348
1 HI CU CHIN BINH TỈNH ĐỒNG NAI BAN LIÊN LC TRUYN THỐNG ĐOÀN 113 ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113 VI BIÊN HÒA- ĐỒNG NAI (Lƣu hành nội b) NHÀ XUT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN Hà Ni- 2004

ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113 - tuyengiao.dongnai.gov.vntuyengiao.dongnai.gov.vn/Lists/Dost_AnPham_BaiViet/Attachments/47/Doan... · Có thể nói, do chiến tranh du kích phát triển

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

1

HỘI CỰU CHIẾN BINH TỈNH ĐỒNG NAI

BAN LIÊN LẠC TRUYỀN THỐNG ĐOÀN 113

ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113

VỚI BIÊN HÒA- ĐỒNG NAI

(Lƣu hành nội bộ)

NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

Hà Nội- 2004

2

Chỉ đạo nội dung:

- Th.S DƢƠNG THANH TÂN - UVTV Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

Đồng Nai.

- T.S HUỲNH VĂN TỚI - TUV, Phó chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai

- Thiếu tướng NGUYỄN THANH TÙNG - Anh hùng LLVTND, Chủ tịch Hội

CCB tỉnh, nguyên Trung đoàn trưởng đầu tiên Đoàn đặc công 113

- Đại tá MAI VĂN THOẠN - nguyên Chính ủy đầu tiên Đoàn đặc công 113

- Đại tá NGUYỄN TRÍ THỨC - Phó chủ tịch Hội CCB tỉnh Đồng Nai

- Đại tá NGUYỄN VĂN CHƢỞNG - Phó chủ tịch Hội CCB tỉnh Đồng Nai

Tổ chức thực hiện:

- Nhà báo NGUYỄN QUỐC HOÀN - chuyên viên

- T.S TRẦN QUANG TOẠI - Giám đốc Bảo tàng Đồng Nai

- Nhà văn ĐÀM CHU VĂN - Chuyên viên chính - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng

Nai

Ban Tư liệu:

- NGUYỄN QUANG MINH

- LÂM VĨNH CHÂU

- KIỀU VIỆT HÙNG

3

MƢỜI SÁU CHỮ VÀNG TRUYỀN THỐNG

CỦA BINH CHỦNG ĐẶC CÔNG1

“ĐẶC BIỆT TINH NHUỆ

ANH DŨNG TUYỆT VỜI

MƢU TRÍ SÁNG TẠO

ĐÁNH HIỂM THẮNG LỚN”

1 Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng khen tặng.

4

HAI MƢƠI BỐN CHỮ VÀNG TRUYỀN THỐNG

CỦA ĐOÀN ĐẶC CÔNG 1131.

“ĐỘC ĐẢM KIÊN CƢỜNG

LUỒN SÂU ĐI TRƢỚC

BÁM CHẮC NHÂN DÂN

ĐOÀN KẾT HỢP ĐỒNG

LẬP CÔNG TẬP THỂ

CHIẾN THẮNG VẺ VANG”

1 Bộ chỉ huy Quân Giải phóng miền Nam khen tặng.

5

HUẤN THỊ CỦA HỒ CHỦ TỊCH VỚI ĐẠI BIỂU

CÁN BỘ VÀ CHIẾN SĨ BINH CHỦNG ĐẶC CÔNG

NGÀY 19 THÁNG 3 NĂM 1967

"Hôm nay Bác, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp

thay mặt Đảng và Chính phủ đến thăm các đồng chí, các chiến sĩ Binh chủng

Đặc công.

Đặc công tức là công tác đặc biệt, là vinh dự đặc biệt, cần phải có cố gắng

đặc biệt.

Các chiến sĩ đặc công được tin tưởng đặc biệt.

Có thể nói, do chiến tranh du kích phát triển cao, đặc biệt cao. Chiến thuật

du kích lấy ít đánh nhiều và đi không tiếng, về không tăm. Bây giờ các chú

cũng thế, cũng phải lấy ít đánh nhiều nhưng mà to hơn nữa, cao hơn nữa, lấy

ít đánh nhiều, lấy ít thắng nhiều.

Vì vậy điều thứ nhất là chiến sĩ đặc công đã đi đánh là thắng, như thế thì

phải đặc biệt dũng cảm.

Cái gì cũng đặc biệt đối với đặc công. Chữ đặc biệt quán xuyến tất cả, từ

lúc tập luyện cho đến lúc đi đánh, cũng như lúc về.

Mưu trí phải đặc biệt linh hoạt.

Kỹ thuật phải đặc biệt huấn luyện thuần thục.

Lập trường chính trị phải đặc biệt vững chắc.

Ở đây Bác thấy một loạt chữ đặc biệt, đặc biệt tất cả.

Kỷ luật phải đặc biệt nghiêm minh.

Quyết tâm thắng địch, quyết tâm tiêu diệt địch cũng phải đặc biệt cao.

Đối với Đảng phải đặc biệt trung thành.

Đối với dân phải đặc biệt thân ái.

Bất kỳ nhiệm vụ gì, bất kỳ nhiệm vụ đặc biệt nào cũng phải hoàn thành và

hoàn thành cho tốt.

Đặc công có khi đi một mình, tức là tác chiến một mình, có khi hợp đồng

với những binh chủng khác thì phải đặc biệt gắn bó.

Nội bộ phải đặc biệt đoàn kết.

Dân vận phải đặc biệt nhẫn nại, bởi vì đây là nhân dân chiến tranh, phải

nhờ dân bao che, đùm bọc, giúp đỡ thì mới thành công. Muốn như thế dân vận

phải khôn khéo và nhẫn nại.

Bất kỳ khó khăn đặc biệt nào cũng phải vượt qua, cũng phải khắc phục

cho kỳ được.

6

Nói tóm lại là, công việc, công tác của các đồng chí cũng đặc biệt khó,

nhưng cũng đặc biệt vẻ vang.

Cuối cùng, Bác chúc các đồng chí mạnh khỏe, giữ gìn sức khỏe và học tập

tiến bộ thêm nhiều.

Đảng, Bác và Chính phủ chờ thắng lợi, chờ báo cáo thắng lợi của các

đồng chí.”

7

LỜI BẠT

Kỷ niệm ba mươi năm ngày thành lập Trung đoàn Đặc công 113, các cựu

chiến binh của Trung đoàn hiện đang sinh sống trên đất Đồng Nai đứng đầu là

Thiếu tướng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Thanh Tùng có một ý

tưởng rất đẹp: xây dựng một tập hồi ức của các cựu cán bộ chiến sĩ Trung đoàn

và cán bộ lãnh đạo, nhân dân địa phương - những người đã từng sát cánh với

Trung đoàn qua những ngày máu lửa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Cuốn sách sẽ cung cấp những tư liệu phong phú, bổ sung cho tài liệu lịch sử

Trung đoàn 113, giúp cho các tầng lớp nhân dân và nhất là thế hệ trẻ hiểu thêm

một cách sinh động quá khứ hào hùng của cha anh. Ý tưởng đẹp đẽ này được

Thường trực Tỉnh ủy, Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai rất ủng hộ.

Đồng Nai là địa bàn tác chiến, là mảnh đất gắn bó máu thịt của Trung đoàn suốt

cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, là nơi Trung đoàn đã lập nên nhiều chiến

công vang dội.

Công việc dò tìm những cựu chiến binh của Trung đoàn hiện sống ở khắp

mọi miền Tổ quốc và những cán bộ lãnh đạo, nhân dân địa phương Đồng Nai

từng sát cánh chiến đấu với Trung đoàn không phải là dễ dàng, và cũng không

phải lần một, lần hai là hoàn thành được công việc. Đây cũng có thể gọi là một kỳ

công của những người tổ chức, thực hiện cuốn sách này - những cựu binh của

Trung đoàn 113. Hơn năm mươi bài vở của hơn năm mươi con người góp mặt

đem lại chất lượng nhất định cho cuốn sách. Quan trọng nhất, cuốn sách cung

cấp nhiều tư liệu khá phong phú về lịch sử của Trung đoàn, quá trình chuẩn bị và

diễn biến những trận chiến đấu thắng lợi, cho chúng ta hiểu thêm tình đoàn kết

quân dân, sự phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy địa phương với ban chỉ huy lực lượng

vũ trang nhân dân đứng chân trên địa bàn, sự đùm bọc, chở che và sẵn sàng hy

sinh cả tính mạng mình vì nghĩa lớn của những người dân Biên Hòa - Đồng Nai

đối với cách mạng. Một số bài viết cũng cố gắng khắc họa hình ảnh cán bộ chiến

sĩ Quân Giải phóng mưu trí, dũng cảm vô song trong chiến đấu, đằm thắm, thủy

chung trong tình cảm riêng tư, tình cảm gia đình, hết lòng yêu thương đồng chí,

đồng đội, đoàn kết với nhân dân. Đặc biệt, đưa chúng ta về gần, hiểu thêm về binh

chủng đặc biệt tinh nhuệ, một binh chủng có cách đánh xuất quỉ nhập thần bao

phen làm kẻ thù run sợ.

Tuy nhiên, đây là sản phẩm cây nhà lá vườn, tập hợp những bài viết, hoặc

ghi theo lời kể của những người dày dạn trong chiến đấu nhưng lại chưa một lần

cầm bút hoặc chưa bao giờ có ý định viết văn nên không tránh khỏi sự thô tháp,

đơn giản. Gọi cho đúng tên của nó, đây là tập kỷ yếu tập hợp các bài viết, lời kể

của các đồng chí nguyên là cán bộ chiến sĩ Trung đoàn Đặc công 113 và các đồng

chí nguyên lãnh đạo cấp ủy, cán bộ, nhân dân tỉnh Biên Hòa, Đồng Nai, các

huyện Vĩnh Cửu, Long Thành, Trảng Bom, Tân Uyên nơi Trung đoàn đứng chân

chiến đấu. Cuốn sách mang nhiều giá trị sử liệu, có tác dụng giáo dục truyền

thống cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc, khơi dậy lòng tự hào về quân đội

8

anh hùng, nhân dân anh hùng, tự hào về quê hương Đồng Nai anh hùng. Xin được

trân trọng ghi nhận công lao, tâm huyết của những người đã trực tiếp tổ chức xây

dựng nên cuốn sách này. Cám ơn sự quan tâm chu đáo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân

dân tỉnh Đồng Nai.

Đây là món quà thực sự có ý nghĩa nhân kỷ niệm sáu mươi năm thành lập

Quân đội nhân dân Việt nam (22-12-1944 / 22-12-2004), kỷ niệm ba mươi hai

năm thành lập Trung đoàn Đặc công 113 Anh hùng (3-6-1972 / 3-6-2004), xin

trân trọng giới thiệu với bạn đọc. Và cũng xin được bạn đọc lượng tình thể tất cho

những khiếm khuyết của cuốn sách.

Xin chân thành cám ơn.

DƢƠNG THANH TÂN

Ủy viên Thường vụ, Trưởng ban

Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai

9

BÁC HỒ VỚI BỘ ĐỘI ĐẶC CÔNG

Lực lƣợng đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội ta, có nhiệm vụ mũi nhọn đi đầu,

thọc sâu, đánh hiểm, góp phần làm nên chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 lịch sử,

đó là Binh chủng Đặc công Anh hùng. Chính vì những thành tích đặc biệt trong

chiến đấu mà một năm sau ngày giải phóng (3 tháng 6 năm 1976), Binh chủng

Đặc công đã đƣợc Quốc hội tuyên dƣơng đơn vị Anh hùng lực lƣợng vũ trang

nhân dân với 16 chữ vàng truyền thống: “Đặc biệt tinh nhuệ - Anh dũng tuyệt vời -

Mưu trí táo bạo - Đánh hiểm, thắng lớn”. Nhân kỷ niệm 28 năm giải phóng miền

Nam, thống nhất đất nƣớc, xin giới thiệu một kỷ niệm sâu sắc của Bác Hồ với bộ

đội đặc công, chính những lời giáo huấn của Ngƣời đã cổ vũ, động viên và làm

nên sức mạnh cho cả một thế hệ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”...

Những ngày cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 1967 đế quốc Mỹ điên cuồng leo

thang đánh phá miền Bắc. Trong khi đó ở chiến trƣờng miền Nam, quân và dân ta

giành những thắng lợi oanh liệt, chuẩn bị bƣớc vào những đợt tấn công với quy

mô lớn. Theo đề nghị của Quân ủy Trung ƣơng, cần thiết phải thành lập Binh

chủng Đặc công để đào tạo những cán bộ chiến sĩ nòng cốt, đặc biệt tinh nhuệ của

Quân đội ta, đáp ứng cho chiến trƣờng miền Nam và cả nƣớc. Đề nghị này đã

đƣợc Trung ƣơng Đảng và Chính phủ chấp thuận. Sau những ngày miệt mài khổ

luyện trên thao trƣờng, các chiến sĩ đặc công chuẩn bị vào chiến trƣờng đánh địch.

Là lực lƣợng trẻ, mới thành lập, nên Bác Hồ rất quan tâm đến sự trƣởng thành của

bộ đội, Bác muốn lên Xuân Mai để tận mắt chứng kiến thành quả trong huấn

luyện của bộ đội đặc công trƣớc khi đi chiến đấu ở chiến trƣờng xa. Đây là việc

tƣởng nhƣ bình thƣờng, nhƣng trong giai đoạn giặc Mỹ đang tiến hành chiến tranh

phá hoại miền Bắc, chúng có thể ném bom bất cứ lúc nào, thì việc đảm bảo an

toàn cho Bác là rất khó khăn. Vì vậy, Quân ủy Trung ƣơng đề nghị Bác cho làm

một thao trƣờng tại Trƣờng Cán bộ dân tộc Trung ƣơng (nay là Học viện Chính trị

Quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Hà Nội) để bộ đội diễn tập.

Năm đó, trời đã sang xuân nhƣng vẫn còn rét đậm. Để chuẩn bị cho buổi diễn

tập, đích thân Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp và Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng đã trực

tiếp xuống thao trƣờng chỉ đạo cho bộ đội đặc công làm tốt công tác chuẩn bị.

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 19 tháng 3 năm 1967, trời mƣa nhỏ, xe của Bác

đến địa điểm bằng một con đƣờng khác mà bản thân các đồng chí trong Ban Tổ

chức không biết. Trƣớc khi xem diễn tập, Bác yêu cầu đồng chí Nguyễn Thế

Lƣơng, bấy giờ là Cục phó kiêm Phó tƣ lệnh Binh chủng Đặc công đƣa Bác đi

kiểm tra các hầm trú ẩn tránh máy bay. Thao trƣờng diễn tập là toàn bộ khu sân

bóng chuyền của nhà trƣờng, dây thép gai bao quanh dày đặc. Trời tối, lạnh,

không gian tĩnh mịch, nhƣng điều đó không làm giảm sự khẩn trƣơng, hào hứng

của bộ đội.

Đây là lần đầu tiên Bác Hồ xem bộ đội đặc công tập. Bác chăm chú theo dõi

từng động tác của bộ đội, sự thuần thục trong từng bài võ của các chiến sĩ trẻ đã

thu hút sự tập trung của Bác. Bác vỗ tay khen ngợi và tiếp tục xem bộ đội đặc

công biểu diễn kỹ thuật vƣợt tƣờng rào, đánh nƣớc, luồn sâu... Xem xong, Bác Hồ

10

và các đồng chí lãnh đạo đi vào hội trƣờng. Đèn hội trƣờng bật sáng, cả hội trƣờng

đứng dậy trong tiếng vỗ tay. Bác tƣơi cƣời, ân cần thăm hỏi các chiến sĩ và các

đơn vị sắp lên đƣờng đi chiến đấu. Rồi Bác quay sang các chiến sĩ nữ và chiến sĩ

nuôi quân, Ngƣời căn dặn: “Các cháu cố gắng đảm bảo cơm ngon, canh ngọt để

các chiến sĩ ta có sức khỏe đánh thắng kẻ thù”.

Các đồng chí trong Bộ Tƣ lệnh Đặc công có chuẩn bị cho Bác một bài nói

chuyện, song Bác lại lấy ra tờ giấy khác do Bác viết sẵn. Bài nói của Bác rất cô

đọng, thể hiện sự nhìn nhận thiên tài của Ngƣời về nguyên tắc chiến đấu của bộ

đội đặc công: “Đặc công tức là công tác đặc biệt, là vinh dự đặc biệt cần phải cố

gắng đặc biệt...”. Bác nhấn mạnh từng điểm để các chiến sĩ đặc công dễ nhớ:

“Mƣu trí phải đặc biệt linh hoạt; kỹ thuật phải đặc biệt thuần thục; lập trƣờng

chính trị phải đặc biệt vững vàng; kỷ luật phải đặc biệt nghiêm minh; quyết tâm

thắng địch, quyết tâm tiêu diệt địch phải đặc biệt cao”.

Trong không khí đầm ấm, phấn khởi, xúc động trƣớc lời huấn thị ân cần của

Bác Hồ và các vị lãnh đạo cùng đi với Bác, thay mặt cán bộ, chiến sĩ Binh chủng

Đặc công, Thƣợng tá Nguyễn Thế Lƣơng xin hứa với Bác ra sức xây dựng Binh

chủng lớn mạnh không ngừng, luôn sẵn sàng hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ

mà Đảng, Nhà nƣớc và Quân đội giao cho.

Ngày 19 tháng 3 năm 1967 - ngày Bác Hồ đến thăm bộ đội Đặc công cũng là

ngày chính thức công nhận Binh chủng Đặc công. Đó là một sự kiện quan trọng

đánh dấu sự trƣởng thành và phát triển của lực lƣợng vũ trang ta. Ngày 24 tháng 3

năm 1967, Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp, Bộ trƣởng Bộ Quốc phòng đã chính thức

ký quyết định thành lập Bộ Tƣ lệnh Đặc công.

Đúng nhƣ lời huấn thị và sự kỳ vọng của Bác Hồ cũng nhƣ các đồng chí lãnh

đạo Đảng, Quân đội, qua thực tế chiến đấu, Binh chủng Đặc công luôn thể hiện là

lực lƣợng đặc biệt của Quân đội ta. Những lời huấn thị ân cần của Hồ Chủ tịch

trong buổi tối mùa xuân hôm ấy đã ghi vào tâm nguyện các chiến sĩ đặc công có

mặt trên thao trƣờng, tạo thêm sức mạnh cho họ vào miền Nam đánh giặc.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, giai đoạn 1972 và

nhất là trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 1975, bộ đội đặc công đƣợc sử dụng

là lực lƣợng mũi nhọn, thọc sâu, thần tốc, tiến công sắc bén vào các cơ quan đầu

não, cơ sở vật chất hậu cần và phƣơng tiện giao thông của địch, góp phần vào

thắng lợi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nƣớc.

Ngày nay, hình ảnh và những lời căn dặn của Bác Hồ trong buổi tối tháng 3

năm ấy vẫn là một kỷ niệm sâu sắc đối với nhiều cán bộ, sĩ quan, cựu chiến binh

Binh chủng Đặc công. Những chỉ bảo, căn dặn ân tình của Ngƣời mãi ghi xƣơng,

khắc cốt trong lòng các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Binh chủng Đặc công Anh hùng.

B.M

11

NGUỒN SỨC MẠNH, NGUỒN TINH THẦN VÔ GIÁ

LÊ HOÀNG QUÂN

Ủy viên Trung ương Đảng,

Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lƣợc, Biên Hòa

- Long Khánh (tỉnh Đồng Nai ngày nay) có vị trí chiến lƣợc rất quan trọng, là cửa

ngõ phía đông của Sài Gòn - thủ phủ của đội quân xâm lƣợc và chính quyền tay

sai bán nƣớc, tiếp giáp Chiến khu Đ - căn cứ địa cách mạng ở miền Đông, có địa

hình liên hoàn với rừng núi cực Nam Trung bộ và chiến khu Dƣơng Minh Châu

(Tây Ninh). Cả hai thời kỳ, địch đều bố trí ở đây những lực lƣợng rất mạnh, hòng

ngăn chặn các mũi tiến công của ta. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc,

địch xây dựng ở Biên Hòa nhiều căn cứ quan trọng: mở rộng nâng cấp sân bay

Biên Hòa thành một sân bay quân sự lớn vào loại bậc nhất Đông Nam Á thời bấy

giờ - đây là nơi xuất kích các chuyến bay oanh tạc đánh phá cách mạng ở cả hai

miền Nam - Bắc, gây vô vàn tội ác với đồng bào ta. Mỹ còn xây dựng tại Long

Bình một tổng kho liên hợp hậu cần lớn nhất ở miền Nam và Đông Dƣơng. Trung

ƣơng Cục miền Nam nhận định Đông Nam Bộ là vùng đất chiến lƣợc, mà Biên

Hòa - Long Khánh có vị trí đặc biệt quan trọng: đối với địch là trung tâm chỉ huy

đánh phá cách mạng, một hậu phƣơng trực tiếp của Sài Gòn, một hành lang vận

chuyển quan trọng; đối với cách mạng, Biên Hoà - Long Khánh là địa bàn chuyển

tiếp, nối liền cực Nam Trung Bộ, đồng thời là chiến trƣờng tiêu diệt sinh lực có

tính quết định thắng lợi cho toàn Miền. Do có vị trí đặc biệt quan trọng nhƣ vậy

nên Trung ƣơng Cục thành lập riêng đơn vị U1 (tƣơng đƣơng cấp tỉnh) bao gồm

thị xã Biên Hòa, huyện Vĩnh Cửu, huyện Trảng Bom1. Nhiệm vụ của Đảng bộ U1

trong kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc rất nặng nề: lãnh đạo phong trào cách

mạng địa phƣơng và thực hiện nhiệm vụ hết sức quan trọng - xây dựng “vành đai

lửa tiến công sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình, phá hủy phƣơng tiện chiến

tranh cao cấp của Mỹ - ngụy, làm đục ruỗng dạ dày chiến tranh của chúng.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, có nhiều đơn vị đặc công tác chiến trên

địa bàn Biên Hòa. Đƣợc chính thức thành lập vào ngày 3 tháng 6 năm 1972 tại

một khu rừng bên suối Bà Hào, chiến khu Đ (bây giờ thuộc huyện Vĩnh Cửu tỉnh

Đồng Nai), nhƣng thực sự các đơn vị của Trung đoàn Đặc công 113 nhƣ Tiểu

đoàn 174 pháo binh hỏa tiễn ĐKB, Tiểu đoàn 9, Tiểu đoàn đặc công 12 đã chiến

đấu trên đất Đồng Nai ngay từ những năm đầu bƣớc vào thời kỳ ác liệt nhất của

cuộc kháng chiến chống Mỹ.

1 Khi thành lập tháng 9 năm 1965 gồm thị xã Biên Hòa, huyện Vĩnh Cửu. Đến tháng 10 năm 1967 thêm

huyện Trảng Bom.

12

Từ khi hình thành đội hình Trung đoàn cho đến ngày hoàn toàn giải phóng

miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cán bộ chiến sĩ Trung đoàn Đặc công 113 đã phát

huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chủ động khắc phục mọi khó khăn

gian khổ, không ngại hy sinh, mƣu trí, dũng cảm, đoàn kết hợp đồng chặt chẽ với

lực lƣợng vũ trang địa phƣơng, đƣợc sự che chở đùm bọc của nhân dân, đã hoàn

thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cấp trên giao phó.

Trung đoàn đã xây dựng căn cứ, hành lang, bàn đạp vững chắc, bám chắc các

mục tiêu, đánh phá thƣờng xuyên liên tục các căn cứ, hậu cứ địch, đánh hiệp đồng

trong các chiến dịch, dành những thắng lợi to lớn. Trong ba năm (1972 - 1975)

Trung đoàn đã đánh hơn 256 trận, phá hủy, phá hỏng hàng trăm máy bay, hàng

trăm ngàn tấn bom đạn, xăng dầu, nhiều cầu tầu và phƣơng tiện chiến tranh hiện

đại, tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2000 tên Mỹ - ngụy. Ở Đồng Nai,

hai mục tiêu trọng yếu đƣợc giao cho Trung đoàn là sân bay Biên Hòa, tổng kho

Long Bình. Các đơn vị của Trung đoàn đã liên tục tiến công, gây cho địch những

tổn thất to lớn. Trung đoàn còn tiến công các căn cứ: cảng Long Bình Tân, cầu

Sông Buông, cầu Hóa An, căn cứ Hốc Bà Thức, kho bom Bình Ý; đồng thời phối

hợp với lực lƣợng vũ trang Biên Hòa - Đồng Nai đánh đồn bót và chống các cuộc

càn quét, lấn chiếm của địch, tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy giữ vững và mở

rộng vùng giải phóng.

Trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Trung đoàn Đặc công

113 đánh chiếm các căn cứ Hốc Bà Thức, đánh chiếm và giữ cầu Hóa An, cầu

Ghềnh, đánh chiếm và giải phóng một đoạn xa lộ từ Xóm Chợ đến ấp Xuân Thôn

và phát triển tấn công về hƣớng Thủ Đức. Những cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng

ác liệt, đặc biệt là tại cầu Ghềnh và cầu Hóa An. Trong ba ngày đêm từ 4 giờ 30

phút sáng ngày 27 tháng 4 đến sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 các chiến sĩ Trung

đoàn Đặc công 113 đã chiến đấu vô cùng quyết liệt với lực lƣợng địch điên cuồng

phản kích đông hơn gấp bội quyết giành giữ cầu. Hơn 60 cán bộ chiến sĩ của

Trung đoàn đã anh dũng hy sinh để bảo vệ hai cây cầu trên đất Đồng Nai cho quân

ta tiến về giải phóng Sài Gòn.

Những chiến công oanh liệt của Trung đoàn Đặc công 113 lập nên trên đất

Đồng Nai không tách rời sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ địa phƣơng, sự phối

hợp chiến đấu của lực lƣợng vũ trang địa phƣơng và sự che chở, đùm bọc của

nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai. Đảng bộ Đồng Nai (lúc đó là U1) đã phối hợp

chặt chẽ, lãnh đạo nhân dân chủ động tạo mọi điều kiện cho các đơn vị vũ trang

nói chung, Trung đoàn Đặc công 113 nói riêng chiến đấu và chiến thắng. Từ năm

1965, Thƣờng vụ Tỉnh ủy Biên Hòa đã quyết định thành lập Hội đồng cung cấp

tỉnh, có nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với kinh tài, hậu cần và Đảng bộ cơ sở để

động viên sức ngƣời, sức của thu mua lƣơng thực, thực phẩm, phát động phong

trào tòng quân, phát động và tổ chức lực lƣợng dân công... đáp ứng kịp thời các

nhu cầu chiến trƣờng và phục vụ chiến đấu. Tỉnh ủy đã lãnh đạo xây dựng củng cố

vùng ven và nội ô trong thị xã Biên Hòa, tạo bàn đạp cho lực lƣợng vũ trang tiến

công vào các cơ quan đầu não, các căn cứ, sân bay, kho tàng của Mỹ - ngụy.

Trong các trận đánh vào sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình và các căn cứ

13

khác, U ủy U1, Thị ủy Biên Hòa đã cử cán bộ phối hợp với lực lƣợng trinh sát

miền tổ chức điều nghiên địa hình, các bố phòng và hệ thống doanh trại, khu máy

bay, kho bom đạn và chuẩn bị trận địa cho lực lƣợng pháo binh Miền và Quân khu.

Các cơ sở nội tuyến bên trong sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình đã cung cấp

nhiều tài liệu quan trọng về lực lƣợng, sơ đồ hệ thống canh gác của địch trong căn

cứ. Huyện ủy Vĩnh Cửu huy động du kích, bộ đội, cán bộ huyện, xã tham gia công

tác tải đạn từ Chiến khu Đ về phục vụ trận đánh. Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Đặc

công 113 luôn sống trong tình thƣơng yêu, che chở của nhân dân Biên Hòa - Đồng

Nai, đặc biệt là các đơn vị đứng chân ở Biên Hòa, Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Long

Thành. Nhiều thanh niên quê ở Đồng Nai chiến đấu trong đội hình Trung đoàn,

nhiều ông bố, bà mẹ Đồng Nai gửi con em mình gia nhập Trung đoàn và sẵn sàng

hy sinh cả tính mạng cho chiến thắng.

Đảng bộ và quân dân Biên Hòa - Đồng Nai luôn tự hào về những chiến công

của Trung đoàn Đặc công 113 đã lập nên trên quê hƣơng trong cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nƣớc và luôn ghi nhớ sự hy sinh to lớn, oanh liệt của các Anh hùng

liệt sĩ của Trung đoàn đã ngã xuống trên đất Đồng Nai cho ngày toàn thắng.

