15
Nhng vấn đề lý luận và thực tin vcác tội phm vmôi trường theo luật hình sự Vit Nam Nguyễn Tri ́ Chinh Khoa Lut Luận văn ThS. ngành: Luâ ̣t hi ̀ nh sự ; Mã số: 60 38 40 Người hướng dn: TS. Phạm Văn Li Năm bảo v: 2010 Abstract. Gii quyết mt svấn đề lý luận chung đối vi ti phm vmôi trường. Phân tích cấu thành tội phm của các tội phm vmôi trường theo luật hi ̀ nh sự Viê ̣t Nam. Khái quát thực trạng môi trường, tình hình tội phạm môi trường, nhng bt cập, vướng mc trong thc tin xlý các tội phm vmôi trường để tìm ra nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển ti phm vmôi trường. Dbáo tình hình, đề xuất các giải pháp nhằm góp phần đấu tranh phòng, chống có hiệu qucác tội phm vmôi trường. Keywords. Luật hình sự; Ti phm; Pháp luật Vit Nam; Môi trường Content MỞ ĐẦU 1 Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, đường lối đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng từ Đại hội VI (năm 1986) đã thu đưc nhiều thành tựu. Sau hơn hai mươi năm đổi mới, đất nước ta đã có những thay đổi lớn trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Đời sống nhân dân ngày ngày càng đưc nâng cao, tình hình an ninh chính trị đưc giũ vững, trật tự, an toàn xã hội đưc bảo đảm. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển tích cực của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, trong xã hội cũng xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực mặt trái của nền kinh tế thị trường. Tình hình vi phạm pháp luật nói chung và tình hình tội phạm nói riêng có chiều hướng ngày càng gia tăng. Các hành vi phạm tội cũng ngày càng đa dạng và phức tạp, tinh vi và khó lường hơn. Điều này đưc thể hiện không chỉ ở việc các lần pháp điển hoá luật hình sự mà ngày càng có nhiều hành vi mới mang tính phổ biến và nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm đặc biệt là các tội phạm về môi trường. Hiện nay, môi trường đang là vấn đề nóng của mọi quốc gia, dù đó là quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển. Sự ô nhiễm, suy thoái và những sự cố môi trường diễn ra ngày càng ở mức độ cao đang đặt con người những thảm hoạ của thiên nhiên có thể xảy ra như sự nóng nên của trái đất, lỗ hổng tầng ôzôn, tình trạng ngập lụt... Vỡ vậy, vấn đề bảo vệ môi trường đó trở nờn vụ cựng cấp thiết đưc các quốc gia và cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. Một thực tế không thể phủ nhận là môi trường nước ta hiện nay cũng đang bị ô nhiễm và suy thoái nặng nề. Đứng trước thực tế đó, nếu chúng ta không có những biện pháp hữu hiệu nhất thì chúng ta sẽ phải trả giá cho cho những tổn thất mà

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

  • Upload
    others

  • View
    11

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội

phạm về môi trường theo luật hình sự

Việt Nam

Nguyên Tri Chinh

Khoa Luật

Luận văn ThS. ngành: Luât hinh sư; Mã số: 60 38 40

Người hướng dẫn: TS. Phạm Văn Lơi

Năm bảo vệ: 2010

Abstract. Giải quyết một số vấn đề lý luận chung đối với tội phạm về môi trường.

Phân tích cấu thành tội phạm của các tội phạm về môi trường theo luât hinh sư Viêt

Nam. Khái quát thực trạng môi trường, tình hình tội phạm môi trường, những bất

cập, vướng mắc trong thực tiễn xử lý các tội phạm về môi trường để tìm ra nguyên

nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm về môi trường. Dự báo tình hình,

đề xuất các giải pháp nhằm góp phần đấu tranh phòng, chống có hiệu quả các tội

phạm về môi trường.

Keywords. Luật hình sự; Tội phạm; Pháp luật Việt Nam; Môi trường

Content

MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, đường

lối đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng từ Đại hội VI (năm 1986) đã thu đươc nhiều

thành tựu. Sau hơn hai mươi năm đổi mới, đất nước ta đã có những thay đổi lớn trên tất cả các

mặt của đời sống xã hội. Đời sống nhân dân ngày ngày càng đươc nâng cao, tình hình an ninh

chính trị đươc giũ vững, trật tự, an toàn xã hội đươc bảo đảm. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển

tích cực của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, trong xã hội cũng xuất hiện nhiều yếu tố

tiêu cực mặt trái của nền kinh tế thị trường. Tình hình vi phạm pháp luật nói chung và tình hình

tội phạm nói riêng có chiều hướng ngày càng gia tăng. Các hành vi phạm tội cũng ngày càng đa

dạng và phức tạp, tinh vi và khó lường hơn. Điều này đươc thể hiện không chỉ ở việc các lần

pháp điển hoá luật hình sự mà ngày càng có nhiều hành vi mới mang tính phổ biến và nguy hiểm

cho xã hội bị coi là tội phạm đặc biệt là các tội phạm về môi trường. Hiện nay, môi trường đang

là vấn đề nóng của mọi quốc gia, dù đó là quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển. Sự ô

nhiễm, suy thoái và những sự cố môi trường diễn ra ngày càng ở mức độ cao đang đặt con người

những thảm hoạ của thiên nhiên có thể xảy ra như sự nóng nên của trái đất, lỗ hổng tầng ôzôn,

tình trạng ngập lụt... Vỡ vậy, vấn đề bảo vệ môi trường đó trở nờn vụ cựng cấp thiết đươc các

quốc gia và cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. Một thực tế không thể phủ nhận là môi trường

nước ta hiện nay cũng đang bị ô nhiễm và suy thoái nặng nề. Đứng trước thực tế đó, nếu chúng ta

không có những biện pháp hữu hiệu nhất thì chúng ta sẽ phải trả giá cho cho những tổn thất mà

Page 2: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

các thế hệ người Việt Nam sẽ phải gánh chịu bây giờ và trong tương lai. Đặc biệt trong thời gian

gần đây các phương tiện truyền thông đã nêu tên nhiều doanh nghiệp đã vi phạm nghiêm trọng

pháp luật về môi trường như: Công ty VEĐAN, MIWON... Nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan

trọng của việc bảo vệ môi trường, Đảng, Nhà nước và Quốc hội đã đề ra nhiều giải pháp vừa

mang tính chiến lươc vừa mang tính cấp bách để bảo vệ môi trường.

Trong số các biện pháp pháp lý đươc sử dụng để bảo vệ môi trường cú biện phỏp hỡnh

sự. Bộ luật Hỡnh sự 1999, đó cú riờng Chương XVII quy định Các tội phạm về môi trường.

Việc tội phạm hoá những hành vi nguy hiểm cho xó hội xõm phạm tới mụi trường quy định

trong Bộ luật này đó tạo ra cơ sở pháp lý cần thiết cho công tác đấu tranh phũng, chống cỏc

hành vi xõm hại đến lĩnh vực môi trường.

Xuất phỏt từ tỡnh hỡnh nờu trờn, việc nghiờn cứu lý luận và tổng kết thực tiễn hoạt động

điều tra, xử lý các vụ phạm tội về môi trường; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần

nâng cao hiệu quả đấu tranh phũng, chống cỏc tội phạm về mụi trường là vấn đề cấp thiết

trong tình hình hiện nay. Do đó, học viên đó chọn đề tài: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn

về các tội phạm về môi trường theo luật hỡnh sự Việt Nam".

