thức làm thế nào mà môt đứa trẻ có thể trơ thành môt tac nhân điều hòa những khoảng cach (distance regulator) bên trong gia đình của trẻ (Byng-Hall, 1980, 1995): Đứa trẻ theo dõi mối quan hệ của cha mẹ mình, sẵn sàng kéo họ lại với nhau khi họ cach nhau qua xa, hoặc có thể đến chen vào giữa họ khi họ ơ qua gần nhau. Những nhà trị liệu gia đình đã biết đến vô vàn những cach thức qua đó đứa trẻ đã được thu hút vào những kiểu vận hành như thế (Byng-Hall, 1995: 185). Với cach thức tương tự, trẻ em cũng thường trơ thành những tac nhân điều hòa đối với những điều được nói về trong phiên trị liệu gia đình bằng cach thể hiện sự ngập ngừng khi đi vào cuôc đối thoại. Thật vậy, trong phiên trị liệu gia đình, sự ngập ngừng không luôn luôn được thể hiện bơi những người đang nói. Đôi khi, trong lúc có môt thành viên trong gia đình kể môt câu chuyện, thì môt thành viên khac (thường là môt đứa trẻ) lại biểu hiện môt dấu hiệu không lời mà dấu hiệu ấy có thể được hiểu là sự ngập ngừng không muốn đi sâu vào phiên trị liệu. Đây là giả thuyết thứ ba trong bài viết này. Giả thuyết này được gây cảm hứng từ công trình của Edith Tilmans-Ostyn (1999a), người nói về những cai “phanh” (thắng) trong môt gia đình. Bà cho rằng trẻ em, thông qua những hành vi không lời của mình, thường phat ra những tín hiệu cảnh bao về những nguy hiểm tạo nên từ cuôc đối thoại có tính kham pha liên quan đến môt số chủ đề nào đó trong phiên trị liệu. Khi đứa trẻ bắt đầu gây ra môt tiếng ồn, hoặc đòi đi vệ sinh, hoặc khi đứa trẻ làm xao lãng bố mẹ, vân vân... đứa trẻ như thể đang tìm cach trì hoãn hoặc thậm chí làm ngưng luôn cuôc đối thoại. Với y nghĩa này, những phat biểu không lời của trẻ có thể được hiểu như môt chú giải không lời vào cuôc đối thoại rằng: “Có thể nguy hiểm đấy”, “Chuyện này đi nhanh qua” hoặc “Không an toàn khi nói về chủ đề đó đâu”...

NGHIÊN CỨU CA CỦA TOM

Đó là lần đầu tiên cậu bé Tom, 8 tuổi, ngồi cùng bố mẹ chung môt phòng sau 2 năm kể từ ngày bố mẹ cậu ly thân. Họ lặng lẽ đi vào phòng. Cả ba có vẻ rất thận trọng. Người bố ngồi trên chiếc

Page 7: Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

ghế bên phải, mẹ ghế bên trai và Tom trên chiếc ghế ơ giữa. Trong cuôc đối thoại bên trong (inner conversation), tôi thắc mắc không biết cậu bé nghĩ gì khi ngồi giữa bố và mẹ: Liệu cậu là chiếc cầu nối giữa họ hay là môt hàng rào ngăn cach giữa họ?

Tom được môt bac sĩ gửi đến cho tôi vì cậu bị những cơn đau dạ dày. Vị bac sĩ đã không tìm thấy chứng cứ thực thể nào cho những cơn đau này, vì thế ông đã giới thiệu Tom cùng với bố mẹ đến với tôi. Ban đầu chúng tôi ngồi im lặng, và rồi chúng tôi nói chuyện về mối bận tâm của bố mẹ đối với những cơn đau khó hiểu của Tom. Tôi cảm thấy không thoải mai khi nhận ra rằng cuôc nói chuyện này bằng cach nào đó đã trơ thành môt cuôc đấu khẩu tinh tế giữa bố và mẹ. Họ nói chuyện nhẹ nhàng, nhưng luôn luôn chỉ trích lẫn nhau. Tôi lấy làm lạ bơi vì họ hề không nhìn nhau như thể người này không để y là có người kia cũng đang hiện diện. Từ từ tôi nhận thấy ap lực ngày môt gia tăng giữa họ. Rồi môt cuôc xung đôt thực sự đã nổ ra giữa họ khi thời gian nói chuyện diễn ra được khoảng môt giờ. Có vẻ như sự bùng nổ ấy là không thể tranh khỏi. Tôi tự khỏi không biết Tom cảm thấy như thế nào? Và cùng lúc ấy, tôi thấy Tom dùng hai tay ôm lấy bung. Tôi tự hỏi: “Cậu bé đang đau à?”. Tôi nhìn sang cha mẹ cậu xem họ có nhận thấy giống tôi hay không thì họ đã không nhận biết gì cả.

Người bố nói với tôi: “Dĩ nhiên phải tùy ông xem coi có chuyện gì đã xảy ra cho Tom như vậy”.

