135
Gv: - 1 Trang - 3 - Nhận định về các đồng tiền đang lưu thong hiện nay A/ Cơ sở lý thuyết: I/ Nguồn gốc ra đời tiền tệ: - Theo K.Mác , Quá trình ra đời tiền tệ trãi qua các hình thái giá trị sau: + Hình thái giản đơn hay ngẩu nhiên giá trị: Ngay từ trong xã hội nguyên thủy đã xuất hiện mầm móng của sự trao đổi, nhưng được tiến hành dưới hình thức trực tiếp vật này đổi lấy vật khác. Trong hình thái này giá trị của một hàng hóa được biểu hiện một cách ngẩu nhiên thông qua giá trị sử dụng của một hàng hóa khác. + Hình thái giá trị mở rộng: Khi bất đầu xuất hiện phân công lao động xã hội, trao đổi trở nên thường xuyên hơn. Bấy giờ, giá trị của một hàng hóa không chỉ biểu hiện thông qua giá trị sử dụng của một thứ hàng hóa khác, mà biểu hiện thông qua giá trị sử dụng của nhiều hàng hóa khác có tác dụng là vật ngang giá, Tuy nhiên, trao đổi vẩn mang tính trực tiếp. + Hình thái giá trị chung: Khi phân công lao động xã hội và sản xuất phát triển thì hình thức trao đổi hàng hóa trực tiếp ngày càng bộc lộ rỏ nhược điểm của nó. Do đó, tất yếu đòi hỏi phải có một hàng hóa đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung tách ra từ tất cả hàng hóa khác và các hàng hóa khác đều trao đổi với nó được. Tuy nhiên, trong giai đoạn này vật ngang giá chung vẩn chưa cố định ở một thứ hàng hóa và những vùng khác nhau thì có những vật ngang giá chung khác nhau. => Khi vật ngang giá chung cố định ở một thứ hàng hóa thì sinh ra hình thái tiền tệ. II/ Khái niệm tiền tệ: 1. Theo K.Mác: “Tiền tệ là thứ hàng hóa đặc biệt, tách ra khỏi thế giới hàng hóa, dùng làm vật ngang giá chung để thể hiện và đo lường giá trị của mọi hàng hóa, Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa”. 2. Theo quan niệm đương đại : “Tiền là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để lấy hàng hóa hay dịch vụ khác nhau, hoặc trong việc hoàn trả nợ”. III/ Chức năng và vai trò của tiền tệ: 1. Chức năng của tiền tệ: - Theo K.Mác, khi giả định vàng là hàng hóa tiền tệ, ông đã cho rằng tiền tệ có 5 chức năng: + Thước đo giá trị: Khi nó biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa khác. + Phương tiện lưu thông: Khi tiền tệ là môi giới cho quá trình trao đổi hàng hóa. + Phương tiện thanh toán: Khi quá trình lưu thông hàng hóa phát triển sẽ phát sinh những nhu cầu vay mượn, thuế khóa… Khi đó tiền chấp hành chức năng phương tiện thanh toán.

Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 3 -

Nhận định về các đồng tiền đang lưu thong hiện nay A/ Cơ sở lý thuyết:

I/ Nguồn gốc ra đời tiền tệ:

- Theo K.Mác, Quá trình ra đời tiền tệ trãi qua các hình thái giá trị sau:

+ Hình thái giản đơn hay ngẩu nhiên giá trị: Ngay từ trong xã hội nguyên

thủy đã xuất hiện mầm móng của sự trao đổi, nhưng được tiến hành dưới hình thức

trực tiếp vật này đổi lấy vật khác. Trong hình thái này giá trị của một hàng hóa được biểu hiện một cách ngẩu nhiên thông qua giá trị sử dụng của một hàng hóa khác.

+ Hình thái giá trị mở rộng: Khi bất đầu xuất hiện phân công lao động xã

hội, trao đổi trở nên thường xuyên hơn. Bấy giờ, giá trị của một hàng hóa không chỉ

biểu hiện thông qua giá trị sử dụng của một thứ hàng hóa khác, mà biểu hiện thông

qua giá trị sử dụng của nhiều hàng hóa khác có tác dụng là vật ngang giá, Tuy

nhiên, trao đổi vẩn mang tính trực tiếp.

+ Hình thái giá trị chung: Khi phân công lao động xã hội và sản xuất phát

triển thì hình thức trao đổi hàng hóa trực tiếp ngày càng bộc lộ rỏ nhược điểm của

nó. Do đó, tất yếu đòi hỏi phải có một hàng hóa đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá

chung tách ra từ tất cả hàng hóa khác và các hàng hóa khác đều trao đổi với nó

được. Tuy nhiên, trong giai đoạn này vật ngang giá chung vẩn chưa cố định ở một

thứ hàng hóa và những vùng khác nhau thì có những vật ngang giá chung khác

nhau. => Khi vật ngang giá chung cố định ở một thứ hàng hóa thì sinh ra hình

thái tiền tệ.

II/ Khái niệm tiền tệ:

1. Theo K.Mác: “Tiền tệ là thứ hàng hóa đặc biệt, tách ra khỏi thế giới

hàng hóa, dùng làm vật ngang giá chung để thể hiện và đo lường giá trị của mọi

hàng hóa, Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa

những người sản xuất hàng hóa”. 2. Theo quan niệm đương đại: “Tiền là bất cứ cái gì được chấp nhận

chung trong việc thanh toán để lấy hàng hóa hay dịch vụ khác nhau, hoặc trong việc

hoàn trả nợ”. III/ Chức năng và vai trò của tiền tệ:

1. Chức năng của tiền tệ:

- Theo K.Mác, khi giả định vàng là hàng hóa tiền tệ, ông đã cho rằng tiền

tệ có 5 chức năng:

+ Thước đo giá trị: Khi nó biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa

khác. + Phương tiện lưu thông: Khi tiền tệ là môi giới cho quá trình trao đổi hàng

hóa.

+ Phương tiện thanh toán: Khi quá trình lưu thông hàng hóa phát triển sẽ

phát sinh những nhu cầu vay mượn, thuế khóa… Khi đó tiền chấp hành chức năng

phương tiện thanh toán.

Page 2: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 4 -

+ Phương tiện cất trữ: Khi tiền tệ tạm thời rút khỏi lưu thông, chuẩn bị cho

nhu cầu chi dung trong tương lai.

+ Tiền tệ thế giới. 2. Vai trò của tiền tệ:

- Trong nền kinh tế vai trò của tiền tệ được thể hiện ở 3 mặt:

+ Thứ nhất: tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển

kinh tế hàng hóa.

+ Thứ hai: tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc

tế.

+ Thứ ba: tiền tệ là một công cụ để phục vụ cho mục đích của người sở hữu

chúng. IV/ Các hình thái của tiện tệ:

1. Hóa tệ:

- Tức là tiền bằng hàng hóa, bao gồm 2 loại.

a) Hóa tệ không kim loại: Tức là dùng hàng hóa không kim loại làm tiền tệ.

b) Hóa tệ kim loại (kim tệ): Tức là lấy kim loại làm tiền tệ. 2. Tín tệ:

- Là loại tiền mà bản thân nó không có giá trị, nhưng nhờ sự tín nhiệm của mọi người mà nó được lưu dụng.

- Tín tệ gồm 2 loại: a) Tiền kim loại: Khác với tiền kim loại thuộc hình thái hóa tệ ở chổ, giá trị

của chất kim loại đúc thành tiền và giá trị ghi trên bề mặt của đồng tiền không có

liên hệ gì với nhau, có thể gán cho nó một giá trị nào cũng được. b) Tiền giấy: Có 2 loại

- Tiền giấy khả hoán: Là một mảnh giấy được in thành tiền để lưu hành,

người có loại tiền giấy này có thể đến ngân hàng để đổi lấy một số lượng vàng hay

bạc tương đương với giá trị ghi trên tờ giấy được sự dụng làm tiền bất cứ lúc nào.

- Tiền giấy bất khả hoán: là loại tiền giấy bắt buộc lưu hành và dân chúng

không thể đem nó đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc. 3.Bút tệ:

- Là tiền ghi sổ chỉ tạo ra khi phát tín dụng và thông qua tài khoản tại ngân

hàng 4.Tiền điện tử:

- Là thứ tiền được sử dụng qua hệ thống thanh toán tự động hay còn được

gọi là hộp ATM V/ Bản vị tiền tệ

1/ Chế độ đơn kim bản vị: là chế độ tiền tệ trong đó chỉ có một kim khí,

vàng hoặc bạc, được do đúc thành tiền và có khả năng miễn trái vô hạn . 2/ Chế độ lượng kim bản vị: là chế độ tiền tệ trong đó có 2 thứ kim khí,

vàng và bạc, được tự do đúc thành tiền và miễn trái vô hạn.

Page 3: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 5 -

3/ Các chế độ bản vị vàng biến thể: chế độ đơn kim bản vị vàng nguyên

thủy biến thể qua một vài hình thức sau:

- Chế độ bản vị tiền vàng: là chế độ trong đó tiền giấy khả hoán dược

chuyển dổi thành tiền vàng theo định nghĩa chính thức. - Chế độ bản vị vàng thoi: hay còn gọi là chế độ kim đỉnh bản vị: theo chế

độ này tiền giấy không được tự do đổi ra tiền vàng mà phải có một khối lượng tiền

giấy nhất định mới đổi được một thoi vàng nhất định.

- Chế độ bản vị hối đoái vàng hay còn gọi là chế độ kim hoán bản vị:

trong đó tiền giấy không được đổi trục tiếp ra vàng mà phải thông qua một đồng

tiền khác trung gian có thể đổi ra vàng 4/ Chế độ ngoại tệ bản vị: là chế độ tiền tệ trong đó đơn vị tiền tệ của một

nước được định nghĩa theo một ngoại tế nhất định, thướng là ngoại tệ mạnh. VI/ Khối tiền tệ :

1/ Hoạt tính cơ bản để một công cụ được gọi là tiền gồm 3 khả năng:

- Thứ nhất: có thể được dùng để trao đổi thanh toán khi mua hoặc bán

hàng hóa, sức lao động, trí tuệ…

- Thứ hai: có thể được dùng để mua bán hoặc chuyển nhượng hay đầu tư.

- Thứ ba: có thể chuyển thành tiền mặt của chính phủ bất cứ lúc nào (có tính thanh khoản)

2/ Khối tiền tệ :

- Khối tiền tệ M1 bao gồm:

+ Tiền mặt của nhà nước

+ Tiền gửi không kỳ hạn

- Khối tiền tệ M2 bao gồm:

+ M1

+ Tiền gửi tiết kiệm

+ Tiền gửi định kỳ tại ngân hàng

- Khối tiền tệ M3 bao gồm

+ M2

+ Các loại tiền gởi ở các định chế tại chình khác

- Khối tiền tệ L bao gồm:

+ M3

+ Trái phiếu kho bạc ngắn hạn + Trái phiếu tiết kiệm dài hạn của kho bạc

+ Thương phiếu

+ Các thuận nhận của ngân hàng VII/ Hệ thống tiền tệ quốc tế:

1/ Một đồng tiền đóng vai trò là tiền tệ quốc tế phải thỏa mãn 2 yêu cầu

sau:

- Có khả năng chuyển đổi qua lại với đồng tiền trong nước dễ dàng và chi

phí chuyển đổi thấp.

Page 4: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 6 -

- Là phương tiện dự trữ không sợ bị mất giá trị.

2/ Hệ thống tiền tệ quốc tế ngày nay còn bao gồm những đồng tiền chúng

như SDR, EURO.

B/ NỘI DUNG: I/ Những điểm nổi bậc của các đồng tiền trên thế giới:

1/ Tiền giấy đầu tiên

-Người Trung Quốc chính là những người đầu tiên sử dụng tiền giấy, dưới

triều đại nhà Đường (678-907 s

.

Chỉ có điều, Trung Quốc cổ đại cũng là nước đầu tiên phải đối mặt với khủng

hoảng tài chính do việc in ấn tiền giấy tràn lan trong khi giá trị của chúng sụt giảm

dẫn đến tình trạng lạm phát. Kết quả, Trung Quốc phong kiến đã loại trừ hoàn toàn

tiền giấy vào năm 1455 và không lưu hành chúng sau đó vài thế kỷ. 2/ Đồng tiền có kích cỡ lớn nhất thế giới:

- Với kích thước bằng một

trang nhật báo, đồng 100.000 peso

của Philippines chính là đồng tiền

giấy lớn nhất thế giới. Chính phủ Philippines đã ban hành đồng tiền

này trong năm 1998 để kỷ niệm 100

năm ngày thoát khỏi ách thống trị

của Tây Ban Nha. Đồng tiền này chỉ

dành riêng cho các nhà sưu tầm tiền

và họ đã phải bỏ ra tới 180.000 peso

(3.700 USD) để mua một đồng tiền quá khổ này. 3/ Đồng tiền có giá trị cao nhất

-Đồng tiền có giá trị cao nhất mà Bank of England cho lưu hành chính là đồng

1.000.000 bảng Anh. Đồng tiền này được ban hành trong năm 1948 và là một giải pháp tình

thế trong thời kỳ tái thiết sau Chiến tranh thế giới thứ II. Chỉ dành riêng cho chính phủ Mỹ, đồng 1.000.000 bảng Anh này đã bị hủy bỏ

sau đó vài tháng vì một số đã lọt vào tay tư nhân. Tuy bị hủy bỏ, nhưng đồng tiền này

không phải là một tờ giấy lộn. Trong một vụ bán đấu giá năm 2008, một trong hai đồng 1.000.000 bảng Anh còn sót lại được bán với giá 120.000 USD.

4.Đồng tiền bị mất giá khủng khiếp nhất Để đối phó với tình trạng siêu lạm phát lên tới 231.000.000% và giá một ổ bánh mì

lên tới 300 tỷ đô la Zimbabue, Chính phủ đoàn kết Zimbabue đã ban hành loại tiền giấy có

Page 5: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 7 -

mệnh giá tới 100.000 tỷ đô la Zimbabue. Đây quả là đồng tiền có dãy số mệnh giá dài nhất, lên tới 15 chữ số (một con số 1 và 14 con số không).

5/ :

5.1. Tờ Tiền 1 Pound của Ai Cập

-Đây là một trong 7 tờ tiền của Ai Cập đã

được đưa vào lưu thông năm 1961. Một mặt của tiền có dòng chữ Ả Rập cùng hình ảnh của nhà

thờ Hồi giáo Sultan Qayetbay. Mặt còn lại viết bằng tiếng Anh lại là hình những ngôi đền được chạm khắc tại Abu Simbel với hình dạng giống

hệt bốn bức tượng của Pharaoh Ramses II, người đã trị vì Ai Cập trong 67 năm.

5.2. Tờ Franc của Thụy Sĩ

-Năm 1995, mẫu tiền giấy hiện

tại (là mẫu thứ tám củaThụy Sĩ) đã được phát hành. Mỗi mệnh giá lại xuất

hiện một bức chân dung của một nghệ sĩ nổi tiếng tại Thụy Sĩ, phia trên là những khối màu đậm được phối hợp rất

phá cách thể hiện đựơc đúng chất nghệ thuật sáng tạo của các nghệ sĩ Thụy Sĩ

– sang trọng lịch lãm và vô cùng hiện đại. Mặt trước của tờ tiền này tác giả Honegger - nhà soạn nhạc nổi tiếng,

đồng thời mặt sau có hình ảnh của đầu bánh xe và bàn phím piano gợi lên ấn tuợng trong lòng mọi nguời về bản

nhạc nổi tiếng của ông: “Pacific 231” . 5.3. Tờ Tenge của Kazakhstan

- Đơn vị tiền tệ của Kazakhstan là tenge - xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1993 thay thế cho đồng rúp của Liên Xô. Một mặt tiền thể hiện hình dáng của đất nước này trên bản đồ, một mặt lại kết hợp rất nhiều những hình ảnh đặc trưng cho đất nước bao gồm: Đài

Page 6: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 8 -

tưởng niệm Astana - Baiterek, cờ Kazakhstan, chữ ký của Tổng thống Nazarbayev và lời bài hát quốc ca Kazakhstan.

5.4. Tờ Dollar Hongkong

-Trong tháng 7/2007, Hong Kong giới thiệu tờ tiền 10 $ bằng polymer - chất liệu

bền hơn và an toàn rất nhiều so với tiền giấy thông thường. Cả hai phiên bản 10 $ đều đựợc thừa nhận là hợp pháp và bắt buộc phải

có cùng một thiết kế sắp xếp các hình ảnh dạng hình học trừu tượng với cách kết hợp

màu hoa cà, tím, xanh dương và màu vàng giống như trên. Mẫu thiết kế này cho chúng ta hình dung ra một Hong Kong với những

lối kiến trúc hiện đại cũng như các hoạt động lễ hội và văn hóa phong phú giàu tính truyền thống.

5.4. Tờ Florin của Aruba

-Năm 1986, chính phủ mới của đảo quốc Aruba đã tạo ra một loại tiền duy nhất được gọi là Florin để thay thế

cho đồng florin Antilles đựơc sử dụng truớc đây. Bắt đầu từ năm 1990, mẫu tiền

đã được thiết kế lại bởi Evelino Fingal ( một nhà thiết kế đồ họa và là giám đốc Bảo tàng khảo cổ). Ông đã tìm thấy nguồn

cảm hứng của mình trong các mẫu thiết kế lập dị như bức tranh về bộ lạc người Mỹ

bản địa, hay những mảnh gốm, khảo cổ và động vật hoang dã bản địa. Trên mỗi mặt của tờ tiền, gồm rất nhiều hình ảnh dạng

hình học rất thú vị được xếp lớp để tạo cho người nhìn ấn tuợng như là nó được cắt dán ra vậy.

5.6. Đồng Rand của Nam Phi

-Năm 1961, đồng rand đã đựoc thiết kế thay thế cho pound. Tuy nhiên, phải đến

những năm 1990, khi sự phân biệt chủng tộc không còn tồn tại thì chúng mới được giới

Page 7: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 9 -

thiệu. Mỗi tờ tiền một màu tượng trưng cho trong những "Big Five" –Những loài động

vật hoang dã to lớn và nổi tiếng châu Phi: sư tử, voi châu Phi, trâu Cape, báo và tê giác đen.

5.7. Tờ "Dollar" của châu Nam Cực

-Mẫu sưu tập ở trên là một phần của bộ sưu tập A1 nó chỉ mới là đề xuất của Công ty Antarctica Overseas Exchange

Office (Văn phòng Hối đoái Hải ngoại Nam Cực). Nó được thiết kế dựa trên địa lý khu

vực này và nhằm tuyên truyền bảo vệ các loài động vật hoang dã. Đó là hình ảnh những chú chim cánh cụt tại đảo Peterman, ở

mặt trước là những chú chim cánh cụt đang nhảy xuống vùng nuớc đóng băng, và mặt kia thì ngược lại, chúng đang lên bờ rời khỏi

vùng phiến băng Ross.

5.8. Đồng Florin Hà Lan

-Tờ tiền này trước đây của Hà Lan giờ đã được thay thế bằng đồng euro từ ngày 01-1-

2002. Chắc hẳn người Hà Lan sẽ rất tiếc khi không còn được cầm trên tay đồng tiền rực rỡ

này. Đồng Florin Hà Lan mệnh giá 50 có in hình hoa hướng dương được thiết kế bởi Jaap Drupsteen năm 1990. Mặt còn lại bao gồm

các lược đồ phát thanh, điện trở nằm trong một khối hình - được thiết kế như một phần

của cánh đồng hoa hướng dương, còn ngọn hải đăng và những chú chim cũng được đưa vào bức tranh khéo léo theo phong cách nghệ

thuật cổ điển Hà Lan.

Page 8: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 10 -

5.9. Tờ đôla Úc -Xuất hiện vào năm 1966 để

thay thế cho đồng pound cũ của Úc . Đồng đôla Úc mỗi bên là chân dung của hai nhân vật nổi bật đồng thời thể hiện

những giá trị nghệ thuật và văn hóa thời đại họ sống. Trong những năm 1980, loại

tiền mới được đưa vào lưu hành với công nghệ chống làm giả tiên tiến hơn. Tờ tiền mới một bên là cửa sổ trong suốt, bên

trong có hình in chìm của nhà thám hiểm, thuyền trưởng James Cook người Anh,

nhà thám hiểm đầu tiên đặt chân đến bờ biển phía Đông nước Úc.

5.10. Tờ Franc CFP

- Đồng tiền chung của các thuộc địa

của Pháp: Polynésie, New Caledonia, và

Wallis và Futuna là Franc CFP, xuất hiện vào năm 1945. Thông thường, một mặt của tờ tiền cho thấy cảnh quan hoặc nhân

vật lịch sử của New Caledonia, còn bên kia là của của Polynésie. Mặt trước của

tờ 10000 Franc CFP trên mô tả một cách sinh động một cảnh quan ven biển của Huahine và người phụ nữ Polynesia; mặt

còn lại xuất hiện rất nhiều hình ảnh san hô, cá của vùng New Caledonia, và một

phụ nữ người Melanes đeo hoa dâm bụt.

5.11. Tiền Đôla của Quần đảo

Cook - Quần đảo Cook được tạo nên bởi

15 đảo nhỏ với dân số chỉ vài ngàn người. Tờ đôla xuất hiện tại nước này vào năm 1987. Trên tờ tiền là hình ảnh

của thần Ina (nữ thần của Polynesia tượng trưng cho sự phồn thực) đang cưỡi

trên một con cá mập và mặt bên kia là chiếc thuyền độc mộc truyền thống cùng với sự xuất hiện của thần Te-Rongo.

Page 9: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 11 -

5.12.Tờ Kwacha Zambia

-Năm 1968, Zambia giới thiệu tờ tiền

giấy kwacha của mình. Cá chim ưng là hình ảnh

chính trên hầu hết các tờ tiền; tầm nhìn xa và phản ứng nhanh nhạy của loài cá này chính là

mục tiêu của Zambia cho nền kinh tế của minh: khả năng tăng trưởng và phục hồi. Ở mặt sau là tượng Nữ thần Tự do, đại diện cho cuộc đấu

tranh cho tự do của Zambia khi còn là thuộc địa.

6

:

6.1. Đồng 1 Afghani của người

Afghanistan

-Trước khi bị Mỹ tấn công, thủ lĩnh Taliban và các lạc trưởng thường cho sản xuất tiền tệ riêng với các mệnh giá khác nhau. Những đồng tiền xu

này chỉ được giới thiệu năm 2005 như một cách thức chuẩn hóa tiền tệ và khuyến khích người dân sử dụng quốc tệ thay vì dùng USD hay đồng Rupee của Pakistan.

6.2. Đồng 1 đô la Australia - Tất cả tiền xu Australia đều có hình ảnh nữ

hoàng Elizabeth đệ nhị ở mặt trước, cùng các biểu tượng truyền thống khác như chim Superb Lyrebird,

quốc huy, hay hình ảnh Gwoya Jungarai. Trong đồng 1 đô la trên là năm chú kanguru, vật biểu của xứ xở chuột túi.

6.3. Đồng 2 đô la Canada

- Đồng 2 đô la Canada còn được gọi với cái tên trừu mến là “toonie”. Người ta đã từng cho rằng có thể

tách được đồng xu này ra khỏi phần tâm của nó. Nguyên nhân xuất phát từ những đồng xu bị lỗi khi đúc năm 1966, khi đúc cứng hay làm lạnh phần tâm

đồng xu luôn co lại nhiều hơn phần ngoài. Một vài tháng sau khi phát hiện lỗi này, sự cố đã được khắc

Page 10: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 12 -

phục.

6.4.Đồng 2 franc của Thụy Sĩ Đồng 2 franc Thụy Sĩ cùng với đồng 1 franc và 50

franc còn được sử dụng khá phổ biến ở đất

nước Lichtenstein.

6.5. Đồng 50 centavos của Honduras

- Đồng 50 centavos của Honduras có hình ảnh vị tù trưởng thiên tài Lempira, người đã lãnh đạo cuộc chiến chống người Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ 16.

6.6. Đồng 2 đô la Hồng Kông Mặt sau của đồng 2 đô la Hồng Kông được khắc bằng

cả tiếng Anh và tiếng Trung. Mặt trước có hình hoa ban đỏ,

loài hoa có trên quốc kì của đặc khu hành chính này.

6.7. Đồng Rupee của Ấn Độ

Đồng Rupee của Ấn Độ đã có từ khoảng thế kỉ 6 trước Công Nguyên. Tất cả những đồng Rupee đang được lưu hành

đều có biểu tượng của Ấn Độ ở mặt trước. Đồng 1 shequel của Israel có biểu tượng hoa ly, từ Yehud viết bằng tiếng Do thái cổ và quốc huy Israel.

6.8. Đồng 50 koruna của Cộng hòa Czech

Mặt trước của đồng 50 koruna là hình một chú sư tử

cùng mệnh giá tiền và ngày đúc.

Page 11: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 13 -

6.9. Đồng 100 fils của Bahrain Đồng 100 fils của Bahrain có hình quốc huy, tương tự

như biểu tượng in trên quốc kì.

II/ Chi tiết đồng tiền từng quốc gia: 1/ :

, VND a) Lịch sử hình thành:

* Thời Bắc thuộc:

- Căn cứ vào các hoạt động khảo cổ, thời kỳ này tiền đồng Trung Quốc

được lưu hành tại Việt Nam như Hán nguyên thông bảo của nhà Hán, Khai nguyên

thông bảo của nhà Đường và cả những đĩnh vàng, đĩnh bạc cũng được lưu hành.

* Thời phong kiến độc lập

- Ngoài những đĩnh vàng, đĩnh bạc, tiền tệ Việt Nam chủ yếu là tiền đồng, tiền kẽm.

Thời Đinh, Lê: Đinh Tiên Hoàng cho đúc tiền đồng hiệu Thái bình thông

bảo sau đó Lê Đại Hành cho đúc tiền đồng Thiên phúc trấn bảo.

Thời Lý: dưới triều vua Lý Thái Tông, tiền đồng có hiệu Minh đạo thông

bảo, sang đến triều Lý Thần Tông, tiền đồng hiệu là Thuận thiên thông bảo.

Page 12: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 14 -

Thời Trần, Hồ: các triều vua cũng cho đúc tiền đồng, đến đời Trần Minh

Tông (1323) thì chuyển sang đúc tiền kẽm, tuy nhiên do tiền kẽm sử dụng không

được thuận tiện nên nhanh chóng bị bãi bỏ. Dưới triều vua Trần Thuận Tông, Hồ

Quý Ly chấp chính đã bắt đầu cho phát hành tiền giấy gọi là Thông bảo hội sao.

Tiền giấy Thông bảo hội sao có các loại mệnh giá sau: 1 quan vẽ rồng, 30 đồng vẽ

sóng nước, 10 đồng vẽ cây đào, 5 tiền vẽ chim phượng, 3 tiền vẽ kỳ lân, 2 tiền vẽ

rùa, 1 tiền vẽ mây. Dân cư có tiền cũ phải nộp hết vào kho của Nhà nước và cứ 1

quan tiền đồng đổi thành 1 quan 2 tiền giấy, ai tàng trữ sẽ bị tử hình nhằm loại bỏ

hẳn tiền đồng và bắt buộc sử dụng tiền giấy.

Thời Lê, Mạc: trải qua giai đoạn bị nhà Minh đô hộ, khi Lê Thái Tổ lật

đổ ách thống trị của nhà Minh và lên ngôi vua, tiền đồng trong nước không còn, ông

cho đúc tiền đồng Thuận thiên thông bảo và quy định 1 tiền bằng 50 đồng. Triều

vua Lê Thái Tông đúc tiền đồng hiệu Thiệu bình và quy định 1 tiền bằng 60 đồng.

Năm 1528, Mạc Đăng Dung cho đúc tiền kẽm và cả tiền sắt, đến năm 1658, tiền

kẽm và tiền sắt bị cấm sử dụng. Dưới triều vua Lê Hiển Tông (niên hiệu Cảnh

Hưng), do những cuộc nội chiến liên miên tốn kém chi phí nên nhà vua cho mở rất

nhiều sở đúc tiền để đúc tiền kẽm. Năm 1726 (Cảnh Hưng thứ 37), tiền đồng niên

hiệu Cảnh Hưng thuận bảo lại được đúc từ binh khí và đại bác bằng đồng không sử

dụng nữa.

Thời Nguyễn: Sau khi lên ngôi, vua Gia Long cho mở các sở đúc tiền ở Bắc thành, Gia Định để đúc tiền đồng Gia Long thông bảo. Các triều vua sau của

nhà Nguyễn tiếp tục đúc tiền đồng và có lúc đúc cả tiền kẽm. Song song với tiền

đồng, các loại thoi bạc, thoi vàng và tiền bạc, tiền vàng cũng xuất hiện từ khoảng

năm 1820, cuối triều Gia Long, đầu triều Minh Mạng. Vàng được định giá gấp 17

lần bạc và mỗi lạng bạc giá 2 quan 3 tiền đồng.

* Thời kỳ Việt Nam là một phần Đông Dương thuộc Pháp

- Đơn vị tiền tệ cả khu vực là Piastre, thường gọi là “bạc”. Lúc đầu có đồng bạc

Mexico nặng 27,73 gam, sau đó có đồng bạc Đông Dương nặng 27 gam.

Page 13: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 15 -

Đồng bạc Mexico đúc năm 1838 Đồng bạc Đông Dương đúc tại Pháp.

- Ngân hàng Đông Dương cũng phát hành cả tiền giấy. Tờ tiền giấy in hình 3 thiếu

nữ với những bộ trang phục truyền thống của 3 nước Campuchia, Lào và Việt Nam.

Tờ 100 bạc Đông Dương.

* Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám

- Từ 1945 – 1954, sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, thì giấy

bạc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng ra đời ngày 31/11/1946.

- Một mặt in chữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán

và hình chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt in hình Nông – Công – Binh.

- Các loại giấy bạc đều có số Ả Rập, chữ quốc ngữ, chữ Hán, Lào, Campuchia

chỉ mệnh giá, có ký tên của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Giám đốc Ngân khố TW.

Do đó ngoài tên gọi giấy bạc Cụ Hồ, còn tên gọi khác là giấy bạc tài chính.

Tờ giấy bạc tài chính 100 đồng. Tờ giấy bạc tài chính 5 đồng.

Page 14: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 16 -

- Ngày 5/6/1951, Ngân hàng Quốc gia Việt nam thành lập và phát hành

giấy bạc ngân hàng. 1 đồng ngân hàng đổi lấy 10 đồng tài chính.

- Giấy bạc ngân hàng có các loại mệnh giá: 1, 10, 20, 50, 100, 200, 500,

1.000 và 5.000 đồng. Một mặt in chữ “Việt nam Dân chủ Cộng hoà” và hình Hồ Chí Minh, một mặt in hình Công – Nông – Binh và bộ đội ở chiến trường. Trên giấy

bạc có số hiệu, mệnh giá ghi bằng số Ả Rập, chữ quốc ngữ và chữ Hán.

Tờ giấy bạc ngân hàng 20 đồng có màu tím.

