Upload
others
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
25,47937,56337,68443,00762,560110,084113,638
291,203720,000
1,925,000
0 1,000,000 2,000,000 3,000,000
Đông Timo
Ả Rập Saudi
Thái Lan
Việt Nam
Sri Lanka
Philippines
Indonesia
Kazakhtan (2012)
Ấn Độ
Trung Quốc
(nghìn hecta)
Top 10 Quốc Gia Có Diện Tích Nông Nghiệp Hữu Cơ Lớn Nhất Châu Á
12.12 12.62 14.01
19.2723.4
36.29 37.49
43.01
0
10
20
30
40
50
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
ngh
ìn h
ecta
Sự Phát Triển Đất Nông Nghiệp Hữu Cơ 2007 - 2014
Nguồn: ADDA Vietnam 2016
Nguồn: FiBL Survey 2016
THỰC PHẨM HỮU
CƠ: HƯỚNG ĐI MỚI
ĐẦY TIỀM NĂNG
1. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN THỰC PHẨM HỮU CƠ HIỆN NAY
Trước nhu cầu tiêu thụ thực phẩm sạch ngày càng cao
trong những năm gần đây và sự gia tăng xu hướng quan tâm
đến chất lượng bữa cơm gia đình của người Việt hiện đại, sự
ra đời của thực phẩm hữu cơ (Organic Food) dần chiếm được
sự ưu ái của người tiêu dùng và mở ra một hướng đi mới đầy
tiềm năng cho ngành thực phẩm Việt Nam. Dù khá mới mẻ
nhưng thực phẩm hữu cơ sớm giành được sự tin cậy của cộng
đồng nhờ vào quy trình sản xuất hoàn toàn tự nhiên và nghiêm
ngặt, không có bất kỳ tác động của chất hóa học, không chất
kích thích tăng trưởng hay chất bảo quản, tuyệt đối an toàn và
mang lại giá trị dinh dưỡng cao.
Theo báo cáo được thực hiện bởi FiBL và IFOAM , diện
tích đất canh tác hữu cơ của Việt Nam cũng tăng đều qua các
năm đạt 43,000ha tính đến năm 2014 và lọt vào top 10 quốc
gia có diện tích đất canh tác hữu cơ lớn nhất châu Á.
Cũng theo báo cáo này, giá trị xuất khẩu các sản phẩm
hữu cơ tại Việt Nam đạt 551 triệu euro trong năm 2014 với các
mặt hàng gạo, chè, cà phê và tinh dầu. Trong khi đó, mức tiêu
thụ ở thị trường nội địa còn rất hạn chế, chỉ đạt 2 triệu euro/năm
và rau củ quả là sản phẩm tiêu thụ chủ yếu.
Được đánh giá là lĩnh vực phát triển nhiều tiềm năng thế
nhưng trên thực tế chưa có nhiều cơ quan, tổ chức tham gia
vào mô hình này. Dự án “Phát triển khung sản xuất và thị
trường cho nông nghiệp hữu cơ” (ADDA – Tổ chức Phát triển
Nông nghiệp Châu Á của Đan Mạch hoạt động tại Việt Nam từ
1999) là dự án duy nhất ở Việt Nam chuyên tập trung về phát
triển nông nghiệp hữu cơ theo chuẩn quốc tế. Tuy vậy, do tiêu
chuẩn sản xuất vô cùng gắt gao đã khiến nhiều nhóm nông dân
phải “từ bỏ cuộc chơi” vì không thể tuân thủ quy định.