Truyền thống yêu nƣớc và cách mạng, những chiến công oanh liệt chống giặc

ngoại xâm trong quá khứ, trong đó có sự đóng góp trực tiếp của Trung đoàn Đặc

công 113 trên đất Đồng Nai mãi là nguồn tài sản tinh thần và nguồn sức mạnh vô

giá, góp phần cho Đảng bộ và Quân dân Đồng Nai hôm nay vững bƣớc tiến lên

giành nhiều thắng to lớn hơn nữa trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, xây dựng Đồng Nai thành một tỉnh giàu mạnh về mọi mặt, có

kinh tế phát triển, văn hóa tiên tiến, đời sống nhân dân không ngừng đƣợc cải

thiện, an ninh quốc phòng vững chắc.

Đảng bộ và quân dân Đồng Nai luôn mong muốn, cán bộ, chiến sĩ Trung

đoàn Đặc công 113 hôm nay tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng cách mạng,

nêu cao đạo đức phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, của đội quân cách mạng,

không ngừng rèn luyện, học tập, xây dựng đơn vị ngày càng vững mạnh, chính

quy, hiện đại, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ Đảng và nhân dân giao phó, góp

phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

L.H.Q.

14

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG ĐƠN VỊ BA LẦN ANH HÙNG,

NỖ LỰC PHẤN ĐẤU GIÀNH NHIỀU THÀNH TÍCH MỚI RỰC RỠ HƠN

Thiếu tƣớng PHÙNG KHẮC ĐĂNG

Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị1.

Kính thƣa các đồng chí đại biểu!

Kính thƣa các đồng chí nguyên là cán bộ của Binh chủng và của Đoàn Đặc

công 113!

Thƣa toàn thể cán bộ - chiến sĩ Đoàn Đặc công 113 thân mến!

Hôm nay tôi vô cùng phấn khởi đƣợc về dự lễ đón nhận danh hiệu Anh

hùng trong thời kỳ đổi mới của Đoàn Đặc công 113.

Thay mặt lãnh đạo Tổng cục Chính trị, tôi nhiệt liệt chúc mừng Đoàn Đặc

công 113 đƣợc đón nhận phần thƣởng cao quý lần thứ 3 này! Chúc các đồng chí

giữ vững và phát huy những thành tích xuất sắc đã đạt đƣợc, xứng đáng với sự tin

cậy của Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân. Chúc các đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc.

Kính thƣa các đại biểu, thƣa toàn thể các đồng chí!

Ra đời trong giai đoạn khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến chống Mỹ,

cứu nƣớc và trƣởng thành trong điều kiện hết sức gian khổ khó khăn, Đoàn Đặc

công 113 đã nhanh chóng tự khẳng định đƣợc mình. Nêu cao ý thức tự lực tự

cƣờng, vƣợt qua thử thách, vƣơn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đƣợc giao

trong chiến đấu giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Đoàn đã đƣợc

Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu cao quý hai lần Anh hùng lực lƣợng vũ trang

nhân dân.

Kế thừa và phát huy những thành tích xuất sắc đã đạt đƣợc hơn 10 năm qua,

bằng nỗ lực phấn đấu vƣợt bậc của mình, Đoàn Đặc công 113 dã nhận đƣợc nhiều

huân chƣơng, nhiều phần thƣởng cao quý của Đảng, Nhà nƣớc, Quân đội và của

Binh chủng. Đặc biệt, ngày 9 tháng 8 năm 2000, Đoàn Đặc công 113 đƣợc Đảng,

Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu Anh hùng trong thời kỳ đổi mới.

Đây là danh hiệu cao quý lần thứ ba mà Đoàn Đặc công 113 đƣợc đón nhận.

Đây không chỉ là vinh dự riêng của Đoàn mà còn là vinh dự cho cán bộ, chiến sĩ

Binh chủng Đặc công Anh hùng; Vinh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam anh

1 Bài phát biểu tại lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân lần thứ ba của Đoàn Đặc công

113. Nay đồng chí là trung tướng.

15

hùng. Đây là truyền thống rất đáng tự hào của các đồng chí, của quân đội chúng ta,

dù trong chiến tranh ác liệt hay trong thời bình vẫn nêu cao phẩm chất “Bộ đội Cụ

Hồ”, phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và Quân đội giao phó.

Phần thƣờng các đồng chí đón nhận hôm nay là sự đánh giá, tuyên dƣơng

công trạng của Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân về thành tích đặc biệt xuất sắc trong

xây dựng, trong huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Góp phần có hiệu quả vào sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Những thành tích xuất sắc mà các đồng chí đạt đƣợc bắt nguồn từ truyền

thống Anh hùng của dân tộc, của Đảng và của Quân đội, dƣới sự lãnh đạo sáng

suốt, tài tình của Đảng, của Bác Hồ kính yêu mà trực tiếp là Đảng uỷ Quân sự

Trung ƣơng, Bộ Quốc phòng và Đảng ủy - Bộ Tƣ lệnh Binh chủng Đặc công, là

sự chăm sóc hết lòng đùm bọc của nhân dân, nhất là của Đảng bộ, chính quyền và

nhân dân những nơi mà Đoàn đã đóng quân, là sự hy sinh trọn đời mình của các

Anh hùng, liệt sĩ, là một phần công sức, mồ hôi, xƣơng máu và trí tuệ của các thế

hệ đã kế tiếp nhau xây đắp nên. Chúng ta cần trân trọng giữ gìn và cùng nhau vun

đắp thêm truyền thống vẻ vang này.

Thƣa các đồng chí!

Trong tình hình hiện nay, trƣớc bối cảnh trong nƣớc và quốc tế có nhiều

diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những yếu tố khó lƣờng, chủ nghĩa đế quốc và các thế

lực thù địch tiếp tục điên cuồng chống phá nƣớc ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và

xảo quyệt, vì vậy trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng Tổ quốc, lực

lƣợng vũ trang chúng ta không đƣợc một phút lơ là, mất cảnh giác trƣớc âm mƣu

chiến lƣợc của kẻ thù. Phải sẵn sàng đập tan ý đồ đen tối của chúng, để bảo vệ

vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nhiệm vụ của Quân đội ta, của Binh chủng Đặc công là hết sức nặng nề.

Hơn lúc nào hết, các đồng chí cần tập trung và nâng cao chất lƣợng tổng hợp sức

mạnh chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ

xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân. Phát huy truyền thống đơn vị Anh hùng, nâng

cao bản lĩnh chính trị, thực sự tinh nhuệ, kiên định với lý tƣởng và mục tiêu chiến

đấu: tuyệt đối trung thành và tin tƣởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam. Đoàn phải ra sức huấn luyện giỏi về kỹ chiến thuật, tinh thông về cách đánh,

xử lý linh hoạt các tình huống, nhất là tình huống trong diễn biến hòa bình, bạo

loạn lật đổ. Sẵn sàng đập tan mọi âm mƣu, thủ đoạn của kẻ thù, hoàn thành xuất

sắc mọi nhiệm vụ đƣợc giao. Tiếp tục phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” tập

trung xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn

diện. Tích cực tham gia vận động quần chúng, xây dựng địa bàn an toàn, tích cực

giúp đỡ nhân dân trong xóa đói, giảm nghèo; gắn bó máu thịt với nhân dân, xứng

đáng là bộ đội của dân, vì dân, đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng; đồng

thời phát huy tinh thần tự lực tự cƣờng, không ngừng sáng tạo, cải thiện nâng cao

đời sống của bộ đội. Xây dựng đơn vị luôn có đời sống vật chất, tinh thần phong

phú, xây dựng đơn vị và góp phần xây dựng binh chủng chính quy tinh nhuệ và

từng bƣớc hiện đại.

16

Mong rằng Đoàn Đặc công 113, đơn vị ba lần nhận danh hiệu cao quý Anh

hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân sẽ mãi mãi là đơn vị giƣơng cao ngọn cờ đầu

trong phong trào thi đua quyết thắng của Binh chủng và của toàn quân.

Chúc các đồng khí mạnh khỏe và hạnh phúc. Xin cám ơn!

P.K.Đ

17

BỐI CẢNH RA ĐỜI VÀ NHỮNG CHIẾN CÔNG VANG DỘI

CỦA ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113, BA LẦN ANH HÙNG

Thiếu tƣớng NGUYỄN THANH TÙNG1

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Đoàn Đặc công 113 đƣợc kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của Đoàn

429

Chín năm trƣờng kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc của dân tộc

kết thúc thắng lợi, Hiệp định Giơ-ne-vơ đƣợc ký kết vào ngày 20 tháng 7 năm

1954. Nhƣng đất nƣớc ta vẫn bị chia cắt, lấy con sông Bến Hải và vĩ tuyến 17 làm

giới tuyến tạm thời để hai năm sau theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ sẽ có

tổng tuyển cử thống nhất nƣớc nhà.

Nhƣng với dã tâm xâm lƣợc hòng chia cắt đất nƣớc ta lâu dài, sau khi hất

cẳng Pháp, đế quốc Mỹ đã dựng lên bộ máy chính quyền tay sai mới ở miền Nam

Việt Nam do tổng thống bù nhìn Ngô Đình Diệm cầm đầu nhằm đàn áp, dìm

phong trào cách mạng của đồng bào miền Nam trong bể máu.

Tức nƣớc thì vỡ bờ! Lòng căm thù lũ giặc ngùn ngụt bốc cao. Trận đánh căn

cứ Tua Hai ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh cuối tháng 12 năm 1959, làm

binh biến một trung đoàn ngụy. Ta thu nhiều vũ khí. Tiếp đó phong trào Đồng

khởi ở huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre đã báo hiệu bình minh, ngọn lửa cách mạng

đã và đang khởi phát. Rồi chiến thắng Phƣớc Thành thuộc huyện Tân Uyên, tỉnh

Biên Hòa đã đánh dấu bƣớc trƣởng thành mới của lực lƣợng cách mạng.

Vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lƣợng tại chỗ, khu vực cộng với lực lƣợng

vũ trang do hậu phƣơng lớn miền Bắc chi viện (trong đó có khá đông anh em đặc

công tập kết đƣợc huấn luyện bài bản về kỹ chiến thuật. Bản lĩnh chính trị vững

vàng, trung thành với Tổ quốc, có lòng căm thù giặc sâu sắc, thề không đội trời

chung với bọn cƣớp nƣớc và bè lũ bán nƣớc, hại dân). Nhờ vậy mà chất lƣợng của

đội quân kháng chiến làm nòng cốt trong đấu tranh vũ trang cách mạng miền Nam

thêm đƣợc củng cố mạnh mẽ, có bƣớc phát triển mới.

Do yêu cầu tác chiến với đối tƣợng là đội quân xâm lƣợc Mỹ và ngụy quyền

Sài Gòn, cuối năm 1965, sau khi nắm tình hình các lực lƣợng đặc công mang

phiên hiệu T1; T2; T4... Cục Tham mƣu Miền đã tổ chức hội nghị bàn chuyên đề

về xây dựng và phát triển lực lƣợng đặc công. Sau đó Bộ Chỉ huy Miền cho triển

khai thành lập Phòng Đặc công lấy phiên hiệu là J18 để chuyên trách theo dõi, chỉ

đạo hoạt động và xây dựng lực lƣợng đặc công.

1 Nguyên Chỉ huy trưởng đầu tiên Đoàn Đặc công 113.

18

Trƣởng phòng đặc công lúc ấy là đồng chí Nghiêm Xuân Đẩu (Tƣ Cang),

nguyên Phó phòng Quân huấn, Cục Tham mƣu Miền, đồng chí Nguyễn Ngọc Hải,

Tham mƣu trƣởng cùng với ba cán bộ nữa. Sau ngày thành lập J18, lực lƣợng gồm

có bốn đại đội đặc công, lực lƣợng này do hai đơn vị chủ lực của Miền gửi tới để

huấn luyện nghiệp vụ chuyên sâu và trƣờng đặc công cũng bắt đầu hình thành.

Sau trận càn lớn Gian-xơn Xiti mùa khô 1966-1967, địch bị thất bại thảm hại,

Bộ Chỉ huy Miền cho sáp nhập Phòng Đặc công và Phòng Cơ giới, lấy phiên hiệu

là J16. Tổ chức hai liên đội một và hai, vừa chiến đấu vừa xây dựng và phát triển

thành hai tiểu đoàn với sự tích cực chi viện của Binh chủng Đặc công ngoài miền

Bắc vào. Các đại đội, tiểu đoàn đặc công thủy, bộ đều đã đƣợc huấn luyện khá tốt

để tăng cƣờng cho chiến trƣờng miền Nam. Cuối năm 1967, các tiểu đoàn này đều

sẵn sàng xuất quân rồi trực tiếp tham gia chiến dịch lịch sử Tổng tiến công và nổi

dậy tết Mậu Thân 1968. Kết hợp với lực lƣợng biệt động, tác chiến của đặc công

chủ yếu nhằm vào các cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn và các căn cứ lớn của

Mỹ - ngụy nhƣ Trảng Lớn, Lai Khê, Tếch Ních, Đồng Dù, sân bay Tân Sơn Nhất...

đạt hiệu suất chiến đấu rất cao.

Do yêu cầu của sự nghiệp cách mạng miền Nam và phát triển của chiến

trƣờng, ngày 4 tháng 2 năm 1969, Đoàn đặc công 429 đƣợc thành lập theo chỉ thị

của Bộ Chỉ huy Miền để làm lực lƣợng cơ động. Có thể nói sự ra đời của Đoàn

đặc công 429 là một sự kiện quan trọng, có ý nghĩa về mặt tác chiến theo phƣơng

thức đặc công vào các căn cứ, hậu cứ lớn của Mỹ - ngụy đƣợc bảo vệ cẩn trọng

mà cách đánh bình thƣờng khó có thể thực hiện. Đồng thời giúp cho Bộ Chỉ huy

Miền chỉ đạo tác chiến theo lối đánh độc đáo vào những mục tiêu trọng điểm của

đối phƣơng, sử dụng lực lƣợng ít mà hiệu quả chiến đấu rất cao, làm cho chúng

khó lòng chống đỡ mà ta tiết kiệm đƣợc xƣơng máu...

Tiền thân của Đoàn 429 là J16 (Đặc công - cơ giới), ngƣời chỉ huy trƣởng

đầu tiên là anh Nguyễn Văn Thọ (Mƣời Thọ ); anh Mai Văn Phúc - Chính ủy. Phó

chỉ huy về quân sự gồm: Tôi (Nguyễn Thanh Tùng); anh Nguyễn Cụ (Tƣ Cƣờng);

anh Phan Khéo (Sáu Khéo) - Phó chính ủy. Đặc biệt trong số cán bộ chỉ huy

chúng tôi lúc ấy nổi lên có anh Tƣ Cƣờng, một cán bộ cấp tiểu đoàn đặc công Khu

5 nổi tiếng từ những năm kháng chiến chống Pháp. Anh đƣợc tuyên dƣơng Anh

hùng quân đội đợt đầu tiên của cả nƣớc cùng các anh hùng nhƣ: La Văn Cầu, Phan

Đình Giót, Cù Chính Lan, Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Thị Chiên... năm 1956. Anh là

niềm tự hào của tất cả cán bộ, chiến sĩ Đoàn đặc công 429 chúng tôi lúc bấy giờ.

Về khối Đoàn bộ gồm có ba cơ quan: Tham mƣu, Chính trị, Hậu cần do các anh

Huân, Mƣời Tân, Ba Phúc phụ trách. Đoàn còn hình thành nhà trƣờng đặc công

lấy phiên hiệu là J11, do đồng chí Nguyễn Ngọc Hải - Tham mƣu phó Đoàn 429

làm hiệu trƣởng và Lê Chí Linh phụ trách về chính trị. Nhiệm vụ của trƣờng là

đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ đặc công cho các đơn vị thuộc Miền gửi về dƣới sự chỉ

huy, lãnh đạo của Đảng ủy và thủ trƣởng Đoàn 429. Đoàn lúc này có thêm lực

lƣợng bao gồm các tiểu đoàn: 3, 4, 5, 6, 7 và 8 tăng cƣờng để đánh vào các căn cứ

cấp sƣ và lữ đoàn của Mỹ - ngụy nhƣ: sƣ đoàn Anh Cả Đỏ, sƣ đoàn Kỵ Binh Bay,

Sƣ đoàn 25 (Tia Chớp Nhiệt Đới), Trung đoàn truyền tin - mã thám của Mỹ ở núi

19

Bà Đen. Sau đó ít lâu, hai Tiểu đoàn đặc công 3 và 5 đi tăng cƣờng cho Sƣ đoàn

bộ binh làm nhiệm vụ chiến đấu ở chiến trƣờng miền Tây Nam bộ; Tiểu đoàn 4 đi

phát triển lực lƣợng đặc công địa phƣơng.

Tháng 11 năm 1969, Đoàn 429 còn lại ba tiểu đoàn gồm: Tiểu đoàn 7, Tiểu

đoàn 8 và Tiểu đoàn 9 cùng một đại đội đặc công - thiết giáp, hai đại đội trinh sát,

một đại đội thông tin, một đại đội vận tải và ba cơ quan: Tham mƣu, Chính trị,

Hậu cần, lúc này đồng chí Đặng Ngọc Sĩ (Hai Phong) về làm Tƣ lệnh thay đồng

chí Mƣời Thọ; Phó tƣ lệnh về quân sự gồm có các đồng chí: Chín Tùng, Tƣ Cang,

Út Thắng - Trung đoàn trƣởng Trung đoàn 4 vừa đƣợc đề bạt. Đồng chí Nguyễn

Huy Định - Chính ủy. Các đồng chí Mai Văn Phúc, Phan Văn Khéo - Phó chính

ủy cùng nhau chỉ huy, lãnh đạo Đoàn đặc công 429 trực thuộc Miền làm nhiệm vụ

hoạt động, chiến đấu lập nhiều chiến công vang dội.

Nói đến tên gọi và chiến công của Đoàn 429, mỗi cán bộ, chiến sĩ đều hết sức

yêu mến, tự hào. Đoàn đã tham gia đánh trên 600 trận, loại khỏi vòng chiến đấu

ba vạn tên địch (có hơn một vạn tên Mỹ), bắt gần 2.000 tên. Diệt 64 sở chỉ huy

các cấp (từ tiểu đoàn đến lữ đoàn), phá hủy 1.597 xe quân sự (có 356 xe tăng),

390 khẩu pháo, 276 máy bay, 42 tàu xuồng chiến đấu, thu nhiều vũ khí và phƣơng

tiện chiến tranh.

Đoàn có ba tập thể và bảy cá nhân đƣợc Đảng và Nhà nƣớc tuyên dƣơng

danh hiệu Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân. Đƣợc tặng thƣởng 26 huân

chƣơng Quân công giải phóng, 158 huân chƣơng Chiến công giải phóng các loại.

Đặc biệt, ngày 11 tháng 6 năm 1999, Đoàn đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc phong

tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân.

Kế thừa truyền thống vẻ vang ấy, Trung đoàn Đặc công 113 ngay từ những

ngày đầu thành lập đã tạo nên những chiến công oai hùng.

Nối tiếp những chiến công ngời sáng.

Ngày 1 tháng 4 năm 1972, trên chiến trƣờng miền Đông Nam Bộ, chiến dịch

mang tên ngƣời Anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ bắt đầu mở màn tiến công cụm cứ

điểm Xa Mát của địch trên đƣờng 22, hƣớng nghi binh chiến dịch do Sƣ đoàn 30B

đảm nhiệm diễn ra khá sôi động và quyết liệt.

Để hiệp đồng tiếng súng tấn công, một lực lƣợng quân giải phóng đã tiêu

diệt chiến đoàn 8 ngụy của sƣ đoàn 7 ở khu vực Dầu Tiếng. Chiến dịch Nguyễn

Huệ diễn ra trong gần 10 tháng, các đơn vị tham gia đã đánh cho quân ngụy Sài

Gòn một đòn thiệt hại nặng. Theo số liệu của tổng cục tiếp vận quân lực Việt Nam

cộng hòa (trong năm 1972) là tổn thất nặng nề nhất kể từ năm 1965 đến 1974, cao

hơn tổn thất năm 1968 khi có cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968

của ta. Các đơn vị sừng sỏ và hiếu chiến nhƣ: sƣ đoàn 5, chiến đoàn 52 (sƣ 18) lữ

đoàn dù 1, liên đoàn biệt kích dù 81, thiết đoàn 1 và thiết đoàn 9 là những đơn vị

tham chiến trên đƣờng 13 bị thiệt hại từ 78 phần trăm đến 85 phần trăm quân số

và trang bị.

20

Để tham gia chiến dịch, cả chín tiểu đoàn đặc công Đoàn 429 và đặc công

các sƣ đoàn đã vào cuộc đảm nhiệm các mục tiêu trọng yếu, đạt hiệu suất chiến

đấu cao. Đƣợc sự phân công của Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Đoàn - trên cƣơng vị là

Phó chỉ huy trƣởng của Đoàn 429, tôi trực tiếp theo dõi và chỉ đạo lực lƣợng đặc

công tham gia tác chiến ở phía trƣớc. Điển hình nhƣ Tiểu đoàn 16 (Lữ đoàn đặc

công 429), Tiểu đoàn 28 (Sƣ đoàn 9) đêm 20 tháng 3 đã tập kích căn cứ Trảng

Lớn (Tây Ninh). Do chuẩn bị chu đáo, chỉ sau 35 phút chiến đấu đã đánh chiếm

đƣợc căn cứ, tiêu diệt gần 300 tên, mở màn thắng lợi cho hƣớng nghi binh chiến

dịch. Các đơn vị tham gia trận đánh đều đƣợc tặng thƣởng huân chƣơng Quân

công giải phóng hạng ba. Sau khi các đơn vị tham gia tác chiến căn cứ Trảng Lớn

lùi ra rút kinh nghiệm thì tôi trực tiếp đi với Tiểu đoàn 16 đặc công Đoàn 429, sử

dụng 64 đồng chí có bộ binh và hỏa lực ĐKB phối hợp, tập kích trung tâm thông

tin núi Bà Đen. Đây là một căn cứ truyền tin mã thám do Mỹ - ngụy xây dựng có

ý nghĩa đặc biệt phục vụ toàn bộ cho cuộc chiến tranh xâm lƣợc Việt Nam và ba

nƣớc Đông Dƣơng. Hơn nữa lại nằm sâu trong hậu phƣơng của địch, nên đƣợc

chúng phòng thủ, bảo vệ rất chặt chẽ. Song, do ta giữ đƣợc yếu tố bí mật, bất ngờ

nên đã thực hiện đƣợc ý đồ của cấp trên.

Là Phó tƣ lệnh Đoàn 429 đặc công Miền, Phó chỉ huy trƣởng cánh B hƣớng

nghi binh địch đƣờng 12 Sa Mát, Tây Ninh mở màn tiếng súng tiến công cho toàn

chiến dịch, tôi trực tiếp chỉ huy và nắm các mũi hết sức chu đáo. Từ những diễn

biến chiến đấu, các hƣớng đã xông lên đánh chiếm các mục tiêu, làm cho địch rơi

vào thế bị động lúng túng. Hai phần ba căn cứ đã bị ta đánh chiếm, làm chủ. 240

tên địch bị đền tội; sáu khu thông tin bị phá hủy, cả căn cứ hoàn toàn bị tê liệt. Ta

làm chủ tới 8 giờ sáng ngày hôm sau.

Trƣớc nguy cơ bị đối phƣơng uy hiếp nghiêm trọng, tên tỉnh trƣởng Tây

Ninh cho tăng cƣờng lực lƣợng trực thăng đổ quân, có phi cơ, pháo binh yểm trợ

để đánh chiếm lại. Tôi đã chỉ thị các mũi chủ động lui quân trong niềm vui chiến

thắng.

Với khí thế chiến thắng ở căn cứ Trảng Lớn, núi Bà Đen các đơn vị tiến

công địch dồn dập và quyết liệt trên đƣờng 22 (Tây Ninh - Sa Mát), phá hủy nhiều

xe tăng M41, M48, xe bọc thép M113, diệt chiến đoàn 46, chiến đoàn Cửu Long

của địch, phá vỡ tuyến phòng thủ biên giới trên đƣờng 22. Địch cho rằng ta có thể

mở hƣớng tiến công chính vào Tây Ninh nên đã vội vã điều quân vào sâu trong

nội địa để bảo vệ khu vực Tây Ninh, tạo điều kiện cho ta mở hƣớng tiến công

chính vào Lộc Ninh - Bình Long có 5.000 tên, một trung đoàn thiết giáp, 16 khẩu

pháo 105 và 155mm. Đây là mục tiêu đầu tiên trong khu vực quyết chiến chiến

dịch.

Trong đêm mở màn chiến dịch, các đơn vị đặc công Đoàn 429 đánh đồng

loạt tám mục tiêu vào các căn cứ của sƣ đoàn 25 ngụy, trong đó có các mục tiêu

quan trọng là Tếch Ních, Lai Khê, Phƣớc Vĩnh, tiểu khu Hậu Nghĩa... làm cho

địch chống đỡ một cách tuyệt vọng. Điển hình nhƣ căn cứ chiến đoàn 7 sƣ đoàn 5

ở căn cứ Tếch Ních trong 50 phút chiến đấu, 129 cán bộ, chiến sĩ đặc công đã loại

21

khỏi vòng chiến đấu 350 tên, phá hủy 139 căn nhà và nhiều kho tàng, thiết bị quân

sự của địch... Tôi hết sức phấn khởi, tự hào làm một thành viên trong Bộ Tƣ lệnh

chỉ huy hƣớng nghi binh chiến dịch, thu hút lực lƣơng đ ịch và chỉ đạo lực lƣơng

đặc công, các đơn vị đều đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao.

Qua giai đoạn đầu của chiến dịch, tôi đƣơc gọi về Sở Chỉ huy. Tiếp tục lên

đƣơng ch ỉ đạo các đơn vị đặc công trên chiến trƣơng Phân khu 5, tỉnh Bình

Dƣơng là anh Đặng Ngọc Sĩ (Hai Sĩ ) Tƣ lênh L ữ đoàn đặc công 429 và anh

Nguyễn Minh Thắng (Út Thắng) Phó tƣ lênh.

Cƣờng độ chiến dịch phát triển sôi động và quyết liệt. Bởi địch tuy bị ta tiến

công dồn dập trên các hƣớng và tổn thất nặng nề. Nhƣng tiềm lực quân sự của

chúng còn khá mạnh nên tập trung chống trả hết sức quyết liệt. Một số mục tiêu

chiến dịch ta không thực hiện đƣơc, phải chuyển hình thái chiến thuật từ tiến công

phá vỡ phòng tuyến địch sang bao vây đánh lấn. Sự tổn thất hy sinh cũng khá

nặng nề ở một số lực lƣơng b ộ binh đơn vị bạn. Thế giằng co diễn ra trên chiến

trƣơng và ở một số địa bàn trọng yếu, điển hình nhất nhƣ thị xã Bình Long... tỉnh

Bình Long, đƣơng 13. Nói đến thị xã Bình Long, một địa bàn rất hẹp, chiều dài 2

ki-lô-mét, chiều rộng hơn 1 ki-lô-mét mà lực lƣơng địch từ những ngày đầu tháng

5 năm 1972 đã lên tới năm chiến đoàn tăng cƣờng (tƣơng đƣơng hai sƣ đoàn). Số

quân trên 8.400 tên. Hỏa lực không quân chi viện cho Bình Long gấp năm lần so

với những ngày giữa tháng 4. Để ta thấy, sau khi thị trấn Lộc Ninh bị uy hiếp, địch

củng cố thị xã Bình Long nhƣ một tiền tiêu để phòng thủ từ xa bảo vệ Sài Gòn và

ngăn chặn các đơn vị chủ lực của quân giải phóng. Trong lúc trên các chiến

trƣơng còn khá nóng b ỏng, thì Bộ Chỉ huy Miền điện cho Đoàn 429 lên nhận

nhiệm vụ.

Trên cƣơng vị là Phó tƣ lênh Đoàn 429, tôi cùng với anh Sáu Khéo - Phó

chính ủy Đoàn cấp tốc lên đƣơng . Đó là thời điểm khoảng 15-16 tháng 5 năm

1972.

Tại Sở Chỉ huy chiến dịch tiến công Nguyễn Huệ của Miền hôm ấy gồm có:

đồng chí Trung tƣớng Trần Văn Trà (Tƣ lênh), Thiếu tƣớng Trần Độ (Chính ủy);

đại tá Trần Văn Phác (Phó chính ủy); đại tá Lê Ngọc Hiền (Tham mƣu trƣởng);

đại tá Trần Văn Danh (Ba Trần) Phó tham mƣu trƣởng - phụ trách đặc công, biệt

động và tình báo; đại tá Bùi Phùng (Chủ nhiệm hậu cần). Lúc này Bộ Chỉ huy

Miền thƣờng trực tại Sở Chỉ huy cơ bản do Trung tƣớng Hoàng Văn Thái làm Tƣ

lênh, đồng chí Phạm Hùng - Chính ủy, Bí thƣ Quân ủy Miền và đại tá Hoàng Cầm

- Tham mƣu trƣởng.