Tôi tự hỏi mình sẽ có thể nói gì nếu như không thử đứng vào góc đô xem xét của từng người trong số họ? (Nguyên văn: “without taking sides”). Tôi cảm thấy mình bị mắc kẹt giữa người bố và người mẹ, và tôi cũng chợt nhận ra rằng Tom hẳn cũng đã cảm thấy theo cach giống như vậy. Tôi lại nhìn Tom. Gương mặt cậu bé cho tôi biết rằng cậu đang đau vì thế tôi hỏi: “Chau đang đau à?”.

Cậu chẳng nói gì mà chỉ gật đầu. Tôi mời cậu bé đến ngồi bên cạnh tôi và kể cho tôi nghe về cơn đau của cậu. Tom đứng lên và đến ngồi cạnh tôi.

“Chau có thể nói cho chú nghe chau đau như thế nào không?” Tôi hỏi.“Giờ chau thấy đỡ hơn rồi”, Tom đap.“Thế thì tốt”, tôi nói và tôi cũng thấy rằng Tom đã đỡ đau hơn.

Tôi đặt giả thuyết rằng cơn đau bung của Tom có thể là cach thể hiện những ap lực mà Tom cảm thấy khi cậu ngồi giữa bố và mẹ. Và tôi quyết định hỏi cậu về điều đó.

“Chau có thể nói thử xem cơn đau ấy đang cố gắng nói với chúng ta điều gì vậy?”. Tôi hỏi nhưng cũng cảm thấy rằng Tom sẽ không thể nói được gì vào lúc đó. Và thật vậy, cậu đã không thể trả lời. Vì thế tôi trơ lại nhìn sang phía bố mẹ cậu và chúng tôi nói về những khó khăn nào họ đã gặp phải trong việc làm bố mẹ của Tom sau khi họ đã chia tay. Tôi cũng chú y thấy, ít nhất là vào lúc ấy, những ap lực giữa bố và mẹ cũng đã mất đi. Cả hai cho đến lúc ấy đều đang lắng nghe môt cach chăm chú những gì Tom và tôi nói với nhau. Tôi lưu nhớ trong trí mình về điều

Page 8: Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

cơn đau của Tom đã gây cho bố mẹ cậu sự chú y đối với cậu, và bằng cach đó cơn đau đã tạo cơ hôi cho việc giảm bớt căng thẳng giữa bố mẹ và tranh xảy ra sự bùng nổ bạo lực giữa họ với nhau.

Như được minh họa trong câu chuyện của Tom, trong môt số trường hợp, triệu chứng của đứa trẻ tự nó đã biểu hiện như môt hành vi không lời trong phiên trị liệu, mà điều đó có thể được hiểu như là môt thai đô lưỡng lự không dam đối thoại. Như thể Tom đang muốn cho nhà trị liệu biết rằng sẽ rất nguy hiểm khi tiếp tuc phiên trị liệu bơi vì có khả năng sẽ bùng nổ môt cuôc xung đôt giữa bố mẹ của của cậu. Nhà trị liệu sử dung hành vi không lời của Tom như môt điểm khơi đầu cho cuôc đối thoại. Việc làm này thường có lợi vì nó tạo ra khoảng không gian cho việc kể ra những chuyện chưa được kể. Tuy nhiên, điều quan trọng là nhà trị liệu cần phải tôn trọng nhịp đô và tính mẫn cảm (tempo and vulnerability) của cac thành viên trong gia đình (Rober, 1998). Thật vậy, đôi khi những thành viên trong gia đình có thể biểu lô ra cac sự việc theo cach không lời, trước họ hoặc cac thành viên khac trơ nên sẵn sàng hơn để có thể nói chuyện. Điều này dường như đúng trong trường hợp cơn đau bung của Tom. Nhà trị liệu trước tiên đã nghĩ rằng, bằng cach đề cập đến chủ đề đau bung của Tom, sẽ có thể mơ ra khoảng không gian để nói đến những ap lực chưa được nói đến mà Tom đã cảm thấy từ cuôc đối thoại giữa bố mẹ của cậu. Tuy nhiên, sau đó, nhà trị liệu không muốn ép buôc cậu nói bơi nhà trị liệu suy nghiệm rằng nếu dạ dày của Tom đã lên tiếng thay cho miệng cậu có thể nói, tất hẳn phải có ly do chính đang để cơn đau xảy ra. Có lẽ đã rất khó khăn hoặc qua nguy hiểm, ít nhất cho đến lúc đó, khi dùng lời lẽ để nói ra câu chuyện (Griffith và Griffith, 1994). Trong những trường hợp như thế này, tốt nhất nhà trị liệu có lẽ nên giả lờ cac phat biểu không lời ấy hoặc chỉ nên thận trọng cho môt lời bình với “môt thai đô thận trọng không chắc chắn để giúp cho gia đình trơ nên nhạy cảm hơn đối với những điều mà trước đó họ đã bỏ qua không chú y” (Andersen, 1987: 420).