2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu đề tài

Tội phạm về môi trường đó cú nhiều bài viết và đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học,

như: "Lực lượng Công an nhân dân nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong công tác bảo vệ

môi trường" của Trung tướng Đặng Văn Hiếu, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công

an (6/2007); "Cụng tỏc phũng, chống tội phạm về mụi trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế

quốc tế" của TS. Đại tá, Nguyễn Xuân Lý, Cục trưởng Cục Cảnh sát môi trường (7/2007); Đề

tài khoa học cấp Nhà nước "Những vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và giải pháp

phũng, chống" do Thiếu tướng, GS.TS. Nguyễn Duy Hùng, Giám đốc Học viện Cảnh sát

nhân dân (2006) làm chủ nhiệm; Đề tài Khoa học "Tội phạm về môi trường - một số vấn đề lý

luận và thực tiễn" do TS. Phạm Văn Lơi, phó Viện trưởng Viện Khoa học phỏp lý - Bộ Tư

pháp (2003) làm chủ nhiệm; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa

luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Tác giả Đinh

Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm, Tập 2, NXB Thành phố

Hồ Chi Minh, 2002. Do nhiều nguyên nhân khác nhau nên các đề tài này mới chỉ đề cập

nghiên cứu ở những góc độ khác nhau về tội phạm môi trường mà chưa nghiên cứu một cách

tổng thể. Hơn nữa, vấn đề về tổ chức, cán bộ theo dừi, phỏt hiện, đấu tranh và xử lý tội phạm

về mụi trường cũng như lý luận các tội phạm về môi trường cũn nhiều bất cập; việc phối kết

hơp của cỏc cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực môi trường cũn chưa chặt chẽ..., trong

khi đó, tội phạm môi trường diễn biến dưới nhiều hỡnh thức khỏc nhau, với những phương

thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi và phức tạp.

3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề tài

3.1. Mục đích của luận văn trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn cỏc

tội phạm về môi trường trong luật Hỡnh sự Việt Nam là nhằm hoàn thiện các quy định của

Bộ luật hình sự đối với nhóm tội về môi trường; từ đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng

cao hiệu quả của công tác đấu tranh phũng, chống cỏc tội phạm về mụi trường.

3.2. Đối tương nghiên cứu của luận văn là các qui định về tội phạm môi trường trong

chương XVII "Các tội phạm về môi trường" của Bộ luật hình sự năm 1999; Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của Bộ luật hình sự (Luật số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009) trong đó

có sửa đổi, bổ sung một số điều trong Chương XVII (Các tội phạm về môi trường) của Bộ

luật hình sự năm 1999.

3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các qui định của pháp luật hình sự đối với nhóm

tội về môi trường và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về môi trường của các cơ

quan bảo vệ pháp luật. Số liệu thống kê phục vụ cho việc nghiên cứu, so sánh, đối chiếu trong

đề tài đươc viện dẫn từ các báo cáo tổng kết của Bộ Tài nguyên và Môi trường; báo cáo công

tác của Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm môi trường, Bộ Công an; báo cáo của Viện Kiểm

Page 3: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

sát nhân dân tối cao; báo cáo của Toà án nhân dân tối cao và một số báo cáo chuyên đề về

môi trường.

4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn đươc thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp, về tội phạm, về đấu tranh phũng, chống cỏc tội

phạm nói chung và các tội phạm về môi trường nói riêng. Đồng thời, dựa trên cơ sở các bài

viết, các đề tài khoa học của các nhà nghiên cứu lý luận về cỏc tội phạm về mụi trường; các

phương pháp mà luận văn đó vận dụng như: phân tích, tổng hơp, đối chiếu, so sánh; chuyên

gia; thống kờ hỡnh sự...

5. Điểm mới của luận văn

Đề tài khoa học làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm môi trường

trong luật hình sự Việt Nam. Điểm mới của luận văn gồm:

- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về các tội phạm môi trường trong luật hình sự Việt

Nam;

- Chỉ ra đươc những vướng mắc, bất cập của các quy định hiện hành liên quan đến nhóm

các tội phạm về môi trường trong luật hình sự Việt Nam;

- Đưa ra đươc hệ thống các kiến nghị, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ

luật hình sự năm 1999 về các tội phạm môi trường;

- Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, học tập,

những người làm công tác thực tiễn liên quan đến lĩnh vực này cũng như các độc giả khác có

quan tâm.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham, nội dung của luận văn gồm 3

chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt

Nam.

Chương 2: Các qui định tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự Việt Nam và thực

tiễn áp dụng.

Chương 3: Nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của Bộ luật Hình sự đối với

các tội phạm về môi trường.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG THEO LUẬT

HÌNH SỰ VIỆT NAM

Trong chương này, tác giả tập trung nghiên cứu làm rõ khái niệm môi trường, khái niệm

tội phạm môi trường, Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc qui định các tội phạm môi trường,

quá trình hình thành các qui định về tội phạm môi trường trong luật hình sự Việt Nam, nghiên

cứu các quy định về tội tội phạm môi trường trong pháp luật hình sự của một số nước trên thế

giới.

1.1. Khái niệm về môi trường

Môi trường là một khái niệm có nội hàm rất rộng và đươc sử dụng trong nhiều lĩnh vực

khác nhau. Môi trường của một vật thể hoặc của một sự kiện là tổng hơp các yếu tố, điều kiện

bên ngoài có ảnh hưởng đến các vật thể, sự kiện đó. Bất cứ một vật thể, sự kiện nào cũng tồn

tại trong một môi trường. Khái niệm môi trường đươc cụ thể hoá đối với từng đối tương và

mục đích nghiên cứu.

Theo Tuyên ngôn của UNESCO (1981) thì môi trường đươc định nghĩa như sau: Môi trường

la toàn bộ hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người sáng tạo ra xung quanh mình, trong đó

Page 4: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

con người sinh sống bằng lao động của mình đã khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo

nhằm thoả mãn các nhu cầu của mình.

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì: Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự

nhiên và xó hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt

động sống của con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xó hội loài người và các thể

chế. môi trường có thể định nghĩa như là tổ hợp của các yếu tố khí hậu, sinh thái học, xó hội

và thổ nhưỡng tác động lên cơ thể sống và xác định các hỡnh thức sinh tồn của chỳng. Vỡ

thế, mụi trường bao gồm tất cả mọi thứ mà có thể có ảnh hưởng trực tiếp đến sự trao đổi

chất hay các hành vi của các cơ thể sống hay các loài, bao gồm ánh sáng, không khí, nước,

đất và các cơ thể sống khác.

Theo khoản 1, Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005 thỡ khỏi niệm mụi trường đươc hiểu

như sau: Môi trường "bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người,

có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật".

1.2. Khái niệm tội phạm về môi trường

Bộ luật hình sự không đưa ra khái niệm chung của tội phạm về môi trường. Phân tích

khoa học khái niệm này là khởi điểm cho việc giải quyết về bản chất tất cả các vấn đề của

trách nhiệm hỡnh sự trong lĩnh vực bảo vệ mụi trường. Việc hiểu đúng đắn tội phạm về môi

trường là cơ sở phương pháp luận cho quá trỡnh lập phỏp đối với loại tội phạm này. Trong

trường hơp không có sự nhận thức đúng đắn về những tội phạm này sẽ không thể xây dựng

đươc các hỡnh thức chế tài, phạm vi và nhiệm vụ của hoạt động phũng ngừa.

Một số tác giả cho rằng: "Tội phạm về môi trường là hành vi nguy hiểm cho xó hội, do

những người có năng lực trỏch nhiệm hỡnh sự thực hiện, xõm hại đến sự bền vững và ổn định

của môi trường; xâm hại đến các quan hệ xó hội phỏt sinh trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ mụi

trường, gây ra những hậu quả xấu đối với môi trường sinh thái". Trong khái niệm này có hai

điểm chưa đươc rừ ràng:

Thứ nhất, khái niệm trên chưa chỉ ra đặc trưng hết sức quan trọng của tội phạm nói

chung, tội phạm về môi trường nói riêng, mà đươc tất cả các nhà luật học công nhận: "tội

phạm là hành vi vi phạm phỏp luật hỡnh sự". Cũng chớnh vỡ lý do này nờn khỏi niệm trên

chưa hoàn toàn chính xác. Không ai nghi ngờ "Hành vi nguy hiểm cho xó hội" là đặc trưng

chung của các hành vi vi phạm pháp luật như: vi phạm hành chính, tội phạm, vi phạm kỷ luật

v.v..., vậy khái niệm nêu trên có thể bao gồm cả những hành vi vi phạm pháp luật hành chính

trong lĩnh vực môi trường.

