Upload
doankhuong
View
254
Download
17
Embed Size (px)
Citation preview
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
Đồng Chủ biên:
GS.VS. Phạm Minh Hạc
PGS.TS. Lê Đức Phúc
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng
đến phát triển nguồn lực con người, coi đó là yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững. Để tạo được nguồn nhân lực, đáp
ứng những đòi hỏi ngày càng cao trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương (khoá VIII) Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã nêu yêu cầu xây dựng năm đức tính của
con người Việt Nam trong giai đoạn mới. Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp
hành Trung ương (khoá IX) nhấn mạnh “Nâng cao chất lượng, hiệu quả
nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam theo năm đức tính được xác định
trong Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII)… Đẩy mạnh giáo dục về chủ nghĩa
xã hội, bồi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, tạo chuyển biến rõ
rệt về bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống năng lực, trí tuệ người Việt Nam…”
Nhằm cung cấp cho bạn đọc tài liệu nghiên cứu và tham khảo về vấn
đề nhân cách con người, góp phần quán triệt sau hơn Nghị quyết Trung ương
5 (khoá VIII) và Nghị quyết Trung ương 10 (khoá IX), Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia xuất bản cuốn sách “Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách” do GS.
VS. Phạm Minh Hạc và PGS. TS. Lê Đức Phúc chủ biên.
Cuốn sách gồm một số bài viết đi sâu phân tích vấn đề nhân cách dưới
góc độ tâm lý học, các khía cạnh lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu nhân
cách con người; cách tiếp cận và phương pháp luận nghiên cứu nhân cách;
các mặt chủ yếu trong cấu trúc nhân cách như: nhu cầu, động cơ, thái độ, ý
thức, v.v…, trên cơ sở đó xây dựng mô hình nhân cách con người Việt Nam
thời kỳ mới, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc
Tháng 8 năm 2004
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
LỜI NÓI ĐẦU
Thế kỷ XXI đang mở ra những triển vọng to lớn đối với việc tiếp tục đổi
mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Sự nghiệp đó đòi hỏi phải “phát triển văn hoá, con người và nguồn nhân lực
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Đây cũng là tên Chương trình
khoa học – công nghiệp cấp nhà nước 2001 – 2005, mã số KX05, trong đó có
đề tài KX05-07 với tiêu đề: “Xây dựng con người Việt Nam theo định hướng
xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc
tế”
Một trong những nhiệm vụ của đề tại này là nghiên cứu sự phát triển
nhân cách con người Việt Nam đáp ứng những yêu cầu thời đại.
Trong thời gian đầu, nhóm nghiên cứu đã xác định những cơ sở lý luận
và phương pháp luận, tạo sự định hướng thống nhất cho quá trình thực hiện.
Cuốn sách này bao gồm những bài viết của nhiều tác giả về nhân cách,
được bàn xét chủ yếu từ góc độ tâm lý học và chia thành ba phần cơ bản: Lý
luận, phương pháp luận và phương pháp. Mong rằng những nội dung đã trình
bày ở đây sẽ được độc giả quan tâm và góp ý với sự thông cảm về những
thiếu sót của chúng tôi.
Hà nội, tháng 5 năm 2004
CÁC TÁC GIẢ
Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
A. NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI VÀ NHÂN CÁCH CON NGƯỜI
GS.VS. PHẠM MINH HẠC
I. Về khái niệm con người, cá thể và cá nhân
Con người với tư cách là tột đỉnh tiến hoá của thế giới sinh vật, và tiếp
tục phát triển thành cá thể, cá nhân và nhân cách. Khi con người là đại diện
của loài ta gọi là cá thể. Với tư cách là thành viên xã hội ta gọi nó là cá nhân
như là một thực thể độc lập, và khi nó có đủ khả năng để trở thành chủ thể
của hoạt động học tập, lao động, vui chơi, con người trở thành nhân cách.
Nội hàm của bốn khái niệm này thật ra có phần đan xen lẫn nhau,
chồng lấn lên nhau. Cách phân biệt các nội hàm vừa trình bày ở đây là một
cách, tất nhiên là rất tương đối. Theo đó, nhiều khi người ta nói "cá thể người”
là thành phần của loài người đã bứt ra khỏi loài vật vừa chứa đựng thành tựu
tiến hoá của thế giới vật chất, nhất là của thế giới sinh vật, tức là vẫn chịu sự
chi phối của các thế giới đó, vừa thoát ra ngoài vòng cương tỏa của các thế
giới đó, tức là đứng ngoài sự chi phối của các thế giới đó: vừa chịu tác động
của các quy luật trong vũ trụ (luật "trường"...) vừa chịu tác động của các quy
luật sinh vật, vừa bắt đầu chịu tác động của các quy luật xã hội.
Tiến lên một bước nữa trong thang phát triển ta có "cá nhân người":
một thành viên của xã hội, kẻ mang tổng hòa các quan hệ xã hội, vừa chịu
ảnh hưởng của chúng, vừa góp phần tạo ra chúng. Từ đây sự tồn tại và phát
triển của con người sau khi cơ thể, nhất là não bộ đã định hình xong ở tuổi
thiếu niên (13-14 tuổi), và đến tuổi thanh niên (trên dưới 20 tuổi) chủ yếu diễn
ra ở ngoài cơ thể, theo quy luật xã hội, hay nói chính xác hơn, theo quy luật
xã hội - lịch sử hay lịch sử - văn hoá. Và bậc thang tiếp theo, cũng là bậc
thang cao nhất, là “nhân cách người" - chủ thể của hoạt động, đưa tính cá thể
lên trình độ khá hoàn chỉnh, tính cá nhân (cá tính) lên trình độ mới với nét đặc
trưng là con người phân biệt được khách thể và chủ thể: phân biệt được tồn
tại ở ngoài tác động vào ta, tác động ở trong ta vào ta, phân biệt khi nào bản
thân ta là chủ thể, khi nào bản thân ta là khách thể. Mác và Ăngghen trong
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đã nhấn mạnh đến cá tính con người.
Anhstanh cũng đã khẳng định: "Đôi khi người ta coi nhà trường chỉ là công cụ
chuyển giao phần lớn kiến thức đến thế hệ trẻ. Nhưng sự thật không phải như
vậy. Tri thức thì khô cằn, còn nhà trường thì phải phục vụ cuộc sống sinh
động. Nhà trường phải phát triển ở cá thể các phẩm chất và năng lực có giá
trị cho cuộc sống xã hội. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là phá hủy các
cá nhân hay các cá nhân trở thành các công cụ đơn thuần của cộng đồng,
như những bầy ong, đàn bứớm. Một cộng đồng toàn những cá thể đồng loạt
giống nhau, không có độc đáo cá nhân và mục đích cá nhân - thì sẽ là một
cộng đồng nghèo, không có khả năng phát triển. Ngược lại, nhà trường phải
có mục tiêu là đào tạo ra những cá thể suy nghĩ và hành động độc lập -
những người này coi việc phục vụ xã hội là có ý nghĩa sống còn của mọi
người". Và, như đã trình bày ở trên khi nói về hoạt động, con người với tư
cách là "nhân cách người" đặt ra được mục đích của hoạt động, có động cơ
(động lực nội tại) và biết vận hành các điều kiện khách quan để tạo ra thao
tác, hành động và từng hoạt động cụ thể và cả dòng hoạt động (dòng đời) để
đạt từng mục đích cụ “thể" đến mục đích bộ phận và cuối cùng là mục đích
của cuộc đời (đường đời, cuộc sống, lý tưởng), thể hiện một lối sống, một
nhân sinh quan, một thế giới quan. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã mong muốn mỗi cá nhân con người phải có tính
độc lập, có cá tính.
Khái niệm người, con người hết sức phức tạp, nhiều khi người ta gọi là
"tồn lại người” - một tồn tại mang các đặc điểm của con người, loài người, xã
hội. Có khi người ta gọi con người là một hệ thống tích hợp mang cả đặc
điểm của vũ trụ, giới sinh học, xã hội, sinh lý, tâm lý, chứa đựng tất cả các
cấp độ (hình thức) phản ánh: cơ học, sinh học, xã hội, tâm lý. Đến đây ta tiếp
cận vấn đề cấu trúc người.
Cấu trúc người, cấu trúc nhân cách là vấn đề rất phức tạp, rất khó, phải
dày công nghiên cứu. Cấu trúc con người bao gồm cả cấu trúc nhân cách,
không chỉ ở trong con người mà còn nằm ở ngoài con người. Điều này phù
hợp với quan niệm của Mác: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hỏa các mối quan hệ xã hội". Đây là tinh thần cốt lõi của
phương pháp tiếp cận lịch sử - xã hại, hoạt động - nhân cách đối với việc
nghiên cứu con người. Chúng ta có thể tiếp thu các quan niệm trên, đặt toàn
bộ cấu trúc người trong mối quan hệ giữa bản thân với bản thân, và một loạt
quan hệ khác mình và người khác, bản thân với xã hội, với tự nhiên và với vũ
trụ, v.v.. Trước mắt, chúng ta tập trung vào vấn đề con người và xã hội.
Chẳng hạn như giải quyết như thế nào mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi
ích tập thể, lợi ích nhà nước phù hợp với cơ sở khoa học của nó để sử dụng
con người với tư cách là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội
Nghiên cứu cấu trúc người nói chung, cấu trúc tâm lý, cấu trúc nhân
cách nói riêng, phải đề cập một loạt cặp phạm trù sau đây
Đi theo các khái niệm này, các cặp phạm trù này là các quan niệm khác
nhau về cấu trúc của con người như thể xác – tâm hồn. Còn tâm linh là gì?
Có cái gọi là tâm linh không? Trong tiếng Việt ta bắt gặp “ba hồn, bảy vía”,
“hồn xiêu phách lạc”, v.v… Có phải đây là các đại lượng trong cấu trúc con
người không? Trong đó, khái niệm con người là khái niệm công cụ trung tâm
của chương trình nghiên cứu con người, vì vậy đề tài phương pháp luận và
các đề tài khác phải quan tâm thích đáng đến khái niệm này. Chắc chắn
chúng ta phải thảo luận nhiều lần, ở đây dừng lại nói thêm một cách khái
quán về khái niệm cực kỳ phong phú này. Từ xa xưa cho đến bây giờ vẫn còn
tồn tại một cách hiểu con người như là một tồn tại thần bí. Có lúc người ta lại
coi con người như là cây sậy biết nói. Hiểu như vậy thì chỉ thấy (hoặc nhấn
mạnh) khả năng nói dường như quyết định cuộc đời. Có khi lại thấy không
hiểu nổi chính mình, nên có giả định rằng hình như trong mỗi người trần mắt
thịt mà ta trông thấy lại có một con người bé xíu - con người tâm linh, mắt ta
không thấy, con người "tí hon" này điều khiển con người thể xác kia. Theo
cách nhìn này, con người mà ta thấy được chỉ là một thân xác giống như
muôn loài trên trái đất. Còn cái phần khó hiểu kia thuộc về con người "tí hon”
vô hình đầy ma lực, và do đó đầy bí ẩn. Nhưng cứ quan sát kỹ, suy ngẫm
sâu, điểm qua các thành tựu triết học, tâm lý học. v.v. dần dần thấy ra chẳng
làm gì có con người "tí hon” trong con người thân xác, mọi thứ do con người
làm ra cũng từ con người thân xác này cả. Nhưng thân xác con người, nhìn
nột cách kinh nghiệm chủ nghĩa, đâu có khác gì mấy so với các loại động vật
bậc cao, cũng phải ăn, uống, sinh đẻ, sống chết. Thế là người ta đưa ra lý
thuyết "con người bản năng", con người là một tồn tại sinh vật, hoặc có người
cho con người từ lúc hình thành tế bào trứng đến lúc 2 tuổi là tồn tại sinh vật,
và theo đây mọi sự sống của con người, mọi thứ do con người làm ra đều bắt
nguồn từ bản năng. Đúng là con người có bản năng, nhưng bản năng ở
người khác nhiều, khác về chất so với bản năng của động vật. Quan sát hàng
ngày về cách ăn, cách ở, cách bảo tồn và phát triển loài, v v; cũng đủ giúp
chúng ta hiểu ra một chân lý triết học như Ph.Ăngghen đã chỉ ra, bản năng
của con người đã được ý thức hóa. Thật khó chó thể chấp nhận cái lý thuyết
"con người bản năng" được.
Trong thời đại văn minh cổ đại, ta đã thấy vai trò của công cụ lao động
quyết định sự tiến bộ của loài người nên có lúc người ta đưa ra khái niệm
"con người kỹ thuật” để chỉ tồn tại sống có đặc trưng là biết sử dụng công cụ
lao động. Khi xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, có thể chế xã hội, và
con người sống trong vòng cương toả của các thể chế xã hội thì xã hội nào
cũng có chính tri của nó, từ đó nảy sinh lý thuyết "con người chính trị", mọi
ứng xử của con người đều có tính chất chính trị. Lý thuyết này gần với lý
thuyết "con người xã hội" - con người là tồn tại xã hội.
Các lý thuyết trên: "con người bản năng”, "con người kỹ thuật", "con
người chính trị", "con người xã hội"... đều nói lên một tiêu chí cực kỳ quan
trọng của con người. Nói tổng quát hơn, bản chất con người không phải là cái
gì có sẵn, hay là cái gì nhất thành bất biến, mà bản chất con người là cái gì
đó được hình thành nên hay bộc lộ ra trong cuộc sống của nó. Trong cuộc
sống bằng hoạt động của bản thân, con người mới chịu tác động của các
quan hệ xã hội và nhờ đó con người hội nhập vào các quan hệ đó, góp phần
củng cố, phát triển các quan hệ đó. Toàn bộ tồn tại khách quan xung quanh
con người tác động vào con người thông qua các quan hệ xã hội (quan hệ
sản xuất, quan hệ chính trị, quan hệ giai cấp, quan hệ cộng đồng, quan hệ
nhóm. v.v.), hoặc dưới hình thức của các quan hệ xã hội mà tác động vào con
người. Ngược lại, con người có tác động trở lại vào tồn tại khách quan (môi
trường tự nhiên, môi trường sinh sống, gia đình, các quan hệ, thể chế xã hội,
v.v.). Con người bao giờ cũng cùng với những người khác (nhóm, cộng đồng,
giai cấp, dân tộc, v.v.) lao động, học tập vui chơi, đấu tranh, xây dựng. Chính
trong quá trình học tập, lao động... đó con người thiết lập nên các mối quan
hệ xã hội.
Có một số nhà nghiên cứu lo ngại quá nhấn mạnh tính xã hội trong con
người thì coi nhẹ phần thể xác. Hay nói như trong tiếng Việt: nặng về -phần
"Người", nhẹ về phần "Con". Họ đưa ra quan niệm coi con người là tồn tại
sinh vật - xã hội (có người coi đứa trẻ sơ sinh đến lúc 2 tuổi là tồn tại sinh vật,
và sau 2 tuổi là tồn tại xã hội). Thật ra, quan niệm này không khác gì lắm so
với quan niệm coi con người như là "Cây gậy biết nói". Mới nghe tưởng như
đó là một quan niệm phù hợp với thực tế khách quan: con người có thể xác
và có tâm hồn, có bản năng và có ý thức, có vật chất và có tinh thần... Nhưng
thử hỏi con người có "xác" mà không "hồn” thì đâu còn là con người! ở con
người bình thường, cuộc sống bản năng cũng đã được ý thức hoá, ở con
người không bình trường, tức là con người bệnh hoạn, con người sa đọa, con
người của bộ máy phát xít, diệt chủng là những con người trở lại với thú tính,
đâu còn cơ chế "ý thức hoá".
Gần đây, có một số tác giả lại đưa ra quan niệm con người như là “cái
máy có suy nghĩ", “cái máy biết lựa chọn", "cái máy biết yêu đương", các
rôbốt. Đúng là trong hoạt đồng thần kinh của con người cũng như trong cuộc
sống của con người có cơ chế tự điều chỉnh, tự thích nghi, sáng tạo... hết sức
hoàn thiện mà không có một máy nào sánh kịp, tuy có khoa học phỏng sinh
dựa vào cơ thể một số động vật và người lập mô hình sáng tạo ra máy móc.
Người ta sáng chế ra máy tính, vi xử lý, máy đánh cờ, máy làm thơ... Có thể
một số thao tác hay công việc nào đó trong cuộc sống hàng ngày được
chương trình hóa đến khi rất hợp lý thì thành thói quen tốt, làm cho cuộc sống
thoải mái, nhẹ nhàng, ít tốn năng lượng mà hiệu quả lại cao. Nhưng con
người vẫn là con người, không phải là cái máy.
Theo quan niệm của chúng tôi, con người, kể cả trẻ em, là chủ thể của
hoạt động. Con người có muốn nhớ thì mới nhớ, con người suy nghĩ, con
người tiếp thu... Mỗi người là chủ thể của hoạt động, hoạt động lao động,
hoạt động vui chơi, hoạt động học tập...và khi ấy con người có nhân cách. Ví
dụ, khi trẻ chơi thì rõ: đúng là trẻ miệt mài, say sưa, có thể nói dường như
quên hết mọi thứ, tức là nó là chủ thể của hoạt động vui chơi, cốt được chơi.
Người lao động cũng vậy, bình thường họ làm một cách nghiêm túc, có trách
nhiệm, có lương tâm và nhắm tới sản phẩm mà lao động phải đạt tới theo quy
trình sản xuất, được xã hội chấp nhận, trân trọng, đánh giá cao, nói tóm lại,
theo thang giá trị của nhóm người, cộng đồng hay xã hội. Như vậy, mỗi người
phải tự (có thể có sự giúp đỡ của người khác! Chẳng hạn như thầy giáo,
người cùng nhóm trong một quy trình sản xuất, v v) tiến hành hoạt động trong
các mối quan hệ xã hội, theo các thể chế xã hội, luật pháp nhà nước, từ nhà
trường, gia đình đến quy định của nơi sản xuất, vui chơi.. Nói con người là
chủ thể của hoạt động là khẳng định các cấp độ, con người thể xác, con
người tâm hồn, tâm lý, tâm linh, con người ý thức, con người sinh vật xã hội -
văn hóa... Đồng thời toàn bộ sự tồn tại người ở các cấp độ ấy cũng vận động
trong sự phát triển nhân cách.
II. Khái niệm nhân cách
Tâm lý học nhân cách giữ vị trí trung tâm của cả hệ thống khoa học về
con người, vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn. Đối với mọi lĩnh
vực liên quan đến yếu tố người, từ công tác chính trị, kinh tế, quản lý, tổ
chức, đến giáo dục, y tế...
Hơn nửa thế kỷ qua, nhờ vận dụng sáng tạo lý luận duy vật biện chứng
về hoạt động của con người vào nghiên cứu thế giới tâm lý, cùng với các
khoa học khác, như triết học, xã hội học, đạo đức học, tâm lý học đã góp
phần làm sáng tỏ một số vấn đề xung quanh nhân cách, như vấn đề bản chất
tâm lý của nhân cách, cấu trúc nhân cách, các con đường hình thành nhân
cách.
Chúng ta khẳng định nhân cách có bản chất xã hội - lịch sử, nghĩa là
nội dung của nhân cách từng con người là nội dung của những điều kiện lịch
sử cụ thể trong xã hội cụ thể chuyển vào thành đặc điểm nhân cách của từng
người. Ví dụ, các công trình nghiên cứu tâm lý học sinh phổ thông ở Việt Nam
cho thấy, do sớm tham gia lao động, có đóng góp thật sự vào cuộc sống gia
đình mà trẻ em ta sớm biết lo toan công việc hàng ngày của gia đình, tinh
thần trách nhiệm trong nhân cách hình thành. Đồng thời cũng cho thấy phong
thái "sản xuất nhỏ” trọng học sinh chúng ta, vì các em sống và lớn lên trong
các quan hệ của nền sản xuất nhỏ. Nhân cách được hình thành và phát triển
bằng và trong hoạt động của con người: hoạt động là bản thể của nhân cách.
Thế giới tâm lý bao gồm các qua trình nhận thức và tình cảm, ghi nhớ
và chú ý, tính khí và tâm trạng, lời nói và việc làm. Nhưng chừng nào những
hiện tượng tâm lý ấy có thái độ riêng trở thành thuộc tính của chủ thể, chừng
đó mới có thể nói tới nhân cách của chủ thể ấy. Chẳng hạn, nhìn màu sắc
đến mức tinh nhạy, ở đâu có màu sắc là có sự thích thú nhận xét, và cao hơn
nữa, biết "chơi" màu, sáng tạo màu, như vậy là từ tri giác đến hình thành các
thuộc tính nhân cách trong hoạt động nghệ thuật tạo hình. Các thái độ riêng
trở thành thuộc tính riêng – những nét độc đáo này hợp lại thành bộ mặt tâm
lý, thành nhân cách của từng người. Tóm lại, nhân cách là tổ hợp các thái độ,
thuộc tính riêng trong quan hệ hành động của từng người với thế giới tự
nhiên, thế giới đồ vật do loài người sáng tạo, với xã hội và với bản thân. Các
thái độ và thuộc tính ấy chứa đựng ý nghĩa xã hội của nhân cách. Theo cách
tiếp cận hoạt động – giá trị, nhân cách tạo nên giá trị xã hội của hoạt động.
Giá trị ấy được đánh giá (đo đạc) bằng độ trùng hợp (hay độ xa cách) giữa
thang giá trị và thước đo giá trị của chủ thể và của xã hội (nhóm, cộng
đồng…). Từ các công trình nghiên cứu con người (1991-1995), chúng tôi đi
đến định nghĩa nhân cách như sau: Nhân cách của con người là hệ thống các
thái độ của mỗi người thể hiện ở mức độ phù hợp giữa thang giá trị và thước
đo giá trị của người ấy với thang giá trị và thước đo giá trị của cộng đồng và
xã hội; độ phù hợp càng cao nhân cách càng lớn.
Nhân cách các danh nhân như nhân cách Nguyễn Trãi, nhân cách Hồ
Chí Minh, … là mẫu hình nhân cách lý tưởng của thời đại; khi độ phù hợp đó
phát triển theo chiều âm (-), tức là ngược chiều với thang giá trị và thước đo
giá trị của cộng đồng và xã hội, thì khi ấy là tình trạng suy thoái nhân cách. Độ
phù hợp đó nói lên mối quan hệ giữa con người và cộng đồng, xã hội. Lucien
Seve, nhà triết học Pháp, đã định nghĩa: “Nhân cách là hệ thống hoàn chỉnh
các quan hệ xã hội giữa các hành vi ứng xử”
Định nghĩa của chúng tôi rút ra từ các công trình nghiên cứu nhân học,
tâm lý học, giáo dục học tiến hành trong thập kỷ vừa qua, và mặt khác, định
nghĩa này đã và đang có tác dụng chỉ đạo một số công trình nghiên cứu nhân
cách người ở nước ta.
Cấu trúc nhân cách
Nói cấu trúc nhân cách là nói tới các thành tố của nhân cách tạo thành
một hệ thống có một cấu tạo trung tâm (còn gọi là hạt nhân của nhân cách) và
hệ thống quan hệ giữa các thành tố. Các thành tố của nhân cách được xây
dựng nên từ tổ hợp các tính chất của kiểu loại thần kinh, các quá trình nhận
thức, các thái độ xúc cảm, tình cảm và hành động… Ví dụ, khả năng nhận
định nhạy bén, sâu sắc khi giải quyết vấn đề của cuộc sống hay khi tư duy lý
luận, hứng thú nghề nghiệp, tính linh hoạt trong cách đi, cách nói, cách nghĩ,
cách làm, lối sống và quan niệm về thế giới, tinh thần sẵn sàng đem năng lực
của mình góp phần cải tiến, biến đổi, cải tạo xây dựng xã hội... tạo nên một
nhân cách có độ phù hợp cao trong thang giá trị và thước đo giá trị của người
mang nhân cách đó và của xã hội, cộng đồng.
Tất cả các thái độ riêng ấy đều gắn bó với động cơ chung của cả cuộc
sống, cũng như với động cơ cụ thể trong từng hoạt động ở mỗi người. Động
cơ là hạt nhân của nhân cách. Động cơ có thể là sự thích thú, ham mê, ước
mơ, sự khích lệ, điều kiện bảo đảm cuộc sống, phần thưởng, lợi ích, sự đánh
giá, v.v.. Trong đó, động cơ cao nhất là lý tưởng của cuộc đời như: một hình
ảnh đẹp, một chân lý khoa học, một chuẩn đạo đức, một sự nghiệp. Bằng
hoạt động, những điều đó trở thành nhu cầu của cuộc sống ở từng người.
Một động cơ có thể có nhiều mức. Lấy động cơ học tập của học sinh
làm ví dụ. Đi học có thể vì: 1 - Theo bạn mà đi; 2 - Sợ bi Phạt; 3 - Học để có
tri thức, để tìm chân lý; v.v.. tương tự như vậy, cuộc sống là một chuỗi hoạt
động theo nhiều động cơ nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau. Có các
động cơ nhằm thoả mãn các nhu cầu tinh thần, như nhu cầu nhận thức, nhu
cầu tình cảm, nhu cầu giao lưu, v.v. là đặc trưng nổi bật của con người, tạo
nên một nhân cách đẹp, tích cực.
Có thể có nhiều cách để tìm hiểu xem một người có hệ thống động cơ
nào, động cơ nào là động cơ chính. Nhân cách là mối quan hệ giữa các hệ
thống động cơ quy định sự phù hợp trong thang giá trị thước đo giá trị và định
hướng giá trị của người mang nhân cách đó với cộng đồng và xã hội. So
sánh học sinh ngoan và học sinh chậm tiến, như các công trình nghiên cứu ở
Việt Nam cho biết, thấy rõ một bên, trẻ vươn tới những gì thuộc xu thế tiến bộ
của xã hội, còn bên kia, trong quá trình suy thoái nhân cách ngày càng lao
vào chỗ trở thành nô lệ các nhu cầu bản năng.
Hình thành và phát triển nhân cách
Cùng với nhân học, tâm lý học khẳng định rằng, từ khi có loài người, sự
phát triển tâm lý, trí tuệ, nhân cách chủ yếu tuân theo quy luật, lĩnh hội đi sản
văn hóa vật chất và tinh thần, do các thế hệ trước để lại trong công cụ lao
động, công trình kiến trúc, tác phẩm văn học; khoa học, v.v. Tất nhiều, mỗi
người phải có thân thể mới có tâm hồn; tâm lý từng người phải có cơ sở vật
chất là hoạt động thần kinh trung ương. Nhưng nếu người sinh ra không ở với
loài người mà ở với sói - như trường hợp xảy ra với hai em bé Ấn Độ, chỉ đi
bằng hai chân, hai tay, không biết nói, không biết cười, không biết ăn theo
kiểu người, không có thói quen và nhu cầu mặc quần áo... thì không có một
nét nào của nhân cách con người.
Như vậy, con người vốn sinh ra chưa có nhân cách. Nhân cách là cấu
tạo mới do từng người tự hình thành nên và phát triển trong quá trình sống -
giao tiếp, học tập lao động, vui chơi, v.v.. Nhân cách không có sẵn bằng cách
bộc lộ dần dần các xung đột bản năng nguyên thuy mà một lúc nào đó đã bị
kiềm chế, chèn ép. Bằng các hoạt động xã hội, con người ngay từ khi còn nhỏ
đã dần dần lĩnh hội nội dung loài người chứa đựng trong các mối quan hệ xã
hội có liên quan tới các hoạt động của trẻ. Phương pháp giáo dục có hiệu quả
là tổ chức cho trẻ hoạt động lĩnh hội các nội dung đó mà hình thành nhân
cách, chứ không phải là tạo ra các biện pháp cho phù hợp với mức độ trưởng
thành của trẻ.
Nói theo Lênin, cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lý, đạo
đức của xã hội mà nó là thành viên. Nhân cách của con người hình thành và
phát triển theo con đường từ bên ngoài vào nội tâm, từ các quan hệ với thế
giới tự nhiên, với thế giới do vật do các thế hệ trước và bản thân tạo ra, các
quan hệ xã hội mà nó gắn bó.
Toàn bộ công tác giáo dục của chúng ta nhằm xây dựng toàn diện nhân
cách của con người Việt Nam sống và làm việc trong thời đại đổi mới. Đó là
nhân cách của người lao động sáng tạo, năng động, có tay nghề, có tâm
hồn... chứ không phải con người sống cốt cân bằng với ngoại giới hay chỉ
thích nghi với xã hội. Nhân cách hình thành và phát triển bằng các hoạt động,
trong đó có một hoạt động có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách là hoạt động giao tiếp, vì tất cả các mối quan hệ có ở
con người, quan hệ người – vật, quan hệ người - máy... đều gắn bó bằng
cách này hay cách khác với quan hệ người - người. Nhất là trong thời đại
thông tin, kinh tế tri thức, các quan hệ giao tiếp người - người càng trở nên có
ý nghĩa hơn bao giờ hết. Có tổ chức được các mối quan hệ giao lưu tốt mới
hy vọng có được nhân cách tốt. Điều đặc biệt quan trọng ở đây là người được
giáo dục có hoà nhập với các mối quan hệ đó hay không. Môi trường giáo dục
nhải được hiểu như là hệ thống các mối quan hệ giao lưu và sự hoà nhập
này. Theo ý nghĩa đó, có gia đình tốt chưa chắc đã có môi trường giáo dục
tốt. Sống trong gia đình, đi học ở nhà trường, sinh hoạt trong đoàn thể và kể
cả trong trường hợp ba tổ chức này có kết hợp với nhau, chưa chắc đã có
môi trường giáo dục tốt.. Vấn đề là ở chỗ từng tổ chức này, cũng như sự kết
hợp của ba tổ chức này có thật sự thu hút được các em vào “luồng” giáo duc
mà chúng ta mong muốn không. Nghiên cứu trẻ em chậm tiến vốn sinh ra và
lớn lên trong gia đình nền nếp, tiến bộ, có nhiều điều kiện cho con cái ăn học,
có các quan hệ xã hội phong phú, tốt đẹp đã cho chúng tôi thấy rõ như vậy.
III. Giáo dục nhân cách theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhân cách là một vấn đề hết sức lớn đối với giáo dục, giáo dục nhân
cách là vấn đề trung tâm. Xét đến cùng, toàn bộ công việc của giáo dục là
góp phần phát triển con người, hình thành nhân cách, phát triển nhân cách.
Giáo dục tạo điều kiện cho mỗi em học sinh được phát triển tối ưu nhân
cách của mình mang đậm tính dân tộc, tính xã hội, tính cộng đồng, gắn bó với
gia đình, nhưng lại là một nhân cách riêng. Đó là mục tiêu của nền giáo dục.
Trong lịch sử, nhân cách con người đã nhiều lần bị hoà tan vào cộng
đồng, thậm chí trong xã hội tư bản chủ nghĩa thì nhân cách đã bị tha hóa.
Nhân cách chính là bộ mặt tâm lý của mỗi con người cụ thể. Nhân cách là hệ
thống các thái độ của con người. Mỗi người phải có một bộ mặt tâm lý riêng,
bao gồm các thái độ riêng của từng người. Tâm lý của mỗi người đương
nhiên là phản ánh các đặc điểm tự nhiên, đặc điểm xã hội... Trong xã hội
chúng ta, diện mạo tâm lý riêng của một người phải nổi bật lên một nhân cách
công dân.
Nói cách khác, chúng ta xây dựng nhân cách của con người vừa có
đạo lý, vừa có nhân lý, vừa có công lý – một công dân có đặc điểm nhân cách
riêng của mình là mục tiêu của các nhà giáo dục. Cho nên, người ta nêu rõ
rằng, giáo dục tương lai là làm cho mỗi người đúng là một con người ở trong
xã hội, vấn đề cá tính rất quan trọng.
Trong công táo giáo dục, nhiều khi chúng ta đã làm cho học sinh mất cá
tính. Ai có nét gì khác người là thành vấn đề. Con người phải có cá tính,
nhưng cá tính đó không thể thoát ly khỏi xã hội. Do đó phải tập trung làm nổi
lên con người công dân. Khó có hy vọng xây dựng được một mẫu chung cho
tất cả mọi người. Mỗi người là một mẫu của chính mình, nhưng phải tuân
theo định hướng chung của xã hội, của cộng đồng, có những nét cá tính rất rõ
rệt, có bộ mặt tâm lý rất riêng biệt; có hệ thống thái độ đúng đắn với mình và
với xung quanh; đồng thời phải hết sức nhấn mạnh tính tích cực xã hội, đóng
góp cho xã hội.
Suy nghĩ về các tác phẩm của chủ tịch Hồ Chí Minh và về cuộc đời
hoạt động của Người, chúng ta thấy Bác là một tấm gương vĩ đại, sống và
chiến đấu để trở thành người và làm người, trở thành một nhân cách lớn. Bác
đã nêu cao tư tưởng: Nhiệm vụ của giáo dục trước hết là dạy học sinh, thế hệ
trẻ, các chiến sĩ, các sĩ quan thành người và làm người. Hệ tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng như toàn bộ đời hoạt động của Người đều có xuất phát điểm đầu
tiên là từ lòng thương yêu con người, đặc biệt thương yêu người nghèo khổ,
lầm than, nô lệ, gắn liền với sự tủi nhục trước cảnh "nước mất, nhà tan", với
lòng yêu nước nồng nàn. Hệ tư tưởng Hồ Chí Minh thấm đượm lòng nhân ái,
chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn. Và cả cuộc đời Người, từ hành vi đối xử
thường ngày với người xung quanh đến công việt lãnh đạo nhà nước, hoạt
động quốc tế, ở mọi nơi, mọi lúc đều toát lên tinh thần nhân văn, nhân tạo,
nhân ái vô cùng sâu xa và hết sức bình dị, gần gũi với mọi người, cảm hoá
được mọi người, mang lại một tác dụng to lớn cho cách mạng, cho dân tộc và
cho cả loài người. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh được thế giới tôn vinh là anh
hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa, người chiến sĩ và nhà lãnh đạo
lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân. Tên tuổi Hồ Chí
Minh gắn liền với sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng dân tộc, giải
phóng giải cấp.
Nhân cách Hồ Chí Minh là nhân cách Việt Nam tiêu biểu, được hun đúc
trong hệ thống giá trị truyền thống của mấy nghìn năm lịch sử hùng tráng,
quật cường, bất khuất, hy sinh và chịu đựng của dân tộc Việt Nam và xu thế
tự giải phóng của loài người. Nhân cách ấy đã có ảnh hưởng to lớn đến sự
hình thành và phát triển nhân cách ngày nay ở nước ta. Tinh thần Hồ Chí
Minh, nhân cách Hồ Chí Minh tạo ra sức mạnh tâm lý kỳ diệu. Hồ Chí Minh đã
và đang góp phần tạo ra diện mạo tâm lý hoàn toàn mới mẻ của cả mấy thế
hệ, suy rộng hơn, của cả một dân tộc, một thời đại. Chính đó là sức mạnh
giúp chúng ta giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và biết bao thành
tích kỳ vĩ khác.
Diện mạo tâm lý ấy chính là nhân cách với các hệ thống thái độ mang
một chất lượng mới, khác hẳn trước đó:
Thái độ với đất nước: "Tận trung với nước, tận hiếu với dân".
Thái độ đối với giá trị con người: "Ai giữ được đạo đức đều là người
cao thượng".
Thái độ đối với lao động: "Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn
sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Thái độ với bản thân: luôn luôn có tinh thần phê bình và tự phê bình;
"ham học, ham làm, ham tiến bộ"...
Nói về tư cách người cách mạng, trong tác phẩm Đường Kách mệnh,
Người viết:
Tự mình phải
Cần kiệm
Hoàa mà không tư,
Qủa quyết sửa lỗi mình
Cẩn thận mà không nhút nhát
Hay hỏi
Nhẫn nại (chịu khó)
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị công vong tư.
Không hiếu danh, không kiêu ngạo
Nói thì phải làm
Giữ chữ nghĩa cho vững
Hy sinh.
Ít lòng ham muốn về vật chất..
Bí mật
Đối người phải:
Với từng người thì khoan thứ.
Với đoàn thể thì nghiêm.
Có lòng bày vẽ cho người.
Trực mà không táo bạo.
Hay xem xét người.
Làm việc phải:
Xem xét hoàn cảnh kỹ càng.
Quyết đoán.
Dũng cảm
Phục tùng đoàn thể".
Trước đây, trong chương trình các môn học có cấu tạo chung là tri
thức, kỹ năng và thái độ. Ngày nay, các nhà nghiên cứu giáo dục trên thế giới
đề nghị xếp sắp lại cấu tạo đó theo trình tự ưu tiên: thái độ, tri thức, kỹ năng.
Vấn đề đang đặt ra hiện nay là, trong cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khi quy luật giá trị tác động
rõ rệt ở khắp mọi nơi, thang giá trị đang có biến đổi mạnh, kéo theo những
biến động mạnh trong nhân cách, trong hệ thống thái độ, chúng ta phải tiến
hành tác động vào định hướng giá trị của xã hội, giáo dục giá trị và định
hướng giá trị cho học sinh, cho thế hệ trẻ. Vấn đề là phải tạo ra một thang giá
trị lành mạnh, thước đo giá trị hợp lý, phát huy tính tích cực có lợi cho xã hội
và từng cá thể, tính năng động của cả cộng đồng và xã hội, giải phóng mọi
sức sáng tạo, mọi lực lượng sản xuất, tạo ra năng suất lao động cao ở mọi
lĩnh vực của đời sống, nâng cao hiệu quả của tất cả các hoạt động của mọi
người.
Giáo dục nhân cách là cốt lõi của công việc giáo dục cho thế hệ trẻ và
toàn xã hội cũng như giáo dục của từng cá thể. Giáo đục nhân cách là cốt lõi
của sự hình thành và phát triển con người: giáo dục là dạy và học làm người.
Con người, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, có cấu trúc nhân cách là đức và tài,
trong đó đức là nền tảng. Thành tố tài có tiểu cấu trúc là các năng lực. Thành
tố đức có các tiểu cấu trúc cơ bản là cần, kiệm, liêm, chính.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta hãy cùng nhau
một lần nữa làm cho nhân cách Hồ Chí Minh - nhân cách tiêu biểu Việt Nam
và tư tưởng tâm lý học nhân cách và giáo dục nhận cách của Người trở thành
hạt nhân trong thang giá trị của xã hội ta, định hướng giá trị cho mọi người,
phát huy các giá trị truyền thống dân tộc, tạo thành một sức mạnh mới, ý chí
mới.
Chúng ta hãy hết lòng, hết sức giáo dục con em thành người và làm
người với những đức tính:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn,
lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có tinh thần tích cực đóng góp cho xã hội, đoàn kết, phấn đấu vì lợi
ích chung. “...”
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống, văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước cộng đồng; có ý thức
bảo vệ và cải thiện môi trưởng sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình
độ thẩm mỹ và thể lực.
B. VỀ NHÂN CÁCH VÀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
PGS. TS. LÊ ĐỨC PHÚC
Từ trước tới nay, nhân cách với tư cách là hiện tượng tâm lý và xã hội
đã được nhiều người nghiên cứu trên những lĩnh vực khác nhau. Giới tâm lý
học ở Việt Nam cũng thường bàn về vấn đề này, ví dụ như: Nguyễn Ngọc
Bích, Phạm Hoàng Gia, Phạm Minh Hạc, Trần Hiệp, Hoàng Xuân Hinh, Đặng
Xuân Hoài, Bùi Văn Huệ, Đỗ Long, Nguyễn Đức Minh, Trần Trọng Thuỷ,
Nguyễn Quang Uẩn... Bên cạnh những bước tiến đáng ghi nhận, chúng ta có
thể thấy vẫn còn nhiều điều cần được tiếp tục làm sáng tỏ, nhất là khi nghiên
cứu theo yêu cầu và trong những điều kiện mới ở nước ta. Tuy nhiên, do đây
là một đề tài lớn, đang có nhiều nhóm chuyên gia khác nhau cùng thực hiện,
nên chúng tôi chỉ trình bày quan niệm về lý luận và phương pháp, góp phần
tạo ra sự định hướng hành động cụ thể, thống nhất.
1. Lý luận về nhân cách
Trước hết, hai câu hỏi cần được giải đáp là "Lý luận là gì?" và "Nên lựa
chọn lý luận như thế nào?".
Trong tiếng Việt, giới ngôn ngữ học định nghĩa “lý luận” là: “Hệ thống
những tư tưởng được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo
thực tiễn”. Còn theo M.H. Marxn, đó là những ý kiến nói về những mối quan
hệ giữa các quy luật, được gắn kết lôgic với nhau theo các quy tắc diễn dịch
nhất định và trật tự nào đó. Tôi lựa chọn hai trong nhiều định nghĩa khác nhau
đó để muốn chứng minh rằng: a) Lý luận còn được hiểu không giống nhau; và
b) Nếu không xuất phát từ nhận thức luận (là chủ yếu) thì khó phát hiện được
cái đúng hoặc cái sai, cái chưa tường minh trong từng định nghĩa. Cụ thể,
trong định nghĩa thứ nhất, hệ thống những tư tưởng phải phản ánh được các
quy luật và kinh nghiệm thực tiễn, bao hàm cả kết quả thực nghiêm khoa học.
Trong khi đó, định nghĩa thứ hai vừa không phù hợp với tâm lý học như tác
gỉa khẳng định trong ấn phẩm đã dẫn, vừa bỏ qua mối quan hệ với thực tiễn.
Vì thế, chúng ta có thể cho rằng lý luận là một hệ thống những tư tưởng phản
ánh các quy luật và những mối quan hệ giữa các quy luật, được khái quát từ
kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu khoa học, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn.
Việc đánh giá và lựa chọn lý luận diễn ra theo quan niệm và hình thức
khác nhau mà nhiều nhà nghiên cứu đã tổng kết như: theo trực giác, dựa vào
uy tín hoặc đa số, so sánh với những lý luận khác, v.v.. Tuy nhiên, rốt cuộc và
trên bình diện khoa học, người ta cũng đã đưa ra một số tiêu chí sau đây:
1. Tính nhất quán bên trong (internal consistency);
2. Tính nhất quán bên ngoài (external consistency);
3. Khả năng kiểm nghiệm (testability); và
4. Khả năng giải thích (explanatory power).
Trước khi xem xét vấn đề nghiên cứu hiện nay, chúng ta hãy điểm qua
một số quan điểm lý luận và thực tiễn khác nhau.
2. Khát quát lịch sử nghiên cứu nhân cách
Trong cuốn “Chủ nghĩa Mác và lý luận về nhân cách", ngay trong
những câu mở đầu chương IV, Lucien Seve có dẫn một câu của P.Janet như
sau: "Liệu con người đến một ngày nào đó có tạo rạ được những tiến bộ
tương tự trong thời gian như đã tạo ra được trong không gian hay không?.
Câu hỏi ấy thiết tưởng cũng có thể được nêu lại sau nhiều thập niên khi xem
xét tinh hình nghiên cứu, phát triển tâm lý học nhân cách ở nước ngoài. Song,
tự bản thân nó, việc giải quyết nhiệm vụ này là vô cùng phức tạp, khó khăn.
Theo nhận thức luận, vấn đề đầu tiên liên quan đến sự tồn tại (hay
không) của một khoa học bất kỳ là đối tượng hay phạm vi đối tượng của nó.
Đã có một thời, như L. Canestrelli thốt lên: “Nhân cách là một cấu tạo tinh
thần của chúng ta”, nhiều người cho rằng những vấn đề định nghĩa của tâm lý
học nhân cách dường như không chỉ là chưa được giải quyết mà còn là
không thể giải quyết nổi. Như thế, sự quan tâm đến nhân cách trước hết là ở
chỗ này.
Theo dòng lịch sử và loại trừ tâm lý học tư biện, người ta phải coi năm
1879, khi W.Wundt thành lập phòng thực nghiệm tâm lý học đầu tiên trên thế
giới, là cái mốc của sự phát triển tâm lý học hướng theo tinh thần khoa học.
Tuy nhiên, về nhân cách, W.Wundt và các học trò của ông đã đi theo cách
thức của thực nghiệm khoa học tự nhiên. Nhân cách mất đi sự thống nhất và
bị chia thành những bộ phận riêng lẻ thoát ly khỏi những điều kiện, hoàn cảnh
sống cụ thể, đa dạng của nó.
Khoảng hai thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, nhiều nhà tâm lý học, trên
cơ sở những tiến bộ mới trong tâm lý học, đã phê phán tâm lý học thực
nghiệm truyền thống và xác định những phương hướng mới. Thoạt tiên, đó là
sự khẳng định vấn đề nhân cách con người phải là trọng tâm của tâm lý học
và nhấn mạnh tính toàn vẹn, mối quan hệ đa dạng của nhân cách. Tuy nhiên,
đó mới chỉ là tuyên ngôn, còn trong thực tế, tâm lý học vẫn chưa có khả năng
bước hẳn qua được nhịp cầu trở ngại đó mà điển hình nhất là tâm lý học sai
biệt.
Những quan niệm của tâm lý học sai biệt khi nghiên cứu các quá trình
tâm lý chịu ảnh hưởng của tâm lý học thực nghiệm đại cương và đại diện của
nó là F.Galton với tác phẩm "Về những năng lực của người (1883) cũng như
W.Stern với công trình "Tâm lý học sai biệt và những cơ sở phương pháp của
nó" (1921). H.D.Schmidt đã tóm tắt nội dung tinh thần của xu hướng này như
sau:
- Tâm lý học sai biệt không phải là tâm lý học thực sự về cá tính mà chỉ
nghiên cứu những sự khác nhau chủ yếu của các chức năng và thuộc tính
tâm lý, do đó là cầu nối giữa tâm lý học đại cương với việc tìm hiểu các cá
tính về tâm lý học;
- Những sự khác biệt trong mỗi chức năng được quy về những hình
thức cơ bản. những “kiểu” nào đó hoặc được xem xét theo một thang bậc
lượng hoá chúng;
- Các đặc điểm của những chức năng riêng rẽ được nghiên cứu trong
“tương quan" tạo nên nguyên tắc tổng hợp chủ yếu nhất của tâm lý học sai
biệt;
- Tâm lý học sai biệt đã phát triển những phương pháp mà W.Stern giải
thích bằng sơ đồ cơ bản sau:
Theo W. Stern, tâm lý học phải được xây dựng trên cơ sở của thuyết
nhân cách coi đối tượng của nó là cá nhân, một chính thể sống động, cá thể,
độc đáo. Nhân cách chỉ là "cá tính toàn vẹn” ("Totale Individualitaet").
Tâm lý học sai biệt góp phần đáng kể vào sự phát triển phương pháp
luận và phương pháp trong việc so sánh đặc điểm, tương quan (ví dụ, trí
thông minh và điểm học ở nhà trường) của (hoặc giữa) cá nhân, nhóm được
nghiên cứu. Ảnh hưởng của nó còn lan rộng cho đến ngày nay. Tuy nhiên,
tâm lý học không coi đối tượng chủ yếu của mình là sự khác biệt tâm lý mà là
chính bản thân cái tâm lý. Mặt khác, so sánh chỉ là bước đi sau những quá
trình khác trong nghiên cứu. Và cuối cùng, không thể chỉ dùng loại chuẩn
trung bình thu được từ một tập hợp (population- dù manh tính đại diện) mà
không tính đến yêu cầu hoạt động thực tế.
Song, trong một thời gian dài, nhân cách lại được hiểu như là toàn bộ
các mặt bẩm sinh quy định hành vi diễn ra theo một phương thức nhất định
nào đó. Trước hết cần điểm lại những xu hướng sinh vật hoá, chú ý nhiều
đến đặc điểm hình thể, thể tạng hay giải phẫu - sinh lý, kiểu loại thần kinh,v.v..
Có lẽ cũng vì thế, Ernst Kretschmer đã chia các nhà khoa học thành hai
nhóm: phần lớn các nhà triết học, thần học, luật học thuộc loại gày gò, mảnh
khảnh, trong khi đó, đa số bác sĩ, các nhà thực nhiệm khoa học tự nhiên lại
thuộc loại béo. W.H.Scheldon cũng quan niệm rằng giữa đặc điểm cấu tạo cơ
thể (tương đối không phụ thuộc vào giới tính) và những đặc điểm trong phạm
vi thuộc tính tâm lý có mối quan hệ với nhau. Ví dụ:
Các thành phần cấu tạo cơ thể
Các thành phần tâm lý
Kretschmer
Leptosom (mảnh mai, dáng
mảnh khảnh)
Pycinc (béo, mập mạp)
Athletisch (lực lưỡng)
Nhạy cảm, hướng nội, căng thẳng giữa cái
tôi – môi trường, tự kỷ, kỷ luật, kín đáo…
Hồ hởi, hướng ngoại, sẵn sàng, vị tha, vui
tính, hào phóng, thích kết bạn, thích nghi với
hiện thực…
Chậm chạp, tập trung, chung thuỷ, dễ nổi
giận, ít nói, cứng nhắc…
Scheldon
Ectomorphic (dong dỏng cao,
mảnh dẻ)
Endomorphic (to béo)
Mesomorphic (vạm vỡ, thể
tạng trung bình)
Nhạy cảm, rụt rè, kín đáo hướng nội, tò mò,
ham hiểu biết dễ gợi dục tình…
Dễ chịu, hướng ngoại, khoan dung, cởi mở,
thích kết bạn…
Tích cực, hung hăng, ít nhạy cảm, cứng
nhắc, chung thuỷ, thiếu thận trong…
C.Lombroo, người đại diện cho cái gọi là trường phái Italia, thường giải
thích các hiện tượng xã hội bằng các yếu tố sinh học cũng đã từng bị G.Tarde
phê phán vì lẽ đó.
Theo xu hướng này và chịu ảnh hưởng của thuyết phản xạ có điều kiện
(Bechteren, Paplov), chủ nghĩa hành vi nổi lên như một trường phái tâm lý có
ảnh hưởng nhất vào đầu thế kỷ XX với Watson, người sáng lập và các đại
diện của nó là G.M.Mead, E.L.Thorndiker, E.C.Tolman, C.L. Hull, K.S.Lashley,
E.R.Guthrie. Có thể coi tuyên bố “tâm lý học là khoa học về hành vi” của
Wastson là cương lĩnh của phái này. Hành vi được hiểu như những cả động
đáp lại của cơ thể đối với kích thích của môi trường. Như X.L.Rubinstein phê
phán, đây quả là một thứ “tâm lý học phi tâm lý”.
Vấn đề chủ yếu ở đây còn là trong tâm lý học hành vi, người ta đã hoặc
phủ nhận ý thức với tư cách là đối tượng của sự nhận thức khoa lọc
(Watson), hoặc quy ý thức vào các quá trình sinh lý (Lashley). Sở dĩ như vậy
vì, như Watson tự giải thích, tâm lý học hành vi ra đời trực tiếp từ những công
trình nghiên cứu về hành vi của động vật. X.L. Rubinstein nhận xét rất đúng
là: "Việc quy các hình thức cao cấp của hoạt động con người vào một tổng số
máy móc hay một tập hợp các phản ứng cơ bản, những phản xạ dẫn đến chỗ
làm mất đi tính độc đáo về chất của nó".
Khi đề cập những vấn đề cơ sở nhận thức luận của tâm lý học tri giác,
N.Bischof chia chủ nghĩa hành vi thành ba nhóm:
a) Chủ nghĩa hành vi dung tục (vulgar) coi hành vi là đối tượng nhận
thức, phủ nhận cái tâm lý. Do đó, việc nghiên cứu nhân cách theo Watson chỉ
là nghiên cứu hệ thống các thói quen tạo thành nhân cách;
b) Chủ nghĩa hành vi phương pháp luận (methodological) cũng xuất
phát từ hành vi, coi đó là đối tượng nhận thức. Chủ nghĩa này, không loại trừ
sự tồn tại của các hiện tượng tâm lý nhưng lại cho rằng không thể nào hiểu
biết chúng một cách khoa học. Với công thức R-f (S), trong đó R là hành vi và
S là kích thích nhân cách, đối với Skinner, chỉ là một thực thể hoàn toàn được
điều chỉnh từ bên ngoài;
c) Chủ nghĩa hành vi lôgic, hiện là một trường phái nổi bật, cũng quan
niệm hành vi là đối tượng khởi đầu nhưng không nhìn nhận các hiện tượng
quan sát thấy và đo được là biểu hiện của tâm lý dù tồn tại thực tế, khách
quan.
K.Holzkamp, một đại diện của tâm lý học phê phán, cũng như A.
Kossakowski đều phê phán bệnh quy rút về hai mặt đó. Nếu con người chẳng
khác gì cơ thể động vật thì cái xã hội đã bị quy thành cái sinh học. F.Klix nhận
xét cả chủ nghĩa hành vi mới cũng chỉ là một sự mở rộng chủ nghĩa hành vi
ban đầu, chưa khắc phục được phương hướng sai lầm về phương pháp luận
khi giải thích các hiện tượng và quy luật tâm lý.
Các nhóm khác nhau của chủ nghĩa hành vi nói trên có ảnh hưởng
không ít đối với cả những nhà tâm lý học có tên tuổi. Eysenok thể hiện rõ màu
sắc của chủ nghĩa hành vi lôgic với công thức "S - O – R”: Cattell, Guilford
đều coi hành vi là tâm điểm của tâm lý học nhân cách, thậm chí Cattell còn
gọi tâm lý học của ông là "tâm lý học hành vi” và các khái niệm có liên quan
tới ý thức như "hứng thú” hay “tức giận” đều phải được định nghĩa bởi biểu
hiện của chúng trong hành vi hay sinh lý.
Chủ nghĩa nhân cách (Personalism) gắn liền với tên tuổi của W.Stern
(1871 - 1938), người muốn tạo ra sự tổng hợp giữa những thành tựu thực
nghiệm và khoa học tinh thần trong tâm lý học, đã coi nhân cách là hội điểm
của yếu từ bên trong (di quyền) và yếu tố bên ngoài (môi trường). Do đó, chủ
nghĩa nhân cách còn được gọi là thuyết hội tụ (Konvergenztheorie), được
minh họa trong một mô hình cơ học, máy móc
Theo tinh thần của nó, môi trường chỉ có ý nghĩa bổ sung và là sự tiếp
tục của cái di truyền. Màu sắc nội sinh (endogenese) cũng không mấth khi về
sau, nó được thay thế, cải tiến bằng một công thức khác: di truyền x môi
trường.
Trong tâm lý học theo chủ nghĩa nhân cách, “cá nhân” trở thành một
khái niệm trừu tượng, siêu hình, tách khỏi nhân cách mang tính lịch sử, cụ thể
của con người. Cá nhân không chỉ được xem như con người xã hội mà còn là
cơ thể, tế bào, các vật thể vô cơ và thậm chí là nhân dân, thế giới, chúa trời.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rõ những đóng góp của W.Stern khi chủ
nghĩa nhân cách muốn khắc phục mặt yếu kém của chủ nghĩa hành vi, một
thứ tâm lý học phi linh hồn để tạo nên “một khoa học về cá nhân trải nghiệm
và có khả năng trải nghiệm”
Nhân học văn hoá (Culturanthropology), một xu hướng nghiên cứu phát
triển chủ yếu ở Mỹ. Xu hướng này được nhắc tới ở đây vì những quan niệm
đề cao khái niệm “văn hoá” của R.Benedict, B.Malinowski, nhất là của M.
Mead. Ngay từ những năm 1940, R.Linton đã phê phán sự xa rời bản chất và
vai trò của con người. Và sau này, ngay cả G.Allport, nhất là A.N.Leonchiev
trong cuốn Hoạt dộng – Ý thức – Nhân cách còn chỉ rõ các nhà tâm lý học
nghiên cứu cá thể với tư cách là nhân cách, trong khi đó, văn hoá chỉ là đối
tượng của sử học và xã hội học. C.N. Cornilov và cả L.Seve cũng thường
được coi là những người đại diện cho trường phái xã hội hoá này. Trong tác
phẩm đã dẫn, L.Seve coi "nhân cách là hệ thống sinh động của những quan
hệ xã hội giữa các phương thức hành vi, nhấn mạnh đó là "cơ sở chung, đầy
đủ nhất để xem xét những mặt cơ bản khác nhau của đời sống cá nhân".
Dựa theo những số liệu của dân tộc học, nhân học văn hoá đã đi đến
một kết luận phản tâm lý, sai lầm rằng các đặc điểm tâm lý cơ bản được quy
định bởi văn hoá chứ không phải bởi bản chất con người (A.N.Lêonchiev).
Mối quan hệ giữa "văn hoá" và "cá nhân đã có lúc được trình bày đơn giản
như sau: Sự phát triển cá nhân được quy định bởi những thói quen chăm sóc
thời thơ ấu của cha mẹ. Những thói quen đó được xem như “những thiết chế
cơ sở", được điều chỉnh bởi những chuẩn mực nhất định phản ánh cả những
điều kiện kinh tế. Nhưng những điều kiện kinh tế chỉ là những khả năng có thể
tác động tới những thói quen như vậy. Và có những yếu tố quyết định của
giáo dục cũng trở nên mờ nhạt trong vai trò “chuẩn bị" cho sự phát triển của
"nhân cách cơ sở” (Basic personality).
Trong những năm gần đây, sự so sánh giữa các nền văn hoá được
tăng cường do bản thân tầm quan trọng của vấn đề, nhưng mặt khác còn do
sự mở cửa của các quốc gia, sự xuất hiện không ít những vấn đề mang tính
toàn cầu. Chẳng hạn, nhiều người trong Câu lạc bộ Mensa, một tổ chức quốc
tế hiện có trên 100.000 người ở trên 100 nước, khi nghiên cứu về trí thông
minh đã kết luận: trí thông minh do văn hoá quy định. Ở nước này, đặc điểm
nổi trội có thể là tư duy phaant ích, ở nước khác lại là tư duy liên tưởng, v.v..
Song, như J.Mathes viết: "Sai lầm tư duy gây nên tình trạng tiến thoái
lưỡng nan là do quan niệm cho các nền văn hoá là những thực thể có những
đặc điểm độc đáo và con người không phải là cái gì khác hơn là những người
mang những đặc điểm văn hoá đó”.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, tâm lý học nhân cách ở
các nước phương Tây cố gắng vượt qua những sai lầm, hạn chế trong quan
điểm lý luận – phương pháp luận và cách làm của mình. Tuy nhiên, chỉ căn
cứ vào những cuộc thảo luận và một số công trình xuất bản trong những năm
1960 và 1970, ta cũng có thể thấy rõ sự hình thành của hai xu hướng đối lập
cơ bản. Nói như H. Keuhn và K.Junghaenel, đó là xu hướng mô tả cái riêng
biệt, độc đáo, độc nhất vô nhị trong nhân cách và xu hướng đi tìm các quy
luật.
Xu hướng thứ nhất trở nên phổ biến đặc biệt ở Mỹ, Đức và Pháp, song
cũng có ảnh hưởng ngày càng nhiều ở Bỉ, Ôxtrâylia, Hà Lan, Thuỵ Sĩ, Italia,
Áo, Tây Ban Nha, Nhật Bản, thậm chí cả Nam Mỹ. Những đại diện có uy tín
nhất là Thomas, Lersch, Arnold (Đức), Allport, Ch.Buhler, Maslow, Rogers,
May (Mỹ), Nuttin (Bỉ)
Stanford, Rogers Và Maslow coi đây là "lực lượng thứ ba", là tâm lý học
nhân văn và đi theo thuyết hiện tượng - hiện sinh. Roger còn nhận xét đây là
“dòng thống trị” có những tác động quan trọng đối với tâm lý học hiện đại
Lý luận nhân cách của Thomae thường được đánh giá là kinh điển đối
với những ai học và nghiên cứu tâm lý học ở Đức và tại nhiều nước khác.
Theo ông, đối tượng nghiên cứu nhân cách là cá nhân độc đáo và thế giới trải
nghiệm của nó. Thomae coi nhân cách là khái niệm bao hàm tất cả các sự
kiện hợp thành một tiểu sử cá nhân, còn bản chất của con người, của nhân
cách và cá tính là những phương thức phản ứng độc đáo vốn có tự phát ở cá
nhân đối với một trải nghiệm mà ông đánh đồng một cách sai lầm với cuộc
sống hay sự tồn tại thực dụng nhất. Như vậy, Thomae đã quy rút bản chất
thực sự của con người thành một hình ảnh chủ quan mà nhũng cơ sở khách
quan của nó đã được tạo lập trong mỗi cả nhân. Nhân cách là "cá nhân và
phản ứng độc đáo của nó” và cá tính là "bí mật của tất cả mọi sự tồn tại”.
Tương tự như Thomae, Lersch đề cao "sự biểu hiện cá nhân của mỗi
người”. Arnold xây dựng quan niệm về nhân cách dựa trên triết học: “Nhân
cách là một tồn tại cá nhân nhất định, độc nhất vô nhị, không thể phân chia,
được đặc trưng bởi sự thể hiện tính cách do tư chất và môi trường tạo ra”.
Ông giải thích thêm: “Nhân cách thể hiện mối quan hệ siêu việt của con
người” và cho rằng nhân cách xuất hiện khi một người hướng theo các lý
tưởng nhân văn trái với đám đông quần chúng chỉ là các “cá nhân” và hướng
theo chủ nghĩa vật chất. Có thể nói, Arnold đã đại diện cho cả thuyết nội sinh
và tinh hoa bảo thủ.
Nuttin đem lại cho xu hướng chung một màu sắc mới khi định nghĩa cá
nhân là “một chỉnh thể cấu trúc hoá của những ý kiến, niềm tin, thái độ, định
kiến, sự ưa thích, thiện cảm và kinh nghiệm”. Đối với Nuttin, thế giới khách
quan tồn tại trước hết với tư cách là “thế giới cá nhân”. Sự phát triển nhân
cách diễn ra bởi các lực lượng ngẫu nhiên bên trong mỗi cá nhân. Còn về sự
phát triển cá tính, Nuttin chia thành hai bậc: a) “Cá tính sinh học của sinh vật”
và b) “Cá tính tâm lý xã hội”. Tầng bậc thứ ba nằm ở trên đó là “tầng bậc
nhân cách”. Sự phân tầng như thế dẫn đến chỗ tách biệt các cấp độ phát sinh
trong tổ chức tâm lý – sinh lý của nhân cách.
Ch.Buehler, nữ đại diện chủ yếu của tâm lý học nhân văn, xác định bản
chất con người là “một cái gì sâu thẳm ở bên trong, không thể nào định nghĩa
được”, “cái tự thân” – “hệ trung tâm luôn luôn có trong phôi thai ngay từ lúc
bắt đầu cuộc sống cá nhân”, điều khiển các giá trị của cá nhân. Nhân cách
của một cá nhân được xem xét qua sự độc đáo đó. Bà chia ra bốn xu hướng
cơ bản của nhân cách: thoả mãn nhu cầu, thích nghi tự giới hạn, bản thân
bộc lộ sáng tạo, duy trì trật tự nội tại. Đó là sự mở rộng mô hình của Freud.
Rõ ràng, nhân cách và con gười ở đây là một cái gì trừu tượng chứ không
phải là con người thực trong những điều kiện xã hội. Còn cội nguồn của tâm
lý trở thành kẻ tích cực tạo ra sự tồn tại của bản thân. Và theo dòng suy tư
nhất quán ấy, các nhu cầu của con người chỉ còn là tính dục, tình yêu và sự
thừa nhận cái “Tôi”.
Xu hướng thứ hai có thể được giải thích bằng tuyên ngôn của
Herrmann: "Chúng tôi coi việc nghiên cứu nhân cách mang tính kinh nghiệm
là xu hướng hoạt động tâm lý học không đòi hỏi phải có những phát biểu về
bản chất”. Ông cho nhân cách là "một cấu tạo rất chung mà việc xác định khái
niệm cuối cùng của nó có thể nằm ở cuối chứ không phải ở đầu giai đoạn
nghiên cứu nhân cách. Do đó, các giai đoạn nghiên cứu thường là: quan sát
(đo đạc) -> xác định mô tả -> giải thích bằng những chút tạo theo giả thiết".
Herrmann quan niệm nhân cách, cũng như những đặc điểm của nó, không
mang tính thực tế khách quan mà chỉ là một "sản phẩm trừu tượng” của tâm
lý học, một “khái niệm diễn giải lý thuyết", "một cấu tạo lý luận chung" mà thôi.
Chính vì thế, chiến lược nghiên cứu nhân cách phải bỏ qua cái riêng của mỗi
cá nhân để đi tới những quy tắc, những khái quát hoá, những quy nạp trừu
tượng. Nhưng trong thực tế, không thể tiếp diễn con đường duy tâm chủ quan
và vô căn cứ như vậy.
Hệ thống khái niệm của Herrmann bao gồm cả “môi trường”, được chia
thành hai loại: môi trường vật chất và môi trường học tập". Loại môi trường
sau được đồng nhất với môi trường kích thích", "môi trường thông tin", "môi
trường số liệu”. Trong môi trường đó, cá nhân là một hệ thống tiếp nhận, xử
lý và học tập, thông tin (Hình 2).
Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hành vi trong xu hướng này là Cattell.
Trong tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, ông định nghĩa "nhân cách là hành vi
của một người trong một tình huống nhất định". Công thức theo đó là R = f
(S,P) với nghĩa R = hành vi, S = kích thích, và P = nhân cách. Cattell dùng
cách phân tích các yếu tố để tìm ra cấu trúc thứ bậc của các nét nhân cách
(traits). Cấu trúc tiên nghiệm của Cattell bao gồm những lớp như sau: kỹ năng
và kỹ xảo, các nét tính cách, bản năng và động cơ, tâm thế và thái độ, các
đặc điểm của vai trò, các trạng thái biến đổi tạm thời.
Guilford nêu lên một khái niệm chung, trừu tượng về nhân cách khi xem
nhân cách của một cá nhân là "cấu trúc độc đáo của các nét cơ bản”, xuất
phát từ tiền đề “mọi nhân cách riêng biệt đều độc nhất vô nhị”. Ông sử dụng
một sự phân loại khác Cattell: Các nét giải phẫu chủ yếu, các nét sinh lý chủ
yếu, các nét tạo động cơ chủ yếu (nhu cầu, hứng thú, tâm thế), sự phù hợp
của các năng lực, các nét khí chất.
Mô hình của Guilford và Cattell, như G.Witzlack nhận xét, tập trung chủ
yếu vào những đặc điểm hành vi cá nhân, nhờ đó có thể phân biệt nhanh
chóng một cá nhân cụ thể với mọi người khác trong nhóm so sánh theo tinh
thần tâm lý học sai biệt nhưng đã bỏ qua yêu cầu xã hội trong hoạt động thực
tế.
Eysenck chú ý tới những lý luận về nhân cách vì cho rằng "các lý luận
về nhân cách là một sự bổ sung quan trọng cho hành vi trị liệu và làm cho
nhiều sự thật do nghiên cứu mới đây đem lại có thể giải thích được". Nhân
cách được ông quan niệm như là một "tổ chức mang tính ổn định ít hay nhiều
của tính cách, khí chất, trí tuệ và sinh lý củi cá nhân, quy định tính độc đáo
của sự thích nghi đối với môi trường của nó”.
Eysenck đã xây dựng cấu trúc nhân cách tương tự như các nhà tâm lý
học đi theo xu hướng phân tích các yếu tố. Nhưng khi xét các mặt nhân cách
quan trọng nhất, yếu tố di truyền, đặc biệt nổi bật ở Eysenck, người ta thường
chú ý đến hai điểm trong mối quan hệ giữa lý luận và phương pháp.
Thứ nhất, đó là quá trình tiến hành phương pháp phát hiện cấu trúc tâm
lý của nhân cách.
- Ở mức thấp nhất, người ta tìm hiểu những phản ứng đối với kích thích
có thể tiêu biểu cho một cá nhân này không;
- Trong bước thứ hai, các phản ứng theo thói quen (habits) là đối tượng
chú ý cùng với xác suất xuất hiện của chúng,
- Bước thứ ba, các phản ứng thể hiện trong những test khác nhau của
cá nhân được so sánh tương quan với nhau và phân tích theo các yếu tố.
Các yếu tố nhóm sẽ là những nét cơ bản của nhân cách;
- Bước thứ tư, kiểm tra xem có thể quy các “nét” nào vào một kiểu
chung hay tìm cái gọi là yếu tố G. Năm 1953, Eysenck đề xuất “cơ cấu một
mô hình toán học về tổ chức nhân cách và rút ra những giả thiết có thể kiểm
tra được của mô hình này bằng phương pháp giả thiết – diễn dịch”. Đây chỉ là
sơ đồ áp dụng cho kiểu hướng nội (introversion). Ba kiểu khác, hướng ngoại,
ổn định và không ổn định cũng được xem xét như vậy.
K. Pawlik, G.Witzlack, H. Thomae đã phê phán Eysenok ở một số điểm
cơ bản như: a) Hệ thống của Eysenok chỉ có tác dụng phân loại cá nhân một
cách đại thể về một số ít mặt chưa đủ đối với nhân cách trong hiện thực da
dạng, phong phú; b) Việc sử dụng các mô hình toán học chưa cho phép
khẳng định có thể phản ánh nhân cách chính xác; c) Những sai lầm về
nguyên tắc của lý luận truyền thống về test vẫn thể hiện trong phân tích các
yếu tố; d) Việc quy hành động thành hành vi theo chủ nghĩa hành vi khiến
không thể giải quyết được vấn đề tâm lý trong thực tiễn.
- Vòng tròn trong trình bày bốn loại khí chất theo Hippokrates và Galen;
- Vòng tròn ngoài ghi các chiều đo của Eysenok.
Như vậy, mỗi cá nhân đều được xác định đặc tính thông qua vị trí của
mình trong hệ thống hai chiều. Sự khủng hoảng tiếp tục diễn ra trong tâm lý
học tư sản. Có nhiều cách trình bày và bình luận như của M.Jaroschewski
(Tâm lý học trong thế kỉ XX); L.L.Bogiovich (Nhân cách và sự phát triển nhân
cách ở tuổi học sinh), L.Seve (Chủ nghĩa Mác và lý luận về nhân cách), H.
Keuhn và K. Junghaenel (Tâm lý học nhân cách tư sản trong khủng hoàng),
v.v… Ở đây, chúng ta hiểu thêm sự phân loại, đánh giá của H.D.Schmidt theo
ba loại mô hình cơ bản.
1. Các mô hình thực hiện đề cao những động lực bên trong như nguồn
gốc hoặc mục tiêu của sự phát triển nhân cách. Trong quá trình sinh sống,
các động lực được hình thành sẵn sàng phát triển theo một dạng thức biến
thể, có dấu ấn rõ nét hơn. Theo S.R.Maddi, những người sáng lập các mô
hình này là Rogers, Maslow, Adler, Allport, Fromm và những người khác
Theo Rogers, người đã từng giữ chức vụ Chủ tịch Hội các nhà tâm lý
học Mỹ từ năm 1946 đến năm 1947, cá nhân là một sinh vật luôn cố gắng duy
trì tăng cường và hoàn thiện các cơ quan của mình để tri giác và vận động.
Nhân cách là phần phân hoá của trường hiện tượng chung, nghĩa là bộ phận
kinh nghiệm của cá nhân, hạt nhân hay cốt lõi của nó. Nhân cách xuất hiện
trong quá trình phát triển của cá nhân, thống nhất trong bản thân sự tự ý thức
về nó, kinh nghiệm và sự tồn tại của nó. Quá trình “tự hiện thực hoá” được
mô tả như sau:
“Theo quan niệm của tôi, cá nhân có xu hướng hiểu biết và sẵn sàng
trở thành cái mang tính nội tại và có thực… Nó ngày càng lắng nghe tới
những tầng sâu thẳm nhất của bản chất sinh lý và xúc cảm của nó, và ngày
càng phát triển tinh thần sẵn sàng… thực hiện cái bản ngã”
Rõ ràng, xu hướng này được gọi là “tâm lý học nhân văn” coi cá thể là
trung tâm
Tinh thần đó, cơ chế tâm lý của sự phát triển nhân cách mang nặng
màu sắc tự thân, còn thể hiện ở việc coi trọng vai trò của nhu cầu và nhất là ở
sự phân định thứ bậc của chúng.
Khác với Rogers và Maslow khi chú ý đến nguyên tắc thống nhất của
nhân cách (đối lập với sự phân chia ra "cái Nó”, "cái Tôi" và "cái siêu tôi"),
Adler công nhận vai trò của cái xã hội nhưng vẫn xem nhân cách như là sản
phẩm của sự tác động bản thân của cá nhân, được kích thích bởi sự khắc
phục tình trạng khang được che chở an toàn trước thế giới bên ngoài, khắc
phục sự thấp kém của mình và cố gắng tự khẳng định bằng cách giành lấy sự
thống trị những kẻ khác.
Allport cũng đưa kiểu tư duy theo mục đích luận vào tâm lý học nhân
cách: Chẳng hạn, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân cách và chủ nghĩa
hiện sinh, Allport đã viết: "Có một xu hướng trong số các tác giả theo chủ
nghĩa hiện sinh được nêu lên có Kierkegaard, Jaspers, Sartre, Nuttin,
Glodstein) là tìm kiếm một vấn đề chủ định (intentional) cơ bản trong đời sống
con người… Trong bản chất của nó, con người là bất ổn và đầy sợ hãi; con
người mong muốn cả sự an toàn lẫn tự do”. Theo Allport, cốt lõi của bản chất
con người, cái quy định nhân cách là cái tự thân của cá nhân. Cái tự thân
(hay còn được gọi là “cá tính cá nhân”) là dấu hiệu chủ yếu nhất của bản chất
con người. Đó chỉ là cách nói khác đi so với tinh thần định nghĩa vào năm
1905 của Klages: “Nhân cách là… cái tự thân cá nhân”
Lý luận của Allport dựa trên quan niệm về “những động cơ tăng trưởng”
vốn có ngay từ đầu ở mỗi cơ thể người. Allport nêu lên bốn tiêu chuẩn làm
căn cứ:
a) Vật chất cũng như năng lượng đều có đường vào và đường ra;
b) Các trạng thái tự điều chỉnh liên tục xuất hiện và được duy trì làm
cho hình thức và trật tự nội tại không bị rối loại nghiêm trọng nhờ sự xuất hiện
của năng lượng bên ngoài;
c) Nói chung, trật tự tăng lên theo thời gian vì tính phức hợp và phân
hoá của các bộ phận ngày một tăng;
d) Ít nhất là trên cấp độ con người cũng có một sự “thoả hiệp”
(transaction) với môi trường xung quanh.
Với Allport, con người, nhân cách không phụ thuộc vào các quan hệ xã
hội và do đó, khái niệm “transaction” cũng không khác gì khái niệm “reaction”
của chủ nghĩa hành vi vì như F.Klix phê phán, Allport chỉ nhìn mối quan hệ
qua lại giữa hệ thống cơ chế với điều kiện bên ngoài qua vật chất và năng
lượng.
2. Các mô hình mâu thuẫn (conflict). Điểm đồng nhất chung cho những
mô hình này là quan niệm coi cuộc sống, sự trải nghiệm và phát triển của cá
nhân trước hết là nơi diễn ra hoặc kết quả của sự tác động qua lại của các
động lực xung đột, mâu thuẫn với nhau. Freud, Murray, Sullivan, Rank, và
Jung được nhắc đến như những đại diện của xu hướng này. Như đã nói trong
phần trước, phân tâm học đề cao cái vô thức, cơ chế của vô thức, dục vọng,
sự hình thành nhân cách với "cái Nó", "cái Tôi" và cái siêu Tôi”. Các phe bảo
thủ trước cái mới, cái lạ cũng như những nhà khoa học cấp tiến, mác xít tiểu
phê phán phân tâm học. Gần đây nhất, tờ Le Nouvel Observateuuuur còn
tổng kết 10 cuộc đua tranh giữa sinh lý học thần kinh và phân tâm học (giấc
mơ, nói nhịu, libido (tình dục), vô thức, nụ cười-đầu tiên, trầm cảm, hysteria,
tâm thần phân liệt, tự kỷ, chữa khỏi bệnh) với kết quả bất phân thắng bại. Tuy
nhiên, điều cơ bản ở đây là hình ảnh con người, nhân cách mang tính sinh
học nặng nề.
Theo H.D.Schmidt, mô hình mâu thuẫn của Freud có bốn nguồn gốc
liên quan đến hoạt động khoa học của ông:
(1) Ảnh hưởng của tư duy sinh lý học và vật lý ở cuối thế kỷ trước;
(2) Khi làm tâm lý trị liệu, ông hiểu các hiện tượng thần kinh không phải
là những rối loạn cơ thể mà là những rối loạn chức năng, có liên quan đến
những trải nghiệm dồn nén có căn nguyên của chúng trong vô thức;
3) Freud cho rằng những rối loạn thần kinh chắc chắn và trước hết có
liên quan đến những vấn đề tính dục của bệnh nhân;
(4) Nguồn gốc thứ tư được lý giải trong môi trường xã hội. Thomas
Mann đã nói đến ảnh hưởng của triết học hiện sinh và thuyết phi lý khi tiếp
xúc với các cá nhân và bệnh nhân thuộc tầng lớp tư sản quyền thế.
3. Các mô hình kiên định (consistency). Cơ sở của mô hình này là sự
tương tác thường xuyên giữa cá nhân với môi trường bên ngoài. Trong quá
trình ấy, cá nhân thu thập kinh nghiệm cả về mặt nhân thức, kỹ năng cũng
như về phương diện cảm xúc. Tuy nhiên, nhiều khi, giá trị cần có không
tương đồng với giá trị hiện có nên cá nhân phải giảm bớt hoặc tăng cường
hoạt động của mình. Kiểu mô hình này phù hợp với tinh thần của lý thuyết lý -
sinh về cân bằng hay thuyết điều chỉnh cibecnetic. Và do những sai lệch, khác
nhau tạo thành yếu tố thúc đẩy hành động và phát triển nên không thể xếp
các mô hình này vào số những mô hình mâu thuẫn.
Hiện nay có hai loại mô hình kiên định. Loại thứ nhất do Kelly và Mc.
Clelland chủ xướng, coi những sai lệch khác nhau về nhận thức là nguồn gốc
của các hành động cá nhân. Loại thứ hai do Maddi đại diện, tập trung chú ý
vào những sự khác biệt động cơ và hoạt động.
Đối với Kelly, con người là một nhà khoa học theo nghĩa rộng nhất của
từ nay. Con người luôn tìm tòi, nhận thức, giả định, kiểm chứng, biến những
gì đã khẳng định thành hệ thống tri thức của mình. Kelly thấy có thể mô tả
được nhân cách bằng "những cấu tạo cá nhân” tương đối ổn định, nghĩa là
cách thức dùng kinh nghiệm bản thân để mô hình hoá hiện thực.
Mc.Clelland đã nghiên cứu nhiều về loại được gọi là động cơ tạo nên
thành tích. Chằng hạn, ông đã sử dụng một hệ thống tự đề ra để phân tích nội
dung bài vở đối với văn học dân gian và sách giáo khoa ở các nước khác
nhau, trong những giai đoạn lịch sử khác nhau và rút ra kết luận là những
biến đổi trong tâm lý con người, cả trong động cơ, không được tạo nên bởi
nhũng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội mà ngược lại, bản thân động cơ
chính là động lực tiên quyết của sự tiến bộ kinh tế. Đó là một sai lầm điển
hình khi thiếu một cơ sở khoa học về bản chất tâm lý và nhân cách.
Trong khi đó, Maddi xây dựng một lý thuyết hoạt động mà theo đó, cá
nhân sẽ đạt tới một trình độ tiêu biểu, đặc trưng cho nó trong quá trình phát
sinh cá thể theo một cơ chế điều hoà tạo nên sự cân bằng, khắc phục sự
khác biệt giữa trình độ nói trên và phạm vi mức độ, cường độ ý nghĩa cũng
như sự đa dạng của kích thích.
Khi xem xét, phân tích các nét riêng và chung của các xu hướng và mô
hình đã trình bày, năm 1937, Allport đã lập bảng so sánh những lý luận về
nhân cách của châu Âu và Mỹ sau đây:
Các thuyết châu Âu nhấn mạnh Các thuyết của Mỹ nhấn mạnh
- Các tư chất bên trong
- Các điều kiện thể tạng
- Kỹ năng có cấu trúc của nhân cách
- Sự tương đối độc lập với xã hội
- Tính tương đối không thay đổi của
nhân cách
- Hành vi bên ngoài
- Các đặc điểm bề ngoài
- Các thành phần vận động của hành
vi
- Các quan hệ giữa người với người
- Tính có thể thay đổi của nhân cách
Nhưng đó chỉ là bức tranh quá khứ. Tâm lý học ở các nước phương
Tây có trình độ phát triển cao đang cố gắng tự vượt mình. Mặc dù còn những
hạn chế trong quan niệm về nhân cách trong những mối quan hệ với xã hội,
với ý thức hệ, niềm tin..., người ta đã chú ý nhiều hơn tới khía cạnh nhân văn,
tới việc phải xem xét lại bản chất của nhiều khái niệm có liên quan đến nhân
cách, đi sâu nghiên cứu nhân cách ở cấp độ hành động thường ngày.
Trong lịch sử tâm lý học nhân cách, tâm lý học mác xít và tâm lý học
Xôviết trước đây luôn giữ một vị trí quan trọng. Cho đến nay, cùng với những
thành tựu của nhiều nước xã hội chủ nghĩa Đông âu cũi và nhiều dòng tiến bộ
khác, xu hướng này đã và vẫn tạo nên những cơ sơ và bước tiến đáng kể
trong nghiên cứu về nhân cách.
Qua thời gian, tâm lý học mácxít đã khẳng định được những quan điểm
cơ bản có ý nghĩa lý luận và phương pháp luận chỉ đạo chung cho hoạt động
nghiên cứu con người và nhân cách.
Con người được quan niệm là một thực thể xã hội và do đó, nhân cách,
về nguyên tắc, được quyết định bởi xã hội.
Như vậy, những tiền đề sinh học của sự tồn tại con người chỉ là những
khả năng, cơ sở xuất phát của sự phát triển và khác biệt của nhân cách. Đó
là tư tưởng khắc phục các quan điểm sai lầm, phiến diện như thuyết bẩm sinh
(nativisme) (chẳng hạn như những sự phân loại bắt đầu từ Hippokrates cho
đến Kretschmer, Eysenok, hay trường phái Pavlov), cách lý giải phi lịch sử
(J.Lersch), các xu hướng xã hội hoá tâm lý học (Malinowski), M.Mead và cả
Kornilov, L.Seve).
Người đề xuất đầu tiên nguyên tắc này là Vưgôtxki với "Tư duy và ngôn
ngữ" (1934) và trước nữa, “Ý thức với tư cách là vấn đề của tâm lý học hành
vi” (1924). Và tiếp theo là “Những vấn đề của tâm lý học đại cương” (1940),
“Những nguyên tắc và con đường phát triển tâm lý học” (1959). Từ đó, như
A.N.Leonchiev đánh giá, người ta bắt đầu coi tâm lý của con người, học
thuyết tâm lý học cụ thể về ý thức như là hình thức cao nhất của sự phản ánh
hiện thực cũng như học thuyết về hoạt động và cấu trúc của nó dưới góc độ
lịch sử.
A.N.Leonchiev, qua những công trình nghiên cứu về hoạt động, hoạt
động có đối tượng, hoạt động và nhân cách, đã tạo điều kiện cho các nhà tâm
lý học hiểu rõ bản chất, sự hình thành và phát triển nhân cách đúng đắn hơn.
Ở đây, cần chú ý tới một số quan điểm sau:
- Nhân cách không phải là một chỉnh thể bao gồm tất cả đặc điểm của
con người – “từ những quan niệm chính trị và tôn giáo cho tới sự tiêu hoá”
- Từ “nhân cách” chỉ được dùng cho người và chỉ bắt đầu từ một giai
đoạn phát triển nào đó. Nhân cách là một sản phẩm tương đối muộn của sự
phát triển lịch sử xã hội và phát sinh cá thể của con người.
- Cả nhân cách lẫn cá nhân đều là một sản phẩm tương tác của các
quá trình thực hiện các quan hệ sinh sống của chủ thể. Con người trở thành
nhân cách khi là chủ thể của các quan hệ xã hội
X.L.Rubinstein cũng nhấn mạnh: “Nhân cách là cá nhân cụ thể, lịch sử,
sinh động gắn với những quan hệ thực tế đối với thế giới hiện thực”.
P.Galperin tóm tắt ngắn gọn đặc điểm này: “Nhân cách là một sản phẩm xã
hội – lịch sử”, đề cao vai trò “chủ thể, chủ thể có ý thức xã hội, có trách
nhiệm”
Tuy nhiên, có những sự bổ sung, cụ thể hoá đôi khi mang đến một vài
sắc thái mới. Ví dụ, A.V.Petrovxki vừa coi nhân cách là "chủ thể của sự nhận
thức và tích cực cải biến hiện thực”, vừa là “toàn bộ những điều kiện hoạt
động bên trong của con người để xã hội quy định. Nhân cách, đó chính là con
người cụ thể, sinh động với tất cả những ưu điểm và khuyết điểm của nó,
những mặt mạnh và yếu của nó được quy định bởi sự tham gia tích cực của
nó vào cuộc sống xã hội và việc giáo dục và đào tạo nó".
- Khi xét khái niệm “nhân cách”, người ta cũng bàn nhiều đến quan hệ
đối với cuộc sống, hoạt động cụ thể của con người và tính chất khả thi của
nó.
Obukhowski (Ba Lan) đã trình bày khái niệm theo tinh thần đó. Ông
viết: "Nhân cách có thể được định nghĩa là:
a) Những thuộc tính tâm lý của con người mà nhờ chúng. Chúng ta có
thể dự báo hoặc chí ít cũng chẩn đoán được các hành động của con người;
b) Những thuộc tính đó là những cấu tạo lý luận, vì thế, kiểu loại và số
lượng của chúng phụ thuộc vào lý thuyết chúng ta sử dụng
c) Những thuộc tính đó phục vụ cho việc dự báo hoặc chẩn đoán hành
động có liên quan, vì thế kiểu loại và số lượng của chúng còn phụ thuộc vào
nhiệm vụ nghiên cứu”.
Những đặc điểm và sự phát triển nhân cách trong hành động đã từng là
đề tài nghiên cứu của A.Kossakowski, W.Hacker, M.Vorwerg (Cộng hoà dân
chủ Đức trước đây), J. Reykowski (Ba Lan), D. Kondas (Tiệp Khắc cũ) và
nhiều người khác.
A.Kossakowski, nguyên Chủ tịch Hội tâm lý học Cộng hoà dân chủ Đức
trước đây, đã viết: “Chúng tôi hiểu một nhân cách phát triển toàn diện trong
tâm lý học là một người có năng lực và sẵn sàng hành động ngày càng độc
lập (tự động) và có ý thức trong những phạm vi hoạt động hết sức đa dạng,
có ý nghĩa xã hội trong số tác động cùng tập thể đối với những người khác.
Từ đó, có thể thấy việc nghiên cứu nhân cách phải tập trung vào việc phân
tích các thành phần tâm lý (các đơn vị chức năng, các nội dung, quá trình,
các thuộc tính) của sự định hướng và điều chỉnh hành động, trước hết là sự
định hướng hoạt động có ý thức của cá nhân, những quan hệ qua lại và sự
phát triển của chúng trong quá trình sư phạm.
Các nhà tâm lý học Cộng hoà dân chủ Đức quan niệm về nhân cách
như sau:
a) Nhân cách là có nhân cụ thể với tư cách là sự thống nhất cơ thể của
nó, những đặc điểm sinh lý và tâm lý của nó;
b) Nhân cách luôn luôn là sự thống nhất đặc trưng cho cá nhân của
những đặc điểm sinh - tâm lý, luôn luôn là một cá tính phát triển trên cơ sở
những khuynh hướng cá nhân bẩm sinh và được quy định bởi tiểu sử cá
nhân;
c) Cá nhân có nhân cách là trước tự nhiên, xã hội và bản thân, nổ thể
hiện như là một chủ thể tích cực, có ý thức sáng tạo của sự nhận thức, nhận
thông tin và lao động;
d) Nhân cách là một thực thể cộng đồng tích cực;
e) Nhân cách luôn luôn là một thực thể được quy đinh bởi những điều
kiện lịch sử, xã hội cụ thể.
H.D. Schmidt coi nhân cách vừa là quá trình, vừa là trạng thái. Đây là
một tư tưởng hết sức quan trọng, đặc biệt đối với chẩn đoán tâm lý. Và về sự
phát triển nhân cách với tư cách là quá trình xã hội hoá, ông có sơ đồ sau:
Những quan niệm xem xét nhân cách trong mối liên quan với ý thức,
hoạt động trong cuộc sống thực tế còn khắc phục được thiếu sót và những
chỗ chưa hợp lý về cấu trúc nhân cách trong lịch sử tâm lý học trước đây,
trong các mô hình tâm lý học nghiên cứu các tầng sâu, trong các cấu trúc thứ
bậc (Kovaliov, Bogiovich, Platonov…)
Nhìn chung, tâm lý học nhân cách đi theo ba chiến lược nghiên cứu
khác nhau:
- Chiến lược nghiên cứu truyền thống, hướng vào các mặt, "các thuộc
tính" đứng phía sau hành vi mà một cá nhân có;
- Chiến lược nghiên cứu hành vi chủ nghĩa chỉ tìm hiểu cá nhân đang
làm gì;
- Chiến lược nghiên cứu xu thế biến động tâm lý đi tới chỗ giải đáp cá
nhân đang phản ứng hoặc điều chỉnh hành vi của mình trong những tình
huống khác nhau như thế nào.
Và đến nay, cuốn tiếp cận nhân cách ngày càng phức hợp hơn trong
sự đan xen giữa xã hội hoá và cá thể hóa, giữa cá nhân và các môi trường
trải nghiệm thực tế, giữa khả năng hiện tại với yêu cầu khi bước vào thế kỷ
XXI.
3. Khái niệm "nhân cách"
Hiện có nhiều định nghĩa về nhân cách mà ở đây không nhắc lại. Trước
khi xác định nội hàm khái niệm này, chúng tôi chú ý tới một số quan điểm như
sau:
(1) Thể hiện tinh thần của ba tiền đề (premise) cơ bản:
+ Tính độc đáo ít hay nhiều (singularity);
+ Tính tương đẳng (congruity), theo nghĩa dù thay đổi cũng có thể nhận
dạng được;
+ Tính dại diện cho những giá trị tốt hay xấu (dignity) còn có nghĩa là
nhân phẩm hay chân giá trị thông qua hành động thực tế. 1
(2) Allport đã phân biệt những thuộc tính chung và cá nhân bằng một
nhận định khái quát là mỗi người, về phương diện nào đó:
+ Đều giống mọi người khác (xét theo các chuẩn mực phổ quát),
+ Đều giống một số người nào đó (xét theo các chuẩn mực nhóm), và
+ Chẳng giống ai cả (xét theo phong cách riêng của mỗi người).
(3) X.L. Rubinstein khẳng định: “Con người chỉ là nhân cách khi có ý
thức xác định các quan hệ đối với môi trường của mình. Con người chỉ là
nhân cách khi có một diện mạo riêng. Con người là chỉ là nhân cách tối đa khi
thể hiện tối thiểu về tính trung lập (neutrality), về sự thờ ơ (indiffrence), lãnh
đạm và tối đa về "tính đảng” trong quan hệ với cái có ý nghĩa xã hội. Vì thế, ý
thức không chỉ là hiểu biết mà còn là quan hệ - có một ý nghĩa cơ bản như
thể đối với con người với tư cách là nhân cách". Bàn về khái niệm “nhân
cách”, mới đây, trong Tuyển tập Tâm lý học, Phạm Minh Hạc định nghĩa:
“Nhân cách là tổng hoà không phải mọi đặc điểm cá thể của con người, mà
chỉ là những đặc điểm nào quy định con người như là một thành viên của xã
hội, như là một công dân, một người lao động, một nhà hoạt động có ý thức.
Nói gọn hơn, nhân cách là toàn bộ những đặc điểm phẩm chất tâm lý của cá
nhân, quy định giá trị xã hội và hành vi xã hội của nó”
Nghiên cứu những ý kiến khác nhau, chúng tôi định nghĩa: Nhân cách
là cấu tạo tâm lý là phức hợp bao gồm những thuộc tính tâm lý cá nhân, được
hình thành và phát triển trong cuộc sống và hoạt động, tạo nên nhân diện và
quy định giá trị xã hội của mỗi người.
4. Cấu trúc nhân cách
Có thể nêu lên hai loại cấu trúc khác nhau.
4.1. Cấu trúc chung
Các nhà khoa học trường nói nhân cách là một cấu tạo (construct) tâm
lý. Việc xác định đúng và đủ các thành phần cấu trúc của nó là một yêu cầu
về lý luận và phương pháp.
Nếu tính từ Aristoteles với “các cấp độ linh hồn” (thực vật – vegetative,
động vật – animal và tinh thần hay linh hồn thiên thể - astral) thì cho đến nay
phải nói rằng hiện có rất nhiều cấu trúc nhân cách, được xem xét trên các
bình diện khác nhau (tài – đức; trí – đức – thể - mỹ; nhận thức – xúc cảm và
tình cảm – động cơ – ý chí)
Ở nước ta, quan niệm của A.G. Kovaliov được nhiều người tán thành
hơn cả với bốn thành phần cấu trúc như sau:
1 Xu hướng,
2. Tính cách,
3. Năng lực,
4. Khí chất.
Đối chiếu với cách hiểu nội hàm khái niệm "nhân cách” thì ở đây, không
thể coi "khí chất” là bộ phận hợp thành nhân cách - cho dù sự liên quan, có
ảnh hưởng đến nhân cách của nó là không thể phủ nhận được. Trong Hoạt
động – Ý thức -Nhân cách, A.N. Leonchiev đã từng bác bỏ quan niệmkiểu
nhân cách như một chỉnh thể bao gồm mọi đặc điểm của con người, từ các
quan niệm chính trị và tôn giáo tới cả sự tiêu hóa mà R.B. Cattell đã đề cập.
Và trong tác phẩm nói trên, khi bàn về cá nhân và nhân cách,
Leonchiev đã nhấn mạnh các đặc điểm của cá nhân và nhân cách liên quan
với nhau nhưng không phải là một. Ví dụ, các đặc điểm của hoạt động thần
kinh cao cấp của cá nhân không trở thành các đặc điểm của nhân cách cá
nhân đó và không quy định nó.
Vì thế, J.Strelau cũng khẳng định qua nghiên cứu của mình rằng thực
ra, khí chất và nhân cách khác nhau về nguyên tắc. Trong khi khí chất là kết
quả của sự tiến hoá sinh học thì nhân cách được quy định bởi các quan hệ xã
hội tiêu biểu cho con người. Ông cũng cho biết nhiều nhà tâm lý học Mỹ hoặc
phủ nhận khái niệm khí chất, hoặc không thích đề cập.
Xét cấu trúc chung, giới khoa học còn xét mối quan hệ giữa các thành
tố và hạt nhân của nhân cách. Về điểm này, Phạm Minh Hạc viết: "Nói cấu
trúc nhân cách là nói tới các thành tố của nhân cách tạo thành một hệ thống
có một cấu tạo trung tâm (còn gọi là hạt nhân của nhân cách) và hệ thống
quan hệ giữa các thành tố. Các thành tố của nhân cách được xây dựng nên
từ tổ hợp các tính chất của kiểu loại thần kinh, các quá trình nhận thức, các
thái độ xúc cảm, tình cảm và hành động... đã trở thành thái độ của con người
mang nhân cách đó…Động cơ là hạt nhân của nhân cách”.
Như vậy, cấu trúc nhân cách bao gồm những thành phần phân biệt rõ
khái niệm nhân cách với khái niệm “con người” hoặc "cá nhân”. Mặt khác, cần
cụ thể hoá các mặt nói trên dù vẫn ở cấp độ chung của chúng.
Ví dụ:
- Khái quát những nghiên cứu phân tích các yếu tố, Th.Herrmann và
K.Pawlik đã đề xuất các mặt nhân cách cơ bản dưới đây:
1. Hướng ngoại, hướng nội (Cattell, Eyserlck, Guilord);
2. Thích nghi cảm xúc - bệnh thần kinh (Cattell, Guilford, Eysenck):
3. Sự kiên định về tình cảm (Cattell, Guilford);
4. Độc lập trong việc hình thành ý kiến;
5. Sẵn sàng hợp tác;
6. Kiểm soát ý chí.
- Gần đây, Michael C.Ashton và Kibeom Lee đã nêu lên sáu thành phần
như sau:
(I) Linh hoạt, nhanh trí
(II) Vui vẻ; dễ chịu;
(III) Tận tâm; chu đáo
(IV) Ổn định cảm xúc;
(V) Trí tuệ
(VI) Thật thà, lương thiện.
4.2. Cấu trúc riêng
Cấu trúc riêng, mang tính đặc trưng cho từng kiểu nhân cách. cho mỗi
đến nền văn hoá hay một thời kỳ phát triển lịch sử, là cấu trúc chung được cụ
thể hoá cho phù hợp với những hoàn cảnh, điều kiện, yêu cầu sinh sống, hoạt
động nào đó.
Ngoài ra, khi hoạt động tâm lý của con người được coi là sự thống nhất
giữa ý thức và hoạt động thì bên cạnh hình thức tĩnh (mô tả, liệt kê các thuộc
tính của nhân cách) phải đồ cập tới cấu trúc động. Đây là quan niệm phù hợp
với cách tiếp cận biện chứng, thể hiện trong "Luận cương thứ sáu về
Feuerbach" của C.Mác "Nhưng bản chất con người không phải là cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Ngay R.B. Cattell cũng đã từng
phát biểu: "Nhân cách là những gì cho phép dự báo về cái mà một cá nhân sẽ
làm trong một tình huống xảy ra".
Như vậy là, không thể nghiên cứu ý thức, tư duy, hành động, tình cảm
của con người thoát ly khỏi các điều kiện và quan hệ thực tại trong môi
trường sống hết sức cụ thể và vô cùng sinh động của cá nhân và xã hội.
C. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHÂN CÁCH VÀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
TS. VŨ THỊ MINH CHÍ
Muốn tác động có hiệu quả vào quá trình hình thành và phát triển nhân
cách cần phải hiểu rõ bản chất đặc trưng của nhân cách, hay nói khác đi,
muốn xây dựng một thế hệ người Việt Nam có khả năng đáp ứng với yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của thời đại, trước hết cần hiểu rõ các nét đặc trưng
nhân cách của con người Việt Nam hiện nay. Đây cũng chính là mục tiêu của
nhiều đề tài cấp nhà nước nghiên cứu về con người đã và đang được thực
hiện một cách hệ thống trong các chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà
nước KX07 (1990 - 1995)l, KHXH04 (1995 – 2000) và hiện nay là KXO5
(2O01 - 2005). Vấn đề đặt ra là cần xáC định những quan điểm cơ bản định
hướng cho việc lựa chọn cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu, cụ thể ở
đây là dùng phương pháp nào để đo được nhân cách con người Việt Nam
hiện nay một cách hiệu quả nhất. Nhằm góp phần tìm ra lời giải này, ở đây
chúng tôi sẽ điểm qua một số quan điểm về nhân cách và nghiên cứu nhân
cách, một số phương pháp đo nhân cách cơ bản, truyền thống và hiện đại
trên thế giới, đồng thời xem xét lại tình hình nghiên cứu nhân cách con người
Việt Nam trong hai chương trình trước, từ đó rút ra một số điểm cần lưu ý khi
lựa chọn phương pháp nghiên cứu (đo đạc) nhân cách hiện nay.
I. KHÁI QUÁT VỀ NHÂN CÁCH VÀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
1. Quan điểm về nhân cách và nghiên cứu nhân cách
Về định nghĩa nhân cách, từ xưa đến nay có hai quan điểm tương phản
nhau, luôn luôn nảy ra tranh cãi đó là lập trường của G.W.Allport và lập
trường đối lập với ông là của R. May. Nhân cách của Allport là “phần bên
trong của cá nhân, là cơ cấu năng động của một hệ thống tâm sinh lý (vật lý
học thần kinh) có thể quyết định tính thích ứng độc đáo của người đó đối với
ngoại cảnh” (1987). Trong định nghĩa này có thể thấy rõ quan thẩm xem xét
về một con người (là một người như thế nào) phụ thuộc vào chính bản thân
người đó hay trạng thái bên trong của người đó. Ngược lại, quan điểm đối lập
với Allport lại coi nhân cách của một người không phụ thuộc vào bản thân
người đó mà phụ thuộc vào bên ngoài: như một sự phản ứng của người khác
đối với cá nhân anh ta, tức là định nghĩa nhân cách của một người dựa trên
con mắt (quan điểm) của người ngoài nhìn anh ta như thế nào. Mặc dù đối
lập nhau như vậy, nhưng hai định nghĩa này không hoàn toàn loại trừ nhau,
nói khác đi, cả hai cách định nghĩa này đều có tác dụng trong những trường
hợp khác nhau. Ví dụ đinh nghĩa theo quan điểm thứ nhất thích hợp với lâm
sàng và giáo dục, nơi có vấn đề trong việc cá nhân nắm bắt như thế nào về
bản thân mình; định nghĩa theo lập trường thứ hai thích hợp với quan hệ
người và xã hội, nơi có vấn đề ở quan điểm của bên ngoài, có sự khác nhau,
chênh lệch giữa cách nhìn nhận của mình và người khác. Sự khác nhau giữa
hai loại này có thể thấy rõ trong khi tiến hành trắc nghiệm tự đánh giá và đánh
giá người khác.
Gần đây còn có một xu hướng nghiên cứu nhân cách theo quan điểm
khác với hai quan điểm trên (có thể đây sẽ là xu hướng nghiên cứu chủ yếu
từ nay về sau)), đó là định nghĩa nhân cách của L.A. Pervin (The science of
personality, 1996) cho rằng, nhân cách là một cơ chế phối hợp giữa nhận
thức, tình cảm và hành động đem lại một xu hướng hay tính nhất quán cho
cuộc sống của con người; coi nhân cách giống như cơ thể, có cấu trúc và
hình thành từ một quá trình, nhân cách phản ánh tố chất (di truyền) và giáo
dưỡng (kinh nghiệm), thêm vào đó còn chịu ảnh hưởng của không chỉ hiện tại
và tương lai, mà cả quá khứ, bao gồm ký ức.
Như vậy cần thấy rằng trong nghiên cứu nhân cách phải nắm bắt nhân
cách một cách phức hợp:
(1) Coi nhân cách là cơ chế phức hợp của lối suy nghĩ (nhận thức),
cảm nghĩ (tình cảm) và hành động;
(2) Phải nắm nhân cách từ cả hai mặt di truyền và ngoại cảnh
(3) Cần lưu ý đến trục thời gian hình thành nhân cách trong quá khứ,
hiện tại và tương lai. Nhân cách hình thành đồng thời từ kinh nghiệm và ký ức
của quá khứ, và nhân cách hiện tại bị quy định bởi sự hình dung về tương lai
thông qua mong muốn và nguyện vọng ở tương lai.
(4) Nhân cách vừa là cơ cấu đã định hình nhất định, vừa là quá trình có
thể biến đổi;
(5) Trong nghiên cứu nhân cách cần lưu ý cả tính động của mạch (văn
cảnh) xã hội, văn hoá và cá tính, điều này liên quan đến mặt di truyền và
ngoại cảnh. Tóm lại, nhân cách cần được nắm bắt một cách hệ thống, đa diện
như một quá trình hay cơ cấu phức hợp rất nhiều yếu tố đan xen lẫn nhau.
Học thuyết nhân cách truyền thống chẳng qua chỉ là một bộ phận trong cái
toàn thể, một lý thuyết nhấn mạnh một mặt nào đó của nhân cách mà thôi.
2. Phương hướng và mục đích nghiên cứu nhân cách
Có thể nói quan điểm cơ bản của nghiên cứu nhân cách nằm ở mục
tiêu nắm bắt cụ thể và hiện thực về con người. Con người tồn tại một cách cụ
thể trong hiện thực, vừa thể hiện đặc tính chung của con người (loài), vừa
mang cơ tính đặc trưng riêng của mỗi người. Do đó, vấn đề nắm bắt chính
xác đặc tính tâm lý cá nhân là vấn đề trung tâm của nghiên cứu nhân cách; có
rất nhiều kỹ năng để làm việc đó và phát triển những kỹ năng này cũng chính
là một bộ phận quan trọng của nghiên cứu nhân cách."
- Các phương pháp nghiên cứu đặc tính tâm lý cá nhân nếu chỉ tồn tại
một cách đơn thuần thường không mang ý nghĩa gì đặc biệt. Vấn đề là vận
dụng những phương pháp này vào mục đích nghiên cứu nào. Trước đây,
người ta thường chia nghiên cứu nhân cách theo hai mục đích chính là
nghiên cứu cấu trúc phổ biến của nhân cách và nghiên cứu một nhân cách cụ
thể xác định nào đó. Nghiên cứu giải minh cấu trrú phổ biến của nhân cách
tìm hiểu mối liên quan giữa các đặc tính tâm lý thể hiện ở con người, và mối
liên quan của những đặc điểm này với quá trình tâm lý như tri giác, tư duy,
tình cảm. Nghiên cứu này chủ yếu dùng phương pháp thực nghiệm. Loại
nghiên cứu thứ hai nhằm lý giải chính xác một nhân cách (cá nhân) cụ thể
dược tiến hành bằng các kỹ năng khác nhau, chủ yếu là phương tháp nghiên
cứu trường hợp cụ thể.
Phương pháp thực nghiệm
Trong trường hợp xây dựng được giả thiết về cấu trúc nhân cách và
nhằm kiểm chứng giả thiết, người ta thường áp dụng phương pháp thực
nghiệm. Khi đó, biến số độc lập là đặc tính cá nhân, đặc tính xã hội trong môi
trường thực nghiệm, biến số phụ thuộc là những thành tích thuộc về trí năng,
hành động xã hội, thái độ bản thân, chức năng sinh lý. Khi vận dụng phương
pháp thực nghiệm cần phải tiến hành chặt chẽ: Chỉ có thể thực hiện khi thống
nhất được các yếu tố bằng cơ sở lý luận rõ ràng, đồng thời cũng không thể
không quan tâm tới quá trình đối tượng thực nghiệm đã trải qua hoàn cảnh
thực nghiệm như thế nào.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp cụ thể
Đây là phương pháp giải minh một cách tổng hợp và toàn diện nhân
cách của một cá nhân xác định, vì thế đây cũng là phương pháp trọng tâm
của nghiên cứu nhân cách trong thực tiễn như lâm sàng hay giao dục. Mục
tiêu cuối cùng của phương pháp này là làm rõ phương thức sống đặc trưng
của một cá nhân. Vì vậy thường là sự tổng hợp các kỹ năng nắm bắt đặc tính
nhân cách, kết hợp đồng thời với những ghi chép cá nhân như nhật ký, bút
ký, các báo cáo của những người biết rõ về cá nhân cũng như các thông tin
liên quan đến tiểu sử cuộc sống của cá nhân đó. Trong phương pháp này
cách phân tích đồng đại (daseins analyse) được chú trọng đặc biệt.
Bên cạnh cách phân loại truyền thống này, có tác giả còn chia nghiên
cứu nhân cách theo bốn mục đích chính là. 1) nhằm phát triển phương pháp
ghi chép về cá nhân; 2) lý giải và dự báo về những khác biệt cá nhân; 3) tìm
hiểu quá trình học tập, hành vi và thái độ; và 4) Tìm hiểu quá trình biến đổi
(J.B.Rơtter, 1975). Trong cuốn Phương pháp nghiên cứu nhân cách - Xêri
phương pháp nghiên cứu tâm lý học, Sugiynma Kenji lại chia mục đích nghiên
cứu thành năm loại. Thứ nhất là để đưa ra được những “mô hình tính người”
đa dạng liên quan đến việc cần phải hiểu tình người như thế nào. Thứ hai là
để ghi chép và hiểu hình bóng nguyên dạng trong tính tâm diện và tính độc
đáo cá nhân liên quan đến việc hiểu và biểu hiện có tính tuy tính mặc trưng
riêng. Thứ ba là để biết đặc tính của nó và vị trí tương đối theo thang đo trong
lý thuyết trực định tâm lý, thường được gọi là sự khác biệt cá nhân. Thứ tư là
để hiểu quá trình phát triển và hình thành nhân cách hiện tại đã diễn ra như
thế nào. Thứ năm là để làm rõ quá trình biến đổi và cách xử lý, ví dụ giải
quyết vấn đề tự hiểu mình tức là cá nhân hiểu được nhân cách và thái độ của
mình để từ đó tự biến đổi, hoặc giải quyết vấn đề thông qua tính tương hỗ với
người khác thường thấy trong quá trình tư vấn (counselling) (Sugiyama Kelji,
1999: 9)
Như vậy, có thể nói nghiên cứu đo đạc nhân cách người Việt Nam, nếu
căn cứ vào cách chia thứ nhất, thuộc về phương hướng nghiên cứu làm rõ
cấu trúc phổ biến của nhân loại (người Việt Nam nói chung chứ không phải
của một cá nhân cụ thể xác định nào đó, còn căn cứ vào các cách chia sau
thì gắn với các mục tiêu thứ ba, thứ tư, thứ năm, tức là hiểu đặc trưng nhân
cách, nguyên nhân dẫn đến và cách xử lý làm thay đổi nhân cách như thế
nào, nhưng nói một cách chặt chẽ nhất thì nghiên cứu nhân cách người Việt
Nam thuộc vào mục tiêu thứ ba là nhằm hiểu đặc tính chung của nhân cách.
3. Các cách tiếp cận nghiên cứu nhân cách
3.1. Các cách tiếp cận nghiên cứu nhân cách
Phương pháp nghiên cứu nhân cách gắn liền với lập trường quan điểm
lý thuyết. Pervin và O.P.John (Persollality: Theory and research, 1997) đã
phân loại cách tiếp cận trong nghiên cứu nhân cách nói chung thành ba loại:
1) cách tiếp cận lâm sàng; 2) cách tiếp cận thực nghiệm; và 3) cách tiếp cận
tương quan; tùy theo từng cách tiếp cận mà có phương pháp nghiên cứu rất
khác nhau.
a) Cách tiếp cận lâm sàng là cách tiếp cận của trường phái phân tâm
học và trường phái Rogers (1902-1987). Những nghiên cứu đứng trên lập
trường này chủ yếu là nghiên cứu trường hợp (case study), trong trường phái
Rogers kỹ năng chủ yếu là phương pháp tiếp xúc mà trọng tâm là tiếp xúc phi
chỉ thị; trường phái phân tâm học, ngoài phương pháp tiếp xúc, còn coi trọng
phương pháp kiểm tra mà chủ yếu là phóng chiếu. Phương pháp tiếp xúc
ngầm hiểu sâu về nội tâm của đối tượng thông qua gặp gỡ trực tiếp và trao
đổi qua lại với đối tượng. Có học giả gọi tiếp xúc là “đối tượng có mục đích”
để phân biệt tiếp xúc lâm sàng trị liệu với tiếp xúc điều tra thu thập thông tin.
Tuy nhiên, dù là loại tiếp xúc nào cũng cần coi trọng quan hệ giữa hai bên,
tiền đề để tiếp xúc tiến triển tốt đẹp là xây dựng quan hệ tin cậy lẫn nhau. Đặc
biệt trường phái Rogers còn nhấn mạnh tầm quan trọng của tiếp xúc phi chỉ
thị dẫn đến việc hiểu thấu bản thân, do đó được áp dụng cho việc hiểu con
người chủ yếu ở những nơi tư vấn. Phương pháp kiểm tra, đứng đầu là
phóng chiếu, là phương pháp hiểu con người thông qua con đường gọi là
“kiểm tra”, hình thành từ việc hệ thống hóa các xu hướng phản ứng được coi
là có quan hệ với đặc điểm nhân cách và hành động rút ra từ rất nhiều dữ liệu
sau khi đã chỉnh lý và rút gọn lại để chiết xuất ra những đặc trưng có ích cho
việc mô tả nhân cách và dự báo hành động. Phương pháp kiểm tra gồm có
phóng chiếu, chất vấn trên giấy và kiểm tra thao tác Riêng về phóng chiếu,
sau khi cho người được kiểm tra nhận những kích thích không rõ ràng và căn
cứ vào việc lý giải của họ để nắm bắt nội tâm bên trong, có ưu điểm là rút ra
mặt bên trong mà bản thân người được kiểm tín cũng không ý thức được nên
thường được vận dụng trong trị liệu.
b) Cách tiếp cận thực nghiệm phát triển trong truyền thống của học
thuyết hành vi như trường phái Skinner và những người theo thuyết học tập
xã hội như J.B.Rotter, và D.J.Hochreich. Trong cách tiếp cận này người ta
chủ yếu sử dựng phương pháp thực nghiệm. Trong phương pháp thực
nghiệm, những điều kiện quan trọng cần phải thực hiện là xác định rõ quan hệ
nhân quả vận dụng thao tác và trắc định biến số một cách thích hợp và phân
công đối tượng thực nghiệm không có ý để tiến hành thực nghiệm, trước hết
phải phân biệt biến số độc lập (biến số thao tác dựa vào thủ tục thực nghiệm)
và biến số phụ thuộc (biến sẽ được coi là thay đổi theo thao tác thực nghiệm
tùy theo mục đích nghiên cứu, và cần làm rõ quan hệ nhân quả giữa các biến
số này. Tiếp theo, về cách thao tác biến số độc lập và cách đo biến số phụ
thuộc đều phải chọn những phương pháp mang tính thỏa đáng cao. Phương
pháp thực nghiệm thường được vận dụng trong những nghiên cứu nhân cách
kết hợp với nghiên cứu tâm lý học xã hội, những nghiên cứu về nhân cách và
xu hướng hành vi vận dụng thành tựu của sinh lý học thần kinh.
c) Cách tiếp cận tương quan đặt nền tảng trên quan điểm của lý thuyết
về đặc điểm nhân cách (đặc tính luận) dựa vào dữ liệu thu được từ phương
pháp chất vấn trên giấy để hiểu được nhân cách từ phân tích tương quan.
Trong phương pháp này, thông thường điểm xuất phát là việc thành lập
thước đo đo xu hướng nhân cách và xu hướng hành động có vấn đề. Cụ thể
là tập hợp, phân loại và chỉnh lý các mục lục câu hỏi biểu thị nhân cách và
hành vi của mục tiêu nghiên cứu, trên cơ sở chú ý đến sự phân bố phản ứng
và tính tin cậy của câu trả lời sử dụng phương pháp thống kê (như phân tích
yếu tố) để kiểm chứng tính liên quan giữa các mục, từ đó hình thành thước
đo có kết cấu chặt chẽ. Trong nhiều trường hợp, đối với thước đo đánh giá
được thiết kế từ 2 dấn 9 thang bậc, câu trả lời được tiến hành bằng hình thức
tự đánh giá. Về thước đo, vừa phải kiểm chứng tính thoả đáng từ nhiều góc
độ vừa phải kiểm chứng quan hệ tương quan với các thước đo khác, từ đó
mới bàn đến sự khác biệt cá nhân về nhân cách và hành động trên quan điểm
lý thuyết đặc tính nhân cách. Phương pháp năm yếu tố (“Big Five”) chính là
một trong những phương pháp tiêu biểu của cách tiếp cận này. Nó có cơ sở ở
nghiên cứu phân loại các từ ngữ biển thị nhân cách theo cách tiếp cận mang
tính từ điển. Nghiên cứu di truyền học hành động cũng là một xu hướng
nghiên cứu mới đóng góp vào sự phát triển của cách tiếp cận tương quan.
Ba cách tiếp cận trên đây đều có những ưu, nhược điểm riêng khác
nhau. Cách tiếp cận lâm sàng phù hợp với ghi chép sâu về nhân cách cá
nhân, nhưng phán đoán lại mang tính chủ quan và có điểm khi là đòi hỏi
người tiến hành phải có kinh nghiệm (dùng quen) ở một mức độ nhất định.
Cách tiếp cận thực nghiệm có ưu điểm ở chỗ quan hệ nhân quả rõ ràng,
nhưng lại có khả năng nảy sinh vấn đề ở việc hạn chế biến số và việc khái
quát hóa kết quả cũng có vấn đề. Cách tiếp cận tương quan sử dụng phiếu
chất vấn có vấn đề ở chỗ tính tin cậy của câu trả lời theo hình thức tự đánh
gía, tính đối phó (trả lời) khác so với hành động hiện thực hằng ngày, nhưng
có ưu điểm là nghiên cứu đơn giản, dễ phổ biến rộng, do đó trong ba cách
tiếp cận này, cách thứ ba phù hợp với mục đích nghiên cứu tìm hiểu khái quát
đặc tính nhân cách người Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện
nay, người ta thường cho rằng trong nghiên cứu nhận cách nên dùng nhiều
phương pháp khác nhau cùng một lúc để có thể bổ sung cho nhau những ưu
điểm của cả ba cách tiếp cận.
3.2. Những ưu điểm và nhược điểm của các cách tiếp cận
Cách tiếp cận lâm sàng có những ưu điểm như:
- Tránh được môi trường thiếu tự nhiên như phòng thực nghiệm.
- Có thể nghiên cứu độ phức tạp toàn điện của quan hệ giữa cá nhân
và môi trường.
- Có thể dẫn đến nghiên cứu tỉ mỉ về cá nhân.
Và những khuyết điểm như:
- Khó quan sát hệ thống.
- Dễ lý giải chủ quan về dữ liệu.
- Dễ xảy ra trùng lặp biến số.
Cách tiếp cận thực nghiệm có những ưu điểm:
- Có thể thao tác biến số nhất định.
- Có thể nắm bắt dữ liệu khách quan.
- Nắm bắt rõ ràng về quan hệ nhân quả.
Và khuyết điểm:
- Có những hiện tượng không thể nghiên cứu trong phòng thí nghiệm.
- Do thiết định trường hợp nhân tạo nên bị hạn chế ở điểm không thể
khái quát được thành kiến thức chung.
Cách tiấp cận tương quan có các ưu điểm:
- Có thể sử dụng nhiều biến số.
- Có thể nghiên cứu mối liên quan giữa nhiều biến số.
Song lại có các khuyết điểm:
- Dễ lệch về lý giải dựa vào quan hệ tương quan chứ không quan hệ
nhân quả.
- Dễ có vấn đề về tính tin cậy, tính thoả đáng trong tự đánh giá.
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐO ĐẠC NHÂN CÁCH CƠ BẢN
1. Các phương pháp đo nhân cách truyền thống
Các phương pháp nghiên cứu nhân cách rất đa dạng, vì thế, còn rất
nhiều phương pháp khác không nằm trong ba cách tiếp cận nói trên và nhìn
vào việc sử dụng những phương pháp nghiên cứu nhân cách cũng thấy sự
biến thiên của lịch sử. K.II. Craik (1986) đã đưa ra bảy loại phương pháp đo
nhân cách là ghi chép hằng ngày, điền dã (field work), thực nghiệm, quan sát
tự nhiên, quan sát (đánh giá khách quan), dùng thước đo bằng phiếu hỏi,
phóng chiếu. Tình hình sử dụng những phương pháp này cũng thay đổi theo
năm tháng: có ba phương pháp nằm trong ba cách tiếp cận của Pervin là
thực nghiệm, thước đo chất vấn trên giấy và phóng chiếu cùng với phương
pháp quan sát (đánh giá khách quan được xếp vào loại những phương pháp
chủ lực trong nghiên cứu nhân cách, được sử dụng liên tục vượt qua sự thử
thách của thời gian. Riêng phương pháp ghi chép và điền dã đã từng bị mai
một đi, nhưng gần đây cơ hội sử dụng có xu hướng tăng lên.
Nói chung, về mặt truyền thống, có thể kể ra một số loại phương pháp
nghiên cứu nhân cách như tiếp xúc, quan sát (thuộc một trong ba cách tiếp
cận của Pervin), ghi chép (bổ sung cho phân loại Pervin tập trung vào kỹ năng
ghi chép về đối tượng nghiên cứu, quan sát hành động trong cuộc sống
thường ngày hoặc trong những tình huống do người nghiên cứu thiết kế làm
trắc nghiệm.
1.1. Phương pháp tiếp xúc
Là phương pháp thu thập tư liệu từ sự tiếp xúc với cá nhân trong
những hoàn cảnh gần với cuộc sống hằng ngày, qua đó quan sát hành động
của họ, đối thoại với họ để họ tự do trình bày về bản thân. Trong những
trường hợp đặc biệt có dùng phương pháp đo đạc hỗ trợ để lượng hóa,
nhưng nói chung, đặc trưng của phương pháp tiếp xúc là có khả năng thu
được thông tin rộng và sâu về chất lượng.
Trong phương pháp này có thể phán đoán nhân cách thông qua gặp gỡ
với đối tượng trò chuyện hỏi han để họ trả lời về kinh nghiệm và những vấn
để đang gặp phải của bản thân họ. Có hai cách hỏi, một là hỏi để đối tượng
trả lời tự do (tiếp xúc tự do), hai là hỏi họ theo nội dung câu hỏi đã đưa sẵn
cho họ chuẩn bị (tiếp xúc có cơ cấu). Ngoài ra, còn có các loại tiếp xúc khác
sử dụng thuật thôi miên (tiếp xúc thôi miên) hay thuốc (tiếp xúc thuốc) để làm
giảm bớt nỗi căng thẳng và bất an của đối tượng nhằm nắm được tình trạng
dưới ý thức của họ; tiếp xúc stress để đo năng lực của đối tượng khi tiếp xúc
có căng thẳng cao độ; tiếp xúc tập thể dựa vào phản ứng trong quá trình tập
thể.
1.2. Phương pháp quan sát hành động
Đây là phương pháp nắm bắt đặc tính cá nhân trên cơ sở quan sát
hành động của đối tượng cần nắm bắt, có thể được định nghĩa là phương
pháp làm rõ đặc trưng về chất và lượng của hành động cũng như tính nguyên
tắc của hành động trên cơ sở quan sát, ghi chép và phân tích hành động của
người và động vật trong những hoàn cảnh tự nhiên hay tình huống thực
nghiệm. Căn cứ vào định nghĩa này hoặc thực tế quan sát, có thể phân loại
phương pháp thành hai loại là quan sát tự nhiên và quan sát thực nghiệm,
nhưng nếu căn cứ và hình thức quan sát thì có thể phân loại thành quan sát
tham dự và quan sát không tham dự. Hai loại trước khác nhau ở sự thêm hay
không thêm vào những thao tác mang tính nhân tạo, còn hai loại sau thì khác
nhau ở việc người quan sát có thể hiện sự tồn tại của mình bằng cách tham
gia vào hay không. Quan sát là một trong những phương pháp cơ bản nắm
bắt đặc tính của một cá nhân, rất phong phú về loại hình quan sát, khác nhau
tùy vào mức độ cơ cấu hóa của điều kiện quan sát và thủ tục xử lý những dữ
liệu có được từ quan sát. Trong nghiên cứu nhân cách, tầm quan trọng của
phương pháp này thường được nhấn mạnh, nhất là việc đánh giá khách quan
qua người khác, ví dụ, bố mẹ hay giáo viên là một trong những đầu mối quan
trọng để hiểu nhân cách học sinh. Tuy nhiên, cũng phải nói thêm rằng, những
ví dụ về nghiên cứu sử dụng phương pháp quan sát có tổ chức thường không
nhiều. Trong trường hợp sử dụng phương phát quan sát để nghiên cứu nhân
cách, cần lưu ý một số vấn đề tồn tại như chọn lựa và thiết định bằng hình
thức nào về nơi có thể quan sát được nhân cách và hành vi của đối tượng, có
thể kiểm tra được tính thỏa đáng của nó bằng hình thức nào, giải thích và
điều chỉnh như thế nào về sự thiếu nhất trí giữa những người quan sát. Ngoài
ra, cùng với sự phát triển của lập trường nghiên cứu được gọi là
ethnomethodology, tầm quan trọng của điền dã tập trung quan tâm nhưng
hiện tượng nảy sinh trong cuộc sống hằng ngày đã khiến cho phương pháp
phân tích đối thoại lấy cơ sở ở quan sát cũng được chú ý hơn.
1.3. Phương pháp trắc nghiệm (đo đạc)
Trắc nghiệm nhân cách (personality test) là kỹ thuật nhằm mục đích đo
các phương thức thích ứng như thích ứng xã hội, thích ứng tình cảm và các
đặc tính tâm lý, đặc tính nhân cách như nhu cầu, hứng thú, thái độ và động
cơ. Có rất nhiều loại trắc nghiệm và sau đây là những loại cơ bản phổ biến
nhất.
(a) Dùng phiếu hỏi (personality questionnaire) hay còn gọi là bảng kê
(mục lục) về nhân cách (personality inventory), là phương pháp được áp dụng
rộng rãi bởi có ưu điểm là dễ lượng hoá (định lượng). Đây là phương pháp
kiểm tra đặc tính nhân cách cá nhân bằng sử dụng câu hay từ đã được tiêu
chuẩn hoá về đặc trưng tâm lý và xu hướng hành động của bản thân hay của
người khác. Đặc trưng của phương pháp này là có khả năng thực hiện trong
tập thể, vì thế cũng có khả năng phân tích dữ liệu khối lượng lớn và lý giải
được trong một thời gian tương đối ngắn. Tuy nhiên, không thể đề phòng
được khả năng câu trả lời bị lệch lạc do sự cố ý hay vô ý của đối tượng đo và
cũng chỉ giới hạn được đối tượng trong những người hiểu được nội dung của
câu. Với phương pháp này, người ta đo đặc tính nhân cách trên một thứ
nguyên chủ yếu đồng thời kết hợp với nhiều thứ nguyên khác để nắm bắt
toàn diện về cấu trúc nhân cách. Đúng như tên gọi của nó (“mục lục”, “bảng
kê”), các test dùng trong phương pháp này được cấu thành bởi một loạt các
mục biểu thị đặc tính nhân cách như tính thích ứng, sở thích “thái độ” xu
hướng, kỹ năng... và cho đối tượng trả lời theo một tiêu chí nhất định tự đánh
giá mình theo các mục. Phần lớn trả lời theo thang bậc đánh giá đã được viết
sẵn hoặc không định - phủ định. Phương pháp MMPI (bảng kê nhân cách đa
diện Minnesota- Minnesota Multiphasic Personality Inventory) thường được
sử dụng nhiều nhất. Đó là phương pháp do các nhà tâm lý học Mỹ
S.R.Hathaway, và J.C.Mckeley, Trường Đại học Minnesota, soạn thảo từ
những năm 1940 gồm 550 câu khẳng định liên quan đến các vấn đề nhân
cách trong đó có tự đánh giá, tâm thế xã hội, hội chứng lâm Bằng. MMPI có
hai đặc trưng lớn: thứ nhất, trong thang đo mà phương pháp kiểm tra này sử
dụng có áp dụng thang đo lâm sàng lấy tiêu chuẩn ngoài như đặc trưng hành
động bên ngoài trắc nghiệm và phán đoán lâm sàng hơn là lý luận. Tức là
MMPI áp dụng các mục chú trọng vào việc phân biệt được người có tổn hại
thần kinh hay không có tổn hại hơn là nội dung mục. Một đặc trưng nữa là
việc tham chiếu bốn thang đo tính xác đáng kiểm tra thái độ nhận trắc nghiệm
của đối tượng trắc nghiệm. Dựa vào thang đo tính xác đáng này, có thể hiểu
được thái độ bẻ cong hay phòng vệ của người được kiểm tra. Về hình thức
kiểm tra có hai loại là thẻ và sổ nhỏ. Không có hạn chế về thời gian kiểm tra
nhưng thường mất từ 45 đến 90 phút. Việc lý giải kết quả sau khi chỉnh lý dữ
liệu thành bảng giới thiệu sẽ tiến hành trên cơ sở các số trị của thái độ nhận
kiểm tra và các thước đo lâm sàng:
Các phương pháp dùng phiếu hỏi (chất vấn trên giấy) chủ yếu:
EPPS Đo độ mạnh yếu của 15 thang đo nhu cầu bằng việc cho
chọn một trong hai câu.
MPI Đo hai đặc tính nhân cách tính hướng ngoài và xu hướng
bệnh thần kinh.
CPI Nắm bắt mặt tích cực lành mạnh, hằng phiếu hỏi 480 mục 18
thang đo.
NEO-PI-R Hiểu nhân cách từ năm yếu tố: xu hướng bệnh thần kinh, tính
hướng ngoại, tính mở, tính hoà đồng, tính chân thực.
FFPQ Hiểu nhân cách từ năm yếu tố: tính hướng ngoại, tính yêu
thương, tính kiểm soát, tính bất ổn về tình cảm, tính chơi bời.
Ngoài MMPI với 10 thang bậc ra còn có: CPI (California psychologycal
inventory - bảng kê tâm lý California) của H.G.Gough với 18 thang bậc, 16 PF
(sixteen personality factor questionnare) của R.B.Cattell với 16 đặc tính đo,
GZTS (Guilford Zimmerman temperamebt survey - điều tra khí chất) với 10
thang bậc, MPI (Maudsley personality inventory) của H.J.Eysenck có hai
thang bậc và EPI (Edwards personality inventory) của A.C.Edwards.
(b) Phương pháp đánh giá (có tự đánh giá - SD): Trong phương pháp
này người ta quy định sẵn đặc tính nhân cách cần đo rồi đánh giá từng mục
liên quan theo một vài thang bậc, vì thế có thể gọi chung là phương pháp
phân loại, xếp thứ, xếp hạng đối tượng theo một tiêu chuẩn chủ quan nào đó.
Phần lớn là tự đánh giá nhưng cũng có trường hợp sử dụng đánh giá của
người thứ ba. Đây là phương pháp tiện lợi cho việc xử lý kết quả về lượng.
(c) Phương pháp kiểm tra thao tác: cho đối tượng làm một thao tác nào
đó để thông qua quá trình và kết quả của thao tác có thể nhìn thấy, phán
đoán đặc tính nhân cách của họ. Trong kiểm tra (trắc nghiệm) thao tác, người
ta đặt đối tượng vào một hoàn cảnh có thao tác dễ bộc lộ đặc tính nhân cách
rồi nắm bắt những đặc tính ấy thông qua quá trình thao tác, kết quả thao tác
và cách phản ứng của đối tượng. Vì phần lớn đối tượng không biết ý nghĩa
của thao tác nên có điểm lợi là ít bị lệch lạc trong ý thức của phản ứng. Đặc
trưng của phương pháp này là dễ thiết kế vấn đề và trả lời cũng ít bị méo mó,
dữ liệu thu được ở mức độ hành động nên khách quan dự so sánh với tiêu
chuẩn khác. Tuy nhiên, vấn đề thao tác đơn điệu và lý giải nó cũng cần có độ
thuần thục và chỉ có thể nắm bắt nhân cách trong những tình huống giới hạn.
(d) Phương pháp phóng chiếu: là phương pháp tìm phản ứng của
người được điều tra trong trạng thái nhận kích thích nhiều mặt, ví dụ những
hình ảnh ngẫu nhiên mà đối tượng nhìn thấy qua vết mực thấm, thông qua đó
có thể đọc được những cái nằm sâu bên trong mỗi cá nhân đối tượng. Đây là
một loại phương pháp kiểm tra nắm bắt tình cảm, nhu cầu, phương thức tư
duy, những mặt bên trong của cá nhân thông qua phản ứng của họ đối với
những kích thích bằng các loại hình nhất định hoặc ngôn ngữ chưa hoàn
thiện. So với kiểm tra bằng phiếu chất vấn, ý đồ của người thực hiện trắc
nghiệm không rõ ràng nên có khả năng thu nhỏ được những lệch lạc của câu
trả lời, ví dụ, ít bị trả lời dựa theo mong muốn của xã hội. Hơn nữa, nếu xét về
mức độ khó dễ thì vấn đề đặt ra đa số là dễ nên có thể thực hiện ở mọi tầng
lớp, lứa tuổi. Tuy nhiên, việc thực hiện và lý giải đòi hỏi người thực hiện phải
có một trình độ thuần thục nhất định nên cần nhiều thời gian. Con người
thường có xu hướng khi bị đặt vào một tình huống không rõ ràng thì chấp
nhận tình huống này sau khi đặt cho nó một ý nghĩa và cơ cấu hoá nó. Phản
ứng này được phản ánh qua yêu cầu, động cơ, bất an vô thức và mâu thuẫn
của đối tượng, do đó có thể biết được mặt biến hoá của nhân cách, đó là giả
thiết mà phương pháp này dựa vào. Các hình thức phóng chiếu tiêu biểu có
thể kể ra là Rorshach test, test đánh giá theo chủ đề - TAT (Thematic
Apperception Test), phương pháp hoàn thiện câu SCT (Sentence Complete
Test), liên tưởng có sử dụng kích thích ngôn ngữ (word association test), test
tranh chân dung dựa vào hành động biểu hiện (figure drawing test), test vẽ
nhà – cây – người (House – Tree – Person Technique), test trò chơi đóng vai.
1.4. Những vấn đề tồn tại của các phương pháp truyền thống
Tiếp xúc: Kết quả dễ bị chi phối bởi năng lực và nhân cách của người
tiếp xúc cũng như sự kỳ vọng của người tiến hành đối với đối tượng, có
không ít khó khăn nảy sinh khi tiến hành vì vậy cần thiết phải có một độ chín,
độ thuần thục về kỹ năng tiếp xúc:
Đánh giá và phát vấn: Khi liệt kê các mục câu hỏi, nội dung thường
chung chung, trừu tượng, khó ghi được một cách cụ thể và chi tiết về hành
động của cá nhân, trong trường hợp tự đánh giá có hạn chế về tính dự đoán
hành động từ sự sai khác giữa tính chủ quan trong nội dung phản ứng và tính
thầm kín của bản thân với hành động thực tế.
Trắc nghiệm thao tác: Có ưu điểm là không bị tính chủ quan chi phối,
sắc bén trong việc đo đạc mặt khí chất như nhịp độ tinh thần, nhưng phần lớn
các trường hợp kiểm tra đều đặc thù và đơn điệu so với cuộc sống bình
thường, do đó rất khó kết hợp ngay kết quả với hành động thông thường.
Phóng chiếu: Giả thiết cơ bản không dễ dàng được chấp nhận và ngay
cả những thiết định tiêu chuẩn khi xử lý phản ứng cũng cần phải xem xếp lại
để hoàn thiện hơn. Trong trường hợp sử dụng cụ thể, phương pháp phóng
chiếu tỏ ra có hiệu quả trong việc tìm tòi vấn đề hay nắm bắt toàn diện nhân
cách, còn đánh giá và chất vấn thì có hiệu quả cho việc cung cấp tư liệu
khách quan nhằm xử lý hoàn cảnh, ví dụ phát hiện vị trí cá nhân trong tập thể,
xác định tính bình thường dựa trên định lượng về một mặt xác định. Xét về
trình độ, ví dụ, mức độ thấu hiểu và năng lực đọc viết câu hỏi, phương pháp
phóng chiếu dễ áp dụng cho đối tượng trẻ em.
2. Các phương pháp tiếp cận nghiên cứu nhân cách mới
2.1. Nắm bắt nhân cách dưới góc độ khoa học thần kinh
Nhân cách là đặc trưng về mặt hành động của cá nhân, chắc chắn hình
thành trong vòng ảnh hưởng của cả yếu tố di truyền và ngoại cảnh. Cách tiếp
cận khoa học thần kinh khảo sát (trọng tâm là não) mọi khả năng ảnh hưởng
đến quá trình hình thành nhân cách của con người kể cả thời kỳ bào thai. Đối
tượng nghiên cứu của tâm lý học là hành động và mọi hành động đều là sự
vận động của não. Với ý nghĩa ấy, não có liên quan đến sự hình thành nhân
cách và biết được điều đó là vô cùng thú vị. Cũng giống như nhiều lĩnh vực
khác của tâm lý học mục tiêu của khoa học thần kinh nghiên cứu cơ cấu và
vận động của não nhằm hiểu được nguyên lý và quy luật sinh vật học chung
cho mọi sinh vật trong đó có con người. Vì thế có thể nói cách tiếp cận này
nhằm tìm ra cơ sở sinh vật của nhân cách trong quá trình thần kinh.
2.2. Nắm bắt nhân cách từ tâm lý học tiến hoá
Gần đây, trong tâm lý học xuất hiện xu hướng giải thích bằng thuyết
tiến hóa Darwin quá trình tiến hóa về ý thức và hành vi của loài người và đây
chính là lĩnh vực của tâm lý học tiến hoá. Tâm lý học tiến hóa thông nghiên
cứu chức năng hành động hiện tại mà giải thích và thuyết minh lý do tiến hóa
của ý thức và hành vi của con người trong mối liên quan với môi trường sinh
thái của quá khứ, kể cả cơ cấu xã hội. Khoa học này tập trung vào quan hệ
giữa môi trường sinh thái với tiến hóa nhân loại, chẳng hạn như chiến lược
chọn đối tượng kết hôn của loài người và loài vật có quan hệ với nhau như
thế nào, tại sao cơ thể của con đực và con cái lại có kích cỡ khác nhau, tại
sao con đực lại có tính tấn công và con cái lại mang tính thụ động, tại sao
trong loài người lại có ý thức đạo đức mà không loài động vật nào có. Hơn
nữa, nó còn nhằm giải thích sự tiến hóa của văn hóa bằng sinh vật học tập
thể. Như vậy, có thể nói rằng, xuất phát từ quan điểm cho rằng nhân cách của
con người không thể không có quan hệ với môi trường sinh thái mà loài
người ngày xưa đã bị đặt vào, trong cách tiếp cận này người ta nghiên cứu
cáo vấn đề của tâm lý học nhân cách bằng phương pháp của tâm lý học tiến
hóa, ví dụ xem xét sự ngược đãi trẻ em và nhân cách của cha mẹ.
2.3. Nắm bắt nhân cách từ di truyền học hành vi và phương pháp trẻ song sinh
Trước đây, di truyền đã từng được coi là yếu tố quyết định (quyết định
luận) không chịu ảnh hưởng của ngoại cảnh và việc thể hiện ảnh hưởng của
di truyền đã từng nhuốm màu định kiến liên quan đến việc ủng hộ tư tưởng
ưu sinh và thuyết định mệnh. Tuy nhiên, ngày nay yếu tố di truyền đang được
công nhận lại trong tâm lý học là một trong những yếu tố giải thích hành vi
cũng giống như nhiều yếu tố khác như văn hóa, ngoại cảnh.
Di truyền học hành vi (behavioral genetics) làm rõ ảnh hưởng của di
truyền và ngoại cảnh đối với sự sai khác cá nhân, ví dụ nhân cách và năng
lực nhận thức. Trong lĩnh vực khoa học này, cả động vật lẫn con người đều
được nghiên cứu, nhưng đối tượng là con người thì gọi là di truyền học hành
vi con người (human behavioral genetics). Trong trường hợp con người, thao
tác yếu tố di truyền hầu như là không thể, hơn nữa để do một gien nào đó xác
định cũng là một điều khó khăn. Thay vào đó, có thể coi sự khác nhau có hệ
thống của di truyền và ngoại cảnh trong tự nhiên là biến số để phân tách hiệu
quả của yếu tố di truyền và yếu tố ngoại cảnh. Tức là, so sánh những điểm
giống nhau giữa những trẻ song sinh một trứng có chung 100% gien
(monozygotic twin: MZ), trẻ song sinh hai trứng và anh em có chung khoảng
50% gien (dizygotic twin: DZ), bố mẹ và con cái có chung khoảng 50% gien,
anh em con nuôi và con nuôi với cha mẹ nuôi không có chung gien nhưng
chung môi trường sống, từ đó suy định kích cỡ tương đối của các yếu tố di
truyền và ngoại cảnh. Phương pháp chung gọi là phương pháp trẻ song sinh
và phương pháp nghiên cứu con nuôi, trong đó tiêu biểu có phương pháp lấy
thông tin về di truyền và ngoại cảnh từ dữ liệu trẻ song sinh một trứng và hai
trứng cùng sống trong một môi trường như nhau.
2.4. Nắm bắt nhân cách theo phương pháp “Theory of mind”.
“Theory of mind” (lý lẽ của trái tim) lần đầu tiên được D.Premack và
G.Woodruff (1978) sử dụng như một dụng ngữ chuyên môn trong công trình
nghiên cứu vượn người, nhưng từ những năm 1980 trở đi nó đã trở thành từ
khóa của nghiên cứu về sự phát triển năng lực hiểu và suy đoán tình trạng nội
tâm (ý đồ, tri thức, tình cảm) người khác của trẻ em. Còn S. Baron - Cohen và
U.Frith (1985), trên cơ sở coi những trở ngại cơ bản của chứng thu mình là
trở ngại của nhận biết, đã vận dụng khái niệm của “theory of mind” vào việc
giải thích những chướng ngại này (liên quan đến nội tâm bên trong). Có thể
nói vốn dĩ "theory of mind” không quan tâm tới sự sai khác giữa các cá thể
song cách tiếp cận bắt nguồn từ đó có thể ảp dụng vào nghiên cứu tìm hiểu
đặc tính nhân cách, giải thích hiện tượng bệnh lý học thần kinh và những
nghiên cứu sử dụng mối quan hệ với tự kiểm soát.
2.5. Nắm bắt nhân cách theo thuyết tương hỗ và thuyết hoàn cảnh.
Về mặt hiện tượng có thể định nghĩa nhân cách là “tính quy tắc lâu bền
(kiểu dạng) đặc trưng riêng của cá nhân được biểu hiện ra ở hành động của
con người”. Tâm lý học nhân cách trước đây đã coi tính quy tắc này là “mô
hình biểu hiện” (ra hành vi bên ngoài) của “mô hình nhân cách (bên trong) –
vốn sinh ra từ thực thể tâm hồn, quá trình và cơ cấu nào đó nằm bên trong
con người. Theo cách suy nghĩ này, nhân cách mô hình biểu hiện bị quy định
bởi mô hình nhân cách bên trong, độc lập với hoàn cảnh và vì thế sẽ thể hiển
ra một cách nhất quán vượt lên trên hoàn cảnh (giả định tính nhất quán trong
mọi hoàn cảnh). Hơn nữa, người ta còn cho rằng vì những dữ liệu quan sát
liên quan đến mô hình biểu hiện của nhân cách (bên ngoài) tương ứng với
mô hình nhân cách (bên trong) nên những khái niệm ghi chép về loại hình,
đặc tính trên cơ sở những dữ liệu ấy có ích cho việc lý giải mô hình nhân
cách. Có thể giải thích và dự đoán về hành vi dựa trên loại hình và đặc tính
này mà không bị phụ thuộc vào hoàn cảnh. Cách giả định này đã trở thành cơ
sở của nghiên cứu nhân cách. Tuy nhiên, trên thực tế, rõ ràng không thể bỏ
qua ảnh hưởng của hoàn cảnh đến hành vi của con người. Theo K. Lewin,
định thuyết của tâm lý học xưa nay đều cho rằng hành vi của con người được
quyết định bởi sự tác dộng qua lại giữa (yếu tố bên trong của) con người và
hoàn cảnh (môi trường). Thế nhưng tâm lý học nhân cách vốn có một tồn tại
là xem nhẹ ảnh hưởng quá hoàn cảnh. Bởi vì sự quan tâm của tâm lý học
nhân cách chỉ là nhân cách mô hình biểu hiện được coi là bị quy định bởi mô
hình nhân cách bên trong.
2.6. Nắm bắt nhân cách theo trường phái cơ cấu mang tính xã hội
Theo lập trường này, nhân cách được biểu hiện, mất đi rồi lại tái biểu
hiện trong cuộc sống hằng ngày trong những hoàn cảnh có vấn đề, đôi khi
trong những thủ tục mang tính chế định, tùy trường hợp có thể là một hiện
thực được cố định trong tài liệu chữ viết một khi đã được ghi lại, được cấu
thành trong quá trình tương tác xã hội. Theo cách của trường phái cơ cấu,
nhân cách được nắm bắt không phải như một thực thể đã cố định hóa, mà là
quá trình nhân cách đó được cấu thành. Mối quan tâm chủ yếu là quá trình,
trong đó bản sắc, cái sẽ trở thành nhân cách, được tạo thành một cách tạm
thời trong hiện thực, được cơ cấu trong một quá trình tương hỗ hơn là chính
bản thể nhân cách. Cách tiếp cận theo trường phái cơ cấu không coi nhân
cách là cái đã có sẵn mà nhằm thể hiện nó trong quá trình cấu thành, không
coi nhân cách là những đặc tính bên trong của người có hành vi, mà là cái
được biểu hiện ra một cách tạm thời trong tác động qua lại lẫn nhau giữa
người có hành vi-người quan sát - người tự quan sát (Karahe, 1996: 85).
2.7. Nắm bắt nhân cách từ điền dã
Đây là thột phương pháp chung của cả tâm lý học, xã hội học và nhân
học (anthropology) nhằm để biết con người ở nơi điền dã là "những người
làm thế nào". Nếu coi nội dung "những người như thế nào" là nhân cách thì
có thể nói mọi nghiên cứu điền dã đều bao hàm cả nghiên cứu về nhân cách,
nhưng mối quan tâm của điền dã không phải là nhân cách của một cá nhân
xác định mà là nhân cách của những người ở nơi diễn ra điền dã, hay nói
chung họ là những người như thế nào, nói khác đi là nhân cách về mặt hình
thái (modal personality). Phương pháp của cách nắm bắt này là phương pháp
quan sát tham gia (hay quan sát tham dự): tham gia vào cuộc sống tập thể
của đối tượng điều tra như một thành viên của tập thể đó. Việc tham gia này
đương nhiên là ai cũng có thể làm được, song chỉ có những nhà nghiên cứu
(tâm lý học) mới có quan điểm và kỹ năng mang tính phương pháp luận để
thực hiện việc tham gia một cách khoa học nhờ có cách tiếp cận lâm sàng tỏ
sinh thái của phương pháp văn hoá (ethnomethod). Chức năng của phương
pháp này phát huy một cách tiềm ẩn trong xã hội và văn hoá. Phương pháp
văn hoá là những thủ tục ám thị đan dệt nên hiện thực rõ ràng đối với thành
viên xã hội, là nguyên lý cấu thành nên văn hoá, biến tự nhiên sống thành vật
đối tượng trong cuộc sống con người, hay nói khác đi là những nguyên tắc
mà con người ngầm tuân theo trong cuộc sống. Mặc dù cùng tuân theo
những nguyên tắc chung, nhưng những biểu hiện ra thành hành vi của con
người vẫn có những khác biệt cá nhân, vì thế nếu chú mục vào những khác
biệt này thì với phương pháp của điền dã sẽ không chỉ nắm bắt được nhân
cách hình thái mà còn nắm bắt được cả nhân cách cá nhân trong hoàn cảnh
xác định.
2.8. Nắm bắt nhân cách từ mô hình năm yếu tố
Những năm gần đây, trong những nỗ lực nghiên cứu vấn đề nhân cách
theo quan điểm của lý thuyết đặc tính nhân cách, mô hình năm yếu tố (Five
Factor Model –FFM) đang trở thành một lý thuyết được công nhận rộng rãi, vì
người ta cho rằng mô hình này với năm yếu tố đặc tính (nhân cách) được gọi
là Big Five có thể nắm bắt các đặc trưng nhân cách đầy đủ và khái quát.
Lý thuyết đặc tính nhân cách là quan điểm lấy đặc tính nhân cách làm
đơn vị đã ghi chép, đo đạc và lý giải về nhân cách vốn là thứ không thể quan
sát trực tiếp. Đặc tính nhân cách (personality trait) là khái niệm cấu thành
được quy nạp từ những kiểu dạng đã ổn định như những hành động và tư
duy có khả năng quan sát, được biểu hiện ra bằng những từ ngữ sử dụng
hàng ngày để thể hiện về nhân cách của bản thân và người khác như “có tính
lạc quan”, “có tính hiếu kỳ” và “có tính cẩn thận, chu đáo”.
III. NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CẤP NHÀ NƯỚC
1. Chương trình KX07
Chương trình KX07 là một hệ thống đề tài nghiên cứu về con người,
trong đó đề tài nghiên cứu trực tiếp về nhân cách là KX07-04 (nghiên cứu
“Đặc trưng và xu thế phát triển nhân cách con người Việt Nam trong sự phát
triển kinh tế - xã hội “). Phần nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài mở đầu bằng
việc điểm qua những phương pháp nghiên cứu nhân cách ở nước ngoài, như
phương pháp phân tích câu trả lời phỏng vấn về tiểu sử các thành viên trong
gia đình và những người quen biết để rút ra ba yếu tố cơ bản quy định loại
tính cách của con người là tính xúc cảm, tính tích cực và tính âm hưởng của
các tác giả người Hà Lan G.Heymans và E.Wiensma. Tiếp theo là phương
pháp của R.B.Cattell phân tích sự đánh giá một con người qua ý kiến của
những người khác, từ đó tìm ra 16 yếu tố đối cực của nhân cách. Các
phương pháp đo đạc về nhân cách khác như phương pháp của các nhà tâm
lý học Đức D.Beckmann và H.E.Richter trắc nghiệm trên cơ sở ba mối quan
hệ tôi – anh ấy – cô ấy với 6 thang cơ bản, phương pháp MMPI với 10 thang
trắc lượng, phương pháp Rorschach… đều được điểm qua, song trên cơ sở
chỉ ra những mặt tích cực và tiêu cực của các phương pháp này Đề tài KX07
– 04 đã không sử dụng phương pháp test nào cả vì cho rằng “khó phù hợp
với hoàn cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể của người Việt Nam đương thời”.
Cách mà Đề tài KX07 chọn là điều tra xã hội học bằng một bộ công cụ tự thiết
kế trên cơ sở coi đặc trưng nhân cách con người Việt Nam thể hiện trên ba
mặt cơ bản là định hướng giá trị; tiềm năng - khả năng - kỹ năng; và phẩm
chất - nếp sống - thói quen. Tuy nhiên, ở đây chưa có sự lý giải thỏa đáng về
lý do vì sao lại coi đặc trưng nhân cách thể hiện trên ba mặt nói trên.
Trong đề tài này, phần nghiên cứu nhân cách được tiến hành dưới
dạng điều trị xã hội học song song với nghiên cứu lý luận về nhân cách. Điều
này có thể đem lại một cảm giác thiếu sự kết hợp giữa lý luận và điều tra thực
tế (thông thường nghiên cứu lý luận là cơ sở khoa học để tiến hành khảo sát
điều tra trên thực tiễn hoặc là sự tổng kết từ nghiên cứu điều tra thực tiễn).
Phần nghiên cứu lý luận có mục tổng quan tiến hành công phu với việc điểm
qua những nghiên cứu nhân cách ở phương đây, Liên Xô trước đây và các
nước khác cũng như ở Việt Nam, song đáng tiếc là những điều rút ra làm cơ
sở cho việc nghiên cứu tiếp theo hầu như không có mà chỉ là để rút ra rằng
không thể áp dụng vào Việt Nam. Nếu như vai trò của phần tổng quan hay hồi
cứu trong một công trình nghiên cứu là vô cùng quan trọng để từ đó rút ra
những thiếu sót của quá khứ sẽ được khắc phục hoặc tránh lặp lại hoặc đem
lại những gợi ý trực tiếp hoặc gián tiếp nào đó cho công trình mới, thì ở đây
có lẽ vai trò này chưa thực hiện được đầy đủ.
Tương tự như vậy phần “cơ sở lý luận” có mục (V) lý giải nguyên nhân,
xác định nội dung cơ bản của đặc trưng nhân cách cũng là nội dung sẽ điều
tra khảo sát về nhân cách con người Việt Nam, song ở đây, việc lý giải
nguyên nhân chưa rõ, dường nhìn chỉ "tuyên ngôn", ví dụ, khi coi "hệ thống
giá trị và định hướng giá trị là thành phần cơ bản và cốt lõi của nhân cách thì
cần phải giải thích đầy đủ và thuyết phục vì sao quan điểm giá trị lại là cơ bản
và cốt lõi của nhân cách. Hơn nữa, cũng không giải thích nguyên nhân vì sao
lại nghiên cứu nhân cách thông qua tiềm năng - khả năng - kỹ năng và phẩm
chất - nếp sống - thói quen.
Phần nghiên cứu phương pháp luận đã nêu ra một số nguyên tắc tiếp
cận như tiếp cận hệ thống, tiếp cận xã hội - lịch sử, tiếp cận giá trị - hoạt động
- giao lưu - nhân cách, nhưng những nguyên tắc này được thể hiện như thế
nào trong khâu biên soạn bộ công cụ thì chưa rõ. Tóm lại, có thể nói ràng mối
liên quan giữa nghiên cứu lý luận và việc xác định khung nghiên cứu hay việc
xử lý góc nhìn vấn đề nghiên cứu thuộc phạm vi đề tài (còn gọi là khâu “ý
thức về vấn đề nghiên cứu”, trong đó nêu rõ nguyên nhân vì sao xác định đặc
trưng nhân cách thể hiện ở ba mặt định khảo sát, phân tích đầy đủ lý do chọn
thường pháp khảo sát là điều tra xã hội học chứ không dùng phương pháp
trắc nghiệm tâm lý) chưa thấy nổi lên rõ ràng và chặt chẽ.
Phần điều tra khảo sát đã nêu ra cơ sở biên soạn bộ công cụ là học từ
nước ngoài đối với bộ câu hỏi điều tra về hệ thống giá trị và định hướng giá
trị, nhưng phần tương tự của bộ câu hỏi về tiềm năng - khả năng, thói quen -
nếp sống thì chưa rõ. Thêm vào đó, phần phân tích kết quả điều tra đã đưa ra
được những nhận xét về tỷ lệ phần trăm thu được từ các câu trả lời, rút ra
những kết luận từ ba mảng vấn đề (định hướng giá trị, năng lực và lối sống)
nhưng còn rời rạc giống như những mảng màu đặt cạnh nhau, chưa hình
thành một bức tranh hài hoà, nhuần nhuyễn, ở đây chưa thấy nổi lên rõ rệt
những đặc trưng và xu thế phát triển nhân cách thế hệ trẻ Việt Nam. Lý do
này có lẽ phần lớn thuộc về phương pháp luận, điểm xuất phát của điều tra
khảo sát chi phối kết quả thu được từ đó.
2. Chương trình KHXH04
Trong Chương trình KHXH04, trực tiếp liên quan đến nhân cách có đề
tài “Mô hình nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hoá đất nước”. Đề tài được bắt đầu bằng việc nêu ý nghĩa của việc
nghiên cứu mô hình nhân cách con người Việt Nam. Tiếp theo là nghiên cứu
cơ sở lý luận về nhân cách, bao gồm việc điểm qua quá trình lịch sử nghiên
cứu nhân cách trên thế giới và định ra các khái niệm cơ bản có liên quan như
khái niệm con người, khái niệm nhân cách con người khái niệm phát triển con
người và phát triển toàn diện con người. Hơn nữa, nó còn đề cập cấu trúc
nhân cách, con đường hình thành nhân cách, cuối cùng cũng tính đến những
đòi hỏi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với con người Việt Nam bằng
việc dẫn ra nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VIII về mục tiêu tổng quát và
nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như Nghị quyết Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VII về Chiến lược giáo dục
– đào tạo. Tiếp đến là hiện trạng nhân cách con người Việt Nam (nói chung
và thanh thiếu niên) được thể hiện ở kết quả nghiên cứu của Chương trình
KX07, kết quả nghiên cứu về sự phát triển trí tuệ của học sinh, một số kết quả
nghiên cứu sự phát triển đạo đức của học sinh, sinh viên; và kết quả nghiên
cứu nhân cách sinh viên bằng trắc nghiệm Cattell 16 PF có tham khảo kết
quả một nghiên cứu so sánh xuyên văn hoá đặc trưng nhân cách của sinh
viên Trung Quốc và Việt nam của Phùng Đình Mẫn (cũng dùng trắc nghiệm
16 PF). Sau cùng, mô hình nhân cách lý tưởng trong thời đại mới được rút ra
sau bốn kết quả nghiên cứu như sau:
1) Mở đầu là đánh giá kết quả nghiên cứu của KX07 đã cho thấy sức
mạnh (hay có thể nói là điểm mạnh) của nhân cách Việt Nam gắn với hệ
thống giá trị truyền thống và hiện đại, những giá trị tạo động lực cho hoạt
động sống của con người Việt Nam, đồng thời cũng chỉ ra những nhược điểm
trong nhân cách con người Việt Nam, từ đó nêu ra một số định hướng giá trị
cho con người Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2) Kết quả nghiên cứu trình độ trí tuệ (IQ) được tiến hành trên 3.000
học anh tiểu học bằng trắc nghiệm GILLE, phương pháp đo trí nhớ ngắn hạn
của Nhechaev, phương pháp đo sự tập trung chú ý của Bourdon đã đưa đến
kết quả là IQ trung bình của học sinh tiểu học là đáng khích lệ, trình độ trí nhớ
thì ở mức trung bình và tương đối kém (so với học sinh Liên Xô cũ) và sự tập
trung chú ý của học sinh Việt Nam được ưu tiên cho tính chính xác hơn là tốc
độ, sức tập trung chú ý khá cao.
3) Kết quả nghiên cứu phát triển đạo đức của học sinh, sinh viên
(chuẩn mực và giải pháp hình thành) khảo sát trên 666 khách thể (học sinh,
giáo viên, cán bộ quản lý) cho thấy so với mục tiêu giáo dục thì sinh viên, học
sinh đang ở một khoảng khá xa mới tiếp cận được với mục tiêu, giá trị đạo
đức truyền thống bị đảo lộn, chuẩn mực đạo đức mới chưa định hình rõ ràng.
4) Kết quả nghiên cứu nhân cách bằng trắc nghiệm Cattell trên 1.146
sinh viên, công trình trắc nghiệm Cattell đầu tiên ở Việt Nam tiến hành với số
lượng lớn, đưa ra một bảng điểm chuẩn của 16 yếu tố cho thấy yếu tố có
điểm số cao nhất (băn khoăn, ưu tư) và thấp nhất (lạc quan), những yếu tố
dương tính (hoà đồng, hoài nghi, cấp tiến, kiềm chế. căng thẳng nội tâm,
thông minh, kiên định, nhạy cảm, lý tưởng hóa, sắc sảo) và âm tính (ổn định
xúc cảm, nguyện vọng nắm quyền lợi, lạc quan, táo bạo, độc lập, thông minh,
kiên định, nhạy cảm, lý tưởng, sắc sảo), có phân biệt nam, nữ (ở cả nam, nữ,
hoặc chỉ ở nam, chỉ ở nữ), khu vực, môi trường, khối lớp.
5) Kết quả so sánh xuyên văn hoá đặc trưng nhân cách của học sinh
Trung Quốc và Việt Nam xác định và so sánh 25 yếu tố (phương thức giáo
dục, giao tiếp, nơi cư trú, chuyên ngành, đặc điểm sức khỏe, kinh nghiệm,
trình độ văn hoá của cha mẹ, hứng thú sở thích cá nhân…) ảnh hưởng rõ đến
16 đặc trưng nhân cách. Kết quả cho thấy: các yếu tố đánh giá trí tuệ bản
thân, kinh tế gia đình, trình độ văn hoá của người mẹ ảnh hưởng đến đặc
trưng nhân cách của sinh viên Trung Quốc hơn sinh viên Việt Nam, ngược lại,
môi trường, vị trí địa lý ảnh hưởng đến đặc trưng nhân cách sinh viên Việt
Nam nhiều hơn sinh viên Trung Quốc. Hơn nữa, nói chung sinh viên Trung
Quốc nhạy cảm hơn đối với quan hệ giao tiếp, cởi mở, hoà đồng, có tính độc
lập hơn, còn sinh viên Việt Nam thì ổn định cảm xúc hơn, lạc quan, táo bạo,
thích mạo hiểm, nhạy cảm, sáng suốt, sắc sảo, không thoả mãn với thực tại,
có tinh thần khám phá hơn.
Trước hết, phần cơ sở lý luận của nghiên cứu nhân cách tiến hành
công phu, đã nêu rõ được mục tiêu (hay yêu cầu) của đề tài, từ đó định ra
giới hạn của đề tài trong những khái niệm liên quan như nhân cách, phát triển
người. Tuy nhiên, cũng như Chương trình KX07, điểm mà người đọc cảm
thấy còn thiếu ở đây cũng chính là việc lý giải tại sao phải dùng các phương
pháp như đo trí tuệ, khảo sát xã hội học và nhất là vì sao lại chọn sử dụng
trắc nghiệm Cattell 16 PF mà không phải là trắc nghiệm nào khác, mặc dù
cũng cần phải nói rằng, việc Đề tài KHXH04 lần đầu tiên thực hiện một trắc
nghiệm tâm lý với số lượng điều tra trên 1000 phiếu là một nỗ lực rất đáng cổ
vũ. Nhưng nếu làm rõ hơn nữa lý do của việc sử dụng những phương pháp
này (nhất là việc sử dụng nguyên bản một bộ trắc nghiệm của nước ngoài đã
có từ lâu đời như Cattell liệu có phù hợp với tình hình Việt Nam hay không; có
thích hợp với mục tiêu của đề tài hay không), thì tính thuyết phục tăng lên rất
nhiều. Chính vì chưa có sự lý giải đầy đủ lý do và mục đích sử dụng các
phương pháp nên kết quả thu được chỉ dừng ở những điểm số chuẩn trung
bình cho phép có những nhận xét riêng lẻ về các đặc trưng nhân cách mà
không đi đến một hiện trạng nhân cách toàn diện của con người Việt Nam.
Việc dùng kết quả của Chương trình KX07 và sử dụng kết quả nghiên
cứu so sánh xuyên văn hóa của tác giả khác làm cho công trình mang tính kế
thừa, sinh động và tăng tính thuyết phục do có sự so sánh quốc tế. Tuy nhiên,
có một điểm cần thiết là phải đánh giá mặt mạnh, mặt yếu của những nghiên
cứu đã có (ví dụ Chương trình KX07) để có phương hướng khắc phục và
phát huy thìi Đề tài KHXH04 lại chưa làm được.
Trong phần kết luận đưa ra mô hình nhân cách cho con người Việt
Nam trong Giai đoạn mới, căn cứ để đưa ra mô hình khá phong phú: từ kết
quả phân tích hiện trạng nhân cách con người Việt Nam đương thời đến yêu
cầu về nhân cách của con người Việt Nam giai đoạn mới, từ kinh nghiệm của
cha ông đến kinh nghiệm của nước ngoài. Tuy nhiên, nếu thao tác tiến hành
tham khảo các căn cứ ở đây diễn ra tốt hơn thì chắc chắn đã đem lại kết quả
tốt hơn. Các căn cứ tham khảo hầu như chỉ được liệt kê ra mà không có sự
phân tích để chắt lọc đưa vào sử dụng trong mô hình như thế nào, chỉ có một
câu tuyên bố “trên cơ sở tổng hợp và khái quát các căn cứ trên”, nhưng tổng
hợp và khái quát như thế nào để đưa ra một mô hình nhân cách mới “phát
triển toàn điện, gắn bó nhịp nhàng, hài hoà giữa các mặt, nhân cách lành
mạnh" thì chưa rõ. Nói cách khác, mô hình nhân cách được rút ra trên cơ sở
của bốn kết quả nghiên cứu, nhưng bốn kết quả này chỉ được liệt kê lần lượt
nối tiếp nhau, bỏ qua khâu phân tích, tổng kết để đưa đến hiện trạng toàn
diện của nhân cách con người Việt Nam mà đi thẳng vào một mô hình lý
tưởng về nhân cách trong thời đại mới. Do đó, đề xuất giải pháp để có thể
thực hiện được một nhân cách lý tưởng như vậy dường như thiếu tính thuyết
phục.
3. Áp dụng NEO-PI-R vào đo nhân cách con người Việt Nam
Trên cơ sở những điểm mạnh và yếu của hai đề tài nghiên cứu nhân
cánh đã thực hiện trước đây có thể thấy rằng trong nghiên cứu nhân cách lần
này phải làm sao để nghiên cứu lý luận có thể thực sự làm cơ sở cho nghiên
cứu điều tra khảo sát. Nghiên cứu lý luận phải định rõ giới hạn của đề tài
nghiên cứu: giới hạn khái niệm nhân cách trong công trình nghiên cứu này, từ
đó mới đề ra được nội dung cơ bản của điều tra khảo sát (nội dung bộ câu
hỏi), lý do chọn lựa phương pháp điều tra: sử dụng phương pháp điều tra xã
hội học hay sử dụng phương pháp trắc nghiệm tâm lý, nếu sử dụng trắc
nghiệm tâm lý thì chọn phương pháp nào và lý do chọn sử dụng phương
pháp đó: vấn đề phương pháp lựa chọn có phù hợp với yêu cầu của đề tài
hay không nhất thiết phải làm rõ.
Tuy nhiên, nếu căn cứ vào mục tiêu nắm bắt đặc điểm nhân cách thời
nay của sinh viên và một số tầng lớp dân cư nhằm “xây dựng con người Việt
Nam trong điều kiện kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập quốc tế theo định
hướng xã hội chủ nghĩa” và những khảo sát trên đây có thể thấy rằng phương
pháp đo nhân cách phù hợp nhất chính là phương pháp năm yếu tố (Big Five)
NEO - PI - R. Bởi NEO - PI - R là một phương pháp mới ra đời (1992) và hiện
nay đang khá phổ biến trên thế giới, được nhiều nước chọn sử dụng trong
nghiên cứu nhân cách. Vì vậy ở đây chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn về phương
pháp này. Đặc biệt cần nghiên cứu kỹ lịch sử ra đời và những ưu nhược điểm
cần lưu ý khi vận dụng.
3.1. Lịch sử phương pháp:
3.1.1 Nghiên cứu từ vựng (lexical study)
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta đều nhận thấy mỗi người một
khác, không ai giống ai và sự khác nhau này thể hiện ra từ những hình thức
đơn sơ nhất. Nguồn gốc của mô hình năm yếu tố - FFM (Five Factor Model)
cũng là nhằm “quan sát người khác, ghi chép lại những sự sai khác giữa các
cá nhân đó”. Trong nghiên cứu từ vựng người ta giả định rằng "sự sai khác
giữa các cá nhân có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động con người được ký
hiệu hóa thành ngôn ngữ (ngôn ngữ tự nhiên - natural language) sử dụng
hàng ngày (giả thuyết từ vựng cơ bản - fundamental lexical hypothesis; L.R.
Goldberg, 1981). Do đó, nếu tập trung phân loại, chỉnh lý các từ ngữ biểu hiện
sự sai khác cá nhân (đặc tính ngữ) có trong từ điển hay những mô tả người
có trong tiếp xúc và ghi chép thì có thể nhìn thấy cấu trúc của nhân cách.
Những nghiên cứu về từ vựng được bắt đầu từ G.W. Allport và H.S.
Odbert (1936) cùng với sự phát triển của phương pháp phân tích yếu tố đã
phát triển thành ghi chép nhân cách dựa vào năm yếu tố. Tiếp theo, các
nglliên cứu của E.C. Tupes và R.E. Christal (l961) rồi W T. Norman (1963),
Goldberg, trên cơ sở xem xét lại bản chất ý nghĩa tâm lý của các yếu tố, đã đi
đến chỗ coi năm yếu tố là mô hình có thể ghi chép một cách bao quát về nhân
cách vượt qua sự phân loại đơn thuần về đặc tính ngữ (hay những từ ngữ
biểu thị đặc tính nhân cách, D.Peabody và L.R.Goldberg, 1989).
3.1.2. Nghiên cứu bằng phiếu câu hỏi
Phương pháp cấu thành thước đo trên cơ sở lý thuyết nhân cách và sử
dụng thước đo đó để ghi chép về những sự khác biệt cá nhân được gọi là
nghiên cứu phiếu hỏi hay nghiên cứu trên giấy chất vấn (questionnaire study).
Trong khi nghiên cứu từ vựng, xuất phát từ sự quan tâm đến từ vựng (đặc
tính ngữ) và cơ cấu của nó để hệ thống hóa theo phương thức từ dưới lên
(bottom up) và tìm ra đặc tính nhân cách ở thứ nguyên cao, thì trong nghiên
cứu giấy chất vấn chủ yếu người ta dùng phương pháp xác minh cấu trúc
nhân cách từ lý thuyết với phương thức từ trên xuống (top down). Do đó,
trong nghiên cứu này người ta phát kiến ra thước đo và cách kiểm chứng dựa
vào lý thuyết về nhân cách đặc thù.
Trong bối cảnh như vậy, những nghiên cứu nhằm nắm bắt nhân cách
một cách tổng quát đi tìm những mô hình dễ hiểu được tiến hành nhiều lần,
dần dần những thành tựu của nghiên cứu từ vựng và nghiên cứu giấy chất
vấn được đưa vào kết hợp lại và hình thành nên FFM. Kết quả là thước đo
với năm yếu tố định sẵn ra đời. Trong số đó có NEO - PI - R (Revised NEO
Personality Inventory), một mô hình hiện nay đang được sử dụng rộng rãi
nhất đã được P.T. Costa, Jr. và R.R. Mccrae đưa ra năm 1992. Thước đo này
gồm có 5 đặc tính (domain), mỗi đặc tính lại có 6 mặt (facet) và mỗi mặt lại có
8 item, tổng cộng là 24O item. Với giả định về cơ cấu tầng bậc của đặc tính
và mặt, người ta hy vọng sẽ nắm bắt được nhân cách một cách tổng quát và
chi tiết.
3.2. Vậ dụng phương pháp
3.2.1 Những ưu điểm và nhược điểm của mô hình năm yếu tố
Nhược điểm:
FFM bắt nguồn từ nghiên cứu từ ngữ, phân loại và chỉnh lý các từ ngữ
ghi chép sự khác biệt giữa các cá nhân. Năm yếu tố có được từ sự ghi chép
các đặc trưng hành động như vậy chẳng qua chỉ là thứ nguyên nhận thức
người khác của người quan sát chứ không phải là cấu trúc nhân cách. Đây là
một phê phán dai dẳng nhất đối với FFM. Thuộc tính (attribute) có thể quan
sát được được biểu hiện ra ở từ vựng vốn dĩ sinh ra từ nguyên nhân nào vẫn
chưa được làm rõ và như vậy cũng có nghĩa là không thể giải thích đầy đủ về
khởi nguồn của sự khác nhau giữa các cá nhân. Hơn nữa, việc lý giải dựa
vào đặc tính chung quá mang tính bề ngoài, vì thế có thể nói ở đây thiếu quan
điểm tìm hiểu tính cách dựa trên cơ sở bao hàm cả kinh nghiệm chủ quan
của từng người hoặc do tính cách chung chung và trừu tượng như vậy liệu có
thể đo được hành động trên thực tế đến mức nào cũng là câu hỏi chưa giải
đáp dược. Thêm vào đó, về bản chất của các yếu tố cơ bản đã có sự nhất trí,
những việc lý giải chung và đặt tên cho từng yếu tố hoàn toàn không có sự
thống nhất giữa các nhà nghiên cứu.
Ví dụ, rằng về yếu tố thứ năm tùy theo từng tác giả có thể được diễn
giải là “giáo dưỡng” (culture) theo Norman, là "trí tính (intellect) theo Peabody
và Goldberg, là "tính mở” (open to experience) theo Costa và Mccrae và có
khi còn được diễn giải là "tính ham chơi” (play - fullness).
Ưu điểm:
Mặc dù chịu nhiều phê phán như vậy nhưng mô hình FFM vẫn được
coi là có ích cho đo đạc nhân cách vì các ưu điểm sau. Thứ nhất, FFM đem
lại một khung nghiên cứu cơ bản khi ghi chép đặc tính nhân cách của con
người. Mô hình bắt nguồn từ phương pháp kinh nghiệm như phân loại và ghi
chép từ ngữ, đặc điểm này cung cấp một thước đo dễ hiểu đối với tất cả mọi
người khi cần chỉnh lý và nắm bắt toàn diện đặc trưng hành động thường
ngày của con người. Điều này đóng vai trò to lớn trong những lĩnh vực liên
quan đến trắc định và ứng dụng nhân cách như giáo dục, lâm sàng và công
nghiệp.
Thứ hai, đối với những lý thuyết là thước đo nhân cách được thể hiện
một cách riêng biệt đã có từ trước đến nay, FFM được đưa ra như một sự
tham khảo đối chiếu. Có thể sử dụng năm khung lớn để xem xét, chỉnh lý và
kết hợp lại với nhau rất nhiều các khái niệm về nhân cách đã được nghiên
cứu trước đây nhưng chưa có quan hệ với nhau. Thông qua thao tác này,
những đặc điểm nổi bật của các học thuyết đó sẽ được tô đậm thêm, những
gì từng bị che khuất sẽ trở nên sáng tỏ, việc chỉnh lý những phần còn chưa rõ
ràng có thể tiến hành được. Điều này không nhất thiết đi đến phủ nhận hết
những học thuyết đã có. Ngược lại, chúng có thể trở thành yếu tố kích thích
việc nghiên cứu mới phát triển. Ngoài ra, khi các khái niệm có liên quan đến
nhân cách, ví dụ hành động đối với người khác - hứng thú nghề nghiệp - nhu
cầu - trí năng, được chỉnh lý và liên hệ với nhau trên cơ sở lấy năm yếu tố là
thứ nguyên cơ bản thì có thể hy vọng có được sự phát triển hơn nữa trong
nghiên cứu.
Thứ ba, FFM có ưu điểm ở chỗ khơi dậy sự chú ý nhiều hơn đối với
các yếu tố đặc tính thường hay bị bỏ qua trong lý thuyết đặc điểm nhân cách
đã có. Việc đưa năm yếu tố, nhất là hoạt động nhận thức mang tính chất trí
tính và sáng tạo vào trong là thuyết đặc điểm nhân cách đã mang lại nhiều ý
nghĩa. (Việc quan tâm đến đặc tính “ham chơi” khiến cho sự lý giải về nhân
cách sâu sắc hơn).
Cuối cùng, FFM có khả năng trở thành chiếc cầu bắc qua lý thuyết về
đặc điểm nhân cách và nghiên cứu nhận biết con người. FFM thu thập những
thuộc tính có thể quan sát có khởi nguồn từ cách tiếp cận từ vựng được phân
loại, đây cũng là một trong những phê phán FFM trên phương diện lý thuyết
về đặc điểm nhân cách. Tuy nhiên, nếu coi năm yếu tố vừa là thứ nguyên đặc
tính vừa là thứ nguyên nhận biết người khác (và mình) thì FFM có khả năng
sinh ra những nghiên cứu mới kết hợp nhân cách với nhận thức xã hội.
3.2.2. Những điều cần lưu ý khi vận dụng thước đo năm yếu tố
FFM nảy sinh từ phương pháp đơn giản là quan sát và ghi chép sự
khác nhau giữa các cá nhân. Dựa vào việc kết hợp các kết quả nghiên cứu lý
thuyết tâm lý học và các lĩnh vực kề cận, cho đến nay người ta đang phát
triển để đi đến một mô hình giải thích và thuyết minh nguyên nhân của sự sai
khác cá nhân chứ không chỉ dừng lại ở việc phân loại và ghi chép về nhân
cách. Thời đại của “phân tích yếu tố về từ ngữ và thước đo sẽ tìm thấy năm
yếu tố” đã qua đi, bây giờ chính là lúc tìm kiếm xem có thể dự đoán và giải
thích đến mức nào về hành vi dựa vào FFM.
Mô hình năm yếu tố dù sao cũng chỉ là một mô hình để hiểu nhân cách.
Việc ghi chép bằng FFM chẳng qua chỉ là nhân cách đã được khái quát hơn
và trừu tượng hóa. Chúng ta có thể cho những người muốn biết về nhân cách
của bản thân mình kết quả điều tra nhân cách bằng FFM, nhưng những điều
họ chưa thỏa mãn vẫn còn nhiều. Hành động, tư duy, tình cảm của “cái Tôi
được biểu hiện trong sự giao hoa với muôn hình muôn vẻ của hoàn cảnh.
Tình huống và người khác được truyền đến chúng ta giống như một cái gì đó
“rất riêng của người đó” chứ không thể nắm bắt như những “đặc tính” đã
được khái quát hóa, trừu tượng hoá. Việc hiểu nhân cách qua "đặc tính phải
được bổ sung hoàn thiện bằng những ghi chép về kinh nghiệm của các cá
nhân như vậy. Hơn nữa, FFM hiện nay tuy được coi là hữu hiệu để hiểu nhân
cách song không có nghĩa là một mô hình hoàn thiện cố định. Mô hình có thể
được thường xuyên tu chỉnh và mở rộng bằng cách thường xuyên đưa vào
những kinh nghiệm của từng cá nhân.
Khi Việt hóa bộ công cụ NEO-PI-R, cần tham khảo những chủ trương,
chính sách và văn hóa - xã hội Việt Nam. Nhật Bản khi sử dụng Neo-PI-R
cũng đã căn cứ trên chủ trương phát triển suốt đời của xã hội chuẩn hóa
(Nhật hóa) trên cơ sở lưu ý đến sự thích ứng với các loại tuổi tác từ mới
trưởng thành đến thời kỳ cao tuổi thích ứng sử dụng trong nghiên cứu so
sánh quốc tế. Người ta đã tiến hành dịch rất cẩn thận, gồm cả khâu dịch
ngược dựa vào bản dịch và nguyên tắc.
Một điểm thuận lợi khi sử dụng thước đo này là có thể thu được nhiều
kinh nghiệm, hiểu biết mang tính văn hóa so sánh từ những kết quả nghiên
cứu của nhiều tích lũy kết quả nghiên cứu của nguyên bản sẽ giúp cho chúng
ta thuận lợi hơn trong việc lập giả thuyết và dự đoán dựa trên đó. Trong
trường hợp khó trả lời cả 240 item, có thể cùng sử dụng bản thu nhỏ 60 item
(NEO- FFI). Tuy nhiên, những nghiên cứu văn hóa so sánh sử dụng thước đo
này cũng mới chỉ bắt đầu (1992), vì thế tên của thước đo và nội dung của nó
liệu có thích ứng với nước mình hay không (nếu không thay đổi gì) vẫn còn là
một vấn đề cần bàn kỹ.
Để glải quyết nghi vấn này - tức là nếu cứ để nguyên một bộ câu hỏi
dựa vào thước đo của xã hội Âu - Mỹ thì có thích hợp với nước mình không
hay có thể biên soạn lại theo nhiều cách, chẳng hạn, có thể rút gọn lại hết
mức cho ngắn gọn hơn, thay vì 5x6x8 = 240 item thì 5x6x6 = 150 item; có thể
trung lập hóa nội dung và tên gọi các mục để tránh sự lệch lạc trong trả lời do
lẫn lộn phán đoán giá trị và nguyện vọng mang tính xã hội, hoặc có thể viết
song song cả ưu điểm và nhược điểm của các đặc tính, v.v..
D. VỀ NHÂN CÁCH VÀ MÔ HÌNH NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT NẠM TRONG GIAI ĐOẠN CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
TS. NGUYỄN XUÂN THỨC
Vấn đề nhân cách và mô hình nhân cách con người Việt Nam trong giai
đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đặt ra với lý do như sau: Về lý luận,
nhân cách là phạm trù trung tâm trong khoa học tâm lý, sản phẩm hội tụ các
vấn đề cơ bản của tâm lý học, nếu giải quyết đề cơ bản khác trong khoa học
tâm lý. Xuất phát từ thực tiễn xã hội, trong quá trình phát triển của nhân loại
trải qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau cũng như trong thực tiễn phát
triển xã hội Việt Nam thì bao giờ yếu tố con người cũng được xác định là yếu
tố trung tâm, động lực chủ yếu cho sự phát triển xã hội. Đặc biệt trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc chuẩn bị tiềm năng con người là
nguồn lực cơ bản để xây dựng đổi mới đất nước đi bào công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Nội dung bài viết này đề cập các vấn đề lý luận về nhân cách trong tâm
lý học, trên cơ sở đó phác thảo mô hình nhân cách con người Việt Nam trong
giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
I. VẤN ĐỀ NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC
Trong ngôn ngữ cho nước trên thế giới và ngôn ngữ Việt Nam, có các
thuật ngữ liên quan với nhau như "con người”, "cá nhân”, "nhân cách”, "cá
tính”. Giữa các thuật ngữ này có những nét chung và nét riêng.
- “Con người” là một thực thể bao gồm hai mặt, măt tự nhiên - toàn bộ
các yếu tố sinh học của con người như đặc điểm cơ thể, não, giác quan... và
thực thể xã hội nói lên con người là thành viên của xã hội và chủ thể xã hội
bao gồm các dấu hiệu: có ý thức, ngôn ngữ, tư duy trừu tượng... Khi nghiên
cứu con người cần tiếp cận theo ba mặt sinh học tâm lý xã hội.
- "Cá nhân" là một con người cụ thể, độc lập với số đông cũng bao gốm
hai mặt tự nhiên và xã hội được xem xét cụ thể riêng từng người với các đặc
điểm tâm sinh lý xã hội để phân biệt giữa các cá nhân khác trong cộng đồng.
- “Nhân cách" chỉ bao gồm mặt xã hội trong con người, trừu xuất khỏi
con người các yếu tố sinh học, mặt tự nhiên.
- "Cá tính” bao gồm nét riêng, đặc trưng độc đáo, có một không hai,
không lặp lại trong con người, làm cho người này khác với người khác. Cá
tính được quy định bởi điều kiện sống và hoạt động của chính con người.
Giữa các thuật ngữ "con người", "cá nhân”, "nhân cách”, “cá tính” có
điểm trùng nhau nhưng không đồng nhất. Thuật ngữ “nhân cách” chỉ mặt xã
hội trong von người, với tư cách là chủ thể của các hành vi và hoạt động của
con người, chủ thể của các mối quan hệ xã hội trong công đồng người. Nhà
tâm lý học Xô viết X.L. Rubinstein khi nói về mối quan hệ giữa các khái niệm
trên đã viết: Con người là cá tính do đó có những thuộc tính đặc biệt không
lặp lại, con người là nhân cách do đó xác định quan hệ của mình với những
người xung quanh một cách có ý thức.
1. Nhân cách
Nhân cách là mạo phạm dù cơ bản trong tâm lý học. Có thể dẫn ra
hàng trăm định nghĩa về nó, có định nghĩa ngắn chỉ một dòng như của nhà
tâm lý học Nga K.K.Platonov, có định nghĩa dài gần một trang như của
A.Kossakowski, có dòng định nghĩa của phương Đông, có cách tiếp cận của
phương Tây. Kể ra như vậy để thấy rằng về khái niệm nhân cách trong tâm lý
học có rất nhiều ý kiến và chưa có sự thống nhất.
Hiểu khái niệm nhân cách thực chất là hiểu và giải quyết các vấn đề
động lực, bản chất nhân cách. Hiện nay, trong tâm lý học có nhiều lý thuyết
nhân cách khác nhau. Có thể khái quát thành bốn xu hướng cơ bản bàn về
nhân cách dựa trên nền tảng nguyên tắc quyết định luận tâm lý.
Xu hướng thứ nhất - nhấn mạnh khía cạnh tâm lý trong nguồn gốc, biểu
hiện của nhân cách như các nhà tâm lý học W.Wundt, W.Stern.
W.Wundt là nhà tâm lý học nội quan nồi tiếng, trong tác phẩm Nhập
môn tâm lý học, trong quan niệm hiện tượng tâm lý là hiện tượng tinh thần tồn
tại trong não bộ con người. Nguồn gốc tâm lý và nhân cách là do một hiện
tượng tinh thần khác tự nó có ở trong não sinh ra, đó là "ý thức", "tổng giác".
Mối quan hệ tâm lý - nhân cách “ý thức”, “tổng giác” là mối quan hệ khép kín
trong não, không có quan hệ gì với thế giới khách quan bên ngoài. Phương
pháp tìm hiểu, nghiên cứu nhân cách là phương pháp nội quan – tự quan sát.
W.Stern từ nhưng năm 1900 đã xuất bản tác phẩm vấn đề tâm lý học
nhưng khác biệt cá nhân. Các khái niệm nhân cách như một kiến trúc hoàn
chỉnh của đời sống "tâm lý” con người, W.Stern đã đưa ra khái niệm "Person"
để chỉ bất cứ thực thể nào có khả năng tự xác định và tự phát triển, cả trong
thế giới vô cơ, lẫn hữu cơ. Theo quan điểm của ông, thế giới là một tổ chức
có thứ lạc của che "Person” mà ở trình độ con người thì những “Person" này
có được những thuộc tính của nhân cách (Personality), những bộ phận phụ
thuộc riêng lẻ của “Person" được W.Stern gọi là “sự vật” mà các quy luật tồn
tại. Của chúng tuân theo những quy luật hoạt động của các "Person".
Mặc dù W.Stern dã xác định lập trường triết học của mình là khắc phục
cả chủ nghĩa duy tâm lẫn chủ nghĩa duy vật và nhấn mạnh tính chất trung tính
về tâm sinh lý của các “Person” nhưng thực chất ông đã tâm lý hoá tất cả mọi
tồn tại bằng cách dưa vào bất cứ một "Person" nào các thuộc tính nhân cách
con người. Như vậy, quan điểm của W.Stern về nhân cách là một triết thuyết
duy tâm, xem tâm lý học là một khoa học về các “Person” mang những trải
nghiệm, những rung động.
Xu hướng thứ hai - sinh vật hóa nhân cách như phân tâm học của
S.Freud, C.G.Jung, E.Kretschmer, v.v nhấn mạnh khía cạnh sinh học trong
nguồn gốc, biểu hiện của nhân cách con người.
Thuyết nhân cách của S.Freud
Phân tâm học là một lý thuyết có ảnh hưởng rộng lớn nhất trong số các
học thuyết theo xu hướng sinh vật hóa nhân cách. Cha đẻ của thuyết phân
tâm là S.Freud, một thầy thuốc tâm thần người Áo. Quan niệm của S.Freud
về lthân cách bao gồm ba mặt: lý thuyết về cấu tạo nhân cách, sự phát triển
nhân cách và động lực của sự phát triển nhân cách.
Theo S.Freud, nhân cách con người bao gồm ba bộ phận: "bản năng",
“ý thức" và "siêu thức".
Bản năng được ví như một khối chứa đựng các bản năng sinh học của
con người, trong đó cái lõi cơ bản là bản năng tình dục. Khối này hoạt động
theo nguyên tắc thoả mãn. Nếu cứ để mặc tự nhiên thì vô thức (bản năng) sẽ
tìm cách thoả mãn ngay tức khắc các nhu cầu, động cơ bất chấp hoàn cảnh
thực tế và bất chấp luân lý đạo đức.
Ý thức bao gồm những hành vi và ứng xử đã được lành thành trong
cuộc sống bằng kinh nghiệm để đối phó với ngoại giới. Bộ phận này hoạt
động theo nguyên tắc hiện thực (thực tiễn), kìm hãm bản năng hoặc hướng
các bản năng theo những con đường, những lối mà xã hội chấp nhận để thích
nghi được những hoàn cảnh thực tế của cuộc sông hằng ngày.
Siêu thực gần giống như cái ta gọi là lương tâm. Nó bao gồm những
nguyện vọng, mong muốn khó có thể đạt được của con người. Bộ phận này
hoạt động theo nguyên tắc kiểm soát, kiểm duyệt. Bộ phận siêu thức kiềm
chế hoạt động của “bản năng” và "ý thức”; và thúc đẩy cá nhân tiến dần lý
tưởng mà "ý thức” đã hình thành từ lúc thiếu thời.
Theo S.Freud, nhân cách là một tổ hợp của ba bộ phận trên và các bộ
phận trên tồn tại không ôn hoà trong nhân cách con người, giữa chúng luôn
mâu thuẫn, đấu tranh với nhau và bao giờ bộ phận "vô thức” với các bản
năng tình dục cũng chiến thắng và quyết định cho toàn bộ hành vi ứng xử tâm
lý của con người. Động lực của sự phát triển nhân cách xuất phát từ các nhu
cầu động cơ mang tính sinh học các nhu cầu cơ thể mà trước hết và cơ bản
là nhu cầu, bản năng tình dục là động lực chính. Xuất phát từ đó S.Freud đã
giải thích tất cả các hiện tượng tâm lý của con người từ cấp độ cá nhân tại
sao nói "nhịu”, "ngọng”, đến cấp độ quan hệ trong gia đình – tại sao con gái
thích cha, con trai thích mẹ; cấp độ xã hội - tại sao sinh ra chiến tranh...
Như vậy, với phân tâm học, khi bàn đến nhân cách, S.Freud đã đối lập
hoàn toàn với các nguyên tắc cơ bản của tâm lý học duy vật biện chứng:
tuyệt đối hoá yếu tố vô thức, bản năng sinh vật trong nhân cách con người,
coi bản chất nhân cách - bản chất và nguồn gốc sinh học tách biệt với các
điều kiện xã hội và môi trường xã hội, nơi con người sống và hoạt động. Phủ
nhận vai trò dạy dỗ giáo dục và đặc biệt là vai trò của hoạt động cá nhân con
người là đặc điểm nổi bật trong thuyết phân tâm học của S.Freud.
Thuyết nhân cách của C.G.Jung, E.Kretschmer
C.G.Jung, E.Kertschmer nhìn nhận nhân cách con người đơn thuần ở
các đặc điểm sinh học, thể tạng, con người, đặc điểm của hệ thần kinh.
Chẳng hạn E.Kretschmer cho rằng các thành phần cấu tạo cơ thể có mối
quan hệ và quy định các thành phần tâm lý của nhân cách: Những người
mảnh khảnh thì nhạy cảm, hướng nội, kỷ luật, kín dáo, tự kỷ. Những người
béo mập thì hồ hởi, hướng ngoại, vui tính, hào phóng, dễ thích nghi. Những
người lực lưỡng thì chậm chạp dễ nổi giận, ít nói, cứng nhắc. W.H.Scheldon
cũng có những miêu tả tương tự: Những người dong dỏng cao thì nhạy cảm,
rụt rè, kín đáo, hướng nội, tò mò, ham hiểu biết. Những người vạm vỡ, thể
tạng trung bình thì tích cực, hung hăng, ít nhạy cảm, cứng nhắc, thiếu thận
trọng.
Quan niệm phân kiểu học nói trên chỉ là sự mô tả mối quan hệ bên
ngoài giữa các thành phần tâm lý với các thành phần cấu tạo cơ thể chứ
chưa thấy được bản chất của nhân cách con người.
Xu hướng thứ ba - xã hội hóa nhân cách như các học thuyết hành vi
của F.B.Watson, thuyết siêu đẳng và bù trừ của Alfred Adler, thuyết lo lắng
của K.Horney, thuyết phát huy bản ngã của A.Maslow, thuyết tương tác xã hội
của G.H.Mead.
Thuyết hành vi của F.B.Watson, E.C.Tolman, Hull và B.F.Skinner.
Nội dung Cơ bản của thuyết hành vi thể hiện bốn điểm trong một bài
báo đầu tiên được công bố vào năm 1913 của F.B.Watson với nhan đề "Tâm
lý học dưới con mắt của một nhà hành vi".
Tâm lý học hành vi là một ngành thực nghiệm khách quan của khoa
học tự nhiên, nó không mô tả, không giảng giải các trạng thái ý thức mà quan
tâm nghiên cứu đến hành vi thực của tồn tại người.
Hành vi là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học hành vi. Hành vi là tổng
số các phản ứng, cử động bên ngoài của con người nhằm thích nghi với môi
trường với tư cách tồn tại sống mà có thể quan sát được.
Nguồn gốc của hành vi là kích thích từ môi trường bên ngoài và được
tạo lập từ môi trường bên ngoài. F.B.Watson viết: “Hành vi không xuất phát từ
bên trong, không từ ý thức còn người ra, mà từ môi trường vào và hành vi
được tạo lập từ môi trường bên ngoài không liên quan gì đến ý thức được coi
là ý thức bên trong”.
Cơ chế hình thành hành vi (tâm lý) được hiểu theo công thức nổi tiếng:
S R
(S - kích thích, R - phản ứng, hành vi)
Mối quan hệ giữa kích thích và phản ứng là mối quan hệ trực tiếp,
không thông qua biến số trung gian nào. Cứ có kích thích là có phản ứng vì
ngược lại, biết phản ứng, hành vi, tâm lý là biết được kích thích bên ngoài (S).
Mục đích của thuyết hành vi là điều khiển hành vi. Toàn bộ việc điều khiển
hành vi dựa vào chỗ cứ có hoặc biết một trong hai yếu tố (kích thích hoặc
hành vi, phản ứng) thì sẽ biết được yếu tố tương ứng thứ hai. Cho nên điều
quan trọng hành đầu là phải tạo ra kích thích (môi trương kích thích).
F.B.Watson tuyên bố: “Các bạn hãy đưa cho tôi một tá trẻ con bình thường và
một trường chuyên biệt cho việc giáo dục chúng, và tôi bảo đảm là lấy bất kỳ
đứa nào trong bọn chúng, tôi có thể biến nó thành một chuyên gia bất cứ loại
nào mà các bạn muốn - bác sĩ, luật sư, nhà buôn, thậm chí một kẻ ăn mày,
hay kẻ ăn cắp - không tính gì đến tài năng, thiên hướng xu thế, năng lực, ước
vọng của trẻ, cũng không kể gì đến chủng tộc của cha ông chúng”.
Nguyên tắc hình thành và điều khiển hành vi là nguyên tắc “thử và sai”
chứ không phải là nguyên tắc hoạt động có ý thức:
Phương pháp nghiên cứu tâm lý với quan điểm xuất phát tâm lý học
phải thực sự nghiên cứu cuộc sống thực tháng ngày của con người, tức là
các hành vì hàng ngày, nên phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương
pháp quan sát khách quan.
Với bốn nội dung cơ bản trên, khi bàn về nhân cách cơ chế hình thành
nhân cách, tâm lý học hành vi đã tuyệt đối hoá vai trò của yếu tố môi trường
xã hội bên ngoài với sự bình thành nhân cách, môi trường như thế nào thì
nhân cách đúng như thế và môi trường ở đây không phải là môi trường rộng
lớn với nhiều quan hệ xã hội, mà môi trường này chỉ bó hẹp là tổng số các
kích thích được tạo ra của môi trường bên ngoài.
Cơ chế hình thành tâm lý, nhân cách là cơ chế "thử và sai”, cơ chế thụ
động đáp lại kích thích ngoại giới của chủ thể như một cái "máy vật lý" chữ
không thấy được nhân cách vừa là khách thể, vừa là chủ thể của thế giới bên
ngoài, không thấy được vai trò của hoạt động cá nhân con người trong việc
tạo lập và hình thành nhân cách con người.
Các thuyết hành vi mới của Tolman, Hull, hành vi bảo thủ của
B.F.Skinmer có sự bổ sung yếu tố trung gian vào giữa công thức
S -> R nhưng xét cho cùng vẫn là thuyết hành vi cổ điển của Watson.
Thuyết siêu đẳng và bù trừ của Alfred Adler
Mặc dù là học trò của Freud nhưng A. Adler đã đi theo hướng chống lại
thuyết sinh học của Freud. A. Adler cho rằng không phải bản năng tự nhiên
trong con người là cơ bản, cốt lõi mà có một thứ đóng vai trò quan trọng hơn,
đó là "tình cụm xã hội" được gọi là “tình cảm chung". Đây được coi là "năng
lực tâm hồn” sinh ra cùng con người và được phát triển bởi xã hội. A. Adler
cực lực phản đối bản năng tình dục trong học thuyết của Freud. Ông khẳng
định cái quyết định sự phát triển nhân cách chính là mong muốn “siêu đẳng”
con người hướng tới sự siêu đẳng nhưng mong muốn này có thể không thực
hiện được do những khiếm khuyết cơ thể khi mới sinh ra hoặc do những điều
kiện sống không tuận lợi… Do vậy con người xuất hiện cảm giác thiếu hoàn
thiện. Để khắc phục được cảm giác đó con người tìm tới phương thức “bù
trừ”. Sự “bù trừ” này có nhiều mức độ khác nhau, tạo ra những phong cách
sống khác nhau. Khi con người cố gắng hoàn thiện bản thân thì nó cũng đồng
thời mang lại lợi ích cho xã hội. Hộc thuyết siêu đẳng và bù trừ của A. Adler
đã phủ nhận sự quyết định trực tiếp của cái sinh vật tới sự phát triển nhân
cách, coi nhân chác phát triển theo logic của xã hội. Có thể coi rằng A. Adler
là dấu nối đầy màu sắc từ Freud tới tâm lý học nhân văn trong vấn đề nhân
cách.