NHỮNG LÝ DO CHÍNH ĐÁNG ĐỂ KHÔNG NÓI RA

Thay vì tập trung vào nôi dung của những chuyện chưa được nói, tôi đề nghị cac nhà trị liệu nên mời gọi cac thành viên gia đình nói ra những ly do chính đang khiến họ không kể ra những câu chuyện này (Tilmans-Ostyn, 1999a). Nhà trị liệu nên nói rằng: “Tôi hiểu bạn không muốn nói ra điều đó vào lúc này. Như vậy cũng tốt. Nhưng có thể giúp tôi hiểu điều gì đã khiến bạn khó khăn đến nỗi không thể nói được lúc này?” hoặc “Bạn sợ điều gì sẽ xảy ra?”. Những loại câu hỏi thế này phản ảnh sự tôn trọng chân thành của nhà trị liệu trong việc công khai dành cho thân chủ quyền được quyết định có nói ra điều mà họ muốn nói hay không. Ngoài ra, nhà trị liệu cũng thừa nhận việc than chủ có những ly do chính đang để quyết định không kể những câu chuyện ấy, còn về phần mình, nhà trị liệu mong muốn cố gắng để hiểu tầm quan trọng của những ly do chính đang này. Cach tiếp cận theo kiểu trân trọng và dè dặt như thế thường sẽ mơ ra những khoảng không gian cho những câu chuyện chưa được kể từ đó giúp làm sang tỏ việc thân chủ có nhu cầu tự bảo vệ họ bằng cach giữ kín môt số chuyện.

NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CỦA ELLY VÀ CÂU CHUYỆN MŨI KIM TIÊM DƯỚI DA

Page 9: Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

(Trường hợp này cũng đã được tac giả nêu trong môt bài viết khac MÀ Trăng non Online đã từng giới thiệu: )

Môt phu nữ đã ly hôn cùng với hai con (con gai Elly, 8 tuổi, và con trai Art, 2 tuổi) đến với phiên trị liệu gia đình vì những bận tâm của bà đối với hành vi có vấn đề của đứa con gai. Người mẹ cũng cho biết chính bà cũng đã nhập viện điều trị chứng trầm cảm trước đó vài thang, và bà cũng biểu lô y muốn có được những phiên trị liệu ca nhân cho riêng bà để có thể nói ra những trải nghiệm đau thương của chính mình thời thơ ấu. Mẹ của bà đã qua đời lúc bà chỉ mới 8 tuổi và tuổi thơ của bà trôi qua với sự cô đôc.

Vào cuối phiên trị liệu thứ hai, người mẹ đề nghị rằng sẽ có lợi cho Elly nếu có thể để em nói chuyện riêng với nhà trị liệu về người bố của mình và em đã nhớ bố như thế nào sau khi bố mẹ chia tay. Tôi quay sang hỏi Elly rằng em nghĩ sao về đề nghị của mẹ. Elly lắc đầu. Tôi hỏi em cử chỉ này nghĩa là như thế nào. Elly miễn cưỡng nói rằng em không muốn nói về bố bơi vì nói thế sẽ làm cho em rất buồn. Tôi nói nếu em không muốn nói về bố thì tôi sẽ tôn trọng quyết định của em, nhưng tôi cũng thêm rằng nếu khi nào em đổi y và quyết định nói chuyện về bố thì em vẫn có thể nói. Elly gật đầu. Rồi tôi hỏi bà mẹ rằng bà có muốn nói chuyện riêng về tuổi thơ đau thương của mình mà không có mặt những đứa con không, như bà đã đề nghị vào phiên trị liệu thứ nhất? Bà nói rằng bà thực sự muốn nói về tuổi thơ của bà. Ngay chính lúc đó, Elly đứng dậy và cầm môt chiếc ống tiêm đồ chơi làm đông tac giả vờ như đang tiêm cho mẹ môt liều thuốc. Người mẹ ngưng nói và nói đùa với con “A! Con đang làm mẹ đau”. Cả hai chúng tôi cùng nhìn Elly.

Khi Elly làm đông tac cho mẹ môt mũi tiêm, y nghĩ đầu tiên đến trong đầu tôi là “việc này quan trọng đây”. Trong cuôc đối thoại bên trong (inner conversation) của tôi, tôi tự hỏi liệu có phải Elly đang cố lôi kéo sự chú y của chúng tôi ra khỏi chủ đề đau buồn mà người mẹ đang nói đến để hướng sang chuyện đang xảy ra tại-đây-lúc-này ít đau buồn hơn chăng? Môt giả thuyết khac cũng thình lình vut lên trong trí tôi đó là việc làm của Elly là cach thức có tính biểu tượng của em nhằm giúp đỡ mẹ mình cảm thấy bớt đau buồn hơn về tuổi thơ bất hạnh của bà – Mũi tiêm như thể môt “liều thuốc giảm đau” (Nguyên văn: “pain-killer). Thật vậy, chính Elly cũng mới vừa nói là em không muốn nói chuyện riêng về những chuyện quan trọng đối với em vì nói ra sẽ khiến em qua đau buồn. Có lẽ em cũng nghĩ rằng mẹ em cũng sẽ rất đau buồn khi kể về tuổi thơ của bà.