Thứ hai, khái niệm trên có thể gây sự hiểu nhầm giữa đối tương và khách thể của tội

phạm. Khách thể của tội phạm là những quan hệ xó hội và lơi ớch xó hội bị xõm hại và đươc

chỉ ra rất rừ ràng trong Điều 1 Bộ luật Hỡnh sự 1999:

Khái niệm tội phạm về môi trường cũng đó đươc đưa vào giáo trỡnh giảng dạy. Giỏo

trỡnh của Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng: "Các tội phạm về môi trường là các hành vi

nguy hiểm cho xó hội vi phạm cỏc quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường, qua đó gây

thiệt hại cho môi trường". Khái niệm này có ưu điểm là rất ngắn gọn, tuy nhiên cũng cũn cú

vài điểm cần bàn thêm:

- Cũng giống như ở khái niệm trước, khái niệm tội phạm về môi trường trong giáo trỡnh

Luật Hỡnh sự của Trường Đại học Luật Hà Nội chưa tạo ra đươc sự khác biệt giữa tội phạm

về môi trường và hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường.

- Việc đưa "thiệt hại cho môi trường" vào trong khái niệm tội phạm về môi trường có thể

dẫn tới sự hiểu lầm. Yếu tố "thiệt hại" trong cấu thành tội phạm chỉ bắt buộc đối với những

cấu thành tội phạm vật chất. Những cấu thành hỡnh thức khẳng định việc tội phạm đó đươc

thực hiện (hoàn thành) ngay khi đó thực hiện hành vi, bất kể hành vi đó đó gõy ra thiệt hại

hay chưa. Như vậy, sử dụng cấu trúc "gây thiệt hại cho môi trường" trong khái niệm có thể

dẫn tới sự hiểu nhầm rằng: "tất cả tội phạm về môi trường có cấu thành vật chất".

Page 5: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

- Ngoài ra, khái niệm kể trên chưa chỉ rừ khỏch thể bị xõm hại. Cú thể núi rằng, một

trong những đặc trưng cơ bản nhất của tội phạm cụ thể chính là khách thể giúp phân biệt với

các tội phạm khác.

Trên cơ sở phân tích ở trên, chúng tôi cũng mạnh dạn đưa quan điểm đối với khái niệm

tội phạm về môi trường như sau: "Tội phạm về môi trường là những hành vi nguy hiểm cho

xó hội đươc quy định trong Bộ luật Hỡnh sự Việt Nam, xõm hại tới cỏc quan hệ xó hội về

bảo vệ môi trường".

1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc qui định các tội phạm môi trường trong luật

hình sự

Thứ nhất. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đó ý thức ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của

việc bảo vệ môi trường và do vậy đó ghi nhận điều đó ở Hiến pháp năm 1992 của nước ta

(Điều 29) đó quy định rừ: "Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xó

hội, mọi cỏ nhõn phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hơp lý tài nguyờn

thiờn nhiờn và bảo vệ mụi trường.

Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường".

Trên cơ sở quy định hiến định đó, Nhà nước ta đó ban hành nhiều loại văn bản quy phạm

pháp luật khác nhau để ngăn chặn, phũng chống, xử lý triệt để các hành vi xâm hại đến môi

trường. Trong số các biện pháp pháp lý đươc sử dụng để bảo vệ môi trường có biện pháp

pháp lý hỡnh sự.

Thứ hai, việc bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp lý hỡnh sự chính là việc tội

phạm hoỏ cỏc hành vi nguy hiểm cho xó hội xõm phạm mụi trường. Phạm vi của việc bảo vệ

môi trường bằng các biện pháp pháp lý hỡnh sự và hiệu quả của việc bảo vệ đó ở một mức độ

rất lớn tuỳ thuộc vào việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm xâm phạm lĩnh vực nói trên.

Do vậy, cần phải xem xét một cách kỹ lưỡng, đầy đủ các nhân tố quyết định mức độ, tính

chất và các phương thức của việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xó hội xâm phạm

môi trường.

Thứ ba, việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xó hội xõm phạm mụi trường đươc

xác định bởi cả những nhân tố đũi hỏi chớnh trị thuộc cả chớnh sỏch đối nội lẫn chính sách

đối ngoại của Nhà nước ta.

Thứ tư, việc tội phạm hoỏ cỏc hành vi nguy hiểm cho xó hội xõm phạm mụi trường đó

ghi nhận trong Bộ luật hỡnh sự ở một chừng mực rất lớn đươc quyết định bởi trạng thái và sự

phát triển của các ngành pháp luật khác, trước hết là luật hiến pháp và luật môi trường.

Thứ năm, khi tội phạm hoỏ cỏc hành vi nguy hiểm cho xó hội xõm phạm mụi trường, nhà

làm luật nước ta đó cân nhắc cả các nhân tố tội phạm học như; thực trạng, cơ cấu và diễn biến

của các hành vi xâm hại trong lĩnh vực đó. Việc nghiên cứu thực tiễn cho thấy rằng các hành

vi xâm hại môi trường là một trong những loại hành vi xảy ra phổ biến nhất ở nước ta hiện

nay và các thiệt hại do các hành vi đó gây ra có chiều hướng ngày càng trở nên nghiêm trọng.

Thứ sáu, hiệu quả của việc tội phạm hoỏ cỏc hành vi nguy hiểm cho xó hội xâm hại cho

môi trường tuỳ thuộc không nhỏ vào trạng thái ý thức pháp luật về lĩnh vực đó. Việc toàn dân

thảo luận Hiến pháp năm 1992 trước đây và thảo luận việc sửa đổi một số điều của Hiến pháp

năm 1992 vừa qua, cũng như thảo luận Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005 và các văn bản quy

phạm pháp luật khác liên quan đến việc bảo vệ môi trường và Bộ luật Hỡnh sự năm 1999

trong thời gian qua cho thấy phần lớn nhân dân ta đều đỏi hỏi phải tăng cường việc bảo vệ

môi trường, trong đó có việc tăng cường bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp lý hỡnh

sự.

Thứ bảy, việc tội phạm hoỏ cỏc hành vi nguy hiểm cho xó hội xõm phạm mụi trường

đươc nhà làm luật nước ta thực hiện đó cõn nhắc cả cỏc quy luật sinh thỏi chẳng hạn quy

luật: mụi trường là một hệ thống thống nhất, tất cả các yếu tố của môi trường có mối liên hệ

chặt chẽ với nhau. Việc xâm phạm đến một trong những yếu tố của môi trường có thể gây tác

Page 6: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

hại đến hoạt động của toàn bộ hệ thống,do vậy một mắt xích nào đó của hệ thống đó không

đươc bảo vệ thỡ điều đó có thể đe doạ toàn bộ hệ thống.

Thứ tám, các nhu cầu khách quan của xó hội và cỏc điều kiện của việc tội phạm hoá các

hành vi nguy hiểm cho xó hội xõm phạm mụi trường đó đươc nhà làm luật "chuyển tải một

cách đúng đắn ngôn ngữ của luật hỡnh sự" để thực hiện đươc điều đó việc tội phạm hoá đó

đáp ứng các đũi hỏi và quy tắc pháp lý nhất định của kỹ thuật lập pháp. Việc tuân thủ các đũi

hỏi và quy tắc đó là nhằm khắc phục cả những chỗ hổng lẫn những điều "dư thừa" trong việc

bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp lý hỡnh sự; phõn biệt một cỏch rừ ràng cỏc tội

phạm về mụi trường với các vi phạm hành chính và kỷ luật trong lĩnh vực môi trường.

