Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------
ĐỖ KHÁNH TÙNG
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO VÀ TÍNH CHẤT TỪ
CỦA HỆ HẠT NANO TỪ Fe, Co
BẰNG PHƯƠNG PHÁP NGHIỀN CƠ NĂNG LƯỢNG CAO
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC VẬT LIỆU
Hà Nội – 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------
Đỗ Khánh Tùng
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO VÀ TÍNH CHẤT TỪ
CỦA HỆ HẠT NANO TỪ Fe, Co
BẰNG PHƯƠNG PHÁP NGHIỀN CƠ NĂNG LƯỢNG CAO
Chuyên ngành: Vật liệu điện tử
Mã số: 9.44.01.23
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC VẬT LIỆU NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Đỗ Hùng Mạnh
2. GS.TSKH. Nguyễn Xuân Phúc
Hà Nội – 2019
i
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Đỗ Hùng Mạnh và
GS.TSKH. Nguyễn Xuân Phúc, hai người Thầy đã dành cho tôi sự động viên, giúp đỡ tận
tình và những định hướng khoa học hiệu quả trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Tôi xin cảm ơn sự chỉ bảo, giúp đỡ và khích lệ của PGS.TS. Vũ Đình Lãm đã dành
cho tôi trong những năm qua.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Vũ Hồng Kỳ, TS. Nguyễn Thị Ngọc
Anh, TS. Nguyễn Thanh Hường về sự giúp đỡ nhiệt tình và hiệu quả trong giai đoạn hoàn
thiện luận án.
Tôi xin được cảm ơn sự cộng tác và giúp đỡ đầy hiệu quả của TS. Phạm Hồng Nam,
TS. Lưu Hữu Nguyên, NCS. Lê Thị Hồng Phong, TS. Bùi Xuân Khuyến và các cán bộ Phòng
Vật lý vật liệu từ và siêu dẫn - Viện Khoa học vật liệu - Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam, nơi tôi hoàn thành luận án.
Tôi xin được cảm ơn sự cộng tác và giúp đỡ của GS.TS. Nguyễn Huy Dân, PGS.TS.
Trần Đăng Thành, TS. Phạm Thị Thanh, TS. Nguyễn Hải Yến về những hợp tác nghiên cứu
và giúp đỡ tôi thực hiện một số phép đo nghiên cứu cấu trúc và tính chất từ của vật liệu.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới GS. Catherine Djega-Mariadassou, GS
Lotfi Bessais, Phòng thí nghiệm Hóa luyện kim đất hiếm, Viện Hóa học và Khoa học vật
liệu Đông Paris, Trung tâm nghiên cứu quốc gia (ICMPE-CMTR, CNRS), Cộng hòa Pháp
về những sự chỉ bảo tận tình, tạo điều kiện cho tôi thực hiện nhiều thí nghiệm, phép đo trong
quá trình trao đổi nghiên cứu khoa học. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Quỹ NAFOSTED
đã tài trợ kinh phí cho chuyến đi trao đổi hợp tác nghiên cứu khoa học quốc tế này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của cơ sở đào tạo là
Học viện Khoa học và Công nghệ cùng Viện Khoa học vật liệu, cơ quan mà tôi công tác,
trong quá trình thực hiện luận án.
Luận án này được hỗ trợ kinh phí của Đề tài cấp cơ sở mã số CSCL05.14 (Viện Khoa
học vật liệu), đề tài nghiên cứu cơ bản mã số 103.02-2012.09; 103.99-2015.83
(NAFOSTED). Luận án được thực hiện tại Phòng Vật lý vật liệu từ và siêu dẫn, Viện Khoa
học vật liệu và Phòng thí nghiệm Hóa luyện kim đất hiếm, Viện Hóa học và Khoa học vật
liệu Đông Paris, Trung tâm nghiên cứu quốc gia (ICMPE-CMTR, CNRS), Cộng hòa Pháp.
ii
Sau cùng, tôi muốn gửi tới tất cả những người thân trong gia đình và bạn bè lời cảm
ơn chân thành nhất. Chính sự tin yêu mong đợi của gia đình và bạn bè đã tạo động lực cho
tôi thực hiện thành công luận án này.
Tác giả luận án
Đỗ Khánh Tùng
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Đỗ Hùng Mạnh và
GS.TSKH. Nguyễn Xuân Phúc. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận án được trích dẫn lại từ các bài báo đã được
xuất bản của tôi và các cộng sự. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu là trung thực và chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Đỗ Khánh Tùng
iv
MỤC LỤC Trang
Lời cảm ơn i
Lời cam đoan iii
Danh mục các chữ viết tắt và kí hiệu vii
Danh mục các bảng biểu xi
Danh mục các hình vẽ và đồ thị xiv
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VẬT LIỆU NANO TỪ Fe-Co 7
1.1. Tổng quan về vật liệu nano từ Fe-Co 9
1.1.1. Tính chất từ của các hệ hạt nano từ 9
1.1.1.1. Các hạt đơn đômen và siêu thuận từ 12
1.1.1.2. Lực kháng từ của các hạt từ kích thước nanô 13
1.1.1.3. Tương tác trao đổi 14
1.1.1.4. Dị hướng từ tinh thể 15
1.1.2. Vật liệu nano từ Fe-Co 16
1.1.2.1. Giản đồ pha vật liệu Fe-Co 16
1.1.2.2. Tính chất từ của vật liệu Fe-Co 18
1.1.2.3. Các phương pháp chế tạo vật liệu Fe-Co 19
1.2. Vật liệu nano từ tổ hợp hai pha cứng/mềm 24
1.2.1. Vật liệu nano từ tổ hợp hai pha cứng/mềm 24
1.2.2. Lý do lựa chọn vật liệu nanocomposite Fe-Co và SmCo5. 30
1.3. Vật liệu nano từ trong đốt nóng cảm ứng từ
1.3.1. Các hạt nano từ cho ứng dụng nhiệt từ trị
1.3.2. Cơ chế vật lý của hiệu ứng đốt nóng hạt nano từ
31
31
32
Chương 2: CÁC PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM 34
2.1. Chế tạo mẫu bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao 34
2.2. Các phương pháp phân tích cấu trúc 42
2.2.1. Phương pháp nhiễu xạ tia X 42
2.2.2. Phân tích cấu trúc dựa trên số liệu nhiễu xạ tia X mẫu bột 44
2.2.3. Phương pháp Phổ hấp phụ tia X 46
2.2.4. Hiển vi điện tử quét 48
v
2.2.5. Kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) 50
2.3. Các phương pháp đo tính chất từ 51
2.3.1. Phép đo tính chất từ trên hệ từ kế mẫu rung 51
2.3.2. Phép đo tính chất từ trên hệ đo các tính chất vật lý PPMS 52
2.3.3. Phép đo tính chất từ trên hệ đo từ trường xung 53
2.4. Đốt nóng cảm ứng từ 55
2.5. Kỹ thuật thiêu kết xung điện Plasma 56
Kết luận Chương 2 58
Chương 3: ĐẶC TRƯNG CẤU TRÚC VÀ TÍNH CHẤT TỪ CỦA HỆ
VẬT LIỆU TỪ NANO Fe-Co CHẾ TẠO BẰNG PHƯƠNG PHÁP
NGHIỀN CƠ NĂNG LƯỢNG CAO
59
3.1. Khảo sát điều kiện công nghệ tối ưu để chế tạo vật liệu từ nano Fe-Co
bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao
59
3.1.1. Ảnh hưởng của tốc độ nghiền 60
3.1.2. Ảnh hưởng của tỷ lệ bi/bột 62
3.1.3. Ảnh hưởng của thời gian nghiền 64
3.2. Khảo sát tỉ phần tối ưu Fe/Co lên đặc trưng tính chất của vật liệu Fe-Co 66
3.3. Đặc trưng cấu trúc và tính chất từ của hệ Fe50Co50 70
3.3.1. Đặc trưng cấu trúc theo thời gian nghiền 70
3.3.2. Đặc trưng tính chất từ theo thời gian nghiền 73
3.3.3. Đặc trưng tính chất theo chế độ ủ nhiệt 76
3.4. Đặc trưng cấu trúc và tính chất từ của hệ Fe65Co35 82
3.4.1. Đặc trưng cấu trúc theo thời gian nghiền 82
3.4.2. Đặc trưng tính chất từ theo thời gian nghiền 88
3.4.3. Đặc trưng tính chất theo chế độ ủ nhiệt 91
3.5. Đặc trưng cấu trúc và tính chất từ của hệ Fe 95
3.5.1. Đặc trưng cấu trúc của hệ Fe 95
3.5.2. Đặc trưng tính chất từ của hệ Fe 99
Kết luận Chương 3 102
Chương 4: CÁC ỨNG DỤNG CỦA VẬT LIỆU TỪ NANO Fe, Fe-Co 105
4.1. Vật liệu nano từ Fe-Co trong chế tạo nam châm nanocomposite 105
4.1.1. Ảnh hưởng của điều kiện công nghệ 106
vi
4.1.1.1. Ảnh hưởng của tốc độ nghiền 106
4.1.1.2. Ảnh hưởng của thời gian nghiền 109
4.1.2. Ảnh hưởng của tỷ phần 112
4.1.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ ủ 115
4.1.4. Ảnh hưởng của thiêu kết xung điện Plasma 118
4.2. Vật liệu nano Fe, Fe-Co trong nhiệt từ trị 121
4.2.1. Khả năng sinh nhiệt của chất lỏng chứa nano Fe. 121
4.2.2. Khả năng sinh nhiệt của chất lỏng chứa nano Fe-Co 124
Kết luận Chương 4 127
KẾT LUẬN 129
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN 131
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 133
TÀI LIỆU THAM KHẢO 134
vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
1. Danh mục các ký hiệu viết tắt
a : Hằng số mạng
C : Nhiệt dung riêng
c : Nồng độ hạt từ
E : Năng lượng dị hướng
Ea : Năng lượng kích hoạt
dx : Mật độ khối lượng
D : Kích thước hạt
Dc : Kích thước tới hạn đơn đômen
DFESEM : Kích thước từ ảnh FESEM
DTEM : Kích thước tử ảnh TEM
DSP : Kích thước siêu thuận từ
DXRD : Kích thước từ giản đổ XRD
f : Tần số
fo : Tần số tiêu chuẩn
H : Cường độ từ trường
HA : Trường dị hướng
HC : Lực kháng từ
Hmax : Từ trường lớn nhất
Hmin : Từ trường nhỏ nhất
HH : Lực kháng từ của pha từ cứng
HS : Lực kháng từ của pha từ mềm
K : Hằng số dị hướng
Keff : Hằng số dị hướng hiệu dụng
KV : Hằng số dị hướng từ tinh thể
KS : Hằng số dị hướng bề mặt
kB : Hằng số Boltzmann
m : Khối lượng
M : Từ độ
M(0) : Từ độ ở 0K
viii
Mr : Từ dư
MS : Từ độ bão hòa
MH : Từ độ bão hòa của pha từ cứng
MS : Từ độ bão hòa của pha từ mềm
n : Số hạt trên một đơn vị thể tích
P : Công suất
Phys : Công suất tổn hao từ trễ
Q : Nhiệt lượng thu vào
T : Nhiệt độ
TB : Nhiệt độ khóa
Tb : Nhiệt độ bão hòa
TC : Nhiệt độ Curie
To : Nhiệt độ hiệu dụng
ΔT : Độ biến thiên nhiệt độ
t : Thời gian
V : Thể tích hạt
Vopt : Thể tích tối ưu hạt
W : Năng lượng từ hóa
: Khối lượng riêng
0 : Độ từ thẩm trong chân không
χ’ : Phần thực của độ cảm từ xoay chiều
χ’’ : Phần ảo của độ cảm từ xoay chiều
τ : Thời gian hồi phục hiệu dụng
τB : Thờ gian hồi phục Brown
τm : Thời gian hồi phục đặc trưng của các phép đo hồi phục
𝜏 : Thời gian hồi phục Neél
τ0 : Thời gian hồi phục đặc trưng
ω0 : Tần số Larmor
ix
2. Danh mục chữ viết tắt
DFMN
Tiếng Anh Tiếng Việt
: Domain Free Magnetic
Nanoparticles
Hạt nano từ tính không có vách đô-
men
EDS : Energy Dispersive Spectroscopy Phổ tán xạ năng lượng
EDX Energy Dispersive X-ray Phổ tán xạ năng lượng tia X
EHT : Exogenous heating Đốt nóng ngoài
EXAFS Extended X-Ray Absorption
Fine Structure Phổ hấp thụ tia X mở rộng
FC : Field cooled Làm lạnh có từ trường
FESEM : Field emission scanning
electron microscope
Kính hiển vi điện tử quét phát xạ
trường
FTIR : Fourier-transform infrared Phổ hồng ngoại phân giải Fourier
ILP : Intrinsic loss of power Công suất tổn hao nội tại
ISPM : Interacting superparamagnetic Siêu thuận từ tương tác
LRT : Linear response theory Lý thuyết đáp ứng tuyến tính
MHT : Magnetic hyperthermia Nhiệt từ trị
MRI : Magnetic resonance imaging Ảnh cộng hưởng từ hạt nhân
NA : Neél Arrhenius Luật Neél Arrhenius
PPMS : Physical property measurement
system Hệ đo các tính chất vật lý
PFM : Pulse Field Magnetization Hệ đo từ trường xung
SAR : Specific Absoption Rate Công suất tổn hao riêng
SAED : Selected Area Electron
Diffraction Nhiễu xạ điện tử lựa chọn vùng
SPM : Superparamagnetic Siêu thuận từ
SPS : Spark Plasma Sintering Thiêu kết xung điện Plasma
SQUID : Superconducting quantum
interference device Giao thoa kế lượng tử siêu dẫn
SW : Stoner-Wohlfarth
x
TEM : Transmission electron
microscope
Hiển vi điện tử truyền qua
TGA : Thermo gravimetric analysis Phân tích nhiệt vi lượng
VF : Vogel-Fulcher Luật Vogel-Fulcher
VSM : Vibrating sample magnetometer Hệ từ kế mẫu rung
XRD : X-ray difraction Nhiễu xạ tia X
XANES : X ray Absorption Near Edge
Structure Phổ hấp phụ tia X gần ngưỡng
XAS : X-ray Absorption Spectroscopy Phổ hấp phụ tia X
xi
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Tính chất từ của một số nguyên tố sắt từ: Fe, Co và Ni.
Bảng 1.1. Đường kính tới hạn của một số hạt đơn đômen hình cầu.
Bảng 1.2. Các phương pháp chế tạo vật liệu Fe-Co.
Bảng 1.3. Tính chất từ của một số vật liệu sắt từ thông dụng.
Bảng 2.1. Hệ mẫu từ mềm Fe100-xCox (x = 0, 25, 35, 40, 50 và 75).
Bảng 2.2. Hệ mẫu nano composite Fe65Co35/SmCo5 với tỉ lệ bi/bột 10/1, tốc độ
nghiền 450 vòng/phút.
Bảng 3.1. Kích thước tinh thể và thông số mạng phụ thuộc vào tốc độ nghiền và tỉ
lệ bi/bột.
Bảng 3.2. Thông số mạng, kích thước tính thể trung bình của các mẫu hợp kim Fe-
Co có tỉ phần Fe/Co khác nhau.
Bảng 3.3. Giá trị từ độ bão hòa của vật liệu nano Fe100-xCox nghiền trong 10 giờ
với tỷ phần Fe/Co khác nhau tại 11 kOe.
Bảng 3.4. Tỉ lệ thành phần pha, thông số mạng và kích thước tinh thể trung bình
của mẫu FC50 ở tốc độ nghiền 450 vòng/phút, tỉ lệ bi/bột 15/1 theo thời
gian nghiền.
Bảng 3.5. Giá trị từ độ bão hòa, lực kháng từ của vật liệu Fe50Co50 tại 11 kOe theo
thời gian nghiền.
Bảng 3.6. Các thông số tính chất của bột hợp kim Fe50Co50 được chế tạo bằng
phương pháp nghiền cơ năng lượng cao kết hợp ủ nhiệt.
Bảng 3.7. Kích thước tinh thể trung bình và ứng suất nội của các mẫu vật liệu nano
Fe65Co35 theo thời gian nghiền khác nhau.
Bảng 3.8. Tỉ phần của pha cấu trúc bcc và hcp xác định từ phổ k-weighted EXAFS
của các mẫu hợp kim Fe-Co.
Bảng 3.9. Tỉ phần của pha cấu trúc bcc và hcp xác định từ phổ Co K-edge XANES
xii
đo được của các mẫu hợp kim Fe-Co.
Bảng 3.10. Giá trị từ độ bão hòa, lực kháng từ của vật liệu Fe65Co35 tại 11 kOe theo
thời gian nghiền.
Bảng 3.11. Thông số từ của một số mẫu bột hợp kim nano Fe65Co35 tiêu biểu chế tạo
bằng nghiền cơ năng lượng cao kết hợp ủ nhiệt.
Bảng 3.12. Các thông số cấu trúc hệ vật liệu Fe.
Bảng 3.13. Giá trị từ độ bão hòa, lực kháng từ của vật liệu nano Fe tại 11 kOe theo
thời gian nghiền.
Bảng 3.14. Thông số từ của các mẫu Fe nghiền ở thời gian khác nhau sau đó ủ nhiệt.
Bảng 4.1. Một số thông số cấu trúc của mẫu SF70 và SF75 theo tốc độ nghiền khác
nhau.
Bảng 4.2. Một số thông số cấu trúc của mẫu SF70 và SF75 theo thời gian nghiền
khác nhau.
Bảng 4.3. Một số thông số cấu trúc của mẫu nano composite sau khi nghiền 4h và
6h theo các tỉ phần khác nhau.
Bảng 4.4. Giá trị MS và HC của các mẫu nano composite sau khi nghiền 4 giờ.
Bảng 4.5. Giá trị MS và HC của các mẫu nano composite sau khi nghiền 6 giờ.
Bảng 4.6. Kích thước tinh thể trung bình của mẫu nano composite sau khi xử lý
nhiệt tại 550oC trong 90 phút.
Bảng 4.7. Bảng tổng hợp giá trị từ độ bão hòa và lực kháng từ của các mẫu nano
composite.
Bảng 4.8. Bảng thống kê giá trị từ độ bão hòa, lực kháng từ, mật độ khối và tích
năng lượng từ cực đại của mẫu nano composite sau khi ép xung plasma.
Bảng 4.9. Nhiệt độ bão hòa Ts, tốc độ tăng nhiệt ban đầu dT/dt và công suất tổn
hao riêng SAR của mẫu chất lỏng từ Fe-10h với nồng độ 4 mg/ml với
các giá trị từ trường ngoài khác nhau.
Bảng 4.10. Nhiệt độ bão hòa TS, tốc độ tăng nhiệt ban đầu dT/dt và công suất tổn
xiii
hao riêng SLP của mẫu chất lỏng từ Fe-10h (nồng độ 4 mg/ml, từ trường
AC 80 Oe, tần số 178 kHz) theo số lần đo lặp lại khác nhau.
Bảng 4.11. Nhiệt độ bão hòa TS, tốc độ tăng nhiệt ban đầu dT/dt và công suất tổn
hao riêng SAR của mẫu chất lỏng từ FC35-10h (cường độ từ trường 80
Oe, tần số 178 kHz) theo các nồng độ khác nhau.
Bảng 4.12. Nhiệt độ bão hòa TS, tốc độ tăng nhiệt ban đầu dT/dt và công suất tổn
hao riêng SAR của mẫu chất lỏng từ FC35-10h (nồng độ 1 mg/ml, tần
số 178 kHz) theo các cường độ từ trường khác nhau.
Bảng 4.13. Giá trị SAR của một số hệ chất lỏng nano từ Fe, Fe-Co.
xiv
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ
Hình 1. Phương thức cơ bản chế tạo vật liệu nano.
Hình 1.1. Mối liên hệ giữa lực kháng từ và kích thước hạt.
Hình 1.2. Các kiểu tương tác trao đổi trong vật liệu sắt từ.
Hình 1.3. Giản đồ pha Fe-Co.
Hình 1.4. Cấu trúc lập phương tâm khối của Fe-Co với vị trí Fe nằm ở tâm mạng.
Hình 1.5. Đồ thị Slater-Pauling biểu diễn sự phụ thuộc của mômen từ nguyên tử
theo hợp phần của các hợp kim kim loại chuyển tiếp.
Hình 1.6. Độ từ thẩm ban đầu m0 và độ từ thẩm cực đại của vật liệu Fe-Co, nhiệt
độ nung có ảnh hưởng mạnh đến độ từ thẩm cực đại.
Hình 1.7. Sự phụ thuộc của từ độ bão hòa và lực kháng từ vào hàm lượng Co đối
với bột hợp kim Fe-Co chế tạo bằng phương pháp hợp kim cơ.
Hình 1.9. Ý tưởng của nam châm nanocomposite, kết hợp từ độ bão hòa từ hóa
cao của pha từ mềm và lực kháng từ lớn của pha từ cứng.
Hình 1.10. Cấu trúc từ trong quá trình khử từ vật liệu nanocomposite hai pha cứng-mềm.
Hình 2.1. Một số loại máy nghiền cơ thông dụng.
Hình 2.2. Mô hình đơn giản của quá trình nghiền và quá trình hình thành pha.
Hình 2.3. Máy nghiền hành tinh Fritsch Pulverisette 6 classic line.
Hình 2.4. Máy nghiền hành tinh Fritsch Pulverisette 7 premium line.
Hình 2.5. Quy trình chế tạo mẫu.
Hình 2.6. Chế độ xử lý nhiệt mẫu sau nghiền.
Hình 2.7. Mô hình minh họa của định luật nhiễu xạ Bragg.
Hình 2.8. Nguyên lý tính toán của phương pháp Rietveld: cực tiểu sự khác nhau giữa
giá trị tính toán và giá trị khảo sát bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất.
Hình 2.9. Thiết bị nhiễu xạ Bruker D8 Advance.
xv
Hình 2.10. PTN BL8, thiết bị bức xạ gia tốc hạt nhân SIAM Photon, Nakhon
Ratchasima, Thái Lan.
Hình 2.11. Kính hiển vi điện tử quét HITACHI S-4800.
Hình 2.12. Kính hiển vi điện tử truyền qua Philip CM20-FEG (gia tốc 200kV;Cs =
1,2) tại Viện Vật lý, TU-Chemnitz, CHLB Đức.
Hình 2.13. Hệ đo VSM (a) và (b) sơ đồ nguyên lý.
Hình 2.14. Hệ đo các tính chất vật lý PPMS 6000.
Hình 2.15. Sơ đồ nguyên lý hệ đo từ trường xung.
Hình 2.16. Hệ đo từ trường xung.
Hình 2.17. Đường M(H) thu được từ hệ đo (a) và đường M(H) và B(H)
đã được xử lý và chuyển đổi đơn vị (b)
Hình 2.18. Sự phụ thuộc của hệ số khử từ N vào tỷ số L/d của mẫu hình trụ.
Hình 2.19. Kết quả tính toán tích năng lượng (BH).
Hình 2.20. Hệ thí nghiệm đốt nóng cảm ứng từ.
Hình 2.21. Mô tả nguyên lý hoạt động của phương pháp SPS.
Hình 2.22. Hệ thiêu kết xung điện Plasma Dr. Sinter 515S Syntex.
Hình 3.1. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu FC40-10h, tỉ lệ bi/bột = 15/1 ở các tốc
độ nghiền khác nhau.
Hình 3.2. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu Fe60Co40 với các tỉ lệ bi/bột khác nhau
nghiền 10 giờ, tốc độ nghiền 450 vòng/phút.
Hình 3.3. Giản đồ nhiễu xạ tia X của hợp kim Fe60Co40 ở các thời gian nghiền khác
nhau. Hình bên phải là giản đồ phóng to tại vị trí góc 2θ từ 40 đến 50o.
Hình 3.4. Phổ nhiễu xạ tia X của vật liệu Fe100-xCox với tỷ phần tương ứng tại thời
gian nghiền 10 giờ.
Hình 3.5. Đường cong từ trễ của vật liệu Fe100-xCox với tỷ phần Fe/Co khác nhau.
Hình 3.6. Từ độ bão hòa MS phụ thuộc vào tỉ phần Fe/Co của các mẫu hợp kim
nano Fe100-xCox (x = 0, 25, 35, 40, 50 và 75) chế tạo bằng phương pháp
xvi
nghiền cơ năng lượng cao.
Hình 3.7. Phổ nhiễu xạ tia X của mẫu FC50 đã được hợp kim hóa ở tốc độ nghiền
va=450 vòng/phút, tỉ lệ bi/bột 15/1 theo các thời gian nghiền khác nhau.
Hình 3.8. Kích thước tinh thể trung bình phụ thuộc thời gian nghiền.
Hình 3.9. Ảnh FESEM của các mẫu hợp kim nghiền trong (a) 1 giờ, (b) 10 giờ.
Hình 3.10. Đường cong từ trễ của vật liệu Fe50Co50 với thời gian nghiền khác nhau.
Hình 3.11. Từ độ MS và lực kháng từ HC của các mẫu Fe50Co50 theo thời gian
nghiền.
Hình 3.12. Độ ổn định từ độ bão hòa MS của mẫu FC50 được lưu giữ trong không khí.
Hình 3.13. Giản đồ XRD của mẫu Fe50Co50 nghiền trong 10 giờ. Hình nhỏ chèn bên
trong phóng đại vị trí đỉnh nhiễu xạ của pha Fe3O4.
Hình 3.14. Giản đồ XRD của mẫu bột Fe50Co50 nghiền 10 giờ ủ ở các nhiệt độ khác
nhau. Hình nhỏ là hình phóng đại các đỉnh nhiễu xạ của pha Fe3O4.
Hình 3.15. Kích thước tinh thể trung bình và ứng suất nội của các mẫu Fe50Co50
nghiền 10 giờ ủ ở các nhiệt độ khác nhau.
Hình 3.16. Ảnh SEM và phổ EDS tiêu biểu của mẫu FC50-10h và FC50-10h-700.
Hình 3.17. Ảnh HRTEM tiêu biểu của hai mẫu Fe50Co50 nghiền 10 giờ và ủ ở nhiệt
độ 700OC. Hình nhỏ chèn bên trong là phổ SAED tương ứng.
Hình 3.18. MS và HC của hai mẫu Fe50Co50 nghiền 10 giờ và ủ ở nhiệt độ 700OC.
Hình 3.19. Góc phần tư thứ nhất đường cong khử từ của mẫu FC50-10h-700 đo ở
các nhiệt độ khác nhau trong từ trường ngoài 5 T.
Hình 3.20. Giản đồ XRD của các mẫu Fe65Co35 theo thời gian nghiền. Hình bên
cạnh phóng đại vị trí đỉnh nhiễu xạ của pha Co.
Hình 3.21. Kích thước tinh thể trung bình và ứng suất nội của các mẫu vật liệu nano
Fe65Co35 theo thời gian nghiền.
Hình 3.22. Ảnh SEM của các mẫu bột hợp kim Fe65Co35 với thời gian nghiền khác
nhau: (a) 2 giờ, (b) 10 giờ, (c) 24 giờ and (d) 32 giờ.
xvii
Hình 3.23. Phổ chuẩn Fe và Co K-edge XANES của (a) Fe và (b) Co.
Hình 3.24. So sánh phổ thường XANES và biến đổi Fourier của phổ EXAFS của
(a, b) mẫu chuẩn Fe (bcc) (thu được từ Fe K-edge) và (c, d) mẫu chuẩn
Co (hcp) (thu được từ Co K-edge) và mẫu hợp kim Fe-Co.
Hình 3.25. So sánh phổ k-weighted EXAFS đo được của mẫu chuẩn Co (hcp), mẫu
hợp kim Fe-Co và mẫu chuẩn Fe (bcc).
Hình 3.26. So sánh phổ thường Fe K-edge XANES của mẫu hợp kim Fe-Co (đường
liền nét) và đường làm khớp sử dụng phương pháp LCF (đường nét đứt).
Hình 3.27. Đường cong từ trễ của vật liệu Fe65Co35 với thời gian nghiền khác nhau.
Hình 3.28. Sự phụ thuộc của MS và HC vào thời gian nghiền đối với hợp kim
Fe65Co35.
Hình 3.29. Từ độ MS của các mẫu Fe65Co35 nghiền 10 và 24 giờ theo thời gian lưu
giữ trong không khí.
Hình 3.30. Giản đồ XRD của các mẫu FC35-10h ủ nhiệt ở các nhiệt độ khác nhau.
Hình 3.31. Giản đồ XRD của các mẫu FC35-32h ủ nhiệt ở các nhiệt độ khác nhau.
Hình 3.32. Phổ EDX (a) và ảnh FESEM (b) của mẫu Fe65Co35 nghiền 10 giờ và ủ
nhiệt ở 700oC. Đỉnh C do ảnh hưởng của đế carbon.
Hình 3.33. Từ độ MS phụ thuộc nhiệt độ ủ của các mẫu Fe65Co35 nghiền trong 10 giờ.
Hình 3.34. Từ độ MS phụ thuộc nhiệt độ ủ của các mẫu Fe65Co35 nghiền trong 32 giờ.
Hình 3.35. Lực kháng từ HC phụ thuộc nhiệt độ ủ của các mẫu Fe65Co35 nghiền trong
10 giờ.
Hình 3.36. Lực kháng từ HC phụ thuộc nhiệt độ ủ của các mẫu Fe65Co35 nghiền trong
32 giờ.
Hình 3.37. Từ độ bão hòa MS theo thời gian bảo quản trong không khí của các mẫu
Fe65Co35 nghiền trong 10 giờ và mẫu ủ nhiệt ở 700oC.
Hình 3.38. Phổ nhiễu xạ tia X của các mẫu bột nano sắt với các thời gian nghiền khác
nhau (a) và phóng to chi tiết tại vị trí góc 2 trong khoảng từ 35 đến 45O
xviii
Hình 3.39. Phân tích Rietveld phổ XRD của mẫu tiêu biểu Fe-10h.
Hình 3.40. Phân tích Rietveld phổ XRD của mẫu tiêu biểu Fe-32h.
Hình 3.41. Ảnh FESEM và phổ EDX của các mẫu (a,b) Fe-10h và (c,d) Fe-32h.
Hình 3.42. Đường cong từ trễ của vật liệu nano Fe với thời gian nghiền khác nhau.
Hình 3.43. HC và MS của mẫu Fe phụ thuộc theo thời gian nghiền.
Hình 3.44. Giá trị MS của mẫu Fe theo thời gian lưu giữ trong môi trường không khí.
Hình 4.1. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu SF70 và SF75 tại tốc độ nghiền 300 và
450 vòng/phút.
Hình 4.2. Đường cong từ trễ của mẫu SF70 và SF75 trước và sau khi nghiền tại
tốc độ nghiền 300 và 450 vòng/phút.
Hình 4.3. Biểu đồ sự phụ thuộc của từ độ bão hòa và lực kháng từ theo tốc độ nghiền.
Hình 4.4. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu SF70 và SF75 tại các thời gian nghiền
2 - 6 giờ.
Hình 4.5. Đường cong từ trễ của mẫu SF70 và SF75 trước và sau khi nghiền từ 2
đến 6 giờ đo trên hệ VSM.
Hình 4.6. Đường cong từ trễ của mẫu SF70 và SF75 sau khi nghiền từ 2 đến 6 giờ
đo trên hệ PFM.
Hình 4.7. Đường cong từ trễ của mẫu SF70-4h đo trên hệ VSM và PFM.
Hình 4.8. Biểu đồ sự phụ thuộc của từ độ bão hòa và lực kháng từ theo thời gian nghiền.
Hình 4.9. Phổ nhiễu xạ tia X theo sự thay đổi tỷ phần pha của hệ vật liệu
SmCo5/Fe65Co35 sau 4 giờ nghiền.
Hình 4.10. Đường cong từ trễ của theo sự thay đổi tỷ phần pha của hệ vật liệu nano
composite SmCo5/Fe65Co35 sau 4 giờ nghiền.
Hình 4.11. Biểu đồ sự phụ thuộc của từ độ bão hòa và lực kháng từ theo tỉ phần pha
từ cứng của mẫu nanocomposite sau khi nghiền 4 giờ và 6 giờ.
Hình 4.12. Phổ nhiễu xạ tia X của các mẫu SF70, SF75, SF80 trước và sau khi xử
lý nhiệt.
xix
Hình 4.13. Đường cong từ trễ của các mẫu SF70, SF75, SF80 trước và sau khi xử
lý nhiệt.
Hình 4.14. Đường cong từ trễ của các mẫu SF-4h-550-SPS (70MPa, 550oC trong 5 phút).
Hình 4.15. Đường cong từ trễ của các mẫu SF-6h-550-SPS (70MPa, 550oC trong 5 phút).
Hình 4.16. Biểu đồ sự phụ thuộc của từ độ bão hòa và lực kháng từ theo tỉ phần pha
từ cứng của mẫu nanocomposite sau khi ép xung SPS.
Hình 4.17. (a) Đường đốt nhiệt theo cường độ từ trường AC khác nhau. (b) Đường
phụ thuộc tuyến tính của SAR theo từ trường ngoài AC.
Hình 4.18. Sự ổn định của SAR and TS trong đốt nhiệt từ trong 13 ngày.
Hình 4.19. (a) Đường đốt nóng cảm ứng từ của mẫu Fe-Co ở các nồng độ từ 1 đến
6 mg/ml trong từ trường xoay chiều tần số 178 kHz và cường độ 80 Oe
và (b) Đường phụ thuộc tuyến tính của SAR theo từ trường ngoài AC.
Hình 4.20. (a) Đường đốt nóng cảm ứng từ của mẫu Fe-Co ở nồng độ 1 mg/ml trong
từ trường xoay chiều tần số 178 kHz và cường độ từ 60-90 Oe và (b)
Đường phụ thuộc tuyến tính của SAR theo từ trường ngoài AC.
1
Mở đầu
Trong vòng 20 năm qua công nghệ nano luôn là ngành khoa học mũi nhọn,
đang phát triển với tốc độ chóng mặt và làm thay đổi diện mạo của các ngành khoa
học. Công nghệ nano đã có những ứng dụng to lớn và hữu ích trong các ngành điện
tử, năng lượng, y học, và còn đi xa hơn nữa trong nhiều lĩnh vực.
Ngành công nghệ mới này đang tạo ra một cuộc cách mạng trong nghiên cứu
cơ bản và ứng dụng nhờ vào kích thước nano mét của vật liệu, mà tại đó chúng thể
hiện rất nhiều tính chất đặc biệt, lý thú, và khác biệt so với vật liệu ở dạng khối.
Nguyên nhân là do: (i) các tính chất lượng tử thể hiện rõ ràng hơn ở kích thước nano;
(ii) hiệu ứng bề mặt trong các vật liệu nano trở lên đáng kể; và (iii) kích thước của
vật liệu khi đó có thể so sánh được với kích thước tới hạn của các tính chất vật lý, hóa
học.
Việc nghiên cứu, chế tạo và ứng dụng vật liệu nano trong thực tiễn đã tạo ra
ngành khoa học công nghệ nano, trong đó đối tượng là các thực thể nano, vật liệu
nano, linh kiện và thiết bị dựa trên vật liệu nano. Công nghệ nano là công nghệ liên
quan đến việc thiết kế, phân tích, chế tạo, ứng dụng các cấu trúc, thiết bị và hệ thống
bằng việc điều khiển hình dáng, kích thước ở quy mô nanomet. Các nghiên cứu về
khoa học và công nghệ nano đã phát triển nhanh chóng trong hai thập kỷ gần đây, thể
hiện qua các số lượng khổng lồ về các tạp chí, bài báo công bố liên quan đến ngành
khoa học và công nghệ này [1]. Sự phát triển của khoa học và công nghệ nano còn
thể hiện ở giá trị chi tiêu khoảng 10 tỷ USD mỗi năm của các quốc gia công nghiệp
lớn trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ nano bao gồm các lĩnh vực:
vật liệu, linh kiện và thiết bị [2]. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề chưa được nghiên
cứu tường tận. Ngành khoa học này vì thế hứa hẹn sẽ còn nhiều phát minh kỹ thuật
lý thú sẽ được công bố.
Trong các lĩnh vực vật liệu nano, vật liệu nano từ đã thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu đặc biệt do những hiện tượng vật lý lý thú, những tính chất tính chất hóa,
lý dị thường của vật liệu xuất hiện khi kích thước của chúng tương đương (hoặc nhỏ
hơn) so với kích thước của đô-men từ. Những thay đổi về tính chất của vật liệu không
chỉ do đóng góp của nội hạt mà còn bị chi phối bởi các hiệu ứng bề mặt, hiệu ứng
kích thước và tương tác giữa các hạt. Các hiệu ứng kích thước tới hạn tác động tới
2
trạng thái từ của từng hạt và vai trò của nó càng tăng khi kích thước hạt giảm. Một số
ví dụ có thể kể đến như: từ độ của vật liệu dạng hạt suy giảm mạnh so với vật liệu
khối, dị hướng từ bề mặt tăng cường, sự lan truyền sóng spin trong vật liệu bị giới
hạn bởi kích thước,... Tương tác giữa các hạt có thể làm thay đổi trạng thái từ của hệ
do sự thay đổi chiều cao rào thế và qua đó thay đổi thời gian hồi phục spin của từng
hạt. Ngoài ra, tương tác cũng có thể tạo nên trạng thái từ tập thể với những biểu hiện
của tính thủy tinh spin. Các tính chất hóa, lý dị thường của vật liệu nano từ có thể kể
đến như: trạng thái siêu thuận từ, thủy tinh spin, từ trở xuyên ngầm lớn khi kích thước
giảm, tính xúc tác được tăng cường,... Ngoài ra, vật liệu nano từ còn có tiềm năng
ứng dụng to lớn trong nhiều lĩnh vực của đời sống như vật liệu ghi từ, các sensor từ,
xử lý khí thải, và đặc biệt trong một số ứng dụng điều trị và chuẩn đoán trong y sinh
như dẫn thuốc, đánh dấu tế bào, nhiệt từ trị, v.v. . Vì thế các vật liệu này trở thành đối
tượng nghiên cứu đầy thú vị cả về cơ bản và ứng dụng.
Vật liệu nano từ có thể chế tạo bằng nhiều phương pháp khác nhau như phương
pháp vật lý, hóa học, sinh học, lai hóa,... và có thể chia thành hai phương thức cơ bản
dựa trên cách tiếp cận: phương thức “từ trên xuống” (top-down) và phương thức “từ
dưới lên” (bottom-up) (Hình 1). Phương thức “bottom-up” là tổng hợp từ các nguyên
tử, các ion, các phân tử để tạo thành các đơn vị cơ sở, các đám nano và hình thành
các vật liệu khối. Phương thức này bao gồm các kỹ thuật hóa học như solgel, đồng
kết tủa, thủy nhiệt, v.v. Phương thức “top-down” thường bắt đầu từ các vật liệu khối
sau đó được nghiền, bắn phá bằng chùm tia,... và kết quả thu được là các vật liệu cấu
trúc nano. Phương thức “top-down” thường bao gồm một loạt các phương pháp vật
lý như: bốc bay, nghiền, kỹ thuật khắc, ăn mòn, bắn phá laze,... Theo cách tiếp cận từ
trên xuống, phương pháp nghiền cơ năng lượng cao (High enegy ball milling) là
phương pháp thông dụng để chế tạo các vật liệu dạng bột. Phương pháp này có thể
cho phép tạo ra các hạt bột mịn kích thước nanomet và có thể đi kèm với cả phản ứng
hóa học, phản ứng hợp kim hóa trong quá trình nghiền. Đây có thể nói là một kỹ thuật
tổng hợp vật liệu nano đơn giản và hiệu quả, có tính lặp lại cao và có thể chế tạo ở
quy mô lớn. Phương pháp này cũng là phương pháp phổ biến trong nghiên cứu chế
tạo vật liệu từ cấu trúc nano, nam châm cấu trúc tổ hợp, vật liệu từ vô định hình và
các hạt nano từ và do đó phương pháp này được lựa chọn để thực hiện các nghiên
cứu trong luận án
3
Hình 1. Phương thức cơ bản chế tạo vật liệu nano.
Bảng 1. Tính chất từ của một số nguyên tố sắt từ: Fe, Co và Ni [3].
Nguyên tố µH (µB) σS tại 0 K
(emu/g)
σS tại 293 K
(emu/g) TC (K)
Fe 2,22 222 218 1043
Co 1,72 162 161 1388
Ni 0,62 57 54 627
Trong các hệ vật liệu từ nói chung và vật liệu nano từ nói riêng, nhóm các vật
liệu từ tính dựa trên các kim loại chuyển tiếp 3d như sắt, cobalt và niken đóng một
vai trò rất quan trọng. Đây là ba nguyên tố duy nhất thể hiện tính sắt từ ở nhiệt độ
phòng. Bên cạnh đó, 3 nguyên tố này còn có một đặc trưng quan trọng khác là nhiệt
độ chuyển pha sắt từ - thuận từ (nhiệt độ Curie, TC) cao, ở trên nhiệt độ phòng. Ở trên
nhiệt độ TC, năng lượng nhiệt kT lớn hơn năng lượng liên kết spin trong vùng đô-
men từ và vật liệu trở thành thuận từ. Do đó, nhiệt độ TC cao là một thông số quan
trọng cho các ứng dụng của vật liệu. Như trình bày trong bảng 1, trong 3 nguyên tố,
Fe và Co có mô-men từ bão hòa rất cao, lần lượt là ~218 emu/g và 161 emu/g, lớn
gấp đôi và gấp rưỡi so với ôxit spinnel Fe3O4 (~93 emu/g). Trên thực tế, sắt còn là
4
một trong những nguyên tố phổ biến nhất trên trái đất, là nguồn gốc của tên gọi "sắt
từ" [3]. Không chỉ các nguyên tố sắt từ đơn lẻ mà rất nhiều hợp kim được kết hợp từ
những nguyên tố sắt từ này với nhau và với các nguyên tố khác, cũng có các tính chất
từ rất thú vị. Ví dụ như hợp kim Fe65Co35 đã được biết đến là vật liệu sắt từ có từ độ
bão hòa cao nhất cho đến hiện nay (gần 245 emu/g) [4-6]. Với các ưu điểm như từ độ
bão hòa cao, độ từ thẩm lớn, nhiệt độ TC cao,... vật liệu hạt nano từ Co, Fe và các hợp
kim của chúng đã dành được quan tâm nghiên cứu đặc biệt. Đây cũng là lý do chúng
tôi chọn Fe, Co và hợp kim Fe-Co làm đối tượng cho các nghiên cứu trong luận án.
Gần đây, ngoài các hạt nano kim loại (Fe, Co) và hợp kim của chúng (Fe-Co),
các cấu trúc vật liệu nano dạng khác như cấu trúc lõi vỏ, cấu trúc tổ hợp nền Fe, Co...
cũng thu hút được nhiều sự quan tâm. Ở các cấu trúc mới này, các vật liệu chế tạo
được có tính đa chức năng, với các hiệu ứng vật lý thú vị như tương tác trao đổi kép
(exchange-coupled), tương tác trao đổi hiệu dịch (exchange-bias). Bên cạnh đó, các
vật liệu tổ hợp hạn chế được một số nhược điểm của hạt nano đơn kim loại như khả
năng chống oxy hóa tốt hơn, bền hơn với môi trường, giảm độc tính và có tính tương
thích sinh học tốt hơn, v.v. . Với các tính chất lý thú như vậy, hạt nano và các cấu
trúc nano tổ hợp dựa trên kim loại/hợp kim Fe, Co, Fe-Co đã mở ra nhiều khả năng
ứng dụng [7, 8].
Tại Việt Nam, vật liệu nano từ nền Fe dạng từ cứng và từ mềm đã được quan
tâm nghiên cứu trên cả hai phương diện nghiên cứu cơ bản và ứng dụng. Gần đây,
những nghiên cứu về nano từ tiêu biểu tại Viện Khoa học vật liệu, Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam tập trung vào chế tạo, nghiên cứu cấu trúc và tính
chất của vật liệu Fe siêu mịn, nam châm tổ hợp dựa trên kỹ thuật phun băng nguội
nhanh hoặc kết hợp nghiền cơ năng lượng cao. Tuy đã có những kết quả thú vị nhưng
ảnh hưởng của phương pháp chế tạo tới cấu trúc và tính chất của chúng vẫn cần thiết
phải nghiên cứu tiếp theo. Ví dụ như khả năng tổng hợp hợp kim Fe-Co trong môi
trường không có khí bảo vệ và tính chất của chúng. Bên cạnh đó, việc đánh giá khả
năng sinh nhiệt của vật liệu nano từ mềm dạng kim loại (Fe) và hợp kim (Fe-Co) cũng
là những vấn đề còn ít được quan tâm nghiên cứu.
Xuất phát từ tình hình nghiên cứu về vật liệu nano Fe-Co trên thế giới cũng
như ở Việt Nam, căn cứ vào khả năng đào tạo tiến sĩ của Viện Khoa học vật liệu và
5
cũng là để phát triển, hoàn thiện hơn những kết quả nghiên cứu đã đạt được chúng tôi
lựa chọn đề tài của Luận án:
“Nghiên cứu chế tạo và tính chất từ của hệ hạt nano từ Fe, Co
bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao”.
Mục tiêu của Luận án:
Tìm được các tham số thông số công nghệ và hợp phần tối ưu để chế tạo
một số vật liệu nano từ nền Fe bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng
cao.
Làm rõ mối liên hệ giữa các điều kiện công nghệ với đặc trưng cấu trúc và
tính chất từ của vật liệu chế tạo được.
Đánh giá khả năng ứng dụng vật liệu nano Fe, Fe-Co trong chế tạo nam
châm nanocomposite và đốt nóng cảm ứng từ.
Nội dung của Luận án:
Phần tổng quan về tính chất vật lý cơ bản của các hạt nano từ nói chung và vật
liệu nano từ FeCo nói riêng, sơ lược về vật liệu nam châm nanocomposite 2 pha
cứng/mềm, về khả năng sinh nhiệt của các hạt nano từ nền Fe. Tiếp theo là trình bày
về các phương pháp thực nghiệm, các kết quả nghiên cứu và thảo luận về ảnh hưởng
của điều kiện công nghệ chế tạo và chế độ xử lý nhiệt tới các đặc trưng về cấu trúc
và các tính chất từ của vật liệu nano từ nền Fe. Cuối cùng, những nghiên cứu bước
đầu về nam châm trao đổi đàn hồi FeCo/SmCo và khả năng sinh nhiệt của các hạt
nano Fe và FeCo cũng đã được nghiên cứu và thảo luận.
Phương pháp chế tạo vật liệu được sử dụng trong Luận án là phương pháp
nghiền cơ năng lượng cao. Các đặc trưng cấu trúc, sự hợp kim hóa được đánh giá qua
giản đồ nhiễu xạ tia X (XRD), phổ hấp thụ tia X (XAS). Kích thước và hình thái và
thành phần hóa học của mẫu được nhận biết qua ảnh hiển vi điện tử quét phát xạ
trường (FESEM), hiển vi điện tử truyền qua phân giải cao (HRTEM) và phổ tán sắc
năng lượng tia X (EDS). Tính chất từ được khảo sát bằng các phép đo từ độ phụ thuộc
từ trường trên hệ đo từ kế mẫu rung (VSM), hệ đo các tính chất vật lý (PPMS) và từ
kế từ trường xung (PFM). Phép đo đốt nóng cảm ứng từ được thực hiện trên hệ đo
thương mại RDO-HFI.
6
Ý nghĩa khoa học và tính mới của Luận án:
- Đã tìm ra một cách tiếp cận mới: đơn giản, chi phí thấp để tổng hợp các vật
liệu nano từ như Fe và Fe-Co bằng cách nghiền bột kim loại trong điều kiện thông
thường. Sản phẩm có những phẩm chất từ tốt, gần tương đương với loại được tổng
hợp trong điều kiện có khí bảo vệ chống ôxy hóa.
- Hiểu rõ khả năng của 2 phương pháp XRD và XAS và sự kết hợp của chúng
trong việc đánh giá cấu trúc, quá trình hợp kim hóa của Fe-Co.
- Làm rõ sự ảnh hưởng của vi cấu trúc tới tính chất từ (lực kháng từ HC, từ độ
bão hòa MS, quy luật thay đổi của MS theo nhiệt độ) của vật liệu nano từ Fe-Co.
Bố cục của luận án
Luận án có 140 trang, bao gồm phần mở đầu, 4 chương nội dung và kết luận.
Cụ thể như sau:
Mở đầu
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ VẬT LIỆU NANO TỪ Fe-Co
Chương 2. CÁC PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM
Chương 3. TỔNG HỢP VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG TÍNH CHẤT
CỦA VẬT LIỆU NANO TỪ Fe-Co
Chương 4. CÁC ỨNG DỤNG VẬT LIỆU NANO TỪ Fe, Fe-Co
Kết luận
Luận án này được thực hiện tại Phòng thí nghiệm Vật lý vật liệu từ và siêu dẫn
và Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia về Vật liệu và Linh kiện điện tử, Viện Khoa
học vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Phòng thí nghiệm
BL8 SIAM Photon, NakhonRatchasima, Thái Lan; Phòng thí nghiệm Hóa luyện kim
đất hiếm (LCMRT), Viện Khoa học vật liệu và hóa học Đông Paris (EPICM), Trung
tâm nghiên cứu quốc gia (CNRS), Cộng hòa Pháp.