Tôi hỏi Elly theo kiểu vui đùa “Chau muốn làm mẹ cảm thấy bớt đau phải không?” Elly chỉ cười mà không nói gì. Rồi tôi nói với cô bé về những suy nghiệm của tôi. Tôi nói rằng tôi đã rất ấn tượng về em như môt người rất ân cần và có lẽ em cũng sợ mẹ đau buồn nếu như bà môt mình nói về tuổi thơ của bà, vì thế em muốn cho bà môt mũi tiêm giảm đau.

Page 10: Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

Elly đap rằng em không muốn để mẹ môt mình nói với tôi về tuổi thơ đau buồn của bà. Tôi nhờ em giúp tôi hiểu điều đó nghĩa là gì. Cô bé vẫn im lặng. Tôi hỏi: “Chau có nghĩ rằng mẹ sẽ rất buồn khi mẹ nói về tuổi thơ của mẹ không?”. Em đã gật đầu đồng y.

Người mẹ nói với Elly: “Nhưng nếu mẹ nói ra được chuyện đó, nỗi đau cuối cùng rồi cũng sẽ qua đi”. Elly lắc đầu và nói: “Nếu mẹ nói về những chuyện buồn đó thì con sẽ phải ngồi ơ đâu đây?”.

Trước tiên, tôi hơi bối rối vì câu nói của Elly. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng có thể Elly đang có ngu y nói đến khoảng thời gian ba thang khi mẹ em phải nhập viện vì chứng trầm cảm. Elly đã phải ơ nhà trong suốt thời gian đó. Tôi hỏi cô bé có lo sợ rằng mẹ phải nhập viện môt lần nữa nếu bà kể về tuổi thơ đau buồn của bà? Em gật đầu đồng y.

Sự trả lời khẳng định của Elly đã công nhận y kiến của nhà trị liệu rằng có thể hiểu hành đông của cô bé giả vờ tiêm thuốc cho mẹ như thể là cach cô bé thể hiện sự ngập ngừng không muốn tiến sâu hơn vào cuôc đối thoại. Elly dường như rất nhạy cảm với sự nguy hiểm của việc mẹ em nói chuyện riêng với nhà trị liệu bơi vì em lo sợ mẹ sẽ bị trầm cảm trơ lại. Do vậy, Elly có những ly do chính đang để ngập ngừng.

SỰ NGẬP NGỪNG VÀO LÚC KHỞI ĐẦU TRỊ LIỆU

Sự ngập ngừng thường được quan sat thấy, không chỉ trong qua trình đối thoại, mà còn ngay lúc mới bắt đầu cuôc gặp gỡ trị liệu, tức là khi thân chủ và nhà trị liệu gặp gỡ nhau lần đầu tiên: chẳng hạn như khi thân chủ đang ngồi đợi ơ phòng chờ, hoặc khi thân chủ bắt đầu ngồi đối diện với nhà trị liệu với sự chăm chú của nhà trị liệu đợi nghe câu chuyện của thân chủ. Khi ấy, thân chủ cảm nhận ra tính nhạy cảm của câu chuyện mà mình sắp nói ra và e ngại liệu bối cảnh đối thoại này có đủ an toàn hay không: Nhà trị liệu liệu sẽ hiểu được mình? Có cười mình không? Nhà trị liệu sẽ xem mình là điên rồ chăng? Hoặc liệu mình sẽ không thể kiểm soat được cảm xúc? Vân vân... Thân chủ hiếm khi nói thành lời những y nghĩ này, nhưng họ vẫn ngập ngừng, và sự ngập ngừng của thân chủ thường biểu hiện bằng những cach thức tế vi, không lời, khó thể nhận biết. Điều này được minh họa trong trường hợp Liza, cô gai 25 tuổi, đến trị liệu vì cô bị xâm hại khi còn nhỏ bơi chính người cha của mình.

NGHIÊN CỨU CA CỦA LIZA

Khi Liza bước vào phòng trị liệu vào đầu phiên trị liệu đầu tiên, tôi cảm nhận được môt sự băn khoăn mơ hồ. Sự băn khoăn ấy vẫn không hết sau đó. Trước tiên, tôi không thể chỉ ra được đó là điều gì (Nguyên văn: “I could not put my finger on it”). Tôi cũng tự hỏi liệu có điều gì không hay đang xảy ra? Tôi tự bảo mình hãy đặt tâm thế ra xa môt chút và chú tâm vào cuôc đối thoại bên trong của mình. Cai làm cho tôi cảm thấy băn khoăn không phải là nôi dung những điều Liza nói mà là cach thức cô ấy nói. Những câu trả lời của cô kha là ngắn gọn. Cô có vẻ rất căng thẳng.