Sau khi khái quát về đánh giá nhận định tình hình tƣơng quan lực lƣơng

giữa ta và địch trên chiến trƣơng và tình thế chung của cách mạng miền Nam Việt

Nam. Tƣ lênh chiến dịch Trần Văn Trà chỉ thị cho Bộ Tƣ lênh Đoàn 429 có nhiệm

vụ tổ chức nhanh chóng thành lập các đơn vị đặc công tƣơng đƣơng cấp trung

đoàn để đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ.

22

Hiểu rõ ý định của Miền và nhiệm vụ Đoàn đặc công 429 cơ động. Trên

đƣơng về tôi đã hình thành các phƣơng án, trao đổi với anh Sáu Khéo , đƣơc anh

đồng ý rất cao.

Dựa trên cơ sở các tiểu đoàn đặc công đã có của Đoàn 429, chúng tôi

nghiên cứu điều chỉnh đội ngũ cán bộ và quân số để có một số đơn vị tƣơng

đƣơng cấp trung đoàn. Cụ thể theo phiên hiệu: 115, 116, 117, 119 và 113. Sau khi

khẩn trƣơng làm đƣơc nh ững bƣớc về công tác tổ chức, điện mời anh Đặng Ngọc

Sĩ từ Phân khu 5 trở về để bàn bạc. Và anh nhất trí cơ bản với kế hoạch chúng tôi

đã triển khai. Tiếp đó tôi thay mặt Bộ Tƣ lênh Đoàn 429 lên trực tiếp báo cáo Bộ

Tƣ lênh mặt trận, đƣơc phê duyệt và chuẩn y.

Đoàn Đặc công 113 bƣớc đầu trên quyết định đồng chí Út Thắng (Nguyễn

Minh Thắng), Trung đoàn trƣởng Trung đoàn 4 về làm Phó Đoàn đặc công 429

của Miền. Trong khi anh đang xuống công tác tại Thủ Dầu Một thì bị hy sinh.

Sau khi anh Út Thắng hy sinh, Miền gọi tôi lên để thay thế, tôi hiểu đƣơc ý

định đó. Bƣớc đầu trên định đƣa tôi về một đoàn đặc công hoạt động ở miền Tây.

Tôi trình bày: Tôi không biết lội (bơi) nhiều nên hoạt động vùng sông nƣớc miền

Tây e có phần trở ngại. Thấy trình bày ấy của tôi là thực tế nên trên chấp thuận và

quyết định tôi là Đoàn trƣởng Đoàn Đặc công 113, hoạt động ở Biên Hòa, miền

đồi núi, trung du - có phần thích hợp hơn. Cùng về với tôi có anh Mai Văn Thoạn

- Chính ủy. Nhƣ vậy là trên Miền xuống có tôi và anh Hai Thoạn cùng tiểu đoàn 9

đang hoạt động ở chiến trƣơng Bình Dƣơng v ề. Xuống dƣới này bổ sung anh Vũ

Quớ, anh Hai Hiệp, anh Ba Lộc, rồi chúng tôi tự tổ chức bộ máy cơ quan hầu hết

anh em từ Cam-pu-chia về tại suối Bà Hào. Đồng thời đƣơc Miền bổ sung hai cố

vấn, anh Hai Cà cố vấn cho tôi về địa hình, quan hệ với địa phƣơng, chuẩn bị

lƣơng thực và đồng chí Hai Khánh trung tá pháo binh, cố vấn về pháo. Hai cố vấn

phải nói làm việc rất tích cực. Từ cuộc họp Đảng ủy đầu tiên để thành lập Trung

đoàn 113 ở suối Bà Hào ngày 3 tháng 6 năm 1972 nhanh chóng đề ra các nhiệm

vụ cũng là ở chỗ này.

Lực lƣơng ban đ ầu có Tiểu đoàn 9. Tiếp đó là tiểu đoàn 174 pháo binh và

hai tiểu đoàn đặc công Biên Hòa ghép lại nằm trong đội hình Trung đoàn. Chính

nhờ lực lƣơng đ ặc công tại chỗ này làm nòng cốt mà đơn vị bƣớc vào hoạt động

tác chiến gặp nhiều thuận lợi hơn. Số lực lƣơng đ ặc công Biên Hòa chết đi sống

lại, lột xác đến nhiều lần để bám trụ địa bàn phục vụ nhiệm vụ chiến đấu, đánh

vào các căn cứ sâu và hiểm của địch. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang trong

kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc. Các đơn vị xung lực trở ra Bắc đa phần về xây

dựng hậu phƣơng. Một số đồng chí tiếp tục cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía

Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Không ít anh em đã ngã xuống trên

vùng đất biên cƣơng. Một số ở lại xây dựng quân đội, xây dựng Binh chủng đều

đã trở thành sĩ quan cao cấp. Có đồng chí nhƣ anh Phùng Truyền đƣơc phong

quân hàm thiếu tƣớng, Phó tƣ lênh v ề chính trị, Bí thƣ Đảng ủy Binh chủng Đặc

công. Lúc ấy anh Truyền là Chính trị viên phó, rồi lên Chính trị viên trƣởng Tiểu

đoàn 9, bám trụ ở bùng binh Thiện Tân.

23

Chúng tôi đề ra nhiệm vụ là nhanh chóng củng cố đơn vị, củng cố tổ chức

xây dựng lực lƣơng, chuẩn bị chiến trƣơng, chuẩn bị đạn dƣợc cho các trận đánh.

Đặc biệt là chuẩn bị cho trận đánh pháo vào sân bay Biên Hòa, mở đầu cho quá

trình hoạt động. Có thể nói, chúng tôi chuẩn bị quyết tâm khá toàn diện.

Trong cuộc họp đầu tiên ấy có đồng chí Năm Kim Sơn, nguyên là chiến sĩ du

kích Ba Tơ - Phó chủ nhiệm Đoàn hậu cần 814 của Miền tới dự, phát biểu một

cách chân thành rằng:

- Từ khi tôi làm công tác hậu cần tới giờ, lần đầu tiên đƣơc m ời dự với một

đơn vị vừa thành lập lại là cuộc họp đầu tiền đề ra nhiệm vụ và quyết tâm chiến

đấu nhƣ thế này. Và tôi xin hứa khi trở về Đoàn 814 sẽ động viên anh em tạo mọi

điều kiện tốt nhất để các đồng chí chiến đấu lập công!

- Đồng chí vừa dứt lời; anh em chúng tôi vỗ tay hết sức nồng nhiệt.

Khi đặt chân tới địa bàn, tôi gặp ngay đồng chí Phan Văn Trang, lúc ấy là Phó bí

thƣ Phân khu 5, Bí thƣ Tỉnh ủy Biên Hòa (U1). Đồng chí Phan Văn Trang có thể

nói là ngƣời tập trung cho chúng tôi trong công tác tổ chức, lãnh đạo, huy động

lực lƣơng để chuẩn bị chiến lƣợc. Từ đó địa phƣơng đã giúp đỡ Đoàn Đặc công

113 chúng tôi từ ngày đầu thành lập làm cơ sở để trƣơng thành nhƣ ngày hôm nay.

Chính lãnh đạo của Đảng bộ địa phƣơng và chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chỉ huy

Miền cùng sự nỗ lực quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ Đoàn Đặc công 113 mà ngay

sau khi mới thành lập đã đánh thắng liên tiếp ba trận lớn và thắng lợi giòn giã. Và

chính cán bộ, chiến sĩ trƣởng thành nhất là trong ba trận thắng ban đầu ấy, làm đà

cho những trận đánh tiếp theo, đến khi kết thúc chiến tranh. Nói về thời gian kể từ

ngày thành lập cho tới ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng thì Đoàn Đặc công

113 chỉ có gần bốn năm chƣa phải là dày so với nhiều đơn vị bạn Quân giải phóng.

Song đơn vị đã đƣơc Đảng, Nhà nƣớc tuyên dƣơng Anh hùng lần thứ nhất ngày 8

tháng 9 năm 1975 với thành tích chiến đấu rất xuất sắc, rất vẻ vang.

Cố Thƣợng tƣớng Trần Văn Trà , nguyên Tƣ lênh B ộ Chỉ huy Quân giải

phóng và cố Thiếu tƣớng Trần Văn Danh, nguyên Phó tham mƣu trƣởng Miền

chuyên chỉ huy lực lƣơng biệt động, tình báo, đặc công đánh giá: ba trận đánh của

Đoàn Đặc công 113 vào sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình đã điểm rất trúng

huyệt đối phƣơng, làm cho kẻ thù trúng đòn tử thƣơng, choáng váng...

Trong lúc cuộc vây hãm của Sƣ đoàn 9 Quân giải phóng ngày càng siết chặt

thị xã Bình Long; Sƣ đoàn 7 kiên cƣờng chốt chặn, cắt đứt đƣơng 13; Mũi nghi

binh chiến dịch của Sƣ đoàn 30B hƣớng lộ 22 Xa Mát - Thiện Ngôn... tuy địch đã

bị đánh rất đau, nhƣng tiềm lực của chúng vẫn còn mạnh. Bởi vậy, ngày 11 tháng

5 bộ tƣ lênh Mỹ ở Việt Nam và bộ tổng tham mƣu ngụy thỏa thuận dồn tất cả phi

vụ B52 và nhiều phi vụ máy bay ném bom chiến thuật cho Bình Long - đƣơng 13.

Chúng quyết cố thủ thị xã và giải tỏa đƣơng 13. Về phía ta, Sƣ đoàn 9 và các đơn

vị tăng cƣờng tiếp tục duy trì bao vây thị xã, nhƣng chƣa đủ mạnh để áp đảo quân

địch. Quân số và trang bị của các đơn vị bị hao hụt qua một tháng chiến đấu. Trên

đƣơng 13 Sƣ đoàn 7 chặn đƣơc đ ịch, nhƣng chƣa có trận tiêu diệt, tạo ra sự rung

động lớn. Lực lƣơng phòng không chƣa đủ sức ngăn chặn địch cơ động bằng

24

đƣơng không đ ể chi viện cho Bình Long. Bộ đội ta phải chịu đựng hỏa lực, phi

pháo của địch một cách ghê gớm. Sự thƣơng vong là rất đáng kể.

Nhƣng, qua ba trận tập kích của Đoàn Đặc công 113 vào sân bay Biên Hòa

và tổng kho Long Bình; phá hủy, phá hỏng nhiều máy bay, tiêu diệt giặc lái, phá

hủy một số lƣơng lớn bom, đạn, đốt cháy hàng triệu lít xăng dầu của Mỹ - ngụy.

Kết quả là lƣơng bom đ ạn giảm đáng kể, những kế hoạch của địch chi viện cho

chiến trƣơng Bìn h Long , đƣơng 13 và các hƣớng chiến dịch bị phá vỡ. Áp lực

bom dạn và các loại hỏa lực đối với bộ đội ta trên chiến trƣơng đƣơc gi ảm mạnh.

Không chỉ ở phạm vi chiến dịch Nguyễn Huệ mà các hƣớng chiến trƣơng đ ồng

bằng sông Cửu Long, khu 5, Tây Nguyên... lƣơng bom đ ạn địch cũng giảm rất

nhiều...

Mặt khác, vào thời điểm ấy, ở chiến trƣơng Biên Hòa , địch phòng thủ chặt

chẽ, ta gặp phải những khó khăn về lực lƣơng nên chƣa t ạo ra đƣơc nh ững trận

đánh lớn, đạt hiệu suất cao, có ý nghĩa về chiến dịch và chiến lƣợc. Qua ba trận

đánh lớn của Đoàn Đặc công 113 vào căn cứ, hậu cứ lớn của địch đã mở ra cho ta

những triển vọng tốt đẹp. Kết hợp với những trận đánh sâu, đánh hiểm ở các

hƣớng chiến trƣơng làm cho đ ịch lúng túng đối phó. Trên thực tế không có ở đâu

đƣơc an toàn đối với chúng.

Nhìn trên phƣơng diện toàn cục, ý nghĩa ba trận thắng lợi của Đoàn Đặc công

113 vào thời điểm ấy, có giá trị hết sức to lớn cả về mặt quân sự, chính trị và

ngoại giao làm cho kẻ thù lúng túng đối phó, báo hiệu sự thất bại thảm hại không

thể tránh khỏi của chúng trên chiến trƣơng miền Nam Việt Nam.

Bởi vậy, Quân ủy - Bộ Tƣ lênh Mi ền đánh giá rất cao về tầm vóc những

chiến công ấy của Đoàn Đặc công 113, đƣơc các đơn v ị bạn cùng Đảng bộ và

quân dân tỉnh Biên Hòa hết sức cổ vũ, chào mừng.

Để tạo ra đƣơc những chiến công vang dội nhƣ thế, chúng tôi ghi lòng tạc dạ

sự giúp đỡ hết sức quý báu của lãnh đạo Tỉnh ủy và quân dân các địa phƣơng tỉnh

Biên Hòa.

Trong bối cảnh ấy, nếu không có sự che chở đùm bọc yêu thƣơng vô cùng

quý giá của Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa thì chúng tôi có nỗ lực đến mấy cũng

khó lòng mà làm đƣơc. Hoặc có chăng cũng ở một mức hạn chế nhất định.

Ngạn ngữ có câu: “Đầu xuôi, đuôi lọt”. Thật vậy, Đoàn Đặc công 113 hôm

nay - sau 30 năm thành lập vẫn luôn luôn là một đơn vị đi đầu trong nền nếp xây

dựng chính quy và sống đoàn kết, kỷ luật, sẵn sàng chiến đấu đáp ứng nhu cầu

nhiệm vụ cấp trên trong mọi tình huống.

Đội ngũ cán bộ, nhiều đồng chí đã trƣơng thành t ừ cái nôi 113 về giữ những

cƣơng vị chủ chốt ở Binh chủng nhƣ đồng chí Trần Thanh Phƣơng - thiếu tƣớng,

Tƣ lênh; đồng chí Đỗ Văn Minh - Phó tƣ lênh, Tham mƣu trƣởng; đồng chí Phùng

Truyền - thiếu tƣớng, Phó tƣ lênh v ề chính trị; đồng chí Đào Văn Quân - Anh

hùng, đại tá Chủ nhiệm Cục Chính trị Binh chủng; đồng chí Trần Văn Hòe - đại tá,

25

Phó tham mƣu trƣởng Binh chủng Đặc công và nhiều đồng chí khác đang giữ các

cƣơng vị ở ba Cục Tham mƣu, Chính trị, Hậu cần. Anh Giáp Văn Thiện, đại tá

Hiệu trƣởng trƣơng Sĩ quan Đ ặc công nơi đào tạo đội ngũ cán bộ tƣơng lai cho

Binh chủng và các Đoàn trực thuộc. Không ít đồng chí khác đang tham gia xây

dựng ở các Quân binh chủng trong toàn quân. Phải nói rằng, các đồng chí hết sức

coi trọng xây dựng và phát huy truyền thống. Quý trọng, gắn bó tình cảm với địa

phƣơng nhƣ Đảng bộ và nhân dân tỉnh Biên Hòa (U1) cùng những nơi mình đã

từng chiến đấu, công tác trong những năm tháng khói lửa của cuộc chiến đấu hào

hùng cũng nhƣ trong hòa bình xây dựng. Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Đoàn

Đặc công 113 luôn coi mình nhƣ một đơn vị của địa phƣơng vậy.

Sau khi tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, làm

nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng của tập

đoàn phản động Pôn Pốt, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng cho bạn trở

về, Đoàn Đặc công 113 nằm trong đội hình Binh chủng Đặc công, làm nhiệm vụ

sẵn sàng chiến đấu và lực lƣơng cơ đ ộng của Bộ. Dù cách xa gần 2.000 cây số,

song, về tình cảm vẫn rất thân thiết gần gũi với Đảng bộ nhân dân thành phố Biên

Hòa cũng nhƣ Đảng bộ và nhân dân tỉnh Đồng Nai.

Đồng chí Hai Quân, lúc đang còn Bí thƣ Thành ủy, rồi Chủ tịch ủy ban nhân

dân tỉnh, đến khi làm Bí thƣ Tỉnh ủy, ủy viên Trung ƣơng Đảng; đồng chí Trần

Đình Thành, Phó bí thƣ thƣờng trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh;

đồng chí Huỳnh Văn Tới - Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; chị Bùi Ngọc

Thanh cùng một số đồng chí lãnh đạo khác của tỉnh Đồng Nai, của thành phố Biên

Hòa và huyện Vĩnh Cửu - địa bàn Đoàn Đặc công 113 đứng chân và bám trụ xây

dựng căn cứ để tiến công quân thù, mỗi lần có dịp ra Thủ đô Hà Nội công tác, vẫn

tranh thủ ghé thăm đơn vị, động viên cán bộ, chiến sĩ của Đoàn. Việc làm ấy, biểu

hiện sự quan tâm khích lệ của Đảng bộ, quân dân tỉnh nhà đối với đơn vị, càng

gần gũi thắm thiết.

Các thế hệ chỉ huy, lãnh đạo của Đoàn hết sức cảm kích và quý mến tình cảm

chân thành ấy, càng động viên nhau quyết tâm củng cố, tô thắm bền đẹp mãi mãi

trên bƣớc đƣơng xây dựng và trƣởng thành của Đoàn.

Chúng tôi luôn luôn tâm niệm rằng: tình cảm quý giá đó không đơn thuần có

đƣơc mà đƣơc bắt nguồn từ dòng chảy thẳm sâu 300 năm Biên Hòa - Đồng Nai,

khi Thƣợng đẳng thần Nguyễn Hữu Cảnh đi mở đất phƣơng Nam và xa hơn thế,

bắt nguồn từ nền văn hóa xứ Nông Nại đại phố để đến hôm nay, các thế hệ con

cháu của Ngƣời vẫn tiếp tục nuôi dƣỡng, phát huy truyền thống đã trở thành máu

thịt. Những tình cảm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, chính quyền tỉnh Đồng Nai

đối với Đoàn Đặc công 113 hôm nay đều thẩm thấu qua hành trình dòng chảy văn

hóa ấy của thời gian, của lịch sử.

Có một điều thật giản dị mà cũng thật hạnh phúc là thế hệ chỉ huy đầu tiên

của Đoàn Đặc công 113 chúng tôi hiện vẫn còn đủ mặt. Ngoài tôi là Đoàn trƣởng,

anh Mai Văn Thoạn - Chính ủy, anh Vũ Quớ, anh Đỗ Thịnh, còn có các anh ở cơ

quan: anh Ba Triệt - Chủ nhiệm chính trị, anh Tƣ Trị - Chủ nhiệm quân báo và

26

một số anh nữa. Chính các anh đã góp phần thành công ban đầu đối với nhiệm vụ

của Đoàn. Theo chủ trƣơng của Ban liên lạc truyền thống, đồng thời cũng hợp với

tình cảm suy nghĩ tất cả anh chị em cựu chiến binh là cần sƣu tầm để viết bổ sung

đầy đủ vai trò quan trọng của chính quyền và nhân dân địa phƣơng đối với quá

trình hoạt động, chiến đấu của Đoàn.

Đúng nhƣ anh Năm Trang, anh Hai Cà và nhiều ngƣời khác đã đề cập. Đọc

cuốn lịch sử Đoàn Đặc công 113 đặc công đã xuất bản lần thứ nhất, phần nói về

địa phƣơng còn khá đơn sơ. Điều đó phản ánh chƣa đúng với thực tế khách quan

vốn có của nó.

Nhƣ vậy là chƣa công bằng!

Lần này chuẩn bị cho kỷ niệm 30 năm thành lập ngoài sự chuẩn bị chu đáo ở

phía Bắc, chúng tôi đã có báo cáo và đƣơc t ỉnh chấp thuận, đƣơc Ban Thƣờng vụ

Tỉnh ủy đã có quyết nghị. Vấn đề đầu tiên cũng là mong muốn của chúng tôi là:

viết về nhân chứng và sự kiện để tập hợp xuất bản một tập sách về truyền thống

của Đoàn Đặc công 113.

Từ mục đích yêu cầu ấy, chúng tôi mong muốn xin ý kiến anh Năm Trang,

với tƣ cách là Phó bí thƣ Phân khu 5, Bí thƣ Tỉnh ủy Biên Hòa lúc bấy giờ. Đồng

chí là ngƣời lãnh đạo có vai trò to lớn đối với phong trào cách mạng địa phƣơng

một thời máu lửa, đồng thời cũng là ngƣời hết sức quan tâm đối với Đoàn Đặc

công 113 ngay từ khi đặt chân tới vùng đất Biên Hòa. Kế tiếp là anh Hai Cà, một

nhà kiến tạo về kế hoạch tác chiến rất điển hình ở địa bàn này. Chính các anh và

nhiều đồng chí khác hiểu biết khá sâu sắc về 113, là những nhân chứng sống động

hết sức quý giá để tổ chức biên soạn nội dung cuốn sách. Chúng tôi cũng mong

các đồng chí lãnh đạo tỉnh, thành phố Biên Hoà, huyện Vĩnh Cửu, huyện Thống

Nhất, huyện Tân Uyên, cô bác, anh chị em cơ quan dân chính trƣớc đây, các cơ sở

cách mạng, cán bộ lão thành tích cực tham gia kể, viết về Đoàn Đặc công 113 cho

phong phú sinh động.

Sau khi cuộc chiến tranh chống Mỹ kết thúc, Đoàn Đặc công 113 làm nhiệm

vụ quân quản ở thành phố Hồ Chí Minh, chƣa đƣơc bao lâu thì có l ệnh cơ động ra

miền Bắc để giải quyết chính sách, bổ sung quân số, củng cố lực lƣơng , huấn

luyện xây dựng và sẵn sàng chiến đấu. Giữa năm 1977, khi cả nƣớc đang yên bình

thì tháng 10 năm ấy, Tiểu đoàn 27 phải cấp tốc lên đƣơng chi ến đấu bảo vệ Tổ

quốc ở biên giới Tây Nam (tỉnh Kiên Giang). Sau đó ít lâu, các đơn vị của Trung

đoàn cùng lên đƣơng để bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc. Từ nhiệm vụ này tiếp

đến nhiệm vụ khác không có thời gian ngơi nghỉ. Song, nhiệm vụ nào đƣơc giao ,

Đoàn cũng đều phấn đấu và hoàn thành một cách vẻ vang. Đƣợc cấp trên đánh giá

cao. Đó là điều chúng tôi rất lấy làm tự hào và yêu mến truyền thống ấy. Nhờ đó

mà đơn vị ba lần đƣơc tuyên dƣơng Anh hùng . Hai lần Anh hùng trong chiến đấu

và lần thứ ba đƣơc tuyên dƣơng Anh hùng trong th ời kỳ đổi mới, thật quý giá vô

cùng.

27

Tôi thiết nghĩ nhiều cái cần ghi chép lại lắm. Ngay nhiệm vụ chốt chặn địch

để bảo vệ vững chắc cầu Ghềnh và cầu Hóa An đã là chủ đề hấp dẫn lắm rồi. Khi

đòi hỏi phá cầu Mới để cắt đứt giao thông địch thì Đoàn tổ chức phá sập cho kỳ

đƣơc hai nhịp. Dù có phải hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ vinh quang. Nhƣng khi

yêu cầu bảo vệ cầu để đón đại quân tiến về giải phóng Sài Gòn, đã chốt giữ kiên

cƣờng trong hoàn cảnh cực kỳ ác liệt. Hàng chục cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng ngã

xuống trƣớc ngày toàn thắng ở nơi này. Thƣơng tiếc lắm, giờ nghĩ lại trong mỗi

chúng ta ai cũng thấy xao xuyến bồi hồi.

Trong dịp kỷ niệm 55 ngày thành lập Chiến khu Đ, Ban xây dựng Chiến khu

Đ của tỉnh Đồng Nai đã đề nghị lãnh đạo tỉnh cho Đoàn Đặc công 113 chọn địa

điểm để xây dựng một tƣợng đài kỷ niệm tại nơi Đoàn ra đời bên bờ suối Bà Hào.

Hoặc theo gợi ý của anh Hai Quân Bí thƣ Tỉnh ủy, cần nghiên cứu chọn vị trí để

dựng một tấm bia lƣu niệm những ngƣời lính đặc công của Đoàn Đặc công 113 hy

sinh oanh liệt tại cầu Ghềnh và cầu Mới trong trận thắng sau cùng. Dù mới trong ý

tƣởng, nhƣng hƣơng hồn các anh thêm phần an ủi.

Sau hơn ba mƣơi năm ra đời, chiến đấu và trƣởng thành, Đoàn Đặc công 113

đã đƣơc Đ ảng, Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu cao quý ba lần Anh hùng lực

lƣơng vũ trang nhân dân . Thành quả ấy là kết tinh bao xƣơng máu, trí tuệ của cán

bộ, chiến sĩ, đồng chí, đồng bào.

Từ sâu thẳm tình cảm của một cán bộ chỉ huy đầu tiên của Đoàn, tôi ghi lại

những dòng này, dù thời gian cũng đã xa, dù tuổi đã cao, song mãi mãi nguyên

vẹn trong tôi những kỷ niệm đẹp về Đoàn không dễ gì phai nhạt.

Nhân dịp cuốn sách đƣơc xuất bản, tôi xin gửi lời tri ân tới các mẹ, các chị từ

mọi miền đất nƣớc đã góp cho Đoàn Đặc công 113 những ngƣời thân yêu nhất của

mình, không ít trong số ấy mãi mãi không về. Máu các anh đã góp phần tô thắm lá

cờ truyền thống Anh hùng của Đoàn Đặc công 113 yêu dấu của chúng ta.

N.T.T

28

ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113 - BA MƢƠI NĂM ĐẦY GIAN LAO THỬ THÁCH,

XÂY DỰNG NÊN TRUYỀN THỐNG VẺ VANG BA LẦN ANH HÙNG1

Thiếu tướng TRẦN THANH PHƢƠNG

Tư lênh Binh chủng Đặc công2

Kính thƣa đồng chí đại diện Đảng ủy Quân sự Trung ƣơng - Bộ Quốc phòng và

Tổng cục Chính trị.

Kính thƣa các đồng chí đại biểu!

Thƣa toàn thể cán bộ, chiến sĩ công nhân viên quốc phòng Đoàn Đặc công 113

thân mến!

Hôm nay Đoàn Đặc công 113 long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 30 năm ngày truyền

thống của Đoàn: Thay mặt Đảng ủy, Bộ Tƣ lênh Binh ch ủng, tôi thân ái gửi tới

các vị khách quý, các đồng chí đại biểu và toàn thể cán bộ, chiến sĩ, công nhân

viên quốc phòng lời chúc mừng nồng nhiệt, mạnh khỏe và hạnh phúc. Chúc các

đồng chí tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống đơn vị ba lần Anh hùng lực

lƣơng vũ trang nhân dân , hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ đƣơc giao, góp phần

cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội lần

thứ IX của Đảng, vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh.

Kính thƣa toàn thể các đồng chí!

Ra đời trong thời điểm ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc,

trên chiến trƣơng mi ền Đông Nam Bộ, trải qua 30 năm xây dựng, chiến đấu và

trƣởng thành, vƣợt qua biết bao gian khổ ác liệt trong cuộc chiến tranh, bảo vệ Tổ

quốc và làm nghĩa vụ quốc tế cao cả, Đoàn Đặc công 113 đã hoàn thành xuất sắc

mọi nhiệm vụ, thành tích đó đã đƣơc khẳng định và ghi nhận của Đảng, Nhà nƣớc

qua việc Đoàn đƣơc phong t ặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lƣơng vũ trang

nhân dân lần thứ ba.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc Đoàn Đặc công 113 là trung

đoàn đặc công chuyên đánh căn cứ, hậu cứ nhƣ: sân bay Biên Hòa, tổng kho Long

Bình, các căn cứ, hậu cứ chiến lƣợc, các kho tàng, cầu, cảng ở sâu trong hậu

phƣơng địch trên chiến trƣơng đông bắc Sài Gòn. Trung đoàn đã quán triệt sâu sắc

các chỉ thị, mệnh lệnh của trên, đoàn kết thống nhất dựa vào dân, kiên trì bám trụ,

xây dựng hành lang bàn đạp, giành nhiều chiến công. Từ ngày thành lập (3-6-1972

đến 30-4-1975), Trung đoàn đã đánh hàng trăm trận, tiêu diệt và làm bị thƣơng

hàng ngàn tên Mỹ - ngụy, phá hủy hàng trăm ngàn tấn bom đạn, hàng triệu lít

xăng dầu, hàng trăm máy bay. Nhiều trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu rất cao có ý

nghĩa lớn về chiến dịch, chiến lƣợc, gây cho địch những tổn thất nặng nề cả về

1 Đầu đề là của Ban biên soạn.