Xu hướng thứ tư - tâm lý học hoạt động về nhân cách đại diện là các
nhà tâm lý học Xôviết A.N.Leonchiev, X.L.Rubinstein, L.X. Vưgotxki.
Dựa trên tiền để để xem xét vấn đề nhân cách là tư tưởng triết học Mác
- Lê nin về con người và nhân cách con người được thể hiện trong cáo tác
phẩm triết học như Bản thảo kinh tế - triết học 1884, Luận cương về
Feuerback, Hệ tư tưởng Đức, các nhà tâm lý học mácxít xác định rằng:
Bản chất nhân cách là bản chất xã hội lịch sử. “Bản chất cá nhân không
phải là râu, không phải là tóc, không phải là tính chất vật lý trừu tượng của cá
nhân đó, mà là chất xã hội của cá nhân đó".
Nhân cách là con người có ý thức: "Phải xuất phát từ những cá nhân
thực, mà xem xét ý thức như là ý thức của cá nhân”.
Nhân cách con người dược hình thành trong mối liên hệ giữa người
này và người khác trong xã hội: “chỉ có khi nào coi con người Pôn giống như
mình thì con người Pie mới bắt đầu coi bản thân mình là một con người.
Đồng thời, đối với Pie, thì Pôn bằng xương, bằng thịt trong thân thể của anh
ta lại là hình thái biểu hiện của giống người”.
Hoạt động con người sáng tạo ra nhân cách con người. Hoạt động
sống của cá nhân như thế nào thì tình hình của bản thân họ cũng như vậy”.
Điều kiện để hình thành phát triển nhân cách là môi trường xã hội với
các quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế và quan hệ liên nhân cách.
Sự phong phú về nhân cách con người hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự
phong phú của các quan hệ xã hội, vào toàn bộ các kinh nghiệm của cuộc
sống xã hội đã được ghi lại trong các công cụ sản xuất, nền văn hoá và chính
trong các quan hệ xã hội.
Với tư tưởng như trên các nhà tâm lý học mácxít khi bàn đến nhân
cách không phủ nhận các yếu tố sinh học trong cơ thể người đối với nhân
cách, không tuyệt đối hoá yếu tố môi trường với nhân cách, mà thừa nhận vai
trò của tất cả các yếu tố, nhưng bản chất nhân cách phải là bản chất xã hội
tích tụ và do yếu tố hoạt động của chính chủ thể con người tạo nên. A.N
Leonchiev, nhà tâm lý học Liên Xô thể hiện tư tưởng cơ bản trên về nhân
cách của mình và cũng là quan điểm của các nhà tâm lý học mácxít trong tác
phẩm hoạt động - Ý thức - Nhân cách: “Nhân cách là một cấu tạo tâm lý mới
được hình thành trong những quan hệ sống của cá nhân, do kết quả hoạt
động cấu tạo của người đó”. Hoặc như Phạm Minh Hạc định nghĩa: tóm lại,
nhân cách là tổ hợp các thái độ, thuộc tính riêng trong quan hệ hành động
của mỗi người với thế giới cự nhiên thế giới đồ vật do loài người sáng tạo, với
xã hội và với bản thân”.
2. Cấu trúc nhân cách
Bàn về cấu trúc nhân cách là nói tới các thành tố của nhân cách, tạo
thành một hệ thống có thành tố trung tâm và cho thành tố khác có quan hệ
chặt chẽ và thống nhất với nhau. Có nhiều lý thuyết tâm lý học bàn về cấu
trúc nhân cách. Ở đây xin nêu ra một số quan niệm cơ bản.
2.1. Cấu trúc nhân cách phân biệt ở phương Đông và Việt Nam
Quan điểm nhân cách con người trong triết học phương Đông.
Phương Đông ở đây được giới hạn lại trong một vùng không gian chịu
ảnh hưởng của một số nền triết học lớn thời cổ châu Á: Nho giáo, Lão giáo,
Phật giáo. Nếu lấy Trung Quốc làm đại diện để nghiên cứu về nhân cách con
người phương Đông thì chúng ta cũng thấy tính đa dạng trong quan niệm
nhân cách cơn người. Lúc đầu, nền văn hoá Trung Quốc là sự tập hợp một
số văn hoá tộc người khác nhau, trong đó nổi bật hai nền văn hóa chủ đạo:
”trung tâm” và “phía nam”, thừa hưởng hai truyền thống văn hóa lớn là Khổng
giáo và Lão giáo. Truyền thống văn hóa Hán là sự tổng hợp của hai chất văn
hóa trên và chịu ảnh hưởng của Phật giáo.
Xin đơn cử quan niệm của Phật giáo về nhân cách con người phương
Đông. Phật giáo là tôn giáo chủ trương đi tới “vô ngã”. Triết học về vô ngã
quan niệm rằng mọi sự vật đều có ba đặc trưng cơ bản: tạm thời đau khổ và
vô ngã mà vô ngã là quan trọng nhất và cuối cùng. Triết lý vô giá phủ nhận sự
tồn tại của một cái ngã cá nhân, coi cái tôi chỉ là một nhân cách kinh nghiệm
hay là một tập hợp tạm thời. Ngã không thể là bất tử, mà là một tồn tại ước lệ,
là kết quả của kinh nghiệm thường ngày. Tất cả mọi nỗ lực của giới tu hành
bỏ nguyên nhân và điều kiện đưa lại đau khổ và sự tồn tại tạm thời của con
người để đạt tới trạng thái vô ngã, đồng thời cũng là trạng thái giải thoát.
Theo quan niệm Phật giáo, ý tưởng về ngã không phù hợp với hiện thức và
đó là nguyên nhân gây ra ý nghĩ về “cái Tôi”, “của Tôi”. Càng hướng tới vô
ngã thì ý thức về ngã càng mạnh. Nói cách khác, trước khi đi tới vô ngã, ý
thức về ngã được khẳng định hơn bao giờ hết, khi ngã bị diệt trừ cũng là khi
ngã được giải thoát. Mục đích cuối cùng của người theo Đạo Phật là giải
thoát cho “cái Tôi”. Chỉ khi nào hóa thành Phật thì mới có khả năng cứu khổ,
cứ nạn cho chúng sinh.
Cấu trúc nhân cách phổ biến hiện nay ở Việt Nam là phương Đông cho
rằng nhân cách con người bao gồm hai thành phần cơ bản là Đức và Tài. Hai
mặt trên quan hệ lồng ghép vào nhau, thống nhất với nhau để tổ hợp nên
nhân cách con người.
Phẩm chất (Đức) Năng lực (Tài)
- Phẩm chất xã hội (đạo đức,
chính trị như thế giới quan, lý
tưởng, niềm tin, lập trường...)
- Phẩm chất cá nhân (đạo đức,
tư cách: các nết, các thói...)
- Phẩm chất ý chí: Tính mục
đích, tính tự chủ, tính kỷ luật,
tính quả quyết, tính phê phán...
- Cung cách ứng xử: Tác phong,
lễ tiết, tính khí...
- Năng lực xã hội hoá: Khả năng thích
ứng, hoà nhập, tính mềm dẻo cử động,
linh hoạt trong cuộc sống.
- Năng lực chủ thể hoá: khả năng thể hiện
tính độc đáo, đặc sắc, khả năng thể hiện
cái riêng, cái “bản lĩnh” của cá nhân.
- Năng lực hành động: Khả năng hành
động có mục đích, chủ động, tích cực, có
hiệu quả.
- Năng lực giao lưu: Khả năng thiết lập và
duy trì mối quan hệ với người khác.
2.2. Một số cấu trúc nhân cách của các nhà tâm lý học Xôviết
Trước hết, các nhà tâm lý học Xôviết coi cấu trúc nhân cách là một tổ
hợp các thuộc tính tâm lý chứ không phải là sự cộng lại đơn giản máy móc
các thuộc tính tâm lý và sự hình thành nhân cách là sự hình thành trọn vạn
các thành phần tâm lý trong mối quan hệ lẫn nhau. Hai là, xác lập cấu trúc
nhân cách trên cơ sở cuộc sống thác và hoạt động thực của con người, với
các nguyên tắc cụ thể đã đưa ra nhiều mô hình cấu trúc nhân cách.
B.G.Ananhiev trên cơ sở hai nguyên tắc: nguyên tắc thứ bậc và nguyên
tắc phối thuộc đã đưa ra cấu trúc nhân cách bốn thành phần: ba thành phần
cũ là các hiện tượng tâm lý cơ bản (quá trình tâm lý, trạng thái tâm lý, thuộc
tính tâm lý), còn thành phần thứ tư là quá trình chung của sự hình thành động
cơ hành động, trong đó có nhu cầu và tâm thế.
K.K. Platonov cho rằng cấu trúc hệ thống của nhân cách gồm bốn
thành phần cơ bản:
Tiểu câu trúc xu hướng nhân cách: nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế
giới quan.
Tiểu cấu trúc vốn tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Tiểu cấu trúc và các quá trình tâm lý cá nhân: cảm giác, tri giác, trí nhớ,
tư duy.
Tiểu cấu trúc có nguồn gốc sinh học, bao gồm khí chất, giới tính, lứa
tuổi...
A.G.Kovaliov có quan niệm về cấu trúc nhân cách khá tiêu biểu. Nhân
cách bao gồm bốn thuộc tính: xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực.
Xu hướng nói lên chiều hướng phát triển của nhân cách con người.
Tính cách biểu hiện con người đó như thế nào, bộ mặt đạo đức, cốt
cách của con người.
Năng lực là khả năng hoạt động của con người ở một lĩnh vực hoạt
động nhất định.
Khí chất thể hiện động thái hoạt động, hành vi con người.
2.3. Cấu trúc nhân cách của các nhà tâm lý học phương tây:
Cấu trúc nhân cách trong tâm lý học phương Tây thể hiện rõ trong các
thuyết nhân cách. Nhìn khái quát có thể chia làm sáu nhóm.
Nhóm 1: Các thuyết về kiểu - nhân cách có thể được phân loại thành
một số ít nhóm hoặc kiểu như thuyết bốn tính cách của Hippocrate, chỉ báo
kiểu MyersBiggs, các kiểu ngoại hình của Sheldon.
Nhóm 2: Các thuyết về nét nhân cách: ứng xử con người có thể được
cấu trúc bởi cách đặt tên và phân loại thông đặc trưng nhân cách có thể quan
sát thấy như thuyết tiếp cận nhấn cách của Allport, tôn ti kiểu nhân cách của
Eysenck, năm chiều kích lớn về nhân cách.
Nhóm 3: Các thuyết tâm động. Nhân cách được nhào nặn và ứng xử,
được thúc đẩy bởi các lực nội tại, như thuyết pháp phân tâm học của
S.Freud, thuyết siêu đẳng và bù trừ của Alfred Adler, tâm lý học phân tích của
C.G.Jung.
Nhóm 4: Các thuyết nhân văn. Nhân cách được điều khiển bởi nhu cầu
phát huy các tiềm năng bản thân, như thuyết tiếp cận lấy cá nhân làm trung
tâm của Carl Rogers.
Nhóm 5: thuyết học tập và nhận thức xã hội. Nhân cách được nhào nặn
bởi môi trường hoặc các lối tư duy với thuyết xây dựng nhân cách của
George Kelly.
Nhóm 6: Thuyết nhận thức và học tập xã hội với các thuyết nhận thức
học tập xã hội của Mischel.
Một số cấu trúc nhân cách cơ bản trong các nhóm lý thuyết bề nhân
cách.
Thuyết bốn tính cách của Hippocrate
Hippocrate là thầy thuốc người Hy Lạp, ông quan niệm con người chứa
bốn thể dịch cơ bản gọi là tính cách, mỗi tính cách kết hợp với một khí chất
đặc thù. Nhân cách một con người tùy thuộc tính khí nào chiếm ưu thế trong
cơ thể người đó. Hippocrate phân loại bốn tính khí của cơ thể song song với
những khí chất của nhân cách:
- Máu = khí chất hăng hái: vui vẻ và chủ động.
- Đờm dãi = khí chất lạnh lùng: vô cảm và uể oải.
- Mật đen = khí chất u sầu: buồn rầu và ủ rũ.
- Mật vàng = khí chất cáu bẳn: dễ cáu kỉnh và hưng phấn.
Hệ bốn tính cách của Hippocrnte tốn tại trong nhiều thế kỷ và không
dựa trên cơ sở khoa học nào mà chỉ dựa vào những nhận dạng cảm tính bên
ngoài con người do nhân cách và tính khí không chịu sự điều khiển của các
thể dịch trong có thể. Quan niệm về cấu trúc nhân cách này chỉ được coi là
sự gợi ý tìm hiểu các thành phần trong cấu trúc nhân cách.
Thuyết nhân cách của H.J.Eysench
H.J. Eysench, một chuyên gia hàng đầu về lý thuyết nhân cách, dựa
trên các trắc nghiệm nghiên cứu của mình đã kết luận có ba chiều kích nhân
cách rộng lớn: hướng ngoại, nhiễu tâm (ổn định hoặc mất ổn định) và loạn
tâm (tư duy thực tiễn hoặc không thực tiễn). Sự khác biệt nhân cách là dựa
trên ba chùm kích căn bản do sự khác biệt về gien sinh học giữa con người
gây ra.
H.J. Eysenck đã đưa ta mô hình bốn mức độ của nhân cách. Mức độ
thấp là khả năng phản ứng của cả nhân đối với các kích thích có thể đặc
trưng cho cá nhân, có thể không. Mức độ thứ hai là mức của các phản ứng
theo thói quen lặp lại trong những tình thiêng nhất định. Mức độ thứ ba là
những nét nhân cách. Mức độ thứ tư là mức độ kiểu nhân cách ông cũng đưa
ra hệ thống hai chiều để đo nhân cách và trắc nghiệm để đo nhân cách. Dưới
đây là sơ đồ của kiểu nhân cách hướng nội thể hiện rõ mô hình bốn thứ bậc
của H.J.Eysenck:
Qua cấu trúc thứ bậc như trên của nhân cách cho thấy, thứ bậc của
các yếu tố tạo nên nhân cách con người, nhưng không cho thấy cơ chế và
chiều hướng vận động của nhân cách. Đây là hạn chế của cách tiếp cận yếu
tố cấu trúc nhân cách.
Thuyết tiếp cận nhân cách của Gordon Allport
G.Allport là một trong những lý thuyết gia nổi tiếng về nhân cách con
người. Theo ông, mỗi con người có một nét nhân cách đặc trưng độc đáo
riêng cũng như có một số nét đặc trưng chung cùng tạo thành một tổ hợp độc
nhất vô nhị về nhân cách.
G.Allport nhìn các nét nhân cách như là các khối kiến thức tạo nên
nhân cách nối kết và hợp nhất các phản ứng của một cá nhân. Allport cho
rằng có ba loại nét nhân cách:
- Nét căn bản là một nét nhân cách như một trục mà xung quanh đó,
một cá nhân tổ chức ra cuộc sống của mình.
- Nét nhân cách trung tâm được xem là một đặc trưng chính của một cá
nhân như tính thật thà, óc lạc quan,…
- Nét nhân cách thứ yếu là một nét nhân các cụ thể giúp ta tiên đoán
được ứng xử của cá nhân, nhưng không mấy giúp ích để hiểu được nhân
cách con người. Sở thích về các món ăn và trang phục là ví dụ cụ thể về nét
nhân cách thứ yếu. Theo Allport, nhưng nét nhân cách này tạo ra cấu trúc
nhân cách.
Tâm lý học nhân văn của C.Rogers
C.Rogers, một đại diện của tâm lý học nhân văn, quan niệm cấu trúc
nhân cách gồm ba mặt:
- Nội dung dịch thực của nhân cách.
- Biểu tượng con người về cái Tôi - về bản thân họ.
- Biểu tượng của con người về cái Tôi là tưởng.
Ba mặt trên của nhân cách không trùng nhau và có sự không thống
nhất, quá trình tác động qua lại điều chỉnh mối quan hệ của ba mặt đó chính
là động lực của sự phát triển nhân cách. Theo C.Rogers, mỗi người đều có
những biểu tượng về chính bản thân mình, những biểu tượng đó hợp thành
“cái Tôi”. "cái Tôi" này hình thành trong sự tương tác giữa con người với con
người (C.Roger chú ý tới sự tương tác giữa đứa trẻ với người lớn và với
những đứa trẻ khác). Từ việc tự đánh giá và nhận những đánh giá từ bên
ngoài mà đứa trẻ có “cái Tôi” của mình. Khi "cái tôi” đã hình thành, con người
lại có xu hướng phủ nhận, chèn ép những tình cảm, hành vi, động cơ đi
ngược lại với cái tôi còn mình. Ở đây xảy ra mâu thuẫn giữa hành vi kinh
nghiệm hiện thực với những biểu tượng hành vi mà con người đã xây dựng,
dẫn đến sự lo lắng, bất an. Để dung hoà được mâu thuẫn đó, cần thay đổi
chính hình tượng và bản thân, cần hình thành một hình ảnh mới về bản thân
phù hợp hơn. "Cả Tôi lý tưởng” là sự nội tâm hoá của cá nhân những hệ
thống ý kiến đánh giá của xã hội đối với các chuẩn mực của nhân cách mà
con người đang muốn vươn tới, trái ngược với thiên hướng thực của mình,
với hứng thú và năng lực của mình. “Cái Tôi lý tưởng” đòi hỏi con người phải
biết phát huy ưu điểm, rèn luyện bản thân.
C.Rogers đã cố gắng chỉ ra một cấu trúc tâm lý bên trong của nhân
cách. Cấu trúc nhân cách được mô tả sinh động, và tương đối đơn giản sự
vận hành dựa trên những hiện tượng tâm lý như tự ý thức, tự đánh giá và
chức năng của nó ảnh hưởng tới tâm lý con người.
Thuyết về nét nhân cách - năm chiều kích lớn của nhân cách
Thuyết nhân cách cho rằng, ứng xử của con người có thể được cấu
trúc bởi cách đặt tên và phân loại những đặc trưng nhân cách có thể quan sát
thấy dễ chan hòa, cẩn trọng, ổn định cảm xúc, cởi mở, sáng tạo.
- Hướng ngoại - thích nói, năng nổ, quyết đoán và kín đáo, dè dặt, nhút
nhát.
- Tính dễ thương, có thiện cảm, tử tế, trìu mến và lạnh lùng hay gây gổ
tàn bạo.
- Tính chu đáo, ngăn nắp, thông cảm, thận trọng và rất cẩu thả, phù
phiếm, vô trách nhiệm.
- Tính ổn định cảm xúc. Bình tâm, bình tĩnh, thỏa mãn và lo lắng, hay
thay đổi, tính khí thất thường.
- Sẵn sàng được trải nghiệm có tính sáng tạo, thông minh, không giáo
điều và giản đơn, nông cạn, không thông minh.
Các chiều kích nêu trên của nhân cách đều mang sắc thái lưỡng cực
mặc dù chỉ được gọi tên bằng một từ: mô tả cực “cao”. Còn một thuật ngữ đối
lập là môt tả cực “thấp”.
Thuyết về nét nhân cách - năm chiều kích lớn của nhân cách dễ hiểu,
mềm dẻo và có thể thích hợp với nhiều cách tiếp cận khoa học. Năm chiều
kích lớn có ý nghĩa sâu rộng, hầu như bất cứ nét nhân cách nào có thể hình
dung được cũng đều có thể liên quan đến một hoặc vài chiều kích. Năm chiều
kích lớn là cơ sở để khám phá các nhân cách khác nhau của con người.
Sự thống kê và phân tích các lý thuyết tấm lý học về nhân cách và cấu
trúc nhân cách trong tâm lý học cho thấy sự đa dạng, phức tạp trong quan
niệm về nhân cách. Không có một lý thuyết nhân cách thống nhất nào có tựa
bao quát được toàn bộ trong tâm lý học và được đa số các nhà khoa học
chấp nhận. Từ việc hệ thống hoá có thể đưa ra hai kết luận khái quát, cơ bản,
chỉ dẫn việc hiểu, phân biệt và nghiên cứu nhân cách con người.
Kết luận thứ nhật. Giữa các lý thuyết về nhân cách có bốn sự khác biệt
cơ bản, quy định nội dung của mỗi học thuyết và phương pháp tiếp cận nhân
cách:
- Nhân cách được di truyền theo con đường sinh học, hay được tạo
dựng bởi môi trường khách quan bên ngoài.
- Nhân cách được hình thành bằng luyện tập, tình huống luyện tập hay
theo cơ chế di truyền bẩm sinh với vai trò quyết định của yếu tố tư chất trong
sự hình thành và phát triển nhân cách.
- Nhấn mạnh vào quá khứ, hiện tại và tương lai trong sự hình thành và
phát triển nhân cách.
- Nhấn mạnh dần yếu tố ý thức hay vô thức trong nhân cách con người.
Kết luận thứ hai. Mặc dù có sự đa dạng, chưa thống nhất hoàn toàn về
nhân cách trong các lý thuyết tâm lý học, nhưng việc hệ thống hóa lý luận đã
chỉ dẫn cho các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu nhân cách cần hiểu:
- Nhân cách là một cấu trúc động gồm nhiều thuộc tính tâm lý cá nhân
quan hệ chặt chẽ với nhau.
- Nhân cách con người là con đẻ của xã hội có bản chất xã hội - lịch sử
và chịu sự chế ước, quy định của các điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể.
- Nhân cách con người được hình thành qua hoạt động và giao tiếp của
chính bản thân con người trong các quan hệ xã hội và môi trường xã hội.
- Nhân cách con người không chỉ là sản phẩm của xã hội (khách thể)
mà còn là chủ thể sáng tạo ra thế giới khách quan.
II. MÔ HÌNH NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1. Một số cơ sở phác thảo mô hình nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.1. Văn kiện Đại hội Đảng về đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đối với nhân cách con người.
Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu tổng
quát về đường lối phát triển kinh tế của Đảng là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ
nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và hội nhập kinh tế quốc tế
để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với
phát triển văn hóa, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế -
xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh”.
Từ mục tiêu tổng quát đó, Đại hội vạch ra mục tiêu chiến lược trong
thời kỳ tới:
Phát triển kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm.
Đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ
tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tảng cường.
Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng ứng dụng các
công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới.
Như vậy, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để tiến
đến năm 2020 đưa đất nước ta “cơ bản trở thành một nước công nghiệp" đòi
hỏi một điều kiện tiên quyết bên cạnh các nguồn lực tự nhiên (tài nguyên
thiên nhiên, vị trí địa lý), cơ sở vật chất và tiềm lực khoa học - kỹ thuật… đó là
nguồn lực con người Việt Nam, tạo ra khả năng lao động ở một trình độ mới,
cao hơn nhiều so với trước đây.
Nguồn lực con người theo yêu cầu của nền công nghiệp hiện đại là con
người ở phương diện cá thể - chủ thể: có sự phát triển về thể chất, thể lực
hay có sức khỏe, có trí tuệ, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp,
được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nề giáo dục tiên tiến gắn với
một nền khoa học, công nghệ hiện đại.
Giáo dục và đào tạo là yếu tố trực tiếp và đóng vai trò chủ đạo công
việc đào tạo nguồn nhân lực con người. Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII và lần
thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng
đầu” trong chiến lược phát triển con người, xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Muốn làm được việc đó thì việc
xác định mô hình nhân cách là điều kiện tiên quyết.
1.2 Chủ ý đến sự biến đổi nhân cách trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường
Năm 1986, sau Đại hội Đảng lần thứ VI, đất nước Việt Nam đã có sựu
chuyển mình sang một thời kỳ mới - chuyển nền kinh tế - xã hội từ cơ chế bao
cấp sang cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế đã tạo ra những điều
kiện mới, bước phát triển mới cho xã hội Việt Nam. Chính sự chuyển đổi đó
đồng thời tác động đến nhân cách của mỗi con người, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Sự thay đổi cơ chế xã hội trước hết làm cho hệ thống giá trị trong nhân cách
chuyển biến mạnh mẽ. Thế hệ trẻ Việt Nam phải giải quyết một loạt các mã
quan hệ trong định hưởng giá trị cuộc sống. Quan hệ giữa giá trị văn hoá tinh
thần; giá trị chính trị với các giá trị kinh tế; quan hệ giữa giá trị lâu dài và giá trị
nước mưu quan hệ giữa gía trị hiện đại và giá trị truyền thống; quan hệ giữa
lợi ích cá nhân, gia đình và lợi ích tập thể, xã hội; quan hệ giữa lợi ích quốc
gia dân tộc và lợi ích quốc tế.
Sự đổi mới cơ chế xã hội yêu cầu khi xây dựng mô hình nhân cách con
người Việt Nam trong giai đoạn mới phải chú ý vừa có tính chất đậm đà bản
sắc dân tộc, vừa phù hợp với giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mô
hình nhân cách phải khắc phục được các hạn chế của thời kỳ bao cấp. Tư
duy theo kiểu kinh nghiệm chủ nghĩa phải được chuyển thành tư duy khoa
học. Tranh lối sống tuỳ tiện, coi thường pháp luật. Lối sống "duy tình" chứ
không "duy lý", thói quen cục bộ địa phương, bản vị đố kỵ, kém ý thức hợp tác
thiếu tinh thần xây dựng chung cần phải bị phê phán. Quanh quẩn và thoả
mãn với kinh nghiệm cũ, ít chịu học hỏi về khoa học kỹ thuật, không chịu phát
huy tinh thần chủ động khả năng sáng tạo thì không thể đáp ứng được yêu
cầu của thời kỳ mới.
1.3. Tham khảo một số nghiên cứu mô hình nhân cách hóa con người Việt Nam đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.3.1 Chương trình cấp nhà nước: “Con người Việt Nam - mục tiêu và
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” (KX07) đã phân tích sức mạnh của
nhân cách con người Việt Nam, đánh giá những mặt tích cực và tiêu cực
trong những định hướng giá trị của con người Việt Nam hiện nay, đưa ra dự
báo đến năm 2000, 2020; phân tích những nhiệm vụ to lớn có tính lịch sử của
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nêu ra những định hướng
giá trị xã hội cho con người Việt Nam phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đi vào thế kỷ XXI. Đó là những định hướng giá trị cơ bản sau:
- Con người có niềm tin vững chắc và quyết tâm cao thực hiện nhiệm
vụ lịch sử trọng đại là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa đất nước
ta ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu bằng ý chí quật cường và tài năng, trí tuệ của
con người Việt Nam, bằng khoa học và công nghệ.
- Con người đậm đà bản sắc dân tộc, có tinh thần yêu nước, yêu độc
lập, tự do, tự hào dân tộc, tự lực, tự cường, có tinh thần hòa hợp, hòa bình,
hữu nghị.
- Con người có bản chất nhân văn, nhân đạo, nhân ái trong quan hệ
giữa con người với con người; con người với ý thức cộng đồng, có ý thức
trách nhiệm đối với đất nước, với gia đình, với bản thân, có quan hệ đầy tình
nghĩa, coi trọng chữ tín, có tinh thần làm chủ.
- Con người khoa học, phát triển cao về trí tuệ, ham khoa học. Tiếp thu
tinh hoa nhân loại, có ý thức nghiên cứu khai thác các di sản văn hoá dân tộc
và phương Đông, có tư duy tổng hợp, linh hoạt, sáng tạo.
Con người công nghệ được đào tạo, có tay nghề cao, năng động, tự
chủ, làm việc có tính đến hiệu quả, có đầu óc quản lý, kinh doanh, có ý thức
tiết kiệm, làm giàu chính đáng cho bản thân, cho gia đình và cho đất nước, có
tác phong công nghiệp, có khả năng thích ứng.
Con người có thể lực cường tráng, có kiến thức về kỹ năng rèn luyện
thân thể, giữ gìn sức khoẻ, biết kết bợp làm việc có năng suất cao với nghỉ
ngơi, giải trí, biết tổ chức cuộc sống có văn hoá, phong phú, lành mạnh để có
thể lao động bền bỉ, dẻo dai.
Con người công dân, có ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, hiểu
biết và tự giác chấp hành pháp luật và góp phần xây dựng một nhà nước
pháp quyển; có ý thức sâu sắc về công bằng xã hội, về dân chủ, tự do, về
quyền con người, về bảo vệ môi trường.
Con người có cá tính và bản sắc riêng, có hoài bão, có bản lĩnh tự chủ
năng động, sáng tạo, có ý chí vươn lên, cạnh tranh lành mạnh, dựng thời có
tinh thần tôn trọng và hợp tác với người khác, với tập thể và sự nghiệp chung.
1.3.2. Trong tạp chí Thế giới mới số 333, ngày 26-4-1999 về vấn đề
“Thế nào là con người Việt Nam thế kỷ XXI”, một số giáo sư, tiến sĩ về khoa
học tự nhiên và xã hội đã nhấn mạnh các yêu cầu đối với con người Việt Nam
thế kỷ XXI như sau:
- Yêu nước
- Đạo đức
- Tinh thần khoa học
- Độc lập suy nghĩ
- Ý thức kỷ luật
- Con người hạnh phúc, tự do hơn và làm cho dân tộc phú cường.
- Khả năng thuyết phục
- Tài năng đích thực.
1.3.3. Trần Trọng Thủy trên cơ sở phân tích, bổ sung, khái quát các
nghiên cứu trong và ngoài nước, trong bài báo “Mô hình nhân cách con người
Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa - một căn cứ quan trọng của
chiến lược giáo dục và đào tạo” tại Hội thảo khoa học của Hội Tâm lý - giáo
dục về nhân cách con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã
đề xuất một mô hình nhân cách:
“Thứ nhất, sự phát triển hài hòa tâm lý bên trong. Nhu cầu và động cơ,
hứng thú, sở thích, trí tuệ và tài năng, nhân sinh quan và quan niệm giá trị, lý
tưởng và niềm tin, tính cách và khí chất của họ đều phát triển theo hướng
lành mạnh. Sự nhất trí hài hòa về nội tâm, sự thống nhất giữa lời nói và hành
động, việc có thể nhận thức đúng đắn và đánh giá mọi hành vi của họ có phù
hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội hay không, có thể điều chỉnh kịp thời mối
quan hệ giữa có thể và thế giới bên ngoài. Con người nếu mất đi tính thống
nhất nội tại trong nhân cách của mình thì sẽ xuất hiện tình trạng sai lệch về
nhận thức, biến thái về tình cảm và không kiểm soát được về hành vi.
Thứ hai, người có nhân cách lành mạnh có thể xử lý đúng quan hệ
nhân tình, phút triển tình bạn. Con người như vậy sẽ tự trọng và tôn trọng
người khác, hiểu biết… Tình bạn khiến con người cởi mở, nhiệt tình và chân
thành. Người thiếu tình bạn thường gặp những phiền nhiễu về tình cảm, nhẹ
thì sẽ sinh ra đa nghi, đố kỵ, thù ghét, đối địch. Đối với những người có tính
đố kỵ mạnh mẽ, rất khó tưởng tượng được rằng họ sẽ có thể hợp tác với
người khác trên cơ sở cùng có lợi. Người tự cao tự đại cũng không thể khiêm
tốn lắng nghe ý kiến của người khác. Người có nhân cách lành mạnh trong
giao tiếp hàng ngày vừa không bị lôi cuốn, vừa không tự cho mình là đơn
người, có thể tạo được sự hài hòa nhất trí giữa hành vi của mình với bè bạn,
đồng nghiệp...
Thứ ba, người có nhân cách lành mạnh có thể vận dụng có hiệu quả trí
tuệ và năng lực của mình vào và đạt được thành công trong công việc và sự
nghiệp. Họ luôn luôn được thúc đẩy bằng động cơ, nhiệt tình và năng lực của
bản thân, từ đó khiến họ dám sáng tạo, giỏi sáng tạo và thường xuyên có
nhũng phát hiện, phát minh và đổi mới. Sự thành công của họ thường dân lại
cho họ sự thoả mãn và mềm vui, hình thành hứng thú và động cơ mới, làm
cho cuộc cống của họ thêm phong phú, thêm bền vững.
Cụ thể, dù là con người có lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, có đạo đức trọng sáng, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân
tộc, có năng lực tự thu tinh hoa văn hóa nhân loại có ý chí kiên cường, có
hoài bão lớn lao, phát huy tiềm năng của dân tộc và phát huy tính tích cực
của cá nhân; có tư duy sáng tạo và có óc thực nghiệm, có kỹ năng thực hành
giỏi, tuy nghề cao, có tác phong công nghiệp có tính tổ chức và kỷ luật, tinh
phần trách nhiệm cao; có lòng nhân ái, tôn trọng và hợp tác được với người
khác; có sức khoẻ, có khả năng tự hoàn thiện không ngừng, năng động và
thích ứng; có tinh thần pháp luật và ý thức công dân, ý thức bảo vệ môi sinh,
biết yêu cái đẹp”.
1.3.4. Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh hạc khi trả lời phóng viên báo Nhân
Dân về vấn đề con người Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đã đưa ra phác thảo về mô hình nhân cách con người Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện dại hoá.
Thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hóa đòi hỏi có con người nhân văn
và con người công nghệ, trên cơ sở phát triển thể lực tốt, khả năng thích nghi
cao và hết sức sáng tạo. Khoa học và duy lý là hai giá trị cơ bản, hai tiêu chí
đặc trưng của thời phát triển lực lượng sản xuất lên một chất lượng mới. Hệ
thống giá trị và định hướng giá trị đối với phẩm chất con người Việt Nam
trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hóa có thể là: trung với nước, hiếu
với dân, nhân phẩm và các quan hệ tốt đẹp giữa người và người, duy lý và
khoa học, tri thức kỹ thuật và công nghệ, tiến bộ xã hội và hạnh phúc con
người không quên con người thiên nhiên nhưng phải vươn tới con người xã
hội - con người công dân”.
2. Phác thảo mô hình nhân cách con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Trên cơ sở phân tích các lý thuyết về nhân cách trong tâm lý học và lấy
lý thuyết tâm lý học mácxít làm cốt lõi, phân tích yêu cầu của thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đối với nhân cách con người trong Báo
cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IX và tham khảo, kế thừa các mô hình
nhân cách con người thế kỷ XXI, có thể phác thảo mô hình nhân cách con
người Việt Nam gồm năm thành phần cơ bản sau:
- Con người nhân văn và xã hội;
- Con người công nghệ;
- Con người thích nghi cao;
- Con người thiên nhiên (có sức khoẻ, thể lực);
- Con người sáng tạo.
Cụ thể là con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới cần có các thuộc
tính cơ bản:
- Có lòng yêu nước nồng nàn, có ý chí kiên định giữ vững nền độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, gắn bó với gia đình, giàu lòng nhân ái, yêu quê
hương, yêu đồng bào. Có lối sống lành mạnh, tâm hồn phong phú, biết yêu
cái tốt, ghét cái xấu, dám đấu tranh vì công bằng, lẽ phải.
- Dám khẳng định và chịu trách nhiệm trước “cái tôi”, trước gia đình và
xã hội về công việc và lối sống của mình, phát huy tính tích cực cá nhân
không rơi vào chủ nghĩa cá nhân cực đoan, lấy cái tôi là trên hết, lấn át cái
tập thể. Có tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát, có tính tổ chức và kỷ luật, biết
quý trọng cuộc sống, mạnh dạn vươn lên lập thân, lập nghiệp làm giàu cho
bản thân và đất nước.
- Hiểu biết công nghệ, có tay nghề cao, năng động, tự chủ làm chủ
công nghệ và khoa học kỹ thuật, hăng say học tập vươn lên nắm vững khoa
học kỹ thuật hiện đại, nhưng không “sùng ngoại”, tự tin, độc lập, sáng tạo
trong công việc và trong cuộc sống, nhạy bén với cái mới.
- Có sức khỏe thể chất và tinh thần để dám nghĩ dám làm, làm tròn
trách nhiệm của cá nhân và xã hội. Biết hành động và suy nghĩ một cách hợp
lý và khách quan, tránh dựa vào định kiến chủ quan, kinh nghiêm chủ nghĩa.
Hiểu biết pháp luật, tôn trọng luật pháp, và sống theo pháp luật.
- Có khả năng sáng tạo trong hoạt động và cuộc sống. Biết tính đến
hiệu quả kinh tế - xã hội, coi trọng giá trị kinh tế, tiết kiệm trong tiêu dùng,
đồng thời coi trọng cá giá trị nhân văn.
Phác thảo mô hình nhân cách trên sẽ là cơ sở để lựa chọn, xây dựng
các phương pháp nghiên cứu, phát hiệm đặc điểm nhân cách con người Việt
Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ đó vạch ra nội dung, biện pháp
giáo dục và phát triển nhân cách con người nhằm thực hiện được mục tiêu
giáo dục của Đảng: Xây dựng những con người gắn bó với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ gìn và
phát huy các giá trị vằn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam có ý thức
cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân làm chủ trì thức khoa học và
công nghệ hiện dại, có tư duy sáng tạo, có năng lực thực hành giỏi, có tác
phong công nghiệp; có tính tổ chức và kỷ luật.
Phần 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NHỮNG MẶT CHỦ YẾU TRONG CẤU TRÚC NHÂN CÁCH
A. CÁC LÝ THUYẾT VỀ NHU CẦU VÀ NHU CẦU CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
TS. NGUYỄN KIM QUÝ
Trong cấu trúc của nhân cách, xu hướng được xếp ở vị trí trung tâm, nó
quy định chiều hướng đạo đức và tài năng của sự phát triển nhân cách. Xu
hướng nhân cách là hệ thống những động cơ bền vững quy định tính lựa
chọn của cá thể đối với những đối tượng nhất định và làm nảy sinh tính tích
cực trong hoạt động của cá thể nhắm tới đối tượng đó. Xu hướng nhân cách
thường biểu hiện ở một số mặt chủ yếu như nhu cầu, hứng thú, thế giới quan,
lý tưởng... Nhu cầu là thành phần đầu tiên trong xu hướng, song nó chi phối
mãnh liệt đến đời sống tâm lý nói chung, đến hành vi của con người nói riêng.
Bởi vì để tồn tại và phát triển không ngừng, con người cần phải được thoả
mãn những như chu nhất định như nhu cầu về ăn, ở, mặc, học tập, tiếp xúc
với những người xung quanh và rất nhiều nhu cầu khác nữa. Có thể nói tất cả
các hoạt động của con người đều nhằm thoả mãn nhu cầu này hoặc nhu cầu
khác. Mọi cuộc đấu tranh trong lịch sử loài người đầu nhằm tạo nên những
điều kiện thuận lợi nhất để thoả mãn nhu cầu ngày càng phong phú, phức tạp
của con người. Nhu cầu được nhiều khoa học nghiêm cứu và ứng dụng vào
các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống: Trung tâm lý học nhu cầu được
nhiều nhà tâm lý học quan tâm nghiên cứu.
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới, tiếp tục đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Về nghiên cứu con nsười nói
chung và nghiên cứu nhu cầu của con người nói riêng càng trở nên quan
trọng và bức thiết nhằm góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hóa.
Ở đây chúng tôi Xin đề Cập một số lý thuyết nghiên cứu về nhu cầu và
nhu cầu của con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1 Các lý thuyết bản về nhu cầu ở các nước phương Tây
1.1. Lý thuyết của Henry Murray
Nhu cầu được hiểu là một tổ chức cơ động, nó tổ chức và hướng dẫn
các quá trình nhận thức, tưởng tượng và hành vi. Nhờ nhu cầu mà hoạt động
mang tính chất có mục đích, do đó hoặc là đạt được sự thoả mãn nhu cấu,
hoặc là ngăn ngừa sự đụng độ khó chịu với môi trường.
Murray phân biệt áp lực khác với nhu cầu chỉ ở hướng đi của vectơ:
nhu cầu là một lực động xuất phát từ cơ thể, trong khi đóa áp lực là lực tác
động vào cơ thể, không cái nào trong hai cái đó (nhu cầu và áp lực) lại tồn tại
tách rời nhau được. Cụ thể là sự thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi phải có sự tác
động qua lại với các tình huống xã hội, phải có sự cải tổ chúng nhằm mục
đích đạt được sự thích ứng; đồng thời, bản thân các tình huống này cũng như
nhu cầu của người khác có thể bộc lọ cả với tư cách là những kích thích (nhu
cầu) lẫn với tư cách là những trởi ngại (áp lực).
Bằng thuật ngữ “nhu cầu”, H. Murray muốn chỉ một biến số (tham biến)
có tính chất giả thuyết nào đó, mà tùy thuộc vào hoàn cảnh, nó sẽ bộc lộ khi
thì dưới dạng động cợ, khi thì dưới dạng những đặc điểm. trong trường hợp
bộc lộ dưới dạng nhưng đặc điểm, nhu cầu mang tính chất ổn định và trở
thành những phẩm chất của tính cách. Do đó, nhiệm vụ của các nhà tâm lý
học là cạch ra những tích hợp của các đặc điểm đặc trưng cho một người nào
đó, những mối liên hệ qua lại và thứ bộc lộ trong những hành vi có thể quan
sát được, chủ thể không có một biểu tưởng nhỏ nhất nào về chúng cả, nói
cách khác chúng tồn tại trong trạng thái ẩn giấu, tiềm tàng. Chỉ có bằng
những phương pháp đặc biệt - các phương pháp phóng ngoại và phân tâm -
mới có thể hiểu được không chỉ cái vị thế nóng hổi của nhân cách, mà cả lịch
sử xuất hiện của nhưng tích hợp này hay tích hợp kia nữa.
Trong vấn đề phát sinh những đặc điểm, về cơ bản H. Murray vẫn giữ
nguyên những quan điểm của phân tâm học: tất cả những nhu cầu và những
tích hợp của chúng quy định xu hướng của nhân cách đều có khởi nguyên từ
những ý hướng libido va thức. Những đặc điểm tính cách là sự biến đổi thăng
hoa của chúng dưới tác động của các yếu tố xã hội. Do tính không lặp lại của
con đường đúng của mình mà mọi người có một tập hợp cá biệt các đặc
điểm, đem lại tính có một không hai trong hành vi và tính cách của họ.
Murray xây dựng bằng phân loại các nhu cầu. Đây là một trong những
bảng phân loại bể biến nhất ở phương Tây. Ông, mô tả các nhu cầu như sau:
1) Chiếm ưu thế: muốn kiểm soát, gây ảnh hưởng, điều khiển hành vi
bằng lời nói, mệnh lệnh, thuyết phục, gây trở ngại, hạn chế những người
khác.
2) Gây hấn: muốn bằng lời nói hay hành động để làm nhục, lên án,
nguyền rủa, nhạo báng, lăng mạ, tiêu diệt đối phương.
3) Tìm kiếm các mối liên hệ bạn bè: muốn hữu nghị, tình yêu ý chí tốt
lành, thiện cảm với người khác, đau khổ khi không có quan hệ bạn bè, mong
muốn mọi người xích lại gần nhau, khắc phục các trở ngại.
4) Bỏ rơi người khác: muốn khước từ những cố gắng xích lại gần nhau,
huy chỉ trích, thô tục, "không dây" với người khác, vô cùng biệt lập, vô liêm sỉ.
5) Tự ti: thể hiện nổi bật sự vượt ra khỏi bất kỳ dự hạn chế nào, muốn
thoát khỏi sự bảo trợ, khỏi quy chế, sự quy định công việc nặng nề. Hay dỏng
dảnh trong quan hệ qua lại với những người khác, vô độ, lấy mình làm trung
tâm, thích thay đổi vị trí hành trình.
6) Phục tùng thụ động: tuân thủ thụ động sức mạnh, chấp nhận số
phận, thừa nhân sự kém cỏi của mình.
7) Nhu cầu về sự tôn trọng, ủng hộ: thể hiện sự tôn trọng đối với những
người khác (cha mẹ,người lãnh đạo, thầy giáo, người xuất chúng…), có
nguyện vọng muốn làm việc dưới quyền lãnh đạo của người mạnh hơn, thông
minh hơn, tài năng hơn, muốn trở thành người kế tục của một ai đó.
8) Nhu cầu thành đạt: muốn chiến thắng, đánh bại, trội hơn những
người khác, muốn làm cái gì đó nhanh chóng và tốt đẹp, muốn đạt trình độ
cao trong một công việc nào đó, muốn trở thành người nhất quán và có mục
đích.
9) Nhu cầu trở thành trung tâm của sự chú ý: thể hiện ở nguyện vọng
muốn chinh phục những người khác, thu hút sự chú ý về mình, làm người
khác ngạc nhiên về những thành tích và phẩm chất nhân cách của mình.
10) Nhu cầu vui chơi: thích chơi bất cứ một hoạt động nguy hiểm nào,
muốn giải trí, chè chén lu bù, thích bông đùa. Đôi khi được kết hợp với sự vô
tâm, vô trách nhiệm.
11) Ích kỷ: nguyện vọng đặt quyền lợi của mình lên trên hết, muốn hài
lòng về mình, tự gợi dục, có khuynh hướng chủ quan khi tri giác thế giới bên
ngoài, thường hợp nhất với nhu cầu gây hấn hay khước từ.
12) Tính xã hội: lãng quên quyền lợi riêng vì quyền lợi của nhóm, xu
hướng vị tha, hào hiệp, nhường nhịn quan tâm đến những người khác.
13) Nhu cầu tìm người bảo trợ: Chờ mong lời khuyên nhủ, sự giúp đỡ;
bất lực, tìm kiếm sự an ủi, khuyên nhủ, đối xử nhẹ nhàng.
14) Nhu cầu giúp người: là người “bạn của những kẻ đau buồn”, có
nguyện vọng quan tâm đến người khác, giúp đỡ vật chất, cho phép cư trú.
15) Nhu cầu tránh bị trách phạt: kìm nén những xung động của mình
nhằm tránh bị trách phạt hoặc bị lên án. Có nhu cầu chú ý đến dư luận xã hội,
tự chủ, nhã nhặn, gìn giữ những quy tắc chung.
16) Nhu cầu tự vệ: luôn luôn chuẩn bị để phòng đầy đủ trong quan hệ
với địch thủ, khó thừa nhận sai lầm của mình, luôn luôn biện hộ bằng những
viện dẫn đưa ra, từ cha sự phân tích những sai lầm của mình.
17) Nhu cầu vượt qua những thất bại: nhu cầu này khác với nhu cầu
thành đạt ở chỗ nhấn mạnh vào tính độc lập trong hành động. Có đặc điểm
nổi bật là sức mạnh của ý chí, sự kiên trì, dũng cảm.
18) Nhu cấu an toàn: sợ hãi, lo lắng, kinh hoàng, hoảng loạn, tính cảnh
giác quá mức là vồn có đối với người này, không có sáng kiến, tránh sự đấu
tranh.
19) Nhu cầu ngăn nắp, trật tự: có xu thế ngăn nắp, trật tự, cẩn thận,
chính xác, đẹp đẽ.
20) Như cầu phán đoán: muốn đặt ra những vấn đề chung và trả lời về
chúng, say mê đối với những sự biểu đạt trừu tượng, khái quát hóa, hấp dẫn
bởi những vấn đề vĩnh cửu về ý nghĩa cuộc sống, về cái thiện và cái ác...
H.Murray đã chia các chu cầu thành nhu cầu nguyên phát và thử phát.
Nhu cầu nguyên phát là nhưng nhu cầu tự nhiên của con người với tư cách là
một cơ thể sống (các nhu cầu 13,16,17).
Murray quan tâm chủ yếu đến những nhu cầu thứ phát, đặc trưng cho
con người như là một tồn tại xã hội và bắt nguồn từ sự giao tiếp của con
người quan trọng nhất trong các nhu cầu đó là nhu cầu về tình yêu, sự hợp
tác, sự sáng tạo,…
Murray còn phân biệt những nhu cầu tường minh và nhu cầu tiềm tàng.
Nhu cầu tường minh được thể hiện tự do ra bên ngoài. Việc chuẩn đoán
chúng không đòi hỏi một kỹ thuật đặc biệt nào, ngoài sự quan sát. Trái lại, các
nhu cầu tiềm tàng lại không bao giờ được thể hiện trong những hành động
thích ứng, mà chỉ trong tưởng tượng, trong các giấc mơ và trò chơi. Chỉ có
thể nghiên cứu chúng trong quá trình trị liệu bằng phân tâm hay trong quá
trình thực nghiệm bằng cách tạo ra những điều kiện kích thích không xác
định. Dưới tác động của những kích thích không xác định, các hình ảnh của
tưởng tượng được gắn với nhu cầu tiềm tàng bằng liên tưởng được hoạt hóa.
Về cầu trúc của nhân cách, Murray cũng giữ lập trường của phân tâm
học. Theo Murray, ý nghĩa chuẩn đoán của các câu chuyện trong test TAT là
sự phóng ngoại chủ yếu lớp bên trong của nhân cách. Nói cách khác, nhu cầu
càng ít được thỏa mãn trong đời sống thực bao nhiêu, thì nó càng giữ vững vị
trí to lớn trong tưởng tượng bấy nhiêu.
Như vậy, ảnh hưởng của phân tâm học tới học thuyết của Murray là rõ
ràng. Đồng thời, trong từng luận điểm riêng lẻ, như nguyên tắc về sự tác động
qua lại cơ động, tính chất vectơ của nhu cầu, Murrny đã mượn từ tâm lý học
cấu trúc của K. Lewin
1.2. Lý thuyết về nhu cầu của Maslow
Abrahnm MaRlow, nhà khoa học xã hội nổi tiếng đã xây dựng học
thuyết về nhu cầu và sự phát triển của con người vào những năm 1950, để
giải thích những nhu cầu nhất định của con người cần được đáp ứng như thế
nào để một cá nhân hướng đến một cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể
chất lẫn tinh thắn.
Maslow đã hình dung như cầu và sự phát triển của con người theo một
chuỗi liên tiếp như cái cầu thang hay một chiếc thang. Ông đã đem các loại
nhu cầu khác nhau của con người, căn cứ theo tính đòi hỏi và thứ tự phát
sinh trước sau của chúng để quy về năm loại, sắp xếp thành năm bậc thang
về nhu cầu của con người từ thấp đến cao.
Nhu cầu về tự thực hiện dược Maslow phân chia nhỏ thành ha bậc
thang. Đó là nhu cầu về nhận thức (học hỏi, hiểm biết, biết làm, nghiên cứu);
nhu cầu thẩm mỹ sự cân đối hài hòa, cái đẹp, trật tự); nhu cầu về tính tự đáp
ứng kịp thời (thực hiện mục đích của mình bằng khả năng của cá nhân).
Để đi lên đỉnh của "chiếc thang" phải bắt đầu từ chân tướng. Mỗi bậc
nhu cầu đòi hỏi con người phải có những nỗ lực nhất định để có thể chuyển
lên bậc tiếp theo. Tương tự, mỗi bậc nhu cầu của con người trong hệ thống
thứ bậc Maslow đều phụ thuộc vào bậc nhu cầu trước đó. Nếu một khu cầu ở
bậc thấp của hệ thống thứ bậc nhu cầu không được đáp ứng, cá nhân đó sẽ
khó có thể tiến lên bước phát triển tiếp theo. Ví dụ, bậc đầu tiên của hệ thống
thứ bậc nhu cầu của Maslow tương ứng với các nhu cầu vật chất cơ bản cần
được đáp ứng trước khi người ta có thể theo đuổi những nhu cầu cao hơn
như sự an toàn, sự thừà nhận, lòng tự trọng... Nhưng trong thực tế cuộc
sống, nhu cầu của con người rất phức tạp chứ không giống như cầu thang,
bậc này nối tiếp bậc khia. Vì vậy lý luận của Maslow thường bị coi là có tính
chất máy móc và thiếu quan niệm chỉnh thể.
Theo Maslow, mỗi nhu cầu của con người trong "hệ thống thứ bậc” phải
được thỏa mãn trong mối tương quan với môi trường để người đó có thể phát
triển khả năng cao ngất của mình đối với một số người, quá trình leo lên chiếc
thang đó khá nhanh chóng và tương đối dễ dàng. Đối với người khác, đó là
cả một sự vật lộn liên tục và lâu đài. Việc người đó có thể thỏa mãn được các
nhu cầu ở từng bậc của hệ thống thứ bậc nhu cầu hay không phụ thuộc khá
nhiều vào một trường bên ngoài.
Hệ thông thứ bậc nhu cầu con người của Maslow
1) Nhu cầu vật chất (sự sinh tồn cơ bản)
Thứ bậc đầu tiên này rất cơ bản và đặc biệt quan trọng. Nó là nhu cầu
tâm lý nguyên thủy nhất, lâu dài nhất, cơ bản nhất, sơ cấp nhất và rộng rãi
nhất của con người. Nhu cầu vật chất bao gồm sự đầy đủ về thức ăn, nước
uống, quần áo, nhà ở và y tế cơ bản. Nói cách khác, nếu thiếu những nhu cầu
cơ bản; con người sẽ chết. Đặc biệt đối với trẻ em, chúng hiển nhiên phụ
thuộc rất nhiều vào người lớn để được cung cấp đầy đủ các nhu cầu cơ bản
này. Nếu những nhu cầu cơ bản của trẻ không được đáp ứng, trẻ sẽ "bị tắc”
ở thứ bậc này của họ tháng thứ bậc nhu cầu và không thể tiến thêm nữa:
2) Nhu cần về an ninh và sự an toàn
An ninh và sự an toàn có nghĩa là một môi trường không nguy hiểm, có
lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của con người. Đây cũng là nhu
cầu sinh lý và tâm lý khá cơ bản và khá phổ biến của con người.
Nội dung nhu cầu an toàn bao gồm các mặt sao: an toàn sinh mệnh, an
toàn lao động, an toàn môi trường, an toàn kinh tế, an toàn nghề nghiệp, an
toàn ở và đi lại, an toàn nhân sự, an toàn sức khỏe và an toàn tâm lý, trong
đó cơ bản nhất là an toàn sinh mệnh.
Việc xây dựng các loại luật pháp, quy tắc chế độ thực chất là để bảo
đảm nhu cầu an toàn chung cho mọi người. Do đó, chúng ta có thể hiểu vì
sao những người phạm pháp và vi phạm các quy chế bị mọi người căm ghét,
vì người có hành vi phạm tội đã xâm phạm vào nhu cầu an toàn của người
khác.
Nhu cầu an toàn nếu không được bảo đảm thì công việc của mọi người
sẽ không được tiến hành bình thường và các nhu cầu khác sẽ không được
thực hiện.
3) Nhu cầu được thừa nhận (tình yêu thương và sự chấp nhận)
Con người về bản chất luôn luôn tìm kiếm tình bạn, sự thừa nhận và
tình yêu thương từ người khác. Nếu không cảm thấy được giao tiếp và quan
hệ với người khác thì con người khó có thể tồn tại. Tình yêu thường và sự
chấp nhận đến với chúng ta quá gia đình, bạn bè, hàng xóm, cộng đồng và
thậm chí qua các tổ chức hoặc hiệp hội.
So với nhu cầu vật chất và nhu cầu an toàn thì thời gian xuất hiện nhu
cầu được quan hệ và được thừa nhận muộn hơn, nhưng nội dung của nó
phong phú, tế nhị, kỳ diệu và phức tạp hơn hai nhu cầu trước. Tùy theo tính
cách, cảnh ngộ, sự lịch duyệt, trình hộ văn hóa, đặc điểm dân tộc, đặc điểm
khu vực, chính trị, tín ngưỡng và các quốc gia khác nhau mà có đủ các hình
thái muôn màu muôn vẻ của nhu cầu này.
Nhu cầu được quan hệ và được thừa nhận gồm có các vấn đề tâm lý
như: được dư luận xã hội thừa nhận, sự gằn gũi thân cận, tán thưởng, ủng
hộ... Nhu cầu đó được ít nguồn từ những tình cảm của con người đối với sự
lo sợ bị cô độc, bị xen thường, buồn rầu, mong muốn được hòa nhập, khát
khao tình hữu nghị, lòng tin cậy và trong trung thành giữa con người với
nhau.
Yêu là nội dung cao nhất của nhu cầu này. Lòng thương, tình yêu, tình
bạn, tình thân ái là nội dung lý tưởng mà nhu cầu được quan hệ và được
thừa nhận luôn theo đuổi. Nó thể hiện tầm quan trọng của tình cảm con người
trong quá trình phát triển của nhân loại.
Hãy tưởng tượng một sáng nào đó bạn thức dậy và phát hiện ra rằng
bạn là người cuối cùng tồn tại trên quả đất. Trong nhà, cộng đồng và đất
nước của bạn - toàn bộ hành tinh này không còn ai ngoài bạn. Điều gì sẽ xảy
ra? Bạn sẽ cảm thấy như thế nào? Hầu hết mọi người nói rằng nếu không
còn ai khác: quan hệ bạn bè, tình hữu nghị và gia đình - cuộc sống sẽ không
còn giá trị nữa. Việc bạn có được tất cả những thức ăn, tiền bạc, và những
tiện nghi trên thế giới sẽ không còn quan trọng nữa. Bạn sẽ không thể phát
triển được nếu không có sự giao tiếp với người khác, không có những phản
hồi cảm xúc, cũng như tình yêu thương từ người khác. Điều đó chứng tỏ thừa
nhận lớn lao của nhu cầu được quan hệ và được thừa nhận trong sự phát
triển của con người.
4) Nhu cầu về sự tự trọng (cảm thấy tốt và bản thân)
Tự trọng được hiểu là sự quan tâm đúng đắn về nhân phẩm hay chuẩn
mực đạo đức của một người, nói cách khác là cảm thấy tốt về bản thân, trải
nghiệm những ý nghĩa về gìá trị của bản thân và tự hào về các thành quả của
cá nhân.
Nhu cầu được tôn trọng gồm hai loại: lòng tự trọng và được người khác
tôn trọng.
Lòng tự trọng bao gồm nguyện vọng muốn đạt được lòng tin, có năng
lực, có bản lĩnh, có thành tích, độc lập, tự tin, tự do, tự trưởng thành, tự biểu
hiện và tự hoàn thiện. Về bản chất thì đó là sự tìm kiếm tình cảm tự an ủi, tự
bảo vệ mình.
Nhu cầu dược người khác tôn trọng gồm khả năng có được uy tín,
được thừa nhận, được tiếp nhận, có địa vị, có danh dự, được biết đến... Uy
tín là một loại sức mạnh vô hình được người khác công nhận. Vinh dự là sự
đánh giá khá cao của xã hội đối với con người. Tôn trọng là được người khác
coi trọng, ngưỡng mộ.
Con người ai cũng mong được người khác tôn trọng, một người có lòng
tự trọng thì mới có đầy đủ lòng tin vào việc mình làm. Khi được người làm tôn
trọng, con người tìm mọi cách để làm tốt công việc. Do đó, nhu cầu về sự tự
trọng là điều không thể thiếu đi với mỗi con người.
5) Nhu con về phát triển cá nhân (các cơ hội để phát triển cá nhân)
Đây là bậc cuối cùng trong hệ thống thứ bậc nhu cầu của Maslow, là
bước phát triển nhất về tâm lý và phức tạp nhất trong tất cả các bước. Đó là
nhu cầu cho sự trưởng thành cá nhân, cơ hội cho sự phát triển và học hỏi của
cá nhân. Nhiều nhà lý luận cho rằng từ khi sinh ra con người đã cố gắng hoàn
thiện bản thân và dứt được những thành công, thành tựu, sử trưởng thành.
Cơ hội để một người phải trên khả năng củ t bản thân như mọi người có thể
mang lại cho người dò ý nghĩa quan trọng của sự tự chủ, độc lập trong cuộc
sống. Cố gắng hoàn thiện bản luân mang lại cho chúng ta ý nghĩa về mục
đích của cuộc sống; những người không có các mục tiêu dài hạn và mong
muốn hoàn thiện bản thân thường sống không có ý nghĩa vụ kèm thỏa mãn.
Nhu cầu cho sự trưởng thành cá nhân này có thể hiểu là sự tiếp cận
với hệ thống giáo dục, bao gồm cả việc học ở nhà, đào tạo kỹ năng nghề
nghiệp, chơi thể thao, trải nghiệm - tất cả những gì có thể mang lại cơ hội cho
con ngươi nâng cao năng lực cá nhân, năng lực tinh thần, trí tuệ và phát triển
toàn diện.
Nhu cầu về sự phát triển cá nhân được Maslow gọi là “nhu cầu muốn
thể hiện toàn bộ tiềm lực của con người”.
Theo Maslow, sau khi nhu cầu cấp thấp được thỏa mãn thì nảy sinh đòi
hỏi thoả mãn nhu cầu cấp cao hơn. Đây là điểm hạn chế của Maslow. Song
Maslow cũng có điểm linh hoạt để khắc phục sự máy móc trên. Ông chỉ rõ
hành vi của con người thường không chỉ do một nhu cầu nào đó thúc đẩy mà
là kết quả của rất nhiều tác động. Nó có thể là sự tác động tổng hợp của một
số nhu cầu cũng có thể là kết quả tác động của tập quán, sự từng trải và năng
lực của con người hoặc do hoàn cảnh bên ngoài dẫn đến. Nhưng ông vẫn
không nói rõ được những cách tác động tổng hợp của chúng đối với hành vi
con người.
Maslow đã đưa khái niệm “từ trường” trong vật lý vào tâm lý học, từ đó
ông đã rút ra lý luận sau: Tâm lý và hành vi của con người được quyết định
bởi tác dụng tương hỗ giữa nhu cầu nội tại với môi trường xung quanh. Khi
nhu cầu của con người chưa được thỏa mãn thì sẽ sản sinh ra sức căng
trong trường lực nội tại và các yếu tố môi trường xung quanh gây tác dụng
châm ngòi; hướng hành vi của con người được quyết định bởi trường lực nội
tại và sự tác động tương hỗ của các trường lực (yếu tố hoàn cảnh) xung
quanh. Trong đó yếu tố quyết định nhất là sức căng của trường lực nội tại.
Dựa theo lý luận trường lực đó. Maslow đã khái quát được công thức hành vi
nổi tiếng sau:
B = f (PE)
Trọng đó: B là hành vi
P là nhu cầu cá nhân (nhu cầu tâm lý nội tại)
E là hoàn cảnh khách quan (là ảnh hưởng của hoàn cảnh
bên ngoài)
f là ký hiệu hàm số
Như vậy, hành vi B của con người là hàm số của nhu cầu P và hoàn
cảnh E lúc đó.
1.3. Luận điểm của X.L. Rubinstein
Xuất phát từ chỗ cho rằng bản chất con người là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội, Rubinstein rất chú ý đến mối quan hệ giữa con người với môi
trường xung quanh. Theo ông, nhu cầu của con người thể hiện sự liên kết, sự
phụ thuộc của con người với thế giới xung quanh. Để tồn tại và phát triển, con
người luôn luôn phải hoạt động nhằm đáp ứng những đòi hỏi nhất định.
Những đòi hỏi ấy chính là nhu cầu. Nhu cầu là sự đòi hỏi "cái gì đó” nằm
ngoài chủ thể. "Cái gì đó" chính là đối tượng của nhu cầu, có khả năng đem
lại sự thoả mãn nhu cầu thông qua hoạt động của chủ thể. Vì vậy, theo ông,
phải thống nhất các yếu tố khách quan (thuộc về đối tượng) với yếu tố chủ
quan (thuộc về chủ thể - trạng thái tâm lý của chủ thể) trong quá trình hoạt
động nhằm thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu vẫn mang tính tích cực vừa mang
tính thụ động, cụ thể nhu cầu là sự đòi hỏi cần được thỏa mãn ở chủ thể,
nhưng được thỏa mãn hay không là phụ thuộc vào hệ thống đối tượng trong
những điều kiện cụ thể. Trong trường hợp này, chủ thể chịu sự chi phối của
thế giới đối tượng (tính thụ động của nhu cầu).
Theo X.L. Rubinstein, sự hình thành một nhu cầu cụ thể có sự tham gia
của ý thức và phải trải qua các giải trình sau:
- Ý hướng, là bước khởi đầu của khu cầu, chủ thể mới xuất hiện trạng
thái thiếu thốn của cơ thể, chưa ý thức đầy đủ về đối tượng và khả năng thoả
mãn nó.
- Ý muốn, là khi chủ thể đã ý thức rõ về đối tượng, mục đích hoạt động
nhằm thỏa mãn nhu cầu, nhưng chưa có, đang tìm kiếm phương thức, điều
kiện thỏa mãn nhu cầu.
- Ý định, là giai đoạn chủ thể ý thức đầy đủ về mục đích, phương thức,
phương tiện, điều kiện hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu và sẵn sàng hành
động.
X L. Rubinstein cho rằng các loại nhu cầu ở con người luôn cơ quan hệ
với nhau. Trong các nhu cầu bản năng (nhu cầu vật chất) và việc thỏa mãn
nhu cầu đó, mục tiêu trước hết là bảo đảm sự tồn tại của cơ thể, tiếp đến là
để hành động. Tiến trình cải biến, phát triển nhu cầu nói chung của con
người, bắt đầu từ chỗ chủ thể hành động nhằm duy trì sự tồn tại của chính
bản thân, chuyển dần tới cửa duy trì sự tồn tại, là điều kiện được thực hiện
những giá trị ý nghĩa cuộc sống của chủ thể.
1.4. A.N. Leonchiev
Leonchiev đề cập tới vấn đề tương ứng giữa động cơ và nhu cầu. Ông
cho rằng một nhu cầu thực sự bao giờ cũng phải là nhu cầu về một cái gì đó.
Trên cấp độ tâm lý, các nhu cầu phát triển thông qua sự môi giới trung gian
của quá trình phản ánh tâm lý và sự trung giới này mang tính chất “kép”. Một
mặt, những đáp ứng các nhu cầu của chủ thể xuất hiện trước chủ thể với
những dấu hiệu khách quan, có tính chất tín hiệu. Mặt khác, bản thân các
trạng thái có tính chất nhu cầu cùng được báo hiệu cũng được phản ánh bởi
chủ thể. Trong trường hợp đó, sự biến đổi quan trọng nhất, đặc trưng cho sự
chuyển tiếp sang cấp độ tâm lý là sự xuất hiện những mối liên hệ cơ động
giữa các nhu cầu và các đối tượng đáp ứng cho chúng, vì bản thân trạng thái
có tính chất nhu cầu của chủ thể chưa rõ là vật thể nào, đối tượng nào có khả
năng thỏa mãn nhu cầu. trước khi thỏa mãn nhu cầu, đối tượng của nhu cầu
phải được phát lộ ra. Chỉ nhờ kết quả của sự phát lộ như vậy, nhu cầu mới có
được tính đối tượng của nó, còn vật được hình dung ra thông qua tư duy thì
có thúc đẩy, hướng dẫn hoạt động, đóa chính là động cơ.
Leonchiev cho rằng với tính chất là một cá nhân, chủ thể sinh ra đã có
những nhu cầu, những nhu cầu với tính chất là một sức mạnh nội tại chỉ có
thể được thực thi trong hoạt động. Nói cách khác, thoạt đầu nhu cầu chỉ xuất
hiện như là một điều kiện, một tiền đề cho hoạt động. Nhưng ngay khi chủ thể
bắt đầu hành động, lập tức xảy ra sự biến hóa của nhu cầu và nó sẽ không
còn giống như khi nó tồn tại một cách tiềm tàng, tồn tại “tự nó” nữa. Sự phát
triển của hoạt động càng đi xa bao nhiêu thì cái tiền đề này của hoạt động
(tức là nhu cầu) càng chuyển hóa bấy nhiêu thành kết quả của hoạt động. Sự
biến đổi nội dung đối tượng cụ thể của các nhu cầu cũng kéo theo sự biến đổi
các phương thức để thỏa mãn chúng.
Phân tích về mối quan hệ giữa nhu cầu và hoạt động, ông cho rằng có
hai quan niệm thể hiện theo hai sơ đồ sau:
- Sơ đồ thứ nhất nói lên tư tưởng cho rằng xuất phát điểm là nhu cầu
và vì thế toàn bộ quá trình này thể hiện thành một chu kỳ: nhu cầu -> hoạt
động -> nhu cầu. Đây là quan niệm của những người theo chủ nghĩa duy vật
về nhu cầu trước khi xuất hiện chủ nghĩa Má.
- Sơ đồ thứ hai, trái ngược lại, là một sơ đồ theo chu kỳ: hoạt động -
nhu cầu - hoạt động.
- Sơ đồ này đáp ứng được quan niệm mácxít về nhu cầu. Luận điểm
này cho rằng nhu cầu con người đểu được sản sinh ra, nó có một ý nghĩa duy
vật lịch sử. Đồng thời, nó lại cực kỳ quan trọng đối với tâm lý học bởi vì không
có một "động lực” nào tồn tại trước bản thân hoạt động lại có thể đóng vai trò
một quan niệm xuất phát có khả năng dùng làm cơ sở đầy đủ cho một lý
thuyết khoa học về nhân cách con người.
So sánh nhu cầu của con vật và con người, Leonchiev cho rằng sự
phát triển các nhu cầu của con vật phụ thuộc vào sự mở rộng phạm vi các vật
thể tự nhiên mà chúng tiêu thụ, còn các nhu cầu của con người được sản
sinh ra bởi sự phát triển của sản xuất, sự tiêu dùng. Vì vậy, nhu cầu của con
người phong phú, đa dạng hơn nhiều so với con vật. Đặc biệt, ở con người
hình thành nên một kiểu nhu cầu đặc biệt, đó là các nhu cầu có tính chất vật
thể chức năng như nhu cầu lao động, nhu cầu sáng tạo nghệ thuật. Theo ông,
điều chủ yếu nhất ở con người là các nhu cầu đã mang những quan hệ mới
giữa chúng với nhau. Mặc dù đối với con người, sự thỏa mãn các nhu cầu
sinh tồn thiết yếu vẫn là công việc hàng đầu và là điều kiện không tránh khỏi
trong cuộc sống, nhưng những nhu cầu bậc cao, những nhu cầu chuyên biệt
có tính người hoàn toàn không phải chỉ tạo thành những cơ cấu được chồng
ghép lên mặt ngoài của các nhu cầu sinh tồn thiết yếu của con người.
1.5. A. G. Kovaliov.
Theo A.G. Kovaliov, nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu do con người cảm
thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển. Nguồn gốc tính tích cực hoạt
động của cá nhân là những nhu cầu.
Lúc mới xuất hiện, nhu cầu chỉ là trạng thái thiếu thốn cái gì đó, là điều
kiện bên trong kích thích con người vận động, tìm tòi không phương hướng.
Chỉ khi nhu cầu gặp đối tượng có thể đáp ứng, nó mới có khả năng hướng
dẫn và điều khiển hoạt động. Lúc đó, nhu cầu trở thành động cở trực tiếp thúc
đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng. Ở người có hai loại nhu cầu cơ
bản: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Ngoài ra còn có nhu cầu lao động,
nhu cầu giúp tiếp, nhu cầu hoạt động xã hội những nhu cầu bao gồm các yếu
tố của cả nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
Kovaliov đã đưa ra năm quy tắc chung của sự hình thành và phát triển
nhu cầu:
1) Nhu cầu có thể nảy sinh, củng cố chỉ trong quá trình luyện tập có hệ
thống một hoạt động cụ thể.
2) Nhu cầu được phát triển khi phương tiện thỏa mãn nhu cầu da dạng,
phong phú:
3) Nhu cầu tinh thần được hình thành khi hoạt động nhằm thoả mãn nó
phù hợp (vừa sức, đặc biệt trong giai đoạn đầu)
4) Điều kiện quan trọng để phát triển các nhu cầu tinh thần là việc
chuyển từ hoạt động nhớ lại sang hoạt động sáng tạo.
5) Nhu cầu được củng cố khi chủ thể ý thức được ý nghĩa của nó đối
với bản thân và xã hội. Đồng thời, việc giáo dục và dư luận tập thể cũng góp
phần củng cố và phát triển nhu cầu.
2. Các lý thuyết bàn về nhu cầu ở phương Đông
2.1. Học thuyếy âm dương ngũ hành của Trung Quốc và việc nghiên cứu nhu cầu của con người
Học thuyết âm dương ngũ hành của Trung Quốc là một tư tưởng triết
học. Đó là phương pháp nghiên cứu quy luật biến hóa, phát triển cuủa mọi vật
trọng vũ trụ. Nó được nhiều nhà hiền triết Trung Quốc ứng dụng vào các lĩnh
vực và đã dứt được những kỳ tích rực rỡ trong việc xây dựng nên nền văn
hóa Trung Quốc sâu sắc và vĩ đại.
Thực chất của học thuyết này là năm loại nguyên tố: kim, mộc, thủy,
hỏa, thổ. Đây là năm yếu tố cơ bản nhất cấu tạo nên thế giới. Sự biến hóa và
phát triển của mọi sự vật và hiện tượng trong vũ trụ (kể cả con người) đều do
sự vận động không ngừng và kết quả tác động lẫn nhau của năm loại vật chất
có thuộc tính khác nhau này. Sự phát hiện đó đã tìm ra quy luật và nguyên
nhân của sự ra đời, phát triển và diệt vong của vạn vật trong vũ trụ. Do đó, họ
đã ứng dụng học thuyết ngũ hành vào nghiên cứu lý luận nhu cầu của con
người.
Ngũ hành mà người Trung Quốc sử dụng vào nghiên cứu nhu cầu
không còn giữ nguyên như cũ, mà nội hàm và ý nghĩa tượng trưng của chúng
đã được trừu tượng hóa:
- Thổ có đặc tính dưỡng hóa vạn vật, không vật nào là không sinh từ
đất, rồi lại trở về với đất. Nhu cầu vật chất (nhu cầu sinh tồn) là gốc của mọi
nhu cầu con người, các lại nhu cầu khác đều sản sinh từ đó. Vì vậy dùng thổ
để đại diện cho nhu cầu vật chất (sinh tồn).
- Kim có đặc tính thanh tịnh, thô sơ. Thời cổ thường liên hệ kim với
chiến tranh, khiến con người cảm thấy sinh mệnh bị nguy hiểm, do đó lấy kim
đại diện cho nhu cầu an toàn.
- Thủy có tính chất hàn lạnh, hướng xuống, các nhà hiền triết xưa của
Trung Quốc đã sớm phát hiện hiện tượng địa lý trăm sông quy về một biển.
Biển cả là nơi quy về của sông ngòi. Đặc tính hướng xuống biểu hiện sự quy
thuộc này. Nhu cầu được thừa nhận (yêu thương và chấp nhận) cũng là một
loại nhu cầu quy thuộc. Thuộc tính của thủy đại diện tốt nhất cho tính chất của
nhu cầu thừa nhận.
- Mộc có đặc tính sinh trưởng, phát triển, vươn lên. Thân thẳng, cành
cây cong thể hiện hình tượng cam chịu, hy vọng được bên ngoài thừa nhận
sự tôn kính của con người cũng bắt nguồn từ khát vọng này, do đó dùng mộc
để đại diện cho nhu cầu được tôn trọng.
- Hỏa có đặc tính nết nóng, hướng lên. Ham muốn thành đạt của con
người là sức mạnh muốn thể hiện bản thân. Người Trung Quốc thường đem
nhiệt tình của một con người ví như ngọn lửa, sự nghiệp ví như đồng đỏ
được ngọn lửa đốt cháy. Vì vậy, hỏa có thể tượng trưng cho mức độ hoặc
phương thức thể hiện nhu cầu về sự phát triển của cá nhân.
Học thuyết ngũ hành tập trung làm rõ sự bí ẩn trong phương thức tác
động của các nhu cầu của con người, khám phá phương pháp điều tiết các
nhu cầu. Nói cách khác là hoàn thiện một lần nữa học thuyết thứ bậc nhu cầu
của Maslow. Theo học thuyết này, năm loại nhu cầu của con người không chỉ
là sự thăng cấp từng bậc thang, cũng không chỉ là sự tác động tổng hợp; mà
là một động thái phát triển chứa đầy sự sinh sinh khắc khắc, ràng buộc lẫn
nhau, bổ sung cho nhau, tiến lên theo đường tròn xoắn ốc.
Học thuyết này nêu lên cao nguyên lý ngũ hành về nhu cầu:
1) Nguyên lý tương sinh: Tương sinh là một hành trong ngũ hành có tác
dụng sinh ra, xúc tiến thúc đẩy đối với hành khác. Ngũ hành có tương sinh
nên tuần hoàn vô tận. Bất cứ hành nào cũng có quan hệ với các hành khúc
theo kiểu “sinh ra tôi” và "tôi sinh ra”. Cụ thể: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ,
Thổ sinh Kim, Kim sinh thủy, Thủy sinh Mộc.
Khác với học thuyết của Maslow, nguyên lý tưởng sinh của thuyết ngũ
hành không thể hiểu một cách đơn thuần là sau khi một nhu cầu nào đó được
thỏa mãn thì mới nảy sinh ra nhu cầu khác, mà ngay cả khi nhu cầu đó chưa
được thỏa mãn cũng vẫn có thể nảy sinh ra nhu cầu mới.
Các nhà hiền triết của Trung Quốc đã mô tả quan hệ tương sinh của
ngũ hành về nhu cầu như sau:
Sơ đồ tương sinh của nhu cầu ngũ hành
2) Nguyên lý tương khắc: Tương khắc là một hành trong ngũ hành có
tác dụng khắc phạt, khống chế một hành khác, có tác dụng ngược với tương
sinh.
Tương sinh và tương khắc trong triết học là một cặp mâu thuẫn. Mâu
thuẫn là mối quan hệ vừa đối lập, vừa thống nhất trong quá trình phát triển
của sự vật.
Ngũ hành tương sinh theo chiều thuận, còn tương khắc thì khắc cách
nhau một hành. Quan hệ tương khắc là sự biểu hiện một mặt khác về sự biến
hóa phức tạp của sự vật. Sự đối kháng của nhu cầu tức là sự tương khắc.
Một loại nhu cầu nào đó vì đối kháng mà bị giảm đi thì nó sẽ chuyển sang
hướng có lợi, hoặc bất lợi.
Sơ đồ tương khắc của nhu cầu ngũ hành
Tương khắc thể hiện cụ thể như sau: Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa,
Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ.
3) Nguyên lý chế hóa: Chế hóa là liên kết các mối quan hệ tương sinh
và tương khắc với nhau. Nghĩa là chế ước lẫn nhau, sinh hóa lẫn nhau. Lý
thuyết ngũ hành cho rằng, bất cứ sự vật nào cũng có tương sinh và tương
khắc. Nếu chỉ có tương sinh mà không có tương khắc thì không thể duy trì
được sự cân bằng bình thường. Ngược lại, nếu chỉ có tương khắc mà không
có tương sinh thì sự vật không sinh hóa và phát triển được. Vạn sự, vạn vật
không thể chỉ có tương sinh và cũng không thể chỉ là tương khắc. Cho nên
tương sinh lâu phải có chế, tương khắc lâu phải có hóa. Không thể tách rời
tương sinh và tương khắc mà nên xem mối quan hện ngũ hành là sinh hóa
lẫn nhau, chế hóa lẫn nhau, trong chế có hóa, trong hóa có chế. Đó là mối
quan hệ biện chứng giữa chế và hóa. Ví dụ, Thổ sinh Kim, nhưng Thổ nhiều
thì Kim bị vùi lấp; Hỏa sinh Thổ, nhưng Hỏa nhìu thì Thổ bị cháy đen; Mộc
sinh Hỏa, nhưng Mộc nhìu thì Hỏa mờ; Thủy sinh Mộc, nhưng Thủy nhìu thì
Mộc bị trôi dạt. Điều đó chứng tỏ tương sinh quá nhiều sẽ tạo nên tổn thất.
Ngược lại, Kim suy gặp Hỏa sẽ cháy hết; Hỏa nhược gặp Thủy tất bị dập tắt;
Thủy nhược gặp Thổ sẽ bị chặn lại; Thổ suy gặp Mộc sẽ bị hút cằn; Mộc
nhược gặp Kim sẽ bị chặt đứt. Điều đó chứng tỏ tương khắc quá nhiều sẽ
gây ra tai họa.
Ngũ hành trong điều kiện bình thường vừa có thể tương sinh lại vừa
tương khắc. Như thế mới có chế hóa.
Nội dung cụ thể của nguyên lý chế hóa là:
- Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc;
- Hỏa khắc kim, kim sinh thủy, thủy khắc hỏa;
- Thổ khắc thủy, thủy sinh mộc, một khắc thổ;
- Kim khắc một, mộc sinh hỏa, hỏa khắc kim;
- Thủy khắc hỏa, hỏa sinh thổ, thổ khắc thủy;
Chúng ta đề cập cái gọi là hài hòa nội tâm chính là lấy một loạt nhu cầu
để khống chế một hoạt nhu cầu khác, khiến cho các nhu cầu đạt được sự cân
bằng. Đó là mục đích căn bản của chế hóa.
Khi phân tích ba yếu tố: nguyên nhân, phát triển, kết quả của mọi sự
kiện, ta có thể có được một nhận thức rõ ràng dài với sự phát triển của sự
vật. Đồng thời, có thể lựa chọn những biện pháp thích đáng khiến cho kết quả
có thể có lợi cho ta. Đây cũng chính là ý nghĩa quan trọng của việc nắm vững
nguyên lý chế hoá. Khi một người gặp khó khăn, hoặc gặp trở ngại về tâm lý,
cần tự mình bình tĩnh lại, tìm ra nguyên nhân, sau đó cố gắng hướng về phía
tốt. Như thế mới có thể giải toả được sự đau khổ và trở ngại trong nội tâm.
Thực chất của nguyên lý chế hoá là phương pháp hiệu quả tự mình điều tiết
nhu cầu tâm lý.
Sơ đồ quan hệ chế hóa của nhu cầu ngũ hành
Trong lý luận thứ bậc về nhu cầu của Maslow, nguyên lý chế hóa và
tương khắc đã không được phát hiện và phát huy.
Theo lý thuyết ngũ hành, nhu cầu của con người phải dựa vào quan hệ
chế hóa mới có thể tồn tại và điều tiết được. Trong cuộc sống hàng ngày,
chúng ta thường gặp tình huống sau: Một người có dự định làm một việc gì
đó, nhưng bỗng nhiên lại thay đổi ý nghĩ không làm việc đó nữa; muốn đình
chỉ việc làm của một người nào đó, thường ta sẽ nói chuyện với họ, thuyết
phục để họ loại bỏ ý nghĩ ban đầu. Những tình huống như vậy trong cuộc
sống rất nhiều. Để giải thích sự thay đổi chủ định này mà đúng lý luận thứ bậc
về nhu cầu của Maslow là không được. Ngược lại, dùng nguyên lý chế hóa
giải thích hiện tượng này có hiệu quả. Bản thân mỗi hành trong nhu cầu ngũ
hành đều có quan hệ chế hóa và có thể tự điều tiết, sự chế hóa này không
những nói được rõ hơn mối quan hệ phức tạp giữa ngũ hành, mà còn khiến
cho mỗi hành nói lên được chi tiết hơn mối quan hệ giữa các nhu cầu.
2.2. Các quan niệm về nhu cầu ở Việt Nam
Khái niệm nhu cầu trong Từ điển Tâm lý học của Viện Tâm lý học được
định nghĩa như sau: “Nhu cầu là trạng thái của cá nhân, xuất phát từ chỗ
nhận thấy cần những đối tượng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình
và đó là nguồn gốc tính tích cực của cá nhân”. Nhu cầu vừa là tiền đề, vừa là
kết quả của hoạt động. Nhu cầu vừa có tính chất vật chất vật thể (nhu cầu vật
chất) vừa có tính chức năng (nhu cầu tinh thần). Thoả mãn nhu cầu thực chất
là quá trình con người chiếm lĩnh một hình thức hoạt động nhất định trong xã
hội. Nhu cầu thể hiện ở động cơ, cách thức dạy con người hoạt động và động
có trở thành hình thức thể hiện của nhu cầu. Quan niệm của các nhà tâm lý
học Việt Nam về nhu cầu thể hiện trong bộ sách Tâm lý học do tập thể các
nhà tâm lý học đầu ngành của Việt Năm biên soạn như: Phạm Minh Hạc,
Phạm Hoàng Gia, Hồ Ngọc Đại, Trần Trọng Thuỷ, Trương Ánh Tuấn, Nguyễn
Thị Ánh Tuyết, Đặng Xuân Hoài, Lê Văn Hồng, Lê Khanh...
Nhu cầu được hiểu là sự biểu hiện mối quan hệ tích cực của các cá
nhân đối với hoàn cảnh, là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được
thoả mãn để tồn tại và phát triển.
Nhu cầu của con người có những đặc điểm cơ bản sau:
Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng, chính vì có đối tượng mới có thể
phân biệt được các loại nhu cầu. Tuy nhiên, sự tồn tại của đối tượng ấy trong
tâm lý học cá nhân có thể có nhiều mức độ khác nhau. Ở mức thấp, đối
tượng có thể còn "mơ hồ” chưa được xác định thật cụ thể, mà mới chỉ xác
định về loại. Ở mức cao hơn, đối tượng của nhu cầu được phản ánh trong óc
người mang nhu cầu một cách cụ thể hơn. Cuối cùng, đối tượng của nhu cầu
có thể được nhận thức về luật đặc trưng và về ý nghĩa của nó đối với đời
sống cá nhân. Chính nhờ sự tồn tại đối tượng của nhu cầu trong tâm lý cá
nhân mà cá nhân định hướng được hoạt động của mình trong môi trường.
- Đặc điểm quan trọng thứ hai là mỗi nhu cầu đều có một nội dung cụ
thể tuỳ theo nó được thỏa mãn trong những điều kiện nào và bằng phương
thức nào. Nội dung cụ thể của nhu cầu phụ thuộc vào những điều kiện và
những phương thức thỏa mãn nó.
- Đặc diễm thứ ba là nhu cầu thường có tính chất chu kỳ. Khi một nhu
cầu nào đó được thoả mãn, không có nghĩa là nhu cầu đó chấm dứt, nếu con
người vẫn sống và phát triển trong những điều kiện và phương thức sinh hoạt
như cũ. Những nhu cầu về ăn, mặc, học tập giao tiếp với người khác thường
xuyên được tái diễn trong cuộc sống. Sự tái diễn đó thường có tính chất chu
kỳ. Một khi nhu cầu tái hiện là một lần nó được củng cố, phát triển và phong
phú thêm lên.
Các tâm tâm lý học Việt Nam cũng khẳng định bản chất xã hội trong
nhu cầu của con người. Đó chính là sự khác nhau về bản chất giữa nhu cầu
của con ngưởi và nhu cầu của con vật. Ở con vật, để thoả mãn nhu cầu,
chúng chỉ biết lấy những gì có sẵn trong tự nhiên. Con người thì khác hơn,
biết sáng tạo ra công cụ lao động, sử dụng công cụ lao động để tác động vào
thiên nhiên, bắt thiên nhiên phải thoả mãn những nhu cầu ngày càng đông
của mình. Con người đã sáng tạo ra đối tượng để thoả mãn nhu cầu của
mình. Chính vì vậy, nhu cầu của con người ngày càng trở nên vô cùng phong
phú và phức tạp Nhu cầu phong phu chẳng nhưng do đối tượng thoả mãn
ngày càng được mở rộng, tăng lên không ngừng cả về số lượng và chất
lượng, mà còn do phương thức thoả mãn nhu cầu ngày càng phát triển.
Một điều khác biệt với động vật là con người có nhu cầu tinh thần. Nhu
cầu tinh thần của con người rất nhiều và ngày càng phong phú, nó chi phối cả
những nhu cầu về vật chất của con người.
Con người có khả năng nhận thức được đầy đủ nhu cầu của mình, về
đối tượng và phương thức thoả mãn nó nhất là nhận thức được vai trò của
từng nhu cầu trong đời sống tâm lý của từng cá nhân và của xã hội. Chính vì
vậy, con người không thỏa mãn nhu cầu của mình một cách tùy tiện.
Trước khi thỏa mãn nhu cầu của mình, con người bao giờ cũng đối
chiếu với những tiêu chuẩn đạo đức xã hại. Những tiêu chuẩn đạo đức xã hội
không được thỏa mãn thì con người sẵn sàng từ bỏ việc thoả mãn nhu cầu
của mình. Có thể nói rằng nhu cầu của con người chính là sản phẩm của sự
phát triển lịch sử xã hội loài người.
Các công trình nghiên cứu về nhu cầu ở Việt Nam gồm có: "Nghiên cứu
nhu cầu thành đạt và quan bệ của nó với tính tích cực nhận thức của sinh
viên" - Luận văn thạc sĩ của Võ Thị Ngọc Châu (1999); “Tích cực hoá hoạt
động nhận thức của học viên sĩ quan quân sự trong quá trình học tập các
môn toán, khoa học tự nhiên” - Luận án tiến sĩ của Phạm Duy Khiêm (2000);
"Nghiên cứu đặc điểm nhu cầu nhận thức của học sinh kém bậc tiểu học" -
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Lũy (2000); công trình nghiên cứu tìm hiểu
nhu cầu, nguyện vọng và thái độ của thanh niên trong điều kiện kinh tế thị
trường" của tập thể các tác giả Thái Duy Tuyên, Võ Tân Quang, Lê Đức
Phúc, Đặng Thành Hưng, Bùi Hồng Yến; “Nhu cầu học tập của sinh viên sư
phạm” - Luận án tiến sĩ của Hoàng Thị Thu Hà (2003).
Tóm lại, có nhiều lý thuyết và quan điểm nghiên cứu về nhu cầu: Bàn
về khái niệm nhu cầu; mỗi lý thuyết đề cập có những nét riêng, song có thể
nhận định một cách khái quát với nhu cầu của con người như sau: Nhu cầu là
sự đòi hỏi của chủ thể về một hay nhiều đối tượng nào đó cần được thoả mãn
để tồn tại và phát triển. Nhu cầu là một thuộc tính tâm lý nằm trong cấu trúc
của xu hướng. Ban đầu, nhu cầu xuất hiện chỉ là trạng thái thiếu thốn cái gì
đó mà chưa rõ đối tượng nào có khả năng thoả mãn nhu cầu. Khi nhu cầu
gặp đối tượng, lúc do nhu cầu trở thành động cơ trực tiếp thúc đẩy con người
hoạt động nhằm tới đối tượng. Nguồn gốc tích cực hoạt động của cá nhân là
những nhu cầu. Họ thống nhu cầu của con người beo gồm nhiều loại. Căn cứ
vào tính chất đặc điểm, nội dung, đối tượng, phương thức thoả mãn mà
người ta phân loại các nhu cầu. Hệ thống thứ bậc của nhu cầu là thành tố
quan trọng trong cấu trúc của nhân cách, là nguồn gốc tích cực của nhân
cách. Nhu cầu của con người, mang bản chất xã hội - lịch sử, nó vận động và
phát triển không ngừng cùng với sự phát triển của xã hội thông qua hoạt động
của chủ thể.
Trong các lý thuyết về nhu cầu, lý thuyết của Maslow được nhiều nhà
tâm lý đánh gía là lý thuyết có giá trị cả về lý luận và ứng dụng trong thực tiễn
lý thuyết này đề cập thứ bậc của các loại nhu cầu căn cứ vào mức độ quan
trọng và thứ tự phát sinh của nhu cầu.
Lý thuyết của Maslow còn khẳng định việc thoả mãn các nhu cầu của
con người phụ thuộc khả nhiều vào môi trường bên ngoài (môi trường tự
nhiên và môi trường xã hội) Thực tế lý thuyết của Maslow được ứng dụng
nhiều trong cuộc sống thực tiễn như trong lĩnh vực quản lý, nghiên cứu tâm lý
con người, tham vấn tâm lý. v.v.. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần chú ý tới hạn
chế của lý thuyết này là tính máy móc và thiếu quan niệm chính thể là nhu
cầu luôn luôn được thực hiệnn từ thấp đến cao. Do đó, khi chúng ta điều tiết
nhu cầu của con người, nhất thiết dưới chú ý đến điểm này để tránh được
tính hạn chế trên.
3. Nhu cầu của con người Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Những nhiệm vụ lịch sử của dân tộc ta đang đặt ra những yêu cầu mới
đối với con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có đội
ngũ nhân lực bao gồm:
Đội ngũ công nhân lành nghề, tiếp thu và làm chủ được công nghệ tiên
tiến, trực tiếp sản xuất hàng hoá, cung ứng dịch vụ đạt chất lượng theo tiêu
chuẩn quốc tế đứng vững và phát triển được trong thị trường nội địa và quốc
tế cạnh tranh gay gắt.
Đội ngũ trí thức thành thạo về chuyên môn, nghề nghiệp, có năng lực
tiếp thu, chọn lọc và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu của khoa học và
công nghệ hiện đại những tinh hoa của văn hóa, văn minh thế giới vào thực
tiễn Việt Nam, đồng thời có năng lực sáng tạo về lý thuyết cũng như thực
hành, nhằm giải quyết những vấn đề trước mắt và lâu dài của đất nước.
Đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, con người Việt Nam cần phát
huy những giá trị truyền thống dân tộc như yêu nước, tự hào dân tộc, chịu
đựng gian khổ, đoàn kết, trọng chữ tín, trọng nhân nghĩa, trọng công bằng...
Đồng thời hình thành cho mình hệ thống giá trị nhân văn hiện đại như tự lập,
dân chủ, năng động sáng tạo, khả năng hội nhập và cạnh tranh…
Những yêu cầu mới đó đã và đang ảnh hưởng tới sự phấn đấu thỏa
mãn những nhu cầu của người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Nhu cầu vật chất của con người trong thời kỳ mới cao hơn rất nhiều so
với các giai đoạn trước. Nguyên nhân là do chũng ta đã thoát khỏi cuộc
khủng hoảng sau hơn 10 năm đổi mới với những thành tựu to lớn và rất quan
trọng. Tuy chưa vượt khỏi số các nước nghèo nhất trên thế giới, nhưng
chúng ta đã bắt đầu cất cánh từ đường băng của thời kỳ đổi mới, bước vào
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự tăng trưởng
kinh tế dẫn đến đời sống của người dân được cả thiện, mức sống được nâng
cao rõ rệt, cả ở thành thị lẫn nông thôn. Vì vậy, nhu cầu nâng cao chất lượng
cuộc sống vật chất, tinh thần và thể lực là nhu cầu chung của người dân
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và hội nhập vào cộng đồng
quốc tế. Nhu cầu vật chất của người dân nói chung và đặc biệt là nhu cầu của
nhóm người có thu nhập cao có nhiều biến đổi. Nhu cầu ăn uống không
những phải đủ chất, ngon mà còn phải đảm bảo an toàn về vệ sinh thực
phẩm, đồ ăn thức uống bằng men vi sinh được sử dụng rộng rãi. Nhờ công
nghệ phát triểm mạnh mẽ, nhu cầu máy tính gia đình ngày càng phổ cập, nhà
ở và các đồ dùng gia đình hiện đại phát triển. Người dân có nhu cầu khám
chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu theo yêu cầu. Những người có
mức thu nhập trung bình cũng mong muốn được cải thiện, tăng mức sống,
nâng cao chất lượng về ăn, mặc, ở, đi lại, phòng và chữa bệnh. Những người
có mức thu nhập thấp cũng có mong muốn thoát khỏi sự đói nghèo và nâng
cao chất lượng cuộc sống.
Con người sinh tốn và phát triển dựa trên những điều kiện tự nhiên và
điều kiện xã hội. Nhu cầu của con người đều chịu ảnh hưởng tác động của sự
vận động và phát triển của tự nhiên và của xã hội. Do đó, con người có nhu
cầu an ninh và an toàn, ở nước ta, trước sức ép về dân số. Và yêu cầu về
công nghiệp hoá, đến nay vẫn tiếp tục khai triển một lượng lớn đất hoang, sử
dụng rộng rãi thuốc trừ sâu chất kích thích, v.v. khiến cho môi trường bị ô
nhiễm ngày càng trầm trọng, ô nhiễm khí quyển do chất thải công nghiệp, khí
thải của các xe cô động cơ, rác thải sinh hoạt... Môi trường bị ô nhiễm có ảnh
hưởng không tốt đến sức khoẻ và tuổi thọ của con người. Vì vậy, để thực
hiện được nhu cầu an toàn, con người cần phải nghiên cứu cải tạo môi
trường nhằm ngăn chặn những hành động phá hoại môi trường, hạn chế tới
mức thấp nhất ảnh hưởng của các chất thải và khí thải độc hại tới con người.
Thông qua việc đặt ra những luật và văn bản pháp quy có liên quan, khống
chế việc thải các chất gây ô nhiễm, bảo đảm chất lượng môi trường khí
quyển, ứng dụng công nghệ làm sạch môi trường, sử dụng các nguồi năng
lượng sạch như năng lượng mặt trời, năng lượng gió, trồng cây gây rừng để
làm sạch không khí,v.v…
Trong xã hội cộng nghiệp, các mối quan hệ sẳn xuất quan hệ giao tiếp,
luân lý, đạo đức, pháp luật, chính trị, giai cấp, kinh tế… cũng có nhiều biến
đổi, Sự biến đổi của các mối quan hệ này từ các mặt khác nhau, các góc độ
khác nhau sẽ quy định và chi phối các nhu cầu về ăn toàn lao động, nghề
nghiệp, an toàn và kinh tế, an toàn nhân sự và ăn toàn tâm lý.
Để bảo đảm an toàn, con người có nhu cầu học cách biết phát hiện ra
người khác, hiểu mình và hiểu người khác, hoạc cách cùng làm việc vì mục
đích chung. Nhu cầu được sống trong môi trường tự nhiên trong lành, môi
trường xã hội an toàn, lành mạnh của người dân được thỏa mãn sẽ làm tăng
chất lượng đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của người dân.
Bên cạnh đó, nhu cầu được thừa nhận và được giao tiếp trong điều
kiện kinh tế tri thức trở nên cực kỳ quan trọng. Những người làm giàu chính
đáng có nhu cầu được xã hội khuyết khích và tôn vinh, đi đôi với chống làm
giàu phi pháp, tham nhũng, gian lận thương mại.