Thứ chín, Cùng với việc mở rộng nhóm các khách thể tự nhiên đươc bảo vệ bằng các

biện pháp pháp lý hỡnh sự và nhúm cỏc hành vi bị truy cứu trỏch nhiệm hỡnh sự, nhà làm

luật đó xỏc định rừ cỏc điều kiện,tiêu chuẩn của việc tội phạm hoá loại hành vi xâm hại đến

môi trường.

1.4. Sự hình thành các qui định về tội phạm môi trường trong luật hình sự Việt Nam

1.4.1. Cỏc quy định về tội phạm mụi trường trong Bộ luật Hỡnh sự 1985

Để đảm bảo cho sự ổn định, phát triển bền vững của đất nước, trên cơ sở Hiến định, một

số hành vi xâm hại đến các yếu tố của môi trường gây hậu quả nghiêm trọng đươc coi là tội

phạm và cá nhân vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hỡnh sự đó đươc đưa vào trong Bộ luật

Hỡnh sự 1985. Một số tội phạm cụ thể về môi trường đươc ghi nhận trong Bộ luật, tại

Chương VII "Các tội phạm về kinh tế" và Chương VIII "Các tội xâm phạm an toàn, trật tự

công cộng và trật tự quản lí hành chính", đó là: Điều 180. Tội vi phạm các quy định về quản

lý và bảo vệ đất đai; Điều 181. Tội vi phạm và quản lý các quy định về quản lý và bảo vệ

rừng; Điều 195. Tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng;

Điều 216. Tội vi phạm về bảo vệ và sử dụng các di tích lịch sử, văn hoá, danh lam, thắng

cảnh gây hậu quả nghiêm trọng.

1.4.2. Cỏc quy định về tội phạm mụi trường trong Bộ luật Hỡnh sự 1999

Để phù hơp với các quy định về bảo vệ môi trường trong các lĩnh vực chuyên ngành, việc

bảo vệ môi trường quy định trong pháp luật hỡnh sự đươc đặc biệt coi trọng và ghi nhận tại

Chương XVII, phần Các tội phạm về môi trường của Bộ luật Hỡnh sự 1999. Bộ Luật này đó

thay thế cơ bản các quy định về các tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hỡnh sự 1985;

đồng thời, bổ sung thêm một số tội danh mới xuất hiện trong thời gian gần đây. Đây là thể

hiện sự quan tâm đúng mức của Đảng và Nhà nước ta trước thực trạng môi trường tiếp tục bị

suy thoái, ô nhiễm với mức độ cao; thể hiện thái độ kiên quyết, xử lý kịp thời, nghiờm khắc

đối với các hành vi làm suy thoái, ô nhiễm môi trường, xâm hại đến các yếu tố của môi

trường thiên nhiên. Các tội phạm về môi trường là một chương mới đươc bổ sung vào Bộ luật

Hỡnh sự 1999, chương XVII, chương này gồm 10 Điều, đươc sắp xếp theo 5 nhóm hành vi

xâm hại đến môi trường.

Tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khoá XXII đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của Bộ luật hình sự (Luật số 37/2009/QH 12 ngày 19 tháng 6 năm 2009) trong đó có sửa đổi,

bổ sung một số điều trong Chương XVII (Các tội phạm về môi trường) của Bộ luật hình sự

năm 1999.

1.5. Những quy định về tội phạm môi trường trong pháp luật hình sự một số nước

trên thế giới

Nghiên cứu pháp luật hình sự một số nước trên thế giới như Vương quốc Thái Lan,

Singapo, Malaixia, Phillipiin cho thấy tội phạm về môi trường trong pháp luật hình sự của

một số nước trên thế giới có những quy định khác nhau.Có nước quy định tại chương (tiết)

các tội phạm về môi trường, có nước lại tách ra thành các điều luật cụ thể; có nước quy định

hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường phải chịu trách nhiệm pháp lý về mặt hình sự

ở các ngành luật cụ thể... Tuy nhiên, dù cách thức quy định khác nhau, nhưng có điểm tương

Page 7: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

đồng là các hành vi xâm hại đến môi trường một cách nghiêm trọng đều bị xem là loại tội

phạm cần phải trừng phạt nghiêm khắc.

Chương 2

CÁC QUI ĐỊNH TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG

TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

Trong chương này, tác giả phân tích các quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam về

các tội phạm môi trường và thực tiễn áp dụng, chỉ ra những vướng mắc trong thực tiễn áp

dụng các quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm về môi trường.

2.1. Các qui định về tội phạm môi trường trong Bộ luật hình sự Việt Nam

2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm về môi trường

2.1.1.1. Khách thể của tội phạm về môi trường

Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội đươc pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự

xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe doạ thực

tế gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định.

Đối với các tội phạm về môi trường khách thể loại của các tội phạm về môi trường là tổng

thể những quan hệ xó hội về giữ gỡn mụi trường trong sạch, sử dụng hơp lý những tài nguyờn

của nú và đảm bảo an toàn môi trường cho dân cư.

2.1.1.2. Mặt khách quan của tội phạm về môi trường

Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã

hội đến khách thể đươc bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là sự thể hiện cách xử sự có tính

chất tội phạm trong thực tế khách quan.

Các tội phạm về môi trường có thể đươc thực hiện bằng hành động hoặc không hành

động vi phạm các quy định của pháp luật về sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, giữ gỡn

và bảo vệ mụi trường. Các hành vi tội phạm về môi trường rất đa dạng: gây ô nhiễm môi

trường, huỷ hoại tài nguyên môi trường, không thực hiện quy tắc bảo vệ môi trường, gây dịch

bệnh v.v...

2.1.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm về môi trường

Mặt chủ quan của các tội phạm về môi trường đươc thể hiện dưới hình thức lỗi cố ý.

Nghĩa là người phạm tội biết rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu

quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng vẫn có

ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Động cơ và mục đích của các tội phạm về môi trường rất đa dạng, có thể là vụ lơi hoặc

động cơ cá nhân khác… nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm.

Trong mặt chủ quan của tội phạm về môi trường, mục đích và động cơ hầu như không có ý

nghĩa để định tội.

2.1.1.4. Chủ thể của tội phạm về môi trường

Chủ thể của các tội phạm về môi trường là tất cả những người có năng lực trách nhiệm

hỡnh sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên có thể nhận thấy tồn tại vấn đề tuôi chịu trỏch nhiệm hỡnh sự đối với tội phạm

cụ thể về môi trường là từ đủ 14 tuổi.

2.1.1.5. Hình phạt đối với các tội phạm môi trường

Nếu như BLHS năm 1985 coi tội phạm về môi trường là tội phạm ớt nghiờm trọng với

mức cao nhất của khung hỡnh phạt là 2 năm, thỡ Bộ luật Hỡnh sự năm 1999 đánh giá 6/10 tội

là rất nghiêm trọng, trong đó cá biệt có khung hỡnh phạt cao nhất đến 15 năm. Số tội phạm

về môi trường cũn lại đều đươc đưa vào danh mục các tội phạm nghiêm trọng. Ngoài ra, hầu

như tất cả các tội phạm về môi trường cũn quy định hỡnh phạt bổ sung.

Page 8: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hỡnh sự số 37/2009/QH12 ngày

19/6/2009, tại Chương XVII của Bộ luật Hỡnh sự đã cụ thể hóa, bổ sung và nõng mức hỡnh

phạt của tất cả các điều luật:

Về hình phạt tù: hầu hết các tội danh của chương này đều qui định mức phạt tù từ 6 tháng

đến 10 năm, cá biệt có thể lên tới 15 năm.