2 Phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày truyền thống Đoàn Đặc công 113 (3-6-1972 - 3-6-2002).

29

sinh lực và phƣơng tiện chiến tranh nhƣ các trận đánh vào sân bay Biên Hòa,

Tổng kho Long Bình...

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cùng các lực lƣơng đặc công khác,

Trung đoàn đã triệt để chấp hành nhiệm vụ trên giao, khắc phục mọi khó khăn,

dũng cảm, kiên cƣờng chiến đấu, đánh chiếm và giữ vững các mục tiêu quan trọng

án ngữ cửa ngõ Biên Hòa - Sài Gòn, bảo đảm đƣơng cơ đ ộng cho các quân đoàn

chủ lực, thần tốc tiến vào giải phóng Sài Gòn, góp phần làm nên đại thắng mùa

xuân 1975. Với những chiến công xuất sắc đó, ngày 8 tháng 9 năm 1975 Trung

đoàn 113 nay là Đoàn Đặc công 113 đã đƣơc Đảng, Nhà nƣớc tuyên dƣơng danh

hiệu cao quý Anh hùng lực lƣơng vũ trang nhân dân l ần thứ nhất. Từ sau năm

1975, Trung đoàn đƣơc rút ra B ắc xây dựng thành Trung đoàn Đặc công dự bị cơ

động, chiến lƣợc của Bộ, thuộc Bộ Tƣ lênh Binh chủng.

Phát huy thành tích trong chiến đấu Trung đoàn đã nhanh chóng củng cố,

xây dựng trở thành một đơn vị đặc công chủ lực tinh nhuệ có chất lƣơng tổng hợp

và sức chiến đấu cao. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Trung đoàn đã cơ

động hoạt động tác chiến trên chiến trƣơng r ộng lớn từ biên giới Tây Nam, biên

giới phía Bắc và làm nghĩa vụ quốc tế. Liên tục từ năm 1977 đến năm 1987, đơn

vị đã tham gia chiến đấu hàng trăm trận, tiêu diệt hàng trăm tên địch và phá hủy

nhiều phƣơng tiện chiến tranh góp phần đánh bại ý đồ lấn chiếm của địch, bảo vệ

vững chắc biên giới của Tổ quốc và làm tròn nhiệm vụ quốc tế đƣơc giao . Với

những thành tích và chiến công đó , ngày 19 tháng 12 năm 1979 Trung đoàn đã

đƣơc Đảng và Nhà nƣớc tuyên dƣơng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lƣơng vũ

trang nhân dân lần thứ 2.

Bƣớc vào thời kỳ đổi mới, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có những

yêu cầu mới, nhiệm vụ của Quân đội, của Binh chủng nói chung, Đoàn Đặc công

113 nói riêng có bƣớc phát triển mới, rất nặng nề, phức tạp. Nhiệm vụ của Đoàn là

trực tiếp xây dựng thành một Đoàn Đặc công chủ lực cách mạng, chính quy, tinh

nhuệ, thiện chiến, sẵn sàng chiến đấu, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân. Mặc dù còn nhiều khó khăn,

thiếu thốn, nhƣng Đoàn đã biết phát huy truyền thống tự lực, tự cƣờng vƣơn lên

xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, có chất

lƣơng tổng hợp ngày càng cao, có sức cơ động mạnh và khả năng sẵn sàng chiến

đấu tốt.

Đoàn đã thƣờng xuyên chăm lo xây dựng đơn vị về mặt chính trị, làm tốt

công tác giáo dục chính trị tƣ tƣởngvà quán triệt nhiệm vụ. Do vậy, cán bộ, chiến

sĩ luôn tin tƣởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và con đƣơng đi lên ch ủ

nghĩa xã hội, có tinh thần cảnh giác cách mạng và ý chí chiến đấu cao. Duy trì

nghiêm túc các chế độ trực, sẵn sàng chiến đấu, đã có nhiều biện pháp tích cực,

nhằm không ngừng nâng cao chất lƣơng và kh ả năng sẵn sàng chiến đấu cho đơn

vị. Cán bộ, chiến sĩ luôn sẵn sàng có lệnh là lên đƣơng đƣơc ngay . Đoàn luôn có

chất lƣơng t ốt, toàn diện sát với thực tế yêu cầu nhiệm vụ là đơn vị có nề nếp

chính quy mẫu mực; luôn làm tốt việc giáo dục và nâng cao ý thức tự giác, chấp

30

hành kỷ luật cho bộ đội; đồng thời chăm lo tốt đời sống vật chất, tinh thần cho cán

bộ, chiến sĩ.

Trong công tác dân vận, dù đứng chân trên địa bàn nào, Đoàn Đặc công 113

cũng là một tấm gƣơng tiêu biểu, mẫu mực về xây dựng, phát triển mối đoàn kết

gắn bó quân dân, đƣơc cấp ủy, chính quyền nhân dân địa phƣơng tin cậy, yêu mến

và hết lòng giúp đỡ.

Nhiều năm liên tục Đoàn Đặc công 113 đƣơc công nh ận là đơn vị vững

mạnh toàn diện, Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh, là đơn vị dẫn đầu phong trào

thi đua quyết thắng của Binh chủng.

Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, Đoàn Đặc

công 113 đã đƣơc Đ ảng, Nhà nƣớc, Bộ Quốc phòng, Bộ Tƣ lênh Đ ặc công tặng

nhiều cờ thƣởng thi đua; Huân chƣơng Quân công, Chiến công các hạng. Một

vinh dự lớn đến với Đoàn , ngày 9 tháng 8 năm 2000 đƣơc Chủ tịch nƣớc Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu cao quý: Đơn vị Anh hùng lực

lƣơng vũ trang nhân dân lần thứ ba.

Trải qua 30 năm xây dựng, chiến đấu vƣợt qua biết bao khó khăn, gian khổ

và hy sinh xƣơng máu, Đoàn Đặc công 113 đã góp phần xây dựng và phát huy

truyền thống “Đặc biệt tinh nhuệ, anh dũng tuyệt vời, mưu trí táo bạo, đánh hiểm,

thắng lớn” của Binh chủng Đặc công Anh hùng.

Thƣa toàn thể các đồng chí!

Có đƣơc nh ững thành tích xuất sắc trong 30 năm qua, trƣớc hết là có sự

lãnh đạo tài tình của Đảng, của Đảng ủy Quân sự Trung ƣơng và Bộ Quốc phòng,

mà trực tiếp thƣờng xuyên là Bộ Chỉ huy Miền (trƣớc đây), Đảng ủy, Bộ Tƣ lênh

Đặc công hiện nay; là sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ, các đồng chí thƣơng

binh, bệnh binh qua các thời kỳ; là sự giúp đỡ chở che, đùm bọc của nhân dân, của

các cơ sở cách mạng, của các đơn vị bạn, cả trong thời kỳ chiến tranh và trong hòa

bình xây dựng. Những tình cảm và sự giúp đỡ vô giá của nhân dân Biên Hòa, Tân

Uyên, Vĩnh Cửu, Thống Nhất - Đồng Nai; của nhân dân Mê Linh - Vĩnh Phúc và

nhiều địa phƣơng khác là một trong những nhân tố vô cùng quan trọng, góp phần

làm nên những chiến công vẻ vang của Đoàn Đặc công 113. Thành tích trong 30

năm qua còn là sự nỗ lực phấn đấu đóng góp công sức, trí tuệ và cả xƣơng máu

của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Đoàn Đặc công 113 xây đắp nên. Chúng ta mãi mãi

ghi nhận, tự hào, trân trọng những cống hiến của các thế hệ đi trƣớc cho sự lớn

mạnh và trƣởng thành của Đoàn hôm nay.

Nhân dịp này, thay mặt Đảng ủy, Bộ Tƣ lênh Binh chủng, tôi xin bày tỏ

lòng biết ơn sâu sắc đối với Đảng, Đảng ủy Quân sự Trung ƣơng, Bộ Quốc phòng,

các cơ quan, đoàn thể Trung ƣơng trong và ngoài quân đội, cấp ủy Đảng, chính

quyền nhân dân các địa phƣơng, các đơn vị bạn đã hết lòng giúp đỡ và tạo điều

kiện cho Binh chủng Đặc công nói chung, Đoàn Đặc công 113 nói riêng hoàn

thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong suốt chặng đƣơng 30 năm qua.

Thƣa toàn thể các đồng chí!

31

Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục diễn biến rất

phức tạp. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của

chúng ta đang đứng trƣớc những thời cơ và thách thức lớn. Mỹ và các thế lực

phản động đẩy mạnh chiến lƣợc “Diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ” chống phá

cách mạng nƣớc ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và xảo quyệt. Nhiệm vụ của Binh

chủng Đặc công nói chung, của Đoàn Đặc công 113 nói riêng tiếp tục có bƣớc

phát triển mới rất nặng nề, vừa tập trung xây dựng nâng cao chất lƣơng toàn diện,

vừa sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống.

Là lực lƣơng chi ến đấu, lực lƣơng chính tr ị, trung thành tin cậy của Đảng,

Nhà nƣớc và của nhân dân, Binh chủng nói chung, Đoàn Đặc công 113 nói riêng

phải luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết đấu tranh để góp phần loại trừ các

nguyên nhân dẫn đến mất ổn định chính trị; vững vàng trƣớc mọi biến động, chủ

động phòng ngừa, góp phần làm thất bại âm mƣu chiến lƣợc “Diễn biến hòa bình,

bạo loạn lật đổ” kết hợp với răn đe chiến tranh và tạo cớ can thiệp của kẻ địch, bảo

vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nƣớc, nhân

dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia dân

tộc.

Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đoàn phải tiếp tục khẳng định và phát huy

truyền thống của đơn vị ba lần Anh hùng lực lƣơng vũ trang nhân dân, ra sức xây

dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, có chất lƣơng

tổng hợp và sức chiến đấu cao, thực sự vững mạnh và tinh nhuệ về chính trị, xây

dựng cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu

độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin

và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối trung thành và tin tƣởng vào sự lãnh đạo của

Đảng, có quyết tâm và ý chí chiến đấu cao, sẵn sàng nhận và thực hiện thắng lợi

mọi nhiệm vụ đƣơc giao.

- Không ngừng nâng cao trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn

vị. Chủ động nắm chắc tình hình các mục tiêu nhiệm vụ đƣơc giao. Sẵn sàng đập

tan mọi âm mƣu thủ đoạn của kẻ địch trong bất kỳ tình huống nào.

- Tiếp tục tập trung nâng cao chất lƣơng xây d ựng đơn vị vững mạnh toàn

diện; Huấn luyện cho bộ đội điêu luyện về kỹ, chiến thuật, tinh thông về cách

đánh, sát với nhiệm vụ đƣơc giao. Xây dựng đơn vị có nền nếp chính quy tốt mẫu

mực. Thực hiện và phát huy dân chủ ở cơ sở. Tăng cƣờng công tác giáo dục quản

lý và rèn luyện kỷ luật.

- Nâng cao chất lƣơng các mặt công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, tài chính.

Tích cực lao động tăng gia sản xuất chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho bộ

đội.

- Tập trung xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực

lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, trƣớc hết là cấp ủy và chi bộ. Tích

cực bồi dƣỡng rèn luyện đội ngũ cán bộ các cấp cả về phẩm chất chính trị, năng

lực chỉ huy, quản lý và đạo đức lối sống để đủ sức lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hoàn

32

thành các nhiệm vụ đƣơc giao trong m ọi tình huống khó khăn, phức tạp. Chú

trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ và giữ gìn bí mật quân sự.

Đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng và các cuộc vận động lớn do Bộ

và Binh chủng phát động. Phấn đấu luôn là đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua

quyết thắng của Binh chủng.

Làm tốt công tác vận động quần chúng nhân dân, giữ vững và tăng cƣờng

mối quan hệ đoàn kết gắn bó máu thịt với nhân dân, phối hợp chặt chẽ với địa

phƣơng, xây dựng địa bàn an toàn, vành đai chính trị an toàn.

Đảng ủy và Bộ Tƣ lênh Binh chủng tin rằng: với bề dày truyền thống trong

chiến đấu và xây dựng của một đơn vị ba lần Anh hùng lực lƣơng vũ trang nhân

dân, Đoàn Đặc công 113 sẽ giữ vững và phát huy tốt trong xây dựng và thực hiện

thắng lợi mọi nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Một lần nữa kính chúc các đồng chí đại biểu mạnh khỏe - hạnh phúc. Chúc

các đồng chí cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng Đoàn Đặc công 113

mạnh khỏe; đoàn kết, tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống đơn vị hoàn

thành xuất sắc mọi nhiệm vụ đƣơc giao.

Xin cảm ơn!

T.T.P

33

KỶ NIỆM MIỀN ĐÔNG

NGUYỄN THÀNH TOÁN

Theo lời kể của đồng chí Đỗ Văn Ninh

Anh hùng lực lương vũ trang nhân dân1.

... Chiến thắng Phƣớc Long nhƣ tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi vƣơn tới,

hoàn thành xuất sắc kế hoạch hoạt động quân sự quí I năm 1975 với hai nhiệm vụ:

đánh phá bình định phải đƣơc coi là tr ọng tâm nhƣng không quên tổ chức tốt lực

lƣơng đánh vào ba mục tiêu: Hốc Bà Thức, kho bom Bình Ý và sân bay Biên Hòa.

... Trong những ngày tháng 3 năm 1975, đất nƣớc đang ở vào thời điểm sôi

động, thì Trung đoàn 113 chúng tôi cũng đang tìm cách để trả lời câu hỏi: phải

làm gì để hỗ trợ cho các mặt trận; bằng cách nào để phối hợp có hiệu quả với các

chiến thắng liên tiếp xảy ra ở Đà Nẵng, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú

Yên; ở Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết, Tuyên Đức, Lâm Đồng...

Ngày 5 tháng 4 năm 1975, một cuộc họp cán bộ toàn Trung đoàn đƣơc triệu

tập để quán triệt nhiệm vụ trên giao:

1. Đánh và chiếm giữ cho đƣơc cầu Ghềnh (tức cầu Biên Hòa) và cầu Mới

(tức cầu Hóa An).

2. Đánh phá căn cứ của thiết đoàn 15 ngụy ở Hốc Bà Thức.

3. Đánh chiếm một đoạn xa lộ từ Xóm Chợ đến ấp Xuân Thôn không để

địch biến đoạn xa lộ này thành sân bay dã chiến để phản kích ngăn chặn lực lƣơng

ta tiến công từ phía bắc xuống, phía đông sang áp sát Sài Gòn.

4. Đánh phá từ hƣớng tây và sân bay Biên Hòa, khống chế các trận địa pháo

địch quanh khu vực đứng chân của Trung đoàn.

5. Hƣớng đánh địch của Trung đoàn phát triển về phía Thủ Đức.

Tuy không đƣơc giải thích cụ thể, nhƣng qua nhiệm vụ đƣơc giao, chúng tôi

đã thấy rõ tình thế đang phát triển có lợi cho ta, vùng giải phóng của ta đƣơc m ở

rộng từ Quảng Trị qua Tây Nguyên vào gần tới Long Khánh, Bà Rịa. Lực ta mạnh,

thế ta vững, đủ điều kiện đánh chiếm, chốt giữ chứ không đánh rồi rút nhƣ trƣớc

nữa.

1 Nguyên Trung đoàn trưởng 113 - Phó Tư lênh Binh chủng Đặc công.

34

Một không khí hào hứng, phấn khởi lan tỏa khắp cuộc họp. Những nƣớc da

vàng, môi thâm vì sốt rét khiến cho ngƣời ta già trƣớc tuổi, nay hồng lên, nom

hoạt bát nhƣ trẻ lại. Nét mặt mọi ngƣời hớn hở, nói cƣời râm ran...

Không một ai “cò kè” gì về nhiệm vụ, mặc dầu so khả năng thực tế về quân

số, vũ khí hiện có của Trung đoàn với nhiệm vụ đƣợc giao là một quãng cách khá

xa. Nếu là ngày thƣờng, có thể có ý kiến thêm bớt mũi này, hƣớng kia, còn hôm

nay thì trái lại, chúng tôi chụm đầu vào nhau, hăng say bàn bạc tìm cách khắc

phục.

Không ngại khó khăn gian khổ là tốt, là bản chất của quân đội cách mạng,

nhƣng không nêu khó khăn đó là gì, biện pháp khắc phục khó khăn đó ra sao thì

cũng là sai lầm, sẽ dẫn tới bị động và lúng túng. Phàm trong quân sự, cái gì đã

không chủ động đƣơc thì s ẽ dẫn tới khó khăn càng nhiều hơn, và nhƣ thế khó

giành đƣơc thắng lợi, nếu không nói là thất bại.

Càng gần thắng lợi càng nhiều khó khăn, khó khăn trong thế đi lên. Câu nói

xem ra có vẻ công thức lại rất đúng với hoàn cảnh của chúng tôi hiện nay. Cái khó

trƣớc đây là làm thế nào tạo ra bàn đạp, bám trụ ở giữa vòng vây quân thù để từ

đó tổ chức những trận tiến công bằng “pháo lủi”, bằng kỹ thuật đặc công vào các

căn cứ, kho tàng, sân bay, bến cảng nhằm phá hủy các phƣơng tiện chiến tranh mà

địch tồn chứa ở đấy. Còn bây giờ, tình thế mới, đòi hỏi phải bung ra, đạp bằng các

căn cứ, các đồn bót địch mà tiến về phía trƣớc, sáp vô Sài Gòn, tiêu diệt tận gốc

nơi sào huyệt quân thù, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, vì vậy đòi hỏi

phải có phƣơng thức mà chúng tôi chƣa quen làm bao giờ:

- Từ phá cầu nay phải giữ cầu. Mà phá bao giờ cũng dễ hơn xây, hơn giữ.

- Từ dùng mật tập mà tiến công căn cứ địch, găm lƣơng n ổ ở đó rồi rút ra

chờ giờ hẹn nổ, là xem nhƣ có thể tính sổ chiến thắng, nay phải đánh vận động,

phải chốt, phải giữ, phải dàn quân ra mà đối đầu với địch một cách công khai để

góp phần cản địch, tạo thế cho đại quân tiến vào Sài Gòn.

Thế có nghĩa là từ đánh các mục tiêu tự do lựa chọn, nay đánh các mục tiêu

bắt buộc do trên giao.

Rõ ràng thật là khó!

Nhƣng cái khó phải vƣợt qua hôm nay để ngày mai là chiến công. Nhƣ thế

là chúng tôi đã thắng keo đầu, đánh bật cái khó ra khỏi đầu óc mình. Thắng trong

nhận thức khiến chúng tôi sống trong thanh thản mặc dầu trƣớc mắt biết bao nhiêu

công việc phải làm, việc nào cũng đòi hỏi phải có quyết tâm cao, kèm theo là

những biện pháp cụ thể.

Cũng chính vì thế nên chúng tôi không bị lúng túng, trái lại, vẫn minh mẫn,

biết chọn ra những cái gì là quan trọng nhất, chủ yếu nhất cần phải tập trung công

suất mà giải quyết; việc chính làm trƣớc, việc phụ làm sau, có khi song song cùng

tiến hành.

35

Năm tháng quần nhau với quân thù ở cửa ngõ phía bắc Sài Gòn này, chúng

tôi đã hiểu nơi đâu là hiểm yếu cần phải ém quân, “lót ổ” sẵn lực lƣơng của mình,

để có thể phát sinh tác dụng uy hiếp địch, kéo căng, dàn mỏng thế trận phòng ngự

của địch, để đại quân ta có điều kiện nâng cao tốc độ tiến công; cũng chính năm

tháng đối mặt với quân thù đó đã là trƣơng học thực tế sinh động, dạy cho chúng

tôi biết cách sử dụng lực lƣơng, biết dùng phƣơng thức đánh địch nhƣ thế nào là

lợi nhất để thắng chúng.

Chúng tôi đã nhanh chóng tìm ra cho mình một phƣơng án tác chiến phù hợp:

- Tiểu đoàn 23 có nhiệm vụ đánh chiếm, chốt giữ cầu Ghềnh và cầu Mới;

bằng bất cứ giá nào cũng không thể để cho địch chiếm lại cầu và phá cầu. Đồng

thời tổ chức một lực lƣơng m ạnh đánh mở rộng về hƣớng cầu Xa Lộ, chiếm và

giữ hai ấp sát cầu Ghềnh để làm bàn đạp tiến công khi địch phản kích, tạo điều

kiện vững chắc giữ cầu không cho địch phá, để đảm bảo cho các binh đoàn chủ

lực của ta vƣợt sông Đồng Nai bằng cơ giới, nhanh chóng tiến vào hợp vây Sài

Gòn.

- Tiểu đoàn 9 có nhiệm vụ bao vây tiêu diệt căn cứ thiết giáp Hốc Bà Thức,

không cho địch dùng căn cứ này làm bàn đạp phản kích, đánh vào đội hình tiến

công của các binh đoàn chủ lực ta ở hƣớng đông bắc theo đƣơng 1A phát triển vào

các mục tiêu trong nội ô thành phố Sài Gòn. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Tiểu

đoàn 9 phái một lực lƣơng sang p hối hợp với một bộ phận lực lƣơng c ủa Tiểu

đoàn 23 đánh chiếm và giữ cầu Xa Lộ và đoạn từ Xóm Chợ đến ấp Xuân Thôn,

không cho địch lợi dụng đoạn đƣơng này làm sân bay dã chi ến, chốt chặn không

cho địch từ Thủ Đức lên chi viện cho chi khu quân sự Dĩ An, tạo điều kiện cho

Tiểu đoàn 23 giữ cầu.

- Tiểu đoàn 174 chia làm hai bộ phận: một đại đội dùng “pháo lủi” từ hƣớng

tây đánh vào sân bay Biên Hoà, các chi khu quân sự Dĩ An, Tân Uyên, điểm cao

Châu Thới, kiềm chế hỏa lực pháo địch từ nhiều hƣớng bắn tạt sƣờn vào đội hình

tiến công của quân ta; hai đại đội còn lại, phối hợp với Tiểu đoàn 23 hoàn thành

xuất sắc nhiệm vụ giữ cầu.

- Đại đội 53 trinh sát tiếp tục đánh kho bom Bình Ý, đồng thời có lực lƣơng

phối hợp với Tiểu đoàn 9 đánh Hốc Bà Thức.

Nhƣ thế là chúng tôi đã tìm đúng chỗ để đánh, buộc địch phải phân tán, tạo

thế sơ hở lớn của chúng ở vùng bắc Sài Gòn, bởi vì những nơi chúng tôi chọn

đánh này địch không thể rút lực lƣơng đi chi viện nơi khác, trái lại một khi bị tiến

công, buộc chúng phải đƣa quân đến ứng cứu.

Thời cơ lớn tạo ra sự nhạy cảm cho ngƣời chiến sĩ! Đang trăm công nghìn

việc, vậy mà chúng tôi đã gỡ rối rất nhanh, hình thành thế bố trí hiểm, giao nhiệm

vụ cho các đơn vị vừa cụ thể vừa thể hiện tính liên hoàn kín với các quy định hiệp

đồng chiến đấu khi tình huống nổ ra.

Bài học mà chúng tôi rút ra cũng chính là đây. Trong chiến đấu, công việc

quan trọng hàng đầu có ý nghĩa quyết định đến mọi diễn biến tiếp sau, đến thắng

36

lợi của trận đánh là việc hình thành cho đƣơc th ế trận hiểm, thì quân ít mà hóa

đông, rộng mà vẫn kín; địch nhiều mà hóa ít , không phát huy đƣơc hi ệu lực chiến

đấu, đành chấp nhận sự thất bại.

Đó là ý định của chúng tôi. Nhƣng mong muốn chủ quan đó trở thành hiện

thực không phải đi trên con đƣơng th ẳng, thênh thang. Kẻ địch càng đến ngày tận

số, chúng càng điên cuồng chống trả quyết liệt.

Mất Huế, địch hy vọng còn Đà Nẵng!

Mất Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, địch lấy Bình Thuận, Ninh Thuận

làm vành đai phòng thủ tuyến ngoài và lập Sở Chỉ huy tiền phƣơng quân đoàn 3 ở

đây để điều hành công việc “tử thủ” bảo vệ đất còn lại của cái gọi là Việt Nam

cộng hòa.

Khi tuyến “tử thủ” này bị chọc thủng, tên trung tƣớng Nguyễn Vĩnh Nghi, tƣ

lênh bộ chỉ huy tiền phƣơng bị bắt tại sân bay Thành Sơn (thị xã Phan Rang) thì

Mỹ lại ra lệnh cho quân ngụy Sài Gòn: - Bằng bất cứ giá nào cũng phải giữ cho

đƣơc ba tỉnh Long Khánh - Biên Hoà - Bà Rịa!

Thực hiện lệnh này, Phạm Quốc Thuần, tƣ lênh quân đoàn 3 ngụy, nhƣ một

cái máy, lệnh tiếp cho các đơn vị dƣới quyền: - Bằng mọi giá, các ông phải chặn

đứng các mũi tiến công của Cộng quân từ Ninh Thuận vào, từ Phƣớc Long xuống!

Đúng là đã đến bƣớc đƣơng cùng . Điều an ủi chúng đã hết. Không giữ cho

đƣơc ba t ỉnh miền Đông này thì Sài Gòn bị uy hiếp, ngụy quân và ngụy quyền

trung ƣơng của Mỹ hết nơi ẩn náu.

Đông Nam Bộ bởi thế mà trở nên ngột ngạt vì mật độ binh lính địch quá dày.

Đi bất cứ đâu cũng đụng phải lính là lính: lính thất trận từ Đà Nẵng vào, từ Tây

Nguyên xuống, từ Sài Gòn bị đẩy ra để làm nhiệm vụ “tử thủ”. Đông Nam Bộ vào

thời điểm này nhƣ một cái túi khổng lồ đựng đủ loại lính thất trận từ các nơi kéo

về, càng gây ra cảnh hỗn loạn: lính bắn lính, lính bắn sĩ quan; lính bắn dân để

cƣớp của kiếm cái sống...

Không khí chiến tranh càng trở nên ngột ngạt.

Chiến sự cũng trở nên sôi động.

Điểm nóng của tình hình tập trung tại Xuân Lộc - nơi đầu mối của đƣơng 1A

và đƣơng 20 - Sài Gòn - Đà Lạt.

Sƣ đoàn 18 do tên chuẩn tƣớng Lê Minh Đảo (đƣơc xem là ngƣ ời hùng của

quân lực Việt Nam cộng hòa, đƣơc Ma-tin đại sứ Mỹ ở Việt Nam lúc đó tin dùng)

chỉ huy, làm nhiệm vụ biến nơi đây thành vành đai phòng thủ cuối cùng của Sài

Gòn. Vì thế Xuân Lộc suốt ngày đêm ầm ầm, bầu trời lúc nào cũng một màu vẩn

đục bởi khói bom và đạn đại bác cày xới.

Ngày 21 tháng 4 năm 1975, thị xã Xuân Lộc đƣơc giải phóng, vòng vây của

quân ta càng áp sát vào sào huyệt cuối cùng của Mỹ - ngụy. Âm thanh chiến tranh

37

càng bị dồn nén rất căng, đụng vào đâu, dù chỉ là lực lƣơng nhỏ cũng có thể gây ra

những tiếng nổ lớn.

Giữa lúc chúng tôi đang triển khai thực hiện kế hoạch đã vạch, thì điện của

Sƣ đoàn lệnh cho toàn Trung đoàn 113 bàn giao địa bàn cho đơn vị bạn, hành

quân cấp tốc sang hƣớng tây, hƣớng Tân Uyên (thuộc tỉnh Bình Dƣơng) để nhận

nhiệm vụ mới.

Quãng đƣơng bình thƣ ờng phải đi mất bốn, năm ngày đêm nay rút ngắn, chỉ

hai ngày đêm đã có mặt ở nơi quy định. Phía trƣớc - thành phố Sài Gòn đã giục

giã chúng tôi nâng cao tốc độ hành quân.

Trong hai ngày 22 và 23 tháng 4, chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ nắm địch,

đợi lệnh là thực hành tiến công vào các mục tiêu vừa đƣơc giao, thì ngày 24, Sƣ

đoàn lại điện xuống lệnh cho Trung đoàn phải nhanh chóng đƣa một lực lƣơng về

lại hƣớng đông đánh chiếm Hốc Bà Thức...

Ngay sau khi nhận điện, Đảng uỷ Trung đoàn họp quán triệt và quyết nghị cử

tôi phụ trách tiểu đoàn 9 trở lại hƣớng đông vì chúng tôi rất quen thuộc địa bàn

này. Ở đó chúng tôi thuộc đƣơng đi l ối lại nhƣ chính nhân dân địa phƣơng vậy.