Kết quả chính của luận án đã được công bố trên 04 bài thuộc các tạp chí SCI,
01 bài trong trong kỷ yếu Hội nghị khoa học chuyên ngành quốc tế và 03 bài khác
trong tạp chí và kỷ yếu Hội nghị trong nước.
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẬT LIỆU NANO TỪ Fe-Co
Khoa học nano và công nghệ nano liên quan đến khả năng kiểm soát các nguyên
tử và phân tử riêng biệt. Mọi thứ trên trái đất như từ thức ăn chúng ta ăn, quần áo,
nhà cửa và vật thể sống… đến các sản phẩm của khoa học, công nghệ đều thiết lập từ
các nguyên tử, các hạt nano. Trong đó khả năng ứng dụng của hệ các hạt nano trong
các thiết bị ghi từ, các cảm biến, đặc biệt là trong y sinh là không thể phủ nhận. Mặc
dù tính chất từ của các hạt kích thước nhỏ đã được nghiên cứu trong gần 70 năm, tuy
nhiên vẫn còn có rất nhiều hiện tượng cần được nghiên cứu, lý giải một cách tường
minh. Sự tiến bộ trong lĩnh vực nghiên cứu vật liệu nano, bao gồm lý thuyết và đặc
biệt là thực nghiệm đã thu được các kết quả có ý nghĩa trong ba thập kỷ qua. Ý nghĩa
rất quan trọng của các hạt nano từ được cho là tính thống nhất trong tính chất từ của
từng hạt trong hệ thống phân tán thực, cho phép chúng ta trực tiếp tác động tới các
tính chất từ của toàn bộ vật liệu với các thành phần của mỗi hạt và tạo điều kiện
nghiên cứu cho các phương pháp tiếp cận lý thuyết. Các tính chất từ của các hạt nano
được xác định bởi nhiều yếu tố, như thành phần hóa học, kiểu mạng và mức độ sai
hỏng của mạng tinh thể, kích thước hạt và hình dạng, hình thái học (đối với các hạt
không đồng nhất cấu trúc), sự tương tác giữa hạt với môi trường xung quanh và với
các hạt lân cận. Bằng việc tác động đến sự thay đổi kích thước, hình dáng, cấu trúc,
người ta có thể kiểm soát đến một mức độ nào đó các đặc tính từ của vật liệu. Tuy
nhiên, những yếu tố này không phải lúc nào cũng có thể kiểm soát được trong quá
trình tổng hợp do các hạt nano có kích thước và thành phần hóa học gần bằng nhau;
do đó, tính chất của vật liệu nano cùng loại có thể có những khác biệt rõ rệt. Ngoài
ra, một số vật liệu nano từ thể hiển một số tính chất đặc biệt như hiệu ứng từ trở khổng
lồ, hiệu ứng từ nhiệt, ….
Đối tượng khảo sát của nghiên cứu các cơ chế từ tính của vật liệu nano thường
hướng tới hạt đơn đô-men, giá trị của vùng đơn đô-men thường nằm trong khoảng từ
15-150 nm [9, 11]. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu gần đây, người ta tập trung vào
các hạt có kích cỡ nhỏ hơn giới hạn vùng kích thước đô-men; một hạt có kích thước
tương đương với kích thước vùng đô-men tối thiểu. Nếu vật liệu tạo thành từ các hạt
chỉ có kích thước bằng độ dày vách đô-men thì sẽ có các tính chất khác hẳn với tính
8
chất của vật liệu khối vì ảnh hưởng của các nguyên tử ở đô-men này tác động lên
nguyên tử ở đô-men khác. Các hạt từ này được gọi là các hạt nano từ tính không có
vách đô-men (DFMN- domain free magnetic nanoparticles). Mỗi hạt hoạt động giống
như một nguyên tử bất đối xứng khổng lồ và trở thành siêu thuận từ khi nhiệt độ lớn
hơn một nhiệt độ TB (Blocking temperature – nhiệt độ khóa) nào đó. Các kết quả thực
nghiệm đã chỉ ra rằng, giá trị này có thể từ nhiệt độ vài Kelvin đến khoảng nhiệt độ
phòng.
Hiện nay, ngoài khả năng chế tạo chất lỏng từ dựa trên các hạt kim loại, oxit có
kích thước nano mét (các nghiên cứu đã được phát triển từ những năm 1960) [9, 10]
mà các hạt kim loại, oxit đơn lẻ còn có thể được bao phủ bởi các cấu tử khác hoặc
được phân tán vào các ma trận "cứng" (polyme, zeolit, vv). Các hạt nano từ tính được
ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như ổ cứng máy tính, trong xe ô tô và máy móc, thiết
bị thu âm, thiết bị điện từ,... Trong những năm gần đây, đã có sự gia tăng đáng kể các
nghiên cứu trong lĩnh vực sử dụng hạt nano từ cho các ứng dụng y sinh. Một số ví dụ
có thể kể đến như dẫn thuốc hướng đích, tăng độ tương phản trong chụp ảnh cộng
hưởng từ, đốt nhiệt từ …[12,15].
Một loạt các phương pháp chung như khử muối kim loại trong dung môi, phân
hủy nhiệt…. cho việc tổng hợp các hạt nano hiện nay đã được nghiên cứu phát triển
[11-13]. Hầu hết các phương pháp này có thể được sử dụng để chế tạo các hạt nano
từ tính. Do nhiệt độ TB và các đặc trưng từ tính khác phụ thuộc vào kích thước hạt,
yêu cầu quan trọng là các hạt có kích thước nhỏ và độ phân bố kích thước trong
khoảng hẹp. Các thông số này có thể điều khiển được trong quá trình tổng hợp. Việc
kiểm soát hình dạng và khả năng tổng hợp các cấu trúc nano từ dị hướng đặc biệt
quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp tổng hợp. Để loại bỏ (hoặc giảm đáng
kể) tương tác giữa các hạt liền kề, hạt nano từ tính thường được cô lập trên phương
diện từ tính bằng cách cố định trên bề mặt, trong vật liệu khối hay kết hợp với các
phối tử chuỗi dài. Điều quan trọng là kiểm soát được khoảng cách giữa các hạt trong
ma trận. Cuối cùng, quy trình chế tạo phải đơn giản, không tốn kém và có tính lặp lại
cao.
Trong quá trình nghiên cứu phát triển, các đối tượng hạt nano từ được tập trung
nghiên cứu thường có thành phần phức tạp như ferrit, hợp kim FePt, NdFeB hoặc
SmCo5 ... Đối với các hệ vật liệu này, không phải phương pháp nào cũng có khả năng
9
áp dụng trong quá trình tổng hợp. Ví dụ, sự bốc bay nhiệt của các hợp chất có thành
phần nguyên tố phức tạp thường đi kèm các phản ứng hay sự thiên lệch thành phần
trong giai đoạn hơi, dẫn đến sự hình thành của các chất khác, hay quá trình tổng hợp
bằng phương pháp bốc bay chùm nguyên tử không mang lại sự phân bố đồng nhất
các nguyên tố... Hơn nữa, một khó khăn trong việc tổng hợp hạt nano từ là các tiền
chất của thành phần yêu cầu. Ví dụ, không có tiền chất cho SmCo5 với một nguyên
tử Sm liên kết với năm nguyên tử Co trong thực tế được biết đến; giá trị lớn nhất về
thành phần hóa học có thể đạt được trong Sm[Co(CO)4]3 là 1:3. Điều này còn thể hiện
phức tạp hơn trong tiền chất để tổng hợp vật liệu NdFeB. Một nghiên cứu tổng quan
về các phương pháp chế tạo, tính chất, kết quả cũng như các khó khăn trong việc chế
tạo các hợp kim nano đã được trình bày trong [14].
Các tính chất vật lý của các hạt nano phụ thuộc đáng kể vào kích thước của
chúng. Tuy nhiên, trong hầu hết các phương pháp tổng hợp được biết đến đều chỉ cho
phép tổng hợp các hạt nano với phân bố kích thước khá rộng (phân bố > 10%). Việc
kiểm soát và tối ưu các thông số của phương pháp (thời gian, nhiệt độ, tốc độ, và
nồng độ …) sẽ cho phép điều khiển kết quả của quá trình tổng hợp trong một phạm
vi nào đó. Đây cũng là một nội dung quan trọng của luận án.
Trong số rất nhiều các hệ vật liệu nano từ tính, vật liệu nano kim loại, hợp kim,
đặc biệt là một số kim loại chuyển tiếp nhóm 3d, bao gồm sắt (cấu trúc lập phương
tâm khối - Fe-bcc), coban (cấu trúc lập phương tâm diện hoặc lục giác xếp chặt – fcc,
hcp Co), giữ một vai trò quan trọng và có phạm vi ứng dụng rộng rãi nhất. Đây cũng
là mục tiêu chính của luận án với các đối tượng chủ yếu bao gồm Fe, Co và Fe-Co.
Trong phần này, luận án trình bày tổng quan về vật liệu nano từ Fe-Co bao gồm:
(i) Tổng quan vật liệu nano từ Fe-Co;
(ii) Vật liệu nano từ tổ hợp hai pha cứng/mềm;
(iii) Vật liệu nano từ trong đốt nóng cảm ứng từ.
1.1. Tổng quan về vật liệu nano từ Fe-Co
1.1.1. Tính chất từ của các hệ hạt nano từ
Một số khái niệm tóm tắt về tính chất của các hệ nano từ sẽ được trình bày dựa
trên các tài liệu, giáo trình tham khảo [15-24].
10
Ở kích thước nano mét, một số vật liệu xuất hiện các tính chất từ mới lạ so với
ở dạng khối. Nguyên nhân của sự khác biệt này xuất phát từ:
(i) Kích thước tới hạn: các tính chất vật lý, hóa học của các vật liệu đều có
một giới hạn về kích thước. Nếu vật liệu mà nhỏ hơn kích thước này thì tính chất
của nó hoàn toàn bị thay đổi. Người ta gọi đó là kích thước tới hạn. Vật liệu nano có
tính chất đặc biệt là do kích thước của nó có thể so sánh được với kích thước tới hạn
của các tính chất của vật liệu. Ví dụ điện trở của một kim loại tuân theo định luật
Ohm ở kích thước vĩ mô mà ta thấy hàng ngày. Nếu ta giảm kích thước của vật liệu
xuống nhỏ hơn quãng đường tự do trung bình của điện tử trong kim loại (thường có
giá trị từ vài đến vài trăm nm), thì định luật Ohm không còn đúng nữa. Lúc đó điện
trở của vật liệu có kích thước nano sẽ tuân theo các quy tắc lượng tử. Các tính chất
như tính chất điện, tính chất từ, tính chất quang và các tính chất hóa học đều có độ
dài tới hạn trong khoảng nm. Tuy nhiên, không phải bất cứ vật liệu nào có kích thước
nano đều có tính chất khác biệt mà nó phụ thuộc vào tính chất mà nó được nghiên
cứu.
(ii) Chuyển tiếp từ tính chất cổ điển đến tính chất lượng tử: đối với vật liệu
vĩ mô gồm rất nhiều nguyên tử, các hiệu ứng lượng tử được trung bình hóa với rất
nhiều nguyên tử (1 µm3 có khoảng 1012 nguyên tử) và có thể bỏ qua các thăng giáng
ngẫu nhiên. Nhưng trong các cấu trúc nano có ít nguyên tử hơn thì các tính chất
lượng tử thể hiện rõ ràng hơn. Ví dụ một chấm lượng tử có thể được coi như một đại
nguyên tử, nó có các mức năng lượng giống như một nguyên tử.
(iii) Hiệu ứng bề mặt: khi vật liệu có kích thước nano mét, số các nguyên tử
nằm trên bề mặt sẽ chiếm tỉ lệ đáng kể so với tổng số nguyên tử của mẫu. Chính vì
vậy các hiệu ứng có liên quan đến bề mặt, gọi tắt là hiệu ứng bề mặt sẽ trở nên quan
trọng làm cho tính chất của vật liệu có kích thước nanomet khác biệt so với vật liệu
ở dạng khối.
Tính chất từ của vật liệu chủ yếu do momen từ nguyên tử của các nguyên tố
hợp thành gây nên. Trong các nguyên tử và ion có các lớp điện tử được lấp đầy, tổng
momen từ spin (S) và momen từ quỹ đạo (L) bù trừ nhau dẫn đến momen từ của
nguyên tử bằng không [23, 24]. Các nguyên tử ở trong lớp kim loại chuyển tiếp nhóm
3d, 4f có lớp điện tử bên trong không được lấp đầy thì momen từ của các nguyên tử
khác không. Momen từ này do sự đóng góp của cả S và L, nhưng do L nhỏ hơn rất
11
nhiều so với S trong phần lớn các vật liệu từ nhóm kim loại chuyển tiếp nên momen
từ nguyên tử được tính bằng giá trị của momen từ spin S. Điều này cũng giống như
trong vật liệu khối, mặc dù giá trị đóng góp của S và L có thể bị thay đổi tại bề mặt
hay biên hạt. Ngoài ra tương tự đối với momen từ hạt nhân, đóng góp này thường
được được bỏ qua trong phần lớn các tính toán.
Momen từ của nguyên tử được tạo ra phải tuân theo các quy tắc Hund, trước
khi hai điện tử chiếm chỗ cùng một obitan trong một phân lớp, các obitan trong cùng
phân lớp đó đều phải chứa một điện tử chưa bắt cặp. Đồng thời, các điện tử chưa bắt
cặp nêu trên đều phải có spin song song và cùng hướng với nhau trước khi phân lớp
lấp đầy các obitan với những điện tử có spin hướng ngược lại. Như vậy, trong quá
trình lấp đầy các obitan nguyên tử, số điện tử chưa bắt cặp sẽ luôn là lớn nhất và
trạng thái spin tối đa cũng được đảm bảo. Ngoài ra, trong vật liệu sắt từ tồn tại tương
tác trao đổi, các tương tác này sẽ định hướng momen của các nguyên tử lân cận song
song với nhau. Từ đó từ độ được tính theo công thức 𝑀
được định nghĩa là số
momen trong một đơn vị thể tích. Trong vật liệu từ dạng khối, sự cạnh tranh giữa
tương tác trao đổi và chuyển động nhiệt dẫn đến sự biến mất của từ hóa tự phát MS
= M(r) tại một nhiệt độ đặc trưng Curie TC. Nhiệt độ TC được gọi là nhiệt độ chuyển
pha (trật tự bất trật tự).
Liên kết cặp đôi của momen từ quỹ đạo trong trường tinh thể tương tác gây ra
hiện tượng dị hướng từ. Dị hướng từ là một trong những thuộc tính đặc trưng quan
trọng của vật liệu từ. Trong trường hợp đơn giản nhất, dị hướng từ kiểu đơn trục
được định nghĩa bằng hằng số dị hướng K1 có thứ nguyên năng lượng. Hằng số này
có giá trị đúng bằng năng lượng cần thiết để xoay hướng từ độ từ trục dễ sang trục
khó từ hóa. Ngoài ra, trong cấu trúc nano, còn phải kể đến sự đóng góp ảnh hưởng
của các yếu tố dị hướng hình dạng, trạng thái bề mặt, trạng thái lớp tiếp xúc…
Khi áp dụng một từ trường ngoài H lên vật liệu, các momen từ nội tại của vật
liệu sẽ bị thay đổi hướng theo từ trường ngoài, từ đó dẫn tới sự thay đổi độ từ hóa
của vật liệu. Do ảnh hưởng của năng lượng dị hướng từ dẫn đến các trạng thái từ hóa
khác nhau cũng như sự thay đổi của momen từ quỹ đạo M(r) khiến sự phụ thuộc của
giá trị từ hóa theo từ trường ngoài thể hiện đặc tính “trễ”. Các đặc tính quan trọng
của hiện tượng trễ từ là từ dư MR (giá trị từ độ khi từ trường ngoài bằng không) và
12
lực kháng từ HC (giá trị từ trường ngược cần đặt vào để triệt tiêu độ từ hóa). Tính
chất từ trễ là một tính chất nội tại đặc trưng của các vật liệu sắt từ, và hiện tượng trễ
biểu hiện khả năng từ tính của các chất sắt từ.
Mặc dù các thông số cấu trúc của các vật liệu nano từ nằm trong khoảng giữa
khoảng cách giữa các nguyên tử (Khoảng cách giữa hai nguyên tử trong vật rắn cỡ
0,3-0,4 nm) và kích thước macro, nhưng cơ chế từ tính của vật liệu nano từ không
thể đơn giản hóa thành một hỗn hợp giữa vật liệu ở kích thước nguyên tử và vật liệu
kích thước macro. Hầu hết các thuộc tính của vật liệu bị biến đổi ở phạm vi kích
thước nano, các cấu trúc nano này được sử dụng để chế tạo các vật liệu từ cứng, từ
mềm, vật liệu ghi từ lưu trữ và vật liệu cảm biến. Một yếu tố quan trọng trong mối
tương quan giữa nguyên tử (hay yếu tố nội tại) và hiện tượng từ trễ (yếu tố bên ngoài)
là thời gian có thể thay đổi từ dưới 1 nano giây đến hàng triệu năm. Điều này cho ta
thấy, ví dụ, thời gian chuyển mạch từ của cấu trúc spin-điện tử và tuổi thọ của thông
tin lưu giữ trên vật liệu ghi từ. Các giá trị nay liên quan đến sự chuyển động nhiệt
bất trật tự và được biết đến với tên vật liệu siêu thuận từ [25]. Hiệu ứng này chỉ xảy
ra ở các hạt có kích thước rất nhỏ và phụ thuộc rất mạnh theo nhiệt độ.
1.1.1.1. Các hạt đơn đômen và siêu thuận từ
Trong các vật liệu sắt từ, mômen từ không hoàn toàn trật tự trong cả thể tích của
mẫu mà chỉ tồn tại có trật tự trong từng vùng có kích thước xác định, các vùng này
gọi là các đômen từ. Với mỗi loại vật liệu nano khác nhau sẽ có một kích thước tới
hạn cho các hạt đơn đômen khác nhau. Khi kích thước hạt lớn hơn kích thước tới hạn
này, chúng sẽ trở thành các hạt đa đômen. Một số kết quả tính toán kích thước tới hạn
được chỉ ra trong bảng 1.1.
Bảng 1.1. Đường kính tới hạn của một số hạt đơn đômen hình cầu
Vật liệu MS(kA/m) dc(nm)
Fe 1710 14
Co 1400 70
-Fe2O3 417 166
Khi giảm kích thước hạt xuống dưới một giới hạn nhất định, độ từ dư không
còn được giữ theo các định hướng xác định bởi dị hướng hình dạng hoặc dị hướng từ
tinh thể của hạt. Trong trường hợp này ở ngay nhiệt độ phòng năng lượng nhiệt cũng
đã đủ để làm các mômen từ thay đổi theo hướng cân bằng từ độ. Đây chính là trạng
13
thái từ tính của chuyển động Brown. Các chuyển động nhiệt của các phân tử là hỗn
độn và bù trừ nhau khi xét đối với toàn hệ. Nói chung các hạt từ tính trở thành siêu
thuận từ khi bán kính hạt giảm xuống dưới vài chục hoặc vài nm. Các tính chất từ trở
nên thú vị khi bán kính của hạt nằm trong khoảng giới hạn của siêu thuận từ và đơn
đômen. Ở dưới giới hạn siêu thuận từ, hạt không có từ dư và không có lực kháng từ.
1.1.1.2. Lực kháng từ của các hạt từ kích thước nanô
Từ độ của vật liệu có thể đổi hướng dưới tác dụng của từ trường ngoài. Ở trạng
thái bão hòa, từ độ của mẫu bao giờ cũng định hướng song song với từ trường ngoài.
Quá trình đảo từ thường xảy ra theo hai cơ chế: dịch chuyển vách đô-men và quá
trình quay đô-men. Trong giới hạn kích thước nano quá trình đảo từ có thể chia làm
3 nhóm tùy thuộc vào kích thước của các hạt từ tính.
Hình 1.1. Mối liên hệ giữa lực kháng từ và kích thước hạt.
+ r < r0: hạt siêu thuận từ
+ r0 < r < rc: hạt đơn đômen
+ r > rc: hạt đa đômen
trong đó r là bán kính hạt, r0 là…, rc là…và d là kích thước hạt
Sự phụ thuộc vào kích thước hạt của lực kháng từ được minh họa trên hình 1.1.
Cấu trúc đa đô-men được hình thành khi kích thước hạt lớn hơn kích thước đơn đô
men (r>rc) và quá trình đảo từ liên quan đến sự dịch chuyển vách đô-men. Trong
trường hợp độ rộng vách đô-men (dw) nhỏ hơn rất nhiều so với kích thước hạt
(d/dw>>1), khi đó lực kháng từ (HC) sẽ giảm khi các hạt có kích thước càng lớn vì
dịch chuyển của vách đô-men xảy ra dễ dàng hơn. Trong trường hợp này HC ~ dw/d
hay 1/rn .
14
Đối với các hạt đơn đô-men, quá trình đảo từ xảy ra do quá trình quay các
mômen từ. Quá trình quay đó có thể là quá trình quay không đồng bộ trong các hạt
đơn đô-men có kích thước lớn, hoặc cơ chế quay đồng bộ trong các hạt đơn đô-men
có kích thước nhỏ. Trong vùng kích thước này lực kháng từ sẽ tăng khi kích thước
hạt giảm. Ngoài ra, ở gần giới hạn siêu thuận từ, lực kháng từ còn bị giảm do ảnh
hưởng của sự cạnh tranh giữa nhiệt năng và năng lượng dị hướng.
1.1.1.3. Tương tác trao đổi
Tương tác trao đổi có nguồn gốc từ tương tác tĩnh điện Coulomb do sự phủ nhau
của các hàm sóng điện tử trong các chất sắt từ, tương tác trao đổi trong các chất này
có: (i) tác dụng định hướng mômen từ của các nguyên tử song song với nhau; (ii)
quyết định giá trị của nhiệt độ trật tự từ. Tương tác trao đổi phụ thuộc vào môi trường
xung quanh không gian các nguyên tử và chỉ tồn tại trong một khoảng cách ngắn,
cường độ của tương tác trao đổi giảm rất nhanh khi khoảng cách tăng.
Trong các vật liệu sắt từ có ba kiểu tương tác trao đổi cơ bản (hình 1.2):
- Tương tác trao đổi trực tiếp xảy ra khi các hàm sóng của các điện tử của 2
nguyên tử lân cận phủ nhau (hình 1.2a)
- Tương tác trao đổi gián tiếp giữa hai ion từ không có sự phủ nhau của các hàm
sóng được thực hiện thông qua sự phân cực của các điện tử dẫn (hình 1.2b)
- Tương tác siêu trao đổi giữa hai ion từ không có sự phủ nhau trực tiếp của các
hàm sóng mà được thực hiện thông qua sự phủ nhau với hàm sóng điện từ của
ion phi từ trung gian (thường là các ion oxi trong các vật liệu ferit và perovskit)
(hình 1.2c).
(a)
(b)
(c)
Hình 1.2. Các kiểu tương tác trao đổi trong vật liệu sắt từ: (a) tương tác trao đổi trực tiếp, (b) tương tác trao đổi gián tiếp và (c) tương tác siêu trao đổi.
15
Trong các vật liệu có cấu trúc nano dạng lớp tương tác trao đổi giữa hai lớp vật
liệu từ cách nhau bởi lớp đệm không từ ở giữa được gọi là tương tác siêu trao đổi.
Tương tác này cũng có thể mô tả tương tự như tương tác trao đổi gián tiếp. Trong các
vật liệu có cấu trúc dị thể còn tồn tại tương tác trao đổi giữa các hạt. Tương tác này
phụ thuộc rất nhiều vào nồng độ của các ion từ tính trong vật liệu.
Hoàn toàn độc lập với cơ chế khác nhau của các kiểu tương tác trao đổi, năng
lượng của các loại tương tác trao đổi đều được biểu diễn trong cùng khuôn khổ mô
hình Heisenberg:
𝐸 2𝐴 ∑ 𝑆 𝑆 (1.1)
Với Aij là hệ số tương tác trao đổi giữa hai spin lân cận, Si, Sj là mômen spin
của cặp nguyên tử tương tác (i,j) . Cấu trúc sắt từ sẽ được thiết lập khi Aij >0. Ngược
lại, khi Aij <0 sẽ hình thành cấu trúc phản sắt từ.
Lý thuyết trường phân tử của Weiss cho rằng trật tự từ được hình thành nhờ
từ trường nội (hay từ trường phân tử Hm). Hm tỉ lệ với từ độ M của vật liệu:
𝐻 𝑛 𝑀 (1.2)
trong đó nij là hệ số trường phân tử
Khi đó năng lượng tương tác trao đổi được viết :
𝐸 𝑚𝐻 𝑛 𝑚𝑀 𝑛 𝑛 𝑚 (1.3)
với m là mômen từ nguyên tử, n0 là số nguyên tử trên một đơn vị thể tích.
1.1.1.4. Dị hướng từ tinh thể
Trong tinh thể, mômen từ (hay từ độ) luôn có một định hướng ưu tiên dọc theo
một hướng nào đó của tinh thể, mà khi từ hóa theo hướng ưu tiên đó sẽ rất dễ đạt
được trạng thái bão hòa nên được gọi là trục dễ từ hóa; ngược lại khi từ hóa theo các
hướng khác, trạng thái bão hòa từ rất khó đạt được nên người ta gọi các hướng này là
các trục khó từ hóa. Cùng với đó là sự khác nhau về tính chất (cơ, lý, hóa) theo các
phương khác nhau.
Dị hướng từ có nguồn gốc từ tính đối xứng tinh thể, ứng suất, hình dạng của
mẫu hay trật tự của các cặp spin có định hướng khác nhau. Trong các màng mỏng từ
còn có dị ứng từ bề mặt.
16
Trong đó dị hướng từ tinh thể được xác định không chỉ bởi liên kết spin-quỹ
đạo mà còn bởi liên kết với các quỹ đạo điện tử đang xét với sự sắp xếp đối xứng của
các nguyên tử trong mạng tinh thể (trường tinh thể). Nếu trường tinh thể có hệ số đối
xứng thấp và sự phân bố điện tích bất đối xứng, khi đó các quỹ đạo của nguyên tử sẽ
tương tác một cách dị hướng với trường tinh thể.
Năng lượng dị hướng cho phép mô tả định hướng của các vectơ từ độ. Trong
trường hợp các tinh thể đơn trục (có một trục dễ từ hóa), năng lượng dị hướng thường
được biểu diễn dưới dạng:
𝐸 ∑ 𝐾 𝑠𝑖𝑛 𝜃 (1.4)
Với Kn là hằng số dị hướng bậc 2n và là góc giữa vector từ độ và trục dễ từ
hóa.
1.1.2. Vật liệu nano từ Fe-Co
1.1.2.1. Giản đồ pha vật liệu Fe-Co
Đối với các vật liệu kim loại, các thông số vi cấu trúc có mối liên quan chặt chẽ
đến tính chất từ, tính chất cơ học, vật lý của vật liệu. Giản đồ pha của Fe-Co được thể
hiện trên hình 1.3.
Hình 1.3. Giản đồ pha Fe-Co.
17
Một điều dễ dàng nhận thấy trên giản đồ pha Fe-Co có thể tạo thành dạng dung
dịch rắn với cấu trúc lập phương tâm khối (bcc-) với khoảng phân bố nồng độ khá
rộng ở nhiệt độ thấp. Tại nhiệt độ lớn hơn 983oC, vật liệu có cấu trúc lập phương tâm
mặt (fcc-). Tại nhiệt độ dưới 730oC, vật liệu có cấu trúc trật tự lập phương tâm khối
(bcc-2) kiểu dạng cấu trúc CsCl2
Hình 1.4. Cấu trúc lập phương tâm khối của Fe-Co với vị trí Fe nằm ở tâm mạng.
Trong cấu trúc bcc của Fe-Co (hình 1.4), thông số mạng a được tính theo công thức
[26]
a = 0,28236 + 6,4514 x 10-5 [at% Fe] (nm) (1.5)
a2 = 0,28250 + 6,4231 x 10-5 [at% Fe] (nm) (1.6)
Ở nhiệt độ lớn hơn 983oC, vật liệu có cấu trúc lập phương tâm mặt fcc-, khi đó thông
số mạng được tính bởi công thức:
a = 0,35438 + 1,0233 x 10-4 [at% Fe] (nm) (1.7)
Hệ hai nguyên Fe-Co đã được nghiên cứu bởi Ellis và Greiner [27], Normanton
và cộng sự [28] và Ohnuma và cộng sự [26] đã mô tả cụ thể hơn về quá trình nhiệt
động học của hệ hợp kim này. Ellis và Greiner [27] đã đưa ra giá trị chính xác của
nhiệt độ chuyển pha trật tự và bất trật tự trong hệ Fe-Co là 731oC. Phản ứng chuyển
pha trong hệ Fe-Co xảy ra rất nhanh, do đó tốc độ làm nguội yêu cầu không thể đạt
được ở quy mô công nghiệp. Clegg and Buckley [29] đã tính toán giá trị tốc độ làm
nguội yêu cầu phải lớn hơn 4000oC/giây đối với mẫu có bề dày 700 m. Các tác giả
này đã tìm ra 2 cơ chế đặc biệt của chuyển pha bất trật tự - trật tự trong hệ Fe-Co:
- Giai đoạn từ trên 500 oC xuống đến 430 oC, quá trình đồng nhất pha trật tự bởi
hòa trộn của các vùng khác pha
- Giai đoạn giữa 260 oC đến khoảng 430 oC, các tác giả quan sát sự phát triển
của mầm và các biên hạt của cấu trúc trật tự.
a
18
1.1.2.2. Tính chất từ của vật liệu Fe-Co
Các hợp kim Fe-Co với cấu trúc bcc là vật liệu từ mềm tiêu biểu với giá trị từ
độ bão hòa cao nhất trong các hợp kim từ 2 pha hiện nay (hình 1.5), giá trị từ thẩm
cao, tổn hao từ trễ thấp tại vùng tần số cao… [30]. Giá trị mômen từ độ bão hòa của
hợp kim Fe-Co đạt giá trị tối đa tương ứng với hàm lượng Co khoảng 35%. Các đặc
tính từ tính khác của vật liệu Fe-Co như giá trị từ thẩm (hình 1.6) cũng thay đổi theo
tỷ phần Fe/Co. Đó cũng là một trong những lý do khiến hạt nano Fe-Co đã thu hút sự
quan tâm đáng kể của các nhà nghiên cứu.
Hình 1.5. Đồ thị Slater-Pauling biểu diễn sự phụ thuộc của mômen từ nguyên tử theo hợp phần của các hợp kim kim loại chuyển tiếp [31]
Hình 1.6. Độ từ thẩm ban đầu 0 và độ từ thẩm cực đại của vật liệu Fe-Co, nhiệt độ nung có ảnh hưởng mạnh đến độ từ thẩm cực đại. [30]
19
1.1.2.3. Các phương pháp chế tạo vật liệu Fe-Co
Hệ hợp kim Fe-Co có thể được tổng hợp bằng các phương pháp vật lý và hóa
học khác nhau [26-31]. Các phương pháp hóa học đã công bố bao gồm phương pháp
phân hủy nhiệt, phương pháp khử và phương pháp polyol. Phương pháp khử là
phương pháp hóa học đầu tiên có thể tổng hợp các hạt đơn phân tán Fe-Co trong dung
môi. Lần đầu tiên, trong [32], các tác giả đã công bố Fe-Co/Fe3O4 cấu trúc lõi/vỏ đã
được tổng hợp thông qua khuếch tán bề mặt và khử các hạt CoFe2O4/Fe. Các hạt nano
đơn phân tán Fe-Co với kích thước hạt trung bình là 10 nm được tổng hợp bằng cách
cho FeCl2 và CoCl2 trong diphenyl ether, với n-butyllithium làm chất khử và axit
oleic làm chất hoạt động bề mặt đã được trình bày trong TLTK [33]. Trong một số
nghiên cứu gần đây cho thấy hợp kim Fe-Co với các hình dạng khác nhau đã được
tổng hợp bằng phương pháp khử nhiệt lỏng. Hình thái của các hợp kim Fe-Co được
quyết định bởi tỷ lệ ferrum và coban (Fe/Co = 3/7, 5/5, 7/3) và từ độ bão hòa của các
hợp kim tăng tỷ lệ thuận với việc tăng tỷ lệ Fe [34].
Thuận tiện hơn, trong TLTK [35], các hạt hợp kim Fe-Co được tạo ra bằng cách
phân hủy nhiệt đồng thời Fe(CO)5 và Co2(CO)8 trong dung môi 1,2-dichlorobenzen
(C6H4Cl2) hoặc phân hủy của Fe(CO)5 và kim loại hữu cơ Co(N(SiMe3)2)2 trong môi
trường khí H2 với áp suất 3 bar [36]. Các hạt Fe-Co thu được có kích thước khá đồng
đều cỡ 15 nm và có tỷ số nguyên tử ~ Fe60/Co40. Từ độ bão hòa thu được cỡ 160 ~
180 emu/g. Vật liệu thu được có cấu trúc không tuần hoàn và một vài lớp nguyên tử
bề mặt bị oxi hóa. Các nghiên cứu đã cho thấy cấu trúc giả bền Fe-Co sẽ dễ dàng
chuyển đổi thành cấu trúc lập phương tâm khối bcc bằng kích thích chùm tia điện tử
hoặc làm gia nhiệt trong môi trường khí Ar ở 500°C. Sau quá trình ủ, từ độ bão hòa
đạt mức 220 emu/g. Trong một công bố khác [37], Tzitzios và cộng sự đã tổng hợp
Fe-Co từ Fe(Co)5 và Co2(CO)8 trong dầu parafin có chứa axit oleic và oleylamin cũng
bằng phương pháp phân hủy nhiệt. Sản phẩm thu được có cấu trúc lập phương tâm
khối (bcc), kích thước 8-10 nm với từ độ bão hòa khoảng 111,6 emu/g. TLTK [38]
đưa ra cách chế tạo hạt nano Fe-Co bằng phương pháp đồng kết tủa các ion Co và Fe
với thành phần Fe/Co:1/1, các hạt được xử lý nhiệt ở 850°C trong dòng kali bromide
nhằm gia tăng kích thước hạt. Các hạt Fe-Co hình cầu hoặc hình dạng dài với kích
thước hạt khoảng 30 đến 200 nm thu được bằng cách giảm đến nhiệt độ 360 và 400°C
trong môi trường khí hidro. Một nghiên cứu gần đây cho thấy các hạt nano hợp kim
20
Fe-Co đã được tổng hợp bằng hai phương pháp đồng kết tủa (co- precipitation) trực
tiếp muối clorua của sắt-coban và tẩm ướt (wet impregnation) các muối tiền chất
axetat của sắt-coban trên cacbon. Phương pháp đồng kết tủa cho kích thước hạt nano
hợp kim là 23 nm và phương pháp tẩm ướt cho kích thước hạt nano hợp kim là 13
nm. Các kết quả cho thấy hạt nano Fe-Co nhỏ hơn (13 nm) dễ bị oxy hóa khi lấy mẫu
thụ động ở nhiệt độ phòng trong khi các hạt nano lớn hơn được tạo ra bởi đồng kết
tủa có khả năng chống oxy hóa ở cùng điều kiện. Các hạt nano Fe-Co có kích thước
như vậy có nhiều tiềm năng ứng dụng trong các thiết bị lưu trữ dữ liệu, vi điện tử,
xúc tác và y học [39].
Polyol cũng một phương pháp hóa học khác được sử dụng để tổng hợp các hạt
Fe-Co bằng cách khử các muối kim loại hòa tan trong dung dịch có chứa rượu đa
chức. Quá trình tổng hợp vật liệu Fe-Co bằng phương pháp polyol trong hầu hết các
nghiên cứu [35-37] đều chọn ethylene glycol làm dung môi, có vai trò như một tác
nhân khử ion kim loại trong môi trường kiềm. Zamanpour và cộng sự [40] đã tổng
hợp được Fe-Co bằng phương pháp polyol đi từ sắt clorua, coban axetat và natri
hidroxit được trộn với nhau trong ethylen glycol. Kết quả thu được là hệ hạt có kích
thước trong khoảng 20 – 30 nm với từ độ bão hòa đạt được là 221 emu/g. Tuy nhiên
khối lượng sản phẩm đạt được rất hạn chế, chỉ với khoảng trên 2 gram cho mỗi thí
nghiệm. Chaubey và cộng sự [41] đã dùng phương pháp Polyol khử đồng thời Fe(III)
acetylacetonate (Fe(acac)3) và Co(II) acetylacetonate (Co(acac)2) trong dung môi
chứa chất hoạt động bề mặt và 1,2-hexadecanediol (C16H34O2) trong môi trường khí
hỗn hợp 93% Ar + 7% H2 tại 300°C để chế tạo các hạt nano Fe-Co. Giá trị từ độ bão
hòa của vật liệu Fe-Co thu được tương ứng là 207 và 129 emu/g với kích thước 20
nm và 10 nm. Gần tương tự như TLTK [41], trong TLTK [42] các hạt Fe-Co sau khi
tổng hợp được bọc thêm 1 lớp vỏ cacbon bằng phương pháp bốc bay hóa học (CVD)
nhằm bảo vệ chống oxi hóa. Nhờ vậy mà từ độ bão hòa đạt tới 230 emu/g sau khi chế
tạo. Vật liệu thu được là các hạt từ Fe-Co có kích thước 7 nm, bền vững về mặt từ
tính với từ độ bão hòa cỡ 215 emu/g trong thời gian 1 tháng bảo quản ở điều kiện
không khí thông thường. Ngoài ra, trong TLTK [43, 44] vật liệu nano Fe-Co được
đưa về phân tán trong dung môi bằng cách sử dụng phospholipid-poly (ethylene
glycol - C2H6O2) nhằm ứng dụng trong các nghiên cứu tăng cường độ tương phản
trong chụp ảnh cộng hưởng từ hạt nhân. Trong mục tiêu ứng dụng này, vật liệu còn
21
được bọc thêm lớp vỏ bảo vệ Au hoặc Ag bằng phương pháp phún xạ.
So với các phương pháp hóa học thì các phương pháp vật lý như phương pháp
bốc bay nhiệt, bốc bay laser hay plasma, nghiền cơ năng lượng cao có ưu điểm vượt
trội hơn rất nhiều bởi chi phí đầu vào thấp, quá trình thực hiện đơn giản, khối lượng
sản phẩm thu được lớn và thời gian tổng hợp nhanh [45]. Tuy nhiên, các phương pháp
vật lý như phương pháp bốc bay nhiệt, bốc bay laser hay plasma chỉ thích hợp cho
đối tượng nghiên cứu là màng mỏng, còn để chế tạo vật liệu Fe-Co dạng bột, phương
pháp nghiền cơ, đặc biệt là phương pháp nghiền cơ năng lượng cao vẫn là phương
pháp phổ biến và hiệu quả nhất tính cho đến thời điểm hiện nay bởi chi phí đầu vào
thấp, quá trình thực hiện đơn giản, khối lượng sản phẩm thu được lớn chỉ trong một
khoảng thời gian ngắn [46].
Hiện nay, trên thế giới đã có rất nhiều công bố về việc tổng hợp hạt nano Fe-Co
bằng phương pháp nghiền đi từ các bột nguyên tố thành phần. Hầu hết các nghiên
cứu này được thực hiện trong môi trường khí bảo vệ như Argon nhằm tránh hiện
tượng ôxi hóa sản phẩm sau khi nghiền.
0 20 40 60 80
160
180
200
220
240
MS (
emu
/g)
% nguyên tử Co (%)
MS
HC
10
20
30
40
HC (
Oe)
Hình 1.7. Sự phụ thuộc của từ độ bão hòa và lực kháng từ vào hàm lượng Co đối
với bột hợp kim Fe-Co chế tạo bằng phương pháp hợp kim cơ [47]
Kim và cộng sự [47] tổng hợp Fe100-xCox (x= 20, 30, 50 và 80) bằng phương
pháp hợp kim cơ dùng máy nghiền bình quay theo chiều ngang, tỉ lệ bi/bột = 50/1,
22
thời gian nghiền đối với mỗi mẫu là 100 giờ (hình 1.7). Kết quả cho thấy pha Fe-Co
hình thành sau 10 giờ nghiền với kích thước hạt trong khoảng 10-15 nm và giá trị từ
độ bão hòa (MS) cao nhất, lực kháng từ nhỏ nhất thu được cho thành phần chứa 30%
Co. Ngược lại, khi tỉ phần Co cao sẽ dẫn đến giảm MS và tăng lực kháng từ HC. Trong
nghiên cứu mới đây [48], các hạt nano từ tính Fe-Co với kích thước trong khoảng
11,5-37,2 nm được tổng hợp bằng phương pháp nghiền bi. Độ từ hóa bão hòa và lực
kháng từ cực đại thu được là 172 Am2/kg đối với các hạt nano có kích thước trung
bình là 37,2 nm và 19,4 mT đối với các hạt nano có kích thước trung bình là 13,3 nm.
Zeleňásková và cộng sự [49] tổng hợp bột hợp kim Fe100-xCox (x = 30, 45, 50,
60) bằng cách sử dụng máy nghiền hành tinh năng lượng cao (RETSCH PM4000)
với bình và bi bằng thép, tốc độ nghiền là 180 vòng/phút, tỉ lệ bi/bột là 15/1 và thời
gian nghiền 30 giờ. Thông số mạng, từ độ bão hòa và lực kháng từ được phân tích
theo nồng độ Co. Các tác giả cũng nhận thấy trong điều kiện tổng hợp này vẫn thu
được đơn pha Fe-Co với kích thước hạt trung bình 10 nm và giá trị MS cũng đạt cực
đại với thành phần Fe70Co30 và thấp nhất cho thành phần Fe50Co50. Khảo sát
Mössbauer cũng được thực hiện để khẳng định những kết quả khảo sát cấu trúc bằng
XRD. Tuy nhiên, sự phụ thuộc của HC vào lượng Co thay thế chưa được công bố.
Poudyal và cộng sự [50] đã công bố kết quả tổng hợp Fe100-xCox (x = 20, 35,
50, 60) bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao trong môi trường Ar và tính
chất từ của chúng. Thiết bị nghiền được dùng là thiết bị nghiền SPEX 8000M với
bình và bi bằng thép loại 400C, tỉ lệ bi/bột là 20/1 và thời gian nghiền thay đổi từ 0,5
giờ - 20 giờ. Kết quả nhiễu xạ tia X cho thấy ở tất cả các hợp phần thì đều có sự biến
mất của vạch hcp-Co sau 3 giờ nghiền. Các sản phẩm thu được có cấu trúc bcc-Fe.
Sau 5 giờ nghiền, giá trị MS của bột hợp kim Fe100-xCox với x = 20, 35, 50 và 60 tương
ứng là 232, 240, 236 và 224 emu/g. Như vậy giá trị MS cao nhất nhận được với hợp
kim có thành phần Fe65Co35. Giá trị lực kháng từ tăng lên cùng với sự tăng hàm lượng
Co và nằm trong khoảng 80 đến 115 Oe tương ứng với các mẫu Fe80Co20 và Fe40Co60.
Như vậy, cho tới thời điểm này các công bố đều chỉ ra rằng tỉ phần Fe/Co cùng
với các điều kiện thực nghiệm có ảnh hưởng lớn tới tính chất từ của hợp kim Fe-Co.
Khi lượng Co thay thế cho sắt quá lớn (x ≥ 80) thì MS suy giảm mạnh, trong khi đó
HC tăng. Ảnh hưởng của các tham số công nghệ như tỉ lệ bi/bột, tốc độ, thời gian
nghiền, tỷ lệ Fe/Co, môi trường khử tới việc tổng hợp hệ Fe-Co, cũng như chế độ xử
23
lý nhiệt sau khi nghiền cũng đã được quan tâm nghiên cứu nhằm tìm điều kiện tối ưu
cho quá trình.
Ngoài phương pháp sử dụng bột kim loại Fe, Co, A. Azizi và cộng sự [51] đã
sử dụng Fe2O3 và Co3O4 làm nguyên liệu đầu vào. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng
phương pháp nghiền cơ năng lượng cao kết hợp với khử oxi trong hỗn hợp bằng khí
H2, để khử hoàn toàn hàm lượng oxi, đã sử dụng kết hợp với một quy trình hóa học
khá phức tạp: đầu tiên sử dụng NaCl nghiền cùng hỗn hợp oxít theo tỷ lệ 4/1, sản
phẩm sau nghiền được phân tán trong hexan, sau đó dung dịch này được khuấy đến
khi tạo được dạng sol. Sol sau đó được ủ trong môi trường H2+Ar (9/1) tại nhiệt độ
650-750oC trong 1 giờ. Bột thu được sau quá trình khử được rửa nhiều lần trong nước
khử ion rồi sấy khô thu được sản phẩm cuối cùng là Fe0,67Co0,33. Kết quả nhiễu xạ
cho thấy mẫu thu được là đơn pha khi nhiệt độ khử đạt 750oC đối vơi mẫu khử trực
tiếp và 650oC đối với mẫu kết hợp NaCl và hexan. Sử dụng NaCl và NaCl+hexan
thêm vào trong quá trình chế tạo đã làm giảm quá trình tăng kích thước hạt trong quá
trình khử, đồng thời sự phân tán trong môi trường NaCl cũng làm gia tăng hiệu suất
của quá trình khử và kết quả thu được là giá trị MS tăng từ 182 lên 216 emu/g. Các
phương pháp chế tạo vật liệu Fe-Co và kết quả tiêu biểu được tổng hợp trên bảng 1.2.
Bảng 1.2. Các phương pháp chế tạo vật liệu Fe-Co.
TT Tác giả Phương pháp
chế tạo Môi
trường D
(nm) MS
(emu/g)TLTK
1 J. Li và cộng sự PP. khử Dung môi 10 - [32]2 Y. Wang và cộng sự PP. khử Dung môi 10 181-192 [33]3 Y. Cheng và cộng sự PP. khử Dung môi - 192-201 [34]4 A. Hütten và cộng sự Phân hủy nhiệt Dung môi 5 150 [35]5 C. Desvaux và cộng sự Phân hủy nhiệt Dung môi 15 160-180 [36]6 V. Tzitzios và cộng sự Phân hủy nhiệt Dung môi 8-10 111 [37]7 M. Kishimoto và cộng sự Đồng kết tủa Dung môi 30-200 150 [38]8 S. Koutsopoulos và cộng sự Đồng kết tủa Dung môi 13-23 - [39]9 M. Zamanpour và cộng sự Polyol Dung môi 20-30 221 [40]
10 G.S. Chaubey và cộng sự Polyol Dung môi 10-20 129-207 [41]11 W.S. Seo và cộng sự Polyol Dung môi 7 230 [42]12 Y. D. Kim và cộng sự Nghiền cơ Ar 10 232 [47]13 O. Celik và cộng sự Nghiền cơ Ar 12-37 172 [48]14 A. Zelenáková và cộng sự Nghiền cơ Ar 9-16 203-225 [49]15 N. Poudyal và cộng sự Nghiền cơ Ar 8 224-240 [50]
16 A. Azizi và cộng sự Nghiền cơ + khử oxi
Dung môi 25-50 182-216 [51]
24
1.2. Vật liệu nano từ tổ hợp hai pha cứng/mềm
1.2.1. Vật liệu nano từ tổ hợp hai pha cứng/mềm
Dựa vào tính ứng dụng (trong công nghiệp, đời sống hàng ngày) và tính chất từ
của vật liệu, vật liệu sắt từ được chia thành hai loại: vật liệu từ mềm và vật liệu từ
cứng (nam châm vĩnh cửu).
Vật liệu từ mềm có thể dễ dàng bị từ hóa và khử từ bởi từ trường thấp. Chúng có
từ độ bão hòa cao nhưng lực kháng từ thấp. Khi từ trường tác dụng bên ngoài ngừng
tác động, vật liệu từ mềm sẽ trở lại trạng thái ban đầu với không từ dư, hoặc từ dư rất
thấp. Vật liệu từ mềm được sử dụng trong nam châm điện và lõi biến áp, nhờ khả năng
dễ dàng thay đổi hướng theo từ trường ngoài nhanh chóng.
Vật liệu từ cứng có lực kháng từ lớn. Sau khi từ trường bên ngoài ngừng tác
động, vật liệu từ cứng vẫn có thể giữ lại giá trị từ độ rất cao, và rất khó khử từ. Vật
liệu từ cứng tìm thấy các ứng dụng rất rộng rãi trong công nghiệp và trong cuộc sống
hàng ngày, trong ổ cứng máy tính, trong iPod, trong các máy MRI, trong động cơ,
máy phát điện, và trong tầu hỏa đệm từ.