Về hình phạt tiền (với tư cách là hình phạt chính): Đối với các tội phạm về môi trường,

các nhà làm luật đã mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính.

Mức phạt tiền đươc qui định trong phần lớn các điều luật của chương này là từ 10 triệu

đồng đến 500 triệu đồng, cá biệt có thể lên đến 01 tỷ đồng.

Về hình phạt cải tạo không giam giữ đươc qui định với tư cách là hình phạt chính ở 10

trong số 11 điều luật.

Ngoài các hình phạt chính, thì tất cả các điều luật trong chương này đều qui định hai hình

phạt bổ sung là:

- Hỡnh phạt tiền với tư cách là hỡnh phạt bổ sung trong trường hơp xét thấy hỡnh phạt tự

vẫn chưa thỏa đáng thỡ điều luật cho phép áp dụng thêm hỡnh phạt tiền với tư cách là hỡnh

phạt bổ sung.

- Hỡnh phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định áp

dụng đối với người phạm tội trong trường hơp xét thấy nếu họ giữ chức vụ, hành nghề, hoặc

làm các công việc liên quan thỡ cú nguy cơ là họ sẽ tiếp tục gây nguy hại cho môi trường.

* Các tội phạm cụ thể:

Trong phần này tác giả trình bày khái niệm, dấu hiệu pháp lý đặc trưng, hình phạt của các

tội phạm về môi trường theo pháp luật hình sự Việt Nam.

2.2. tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và thực tiễn áp dụng các quy

định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội phạm môi trường

2.2.1. Thực trạng, nguyên nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường

Trong phần này tác giả trình bày thực trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường

trong các lĩnh vực sau: Trong hoạt động của làng nghề, sản xuất nông nghiệp; trong quản lý

và xử lý chất thải nguy hại; trong quản lý, xử lý chất thải công nghiệp nguy hại, rác thải sinh

hoạt; trong vệ sinh an toàn thực phẩm, dịch bệnh; trong bảo vệ rừng, động - thực vật hoang

dó; trong khai thác khoáng sản đây là những lĩnh vực vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường

diễn ra ngày càng phức tạp và có chiều hướng tăng lên. Đồng thời trong phần này tác giả

cũng nêu lên một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tỡnh hỡnh vi phạm phỏp luật về bảo vệ

mụi trường.

2.2.2. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về môi trường

* Công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường của cơ quan tài nguyên, môi trường đối với

các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường

Từ năm 2005, thanh tra chuyên ngành môi trường phối hơp với các đơn vị quản lý nhà

nước bắt đầu triển khai thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính tại các địa phương.

Năm 2005, cả nước đã thanh, kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính 172 tổ chức với số tiền

1.565.000.000 đồng; năm 2006, xử phạt vi phạm hành chính 344 tổ chức với tổng số tiền

4.110.000.000 đồng; năm 2007, xử phạt 861 tổ chức và 02 cá nhân với tổng số tiền

8.736.000.000 đồng; năm 2008, xử phạt 1.776 tổ chức và 09 cá nhân với tổng số tiền là

19.300.000.000 đồng, truy thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp trốn nộp

trên 127 tỷ đồng.

* Công tác điều tra, xử lý các tội phạm về môi trường của lực lượng Cảnh sát nhân dân

Cho đến nay, Bộ luật Hỡnh sự đó cú hiệu lực và thực thi trờn thực tế 10 năm, nhưng thực tế

là mặc dù tỡnh trạng vi phạm phỏp luật về mụi trường có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức

tạp, số vụ việc vi phạm bị phát hiện tăng lên không ngừng nhưng số lương vụ việc bị xử lý hỡnh

sự lại rất hạn chế (khoảng 1,1% tổng số vụ vi phạm pháp luật về môi trường). Ví dụ, trong

năm 2008, thông qua hoạt động của Cục Cảnh sát môi trường thỡ đó điều tra phát hiện trên

Page 9: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

700 vụ vi phạm pháp luật về môi trường, làm rừ hơn 380 đối tương (tổ chức và cá nhân)

nhưng lại chỉ chuyển cơ quan Cảnh sát điều tra khởi tố đươc 8/700 vụ, với 13/380 đối tương.

Theo số liệu thống kê tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi truờng của Cục cảnh

sát phòng, chống tội phạm về môi trường thì từ ngày 01 tháng 12 năm 2009 đến ngày 31

tháng 5 năm 2010, lực lương Cảnh sát môi trường các cấp đã điều tra khám phá 3.012 vụ,

1.034 tổ chức, 2.096 cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, xử phạt vi

phạm hành chính trên 17 tỷ đồng, đề nghị khởi tố 72 vụ, 101 đối tương.

* Công tác truy tố các vụ án về tội phạm môi trường của Viện kiểm sát nhân dân các cấp

Theo số liệu thống kê của Cục Thống kê tội phạm - Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì

năm 2007, Viện kiểm sát các cấp truy tố 145 vụ án trên tổng số 263 bị can; năm 2008, truy tố

126 vụ án trên tổng số 231 bị can; năm 2009, truy tố 118 vụ án trên tổng số 271 bị can; 6

tháng đầu năm 2010, truy tố 52 vụ trên tổng số 113 bị can.

* Công tác xét xử các vụ án về tội phạm môi trường của Toà án nhân dân các cấp

Theo số liệu thống kê của Toà án nhân dân tối cao, kể từ năm 2001 đến ngày 31 tháng 7

năm 2010, ngành Toà án nhân dân đó xột xử 1.098 vụ án các loại về tội phạm môi trường với

1.913 bị cáo. Trong đó tội gây ô nhiễm nguồn nước (Điều 183) tổng số đó thụ lý 18 vụ với 25

bị cáo, đó xột xử 17 vụ với 24 bị cáo và hoàn lại Viện kiển sát 01 vụ với 01 bị cáo; Tội gây ô

nhiễm đất (Điều 184) tổng số đó thụ lý 01 vụ với 01 bị cáo, đó xột xử 01 vụ với 01bị cỏo và

hoàn lại Viện kiển sỏt khụng; Tội nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc các

chất không bảo đảm tiêu chuẩn bảo vệ môi trường (Điều 185) tổng số đó thụ lý 02 vụ với 04

bị cỏo, đó xột xử 02 vụ với 04 bị cáo và hoàn lại Viện kiển sát không; Tội làm lây lan dịch

bệnh nguy hiểm cho người (Điều 186) tổng số đó thụ lý 11 vụ với 17 bị cáo, đó xột xử 10 vụ

với 16 bị cáo và hoàn lại Viện kiển sát 01 vụ với 01 bị cáo; Tội làm lây lan dịch bệnh nguy

hiểm cho động vật, thực vật (Điều 187) tổng số đó thụ lý 04 vụ với 11bị cỏo, đó xột xử 02 vụ

với 05 bị cỏo và hoàn lại Viện kiển sỏt 02 vụ với 06 bị cỏo; Tội huỷ hoại nguồn lơi thuỷ sản

(Điều 188) tổng số đó thụ lý 24 vụ với 17 bị cỏo, đó xột xử 23 vụ với 56 bị cáo và hoàn lại

Viện kiển sát 01 vụ với 01 bị cáo; Tội huỷ hoại rừng (Điều 189) tổng số đó thụ lý 747 vụ với

1.671 bị cỏo, đó xột xử 514 vụ với 990 bị cáo, đỡnh chỉ xột xử 17 vụ với 19 bị cỏo, chuyển

hồ sơ vụ án 08 vụ với 36 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 115 vụ với 315 bị cáo; Tội vi phạm

các quy định về bảo vệ động vật hoang dó quý hiếm (Điều 190) tổng số đó thụ lý 619 vụ với

1.005 bị cỏo, đó xột xử 526 vụ với 844 bị cỏo, đỡnh chỉ xột xử 10 vụ với 16 bị cỏo, hoàn lại

Viện kiểm sỏt 40 vụ với 71bị cỏo; Tội vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đỗi với khu bảo tồn

thiên nhiên (Điều 191) tổng số đó thụ lý 05 vụ với 05 bị cỏo, đó xột xử 04 vụ với 04 bị cỏo,

hoàn lại Viện kiểm sỏt 01 vụ với 01 bị cỏo; ngành Toà án chưa xét xử vụ án nào về tội gây ô

nhiễm không khí (Điều 182).