Nhƣng đƣơng tr ở lại hƣớng đông không dễ dàng nhƣ trƣớc nữa, vì địch tăng

cƣờng lực lƣơng, ngăn chặn mới hoạt động chuyển quân của ta.

Đi theo con đƣơng nào? Đó là câu hỏi đƣơc nêu ra!

Rồi những ngƣời dự họp cũng trả lời rất nhanh: Không có đâu là an toàn

tuyệt đối, nếu cầu toàn thì lỡ thời cơ. Tất nhiên cần tránh những tổn thất không

cần thiết. Nhƣng khi cần, nếu phải đổ máu vì chiến thắng chung thì sẵn sàng chấp

nhận. Không thể tính toán thiệt hơn với Tổ quốc lúc này!

Ngày 26 tháng 4, đội hình hành quân của Tiểu đoàn 9 đã về tới Bùng Binh,

vƣợt thời gian quy định là hai ngày. Đành rằng bất cứ nơi nào của vùng đất miền

Đông này đều có những gắn bó, những kỷ niệm khó quên, nhƣng với chúng tôi

Bùng Binh vẫn đƣơc xem nhƣ nơi chôn nhau c ắt rốn trong cuộc đời bám trụ chiến

đấu của mình. Trở lại Bùng Binh chúng tôi thấy tình cảm mình ấm hẳn lên, thanh

thản hẳn lên, nỗi nhớ mong da diết coi nhƣ đƣơc giải quyết. Bộ phận ở lại trụ bám

Bùng Binh thấy chúng tôi trở về thì reo vui, tay bắt mặt mừng ùa ra đón chúng tôi

ôm nhau, bắt tay nhau, dành cho nhau những nụ cƣời hết cỡ và kèm theo cả giọt

nƣớc mắt vì quá xúc động, nhƣ gặp lại ngƣời thân đi xa lâu ngày, nay mới trở về.

Tất cả chủ và “khách” chuyện trò râm ran, vang động cả khu rừng:

- Ngày nào chúng tôi cũng nhắc cũng mong Tiểu đoàn 9 chóng xong nhiệm

vụ về lại quê hƣơng!

- Biết mà, nhất định các ông dù thế nào rồi cũng phải về lại ngôi nhà này, chớ

đi sao đặng?

-Tôi cũng hòa theo cái vui của anh em:

- Các cậu làm nhƣ vợ chồng Ngâu không bằng, mới có mấy ngày mà cứ nhƣ

xa nhau hàng năm!

38

Cái vui gặp gỡ nhau lắng xuống, nhƣờng chỗ cho công việc chuẩn bị chiến

đấu tuy diễn ra thật khẩn trƣơng mà cũng thật là vui. Công việc ra trận hôm nay

sao thiêng liêng đến thế! Tất cả nhƣ chất men say, thôi thúc lòng ngƣời vƣợt lên

mọi gian lao và vất vả, quên cả ăn, ngủ để lao vào công việc.

Đánh chiếm Hốc Bà Thức.

Đây là căn cứ của thiết đoàn 15 ngụy có diện tích trên 24 ki-lô-mét vuông,

nằm án ngữ giữa đƣơng 1A và đƣơng 24.

Nhổ đƣơc căn c ứ này là chọc thủng một mắt xích rất quan trọng trong dải

phòng ngự bắc Sài Gòn của địch, và cũng là làm sạch địa bàn cho chủ lực ta tiến

vào tập kết, xốc lại đội hình trƣớc khi tiến vào sào huyệt cuối cùng của xâm lƣợc

Mỹ và bè lũ tay sai.

Thắng lợi của trận đánh sẽ gây nên phản ứng dây chuyền, hệ thống đồn bốt

địch quanh vùng bị lung lay, các trận địa pháo phía sau nó bị uy hiếp, và sở chỉ

huy quân đoàn 3 ngụy đặt ở Biên Hòa bị đe dọa nghiêm trọng...

Mãi sau này khi tổng kết chiến dịch Hồ Chí Minh, mọi ngƣời mới thấy tiến

công vào Hốc Bà Thức là trận chiến đấu có ý nghĩa tạo thế, còn lúc ấy bằng vốn

sống thực tế chiến đấu của mình, thấy rằng nếu thắng địch ở đây sẽ gây cho chúng

nhiều xáo động, vì vậy mà ai nấy đã dồn công sức của mình vào làm tốt công việc

phục vụ cho trận đánh.

Ngoài yêu cầu chung của chiến dịch thôi thúc, đối với Trung đoàn 113 đặc

công còn có cái “hậu” riêng bức xúc nữa. Chính cái căn cứ này đã gây cho chúng

tôi không biết bao nhiêu là khó khăn, thậm chí cả đổ máu nữa trong những năm

tháng đứng chân ở đây. Đặt căn cứ ở Hốc Bà Thức, địch có thể thƣờng xuyên uy

hiếp vùng giải phóng của ta, đồng thời là hàng rào vững chắc ngăn chặn không

cho ta thâm nhập vào vùng chúng tạm thời kiểm soát. Đặc biệt, về mùa mƣa căn

cứ này rất lợi thế, chung quanh là trảng trống, sình lầy, ta đột nhập vào cũng khó,

ngƣợc lại chúng có thể từ đây quan sát khống chế ta trong phạm vi xa, ngăn cản

không cho ta di chuyển từ trong ra, từ ngoài vào.

Với vị trí có tầm lợi hại nhƣ thế, nên sau khi Hiệp định Pa-ri đƣơc ký k ết,

địch càng chú ý tăng cƣờng sức mạnh cho nó. Ngoài thiết đoàn 15 thƣờng xuyên

có mặt, địch còn điều thêm về đây liên đoàn 374 biệt động quân, hai đại đội biệt

kích thuộc lữ đoàn 81 Biên Hòa.

Vì vậy khi nhận nhiệm vụ đánh chiếm căn cứ này, cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn

9 ai nấy đều phấn khởi, thở phào nhẹ nhõm; thế là thời cơ rửa hận đã đến!

Đánh nhƣ thế nào và đánh bằng cách nào? Đó là một câu hỏi chung mà tất cả

chúng tôi đều có nhiệm vụ phải trả lời đúng và nhanh, không cho phép kéo dài

trong việc tranh luận. Mọi ngƣời đều có quyền hiến kế nhƣng phải ngắn gọn, rõ,

cụ thể, không đƣơc hô hào chung chung , không đƣơc lấy tƣ tƣởng, nhận thức thay

cho biện pháp.

Với tinh thần ấy, chúng tôi tìm đƣơc cách đánh phù hợp dƣới đây:

39

Một, lực lƣơng đánh chia thành bốn mũi, theo bốn hƣớng, dùng kỹ thuật binh

chủng mà đột nhập (mật tập chứ không cƣờng tập), giải quyết gọn trong đêm.

Hai, tổ chức một số tổ hỏa lực tiến công “lai rai” về mọi hƣớng khác, nhằm

đánh lạc sự phán đoán của địch về hƣớng đột nhập của ta, gây cho địch những ngộ

nhận, cho rằng lực lƣơng đối phƣơng đông, đâu đâu cũng tiến công, uy hiếp chúng.

Ba, tổ chức một lực lƣơng đánh đ ịch phản kích định chiếm lại mục tiêu đã

mất.

Bốn, trong khi đại bộ phận Tiểu đoàn 9 tiến công Hốc Bà Thức, thì đội vũ

trang tuyên truyền của Trung đoàn và một bộ phận của đại đội 53 trinh sát cùng

phối hợp nổ súng, đánh chiếm ấp Bình Trị, mở rộng địa bàn ra phía sau, bảo vệ Sở

Chỉ huy trung đoàn.

Lễ xuất phát bƣớc vào trận đánh đƣơc t ổ chức đơn giản nhƣng rất trang

nghiêm tại bìa rừng Bùng Binh.

Đồng chí Hai Thoạn, Chính ủy sƣ đoàn trao cờ Quyết thắng cho đơn vị vào

cắm trên nóc căn cứ Hốc Bà Thức.

Mỗi chúng tôi trào dâng lên một cảm xúc khó nói nên lời. Ai cũng phấn khởi

nhƣng rất nghẹn ngào vì đƣơc bi ết chiến dịch cuối cùng này là chiến dịch mang

tên Bác.

Thế là mỗi chúng tôi lại nghĩ về Bác với một tình cảm trân trọng thiêng liêng

bội phần.

Trong đội ngũ những ngƣời vào trận đêm nay tuổi đời còn rất trẻ, gần nhƣ

không ai có cái vinh dự đƣơc gặp Bác, mà chỉ đƣơc biết cuộc đời của Bác, những

mẩu chuyện đạo đức cần kiệm liêm chính chí công vô tƣ của Bác qua những

ngƣời anh, ngƣời cha kể lại, qua đọc sách, báo, qua nghe đài truyền thanh. Mỗi

ngƣời bằng trí tƣởng tƣợng của mình, đều hình dung hình ảnh Bác về dự lễ thành

lập Binh chủng (19 tháng 3 năm 1967) và chính mình nhƣ đƣơc nghe Bác hu ấn

thị:

“Đặc công tức là công tác đặc biệt, là vinh dự đặc biệt, cần phải có cố gắng

đặc biệt”.

Giờ đây chúng tôi mang theo lời Bác dạy đi vào trận đánh hiệp đồng chính

thức với đại quân ta trong chiến dịch mang tên Ngƣời với một tình cảm bồi hồi

nhớ Bác, nhƣng cũng rất lạc quan, rất vững tin vì vẫn có “Bác đang cùng chúng

cháu hành quân”.

Đêm nay 28 tháng 4,chúng tôi hành quân dƣới làn pháo cỡ lớn của quân ta

đang bắn dữ dội vào sân bay Biên Hoà, vào sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy. Mặt đất

rung lên từng hồi và bầu trời chao đảo. Sau những tiếng nổ dữ dội là những ánh

chớp xanh, đỏ tung toé, đan vào nhau, tất cả đều chụp xuống các đồn bót địch.

Đêm 28 tháng 4 là “Đêm chiến tranh”! Đúng là nhƣ thế! Không gian của

miền Đông Nam Bộ, ở vùng cửa ngõ bắc Sài Gòn này đan dày những tiếng nổ!

40

Vậy mà chúng tôi không hề có cảm giác là ác liệt! Ngƣợc lại thấy mình đang sống

trong tâm trạng phấn chấn và náo nức.

Đội hình hành quân đến cách mục tiêu chƣa đầy một km thì dừng lại triển

khai Sở Chỉ huy và dồn lực lƣơng làm công tác chu ẩn bị lần cuối trƣớc khi các

mũi thực hành đột nhập. Vừa lúc ấy đội vũ trang tuyên truyền cũng hoàn thành

nhiệm vụ kịp thời trở về phối thuộc với Tiểu đoàn 9 đảm nhận công việc bảo vệ

Sở Chỉ huy.

Đồng chí Nguyễn Văn Tuyến, Tiểu đoàn phó chỉ huy trận đánh.

Ở Sở Chỉ huy, chúng tôi theo dõi đến từng phút về phía mục tiêu, nghe ngóng

động tĩnh.

Kim đồng hồ chỉ 24 giờ. Lúc này tiếng súng chung quanh im hẳn, chỉ thoáng

nghe tiếng đại bác cầm canh từ xa vọng lại. Địch thầm đoán có thể sắp qua một

đêm hãi hùng. Chúng mong trời sáng đến từng giây. Nhƣng chính lúc không gian

có vẻ yên ắng là lúc các binh đoàn chủ lực của ta đang ầm ầm chuyển động, báo

hiệu một ngày căng thẳng mới bắt đầu. Số phận bi thảm của đội quân đánh thuê

cho Mỹ đã bị rút ngắn, chờ giờ cáo chung.

Đúng vào lúc 2 giờ sáng, từ đầu dây bên kia, đồng chí Phùng Truyền, Chính

trị viên gọi điện báo cáo:

- Các mũi đã lọt vào trong căn cứ.

- Động viên các đơn vị bí mật khẩn trƣơng triển khai đến từng mục tiêu đã

đƣơc phân công cho kịp giờ nổ súng!

- Tôi ra lệnh tiếp.

Bỗng có tiếng súng nổ!

Súng nổ trƣớc giờ quy định một tiếng. Rõ ràng là bị lộ!

Rồi tiếng nổ dồn dập hơn!

Sở Chỉ huy chuyển động, ai cũng đổ dồn vào câu hỏi: tại sao súng nổ sớm?

Nếu lộ thì đối phó thế nào? Có dùng mật tập nữa hay phải dùng cƣờng tập, và nhƣ

vậy thì lấy đâu ra lực lƣơng?

Hàng loạt câu hỏi cứ đặt ra trƣớc mắt chúng tôi...

Riêng tôi đứng ngồi không yên. Mặc dầu đồng chí Tuyến và Truyền chƣa có

báo cáo cụ thể, nhƣng tôi trở nên hơi lúng túng. Đánh trƣớc giờ quy định đối với

bộ đội đặc công là tối kỵ. Nhƣ vậy sẽ có thƣơng vong! Thế có nghĩa là ngƣời chỉ

huy đã không làm tròn trách nhiệm vì không dự kiến trƣớc tình huống này có thể

xảy ra để có kế hoạch chủ động đối phó...!

Tôi nhƣ đang lên cơn sốt, đầu nóng ran, trán lấm tấm mồ hôi, ngực nhƣ có

vật gì đè nặng; tôi chộp lấy máy điện thoại định gọi xuống Tiểu đoàn 9 xem sự thể

ra sao thì vừa lúc chuông réo đổ hồi, nghe inh cả tai.

41

Không chờ tiếng nói từ đầu dây bên kia, tôi nói nhƣ thét trong máy mặc dầu

biết rằng có thét to thì máy điện thoại cũng vẫn giữ âm lƣơng đủ nghe:

- Làm sao! Làm sao lại có súng nổ trƣớc giờ quy định?

- Báo cáo thủ trƣởng! Cánh quân đột nhập vào hƣớng nam bị lộ.

- Bị lộ?

Tôi hỏi lại nhƣ sợ mình nghe nhầm.

- Rõ! - Tiếng đồng chí Truyền khẳng định.

Tôi nhƣ gắt lên:

- Phải vƣợt khó khăn, xốc lên mà đánh! Chần chừ lúc này là chết! Rõ chƣa!

Rõ chƣ...a!...

Rồi chợt nghĩ thấy mình gắt là vô lý. Dù sao thì việc đã rồi, lúc này đừng làm

cái gì gây rối cho cấp dƣới, nhƣ thế càng rối thêm, sẽ mất bình tĩnh, mất sáng suốt

đối phó... Thế là tôi vội hạ giọng, cố trấn tĩnh lại, ôn tồn nói:

- Đồng chí Phùng Truyền đâu? Nghe rõ tôi nói không?

- Rõ!

- Cố gắng động viên anh em đánh thật tốt. Bằng giá nào cũng phải chiếm cho

đƣơc Hốc Bà Thức! Đây là trận đánh có quan hệ đến diễn biến chung của chiến

dịch.

Tôi nghe rõ tiếng nói chậm rãi, tự tin của đồng chí Phùng Truyền từ đầu dây

bên kia:

- Thủ trƣởng cứ yên tâm! Bộ đội đang bám chắc từng góc chiến hào để triển

khai đội hình chiến đấu.

Tôi ngồi xuống cạnh máy điện thoại một cách nặng nề, tay vẫn không rời

máy nghe. Toàn thân vẫn nóng ran nhƣ đang lên cơn sốt. Đầu óc tôi lúc này nhƣ

sợi dây đàn lên căng hết cỡ. Tiếng anh Thịnh, Chính uỷ Trung đoàn nhƣ văng

vẳng đâu đây, nghe sao mỉa mai chứ không phải là lời chúc mừng chân thành

trong buổi chia tay nhau trƣớc khi đi vào trận đánh: “Ráng lên Ninh nhé! Bọn

mình tin tƣởng ở Ninh đấy. Cả Trung đoàn hiện nay số ngƣời có kinh nghiệm tổ

chức đánh đặc công nhƣ Ninh không còn nhiều đâu. Ninh gắng hoàn thành nốt

những công việc cuối cùng của trận đánh...”

Nghĩ đến đây, ngƣời tôi tự nhiên run lên bần bật. Chả nhẽ thần sốt rét lại lợi

dụng lúc này để hoành hành cơ thể mình hay sao? Rồi tôi tự trách sự thiếu bình

tĩnh của chính mình.

Trong lúc ở căn cứ Hốc Bà Thức tiếng súng mỗi lúc một rộ lên, thì ở Sở Chỉ

huy lại lắng xuống. Ai cũng lộ rõ trên khuôn mặt vẻ lo lắng, đứng ngồi không yên.

Riêng tôi buồn đến mức không đánh diêm hút thuốc nữa! Miệng tôi đắng ngắt, cổ

nhƣ tắc nghẹn lại.

Tất cả mọi ngƣời hồi hộp mong tin kết quả chiến đấu.

42

Tôi lại quay một vòng điện thoại, gọi:

- Phùng Truyền đâu! Tình hình thế nào rồi, mũi hƣớng nam đã vào đƣơc bên

trong căn cứ chƣa?

- Báo cáo! Các mũi đánh tốt, có nhiều triển vọng kết thúc thắng lợi trƣớc lúc

trời sáng.

- Nhƣng tôi muốn biết mũi hƣớng nam hiện nay ra sao?

Khoảng 30 phút sau, tiếng súng thƣa dần, rồi lặng đi, không gian gần nhƣ trở

lại yên tĩnh. Hồi chuông điện thoại réo lên bất ngờ. Tôi cầm vội ống nghe:

- Ba Ninh đâu! Anh Ninh đâu! Báo cáo anh, quân ta đã hoàn toàn làm chủ

căn cứ!

Tôi đặt ống nghe xuống máy và thở phào nhẹ nhõm, nhƣ trút đƣơc một gánh

nặng, ngƣời thanh thản, lâng lâng. Sau này khi nhắc lại, anh Phùng Truyền đã làm

mấy câu thơ nhạo tôi:

Trăm trận dư bình tĩnh

Trận cuối cùng bỗng “run”

Tiếng “thở phào” bên ấy

Bên này tưởng là “bom”

Gọi điện giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 9 xong, chúng tôi tranh thủ xuống tổ

chức lại lực lƣơng làm nhiệm vụ chiếm giữ căn cứ. Đây cũng là nhiệm vụ rất quan

trọng của ngƣời chỉ huy lúc này, cần phải tập trung mọi cố gắng tối đa để làm cho

tốt. Bởi vì đánh đã khó, giữ càng khó hơn. Trong giữ có đánh, đánh quân địch

phản kích lấy lại, chống lại phi pháo địch với âm mƣu không ăn thì đạp đổ, dùng

bom đạn tới mức cao nhất để huỷ diệt căn cứ và huỷ diệt cả lực lƣơng đối phƣơng

đánh chiếm giữ căn cứ đó. Thành ra chỉ huy chiếm giữ là rất phức tạp, phải lo

chống đỡ với mọi tình huống ác liệt có thể xảy ra.

Trƣớc hết chúng tôi quyết định di chuyển Sở Chỉ huy vào trong căn cứ để

nắm tình hình nhanh và cụ thể hơn; để kịp thời chỉ huy các mũi, các hƣớng đối

phó với mọi diễn biến mà kẻ địch ngoan cố gây ra. Sở Chỉ huy vào đến địa điểm

mới thì trời đã tang tảng sáng, chƣa rõ mặt ngƣời. Phía chân trời xa ở hƣớng đông,

một vầng hồng nhạt đã dâng lên, báo hiệu một ngày nắng đẹp, nhƣng nhƣ thế đối

với chúng tôi lại chẳng hay ho gì, vì địch dễ quan sát hơn, các phi vụ bắn phá vào

nơi chúng tôi dừng chân, đang trụ bám này sẽ chính xác hơn, bởi vì không có mây

mù che khuất.

Tôi hội ý với các đồng chí cán bộ chỉ huy tiểu đoàn và chỉ huy các mũi để

nhận định, phán đoán âm mƣu thủ đoạn địch sẽ dùng trong ngày, biện pháp đối

phó của ta.

- Địch nhất định sẽ phản kích.

43

- Điều đó khỏi bàn, nhƣng địch phản kích nhƣ thế nào, bằng lực lƣơng gì? -

Tôi hỏi lại.

Đúng là trong quân sự, nhất là lĩnh vực chiến đấu, ở vào tình huống nhƣ hiện

nay,không thể cho phép tác phong làm việc đại khái, không thể chỉ đƣa ra những

nhận định chung với những biện pháp cũng rất chung với lời lẽ hô hào phải quyết

tâm, phải anh dũng tiến lên... Nhất nhất tất cả các vấn đề phải cụ thể. Chiến đấu là

một trạng thái thiên biến vạn hoá, tƣởng nhƣ không có quy luật, vì vậy muốn điều

khiển đƣơc nó mu ốn bắt nó diễn biến theo chiều hƣớng có lợi cho ta, thì phải có

biện pháp xử trí cụ thể. Không thể lấy ý chí thay cho biện pháp đƣơc!

Chúng tôi thống nhất nhận định; địch sẽ dùng xe tăng cùng với tàn quân biệt

kích còn sống sót từ hƣớng đông tiến ra phản kích chiếm lại căn cứ. Biện pháp đối

phó của ta là:

- Các mũi nhanh chóng ổn định lại tổ chức, bố trí lực lƣơng ở tƣ thế sẵn sàng

chiến đấu, có khả năng đánh địch phản kích từ mọi hƣớng; tranh thủ cải tạo công

sự, làm mới một số hầm hào phục vụ chiến đấu bảo vệ căn cứ.

- Đội vũ trang tuyên truyền và một đại đội của Tiểu đoàn 9 làm nhiệm vụ

chốt giữ ở hƣớng chính theo trục đƣơng từ sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy vào Hốc

Bà Thức.

Mặt khác chúng tôi tập hợp kết quả trận đánh rồi thông báo kịp thời xuống

các mũi, để động viên khí thế bộ đội, phát huy tinh thần dũng cảm chiến đấu, đánh

thắng mọi đợt phản kích của địch, giữ vững căn cứ, không cho địch chiếm lại.

Theo con số tập hợp bƣớc đầu, trận đánh đêm qua, ta diệt tại chỗ 60 tên, bắt bảy

tên trong đó có tên đại tá thiết đoàn trƣởng...

Để tạo điều kiện thuận lợi hoàn thành nhiệm vụ, tôi điện đề nghị lực lƣơng

pháo Quân đoàn 1 của ta bắn chế áp trận địa pháo ở Dốc Ông Hoàng, đảm bảo cho

Tiểu đoàn 9 làm nhiệm vụ chốt giữ căn cứ, tạo thế cho chủ lực của ta nâng cao tốc

độ tiến công, trƣớc mắt là đánh chiếm sân bay Biên Hoà và thị xã Biên Hoà, làm

bàn đạp triển khai lực lƣơng hoàn thành nhiệm vụ tiếp sau.

Sở Chỉ huy của chúng tôi đặt ở căn hầm nằm phía đông nam căn cứ. Hầm

hình chữ nhật, khá rộng, có lỗ châu mai quan sát ra chung quanh rất tốt, tiện cho

việc chỉ huy bộ đội.

Bằng thắng lợi này, tiểu đoàn 9 đã góp phần nhỏ bé của mình tạo thế cho

chiến dịch, ngƣợc lại các cánh quân của chiến dịch cũng đang tạo thế cho các

chiến sĩ Trung đoàn 113 đặc công hoàn thành nhiệm vụ đƣơc giao. Làm nhiệm vụ

chốt giữ căn cứ Hốc Bà Thức, chúng tôi có điều kiện đƣơc biết các cánh quân của

chiến dịch đang hợp đồng ăn ý qua âm thanh của các loại súng vọng về mà chúng

tôi nghe đƣơc. Phía bên trái, Quân đoàn 2 đang vƣợt qua căn cứ Nƣớc Trong; bên

phải, chúng tôi nghe rất rõ pháo 130mm của Quân đoàn 1 đang nổ, chi viện cho bộ

binh đang tiến quân trên đƣơng 16 về hƣớng Tân Uyên, Lái Thiêu... Trời càng

nắng, không khí chiến đấu càng khẩn trƣơng. Tiếng súng hiệp đồng của các Quân

đoàn 1, 2, 3, 4 trên vùng đất miền Đông phát ra một âm thanh hài hoà nghe náo

44

nức lòng ngƣời, có sức thôi thúc những bàn chân ngƣời chiến sĩ đi nhanh, thật

nhanh về phía trƣớc.

Tranh thủ giữa hai trận đánh, chúng tôi ngắm lại quang cảnh nơi đơn vị đang

dừng chân. Cái căn cứ mà địch vẫn cho là “bất khả xâm phạm” này đã hết thiêng.

Giờ đây chúng tôi đã đi vào trong lòng nó, trƣớc mắt mọi ngƣời nó không còn gì

là oai phong lẫm liệt nữa. Nó nhƣ con thú mang thƣơng tích đầy mình; lác đác vài

chiếc nhà cháy dở hoặc sập hẳn xuống, mấy chiếc xe 113 bị trúng đạn hôm qua

vẫn âm ỉ cháy, thỉnh thoảng một tràng đạn nhỏ ở trong xe nổ lẹt đẹt nghe đến lạc

lõng.

Không gian yên tĩnh xảy ra không lâu. Biết nhƣ thế nên chúng tôi đã ở tƣ thế

sẵn sàng. Phấn khởi với thắng lợi nhƣng không quá say sƣa mà quên nhiệm vụ

tiếp sau của mình. Đúng 6 giờ 15 phút ngày 29 tháng 4 năm 1975, địch mở đầu

cuộc phản kích bằng một loạt pháo dồn dập vào đội hình Tiểu đoàn 9 kéo dài hai

giờ đồng hồ. Đạn pháo các cỡ 100, 105 và 155 mm trùm lên căn cứ, tạo thành

những cột khói bay lên toả ra vẩn đục bầu trời. Nhà cửa lại đổ thêm, những vạt cỏ

hiếm hoi bị cháy và trốc luôn cả gốc bay vật vờ trƣớc khói bụi.

Sau đợt pháo bắn dọn đƣơng là b ộ binh địch có xe tăng yểm trợ chia làm ba

mũi tiến vào căn cứ. Không gian càng bị dồn nén bởi có thêm tiếng xe tăng địch

gầm rú, địch muốn bằng tiếng gầm rú đó uy hiếp đối phƣơng trƣớc giờ giãy chết

của chúng.

Về phía ta, vẫn im ắng, cái im ắng khiến địch cũng phải sợ. Chúng vừa tiến

vừa rụt rè nghe ngóng. Bởi đây không phải là trận địa không ngƣời. Các mũi của

ta đã ở trong tƣ thế sẵn sàng chờ lệnh.

Tôi cầm ống nói, gọi trực tiếp xuống các hƣớng nhắc lại nhiệm vụ đã giao, và

nhấn mạnh:

- Chờ địch đến thật gần mới nổ súng! Phải tiết kiệm đạn và nƣớc uống để

đánh địch đƣơc lâu hơn.

Nhƣ trên đã kể, căn cứ Hốc Bà Thức dài và rộng, trong khi lực lƣơng c ủa

chúng tôi chỉ có một tiểu đoàn, không đủ quân mà rải khắp đƣơc . Vấn đề quan

trọng có ý nghĩa quyết định đến mất còn của địa bàn mà chúng tôi vừa mới giành

đƣơc là phán đoán chính xác hƣ ớng tiến công chủ yếu của địch để tập trung lực

lƣơng bảo vệ; phải tỉnh táo và cảnh giác không bị địch nghi binh đánh lạc hƣớng

phán đoán của ta.

Chúng tôi đã thành công trong việc này, đồng thời cũng thành công cả việc

đánh lạc hƣớng địch, nghi binh khéo, làm cho chúng không biết lực lƣơng cụ thể

của ta. Ta ít địch tƣởng nhiều, vì vậy chúng tiến quân rất dè dặt.

Trên tất cả các hƣớng, chúng tôi chờ địch vào cách 10 mét mới nổ súng.

Bị đánh bất ngờ, xác địch nằm ngổn ngang ngay trƣớc mặt các chiến sĩ, địch

lùi ra xa gọi pháo bắn vào trận địa ta. Tiếp sau, bộ binh địch lại bị những tên ác ôn

hò hét, thúc lƣng buộc phải tiến lên.

45

Trận đánh cứ giằng co rất ác liệt trƣớc mép trận địa của các chiến sĩ ta. Mãi

cho đến 9 giờ 15 phút mới kết thúc.