Tờ giấy bạc ngân hàng 100 đồng.

5.000 đồng.

- Sau đó, do có nhiều khó khăn trong liên lạc, Trung Bộ và Nam Bộ được phát

hành tiền riêng. Tiền này có mệnh giá 1, 5, 20, 50 và 100 đồng. Hình ảnh trang trí

tương tự nhưng có thêm chữ kí của Chủ tịch Uỷ Ban kháng chiến Nam Bộ, đại diện

Bộ trưởng Tài chính và Giám đốc Ngân khố Nam Bộ.

Page 15: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 17 -

- Từ 1954 – 1975, sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, miền Bắc và miền Nam có 2

chế độ khác nhau, mỗi chế độ in tiền riêng, đều gọi là đồng.

- Ở miền Nam, từ 1953, lưu hành

Đồng (tiền Việt Nam Cộng hoà). Năm 1953, tiền kim loại 10, 20, 50 xu được

đưa vào lưu thông. Năm 1960, có

thêm tiền kim loại 1 đồng, và 10 đồng

năm 1964, 5 đồng năm 1966 và 20

đồng năm 1968. 50 đồng đúc năm

1975 nhưng chưa kịp lưu hành thì

Việt Nam Cộng hoà sụp đổ. Vì thế rất

hiếm đồng xu này còn tồn tại.

- Sau 30/4/1975, tiền miền Nam phải đổi thành tiền giải phóng. Từ Quảng Nam

– Đà Nẵng trở vào, 500 đồng miền Nam đổi lấy 1 đồng giải phóng. Từ Huế trở ra,

1000 đồng miền Nam đổi 3 đồng giải phóng.

Tờ 10 xu. Tờ 2 đồng.

Page 16: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 18 -

- Vào năm 1978, sau khi đất nước thống nhất về mặt hành chính, đã có

một cuộc đổi tiền nữa. Ở miền bắc 1 đồng giải phóng đổi 1 đồng thống nhất, ở miền

Nam 1 đồng giải phóng đổi 8 hào thống nhất. Có phát hành thêm các loại tiền 5 hào,

1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 50 đồng, 100 đồng.

- Lần đổi tiền thứ 3 vào năm 1985, khi 10 đồng thống nhất đổi 1 đồng tiền

mới. Phát hành các loại tiền 10, 20, 50 đồng.

Tờ 50 đồng.

Tờ 5 hào với ảnh cây dừa ở

Bến Tre

Tờ 1 đồng với ảnh nhà máy Gang

thép Thái Nguyên

Tờ 20 đồng với ảnh máy gặt lúa và đập nước.

Page 17: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 19 -

Tờ 10 đồng với hình ảnh cầu Thê Húc và đền Ngọc Sơn.

* Cho đến nay

- Tiền giấy cotton 10.000 và 20.000 đồng in vào năm 1990, loại 50.000 đồng

được phát hành từ 15/10/1994, 100.000 đồng cotton phát hành ngày 1/9/2000.

Tờ 100.000.

- Trong những năm gần đây, Việt Nam cho in tiền kim loại mệnh giá nhỏ

(nhưng đã ngừng lưu hành vì tính bất tiện), kết hợp với việc in tiền giấy làm từ

polymer thay cho giấy cotton.

Page 18: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 20 -

b)Đặc điểm đồng tiền đang lưu hành hiện nay:

- Đồng (VND) là đơn vị tiền tệ chính thức của Việt Nam, do Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam phát hành. Nó có ký hiệu là ₫ , mã quốc tế theo ISO 4217 là "VND".

Một đồng có giá trị bằng 100 xu hay 10 hào. Hai đơn vị xu và hào vì quá nhỏ nên

không còn được phát hành nữa. Tiền giấy được phát hành hiện nay có giá trị 500₫,

1000₫, 2000₫, 5000₫, 10.000₫, 20.000₫, 50.000₫, 100.000₫, 200.000₫ và

500.000₫. Đồng thời cũng có tiền kim loại trị giá 200₫,500₫, 1000₫, 2000₫ và

5000₫. Loại tiền này còn được gọi một cách dân dã là Tiền cụ Hồ, đặc biệt khi

dùng để phân biệt với các loại tiền khác đã từng lưu hành tại Việt Nam có cùng tên

gọi là "đồng". * : 100đ, 200đ.500d, 1000đ,

5000đ, 10000đ, 20000đ, 50000đ, 100000đ, 500000đ.Tr

Page 19: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 21 -

Page 20: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 22 -

:

Mệnh

giá

Kích

thước Màu chủ đạo

Miêu tả Phát

hành Mặt

trước Mặt sau

Loại

giấy

100 ₫ 120 ×

59 mm Nâu đen Quốc huy Tháp Phổ Minh Cotton 1992

200 ₫ 130 ×

65 mm Nâu đỏ

Hồ Chí

Minh Sản xuất nông nghiệp Cotton 1987

500 ₫ 130 ×

65 mm Đỏ cánh sen

Hồ Chí

Minh Cảng Hải Phòng Cotton 1989

1000 ₫ 134 ×

65 mm Tím

Hồ Chí

Minh Khai thác gỗ Cotton 1989

2000 ₫ 134 ×

65 mm Nâu sẫm

Hồ Chí

Minh Xưởng dệt Cotton 1989

5000 ₫ 134 ×

65 mm Xanh lơ sẫm

Hồ Chí Minh

Thủy điện Trị An Cotton 1993

10000 ₫

140 × 68 mm

Đỏ tía Hồ Chí Minh

Vịnh Hạ Long Cotton 1994

132 × 60 mm

Nâu đậm trên nền vàng

Hồ Chí Minh

Khai thác dầu khí Polymer 2006

20000 ₫

140 ×

68 mm Xanh lơ sẫm

Hồ Chí

Minh Xưởng sản xuất đồ hộp Cotton 1993

136 ×

65 mm Xanh lơ đậm

Hồ Chí

Minh Chùa Cầu Polymer 2006

50000 ₫

140 ×

68 mm

Xanh lá cây

sẫm

Hồ Chí

Minh Bến Nhà Rồng Cotton 1994

140 ×

65 mm Nâu tím đỏ

Hồ Chí

Minh Huế Polymer 2003

100000

145 ×

71 mm Nâu sẫm

Hồ Chí

Minh Nhà sàn Bác Hồ Cotton 2000

144 ×

65 mm

Xanh lá cây

đậm

Hồ Chí

Minh Quốc tử giám Polymer 2004

200000

148 ×

65 mm Đỏ nâu

Hồ Chí

Minh Hòn Đỉnh Hương, Hạ Long Polymer 2006

500000

152 ×

65 mm

Xanh lơ tím

sẫm

Hồ Chí

Minh

Nơi sinh của Hồ Chí Minh,

Kim Liên, Nghệ An Polymer 2003

* : 200đ, 500đ,

1000đ, 2000đ, 5000đ.

Page 21: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 23 -

200 đ

500đ

1000đ

2000đ

5000đ

Page 22: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 24 -

- ô :

Mệnh giá

Thông số kỹ thuật Miêu tả Ngày

phát

hành Đường kính

Độ

dày

mép

Khối lượng

Vật liệu Vành Mặt

trước Mặt sau

200 ₫ 20,00

mm

1,45

mm 3,2 g

Thép mạ

nikel Trơn

Quốc

huy

"NGÂN HÀNG NHÀ

NƯỚC VIỆT NAM",

mệnh giá, hoa văn dân

tộc

2003

500 ₫ 22,00

mm

1,75

mm 4,50 g

Thép mạ

nikel

Khía răng

cưa ngắt

quãng 6

đoạn

Quốc

huy

"NGÂN HÀNG NHÀ

NƯỚC VIỆT NAM",

mệnh giá, hoa văn dân

tộc

2004

1000 ₫ 19,00 mm

1,95 mm

3,80 g Thép mạ

đồng thau Khía răng

cưa liên tục Quốc huy

"NGÂN HÀNG NHÀ

NƯỚC VIỆT NAM", mệnh giá, hình Thủy

Đình, Đền Đô

2003

2000 ₫ 23,50

mm

1,80

mm 5,10 g

Thép mạ

đồng thau

Khía răng cưa ngắt

quãng 12

đoạn

Quốc

huy

"NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM",

mệnh giá, hình nhà

rông

2004

5000 ₫ 25,50

mm

2,20

mm 7,70 g

Hợp kim

CuAl6Ni2 Khía vỏ sò

Quốc

huy

"NGÂN HÀNG NHÀ

NƯỚC VIỆT NAM",

mệnh giá, hình Chùa

Một Cột

2003

c) .

-

. cuộc khủng hoảng kinh tế toàn c

. ông Sean Doyle, Đại sứ - Trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam nhận định

“Chính phủ Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc giữ tình hình kinh tế đất nước tương

đối ổn định trong năm 2009 và đầu năm 2010. Trong bối cảnh thương mại thế giới

sụt giảm và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn được duy trì, hoạt động xuất khẩu tuy giảm sút nhưng vẫn đạt trên mức trung bình

trong khu vực. Kết quả này có được, một phần lớn là nhờ vào các biện pháp và

chính sách kinh tế mạnh dạn của chính phủ”.

-Tuy nhiên

chế của nền kinh tế - bộc lộ qua cuộc khủng hoảng và sự cần thiết phải tái cơ cấu

một cách nhanh chóng, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước, nhằm tạo ra

sự tăng trưởng bền vững và nâng cao khả năng cạnh tranh. Bên cạnh đó, sự thâm

Page 23: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 25 -

hụt ngân sách quốc gia, tình trạng lạm phát gia tăng và thương mại sụt giảm cũng là

những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong năm 2009 và sẽ còn tiếp tục phải giải quyết trong năm 2010. , thâm

hụt thương mại của Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì trong thời gian trung hạn và đồng VND có thể sẽ tiếp tục giảm giá thêm trong năm 2011. Tăng trưởng GDP thực tế

năm 2010 của Việt Nam sẽ ở mức 6,7%, lạm phát so với cùng kỳ năm trước ở mức

8,5%. Mức tỷ giá VND – USD duy trì đến hết năm 2

1.2/ Malaysia: Ringgit, MYR

a) Lịch sử hình thành:

- Ngày 12 tháng 6 năm 1967, đồng Đôla Malaysia thay thế cho đồng Đôla của xứ Malaya và Borneo thuộc Anh.

- Đồng đô-la Malaysia là đồng tiền mới được phát hành bởi ngân hàng trung

ương mới, Ngân hàng Negara Malaysia.

- Đến năm 1973, đồng Đôla Malaysia có thể trao đổi ngang giá với Đôla

Singapore và Đôla Brunei. b) Đặc điểm đồng tiền đang lưu hành:

* : Đồng 1, 5, 10, 20 và 50 xen Malaysia:

- Tiền Malaysia được viết tắt là RM, tức ringgit Malaysia. Theo tỷ giá hiện

nay, 1 ringgit có giá 25 cent Mỹ (0,20 Euro).

- Kể từ ngày 7/12/2005, "tiền xu 1RM sẽ không còn là loại tiền hợp pháp nữa và sẽ

được rút khỏi lưu thông", trích thông báo của Ngân hàng Negara.

- Tiền xu 1 ringgit của Malaysia có màu vàng, được đúc và phát hành đầu

tiên năm 1989, thay thế cho loại tiền giấy cùng giá trị. Tuy nhiên, đến tháng

11/2000, Malaysia cho tái phát hành và lưu thông tiền giấy 1RM.

- Bên cạnh nhược điểm dễ bị làm giả, tiền xu 1RM còn rất nặng nên chúng ít được sử dụng và thường "nằm ì" trong các chú lợn đất.

-

Page 24: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 26 -

Xê ri đầu tiên

First Series

Giá

trị

Thông số kỹ thuật Miêu tả Ngày

Đường

kính Chất liệu Cạnh Mặt trước Mặt sau

Đúc

lần

đầu

Phát

hành

1 sen

18 mm

Đồng Nhà Quốc hội một

ngôi sao 13 cánh và trăng lưỡi liềm

State title,

value, năm đúc

1967

12

tháng 6 1967

1 sen Thép mạ

đồng 1973 ?

5 sen 16 mm

Cupronickel

Nhà Quốc hội một ngôi sao 13 cánh

và trăng lưỡi liềm

State title, value, year of

minting

1967

12

tháng 6 1967

10 sen 19 mm

20 sen 23 mm

50 sen 28 mm

50 sen Lettered 1971 ?

-Vào ngày 7 tháng 12 năm 2005, tiền kim loại RM1 đã bị hủy bỏ và rút khỏi

lưu thông. Điều này một phần là do các vấn đề với việc tiêu chuẩn hóa (hai phiên

bản tiền xu khác nhau đã được đúc) và giả mạo. - Ba loại tiền xu thoi vàng, "Kijang Emas" (kijang (một loại nai) là logo

chính thức của Ngân hàng Negara Malaysia) cũng được phát hành với giá trị danh

Page 25: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 27 -

nghĩa RM 50, RM 100 và RM 200. Loại tiền này đã được phát hành ra 7 tháng

7 năm 2001 bởi Ngân hàng Negara Malaysia và do Royal Mint of Malaysia Sdn

Bhd đúc. Giá mua và bán lại của Kijang Emas được giá thị trường vàng quốc tế

đang lưu hành xác định. *

- đã phát hành tiền giấy dollar Malaysia lần đầu

vào tháng 6 năm 1967 với các mệnh giá $1, $5, $10, $50 và $100. Mệnh giá $1000

đã được phát hành lần đầu năm 1968. Tiền giấy Malaysia đã luôn luôn mang hình

ảnh của Tuanku Abdul Rahman, Yang di-Pertuan Agong đầu tiên của Malaysia.

- Các máy ATM thường cho ra giấy bạc RM50, hoặc hiếm hoi hơn, giấy bạc

RM10 cùng với giấy bạc RM50.

Giấy bạc Malaysia đã từ lâu theo một mã màu xuất phát từ thời thuộc địa.

Các mệnh giá thấp hơn thì kiểm mẫu này được Singapore và Brunei áp dụng theo

và khi Bank Negara giới thiệu lần đầu giấy bạc RM2 nó sao chép màu hoa cà của tờ

giấy bạc 2 dollar Singapore.

RM1 - xanh da trời

RM2 - hoa cà (không còn

lưu hành nữa) RM5 - xanh lá caay

RM10 - đỏ

RM20 - nâu/trắng (không

còn lưu hành nữa)

RM50 - xanh lá cây/xám

RM100 - tím

RM500 - cam (không còn lưu hành nữa)

RM1000 - blue/green

Page 26: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 28 -

c) .

-

. Quý 2/2010, tăng trưởng kinh tế Malaysia gần đạt tốc độ tăng

trưởng nhanh nhất trong một thập kỷ. 18/8/2010, ngân hàng trung ương

Malaysia cho biết, GDP của nước này đã tăng 8,9% so với năm ngoái sau khi tăng

trưởng trong quý 1 đạt 10,1%, cao hơn 8,4% so với dự báo của các nhà kinh tế

trong cuộc khảo sát của hãng Bloomberg. Theo thống đốc ngân hàng trung ương

Zeti Akhtar Aziz, tăng trưởng của Malaysia có thể sẽ đạt hơn 6% trong năm nay.

-Ngân hàng trung ương Malaysia đã tăng lãi suất ba lần trong năm nay và có thể sẽ

tiếp tục tăng nếu kinh tế nước này tăng trưởng đủ mạnh để chịu được các chi phí

vay cao do những mối đe dọa đối với sự phục hồi trên thế giới. Tăng trưởng mạnh

của nền kinh tế khiến đồng ringgit của Malaysia tăng 9% so với đồng USD và 22%

so với đồng EUR trong năm nay.

.

Page 27: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 29 -

1.3/ Campuchia: Riel (KHR)

a) :

- Riel (đọc như Ria, phiên âm tiếng Việt là Riên) là tiền tệ của Campuchia.

Có hai loại tiền riel riêng biệt, loại thứ nhất được phát hành giữa năm 1953 và tháng 5 năm 1975, và loại thứ hai kể từ ngày 1 tháng 4 năm 1980. Ở Campuchia, dollar

Mỹ cũng được sử dụng rộng rãi

* 1953 – 1975

- Năm 1953, chi nhánh tại Campuchia của Institut d'Emission des Etats

du Cambodge, du Laos et du Vietnam đã phát hành tiền giấy đặt hai tên gọi

là piastre và riel. Đồng thời, hai chi nhánh khác cũng có hành động tương tự

với đồng ở Nam Việt Nam và kip ở Lào. Tiền riel đầu tiên được chia ra

100 centimes (viết tắt cent. trên đồng xu) nhưng đồng xu này năm 1959 đã được đổi

thành 100 sen. Trong những năm đầu, hai loại tiền là riel và piastre cùng lưu hành

song song. Thực ra, các đồng bạc giấy riel đầu tiên cũng được đặt tên gọi tên bằng

piastre.

Tiền xu: Các loại tiền xu mệnh giá 10, 20 và 50 centime của năm 1953 và

sen được đúc bằng nhôm và có kích thước giống với các đồng tiền xu kim loại

tương ứng của Lào và Nam Việt Nam (dù xu của Lào không có lỗ). Xu 1 riel có

kích thước của một US nickel và đã được phát hành năm 1970 nhưng đã không được đưa ra dùng, có lẽ do việc lật đổ chính quyền của Norodom

Sihanouk của Lon Nol. Tiền giấy: Sau khi phát hành tiền giấy đề tên cả riel và piastre (gần như khớp

với các đồng tiền ở Lào và Nam Việt Nam), một đồng riel thực sự độc lập đã được

phát hành bởi Ngân hàng Quốc gia Campuchia vào năm 1955. Campuchia đã phát

hành nhiều xê ri tiền giấy có mệnh giá 1, 5, 10, 20, 50, 100 và 500 riel. Tiền giấy

1000 và 5000 riel được in nhưng đã không được phát hành để lưu thông. Tờ 5000 riel vừa mới ra với thiết kế về cuộc sống, lịch sử và thần thoại Campuchia.

Page 28: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 30 -

- : Một trong những gương mặt đá tr

: tòa nhà nhìn từ bên trong khuông viên của cung điện hoàng

gia, trước kia nó là lối vào dành cho vua chúa, ngày nay nó thường mở cửa cho các

vị nguyên thủ đi vào viến thăm. Công chúng không bao giờ được tiếp cận đến khu vực này!).

-Tờ 10 Riels ( a: là hình ngôi đền cổ Bantye Sray. b: Chợ lớn mới vẫn

còn cho đến ngày hôm nay. Đây là ngôi nhà độc đóa, có hình dấu nhân nếu ta nhìn

từ trên xuống, trong những năm chiến tranh, nó vẫn hiên ngang đứng vững. ngày

nay nó là khu sầm uất, buôn bán nhiều đồ lưu niệm cho khách du lịch thập phương.

* 1975- 1981

-Khmer Republic (1970-1975) gồm có các tờ mệnh giá: 100, 500, 1000 và

5000 Riels :

Page 29: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 31 -

- Năm 1976, Sihanouk bị quản thúc trong hoàng cung và Pol Pot lên làm Thủ

tướng và người cầm đầu nhà nước chính thức là Khieu Samphon bạn học của Pol

Pot.

Trong một bối cảnh như vậy thì tiền có ý nghĩa gì cho chế độ này dưới thời Pol Pot! Bộ tiền đầu tiên của Khmer Đỏ đã được in ra với các mệnh giá như sau: 0.1, 0.5, 1,

5, 10, 50 và 100 Riels. Thế nhưng liền khi đó Pol Pot đã cho hũy bỏ lệnh phát hành,

những người có liên quan đến vụ việc này điều bị giết hết!

Page 30: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 32 -

b) 1980- nay

- Sau khi Việt Nam đánh lui Khmer Đỏ năm 1978, đồng riel đã được tái lập

làm tiền tệ Campuchia vào ngày 1 tháng 4 năm 1980, ban đầu với giá trị 4 riel =

1 dollar Mỹ. Đồng riel có các đơn vị nhỏ hơn, 1 riel bằng 10 kak hay 100 sen. Do

không có tiền để thay thế và do nền kinh tế lúc này đang đỗ vỡ nghiêm trọng, chính

quyền trung ương đã phát tiền cho dân chúng để khuyến khích người dân sử dụng.

- Ở các khu vực nông thôn, tiền riel được sử dụng trên thực tế cho các hoạt

động mua bán. Tuy nhiên, dollar Mỹ cũng được sử dụng, đặc biệt ở các vùng đô thị

và khu du lịch. Ở Battambang và những khu vực khác gần biên giới Thái Lan,

như Pailin, baht Thái cũng được chấp nhận.

Tiền xu: Các đồng tiền xu đầu tiên là xu 5 sen đúc năm 1979 bằng

nhôm. Không có loại đồng xu nào được đúc cho đến năm 1994, khi các xu có

mệnh giá 50, 100, 200, và 500 riel đã được giới thiệu. Tuy nhiên, chúng

không được lưu hành phổ biến. y

- Trong thời gian trị quốc độc đoán và tàn bạo, Polpot chuyển hướng sang tấn

công vào dân thường Việt Nam sống dọc theo biên giới tiếp giáp. Nhiều cánh

quân Khmer Đỏ đã xâm phạm vùng lãnh thổ Việt Nam và hành quyết rất nhiều

thường dân vô tội, nó tàn bạo hơn cả thời Lonlol sách nhiễu kiều bào, bằng

những cánh hành hình mang rợ; đập đầu, xé xác, móc tim gan...trẻ em thì bị

tóm chân và đập vào tường, phụ nữ thì bị hãm hiếp và dùng cây nhọn thọc

xuyên qua cửa mình...

- Trong khi đó thì có rất nhiều các cán bộ Campuchia thân Việt Nam phải chạy sang Việt Nam lánh nạn. Kể từ đó mà Việt Nam và Khmer Đỏ có những cuộc

giao tranh triền miên. Trung quốc là nước đứng đằng sau tất cả những diễn biến

này. Nhằm hổ trợ về mặc hậu cần, thập chí 1 chiếc khăng rằng hoàng nơi cổ của

lính Khmer Đỏ cũng được phía Bắc Kinh gửi sang.

- Thế nhưng, Việt Nam không thể ngồi yên để cho dân tình của mình chịu

những nỗi kinh hoàng do Khmer Đỏ gây ra ngày càng lan rộng. Quân đội Việt

Nam đã quy động một lực lượng lớn đánh thẳng vào Campuchia do Khmer Đỏ

cầm quyền. Cuộc chiến này đã làm tổn thất sinh mạng của biết bao bộ đội việt

Nam, mà cho đến nay vẫn bị liệt kê là mất tích...Thế nhưng, lịch sử đã cho thấy

về sự toàn thắng vẻ vang thuộc về quân đội Việt Nam. 07-01-1979, PhnomPenh

Page 31: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 33 -

đã nằm dưới sự kiểm soát của quân đội Việt Nam ( và vào mỗi năm đảng Nhân

Dân Campuchia lấy ngày lịch sử này làm ngày giải phóng).

- Ngay sau khi Việt Nam đánh chiếm được PhnomPenh, Trung Quốc đã mở

một cuộc tấn công biển người và thọc xâu vào biên giới Việt Nam, khiến cho sự tổn thất sinh mạng đôi bên khá nặng nề, một số vùng lãnh thổ đó đã bị Trung

Quốc chiếm lấy.

- Mặc dù bị Trung Quốc đánh phá từ phương Bắc, quân lính Việt Nam vẫn tiếp

tục truy đuổi những cánh quân Khmer Đỏ, có lúc đã tràng sang qua lãnh thổ

Thái Lan. Từ cửa ngỏ Thái, Trung Quốc tiếp tục viện trợ vủ khí cho những tàn

quân Khmer Đỏ còn cầm cự dọc theo biên giới Thái nhằm tạo cơ hội đánh du

kích vào quân Việt Nam.

- Tưởng cũng nên biết thêm là, truớc khi Việt Nam tiến chiếm được

PhnomPenh, thì quốc vương Norodom Shihanouk bị Khmer Đỏ quản thúc tại

hoàng cung. Một toán biệt kích Việt Nam nhảy dù xuống nhằm tìm cánh giải

cứu cho nhà vua, thế nhưng đã bị Khmer Đỏ phát hiện và tiêu diệt, chỉ duy 1

người còn sống...

- Sau khi chiến tranh lắng dịu, ngày 8 tháng 1 năm 1979 Hội đồng Nhân dân

Cách mạng nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập.

- Trong giai đoạn chủ tịch Heng Samrin nắm quyền,( People Republic of

Kampuchea 1979-1991), ngân hàng Cam cho phát hành bộ tiền với các mệnh

giá như sau: 0.1, 0.2, 0.5, 1, 5, 10, 20, 50 riels.

Page 32: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 34 -

* Đến năm 1987, ngân hàng cho tái phát hành thêm hai mệnh giá : 5, 10

riels ( chúng đều giống với mẫu cũ nhưng khác màu).

- Tiếp theo giai đoạn :State of Cambodia (1990-1992): Gồm có các tờ mệnh giá như sau : 50, 100, 200, 500, 1000 và 2000 Riels.

Nhưng đặt biệt của giai đoạn này có 2 tờ ; 1000 & 2000 là 2 tờ không được lưu

hành.

Page 33: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 35 -

+ Tờ 1000 Riels:

+ Tờ 2000 Riels:

* The Kingdom of Cambodia phát hành năm 1995 với những mệnh giá như:

100, 200, 500, 1000 , 2000, 5000, 10.000, 20.000, 50.000 & 100. 000 Riels.

- Các tờ không còn lưu hành : 100, 200, 500, 1000 2000& 20.000 Riels.

- Các tờ vẫn còn lưu hành và chúng sẽ ko còn tái phát hành: 5000, 10.000, , 50.000

& 100. 000 Riels

+ Tờ 100 Riels:

+ Tờ 200 Riels:

Page 34: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 36 -

+ Tờ 500 Riels:

+ Tờ 1000 Riels:

+ Tờ 2000 Riels:

+ Tờ 5000 Riels:

Page 35: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 37 -

+ Tờ 10.000 Riels:

+ Tờ 20.000 Riels:

+ Tờ 50.000 Riels:

+ Tờ 100.000 Riels:

- Đến tận năm 1999, thì ngân hàng Campuchia cho phát hành tờ 1000 Riels

mẫu mới. Tờ này đã không được tái in và trở nên hiếm. Nhưng hiện vẫn còn đang

lưu hành.

Page 36: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 38 -

+ Tờ 1000 Riels:

- Tiền giấy đã được phát hành năm 1980 với cách mệnh giá 1, 2 và 5 kak, 1,

5, 10, 20 và 50 riel. Các tờ bạc giấy sau này có mệnh giá lên đến 100.000 riel. Tuy

nhiên, bạc giấy trên 10.000 riel thì ít phổ biến hơn. Xê ri các tờ bạc giấy dần được

giới thiệu gần đây từ năm 2001-2002 là 50, 100, 500, 1000, 5000, 10.000, 50.000 và

100.000 riel. c) ampuchia.

- ,nền kinh tế Campuchia,

dù gần đây có những bước tiến, nhưng vẫn tiếp tục gánh chịu những di sản của mấy

thập kỷ chiến tranh

.Nhất là những địa điểm du lịch

1.4/ : Nhân ( NDT)

- Người Trung Quốc sáng chế ra tiền giấy vào cuối thế kỷ VIII, đầu thế

kỷ IX Công nguyên. Ban đầu người ta gọi là phi tiền (tiền bay) vì nó nhẹ đẽn

nỗi gió có thể thổi bay khỏi tay. .Tờ bạc đầu tiên, đúng hơn là một tờ "hối phiếu"

trả ngay chứ không phải thực sự là tiền. Thương nhân có thể ký thác tiền của mình

tại kinh đô rồi nhận một chứng chỉ viết trên giấy đem đi đổi lấy tiền ở các tỉnh.

Triều đình đã nhanh chóng nắm lấy công việc kinh doanh tiền tệ vốn do tư nhân

đảm nhiệm này ngay từ năm 812. Khi ấy, tiền thuế và các khoản thu khác đã được

chuyển từ các địa phương về kinh đô theo phương thức này. Các "hối phiếu" vẫn

được sử dụng nhưng nay do các quan chức của triều đình phát hành tại kinh đô và

có thể mang về các địa phương đổi lấy hàng hoá như muối, chè,...

- Tiền giấy thực sự dùng làm phương tiện trao đổi và được bảo đảm bằng

một khoản tiền ký thác ra đời vào khoảng đầu thế kỷ thứ X tại tỉnh Tứ Xuyên miền

Nam, kết quả của một sáng kiến tư nhân đem đến đầu thế kỷ XI triều đình đã cho phép 16 cơ sở kinh doanh tư nhân, tức "ngân hàng" phát hành hối phiếu. Nhưng

đến năm 1023, triều đình đã giành lấy hoạt động tư doanh này và thành lập một

công sở phát hành tiền giấy với nhiều loại giá trị khác nhau và được bảo đảm bằng

Page 37: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 39 -

những khoản tiền ký thác. Tiền giấy do ngân hàng đó phát hành có ghi rõ nó chỉ

có giá trị trong 3 năm, kèm theo ngày phát hành và ngày thu hồi. Năm 1107,

tiền giấy được in bằng nhiều bản khắc gỗ với ít nhất là 6 màu.

- Tiền giấy do triều đình phát hành đã chiếm một tỉ lệ rất lớn trong quỹ tiền tệ. Năm 1126 đã có 70 triệu "điếu" (một "điếu" bằng một nghìn đồng tiền) đã

được chính thức phát hành, phần lớn không có khoản tiền ký thác nào bảo đảm, do

đó đã sinh ra nạn lạm phát khá trầm trọng.

Một vấn đề khác nhanh chóng nảy sinh là

vấn đề về tiền giả. Vì ai cũng có thể dùng giấy để in

tiền nên nhà cầm quyền phải tìm cách làm cho quá

trình sản xuất tiền giấy thật phức tạp, sao cho kẻ khác

khó làm giả đúng y hệt. Một số biện pháp kỹ thuật

tinh vi bí mật đã nhanh chóng được áp dụng trong

việc làm tiền giấy như dùng nhiều màu, có những

hình vẽ cực kỳ phức tạp và trộn sợi vào trong giấy.

Vật liệu cơ bản làm cả tơ vào nữa. Có thể đem những

tờ bạc bị dây bẩn hoặc nhầu nát đổi lấy tờ mới nhưng phải trả thêm một số tiền nhỏ về chi phí in tờ bạc.

- Khi người Mông Cổ thống trị Trung Quốc, họ phát hành một loại tiền

giấy gọi là ti tệ (tiền lụa). Vật ký thác để đảm bảo giá trị loại tiền này không phải

là kim loại quý mà là những kiện lụa. Năm 1294, tiền lụa Trung Quốc được tiêu

dùng ở tận những nơi xa xôi như Ba Tư. Năm 1965, các nhà khảo cổ học đã tìm ra được tại đó hai tờ "tiền lụa".