Một trong những thông số quan trọng nhất của một vật liệu từ cứng là giá trị
tích năng lượng từ cực đại (BH)max, giá trị đặc trưng cho sức mạnh của nam châm
vĩnh cửu, được định nghĩa là năng lượng từ lớn nhất có thể tồn trữ trong một đơn vị
thể tích vật liệu từ. Thế kỷ vừa qua đã chứng kiến sự phát triển đáng kể trong các
nghiên cứu, chế tạo vật liệu nam châm vĩnh cửu, đặc biệt là trong sự tiến bộ của năng
lượng từ cực đại. Trong suốt thế kỷ qua, các sản phẩm năng lượng tối đa đã được cải
thiện theo cấp số nhân, tăng gấp đôi mỗi 12 năm. Mặc dù các sản phẩm này vẫn có
thể cải thiện chất lượng hơn nữa giá trị (BH)max, tuy nhiên không dễ dàng để có thể
giữ xu hướng tăng trưởng này. Hiện nay, chúng ta khó có thể tìm ra thêm loại nam
châm vĩnh cửu đơn pha có giá trị năng lượng tối đa cao. Tích năng lượng từ cực đại
được xác định trên đường cong khử từ B(H) trong góc phần tư thứ 2, là điểm có giá
trị tích (BH) lớn nhất. Tích năng lượng từ là tham số dẫn suất, phụ thuộc vào các tính
chất từ nội tại của vật liệu và hình dạng của vật liệu, thường mang ý nghĩa ứng dụng
trong các nam châm vĩnh cửu và vật liệu từ cứng. Giá trị (BH)max tăng tỷ lệ thuận với
cả 2 giá trị lực kháng từ và từ độ bão hòa. Năm 1991, Kneller và Hawig [52] đề xuất
một loại vật liệu từ cứng mới: nam châm nanocomposite trao đổi-cặp hoặc nam châm
trao đổi đàn hồi. Khái niệm trao đổi đàn hồi này dựa trên khả năng liên kết trao đổi
25
giữa 2 pha từ cứng và từ mềm để đạt được giá trị năng lượng từ cực đại cao. Trong
những nam châm nanocomposite tương tác trao đổi, vật liệu mới sẽ có từ độ bão hòa
cao của vật liệu từ mềm và lực kháng từ cao của vật liệu từ cứng bằng tương tác trao
đổi giữa hai pha như trong hình 1.9. Độ mạnh yếu của tương tác trao đổi giữa pha từ
cứng và pha từ mềm bị ảnh hưởng không chỉ bởi bản thân hai pha từ cứng, mềm mà
còn chịu tác động bởi kích thước và điều kiện bề mặt tiếp xúc giữa hai pha.
Coehoom và các cộng sự [53] đã khám phá rằng: lực kháng từ có giá trị
tương đối cao trong những hệ vật liệu nanocomposite có tương tác trao đổi giữa
các hạt của pha từ cứng với pha từ mềm. Do tương tác này các véc-tơ mômen từ
của hạt từ mềm bị “khoá” bởi các hạt từ cứng nên khó đảo chiều dưới tác dụng
của từ trường ngoài giống như các hạt từ mềm đã bị “cứng hóa”. Ngoài được cứng
hóa, từ độ dư của hệ vật liệu này cũng được tăng cường đáng kể, cao hơn giá trị
giới hạn được xác định bởi mô hình Stoner-Wohlfarth cho các nam châm đẳng
hướng (Mr 0,5 MS). Từ độ dư được nâng cao kéo theo tích năng lượng cực đại
cũng khá cao nếu trường kháng từ và độ vuông góc ít thay đổi.
Hình 1.9. Ý tưởng của nam châm nanocomposite, kết hợp từ độ bão hòa cao của pha từ mềm và lực kháng từ lớn của pha từ cứng.
Loại vật liệu nanô tổ hợp hai pha cứng mềm như vậy được gọi là nam châm đàn
hồi. Chúng kết hợp ưu thế về từ độ bão hòa cao của pha từ mềm và tính dị hướng từ
tinh thể cao của pha từ cứng. Tuy nhiên, để có tích năng lượng (BH)max cao thì không
chỉ yêu cầu từ độ bão hòa cao, lực kháng từ đủ lớn và độ vuông góc của đường cong
26
khử từ phải tốt mà còn phụ thuộc vào vi cấu trúc của vật liệu. Việc nghiên cứu để tìm
ra vi cấu trúc tối ưu cho từng hệ vật liệu và các biện pháp công nghệ đã được nghiên
cứu bằng cả thực nghiệm cũng như lý thuyết. Mô hình đầu tiên mô tả nam châm trao
đổi đàn hồi là mô hình một chiều Kneller-Hawig [52]. Đây là mô hình sơ khai ban
đầu và khá đơn giản về toán học nhưng là nền tảng cho những mô hình phức tạp hơn
sau này. Các đặc trưng cần thiết có thể minh họa trong bức tranh một lớp pha từ mềm
được kẹp giữa hai lớp từ cứng có trục dễ được giả sử là song song với nhau (xem hình
1.10). Gọi Ms, As và ds là từ độ, hằng số trao đổi và chiều dày của lớp từ mềm. Dưới
tác dụng của từ trường, cấu hình mômen từ của lớp từ mềm được xác định bởi sự cân
bằng năng lượng trao đổi và năng lượng Zeeman. Các mômen từ quay một cách liên
tục, giống như cấu hình mômen từ trong một vách đô-men, từ góc = 0 ở bề mặt đến
= max ở tâm của lớp mềm (xem hình 1.10).
Hình 1.10. Cấu trúc từ trong quá trình khử từ vật liệu nanocomposite
hai pha cứng-mềm.
Khi từ trường ngoài nhỏ, lớp từ mềm giữ định hướng hoàn toàn dọc theo hướng
từ độ của pha cứng như kết quả của tương tác qua các bề mặt. Trường mầm, Hn,
trường mà tại đó diễn ra sự đảo từ độ từ trạng thái bão hòa, theo [54] được tính bởi
công thức:
𝐻 (1.8)
Lúc năng lượng dị hướng trong lớp từ cứng không được coi là vô hạn so với
năng lượng Zeeman, trường mầm phụ thuộc vào tính chất của lớp từ cứng. Tuy nhiên,
khi mà dh≥ 3 h (dh và h là chiều dày lớp từ cứng và chiều rộng vách đômen), Hn
27
không phụ thuộc nhiều vào dh. Trong trường hợp ds = 10 nm, trường mầm tại nhiệt
độ phòng 0Hn tiêu biểu khoảng 1T.
Khi trường ngoài tiếp tục tăng, vách đô-men trong lớp mềm ép liên tục vào bề
mặt tiếp xúc giữa hai lớp cứng-mềm, cho đến khi nó thâm nhập vào trong lớp cứng
và quá trình đảo từ hoàn toàn xảy ra. Trong trường hợp các bề mặt tiếp xúc giữa các
pha sắc nét và giả sử từ độ và hằng số trao đổi là tương tự ở cả hai kiểu lớp, trường
lan truyền, Hp đã được tính toán bởi Aharoni [55]. Với dh nhỏ, Hp sẽ rất nhỏ, và Hp
tăng đến giá trị lớn nhất khoảng 0,5 HA (trường dị hướng pha từ cứng) khi dh = h và
giảm đến 0,25 HA khi dh →. Khi mà từ độ và hằng số trao đổi trong lớp từ cứng và
mềm là khác nhau về giá trị và được đưa vào tính toán, trường lan truyền rút gọn hp
= Hp/HA ở dh lớn trở thành:
ℎ
√ (1.9)
Với = MhAh/MsAs. Kết quả đo thực nghiệm trường lan truyền cho thấy hp cỡ 0,15.
Giá trị này nhỏ hơn giá trị tính toán lý thuyết ở trên. Nguyên nhân có thể do lớp tiếp
xúc giữa các lớp trong vật liệu thực tế không sắc nét lý tưởng, trong khi trường lan
truyền lại tỉ lệ trực tiếp với đạo hàm của năng lượng vách đô-men trên diện tích. Đó
là những yếu tố gây lên sự sai khác trong giá trị tính toán.
Mô hình tính toán lý thuyết, R. Skomski và J. M. D. Coey [56] đã chứng tỏ rằng
nếu vật liệu có cấu trúc lớp thích hợp thì tương tác giữa các vùng từ cứng và từ mềm
đạt tối ưu dẫn đến tích năng lượng tăng lên đáng kể. Chẳng hạn, đối với hệ
Sm2Fe17N3/Fe với 0Ms = 2,15 T, 0Mh= 1,55 T và Kh = 12 MJ/m3 có tích năng lượng
(BH)max = 880 KJ/m3 (110 MGOe) tỷ phần thể tích pha cứng chỉ là 7%. Đối với hệ
-Fe/Nd2Fe14B ta có 0Ms = 2,15 T, 0Mh = 1,61 T, Kh = 9,4 MJ/m3, kết quả nhận
được là (BH)max = 880 KJ/m3 (110 MGOe), tỷ phần thể tích pha từ cứng Nd2Fe14B
tương ứng là 9,3%. Từ kết quả này ta thấy rằng chỉ với một tỷ phần rất nhỏ của pha
từ cứng (cũng là một lượng nhỏ đất hiếm) cũng có thể tạo được nam châm có tích
năng lượng rất lớn vượt xa kỷ lục (57 MGOe) được tạo ra bởi nam châm Nd2Fe14B
thiêu kết nếu như vi cấu trúc xen kẽ bao gồm các lớp từ cứng và từ mềm là tối ưu.
Để tạo ra được hệ nam châm nanocomposite có tính chất từ tốt hơn tính chất từ
của các vật liệu từ hiện tại thì ít nhất cần giá trị từ dư 0Mr ~ 1,2 T trong hệ đẳng
hướng và 0Mr ~ 1,5 T trong hệ dị hướng. Bên cạnh đó giá trị 0HC cần lớn hơn hoặc
28
bằng 0Mr/2 để đảm bảo tích năng lượng cực đại đạt giá trị lớn nhất (giới hạn lí thuyết
đối với tích năng lượng cực đại của một vật liệu từ cho trước là (BH)max MS2/40).
Từ đó, suy ra giá trị trường đảo từ 0Hn ~ 0Hp nằm trong khoảng 0,81 T.
Để đạt được giá trị từ như đã đề ra, mômen từ bão hòa của lớp từ mềm phải cao
hơn khoảng 1,6 T. Những giá trị như vậy phải cần đến lớp từ mềm là hợp kim nền
Fe. Ngoài ra, chiều dầy lớp từ mềm cũng làm một thông số quan trọng cần điều chỉnh
tối ưu. Dựa vào mô hình tính toán của mình, Skomski và Coey [56] đã tìm ra sự phụ
thuộc của ds vào Hn/HK cho các hệ Sm2Fe17N3-/Fe, SmCo5/Fe và Nd2Fe14B/Fe (dh
trong trường hợp này được giả sử là lớn, không đưa vào tính toán). Giá trị ds để đạt
giá trị 0Hn = 1T là khoảng 10 nm đối với hệ Sm2Fe17N3-/Fe, SmCo5/Fe và 7,5 nm
đối với hệ Nd2Fe14B/Fe. Vật liệu nanocomposite chứa khoảng 50% pha cứng và 50%
pha mềm sẽ có dh ds. Trong trường hợp này, trường mầm Hn giảm và giá trị tính
cho lớp cứng có độ dầy như vậy không khác nhiều (vài phần trăm) so với Hn được
tính trong trường hợp dh→.
Những lớp từ mềm tiêu biểu khoảng 10 nm thông thường nhỏ hơn lớp từ thu được
trong nanocomposite chế tạo bằng công nghệ luyện kim ví dụ như: phun băng nguội
nhanh hay luyện kim bột. Chỉ có phương pháp tạo màng mỏng mới cho phép chế tạo
được những lớp mỏng như vậy. Vì thế, trong công nghiệp, để chế tạo ra vật liệu
nanocompostie hai pha cứng-mềm cần phải phát triển các công nghệ chế tạo mới hơn.
Một khó khăn nữa là khi chiều dầy các lớp nhỏ hơn, tương tác trao đổi giữa các
hạt sẽ ưu tiên định hướng các mômen từ song song với nhau trong toàn bộ vật liệu.
Trong những vật liệu không có tex-tua (kết cấu định hướng ưu tiên), sẽ làm giảm lực
kháng từ. Vì thế, để thu được trường mầm lớn chỉ còn cách là chế tạo ra các vật liệu
có cấu trúc định hướng ưu tiên tex-tua. Đây cũng là một thử thách cho các nhà khoa
học vật liệu.
Giả sử chiều dày lớp mỏng và trường mầm Hn lớn, vẫn cần thiết lớp cứng chống
lại sự đảo từ. Để thu được trường lan truyền 0Hp lớn cỡ 1 T, tốt nhất cần có các bề
mặt tiếp xúc sắc nét giữa các lớp từ. Khi mối liên hệ về cấu trúc không tồn tại giữa
các cấu trúc tinh thể pha cứng và tinh thể pha mềm, có thể ngăn cản sự hình thành
các bề mặt khuếch tán. Khi đó quá trình lan truyền trội hơn và lực kháng từ sẽ lớn.
29
Cách tiếp cận khác để chế tạo nam châm nanocomposite là sử dụng các nam
châm kiểu cơ chế lực kháng từ theo kiểu ghim cho các lớp từ cứng. Vách đô-men sẽ
bị ghim trong pha cứng, vì thế có thể cản trở quá trình đảo từ. Nam châm đàn hồi dựa
trên những vật liệu như vậy (ví dụ Sm(Fe-CoCuZr)7-8) có thể giữ được lực kháng từ
cao trong tổ hợp hai pha cứng mềm.
Trong một số nghiên cứu mới đây, Tetsuji Saito [57] đã tổng hợp thành công hệ
nam châm composite SmCo5/α-Fe bằng phương pháp nghiền cơ kết hợp với thiêu kết
xung điện Plasma (Spark plasma sintering) với tỷ lệ khối lượng Fe từ 0-20%. Kết quả tối
ưu tương ứng với tỷ lệ SmCo5/Fe: 9/1 và nhiệt độ thiêu kết plasma 873 K. Giá trị lực
kháng từ và từ độ bão hòa sau khi thiêu kết plasma tăng gần 3 lần so với bột sau nghiền.
Tuy nhiên, trên phổ nhiễu xạ tia X, không thấy có sự xuất hiện pha tinh thể của SmCo5
và Fe, tác giả đã khẳng định kỹ thuật XRD không thể dùng để phân biệt sự tồn tại của 2
pha này trong bột thành phần (!) và giá trị (BH)max cũng không được đề cập đến.
Hệ SmCo5/Fe-Co với cấu trúc lõi vỏ cũng được tổng hợp bằng phương pháp
hóa học ‘self-assembly’. Các hạt SmCo5 được thêm vào trong dung môi hexan chứa
các hạt nano Fe-Co phân tán kích thước khoảng 10 nm. Sản phẩm SmCo5/Fe-Co sẽ
thu được sau khi nghiền hỗn hợp đến khi hexan bay hơi hết. Giá trị (BH)max đạt 7,5
MGOe, tăng khoảng 25% so với bột đơn pha SmCo5 tương ứng với tỷ lệ khối lượng
của Fe-Co là 10% [58].
Trong thời gian qua, nam châm từ cứng là một hướng nghiên cứu mạnh trong
nước, tuy nhiên chỉ một số ít các công trình tập trung vào các vật liệu tổ hợp hai pha
từ cứng mềm. Công nghệ chế tạo mẫu nghiên cứu trong nước chủ yếu đi theo hướng
“top-down”, có nghĩa là tạo ra cấu trúc nano của 2 pha từ cứng-mềm bằng các quá
trình ủ nhiệt (hoặc thay đổi tốc độ kết tinh từ pha lỏng) của các mẫu vĩ mô (chủ yếu
là băng từ hoặc hợp kim vô định hình). Tác giả The và cộng sự báo cáo (BH)max =
17,3 và 17,8 MGOe trong các băng từ Nd4,5Fe73,8B18,5Cr0,5Co1,5Nb1Cu0,2 [59] và
Pr4Fe76Co10B6Nb3Cu1 [60] sau các quá trình ủ nhiệt để tạo ra sự kết tinh của các pha
cứng-mềm. Tác giả Dan báo cáo (BH)max = 17,5 MGOe trong băng hợp kim Nd12-
xCoxFe82B6 nhờ thay đổi hàm lượng Co và tốc độ làm nguội [61]. Tuy không trực tiếp
liên quan đến tính chất từ cứng, hiện tượng hồi phục từ dị thường quan sát thấy gần
đây bởi Hai và các cộng sự [62] trong -Fe(Co)/(Nd,Pr)2Fe14B cũng thực sự rất đáng
được quan tâm.
30
1.2.2. Lý do lựa chọn vật liệu nanocomposite Fe-Co và SmCo5.
Trong việc tìm kiếm vật liệu cho pha từ cứng và pha từ mềm cho thành phần của
nam châm nanocomposite cho nghiên cứu của luận án, chúng tôi có ba điểm chú ý.
Thứ nhất, như đã thảo luận trong phần trước, tiềm năng của vật liệu từ cứng là
lực kháng từ cao, mà giá trị này thường liên quan đến vật liệu có dị hướng từ tinh thể
lớn. Trong khi đó, các vật liệu từ mềm, ngoài phải có giá trị từ độ bão hòa cao, cũng
nên có giá trị dị hướng từ tinh thể đáng kể. Theo các công bố nghiên cứu trước đây
[63-66], dị hướng từ trong vật liệu từ mềm cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến các liên kết trao đổi giữa pha từ cứng và pha từ mềm.
Thứ hai, cả vật liệu từ cứng và mềm cần phải có nhiệt độ Curie cao. Kết quả là,
các nam châm nanocomposite có khả năng sẽ có nhiệt độ Curie cao vì vậy nó có thể
giữ được năng lượng từ trường của nó và chống khử từ trong phạm vi nhiệt độ của
ứng dụng. Ngày nay, nhiều ứng dụng đòi hỏi nhiệt độ làm việc của nam châm vĩnh
cửu khoảng 400℃.
Cuối cùng là sự phù hợp trong mạng tinh thể giữa các vật liệu từ mềm và cứng.
Nhìn chung, mạng tinh thể không phù hợp với bề mặt tương tác sẽ gây ra các khuyết
tật trong quá trình chế tạo vật liệu và do đó ảnh hưởng đến chất lượng và đặc tính của
vật liệu chế tạo được. Mạng tinh thể phù hợp cũng rất quan trọng cho các nghiên cứu
lý thuyết sau này.
Bảng 1.3. Tính chất từ của một số vật liệu sắt từ thông dụng [9-13, 67].
Vật liệu Từ độ bão
hòa (T)
Năng lượng dị
hướng từ (J/m3)
Nhiệt độ
Curie (oC)
BHmax lý thuyết
(KJ/m3)
SmCo5 1.07 1.5107 725 240
Sm2Co17 1.28 3.2106 926 326
Nd2Fe14B 1.61 4.3106 312 510
FePt 1.43 6.7106 477 105
Fe 2.14 4.8104 770 -
Co 1.78 4.1105 1130 -
Ni 0.62 -4.5103 358 -
Theo bảng thông số các tính chất từ của vật liệu sắt từ thường được sử dụng
trong bảng 1.3 [9-13, 67], có thể chọn SmCo5 làm pha từ cứng và sắt hoặc coban là
31
sự lựa chọn cho pha từ mềm. SmCo5 có dị hướng từ tinh thể cao nhất và nhiệt độ
Curie cao, trong khi đó Fe, Co có từ độ bão hòa cao và nhiệt độ Curie cao. Dựa trên
một số thành công bước đầu với vật liệu Fe-Co có từ độ bão hòa cao [68-70], cao hơn
cả Fe và Co kim loại, chúng tôi đã lựa chọn hệ nanocomposite SmCo5/Fe-Co như là
đối tượng nghiên cứu chính. Một điều đáng chú ý là mặc dù vật liệu Nd2Fe14B có từ
độ bão hòa cao, lực kháng từ lớn và giá trị tích năng lượng từ tối đa tiềm năng cao
nhất hiện nay, tuy nhiên do nhiệt độ chuyển pha Curie thấp nên vật liệu này không
được lựa chọn trong nghiên cứu của chúng tôi.
1.3. Vật liệu nano từ trong đốt nóng cảm ứng từ.
Đốt nóng cảm ứng từ (Magnetic Inductive Heating - MIH) là hiệu ứng vật lý
liên quan đến hiện tượng cảm ứng điện từ: các vật liệu trở thành các nguồn sinh nhiệt
khi chúng được đặt trong một điện từ trường xoay chiều. Khác với đốt nóng ngoài
qua các cơ chế truyền nhiệt thông dụng, hiệu ứng đốt nóng cảm ứng từ có đặc điểm
là nhiệt được tạo ra từ chính bản thân của vật liệu; vật liệu không phải tiếp xúc nhiệt
với nguồn. Đây là ưu điểm giúp hiệu ứng MIH được ứng dụng nhiều trong các ngành
công nghiệp và ứng dụng y sinh [71, 72].
1.3.1. Các hạt nano từ cho ứng dụng nhiệt từ trị.
Trong lĩnh vực y sinh, đốt nóng cảm ứng từ (MIH) được ứng dụng trong nhiệt
từ trị ung thư được xem là hướng nghiên cứu sôi động. Phương pháp nhiệt từ trị ung
thư là phương pháp sử dụng dung dịch chứa các hạt nano từ (được gọi là chất lỏng
từ) tiêm trực tiếp vào mô khối u hoặc tiêm theo đường tĩnh mạch, sau dó chiếu một
từ trường xoay chiều. Dưới tác dụng của từ trường có tần số f và cường độ H thích
hợp, các hạt nano từ hấp thụ năng lượng điện từ và chuyển thành năng lượng nhiệt
[73, 74]. Bằng cách này, nhiệt độ của khối u có thể tăng lên đến 41-46oC, nhiệt độ
mà các tế bào ung thư bị tiêu diệt, trong khi các tế bào lành không bị ảnh hưởng. Đây
là phương pháp có nhiều triển vọng và hứa hẹn sẽ giảm thiểu các tác dụng phụ không
mong muốn so với một số phương pháp sử dụng hiện nay như hóa trị, xạ trị [75].
Nhiệt trị bằng hạt từ trong từ trường xoay chiều là một liệu pháp trị bệnh đã
được bắt đầu nghiên cứu từ những năm 1950. Chúng chia thành 2 phương pháp chính:
(i) phương pháp nhiệt trị (Hyperthermia) làm nóng các bộ phận hoặc vùng mô nhất
định đến nhiệt độ trong khoảng từ 41 đến 46oC nhằm mục đích điều trị ung thư được
32
gọi là; và (ii) phương pháp đốt nhiệt làm nóng ở vùng nhiệt độ cao hơn đến 56oC, chủ
yếu ứng dụng hiệu quả trong điều trị hoại tử, đông máu hoặc đốt phân hủy (tùy thuộc
vào nhiệt độ). Hai phương pháp này có cơ chế hoàn toàn khác nhau cũng như trong
kỹ thuật ứng dụng. Các phương pháp nhiệt trị cổ điển gây ra tổn thương cho cả tế bào
và mô lành, làm cho mô, tế bào nhạy cảm hơn với tác động của hóa trị và xạ trị đem
lại thêm hiệu quả trong điều trị. Các nghiên cứu thử nghiệm nhiệt trị hiện nay tập
trung chủ yếu vào việc tối ưu hóa và đồng nhất nhiệt độ trong khoảng từ 42 đến 43oC
trong vùng tế bào điều trị. Đây là một vấn đề đòi hỏi những kỹ thuật cao và chính xác
trong phương pháp điều trị, vật liệu và hệ thống nhiệt trị [76].
1.3.2. Cơ chế vật lý của hiệu ứng đốt nóng hạt nano từ.
Cơ chế của hiệu ứng nhiệt trị dựa trên quá trình hấp thụ năng lượng được cung
cấp bởi từ trường xoay chiều của hạt nano từ. Khác với đốt nóng ngoài qua các cơ
chế truyền nhiệt thông dụng, hiệu ứng đốt nóng cảm ứng từ có đặc điểm là nhiệt được
tạo ra từ chính bản thân của các hạt nano từ, vật liệu không phải tiếp xúc nhiệt với
nguồn và nguồn nhiệt có kích thước nano mét. Khi chất lỏng từ chứa hạt nano từ đặt
trong từ trường xoay chiều có 4 cơ chế tổn hao có thể đóng góp vào quá trình gia
nhiệt như: cơ chế từ trễ - liên quan đến chuyển động đảo chiều từ độ theo từ trường
ngoài, hồi phục Neel - chuyển động quay mômen từ đơn hạt siêu thuận từ trong từ
trường xoay chiều, hồi phục Brown - chuyển động quay toàn bộ hạt trong môi trường
chất lỏng, và dòng Fuco - dòng điện tử trên bề mặt hạt [77]. Đối với các hạt nano siêu
thuận từ, tổn hao do dòng điện bề mặt được sinh ra là rất nhỏ và tổn hao do từ trễ
cũng không gây được hiệu ứng nhiệt đáng kể. Vì vậy, đóng góp chính vào hiệu ứng
đốt nóng cảm ứng từ của các hạt nano siêu thuận từ như Fe và Fe-Co là do tổn hao
hồi phục Néel và Brown.
Trong thực nghiệm đốt nóng cảm ứng từ, đại lượng đặc trưng cho khả năng sinh
nhiệt của hệ hạt nano từ trên một đơn vị khối lượng được gọi là công suất tổn hao riêng
(SAR- Specific Absorption Rate) với đơn vị là W/g. Đại lượng này liên quan đến tốc
độ gia nhiệt ban đầu T/t và được tính toán từ thực nghiệm thông qua biểu thức [78]:
s
i
m TSAR C
m t
(1)
ở đây, C là nhiệt dung riêng của chất lỏng nano từ, ms là khối lượng của chất lỏng
nano từ; mi là khối lượng của hạt nano từ trong chất lỏng nano từ, ΔT là độ gia tăng
33
của nhiệt độ và Δt là thời gian đốt. Giá trị đặc trưng khả năng gia nhiệt của vật liệu là
tốc độ tăng nhiệt ban đầu , còn được ký hiệu là . Giá trị này được tính từ các
đường thực nghiệm gia tăng nhiệt độ theo thời gian đốt nóng cảm ứng từ của mẫu.
Đối với ứng dụng nhiệt từ trị, chất lỏng hạt nano từ phải đảm bảo một số yêu
cầu như: lượng hạt nano từ đưa vào cơ thể sống phải tối thiểu song vẫn đảm bảo lượng
nhiệt sinh ra đủ lớn; chất lỏng từ ổn định trong thời gian dài, không kết đám, và tương
thích sinh học trong môi trường y sinh [79]. Để giải quyết các vấn đề này, các nghiên
cứu tập trung vào hướng nâng cao công suất tổn hao của chất lỏng hạt nano từ. Công
suất tổn hao phụ thuộc vào nhiều tham số vật lý của hệ hạt nano từ như: từ độ bão
hòa (MS), kích thước hạt (D) – phân bố kích thước hạt, dị hướng từ (K),... [80-84].
Như vậy, để có được chất lỏng hạt nano từ tốt ứng dụng trong nhiệt từ trị, việc nghiên
cứu tìm kiếm các hệ vật liệu hạt nano từ thích hợp là rất cần thiết.
Như đã trình bày ở trên, trong quá trình đốt nhiệt từ, khoảng nhiệt độ 41oC -
46oC (314 K - 319 K) là khoảng nhiệt độ làm việc quan trọng, trong khoảng nhiệt độ
này, chỉ có các khối u bị tiêu diệt còn tế bào thường hầu như không bị ảnh hưởng
[85]. Trong thực tế, rất khó để xác định được nhiệt độ một cách chính xác của các tế
bào ung thư trong quá trình nhiệt từ trị. Vì vậy, một thông số quan trọng của vật liệu
ứng dụng là nhiệt độ bão hòa TS, nhiệt độ tối đa mà vật liệu có thể đạt được dưới tác
động của một từ trường ngoài. Khi nhiệt độ của hạt nano đạt đến nhiệt độ TS chúng
sẽ mất khả năng từ hóa. Do đó, nhiệt độ sẽ dừng lại mà không phải ngắt hoặc giảm
từ trường ngoài. Quá trình đó được gọi là đốt nóng cảm ứng từ tự khống chế nhiệt độ.
Đối với các hệ hạt từ, có thể điều chỉnh TS bằng cách thay đổi nồng độ hạt từ hoặc
các tham số từ trường ngoài để đạt được nhiệt độ TS nằm trong khoảng 41– 46 oC đủ
để tiêu diệt tế bào ung thư.
34
Chương 2
CÁC PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM
2.1. Chế tạo mẫu bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao
2.1.1. Tổng quan về phương pháp nghiền cơ năng lượng cao
Quá trình tìm kiếm vật liệu mới tiên tiến đã thu hút được sự quan tâm của các
nhà luyện kim và các nhà khoa học vật liệu trong nhiều thế kỷ qua. Các nghiên cứu
khoa học trong vài thập kỷ qua đã liên tục được tập trung theo mục tiêu cải thiện tính
chất và hiệu suất của vật liệu. Các đặc tính về cơ học, hóa học, và tính chất vật lý của
vật liệu đã được cải tiến đáng kể bằng phương pháp hợp kim hóa, thay đổi thành phần
hóa học, thay đổi điều kiện chế tạo thông qua quá trình xử lý nhiệt, cơ học … Một số
vật liệu đặc biệt chẳng hạn như vật liệu vô định hình, giả tinh thể, vật liệu nano tinh
thể và vật liệu siêu dẫn nhiệt độ cao, đã được tổng hợp thành công.
Vật liệu tiên tiến được định nghĩa là các vật liệu được thiết kế chế tạo để thể
hiện một tính năng đặc biệt cho nhu cầu sử dụng cụ thể. Hiện nay các vật liệu tiên
tiến đã có mặt ở hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống từ chăm sóc sức khoẻ (vật liệu
dẫn thuốc, thực phẩm chức năng, mĩ phẩm), xử lí môi trường (vật liệu lọc nước, vật
liệu nhận biết chất độc hữu cơ trong thực phẩm), chuyển hoá và tích trữ năng lượng
(pin mặt trời, pin lithium, đèn LED) tới truyền thông (sợi quang, laser). Gần đây với
sự phát triển vượt bậc của công nghệ Nano, công nghệ thiết kế và chế tạo các vật liệu
kích thước nano, vai trò của các vật liệu tiên tiến kích thước nano trong cuộc sống
càng trở lên quan trọng. Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng, cấu trúc và cấu tạo
của vật liệu tiên tiến có thể được điều khiển tốt hơn dưới các điều kiện xử lý không
cân bằng (hoặc xa điều kiện cân bằng) [86]. Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến
sự phát triển của một số kỹ thuật chế tạo dưới điều kiện không cân bằng trong nửa
sau của thế kỷ XX. Trong số đó, có thể đề cập một số nhóm phương pháp như phun
băng nguội nhanh [86-89], hợp kim cơ [90, 91], plasma [86, 92], lắng đọng pha hơi
[86, 93], và bốc bay [86, 94]. Các nỗ lực nghiên cứu được thể hiện qua số lượng các
công bố hàng năm ngày càng tăng cũng như số lượng các hội nghị nghiên cứu khoa
học dành cho các chủ đề này.
Một trong những kỹ thuật chế tạo dưới điều kiện không cân bằng tiêu biểu là
phương pháp hợp kim cơ học (Mechanical Alloying-MA). Đây là kỹ thuật xử lý bột
35
cho phép tạo ra vật liệu đồng nhất từ những bột thành phần ban đầu được trộn lẫn với
nhau. John Benjamin và các cộng sự của ông ở Phòng thí nghiệm Paul D. Merica,
Công ty quốc tế Nickel (INCO) đã phát triển kỹ thuật này vào năm 1966. Đây là kết
quả của một thời gian dài nghiên cứu để tạo ra siêu hợp kim (superalloy) nền Ni cho
những ứng dụng trong tua-bin khí với tính năng được kết hợp từ khả năng chịu nhiệt
độ cao của các hạt oxit phân tán và độ bền cơ học lớn của gốc gamma (gamma-prime
precipitate - pha kết tủa Ni3Al và/ hoặc Ni3Ti). Dạng hợp kim này về sau được gọi
một tên chung là hợp kim ODS (Oxide-Dispersion-Strengthened), tạm dịch là hợp
kim phân tán hạt o-xit độ bền cao. Cả hai đặc tính chống chịu ăn mòn và oxy hóa đều
có được trong một vật liệu nếu được hợp kim hóa trong điều kiện phù hợp. Từ những
kết quả nghiên cứu, Benjamin [95-97] đã tóm lược lại những hiểu biết cơ bản về kỹ
thuật này và xây dựng nó thành một phương pháp chế tạo vật liệu tiên tiến phát triển
như ngày nay.
Vào đầu những năm 1960, công ty INCO đã phát triển kỹ thuật chế tạo hợp kim
Al có Graphite bằng việc tiêm các hạt Graphite phủ Ni vào trong bể Al bằng dòng
khí nén Ar [95]. Cũng bằng kỹ thuật tương tự, họ còn tìm cách phân tán các hạt oxit
phủ Ni, chịu nhiệt cao vào hợp kim nền Ni để tạo hợp kim có đặc tính bền nhiệt. Mục
đích tạo áo Ni bao phủ làm cho các hạt oxit không thấm ướt sẽ bị thấm ướt bởi hợp
kim Ni-Cr và dễ phân tán vào nền hơn. Các thí nghiệm ban đầu sử dụng oxit Zr
(Zirconia) phủ Ni và kết quả đã không thành công như mong đợi. Các phân tích kỹ
sau này cho thấy lý do thất bại do nhà cung cấp đã cung cấp Ni phủ Zr chứ không
phải Zr phủ Ni. Ngoài ra, lợi dụng phản ứng của Al với Ni là phản ứng tỏa nhiệt
mạnh, nhiệt năng tạo ra sẽ làm sạch bề mặt của Graphite và làm thấp năng lượng bề
mặt nên người ta còn cho rằng việc phủ các hạt oxit với Al có thể là ý tưởng để tạo
ra phản ứng tỏa nhiệt. Tuy nhiên, một lần nữa, kết quả lại thất bại [96].
Từ những thất bại đó, người ta đã chú ý đến quá trình nghiền bi đã được sử dụng
trước đó dùng để phủ những pha cứng như Cacbit Vonfram (Tungsten Carbide) bằng
một pha mềm như Co hay Ni. Hơn nữa, người ta cũng biết rằng, trong quá trình
nghiền cơ, các hạt bột kim loại bị đứt gãy khi bị biến dạng dẻo nặng. Ngoài ra, việc
sử dụng thêm những hóa chất đặc biệt có thể tạo ra các hạt bột mịn do việc ngăn ngừa
quá trình gắn kết nguội và thúc đẩy quá trình đứt gãy của các hạt bột khi nghiền [97].
Từ tất cả những điều trên và lưu ý đến cả tính hoạt hóa của bột nguyên tố, Benjamin
36
quyết định tạo ra các hạt bột tổ hợp (composite) bằng cách sử dụng phương pháp MA
thay cho các kỹ thuật trước đó với những chú ý sau:
- Sử dụng máy nghiền năng lượng cao để tăng cường biến dạng dẻo, thúc đẩy quá
trình gắn kết nguội, và giảm thời gian xử lý.
- Sử dụng một hỗn hợp các nguyên tố và bột hợp kim mẹ (yếu tố sau là để giảm
độ hoạt hóa của các nguyên tố vì độ hoạt hóa của hợp kim hay hỗn hợp thấp
hơn kim loại tinh khiết).
- Loại trừ tất cả các tác nhân hoạt hóa bề mặt có thể gây cháy bột mịn hay tạo tạp
chất.
- Dựa vào tác động ảnh hưởng giữa hai quá trình gắn kết nguội và đứt gãy để tạo
ra cấu trúc gồm các hạt bột mịn bên trong, nhưng cỡ hạt tổng thể bền vững.
Phương pháp này đã tạo ra các hạt bột composite có tính chất giống như loại
hợp kim TD (TD - Thoria Dispersed), một hợp kim nền Ni phân tán Thorium, được
tổng hợp bằng một kỹ thuật tương đối phức tạp. Trên cơ sở thành công này, các thí
nghiệm sau đó đã tạo ra hợp kim Ni-Cr-Al-Ti chứa các hạt Th mịn phân tán. Đây
cũng là sản phẩm đầu tiên được chế tạo trên một hệ nghiền lắc nhỏ (shaker mill), tốc
độ cao và sau đó trên một hệ nghiền bi khuấy (attritor mill), khởi nguồn của phương
pháp MA như một phương pháp tạo ra các hợp kim ODS có các hạt oxit phân tán
mịn, có độ bền cao trong công nghiệp [95-97] (hình 2.1). Quá trình này, Benjamin
gọi là “nghiền/trộn” (milling/mixing), nhưng Mr. Ewan C. MacQueen, người đại diện
cho phát minh này của INCO đã đặt tên là hợp kim cơ học (Mechanical Alloying -
MA). Ông sử dụng thuật ngữ này trong phát minh đầu tiên của công ty mình, và đến
giờ nó vẫn được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu.
MA là một kỹ thuật nghiền bi năng lượng cao, trong môi trường khô và được
sử dụng để tạo ra những vật liệu có ý nghĩa trong khoa học và hữu dụng trong thương
mại. Việc tạo ra pha vô định hình (VĐH) bằng nghiền cơ thành công khi nghiền hỗn
hợp liên kim loại Y-Co (năm 1981 [98]) và hệ Ni-Nb (năm 1983 [99]) từ hỗn hợp bột
thành phần. Kể từ đó, đây được coi là phương pháp đầy tiềm năng để chế tạo vật liệu
bằng kỹ thuật xử lý không cân bằng. Bắt đầu từ giữa năm 1980, một số lượng lớn các
khảo sát tiến hành tổng hợp các pha bền và nửa bền bao gồm: dung dịch rắn bão hòa,
các pha tinh thể, giả tinh thể và hợp kim VĐH [100, 101]. Ngoài ra, người ta còn
nhận thấy rằng: các hỗn hợp bột được nghiền cơ có thể tạo ra các phản ứng hóa học
37
như phản ứng tại nhiệt độ phòng hoặc ở những nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ cần thiết
để tạo ra các kim loại tinh khiết, nanocomposite, và nhiều loại vật liệu thương mại
khác nhau [102, 103]. Chính vì các đặc tính đặc biệt, đơn giản nhưng hiệu quả mà kỹ
thuật này đã được ứng dụng cho các vật liệu như kim loại, gốm, polymer và
composite. Các đặc tính của phương pháp hợp kim cơ học bao gồm:
- Tạo ra được pha phân tán mịn là các hạt oxit trên nền pha kim loại
- Mở rộng giới hạn dung dịch rắn bão hòa
- Làm mịn, làm nhỏ các hạt xuống cỡ nanô
- Tổng hợp những pha tinh thể, liên kim loại khác thường
- Tạo các pha VĐH
- Hợp kim hóa các nguyên tố khó hợp kim
- Tăng cường phản ứng hóa học ở nhiệt độ thấp
- Chế tạo vật liệu ở các quy mô khác nhau
Máy nghiền bi tang trống Máy nghiền Simoloyer Máy nghiền khuấy
trục dọc
Máy nghiền hành tinh Máy nghiền lắc
Hình 2.1. Một số loại máy nghiền cơ thông dụng
38
Nguyên lý của phương pháp nghiền cơ năng lượng cao
Hình 2.2. Mô hình đơn giản của quá trình nghiền và quá trình hình thành pha.
Trong quá trình nghiền cơ năng lượng cao (MA) các hạt bột bị bẫy giữa hai viên
bi sẽ bị biến dạng dẻo do tác động của môi trường nghiền (bi, bình...) sinh ra một số
lớn các sai hỏng tinh thể: lệch mạng, lỗ trống, các biến dạng mạng, tăng số các biên
hạt. Các viên bi va chạm cũng gây nên sự đứt gãy và sự gắn kết nguội của các hạt
bột, tạo nên các bề mặt phân cách ở mức độ nguyên tử. Quá trình bẻ gãy làm tăng số
mặt phân cách và giảm kích thước hạt từ milimet tới nanomet. Cùng với quá trình
giảm kích thước hạt, một số pha trung gian được tạo ra bên trong các hạt hoặc ở bề
mặt của hạt. Khi thời gian nghiền kéo dài tỷ phần thể tích các pha trung gian tăng lên
tạo ra sản phẩm sau cùng ổn định (kết quả của sự cân bằng của hai quá trình bẻ gãy
và gắn kết của các hạt bột). Mô hình đơn giản của quá trình nghiền được minh họa
trên hình 2.2. Quá trình MA được xem như quá trình động học cao, trong đó sự va
chạm của môi trường nghiền là tác nhân chính góp phần chuyển động năng từ công
39
cụ nghiền vào bột cần nghiền.
Quá trình MA thực sự bắt đầu bằng việc trộn các bột ở một tỉ phần xác định và
nạp vào trong máy nghiền với bi nghiền. Hỗn hợp được nghiền trong thời gian đủ dài
để tạo thành hỗn hợp (composite) các hạt bột tương ứng với tỉ phần danh định ban
đầu. Bột sau khi nghiền có thể tiếp tục rắn hóa thành hình khối và xử lý nhiệt để thu
được vi cấu trúc và tính chất mong muốn.
Quá trình nghiền có thể được xem như quá trình động học cao, trong đó va chạm
của môi trường nghiền là sự kiện chính góp phần chuyển năng lượng động từ công
cụ nghiền vào bột cần nghiền. Phương trình cơ bản mô tả mối liên hệ giữa động năng
(Ekin), khối lượng mb và vận tốc vb của bi là:
221 bbkin vmE (2.1)
Từ phương trình trên có thể thấy vận tốc của môi trường nghiền là thông số
đóng góp quan trọng trong phương pháp nghiền cơ năng lượng cao. Ngoài ra, quá
trình nghiền còn phụ thuộc vào nhiều thông số khác như:
Loại vật liệu làm bình, bi nghiền
Môi trường nghiền
Nhiệt độ nghiền
Các chất hoạt động bề mặt
Thời gian nghiền
Kích thước bình nghiền, loại và kích thước bi
Tỉ lệ trọng lượng bi:bột.
2.1.1. Quy trình chế tạo mẫu bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao
Các mẫu dùng trong luận án được tổng hợp bằng phương pháp nghiền cơ năng
lượng cao trên máy nghiền hành tinh Fritsch Pulverisette 6 classic line (P6) và máy
Fritsch Pulverisette 7 premium line (P7) (xem hình 2.3 và 2.4). Máy P6 dùng bình
nghiền bằng hợp kim Fe-Cr, thể tích 80 ml, với 2 loại bi nghiền đường kính 20mm
và 10mm. Máy P7 dùng bình nghiền bằng hợp kim Fe-Cr, thể tích 50 ml, với 2 loại
bi nghiền đường kính 15 mm và 8mm. Bình nghiền của P7 cho phép nghiền mẫu
trong môi trường khí bảo vệ.
40
Hình 2.3. Máy nghiền hành tinh
Fritsch Pulverisette 6 Classic Line
Hình 2.4. Máy nghiền hành tinh
Fritsch Pulverisette 7 Premium Line
Quy trình chế tạo mẫu được thể hiện như trên hình 2.5, gồm 3 công đoạn chính:
(i) chuẩn bị vật liệu ban đầu,
(ii) cân các hóa chất theo hợp thức,
(iii) nạp bột vào bình và nghiền với các điều kiện nghiền khác nhau (thời
gian, tỷ lệ bi/bột, tốc độ nghiền) để tổng hợp các thành phần mong muốn.
Hình 2.5. Quy trình chế tạo mẫu
Vật liệu ban đầu được sử dụng là các kim loại ở dạng bột: Fe, Co, SmCo5 với
độ sạch đạt trên 99.5% của Sigma-Andrich, Merck... Các hóa chất được cân theo tỉ lệ
thích hợp với từng thành phần mẫu. Bột đã phối trộn được nạp vào bình cùng với bi
và được khảo sát với các điều kiện nghiền thay đổi. Môi trường nghiền là không khí,
và khí Argon, nhiệt độ nghiền mẫu là nhiệt độ phòng. Chế độ xử lý nhiệt sau nghiền
được mô tả trong hình 2.6.
41
Hình 2.6. Chế độ xử lý nhiệt mẫu sau nghiền.
Các hệ mẫu đã được tổng hợp bao gồm các hệ mẫu chính sau:
(i) Các hệ mẫu từ mềm Fe-Co (bảng 2.1) được khảo sát, chế tạo với các thông
số công nghệ thay đổi nhằm tìm ra điều kiện công nghệ tối ưu cho vật liệu.
(ii) Hệ mẫu nano composite được chế tạo từ thành phần pha từ cứng SmCo5 và
pha từ mềm Fe65Co35 tối ưu tìm được từ (i) với các tỉ phần pha từ cứng/từ mềm khác
nhau kết hợp với ủ nhiệt tại 550oC trong 90 phút (bảng 2.2).
(iii) Nhằm nâng cao mật độ khối, một số mẫu nano composite được thiêu kết
xung điện plasma (70MPa, 600oC trong 5 phút) được ký hiệu SPS
Bảng 2.1. Hệ mẫu từ mềm Fe100-xCox (x = 0, 25, 30, 35, 40, 50 và 75)
Mẫu Fe100-x/Cox Tỉ lệ bi:bột Tốc độ nghiền Tnghiền (h)
FC40-10h-350 60/40 15:1 350 rpm 10
FC40-10h-450 60/40 15:1 450 rpm 10
FC40-10h-550 60/40 15:1 550 rpm 10
FC40-10h-10 60/40 10:1 450 rpm 10
FC40-10h-15 60/40 15:1 450 rpm 10
FC40-10h-20 60/40 20:1 450 rpm 10
Fe; Fe-1h→Fe-10h 100/0 15:1 450 rpm 0-32h
FC25-1h→FC25-32h 80/20 15:1 450 rpm 0-32h
FC30-1h→FC30-32h 70/30 15:1 450 rpm 0-32h
FC35-1h→FC35-32h 65/35 15:1 450 rpm 0-32h
FC40-1h→FC40-32h 60/40 15:1 450 rpm 0-32h
FC50-1h→FC50-32h 50/50 15:1 450 rpm 0-32h
FC75-1h→FC75-32h 25/75 15:1 450 rpm 0-32h
Tốc độ gia nhiệt:
10oC/phút
1 giờ
Nhiệt độ ủ mẫu
Nhi
ệt đ
ộ (o C
)
Thời gian (giờ)
42
Các mẫu sau nghiền được tiến hành xử lý nhiệt, ký hiệu mẫu được gắn thêm
nhiệt độ ủ. VD: FC50-10h-500; FC35-32h-700 …
Bảng 2.2. Hệ mẫu nano composite Fe65Co35/SmCo5với tỉ lệ bi:bột 10:1,
tốc độ nghiền 450 vòng/phút.
Mẫu Tỷ lệ pha từ
cứng/từ mềm
Thời gian
nghiền (h)
Nhiệt độ và
thời gian ủ
Ép xung
plasma (SPS)
SF60 60/40 2-6 - -
SF60-550 60/40 2-6 550:1,5 -
SF60-550SPS 60/40 6 550:1,5 SPS
SF65 65/35 2-6 - -
SF65-550 65/35 2-6 550:1,5 -
SF65-550SPS 65/35 6 550:1,5 SPS
SF70 70/30 2-6 - -
SF70-550 70/30 2-6 550:1,5 -
SF70-550SPS 70/30 6 550:1,5 SPS
SF75 75/25 2-6 - -
SF75-550 75/25 2-6 550:1,5 -
SF75-550SPS 75/25 6 550:1,5 SPS
SF80 80/20 2-6 - -
SF80-550 80/20 2-6 550:1,5 -
SF80-550SPS 80/20 6 550:1,5 SPS
2.2. Các phương pháp phân tích cấu trúc
2.2.1. Phương pháp nhiễu xạ tia X
Các hạt vi mô có lưỡng tính sóng-hạt, chúng vừa là hạt nhưng cũng vừa là
sóng. Hiện tượng các hạt vi mô bị nhiễu xạ trong tinh thể là do bản chất sóng của
chúng. Có hai quan niệm về hiện tượng nhiễu xạ: i) Hiện tượng phản xạ của các sóng
điện từ từ các mặt phẳng song song của một họ mặt phẳng của tinh thể, trong đó có
xảy ra hiện tượng giao thoa giữa các sóng phản xạ; ii) Hiện tượng tán xạ đàn hồi (sau
tán xạ bước sóng không thay đổi): Các sóng tán xạ từ các điểm khác nhau của tinh
thể, thoả mãn các điều kiện giao thoa và tăng cường lẫn nhau. Bản chất vật lý của
43
hiện tượng nhiễu xạ tia X liên quan đến cấu trúc tinh thể được thể hiện bởi định luật
Bragg. Tia X có bước sóng vào cỡ khoảng cách các nút lân cận trong mạng Bravais.