Page 11: Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

Tôi cũng nhận thấy cô hay nhìn đi chỗ khac và tranh nhìn mắt tôi. Tôi thấy cô có vẻ kha bực bôi và điều đó khiến tôi cảm thấy cô ấy không tin tương tôi. Tôi cũng tự phản ảnh rằng, mặc dù chúng tôi mới gặp nhau lần đầu, cô ấy có vẻ đang tức giận đối với tôi. Có lẽ tôi đã nói điều gì đó khiến cô bị tổn thương hoặc cũng có thể vì môt ly do gì khac? Hoặc cũng có thể cô ấy chỉ căng thẳng như nhiều thân chủ khac khi mới bắt đầu bước vào trị liệu.

Tôi hỏi Liza rằng cô có cảm thấy căng thẳng hay không?Trước tiên, cô im lặng, nhưng sau đó cô nói rằng cô cảm thấy không dễ dàng gì khi đến trị liệu.“Cô có thể giúp tôi hiểu được y nói này của cô không?”, tôi hỏi.

Liza đap là cô đã suy nghĩ đến việc trị liệu từ rất lâu rồi, nhưng cô luôn luôn từ bỏ y định đó: “Ngay cả mới đây thôi, khi tôi ngồi ơ phòng chờ”, cô nói thêm.

Tôi lại yêu cầu cô nói thêm để có thể giúp tôi hiểu rõ cô. Và cô đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:

“Bố tôi đã xâm hại tôi khi tôi chỉ mới lên 4 hoặc 5 tuổi. Ông ta vào phòng tôi ban đêm lúc mọi người đã ngủ cả, và ông ấy đã cưỡng hiếp tôi. Sau đó, ông bảo tôi không nên kể việc này cho ai cả vì đó là bí mật riêng của chúng tôi, và nếu tôi kể ra thì ông sẽ phải vào tù. Vì thế tôi đã không kể điều này cho ai biết cả, nhưng những đêm sau đó, ông ấy lại vào phòng và cưỡng hiếp tôi. Môt đêm nọ, tôi bị tiểu dầm. Khi bố tôi đến và nhận thấy giường tôi ướt sũng, và ông gọi tôi là đứa con gai hư, dơ day, bẩn thỉu, nhưng ông không gần gũi tôi nữa. Và tôi đã tìm được cach để tự bảo vệ mình trước ông ấy. Từ đó trơ đi, mỗi đi tôi đều tiểu ướt cả giường của mình.

“Chẳng bao lâu sau, mẹ tôi phat hiện tôi bị tiểu dầm. Bà gọi và hỏi chuyện với môt bac sĩ, và ông ấy gửi chuyển tôi đến môt nhà trị liệu. Khi mẹ tôi nói chúng tôi sẽ đến gặp môt nhà trị liệu, tôi đã khấp khơi hy vọng. Có thể lúc đó tôi sẽ thoat khỏi nỗi đau đớn, sợ hãi và tủi nhuc. Tuy nhiên, trong phiên trị liệu đầu tiên, tôi nhận thấy rằng nhà trị liệu chỉ lo tìm kiếm cach giải quyết cho chuyện tiểu dầm của tôi thôi. Ông ấy dường như chẳng đoai hoài gì đến những mối quan hệ trong gia đình tôi, cũng không quan tâm đến việc tôi tiểu dầm như thế nào và tại sao tôi lại như thế. Tôi phải thừa nhận rằng cach làm đó cũng đã giúp tôi giảm nhẹ phần nào vì tôi rất sợ phải đối diện với bố tôi. Cùng lúc đó, tôi lại cảm thấy tức giận đối với nhà trị liệu, không chỉ bơi vì ông chẳng chú tâm đến chuyện gì khac ngoài chứng tiểu dầm của tôi, mà còn bơi vì ông ta chỉ lo tìm kiếm cach khắc phuc chứng tiểu dầm mà không nhận ra đây chính là cach duy nhất giúp tôi có thể đối phó với bố tôi.

“Vì vậy, tôi đã âm thầm pha hỏng những giải phap mà ông đã đề nghị. Và tôi cũng đã thề rằng mình sẽ chẳng bao giờ tin vào những nhà trị liệu môt lần nào nữa.”

Câu chuyện kể của Liza về những trải nghiệm thời thơ ấu của cô có thể cho chúng ta những bài học về tầm quan trọng của sự giao tiếp không lời (trong trường hợp này đó là triệu chứng của

Page 12: Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

Liza: chứng tiểu dầm) trong thực hành liệu phap gia đình. Nó cho thấy rằng những hành vi không lời của trẻ em thường “chạm đến” những câu chuyện không được nói đến trong gia đình. Hành vi không lời dường như là phương thức tốt nhất để “nói ra” những điều không thể nói thành lời, vì nói ra là điều bị cấm đoan và không an toàn (Griffith và Griffith, 1994). Sự thật là những dấu hiệu không lời của cô bé Liza đã không được nhà trị liệu xem xét môt cach nghiêm túc và ông ta cũng không hiểu những biểu hiện như thế, và đó cũng là điều gây thất vọng lớn lao cho cô bé. Ngoài ra, sự ngập ngừng của cô (lo sợ đối diện với cha), được thể hiện thông qua việc cô âm thầm pha hỏng kế hoạch chữa trị, cũng là môt việc không được nói ra. Cũng có thể khí đó, nhà trị liệu đã cảm thấy rằng cô bé là môt đứa trẻ khó khăn, hay phản khang.