Nhu cầu mở rộng mối quan hệ của con người gia tăng do sự biến đổi
trong xã hội thông tin. Mạng Internet kết nối toàn cầu đã giúp con người liên
lạc với nhau nhanh chóng hơn. Điều đó đã gips phần đáp ứng nhu cầu giao
lưu và hợp tác quốc tế, nhanh chóng tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế.
Trong xã hội thông tin, mọi hoạt động, học tập hay vui chơi, giải trí đều
có thể ở nhà tận hưởng theo ý muốn thông qua máy tính, do đó, những cuộc
tiếp xúc giữa người với người cũng sẽ giảm nhiều, cảm giác cô đơn sẽ phổ
biến. Chính vì lẽ đó, con người hiểu được giá trị của sự tương tác giữa con
người với nhau là vô cùng quan trọng mà sự giao tiếp gián tiếp thông qua
mạng không bao giờ thay thế hoàn toàn được. ông Philip Yeo - Chủ tịch Ban
phát triển kinh tế Trường Đại học Công nghệ Nanyang. Singapo tại Hội nghị
Giáo dục năm 2000 với chủ đề "Lãnh dạo mới, trường học mới, tương lai
mới”, ngày 7-4-2000, đã nói: “Mạng Internet có thể giúp con người liên lạc với
nhau nhanh hơn, nhưng sự giao tiếp mặt đối mặt vẫn là vô cùng quan trọng.
Bạn có thể gửi đi một nụ cười "đông lạnh" bằng thư điện tử. Nhưng bạn
khang thể gửi đi được hơi ấm của một cái bắt tay qua thư điện tử"…
Nhu cầu hoạt động, vui chơi, giải trí của con người tăng do các phương
tiện giao thông và thông tin ngày càng hoàn thiện cũng như thời gian làm việc
giảm, những ngày nghỉ cuối tuần và những ngày lễ tết, khiến con người có
quỹ thời gian nghỉ ngơi, phục hồi sức khoẻ. Do đó, sự phát triển và nâng cao
chất lượng các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông tin đại chúng và các
phương tiện vui chơi, giải trí đáp ứng nhu cầu đời sống văn hoá tinh thần của
nhân dân là một yêu cầu không thể xem nhẹ trong giai đoạn công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Khoa học và công nghệ phát triển đã tạo những điều kiện thuận lợi cho
lớp trẻ phát trển; tài năng, đồng thời cũng tăng thêm sự cạnh tranh và áp lực
trong nghề nghiệp.
Quá trình công nghiệp hoá, đô thị hóa không ngừng làm thay đổi
phương thức tư duy và lối sống của con người. Trào lưu chung của lớp trẻ là
có nhu cầu tự chủ và tự lập dựa vào sức mình để học tập, phấn đấu nhằm
được khẳng định hơn trong xã hội, có thu nhập cao. Điều đó thúc đẩy họ phát
huy các sáng tạo của mình cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất
nước. Trong xã hội hiện đại, do sự cạnh tranh gay gắt, con người luôn có nhu
cầu tự hoàn thiện mình, tự khẳng định mình, vươn lên trong cuộc sống, muốn
mọi người thừa nhận và ngưỡng mộ.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của nền văn minh dựa vào quyền lực của tri thức,
do đó xu thế toàn dân học tập suốt đời phát triển mạnh trên thế giới.
Trong thời đại bùng nổ về tri thức, đối tượng kiến thức học được trong
nhà trường truyền thống chỉ chiếm khoảng 20% khối lượng kiến thức được
ứng dụng của một nhân viên khoa học kỹ thuật. Điều đó đòi hỏi con người
phải được đào tạo và tự học thường xuyên suốt đời. Vì vậy, nhu cầu học tập
suốt đời theo hướng thiết thực, hiện dại, gắn với yêu cầu của xã hội để phát
triển bản thân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phổ biến ở người
dân Việt Nam, đặc biệt là ở thế hệ trẻ.
Học tập giúp con người thoả mãn nhu cầu thu nhập thông tin, tiếp thu
tri thức, tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến; sử dụng thành thạo những
tri thức tiếp thu được vào công viên của mình, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp.
Đây cũng chính là cơ hội cho con người phát triển khả năng, khẳng định vị trí
của mình trong xã hội.
Nhu cầu có việc làm ở cả thành thị và nông thôn là nguyện vọng chính
đáng và bức xúc của người dân. Muốn giải quyết tốt vấn đề đó, nhà nước
phải tạo được môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần
kinh tế đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở sản xuất kinh doanh; tạo nhiều
việc làm và phát triển thị trường lao động. Giải quyết việc làm góp phần nâng
cao năng lực và tạo cơ hội cho mọi người có thể phát huy hết khả năng, nâng
cao tinh thần trách nhiệm của mọi người.
B. ĐỘNG CƠ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH
TS. LÊ HƯƠNG
Để đáp ứng nhu câu và xây dựng con người như là nhân tố quyết định
sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa
và hội nhập kinh tế quốc tế. Con người Việt Nam cần phải có các phẩm chất
đạo đức cũng như trí lực. Như vậy, hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ một
cách có định hưỡng là một công việc có ý nghĩa vô công quan trọng trong sự
nghiệp phát triển đất nước.
Dưới góc độ tâm lý học, động cơ được xem là "hạt nhân của nhân
cách", giữ vị trí quan trọng trong cấu thúc nhân cách. Vì vậy, nghiên cứu quá
trình hình thành nhân cách không thể không đề cập vấn đề động cơ.
Theo chúng tôi, khi nghiên cứu động cơ trong mối quan hệ với quá trình
hình thành nhân cách cần chú ý đến những vấn đề sau:
- Xác định rõ nội hàm khái niệm động cơ dưới góc độ tâm lý học, từ đó
có được một khái niệm công cụ trong nghiên cứu.
- Xác định các thành phần cấu trúc hệ động cơ, đặc biệt là cấu trúc
động cơ hoạt động của con người, nhằm xây dựng cơ sở khoa học cho việc
định hướng giáo dục nhân cách, nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục.
- Xác định mối quan hệ giữa động tác và ý thức. Nhằm khẳng định quá
trình hình thành nhân cách là một quá trình có tính định hướng, có tính chọn
lọc tích cực.
- Tìm hiểu sự phát triển hệ động cơ trong quá trình hình thành nhân
cách.
1. Khái niệm động cơ
Trong tâm lý học, động cơ là một vấn đề được các nhà nghiên cứu
quan tâm từ rất lâu. Tất cả các công trình nghiên cứu nhằm lý giải tại sao con
người lại hành động như thế này hay như thế kia về thực chất đều là những
nghiên cứu về động cơ. Ronald E.Smith cho rằng, khái niệm động cơ được
dùng như một khái niệm trung tâm nhằm lý giải hành vi và các nguyên nhân
của nó.
Động cơ là một hiện tượng tâm lý đặc biệt. V.G.Axeev nhà tâm lý học
người Nga cho rằng: trên con đường tiến hóa của cơ thể sống, hiện tượng
động cơ xuất hiện khá muộn. Các dấu hiệu cho thấy động vật có “cảm nhận
thông qua xúc cảm” về sự tồn tại của một số nhu cầu, thể hiện sự “so sánh,
đánh giá” chúng và có sự lựa chọn thỏa mãn một nhu cầu cấp thiếp được
xem là những dấu hiệu về sự xuất hiện hiện tượng động cơ như một hiện
tượng tâm lý bậc cao.
Trong Từ điển Tâm lý học của Nga, khái niệm “động cơ” được xác định
là:
a) Các kích thích thúc đẩy hoạt động. Các kích thích này liên quan với
việc thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. Đó là tập hợp các điều kiện bên trong và
bên ngoài khêu gợi tính tích cực của chủ thể và định hướng cho tính tích cực
đó;
b) Đối tượng (vật chất hay tinh thần) thúc đẩy và quy định sự lữa chọn
hướng đi của hoạt động được thực hiện để đạt được đối tượng đó;
c) Nguyên nhân được nhận thức là cơ sở của sự lữa chọn hành động
và các hành vi của nhân cách.
Trong Từ điển Tâm lý học của Raymond. J. Corsini (Anh), động cơ
được xem là cái thúc đẩy, nuôi dưỡng và định hướng các hành động tâm lý
hay sinh lý. Động cơ bao gồm các lực thúc đẩy nội tâm (bên trong) như các
xung năng, các hứng khởi và mong muốn cần thiết trong quá trình này.
A.N.Leonchiév - nhà tâm lý học nổi tiếng người Nga khi bàn về khái
niệm động cơ đã đưa ra những ý tưởng cơ bản sau:
a) Động cơ và nhu cầu là hai hiện tượng tâm lý gắn bó chặt chẽ với
nhau;
b) Động cơ chính là đối tượng có khả năng đáp ứng nhu cầu đã được
chủ thể tri giác, biểu tượng, tư duy... Đó là sự phản ánh chủ quan về đối
tượng thoả mãn nhu cầu;
c) Động cơ có chức năng thúc đẩy và định hướng hoạt động nhằm thoả
mãn nhu cấu.
J.Piaget cho rằng, tính định hướng tích cực có chọn lọc của hành vi tạo
thành bản chất của hiện tượng được xác định là động cơ.
Ronald E.Smith định nghĩa động cơ như là một quá trình bên trong có
ảnh hưởng đến hướng, tính bền vững và sức mạnh của hành vi có mục đích.
Maurice Reuchlin cho rằng nghiên cứu động cơ chính là phân tích các
yếu tố gây ra hoạt động, hướng nó vào mục đích nào đó, cho phép nó kéo dài
nếu chưa đạt được mục đích hoặc ngưng lại đúng lúc... và phân tích các cơ
chế cắt nghĩa tác dụng của các yếu tố đó.
Nói tóm lại, trong tâm lý học có rất nhiều định nghĩa khác nhau về động
cơ hoạt động của con người, song điểm thống nhất trong cách nhìn nhận về
hiện tượng này chính là ở chỗ, các nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng, động
cơ là một hiện tượng tâm lý thúc đẩy, quy định sự lựa chọn và hướng của
hành vi, việc nghiên cứu hiện tượng này giúp lý giải các nguyên nhân dẫn đến
hành vi đó. Động cơ bao gồm tất cả các kiểu loại kích thích, thúc đẩy con
người hoạt động như các mối quan tâm, các ham mê, ước mơ, lý tưởng. Tuy
nhiên bản chất của hiện tượng đó là gì? Vai trò của các yếu tố khác nhau
trong việc quy định hiện tượng đó như thế nào? Về những vấn đề này có
nhiều quan điểm khác nhau.
Trong lịch sử tâm lý học đã tồn tại những quan điểm duy tâm về động
cơ. Những người đi theo quan điểm này nhìn thấy nguồn gốc của động cơ
con người trong tư duy, trong ý thức. Về điều này Ph.Ăngghen viết: “Người ta
quy cho bộ óc, cho sự phát triển và hoạt động của bộ óc, tất cả công lao làm
cho nền văn minh phát triển nhanh chóng; và đáng lẽ phải giải thích hoạt
động của mình từ nhu cầu của mình, … thì người ta lại quen giải thích hoạt
động của mình từ tư duy của mình”.
B.Ph.Lomov cho rằng bước đầu tiên trên con đường giải thích hiện
tượng động cơ của con người một cách duy vật gắn với những nghiên cứu về
nhu cầu sinh lý. Hiện nay, khoa học đã tìm ra nhiều cơ sở sinh lý và hoá sinh
của việc hình thành các cảm giác đói, khát, v.v. của cơ thể. Song đáng tiếc là
kết quả của các nghiên cứu này thường được sử dụng để minh chứng cho
các quan điểm sinh vật hoá động cơ của con người và do đó, người ta cũng
không thấy được những khác biệt giữa động cơ của động vật và của con
người. Một trong những biểu hiện của khuynh hướng này là việc nhìn nhận
động có của con người như những bản năng (điển hình là William McDougall,
những người theo trường phái phân tâm học, v.v..). Cách nhìn thận như vậy
thường dẫn đến chỗ đối lập cá nhân với xã hội và xem xét môi trường sống
chỉ như những điều kiện để các bản năng mà con người vốn có từ lúc sinh ra
được bộc lộ dần dần trong qui trình phát triển cá thể. Cũng có những quan
điểm lý giải hành vi con người một cách máy móc, theo mô hình của những
phản xạ có điều kiện (tâm lý học hành vi cổ điển). Quan điểm này thường phủ
nhận hoặc không đánh giá đúng mức tính tích cực, tính chủ động của con
người.
Tuy nhiên, ngày càng có nhiều người nhận thấy tính chất không đúng
đắn của các quan điểm nêu trên, bằng chứng là ngay trong lòng các trường
phái đó đã xuất hiện những quan điểm mới. Trên cơ sở kết quả của nhiều
công trình nghiên cứu tâm lý học dữa trên chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng (được thừ nhận hoặc không được thừa nhận một
cách chính thức) có thể nêu ra một số điểm đáng lưu ý về động cơ hoạt động
của con người như sau:
- Trước hết, động cơ – đó là phản ánh tâm lý về đối tượng có khả năng
thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. Các nhà tâm lý học khẳng định rằng, nhu cầu
bao giờ cũng là nhu cầu về một điều gì đó. Tức là nhu cầu có tính đối tượng.
Song lúc đầu, khi ở chủ thể xuất hiện trạng thái cần một cái gì đó, thì đối
tượng thỏa mãn nhu cầu chưa được xác định rõ. Chỉ khi nhu cầu gặp được
đối tượng có khả năng thỏa mãn nó thì nhu cầu mới đạt được tính đối tượng.
Đối tượng thỏa mãn nhu cầu được tri giác tư duy, đạt được khả năng thúc
đẩy và định hướng hoạt động của chủ thể sẽ trở thành động cơ. Động cơ –
đó là tất cả những gì xuất hiện ở cấp độ phản ánh tâm lý thôi thúc con người
hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu.
Như vậy, ở đây chúng ta thấy xuất hiện vấn đề về mối quan hệ giữa
động cơ và nhu cầu. Trong tâm lý học, hai hiện tượng này luôn được nghiên
cứu trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhau khi đan xen vào nhau, khó
tách rời. Khi bàn về vấn đề động cơ không thể không đề cập các lý thuyết
khác nhau về nhu cầu. Ngược lại, khi nói đến nhu cầu không thể không nói
đến các lực thúc đẩy con người nhằm thoả mãn nhu cầu. B.Ph. Lomov cho
rằng, nếu nhìn nhận nhu cầu như là một tất yếu khách quan thể hiện sự đòi
hỏi của chủ thể về những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển thì
động cơ là biểu mạn chủ quan của tất yếu khách quan đó. Tuy nhiên, có điểm
đáng lưu ý là quan hệ giữa nhu cầu và động cơ không có tính đồng nhất.
Những nhu cầu giống nhau có thể được thoả mãn trong những động cơ khác
nhau. Ngược lại, đằng sau những động cơ giống nhau có thể là những nhu
cầu khác nhau. Mối quan hệ không đồng nhất giữa nhu cầu và động cơ có
được là nhờ tính đa dạng về phương thức và cách thức thoả mãn nhu cầu
của con người. Như vậy, khi chúng ta nhìn nhận động cơ như là hạt nhân của
nhân cách thì trong sự nghiệp giáo dục thể hệ trẻ không thể không chú ý đến
việc hình thành ở những người được giáo dục những cách thức đáp ứng nhu
cầu đa dạng của cá nhân một cách hợp lý hình thành ở họ hệ thống động cơ
phù hợp. Điều quan trọng nhất là làm thế nào xây dựng dược mối quan hệ
phù hợp giữa nhu cầu xã hội, lợi ích xã hội và nhu cầu cá nhân, lợi ích cá
nhân.
- Các động cơ đặc trưng của con người mang tính lịch sử - xã hội. Đây
là một luận điểm có ý nghĩa phương pháp luận rất lớn. Trước hết, luận điểm
này khẳng định các động cơ đặc trưng của con người nảy sinh và hình thành
trong quá trình phát triển cá thể, chứ không phải là một cái gì đó có sẵn từ lúc
đứa trẻ mới sinh ra. Như vậy, đặt ra một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn trong
giáo dục là phải nghiên cứu các cơ sở quy định quá trình hình thành các động
cơ đặc trưng của con người và các tâm lý.
- Tính lịch sử - xã hội của động cơ côn người còn thể hiện ở chỗ, đối
tượng thỏa mãn các nhu cầu của con người là những sản phâm của quá trình
sản xuất xã hội. Với tư cách là những phản ánh tâm lý về các đối tượng đó.
Các động cơ đặc trưng của con người có nguồn gốc xã hội. Đối với những
động cơ có nguồn gốc sinh vật (những động cơ đáp ứng nhu cầu nhằm bảo
đảm sự tồn tại của cơ thể như một hệ thống sinh vật) thì việc đáp ứng chũng
cũng mang tính xã hội, phụ thuộc vào điều kiện sống cụ thể, đặc biệt là vào
văn hóa – lối sống đặc trưng cho mỗi nhóm người, mỗi dân tộc.
Khẳng định tính lịch sử - xã hội của các động cơ đặc trưng của con
người cũng có nghĩa là khẳng định tầm quan trọng của giáo dục (với nghĩa
rộng và nghĩa hẹp) trong quá trình hình thành lĩnh vực nhu cầu động cơ của
nhân cách.
2. Cấu trúc động cơ
Nói đến cấu trúc động cơ của con người là nói đến các thành phần tạo
nên cấu trúc và mối quan hệ giữa các thành phần đó. Có thể phân biệt hai
loại cấu trúc: cấu trúc của hệ động cơ và cấu trúc của động cơ hoạt động như
là một tiểu hệ thống trong hệ thống động cơ của con người.
Khi nghiên cứu động cơ như một hiện tượng tâm lý, nhiều nhà tâm lý
học đã đề cập tính hệ thống trong hệ động cơ cua con người. Các nhà nghiên
cứu khẳng định rằng, các động cơ của con người có tính hệ thống. Điểm này
có nghĩa là các động cơ khác nhau của con người nằm trong các mối quan hệ
chặt chẽ với nhau tạo nên một hệ thống trọn vẹn. Trong mỗi giai đoạn phát
triển cá thể hay mỗi thời điểm khác nhau của cuộc sống, có những động cơ
giữ vai trò chủ đạo, chi phối các động cơ khác. Vai trò của các động cơ trong
hệ thống thay đổi tuỳ thuộc vào điều kiện sống cụ thể cũng như vào các hoạt
động sống cụ thể của mỗi người. Tính hệ thống của động cơ làm cho các
hoạt động của con người mang tính đa động cơ. Một hoạt động có thể được
thực hiện do sự thôi thúc của nhiều động cơ khác nhau. Song một động cơ
cũng có thể được thỏa mãn bởi nhiều dạng hoạt động khác nhau. Sự thay đổi
mới quan hệ và vai trò của các động cơ khác nhau trong hệ thống động cơ
theo thời gian, theo điều kiện sống hay theo hoạt động của con người cho
phép khẳng định rằng, bất kỳ một đối tượng nào cũng chứa đựng trong nó
“lực động cơ tiềm năng” đối với hoạt động của con người.
Có khá nhiều lý thuyết bàn về các loại động cơ khác nhau của con
người và vai trò của các loại động cơ đó trong đời sống của họ. W.McDougall
liệt kê ra 18 nhu cầu bản năng cơ bản của con người. S.Freud nhấn mạnh vai
trò của bản năng tính dục trong việc quy định hành vi, A.Maslow đưa ra tháp
nhu cầu với năm tầng bậc khác nhau,v.v.. Tồn tại một khuynh hướng rất phổ
biến là trong hệ thống động cơ của con người, người ta phân chia ra các
động cơ cấp một và động cơ cấp hai hay động cơ nguyên phát và động cơ
thứ phát. Ví dụ: I.Braun phân ra những động cơ vốn có từ khi sinh ra và
những động cơ nảy sinh nhờ cơ chế lĩnh hội sau này, G.Murphy phân ra
những động cơ nguyên phát là những động cơ bên trong, gắn liền với những
nhu cầu cơ thể và động cơ thứ phát. Loại động cơ thứ hai được hình thành
như là những công cụ để đáp ứng các động cơ nguyên phát. Điều có ý nghĩa
quan trọng trong việc phân loại động cơ trong hệ thống động cơ của con
người là cách nhìn nhận vai trò của các loại động cơ đó trong đời sống hiện
thực của họ. Khi bàn về vấn đề này, B.G.Axeev đã nhận xét rằng, nhiều nhà
tâm lý học phương Tây đã nhìn nhận những động cơ nguyên phát (hay động
cơ cấp một) những động cơ được hình thành từ rất sớm, thậm chí những
động cơ có tính bẩm sinh, động cơ sinh vật là cơ sở của cấu trúc động cơ của
con người: Họ xem những động cơ này không chỉ là nguồn cung cấp năng
lượng, mà còn là cơ sở nội dung quy định hướng của hành vi quan điểm như
vậy không được các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) chấp nhận. Các nhà tâm lý
học Xô viết khẳng định tính thống nhất của các động cấu tạo nên cấu trúc hệ
động cơ của con người và cho rằng những động cơ đáp ứng những nhu cầu
sinh lý của cơ thể là một cấu thành của hệ động cơ, là nền tảng song những
động cơ cấp cao mới là thành phần quan trọng của hệ thống. Những động cơ
cấp cao đáp ứng nhu cầu nảy sinh từ những động cơ sinh vật, mà từ những
hoạt động sống đa dạng của họ. Trong quá trình phát triển cá thể, việc đáp
ứng những nhu cầu sinh lý của trẻ chỉ là một trong những điều kiện nảy sinh
và phát triển của những nhu cầu, động cơ bậc cao đặc trưng cho con người
và những nhu cấu, động cơ bậc người của đứa trẻ không kém gì việc thoả
mãn những nhu cầu sinh lý của nó.
Cuối thế kỷ XX, S.H. Schwartz và W. Bilsky đã đưa ra lý thuyết mới về
cấu trúc giá trị - động cơ của con người. Các tác giả không chỉ liệt kê các loại
giá trị - động cơ khác nhau cảu con người mà còn xác định mối quan hệ hòa
hợp và mâu thuẫn giữa chũng, cho phép dự đoán các cách ứng xử của mỗi
người trong cuộc sống đời thường. Schwartz và Bilsky phân biệt 10 loại động
cơ khác nhau cảu con người. Đó là những động cơ sau: tự điều chỉnh; kích
thích; đề cao khoái cảm; thành đạt; quyền lực; tính an toàn; tính thỏa hiệp;
tính truyền thống; mong muốn thuận lợi; tính toàn diện. Những loại động cơ
này quy định hướng của những hoạt động cụ thể cũng như hướng của tính
tích cực nói chung trong những giá trị - động cơ kể trên có những loại mâu
thuẫn với nhau và những giá trị - động cơ hòa hợp với nhau. Chẳng hạn,
những giá trị - động cơ bảo tồn (tính an toàn, thỏa hiện, truyền thống) mâu
thuẫn với những giá trị - động cơ liên quan đến sự thay đổi (kích thích, tự điều
chỉnh), các giá trị - động cơ liên quan đến tự khắc phục bản thân (tính toàn
diện, tính thiện cảm) mâu thuẫn với những giá trị tự đề cao, nhấn mạnh đến
bản thân (quyền lực, thành đạt, đề cáo khoái cảm và kích thích, kích thích và
tự điều chỉnh, v.v.. là những giá trị không mâu thuẫn với nhau.
Những tư tưởng được trình bày trong lý thuyết của Schwartz và Bilsky
đã dược kiểm chứng bằng những nghiên cứu thực tiễn ở 48 nước. Kết quả
của những nghiên cứu này cho thấy hệ động cơ và mối quan hệ giữa các loại
động cơ theo lý thuyết của hai tác giả trên có tính phổ biến trong những nền
văn hoá khác nhau. Song Schwartz Và Bilsky cũng thừa nhận rằng, trong một
số trường hợp cụ thể, cấu trúc giá trị - động có của những con người cụ thể
có thể có những sai lệch so với lý thuyết. Điều này phụ thuộc vào những điều
kiện xã hội đặc biệt trong cuộc sống của từng cá nhân.
Schwartz và Bilsky đã phân nhóm các động cơ của con người thành 10
loại khác nhau, nhưng trên thực tế, biểu hiện của thể loại nhu cầu, động cơ
của con người rất đa dạng và mối tương quan giữa các nhu cầu, động cơ
trong hệ thống không phải bất biến, mà luôn thay đổi. Có nhiều xuất phát
điểm khác nhau để đánh giá nhân cách con người trên cơ sở hệ giá trị - động
cơ của họ. Về vấn đề này chúng tôi thấy ý kiến của B.Ph.Lomov rất đáng chú
ý. Khi bàn về động thái của các nhu cầu: động cơ của con người, ông cho
rằng, có thể chia ra một vài "số đo". Các số đo này thể hiện mối tương quan
giữa các nhu cầu - động cơ trong hệ thống. Có các số đo sau:
- Số đo được xác định bởi mối tương quan giữa nhu cầu cá nhân, nhu
cầu của những cộng đồng mà cả nhân là thành viên và nhu cầu xã hội.
- Số đo được xác định bởi một tương quan giữa các nhu cầu tồn tại và
nhu cầu phát triển.
- Số đo được xác định bởi mối tương quan giữa các động cơ hướng
vào việc sản xuất và tiêu dùng.
- Số đo được xác định bởi mối tương quan giữa các nhu cầu ở các cấp
bậc khác nhau (nhu cầu nền tảng và nhu cầu thứ phát)
Theo Lomov, nghiên cứu tâm lý các số do kể trên trong lĩnh vực nhu
cầu - động cơ cá nhân có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc giải quyết
các nhiệm vụ hình thành những nhu cầu động cơ hợp lý ở con người trong
giáo dục.
Có thể gọi cấu trúc hệ động cơ của con người là cấu trúc vĩ mô. Tuy
nhân, mỗi động cơ tham gia vào hệ động cơ cũng được xem như một tiểu hệ
thống trọn vẹn và vì vậy, nó cũng có cấu trúc riêng của là các thành phần của
từng động cơ và tương quan giữa các thành phần đó. Có thể gọi đây là cấu
trúc vi mô của động cơ. Mặc dù vấn đề cấu trúc vi mô của động cơ có ý nghĩa
rất lớn trong việc giáo dục nhân cách, điều chỉnh hành vi lệch chuẩn, song
hiện nay còn ít được nghiên cứu.
V.G.Axoev là một trong những nhà tâm lý học quan tâm nhiều đến vấn
đề này. Xuất phát từ nguyên tắc về sự thống nhất của các mặt đối lập, ông đã
xem xét cấu trúc động cơ của con người từ những góc độ khác nhau.
Theo Axeev, trong động cơ của con người có yếu tố hành động tích
cực và yếu tố xúc cảm giá trị. Hai yếu tố này nằm trong sự thống nhất biện
chứng, tạo thành hai cực của một cấu trúc trọn vẹn. Yếu tố xúc cảm - giá trị là
yếu tố cơ bản của cấu trúc động cơ là yếu tố đầu tiên trong việc quy định
hành vi. Khi tiếp xúc với hiện thực xung quanh, khi con người có được như
quan tâm đầu tiên với hiện thực đó thì đồng thời ở con người cũng hình thành
một trường động lực căng thẳng. Trong phạm vi và ảnh hưởng của trường
này, quá trình hoạt động tích cực của con người được quy định và thực hiện.
Tuy nhiên, theo Axeev, yếu tố xúc cảm - giá trị là một yếu tố mang tính thụ
động, nó chỉ ghi nhận sự kiện là đã xuất hiện mối quan hệ giữa cá nhân và
thế giới hiện thực, trong đó có quan hệ mâu thuẫn giữa cái mà cá nhân đó
mong muốn và trạng thái hiện tại của hiện thực. Sự ghi nhận này không bao
gồm yếu tố hành động tích cực.
Cấu trúc động cơ của con người còn bao gồm những yếu tố liên tục,
quà trình và yếu tố đứt đoạn. Những yếu tố này thể hiện tính đặc thù của cuộc
sống con người, thể hiện ý nghĩa cuộc sống của họ: con người không chỉ
hướng tới việc thoả mãn các nhu cầu, đó được một số kết quả cụ thể, mà còn
hướng tới chính quá trình hoạt động, hướng tới việc hiện thực hoá chủ thể
như là một con người: Axeev cho rằng, trong nghiên cứu cấu trúc động cơ
của con người có một vấn đề quan trọng – đó là vấn đề về mối quan hệ và vai
trò của nhu cầu chung về hoạt động và những kích thích cụ thể. Chẳng hạn,
những mục đích hướng tới những kết quả nhất định. Một mặt, Axeev xem đây
là hai kiểu động cơ quy định hành vi. Một là những động cơ mang tính định
lượng, có tính quá trình, liên tục. Hai là những động cơ định tính, có tính đức
đoạn. Mặt khác, ông cũng khẳng định rằng, động cơ của bất kỳ hoạt động nào
cũng nhất thiết bao hàm trong nó yếu tố liên tục và yếu tố đứt đoạn. Đây là
những yếu tố rất cần thiết tạo nên cấu trúc của động cơ.
Một đặc điểm quan trọng khác của động cơ con người là có cấu trúc hai
tình thái: dương tính và âm tính. Hai tình thái này thể hiện trong những hình
thức kích thích khác nhau: kiểu những ham muốn mà con người đòi phải
được thỏa mãn ngay (theo Axeev, việc thỏa mãn những ham muốn này luôn
kèm thoe những xúc cảm dương tính), và điều cần thiết phải thực hiện (đi
cùng với những xác cảm âm tính). Axeev cũng xem đây là hai kiểu kích thích,
động cơ khác nhau. Theo ông, trong phân tích cấu trúc hệ động cơ của con
người cần phải vạch ra được tương quan giữa hai loại kích thích:
a) những ham muốn, những nhu cầu đòi hỏi được thỏa mãn ngay
b) những kích thích như là sự cần thiết khách quan (chẳng hạn, những
đòi hỏi khắc nghiệt của hoàn cảnh, những yêu cầu của xã hội, trách nhiệm,
nghĩa vụ của mỗi cá nhân trước cộng đồng, những yêu cầu về mặt ý chí của
chủ thể đối với bản thân, v.v.).
Đồng thời, ông cũng khẳng định bằng, đây là hai yếu tố có liên quan
biện chứng với nhau của bất kỳ một động cơ nào. Theo ông, yếu tố "cần phải”
tồn tại trong bất kỳ ham muốn nào. Đã thoả mãn ham muốn, con người phải
tuân thủ những đòi hỏi của hoàn cảnh liên quan đến việc thoả mãn ham muốn
đó. Hình thức biểu hiện cụ thể của các kích thích: hoặc dưới dạng ham muốn,
hoặc dưới dạng “sự cần thiết", "điều phải thực hiện" chịu sự quy định của các
điều kiện hoàn cảnh cụ thể, của mức cần thiết phải chi phí sức lực để thoả
mãn nó, của tính chất hoạt động cần tiến hành, v.v..
Khi xem xét hệ động cơ của con người như là sự phản ánh hiện thực
khách quan, Axeev còn đưa ra quan điểm về sự thống nhất giữa khía cạnh
nội dung và khía cạnh lực của động cơ. Tuy nhiên, trong quan điểm của
Axeev, nội hàm khía cạnh nội dung của động cơ có những điểm chưa nhất
quán. Ông khẳng định khía cạnh nội dung là sự phản ánh hoàn cảnh khách
quan và những đặc điểm của hoạt động sống của con người trong động cơ,
nó thể hiện ý của hoàn cảnh đối với mỗi con người. Song khi bàn về mối
tương quan giữa nhu cầu về hoạt động nói chung và những kích thích cụ thể,
gắn liền với việc đạt được những kết quả cụ thể trong cấu trúc động cơ của
con người, ông đã xem mét tương quan đó như là một tương quan giữa khía
cạnh lực và khía cạnh nội dung của động cơ. Ông cho rằng, các kích thích cụ
thể (yếu tố thời điểm, đứt đoạn trong cấu trúc động cơ) có vai trò tổ chức hoạt
động rất lớn. Chúng xác định giới hạn của hoạt động, tạo ra phẩm chất nội
dung của trạng thái mong muốn, kích thích của chủ thể sử dụng các nguồn
năng lượng dự trữ để thực hiện hoạt động, chúng đem lại cho yếu tố quá trình
một ý và hướng nhất định. Như vậy, nếu nhìn nhận những yếu tố nêu trên
như những kiểu động cơ khác nhau (quan điểm của Axeev) thì sẽ có những
động cơ chỉ thể hiện khía cạnh lực và có những động cơ chỉ thể hiện khía
cạnh nội dung. Tính thống nhất của khía cạnh nội dung và khía cạnh lực đã bị
phá vỡ.
Thực tiễn giáo dục nhân cách con người cho thấy rằng, hoàn toàn hợp
lý khi phân tách khía cạnh lực và khía cạnh nội dung trong cấu trúc động cơ.
Theo chúng tôi, khía cạnh nội dung của động cơ phản ánh nội dung của cái
mà con người muốn vươn tới, muốn đạt được. Nội dung của động cơ liên
quan đến quá trình hoạt động (nhu cầu muốn được hoạt động) của con người
có thế là giải trí, hoặc thể hiện sức mạnh thể chất và trí tuệ. Nội dung động cơ
hoạt động chơi của trẻ tuổi mẫu giáo có thể là sự lĩnh hội các hành động đối
tượng, hay các quan hệ gữa người với người trong xã hội người lớn (mặc dù
trẻ có thể chưa ý thức được một cách rõ ràng những động cơ này). Khía cạnh
nội dung của động cơ vừa có tính khái quát vừa có tính cụ thể, tùy thuộc vào
các điều kiện khách quan nơi con người đang sống hay đang thực hiện hoạt
động. Chẳng hạn, một cá nhân có động cơ phấn đấu cho sự thành đạt hay
động cơ tự khẳng định bản thân. Vươn tới thành đạt hay tự khẳng định bản
thân là nội dung mang tính khái quát. Tính khái quát của động cơ cho phép
chủ thể có thể thoả mãn động cơ đó bằng nhiều cách khác nhau, trên cơ sở
các hoạt động khác nhau. Nói cách khác, tính khái quát của động cơ đem lại
cho nó tính đa dạng trong hình thức thoả mãn. Khi nội dung của động cơ
thành đạt hay động cơ tự khẳng định bản thân được kết hợp với một lực đủ
lớn thì những động cơ đó sẽ thôi thúc con người thực hiện hoạt động nhằm
thoả mãn chúng. Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh sống, nghề nghiệp, v.v.. của mỗi
người, nội dung khái quát sẽ được hiện thực hóa trong các hoạt động cụ thể.
Ví dụ, đối với một nhà kinh doanh, động cơ thành đạt mang tính khái quát
được hiện thực hóa trong các hoạt động liên quan đến kinh doanh như hoạt
động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường, v.v.. Còn đối với một
người nghiên cứu khoa học, động cơ đó có thể được hiện thực hóa trong các
công việc nghiên cứu lĩnh vực khoa học chuyên môn.
Khía cạnh lực của động cơ phản ánh độ mạnh của động cơ. Khía cạnh
lực thể hiện ở chỗ, một động cơ nhất định có khả năng thúc đẩy chủ thể thực
hiện những hoạt động khác nhau nhằm thoả mãn động cơ đó hay không..
Nếu có thì nó có thể duy trì hoạt động đó đến mức nào? Tích cực, mạnh mẽ,
lâu dài hay cầm chừng, nửa vời..
Trong tâm lý học, một số tác giả đã đề cập khía cạnh nội dung và khía
cạnh lực trong cấu trúc động cơ – nhu cầu của con người. H.Murray cho rằng
tất cả mọi người đều có các nhu cầu khác nhau, song cường độ mạnh, yếu
của nhu cầu đó ở những người khác nhau là khác nhau và điều đó thể hiện
nhân cách của họ. Trong nghiên cứu động cơ của con người, V.K.Viluinax
thấy rằng cần phân biệt nội dung và cơ chế vận hành của động cơ. Tuy nhiên,
có những quan điểm khác nhau trong nhìn nhận khía cạnh lực và khía cạnh
nội dung của động cơ con người. Một số nhà tâm lý học chỉ chú trọng đến
khía cạnh lực mà không quan tâm đến nội dung của động cơ. Họ cho rằng
khía cạnh lực của động cơ mới chính là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học.
Cách nhìn nhận như vậy thường dẫn đến chỗ không đánh giá đúng mức vai
trò của ý thức như một hiện tượng tâm lý bậc cao trong các hoạt động sống
của con người, không nhìn nhận rõ tính chất lịch sử - xã hội trong quá trình
hình thành và phát triển tâm lý người nói chung và hệ thống động cơ của con
người nói riêng.
Các hiện tượng tâm lý người nảy sinh và tồn tại như là một hình thức
phản ánh tích cực môi trường sống và các hoạt động sống của con người.
Các động cơ của con người cũng là những phản ánh như vậy. Chúng thể
hiện các giá trị xã hội khác nhau được cá nhân tiếp thu và tiếp nhận như
những giá trị của riêng mình. Vì vậy, khó có thế tách rời khía cạnh lực khỏi
khía cạnh nội dung của động cơ. Một lực không có nội dung thì không thể đạt
được một ý nghĩa nhân cách và do đó không tồn tại như một thúc đẩy. Trong
tâm lý học, đặc biệt trong tâm lý học lứa tuổi có nhiều nghiên cứu cho thấy
một quan hệ tương hỗ giữa khía cạnh lực và khía cạnh nội dung của động cơ.
Các nghiêm cứu chỉ ra rằng khi cho một đứa trẻ thực hiện một hoạt động phù
hợp với khả năng, các mong muốn các mối quan tâm của nó thì trẻ có khả
năng nâng cao khía cạnh lực động cơ của hoạt, động này, và dần dần nhờ
vậy ở trẻ hình thành kỹ năng tăng cường ý chí trên những lĩnh vực hoạt động
rộng lớn hơn. Ví dụ, đối với trẻ lứa tuổi mẫu giáo hoạt động chủ đạo là hoạt
động trò chơi phân vai. Trẻ lứa tuổi mẫu giáo đặc biệt hứng thú với các trò
chơi loại này. Nếu cho trẻ mẫu giáo 4 - 6 tuổi thực hiện hành động đứng im
như lính gục trong những điều kiện khác nhau: trong trò chơi "lính gác" và
trong điều kiện đơn thuần là thực hiện hành động theo yêu cầu của nhà
nghiên cứu ta thấy rằng trẻ duy trì được việc thực hiện hành động đứng im
như lính gác lâu nhất là trong điều kiện trò chơi. Rõ ràng, khía cạnh lực và
khía cạnh nội dung của động cơ có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trên cơ sở những nguyên lý của phép biện chứng duy vật, V.G. Axeev
cho rằng khía cạnh lực và khía cạnh nội dung của động cơ nằm trong mối
quan hệ biện chứng khăng khít. Các đặc điểm của khía cạnh lực quy định giới
hạn phát triển khía cạnh nội dung của động cơ. Ngược lại, khía cạnh nội dung
của động cơ đã hình thành quy định phạm vi phát triển khía cạnh lực. Điều đó
có nghĩa là những thay đổi khía cạnh nội dung của động cơ chỉ có thể diễn ra
trong những giới hạn nhất định. Vượt khỏi giới hạn đó, những thay đổi khía
cạnh lực và ngược lại, những thay đổi khía cạnh lực vượt khỏi giới hạn cho
phép thì sẽ kéo theo những thay đổi khía cạnh nội dung của động cơ. Khi đó
đọng cơ đã hình thành sẽ mất đi và thay vào đó là sự xuất hiện động cơ mới,
khác về chất. Đáng tiếc rằng, trong tâm lý học còn ít những nghiên cứu thwucj
nghiệm nhằm cụ thể hóa các mối quan hệ biệ chứng giữa khía cạnh lực và
kía cạnh nội dung của động cơ con người.
Việc phân chia khía cạnh lực và khía cạnh nội dung của động cơ đã
chứng tỏ rằng các khía cạnh này có tính độc lập. Tuy nhiên, là những khía
cạnh, những cấu thành của một thể thống nhất, mỗi khúa cạnh nêu trên chỉ có
tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với nhau. Theo V.G. Axeev, tính độc
lập tương đối của các khúa cạnh trên thể hiện ở những điểm sau:
Trong qúa trình hình thành động cơ của con người, sự hình thành khía
cạnh nội dung diễn ra trước khi hình thành khúa cạnh lực.
Trong môi trường sống nhất định, mỗi cá nhân thường hiểu phải sống
như thế nào, phải vươn tới điều gì, phải ứng xử ra sao trong các mối quan hệ
người – người. Song trong cuộc sống, nhiều khi cá nhân không làm theo
những hiểu biết đó vì không vượt qua được những lực thức đẩy đã hình
thành. Nói cách khác, những nội dung chuẩn mực xã hội mới chỉ được cá
nhân nhận thức, và theo quan điểm của Axeev, chúng mới chỉ chứa đựng lực
tiềm năng nhất định. Để cho những gì đã được nhận thức với lực tiềm năng
có được vai trò của lực thật sự thúc đẩy chủ thể thực hiện hoạt động đáp ứng
động cơ, cần phải có một quá trình, trong đó khía cạnh nội dung của động cơ
(những gì được nhận thức) phải được gắn kết với những trải nghiệm xúc cảm
nhất định của cá nhân. Chỉ khi sự gắn kết đó tạo ra được một lực đủ lớn để
chủ thể vượt qua được những ham muốn, những nhu cầu, các mối quan tâm
nhất thời hoặc những lực thúc đẩy thật sự. Động cơ từ chỗ chỉ là động cơ
“hiểu” trở thành động cơ "có hiệu lực".
Tính độc lập tương đối của các khía cạnh lực và khía cạnh nội dung
của động cơ còn thể hiện ở sự thay đổi không tương đồng của chúng.
Trong cuộc sống khi thực hiện các hoạt động nhằm đáp ứng các nhu
cầu của mình, con người thường trải nghiệm hai trạng thái khác nhau: trạng
thái thoả mãn và trạng thái không thoả mãn. Trạng thái thoả mãn gắn với
những xúc cảm dương tính và khi đó tính tích cực của chủ thể tạm thời giảm
đi. Chẳng hạn, khi đói, con người tìm kiếm thức ăn, tiến hành các hoạt động
mua hán thực phẩm, chế biến, nấu nướng nhằm đáp ứng nhu cầu ăn của
mình. Nhưng khi con người đã dược ăn no, lực động cơ của các hoạt động
tìm kiếm thức ăn đã giảm xuống, mặc dù nội dung động cơ đó vẫn tồn tại
trong hệ thống các động cơ của chủ thể. Khi đó, động cơ của những hoạt
động tìm kiếm thức ăn từ một động cơ có lực thúc đẩy có hiệu lực trở thành
một động cơ có lực thúc đẩy tiềm năng. Và động cơ có lực thúc đẩy tiềm
năng đó lại có thể trở thành động cơ có lực thúc đẩy có hiệu lực khi mà
những thay đổi sinh lý trong cơ thể anh ta lại cần tiếp nhận thức ăn. Đối với
các động cơ khác của con người, chúng ta cũng thấy có sự thay đổi tương
quan giữa khía cạnh lực và khía cạnh nội dung tương tự như vậy. Ví dụ, sau
một ngày làm việc có hiệu quả hay sau một thời gian nỗ lực có gắng đạt được
một mục đích nào đó, con người thường dành cho mình những khoảng thời
gian nghỉ ngơi. Khi đó, lực của những động cơ tương ứng tồn tại dưới dạng
tiềm năng, mà nội dung động cơ vẫn không thay đổi nếu xét trong một mức
độ nhất định. Những ví dụ trên cho thấy khía cạnh lực và khía cạnh nội dung
của động cơ thay đổi không tương đồng với nhau.
Tâm trạng thỏa mãn của con người thường được nhiều nhà nghiên cứu
gắn với những trải nghiệm xúc cảm âm tính. Tuy nhiên, trong thực tế không
phải luôn như vậy. Tùy thuộc vào từng loại động cơ và tùy thuộc vào các điều
kiện mà chủ thể có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu của mình, chủ thể sẽ trải
nghiệm các trạng thái xúc cảm khác nhau. Sắc thái các trải nghiệm cúc cảm
còn phụ thuộc vào nhiều đặc điểm tâm lý khác nhau của chủ thể như khí chất
hay nhận thức của chủ thể về ý nghĩa của việc đáp ứng một đọng cơ nhất
định. Trạng thái không thoả mãn thường kích thích tính tích cực của chủ thể,
hướng anh ta vào những hoạt động nhằm thoả mãn động cơ.
Trạng thái không thoả mãn có thể xuất hiện do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Trước hết, có thể là do những thay đổi nội dung động cơ dã hình thành
trước đó... Chẳng hạn, động cơ thành đạt của một cá nhân được thể hiện
trong những mục đích cụ thể mà anh ta vươn tới trong một khoảng thời gian
nhất dịnh. Sau khi đã đạt được những mục đích đó, cá nhân lại muốn vươn
cao hơn, đạt được nhiều thành tích hơn. Những điều này thể hiện sự thay đổi
nội dung động cơ, nhưng khía cạnh lực có thể không thay đổi nếu xét trong
một thức độ nhật định. Những thay đổi đó của nội dung động cơ làm cho cá
nhân cảm thấy không thoả mãn với những gì đạt được và điều đó thôi thúc
anh ta hoạt động, tìm kiếm cách thức thoả mãn động cơ thành đạt có nội
dung cho hơn.
Trạng thái không thoả mãn cũng có thể xuất hiện khi thông qua các
trạng thái xúc cảm, chủ thể cảm nhận được cự cần thiết phải đạp ứng một
nhu câu nào đó. Điều này có nghĩa là ở cá nhân đó đang tồn tại một động cơ
có nội dung cụ thể với lực thúc đẩy có hiệu lực. Song chủ thể lại không có đủ
các điều kiện khách quan và chủ quan để đáp ứng nhu cầu. Cực khó khăn
khách quan và chủ quan đó có thể là tạm thời, nhưng cũng có thể kéo dài.
Nếu những khó nhân đó kéo dài thì sẽ làm xuất hiện một số hậu quả sau:
- Chủ thể thay đổi chút ít nội dung động cơ cho phù hợp với các điều
kiện khách quan và chủ quan hiện có, nhưng khía cạnh lực của động cơ đó
không thay đổi.
- Chủ thể thích nghi với hoàn cảnh không đủ điều kiện đáp ứng động
cơ đã hình thành. Và hệ quả là trạng thái tích cực hiện tại do sự tồn tại của
động cơ đó tạo ra dần dần giảm đi, khía cạnh lực của động cơ đó từ chỗ là
lực thúc đẩy có hiệu lực trở thành lực thúc đẩy tiềm năng.
- Chủ thể thay đổi nội dung động cơ đến mức làm thay đổi khía cạnh lự.
Thông thường, trong những điều kiện như trên, nhưng thay đổi khía cạnh nội
dung của động cơ quá mức sẽ làm giảm lực kích thích tính tích cực của con
người.
Như vậy, tương quan giữa khía cạnh nội dung và khía cạnh lực của
động cơ con người luôn thay đổi. Sự thay đổi này phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau. Khía cạnh lực của một động cơ nào đó có thể lúc này tồn tại dưới
dạng là lực tiềm năng, lúc khác lại trở thành lực thúc đẩy có hiệu lực. Dưới
góc độ các thành phần thể hiện khía cạnh lực của động cơ có thể thấy rằng,
nếu như lực tiềm năng chỉ bao hàm các yếu tố xúc cảm thì ngoài các yếu tố
đó, lực thúc đẩy có hiệu lực còn chứa đựng nhiều yếu tố hành động tích cực.
Độ mạnh của khía cạnh lực được xác định bằng các yếu tố như cường độ
các trải nghiệm xúc cảm, mức độ tham gia của yếu tố hành động tích cực vào
quá trình thỏa mãn động cơ, số lượng các hao phí về mặt năng lượng – chức
năng, mức độ nỗ lực ý chí, v.v..
Từ các cấu thành nội dung và lực của động cơ con người, có thể biểu
diễn quá trình hình thành động cơ con người như sau:
Hoạt động - giao tiếp - nhận thức - nội dung động cơ với lực tiềm năng
-> hoạt động - giao tiếp tiếp nhận giá trị + các trải nghiệm xúc cảm liên quan
tới giá trị của nội dung động cơ đối với nhân cách -> Nội dung động cơ với
lực thúc đẩy có hiệu lực - hoạt động - Giao tiếp.
3. Mối quan hệ giữa động cơ và ý thức
Vấn đề về mối quan hệ giữa động cơ hoạt động của con người và ý
thức của họ là một vấn đề đã được nhiều nhà tâm lý học đề cập từ rất lâu.
Trong việc giải quyết vấn đề này có các quan điểm khác nhau. Tuỳ thuộc vào
cách giải quyết đó mà nhiều vấn đề thực tiễn liên quan đến con người, chẳng
hạn như vấn đề hình thành và giáo dục nhân cách, sẽ được giải quyết theo
các cách khác nhau.
Nhìn lại lịch sử tâm lý học có thể thấy ít nhất, có hai hướng giải quyết
vấn đề này. Các nhà tâm lý học lý giải động cơ của con người theo hướng
sinh vật hóa động cơ, xem các bản năng có gắn từ khi con người mới sinh ra
là các lực thúc đẩy con người hoạt động, thường có khuynh hướng nhấn
mạnh tính vô thức của động cơ con người (W.McDougall, S.Freud...). Phần
vô thức được xem là phần có vai trò quyết định, tạo nên sắc thái của toàn bộ
sức sống con người, trong khi đó phần ý thức chỉ là một phần rất nhỏ bé trong
cuộc sống đó. Con người được nhìn nhận như một cái máy hiện thực hoá các
bản năng vô thức bởi các cơ chế vô thức khác nhau.
Tuy nhiên, từ khi lý thuyết động thái của K.Lewin ra đời, ngày càng có
xu hướng lý giải động cơ, hoạt động của con người trong mối quan hệ với ý
thức. Xuất phát từ các quan điểm của Lewin, nhiều nhà tâm lý học đã đánh
giá cao vai trò cảu các quá trình nhận thức. N.E.Miller, E.Galanter,
K.H.Pribram nhấn mạnh vai trò của các quá trình so sánh, đối chiếu các tác
động bên ngoài bới trạng thái của cơ thể. Họ nói đến các mối liên hệ phải hồi,
đến kế hoạch như một quá trình được chủ thể xây dựng để kiểm soát việc
thực hiện hành vi. Locke với lý thuyết nhận thức về động cơ đã cho rằng, một
trong những điểm con người khác với các loài khác là con người thường
được động cơ hóa bởi các mục đích dài hạn. Mục đích được xem là yếu tố cơ
bản, là chìa khóa để hiểu động cơ của con người. Mục đích – đó là cái gì đó
mà cá nhân cố gắng đạt được một cách có ý thức. Vì vậy, các kích thích có
thể tác động lên hành vi của con người chỉ khi chúng có liên quan đến mục
đích của họ và do đó gây được sự chú ý của chủ thể. Ablert Bandura và
những người khác với cách tiếp cận động cơ dưới góc độ nhận thức xã hội
đã khẳng định chính niềm hy vọng về sự củng cố trong tương lai hơn là
những củng cố trong quá khứ thôi thúc con người thực hiện hành động. Theo
họ, hành vi được điều chỉnh, được hướng dẫn bởi các mục đích của chủ thể
và những gì liên quan đến mục đích đó. Với cách tiếp cận như vậy, Bandura
cho rằng có thể lý giải được sự phát triển đạo đức của con người.
Mặc dù quan điểm của các tác giả nêu trên dường như chưa bao hàm
hết các khía cạnh khác nhau của mối quan hệ giữa động cơ và ý thức, song
đó là những tư tưởng tích cực hơn với các quan điểm sinh vật hoá động cơ.
Việc giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa động cơ hoạt động của con
người và ý thức có liên quan chặt chẽ với cách luận về bản chất động cơ con
người. Tâm lý học mác xít khẳng định rằng, cũng như các hiện tượng tâm lý
khác, động cơ hoạt động của con người là sự phản ánh chủ quan các giá trị
xã hội khách quan. Trong quá trình phát triển cá thể, hệ thống động cơ - nhu
cầu đặc trưng của con người được hình thành trên cơ sở cá nhân lĩnh hội các
giá trị xã hội khác nhau - dần dần tiếp nhận chúng như những gía trị của bản
thân, đem lại cho chúng những ý nghĩa nhân cách riêng. Quá trình lĩnh hội
các giá trị xã hội là một quá trình tích cực, được thực hiện trên cơ sở cá nhân
thực sự tham gia vào các dạng hoạt động xã hội khác nhau, giao tiếp với
những người chung quanh, tham gia vào các quan hệ xã hội, khẳng định vị trí
và vai trò của mình trong các quan hệ đó. Đó là một quá trình lĩnh hội có chọn
lọc các giá trị phù hợp với vị trí và vai trò của mỗi người trong hệ thống các
quan hệ xã hội. Do đó, hệ thống động cơ của mỗi cá nhân với những quan hệ
thứ bậc của các động cơ cấu thành nên hệ thống đó không hoàn toàn trùng
khớp với hệ thống các giá trị xã hội. Như vậy, xét về quá trình hình thành, các
động cơ đặc trưng của con người không tách rời ý thức. Điều này không lại
trừ ngay cả với số động cơ được xem là có tính sinh lý của con người như
những động cơ nhằm đáp ứng các nhu cầu ăn uống hay nhu cầu tình dục.
Ngày nay, mọi người đều thừa nhận rằng, cách thức thỏa mãn cũng như đối
tượng có khả năng thỏa mãn các nhu cầu đó của con người phụ thuộc rất
nhiều vào quá trình giáo dục nhân cách, vào các đặc điểm, lối sống – văn hóa
đặc trưng cho mỗi nhóm người, mỗi dân tộc, vào trình độ phát triển kinh tế -
xã hội. Điều này có nghĩa là quá trình hình thành và phát triển các động cơ
như là một hiện tượng tâm lý của con người cũng mang tính xã hội và không
tách rời ý thức.
Mối quan hệ không tách rời giữa động cơ hoạt động và ý thức của con
người thể hiện cả trong quá trình động cơ thực hiện chức năng định hướng,
điều chỉnh hành vi. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy rằng, sự xuất hiện
của ý thức như một đặc điểm tâm lý đặc trưng của con người và sự tham gia
của hiện tượng tâm lý đó vào mọi mặt đời sống con người là một tất yếu nảy
sinh trên cơ sở các đặc thù của tồn tại xã hội của con người. Tuy nhiên, sự
tham gia đó của ý thức không có nghĩa là trong cuộc sống hằng ngày, lúc nào
con người cũng có ý thức một cách rõ ràng những gì thôi thúc anh tha thực
hiện hoạt động này hay hoạt động khác. Có những hoàn cảnh buộc con
người phải đến đó, lựa chọn. Trong các hoàn cảnh như vậy, người ta nói đến
các cuộc đấu tranh động cơ và chủ thể sẽ nhậm thức rõ ràng anh ta hành
động vì điều gì. Song cũng không ít trường hợp con người không chủ động
đặt ra câu hỏi về những điều thôi thúc hành vi hoạt động. Điển hình của
những trường hợp này là khi các động cơ có tính bền vững đã hình thành nên
xu hướng của nhân cách và được thể hiện trong cuộc sống thực tiễn trong
việc chủ thể có khuynh hướng sẵn sàng thực hiện các dạng hoạt động thể
hiện xu hướng đó như một thói quen. Chúng ta cũng không ít lần nghe thấy
một ai đó nói rằng, không hiểu tại sao anh ta lại thực hiện một hành động này
hay một hành động khác. Trong các trường hợp như vậy, không thể nói con
người hành động theo các bản năng vô thức. Mối quan hệ không tách rời
giữa động cơ và ý thức của con người, về thực chất, thể hiện ở chỗ, động cơ
không phải là một hiện tượng tâm lý mà ý thức không thể với tới được. Động
cơ hoạt động của con người không tách rời ý thức song chúng có thể được
phản ánh ở các mức độ khác nhau. Về mặt chủ quan, động cơ hoạt động
được phản ánh gián tiếp thống qua cảm nhận của chủ thể về các trạng thái
xúc cảm có liên quan đến động cơ. Về mặt khách quan, chúng có thể được
chủ thể ý thức nhờ việc phân tích hoạt động.
Vì vậy V.K.Viluinax khẳng định rằng; động cơ hoạt động của con người
được gián tiếp hoá bởi các quá trình tư duy, ngôn ngữ, các quá trình ý chí.
Nhờ vậy, chúng tương đối bền vững không hoàn toàn phụ thuộc vào những
thay đổi của hoàn cảnh hay trạng thái của cơ thể.
4. Động cơ và qúa trình hình thành nhân cách
Tâm lý học nhân cách là một chuyên ngành tâm lý học được rất nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm và cũng là chuyên ngành đặc biệt phát triển trong
giai đoạn hiện nay. Trong lĩnh vực chuyên ngành này, hiện có khá nhiều quan
điểm khác nhau trong nghiên cứu, song nếu xuất phát từ mối quan hệ giữa
động cơ và quá trình phát triển nhân cách có thể phác họa ba xu hướng quan
điểm khác nhau sau đây:
- Quan điểm nhìn nhận nhân cách như cấu thành tâm lý thể hiện những
khác biệt cá nhân trong hành vi. “Khái niệm nhân cách xuất hiện từ việc quan
sát của chúng ta về những khác biệt cá nhân trong đặc điểm hành vi. Các đặc
điểm này có tính ổn định và bề vững theo thời gian và hoàn cảnh”. Với cách
tiếp cận nhân cách như vậy, các nhà nghiên cứu theo hướng này không quan
tâm một cách trực tiếp đến hệ thống động cơ của nhân cách hoặc mối quan
hệ giữa động cơ và quá trình phát triển nhân cách, mà tập trung nghiên cứu
các đặc điểm hành vi (các lý thuyết về đặc điểm nhân cách, thuyết năm yếu
tố…).
- Các quan điểm nhìn nhận nhân cách như một cấu thành gắn bó chặt
chẽ với sự vận hành của hệ thống động cơ cá nhân. Điểm nổi bật trong các
quan điểm này là các tác giả nhìn nhận nhân cách và động cơ chủ yếu dưới
góc độ giá trị cá nhân, ít chú ý đến tính chất xã hội và giá trị xã hội của những
hiện tượng tâm lý này. Vì vậy mối quan hệ giữa động cơ và quá trình phát
triển nhân cách tuy được chú ý, song được xem xét trong khung cảnh của
môi trường thông thường, chứ không phải trong bối cảnh của những xã hội cụ
thể có các đặc trưng trong hệ thống giá trị xã hội. (Các lý thuyết của S.Freud,
K.Lewin, G.Allport, Các nhà phân tâm học mới, thuyết "cái Tôi" của C.Rogers,
thuyết nhận thức xã hội của A.Bandura...).
- Các nhà tâm lý học xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, nhìn nhận nhân cách trong mối quan hệ chặt chẽ với các quan hệ
xã hội của cá nhân, gắn giá trị của nhân cách với hệ thống các giá tri xã hội -
nơi mỗi nhân cách cụ thể đã hình thành và phát triển. Vì vậy, động cơ đặc
biệt là những động cơ đặc trưng của con người như là cự biểu hiện của hệ
thống giá trị có nhân được đặc biệt chú ý. Hệ thống động cơ và các hoạt động
được định hướng bởi các động cơ đó được xem là tham số quan trọng nhất
của nhân cách. Động cơ là thành phần cơ bản cấu thành lên xu hướng – đặc
điểm chủ đạo của nhân cách, là mắt xích khởi đầu, mắt xích nền tảng của
nhân cách. Quá trình phát triển động cơ được xem là có gắn bó chặt chẽ với
quá trình hình thành nhân cách.
Theo quan điểm của các nhà tâm lý học mác xít, nhân cách là sản
phẩm của quá trình phát triển lịch sử - xã hội. Nhân cách được hình thành
trên cơ sở chủ thể tiến hành các dạng hoạt động và giao tiếp khác nhau, tham
gia vào các quan hệ xã hội, nắm giữ những vị trí và thể hiện vai trò nhất định
trong hệ thống các quan hệ xã hội đó. Trong quá trình phát triển, cá nhân dần
dần tiếp thu, nội tâm hóa các giá trị xã hội mà loài người đã tích lũy và được
lưu giữ trong các sản phẩm văn hóa vật thể hoặc phi vật thể, từ đó dần hình
thành nên các tính cách, các năng lực, hệ thống các động cơ – nhu cầu của
bản thân…
A.N.Leonchiev khẳng định rằng, nhân cách không sinh ra mà được
hình thành. Trong quá trình phát triển cá thể, thời điểm xuất hiện nhân cách
được gắn với thời điểm xuất hiện những biểu hiện đầu tiên của tự ý thức, của
cuộc đầu tranh động cơ. Đó là khi đứa trẻ được khoảng 3 tuổi. Ở lứa tuổi này,
trẻ đã tự mình thực hiện được một số hoạt động độc lập, nhờ đó ở chúng dần
dần hình thành thái độ đối với bản thân như với cái tôi độc lập. Đó là biểu
hiện đầu tiên của tự ý thức. Hệ thống động cơ của trẻ lứa tuổi này đã có
những biểu hiện đầu tiên của các mối quan hệ thứ bậc; mặc dù trong phần
lớn các trường hợp, các em vận hành động theo những ham muốn, song
những lời khen, chê của người lớn đã bắt đầu có hiệu lực. Đó cũng là những
biểu hiện đầu tiên của cuộc đấu tranh động cơ.
Trong mỗi giai đoạn phát triển tâm lý tiếp theo, sự thay đổi quan hệ và
vai trò chủ đạo của các động cơ khác nhau trong hệ thống động cơ của cá
nhân đã tạo ra cái “mốc" trong quá trình hình thành nhân cách. Về vấn đề có,
Leonchiev nhận định rằng, các bước chuyển tiếp từ giai đoạn phát triển này
sang giai đoạn phát triển khác có đặc điểm là có sự thay đổi của động cơ bên
trong mỗi giai đoạn phát triển và kết quả là xuất hiện những mối quan hệ mới
trong toàn bộ hệ thống, tạo nên những điểm "mốc" trong nhân cách.
Những nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý học lứa tuổi đã cho thấy rõ quá
trình phát triển nhân cách nói chung và hệ thống động cơ nói riêng của cá
nhân trong quá trình phát triển cá thể. Một cách tổng quát, có thể thấy rằng sự
phát triển khía cạnh nội dung của hệ động cơ mà của mỗi loại động cơ cụ thể)
gắn bó chặt chẽ với sự hình thành các dạng hoạt động đa dạng của cá nhân,
đặc biệt là hoạt động chủ đạo trong mỗi giai đoạn phát triển. Sự phát triển
khía cạnh lực của động cơ diễn ra theo những hướng sau đây:
- Từ những động cơ nằm cạnh nhau tiến tới hình thành những động cơ
có quan hệ với nhau theo hệ thống.
- Từ những động cơ kém bền vững, có hiệu lực trong một khoảng thời
gian ngắn đến những động cơ bền vững, có hiệu lực trong khoảng thời gian
dài hơn.
Trên cơ sở bản chất và cấu trúc của hiện tượng động cơ, có thể nêu ra
một số ý kiến trong giáo dục nhân cách thế hệ trẻ. Việc hình thành có định
hướng ở nhân cách những hệ thống động cơ nhất định phải xuất phát từ
quan điểm có tính phương pháp luận về tính lịch sử - xã hội của động cơ con
người.
Quan điểm duy vật về tính lịch sử - xã hội của động cơ con người cũng
như về lực thúc đẩy, về nguồn gốc và điều kiện phát triển tâm lý người chỉ ra
rằng muốn hình thành có định hướng hệ thống động cơ ở con người, cần
phải bắt đầu từ viêc xây dựng môi trường xã hội, nơi mà người được giáo dục
đang sống. Một môi trường thuận lời sẽ là một môi trường mà trong đó các hệ
thống giá trị, các cách thức hoạt động, các chuẩn mực, các quan hệ người –
người hiện thực phù hợp với định hướng giáo dục thế hệ trẻ. Đây chính là
nguồn mà từ đó mỗi cá nhân tiếp thu lĩnh hội các giá trị và chuyển thành của
riêng của mình, thành những động cơ bên trong. Tuy nhiên trong thực tế, khó
có thể có một môi trường xã hội thuần khiết, toàn những hiện tượng, quan hệ
con người tích cực hay toàn những hiện tượng, quan hệ tiêu cực. Trong mỗi
xã hội bao giờ cũng song song tồn tại những hiện tượng tích cực và tiêu cực.
Trong quá trình phát triển, các nhân cách tích cực nhận thức, lựa chọn và tiếp
thu các giá trị phù hợp. Những cuộc đấu tranh, các phong trào vì những gì tốt
đẹp có thể được xem là những điểm tựa quan trọng cho nhân cách trong việc
lĩnh hội những giá trị tích cực.
Nhiều công trình nghiên cứu tâm lý học cho thấy rằng, trong quá trình
phát triển tâm lý cá thể có những mốc lứa tuổi. Ở đó trẻ em dễ rơi vào trình
trạng khủng hoảng tâm lý. Sự xuất hiện của tình trạng khủng hoảng chứng tỏ
một điều rằng có mâu thuẫn giữa sự phát triển tâm lý của trẻ và cách ứng xử
của người lớn đối với chúng. Dưới góc độ động cơ có thể nói rằng dù là mâu
thuẫn giữa điều trẻ muốn và cách mà người lớn đáp ứng những mong muốn
của chúng. Thực tiễn cho thấy, ở những thời kỳ đó, đặc biệt là lứa tuổi 11-12
hay 16-17, tỷ lệ trẻ có những biểu hiện lệch lạc trong phát triển nhân cách, thể
hiện trong hành vi quậy phá khó bảo, v.v., tăng cao. Các biểu hiện khủng
hoảng tâm lý lứa tuổi chỉ ra rằng, trong việc định hướng phát triển nhân cách
thế hệ trẻ, những người có trách nhiệm cần phải tuân thủ nguyên tắc bảo
đảm môi trường xã hội tâm lý phù hợp với các đặc điểm phát triển tâm lý lứa
tuổi.
Tuy nhiên, phát triển nhân cách có định hướng, hình thành ở trẻ những
hệ thống động cơ đang mong muốn phải bảo đảm ít nhất hai điều kiện. Một
mặt, các nhà giáo dục bảo đảm cho thế hệ trẻ những điều kiện tối ưu để phát
triển, phù hợp với những đặc điểm phát triển tâm lý lứa tuổi. Mặt khác, cũng
cần phải làm cho những người được giáo dục hiểu rõ các trách nhiệm, nghĩa
vụ của bản thân như là một thành viên của các nhóm xã hội khác nhau, như
một công dân. Điều này có nghĩa là con người không chỉ hành động theo
những gì mong muốn, mà còn phải hành động theo các chuẩn mực "phải",
thực hiện các hành động có ý nghĩa xã hội, phù hợp với chuẩn mực xã hội,
song có thể là “không mong muốn" đối với anh ta.
Trong thực tiễn cuộc sống, con người thường ở vào những hoàn cảnh
phải đấu tranh động cơ. Trong những hoàn cảnh đó, hành động theo nguyên
tắc "phải" thường được xã hội chấp nhận hơn. Tuy nhiên, khi không có sự
kiểm soát trực tiếp từ bên ngoài, làm thế nào để những xu hướng hành động
theo nguyên tắc "phải" thắng thế? Thông thường, để một giá trị nào đó trở
thành động cơ của nhân cách và có khả năng thúc đẩy nhân cách hành động
theo giá trị đó thì con người không chỉ nhận thức rõ nội dung của các giá trị,
mà bản thân các giá trị đã được nhận thức phải đạt được một lực thúc đẩy
nhất định đối với nhân cách. Điều này có nghĩa là hình thành động cơ một
cách có định hướng phải chú ý tới hai mặt: hình thành nội dung động cơ và
hình thành lực động cơ.
Thực tiễn cuộc sống cho thấy, chúng ta đã có khá nhiều thành công
trong giáo dục nhận thức, song còn gặp không ít khó khăn, lúng tùng trong
việc làm thế nào để những nhân thức giá trị đúng đắn được hiện thực hóa
trong hoạt động thực tiễn của những người được giáo dục. Điều này đặt ra
nhu cầu phải chú ý tới các cơ chế hình thành động cơ, đặc biệt là hình thành
khía cạnh lực.
Chúng ta đều biết rằng, khi thực hiện những hoạt động nhất định, con
người thường trải nghiệm những trạng thái xúc cảm phù hợp với giá trị mà
hoạt động đó có được đối với chủ thể hoạt động, phù hợp với động cơ được
hiện thực hoá. Một quan hệ chặt chẽ giữa động cơ và xúc cảm đã được nhiều
nhà nghiên cứu xác nhận. Xúc cảm được xem là đại diện chủ quan của động
cơ, là kết quả và là cơ chế vận động của hoạt động. Trên cơ sở, nhiều công
trình nghiên cứu khác nhau V.K.Viluinax đưa ra tư tưởng cho riêng, mặc dù
giữa động vật và con người có nhiều điểm khác nhau về cơ chế phát triển
động cơ, đặc biệt là về nội dung, phạm vi và động thái phát triển, song cơ chế
phổ quát nhất bảo đảm quả trình phát triển động cơ của động vật cũng như
của con người là các quá trình giao kết xúc cảm, tức là chuyển giao ý nghĩa
xúc cảnh ý nghĩa động cơ cho một nội dung mới. Đáng tiếc rằng, dưới góc độ
tâm lý, quá trình này diễn ra như thế nào lại chưa được nghiên cứu cụ thể.
Một động cơ có khả năng thúc đẩy con người hành động để thoả mãn
động cơ đồ, về mặt chủ quan, bao giờ cũng gần với các trải nghiệm xúc cảm
dương tính của chủ thể. Tuy nhiên, trong những trường hợp cá nhân hành
động theo "mong muốn", các quy trình xúc cảm thường diễn ra trướt khi hành
động được thực hiện. Các quá trình đó nảy sinh như những biểu hiện chủ
quan của động cơ, mặc dù chủ thể có thể chưa nhận thức rõ ràng những
động cơ của mình. Có thể nói rằng, quan hệ giữa hoạt động và các quá trình
xúc cảm trong các trường hợp này là quan hệ trực tiếp. Song trong trường
hợp có đấu tranh động cơ, con người hành động theo các chuẩn mực “phải”
thì không có mối quan hệ trực tiếp như vậy. Thông thường, các hoạt động
của con người có ít nhất hai chức năng: chức năng đáp ứng động cơ, thỏa
mãn nhu cầu và chức năng đánh giá. Trong mỗi hoạt động, đối với chủ thể,
không phải bao giờ hai chức năng đó cũng được coi trọng nhu nhau. Có
nhứng lúc nhân cách coi trọng chức năng thỏa mãn nhu cầu một cách trực
tiếp và cũng có những lúc chức năng đánh giá của hoạt động được coi trọng
hơn. Trường hợp thứ hai, thường diễn ra khi nhân cách thực hiện hành động
theo chuẩn mực “phải”. Trong những trường hợp như vậy, nhân cách phải
vượt qua được những thôi thúc trực tiếp, đồng thời ý thức được rằng, việc
thực hiện hành động sẽ hình thành ở những người xung quanh và bản thân
anh ta những đánh giá mới về anh ta. Đó có thể là những đánh giá như “một
người con có hiếu”, “một người bạn tận tâm”, “một con người tử tế”, “một
người có năng lực”, v.v.. Xét dưới góc độ nhất định, tất cả những đánh giá
trên đều có một ý nghĩa đối với chủ thể hoạt động và do đó chũng cũng gắn
liền với các trải nghiệm xúc cảm của nhân cách. Tuy nhiên, trong trường hợp
này mối quan hệ giữa hoạt động và các quá trình xúc cảm là mối quan hệ
gián tiếp thông qua ý thức. Các quá trình xúc cảm nảy sinh không phải trước
khi hoạt động được thực hiện, mà khi hoạt động đó đã được hoàn thành.
Như vậy, bất kỳ hoạt động nào của con người cũng gắn với các trải
nghiệm xúc cảm, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Nói cách khác, việc hình
thành khía cạnh lực của động cơ, làm cho "động cơ có lực thúc đẩy tiềm
năng" trở thành “động cơ có lực thúc đẩy có hiệu lực" phải gắn với việc hình
thành ở nhân cách những trải nghiệm xúc cảm phù hợp với nội dung động cơ
mong muốn.
Giữ vai trò quan trọng trong giáo dục nhận cách, hình thành ở con
người những động cơ phù hợp với các chuẩn mực xã hội, thật sự có hiệu lực
đối với nhân cách là biện pháp để những người được giáo dục tham gia vào
các hoạt trong xã hội, đặc biệt là những hoạt động có khách thể là những
người khác hay nhóm người khác. Chúng ta đều biết rằng, do hạn chế về
kinh nghiệm sống và hạn chế cả về khả năng, nhận thức, nhiều khi cá nhân
không ý thức được một cách rõ ràng các hậu quả hành động của anh ta đối
với những người xung quanh. Sự hiện diện một cách trực quan kết quả hành
động trước mắt chủ thể thông qua các diễn biến xúc cảm (sự giận dữ, đau
khổ hay vui mừng...) ở khách thể hoạt động sau khi hành động kết thúc, sẽ
làm cho chủ thể ý thức rõ ràng hơn hậu quả, ý nghĩa xã hội của hành động
đó. Khi đó, ở chủ thể hoạt động sẽ diễn ra một loạt quá trình nhận thức và tự
ý thức như sự cảm nhận những diễn biến xúc cảm ở khách thể hành động, tự
ý thức của chủ thể về bản thân như một người có liên quan với những diễn
biến xúc cảm đó ở khách thể hoạt động, sự đồng nhất chủ thể hoạt động với
khách thể hoạt động như đồng loại, v.v.. Các quá trình nhận thức này là cơ
sở của quá trình chuyển dịch xúc cảm từ khách thể hoạt động sang chủ thể
hoạt động, làm nảy sinh hiện tượng đồng cảm ở những mức độ khác nhau,
dẫn tới chỗ chủ thể tự đánh giá lại hành động của bản thân. Đây chính là cơ
sở để hình thành những động cơ mới, có ý nghĩa nhân cách đối với con
người.
Còn một điểm rất đáng chú ý trong việc hình thành nhân cách thế hệ
trẻ. Thông thường, trong những điều kiện bình thường, khi nói đến điều chỉnh
hành vi, chúng ta hay nghĩ tới việc sử dụng các biện pháp khác nhau nhằm
khuyến khích chủ thể hoạt động, nâng cao hiệu quả làm việc của anh ta. Có
những biên pháp khuyến khích vừa có khả năng nâng cao hiệu quả cảu hoạt
động hiện tại, vừa có tác dụng hình thành nhân cách tích cực một cách có
định hướng. Song, cũng có không ít những biện pháp khuyến khích có tác
dụng nâng cao hiệu quả hoạt động hiện tại những lại có tác động ảnh hưởng
âm tính đến việc hình thành nhân cách như một quá trình lâu dài. Vì vậy, khi
sử dụng các biện pháp khuyến khích nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động như
một hình thức điều chỉnh hành vi, chúng ta cần chú ý đến cả tác dụng tức thời
lẫn tác dụng lâu dài của các biện pháp này. Việc kích thích mỗi hoạt động
riêng lẻ không thể mâu thuẫn với quá trình hình thành nhân cách có định
hướng.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ rằng, để đáp ứng những yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì thế hệ trẻ và
những người lao động Việt Nam phải có “chí tiến thủ lập nghiệp, không cam
chịu nghèo hèn, có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm
hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học và
công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà
khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh doanh, nhà quản lý”. Dưới góc độ tâm lý
học, động cơ thành đạt trong nghề nghiệp có thể được xem là những biểu
hiện tâm lý bên trong của những phẩm chất nêu trên. Vì vậy, nghiên cứu động
cơ thành đạt, trong nghề nghiệp của con người Việt Nạm trong giai đoạn hiện
nay là một việc có ý nghĩa quan trọng.
H.A.Murray, một trong những người đần tiên quan tâm đến vấn đề
động cơ thành đạt trong tâm lý học, đã lý giải động cơ thành đạt thông qua
các biểu hiện của hành vi như sau: Những người có động cơ thành đạt cho là
những người luôn tìm kiếm các công việc khó khăn, đẩy thách thức, họ mong
muốn đạt được sự thành thạo trong công việc và luôn cố gắng làm vượt mức
tất cả các công việc. McClelland định nghĩa động cơ thành đạt là sự khát
khao thành công, hoàn thiện kỹ năng làm việc và cạnh tranh với những người
khác. Còn theo Janes V.McConnell thì động cơ thành đạt – đó là sự khát
khao ganh đua, khát khao sự điêu luyện và thành thạo trong công việc.
Tóm lại, có thể xem động cơ thành đạt là động cơ thôi thúc con người
vươn tới sự điêu luyện, thành thạo, đạt kết quả cao nhất trong thực hiện công
việc.
Trong tâm lý học có một số hướng nghiên cứu động cơ thành đạt khác
nhau. Người ta tìm hiểu những khác biệt, trong hành vi của những người có
động cơ thành đạt cao và những người có động cơ thành đạt thấp; xác định
các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ thành đạt của con người, bao gồm cả
những điều kiện tâm lý nơi là việc và những đặc điểm văng hóa dân tộc, tìm
hiểu vai trò của giáo dục trong quá trình hình thành động cơ thành đạt v.v..
Ở nước ta, trong thời gia khoảng 10 năm trở lại đây, đã có một số
nghiên cứu đề cập một cách gián tiếp hoặc trực tiếp đến động cơ thành đạt
của thanh niên, sinh viên và người lao động. Chẳng hạn, kết quả của Đề tài
cấp nhà nước KX07 cho thấy rằng, định hướng giá trị nghề nghiệp của người
Việt Nam đầu những năm 90 thế kỷ XX có phần thực dụng và an phận, “thu
nhập cao”, và “nghề ổn định suốt đời” được coi trọng, còn giá trị “có cơ hội
làm nên sự nghiệp lớn” bị đánh giá thấp. Nghiên cứu của Viện Tâm lý học
trên khách thể là những cán bộ nghiên cứu khoa học xã hội cũng cho một số
kết quả đáng chú ý sau:
a) Trong quan niệm về thành đạt nghề nghiệp của các cán bộ nghiên
cứu khoa học xã hội, tính định hướng xã hội được coi trọng hơn tính định
hướng cá nhân; tính sáng tạo trong công việc và đặc biệt là sự gắn kết nghiên
cứu và thực tiễn cuộc sống chưa được đánh giá cao
b) Mức đầu tư thời gian và sức lực của cán bộ nghiên cứu cho việc
kiếm sống và thành đạt trong nghề là gần như nhau, có hơi thiên về việc kiếm
sống;
c) Nỗ lực ý chí trong công việc của cán bộ có tương quan thuận về mặt
thống kê với niềm tin của họ vào bản thân, vào tương lai phát triển nghề, vào
công bằng xã hội và hứng thú nghề nghiệp;
d) Khá nhiều người ưa thích một vị trí làm việc thoải mái, không bị thúc
ép nhiều, không đòi hỏi nhiều quyển hạn và trách nhiệm hơn là một vị trí làm
việc bận rộn, nhưng mang lại cho họ nhiều quyền hạn và trách nhiệm. Nghiên
cứu của một số cán bộ Viện lâm lý học trên 136 sinh viên năm thứ tư thuộc
các trường Đại học Tự nhiên, Đại học khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại
học quốc gia và Trường Đại học Kinh tế quốc dân cho thấy có sự không khớp
nhau giữa nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của các giá trị nghề
nghiệp và định hướng giá trị nghề nghiệp của họ. Trong động cơ thành đạt
của sinh viên, các khía cạnh xúc cảm, khát vọng mong muốn cao hơn khía
cạnh hành động và đặc biệt là tính bền vững của động cơ thành đạt không
cao.
Sự nghiệp phát triển đất nước trong những năm tới đòi hỏi phải nghiên
cứu động cơ thành đạt trong nghề nghiệp của người lao động Việt Nam một
cách hệ thống hơn. Trong lĩnh vực này, việc tìm hiểu những yếu tố có tác
động đến sự hình thành và hiện thực hoá động cơ thành đạt trong hành vi của
con người có ý nghĩa rất lớn.
C. NGHIÊN CỨU THÁI ĐỘ TRONG NHÂN CÁCH
PGS. TS. VÕ THỊ MINH CHÍ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Là một trong số các hiện tượng tâm lý, phản ánh hiện thực khách quan,
thái độ là một thuộc tính tâm lý, một thành tố tích cực của ý thức cá thể, là
một quan hệ chủ quan với thế giới được phản ánh và được khách quan hoá
bởi tâm vận động của con người. Nói như vậy, có nghĩa là thái độ chỉ tồn tại
và được biểu hiện ở con người và bởi con người C. Mắc và Ph.ăng ghen đã
nhận định rằng: “Ở nơi đâu có sự tồn tại của một thái độ nào đó, thì đấy là sự
tồn tại của chính tôi".
Chính vì vậy, khi nghiên cứu cề con người, về nhaancachs không thể
không nghiên cứu thái độ của họ.
Theo tác giả B. Ph. Lomov, khi nghiên cứu tâm lý nhân cách, điều quan
trọng là không thể bỏ qua việc xem xét một số khái niệm cơ bản như định
hướng giá trị, hứng thú… Khái niêm chung nhất có thể thâu tóm những đặc
trưng của các quá trình nêu trên là khái niêm thái độ chủ quan của cá nhân.
Thái độ chủ quan của cá nhân là khái niệm cùng loại với những khái niệm
khác như “Tâm thế”, “ý cá nhân”, phản ánh các mặt, các khía cạnh khác nhau
của thái độ.
Từ ý tưởng nêu trên cho thấy, một mặt, vai trò quan trong của thái độ
trong nghiên cứu tâm lý học nhân cách; mặt khác khi xem xét thái độ như là
một đối tượng nghiên cứu nhất định phải có sự phân lập (dù chỉ là mức tương
đối hoặc chỉ trên bình diện lý luận) khái niệm thái độ với các khái niện khác
như hứng thú, định hướng giá trị, nhu cầu, động cơ – những khái niệm liên
quan những không đồng nhất với thái độ.
Khi khẳng định thái độ là một đặc điểm, một thuộc tính của nhân cách,
vo hình chung, một cách gián tiếp, nói đến tính ổn định của thái độ. Tuy nhiên,
khẳng định như trên không đồng nghĩa với quan điểm cho rằng thái độ chủ
quan của nhân cách là bất biến. Tâm lý học mác xít cho rằng, thái độ của
nhân cách được xây dựng trên cơ sở các mối quan hệ xã hội (trong đó, quan
hệ kinh tế - xã hội giũ vai trò then chốt) thông qua quá trình hoạt đồng và giao
tiếp xã hội của con người. Một khi thời cuộc tình thế... những điều kiện cơ sở
vật chất của hạ tầng cơ sở xã hội thay đổi thì xu hướng phát triển của nhu
cầu, động cơ nhân cách cũng bị tác động và biến đổi theo, dẫn đến sự thay
đổi về thái độ. Theo các tác giả Lester, A.Lertonl thì sự thay đổi về thái độ của
con người với hiện thực khách quan diễn ra nhanh nay chậm, nhiều hay ít
phụ thuộc vào mức độ dân chủ hoá của xã hội, nơi mà con người cụ thể đang
sống.
Từ năm 1986 dền nay, đất nước ta đang chuyện mình thực hiện công
cuộc đổi mới. Từ nền kinh tế kế hoạch quan liêu bao cấp chuyển sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, Nhà nước ta mở cửa, hội nhập với bè bạn khu vực và trên toàn thế
giới đã tạo ra những khởi sắc về kinh tế và đi kèm theo nó là những biến đổi
cua bộ mặt xã hội (cả những biến đổi lành mạnh cũng như sự xuất hiện của
những yếu tố không lành mạnh, hệ quả của sự phát triển nền kinh tế thị
trường). Vậy đứng trước nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
do Đảng và Nhà nước đặt ra, trong bối cảnh nêu trên thái độ nhân cách của
con người Việt Nam có đặc trưng gì? Có thay đổi (hay không thay đổi) So với
thời kỳ chống giặc ngoại xâm trước đây? Đó là vấn đề cần tìm câu giải đáp.
Tóm lại, những lý do nêu trên cho thấy một trong các hướng tìm hiểu
nhân cách cân người Việt Nam dưới thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước là nghiên cứu thái độ của họ với tư cách là cốt lõi của nhân cách.
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VỀ THÁL ĐỘ.
1. Lịch sử nghiên cứu về tâm lý học thái độ
Người đầu tiên khởi xướng việc nghiêm cứu thái độ chủ quan của nhân
cách là A.Ph. Lagiurxki (1874 - 1917). Dựa trên định hướng của các kết quả
nghiên cứu trong khoa học tự nhiên, tác giả đã tiến hành phân ra các loại tính
cách khác nhau và mô tả các đặc điểm của các nhóm cá thể đó. Trong các
tác phẩm của mình, đầu tiên là "Chương trình nghiên cứu Tính cách trong mối
quan hệ với môi trường" (1912) (công trình đồng tác giả với C.C.Phrank), rồi
sau đó là "Tâm lý học đại cương và thực nghiệp (1912), "Bút ký khoa học về
nhân cách" (1916) và "Phân tích nhân cách" (1917, 1924) A.Ph.Lagiurxki đã
đề cập khái niệm thái độ tâm lý chủ quan ở con người với môi trường. Theo
tác giả, đời sống tâm lý thực của con người được chia thành hai lĩnh vực:
- Cái tâm lý bên trong: là cơ sở bẩm sinh của nhân cách, bao gồm khí
chất, tính cách và một loạt các đặc diễm tâm sinh lý khác.
- Cái tâm lý bên ngoài: là hệ thống thái độ của nhân cách với môi
trường xung quanh.
Như vậy, thái độ cá nhân, theo như A.Pa. Lagiurxki, là sự biểu hiện ra
bên ngoài của cái tâm lý, phản ứng với sự tác động của môi trường xung
quanh.
Là người đầu tiên tiến hành các nghiên cứu về nhân cách trong điều
kiện tự nhiên, trong hoạt động thực của con người, thái độ chủ quan của nhân
cách với một trường được A.Ph. Lagiurxki hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm thái
độ với giới tự nhiên, với sản phẩm lao động, với những cá nhân khác, với các
nhóm xã hội và với những giá trị tinh thần. Trong hệ thống thái đôk chủ quan,
A.Ph. Lagiurxki đặc biệt coi trọng thái độ của nhân cách đối với lao động với
nghề nghiệp; và sở hữu, với người khác và với xã hội. Những thái độ thủ
quan nêu trên được tác giả coi là chủ đạc để dựa vào đó tiến hành phân loại
nhân cách.
1.1. Các nghiên cứu về thái độ ở Liên Xô trước đây
Trong tiếng Nga, thuật ngữ thái độ mang nội hàm kép: ngoài nghĩa thái
độ, còn có nghĩa là các mối quan hệ trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Do vậy,
khi dùng từ này tương đương với attitude trong tiếng Anh, các tác giả còn sử
dụng thuật ngữ “tâm thế xã hội” và sau này Lomov gọi là "thái độ chủ quan
của cá nhân".
Những nghiên cứu về thái độ chủ quan trong nhân cách ở Liên Xô (cũ),
được bắt đầu sớm hơn so với ở phương Tây. Tiếp theo những công trình
nghiên cứu thái độ do A.Ph. Lagiurxki khởi xướng, V. N. Minxisev (1892 -
1973); nhà tâm lý học Xôviết, cũng đã bắt đầu từ các nghiên cứu này nhưng
"thổi" vào đó những quan điểm của tâm lý học mátcxít về bản chất của con
người và xây dựng nên “học thuyết thái độ nhân cách”. Về thực chất, học
thuyết là tổ hợp các khái niệm về mặt lý luận, cho rằng, hạt nhân tâm lý nhân
cách là một hệ thống trọn vẹn mang tính cá thể của các thái độ có ý thức –
chọn lọc, mang tính giá trị của chủ quan đối với hiện thực khác quan. Hệ
thống thái độ được hình thành theo cơ chế chuyển dịch “từ ngoài vào trong”,
thông qua với những người khá trong những điều kiện xã hội mà chủ thể
đang sống và sinh hoạt. Theo V.N.Miaxisev thì chính hệ thống thái độ nhân
cách quyết định đặc điểm cảm xúc, việc tri giác hiện thực khách quan và cũng
như sự phản ứng trong hành vi với những tác động từ bên ngoài. Tất cả các
tổ chức cấu thành tâm lý người, từ những thành phần đơn giản nhất đến cấu
thành phức tạp nhất đều có liên quan với thái độ dưới một hình thức nào đó.
Tuy nhiên, chức năng tổ chức hoạt động chỉ có thể được xác định một khi ở
con người xuất hiện thái độ tích cực với nhiệm vụ được đặt ra. Trong học
thuyết thái độ nhân cách. V.N.Miaxisev còn đề cập việc phân loại thái độ.
Theo ông, thái độ bao gồm hai loại: tích cực (dương tính) và tiêu cực (âm
tính). Các kinh nghiệm âm tính hay dương tính trong quan hệ với những
người xung quanh là cơ sở để hình thành hệ thống thái độ tương ứng bên
trong của nhân cách. Như vậy, theo V.N. Miaxisev, thái độ được xác định như
là khía cạnh của các mối quan hệ, liên hệ mang tính chủ thể bên trong có
chọn lọc của cá nhân với bức tranh muôn màu muôn vẻ của hiện thực khách
quan. Thái độ là điều kiện khái quát hoá bên trong của các hành động ở con
người.
Là cốt lõi, hạt nhân của nhân cách, thái độ cũng được V.N Miaxisev
đánh giá rất cao trong hoạt động tâm lý người. Theo ông, thái độ là một trong
bốn hình thức thể luật các chức năng tâm lý, bên cạnh các quá trình, thuộc
tính và trạng thái tâm lý. Thái độ có các tính chất cơ bản là tính có ý thức, tính
trọn vẹn và tính hệ thống. Tuy nhiên, ở góc độ nghiên cứu này, V.N. Miaxisev
lại cho tầng tính cách, tình cảm; ý chí, hứng thú nhu cầu,v.v. của con người
cũng đều là thái độ. Ông viết: "Tất cả các dạng hoạt động tâm lý hiểu theo
nghĩa rộng có thể xem như là một dạng nào đó của thái độ, quan niệm và thái
độ có tính chất bao trùm lên trên tất cả các hiện tượng, tâm lý con người, về
tính chất, chưa làm bật ra nét đặc trưng, đặc thù của thái độ cũng như các
hiện tượng tâm lý khác và như vậy là hoàn toàn chưa có cơ sở khoa học.
Tất nhiên, cũng không phải vì lý do nêu trên mà phủ nhận công lao của
V.N. Miaxisov trong nghiên cứu thái độ cũng như học thuyết thái độ nhân
cách của ông.
Những đề xuất trong nghiên cứu thái độ của ông không chỉ dừng lại ở
nghiên cứu lý luận, mà còn được ứng dụng triển khai trong nghiên cứu các
bệnh suy nhược thần kinh - một lĩnh vực ứng dụng thực hành của khoa học
tâm lý. Để nghiên cứu thái độ chủ quan của nhân cách (người bình thường và
người mắc chứng bệnh suy nhược thần kinh), V.N. Miaxisev đã nêu ra các
thông số (hay còn gọi là chiều đo) của nó. Cụ thể là:
* Các chỉ báo cấp I của thái độ bao gồm:
- Tính chất (tính hình thái) của thái độ. Biểu thị xu hướng - của thái độ:
tích cực, tiêu cực hay trung tính. Tính tình thái được thể hiện thông qua hoặc
các phản ứng xúc cảm “thích - không thích", hoặc sự ủng hộ đối với một
người nào đó, hoặc quan điểm như đồng ý hay phản đối, hoặc cũng có thể
thông qua các hành động tích cực của cá nhân liên quan đến việc khắc phục
khó khăn bên ngoài hay bên trong họ.
- Cường độ của thái độ. Mỗi thái độ đều được biểu thị bởi một cường
độ nào đó; ở trong một nhân cách, cường độ thái độ là một yếu tố mang tính
ổn định tương đối. Sự thay đổi cường độ của thái độ diễn ra cùng với sự phát
triển của bản thân mỗi cá nhân, song không thể coi đây là một yếu tố tuyến
tính với thời gian, bởi lẽ cường độ của thái độ có thể có sự gia tăng đột ngột
(hoặc suy giảm mạnh) vào một thời điểm nào đó trong quá trình phát triển của
cá nhân. Sự tăng hay giảm cường độ thái độ phụ thuộc vào các mối quan hệ
xã hội, tự nhiên và tư duy của cá nhân đó thông qua hoạt động và sự giao lưu
của họ. Ở chỉ báo này, điều cần lưu tâm là sự "quá bão hoà thái độ”; bởi theo
Miaxisev, trong những sự kiện không đáng kể, trạng thái trên cũng rất dễ dẫn
đến những thay đổi thái độ từ tích cực sang tiêu cực (hoặc ngược lại).
- Mức độ rộng (hay hạn hẹp) của thái độ. Chỉ bảo này cho biết sự
phong phú (hay nghèo nàn) của thái độ chủ quan ở mỗi cá nhân, biểu hiện ở
số lượng các đối tượng hay các khía cạnh của hoạt động mà cá nhân có thái
độ chủ quan với chúng. Nói cách khác, chỉ bảo về độ rộng của thái độ chính
là sự phản ánh mức độ phong phú (hay không phong phú) về các mối quan
hệ với xã hội, với con người, với tự nhiên.
- Tính bền vững của thái độ. Được hình thành và thay đổi trong quá
trình sống của mỗi cá nhân. Tuỳ thuộc vào sự tham gia (nhiều, ít, tích cực hay
không tích chơi của cá nhân vào các mối quan hệ xã hội mà thái độ chủ quan
ngày càng ổn định và bền vững. Tính bền vững của thái độ dược biểu hiện ra
bên ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau, đó có thể lệ lập trường của mỗi cá
nhân, và cũng có thể đó là sự biểu hiện tính cứng nhắc của họ.
* Các chỉ bảo cấp II của thái độ, bao gồm:
- Tính chi phối (chỉ đạo). Trong hệ thống thái độ của cá nhân những thái
độ liên quan đến mục đích sống và động cơ chủ dạo của cá nhân được tách
ra. Thái độ nào trong hệ thống đó sẽ được Xác định là chủ đạo phụ thuộc rất
nhiều vào điều kiện phát triển (điều kiện sống và giáo dục) của cá nhân đó.
Thái độ chủ đạo luôn thể hiện sự mạnh mẽ và ổn định của cá nhân.
- Tính hài hòa (sự liên kết bên trong) của thái độ, thể hiện sự liên kết
bên trong của hệ thống thái độ chủ quan, tạo nên tính tron ven của cá nhân.
Cấu trúc hệ thống thái độ phụ thuộc rất nhiều vào thái độ chủ đạo đã hình
thành của cá nhân.
- Tính cảm xúc của thái độ. Trong giai đoạn đầu của sự hình thành và
phát triển tâm lý người, thái độ đang hình thành được thể hiện ở các cảm xúc.
Tùy theo mức độ phát triển, chúng được ý thức hơn và ngày càng mang đậm
nét lý tính hơn nhưng không bị mất đi sắc thái cảm xúc của mình. Tuy nhiên,
sự biểu hiện xúc cảm của thái độ trong các tình huống cụ thể cũng không
“nhất nhất” như nhau, mà có thể bị giảm sút, chẳng hạn như khi lý trí lấn át
tình cảm, hoặc tăng quá mức, như khi tình cảm lấn át lý trí.
- Mức độ khái quát hóa của trí tuệ trong thái độ. Cùng với sự phát triển
về tâm lý và mức độ làm chủ các tri thức mang tính khái quát, thái độ chủ
quan xuất hiện ban đầu do ảnh hưởng của các sự kiện ngẫu nhiên và mang
tính tình huống được thay thế dần bởi thái độ chủ quan mang tính chất khái
quát ngày càng nhiều hơn. Thái độ lúc này liên quan đến cả một loại hình đối
tượng hay cả một lĩnh vực nào đó (chứ không chỉ từng đối tượng cụ thể).
Chính tính khái quát trong thái độ chủ quan của cá nhân sẽ biến tri thức thành
niềm tin ở họ.
Có nhiều trường hợp thái độ phát triển không theo hướng gia tăng tính
khái quát mà theo hướng "lan toả”. Ở trường hợp này thái độ hình như được
chuyển từ cá nhân này sang cá nhân khác. Hiện tượng này chứng tỏ sự
không bền vững của thái độ hơn là tính khái quát của nó.
- Tính nguyên tắc: Là một chỉ báo liên quan chặt chẽ với tính khái quát.
Tính nguyên tắc chỉ ra cho thấy thái độ được hình thành và phát triển như thế
nào theo nguyên tắc đạo đức, thẩm mỹ, v.v. mà cá nhân đã chấp nhận hay do
xuất phát từ các cảm xúc bột phát, các sự kiện ngẫu nhiên.
- Mức độ tích cực của thái độ (đúng ra là mức độ ảnh hưởng của thái
độ đối với tính tích cực của cá nhân và biểu hiện của nó trong tính tích cực
này) chiếm thột vị trí quan trọng trong các chỉ bảo về thái độ. Mức độ tính tích
cực của thái độ được xem xét thông qua các phản ứng cảm xúc đơn giản
hoặc trong các hành vi tích cực cụ thể hướng vào sự thay đổi môi trường
xung quanh.
- Mức độ ý thức của thái độ, để cập một khía cạnh quan trọng của thái
độ: thái độ của cá nhân (dưới hình thức phát triển nhất) là thái độ có ý thức.