Do đó khi chiếu tia X vào mạng tinh thể sẽ có hiện tượng nhiễu xạ. Phân tích các ảnh
nhiễu xạ ta có thể thu được thông tin về cấu trúc của mạng tinh thể. Năm 1913, Willam
L. Bragg đã xây dựng lý thuyết nhiễu xạ tia X. Xét sự phản xạ của một chùm tia X
trên hai mặt phẳng mạng song song và gần nhau nhất có khoảng cách d (hình 2.7):
Hình 2.7. Mô hình minh họa của định luật nhiễu xạ Bragg.
Tia X có năng lượng cao nên có khả năng xuyên sâu vào trong lòng vật liệu,
gây ra phản xạ trên nhiều mặt mạng tinh thể (hkl) ở sâu phía dưới. Mỗi một mặt phẳng
trong họ mặt mạng tinh thể (hkl) có chùm tia phản xạ riêng. Từ hình 2.6, ta thấy hiệu
quang trình giữa hai phản xạ từ hai mặt phẳng liên tiếp bằng 2dsin. Hiện tượng giao
thoa giữa các sóng phản xạ chỉ xảy ra khi hiệu đường đi của hai sóng bằng số nguyên
lần bước sóng. Điều kiện để có hiện tượng nhiễu xạ được viết dưới dạng:
2dsin=n (2.2)
Đó là phương trình Bragg; trong đó: d - khoảng cách giữa hai mặt phẳng kế tiếp
trong họ các mặt phẳng tinh thể (hkl), - góc giữa tia tới (hoặc tia phản xạ) với mặt
phản xạ, n - bậc phản xạ, chỉ nhận các giá trị nguyên dương và là bước sóng của tia
tới. Biểu thức (2.2) còn đúng với nhiễu xạ điện tử, nhiễu xạ nơtron. Những nhận xét
rút ra từ định luật Bragg:
- Định luật Bragg là hệ quả tất yếu của đặc trưng cơ bản của tinh thể: trật tự,
tuần hoàn vô hạn, và không thể hiện bản chất hoá học của các nguyên tử trên
mặt phẳng phản xạ.
44
- Vì hàm sin chỉ nhận các giá trị 0 < sin < 1 nên phương trình Bragg chỉ có
nghiệm khi < 2d. Tức là hiện tượng nhiễu xạ tia X với mạng tinh thể chỉ có
thể xảy ra khi bước sóng của tia X sơ cấp cùng bậc vói khoảng cách giữa các
nguyên tử trong mạng tinh thể.
Trong vật liệu bột tinh thể, các họ mặt phẳng (hkl) với dhkl phân bố ngẫu nhiên,
để thu nhận tất cả các cực đại nhiễu xạ ta phải chiếu lên mẫu bột chùm tia X đơn sắc
( không đổi), thay đổi góc chiếu và quay đầu thu đồng bộ với quay mẫu đến những
vị trí thoả mãn phương trình Bragg (2.2) ta sẽ thu nhận được các cực đại nhiễu xạ.
Các nhiễu xạ kế được chế tạo dựa trên nguyên lý này. Trường hợp chiếu lên mẫu đơn
tinh thể chùm tia X đa sắc ( thay đổi), góc chiếu không đổi ta sẽ có ảnh nhiễu xạ
Laue.
2.2.2. Phân tích cấu trúc dựa trên số liệu nhiễu xạ tia X mẫu bột
Phương pháp nhiễu xạ tia X dựa trên hiện tượng nhiễu xạ tia X đầu tiên được
nghiên cứu trên vật liệu kết tinh. Những đặc trưng đầu tiên của các giản đổ nhiễu xạ
tia X: vị trí và cường độ của các cực đại nhiễu xạ cho ta thông tin về cấu trúc tinh thể
của vật liệu. Vị trí của các vạch nhiễu xạ chỉ phụ thuộc vào kích thước, hình dạng của
ô mạng cơ sở và bước sóng của tia X đi tới. Bình phương khoảng cách các mặt phẳng
của mạng đảo dhkl*2, liên hệ với các thông số mạng a, b, c, α, β, γ bằng biểu thức (2.3):
d* h a* k b* l c* 2hka*b*cosγ* 2hla*c*cosβ* 2klb*c*cosα* (2.3)
Khoảng cách giữa các mặt phẳng dhkl tham gia trong phương trình (2.3) được
tính từ phương trình Bragg (2.2).
Vào những năm của thập kỷ 1960, Hugo M. Rietveld (1932), một nhà tinh thể
học người Hà Lan đã xây dựng một phương pháp tính toán cấu trúc tinh thể từ việc
phân tích phổ nhiễu xạ tia X theo phương pháp nhiễu xạ bột, gọi là phương pháp
Rietveld (Rietveld refinement) [104]. Đây có thể coi là một trong những phương pháp
tính toán cấu trúc mạnh nhất cho tới nay, có thể áp dụng cho cả các phổ nhiễu xạ
khác, như phổ nhiễu xạ neutron hay nhiễu xạ điện tử, và đã đưa Rietveld trở thành
một trong những nhà tinh thể học nổi tiếng nhất ở cuối thế kỷ 20. Có thể nói rằng,
các phép phân tích tia X nói chung và phương pháp Rietveld nói riêng đã trở thành
một công cụ mạnh cho phép tính toán chính xác cấu trúc tinh thể của các vật liệu.
45
Theo thời gian phát triển, người ta còn có thể tính toán các cấu trúc điện tử, các liên
kết hóa học từ phép nhiễu xạ tia X.
Nguyên lý của phương pháp Rietveld coi toàn bộ phổ nhiễu xạ như tập dữ liệu
thực nghiệm, trên mỗi bước quét lấy giá trị y(i) khảo sát và so sánh với giá trị tính
toán bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất. (Rietveld 1969).
𝑆 ∑ 𝑤 𝑦 𝑜𝑏𝑠 𝑦 𝑐𝑎𝑙𝑐 𝑀𝑖𝑛𝑖𝑚𝑢𝑚 (2.4)
với wi là hệ số trọng lượng (hay trọng số) tương ứng với điểm khảo sát, yi(obs) và
yi(calc) là giá trị thực nghiệm và giá trị tính toán tương ứng với cường độ tại điểm
khảo sát. Giá trị được tính tổng của toàn bộ điểm khảo sát.
Hình 2.8. Nguyên lý tính toán của phương pháp Rietveld: cực tiểu sự khác nhau
giữa giá trị tính toán và giá trị khảo sát bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất.
Trong phương pháp Rietveld, giá trị bình phương nhỏ nhất được tính toán cho
đến khi mang lại giá trị làm khớp tối ưu nhất giữa giá trị khảo sát của phổ nhiễu xạ
và phổ tính toán được dựa trên các mô hình chính xác hóa với các thông số về cấu
trúc tinh thể, hiệu ứng nhiễu xạ, hệ số thiết bị và các thuộc tính khác như thông số
mạng (hình 2.8). Yếu tố chủ chốt trong phương pháp là sự phản hồi trong quá trình
chính xác hóa, giữa thay đổi các thông số cấu trúc, thay đổi vị trí cường độ khảo sát
đến sự chồng chập cục bộ của các đỉnh nhiễu xạ.
Cấu trúc, kích thước và ứng suất của các mẫu sử dụng trong Luận án được phân
tích bằng phương pháp Rietveld qua phổ nhiễu xạ tia X thực hiện trên nhiễu xạ kế
Bruker D8 Advance (hình 2.9) tại phòng Phòng thí nghiệm Hóa Luyện kim Đất hiếm,
Viện nghiên cứu Hóa học và khoa học vật liệu Đông Paris (Institut de Chimie et des
Materiaux de Paris East (CMTR-ICMPE) và nhiễu xạ kế SIEMENS D5000 ở nhiệt
46
độ phòng với bức xạ Cu-kα (λ = 1.5406 Ǻ) tại Viện Khoa học vật liệu (VKHVL), Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt nam (VHLKH&CNVN). Các mẫu phân tích
được quét chậm với khoảng góc 2θ từ 20 đến 90O, bước đo 0.015O, thời gian lấy tín
hiệu trên mỗi bước đo là 12s tại nhiệt độ phòng.
Hình 2.9. Thiết bị nhiễu xạ Bruker D8 Advance.
2.2.3. Phương pháp phổ hấp phụ tia X
2.2.3.1. Nguyên lý của phương pháp phổ hấp thụ tia X
Phương pháp phổ hấp thụ X-ray (X-ray absorption spectroscopy, XAS) là
phương pháp sử dụng nguồn X-ray có năng lượng cao (X-ray của bức xạ synchrotron)
truyền qua mẫu để thu được các thông tin về cấu trúc của mẫu. Ưu điểm của phương
pháp này là có thể nghiên cứu mẫu ở hầu hết tất cả các trạng thái vật lý như khí, lỏng,
rắn... Đây là một phương pháp phân tích mạnh mẽ, chi tiết và rất mới hiện nay, cũng
là một đóng góp mới của luận án.
Khi chiếu chùm tia X vào mẫu, bức xạ điện từ tương tác với các lớp electron
trong nguyên tử. Các tia bức xạ sẽ bị tán xạ bởi các điện tử hoặc hấp thụ, kích thích
các điện tử đó. Ở một mức năng lượng xác định mà sự hấp thụ tăng mạnh và tạo ra
mức hấp thụ. Các mức như vậy xuất hiện khi năng lượng của các photon đến đủ gây
ra sự kích thích các electron lớp trong cùng lên trạng thái liên tục, ví dụ như tạo ra
47
các quang điện tử. Do đó, năng lượng của các tia bức xạ bị hấp thụ ở những mức này
tương ứng với năng lượng liên kết của các electron ở các lớp K, L, M…của các
nguyên tử hấp thụ. Chùm tia X hẹp đơn sắc có cường độ Io đi qua mẫu có bề dày d
thì cường độ tia X sau khi đi qua mẫu là I được xác định theo phương trình:
ln(Io/I)=μd (2.5)
Trong đó: μ - Hệ số hấp thụ tuyến tính, phụ thuộc vào từng loại nguyên tử và khối
lượng riêng của vật liệu khảo sát.
d - Chiều dày mẫu
Khi đo phổ hấp thụ tia X, I và Io phụ thuộc vào bước sóng hay năng lượng E của
tia X. Phổ XAS tập trung vào sự thay đổi độ hấp thụ theo năng lượng E, chứ không
phải là chiều dày mẫu. Do đó, có thể sử dụng trực tiếp giá trị μd (E). Sự hấp thụ xác
định được là kết quả của các quá trình khác nhau vì tia X tương tác với vật chất theo
nhiều cách khác nhau. Để xảy ra sự ion hóa, năng lượng của chùm tia X phải lớn hơn
năng lượng liên kết của các electron. Điều này tạo ra các ngưỡng năng lượng (edges)
trong phổ hấp phụ tia X. Các tia X với năng lượng E nhỏ hơn mức năng lượng ngưỡng
Eo (ví dụ như năng lượng liên kết) thì không có sự hấp thụ (nhưng có sự tán xạ).
Nhưng E ≥ Eo thì xảy ra hấp thụ rất mạnh. Tùy thuộc vào lớp electron xảy ra sự kích
thích, phân biệt các ngưỡng năng lượng (edge) khác nhau:
- Hấp thụ bởi các electron ở lớp 1s tương ứng với mức năng lượng K (K edge);
- Hấp thụ bởi các electron ở lớp 2s tương ứng với mức năng lượng L1 (L1 edge);
- Hấp thụ bởi các electron ở lớp 2p1/2 tương ứng với mức năng lượng L2 (L2 edge);
- Hấp thụ bởi các electron ở lớp 2p3/2 tương ứng với mức năng lượng L3 (L3 edge).
2.2.3.2. Các thông tin thu được khi sử dụng phương pháp phổ hấp thụ tia X
Phân tích dữ liệu của phổ hấp thụ tia X cung cấp cho ta các thông tin sau:
- Cho biết khoảng cách giữa tâm kim loại và các nguyên tử lân cận, từ đó biết
được trạng thái của tâm kim loại, số nguyên tử lân cận, bản chất các nguyên tử lân
cận và sự thay đổi số phối trí của nguyên tử trung tâm khi thay đổi các điều kiện thí
nghiệm.
- Một ứng dụng điển hình của kỹ thuật EXAFS là xác định môi trường xung
quanh các tâm kim loại, từ đó biết được mức độ hoạt động cũng như vị trí của các
tâm, có hay không nằm trong khung mạng tinh thể hoặc cấu trúc của các dị phân tử
khác có mặt trong pha vật liệu.
48
Phổ hấp thụ X-ray XAS trong luận án này được đo tại phòng thí nghiệm BL8,
thiết bị bức xạ gia tốc hạt nhân SIAM Photon, NakhonRatchasima, Thái Lan (hình
2.10). BL8 hoạt động trong điều kiện năng lượng 1,2GeV, dòng dự trữ là 100 mA.
Các phổ XANES và EXAFS được đo sử dụng kính lọc sắc tinh thể kép Ge (220), tạo
độ phân giải năng lượng 0,3 eV tại ngưỡng K của nguyên tử Ca (năng lượng 4038,5
eV). Phổ XANES và EXAFS được đo theo phương pháp truyền qua, dầu dò Si quay,
mỗi phổ được quét 5 lần để loại bỏ nhiễu. Theo đó, dữ liệu sẽ được phân
tích là dữ liệu trung bình của 5 phổ đo được. Với mỗi phổ XANES, sử dụng tinh thể
FeCo làm vật liệu đối chứng.
Hình 2.10. PTN BL8, thiết bị bức xạ gia tốc hạt nhân SIAM Photon,
Nakhon Ratchasima, Thái Lan
2.2.4. Phương pháp hiển vi điện tử quét
Để khảo sát vi cấu trúc của vật liệu ngoài phương pháp nhiễu xạ tia X một số
mẫu chúng tôi sử dụng cả phương pháp hiển vi điện tử. Cơ sở vật lý của kính hiển vi
điện tử là chiếu lên mẫu (đối tượng nghiên cứu) một chùm điện tử năng lượng cao,
gọi là điện tử sơ cấp, ghi nhận và phân tích các tín hiệu được phát ra do tương tác của
điện tử sơ cấp với các nguyên tử của mẫu, gọi là tín hiệu thứ cấp, để thu thập các
thông tin về mẫu. Tùy thuộc vào loại tín hiệu thứ cấp nào được sử dụng mà ta có các
phương pháp cụ thể. Theo cách sử dụng các tín hiệu thứ cấp nói trên, kính hiển vi
điện tử có thể phân thành hai loại cơ bản: kính hiển vi điện tử quét và kính hiển vi
điện tử truyền qua.
49
Kính hiển vi điện tử quét (SEM) là thiết bị dùng để chụp ảnh vi cấu trúc bề mặt
với độ phóng đại gấp nhiều lần so với kính hiển vi quang học, vì bước sóng của chùm
tia điện tử rất nhỏ so với bước sóng ánh sáng của vùng khả kiến. Kính hiển vi điện tử
có thể tạo ra ảnh với độ phân giải cao của bề mặt mẫu vật bằng cách sử dụng một
chùm điện tử (chùm các electron) hẹp quét trên bề mặt mẫu. Việc tạo ảnh của mẫu
vật được thực hiện thông qua việc ghi nhận và phân tích các bức xạ phát ra từ tương
tác của chùm điện tử với bề mặt mẫu vật.
Hình 2.11. Kính hiển vi điện tử quét HITACHI S-4800.
Các phép đo và phân tích SEM trong luận án được thực hiện trên thiết bị kính
hiển vi điện tử quét HITACHI S-4800 đặt tại phòng phân tích cấu trúc thuộc Viện
Khoa học vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Độ phóng đại
cao nhất có thể đạt đến 800.000 lần, độ phân giải có thể đạt đến 2 nm ở hiệu điện thế
1 kV (hình 2.11).
Phân tích thành phần bằng phổ tán sắc năng lượng tia X
Phổ tán sắc năng lượng EDX hoặc EDS là kỹ thuật phân tích thành phần hóa
học của vật rắn dựa vào việc ghi lại phổ tia X phát ra từ vật rắn do tương tác với các
bức xạ (mà chủ yếu là chùm điện tử có năng lượng cao trong các kính hiển vi điện
tử). Nguyên lý phép phân tích EDX: khi chùm điện tử có mức năng lượng cao được
chiếu vào vật rắn, nó sẽ tương tác với các lớp điện tử bên trong của nguyên tử vật rắn,
phổ tia X đặc trưng với nguyên tử của mỗi chất có mặt trong chất rắn sẽ được ghi
nhận cho ta các thông tin về các nguyên tố hóa học có mặt trong mẫu cũng như tỉ
phần các nguyên tố này.
50
2.2.5. Kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM)
Kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) là một thiết bị nghiên cứu vi cấu trúc vật
rắn, sử dụng chùm điện tử có năng lượng cao chiếu xuyên qua mẫu vật rắn mỏng và
sử dụng các thấu kính từ để tạo ảnh với độ phóng đại lớn (có thể tới hàng triệu lần),
ảnh có thể tạo ra trên màn huỳnh quang, film quang học, hay ghi nhận bằng các máy
chụp kỹ thuật số.
Chế độ ghi ảnh của các TEM gồm ảnh trường sáng, trường tối, ảnh hiển vi điện
tử truyền qua độ phân giải cao và ảnh nhiễu xạ điện tử lựa chọn vùng. Ảnh thu được
qua các tia truyền thẳng gọi là ảnh trường sáng, ảnh thu được qua các tia bị tán xạ gọi
là ảnh trường tối. Trên hai ảnh này chúng ta sẽ thấy độ tương phản ngược nhau. Trong
chế độ này ảnh vi cấu trúc của mẫu hiện lên giống như kính hiển vi quang học bình
thường nhưng độ phân giải cao hơn nhiều, chúng cho ta phân biệt được kích thước
hạt, sự phân bố của chúng.
Hình 2.12. Kính hiển vi điện tử truyền qua Philip CM20-FEG
(gia tốc 200kV; Cs = 1,2) tại Viện Vật lý, TU-Chemnitz, CHLB Đức.
Ảnh hiển vi điện tử truyền qua độ phân giải cao (HRTEM- High Resolution
Transmission Electron Microscopy) là ảnh cho phép quan sát vi cấu trúc của vật rắn
với độ phân giải rất cao, đủ quan sát được sự tương phản của các lớp nguyên tử trong
vật rắn có cấu trúc tinh thể. Ngày nay, HRTEM là một trong những công cụ mạnh để
quan sát vi cấu trúc tới cấp độ nguyên tử.
Nhiễu xạ điện tử lựa chọn vùng (Selected Area Diffraction - SAED) là một
phương pháp nhiễu xạ sử dụng trong kính hiển vi điện tử truyền qua, sử dụng một
chùm điện tử song song chiếu qua một vùng chất rắn được lựa chọn. Phổ nhiễu xạ sẽ
51
là tập hợp các điểm sáng phân bố trên các vòng tròn đồng tâm, quanh tâm là vân
nhiễu xạ bậc 0 tạo trên mặt phẳng tiêu của vật kính. Chế độ nhiễu xạ điện tử vùng lựa
chọn cho chúng ta nhiều thông tin chi tiết rất rõ ràng về vi cấu trúc, cấu trúc tinh thể,
loại pha, đơn tinh hay đa tinh thể. SEAD có thể tạo ảnh trong vùng chọn với kích
thước cỡ từ 50 mm trở lên, rất dễ dàng thao tác mà không đòi hỏi các thiết lập phức
tạp. SEAD có thể tính toán cấu trúc tinh thể với độ chính xác cao nhưng với mẫu nhỏ
hơn thì không cho phép.
Một số kết quả nghiên cứu chúng tôi sử dụng kính hiển vi điện tử truyền qua
của hãng PHILIP loại CM 20. Điện thế gia tốc đạt đến 200 kV, độ phân giải 0,14 nm.
Thiết bị này đặt tại Phòng phân tích bề mặt chất rắn, Viện Vật lý, Trường Đại học Kỹ
thuật Tổng hợp Chemnitz, CHLB Đức. Các ảnh được ghi trong các chế độ: hiển vi cổ
điển, hiển vi độ phân giải cao và nhiễu xạ điện tử vùng chọn lọc (hình 2.12).
2.3. Các phương pháp đo tính chất từ
2.3.1. Phép đo tính chất từ trên hệ từ kế mẫu rung
Các phép đo từ độ phụ thuộc từ trường của các mẫu hạt nano thường được sử
dụng để đánh giá các đặc trưng của hệ các hạt từ như dị hướng từ, từ độ tự phát, từ
độ bão hòa...
Phép đo đường cong từ trễ đối với các vật liệu từ mềm Fe, FeCo được thực hiện
trên hệ từ kế mẫu rung VSM (hình 2.13a) đặt tại Phòng Vật lý Vật liệu Từ và Siêu
dẫn, Viện KHVL - Viện Hàn lâm KH&CNVN. Thiết bị này có độ nhạy cỡ 10-4 emu
và có thể hoạt động trong khoảng từ trường từ -11 đến 11 kOe và trong khoảng nhiệt
độ từ 77 K (nhiệt độ của Nitơ lỏng) đến 1000 K. Độ nhậy và các sai số về từ trường
và nhiệt của hệ đo này có độ chính xác khá cao và có kết quả khá phù hợp với các kết
quả đo so sánh từ các hệ đo từ khác. Các mẫu đo được gắn chắc với bình đựng mẫu
để tránh sự dao động của mẫu trong quá trình đo. Sơ đồ nguyên lý của từ kế mẫu rung
được biểu diễn trên hình 2.13b với các bộ phận chính sau: (1) màng rung điện động;
(2) giá đỡ hình nón; (3) mẫu so sánh; (4) cuộn dây thu tín hiệu so sánh, (7) mẫu đo,
(8) cuộn dây thu tín hiệu đo, (9) các cực nam châm.
Hệ VSM hoạt động dựa vào sự thay đổi từ thông trong các cuộn dây thu đặt gần
mẫu khi mẫu dao động với tần số xác định theo một phương cố định nhờ một màng
rung điện động. Suất điện động cảm ứng xuất hiện trong các cuộn dây thu là do sự
52
thay đổi khoảng cách tương đối giữa mẫu đo và cuộn dây do mẫu dao động. Biểu
thức của suất điện động cảm ứng:
e = MAG(r)cos(t), (2.5)
trong đó M, và A lần lượt là mômen từ, tần số và biên độ dao động của mẫu; G(r)
là hàm độ nhạy phụ thuộc vào vị trí đặt mẫu so với cuộn dây thu và cấu hình các cuộn
thu. Tín hiệu thu được từ các cuộn dây được khuếch đại bằng bộ khuếch đại lọc lựa
tần số nhạy pha trước khi đi đến bộ xử lý để hiển thị kết quả.
(a) (b)
Hình 2.13. Hệ đo VSM (a) và (b) sơ đồ nguyên lý.
2.3.2. Phép đo tính chất từ trên hệ đo các tính chất vật lý PPMS
Phép đo đường cong từ trễ (từ độ phụ thuộc từ trường ở chế độ đo đẳng nhiệt)
được thực hiện trên hệ đo các tham số vật lý PPMS 6000 của Phòng thí nghiệm trọng
điểm thuộc Viện Khoa học Vật liệu, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Trong
phép đo này, mẫu từ trạng thái thuận từ được đưa về nhiệt độ cần đo trong từ trường
bằng không, sau đó tăng dần từ trường đến giá trị cần đo. Hệ đo PPMS 6000 là hệ đo
thương mại do hãng Quantum Design sản xuất cho phép thực hiện các phép đo tính
chất điện và từ của vật liệu với độ chính xác rất cao. Nguyên lý đo của các phép đo
từ trên hệ PPMS 6000 dựa trên nguyên lý của hệ từ kế mẫu rung (VSM) với các ưu
điểm độ nhạy cao (5.10-6 emu), nhiệt độ đo từ 1,9 K đến 1000 K, từ trường từ 0,1 Oe
đến 7.104 Oe, độ phân giải từ trường 0,01 Oe, khả năng khống chế nhiệt độ tốt ( 0,01
K). Hệ đo PPMS 6000 sử dụng phần mềm MultiVu, cho phép điều khiển chương
trình hoàn toàn tự động nên rất thuận tiện cho người sử dụng. Toàn cảnh hệ đo được
minh họa trên hình 2.14.
a)
53
Hình 2.14. Hệ đo các tính chất vật lý PPMS 6000.
2.3.3. Phép đo tính chất từ trên hệ đo từ trường xung
Phép đo đường cong từ trễ của các mẫu từ cứng nanocomposite trong luận án
được thực hiện trên hệ từ trường xung. Từ các đường từ trễ này có thể xác định được
các đại lượng đặc trưng quan trọng như: MS, HC, Br và (BH)max. Sơ đồ nguyên lý hoạt
động của hệ đo này được thể hiện trên hình 2.15. Hệ được thiết kế theo nguyên tắc
nạp - phóng điện qua bộ tụ điện và cuộn dây. Dòng một chiều qua K1, nạp điện cho
tụ làm cho tụ tích năng lượng cỡ vài chục kJ. Khi khoá K2 đóng thì dòng điện tồn tại
trong thời gian ngắn đã phóng điện qua cuộn dây nam châm L và tạo trong lòng ống
dây một từ trường xung cao. Mẫu đo được đặt tại tâm của cuộn nam châm cùng với
hệ cuộn dây cảm biến pick - up. Tín hiệu ở lối ra tỷ lệ với vi phân từ độ và vi phân từ
trường sẽ được thu thập, xử lí hoặc lưu trữ cho các mục đích cụ thể. Từ trường trong
lòng ống dây có thể được sử dụng để nạp từ cho các mẫu vật liệu khi chỉ dùng một
nửa chu kì hình sin của dòng điện phóng. Để tránh được hiệu ứng trường khử từ, các
mẫu khối đều được cắt theo dạng hình trụ và gắn chặt vào bình để tránh sự dao động
của mẫu trong quá trình đo.
Hình 2.15. Sơ đồ nguyên lý hệ đo từ trường xung.
54
Trong quá trình làm thực nghiệm chúng tôi đã sử dụng hệ đo từ trường xung đặt
tại Viện khoa học vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (hình
2.16). Từ trường cực đại mà hệ đo này đạt được cỡ 9 Tesla.
Hình 2.16. Hệ đo từ trường xung.
Đối với hệ thiết bị này, các giá trị MS và HC có thể được xác định trực tiếp từ
đường từ trễ trong phép đo trên hệ từ trường xung, riêng giá trị tích năng lượng cực
đại (BH)max phải được chuyển đổi đơn vị và tính toán như sẽ trình bày dưới đây. Kết
quả của phép đo từ trễ là các đường Mm(H) với H là từ trường ngoài có đơn vị là
Tesla (T) và Mm là từ độ khối lượng có đơn vị là emu/g (hình 2.17a).
Các số liệu này được xử lý để đưa về dạng 4M(H) và B(H) (hình 2.17b) bằng
cách sử dụng các công thức chuyển đổi đơn vị như sau:
- Chuyển từ độ theo khối lượng Mm (emu/g) sang từ độ theo thể tích Mv (emu/cm3):
Mv = Mm
là khối lượng riêng, được xác định từ việc đo thể tích và khối lượng của nam
châm. Giá trị thực nghiệm thu được với các mẫu chế tạo cỡ 6,5 g/cm3.
Hình 2.17. Đường M(H) thu được từ hệ đo (a) và đường M(H) và B(H)
đã được xử lý và chuyển đổi đơn vị (b).
55
- Chuyển từ trường ngoài sang trường hiệu dụng Heff đơn vị là Oe có tính đến hiệu
ứng trường khử từ (phụ thuộc vào hình dạng và kích thước mẫu đo):
Heff = Hext - 4Mv.N
Hext là từ trường ngoài có đơn vị Oe.
N là hệ số khử từ, phụ thuộc vào hình dạng mẫu. Ví dụ, mẫu hình cầu N = 1/3;
màng mỏng N = 1/2. Trong luận án này, chúng tôi đo mẫu ở dạng hình trụ và N được
xác định thông qua đường biểu diễn sự phụ thuộc của chúng vào tỷ số L/d với L là
chiều dài mẫu, d là đường kính mẫu (hình 2.18).
- Cảm ứng từ B có đơn vị là Gauss: B = 4Mv + Heff
- Tích năng lượng: (BH) = Heff.B (đơn vị: GOe)
Giá trị (BH)max thu được từ giá trị cực đại của đường (BH) trên hình 2.19.
Hình 2.18. Sự phụ thuộc của hệ số khử
từ N vào tỷ số L/d của mẫu hình trụ.
0
2
4
6
8
10
-15 -10 -5 0
BHM(H)B(H)
H (kOe)
M,
B (
kG)
Hình 2.19. Kết quả tính toán
tích năng lượng (BH).
2.4. Đốt nóng cảm ứng từ
Trong luận án các mẫu chất lỏng được khảo sát hiệu ứng đốt nóng cảm ứng từ
trên máy phát thương mại RDO – HFI, thiết bị được đặt tại Phòng Vật liệu nano y sinh
- Viện Khoa học vật liệu - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (hình
2.20). Thực nghiệm đốt nóng cảm ứng từ được thực hiện trong từ trường xoay chiều
có tần số 236 kHz và cường độ 40 ÷ 100 Oe. Từ trường được tạo bởi cuộn dây cảm
ứng (7 vòng, đường kính 3 cm và dài 11,5 cm) có công suất lối ra 5 kW. Các mẫu đo
được phân tán trong môi trường nước và được đặt cách nhiệt với môi trường ngoài
bằng một vỏ bình thuỷ tinh được hút chân không 10-3 ÷ 10-4 Torr (hình 2.20b). Nhiệt
56
độ được đo bằng nhiệt kế quang (GaAs sensor, Opsens) với độ chính xác 0,3 oC trong
dải 0 - 250 oC.
Hình 2.20. Hệ thí nghiệm đốt nóng cảm ứng từ (a) và minh hoạ bố trí thí nghiệm
đốt nóng cảm ứng từ (b).
2.5. Kỹ thuật thiêu kết Plasma
Trong phương pháp thiêu kết thông thường, việc sử dụng các nguồn năng lượng
bên ngoài làm cho bột nóng lên tương đối chậm. Vì vậy, quá trình thiêu kết yêu cầu
nhiệt độ thiêu kết cao và thời gian nung khá dài. Thực tế này dẫn đến sự gia tăng tiêu
thụ năng lượng và chi phí sản xuất. Hơn nữa, cấu trúc vi mô của các sản phẩm thu
được thường khá thô do sự tăng trưởng của hạt tỉ lệ thuận với nhiệt độ thiêu kết hoặc
thời gian xử lý. Để khắc phục nhược điểm như vậy, một số phương pháp thiêu kết
hiệu quả hơn đã được đề xuất trong những thập kỷ qua. Thiêu kết xung điện plasma
(Spark Plasma Sintering - SPS) là một trong những phương pháp đó. SPS, còn được
gọi trong một số tài liệu là FAST (Field Assisted Sintering Technology) - thiêu kết
có hỗ trợ bằng điện trường, là một phương pháp thiêu kết mới, đang dần được ứng
dụng rộng rãi trong rất nhiều hệ vật liệu, đặc biệt là vật liệu có cấu trúc nano. Quá
trình này được cải tiến từ quy trình ép nóng, trong đó dòng điện chạy trực tiếp qua
khuôn ép và bột ép, thay vì sử dụng bộ phận gia nhiệt bên ngoài. Bằng cách sử dụng
dòng xung điện dẫn đến sự tạo thành "hiệu ứng tia lửa plasma", do đó có thể đạt được
tốc độ gia nhiệt rất nhanh trong thời gian rất ngắn. Điều này giảm đáng kể sự tăng
trưởng kích thước hạt cũng như thời gian đạt tới trạng thái cân bằng, từ đó cho phép
chế tạo được các vật liệu có thành phần và tính chất không thể chế tạo bằng phương
pháp gia nhiệt thông thường, như các vật liệu cấu trúc nano, các vật liệu composit có
thành phần đặc biệt…
(a) (b)
57
Hình 2.21. Mô tả nguyên lý hoạt động của phương pháp SPS
Nguyên lý của phương pháp SPS được mô tả trong Hình 2.21. Mẫu bột được
đưa vào khuôn than chì được đặt bên trong buồng chân không. Dòng điện xung 1
chiều được đưa vào thông qua pít-tông ép và lớp lót khuôn bằng graphit. Trong quá
trình ép SPS, một dòng xung chạy qua bột (nếu dẫn điện) và xảy ra sự sinh nhiệt do
hiệu ứng nhiệt Joule. Việc sử dụng dòng điện đưa vào có điện áp thấp (~10V), cường
độ dòng cao (~1500A) cùng với lực ép cơ học đã tạo ra vật liệu ở nhiệt độ thấp hơn
nhiệt độ nóng chảy, nhưng trên hết là trong một thời gian ngắn hơn rất nhiều so với
các phương pháp gia nhiệt thông thường. Các thông số công nghệ của quá trình SPS
bao gồm: nhiệt độ, dòng điện, điện áp giữa các điện cực máy, áp lực cơ học và hành
trình dịch chuyển của chày ép. Các thông số này có thể được theo dõi và ghi lại trong
thời gian thực. Mật độ khối của vật liệu đạt được bằng SPS rất cao trong thời gian rất
ngắn. Khả năng này, cùng với nhiệt độ thiêu kết thấp hơn thông thường dẫn đến hiệu
quả làm cho cấu trúc sản phẩm mịn hơn. Đặc biệt, đối với vật liệu bột có kích thước
nano có thể được thiêu kết mà kích thước hạt không bị tăng đáng kể, điều này không
thể đạt được trong quá trình thiêu kết thông thường. Do đó, SPS có thể sử dụng để
chế tạo vật liệu khối có cấu trúc nano hoặc vật liệu nano composit. Ngoài ra, để tận
dụng tốc độ gia nhiệt cao và thời gian giữ nhiệt ngắn hơn, SPS có thể hạn chế đáng
kể các phản ứng không mong muốn có thể xảy ra trong quá trình thiêu kết thông
58
thường, do đó có thể tránh được sự hình thành các pha sản phẩm không mong muốn.
Tuy nhiên, hiện tượng duy nhất được chứng minh bằng thực nghiệm được điều khiển
bởi dòng điện chạy qua pít-tông – khuôn ép - mẫu là hiệu ứng Joule. Các hiện tượng
khác như sự hình thành plasma, nhiệt độ cục bộ cao tại khu vực tiếp xúc giữa các hạt,
tăng cường khuếch tán vật liệu khi hình thành khu vực tiếp xúc, cũng có thể diễn ra
đồng thời. Tuy nhiên, chúng chưa được chứng minh một cách rõ ràng, do các hiệu
ứng này khá nhỏ so với hiệu ứng Joule chiếm ưu thế [105].
Các mẫu trong luận án được chế tạo trên hệ SPS Dr. Sinter 515S Syntex (hình
2.22) đặt tại PTN Hóa luyện kim đất hiếm, Viện Hóa học và Khoa học Vật liệu Đông
Paris, CNRS, CH Pháp.
Hình 2.22. Hệ thiêu kết xung điện Plasma Dr. Sinter 515S Syntex
Kết luận chương 2
Các hệ mẫu nghiên cứu được chế tạo bằng các phương pháp nghiền cơ năng
lượng cao kết hợp với ủ nhiệt. Các quá trình thực nghiệm và các phép đo nghiên cứu
cấu trúc, các tính chất điện-từ của các mẫu đã được tiến hành trên các thiết bị thí
nghiệm tại Phòng Vật lý Các Vật liệu Từ và Siêu dẫn, Phòng thí nghiệm trọng điểm
Quốc gia về Thiết bị và Linh kiện điện tử thuộc Viện Khoa học Vật liệu; PTN Hóa
luyện kim đất hiếm, Viện Hóa học và Khoa học Vật liệu Đông Paris, CNRS, CH
Pháp; PTN BL8 thiết bị bức xạ gia tốc hạt nhân SIAM Photon, Nakhon Ratchasima,
Thái Lan. Đây là những thiết bị tự xây dựng và thiết bị thương mại có độ tin cậy cao.
59
Chương 3
ĐẶC TRƯNG CẤU TRÚC VÀ TÍNH CHẤT TỪ CỦA HỆ VẬT LIỆU TỪ
NANO Fe-Co CHẾ TẠO BẰNG PHƯƠNG PHÁP NGHIỀN CƠ
NĂNG LƯỢNG CAO
Các tính chất vật lý hệ hạt nano từ có quan hệ mật thiết với các đặc trưng cấu
trúc, kích thước, phân bố kích thước hạt và dạng thù hình của vật liệu. Các đặc trưng
này không chỉ phụ thuộc vào các phương pháp tổng hợp mà còn chịu ảnh hưởng của
các tham số công nghệ cụ thể trong một phương pháp. Trong chương này, chúng tôi
trình bày những kết quả nghiên cứu chế tạo và đặc trưng của các mẫu Fe-Co với hai
mục tiêu:
- Tìm chế độ công nghệ tối ưu để chế tạo vật liệu Fe100-xCox (x = 0, 25, 35, 40,
50 và 75) bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao.
- Khảo sát các đặc trưng về cấu trúc tinh thể, kích thước hạt, dạng thù hình và
tính chất từ của hệ vật liệu Fe100-xCox theo thời gian nghiền và nhiệt độ ủ.
3.1. Khảo sát điều kiện công nghệ tối ưu để chế tạo vật liệu từ nano Fe-Co bằng
phương pháp nghiền cơ năng lượng cao
Nghiền cơ năng lượng cao là kỹ thuật xử lý vật liệu trong các điều kiện không
cân bằng nhằm tạo ra vật liệu có cấu trúc và thành phần mong muốn để tăng cường
cơ, hóa, lý tính của chúng. Bằng kỹ thuật này có thể cho phép: (i) tổng hợp (hợp kim
hóa) các vật liệu có các pha hợp kim bền, nửa bền, các hợp kim mới có cấu trúc và
tính chất đặc biệt, và (ii) tạo các hạt bột mịn kích thước nanomet. Cơ chế hợp kim
hóa trong kỹ thuật nghiền cơ năng lượng cao là quá trình đứt gãy, biến dạng, hàn
nguội liên tục của các hạt bột do năng lượng va đập cơ học cao từ bi nghiền. Quá
trình này làm giảm cỡ hạt và dẫn đến các hạt bột bị biến dạng dẻo nặng gây ra các sai
hỏng mạng tinh thể, sai hỏng trong cấu trúc và tăng cường sự khuếch tán của các
nguyên tố hòa tan vào ô mạng. Nếu tiếp tục nghiền, quá trình hợp kim hóa có thể xảy
ra ở cấp độ nguyên tử. Kết quả của quá trình này là hình thành dung dịch rắn, liên
kim loại, hoặc thậm chí một pha VĐH. Bằng kỹ thuật này, nhiều vật liệu từ vô định
hình hay vật liệu từ cấu trúc nanô đã được nghiên cứu và chế tạo.
Kỹ thuật nghiền cơ năng lượng cao liên quan đến vật liệu đầu vào, phương tiện
nghiền và các thông số của quá trình nghiền như: kiểu máy nghiền, cối nghiền, năng
lượng nghiền, thời gian nghiền, bi nghiền, tỉ số bi/bột, môi trường nghiền, thể tích
60
nghiền, tác nhân nghiền và nhiệt độ nghiền. Các thông số nghiền này liên quan mật
thiết với nhau và quyết định chất lượng sản phẩm đầu ra. Thiết bị nghiền năng lượng
cao được dùng trong luận án này là hệ Planetary mono mill (PULVERISETTE 6
classic line), hãng Fritch GmbH, Đức được mô tả chi tiết trong Chương 2.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, với hệ thiết bị nghiền hành tinh Fritsch
P6 tại Viện Khoa học vật liệu, thông số công nghệ nghiền chính được chúng tôi tập
trung nghiên cứu là tốc độ nghiền, tỉ lệ bi/bột, thời gian nghiền và môi trường nghiền.
Môi trường nghiền được nghiên cứu là môi trường nghiền khô với khí trơ Argon hoặc
Nitơ để tránh oxi hóa vật liệu trong quá trình nghiền, đặc biệt ở phạm vi kích thước
nano. Ngoài môi trường khí trơ bảo vệ, các mẫu vật liệu cũng được nghiên cứu nghiền
trong môi trường đơn giản hơn là môi trường không khí và không sử dụng bất kỳ thiết
bị đặc biệt nào để chuẩn bị hay lưu giữ vật liệu.
Các bột hợp kim Fe-Co được tổng hợp bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng
cao từ các bột Fe và Co sạch có kích thước ban đầu khoảng vài chục µm. Để khảo sát
các điều kiện công nghệ tối ưu để chế tạo hệ vật liệu nano Fe-Co mong muốn, chúng
tôi chọn bắt đầu nghiền từ hệ hợp kim thành phần 60% atm Fe và 40% atm Co. Tỷ lệ
thành phần 60/40 là tỉ lệ tương đối trung gian, ở giữa 2 khoảng hợp phần Fe50Co50 và
Fe65Co35, được cho là hợp phần có từ độ bão hòa MS cao nhất [30]. Các thông số
nghiền thích hợp đối với thành phần này sẽ là cơ sở tốt để áp dụng nghiên cứu chế
tạo cho các thành phần vật liệu nano Fe-Co khác.
3.1.1. Ảnh hưởng của tốc độ nghiền
Trong nghiền cơ năng lượng cao, tốc độ nghiền càng cao đồng nghĩa với việc
bột nghiền nhận được nhiều động năng hơn. Động năng của máy nghiền (được tính
theo công thức 𝐸 𝑚𝑣 , trong đó m là khối lượng và 𝑣 là vận tốc tương đối của
máy nghiền) sẽ được truyền cho bột nghiền. Do đó, động năng cung cấp cho bột
nghiền càng cao khi vận tốc tương đối của máy nghiền càng cao.
Máy nghiền hành tinh Pulverisette 6 của hãng Fritsch có tốc độ nghiền có thể thay
đổi trong khoảng từ 50-600 vòng/phút, cối nghiền và đĩa nghiền được thiết kế quay
ngược chiều nhau để tăng năng lượng nghiền. Từ các thông số kỹ thuật của máy nghiền,
giá trị tốc độ nghiền được lựa chọn khảo sát nghiền bột vật liệu Fe60Co40 là 350, 450
và 550 vòng/phút với cùng tỷ lệ bi/bột 15/1 và thời gian nghiền 10 giờ.
Kết quả phân tích nhiễu xạ tia X của các mẫu vật liệu Fe60Co40 sau khi nghiền
61
ở các tốc độ khác nhau được thể hiện trên hình 3.1. Mẫu được ký hiệu FC40-10h-
350, FC40-10h-450 và FC40-10h-550 tương ứng với tốc độ nghiền 350, 450 và 550
vòng/phút.
40 50 60 70 80
Bột Co
Góc 2 (độ)
Cư
ờng
độ
(đvt
đ)
FC40-10h-350
FC40-10h-450
Bột Fe
(110)
(200)
(211)
FC40-10h-550
JCPDS 48-1816
Hình 3.1. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu FC40-10h, tỉ lệ bi/bột là 15/1 ở các tốc
độ nghiền khác nhau.
Giản đồ nhiễu xạ trên hình 3.1 cho thấy cả 3 mẫu đều chứa các đỉnh nhiễu xạ
đặc trưng của pha tinh thể bcc-Fe tại góc 2θ tương ứng là 44, 65 và 83o. Mẫu thu được
là đơn pha FeCo phù hợp với thẻ chuẩn JCPDS 48-1816. Không thấy sự xuất hiện
của đỉnh nhiễu xạ ứng với pha ô xít. Độ rộng của các đỉnh nhiễu xạ tăng dần từ mẫu
FC40-10h-350 đến mẫu FC40-10h-550. Điều này cho biết kích thước tinh thể trung
bình giảm dần từ mẫu FC40-10h-350 xuống mẫu FC40-10h-550. Nguyên nhân của
hiện tượng này chủ yếu có thể do ảnh hưởng của tốc độ nghiền, khi tốc độ nghiền
tăng dẫn tới năng lượng va chạm tăng, hạt sẽ nhanh chóng giảm kích thước. Quan sát
kỹ hơn tại vị trí góc 2θ = 47 và 76o, đối với mẫu FC40-10h-350, vẫn tồn tại một đỉnh
nhiễu xạ nhỏ của pha Co đầu vào. Như vậy có thể nói pha Fe60Co40 vẫn chưa được
hợp kim hóa hoàn toàn, vẫn còn một phần Co tồn tại riêng biệt trong thành phần pha.
Đỉnh này gần như không quan sát thấy trong mẫu FC40-10h-450 và biến mất hoàn
toàn trong mẫu FC40-10h-550. Như vậy có thể kết luận, sau khi nghiền 10 giờ, ở tốc
độ nghiền 350 vòng/phút mẫu chưa được hợp kim hóa hoàn toàn. Đối với tốc độ
nghiền 450 và 550 vòng/phút, các giá trị về cường độ, độ rộng vạch là gần tương
62
đương, vật liệu đã được hợp kim hóa hoàn toàn, không còn dấu hiệu của pha Co riêng
biệt cũng như không hình thành pha ô-xít. Như vậy giá trị tốc độ nghiền từ 450
vòng/phút trở lên đều có thể được lựa chọn. Như đã trình bày ở trong chương thực
nghiệm, tốc độ nghiền càng cao sẽ càng sản sinh nhiều nhiệt năng và tăng khả năng
lẫn tạp chất vào vật liệu. Vì vậy, để đảm bảo khả năng hợp kim hóa hoàn toàn và
giảm thiểu tác động của nhiệt năng trong quá trình nghiền, chúng tôi lựa chọn giá trị
tốc độ nghiền tối ưu là 450 vòng/phút để nghiền các mẫu vật liệu nano Fe-Co sau
này.
3.1.2. Ảnh hưởng của tỷ lệ bi/bột
Tỷ lệ bi trên bột (Ball to Powder Ratio - BPR) là một thông số đặc trưng quan
trọng của quá trình nghiền. Giá trị này đã được các nghiên cứu sử dụng trong khoảng
biến thiên rất rộng từ 1/1 [106] đến 1000:1 [107]. Các giá trị tỷ lệ rất cao thường ít
được sử dụng hơn, và những giá trị như 1000:1, 220:1 [108] chỉ được sử dụng trong
một vài trường hợp cá biệt nhằm mục tiêu tạo ra hoặc đẩy nhanh hiệu ứng mong muốn
nào đó. Khoảng giá trị BPR từ 4/1 đến 30/1 thường được sử dụng nhiều hơn trong
thực tế. Trong đó giá trị BPR 10/1 được sử dụng phổ biến nhất trong việc nghiền vật
liệu dạng bột với dung tích nghiền nhỏ hoặc quy mô phòng thí nghiệm ví dụ như máy
nghiền hành tinh Fritsch, máy nghiền lắc Spex. Tuy nhiên nếu cần nghiền một khối
lượng vật liệu lớn, để đạt được hiệu quả thì BPR cần cao hơn, cỡ 50/1 thậm chí là
100/1. Để tăng giá trị BPR người ta có thể tăng số lượng (hoặc khối lượng) bi nghiền
hoặc giảm khối lượng vật liệu nghiền. Giá trị này cũng có thể tăng bằng cách tăng
kích thước bi hoặc dùng bi nghiền có khối lượng riêng lớn hơn, ví dụ như dùng bi
Cacbit Wolfram thay cho bi thép.
BPR có ảnh hưởng quan trọng lên thời gian nghiền cần thiết để tạo thành một
trạng thái pha nào đó của vật liệu nghiền. BPR càng cao thì thời gian nghiền yêu cầu
càng ngắn. Ví dụ: pha vô định hình hình thành trong Ti-33at.%Al sau khi nghiền 7
giờ trong máy nghiền Spex với BPR là 10/1, trong 2 giờ ở BPR là 50/1 và trong 1 giờ
ở BPR là 100/1 [109]. BPR cao sẽ làm tăng tỷ phần khối lượng của các bi nên số va
đập trên một đơn vị thời gian sẽ tăng. Kết quả là năng lượng tăng và quá trình hợp
kim hóa xảy ra nhanh. Tuy nhiên, cùng với năng lượng nghiền cao, nhiệt năng sẽ
được tạo ra nhiều hơn, điều này có thể ảnh hưởng tốt hoặc không tốt đến chất lượng
và thành phần bột thành phẩm.
63
Trong nghiên cứu của chúng tôi, vì môi trường nghiền là khô, nhiệt độ tăng cao
sẽ tăng mức độ oxi hóa của vật liệu, đặc biệt là ở phạm vi kích thước hạt nhỏ. Từ đó,
giá trị BPR được lựa chọn khảo sát trong luận án bao gồm 10/1; 15/1 và 20/1. Kết
quả phân tích nhiễu xạ tia X của các mẫu vật liệu Fe60Co40 sau nghiền được thể hiện
trên hình 3.2. Mẫu được ký hiệu FC40-10h-10, FC40-10h-15 và FC40-10h-20 tương
ứng với giá trị BPR là 10/1; 15/1 và 20/1. Tốc độ nghiền được chọn theo tốc độ tối
ưu ở trên là 450 vòng/phút, thời gian nghiền là 10 giờ.