- Về sau, dưới triều Minh vai trò của tiền giấy bị hạ thấp. Nhà Minh phát hành vào năm 1375 một loại giấy bạc mới gọi là "Đại Minh thông bảo". Trong

một thời gian dài tới 200 năm, loại giấy bạc này chỉ được phát hành ở mỗi giá trị và

được coi là tiền lưu hành hợp pháp. Điều đó tất nhiên gây nhiều khó khăn cho các

hoạt động thương mại, mặc dù vẫn có tiền đồng lưu hành và dùng làm loại tiền nhỏ

sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày. Nhưng do lạm phát, loại tiền "thông bảo" này

mất dần giá trị, sau đó được thay thế loại tiền đúc bằng bạc.

- Trung Quốc sử dụng bạc, cùng với các loại hợp kim đồng đúc, làm đơn vị

tiền tệ đầu tiên là vào thời nhà Hán (206 TCN-220 CN). Trước thời nhà Tống (960-

1280), người Trung Quốc dùng bạc thoi chủ yếu như một phương tiện tích trữ của

cải. Vào thời nhà Nguyên, các thỏi bạc được đúc thành dạng thuyền hoặc hài, và

được gọi là "Nguyên bảo" - nghĩa là "bảo vật nhà Nguyên". Các thỏi bạc trong các

thế kỷ sau cũng có hình dạng này. 1436, khai niên của Minh Anh Tông,

chính quyền chính thức bắt đóng thuế bằng bạc. Từ thời Minh mạt đến thời nhà

Page 38: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 40 -

Thanh (1644-1911), người ta chủ yếu dùng các bạc thoi trong các giao dịch ngoại

thương cho đến khi đồng xu bằng bạc hiện đại được đúc vào năm 1889. b) .

- Nhân dân tệ (NDT) là tên gọi chính thức của đơn vị tiền tệ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (nhưng không sử dụng chính thức ở Hong Kong và Macau).

Đơn vị đếm của đồng tiền này là nguyên/viên (tiền giấy), giác hoặc phân (tiền kim

loại). Một nguyên bằng mười giác. Một giác lại bằng mười phân. Trên mặt tờ tiền

là chân dung chủ tịch Mao Trạch Đông.

-Nhân dân tệ do Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc phát hành. Năm 1948,

một năm trước khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhân dân tệ đã

được phát hành chính thức. Tuy nhiên, đến năm 1955, loạt mới được phát hành thay

cho loạt thứ nhất. Năm 1962, loạt thứ hai lại được thay thế bằng loạt mới. Loạt thứ

tư được phát hành trong thời gian từ năm 1987 đến năm 1997. Loạt đang dùng hiện

nay là loạt thứ năm phát hành từ năm 1999, bao gồm các loại 1 phân, 2 phân, 5

phân, 1 giác, 5 giác, 1 nguyên, 5 nguyên, 10 nguyên, 20 nguyên, 50 nguyên và 100

nguyên. Theo tiêu chuẩn ISO-4217, viết tắt chính thức của Nhân dân tệ là CNY,

tuy nhiên thường được ký hiệu là RMB, biểu tượng là ¥.

- Trong ngôn ngữ Trung Quốc, “Yuan - đồng” thường được gọi là “kuai” và “jiao - hào” là “mao”. Loại nhân dân tệ bằng xu it khi được sử dụng, trừ tại các siêu

thị. Tiếp theo là những nét mô tả chính của tờ 1 đồng nhân dân tệ nói trên. Việc

nhìn ra các loại khác nhau của đồng nhân dân tệ là dễ dàng vì trên mỗi tờ tiền giấy

hoặc tiền xu kim loại có in số đếm Ả rập tương ứng . * :1 Yuan; 5 Yuan ;10 Yuan ;20 Yuan ; 50

Yuan; 100 Yuan:

-Tờ 1 nhân dân tệ có 2 loại, tờ mầu đỏ xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1996,

trong khi tờ thứ 2 màu xanh năm 1999.

+Mặt chính của tờ 1 nhân dân tệ phát hành

năm 1996 là chân dung của hai phụ nữ dân tộc

thiểu số, và mặt sau là Vạn lý Trường thành.

Page 39: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 41 -

+Mặt chính của tờ 1 nhân dân tệ phát hành năm 1999 là chân dung cố Chủ

tịch Mao Trạch Đông, trong khi mặt sau là Hồ Tây (Xihu Lake) ở thành phố Hàng

Châu - phía nam Trung Quốc.

-Tờ 5 nhân dân tệ cũng có hai loại, tờ mầu nâu được thiết kế và phát hành

năm 1980, trong khi tờ màu tía năm 1990.

+Mặt chính của tờ phát hành năm 1980

là chân dung hai người dân tộc thiểu số - một

phụ nữ Tây Tạng và một đàn ông Hồi giáo,

trong khi mặt sau là bức tranh phong cảnh

sông Dương Tử, con sông dài nhất Trung

Quốc.

+Mặt chính của tờ phát hành năm 1999

là chân dung của Mao Trạch Đông và mặt sau

là Taishan Maintain – một ngọn núi phía đông

tỉnh Quảng Đông Trung Quốc – đã được

UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên và

văn hóa thế giới.

-Tờ 10 nhân dân tệ cũng có hai loại – loại thông thường xuất hiện lần đầu

năm 1999, trong khi loại đặc biệt được Ngân hàng Trung ương phát hành vào ngày

8/7 (2008) nhằm đánh dấu sự kiện Thế vận hội Bắc Kinh. Mặt chính của loại thông

thường là chân dung Mao Trạch Đông, còn mặt sau là bức phong cảnh Tam Hiệp

- 10 Yuan, 20 Yuan, 50 Yuan, 100Yuan:

Page 40: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 42 -

c) : -

.

-. Theo Soros_ Chủ tịch quỹ đầu tư Soros Fund Management LLC, bí mật

thành công của Trung Quốc nằm ở hệ thống phân cấp rõ ràng giữa tài khoản vốn và

tài khoản vãng lai mà nhiều nước không có. Trong đó tài khoản vốn được kiểm soát

rất chặt chẽ. Điều này khiến Nhân dân tệ bị định giá thấp trong một thời gian dài,

giúp Trung Quốc liên tục đạt thặng dư thương mại lớn.Quan trọng hơn, sự phân chia hệ thống tài khoản này có tác dụng như hệ thống thuế nhưng hiệu quả hơn, bởi

nó cho phép Trung Quốc có lợi thế về giá trị xuất khẩu mà không cần kích thích để

tăng năng suất lao động. Việc kiểm soát chặt tài khoản vốn cùng hệ thống phân cấp

tài khoản giúp Trung Quốc chống đỡ được với cuộc khủng hoảng toàn cầu vốn gây

thiệt hại nghiêm trọng cho các nước phát triển.

- Kết thúc Hội nghị thượng đỉnh G20 diễn ra tại Hàn Quốc cuối 2/2010, Quỹ

Tiền tệ Quốc tế - IMF nhận định đôla Mỹ đang được định giá quá cao, trong khi đó

đồng n

.Tuy nhiên giá trị

đồng nhân dân tệ đột ngột tăng cao sẽ làm cho kinh tế Trung Quốc đình đốn, nhiều

doanh nghiệp bị đóng cửa, thất nghiệp gia tăng, xã hội mất ổn định, vai trò lãnh đạo

của đảng cộng sản Trung Quốc bị đe dọa.

- Tại Hoa Kỳ, một số nghị sĩ cho rằng Trung Quốc tiến hành cạnh tranh

không lành mạnh, khi kìm giữ đồng nhân dân tệ ở mức thấp hơn giá tr ị thực của nó

từ 20 đến 40%, để thúc đẩy xuất khẩu sang Mỹ. Trong tháng chín, Hạ viện Hoa Kỳ

Page 41: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 43 -

đã thông qua dự luật tố cáo Bắc Kinh thao túng tỷ giá và nếu văn bản này được

Thượng viện thông qua, thì chính quyền Washington được phép áp dụng các biện

pháp thuế quan, đánh vào sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc.

-Kinh tế gia Lu Ting, thuộc Bank of America – Merill Lynch ở Hồng Kông, được AFP trích dẫn nhận định, nếu đồng nhân dân tệ, đột nhiên hoặc trong vòng vài

tháng, tăng giá trị ở mức như các nghị sĩ Mỹ nói, đa số các công ty sản xuất hàng

cho xuất khẩu của Trung Quốc sẽ bị mất thị phần. Do đó, không một nước nào trên

thế giới có thể làm như vậy.

-Hồi tháng 6/2010, Trung Quốc tỏ ra nhân nhượng trước áp lực của quốc tế

khi tái lập cơ chế cho phép đồng nhân dân tệ dao động với biên độ hạn hẹp là 0,5%

xoay quanh tỷ giá cơ bản được Ngân hàng Nhà nước ấn định hàng ngày.

Thế nhưng, từ đó đến nay, theo giới chuyên gia, đồng nhân dân tệ chỉ tăng

giá 2,4% so với đồng đô la Mỹ, vào lúc châu Âu và Hoa Kỳ phải đối mặt với quá

trình phục hồi kinh tế chậm chạp sau khủng hoảng và không ngừng kêu gọi Trung

Quốc tiếp tục tăng giá đồng tiền quốc gia.

- Nhân hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc – Châu Âu tại Bruxelles, thủ tướng

Ôn Gia Bảo đã giải thích rằng nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của Trung Quốc chỉ có

mức lợi nhuận từ 2 đến 3% và ông khuyên các nước châu Âu không nên hòa đồng theo Hoa Kỳ để gây áp lực buộc Trung Quốc tăng giá trị đồng tiền.Lãnh đạo Trung

Quốc nói thẳng, « Nếu đồng nhân dân tệ tăng từ 20 đến 40%, thì điều này sẽ làm

cho nhiều doanh nghiệp Trung Quốc phá sản, nhiều người bị thất nghiệp (…) và

gây ra rối loạn xã hội ». Theo ông, thế giới sẽ không có lợi lộc gì nếu kinh tế Trung

Quốc bị khủng hoảng.

- Kinh tế gia Ian Sloan, thuộc Khối lượngachusetts Institute of Technology

nhấn mạnh, tính chính đáng của đảng cộng sản Trung Quốc nắm quyền lãnh đạo đất

nước phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hàng năm. Từ hơn một thập niên

qua, Trung Quốc luôn luôn có tỷ lệ tăng trưởng hàng năm trên 8%. Theo dự báo của

IMF, năm tới, 2011, tỷ lệ này của Trung Quốc có thể lên tới 9,6%.

Tuy nhiên, đây là một nền kinh tế hướng ngoại, tăng trưởng phụ thuộc nặng

nề vào xuất khẩu. Việc đột ngột nâng giá đồng nhân dân tệ sẽ gây ra phản ứng dây

chuyền với một loạt doanh nghiệp phải đóng cửa và sa thải nhân công. Trong ngắn

hạn, chính quyền Trung Quốc có thể đối phó qua việc hỗ trợ lĩnh vực ngân hàng và

các doanh nghiệp, nhưng về lâu dài, những biện pháp này không thể giúp duy trì sự ổn định xã hội và lòng trung thành đối với đảng cộng sản.

Do vậy, theo giới quan sát, bất chấp áp lực của Hoa Kỳ và châu Âu, chính

quyền Trung Quốc kiên quyết duy trì nhịp độ điều chỉnh giá trị đồng nhân dân tệ

như đã thông báo hồi tháng sáu.

Tại cuộc họp thường niên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, khai mạc ngày 08/10, tại

Washington, thống đốc Ngân hàng Nhà nước Trung Quốc Châu Tiểu Xuyên tuyên

bố, đồng nhân dân tệ sẽ được điều chỉnh dần dần để tiến tới mức « cân bằng »

nhưng ông bác bỏ mọi « liệu pháp sốc ».

Page 42: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 44 -

Theo lời một chuyên gia tại ngân hàng Crédit Suisse ở Hồng Kông thì giá trị đồng yuan sẽ tăng, nhưng theo tốc độ ốc sên. Từ nay đến cuối năm, đồng tiền Trung Quốc sẽ

tăng khoảng 1% và năm tới sẽ tăng từ 2 đến 3%. 2/ Châu Âu:

2.1/ Tây Ban Nha: Peseta(Pts) a) Lịch sử hình thành:

- Peseta đã được giới thiệu vào năm

1869 sau khi Tây Ban Nha gia nhập Liên

minh tiền tệ Latin vào năm 1868. Luật của

Tây Ban Nha 26 tháng 6 năm 1864 ra lệnh chuẩn bị cho việc gia nhập Liên minh tiền tệ

Latin (thành lập năm 1865), các peseta đã trở

thành một phân khu của peso với 1 duro peso

= 5 pesetas. Các peseta thay thế Escudo tại

một tỷ lệ là 5 pesetas = 1 peso duro = 2 escudos.

- Những bất ổn chính trị của thế kỷ XX do các liên minh tiền tệ để chia tay,

cho đến 1927 nó chính thức kết thúc.

- Năm 1959, Tây Ban Nha đã trở thành một phần của hệ thống pegging các

peseta tại một giá trị của 60 pesetas = 1 đô la Mỹ . Năm 1967, các peseta theo sự

mất giá của đồng Bảng Anh , duy trì tỷ giá hối đoái là 168 pesetas = 1 pound và

thiết lập một tỷ lệ mới là 70 pesetas = 1 $.

- Peseta đã được thay thế bằng đồng euro trong năm 2002 . Tỷ giá hối đoái

là 1 € = 166,386 pesetas. b) Đ :

:

- Năm 1869 và năm 1870, tiền xu đã được giới thiệu với các mệnh giá 1, 2,

5, 10 & 50 céntimos, 1, 2 và 5 pesetas. 25 pesetas xu đã được giới thiệu vào năm

1876. Năm 1889, 20 pesetas tiền xu đã được giới thiệu

1904, tiếp theo đó của tiền bạc trong năm 1910. Các

đồng tiền kim loại cuối cùng đã được ban hành vào năm 1912.

-

Năm 1925 với sự giới thiệu của niken-đồng kền 25 céntimos

- Năm 1926, 50 céntimos bạc đã được thực hiện, tiếp theo là giới thiệu một

phiên bản ẩn náu trong 25 céntimos vào năm 1927. - Năm 1934, Cộng hòa Tây Ban Nha lần thứ hai phát hành tiền kim loại cho

25 và 50 céntimos và peseta.

Page 43: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 45 -

- Năm 1937, một đồng xu 5 céntimos sắt đã được giới thiệu cùng với một

peseta 1 đồng.

- Các cuối cùng của đảng Cộng hòa là một vấn đề, đục lỗ bằng đồng 25

céntimos vào năm 1938. - Chính phủ Quốc gia giới thiệu nhôm 5 và 10 céntimos vào năm 1940, tiếp

theo là đồng-nhôm 1 đồng xu peseta vào năm 1944.

- Năm 1947, các đồng tiền đầu tiên peseta 1 mang chân dung của Francisco

Franco đã được ban hành.

- Nickel 5 pesetas theo sau vào năm 1949.

- Năm 1949, đục lỗ đồng kền 50 céntimos đã được giới thiệu, tiếp theo là

đồng-nhôm 2 ½ pesetas năm 1954, đồng kền 25 & 50 pesetas năm 1958 và nhỏ hơn

nhôm 10 céntimos năm 1959.

- Silver 100 pesetas đã được phát hành giữa 1966 và 1969, với nhôm 50

céntimos giới thiệu vào năm 1967.

- Sau sự gia nhập của vua Juan Carlos , sự thay đổi duy nhất để đúc tiền đã

được sự giới thiệu của cupronickel 100 pesetas năm 1976. Cupronickel 200 pesetas

đã được giới thiệu vào năm 1986, tiếp theo là đồng-nhôm 500 pesetas năm 1987.

- Năm 1989, nhôm-đồng 5 pesetas đã được giới thiệu. Nhôm-đồng 25

pesetas & nhỏ hơn 50 pesetas đã được giới thiệu vào năm 1990, cùng với hơn 200

pesetas.

- Cho đến ngày 19 Tháng Sáu năm 2001, sau đồng tiền được đúc bằng tiếng

Tây Ban Nha Nacional de Fabrica Âm sắc y Moneda :

€ equiv. Đường

kính

Trọng

lượng Thành phần

1 ₧ 0.006

(0.01) 14 mm 0,55 g Nhôm

5 ₧ 0.03 17,5 mm 3 g Nhôm đồng

10 ₧ 0.06 18,5 mm 3 g Cupronickel

25 ₧ 0.15 19,5 mm 4,25 g Nhôm đồng

50 ₧ 0.30 20,5 mm 5,60 g Cupronickel

100 ₧ 0.60 24,5 mm 9,25 g Nhôm đồng

200 ₧ 1.20 25,5 mm 10,5 g Cupronickel

500 ₧ 3.01 28 mm 12 gr Nhôm đồng

Page 44: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 46 -

- Ngày lớn hơn xuất hiện bên ngoài các ngôi sao là ngày thiết kế. Các ngày

tháng của một số đồng tiền Tây Ban Nha có thể được tìm thấy trên sao nhỏ 6-điểm

trên Mặt chính một trong hai hoặc ngược lại. * :

- Năm 1874, các Banco de España

5 và 10 pesetas. Bộ

Tài chính (Ministerio de Hacienda) giới thiệu 50 céntimos, 1 và 2 pesetas năm

1938, cũng như phát hành tiền đóng dấu (bao gồm bưu chính hoặc tem thuế gắn liền

với đĩa tông) với các mệnh giá 5, 10, 15, 20 , 25, 30, 40, 45, 50 và 60 céntimos.

Page 45: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 47 -

- Từ giữa những năm 1940, mệnh giá phát hành được 1, 5, 25, 50, 100, 500

và 1000 pesetas.Năm 1978, 5000 pesetas đã được giới thiệu.Số 200 và 500 pesetas

được thay thế bằng tiền xu năm 1986 và 1987.

- 2000 pesetas giới thiệu vào năm 1983, 200 pesetas trong năm 1984

và 10.000 pesestas vào năm 1987.

- ền giấy đã được giới thiệu giữa năm 1982 và 1987 và vẫn còn

hợp pháp cho đến khi sự ra đời của đồng euro.

Giá

trị

€ equiv. Kích

thước Màu sắc Chân dung

200 ₧ 1.20 120 × 65

mm Da cam

Leopoldo Alas

Leopoldo Alas

500 ₧ 3.01 129 × 70

mm

Màu

xanh Rosalia de Castro

1 000

₧ 6.01

138 × 75

mm Xanh

Benito Pérez

Galdós

2 000

₧ 12.02

147 × 80

mm

Juan Ramón

Jiménez

5 000

₧ 30.05

156 × 85

mm Nâu

Juan Carlos I của

Tây Ban Nha

10 000

₧ 60.10

165 × 85

mm

Juan Carlos I của

Tây Ban Nha và

Felipe, Prince of

Asturias

50pesetas

Page 46: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 48 -

1992:

Giá trị €

equiv. Kích thước

Màu

sắc Chân dung

1 000 ₧ 6.01 130 × 65 mm Xanh Hernán Cortés và Francisco

Pizarro

2 000 ₧ 12.02 138 × 68 mm José Celestino Mutis

5

000 ₧

3

0.05

146 ×

71 mm Nâu Christopher Columbus

1

0 000 ₧

6

0.10

154 ×

74 mm

Juan Carlos I của Tây Ban

Nha và

- Andorra sử dụng tiền xu và tiền giấy từ Tây Ban Nha, không có Andorran

riêng peseta, và họ đã được chuyển đổi thành pesetas bình thường. Các peseta

Andorran (ADP) là một 01:01 peg với peseta Tây Ban Nha

Peseta giấy và tiền đã được pháp luật đấu thầu trên 31 tháng mười hai 2001,

tiếp tục trao đổi vô thời hạn tại bất kỳ chi nhánh của ngân hàng trung ương .

Euro tiền kim loại đã được giới thiệu vào tháng Giêng năm 2002, và ngày 01

tháng 3 năm 2002, các peseta mất tình trạng hợp pháp của mình tại Tây Ban Nha,

và cũng ở Andorra. Tỷ giá hối đoái là 1 euro = 166,386 ESP Giá cả tại nhiều siêu thị Andorran và cơ sở bán lẻ khác vẫn hiển thị hai giá

trong euro và pesetas hoặc trong euro và franc Pháp c)

- Vào năm 1992, sự mất giá của đồng peseta đã làm tăng tính cạnh tranh cho

hàng hóa xuất khẩu của nước này. Tây Ban Nha là một trong những quốc gia tiên

phong trong việc sử dụng thay thế đồng tiền chung châu Âu euro vào ngày 1 tháng

1 năm 2002

Page 47: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 49 -

: Franc(CHF) :

- Trước năm 1798, khoảng 75 đơn vị đã làm cho đồng tiền ở Thụy Sĩ, trong

đó có 25 bang và nửa bang, 16 thành phố, và abbeys, kết quả trong khoảng 860

đồng tiền khác nhau trong lưu thông, với các giá trị khác nhau

- Năm 1798, các nước Cộng hòa Helvetic giới thiệu một loại tiền tệ dựa trên

thaler Berne , được chia thành 10 batzen hoặc rappen 100.

- Các franc Thụy Sĩ là bằng 6 ¾ gram bạc nguyên chất hoặc 1 ½ franc Pháp.

- Franc này được ban hành cho đến cuối Helvetic Cộng hòa năm 1803,

nhưng phục vụ như là mô hình cho các loại tiền tệ của một số bang ở Thụy Sĩ Liên

minh được thành lập lại

- Mặc dù 22 bang và nửa bang phát hành tiền xu từ năm 1803, và năm 1850,

ít hơn 15% số tiền trong lưu thông ở Thụy Sĩ vào năm 1850 đã được sản xuất trong

nước, phần còn lại là nước ngoài, chủ yếu là mang về bởi lính đánh thuê. Ngoài ra,

một số ngân hàng tư nhân cũng bắt đầu phát hành tiền giấy đầu tiên, do đó, trong tổng số, ít nhất là 8.000 đồng tiền khác nhau và ghi chú đã được lưu hành tại thời

điểm đó, làm cho hệ thống tiền tệ cực kỳ phức tạp.

- Để giải quyết vấn đề này, mới Hiến pháp Liên bang Thụy Sĩ năm 1848 quy

định rằng Chính phủ Liên bang sẽ là thực thể chỉ được cho phép để kiếm tiền ở

Thụy Sĩ. Sau đó là hai năm sau đó của liên bang đầu tiên của Đạo luật tiền đúc,

thông qua hội Liên bang vào ngày 07 tháng 5 năm 1850, trong đó giới thiệu các

franc là đơn vị tiền tệ của Thụy Sĩ. Nó thay thế các loại tiền tệ khác nhau của các

bang Thụy Sĩ , một số trong đó đã sử dụng một franc (chia thành 10 batzen và

rappen 100) được trị giá 1 ½ franc Pháp .

- Năm 1865, Pháp , Bỉ , Italia , và Thụy Sĩ đã thành lập Liên minh tiền tệ

Latin , trong đó họ đã đồng ý giá trị tiền tệ quốc gia của họ vào một tiêu chuẩn là

4,5 gam bạc hoặc 0,290322 gram vàng. Ngay cả sau khi liên minh tiền tệ đã bị mờ

đi trong những năm 1920 và chính thức kết thúc vào năm 1927, đồng franc Thụy Sĩ

vẫn còn trên các tiêu chuẩn đó cho đến năm 1936, ngày 27 tháng trong thời gian

khủng hoảng . Đồng tiền được giảm giá 30% sau khi phá giá của đồng Bảng Anh , đồng đô la Mỹ và đồng franc Pháp. Năm 1945, Thụy Sĩ gia nhập hệ thống Bretton

Woods và cố định các franc cho đồng đô la Mỹ ở mức $ 1 = 4,30521 franc ( tương

đương với 1 franc = 0,206418 gam vàng). Điều này đã được thay đổi đến $ 1 =

4,375 F (1 franc = 0,203125 gam vàng) vào năm 1949.

- Từ giữa năm 2003 và giữa năm 2006, của tỷ giá đồng franc với các đồng

euro đã được ổn định ở một giá trị trong khoảng 1,55 CHF / euro, do đó, franc Thụy

Sĩ đã tăng và giảm song song với đồng euro so với đồng đô la Mỹ và các đồng tiền

Page 48: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 50 -

khác Trong tháng ba năm 2008, franc Thụy Sĩ được giao dịch trên một đồng đô la

Mỹ lần đầu tiên.

- Các franc Thụy Sĩ có lịch sử được coi là một loại tiền tệ ẩn náu an toàn với

lạm phát hầu như bằng không và pháp luật yêu cầu việc tối thiểu là 40% được hỗ trợ bởi dự trữ vàng. Tuy nhiên, liên kết này với vàng, trong đó có từ những năm

1920, đã được chấm dứt vào Ngày 01 tháng 5 2000 sau một cuộc trưng cầu. Đến

tháng ba năm 2005, sau một chương trình bán vàng, các Ngân hàng quốc gia Thụy

Sĩ đã tổ chức 1.290 tấn vàng dự trữ đó tương đương với 20% tài sản của mình. :

* Tiền xu:

- Năm 1850, tiền xu đã được giới thiệu với các mệnh giá 1, 2, 5, 10, và 20

centimes và ½, 1, 2, và 5 F, với 1 và 2 centimes đánh bằng đồng, 5, 10, và 20

centimes tại billon , và mệnh giá đồng franc trong bạc tiền phạt 0,900. Giữa năm

1860 và năm 1863, phạt tiền bạc 0,800 đã được sử dụng, trước khi các tiêu chuẩn

được sử dụng tại Pháp của 0,835 độ mịn đã được áp dụng cho tất cả các đồng xu

bạc, ngoại trừ 5 F (mà vẫn giữ độ mịn 0,900) năm 1875. Năm 1879, billon được

thay thế bằng niken-đồng kền trong và 10 centimes 5 và bằng niken trong 20

centimes.

- Cả hai cuộc chiến tranh thế giới chỉ có một tác động nhỏ trên tiền kim loại

của Thụy Sĩ, với đồng và kẽm tiền xu tạm thời được ban hành. Năm 1931, kích

thước của các đồng tiền franc 5 được giảm từ 25 gam đến 15, với nội dung bạc

giảm xuống 0,835 độ mịn.

- Những đồng xu 1 centime vẫn còn được

sản xuất cho đến năm 2006, mặc dù trong bao giờ

giảm số lượng, nhưng nó không có vai trò lớn trong

nền kinh tế tiền tệ trong quý thứ tư của thế kỷ XX

(khoảng năm 1975-2000).

- Trong số những thay đổi đáng chú ý đã được thiết kế mới cho những đồng

xu 5 franc vào năm 1888, 1922, 1924 (nhỏ) và 1931 (chủ yếu chỉ là giảm kích thước). Một thiết kế mới cho những đồng xu bằng đồng đã được sử dụng từ năm

1948 . Tiền xu miêu tả một vòng các ngôi sao (như các đồng tiền franc 1 nhìn thấy

Page 49: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 51 -

bên cạnh khoản này) đã được sửa đổi lần từ 22 sao đến 23 sao vào năm 1983, kể từ

khi các ngôi sao đại diện cho các bang Thụy Sĩ, nó đã được cập nhật để đại diện cho

sự mở rộng năm 1979 của liên bang Thụy Sĩ.

- Có 10 đồng xu từ năm 1879 trở đi centime (trừ các năm 1918-1919 và 1932-1939) đã có cùng thành phần,

kích thước và thiết kế cho đến nay (2009) và vẫn còn hợp

pháp và được tìm thấy trong lưu thông.

10 centimes 1879

- Ngoài những đồng tiền lưu thông nói chung, nhiều loạt các đồng tiền kỷ

niệm đã được ban hành, cũng như bạc và đồng xu vàng . . Những đồng tiền không

hợp pháp đấu thầu nhiều hơn, nhưng có thể đổi được giá trị có mặt tại văn phòng

đăng bài, và tại các ngân hàng quốc gia và bang. của họ giá trị của vật liệu hoặc thu

bằng hoặc vượt quá giá trị mặt.

Tổng quan của Thụy Sĩ đồng tiền hiện hành

Gi

á trị

Đường

kính

(mm)

Độ

dày

(mm)

Trọng

lượng

(g)

Thàn

h phần Phát biểu

5 centimes 17.15 1.25 1.8

1.8 Nhôm đồng

Xuất xứ

Cupronickel

hoặc tinh

khiết Nickel

đến năm

1980

10 centimes 19.15 1.45 3 Cupr

onickel

Xuất xứ

hiện nay

đúc từ năm

1879

20 centimes 21.05 1.65 4 Cupr

onickel

1 / 2 franc

(50centimes) 18.20 1.25 2.2 Cupronickel

Trong bạc

đến năm

1967

1 franc 23.20 1.55 4.4 Cupr

onickel

Trong bạc

đến năm

1967

2 francs 2 F 27.40 2.15 8.8 Cupronickel

Trong bạc

đến năm

1967

Page 50: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 52 -

5 francs 5 F 31.45 2.35 13.2 Cupr

onickel

Trong bạc

cho đến

năm 1967

và năm

1969

* Tiền giấy

- Trong năm 1907, Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ đã qua việc phát hành tiền

giấy từ các bang và các ngân hàng khác nhau. Nó giới thiệu mệnh giá của F 50,

100, 500 và 1000 . Năm 1914, Kho bạc Liên bang phát hành tiền giấy mệnh giá của

F 5, 10 và 20.

+ : 10 franc : 126 × 74 mm

: Le Corbusier

Page 52: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 54 -

: 159 × 74 mm

: xanh dương

: Alberto Giacometti

: 01/10/1998

+ : 200 franc

: 170 × 74 mm : nâu

: Ramuz Charles Ferdinand Ramuz

+ Ng : 01/10/1997

+ : 1000 franc

: 181 × 74 mm : Purple

: Jacob Burckhardt

: 01/04/1998

c) :

- Đồng Franc Thụy Sỹ trước đây từng được coi là một đồng bạc có độ an

toàn cao trong những thời điểm xảy ra khủng hoảng tài chính quốc tế. Tuy nhiên,

trong cuộc khủng hoảng 2008 (hiện nay), đồng tiền này đang mất giá mạnh.

Page 53: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 55 -

Ngày 17/3/2008 vừa qua, đồng Franc Thụy Sỹ lên giá tới mức 0,9638 Franc đổi

được 1 USD - cao nhất từ năm 1971 tới nay, nhưng hiện đã rớt về mức 1,2140

Franc đổi được 1 USD và ít có khả năng phục hồi trong năm 2009. Khả năng của

Ngân hàng Trung ương Thụy Sỹ (SNB) trong việc hỗ trợ đồng tiền và nền kinh tế cũng đang giảm dần.

- m thấp hơn mức giảm

điểm của chỉ số Nasdaq trên thị trường Mỹ, chỉ số này vẫn mất 31% số điểm trong

năm 2008.

- Sau khi tăng 1,9% trong năm 2008. Sản xuất công nghiệp trong tháng 11

năm 2008 của Thụy Sỹ đã sụt giảm với tốc độ mạnh nhất kể từ năm 1995 tới nay.