Tính có ý thức là đặc điểm có tính tích hợp của nhân cách; mức độ ý thức
không chỉ bao hàm sự nhận thức các thái độ, mà còn đặc trưng cho sự
trưởng thành về mặt công dân, đạo đức, tư tưởng của cá nhân, liên quan
chặt chẽ với ý thức trách nhiệm trước xã hội của họ với tư cách là chủ thể xã
hội.
Sự kết hợp, đặc thù của các chỉ báo trên quy định đặc điểm tâm lý của
cá nhân cụ thể và mức độ tích cực xã hội của họ. B.Ph. Lomov đã đưa ra
nhận xét rằng những chỉ báo về thời độ nêu trên cho phép “nêu ra hàng loạt
đặc điểm về thái độ chủ quan của cá nhân, có thể dùng làm cơ sở đề ra các
phương pháp mô tả và phân tích nhân cách”.
Như vậy, với học thuyết thái độ nhân cách đã được tiếp thu của
A.Ph.Lagiurxki. V.N.Mi.Miaxisev đã đưa quan điểm mácxít vào xem xét và giải
quyết vấn để nghiên cứu theo hướng khả thi hơn. Việc đưa ra các chỉ báo về
thái độ cho phép đánh giá và phân tích nhân cách. Việc ứng dụng thuyết thái
độ nhân cách của V.N. Miaxisev vào thực tiễn không chỉ dừng ở nghiên cứu
trên người bình thường mà cả trên các bệnh nhân suy nhược thần kinh, đã
chứng tỏ sự hữu dụng của cách tiếp cận nghiên cứu này.
Một cách tiếp cận khác, phục vụ cho việc nghiên cứu thái độ của các
nhà tâm là học Xôviêt trước đây là các công trình của trường phái tâm thế
D.N.Uznadze.
Vấn đề nảy sinh khi các tác giả W.I.Thomas và F.Znanieeki đưa ra khái
niệm tâm thế xã hội, tương đương với attitude vào nghiên cứu trong tâm lý
học xã hội và xã hội học: Như vậy, với nội hàm cốt lõi là tâm thế một khái
niệm của tâm lý học đại cương nay được đưa vào trong nghiên cứu tâm lý
học xã hội. Tuy nhiên, để nghiên cứu tâm thế học xã hội như là thái độ biểu
thị các định hướng chủ quan của cá nhân với tư cách là thành viên của một
nhóm (hay xã hội) đối với các giá trị, quy định phương thức hành động cho cá
nhân đó, thì nội dung của khái niệm là cốt lõi tâm thế cũng phải phù hợp
tương ứng.
Tâm thế từ lâu đã được các nhà tâm lý học truyền thống sử dụng trong
nghiên cứu cáo hiện tượng tâm lý người, chẳng hạn như những nghiên cứu
thực nghiệm nhằm xác định ảnh hưởng chi phối của yếu tố kinh nghiệm đối
với tốc độ phản ứng tình huống khi tri giác, (L.Lallge) hoặc đối với một số lỗi
nảy sinh khi tri giác (G.A,Miller, T.Suman), hoặc để mô tả trạng thái sẵn sàng
vô thức quyết định hướng của các quá trình tâm lý sẽ diễn ra khi có sự hiện
diện của nhiệm vụ. Sau này, trong tâm lý học hành vi, một số nhà nghiên cứu
cũng dùng khái niệm tâm thế với các nội hàm nêu trên để dự báo hành vi sẽ
xảy ra ở con người trong các tình huống cố định. Như vậy, nếu dựa vào nội
hàm "tâm thế” trong các nghiên cứu trên thì việc điều kiện hành vi xã hội của
con người luôn liên quan đến một số các điều kiện trừu tượng nào đó; vì theo
các tác giả nghiên cứu, "hiện thực khách quan luôn trực tiếp và ngay lập tức
đã gây ảnh hưởng đến cái tâm lý ý thức và hoạt động tâm lý được quyết định
ngay trong mối quan hệ trực tiếp đó. Chính cái mà D.N. Uznadze gọi là "định
đề trực tiếp" này đã cản trở việc nghiên cứu tâm thế chủ quan trong tâm lý
học xã hội từ khái niệm tâm thế trong tâm lý học đại cương.
Nhằm khắc phục tính đơn giản, cơ học, máy móc và “định đề trực tiếp”
trong điều khiển hành vi, Uznadze đã đưa ra định nghĩa, một cách hiểu mới
về tâm thế. Theo ông, tâm thế là “sự mô phỏng trọn vẹn của chủ thể, sự sẵn
sàng tri giác các sự kiện và sự xác định hoàn thiện về hướng của hành vi”.
Tâm thế là cơ sở của tính tích cực có chọn lọc, có chủ định. Xuất phát từ vai
trò, vị trí của tâm thế trong hoạt động, tâm thế được xem như là một trạng thái
vô thức, nảy sinh khi có sự “gặp gỡ” của hai yếu tố: nhu cầu và hoàn cảnh,
điều kiện thỏa mãn nhu cầu. Sau đó và chỉ sau đó, xu hướng biểu hiện tâm lý
hành vi vủa một cá thể bất kỳ mới được quyết định. Trong trường hợp, một
hành vi manh động vấp phải chướng ngại vật thì sẽ bị gián đoạn và lúc đó cơ
chế khách quan hóa (nhờ đó mà cá nhân tách bản thân ra khỏi hiện thực
khách quan và quan hệ với thế giới xung quanh như là một khách thể tồn tại
độc lập, không phụ thuộc vào nó) bắt đầu thực thi chức năng của mình. Tất
nhiên cơ chế này sẽ do ý thức của con người điều khiển.
Chính việc xem xét vị trí của tâm thế trong hoạt động của con người nói
chung đã ho phép đi đến khẳng định tâm thế xã hội là một yếu tố hình thành
hành vi xã hội của nhân cách, được thể hiện dưới hình thức thái độ của nhân
cách với các điều kiện hoạt động của nó. Trên quan điểm coi tâm thế là một
cấu trúc thứ bậc, thì tâm thế xã hội ở vị trí tầng bậc cao nhất trong bản thân
hoạt động của mỗi một cá thể, là sự biểu hiện quan hệ của động cơ với mục
đích, và được thực hiện thông qua quan hệ với người khác. Còn trong quan
hệ liên nhân cách, tâm thế xã hội được thể hiện ở ý của nhân cách, được nảy
sinh từ quan hệ của động cơ với mục đích đặt ra.
Như vậy, chính từ cách tiếp cận, xem xét khái niệm tâm thế theo
Uznadze trong tâm lý học đại cương đã giúp cho việc xác định nghiên cứu
tâm thế xã hội - thái độ trong tâm lý học xã hội ở Liên Xô trước đây, được đặt
trong bối cảnh khả quan. Sau này, học trò của D.N. Uznadze là S.A.
Nadiraevili dã phát hiện những quy luật tác động qua lại của tâm thế xã hội -
thái độ giữa người đi thuyết phục và người bị thuyết phục.
Cũng trong nghiên cứu tâm thế xã hội, P.N. Siltllirev đã đưa ra cấu trúc
ba thành phần gồm:
- Thành phần nhận thức (tri giác, thông tin) như là sự "tự ý thức khách
thể của tâm thế".
- Thành phần cảm xúc (rung động, xúc cảm) là những rung động đồng
cảm hay không đồng cảm với khách thể tâm thế.
- Thành phần hành động (hành vi, động tạc) là sự kế tục ổn định của
hành vi thực đối với khách thể của tâm thế.
Sự mô tả thành phần cấu trúc của tâm thế xã hội cũng nhận được sự
chia sẻ của nhiều tác giả khác. Tuy nhiên, các thành phần trên không nhất
thiết phải hiện diện mọi lúc một cách đồng bộ mà cũng có thể xảy ra sự không
trùng khớp giữa chúng. Ngay trong lý luận, cường độ đánh gía trong quan hệ
với khách thể tâm thế là mặt cảm xúc, nhưng, tâm thế xã hội nói chung lại là
sự thống nhất của cả ba yếu tố cấu thành, gây tác động định hướng điều
khiển đến hành vi, mà nhờ đó có sự đánh giá về khách thể. Vấn đề đặt ra tiếp
theo là có sự trùng khớp này không (nếu có thì trùng khớp đến mức nào) giữa
cảm xúc về khách thể với sự đánh giá chung về kết quả tác động giữa các
yếu tố cảm xúc và nhận thức? Trong nghiên cứu thực nghiệm của mình, La
Piere là người đầu tiên đã phát hiện có sự không đồng bộ, thống nhất với
nhau giữa các phản ứng bằng lời nói với hành vi thực trong cuộc sống của cá
nhân trong tâm thế xã hội của họ.
Để giải quyết mâu thuẫn giữa các thành phần của thái độ, V.A. Iadov
đã dưa ra thuyết nghiên cứu hệ thống định vị điều chỉnh hành vi hoạt động xã
hội của cá nhân, khắc phục những khiếm khuyết vốn tồn tại của các nghiên
cứu trong phòng thí nghiệm và trong môi trường vi mô. Thuyết định vị đã phát
triển khái niệm tâm thế và cho rằng hành vi xã hội của mỗi cá nhân được điều
khiển bởi hệ thống định vị bao gồm tâm thế, tâm thế xã hội, xu hướng cơ bản
của hứng thú, cơ sở hệ thống định hướng gía trị. Như vậy, tâm thế chỉ là một
dạng định vị điều chỉnh hành vi, phản ứng cá nhân trong các tình huống đơn
giản khi có sự “gặp gỡ” giữa nhu cầu sinh lý và đối tượng thoả mãn nhu cầu.
Hệ thống định vị cũng có cấu trúc thứ bậc được sắp xếp từ thấp đến cao để
điều chỉnh hành vi xã hội của cá nhân, trong đó định vị bậc cao có thể chi phối
định vị bậc thấp. Dựa vào thuyết hệ thống định vị, V.A. Iladov đã lý giải một
cách hợp lý về mâu thuẫn giữa hành vi và các phản ứng bằng lời trong thái
độ của cá nhân như sau: "Vai trò chủ đạo điều khiển hành vi thuộc về cách bố
trí dàn binh của một mức độ khác" mà theo cách này, hành vi bị điều khiển
phụ thuộc vào vị trí động cơ (đối tượng hoạt động) tương ứng trong cấu trúc
thứ bậc động cơ của nhân cách.
Tóm lại, có thể nói rằng khái niệm tâm thế từ tâm lý học đại cương theo
cách tiếp cận nghiên cứu vị trí tâm thế trong hoạt động của cá nhân của
Uznadze, đã đặt cơ sở khoa học để lý giải hiện tượng tâm thế xã hội –
attitude trong tâm lý học xã hội và xã hội học và cho phép nghiên cứu hiện
tượng này một cách khách quan.
Trong những năm cuối của thế kỷ XX, khi nghiên cứu nhân cách như là
một phạm trừ cơ bản của tâm lý học, nhà tâm lý học Nga, B. Ph. Lomov cũng
đã đề cập khái niệm thái độ chủ quan của nhân cách. Tác giả cho rằng, khái
niệm “tâm thế”, "ý cá nhân”, "attitude" là những khái niệm họ hàng cũng loại,
phản ánh những khía cạnh khác nhau của thái độ.
Cơ sở khoa học của thái độ chủ quan của cá nhân được xác định là
các quan hệ xã hội, trong đó quan hệ kinh tế (quan hệ sở hữu các phương
tiện sản xuất, các quan hệ được hình thành một cách khách quan trong quá
trình phát triển sản xuất và lưu thông, tiêu dùng) có vai trò quyết định. Ngoài
ra, trong quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách, ở cá nhân cũng hình
thành thái độ nào đó đối với các phát minh khoa học, nghệ thuật, các sự kiện
chính trị, đời sống, tư tưởng hóa xã hội. Mặt khác, do sống trong cộng đồng
(nhóm lớn, nhóm nhỏ) nên dứt khoát ở mỗi cá nhân cũng hình thành thái dộ
chủ quan với nhóm mà họ tham gia và cả với cộng đồng, cũng như với nhóm
khác. Do vậy, xét cho cùng, tính chất và động thái của thái độ chủ quan được
hình thành ở mỗi cá nhân phụ thuộc vào vị trí (lập trường) mà nó chiếm chỗ
trong hệ thống các quan hệ xã hội và sự phát triển của nó trong hệ thống đó.
Ngoài ra, B.Ph. Lomov còn khẳng định tính nhiều chiều, nhiều tầng và
cơ động của thái độ chủ quan trong một hệ thống phức tạp được gọi là
“không gian chủ quan đa chiều”, trong đó, mỗi chiều đo trong không gian
tương ứng với một thái độ chủ quan cụ thể nào đó và được E.Erikson gọi là
các “cung thái độ ý nghĩa”. Không gian chủ quan không phải lúc nòa cũng
trùng hợp với không gian các quan hệ xã hội mà cá nhân tham gia một cách
khách quan. Chúng ta thường gặp nhiều hơn là sự “pha trộn” thái độ chủ
quan của cá nhân với cá quan hệ xã hội mà cá nhân tham gia một cách khách
quan.
Tuy là một thuộc tính tương đối ổn định, bền vững, phản ánh lập
trường của cá nhân với hiện thực khách quan, nhưng thái độ chủ quan cũng
có thay đổi, kéo theo sự thay đổi rất cơ bản trong biểu hiện của nhân cách.
B.Ph Lomov khẳng định sự thay đổi vị trí khách quan của mới cá nhân trong
xã hội đòi hỏi phải có sự đổi mới thái độ chủ quan của nó. Sự khủng hoảng
tâm lý lứa tuổi chính là vấn đề tâm lý học nghiên cứu sự thay đổi các thái độ
chủ quan của cá nhân tương ứng với vị thế mới của nó. Trong trường hợp
không có sự đổi mới thái độ chủ quan khi đã có sự thay đổi vị trí khách quan
của cá nhân thì rất có thể nảy sinh trở ngại trong việc làm chủ các chức năng
xã hội, xảy ra xung đột với những người xung quanh hoặc xung đột nội tâm.
Phương thức hình thành thái độ chủ quan được B.Ph. Lomov nêu ra là
thông qua hoạt động và giao tiếp. Do mâu thuẫn giữa vị thế xã hội khách
quan của cá nhân và thái độ chủ quan của nó nên đòi hỏi phải đổi mới cả
hình thức, phương pháp và mức độ tích cực của hoạt động và giao tiếp.
Hoạt động cùng nhau và giao tiếp mà cá nhân tham gia thể hiện như là
phương pháp lôi cuốn cá nhân vào các mối quan hệ xã hội phát triển một
cách khách quan. Tuy nhiên, không phải cứ hoạt động và giao tiếp dưới các
hình thức bất kỳ thì sẽ dẫn đến hình thành thái độ chủ quan theo cách mong
muốn. Vấn đề đặt ra là phải tổ chức hoạt động và tạo môi trường giao tiếp
sao cho ở đó, cá nhân có khả năng tiến hành hoạt động, bộc lộ khía cạnh này
hay khía cạnh khác của các quan hệ xã hội, bảo đảm sự phát triển cuộc sống
của cá nhân trong các quan hệ đó và sự phản ánh của chúng trong ý thức cá
nhân. Chỉ có như vậy mới hy vọng hình thành ở cá nhân các thuộc tính có ý
nghĩa xã hội nhất định. Còn giao tiếp thì so với bất kỳ hoạt động nào khác
cũng có ảnh hưởng lớn hơn rất nhiều trong quy định sự phát triển và sự thay
đổi tính chất các chỉ báo về thái độ, do sự phát triển của nhân cách, trong đó
có thái độ chủ quan, thực chất là quan hệ liên nhân cách.
Khi phân tích vai trò của hoạt động và giao tiếp đối với việc hình thành
thái độ chủ quan của cá nhân, B.Ph. Lomov cho rằng cũng có khi xảy ra sự
mâu thuẫn giữa giao tiếp và hoạt động, nhưng chính việc giải quyết mâu
thuẫn này bảo đảm cho cá nhân chuyển từ pha này sang pha khác, từ thời kỳ,
giai đoạn này sang thời kỳ, giai đoạn khác. Các phương pháp giải quyết mâu
thuẫn cũng khác nhau nhưng cái cơ bản quan trọng là thái độ chủ quan của
cá nhân khi chuyển sang giai đoạn phát triển mới bao giờ cũng được hình
thành dựa vào các thái độ có sẵn.
Như vậy, trên cơ sở những đề xuất, quan điểm nghiên cứu nhân cách,
trong đó có thái độ chủ quan của cá nhân, B.Ph. Lomov đã vạch ra cơ sở
khoa học, phương pháp luận cho việc nghiên cứu thái độ.
Trên cơ sở các quan điểm nghiên cứu về thái độ của các tác giả nêu
trên, những nghiên cứu về thái độ trong tâm lý học xã hội và tâm lý học giáo
dục đã được triển khai dưới dạng thực nghiệm ở Liên Xô trước đây. Các
hướng nghiên cứu chính có thể kể đến là:
1) Sự tác động qua lại của thái độ của các cá nhân trong nhóm, nhân
cách và tập thể (L.I.Bozovic, I.G.Beliaevxki, V.N.Miaxisev)…
2) Mối quan hệ giữa trẻ em và người lớn (M.I.Lixina, A.V.Petrovxki,
A.I.Serbacov...).
3) Thái độ đối với việc học tập và các môn học (L.I. Bozovic, A.N.
Leonchiev, K.I. Melnhicova, L.X.Xlavina...)
4) Thái độ với nghề nghiệp và lao động (N.I.Krưlov, V.X.Philatov...)...
Tóm lại, khi trình bày các quan điểm: học thuyết nghiên cứu thái độ của
các tác giả các nhà tâm lý học Xôviết V.N.Miaxisev, D.N.Uznadze và
B.Ph.Lomov. Chúng tôi muốn nhấn mạnh đến cơ sở khoa học các nghiên cứu
thái độ mà các tác giả đã để cập. Từ đó, cho phép đưa ra các tiêu chí, điều
kiện khách quan để tiến hành các nghiên cứu về thái độ của con người Việt
Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.2. Nghiên cứu thái độ ở các nước phương Tây
Vấn đề attitude lần đầu tiên được đặt ra trong tâm lý học phương Tây
bởi W.I.Thomas và F.Znaniecki vào năm 1918 và từ đó vấn đề thái độ được
đặt vào một vị thế trọng tâm nghiên cứu của các nhà khoa học. Trong nghiên
cứu của mình, nhà tâm lý học xã hội Liên Xô (cũ) P.N.Sikllirev đã chia lịch sử
nghiên cứu thái độ ở phương Tây ra làm ba thời kỳ chính:
- Thời kỳ thứ nhất, bắt đầu từ năm 1918 đến Chiến tranh thế giới thứ
hai: hai tác giả người Mỹ nêu trên là W.I.Thomas và F.Znaniecki đã khởi đầu
nghiên cứu về thái độ của những người nông dân Ba Lan di cư sang Mỹ, biểu
hiện qua sự thích ứng của họ với điều kiện môi trường mới. Ở giai đoạn này,
các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào nghiên cứu định nghĩa, cấu
trúc, chức năng của thái độ và mối quan hệ của nó với hành vi. Công trình
nghiên cứu thực nghiệm đây chủ ý trong giai đoạn này là sự phát hiện ra
“nghịch lý La Piere”, biểu thị sự không nhất quán giữa phản ứng bằng lời nói
(thái độ) và hành vi.
- Thời kỳ thứ hai: kéo dài từ chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối những
năm 1950. Thời kỳ này, các nghiên cứu về thái độ tập trung chủ yếu tìm hiểu,
lý giải những hoài nghi về vai trò của thái độ trong việc chi phối hành vi. Vì
nhiều lý do chủ quan và khách quan như do chiến tranh, do bế tắc trong việc
lý giải các nghịch lý này sinh trong qua trình nghiên cứu, nên số lượng các
công trình nghiên cứu về thái độ ở thời kỳ này có sự giảm sút một cách đáng
kể. Tuy nhiên, trong giai đoạn nghiên cứu này cũng đã nổi lên những tên tuổi
như Liker, Sank, G.Allport, Crechphend, J.Bruner, v.v..
Thời kỳ thứ ba: từ cuối những năm 1950 đến nay. Có thể nói đây là thời
kỳ bùng nổ của những nghiên cứu về thái độ ở phương Tây. Trong tâm lý học
xã hội, vấn đề thái độ có một vị trí xứng đáng. Vấn đề thường được đề cập
trong các nghiên cứu ở giai đoạn này là những quan niệm mới về định nghĩa
thái độ, cấu trúc và chức năng của nó. Cũng ở thời kỳ này, nhiều thuyết đã
được hình thành làm cơ sở lý luận để lý giải quan hệ như thuyết bất đồng
nhận thức giữa thái độ và hành vi (Leon Festinger). Thuyết "tự thể hiện”,
thuyết tự tri giác (Parye Beny); các phương pháp nghiên cứu sự hình thành
và thay đổi thái độ như: thang đo thái độ (The Fscale - thang đo F) đo các
quan điểm phát xít: thang đo quan điểm giáo điều (The DogmatiBm Scale),
phương pháp đo thái độ gián tiếp qua các chỉ số sinh lý như phương pháp
điện cơ mặt; và các kỹ thuật nghiên cứu thái độ như kỹ thuật Bogus pipeline
(đường ống gỉa vờ) hay kỹ thuật lấn từng bước (foot in the door).
Xu thế chung trong nghiên cứu thái độ ở phương Tây là nhằm giải
quyết những vấn đề trong thực tiễn như vận động tranh cử, bầu cử, tiếp thị,
tuyên truyền, bảo vệ môi trường, chữa bệnh, v.v., cũng như việc nghiên cứu
các dạng thái độ đã định hình sẵn để có thể dự báo hành vi của cá nhân khi
họ vấp phải các trở ngại, khó khăn. Khi bình luận về các công trình nghiên
cứu ở phương Tây, các nhà tâm lý học Xô viết P.N. Sikhirev, B.Pa.Lomov,
A.V.Petrovxki đã dưa ra những khẳng định như sau:
- Số lượng công trình và các phương pháp cụ thể để nghiên cứu về thái
độ ngày càng được công bố nhiều hơn.
- Sự bế tắc về phương pháp luận đã dẫn tới không tìm dược cơ sở
khách quan của các attitude; các số liệu thu được từ nghiên cứu đều được lý
giải bằng cách quy về các thái độ nhất định. Có thể nói, việc nghiên cứu, tìm
kiếm, kiến tạo nên các "mẫu” về attitude trong tâm lý học phương Tây ở
những tình huống, dấu kiện, môi trường khách quan cụ thể chỉ có thể giúp
cho các nhà nghiên cứu hệ thống hoá số liệu thu thập được của mình dựa
vào thái độ và dự báo hành vi sẽ có thể xảy ra theo “nguyên bản” nào đó. Nói
cách khác, con người mãi mãi chỉ là thực thể sinh học, đơn vị hành vi của họ
chỉ là những bản năng thói quen, các khuôn mẫu, tình cảm, v.v. mà không
phải là nhân cách, không có thành phần ý thức trong điều khiển hành vi, thái
độ của mình. Điều này hoàn toàn xa lạ với quan điểm của tâm lý học mác xít
cho rằng, về thực chất, sự hình thành và phát triển mục đích cuộc sống, hệ
thống động cơ, thái độ chủ quan của cá nhân đồng thời cũng là sự hình thành
và phát triển ý thức của họ...
2. Về định nghĩa thái độ
Do tính đa chiều, đa tầng của nội hàm thái độ cho nên việc xuất hiện
nhiều định nghĩa về thái độ chủ quan của các tác giả khác nhau khi nghiên
cứu các góc độ, khía cạnh khác nhau của thái độ cũng là lẽ đương nhiên. Xin
liệt kê một số các định nghĩa và thái độ sau đây...
V N. Miaxisev cho rằng; thái độ là khía cạnh chủ quan bên trong, có
tính chọn lọc của các mối liên hệ đa dạng ở con người với các khía cạnh khác
nhau của hiện thực. Hệ thống này diễn ra trong toàn bộ lịch sử phát triển của
con người, biểu thị kinh nghiệm cá nhân và quy định nội hàm hành động cũng
như các trải nghiệm của họ. Khái niệm "thái độ” là khía cạnh tiềm năng của
các quá trình tâm lý, liên quan đến tính tích cực chủ quan, có chọn lọc của
nhân cách.
Trong các nghiên cứu của mình; các nhà tâm lý học Xô viết ít dùng
thuật ngũ "thái độ" vì tính đa nghĩa của nó trong tiếng Nga (từ này phần nhiều
được dùng chỉ mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng). Khi nói đến thái độ,
thuật ngữ tâm thế chủ quan (và sau này B.Ph. Lomov gọi là thái độ chủ quản
của nhân cách) được sử dụng nhiều hơn, và được định nghĩa như sau: “Tâm
thế xã hội là một dạng tâm thế được xem như một yếu tố hình thành hành vi
xã hội của nhân cách, xuất hiện dưới dạng các quan hệ của nhân cách với
các điều kiện hoạt động của nó và của những người khác.
Tác giả K.K. Platonov thì cho bằng thái độ là “một cấu thành tích cực
của ý thức cá nhân và là các mối liên hệ ngược của chủ thể với thế giới, được
phản ánh và được khách thể hoá trọng tâm vận động". Theo tư tưởng nêu
trên, phản ánh được hiểu không chỉ là kết quả tác động của môi trường lên
con người mà là biểu hiện của sự tác động qua lại giữa chúng chính xác hơn,
bản thân phản ánh là sự tác động qua lại được thực hiện bằng phương cách
thái độ có ý thức.
Các nhà tâm lý học của Leningrad thuộc Liên Xô trước đây thì coi thái
độ là "những cơ cấu tâm lý sẵn có, định hướng cho sự ứng phó của cá nhân”;
trong khi đó, dưới góc độ tâm lý học nhân cách Kosacowski và Lompscher
đều khẳng định thái độ là thuộc tính tâm lý bao gồm niềm tin, hứng thú, thái
độ xã hội.
Có thể nói, thái độ được định nghĩa khác nhau, xuất phát từ khía cạnh
nghiên cứu của mình, nhưng các tác giả Xô viết đều có chung khẳng định thái
độ là sự phản ánh ý thức, là thuộc tính cốt lõi của nhân cách và là một yếu tố
định hướng hành vi xã hội của con người.
Trong các nghiên cứu về thái độ (ơ phương Tây, trước hết phải nói đến
hai tác giả W.I. Thomas và F.Znaniecki, những người đầu tiên đưa ra khái
niệm thái độ mà theo đó, “thái độ là định hướng chủ quan của cá nhân như
một thành viên (cộng đồng) đối với giá trị này hay giá trị khác, làm cho cá
nhân có phương pháp hành động này hay khác được xã hội chấp nhận. Với
định nghĩa này, có thể xem như hai tác giả đã đưa ra định nghĩa thái độ chính
là sự định hướng giá trị của mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội.
G.W. Allport, nhà tâm lý học xã hội người Mỹ cho rằng, "thái độ là trạng
thái sẵn sàng về mặt tinh thần và thần kinh được tổ chức thông qua kinh
nghiệm, điều chỉnh hoặc ảnh hưởng năng động đến các phản ứng của cá
nhân với tất cả các khách thể và tinh huống mà nó có mối liên hệ và đã đưa
ra năm đặc điểm của thái độ như sau:
- Thái độ là trạng thái của tinh thần và hệ thần kinh.
- Thái độ là sự sẵn sàng phản ứng.
- Thái độ là trạng thái có tổ chức.
- Thái độ được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm quá khứ.
- Thái độ gây ảnh hưởng và điều khiển hành vi.
Nhà tâm lý học Mỹ Newcom cho rằng, thái đó là khuynh hướng hành
động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của cá nhân với khách thể có liên quan.
H.C. Trianodis (1971) coi "thái độ là tư tưởng được hình thành từ
những xúc cảm gây tác động đến hành vi nhất định ở một giai cấp nhất định
trong những tình huống xã hội. Thái độ của con người bao gồm những điều
người ta suy nghĩ và cảm thấy về đối tượng, cũng như thái độ cư xử của họ
đối với nó”.
R. Marten khẳng định, thái độ là xu hướng thường xuyên đối với các
tình huống xã hội. Nó biểu thị sự thống nhất của ý nghĩ, tình cảm và hành
động. Thái độ của con người có mối quan hệ chặt chẽ với hành vi, được xác
định bằng tình huống thống nhất bên trong.
H.Fillmore nhận định, thái độ là sự sẵn sàng phản ứng tích cực hay tiêu
cực đối với đối tượng hay các ký hiệu (biểu tượng) trong môi trường... Thái
độ là sự định hướng của cá nhân đến các khía cạnh khác nhau của môi
trường và là cấu trúc có tính động cơ.
J.Traver và cộng sự định nghĩa thái độ là cách cảm xúc tư duy và hành
động tương đối lâu dài đối với sự việc hay con người nào đó.
Như vậy, khi giảm qua một số định nghĩa về thái độ do các nhà tâm lý
học đại cương và tâm lý học xã hội Mỹ nêu ra, chúng ta cũng thấy sự không
đồng nhất về khái niệm thái độ của họ. Tuy nhiên, ở một vài tác giả cũng có
một số nhận định chung về nội hàm của khái niệm này, đó là tính “sẵn sàng
phản ứng”, tính gây tác động đến hành vi. Riêng định nghĩa về thái độ của
G.W.Allport được nhiều nhà tâm lý hoc thừa nhận vì qua định nghĩa thái độ là
gì, tác giả còn nêu ra nguồn gốc, vai trò, chức năng của thái độ. Tuy nhiên,
trong định nghĩa của Allport, một lần nữa lại thấy, thái độ chỉ bó gọn “trong
đầu” của một cái tôi chủ quan, mà không thấy vai trò của các yếu tố môi
trường và những người khác trong xã hội đối với việc hình thành thái độ chủ
qua của mỗi người.
Từ việc tổng hợp lịch sử nghiên cứu thái độ, cũng như tham khảo định
nghĩa về thái độ của nhiều tác giả khác nhau, chúng tôi xin được trình bày
cách hiểu của mình về thái độ và lấy đó làm công cụ nghiên cứu trong đề tài
của mình: Thái độ là phản ứng (ứng xử) mang tính chủ thể với hiện thực
khách quan, được hình thành trên cơ sở các mối quan hệ xã hội mà chủ thể
tham gia vào đó, thông qua hoạt động và giao tiếp của mình.
3. Thái độ và các khái niệm có liên quan
Như đã trình bày ở trên, thái độ là một thuộc tính của nhân cách, do đó,
có mối liên hệ với các thành phần khác trong nhân cách. Trong khi đó, nhan
cách luôn là một hệ thống trọn vẹn thống nhất của các thành phần thuộc
tính… tham gia vào hệ thống đó, cho nên việc tách bạch rành rọt thái độ với
các khái niện khác cùng phản ánh hiện thực khách quan trong nhân cách là
điều không dễ dàng, song cần thiết phải làm, dù chỉ là trên bình diện lý luận.
- Thái độ và ý thức cá nhân: Các nhà tâm lý học Xô viết đều khẳng định
tính ý thức: của thái độ chủ quan của cá nhân là một thuộc tính cơ bản, mặc
dù việc nghiên cứu thực nghiệm để chứng minh cho chân lý trên chưa được
triển khai nhiều hoặc triển khai nhưng hiệu quả minh chứng chưa cao (theo
B.Pa.Lomov, A.G.Axmolov…). Do vậy, thái độ và ý thức cá nhân là có mối
quan hệ với nhau, nhưng quan hệ đó như thế nào?
Theo định nghĩa, ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất, đặc
trưng của loài người, là năng lực nhận thức cái phổ biến, cái bản chất trong
hiện thực khách quan, do đó đang thời là năng lực định hướng, điều khiển
một cách tự giác thái độ, hành vi, quan hệ giữa con người với hoàn cảnh tự
nhiên và xã hội. Thái độ là một thành phần của ý thức là một phương thức để
thể hiện tính tích cực của ý thức và mối liên hệ ngược trở lại của ý thức với
hiện thực. Do vậy, quan hệ giữa thái độ và ý tllức là quan hệ giữa cái toàn bộ
và cái cấu thành.
Thái độ và nhu cầu: Nhu cầu có vị trí quan trọng trong hình thành nhân
cách, là nền tảng của động cơ, mục dích hành động. Sự hình thành mọi thuộc
tính nhân cách đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhu cầu. Quá
trình thoả mãn nhu cầu cũng chính là quá trình hình thành sự sẵn sàng hành
động, củng cố thái độ cá nhân cũng như các thành phần của nó (như nhận
thức, cảm xúc, cử chỉ, hành vi nhằm thoả mãn nhu cầu). Thái độ được hình
thành trên cơ sở kinh nghiệm của cá nhân trong trường hợp có sự gặp gỡ
giữa nhu cầu với đối tượng và điều kiện thoả mãn nhu cầu đó.
- Thái độ và phong thú: Theo định nghĩa trong các sách giáo khoa tâm
lý học, "hứng thú là một thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối tượng nào đó
vì ý nghĩa của nó trong cuộc sống và sự hấp dẫn tình cảm của nó". Như vậy,
qua quá trình xác định đối tượng và nhận thức đối tượng, có thể phán xét về
thái độ của cá nhân với đối tượng. Hứng thú càng ổn định, mạnh mẽ thì thái
độ cũng được củng cố, sự ham muốn tác động tới đối tượng càng được tăng
cường hơn.
- Thái độ và tâm thế: "Tâm thế là trạng thái trọn vẹn cơ động của chủ
thể, trạng thái sẵn sàng hành dộng, bị quy định bởi hai yếu tố là nhu cầu của
chủ thể và tình huống khách quan tương ứng. Theo trường phái của
Uznadze, tâm thế được hình thành do có sự gặp gỡ giữa nhu cầu và hoàn
cảnh có đối tượng thoả mãn nhu cầu. Tâm thế là khái niệm của tâm lý học đại
cương, được các nhà tâm lý học xã hội sử dụng để biểu đạt "tâm thế xã hội -
tương đương attitude (thuật ngữ mà các nhà tâm lý học phương Tây hay
dùng).. Do vậy, giữa thái độ và tâm thế có một số những điểm trùng nhau
nhưng cũng nhiều điểm không giống nhau về nội hàm. Điểm không giống
nhau nổi hàm nhất để có thể phân biệt rạch ròi hai khái niệm là thái (tâm thế
chủ quan, thái độ chủ quan của cá nhân) là thuộc tính tâm lý (chứ không phải
là trạng thái như tâm thế) được hình thành trong các hoàn cảnh xã hội thông
qua hoạt động và giao tiếp có ý thức, cơ cấu trúc phức tạp và đa tầng, tham
gia vào điều khiển, điều chỉnh hành vi của cá nhân trong nhiều lĩnh vực hoạt
động khác nhau. Những phẩm chất trên không có trong tâm thế hoặc nếu có,
xuất hiện rất mờ nhạt.
- Thái độ là định hướng giá trị: Trong các nghiên cứu về thái độ, như đã
nêu trên, có hai quan điểm xem xét về quan hệ giữa thái độ và định hướng
giá trị:
+ Quan điểm cho rằng thái độ là định hướng giá trị - như Thomas và
Znaniecki.
+ Quan điểm không chấp nhận hướng nêu trên mà cho rằng đấy là hai
khái niệm khác nhau.
Trong cấu trúc hoạt động của cá nhân, định hướng giá trị tạo thành một
nội dung của xu hướng nhân cách. Do vậy, định hướng giá trị có thể được coi
là cơ sở bên trong của thái độ cá nhân đối với hiện thực.
- Thái độ và tính cách: Tính cách và sự kết hợp độc đáo các đặc điểm
tâm tý ổn định của con người, bao gồm một hệ thống thái độ đối với hiện
thực, thể hiện trong hệ thống hành vi cử chỉ, cách nói năng tương ứng. Có thể
nói, trong tính cách thì thái độ là mặt nội dung, còn những hành vi tương ứng
là mặt hình thức. Như vậy, quan hệ giữa thái độ với tính cách là quan hệ giữa
một bộ phận cấu thành với tổng thể.
- Thái độ và xúc cảm, tình cảm: Xúc cảm, tình cảm là sự biểu thị thái độ
của cá nhân đối với các hiện tượng xảy ra trong hiện thực khách quan, trong
cơ thể liên quan đến việc thoả mãn hay không thoả mãn nhu cầu của con
người. Tình cảm được hình thành từ những xúc cảm đồng loại được lặp đi
lặp lại, có tính ổn định tương đối và là một trong ba thành phần cấu trúc của
thái độ. Qua biểu hiện của xúc cảm, tình cảm, có thể thu được những dữ liệu
về tính chất và đặc điểm thái độ chủ quan của cá nhân với hiện thực khách
quan.
- Thái độ và ý chí: ý chí là mặt năng động của ý thức, thể hiện khả năng
đề ra mục đích và nỗ lực khắc phục trở ngại nhằm đạt mục đích đã định.
Theo định nghĩa trên thì ý chí và thái độ là hai thành phần của một hệ thống
chức năng – ý thức. Thái độ là sự biểu hiện của các phẩm chất của ý chí.
-Thái độ và hoạt động cá nhân: Tâm lý học hoạt động khẳng định hoạt
động là yếu tố trực tiếp, quyết định sự hình thành nhân cách, quy định thái độ
chủ quan của cá nhân với hiện thực khách quan. Hoạt động có mục đích
nhằm bộc lộ các khía cạnh khác nhau của các quan hệ xã hội mà ở đó cá
nhân sống và phát triển. Sự phản ánh của những quan hệ này trong ý thức cá
nhân là yếu tố quyết định hình thành thái độ. Mặt khác, thái độ quy định
phương hướng hoạt động, hành động.
Như vậy, nói đến nhân cách là nói đến hệ thống các thuộc tính của nó,
trong đó có thái độ. Do vậy, thái độ chủ quan của cá nhân có liên quan mật
thiết với nhiều thuộc tính khái niệm khác nhau. Trong một nhân cách, quan hệ
này được liên kết một cách độc đáo, đặc trưng, do vậy khó có thể tách rời các
phẩm chất nhân cách thành những đơn vị độc lập. Việc phân tích nêu trên chỉ
có ý nghĩa về mặt lý luận để phục vụ cho việc nghiên cứu thái độ một cách rõ
ràng và tường minh hơn.
D. Ý THỨC, TỰ Ý THỨC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
TRẦN NINH GlANG
Cùng với tác động qua lại đồng thời của hai cuộc cách mạng: cách
mạng xã hội và cách mạng khoa học công nghệ, loài người đang bước vào
nền văn minh trí tuệ - nền văn minh tạo ra các biến đổi về chất trong nhiều
lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người, tọa điều kiện đưa năng suất lao
động xã hội lên tới nhịp đọ nhanh chưa từng có. Đóng vai trò chủ chốt tạo nên
chính nền văn minh đó là con người – nguồn nhân lực.
Xuất phát từ tư tưởng con người giữ vị trí trung tâm trong sự phát triển
kinh tế - xã hội, là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển đất nước, Đại hội
Đảng lần thứ VIII chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước chũng ta đang bước
vào mang nhiều đặc điểm của cả ba nền văn minh loài người: văn minh nông
nghiệp, văn minh công nghiệp và văn mình tin học. Cùng với sự biến đổi sâu
sắc trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội của đất nước, thế giới tâm lý,
nhân cách của con người đã có những biến đổi đáng kể, thể hiện rất rõ ở
cuộc đấu tranh gay gắt giữa các mặt tích cực và các mặt tiêu cực của thang
giá trị, đòi hỏi phải giải quyết hài hòà. Do đó, hình thành và phát triển nhân
cách con người Việt Nam - nhân cách được phát triển toàn diện thông qua
việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài - đi vào công
nghiệp hoá, hiện đại hóa nhằm đáp ứng xu thế mở cửa, hội nhập. Đây là tư
tưởng chiến lược về con người của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay...
Tâm lý học là khoa học hạt nhân giữ vị trí chủ chốt trong các nhóm
khoa học về con người. Trên thế giới, vào những năm cuối của thế kỷ XX,
tâm lý học đã có một bước tiến mới quan trọng, phục vụ cho sự phát triển con
người, đáp ứng ngày càng cao và đầy đủ hơn những yêu cầu của cuộc sống
trên cơ sở kết hợp phân tích điều kiện với phân tích chức năng. Khẳng định
yêu cầu đổi mới, hoàn thiện theo xu thế tất yếu trên nhằm khắc phục tình
trạng “thiếu cơ sở lý luận soi đường” và "chưa có những kết quả nghiên cứu
đáng tin cậy”, nhiệm vụ cấp bách của tâm lý học Việt Nam hiện nay là chú
trọng nghiên cứu cơ bản, phát triển lý luận (phát triển tri thức tâm lý và nâng
cao tác dụng phục vụ thực tiễn. Chủ trương cần thiết và đúng đắn trên đang
được triển khai, thể hiện qua một loạt các bài nghiên cứu về lý luận và thực
tiễn đăng trên tạp chí Tâm lý học và một số sách chuyên khảo gần đây. Ở
đây, chúng tôi xin đề cập một số vấn đề nghiên cứu lý luạn về ý luận và tự ý
thức một mảng quan trọng của tâm lý học, có vai trò quyết định trong phát
triển nhân cách nhưng còn ít được nghiên cứu ở Việt Nam.
I. KHÁT LƯỢC VỀ NHÂN CÁCH
1. Một số mô hình con người – nhân cách trong thời đại ngày nay
Nguồn lực con người ở mỗi thời đại có những yêu cầu khác nhau. Thời
đại kinh tế tri thức so với thời đại kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, tính chủ
thể của con người bước vào giai đoạn mới về chất. Đó là thời đại nhân cách
với tính cách là biểu hiện tập trung nhất của tính chủ thể ngày càng hoàn
thiện. Mô hình nhân cách lý tưởng của thời đại kinh tế tri thức được Zhang
Lyhai Hunkai xây dựng với những đặc trưng sau:
- Khám phá, coi trọng thực tế, phê phán, đổi mới, không ngừng tiến thủ
(tố chất nhân cách có tinh thần khoa học).
- Tôn trọng giới tự nhiên và quy luật sinh thái, yêu quý môi trường (giá
trị phát triển hài hòa giữa con người - tự nhiên).
- Đoàn kết, hợp tác, quan tâm, yêu mến người khác (thực hiện sự phát
triển hài hoà giữa con người và xã hội, thúc đẩy sự vận chuyển lành mạnh
của xã hội).
- Không ngừng vượt lên hoàn thiện mình.
Trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, có sự khác biệt về
trọng tâm và mức độ, nhưng các mặt cơ bản tạo nên mô hình nhân cách con
người phát triển toàn diện của các quốc gia hiện này là tương tự nhau, chủ
yếu tập trung vào: trí tuệ, tinh thần, cảm xúc; thể chất, hoặc là tổng hợp lực
của tâm lực, trí lực và thể lực.
2. Khái niệm nhân cách.
Các cơ sở lý luận về nhân cách, đặc biệt xung quanh vấn đề quan niệm
và các thuyết khác nhau về nhân cách trong khoa học tâm lý đã dược nghiên
cứu nhiều ở Việt Nam những năm gần đây trong các chương trình, đề tài
nghiên cứu hoặc trong các sách chuyên khảo theo các mảng vấn đề ("Tâm lý
học nhân cách" của Nguyễn Ngọc Bích - 1998; "Tuyển tập Tâm lý học" của
Phạm Minh Hạc - 2002...). Những luận điểm cơ bản của tâm lý học mác xít
Xô viết có ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của nền tâm lý học Việt
Nam:
Nhân cách là một đối tượng nghiên cứu văn phong phú, vừa phức tạp.
Đã hiểu nhân cách là gì cần phân biệt mấy khái niệm sau: con người, cá thể,
chủ thể, nhân cách.
Con người là tác phẩm kỳ diệu của thiên nhiên, luôn luôn là bộ phận
của vũ trụ, sống trong môi trường thiên nhiên. Con người là kẻ sáng tạo, đồng
thời là sản phẩm của lịch sử xã hội văn minh nhân loại. Khi đại diện cho loài,
con người được gọi là cá thể, khi là thành viên của xã hội được gọi là cá
nhân; khi là chủ thể của hoạt động được gọi là nhân cách.
Khi cá nhân thực hiện một hoạt động nhất định một cách có ý thức và
có mục đích, nhận thức và cải tạo thế giới xung quanh trong quá trình hoạt
động đó thì nó được gọi là chủ thể. Nói đến nhân cách của con người là “xem
xét con người với tư cách là một thành viên của xã hội nhất định, là chủ thể
của các mối quan hệ con người, của hoạt động có ý thức và giao lưu”.
Như vậy, cá nhân chỉ trở thành chủ thể của hoạt động nào đó trong
chừng mực mà nó ý thức được mục đích đích thực của hoạt động đó như là
những cái có ý nghĩa đối với cá nhân và khi đó nó trở thành nhân cách.
Có rất nhiều quan niện khác nhau về nhân cách nói lên tính phức tạp
của bạn thân hiện tượng nhân cách. X.L.Rubinstein cho rằng, con người là
nhân cách do nó xác định được quan hệ của mình với những người xung
quanh mọt cách có ý thức. A.N.Leonchiev coi nhân cách như một cấu tạo tâm
lý mới được hình thành trong cách quan hệ sống của cá nhân; nhấn mạnh
nhân cách là chủ thể của hoạt động và coi thứ bậc động cơ có ý nghĩa cơ bản
đối với nhân cách. K.K.Platonov nhấn mạnh mặt ý thức của nhân cách – là
con người với tư cách là chủ thể có ý thức; là người mang ý thức.
A.G.Kovaliov coi nhân cách là tổ hợp của những thuộc tính: xu hướng năng
trực, khí chất, tính cách, tạo nên một chính thể trong đời sống tâm lý của cá
nhân. A.Kossakowski nhấn mạnh mặt tự ý thức, tự điều chỉnh hành vi của
nhân cách. Phạm Minh Hạc coi nhân cách là chủ thể hoạt động mà hệ thống
thái độ là đặc trưng của nhân cách: “Nhân cách như là một hệ thống các quan
hệ của con người đối với thế giới xung quanh và đối với bản thân mình. Quan
hệ của con người đối với thế giới xung quanh được biểu hiện trong những
quan điểm, niềm tin của họ, trong thế giới quan, trong thái độ của họ đối với
những người khác, nhưng điều chủ yếu nhất là trong hoạt động và giao lưu
của họ. Quan hệ của con người đối với bản thân mình được biểu hiện trong
những biểu tượng của họ về bản thân mình trong sự tự đánh giá của họ,
trong những lý tưởng của họ, trong cái mà họ khiến nhìn nhận mình như vậy".
Như vậy, nhân cách luôn gắn liền với ý thức: nhân cách được hình
thành và phát triển cùng với sự phát triển của ý thức chịu sự điều phối của nó.
Cùng với sự đa dạng trong quan niệm về nhân cách, quan điểm và sự
hình thành và phát triển nhân cách cũng rất phong phú. Tâm lý học mác xít
khẳng định nhân cách không phải được sinh ra mà được hình thành và phát
triển trong hoạt động và giao tiếp, trong đó yếu tố giáo dục giữ vai trò chủ
đạo. Sự hình thành nhân cách con người diễn ra nhờ sự tham gia của họ vào
các dạng hoạt động và những mối quan hệ xã hội được thiết lập qua đó:
Trong quá trình phát triển cá thể, bằng hoạt động và giao tiếp, con người ý
thức được phẩm chất và giá trị của mình trong hệ thống mối quan hệ xã hội,
trở thành chủ thể của mối quan hệ, các đặc điểm cá thể của con người được
biến đổi và trở thành những đặc điểm mang tính người đích thực, tính xã hội -
đạo đức - nhân cách được hình thành.
3. Cấu trúc tâm lý của nhân cách
Về cấu trúc tâm lý của nhân cách có nhiều thuyết khác nhau, tuỳ theo
cách quan niệm bản chất của nhân cách như thế nào.
Theo Phạm Minh Hạc, đời sống tâm lý của mỗi người có cấu tạo khá
phức tạp, nhiều mặt và cơ động có liên hệ qua lại và chế ước lẫn nhau, và
một cấu trúc nhân cách bao quát hơn cả thể hiện ở bốn khối bộ phận sau:
- Xu hướng của nhân cách - hệ thống những động lực thúc đẩy quy
định tính lựa chọn của các thái độ vi tính tích cực của con người (hệ thống
các nhu cầu, hứng thú, niềm tin, lý tưởng...);
- Những khả năng của nhân cách - một hệ thống bao gồm các năng lực
là tiền đề tâm lý bảo đảm cho những xu hướng của nhân cánh trở thành hiện
thực bảo đảm cho sự thành công của hoạt động;
- Phong cách, hành vi của nhân cách - các đặc điểm tâm lý trong hành
vi của nhân cách do tính cách và khí chất của nhân cách quy định;
- Hệ thống điều khiển của nhân cách - "cái Tôi", "tự ý thức của nhân
cách, thực hiện sự tự điều chỉnh cũng như dự kiến và hoạch định cuộc sống
và hoạt động của cá nhân.
Có thể hiểu nhân cách là một hệ thông thống nhất các quan hệ của con
người đối với thế giới xung quanh và với bản thân, với nét đặc trưng là tính
tích cực được thể hiện trong các hoạt động khác nhau. Hạt nhân của nhân
cách là "cái Tôi" đạt đến trình độ phát triển về tự ý thức, tự đánh gía và làm
chủ hành vi của bản thân. Nhân cách mang bản chất xã hội - lịch sử. Khi trở
thành một nhân cách có nghĩa là ở người đó có ý thức, thái độ, động cơ,
năng lực trong việc tiếp nhận, đánh giá các tác dộng đến bản thân, đồng thời
biết lựa chọn các phương thức tác động đến các đối tượng khác nhau của
môi trường tự nhiên và xã hội. Nghĩa là, nói đến nhân cách là nói đến một chủ
thể sáng tạo, có ý thức trong hành vi, hoạt dộng, giao tiếp; chủ thể tự ý thức.
Tự ý thức để tự khẳng định mình thông qua hoạt động của chính mình -
tự giác ngộ - ý thức tự giác đang được các nhà tâm lý học Việt Nam xác định
là yếu tố quyết định quan trọng nhất, là phương diện của nhân cách cần được
tổ chức nghiên cứu với sự phát triển của xã hội và của con người.
II. Ý THỨC VÀ TỰ Ý THỨC
1. Ý Thức
1.1. Bản chất của ý thức
Tâm lý là thuộc tính đặc biệt của vật chất có tổ chức cao với khả năng
phản ánh thực tại khách quan. Ý thức là thuộc tính phân biệ người với động
vật, và con người phải sử dụng nó hầu hết trong tất cả các lĩnh vực, mọi khía
cạnh hoạt động của mình để cải tạo thế giới. Tính chất ý thức trong các hiện
tượng tâm lý của con người là biểu hiện chất lượng mơi, đặc thù của tâm lý
con người.
Ý thức vốn là một “đề tài kinh điển”. Những vấn đề liên quan tới ý thức
hầu như chỉ được nghiên cứu nhiều trong triết học và tâm lý học. Một trong
những luận điểm của triết học duy vật lịch sử và duy vật biện chứng giữ vai
trò công cụ tạo ra cuộc cách mạng tâm lý học là lý luận mác xít về ý thức, có ý
nghĩa trực tiếp đối với việc giải quyết vấn đề nguồn gốc nảy sinh của tâm lý,
hình thành tâm lý: ý thức là hình thức phản ánh cao cấp nhất đặc trưng của
con người: ý thức luôn là ý thức của chủ thể thực tại, ý thức được sản xuất ra
bởi các mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh; ở con người ý
thức đã thay thế cho bản năng, hoặc có thể nói bản năng của con người đã
được nhận thức.
Đối với tâm lý học, ý thức là vấn đề cơ bản, quyết định của khoa học
tâm lý. Tuy nhiên, cho đến nay, đó vẫn là một lĩnh vực vô cùng phức tạp, còn
nhiều vấn đề chưa được giải quyết. A.N.Leonchiev.. nhà tâm lý học người
Nga nổi tiếng khi bàn và ý thức hình thức tâm lý cơ bản đặc trưng của con
người đã khẳng định tâm lý học con người nhất thiết phải là khoa học cụ thể
về ý thức vấn đề ý thức của con người phải là một bộ phận của đại lượng của
tâm lý học. Ông tuyên bố. "Tâm lý học mà không có lý luận về thực nghiệm
còn tệ hơn cả chính trị kinh tế học không có học thuyết về giá trị thặng dư".
Trong lịch sử tư tưởng tâm lý học, thái độ đối với vấn đề ý thức luôn
biến đổi, gắn liền với các quan niệm về bản chất của tâm lý, ý thức của các
trường phái tâm lý học. Các đại diện của tâm lý học duy tâm, nội quan, phân
tâm, hành vi, hiện sinh (V.Wund, W.James, S. Freud, Tolman, Rogers...) cho
rằng ý thức là cái gì đó ở bên ngoài, không có phẩm chất (vì bản thân nó đã
là phẩm chất của những biện tượng và quá trình tâm lý) và cấu trúc riêng
hoặc là một cái gì đó trừu tượng - trải nghiệm, thể nghiệm, máy móc và thụ
động; tách rời khỏi thế giới đối tượng xung quanh, các quan hệ xã hội và các
hoạt động của con người cùng với xã hội tạo ra thế giới và các quan hệ ấy.
Trái ngược với các quan điểm duy tâm và duy vật siêu hình, tâm lý học
mácxít mà đại diện là trường phái tâm lý học Xôviết đã vận dụng sáng tạo các
nguyên lý của triết học mácxít xây dựng nên một phương pháp luận riêng cho
tâm lý học với các nguyên tắc cơ bản coi tâm lý là hoạt động là có tính lịch sử
- xã hội và có sự phát triển trên cơ sở đó thay đổi tận gốc bản thân cách tiếp
cận vấn đề và giải thích thực sự về tâm lý, ý thức. Phương pháp tiếp cận chủ
yếu để nghiên cứu các quy luật triển ý thức nhân cách con người.
Ý thức là một chất lượng mới của toàn bộ tâm lý người, có vai trò rất
lớn đối với hoạt động phản ánh, hoạt động định hướng và hoạt động thực tiễn
của con người.
V.N.Miaxisev khi nghiên cứu về thái độ, coi ý là sự thống nhất của phản
ánh thực tại và thái độ tích cực, có mục đích của con người đối với hiện thực
xung quanh.
Theo E.V.Sorokhova, ý thức được đặc trưng bởi thái độ tích cực của
con người đối với thực tại, với bản thân, với cử chị và hành vi, hoạt động của
mình – hướng vào việc đạt được mục đích đặt ra. Ý thức là năng lực (khả
năng của con người) hiểu thế giới xung quanh, các quá trình diễn ra trong đó,
các tư tưởng và hành động và thái độ của mình đối với thế giới cũng như với
chính bản thân mình.
K.K.Platonov cho rẳng, ý thức là sự thống nhất của mọi hình thức nhận
thức, trải nghiệm của con người và thái độ của nó đối với cái mà nó phản ánh
– là sự thống nhất của tất cả các quá trình, trạng thái, thuộc tính tâm lý của
con người như là một nhân cách.
Theo X. L.Rubinstein, ý thức đó không chỉ là sự phản ánh, mà còn là
thái độ của con người đối với xung quanh. Ý thức là sự thống nhất giữa tri
thức và trải nghiệm.
Theo Phạm Minh Hạc thì ở con người, ý thức là năng lực hiểu biết
được các tri thức về thực tại khách quan mà người đó tiếp thu được và năng
lực hiểu được thế giới chủ quan trong chính bản thân người đó.
Các đặc trung tâm lý thể hiện cấu trúc và chức năng của ý thức được
V.A.Petrovxki đưa ra như sau:
- Ý thức của con người bao gồm tập hợp các tri thức về thế giới xung
quanh chúng ta, thể hiện năng lực nhận thức cao nhất của con người về thế
giới – năng lực nhận thức cái bản chất, khái quát; sự chiếm lĩnh tri thức có
tính tích cực, có tính chủ định ở mỗi cá nhân. Ý thức và tư duy (giai đoạn phát
triển cao của quá trình nhận thức) có quan hệ mật thiết với nhau. Muốn ý thức
đầy đủ, sâu sắc cần phải có tư duy khái quát về bản chất của thế giới và
ngược lại, ý thức càng cao càng làm cho tư duy có chiều sâu, rộng.
- Ý thức thể hiện ở xác định thái độ đối với hiện thực khách quan. Ở
đây có sự tham gia của xúc cảm – phản ánh các quan hệ khách quan phức
tạp, mà trước hết là các quan hệ xã hội. Như Mác và Ăngghen đã viết, ý thức
tồn tại đối với tôi là tồn tại ở một thái độ nào đó đối với sự vật này hay sự vật
khác.
- Ý thức bảo đảm hoạt động có mục đích, thể hiện ở năng lực điều
khiển, điều chỉnh hành vi của con người nhằm đạt mục đích đề ra, nghĩa là ý
thức có khả năng sáng tạo, thể hiện tính ý chí của con người. Con người luôn
cải tạo hoàn cảnh một cách có ý thức. Ý chí là mặt năng động của ý thức, mặt
thể hiện cụ thể của ý thức trong thực tiễn, được biểu hiện qua các phẩm chất
tính mục đích, tính độc lập, tính quyết đoán, kiên cường, kiềm chế, tự chủ.
- Ý thức thể hiện ở sự tách bạch rõ ràng và củng cố về cái chủ thể và
khác thể - cái khách thể - cái thuộc về “cái Tôi” với cái “không phải cái Tôi” –
khả năng nhận thức về mình, xác định thái độ đối với bản thân mình – tự ý
thức –mức độ ý thức cao hơn. Khác biệt cơ bản của con người với động vật
là khả năng tự nhận thức về mình, xác định thái độ đối với bản thân, khả năng
tự điều chỉnh và tự hoàn thiện.
Các thuộc tính cơ bản trên của ý thức được B.Ph. Lomov khái quát lại
trong ba chức năng cơ bản như sau:
- Chức năng nhận thức – sự chiếm lĩnh tri thức có tính tích cực và có
tính chủ định, được hiện thực hóa trong các quá trình hoạt động nhận thức.
- Chức năng điều chỉnh trên cơ sở cá nhân gia nhập vào các quan hệ
xã hội.
- Chức năng thông tin - được hiện thực hóa trong quá trình giao tiếp,
trao đổi tri thức và điều hòa lẫn nhau bởi hành vi con người.
Tóm lại, có thể hiểu ý thức là:
- Năng lực hiểu được các tri thức và thế giới khách quan và năng lực
hiểu được thế giới chủ quan trong chính bản thân mình.
- Là sự thống nhất của tất cả các quá trình, trạng thái và thuộc tính tâm
lý của con người như một nhân cách.
- Là sự thống nhất của tất cả các hình thức nhận thức và trải nghiệm
của con người cùng thái độ của nó đối với cái mà nó phản ánh.
- Là sự tích lũy và sử dụng thông tin về xung quanh và về chính bản
thân mình để giải quyết các vấn đề của cuộc sống.
1.2. Cấu trúc của ý thức
Vấn đề cấu trúc của ý thức có một lịch sử khá phong phú, được các
nhà tâm lý học Xô viết nghiên cứu nhiều. Ý thức được cấu tạo nên theo thứ
bậc và có cấu trúc nhiều lớp, các thành tố của nó thể hiện các mức độ phát
triển khác nhau.
Có quan điểm đồng nhất cấu trúc của ý thức với các thuộc tính cơ bản
của nó (V.A.Petrovxki). Quan điểm khác coi cấu trúc ý thức là sự thống nhất
các quá trình, trạng thái, thuộc tính của con người như một nhân cách.
(A.G.Kovaliov). B.Pa.Lomov quy cấu trúc của ý thức theo hệ thống các chức
năng của nó (nhận thức, điều chỉnh, thông tin).
Theo A.N.Leonchiev, cấu trúc của ý thức gồm ba thành tố, đó là: “chất
liệu” (tế bào) cảm tính của tri giác (hay là hình ảnh), nghĩa và ý. “Chất liệu”
cảm tính là thành phần cảm tính gồm những hình ảnh về thực tế đang được
tri giác khác nhau về dạng thức, sắc diện cảm tính, mức độ rõ rệt, ổn định...,
đem lại tính thực tại cho bức tranh được ý thức về thế giới bên ngoài, nhờ đó
thế giới mới xuất hiện trước chủ thể như là một cái gì đó tồn tại không phải
trong ý thức tìm ở bên ngoài hoạt động.
Ý thức không phải là cái gì đó bất biến mà là “một hình thái lịch sử - cụ
thể của tâm lý": trong quá trình lịch sử phát triển của loài người, cấu trúc toàn
bộ hoạt động của con người, và tương ứng với chúng là kiểu phản ánh tâm lý
thực tại khách quan cũng thay đổi theo. Sự biến đổi chủ yếu của ý thức trong
lịch sử xã hội loài người được Leonchiev mô tả như sự biến đổi chuyển hoá
của hai bộ phận "tạo thành chủ yếu của ý thức: “nghĩa" và "ý" cá nhận (ý riêng
của nhân cách).
Nghĩa - đó là “cái ẩn trong đối tượng và hiện tượng khách quan và
được phản ánh, ấn định trong ngôn ngữ". Đó là sự khái quát thực tại, sự phản
ánh thực tại không phụ thuộc vào thái độ cá nhân, nhân cách của con người
đối với nó; đó là chỉ có nghĩa khách quan do xã hội quy định. Các nghĩa trong
hệ thống ý thức cá nhân có lúc thù - tính chủ quan, biểu hiện trong tính thiên
vị. Ý – “trước hết như là thái độ được hình thành trong cuộc sống, trong hoạt
động của chủ thể", như là ý cá nhân (ý riêng của cá nhân) - "sự đánh giá ý
nghĩa cuộc sống của các hoàn cảnh khách quan và hành động trong những
hoàn cảnh đó đối với chủ thể”. Ý là cự trải nghiệm và sự trải nghiệm này là sự
thống nhất của quả trình nhận biết ra nghĩa của sự kiện và thái độ xúc cảm
đối với sự kiện đó. Tính thiên vị của ý thức con người tạo nên bởi ý cá nhân,
nối liền các nghĩa với thực tại bản thân cuộc sống của chủ thể, với những
động cơ của cuộc sông ấy.
1.3. Sự hình thành ý thức
Con người sinh ra chưa có ý thức. Ý thức được hình thành, phát triển,
thay đổi trong các hoạt động cụ thể của từng người thông qua sản phẩm của
hoạt động và trong quá trình giao tiếp với những người khác. Nảy sinh và
phát triển trong hoạt động với những quan hệ xã hội nhất định, ý thức đồng
thời định hướng, điều khiển, điều chỉnh hoạt động. Ý thức vừa là tiền đề của
hoạt động, vừa là kết quả của hoạt động.
Nhờ có ý thức mà toàn bộ hoạt động tâm lý người có chất lượng hoàn
toàn mới. Hành động có ý thức: định hướng điều chỉnh, điều chỉnh là biểu
hiện tập trung nhất tâm lý con người. Nhờ đó, hoạt động được định hướng
cao hơn, tinh vi hơn và có mục đích rõ ràng hơn. Chỉ có hành động có ý thức
đầy đủ mới mang lại cho con người kết quả cao, mới thực sự cải tạo thế giới
quan và cải tạo chính bảo thân mình. Có thể nói không có ý thức thì không
thể có nhân cách và hoạt động của con người. Chính sự phát triển ý thức nói
lên rằng con người đã trở thành nhân cách.
Là một sản phẩm cấp cao của nhân cách, ý thức không phải được sinh
ra và bất biến. Nó được hình thành trong quá trình phát triển nhân cách thông
qua hoạt động của con người trong xã hội, do đó chịu ảnh hưởng của các
điều kiện xã hội, do đó chịu ảnh hưởng của các điều kiện xã hội, đặc biệt là
giáo dục. Cũng vì vậy mà tồn tại các mức độ tham gia khác nhau của ý thức.
Ý thức cá nhân không chỉ bao gồm các kiến thức tích lũy, thu nhận được, hệ
thống ý nghĩa, mà con là sự vận động bên trong, phân biệt sự hiểu biết về
bản thân và tự ý thức về chính mình.
2. Tự ý thứ
1.2. Khái niệm
Trong quá trình phát triển ý thức cá nhân và hình thành nhân cách, có
một thời điểm nhận thức ra “cái Tôi” – nảy sinh tự ý thức của cá nhau. Tự ý
thức, trước hết đó là sự ý thức của con người về bản thân như chủ thể của
lao động, giao tiếp, chủ thể của hoạt động xã hội. Đó là quá trình phát triển ý
thức bản ngã.
Các cấu tạo tâm lý của nhân cách (nhu cầu, hứng thú, lý tưởng…) – là
nguồn gốc của tính tích cực tạo nên xu hướng hoạt động và hành vi của nhân
cách, là cái tạo nên thế giới nội tâm, tạo ra sẽ khác biệt giữa các cá nhân. Tuy
nhiên, tự chúng, các bộ phận cấu thành quan trọng nhất này của nhân cách
cũng không xác định được mức độ và xu hướng tự tích cực. Điều này lại phụ
thuộc vào việc con người ý thức về bản thân và có thái độ đối với bản thân ra
sao, có nghĩa là con người tự ý thức như thế nào, các đánh giá mong đợi ý
kiến đánh giá của người xung quanh về bản thân ra sao (về điều này; có
nhiều nghiên cứu của các nhà tâm lý học Liên Xô cho thấy, đặc điểm tính tích
cực của nhân cách phụ thuộc không chỉ vào việc người đó nghĩ về bản thân,
tự đánh giá về mình ra sao, mà quan trọng hơn nữa là mong muốn tiếp nhận
đánh giá của người khác về mình như thế nào).
Trong tâm lý học, xuất phát từ các quan điểm khác nhau về phương
pháp luận, tự ý thức được hiểu rất khác nhau. Đối với một số trường phái tâm
lý học phương Tây, cũng vì lý do này mà bản chất của một sế hiện tượng
được nghiên cứu có phát hiện khá lý thú về đặc điểm còn tự ý thức lại không
thể lý giải một cách đúng đắn. Dẫn đến bế tắc trong việc nghiên cứu thế giới
tâm lý trong cuộc sồng thực của con người.
G.Allport, D.McClelland, W.James thừa nhận tự ý thức có vị trí quan
trọng trong cấu trúc nhân cách, phát hiện sự phụ thuộc tự ý thức của con
người vào đặc điểm các mối quan hệ lẫn nhau của nó với những người xung
quanh. Tuy nhiên, tự ý thức được xem xét bên ngoài của hoạt động thực tiễn,
hoạt động đối tượng của chủ thể.
K.Lewin, F.Hoppe đã xây dựng phương pháp thực nghiệm nghiên cứu
về mức độ kỳ vọng của trẻ em và sinh viên, xác định sự phụ thuộc của sự kỳ
vọng vào các cảm xúc thành công hay thất bại - được quy định bởi xã hội
(các định giá từ phía bè bạn hoặc người lớn) và yếu tố mang tính xã hội này
có ngay từ buổi đầu của sự phát triển của trẻ. (Chủ thể và khách thể không
được phân tách – đặt ngang hàng).
S.Freud, A.Adler cho rằng tự ý thức như một cơ chế được hình thành ở
cá nhân dưới tác động của sự sợ hãi, không được bảo vệ trước những thù
địch ở môi trường xã hội. Bản chất của “cái tôi” là thực hiện chức năng bảo vệ
cá nhân khỏi sự đe dọa của môi trường xã hội (sự đối kháng giữa cá nhân và
xã hội).
C.Rogers coi nhân cách là chủ thể tự nhận thức. Các hiện tượng tâm lý
được nhận thức thông quan “cái tôi” của nhân cách. Đó là sự tri giác về các
năng lực của bản thân, về các mối quan hệ của mình đối với mọi người, về
mục đích và lý tưởng. Tuy nhiên, tính tích cực của nhân cách – chủ thể tự
nhân thức này lại được lý giải là nhờ cái gì đó vớn có từ bên trong con người,
hướng tới sự tự tích cực, tự thực hiện.
Vấn đề tự ý thức được nghiên cứu khá mạnhh trong tâm lý học Liên
Xô. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về lý luận và thực nghiệm, nhiều vấn đề
về tự ý thức vẫn đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, làm chính
xác.
Tự ý thức được định nghĩa rất khác nhau. Các định nghĩa có thể được
phân theo:
a) sự nhấn mạng tự ý thức là một thuộc tính của nhân cách như một
tồn tại xã hội;
b) đối tượng của tự ý thức chính là chủ thể nhận thức – con người
nhận thức các mặt khác nhau của hoạt động tâm lý bản thân cùng các biểu
hiện tính tích cực của mình.
Dưới đây là một số định nghĩa về tự ý thức:
- Sự nhận thức về bản thân như một thành viên của các luật quan hệ
với thế giới xung quanh với những người khác, về các hành vi, hành động,
suy nghĩ, cảm giác, toàn bộ các phẩm chất đa dạng của nhân cách.. (V
A.Kruchetxki).
- Sự phản ánh của mỗi người về vai trò của mình trong tập thể và xã
hội. Sự nhận thức của con người về "cái Tôi", các hành vi của mình và sự
điều chỉnh tích cực chúng trong xã hội (K.K.Platonov).
- Sự nhận thức của con người về bản thân trong những quan hệ của
mình với thế giới bên ngoài và với những người khác (P.R.Chamata).
- Sự tự ý thức như là một quá trình phức tạp; nhiều bậc trên cơ sở các
quá trinh tân lý: quà trình nhận thức, xúc cảm và ý chí (I.I.Trexnocova).
Nghiên cứu về tự ý thức của nhân cách V.V.Stolin cho thấy, thực hiện
chức năng quan trọng trong tổ chức hoạt động của bản thân, trong quan hệ
tác động và giao tiếp với mọi người xung quanh, tự ý thức với tư cách là cơ
chế của mối liên hệ ngược có các hướng ảnh hưởng chủ yếu sau:
- Cấu trúc của tự ý thức có thể động cơ hoá thúc đẩy, kích thích tới
hoạt động nhất định (chức năng động cơ hóa này có thể có các nguồn gốc
khác nhau, có thể xuất phát từ các biểu tượng về “cái Tôi - lý tưởng", gắn với
phạm trù đạo đức như lương tâm, nghĩa vụ, trách nhiệm; chúng cũng có thể
là sự phản ánh cái không tương đồng giữa "cái Tôi - hiện tại" và "cái Tôi -
tương lai"; là lòng kiêu hãnh, tự trọng…).
- Cấu trúc của tự ý thức và các quá trình tương ứng có thể tham gia
vào sự hình thành mục đích, lựa chọn những mục tiêu phục vụ đáp ứng động
cơ tương ứng với “hình ảnh – cái Tôi” nói chung, cũng như với biểu tượng về
khả năng, quyền, nghĩa vụ của bản thân.
- Cấu trúc của tự ý thức có thể cấm đoán, ngăn cản hành vi, hành
động.
Dưới dạng nhân thức và xúc cảm tự ý thức có thể quy định thái độ đối
với mọi người, cũng như phong cách giao tiếp với họ.
Dưới đạng tự nhận thức, tự tỏ thái độ, tự ý thức có thể ảnh hưởng tới
sự phát triển tính cách và từ đó tới phát triển nhân cách nói chung.
Tự ý thức có thể là một hình thức tự kiểm tra dưới các dạng hoạt động
biểu hiện khác nhau của con người. Các nghiên cứu cũng cho thấy các ảnh
hưởng nói trên của tự ý thức có ý nghĩa giải quyết một hoạt các vấn đề liên
quan tới nảy sinh và phát triển tập thể, hình thành một loạt các phẩm chất đạo
đức của nhân cách.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực nghiệm, các nhà tâm lý học đưa
ra phân loại các hình thúc biểu hiện của tự ý thức. Có ba hình thức biểu hiện
chính, với các sắc thái khác nhau:
- Nhận thức - tự nhận thức, phân tích, đánh giá, biểu tượng về bản
thân.
- Cảm xúc - thái độ cảm xúc của con người đối với bản thân: khiêm tốn,
tự hào, kiêu hãnh...
- Ý chí những biểu hiện tâm lý tích cực, gồm cả điều chỉnh có ý thức
các hành vi, hành động của bản thân, thái độ đối với xung quanh: kiểm chế,
tự chủ, kỷ luật tự kiểm soát.
Trong họat động tâm lý của con người, tự ý thức là một cấu trúc chỉnh
thể, thống nhất ý thức tương quan nhất định cả ba hình thức trên.
2.2. Tự ý thức và ý thức
Ý thức và tự ý thức là những hiện tượng tồn tại và thực hiện chức năng
trong tâm lý như một đơn vị chỉnh thể dù chúng có dặc trưng riêng được quy
định bởi đối tượng nhận thức. Tự ý thức có đối tượng nhận thức chính là
nhân cách như chủ thể ý thức, nhận thức. ý thức và tự ý thức thống nhất chặt
chẽ với nhau; ý thức là kết quả của hoạt động xã hội của nhân cách, là kết
quả của sự nhận thức hiện thực khách quan. Sự ý thức của con người về bản
thân như một cá thể của xã hội, như một thành viên của tập thể loài người là
thời điểm quan trọng của "tự ý thức".
Tự ý thức cũng là sản phẩm của hoạt động sống của chủ thể nhận thức
thực tại và tự nhận thức. Tự ý thức là một dạng đặc thù của ý thức, nhận thức
chính bản thân mình. Tự ý thức cũng như ý thức của con người nói chung,
đều có bản chất xã hội.
Tự ý thức là biểu hiện đỉnh cao của ý thức cá nhân. Theo quan điểm
của A.N.Leonchiev, ý thức cá nhân cùng lúc tham gia vào hai sự vận hành –
hai hệ thống liên hệ. Về xuất xứ, ý riêng của cá nhân gắn với những quá trình
diễn ra ngoài ý thức của chủ thể. Nó nảy sinh trong hoạt động sống thực của
chủ thể, phản ánh quan hệ của các mục tiêu và điều kiện thực hiện hành
động đối với các động cơ hoạt động. Tuy nhiên, trong cấu trúc của ý thức, ý
cá nhân (ý riêng của cá nhân) có những mối quan hệ mới – với các cấu thành
khác của ý thức, thể hiện trong các nghĩa và các trải nghiệm xúc cảm – cảm
tính. “Cái Tôi”, được xem như là chủ thể hành động, như là một điều kiện tự
vận hành, cũng tiếp thu ý riêng của cá nhân – ý riêng của “Cái Tôi”. Theo
V.V.Stolin, ý riêng của “cái Tôi” được nảy sinh như là mối quan hệ của các
phẩm chất của chủ thể liên quan tới việc đạt được động cơ, mục đích; nó
được hình thành trong tự ý thức về cái có nghĩa (khía cạnh tình cảm). Như
vậy ý riêng của “cái Tôi” là đơn vị của tự ý thức, chứa đựng các yếu tố nhân
thức, tình cảm và thái độ, có liên quan tới tính tích cực - hoạt động xã hội của
chủ thể.
Có thể biểu diễn cấu trúc của ý riêng của "cái Tôi” bằng sơ đồ, trong đó
ý riêng của cá nhân là đỉnh chung của hai tam giác. Tam giác dưới phản ánh
tình huống mà chủ thể hành động tự cho là điều kiện đạt được chính các mục
đích và động có của mình. Trong trường hợp này, ý riêng sẽ vận hành hoạt
đang thực của chủ thể. Tam giác phía trên chỉ mốt quan hệ của ý riêng của
“cái Tôi" với những cấu thành khác của ý thức.
Sơ đồ cấu trúc ý rằng của "cái Tôi”:
2.3. Sự nảy sinh tự ý thức và hình thành thân cách
Quá trình phát triển tự ý thức gắn bó chặt chẽ với quá trình hình thành
nhân cách. Trong quá trình phát triển cá thể, thời điểm xuất hiện nhân cách
thường gắn với những biểu hiện đầu tiên của tự ý thức. “Cái Tôi" của đứa trẻ
dược nảy sinh và hình thành theo mức độ lĩnh hội các kiến thức về thế giới
bên ngoài, về những người khác và vê bản thân mình trong quá trình hoạt
động có đối tượng, trò chơi của đứa trẻ tạo tách biệt bản thân với những
người khác xung quanh nó, nghĩa là ở đây diễn ra quá trình phân tách “cái
Tôi” và –“cái không phải Tôi” rồi đế "cái Tôi tự”. Tiếp theo, trong qúa trình phát
triển, trong hoạt động, trong các quan hệ tác động liên nhân cách, mặt nội
dung của tự ý thức - sự nhận thức "cái Tôi" được bổ sung, làm phong phú và
từ chối "cái Tội muốn" chuyển sang "cái Tôi có thể" quy định mức độ tự đánh
giá củả nhân cách. Sự tự nhận thức của cá nhân được thực hiện trên cơ sở
có nhận thức về người khác và về môi trường xung quanh, có ý nghĩa là tự ý
thức nảy sinh trên cơ sở ý thức đạt được trình độ phát triển nhất định. Ý thức
đặt tiền đề nảy sinh ra tự ý thức.
Theo các nhà tâm lý học mácxít, ý thức về “cái Tôi” là kết quả, là sản
phẩm sinh thành của một con người với tư cách là một nhân cách, tự ý thức
đồng thời là thành tố cấu trúc quan trọng của nhân cách, là cơ chế nội tại mà
nhờ nó con người có khả năng không chỉ lĩnh hội (tiếp nhân) có ý thức tác
động của môi trường xing quanh, mà còn tự nhận thức về khả năng, xác định
biện pháp và đặc điểm tính tích cực của bản thân, hướng vào lĩnh hội kinh
nghiệm hoạt động xã hội. Chính tự ý thức, một mặt, dường như ấn định kết
quả của phát triển tâm lý ở những giai đoạn tồn tại nhất đinh, mặt khác, với tư
cách là cái điều chỉnh có ý thức nội tại hành vi, nó có ảnh hưởng tới sự phát
triển nhân cách tiếp sau này (tiếp tục phát triển nhân cách). Nó chính là một
trong những điều kiện nội tại quan trọng để nhân cách phát triển không
ngừng, hình thành sự cân bằng giũa các ảnh hưởng bên ngoài, trạng thái nội
tại (bên trong) của nhân cách và các hình thức hành động. Tự ý thức trước
khi trở thành yếu tế quyết điijnh bên trong - cơ chế mà các ảnh hưởng môi
trương bên ngoài phải thông qua - lại tự nảy sinh dưới tác động của chính
những ảnh hưởng trên.
Về sự phát triển của tự ý thức cũng có nhiều quan điểm khác nhau:
V.C.Merlin cho rằng có bốn giai đoạn, tương ứng với các giai đoạn
cuộc đời:
- "Ý thức và sự đồng nhất” - năm đầu đời - tự phân tách và cho mình
nhập cuộc;
- "Ý thức cái Tôi” - năm thứ hai - thứ ba - ý thức bản thân như chủ thể
hoạt động;
- Ý thức các thuộc tính tâm lý của mình nhờ khái quát những gì tự quan
sát được;
- Tự đánh giá đạo đức - xã hội (tuổi thanh niên).
V.V.Stolin cho rằng có ba mức độ phát triển tự ý thức; mà mức tự ý
thức thể hiện như cơ chế liên hệ ngược với nội dung và chức năng khác
nhau:
- Mức "cơ thể" - sự phản ánh của chủ thể trong hệ thống tính tích cực
của cơ thể và tương ứng với mức này đơn vị của tự ý thức có bạn chất nhận
thức - cảm giác.
- Mức "cá thể" - sự phản ánh trong hệ thống hoạt động đối tượng tập
thể của nó và trong các quan hệ do hoạt động này quy định. Đơn vị của tự ý
thức ở dây là sự tiếp nhận danh giá của người khác về mình và sự tự đánh
gía tương ứng; sự nhận diện về lứa tuổi, giới tính và xã hội của bản thân.
- Mức "nhân cách" - sự phản ánh trong hệ thống phát triển nhân cách
gắn với nhiều loại hoạt động. Đơn vị của tự ý thức ở đây là ý riêng bị mâu
thuẫn được báo hiệu dưới hình thức thái độ tình cảm – giá trị đối với bản
thân.
I. I.Trexnocovn cho rằng chỉ có hai mức độ:
So sánh "cái Tôi" và "cái người khác" (tự tri giác, tự quan sát);
- “Cái Tôi và cái bản ngã” (tự nhận thức trên cơ sở tự phân tích, tự suy
luận; con người hành động tương ứng với động cơ; các động cơ được đánh
giá theo nhu cầu của xã hội và bản thân…)
Một số tác giả phương Tây cho rằng quá trình nảy sinh tự ý thức là quá
trình phân biệt chủ thể với người mẹ, bắt đầu từ sự phân biệt người mẹ với
mọi thứ xung quanh rồi với bản thân (E.Jacobson). Kết quả nghiên cứu cho
thấy, nếu người mẹ chăm con tốt hơn thì sự nhận thức về tách biệt của trẻ
với mẹ được nảy sinh vào cuối năm đầu đời. Một số khác (C.Culi, G.Mead)
cho rằng sự xuất hiện tự ý thức của trẻ gắn với sự xuất hiện năng lực trẻ “ở”
vào vị trí của người khác. E, Erikson chia toàn thể cuộc sống thành “Tám lứa
tuổi của con người”, liên quan đến tám thời kỳ quyết định, trong đó năm thời
kỳ đầu gắn liền với sự nảy sinh và phát triển tự ý thức của trẻ:
- Giai đoạn 1 - "sự tin cậy cơ bản" (khoảng từ 0 dến 1 tuổi): ý thức cơ
bản về sự đáng tin cậy của chính bản thân trẻ từ cảm giác là những người
khác chấp nhận nó, trong sự tương tác tin cậy của người mẹ;
- Giai đoạn 2 - (khoảng từ 2 đến 3 tuổi): ý thức tự kiểm soát cùng sự lo
sợ phải tách khỏi bế mẹ;
- Giai đoạn 3 – “sáng kiến và tội lỗi" (khoảng từ 4 dấn 5 tuổi): "tin chắc
là mình", tìm ra mình là "người loại gì";
- Giai đoạn 4 - công nghệ và thấp kém (khoảng từ 6 tuổi đến tuổi dậy
thì): ý thức công nghiệp, cảm giác về sở trường và làm chủ;
- Giai đoạn 5 – “bản sắc và khước từ" (tuổi vị thành niên): lòng tin, tự
chủ, chủ động sáng kiến và công nghệ hợp thành một bản sắc đầy đủ hơn;
độc thoại "là mình hoặc không phải là mình”.
Sự không đồng nhất trong quan điểm về sự nảy sinh và phát triển tự ý
thức đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu thêm về lý luận và đặc biệt là nghiên cứu
thực nghiệm.
2.4. Cấu trúc của tự ý thức
Để nghiên cứu tự ý thức cần phải hiểu cấu trúc – loạt các thành tố có
quan hệ gắn kết với nhau của nó. Về cấu trúc tự ý thức còn nhiều điều chưa
rõ ràng. Trong tâm lý học người ta thường sử dụng một số khái niệm sau: tự
ý thức - tự đánh giá, tự đánh giá - mức độ kỳ vọng, tự điều khiển. Bộ phận
cấu thành trung tâm của tự ý thức là tự đánh giá của nhân cách - sự suy xét
của con người về mức độ có những phẩm chất, thuộc tính của bản thân so
với khuôn mẫu chuẩn – biểu hiện thái độ con người đánh giá bản thân mình
(ở cấp độ có thể nó phần nào được đồng nhất với ý kiến riêng của “cái Tôi”).
Tự đánh giá là khâu quan trọng nhất của tự ý thức với tư cách làm cơ sở chủ
quan của quá trình tự xác định năng lực thực hiện các nhiện vụ của con
người, có vai trò đáng kể trong điều chỉnh hoạt động của con người. Trong tự
đánh giá có đúc kết kinh nghiệm cuộc sống của cá nhân và vì vậy nó gắn chặt
với tự phân tích, kiểm tra và thái độ phê phán đối với bản thân. Tự đánh giá
tạo nên lòng tự trọng, sự tự tin – sự phản ánh trạng thái tâm lý – đạo đức
chung của con người, bảo đảm cho toàn bộ cấu trúc các quan hệ nhân cách
diễn ra tích cực trong cuộc sống. Sự tự đánh giá chung của nhân cách có thể
dựa trên cấu trúc các đánh giá bộ phận: đánh giá về trí tuệ, khả năng tiếp xúc
và ảnh hưởng đến những người khác trong giao tiếp, về ổn định cảm xúc và
tốc độ phản ứng, sự tự tin, tự nhận thức. Đồng thời với sự hình thành biểu
tưởng thực về bản thân, các phương thúc tự điều chỉnh, tự tác động và tự
điều khiển cũng được hình thành, tạo thành cấu trúc của tự điều chỉnh của
nhân cách. Biểu hiện hành vi tự điều chỉnh của nhân cách là phong cách hoạt
động và giao tiếp của nó.
Con người nếu chỉ đơn giản nhìn thấy hoặc nghe thấy thì đó là biểu
hiện một chủ thể có ý thức, nhưng khi người đó có thể hình dung cái Tôi của
mình nhìn thấy và nghe thấy như thế nòa thì có nghĩa là họ đã nhận biết được
khả năng của mình và ở họ sẽ nảy sinh một phương thức lĩnh hội thế giới
hoàn toàn khác, đồng thời có những quyết định đúng đắn hơn. Tự ý thức
càng sâu rộng, con người hành động càng có hiệu quả hơn. Và đó cũng là
điều kiện đã thành công trong học tập và lao động là phương tiện để củng cố
các mối quan hệ với bè bạn: gia đình và xã hội.
III. ĐÁNH GIÁ NHÂN CÁCH Ở TRÌNH ĐỘ Ý THỨC, TỰ Ý THỨC
Ý thức, tự ý thức là lĩnh vực còn ít được nghiên cứu ở nước ta cả về lý
luận lẫn nghiên cứu thực nghiệm - ứng dụng (trong hình thành và phát triển),
có chăng chỉ ở tầng dưới ý thức vô thức phục vụ cho chẩn trị, lâm sàng trong
y học.
Các nhà tâm lý học Xô viết xuất phát từ nguyên tắc thống nhất ý thức
và hoạt động của nhân cách cho rằng mọi hiện tượng tâm lý, trong đó ý thức
và tự ý thức, có thể nhận thức được chỉ bằng con đường gián tiếp, chính là
thông qua hoạt động cá thể và hành vi của con người, nghĩa là thông qua các
biểu hiện khách quan bên ngoài của tính tích cực, được điều chỉnh bằng các
quá trình tâm lý bên trong. Tâm lý học mác xít coi ý thức tâm lý là phương
thức đặc biệt của sự tồn tại, là những thành tố cần thiết phải có của hoạt
động, của hành vi con người. Do đó có thể tìm thấy diện mạo tâm lý, đặc
điểm ý thức thông qua nghiên cứu sản phẩm hoạt động; thông qua nghiên
cứu các biểu hiện chức năng của ý thức (trong đó động cơ là đặc điểm cơ
bản nhất), của hành vi, và từ đó nghiên cứu ý thức, trải nghiệm như là những
cái có thể nhìn thấy, ghi lại và đo đạc dược.
Dấu hiệu đặc trưng của chủ thể tự ý thức thể hiện ở tự nhận thức, tự
đánh giá, tự lựa chọn, tự quyết định, tự biểu hiện; tự khẳng định mình ở trình
độ cao nhất, trong đó tự đánh giá được coi là khâu quan trọng nhất thể hiện
thái độ đối với bản thân và sự biểu hiện có hiệu quả các thuộc tính của nhân
cách, các năng lực trong hoạt động, trong giao tiếp và tự giáo dục. Có thể do
đặc điểm ý thức, tự ý thức qua các mức độ cao – thấp, ổn định - không ổn
định, tích cực - tiêu cực trong các biểu hiện của nó.
Ngoài các phương pháp về định hướng giá trị, động cơ, thái độ, nhu
cầu, thông qua nó đánh gia về tính ý thức, tự ý thức của các phẩm chất đặc
trưng cho nhân cách con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá,
hiện dại hoá như đã nêu ở trên, để đo được các tiêu chí trên một cách tổng
thể có thể dùng bộ trắc nghiệm đánh giá nhân cách NEO-PI - R. Đây là bộ
công cụ được xây dựng trên mô hình nhân cách năm yếu tố - năm mặt cơ
bản nhất của nhân cách (tóm lược kiểu suy nghĩ, thái độ, tình cảm và hành vi
đặc trưng cho những xúc cảm; quan hệ liên nhân cách; sự trải nghiệm; thái
độ; động cơ của nhân cách) cho phép đo nhân cách đa mục đích.
Tâm lý, ý thức là những thành tố của cuộc sống thực, các quan hệ thực
của con người; chúng được sinh ra bởi hoạt động giao tiếp và phục vụ hoạt
động, chúng bao giờ cũng mang tính chất tích cực - tính tích cực còn hoạt
động đặc thù của con người; luôn gắn bó với sự thực hiện mục đích của hoạt
động. Chúng nảy sinh trong quá trình tiến hoá giải quyết những nhiệm vụ cụ
thể của cuộc sống. "Nghiên cứu ý thức thực chất là nghiên cứu quá trình mỗi
nghiệm thể giải quyết những nhiệm vụ mang động cơ và mục đích có ý nghĩa
với cuộc sống của chủ thể".
E. VẤN ĐỀ “CÁI TÔI” TRONG TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH
GS. TS. ĐỖ LONG
Ngay từ thuở ban đầu của nền văn hóa nước nhà, mối tương quan
giữa tính cộng đồng và tính cá nhân ở người Việt Nam chúng ta cũng giống
như ở tất cả các nhóm tộc người khác, các dân tộc khác. Nghĩa là tính cộng
đồng có vai trò quan trọng hơn, nổi trội hơn trong sự phát triển của xã hội,
cũng như của mỗi cá nhân. Lẽ ra, tính cá nhân, trách nhiệm cá nhân, sự tự ý
thức, tự khẳng định của cá nhân và "cái Tôi" của nó phải được hình thành,
xác định và xuất hiện sớm hơn, mạnh hơn, nhưng do những điều kiện tự
nhiên và xã hội như giông tố, lũ lụt, hạn hán, sự xâm lược của ngoại bang và
chính sách của nhà nước phong kiến nên tính cộng đồng văn được duy trì và
tồn tại lâu dài trọng sự phát triển của xã hội Việt Nam từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Do đó, trong lịch sự phát sinh cá thể, cũng như phát sinh chủng loại,
"cái Tôi" của mỗi người hình thành chậm. Việc phát huy vai trò tự ý thức của
"cái Tôi" cũng diễn ra rất chậm. Vậy "cái Tôi" là gì? "Cái Tôi" là sự tự ý thức
về những khác biệt của bản thân mình so với những người khác. Đặc trưng
của "cái Tôi" là tính tự chủ, tính tự lập, tính tự khẳng định. Khi cá nhân, nhân
cách và "cái Tôi" phát triển thì đồng thời cũng xuất hiện các hệ thống lý luận
về các hiện tượng này.
I. "CÁI TÔI" TRONG CÁC LÝ THUYẾT NHÂN CÁCH
1. Thuyết phân tâm học
1.1. Quan điểm của S. Freud
S. Freud - dẫn trong Pervin, 1977 - cha đẻ của thuyết phân tâm học, khi
bàn về nhân cách đã cho rằng cấu trúc nhân cách gồm ba phần, đó là: phần
vô thức tương ứng với "cái Nó"(id), phần ý thức tương ứng với "cái Tôi" (ego)
và phần siêu thức tương ứng với "cái siêu Tôi" (super ego). Trong cấu trúc
này "cái Nó" (id) được coi là sự giải phóng năng lượng, sự ức chế, sự kích
động, là bản năng và hoạt động theo nguyên tắc khoái cảm, làm theo khoái
cảm và luôn luôn trốn tránh sự đau khổ.
"Cái Nó", hay còn gọi là vô thức được ví như một đứa trẻ, ưa những gì
mà nó thích và được coi như là bản năng chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu của
chính mình và không bị các giá trị, các chuẩn mực xã hội ngăn cản. Xung
năng vô thức của con người hoạt động theo cách tìm kiếm toàn bộ sự giải
phóng năng lượng ngay lập tức. Theo S. Freud thì "cái Nó" được coi là không
có căn cứ, phi lôgíc, không có các giá trị, các chuẩn mực đạo đức. Tóm lại,
"cái Nó" là sự yêu cầu, đòi hỏi, sự bốc đồng, sự che đậy, tính thiếu lý trí, tính
ích kỷ và tất cả những gì mà "cái Nó" làm đều tuân theo nhu cầu của bản
thân, mang tính bản năng, bất chấp thực tế.
Khái niệm thứ hai mà S. Freud đề cập trong cấu trúc nhân cách là "cái
Tôi", hay còn gọi là ý thức (ego) hoàn toàn trái ngược lại với cái vô thức. Nếu
như cái vô thức đi tìm kiếm sự khoái cảm thì ý thức đi tìm kiếm hiện thực.
"Cái Tôi" bao gồm ý thức của con người về các quy định, quy luật của cuộc
sống, các chuẩn mực của xã hội... Chức năng của "cái Tôi" ý thức là kìm hãm
những nhu cầu của "cái Nó" hoặc giúp "cái Nó" biểu hiện các nhu cầu dưới
các hình thức cá thể được xã hội chấp nhận. "Cái Tôi" luôn vận hành theo
nguyên tắc thực tế. "Cái Tôi" ý thức luôn được coi là có lôgíc, có lý trí, chịu
đựng được sự ức chế và điều hành được nhân cách.
Khái niệm thứ ba mà S. Freud đề cập là "cái Tôi" siêu ý thức, hay còn
gọi là "cái siêu Tôi", thể hiện cho một nhánh của đạo đức, bao gồm các quy
ước, luật lệ, chuẩn mực trong hoạt động hàng ngày cùa chúng ta.
Chức năng của nó là kiểm soát hành vi theo các chuẩn đối với con
người khi có hành vi xấu, như chống lại các phong tục, tập quán củả dân tộc.
Nó ngăn cấm không cho "cái Tôi" làm những điều không đúng nhằm thoả
mãn nhu cầu của "cái Nó". Bên cạnh đó, "cái siêu Tôi" luôn luôn thúc đẩy "cái
Tôi" vươn tới cái lý tưởng, cái cao thượng.
Điểm nổi bật, trong cấu trúc nhân cách của S. Freud là mối quan hệ
giữa ba thành phần này luôn luôn luôn theo sự kiểm duyệt, đè nén, kìm hãm.
Vì vậy, những động cơ của vô thức luôn bị biến dạng, nó không biểu hiện một
cách trực tiếp. Nếu không, những động cơ này sẽ mâu thuẫn với ý thức, với
siêu thức và hiện ra dưới dạng khác sao cho phù hợp với ý thức và siêu thức.
Trong cuộc sống hàng ngày, hiện tượng giấc mơ, nói nhịu... là những biểu
hiện gián tiếp của vô thức. Tóm lại, "cái Tôi" của s. Freud luôn luôn bị đè nén,
bị kìm hãm và đây cũng là nguyên nhân gây ra bệnh tâm căn ở con người.
Theo thuyết phân tâm thì bệnh tâm thần xuất phát từ những xung đột gay gắt
giữa những ham muốn vô thức bị kìm nén và những chuẩn mực, lý tưởng mà
con người phải tuân theo.
Quan niệm "cái Tôi" của Freud, chịu nhiều áp lực của bản năng, của vô
thức cũng như của các nguyên tắc trong xã hội loài người, trong đó bản năng
là động lực chính và là nguồn gốc của hành vi con người. Rõ ràng đây là một
lý thuyết còn phiến diện. Nó tạo nên "cái Tôi" không đích thực và có xu hướng
bản năng hoá con người. Sự suy diễn và không thể kiểm chứng được “cái
Tôi” trong thuyết phân tâm là một trong những lý do khiến cho lý thuyết này
không được hoan nghênh ở nhiều vùng văn hoá.
1.2. Quan điểm của C. Jung
Người thứ hai đại diện cho trường phát phân tâm mới là C. Jung – dẫn
trong Pervin, 1997. Khác phục quan điểm bản năng của Freud về “cái Tôi”, C.
Jung đã đề cập nhiều đến tính xã hội trong “cái Tôi” của con người. Trong
những vài viết đầu tiên của mình, ông đã đề cập "cái Tôi" như một cái gì
giống như tinh thần hoặc toàn bộ nhân cách. Tuy nhiên, ông bắt đầu tìm kiếm
những nền tảng mang tính chủng tộc về nhân cách và đã phát triển các
nguyên mẫu đó. Nguyên mẫu là thể hiện bản thân thông qua các biểu tượng
khác nhau. Theo ông, khái niệm chính trong tâm lý học phải là "cái Tôi" với sự
thống nhất mang tính tổng thể của nó!
"Cái Tôi" là mục đích của cuộc sống, một mục đích mà con người luôn
phấn đấu nhưng ít khi đạt được. Giống như tất cả những nguyên mẫu, nó
thúc đẩy hành vi con người và là nguyên nhân để người đó tìm kiếm một tổng
thể trọn vẹn. Sự xuất hiện "cái Tôi" rất cần cho những thành phần khác nhau
của cá nhân, khiến họ có thể phát triển một cách đầy đù và độc đáo. Với lý do
này, nguyên mẫu về "cái Tôi" chưa thể rõ ràng trước khi con người ở tuổi
trung niên. Khái niệm "cái Tôi" là sự phát hiện quan trọng nhất của C.Jung về
phương diện tâm lý học và những kết quả nghiên cứu của ông đã tập trung ở
các nguyên mẫu.
Như thế, "cái Tôi" của C.Jung cũng chưa rõ ràng, chưa hiện thực và
cũng như Freud, không đề cập gì tính chủ thể của con người trong các hành
vi của mình.