Nguyờn nhõn của tỡnh hỡnh tội phạm về mụi trường và những hạn chế của công tác điều

tra, truy tố và xét xử tội phạm về môi trường.

Thứ nhất, chưa có sự hướng dẫn kịp thời về Chương - Các tội phạm môi trường trong

Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hỡnh sự 2009. Hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn việc

áp dụng các điều luật về tội phạm môi trường, cấu thành cơ bản của các tội quy định trong

Chương này cũng có những nét đặc thù, nhiều tỡnh tiết định lương, định tính chưa đươc cụ

thể hoá đũi hỏi phải đươc nghiên cứu, hướng dẫn để áp dụng thống nhất trong thực tiễn đấu

tranh phũng, chống loại tội phạm này.

Thứ hai, công tác phối hơp giữa các lực lương liên quan đến điều tra các vụ án về môi

trường chưa đươc chặt chẽ và hiệu quả. Đặc biệt là sự phối hơp giữa cơ quan điều tra của lực

lương cảnh sát nhân dân và thanh tra chuyên ngành về điều tra tội phạm môi trường.

Thứ ba, cụng tỏc tổ chức phũng ngừa và đấu tranh phũng chống tội phạm mụi trường

chưa đươc tiến hành một cách đồng bộ, chưa xây dựng đươc kế hoạch hơp lý, cụ thể nhằm

phối hơp các hoạt động của các bộ, ngành có liên quan để thực hiện chiến lươc về bảo vệ môi

trường của Đảng và Nhà nước.

Page 10: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

Thứ tư, việc nhận diện đươc một hành vi vi phạm môi trường là rất khó, đũi hỏi phải cú

sự trơ giỳp của cỏc phương tiện khoa học kỹ thuật, phải có sự đánh giá của các cơ quan

chuyên ngành, phải định tính, định lương cụ thể mới có thể xác định đó là một hành vi vi

phạm pháp luật về môi trường.

Thứ năm, về quan niệm và nhận thức, trong một thời gian dài, vấn đề bảo vệ môi trường

cũn bị xem nhẹ, chưa coi vấn đề môi trường là cấp thiết cần ưu tiên giải quyết, ý thức phỏp

luật, ý thức bảo vệ môi trường của một bộ phận nhân dõn cũn nhiều hạn chế, đặc biệt các

doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh và bộ phận dân cư miền núi, vùng sâu vùng xa... nhiều

người cũn chưa hiểu đươc thế nào là môi trường trong lành; như thế nào là gây ô nhiễm

môi trường; tội phạm về môi trường...

Thứ sáu, cụng tỏc giỏo dục ý thức bảo vệ môi trường đối với các tầng lớp dân cư trong

xó hội cũn nhiều hạn chế. Việc phổ biến, giáo dục pháp luật về môi trường nói chung cũn

mang tớnh hỡnh thức, khuếch trương phong trào mà chưa tiến hành một cách thường xuyên,

sâu rộng trong quần chúng nhân dân.

Chương 3

NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH

CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG

Chương này, tác giả đưa ra hệ thống những kiến nghị nâng cao hiệu quả việc áp dụng

những quy định của Bộ luật Hình sự về các tội phạm về môi trường.

3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật Hình

sự đối với các tội phạm về môi trường

Quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng với các nước trong khu vực và trên thế giới thì cũng

nảy sinh nhiều vấn đề thách thức, trong đó có vấn đề bảo vệ môi trường. Tình hình tội phạm

về môi trường và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam gia tăng một cách

nhanh chóng trong những năm qua. Trong thời gian tới, tình hình tội phạm về môi trường tiếp

tục diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng cả về số lương và mức độ vi phạm.

Sự cần thiết nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự đối với các tội

phạm về môi trường còn xuất phát trên những cơ sở sau:

Thứ nhất: Về yêu cầu cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả hoạt động tư pháp.

Thứ hai, Về yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, các tội phạm về môi

trường nói riêng.

Thứ ba, Về yêu cầu phải khắc phục những yếu kém của việc áp dụng những quy định của

pháp luật hình sự về các tội phạm môi trường.

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật Hình sự

đối với các tội phạm về môi trường

3.2.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm về môi

trường

Trên cơ sở phân tích những quy định về các tội phạm môi trường, những vướng mắc mà

thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm này đặt ra cho khoa học pháp lý hình sự phải

nghiên cứu giải quyết như:

- Trong cấu thành tội phạm về môi trường (trước khi sửa đổi) phần lớn đũi hỏi phải cú

đồng thời ba yếu tố mới xử lý hỡnh sự đươc: (1) thải chất gây ô nhiễm môi trường vươt quá

tiêu chuẩn cho phép; (2) hành vi thải chất gây ô nhiễm môi trường trước đó phải bị xử phạt vi

phạm hành chính nhưng cố tỡnh khụng thực hiện cỏc biện phỏp khắc phục; (3) gõy hậu quả

nghiờm trọng. Quy định này hạn chế khả năng truy cứu trỏch nhiệm hỡnh sự đối với các tội

phạm này, bởi lẽ, việc chờ hội tụ đủ cả 3 yếu tố nói trên là rất khó khăn, nhất là trong việc

xác định hậu quả về môi trường.

Page 11: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

- Trong cấu thành của các điều luật, các khái niệm định tính, định lương "ô nhiễm

nghiêm trọng", "mức độ nghiêm trọng", "gây hậu quả nghiêm trọng", "rất nghiêm trọng",

"đặc biệt nghiêm trọng", "đặc biệt nghiêm trọng khác", "số lương lớn", "số lương rất lớn",

"đặc biệt lớn" "…về hành vi này mà cũn vi phạm" v.v.. chưa có hướng dẫn tiêu chí đánh giá

cụ thể.

- Trong thực tiễn đó nảy sinh một số loại vi phạm cỏc quy định về bảo vệ môi trường theo

Điều 7 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có khả năng gây hậu quả lớn cho sức khoẻ con người,

nhưng hiện tại vẫn chưa đươc quy định trong luật hỡnh sự.

- Một số tội phạm đó đươc quy định tại các chương khác của Bộ luật Hỡnh sự 1999

nhưng có liên quan trực tiếp đến môi trường. Do vậy, cũng cần thiết phải nghiên cứu để điều

chỉnh, đưa một số điều thuộc các chương khỏc của Bộ luật hỡnh sự về chương tội phạm môi

trường cho phù hơp với yêu cầu phũng ngừa, đấu tranh chống tội phạm môi trường.

- Bộ luật hình sự năm 1999 cũng như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình

sự quy định chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân vi phạm pháp luật hình sự mà

chưa quy định đối với pháp nhân.

Nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế như đó nờu trờn, chúng tôi xin đề xuất sửa đổi,

bổ sung những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về các tội phạm về môi trường như

sau:

Một là, sửa đổi cấu thành một số tội phạm về môi trường theo hướng Định lương hoá một

số dấu hiệu của các tội phạm môi trường, chỉ rừ những dấu hiệu đặc trưng chủ yếu và điển

hỡnh về hậu quả do tội phạm mụi trường gây ra.