- Đồng franc cũng đã tăng giá do sức mạnh tương đối của nền kinh tế Thụy

Sỹ. Tăng trưởng đang tiếp tục mạnh hơn, trong khi đó tiêu dùng nội địa duy trì ở

mức rất cao. SNB đã nâng dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2010 từ mức 1,5% lên

2%.

- Franc của

.

: Pound (GBP)

( ký hiệu : £, mã ISO : GBP ) là đơn vị tiền tệ chính thức của

Vương quốc Anh, bao gồm các lãnh thổ hải ngoại và thuộc địa. Ký hiệu

của đồng bảng Anh ban đầu có 2 vạch trên thân (₤), sau này mới

chuyển thành một gạch (£), ký hiệu này xuất xứ từ ký tự L trong LSD

(tên viết tắt của các đơn vị trong hệ đếm 12 – librae, solidi, denarii,

chuyển sang tiếng Anh là Pound, silling và pence).

a) Lịch sử lâu đời

- Đồng bảng Anh là đồng tiền lâu đời nhất còn được sử dụng sau khi một số

quốc gia thuộc khối EU chuyển sang dùng đồng Euro (€). Nó là đồng tiền được lưu

trữ trong các quỹ dự trữ ngoại tệ toàn cầu, mức phổ biến chỉ sau đồng đô la Mỹ và

đồng Euro. Đồng bảng đứng thứ tư về khối lượng giao dịch ngoại tệ toàn cầu sau

đồng đô la Mỹ, đồng Euro và đồng Yên Nhật.

- Các đồng bảng Anh được cho là đồng tiền tệ lâu đời nhất vẫn được sử dụng

cho đến ngày hôm nay. Được giới thiệu bởi vua

Henry II vào đầu năm

1158, song lúc đó, chúng

chưa được gọi là “đồng

bảng Anh” mà dùng “xu

Tealby” làm đơn vị tiền

tệ.

Đồng Tealby cổ.

Page 54: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 56 -

- Elizabeth I cùng nhóm cố vấn của

bà đã đưa ra “đồng bảng Anh” như một đơn

vị tiền tệ vào năm 1560-1561 để chống lạm phát, tuy nhiên, việc này lại phát sinh ra

việc làm bạc giả gây cản trở giá trị của tiền

tệ.

Trước đồng bảng Anh, trong thời

gian đầu thời kỳ Trung cổ, những đồng xu

làm bằng bạc được sử dụng như một loại

tiền tệ. Kể từ đó, đồng bảng vẫn giữ một vị trí ổn định bất kể các đồng tiền khác

của Châu Âu thay đổi ra sao. Qua các khủng hoảng tài chính năm 1621, 1694 -96,

1774 và 1797, đồng bảng vẫn vững vàng.

- Ngay cả những thời điểm khó khăn (khi Nội chiến nước Anh gây loạn lạc)

cũng không làm đồng bảng mất giá. Có ý kiến cho rằng, nhờ đồng tiền vững giá

trong nhiều thế kỷ, nước Anh xây dựng được nền tảng tài chính ưu việt, hệ thống tín

dụng an toàn, uy tín trong suốt thế kỷ 18. Đồng bảng là đồng tiền chính thức của Ngân hàng Anh ngay khi nó được thành lập năm 1694.

:

- Bảng Anh được phát hành dưới 2 dạng là tiền kim loại và tiền giấy:

* Tiền kim loại : do xưởng đúc tiền hoàng gia phát hành bao gồm mệnh giá 1

xu, 2 xu, 5 xu, 10 xu, 20 xu, 1 bảng và 2 bảng. Có cả đồng 5 bảng nhưng ít được sử

dụng.

Trên đồng 1 xu có hình cổng thành Westminster

Palace. Được phát hành ngày 15 tháng 2 năm 1971.

Trên đồng 2 xu có hình biểu tượng của Huân tước xứ

Wales. Được phát hành ngày 15 tháng 2 năm 1971.

Trên đồng 5 xu có hình hoa Thistle, quốc hoa của xứ

Scotland. Hiện tại phiên bản nhỏ hơn được phát hành tháng 6

năm 1990 (phiên bản lớn hơn được giới thiệu năm 1968, bị hủy

năm 1990).

Page 55: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 57 -

Trên đồng 10 xu có hình một con sư tử, tượng trưng cho

xứ England. Hiện tại phiên bản nhỏ hơn phát hành tháng 9 năm

1992 (phiên bản lớn hơn được giới thiệu năm 1968 song đã bị hủy vào năm 1993).

Đồng 20 xu có hình Tudor Rose – quốc hoa của

Vương Quốc Anh. Phát hành ngày 9 tháng 6 năm 1982.

- Đồng 1 bảng có rất nhiều hình ảnh phản ánh các

quốc gia khác nhau của Vương quốc Anh: biểu tượng sư tử

quen thuộc của đội tuyển Anh, biểu tượng của cây thánh giá

Celtic xứ Bắc Ireland. Được phát hành vào ngày 21 tháng 4

năm 1983.

- Đồng 2 bảng có thiết kế đại diện cho sự phát triển

về công nghiệp ở Anh. Phát hành ngày 15 tháng 6 năm

1998.

- Đồng 50 xu có hình Britannia, nữ thần tượng

trưng cho đại đế quốc Anh và hình một con sư tử cũng là

biểu tượng của nước Anh. Hiện tại, bản nhỏ hơn được giới

thiệu tháng 9 năm 1997,(phiên bản lớn hơn được giới thiệu

tháng 10 năm 1969 và bị hủy năm 1998).

* Tiền giấy : do ngân hàng Anh và các ngân hàng ở Scotland, bắc Ireland

phát hành. Bao gồm các mệnh giá : 5 bảng, 10 bảng, 20 bảng và 50 bảng. Trên tờ 5 bảng có in hình Elizabeth Fry,

một nhà hoạt động xã hội đã có công cải thiện

điều kiện sống cho phụ nữ ở các nhà tù Châu

Âu. Song tờ 5 bảng này đã không còn là đồng

tiền tệ chính thức vào ngày 21 tháng 11 năm

2003.

Page 56: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 58 -

Trên tờ 10 bảng có in

hình Charles Darwin, nhà khoa học tự

nhiên, người đề xuất Thuyết Tiến hóa.

Ngoài ra, nó còn được in hình các hệ động thực vật mà ông đã từng khám

phá.

-Tờ 20 bảng có hình Edward Elgar, một nhà soạn nhạc người Anh.

-Tờ 50 bảng có hình John Houblon, người sáng lập Ngân hàng Anh và là

thống đốc đầu tiên của ngân hàng Anh.

Có cả tiền giấy mệnh giá 100 bảng, nhưng không lưu thông trên thị trường.

Tiền giấy mệnh giá 1 bảng được dùng ở quần đảo Channels và Scotland

: Bảng Anh vẫn luôn là một trong những đồng tiền có giá

trị cao nhất trên thế giới.

- Đồng bảng Anh là đồng tiền lâu đời nhất còn được sử dụng sau khi một số

quốc gia thuộc khối EU chuyển sang dùng đồng Euro (€). Nó là đồng tiền được lưu trữ trong các quỹ dự trữ ngoại tệ toàn cầu, mức phổ biến chỉ sau đồng đô la Mỹ và

đồng Euro. Đồng bảng đứng thứ tư về khối lượng giao dịch ngoại tệ toàn cầu sau

đồng đô la Mỹ, đồng Euro và đồng Yên Nhật.

- Các đồng bảng Anh được cho là đồng tiền tệ lâu đời nhất vẫn được sử dụng

cho đến ngày hôm nay. Được giới thiệu bởi vua Henry II vào đầu năm 1158, song

lúc đó, chúng chưa được gọi là “đồng bảng Anh” mà dùng “xu Tealby” làm đơn vị

tiền tệ.

Page 57: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 59 -

- Giá trị lịch sử lâu đời, sức mạnh trên thị trường tiền tệ chính là những gì

người ta nhận xét về đồng bảng Anh.

2.4 Liên Bang Nga: RUBLE(RUB)

a) Lịch sử hình thành:

-RUBLE là tiền tệ của Liên bang Nga và hai nước cộng hòa tự trị Abkhazia

và Nam Ossetia. Trước đây, đồng rúp cũng là tiền tệ của Liên Xô và Đế quốc Nga

trước khi các quốc gia này tan rã. Đồng rúp được chia thành 100 kopek,. Mã ISO

4217 là RUB; mã trước đây là RUR, nói về đồng rúp Nga trước thời điểm đặt tê n

năm 1998 (1 RUB = 1000 RUR).

-Hiện tại, không có biểu tượng chính thức cho đồng rúp, dù hiện đang được

sử dụng. Nhiều biểu tượng đã được đề xuất,bao gồm cả: "РР" (cyrillic cho "RR"),

một "R" với hai dấu gạch ngang (giống như đồng peso Philipin) và một "Р" với một

dấu gạch ngang. :

*Tiền giấy:

* Hình ảnh: 5 rúp

+ Kích thước: 137 × 61 mm

+ Màu sắc chính: Xanh

+Mặt phải: Các Thiên niên kỷ của Nga tưởng niệm trên nền của nhà thờ

Saint Sophia ở Veliky Novgorod

+ Mặt trái: Pháo đài tường của Điện Kremlin Novgorod

* Hình ảnh: 10 rúp

+ Kích thước: 150 × 65 mm

+ Màu sắc chính: xanh lá cây và màu nâu sẫm

Page 58: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 60 -

+ Mặt phải: Cầu qua sông Yenisei ở Krasnoyarsk , Chapel

+ Mặt trái: Krasnoyarsk nhà máy thủy điện

* Hình ảnh: 50 rúp

+ Kích thước: 150 × 65 mm

+ Màu sắc chính: Màu xanh và tím, tương ứng

+ Mặt phải: Điêu khắc ở chân cột co hinh giôPetropavlosk Fortress ở Saint Petersburg

+ Mặt trái: Cựu chứng khoán xây dựng

* Hình ảnh: 100 rúp

+ Kích thước: 150 × 65 mm

+ Màu sắc chính: xanh- đỏ tía

+Mặt phải: Điêu khắc trên hiên của Nhà hát Bolshoi ở Moscow

+ Mặt trái: Các nhà hát Bolshoi

* Hình ảnh:500 rúp

+ Kích thước: 150 × 65 mm

Page 59: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 61 -

+ Màu sắc chính: Màu tím và màu xanh tương ứng

+ Mặt phải: Đài tưởng niệm Peter Đại đế ,

Sedov tàu thuyền và các thiết bị đầu cuối biển ở Arkhangelsk

+Mặt trái: Tu viện Solovetsky

* Hình ảnh:1000 rúp

+ Kích thước: 157 × 69 mm

+ Màu sắc chính: xanh

+ Mặt phải: Đài tưởng niệm Yaroslav I Wise

+ Mặt trái: John Giáo Hội Baptist tại Yaroslavl

* Hình ảnh:5000 rubles

+ Kích thước: 157 × 69 mm

+ Màu sắc chính: màu da cam

+ Mặt phải: Đài tưởng niệm Nikolay Muravyov-Amursky ở Khabarovsk

+ Mặt trái: Khabarovsk cầu qua sông Amur

*Tiền đồng:

Đồng 10 kopek năm 2003(bạch kim) Đồng 10 rúp năm 2009

Page 60: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 62 -

- Đồng 1, 5, 10, 50 kopek và 1, 2, 5 rúp

+Mệnh giá: 1 kopek

- Đường kính:15,5mm

o Thành phần: Cupronickel -

thép - Mặt phải: Saint George

- Mặt trái: Giá trị

- Mệnh giá: 5 kopeks

- Đường kính:18,5mm

- Thành phần: Cupronickel - thép

- Mặt phải: Saint George

- Mặt trái: Giá trị

+ Mệnh giá: 10 kopeks

- Đường kính:17,5mm

- Thành phần: Brass 1997-

2006, thau mạ 2006 thép

- Mặt phải: Saint George

- Mặt trái: Giá trị

+ Mệnh giá: 50 kopeks

- Đường kính:19,5mm

- Thành phần: Brass 1997-

2006,

thau mạ 2006 thép

- Mặt phải: Saint George

- Mặt trái: Giá trị

Page 61: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 63 -

+ Mệnh giá: 1 đồng rúp

- Đường kính:20,5mm

o Thành phần: Cupronickel 1997-2009,

Nickel mạ thép năm 2009

- Mặt phải: 2-đầu đại bang

biểu tượng của Ngân hàng của

Nga

- Mặt trái: Giá trị

+ Mệnh giá: 2 rúp

- Đường kính:23 mm

o Thành phần: Cupronickel

1997-2009,

Nickel mạ thép năm

2009

o Mặt phải: 2-đầu đại bàng biểu tượng

của Ngân hàng của Nga

- Mặt trái: Giá trị

+ Mệnh giá: 5 rúp

- Đường kính:25mm

- Thành phần: Cupronickel –

đồng 1997-2009, Nickel mạ

thép năm 2009

- Mặt phải: 2-đầu đại bàng

biểu tượng của Ngân hàng của

Nga

- Mặt trái: Giá trị

+ Mệnh giá: 10 rúp - Đường kính:22mm

- Thành phần: Thép mạ

đồng thau

- Mặt phải: 2-đầu đại bang

biểu tượng của Ngân hàng của

Nga

- Mặt trái: Giá trị

Page 62: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 64 -

c)Nhận định:

-Tờ Kinh tế Trung Quốc dẫn nguồn Liên hợp Tảo báo của Singapore ngày

21/6 cho hay, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev hy vọng, đồng Rúp của nước này

sẽ trở thành một trong những đồng tiền dự trữ của thế giới. -Theo nhận định của Chủ tịch Hiệp hội ngân hàng khu vực Nga, ủy viên Ủy

ban ngân hàng quốc gia Nga Anatoly Aksakov cho rằng, đồng rúp mất giá sẽ có ích

cho sự phục hồi của nền kinh tế Nga.

-Nhiều chuyên gia kinh tế cũng có cùng nhận xét như vậy và cho rằng, trong

bối cảnh thị trường tài chính thế giới tiếp tục bất ổn định, việc phá đồng rúp Nga

không chỉ giúp ích cho kinh tế Nga mà còn là phương tiện dự trữ có triển vọng cho

các quốc gia khác.

-Theo họ, đồng rúp là một trong những ngoại tệ có triển vọng hơn cả, nhờ

nền kinh tế Nga có nhiều nguồn dự trữ lớn. Theo nhận định của một số nhà kinh tế,

trong những năm tới, đồng rúp Nga có đủ tiềm năng để trở thành ngoại tệ dự trữ.

Những ngân hàng hàng đầu của thế giới cũng khuyến khích các khách hàng lớn của

mình mua đồng rúp, bởi theo họ đây là sự đầu tư có lợi hơn cả.

2.5 :Koruna(CZK)

a)Lịch sử hình thành:

- Trong tiếng Séc, từ koruna có nghĩa là "vương miện". Đồng tiền này chính

thức được sử dụng từ ngày 18 tháng 2 năm 1993 sau khi Cộng hòa Séc và Slovakia

tách khỏi Tiệp Khắc. Ký hiệu trong giao dịch quốc tế của đồng koruna Séc theo ISO

4217 là CZK.

Đồng tiền koruna của Cộng hòa Séc bắt đầu tham gia các tỉ giá hối đoái từ

năm 1995 và được thả nổi kể từ năm 1999. Trong năm 2007, chỉ số lạm phát của

đồng tiền này là 2,4% và đã được duy trì ổn định trong suốt nhiều năm qua. Cộng

hòa Séc có kế hoạch gia nhập khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (euro) vào

năm 2012 nhưng sau đó đã tuyên bố hoãn lại. Đầu năm 2008, Ngân hàng Quốc gia

Séc tuyên bố sẽ lùi thời hạn gia nhập khu vực đồng tiền chung đến năm 2019

b) Đ :

*Tiền giấy:

- Mệnh giá: 50 Kč

Page 63: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 65 -

+ Kích thước: 134 × 64 mm

+ Màu sắc chính; đỏ

+ Mặt phải: Saint Agnes của Bohemia và Thánh Tâm

+ Mặt trái: Thánh Salvator trần của Giáo Hội (một phần của Tu viện của St Agnes của Bohemia ở Prague) và trang trí chữ A

- Mệnh giá: 100 Kč

+ Kích thước: 140 × 69 mm

+ Màu sắc chính: Màu xanh lá cây, hồng

+ Mặt phải: Charles IV + Mặt trái: Con dấu của Đại học Charles

+ Mệnh giá: 200 Kč

+ Kích thước: 146 × 69 mm

+ Màu sắc chính:cam

+ Mặt phải: John Amos Comenius + Mặt trái: Orbis pictus , bàn tay của người lớn đi qua để con của một bàn

tay

Page 64: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 66 -

- Mệnh giá:500 koruna

+ Kích thước: 152 × 69 mm

+ Màu sắc chính: Màu nâu, màu hồng + Mặt phải: Božena Nemcova và hoa hồng

+ Mặt trái: Laureate người phụ nữ tượng trưng cho tất cả các nhân vật phụ

nữ trong cuốn sách của Nemcova

-Mệnh giá: 1000 Kč

+ Kích thước: 158 × 74 mm

+ Màu sắc chính: Violet

+Mặt phải: František Palacký , bật gốc cây

+ Mặt trái: Đại bàng giang rộng đôi cánh của nó trong lâu đài của Tổng giám

mục ở Kroměříž , nơi một preparig quốc hội hiến pháp của đế quốc Áo đã được tổ

chức năm 1848

-Mệnh giá: 2000 Kč

+ Kích thước: 164 × 74 mm

+ Màu sắc chính: Xanh

+ Mặt phải: Emmy Destinn

+ Mặt trái: Euterpe và motif âm nhạc như violin

Page 65: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 67 -

-Mệnh giá: 5000 Kč

+ Kích thước: 170 × 74 mm

+ Màu sắc chính: Màu xanh, tím

+ Mặt phải: Tomáš Masaryk Garrigue

+ Mặt trái: Gothic và Baroque tòa nhà ở Prague , ở trung tâm thống trị Thánh Vitus Cathedral)

*Tiền Kim Loại: 5 0 h, 1, 2, 5, 10, 20, 50 Kč.

b) Nhận định: Đồng tiền koruna của Cộng hòa Séc bắt đầu tham gia các tỉ

giá hối đoái từ năm 1995 và được thả nổi kể từ năm 1999. Trong năm 2007, chỉ số

lạm phát của đồng tiền này là 2,4% và đã được duy trì ổn định trong suốt nhiều năm

qua. Cộng hòa Séc có kế hoạch gia nhập khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu

Page 66: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 68 -

(euro) vào năm 2012 nhưng sau đó đã tuyên bố hoãn lại. Đầu năm 2008, Ngân hàng

Quốc gia Séc tuyên bố sẽ lùi thời hạn gia nhập khu vực đồng tiền chung đến năm

2019.

2.6 : KRONE (KR) a)Lịch sử hình thành:

- Cho tới cuối thế kỷ 18, đồng krone được định giá trị bằng 8 đồng rigsdaler

Đan Mạch Đồng krone mới được đưa ra lưu hành vào năm 1873, thay cho đồng

rigsdaler Đan Mạch với tỷ giá 2 kroner = 1 rigsdaler. Đồng krone Đan Mạch được

lưu hành là kết quả của Liên minh tiền tệ Scandinavia, gồm các nước Đan Mạch,

Thụy Điển và 2 năm sau thêm Na Uy gia nhập. Tổ chức này tồn tại tới Thế chiến

thứ nhất. Đồng krone Đan Mạch dựa trên bản vị vàng với tỷ lệ 2.480 kroner = 1

kilogram vàng nguyên chất.

- Sau khi Liên minh tiền tệ Scandinavia giải thể vào năm 1914 thì Đan Mạch,

Thụy Điển và Na Uy đều quyết định thay đổi tên tiền riêng của mình.

- Đan Mạch quay trở lại bản vị vàng năm 1924, nhưng tới năm 1931 thì từ bỏ

vĩnh viễn. Từ năm1940 tới 1945, đồng krone Đan Mạch gắn chặt với đồng

Reichsmark Đức.

- Sau khi chấm dứt cuộc chiếm đóng của Đức quốc xã năm 1945, thì tỷ giá hối đoái được ấn định là 24 kroner = 1 bảng Anh, tới tháng 8 cùng năm thì tỷ giá

giảm xuống còn 19,34 (4,8 kroner = 1 dollar Mỹ). Trong hệ thống Bretton Woods,

Đan Mạch phá giá tiền của mình so với đồng bảng Anh và dollar Mỹ vào năm 1949

với tỷ giá 6,91 kroner = 1 dollar Mỹ. Tới năm 1967 lại phá giá lần nữa dẫn tới tỷ giá

là 7,5 kroner = 1 dollar Mỹ và 18 kroner = 1 bảng Anh.

Tiền giấy:

Loạt tiền năm 2001:

+ Mệnh giá:50 kroner

- Kích thước: 125 × 72 mm

- Màu sắc: Tím

- Mặt trước: Karen Blixen

Mặt sau: Quái vật đầu người mình ngựa từ Nhà thờ Landet

Page 67: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 69 -

+ Mệnh giá: 100 kroner

- Kích thước: 135 × 72 mm

- Màu sắc: vàng cam

- Mặt trước: Carl Nielsen

- Mặt sau: Rắn thần từ Nhà thờ Tømmerby

+ Mệnh giá: 200 kroner

- Kích thước: 145 × 72 mm

- Màu sắc: xanh lá cây

- Mặt trước: Hình Johanne Luise Heiberg

- Mặt sau: sư tử từ nhà thờ chính tòa Viborg

+ Mệnh giá: 500 kroner

- Kích thước: 155 × 72 mm

- Màu sắc: xanh dương

- Mặt trước: Niels Bohr

- Mặt sau: Hiệp sĩ đấu với con rồng từ Nhà thờ Lihme

Page 68: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 70 -

+Mệnh giá: 1000 kroner

- Kích thước: 165 × 72 mm

- Màu sắc: đỏ

- Mặt trước: Hình họa sĩ Anna Ancher, Hình họa sĩ Michael Ancher

- Mặt sau: Cuộc đấu giữa 2 hiệp sĩ từ nhà thờ Bislev

*Loạt tiền giấy in hình các cầu:

+ Mệnh giá: 50 kroner

- Mặt trước: Cầu Sallingsund

- Mặt sau: Chậu Skarpsalling

+ Mệnh giá: 100 kroner

- Mặt trước: Cầu Lillebælt cũ

Page 69: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 71 -

- Mặt sau: Dao găm Hindsgavl

+ Mệnh giá: 200 kroner

- Mặt trước: Cầu Knippelsbro - Mặt sau: Tấm đai bằng đồng từ Langstrup

+ Mệnh giá: 500 kroner

- Mặt trước: Cầu hoàng hậu Alexandrine

- Mặt sau: Chậu bằng đồng thiếc từ Keldby

+ Mệnh giá: 1000 kroner

- Mặt trước: Cầu Storebælt

- Mặt sau: Xe ngựa chở thần Mặt trời

+ Nước sử dụng: Đan Mạch bao gồm cả các lãnh thổ tự trị Greenland và

Quần đảo Faroe. *Tiền đồng:

-Mệnh giá: 50 øre

+Mặt phải: vương miện của

vua

+Mặt trái: Trái tim (biểu

tượng của xưởng

+Đường kính: 21,5 mm

+Độ dày:1,55 mm

+Khối lượng:4,3g

+Chất liêụ:Thiếc-đồng

-Mệnh giá: 1 krone

+Mặt phải: Chữ viết tắt

lồng nhau

của Nữ hoàng Margrethe II

+Mặt trái: Thiết kế truyền

thống (có lỗ ở giữa)

+Đường kính:20,25 mm

+Độ dày:1,6 mm

+Khối lượng:3,6g

+Chất liệu: kền-đồng

-Mệnh giá: 2 kroner

+Mặt phải: Chữ viết tắt lồng nhau

của Nữ hoàng Margrethe II

Page 70: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 72 -

+Mặt trái: Thiết kế truyền thống (có lỗ ở giữa)

+Đường kính: 24,5 mm

+Độ dày: 1,8 mm

+Khối lượng: 5,9 g

+Chất liệu: kền-đồng

-Mệnh giá: 5

+Mặt phải: Chữ viết tắt lồng nhau

của Nữ hoàng Margrethe II

+Mặt trái: Thiết kế truyền thống

(có lỗ ở giữa)

+Đường kính: 28,5 mm

+Độ dày: 2 mm

+Khối lượng: 9,2 g

+Chất liệu: kền-đồng

-Mệnh giá: 10 kroner

+Mặt phải: Nữ hoàng Margrethe II

+Mặt trái: Quốc huy

+Đường kính: 23,35 mm

+Độ dày: 2,3 mm

+Khối lượng: 7 g

+Chất liệu: Nhôm đồng thiếc

-Mệnh giá: 20 kroner

+Mặt phải: Nữ hoàng Margrethe II

+Mặt trái: Quốc huy

+Đường kính: 27 mm

+Độ dày: 2,35mm

+Khối lượng: 9,3 g

+Chất liệu: Nhôm đồng thiếc

2.7 :KRONA (KR)

a)Lịch sử hình thành:

Việc phát hành đồng krona, thay thế ngang giá cho đồng riksdaler Thụy

Điển, là kết quả của việc thành lập Liên minh Tiền tệ Scandinavia, có hiệu lực từ

năm 1873 và kéo dài tới Thế chiến thứ nhất. Liên minh này gồm 2 nước Đan Mạch,

Thụy Điển, sau đó thêm Na Uy. Tên tiền là krona bằng tiếng Thụy Điển và krone

trong tiếng Đan Mạch và Na Uy (dịch nghĩa đen sang tiếng Anh là crown). Cả 3

Page 71: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 73 -

tiền này đều lấy bản vị vàng (kim bản vị) với tiêu chuẩn 2.480 kronor (kroner) = 1

kg vàng nguyên chất.

Sau khi Liên minh Tiền tệ Scandinavia giải thể, thì cả 3 nước đều quyết định

giữ tên tiền riêng của mình như cũ b) *Tiền giấy:

- Mệnh giá:1000KRONA

+Mặt phải: Gustav Vasa

+ Mặt trái :Hình người Bắc Âu của Olaus Magnus từ năm 1555 + Kích thước : 160 × 82 mm

+ Màu sắc: Vàng-xám

+ Chất liệu:giấy

-Mệnh giá:500 Krona

+Mặt phải: Charles XI

+Mặt trái:Christopher Polhem

+ Kích thước : 150 × 82 mm + Màu sắc: Đỏ-xám

+ Chất liệu: giấy

Page 72: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 74 -

-Mệnh giá: 100 Krona

+Mặt phải: Carl von Linné +Mặt trái: Ong thụ phấn một bông hoa

+ Kích thước : 140 × 72 mm

+ Màu sắc: Xanh dịu

+ Chất liệu: giấy

-Mệnh giá: 50 Krona +Mặt phải: Jenny Lind

+Mặt trái: Đàn Nyckelharpa và dãy âm

+ Kích thước : 120 × 77 mm

+ Chất liệu: giấy

+ Màu sắc: Vàng

-Mệnh giá: 20 Krona

+Mặt phải: Selma Lagerlöf +Mặt trái: Nils Holgersson bay trên vùng Scania

+ Màu sắc: Tím hơi xanh

+ Chất liệu: giấy

+ Kích thước : 120 × 67 mm - Nước sử dụng: Thụy Điển, Đồng krona Thụy Điển cũng được lưu hành ở

Quần đảo Åland song song với tiền chính thức của Phần Lan là đồng euro. *Tiền đồng:

+ Hình ảnh:

Page 73: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 75 -

+ Mệnh giá: 50 öre

+ Đường kính: 18.75 mm

+ Độ dày: 1.80 mm

+ Trọng lượng: 3.7 g + Chất liệu: 97% đồng; 2.5%

kẽm ;0.5% thiếc

+ Mệnh giá: 1 krona

+ Đường kính: 25 mm

+ Độ dày: 1.88 mm

+ Trọng lượng: 7 g

+ Chất liệu: Đồng kền; 75%

đồng; 25% kền

+ Mệnh giá: 5 krona

+ Độ dày:2 mm

+ Trọng lượng:9.5 g

+ Đường kính: 28.5 mm

+ Chất liệu: Outer layer (46.5%):

Đồng kền (như đồng 1 kr) lớp bên trong

(53.5%): 100% Kền

+ Mệnh giá: 5 Krona

+ Đường kính: 28.5 mm

+ Độ dày: 2 mm

+ Trọng lượng: 9.5 g

+ Chất liệu: Outer layer (46.5%):

Đồng kền (như đồng 1 kr) lớp bên trong (53.5%): 100% Kền

Về các mệnh giá khác phát hành từ trước kia, tất cả các đồng 2 Krona đúc

từ năm 1876 trở đi vẫn lưu hành hợp pháp theo luật, mặc dù hiện nay rất hiếm thấy

các tiền này. Cần nói thêm, mọi tiền kim loại được đúc năm 1897 và sau này nhân

các dịp quốc khánh hoặc kỷ niệm cũng đều lưu hành hợp pháp.

Page 74: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 76 -

Theo truyền thống, các tiền kim loại có giá trị ít hơn 1 krona không in hình

nổi quốc vương Thụy Điển, trong khi các tiền đúc có giá trị từ 1 krona trở lên

(ngoại trừ đồng 5 Krona) đều mang hình nổi này. Các khẩu hiệu của hoàng gia

Thụy Điển cũng được đưa vào nhiều tiền kim loại. c)Nhận định:

Theo đánh giá gần đây của các chuyên gia đồng krona Thụy Điển tăng 0,6%

lên mức 7,9057 krona/USD ,nhà đầu tư sẽ chú ý nhiều hơn đến các loại tài sản có

lợi tức cao hơn.

2.8 Hungary: FORINT (FT)

a)Lịch sử hình thành:

-Forint trở thành tên gọi của đơn vị tiền tệ của Hungary từ năm 1867. Từ

năm 1892 đến năm 1946, đơn vị tiền tệ của Hungary không mang tên Forint mà lần

lượt mang các tên Korona, Pengő, Adópengő. Từ năm 1946, Forint lại trở thành tên

gọi chính thức của đơn vị tiền tệ của Hungary.

Hiện Hungary đang có mục tiêu gia nhập Khu vực đồng Euro. Khi trở thành

thành viên chính thức của khối này, Euro sẽ thay thế Forint làm đơn vị tiền tệ của

Hungary.

: *Tiền giấy:

+ Hình ảnh:

Mặt trước tờ tiền giấy mệnh giá 20.000 Forint (mệnh giá lớn nhất) phát hành

năm 1999. Nhân vật được vẽ trong tờ tiền này là Ferenc Deák.

+ Chất liệu:giấy

+ Mệnh giá:bao gồm 200, 500, 1000, 2000, 5000, 10 000, 20 000 forint do

Ngân hàng Quốc gia Hungary phát hành. Loạt tiền giấy hiện đang lưu thông bắt đầu

được phát hành từ năm 1997. + Nước sử dụng: Hungary

Page 75: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 77 -

Page 76: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 78 -

*Tiền đồng:

+ Hình ảnh:

Tiền kim loại mệnh giá 100 Forint phát

hành năm 1998.