40 50 60 70 80Góc 2 (độ)
Cư
ờn
g độ
(đv
tđ)
FC40-10h-10
FC40-10h-15
(211)(200)
FC40-10h-20
(110)
Hình 3.2. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu Fe60Co40 với các tỉ lệ bi/bột khác nhau
nghiền 10 giờ, tốc độ nghiền 450 vòng/phút.
Trên hình 3.2 cho thấy giản đồ nhiễu xạ của cả 3 mẫu đều chứa các đỉnh nhiễu
xạ đặc trưng cho vật liệu Fe60Co40 đơn pha tại góc 2θ tương ứng là 44, 65 và 83o.
Không thấy sự xuất hiện của pha ô xít cũng như không quan sát thấy sự tồn tại riêng
lẻ của đỉnh đặc trưng cho Co. Cả 3 mẫu đều đã được hợp kim hóa hoàn toàn sau khi
nghiền 10 giờ. Độ rộng của các đỉnh nhiễu xạ của mẫu FC40-10h-10 là hẹp nhất trong
khi độ rộng của FC40-10h-15 và FC40-10h-20 là gần như tương đương. Như vậy,
kích thước tinh thể trung bình của FC40-10h-10 lớn nhất, giảm dần xuống FC40-10h-
15 và FC40-10h-20. Có thể thấy việc tăng giá trị tỉ lệ bi/bột từ 15/1 lên 20/1 không
đem lại hiệu quả tốt hơn. Từ đó chúng tôi chọn giá trị BPR tối ưu là 15/1. Giá trị BPR
15/1 và tốc độ nghiền 450 vòng/phút được chúng tôi sử dụng là thông số nghiền tối
ưu trong toàn bộ quá trình nghiên cứu khảo sát các tính chất của bột hợp kim nano
Fe-Co theo thời gian nghiền và theo từng hợp phần hợp kim sau này. Bảng tổng hợp
các thông số chế tạo và thông số cấu trúc của các mẫu FC40-10h-350, FC40-10h-450,
64
FC40-10h-550, FC40-10h-10, FC40-10h-15 và FC40-10h-20 được trình bày trên
bảng 3.1.
Bảng 3.1. Kích thước tinh thể và thông số mạng phụ thuộc vào
tốc độ nghiền và tỉ lệ bi/bột.
Mẫu Tỉ lệ bi:bột Tốc độ nghiền DXRD (nm) a (nm)
FC40-10h-350 15:1 350 rpm 8,3 0,2863
FC40-10h-450 15:1 450 rpm 7,2 0,2854
FC40-10h-550 15:1 550 rpm 7,2 0,2854
FC40-10h-10 10:1 450 rpm 7,7 0,2854
FC40-10h-15 15:1 450 rpm 7,5 0,2854
FC40-10h-20 20:1 450 rpm 6,9 0,2864
3.1.3. Ảnh hưởng của thời gian nghiền
Cùng với tốc độ nghiền và tỷ lệ bi/bột, thông số thường được khảo sát nhiều
nhất đối với một hệ mẫu chế tạo bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao là thời
gian nghiền. Đây là thông số quan trọng nhất trong quá trình nghiền vật liệu bột.
Thông thường, thời gian nghiền được chọn để đạt tới trạng thái cân bằng giữa quá
trình đứt gãy và gắn kết nguội của các hạt bột. Thời gian nghiền cần thiết phụ thuộc
vào kiểu máy nghiền, cường độ nghiền, tỷ số bi/bột và môi trường nghiền. Thời gian
nghiền thực tế sẽ được quyết định dựa trên sự kết hợp giữa các thông số trên và cho
từng hệ mẫu vật liệu cụ thể. Nếu nghiền quá lâu sẽ làm tăng các tạp chất, có thể hình
thành các pha không mong muốn trong bột nghiền, cũng như không có lợi về mặt
năng lượng tiêu thụ. Vì vậy trong quá trình nghiền, cần nghiên cứu, khảo sát tìm kiếm
thời gian nghiền phù hợp để đạt được mục đích đặt mà không cần kéo dài thời gian
nghiền.
Hệ mẫu nghiền Fe60Co40 được khảo sát theo thời gian nghiền từ 0,25 đến 32 giờ.
Khối lượng mỗi đợt mẫu là như nhau (~12 g) và dưới cùng điều kiện nghiền tối ưu
với vận tốc nghiền 450 vòng/phút và tỉ lệ bi/bột là 15/1.
65
40 50 60 70 80
*
32 h
24 h20 h16 h12 h10 h 8 h 4 h 1 h30 p
Cư
ờn
g đ
ộ (đ
vtđ
)
Góc 2 (độ)
*
* Co
Hình 3.3. Giản đồ nhiễu xạ tia X của hợp kim Fe60Co40 ở các thời gian nghiền
khác nhau. Hình bên phải là giản đồ phóng to tại vị trí góc 2θ trong khoảng
từ 40 đến 50O
Hình 3.3 là giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu bột Fe60Co40 theo thời gian nghiền
từ 0,25 đến 32 giờ. Về cơ bản, giản đồ pha tinh thể của mẫu Fe60Co40 này khá giống
với mẫu Fe chưa pha Co. Sự thay thế của Co trong ô mạng không làm thay đổi vị trí
các đỉnh nhiễu xạ đặc trưng của pha bcc- Fe tại các vị trí góc 2θ tương ứng 45, 65 và
83o. Quan sát kỹ hơn tại vị trí góc 2θ = 47o, đối với các mẫu nghiền trong khoảng thời
gian 0,25 giờ đến 4 giờ, vẫn tồn tại một đỉnh nhiễu xạ nhỏ của pha Co đầu vào, như
vậy có thể nói pha Fe60Co40 vẫn chưa được hợp kim hóa hoàn toàn, vẫn còn một phần
pha Co tồn tại riêng biệt trong thành phần pha. Đỉnh này gần như không quan sát thấy
trong mẫu nghiền sau 8 giờ và biến mất hoàn toàn trong mẫu nghiền từ 10 giờ đến 32
giờ (xem giản đồ phóng đại trong hình 3.3). Như vậy, sau khi nghiền 8 giờ đến 32
giờ, ở tốc độ nghiền 450 vòng/phút, tỉ lệ bi bột 15/1, chỉ có pha tinh thể Fe60Co40 với
các giá trị về cường độ, độ rộng vạch là gần tương đương. Khả năng tạo hợp kim Fe-
Co bằng nghiền cơ năng lượng cao từ các bột Fe và Co cũng được minh chứng qua
phổ XANES và EXAFS được phân tích kỹ trong phần 3.4.1. Như vậy, có thể nói với
nghiền cơ năng lượng cao từ 8 giờ trở lên, bột vật liệu Fe60Co40 đã được hợp kim hóa
hoàn toàn, không còn dấu hiệu của pha Co riêng biệt cũng như không hình thành các
pha ô-xít.
66
Ảnh hưởng của thời gian nghiền lên các đặc trưng tính chất của các hệ vật liệu
nano Fe-Co với các thành phần khác nhau sẽ được nghiên cứu kỹ và trình bày chi tiết
trong các phần sau.
3.2. Khảo sát tỉ phần tối ưu Fe/Co lên đặc trưng tính chất của vật liệu Fe-Co
Đã có khá nhiều công bố về việc tổng hợp vật liệu nano Fe-Co bằng phương
pháp nghiền cơ đi từ các bột nguyên tố thành phần [47, 49, 110, 111]. Kết quả nghiên
cứu chỉ ra rằng tỉ phần Fe/Co cùng với các điều kiện thực nghiệm ảnh hưởng mạnh
tới các đặc trưng tính chất từ của hợp kim Fe-Co. Khi lượng Co thay thế cho Fe lớn
(trên 80%), từ độ bão hòa MS suy giảm mạnh, trong khi đó lực kháng từ HC lại tăng.
Giá trị từ độ bão hòa của hợp kim Fe-Co đạt giá trị tối đa ~230 emu/g tìm thấy trong
nhiều công bố tương ứng với hàm lượng Co xung quanh khoảng 30-35% [47,49].
Trong luận án này, chúng tôi tiến hành khảo ảnh hưởng của tỉ phần Fe/Co lên
đặc trưng tính chất của hệ vật liệu Fe100-xCox (x = 0, 25, 35, 40, 50 và 75, tương ứng
với mẫu Fe-10h, FC25-10h, …..) bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao sử
dụng máy nghiền hành tinh PULVERISETTE 6. Các thông số nghiền được lựa chọn
dựa trên kết quả khảo sát tối ưu công nghệ trên thiết bị nghiền mà chúng tôi đã khảo
sát trong phần 3.1 với tốc độ nghiền 450 vòng/phút, tỉ lệ bi/bột 15/1, thời gian nghiền
10 giờ.
40 50 60 70 80
Fe 10h
Cư
ờng
độ
(đvt
đ)
Góc 2 (độ)
FC75-10h
FC50-10h
FC40-10h
FC35-10h
FC25-10h
Hình 3.4. Phổ nhiễu xạ tia X của vật liệu Fe100-xCox với tỷ phần tương ứng
tại thời gian nghiền 10 giờ.
Kết quả chụp nhiễu xạ tia X trên hình 3.4 cho thấy, sau 10 giờ nghiền, ở tất cả
các hợp phần, không còn tồn tại các vạch hcp-Co của bột Co. Các sản phẩm bột hợp
kim thu được sau nghiền có cấu trúc tinh thể bcc-Fe với các đỉnh nhiễu xạ đặc trưng
67
tại góc 2θ tương ứng là 44, 65 và 83o. Có thể nói rằng, các mẫu với tỉ phần Fe/Co
khác nhau đều đã được hợp kim hóa hoàn toàn sau thời gian nghiền 10 giờ. Ngoài ra,
không thấy sự xuất hiện của pha ô xít. Khi tỉ phần Fe/Co giảm, quan sát thấy vị trí
góc 2θ của các đỉnh nhiễu xạ dịch về phía góc cao, trong khi đó độ rộng của các đỉnh
nhiễu xạ của pha Fe-Co có xu thế tăng. Để đánh giá chính xác hơn ảnh hưởng của tỉ
phần Fe/Co lên thông số mạng và kích thước tinh thể của vật liệu, kích thước tinh thể
trung bình, hằng số mạng, được xác định bằng phương pháp Rietveld trên phần mềm
X’Pert HighScore Plus. Các kết quả được thể hiện chi tiết trong bảng 3.2.
Bảng 3.2. Thông số mạng, kích thước tính thể trung bình của các mẫu hợp kim Fe-
Co có tỉ phần Fe/Co khác nhau.
Mẫu Tỉ phần Fe/Co Cấu trúc DXRD (nm) a (nm)
Fe-10h 100 bcc-Fe 14 2,869
FC25-10h 75/25 bcc-Fe 16 2,868
FC35-10h 65/35 bcc-Fe 13 2,863
FC40-10h 60/40 bcc-Fe 12 2,861
FC50-10h 50/50 bcc-Fe 12 2,854
FC75-10h 25/75 bcc-Fe 11 2,839
Từ bảng kết quả cho thấy giá trị hằng số mạng giảm dần khi hàm lượng của
nguyên tố sắt Fe giảm, từ 2,869 đến 2,839 nm. Điều này chứng tỏ các nguyên tử Co
với bán kính ion là 0,152 nm đã thay thế một phần cho các nguyên tử Fe với bán kính
ion là 0,156 nm trong pha tinh thể bcc-Fe. Cũng giống như hằng số mạng, khi tỉ phần
Fe/Co giảm, hay hàm lượng Fe giảm, kích thước tinh thể trung bình của pha Fe-Co
giảm, từ 16 nm xuống đến 11 nm, trừ mẫu 100% hàm lượng Fe có kích thước tinh
thể trung bình cỡ ~14 nm. Kích thước tinh thể trung bình giảm theo tỉ phần Co tăng
có thể là do Co có tính cứng hơn sắt, và việc thêm Co đã làm tăng khả năng tạo dung
dịch rắn Fe-Co, vì thế dễ hình thành và tạo ra các hạt tinh thể mịn hơn.
Để khảo sát tính chất từ của các mẫu hợp kim Fe100-xCox (x = 0, 25, 35, 40, 50
và 75) với tỉ phần Fe/Co khác nhau thu được sau khi nghiền cơ năng lượng cao,
chúng tôi tiến hành đo đường cong từ trễ M(H). Hình 3.5 là kết quả đo đường cong
từ trễ của các mẫu bột hợp kim Fe-Co này sau khi nghiền ở cùng một thời gian 10
giờ với các chế độ nghiền giống nhau.
68
-10k -8k -6k -4k -2k 0 2k 4k 6k 8k 10k
-200
-150
-100
-50
0
50
100
150
200
Fe-10h FC25-10h FC35-10h FC40-10h FC50-10h FC75-10h
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (Oe)
Hình 3.5. Đường cong từ trễ của vật liệu Fe100-xCox với tỷ phần Fe/Co khác nhau.
Có thể quan sát thấy, tất cả các đường cong từ trễ có dáng diệu trơn tru giống
nhau với giá trị HC trong khoảng từ 50-85 Oe, biểu hiện đường từ trễ của một vật liệu
sắt từ mềm. Theo tỉ phần pha Fe giảm từ 100% đến 65%, từ độ MS của các mẫu hợp
kim Fe-Co tăng dần từ 194 đến 205 emu/g, sau đó giảm khi nồng độ Fe giảm và giảm
mạnh xuống đến 180 emu/g khi nồng độ Fe còn 25% (hình 3.6 và bảng 3.3). Trong
khi đó, lực kháng từ HC của các mẫu tăng đều khi nồng độ pha Fe giảm (bảng 3.3).
Độ từ hóa bão hòa lớn nhất thu được là 205 emu/g đối với các mẫu hạt nano có kích
thước trung bình là 13 nm của hợp phần Fe65Co35 (FC35) và lực kháng từ nhỏ nhất là
49 Oe đối với mẫu hạt nano có kích thước trung bình là 11 nm của hợp phần Fe25Co75
(FC75). Với tỷ phần Fe70Co30 tương đương, các giá trị MS thu được trong [47] là 230
emu/g với thiết bị nghiền Simoloyer, [49] là 225 emu/g với máy nghiền hành tinh
RETSCH, [117] là 220 emu/g với máy nghiền Spex và giá trị HC tương ứng từ 10-60
Oe. Quy luật phụ thuộc độ từ hóa bão hòa và lực kháng từ vào tỉ lệ thành phần Fe/Co
trong các mẫu hợp kim Fe100-xCox (x = 0, 25, 35, 40, 50 và 75) chế tạo bằng phương
pháp nghiền cơ năng lượng cao trong nghiên cứu của luận án tương đối phù hợp với
các công bố [47, 49, 110, 111]. Giá trị MS thu được trong các nghiên cứu của chúng
tôi thấp hơn so với một số nghiên cứu đã công bố (từ 6~11%) có thể là do quá trình
nghiền chúng tôi sử dụng môi trường nghiền đơn giản là không khí. Ảnh hưởng của
môi trường nghiền lên tính chất từ của các hợp phần hợp kim Fe-Co sẽ được chúng
tôi trình bày kỹ hơn ở phần sau.
69
0 20 40 60 80
180
185
190
195
200
205
Ms (
emu
/g)
Tỉ phần pha Co (%)
Hình 3.6. Từ độ bão hòa MS phụ thuộc vào tỉ phần Fe/Co của các mẫu hợp kim
nano Fe100-xCox (x = 0, 25, 35, 40, 50 và 75) chế tạo bằng phương pháp nghiền cơ
năng lượng cao.
Bảng 3.3. Giá trị từ độ bão hòa của vật liệu nano Fe100-xCox nghiền trong 10 giờ với
tỷ phần Fe/Co khác nhau tại 11k Oe.
Mẫu Fe-10h FC25-10h FC35-10h FC40-10h FC50-10h FC75-10h
MS (emu/g) 194 196 205 202 200 180
HC (Oe) 67 74 74 71 85 49
Như vậy, có thể thấy, với các điều kiện công nghệ tối ưu, trên hệ thiết bị nghiền
hành tinh PULVERISETTE 6, vật liệu nano từ tính Fe-Co với kích thước tinh thể
trung bình trong khoảng 11-16 nm đã được tổng hợp từ các nguyên tố thành phần Fe
và Co. Giá trị MS cao nhất nhận được trong nghiên cứu này ứng với hợp kim có thành
phần Fe65Co35. Khi lượng thay thế Co cho Fe còn thấp (< 40%), từ độ bão hòa của
hợp kim Fe-Co tăng. Khi lượng Co thay thế cho sắt quá lớn (> 70%), MS, HC suy
giảm mạnh, điều này có thể lý giải bởi trạng thái quá bão hòa của hợp kim FeCo, pha
Co dư có MS, HC thấp hơn, từ đó sẽ làm giảm tính chất từ tổng cộng của toàn hệ. Với
mục tiêu tìm được các vật liệu từ mềm tốt có từ độ bão hòa cao và lực kháng từ nhỏ,
từ các kết quả nghiên cứu trình bày ở trên, chúng tôi tập trung nghiên cứu vào vùng
thành phần có tỉ phần nguyên tố Fe trong khoảng 50-65 % (tương ứng với Co trong
khoảng 50-35%). Vùng thành phần này ứng với giá trị từ độ bão hòa MS cao nhất
trong khoảng 200-205 emu/g, ứng với các hợp phần Fe50Co50, Fe60Co40 và Fe65Co35.
70
Ngoài các hợp phần này, để đảm bảo có bức tranh tổng thể, chúng tôi chọn thêm mẫu
100% Fe để làm mẫu nghiên cứu. Mẫu kim loại Fe này thực tế sau khi nghiền có từ
độ bão hòa không quá thấp ~194 emu/g, và là mẫu để so sánh ảnh hưởng của Co khi
thay thế cho Fe trong hợp kim Fe-Co. Các đặc trưng tính chất cấu trúc tinh thể, hình
thái học, tính chất từ phụ thuộc vào thời gian nghiền và nhiệt độ ủ của các mẫu có
thành phần Fe50Co50, Fe65Co35 và Fe chế tạo bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng
cao sẽ được trình bày chi tiết ở các phần sau.
3.3. Đặc trưng cấu trúc và tính chất từ của hệ Fe50Co50
3.3.1. Ảnh hưởng của thời gian nghiền lên đặc trưng cấu trúc
40 50 60 70 80
0,25 h0,5 h
0,75 h
1 h
2 h
4 h
8 h
10 h
12 h
16 h
24 h32 h
20 h
*
Cư
ờn
g đ
ộ (đ
vtđ
)
Góc 2 (độ)
FC50
*
* hcp Co
Hình 3.7. Phổ nhiễu xạ tia X của mẫu FC50 đã được hợp kim hóa ở tốc độ nghiền
va=450 rm, tỉ lệ bi/bột 15/1 theo các thời gian nghiền khác nhau.
Các mẫu hợp kim Fe50Co50 (FC50) được chế tạo bằng phương pháp nghiền cơ
năng lượng cao với các thông số nghiền tối ưu: vận tốc nghiền là 450 vòng/phút, tỉ lệ
bi/bột là 15/1, môi trường nghiền khô trong không khí. Hình 3.7 là giản đồ nhiễu tia
X (XRD) của các mẫu sau nghiền theo các thời gian nghiền khác nhau. Như thể hiện
trong hình 3.7, sau 1 giờ nghiền, các đỉnh nhiễu xạ của pha tinh thể Co ban đầu vẫn
quan sát thấy rõ trên giản đồ. Khi thời gian nghiền tăng, các đỉnh nhiễu xạ ứng với
pha tinh thể Co bắt đầu giảm dần, trong khi đó các đỉnh nhiễu xạ ứng với pha tinh thể
bcc-Fe trở nên mở rộng hơn. Sau 10 giờ nghiền, các đỉnh nhiễu xạ của pha tinh thể
71
Co biến mất, chỉ quan sát thấy các đỉnh nhiễu xạ của pha tinh thể bcc-Fe50Co50. Điều
này chứng tỏ trong quá trình nghiền năng lượng cao, Co đã được khuếch tán vào nền
Fe dẫn đến sự hình thành dung dịch rắn bcc-Fe (Co). Như vậy, sau 10 giờ nghiền, vật
liệu FC50 đã được hợp kim hóa hoàn toàn từ bột Fe và Co. Phân tích Rietveld cho
kết quả tham số mạng trung bình của pha bcc-Fe50Co50 sau 10 giờ nghiền là 0,2854
nm (giá trị theo công bố trong [111] và [112] đối với hạt FeCo được nghiền là a =
0,2825 nm).
Bảng 3.4. Tỉ lệ thành phần pha, thông số mạng và kích thước tinh thể trung bình của
mẫu FC50 ở tốc độ nghiền 450 rm, tỉ lệ bi/bột 15/1 theo thời gian nghiền.
Tên mẫu Tnghiền %FeCo %Co a (Å) DXRD (nm)
FC50-15m 0,25 h 61,3 38,7 2,866 81
FC50-30m 0,5 h 63,7 36,3 2,866 78
FC50-45m 0,75 h 65,6 34,4 2,866 73
FC50-1h 1 h 67,3 32,7 2,865 64
FC50-2h 2 h 70,4 29,6 2,866 35
FC50-4h 4 h 74,3 25,7 2,866 20
FC50-8h 8 h 99,3 0,7 2,855 16
FC50-10h 10 h 100 0 2,855 13
FC50-12h 12 h 100 0 2,855 13
FC50-16h 12 h 100 0 2,852 12
FC50-20h 12 h 100 0 2,852 12
FC50-24h 24 h 100 0 2,850 12
FC50-32h 32 h 100 0 2,851 11
Pha bcc-Fe50Co50 của tất cả các mẫu sau nghiền hầu như không thay đổi khi tiếp
tục tăng thời gian nghiền trên 10 giờ. Như vậy, có thể nói pha Fe50Co50 bền đã được
chế tạo thành công bằng nghiền cơ năng lượng cao. Sự phụ thuộc của kích thước tinh
thể trung bình vào thời gian nghiền được thể hiện trong hình 3.8. Kích thước tinh thể
trung bình của pha Fe50Co50 đã thay đổi nhanh trong khoảng thời gian nghiền từ 0,25
đến 4 giờ và sau đó thay đổi chậm hơn khi tiếp tục tăng thời gian nghiền. Kích thước
72
tinh thể trung bình, thông số cấu trúc của bột Fe50Co50 sau nghiền xác định từ các
giản đồ XRD được tóm tắt trong bảng 3.4.
Hình 3.8. Kích thước tinh thể trung bình phụ thuộc thời gian nghiền.
Hình 3.9 là ảnh FESEM đại diện của mẫu bột hợp kim Fe50Co50 nghiền ở 1
giờ và 10 giờ. Ảnh FESEM cho thấy sự kết tụ của các hạt có kích thước nhỏ thành
các hạt lớn hơn. Điều này có thể là do các hạt nano tinh thể được tạo ra bởi nghiền cơ
năng lượng cao có năng lượng bề mặt lớn nên dễ kết tụ với nhau. Kích thước hạt được
xác định bởi qua ảnh FESEM phù hợp tốt với kích thước hạt trung bình được tính
toán từ số liệu XRD.
Hình 3.9. Ảnh FESEM của các mẫu hợp kim nghiền trong (a) 1h, (b) 10h.
3.3.2. Ảnh hưởng của thời gian nghiền lên tính chất từ
Hình 3.10 là kết quả đo đường cong từ trễ của các mẫu bột hợp kim Fe50Co50
theo thời gian nghiền khác nhau. Có thể quan sát thấy, tất cả các đường cong từ trễ
có dáng diệu trơn tru tương đối giống nhau với giá trị HC, HR thấp, biểu hiện đường
đo của một pha sắt từ mềm. Từ các đường từ trễ này, chúng tôi xác định các giá trị từ
0 4 8 12 16 20 24 28 320
10
20
30
40
50
60
70
80
DX
RD (
nm
)
Thời gian nghiền (h)
(a) (b)
73
độ bão hòa MS và lực kháng từ HC của các mẫu theo thời gian nghiền khác nhau như
thể hiện trong bảng 3.5.
-10k -8k -6k -4k -2k 0 2k 4k 6k 8k 10k
-200
-150
-100
-50
0
50
100
150
200
10 h 12 h 16 h 20 h 24 h 32 h
-300 -200 -100 00
3
6
9
12
Từ
độ
(em
u/g)
Từ trường (Oe)
0,25 h 0,5 h 0,75 h 1 h 2 h 4 h 8 h
Hình 3.10. Đường cong từ trễ của vật liệu Fe50Co50 với thời gian nghiền khác nhau.
Bảng 3.5. Giá trị từ độ bão hòa, lực kháng từ của vật liệu Fe50Co50 tại 11k Oe theo
thời gian nghiền.
Tnghiền 0,25h 0,5h 0,75h 1h 2h 4h 8h 10h 12h 16h 20h 24h 32h
MS
(emu/g) 177 176 178 175 181 188 196 200 202 187 172 163 160
HC (Oe) 58 69 92 94 94 90 87 85 92 104 193 252 280
Khi thời gian nghiền tăng từ 0,5 giờ đến 12 giờ, từ độ MS tăng mạnh. Khi thời
gian nghiền tiếp tục tăng trên 12 giờ, từ độ lại giảm (xem hình 3.11). Từ độ lớn nhất
đạt được ~202 emu/g đối với mẫu nghiền trong 12 giờ (xem Bảng 3.5). Sự tăng của
từ độ trong khoảng thời gian nghiền 12 giờ có thể liên quan đến qua trình phản ứng
hợp kim (hợp kim hóa) giữa Fe và Co trong quá trình nghiền năng lượng cao tạo
thành pha Fe50Co50 như phân tích ở phần trên. Khi thời gian nghiền tiếp tục tăng trên
12 giờ, từ độ MS của mẫu lại giảm, có thể là do lúc này pha oxit (Fe, Co) bắt đầu hình
thành nhiều hơn trong mẫu do quá trình nghiền được thực hiện trong không khí. Trong
các công bố trước đây [45, 49, 111], các tác giả đã cho rằng khi mẫu được nghiền
trong môi trường khí Argon, không có sự thay đổi đáng kể nào của MS, kể cả đối với
các mẫu được nghiền trong thời gian dài. Về giá trị lực kháng từ, HC tăng mạnh trong
74
khoảng thời gian nghiền ban đầu (< 2 giờ), sau đó giảm nhẹ khi thời gian nghiền trong
khoảng từ 2 đến 10 giờ và tăng trở lại khi thời gian nghiền lớn hơn 10 giờ. Sự tăng
HC trong khoảng thời gian nghiền ngắn có thể là kết quả của việc chuyển đổi từ pha
tinh thể fcc sang hcp Co [112], việc giảm lực kháng từ trong 2 và 10 giờ nghiền có
thể là do giảm kích thước hạt (phù hợp với mô hình dị hướng ngẫu nhiên). Sự tăng
của lực kháng từ ở thời gian nghiền trên 10 giờ có thể do một số nguyên nhân: ứng
suất, tạp chất, sai hỏng, tương tác hạt, v.v trong vật liệu Fe50Co50 [113].
0 4 8 12 16 20 24 28 32150
160
170
180
190
200
MS (
emu
/g)
Thời gian nghiền (giờ)
FC50
HC
MS
50
100
150
200
250
300
HC (
Oe)
Hình 3.11. Từ độ MS và lực kháng từ HC của các mẫu hợp kim Fe50Co50
theo thời gian nghiền.
0 5 10 15 20 25 30120
140
160
180
200
220
240
Thời gian (ngày)
FC50-10h FC50-32h
Ms (
emu/
g)
Hình 3.12. Độ ổn định từ độ bão hòa MS của mẫu FC50 được lưu giữ
trong không khí
Các mẫu bột hợp Fe50Co50 sau khi nghiền 10 giờ và 32 giờ được bảo
quản trong môi trường không khí, ở nhiệt phòng. Từ độ bão hòa MS của các mẫu này
được giám sát theo thời gian trong vòng 30 ngày. Như thể hiện trong hình 3.12, từ độ
75
MS của các mẫu gần như không thay đổi. Điều này có nghĩa là, bột hợp kim nano
Fe50Co50 sau nghiền cơ năng lượng cao có khả năng chống oxy hóa tốt. Đây có thể là
hệ quả của việc hình thành của một lớp oxit thụ động mỏng xung quanh các hạt bột
nghiền trong quá trình nghiền. Như vậy, có thể nói các hạt nano Fe50Co50 ổn định
không khí đã được chế tạo thành công bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao.
Giá trị từ độ bão hòa MS của mẫu hạt nano Fe50Co50 chế tạo được, mặc dù tương
đối ổn định trong không khí, nhưng lại thay đổi theo thời gian nghiền và thấp hơn
một chút so với mẫu khối và mẫu được nghiền trong môi trường Ar. Nguyên nhân
được giải thích ở trên là do hình thành lớp oxit thụ động trên bề mặt hạt trong quá
trình nghiền. Để làm sáng tỏ pha oxit này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát giản đồ
XRD một cách kỹ lưỡng đối với mẫu Fe50Co50 được nghiền trong không khí. Hình
3.13 là giản đồ XRD của mẫu Fe50Co50 nghiền trong 10 giờ được quét phổ với thời
gian giữ trên mỗi bước đo là 60s/0.015O (các phép đo XRD thông thường được đo từ
1-11s). Tốc độ quét chậm cho phép có thể ghi nhận được các đỉnh nhiễu xạ với cường
độ rất nhỏ của một pha tinh thể nào đó nếu có.
30 40 50 60 70 80 90Góc 2 (độ)
Fe3O
4
35 40 45 50 55 60
(440)
(511)
(311)
Cư
ờng
độ
(đvt
đ)
Hình 3.13. Giản đồ XRD của mẫu Fe50Co50 nghiền trong 10 giờ.
Hình nhỏ chèn bên trong phóng đại vị trí đỉnh nhiễu xạ của pha Fe3O4.
Như thể hiện trong hình 3.13, mẫu XRD được quét chậm cho thấy rõ ràng sự
có mặt của pha thứ hai, bên cạnh các đỉnh nhiễu xạ mạnh và sắc nét của pha Fe-bcc
trong mẫu nghiền Fe50Co50. Phân tích định tính pha cho thấy, các đỉnh nhiễu xạ của
pha lạ với cường độ yếu này tương ứng với pha lập phương tâm mặt Fe3O4 (PDF 65-
3107) [114] (không có đỉnh nào ứng với pha tinh thể oxit Co). Việc phát hiện pha thứ
hai với cường độ rất nhỏ ở đây là nhờ tốc độ quét rất chậm với thời gian giữ trên mối
76
bước đo là 60s, trong khi đó thông thường tốc độ quét để ghi nhận giản đồ XRD được
sử dụng là 1-11s. Ngoài ra, một lượng nhỏ oxy cũng được tìm thấy qua phân tích phổ
tán sắc năng lượng (EDS) trong các mẫu bột sau nghiền, minh chứng thêm việc pha
oxit Fe3O4 đã hình thành trong mẫu. Pha oxit thụ động hình thành như vậy là nguyên
nhân các hạt từ bền trong môi trường không khí, có giá trị từ độ thấp hơn và đó cũng
là lý do tại sao càng tăng thời gian nghiền, từ độ MS càng giảm.
3.3.3. Ảnh hưởng nhiệt độ ủ lên đặc trưng tính chất hệ vật liệu nano Fe50Co50
Các mẫu hợp kim được chế tạo bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao
thường mang trong mình nhiều ứng suất, khuyết tật, sai hỏng mạng. Ủ nhiệt mẫu sau
khi nghiền là một cách để hoàn thiện vi cấu trúc, cũng như điều khiển cỡ hạt tinh thể,
là các thông số ảnh hưởng mạnh lên tính chất từ của vật liệu. Để khảo sát ảnh hưởng
của nhiệt độ và thời gian ủ lên tính chất của vật liệu nano Fe50Co50 sau nghiền cơ năng
lượng cao, chúng tôi tiến hành ủ nhiệt trong 1 giờ mẫu nghiền 10 giờ dưới dòng khí
H2 (5%) + Ar ở các nhiệt độ khác nhau. Các mẫu sau nghiền FC50-10h và sau khi ủ
ở nhiệt độ 500, 600 và 700OC được ký hiệu lần lượt là FC50-10h, FC50-10h-500,
FC50-10h-600, FC50-10h-700. Mục đích ủ nhiệt nhằm nghiên cứu ảnh hưởng của
nhiệt độ ủ lên cấu trúc và tính chất từ của hạt nano Fe50Co50 và xác định sự tồn tại
của pha oxit trong bột nghiền cũng như sự thay đổi của pha này sau khi ủ. Ngoài ra,
chúng tôi cũng đi nghiên cứu sự phụ thuộc của từ độ bão hòa vào nhiệt độ trong mẫu
Fe50Co50 ủ nhiệt.
30 40 50 60 70 80 90
Cư
ờng
độ
(đvt
đ)
Góc 2(độ)
700OC
600OC
500OC
bcc-FeCo
Fe3O
4
(110)
(200)(211)
34 35 36 37
500OC
600OC
700OC
Hình 3.14. Giản đồ XRD của mẫu bột Fe50Co50 nghiền 10 giờ ủ ở các nhiệt độ
khác nhau. Hình nhỏ là hình phóng đại các đỉnh nhiễu xạ của pha Fe3O4.
77
Hình 3.14 trình bày giản đồ XRD của các mẫu sau khi ủ nhiệt FC50-10h-500,
FC50-10h-600 và FC50-10h-700. Có thể quan sát thấy rõ độ rộng nửa vạch phổ của
các đỉnh nhiễu xạ đặc trưng của pha bcc-Fe50Co50 giảm dần, trong khi cường độ của
các đỉnh nhiễu xạ tăng theo nhiệt độ ủ. Các đỉnh đặc trưng cho pha Fe3O4 giảm dần
khi nhiệt độ ủ tăng lên và biến mất hoàn toàn ở 700OC (như thể hiện trong hình 3.14),
minh chứng rõ ràng cho việc pha Fe3O4 bị khử bởi hydro.
27 500 600 7000
25
50
75 D
XRD
Ứng suất nội
Nhiệt độ ủ (OC)
d XR
D (n
m)
mẫu nghiền
0,0
0,1
0,2
0,3
0,4
0,5
0,6
Ứn
g suất (%
)
Hình 3.15. Kích thước tinh thể trung bình và ứng suất nội của các mẫu Fe50Co50
nghiền 10 giờ ủ ở các nhiệt độ khác nhau.
Hình 3.15 minh họa sự thay đổi của kích thước tinh thể trung bình và ứng suất
nội của tất cả các mẫu theo nhiệt độ ủ. So với mẫu chưa ủ FC50-10h, kích thước tinh
thể trung bình của tất cả các mẫu ủ được tăng lên trong khi ứng suất nội giảm theo
nhiệt độ ủ. Kết quả này là phù hợp với nghiên cứu được công bố [47, 112, 115, 116].
Hình 3.16 là ảnh SEM của các mẫu FC50-10h và FC50-10h-700. Ảnh này cho
thấy sự kết tụ mạnh mẽ của các hạt có kích thước nano thành các hạt có kích thước
lớn hơn. Phân tích phổ EDS của các mẫu FC50-10h và FC50-10h-700 (vùng phân
tích là hình chữ nhật màu đỏ trong hình 3.16) cho thấy tỷ lệ phần trăm khối lượng của
kim loại Fe và Co chiếm đa số trong khi tỉ lệ khối lượng oxy lại khá nhỏ (2,16% đối
với FC50-10h và 0,3% đối với FC50-10h-700). Một tỷ lệ nhỏ oxy như vậy trong mẫu
FC50-10h-700 dẫn đến lượng pha oxit cũng sẽ rất nhỏ và không quan sát thấy trên
phổ XRD như trong hình 3.14.
78
Hình 3.16. Ảnh SEM và phổ EDS tiêu biểu của mẫu FC50-10h và FC50-10h-700.
Hình 3.17. Ảnh HRTEM tiêu biểu của FC50-10h (a) và FC50-10h-700 (b).
Hình nhỏ chèn bên trong là phổ SAED tương ứng.
Hình 3.17 là ảnh hiển vi điện tử truyền qua có độ phân giải cao HRTEM và
phổ nhiễu xạ vùng lọc lựa (SAED) của hai mẫu FC50-10h và FC50-10h-700. Khảo
sát ảnh trường sáng được thể hiện trong hình 3.17 (a), cho thấy kích thước hạt trung
bình của mẫu FC50-10h có giá trị khoảng 15 nm trở lại. Kết quả này sự phù hợp
với tính toán từ giản đồ nhiễu xạ tia X ở trên. Phổ SAED (hình nhỏ được chèn trong
(a) (b)
FC50-10h FC50-10h-700
79
3.17 (a)) thể hiện phổ của pha bcc rời rạc ứng với các pha Fe50Co50 và các điểm
nhiễu xạ của pha fcc yếu ứng với pha Fe3O4. Sau khi ủ ở 700OC, các hạt trở nên
đồng đều hơn, lúc đó phổ SAED (như thể hiện trong hình 3.17 (b) không còn thấy
dấu hiệu của pha Fe3O4. Như vậy, kết quả phân tích giản đồ XRD và phổ SAED
đều cho thấy pha oxit Fe3O4 không còn tồn tại trong mẫu FC50-10h-700.
Hình 3.18 thể hiện sự thay đổi của từ độ MS và lực kháng từ HC của các mẫu
bột nghiền trong 10 giờ ủ ở các nhiệt độ khác nhau. Như thể hiện trong hình này, MS
đã tăng từ 200 emu/g (FC50-10h) lên tới 220 emu/g (FC50-10h-700). Sự tăng MS
trong các mẫu ủ nhiệt được cho là hệ quả của việc giảm pha oxit (xem hình 3.8) cũng
như sự tăng trưởng của kích thước hạt (xem hình 3.9). Tuy nhiên, cũng có thể thấy
trong hình 3.18, MS của tất cả các mẫu bột được ủ vẫn nhỏ hơn so với các mẫu khối.
Sự khác biệt cũng có thể còn do một số nguyên nhân như hiệu ứng dị hướng bề mặt
[112]. Trong một thí nghiệm khác, chúng tôi đã ủ nhiệt (cùng chế độ ủ nhiệt với mẫu
ở trên) mẫu được nghiền trong 32 giờ với từ độ ban đầu MS ~160 emu/g [115]. Sau
khi ủ, từ độ MS tăng lần lượt là 206 emu/g, 210 emu/g và 215 emu/g tương ứng với
nhiệt độ ủ ở 500, 600 và 700OC. Như vậy, rõ ràng rằng sự thay đổi của MS theo nhiệt
độ ủ không chỉ phụ thuộc vào nhiệt độ ủ mà còn vào cả thời gian nghiền ban đầu và
mức độ oxy hóa của mẫu nghiền trước khi ủ.
Như thể hiện trong hình 3.18 và Bảng 3.6, lực kháng từ HC của các mẫu sau khi
ủ nhỏ hơn so với mẫu sau khi nghiền. Như vậy, các giá trị HC của các mẫu bột đã
được ủ không chỉ phụ thuộc vào thời gian nghiền và còn phụ thuộc vào nhiệt độ ủ và
hơn nữa có thể tạo được bột hợp kim có HC cỡ 10-1 Oe, một giá trị điển hình để coi
vật liệu là từ mềm. Kết quả này có sự khác biệt lớn với [113], trong đó HC của mẫu
27 500 600 700195
200
205
210
215
220
225
Nhiệt độ nung (OC)
40
50
60
70
80
90
HC (
emu
/g)
Ms
(em
u/g
)
HC
MS
Hình 3.18. MS và HC của mẫu FC50-10h và ủ ở nhiệt độ 500, 600, 700OC.
80
cũng được tổng hợp bằng phương pháp hợp kim cơ có giá trị tương đối cao cỡ 12 Oe
và không phụ thuộc nhiệt độ ủ. Các tác giả [113] cũng cho rằng đóng góp của dị
hướng từ tinh thể vào HC chỉ có vai trò thứ yếu so với các dạng dị hướng khác. Nguyên
nhân của sự khác biệt theo chúng tôi là do sự khác nhau trong điều kiện thực nghiệm
(loại máy nghiền, tỉ lệ bi:bột, tốc độ, môi trường nghiền…). Từ các thông số nghiền
cụ thể có thể thu được các bột hợp kim có kích thước, ứng suất, mức độ bị ôxy hóa
hoàn toàn khác nhau và do đó ảnh hưởng của xử lý nhiệt tới các tính chất từ, đặc biệt
là HC cũng khác nhau.
Bảng 3.6. Các thông số tính chất của bột hợp kim Fe50Co50 được chế tạo bằng
phương pháp nghiền cơ năng lượng cao kết hợp ủ nhiệt.
Tên mẫu Điều kiện công nghệ dXRD (nm) MS (emu/g) HC (Oe)
FC50-10h Nghiền 10 giờ 12 200 90
FC50-10h-500 500OC, 1 giờ 21 210 40
FC50-10h-600 600OC, 1 giờ 34 215 45
FC50-10h-700 700OC, 1 giờ 71 220 60
Để hiểu rõ hơn ảnh hưởng của nhiệt độ tới giá trị HC, chúng tôi đã tiến hành
đo đường cong khử từ đối với mẫu FC50-10h-700 trên hệ đo các tính chất vật lý
PPMS với từ trường ngoài đạt 5 Tesla, nhiệt độ thay đổi từ 20K – 300K. Kết quả
được đưa ra ở hình 3.19. Chúng tôi nhận thấy rằng giá trị HC giảm dần khi tăng nhiệt
độ. Kết quả này thu được tương tự với kết quả đã được Zeng và cộng sự [113] công
bố trước đó. Các tác giả cho rằng, sự giảm lực kháng từ là do sự tăng lên của tương
tác nội phân tử khi nhiệt độ tăng.
Sự phụ thuộc kích thước hạt của HC trong phạm vi nano có thể được giải thích
bằng mô hình dị hướng ngẫu nhiên [117] của Herzer dựa trên chiều dài tương tác trao
đổi từ trung bình, Lex = (A/K1)1/2, trong đó A là hằng số trao đổi (exchange stiffness) của
vật liệu và K1 là hằng số dị hướng từ tinh thể (trong trường hợp Fe50Co50, Lex = 46 nm
[112]). Đối với các hạt có kích thước nhỏ hơn nhiều so với Lex, HC có thể được mô tả
theo hàm D6 với D là kích thước hạt [117]. Tuy nhiên, chúng tôi đã không quan sát lực
kháng từ của các mẫu nghiền kết hợp ủ nhiệt tuân theo quy luật này. Điều này có thể là
do sự đóng góp đồng thời của nhiều hiệu ứng khác nhau: dị hướng bề mặt, tương tác
giữa các hạt,... đặc biệt là hiệu ứng kích thước hạt. Sự phụ thuộc HC vào nhiệt độ ủ của
81
các mẫu này khác so với công bố [113]. Rất có thể sự khác biệt này là do bột hợp kim
được chế tạo trong các điều kiện thí nghiệm khác nhau (loại máy nghiền, thời gian
nghiền...) dẫn đến bột sau nghiền có thể có ứng suất, khuyết tật, oxy hóa, ... khác nhau.
-12 -10 -8 -6 -4 -2 0-0.05
0.00
0.05
0.10
0.15
0.20
0.25
0.30
0.35
M (
emu/
g)
H (Oe)
300 K 250 K 200 K 150 K 100 K 50 K 20 K
Hình 3.19. Góc phần tư thứ nhất đường cong khử từ của mẫu FC50-10h-700
đo ở các nhiệt độ khác nhau trong từ trường ngoài 5T.
Kết luận
Các hạt nano Fe50Co50 với kích thước tinh thể trung bình từ 12 nm đến 71 nm
đã được nghiên cứu và chế tạo thành công bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng
cao kết hợp ủ nhiệt từ bột Fe và Co. Ảnh hưởng của thời gian nghiền và nhiệt độ ủ
lên cấu trúc và tính chất từ của hạt nano Fe50Co50 sau nghiền đã được khảo sát và phân
tích. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Đã tạo ra được pha Fe50Co50 bền bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng
cao trong không khí. Sau 10 giờ nghiền, bột Fe50Co50 đã được hợp kim hóa hoàn toàn
từ bột Fe và Co. Kích thước tinh thể trung bình của pha Fe50Co50 thay đổi nhanh trong
khoảng thời gian nghiền từ 0,5 đến 10 giờ và sau đó thay đổi chậm hơn khi tiếp tục
tăng thời gian nghiền.
- Từ độ bão hòa MS của các mẫu bột hợp kim Fe50Co50 tăng khi thời gian
nghiền tăng từ 0-12 giờ và sau đó giảm khi thời gian nghiền tiếp tục tăng. Trong khi
đó, lực kháng từ HC tăng mạnh trong khoảng thời gian nghiền < 2 giờ, sau đó giảm
nhẹ khi thời gian nghiền trong khoảng 02 - 10 giờ và tăng trở lại khi thời gian nghiền
lớn hơn 10 giờ. Từ độ bão hòa đạt cao nhất đạt ~ 200 emu/g ở mẫu nghiền trong 10
giờ. Sự tăng của từ độ MS trong khoảng thời gian đầu do tăng hợp kim hóa tạo thành
82
pha Fe50Co50 và sau đó giảm khi thời gian nghiền tăng là do hình thành pha oxit thụ
động trên bề mặt hạt mẫu. Sự tăng HC trong khoảng thời gian nghiền ngắn có thể do
chuyển đổi từ pha tinh thể fcc sang hcp Co, sau đó giảm do giảm kích thước hạt và
tăng trở lại khi thời gian nghiền > 10 giờ có thể do ứng suất, tạp chất, sai hỏng, v.v.
Bột hợp kim nano Fe50Co50 sau nghiền cơ năng lượng cao thể hiện có từ độ MS ổn
định và bền trong không khí.
- Các mẫu bột hợp kim Fe50Co50 sau khi ủ nhiệt có từ độ MS tăng lên đến 220
emu/g. Sự tăng của MS khi ủ nhiệt là do kích thước tinh thể trung bình tăng và giảm
pha oxit bề mặt. Lực kháng từ HC của các mẫu sau khi ủ nhỏ hơn so với mẫu sau khi
nghiền và quy luật phụ thuộc vào kích thước không tuân theo hàm D6.
3.4. Đặc trưng cấu trúc và tính chất từ của hệ Fe65Co35
3.4.1. Đặc trưng cấu trúc theo thời gian nghiền
40 50 60 70 80
* *
Cư
ờn
g độ
(đvt
đ)
Góc 2 (độ)
0,25 h
0,5 h
0,75 h
1 h
2 h
4 h
8 h
10 h
12 h
16 h
24 h32 h
20 h
* hcp Co
Hình 3.20. Giản đồ XRD của các mẫu Fe65Co35 theo thời gian nghiền.
Hình bên cạnh phóng đại vị trí đỉnh nhiễu xạ của pha Co.
Giản đồ XRD trong hình 3.20 cho thấy sự thay đổi pha tinh thể của mẫu
Fe65Co35 theo thời gian nghiền. Như thể hiện trong hình 3.20, sau 10 nghiền, các đỉnh
nhiễu xạ ứng với pha hcp-Co ban đầu đã biến mất hoàn toàn (xem hình 3.20 (b)).
Các đỉnh nhiễu xạ ứng với cấu trúc bcc của Fe-Co được mở rộng do giảm kích thước
tinh thể và tăng sự ứng suất nội trong quá trình nghiền [118]. Kích thước tinh thể trung
bình và ứng suất nội của mẫu Fe65Co35 thay đổi nhanh trong 2 giờ nghiền đầu và sau
83
đó thay đổi chậm hơn khi thời gian nghiền tiếp tục tăng, như trong hình 3.21 và bảng
3.7. Cũng giống như mẫu Fe50Co50 trình bày ở phần trên, điều này có thể được giải
thích bằng sự khuếch tán của các nguyên tử Co vào cấu trúc Fe-bcc dẫn đến sự hình
thành dung dịch rắn Fe-bcc-Co [45, 112]. Kết quả của chúng tôi cùng với nhiều nghiên
cứu khác [45, 111, 119] đều cho thấy việc tạo được hợp kim Fe-Co bằng nghiền cơ
năng lượng cao từ bột Fe và Co phụ thuộc mạnh vào các kỹ thuật và điều kiện thí
nghiệm sử dụng (loại máy nghiền, tỷ lệ bi/bột, tốc độ nghiền, thời gian nghiền...).
Hình 3.21. Kích thước tinh thể trung bình và ứng suất nội của các mẫu vật liệu nano
Fe65Co35 theo thời gian nghiền.
Bảng 3.7. Kích thước tinh thể trung bình và ứng suất nội của các mẫu vật liệu nano
Fe65Co35 theo thời gian nghiền khác nhau.