2. CƠ HỘI – TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN
Những phân tích của Ipsos Business Consulting cho thấy, an toàn vệ sinh thực phẩm đang là tiêu chí
hàng đầu của đại đa số người tiêu dùng trước tình trạng thực phẩm trôi nổi, không rõ nguồn gốc dẫn đến
những những con số đáng báo động (hơn 4,500 ca ngộ độc thực phẩm trong năm 2015). Vì thế người tiêu
dùng Việt dần có xu hướng thay đổi thói quen mua sắm, bắt đầu quan tâm đến chất lượng sản phẩm và an
toàn sức khỏe hơn trước đây. Cụ thể, chỉ số chi tiêu cho sức khỏe của người Việt có dấu hiệu tăng
trong những năm tới, chiếm hơn 6% trên tổng số chi tiêu hằng năm (ước tính đạt 6.8% năm 2019).
Hơn nữa, mức thu nhập bình quân đầu người
của Việt Nam ngày càng tăng đều qua các năm là
đòn bẩy thúc đẩy người dân sẵn sàng chi tiêu hơn
đối với các các thực phẩm chất lượng cao và đảm
bảo an toàn.
Trước nhu cầu thực phẩm sạch, minh bạch về
nguồn gốc ngày càng cao của cộng đồng, lĩnh vực
này hứa hẹn một tương lai rộng mở cho các nhà
đầu tư mở rộng quy mô và phạm vi sản xuất.
3. THÁCH THỨC
.
2,050 2,140 2,250 2,360 2,470 2,590
0
1,000
2,000
3,000
2015 2016 2017 2018 2019 2020
USD
GDP Bình Quân Đầu Người Ước Tính 2015-2020
9,000 chợ truyền thống
2,000 cửa hàng tiện lợi
900 siêu thị
Việt Nam hiện có một số doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực hữu cơ như: Ecomart Hà Nội sản
xuất chè hữu cơ, Organik Đà Lạt với các sản phẩm rau hữu cơ, Viễn Phú Green Fram xuất khẩu gạo hữu cơ,
Organica Đồng Nai sản xuất rau hữu cơ và Nông trại hữu cơ FVF (Tập đoàn TH) - Nghệ An đa dạng hơn với
rau, dược liệu và sữa hữu cơ. Tất cả sản phẩm của các doanh nghiệp này đều được chứng nhận hữu cơ
theo tiêu chuẩn của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA Organic) và Liên minh châu Âu (EU Organic Farming).
Đối tượng tiêu thụ của các sản phẩm hữu cơ chủ yếu là hộ
gia đình có thu nhập ở mức trung bình trở lên do giá cả tương đối
đắt đỏ. Bên cạnh đó, sản phẩm này hầu như chỉ được bày bán
trong các siêu thị, cửa hàng tiện lợi hay hệ thống phân phối riêng
của doanh nghiệp. Tuy nhiên, những kênh phân phối này chỉ tập
trung ở các thành phố lớn như TPHCM, Hà Nội và Đà Nẵng. Do
vậy, việc mở rộng kênh phân phối để nhóm khách hàng có thu
nhập thấp hơn có thể tiếp cận sản phẩm hữu cơ sẽ là một bài
toán mà các nhà đầu tư cần tìm ra lời giải trước khi bắt tay vào
sản xuất.
Cuối cùng, thách thức lớn nhất đối với doanh nghiệp trong
ngành ở thời điểm hiện tại là Việt Nam chưa có bộ tiêu chuẩn đối
Các sản phẩm trên thị trường hiện nay được chứng nhận bởi tiêu chuẩn PGS - một hệ thống bảo đảm
sự tham gia trực tiếp của các tổ chức, cá nhân vào chuỗi cung cấp thực phẩm hữu cơ, đây là tiêu chuẩn
quốc tế vẫn đang trong quá trình xem xét chứ chưa được Chính Phủ Việt Nam chính thức thông qua. Năm
2006, Bộ Nông nghiệp và PTNT có ban hành Tiêu chuẩn ngành 10 TCN 602-2006: Hữu cơ-Tiêu chuẩn về
sản xuất Nông nghiệp Hữu cơ và Chế biến, mặc dù tiêu chuẩn này chưa cụ thể nhưng có thể nói đây là một
nền tảng quan trọng về chính sách để các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư phát triển.
Nguồn: EIU