+ Mệnh giá: 5, 10, 20, 50, 100, 200

forint do Công ty Đúc tiền Hungary phát hành. Loạt tiền kim loại hiện đang lưu thông được bắt đầu phát hành từ năm 1990 thay thế cho các tiền kim loại phát hành

dưới thời xã hội chủ nghĩa.

Page 77: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 79 -

c) Nhận định: Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế:

Hiên tại đồng forint của Hungary đã rơi mạnh so với đồng euro sau khi Quỹ

Tiền tệ Quốc tế tuyên bố nước này cần phải hành động nhiều hơn nữa để cắt giảm

thâm hụt ngân sách.

Đồng tiền Hungary giảm giá 9 forint, hơn 3%, so với đồng euro, đạt 291,38

forint đổi một euro

2.9 Đức:Mark(RM)

a) Lịch Sử hình thành

- Các Mark Deutsche là chính thức tiền tệ của Tây Đức (1948-1990) và Đức

(1990-2002) cho đến khi việc nhận con nuôi của đồng euro trong năm 2002. Nó thường được gọi là "Deutschmark" bằng tiếng Anh nhưng không phải bằng tiếng

Đức. Nó lần đầu tiên được phát hành theo Đồng Minh chiếm đóng vào năm 1948 thay

thế Reichsmark , và phục vụ như là Cộng hòa Liên bang Đức là tiền tệ chính thức từ

ngày thành lập năm sau cho đến năm 1999, khi Mark đã được thay thế bằng đồng euro

; của tiền xu và tiền giấy vẫn còn trong lưu thông , được xác định trong điều khoản của

euro, cho đến việc giới thiệu các ghi chú euro và tiền xu vào đầu năm 2002. Tiền xu và

tiền giấy DM tiếp tục được chấp nhận như là hình thức thanh toán hợp lệ tại Đức cho

đến ngày 28 tháng hai năm 2002.

- Các Deutsche Bundesbank đã đảm bảo rằng tất cả các nhãn hiệu của Đức ở

dạng tiền mặt có thể được thay đổi thành euro vô thời hạn, và người ta có thể làm điều

đó tại bất kỳ chi nhánh của ngân hàng Bundesbank của Đức. Tiền giấy thậm chí có thể

được gửi đến ngân hàng bằng thư.

Ngày 31 Tháng Mười Hai 1998, các Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cố định tỷ

giá không thay đổi, có hiệu quả Ngày 01 tháng 1 năm 1999, cho nhãn hiệu của Đức euro là 1,95583 DM = 1 €. Một Deutsche Mark được chia thành 100 t

.

*Trước năm 1871

- thống nhất ban

đầu vào năm 1871. Trước khi thời gian đó, các khác nhau bang Đức đã ban hành một

loạt các tiền tệ khác nhau, mặc dù phần lớn đã được liên kết với các Vereinsthaler ,

một đồng xu bạc có chứa 16 03/02 gram bạc nguyên chất. Mặc dù Mark dựa trên vàng

hơn là bạc, một tỷ giá hối đoái cố định giữa các Vereinsthaler và Mark of 3 Mark = 1

Vereinsthaler được sử dụng để chuyển đổi.

* 1873-1948

Đánh dấu lần đầu tiên, được gọi là Goldmark , được giới thiệu vào năm 1873. Với sự

bùng nổ của Thế chiến I , các Mark đã được đưa ra tiêu chuẩn vàng. Đồng tiền đó

được gọi là Papiermark , đặc biệt là cao lạm phát , sau đó siêu lạm phát xảy ra và đồng

tiền đã trở thành độc quyền tạo ra tiền giấy. Các Papiermark được thay thế bởi các

Rentenmark vào cuối năm 1923 và các Reichsmark (RM) vào năm 1924. *Cải cách tiền tệ của tháng 6 năm 1948

Page 78: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 80 -

Các Deutsche Mark được giới thiệu vào Chủ Nhật 20 Tháng Sáu 1948 bởi Ludwig

Erhard .

Sự ra đời của các loại tiền tệ mới được dự định để bảo vệ miền tây nước Đức từ một

làn sóng thứ hai của siêu lạm phát và ngăn chặn sự trao đổi hàng hóa tràn lan và thị trường chợ đen thương mại (trong đó thuốc lá Mỹ đã hành động như là tiền tệ).

*Cải cách tiền tệ trong vùng chiếm đóng của Liên Xô

Trong khu vực chiếm đóng của Liên Xô của Đức (sau này là Cộng hòa Dân chủ Đức ),

các Đông Đức Mark (còn có tên là "Deutsche Mark" 1948-1964 và colloquially gọi là

Ostmark) đã được giới thiệu một vài ngày sau đó trong các hình thức và Reichsmark

Rentenmark ghi chú với tem dính để ngăn chặn lũ lụt tại các Reichsmark và

Rentenmark ghi chú từ phương Tây. Vào tháng 7 năm 1948, một loạt hoàn toàn mới

của Đông Đức đã được phát hành giấy bạc Mark. *Lander Deutscher Ngân hàng và Deutsche Bundesbank

Sau đó trong năm 1948, Ngân hàng Deutscher Lander nhận trách nhiệm, sau năm

1957 của Deutsche Bundesbank . Các DM thu được một danh tiếng như là một mạnh

mẽ lưu trữ giá trị vào những thời điểm khi quốc gia đồng tiền khác lại nghe theo các

thời kỳ lạm phát . Nó đã trở thành niềm tự hào quốc gia và một neo cho sự thịnh

vượng kinh tế của đất nước, đặc biệt là trong những năm của Wirtschaftswunder trong những năm 1950. Trong những năm 1990, các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy đa số

người Đức phản đối việc nhận con nuôi của đồng euro, các cuộc thăm dò ngày hôm

nay cho thấy một số lượng đáng kể thích để trở về Mark.

*Liên minh tiền tệ với các Saarland

Dân số trong các bảo hộ Saar quyết định trưng cầu dân ý gia nhập Cộng hoà Liên

bang. Vì vậy sự kết hợp của Saar vào Cộng hòa Liên bang Đức

Saarland duy trì đồng tiền của mình, các Franc Saar ,

được ở một liên minh tiền tệ ở ngang tầm với các Franc Pháp Ngày 09 tháng 7 năm

1959 của Mark Deutsche thay thế các Franc Saar với tỷ lệ 100 Francs = 0,8507 DM.

Đức đánh dấu vai trò này trong thống nhất nước Đức

Các Mark Deutsche đóng một vai trò quan trọng trong việc thống nhất nước Đức. Nó

đã được giới thiệu như là tiền tệ chính thức của Đông Đức vào tháng 7 năm 1990, thay

thế Mark Đông Đức (Mark der DDR).

Những đồng tiền đầu tiên đã được phát hành bởi Ngân hàng Lander Deutscher vào năm 1948 và 1949. Từ năm 1950, các dòng chữ Bundesrepublik Deutschland (Cộng

hòa Liên bang Đức) xuất hiện trên các đồng tiền.

Page 79: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 81 -

Mệnh

giá

Ngày

ban

hành

Thành phần Mặt chính Ngược lại

nhất

1948-

2001

1948-1949:

Bronzeplated

thép

1950–2001:

Copperplated

thép

Mệnh giá

giữa thân

cây lúa

mạch đen

Oak thanh

niên

nhất

1950-

2001

1950-1968:

Đồng,

1968-2001:

Bronzeplated

thép

Mệnh giá

giữa thân

cây lúa

mạch đen

Oak thanh

niên

nhất

1949-

2001

Brassplated thép Mệnh giá

giữa thân

cây lúa

mạch đen

Oak thanh

niên

nhất

1949-

2001

Brassplated thép Mệnh giá

giữa thân

cây lúa

mạch đen

Oak thanh

niên

50

nhất

1949-

2001

Đồng kền Mệnh giá Người phụ

nữ trồng

một cây sồi

cây

1 DM 1950-

2001

Đồng kền Mệnh giá

giữa lá sồi

Đức đại

bàng

2 DM Năm

1951,

1957-

2001

Đồng kền Mệnh giá

giữa thân

cây lúa

mạch đen và

nho

Đức đại

bàng

5 DM 1951-

2001

-

1975-2001:

đồng kền

Mệnh giá Đức đại

bàng

Page 80: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 82 -

10

DM

1987-

2001

- Khác nhau Đức đại

bàng ,

thiết kế

khác nhau

Cả hai đồng xu vẫn còn trong lưu thông vào năm 2001 và các siêu thị nói riêng vẫn

được đánh dấu giá để t này. Có một số lượng đáng kể bạc kỷ niệm 5

và 10 xu DM , mà thực sự đã có tình trạng hợp pháp , nhưng hiếm khi nhìn thấy bên

ngoài "vòng tròn người thu gom.

Ngày 27 tháng 12, 2000, chính phủ Đức đã ban hành một đạo luật cho phép các ngân

hàng Bundesbank ra, trong năm 2001, một vàng 0,999 đặc biệt tinh khiết 1 DM tiền xu

kỷ niệm cuối của nhãn hiệu Đức. Có tổng cộng một triệu đồng tiền vàng của Đức đã

được đánh dấu đúc (200,000 tại mỗi trong số năm bạc hà) và đã được bán bắt đầu vào

giữa-2001 thông qua các đại lý tiền xu Đức thay mặt cho Bundesbank.

*Tiền giấy

Có bốn loạt tiền giấy đánh dấu tiếng Đức:

- Đầu tiên được ban hành năm 1948 của quân đội Đồng Minh. Có mệnh giá ½, 1, 2,

5, 10, 20, 50 và 100 DM.

- Dòng thứ hai đã được giới thiệu vào năm 1948 do Ngân hàng Lander Deutscher,

một tổ chức của chính quyền chiếm đóng phương Tây. Các mẫu thiết kế đã được

tương tự như đô la Mỹ và đồng franc Pháp , như các công việc thiết kế và in ấn các

giáo phái khác nhau đã được chia sẻ giữa các Ngân hàng của Pháp

t, 5, 10, 20, 50 và 100 DM. Dòng thứ ba được giới thiệu vào năm 1960 bởi các Bundesbank , mô tả các biểu tượng

trung lập, các bức tranh của họa sĩ người Đức Albrecht Dürer , và các tòa nhà. Có 5,

10, 20, 50, 100, 500 và 1000 DM.

-Thứ tư đã được giới thiệu vào năm 1990 bởi các Bundesbank để truy cập

những tiến bộ trong sự giả mạo công nghệ. Các ghi chú mô tả các nghệ sĩ Đức và các

nhà khoa học cùng với các biểu tượng và công cụ thương mại của họ. Điều này thêm

một loạt tên gọi 200 DM, để giảm việc sử dụng tiền giấy của 100 DM, làm tăng 54%

của tất cả tiền giấy lưu hành, và để lấp đầy khoảng cách giữa 100 DM và 500 tên gọi

DM. Tuy nhiên trong 200 DM mệnh giá là khá hiếm.

Trong loạt hai sau, các mệnh giá 5 DM hiếm khi được nhìn thấy, như là những người

có giá trị lớn hơn 100 DM.

*Tiền giấy của loạt thứ tư (1990-2002)

Thiết kế của tiền giấy Đức vẫn không thay đổi

trong thập niên 1960, 1970 và 1980. Trong thời gian này, giả mạo công nghệ thực hiện tiến bộ

đáng kể như vậy, trong những năm 1980, các

Bundesbank đã quyết định phát hành một loạt

Page 81: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 83 -

tiền giấy mới của Deutsche Mark. Các màu sắc cho mỗi mệnh giá vẫn không thay đổi

từ loạt trước đây nhưng thiết kế đã trải qua những thay đổi đáng kể và một tên gọi 200

DM đã được giới thiệu. Các nghệ sĩ nổi tiếng quốc gia và các nhà khoa học đã được

chọn để được miêu tả trên tờ giấy bạc mới. Các tính năng bảo mật mới được: một sợi an ninh cửa sổ (với mệnh giá ghi chú "trong microprinting), đóng dấu, vi in ấn, in

chìm (xem góc phụ thuộc vào khả năng hiển thị cũng như một chữ nổi đại diện của các

giáo phái ghi chú), màu thay đổi mực (trên mệnh giá 500 và 1000 DM), một thấy,

thông qua đăng ký và tính năng bảo mật cực tím, nhìn thấy được.

Đầu tiên được ban hành là 100 và 200 giáo phái DM vào ngày 01 tháng mười 1990

(mặc dù tờ tiền giấy cho thấy " Frankfurt am Main , 2 năm 1989. Januar "). Các mệnh

giá tiếp theo là 10 DM vào ngày 16 tháng 4 năm 1991, sau 50 DM vào mùa thu năm

đó. Tiếp theo là 20 DM lưu ý về 20 tháng 3 năm 1992 (in trên Ngày 2 tháng 8 năm

1991). Lý do được giới thiệu dần dần, mà công chúng sẽ trở nên quen thuộc với tên

gọi duy nhất, trước khi giới thiệu một hình mới. Sự thay đổi này được hoàn thành với

sự giới thiệu của 5, 500, và 1000 giáo phái DM ngày 27 tháng 10 1992. Mặt chính in

mờ trên của Mặt chính quyền lưu ý, cho thấy tên gọi của nó (như trên các đảo ngược

của € mới 5, € 10, và 20 € tiền giấy ), và các chòm sao EURion trên của lưu ý ngược

lại. Hơn nữa, màu sắc đã được thay đổi một chút để phấn màu để cản trở giả.

Hình ảnh Giá trị Kích thước Màu chính

Ngược lại

5 DM 122 × 62

mm

Màu vàng-xanh

10 DM 130 × 65

mm

Blue-tím

20 DM 138 × 68

mm

Xanh-màu xanh lá

cây

50 DM 146 × 71

mm

Màu vàng-nâu

100 DM 154 × 74

mm

Màu xanh

200 DM 162 × 77

mm

Da cam

Page 82: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 84 -

500 DM 170 × 80

mm

Màu tím đỏ

1000

DM

178 × 83

mm

Dark-nâu

c) :

-Tờ báo trên dẫn kết quả khảo sát mới nhất của Viện nghiên cứu thị trường

Ipsos cho hay, khoảng 51% số người trả lời ghét cay ghét đắng đồng tiền chung châu

Âu và muốn quay lại sử dụng đồng D-mark.

Đồng Euro ở Đức hiện còn có biệt danh là “Teuro”, một kiểu chơi chữ với từ “Teuer”

nghĩa là đắt đỏ.

- -.

Nếu so sánh tương quan với đồng D-mark ở năm 1998, đồng Euro hiện mạnh hơn.

Nhưng việc mất giá mạnh gần đây của đồng Euro đã làm dấy lên những lo lắng ở nền

kinh tế lớn nhất châu Âu này.

-Tuy nhiên, ý kiến cho rằng muốn quay lại dùng đồng D-mark cũng dao động

tùy từng độ tuổi. 56% số người từ 54-60 tuổi nói rằng muốn dùng lại đồng tiền này,

trong khi chỉ có 42% số người trong độ tuổi từ 16-29 có cùng quan điểm.

Về hai miền của nước Đức đối với ý kiến này cũng có sự chênh lệch, dù không đáng

kể, 52% người ở Đông Đức và 48% ở Tây Đức cho biết họ thích đồng D-mark hơn

euro.

34% số sinh viên tốt nghiệp từ các trường trung học dự bị đại học cho rằng, họ sẽ dùng

đồng D-mark.

.

3.1. Brazil: Reais ( R)

:

*Thời kỳ 1690-1994

- Tiền tệ chính thức đầu tiên của Brazil (1690-1942) là real. Tiền – được

vay mượn từ một loại tiền của Bồ Đào Nha trước đây được sử dụng ở Brazil

(“Real” xuất phát từ tiếng Bồ Đào Nha, ở dạng số nhiều: Reis, ký hiệu: R$). Đồng Real được tạo ra vào năm 1970 và được sử dụng cho đến năm 1942, khi nó được

thay thế bởi đồng Cruzeiro.

Page 83: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 85 -

Đồng Real đã được phục hồi lại vào năm 1994 cho một đơn vị t iền tệ mới mà

vẫn còn được sử dụng cho đến nay. Một Real hiện đại tương đương với 2,75 × 10 18

của Reis cũ.

- Các Real Bồ Đào Nha là đồng tiền được sử dụng bởi người Bồ Đào Nha đầu tiên định cư ở châu Mỹ, nhưng đồng tiền chính thức lưu hành đầu tiên dưới

dạng Real lại được in bơi người Hà Lan, trong một phần thuộc địa của họ ở vùng

Đông Bắc Brazil.

Real đã trở thành tiền tệ chính thức của Brazil vào năm 1790. Nó không

được chia thành các đơn vị nhỏ hơn. Real bị ảnh hưởng bởi lạm phát trong suốt thời

gian nó tồn tại, và các đơn vị tiền thực tế đã chuyển từ Real thành Mil Reis ("một

ngàn Reis") và sau đó đến conto de Reis (một triệu Reis) trong những năm cuối

cùng của chế độ cộng hòa Velha.

Các khoản dưới 1.000 Reis được ký hiệu bằng "R", như trong "350 Rs". Từ

1.000 Reis và lớn hơn, các "R" vẫn là tiền tố, nhưng cifrão ( - dấu đô la gấp đôi)

được chèn sau chữ số hàng nghìn, như trong "Rs 1$712" cho 1.712 Reis. Đối với

khoản tiền một triệu đồng Reais và lớn hơn, một dấu hai chấm ":" được đưa vào

ngay sau chữ số hàng triệu, như trong "Rs 1:020$800" cho 1.020.800 Reis.

Trong thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, đồng tiền vàng được dựa trên 22 carat vàng miếng mà nặng ½ ounce (14,34 gram ). Các tiêu chuẩn cho các loại tiền tệ

bằng bạc khác nhau trong thời gian này, với các đồng tiền 640 Real cố định ở 17,92

gram của bạc 0,917 năm 1806. Năm 1834, peça được đánh giá lại theo 10$000 Reis

và đồng xu bạc 1$200 real đã được thiết lập tại 26,89 gram bạc 0,917. Trong năm

1846, một tiêu chuẩn vàng được thiết lập với Mil Reis cố định tại 822,076 mg vàng,

gia 37,5% so với các tiêu chuẩn trước đó. Sau khi thành lập nước Cộng hòa năm 1889, giá trị của tiền tệ giảm xuống,

chốt lại ở 180 mg vàng một ngàn Reis thiết lập vào năm 1926. Điều này đã bị bãi bỏ

vào năm 1933 khi Mil Reis đã được cố định với đồng đô la Mỹ ở tỷ lệ 12$000 Reis

= 1 đô la. Năm 1942, các real được thay thế bởi các Cruzeiro , với tỷ lệ 1$000

Reis= 1 Cruzeiro. *Tiền xu

Trong những năm 1750, tiền xu được lưu thông với các mệnh giá 5, 10, 20

và 40 Reis (bằng đồng), 75, 150, 300 và 600 Reis (bằng bạc), và 1000, 2000, 4000

và 6400 Reis (bằng vàng). Chế độ tiền xu bằng bạc đã được cải cách năm 1778, với

sự bổ sung 80, 160, 320 và 640 reis. Giữa năm 1780 và 1782, các mệnh giá 800,

1600 và 3200 Real (bằng vàng) đã được bổ sung. Năm 1809, tiền đồng cũ và đồng xu bạc được đánh dấu với quốc huy Bồ Đào Nha, gấp đôi giá trị của các đơn vị 5,

10, 20 và 40 real và tăng giá trị của 75, 150, 300 và 600 real lên đến 80, 160, 320 và

640 Reis. Từ năm 1810, đồng 8 real Tây Ban Nha ("đô la Tây Ban Nha") đã được

đúc chồng lên để sản xuất đồng tiền 960 real. Đồng 80 Reis đã được giới thiệu năm

1811.

Page 84: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 86 -

Giữa 1823 và 1833, chế độ tiền kim loại đồng của Brazil gồm nhiều loại

khác nhau trên khắp đất nước, với mệnh giá 10, 20, 37 ½, 40, 75 và 80 Reis được

sản xuất. Tiền bằng bạc vẫn tiếp tục với các mệnh giá 80, 160, 320, 640 và 960

Reis, cùng với 4000 và 6400 Reis (bằng vàng). Giữa 1833 và 1835, chế độ tiền xu đã được cải cách. Các đồng tiền kim loại

đã được chuẩn hóa trên toàn quốc, với sự giới thiệu của đồng tiền 10, 20 và 40 Reis.

Tiền bạc đã được giới thiệu với các mệnh giá 100, 200, 400, 800 và 1200 Reis, cùng

với 10.000 Reis bằng vàng.

Một cuộc cải cách khác giữa 1848 và 1854 giảm hàm lượng bạc và vàng

trong đúc tiền, với đồng bạc mới cho 200, 500, 1000 và 2000 Reis, và 5000, 10.000

và 20.000 Reis (bằng vàng). Đồng 10 và 20 Reis đã được giới thiệu vào năm 1868,

tiếp theo là đồng kền 100 và 200 Reis vào năm 1871, đồng 40 Reis năm 1873 và

đồng kền 50 Reis năm 1886 trong khi 10 Reis đã được ngưng đúc vào năm 1870.

Trong năm 1901, đồng kền 400 Reis đã được giới thiệu, tiếp theo là đồng

kền 20 Reis năm 1918. Nhôm-đồng 500 và 1000 Reis đã được giới thiệu vào năm

1922, đồng kền 200 Reis, nhôm đồng 2000 Reis và bạc 5000 Reis năm 1936. *Tiền giấy

Tiền giấy đầu tiên của Brazil đã được ban hành giữa năm 1770 và 1793. Họ lưu thông theo giá trị và đã được chuyển đổi thành tiền xu. Tiền giấy đã được ban

hành bởi các tỉnh khác nhau giữa các năm 1808 và 1857, với các mệnh giá 37 ½,

75, 150, 300, 450, 500, 600, 10.000, 25.000, 50.000 và 100.000 Reis.

Các Ngân hàng Brazil đầu tiên được thành lập năm 1808 và bắt đầu phát

hành tiền giấy vào năm 1810, với các mệnh giá 30, 40, 50, 60, 70, 80, 90, 100, 20,

300 và 400 Mil Reis, với 4, 6, 8, 10, 12 và 20 Mil Reis được bổ sung vào năm 1813

và 1 và 2 Mil Reis vào năm 1828. Ngân hàng này đóng cửa vào năm 1829.

Năm 1833, chính phủ phát hành tiền giấy trao đổi đồng với các mệnh giá 1,

2, 5, 10, 20, 50 và 100 Reis triệu. Theo sau đó, vào năm 1835, tín phiếu Kho bạc

mệnh giá 1, 2, 5, 10, 20, 50, 100, 200 và 500 triệu Reis. Tiền giấy 500 Mil Reis đã

được bổ sung vào năm 1874, 1000 Mil Reis giới thiệu vào năm 1921. Tín phiếu

Kho bạc tiếp tục được sản xuất trong suốt thời gian còn lại của việc lưu thông đồng

real và các đồng tiền cuối cùng đã được in chồng để sản xuất tiền giấy Cruzeiro đầu

tiên.

Giữa năm 1850 và năm 1893, một số ngân hàng tư nhân phát hành tiền giấy mệnh giá từ 10 đến 500 Mil Reis. Bao gồm Banco do Brazil (1853-1890), Banco

do Maranhao (1857-1885) và Banco da República dos Estados Unidos do Brasil

(1890-1892).

Chính phủ phát hành tiền giấy từ năm 1892 và 1897. Mệnh giá bao gồm

100, 200 và 500 Reis và 1, 2, 5, 10, 50, 100, 200 và 500 Mil Reis, phát hành từ

Alagoas , Amazonas , Maranhao , Pernambuco , Rio Grande do Norte và Sergipe .

Giữa năm 1906 và 1910, Caixa de Conversão phát hành giấy bạc mệnh giá

10, 20, 50, 100, 200, 500 và 1000 Mil Reis (1 conto de Reis). Năm 1905, Banco do

Page 85: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 87 -

Brazil được thành lập, phát hành tiền giấy từ năm 1923 và 1942 với mệnh giá 1, 2,

5, 10, 20, 50, 100, 200, 500 và 1000 Mil Reis. Từ năm 1923, tên của ngân hàng này đã được thay đổi thành Banco làm Brasil. Năm 1926, Caixa de Estabilização phát

hành tiền giấy mệnh giá vàng với 10, 20, 50, 100, 200, 500 và 1000 Mil Reis. Chính quyền địa phương một lần nữa phát hành tiền giấy trong các năm

1924-1942. Mệnh giá bao gồm 2, 5, 10, 20, 50, 100, 200 và 500 Mil Reis, phát

hành từ Minas Gerais, Rio Grande do Sul và São Paulo. Những tờ tiền giấy reis

cuối cùng đã được thay thế bởi Cruzeiro tiền và thu hồi trong năm 1955. *Thời kỳ 1994 đến nay

- Việc real (Reais số nhiều) hiện đại đã được giới thiệu vào ngày 01 tháng

bảy 1994, trong nhiệm kỳ tổng thống của Itamar Franco, khi Fernando Henrique

Cardoso đã được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Tài chính Brazil. Việc phát hành này

như một phần của một kế hoạch rộng lớn để ổn định nền kinh tế Brazil, được gọi là

Real Plano. Các loại tiền tệ mới thay thế tạm thời real Cruzeiro (CR $).

Theo giới thiệu,real đã được định nghĩa là bằng 1 URV (unidade real de

valor: "giá trị real đơn") một đơn vị tiền tệ không lưu thông. Đồng thời URV được

định nghĩa là giá trị 2750 cruzeiros Reais, đó là tỷ giá bình quân của đồng đô la Mỹ

cho real Cruzeiro vào thời điểm đó. Kết quả là, việc real trị giá một đô la Mỹ chính xác như nó đã được giới thiệu. Cùng với tất cả các thay đổi tiền tệ trước đó trong

lịch sử của đất nước, đợt cải cách này làm cho đồng real mới bằng 2,75 x 10 18

đồng

tiền đầu tiên của Brazil.

Ngay sau khi ra mắt, real bất ngờ đạt được giá trị so với đồng đô la Mỹ, do

luồng vốn lớn vào cuối năm 1994 và 1995. Trong thời gian đó nó đạt được giá trị

đồng đô la tối đa của nó bao giờ hết, khoảng $1,20 US. Từ năm 1996 đến năm

1998, tỷ giá hối đoái được kiểm soát chặt chẽ bởi Ngân hàng Trung ương, vì thế

real mất giá từ từ so với đồng đô la,tỷ giá tăng từ gần 1 : 1 đến khoảng 1.2 : 1 vào

cuối năm 1998. Tháng 01 năm 1999, Ngân hàng Trung ương, theo chủ tịch mới -

Arminio Fraga , phát hành kiểm soát của nó. Real bị bất ngờ phá giá mạnh, với một

tỷ lệ gần như $2 R: $1 US. Trong tháng 10 năm 2002, tỷ giá đạt mức thấp lịch sử

của nó gần như R$4 một US$1. Giá trị của real so với đô la tiếp tục biến động

nhưng nhìn chung đều tăng, để đến năm 2005, tỷ lệ trao đổi gần $2 R: $1 US.

Trong Tháng 05 năm 2007, lần đầu tiên kể từ năm 1999, real đã có trị giá hơn 0.50$

thậm chí mặc dù Ngân hàng Trung ương đã cố gắng để giữ nó bên dưới ngưỡng tượng trưng do lo ngại về ảnh hưởng của nó nền kinh tế Brazil. Tính đến 22 tháng 6

năm 2010, 1 real Brazil trị giá 0,5612 đô la Mỹ, nói cách khác, 1$ US giá trị

1,7820$ R.

*Tiền xu

-Seri đầu tiên(1994-2003) Năm 1994, tiền xu đã được giới thiệu với các

mệnh giá 1, 5, 10, 25 và 50 xu và 1 thực tế. Tất cả đều được đúc bằng thép

Page 86: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 88 -

không gỉ. Chúng vẫn có giá trị pháp lý nhưng từ ngày 23 tháng 12 năm 2003 thì được thu hồi từ lưu thông bởi Ngân hàng Trung ương.

*Seri thứ hai (1998 đến nay) - Năm 1998, một seri tiền xu thứ hai đã được giới thiệu. Nó được đặc trưng bởi

tiền xu bằng thép mạ đồng 1 và 5 centavos, thép mạ đồng thau 10 và 25 centavos, một

đồng kền 50 centavos và 1 real (2 màu: màu đồng thau và đồng kền). Từ năm 2002 trở đi, thép đã được sử dụng cho các đồng xu 50 centavos và phần

giữa của đồng xu 1 real.

Series đầu tiên

Giá trị Ngược lại

1 centavo

5 centavos

10 centavos

25 centavos

50 centavos

1 real

Page 87: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 89 -

Trong tháng 11 năm 2005, Ngân hàng Trung ương chấm dứt việc đúc đồng xu 1 centavo, nhưng những đồng tiền hiện có tiếp tục được pháp luật chấp nhận. Các nhà bán lẻ

hiện nay nhìn chung làm tròn giá đến 5 hoặc 10 centavos.

seri thứ hai

Giá trị

Ngược

lại Thiết kế

1

centavo

Mặt chính: The Southern Cross ở

phía trên bên phải. Ngược lại: mô tả Pedro Alvares Cabral , Bồ Đào Nha biển thuyền trưởng. Bồ Đào

Nha thế kỷ 16 con tàu trong nền.

5 centavos

Mặt chính: The Southern Cross ở

phía trên bên phải. Ngược lại: mô tả Joaquim José da Silva Xavier (còn gọi là Tiradentes ), liệt sĩ của

phong trào độc lập đầu được biết đến như Inconfidência Mineira . Trong nền, một

hình tam giác , biểu tượng của phong trào, và một chim bồ câu, biểu tượng của hòa bình và tự do.

10

centavos

Mặt chính: The Southern Cross ở

phía trên bên phải. Ngược lại: mô tả Hoàng đế Pedro I , vị vua đầu tiên của Brazil. Trong bối cảnh,

các hoàng đế trên một con ngựa: một cảnh ám chỉ đến việc công bố độc lập.

25 centavos

Mặt chính: The Southern Cross ở phía trên bên phải. Ngược lại: mô tả soái Deodoro Manuel

da Fonseca , đầu tiên của Tổng thống Cộng hòa Brazil. Của Cộng hòa huy

được trong nền.

50

centavos

Mặt chính: The Southern Cross ở phía trên bên phải.

Ngược lại: mô tả José Maria da Silva Paranhos Junior (còn gọi là Nam tước của Rio Branco), của đất nước tốt nhất

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Trong bối cảnh, hình ảnh đất nước với những gợn

sóng mở rộng ra phía ngoài, đại diện cho

Page 88: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 90 -

*Đồng xu kỷ niệm -Ngân hàng Trung ương Brazil cũng đã phát hành phiên bản đặc biệt kỷ niệm

của một đồng xu sản 1 trong những dịp đặc biệt. Những đồng tiền được quy phạm pháp luật đấu thầu và khác biệt với những tiêu chuẩn chỉ ở phía ngược lại.