Tên mẫu Tnghiền (giờ) Nhiệt độ ủ (OC) DXRD (nm) r
FC35-2h 2 32 0,185
FC35-4h 4 20 0,316
FC35-6h 6 17 0,337
FC35-8h 8 14 0,363
FC35-10h 10 10 0,380
FC35-10h-500 10 500 30 na
FC35-10h-600 10 600 35 na
FC35-10h-700 10 700 46 na
84
Tương tự như mẫu Fe50Co50, ảnh FESEM của mẫu Fe65Co35 sau nghiền cho thấy
sự kết tụ mạnh của các hạt có kích thước nano (~10 nm) thành các hạt lớn hơn (xem
hình 3.22). Nguyên nhân là do các hạt mịn hình thành trong quá trình nghiền sẽ có năng
lượng bề mặt lớn nên dễ kết hợp với nhau. So với kích thước hạt tinh thể trung bình
tính từ giản đồ XRD, kích thước hạt được xác định bởi các ảnh FESEM là khá phù hợp.
Hình 3.22. Ảnh SEM của các mẫu bột hợp kim Fe65Co35 với thời gian nghiền
khác nhau: (a) 2 giờ, (b) 10 giờ, (c) 24 giờ và (d) 32 giờ
Để chứng minh bột mẫu nghiền đã được hợp kim hóa, xác định các pha tinh
thể trong mẫu, ngoài phân tích định tính pha từ giản đồ XRD như ở trên, chúng tôi
tiến hành khảo sát phổ hấp phụ nhiễu xạ tia X (XAS). Phổ XAS (XANES và EXAFS)
cho phép xác định môi trường xung quanh các tâm kim loại từ đó biết được mức độ
hoạt động cũng như vị trí của các tâm, có hay không nằm trong khung mạng tinh thể
hoặc cấu trúc của các dị phân tử khác có mặt trong pha vật liệu. Từ các kết quả này
có thể xác định khả năng hợp kim hóa của mẫu.
Để có thể xác định và phân tích phổ XAS của vật liệu, trước tiên cần xác định
phổ XAS chuẩn của các mẫu nguyên chất Fe với cấu trúc bcc xếp chặt và Co với cấu
trúc hcp xếp chặt. Hình 3.23 là phổ Fe và Co K-edge XANES với mẫu chuẩn Fe (bcc)
và mẫu chuẩn Co (hcp). Phổ này cho thấy sự khác biệt về vị trí ngưỡng (edge) chính
85
(thông tin về hóa trị), hình dạng của đỉnh và vai (thông tin về hình dạng của môi
trường xung quanh).
Hình 3.23. Phổ chuẩn Fe và Co K-edge XANES của (a) Fe và (b) Co.
Hình 3.24. So sánh phổ thường XANES và biến đổi Fourier của phổ EXAFS của
(a, b) mẫu chuẩn Fe (bcc) (thu được từ Fe K-edge) và (c, d) mẫu chuẩn Co (hcp)
(thu được từ Co K-edge) và mẫu hợp kim Fe-Co.
Phổ K-edge XANES và EXAFS của mẫu hợp kim FC35 nghiền và ủ nhiệt
được trình bày trong hình 3.24. Phổ Fe K-edge XANES và EXAFS trong hình 3.24a
86
và 3.24b cho thấy rõ ràng cấu trúc xung quanh Fe thuộc về pha tinh thể có cấu trúc
bcc và có trạng thái oxy hóa là +0 trong tất cả các mẫu nghiền. Nói cách khác, phổ
XAS không cho thông tin nào về pha Fe3O4 đã được phát hiện bằng phép đo XRD
(xem hình 3.20). Như vậy, kỹ thuật XAS có thể không đủ nhạy để phát hiện pha Fe3O4
nồng độ thấp.
Phổ Co K-edge XANES và EXAFS trong hình 3.24c và 3.24d cho thấy vị trí
đỉnh đã dịch chuyển từ đỉnh Co (hcp) gần vị trí 4,1 Å sang đỉnh Fe (bcc) ở gần vị trí
4,5 Å khi thời gian nghiền thay đổi từ 2 đến 6 giờ. Đồng thời, đỉnh ở vị trí 4,5 Å tăng.
Kết quả này phù hợp với công bố của nhóm [120]. Nói cách khác, cấu trúc xung
quanh Co dần thay đổi từ cấu trúc hcp sang cấu trúc bcc khi thời gian nghiền tăng,
chứng tỏ độ hợp kim hóa tăng.
Bảng 3.8. Tỉ phần của pha cấu trúc bcc và hcp xác định từ phổ k-weighted
EXAFS của các mẫu hợp kim Fe-Co.
Tên mẫu Tỉ phần pha bcc
(mẫu chuẩn Fe)
Tỉ phần pha hcp
(mẫu chuẩn Co)
Hệ số R
FC35-2h 0,212 0,788 0,0932
FC35-4h 0,551 0,449 0,2414
FC35-6h 0,740 0,260 0,1785
FC35-8h 0,831 0,169 0,1164
FC35-10h 0,835 0,165 0,0656
FC35-10h-600 0,936 0,064 0,0122
FC35-10h-700 0,961 0,039 0,0071
Để quan sát rõ hơn sự biến đổi Co từ cấu trúc hcp sang bcc, chúng tôi tiến hành
khảo sát phổ EXAFS có k đo ở bờ Co K, để tăng cường phổ EXAFS ở vùng k cao (k
là mô đun của vectơ sóng quang điện tử). Hình 3.25 là phổ EXAFS này của các mẫu
hợp kim Fe-Co và mẫu Fe (bcc) và Co (hcp) chuẩn. Như thể hiện trong hình 3.25,
đỉnh gần vị trí 4,5 Å của tất cả các mẫu nghiền (trong 6 và 10 giờ) và ủ nhiệt (trong
500 và 700OC) tương tự như đỉnh của mẫu Fe-bcc chuẩn. Kết quả này phù hợp với
kết quả quan sát được từ các giản đồ XRD như trong hình 3.20.
87
Hình 3.25. So sánh phổ k-weighted
EXAFS đo được của mẫu chuẩn Co
(hcp), mẫu hợp kim Fe-Co và mẫu
chuẩn Fe (bcc).
Hình 3.26. So sánh phổ thường Co K-
edge XANES của mẫu hợp kim Fe-Co
(đường liền nét) và đường làm khớp sử
dụng phương pháp LCF (đường nét đứt).
Chúng tôi đã tiến hành tính toán tỷ phần cấu trúc bcc và hcp trong các mẫu
bằng cách làm khớp theo phương pháp kết hợp tuyến tính (LCF). Trong phương pháp
LCF, phổ hấp thụ tia X chưa biết sẽ được tính toán bằng cách làm khớp bình phương
tối thiểu sử dụng kết hợp tuyến tính với một loại phổ đã biết. Phương pháp LCF có
thể được áp dụng cho phổ XANES, đạo hàm của XANES hoặc phổ EXAFS. Các kết
quả tính toán thu được từ phổ K-weighted EXAFS của các mẫu hợp kim Fe-Co được
tóm tắt trong bảng 3.8. Kết quả tính toán làm khớp tốt được đánh giá thông qua tổng
số dư (hệ số R). Từ bảng này, có thể thấy rằng quá trình hợp kim hóa vẫn chưa hoàn
toàn với mẫu nghiền trong 10 giờ, nhưng gần như hoàn toàn với sau khi mẫu được ủ
ở 700OC, 1 giờ.
Để kiểm tra tỷ phần Co trong cấu trúc hcp / hoặc bcc, chúng tôi giải thiết phổ
K-weighted EXAFS của mẫu chuẩn Fe (bcc) và mẫu chuẩn Co (hcp) là phổ chính đã
biết để sử dụng trong làm khớp kết hợp tuyến tính (LCF). Quá trình làm khớp được
thực hiện bằng tính tổng có trọng số của hai phổ chuẩn pha bcc và hcp [116].
Sav(k) = fbccSbcc(k) + (1-fbcc) Shcp(k) (3.1)
trong đó Sbcc và Shcp là phổ EXAFS bcc (mẫu chuẩn Fe) và hcp (Co mẫu chuẩn)
và fbcc là tỉ phần bcc. fbcc được phép thay đổi giữa 1 (cấu trúc bcc hoàn toàn) và 0 (cấu
trúc hcp hoàn toàn). Kết quả làm khớp được thể hiện trong Bảng 3.8.
Theo cách tương tự, chúng ta có thể xác định tỷ phần Co trong các cấu trúc
bcc và hcp từ phổ Co K-edge XANES bằng cách sử dụng phổ XANES của FC35-
88
10h-700 (cấu trúc bcc hoàn toàn) và mẫu FC35-2h (cấu trúc hcp hoàn toàn) làm phổ
chính đã biết. Kết quả so sánh phổ Co K-edge XANES chuẩn của các mẫu Fe-Co hợp
kim và kết quả làm khớp bằng phương pháp LCF được thể hiện trong hình 3.26. Tỷ
phần của hai thành phần phổ chính thu được từ làm khớp cũng được thể hiện trong
Bảng 3.9. Có sự khác biệt về kết quả được đưa ra trong Bảng 3.8 và 3.9 do mẫu FC35-
2h được coi là cấu trúc hcp hoàn toàn. Tuy nhiên, kết quả làm khớp này cho phép
chúng tôi đánh giá chính xác hơn quá trình hợp kim hóa trong quá trình nghiền và ủ
nhiệt.
Bảng 3.9. Tỉ phần của pha cấu trúc bcc và hcp xác định từ phổ Co K-edge XANES
đo được của các mẫu hợp kim Fe-Co.
Tên mẫu Tỉ phần pha bcc Tỉ phần pha hcp Hệ số R
FC35-4h 0.405 0.595 0.00023
FC35-6h 0.672 0.328 0.00025
FC35-8h 0.836 0.164 0.00027
FC35-10h 0.822 0.178 0.00050
FC35-10h-700 0.994 0.006 0.00005
3.4.2. Đặc trưng tính chất từ theo thời gian nghiền
-10k -8k -6k -4k -2k 0 2k 4k 6k 8k 10k
-200
-150
-100
-50
0
50
100
150
200
-200 -100 00
3
6
9
12
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (Oe)
0,5h 1h 2h 4h 8h 10h 12h 24h 32h
Hình 3.27. Đường cong từ trễ của vật liệu Fe65Co35 với thời gian nghiền khác nhau.
89
Đường cong từ trễ của các mẫu bột hợp kim Fe65Co35 được khảo sát theo thời
gian nghiền khác nhau trong từ trường ngoài ±11 kOe. Kết quả đo được thể hiện trong
hình 3.27. Tương tự như các mẫu Fe50Co50, tất cả các đường cong từ trễ của mẫu
Fe65Co35 đều có dáng diệu trơn tru tương đối giống nhau, biểu hiện đường đo của pha
sắt từ mềm. Từ các đường từ trễ này, chúng tôi xác định các giá trị từ độ bão hòa MS
và lực kháng từ HC của các mẫu hợp kim nano Fe65Co35 theo thời gian nghiền khác
nhau, như thể hiện trong Bảng 3.10.
Bảng 3.10. Giá trị từ độ bão hòa, lực kháng từ của vật liệu Fe65Co35
tại 11kOe theo thời gian nghiền.
Tnghiền 0,25h 0,5h 1h 2h 4h 8h 10h 12h 14h 16h 20h 24h 32h
MS
(emu/g) 176 179 179 179 183 194 205 198 194 190 183 180 165
HC (Oe) 39 45 64 94 87 89 94 106 114 121 138 158 253
Hình 3.28 biểu diễn giá trị MS và HC phụ thuộc vào thời gian nghiền của các
mẫu bột hợp kim Fe65Co35. Từ hình 3.28, chúng ta có thể quan sát thấy ba vùng khác
nhau của tính chất từ liên quan đến thời gian nghiền, vùng từ 0 đến 2 giờ, vùng từ 2
đến 10 giờ và vùng trên 10 giờ nghiền. Sự tăng giá trị MS trong khoảng < 10 giờ có
thể liên quan đến phản ứng tạo hợp kim giữa bột Fe và Co nguyên tố trong quá trình
nghiền. Việc quan sát mức giảm mạnh của MS đối với các mẫu có thời gian nghiền >
10 giờ được cho là do sự hình thành pha oxit (Fe, Co) khi quá trình nghiền được thực
hiện trong không khí. Trong các công bố [45, 49, 111] khi quá trình nghiền được tiến
hành trong môi trường khí trơ argon, không có thay đổi đáng kể nào của MS được ghi
nhận với cả các mẫu được nghiền trong thời gian dài. Giá trị từ độ cao nhất đạt được
trong mẫu vật liệu nano Fe65Co35 là 205 emu/g với thời gian nghiền là 10 giờ (xem
bảng 3.4). Về giá trị lực kháng từ, HC tăng mạnh trong giai đoạn đầu (< 2 giờ), giảm
một chút trong giai đoạn giữa (từ 2 đến 10 giờ) và tăng trở lại trong giai đoạn thứ ba
(> 10 giờ). Chúng tôi cho rằng sự tăng HC theo thời gian nghiền ngắn là kết quả của
việc chuyển đổi từ pha tinh thể fcc sang hcp Co [112], việc giảm HC trong vùng giữa
2 và 10 giờ do giảm kích thước hạt (phù hợp với mô hình dị hướng ngẫu nhiên). Có
một số lý do cho việc tăng HC khi thời gian nghiền > 10 giờ là sự gia tăng của ứng
suất nội, tạp chất, các khuyết tật mạng, tương tác hạt, v.v… [113].
90
Độ ổn định từ của các mẫu bột hợp kim Fe65Co35 cũng đã được khảo sát nghiên
cứu. Các mẫu bột sau nghiền trong 10 giờ và 24 giờ trong không khí được tiếp xúc với
không khí ở nhiệt độ phòng trong một tháng. Các giá trị từ độ bão hòa MS được theo
dõi theo từng ngày. Như thể hiện trong hình 3.29, MS của các mẫu gần như không thay
đổi theo thời gian. Điều này có nghĩa là, các mẫu bột hợp kim sau nghiền thể hiện khả
năng chống oxy hóa mạnh mẽ, và có từ độ MS ổn định. Sự ổn định của từ độ có thể là
do đã hình thành một lớp oxit thụ động mỏng xung quanh các hạt bột nghiền. Như vậy,
có thể nói, các hạt nano Fe65Co35 bền trong không khí đã được chế tạo thành công bằng
phương pháp nghiền cơ năng lượng cao trong môi trường không khí.
0 4 8 12 16 20 24 28 32160
165
170
175
180
185
190
195
200
205
Thời gian nghiền (giờ)
Ms (
emu
/g)
0
50
100
150
200
250
Hc (O
e)
Hình 3.28. Sự phụ thuộc của MS và HC vào thời gian nghiền của hợp kim Fe65Co35.
Hình 3.29. Từ độ MS của các mẫu Fe65Co35 nghiền 10 và 24 giờ
theo thời gian lưu giữ trong không khí.
91
3.4.3. Đặc trưng tính chất theo chế độ ủ nhiệt.
Cũng giống như mẫu Fe50Co50, chúng tôi tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của
ủ nhiệt lên cấu trúc và tính chất từ của bột hợp kim Fe65Co35 sau nghiền. Nghiên cứu
của chúng tôi tập trung vào 2 mẫu tiêu biểu có thời gian nghiền là 10 giờ và 32 giờ
với giá trị từ độ MS lần lượt là 205 emu/g và 170 emu/g. Các mẫu này được ủ nhiệt ở
các nhiệt độ khác nhau từ 400 đến 800OC trong môi trường khí H2 (5%) + Ar thổi
qua. Thời gian ủ nhiệt được giữ không đổi là 1 giờ.
Hình 3.30 trình bày giản đồ XRD của mẫu nghiền FC35-10h được ủ ở các
nhiệt độ khác nhau 500, 600 và 700oC (kí hiệu là FC35-10h-500, FC35-10h-600,
FC35-10h-700). Một điều quan sát thấy rõ các đỉnh đặc trưng của pha Fe3O4 giảm
dần khi nhiệt độ ủ tăng và biến mất hoàn toàn ở nhiệt độ 700oC. Điều đó có nghĩa là
pha Fe3O4 bị khử bởi trong môi trường ủ nhiệt có hydro. Đồng thời, khi nhiệt độ ủ
tăng, chiều rộng nửa bề rộng vạch phổ của các đỉnh nhiễu xạ đặc trưng pha Fe65Co35
giảm. Kết quả này cho thấy có sự lớn lên về kích thước tinh thể và giảm ứng suất nội
khi tăng nhiệt độ ủ [47, 113].
Chúng tôi đã tiến hành phân tích Rietveld cho tất cả các giản đồ XRD của các
mẫu thu được để xác định kích thước tinh thể trung bình và hằng số mạng. Kết quả
phân tích được ghi lại trong Bảng 3.1. Kết quả này cho thấy kích thước tinh thể trung
bình và hằng số mạng thay đổi theo nhiệt độ ủ, và phù hợp với các nghiên cứu trong
tài liệu [49, 110, 121].
40 50 60 70 80
FC35-10h-500
FC35-10h-600
* - Fe3O
4
* *
Góc 2 (độ)
Cư
ờng
độ
(đvt
đ)
FC35-10h-700
40 50 60 70 80
sau nghiềnFC35-32h-400FC35-32h-500FC35-32h-600FC35-32h-700C
ườ
ng đ
ộ (đ
vtđ
)
Góc 2 (độ)
FC35-32h-800
Hình 3.30. Giản đồ XRD của mẫu
FC35-10h ủ nhiệt ở các nhiệt độ khác nhau.
Hình 3.31. Giản đồ XRD của mẫu FC35-
32h ủ nhiệt ở các nhiệt độ khác nhau.
Tương tự với mẫu 10 giờ, mẫu bột Fe65Co35 nghiền 32 giờ sau đó ủ nhiệt cũng
thể hiện sự thay đổi pha tinh thể tương tự (xem hình 3.31). Có thể quan sát thấy cường
độ các đỉnh nhiễu xạ pha tinh thể bcc tăng và bề rộng nửa vạch phổ giảm dần khi
92
nhiệt độ ủ tăng. Kết quả này có thể là do sự phát triển của kích thước tinh thể với
nhiệt độ cũng như sự giảm ứng suất nội [47, 111, 121]. Chúng tôi đã quan sát thấy
tốc độ phát triển của kích thước tinh thể không phụ thuộc tuyến tính vào nhiệt độ, cụ
thể kích thước tăng mạnh khi nhiệt độ ủ lên tới 700oC và tăng ít hơn khi tiếp tục tăng
nhiệt độ ủ (Bảng 3.11).
Hình 3.32. Phổ EDX (a) và ảnh FESEM (b) của mẫu Fe65Co35 nghiền 10 giờ
và ủ nhiệt ở 700oC. Đỉnh C do ảnh hưởng của đế carbon.
Từ hình 3.20, không quan sát thấy các đỉnh nhiễu xạ của pha oxit sắt hoặc oxit
coban. Nhưng kết quả EDX của mẫu FC35-32h sau đó ủ nhiệt ở 700oC trong hình
3.32 cho thấy có một tỷ lệ nhỏ oxy (3-4%) ngoài pha chính bcc- Fe65Co35 với tỷ lệ
trung bình Fe/Co là 65,2/34,8. Ảnh FESEM (Hình 3.32b) của mẫu bột được nghiền
trong 32 giờ và ủ ở 700°C cho thấy sự kết tụ mạnh của các hạt có kích thước nano (~
50 nm) thành các hạt lớn hơn. So với kích thước tinh thể trung bình tính từ số liệu
XRD, kích thước hạt xác định từ ảnh FESEM là khá phù hợp.
Bảng 3.11. Thông số từ của một số mẫu bột hợp kim nano Fe65Co35
chế tạo bằng nghiền cơ năng lượng cao kết hợp ủ nhiệt.
Tên mẫu Nhiệt độ ủ (oC) HC (Oe) MS (emu/g) DXRD (nm)
FC35-32h 255 165 6,7
FC35-32h-400 400oC 79 187 14,4
FC35-32h-500 500oC 60 197 19,1
FC35-32h-600 600oC 20 218 26,1
FC35-32h-700 700oC 27 220 43,1
FC35-32h-800 800oC 36 221 46,1
FC35-10h 58 205 6,8
FC35-10h-500 500oC 27 217 30
FC35-10h-600 600oC 34 222 35
FC35-10h-700 700oC 35 220 39,7
93
500 600 700200
205
210
215
220
225
230
MS
(em
u/g)
Nhiệt độ ủ (OC) 28 400 500 600 700 800
160
170
180
190
200
210
220
Nhiệt độ nung (OC)
C
MS(
emu/
g)
Hình 3.33. Từ độ MS phụ thuộc nhiệt độ ủ
của các mẫu Fe65Co35 nghiền trong 10 giờ.
Hình 3.34. Từ độ MS theo nhiệt độ ủ của
các mẫu Fe65Co35 nghiền trong 32 giờ.
Hình 3.33 thể hiện sự thay đổi từ độ MS của Fe65Co35 nghiền 10 giờ được ủ ở
các nhiệt độ khác nhau. Có thế thấy rằng, MS của tất cả các mẫu ủ tăng lên so với
mẫu chưa ủ. Chúng tôi cho rằng sự tăng MS là do giảm pha oxit (xem hình 3.30) cũng
như sự phát triển của kích thước hạt (xem Bảng 3.11). Kết quả này phù hợp với kết
quả đã được công bố [115]. Tuy nhiên, cũng có thể thấy trong hình 3.33, MS của tất
cả các mẫu bị ủ vẫn có giá trị nhỏ hơn mẫu khối cùng thành phần. Nguyên nhân có
thể là do không hoàn toàn khử hết được oxy trên bề mặt hạt và/hoặc do hiệu ứng dị
hướng bề mặt [113]. Tương tự như vậy với mẫu nghiền 32 giờ ủ nhiệt, MS đã tăng
mạnh từ 165 emu/g lên tới 220 emu/g (Hình 3.34 và Bảng 3.11). Sự tăng độ từ hóa
như vậy cũng được cho là hệ quả của việc giảm lớp oxit xung quanh các hạt và sự
phát triển hạt tinh thể. Quy luật này cũng giống như khi nghiên cứu về hợp phần
Fe50Co50 phụ thuộc vào nhiệt độ ủ.
500 600 70035
40
45
50
55
60
HC(O
e)
Nhiệt độ nung (OC)28 400 500 600 700 800
0
50
100
150
200
250
HC(O
e)
Nhiệt độ nung (OC)
Hình 3.35. Lực kháng từ HC phụ thuộc
nhiệt độ ủ của các mẫu Fe65Co35 nghiền
trong 10 giờ.
Hình 3.36. Lực kháng từ HC phụ
thuộc nhiệt độ ủ của các mẫu
Fe65Co35 nghiền trong 32 giờ.
94
Như quan sát thấy trong hình 3.35 và 3.36, HC của mẫu nghiền 10 giờ tăng,
trong khi đó mẫu 32 giờ lại giảm mạnh khi nhiệt độ ủ tăng. Các giá trị HC theo nhiệt
độ ủ được trình bày trong Bảng 3.11. Có thể thấy quy luật HC tăng giảm của các mẫu
bột hợp kim Fe65Co35 phụ thuộc vào cả thời gian nghiền và nhiệt độ ủ (xem Bảng
3.11). Xu hướng thay đổi của HC với nhiệt độ ủ của các mẫu Fe65Co35 trong thí nghiệm
này khác với công bố trước đây của chúng tôi trong [121] nhưng tương tự với mẫu
Fe50Co50 trong [118]. Nguyên nhân có thể là do sự khác biệt về thời gian nghiền trước
khi ủ tạo ra bột hợp kim với các đặc tính khác nhau như biến dạng, khuyết tật và oxy
hóa. Khi nhiệt độ tăng, tương tác giữa các hạt tăng. Khi tương tác giữa các hạt tăng
dẫn đến giá trị HC giảm [113].
Độ ổn định tính chất từ của các mẫu Fe65Co35 nghiền trong 10 giờ và ủ nhiệt ở
700oC đã được khảo sát. Như thể hiện trong hình 3.37, giá trị MS của các mẫu hầu như
không thay đổi sau ít nhất 120 ngày để trong không khí. Điều này có nghĩa là, mẫu bột
nghiền sau ủ nhiệt có khả năng chống oxy hóa mạnh mẽ. Độ ổn định từ hóa của bột
Fe65Co35 được ủ tương đương trong công bố Abbasa et al. [122] và tốt hơn so với kết
quả của tác giả Tzitzios [37]. Kết quả này càng củng cố giả thuyết về sự tồn tại lớp oxit
mỏng xung quanh các hạt trong các hợp phần khác nhau đã trình bày ở trên.
0 20 40 60 80 100 120
180
200
220
240
FC35-10h
Ms (
emu/
g)
Thời gian (ngày)
FC35-10h-700
Hình 3.37. Từ độ bão hòa MS theo thời gian bảo quản trong không khí của các
mẫu Fe65Co35 nghiền trong 10 giờ và mẫu ủ nhiệt ở 700oC.
Kết luận
Bột hợp kim nano Fe65Co35 đã được chế tạo thành công bằng phương pháp
nghiền cơ năng lượng cao từ bột Fe và Co trong môi trường không khí. Giá trị từ độ
thu được cao nhất trong mẫu nghiền 10 giờ và trong mẫu sau đó ủ nhiệt lần lượt là
95
205 emu/g và 220 emu/g. Ảnh hưởng của thời gian nghiền và nhiệt độ ủ lên cấu trúc
và tính chất từ của hạt nano Fe65Co35 sau khi nghiền đã được khảo sát và phân tích.
Kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Pha hợp kim Fe65Co35 đã hoàn toàn được tạo thành bằng phương pháp nghiền
cơ năng lượng cao đơn giản. Kích thước tinh thể trung bình của hạt nano Fe65Co35
thay đổi nhanh trong 2 giờ nghiền đầu và sau đó thay đổi chậm hơn khi thời gian
nghiền tiếp tục tăng. Kích thước tinh thể trung bình của các mẫu nghiền sau 8 giờ
trong khoảng từ 6-12 nm. Đã tìm thấy pha oxit Fe-Co với hàm lượng nhỏ trong các
mẫu nghiền.
- Từ độ bão hòa MS của các mẫu nghiền tăng khi thời gian nghiền trong khoảng
< 10 giờ, sau đó giảm mạnh khi thời gian nghiền > 10 h. Sự tăng có thể liên quan đến
phản ứng hợp kim giữa bột Fe và Co, trong khi đó sự giảm MS là do sự hình thành
pha oxit (Fe, Co) trong quá trình nghiền. Lực kháng từ HC tăng mạnh trong giai đoạn
đầu (< 2 giờ), giảm một chút trong giai đoạn giữa (2 - 10 giờ) và tăng trở lại trong
giai đoạn thứ ba (> 10 giờ). Quy luật HC theo thời gian đã được lý giải chi tiết.
- Các mẫu bột hợp kim Fe65Co35 nghiền sau khi ủ nhiệt có MS và HC thay đổi
mạnh theo nhiệt độ ủ và phụ thuộc vào cả thời gian nghiền ban đầu. Từ độ bão hòa MS
tăng lên đến 220 emu/g trong mẫu nghiền 10 giờ và ủ ở 500oC. Sự tăng MS là do kích
thước tinh thể trung bình tăng và giảm pha oxit bề mặt. Cả bột hợp kim nano Fe65Co35
sau nghiền cơ và sau ủ nhiệt đều có từ độ MS ổn định và bền trong không khí.
3.5. Đặc trưng cấu trúc và tính chất từ của hệ Fe
3.5.1. Đặc trưng cấu trúc của hệ Fe
Hình 3.38 là giản đồ XRD của các mẫu bột sắt được nghiền trong thời gian từ 1
đến 32 giờ. Giản đồ XRD cho thầy các đỉnh nhiễu xạ đặc trưng của vật liệu có cấu
trúc tinh thể Fe-bcc (110), (200), (211) tại các vị trí góc 2 tương ứng 45, 65 và 83o.
Kích thước tinh thể của các mẫu cũng được đánh giá một cách định tính thông qua
độ rộng của các vạch nhiễu xạ trên hình 3.38. Khi tăng thời gian nghiền, độ rộng vạch
phổ được tăng lên, tương ứng với kích thước hạt giảm. Tuy nhiên, việc mở rộng vạch
phổ nhiễu xạ chỉ quan sát rõ rệt ở thời gian nghiền dưới 10 giờ. Khi thời gian nghiền
lớn hơn 10 giờ, ta không quan sát thấy sự thay đổi độ rộng vạch nhiễu xạ. Như vậy,
có thể nhận xét một cách định tính là kích thước hạt không thay đổi nhiều khi thời
96
gian nghiền lớn hơn 10 giờ.
Hình 3.38. Phổ nhiễu xạ tia X của các mẫu bột nano sắt với các thời gian nghiền
khác nhau (a) và phóng to chi tiết tại vị trí góc 2 trong khoảng từ 35 đến 45o.
Đối với mẫu nghiền 12 giờ, ta thấy có sự xuất hiện các đỉnh nhiễu xạ đặc trưng
của pha FeO tại vị trí góc 2 tương ứng 36, 42, 61o. Cường độ pha FeO này đạt cao
nhất với mẫu Fe nghiền 32 giờ. Điều này được giải thích bởi quá trình ôxy hóa của
Fe trong quá trình nghiền, thời gian nghiền càng lâu, mẫu càng dễ bị oxy hóa. Một
điều cần chú ý là môi trường nghiền được sử dụng là không khí. Kết quả này khác
biệt với các nghiên cứu sử dụng dung môi bảo vệ hoặc môi trường khí Argon. Nhóm
tác giả [123] đã sử dụng môi trường nghiền aceton để bảo vệ chống ô xy hóa, kết quả
công bố mẫu không bị oxy hóa sau 30 giờ nghiền. Nhóm tác giả [124] sử dụng môi
trường khí Argon bảo vệ với thời gian nghiền 30 giờ cũng không cho thấy sự xuất
hiện của pha ôxit.
Để đánh giá chính xác hơn ảnh hưởng của thời gian nghiền lên kích thước tinh
thể của vật liệu, kích thước tinh thể trung bình, hằng số mạng được xác định bằng
phương pháp Rietveld trên phần mềm X’Pert HighScore Plus. Các kết quả được thể
hiện chi tiết trong bảng 3.12.
Từ bảng kết quả cho thấy hằng số mạng gần như không thay đổi trong suốt quá
trình nghiền. Trong khi đó, giá trị kích thước tinh thể trung bình giảm dần cho đến
mẫu nghiền trong 10 giờ. Sau 10 giờ nghiền, giá trị tính toán kích thước tinh thể có
sự tăng nhẹ. Nguyên nhân của hiện tượng này là sự xuất hiện của pha FeO, với các
đỉnh nhiễu xạ tại vị trí góc 2 = 41 và 61o, sự xuất hiện của đỉnh nhiễu xạ mới này
97
phần nào gây nên chồng chập với đỉnh nhiễu xạ chính của Fe. Ngoài ra còn có thể kể
đến sự ảnh hưởng của quá trình hàn nguội các hạt Fe để tạo thành các hạt có kích
thước lớn hơn.
Bảng 3.12. Các thông số cấu trúc hệ vật liệu Fe.
Tên mẫu a (Å) DXRD (nm) Tỷ lệ % pha Fe Tỷ lệ % pha FeO
Fe-1h 2,868 60 100 0
Fe-2h 2,868 44 100 0
Fe-4h 2,868 23 100 0
Fe-8h 2,869 22 100 0
Fe-10h 2,869 14 100 0
Fe-12h 2,869 19 95,3 4,7
Fe-16h 2,869 18 88,8 11,2
Fe-24h 2,868 18 82,5 17,5
Fe-32h 2,869 19 76 24
Hình 3.39. Phân tích Rietveld phổ XRD của mẫu tiêu biểu Fe-10h
Hình 3.39 và hình 3.40 đưa ra giản đồ phân tích Rietveld trên 2 mẫu tiêu biểu
Fe-10h và Fe-32h. Trên hình vẽ cho thấy sai số tính toán (màu xanh lam) giữa kết
quả đo thực nghiệm (màu đỏ) và đường fit lý thuyết (màu đen) là khá nhỏ. Giá trị 2
(goodness of fit) tương ứng là 1,39 đối với Fe-10h và 2,06 đối với Fe-32h. Đây là giá
trị khá lý tưởng đối với giá trị tiệm cận lý thuyết tiến tới 1 của 2.
Đối với mẫu nghiền sau 12 giờ, xuất hiện thêm pha oxit FeO, tỷ lệ thành phần
pha này cũng tăng theo thời gian nghiền. Khi thời gian nghiền đạt tới 32 giờ, tỷ lệ %
98
pha oxit lên tới 24%. Như vậy có thể kết luận được rằng, khi nghiền trong môi trường
không khí và điều kiện công nghệ khảo sát, mẫu Fe là đơn pha khi thời gian nghiền
đến 10 giờ, kích thước hạt giảm mạnh trong thời gian nghiền từ 1-10 giờ. Khi thời
gian nghiền lớn hơn 10 giờ, kích thước hạt gần như không thay đổi (~20 nm), mẫu
Fe khảo sát bắt đầu bị oxi hóa. Tỷ lệ oxi hóa càng tăng theo thời gian nghiền càng
kéo dài. Sự xuất hiện của pha oxit này cũng được thể hiện qua sự sụt giảm đáng kể
giá trị từ độ bão hòa của mẫu vật liệu trong kết quả khảo sát tính chất từ sẽ được khảo
sát chi tiết ở phần sau.
Hình 3.40. Phân tích Rietveld phổ XRD của mẫu tiêu biểu Fe-32h.
Hình 3.41. Ảnh FESEM và phổ EDX của các mẫu (a,b) Fe-10h và
(c,d) Fe-32h. Đỉnh C do đo EDX trên đế carbon. Lượng Cr (~ 0,3 %)
trong mẫu Fe-32h có thể do tạp từ bi và cối nghiền.
99
Ảnh FESEM và phổ EDX của các mẫu Fe-10h và Fe-32h được chỉ ra trong hình
3.41. Hình 3.41 cho thấy các hạt có hình dạng hình cầu và kích thước hạt trong khoảng
11 nm. Các hạt có xu hướng kết tụ thành các hạt lớn hơn. Phân tích EDX cho thấy tỷ
lệ phần trăm khối lượng của Fe giảm từ 97,6% xuống 94,1%, trong khi oxy tăng từ
2,4% lên 5,9% lần lượt đối với Fe-10h và Fe-32h. Nồng độ oxy tăng có liên quan đến
sự gia tăng quá trình oxy hóa trong quá trình nghiền. Kết quả này phù hợp khá tốt với
phân tích XRD như được trình bày trong Bảng 3.12.
3.5.2. Đặc trưng tính chất từ của hệ Fe
Đường cong từ trễ của các hạt nano Fe chế tạo bằng phương pháp nghiền cơ
năng lượng cao được khảo sát trong từ trường ngoài ±11 kOe theo thời gian nghiền
khác nhau. Kết quả đo được thể hiện trong hình 3.42. Các đường cong từ trễ này có
dáng diệu trơn tru với HC và MR rất nhỏ, biểu hiện của đường từ trễ sắt từ mềm. Từ
các đường từ trễ này, chúng tôi xác định các giá trị từ độ bão hòa MS và lực kháng từ
HC của các mẫu theo thời gian nghiền khác nhau, như thể hiện trong bảng 3.13.
-10k -8k -6k -4k -2k 0 2k 4k 6k 8k 10k
-200
-150
-100
-50
0
50
100
150
200
-150 -100 -50 00
3
6
9
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (Oe)
1h 8h 10h 16h 24h 32h
Hình 3.42. Đường cong từ trễ của vật liệu nano Fe với thời gian nghiền khác nhau.
Bảng 3.13. Giá trị từ độ bão hòa, lực kháng từ của vật liệu nano Fe tại 11k Oe theo
thời gian nghiền.
Tnghiền 1h 8h 10h 16h 24h 32h
MS (emu/g) 209 198 194 177 172 156
HC (Oe) 39 67 75 104 120 162
100
Sự thay đổi của MS và HC của các mẫu hạt nano kim loại Fe theo thời gian
nghiền được thể hiện trong hình 3.43 và bảng 3.13. Khi thời gian nghiền tăng từ 1
đến 32 giờ, MS giảm mạnh từ 211 emu/g xuống 162 emu/g. Điều này có thể là do sự
bất trật tự trong cấu trúc tinh thể, giảm kích thước hạt và các hiệu ứng bề mặt, hoặc
có thể xảy ra quá trình oxy hóa hạt sắt khi được nghiền trong môi trường không khí
[115]. Việc giảm MS trong hạt nano Fe so với vật liệu khối có khả năng là do mất
tương tác sắt từ khoảng xa và mất trật tự spin bề mặt, cũng như sự xuất hiện của pha
oxit sắt (FeO) trong các mẫu nghiền thời gian dài. Vì FeO là phản sắt từ từ, nên có
mặt của pha này có thể gây ra sự phá vỡ mạnh hơn tương tác sắt từ khoảng xa và
giảm tỉ phần sắt từ trong các hạt nano [125]. Tương tác trao đổi giữa các hạt nano
cũng có thể là một nguyên nhân khiến MS giảm [126]. Về giá trị lực kháng từ, HC
tăng lên khi thời gian nghiền tăng. Thời gian nghiền tăng dẫn kích thước hạt giảm
như đã xác định ở trên có thể là nguyên nhân làm giảm HC. Ngoài ra có thể do một
số nguyên nhân để HC tăng theo thời gian nghiền, như: ứng suất nội, tạp, các khuyết
tật khác nhau [113].
0 5 10 15 20 25 3020
40
60
80
100
120
140
160
180
Thời gian nghiền (giờ)
HC (
Oe)
150
160
170
180
190
200
210
MS (em
u/g)
Hình 3.43. HC và MS của mẫu Fe phụ thuộc theo thời gian nghiền.
Tương tự như các hợp phần Fe50Co50, Fe65Co35, chúng tôi cũng tiến hành ủ nhiệt
các mẫu hạt nano Fe sau khi nghiền cơ năng lượng cao. Mục đích của việc ủ nhiệt
nhằm hoàn thiện vi cấu trúc để nâng cao từ tính của vật liệu. Các mẫu hạt nano Fe
nghiền trong 10, 24 và 32 giờ được chúng tôi ủ nhiệt trong 1 giờ dưới dòng khí H2
(5%) + Ar ở nhiệt độ 600oC.
101
Bảng 3.14 ghi lại các giá trị của MS và HC đối với các mẫu sau nghiền được ủ ở
600oC trong 1 giờ. Các mẫu nghiền ủ nhiệt đều có giá trị MS lớn hơn mẫu nghiền ban
đầu. Điển hình ở mẫu nghiền 10 giờ, ủ nhiệt đã nâng từ độ bão hòa MS từ 190 emu/g
lên đến 199 emu/g. Tuy nhiên, so với mẫu khối, MS của tất cả các mẫu ủ vẫn thấp
hơn [127]. Nguyên nhân của giá trị từ độ trong các mẫu còn thấp, kể cả các mẫu ủ
nhiệt, ngoài ảnh hưởng của oxy hóa còn có thể do dị hướng bề mặt như trình bày
trong [113]. Trong khi đó, khi được ủ nhiệt, lực kháng từ HC lại có xu thế giảm.
Nguyên nhân có thể là do vi ứng suất trong mẫu giảm. Kết quả này phù hợp với các
các nghiên cứu về các mẫu vật liệu nano Fe50Co50, Fe65Co35 ủ nhiệt trình bày ở trên.
Bảng 3.14. Thông số từ của các mẫu Fe nghiền ở thời gian khác nhau sau đó ủ nhiệt.
Mẫu Fe-10h Fe-10h-600 Fe-24h Fe-24h-600 Fe-32h Fe-32h-600
HC(Oe) 46 47 87 62 137 63
MS(emu/g) 190 199 175 192 162 192
0 5 10 15 20 25 30
140
160
180
200
Fe-10h
Fe-16h
Fe-24h
Ms (e
mu/
g)
Thời gian (ngày)
Fe-32h
Hình 3.44. Giá trị MS của mẫu Fe theo thời gian lưu giữ trong môi
trường không khí.
Độ ổn định từ của các hạt nano Fe cũng được khảo sát nghiên cứu. Các mẫu bột
sau nghiền trong 10, 16, 24 và 32 giờ trong không khí được tiếp xúc với không khí ở
nhiệt độ phòng trong một tháng. Các giá trị từ độ bão hòa MS được theo dõi theo từng
ngày. Hình 3.44 minh họa sự thay đổi của MS theo thời gian lưu giữ trong môi trường
không khí của các mẫu hạt (MS lần lượt là 190, 175 và 162 emu/g đối với M10h, M24h
và M32h) Các mẫu này có MS gần như không thay đổi khi để trong môi trường không
102
khí 30 ngày. Điều đó có nghĩa là các hạt nano sắt từ (FeNPs) tương đối ổn định trong
điều kiện môi trường bình thường. Có được điều này là do đã hình thành lớp oxit mỏng
trên bề mặt FeNPs, và lớp oxit này ngăn cản quá trình oxy hóa tiếp theo [128].
Kết luận
Các hạt nano từ Fe đã được chế tạo thành công bằng phương pháp nghiền cơ
năng lượng cao từ bột Fe trong không khí. Ảnh hưởng của thời gian nghiền và nhiệt
độ ủ lên cấu trúc và tính chất từ của các hạt nano từ Fe sau khi nghiền đã được khảo
sát và phân tích. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Đã tạo ra các hạt nano từ Fe đơn pha có kích thước tinh thể trung bình 14-60
nm, hằng số mạng không đổi ~2,868 Å. Khi thời gian nghiền tăng từ 1 đến 10 giờ,
kích thước hạt giảm mạnh. Tiếp tục tăng thời gian nghiền trên 10 giờ đến 32 giờ, kích
thước hạt gần như không thay đổi ~20 nm. Với thời gian nghiền trên 12 giờ, mẫu bột
nano Fe bắt đầu bị oxi hóa, với tỷ lệ tăng theo thời gian nghiền.
- Từ độ MS và lực kháng từ HC của các mẫu bột nano Fe thay đổi mạnh theo
thời gian nghiền. Khi thời gian nghiền tăng từ 1 đến 32 giờ, MS giảm mạnh từ 211
emu/g xuống 162 emu/g. Việc giảm MS trong hạt nano Fe có thể là do mất tương tác
sắt từ khoảng xa, mất trật tự spin bề mặt, cũng như sự xuất hiện của pha oxit sắt (FeO)
trong các mẫu nghiền. Trong khi đó, lực kháng từ HC lại tăng khi thời gian nghiền
tăng. Việc tăng HC có thể do kích thước hạt tinh thể giảm, công thêm sự gia tăng về
ứng suất nội, tạp, các khuyết tật khác nhau, trong quá trình nghiền.
- Các mẫu bột hợp kim nano Fe sau khi ủ nhiệt đều có từ độ MS tăng, tăng đến
~199 emu/g đối với mẫu nghiền trong 10 giờ và ủ ở 600oC. Sự tăng MS là do kích
thước tinh thể trung bình tăng và giảm pha oxit bề mặt. Độ từ hóa bão hòa của các
hạt nano Fe gần như không thay đổi khi tiếp xúc với không khí trong 30 ngày, do sự
hình thành lớp oxit sắt mỏng (FeO) xung quanh hạt.
Kết luận Chương 3
Hệ vật liệu nano từ Fe100-xCox (x = 0, 25, 35, 40, 50 và 75) đã được chế tạo thành
công bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao. Các kết quả nghiên cứu thông
qua việc khảo sát tối ưu các điều kiện công nghệ chế tạo, phân tích cấu trúc, hình thái
học và tính chất từ theo thời gian nghiền và nhiệt độ ủ, thu được như sau:
- Điều kiện công nghệ tối ưu để có thể tổng hợp vật liệu nano từ Fe100-xCox (x =
0, 25, 35, 40, 50 và 75) bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao tạo từ các bột
103
Fe và Co trên hệ thiết bị nghiền hành tinh PULVERISETTE 6: vận tốc nghiền ~450
vòng/phút; tỉ lệ bi bột 15/1; thời gian nghiền trong khoảng 8 – 12 giờ tùy từng hợp
phần hợp kim.
- Ảnh hưởng của tỉ phần Fe/Co trong vật liệu nano từ Fe100-xCox (x = 0, 25, 35,
40, 50 và 75) chế tạo được đã được khảo sát và nghiên cứu. Khi lượng Co thay thế
cho Fe còn thấp (x < 40%), từ độ bão hòa của hợp kim FexCo100-x tăng. Khi lượng Co
thay thế cho sắt lớn (x > 70%), MS suy giảm mạnh. Giá trị MS cao nhất ứng với hợp
kim có thành phần Fe65Co35 ~205 emu/g. Vùng thành phần có tỉ phần Fe trong khoảng
x= 50-65 % (tương ứng với Co trong khoảng 50-35%), có giá trị từ độ bão hòa MS
cao trong khoảng 200-205 emu/g.
- Đã hợp kim hóa tạo thành vật liệu nano Fe50Co50, Fe60Co40 và Fe65Co35 với
cấu trúc bcc-Fe bền bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao. Độ hợp kim hóa,
kích thước tinh thể trung bình, hằng số mạng của hợp kim Fe-Co theo thời gian nghiền
đã được khảo sát và nghiên cứu. Quy luật chung quan sát thấy trong khoảng nghiền
< 8 giờ, độ hợp kim hóa và kích thước tinh thể của các mẫu hợp kim tăng nhanh, sau
đó ít thay đổi hơn khi thời gian nghiền tiếp tục tăng. Kích thước tinh thể trung bình
tìm thấy trong các hợp kim nano Fe-Co trong khoảng 7-60 nm tùy vào thời gian
nghiền. Tiếp tục nghiền trên 8 giờ, bắt đầu xuất hiện pha oxit Fe (Co) với nồng độ
nhỏ và gia tăng khi thời gian nghiền tăng.
- Từ độ bão hòa MS của các mẫu vật liệu nano Fe50Co50, Fe65Co35 ban đầu tăng,
sau đó giảm khi thời gian nghiền tăng. Trong khi đó, mẫu vật liệu nano 100%Fe có
từ độ MS giảm mạnh theo thời gian nghiền. Sự tăng của từ độ MS trong khoảng thời
gian đầu do tăng độ hợp kim hóa tạo thành pha Fe-Co và sau đó MS giảm khi thời
gian nghiền tăng là do hình thành pha oxit thụ động trên bề mặt hạt mẫu. Quy luật
lực kháng từ HC phụ thuộc vào thời gian nghiền của các mẫu vật liệu nano Fe-Co
cũng đã được nghiên cứu chi tiết. Giá trị lực kháng từ HC nhỏ nhất thu được ~ 49 Oe
trong mẫu Fe25Co75 nghiền ở 10 giờ.
- Các mẫu vật liệu nano Fe50Co50, Fe65Co35 và Fe sau khi ủ nhiệt có từ độ MS
tăng và lực kháng từ HC thay đổi mạnh theo nhiệt độ ủ và phụ thuộc vào cả thời gian
nghiền ban đầu. Từ độ bão hòa MS tăng mạnh lên đến 225 emu/g trong mẫu Fe65Co35
nghiền 10 giờ và ủ ở 500oC. Sự tăng MS của các mẫu vật liệu nano Fe-Co là do kích
thước tinh thể trung bình tăng và giảm pha oxit bề mặt khi được ủ nhiệt. Cả vật liệu
104
Fe50Co50, Fe65Co35 và Fe sau nghiền và sau ủ nhiệt đều có từ độ MS ổn định và bền
trong không khí.
105
Chương 4
CÁC ỨNG DỤNG CỦA VẬT LIỆU TỪ NANO Fe, Fe-Co
Vật liệu từ mềm là một trong những vật liệu kỹ thuật quan trọng được ứng dụng
nhiều trong thực tế vì chúng có thể dễ dàng bị từ hóa và khử từ dưới một từ trường
ngoài nhỏ. Tính chất từ mềm của chúng rất quan trọng đối với các ứng dụng liên quan
đến sản xuất và phân phối điện, thiết bị truyền động, che chắn từ tính, lưu trữ dữ liệu
và truyền thông. Một số vật liệu từ mềm thương mại được sử dụng rộng rãi là sắt,
thép hàm lượng carbon thấp, hợp kim Fe-Si, ferrit, hợp kim Fe-Ni, hợp kim Fe-Co,
hợp kim vô định hình, … Gần đây, vật liệu từ mềm đã và đang được nghiên cứu ứng
dụng trong y sinh học nhằm chuẩn đoán và điều trị như: làm tăng độ tương phản chụp
ảnh cộng hưởng từ (MRI), tách chiết tác nhân gây bệnh (đánh dấu và làm giàu), dẫn
thuốc hướng đích, nhiệt từ trị (dùng khả năng sinh nhiệt của hạt từ trong từ trường
xoay chiều).
Lựa chọn vật liệu từ mềm phù hợp cho ứng dụng thực tế dựa trên sự tối ưu của
các đặc tính vật liệu như giá trị từ độ bão hòa, độ từ thẩm, lực kháng từ, điện trở suất,
độ bền cơ học,... Hợp kim dựa trên nhóm liên kim loại thường được chọn là vật liệu
từ tiêu biểu do tính chất từ mềm vượt trội. Trong đó, vật liệu nền Fe-Co thể hiện nhiều
ưu điểm như giá trị từ độ bão hòa cao, nhiệt độ Curie cao, độ từ thẩm tốt, độ bền tốt,
và là ứng cử viên sáng giá cho các ứng dụng yêu cầu vật liệu có mật độ từ cao.