Hai là, Tội phạm hoá và xử lý về hình sự hành vi xâm pham môi trường phải phù hơp

với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của nước ta trong tình hình hiện nay có tính đến xu

hướng phát triển của pháp luật quốc tế.

Ba là, tăng nặng trỏch nhiệm hỡnh sự đối với một số tội phạm về môi trường, mở rộng

phạm vi ỏp dụng hỡnh phạt tiền là hỡnh phạt chớnh, đồng thời nâng mức tối đa và tối thiểu

đối với hỡnh phạt tiền cho tương ứng với mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo

vệ môi trường theo quy định mới.

Bốn là, Quy định thêm điều luật khái niệm các tội phạm về môi trường trong Bộ luật hình

sự. Trên cơ sở xác định cụ thể khách thể của các tội phạm về môi trường và mở rộng phạm vi chủ

thể không chỉ là cá nhân mà cả đối với pháp nhân

Năm là, cần xây dựng cơ chế xử lý hỡnh sự đối với vi phạm của pháp nhân. Pháp nhân là

chủ thể chiếm đa số tuyệt đối trong vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường cũng như trong

xử lý vi phạm hành chớnh về bảo vệ mụi trường. Nếu xét về mức độ, tính chất và hậu quả thỡ

vi phạm phỏp luật về bảo vệ mụi trường của pháp nhân so với cá nhân là phức tạp và nghiêm

trọng hơn rất nhiều.

3.2.2. Hoàn thiện các văn bản qui phạm pháp luật khác bảo đảm tính đồng bộ nâng

cao hiệu quả phòng, chống tội phạm môi trường

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật chuyên ngành có liên quan đến

bảo vệ môi trường.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước

chuyên ngành về bảo vệ môi trường.

Thứ ba, bổ sung các quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của các doanh nghiệp đối với

các tổ chức, cá nhân có liên quan khi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.

3.2.3 Nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về

các tội phạm về môi trường của các cơ quan bảo vệ pháp luật

3.2.3.1. Đối với Cơ quan điều tra

Thứ nhất, đề cao vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống

tội phạm về môi trường.

Page 12: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

Thứ hai, phòng, chống tội phạm về môi trường là lĩnh vực nghiệp vụ mới của lực lương

Công an nhân dân cần phải nâng cao năng lực chuyên môn và tinh thần trách nhiệm của đội

ngũ cán bộ điều tra.

Thứ ba, cần tổ chức nghiên cứu các đề tài khoa học, các chuyên đề về đấu tranh phòng,

chống tội phạm về môi trường; mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức đấu tranh phòng,

chống tội phạm môi trường cho đội ngũ cán bộ điều tra.

Thứ tư, cần phải khẩn trương tiến hành xây dựng Trung tâm Kiểm định tiêu chuẩn môi

trường đủ điều kiện đảm bảo quan trắc và phân tích môi trường, có hệ thống cơ sở dữ liệu

đầy đủ làm căn cứ cho việc điều.

Thứ năm, cần phải trang bị, sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật hiện đại trong cụng tỏc

phũng ngừa, phỏt hiện và xử lý vi phạm phỏp luật về bảo vệ môi trường.

Thứ sáu, cần phối hơp với Tòa án, Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử

các vụ án về các tội phạm về môi trường.

3.2.3.2. Đối với Viện kiểm sát nhân dân

Thứ nhất, Viện kiểm sát phải kịp thời phát hiện những sơ hở của pháp luật hoặc trong

việc thực hiện pháp luật của các cơ quan tư pháp trong hoạt động khởi tố, điều tra, bắt, giam,

giữ, xét xử, thi hành án.

Thứ hai, cần phải nâng cao chất lương hoạt động kiểm sát điều tra và thực hành quyền

công tố tại phiên toà các vụ án hình sự, trong đó có các vụ án về tội phạm về môi trường.

Thứ ba, Trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa kiểm

sát viên phải nắm chắc hồ sơ vụ án, nắm đươc luận cứ của luật sư trình bày tại phiên toà.

Thứ năm, cần đươc tăng cường bổ sung thêm lực lương cán bộ, Kiểm sát viên phục vụ

cho lộ trình tăng thẩm quyền, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức cho Kiểm

sát viên

3.2.3.3. Đối với Tòa án nhân dân

Để thực hiện tốt công tác xét xử các vụ án về tội phạm về môi trường, ngành Tòa án cần:

Thứ nhất, cần thực hiện việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn xét xử các tội phạm về môi

trường, trên cơ sở đó hưỡng dẫn thi hành và áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật

trong quá trình xét xử.

Thứ hai, trong quá trình xét xử các vụ án về tội phạm về môi trường, phải bảo đảm sự

công minh, tính công bằng của pháp luật trong việc áp dụng các quy định của pháp luật.

Thứ ba, tổ chức xét xử kịp thời những vụ án điểm phục vụ công tác chính trị địa phương;

đưa các vụ án về tội phạm về môi trường đi xét xử lưu động.

Thứ tư, cần phối hơp chặt chẽ với cơ quan Công an, Viện kiểm sát làm tốt công tác thi

hành án phạt tù, đảm bảo mọi bản án có hiệu lực đều đươc thi hành kịp thời.

3.3. Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng và chống các

tội phạm về môi trường

3.3.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức pháp luật về tội

phạm môi trường

Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, trang bị những tri thức cần thiết về môi trường,

sinh thái cho quần chúng nhân dân qua các phương tiện truyền thông đại chúng như sách báo,

phát thanh, truyền hình…

3.3.2. Tăng cường ký kết hoặc gia nhập các công ước quốc tế trong lĩnh vực tội phạm

về môi trường Trong thời gian tới chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, chuẩn bị ra nhập, tham gia ký kết

các điều ước quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống các tội phạm về môi trường; đồng

thời nội luật hoá các cam kết quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, tăng cường hơp tác,

giao lưu về pháp luật, và thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế.

3.3.3. Hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm về môi trường

Page 13: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

Nhà nước cần có những chính sách phù hơp để đẩy mạnh hoạt động hơp tác quốc tế trong

lĩnh vực phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm về môi trường. Cụ thể như: tham gia các

diễn đàn, hội thảo, hội nghị, tận dụng các nguồn tài trơ quốc tế, đào tạo cán bộ…

KẾT LUẬN

Trong thời gian qua, bảo vệ môi trường luôn là vấn đề nhận đươc sự quan tâm lớn của

Đảng và Nhà nước. Với nhiều cố gắng nỗ lực, công tác bảo vệ môi trường đó đạt đươc nhiều

kết quả quan trọng mà biểu hiện rừ nột nhất là hệ thống pháp luật đó ngày càng hoàn thiện và

ý thức trỏch nhiệm của người dân cũng như của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đươc Nhà nước

trao quyền bảo vệ môi trường đó ngày càng đươc nâng cao. Những thành tựu đó đó gúp phần

quan trọng vào việc nõng cao chất lương cuộc sống của người dân, đảm bảo sự phát triển bền

vững kinh tế - xó hội của đất nước. Tuy nhiên, quá trỡnh phỏt triển kinh tế xó hội cũng tạo ra

nhiều ỏp lực lên môi trường. Hiện trạng môi trường vẫn đang diễn biến phức tạp. Tuy đó đạt