Những đóng góp to lớn của các nhà phân tâm học và đặc biệt là của
S.Freud là ở chỗ họ đã xây dựng được một hệ thống các khái niệm như: vô
thức, tiềm thức, cơ chế tự vệ... S.Freud đã cố gắng tìm hiểu thế giới phức tạp
bên trong của mỗi người thông qua các khái niệm này. Đối với lĩnh vực lâm
sàng, ông đã đưa ra phương pháp chữa bệnh cho những người bị bệnh tâm
căn là phải tập trung vào giải toả những xung đột, những dồn nén của thế giới
nội tâm. Các nhà phân tâm học dã có những đóng góp về mặt phương pháp
trị liệu. Họ là những người đầu tiên sử dụng các kỹ thuật mới trong nghiên
cứu, như phương pháp liên tưởng tự do, giải thích giấc mơ và nhấn mạnh
đến ý nghĩa của phạm trù phát triển, cũng như việc phát triển test và sử dụng
các test chuyên biệt dể đo nhân cách.
Bên cạnh những đóng góp như đã nêu, phân tâm học cũng bộc lộ
không ít hạn chế ở chỗ nó đối lập với tâm lý học duy vật biện chứng. Nếu tâm
lý học duy vật biện chứng nghiên cứu ý thức thì phân tâm học lại nhấn mạnh
đến vô thức, bàn năng, coi bản năng tình dục chi phối đời sống tâm lý của
con người và bỏ qua vai trò của ý thức, của xã hội.
2. Thuyết hiện sinh
Nêu cách tiếp cận về nhân cách của S. Freud nhấn mạnh đến xung
năng, bản ngã và vô thức thì Carl Rogers, một nhà tâm lý học đại diện cho
trường phái tâm lý học hiện sinh, lại tiếp cận theo hướng ngược lại. Ông nhấn
mạnh đến nhận thức, cảm nhận, tự thuật mang tính chủ quan, sự hiện thực
hoá "cái Tôi" và tiến trình của sự tha đổi. Trong lý thuyết của mình về nhân
cách, C. Rogers nhấn mạnh đến khái niệm "cái Tôi" và coi đó là khái niệm chủ
đạo trong nghiên cứu nhân cách. Theo C. Rogers, cá nhân tiếp nhận thực tiễn
khách quan bên ngoài, sự trải nghiệm và khoác cho chúng một ý nghĩa nào
đó. Toàn bộ hệ thống tri giác và các ý nghĩa của chúng hình thành nên hiện
tượng của cá nhân. Khái niệm "cái Tôi" đại diện cho tính tổ chức và luôn phù
hợp với mô hình nhận thức. Khái niệm này được c. Rogers phát triển thông
qua các thang đo của mình. Theo ông, cách đánh giá của con người về bản
thân mình ở một thời điểm nào đó và trong một hoàn cảnh nào đó thường có
liên quan đến quan điểm của họ về chính mình ở một thời điểm khác và trong
một hoàn cành khác. Vì theo c. Rogers, mọi hành vi và lời nói của con người
đều thể hiện chính bản thân người đó. Và ông cũng khẳng định rằng, bản
thân con người có rất nhiều tiềm năng khác nhau và khi con người ý thức
được tiềm năng đó thì đó chính là hiện thực hóa...
Cấu trúc cơ bản của "cái Tôi" có thể dựa trên các nền văn hoá khác
nhau. Ví dụ, một trong những điểm khác biệt giữa hai nền văn hoá phương
Đông và phương Tây là mức độ nhìn nhận "cái Tôi" như là sự liên lạc, kết nối
với người khác (Markus và Cross, dẫn theo C. Roger, 1992). "Cái Tôi" của
người phương Đông được nhìn nhận như một sự gắn kết với người khác, với
tập thể. Cá nhân chỉ được thể hiện "cái Tôi" khi họ được sống trong tập thể.
Ngược lại, ở phương Tây, "cái Tôi" là sự độc đáo, riêng biệt, của mỗi cá
nhân, bị tách biệt khỏi tập thể. Vì vậy khi nghiên cứu "cái Tôi" rất cần phải chú
ý đến đặc điểm văn hóa của từng vùng, từng dân tộc.
Mốii liên quan trong khái niệm mang tính cấu trúc là "cái Tôi" lý tưởng.
"Cái Tôi" lý tưởng được hiểu là tự nhận thức mà cá nhân từng trải nghiệm. Nó
bao gồm những nhận thức và ý nghĩa mang tính tiềm ẩn vể "cái Tôi" và được
mỗi người đánh giá cao.
Khi nói về nhân cách, c.Rogers nhấn mạnh đến những thay đổi của nó.
Suy nghĩ của con người giống như sự di chuyển vể phía trước, vì vậy, ông
đưa ra khái niệm về hiện thựchoá "cái Tôi" và khuynh hướng cơ bản của con
người là hiện thực hoá "cái Tôi" nền luôn luồn phấn dấu dể lý tưởng hoá, dể
duy trì và nâng cao kinh nghiệm của cơ thể.
Khái niệm về lý tưởng hóa vao hồm khuynh hướng của một cơ thể đối
với sự phát triển từ một thực thể đơn giản đến phức tạp, biến chuyển từ sự
phụ thuộc đến sự độc lập, từ sự thụ động và cứng nhắc đến tiến trình của sự
thay đổi và tự do trong biểu hiện. Khái niệm này còn bao gồm cả xu hướng
của mỗi người muốn giảm bớt nhu cầu và căng thẳng, lưu ý nhiều đến sự hài
lòng và thỏa mãn, bắt nguồn từ những hoạt động để phát triểm cơ thể.
Cũng trong lý thuyết và nghiên cứu của mình, c. Rogers đã nhấn mạnh
đến tính nhất quán và sự tương đồng giữa “cái Tôi” và kinh nghiệm, đó là
những gì mà con người cảm nhận cùng với cách con người nhìn nhận về bản
thân. Chúng ta trải nghiệm tình trạng không tương đồng khi có sự khác nhau
giữa sự chấp nhận “cái Tôi” và kinh nghiệm thực tế. Tình trạng không tương
đồng là do có những bối rối và ức chế bên trong. Khi chúng xuất hiện, cá
nhân không thể nhận thức được vì họ bị tổn thương hoặt quá lo lắng. Sự lo
lắng là kết quả của sự khác nhau giữa kinh nghiệm và nhận thức về bản thân.
Ở đây, chúng ta ý thức về kinh nghiệm của chúng ta và chấp nhận chúng
trong tiềm thức và tình trạng không tương đồng là nguyên nhân gây ra bệnh
tâm căn ở con người. Khi một cá nhân nào đó không có sự nhất quán, thiếu
tương đồng giữa việc đánh giá của bản thân và kinh nghiện thực tế sẽ làm cá
nhân đó đễ bị tổn thương, gây cảm giác lo lắng và không ăn toàn.
Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể nhận thức được kinh nghiệm như
là sự cảnh báo, như sự chống lại "cái Tôi" và không chấp nhận nó trở thành ý
thức. Cơ thể con người cố gắng duy trì khái niệm "cái Tôi". Đáp lại sự không
tương đồng để đưa ra lời cành báo về sự trải nghiệm chống lại "cái Tôi" - đó
là sự bảo vệ. Một kinh nghiệm không được nhận thức một cách rõ ràng cũng
có nghĩa là nó không đồng dạng với cấu trúc "cái Tôi", và tổ chức này phản
ứng lại sự tự vệ dể từ chối nhận thức về kinh nghiệm.
C. Rogers đã có nhiều đóng góp lớn cho tâm lý học lâm sàng, ông là
người đầu tiên đưa ra thuật ngữ "thân chủ trọng tâm" trong chữa trị lâm sàng.
Giữa nhà trị liệu và bệnh nhân luôn tồn tại môi quan hệ tin tưởng lẫn nhau.
Thái độ của nhà trị liệu rất quan trọng khi tiếp xúc với bệnh nhân. Bệnh nhân
có khỏi bệnh hay không tùy thuộc rất nhiều vào nhân cách của người trị liệu.
3. Thuyết nhận thức
Từ quan điểm về vai trò của nhận thức trong đời sống xã hội của con
người, các nhà tâm lý học theo trường phái này khi nói đến "cái Tôi" thường
nhấn mạnh đến kinh nghiệm cùa bản thân. Con người chỉ có thể nhận thức
của bản thân, được xã hội khi có kinh nghiệm.
Sarbin (dẫn theo Hall và Lindzey, 1953) quan niệm "cái Tôi" như một
cấu trúc nhận thức bao gồm những ý tưởng của con người về những khía
cạnh khác nhau trong sự tồn tại của người đó. Nghĩa là con người có thể có
những khái niệm về cơ thể, về các cơ quan cảm giác, các cơ bắp và về
những hành vi xã hội của mình. Những khái niệm về bản thân này được coi là
những "cái Tôi" đã được thu thập thông qua kinh nghiệm. Sarbin cũng cho
rằng, đầu tiên là "cái Tôi" mang tính cơ thể và sau cùng là "cái Tôi" mang tính
xã hội.
Mead (dẫn theo Hall và Lindzey, 1953) thì coi “cái tôi” là khách thể của
ý thức. Hơn thế, nó là hệ thống của quá trình biểu hiện "cái Tôi" phát triển
cùng với thái độ. Theo ông, một người nào đó không có "cái Tôi" là do anh ta
không được tiếp nhận những kinh nghiệm của bản thân một cách trực tiếp. Vì
vậy, anh ta không thể có ý thức một cách tự nhiên. Anh ta có thể thực hiện sự
trải nghiệm với những người khác như những khách thể, nhưng chính anh ta
lại không coi bản thân mình như một khách thể. Tuy nhiên, người khác lại tác
động đến anh ta như một khách thể và sự tác động qua lại này được trực tiếp
trải nghiệm. Kết quả của trải nghiệm này thể hiện ở chỗ anh ta có thể học
được cách suy nghĩ về bản thân như một khách thể và có những thái độ và
cảm nhận về bản thân. "Cái Tôi" của Mead là "cái Tôi" mang hình thức xã hội.
"Cái Tôi" chỉ xuất hiện trong môi trường xã hội, nơi có giao tiếp xã hội.
Từ những định nghĩa khác nhau trên đây về "cái Tôi", một vấn đề được
đặt ra là con người ta có một "cái Tôi" hay nhiều "cái Tôi"? Hiện nay rất nhiều
nhà tâm lý cho rằng, một cá nhân có thể có nhiều "rái Tôi" - một số "cái Tôi"
thì tốt, còn một số "cái Tôi" khác thì xấu; một sô "cái Tôi" là hiện thực trong
hiện tại và một số chỉ có thể xuất hiện trong tương lai. Mend thừa nhận có
nhiều "cái Tôi", ở một môi trường xã hội khác, thường xuất hiện những "cái
Tôi" phù hợp với yêu cầu của môi trường xã hội đó. Ví dụ, nếu anh ta ở môi
trường gia đình thì "cái Tôi" biểu hiện phải phù hợp với gia đình; ngược lại,
khi ở trong môi trường nhà trường thì lại có những biểu hiện của "cái Tôi"
khác để phù hợp một cách tốt nhất với những yêu cầu của nhà trường.
4. Thuyết nhận thức xã hội
Trong thuyết, nhận thức xã hội, "cái Tôi" được coi là cấu trúc không cố
định, hình thành nên những quá trình nhận thức. Sự hiểu biết về các khái
niệm "cái Tôi" và câu trả lời của một người về hành vi của họ như một sự đề
cao chính mình hay tự phê bình thường được nhìn nhận như một yếu tố cơ
bản về những gì xảy ra giữa những sự kiện mang tính môi trường và hành vi
con người. "Cái Tôi" của thuyết nhận thức xã hội luôn thay đổi, cấu trúc của
nó phụ thuộc vào môi trường. Nếu môi trường thay đổi thì cấu trúc của "cái
Tôi" cũng thay đổi theo.
Theo Albert Baitdura (dẫn theo Pervin) thì con người không có cấu trúc
tlược gọi là "cái Tôi", nhưng ông chấp nhận quá trình tự nhận thức và tự kiểm
soát của con người trong những thời gian và hoàn cảnh khác nhau. Bandura
đã nhận mạnh nhiều đến tầm quan trọng của sự nhận thức về tính hiệu quả.
Khi nói đến hành động và tham gia vào mỗi hành động, con người thường xét
về khả năng thực hiện các nhu cầu khác nhau của họ. Khái niệm về "cái Tôi"
hiệu quả được hiểu là sự đánh giá khả năng của một người nào đó về bản
thân mình trong việc đối mặt với những hình thức, những nhiệm vụ trong
những hoàn cảnh nhất định. “Cái Tôi" hiệu quả có ý nghĩa thiết thực đối với
mỗi cá nhân, đặc biệt trước các tình huống khó khăn. Bandura đã sử dụng
liệu pháp trị liệu để nâng cao “cái Tôi” hiệu quả cho những đối tượng nghiện
ngập và đã đạt được những kết quả tốt đẹp.
5. Những khiá cạnh khác của "cái Tôi"
Bên cạnh những khái niệm khác nhau về "cái Tôi" trong các lý thuyết
nhân cách, còn có rất nhiều khía cạnh khác nhau của "cái Tôi" trong nhân
cách con người thể hiện trong cuộc sống xã hội và được nhiều tác giả nhìn
nhận và nghiên cứu với một số kết quả dưới đây.
5.1. "Cái Tôi" sáng tạo
Alfred Adler đưa ra khái niệm "cái Tôi" sáng tạo. "Cái Tôi" của ông là
một thực thể đã được cá nhân hóa cao, là một hệ thống chủ quan để giải
thích và hình thành những kinh nghiệm mang đầy đủ ý nghĩa đối với cơ thể và
tìm kiếm những kinh nghiệm sẽ tạo ra một lối sống riêng biệt, độc đáo của
con người một cách đầy đủ. Nếu những kinh nghiệm này không được phát
triển ở thế giới xung quanh thì “Cái Tôi” sẽ cố gắng tạo ra chúng. Khái niệm
về "cái Tôi" sáng tạo là khá mới mẻ đối với lý thuyết phân tâm học và nó giúp
tạo ra sự cân bằng của thái cực "chủ nghĩa khách quan" của phân tầm học
cũ.
Lý thuyết của A. Adler chú ý một cách toàn diện đến tầm quan trọng
của "cái Tôi" sáng tạo trong cách con người đáp lại những cảm nhận về "cái
Tôi" và cách con người đáp lại những mục đích trực tiếp tác động đến hành vi
của họ. I
Khái niệm "cái Tôi" sáng tạo được coi là thành tựu hoàn hảo của A.
Adler với tư cách là một nhà lý thuyết, về nhau cách. Khi ông khám phá ra
"cái Tôi" sáng tạo thì toàn bộ khái niệm khác của ông cũng bị phụ thuộc vào
"cái Tôi" đó. Thực chất của học thuyết về "cái Tôi" sáng tạo khẳng định rằng,
con người tạo lập nên nhân cách của chính mình. Bền cạnh đó, "cái Tôi" sáng
tạo còn được coi là chất xúc tác của những hành động trong thế giới thực và
chuyển thực tiễn này vào trong mỗi nhân cách để hình thành nên tính chủ
quan, động lực, sự thông nhất, tính cá nhân và phong cách độc dáo. "Cái Tôi"
sống tạo tạo dựng nên ý nghĩa cuộc sống, sáng tạo ra mục đích, cũng như ý
nghĩa của các mục đích. "Cái Tôi" sáng tạo là một nguyên tắc hoạt động của
đời sống con người.
5.2. Hiện thực hoá "cái Tôi"
Goldstein cũng đưa ra khái niệm về hiện thực hoá "cái Tôi". Trên thưc
tế, hiện thực hoá "cái Tôi" chỉ là sư thúc đẩy làm cho những biểu hiện của cơ
thể trở thành những xung năng khác nhau như: đói, tình dục, quyền lực,
thành công và tính tò mò. Đây là những biểu hiện cho mục đích tối cao của
cuộc sống có liên quan liên nhu cầu thực tế của chính mỗi người. Khi một
người bị đói, anh ta thực hiện nhu cầu của bản thân bằng cách ăn. Khi khao
khát quyển lực, anh ta thực hiện nhu cầu này bằng cách giành lấy quyền lực.
Sự thoả mãn bất kỳ nhu cầu riêng biệt nào đó cũng đều trở thành trung tâm
và là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa “cái Tôi” đối cới toàn bộ cơ thể.
Hiện thực hoá "cái Tôi" là xu hướng sáng tạo của bản chất con người.
Nó là một nguyên tắc có hệ thống, qua đó cơ thể trở nên phát triển đầy đủ
hơn và phức tạp hơn. Mặc dù hiện thực hoá "cái Tôi" là hiện tượng phổ biến
trong tự nhiên, nhưng nó lại diễn ra rất khác nhau tuỳ thuộc vào cái riêng ở
mỗi con người. Mỗi người có những tiềm năng bẩm sinh khác nhau và chúng
định hướng cho sự trưởng thành và phát triển cái cá nhân của mình trong
những môi trường và văn hoá khác nhau, qua dó họ có thể phương trưởng và
từ đó có thể có những thứ cần thiết thật an toàn cho sự lớn lên của mình.
5.3. "Cái Tôi" tượng trưng
Andrns Angyal quan sát thấy ở con người có những khả năng phát triển
những ý tưởng về bản thân mình như một cơ thể, bởi vì nhiều quá trình hữu
cơ của anh ta cũng trở nên có ý thức. Toàn bộ khái niệm "cái Tôi" sẽ tạo
thành "cái Tôi" tượng trưng của anh ta. Tuy nhiên, A. Angyal cảnh báo chúng
ta rằng: "cái Tôi" tượng trưng không phải bao giờ cũng thông báo một cách tin
cậy về cơ thể, rằng những gì con người nghĩ vể bản thân mình không phải lúc
nào cũng mang lại bức tranh chân thực trên thực tế. Ngược lại, nếu hành vi
của cá nhân bị chi phối bởi "cái Tôi" tượng trưng, anh ta cư xử theo sự tưởng
tượng mà snh ta đã trải nghiệm về chính mình, những hành vi của anh ta có
thể không phù hợp với những nhu cầu thực tế của cơ thể, bởi vì "cái Tôi"
tượng trưng có thể làm biến dạng, làm méo mó cái có thực trong đời sống
thực.
5.4. "Cái Tôi" chủ quan
Lundholm đã tiến hành sự phân loại một cách đầy đủ giữa "cái Tôi" chủ
quan và "cái Tôi" khách quan. "Cái Tôi" chủ quan bao gồm những biểu tượng,
kể cả những lời nói của cá nhân khi nhận thức về mình; ngược lại, "cái Tôi"
khách quán bao gồm sự tiếp nhận lời nói của người khác về mình. Trong các
câu nói khác nhau, "cái Tôi" chủ quan thường nói: "Tôi nghĩ gì về bản thân"
và "cái Tôi" khách quan lại nói: "Người khác nghĩ gì về tôi". Lundholm đánh
giá "cái Tôi" chủ quan là không cố định nhưng sự mở rộng hay thu hẹp của nó
phụ thuộc vào yếu tố cùng hợp tác với người khác hay chống lại người khác.
5.5. "Cái Tôi" và bản ngã
Bertocci giới thiệu cách sử dụng những thuật ngữ khác nhau để chỉ hai
cảm nhận, đó là bản ngã và "cái Tôi". Bertocci coi bản ngã như một qúa trình
củả "cái Tôi" và "cái Tôi" như một khách thể của bản ngã. "Cái Tôi" của
Bertocci là sự phức tạp, sự kết hợp của những hành động một cách thống
nhất, của cảm giám như nhớ lại, tưởng tượng, sự chấp nhận, sự ham muốn,
cảm nhận và suy nghĩ. Đối với Freud thì những cmar nhận này là bản ngã.
Ngược lại, với Bertocci thì bản ngã là một loại các giá trị có thể trở thành hiện
thân của mô hình các đặc điểm và cùng với bản ngôn, “cái Tôi” nhận diện
những thành công của chính nó.
Khi bàn về "cái Tôi" và bản ngã, Chein cho rằng "cái Tôi" không phải là
khách thể của ý thức, hơn thế, nó là nội dung của ý thức và không có khoảng
cách cho mỗi ý thức. “Cái Tôi" là những gì chúng ta ý thức được. "Cái Tôi"
không làm bất cứ thứ gì và nó tách ra khỏi bản ngã. Bản ngã được hiểu là
cấu trúc động cơ nhận thức, nó được xây dựng xung quanh "cái Tôi". Động
cơ và những ý tưởng của bản ngã phục vụ cho sự mở rộng, sự nâng cao và
sự bảo toàn "cái Tôi". Khi "cái Tôi" bị nguy hiểm, bản ngã sẽ đến trợ giúp cho
nó. Tuy nhiên, không phải tất cả động cơ và suy nghĩ của còn người đều
được bao bọc trong bản ngã.
Như vậy, trong tâm lý học nhân cách, "cái Tôi" được đề cập rất đa dạng
và đặc biệt; có giá trị trong công việc trị liệu. Những lý thuyết nhân cách đề
cập các khía cạnh khác nhau của "cái Tôi" cũng có mục đích ứng dụng trong
trị liệu ở một số lĩnh vực nhất định để thay đổi nhân cách bệnh hoạn thành
một nhân cách khoẻ mạnh hơn. Đây là một trong những điểm có giá trị nhất
của các lý thuyết này. Tuy nhiên, nhược điểm của những lý thuyết này bộc lộ
ở sự thiếu đồng bộ và phiến diện, nếu chúng ta nhìn nhận và phân tích "cái
Tôi" một cách hệ thống và toàn diện.
II. HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN "CÁI TÔI", Ở NGƯỜI VIỆT NAM KHI BƯỚC VÀO THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
1. Như trên đã nói, khuôn khổ gia dinh, làng xã và xã hội ở nước ta
hàng nghìn năm đã níu kéo cá nhân con người. Họ có nằm ngủ, mơ ngủ,
nhưng "cái Tôi" của họ vẫn nằm trong tất cả các quan hệ xã hội. Sức mạnh
"cái Tôi" lấn át "cái Tôi" trong xã hội Việt Nam ngày xưa to lớn lắm. Một nhà
nghiên cứu Nhật Bản có liệt kê và so sánh những trật tự, những thứ bậc giá
trị giữa hai nước Nhật Bản và Việt Nam. Ở Nhật Bản, giá trị cao nhất là bạn
bè, thứ hai là gia đình, thứ ba là quan hệ ở nơi làm việc. Còn ở Việt Nam thì
khác, cao nhất là gia đình, thứ hai là bạn bè, thứ ba mới là quan hệ trong
công việc. Như vậy, cộng đồng ở ta là cao nhất, gia đình ở ta là trước nhất.
Trong đời sống hàng ngày chúng ta cũng thấy "cái Tôi" và "cái Ta" trong xã
hội Việt Nam ngày xưa và ngày nay biểu hiện rất rõ.
Cuộc đấu tranh giữa văn hoá phương Đông và văn hoá phương Tây
cũng thể hiện qua cuộc đấu tranh giữa tinh thần tập thể, tinh thần cộng đồng -
"cái Ta" với "cái Tôi" đã bắt đầu xuất hiện trong giai cấp tư sản và tầng lớp trí
thức ở các đô thị, còn ở nông thôn thì nề nếp cũ vẫn được bảo lưu, tinh thần
cộng đồng vẫn dược duy trì. "Trong những năm kháng chiến tranh chống lại
sự xâm lược của ngoại bang, cả dân tộc ta không sống bằng cá nhân nữa.
Với thời kỳ đổi mới bắt đầu từ năm 1986 và ngày nay khi đất nước bước vào
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đậi hoá, ý thức về cá nhân trong tâm lý người
Việt Nam đã trỗi dậy. Hai yếu tố có tác dụng mạnh nhất đối với ý thức cá
nhân: Một là chấp nhận kinh tế thị trường. Hai là chấp nhận mở cửa".
Kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện rất quan trọng cho sự hình
thành ý thức cá nhân, nó cho phép dư nhân tự do sản xuất kinh doanh, cho
phép tư nhân cạnh tranh với nhau. Giá trị tinh thần cộng đồng, do đó, mà nhạt
dần. Chấp nhận mở cửa cũng có nghĩa là chấp nhận quan hệ với phương
Tây, với thế giới bên ngoài, mở cửa cho cái tốt và cả cái xấu cũng có thể du
nhập vào. Giá trị văn hoá được đưa vào, trong đó có văn hoá của học thuyết
cá nhân và học thuyết nhân cách.
Qua những diễn biến lịch sử, hiện nay, chúng ta phải nhìn nhận lại,
đánh giá lại cái gì là hay, cái gì là dở ở "cái Ta" và ở "cái Tôi". Chúng ta đã
biết một số tác giả Bắc Âu đánh giá rất cao những giá trị châu Á, đặc biệt là
giá trị của Khổng giáo. Nhờ giá trị đó mới có kinh tế Nhật Bản, mới có những
con rồng, con hổ. Nhưng sau khi xảy ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ tại
Đông Nam Á thì "giá trị châu Á" không còn là như vậy nữa. Châu Á phát triển
lên được là có phần nhờ áp dụng các giá trị châu Âu, trong đó có giá trị mà
học thuyết cá nhân và học thuyết nhân cách đem lại.
Đối với Việt Nam, "cái Ta" và "cái Tôi" - tức là cộng đồng và cá nhân
phải hướng tới sự kết hợp hài hoà ở một trình độ phát triển cao hởn. Nếu
theo hẳn lý luận phương Tây về cá nhân thì con người cá nhân càng phát
triển bao nhiêu, con người đó càng cô đơn bấy nhiêu. Trong cả hai giá trị của
phương Đông và phương Tây, cái gì tốt ta tiếp thu, cái gì xấu ta bỏ đi. Ta mở
rộng dân chủ là mở đường cho cá nhân phát triển. Không có cá nhân phát
triển thì cũng không có dân chủ phát triển. Phương Đông và phương Tây bổ
sung lẫn nhau, không loại trừ nhau.
Để xây dựng "cái Tôi" chân chính của con người bước vào thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hóa, chúng ta cần phải đi sâu tìm hiểu và phân tích kỹ
hơn nhiều vấn đề của học thuyết cá nhân, học thuyết nhân cách. Một vấn dề
được đặt ra là làm thế nào để tìm đến chỗ gặp gỡ giữa các cá nhân và thừa
nhận có học thuyết cá nhân phương Tây và học thuyết cá nhân phương
Đông. Sẽ là sai nếu nói học thuyết cá nhốn phương Tây hoàn toàn sai lầm và
học thuyết nhân cách phương Đông là tốt cả.
Nếu nói học thuyết cả nhân phương Tây là hoàn toàn sai lầm thì không
thể cắt nghĩa được văn hóa phương Tây. Nếu gạt bỏ hoàn toàn học thuyết cá
nhân thì không thể hội nhập được với thế giới. Hội nhập là chấp nhận, song
không phải là bất cứ cái gì cũng tiếp thu, mà chỉ chấp nhận cái đúng đắn, "cái
Tôi" phù hợp với quy luật phát triển của xã hội và của con người.
"Bản tính con người là cá nhân, đây là vấn đề có tính nguyên tắc. Cá
nhân độc lập, tự mình quyết định hành động của mình, coi sự tự khẳng định
của chính mình là hợp pháp và có thể thực hiện được và như thế tức là "cái
Tôi" có các quyền một cách hợp pháp. Người theo học thuyết cá nhân là
người có ý thức về sự tự lựa chọn, do đó họ có trách nhiệm, trách nhiệm với
mọi người, chứ không phải chỉ có sở thích của riêng mình". Người vô trách
nhiệm không phải là người có ý thức cá nhân cao. Mỗi cá nhân phải có nhân
cách thì người đó mới là cá nhân đích thực. Không thể có cá nhân mà lại
không có nhân cách.
Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta nhất quán
khẳng định con người là một bộ phận của cộng đồng. Tôi có giá trị là do tập
thể của tôi có giá trị. Sở dĩ tôi lằ người có nhân cách là vì tôi mang những giá
trị của Đảng Cộng sản và chiến đấu dưới lá cờ của Đảng với mục tiêu cao cả
là làm cho dân gìau, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó
vừa là động lực của xã hội, đồng thời vừa là động lực của mỗi cá nhân và
động lực càng mãnh liệt hơn khi nhu cầu cá nhân, lợi ích cá nhân được thực
hiện một cách trọn vẹn cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần.
"Học thuyết cá nhân mà chúng ta cần đề cao luôn luôn khẳng định tính
độc lập của mỗi người đối với cộng đồng, nhưng người đồ phải phục vụ cộng
đồng vì giá trị cá nhân của mình, chứ không phải vì mình là một bộ phận của
cộng đồng. Học thuyết cá nhân không chấp nhận một xã hội cộng đồng khép
kín, tuy ngày xưa chúng ta từng chấp nhận một cộng đồng với một phạm vi
hạn hẹp và hướng nội như vậy. Ngày nay, học thuyết cá nhân phải xác định
chỗ đứng cho mỗi cá nhân được học tập và làm việc, nếu cứ duy trì sự khép
kín như xưa thì cá nhân không làm được gì hết.
Giữa học thuyết cá nhân và học thuyết nhân cách có những điểm then
chốt giống nhau. Một là, cả hai đều chấp nhận nhân cách. Hai là, cả hai đều
chấp nhận trách nhiệm đối với xã hội. Cá nhân hay nhân cách đều phải có
trách nhiệm đối với cộng đồng, đối với xã hội và đối với bản thân mình, cả hai
đều chống lại cố nhân cực đoan. Chỗ mạnh của học thuyết nhân cách là nó
khẳng định con người là của tổng thể. Nhưng, không được dựa dẫm vào tổng
thể, nhờ cậy vào tập thể mà quên mất năng lực của cá nhân. Con người phải
có ý thức về tính tích cực, tính năng động của mình, chứ không được chỉ dựa
dẫm vào tập thể, vào cộng đồng.
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa, chúng ta cần giáo dục
cho mọi công dân ý thức độc lập, không cam chịu ngồi yên trước khó khăn,
trở ngại, ở phương Tây người ta dạy trẻ em phải tự mặc quần áo, trẻ em ngã
phải tự đứng dậy, không có ai đỡ, đã làm sai thì phải tự sửa chữa, không ai
chữa hộ. Cuộc đời là lao động, là đấu tranh, mà không phải lúc nào cũng có
cha mẹ dẫn đường. Hình thành và phát triển "cái Tôi" tức là phải xây dựng
một lớp thanh niên biết tự chủ, biết tự lập. Dạy phương pháp là có lý, nhưng
cũng phải dạy phương pháp tự suy nghĩ. Đó cũng là biện pháp phát triển "cái
Tôi" và nhân cách bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá nước nhà.
2. Để hình thành và phát triển "cái Tôi" của người Việt Nam bước vào
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta còn nhận thức rõ cấu trúc của
"cái Tôi". Cấu trúc đó bao gồm các khía cạnh: tính đồng nhất, quá trình tự ý
thức, tính ổn định, tự đánh giá về bản thân và ý thức xã hội. Tính đồng nhất là
một thành tố đầu tiên trong cấu trúc của "cái Tôi" và thể hiện qua cách ứng
xử. Tính đồng nhất ở mỗi cá nhân là khác nhau. Điều này giúp chúng ta có
thể nhận thấy được một cách chính xác hành vi xử sự của mỗi người.
Chúng ta phải nhất quán khẳng định cá nhân là rất riêng, là đơn vị cuối
cùng không thể chia cắt, nên quá trình tự ý thức của mỗi là không giống nhau.
Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tính cách, khả năng, hoạt động,
thích nghi xã hội, tiếp thu ý kiến của người khác... Đã là cá nhân thì người đó
phải có ý thức rất rõ về bản thân, đánh giá đúng về mình, nhưng cá nhân
khác lại có thể đánh giá về người đó thiếu chính xác và do đó dẫn đến những
khác biệt giữa người này và người khác.
Đối với mỗi cá nhân, sự hiện diện của "cái Tôi" là khá ổn định. Nó
không hề thay đổi khi con người thay đổi vai trò xã hội của mình. Tuy nhiên,
người ta thấy rằng "cái Tôi" phát triển theo lứa ở mỗi cá nhân quan niệm về
"cái Tôi" linh hoạt hơn và chững chạc hơn khi họ đã trưởng thành.
Sự tự đánh giá về bản thân ở mỗi người cũng rất khác nhau. Đã có
nhiều nghiên cứu về vấn đề này và thấy rằng mỗi cá nhân nhận thức về mình
rất khác biệt so với người khác đánh giá về người đó. Chúng ta thường hay
thanh minh, hay giải thích cho những thành công hay thất bại của mình,
nhưng thông thường thì sự đánh giá, nhận xét từ phía cộng đồng đối với mỗi
cá nhân thường chính xác hơn.
Có quan điểm nhận định "cái Tôi" là sự tự đo lường của bản thân. Quá
trình tự học hỏi, tự trau dồi giúp cho cá nhân có thể tiếp thu được các chuẩn
mực trong cách cư xử và tự quyết định lấy thái độ đối với hành vi của mình.
Như vậy, lòng tự trọng, sự tự ý thức hay bất kỳ yếu tố nào cấu thành nên "cái
Tôi" đều được coi là hệ quả của việc tự trau dồi của mỗi cá nhân.
Một quan điểm khác lại cho rằng, "cái Tôi" bao gồm "cái Tôi thể chất" và
"cái Tôi xã hội". "Cái Tôi thể chất" là sự nhận thức của mỗi cá nhân về sự tồn
tại của cơ thể mình như chân, tay, các bộ phận của con người và những cảm
giác như vui, buồn, đau khổ hay những âm thanh cảm nhận được... Thông
thường, "cái Tôi thể chất" không giới hạn ở bản thân mỗi cá thể, mà còn bao
gồm ở cả con người và những điều khác có liên quan đến người đó như vợ,
chồng, con cái, anh chị em, công việc, trường - lớp... Trong trường hợp này,
nỗi buồn hay những tổn thất của những người thân thiết, của những sự vật
liên quan cũng chính là nỗi buồn của "cái Tôi” và những thành công của họ
cũng chính là niềm tự hào của "cái Tôi" ấy.
"Cái Tôi xã hội" chính là vai trò xã hội của cá nhân và sự thể hiện vai trò
đó như thế nào. Chẳng hạn, sinh viên luôn ý thức được mình là sinh viên và
độ cư xử theo kiểu sinh viên trong quan hệ với bạn bò, thầy cô, và mọi người
một cách đúng mực. Ngoài ra, mỗi người có thể đóng nhiều vai trò khác nhau
trong các lĩnh vực xã hội khác nhau: nghề nghiệp, hôn nhân, gia đình... Mỗi
vai trò xã hội mà cá nhân thực hiện điều có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
phát triển "cái Tôi" của người dó.
Một quan điểm khác lại nhận định cá nhân luôn luôn là một thể thống
nhất giữa bản thân mình (cái chủ thể) và sự đánh giá của người khác (cái
khách thể). Khi tôi nghĩ đến bất cứ điều gì thì tôi ít hay nhiều đều nhận thức
được về bản thân, về sự tồn tại của bản thân và người ta nhận thức về tôi
như thế nào. Vì vậy, "cái Tôi" tổng thể phải bao gồm hai mặt: "cái Tôi chủ thể"
và "cái Tôi khách thể". "Cái Tôi chủ thể” là "cái Tôi" mà bản thân cá nhân
nhận thức được chính mình, còn "cái Tôi khách thể” là "cái Tôi" dựa trên quan
điểm người khác mà đánh giá lại bản thân và có thể nhận thức lại về mình.
"Cái Tôi chủ thể" và "cái Tôi khách thể" có mối quan hệ khăng khít vái
nhau. "Cái Tôi chủ thể" thường mang những nhu cầu và bản năng tiềm ẩn
trong mỗi cá nhân. Nhiều khi chủ thể thường không đánh giá đúng về bản
thân và có xu hướng ngẫu hứng, tự phát, không có tổ chức. Còn "cái Tôi
khách thể" giúp chủ thể tìm ra cách xử sự đúng đắn. "Cái Tôi khách thể" là
đạo lý xã hội của "cái Tôi", là cái tổng quan chỉ đạo để sự tự phát của "cái Tôi"
bản năng diễn ra theo những hành vi mang tính đạo lý xã hội. "Cái Tôi bản
năng" kết hợp với "cái Tôi khách thể" làm cho "cái Tôi" mang tính ổn định
hơn, bền vững hơn.
3. Môi trường xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành, phát triển
và ổn định của "cái Tôi". Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, môi
trường xã hội gồm nhiều yêu tố, có quan hệ khăng khít và tác động qua lại lẫn
nhau theo cả hai chiều hướng tốt và xấu. Ví dụ, sự xuất hiện của một vận
động viên hay một ca sĩ nổi tiếng sẽ dẫn đến những phản ứng cuồng nhiệt ở
khán giả hâm mộ. Người có liên quan đến những vận động viên hay ca sĩ này
(bố mẹ, vơk chồng, con cái...) cũng sẽ thu hút thực sự chú ý của mọi người
và họ cũng có những cảm giác tương tự. Cũng như vậy, những người phạm
tội hay có hành vi xấu, bị những người xung quanh ghét bỏ thì những người
thân của họ cũng có cảm giác tương tự. Sự ảnh hưởng được tạo nên bởi cở
chế lây lan. Niềm vui hay nỗi buồn sẽ lan truyền từ người này sang người
khác và có tác động lẫn nhau.
Mỗi cá nhân đồng thời là thành viên của nhiều nhóm xã hội khác nhau.
Điều này cũng có nghĩa là cá nhân đồng thời chịu sự chi phối, sự tác động
của nhiều chuẩn mực! Các nhóm tồn tại tương đối độc lập vì chúng có những
mục đích hoạt động khác nhau. Nếu các giá trị và chuẩn mực của các nhóm
không đối lập nhau thì tạo điều kiện cho cá nhân phát triển một cách tương
đối thuận lợi. Ngược lại, nếu các nhóm có chuẩn mực trái ngược, thậm chí
xung đột nhau, thì sẽ làm cho cá nhân rơi vào trạng thái tự mâu thuẫn và
xung đột nội tâm xảy ra. Nếu xung đột không được giải quyết, "cái Tôi" bị ám
ảnh và có thể làm cho cá nhân gặp phải các tình huống bế tắc, không có lối
thoát. Nó tác động đến cấu trúc nhân cách và có khả năng làm thay đổi quan
niệm về "cái Tôi" vốn đã hình thành từ trước.
4. Các yếu tố có liên quan đến đặc điểm hệ thần kinh, tuổi, giới tính có
ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển "cái Tôi".
Nếu có khiếm khuyết về mặt thể chất tất sẽ ảnh hưỏng tới sự hình
thành "cái Tôi", ở trong chúng ta đã xem xét khởi nguồn xuất phát của "cái
Tôi". "Cái Tôi" được hình thành và phát triển theo lứa tuổi. Tuổi càng cao, con
người càng khó thích nghi với những biến động xã hội. Khả năng nhập vai bị
hạn chế bởi sự nặng động của chính mỗi người. Con người ít muốn tìm kiếm
những nhóm xã hội mới và muốn lựa chọn cho mình một môi trường sinh
hoạt ổn định. Tỷ lệ an bài là đặc trưng cho tuổi già và con người lúc này
thuờng quay trở về với vai trò theo ý muốn như khi còn nhỏ.
Bên cạnh dó, thái độ đối với bản thân cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến
hành vi của cá nhân. Nếu cá nhân cảm thấy tự hào về khả năng của bản thân
thì đó là nguồn động viên mạnh mẽ nhất cho người đó tự hoàn thiện mình. Cá
nhân có thể say mê làm việc hơn, tinh thần phấn chấn hơn, dẫn tới hiệu quả
lao động cao hơn. Ngược lại, cá nhân cảm thấy tự ti về mình dẫn đến chỗ bó
hẹp phạm vi giao tiếp và thu mình lại. Nếu như sự tự ti đó lại được những
người xung quanh đồng tình thì dễ dẫn đến chỗ làm tăng mức độ tự ti. Để
vượt qua được những mặc cảm này, cá nhân phải có nỗ lực, cố gắng của
chính bản thân, thêm vào đó là sự động viên, khích lệ của những người thân,
những người xung quanh và như vậy lòng tự tin mới được củng cố.
5. Kiểm soát xã hội được thực hiện thông qua việc xác định các chuẩn
mực, các giá trị và những chế tài kiểm soát việc thực hiện đó. Kiểm soát xã
hội sẽ hướng hành vi của các cá nhân vào các khuôn mẫu đã được xã hội
thừa nhận là đúng và cần phải làm theo, thông qua các thiết chế xã hội như
gia đình, chính trị, kinh tế, tôn giáo, giáo dục... Nhờ các chức năng kiểm soát
của các thiết chế nói trên, cá nhân sẽ phải tuân theo các chuẩn mực và giá trị
xã hội, các quy định đối với hành vi của mỗi công dân. I
Mỗi cá nhân tiếp nhận hệ thống kiểm soát xã hội thông qua quá trình xã
hội hóa cá nhân. Bằng những kinh nghiệm sống thực tích lũy từ gia đinh nhà
trường và các tổ chức xã hội, cá nhân sẽ tiếp nhận được những giá trị và
chuẩn mực của xã hội. Về phần mình, những giá trị và chuẩn mực này sẽ chi
phối hành vi cá nhân, điều chỉnh hành vi đó sao cho phù hợp và qua đó góp
phần tạo nên một xã hội tốt đẹp.
"Cái Tôi" thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử. Trong cộng đồng xã hội
nhỏ hẹp trước kia, khái niệm "cái Tôi" luôn bị lu mờ trước khái niệm gia đình
hay cộng đồng. Chúng ta quá rõ cảm giác "chúng ta" chiếm vị trí chủ dạo như
thế nào. Nói cách khác, mỗi cá nhân đều thuộc về một cộng đồng nhất dịnh,
còn bản thân người đó không có ý nghĩa gì đáng kể. Đặc biệt, trong xã hội
phong kiến ở nước ta trước kia, tính cộng đồng được thể hiện rất rõ nét. Nó
lấn át, nó cào bằng mọi cá nhân. Người ta chia ra một "mẫu người" chung
buộc các thành viên trong xã hội phải tuân theo. Đã là phụ nữ thì phải tuân
theo tam tòng, tứ đức. Nếu vi phạm những luật lệ đó đều bị trừng trị rất
nghiêm khắc.
Trong xã hội hiện đại "cái Tôi" được tự do phát triển và được kiểm soát
bởi các chuẩn mực, các giá trị và các chế tài. Ở đây, chúng ta phải đặc biệt
lưu ý đến vấn đề “lương tâm". Tuy rằng, "lương tâm" là một khái niệm – hết
sức chung chung, nhưng chúng ta nhận thức sâu sắc rằng chính "lương tâm"
là một công cụ đắc lực trong việc tự kiểm soát hành vi của mỗi cá nhân. Một
vấn đề nữa được đặt ra ở đây là, giữa lương tâm và trách nhiệm thì yếu tố
nào sẽ kiểm soát hành vi. Chúng ta phải đề cao, coi trọng cả hai. Có như thế
thì sự tự điều chỉnh hành vi của "cái Tôi" ở mỗi người mới thực sự có ý nghĩa.
Việc giáo dục con người phải được thực hiện đúng đắn ngay từ nhỏ. "Trong
thời đại ngày nay, "cái Tôi" đang trở thành đối tượng nghiên cứu rất quan
trọng. Nó đòi hỏi chúng ta phải quan niệm và giải quyết như thế nào cho
đúng? "Cái Tôi" ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân hay "cái Tôi" tự xoá hoàn toàn
“bản thân". Quá trình trau dồi kinh nghiệm sống, sự tự rèn luyện ở bản thân
mỗi người kết hợp với các công cụ kiểm soát xã hội sẽ có ảnh hưởng quyết,
định đến việc hình thành và phát triển "cái Tôi" ở con người Việt Nam chúng
ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nói rộng hơn là
chúng ta "vừa hết sức coi trọng sự thống nhất các giá trị nhân văn, nhân bản
của loài người, vừa hết sức bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
đóng góp vào tính đa dạng ngày càng phong phú của văn hoá thế giới... Tất
cả ở đây nói lên vấn đề con người và tâm lý con người, nhân cách con người,
trí tuệ con người, tiềm năng con người, nguồn lực con người. Từ một vấn đề
có tính chất khái quát cao trên đây, chúng ta thấy tầm quan trọng đặc biệt của
giáo dục trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn hiện
nay.
Phần 3. CÁC TIẾP CẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
A. CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH
GS. VS. PHẠM MINH HẠC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đến nay đã gần 50 năm kể từ ngày tôi bắt đầu học tâm lý học, vấn đề
nhân cách luôn là một vấn đề tôi rất quan tâm. Vấn đề nhân cách và phát triển
nhân cách, Vưgôtxki viết, là vấn đề tập trung cao nhất của toàn bộ tâm lý Học.
Khi học, đây là một trong những vấn đề hóc búa nhất, nào là đặt vấn đề này
dưới góc độ triết học, nào là xem xét nó trong bình diện sinh học, nào là
nghiên cứu nhân cách trong xã hội học, V.V.. Khi làm công tác giảng dạy có
lúc tôi đã nhận phụ trách bài giảng về chuyên đề này và biên soạn nó trong
giáo trình tâm lý học đại cương. Đó là vào những năm 60 của thế kỷ trước.
Nhớ lại thời đó thuật ngữ "nhân cách" còn ít người dùng lắm, có lẽ chỉ có ít
nơi, như Khoa Tâm lý - giáo dục Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hay Viện
Triết học là hay nói đến danh từ này với lòng mong ước khi nào thuật ngữ
này, hay nói chính xác hơn, vấn đề nhân cách, sẽ đi vào đời thường, để lý
luận gắn liền với thực tế, khoa học gắn liền với cuộc sống. Rất mừng, lòng
mong ước đó đang trở thành sự thực. Khi tiến hành nghiên cứu học sinh Bắc
Lý (tỉnh Hà Nam) hay trẻ em hư ở Trường Phổ thông Công nông nghiệp Thuỷ
Nguyên (Hải Phòng), và nhất là trong các chương trình khoa học công nghệ
cấp Nhà nước (KX07, 1991 - 1995; KIIXIICM, 1996 - 2000) phần nào tôi đã đi
vào chủ đề này, kết quả nghiên cứu bước đầu được: đúc kết trong bài
"Nghiên cứu con người và nhân cách con người" có in trong tập sách này.
Rất may mắn trong thời kỳ này (2001 - 2005), có một chương trình
khoa học công nghệ cấp Nhà nưốc KX- 05 về văn hoá, con người và nguồn
nhân lực, chương trình này có đề tài KX05-05 về nhân cách. Trong khuôn khổ
của đề tài này, tôi dùng một số nhà tâm lý học có dịp tiến hành thực nghiệm
theo phương, pháp NEO – Pi - R là phương pháp đang thịnh hành trên thế
giới, và đi sâu tìm hiểu lý luận tâm lý học về nhân cách. Lần này thực sự mới
có cơ hội đi vào lịch sử vấn đề, xem các nhà khoa học từ lúc khởi thuỷ nghiên
cứu vấn đề này đã có các cách tiếp cận vấn đề như thế nào, để xác định
nhân cách như là một trong các đối tượng nghiên cứu của tâm lý học, nói đơn
giản hơn, đã hiểu nhân cách như thế nào, nhân cách là gì, tất nhiên cả trong
khoa học lẫn trong đời sống.
Các tác giả Nga tìm hiểu lịch sử tâm lý chọc cũng chỉ mới phát hiện ra
là mãi đến đầu thế kỷ XX người ta mới đi vào nghiên cứu nhân cách chúng
như là một vấn đề khoa học tâm lý học. Ở Nga, các tác giả cuốn “Tâm lý học
nhân cách” (1982) viết: “Một trong những thành quả có ý nghĩa hơn cả trong
nửa đầu thế kỷ XX là phát hiện ra rằng có thể nghiên cứu nhân cách như là
một đối tượng nghiên cứu khoa họ. Đến nay có người còn đánh giá nhân
cách vẫn còn ở giai đoạn tập trung lại ở các triết lý chung. Theo tâm lý học
Nga, trong lĩnh vực tâm lý học nhân cách ấy được qua một số tác giả đại diện
cho các lý thuyết khác nhau sau đây.
1. Lý thuyết nhân cách của Uznadze (1886-1950)
2. Nhân cách trong luận điểm triết học – tâm lý học của Rubinstein
(1889-1960)
3. Lý thuyết nhân cách của Ananhiev (1907-1972)
4. Quan điểm của Kovaliov về nhân cách
5. Quan điểm của Platonov về nhân cách
6. Luận điểm của Miaxinev (1892-1973) về nhân cách
7. Cách tiếp cận nhân cách của A.N.Leonchiev (1903 - 1979).
Khi đi vào từng tác già trong số kể trên, khó tìm thấy một định nghĩa
rành mạch về nhân cách, cho nên ở đây nói về lý thuyết này, luận điểm kia là
nói tới cách tiếp cận đối với vấn đề nhân cách. Ví dụ, Uznadze đưa ra tiêu chí
để xác định nhân cách là ý thức, rồi chỉ ra rằng một đặc điểm của nhân cách
là ở động cơ, nhu cầu trước mắt, nhu cầu lâu đài. Từ đây thấy nhân cách là
một sự thể hiện tập trung cao tính tích cực của chủ thể, và cuối cùng phải dưa
ra phạm trù "cái Tôi" để nói tới nhân cách. Lý thuyết nhân cách của Uznadze
là sự vận dụng lý thuyết "tâm thế" vào vấn đề nhân cách.
Và tâm thế đi liền với các thái độ của nhân cách đối với bản thân, với
người khác và với các mẫu mực của xã hội gọi là "siêu nhân cách". Như vậy,
biểu hiện của nhân cách là hệ thống thái độ của con người với mọi thứ xung
quanh và với chính mình. Riêng tôi, trong quá trình nghiên cứu cũng đã đi đến
kết luận nhân cách chính là hệ thông thái độ.
Ananhiev đã lưu ý mọi người rằng chính Rubinstein đã đồng nhất khái
niệm nhân cách và khái niệm con người. Ananhiev đã xem xét vấn đề nhân
cách trong bình diện tâm lý học và trong bình diện nhân học triết học. Ông là
tác giả của bộ môn hiểu biết về con người, không gọi là nhân học.
(anthropology). Ông coi nhân cách là hệ thống tích hợp của con người, nhân
cách là hệ thống thái độ, tâm thế, động cơ, giá trị.
Ở Nga Kovalióv cũng được coi là mội người có công đầu trong nghiên
cứu tâm lý học nhân cách, nhất là vấn đề cấu trúc nhân cách: nhân cách bao
gồm khí chất, xu hướng (nhu cầu, hứng thú và lý tưởng) và năng lực. Ông là
một trong những tác giả đầu tiên phân biệt rõ ba khái niệm: quá trình tâm lý,
trạng thái tâm lý và thuộc tính tâm lý, và sự chuyển hoá giữa các quá trình,
trạng thái và thuộc tính này.
Platonov cũng chú ý nghiên cứu cấu trúc củả nhân cách. Ông gọi thành
phần của cấu trúc này là các phạm trù cuả các hiện t ượng tâm lý hay còn gọi
là các tiểu cấu trúc của nhân cách:
- Tiểu cấu trúc có nguồn gốc xã hội: xu hướng, thái độ, phẩm chất đạo
đức;
- Kinh nghiệm (tri thức, kỹ xảo, kỹ năng, thói quen);
- Đặc điểm cá thể;
- Tiểu cấu trúc có nguồn gốc sinh vật quy định (khí chất và các thuộc
tính cơ thể bệnh lý).
Đây là một cách hiểu nhân cách khá rộng, gần như bao gồm hầu hết
đời sông tâm lý của con người, gần với quan niệm nhân cách là đức và tài,
cộng với một số nét gọi là cá tính cùa từng người, trong đó có cả thái độ.
Đên đây cần nhận xét rằng, tất cả các tác giả nêu trên đều cho rằng
trong nhân cách nhận định phải có thành phần thái độ, mà tôi rất chú ý tới, có
thể từ đây ta sẽ hiểu được nhân cách là cái gì đó vừa nằm trong thế giới tâm
lý của từng người, vừa là cái gì đó tách khỏi thế giới đó để thực hiện vai trò
của nó đối với thế giới tâm lý nói riêng, với toàn bộ hoạt động của con người
nói chung. Cách tiếp cận của Minxisev là tập trung vào định nghĩa nhân cách
là tổ hợp các thái độ bao gồm với thế giới. Có người gọi tâm lý học của
Miaxisev là tâm lý học thái độ bao gồm các loại thái độ sau:
1. Thái độ đánh giá;
2. Hứng thú như là một thái độ trí tuệ đặc biệt;
3. Thái độ đối với hoạt động.
Các thái độ này đều có tính hai măt: tích cực và tiêu cực, phải và trái,
âm và dương, mâu thuẫn và hai hòa, tiềm tàng và hiện hữu, nhất thời và
thường trực, phát triển và suy thoái, bình thường và bệnh lý.
Ở đây tới muốn dừng lại ở "tâm lý học thái độ" của Minxisev mà ttôi rất
tâm đắc, vận dụng nó vào, tâm lý học nhân cách. Tuy không đi vào nhân học
triết học để giải quyết vấn đề tâm lý học nhân cách như Annnhiev, nhưng
Miaxisey lại tách "thái độ đánh giá" như một phạm trù rất quan trọng trong hệ
thống các thái độ. Ngày nay, đi vào nghiên cứu con người trong điều kiện xã
hội nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, tôi mới thấy phải vận dụng
phương pháp tiếp cận giá trị của giá trị học (axiology) và kết hợp với phương
pháp tiếp cận hoạt động vào nghiện cứu tâm lý học nhân cách. Từ đó, nhất là
sau năm 2000, khi tôi có điều kiện nối lại giao lưu với các nhà tâm lý học Nga,
nơi sinh ra trường phái tâm lý học hoạt động, mới thấy ở Nga cũng chia
nghiêu cứu nhân cách đi theo phương hướng đó. Như Ansưphorova đã gọi
phương pháp tiếp cận này là phương pháp tiếp cận chức năng của nhân
cách: nhân cách là cái gì đó đứng ra tổ chức cuộc sống - đường đời và có thể
gọi là các thái độ của con người đối với thế giới, là thái độ giá trị trong khi giải
quyết các vấn đề của cuộc sống đặt ra cho mình, tức là phải tìm cái gì có ý
nghĩa, có giá trị sống còn đối với bản thân mình. Cách tiếp cận như thể hiện
nay ở Nga gọi là cách tiếp cận nhân cách đối với nhân cách do C.Rogers, nhà
tâm lý học Mỹ nổi tiếng, đề ra từ giữa thế kỷ trước, thâm chí có người nói là
bây giờ ta chuyển từ “chủ nghĩa nhân văn trừu tượng” sang “chủ nghĩa nhân
văn hiện thực”.
II. CÁC LÝ THUYẾT TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH Ở TÂY ÂU VÀ MỸ
Như ở Nga, ở Mỹ và chắc các nước khác cũng vậy, khi bước vào thế
kỷ XXI, trong nhiều lĩnh vức, người ta đều nhìn lại thế kỷ qua xem đã có
những thành tựu gì. Tìm trên mạng Internet Yahoo, chúng tôi có được trong
tay cuốn "Những lý thuyết nhân cách" của Tiến sĩ c.George Boere, Khoa Tâm
lý học Trường Đại học Tổng hợp Shippensburg, xuất bản năm 1997. Đây là
một tài liệu tổng kết khá công phu, có thể lấy làm một căn cứ tham khảo, xem
ở Mỹ và phương Tây hiện nay đã liệt kê ra các lý thuyết tâm lý học nhân cách
nào.
Danh sách cụ thể như sau: Sigmund Freud (1856 – 1929); Anna Freud
(1895 - 1982); Erik Erikson (1902 - 1994); Carl Jung (1875 - 1961); Otto Rank
(1884 - 1939); Alfred Adler (1870 - 1937); Karen Horney (1885 - 1952); Albert
Ellis (1913 -); Erick Fromm (1900 - 1980); B.F.Skinner (1904 - 1990); Hans
Eysenck (1916 - 1997); Albert Bandura (1925-); Gordon Allport (1897 - 1967);
George Kelly (1905 - 1957); Snygg va Combs (1904 - 19(57); Abram Maslow
(1908 - 1972); Carl Rogers (1902 - 1987); Ludwig Binswager (1881 - 1906);
Viktor Frankl (1905 - 1997); Rollo May (1909 - 1994); Jean Piaget (189G -
1980).
Tác giả Boere cho rằng đến nay chưa có khoa học về nhân cách, mà
mới chỉ có các lý thuyết về nhân cách, mặc dù trong tâm lý học đã có các
trường phái rõ rệt, như tâm lý học Freud, tâm lý học hành vi, tâm lý học nhân
văn, tâm lý học hiện sinh, về các dòng tâm lý học này tôi đã có dịp trình bày
trong các cuốn sách "Hành vi và hoạt động" (1977) và "Nhập môn tâm lý học"
(1980). Ngoài ra, trong các tác phẩm này, tôi cũng đã nói đến dòng tâm lý học
duy tâm chủ quan, tâm lý học Ghestan. Tất nhiên, trong đó ít nhiều đã nói đến
vấn đề nghiên cứu con người và nhân cách con người. Ở đây, tôi muôn giới
thiệu một cách tổng quát về nghiên cứu nhân cách ở Mỹ và Tây Âu, để từng
bước tìm hiểu bản chất của vấn đề nghiên cứu nhân cách nói chung, tìm hiểu
nội hàm khái niệm nhân cách nói riêng.
Các lý thuyết nhân cách nêu ra ở đây được đưa vào ba dòng tâm lý
học, được gọi là ba lực lượng:
- Lực lượng thứ nhất - Tâm lý học phân tích: S.Freud, A. Freud,
Erikson, Jung, Adler, Horney, Fromm.
- Lực lượng thứ hai - Tâm lý học hành vi: Eysenck, Skinner, Bandura.
- Lực lượng thứ ba - Tâm lý học nhân văn, bao gồm cả tâm lý học hiện
sinh: Maslow, Rogers, Kelly, Frankl.
Theo các tác giả nói trên, ngày nay ta có thể nêu một số đặc điểm của
lý thuyết về nhân cách như sau:
Ý thức và vô thức là tiêu chí do Freud, người có đóng góp nhiều nhất,
tập trung vào các mặt khác nhau của ý thức và vô thức, như mặt sinh vật, mặt
xã hội, mặt cá thể của vô thức và ý thức. Xét về mặt sinh vật của vô thức và ý
thức, có bản năng, khí chất và các "mặc cảm": cái này gọi là "cái Nó". Xét về
mặt vô thức xã hội - cái mà trong lý thuyết Freud gọi là "cái siêu Tôi", bao gồm
ngôn ngữ, những gì xã hội cấm đoán, tập tục văn hoá, các giá trị. Xét về mặt
vô thức và ý thức cá thể - cái mà trong thuyết Freud gọi là "cái Tôi", tất cả
những gì ta học tập được, giá trị của bản thân, mọi thói quen, cách nhìn nhận
của bản thân (cách cảm, cách nhận biết, cách suy nghĩ), nói tóm lại, "tâm lý
riêng" của mỗi người.
• Phân định lứa tuổi: Có cách chia ra thời kỳ thai nhi, tuổi niên thiếu,
tuổi trưởng, thành. Và cũng có thể chia ra tuổi thơ, tuổi niên thiếu, tuổi già.
Đáng lưu ý là ở đây người ta cho rằng, trong thời kỷ thai nhi là sự phát triển
sinh vật, đến thời kỳ trẻ em, phát triển sinh vật chuyển thành sự phát triển cái
tôi, tiếp đó đến tuổi thiếu niên là thời kỳ phát đạt, sau đến tuổi trưởng thành là
sự phát triển xã hội.
Các tác giả còn đưa ra một cách hiểu khác, trực tiếp đề cập vấn đề khi
nào con người có nhân cách:
Trong thời kỳ thai nhi và tuổi thơ, con người ta phát triển khí chất;
Trong thời kỳ tuổi thơ, con người ta phát triển nhân cách (các thói
quen);
Trong thời niên thiếu và trưởng thành, con người ta phát triển tính cách.
Khí chất được coi là một phần của nhân cách hay tính cách mà do ta tự
tạo nên, hợp bởi năm yếu tố lớn do Eysenck đề xuất:
1) Độ ổn định xúc cảm.
2) Hướng ngoại – hướng nội.
3) Tính ý thức.
4) Tính dễ thương.
5) Tính cởi mở.
• Xúc cảm được coi là một điểm rất được quan tâm trong các lý thuyết
về tâm lý học nhân cách: thích hay không thích, trái ý hay vừa lòng, đau buồn
hay lạc thú, trong đó đưa ra các mức độ khác nhau: lo lắng, sợ hãi, tội lỗi, tiếc
rẻ, buồn bực, thương đau, chán nản, giận dỗi, xâm kích, thù địch.
• Động cơ là điểm trung tâm trong các lý thuyết tâm lý học nhân cách.
Boere phân định: động cơ sinh vật, phần lớn là có tính bản năng, như các nhu
cầu về không khí, có nước uống, có thức ăn; động cơ xã hội được xây dựng
trên các động cơ sinh vật, nhưng chủ yếu phụ thuộc vào văn hóa, hoàn cảnh
xã hội và học tập; động cơ cơ thể dựa vào kinh nghiệm cá nhân, các kỹ xảo;
động cơ cao cấp là ý thức, tạo ra ý nghĩa cho cuộc sống cá nhân, bao gồm
động cơ am hiểu, có chuyên môn, hoàn thiện bản thân, động cơ ích kỷ. Tất cả
các động cơ này đều nhằm mục tiêu thể hiện, khẳng định bản thân con người
mà Rogers, Jung và Horney gọi là tự thể hiện bản thân con người.
Như vậy là Boere đã đi vào cấu trúc (thành phần) của nhân cách, và
phần nào cả nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển nhân cách. Ông
xuất phát từ 10 nguyên tắc, tiêu chí sau đây:
1. Ý thích tự do hay là quyết định luận
2. Tính độc đáo hay tính toàn thể
3. Động cơ sinh lý học hay động cơ mục đích
4. Động cơ ý thức hay động cơ vô ý thức
5. Thiên nhiên hay tự tạo
6. Có thời kỳ phát triển hay không
7. Quyết định luận văn hóa hay văn hóa tiền nghiệm
8. Nhân cách hình thành từ sớm hay muộn
9. Đánh giá các bệnh tâm lý như thế nào và
10. Lạc quan hay bi quan trong cách hiểu bản chất con người.
Đây đúng là một loạt quan điểm triết học có thể vận dụng vào các tìm
hiểu vấn đề tâm lý học nhân cách, mà ta sẽ tìm hiểu dần.
Các tiếp cận của Freud
Người đầu tiên đến với vấn đề này từ những năm 1920 là S.Freud. Nội
dung cơ bản của học thuyết này, nhất là cấu trúc nhân cách ("cái Nó" - "cái
Tôi” - "cái siêu Tôi") có thể tìm thấy trong cuốn "Nhập môn tâm lý học". Trong
cuốn sách này có bài giảng của Freud về nhân cách, qua đó có thể hiểu khái
niệm nhân cách do ông đề xuất.
Một thành tựu nổi bật trong học thuyết Freud là đưa ra được cấu trúc
tâm lý của con người bao gồm: "Cái Nó" ("cái trung tính"), "cái Tôi" và "cái
siêu Tôi". Ba cái này, được Freud coi là ba vương quốc, ba lĩnh vực, ba vùng
miền của tâm lý học, hợp lại thành "bộ máy tâm lý của nhân cách", như Freud
đã khẳng định; tất nhiên, trong đó có các mối tác động qua lại giữa các vùng
miền, giữn các lĩnh vực, giữa các vương quốc, cần hết sức chú ý lên các
động thái của các vùng miền này. Từ "bộ máy tâm lý của nhân cách" đã tạo
nên nhân cách. Ta xem quá trình Freud đi đến hiểu nhân cách như thế nào,
tức là xem quá trình "bộ máy tâm lý của nhân cách" tạo nên cái được coi là
nhân cách như thế nào?
Phân tích tâm lý theo Freud bắt đầu bằng phân tích chứng bệnh xa lạ
nhất với "thành tố tôi" trong tâm hồn. Chúng bệnh này khởi xuất từ cái đã bị
chèn ép, đồng thời là đại diện của cái tôi, nhưng là cái bị chèn ép đối với cái
tôi – đấy là một miền xa lạ, là biên giới bên trong, và cũng là một thực tiễn, là
biên giới bên ngoài. Từ chứng bệnh ta đi đến cái vô thức, đến các đam mê,
đến tính dục. Có những ý kiến phản đối, cho rằng con người không chỉ là tồn
tại tính dục, mà còn có ý tưởng cao đẹp hơn.
Ngay từ đầu có người cho rằng con người phải chịu đau khổ vì mâu
thuẫn giữa yêu cầu của cuộc sống đam mê và sự chống đối lại đam mê -
chúng tôi, Freud viết, không bao giờ bỏ qua mâu thuẫn này tạo ra một vùng bị
chèn ép, chống đối chệch chuẩn có một lực riêng và ý hướng của cái tôi -
vùng này chính là "cái Tôi" trong tâm lý học thường đã nói đến. Chúng tôi
chuyển chú ý từ cái đã bị chèn ép sang cái đang bị chèn ép - đây là "cái Tôi".
Nghiên cứu "cái Tôi" - cái tôi riêng nhất của mỗi chúng ta; nó thực sự là
chủ thể. Nó có thể là khách thể nghiên cứu được không? Có thể được: tôi tự
lấy tôi làm khách thể, tự tôi đối với tôi như với các khách thể khác, tự qunn
sát mình, tự phê phán bản thân, v.v.. Thế là trong tôi có một cái tôi này đối lại
với một cái tôi khác, tức là bắt đầu có một thái độ của cái này với cái kia. Tôi
tự phân chia mình ra, ít nhất là phân chia theo chức năng của mình, thay đổi
theo thời gian. Ở đây chú ý tới nhận xét có sự "phân chia mình ra", tức là có
các vùng miền khác nhau và mối quan hệ giữa các vùng miền. Ta vứt một vật
thuỷ tinh xuống sàn, nó vỡ ra theo các vết có thể tạo nên rạn nứt theo cấu
trúc của vật thuỷ tinh ấy - người bệnh tâm thần cũng có cấu trúc tiềm tàng các
vết rạn nứt tương tự. Khi họ xoay lưng lại với thực tiễn bên ngoài, thì họ biết
sâu hơn về thực tiễn tâm lý bên trong mà ta là người bình thường không hiểu
được. Ta gọi những người đó là người bị bệnh ám ảnh bị quan sát theo dõi
(Beobachtungswahn). Người bệnh bị ám ảnh bị quan sát theo dõi tách phần
bị quan sát trong tôi khỏi "cái Tôi" - việc tách biệt này có thể là một nét có tính
quy luật trong cấu trúc của cái Tôi, ta phải nghiên cứu đặc điểm củả vùng tách
biệt này. Chỗ bị quan sát, dõi theo này chuẩn bị cho một sự lên án và trừng
phạt, đồng thời có một chức năng nữa mà ta gọi là lương lâm. Lương tâm
chính là cái phần tôi tự tách ra khỏi cái tôi và cái đó dễ chống lại tôi nhất. Tôi
cảm thấy định làm một cái gì đó mà có thể đem lại khoái cảm cho tôi nhưng
tôi lại không làm vì lương tâm không cho phép. Hoặc là chạy theo khoái cảm,
tôi làm một cái gì đó trái với lương tâm, thì sau cử chỉ sai lầm đó lương tâm
tôi trừng phạt tôi, quở mắng tôi, tôi cảm thấy xấu hổ. Lương tâm là một vùng
đặc biệt do tôi tự phân tách từ cái tôi ra, nó là một trong những chức năng của
vùng này còn tự quan sát như một tiền đề cần thiết của hoạt động lên án của
lương tâm là một chức năng khác của vùng này. Vùng này được gọi là “siêu
tôi” trong tôi, ta đi dần tới cách hiểu nhân cách là mình tự quan sát về mình,
tách từ tôi thành “cái Tôi” và “cái siêu Tôi”, cái sau quan sát cái trước, tỏ thái
độ đối với cái trước.
"Cái siêu Tôi" có những yêu cầu đạo đức rất nghiêm ngặt đối với "cái
Tôi" yếu ớt nằm trong sự điều khiển của "cái siêu Tôi". Từ đây ta có thể hiểu
rằng tình cảm, lỗi lẫm là sự biểu hiện của sự căng thẳng giữu "cái Tôi" và "cái
siêu Tôi", ở người bệnh tâm thần thường hay nói tới đạo đức (luân lý) một
cách định kỳ. Sau một số tháng nhất định nó qua đi, không nói tới đạo đức
nữa, “cái siêu Tôi” không lên án nữa. “cái Tôi” được hồi phục và con người lại
sống bình thường đến cơn thần kinh sau. Khi say rượu cảm thấy khoái chí,
“cái siêu Tôi” hết hiệu lực và hòa nhập vào “cái Tôi”.
Cái siêu Tôi là lương tâm được hình thành như thế nào? Kant (nhà triết
học Đức) ví lương tâm với bầu trời đầy sao. Bầu trời thì vĩ đại, nhưng lương
tâm thì trời chưa cho mấy và sơ sài lắm, nên ta chưa nói gì được mấy về
lương tâm, mà mới chỉ khẳng định được rằng lương tâm là trời cho. Nết
lương tâm cũng là cái gì đó ở trong ta, thì đó không phải là cái khởi nguyên –
đó là cái gì đó hoàn toàn đối nghịch với cuộc sống tình dục, cuộc sống này là
cái đừng ở đầu ngọn nguồn của cuộc sống, sau đố không thêm gì. Nhưng
như mọi người biết, trẻ em không có ức chế nội tại chống lại các mong muốn
được thỏa mãn. Vai trò mà sau này “cái siêu Tôi” đảm trách, lúc đầu do một
lực lượng bên ngoài – uy tín của cha mẹ thực hiện, do trẻ em có tình yêu cha
mẹ và sợ cha mẹ trừng phạt. Trẻ rất sợ bị mất tình yêu này. Có sự sợ hãi này
thật, rồi sau mới có cái sợ đối với lương tâm – cái sợ này chính là “cái siêu
Tôi” và lương tâm tạo ra. Cái sợ cha mẹ là quan hệ bên ngoài giữa trẻ và cha
mẹ, được chuyển vào trong, tạo thành “cái siêu Tôi” đứng đằng sau “cái Tôi”.
Ta rất chú ý tới quá trình chuyển từ ngoài vào trong là một quy luật tâm lý rất
quan trọng đã được chú ý từ đây.
"Cái siêu Tôi" có uy quyền; làm việc và có phương pháp của khẩu độ
(khoảng cách) cha mẹ. “Cái siêu Tôi” tiếp thu tính nguyên tắc cứng rắn và
nghiệm túc của cha mẹ, thực hiện chức năng cấm đoán và trừng phạt. "Cái
siêu Tôi" chỉ đạo và đe doạ "cái Tôi" giống như cha mẹ đối với con cái trước
đó.
Quan hệ con cái - cha mẹ chuyển thành "cái siêu Tôi", quá trình chuyển
hóa này được gọi là quá trình đồng nhất (Identifizierung) làm "cái Tôi" này
đồng nhất với "cái Tôi" khác: "cái Tôi" này biển hiện như "cái Tôi" kia, bắt
chước; "cái Tôi" kia. Có thể gọi quá trình đồng nhất đó là quá trình nhân cách
này nhập thân vào quá trình nhân cách khác. Có thể coi "cái siêu Tôi" là cái
đồng nhất với quan hệ cha mẹ, cấu tạo mới này gắn liền với mặc cảm ơđip.
"Cái siêu Tôi" là con đẻ của mối quan hệ tình cảm này từ thuở nhỏ. Khái niệm
"cái siêu Tôi" mô tả quan hệ cấu trúc thực, chứ không phải cá nhân hoá cái
trừu tượng được gọi là lương tâm. "Cái siêu Tôi" có một chức năng nữa - kẻ
mang cái tôi - lý tưởng - đây là thước đo bản thân, cái vươn tới. Uy tín của
cha mẹ, thầy cô giáo, các mẫu lý tưởng có tác dụng tạo nên "cái siêu Tôi".
Sau này khái quát lên có thể nói "cái siêu Tôi" là đại diện của "cả xã hội". Dần
dần, mặc cảm ơđip bị "cái siêu Tôi" thay thế: ảnh hưởng của cha mẹ tới trẻ
lúc đã lớn, có tác dụng hình thành tính cách.
"Cái siêu Tôi" là tự quan sát, lương tâm và chức năng lý tưởng. Freud
khẳng định "cái siêu Tôi"... "là kẻ mang truyền thống, tất cả các giá trị từ xa
xưa để lại qua các thế hệ và đang tồn tại hiện nay", từ đây hiểu được hành vi
xã hội không đơn giản là thượng tầng của các quan hệ kinh tế của hệ tư
tưởng, mà còn là cả quá khứ, các truyền thống - độc lập với quan hệ kinh tế.
"Cái siêu Tôi" là cái lớp cao nhất trên bề mặt của bộ máy tâm lý, là đỉnh cao
của tâm lý học về cái tôi.
Như vậy là "cái siêu Tôi" được tách từ “cái Tôi”, còn “cái Tôi” được tách
từ “cái Nó” (“cái trung tính”) ra, tức là “cái siêu Tôi” cũng có điểm xuất phát từ
“Cái Nó” mà ra cả. “Cái Nó” là các “cái sinh vật” – các bản năng trong con
người, được coi là “cái vô thức”. “Cái Tôi” và “cái siêu Tôi” đều được coi là
“cái có ý thức”, nhưng vì nó có điểm xuất phát từ “cái trung tính”, cho nên cả
hai đều có “cái vô thức”. Freud khẳng định: “Toàn bộ hỳ thuyết phân tâm học
được xây dựng trên sự công nhận có sự chống đối giữa vô thức và ý thức,
làm cho cái vo thức thành có ý thức”. Vai trò của nhân cách chính là ở chỗ
này. Giữa vô thức và ý thức có tiềm thức là ý thức ở dạng tiềm tàng. Trong
“cái Tôi” và “cái siêu Tôi” đều có mặt của ý thức, nhưng như Freud nhận xét,
có ý thức trong một thời gian ngắn, sau lạ thành ở dạng tiềm tàng, từ đây có
thể chuyển xuống “không ý thức” và cũng có thể chuyển lên “có y thức”. Tâm
lý học phải rất chú ý tời các mối quan hệ cơ động (động thái) này, theo cả hai
chiều, tahm gọi là chuyển lên có ý thức và chuyển xuống vô thức. Nguyên tắc
hoạt động của “Cái Nó” (“cái trung tính”) là “Cái sinh vật” theo nguyên tắc thỏa
mãn, tức là nó không biết đến “Cái Tôi” và nó bị “cái siêu Tôi” là “cái xã hội”,
theo nguyên tắc, chèn ép, kiểm duyệt, không cho “cái Nó” và “cái siêu Tôi”,
cho nên luôn luôn có mâu thuẫn giữa vô thức và ý thức, nhiều khi, như Freud
nhận xét, các quá trình xảy ra trong tâm hồn là vô thức trong nghĩa động thái
của nó. Động thái theo hướng nào - tuỳ thuộc vào nhân cách. Trong bài giảng
thứ 31 đang trích ở đây, Freud nói: Nhân cách phải cố sức đưa chúng ("cái
Tôi" và "cái siêu Tôi") lên bình diện có ý thức. Dòng vô thức - tiềm thức - ý
thức là một dòng chảy liên tục, như trên đã nói, trong sự giằng co theo các
hướng khác nhau. Nhân cách là quá trình tách từng miền trong ba miền tâm
hồn, tức là tạo được hệ thống thái độ giữa các vùng miền này theo, hướng
làm cho "cái Tôi”- được củng cố, thắng nổi "cái Tôi" và độc lập hơn với "cái
siêu Tôi", Freud kết luận như vậy. Ở đây cũng phải nói thêm về "cái Tôi" mà
Freud có nói tới trong bài giảng này. Freud nói, trong "cái Tôi" có quá trình
tổng hợp, khái quát, thống nhất, tức là có tư duy như ta thường nói. Hởn thế
nữa, ông còn nói, nét đặc trưng của "cái Tôi" là đam mê, rồi còn có cả thiện
chí nữa. Như thể là "cái Tôi" chỉ ra cả một miền suy nghĩ, hứng thú, tình cảm,
tức lá có nội dung của thái độ của con người đối với cái này hay đối với cái
kia, ở trong ta và ở ngoài ta.
Cách tiếp cận của L.X.Vưgôtxki
Khi điểm đến các tác giả Nga ở trên ta thấy không có Vưgôtxki. Nhưng
theo chúng tôi nghiên cứu, người đầu tiên ở Nga trong thế kỷ trước, từ cuối
những năm 20, đầu những năm 30, đã tìm hiểu xem nhân cách là gì chính là
Vưpôtxki. Về tâm lý học nói chung của Vưgôtxki, có thể xem trong cuốn "Tâm
lý học Vưgôtxki", tập I, trong đó có đề cập vấn đề tâm lý học nhân cách. Bây
giờ ta tìm hiểu kỹ xem Vigôtxki đã đến với vấn đề nhân cách như thế nào, qua
chương 15 trong tác phẩm "Lịch sử phát triển các chức năng tâm lý cấp cao".
Đây là chương kết có tiêu đề "Những con đường tiếp tục nghiên cứu. Sự phát
triển nhân cách và thế gới quan của trẻ em”.
Trong chương này, tác giả đã vẫn dụn lý thuyết lịch sử - văn hóa vào
xác định nội hàm của khái niệm nhân cách. Ông viết: “… lịch sử phát triển văn
hóa của trẻ đưa chúng ta đến lịch sử phát triển nhân cách", nói cụ thể hơn, sự
phát triển nhân cách và thế giới quan của trẻ chính là sự phát triển văn hoá.
Sự phát triển văn hóa nói ở đây là quá trình hình thành các chức năng tâm lý
cấp cao: từ trí nhớ trực tiếp lên trí nhớ gián tiếp, từ chú ý không chủ định lên
chủ ý có chủ định, từ dếm bằng que tính (hay hạt ngô) lên tính nhẩm bằng số,
tư duy trừu tượng, hình thành khái niệm... Quá trình hình thành này gắn liền
với quá trình lĩnh hội, qua trình học tập, quá trình tiếp thu các tri thức, kỹ
năng, V.V., gọi một cách khái quát là các kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm xã
hội ("kinh nghiệm kép") và chuyển thành các kinh nghiệm của bản thân. Các
kinh nghiệm của bản thân được coi là các "công cụ tâm lý" - tức là dùng
những cái này để tác động lên hành vi, lên các quá trình tâm lý của chính bản
thân mình hay tâm lý của người khác: thông qua hạt ngô để điều khiển trí nhớ
hay tư duy, dùng một câu chữ để điều khiển quá trình chú ý... tạo nên các
chức năng tâm lý cấp cao - tập hợp hệ thống các chức năng này gọi là "hành
vi văn hoá" khác biệt với sự phát triển theo tuyến tự nhiên (sinh vật). Như vây,
trong quá trình phát triển tâm lý ở con người, khoảng cuối tuổi thiếu niên, hình
thành nên một khả năng tự điều khiển các hiện tượng tâm lý của bản thân mà
Vưgôtxki gọi là "cái tổng hợp tâm lý bao nhất". Đó chính là quá trình hình
thành nên "cái Tôi" trong tôi: nắm lấy cán công cụ tâm lý chứa đựng trong văn
hoá của xã hội chuyển thành các công cụ tâm lý của bản thân để điểu khiển
bản thân, tức là tạo nên các thái độ của mình với chính bản thân mình. Tập
hợp các thái độ này thành cái tổng hợp tâm lý cao nhất, tạo nên cái nhìn
nhận, cốt đánh giá, cái ứng xử của từng cá thể. Đó chính là nhân cách, và vì
vậy nhân cách được Vưgôtxki gọi là thế giới quan: thái độ văn hoá đối với thế
giới bên ngoài, với những người khác, với bản thân. Ông cũng nhắc tới vai trò
của xúc cảm và đam mê trong hệ thống thái độ của bản thân - trong nhân
cách.
Cách tiếp cận của X.L.Rubinstcin
Tìm hiểu qua một tác phẩm nổi tiếng của Rubinptoin lúc đầu mang tên
"Cơ sở của tâm lý học" xuất bản năm 1935, lần thứ hai với đầu đề “Cơ sử
tâm lý học đại cương”. năm 1046, tức là sách viết phản ánh những kết quả
nghiên cứu từ cuối những năm 20 - đầu những năm 30 thế kỷ trước gần với
thời gian Freud vầ Vưgôtski nghiên cứu vấn đề tâm lý nhân cách. Nhưng
khác với tác giả này, trong công trình lớn của mình, với chương "Xu hướng
của nhân cách" và chương "Tự ý thức của nhân cách và đường đời",
Rubinstein đi từ các phạm trù "tinh thần", "ý thức", "chủ thể"... đến phạm trù
nhân cách, coi nhân cách là các trải nghiệm và đi vào vấn đề hình thành cà
phát triển nhân cách trong hoạt động. Rubinsyein đã nhấn mạnh tính chất đặc
thù của riêng từng nhân cách, nói lên xu hướng riêng, bao gồm ý hướng, ý
muốn của từng người, năng lực của từng người, bản tính của nó – nội dung
này gắn liền với cái gọi là ý thức của chủ thể và các thái độ: thái độ đối với
thế giới xung quanh thái độ đối với người khác và thái độ đối với bản thân.
Rubinstein coi nhân cách là bộ máy điều chỉnh toàn bộ hệ thống thân thể con
người và con người nói chung, gắn liền với khái niệm "đường đời".
Trong hai chương vừa dẫn ra ở đây, Rubinstein không đi vào nghiên
cứu nhân cách được nảy sinh trong con người như thế nào, trong một cấu
trúc tâm lý của con người có một bộ phận nào được coi là nhân cách của con
người đó, mà đi từ một nhận xét triết học rằng toàn bộ tâm lý học về con
người được coi là tâm lý học nhân cách, coi tất cả các hiện tượng lâm lý
được mô tả trong tâm lý học đại cương đều diễn ra trong nhân cách và đều
phụ thuộc vào nhân cách. Toàn bộ sự phát triển của các hiện tượng tâm lý
đều phụ thuộc vào sự phát triển của nhân cách. Nhân cách ở đây được hiểu
là các đọc điểm cá thể riêng của từng người. Nhân cách cũng dược hiểu là
khả năng con người điều khiển các quá trình hay thuộc tính tâm lý của bản
thân, hướng chúng vào giải quyết các nhiệm vụ đặt ra cho bản thân. Từ đó,
muốn hiểu nhân cách là gì, phải xem con người mang nhân cách ấy có xu
hừớng gì (mong muốn cái gì? động cơ nào?), có khả năng đáp ứng mong
muốn đó không (vấn đề năng lực), vấn đề nghĩa và ý của cuộc đời, của từng
công việc. Từ đây Rubinstein đến rất gần với cách tiếp cận của Uznadze về
nhân cách, tức là ông cũng thấy trong nhân cách có các thành phần tâm lý gọi
là hứng thú, sự đam mê, tâm thế tạo nên các xu hướng, lý tưởng của nhân
cách.
Trong chương XX của "Cơ sở tâm lý học đại cương", Rubinstein đã chỉ
ra sự cần thiết phải đi vào tìm hiểu khái niệm "cá thể" để hiểu khái niệm nhân
cách. Ông viết: nhân cách là "chủ thể cụ thể, lịch sử, sống động". Rất tiếc ông
mới dừng ở dó, không lý giải từ chủ thể đến nhân cách như thế nào. Đó là
nhiệm vụ của những người đi sau. Trong trang sách đang trích dẫn có một tư
tưởng quan trọng khác của Rubinstein giúp chúng ta đi đến cách tiếp cận với
tâm lý học nhân cách.
"Con người là một nhân cách - Rubinstein viết - chỉ khi nào nó tách khỏi
thiên nhiên, và nó có thái độ đối với thiên nhiên và với những người khác,
đúng như là thái độ, tức là chừng nào nó có ý thức”. Quá trình hình thành
nhân cách chính là quá trình hình thành ý thức và thái độ như là hai thành tố
tạo nên nhân cách. Ông đã chỉ ra rằng nghiên cứu tâm lý học nhân cách là
nghiên cứu sự tự ý thức của nhân cách, nghiên cứu "cái Tôi" như là chủ thể
nắm lấy tất cả cái gì con người làm ra, có trách nhiệm của bản thân đối với tất
cả các sản phẩm vật chất và tinh thần đối với tất cả các sản phẩm vật chất và
tinh thần mà mình tạo ra. Rubinstein cũng nói đến nhân cách như là bộ mặt
của từng con người.
A.N.Leonchicu về tâm lý học nhân cách
Trong tác phẩm "Hoạt động - Ý thức - Nhân cách" của Leônchiev, như
tên cuối sách đã chỉ ra có ba phầồn, trong đó có một phần chuyên bàn về
nhân cách: Chương V với nhan đề "Hoạt động và nhhân cách", thực chất nói
về mối quan hệ giữa phạm trù hoạt động và phạm trù nhân cách, chưa đi sâu
vào nội hàm của khái niệm nhân cách. Mở đầu A.N.Leonchiev khẳng định
nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học, như triết học, sử học,
xã hội học, nhân chủng học. Ông cũng điểm qua một vài lý thuyết coi nhân
cách như là "một thể thống nhất có một không hai nào đó", nhân cằch là "ông
chủ của các chức hăng tâm lý" (James) hoặc nhân cách là "cái quy định các
hành vi và ý nghĩ” (G.Allport), nhân cách đồng nghĩa với đặc điểm cá nhân, có
tính, với thái độ đối với mọi người.
Tác giả đi sâu vào một số cách tiếp cận nghiên cứu nhân cách:
1. Cách tiếp cận sinh vật hóa nhân cách mà điển hình là học thuyết
Freud như trên đã trình bày;
2. Cách tiếp cận văn hoá, nhân chủng học (Margaret Mead): hệ thống
của nhân cách chính là hệ thống văn hoá đã được cá thể hoá. Leonchiev cho
rằng tâm lý học quan tâm đến cá nhân với tư cách là nhân cách, còn nền văn
hoá dù có tồn tại dưới hình thức nhân cách hóa, nó vẫn chỉ là đối tượng của
sử học, xã hội học chứ không phải là đối tượng của tâm lý học. Tuy vậy, cũng
phải công nhận rằng nhân cách ở con người có "cơ sở" chung mà ta gọi là
kiểu nguyên thuỷ chung của loài người, có thể bộc lộ ra tính dân tộc, nhóm
tộc người, giai cấp trong nhân cách của từng con người.
Leonchiev đưa ra một cách tiếp cận coi nhân cách là một cấu tạo tâm lý
mới được hình thành trong các mối quan hệ sống của cá nhân, do hoạt động
của người đó cải biến đi mà thành. Ông khẳng định bản chất xã hội - lịch sử
của nhân cách: nhân cách lần đầu tiên nảy sinh ra trong xã hội, con người
bước vào lịch sử (và đứa trẻ bước vào cuộc sống) chỉ mới là một cá thể, cá
thể này trở thành nhân cách khi nó là chủ thể của các quan hệ xã hội.
Nhân cách là một sản phẩm tương đối muộn của sự phát triển xã hội -
lịch sử và sự tiến hóa. Tác giả phân định rõ con người với tư cách là cá thế
người với con người với tư cách là nhân cách, biểu hiện tính chỉnh thể củả
chủ thể cuộc sống. Cá thể phải thành chủ thể, tức là phải có một quá trình
phát triển thì mới thành nhân cách, nói theo C.Mác, nhân cách được “sản
xuất ra", tương tự như ý thức được sản xuất ra, nhu cầu được sản xuất ra,
nhân cách được tạo ra bởi các quan hệ xã hội mà cá nhân gia nhập vào đó
trong hoạt động của mình. Nhân cách là một cấu tạo chuyên biệt của con
người, tương tự như ý thức, tự ý thức xem xét hoạt động của bản thân, xem
nó có ý ghì riêng đối với nhân cách xuất phát từ hệ thống động cơ, thứ bậc
các động cơ hệ thống này, sắp xếp thứ bậc các hoạt động tạo thành hạt nhân
của nhân cách. Nhân cách chính là phẩm chất hoàn chỉnh đánh giá hệ thống
thứ bậc động cơ, nhận ra ý riêng của từng hoạt động đối với bản thân của
chủ thể hoạt động. Về định nghĩa của nhân cách, hay nói chính xác hơn, về
bản chất của nhân cách chúng ta sẽ có dịp tiến hành tiềm hiểu kỹ hơn, Ở đây,
tập trung vào cách tiếp cận đi đến vấn đề nhân cách.
Trong các hài giảng tâm lý học đại cương, Leonchiev có đề cập và ông
cũng đã giảng dạy suốt ba – bốn chục năm, từ những năm 40 đến khoảng
cuối những năm 70 thế kỷ XX, về vấn đề này. Trong các bài giảng này, có hai
bài cuối cùng bàn về nhân cách: bài thứ nhất có tiêu đề là "Cá thể và nhân
cách", bài thứ hai "Một số vấn đề về hình thành nhân cách". Đọc bài thứ nhất,
ta tìm được ý tưởng của Leonchiev giải đáp vấn đề đang đề cập ở đây. Cụ
thể là trước hết phải phân biệt khái niệm "cá thể" và khái niệm "nhân cách".
Nếu khái niệm thứ nhất gắn bó cả những gì do giống loài để lại cho cá thể và
cả những gì do cá thể tự tạo, thì nhân cách là cấu tạo mới hoàn toàn do con
người tự tạo cho mình trong quá trình sống của người đó. Quá trình tạo ra
nhân cách được bắt đầu khi con người ăn nhập vào các mối quan hệ xã hội,
đó chính là các mối quan hệ đối với thế giới đối tượng.
Leonchiev trung thành với một luận điểm nổi tiếng của C.Mác trong
"Luận cương về Phoiơbách": "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội". Ở đây ta phải chú ý tới cụm
từ đầu câu "Trong tính hiện thực...", tức là trong hoạt động. Nói trong hoạt
dộng con người ăn nhập vào hệ thống các mối quan hệ xã hội, có nghĩa là
con người có thái độ đối với thế giới đối tượng, bao gồm cả thế giới tự nhiên
và thế giới xã hội, có thái độ đối với sự vật, với người khác, với bản thân. Khi
đó có nhân cách. Đương nhiên, nhân cách được hình thành và phát triển.
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển nhân cách, ta sẽ hiểu sâu hơn
bản chất nhân cách.
Tóm lại, tuy các cách tiếp cận có khác nhau, dù xuất phát từ các luận
điểm cơ bản rất khác nhau về tâm lý con người, các nhà tâm lý học đại diện
cho một số trường phái trong - tâm lý học trong thế kỷ XX, những người đã
đặt nền tảng cho việc nghiên cứu nhân cách, đều đi đến cách hiểu nhân cách
là các thái độ của con người đối với thế giới xung quanh, với người khác và
với bản thân. Vận dụng vào cách tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách, có
thể khẳng định các thái độ ấy nói lên các giá trị của người này hay người
khác trong mối quan hệ với hệ thống giá trị, thước đo giá trị định hướng giá trị
của nhóm, cộng đồng, xã hội.
B. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN ĐƯỢC CHÚ Ý TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, CON NGƯỜI, NGUỒN NHÂN LỰC
PGS.TS. LÊ ĐỨC PHÚC
Sau các chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX07, KX04,
Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX05 lần này nghiên cứu
văn hoá, con người, nguồn nhân lực (đầu thế kỷ XXI - một vấn đề toàn diện,
rộng hơn trước. Những kết quả và thành công sẽ được xem xét theo hướng
đáp ứng mục đích, nhiệm vụ đã đề ra, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó
có sự lựa chọn và hiện thực hoá các quan điểm nghiên cứu.
Về phương diện này, ngoài việc ghi nhận những định hướng chung,
đúng đắn về lý luận và thực tiễn, sự khái quát kinh nghiệm trong thời gian qua
đã tạo cơ sở để có thể khẳng định cần tập trung chủ yếu và triệt để hơn nữa
vào một số trong những điểm cơ bản dưới đây:
1. Coi trọng mối quan hệ giữa kiểu gien - văn hoá - môi trường hoạt
động bởi sự phát triển người là kết quả của sự tương tác giữa các yếu tố trên
trong những điều kiện thực tế của đời sống cá nhân và xã hội. Đặc biệt, còn
chú ý hơn tới vai trò của văn hoá, một đối tượng nghiên cứu liên ngành.
Để chứng minh cho hướng nghiên cứu này, chúng ta có thể nhắc tới
K.Durkin, người đã khẳng định phát triển là kết quả của những sự tương tác
ngày càng phức hợp giữa các yếu tố đó trên lĩnh vực tâm lý học phát triển;
điểm lại suy nghĩ ban đầu của F.Galton và công trình nghiên cucuws cảu
K.Gotschaldt về di truyền, nêu lên việc khái quát và phân loại sự truyền văn
hóa F.W.Berry và L.L.Cavalli – Sforza cũng như B. Trodec; dẫn ra một số ý
kiến của G.Vollmer và T.Dobzhansky theo tinh thần nhận thức luận tiến hóa;
trình bày về sự hình thành nhân cách của trẻ nhờ ba yếu tố: tâm lí của bản
thân, cộng đồng văn hóa, thế giới vật chất của M.Montessorie; hay tư tưởng
văn hóa – lịch sử của L.X.Vưgôtxki.
2. Chú ý hơn tới hành dộng và sự điều chỉnh hành động theo những
mục tiêu đúng đắn, cẩn thiết trong một giai đoạn phát triển nhất định của con
người.
Khi nói về cẩu trúc chung của hoạt dộng, A.N.Leonchiev đã coi những
thành tố chủ yếu của các hoạt động riêng lẻ của con người là những hành
động và ông quan niệm hành dộng là quá trình hướng tới một mục tiêu được
ý thức. Và như ông từng trích dẫn, trước đó gần 40 năm, Hegel đã viết: "Hành
dộng là sự thoát xác rõ nhất của cá nhận, xét cả về chính kiến lẫn các mục
tiêu của họ"1. Sự thống nhất giữa triết học và tâm lý học tạo nên một định
hướng chung, quan trọng cho việc nghiên cứu tâm lý học ngày càng đúng
đắn và có hiệu quả thực tế. Ở đây chúng tôi chỉ làm rõ định hướng đó và
khẳng định thêm sự cần thiết phải thực sự chuyển từ bình diện triết lý sang
bình diện nghiên cứu hành động, song không phải là hành vị mà là cái tâm lý
trong sự tương tác của những (tiểu kiện, yêu tố khác nhau.
Trong lĩnh vực lý luận chung, X.L.Ruhiustein coi sự thống nhất giữa ý
thức và hoạt động là nguyên tắc phương pháp luận quan trọng nhất của việc
nghiên cứu tâm lý học. Đặc biệt, theo G.Piriov, cần chú ý đến vai trò của hoạt
dộng chủ đạo trong các giai đoạn phát triển tâm lý xuất phát từ bản chất của
tâm lý là sự phản ánh chủ quan hiện thực khách quan. B.Ph.Lomov xác định
các quan hệ của quá trình này diễn ra giữa sự phản ánh và hành vi. Theo một
quan niệm cụ thể và rộng hơn, đối với A.Adler và U.Holzkainp-Osterrkamp, đó
còn là quan hệ giữa các mặt tâm lý trong cấu trúc nhân cách chỉnh thể (ví dụ,
các cảm xúc là những yếu tố "xúc tác" giữa nhận thức và hành dộng).
Hành động tâm lý của con người được thực hiện trong không gian
(K.Lewin) và theo thời gian (L.Seve) cũng như trong những môi trường nhất
định như hệ thống bao quát hơn của sự phát triển con người
(U.Broiifenbrenner). Giới tâm lý học đã nghiên cứu sâu mối quan hệ giữa cá
nhân và những môi trường như thế. Ở đây, tôi chỉ nêu lên hai ví dụ và cũng là
hai kết luận quan trọng.
- W.Stern cho rằng quan hệ giữa cố nhân và thế giới không phải là
quan hệ hai mặt (thế giới khách quan, thế giới chủ quan) như nhiều người
thường giải thích, mà là quan hệ ba chiều (thế giới vượt phạm vi cá nhân –
Transpersonal), thế giới cá nhân đã sống, thế giới được trải nghiệm.
B. Skinner nhận xét: thế giới mà con người sống trong đó thay đổi cực
kỳ nhanh chóng so với bản thân con người. Vì thế, mỗi cá nhân phải sống
sao cho có thêm sức mạnh. Nói khác đi, để tạo ra hiệu quả như thế, người ta
phải chú ý tới mối quan hệ giữa hành động và ý chí thể hiện tính tích cực của
mỗi cá nhân. Suy cho cùng, hoạt động và hành động chỉ là những biểu hiện
của tính tích cực (T.Tomasewski); tính tích cực là tiêu chí đánh giá trình độ
phát triển của con người (F. Linhart).
Trên lĩnh vực tâm lý học nhận thức, trong 30 năm qua, giới tâm lý học
ngày càng quan tâm tới hành động trong những điều kiện thực và đương đại
về điểm thứ nhất, có thể nêu lên sự phê phán việc nghiên cứu tư duy, nhận
xét, quyết định theo các quy tắc thống kê và lý luận xác suất, chịu ảnh hưởng
cua cách suy nghĩ, ví dụ như của nhà toán học và logic học George Boole
trong thế kỷ XIX. Theo G.Gigerenzer, các chiến lược nhận thức là những sự
thích ứng với môi trường đặc thù (sinh thái hay xã hội), về điểm thứ hai, có
thể chứng minh bằng một ví dụ vể sự phát triển khái niệm "môi trường", còn
được hiểu là phạm vi mức độ và cấu trúc của thông tin đang tác động tới con
người. Nhiều công trình thực nghiệm cũng đã khẳng định hành động nhận
thức phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài, có thể điều khiển được chứ
không chỉ phụ thuộc vào trí thông mirih và sự hiểu biết của cá nhân. Tuy
nhiên, nếu diễn giải theo cách nói của U.Neisser thì tâm lý học nhận thức là
khoa học về số phận của thông tin - đầu vào (Input - Information) trong hệ
thống nhận thức. Điều đó lý giải vì sao việc nghiên cứu thuần tuý ở cấp độ
hành vi là không đúng. Do vậy, W.Prinz đã phân biệt sự khác nhau giữa
những cơ sở nhận thức củả việc tổ chức hoạt động sáng tạo; trong khi
O.K.Chilchmiov đề cập vai trò của những động cơ khác nhau trong quá trình
hình thành mục tiêu và phản ánh cả ý thức về những kết quả tương lai của
hành động. Một mô hình hành động như thế cũng đã xuất hiện khi F.s.Bruner
kết hợp các thành tố nhận thức với những yếu tố động cơ, nghĩa là không chỉ
nghiên cứu các khía cạnh nhận thức là chủ yếu như J.Piaget và T.G.R.Bower.