Thế là những chiến sĩ đặc công chúng tôi từ chỉ quen tiến công địch bằng

phƣơng thức mật tập với lực lƣơng nh ỏ lẻ nay lần đầu tiên đánh địch đi theo lối

dàn trận giữa ban ngày với nhiệm vụ chốt giữ không phá hủy rồi rút nhƣ trƣớc đây.

Khí thế cán bộ chiến sĩ lên rất cao sau khi đã đánh lùi đợt phản kích thứ nhất

của địch định chiếm lại căn cứ Hốc Bà Thức.

Chúng tôi lại củng cố trận địa, sửa chữa lại hầm hào và xốc lại đội hình chuẩn

bị đánh địch phản kích tiếp theo. Một giờ sau đó địch lại bắt đầu tiến công.

Thoạt đầu địch bắn cối 81 mm vào cổng chính của căn cứ. Cối chuyển làn,

hai tiểu đoàn địch xông lên. Xe tăng địch từ hƣớng sở chỉ huy quân đoàn 3 nguỵ

vận động ra vừa gầm rú vừa bắn xối xả đạn vào đội hình quân ta trợ oai cho bộ

binh địch chiếm lại mục tiêu đã mất. Kho đạn của địch trong căn cứ trúng đạn

pháo của địch nổ theo....

Đầu óc chúng tôi ong ong lên vì tiếng đạn pháo của ta và của địch nổ liên hồi.

Căn cứ Hốc Bà Thức phút chốc lại chìm trong đạn khói.

Đúng nhƣ phán đoán của chúng tôi, lần phản kích thứ hai, địch vẫn tập trung

lực lƣơng đánh vào hƣ ớng cổng chính. Vì vậy ở đây đã diễn ra cuộc đọ sức giữa

một bên là địch ngoan cố theo kiểu “chó cùng cắn dậu” còn ta thì với tƣ thế chiến

thắng, đánh địch rất đàng hoàng, mƣu trí và cũng rất anh dũng.

Tôi nhắc đồng chí Khuê phụ trách chốt giữ hƣớng cổng chính luôn luôn liên

lạc bằng điện thoại về Sở Chỉ huy, báo cáo mọi diễn biến phức tạp xảy ra để kịp

thời xử trí. Đƣờng dây liên lạc giữa Sở Chỉ huy và mũi do đồng chí Khuê chỉ huy

vẫn thông suốt, nhờ đó mà chúng tôi nắm đƣơc đầy đủ những gì đã diễn ra ở đây.

Trận đánh bắt đầu và mức độ ác liệt cũng xảy ra ngay từ đầu. Đồng chí

Nguyễn Đức Hoà, y tá đại đội liên tục bắn bảy quả đạn B40 vào đội hình quân

địch đang uy hiếp sƣờn trái đại đội đồng chí Xuân. Hết đạn, đồng chí Hòa nhảy

lên đỉnh lô cốt dùng đại liên của địch đặt sẵn ở đây bắn lại địch. Bị đòn bất ngờ,

đội hình phản kích của địch bị xáo trộn và buộc chúng phải rút ra xa, gọi pháo tiếp

tục bắn chế áp vào trận địa của ta. Nhƣng ở hƣớng khác, địch đã cùng một lúc bắn

15 quả đạn M72 vào khu vực đồng chí Hòa chốt giữ để cứu nguy cho đồng bọn

đang bị quân ta uy hiếp. Một mảnh đạn bay vào mắt trái Hòa, đồng chí Khuê lao

lên bế Hòa xuống và nói nhƣ ra lệnh:

- Hòa lui về phía sau!

Mắt phải Hòa vẫn mở to nhìn về phía trƣớc - phía có địch. Mặt Hòa đen sạm

vì khói đạn địch, nhƣng vẫn rạng rỡ niềm phấn khởi, lạc quan, trả lời:

- Không việc gì đâu anh Khuê ạ! Còn một mắt vẫn nhìn thấy địch...

Bộ binh địch đƣơc xe tăng d ẫn đƣơng nhƣng v ẫn không nhích thêm đƣơc

bƣớc nào. Chúng lùi ra và lại gọi pháo bắn thị oai vào phía cổng chính.

46

Một chiến sĩ có mặt ở khoảng không gian đầy ác liệt này đã nhận xét hóm

hỉnh sau mỗi lần pháo địch bắn thị oai: “Sức lực của địch nhƣ một cơn mƣa rào ào

ào trút nƣớc rồi tạnh hẳn, không đủ nƣớc để làm thấm rễ cây”!

Trời về trƣa. Tiếng súng thƣa dần và tắt hẳn. Các mũi tranh thủ củng cố hầm

hào và rút kinh nghiệm trận đánh.

Mũi ở hƣớng cổng chính theo đồng chí Khuê và đồng chí Xuân báo cáo: đạn

đã hết!

Chúng tôi hội ý chớp nhoáng và thống nhất xử trí: điều lực lƣơng và dồn đạn

ở hƣớng khác, hƣớng nam sang chi viện cho hƣớng cổng chính, chỉ để lại ở đây

một lƣơng đạn rất ít, đủ để làm nhiệm vụ phân tán địch.

Xong việc, tôi tranh thủ xuống thăm đại đội đồng chí Xuân đang làm nhiệm

vụ chốt giữ ở hƣớng này.

Trời nóng. Không khí oi bức. Đạn nổ. Lửa cháy. Đủ các thứ mùi bốc lên

nồng nặc. Nƣớc uống cạn dần, nhiều đồng chí yêu cầu chi viện nƣớc. Đầu óc mọi

ngƣời căng thẳng vì phải dồn trí lực vào việc đối phó với quân thù.

Địch lại tập trung giội pháo vào căn cứ. Pháo dứt, một chiến sĩ liền chửi

đổng:

- Đ. mẹ! Không còn gì chịu chơi hơn là pháo à. Thử làm trò khác đi cho đỡ

buồn nghen!

Câu nói vui ấy trở nên có duyên, nhiều tiếng cƣời hƣởng ứng rộ lên, kéo

không khí chùng xuống, bớt căng thẳng

Một đồng chí mặt đen nhẻm, vừa lắp băng đạn mới vào khẩu AK, vừa cƣời

để lộ hàm răng cải mả nhem nhuốc nhƣ ngƣời nghiện trầu, đọc liền bốn câu thơ rất

trôi chảy, vần điệu nhƣ bài thơ “con kiến mà leo cành đa”:

Bọn địch muốn zô Hốc Bà Thức

Chúng zô không đươc nên đành phải ra

Chúng ra rồi chúng lại zô

Chúng zô không được chúng thời lại ra.

Liền đó là một trận cƣời thỏa thích. Mấy chiến sĩ vừa đấm vào lƣng đồng chí

đọc thơ vừa nói chọc:

- Thơ con cóc!

- Thơ thẩn.

Xuân, Đại đội trƣởng lúc này cũng đang ở cùng hầm với nhóm chiến sĩ trẻ

đang làm nhiệm vụ, nhìn tôi, cƣời, rồi quay ra nói với mọi ngƣời:

- Cậu Lân dám múa rìu qua mắt thợ! Cậu không thấy “cụ Đỗ Phủ” Ninh nhà

thơ lớn của trung đoàn xuống thăm chúng ta à? - Bỗng Xuân hạ thấp giọng,

47

nghiêm chỉnh giới thiệu: báo cáo anh, đây là đồng chí Lân quê ở Lạng Sơn mới từ

bộ binh chuyển sang.

Lân quay lại nhìn tôi, cƣời nói rất thân mật và tự nhiên:

- Đã nghe tiếng từ lâu, nay em mới biết thủ trƣởng là thủ trƣởng Ninh -

ngừng một lát nhƣ quên một điều gì, Lân lấy giọng nói tiếp - à quên, nhà thơ Đỗ

Phú Ninh ạ! Thế mà em lại dám bạo phổi...

Mọi ngƣời lại cƣời rộ lên, quên hết mệt nhọc.

Chuyến đi thăm ngắn ngủi ấy đã để lại trong tôi ấn tƣợng thật sâu sắc. Khi trở

lại Sở Chỉ huy làm nhiệm vụ, đợt phản kích tiếp theo của quân địch lại bắt đầu,

không khí chiến trƣơng căng tr ở lại, nhƣng hình ảnh các chiến sĩ vui chơi, ngâm

thơ xen giữa hai trận chiến đấu cứ hiện ra trƣớc mắt tôi, cổ vũ, động viên tôi

Lúc này đạn dự trữ cạn dần. Nƣớc uống cũng thiếu!

Phải làm gì để khắc phục khó khăn này? Tôi đang suy nghĩ và tìm lời giải thì

một luồng hơi nóng phả vào mắt tôi, tai ù đi, thì ra một viên đạn cỡ lớn rơi vào Sở

Chỉ huy. Đồng chí Rảnh, liên lạc của tiểu đoàn bị thƣơng nặng. Sau khi chuyển

Rảnh cho đồng chí y sĩ băng bó, tất cả nhanh chóng rời khỏi nơi này lập Sở Chỉ

huy mới.

Về chiều hơi nóng của mặt trời từ mặt đất bốc lên, của những đám cháy toả ra,

hòa với mùi thuốc súng và khói bom cay nồng, gây nên cảm giác ngột ngạt khó

chịu. Đạn pháo địch vẫn rít vèo vèo, nổ choáng tai nhức óc. Cổ họng chúng tôi

khô rát và kèm theo cả đói nữa!

Tiểu đoàn 9 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiến công tiêu diệt địch ở căn cứ

Hốc Bà Thức và đã một ngày chiến đấu liên tục, đánh lui tất cả các đợt phản kích

của địch định chiếm lại căn cứ này.

Với tình hình cụ thể lúc đó, chúng tôi có thể rút khỏi Hốc Bà Thức vì đạn

dƣợc, lƣơng thực đã cạn. Vả lại nhiệm vụ tiêu diệt địch, thì đã hoàn thành. Nếu

địch có chiếm lại, chúng cũng không còn hơi sức đâu cản ngăn đƣơc bƣ ớc tiến

công của các binh đoàn chủ lực của ta.

Nhƣng ý nghĩ trên chỉ thoáng qua giây lát trong đầu chúng tôi rồi tan biến

vào không gian đầy khí thế xốc tới từ các nơi dội về. Hơn lúc nào hết, làm bất cứ

việc gì, dù là nhỏ bé góp vào chiến thắng lớn thì ta cần làm, tự giác mà làm. Kiên

trì chốt giữ căn cứ Hốc Bà Thức lúc này là chiếm giữ cửa mở, tạo cho các mũi

thọc sâu của chiến dịch rảnh tay, không phải dừng lại giải quyết “sự cố dọc

đƣơng”, để tiếp tục phát triển nhanh vào đánh chiếm các mục tiêu then chốt.

Nhanh, chậm trong lúc này có ý nghĩa rất quan trọng, có tác dụng làm chuyển biến

lớn tình hình hoặc ngƣợc lại.

Với mong muốn “góp gió thành bão” đó, chúng tôi đã xác định quyết tâm

chốt giữ Hốc Bà Thức và khẩn trƣơng tổ chức thực hiện quyết tâm đó. Tất cả các

mũi, các hƣớng nhanh chóng củng cố lại trận địa, lau lại súng, kiểm lại đạn, nƣớc

uống,... Nhƣng kiếm đƣơc nƣớc cũng không phải dễ dàng, vì kẻ địch tìm mọi cách

48

phong tỏa các đƣơng đi tới nguồn nƣớc. Hai đồng chí liên lạc thay nhau hành tiến,

ngƣời nọ yểm hộ cho ngƣời kia, vƣợt qua làn đạn địch mới đƣa đƣơc v ề một bi

đông và một túi bông nƣớc chỉ đủ cho nhu cầu tối thiểu ở Sở Chỉ huy.

Súng đạn; lƣơng thực, nƣớc uống rất thiếu, nếu đánh sang ngày thứ hai là gặp

nhiều khó khăn.

Biết là nhƣ thế nhƣng chẳng ai bận tâm về những thứ đó. Tất cả chúng tôi lúc

này đều có chung một ý nghĩ, một mong muốn - giữ tốt cửa mở để đón đại quân

tiến vào!

Thời gian đã chiều lòng ngƣời ra trận. Giữa lúc chúng tôi mới chỉ bắt đầu

mong mỏi thì cũng là lúc các binh đoàn chủ lực của ta nổ súng tiến công. Tàn

quân địch từ Xuân Lộc rút về để cùng với lực lƣơng t ại chỗ ở Hố Nai chƣa kịp

triển khai tuyến “tử thủ” mới đã bị xe tăng và bộ binh ta tràn qua. Pháo ta ở hƣớng

Đồng Nai bắn cấp tập vào sân bay Biên Hoà và Sở Chỉ huy quân đoàn 3 ngụy.

Chúng tôi - những ngƣời chốt giữ Hốc Bà Thức reo lên, tay này giơ súng, tay

kia giơ mũ cố nâng thật cao vẫy chào đoàn quân trùng điệp tiến về hƣớng Biên

Hoà... Bọn địch nằm ngoài hàng rào căn cứ đang chuẩn bị đợt phản kích mới,

hoảng loạn tháo chạy, quan bỏ lính, lính xô đẩy nhau chửi quan loạn xị.

Lúc đó là 16 giờ ngày 29 tháng tƣ năm 1975.

Tôi cho treo cờ lên đỉnh nóc căn cứ để đón đại quân.

Lá cờ cách mạng phần phật tung bay trƣớc gió, nhƣ vẫy chào, nhƣ thúc giục

đoàn quân tiến nhanh về phía trƣớc!

Đoàn quân lần lƣợt đi qua trƣớc mặt chúng tôi, đã dành cho chúng tôi nụ cƣời

và cái nhìn trìu mến, giơ tay chào với một lời chúc ngắn gọn:

- Cám ơn các đồng chí đi trƣớc!

Chúng tôi đón nhận lời chúc đó với một tình cảm xúc động và tự hào, nhƣng

vẫn thấy còn phải vƣơn lên nữa, tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ trong đánh ra,

ngoài đánh vào đánh chiếm và chốt giữ các cầu trên những trục lộ chính đi tới Sài

Gòn...

Đánh kho bom Bình Ý.

Trong điện giao nhiệm vụ, Sƣ đoàn nhấn mạnh: Trung đoàn 113 phải khẩn

trƣơng tổ chức lực lƣơng pháo kích vào sân bay Biên Hoà, đồng thời dùng hai tiểu

đoàn tiến công phá huỷ kho bom Bình Ý.

Nhƣ thế là phá huỷ phƣơng tiện chiến tranh của địch vẫn là một trong những

nhiệm vụ chính của bộ đội đặc công trong chiến dịch này. Thái độ ngoan cố của

địch, sự đối phó điên cuồng của chúng, tức là mức độ ác liệt của chiến sự diễn ra

nhƣ thế nào, một phần phụ thuộc vào số lƣơng các phƣơng ti ện chiến tranh mà

địch còn tàng trữ đƣơc. Một khi máy bay và bom đạn bị phá hủy, xăng dầu bị

thiêu cháy... thì địch có muốn kéo dài và đẩy mạnh chiến tranh cũng đành chịu.

Chúng tôi đã hiểu nhƣ thế qua đọc bức điện giao nhiệm vụ của Sƣ đoàn.

49

Nhƣng khi triển khai thực hiện thì cũng lắm vấn đề phải bàn. Pháo kích vào

sân bay Biên Hòa tuy khó nhƣng có nhiều thuận lợi, vì mục tiêu đã đánh nhiều lần,

các trận địa đặt pháo ta đã tính toán đo đạc từ trƣớc, tất nhiên là địch sẽ đối phó,

nhƣng ta vẫn có cách khắc phục để hoàn thành nhiệm vụ.

Đánh kho bom Bình Ý ai cũng thấy là cần, một khi kho bom này bị phá, chắc

chắn các phi vụ ném bom để cản phá đội hình quân ta sẽ giảm đi rất nhiều. Nghĩa

là không có vấn đề gì thuộc về quyết tâm cả. Nhƣng lại có vấn đề thuộc về cách

đánh - đánh nhƣ thế nào chắc thắng mà ta ít tổn thất nhất?

Trong cuộc họp cán bộ chỉ huy hạ quyết tâm tiến công, có ý kiến nêu ra:

- Có nên dùng cả hai tiểu đoàn cùng một lúc đánh kho Bình Ý không?

Ý kiến chƣa khẳng định, nhƣng tôi cũng thấy là không nên. Dùng nhƣ thế là

lãng phí, có thể chính vì vậy mà gây thƣơng vong không cần thiết.

Ngày 22 tháng 4 tại suối Ông Đông, Thƣờng vụ Đảng ủy Trung đoàn họp để

thông qua quyết tâm lần cuối. Qua ý kiến của quần chúng, căn cứ vào thực tiễn lúc

đó, thƣờng vụ quyết định: bằng bất cứ giá nào ta cũng phải chấp hành nghiêm

chỉnh mệnh lệnh của sƣ đoàn, tiến công phá hủy kho bom Bình Ý. Nhƣng lực

lƣơng sử dụng không cần nhiều.

Trong cuộc họp này, tôi không ngờ đƣơc gặp lại anh Hai Thịnh. Theo quyết

định của trên, anh Hai Thịnh đƣơc ra B ắc an dƣỡng vì sức khỏe của anh sút giảm

trông thấy. Tôi rất tiếc vì công việc quá bận rộn nên không đƣơc v ề tạm biệt anh

trƣớc lúc lên đƣơng . Tƣởng rằng khó có điều kiện gặp lại, nào ngờ anh vẫn nặng

tình nặng nghĩa với đơn vị.

Thoạt thấy, từ xa tôi chạy lại ôm chầm lấy anh rồi đẩy anh ra xa; nhìn thẳng

vào mắt anh, tôi xúc động nói:

- Tƣởng anh đang trên đƣơng ra B ắc rồi, nào ngờ lại đƣơc gặp lại anh Hai ở

đây?

Đƣa hai tay bóp mạnh vào hai bả vai tôi, anh Hai Thịnh với một giọng đầy

thân mật, tình cảm:

- Thì thằng Hai này không gặp đƣơc thằng Ba thì đi sao đặng!

Giữa hai đợt tiến công vẫn có một khoảng không gian yên tĩnh, vẫn có chút

thời gian gọi là nhàn rỗi. Hai chúng tôi tranh thủ dạo chơi dƣới tán lá rừng thoáng

mát, rồi dừng lại ngồi đối diện dƣới lòng con suối đã dốc hết nƣớc, chỉ còn trơ lại

những hòn sỏi nhẵn thín với đủ màu sắc và kích thƣớc nằm lổn nhổn.

Mãi năm phút sau anh Hai Thịnh mới tâm sự:

- Thế là mình phải xa Ba Ninh rồi. Cũng đành phải thế thôi! Với khung

xƣơng và một dúm thịt này mình biết không đủ sức để theo chiến dịch nữa... - Nói

đến đây hai đáy mắt anh ngấn nƣớc, cố chớp để không cho nó thành giọt, rồi anh

tâm sự tiếp, giọng ngắt quãng - Mình tiếc quá Ba Ninh ạ! Chiến đấu cả đời ngƣời,

50

đến giờ phút thiêng liêng nhất thì lại vắng mặt... Ninh ráng lên nhé! Mình tin ở

Ninh đấy...

Hai Thịnh nắm tay tôi kéo dậy, rồi gục đầu vai tôi nức nở. Những giọt nƣớc

mắt nóng hổi nặng tình đồng chí anh em ấy thấm trên vai áo tôi. Tôi xúc động

không nói đƣơc lời nào để động viên, an ủi anh.

Suốt cuộc đời chiến đấu, cho đến hôm nay, tôi đã có không ít các cuộc chia

tay với bao đồng đội, đồng chí mình, nhƣng đây là lần chia tay mang nhiều kỷ

niệm sâu đậm.

Tôi và anh Hai Thịnh đến với nhau trong một hoàn cảnh có nhiều khó khăn.

Đó là thời gian hơn nửa năm địch đánh phá ác liệt, bao vây rất nghiệt ngã, các đơn

vị của Trung đoàn không đánh đƣơc m ột trận nào; cán bộ chiến sĩ phát sinh tƣ

tƣởng bi quan, kém phấn khởi vì không hoàn thành đƣơc nhiệm vụ trên giao.

Giữa lúc ấy, anh Hai Thịnh có quyết định về thay anh Mai Văn Thoạn làm

Chính ủy, tôi từ trƣơng Quân chính Miền về, nhận nhiệm vụ Trung đoàn phó. Tuy

mới biết nhau nhƣng chúng tôi nhanh chóng thông cảm trong cá tính rất “ăn ý”

trong việc lãnh đạo, chỉ huy đơn vị. Việc đầu tiên chúng tôi bàn biện pháp đƣa

Trung đoàn tiến lên cho xứng với những lời khen: Trung đoàn 113 đặc công đã

làm quân địch ở vùng Long Khánh - Biên Hoà phải khiếp vía kinh hồn!

Càng gần nhau chúng tôi càng thông hiểu và thƣơng nhau. Với trên 50 tuổi

đời, có hơn 30 năm đi suốt chiều dài hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống

Mỹ, hầu nhƣ anh Hai Thịnh chƣa một lần kịp nghĩ đến đời tƣ bao giờ, bởi lẽ công

việc chiến đấu đã lôi cuốn anh, và cũng bởi chính anh đã say mê với công việc đó.

Trong những năm dài hoạt động ở gần quê hƣơng nhƣng anh không một lần nghĩ

đến việc tranh thủ gặp vợ, mặc dầu vợ anh chƣa có một mụn con nào. Không phải

vì tính nết anh cứng nhắc, khô khan, mà trái lại anh sống rất tình cảm với đồng đội,

với bà con cô bác. Những lúc rỗi rãi giữa hai trận đánh, mắc võng nằm châu đầu

vào nhau, anh thƣờng kể rất nhiều về chuyện quê hƣơng, những ngày thơ ấu, đến

tuổi trƣởng thành và chuyện quá trình yêu chị Ba, khi tình yêu chín muồi là tổ

chức cƣới liền, với tuần trăng mật thật đẹp đã để lại trong anh những dấu ấn không

thể phai mờ.

Đã có chiến đấu là có hy sinh. Không nhƣ thế thì không có thắng lợi, không

nhƣ thế thì không có độc lập tự do. Cái hy sinh dễ thấy là hy sinh tính mạng và tài

sản. Nhƣng trong cuộc chiến đấu vĩ đại này, cái hy sinh khó thấy là hy sinh về tình

cảm - một sự hy sinh cũng rất to lớn, khó có một dân tộc nào nhƣ dân tộc chúng ta

đã chịu đựng suốt 30 năm ròng cảnh con xa bố mẹ, anh xa em, vợ xa chồng... Anh

Hai Thịnh là một trong số hàng vạn hàng triệu ngƣời đã tham gia vào cái hy sinh

rất đáng ngợi ca này. Sự hy sinh của anh khiến tôi xúc động.

Tạm biệt anh Hai Thịnh, tôi gặp ngay Sinh, Quỳnh, Lƣơng là những tay trinh

sát có kinh nghiệm để giao nhiệm vụ đánh kho bom Bình Ý.

Kho bom Bình Ý nằm sâu trong vùng địch chiếm, đƣợc xây dựng gần với

tổng kho Long Bình. Tất nhiên không cẩn thận bằng Long Bình, nhƣng vào đƣợc

51

đến đó, phải qua 16 lớp rào kẽm gai và bãi mìn khác nhau, chƣa kể một loạt hệ

thống đồn bót dày đặc bao quanh.

Là một trong những kho quan trọng, nên ngay từ năm 1968, đặc công Tỉnh

đội Biên Hoà đã đặt vấn đề tiến công phá hủy mục tiêu này. Nhƣng vì địch phòng

thủ khá cẩn mật, việc nắm địch của ta gặp nhiều khó khăn vì thế mà kế hoạch

đánh rồi lại hoãn, hoãn rồi lại đánh, cứ thế hoãn liên tục kéo dài trong 5 năm liền.

Trong suất thời gian đó bộ đội đặc công tỉnh Biên Hòa đã giao nhiệm vụ cho đồng

chí Bùi bám địch để nắm địch. Theo các đồng chí Tỉnh đội Biên Hòa kể lại, Bùi

vừa cần mẫn, dũng cảm và mƣu trí tìm cách thực hiện bằng đƣợc nhiệm vụ trên

giao. Có lúc hàng tháng trời đồng chí Bùi nằm giữa rừng chồi, có lúc nằm giữa bãi

mía rậm rạp ngứa ngáy khó chịu, nhƣng nhiệm vụ vẫn chƣa hoàn thành. Không hề

nản chí, đồng chí Bùi lại nghĩ kế khác, trồng dây leo kết thành tán trên cây cao để

làm chòi canh quan sát địch, nhƣng nhƣ thế mới chỉ thấy đƣợc hình thù bên ngoài

của mục tiêu, còn bên trong nó bố trí cụ thể ra sao: khu nào để bom, đạn, khu nào

để xăng nhớt và đâu là Sở Chỉ huy bảo vệ kho... thì vẫn chƣa nắm đƣợc. Cuối

cùng đồng chí Bùi đóng vai cán bộ dân vận, tuyên truyền giáo dục gây cơ sở chính

trị trong quần chúng, từ đó mới có điều kiện nắm địch một cách cụ thể.

Sự kiên trì bám địch ấy của đồng chí Bùi đã mang lại kết quả, nhờ đó mà

ngày 3 tháng 6 năm 1972, một bộ phận của Tiểu đoàn đặc công Tỉnh đội Biên Hòa

do đồng chí Thanh phụ trách đã bí mật đột nhập vào kho bom Bình Ý gây tiếng nổ

dữ dội trƣớc sự kinh ngạc của kẻ địch: “đặc công Cộng sản có phép xuất quỷ nhập

thần!”

Ba năm trôi qua, tình hình đã có nhiều thay đổi, kế hoạch đánh kho bom Bình

Ý lần này tất nhiên có nhiều điểm khác, nhƣng số liệu ban đầu về mục tiêu này

chúng tôi vẫn phải dựa vào kết quả nắm địch trƣớc đây của đồng chí Bùi. Và đồng

chí Bùi vẫn là ngƣời góp công đầu vào chiến thắng hôm nay của chúng tôi.

Đánh kho bom Bình Ý do đại đội 53 trinh sát của Trung đoàn đảm nhiệm,

nhƣng lực lƣợng đánh trực tiếp chỉ cần một tổ ba ngƣời do đồng chí Hồ Văn Sinh

chỉ huy (đồng chí Sinh sau này đƣợc tuyên dƣơng Anh hùng lực lƣợng vũ trang)

chứ không dùng tới hai tiểu đoàn nhƣ lúc đầu sƣ đoàn giao cho Trung đoàn. Đánh

kho, nhất là trong điều kiện đó, phƣơng thức hiệu nghiệm nhất vẫn là dùng mật

tập, bằng kỹ thuật đặc công. Lối đánh này tiết kiệm đƣợc rất nhiều lực lƣợng mà

lúc ấy lực lƣợng càng dôi ra nhiều càng tốt vì khối lƣợng công việc rất lớn.

Trên cơ sở nắm chắc địch tình và địa hình, tổ trinh sát ba ngƣời: Sinh, Quỳnh,

Lƣơng lại làm nên chuyện bất ngờ trong lúc quân địch đang hoang mang, bối rối.

Tiếng nổ của các đồng chí đã đánh chí tử vào chỗ mạnh của địch là vũ khí.

250.000 tấn bom đạn bị nổ, những bồn xăng bị cháy sáng rực một góc trời. Cú

đánh bồi này gây hiệu quả rất lớn, càng dồn quân địch vào thế bí vốn đã rất bí.

Riêng với chúng tôi, bài học rút ra ở chiến thắng này chính là một lần nữa

khẳng định: đã là bộ đội đặc công thì phải thực hiện nghiêm túc phƣơng thức

chiến đấu của binh chủng mình - ít mà tinh, dùng lực lƣợng nhỏ đột nhập vào căn

cứ của địch bằng kỹ thuật đặc công, gây thiệt hại lớn cho địch, nếu khác đi, thì

52

không còn gọi là đặc công nữa. Thực hành “cƣờng tập” đòi hỏi phải có sức mạnh

ƣu thế. Điều ấy với đặc công hoạt động sau lƣng địch, nằm giữa vòng vây của

quân địch phải hết sức tránh nếu điều kiện chƣa cần thiết.

Thời điểm lịch sử đã đến!

Thời điểm phải đánh chiếm, chốt giữ các cầu trên trục lộ lớn, đón các binh

đoàn chủ lực của ta tiến vào đánh chiếm mục tiêu cuối cùng của chiến dịch đã đến.

Chính vì thế trong mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy chiến dịch có nhấn mạnh: các

lực lƣợng đặc công miền Đông Nam bộ bằng bất cứ giá nào cũng phải chiếm và

giữ đƣợc cầu...