đươc một số kết quả như trên, nhưng chất lương môi trường hiện nay vẫn đang bị suy thoái ở

nhiều nơi, đặc biệt ở các độ thị, vùng ven biển và các lưu vực sông, làng nghề. Tỡnh hỡnh vi

phạm phỏp luật về mụi trường nói chung và tội phạm môi trường nói riêng cũng ngày càng

gia tăng về cả số lương và với diễn biến phức tạp, tinh vi. Điều này làm cho công tác đấu

tranh phũng, chống cỏc vi phạm phỏp luật về mụi trường, đặc biệt là tội phạm môi trường

ngày càng khó khăn và phức tạp; đũi hỏi phải cú sự nỗ lực cao của cỏc cấp, cỏc ngành và của

từng người dân. Nhưng dù nỗ lực đến đâu chăng nữa thỡ hoạt động này cũng sẽ kém hiệu

quả, nếu hệ thống các quy định của pháp luật về môi trường, về xử lý cỏc vi phạm và tội

phạm mụi trường thiếu và không khả thi. Chính vỡ vậy, việc hoàn thiện cỏc quy định của

pháp luật về môi trường nói chung và về pháp luật hỡnh sự núi riờng để phù hơp với diễn

biễn vi phạm pháp luật về môi trường là một nhiệm vụ phải đươc coi trọng và thực hiện

thường xuyên. Có như vậy, hoạt động đấu tranh phũng, chống tội phạm mụi trường mới có

hiệu lực, hiệu quả, góp phần khống chế và tiến tới giảm dần các vi phạm pháp luật về môi

trường. Trước tỡnh hỡnh đó, việc nghiên cứu lý luận, đánh giá thực tiễn của việc điều tra,

truy tố, xét xử các tội phạm về môi trường để từ đó đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao

hiệu quả của công tác đấu tranh, xử lý cỏc tội phạm về mụi trường là một yêu cầu khách

quan.

Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ

trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thực tiễn đấu tranh phũng,

chống vi phạm phỏp luật về mụi trường của các cơ quan thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường,

các cơ quan tiến hành tố tụng, đề tài tập trung làm rừ những nội dung cỏc quy định của Bộ

luật hỡnh sự về cỏc tội phạm về mụi trường; đánh giá thực trạng môi trường và tội phạm môi

trường trong thời gian qua, để tỡm ra nguyờn nhõn điều kiện làm phát sinh, phát triển tội

phạm môi trường; dự báo tỡnh hỡnh mụi trường và diễn biến của tội phạm môi trường để đề

xuất một số giải pháp nhằm đấu tranh, xử lý cú hiệu quả tội phạm mụi trường, để từng bước

duy trỡ và nõng cao chất lương môi trường sống của chúng ta ngày càng tốt hơn cùng với sự

phỏt triển kinh tế - xó hội của đất nước.

Bảo vệ môi trường và đấu tranh phũng, chống cỏc tội phạm về mụi trường đó và đang đặt

ra những yêu cầu vô cùng cấp thiết. Bên cạnh những kết quả đó đạt đươc thỡ cụng tỏc này

cũng cũn nhiều bất cập, đây là thực tiễn đang đũi hỏi cỏc cơ quan bảo vệ pháp luật về lĩnh

vực môi trường cần sớm đưa ra chính sách, tổ chức, thể chế và quản lý phự hơp để nâng cao

hiệu quả công tác bảo vệ môi trường nói chung và công tác đấu tranh, xử lý cỏc tội phạm về

môi trường nói riêng góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững kinh tế - xó hội của đất nước.

Do giới hạn của việc nghiên cứu luận văn thạc sỹ, cùng với những hạn chế nhất định về kiến

thức môi trường và pháp luật về môi trường. Mặc dù, bản thân đó cú nhiều cố gắng, song

khụng thể trỏnh khỏi những khiếm khuyết trong quỏ trỡnh nghiờn cứu. Do vậy, rất mong

Page 14: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

muốn đươc các thầy, cô, các chuyên gia và cán bộ thực tiễn góp ý để đề tài đươc hoàn thiện

và đạt kết quả cao hơn.

References

1. Dương Thanh An (2008), "Các yếu tố cấu thành tội phạm về môi trường theo Bộ luật

Hình sự năm 1999", Nhà nước và pháp luật, (5), tr. 52-55.

2. Bộ Công an, Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Thông tư liên tịch số 02/2009/TTLT-

BCA-BTNMT ngày 6/02 hướng dẫn quan hệ công tác phòng chống tội phạm và vi phạm

pháp luật về bảo vệ môi trường, Hà Nội.

3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Quyết định số 26/2008/QĐ-BTNMT 31/12 của Bộ

trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành quy chuẩn quốc gia về môi trường, Hà

Nội.

4. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Báo cáo kết quả thực hiện công tác thanh tra,

kiểm tra việc chấp hành bảo vệ môi trường từ năm 2004 đến năm 2009, Hà Nội.

5. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Thông tư số 16/2009/TT-BTNMT ngày 7/10 quy

định chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường, Hà Nội.

6. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Thông tư 25/2009/TT-BTNMT ngày 16/11 về quy

định tiêu chuẩn quốc gia về môi trường, Hà Nội.

7. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2007), Thông tư

liên tịch số 19/2007/TTLT-BNN&PTNT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn thi

hành một số tội phạm về môi trường, Hà Nội.

8. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học

luật hình sự (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

9. Chính phủ (2004), Nghị định 150/NĐ-CP ngày 29/7 về xử phạt các vi phạm hành chính

trong lĩnh vực khoáng sản, Hà Nội.

10. Chính phủ (2005), Nghị định 34/NĐ-CP ngày 17/3 về xử phạt các vi phạm hành chính

trong lĩnh vực tài nguyên nước, Hà Nội.

11. Chính phủ (2007), Nghị định 159/NĐ-CP ngày 30/10 về xử phạt các vi phạm hành

chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, Hà Nội.

12. Chính phủ (2009), Nghị định 105/NĐ-CP ngày 11/11 về xử phạt các vi phạm hành

chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai, Hà Nội.

13. Chính phủ (2009), Nghị định 117/NĐ-CP ngày 31/12 về xử phạt các vi phạm hành

chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Hà Nội.

14. Chính phủ (2010), Nghị định 31/NĐ-CP ngày 29/3 về xử phạt các vi phạm hành chính

trong lĩnh vực bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Hà Nội.

15. Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (2010), Báo cáo sơ kết 6 tháng đầu

năm 2010 về tội phạm môi trường, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính

trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị

về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định

hướng đến năm 2020, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị

về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 11/5 của Bộ Chính trị

về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.

20. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) (2008), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

Page 15: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội ạ ề môi trườ ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5395/1/00050000404.pdf · quyền xã hội chủ

21. Trần Lê Hồng (2001), "Nhận thức chung đối với tội phạm vê môi trường và một số vấn

đề liên quan", Khoa học pháp lý, (4), tr. 12-19.

22. Phạm Văn Lơi (2004), Tội phạm về môi trường một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

(Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Phạm Văn Lơi (2009), "Tội phạm môi trường trong pháp luật hình sự của một số nước

Đông Nam Á", Môi trường, (8), tr. 48-52.

24. Đinh Văn Quế (2001), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

25. Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (Phần các tội phạm), Tập 2,

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

26. Quốc hội (1985), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

27. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

28. Quốc hội (1998), Luật Tài nguyên nước, Hà Nội.

29. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

30. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.

31. Quốc hội (2003), Luật Thủy sản, Hà Nội.

32. Quốc hội (2004), Luật Bảo vệ phát triển rừng, Hà Nội.

33. Quốc hội (2005), Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, Hà Nội.

34. Quốc hội (2008), Luật Đa dạng sinh học, Hà Nội.

35. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

36. Quốc hội (2010), Luật An toàn thực phẩm, Hà Nội.

37. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính, Hà Nội.

38. Viện Nghiên cứu lập pháp (2009), Hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong

lĩnh vực môi trường: thực trạng và một số kiến nghị, Báo cáo chuyên đề tháng 4, Hà

Nội.

39. Võ Khánh Vinh (2002), "Những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định các tội

phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự năm 1999", Nhà nước và pháp luật, (4), tr.

3-14.