Trong lĩnh vực tâm lý học phát triển, năng lực hành động thực hiện
"những nhiệm vụ phát triển" (R.F.Havighurst) chứ không phải tuổi đời là căn
cứ xuất phát, xem xét các giai đoạn phát triển tâm lý trong cuộc sống. Trình
độ năng lực đó được quy định bởi những sự tương tác của nhiều yếu tố trong
môi trường hoạt dộng, trải nghiệm thực tế của con người. Nhiều nhà khoa
học đã bàn về gen và hoạt động. Trong cuốn Psychologic interculturelle (Tiếp
biến văn hoá một cách tâm lý), khi dành toàn bộ chương 1 cho "học văn hóa",
"tiếp biến văn hoá" và "liên văn hoá", Z. Gucraoni và B.Troadee đã thể hiện rõ
cách tiếp cận vấn đề văn hóa ở cấp độ hành động.
Trong các lĩnh vực khác, chúng ta còn có thể nêu lên những quan niệm
chung về hành động theo tinh thần tâm lý học như phương pháp chẩn đoán là
phân tích các quá trình hành động (G.Witzlack); nghiên cứu quá trình lao
động là phân tích hành động có liên quan tới việc chuẩn bị sản xuất cơ bản,
chế biến, làm việc theo dây chuyền, điều khiển, lắp đặt, kiểm tra, v.v..
(H.Benofidi), được điều chỉnh bởi các biểu tượng bên trong (IR) như đã được
chỉ rõ trong tâm lý học công nghiệp (D.A.Osanin, A.T.Welford, J.F.Coeierior);
sự tham gia của bản ngã (self) vào hành động không chỉ bao gồm mặt nhận
thức về bản thân (bản ngã là khách thể) mà còn có cả động cơ và cảm xúc
(bản ngã là chủ thể) (F.Halisch, U.Geppert).
Những quan niệm ấy không chỉ khẳng định vai trò quan trọng của hành
dộng, trong đó, cái tâm lý được nghiên cứu trong mối quan hệ ba chiều không
chỉ là các điều kiện, quá trình diễn biến và những hiệu quả hay hậu quả nào
dó, mà còn phản ánh một nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của các nhà khoa
học là phải góp phần vào việc hình thành và phát triển năng lực hành động
độc lập, có ý thức hướng vào những mục tiêu, nhiệm vụ trong tương lai để
tạo ra sự phát triển nhân cách bền vững.
3. Xuất phát từ những quan điểm trên dây, việc nghiện cứu văn hoá,
con người, nguồn nhân lực cẩn được tiến hành theo những định hướng như
sau:
- Nghiên cứu gắn với yêu cầu thực tiễn ở cả hai cấp độ chủ yếu:
- Cấp độ cộng đồng, ví dụ cấu trúc nhân cách của người Việt Nam.
Cách đây hai năm, tại "Bàn tròn" của Tạp chí Thế giới mới (số 333,
ngày 26 tháng 4 năm 1999), một số nhà khoa học đã nêu lên những tiêu chí
xác định nhân cách con người Việt Nam thế kỷ XXI như sau:
+ Yêu nước;
+ Đạo đức;
+ Tinh thần khoa học;
+ Độc lập suy nghĩ;
+ Ý thức kỷ luật;
+ Con người hạnh phúc, tự do hơn và làm cho dân tộc phú cường;
+ Khả nằng thuyết phục;
+ Tài năng đích thực.
- Cấp độ nhóm, tương ứng với nhân cách của những người thuộc một
độ tuổi, cùng hoạt động trên một lĩnh vực…
Ví dụ, Công ty cổ phần Bevtolpinnnn,một trong những công ty lớn
nhất thế giới về các phương tiện thông tin của Đức, cách đây hơn 10 năm đã
khoảng 42.000 nhân viên ở trên 30 nước, khi tuyển chọn tài năng kinh doanh
đã nêu lên những điều kiện dưới đây:
- Tốt nghiệp đại học loại ưu;
- Có học vấn phổ thông loại khá;
- Khả năng sáng tạo và ý chí tạo lập;
- Khả năng tư duy phân tích và cấu trúc;
- Tinh thần độc lập và khả năng nhận xét, phán đoán;
- Có tinh thần phấn đấu và nhiệt tình công tác;
- Nhạy cảm và có hành vi xã hội đúng đắn.
Xét trong, mối quan hệ với kinh tế tri thức, người trí thức cần phải:
- Biết lựa chọn và nắm được tri thức mới, thông tin mới;
- Có năng lực giải quyết vấn đề;
- Đa tài trên cơ sở một năng lực chuyên biệt;
- Có năng lực tổ chức và hợp tác;
- Có năng lực học tập;
- Có văn hoá và sáng tạo.
Ngoài ra, chúng tôi nêu thêm những chuẩn mực đối cới giáo viên của
Mỹ làm ví dụ. Hội đồng quốc gia về chuẩn giáo viên chuyên nghiệp của Mỹ
được thành lập năm 1987. Tiếp cận theo quan điểm nghề nghiệp. Hội đồng
này đã đề xuất (đầu năm 1993) mười nguyên tác được xem là phù hợp với
những chuẩn của HỘi đồng quốc gia về chuẩn giáo viên chuyên nghiệp của
Mỹ. Đó là mười nguyên tắc liên quan tới những yêu cầu:
- Làm chủ kiến thức, kỹ năng cơ bản;
- Hiểu và hỗ trợ học sinh phát triển;
- Sử dụng phương pháp giảng dạy, đánh giá hiệu quả cao.
- Có quan hệ đồng nghiệp và xã hội tích cực, có lợi cho sự hợp tác vì
giáo dục.
Điều đó cũng phù hựp với những công trình nghiên cứu về giáo viên ở
nhiều nước trong quá trình dạy học thực tế khi thống nhất về bốn năng lực
chủ yếu của giáo viên như sau:
(1) Năng lực hiểu biết chuyên môn;
(2) Năng lực tổ chức, quản lý lớp;
(3) Năng lực chẩn đoán;
(4) Năng lực hợp tác.
• Nghiền cứu trong cuộc sống thực tế của con người
Cho đến nay, chúng ta đã bàn xét về những cách tiếp cận khác nhau
trong nghiên cứu nhân cách con người và những bước liền trong quan điềm
nghiên cứu phản ánh hai vấn đề chung nhất là:
1. Phải nghiên cứu theo tinh thần tiến hoá (Evolution) và phát triển;
2. Phải nghiên cứu nhân cách trong những hoàn cảnh, điều kiện thực tế
của con người.
Và ở đây chỉ bàn về hai định hướng chung đó.
- Nhân cách, xét theo tinh thần tiến hoá và phát triển.
"Tiến hoá" và "phát triển" là hai khái niện có liên quan với nhau nhưng
không đồng nhất với nhau. Ngoài triết học hay nhân học, nhận thức luận tiến
hóa và tâm lý học phát triển đã có nhiều thành tựu đáng kể trên lĩnh vực được
đề cập ở đây.
• Về tiến hoá
Nhân cách, xét về mặt tiên hoá, thường được nghiên cứu trên bốn cấp
độ: phát sinh chủng loại (Phylogenese), phát sinh người (Anthropogenese),
phát sinh cá thể (OntogencẸtĩ) và phát sinh thực tại Acumlgenese).
Các công trình khoa học đã cung cấp nhiều bằng chứng để có thể rút ra
những kết luận quan trọng, có ý nghĩa:
- Có ba cái mới về chất, quan trọng nhất của sự tiến hoá. Đó là: sự xuất
hiện sự sống; sự hình thành ý thức, đặc biệt là sự tự ý thức; và sự phát triển
đạo đức. Như vậy, cái đức, cái tâm là gốc. Thời đại hiện nay còn đặt ra
những yêu cầu mới, cao hơn trước đối với việc nghiên cứu nhân cách. Chẳng
hạn, ý thức và đạo đức ngày càng được đánh giá trong những mối quan hệ
mới hoặc sâu sắc hơn trong những điều kiện đương đại... Vì thế, cũng cần
chú ý tới hiện tượng suy thoái trong quá trình phát sinh cá thể.
- Việc xác định cấu trúc nhân cách, các chỉ số và chuẩn mực cũng phải
thể hiện tinh thần tiến hoá. Ví dụ, cho đến nay, sự hiểu biết hay vốn tri thức
của con người đã tăng lên gấp bội. Tuy nhiên, sự tiến hóa về năng lực nhận
thức chưa được phản ánh cụ thể và đầy đủ trong nghiên cứu về những yêu
cầu mới đối với nguồn năng lực: năng lực sử dụng các kỹ thuật văn hoá mới
do nền văn minh đương đại tạo ra, sự thay đổi về thang bậc chỉ số" IQ (có liên
quan đến chỉ số Flynn), V.V..
- Về phát triển
C.Mác đã quan niệm lịch sử là sự phát triển hợp quy luật. Và tâm lý,
nhân cách cũng đã được chứng minh là kết quả của sự phát triển như thế,
thông qua những công trình nghiên cứu từ giữa thế kỷ XIX và nhất là trong
những năm đầu của thế kỷ XX của các nhà khoa học nổi tiếng như: G.Stanley
Hall ở Trường Đại học Clark, A.Binet ở Pari, W.Stern ở Hamburg, K.Buchler
và sau này là Ch.Buchler ở Viên; E.Claplarède rồi J.Piaget ở Gidnovd.
Dù đã cố gắng nghiên cứu nhân cách theo quan điểm phát triển, nhưng
tron thời gian tới, chungsta vẫn cần có sự chuyển hướng mạnh hơn nữa. Có
thể, đó là các hướng sau:
• Nghiên cứu năng lực giải quyết các nhiệm vụ đặt ra cho lứa tuổi, thay
vì chỉ chú ý tới các đặc điểm của lứa tuổi. Có thể coi cấu trúc các nhiệm vụ đó
được R.J.Havighurst nêu lên (gắn với ba thành tố: năng lực hoạt động cá
nhân, chuản phát triển xã hội văn hóa và mục tiêu đặt ra cho cá nhân trong
khu vực sinh sống) là một quan niệm hợp lý.
• Hiện thực hóa mối quan hệ biện chứng và sự tương tác giữa tiếp thu,
lĩnh ohoij và đối tượng hóa những sức mạnh bản chất của con người (C.Mác
và Ph. Aswngghen), giữa khách quan hóa và chủ thể hóa, thay vì chỉ nhấn
mạnh cơ chế lĩnh hội, cơ chết di sản, cho dù đây là cơ chế hết sức quan
trọng. Rõ ràng, nhân cách của một người chỉ được hoàn thiện hơn và có ý
nghĩa xã hội khi mỗi cá nhân tích cực góp phần vào sự phát triển của cộng
đồng, đất nước.
• Đẩy mạnh nghiên cứu sự phát triển toàn diện nhân cách trong mối
quan, hệ qua lại giữa các mặt của nó. Ở đây, xu hướng, cảm xúc và tình cảm
hay mặt thẩm mỹ, vẫn là những đề tài cần được ưu tiên do chưa được nghiên
cứu sâu.
• Nghiên cứu nhân cách trong những hoàn cảnh điều kiện thực tế
Đây là một nguyên tắc phương pháp luận quan trọng đã được thừa
nhận rộng rãi, song lại chưa được thực hiện bằng hành động. Vì thế, có khi
nhân cách được nghiên cứu theo những mô hình, khuôn mẫu chung cho mọi
nền văn hoá, trong mọi điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, không tính đến
đặc thù của từng hoạt động cũng như phạm trù thời gian và không gian. Cách
nghiên cứu ít có ý nghĩa và không có triển vọng đó còn diễn ra theo một quy
trình đảo ngược: người ta tìm kiếm phát phương pháp đo đạc của nước ngoài
trước khi xây dựng các cơ sở lý luận phù hợp với đối tượng nhiệm vụ nghiên
cứu ở trong nước, về tình trạng này, B.Ph.Lomov đã viết: "Mỗi phương pháp
đều cần có một cơ sở khoa học nghiêm túc. Tiếc rằng, người ta không thể nói
như vậy đối với nhiều trắc nghiệm. Không ít khi, các trắc nghiệm cho thấy là
hết sức nông cạn và các tác giả của chúng không phải lúc nào cũng có thể trả
lời câu hỏi là rút cuộc, cái gì sẽ dược đo hay đánh giá bằng test này".
Việc cần phải nghiên cứu trong những điều kiện thực tế còn được
chứng minh qua những công trình so sánh như sự bác bỏ quan niệm của
nhiều nhà tâm lý học, kinh tế học và những nhà nghiên cứu hành vi cho rằng
nhận xét và quyết định của con người, trong tình huống không chắc chắn,
diễn ra theo các quy tắc của thống kê và lý thuyết xác suất. Việc nghiên cứu
thực nghiệm trong 25 năm qua về "những ảo tưởng nhận thức" cho thấy các
chiến lược nhận thức là những sự thích ứng với một môi trường đặc thù (sinh
thái hay xã hội) chứ không phải với lý thuyết xác suất hay logic. G.Gigerenzer
và các cộng sự của ông nhấn mạnh phải mở rộng quan niệm về môi trường,
coi đó còn là mức độ và cấu trúc cuarthoong tin đang tác động vào một cơ
thể, vào con người. Do đó, năng lực đưa ra những nhận xét, quyết định để
giải quyết các nhiệm vụ trong cuộc sống không phải chỉ phụ thuộc vào trí
thông minh hay vốn hiểu biết của một cá nhân.
Ngoài ra, chúng ta có thể nêu lên nhiều ví dụ khác như trí nhớ làm việc
(working memory) không giống với trí nhớ do theo kiểu tâm lý học đại cương
trình độ hiểu biết được xét qua một số item trong trắc nghiệm không tương
ứng với năng lực nhận thức thể hiện trên một lĩnh vực hoạt động cụ thể, V.V..
Những ý kiến và nhận xét trên đây còn liên quan đến việc xác định các
mặt, các chỉ số đo nhân cách hiện nay. Ở đây, chúng tôi chỉ đề xuất một
nguyên tắc là phải kết hợp cái chung với cái riêng, cái mang tính phổ qúat với
cái đặc thù, cái truyền thống với cái hiện tại. Nói khác đi, về lý luận cũng như
phương pháp, kỹ thuật, trong trường hợp này, đó là việc xử lý đúng đắn mối
quan hệ của những hệ thống, cấu trúc khác nhau
Ví dụ:
- Các mặt đo nhân cách trong trắc nghiệm hiện được sử dụng rộng rãi
ở nhiều nước của Paul T.Costa và Robert R.McCrae:
I) N (Neurotieism) - Cân bằng thần kinh hay không;
II) E (Extroversion) - Hướng ngoại, hướng nội;
III) O (Oponncss) – cởi mở, chân thật, thẳng thắn;
IV) A (Agrecnbleness) - Tán thành, đồng tình, vui vẻ, dễ chịu;
V) C (Conscientiousness) - Tính ý thức, sự tận tâm, chu đáo;
* Những yêu cầu về nhân cách có liên quan đến những nhóm khách thể
nghiên cứu.
Xét trong mối quan hệ với nội dung được bàn đến ở đây, chúng ta càng
thấy tầm quan trọng của những vấn đề khoa học và thực tiễn như lối sống có
văn hoá, hoạt dộng tiếp thu và đối tượng hoá hay vật thể hoá "những sức
mạnh bản chất của con người" gắn với những giá trị văn hoá. Cũng như vậy,
việc nghiên cứu hoạt động tạo ra những giá trị văn hoá phụ thuộc vào nhân
cách của người sáng tạo và quá trình diễn ra trong những điều kiện thực tế
thường ngày.
Sự biểu hiện nhân cách có văn hóa chính là trình độ năng lực đáp ứng
những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay hướng
theo những giá trị cao đẹp: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh! Những yêu cầu và nhân cách có liên quan đến những nhóm khách
thể trong quá trình nghiên cứu vừa qua là:
1. Đối với học sinh, sinh viên:
- Yêu nước, quê hương, dân tộc, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa;
- Gia đình;
- Lòng nhân ái;
- Tôn trọng luật pháp;
- Hiếu học;
- Chí tiến thủ lập nghiệp.
2. Đối với người lao động:
- Kiến thức cơ bản;
- Làm chủ kỹ năng nghề nghiệp;
- Hiệu quả;
- Nhạy cảm với cái mới;
- Tinh thần trách nhiệm;
-Khả năng hợp tác.
Trong quá trình xử lý, những người nghiên cứu nhân cách con người
Việt Nam phải xuất phát từ những yêu cầu đã được nêu trong các văn kiện
của Đảng.
Từ đó, không dừng lại ở việc do tiềm năng, chúng ta cần cố gắng (trong
phạm vi, điều kiện cụ thể) đi sâu đánh giá các năng lực thực tế. Ví dụ, theo
M.Narquardt và D.Engell, có tới 35 năng lực được xếp thành 4 nhóm cần phát
triển ở nguồn nhân lực:
1. Năng lực kỹ thuật;
2. Năng lực kinh doanh (thực hiện công việc);
3. Năng lực liên nhân cách;
4. Năng lực trí tuệ.
Từ góc độ phát triển tâm lý và nhân cách con người hiện nay, tôi xin bổ
sung thêm nhóm thứ năm là năng lực liên văn hoá (interculturel) và thứ sáu là
năng lực xúc cảm, một siêu năng lực (niétacapacité).
3. Việc lựa chọn và xây dựng các phương pháp: cần xuất phát từ
những quan điểm lý luận chung nói trên, vì phương pháp không phải là "vấn
đề tự thân" và cũng không chỉ là công đoạn kỹ thuật thuần tuý. Về điểm này,
chúng tôi xin viện dẫn hai ý kiến dưới đây:
Thứ nhất, K.J.Groffmann cho rằng: "Sự biến đổi văn hoá đang làm thay
đổi con người; nó cũng làm thay đổi cả trí thông minh của con người".
Thứ hai, trong tham luận tại Hội nghị quốc tế về văn học khoa học,
Gaston Bachelard có viết: “Tôi không muốn làm lu mờ ngày hội trí tuệ này...
bằng việc dẫn ra những ví dụ về các phương pháp không được phép trở
thành một vấn đề thói quen, và một lần nữa xin được dựa vào một suy nghĩ
của Goethe để nói rằng, ai luôn luôn kiên trì trong nghiên cứu thì sớm hay
muộn cũng sẽ thay đổi phương pháp của mình".
C. PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU VÀ ĐO LƯỜNG NHÂN CÁCH
TS. NGUYỄN CÔNG KHANH
Từ lâu các nhà nghiên cứu đã và đang tham gia vào những cuộc thảo
luận không có hồi kết thúc với những câu hỏi rất cơ bản như: Nhân cách là
gì? Làm thế nào để mô tả “đầy đủ, chính xác” nhân cách? Cấu trúc của nhân
cách gồm những thành tố nào? Bằng cách nào các nhà nghiên cứu có thể mô
tả nhân cách và dự đoán hành vi dựa vào nhân cách? Tại sao một số người
kết bạn dễ dàng, một số người khác lại luôn cảm thấy cô clơn? Tại sao một
số người có xu hướng thu mình, hướng nội, một số khác thích giao tiếp,
hướng ngoại hoặc một số người có khuynh hướng hay tức giận, nổi xung,
một số người khác lại hay rơi vào trạng thái trầm cảm?...
Theo các nhà nghiên cứu, có hai khuynh hướng nghiên cứu nhân cách:
mô tả và giải thích. Khuynh hướng thứ nhất liên quan đến việc nắm bắt cấu
trúc của nhân cách, còn khuynh hướng thứ hai liên quan đến việc tìm hiểu sự
hình thành, phát triển của nhân cách.
Tuy nhiên, dù theo khuynh hướng nào, thì cũng có hai vấn đề quan
trọng cần ghi nhớ:
1) Nhân cách không phải là một thực thể có thể trực tiếp nhìn thấy
được. Nó là một cấu trúc. Chúng ta phải suy luận về sự tồn tại của nó từ
những quan sát trực tiếp của chúng ta.
2) Bạn có thể nghe một câu châm ngôn được trích dẫn rộng rãi: "Mỗi
người trong số chúng ta về mặt nào đó giống mọi người, giống một số người
khác và không giống ai". Một quyết định đang thách thức các nhà tâm lý học
quan tâm đến việc nghiên cứu nhân cách là liệu nên tập trung vào những cái
giống nhau giữa chúng ta, hoặc nên tập trung vào những cái chúng ta khác
với người khác.
Không có gì ngạc nhiên khi có rất nhiều khó khăn cho việc tìm cách
định nghĩa nhân nách. Và sẽ là không tưởng khi cố tìm một định nghĩa về
nhân cách được tất cả mọi người chấp nhận. Tuy nhiên, sẽ có ý nghĩa rất lớn
nếu chúng ta đưa ra được một định nghĩa được nhiều người thừa nhận.
I. KHÁI NIỆM NHÂN CÁCH
Các nhà tâm lý học phương Tây đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về
nhân cách. Tuy nhiên, theo chúng tôi có hai định nghĩa dưới đây đáng chú ý
hơn cả. Định nghĩa thứ nhất của J.M.Burger, tác giả cuốn Nhân cách (2000).
Theo Burger, “nhân cách là những mẫu hành vi, ứng xử có tính kiên định và
những quá trình tâm lý trong mối quan hệ giữa chủ thể với bản thân, khởi
xướng từ bên trong cá nhân”. Định nghĩa này có hai phần:
1. Những mẫu hành vi, ứng xử kiên định
Các nhà nghiên cứu cho rằng nhân cách là những mẫu hành vi/ ứng xử
có tính kiên định. Người ta có thể nhận biết những kiểu hành vi kiên định, có
tính ổn định tương đối qua thời gian và qua các tình huống ở mỗi người như
là những đặc trưng của nhân cách. Chúng ta nhận thấy rằng, một người có
tính dễ gần hôm nay cũng là người có tính dễ gần ngày mai, một số người có
tính thích tranh đua trong công việc cũng là ngưòi có tính thích tranh đua
trong thể thao.
Chúng ta thừa nhận có những mẫu hành vi kiên định đặc trưng cho mỗi
người nhờ quan sát hành vi của người đó qua thời gian và qua những tình
huống khác nhau, hoặc qua một thời gian gặp lại, chúng ta vẫn thấy "anh ta
vẫn đúng là anh ta” hoặc "cô ta vẫn giống như trước đây”, hoặc nhìn vào kết
quả thực hiện, chúng ta có đoán được “cái này có vẻ giống cô ta làm” hoặc
chúng ta cũng thường nghe nói “núi sông có thể đổi, bản tính con người khó
thay”. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa rằng một người có tính hướng ngoại
là ngưòi luôn thích náo nhiệt, hân hoan trong mọi lúc. Điều này cũng không có
nghĩa là mọi người không thể thay đổi.
Tuy nhiên, theo Burger, nếu nhân cách tồn tại và hành vi không chỉ là
sự phản ánh cái gì đó có tính tình huống, thì chúng ta có thể tìm thấy cái riêng
đặc trưng của mình trong cách chúng ta hành dộng, và lúc đó chúng ta mong
muốn có sự kiên định nào dó có tính đặc trưng trong cách thức mỗi người
hành dộng.
Theo các nhà nghiên cứu, hành vi của chúng ta phụ thuộc vào kiểu
người và tình huống. Chắc chắn chúng ta không hành dộng theo cùng một
cách trong mọi tình huống mà tuỳ thuộc vào việc chúng ta đang ở đâu, cái gì
đang xảy ra, V.V., nhưng về cơ bản mỗi người chúng ta hành động lại có tính
kiên định, có thể được mô tả như là người nhút nhát hay mạnh bạo, nóng tính
hay hiền lành, khó gần hay dễ gần, cởi mỏ hay kín đáo...
2. Các quá trình tâm lý trong mối quan hệ với bản thân
Ngược với các quả trình tâm lý trong mối quan hệ với người khác (quan
hệ liên nhân cách), xảy ra giữa chủ thể với ngưòi khác, các quá trình trong
mối quan hệ với bản thân gồm tất cả các quá trình nhộn thúc, động cơ, xúc
cảm xảy ra bên trong chúng ta, ảnh hưởng đên cách thức làm thế nào đế
chúng ta cảm nhận và hành động.
Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu nhân cách quan tâm đến các chủ thể,
chẳng hạn như trầm cảm, lo âu, hạnh phúc... Dĩ nhiên, một số quá trình là
chung cho mọi người. Ví dụ, theo các nhà nghiên cứu, mỗi người chúng ta có
năng lực như nhau để trải nghiệm sự lo âu hoặc các quá trình tương tự khi
gặp phải các sự kiện gây de doạ. Tuy nhiên, bằng cách nào chúng ta sử dụng
các quá trình này? Và làm thế nào các quá trình này tương tác để sự khác
nhau giữa các cá nhân có vai trò trong việc xác định cái đặc trưng cá nhân
của mỗi chúng ta?
Điều quan trọng cần lưu ý là theo định nghĩa này, những mẫu hành vi
kiên định và các quá trình trong mối quan hệ với bản thân được khởi xướng
từ bên trong cá nhân đó. Điều này không có nghĩa là các nguồn bên ngoài
không ảnh hưởng đến nhân cách. Chắc chắn cách cha mẹ nuôi dưỡng, giáo
dục con cái sẽ ảnh hưởng đến việc đứa trẻ sẽ trở thành người như thế nào
trong tương lai. Nhưng trước một tình huống, cách thức mỗi người cảm nhận
và chọn lựa cách hành động thường khởi nguồn từ các quá trình tâm lý xảy ra
bên trong cá nhân đó.
Định nghĩa thứ hai được Gail F. Huon (Huon, 2001) đưa ra. Theo ông,
nhân cách được định nghĩa như là một cấu trúc phức hợp gồm các mặt tình
cảm, nhận thức và hành vi, các mặt này cung cấp sự định hướng mạch lạc,
chặt chẽ đối với cuộc sống của mỗi cá nhân.
Vậy cái gì là những nét nổi bật của định nghĩa này về nhân cách:
1. Nhân cách liên quan đến tất cả các khía cạnh chức năng của con
người: tình cảm, nhận thức và hành vi hoặc những gì chúng ta cảm nhận, suy
nghĩ và hành động,
2. Mặc dù các lớp hay các mặt khác nhau đôi khi được xem là tách biệt,
độc lập, thì nhân cách liên quan đến mối quan hệ bên trong giữa các mặt này.
Cấu trúc phức hợp liên kết những tình cảm, ý nghĩ và hành vi của chúng ta là
trung tâm của nhân cách và sự tương tác qua lại diễn ra liên tục giữa các yếu
tố tự nhiên (di truyền), các yếu tố giáo dưỡng (ảnh hưởng của môi trường
giáo dục) và sự tương tác giữa chúng.
3. Những đặc tính này (tình cảm, nhận thức và hành vi) ảnh hưởng đến
cách thức một người đáp lại môi trường (cả sinh lý và xã hội). Do đó, những
đặc tính này đưa ra sự định hướng cho cuộc sống của cá nhân. Các mẫu
khốc liệt của những đặc tính này quy định sự khác nhau giữa các cá nhân và
tính độc nhất vô nhị ở mỗi người.
4. Nhân cách không chỉ liên quan đến cách thức cá nhân khác nhau mà
còn liên quan đến các mặt có sự liên kết mạch lạc, chặt chẽ hoặc chức năng
tổng thể của cá nhân như bản chất chịu đựng hoặc tính kiên trì của cá nhân
trong quá trình thích nghi với môi trường.
5. Các nhà tâm lý học nhân cách quan tâm đến cả nội dung và các quá
trình trong nhân cách của con người. Nói cách khác, họ quan tâm đến cấu
trúc cơ bản của nó và các bản chất của nó.
Như vậy, nhân cách cần được định nghĩa như là một cấu trúc phức
hợp gồm các mặt tình cảm, nhận thức và hành vi. Các mặt này được tổ chức
thành một hệ thống có tính thứ bậc, nó chứa đựng các thành tố đặc trưng, có
tính ẩn định tương đối, có mối liên hệ qua lại thúc đẩy, chế ước lẫn nhau
nhằm cung cấp sự định hướng mạch lạc, chặt, chẽ đối với cuộc sống của mỗi
cá nhân. Nhân cách là một cấu trúc động có tính ổn định nhưng không bất
biến mà phát triển.
II. CẤU TRÚC NhÂN CÁCH
Như trên đã nói, nhân cách không phải là một thực thể có thể trực tiếp
nhìn thấy được mà là một cấu trúc, chúng ta phải suy luận về sự tồn tại của
nó từ những quan sát hành vi trực tiếp.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu lại không đạt được sự nhất trí hoàn
toàn, liệu một cấu trúc nhân cách đầy dù phải bao gồm những thành phần
nào? Chúng tôi có thể nêu ra đây một số quan điểm cơ bản về cấu trúc của
nhân cách nhìn từ góc độ tâm lý - giáo dục:
- Quan niệm coi nhân cách gồm ba lĩnh vực cơ bản: nhận thức (bao
gồm cả vốn tri thức và năng lực tâm thần), rung cảm (xúc cảm, tình cảm và
thái độ), và ý chí (không chỉ có phẩm chất ý chí mà cả kỹ năng, kỹ xảo, thói
quen).
- Quan niệm coi nhân cách gồm bốn tiểu cấu trúc: xu hướng (thế giới
quan, lý tưởng, hứng thú, tâm thế...); kinh nghiệm (tri thức, kỹ năng kỹ xảo,
thói quen); đặc điểm của các quá trình tâm lý (các phẩm chất trí tuệ, ý chí, xúc
cảm, tình cảm); các thuộc tính sinh học quan trọng (khí chất, các đặc điểm
bệnh lý...).
- Quan niệm nhân cách có nhiều tầng: tầng “nổi” (gồm ý thức, tự ý thức
và ý thức nhóm) và tầng “chìm” (bao gồm tiềm thức và vô thức).
- Quan niệm về các mặt đào tạo của nhân cách: đức, trí, thể, mỹ...
- Quan niệm về bốn thuộc tính phức hợp của nhân cách: xu hướng,
tính cách, năng lực và khí chất.
Những quan niệm trên đây về cấu trúc nhân cách có nhiều điểm khác
với quan niệm truyền thông của Việt Nam.
Theo cách nhìn quen thuộc của người Việt Nam, cấu trúc nhân cách
gồm hai mặt có mối liền hệ thông nhất với nhau: đức và tài hay phẩm chất và
năng lực. Có thể biểu diễn cấu trúc này như sau:
Cấu trúc nhân cách theo cách, nhìn truyền thống của người Việt Nam
Đức Tài
- Phẩm chất xã hội (hay đạo đức tư
tưởng - chính trị): thế giới quan, niềm
tin, lý tưởng, lập trường, thái độ chính
trị, thái độ lao dộng...
- Phầm chất, cá nhân (hay đạo đức tư
cách): cái nết, cái thói, cái thú...
- Phẩm chất ý chí: tính kỷ luật, tính tự
chủ, tính mục đích, tính quả quyết,
tính phê phán...
- Cung cách ứng xử: tác phong, lễ
tiết, tính khí...
- Năng lực xã hội hoá: khả năng thích
ứng, năng lực sáng tạo, cơ động,
mềm dẻo, linh hoạt, trong cuộc sống
xã hội.
- Năng lực chủ thể hoá: khả năng thể
hiện cái riêng, cái độc đáo, cái bản
lĩnh.
- Năng lực hành động: khả năng hành
động có mục đích, có điều khiển, chủ
động, tích cực.
- Năng lực giao tiếp: khả năng thiết
lập và duy trì quan hệ với người khác.
Tuy có vẻ quen thuộc, sát hợp với kinh nghiệm và thực tiễn giáo dục
Việt Nam, nhưng cấu trúc này không có sự phân định rõ ràng về khái niệm lý
thuyết, khó thao tác hoá thành những tiêu chí để đo lường. Điều quan trọng
hơn là nó chưa được thực nghiệm, chưa có những số liệu nghiên cứu khoa
học một cách có hệ thông ủng hộ.
Một kiểu cấu trúc nhân cách khác, có phân thứ bậc, chia thành các tiểu
hệ thống được Mayer và nhóm nghiên cứu của ông (Mayer và nhũng người
khác, 2000) đưa ra, cho chúng ta một cách nhìn rõ hơn về các thành phần
của nhân cách và các mối liên hệ qua lại, thúc đẩy, kiểm soát, kiềm chế lẫn
nhau (xem Sơ đồ 1).
Sơ đồ cấu trúc nhân cách này, được Mayer và nhóm nghiên cứu của
ông thao tác để hoà nhập các mô hình trí thông minh xúc cảm, giúp chúng ta
có cách nhìn chi tiết hơn về các thành phần của nhân cách và các mối liên hệ
qua lại, thúc đẩy, kiểm soát, kiềm chế lẫn nhau (xem Sơ đồ 2)
III. NHỮNG CÁCH TIẾP CẬN CHÍNH TRONG NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
Trong thế kỷ XX, các nhà tâm lý học phương Tây nghiên cứu về nhân
cách đã cố gắng đưa ra các lý thuyết khác nhau. Theo nhà tâm lý học nhân
cách Burger (2000), có sáu cách tiếp cận chung nhằm mô tả và giải thích
nhân cách. Theo Burger, mặc dù sự phù hợp không phải lúc nào cũng hoàn
hảo, thì mỗi lý thuyết nghiên cứu nhân cách có thể đặt vào một trong sáu
cách tiếp cận này:
- Cách tiếp cận phần tâm;
- Cách tiếp cận nét nhân cách;
- Cách tiếp cận sinh học;
- Cách tiếp cận nhân văn – hiện sinh;
- Cách tiếp cận hành vi học tập xã hội;
- Cách tiếp cận nhận thức.
Tại sao có quá nhiều lý thuyết về nhân cách như vậy và lý thuyết nào
giúp chúng ta mô tả và giải thích “chính xác” nhân cách?
Chúng ta đã từng nghe câu chuyện những thầy bói xem voi. Mỗi người
cảm nhận một phần khác nhau của con vật này, sau đó cố gắng giải thích cho
người khác hiểu con voi là cái gì... Tất cả những mô tả của họ đều đúng
nhưng chưa đủ để hiểu một con voi hoàn chỉnh là cái gì.
Ở góc độ nào đó, mỗi cách tiếp cận trong sáu cách tiếp cận nghiên cứu
nhân cách này cũng giống như các thầy bói xem voi vậy. Nghĩa là mỗi cách
tiếp cận dường như nhận diện đúng và kiểm tra một khía cạnh quan trọng
trong nhân cách của con người. Ví dụ, những người theo trường phái phân
tâm cho rằng cái vô thức của con người có trách nhiệm chính trong việc giải
thích cho những sự khác biệt quan trọng trong phong cách ứng xử của mỗi
người. Các nhà tâm lý hoc theo cách tiếp cận nét nhân cách tìm cách nhận
diện liệu một người có thể ở đoạn nào trong một liên thể của những đặc tính
nhân cách khác nhau. Các nhà tâm lý học theo cách tiếp cận sinh học tập
trung vào những tố chất di truyền và các quá trình sinh lý để giải thích sự
khác nhau giữa các cá nhân về nhân cách. Trái lại, những người theo cách
tiếp cận nhân văn - hiện sinh tìm cách nhận biết trách nhiệm cá nhân và
những thái độ tự chấp nhận mình như là những nguyên nhân chính tạo ra sự
khác nhau về nhân cách giữa các cá nhân. Còn các nhà nghiên cứu nhân
cách theo cách tiếp cận hành vi học tập xã hội giải thích những mâu hành vi
kiên định như là kết quả của sự tập nhiễm trên cơ sở điều kiện hóa và những
mong muốn. Cuối cùng, những người theo cách tiếp cận nhận thức nhìn nhận
thức nhìn nhận những sự khác nhau theo cách mọi người xử lý thông tin để
giải thích sự khác nhau trong hành vi.
Vậy nếu kết hợp sáu cách tiếp cận này lại liệu chúng ta có thể có được
một bức tranh bao quát hơn, chính xác hơn về lý do tại sao mọi người hành
động theo những cách riêng của họ?
Không may, sự tương tự ở câu chuyện thầy bói xem voi chỉ có thể áp
dụng một phần vào kiểu cách tiếp cận này. Mặc dù những cách tiếp cận này
thường khác nhau chỉ ở sự nhấn mạnh xem nhẹ điểm kia nhằm đưa ra cách
giải thích hợp lý có thể so sánh được, nhưng trong nhiều trường hợp, những
giải thích của hai hay nhiều cách tiếp cận là hoàn toàn không tương hợp.
Vì vậy, những người nghiên cứu nhân cách thường phải chọn một
trong số sáu cách tiếp cận khi quyết định những cách giải thích nào họ chấp
nhận. Có thể nói, lý thuyết này đúng trong mô tả một phần nào đó của nhân
cách, nhưng lý thuyết kia lại đúng trong việc mô tả nhân cách theo một khía
cạnh khác. Như vậy, mỗi cách tiếp cạnh rõ ràng đều có lợi cho việc giải thích
sự tồn tại của những mẫu hành vi kiên định, mỗi cách tiếp cận đều có giá trị
giúp ta hiểu được cái gì tạo ra chúng ta và chúng ta là ai.
Để hiểu rõ hơn là thế nào những cáh tiếp cận nhân cách trên đưa ra
những giải thích khác nhau nhưng có tính hợp lý về sự tồn tại của những mẫu
hành vi kiên định ở cá nhân, chúng ta hãy nghiên cứu một ví dụ về trầm cảm
và phân tích cảch giải thích khác nhau xuất phát từ những cách tiếp cận này
khi trả lời câu hỏi: mỗi người chúng ta đều có những lúc trải nghiệm những
thay đổi về khí sắc, nhưng tại sao có một so người có khuynh hướng trầm
cảm hơn những người khác?
Theo S. Froud, cha đẻ của cách tiếp cận phân tâm, trầm cảm là sự giận
dữ, bực tức được chuyển vào bến trong. Tức là mọi người chịu đựng trầm
cảm lưu giữ những tình cảm vô thức về sự bực tức và thù nghịch. Ví dụ, họ
có thể muốn trút sự bực tức xuống đầu các thành viên khác trong gia đình,
nhưng một nhân cách khoẻ mạnh không bày tỏ những tình cảm như vậy một
cách công khai. Thêm vào đó, các nhà phân tâm học cho rằng mỗi chúng ta
đều nội tâm hoá những tiêu chuẩn, những giá trị của xã hội. Những tiêu
chuẩn, những giá trị này luôn ngăn cản sự bày tỏ những tình cảm thù nghịch.
Do đó những tình cảm bực tức, thù nghịch này có xu hướng chuyển hoá trong
để rồi ở bình diện vô thức, mọi người đã tự bộc lộ.
Những người theo cách tiếp cận xét nhân cách quan tâm đến việc nhận
diện những người có xu hướng trầm cảm. Một cuộc điều tra đã phát hiện có
tương quan rất cao giữa các phép đo về xúc cảm được tiến hành cách nhau
12 tiếng (Costa và những người khác, 1980). Điều này có nghĩa là mức độ
xúc cảm chung nhất của một người hôm nay sẽ là một chỉ báo tốt để dự đoán
các xúc cảm (bao gồm cả trầm cảm) của người đó một năm sau.
Bằng chứng trực tiếp hơn cho sự ổn định về xu hướng trầm cảm có
được từ một, cuộc điều tra đánh giá các mức độ trầm cảm ở một nhóm đàn
ông khi họ ở tuổi trung niên và đánh giá tại họ sau 30 năm (Gillum và những
người khác, 1979). Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện thấy có tương quan
cao đáng kể giữa các mức độ trầm cảm của những người đàn ông này ở hai
thời điểm do cách nhau rất lâu. Một nghiên cứu khác phát hiện rằng các mức
độ trầm cảm ở tuổi 18 có thể được dụ báo từ việm xem xét các hành vi của
các chủ thể này khi mới 7 tuổi.
Các nhà tâm lý học nhân cách theo cách tiếp cận sinh học đã đưa ra
các bằng chứng rằng một số người có khả năng di truyền trầm cảm qua gen
(McGue và Christenson, 1991). Một người sinh ra với những mặt dễ bị
thương tổn có nhiều khả năng bị trầm cảm hơn một cá nhân bình thường
khác khi đương đầu với những sự kiện gây stress trong cuộc sống. Do
khuynh hướng di truyền này, chúng ta có thể mong đợi có những người sẽ
trải nghiệm những đợt trầm cảm lặp đi lặp lại trong suốt cuộc sống cuả họ.
Những người nghiên cứu nhân cách theo cách tiếp cận nhân văn - hiện
sinh giải thích trầm cảm dưới góc độ lòng tự trọng. Theo họ, những người
thường xuyên trải nghiệm, chịu đựng trầm cảm là những người thất bại trong
việc phát triển một cảm giác tích cực (hài lòng, hạnh phúc, chấp nhận mình)
về giá trị của bản thân. Mức độ tự trọng của mỗi người được hình thành và
phát triển cũng giống như các phẩm chất khác của nhân cách, có tính ổn định
tương đối qua thời gian và qua các tình huống. Do vậy mục tiêu của các nhà
trị liệu tâm lý theo cách tiếp cận nhân văn - hiện sinh là giúp đỡ những người
trâm cảm phát triển năng lực đánh giá đúng giá trị của bản thân, biết chấp
nhận mình.
Cách tiếp cận hành vi tập nhiễm xã hội cho rằng trầm cảm bắt nguồn từ
sự thiếu hụt những củng cố tích cực trong đời sống của chủ thể, rằng trầm
cảm phát triển từ sự trải nghiệm các tình huống gây stress, thù nghịch, mà với
nó chủ thể có rất ít hoặc mất khả năng kiểm soát. Sự phơi nhiễm trước các
sự kiện gây stress không kiểm soát được tạo ra một quan niệm về sự vô
vọng. Điều này được khái quát hoá vào các tình huống khác và cơ thể phát
triển thành những triệu chứng điển hình về trầm cảm. Như vậy, những người
hay trải nghiệm trầm cảm là những người có những thiếu hụt nào đó ở một
mặt hay một số khía cạnh trong cấu trúc nhân cách, chẳng hạn thiếu hụt năng
lực ứng phó, giải quyết vấn đề, năng lực tự điều chỉnh, thích ứng.
Còn các nhà tâm lý học theo cách tiếp cận nhận thức thì cho rằng liệu
người ta có bị trầm cảm hay không, điều đó phụ thuộc vào cách họ xử lý
thông tin, bằng cách nào họ giải thích sự bất lực của mình trong việc kiểm
soát các sự kiện. Ví dụ, những người quy sự bất lực của họ trong thăng tiến
nghề nghiệp là do suy thoái kinh tế đang xảy ra sẽ không bị trầm cảm như là
những người tin rằng sự bất lực của học trong thăng tiến nghề nghiệp là do
bản thân không có năng lực.
Các nhà tâm lý học nhận thức còn đưa ra khái niệm “sơ đồ trầm cảm”
như là các đặc trưng trong nhận thức của những người hay bị trầm cảm. Họ
cho rằng mội người chúng ta sử dụng “một cái phễu lọc trầm cảm” để xử lý
thông tin. Tức là những người bị trầm cảm được “chuẩn bị” để nhìn thế giới
này theo cách tuyệt vọng nhất như học có thể. Vì sẵn có hồ sơ trầm cảm này,
người trầm cảm có thể dễ dàng nhớ lại những trải nghiệm buồn chán. Những
người khác đều có thể làm họ hồi tưởng lại một cái gì đó u buồn, những
khoảng thời gian không thú vị. Nói tóm lại, sở dĩ người ta trở thành người
trầm cảm vì học được “chuẩn bị” để nảy sinh những ý nghĩ buồn chán, đau
khổ.
Vậy cách giải thích nào trong số sáu cách giải thích trên về một nhân
cách hay trải nghiệm trầm cảm là chính xác nhất?
Nếu bạn bị trầm cảm, thì liệu đó là do lòng tự trọng của bạn thấp, đo
bạn đã trải nghiệm nhũng tình huống gây stress không thể kiểm soát, hay do
bạn có xu hướng nhìn thế giới này qua lăng kính trầm cảm?
Bạn có thể phát hiện thấy cách tiếp cận này có thể giải thích đúng sự
trải nghiệm trầm cảm của mình năm trước, nhưng cách tiếp cận khác lại giải
thích đúng hơn sự trải nghiệm trầm cảm của bạn vừa mới dây. Như vậy, mỗi
cách tiếp cận này đều có cái gì đó như là hạt nhân hợp lý giúp chúng ta hiểu
biết tốt hơn về nhân cách.
IV. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
Để nghiên cứu nhân cách, các nhà tâm lý học phương Tây chủ yếu
dựa trên hai cách tiếp cận: tương quan và lâm sàng...
Các nhà tâm lý hay sử dụng cách tiếp cận tương quan vì nhiều nghiên
cứu trong tâm lý học nhân cách liên quan đến cách thức có hai hay nhiều biến
hoặc nhiều phép đo khác nhau lại cùng tương quan với nhau
Nghiên cứu tương quan sử dụng các thủ tục thông kể để tìm những
mối tương quan số lượng hoặc tương quan giữa các loạt, phép đo. Vì nhấn
mạnh hàng đầu trong tâm lý học nhân cách được nhằm vào sự khác nhau
giữa các cá nhân, mục đích của nghiên cứu tương quan là thành lập những
mối liên hệ về thống kê (tương quan) giữa nhóm nhỏ các biến, từ những số
liệu được thu thập trên những mẫu gồm một số lượng lớn người trả lời.
Cách tiếp cận tương quan này rất có lợi vì nó cho phép sử dụng
phương pháp phân tích yếu tố (factor nnnlysis) - một thủ tục thống kê cho
phép nhận dạng những yếu tố chung trong vô số các số liệu có tương quan
với nhau.
Những câu hỏi quan trọng có mục đích là nhận dạng các đặc trưng của
nhân cách hoặc các yếu tố chung, qua đó quy định nhân cách tìm các cá
nhân khác nhau. Các nhà tâm lý học cố gắng xác định xem có bao nhiêu đặc
trưng như vậy được đòi hỏi cho việc mô tả nhân cách. Để làm đựợc điều này,
họ dựa chủ yếu vào phương pháp phân tích yếu tố.
Công cụ thứ hai được sử dụng rộng rãi là phương pháp lâm sàng hoặc
phương pháp nghiên cứu trường hợp (case study). Phương pháp này làm
cho tâm lý học nhân cách khác với các lĩnh vực khác của tâm lý học.
Các nhà tâm lý học nghiên cứu sự phát triển nhân cách tập trung vào
quá khứ và hiện tại của cá nhân. Công cụ được họ sử dụng nhiều nhất là
phỏng vấn trong bối cảnh lâm sàng.
Điểm quan trọng và cũng là điểm mạnh của cách tiếp cận lâm sàng
hoặc nghiên cứu trường hợp là nó có khả năng nghiên cứu một người theo
chức năng như là một chỉnh thể và sử dụng những thông tin định tính, chi tiết,
bổ dọc và từ các nguồn khác nhau. Tuy nhiên, nó không cho phép các nhà
nghiên cứu, kiểm tra những dự đoán hoặc lặp lại các quan sát của mình, mà
theo các nhà nghiên cứu, đây là những tiêu chuẩn quan trọng của phương
pháp điều tra khoa học.
Phương pháp thực nghiệm cũng được sử dụng trong nghiên cứu nhân
cách nhưng ít thông dụng hơn các phương pháp trên. Khi chúng ta tập trung
vào những đặc tính giống nhau thì các phương pháp thực nghiệm có lợi hơn,
trái lại, muốn tìm sự khác biệt giữa các cá nhân hoặc những nhóm tính cách
cụ thể đòi hỏi phải dùng các kỹ thuật đánh giá tương quan.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nhân cách luôn sử dụng nhiều hơn một
cách tiếp cận khi tiến hành nghiên cứu điều tra của mình để giúp khám phá
sự khác biệt giữa các cá nhân.
V. ĐO LƯỜNG NHÂN CÁCH
Nhân cách không phải là một thực thể mà là một cấu trúc. Do vậy, để
đo lường cấu trúc này, chúng ta phải suy luận về sự tồn tại của nó thông qua
những mẫu hành vi có thể quan sát dược.
Tuy nhiên, để mô tả đầy đủ, chính xác nhân cách, các nhà tâm lý học
phải xác định nhân cách con người gồm những đặc tính cơ bản nào? Họ nên
tập trung mô tả cái gì? Nếu chúng ta muốn mô tả nhân cách của mỗi người
thì những khía cạnh nào của nhân cách được xem là quan trọng? Có bao
nhiêu đặc tính chúng ta cần có đủ để có được một sự mô tả chứa đựng thông
tin bao quát, chính xác và có sức thuyết phục về nhân cách? Liệu đã đủ nếu
chỉ tập trung vào các đặc tính có tính chất mô tả hoặc các nét nhân cách
chẳng hạn như thân thiện, dễ gần hoặc tính linh hoạt hay không?... Còn về
các tài năng và các năng lực nhận thức và các kỹ năng, chẳng hạn các kỹ
năng liên quan đến sự thuyết phục, động viên người khác, giúp đỡ người
nghèo hoặc giao tiếp một cách tự tin với người lạ... thì sao? Và liệu chúng ta
có thể bỏ quan những động cơ khi nghiên cứu nhân cách không?
Vì vậy, vấn đề bao trùm liên quan đến mô tả nhân cách là xem xét các
đơn vị phân tích hoặc những gì phải tập trung vào. Các nhà tâm lý học nhân
cách đã đề nghị ba loại đơn vị khác nhau: Các nét như là những đơn vị của
nhân cách, những nhận thức như là những đơn vị của nhân cách và các động
lực như là những đơn vị của nhân cách. Đây là một hệ thống được phạm trù
hoá đã có lịch sử phát triển lâu dài liên quan đến sự phân chia của người Hy
Lạp cổ đại, chức năng con người gồm tình cảm, sự nhận thức và lực tinh
thần.
Các nét như là những đơn vị của nhân cách
Các nhà tâm lý học như Burger, 2000; Schultz, 2001 tập trung vào các
nét ("traits”) nhân cách như là các đơn vị phân tích trong khi mô tả nhân cách.
Cách tiếp cận này giả thiết rằng các nét nhân cách là những đặc trưng của cá
nhân, có tính ổn định qua thời gian và qua các tình huống. Các nét nhân cách
là đặc tính có tính quy củ, liên tiếp trên phạm vi rộng trong chức năng của con
người. Nhiệm vụ cơ bản của các nhà tâm lý học theo cách tiếp cận này là
phải xác định những cái nào được xem là nét nhân cách và có bao nhiêu nét
nhân cách được đòi hỏi đủ để có được một bức tranh mô tả toàn diện về
nhân cách. Họ cũng tìm cách xác định những nét nào đi cùng nhau thành các
nhóm có tính độc lập tương đối.
Các nhà tâm lý học nhân cách thường có quan điểm khác nhau về
những vấn đề này và không phải lúc nào họ cũng nhất trí với câu hỏi: bằng
cách nào xác định và đo lường các nét nhân cách? Tuy nhiên, họ thông nhất
cho rằng nét nhân cách là đơn vị phân tích trong mô tả nhân cách và họ cùng
nhau chia sẻ ba giả thuyết cơ bản sau:
1. Các nét nhân cách được giả thiết là tương đốt ổn định và là những
đặc điểm tồn tại khá lâu dài. Chúng khác biệt với trọng thái là cái do những
điều kiện nhất thời tạo ra, chẳng hạn như mệt mỏi, căng thẳng, hoặc những
thay đổi bất ngờ có tính may rủi.
2. Các nét nhân cách cũng có tính kiên định và tính khái quát cho mỗi
cá nhân. Nếu anh ta là người chuyên cần trong các nghiên cứu của mình thì
anh ta cũng có thể là một người chuyên cần trong công việc ngoài giờ. Anh
cũng có thể là người cần cù với tư cách là một thành viên của cộng đồng.
Các nhà nghiên cứu theo trường phái này cũng giả thiết rằng những khía
cạnh cơ bản trong hành vi của chúng ta có tính kiên định qua thời gian và qua
các tình huống.
3. Sự khác nhau giữa các cá nhân bắt nguồn từ sự khác nhau ở những
điểm mạnh, chất lượng và số lượng của các nét nhân cách mà mỗi người có.
Nắm bắt được sự khác nhau này giữa các cá nhân là mục tiêu chủ yếu của
các nhà tâm lý học theo cách tiếp cận các nét nhân cách. Tuy nhiên, chúng ta
không thể đo lường các nét nhân cách một cách trực tiếp. Thay vào đó,
chúng ta phải nghĩ ra các phép đo, thường là bằng các bảng hỏi, theo kiểu tự
đánh giá về các hành vi được xem là những chỉ báo về nhân cách.
Những nét nhân cách chủ yếu, trung tâm và thứ yêu của Allport.
Một trong những người đầu tiên quan tâm đến phạm vi các thuật ngữ
nét nhân cách mà mọi người dùng để mô tả nhân cách của mình và của
người khác là Gordon Allpnrt (1973). Ông nhận thức được rằng mặc dù
chúng ta dùng một số lượng lớn các tính từ để mô tả nhân cách nhưng rất
nhiều tính từ có nghĩa tương tự nhau. Do đó, tổng số các tính từ có thể không
nhiều. Trong lúc cố gắng sắp xếp những nét nhân cách này theo một cách có
ý nghĩa, Allport làm nổi bật lên một vài sự khác nhau quan trọng.
Thứ nhất, các nét nhân cách có quan hệ với cái gì đó được biết đến
như là sự khái quát duy nhất, đặc trưng cho cá nhân. Allport cho rằng có một
số nét giúp người nghiên cứu dễ dàng nắm bắt được tính độc nhất vô nhị của
các cá nhân. Do đó, chúng được xem là những nét độc nhất vô nhị dặc trưng
cho cá nhân. Còn những nét khác chung cho mọi người.
Sự khác biệt thứ hai liên quan đến các nét chính, trung tâm và thứ yếu
trong nhân cách, ở mức độ toả khắp hoặc rộng lớn đến mức nào khi chúng
ảnh hưởng đến đời sống của mọi người. Một nét nhân cách chính ảnh hưởng
toả khắp đến mức bất cứ cái gì người đó làm cũng đều để lại dấu ấn. Hầu hết
mọi người không có một nét nhân cách duy nhất có ảnh hưởng lớn đến như
vậy. Những mô tả nhân cách đời thường, hằng ngày và mô tả kiểu tóm tắt lịch
sử nói chung xảy ra ở mức những nét nhân cách trung tâm. Các nét nhân
cách thứ yếu cũng được cho là những cách kiểm định trong ứng xử nhưng
khó nhận ra và có tính khai quát hạn chế. Sự quan tâm của Allport đến tính
độc nhất vô nhị của cá nhân mâu thuẫn với sự quan tâm trong cách tiếp cận
nét nhân cách của R.B. Cattell được xem xét dưới đây.
R.B.Cattell và sư áp dụng lý thuyết phân tích yếu tố không giống như
Allport, cách tiệp cận mô tả nhân cách của Cattell dựa chủ yếu vào ngôn ngữ
để mô tả; nhân cách (điểm khởi đầu là từ ngôn ngữ đời sống hàng ngày).
R.B.Cattell (1965) dựa trên phương pháp phân tích yếu tố để xác định các
đơn vị cơ bản của nhân cách. Phân tích yếu tố là phương pháp nhóm các
thông tin do các item (mô tả nhân cách) cung cấp, sau đó chiết xuất yếu tố đại
diện cho nó dựa trên tương quan giữa các item. Cattell đã nhận diện được 36
nét nhân cách ở bề mặt và 15 nét nhân cách ở cấp độ nguồn. Mặc dù ở hai
cấp độ, ông đều coi là nét nhân cách, nhưng nét nhân cách nguồn được ông
tin là những đon vị cơ bản hơn để tạo ra các cấu trúc mô tả nhân cách.
Các nét nhân cách nguồn phản ánh tính đa dạng nhìn thấy ở các nhân
cách của những người xung quanh chúng ta. Các nét nhân cách bề mặt là
những bằng chứng dễ nhận thấy nhất về mặt nổi, nhân cách và là cái chúng
ta nhìn thấy ở người khác. Cattell không đồng ý với những nghiên cứu chỉ
dựa vào một nguồn thông tin khi nghiên cứu về nhân cách của mỗi người.
Ông cho rằng phải dựa trên ba nguồn cơ bản của các số liệu thực nghiệm
- L – Data (Dữ liệu L): bao gồm chủ yếu là những thông tin ghi lại
nhưng hành vi hàng ngày và những sự kiện trong đời sống được thấy trong
sơ yếu lý lịch, nhật ký, thông tin cá nhân
- Q – Data (Dữ liệu Q): gồm dữ liệu đạt được từ các phiếu hỏi, trắc
nghiệm về nhân cách.
- T – (Dữ liệu T): liên quan đến những dữ liệu có được do quan sát cụ
thể trong những tình huống cụ thể.
Từ nguồn số liệu thu thập theo những cách khác nhau, Cattell đã phát
triển trắc nghiệm 16 yếu tố (16 PF) đánh giá nhân cách để phát hiện sự khác
nhau giữa các cá nhân trên những nét nhân cách đã phát hiện.
Eysenck cũng sử clụng phương pháp phân tích yếu tố, ông cho rằng
nhân cách liền được mô tả theo hai mặt chính: Hướng nội - hướng ngoại và
bất ổn tâm thần - ổn định tâm thần. Giống như Cattell, Eysenck cho rằng nhân
cách nên được mô tả theo cấu trúc thứ bậc.
Ở đáy của thứ bậc này là những đáp ứng cụ thể, chúng được quan sát
thấy ở các tình huống cụ thể. Ví dụ, ta bắt tay khi gặp ai đó lần đầu. Sau đó
làl phản ứng theo thói quen. Đây là những phản ứng cụ thể được lặp đi lặp lại
qua một số tình huống. Ví dụ, bắt tay khi gặp nhau trong bất kỳ tình huống
nào được xác định như là một phản ứng theo thói quen khi gặp nhau lần đầu.
Ở bậc cao hơn trong kim tự tháp này là các nét nhân cách, chúng giống
như các nét nhân cách nguồn trong lý thuyết của Cattell. Một cá nhân được
xem có tính thíc giao tiếp (quảng giao) nếu người đó có thói quen thích tham
gia tụ họp, có nhiều bạn bè, tham gia vào các hoạt động giải trí theo nhóm. Ở
đỉnh của kim tự tháp, bậc cao nhất là các kiểu nhân cách, hoạt các mối tương
quan trong của nhiều nét nhân cách đã tạo ra một kiểu ứng xử hoặc kiểu đáp
ứng. Các kiều này là các mặt khái quát chung mà nhân cách được tổ chức,
hay nói khác đi là cấu trúc khái quát mà nhân cách dựa theo.
Tuy nhiên, mọi người có thể đạt điểm theo các thang đo ở mức nét
nhân cách nhưng không đơn giản được nhân diện như là thuộc về hoặc
không thuộc về kiểu (mặt) nhân cách nào đó. Sau này, Eysenck đã bổ sung
kiểu thứ ba vào hai kiểu đầu tiên được ông đặt tên là tâm thần, loạn tâm. Kiều
này liên quan chủ yếu đến khuynh hướng chống đối xã hội. Vì vậy, các mặt
mà Eysenck coi là các đơn vị cơ bản của nhân cách là: hướng ngoại - hướng
nội (E), ổn định tâm thần (N), liên quan chủ yếu đến ổn định xúc cảm, và loạn
thần (P).
Trắc nghiệm EPI - Eysenck Personality Inventory và sau đó được sửa
thành EPQ - Eysenck Personality Questionnaire (Eysenck và Eysenck, 1975)
được xây dựng để đánh gía sự khác nhau giữa các cá nhân trên ba mặt cơ
bản (xem bảng 3).
Bảng 3. Minh họa các item cho các mặt: hướng ngoại, nhiễu tâm và rối
loạn tâm thần EPQ - R (Eysenck và những người khácc, 1985)
1. Bạn thường là người chủ động trong việc kết bạn mới, đúng vậy
không?
2. Tâm trạng của bạn hay thay đổi bất thường, đúng không?
3. Bạn thường thích hành động theo cách của mình hơn là tuân theo
quy định, đúng vậy không?
4. Khi có mặt người khác, bạn thường im lặng, đúng vậy không?
5. Tình cảm của bạn dễ bị thương tổn, đúng vậy không?
6. Bạn đang quan tâm nhiều đến cái mọi người nghĩ, đúng vậy không
7. Bạn có thể dễ dàng làm cho ai đó say xỉn, đúng vậy không?
8. Bạn hay là người lo lắng, đúng vậy không?
9. Bọn thích người khác phải sợ mình, đúng không?
Hướng ngoại - hướng nội liên quan đến sự khác nhau về tính thích giao
tiếp xã hhội và xung tính. Mặt nhiễu tâm gồm sự ổn định về xúc cảm ở cực
này và bất ổn định về xúc cảm ở cực kia. Các cá nhân có điểm cao trên thang
do loạn thần, hoặc cái sau này Eysenck gọi là mặt thô bạo,có khuynh hướng
là người hung bạo, lạnh lùng, chỉ biết mình, né tránh giao tiếp xã hội và không
thích tuân theo luật lệ quy ước.
Cấu trúc năm mặt lớn của nhân cách
Trong những năm 1990, một số nhà nghiên cứu đã tạo ra mô hình nàm
yếu tố, theo họ, giải thích tốt nhất độ rộng của các nét nhân cách mà người
lớn dùng để mô tả những nhân cách.
Costa và McCrae (1992) đã phát triển NEO-PI gồm 300 item, được xem
xét theo năm mức độ. Các item này được phân vào năm thang đo(dựa nào
kết quả phân tích yếu tố), mỗi thang đo gồm sáu tiểu thang đó. Phiên bản mới
đây là phiên bản được chỉnh sửa gọi là Neo-PI-R, chỉ gồm 240 item (xem
Bảng 4). Tại sao mô hình năm yếu tố lại được các nhà nghiên cứu chào đón
nồng nhiệt như vậy? Theo các chuyên gia, điểm lợi chính yếu của cấu trúc
này là nó có khả năng đồng hoá các cấu trúc nhân cách đã được các nhà
nghiên cứu khác công bố trước đó (Hampson, 1999; Goldberg và Rosolack,
1994; Eysenck, 1985). Goldberg và Rosolnck (1994) đã chỉ ra từ góc độ thực
nghiệm rằng mô hình ba yếu tố của Eysenck có thể được hoà nhập vào mô
hình năm yếu tố này.
Một điểm quan trọng nữa là Costa và McCrao đã sử dụng các nguồn tài
liệu khác nhau, tức là các phiếu hỏi, thang tự đánh giá và những báo ráo của
người quan sát về nhân cách. Các số liệu thu thập từ các nguồn khác nhau
đều ủng hộ cho mô hình năm yếu tố này;
Mặc dù vậy, mô hình năm yếu tố này không phải đã được mọi người
chấp nhận như là một đại diện đúng nhất cho cấu trúc nhân cách theo lý
thuyết các nét nhân cách (Block, 1995). Sự phê phán tập trung vào tính chủ
quan trong việc xác định số lượng các yếu tố do phương pháp phân tích yếu
tố tạo ra (không phải mẫu điều tra nào cũng cho cùng một số lượng các yếu
tố như nhau) và việc đặt tên cho các yếu tố này (tên gọi của các yếu tố không
bao quát hết các tiêu chí đo lường). Và điều này trở thành điểm gây tranh cãi.
Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện thấy những nghiên cứu lặp lại cho biết có
đến sáu yếu tố. Hơn nữa, ở những nghiên cứu lặp lại, người ta phát hiện thấy
năm hay sáu yếu tố này đôi khi không có tương quan với nhau. Cũng vậy,
những yếu tố trật tự cao hơn, đôi khi phát hiện thấy như là hai yếu tố được
đặt tên là sức khoẻ tâm thần và kiểm soát hành vi, chúng được xem là có thể
giải thích cho các thông tin ở mô hình năm hoặc sáu yếu tố (Becker, 1999).
Bảng 5. Một số tương quan giữa ba cách tiếp cận đánh giá nhân cách
(tự đánh giá, bạn đánh giá và vợ/chổng đánh giá) theo mô hình năm yếu tố
Nhận xét tổng quan về các lý thuyết, theo cách tiếp cận nét nhân cách
Không phải tất cả các nhà lâm lý học đều nhìn thấy giá trị của cách tiếp
cận nét nhân cách. Có hai giả thiết trung tâm củả cách tiếp cận này. Thứ
nhất, nếu mọi người thực sự có khuynh hướng hành động theo những cách
riêng biệt, lúc đó chúng ta mong nhân cách của họ có tính ổn định tương đối
qua thời gian. Tuy nhiên, một vấn đề khó khăn chính là làm sao tạo ra một
phép đo có tính ổn định, thích hợp qua những khoảng thời gian tương đối dài.
Nói cách khác, thách thức lớn nhất là phải thiết kế được các phép đo dành
cho trẻ em và người lớn đáng tin cậy để đánh giá cùng một nét nhân cách.
Nói chung, điểm của mọi người trên trắc nghiệm nhân cách theo mô
hình năm yếu tố, bộc lộ tính ổn định của nhân cách. Nhân cách con người đạt
tính ổn định vào độ tuổi 30. Trước đó có sự phát triển và thay đổi đáng kể,
điều này gợi ý rằng sự phát triển nhân cách không phải đã hoàn thành sau
tuổi 20.
Giả thiết thứ hai, những đặc tính nhân cách của cá nhân có tính kiên
định qua các tình huống. Điều này liên quan đến quan điểm cho rằng các nét
nhân cách biểu lộ dưới dạng hành vi có tính kiên định qua các tình huống. Vì
vậy, một cá nhân có tính xấu hổ có khuynh hướng không thích hoạt dộng với
nhóm bạn trong lớp, thích ở một mình và miễn cưỡng tham gia các cuộc tụ
tập đông người, các buổi liên hoan. Một chiến lược để đánh giá tính kiên định,
này là phải kiểm tra xem liệu mọi người có được đánh giá theo một cách
giống nhau hay không, rằng những ai họ tương tác qua lại trong những hoàn
cảnh khác nhau. Bảng 5 cho thấy hai điều quan trọng:
• Thứ nhất, bạn đánh giá có tương quan (trung bình) ở mức khiêm tốn
với tự đánh giá (r = 0,50). Tương tự, vợ,chồng đánh giá có tương quan ở
mức vừa phải với tự đánh giá (r = 0,56).
• Thứ hai, sự thống nhất hoặc giống nhau trong đánh giá là khác nhau
ở nliững nét nhân cách khác nhau. Michel (1968) trong nghiên cứu của mình
về tính kiên định củả hành vị đã kết luận là có rất ít những bằng chứng để
khẳng định rằng các nét nhân cách dự đoán một cách đáng tin cậy hành vi
qua các tình huống khác nhau. Điểu này khuyến khích người ta chú ý hơn
đến sự tương tác qua lại giữa các nét nhân cách và các tình huống hoặc tìm
cách nhận dạng những yếu tố có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các
nét nhân cách và những hành vi cụ thể, đặc biệt tìm cách phát hiện những
ảnh hưởng liên quan đến cá nhân và những ảnh hưởng liên quan đến tình
huống.
Tương tác lẫn nhau liên quan đến cách thức riêng của một người (hoặc
nét nhân cách) và chính tình huống đó (các đặc trưng của môi trường) tương
tác với nhau và sự tương tác qua lại cung cấp một cách giải thích tốt hơn cho
tính kiên định của hành vi.
Cuối cùng, thuật ngữ nét nhân cách không được xác định rõ ràng, tức
là những thứ được hiểu khác nhau với những người khác nhau. Đôi khi các
nét nhân cách được hiểu một cách khái quát liên quan đến hành vi thực
(nghĩa chung). Lúc khác chúng lại được xem là những thiên hướng để đáp lại
hoặc ứng xử theo những cách đặc biệt (tức là được dùng để mô tả, dự đoán,
giải thích). Thuật ngữ nét nhân cách đặc trưng cho cá nhân trên cơ sở các
quan sát hành vi lặp đi lặp lại. Đến lượt nó, nét nhân cách lại được dùng nó
để đoán hoặc giải thích chính hành vi đó.
Phần 4. CÁC NHÀ TÂM LÝ HỌC
ADLER, Alfred: Nhà Tâm lý học (TLH) người Áo (1870-1937), đã đề
xuớng ra tâm lý học cá biệt. Là học trò của Freud, về sau ly khai. Adler chấp
nhận khái niệm vô thúc, song coi nhẹ hơn vai trò của tính dục trong căn
nguyên của nhiễu tâm và nhân cách. Các yếu tố cá thể và xã hội có vai trò
quyết định; Con người có ý thức mình yếu đuối và tìm cách sửa lại. Trẻ em
phát triển nhanh cần đạt sức mạnh và quyền lực để đuợc an toàn. Trẻ em bị
rối nhiễu không thích nghi cần được giáo dục để tổng hợp hài hòa vào xã hội
tùy theo khả năng riêng.
Ông lập ra nhiều cơ sở chăm chữa trẻ em, nhiều nơi còn hoạt động cho
đến ngày nay. Một thời gian dài, ông bị ảnh hưởng của Freud làm lu mờ, gần
đây được chú ý hơn (trong nhân cách, tâm pháp).
AJURIAGUERRA, Julian de: Người xứ Basque (Tây ban nha), sinh
năm 1911, di cư sang Pháp, nổi tiếng về TLH trẻ em, dạy học ở Collège de
France.
Chịu ảnh hưởng của Wallon và Piaget, ông toan tính lập một cầu nối
giữa thần kinh học, giải phẫu bệnh, tâm bệnh học và sinh lý thần kinh trong
sự phát triển. Ông chú ý nghiên cứu vận động của trẻ em bình thuờng cũng
như bệnh lý, tương tác giữa thần kinh và quan hệ. Theo ông không một chức
năng nào phát triển độc lập với những chức năng khác: thành thục sinh lý
thần kinh, kinh nghiệm thu đuợc khi tiếp xúc với môi trường thực thể và con
người, xã hội hóa luôn luôn tác động qua lại.
Ông mô tả chi tiết nguồn gốc của những giao tiếp đầu tiên: cầm nắm,
mỉm cười, nhìn theo, kêu khóc, cử chỉ, thái độ, vận động, bắt đầu ngôn ngữ,
gắn bó.
Ông đề xuất những liệu pháp như thư dãn, liệu pháp tâm vận động.
Sau này từ trẻ em ông chuyển qua nghiên cứu nguời già: mô tả thoái hóa
diễn ra theo trật tự ngược lại với sự phát triển.
Có ảnh hưởng lớn ở Pháp và các nước nói tiếng Pháp, châu Âu, Mỹ la
tinh.
ALAIN, Emile Charter: Nhà triết học và sư phạm Pháp (1868-1951), chủ
trương tìm hiểu con người để giáo dục. Phương pháp của ông nghiêm khắc,
cứng rắn và lạnh lùng, buộc phải cố gắng, không thích hợp với trẻ em. Giáo
dục hiện đại công nhận các khái niệm của ông có tầm quan trọng và đưa vào
mọi hệ thống giáo dục (“học chủ động").
ALEXANDER, Franz: Nhà phân tâm học (PTH) Mỹ (1891-1960) nổi
tiếng vì những nghiên cứu bệnh tâm - thể và những liệu pháp phân tâm.
Alexander chú ý những xung đột ở tuổi người lớn hơn là ở tuổi trẻ em, và
khuyến khích bệnh nhân cố gắng vượt lên. Tạo cho bệnh nhân tính độc lập,
tự chủ trong điều trị để rút ngắn thời gian chăm chữa. Tuy vậy nhiều trường
hợp không đạt.
ALPORT, Gordon W: Nhà TLH Mỹ (1897-1967). Học ở Harvard, Berlin
và London, giáo sư ở đại học Harvard. Được biết nhiều về nghiên cứu nhân
cách trong đó nhấn mạnh cá thế, chú ý đến từng nét để có thể lượng hóa.
Ông có hai test được áp dụng rộng rãi:
A - S: Nghiên cứu sự phản ứng (reaction study)
S - V: Nghiên cứu các trị số (study of values)
ANGELL, James Rowland: Nhà TLH Mỹ (1876-1949) đứng đầu khuynh
hướng thuyết chức năng (Functionalism). Ông chịu ảnh hưởng của James.
Dạy học lâu năm ở đại học Chicago. Trong số học trò xuất sắc có J.B.
Watson và H. Carr, về sau trở thành lãnh đạo những trường phái riêng.
BABINSKI, Joseph: Nhà thần kinh học Pháp (1857-1932) được biết vì
những công trình nghiên cứu hệ thần kinh, ông đã chỉ rõ tính chất giả tạo
trong các rối loạn thuộc bệnh "hystori chuyển hoán" (hystéríe de conversion)
đặt tên nó là pithiatisme, có thể chữa khỏi bằng thuyết phục.
BANDURA, Albert: Nhà TLH Mỹ (1925-), giáo sư khoa học xã hội ở
Columbia và Iowa: đã phát triển thuyết luyện tập xã hội (social learning), cố
gắng thay đổi áp dụng thuyết ứng xử, nhấn mạnh nhận thức trong trị liệu ứng
xử. Chủ tịch hội TLH Mỹ (1972).
BARUK, Henri: Nhà TLH Pháp (1897-). Nghiên cứu thần kinh và hóa
học trong các bệnh thần kinh, nghiên cứu các vấn đề đạo đức trong tâm
bệnh.
BECHTEREV, Vladimir Mikhaũovitch: Nhà Tâm - Sinh lý học Nga
(1857-1927). Nổi tiếng về những công trình điều kiện hóa ở động vật và
người. Ông nhận xét thân thể có trí nhớ hữu cơ, và những phản xạ "bất ngờ"
tự nhiên cùng tồn tại đồng thời với những phản xạ thu được bằng luyện tập.
BERGER, Gaston: Nhà triết học và TLH Pháp-(1896-1960), bắt đầu
bằng nghiên cứu tâm lý học nghề nghiệp. Chịu ảnh hưởng của Heymanns và
Wiersma về tính cách học (caractérologie) ông cố gắng truyền bá loại hình
học (Typologie), cố gắng áp dụng vào giáo dục để kích thích sự sáng tạo của
học sinh.
BERGSON, Henri: Nhà triết học Pháp (1859-1941), nghiên cứu tâm lý
nội tâm, coi phương pháp nội quan là giả tạo, thuần túy trí năng và phân tích,
không thể hiểu các hiện tượng tâm lý hết sức phong phú. Gần phải dùng trực
giác, nắm bắt ngay tức thì đối tuợng tư duy và bản chất của đối tượng. Đối
lập dòng ý thức, đà sống và tiến hóa sáng tạo với quan điểm liên tưởng. Ông
báo trước các khuynh hướng của triết lý hiện sinh cận đại.
BETIELHEIM, Bruno: Sinh ở Viên khoảng đầu thế kỷ và mất năm 1990
ở Mỹ. Nổi tiếng về chăm chữa trẻ em tự tỏa. Quyển sách bán chạy nhất do
ông viết là "Pháo đài rộng" (La forteresse vide)
Ông chuyên phân tích những chuyện thần tiên theo PTH. Ông cho rằng
có thể chữa được những em hư bằng tạo ra một bầu không khí có tổ chức,
nồng nhiệt để cho đứa trẻ bất hạnh tìm thấy chỗ đứng. Song phải theo pháp
luật, cương quyết, uy quyền và nếu cần phải trấn áp, không cho phép sinh
dục bừa bãi, đề cao trách nhiệm của bố mẹ.
Năm 35 tuổi ông chứng kiến những tàn bạo khủng khiếp khiến ông tin
rằng thế giới này là tàn bạo.
BINET, Alfred: Nhà TLH Pháp (1857-1911), có hiểu biết rộng về khoa
học, văn học nghệ thuật, say mê nghiên cứu TLH, làm giám đốc phòng thí
nghiệm tâm - sinh lý học ở Sorbonne từ 1891, tập trung nghiên cứu trí năng,
diện mạo, đầu, thân mình, thuật đoán chữ viết.
Năm 1904, Bộ giáo dục Pháp quyết định dạy cho trẻ chậm khôn, thành
lập một ủy ban do ông phụ trách tuyển chọn học sinh. Năm 1905, ông cùng
với Th. Simon công bố một phương pháp gọi là Thang đo trí lực (đo chỉ số
khôn QI) được cài tiến liên tiếp cho đến năm 1911. Là test tâm trí đầu tiên,
đơn giản, và có lợi ích thực tế.
BLEULER, Eugen: Nhà Tâm bệnh học (TBH) người Thụy Sĩ (1857-
1939), nổi tiếng vì những nghiên cứu bệnh phân liệt. Ông đưa vào TBH thuật
ngữ Schozophrenie (bệnh phân liệt) lần đầu tiên, ngày nay đã trờ thành kinh
điển. Ông chỉ rõ bệnh nhân tâm trí tuy bề ngoài có vẻ thờ ơ, nhưng hết sức
nhạy cảm, có đời sống bên trong phong phú (tự tỏa).
BOWLBY, John: Nhà nhi khoa và PTH người Anh, sinh năm 1907.
Cùng với Winnicott hoạt động giáo dục trẻ em trên đài BBC. Do nghiên cứu
trẻ em phạm pháp, ông được WHO nhờ nghiên cứu những nhu cầu tâm lý
của trẻ mồ côi trong đại chiến II. Dựa trên các công trình của spitz về trầm
nhược vắng mẹ, của Harlow trên khỉ con và hiện tượng "dấu ấn" của Lorenz,
Bowlby thảo ra lý thuyết về gắn bó (Attachement). Trẻ sơ sinh là yếu nhất,
phụ thuộc nhất, cần được bố mẹ hoặc người lớn che chở liên tục và lâu dài.
Trẻ sơ sinh có một số ứng xử: Bú, níu, kêu, cười, nhìn theo cốt để thân
thể được bảo vệ. Lớn lên đứa trẻ đi theo mẹ, gọi mẹ. Như vậy Bowlby chứng
minh khả năng xã hội hóa sớm có ở trè bé tí. Khi gắn bó có kết quả nghĩa là
người chung quanh đáp ứng thích dâng với mọi tín hiệu của trẻ, nó xây dựng
lòng tự tin, cảm giác an toàn giúp nó chịu đựng sự chia cắt và những thử
thách khác. Tiếp xúc da thịt mẹ-con còn làm thuận lợi cho quá trình gắn bó.
Bowlby và spitz đã có ảnh huởng sâu sắc đến chăm sóc hàng ngày trẻ nhỏ,
chú ý đến các tiếp xúc xã hội.
BRAZELTON, T. Berry: Người Mỹ, sinh trong thập kỷ 20. Giáo sư Nhi
khoa ở Truờng Đại học Y Harvard, ông ham mê nghiên cứu trẻ sơ sinh, trẻ bị
khốn quẫn, bố mẹ xung đột không giải quyết được.
Ông lập ra thang Brazelton cho phép quan sát những quan hệ sớm
giữa trẻ sơ sinh và người chung quanh. Thang Brazelton là một công cụ đánh
giá vừa là một công cụ chữa bệnh. Em bé có khả năng giao tiếp và đáp ứng.
Ông say sưa phổ biến những kiến thức rất bổ ích, chỉ ra những giải
pháp trong tầm tay để giải quyết những khó khăn thường ngày, thay đổi hành
động, khiến ông nổi tiếng khắp nước Mỹ. Ông kế tục sự nghiệp này của B.
Spock khi ông này về hưu. Người ta gọi ông là ông bác sĩ biết nói chuyện với
trẻ sơ sinh.
Hiện nay ông quan tâm đến tổ chức xã hội. Theo ông nước Mỹ giàu có
nhưng chăm sóc trẻ em kém hơn các nước châu Âu. Ông dành sức lực để
làm cho các tổ chức và cá nhân chú ý nhiều hơn đến chăm sóc người mẹ và
trẻ em.
BUHLER, Carl: Nhà TLH Đức (1879-), di cư sang Mỹ. Chịu ảnh hưởng
của trường phái Wurzbuzg, ông chú ý nghiên cứu tư duy bằng thực nghiệm,
về sau ông theo thuyết hình thái (Gestaltìsme).
CANNON, Walter Bradford A871-1945): Nhà Sinh lý học (SLH) Mỹ,
nghiên cứu cảm xúc và các xung năng như đói, khát, đã có ảnh hưởng đến
TLH. Ông coi cảm xúc là phản ứng cấp cứu huy động cơ thể để chống lại
khủng hoàng, ông đã xác định vùng đồi thị là trung tâm của cảm xúc, qui xung
năng là do những yếu tố tại chỗ. Đói là do dạ dày co bóp; khát - do khô
miệng; đưa khái niệm tự điều chỉnh (Homeostasis) vào TLH.
Ông tin rằng xung năng xuất hiện là để đáp ứng lại mất cân bằng trong
nội tâm. Là nhà SLH quan tâm đến nhiều mặt, nên đã đến với TLH và thuyết
xã hội. Công trình đi đầu của ông đã thúc đẩy những nghiên cứu hiện đại về
cảm xúc, nguyên nhân tâm lý của đói và khát.
CARR, Harvey: Nhà TLH Mỹ (1873-1954), làm việc tại Chicago, kế tục
J.B. Watson. Theo thuyết chức năng. Quyển sách giáo khoa của ông về TLH
đại cương, trình bày quan điểm của thuyết chức năng của trường phái
Chicago, được coi là tốt nhất. Bộ môn TLH do ông đứng đầu ở đại học
Chicago nổi tiếng nhất ở Mỹ thời bấy giờ.
CATTELL, James Mckeen: Nhà TLH Mỹ (1860-1944). Học trò của
W.Wundt, người sáng lập TLH thực nghiệm. Song ông bỏ TLH nội quan và
chuyển nghiên cứu về những khác nhau cá biệt. Lần đầu tiên ông đã tách
môn TLH ra khỏi triết học (1888): Nổi tiếng vì áp dụng các test vận động, cảm
giác, phối hợp để nghiên cứu những khác nhau cá biệt. Đã nghiên cứu nhiều
về đo lường nhân cách, lập ra thuyết các yếu tố nhân cách (Cattell Factorial
theory of personality). Chuyên về các test dùng trong nghề nghiệp và công
nghiệp.
CHOMSKY, Noam: Người Mỹ gốc Nga, sinh năm 1928 ở Philadelphia,
được phong là "Giáo hoàng" của ngôn ngữ học. Ông học ngôn ngữ, toán học,
triết học, làm giáo sư gần 30 năm ở Học viện kỹ thuật Massachusetts. Năm
29 tuổi, ông công bố quyển "Cấu trúc cú pháp" làm thay đổi đáng kể ngôn
ngữ học hiện đại. Ông phát minh ra "Ngữ pháp khái quát", theo đó nhiều ngôn
ngữ trên thế giới với những khác nhau bề ngoài, có một cấu trúc phổ biến và
những yếu tố không thay đổi.
Trong cuộc tranh luận nổi tiếng với Piaget và, Royaumont (1975), ông
cho rằng tiếng nói đạt được không phải bằng luyện tập như ý kiến của các
nhà theo thuyét hành vi và thuyết kiến tạo. Trẻ đẻ ra bẩm sinh đã có "Cơ chế
đạt ngôn ngữ" (LAD - Language acquisition device), một mã phổ biến có lẽ di
truyền khiến nó có thể làm chủ mọi ngôn ngữ.
LAD có liên hệ rõ rệt với thuyết cấu trúc, di truyền học và tin học. Tuy
nhiên các nhà thần kinh học chưa khu trú được LAD ở não. Chưa chứng
minh được trẻ nhỏ đã biết ngữ pháp phổ biến, nhưng những giả thuyết của
ông là định hướng mới cho nhiều nghiên cứu ngôn ngữ học. Ông đã đặt câu
hỏi đúng nhưng chưa có trả lời đúng... về chính kiến ông phản đối cuộc chiến
tranh của Mỹ ở Việt Nam, Mỹ la tinh và vùng Vịnh (Trung đông), bênh vực sự
nghiệp giải phóng của nhân dân Palestin.
CLARAPÈDE, Edouard: Nhà TLH Thụy sĩ (1873-1940) đã có ảnh
hưởng đến nhiều thế hệ sư phạm. Ông chống lại các thuyết tĩnh, coi TLH như
một môn khoa học tĩnh và máy móc; TLH phải là động và chức năng: nghiên
cứu hiện tượng Tâm lý phải đặt trong mối liên quan toàn bộ phản ứng của cơ
thể, thống hợp vào toàn bộ ứng xử. Ông dùng phương pháp quan sát và thực
nghiệm, đã phát triển một số định luật TLH và ứng dụng vào giáo dục (học
chủ động).
COMENIUS (KOMENSKY): Nhà sư phạm Tiệp Khắc (1592-1670). BỊ
cấm và truy hại ở trong nước, ông lang thang khắp châu Âu. Đã viết nhiều
sách về giáo dục học. Những ý kiến tiên tri của ông ba thế kỷ sau mới được
thực hiện: dân chủ hóa giáo dục, giáo dục bắt buộc ở mẫu giáo và cấp một,
dạy trẻ chậm khôn, giáo dục hướng nghiệp từ 14 tuổi, Nhà nuớc giúp đỡ sinh
viên nghèo. Học phải thực nghiệm, thực hành, tham quan thực tế, du lịch, cái
gì vô ích thì không dạy. Có thể coi ông là người thực sự sáng lập ra trường
phái học chủ động (école acUve).
DEB ESSE, Maurice: Nhà TLH Pháp (1903-), giáo sự khoa học nhân
văn ở Paris, đã nghiên cứu nhiều về ứng xử nổi loạn của thiếu niên, tác giả
nhiều công trình nghiên cứu về tuổi thiếu niên.
DECROLY, Ovide: Nhà TLH sư phạm người Bỉ (1871-1932), chuyên
nghiên cứu tâm lý trẻ em bất thường, trẻ chậm khôn. Ông theo Cl. Bernard,
cho răng sức khỏe và bệnh đều theo những qui luật sinh học đồng nhất, cũng
như hoạt động tâm trí bình thường và ở những người chậm khôn, cho nên có
thể dạy cho trẻ chậm khôn.
Theo sư phạm của Decroly mọi tri giác lập tức là một tri giác toàn bộ.
Thay vì tác động lên giác quan, giáo dục phải toàn bộ. Dựa trên thuyết hình
thái (Gestaltisme) làm cho trẻ đọc các từ không thông qua phân biệt các chữ.
Luyện đọc phải dựa vào mắt. Mắt sẽ phối hợp nhanh với tai. Không nên đi từ
chữ đến câu mà nên đi từ cụ thể đến trừu tượng.
DELAY, Jean: Nhà TBH Pháp (1907-1987), có nhiều ảnh hưởng đến
TBH hiện đại vì những công trình nghiên cứu về xúc giác, các cơ chế sinh -
TL của sốc điện, các tâm được gây hư giác, thuốc chống lo, "là đại diện nổi
tiếng nhất của môn TLH khoa học" (Pasteur Valery Radot).
DESCARTES, René: Nhà triết học, khoa học, toán học Pháp (1596-
1650), là người quan trọng nhất trong lịch sử TLH chủ yếu vì những quan
điểm của ông về tác dụng qua lại giữa tinh thần và thân thể (nhị nguyên luận),
khái niệm cơ giới về hệ thần kinh. Ông tin rằng tư tưởng gây ra tinh thần động
vật, chạy theo các dây thần kinh và kích thích các cơ bắp hoạt động.
Thuyết tương tác của Descartes báo trước cách giải thích song song
của Wundt và Tichener về ý thức. Thuyết tinh thần động vật là tiền bối của
cách hiểu hiện đại về xung động thần kinh. Là cha đẻ của triết học hiện sinh
ngày nay. Ông chia hiện tượng thành sinh tồn và bản chất, coi sinh tồn tại
hơn bản chất.
DEWEY, John: Nhà TLH Mỹ, giáo sư TLH ở đại học Chicago. Thực
nghiệm kỹ thuật dạy - chữa, tự do tham gia và dân chủ hóa việc dạy chữa.
Dạy trẻ không phải để chúng thu nhận kiến thức mà là để giải quyết những
vấn đề phải đương đầu sau này. Thầy giáo là người chỉ đường, giúp đỡ,
người cùng làm bình đẳng. Người học phải hành động, không chỉ nghe một
chiều, không phê phán. Học phải hướng về mục đích thực tế, một nghề, một
dự án nhất định. Học sinh phải thu thập tài liệu, điều tra, đọc sách, tổ chức
việc học của mình (học chủ động).
DOLTO, Franpoise: Nhà PTH người Pháp (1909-1988), xuất thân từ
một gia đình tư sản. Mâu thuẫn với gia đình, bà học y tá rồi quyết định trở
thành một thầy thuốc PTH, chữa cho những trẻ em có vấn đề trong học tập:
trốn nhà, đái dầm, nói lắp, ngang bướng.
Đóng góp vào PTH trẻ em của bà là: Chú ý lắng nghe trẻ nói, thu thập
cẩn thận mọi chi tiết, từng câu, từng chữ, từng nét vẽ xem chúng có ý nghĩa
gì.
Đôi khi bà rất táo bạo khi giải thích cho bệnh nhân, bởi bà cho rằng
PTH còn nhằm cung cấp những khuôn khổ tổ chức tâm trí cho những ai thiếu.
DUMAS, Georges: Nhà TLH Pháp (1866-1946) đã có đóng góp lớn vào
tiến bộ của TLH khoa học và phát triển môn tâm-sinh lý học. Giáo sư ở
Sorbonne.
DURKHEIM, Emile (1858-1917):Nhà xã hội học Pháp, là một trong
những người đã thúc đẩy môn xã hội học Pháp, ông chỉ của thân thể. Việc tự
sát liên quan đến điều kiện xã hội chủ thể không thống hợp nổi vào cộng
đồng. Đã đề xuất các qui tắc và phương pháp xã hội học, nghiên cứu những
hình thái sơ đẳng của sinh hoạt tôn giáo và hệ thống totem ở Australia.
EBBINGHAUS, Hermann: Nhà TLH Đức (1850-1909), được biết nhiều
vì những công trình luyện tập và trí nhớ. Ông tìm ra một loạt những qui luật
(số lần nhắc lại, vị trí của một yếu tố trong dãy) làm cơ sở cho thuyết luyện
tập hiện đại. Ông còn để lại test hoàn thành (completion test) ngày nay được
dùng rộng rãi để đo trí lực và nhân cách.
ERIKSON, Eric H: Nhà TLH Mỹ (1902-) sinh ở Đức, di cư sang Mỹ năm
1939, nổi tiếng vì những nghiên cứu sự phát triển của trẻ em, nêu ra những
khái niệm "khủng hoảng bản sắc" (identity crisis), mở rộng thuyết của Freud
phát triển tâm - sinh dục về mặt xã hội, đưa thêm vào một số giai đoạn, nhấn
mạnh cái Tôi nhiều hơn cái Ấy.
FECHNER, Gustave Theodor Nhà triết học Đức (1801 - 1887) là thầy
thuốc, nhà triết học, vật lý học, chuyên về tâm - vật lý do Weber đề xuất: ông
nêu ra định luật về cảm giác "Cảm giác tăng lên theo log của hung phấn" và
hy vọng khái quát hóa nó vào các sự kiện của ý thúc. Là một trong những
người đầu tiên đưa đo lường vào TLH.
FREUD, Anna (1895-1982): Con gái út của s. Freud, người duy nhất
trong gia đình theo sự nghiệp của cha, suốt đời chăm lo bảo quản công trình
của cha, thậm chí không cho tham khảo nhưng công trình lưu trữ của cha.
Là cộng tác viên đắc lực, y tá, người kế tục tinh thần, một ông từ giữ
đền của cha.
Bà thiên về TLH thích nghi rất thịnh hành ở Mỹ; chú trọng các cơ chế tự
vệ coi như là những đáp ứng với những xâm kích của ngoại giới. Khác với
truyền thống bà đề nghị phân tích tâm lý theo những tuyên đường phát triển
của trẻ em. Đóng góp thực tế của bà là điều trị trẻ em bằng PTH. Việc chữa
phải tạo ra cho được một quan hệ tình cảm cho phép đồng nhất với hình ảnh
của người thầy mạnh hơn. Người thầy là bố mẹ, đồng thời là người dạy chữa.
Sau những năm 40 bà cùng với Dorothy Burlingham chăm sóc các trẻ em nạn
nhân của chiến tranh: chia ly, mất mát, bị giam cầm.
FREUD, Sigmund: Nhà Thần kinh - TBH người Áo (1856-1939): mới
đầu chuyên về thần kinh, đã có một số công trình về giải phẫu học so sánh hệ
thần kinh và các bệnh não ở trẻ em; tìm ra tính chất gây tê của cocain. Sau
khi học thêm ở Salpêtriere và Nancy, ông dùng thôi miên để chữa nhiễu tâm,
nhưng chẳng bao lâu bỏ thôi miên và dùng phương pháp "không bỏ sót"
(Nonomission) là nguồn gốc sau này của chữa bằng phân tâm. Học thuyết
của ông gồm 3 phần: luận thuyết tâm lý, kỹ thuật chữa bệnh bằng phân tâm
học và một số ngoại suy sang triết học, xã hội học, văn học - nghệ thuật, lịch
sử, tôn giáo.
Ông đã đưa ra khái niệm vô thức, tính dục, nhục dục, dồn nén, kiểm
duyệt, các cơ chế của mộng. Với lòng can đảm và kiên trì vô hạn, ông tiếp tục
nghiên cứu mặc dù gặp không biết bao nhiêu khó khăn, chóng đối. Năm
1938, chế độ phát xít trục xuất ông di cư sang Anh và mất ở đó năm 1939.
Theo Clarapode, S.Freud là "một trong những hiện tượng quan trọng nhất
chưa hề có trong lịch sử các khoa học về tâm trí".
FRIEDMANN, Georges (1902-1977): Nhà xã hội học Pháp, nghiên cứu
chủ yếu lâm lý xã hội trong lao động.
GESELL, Arnold: Nhà TLH Mỹ (1880-1961), đã nghiên cứu giáo dục
học, TLH, triết học, y học. Nghiên cứu trong nhiều năm về phát triển của trẻ
em, dùng các test trẻ em (baby-test) và quay phim để nghiên cứu (110 km
phim xép theo chủ đề), dùng phuơng pháp nghiên cứu trẻ sinh đôi. Cũng như
Wallon ở Pháp, ông đưa vào TLH khái niệm thành thục, nhấn mạnh sự
trưởng thành.
Tác phẩm 3 tập nổi tiếng của ông là: Le jeune enfant dans la civilisation
modeme, L'enfant de 5 a 10 arts, L'adolescent de 10 à 16 ans.
GOLDSTEIN, Kurt: Nhà thần kinh học Đức (1878-1965) dưới chế độ
phát xít, di cư sang Mỹ. Những công trình nghiên cứu về não đưa ông đến
phê phán thuyết định khu não, xem xét lại hoạt động của hệ thần kinh và cơ
thể nói chung. Ông cho rằng có thể là một thể thống nhất không thể tách rời
thân thể - tinh thần. Cơ thể phản ứng như một tổng thể khi một bộ phận bị
ảnh huởng; tổng thể điều khiển bộ phận. Tác phẩm Stívcture de L’organisme
của ông là một trong những công trình quan trọng nhất ở thời đại hiện nay
GUILLAUME, Paul: Nhà TLH Pháp (1878-1962), theo trường phái hình
thái, chuyên nghiên cứu TLH động vật và TLH trẻ em
GUTHRIE, Edwin R: Nhà TLH Mỹ (1886-1959), giáo sư đại học ở
Washington. Trong đại chiến II, phục vụ trong cơ quan thông tin chiến tranh,
nghiên cứu TLH trong luyện tập.
HARLOW, Hurry F: Nhà TLH Mỹ (1905-1981), nổi tiếng vì những
nghiên cứu mở rộng trên khỉ rhesus. Bans mô hình củng cố loại bỏ
(deprivation - reinforcement) ông chứng minh khi bị thôi thúc bởi tính tò mò và
xung năng mân mê khi giải vấn đề không thưởng bằng cho ăn. Cũng qua thí
nghiệm trên khi, ông phát triển khái niệm "học để học" (leamign to leam), ông
còn nổi tiếng về nghiên cứu trên khỉ bằng dây thép có mặc áo lông và để trần,
qua đó tìm ra bản chất của hệ thống tình cảm ở khỉ.
HEBB, Donulđ O: Nhà TLH người Canada (1904-), chủ trì thuyết luyện
tri giác. Luyện là để đạt khái niệm tam giác. Học nhận biết mỗi góc và mỗi
cạnh cần một tập họp tế bào riêng rẽ; một khi xung động vào tập hợp tế bào
là nó tiếp tục mãi, cuối cùng các tập hợp liên quan với nhau làm thành một
cấu trúc phối hợp gọi là chuyển đoạn pha (Phase sequence), là hoạt động
chính của mọi tập hợp. Chuyển đoạn pha là trung gian của mọi tri thức giác
học được. Động cơ học và tình cảm liên quan đến chuyển đoạn mới; sợ làm
cắt đứt các tập hợp tế bào.
HELMHOLTZ, Hermann: Nhà vật lý học Đức (1821-1894), kiêm sinh lý
học. Phát triển lý thuyết nổi tiếng về nghe và nhìn, mang lại cơ sở toán học
cho định luật bảo tồn năng lượng; sáng chế máy soi đáy mắt, góp phần phát
triển TLH theo kinh nghiệm và truyền thống kinh nghiệm trong tri giác và cảm
giác.