Phiên trị liệu đầu tiên của nhà trị liệu với Liza (khi đã lớn) đã nêu lên tầm quan trọng của việc phải xem xét môt cach nghiêm túc những biểu hiện không lời của sự ngập ngừng mà thân chủ thể hiện vào lúc khơi sự trị liệu, bơi vì những biểu hiện ngập ngừng ấy thường có ngu y rằng đã có những câu chuyện riêng tư quan trọng mà trước đó chúng đã chưa được kể. Như trong trường hợp của Liza, sự ngập ngừng vào lúc khơi sự trị liệu thường có thể ngu y rằng có môt trải nghiệm không thoải mai, thậm chí là gây sang chấn, mà thân chủ có trước đó đối với việc trị liệu (Tilmans-Ostyn, 1999a). Những trải nghiệm tiêu cực đối với việc trị liệu có thể khiến cho thân chủ có thể cảm thấy mình trơ nên qua nhạy cảm và dễ bị tổn thương. Việc mơ ra không gian cho việc kể ra những câu chuyện như thế sẽ làm gia tăng thêm những cơ hôi để những cuôc gặp gỡ trị liệu sau đó trơ nên có tính hợp tac hơn và hữu ích hơn, không chỉ vì nó tạo ra cơ hôi cho nhà trị liệu thực hiện việc chăm sóc những khía cạnh nhạy cảm của thân chủ, mà còn vì nhà trị liệu có thể mơ ra không gian cho những điều mới mẻ hơn bằng cach bảo đảm rằng những trải nghiệm tiêu cực kia sẽ không tai diễn trong qua trình trị liệu mới mẻ này (Tilmans-Ostyn, 1999a). Việc kể ra được câu chuyện về những trải nghiệm tiêu cực như thế đôi khi cũng đủ khiến cho thân chủ đoan chắc rằng những trải nghiệm tương tự như thế sẽ không tai diễn trơ lại. Bằng cach kể ra câu chuyện ấy, tiến trình trị liệu mới lần này trơ nên khac biệt hơn so với lần trị liệu cũ trước đó, và những khoảng không gian sẽ được mơ ra cho những trải nghiệm mới.

Tuy nhiên, cũng có lúc, việc nói ra câu chuyện cũng chưa đủ để giúp thân chủ thoat khỏi những mối bận tâm với những trải nghiệm trong qua khứ. Trong những trường hợp như thế, nhà trị liệu có thể bàn bạc với những thành viên khac trong gia đình xem điều gì có thể bảo đảm cho họ sẽ không tai diễn những điều tồi tệ tương tự khi họ chấp nhận những nguy cơ khi dấn thân vào tiến trình trị liệu mới mẻ lần này. Như được minh họa trong ca lâm sàng tiếp theo sau đây, cuôc đối thoại để trả lời cho câu hỏi nàycó thể cho chúng ta những manh mối để tìm ra những thứ cần thiết để giúp cho thân chủ cảm thấy an toàn khi diễn ra cuôc đối thoại trị liệu.

CA LÂM SÀNG CỦA SAM VÀ VIỆC TUYẾN BỐ “LUẬT THỜI CHIẾN”

Môt gia đình đã đến trị liệu vì đứa con trai 12 tuổi tên Sam đã bỏ nhà ra đi. Khi cảnh sat tìm thấy cậu thì cậu đã quả quyết rằng mình đã bị bắt cóc. Cảnh sat không tin câu chuyện của cậu và gửi trả cậu trơ về với bố mẹ. Họ cũng đã liên lạc với nhà tâm ly học đường và người này đã nói

Page 13: Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

chuyện với Sam. Do bơi Sam nêu ra môt số vấn đề trong gia đình nên nhà tâm ly học đường đã chuyển gửi Sam và gia đình cậu đến với tôi.

Trong phiên trị liệu đầu tiên, Sam đã giữ im lặng. Cậu không muốn nói gì. Tôi hỏi xem cậu có cach nào để giúp tôi có thể hiểu được sự im lặng của cậu. Sam nhìn bố rồi tiếp tuc im lặng. Tôi nói: “Sam, chú không chắc lắm, nhưng chú có ấn tượng rằng chau không muốn nói chuyện. Thế cũng được. Chau không cần phải nói gì.”