Tiền xu không được miêu tả với cùng scalee

Giá trị Hình ảnh Thông tin chi tiết

1 thực

Ngày phát hành: Ngày 10 tháng 12 năm 1998

Dịp lễ: Kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn Nhân quyền Đơn vị sản xuất: 600000

Ngược lại: chính thức logo của những kỷ niệm, trong cứu trợ-bas , một nhân vật. Trong vòng ngoài, những chữ khắc "Tuyên ngôn về Quyền con người"

và "kỷ niệm 50 năm"

1 thực

Ngày phát hành: 12 tháng chín, 2002

Dịp lễ: Kỷ niệm sinh thứ 100 của cựu tổng thống Brazil Juscelino Kubitschek Đơn vị sản xuất: 50 triệu

Đảo ngược: Một bức chân dung khuôn mặt của Kubitschek. Theo chiều dọc, các dòng chữ "Centenary Juscelino Kubitschek của". Trong vòng

ngoài, hình ảnh ám chỉ tới các cột của cung điện Alvorada, nơi ở của Tổng thống tại Brasília , thành

phố mà ông đã quyết định sẽ được xây dựng.

Ngày phát hành: 23 tháng chín năm 2005

sự phát triển của chính sách đối ngoại của Brazil, mở rộng và phân giới cắm

mốc biên giới quốc gia.

1 thực

Mặt chính: The Southern Cross ở phía trên bên phải. Ngược lại: Vòng ngoài miêu tả mẫu của

marajoara mô hình nghệ thuật. Trong vòng trong, các Efígie da República ,

biểu tượng của nước Cộng hoà.

Page 89: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 91 -

1 thực Dịp lễ: Kỷ niệm 40 năm thành lập của Ngân hàng Trung ương Brazil

Đơn vị sản xuất: 40 triệu Ngược lại: Hình ảnh của thương hiệu xây dựng Ngân hàng Trung ương, lấy cảm hứng trong logo

chính thức được phát triển cho những kỷ niệm. Trong vòng ngoài, những dòng chữ "Ngân hàng

Trung ương Brazil" và "1965 40 NĂM 2005"

*Tiền giấy

seri gốc - Năm 1994, tiền giấy đã được giới thiệu với các mệnh giá 1, 5, 10, 50 và 100

Reais. Theo sau đó là 2 Reais vào năm 2001 và 20 Reais vào năm 2002. Vào tháng 01 năm

2006, Ngân hàng Trung ương Brazil ngưng sản xuất của các tờ tiền giấy 1 real, nhưng nó vẫn được thừa nhận.

Page 90: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 92 -

* Tiền giấy Polyme 10 real - Vào tháng 04 năm 2000, nhân kỷ niệm kỷ niệm 500 của Bồ Đào Nha cập vào bờ

Brazil, Ngân hàng Trung ương Brazil phát hành một loại tiền giấy polymer 10 real và lưu

thông cùng với các giấy bạc khác. Các hãng in tiền Brazil in 250 triệu tiền giấy này, chiếm khoảng một nữa tiền giấy 10 real đang lưu thông.

Seri mới - Vào ngày 03 tháng 2 năm

2010, Ngân hàng Trung ương Brazil đã công bố một seri tiền giấy mới sẽ bắt đầu được phát hành vào tháng 04

năm 2010. Thiết kế mới sẽ bổ sung thêm những cải tiến bảo mật để tránh

làm giả. Các ghi chú sẽ có kích cỡ khác nhau theo các giá trị để giúp người khiếm thị nhận biêt. Những

thay đổi được thực hiện đã phản ánh sự tăng trưởng của nền kinh tế

Brazil, sự cần thiết và an toàn hơn cho một loại tiền tệ mạnh mẽ hơn. Các loại tiền mới sẽ được dần dần

Page 91: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 93 -

được thông qua vào năm 2012, cùng tồn tại với những đồng tiền cũ. :

- Đồng real của Brazil tăng cao so đô la Mỹ trong 10 tháng đầu năm 2010. Theo các nhà phân tích của Goldman Sachs, real là một trong những đồng tiền được định giá cao nhất thế giới. Bộ trưởng Tài chính Brazil đang cố gắng can thiệp để giảm giá đồng

real. Tuần trước, việc chào bán số lượng trái phiếu khổng lồ trị giá 70 tỉ đô la Mỹ của

Petrobras (Brazil) đã góp phần tạo nên dòng chảy ồ ạt của đô la Mỹ vào Brazil. Các trái phiếu trên thu hút nhà đầu tư vì lãi suất cao và nền kinh tế tăng trưởng nhanh của Brazil.

Mặc dù không nói rõ về sự can thiệp để làm yếu đồng real nhưng ông Mantega cho

biết Brazil có sẵn “kho vũ khí” các công cụ thích hợp để làm suy yếu đồng real. 3.2 Chile: Peso (CLP)

- Peso là tiền tệ của Chile . Các đồng peso hiện nay được lưu hành từ năm

1975, với một phiên bản lưu hành trước đó giữa năm 1817 và 1960. Biểu tượng

được sử dụng tại địa phương cho nó là $ . Mã ISO 4721 cho các peso Chile hiện

nay là CLP. Mỗi peso được chia ra 100 centavos, mặc dù từ thời kỳ lạm phát năm

1983 đến nay đã không còn tiền xu mệnh giá centavo trong lưu thông. Tỷ giá bình

quân của các Peso của Chile với đô la Mỹ là 1 Đô la Mỹ bằng 559,7 peso Chile vào

năm 2009. Ngày 30 tháng chín năm 2010, đồng đô la Mỹ có giá trị 485,23 peso.

- Các peso đầu tiên 1817-1960: Các peso Chile đầu tiên được giới thiệu vào năm

1817, vào khoảng 8 reals Tây Ban Nha. Cho đến năm 1851, đồng peso đã được chia thành

8 reales, với Escudo trị giá 2 peso. Trong năm 1835, đồng tiền xu centavos đã được giới

thiệu cho đến khi 1851 các mệnh giá real và escudo được chấm dứt phát hành, các vấn đề

trong centavos và décimos (trị giá 10 centavos) bắt đầu. Also in 1851, the peso was set

equal 5 French francs on the silver standard, 22.5 grams pure silver. Cũng trong năm

1851, đồng peso đã được thiết lập bằng 5 franc Pháp. Tuy nhiên, đồng tiền vàng được làm

theo một tiêu chuẩn khác của Pháp, với 1 peso = 1,37 gam vàng (5 Franc tương đương 1,45 gram vàng). Năm 1885, một tiêu chuẩn vàng đã được thông qua, tỷ giá đồng peso với

đồng bảng Anh ở mức của 13 ⅓ peso = 1 pound. Từ năm 1925, tiền xu và tiền giấy đã

được phát hành bằng đồng cóndores, trị giá 10 peso. Các tiêu chuẩn vàng đã được chấm

dứt vào năm 1932 và giá trị của đồng peso đã giảm hơn nữa. Các Escudo thay thế đồng

peso vào ngày 01 tháng 01 năm 1960 với tỷ lệ 1 Escudo = 1.000 peso.

*Tiền xu

- Giữa 1817 và 1851, đồng xu bạc được phát hành với các mệnh giá ¼, ½, 1,

2 reales và 1 peso (còn được tính bằng 8 reales), với đồng tiền vàng cho 1, 2, 4 và 8

escudo. Trong năm 1835, đồng ½ và 1 centavo đã được ban hành. Chế độ tiền tệ

thập phân đầy đủ đã được giới thiệu giữa 1851 và 1853, bao gồm ½ và 1 centavo

bằng đồng, 20 và 50 centavos và 1 peso bằng bạc, 5 và 10 peso bằng vàng. Năm

1860, đồng tiền vàng 1 peso đã được giới thiệu, tiếp theo là đồng kền ½, 1, 2

centavos (từ giữa năm 1870 đến năm 1871). Đồng tiền xu cho các mệnh giá đã được

giới thiệu lại vào giữa năm 1878 và 1883, và có sự xuất hiện thêm đồng 2½

Page 92: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 94 -

centavos vào năm 1886. Một chế độ tiền vàng mới được giới thiệu vào năm 1895,

tương ứng với các tiêu chuẩn vàng thấp hơn, cùng với tiền kim loại cho 2, 5, 10 và

20 peso. Năm 1896,đồng ½ và 1 décimo được thay thế bằng tiền xu 5 và 10

centavos. -Năm 1907, một thời gian ngắn, đồng xu 40 centavos bằng bạc đã được giới

thiệu theo sau việc ngừng sản xuất các đồng xu 50 centavos. Năm 1919, đồng tiền

xu được làm bằng đồng sau cùng (1 và 2 centavos) đã được ban hành. Năm sau,

đồng kền thay thế bạc trong các đồng tiền 5, 10 và 20 centavos. Chế độ tiền vàng

cuối cùng đã được giới thiệu vào năm 1926, với các mệnh giá 20, 50 và 100 peso.

Năm 1927, đồng xu bằng bạc 2 và 5 peso đã được ban hành. Đồng kền 1 peso đã

được giới thiệu vào năm 1933, thay thế cuối cùng của tiền bạc. Những đồng tiền

kim loại cuối cùng của peso đầu tiên được ban hành giữa năm 1954 và 1959. Đây là

những đồng nhôm 1, 5 và 10 peso.

*Tiền giấy

- Tiền giấy Chile đầu tiên đã được ban hành từ năm 1840 và 1844 bởi Kho

bạc của tỉnh Valdivia, với các mệnh giá 4 và 8 reales. Trong những năm 1870, một

số ngân hàng tư nhân bắt đầu phát hành tiền giấy, bao gồm các Agricola Banco,

Banco de la Alianza, Banco de Concepción, Banco Consolidaro de Chile, Banco de A. Edwards y Ca., Banco de Escobar , Ossa y Ca., Mobiliario Banco, Banco

Nacional de Chile, Banco del Pobre, Sud Americano Banco, Banco del Sur, Banco

de la Union và Banco de Valparaiso. Others followed in the 1880s and 1890s.

- Những ngân hàng khác theo sau trong thập niên 1880 và thập niên 1890.

Bao gồm các mệnh giá 1, 2, 5, 10, 20, 50, 100 và 500 peso. Một ngân hàng khác,

Banco de A. Edwards y Ca., cũng phát hành giấy bạc mệnh giá £ sterling (Libra

esterlina).

- Năm 1881, Chính phủ đã ban hành tiền giấy có thể chuyển đổi thành bạc

hoặc vàng, với các mệnh giá 1, 2, 5, 10, 20, 50, 100 và 1.000 peso. Tiền giấy 50

centavos được bổ sung trong năm 1891 và 500 peso trong năm 1912. Năm 1898,

việc ban hành tạm thời đã được chính phủ thực hiện, bao gồm tiền giấy tự in của

các ngân hàng tư nhân với dòng chữ "Emision Fiscal". Điều này đánh dấu sự kết

thúc của tiền giấy được sản xuất bởi tư nhân.

- Năm 1925,Ngân hàng Trung ương Chile bắt đầu phát hành tiền giấy.

Đầu tiên, các mệnh giá 5, 10, 50, 100 và 1000 peso đã được in trên tiền giấy của chính phủ. Năm 1927, tiền giấy "Billete Provisional" đã được ban hành với các

mệnh giá 5, 10, 50, 100, 500 và 1.000 peso. Chính thức được giới thiệu vào giữa

năm 1931 và 1933,với các mệnh giá 1, 5, 10, 20, 50, 100, 500, 1000, 5000 và

10.000 peso. Tiền giấy 1 và 20 peso được ngưng sản xuất lần lượt vào các năm

1943 và 1947. Các mệnh giá còn lại tiếp tục sản xuất cho đến năm 1959, cùng với

việc bổ sung tiền giấy mệnh giá 50000 peso vào năm 1958.

*Peso thứ hai (từ năm 1975 đến nay)

Page 93: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 95 -

- Các đồng peso hiện nay đã được giới thiệu vào ngày 29 tháng 9 năm 1975

bởi Nghị định 1123, thay thế Escudo với tỷ lệ là 1 peso = 1000 escudos. Nó được

chia nhỏ ra 100 centavos cho đến năm 1984.

*Tiền xu

- Năm 1975, tiền xu đã được giới thiệu với các mệnh giá 1, 5, 10 và 50

centavos và 1 peso. Đồng xu 1, 5 và 10 centavo rất giống với các đồng tiền 10, 50

và 100 Escudo họ đã thay thế. Từ năm 1983, lạm phát đã để lại những đồng xu

centavo lỗi thời. Đồng xu 5 và 10 peso đã được giới thiệu vào năm 1976, tiếp theo

là 50 và 100 peso vào năm 1981 và 500 peso vào năm 2000. Tiền xu đang lưu hành

có các mệnh giá 1, 5, 10, 50, 100 và 500 peso, tuy nhiên, hầu hết các nhà bán lẻ có

xu hướng tròn giá đến gần 10 peso.

Ngay sau Chính phủ quân sự ở Chile (1973-1990), các mẫu thiết kế mặt

chính của tiền xu 5 và 10 peso đã được thay đổi. Those coins bore the image of a

winged female figure wearing a classical robe. Những đồng tiền mang hình ảnh của

một nhân vật nữ mặc một chiếc áo choàng cánh cổ điển. Bên cạnh cô, với chữ số La

Mã nhỏ, ngày của cuộc đảo chính được đánh dấu, và bên dưới là từ Libertad (tiếng

Tây Ban Nha nghĩa là tự do) được viết bằng chữ hoa. Sau sự trở lại của nền dân

chủ, một thiết kế với những bức chân dung của Bernardo O'Higgins được sử dụng. Năm 2001, đồng xu 100 peso vừa được thiết kế lại mang hình ảnh của một người

phụ nữ Mapuche bắt đầu lưu thông.

- Trong tháng 2 năm 2010 người ta đã phát hiện ra rằng trên series năm 2008

của các đồng tiền 50 peso, tên quốc gia "CHILE" đã bị viết sai chính tả thành

"CHIIE". Sở đúc tiền quốc gia lúc đó nói rằng họ không có kế hoạch thu hồi các

đồng tiền. Những đồng xu ấy, trị giá khoảng 9 cent (Mỹ) cho mỗi 50 peso vào thời

điểm đó, sau đó trở thành mục tiêu được sưu tầm.

*Tiền giấy

- Năm 1976, tiền giấy đã được giới thiệu với các mệnh giá 5, 10, 50 và 100

peso. Lạm phát có kể từ khi bắt đầu việc phát hành mệnh giá cao hơn nhiều. Tiền

giấy 500 peso đã được giới thiệu vào tháng 05 năm 1977, tiếp theo là 1.000 peso

vào tháng 06 năm 1978, 5.000 peso trong tháng 07 năm 1982, 10.000 peso vào

tháng 06 năm 1989, 2.000 peso trong tháng 12 năm 1997 và 20.000 peso vào tháng

12 năm 1998. Các giấy bạc 5, 10, 50, 100 và 500 peso đã được thay thế bằng tiền

kim loại, để lại các giấy bạc 1000, 2000, 5000, 10.000 và 20.000 peso trong lưu thông.

- Tất cả tiền giấy được in trên giấy trừ giấy bạc 2000 peso đã được ban hành

như là một tờ tiền giấy polymer từ tháng năm 2004. Tất cả tiền giấy có tiêu chuẩn

145x70mm (trừ một số ngoại lệ dưới đây).

- Trong dịp kỷ niệm của hai trăm năm của nước Cộng hòa, tiền giấy mới sẽ

được phát hành giữa năm 2009 và 2012. Đầu tiên, từ giấy bạc 5.000 peso, được phát

hành vào ngày 24 Tháng Chín 2009 và nó đã được ban hành như là một tờ tiền giấy

polymer. Các loạt tiền giấy mới sẽ có kích thước khác nhau so với hiện tại, từng có

Page 94: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 96 -

một sự khác biệt từ 7 mm tùy thuộc vào giá trị của chúng (tờ tiền 1.000 peso sẽ nhỏ

hơn so với 5000, vv.). Những tờ 5.000 peso mới có kích thước là 134 x 70 mm. Đây

sẽ là lần đầu tiên một thế hệ tiền giấy hoàn toàn mới được đưa vào lưu thông không

phải vì những tác động của lạm phát. Tiền giấy mới sẽ khó khăn hơn để làm giả bởi vì các biện pháp bảo mật mới và rẻ hơn để sản xuất.

c)Nhận xét

- Đồng peso Chile đã bị mất giá liên tục mỗi năm so với USD và các ngoại tệ

mạnh. Tuy nhiên, đồng peso dường như ổn định hơn so với đồng đôla Mỹ trong giai

đoạn từ năm 1994 đến 1997, để tiếp tục mất giá sau đó với một đỉnh cao về tỷ lệ

peso trên mỗi USD và đôi khi vượt qua gần 700 Chile peso mỗi đồng đô la Mỹ

(trong năm 2002 và 2003) do ảnh hưởng của cuộc tấn công 11.09(vào năm 2001).

Từ đỉnh cao mà peso đã được đánh giá lại đáng kể.

Page 95: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 97 -

Page 96: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 98 -

Page 97: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 99 -

3.3 ARGENTINA: Peso (ARS)

-Mã ISO 4217: ARS.

-Biểu tượng: $. -Tiền đơn vị nhỏ nhất: centavos.

-Mệnh giá tiền xu được phát hành: 1, 5, 10, 25, 50 centavos, 1 peso.

-Mệnh giá tiềm giấy được phát hành: 2, 5, 10, 20, 50, 100 peso.

-Các peso là tiền tệ của Argentina. Các biểu tượng được sử dụng tại địa phương cho

nó là $ (để tránh nhầm lẫn, Argentina thường xuyên sử dụng U $ D, US $, U $, U $ S,

hoặc U $ A để chỉ đô la Mỹ).

1 peso được chia ra 100 centavos . Các peso cũng là tên của một số loại tiền tệ trước

đó của Argentina.

Tỷ giá trao đổi khoảng 3 peso cho mỗi đồng đô la Mỹ 2002-2008, và khoảng 4 peso

trong năm 2010.

-Sau độc lập , Argentina bắt đầu phát hành tiền xu riêng của mình..Năm 1826 – 1881,

hai loại tiền giấy được phát hành, Peso Fuerte & Peso Argentina moneda

corriente:

- Peso Fuerte ( $F, Mã ISO 4217: ARF) là một loại tiền tệ chuyển đổi. Tỷ lệ 16 Peso Fuerte/ ounce vàng vào năm 1864.Nó được thay thế bởi Peso moneda Nacoinal vào

năm 1881.

- Peso Argentina moneda corriente ($m/c, Mã ISO 4217: ARC) cũng được giới thiệu

vào năm 1826, là một loại tiền tệ không chuyển đổi. Được biết đến như là papel peso

(tiền giấy) bởi vì nó chỉ được phát hành như là ghi chú. Các Peso moneda Corriente

được giới thiệu ngang với các Peso Fuerte nhưng đã bị mất giá nhiều lần trong giao

dịch.

- Các Peso moneda Corriente được thay thế bởi Peso moneda Nacional ở mức 25 Peso

moneda Corriente = 1 Peso moneda Nacional vào năm 1876.

*1881 – 1969, Peso Oro Selledo ( $ O/ s, Mã ISO 4217: ĐỐI_SỐ):

- Là một loại tiền giấy chuyển đổi bằng 1,4516 gam vàng Mỹ.

*1970 – 1983, Peso ley ( $L, Mã ISO 4217: ARL):

- Các Peso ley 18,188 là tiền tệ của Argentina từ 01 tháng một 1970 và 05 tháng 5 năm

1983. Nó được chia ra 100 centavos. Tên của nó xuất phát từ số 18.188 pháp luật, có

hiệu lực ngày 05 tháng tư 1969.

Page 98: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 100 -

- Các peso ley thay thế Peso moneda Nacionaltại

một tỷ lệ 100 -1.

- Năm 1970, tiền xu đã được giới thiệu có mệnh

giá 1, 5, 10, 20 và 50 centavos. Khi lạm phát bị xói mòn giá trị của tiền tệ, mệnh giá cao hơn đã

được giới thiệu: 1 peso vào năm 1974, 5 và 10

peso vào năm 1976, và 50 và 100 peso vào năm

1978.

- Tiền giấy được phát hành với các mệnh giá: 1,

5, 10, 20, 50, 100, 500, 1.000, 5.000, 10.000,

50.000, 100.000, 500.000, 1.000.000 peso.

*1983-198, Peso Argentino ($ a) ( ISO 4217 : ARP):

- Peso Argentino thay thế các loại tiền tệ trước đó với tỷ lệ 1 Peso Argentino = 10.000

Peso ley. Các loại tiền tệ đã được sinh ra ngay sau khi sự xuất hiện của dân chủ.

- Mệnh giá tiền xu : Năm 1983, tiền xu cho 1, 5, 10 và 50 centavos đã được ban hành.

Năm 1984, một lần nữa lại centavo 50 ban hành, cùng với 1, 5 và 10 peso argentinos.

Năm 1985, 5, 10 và 50 peso tiền xu được đúc Argentino.

- Mệnh giá tiền giấy: Năm 1983, Trung ương Banco ban hành giấy bạc 1, 5, 10, 50 và

100 peso argentinos. Năm 1984, 500, 1.000 và 5.000 peso ghi chú Argentino được

giới thiệu. Năm 1985, cácpeso dưới 50 argentinos peso được thay thế bằng tiền xu,

với 10.000 peso argentinos được giới thiệu.

*1985 – 1991, Austral ( ) (Mã ISO 4217: ARA):

Page 99: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 101 -

- Austral (Argentina Phương Nam) được chia ra 100 centavos. Các biểu tượng là một

chữ hoa A với một dòng ngang thêm. Biểu tượng này xuất hiện trên tất cả các đồng

tiền phát hành loại tiền này (bao gồm cả centavos), để phân biệt với các loại tiền tệ

trước đó.

- Các phương nam thay thế Peso Argentino với tỷ lệ 1 phương nam = 1.000 argentinos

peso.

- Năm 1985, tiền xu đã được giới thiệu cho ½, 1, 5, 10 và 50 centavos. Các centavo ½

chỉ phát hành vào năm 1985, sản xuất, trong khi của centavo 1 chấm dứt vào năm

1987, 5 centavo ngừng vào năm 1988, và của các đồng tiền khác centavo kết thúc vào

năm 1989. Năm 1989, 1, 5 và 10 xu phương nam đã được ban hành, theo sau vào năm

1990 và 1991 của 100, 500 và 1.000 phương nam mệnh giá.

Năm 1985, các vấn đề tạm thời đã được thực hiện bao gồm 1.000, 5.000 và 10.000

peso Argentina ghi chú trên đóng dấu với giá trị 1, 5 và 10 australes.

- Tất cả tiền giấy, trừ các loại lâm thời hiển thị trên Liberty trở lại với một ngọn đuốc

và lá chắn. Trên obverses, từ peso xoá hoàn toàn, trong khi ngược lại các thiết kế thay

thế hình ảnh với tên gọi viết bằng chữ không có dấu cách trong một vài dòng. mệnh

giá được hiển thị trên cả hai khuôn mặt trong các mẫu A MIL 10 (10.000 australes), A

MIL 50 (50.000 australes) và A MIL 500 (500.000 australes).

*1992 – nay, Peso Convertible ($AR) (Mã ISO 4217: ARS) :

- Các Peso Convertible thay thế cho Austral với tốc độ 1 Peso = 10.000 australes.

- Các peso hiện hành ( ISO 4217 : ARS) thay thế cho Austral với tốc độ 1 peso =

10.000 australes. Nó cũng được gọi là peso chuyển đổi quốc tế kể từ khi tỷ giá hối

đoái đã được cố định bởi Ngân hàng Trung ương tại 1 peso = 1 đô la Mỹ và đối với mỗi peso chuyển đổi, lưu thông có một đồng đô la Mỹ tại Ngân hàng Trung ương dự

trữ ngoại tệ . Kết quả cuối cùng thay thế này là một trong những peso chuyển đổi sẽ

có giá trị 10,000,000,000,000 (10 13)

peso moneda Nacional. Tuy nhiên, sau khi cuộc

khủng hoảng tài chính năm 2001 , việc trao đổi hệ thống cố định tỷ lệ bị hủy bỏ.

Page 100: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 102 -

- Năm 1992, 1, 5, 10, 25 và 50 centavo tiền xu đã được giới thiệu, tiếp theo là 1 peso

vào năm 1994. Đồng xu 1 centavo được đúc cuối năm 2001 và đã được rút khỏi lưu

thông.

- Kỷ niệm hiến pháp quốc gia Công ước , 2 - và 5-peso tiền kim loại nickel được phát

hành vào năm 1994.

1Centavos đồng nhôm

1 centavos đồng

kẽm 1$ đồng nikel

5 centavos đồng nikel 5 centavos đồng

nhôm

5 centavos

thép mạ đồng

50 cent đồng nhôm

10 centavos đồng nhôm 10 centavos thép mạ đồng

25 centavos đồng nhôm 25 centavos đồng nikel

Page 101: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 103 -

-

tiếng thế giới, và nhà thơ Jorge Luis Borges , họ đã có một hình ảnh của

khuôn mặt Borges ở một bên, và một

mê cung và tiếng Do Thái chữ Aleph

mặt khác .

- Ngoài ra, kỷ niệm lần thứ 50 cái chết

của Eva Perón , vào ngày 18 tháng 9

năm 2002 mới đồng tiền 2-peso một với

khuôn mặt của cô đã được tạo ra. Nó

đã được nói rằng điều này sẽ thay thế

đồng tiền cũ AR $ 2 tiền giấy, nếu lạm phát tiếp tục được cao.

Năm 1992, tiền giấy đã được giới thiệu

có mệnh giá 1, 2, 5, 10, 20, 50, và 100

peso. Các ghi chú 1 peso được thay thế

bằng một đồng xu vào năm 1994.

b)Đặc điểm tiền hiện tại.

- Kể từ tháng 01 năm 2002, tỷ giá hối đoái

dao động, lên đến một đỉnh cao bốn peso cho một đồng đô la. Việc xuất khẩu bùng nổ sau đó tạo ra một làn sóng lớn đô la vào nền kinh

tế của Argentina, đã giúp hạ thấp giá của chúng. Mặt khác, chính quyền hiện nay đã công khai thừa nhận một chiến lược trong việc giữ tỷ giá giữa 2,90-3,10 peso cho mỗi đô la Mỹ, để duy trì sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu và khuyến khích thay thế nhập khẩu của các ngành công

nghiệp địa phương. Khi cần thiết, Ngân hàng Trung ương phát ra peso và mua đô la ở thị trường tự do để giữ giá đồng đô la, và đã tích lũy được trên 27.000 triệu USD trong dự trữ

trước khi các 9.810 triệu USD thanh toán cho IMF trong tháng 01 năm 2006.

Mệnh

giá

Mặt Reverse

2

peso (1994)

5

peso

(1994)

2

peso

(2007)

Page 102: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 104 -

3.4 Mexico: Peso (MXN)

- Mã ISO 4217: MXN.

- Tiểu đơn vị: centavo.

Page 103: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 105 -

Kỷ niệm hai peso

tiền xu từ năm 1921.

- Biểu tượng: $ hoặc Mex $.

- Centavo: ¢.

- Tiền xu: 50 ¢, 1 $, 2 $, 5 $, 10 $; 5 ¢, 10 ¢, 20 ¢, 20 $, 50 $ , 100 $ (hiếm

khi được sử dụng. - Giấy bạc: $ 20 , $ 50, $ 100, $ 200, $ 500, $ 1.000. a) :

-Đồng Peso: là tiền tệ của Mexico. Mã ISO 4.217 cho peso là MXN, trước

đợt định giá lại năm 1993, mã đồng peso là “MXP”. Một Peso Mexico được chia ra

100 centavos. Tên gọi ban đầu được dùng để peso oro (trọng lượng vàng) hoặc

peso Plata (trọng lượng bạc). Các bản dịch tiếng Anh chữ của peso từ tiếng Tây

Ban Nha là trọng lượng. Theo ngày 23 tháng 06 năm 2010, tỷ giá của đồng peso

được 12,141 cho mỗi đồng đô la Canada, 15,488 mỗi Euro, và 12,658 cho mỗi đô la

Mỹ

*Peso đầu tiên

- Các đồng peso ban đầu là tên của 8 reales tiền xu ở

Mexico - thuộc địa cũ của Tây Ban Nha . Sau khi Mexico

giành được độc lập năm 1821, chính phủ mới của Tây Ban

Nha tiếp tục hệ thống tiền tệ của 16 reales bạc = 1 Escudo

vàng, với đồng peso 8 reales là đồng xu bạc lớn nhất. Tiền

giấy cũng được ban hành, thanh toán bằng tiền peso.

Năm 1863, phát hành lần đầu tiên tiền xu dưới dạng

đồng centavos, trị giá 100

1 của peso. Năm 1866 bằng tiền xu

mệnh giá một peso. Tiền xu mệnh giá reales tiếp tục được

ban hành cho đến năm 1897. Năm 1905, lượng vàng của

đồng peso đã giảm 49,3% nhưng lượng bạc của peso vẫn giữ ban đầu không thay

đổi. Tuy nhiên, từ năm 1918 trở đi, trọng lượng của tất cả các đồng xu bạc bị sụt

giảm, cho đến năm 1977, khi đồng tiền bạc 100 peso cuối được đúc.

*Peso thứ hai

-Ngày 01 Tháng 1 năm 1993, các Ngân hàng của Mexico giới thiệu một loại

tiền tệ mới, đồng peso Nuevo (MXN), bằng văn bản "N $" tiếp theo là số tiền bằng

số. Một peso mới, hoặc N$1,00, bằng với 1000 của peso MXP lỗi thời.

Ngày 01 Tháng 1 năm 1996, các Nuevo sửa đổi lần được giảm từ danh

nghĩa, tiền xu và tiền giấy mới. Mã ISO 4217, nhưng vẫn không thay đổi như MXN.

Nhờ vào sự ổn định của nền kinh tế Mexico và sự tăng trưởng trong đầu tư nước ngoài, đồng peso của Mexico hiện đang trong số 15 đơn vị tiền tệ được giao

dịch nhiều trong những năm gần đây; kể từ cuối những năm 1990 peso đã được giao

dịch ở mức khoảng 9 - 13 peso mỗi đô la Mỹ .