Cái thiêng liêng của thời điểm, cái nghiêm túc của nhiệm vụ đã nâng trách

nhiệm trong chúng tôi lên, có sức thôi thúc chúng tôi phải ráng hết sức mình mà

vƣơn tới!

Đây vừa là trách nhiệm vừa là vinh dự đối với lực lƣợng đặc công.

Trong cuộc họp Đảng ủy Trung đoàn, không ai có ý so sánh nặng nhọc giữa

các nhiệm vụ, nhƣng tất cả chúng tôi đều hiểu rằng đánh chiếm và chốt giữ cầu là

mục tiêu then chốt. Quyết tâm của Đảng ủy và ban chỉ huy Trung đoàn là: cần

phải đánh chiếm cầu sớm hơn, ngăn chặn không để địch phá cầu xảy ra đồng thời

với việc các binh đoàn chủ lực của ta vừa vận động tới, nhƣ vậy đội hình sẽ ùn tắc

lúc này là ảnh hƣởng đến tốc độ tiến công, đến kế hoạch hợp điểm chung của

chiến dịch.

Đây là một quyết tâm mang tƣ tƣởng tiến công rất cao, một ý thức trách

nhiệm rất nghiêm túc, vƣợt rất xa khả năng thực tế của Trung đoàn lúc đó, bởi vì

các cầu của địch đều nằm trong lƣới lửa dày đặc, lọt vào giữa vành đai phòng thủ

có trọng điểm của chúng. Mặt khác chốt giữ không phải là lối đánh sở trƣờng của

đặc công, lực lƣợng để làm nhiệm vụ này cũng quá ít, cả về ngƣời và vũ khí.

Đã là mục tiêu then chốt thì phải tập trung lực lƣợng cho nó. Dàn mỏng sẽ

hỏng việc, mà hỏng việc giữ cầu là ảnh hƣởng đến nhiệm vụ chung của chiến dịch.

Vẫn biết đó là nguyên tắc của việc sử dụng lực lƣợng, nhƣng đi vào cụ thể cũng

có nhiều ý kiến khác nhau, chỗ này co chỗ kia kéo, thành ra lại bị phân tán. Vấn

đề là phải vì lợi ích chung.

Cuối cùng Trung đoàn quyết định Tiểu đoàn 23 đƣợc tăng cƣờng hai đại đội

của tiểu đoàn pháo binh có nhiệm vụ đánh chiếm và chốt giữ cầu Ghềnh (cầu Biên

Hòa) và cầu Mới (tức là cầu Hóa An).

Đồng chí Đoàn Tập, Chính ủy, thay mặt Đảng ủy và Ban Chỉ huy Trung đoàn

gặp các cán bộ phụ trách Tiểu đoàn 23 động viên và giao nhiệm vụ. Giống nhƣ

các lần giao nhiệm vụ trƣớc vừa thân mật vừa nghiêm túc, vừa thuyết phục vừa ra

lệnh, nhƣng lần này có cái gì trang nghiêm khác thƣờng:

- Trƣớc đây các đồng chí làm nhiệm vụ phá cầu. Không hoàn thành nhiệm vụ

thì bị kỷ luật. Nay thì khác - đồng chí Đoàn Tập nhƣ tăng âm lƣợng, miệng cƣời

53

tƣơi nói tiếp - nay ngƣợc lại, không giữ đƣợc cầu cũng bị kỷ luật, nhƣng nhớ là kỷ

luật còn nặng hơn!

Bằng một giọng ấm áp, vừa dứt khoát mà cũng rất tình cảm, pha đôi chú dí

dỏm, đồng chí Đoàn Tập so sánh:

- Cùng một chiếc cầu, thời gian phải phá, phá bằng đƣợc; thời gian phải giữ,

giữ bằng đƣợc! Nhƣng phá hay giữ cũng đều vì mục đích: đánh thắng kẻ thù!

Nhiệm vụ thông suốt. Phía trƣớc - phía đang có tiếng súng nhƣ một nam

châm có sức hút mọi ngƣời phấn khởi lên đƣờng. Nhƣng sử dụng lực lƣợng ở

hƣớng này cũng chƣa thật thống nhất. Có ý kiến cho rằng chia đôi lực lƣợng, mỗi

bộ phận chịu trách nhiệm một cầu.

Thoạt nghe tƣởng hợp lý nhƣng phân tích kỹ lại thấy làm nhƣ vậy sẽ khó có

điều kiện hợp đồng, hỗ trợ nhau trong quá trình chiến đấu, mà hai cầu lại cách

nhau không xa.

Dựa vào đặc điểm địa hình và địch tình cụ thể, Ban Chỉ huy Trung đoàn đã

quyết định tổ chức lực lƣợng và tổ chức chỉ huy trận đánh nhƣ sau:

- Một, sẽ tổ chức thành hai lực lƣợng chính làm nhiệm vụ đánh chiếm cầu;

chiếm xong phải khẩn trƣơng triển khai bố trí chốt giữ, không cho địch phản kích

lấy lại.

- Hai, tổ chức một lực lƣợng chuyên làm nhiệm vụ dọn đƣờng, tiễu trừ bọn

thám báo, bọn phục kích hoạt động lẻ.

- Ba, để đảm bảo hiệp đồng hỗ trợ cho nhau trong quá trình chiến đấu, ngoài

Sở Chỉ huy chung, còn lập thêm Sở Chỉ huy tiểu đoàn tăng cƣờng, chịu trách

nhiệm trực tiếp chỉ huy ba lực lƣợng chiến đấu...

Trong những ngày này chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt và khẩn trƣơng, việc

chỉ huy thật sát sao xuống các đơn vị có bị hạn chế. Các mũi, các hƣớng sau khi

đã có kế hoạch thống nhất của Trung đoàn, đều phát huy tinh thần làm chủ mà đề

ra các biện pháp cụ thể để thực hiện tốt mệnh lệnh đƣợc giao.

Tối ngày 1 tháng 5, Đảng ủy Trung đoàn họp mở rộng ở căn cứ Hốc Bà Thức

để nghe các mũi, các hƣớng báo cáo diễn biến cụ thể về địa bàn mình đảm nhiệm.

Tiểu đoàn 9 đánh chiếm căn cứ Hốc Bà Thức.

Đại đội 53 trinh sát của Trung đoàn đánh phá kho bom Bình Ý.

Diễn biến cụ thể về hai trận đánh này tôi đã kể ở phần trên.

Dƣới đây xin kể tiếp về các trận đánh chiếm và chốt giữ cầu Biên Hoà và cầu

Hoá An.

Đồng chí Đoàn Tập là ngƣời trực tiếp chỉ huy ở hƣớng này, nhƣng trong cuộc

họp Đảng ủy hôm nay, đồng chí đã giới thiệu đồng chí Dĩ - một cán bộ tiểu đoàn

duy nhất còn lại sau trận đó kể lại với hội nghị.

54

Tất cả chúng tôi đều hƣớng về phía Dĩ với tấm lòng cảm phục và chờ đợi.

Còn Dĩ, trông anh hôm nay rạng rỡ một niềm tự hào về đồng chí, đồng đội mình,

nhƣng rất khiêm tốn và phảng phất của nét buồn thƣơng những đồng đội mình đã

ngã xuống, không có mặt ở đây để đón chào chiến thắng chung của dân tộc.

Dĩ rụt rè đƣa mắt nhìn anh Đoàn Tập nhƣ muốn nhƣờng anh kể lại mới đúng

cƣơng vị, vì anh theo dõi chung, nắm đầy đủ các mũi. Hiểu ý Dĩ, anh Đoàn Tập

chủ động:

- Đồng chí Dĩ xứng đáng kể lại trận đánh hôm qua cho chúng ta nghe.

- Nhất trí! Đề nghị đồng chí Dĩ bắt đầu - một đồng chí cán bộ ngồi gần anh

Đoàn Tập hƣởng ứng.

Đồng chí Dĩ bắt đầu kể. Không cần sách vở, không cần đề cƣơng, nhƣng

chuyện Dĩ kể lại đã thu hút ngƣời nghe. Không khí cuộc họp trật tự và yên lặng,

chỉ còn có tiếng đồng chí với giọng trầm ấm: “... Sau khi Trung đoàn duyệt quyết

tâm chiến đấu lần cuối đêm 24 rạng 25 tháng 4, chúng tôi rời hậu cứ, hành quân

vƣợt sông Đồng Nai sang phía nam thị xã Biên Hòa. Toàn bộ đội hình dừng lại ở

một làng nhỏ cách hai cầu khoảng 1 ki lô mét. Tại đây các đơn vị sơ bộ đào công

sự, triển khai sẵn sàng chiến đấu. Và để thuận tiện cho việc điều hành trận đánh,

chúng tôi quyết định lấy nơi đây để đặt Sở Chỉ huy, tạo thành đội hình chiến đấu

theo hình tam giác. Nhân dân ở đây thật tốt, sau những phút niềm nở đón tiếp ban

đầu, bà con cô bác liền đƣa gỗ, cuốc xẻng cho bộ đội đào công sự; có gia đình

tháo cả cánh cửa của mình ủng hộ bộ đội lát hầm...

Thực hiện mệnh lệnh chiến đấu của Trung đoàn, chúng tôi phân chia cụ thể

lực lƣợng nhƣ sau:

- Ba đại đội của Tiểu đoàn 23 đảm nhiệm đánh chiếm cầu và chốt giữ cầu:

đại đội 1 đảm nhiệm cầu Ghềnh; đại đội 3 đảm nhiệm cầu Mới; đại đội 2 đảm

nhiệm khu Nhà Ga và ngã ba đƣờng 1 và đƣờng 22, có nhiệm vụ đánh địch từ Thủ

Đức lên, tạo cho hai đội 1 và 3 giữ cầu.

- Hai đại đội pháo đảm nhận bảo vệ Sở Chỉ huy, đồng thời làm nhiệm vụ

chính của mình là đánh địch phản kích chiếm lại cầu.

Nhƣ thế là chúng tôi đã hình thành đủ ba lực lƣợng: lực lƣợng tiến công -

chốt giữ, lực lƣợng chốt giữ kiêm đánh viện, lực lƣợng đánh địch phản kích. Biết

rằng chiếm cầu tuy khó nhƣng có thể làm đƣợc, nhƣng giữ cầu thì khó, bởi kẻ địch

không cam chịu mất mục tiêu then chốt, vì thế chúng tôi đã để gần 50 phần trăm

lực lƣợng làm nhiệm vụ đánh địch phản kích.

Thế bố trí nhƣ vậy là hiểm và kín.

Tất cả cán bộ chiến sĩ rất phấn khởi và sẵn sàng chờ đến giờ đƣợc nổ súng.

Bản thân chúng tôi - những ngƣời chỉ huy càng vững tin ở mình, ở đồng đội

và ở thế trận đã bày.

55

Đứng giữa nơi bốn bề đang ầm ầm tiếng súng, tiếng động cơ xe các loại và

tiếng xe tăng, xe bọc thép gầm rú mà chúng tôi thấy mình thanh thản, không vấn

vƣơng một cái gì.

04 giờ 30 phút ngày 27 tháng 4, trận chiến đấu bắt đầu!

Mũi đại đội 1, bí mật “lót ổ” sát cầu trƣớc, bất ngờ tập kích vào lực lƣợng

địch phòng giữ ở đây. Bọn địch hốt hoảng bỏ chạy, không kịp chống trả.

Mũi đại đội 3, gặp địch ngay từ Khu Chợ (cách cầu khoảng 500 mét) nổ súng

tiến công đánh thốc lên.

Thế là chỉ trong vòng 30 phút, các mũi đã chiếm xong cầu. Địch không ngờ

ta đánh sớm nhƣ thế!

Giai đoạn chiếm cầu kết thúc nhanh gọn, nhƣng đúng nhƣ ta nhận định - giai

đoạn giữ cầu mới thật gay go. Toàn bộ sức lực và trí tuệ của chúng tôi đều dồn

cho giai đoạn này. Đổ máu và hy sinh đã xảy ra - nhƣng chúng tôi cho đó là tất

nhiên nên vui vẻ chấp nhận, miễn là giữ đƣợc cầu.

Bốn giờ sau đó, địch bắt đầu phản kích. Thoạt đầu là pháo - địch coi đây là

chủ bài để giải quyết tình huống gay cấn. Pháo từ Thủ Đức bắn lên, từ Châu Thới

bắn sang, từ Biên Hoà - Long Bình bắn tới, rải dọc đƣờng số 1, kéo dài gần tiếng

đồng hồ. Sau đó là bộ binh địch từ nhiều hƣớng đánh vào, đạn các cỡ bắn loạn xạ.

Hai tiểu đoàn biệt động đánh vào sƣờn trái Sở Chỉ huy. Dọc đƣờng 22 từ Dĩ An

lên, hai tiểu đoàn khác có xe tăng dẫn đi trƣớc đánh thẳng vào đội hình của ta

đang làm nhiệm vụ giữ cầu, hòng chiếm lại hai mục tiêu này.

Nhƣng sau gần hai tiếng đồng hồ, các lực lƣợng phòng ngự của ta đã chiến

đấu rất anh dũng, đánh bại đợt phản kích của địch.

Vừa tiến công vừa thăm dò lực lƣợng ta, địch cho máy bay L19 rà rà quan sát,

hy vọng phát hiện đƣợc trận địa phòng ngự của ta để có biện pháp đánh phá.

Nhƣng dƣới cánh bay trinh sát ấy là vạt cỏ cháy trụi, đất cày lên lở loét do chính

bom đạn chúng gây nên.

Tiếng máy bay L19 vừa dứt thì một đợt pháo khác lại rộ lên. Pháo cỡ lớn từ

xa bắn tới, cối 81, 61, M79 của địch ở tầm gần bắn vào cả ba mục tiêu ta đang

chốt giữ... Cả ngày 27 ta đã đánh thắng bốn lần địch phản kích.

Đêm buông xuống. Tiếng súng tạm thời yên. Thần kinh chúng tôi bớt căng,

các chiến thắng do chúng tôi tạo nên và tiếng súng chiến thắng của các cánh quân

chiến dịch cứ mỗi lúc xích gần có sức cổ vũ mạnh mẽ, khiến chúng tôi quên đói

và quên khát. Tranh thủ cái thời gian yên tĩnh quý báu này, toàn đơn vị xốc lại đội

hình bố trí, củng cố công sự, lau chùi sửa chữa vũ khí để đón nhận những thử

thách không xa, chỉ ngày mai thôi, khi mặt trời ló dạng là có thể ập tới...”

Không khí cuộc họp vẫn rất trật tự. Thời gian càng trôi, đêm càng chuyển vào

chiều sâu của yên lặng. Ánh sáng điện sau chiến thắng từ thị xã Biên Hoà, từ Sài

Gòn hắt lên, hòa vào nhau tạo thành khoảng sáng rộng, soi rõ không gian nơi

chúng tôi đang họp.

56

Tất cả chúng tôi, ở nơi con tim mình bỗng đập lên những nhịp đập hồi hộp

chờ nghe câu chuyện kể về giai đoạn giữ cầu.

Còn đồng chí Dĩ, vẫn nhớ đến từng chi tiết diễn biến, nhƣng giọng sôi nổi

hẳn lên:

“... Ngày 28 mới mờ mờ sáng, năm máy bay lên thẳng của địch từ phía Sài

Gòn lao tới phóng tên lửa và xối đạn 12,8 mm xuống các trận địa chốt của ta.

Không gian sôi động từ đấy. Tiếp sau lại là trận mƣa pháo từ các trận địa pháo

quen thuộc của địch dội xuống. Mặt đất rung chuyển, nhà cửa, cây cỏ lại bị cày

tung và bốc cháy. Lửa khói quyện vào nhau, làm vẩn đục một khoảng không gian

rất rộng. Đợt phản kích này, địch kết hợp không phải chỉ là bộ ba (pháo tầm xa, xe

tăng và bộ binh) mà thêm cả máy bay nữa. Nhƣng chúng tiến quân rất dè dặt, vừa

đi vừa nghe ngóng; số lính sống sót hôm qua, hôm nay tiếp tục bị đẩy đi thì lơ láo,

sợ sệt, luôn ở tƣ thế “sẵn sàng chạy” nếu có tiếng nổ từ phía trƣớc mặt. Đến 10 giờ

địch mới mở phản kích quyết liệt vào cả ba mục tiêu, đặc biệt là chúng tập trung

đánh vào Sở Chỉ huy của ta.

Đúng là kẻ địch đã nhằm vào mục tiêu then chốt của ta mà tiến công. Mất Sở

Chỉ huy rõ ràng là công việc điều hành trận đánh có ảnh hƣởng. Chính vì thế,

chúng tôi động viên nhau kiên quyết bám trụ, đảm bảo trận chiến đấu bảo vệ cầu

không bị gián đoạn; mặt khác, rút một phần lực lƣợng chốt giữ cầu về tăng cƣờng

cho đơn vị đang làm nhiệm vụ bảo vệ Sở Chỉ huy.

Hai đại đội pháo, rút kinh nghiệm hôm trƣớc, đã kịp thay đổi cách đánh. Một

đại đội ngắm bắn trực tiếp, chờ địch vào gần mới nổ súng. Một đại đội lùi lại phía

sau rồi dùng súng cối 82 mm dập vào cuối đội hình địch. Bị đánh bất ngờ ở hai

đầu, địch bỏ chạy tán loạn, để lại nhiều xác chết, ta thu đƣợc tại chỗ 20 khẩu súng.

Số lƣợng tuy ít nhƣng đối với chúng tôi, rất quý vì, lúc này nguồn vũ khí đƣa từ

hậu cứ ra rất khó khăn.

Ngay đêm hôm đó (28 tháng 4) các lực lƣợng giữ cầu của Tiểu đoàn 23 lại bí

mật luồn sát vào mục tiêu, bất thần nổ súng tiến công chiếm lại cầu vừa bị địch

phản kích lấy lại hồi chiều.

Đƣợc tin này cả Sở Chỉ huy vô cùng phấn khởi. Chúng tôi nhƣ trút đƣợc gánh

nặng đè lên vai, ngƣời thấy nhẹ nhõm, khoan khoái vì để mất cầu lúc này thì rất

gay go, thời gian tổng công kích sắp đến rồi, đại quân ùn tắc bên kia cầu thì ảnh

hƣởng rất lớn đến kế hoạch hợp đồng giữa các cánh quân lớn của chiến dịch.

Nhƣng chúng tôi cũng nhận định rằng địch chƣa chịu từ bỏ hai mục tiêu này, trận

chiến đấu sẽ còn xảy ra và còn ác liệt, địch vẫn tiếp tục phản kích, vì vậy cả đêm

nay các cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 23 gần nhƣ thức trắng để củng cố hầm hào,

chuẩn bị súng đạn đối phó với những trận phản kích nhất định sẽ xảy ra ngày mai.

Đúng nhƣ dự đoán của Sở Chỉ huy, 7 giờ sáng ngày 29 tháng 4 địch bắn pháo

kéo dài một tiếng đồng hồ vào trận địa chốt của ta; tiếp đến có hai máy bay lên

thẳng sà xuống thật thấp cố phát hiện lực lƣợng đối phƣơng. Về phía ta, qua hai

ngày quần nhau với địch, anh em thấm mệt, nhƣng khí thế vẫn giữ ở mức tốt. So

57

với địch, lực lƣợng ta rất hạn chế, ngƣời đã ít, súng đạn cũng không đủ. Trƣớc tình

hình đó, một mặt chúng tôi động viên anh em xốc tới, nếu không hoàn thành

nhiệm vụ là lỡ đến kế hoạch lớn, nhƣng mặt khác chúng tôi thay đổi cách đánh,

đảm bảo đủ sức để chốt giữ dài ngày...

Khoảng 9 giờ 30 phút, địch huy động tổng lực đến 30 xe tăng gầm rú dắt bộ

binh theo sau, chia thành hai mũi tiến đánh, quyết chiếm lại hai cầu, để sau đó tùy

theo tình hình mà chúng giữ hay phá. Đại đội 1 giữ cầu Ghềnh đã lùi ra xa cách

cầu 200 mét, nơi đội hình có lợi để đánh địch từ xa... Một đồng chí chiến sĩ của

đại đội này đã bắn cháy tại chỗ năm xe tăng địch. Ban Chỉ huy đại đội bị địch bao

vây, chúng hò nhau bắt sống. Nhƣng ở dƣới hầm, các đồng chí đã chiến đấu hết

sức ngoan cƣờng, chia nhau đánh nhiều chỗ, nhiều hƣớng nghi binh lừa địch, kéo

dài cuộc đọ sức giữa một bên có ba tay súng, một bên là tiểu đoàn địch có xe tăng

yểm trợ. Cuộc chiến đấu cứ thế kéo dài cho đến lúc bóp cò, đạn không còn để nổ

nữa đã đồng thanh hô to: “Kiên quyết không để sa vào tay địch!”

Đến đây bỗng dƣng đồng chí Dĩ nghẹn ngào không nói đƣợc nữa vì xúc động.

Phòng họp cũng trở nên trang nghiêm. Tất cả chúng tôi đều yên lặng và linh

cảm thấy rằng một cái gì mất mát đã xảy ra!

Với giọng trầm xuống, đồng chí Dĩ tiếp tục kể:

“Sau tiếng hô kiên quyết đó, ba đồng chí trong Ban Chỉ huy đại đội 1 đã dùng

quả lựu đạn cuối cùng còn lại để dành cho mình... Tiếng nổ và khói từ hầm bốc

lên, làm cho đội hình quân địch lúc ấy đã vây sát phải chững lại. Từ xa nhìn,

chúng tôi cứ ngỡ địch bị vấp mìn. Nhƣng không, địch chững lại vì sửng sốt, vì

thán phục sự chấp nhận hy sinh của các đồng chí trong Ban Chỉ đại đội 1.

Cả đại đội chỉ còn lại bốn đồng chí ngoan cƣờng chiến đấu chống lại quyết

liệt với địch. Các đồng chí này đã nêu khẩu hiệu: “Còn ngƣời thì còn cầu!”. Với

tinh thần dũng cảm và mƣu trí, các đồng chí đó đã giữ đƣợc cầu.

Đại đội 3 chốt giữ cầu Mới, cũng chiến đấu giành từng tấc đất với địch để

bảo vệ cầu, không cho chúng phá. Vì thế ở đây cũng diễn ra những trận đánh ác

liệt.

Để tạo ra một đòn đánh quyết định chiếm lại cầu, địch dùng lực lƣợng lớn

tiến công Sở Chỉ huy tiểu đoàn. Chúng thúc xe tăng vừa tiến vừa bắn từng loạt

đạn ngắn về bốn phía để kiềm chế và thăm dò lực lƣợng ta suốt từ 11 giờ trƣa đến

3 giờ chiều.

Về phần ta, lúc đầu im lặng, chờ địch vào thật gần. Nhƣng cách khoảng 500

mét thì tự nhiên đội hình địch chững lại. Chớp thời cơ, ta dùng ĐKZ.75, cối 82

bắn vào giữa đội hình chúng. Đại đội 2 bắn cháy tại chỗ bốn xe tăng địch. Khi

địch còn cách trận địa ta 100 mét, đồng chí Bảy, Trung đội trƣởng và đồng chí Lê

dùng B40, B41 tiến sát đón đầu, bắn hai phát diệt luôn hai xe tăng. Các xe còn lại

hoảng hốt lùi về phía sau, dùng súng trên xe hạ thấp tầm, bắn xối xả vào đội hình

quân ta. Ta tụt xuống hầm tránh đạn nhƣng vẫn có bộ phận theo dõi dịch. Tƣởng

ta hết sức chiến đấu, địch lại tiến vào nhƣng lò dò từng bƣớc, vừa đi vừa nghe

58

ngóng động tĩnh. Đến 4 giờ chiều ngày 29, khi địch vào chỉ còn cách Sở Chỉ huy

50 mét, quân ta mới nhất loạt nổ súng...

Đồng chí Dĩ chƣa kịp nói tiếp, Chính uỷ Đoàn Tập xen vào:

- Đây là trận quyết chiến cuối cùng trong ngày 29 và cũng là trận đánh hiệp

đồng cuối cùng của bộ đội đặc công trong chiến dịch mang tên Bác.

Lời nhận xét của đồng chí Đoàn Tập càng làm tăng sự chăm chú của ngƣời

nghe về trận đánh quan trọng này. Không ai muốn nghỉ giải lao, ai cũng thấy mình

hứng khởi, muốn biết các đồng chí tiểu đoàn 23 đã kết thúc trận đánh đó nhƣ thế

nào.

Tất cả chúng tôi lại nhìn về đồng chí Dĩ.

Vẫn dáng vẻ khiêm tốn, nhƣng giọng nói trở nên sôi nổi, hùng hồn, nhƣ

muốn trút hết tình cảm của mình để ngợi ca những ngƣời đồng đội. Anh nói tiếp:

“Báo cáo với các đồng chí là từ giờ phút này trận đánh càng trở nên ác liệt.

Trƣớc mặt chúng tôi chỉ thấy đất đá tung lên, những đám cháy, những đụn khói

đùn lên mờ mịt cả khoảng trời. Đạn các cỡ của địch thi nhau nổ, xen lẫn những

tiếng nổ của các chiến sĩ ta tuy thƣa nhƣng là những tiếng nổ thận trọng, có cân

nhắc, tính toán. Mỗi chiến sĩ ở hai đại đội pháo nhƣ những xạ thủ “lành nghề”,

cùng lúc sử dụng đƣợc nhiều loại súng để đánh địch. Đồng chí Vũ Đức Huyền,

chiến sĩ số 1 của cối 82, sau khi cùng đồng đội dùng súng bộ binh bắn gục nhiều

tên địch hung hăng, liền đó dùng ĐKZ bắn cháy hai xe tăng địch. Sau đó mặc dầu

đồng chí Huyền bị thƣơng, nhƣng vẫn vận động sang trái đón bắn cháy một xe

nữa. Ở khẩu đội khác, khẩu đội trƣởng Lã Văn Điều mới có một tuổi quân, chỉ còn

lại một mình, bị vết thƣơng vào trán chƣa kịp băng bó, máu chảy tràn xuống sống

mũi, đã nhảy khỏi công sự, hiên ngang kê khẩu ĐKZ lên vai, bình tĩnh bắn bốn

phát cháy bốn xe tăng địch. Viên đạn thứ năm Điều lắp vào chƣa kịp bắn đã bị

trúng đạn địch nổ ngay trong nòng. Đồng chí Điều hy sinh trong một tƣ thế thật

đẹp - tƣ thế ngẩng cao đầu đối mặt với kẻ thù và nhìn về phía trƣớc.

Sự anh dũng và mƣu trí của các chiến sĩ hai đại đội pháo, đã cản ngăn đƣợc

đợt tiến công quyết liệt của kẻ địch. Chúng tôi đã thắng địch trong một điều kiện

không cân xứng về cả lực lƣợng và thế trận cụ thể.

Địch đã thất bại. Cho đến khi mặt trời lặn, màn đêm đã xuống dần, chúng vẫn

không thực hiện đƣợc âm mƣu phản kích đánh chiếm Sở Chỉ huy đối phƣơng. Biết

đêm là của ta, nhƣng cũng liền trong hai đêm 28 và 29 tháng 4, địch liều lĩnh cho

máy bay đến Long Bình chở bọn sĩ quan cao cấp làm việc ở Sở Chỉ huy quân đoàn

3 ngụy và chuyển một số hàng chiến lƣợc quý về Sài Gòn.

Đêm 29 trời đổ mƣa. Mƣa không to nhƣng kéo dài, làm cho không khí thoáng

mát, dễ chịu. Nhƣng tiếng súng tiến công của quân ta ở các nơi dội về vẫn nghe rõ

- nổ đều và nổ rộ. Những tiếng súng làm ấm lòng chúng tôi, những ngƣời giữ cầu,

nhƣ nhắc nhở chúng tôi phải giữ vững tinh thần chiến đấu đến mức cao nhất để

giữ lấy cầu.

59

Chúng tôi vui mừng, khấp khởi chờ đón đại quân vƣợt qua cầu này để tiến về

Sài Gòn!

Đêm nay sao cảm thấy dài ghê! Chỉ mong trời chóng sáng! Bởi lẽ lúc đó

chúng tôi nghĩ không phải chỉ có đêm mới là của ta mà ngày cũng là của ta.

Sự mong đợi của chúng tôi đã thành sự thật.

Sáng 30 tháng 4, khi mặt trời mới ló rạng, tiếng súng tiến công của các binh

đoàn chủ lực tham gia chiến dịch từ bốn hƣớng nổ rất nhịp nhàng và mỗi lúc mỗi

gần.

Cả đại đội 1 chốt giữ cầu Ghềnh chỉ còn lại bốn đồng chí!