Tôi ngừng môt chút rồi nói tiếp: “Chú sẽ kể cho chau nghe môt câu chuyện ngắn. Đây, hãy nhìn con rùa này. [Tôi cho cậu thấy môt con rùa đồ chơi] Bất cứ khi nào rùa cảm thấy không an toàn, rùa sẽ thu rút đầu và chân mình vào trong chiếc mai. [Tôi cũng cho cậu xem cach thức rùa thu rút đầu và chân] Bằng cach đó, con rùa không thể bị tổn thương. Đó cũng là cach môt con rùa tự bảo vệ mình tranh bị tổn thương. Trẻ con thì không có chiếc mai như rùa. Chau có biết trẻ con sẽ tự bảo vệ mình như thế nào khi cảm thấy không an toàn không? Trẻ con sẽ im lặng và chờ đợi cho đến khi mọi chuyện trôi qua. Chúng sẽ không nói gì cả. Vì vậy, khi chau cứ giữ im lặng như thế, chú đang tự hỏi liệu rằng chau có đang cảm thấy không an toàn? Chú cũng đang thắc mắc liệu rằng trước đây, chau đã từng có môt trải nghiệm không tốt khi nói ra môt điều gì đó?”

Sam lại nhìn bố và nhìn sang cả mẹ. Tôi có ấn tượng rằng Sam đang chú tâm đến loại câu hỏi này. Rồi Sam đang làm đông tac lấy hơi như thể cậu chuẩn bị nói ra điều gì đó, nhưng tôi ngăn lại: “Không, đợi đã. Chau đừng trả lời chú. Chau chỉ nên trả lời khi cảm thấy đủ an toàn thôi.”

Sam gật đầu. Rồi cậu cho biết cậu đã cảm thấy an toàn khi nói chuyện với nhà tâm ly học đường, nhưng lúc này, với sự hiện diện của bố mẹ, cậu thấy không muốn nói. Chúng tôi nói về sự khac biệt giữa việc nói chuyện khi gặp riêng với nhà trị liệu và nói chuyện khi có mặt bố mẹ trong phiên trị liệu gia đình. Rồi câu chuyện nhanh chóng làm rõ ra môt điều rằng Sam lo ngại rằng nếu bố mẹ nói chuyện thì bố cậu có thể trơ nên trầm cảm trơ lại. Bố mẹ cậu cho hay bố đã từng phải nhập viện vài lần để điều trị chứng trầm cảm nghiêm trọng. Người bố nói rằng ông cảm thấy căng thẳng khi đến gặp nhà trị liệu vì ông e ngại việc nói chuyện có thể kích hoạt chứng trầm cảm trơ lại. Ông giải thích: “Tôi đã đi trị liệu, nhưng tôi càng nói thì tôi lại cảm thấy mình trầm cảm nhiều hơn, vì thế tôi đã không trơ lại trị liệu nữa”.

Tôi hỏi họ liệu có điều gì bảo đảm rằng môt chuyện tương tự sẽ không xảy ra tại đây, trong cuôc đối gia đình như thế này? Sam nói: “Miễn tất cả chúng ta thận trọng để có thể phat hiện thấy những dấu hiệu đầu tiên của trầm cảm”“Theo dõi những dấu hiệu cảnh bao à?”, tôi hỏi.Sam gật đầu.Rồi tôi nói: “Dấu hiệu bao đông chứng trầm cảm xuất hiện trơ lại nơi bố chau là dấu hiệu gì?”

Page 14: Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

Sam và bố mẹ cậu cho biết đó là “không muốn thức dậy vào buổi sang”, “luôn cảm thấy mệt mỏi”, “ít nói chuyện với hai mẹ con”, “ít nói về bản thân môt cach tích cực”, “không còn thích đọc bao”, “không thích cùng bạn bè đi câu ca nữa”, “hay thơ dài”, “uống rượu nhiều”...

Tôi ghi chú những dấu hiệu này. Tôi đề nghị có môt thang điểm để đanh gia cac dấu hiệu cảnh bao này. Vào đầu mỗi phiên trị liệu, từng thành viên gia đình sẽ cho điểm vào mỗi tiết muc trên đây theo cac mức đô từ 1 (không có bao đông gì cả) cho đến 10 (mức bao đông đỏ). Rồi tôi bàn với họ về mức đô nào mà từ đó có thể bắt đầu cảnh bao (từ mức 6 trơ lên), chúng tôi nên phản ứng như thế nào và chúng tôi nên làm gì khi đó...

Sam nhấn mạnh: “Chúng ta sẽ tuyên bố luật thời chiến” Mọi người cười ồ lên.

Chúng tôi chuyển sang nói về “luật thời chiến” có nghĩa là gì trong gia đình này và rồi họ quyết định rằng với “luật thời chiến” thì tất cả cac phiên trị liệu phải đừng qua cảm xúc và đừng qua “đi sâu”, người bố phải liên hệ với bac sĩ tâm thần để xem xét có dùng thuốc hay không, người bố cũng phải nói với mẹ về điều gì đã làm ông phiền muôn, rồi ông cũng sẽ phải suy nghĩ về những khía cạnh tích cực của bản thân cũng như hoàn cảnh xung quanh ông và bàn bạc những điều ấy với gia đình mình.