* Sử dụng bên ngoài Mexico

Page 104: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 106 -

-Các đồng đô la Tây Ban Nha hoặc peso Mexico đã được sử dụng rộng rãi ở

Hoa Kỳ. Theo một nghị định của ngày 06 tháng bảy năm 1785, giá trị của đồng đô

la Mỹ đã được thiết lập để phù hợp với đồng đô la Tây Ban Nha, cả hai đều dựa trên

trọng lượng của bạc trong các đồng tiền. Việc đầu tiên, đô la Mỹ đã không phát hành tiền xu cho đến ngày 2 tháng 4 năm 1792, và đồng peso tiếp tục được chính

thức công nhận và sử dụng, cùng với các đồng tiền khác của nước ngoài, cho đến

ngày 21 tháng 2 năm 1857. Tại Canada , nó vẫn hợp pháp, cùng với bạc tiền xu

nước ngoài khác, cho đến 1854 và tiếp tục lưu hành sau đó. Các đồng peso của

Mexico cũng là mô hình cho các đồng đô la eo biển Malorca , những đồng đô la

Hồng Kông , các Yen Nhật và các đồng nhân dân tệ Trung Quốc. *Tiền xu

-Thế kỷ 19

Những đồng tiền đầu tiên của tiền tệ peso

là 1 miếng centavo đúc năm 1863. Hoàng đế

Maximilian , người cai trị của Đế chế Mexico thứ

hai 1864-1867, đúc các đồng tiền đầu tiên với

truyền thuyết “peso” trên chúng, chân dung của

ông được vào mặt chính, với truyền thuyết “Maximiliano Emperador” đảo ngược cho thấy

cánh tay của triều đình và những huyền thoại

“Imperio Mexicano”, “1 Peso” và niên hiệu.

Chúng được đúc vào những năm 1866-1867.

Chính phủ mới của nước Cộng hòa

Mexico tiếp tục đúc đồng 8 reales, nhưng cũng bắt đầu đúc tiền xu bằng đồng

centavos và peso. Thêm vào là tiền xu bằng đồng 1 centavo, 5, 10, 25 và 50

centavos và peso 1 đã được giới thiệu giữa năm 1867 và 1869. Đồng tiền xu 1, 2, 2

½, 5, 10 và 20 peso vàng đã được giới thiệu vào năm 1870. Các đặc trưng của

Mexico: “đại bàng” và truyền thuyết “República Mexicana”. Đảo ngược của các

đồng tiền lớn hơn cho thấy cái cân, những đồng tiền nhỏ hơn thì thấy các loại đơn

vị. Tiền xu 1-peso đã được làm từ năm 1869 đến 1873, trong khi đồng 8 reales lại

được tiếp tục sản xuất. Trong năm 1882, đồng tiền xu bằng hợp kim nikel 1, 2 và 5

centavos đã được ban hành nhưng họ chỉ đúc trong hai năm. Các đồng 1 peso đã

được giới thiệu lại vào năm 1898. 1.1. Thế kỷ 20

Năm 1905 một cuộc cải cách tiền

tệ đã được thực hiện, trong đó lượng vàng

của đồng peso đã giảm 49,36% và đồng

tiền bạc được giảm (trừ đồng 1 peso). Đồng

1 và 2 centavos, niken 5 centavos, bạc 10,

20 và 50 centavos và vàng 5 và 10 peso đã

được ban hành.

Một centavo đồng xu của năm 1890

Một chọn lọc các đồng tiền Mexico cũ

Page 105: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 107 -

Năm 1910, một đồng tiền peso mới được ban hành, các “Caballito nổi

tiếng”, được coi là một trong những đồng tiền đẹp của Mexico. Mặt chính có hình

một con đại bàng ngậm một con rắn, đứng trên một cây xương rồng, các truyền

thuyết “Estados Unidos Mexicanos” và “Un Peso”. Mặt ngược lại cho thấy một người phụ nữ cưỡi một con ngựa, tay nâng cao cho lời kêu gọi và niên hiệu.

Giữa năm 1917 và 1919, các tiền đúc bằng vàng được mở rộng bao gồm 2, 2

½, và 20 peso. Tuy nhiên, vấn đề lưu thông của vàng chấm dứt vào năm 1921. Năm

1918, các đồng tiền peso được điều chỉnh, để nó phù hợp với tiền xu mới 10, 20 và

50 centavos (bằng bạc). Tiền xu 10 và 20 centavos (bằng thiếc) đã được giới thiệu

vào năm 1919 và 1920.

-Năm 1947, một bức chân dung mới của Morelos xuất hiện trên 1 peso,

với Cuauhtémoc trên 50 centavos và Miguel Hidalgo trên 5 peso.

Năm 1955, đồng 50 centavos đã được giới thiệu, cùng với đồng xu 5 -peso

và một đồng xu 10-peso mới. Năm 1957, đồng tiền 1 peso mới được phát hành.

Một peso đặc biệt được đúc vào năm 1957 để kỷ niệm Benito Juárez và hiến pháp

năm 1857. Đây là những peso bạc cuối cùng.

Giữa năm 1960 và 1971, một tiền đúc mới được giới thiệu, bao gồm đồng 1

và 5 centavos,hợp kim nickel 10, 25 và 50 centavos, 1, 5 và 10 peso và 25 peso bạc (chỉ phát hành năm 1972). Năm 1977, 100 peso bạc được phát hành cho lưu thông.

Năm 1980, đồng xu 5-peso đã được giới thiệu cùng với 20 peso (từ 1982) và 50

peso bằng hợp kim nikel. Giữa năm 1978 và 1982, các kích thước của tiền xu cho

20 centavos và cao hơn đã giảm. Tiền xu 100, 200, 500, 1.000 và 5.000 peso bằng

kim loại thường đã được giới thiệu giữa năm 1984 và 1988 .

1.2. Nuevo peso

-Các peso Nuevo (peso mới) là kết quả của siêu lạm phát ở Mexico. Năm

1993, tổng thống Carlos Salinas ra lệnh ban hành đồng Peso mới (peso Nuevo) với

bằng việc bỏ 3 số 0 của đồng peso cũ, theo đó, 1 peso Nuevo = 1000 peso. Vào thời

gian đó, từ "Nuevo" đã được gỡ bỏ từ tất cả các loại tiền tệ mới được in, do đó các

ghi chú được tính bằng chỉ "peso" một lần nữa. Để tránh nhầm lẫn, Ngân hàng của

Mexico đã ban hành một loại tiền có hình dáng và các chi tiết hoàn toàn mới dưới

dạng peso Nuevo.

Trong năm 1993, đồng tiền của các loại tiền tệ mới đã được ban hành với các

mệnh giá 5, 10, 20 và 50 centavos, 1, 2, 5, 10, 20 và 50 nuevos peso. Các 5 và 10 centavos được đúc trong thép không gỉ và 20, 50 centavos trong đồng nhôm. Với

các nuevos 1, 2 và 5 peso bằng nhôm và thép không gỉ. Đồng 10, 20 và 50 nuevos

peso bằng bạc và nhôm. Năm 1996, từ Nuevo(s) đã được gỡ bỏ khi gọi những đồng

xu. Đồng 10 peso mới đã được giới thiệu với các kim loại cơ bản thay thế bạc.

Năm 2003 các ngân hàng của Mexico bắt đầu khởi động một loạt mới là

$100 tiền lưỡng kim.

Các đồng tiền thường gặp trong lưu thông có giá trị 50¢, $1, $2, $5, $10 và

$20. Loại $50, 10¢ và 5¢ là những đồng tiền xu hiếm thấy. Các đồng tiền $ 20

Page 106: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 108 -

không phải là sử dụng rộng rãi như các tờ tiền giấy 20 USD. Tính đến cuối năm

2006 và đầu năm 2007, việc sử dụng là 20 cent tiền xu cũng dần dần suy giảm.

*Tiền giấy

-Peso đầu tiên

Tiền giấy đầu tiên do nhà nước Mexico đã được sản xuất năm 1823 bởi hoàng đế Iturbide với các mệnh giá 1, 2 và 10 peso. Tiền giấy 10 peso cũng do

Hoàng đế Maximilian năm 1866 ban hành, nhưng, cho đến những năm 1920, tờ tiền

giấy sản xuất hoàn toàn nằm trong tay của các ngân hàng tư nhân và chính quyền

địa phương.

Năm 1920, Ủy ban tiền tệ Mexico đã ban hành 50-centavo và tiền giấy 1

peso trong khi Ngân hàng của Mexico đã ban hành tiền giấy 2 peso. Từ năm 1925,

Ngân hàng phát hành tiền giấy 5, 10, 20, 50 và 100 peso, 500 và 1000 peso sau năm

Page 107: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 109 -

1931. Từ năm 1935, Ngân hàng cũng đã ban hành tiền giấy 1 peso và 10.000 peso

từ năm 1943.

Việc sản xuất tiền giấy 1 peso chấm dứt vào năm 1962, tiếp theo là 5 peso

trong năm 1971, 10 và 20 vào năm 1977, 50 peso vào năm 1984, 100 peso vào năm 1985, 500 peso ở peso năm 1987 và 1.000 vào năm 1988.

Tiền giấy 5.000 peso đã được giới thiệu vào năm 1981, tiếp theo là 2.000

peso vào năm 1983, 20.000 peso vào năm 1985, 50.000 peso trong peso năm 1986

và 100.000 vào năm 1988.

-Peso thứ hai

*Seri B và C

Năm 1993, tiền giấy đã được giới thiệu mới cho 10, 20, 50, và 100 nuevos

peso. Những ghi chú được thiết kế theo series B của Ngân hàng.

Trong tháng 10 năm 1994, Series C đã được phát hành với những thiết kế

hình ảnh mới. Từ “nuevos” vẫn còn. Tiền giấy 500 nuevos peso đã được thêm vào.

Tất cả đã được in vào ngày 10 tháng 12 năm 1993.

*Series D

Các seri tiếp theo của tiền giấy, được thiết kế thành seri D, đã được giới thiệu

vào năm 1996. Nó là một phiên bản sửa đổi của series C với “nuevos” được cắt bỏ, tiêu đề ngân hàng thay đổi từ "El Banco de México" thành "Banco de México" và

câu "pagará a la vista al portador" được gỡ bỏ.

Bắt đầu từ năm 2001, mỗi tên gọi trong series được nâng cấp dần dần. Ngày

15 Tháng 10 năm 2001, trong một nỗ lực để chống làm giả, tiền giấy series D với

50 peso và lớn hơn được tiếp tục sửa đổi với sự bổ sung một dải ánh kim. Trên tờ

100 peso và lớn hơn, số mệnh giá được in chuyển màu ở góc trên bên phải . Ngày 30

tháng 9 năm 2002,tờ $20 mới được giới thiệu. Các $20 mới được in trên nhựa

polymer dẻo hơn là giấy. Tờ $1000 mới được ban hành vào ngày 15 tháng 11 2004.

Ngân hàng của Mexico dùng “D1 series” để chỉ tiền giấy $20, $50, và $1000 trong

làn sóng thay đổi này.

Page 108: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 110 -

Ngày 05 tháng 4 2004 các Phòng đại biểu chấp thuận yêu cầu các Ngân hàng

của Mexico sản xuất trước 01 tháng 01 năm 2006 loại tiền giấy và tiền xu được

nhận dạng bởi người mù (ước tính hơn 750.000 công dân khiếm thị, trong đó có

250.000 là hoàn toàn mù). Ngày 19 tháng 12, năm 2005, $ 100, $ 200, và $500 MXN tiền giấy mô hình

xúc giác (như chữ nổi).

Mô hình xúc giác như sau:

Giá trị Bill Mô tả của mô hình

$ 100

Năm chéo dòng cạnh

nhau, có độ dốc âm, mỗi chia

thành ba phân đoạn.

$ 200

Chia nhỏ lên vuông mẫu.

$ 500

Bốn đường ngang dưới mỗi khác, mỗi chia thành ba

phân đoạn.

* Series F

Vào tháng 09 năm 2006, đã có thông báo cho rằng một dòng tiền giấy mới

sẽ được tung ra dần dần. Các mệnh giá 50 peso bằng polymer đã được đưa ra vào tháng 10 năm 2006. Những tờ 20-peso đã được đưa ra vào tháng 08 năm 2007.

Những tờ 1000 peso đã được đưa ra tháng 03 năm 2008.

Tiền giấy $200 được ban hành trong năm 2008, tờ $100 và $500 đã được

phát hành vào tháng 08 năm 2010.

*Bill kỷ niệm

Ngày 29 Tháng Chín 2009, Ngân hàng của Mexico công bố kỷ niệm của tiền

giấy. Tiền giấy 100 peso và tên gọi dự luật kỷ niệm trăm năm sự bắt đầu của cuộc

Cách mạng Mexico (1910-1920). Tờ 200 peso và tên gọi dự luật kỷ niệm hai trăm

năm cho sự bắt đầu của Chiến tranh Mexico vì độc lập (từ năm 1810).

Page 109: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 111 -

Các đồng peso Tiền giấy mệnh giá $ 100 cho thấy Mặt trận (trên) và ngược lại (dưới) bên

Các đồng peso Tiền giấy mệnh giá $ 200 cho thấy Mặt trận (còn lại) và ngược lại

(phải) bên

100 Peso Tiền giấy:

In trên polymer với kích thước là 66 mm chiều dài, và 134 mm. Mặt

trước của tờ tiền giấy các mô tả một đầu

máy, được sử dụng để vận chuyển quân

đội cách mạng, điều này tượng trưng

cho phong trào vũ trang đã bắt đầu vào

năm 1910. Ở mặt sau của tờ tiền giấy

có một phân đoạn một bức tranh tường

mang tên "Del Porfirismo a Revolución

la", được vẽ bởi nghệ sĩ David Alfaro

Siqueiros. Ngân hàng của Mexico in

50.000.000 tờ tiền giấy 100-peso.

200 Peso Tiền giấy:

Tờ 200-peso tên gọi dự luật kỷ niệm hai trăm năm

của các Bắt đầu của Độc lập

Mexico (1810-1821). Tờ giấy này

được in trong một định hướng thẳng

đứng với kích thước là 66 mm và

141 mm. Mặt chính của tờ tiền giấy

các mô tả của Lãnh tụ Mexico độc

lập, Don Miguel Hidalgo y Costilla,

mang theo biểu ngữ của ông mà sau

này được sử dụng bởi các máy bay

chiến đấu độc lập. Mặt ngược

lại mô tả các di tích mang tính

biểu tượng của Mexico City.

:

- Nhờ vào sự ổn định của nền kinh tế Mexico và sự tăng trưởng trong đầu tư

nước ngoài, đồng peso của Mexico hiện đang trong số 15 đơn vị tiền tệ được giao

dịch nhiều trong những năm gần đây; kể từ cuối những năm 1990 peso đã được giao

dịch ở mức khoảng 9 - 13 peso mỗi đô la Mỹ. Tính đến tháng 10 năm 2010, peso được giao dịch ở mức 12.35 peso mỗi đô la Mỹ.

3.5. CANADA: đô la (CAD)

Page 110: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 112 -

:

-Mã ISO 4217: CAD. Ký hiệu tiền tệ: $ hoặc C$ để phân biệt nó với các loại

tiền tệ khác cũng được gọi tên là đô la.Tiền kim loại: 1¢, 5¢, 10¢, 25¢, $1 (Loonie),

$2 (Toonie), 50¢ ( ít dùng).Tiền giấy: $5, $10, $20, $50, $100 (ít dùng).

-Tính đến 2007, đồng đô la Canada là loại tiền tệ được trao đổi hàng thứ 7

trên thế giới. Đằng sau đồng đô la Mỹ , các đồng euro , các yen , các sterling

pound , các franc Thụy Sĩ và các đồng đô la Úc.

- Tỉnh Canada tuyên bố rằng tất cả các tài khoản cần được duy trì theo đô la

và cent vào thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 1858, và ra lệnh phát hành các đồng tiền

xu Canada chính thức đầu tiên trong cùng một năm. Đồng đô la được chốt ngang

giá với đồng đô la Mỹ, theo tiêu chuẩn vàng là $1 = 23,22 grain (1,505 g) vàng.

- Năm 1861, New Brunswick và Nova Scotia theo sau Canada trong việc áp

dụng một hệ thống thập phân dựa trên đơn vị đô la Mỹ. Các vùng thuộc địa kết hợp

cùng nhau trong Liên bang Canada đã dần dần chấp thuận hệ thống thập phân trong

vài năm sau đó.

Nghị viện liên bang đã thông qua Đạo luật tiền tệ thống nhất vào tháng 4

năm 1871, thay thế các loại tiền tệ của các tỉnh khác nhau bằng một đồng đô la

Canada chung. Các tiêu chuẩn vàng đã tạm thời bị bỏ rơi trong Thế chiến thứ nhất và dứt khoát bãi bỏ vào ngày 10 Tháng Tư 1933.

-Tại sự bùng nổ của Thế chiến thứ hai , tỷ giá với đô la Mỹ đã được cố định

ở 1,1 đô la Canada = 1 $. Điều này đã được thay đổi để tính chẵn lẻ vào năm 1946.

Năm 1949, đồng bảng Anh đã mất giá và Canada theo sau, trở về với một tỉ giá của

1,1 đô la Canada = 1 $. Tuy nhiên, Canada cho phép đồng đô la của mình để thả nổi

vào năm 1950, chỉ có trở về cố định một tỷ giá hối đoái năm 1962, khi đồng đô la

đã được pegged lúc 1 đô la Canada = 0,925 $. Peg này kéo dài cho đến năm 1970,

sau đó của giá trị tiền tệ đã thả nổi. *Tiền xu

Trong năm 1858, các loại tiền xu 1 ¢ bằng đồng thiếc và 5 ¢, 10 ¢ và 20 ¢

bằng bạc 0,925 đã được tỉnh Canada ban hành. Ngoại trừ tiền xu 1 ¢ được đúc năm

1859, không có đồng xu nào đã được phát hành.

Đến năm 1870, việc sản xuất tiền xu 5 ¢ và 10 ¢ được phục hồi và các đồng

xu 25 ¢ và 50 ¢ bằng bạc được đưa vào sử dụng.

Tiền xu $ 5 và $ 10 bằng vàng đã được phát hành từ năm 1912 tới năm 1914. Trải qua nhiều thay đổi. Đến năm 2000, các loại tiền xu 1¢, 5¢, 10¢, 25¢ và

50¢ bằng thép mạ đã được giới thiệu, với đồng xu 1¢ được mạ đồng và những đồng

xu khác thì bọc bằng hợp kim đồng-niken.

Những đồng tiền xu được Xưởng đúc Canada hoàng gia sản xuất ở

Winnipeg, Manitoba, và hiện nay được phát hành với mệnh giá 1¢ (penny), 5¢

(nickel), 10¢ (dime), 25¢ (twenty-five cent piece) ("quarter" không phải là một tên

gọi chính thức tại Canada), 50¢ (50¢ piece) (mặc dù 50 ¢ piece ít khi được sử

dụng), $1 (loonie) Do sự xuất hiện của hình con chim lặn mỏ đen (loon trong tiếng

Page 111: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 113 -

Anh) trên mặt sau của của đồng đô la tiền xu, thay thế cho đồng đô la tiền giấy vào

năm 1987, từ "loonie" đã được dùng trong cách nói chuyện tại Canada để phân biệt

đồng đô la Canada tiền xu với đồng đô la Canada tiền giấy., và khi đồng hai đô la

tiền xu được đưa vào sử dụng năm 1996, thì từ phái sinh "toonie" đã trở thành từ phổ biến để chỉ nó trong tiếng lóng của tiếng Anh Canada $2 (toonie).

- Bộ tiêu chuẩn thiết kế là các biểu tượng của Canada (thường là động vật

hoang dã) nằm trên mặt trái, và hình Elizabeth II nổi trên mặt phải. Tuy nhiên, một

số đồng penny, nickel, dime hiện vẫn còn lưu thông có mang hình nổi của George

VI. Những đồng xu kỷ niệm với các mặt trái khác nhau cũng được phát hành không

định kỳ. Tiền xu 50¢ hiếm khi được tìm thấy trong lưu thông; chúng thường được

sưu tập và không được sử dụng thường xuyên trong các giao dịch thường nhật. Đã

có những cuộc thảo luận lặp đi lặp lại về việc rút penny ra khỏi lưu thông với lý do

là Xưởng đúc Canada hoàng gia phải mất tới 4 cent để sản xuất và phân phối đồng

tiền xu 1 cent này.[6]

Đồng penny Canada tiêu tốn ít nhất 130 triệu C$ mỗi năm để

duy trì nó trong lưu thông, theo ước tính của một tổ chức tài chính kêu gọi rút bỏ

đồng penny.[7]

Vào năm 2007 một cuộc khảo sát cho thấy, chỉ có 37% dân số

Canada sử dụng penny, nhưng chính phủ vẫn tiếp tục sản xuất khoảng 816 triệu

penny mỗi năm, tương đương 25 penny cho một người Canada.

Loạt giấy bạc ngân hàng Canada mới nhất:

- Tiền giấy có tên gọi là đô la được phát hành lần đầu ở Canada là British

Army Bills, phát hành vào giữa những năm 1813 và 1815 với mệnh giá trong

khoảng từ $1 tới $400. Chúng là sự phát hành khẩn cấp do cuộc chiến năm 1812.

Giấy bạc đầu tiên được Ngân hàng Montreal phát hành năm 1817.

- Sau khi thành lập vào năm 1841, trên địa bàn tỉnh Canada đã bắt đầu phát

hành tiền giấy. Giấy bạc được ngân hàng Montreal sản xuất cho chính phủ vào giữa

những năm 1842 và 1862, với các mệnh giá $4, $5, $10, $20, $50 và $100.

Một lượng lớn các ngân hàng đủ tư cách được thành lập trong các thập niên

1830, 1850, 1860 và 1870, mặc dù nhiều ngân hàng chỉ phát hành tiền giấy trong

một thời gian ngắn. Các ngân hàng khác, như ngân hàng Montreal, phát hành giấy

bạc trong một vài thập niên. Cho đến năm 1858, rất nhiều giấy bạc đã được phát

hành với mệnh giá là cả hai loại shilling/pound và đô la (5 shilling = $1). Một lượng

lớn các mệnh giá khác nhau đã được ban hành, bao gồm cả $1, $2, $3, $4, $5, $10, $20, $25, $40, $50, $100, $500 và $1000. Năm 1866, tỉnh Canada bắt đầu phát hành

tiền giấy riêng của mình, với các mệnh giá $1, $2, $5, $10, $20, $50, $100 và $500.

- Năm 1870, sau khi thành lập Liên bang, nhà nước tự trị Canada đã giới

thiệu giấy bạc 25¢ cùng với phát hành mới $1, $2, $500 và $1000. Giấy bạc $50 và

$100 theo sau trong năm 1872, nhưng phần lớn giấy bạc chính quyền sản xuất sau

này chỉ là giấy bạc $1 và $2, có $4 được thêm vào trong năm 1882. Các mệnh giá

$500, $1000, $5000 và $50,000 được phát hành sau năm 1896 chỉ để giao dịch ngân

hàng mà thôi.

Page 112: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 114 -

- Trong năm 1935, chỉ còn mười ngân hàng đủ tư cách (chartered bank) vẫn

còn phát hành giấy bạc, ngân hàng Canada được thành lập và bắt đầu phát hành các

giấy bạc với các mệnh giá $1, $2, $5, $10, $20, $50, $100, $500 và $1000. Năm

1944, các ngân hàng đủ tư cách đã bị cấm không cho phát hành tiền tệ riêng của mình, với Ngân hàng Hoàng gia Canada và Ngân hàng Montreal thuộc số những

ngân hàng cuối cùng được phát hành giấy bạc.

- Mặc dù tiền xu $1 được giới thiệu vào năm 1935, nhưng chưa tới khi giới

thiệu nó thì giấy bạc ngân hàng $1 đã được rút khỏi lưu thông. Giấy bạc $2 cũng đã

được thay thế bằng tiền xu năm 1996. Hiện tại tất cả các giấy bạc ngân hàng đều

được Công ty giấy bạc Canada và BA International Inc in cho Ngân hàng Canada.

- Trong năm 2000, Ngân hàng Canada ngừng việc phát hành giấy bạc $1000

và bắt đầu rút chúng ra khỏi lưu thông, "như là một phần của cuộc chiến chống rửa

tiền và các tổ chức tội phạm."

Giấy bạc đô la Canada được Ngân hàng Canada phát hành là tiền tệ chính

thức ở Canada. Tuy nhiên, các giao dịch thương mại có thể được thanh toán hợp

pháp theo bất kỳ cách nào mà các bên liên quan thỏ a thuận. Tiền tệ chính thức của

hệ thống tiền tệ Canada được điều chỉnh bằng Đạo luật tiền tệ.

*Giá trị - Không giống như các loại tiền tệ khác trong hệ thống Bretton Woods, có

giá trị cố định, đồng đô la Canada đã được cho phép để thả nổi từ năm 1950 tới năm

1962.

Ngân hàng Canada không có mục tiêu giá trị cụ thể cho đồng đô la Canada

và đã không can thiệp vào các thị trường ngoại hối kể từ năm 1998.[18]

Quan điểm

hiện tại của Ngân hàng Canada là các điều kiện thị trường sẽ xác định giá trị của

đồng đô la Canada.

Trên thị trường thế giới, theo dòng lịch sử, đô la Canada có khuynh hướng xê

dịch theo đô la Mỹ. Sự tăng giá biểu kiến của đô la Canada (so với đô la Mỹ) có thể

vẫn chỉ là giảm giá so với các loại tiền tệ quốc tế khác; tuy nhiên, trong quá trình

tăng giá của đô la Canada từ năm 2002, nó đã tăng giá trị so với cả đô la Mỹ cũng

như so với các loại tiền tệ quốc tế khác.

Do giá trị tăng cao và tỷ giá cao kỷ lục mới, đô la Canada đã được tạp chí

Time tặng danh hiệu Canadian Newsmaker of the Year (Sự kiện Canada của năm)

cho năm 2007 *Tiền tệ dự trữ

-Một số ngân hàng trung ương (và ngân hàng thương mại) giữ đô la Canada

như là tiền tệ dự trữ. Đô la Canada được coi là một loại tiền tệ kiểm chuẩn.

Trong nền kinh tế châu Mỹ đô la Canada đóng một vai trò tương tự như đô la

Úc (AUD) tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Đô la Canada (trong vai trò như

là một loại tiền tệ dự trữ cho ngân hàng) từng là một phần quan trọng của các nền

kinh tế và các hệ thống tài chính các quốc gia vùng Caribe thuộc Anh, Pháp và Hà

Lan kể từ thập niên 1950. Đô la Canada cũng được nhiều ngân hàng trung ương ở

Page 113: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 115 -

Trung Mỹ và Nam Mỹ nắm giữ. Việc nắm giữ đô la Canada tại châu Mỹ Latinh

được thực hiện như thế là do tại mỗi quốc gia đều có sự lưu hành kiều hối và

thương mại quốc tế có tầm quan trọng quốc gia.

-Bằng cách theo dõi sự xê dịch của đô la Canada so với đô la Mỹ, các nhà kinh tế ngoại hối có thể gián tiếp theo dõi các trạng thái và các mẫu hình nội tại của

nền kinh tế Mỹ mà có thể không nhận thấy bằng cách theo dõi trực tiếp. Đô la

Canada chỉ tiến triển đầy đủ thành loại tiền tệ dự trữ toàn cầu kể từ thập niên 1970

khi nó được thả nổi so với tất cả các loại tiền tệ khác trên thế giới.

*Cách nhận biết tiền giả:

T ouch tăng

mực (5).

T i lt. Màu

sắc thay đổi

trong dải kim

loại (1) và dấu

gạch ngang

(3).

L ook thông

qua dự luật.

Giữ nó với ánh

sáng. Kiểm tra

hình ảnh ma

quái (2) và số

lượng câu đố

(4). Hãy chắc

chắn rằng dấu

gạch ngang (3)

tạo thành một

dòng rắn.

L ook vào lúc

xuất hiện và

hành động của

từng tính năng

bảo mật cẩn

thận.

:

- Tỷ giá giao dịch tại các ngân hàng ở Canada trong sáng 07/04/2010 là

0,9999 CAD đổi được 1 USD. Các chuyên gia kinh tế cho rằng nền tảng kinh tế chắc chắn của Canada cũng như triển vọng lạc quan của kinh tế thế giới đã hỗ trợ

đồng CAD tăng giá mạnh so với đồng USD.

BoC đã cam kết duy trì lãi suất ở mức thấp kỷ lục 0,25% đến cuối tháng 6 tới

nhằm thúc đẩy sự phục hồi kinh tế và kiềm chế lạm phát, song các nhà sản xuất đã

Page 114: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 116 -

bắt đầu tăng giá hàng hóa trước khi có quyết định tăng lãi suất của ngân hàng trung

ương, do kinh tế Canada đang phục hồi nhanh chóng.

- Chuyên gia Audrey Childe-Freeman, thuộc tổ chức Brown Brothers

Harriman (ngân hàng tư nhân lớn và lâu đời nhất ở Hoa Kỳ), dự đoán đồng CAD sẽ còn mạnh hơn nhờ triển vọng chính sách tài chính, hệ thống ngân hàng vững mạnh

và giá cả hàng hóa phục hồi ở Canada.

- Nhà kinh tế hàng đầu Avery Shenfeld của CIBC World Markets (một ngân

hàng đầu tư thuộc Ngân hàng hoàng gia Canada) cũng cho rằng sự ổn định của nền

kinh tế Canada là nhân tố quan trọng để đưa đồng CAD lên ngang bằng giá trị đồng

USD vào năm 2007 và 2008. Ông dự đoán đồng CAD vẫn sẽ mạnh lên kể cả khi giá

dầu không trở lại những mức cao như trước đây.

: Đô la(USD)

a)

- Đồng đô la Mỹ hay Mỹ kim (United States dollar, ký hiệu: $; mã ISO

4217: USD; Quỹ tiền tê quốc tế (IMF) dùng US$), còn được gọi ngắn là "đô la" hay

"đô", là đơn vị tiền tệ chính thức của Hoa Kỳ.

- Đồng đô la Mỹ lấy tên từ đồng 8 real của Tây Ban Nha. Trong thời kỳ

thuộc địa, tiền này khá phổ biến đối với người Mỹ - họ gọi nó là đồng đô la Tây Ban Nha. Các đồng đô la đầu tiên được chính phủ Hoa Kỳ đúc có cùng cỡ và cấu

tạo với đồng đô la Tây Ban Nha, có khối lượng bạc ít hơn 1 ounce.

- Đồng đô la Mỹ thông thường được chia ra thành 100 xu (cent, ký hiệu ¢).

Trong một cách chia khác, có 1.000 min (mill) trong mỗi đô la; 10 đô la còn được

gọi là Eagle (đại bàng). Tuy nhiên, chỉ có đơn vị xu mới được dùng rộng rãi; dân

chúng Mỹ ít nghe đến "eagle" hay "mill", tuy mill có khi được dùng trong việc thu

thuế.

- Trong tiền được lưu hành, các đơn vị ít hơn hoặc bằng 1 đô la được phát

hành với dạng tiền kim loại trong khi các đơn vị nhiều hơn hoặc bằng 1 đô la được

phát hành với dạng tiền giấy (đơn vị 1 đô la có thể theo dạng tiền giấy hay tiền kim

loại, nhưng tiền giấy được lưu hành hơn nhiều).

- Hiện nay, việc phát hành tiền được quản lý bởi các hệ thống ngân hàng của

Cục Dự trữ Liên bang.

- Tiền kim loại được đúc bởi Sở đúc tiền Hoa Kỳ (United States Mint). Tiền

giấy được in bởi Cục Khắc và In (Bureau of Engraving and Printing) cho Cục Dự trữ Liên bang từ năm 1914. Chúng được bắt đầu in giấy bạc cỡ lớn, nhưng từ năm

1928 đã đổi thành cỡ nhỏ.