Trong phạm vi nghiên cứu của Luận án, chúng tôi đã thực hiện một số kết quả
nghiên cứu ban đầu về khả năng ứng dụng của vật liệu nano Fe-Co đã được chế tạo
bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao trong chế tạo vật liệu nam châm
nanocomposite hai pha SmCo5/Fe65Co35 và nghiên cứu khả năng ứng dụng của hạt
nano từ Fe, Fe65Co35 trong đốt nóng cảm ứng từ dùng trong nhiệt từ trị.
4.1. Nghiên cứu khả năng ứng dụng vật liệu nano từ Fe-Co chế tạo nam châm
nanocomposite
Trong các hệ vật liệu nano-composite được quan tâm nghiên cứu, vật liệu từ
SmCo5/Fe65Co35 được quan tâm nghiên cứu với sự mong muốn về một vật liệu có
phẩm chất từ tốt do SmCo5 có lực kháng từ cao, nhiệt độ chuyển pha TC cao, trong
khi đó Fe65Co35 có moment từ cao nhất hiện nay. Các vật liệu này thường được chế
106
tạo bằng cả phương pháp vật lý cũng như hóa học. Trong các phương pháp vật lý,
phương pháp nghiền cơ năng lượng cao được sử dụng nhiều nhất với ưu điểm dễ chế
tạo, dễ tạo vật liệu với khối lượng lớn. Các kết quả về ảnh hưởng của quá trình nghiền,
tỷ lệ hợp phần hai pha từ cứng SmCo5 và pha từ mềm Fe65Co35 cũng như ảnh hưởng
của quá trình xử lý nhiệt đến cấu trúc và tính chất từ của hệ nano-composite sẽ được
trình bày trong nội dung nghiên cứu này.
Vật liệu ban đầu dùng để chế tạo nanocomposite SmCo5/Fe65Co35 gồm SmCo5
dạng viên và Fe, Co dạng bột có độ sạch 99,9% của hãng Sigma-Aldrich. Bột hợp
kim SmCo5 được nghiền trong 30 phút trong môi trường khí bảo vệ Ar để giảm kích
thước xuống vùng nano mét. Pha từ mềm Fe65Co35 là sản phẩm tổng hợp đã được
trình bày trong Chương 3. Bột hỗn hợp của hai pha từ cứng/từ mềm
(SmCo5)y/(Fe65Co35)100-y (y = 80, 75, 70, 65, 60) được trộn theo tỉ lệ khối lượng mong
muốn, tương ứng với ký hiệu SF80, SF75, SF70, SF65 và SF60 trước khi đưa vào
bình nghiền của thiết bị Fritsch Pulverisette 7. Các tham số nghiền được chọn: tỷ lệ
khối lượng bi/bột = 10/1 và tốc độ nghiền 450 vòng/phút. Quá trình chuẩn bị và
nghiền diễn ra trong môi trường khí Ar. Thời gian nghiền thay đổi từ 2 tới 6 giờ, quá
trình nghiền tạm dừng 30 phút sau khi nghiền 120 phút để giảm thiểu sự ôxy hóa.
Mẫu bột sau khi nghiền được ủ tại nhiệt độ 550oC, thời gian giữ tại nhiệt độ này là
90 phút, trong môi trường chân không cao (>10-7 Torr) để tối ưu hóa tính chất từ của
chúng. Các đặc trưng cấu trúc được khảo sát bằng cách dùng nhiễu xạ kế Bruker D8
Advance. Kích thước tinh thể trung bình được đánh giá qua chương trình phân tích
nhiễu xạ thương mại X-Pert HighScore Plus. Từ độ bão hòa (MS) và lực kháng từ
(HC) của các mẫu bột được đo bằng thiết bị từ trường xung (PFM) tại nhiệt độ phòng,
trong từ trường cao nhất là 60 kOe.
4.1.1. Ảnh hưởng của điều kiện công nghệ
4.1.1.1. Ảnh hưởng của tốc độ nghiền
Ảnh hưởng của tốc độ nghiền lên hệ vật liệu nano composite được khảo sát qua
2 tốc độ 300 và 450 vòng/phút. Lý do chúng tôi lựa chọn tốc độ nghiền thấp do đây
chỉ là quá trình nghiền trộn thành phần nhằm mục đích phân tán đều 2 pha thành phần
từ cứng và từ mềm. Kích thước hạt đầu vào của 2 pha đều cỡ 10-12 nm, do đó nếu
107
chọn tốc độ cao sẽ tăng khả năng bị oxi hóa cũng như không có lợi về mặt năng lượng,
thiết bị.
30 40 50 60 70 80
Fe65
Co35
SmCo5C
ườ
ng
độ
(đvt
đ)
Góc 2 (độ)
SF70-2h-300
SF70-2h-450
30 40 50 60 70 80
Cư
ờn
g đ
ộ (đ
vtđ
)
Góc 2 (độ)
Fe65
Co35
SmCo5
SF75-2h-300
SF75-2h-450
Hình 4.1. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu SF70 và SF75 tại tốc độ nghiền
300 và 450 vòng/phút.
Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu SF70 và SF75 tại tốc độ nghiền 300 và 450
vòng/phút được thể hiện trên hình 4.1. Bên cạnh đó, các giản đồ XRD của pha từ
cứng SmCo5 (SC) và pha từ mềm Fe65Co35 (FC) đầu vào cũng được đưa ra để so sánh.
Kết quả cho thấy, trên cả 2 thành phần SF70 và SF75, sau 2 giờ nghiền, các vạch phổ
nhiễu xạ cũng vẫn thể hiện 2 pha SmCo5 cấu trúc hcp và Fe65Co35 cấu trúc fcc riêng
biệt. Không có sự tạo thành các đỉnh nhiễu xạ mới. Tuy nhiên, do sự chồng chập của
phổ nhiễu xạ, sau quá trình nghiền, độ rộng vạch nhiễu xạ tăng lên và các vị trí đỉnh
tương ứng với góc 2 cao trở nên khó xác định hơn. Cường độ nhiễu xạ càng giảm
khi tốc độ nghiền tăng từ 300 lên 450 vòng/phút. Sự thay đổi tốc độ nghiền khảo sát
này không ảnh hưởng đối với sự đơn pha của 2 pha từ cứng/mềm thành phần. Kích
thước trung bình của tinh thể của từng pha từ đã được tính toán qua phần mềm X’pert
HighScore Plus tương ứng của các hệ mẫu được đưa ra trong bảng 4.1.
Bảng 4.1. Một số thông số cấu trúc của mẫu SF70 và SF75 theo tốc độ nghiền khác nhau.
Tên mẫu
Tốc độ nghiền 300 v/phút Tốc độ nghiền 450 v/phút
DSC
(nm) DFC
(nm) aSC (Å)
cSC (Å)
aFC (Å)
DSC
(nm)DFC
(nm)aSC (Å)
cSC (Å)
aFC (Å)
SF70 5 12 4,897 4,074 2.863 5 15 4,866 4,109 2,864
SF75 6 12 4,902 4,075 2,865 5 16 4,837 4,115 2,863
108
Kết quả này cho thấy thông số mạng của pha FC gần như không thay đổi trong
cả 2 tốc độ nghiền. Tuy nhiên, thông số mạng của pha SC cấu trúc hcp có một sự thay
đổi nhẹ, giá trị aSC giảm nhưng giá trị cSC tăng. Nguyên nhân của sự thay đổi này có
thể lý giải do sự khuếch tán của Fe và Co từ pha FC vào mạng lục giác xếp chặt
SmCo5 hình thành dạng pha Sm(Co-Fe)5 [129].
-10k -8k -6k -4k -2k 0 2k 4k 6k 8k 10k
-100
-50
0
50
100
SF70 SF70-2-300 SF70-2-450
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (Oe)-10k -8k -6k -4k -2k 0 2k 4k 6k 8k 10k
-100
-50
0
50
100
SF75 SF75-2h-300 SF75-2h-450
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (Oe)
Hình 4.2. Đường cong từ trễ của mẫu SF70 và SF75 trước và sau khi nghiền tại
tốc độ nghiền 300 và 450 vòng/phút.
Hình 4.2 là các đường cong từ trễ của mẫu SF70 và SF75 trước và sau khi nghiền
tại tốc độ nghiền 300 và 450 vòng/phút được đo trên thiết bị VSM với từ trường ngoài
cực đại 11 kOe. Biểu đồ sự phụ thuộc của từ độ bão hòa và lực kháng từ theo tốc độ
nghiền được thể hiện trên hình 4.3.
0 30099
102
105
108
111
450
M
S (
emu
/g)
Tốc độ nghiền (vòng/phút)
MS
HC
SF70 900
1000
1100
1200
1300
1400
1500
HC (
Oe)
0 30093
96
99
102
105
108
Tốc độ nghiền (vòng/phút)
4501100
1200
1300
1400
1500
1600
1700
SF75
MS (
emu
/g)
HC (
Oe)
MS
HC
Hình 4.3. Biểu đồ sự phụ thuộc của từ độ bão hòa và lực kháng từ theo tốc độ nghiền.
Kết quả cho thấy, khi tốc độ nghiền tăng, giá trị từ độ bão hòa MS có xu hướng
tăng, trong khi đó giá trị lực kháng từ có xu hướng giảm. Tuy nhiên giá trị này không
thể hiện rõ ràng trong mẫu nghiền tại tốc độ 300 vòng/phút. Đối với mẫu nghiền ở
tốc độ 450 vòng/phút, giá trị MS được gia tăng khoảng 10%. Đây là thông số quan
trọng trong mục tiêu tăng cường năng lượng từ của vật liệu nano composite. Giá trị
109
HC có thể cải thiện bằng quá trình ủ nhiệt, một tham số công nghệ đặc biệt quan trọng
nhằm ổn định tổ chức vi cấu trúc và tăng cường tương tác trao đổi trong vật liệu nano
composite. Vì vậy, thông số tốc độ nghiền 450 vòng/phút được chúng tôi lựa chọn
cho quá trình khảo sát sự ảnh hưởng của thời gian nghiền, tỷ lệ thành phần cũng như
ảnh hưởng của nhiệt độ ủ sau này.
4.1.1.2. Ảnh hưởng của thời gian nghiền
Ảnh hưởng của thời gian nghiền lên hệ vật liệu nano composite được khảo sát
với thời gian nghiền từ 2 đến 6 giờ. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu tiêu biểu SF70
và SF75 được trình bày trên hình 4.4. Giản đồ nhiễu xạ của pha từ cứng SmCo5 đầu
vào và Fe65Co35 cũng được đưa ra để so sánh.
20 30 40 50 60 70 80 90
SF70-6h
SF70-4h
Fe65
Co35
SF70-2h
SmCo5
Góc 2 (độ)
Cư
ờng
độ
(đvt
đ)
SF70
20 30 40 50 60 70 80 90
Góc 2 (độ)
Cư
ờn
g đ
ộ (đ
vtđ
)
SF75-6h
SF75-4h
Fe65
Co35
SF75-2h
SmCo5
SF75
Hình 4.4. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu SF70 và SF75 tại các
thời gian nghiền 2 - 6 giờ.
Từ hình 4.4, chúng ta có thể nhận thấy kết quả sau thời gian nghiền từ 2 đến 6
giờ, cường độ cũng như độ rộng vạch nhiễu xạ gần như không thay đổi. Như vậy
đồng nghĩa với quá trình nghiền đã đạt cân bằng, việc kéo dài thời gian nghiền đến 6
giờ không gây ảnh hưởng đến cấu trúc tinh thể của vật liệu, các vạch phổ nhiễu xạ
vẫn thể hiện 2 pha SmCo5 và Fe65Co35 riêng biệt, không có sự tạo thành đỉnh đặc
trưng mới. Kích thước trung bình của tinh thể đã được tính toán qua phần mềm X’pert
HighScore Plus tương ứng của các hệ mẫu được đưa ra trong bảng 4.2.
Trên hình 4.5 lần lượt là các đường cong từ trễ đo trên thiết bị VSM của mẫu
tiêu biểu SF70 và SF75 trước khi nghiền và sau khi nghiền từ 2 đến 6 giờ. Các đường
cong từ trễ của pha ban đầu SmCo5 và Fe65Co35 cũng được đưa vào để có được hình
110
ảnh so sánh trực quan. Biểu đồ sự phụ thuộc của từ độ bão hòa và lực kháng từ theo
thời gian nghiền được trình bày trong hình 4.7.
Bảng 4.2. Một số thông số cấu trúc của mẫu SF70 và SF75
theo thời gian nghiền khác nhau.
Thời gian
nghiền
Mẫu SF70 Mẫu SF75
DSC
(nm) DFC
(nm) aSC (Å)
cSC (Å)
aFC (Å)
DSC
(nm)DFC
(nm)aSC (Å)
cSC (Å)
aFC (Å)
2h 5 25 4,866 4,109 2,864 7 31 4,837 4,115 2,863
4h 6 23 4,851 4,084 2,862 5 29 4,825 4,050 2,865
6h 6 23 4,827 4,052 2,861 6 24 4,810 4,021 2,860
Kết quả cho thấy, khi thời gian nghiền tăng, giá trị từ độ bão hòa MS có xu
hướng tăng, trong khi đó giá trị lực kháng từ HC, từ dư Mr có xu hướng giảm. Từ độ
bão hòa của mẫu SF70 tăng nhanh từ 100 (0 giờ) lên 114 emu/g (2 giờ), sau đó tăng
chậm lên 118 emu/g (4 giờ) và 121 emu/g (6 giờ), tương tự như vậy trong mẫu SF75,
giá trị MS tăng từ 95 (0 giờ) lên 110, 113 và 117 tương ứng với thời gian nghiền từ 2
đến 6 giờ. Sự gia tăng của giá trị từ độ bão hòa cũng như sự giảm sút của lực kháng
từ khi thời gian nghiền tăng có thể do sự phân bố của Fe-Co trong mạng SmCo5 tạo
thành dạng Sm(Fe-Co)5 cũng như sự hình thành một phần của liên kết trao đổi giữa
pha từ cứng và pha từ mềm [130]. Kết quả trong hình 4.8 còn cho thấy xu hướng giảm
dần độ dốc của giá trị từ độ bão hòa, điều đó sẽ dẫn tới tiệm cận một giá trị từ độ bão
hòa cực đại nào đó. Trong [131] với pha từ mềm là 10% Fe, giá trị MS cực đại đạt
được sau khoảng 15 giờ nghiền, tuy nhiên MS chỉ tăng tối đa khoảng 10-15% so với
6 giờ nghiền (từ 60 lên 70 emu/g). Giá trị MS tối đa trên mẫu SF70 đạt được là 120
emu/g, gần 60% so với MS của pha từ mềm đầu vào.
Giá trị MS tiệm cận đến một giá trị nào đó cũng là yếu tố phản ảnh sự đóng
góp của Fe-Co trong mạng của SmCo5, làm cho pha này đồng nhất hơn khi thời gian
nghiền tăng [132]. Cũng phải nói thêm rằng, sự gia tăng các giá trị MS khi thời gian
nghiền tăng không thể chỉ được coi là một yếu tố đánh giá riêng cho sự phát triển của
pha Fe-Co. Giá trị này còn có nguồn gốc từ các pha từ tính khác như Fe-Co, SmCo5
và Sm(Co, Fe)5 hiện có trong mẫu.
111
-10k -8k -6k -4k -2k 0 2k 4k 6k 8k 10k-200
-150
-100
-50
0
50
100
150
200
-4k -3k -2k -1k 00
10
20
30
40
SF70 SF70-2h SF70-4h SF70-6h SmCo
5
Fe65
Co35
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (Oe)-10k -8k -6k -4k -2k 0 2k 4k 6k 8k 10k
-200
-150
-100
-50
0
50
100
150
200
-4k -3k -2k -1k 00
10
20
30
40
SF75 SF75-2h SF75-4h SF75-6h SmCo
5
Fe65
Co35
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (Oe)
Hình 4.5. Đường cong từ trễ của mẫu SF70 và SF75 trước và sau khi nghiền
từ 2 đến 6 giờ đo trên hệ VSM.
Theo đồ thị đường cong từ trễ trên hình 4.5, khi đo trên thiết bị VSM, giá trị từ
trường cực đại 11 kOe vẫn chưa đủ để từ hóa hoàn toàn vật liệu nanocomposite có
chứa pha từ cứng SmCo5. Vì vậy, để có thể đạt tới từ độ bão hòa, các mẫu SF trong
luận án tiếp tục được đo trên hệ từ trường xung (PFM- Pulsed Field Magnetometry).
Ưu điểm của PFM so với VSM đó là phép đo nhanh, từ trường cực đại cao (6 T), tuy
nhiên độ phân giải đường đo kém hơn và nhiễu điện tử nhiều hơn so với VSM.
-2 -1 0 1 2
-100
-50
0
50
100
-1500 -1000 -500 00
10
20
30
40
50
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (kOe)
SF70-2h SF70-4h SF70-6h
SF70
-2 -1 0 1 2
-100
-50
0
50
100
-2000 -1500 -1000 -500 00
10
20
30
40
50
60
SF75
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (kOe)
SF75-2h SF75-4h SF75-6h
Hình 4.6. Đường cong từ trễ của mẫu SF70 và SF75 sau khi nghiền từ 2 đến 6 giờ
đo trên hệ PFM.
Trên hình 4.6 là đường cong từ trễ của hai mẫu tiêu biểu SF70 và SF75 đo
trên hệ PFM tại Viện Khoa học vật liệu. So sánh kết quả qua 2 phương pháp đo,
chúng ta nhận thấy giá trị MS tăng rất ít (<3%) trong khi đó, các giá trị HC, MR gia
tăng đáng kể. Hình 4.7 cho thấy tương quan giá trị trực tiếp qua 2 phương pháp đo
VSM và PFM trên cùng mẫu SF70 4 giờ. Kết quả cho thấy giá trị HC, MR đo trên
hệ PFM gia tăng khoảng 30-50% so với đo trên hệ VSM.
112
-15k -10k -5k 0 5k 10k 15k
-100
-50
0
50
100
-1500 -1000 -500 00
10
20
30
40
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (Oe)
SF70 4h - VSM SF70 4h - PFM
Hình 4.7. Đường cong từ trễ của mẫu SF70 4h đo trên hệ VSM và PFM.
0 2 4 695
100
105
110
115
120
125
SF70
Thời gian nghiền (giờ)
VSM
PFM
1000
1200
1400
1600
1800
MS
(em
u/g
)
MS
HC
0 2 4 6
95
100
105
110
115
120
MS (
emu
/g)
SF75
Thời gian nghiền (giờ)
MS
HCVSM
PFM
1000
1200
1400
1600
1800
2000
2200
H(O
)
Hình 4.8. Biểu đồ sự phụ thuộc của từ độ bão hòa và lực kháng từ theo thời gian nghiền.
Trên hình 4.8 là biểu đồ sự phụ thuộc của từ độ bão hòa và lực kháng từ theo
thời gian nghiền, với các giá trị đo trên hệ PFM được thể hiện bằng đường gạch đứt.
Kết quả giá trị đo trên hệ PFM cao hơn đo trên hệ VSM. Các khảo sát, đo đạc tính
chất từ của các hệ mẫu sau này sẽ sử dụng các kết quả đo trên hệ PFM.
4.1.2. Ảnh hưởng của tỷ lệ thành phần
Giản đồ nhiễu xạ tia X theo sự thay đổi tỷ phần của hệ vật liệu SmCo5/Fe65Co35
sau 4 giờ nghiền được trình bày trên hình 4.9. Giản đồ nhiễu xạ của pha từ cứng
SmCo5 đầu vào và Fe65Co35 cũng được đưa ra để so sánh. Trong hình 4.9, chúng ta
có thể nhận thấy rằng, từ mẫu SF60 đến SF80, tương đương với tỷ phần pha từ cứng
tăng dần từ 60 đến 80% khối lượng, tỷ phần pha từ mềm giảm tương ứng từ 40 xuống
20% khối lượng. Tỷ phần này đã được phản ánh trong mối tương quan cường độ đỉnh
113
nhiễu xạ đặc trưng của 2 pha tại góc 2θ = 43 (pha từ cứng) và 45o (pha từ mềm). Khi
pha từ mềm càng giảm, cường độ tại đỉnh 45 càng giảm. Ngoài ra, trên tất cả các mẫu,
ngoài 2 vị trí đỉnh nổi bật tại 43 và 45o, các vị trí đỉnh khác đều được mở rộng và trở
nên khó quan sát, nhiễu nền tăng cao. Điều này cũng ảnh hưởng nhiều đến tính chính
xác của phương pháp tính toán kích thước tinh thể trung bình bằng phương pháp
Rietveld dựa trên giản đồ XRD.
20 30 40 50 60 70 80 90
SF80-4h
SF75-4h
SF70-4h
SF60-4h
SF65-4h
Fe65
Co35
SmCo5
Góc 2 (độ)
Cư
ờng
độ
(đvt
đ)
Hình 4.9. Phổ nhiễu xạ tia X theo sự thay đổi tỷ phần pha của hệ vật liệu
SmCo5/Fe65Co35 sau 4 giờ nghiền.
Bảng 4.3. Một số thông số cấu trúc của mẫu nano composite sau khi nghiền 4 giờ và
6 giờ theo các tỉ phần khác nhau.
Tên mẫu
Mẫu nghiền 4 giờ Mẫu nghiền 6 giờ
DSC
(nm)
DFC
(nm)
aSC
(Å)
cSC
(Å)
aFC
(Å)
DSC
(nm)
DFC
(nm)
aSC
(Å)
cSC
(Å)
aFC
(Å)
SF60 5 23 4,893 4,070 2,856 5 25 4,779 4,076 2,860
SF65 5 27 4,825 4,033 2,864 5 23 4,791 4,037 2,854
SF70 6 23 4,851 4,084 2,862 6 23 4,827 4,052 2,861
SF75 5 29 4,825 4,050 2,865 6 24 4,810 4,021 2,860
SF80 6 34 4,871 4,045 2,871 5 27 4,820 4,063 2,856
Các đường cong từ trễ của các mẫu nano composite từ SF60 đến SF80 được thể
hiện trên hình 4.10. Từ hình này, các giá trị MS và HC của các mẫu được biểu diễn
theo sự phụ thuộc vào tỉ phần pha trên hình 4.11. Xu hướng chung cho thấy, khi tỉ
114
phần pha từ cứng tăng, giá trị MS sẽ giảm và giá trị HC sẽ tăng. Điều này cũng có thể
dễ dàng hiểu được do pha từ mềm là yếu tố chủ yếu quyết định đến giá trị MS giảm
tỉ phần, do đó sẽ làm giá trị MS giảm theo.
-2 -1 0 1 2-150
-100
-50
0
50
100
150
-2000 -1500 -1000 -500 00
10
20
30
40
50
60
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (Oe)
SF60-4h SF65-4h SF70-4h SF75-4h SF80-4h
Hình 4.10. Đường cong từ trễ của theo sự thay đổi tỷ phần pha của hệ vật liệu nano
composite SmCo5/Fe65Co35 sau 4 giờ nghiền.
60 65 70 75 80100
110
120
130
Thời gian nghiền 4h
MS (
emu
/g)
Tỉ phần pha từ cứng (%)
1400
1600
1800
2000
2200
HC (
Oe)
MS
HC
60 65 70 75 80
100
110
120
130
Tỉ phần pha từ cứng (%)
M
S (
emu
/g)
MS
HC
Thời gian nghiền 6h1000
1200
1400
1600
1800
HC (
Oe)
Hình 4.11. Biểu đồ sự phụ thuộc của từ độ bão hòa và lực kháng từ theo tỉ phần pha
từ cứng của mẫu nanocomposite sau khi nghiền 4 giờ và 6 giờ.
Tương tự như vậy với giá trị HC do tỷ phần pha từ cứng quyết định. Tuy nhiên,
các giá trị này không chỉ đơn thuần giảm và tăng với sự thay đổi tỉ phần pha từ cứng/từ
mềm. Đối với mẫu SF70-4h, sự thay đổi của MS và HC có xu hướng ngược lại. Còn
trong mẫu nano composite sau khi nghiền 6 giờ, giá trị MS khác biệt lại xảy ra ở mẫu
SF75-6h, trong khi đó, giá trị HC vẫn tăng theo đúng quy luật. Điều đó có nghĩa ngoài
thành phần SmCo5 và Fe65Co35, trong hệ còn có ảnh hưởng của pha từ tính khác như
115
Sm(Fe-Co)5 hay sự thiên lệch trong khuếch tán thành phần Fe của Fe65Co35 [133].
Mẫu với 75% tỉ phần pha từ cứng Fe65Co35, nghiền trong 4 giờ (SF75-4h) đạt các
thông số từ tốt như độ từ dư MR ~ 57 emu/g, lực kháng từ HC ~ 1,8 kOe và giá trị
tíCch năng lượng (BH)max lớn nhất ~7,4 MGOe. Các giá trị số của MS và HC của 2 hệ
mẫu được thể hiện trong bảng 4.4 và 4.5.
Bảng 4.4. Giá trị MS, HC, Mr và (BH)max của các mẫu nano composite sau khi nghiền 4 giờ.
Tên mẫu SF60-4h SF65-4h SF70-4h SF75-4h SF80-4h
MS (emu/g) 135 120 124 115 104
HC (Oe) 1338 1687 1667 1848 2169
MR(emu/g) 41 43 47 57 52
(BH)max (MGOe) 5,0 6,2 6,5 7,4 7,2
Bảng 4.5. Giá trị MS HC, Mr và (BH)max của các mẫu nano composite sau khi nghiền 6 giờ.
Tên mẫu SF60-6h SF65-6h SF70-6h SF75-6h SF80-6h
MS (emu/g) 128 135 126 120 97
HC (Oe) 967 1439 1654 1690 1726
MR(emu/g) 29 47 42 37 38
(BH)max (MGOe) 3,4 6,7 6,3 5,9 6,0
4.1.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ ủ
Với các kết quả tính toán kích thước tinh thể trung bình của mẫu sau khi nghiền
cho thấy kích thước tinh thể của pha cứng và pha mềm khá nhỏ (~7 nm/15 nm). Đặc
biệt là tỉ lệ kích thước của pha từ cứng nhỏ hơn nhiều so với pha từ mềm. Điều này
sẽ làm giảm đáng kể tương tác trao đổi giữa 2 pha từ cứng mềm. Nhằm mục đích ổn
định thành phần và nâng cao tính chất từ, các mẫu nano composite đã được tiến hành
xử lý nhiệt dưới điều kiện chân không cao (10-7 torr) tại nhiệt độ 550oC, trong thời
gian 90 phút. Trên hình 4.12 là giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu SF70-6h, SF75-
6h, SF80-6h trước và sau khi xử lý nhiệt. Kết quả cho ta thấy trên mẫu sau ủ nhiệt
vẫn chỉ tồn tại 2 pha SmCo5 và Fe-Co, hay nói cách khác pha tinh thể của hợp kim
Fe65Co35 và SmCo5 không bị thay đổi sau quá trình xử lý nhiệt. Tuy nhiên, sau quá
trình xử lý nhiệt, có sự thay đổi về cường độ vạch nhiễu xạ đối với tất cả các đỉnh.
116
Điều đó thể hiện sự gia tăng kích thước tinh thể trung bình trên cả 2 pha từ cứng mềm.
Tuy nhiên sự gia tăng cường độ của pha từ mềm Fe-Co (với bộ đỉnh nhiễu xạ đặc trưng
tại 45, 65 và 83o) thể hiện một cách rõ ràng pha từ cứng. Các giá trị tính toán về cấu
trúc vật liệu được thể hiện trên bảng 4.5. Kết quả này cho ta thấy, kích thước tinh thể
trung bình đều tăng trên cả 2 pha từ cứng/mềm với tương quan kích thước là 15 nm/35
nm; 13 nm/41 nm; 14 nm/39 nm tương ứng với các mẫu SF70-6h-550, SF75-6h-550,
và SF80-6h-550. Như vậy, có thể thấy kích thước của pha từ cứng tăng chậm hơn so
với pha từ mềm tăng nhanh hơn sau khi bột được ủ tại 550oC trong 90 phút. Như vậy
sự chênh lệch về kích thước giữa hai pha là đáng kể khi được ủ nhiệt tại nhiệt độ này,
ảnh hưởng của nó tới tính chất từ sẽ được thảo luận trong phần tiếp theo.
20 30 40 50 60 70 80 90
SF70-6h-550
SF70-6h
SF75-6h-550
SF75-6h
SF80-6h
SF80-6h-550
Cư
ờng
độ
(đvt
đ)
Góc 2 (độ)
Hình 4.12. Phổ nhiễu xạ tia X của các mẫu SF70, SF75, SF80 trước và sau khi xử lý nhiệt.
Bảng 4.6. Kích thước tinh thể trung bình của mẫu nano composite
sau khi xử lý nhiệt tại 550oC trong 90 phút.
Tên mẫu
Mẫu nghiền 2 giờ Mẫu nghiền 4 giờ Mẫu nghiền 6 giờ
SC (nm)
FC (nm) SC (nm) FC (nm) SC (nm)
FC (nm)
SF60-550 14 46 13 43 12 41
SF65-550 13 45 13 41 13 36
SF70-550 15 42 14 40 12 34
SF75-550 13 41 15 37 14 34
SF80-550 14 39 15 36 13 33
117
-20k -10k 0 10k 20k-150
-100
-50
0
50
100
150
-2000 -1500 -1000 -500 00
10
20
30
40
50
SF65
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (Oe)
SF65-6h SF65-6h-550
-20k -10k 0 10k 20k
-100
-50
0
50
100
-2k -1k 00
10
20
30
40
50
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (Oe)
SF70-6h SF70-6h-550
SF70
-20k -10k 0 10k 20k
-100
-50
0
50
100
-3k -2k -1k 00
10
20
30
4050
60
SF75
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (Oe)
SF75-6h SF75-6h-550
-20k -10k 0 10k 20k
-100
-50
0
50
100
-3k -2k -1k 00
10
20
30
40
50
60
Từ
độ
(em
u/g
)Từ trường (Oe)
SF80-6h SF80-6h-550
SF80
Hình 4.13. Đường cong từ trễ của các mẫu SF65, SF70, SF75, SF80 trước
và sau khi xử lý nhiệt.
Kết quả đo đường cong từ trễ của mẫu tiêu biểu SF70-6h, SF75-6h, SF80-6h
trước và sau khi xử lý nhiệt được thể hiện trên hình 4.13. Giá trị HC thu được sau quá
trình xử lý nhiệt tăng thêm khá đáng kể. Giá trị HC tối đa đạt mức là 3330 Oe tăng
gấp đôi so với mẫu chưa xử lý nhiệt (1600 Oe) tương ứng với thành phần SF75. Giá
trị Mr cũng được cải thiện đáng kể từ 36 lên 64 emu/g trong khi giá trị MS gần như
không thay đổi. Giá trị (BH)max của mẫu bột tính tương quan với mẫu bột SmCo5 sau
nghiền 30 phút với cùng khối lượng riêng lý thuyết (ρ=8,5 g/cm3) đạt 85% (11,5
MGOe/13,8 MGOe), so với (13,8 MGOe). Các thông số tính chất từ của hệ mẫu được
tổng hợp trong bảng 4.6. Do tương quan kích thước của pha từ cứng nhỏ hơn pha từ
mềm nên khả năng ghim hãm của pha từ cứng bị giảm đáng kể (bảng 4.7). Ngoài ra,
trong một số mẫu đo, đặc biệt là các mẫu SF80 với tỉ phần pha từ cứng cao, trên
đường cong từ trễ vẫn tồn tại điểm uốn ở giữa, dấu hiệu của tương tác trao đổi chưa
triệt để. Điều này thể hiện rằng quá trình xử lý nhiệt chưa tối ưu do đó liên kết trao
đổi đàn hồi trong hệ SmCo5/Fe65Co35 vẫn chưa xảy ra hoàn toàn. Tuy nhiên, các tính
chất từ của mẫu đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt là HC.
118
Bảng 4.7. Bảng tổng hợp giá trị từ độ bão hòa và lực kháng từ
của các mẫu nano composite.
Tên mẫu Mẫu nghiền 2 giờ Mẫu nghiền 4 giờ Mẫu nghiền 6 giờ
MS (emu/g) HC (Oe) MS (emu/g) HC (Oe) MS (emu/g) HC (Oe)
SF60 137 1516 135 1338 128 967
SF60-550 141 1895 160 955 142 1816
SF65 127 1623 120 1687 135 1439
SF65-550 133 1620 142 1500 143 1931
SF70 123 1720 124 1667 126 1654
SF70-550 120 2190 118 1890 117 2430
SF-75 106 2290 115 1848 120 1690
SF75-550 113 2460 118 2990 123 3340
SF80 112 2630 104 2169 97 1726
SF80-550 100 3262 103 3110 105 2960
4.1.4. Ảnh hưởng của thiêu kết xung điện Plasma
Đối với các vật liệu từ cứng, (BH)max được coi như là một thông số từ quan
trọng để đánh giá chất lượng của chúng. Sự phụ thuộc của giá trị tích năng lượng từ
cực đại (BH)max phụ thuộc vào rất nhiều thông số của vật liệu. Ngoài các giá trị liên
quan đến tính chất từ như MS, HC, MR, một thông số vật lý rất quan trọng khi ứng
dụng trong thực tế đối với tất cả các vật liệu từ khi muốn đạt được giá trị (BH)max cao
là khối lượng riêng cao. Đối với giá trị (BH)max của mẫu SmCo5/Fe65Co35 được tính
toán trong phần trước, khối lượng riêng lý thuyết 8,5 g/cm3 khó có thể đạt được trong
thực tế. Đối với vật liệu kích thước nano, để có thể tăng mật độ khối mà không làm
tăng trưởng kích thước hạt người ta thường dùng kỹ thuật thiêu kết xung điện Plasma
(Spark Plasma Sintering - SPS). Đây là một kỹ thuật tương đối với mới cho phép chế
tạo vật liệu có mật độ cao tại nhiệt độ thiêu kết tuơng đối thấp và khoảng thời gian
giữ nhiệt ngắn hơn (có thể tính theo đơn vị phút) so với các phương pháp thiêu kết
truyền thống như thiêu kết thường (Pressureless), ép nóng (Hot Isostatic Pressing-
HIP) - các phương pháp thiêu kết đòi hỏi thời gian giữ nhiệt kéo dài (hàng giờ) ở
nhiệt độ cao.
Kỹ thuật SPS này có các ưu điểm:
119
- Tốc độ nâng/hạ nhiệt nhanh dẫn đến rút ngắn thời gian của quá trình thiêu kết.
- Có thể sử dụng áp lực ép cao hơn so với ép nóng thông thường, dẫn đến mẫu
thiêu kết có tỷ trọng cao hơn tại thiệt độ thiêu kết thấp hơn.
- Sự xuất hiện của dòng điện trong mẫu giúp tăng cường quá trình thiêu kết.
Kỹ thuật thiêu kết bằng xung điện Plasma là phương pháp hiệu quả để chế tạo
vật liệu khối cho bột hợp kim cơ học với ưu điểm hạn chế sự phát triển kích thước
hạt trong quá trình thiêu kết. Kỹ thuật này hoàn toàn phù hợp với mục đích chế tạo
thử nghiệm vật liệu khối nano composite dựa trên bột hợp kim chế tạo được.
-20k -10k 0 10k 20k
-100
-50
0
50
100
-4k -3k -2k -1k 00
20
40
60
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (Oe)
SF60-4h-550-SPS SF65-4h-550-SPS SF70-4h-550-SPS SF75-4h-550-SPS SF80-4h-550-SPS SmCo
5
Hình 4.14. Đường cong từ trễ của các mẫu SF-4h-550-SPS (70 MPa, 550oC, 5 phút).
-20k -10k 0 10k 20k
-100
-50
0
50
100
SF60-6h-550-SPS SF65-6h-550-SPS SF70-6h-550-SPS SF75-6h-550-SPS SF80-6h-550-SPS SmCo
5
-4k -3k -2k -1k 00
20
40
60
Từ
độ
(em
u/g
)
Từ trường (Oe)
Hình 4.15. Đường cong từ trễ của các mẫu SF-6h-550-SPS (70 MPa, 550oC, 5 phút).
Trên hình 4.14 và 4.15 là đường cong từ trễ của mẫu SF-4h-550-SPS và mẫu
SF-4h-550-SPS theo tỉ phần pha khác nhau. Từ hình vẽ cho ta thấy, khi nồng độ pha
từ cứng tăng từ 60 lên 80%, giá trị MS giảm, giá trị HC tăng, giá trị từ dư MR tăng
chậm. Tuy nhiên, hình dáng của các đường cong từ trễ đều có điểm uốn, thể hiện
120
tương tác trao đổi chưa tối ưu. Trong hệ mẫu vẫn tồn tại 2 pha từ. Sự thắt eo rõ ràng
hơn nhiều so với mẫu trước khi ép. Đồng thời điểm uốn của mẫu nghiền 4 giờ hẹp
hơn của mẫu nghiền 6 giờ. Biểu đồ sự phụ thuộc của MS, HC được trình bày trong
hình 4.16. HC cực đại đạt được với mẫu SF80-6h-550-SPS là 3840 Oe, tương đương
khoảng gần 90% so với HC của SmCo5 đầu vào (4324 Oe). Tuy nhiên độ vuông góc
của đường cong từ trễ còn kém xa so với pha SmCo5, điều này cũng sẽ dẫn tới sự suy
giảm của giá trị (BH)max. Các giá trị MS, HC và tích năng lượng từ cực đại (BH)max sau
quá trình ép SPS được chỉ ra trong bảng 4.8.
60 65 70 75 80100
110
120
130
Thời gian nghiền 4h
MS (
emu
/g)
Tỉ phần pha từ cứng (%)
1500
2000
2500
3000
3500
HC (
Oe)
MS
HC
60 65 70 75 80
110
120
130
MS (
emu
/g)
Thời gian nghiền 6h
Tỉ phần pha từ cứng (%)
MS
HC
2000
2500
3000
3500
HC (
Oe)
Hình 4.16. Biểu đồ sự phụ thuộc của từ độ bão hòa và lực kháng từ theo tỉ phần
pha từ cứng của mẫu nanocomposite sau khi ép xung SPS.
Bảng 4.8. Bảng thống kê giá trị từ độ bão hòa, lực kháng từ, mật độ khối
và tích năng lượng từ cực đại của mẫu nano composite sau khi ép xung plasma.
Tên mẫu MS (emu/g) HC (Oe) (g/cm3) (BH)max (MGOe)
SF60-4h-550-SPS 134 1462 6,5 6,8
SF65-4h-550-SPS 128 1649 6,5 5,6
SF70-4h-550-SPS 119 1946 6,5 8,0
SF75-4h-550-SPS 112 2700 6,5 8,6
SF80-4h-550-SPS 104 3627 6,5 8,2
SF60-6h-550-SPS 136 1749 6,5 9,3
SF65-6h-550-SPS 131 1794 6,5 6,7
SF70-6h-550-SPS 120 2255 6,5 8,3
SF75-6h-550-SPS 115 2784 6,5 10,3
SF80-6h-550-SPS 107 3840 6,5 10,9
SmCo5 87 4327 8,5 13,9
121
Kết quả cho thấy giá trị (BH)max tốt nhất là mẫu SF80-6h-550-SPS, đạt 10,9
MGOe (~80% của SmCo5 đầu vào), tương ứng với mẫu có tỉ phần pha cứng cao nhất.
Sau khi ép xung SPS, mẫu thu được có tính chất từ cải thiện đáng kể, đặc biệt là HC,
trong khi đó giá trị MS gần như không thay đổi.
Kết quả ban đầu thu được trên hệ nano composite rất khả quan. Đề tài nghiên
cứu cần định hướng nghiên cứu sâu hơn về chế độ xử lý nhiệt, các tham số của quy
trình SPS, ép trong từ trường,… để có thể đạt thêm các kết quả mới trong tương lai.
4.2. Vật liệu Fe, Fe-Co trong nhiệt từ trị
4.2.1. Khả năng sinh nhiệt của chất lỏng chứa nano Fe.
Các hệ hạt nano từ Fe, Fe-Co chế tạo bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng
cao như đã trình bày trong Chương 3 thể hiện trạng thái siêu thuận từ ở nhiệt độ phòng
với giá trị từ độ bão hòa đạt giá trị MS lớn ~ 220 emu/g và dễ dàng bị từ hóa khi tác
động một từ trường ngoài rất nhỏ (60 – 90 Oe). Chính vì vậy, các vật liệu Fe-Co kích
thước nano này được chú ý quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực y sinh [6]. Với từ độ
bão hòa cao hơn các vật liệu ferrit khoảng 2,5 lần nên chỉ cần một lượng hạt nano từ
tối thiểu mà vẫn đảm bảo khả năng sinh nhiệt đủ để tiêu diệt tế bào ung thư.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu khả năng sinh nhiệt trong từ trường xoay chiều
trên hệ chất lỏng từ sử dụng hạt nano Fe. Hệ hạt nano từ này được chế tạo bằng
phương pháp nghiền cơ năng lượng cao với thời gian nghiền 10 giờ như trình bày
trong Chương 3. Hệ hạt nano Fe có các thông số: kích thước hạt tinh thể ~ 14 nm, từ
độ bão hòa ~ 194 emu/g, lực kháng từ ~ 74 Oe. Mẫu hạt được phân tán trong dung
môi dầu oliu để tạo thành hệ chất lỏng đáp ứng được thí nghiệm đốt nóng cảm ứng
từ và được thực hiện trên hệ phát từ trường xoay chiều HFI –RDO tại phòng Vật liệu
nano y sinh – Viện Khoa học vật liệu.
Kết quả thực nghiệm đốt nóng cảm ứng từ của mẫu Fe-10h được trình bày trên
hình 4.17. Hình 4.17a biểu diễn sự thay đổi nhiệt độ của mẫu Fe-10h nồng độ 4 mg/ml
theo sự phụ thuộc vào thời gian dưới tác động của từ trường ngoài AC lần lượt là 60,
70, 80 và 90 Oe. Kết quả cho thấy nhiệt độ của mẫu tăng theo thời gian và sau đó đạt
đến giá trị bão hòa sau 1500 giây. Nhiệt độ bão hòa (Ts) thu được là 36,7; 45,6; 55,1
và 63,2oC với từ trường AC tương ứng là 60, 70, 80 và 90 Oe. Điều này cho thấy khả
năng có thể ứng dụng trong đốt nhiệt cảm ứng từ, do khoảng nhiệt độ ứng dụng nằm
122
trong khoảng từ 42-46oC, nhiệt độ này đủ năng lượng nhiệt để phá hủy trực tiếp các
khối u và tế bào [134-137].
0 500 1000 1500
30
40
50
60
Thời gian (giȃy)
T (
o C)
(a)
60 Oe
70 Oe
80 Oe
90 Oe
4 5 6 7 80
20
40
60
80
SA
R (
w/g
)
H2 (kOe)
(b)
Hình 4.17. (a) Đường đốt nhiệt theo cường độ từ trường AC khác nhau. (b)
Đường phụ thuộc tuyến tính của SAR theo từ trường ngoài AC.
Công suất hấp thụ riêng (SAR) đối với chất lỏng từ chứa Fe được tính như sau
[138]:
𝑆𝐴𝑅 𝐶 (2)
Trong đó C là nhiệt dung riêng của chất lỏng từ (C = 4,18 J/gK), dT/dt là độ dốc
ban đầu của đường cong gia nhiệt, mFe tổng khối lượng hạt sắt trong chất lỏng. Các
giá trị gia nhiệt tính toán được báo cáo trong bảng 4.9.
Trong hình 4.17b biểu diễn sự phụ thuộc tuyến tính giữa các giá trị SAR và giá
trị bình phương cường độ từ trường (H2) cho mẫu Fe-10h. Điều này phù hợp với các
nghiên cứu trước đó đã mô tả các loại quá trình tổn hao khác nhau dưới tác động của
từ trường [127, 139-141].
2 4 6 8 10 1236
37
38
T ( oC
)
Thời gian (ngày)
SA
R (
W/g
)
52
53
54
55
Hình 4.18. Sự ổn định của SAR và Ts trong đốt nhiệt từ trong 13 ngày.
123
Bảng 4.9. Nhiệt độ bão hòa TS, tốc độ tăng nhiệt ban đầu dT/dt và công suất tổn hao
riêng SAR của mẫu chất lỏng từ Fe-10h với nồng độ 4 mg/ml với các giá trị từ trường
ngoài khác nhau.
H (Oe) f (kHz) T(1500s) dT/dt (oC/s) SAR (W/g)
60 178 36,8 0,0095 9,9
70 178 45,6 0,0231 24,1
80 178 55,1 0,0356 37,2
90 178 63,2 0,0763 79,7
Ngoài khả năng gia nhiệt, để có thể ứng dụng trong đốt nhiệt cảm ứng từ, vật
liệu bắt buộc phải có độ ổn định theo thời gian. Để thăm dò khả năng ổn định của
chất lỏng từ chứa Fe-10h trong đốt nóng cảm ứng của chất lỏng từ, chúng tôi đã
nghiên cứu thực nghiệm đo đạc các giá trị SAR và TS dưới tác động của từ trường
ngoài có tần số 178 kHz và biên độ 80 Oe sau 4 lần đốt trong vòng 13 ngày. Các kết
quả được thể hiện trong hình 4.18 và bảng 4.10. Kết quả này đã chỉ ra rằng TS và
SAR gần như không thay đổi; TS đã giảm khoảng 3% và SAR đã giảm dưới 2% sau
13 ngày. Giá trị SAR này cũng tương đương với giá trị được báo cáo trong các công
bố trước đây [142-144]. Từ những kết quả này, có thể thấy rằng vật liệu Fe-10h của
chúng tôi là một ứng cử viên đầy triển vọng cho các ứng dụng đốt nhiệt cảm ứng từ.
Bảng 4.10. Nhiệt độ bão hòa TS, tốc độ tăng nhiệt ban đầu dT/dt và công suất tổn hao
riêng SLP của mẫu chất lỏng từ Fe-10h (nồng độ 4 mg/ml, từ trường AC 80 Oe, tần
số 178 kHz) theo số lần đo lặp lại khác nhau.
Số lần đốt T(1500s)(oC) dT/dt (oC/s)
SAR
(W/g)
Lần thứ 1 55,1 0,0356 37,2
Lần thứ 2 55,0 0,0355 37,1
Lần thứ 3 54,6 0,0352 36,8
Lần thứ 4 53,5 0,0349 36,5
124
4.2.2. Khả năng sinh nhiệt của chất lỏng chứa nano Fe-Co
0 500 1000 1500
30
40
50
60
70
T (
o C)
Thời gian (giȃy)
1 mg/ml
2 mg/ml
4 mg/ml
6 mg/ml
Hình 4.19. Đường đốt nóng cảm ứng từ của mẫu Fe-Co ở các nồng độ
từ 1 đến 6 mg/ml trong từ trường xoay chiều tần số 178 kHz, cường độ 80 Oe.
Để đánh giá khả năng ứng dụng của hệ Fe-Co, tương tự với hệ Fe, chúng tôi
tiến hành thực nghiệm đốt nóng cảm ứng từ đối với mẫu lựa chọn FC35-10h. Mẫu
FC35-10h có các thông số: kích thước tinh thể trung bình ~ 10 nm, từ độ bão hòa ~
205 emu/g, lực kháng từ ~ 94 Oe.
Hình 4.19 là đường đốt nóng cảm ứng từ của mẫu Fe-Co ở các nồng độ khác
nhau trong từ trường xoay chiều có tần số 178 kHz và cường độ từ trường 80 Oe. Kết
quả cho thấy, ở khoảng 100 s đầu, quá trình tăng nhiệt độ ở các từ trường khác nhau
gần như tuyến tính theo thời gian. Sau 100 s nhiệt độ tăng chậm dần và gần như bão
hòa ở 1500 giây. Giá trị nhiệt độ ở 1500 giây là khác nhau và phụ thuộc vào cường
độ từ trường ngoài. Với nồng độ 6mg/ml, nhiệt độ TS đạt giá trị cao nhất 70,01oC.
Giá trị TS thấp nhất là 51,06oC ứng với nồng độ 1 mg/ml. Các giá trị gia nhiệt tính
toán được liệt kê trong bảng 4.11.
Như vậy, tại nồng độ thấp nhất 1 mg/ml, cường độ từ trường 80 Oe, nhiệt độ TS
đã khá cao ~51oC. Để thu được nhiệt độ bão hòa nằm trong khoảng 41 – 46oC (khoảng
nhiệt độ tối ưu để có thể diệt tế bào ung thư), nồng độ 1 mg/ml được giữ nguyên và
chúng tôi thay đổi cường độ từ trường từ 60 đến 90 Oe. Trên hình 4.20a là đường
cong đốt nóng cảm ứng từ của mẫu FC35-10h tại nồng độ 1 mg/ml ở các giá trị cường
độ từ trường khác nhau với cùng tần số 178 kHz.