Sau phiên trị liệu ấy, tôi đã thực hiện môt bản hợp đồng quy định rõ những thỏa thuận mà chúng tôi đã đạt được. Được sự đồng y của người bố, tôi cũng tiếp xúc với vị bac sĩ tâm thần của ông để giải thích chúng tôi sẽ làm gì trong cac phiên trị liệu gia đình. Vào phiên trị liệu kế tiếp, mỗi người được phat cho môt bản sao của hợp đồng này và môt bản sao của thang đanh gia để ghi điểm. Thủ tuc này tạo điều kiện cho việc nói chuyện trơ nên an toàn hơn đối với gia đình này. Nó cũng giúp cho nhà trị liệu thiết lập được môt mối quan hệ trị liệu có tính hợp tac với gia đình ấy. Trong suốt qua trình trị liệu, thang đo đanh gia đã được ghi điểm và ngưỡng bao đông chưa bao giờ được đạt đến.

KẾT LUẬN

Trong bài viết này, tôi chủ trương rằng đôi khi sẽ rất hữu ích nếu ta xem những phat biểu không lời của thân chủ như là biểu hiện của sự ngập ngừng không dam nói chuyện và có thể sử dung những phat biểu không lời này, theo cach nghĩ của Tom Andersen (1995), như là điểm khơi đầu cho môt cuôc đối thoại đầy tính trân trọng đối với gia đình thân chủ. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhấn mạnh ơ đây là tôi không đề nghị nhà trị liệu nói ra những linh cảm hoặc suy đoan của mình về những câu chuyện chưa được kể của thân chủ. Trai lại, tôi đề nghị rằng nhà trị liệu nên có thai đô rất trân trọng đối với câu chuyện chưa được kể ấy và cuôc đối thoại nên chú trọng đến sự ngập ngừng và cac ly do chính đanh khiến thân chủ không thể nói ra. Cach tiếp cận trị liệu có tính dè dặt và chân thành tôn trọng như thế thường sẽ giúp tạo nên môt bối cảnh an toàn để thân

Page 15: Một số giả thuyết về sự ngập ngừng và các biểu hiện không lời trong thực hành liệu pháp gia đình

chủ có thể nói ra những câu chuyện mà họ xem là nhạy cảm. Ngoài ra, cach đó cũng giúp nhà trị liệu thiết lập được môt mối quan hệ trị liệu có tính hợp tac với gia đình.

Để kết luận, điều quan trọng cần thừa nhận ơ đây là, mặc dù tôi đã giả thuyết rằng thân chủ thường thể hiện sự ngập ngừng thông qua cac cach thức không lời, nhưng không phải tất cả cac biểu hiện ngập ngừng đều ơ dạng không lời. Đối khi, thân chủ chỉ nói rằng “Tôi không chắc mình muốn nói về chuyện này bơi vì...”. Tuy thế, những thể hiện ngập ngừng bằng lời như thế cũng thường được bao trước bơi những dấu hiệu không lời. Trẻ em thường là những người sử dung cach thức không lời để thể hiện sự ngập ngừng này bơi vì trẻ em thường “tắm mình trong bầu khí cảm xúc của gia đình mình” (Tilmans-Ostyn, 1999b: 90) và việc này tạo cơ hôi cho nhà trị liệu có thể mời gọi trẻ em làm “cố vấn” cho mình trong khi thực hiện cuôc đối thoại trị liệu (Andolfi, 1995). Đứa trẻ ngập ngừng và phat cac tín hiệu không lời bao đông cac mối nguy hiểm có thể có và nhà trị liệu có thể sử dung cac dấu hiệu không lời của đứa trẻ như điểm khơi đầu để đối thoại đi xa hơn, không phải về chủ đề mối nguy hiểm, mà là về sự ngập ngừng và cac ly do chính đang khiến cac thành viên gia đình không nói ra câu chuyện.

Chính thân chủ mới là “chuyên gia” chứ không phải nhà trị liệu và câu chuyện của thân chủ nên được xem là có tầm quan trọng trung tâm. Tuy nhiên, môt phần câu chuyện của thân chủ được kể bằng cach thức không lời nên nếu không chú y đầy đủ cac biểu hiện không lời của cac thành viên gia đình thì nhà trị liệu có thể bỏ qua những câu chuyện quan trọng không được kể. Việc lắng nghe môt cach chân thành câu chuyện của thân chủ có nghĩa là lắng nghe với sự hiện diện đồng thời của cả những gì được nói ra lẫn những gì được thể hiện bằng cach thức không lời cùng với sự ảnh hương qua lại giữa hai kiểu thể hiện đó. Bằng cach ấy, những biểu hiện không lời có thể trơ thành môt canh cửa để mơ ra việc kham pha, tiếp cận cac tầng sâu phức tạp trong sự hiểu biết và trải nghiệm của cac thành viên gia đình, và có lẽ quan trọng hơn, nó giúp thiết lập môt mối quan hệ trị liệu có tính hợp tac giữa gia đình và nhà trị liệu.