- Ngày nay đô la được in thành các mệnh giá $1, $2, $5, $10, $20, $50, và

$100. Tuy nhiên cũng có thời gian tiền Hoa Kỳ gồm có năm loại có mệnh giá lớn

hơn.

- Tiền mệnh giá cao thịnh hành vào thời điểm chúng được Chính phủ Hoa

Kỳ phát hành lần đầu tiên vào năm 1861. Các tờ $500, $1.000, và $5.000 có giá trị

Page 115: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 117 -

sinh lời được phát hành vào năm 1861, và tờ chứng nhận $10.000 vàng ra đời năm

1865.

- Tiền giấy trên 100 đô la không còn được in nữa sau 1946 và đã chính thức

ngưng lưu hành trong năm 1969. Sau khi việc trao đổi tiền điện tử được ra đời, chúng trở thành dư thừa. Các đơn vị tiền lớn đã được phát hành gồm có $500,

$1.000, $5.000, $10.000 và $100.000.

*Tiền kim loại:

Đang được lưu hành có tiền kim loại 1¢ (penny), 5¢ (nickel), 10¢ (dime),

25¢ (quarter), 50¢ (nửa đô la, không thịnh hành) và $1 (không thịnh hành).

Đồng bạc được đúc giữa 1794 đến 1935 với một vài thời gian bị gián đoạn

Tiền đúc bằng đồng và niken cùng cỡ được đúc từ 1971 đến 1978.

Trong năm 2000, một đồng $1 mới có hình Sacagawea được ra mắt, chúng

có viền phẳng và có màu vàng kim loại. Dù vậy, chúng không được ưa chuộng bằng

đồng tiền giấy $1 và ít được dùng trong công việc hằng ngày.

Trong quá khứ, Hoa

Kỳ đã đúc tiền kim loại với

giá trị: nửa xu, hai xu, ba xu,

hai mươi xu, $2,50, $3,00,

$4,00, $5,00, $10,00 và

$20,00.

Sở Đúc tiền Hoa Kỳ

cũng sản xuất tiền thoi vàng

và bạch kim, được gọi là "American Eagles" (Đại bàng

Mỹ), đều là tiền tệ chính thức

tuy chúng rất hiếm khi được

dùng.

Đồng thoi American

Silver Eagle (Đại bàng bạc

Mỹ) được lưu hành với giá trị

$1 (1 ounce troy).

Tổng thống Abraham Lincoln trên đồng

1cent Tổng thống George Washington trên

đồng Quarter Dollar

Page 116: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 118 -

Đồng thoi American Gold Eagle (Đại bàng vàng Mỹ) có giá trị $5 (1/10

ounce troy), $10 (1/4 ounce troy), $25 (1/2 ounce troy) và $50 (1 ounce troy).

Đồng thoi American Platinum Eagle (Đại bàng bạch kim Mỹ) có giá trị $10

(1/10 ounce troy), $25 (1/4 ounce troy), $50 (1/2 ounce troy) và $100 (1 ounce troy).

Đồng bạc có 99,9% bạc, đồng

vàng có 91,67% vàng (22 karat) và

đồng bạch kim có 99,95% bạch kim.

Các đồng tiền này không có bán lẻ

cho cá nhân, mà phải mua từ các cơ

quan có phép.

Sở Đúc tiền còn sản xuất tiền

kim loại dành cho các nhà sưu tầm, có

cùng giá mặt và thể tích vàng thoi, để

bán lẻ. Hiện giờ đơn vị lớn nhất được

lưu hành là tờ $100 và đồng $100 ounce troy Platinum Eagle.

*Tiền giấy:

- Chân dung những người được in trên Dollar Mỹ là những vị Tổng thống nổi tiếng, những nhà kinh tế lỗi lạc... được người dân Mỹ ngưỡng mộ. Và để

“lưu danh thiên cổ”, chân dung cũng như tên tuổi của họ vẫn đang được hàng triệu

người dân thế giới truyền tay nhau qua những đồng Dollar Mỹ

-Các loại tiền giấy đôla Mỹ có chung dạng trang trí, chung mầu sắc (đen

bóng mặt trước và xanh lá cây mặt sau) có cùng kích thước (156 x 66 mm) cho dù chúng có giá trị khác nhau, từ 1 USD trở lên. Mỗi loại tiền giấy, ứng với một mệnh

giá, mang hình một tổng thống Mỹ theo đúng quy định.

Hai chức năng chống tiền giả quan trọng nhất trong tiền Mỹ là giấy và mực.

Các thành phần của giấy và các chế biến mực còn được giữ bí mật. Sự kết hợp của

giấy và mực tạo ra một lớp da đặc biệt, càng được nổi rệt ra khi tiền được qua nhiều

tay. Các đặc điểm này khó tái tạo được nếu không có đủ thiết bị và vật dụng.Tiền

giấy Mỹ rất khó phân biệt: chúng có hoa văn rất giống nhau, và được in bằng cùng

màu, và có cỡ bằng nhau. Trong khi đó, các đơn vị tiền quan trọng khác như đồng

Tổng thống George Washington trên tờ 1 Dollar Tổng thống Thomas Jefferson trên tờ 2 Dollar

Page 117: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 119 -

euro có tiền với cỡ khác nnhau: mệnh giá càng cao thì cỡ tiền càng lớn, và chúng

còn được in bằng nhiều màu khác nhau. Chẳng những chúng giúp người khiếm thị,

chúng còn giúp người thường không lẫn lộn một tờ giấy có giá trị cao trong một xấp

tiền có giá trị thấp, một vấn đề thường gặp ở Mỹ. Các du khách cũng thường không phân biệt được tiền Mỹ vì họ không rành lắm với những hoa văn trên mặt giấy.

*Đặc điểm nhận dạng 100 dollar mới:

-

.

- 3-D:

.

:

.

Page 118: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 120 -

.

:

.

Dây bảo an:

.

:

.

Page 119: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 121 -

:

100 đô la n

.

: .

:

.

-

Ngân hàng

.

Page 120: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 122 -

Các số sê-ri

-

.

:

.C.

:

. Đâ

.

Page 121: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 123 -

:

-

.

Màu sắc:

tiền.

Sử dụng quốc tế:

Page 122: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 124 -

- Vào thời điểm này, đồng đô la Mỹ vẫn là đơn vị tiền dự trữ hàng đầu, hầu

hết trong đơn vị $100. Phần đông tiền giấy Hoa Kỳ đang ở ngoài Hoa Kỳ. Đồng đô

la còn được dùng làm đơn vị tiêu chuẩn trong các thị trường quốc tế cho các mặt

hàng như vàng và dầu hỏa. - Một số quốc gia ngoài Hoa Kỳ sử dụng đồng đô la Mỹ làm đơn vị tiền tệ

chính thức. Ecuador, El Salvador và Đông Timor dùng đô la Mỹ. Các cựu thành

viên trong nhóm Lãnh thổ Tín nhiệm Các đảo Thái Bình Dương (Trust Territory of

the Pacifi Islands) dưới sự quản lý của Hoa Kỳ, kể cả Palau, Micronesia và Quần

đảo Marshall, đã không phát hành tiền riêng sau khi họ độc lập.

- Thêm vào đó, đơn vị tiền địa phương của Bermuda, Bahamas, Panama và

một số quốc gia khác có thể hoán đổi với đồng USD với tỷ giá 1:1.

+ Đơn vị tiền tệ của Barbados được hoán đổi với tỷ giá 2:1.

+ Argentina đã dùng tỷ giá hoán đổi 1:1 giữa đồng peso Argentina và đô la

Mỹ từ 1991 đến 2002.

+ Đồng Nhân dân tệ $của CHND Trung Hoa đã được ổn định giá với đô la

Mỹ từ giữa thập niên 1990 với giá Y8,28/USD cho đến ngày 21 tháng 7, 2005.

- Không lâu sau khi đồng euro (€; mã ISO 4217 EUR) được ra mắt như tiền

mặt trong năm 2002, đồng đô la đã bị từ từ giảm giá trên thị trường quốc tế. Sau khi đồng euro lên giá trong tháng 3 năm 2002, việc thiếu hụt trong chi tiêu và thương

mại của Hoa Kỳ ngày càng gia tăng. Đến Giáng Sinh năm 2004 đồng đô la đã tụt

giá thấp nhất đối với các đơn vị tiền quan trọng khác, đặc biệt là đồng euro. Đồng

euro lên giá cao hơn $1,36/€ (dưới 0,74€/$) lần đầu tiên cuối năm 2004, khác hẳn

với đầu năm 2003 ($0,87/€). Bắt đầu từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 6 năm 2005

đồng đô la lại lên giá nhanh chóng so với đồng euro sau khi nền kinh tế các nước

châu Âu đang ứ đọng và Hiến pháp Liên minh châu Âu không được phê chuẩn

trong cuộc trưng cầu dân ý ở hai nước Pháp và Hà Lan. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp

tại các nước sử dụng euro và sự phát triển kinh tế bị chậm lại tại các nước thuộc

Liên Minh, đồng euro có thể bị xuống giá so với đồng đô la, tuy đồng euro vẫn giữ

sức mạnh. :

- Từ năm 2000 – 2009, người Mỹ đã từng bước chứng kiến giá trị tài sản và

sức mua đồng USD dần trượt dốc. Trong suốt thập niên vừa qua đồng USD đã dần

giảm giá so với hầu hết các đồng tiền mạnh khác ngoại trừ đồng Bảng Anh. Phần lớn sự suy yếu của đồng bạc xanh trong năm vừa rồi bắt nguồn từ việc duy trì mức

lãi suất thấp kỉ lục của FED. Nguyên nhân chính dẫn đến sự hồi phục gần đây của

đồng USD là do niềm tin vào sự phục hồi của nên kinh tế Mỹ, do đó FED có thể sẽ

tăng lãi suất trở lại sớm hơn dự kiến. Theo tính toán, hiện tại có đến 57% khả năng

FED sẽ tăng lãi suất trong kỳ họp tháng 6, 80% khả năng sẽ tăng lãi suất vào tháng

8. Việc đồng USD giảm giá trị đã góp phần làm tăng thâm hụt ngân sách, giảm vai

trò làm đồng tiền dự trữ và góp một phần vào cơn khủng hoảng tài chính vừa qua. 4/ Châu Phi:

Page 123: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 125 -

-Giới thiệu vài nét về kinh tế Châu Phi:

Nền kinh tế của châu Phi bao gồm thương mại , công nghiệp , và các nguồn lực

của người dân châu Phi .Đến năm 2006, có khoảng 922.000.000 người đã sống ở 54 quốc gia khác nhau .Châu Phi là nơi sinh sống của lục địa nghèo nhất thế giới. Mặc dù các bộ phận của châu lục này đã tăng trưởng đáng kể trong vài năm qua, 175 quốc gia xem xét

trong Liên hợp quốc " Báo cáo phát triển con người năm 2003, 25 quốc gia châu Phi được xếp hạng thấp nhất trong số các quốc gia trên thế giới. Điều này một phần là do lịch sử

sóng gió của nó.Các phi thực dân hóa của châu Phi đã đầy bất ổn trầm trọng hơn do xung đột chiến tranh lạnh. Kể từ giữa thế kỷ 20, các cuộc chiến tranh lạnh và tăng tham nhũng và chế độ chuyên quyền cũng đóng góp cho nền kinh tế nghèo của châu Phi.

Sự tương phản lớn nhất về phát triển đã được so sánh giữa châu Phi và các nền kinh tế của Châu Âu .Các kinh tế châu Phi Outlook báo cáo cụ thể đề cập rằng châu Phi

thương mại với Trung Quốc đã nhân lên 10 kể từ năm 2001, đạt trên 100 tỷ USD trong năm 2008. Các nền kinh tế của Trung Quốc và Ấn Độ đã phát triển nhanh chóng, trong khi châu Mỹ Latinh cũng đã tăng trưởng trung bình, nâng hàng triệu người trên sống tự

cung tự cấp. Ngược lại, phần lớn châu Phi đã trì trệ và thậm chí thụt lùi về mặt thương mại nước ngoài , đầu tư , thu nhập bình quân đầu người và tăng trưởng kinh tế mà nguyên nhân

chủ yếu là tuổi thọ thấp, bạo lực và sự bất ổn định, mà trong đó lần lượt có các vấn đề tồn tăng trưởng của châu lục. Trong những thập kỷ, đã có nhiều nỗ lực không thành công để cải thiện nền kinh tế của từng quốc gia châu Phi. Tuy nhiên, số liệu gần đây cho thấy một

số phần của châu lục này đang trải qua sự tăng trưởng nhanh hơn.Các Ngân hàng Thế giới báo cáo các nền kinh tế của các nước hạ Sahara châu Phi đã tăng trưởng ở mức phù hợp với mức giá toàn cầu. Các nền kinh tế phát triển nhanh nhất nước châu Phi tăng trưởng

đáng kể so với tỷ lệ trung bình toàn cầu. Các quốc gia hàng đầu trong năm 2007 bao gồm Mauritania với tốc độ tăng trưởng 19,8%, Angola tại 17,6%, Sudan ở 9,6%, Mozambique ở

7,9% và Malawi ở 7,8%. Nhiều cơ quan quốc tế đang có sự quan tâm ngày càng cao đối với nền kinh tế đang nổi lên hiện đại hóa châu Phi , đặc biệt là châu Phi tiếp tục duy trì tăng trưởng kinh tế cao, mặc dù hiện tại tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu .

4.1. NAM PHI: Rand (R)

- Nam Phi là kết quả của quá trình nhập cư sớm từ Châu Âu và tầm quan

trọng chiến lược của Con đường Biển Cape.

- Theo xếp hạng của Liên hiệp quốc, Nam Phi là quốc gia có mức thu nhập

loại trung bình và sở hữu nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên; tài chính, truyền

thông và năng lượng rất phát triển. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người của Nam Phi, tính theo sức mua tương đương, đặt nước này vào vị trí một trong

năm mươi nước giàu nhất thế giới.

- Hố sâu thu nhập và một nền kinh tế đối ngẫu cho thấy Nam Phi là một nước

phát triển. Nam Phi có một trong những tỷ lệ bất bình đẳng thu nhập cao nhất thế

giới. Nam Phi cũng là nước sản xuất và tiêu thụ năng lượng lớn nhất châu lục Châu

Phi.

Các giai đoạn phát triển của các đơn vị tiền tệ tại Nam Phi:

Nam Phi tồn tại hai hình thái tiền tệ:

*Tiền xu:

Page 124: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 126 -

-Tiền xu đã được giới thiệu vào năm 1961 với các mệnh giá ½, 1, 2 ½, 5, 10,

20, 50 xu. Năm 1965, đồng tiền 2-xu thay thế cho 2 đồng tiền xu ½. Các đồng tiền

xu ½ lần cuối tấn lưu thông vào năm 1973. Các 2-rand đã được giới thiệu vào năm

1989, tiếp theo là đồng xu 5-rand trong năm 1994. 1 - và tiền kim loại 2-xu đã ngưng vào tháng Tư năm 2002, chủ yếu do lạm phát có giảm giá trị chúng. Tất cả

giá là bây giờ làm tròn gần nhất 5 cent.

Năm 1961, Nam Phi đã thay thế đồng bảng với một loại tiền tệ thập phân:

100 xu (100c) = 1 rand (R1), 1 rand được giá trị từ 10 shilling.

1 / 2 c, 1 c và

5 đồng tiền c ban hành từ năm

1961 - 1964.

1 R và 2 đồng xu R phát

hành 1961-1983.

- Các rand đã được giới

thiệu tại Nam Phi vào tháng Hai năm 1961, sau khi trưng cầu dân ý của tháng 11

năm 1960 được thành lập tự chủ của Đế quốc Anh .

Các đồng tiền lưu thông đầu tiên của nước Cộng hoà: ½ phần trăm,1 xu , 2 ½

cent (thay thế 3d), 5 xu (thay thế 6ngày), 10 cent (thay thế số 1),20 xu (thay thế 2s),50 xu (thay thế 5 tuổi). Các đồng tiền ban đầu đã có cùng kích thước với các

đồng tiền Anh. Tất cả ngoại trừ 1/2 và 1 đồng tiền xu đã bạc.

Ngoài ra, hai thỏi tiền kim loại có mệnh giá 1 R và R 2 được ban hành, thay

thế một nửa pound vàng và bảng Anh tiền xu được giới thiệu vào năm 1952.

-Một loạt tiền kim loại đã sửa đổi đã được giới thiệu cho năm 1965. Giáo

phái bao gồm 1/2, 1, 2, 5, 10, 20 và 50 xu.

Page 125: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 127 -

Những đồng xu 1/2 phần trăm đã bị dừng vào năm 1970.Các đồng tiền vàng

rand được đúc cho đến năm 1983. Bắt đầu từ năm 1967, tuy nhiên, họ đã dần dần

thay thế bằng các Krugerrand tiền xu, nhất là sau khi vấn đề của giáo phái nhỏ hơn

Krugerrand từ 1/10 đến 1/2 oz vào năm 1980.

- New đúc tiền đã được giới thiệu bắt đầu

bằng một R2 mệnh giá (ban đầu được gọi

colloquially như là một "De Klerk"), thêm một đồng xu R5, và thay thế tất cả các mệnh giá của tiền kim loại trước đó. Ban đầu các đồng tiền mang huy hiệu

và tên của đất nước trong tiếng Anh và tiếng Hà Lan Nam Phi.

Đúc tiền kim loại 1c và 2c chấm dứt vào cuối tháng Ba năm 2002. Tất cả giao dịch tiền mặt được làm tròn đến 5 xu gần nhất. Những đồng xu vẫn còn hợp

pháp, nhưng có ít nhiều biến mất khỏi lưu thông.

- A mới hai kim loại đồng xu R5 với các tính năng bảo mật, trong đó có một

cạnh rãnh và chữ trên vi đảo ngược, được giới thiệu vào năm 2004.

*Tiền giấy

Page 126: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 128 -

Đồng Rand của Nam Phi

Năm 1961, đồng rand đã đựoc thiết kế thay thế cho pound. Tuy nhiên, phải đến

những năm 1990, khi sự phân biệt chủng tộc không còn tồn tại thì chúng mới được

giới thiệu.

Dòng đầu tiên của tiền rand đã được giới thiệu vào năm 1961 với các mệnh

giá 1, 2, 10 và 20 rand, với thiết kế tương tự và màu sắc cho các ghi chú pound

trước để dễ dàng chuyển đổi.

Dòng 1978 bắt đầu với mệnh giá của 2, 5 và 10 rand, với 20 và 50 rand giới

thiệu vào năm 1984. 100 và 200 ra đã được giới thiệu vào năm 1994.

Trong năm 2010, Nam Phi, Ngân hàng dự trữ và các ngân hàng thương mại đã rút tất cả 1990 series R200 tiền giấy do chất lượng cao tương đối đồng tiền giả

trong lưu thông.

c) :

- Đồng Rand của Nam Phi được sử dụng rộng rãi ở châu lục Châu Phi này,

có thể tính khoảng hơn 10 quốc gia sử dụng đồng tiền chung của Nam Phi và sắp

tới đồng tiền Rand có thể sử dụng chung cho toàn châu lục này.

- Đồng Rand của Nam Phi tuy thời gian đầu hình thành, nó không có một vị

thế mạnh trên thế giới vì những năm trước đây nền kinh tế Châu Phi noi chung và

kinh tế của Nam Phi nói riêng vẫn còn khá nghèo, tăng trưởng thấp nên đồng Rand

của Nam Phi vẫn chưa được đánh giá cao trên thị trường quốc tế. Nhưng vào những

năm trở lại đây nó đã được đánh giá cao, có thể làm ảnh hưởng đến đồng USD, một

phần là do giá trị đồng USD chịu sự ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, một

phần là do sự tăng trưởng của nền kinh tế Nam Phi nhất là sự tăng giá trị của các

kim loại quý, là một tài sản mà Nam Phi đang sở hữu.

- Đồng rand Nam Phi, đồng tiền tệ thị trường hoạt động nhất thế giới, đã gia nhập câu lạc bộ mười lăm đồng tiền tệ được ưa thích, hệ thống Thanh toán kết nối

liên tục (CLS), nơi các giao dịch được giải quyết lập tức, làm giảm nguy cơ giao

dịch xuyên múi giờ. Theo Bloomberg Currency Scorecard, đồng rand Nam Phi

(ZAR) là đồng tiền tệ hoạt động tốt nhất trước đồng dollar Mỹ trong giai đoạn 2002

- 2005.

4.2. AI CẬP: Pound(EGP)

Ai Cập cổ đại là một thế giới thịnh vượng nhất của nền văn minh, tiên tiến,

mà bắt đầu vào khoảng 3150 trước Công nguyên với sự thống nhất chính t rị của

Page 127: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 129 -

Thượng và Hạ Ai Cập theo pharaoh đầu tiên, và nó phát triển trong thiên niên kỷ ba

kế tiếp. Bước vào thế kỷ 19, Ai Cập vẫn giữ một trong những vùng phát triển nhất

trên thế giới.

Ai Cập là một thị trường được các công ty quốc gia xem là trọng điểm trong khu vực Trung Đông và Bắc Phi. Kinh tế Ai Cập phụ thuộc chủ yếu vào nông

nghiệp, môi giới trung gian, xuất khẩu dầu mỏ và du lịch; cũng có hơn 5 triệu người

Ai Cập đang làm việc ở nước ngoài, đa số tại Ả rập Xê út, vùng Vịnh như UAE, và

Châu Âu. Hoa Kỳ cũng có một lượng lớn dân nhập cư Ai Cập.Ai Cập có thu nhập

GDP đầu người ở mức 5800 USD, đứng thứ 133 trên thế giới.Ngoài ra, hiện tại Ai

Cập cung cấp khoảng 55% sản lượng vải cotton trên thế giới .

Các giai đoạn phát triển của các đơn vị tiền tệ tại Ai Cập:

Đồng tiền của Ai Cập được phát

hành ở hai dạng:

Tiền giấy:

Năm 1834, đồng bảng Ai Cập

đã được giới thiệu, thay thế piastre Ai

Cập là đơn vị trưởng của tiền tệ dựa trên một Nghị định Hoàng gia về việc

ban hành một Bill Quốc hội, tuy nhiên

các piastre tiếp tục lưu hành, như là 1 /

100 của một pound, với piastre chia

thành 40 đoạn.

Năm 1885, các đoạn đã không còn được phát hành và piastre được chia

thành các phần mười.

Người đầu tiên phát hành tờ tiền giấy Pound Ai Cập là vào năm 1899.

Đồng bảng Ai Cập được lưu hành vào năm 1989, tuy nhiên, trôi nổi nhưng

vẫn được quản lý chặt chẽ bởi Ngân hàng Trung ương của Ai Cập và việc kiểm

soát ngoại hối vẫn đang có hiệu lực.

Đến ngày 03 tháng 04 năm 1899, các Ngân hàng quốc gia của Ai Cập mới

chính thức ban hành tiền giấy lần đầu tiên. Các Ngân hàng quốc gia của Ai Cập đưa

ra các ghi chú với các mệnh giá của 50 Piastres, 1 5, 10, 50 và 100 Pounds Ai Cập

đã được giới thiệu. Giữa năm 1916 và năm 1917, 25 ghi chú Piastres đã được thêm vào,

cùng với các ghi chú tiền tệ của chính phủ

cho 5 và 10 Piastres. Ban hành liên tục, 5 và

10 Piastres ngày nay được sản xuất bởi Bộ

Tài chính .

Sau đó, Ngân hàng Quốc gia của Ai

Cập đã được thống nhất vào Ngân hàng

Trung Ương của Ai Cập trong năm 1961 và

Page 128: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 130 -

phát hành giấy bạc mệnh giá 25 và 50 Piasters, 1, 5 Pounds, 10 và 20 Pounds ghi

chú đã được giới thiệu vào năm 1976, theo sau bởi 100 gineih năm 1978, 50 bảng

Anh trong Ai Cập năm 1993 và 200 Pounds trong năm 2007.

20 EGP tờ tiền giấy - 1976

100 EGP tờ tiền giấy - 1978

1 EGP tờ tiền giấy - 1924

10 EGP tờ tiền giấy - 1937

50 EPT tờ tiền giấy - 1951

5 EGP tờ tiền giấy - 1958

1 EGP tờ tiền giấy - 1971

25 EPT tờ tiền giấy - 1974

20 EGP tờ tiền giấy - 1976

100 EGP tờ tiền giấy - 1978

Page 129: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 131 -

Page 130: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 132 -

Tất cả tiền giấy của Ai Cập là song ngữ , bằng tiếng Ả Rập văn bản và Đông

Ả Rập trên Mặt chính và tiếng Anh và tiếng Ả Rập Hindu chữ số trên đảo ngược.

Mặt chính có xu hướng thiết kế tính năng một Hồi giáo xây dựng với thiết kế có

tính năng đảo ngược của Ai Cập cổ đại họa tiết (các tòa nhà, tượng và chữ viết).

Đến năm 2007, có 200 Pound ghi chú lưu hành tại Ai Cập và sau đó là 500

Pound ghi chú sẽ bắt đầu lưu hành.

Đến mùa hè năm 2009, tiền giấy của một pound và một nửa đang được loại

bỏ, thay thế bằng sử dụng rộng rãi hơn của đồng tiền. Tiền xu:

1 / 40 EPT Coin -1839

1 / 40 EPT Coin -1909

Page 131: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 133 -

10 EPT Coin -1909

20 EPT đồng xu -1915

2 Millieme Coin -1916

2

1 / 2 Millieme Coin -1933

1 / 2 Millieme Coin -1938

1 EGP vàng Coin -1938

10 millieme đồng xu -1943

2 EPT đồng xu -1944

1 đồng xu millieme -1954

25 EPT đồng xu -1970

Giữa năm 1834 và 1836, đồng 1 và 5 đoạn , bạc 10 và đoạn 20, 1, 5, 10 và

piastre 20, vàng 5, 10 và piastre 20 và 1 đồng tiền pound đã được giới thiệu, với 50

xu piastre vàng sau năm 1839. ( 1 đoạn = 1 / 40 piastre).

10 đồng tiền xu đoạn đã được giới thiệu vào năm 1853, mặc dù đồng tiền bạc

vẫn tiếp tục được phát hành. 10 đồng tiền xu đã được một lần nữa giới thiệu đoạn

năm 1862, tiếp theo đoạn 4 đồng và 2 1 / 2 tiền xu piastre năm 1863. Giá vàng 25

xu piastre đã được giới thiệu vào năm 1867.

Page 132: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 134 -

Năm 1885, một đúc tiền mới đã được giới thiệu bao gồm đồng 1 / 4,

1 / 2, 1, 2

và millieme 5, bạc 1, 2, 5, 10 và 20 xu piastre. Việc đúc tiền vàng thực tế đã không

còn, chỉ có số lượng nhỏ của 5 và 10 xu piastre ban hành.

Năm 1916 và 1917, một cơ sở đúc tiền kim loại mới được giới thiệu bao gồm đồng

1 / 2 millieme và đục lỗ, đồng kền 1, 2, 5 và 10 xu millieme. 2 Bạc, 5, 10 và

20 xu piastre tiếp tục được ban hành, và một đồng tiền vàng 1 bảng Anh được giới

thiệu lại. Giữa năm 1922 và 1923, đúc tiền vàng đã được mở rộng để bao gồm 20

và piastre 50 và 1 và 5 xu pound. Trong năm 1924, đồng thay thế đồng kền trong

xu millieme 1 và các lỗ đã được gỡ bỏ từ những đồng xu đồng kền khác. Năm

1938, đồng 5 và 10 xu millieme đã được giới thiệu, tiếp theo vào năm 1944 bởi bạc,

lục giác 2 xu piastre.

Giữa năm 1954 và 1956, một đúc tiền mới đã được giới thiệu, bao gồm đồng,

nhôm 1, 5 và millieme 10 và bạc 5, 10 và 20 xu piastre, với kích thước của các đúc

tiền bạc giảm đáng kể. An nhôm-đồng 2 đồng xu millieme được giới thiệu vào năm

1962. Năm 1967 đúc tiền bạc đã bị bỏ và cupro-nickel 5 và 10 xu piastre đã được

giới thiệu.

Nhôm thay thế đồng trong các đồng tiền 1, 5 và 10 millieme năm 1972, tiếp

theo là đồng trong 5 và 10 xu millieme năm 1973. Nhôm-đồng 2 piastre và đồng kền 20 xu piastre đã được giới thiệu vào năm 1980, tiếp theo là đồng-nhôm 1 và 5

xu piastre vào năm 1984. Trong năm 1992, đồng 5 và 10 xu piastre đã được giới

thiệu, tiếp theo là đục lỗ, niken-đồng kền 25 xu piastre vào năm 1993. Kích thước

của 5 xu piastre đã giảm trong năm 2004, 10 và 25 xu piastre - trong năm 2008.

Ngày 01 Tháng Sáu 2006, 50 piastre và 1 đồng xu pound với ngày năm 2005

là giới thiệu, với tương đương tiền giấy được loại bỏ sau đó. Các đồng tiền mang

gương mặt của Cleopatra VII và Tutankhamun , và các £ 1 đồng xu là lưỡng kim .

Các kích thước của 50 đồng tiền piastre đã giảm trong năm 2007.

5 piastres coin

Kích thước - 23 mm (1984), 21 mm (1992) or 17 mm (2004) Khối lượng - 4.9 g (1984) , 3.2 g (1992) or 2.4 g (2004)

Page 133: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 135 -

10 piastres coin

Kích thước - 25 mm (1984), 23 mm (1992) or 19 mm (2008) Khối lượng - 5.2 (1984), 4.9 g (1992) or 3.2 g (2008)

20 piastres coins

Kích thước - 27 mm (1984) or 25 mm (1992)

Khối lượng - 6 g (1984) or 5.2 g (1992)

25 piastres coin

Kích thước - 25 mm Khối lượng - 5.2 g

Page 134: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 136 -

50 piastres coin

Kích thước - 25 mm (2005) or 23 mm (2007) Khối lượng - 5.2 g (2005) or 6.5 g (2007)

1 pound coin

Kích thước - 25 mm Khối lượng - 8.5 g

Nhận xét:

- Đồng bảng Ai Cập tuy không được sử dụng rộng rãi nhưng nó vẫn mang

một giá trị nhất định của một quốc gia phát triển như Ai Cập. Nó thể hiện sự tồn tại

lâu dài của một quốc gia với những giá trị riêng của một quốc gia như Ai Cập, và

đến nay nó vẫn tồn tại trong khi một số đồng tiền của các quốc gia khác trên thế

giới đã bị lãng quên.

- Hiện nay, đồng bảng Ai Cập đã thực sự thể hiện giá trị của nó trên thị

trường quốc tế, đó là nhờ sự phát triển của nền kinh tế tại Châu phi nói chung và Ai Cập nói riêng

Page 135: Nhan Dinh Cac Dong Tien Dang Luu Thong Hien Nay

Gv:

- 1

Trang - 137 -