125
Bảng 4.11. Nhiệt độ bão hòa TS, tốc độ tăng nhiệt ban đầu dT/dt và công suất tổn hao
riêng SAR của mẫu chất lỏng từ FC35-10h (cường độ từ trường 80 Oe, tần số 178
kHz) theo các nồng độ khác nhau.
Nồng độ f (kHz) T(1500s) dT/dt (oC/s) SAR (W/g)
1 mg/ml 178 51,06 0,029 30,82
2 mg/ml 178 56,21 0,039 40,75
4 mg/ml 178 62,21 0,058 60,61
6 mg/ml 178 70,01 0,082 85,69
0 500 1000 1500
30
40
50
60
(a)
T (
o C)
Thời gian (giȃy)
60 Oe
70 Oe
80 Oe
90 Oe
4 5 6 7 8
40
60
80
SA
R (
W/g
)
H2 (kOe)
(b)
Hình 4.20. (a) Đường đốt nóng cảm ứng từ của mẫu Fe-Co ở nồng độ 1 mg/ml
trong từ trường xoay chiều tần số 178 kHz và cường độ từ 60-90 Oe và (b) Đường
phụ thuộc tuyến tính của SAR theo từ trường ngoài AC.
Bảng 4.12. Nhiệt độ bão hòa TS, tốc độ tăng nhiệt ban đầu dT/dt và công suất tổn hao
riêng SAR của mẫu chất lỏng từ FC35-10h (nồng độ 1 mg/ml, tần số 178 kHz) theo
các cường độ từ trường khác nhau.
H (Oe) f (kHz) T(1500s) dT/dt (oC/s) SAR (W/g)
60 178 34,11 0,019 18,65
70 178 42,27 0,022 21,79
80 178 51,06 0,029 30,82
90 178 58,47 0,047 46,36
Từ hình 4.20 cho thấy, khi thay đổi cường độ từ trường, giá trị TS thay đổi rất
đáng kể. Giá trị TS nằm trong khoảng 41-46oC khi cường độ từ trường là 70 Oe. Các
giá trị đo thực tế và giá trị SAR tính toán được trình bày chi tiết trong bảng 4.12. Nếu
126
so sánh với mẫu Fe cùng nồng độ và cùng các điều kiện từ trường thì hệ vật liệu Fe-
Co cho khả năng sinh nhiệt tốt hơn . Điều này có thể được lý giải do giá trị SAR phụ
thuộc tuyến tính theo từ độ bão hòa MS [145], trong khi đó giá trị MS của Fe-Co cao
hơn MS của Fe.
Bên cạnh đó, giá trị SAR của hệ mẫu Fe, Fe-Co của chúng tôi được so sánh với
các kết quả thực nghiệm trước đây trong bảng 4.13. Tuy nhiên, do giá trị cường độ từ
trường khác nhau nên giá trị SAR cũng khó so sánh trực tiếp. Tuy nhiên, những kết
quả thu được bước đầu này khá khả quan. Điều này khẳng định tiềm năng ứng dụng
của hệ mẫu Fe-Co.
Bảng 4.13. Giá trị SAR của một số hệ chất lỏng nano từ Fe, Fe-Co.
Chất lỏng nano từ D (nm) f (kHz) H (Oe) SAR (W/g) TLTK
Fe 11 178 70 24,1 Luận án
Fe-Co 10 178 70 21,79 Luận án
Co 6 400 314 1300 [146]
Fe 16,3 1,5 300 660 1690 [143]
Fe-Co 14,2 1,5 100 292 150 [143]
Giá trị đạt được trong các phép đo thực nghiệm đốt nóng cảm ứng từ trên cả 2
hệ Fe và Fe-Co thu được đều khá tốt do từ độ bão hòa của mẫu sau khi chế tạo khá
cao. Kết quả này cho thấy khả năng phù hợp trong ứng dụng nhiệt từ trị. Tuy nhiên,
việc chế tạo chất lỏng từ phân tán đều trong Luận án còn gặp nhiều hạn chế, do các
hạt Fe, Fe-Co được chế tạo bằng phương pháp nghiền cơ năng lượng cao thường kết
đám, tạo thành dạng các cluster. Vì vậy, để có thể tách hạt từ cũng như phân tán đều
trong một dung môi phù hợp nhằm thu được kết quả tốt hơn để có thể ứng dụng hiệu
quả trong nhiệt từ trị, các mẫu chất lỏng trên nền hạt Fe, Fe-Co cần tiếp tục được phát
triển theo hướng nghiên cứu tiếp theo.
127
Kết luận Chương 4
Vật liệu nano từ Fe-Co, cụ thể là các hạt Fe và Fe65Co35, chế tạo bằng phương
pháp nghiền cơ năng lượng cao đã được sử dụng là vật liệu đầu vào trong nghiên cứu
chế tạo nam châm nanocomposite hai pha cứng mềm và chất lỏng hạt nano từ ứng
dụng trong đốt nóng cảm ứng từ. Kết quả nghiên cứu thu được như sau:
- Đã nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện công nghệ, tỷ phần pha lên cấu trúc
và tính chất từ của hệ vật liệu nanocomposite hai pha cứng/mềm SmCo5/Fe65Co35: (i)
Khi thời gian nghiền tăng từ 02 đến 06 giờ, vi cấu trúc của các mẫu 70% SmCo5
(SF70) và 75% SmCo5 (SF75) hầu như không thay đổi, trong khi đó giá trị từ độ bão
hòa có xu hướng tăng và lực kháng từ, từ độ dư có xu hướng giảm. Sự gia tăng MS
phản ảnh sự đóng góp của Fe-Co trong mạng của SmCo5. Giá trị MS tối đa trên mẫu
70% SmCo5 nghiền 6 giờ ~120 emu/g, đạt gần 60% so với MS của pha từ mềm đầu
vào; (ii) Khi tỉ phần pha từ cứng SmCo5 trong mẫu SmCo5/Fe65Co35 tăng từ 60% đến
80%, giá trị MS giảm và giá trị HC tăng. Tỉ phần 75% SmCo5 (mẫu SF75-4h) cho giá
trị tích năng lượng (BH)max lớn nhất ~7,4 MGOe; và (iii) Khi được xử lý nhiệt ở
550oC trong 90 phút, kích thước tinh thể trung bình của các pha từ cứng/mềm đều
tăng và phẩm chất từ cũng được tăng cường đáng kể. Mặc dù khi giá trị MS gần như
không thay đổi, nhưng cả giá trị HC và Mr đều tăng khi được ủ nhiệt. Mẫu với tỉ phần
75% SmCo5 ủ nhiệt có giá trị cao nhất HC ~ 3,3 kOe và Mr ~ 64 emu/g, tăng gấp đôi
so với mẫu chưa xử lý nhiệt, trong khi đó mẫu ủ nhiệt có tỉ phần 70% SmCo5 có giá
trị (BH)max cao nhất ~11,5 MGOe, xấp xỉ với giá trị của vật liệu đơn pha SmCo5.
- Đã nghiên cứu sử dụng kỹ thuật thiêu kết xung điện Plasma để chế tạo mẫu
nanocomposite hai pha cứng/mềm SmCo5/Fe65Co35 nhằm tăng cường tính từ cứng.
Sau khi ép xung SPS, mẫu thu được có tính chất từ cải thiện đáng kể, đặc biệt là HC
và Mr... Mẫu 80% SmCo5 nghiền 6 giờ, thiêu kết plasma ở 550oC (SF80-6h-550-SPS)
có giá trị (BH)max đạt tốt nhất ~10,9 MGOe (~80% của SmCo5 đầu vào).
- Đã sử dụng các hạt nano Fe và Fe65Co35 để chế tạo thành chất lỏng nano từ
và nghiên cứu khả năng đốt nhiệt từ của chúng. Đối với hệ hạt nano Fe, nhiệt độ bão
hòa (Ts) thu được là 36,7; 45,6; 55,1 và 63,2 oC với từ trường AC tương ứng là 60,
70, 80 và 90 Oe. Chất lỏng hạt nano từ này tương đối ổn định theo thời gian với nhiệt
độ bão hòa Ts giảm khoảng 3% và công suất tổn hao riêng SAR giảm dưới 2% sau
128
13 ngày. Đối với hệ hạt nano Fe65Co35, giá trị TS nằm trong khoảng 41-46OC khi
cường độ từ trường là 70 Oe. So với mẫu Fe cùng nồng độ và cùng các điều kiện từ
trường thì hệ vật liệu Fe-Co cho khả năng sinh nhiệt tốt hơn. Trong từ trường ngoài
70 Oe, giá trị SAR của mẫu Fe65Co35 với nồng độ 1 mg/ml ~21,79 (W/g) gần ngang
bằng với mẫu hạt nano Fe ở nồng độ 4 mg/ml. Các kết quả này cho thấy cả hai mẫu
hạt nano Fe và Fe65Co35 có khả năng phù hợp trong ứng dụng nhiệt từ trị.
129
KẾT LUẬN
Các kết quả tiêu biểu và kết luận quan trọng của Luận án phản ánh 2 nội dung chính
là tổng hợp-cấu trúc-tính chất của các hệ vật liệu nano Fe100-xCox (x = 0, 25, 35, 40,
50 và 75) và các ứng dụng của chúng, được tóm tắt như sau:
Đã tìm được một phương pháp mới để tổng hợp thành công các hệ vật liệu
nano kim loại/hợp kim nêu trên, đó là phương pháp nghiền cơ năng lượng cao
trong không khí. Các tham số nghiền tối ưu: vận tốc nghiền và tỉ lệ bi/bột là
450 vòng/phút và 15/1; thời gian nghiền để hợp kim hóa hoàn toàn thay đổi
theo từng hợp phần (8 và 10 giờ tương ứng cho Fe50Co50 và Fe65Co35).
Đã khảo sát chi tiết sự hình thành pha hợp kim Fe50Co50 theo thời gian nghiền
bằng sự kết hợp của 2 phương pháp nhiễu xạ tia X và hấp thụ tia X. Từ đó
khẳng định được sự tồn tại của pha oxit sắt với nồng độ thấp bằng cách ghi
nhận giản đồ XRD với tốc độ chậm cũng như xác định chính xác trạng thái
oxy hóa của Fe (Fe+0) và tỉ phần của các pha cấu trúc bcc (FeCo) và hcp (Co).
Đã khảo sát ảnh hưởng của kích thước hạt tới giá trị của lực kháng từ hệ các
hạt nano từ Fe50Co50. Phân tích số liệu thu được đã khẳng định rằng các hạt
nano có kích thước thuộc khoảng chiều dài trao đổi sắt từ nhưng không tuân
theo mô hình dị hướng ngẫu nhiên của Herzer cũng như luật D6. Kết quả này
do đóng góp đồng thời của nhiều hiệu ứng tới cơ chế lực kháng từ trong hệ hạt
nano kim loại được chế tạo bằng phương pháp nghiền như: ứng suất, sai hỏng
bề mặt hạt, pha oxit sắt, kích thước hạt…
Sự phụ thuộc nhiệt độ của từ độ cho hệ mẫu nêu trên tuân theo luật Bloch T3/2
đã khẳng định rằng lý thuyết sóng spin không chỉ đúng cho các mẫu sắt từ
dạng khối trong khoảng nhiệt độ dưới xa TC mà còn có thể áp dụng cho các hệ
hạt nano từ kim loại.
Đã khảo sát và thảo luận chi tiết sự thay đổi của kích thước tính thể và từ dộ
bão hòa theo thời gian nghiền của hợp kim Fe65Co35. Sau 32 giờ nghiền, kích
thước tinh thể trung bình khoảng 10 nm và MS là 165 emu/g, giá trị này tăng
tới 220 emu/g sau khi xử lý nhiệt trong môi trường khí (5% H2+Ar) tại nhiệt
độ 700OC đã khẳng định thêm sự tồn tại của pha oxít trong quá trình nghiền.
130
Đã nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện công nghệ (thời gian nghiền, nhiệt độ
ủ) và tỷ phần pha lên cấu trúc và tính chất từ của hệ vật liệu nanocomposite
hai pha cứng/mềm SmCo5/Fe65Co35. Hệ mẫu có tỉ phần 75% SmCo5 có giá trị
(BH)max cao nhất ~7,4 MGOe, gần 54% so với giá trị của vật liệu đơn pha
SmCo5. Sau khi thiêu kết bằng xung điện Plasma cho thấy sự cải thiện các
thông số từ (HC và MR), mẫu SF80 đạt giá trị (BH)max ~10,9 MGOe (cỡ ~80%
so với của SmCo5). Những nghiên cứu chi tiết về các điều kiện công nghệ để
cải thiện các đặc tính của từng pha cứng, mềm cũng như của nanocomposite
cần được thực hiện để nâng cao phẩn chất từ của chúng (HC, (BH)max.
Chất lỏng từ chứa các hạt nano Fe và Fe65Co35 có khả năng sinh nhiệt trong từ
trường xoay chiều (cường độ 70 Oe, tần số 178 kHz) với nhiệt độ cao nhất đạt
tới 46oC, là nhiệt độ thích hợp cho ứng dụng nhiệt từ trị. Tuy nhiên, giá trị
SAR của chúng còn khá thấp (< 40 W/g) so với kỳ vọng do đó cần thiết phải
có những nghiên cứu tiếp theo.
131
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN
Tạp chí Quốc tế
1. D. K. Tung, D. H. Manh, L. T. H. Phong, P. H. Nam, D. N. H. Nam, N. T. N.
Anh, H. T. T. Nong, M. H. Phan, N. X. Phuc, “Iron Nanoparticles Fabricated
by High-Energy Ball Milling for Magnetic Hyperthermia”, Journal of
Electronic Materials, Vol. 45, Iss. 5 (2016) pp 2644-2650
2. Do Hung Manh, D.K. Tung, L.T.H. Phong, Nguyen Xuan Phuc, P.T. Phong,
Jaru Jutimoosik and Rattikorn Yimnirun, “Complementary studies of phase
formation during fabrication of Fe0.65Co0.35 nanoparticles by mechanical
alloying”, Journal of Electronic Materials, Vol. 45, Iss. 5 (2016) pp. 2501 –
2507
3. Do Khanh Tung, Do Hung Manh, P.T. Phong, L.T.H. Phong, N.V. Dai,
D.N.H. Nam, N.X. Phuc, “Structural and magnetic properties of mechanically
alloyed Fe50Co50 nanoparticles”, Journal of Alloys and Compounds 640
(2015) 34–38.
4. Do Hung Manh, Do Khanh Tung, Dao Nguyen Hoai Nam, Le Van Hong,
Pham Thanh Phong, Nguyen Xuan Phuc, “Magnetic Properties of Annealed
Fe65Co35 Powders Prepared By Mechanical Alloying”, IEEE Transactions on
Magnetics, Vol.50, Issue 6 (2014) 2005104
5. Do Hung Manh, Do Khanh Tung, L. T. H. Phong, P. T. Thanh, Nguyen Xuan
Phuc, “Facile Synthesis of High Magnetization Air -stable Fe65Co35
Nanoparticles by Mechanical Alloying”, JPS Conf. Proc., (2014) 012010
Hội nghị khoa học Quốc gia
1. Đỗ Khánh Tùng, Đỗ Hùng Mạnh, Lê Thị Hồng Phong, Nguyễn Thị Hà My,
Đào Nguyên Hoài Nam, Nguyễn Xuân Phúc, “Ảnh hưởng của nhiệt độ ủ tới
tính chất từ của bột hợp kim Fe50Co50”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Vol.
52, 3B (2014) 23-29
132
2. Đỗ Khánh Tùng, Đỗ Hùng Mạnh, Lê Thị Hồng Phong, Đào Nguyên Hoài
Nam, Lưu Hữu Nguyên, Phạm Thị Mai Hương, Karim Zehani, Lotfi Bessais
và Nguyễn Xuân Phúc, “Nghiên cứu cấu trúc và tính chất từ của vật liệu
nanocomposite SmCo5/Fe65Co35 chế tạo bằng phương pháp nghiền cơ năng
lượng cao”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Vol. 52, 3B (2014) 59-65
3. Đỗ Khánh Tùng, Đỗ Hùng Mạnh, Lê Thị Hồng Phong, Đào Nguyên Hoài
Nam, Nguyễn Xuân Phúc, “Tổng hợp nano Fe bằng phương pháp nghiền cơ
năng lượng cao”,Tuyển tập báo cáo Hội nghị Vật lý chất rắn và Khoa học vật
liệu toàn quốc lần thứ 9 (2015) Q2, tr. 763-766
133
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. T.Sourmail, Near equiatomic FeCo alloys: Constitution, mechanical and magnetic
properties, Progress in Materials Science, 2005, Vol.50, Iss. 7, 816-880.
2. H. Moumeni, S. Alley, J. M. Grenech, Structural properties of Fe50Co50
nanostructured powder prepared by mechanical alloying, J. Alloys Compds.,
2005, 386, 12.
3. Y. D. Kim, J. Y. Chung, J. Kim, H. Jeon, Formation of nanocrystalline Fe-Co
powders produced by mechanical alloying, Mater. Sci. Eng., 2000, Vol. A291,
17-21.
3. O. Çelik, T. Fırat, Synthesis of FeCo Magnetic Nanoalloys and Investigation of
Heating Properties for Magnetic Fluid Hyperthermia, Journal of Magnetism
and Magnetic Materials, 2018, 456, 11-16.
5. A. Zelenáková, D. Oleksáková, J. Degmová, J. Kovác, P. Kollár, M. Kusý, P.
Sovák, Structural and magnetic properties of mechanically alloyed FeCo
powders, J. Magn. Magn. Mater, 2007, 316, 519.
6. ChuantaoMa, Magnetic properties of exchange coupled SmCo5/FeCo composite
particles synthesized by magnetic self-assembly, Chemical Physics Letters,
2018, 696, 31-35.
7. S. Azzaza, S. Alleg, H. Moumeni, A. R. Nemamcha, J. L. Rehspringer and J.
M. Greneche, Magnetic properties of nanostructured ball-milled Fe and
Fe50Co50, Alloy, J. Phys.: Condens. Matter, 2006, 18 7257.
8. Q. Zeng, I. Baker, V. M. Creary, Z. Yan, Soft ferromagnetism in nanostructured
mechanical alloying FeCo-based powders, J. Magn. Magn. Mater., 1981, 318 28.
9. E. Dorolti, A.V. Trifu, O. Isnard, I. Chicinas, F. Tolea, M. Valeanu, V. Pop,
Influence of mechanical milling on the physical properties of SmCo5/Fe65Co35
type hard/soft magnetic nanocomposite, Journal of Alloys and Compounds,
2013, 560 189–194.
134
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lhadi Merhari, Hybrid Nanocomposites for Nanotechnology, Springer, 2009.
2. Alain Nouailhat, An Introduction to Nanoscience and Nanotechnology, Wiley, 2008.
3. Guozhong Cao, Qifeng Zhang và C Jeffrey Brinker, Annual Review of Nano
Research, World Scientific Publishing Vol. 3, 2011.
4. A. H. Morrish, The Physical Principles of Magnetism, John Wiley & Sons New
York, 1965.
5. B. D. Cullity, Introduction to Magnetic Materials, Addison-Wesley Reading,
MA, 1972.
6. D. L. Huber, Synthesis, properties, and applications of iron nanoparticles,
Small, 2005, 1(5), 482– 501.
7. Thuy T. T., Maenosono S., Thanh N. T. K., Magnetic nanoparticles: from
fabrication and clinical applications, CRC Press, Taylor and Francis, Boca
Raton London New York, 2012, 99-128.
8. Silke Behrens, et. Al., Surface engineering of Co and FeCo nanoparticles for
biomedical application, J. Phys.: Condens. Matter, 2006, 18 S2543–S2561.
9. V.E. Fertman, Magnetic Fluids Guide-Book: Properties and Application,
Hemisphere, New York, 1990.
10. B.M. Berkovsky, V.F. Medvedev, M.S. Krakov, Magnetic Fluides:
Engineering Applications, Oxford University Press, 1993.
11. S.P. Gubin, Yu.A. Koksharov, G.B. Khomutov, G.Yu. Yurkov, Magnetic
nanoparticles: preparation, structure and properties, Russian Chem. Rev.,
2005, 74489.
12. An-Hui-Lu, E.L. Salabas, F. Schuth, Magnetic Nanoparticles: Synthesis, Protection,
Functionalization, and Application, Angew. Chem. Int. Ed., 2007, 46, 1222.
13. S. P. Gubin and Yu. A. Koksharov, Preparation, Structure, and Properties of
Magnetic Materials Based on Co Containing Nanoparticles, Inorg. Mater.,
2002, 38 (11), 1085–1099.
14. R. Ferrando, J. Jellinek, R.L. Johnston, Nanoalloys: from theory to applications
of alloy clusters and nanoparticles, Chem. Rev., 2008, 108, 845.
15. C. Binns, Nanomagnetism: fundamentals and applications, Poland, 2014.
16. C. Kittel, Introduction to solid state physics, 7th ed., John Wiley & sons, New
135
York, 2006, 446-450.
17. B. D. Cullity and C. D. Graham, Introduction to magnetic materials, Hoboken,
New Jersey, 2009.
18. J. Stöhr and H. C. Siegmann, Magnetism, from fundamentals to nanoscale
dynamics, Berlin and Heidelberg, 2006.
19. R. C. O´Handley, Modern magnetic materials, principles and applications,
New York, 2000.
20. N. W. Ashcroft and N. D. Mermin, Solid state physics, New York, 1976.
21. M. Farle, Magnetic nanoparticles (Magnetism goes Nano), Jülich,
Forschungszentrum Jülich GmbH, C4, 2005.
22. Sergey P. Gubin, Magnetic Nanoparticles, Wiley-VCH, 2009.
23. Nguyễn Hữu Đức, Vật liệu từ cấu trúc nanô và điện tử học spin, NXB Đại học
Quốc gia, 2008.
24. Thân Đức Hiền, Nguyễn Tuấn Tài, Từ học và Vật liệu từ, NXB Đại học Bách
khoa, 2008.
25. C. P. Bean and J. D. Livingston, Superparamagnetism, J. Appl. Phys, 1959, 30,
S120.
26. D. Kodama, K. Shinoda, K. Sato, Y. Sato, B. Jeyadevan, K. Tohji, Synthesis of
Fe-Co alloys particles by modifed polyol process, IEEE Transactions of
magnetics, 2006, Vol. 42, No. 10, 2796.
27. W. C. Ellis and E. S. Greiner, Equilibrium relations in the solid state of the iron-
cobalt system, Trans. ASM, 1941, 415–433.
28. A. S. Normanton, P. E. Bloomfield, F. R. Sale, and B. B. Argent, A calorimetric
study of iron-cobalt alloys, Metal Sci., 1975, 9, 510–517.
29. D. W. Clegg and R. A. Buckley, The disorder-order transformation in iron
cobalt-based alloys, Metal Sci. J., 1973, 7, 48–54.
30. T.Sourmail, Near equiatomic FeCo alloys: Constitution, mechanical and magnetic
properties, Progress in Materials Science, 2005, Vol.50, Iss. 7, 816-880.
31. H. P. J.Wijn, Magnetic Properties of Metals: d-Elements, Alloys and
Compounds, Springer, Berlin, 1991.
32. J. Li, H. Zeng, S. Sun, J. P. Liu and Z. L. Wang, Analyzing the Structure of
CoFe−Fe3O4 Core−Shell Nanoparticles by Electron Imaging and Diffraction,
136
J. Phys. Chem. B, 2004, 108 (37), 14005.
33. Yufeng Wang, Yi Zheng and Shuchun Hu, Synthesis of Mono-dispersed Fe-Co
Nanoparticles with Precise Composition Control, Journal of Physical and
Chemistry of Solids, 2017, 100, 78-82.
34. Y. Cheng, G. Ji, Z. Li, H. Lv, W. Liu, Y. Zhao, J. Cao, Y. Du, Facile synthesis
of FeCo alloys with excellent microwave absorption in the whole Ku-band:
Effect of Fe/Co atomic ratio, J. of Alloys and Compounds, 2017, 704, 289.
35. A. Hütten, D. Sudfeld, I. Ennen, G. Reiss, K. Wojczykowski and P. Jutzi,
Ferromagnetic FeCo nanoparticles for biotechnology, Magn. Magn. Mater.,
2005, 293, 93.
36. C. Desvaux, C. Amiens, P. Fejes, P. Renaud, M. Respaud, P. Lecante, E. Snoeck
and B. Chaudret, Multimillimetre-large superlattices of air-stable iron–cobalt
nanoparticles, Nature Mater., 2005, 4, 750.
37. V. Tzitzios, G. Basina, D. Niarchos, W. Li, G. Hadjipanayis, Synthesis of air
stable FeCo nanoparticles, J. Appl. Phys., 2011, Vol. 209, No. 07A313.
38. Mikio Kishimoto, Hawa Latiff, Yuki Hisamatsu, Eiji Kita and Hideto
Yanagihara, Characterization of FeCo particles synthesized via
coprecipitation, particle growth using flux treatment and reduction in hydrogen
gas, Journal of Magnetism and Magnetic Materials, 2017, Vol. 432, 404.
39. S. Koutsopoulos, R. Barfod, D. Tsamouras, K.M. Eriksen, R. Fehrmann,
Synthesis and characterization of iron-cobalt (FeCo) alloy nanoparticles
supported on carbon, Journal of Alloys and Compounds, 2017, Vol. 725, 1210.
40. M. Zamanpour, Y. Chen, B. Hu, K. Caroll, Z. J. Huba, E. E. Carpenter, L. H. Lewis,
V. G. Harris, Large-scale synthesis of high moment FeCo nanoparticles using
modified polyol synthesis, Journal of Applied Physics, 2012, 111, 07B528.
41. G. S. Chaubey, C. Barcena, N. Poudyal, C. Rong, J. Gao, S. Sun and J. P. Liu,
Synthesis and stabilization of FeCo nanoparticles, J. Am. Chem. Soc., 2007,
129, 7214.
42. W. S. Seo, J. H. Lee, X. Sun, Y. Suzuki, D. Mann, Z. Liu, M. Terashima, P. C.
Yang, M. V. Mcconnell, D. G. Nishimura and H. Dai, FeCo/graphitic-shell
nanocrystals as advanced magnetic-resonance-imaging and near-infrared
agents, Nature Mater., 2006, 5, 971.
137
43. J. Bai and J.-P. Wang, High-magnetic-moment core-shell-type FeCo–Au∕Ag
nanoparticles, Appl. Phys. Lett., 2005, 87, 152502.
44. Y.-H. Xu and J.-P. Wang, FeCo–Au core-shell nanocrystals, Appl. Phys. Lett.,
2007, 91, 233107.
45. H. Moumeni, S. Alley, J. M. Grenech, Structural properties of Fe50Co50
nanostructured powder prepared by mechanical alloying, J. Alloys Compds.,
2005, 386, 12.
46. V. Lyubina, Nanocrystalline Fe-Pt alloys: phase transformations, structure and
magnetism, Dissertation, 2006, 6-7.
47. Y. D. Kim, J. Y. Chung, J. Kim, H. Jeon, Formation of nanocrystalline Fe-Co
powders produced by mechanical alloying, Mater. Sci. Eng., 2000, Vol. A291,
17-21.
48. O. Çelik, T. Fırat, Synthesis of FeCo Magnetic Nanoalloys and Investigation of
Heating Properties for Magnetic Fluid Hyperthermia, Journal of Magnetism
and Magnetic Materials, 2018, 456, 11-16.
49. A. Zelenáková, D. Oleksáková, J. Degmová, J. Kovác, P. Kollár, M. Kusý, P.
Sovák, Structural and magnetic properties of mechanically alloyed FeCo
powders, J. Magn. Magn. Mater, 2007, 316, 519.
50. N. Poudyal, C. Rong, Y. Zhang, D. Wang, M. J. Kramer, R. J. Hebert, Self-
nanoscaling in FeCo alloys prepared via severe plastic deformation, J. Alloys
Compd., 2012, 521, 55-59.
51. A. Azizi, S.K. Sadrnezhaad, A. Hasani, Morphology and magnetic properties
of FeCo nanocrystalline powder produced by modified mechanochemical
procedure, Journal of Magnetism and Magnetic Materials, 2010, Vol. 322, Iss.
21, 3551–3554.
52. P. Moriarty, Nanostructured materials, Rep. Prog. Phys., 2001, 64, 297.
53. W.J Zhang, Nanoscale Iron Particles for Environmental Remediation: An
Overview, Nanopart. Res., 2003, 5, 323.
54. S. Gangopadhyay, G.C. Hadjipanayis, B.Dale, C.M. Sorensen, K.J. Klabunde,
V. Papaefthymiou, A. Kostikas, Magnetic properties of ultrafine iron particles,
Phys. Rev.B, 1992, 45, 9778.
55. J.F. Loffler, J.P. Meier, B. Doudin, J.-P. Ansermet, W. Wagner, Random and
138
exchange anisotropy in consolidated nanostructured Fe and Ni: Role of grain
size and trace oxides on the magnetic properties, Phys. Rev. B, 1998, 57, 2915.
56. R. Skomski, and J. M. D. Coey, Giant energy product in nanostructured two-
phase magnets, Phys. Rev. B, 1993, 48, 15812.
57. Tetsuji Saito, Daisuke Nishio-Hamane, High-coercivity SmCo5/α-Fe
nanocomposite magnets, Journal of Alloys and Compounds, 2018, 735, 218-223.
58. Chuantao Ma, Magnetic properties of exchange coupled SmCo5/FeCo
composite particles synthesized by magnetic self-assembly, Chemical Physics
Letters, 2018, 696, 31-35.
59. N. D. The, N. Chau, N. V. Vuong, N. H. Quyen, High hard magnetic properties
and cellular structure of nanocomposite magnet Nd4.5Fe73.8B18.5Cr0.5Co1.5Nb1Cu0.2,
J. Magn. Magn. Mater., 2006, 303, e419.
60. D.-T. Ngo, H.-G. Duong, H.-H. Nguyen, C. Nguyen, M. Basith, and D.-Q.
Hoang, The microstructure, high performance magnetic hardness and magnetic
after-effect of an α-FeCo/Pr2Fe14B nanocomposite magnet with low Pr
concentration, Nanotechnology, 2009, 20, 165707.
61. N. H. Dan, Influence of Co on the Structure and the Magnetic Properties of the
Nd12-xCoxFe82B6 Alloy, Journal of the Korean Physical Society, 2008, 52, 1443.
62. N. H. Hai, N. Chau, D.-T. Ngo, and D. T. H. Gam, Anomalous magnetic
viscosity in a-Fe(Co)/(Nd,Pr)2Fe14B exchange-springmagnet, J. Magn. Magn.
Mater., 2011, 323, 3156.
63. W.A. de Heer, P. Milani, A. Chatelain, Spin relaxation in small free iron
clusters, Phys. Rev. Lett., 1990, 65, 488.
64. L. Guo, Q.J. Huang, X.Y. Li, S.H. Yang, Iron nanoparticles: Synthesis and
applications in surface enhanced Raman scattering and electrocatalysis, Phys.
Chem. Chem. Phys., 2001, 3, 1661.
65. K.S. Suslick, C. Seok-burn, A.A. Cichowlas, M.W. Grinstaff, Sonochemical
synthesis of amorphous iron, Nature, 1991, 353, 414.
66. S.M. Ponder, J.G. Darab, J. Bucher, D. Caulder, I. Craig, L. Davis, N. Edelstein,
W. Lukens, H. Nitsche, L. Rao, D.K. Shuh, T.E. Mallouk, Surface chemistry
and electrochemistry of supported zero-valent iron nanoparticles in the
remediation of aqueous metal contaminants, Chem. Mater., 2001, 13, 479.
139
67. D.G. Rancourt, Magnetism of earth, planetary, and environmental
nanomaterials, Rev. Mineral. Geochem., 2001, 44, 217.
68. A.S. Dehlinger, J.F. Pierson, A. Roman, P.H. Bauer, Properties of iron boride
films prepared by magnetron sputtering, Surf. Coat. Technol., 2003, 174, 331.
69. L. Del Bianco, A. Hernando, E. Bonetti, E. Navarro, Grain-boundary structure
and magnetic behavior in nanocrystalline ball-milled iron, Phys. Rev. B, 1997,
56, 8894.
70. U. Gonser, H.G. Wagner, Some recent developments in the applications of
Mössbauer spectroscopy to physical metallurgy, Hyperfine Interact, 1985, 24–26,
769.
71. M. G. Lozinskii, Industrial Applications of Induction Heating, Pergamon Press,
New York, 1969.
72. P. R. Stauffer, T. C. Cetas, and R. C. Jones, Magnetic Induction Heating of
Ferromagnetic Implants for Inducing Localized Hyperthermia in Deep-Seated
Tumors, IEEE Transactions on Biomedical Engineering, 1984, BME-31, 235-251.
73. An H.L., Salabas E.L., Ferdi S, Magnetic Nanoparticles: Synthesis, Protection,
Functionalization, and Application, Angewandte Chemie-International Edition,
2007, 46: 1222 – 1244.
74. Andreas Jordan, Regina Scholz, Peter Wust, Hermann Schirra,Thomas
Schiestel, Helmut Schmidt, Roland Felix, Endocytosis of dextran and silan-
coated magnetite nanoparticles and the effect of intracellular hyperthermia on
human mammary carcinoma cells in vitro, Journal of Magnetism and Magnetic
Materials, 1999, 194: 185—196.
75. Foote M, Oncology basics Part 1. What is cancer?, Journal of American
Medical Writers Association, 2005, 20: 52–58.
76. Jordan, R. Scholz, P. Wust, H. Faehling, R. Felix, Magnetic fuid hyperthermia
(MFH): Cancer treatment with AC magnetic field induced excitation of
biocompatible superparamagnetic nanoparticles, Journal of Magnetism and
Magnetic Materials, 1999, 201 413 - 419.
77. Rudolf Hergt, Silvio Dutz, Robert Müller, Matthias Zeisberger, Magnetic
particle hyperthermia: nanoparticle magnetism and materials development for
cancer therapy, Journal of Physics: Condensed Matter, 2006, 18.
140
78. Chinmayee Saikia, Anowar Hussain, Anand Ramteke, Hemanta K. Sharma,
Tarun K. Maji, Crosslinked thiolated starch coated Fe3O4 magnetic
nanoparticles: Effect of montmorillonite and crosslinking density on drug
delivery properties, Starch/Stärke., 2014, 66 1–12.
79. I. M. Obaidat, B. Issa and Y. Haik, Magnetic Properties of Magnetic
Nanoparticles for Efficient Hyperthermia, Nanomaterials, 2015, 5, 63-89.
80. R. E. Rosensweig, Heating magnetic fluid with alternating magnetic field,
Journal of Magnetism and Magnetic Materials, 2002, 252, 370-374.
81. S. Maenosono and S. Saita, Theoretical Assessment of FePt Nanoparticles as
Heating Elements for Magnetic Hyperthermia, IEEE Transcation on Magnetics,
2006, 42, 1638-1642.
82. A. H. Habib, C.L. Ondeck, P. Chaudhary, M.R. Bockstaller, and M.E.
McHenry, Evaluation of iron-cobalt/ferrite core-shell nanoparticles for cancer
thermotherapy, Journal of Applied Physics, 2008, 103, 07A307(3).
83. J.-P. Fortin, C. Wilhelm, J. Servais, C. Menager, J.-C. Bacri, and F. Gazeau,
Size-Sorted Anionic Iron Oxide Nanomagnets as Colloidal Mediators for
Magnetic Hyperthermia, Journal of the American Chemical Society, 2007, 129,
2628-2635.
84. J. P. Fortin, F. Gazeau, C. Wilhelm, Intracellular heating of living cells through
Néel relaxation of magnetic nanoparticles, Europan Biophysics Journal, 2008,
37, 223-228.
85. Challa S.S.R Kumar, Faruq Mohammad, Magnetic nanomaterials for
hyperthermia-based therapy and controlled drug delivery, Advanced Drug
Delivery Reviews, 2011, 63: 789–808.
86. Suryanarayana, C. ed., Nonequilibrium Processing of Materials, Oxford, UK:
Pergamon, 1999.
87. Liebermann, H. H. ed., Rapidly Solidified Alloys: Processes, Structures,
Properties, Applications, New York: Marcel Dekker, 1993.
88. Anantharaman T.R., Suryanarayana C., Rapidly Solidified Metals: A
Technological Overview, Aedermannsdorf, Switzerland: Trans Tech, 1987.
89. Suryanarayana, C., Jones, H., Formation and characteristics of quasicrystalline
phases: A review, Int. J. Rapid. Solidif., 1988, 3:253–293.
141
90. Benjamin, J. S., High temperature materials by mechanical alloying, Metall.
Trans., 1970, 1, 2943–2951.
91. Suryanarayana, C., Mechanical Alloying and Milling, Prog. Mater. Sci., 2001,
46, 1–184.
92. Upadhya, K. ed., Plasma Synthesis and Processing of Materials, Warrendale,
PA:TMS, 1993.
93. Bickerdike R.L., Clark D., Easterbrook J.N., Hughes G., Mair W.N., Partridge
P. G., Ranson H.C., Microstructures and tensile properties of vapour deposited
aluminum alloys. Part 1: Layered microstructures, Int. J. Rapid. Solidif., 1984,
1, 305–325.
94. Lavernia E.J., Wu Y., Spray Atomization and Deposition, Chichester, Wiley
UK, 1996.
95. Benjamin J.S., Mechanical Alloying, Scientific American, 1976, 234, 40-49.
96. Benjamin J.S. In: Arzt E, Schultz L, editors, New materials by mechanical
alloying techniques, Oberursel, Germany: DGM Informationgesellschaft, 1989,
3-18.
97. Benjamin JS, Mechanical Alloying And Milling, Metal Powder Report, 1990,
45, 122-127.
98. Ermakov AE, Yurchikov EE, Barinov VA., The magnetic properties of
amorphous Y-Co powders obtained by mechanical comminution, Phys. Met.
Metallogr., 1981, 52(6), 50-58.
99. Koch CC, Cavin OB, McKamey CG, Scarbrough JO., Preparation of amorphous
Ni60Nb40 by mechanical alloying, Appl. Phys. Lett., 1983, 43, 1017-1019.
100. Koch CC. In: Cahn RW, editor, Processing of metals and alloys, Vol. 15 of
materials science and technology - a comprehensive treatment, Weinheim,
Germany: VCH Verlagsgesellschaft GmbH, 1991, 193-245.
101. Lai MO, Lu L., Mechanical alloying, BostonMA: Kluwer Acad. Publishers, 1998.
102. Heinicke G., Tribochemistry, Berlin, Germany: Akademie Verlag, 1984.
103. McCormick PG., Application of mechanical alloying to chemical refining,
Mater. Trans. Japan Inst. Metals, 1995, 36, 161-169.
104. H. M. Rietveld, A profile refinement method for nuclear and magnetic
structures, Journal of Applied Crystallography, 1969, 2 (2), 65–71.
142
105. Orru R., Licheri R., Locci A.M., Cincotti A., Cao G., Consolidation/synthesis
of materials by electric current activated/assisted sintering, Materials Science
and Engineering Report, 2009, 63(4-6), 127-287
106. Chin, Z. H., Perng, T. P., Amorphization of Ni-Si-C ternary alloy powder by
mechanical alloying, Mater. Sci. For., 1997, 235–238, 121–126.
107. Umemoto, M., Liu, Z. G., Masuyama, K., Tsuchiya, K., Ball milling of fullerene
and mechanical alloying of fullerene-metal systems, Mater. Sci. For., 1999,
312–314, 93–102.
108. Kis-Varga, M., Beke, D. L., Phase transitions in Cu-Sb systems induced by ball
milling, Mater. Sci. For., 1996, 225–227, 465–470.
109. Suryanarayana C, Chen GH, Froes FH., Milling maps for phase identification during
mechanical alloying, Scripta Metallurgica et Materialia, 1992, 26, 1727-1732.
110. O. Çelik, T. Fırat, Synthesis of FeCo Magnetic Nanoalloys and Investigation of
Heating Properties for Magnetic Fluid Hyperthermia, Journal of Magnetism
and Magnetic Materials, 2018, 456, 11-16.
111. N. Poudyal, C. Rong, Y. Zhang, D. Wang, M. J. Kramer, R. J. Hebert, Self-
nanoscaling in FeCo alloys prepared via severe plastic deformation, J. Alloys
Compd., 2012, 521, 55-59.
112. S. Azzaza, S. Alleg, H. Moumeni, A. R. Nemamcha, J. L. Rehspringer and J.
M. Greneche, Magnetic properties of nanostructured ball-milled Fe and
Fe50Co50, Alloy, J. Phys.: Condens. Matter, 2006, 18, 7257.
113. Q. Zeng, I. Baker, V. M. Creary, Z. Yan, Soft ferromagnetism in nanostructured
mechanical alloying FeCo-based powders, J. Magn. Magn. Mater., 1981, 318, 28.
114. M.E. Fleet, The structure of magnetite, Acta Cryst. B, 1981, 37, 917–920.
115. D.H. Manh, D.K. Tung, D.N.H. Nam, L.V. Hong, P.T. Phong, N.X. Phuc,
Magnetic Properties of Annealed Fe65Co35 Powders Prepared By Mechanical
Alloying, I.E.E.E. Trans, Magn., 2014, 50, 2005104.
116. Do Hung Manh, D.K. Tung, L.T.H. Phong, Nguyen Xuan Phuc, P.T. Phong,
Jaru Jutimoosik, and Rattikorn Yimnirun, Complementary Studies of Phase
Formation During Fabrication of Fe0.65Co0.35 Nanoparticles by Mechanical
Alloying, Journal of Electronic Materials,, 2016, 45, 5, 2501.
117. G. Herzer, Grain size dependence of coercivity and permeability in
143
nanocrystalline ferromagnets, IEEE Trans. Magn., 1990, 26, 1397–1402.
118. D. H. Manh, T. D. Thanh, N. X. Phuc, L. V. Hong, P. T. Phong, L. T. Hung,
Perovskite nanoparticles synthesised by reactive milling combined with thermal
processing: preparation, morphology and structure characterisation, Int. J.
Nanotechnol., 2011, 8, 241.
119. M. D. Chermahini, S. Sharafi, H. Shokrollahi, M. Zandrahimi, Microstructural
and magnetic properties of nanostructured Fe and Fe50Co50 powders prepared
by mechanical alloying, J. Alloys. Compd., 2009, 474, 18.
120. D.S. Yang, S.H. Kim, Y.G. Yoo, and S.C. Yu, Local structure and magnetic
properties of Fe60Co40 mechanical alloy, J. Phys, 2009, 190, 012139.
121. D.H. Manh, D.K. Tung, L.T.H. Phong, P.T. Thanh, and N.X. Phuc, Facile
synthesis of high magnetization air-stable Fe65Co35 nanoparticles by
mechanical alloying, JPS Conf. Proc., 2014, 1, 012010.
122. M. Abbasa, M. N. Islam, B. P. Rao, T. Ogawa, M. Takahashia, and C. G. Kim,
One-pot synthesis of high magnetization air-stable FeCo nanoparticles by
modified polyol method,, Mater. Lett., 2013, vol. 91, 326–329.
123. Tien Trinh Bui, Xuan Que Le, Duy Phuong To and Van Tich Nguyen,
Investigation of typical properties of nanocrystalline iron powders prepared by
ball milling techniques, Adv. Nat. Sci.: Nanosci. Nanotechnol., 2013, 4 045003.
124. Jorge E. Munoz, Janeth Cervantes, Rodrigo Esparza, Gerardo Rosas, Iron
nanoparticles produced by high-energy ball milling, J Nanopart Res, 2007,
9:945–950.
125. S. Gangopadhyay, G.C. Hadjipanayis, B. Dale, C.M. Sorensen, K.J. Klabunde,
V.V. Papaefthymiou, and A. Kostikas, Magnetic properties of ultrafine iron
particles, Phys. Rev. B, 1992, 45, 9778.
126. H. Khurshid, P. Mukherjee, M.H. Phan, and H. Srikanth, Tuning exchange bias
in Fe/γ-Fe2O3 core-shell nanoparticles: Impacts of interface and surface spins,
Appl. Phys. Lett., 2014, 104, 072407.
127. M. Sorescu and A. Grabias, Structural and magnetic properties of Fe50Co50
system, Intermetallics, 2002, 10, 317.
128. D.K. Tung, D.H. Manh, P.T. Phong, L.T.H. Phong, N.V. Dai, D.N.H. Nam, and
N.X. Phuc, Structural and magnetic properties of mechanically alloyed
144
Fe50Co50 nanoparticles, J. Alloys Compd., 2015, 640, 34.
129. J.M. Le Breton, R. Lardé, H. Chiron, V. Pop, D. Givord, O. Isnard, I. Chicinas,
A structural investigation of SmCo5/Fe nanostructured alloys obtained by high-
energy ball milling and subsequent annealing, J. Phys. D: Appl. Phys., 2010,
43 085001.
130. Landolt-Bornstein, Diffusion in solid metals and alloys, New series group III.
Berlin: Springer, 1990, Vol. 26, 127.
131. P. Saravanan, M. Manivel Raja, R. Gopalan, N.V. Rama Rao, K. Suresh, D.V.
Sridhara Rao, V. Chandrasekaran, Structural and Mossbauer studies on
mechanical milled SmCo5/Fe nanocomposite magnetic powders, Intermetallics,
2008, 16, 636-641.
132. Pop V, Isnard O, Chicinas I, Givord D, Magnetic and structural properties of
SmCo5/α-Fe nanocomposites, J Magn. Magn. Mater., 2007, 310, 2, 2489-2490.
133. E. Dorolti, A.V. Trifu, O. Isnard, I. Chicinas, F. Tolea, M. Valeanu, V. Pop,
Influence of mechanical milling on the physical properties of SmCo5/Fe65Co35
type hard/soft magnetic nanocomposite, Journal of Alloys and Compounds,
2013, 560 189–194.
134. A. Guleria, K. Priyatharchini, D. Kumar, Biomedical Applications of Magnetic
Nanomaterials, Applications of Nanomaterials, 2018, 345-389.
135. T.J.Gutiérrez, V.A. Alvarez, Nanoparticles for Hyperthermia Applications,
Handbook of Nanomaterials for Industrial Applications, 2018, 563-576.
136. P. Das, M. Colombo, D. Prosperi, Recent advances in magnetic fluid
hyperthermia for cancer therapy, Colloids and Surfaces B: Biointerfaces, 2019,
174, 42-55.
137. S.K. Sharma, N. Shrivastava, F. Rossi, L.D. Tung, N.T.K. Thanh,
Nanoparticles-based magnetic and photo induced hyperthermia for cancer
treatment, Nanotoday, 2019, 29, 100795.
138. J. Giri, P. Pradhan, T. Sriharsha, and D. Bahadur, Preparation and investigation of
potentiality of different soft ferrites for hyperthermia applications, J. Appl. Phys.,
2005, 97, 913.
139. C.C. Berry and A.S.G. Curtis, Functionalisation of magnetic nanoparticles for
applications in biomedicine, J. Phys. D: Appl. Phys., 2003, 36, R198.
145
140. L.L. Lao and R.V. Ramanujan, Magnetic and hydrogel composite materials for
hyperthermia applications, J. Mater. Sci. Mater. Med., 2004, 15, 1061.
141. A. Jordan, R. Scholz, P. Wust, H. Fahling, and R. Felix, Magnetic fluid
hyperthermia (MFH): Cancer treatment with AC magnetic field induced
excitation of biocompatible superparamagnetic nanoparticles, J. Magn. Magn.
Mater., 1999, 201, 413.
142. C.G. Hadjipanayis, M.J. Bonder, S. Balakrishnan, X. Wang, H. Mao and G.C.
Hadjipanayis, Metallic iron nanoparticles for MRI contrast enhancement and
local hyperthermia, Small, 2008, 4, 1925-1929.
143. B. Mehdaoui, A. Meffre, L.M. Lacroix, J. Carrey, S. Lachaize, M. Gougeon, M.
Respaud, B. Chaudret, Large specific absorption rates in the magnetic
hyperthermia properties of metallic iron nanocubes, J. Magn. Magn. Mater.,
2010, 322, 19, L49-L52.
144. K. Simeonidis, C. Martinez-Boubeta, L. Balcells, C. Monty, G. Stavropoulos,
M. Mitrakas, A. Matsakidou, G. Vourlias, and M. Angelakeris, Fe-based
nanoparticles as tunable magnetic particle hyperthermia agents, J. Appl. Phys.,
2013, 114, 103904.
145. Binns C, Prieto P, Baker SH, Howes PB, Dondi R, Burley G, Preparation of
hydrosol suspensions of elemental and core-shell nanoparticles by Co-
deposition with water vapour from the gas-phase in ultra-high vacuum
conditions, J Nanoparticle Res., 2012, 14:1136.
146. S. Mornet, S. Vasseur, F. Grasset, E. Duguet, Magnetic nanoparticle design for
medical diagnosis and therapy, J. of Material Chemistry, 2004, 14, 2161-2175.