HESNARD, Angels Lows Marie: Nhà TBH Pháp (1886-1969), người
đầu tiên áp dụng học thuyết Freud và PTH vào Pháp, bổ sung và làm phong
phú những ý kiến của Freud nhờ những thành ngữ học, triết học hiện sinh và
xã hội học.
HORNEY, Karen: Nhà PTH Mỹ (1885-1952), người Đức di cư sang Mỹ,
tổ chức Viện PTH ở Mỹ năm 1934. Chịu ảnh hưởng của A. Adler và thuyết
hình thái, bà tách khỏi thuyết Freud, cho văn hóa có vai trò quyết định, bỏ qua
việc tìm hiểu tỉ mỉ quá khứ, nhấn mạnh hiện tại, là cái làm xuất hiện nhiều
tâm. Bà không giải thích rối loạn nhân cách hiện tại bằng điều kiện hóa thời
trẻ em, mà chú trọng tìm hiểu cấu trúc nhân cách của chủ thể.
HULL, Clark: Nhà TLH Mỹ (1884-1952), nghiên cứu chủ yếu việc hình
thành các khái niệm; cũng nghiên cứu ảnh huởng của thuốc lá đến các quá
tình TL; quan tâm nghiên cứu thuyết luyện tập, đề xướng giả thuyết - suy diễn
toán học về luyện tập (Hull’s mathemâưco - deductive Theory of learning).
JAMES, Wiliam: Nhà triết học Mỹ (1842 - 1910), người sáng lập trường
phái thực dụng khẳng định chân lý là cái thực tế, hữu ích và hữu hiệu, ông
cho rằng các sự kiện tâm trí là sự giác ngộ (prise de conscience) về các rối
loạn sinh lý. Phê phán thuyết nỗ lực của Maine và Biran; viết nhiều tiểu luận
về kinh nghiệm tôn giáo.
JANET, Peirre: Nhà TLH Pháp (1859-1947): Giám đốc phòng thí
nghiệm TL ở Salpetriere, giáo sư ở Sorbonne và College de France. Tán
thành TLH phải quan sát và thực nghiệm; đưa ra khái niệm suy nhược thần
kinh (neurasthenie) và trương lực tâm lý (Tension psychologique), đề xuất
nhiều ý kiến về tâm lý trị liệu.
JASPERS, Karl: Nhà triết học và TBH Đức (1883-1969), là một trong
những nhà triết học hiện sinh chính của thời đại chúng ta. Ông quan tâm đến
những vấn đề: giao tiếp, đau khổ, tội lỗi, cái chết. Theo ông, quan hệ giữa
người với người phải là những dạng “chiến đấu vì yêu đương" (Combat
amoureux). Ông khuyên nên xem xét người bệnh "trong toàn bộ nhân cách"
sinh động của họ.
JONES, Emest: Thầy thuốc người Anh (1879-1958), yêu thích PTH, là
chủ tịch Hội PTH quốc tế trong 20 năm, nghiên cứu PTH ứng dụng vào tôn
giáo, nghệ thuật, văn học. Đã viết tiền sử chi tiết và nhiều mặt về s. Freud (La
vie et Voeuvre đe S. Freud, 1958).
JUNG, Carl Gustav: Nhà TLH, TBH Thụy Sĩ (1875-1962), học ở Bale,
Salpêtriere với R.Janet, làm trợ lý cho Bleuler. Nhanh chóng nắm bắt PTH, trở
thành môn đệ và bạn của s.Freud. Sau 5 năm ông tách ra, lập một trường
phải mới; "TLH phân tích"; lập Viện Jung ở Zurich năm 1948 và lãnh đạo viện
cho đến hết đời. Ông phát triển chủ yếu những ý kiến về vô thức tập thể, cơ
sở của tưởng tượng, chung cho mọi người ở mọi thời đại, thể hiện trong tôn
giáo, huyền thoại và các thuyết bí truyền. Để kiểm tra khái niệm này, ông đã
điều tra rộng rãi ở Mêhicô, Mỹ, Kenya, Bắc Phi, Châu Âu, Phương Đông,
nghiên cứu các tôn giáo nguyên thuỷ, thuật luyện đan, suy ngẫm về các tác
phẩm nghệ thuật của L. Joyce, Picasso; kết quả đưa ông đến khẳng định con
nguời có một cái vốn chung phổ biến, tạo ra các "hình mẫu cổ sơ"
(Archetype), là những hình ảnh và tượng trung độc lập với thời gian và không
gian.
KELLY, George A: Nhà TLH Mỹ (1905-1966), giáo sư TLH ở Ohio.
Trong đại chiến II, làm cố vấn TL trong hải quân Mỹ. Nghiên cứu về tâm lý
lâm sàng, khoa học ứng xử, nhân cách.
KLEIN, Melanie: Sinh năm 1882 ở Viên, mất năm 1960 ở London. Bà
đã mang lại một chiều mới cho PTH, đặc biệt trong lĩnh vực trẻ em. Bà chú
trọng tìm hiểu tâm trí trẻ em nhỏ và những huyễn tưởng của chúng, và cho
rằng trẻ sơ sinh không hề yên tính. Cái Tôi và Siêu tôi hình thành rất sớm.
Trẻ nhỏ đầy lo hãi, bị cái Siêu tôi tàn bạo dày vò, hung tính với mẹ và
những xung năng cổ sơ. Những cái này được giải thoát gây ra nhiễu tâm và
loạn tâm sớm, phải điều trị bằng PTH.
Dùng kỹ thuật chơi để điều trị trẻ em. Nhà PTH nhìn trẻ em chơi, hành
động, vẽ, thao tác đồ chơi sẽ hiểu những ham muốn vô thức của chúng. Các
chuyên đoạn chơi cho phép giải quyết lo hãi.
M. Klein đặc biệt chú ý đến các dấu hiệu lo hãi đầu tiên, đến các xung
năng chết và phá hoại làm cho trẻ nhỏ bối rối.
Năm 1925 M. Klein di cư sang Anh. Tại đây bà tranh luận không ngớt
với A. Freud, người chủ trương một PTH "hoang dã" có mục đích thích nghi.
Bà đã tạo ở Anh nhiều môn đệ tiếp tục sự nghiệp của mình.
KOFFKA, Kurt: Nhà TLH Đức (1886-1941) tiên phong của thuyết hình
thái, cùng vói Schumann, Kohler, Max Wertheimer. Sau đại chiến I di cư sang
Mỹ, làm việc ở Smith College cho đến hết đời.
KOHLERA, Wolfgang (1887-1967): Nhà TLH người Đức, tiên phong
của thuyết hình thái. Kohler đã để nhiều năm nghiên cứu về trí khôn của các
con tinh tinh ở đảo Tenerife; phát triển khái niệm luyện trực giác (Insight
learning); di cư sang Mỹ năm 1934, làm việc tại Swarthmore cho đến cuối đời.
KRETSCHER, Ernest: Nhà TBH Đúc (1888-1964), xây dựng các quan
niệm loại hình sinh học (Types biologiques) dựa trên quan sát các ca bệnh lý.
Trường phái của ông chuyên nghiên cứu thực nghiệm về thể tạng và năng
khiếu.
LAGACHE, Daniel: Nhà TLH, TBH Pháp (1903-1972) thực hành PTH,
chủ trương TLH lâm sàng, đối tượng nghiên cứu là những ứng xử cá biệt
được xem xét trong bối cảnh xã hội, tình cảm và văn hóa. Ông là người đưa
PTH vào dạy ở Sorbonne với những phát triển cá biệt rất đặc sắc.
LASHLEY, Karl S: Nhà TLH Mỹ (1890-1958), giáo sư ở Đại học
Minnesota và Harvard, nghiên cứu thực nghiệm hoạt động của bộ não trong
học tập, sinh học của các con tinh tinh. Đã viết nhiều chuyện khảo về não
trong luyện mê đạo (Maze learnins), học phân biệt và giải quyết vấn đề
(Problem solving), đã phát triển các nguyên tắc về hành động tập thể và đẳng
thể (Equipotentiality).
LAVATER, Johann Casper: Nhà triết học Thụy Sĩ (1741-1801), nghiên
cứu về đoán tướng mặt, thuật đoán chữ viết, nghiên cứu những đặc điểm
hình thái của đầu, mặt, toàn thân để đoán tính cách. Có nhiều thành công,
song những ý kiến của ông không có cơ sở khoa học thực sự.
LEWI STRAUSS, Claude: Nhà xã hội học và nhân loại học Pháp. Đã
nghiên cứu nhiều ở châu Á, Nam Mỹ, nghiên cứu những biểu hiện tư duy tự
phát. Là chủ nhiệm đầu tiên bộ môn nhân chủng học xã hội ở Collè-ge de
France.
LEWIN, Kurt: Nhà TLH Mỹ gốc Đức (1890-1947), di cư sang Mỹ khi chế
độ phát xít nắm chính quyền ở Đức. Ông bỏ các chủ đề kinh điển của TLH (ý
chi, tri giác, liên tưởng...) để nghiên cứu hẫng hụt, thoái lui, kỳ vọng, luyện
tập... Lý thuyết của ông dựa trên khái niệm “hoạt trường TL" (Champ
Psychologique) nghĩa là toàn bộ trương lục gây ra do tác động qua lại giữa
các lục cá thể xã hội, đưa đến nghiên cứu thực nghiệm những nhóm nhỏ và
năng động bên trong nhóm.
LOCKE, John: Nhà triết học Anh (1633-1704). Ông đưa ra những suy
nghĩ về giáo dục, lên án giáo dục truyền thống, giảng dài dòng, không có lợi
ích thực tế. Người học phải làm thí nghiệm, xem, đọc và phê phán, ông nói
"nếu không tận mắt xem thì vẫn không biết gì hơn so với trước". Là một trong
những người tiền bối của thuyết học chủ động.
LOEB, Jacques: Nhà TLH và SLH Mỹ (1859-1924). Nghiên cứu các
ứng dụng định hướng của động vật do những kích thích bên ngoài (ánh sáng,
sức nóng... coi đó giống như ái tính (TropisnlB) ở thực vật. Ông cũng đã
nghiên cứu sự nhạy cảm phân biệt (Sensibilité diíĩérentielle) và trí nhớ liên
tường.
LORENZ, Konrad (1903-1989): Người Áo, nổi tiếng về nghiên cứu tập
tính học (éthologie), tức nghiên cứu những ứng xử của loài vật trong môi
trường tự nhiên, và quan sát tập tính học con người. Trong cuộc tranh luận
giữa bẩm sinh và hậu đắc trường phái khách quan của Lorenz và Trinberger
khẳng định có một loạt nhưng đáp ứng đẻ ra đã có. Ông phát hiện hiện tượng
"dấu ấn" (empremte) ở một số loại gia cầm, khiến chúng gắn bó rất chặt với
ông ở giai đoạn nhạy cảm (24-48 giờ).
Từ những nhận xét đàu tiên của Lorenz trên gia cầm, nhiều người khác
nhận xét hiện tuợng gắn bó ở người. Ở nguời, giọng nói, nét mặt là những tín
hiệu khiến trẻ em nhận biết và ưa thích người. Cũng vậy, hình dáng của trẻ
sơ sinh, cười khóc của nó gây ra ở người lớn một phản ứng âu yếm và che
chở.
Lorenz bị công kích nhiều vì đem cái của người gắn cho loài vật trong
khi quan sát. Loài vật của ông cũng có tính cách, thói quen; đức tính (hoặc tật
xấu), một cuộc sông sôi động. Ngược lại khi ông mang các khái niệm thống
trị, hung tính hoặc cạnh tranh sang người, một số nhà tập tính học, sử học,
dân chủ không chịu nổi. Một số tuyên bố của Lorenz khiến người ta xép ông
vào những người ủng hộ chế độ phất xít. Một lần nữa Lorenz đặt vấn đề quan
hệ phức tạp giữa khoa học và chính trị.
LURIA, Alexandre: Nhà TLH Xô Viết (1902-1977), bạn lớn của Leontiev
và Vygotsky. Là nạn nhân điển hình của đường lối "Khoa học chính thống” ở
Liên Xô cũ.
Tài năng biểu hiện rất sớm. Năm 20 tuổi đã nắm vững những kiến thức
TLH, giao tiếp bằng nhiều thứ tiếng, với nhiều người, đặc biệt với Freud.
Trong 40 năm, ông có nhiều tác phẩm có giá trị, đặc biệt những tác phẩm
cộng tác với Vygotsky.
Theo ông bối cảnh văn hóa là chủ yếu và duy nhất làm cho con người
trở thành khác biệt, bởi văn hóa cho phép truyền lại di sản cho đời sau. Để
riêng ra trẻ con chỉ là những con khỉ thông minh, thậm chí không bằng. Dựa
trên chinh phục văn hóa quá khứ con người luôn luôn thu đuợc những tri thức
mới.
Năm 1936 ĐCSLX quyết định bỏ mọi nghiên cứu về TLH. Luria chuyển
sang nghiên cứu y học, nghiên cứu các di chứng tổn thương não nhất là
những nạn nhân chiến tranh, ở đây ông cũng nổi tiếng, hiệu chỉnh nhiều
phương pháp mới về dạy - chữa cho thương bệnh binh.
Năm 50 tuổi ông bị bạc đãi một lần nữa, chuyển sang theo dõi những
trẻ chậm khôn. Chỉ sau khi Stalin chết ông mới được nghiên cứu thoải mái
hơn. Nhiều học trò tỏ ra cảm kích khi nói về ông.
MAKARENKO, Anton Semionovitch: Nhà sư phạm Nea (1888-1939).
Lúc đầu là giáo sư sử học, sau Cách mạng Tháng mười, chuyên dạy chữa
những thiếu niên hư. Đã lập ra Trại Gorki (1920) và làng Djerjinski (1931),
chọn các em hư vị thành niên, tổ chức thành từng đội, làm việc và sinh hoạt
chung do một người dạy - chữa chỉ huy để tạo "kỷ luật tự giác". Có hai tác
phẩm về giáo dục học đáng chú ý là "Bài ca sư phạm" và "Cờ trên tháp”.
MAUSS, Marcel: Nhà xã hội học và nhân loại học Pháp (1872-1950) là
người đã xây dựng trường phái nhân loại học Pháp, có ảnh hưởng đến nhiều
lĩnh vực khoa học về con người: TLH, ngôn ngữ học, lịch sử tôn giáo.
MEAD, Margaret: Nhà TL-XH Mỹ (1901-1978). Bà nghiên cứu các xã
hội nguyên thuỷ và góp phần vào khoa nhân loại học văn hóa, mượn các khái
niệm hiện đại của TLH về nhân cách. Bà chỉ ra luyện tập xã hội chỉ có kết quả
trong hoàn cảnh văn hóa thích hợp. Một số khủng hoảng thanh thiếu niên liên
quan chặt chẽ với cương vị xã hội, không thấy trong một số xã hội nguyên
thuỷ.
MERLEAU - PONTY, Maurice: Nhà triết học Pháp (1908-1961), cùng
với Beauvoir và Jean Paul Sartre xây dựng trường phái hiện sinh ở Paris, cải
tiến triết học hiện sinh của Husserl... Tư tưởng của ông luôn luôn hướng về
hành động và cụ thể.
MONTESSORI, Maria: Nhà TBH và sư phạm Ý (1870-1952). Bà phát
triển một phương pháp giáo dục, chủ yếu dựa trên phát triển cảm giác (phân
biệt ngày càng tinh vi các tri giác...) Bà dùng nhiều tư liệu vui và theo hạng
bậc giúp cho hoạt động học thoải mái, tách biệt để tạo dễ dàng cho cá thể
phát triển.
MORENO, Jacob Levy: Nhà TLH Mỹ gốc Rumani (1892-1974) lập ra
môn phái kịch tự phát, trong đó mỗi người phải ứng khẩu theo vai trò của
mình (role playing). Năm 1926 di cư sang Mỹ, mở rộng phong trào tâm kịch;
nghiên cứu tương tác bên trong nhóm xã hội biểu đồ quan hệ xã hội
(Sociogramme), lập ra phương pháp đo lường quan hệ xã hội (Sociomctrie).
Các kỹ thuật này được dùng trong TLH công nghiệp, TLH quân sự (lái máy
bay, lái tàu).
MURRAY, Henry A: Nhà TLH Mỹ (1893-1988). Làm quen với c. Jung
khi học ở Cambridge, từ đó thay đổi thái độ đối với TLH và khoa học. Cùng
với Morton Prince lập ra phòng nghiên cứu nhân cách ở đại học Harvard
(nhân cách học Murray) dùng rộng rãi test TAT.
PAVLOV, Ivan Petrovitch: Nhà tâm - SLH Nga (1849-1936). Mới đầu
nghiên cứu về tuần hoàn và tiêu hóa. Nghiên cứu về tiết dịch nước bọt bằng
điều kiện hóa đã đưa đến tìm ra phản xạ có điều kiện. Theo ông và những
người kế tục (chủ yếu Bechterev) những hiện tượng tâm trí phức tạp nhất
(thói quen, ý chí) đều có thể thụ lại thành phản xạ có điều kiện. Một số phản
xạ có điều kiện có thể di truyền nếu được củng cố vững chắc, ứng dụng thực
tế nổi tiếng nhất là đẻ khône đau. Những nghiên cứu điều kiện hóa của
Pavlov làm cơ sở sau này cho thuyết ứng xử của Watson.
PESTALOZZI, Johann Heinrich: Nhà sư phạm Ý (1746-1827). Ông học
thần học, ngôn ngữ, luật, lịch sử, kinh tế. Khi ở Neuhof thấy nhiều trẻ nghèo
khổ, lang thang, quấy phá trên đường phố, ông quyết định gom các em lại và
nuôi bằng tiền làm việc của mình, không có giúp đỡ gì của nhà cầm quyền.
Giáo dục của ông là tự do, chủ yếu dựa trên sự tôn trọng và lòng yêu trẻ.
PIAGET, Jean: Nhà TLH Thụy SĨ (1896-1980); bắt đầu là nhà sinh vật
học, logic học, triết học, về sau chuyên nghiên cứu TL trẻ em. Quan sát trên
các con của minh, rồi các học sinh cấp 1 khi chơi và làm việc đuợc giao, trò
chuyện, làm các test, "(ông đi đến nhận xét tư duy và ngôn ngữ của trẻ phát
triển theo những giai đoạn nhất định: từ phản xạ đến giác động, tiền thao tác,
thao tác cụ thể và thao tác hình thức. Công trình của ông có tiếng vang thế
giới, được ứng dụng vào sư phạm, giáo dục nuôi dạy trẻ, giáo dục gia đình.
Là cố vấn giáo dục của UNESCO cho đến cuối đời.
PIERON, Henri: Nhà TLH Pháp (1881-1964), kế nghiệp A. Binet tại
phòng thí nghiệm TL ở Sorbonne, ông nghiên cứu để TLH trở thành một khoa
học khách quan, liên quan chủ yếu đến tri giác và các cơ chế tâm - SLH.
PINEL, Philippe: Thầy thuốc TBH người Pháp (1745-1826). Do ảnh
huởng của thời bấy giờ, ông thay đổi quan niệm và cách đối xử với những
người điên như bỏ xiềng xích, bỏ chế độ hà khắc, đối xử ân cần với họ như
những con nguời bị rối loạn tâm trí.
RHINE, Joseph Bonks: Nhà cận TLH Mỹ (1895-1980), chuyên nghiên
cứu về linh cảm, cùng với William Mc Dougall lập ra phòng thí nghiệm cận
TLH ở đại học Duke nổi tiếng, phụ trách tổ chức nghiên cứu bản chất con
nguời (Foundation for research on the nature of man). Có nhiều đóng góp cho
TLH: nghiên cứu định lượng TL, phổ biến cận - TLH.
RIBOT, Theodulè: Nhà TLH Pháp (1839-1916), là nhà lý luận đầu tiên
của TLH thực nghiệm, chủ yếu nghiên cứu nhân cách về tâm - sinh lý học, tìm
ra các quá trình giảm trí nhớ. "Những ký ức kém ổn định nhất, tức mới nhất,
phức tạp nhất, không có ý nghĩa cảm xúc, sẽ biến đi dễ hơn các ký ức cũ,
đơn giản và đầy cảm xúc".
ROGERS, Carl: Nhà TLH Mỹ (1902-1987), chuyên về TLH lâm sàng,
Chủ tích hội TLH Mỹ (1945). Ông chủ trương phát triển tính chủ động của chủ
thể, trị liệu không chỉ đạo (non directive therapy), trị liệu tập trung vào thân
chủ (client-centered therapy) động viên cái đích thực của thân chủ (self-theory
of personality) để chữa bệnh cho họ.
RORSCHACH, Hermann (1884 - 1992): Nhà TBH Thụy Sĩ, học trò của
Bleuler, chịu ảnh hưởng của Jung, ông cồn là họa sĩ ham mê tranh. Ông chú
ý đến cách mà bệnh nhân phản ứng với các vết mực, so sảnh trả lời của họ
với người thường, qua đó tìm ra tri giác nhìn chịu ảnh huởng của nhân cách.
Các câu trả lời "màu" liên quan đến tính hướng ngoại (exưatensivity) và các
câu trả lời "vận động" đến tính hướng nội (introversity) (loạt hình học của
Jung). Các vết mực dùng để thử sự tuởng tượng, tìm hiểu cấu trúc nhân
cách. Ông đã xây dựng các item làm test.
ROSENZWEIG, Saul: Nhà TLH Mỹ (1907-) Ông đề xướng một lý thuyết
về hụt hẫng về hụt hẫng và hiệu chỉnh một test đặt tên là nghiên cứu hụt hẫng
bằng tranh (Picture trusưation study), là một quyển có những tranh nói lên
một loạt nhũng hẫng hụt, hỏi chủ thể hình dung phản ứng bằng lời của người
bị hẫng hụt và bằng cơ chế phóng chiếu, có thể nghiển cứu các kiểu phản
ứng của họ. Test này được dùng nhiều vì dễ làm và lượng hóa được.
ROUSSEAU, Jean Jacques: Nhà văn, triết học Pháp (1712 - 1778), Mồ
côi mẹ từ khi đẻ ra, bố tính khí thất thường, thời niên thiếu phải sống lang
thang, ông có nhiều suy nghĩ về giáo dục, cho rằng giáo dục phải dựa trên
các tư chất tự nhiên của trẻ, không thể nóng vội. Khoa sư phạm phải theo
chức năng và tuỳ theo lứa tuổi của trẻ em: mỗi tuổi chỉ đạt được từng cái
riêng. Tác phẩm "Khế ước xã hội" (Du contrat social) có ảnh hưởng quyết
định đến cách mạng Pháp 1789; là người tiền bối của sư phạm học hiện đại.
Ông là người đầu tiên viết "thú tội" (confession) trong TLH.
SEGUIN, Edouard: Nhà TLH Pháp (1812 - 1880), học trò của Hard,
quan tâm đến trẻ chậm khôn, điên loạn. Mở trường cho trẻ chậm khôn ở
Paris, di cư sang Mỹ và mở rộng loại trường này ở Mỹ.
SKINNER, Barrhus F: Nhà TLH Mỹ (1904 - 1990), phát triển rộng rãi và
có hệ thống thuyết ứng xử. Phương pháp của ông là điều kiện hóa có tác
dụng (condiúonnement operant), là một phương pháp xác định các qui luật
của ứng xử thông qua luyện có tác dụng (Operant learning). Operant khác với
phản xạ có điều kiện của Pavlov (gây một phản xạ điều kiện trên cơ sở một
phản xạ không điều kiện) có thể nghiên cứu độc lập với kích thích làm xuất
hiện đáp ứng đó. Mô hình nghiên cứu của ông (Skinner box) dùng operant là
đè lên một thanh, và củng cố là thường cho thức ăn. Con chuột đè lên thanh
nhiều lần thì được cho thức ăn, và như vậy là điều kiện hóa diễn ra nhanh
chóng. Với chim bồ câu, operant là mổ vào một điểm, và củng cố là các hạt
thức ăn.
Qui luật cơ bản của điều kiện hóa có tác dụng là sau đó phải củng cố,
nếu không đáp ứng sẽ bị dập tắt.
Skinner mở rộng phương pháp điều kiện hóa có tác dụng vào lĩnh vực
chữa bệnh gọi là liệu pháp ứng xử; vào máy dạy học dựa trên nguyên tắc tự
củng cố.
SPEARMAN, Edwad: Nhà TLH Anh (1863-1945), nghiên cứu cứu tri
giác nhiều, rồi phân tích yếu tố của trí năng. Áp dụng toán học để xử lý kết
quả làm test, ông chứng minh, làm được một cái gì đó tuỳ thuộc đồng thời
vào một yếu tố chung (Facteur général-Facteur G) và những yếu tố đặc hiệu
(Facteurs spé ciũques - Facteurs S).
SPITZ, René: Nhà TLH Mỹ, chuyên PTH, nghiên cứu tại phòng TLH
thực nghiệm của Bleuler (Viên). Ông nghiên cứu chủ yếu sự phát triển của trẻ
em trong hai năm đầu. Đã chứng minh bằng thực nghiệm tầm quan trọng của
trao đổi tình cảm giữa trẻ và nguời mẫu dưỡng, của giao tiếp, từ đối thoại mẹ
- con đến đối thoại với nhiều người khác. Trong năm đầu nếu phải tách mẹ
(mẹ bị bệnh, vắng mẹ) trẻ thiếu tình cảm có thể bị rối nhiễu tâm lý đưa đến
trầm nhược vắng mẹ (hospitalisme) hoặc bệnh tâm thể, mặc dù nuôi dưỡng
vật chất tốt.
SPOCK, Benjamin: Người Mỹ, sinh năm 1903 ở Connecticut. Học Nhi
Khoa, TBH và PTH. Trong 20 năm hành nghề Nhi Khoa, ông có quan hệ rất
tốt với trẻ em. Ông soạn quyển "Chăm sóc và dạy con như thế nào", một
trong những quyển sách bán chạy nhất thế kỷ, đã in tới 25 triệu bản và dịch ra
khoảng 30 thứ tiếng.
Với những lời khuyên cụ thể, Spock cung cấp thông tin và phổ biến
những kiên thức PTH về sự phát triển của trẻ em, hướng dẫn các bậc cha mẹ
về nuôi dạy con cái.
Ông đề cao tình thương, lòng khoan dung, tôn tọng nhân và vì thế sau
này bị chê trách là quá buông thả, thiếu trách nhiệm: Để ngăn ngừa, ông đã
nêu lên những giới hạn cần thiết - đối với những ham muốn vô hạn của trẻ
nhỏ.
Ông hăng hái tuyên truyền cho fluor vào nước để phòng bệnh răng.
Ông còn là một chiến sĩ hoà bình, đấu tranh chống vũ khí hạt nhân, chống
chiến tranh ở Việt Nam, chống quân địch. Bị kết án 2 năm tù nhưng được
trắng án nhờ phong trào ủng hộ của quần chúng.
TAYLOR, Friederick Winslow: Kỹ sư, nhà kinh tế học Mỹ (185Ố - 1915).
Tác giả của phương pháp hợp lý hóa lao động: do thời gian cần thiết cho mỗi
công đoạn, loại bỏ động tác thừa, rồi quyết định thời gian tối ưu, qui thành
chuẩn mực cho mọi người. Phương pháp này làm, tăng năng suất, nhưng
làm kiệt quệ sớm thân thể và tâm trí của công nhân. Ai không theo được các
chuẩn thì bị loại. Phương pháp Taylor không chú ý đến những khác nhau cá
biệt và yếu tố tâm lý nói chung, nên dần dần bị loại bỏ.
TERMAN, Uwis MNhà TLH Mỹ (1870 - 1956) nghiên cứu trí lực những
em có năng khỉếu. Ông và các cộng sự đã nghiên cứu trên 1500 em có năng
khiếu (IQ 140) được đánh giá nhiều lần theo dõi trong 35 năm để tìm ứng
nghiệm của các Test. Năm 1916, ông hiệu chỉnh test Binet - Simon gọi là test
Terman, một công cụ đo trí lực có ứng nghiệm cao.
THORNDIKE, Edward L: Nhà TLH Mỹ (1874 - 1949), được biết nhiều
nhất vì luyện cho súc vật, đưa đến thuyết luyện tập nổi tiếng "làm thử và sửa
sai” (Trials and errors). Ngoài ra ông còn đóng góp vào cách đo lường tâm trí.
THURSTONE, Louis L: Nhà TLH Mỹ (1887 - 1955) là người đầu tiên
nghiên cứu các test phát triển trí năng qua phân tích nhiều yếu tố (multiple
factor analysis), xây dựng thang đo thái độ, phát triển các biểu đồ luyện tập
hợp lý, luật xét đoán so sánh trong tâm - Vật lý.
TITCHENER, Edward Bradford: Nhà TLH Mỹ (1867 - 1927), học trò của
w. Wundt ở Leipzig, người đề xướng thuyết cấu trúc (Stivcturalism) trọng tâm
lý học. Ông gọi công trình của Wundt là quan trọng bậc nhất và dùng nhiều
thời gian để dịch sang tiếng Anh. Thiếu nhạy bén với cái mới, chứng minh
thuyết cấu trúc bị nhiều hạn chế, cuối cùng thuyết này không còn là một
trường phái nữa.
TOLMAN, Edouard Chace: Nhà TLH Mỹ (1866 - 1959), được biết nhiều
vì thuyết luyện tập có hệ thống. Lý thuyết của Ông thực chất là pha trộn
thuyết hình thái và thuyết ứng xử.
WALLON, Henri: Nhà TLH Pháp (1879-1963), nhà triết học, văn học,
chủ trương nghiên cứu tâm lý trẻ em: sự phát triển chịu ảnh hưởng của thành
thục sinh học, môi trường xã hội. Sự phát triển không liên tục, có nhiều
"khủng hoảng", mỗi lần khủng hoảng là có tổ chức lai các cấu trúc tâm - sinh
học.
WATSON, John: Nhà TLH Mỹ (1878 - 1958), chống lại phương pháp
thực nghiệm của Wundt, cho là đượm màu triết lý và nội quan, ông muốn TLH
là khách quan và lập ra thuyết ứng xử. Theo ông đối tượng của TLH là những
cái quan sát đuợc, là đáp ứng lại một kích thích nhất định; tâm trí, ý thức là
hiện tượng phụ (Epiphenomene) không thể nghiên cứu được. Nghiên cứu
cặp đôi S-R (kích thích, tình huống - đáp ứng) là đối tượng của TLH. Lý luận
của thuyết, ứng xử sơ lược, không được các nhà khoa học chấp nhận, tuy
nhiên có nhiều ứng dụng thực tế.
WECHSLER, David: Nhà TLH Mỹ (1896-), là tác giả hai thang đo trí
lực WISC (Wechsler intelligence scale for children) và WAIS (Wechsler adult
intelligence scale), những công cụ cổ điển hiện nay được dùng ở hầu khắp
thế giới, là giáo sư TLH lâm sàng ở đại học New -York.
WERTHEIMER, Max (1880 - 1943): Người Đức, sáng lập ra trường
phái TLH hình thái, năm 1934 di cư sang Mỹ. Sau khi nhìn thấy một máy hoạt
nghiêm (Stroboscope) ở một cửa hàng đồ chơi, ông mua về và tiến hành thí
nghiệm. Ồng tin rằng sự di chuyển bề ngoài khi nhìn liên tiếp một loạt tranh
không thể giải thích trên cơ sở thuyết cấu trúc. Có thể giáo dục trè em tư duy
bằng trực giác hơn là luyện liên tưởng cứng nhắc.
WINNICOTT Donald: Là một trong những nhà PTH trẻ em nổi tiếng
nhất. Sinh năm 1897 trong một gia đình quý tộc Anh, mất năm 1971.
Thái độ trị liệu và những công trình lý thuyết, gắn liền với nhân cách
của ông. Ông nổi tiếng vì hai luận đề: Vật chuyên tiếp (otýet ưansitionnel) và
khái niệm cái nhìn (Self)- ông định nghĩa Self là một chức năng độc đáo,
không hoàn toàn là cái Tôi, chủ thể, nhân cách. Nó là phần sống, tự nhiên,
sáng tạo của chủ thể. Nó khác với cái mình giả (faux self) để chống lại lo hãi,
xâm kích và cho thấy một sự mất cân bằng sâu sắc.
Winnicott đặc biệt chú ý đến chăm sóc trẻ bé tí: Holding (bế ẵm, không
có tiếng tương đương trong tiếng Pháp) là toàn bộ những thái độ của người
mẹ tốt (Good enough mother) mang lại cho con một thứ tổ ấm sau khi đẻ ra,
một phương tiện để đề phòng lo hãi, tách rời, mất mát. Trái ngược với cách
nhìn đau khổ của M. Klein, Winnicott cho rằng không có chấn thương nào là
không sửa lại được.
Bằng phương pháp thăm khám chữa bệnh ông đã điều trị cho 60.000
trẻ em. Ổng để lại kỹ thuật "Vẽ nguệch ngoạc" (Squiggle same - Griffonnage)
người lớn và trẻ em cùng vẽ lần lượt và tự do giải thích những hình vẽ bổ
sung cho nhau.
WUNDT, Wilhem: Nhà TLH Đức (1832-1920) học trò của Helmholtz,
thành lập phòng thí nghiệm TLH đầu tiên ở Leipzig (1879); là nhà vật lý học,
sinh lý học, ông bước sang TLH một cách dễ dàng, nghiên cứu về cảm giác
và tri giác, sáng lập TLH hiện đại, là chủ soái của trường phái thuyết cấu trúc.
Ông còn là nhà văn, đã viết nhiều tác phẩm về Tâm sinh lý, tâm lý xã
hội.
ZAZZO, René: Nhà TLH người Pháp sinh năm 1910. Học TLH ở Mỹ với
Arnold Gesell, học các test trẻ em và phương pháp quan sát trẻ em. Ở Pháp
ông học với Wallon. Tán thành dùng các test với điều kiện giải thích tuỳ theo
nhân cách. Là người nghiên cứu, dạy ở Đại học, điều khiển phòng thí nghiệm
TLH của bệnh viện Sainte Anne, cùng với Pierre Male và Ajuriaguerra.
Cùng với vợ là Bianka Zazzo phối hợp với điện ảnh đã làm nhiều phim.
Chủ đề nghiên cứu chính là:
1- Quan hệ giữa những trẻ sinh đôi (xây dựng cái khác nhau từ cái
giống nhau như thế nào);
2- Chinh phục hình ảnh của chính mình. Ông đã chứng minh quan hệ
phức tạp giữa trẻ nhỏ và hình ảnh của nó trong gương.
Rene Zazzo chủ trì nhà trường phải có chuyên viên TL. Ông là tác giả
của nhiều công trình thuộc nhiều đề tài.
Phụ lục 1. CÁC TEST THÔNG DỤNG
Có thể phân loại các test nhiều cách khác nhau tuỳ theo nội dung, cách
làm, những cơ cấu và cơ chế làm cơ sở cho phương pháp trắc nghiệm.
Chúng tôi phân làm hai loại chính. Một bên là các test để đánh giá trí lực,
thường dẫn đến những chỉ số có những ý nghĩa nhất định. Một bên là test để
đánh giá tính tình, nhân cách; ở đây quy trình trắc nghiệm thườmg không chặt
chẽ như loại test trên, và ít khi đến những chỉ số, cho nên đòi hỏi ở nghiệm
viên nhiều kinh nghiệm hơn và một sự nhạy bén đặc biệt.
I- TEST ĐÁNH GIÁ TRÍ LỰC (xếp theo a, b, c)
1- Binet-Simon
Do hai nhà tâm lý học Pháp Binet và Simon đề xuất, lúc đầu chủ yếu để
phát hiện những học sinh không đủ sức theo học cấp tiểu học, và để vận
dụng những phương pháp giáo dục đặc biệt cho loại học sinh ấy. Test gồm
một số câu hỏi và tình huống đặc biệt đòi hỏi đứa bé giải đáp. Những câu hỏi
và tình huống này nhằm đánh giá trí khôn một cách tổng hợp, thông qua khả
năng nhìn nhận sự vật, suy luận, giải đáp cho một vài tình huống thục tế. Test
đã được xây dựng từ kinh nghiệm quan sát và theo dõi học tập để rồi kiểm tra
trên hàng nghìn trẻ. Xây dựng cho mỗi lứa tuổi một số phép thử gồm 6 item;
trí khôn càng phát triển thì có thể giải đáp những phép thử càng khó. Thí dụ,
biết chỉ mắt, mũi, miệng, biết rõ mình là trai hay gái, biết rõ bên nào phải bên
nào trái v.v...
Thực hiện được trên 50% một bộ 6 item tương đương với một tuổi nhất
định gọi là tuổi khôn (age mental), có khi tuổi thực không ăn khớp với tuổi
khôn, như một em bé 8 tuổi thực, chỉ giải đáp được những item tương đương
với 6 tuổi. Từ đó có thể tính chỉ số khôn với công thức:
Chỉ số khôn = (tuổi khôn / tuổi thực) x 100
Binet và Simon đã khai phá ngành đo lường tâm trí (psychoméuie). Sau
này Termann Merrill (Mỹ) đã cải biên; ở Pháp Zazzo và cộng sự cải biên
thành thang đo luờng trí lực kiểu mới (Nouvelle échelle méưique de
L’intelligence - N.E.M.I)
2. Thang Brunet-Lezine
Nhằm xác định chủ yếu tâm lý vận động từ 1 tháng đến 24 tháng, và từ
2 đến 6 tuổi. Gồm một số item đẽ khám nghiệm 4 lĩnh vực (theo Gesell): tư
thế và vận động;
- Phối hợp mắt và vận động (vận dụng các đồ vật);
- Ngôn ngữ;
- Quan hệ xã hội (giữa cá nhân và cá nhân).
GỒm 19 bậc: 1,2,3,…10, 12, 15, 18, 21, 24, 30 tháng, rồi đến 4, 5, 6
tuổi. Mỗi tuổi có 6 item và 4 câu hỏi, bố mẹ trả lời. Ví dụ, với trẻ tháng đầu:
Nằm sấp, nhấc đầu lên
Nằm sấp, biết bò
Nghe tiếng chuông, giật mình hoặc lặng đi
Đưa mắt nhìn theo một vật chuyển động 90 độ.
Nhìn chăm chú vào nghiệm viên
Phản xạ nắm chặt ngón tay người khác
Phát âm họng nhỏ
Ngừng khóc khi có ngươi đến gần hoặc trò chuyện với em
Phản ứng mút trước khi đút vú vào miệng.
Sau 3 tuổi, có thể dùng Binet-Simon vì có những item tương đương. Ví
dụ như xếp các khối gỗ, ghép hình cắt hai mảng...
Từ khám nghiệm rút ra chỉ số phát triển, tương tự như cách tính của
Binet-Simon, giúp đánh giá mức khôn lớn của trẻ.
Từ 1981, sau khi tiên hành nhiều kiểm nghiệm và điều chỉnh được vận
dụng ở nước ta.
3. Denver (Denver development screening test)
Dùng để đánh giá phát triển của trẻ em từ sơ sinh đến 6 tuổi, gồm 105
item, xếp theo trình tự để trẻ lần lượt thực hiện, và phân chia phiếu kiểm tra
theo bốn khu vực: vận động, thích ứng, ngôn ngữ và quan hệ cá nhân (theo
mô hình Gesell).
Có 31 tiết kiểm tra vận động thô sơ: ngẩng đầu, biết ngồi, lẫy, biết đi,
đá bóng, v.v... Có 21 tiết kiểm tra ngôn ngữ, khả năng nghe hiểu và nói, thực
hiện mệnh lệnh, gọi bố mẹ, chỉ vài bộ phận trên cơ thể, phân biệt màu sắc
v.v... về vận động tinh tế có 30 tiết về khả năng phối hợp mất nhìn và bàn tay,
sử dụng bàn tay để vận dụng các đồ vật và vẽ về quan hệ cả nhân - xã hội có
23 tiết về khả năng tiếp xúc với người xung quanh và biết tự chăm sóc: chơi ú
tìm, vẫy tay, tự xúc lấy ăn, mặc quần áo, rửa và lau tay, chơi với trẻ khác…
Dụng cụ đơn giản, không đòi hỏi nghiệm viên có trình độ cao, có thể áp
dụng rộng rãi nhưng đủ chính xác để phát hiện sớm những trẻ em có vấn đề.
4. Gille
Do Gille (Pháp) đề xuất gồm 62 tranh vẽ với các chủ đề khác nhau, đòi
hỏi em bé giải đáp. Qua cách giải, tính điểm, và qua số điểm, đánh giá trình
độ trí lực và kiến thức đồng thời tìm hiểu các thao tác so sánh, phân loại,
nhận thức về số lượng, trọng lượng, kích thước, không gian, thời gian, khả
năng tri giác các vật thể, khả năng tính nhẩm, khả năng suy luận lôgic, khả
năng khái quát hóa trực quan. Thí dụ, đưa hình số 5 bảo: em nhìn vào tranh
này, ở đây có ghế, có cái chổi, cái ghế băng dài, em đánh dấu vào những thứ
dùng để ngồi... Quy trình trắc nghiệm đơn giản không đòi hỏi trình độ chuyên
môn cao, có thể sử dụng từng nhóm, thường được dùng trong các nhà
trường để phân loại nhanh chóng các trường hợp nghi vấn; sau đó kiểm tra
kỹ hơn bằng những test khác.
5. Goodenough
Đánh giá trí lực từ 5 đến 12 tuổi bằng cách cho vẽ một hình người.
Thực hiện khá đơn giản, chỉ cần giấy và bút chì, song có độ ổn định và ứng
nghiệm cao, vì các bộ phận và chi tiết trong hình vẽ phản ánh khá rõ mức
phát triển trí khôn theo lứa tuổi. Ví dụ, các em bé trước 5 tuổi ít khi vẽ hình
người có thân mình, thường chỉ có đầu và tay chân. Qua hình vẽ có thể đánh
giá sự cảm nhận sơ đồ thân thể (xem từ này). Do không cần sử dụng ngôn
ngữ nhiều lắm nên có thể áp dụng cho trẻ em thuộc các dân tộc khác nhau; ở
những môi trường xã hội quá lạc hậu, trẻ em chưa bao giờ dùng giấy bút thì
khó thực hiện hơn. Test vẽ nói chung cũng giúp cho tạo ra mối quan hệ thoải
mái hơn giữa nghiệm viên và em bé. Tuỳ theo các chi tiết trên hình vẽ mà tính
số điểm theo một bảng chuẩn; điểm tối đa là 52. Ở mỗi một môi trường văn
hóa dân tộc cần có bảng chuẩn riêng.
6. Khối vuông Kohs
Nhằm đánh giá trí lực, những người không nói được, hoặc không quen
sử dụng lời nói, hoặc bị rối loạn ngôn ngữ; áp dụng cho trẻ từ 5, 6 tuổi đến
tuổi thanh niên.
Kohs nhận xét thấy phản ứng tự nhiên của mọi người trước một số khối
vuông và tìm cách sắp xếp lại thành một hình nào đó. Từ đó đề ra test này
bằng cách cho đối tượng xếp đúng một số hình mẫu, theo ý đồ riêng. Dùng
16 khối vuông, mỗi cạnh 25mm, mỗi khối có một mặt đỏ, một mặt trắng, một
mặt vàng, một mặt xanh, một mặt với một đường chéo chia đôi bên đỏ bên
trắng, một mặt bên xanh bên vàng. Tiến hành xếp các hình mẫu từ đơn giản
đến phức tạp.
Không sử dụng ngôn ngữ, test Kohs vẫn đòi hỏi thao tác suy nghĩ chặt
chẽ, sức tập trung, phán đoán, thay đổi tuỳ theo tình huống. Từ đó, đánh giá
được khả năng phân tích, tổng hợp, định hướng không gian, xét đoán, trừu
tượng. Đây là một test nhạy bén đo lường trí lực, tiện dùng cho bất kỳ dân tộc
nào, trong bất kỳ môi trường văn hóa - xã hội nào.
7. Raven
Cũng gọi là test khuôn hình tiếp diễn chuẩn (Standard Progressive
Mauices). Gồm 60 khuôn hình chia làm 5 loại: A, B, C, D, E, như 5 hệ thống
lôgic.
A dựa trên tính liên tục trọn vẹn của cấu trúc
B dựa trên sự giống nhau, tuơng đồng giữa các khuôn hình
C dựa trên tính tiếp diễn logic của sự biến đổi cấu trúc
D dựa trên sự thay đổi lôgic vị trí của các hình
E dựa trên cơ sở phân tích cấu trúc các bộ phận
Test đo khả năng nhận ra quan hệ giữa các hình vô nghĩa, nhận ra tính
lôgic của mỗi hệ thống; nhờ vậy có thể đánh giá mức phát triển của tư duy
suy luận. Vì không dùng ngôn ngữ nên có thể áp dụng cho trẻ thuộc các dân
tộc, các môi trường xã hội giáo dục khác nhau. Đây là một test đánh giá toàn
(liện sự phát triển trí khôn, dễ dàng vận dụng cho từng nhóm. Với trẻ nhỏ và
trẻ chậm khôn có test Raven màu (A, ABb và B) đơn giản hơn.
Có thang chấm điểm, tối đa là 60 điểm.
8. Wechsler
Để đánh giá trí lực tổng quát cho nên gồm cả phần lời và phần làm, rồi
thu gọn lại thành một chỉ số khôn. Có ba thang khác nhau:
I- Wise (Wechsler Intelligence Scale for Children) cho trẻ em 6 đến 15
tuổi;
II- WAIS (Wechsler Adult Intelligence Scale) dùng cho lớp người từ 10
đến 60 tuổi;
III- WPPIS (Wechsler Presschool Primary Intelligence Scale) dùng cho
trẻ từ 4 đến 6 tuổi.
PHAN LỜI (Verbal) gồm 6 tiểu test:
1- Kiến thức chung, kiến thức phổ thông và chuyên.
2- Kinh nghiệm sống, khả năng ứng xử theo chuẩn mực xã hội.
3- Số học, khả năng tính nhẩm.
4- Vận dụng khái niệm, khả năng khái quát.
5- Nhớ các chuỗi số xuôi ngược (trí nhớ ngắn hạn, máy móc)
6- Từ vựng, hiểu và định nghĩa các từ.
PHẦN LÀM (Performance) gồm 5 tiểu test:
7- Ký hiệu, ghi nhớ và tái hiện thị giác, phối hợp với vận động chính
xác.
8- Bổ sung tranh, đánh giá khả năng quan sát trí nhớ về thị giác.
9- Xếp khối (như test Kohs).
10- Sắp xếp chuỗi tranh, đánh giá tư duy logic và khả năng dự đoán
các tình huống.
11- Ghép hình, đánh giá tường tượng và phối hợp vận động.
Tính điểm thành điểm chuẩn lời, điểm làm và điểm tổng hợp. Điểm
chuẩn trung bình của mỗi nhóm tuổi chỉ là chỉ số khôn trung bình 100 với độ
lệch là 15. Dưới 17 coi là chậm khôn.
Khả năng chẩn đoán cao, nhưng đòi hỏi công phu.
II- TEST ĐÁNH GIÁ TÍNH TÌNH NHÂN CÁCH
Thường dựa trên nguyên tắc phóng chiếu (test projectlf): đặt chủ thể
trước một tình huống không rõ nét, và từ đó người ấy tự do liên tưởng, suy
luận, phản ứng, phán đoán, qua đó phản ánh những mối tâm tư thường là vô
thức. Có rất nhiều test kiểu này; nói chung không thể đánh giá tính tình nhân
cách theo lối định lượng như các test trí lực, vì đánh giá định tính là chủ yếu.
Cho nên quy trình cũng không chặt chẽ như đối với trí lực, và đòi hỏi ở
nghiệm viên nhiều kinh nghiệm và tính nhạy bén cao.
1- Test C.A.T (Children Apperception Test)
Do Kris đề xuất đuợc gợi ý từ test T.A.T (xem test này). Dùng với trẻ
em từ 3 đến 10 tuổi. Gồm 10 bức tranh vẽ những thú vật quen thuộc, gà, chó,
khỉ, gấu, hổ, sư tử.v.v.... Mỗi bức tranh đề ra một tình huống, làm cho trẻ nhìn
vào có thể bộc lộ những mối tâm tư bị dồn nén, như lo hãi, ám sợ, ganh tị với
anh chị em, ấm ức hoặc yêu cầu bố mẹ âu yếm. Dùng cho trẻ từ 3 đến 10
tuổi, nhằm phát hiện những mắc mứu trong quá trình phát triển, đặc biệt phản
ứng với môi trường gia đình, nhà trẻ, mẫu giáo, trường học. Vận dụng C.A.T
ít phụ thuộc vào một nền văn hóa nào, vì các động vật trên tranh vẽ thường
quen thuộc với trẻ em nhiều nước; trong trường hợp có con vật hay cảnh vật
nào xa lạ với trẻ (ví như con chuột túi - Kangourou - hay cảnh phòng ngủ với
giường bọc chăn) thì thay thế, vẽ những con vật hay cảnh vật phù hợp hơn.
Ngoài những nhà tâm lý học, giáo viên hay bác sĩ cũng có thể vận dụng để
đánh giá tâm lý của trẻ em.
Bellak đề xuất test C.A.T - S. (S là supplement = bổ sung) với những
con vật gần gũi với trẻ bé như chuột, mèo, thỏ... test xây dựng nhăm gợi ý về
những sinh hoạt quan trọng của trẻ em như ăn uống, tắm rửa, quan hệ với bố
mẹ, anh chị em...
2. D.P.I (Dynamique personnelle et images: Xu thế chuyển động của cả tính và tranh ảnh).
Cũng là một test phóng chiếu kiểu C.A.T, gồm 24 hình vẽ trình bày theo
hai chủ đề:
1- Đặt nhân vật lâm vào một tình huống thử thách, đòi hỏi thích nghi
trước khó khăn, đánh giá ý muốn thành công, thái độ trước thành công hay
thất bại.
2- Đặt nhân vật trong mối quan hệ với mọi người, qua đó nhận ra hình
ảnh của bản thân và của người khác.
Một số bản vẽ theo chủ đề một, một số theo chủ đề hai, một số phối
hợp cả hai. Để làm rõ quà tình phát triển, các hình vẽ đều có thể dùng cho từ
5-6 tuổi cho đến trưởng thành, không phân biệt lứa tuổi. Nếu có thì giờ cho
xem và kể chuyện với cả 24 hình vẽ, làm hai lần, cách nhau một ngày. Nếu
chỉ làm được Một lần thì dùng bộ D.P.I rút ngắn gồm 12 hình vẽ đánh dấu A1,
B1, C1, V.V.... cho trẻ từ 5-6 đến 10-12 tuổi; bộ 1 này gợi các chủ đề về quan
hệ giữa bố mẹ và con cái, những sinh hoạt của trẻ em. Trên 12 tuổi dùng bộ
rút ngắn thứ hai đánh dấu A2, B2, C2, v.v...; bộ này gợi lên các chủ đề về sự
khẳng định, óc tự chủ, tinh thần trách nhiệm…
Trong test D.P.I., sự nhận dạng của nhân vật rõ nét hơn so với các test
chủ đề khác.
3. Test Duss (Test Ngụ ngôn của Louisa Duss)
Dành cho trẻ từ 4 đến 10 tuổi hoặc lớn hơn, gồm 10 câu chuyện bỏ dở
theo các chủ đề khác nhau, trẻ phải tiếp tục xây dựng câu chuyện cho hoàn
cảnh, qua đó phát hiện các mối tâm tư bị dồn nén của trẻ trong gia đình (các
cơ chế tự vệ, các mâu thuẫn và các giải pháp), ví dụ: câu chuyện số một tìm
hiểu ý muốn độc lập đối với bố mẹ. Câu chuyện 2, sự ganh tị đối với tình cảm
gắn bó giữa bó mẹ với nhau; câu chuyện 5, về sự lo hãi của trẻ, câu chuyện
6, cảm giác bị ức chế.
4. E.P.I (Eysenck Personnality Inventory: Bảng liệt kê khám nghiệm nhân cách của Eysenck).
Gồm một sộ câu hỏi như M.M.P.I (xerá test này). Gồm 57 item và 2
thang đo với mỗi thang 24 câu hỏi và một thang về nói dối, thử dùng trong các
bệnh viện, trường học, xí nghiệp.
5. M.M.P.I (Minnesota Multiphasic Personnality Inventory:
Bảng liệt kê nhiều mặt về nhận cách của Đại học Minnesota).
Chủ thể phải trả lời 550 câu hỏi theo ba cách: đúng, sai, không biết, và
phải sắp xếp theo 26 đề mục như: sức khỏe chung, có triệu chứng thần kinh
nào không, về đau nhức các dây thần kinh trên đầu, về vận động, cảm xúc,
nghề nghiệp, cuộc sống gia đình v.v... về mỗi item, trả lời theo kiểu: tôi ít khi
đau đầu, tôi thường chiêm bao trong giấc ngủ, tôi thích tiểu thuyết phiêu lưu
v.v...
Dùng cho 16 tuổi trở lên, tiến hành với từng cá nhân hay tập thể. Nhằm
phát hiện mọi mặt của nhân cách, về thể chất cũng như về tâm lý, về giao tiếp
xã hội, về quan điểm xã hội... Thường dùng trong tâm bệnh học.
6. Test P.N (Patte note - Chân đen)
Do Cormairi đề xuất, cho trẻ èm từ 5 tuổi đến cả người lớn. Nhân vật
chính là một chú lợn trắng có một chân đen và gia đình, trong 16 bức tranh
mỗi bức là một tình huống. Theo tác giả làm như vậy, chủ thể dễ nhập vai vào
một nhân vật chính hoạt động trong nhiều tình huống khác nhau, nhưng liên
quan với nhau trong một câu chuyện. Không bắt buộc tiến hành theo thứ tự
sắp xếp của các bức tranh. Tiến hành theo bốn bước:
1- Cho xem bức tranh toàn gia đình để nhận dạng trước từng người,
từng vai
2- Cho xem một lượt tất cả các búc tranh, bảo chọn ra bức nào thích
nhất để kể chuyện.
3- Bảo phân biệt những bức tranh thích và không thích, nói lên ý muốn
tự đồng nhất của bản thân;
4- Giới thiệu bức tranh "Bà Tiên" (Fée), bà này cho phép chú lợn chân
đen nói lên ba điều ước mong, trẻ thử đoán xem là ba điều gì.
Cuối cùng hỏi vài câu chung. Ai hạnh phúc nhất? Ai dễ thương nhất?
Chân đen nghĩ gì về cái chân đặc biệt của mình?
7. Test Rogers
Nhằm đánh giả khả năng thích nghi trong mối quan hệ với gia đình, với
những người thân cận và ý thức về bản thân của trẻ em 8 đến 14 tuổi.
Gồm những câu hỏi in sẵn chia thành 6 đề mục, nhằm thể hiện thành 4
chỉ số;
1- Về tính tự ti;
2- Về tính kém thích nghi xã hội;
3- Về tính kém thích nghi gia đình;
4- Về tính mơ mộng.
Phân tích từng chỉ số hoặc tổng hợp cả bốn, theo số điểm thu được.
Qua đó nhận định về cách ứng xử của trẻ trong những hoàn cảnh khác nhau
như co mình lại, tự ti, khoác lác, lui về thế giới tưởng tượng, tự dằn vặt...
8. Test Rorschach
Một trong những test quan trọng bậc nhất để đánh giá tính tình nhân
cách theo kiểu phóng chiếu và đã được nghiên cứu nhiều nhất từ 50 năm
nay, và cho đến nay vẫn chưa khai thác hết tiềm năng. Đây là một test cung
cấp nhiều thông tin về mọi mặt vào bậc nhất, nhưng cũng rất khó vận dụng,
phải những người có trình độ thật cao mới dùng được.
Test gồm 10 tấm hình với mỗi tấm một vết mực loang lổ, chỗ đậm chỗ
nhạt khác nhau, có tấm có màu, vết mực loang ra thành những hình thù
không rõ là cái gì, nhưng rất đa dạng, cấu trúc chung và từng chi tiết trong
mỗi tấm vẽ này kích thích người nhìn và gợi lên hình ảnh của đủ thứ đồ vật,
thú vật, con người, cảnh vật... Có những hình thù thì gợi lên ở đại đa số
những sự vật giống nhau, nhưng nhiều hình thù thì tuỳ ở mỗi người có những
mối tâm tư và tính tình khác nhau, lại gợi lên rất nhiều sự việc khác nhau.
Đặc biệt ở những người có tâm bệnh, dễ bộc lộ những điều bị dồn nén
trong tâm tư cần ghi lại tỉ mỉ những nhận xét của chủ thể, đối chiếu những
nhận xét ấy với những bảng chuẩn mà nhiều tác giả đã lập ra sau một quá
trình nghiên cứu nhiều năm trên nhiều đối tượng.
9. T.A.T. (Tỉiermtic Apperception Test: Test cảm nhận chủ đề).
Do Muuay đề xuất, với 30 hình vẽ và một tấm giấy trắng, có thể chia ra
từng nhóm dành riêng cho nam nữ từ 10 tuổi trở lên. Vẽ những nhân vật tuổi
và giới khác nhau, trong những tình huống nhất định, hoặc vẽ cảnh vật được
bố cục không rõ nốt; từ đó chủ thể tưởng tượng và suy đoán ra từ mỗi bức
tranh một câu chuyện mang ít nhiều kích thích, với những cảm xúc này khác.
Nghiệm viên có thể gợi ý, khuyến khích, nhận xét, giúp cho chủ thể nghĩ ra
nhiều câu chuyện, bộc lộ tâm tư.
Theo Murray, những ham muốn của chủ thể, vì bị môi trường xã hội
ràng buộc, không được thỏa mãn, tìm cách giải tỏa thông qua tường tượng,
giảm bớt căng thẳng, giải quyết xung đột. Theo phương pháp T.A.T. người ta
đã đề xuất test C.A.T. (xem test này).
10. Test vẽ cây
J.N.Buck (Mỹ) và K. Koch (Thụy Sĩ) lần đầu tiên phát triển vẽ cây thành
phương pháp chẩn đoán tâm lý. Sau đó được rất nhiều người như E.F.
Hammer, R.Stora, L.Riccobono, Đ.Merara hưởng ứng, truyền bá và sửa đổi
và ngày nay nó đã được áp dụng rộng rãi. Dùng cho trẻ từ 3 tuổi đến thanh
niên.
Cho chủ thể dùng bút chì đen hay màu, vẽ lên trên một tờ giấy tương
đối rộng một cây nào đó tuỳ thích. Theo những người đề xuất test này thì cây
có đáng đứng như một con người, và cũng như một con người phát triển lớn
lên, cành lá sum suê rồi già cỗi, có thể bị đẵn cụt, gãy đổ, chết đi. Cây có thể
đâm chồi nảy lá, ra hoa kết quả, cũng có thể còi cọc, rụng lá về mùa rét; lá và
hoa tương tự với trang sức và áo quần của con người, hoa quả là tượng
trưng cho sự sinh nở, hình dáng của cây gợi lên sơ đồ cơ thể của con người.
Vì vậy, qua hình vẽ cây có thể suy đoán những đặc điểm tính tình và nhân
cách.
11. Test Vẽ gia đình
Dùng cho trẻ từ 5 đến 14 tuổi: cho vẽ hình ảnh một gia đình, không
nhất thiết là gia đình hiện thực, mà do em bé tưởng tượng ra. Nhờ vậy mà
thông qua cách vẽ, cách bố trí các nhân vật, vị trí và kích thước của từng
nhân vật và mỗi chi tiết đều có thể bộc lộ các mối quan hệ về tình cảm của
em bé trong gia đình: cảm giác an toàn hay lo hãi, gắn bó hay ghen tức, ý
muốn tự đồng nhất với người nào đó, có mặc cảm tội lỗi hay không. Phân tích
chi tiết hình vẽ cùng với sự trao đổi trò chuyện với em bé có thể đoán ra nội
bộ của gia đình em bé.
Việc tiến hành không phức tạp lắm nhưng việc xử lý thông tin thu thập
được lại rất tế nhị; có thể làm đi làm lại nhiều lần để theo dõi tiến triển của
tâm tư em bé.
Phụ lục 2. Ý THỨC VÀ VÔ THỨC TRONG LĨNH VỰC XÚC CẢM - TÌNH CẢM CON NGƯỜI
Lê Khanh
Khoa Tâm lý học, Trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn.
Trong đời sống tâm lý con người, xúc cảm - tình cảm là một trong
những chức năng tâm lý đặc trưng nhất cho tính người, bộc lộ rõ nhất bản
chất người của mỗi người trong các mối quan hệ xã hội. Lúc sinh thời, cả A.
X. Makarenko và V. A. Xukhômlinxki, hai nhà giáo dục lỗi lạc của Liên xô, đều
cho rằng: tình yêu đối với con người là kho báu vô giá có sức mạnh giáo dục
to lớn của mỗi người. Tình yêu con người làm cho người ta sống trong sạch
hơn, trung thực hơn, thẳng thắn hơn, yêu cầu cao hơn đối với mình và người
khác, nghiêm túc hơn trong việc tuân thủ những quy tắc hành vi và chuẩn
mực đạo đức xã hội. Cả hai ông đều nhấn mạnh: đứa trẻ không thể sống
cuộc sống của con người, không thể phát triển một cách thực sự về mặt đạo
đức, không thể bước dần vào thế giới rộng lớn của cuộc sống công dân, nếu
như nó không biết yêu thương. Các ông đều có một niềm tin không gì lay
chuyển được vào điều mà các ông coi là chân lý: con người chỉ có thể trở
thành Người, theo đúng nghĩa của nó, khi nó biết yêu thương. Theo đó, về
phương diện giáo dục, điều này có nghĩa là, nếu trong quá trình giáo dục
người ta không quan tâm đầy đủ đến giáo dục nhu cầu và tình cảm của con
người thì cũng đồng nghĩa với việc người ta chẳng giáo dục gì cả.
Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển tâm lý học, thì xúc cảm - tình cảm lại
là một trong những lĩnh vực còn chưa được nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc.
Vào những năm 30 thế kỷ XX, Vưgôtxki đã nhận xét: Lĩnh vực xúc cảm - tình
cảm và mối liên hệ gắn bó của nó với tưởng tượng vẫn còn là vấn đề bí hiểm
đối với tâm lý học hiện đại. Bị chi phối bởi quan niệm cho rằng, trí tuệ là yếu
tố duy nhất quy định sự thành bại trong cuộc đời mỗi người, do đó không ít
nhà khoa học đã đổ xô vào các công trình nghiên cứu trí tuệ (đặc biệt là các
công trình nghiên cứu chỉ số IQ), còn lĩnh vực xúc cảm - tình cảm thì dường
như rất ít được chú ý tới, thậm chí còn bị gạt ra khỏi đối tượng nghiên cứu
của tâm lý học (biểu hiện rõ nhất trong những công trình nghiên cứu của Tâm
lý học hành vi rất thịnh hành ở Mỹ vào những năm 50 của thế kỷ XX). Đến
cuối những năm 60 của thế kỷ XX, ở Mỹ với "cuộc cách mạng nhận thức" tâm
lý học chú trọng tới cách thức ghi lại và cất giữ thông tin, cũng như tới bản
chất của trí tuệ. Nhưng các xúc cảm vẫn nằm ngoài cuộc. Vì thế, người ta tỏ
ra bất lực trong việc giải thích vai trò có ý nghĩa quyết định của xúc cảm - tình
cảm đến xử lý thông tin đúng hay sai trong quá trình hoạt động trí tuệ.
Họ không hiểu được rằng, chỉ bằng lôgic lạnh lùng, vô cảm thì không
thể có được những giải pháp mang đầy đủ tính người, như những công trình
nghiên cứu sau này bằng thực nghiệm, cũng ở Mỹ, đã chỉ ra (Howard
Gardner, 1986 và những người khác). Trong những thực nghiệm này người
ta chỉ ra rằng, khi sự can thiệp của xúc cảm vào quá trình tư duy bị gián đoạn
thì con người thường phạm sai lầm khi lựa chọn lấy một quyết định đúng đắn;
những xúc cảm được phân tích, được nhận thức luôn hướng dẫn sự lựa chọn
của chúng ta, chúng hoạt động ãn khớp với lý trí, thúc đẩy hoặc kìm hãm lý
trí; điều khiển, điều chỉnh tư duy (với tư cách là động cơ của tư duy) theo một
hướng nào đó. Với nghĩa đó, có thể hiểu trí tuệ được "nuôi dưỡng" bởi xúc
cảm - tình cảm như A. Damasio quan niệm.
Có thể nói, từ những năm 90 thế kỷ XX tới nay, tâm lý học Mỹ đã có
những bước tiến khá xa trong nghiên cứu xúc cảm - tình cảm con người, nhất
là những thành tựu trong nghiên cứu trí tuệ xúc cảm. Từ kết quả nghiên cứu
của những công trình này, vấn đề mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong
lĩnh vực xúc cảm - tình cảm con người - một trong những vấn đề phức tạp
nhất của tâm lý học, đang dần dần được làm sáng tỏ bằng những lý giải
thuyết phục. Qua đó, người ta đã chứng minh rằng, vô thức không phải là cái
gì đã thuộc về dĩ vãng (đã chết) không còn hoạt động trong đời sống tâm lý
con người, như tâm lý học truyền thống quan niệm, mà ngược lại vô thức
luôn tồn tại trong đời sống tâm lý con người. Giữa vô thức và ý thức tồn tại
một mối liên hệ thường xuyên rất năng động, không ngừng nghỉ. Vô thức ảnh
hưởng tới hành vi của chúng ta, được bộc lộ trong cách ứng xử của chúng ta.
Quá trình bắt đầu trong vô thức, nhiều khi vẫn tiếp tục diễn ra trong ý thức và
ngược lại. Chẳng hạn, một quá trình tư duy tích cực, say mê có thể tiếp tục
diễn ra trong vô thức (lúc ngủ) sau đó lại tiếp tục diễn ra trong ý thức (lúc
tỉnh), có thể nói, cái vô thức không biệt lập (cô lập) khỏi ý thức bởi một bức
tường ngăn cách nào đó một cách tuyệt đối, mà luôn tác động qua lại với
nhau làm nên đời sống tâm lý phong phú sinh động và kỳ diệu của con người.
Trong tác phẩm "Tâm lý học nghệ thuật" Vưgôtxki đã đưa ra nhận xét: Nếu cứ
tự hạn chế việc phân tích các quá trình diễn ra trong ý thức thì khó mà tìm ra
nổi sự giải đáp cho những câu hỏi cơ bản nhất của những rung cảm nghệ
thuật; sẽ không giải thích được những rung cảm, những xúc động do nghệ
thuật làm dấy lên, nếu không dựa vào cái vô thức. Vưgôtxki nhấn mạnh:
Những nguyên nhân gần gũi nhất của hiệu quả nghệ thuật (làm dấy lên ở
người đọc những xúc động đến ngạt thở vì căng thẳng, tóc dựng ngược vì sợ
hãi, nước mắt tuôn trào vì thương cảm...) được nằm kín trong vô thức, và chỉ
sau khi đã thâm nhập được vào lĩnh vực này, chúng ta mới tiến sát tới các
vấn đề của nghệ thuật.
Công đầu trong việc nghiên cứu một cách sâu sắc mối quan hệ giữa ý
thức và vô thức trong lĩnh vực xúc cảm - tình cảm thuộc về các nhà thần kinh
học Mỹ (Paul MacLean, Joseph LeDoux, John A. Bargh, Larry Cahill và
những người khác...). Joseph LeDoux, nhà thần kinh học Mỹ, là người đầu
tiên giải thích vai trò căn bản của hạnh nhân (một cấu tạo thuôn dài gồm
những cấu trúc liên kết với nhau nằm ở phần trên thân não, gần phía dưới
của hệ thống rìa) đối với xúc cảm.
Những công trình nghiên cứu của ông về cơ chế não phụ trách đời
sống xúc cảm đã cho phép khẳng định rằng, hạnh nhân là nơi trú ngụ của trí
nhớ xúc cảm. Khi bị cắt bỏ hạnh nhân con vật không còn những biểu hiện sợ
hãi hoặc cuồng nộ. Tương tự, người ta cũng quan sát thấy một thanh niên bị
cắt mất hạnh nhân để chữa khỏi những cơn động kinh nghiêm trọng (vì lúc đó
chưa có thuốc đặc hiệu chữa bệnh này) mất đi mọi khả năng biểu cảm (sợ
hãi, cáu bẳn, tức giận...) và trở thành một kẻ lạnh như tiền. Vì thế, LeDoux đã
nói một cách hình ảnh: không có hạnh nhân sẽ không có nước mắt để lau
khô, không có nỗi buồn để xoa dịu. Các nhà thần kinh học còn phát hiện ra
rằng, cá ngựa (một bộ phận khác của hệ thống rìa nằm cạnh hạnh nhân) là
nơi trú ngụ (lưu giữ) của trí nhớ cụ thể về bối cảnh của các sự kiện thô
nguyên (không có "mùi vị" xúc cảm gắn với những sự kiện ấy. Chức năng này
thuộc về hạnh nhân). Nói cách khác, nếu cá ngựa nhớ lại những sự kiện thô
nguyên, thì hạnh nhân nhớ lại "mùi vị" xúc cảm gắn liền với những sự kiện ấy.
Thí dụ, một người đã trải qua một tai nạn giao thông, thì trong một hoàn cảnh
cụ thể nào đó, cá ngựa có thể giúp người đó nhớ được nơi xẩy ra tai nạn ấy,
những người ngồi cạnh anh ta, nhãn hiệu của xe gặp nạn..., còn hạnh nhân
lại giúp làm xuất hiện ở anh ta xúc cảm ngậm ngùi, thương xót những người
xấu số gắn liền với tai nạn này. Điều đó, cho phép các nhà thần kinh học về
xúc cảm đi đến kết luận: trên thực tế, bộ não có hai hệ thống nhớ, một cho
những sự kiện thông thường, và một cho những sự kiện đầy xúc cảm. Tuy
mỗi hệ thống này cất giữ một loại thông tin đặc thù, nhưng chúng phối hợp
chặt chẽ với nhau trong khi hoạt động, về mặt tiến hoá, hệ thống thứ hai rõ
ràng ở tầng bậc cao hơn, vì nó cho phép các động vật, đặc biệt là con người,
giữ được một ký ức sống động về những gì đặc biệt nguy hiểm hoặc đặc biệt
hạnh phúc. Những công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, hạnh nhân càng
được kích thích, hưng phấn càng mạnh thì hiệu quả in vào trí nhớ càng lớn.
Vì vậy, ký ức về những sự kiện khủng khiếp, hoặc hạnh phúc cực điểm là
không thể xoá nhoà.
Mặt khác, cơ chế vận hành của hạnh nhân mỗi khi nhận được thông tin
từ các giác quan tới cũng dần dần được làm sáng tỏ. Mỗi khi nhận được
thông tin từ các giác quan chuyển tới, với tư cách là nơi lưu giữ những "ký ức
xúc cảm", hạnh nhân rà soát, so sánh những thông tin này với kinh nghiệm đã
trải qua. Khi một yếu tố then chốt của thông tin vừa nhận được giống với một
yếu tố trong quá khứ (kinh nghiệm người ta đã trải qua), thì nó đồng nhất
ngay tức khắc hai yếu tố này làm một, ra lệnh cho con người phản ứng với
hoàn cảnh hiện nay phù hợp với những xúc cảm gắn liền với yếu tố đã xảy ra
trong quá khứ. Chẳng hạn, một nữ nhân viên phục vụ ở một cửa hiệu giải
khát nọ đột nhiên lao vào cấu xé một cô gái (khách hàng) xinh đẹp chỉ vì chị
ta tưởng nhầm đó là tình nhân của chồng mình, khi chị ta nhìn thấy mái tóc
óng ả của cô gái giống như mái tóc của người đã gây ra cho chị bao nhiêu
đau khổ (tình nhân của chồng). Những sự giống nhau mơ hồ như vậy giữa
những yếu tố hiện nay và đã qua cũng đủ làm cho hạnh nhân phát ra sự báo
động thúc đẩy những hành vi tương ứng phù hợp với những xúc cảm đã qua
(như vừa nhắc tới ở trên). Ở đây cần lưu ý rằng, những xúc cảm này được
làm xuất hiện từ vô thức (hoạt động của hạnh nhân), thúc đẩy một hành động
vô thức (nhiều khi là sai lầm). Sai lầm này chỉ được nhận ra khi có ý thức
tham gia vào thông qua sự phân tích sáng suốt của lý trí, làm cho xúc cảm trở
nên có ý thức. Vấn đề ở đây là: sai lầm được nhận ra, xúc cảm và hành vi
được nó thúc đẩy trở nên có ý thức đã diễn ra theo cơ chế nào?
Những công trình nghiên cứu của LeDoux và nhiều nhà thần kinh học
khác về xúc cảm chỉ ra rằng, những thông tin được truyền từ các giác quan
tới vùng đồi ở đó thông tin thô được "dịch" ra theo "ngôn ngữ" bộ não. Đại bộ
phận những thông điệp này sau đó được chuyển tới những vỏ não vùng
tương ứng với từng giác quan ở vỏ não. Ở đây thông điệp được phân tích và
phân loại.
Loại nào liên quan đến xúc cảm sẽ được chuyển tới hạnh nhân (và cá
ngựa) để kích thích các trung tâm xúc cảm. Nhưng cần lưu ý rằng, ngay sau
khi các thông tin được đồi "dịch" ra theo "ngôn ngữ" bộ não, thì có một bộ
phận nhỏ những thông điệp này được chuyển trực tiếp ngay lập tức từ đồi
đến hạnh nhân (và cá ngựa). Như đã mô tả ở đoạn trên, hạnh nhân, do đó, có
thể làm xuất hiện những xúc cảm một cách vô thức; hành động diễn ra chỉ
dựa vào những xúc cảm này mà không dựa vào suy nghĩ (LeDoux gọi đó là
những cảm nhận tiền nhận thức). Nói cách khác, hạnh nhân gây ra một phản
ứng cuồng nộ hoặc sợ hãi trước khi vỏ não phân tích những gì đang diễn ra
(vì vòng mạch từ đồi đi trực tiếp tới hạnh nhân ngắn hơn rất nhiều so với
vòng mạch từ đồi tới vỏ não, rồi từ vỏ não trở lại hạnh nhân). Trong khi đó đại
bộ phận những thông điệp được gửi tới các phần khác nhau của vỏ não và
được phân tích tại những nơi này. Sau đó, chúng được các thuỳ trán trước
phối hợp lại, phát ra một phản ứng phù hợp nhất, có lợi nhất cho cá thể trong
bối cảnh cụ thể của thời điểm đó. Nói cách khác, vai trò của các vòng mạch
khác nhau trên vỏ não nói chung và của thuỳ trán trước nói riêng, là ở chỗ,
làm cho các xúc cảm (được làm xuất hiện từ hoạt động của hạnh nhân) trở
nên có ý thức; hành động được thúc đẩy bởi những xúc cảm đó cũng trở nên
có ý thức.
Lúc đó, những sai lầm có thể xẩy ra mà ta đã nói tới ở đoạn trên (khi
mà hạnh nhân làm xuất hiện những xúc cảm một cách vô thức) sẽ được sửa
chữa một cách có ý thức; những cơn thịnh nộ do xúc cảm độc lập hoàn toàn
với tư duy gây ra sẽ được ý thức và dần dần làm lắng dịu. Với nghĩa đó,
LeDoux gọi vỏ não trán trước là "Nhạc trưởng của những xúc cảm". Tóm lại,
từ những điều trình bày trên có thể khẳng định rằng, đời sống tình cảm của
con người là kết quả của sự phối hợp hoạt động giữa vỏ não nói chung (thuỳ
não trán trước nói riêng) với vùng rìa (dưới vỏ não) nói chung (hạnh nhân (và
cá ngựa) nói riêng). Nói cách khác, đời sống tình cảm của con người là kết
quả của sự phối hợp hoạt động giữa ý thức và vô thức. Giống như trường
hợp hạnh nhân bị phá huỷ (như ở phần trên đã mô tả), nếu vỏ não trán trước
của một người vì một lý do nào đó bị tê liệt thì phần chủ yếu (phần có ý thức)
của đời sống xúc cảm - tình cảm của họ hầu như bị biến mất. Chẳng hạn,
trong những ca phẫu thuật mở thuỳ não trán trước vào những năm 40 của thế
kỷ XX (do không có một thứ thuốc nào chống lại một cách có hiệu quả đối với
những rối loạn tinh thần, nên lối phẫu thuật này được coi như một cách chữa
trị vạn năng) người ta quan sát thấy, do những chỗ kết nối giữa các thuỳ trán
trước với những bộ phận khác của não (trong đó có hạnh nhân) bị cắt đứt (vỏ
não trán trước hoàn toàn bị cô lập và tê liệt) nên người bệnh cảm thấy sự dau
đớn "nhẹ đi", nhưng người bệnh tỏ ra dường như không còn đời sống xúc
cảm - tình cảm nữa (nhân cách của anh ta đã thay đổi hẳn; trở thành một
người lạnh lùng, không biết sợ sệt, cũng chẳng biết yêu thương), đồng thời
cũng mất đi luôn khả năng quyết định những hành vi hợp lý trong những tình
huống cụ thể.
Trong những trường hợp tương tự như trên (chẳng hạn phẫu thuật thuỳ
trán trước để bỏ đi một khối u to) người ta quan sát thấy rất rõ bệnh nhân
thiếu mất một yếu tố trong danh mục năng lực tinh thần của mình, đó là
những tình cảm. Bệnh nhân có thể kể lại cuộc đời mình không hề phảng phất
một chút tiếc nuối, buồn rầu, thất vọng hay giận dữ nào về cảnh ngộ của
mình. Bệnh nhân vẫn có khả năng suy nghĩ (tư duy), nhưng hoàn toàn giống
như một máy điện toán, anh ta có thể thực hiện một thao tác cần thiết, dù là
rất nhỏ, để đưa ra một quyết định, nhưng hoàn toàn không thể phân định giá
trị của những quyết định khác nhau. Đối với anh ta mọi thứ lựa chọn đều như
nhau. Lối lập luận hết sức lạnh lùng ấy là do ý thức bị thiếu đi những tình
cảm, làm cho lập luận của bệnh nhân bị sai lạc. Chính vì thiếu ý thức về
những tinh cảm của mình, anh ta đã không thực hiện được một sự lựa chọn
nào cả.
Tóm lại, đời sống xúc cảm - tình cảm của con người sẽ là không bình
thường, nếu một trong hai vùng hạnh nhân hoặc thuỳ não trán trước bị
thương tổn (hoặc huỷ hoại). Nói cách khác, như đã nhấn mạnh ở phần trên,
đời sống xúc cảm - tình cảm của con người là kết quả của sự phối hợp nhịp
nhàng giữa vô thức và ý thức. Một xúc cảm lúc đầu xuất hiện có thể vô thức
(do hạnh nhân bị kích thích bởi một lý do nào đó), rồi sau đó (có thể chỉ trong
khoảnh khắc) nó được vỏ não trán trước ghi nhận và trở thành có ý thức. Trái
lại, cũng có thể ngay từ đầu một xúc cảm được xuất hiện một cách có ý thức.
Hiện tượng này thường gặp khi ta thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật hay
(đọc tiểu thuyết, xem phim truyện, xem tranh...). Khi đó, chính nội dung và các
thủ pháp nghệ thuật đã đánh thức và cuốn hút tưởng tượng đa dạng và
phong phú của chúng ta theo sự hấp đẫn của nó, làm xuất hiện ở chúng ta
những cảm xúc mạnh mẽ. Những xúc cảm ấy, theo thời gian, sẽ được lưu giữ
ở hạnh nhân (nghĩa là trở thành vô thức); sau này trong cuộc sống thực
chúng có thể được huy động trở lại trường ý thức tham gia vào định hướng,
điều khiển, điều chỉnh hoạt động trí tuệ sống động của chúng ta. Chính vì vậy,
các nhà thần kinh học về xúc cảm (LeDoux, Damasio, Kagan và những người
khác...) đều thống nhất cho rằng, có hai trình độ xúc cảm, một trình độ vô
thức, một trình độ có ý thức. Tuy nhiên, không có ranh giới tuyệt đối, cứng
nhắc giữa hai trình độ này, mà tuỳ thuộc vào cuộc sống thực của mỗi người
chúng có thể chuyển hoá, tác động qua lại với nhau một cách không ngừng
nghỉ trong quá trình hình thành, phát triển nhân cách mỗi người.
Những chứng cứ khoa học vừa nhắc tới ở phần trên gợi lên nhiều điều
liên quan đến giáo dục đời sống tình cảm cho con cái chúng ta ngay lừ tuổi
thơ trong cuộc sống gia đình. Chính từ trong cái nôi gia đình, ngay từ lúc lọt
lòng mẹ, đứa trẻ đã nhận được sự giáo dục xúc cảm đầu tiên thông qua cử
chỉ âu yếm hay dửng dưng; yêu thương, trừu mến hay độc ác, tàn nhẫn... của
những người trực tiếp chăm sóc, đặc biệt là của người mẹ. Hàng trăm công
trình nghiên cứu đã khẳng định rằng, cách đối xử trực tiếp của cha mẹ đối với
con cái, cũng như cách bố và mẹ thể hiện tình cảm với nhau trước mặt chúng
có những hậu quả sâu xa và lâu bền đối với đời sống xúc cảm - tình cảm của
chúng. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này, như phần trên của bài viết
này đã chỉ rõ, là do những xúc cảm (kể cả những xúc cảm còn thô sơ nhất)
đã xuất hiện, không mất đi mà được in vào hạnh nhân (được lưu giữ ở hạnh
nhân) ngay cả vào lúc mà đời sống xúc cảm còn ở trạng thái thô sơ nhất, đứa
trẻ chưa thể nói lên những kinh nghiệm của nó bằng lời lẽ. Sau này, khi lớn
lên, những ký ức ấy được đánh thức dậy và tham gia (một cách tích cực hoặc
tiêu cực) vào đời sống tình cảm của mỗi người. Những công trình nghiên cứu
khác nhau về những đứa trẻ thường xuyên được bố mẹ quan tâm, bản thân
đứa trẻ thường xuyên được trải nghiệm sự ân cần, lòng yêu thương vô bờ
bến của cha mẹ, về sau sẽ có đời sống tình cảm hoàn toàn khác với những
đứa trẻ thường xuyên bị bố mẹ bỏ rơi, bản thân nó thường xuyên phải chịu
đựng sự đối xử cay độc, tàn nhẫn. Những cuộc điều tra cho biết những đứa
trẻ nào hoàn toàn không được quan tâm sẽ sớm trở nên hư hỏng, chúng
thường bộc lộ sự dửng dưng và chán chường, khi thì gây hấn, khi thì co mình
lại...
Về mặt xúc cảm, cần nhấn mạnh lại một lần nữa rằng, những bài học
hữu hiệu nhất là do bố mẹ dạy cho. Hiệu quả giáo dục (về mặt xúc cảm - tình
cảm) của cha mẹ hoàn toàn tuỳ thuộc vào chỗ họ hiểu và đáp ứng được nhu
cầu phát triển của con, hoà hợp được với con bằng sự quan tâm và tình
thương yêu vô hạn, hay trái lại, không biết đến và cũng không quan tâm đến
nhu cầu ấy, chỉ biết quát tháo, đánh đập, đối xử với con một cách tuỳ tiện tuỳ
theo tâm trạng từng lúc của mình.
Tài liệu tham khảo
1. Daniel Goleman. Trí tuệ xúc cảm. NXB KHXH, Hà Nội, 2002.
2. Hubert Montagner. Quan hệ mẹ con. NXB VHTT, Hà Nội, 2002.
3. L.x. Vưgôtxki. Tâm lý học nghệ thuật. NXB KHXH, Hà Nội, 1981.
4. V.A. Xukhômlinxki. Giáo dục con người chân chính như thế nào?
NXB GD, Hà Nội, 1981.
5. A.x. Makarenko. Giáo dục người công dân. NXB GD, Hà Nội, 1984.
6. Carroll E. Jzard. Những cảm xúc của người. NXB GD, Hà Nội, 1992.
TẠP CHÍ TÂM LÝ HỌC, Số 10 (103), 10 – 2007
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ph.Ăngghen, Phép biện chứng của tự nhiên, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1963.
V.G. Axeev, Động lực hành vi và sự hình thành nhân cách, (tiếng Nga),
Nxb. Tư duy, Mátxcơva, 1996.
A. N. Leondhiev, Hoạt động - Ý thức - Nhân cách, tiếng Nga, Nxb.
Chính trị, Mátxcơva, 1977.
B. Ph.Lomov, Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học,
Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2000.
Maurice Reuchlin, Tâm lý đại cương, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1995, t.III.
A.V. Petroveki, M.G.Iarosevxki (chủ biên), Từ điển Tâm lý học, tiếng
Nga, Nxb. Chính trị, Mátxcơva, 1990.
Poll Phress, J.Piaget, Tâm lý học thực nghiệm, tiếng Nga, Nxb. Tiến bộ,
Mátxcơva, 1975, t.v.
Phạm Minh Hạc, Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
Phạm Minh Hạc (chủ biên), vấn dề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993,
Đảng Cộng sản Viột Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
V. K. Viluinnx, Cơ chế tâm lý cùa động lực con người, tiếng Nga, Nxb.
Đại học Tổng hợp Mátxcơva, Mátxcơva, 1990.
Lawrence A.Pervin, Sách cẩm nang về nhân cách: Lý thuyết và nghiên
cứu, tiếng Anil, Nxb. Guilford, New York/London, 1990.
Raymond J. Corsini, Từ điển Tâm lý liọc, tiếng Anh, Brunner/Mazel,
Philadelphia, 1990.
Ronald E.Smith, Tâm lý học, tiếng Anh, Nxb. West, 1993.
Đề cương nghiên cứu khoa học cấp nhà nước KX05- 07 “Xây dựng con
người Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị
trường mở cửa và hội nhập quốc tế".
J.B.Rotter, Tâm lý học nhân cách, tiếng Nhật, Shinyoslia, 1980.
G.VV.Allport, Giai thích tâm lý học về nhân cách, tiếng Nhật,
Shinyosha, 1982.
L.A.Pervin, Khoa học nhân cách, tiếng Anh, John Wiley & Sons, 1996.
O.P. Pervin & John, Nhân cách: lý thuyết, và nghiên cứu, John Wiley &
Sons, 1997.
Karahe, Hoàn cảnh xã hội và nhân cách, tiếng Nhật, Omichishobo,
1996.
K.II.Craik. Phương pháp nghiên cứu nhân cách: một cách nhìn lịch sử,
Journal of Pr.rsonality, tiếng Anh, 54 (18-51), 1986.
D. Premark và G. Woodruff, Does chimpanzee have a “theory of mind”
Behavioral and Brain Science, 4, (515-526), 1978.
S. Baron-Cohen, A.M Lesslie và U. Frith, Does the autistic child have a
"theory of mind", Cognition, 21 (37- 46), 1985.
L.R. Goldberg, Language and individual differences: The March for
ttniucrsals in personality lexicons, Review of personality and social
psychology,.. tiếng Anh, Vol. 2, Sage Publication, (141-165), 1981.
Nguyễn Trọng Chuẩn, "Nguồn nhân lực trong công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước", Tạp chí Triết học, số 3, 1994.
Phạm Minh Hạc, Tuyển lập Tâm lý học. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002.
Đặng Thị Thanh Huyền, Giáo dục phổ thông với phát triển chất lượng
nguồn nhân lực, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001.
Tâm lý học - những cơ sở lý luận và phương pháp luận, Học viện Chính
trị quân sự, Hà Nội, 1984.
Trần Trọng Thuỷ, "Tổng thuật các lý thuyết nhân cách trong tâm lý học
phương Tây", Tạp chí Thông tin Khoa học giáo dục, Hà Nội, 1991.
Trần Trọng Thuỷ, Khoa học chuẩn đoán tâm lý, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,
1992.
Nguyễn Thanh, Phát triển nguồn nhân lựa phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
"Một số vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu con người và xã
hội", Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX07, Hà Nội, 1994.
B.V.Zeigarnhic, Các học thuyết nhân cách trong tâm lý học nước ngoài,
tiếng Nga, Nxb. Đại học Tổng hợp Matxcova, 1982.
G.M.Arlréeva, N.N.Bogolomov (chủ biên), Những vấn đề lý luận và
phương phát luận của tâm lý học xã hội, tiếng Nga, Nxb. Đại học Tổng hợp
Mátxcơva, Mátxcơva, 1977.
A. G.Axmolov, Tâm lý học nhân cách - Các nguyên tắc phân tích từ góc
độ tâm lý học đại cương, tiếng Nga, Nxb. Tư tưởng, Mátxcơva, 2002.
C. Mác, Ph.Ăngghen, Toàn tập, tiếng Nga, Nxb. Chính trị quốc gia,
Mátxcơva, t.3, tr.29.
F. Lester, A.Lofton, Tâm lý học, tiếng Anh, xuất bản lần thứ bảy, Nxb.
New York, 2001.
B. Ph.Lomov, Những cơ sở phương pháp luận tâm lý học, Nxb. Đại học
quốc gia, Hà Nội, 2000.
A.V.Petrovxki, M.G.Larosevxki (chủ biên), Từ điển Tâm lý học, tiếng
Nga, Nxb. Văn hoá chính trị Mátxcơva, 1990.
G. N.Prndvetrnn, lu.A.Scrlcovin (chủ biên), Tâm lý học xã hội, tiếng
Nga. Nxb. Đại học Tổng hợp Mátxcơva, Mátxcơva, 1977.
Đặc điểm tâm lý tự ý thức của lứa tuồi, thiếu niên, tiếng Nga, NXB. Đại
học Kiev, 1980
Điôniin V.G., Các vấn đề lý luận nhân cách, tiếng Nga, Nxb. Đại học
Tổng hợp Mátxcơva, Mátxcơva, 1977.
Đỗ Long, "Nhân cách, những vấn dề đang đặt ra để tiếp tục nghiên
cứu", Tạp chí Tâm lý học, số 4-1999.
Đỗ Long, "Ý thức - trình độ phát triển cao nhất của tâm lý người", Tạp
chí Tâm lý học, số 1,2,3-2002.
A.N.Leonchiev, "Các tư liệu về ý thức", tiếng Nga, Tạp chí Khoa học –
Bản tin Đại học Tổng hợp Mátxcơva, seri 14 - Tâm lý học, số 3/1988.
A. N.Leonchiev, Các vấn đề phát triển tâm lý, tiếng Nga, Nxb. Tư
tưởng, Mátxcơva, 1972.
B. Ph. Lomov, Các vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học,
tiếng Nga, Nxb. Khoa học, Mátxcơva, 1984.
Patricia H.Miller, Các thuyết về tâm lý học phát, triển, Nxb. Văn hoá -
Thông tin, Hà Nội, 2003.
V.A. Petrovxki, Tâm lý học đại cương, tiếng Nga, Nxb. Giáo dục,
Mátxcơva,1986.
Lê Đức Phúc, "Một sự chuyển biến cơ bản trong tâm lý học hiện đại",
Tạp chí Tâm lý học, Số 1-2001.
Zhang Lyhai Hunkai, "Nhân cách lý tưởng của thời đại kinh tế tri thức",
Tạp chí Thanh Niên, số 14, tháng 7-2001.
V.V.Stolin, Tự ý thức của nhân cách, tiếng Nga, Nxb. Đại học Tổng
hợp, Mátxcơva, Mátxcơva, 1933.
S.Freud - Dẫn theo Pervin A.Lawrence & John Oliver: Personality:
Theory and research, John Wiley & Sons Inc., 1997.
Cao Đình Quát, "Học thuyết của Call Ransom Rogers về nhân cách,
Tạp chí Thông tin khoa học giáo dục, số 73, 1989.
C. Rogers, Tiến trình thành nhân, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
Hall Cavin s. & Lindzey Carner, Theories of Personality, John Wiley &
Sons Inc., N.Y. London, Sidney, 1953.
Hữu Ngọc, Tham luận tại hội thảo về "cái Tôi" do Viện Tâm lý học tổ
chức - 2000, Hà Nội. Tư liệu lưu trữ tại Phòng thông tin tư liệu thư viện - Viện
Tâm lý học.
Phan Ngọc, Tham luận tại hội thảo về "cái Tôi" do Viện Tâm lý học tổ
chức - 2000, Hà Nội. Tư liệu lưu trữ tại phòng thông tin tư liệu thư viện - Viện
Tâm lý học.
Đỗ Long và Phan Mai Hương (chủ biên). Tính cộng đồng - Tính cá
nhân và "cái Tôi" của con người Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia,
2002, Tr. 15.
Phạm Minh Hạc, Tâm lý học Vưgôtxki, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998.
IU.B. Gippenrnyte, A.A.Puđưrev (chủ biên), Tâm lý học nhân cách,
tiếng Nga, Nxb. Đại học Tổng hợp Mátxcơva, Mátxcơvn, 1982.
Khoa học tâm lý thế kỷ XX ở nước Nga. Các vấn đề lý thuyết và lịch sử,
tiếng Nga, Nxb. Viện Tâm lý học Viện Hàn lâm Nga, Mátxcơva, 1997.
C.George Boeree, Các lý thuyết nhân cách, tiếng Anh, mạng yahoo.
S.Freud, Các bài giảng về phân tâm học, tiếng Nga.
L.X.Vưgôtxki, Tâm lý học, tiếng Nga, Nxb. Exmo Press, Mátxcơva,
1997.
X.L.Rubinstcin, Cơ sở tâm lý học đại cương, tiếng Nga, Nxb. Sách giáo
khoa sư phạm, Mátxcơva, 1997.
A.N. Leonchiev, Những bài giảng tâm lý học đại cương, tiếng Nga, Nxb.
Tư tưởng, Mátxcơva, 2001.
Mô hình nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện dại hoá đất nước, Đề tài KHXH 04-04, Hà Nội, 2000.
Bon, N. W. & McConkey, K. M. (Ed), Psychological Science, The
McGraw-Hill Companies, Inc.
J. M. Burger, Personality. 5 Ed. Wadsworth, 2000.
G. F. Huon, Personality, in N. W. Bon và K. M. McConkey (Ed),
Psychological Science, The McGraw- Hill Companies, Inc, 2001.
Mayer, J.D. Salovey. p. & Caruso. D. "Models of Emotional Intelligence"
in R. J. Sternberg (Ed), Hand book of Intelligence, Cambrige University Press,
2001.
Schultz, R.p.&Schultz, S.E.Theorices of Personality, 7 Ed. Wadsworth,
2001.
Sternberg, R. J. (Ed), Hand book of Intelligence, Cambrige University
Press, 2000.
Nguyễn Đức Bách - Lê Văn Yên - Nhị Lê, Một số vấn đề về định hướng
xã hội chủ nghĩa, ở Việt Nam, Nxb. Lao dộng, Hà Nội, 1998.
Bạch Hổ, Thiên thời, địa lợi nhân hoà, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 2000.
Gary Groth - Marmat, Cẩm nang về đo lường tâm lý, tiếng Anh, Nxb.
Awiley Interscence Publication John Wiley Sons, 1990.
Phạm Minh Hạc, Hành vi và hoạt động, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1989.
Phạm Minh Hạc – Trần Kiều – Đặng Bá Lãm - Nghiêm Đình Vỹ, Giáo
dục thế giới đi vào thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Abraham Maslow, Nghiên cứu về động cơ của con người, tiếng Anh.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Một số vấn đề về Tâm lý học đại
cương, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1970, t.2.
P.C.Hemob, Tâm lý học, tiếng Nga, Nxb. Giáo dục, Mátxcơva, 1995.
Mạc Văn Trang, "Một vài nét về con người Việt Nam thời kỳ mở cửa và
những giá trị cần định hướng để đi vào thế kỷ XXI", Đề tài KX07, tháng
8/1995.
Thái Duy Tuyên, "Ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế thị trường đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam", Đề tài KX07,
tháng 10/1995.
Tài liệu tập huấn đào tạo giảng viên về công tác tham vấn, UNICEF,
2002.
Trung tâm thông tin tư liệu, Nền kinh tế tri thức - Nhận thức và hành
động - Kinh nghiệm của các nước phát triển và đang phát triển, NxB. Thống
kê, Hà Nội, 2000.
MỤC LỤC
Lời Nhà xuất bản
Lời nói đầu
Phần I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
A/ Nghiên cứu con người và nhân cách con người – GS.VS. Phạm
Minh Hạc
B/ Về nhân cách và nghiên cứu nhân cách – PGS.TS. Lê Đức Phúc
C/ Một số vấn đề về nhân cách và nghiên cứu nhân cách – TS. Vũ Thị
Minh Chí
D/ Về nhân cách và mô hình nhân cách con người Việt Nam trong giai
đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá – TS. Nguyễn Xuân Thức
Phần II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NHỮNG MẶT CHỦ YẾU TRONG CẤU TRÚC NHÂN CÁCH
A/ Các lý thuyết về nhu cầu và nhu cầu của con người Việt Nam trong
giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hóa – TS. Nguyễn Kim Quý
B/ Động cơ và quá trình hình thành nhân cách – TS. Lê Hương
C/ Về nghiên cứu thái độ trong nhân cách – PGS.TS. Võ Thị Minh Chí
D/ Ý thức, tự ý thức và sự phát triển nhân cách – Trần Ninh Giang
E/ Vấn đề “cái Tôi” trong tâm lý học nhân cách – GS. TS. Đỗ Long
Phần III. CÁC TIẾP CẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
A/ Cách tiếp cận nghiên cứu tâm lý học nhân cách – GS.VS. Phạm
Minh Hạc
B/ Một số điểm cần được chú ý trong nghiên cứu văn hoá, con người,
nguồn nhân lực – PGS.TS. Lê Đức Phúc
C/ Phương pháp luận nghiên cứu và đo lường nhân cách – TS. Nguyễn
Công Khanh
Phần IV. CÁC NHÀ TÂM LÝ HỌC
Phụ lục 1. Các test thông dụng
Phụ lục 2. Ý thức và vô thức trong xúc cảm, tình cảm con người
TÀI LIỆU THAM KHẢO
---//---
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
Chủ biên:
GS.VS. Phạm Minh Hạc - PGS.TS. Lê Đức Phúc
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HÀ NỘI - 2004