Thật là căng thẳng và gay cấn. Bốn ngƣời liệu có giữ nổi cầu không? Đến bây

giờ mới là thời điểm cần phải trả lời dứt khoát, không đƣợc chần chừ do dự.

- Phải giữ!

- Bằng bất cứ giá nào cũng phải giữ, thà hy sinh tất cả chứ không để địch phá

cầu.

17 giờ 30 phút, đồng chí Minh đƣợc giao nhiệm vụ cảnh giới ở ngay lô cốt

đầu cầu. Bỗng đồng chí thấy những khối đen ngạo nghễ bám lên đầu cầu bên kia

rồi nối đuôi nhau vƣợt lên.

Theo đồng chí Minh kể lại, mồ hôi đồng chí vã ra, đầu óc căng nhão vì câu

hỏi:

- Đơn vị giữ đầu cầu bên kia không hoàn thành nhiệm vụ hay sao?

- Nhƣng tại sao xe địch đã đến cầu mà không thấy chúng phá cầu? Chúng vẫn

còn hy vọng đánh thắng chúng ta hay sao?

Đầu óc Minh cứ lẩn quẩn với những câu hỏi đó, phần vì mải chăm chú theo

dõi hành động địch ở bên kia cầu. Mãi khi xe tăng đi đầu vào gần đến giữa cầu,

đồng chí Minh mới nhớ đến nhiệm vụ của mình, vội báo cho ba đồng chí phía sau

chuẩn bị chiến đấu. Hai tay Minh cầm hai quả lựu đạn sẵn sàng...

Nhƣ không tin ở mắt mình, Minh chớp liền mấy chớp và giƣơng to, rồi reo

lên:

- Xe tăng các cậu ơi.

- Phải cảnh giác đấy! Có tiếng từ phía sau vọng lên.

- Không, thật mà! Xe tăng ta đang đi, có in hình cờ đỏ sao vàng.

Xe dừng lại, một chiến sĩ ra khỏi buồng lái, nét mặt tƣơi tỉnh đi về phía Minh

với dáng điệu khẩn trƣơng, phấn khởi:

- Cám ơn các đồng chí!

- Xe tăng của ta các đồng chí ơi! - Minh reo to và ngoái lại phía sau nhƣ gọi

tất cả những ngƣời sống sót làm nhiệm vụ giữ cầu lên mà đón chào, mà mừng vui.

60

Giây phút gặp nhau trên cầu đầy xúc động, ai cũng khóc vì đƣợc gặp mặt

nhau sau những năm tháng dài mong chờ. Các chiến sĩ lái xe tăng ôm ghì các

chiến sĩ đặc công, các chiến sĩ đặc công cầm tay các chiến sĩ lái xe tăng lắc mạnh,

nhìn chằm chặp vào những khuôn mặt lấm bụi đƣờng và thuốc súng mà không nói

nên lời.

Minh đứng sững bên thành cầu, hai tay vẫn nắm chặt hai quả lựu đạn giơ lên

cao vẫy chào đoàn xe đi qua...

Trong những giây phút thật yên tĩnh này, tôi lại chong mắt không sao ngủ

đƣợc vì xúc động. Tôi nghĩ đến sông Đồng Nai, một dòng sông quen thuộc nhƣ

dòng sông Cầu quê tôi nó đã gắn bó thiết tha từ ngày đặt chân lên đất miền Đông;

nghĩ đến thác Trị An ngày đêm tung bọt trắng xóa nhƣ vẫy chào chúng tôi trong

mọi cuộc hành quân; nghĩ đến những cuộc chiến đấu đầy gian khổ mà lạc quan

trên dòng sông này... Mỗi khúc sông đã để lại những dấu ấn không thể phai mờ

trong tâm khảm những chiến sĩ đặc công chúng tôi. Đã có một đêm trăng hành

quân qua một đoạn của dòng sông này, cảnh vật đẹp giữa bốn bề là đồn bót giặc

đã thúc giục tình cảm tôi nảy ra mấy vần thơ:

Đồng Nai ơi! dòng sông bất khuất

Bao chiến công hiển hách còn ghi...

Làm xong nhiệm vụ ém quân “lót ổ”, thực hiện từ trong đánh ra phối hợp với

từ ngoài đánh vào, Trung đoàn 113 đƣợc Bộ Chỉ huy chiến dịch giao nhiệm vụ

tiếp quản thị xã Biên Hoà và một số địa bàn xung quanh.

Biên Hòa! Cái tên thân thƣơng và gần gũi ấy đã gắn liền với cuộc đời của các

chiến sĩ đặc công Trung đoàn 113.

Từ Hốc Bà Thức tiến vào Biên Hòa.

Rồi đi trên đƣờng phố nằm trên hai bờ sông Đồng Nai với rừng cờ sao đỏ rực

vào một sáng tháng Năm mà chúng tôi vẫn cứ ngỡ ngàng, tất cả vẫn cứ tƣởng nhƣ

mình đang sống trong mơ! Nhƣng không phải mơ mà thật! Từng dòng ngƣời gồm

đủ trẻ già trai gái trong bộ quần áo mới đủ màu sắc với nét mặt rạng rỡ đang vẫy

chào đoàn quân chiến thắng trở về...

Trong niềm cảm xúc không bờ bến này “tâm hồn thơ” của tôi bỗng từ cõi

lòng sâu kín dâng lên. Nhƣng lúc này đâu phải lúc làm thơ? Làm thơ không thể

kịp! Tôi không đủ tài năng để sắp xếp ngôn ngữ, không thể dùng từ chính xác để

thể hiện sự kiện vĩ đại này của dân tộc, sự hy sinh cao cả và những công việc phi

thƣờng mà đồng đội đã làm... mà chỉ còn kịp đọc mấy vần thơ Tố Hữu:

“... Các anh chị, các em ơi, có phải

Mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh

Môi ta thầm kêu Bác: Hồ Chí Minh...”

Đó là một đoạn thơ trong bài “Sáng tháng năm” ông đã viết từ năm 1951.

Nhẩm đọc, ta thấy tiếc: giá lúc này Bác còn sống? Ừ, nếu Bác còn sống, Bác biết

61

một trung đoàn đặc công hoạt động ở miền Đông, nơi cửa ngõ phía bắc Sài Gòn

này đã làm đƣợc những việc mà Bác hằng mong muốn, căn dặn chúng cháu trong

ngày chính thức thành lập binh chủng. Không, Bác có mất đâu! Bác vẫn đang

sống! Bác biết tất cả những việc chúng cháu làm, Bác vẫn đang cùng chúng cháu

hành quân; chúng cháu đang theo chân Bác đi cùng trời cuối đất để cùng Bác thực

hiện ƣớc mơ: Độc lập tự do cho dân tộc mình!

Năm tháng sẽ qua đi, mỗi chúng tôi, do nhu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ

Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đã và sẽ chuyển đi đơn vị khác sang mặt trận chiến đấu

mới, nhƣng chẳng ai có thể quên đƣợc Trung đoàn 113 đặc công miền Đông, nơi

mình đã tham gia chiến đấu và trƣởng thành ở đó. Mỗi chúng tôi mãi mãi có

quyền tự hào về Trung đoàn mình đã góp phần xứng đáng vào nhiệm vụ chống

Mỹ cứu nƣớc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đƣợc Đảng và Nhà

nƣớc phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân.

Mỗi chiến sĩ đặc công của Trung đoàn 113 chúng tôi đều có nhiều kỷ niệm

trong cuộc đời chiến đấu của mình, nhƣng miền Đông Nam Bộ vẫn là kỷ niệm sâu

sắc nhất. Chính ở nơi ấy chúng tôi đã trƣởng thành, đã lớn lên về mọi mặt cả trong

chiến đấu và xây dựng. Truyền thống tốt đẹp cùng những kinh nghiệm chiến đấu

xây dựng của Trung đoàn Đặc công 113 vẫn còn nguyên giá trị trong nhiệm vụ

huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của đơn vị và lực lƣợng vũ trang nhân dân ta hiện

nay.

N.N.T

62

ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113 ĐÁNH TỔNG KHO LIÊN HỢP LONG BÌHH

VÀ SÂN BAY BIÊN HÒA CHẤN ĐỘNG TRONG NƢỚC VÀ THẾ GIỚI

PHAN VĂN TRANG1

Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa(U1).

Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai khóa V.

- Thƣa đại diện Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh.

- Thƣa đại diện Thành ủy Biên Hòa, Huyện ủy Vĩnh Cửu, Huyện ủy Thống

Nhất.

- Thƣa toàn thể Cựu chiến binh Đoàn Đặc công 113 và anh chị em cơ sở.

Tôi rất phấn khởi đƣợc gặp lại các anh chị Cựu chiến binh Đoàn Đặc công

113 và cơ sở cách mạng từng cƣu mang che chở đùm bọc cán bộ chiến sĩ Đoàn

Đặc công 113 hoạt động trong những năm chiến tranh máu lửa ở chiến trƣờng

Biên Hòa. Về với đời thƣờng sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc hoàn

toàn thắng lợi và đất nƣớc trên bƣớc đƣờng thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng

ta khởi xƣớng và lãnh đạo, dù thời gian đã qua đi, trƣớc gánh nặng của tuổi tác và

phải bƣơn chải với cuộc sống, mỗi cán bộ chiến sĩ Đoàn Đặc công 113 vẫn giữ

vẹn phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ. Đó là tấm gƣơng quý báu, là bản chất Quân đội

nhân dân Việt Nam.

Gặp lại anh chị em Đoàn Đặc công 113, tôi rất mừng vì nhận thấy tinh thần ai

cũng lạc quan, tay bắt mặt mừng trong cuộc sum họp. Cuộc họp này còn thiếu một

số anh em có thể vì sức khỏe và phƣơng tiện đi lại khó khăn nhƣ anh Ba Lộc, anh

Dũng, anh Bảy Nguyễn, anh Hai Hiệp... Mỗi năm chỉ gặp nhau đƣợc một lần, hy

vọng cuộc họp sau sẽ có đủ mặt các anh em, bởi gặp nhau thăm hỏi đàm đạo

chuyện xƣa, động viên nhau có rất nhiều ý nghĩa.

Tôi rất đồng tình với ý kiến phát biểu của các đồng chí chỉ huy và lãnh đạo

các cấp đánh giá về thành tích chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ Đoàn Đặc Công 113.

Đoàn Đặc công 113 đƣợc Quân ủy, Bộ Tƣ lệnh Miền thành lập tại Chiến khu Đ

trong tình hình quân và dân miền Nam đang tập trung thực hiện chiến dịch

Nguyễn Huệ thần tốc quyết thắng năm 1972. Đó là đơn vị đặc công cấp trung

1 Bài phát biểu nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đoàn Đặc công 113 tại Hội trường Thành ủy Biên

Hòa ngày 3 tháng 6 năm 2002.

63

đoàn tinh nhuệ, có kỹ năng chiến đấu cao, đảm nhiệm các mục tiêu trọng yếu và

chốt giữ địa bàn có tính chất chiến lƣợc, đánh sâu, đánh hiểm làm cho địch choáng

váng, điên đầu.

Đoàn Đặc công 113 đƣợc thành lập với tinh thần khẩn trƣơng “vừa chạy vừa

xếp hàng”, nhƣng về tổ chức có hai yếu tố thuận lợi là các đơn vị trực thuộc: Tiểu

đoàn 9 (thuộc Đoàn Đặc công 429 của Miền) và hai tiểu đoàn đặc công (của Biên

Hoà U1 ) đều quen thuộc chiến trƣờng có cơ sở tại địa phƣơng. Tiểu đoàn 1 đặc

công có mặt ở chiến trƣờng này từ năm 1965 chuyên bám trụ vùng Vĩnh Cửu với

mục tiêu tác chiến sân bay quân sự Biên Hòa. Tiểu đoàn hai đặc công bám trụ

nam quốc lộ 1 đeo bám, đánh tổng kho Long Bình từ khi Mỹ bắt đầu xây dựng

kho, cán bộ chỉ huy Đoàn Đặc công 113 một số nguyên là cán bộ chỉ huy của Tỉnh

đội Biên Hòa đƣợc Bộ điều sang nhƣ anh Hai Thoạn, anh Ba Lộc, anh Hai Hiệp...

Nhờ vào các yếu tố thuận lợi cơ bản đó, nên vừa hình thành, Đoàn Đặc công 113

triển khai đánh đƣợc ngay sân bay Biên Hòa và tổng kho Long Bình bị ta đánh

nhiều lần, địch thay đổi bố trí canh phòng và rào kiên cố, cài cắm trái nổ, điện

sáng...

Địa bàn tác chiến chính của Đoàn Đặc công 113 là Biên Hòa. Thƣờng vụ

Trung ƣơng Cục miền Nam và Quân ủy Bộ Chỉ huy Miền đánh giá cao về vị trí và

tầm quan trọng của chiến trƣờng Biên Hòa, với hai mục tiêu tác chiến chiến lƣợc

là sân bay quân sự Biên Hòa và tổng kho liên hợp Long Bình, kho hậu cần của Mỹ

lớn nhất miền Nam. Nên từ năm 1965 Trung ƣơng đã chọn cán bộ có bản lĩnh

chính trị vững vàng, có lòng dũng cảm dám hy sinh, chịu trách nhiệm chiến

trƣờng này, tổ chức thành đơn vị cấp tỉnh (tỉnh Biên Hòa U1). Đoàn cán bộ gồm

các anh Trần Công An (Hai Cà), Ba Thọ, Hai Hiệp, Ba Vàng, Hai Thoạn cùng với

50 cán bộ chiến sĩ đặc công về vừa nghiên cứu vừa tổ chức đánh sân bay và kho

Long Bình. Những trận đánh liên tiếp vào khu kho 50 và 53 tổng kho Long Bình

và sân bay quân sự Biên Hòa từ năm 1965 vang dội rung chuyển, lửa khói bốc

cháy cuồn cuộn mà nhân dân thành phố Biên Hòa ai ai cũng nghe thấy và hết sức

khâm phục.

Thƣa các đồng chí!

Đoàn Đặc công 113 với nhiệm vụ quan trọng nhƣ vậy, nên Bộ Tƣ lệnh Miền

quyết định bổ sung anh Hai Cà (Trần Công An) nguyên Tỉnh đội trƣởng Biên Hòa,

làm cố vấn cho Đoàn Đặc công 113 cùng với anh Nguyễn Thanh Tùng, Đoàn

trƣởng 113 dẫn quân trở lại chiến trƣờng để tổ chức đánh kho Long Bình và sân

bay Biên Hòa. Ngƣời ta cứ nghĩ đánh đặc công là đánh nhỏ, đánh lẻ từng tổ, từng

bán đội, cách đó chỉ là thời kỳ đầu mục tiêu còn nhỏ. Đến thời điểm này mục tiêu

kho Long Bình do Mỹ xây dựng trên diện tích tới 19 ki-lô-mét vuông. (Đây chỉ

tính khu vực chứa bom đạn, vũ khí hóa học, chƣa kể khu hậu cần dã chiến 2 do

tƣớng Oét-mo-len đặt chỉ huy sở) phƣơng thức đánh với lực lƣợng từ cấp đại đội,

cấp tiểu đoàn nhƣ trƣớc đây không còn phù hợp mà phải tổ chức đánh cấp trung

đoàn mới đủ sức và tiêu diệt lớn sinh lực và phƣơng tiện chiến tranh lớn của Mỹ

để chi viện đắc lực cho chiến trƣờng toàn miền Nam. Đoàn Đặc công 113 có nhiều

64

trận đánh điển hình, nhƣng tôi xin nêu trận đánh vào tổng kho Long Bình đêm 12

rạng ngày 13 tháng 8 năm 1972 đã gây thiệt hại nặng nề cho địch: phá hủy 150

ngàn tấn bom đạn, 200 tấn thuốc nổ, tan xác một tiểu đoàn ngụy; Và trận đánh của

Đoàn Đặc công 113 vào sân bay Biên Hòa đêm 8 tháng 8 năm 1972 phá hủy 74

máy bay các loại, phá hai đài điều không... để minh chứng cho hiệu quả tác chiến

của Đoàn là rất cao, đặc biệt cao. Những trận đánh đó rất quyết định, đúng theo

mệnh lệnh của Bộ Tƣ lệnh Miền, đạt yêu cầu mang tầm ý nghĩa chiến dịch

Nguyễn Huệ; hỗ trợ tích cực có hiệu quả chiến trƣờng toàn Miền, hạn chế sự tàn

phá của bom đạn Mỹ, bớt thƣơng vong cho đồng đội, đồng bào ta. Trƣớc đây khi

còn chiến tranh, tôi đã nói nhƣ vậy và sau hòa bình khi viết tập sử của Đảng bộ

Biên Hòa - Đồng Nai chúng tôi cũng đã khắc ghi tên tuổi Đoàn Đặc công 113,

phần chiến công này đã góp vào thành tích của quân và dân Biên Hòa - Đồng Nai,

đƣợc Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân

dân cho tỉnh Đồng Nai.

Còn vào giai đoạn kết thúc chiến tranh và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử,

Đoàn Đặc công 113 đƣợc giao nhiệm vụ đánh địch chốt giữ cầu Hóa An, cầu

Ghềnh (Bửu Hòa) không để kẻ thù hoảng loạn rút chạy phá cầu, đảm bảo cho

Quân đoàn 4 thần tốc tiến đánh Sài Gòn, hang ổ cuối cùng của chúng. Từ sáng 27

đến 29 tháng 4 năm 1975, cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 23, Đoàn Đặc công 113 có sự

chi viện bằng hỏa lực của tiểu đoàn pháo 174, suốt mấy ngày liền giằng co quyết

liệt với địch đánh giữ cầu Ghềnh, cầu Hóa An, trên 60 cán bộ chiến sĩ đã hy sinh.

Dân làng ở phƣờng Bửu Hòa đã chứng kiến sự chiến đấu vô cùng dũng cảm của

chiến sĩ Đoàn Đặc công 113, kính phục những chiến sĩ Đoàn Đặc công 113 vì

nƣớc vì dân, hy sinh cho Tổ quốc, ngã xuống trên mảnh đất này. Cám ơn nhân dân

phƣờng Bửu Hòa, Ban quý tế đền Nguyễn Tri Phƣơng, cám ơn ông Sáu Sao

trƣởng ban quý tế lập miếu thờ các chiến sĩ 113 đã hy sinh tại cầu Ghềnh. Miếu

thờ cạnh đền Nguyễn Tri Phƣơng và thƣờng xuyên đƣợc hƣơng khói. Tôi thƣờng

đến tận nơi, ngậm ngùi thƣơng tiếc thắp hƣơng cho anh em. Quý trọng biết bao

tấm lòng của đồng bào Bửu Hòa và đồng bào trong nội thành Biên Hòa, đã biết

bao lần chở che nuôi dƣỡng cán bộ cách mạng và lực lƣợng võ trang giải phóng.

Tôi có báo cáo và đề nghị với Tỉnh ủy Đồng Nai nếu đƣợc, sẽ tôn tạo dựng bia

tƣởng niệm chiến sĩ Đoàn Đặc công 113. Và tôi có nói đồng chí Nguyễn Quốc

Hoàn, nguyên cán bộ Tiểu đoàn 9 Đoàn Đặc công 113 đến tiếp xúc với ông Sáu

Sao, trƣởng ban quý tế đền Nguyễn Tri Phƣơng, hỏi rõ thêm về sự kiện này để báo

cáo lại với Ban liên lạc truyền thống Đoàn Đặc công 113.

Thắng lợi của Đoàn Đặc công 113 trong chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972,

cùng với thắng lợi của Quân dân miền Nam góp phần tạo thế mạnh cho cuộc đấu

tranh trên mặt trận ngoại giao của phái đoàn ta tại hội nghị Pa-ri. Các mục tiêu sân

bay Biên Hòa và tổng kho Long Bình tiềm nhập rất khó khăn mà Đoàn Đặc công

113 bám đánh đƣợc. Tôi ý thức đƣợc trách nhiệm của mình, của Đảng bộ là làm

cho cán bộ, chiến sĩ và nhân viên các cơ quan tỉnh nhà hết lòng ủng hộ Đoàn 113.

Khi Đoàn Đặc công 113 yêu cầu tôi chỉ đạo cơ quan đơn vị của tỉnh tập trung đi

tải đạn cho đơn vị đánh hậu cứ địch, anh em rất hăng hái không một ngƣời thối

65

thoát. Thƣơng nhất là số chị em phụ nữ và những anh em vừa qua cơn sốt rét vẫn

nằng nặc đòi tham gia cho kỳ đƣợc. Thật là một sự kết hợp chặt chẽ và đồng bộ

giữa Đoàn Đặc công 113 với Đảng bộ địa phƣơng cùng nhau chung sức, chung

lòng vì mục tiêu đánh địch để giải phóng quê hƣơng đất nƣớc. Chiến trƣờng Biên

Hòa thời điểm ấy vô cùng khó khăn bởi sự phản kích rất ác liệt của Mỹ - ngụy sau

xuân Mậu Thân 1968, xuân Kỷ Dậu 1969. Bom pháo dữ dội; máy bay phản lực

oanh tạc bỏ bom; trực thăng quần bắn ráo riết suốt ngày, đêm, đổ quân trong rừng,

ngoài rẫy, phục kích đƣờng mòn đánh ta bị thƣơng vong khá nhiều. Mỗi lần hành

quân là có nổ súng đánh nhau. Cơ giới, xe ủi địch phá địa hình nam bắc quốc lộ 1,

Bàu Sao, Bàu Sình, Giang Tói, Cây Gáo... ý đồ của Mỹ là đánh phá nơi đứng chân

của lực lƣợng ta nhằm tạo vành đai trắng, đẩy ta ra xa để bảo vệ sân bay Biên Hòa

và tổng kho Long Bình, căn cứ quân khu 3 vùng 3 chiến thuật... Lúc này đời sống

cán bộ chiến sĩ Đoàn Đặc công 113 cũng nhƣ của tỉnh Biên Hòa vô cùng khó khăn

thiếu thốn đủ thứ, thiếu gạo phải ăn độn khoai, rau, quả. Nhớ bàu Rau Muống ở

Bàu Hàm cứ mỗi tối hàng đoàn cán bộ, chiến sĩ cắt rau muống luộc ăn thay cơm.

Bắp, đậu, bí đỏ, đu đủ... Ở các rẫy của đồng bào Bầu Hàm, Bàu Cá... đã nuôi sống

bao nhiêu chiến sĩ Đoàn Đặc công 113 và các cơ quan tỉnh nhà. Bấy giờ chỉ có

hăng say chiến đấu và giết nhiều giặc mới trả đƣợc ơn sâu nghĩa nặng của đồng

bào cƣu mang chứ không tiền của nào trả nổi. Cái ăn đã khó, giấc ngủ cũng phải

ngủ hầm hết năm này đến năm khác. Biết nói sao cho hết cái khó, cái khổ, cái

thiếu thốn gian khổ của cán bộ chiến sĩ Đoàn Đặc công 113, cán bộ chiến sĩ tỉnh

Biên Hòa.

Hôm nay họp mặt cựu chiến binh 113 nói về truyền thống chiến đấu của

mình.

Nhân đây tôi xin phép đƣợc nói thêm các lực lƣợng võ trang của Bộ chiến

đấu trên chiến trƣờng Biên Hòa. Tôi rất nhớ cán bộ chiến sĩ Sƣ đoàn 5, Trung

đoàn tên lửa ĐKB, Trung đoàn 4, Trung đoàn 33 của Bộ cùng với lực lƣợng tỉnh

nhà chịu đựng mọi gian khổ trên chiến trƣờng để áp sát địch và đánh tiến công

chúng trong chiến dịch Mậu Thân 1968 và xuân Kỷ Dậu 1969. Nhớ anh Lê Đức

Anh, Tƣ lệnh phó, Tham mƣu trƣởng Bộ Chỉ huy Miền lúc bấy giờ, đến tận căn

cứ Bàu 17 bắc Trảng Bom phổ biến nhiệm vụ cho Sƣ đoàn 5 và Tỉnh ủy Biên Hòa

(U1) bố trí lực lƣợng tấn công và quyết định thành lập Bộ Chỉ huy tấn công. Đúng

giờ G ngày N, đồng chí Nguyễn Minh Tâm, Sƣ trƣởng Sƣ đoàn 5, đồng chí Sáu

Dũng, Phó chính ủy, đồng chí Trần Công An và tôi trong Bộ Chỉ huy có mặt tại

điểm chỉ huy đồi Bà Già sát sân bay. Tôi đã chứng kiến tƣờng tận tinh thần chiến

đấu hy sinh dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ ta. “Thề quyết tử cho Tổ quốc quyết

sinh”. Tiếng pháo của Trung đoàn tên lửa nhả đạn, những chú rồng phun lửa vun

vút lao đi giáng xuống sân bay vừa dứt, thì tiếng súng của bộ binh nổ rất giòn giã

đánh các mục tiêu phi trƣờng Biên Hòa, kho Long Bình, bộ tƣ lệnh dã chiến 2 của

Mỹ suốt ngày đêm diệt nhiều tên xâm lƣợc. Quân Mỹ phản kích rất là ác liệt cán

bộ chiến sĩ ta kiên quyết đánh trả nhƣng cũng thƣơng vong khá nặng. Đảng bộ

Biên Hòa - Đồng Nai đời đời nhớ ơn và đã quy tập hài cốt anh em về nghĩa trang

66

liệt sĩ của tỉnh, huyện tôn kính thắp hƣơng tƣởng niệm và lập đền thờ chiến sĩ hy

sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Cuộc họp mặt truyền thống và kỷ niệm 30 năm thành lập Đoàn Đặc công 113

tại Biên Hòa, nơi chiến đấu và chiến thắng của Đoàn đầy ý nghĩa. Cám ơn đồng

bào huyện Vĩnh Cửu, huyện Trảng Bom, thành phố Biên Hòa đã đùm bọc che chở

nuôi dƣỡng từ hột gạo, hạt muối, viên thuốc... cho Đoàn Đặc công 113 và các lực

lƣợng võ trang đánh Mỹ, ngụy. Nhớ biết bao cán bộ, chiến sĩ Đoàn Đặc công 113

và các lực lƣợng chủ lực, bộ đội địa phƣơng, du kích đã anh dũng hy sinh trên

mảnh đất Biên Hòa - Đồng Nai anh hùng, để lại dấu ấn tốt đẹp, góp thêm truyền

thống hào hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Chiến tranh đã đi qua gần 30 năm, nhƣng tại cuộc họp mặt đầm ấm nghĩa tình

này, nhắc đến Đoàn Đặc công 113 chúng ta ngỡ nhƣ mới ngày nào. Trung đoàn

113 đã giữ đƣợc truyền thống từ chiến đấu chống giặc Mỹ xâm lƣợc giải phóng

Tổ quốc, còn làm nhiệm vụ chiến đấu trên chiến trƣờng quốc tế (nƣớc bạn Căm-

pu-chia). Đặc biệt chiến công nối tiếp chiến công, đơn vị 113 đã ba lần đƣợc Chủ

tịch nƣớc phong tặng danh hiệu Anh hùng. Tôi cũng rất vui mừng là ngƣời sáng

tạo ra cách đánh đặc công (Trần Công An) và ngƣời chỉ huy Đoàn Đặc công 113

(Nguyễn Thanh Tùng) đều đƣợc phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lƣợng vũ

trang nhân dân. Đại tá Trần Công An (Hai Cà) cố vấn Đoàn Đặc công 113 và là

Chỉ huy trƣởng lực lƣợng võ trang Biên Hòa đã từng đánh đặc công từ thời Pháp

đến thời Mỹ và thiếu tƣớng Nguyễn Thanh Tùng Chỉ huy trƣởng Đoàn Đặc công

113 - hai anh đã gắn bó máu thịt với nhân dân và Đảng bộ Biên Hòa trong chiến

đấu, lập nên nhiều chiến công, rất xứng đáng với phần thƣởng cao quý của Chủ

tịch nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đến đây tôi xin kết thúc lời phát biểu của mình. Kính chúc sức khỏe toàn thể

anh chị em cựu chiến binh Đoàn Đặc công 113 và kính chúc các đại biểu sức khỏe,

hạnh phúc.

Xin cảm ơn.

P.V.T

67

DẠT DÀO LƢU LUYẾN

Tiến sĩ HUỲNH VĂN TỚI1

Kính thƣa các đồng chí cựu chiến binh Đoàn Đặc công 113.

Kính thƣa quí đại biểu!

Trong không khí dạt dào lƣu luyến hôm nay, Đoàn Đặc công 113 kỷ niệm

truyền thống 31 năm ngày thành lập (3-6-1972 / 3-6-2003) trên mảnh đất ra đời

của Đoàn. Điều này càng đậm đà ý nghĩa và có sức cổ vũ lớn những ngƣời đang

sống hôm nay và an ủi bao sinh linh đã ngã xuống. Bởi vùng chiến địa ngày nào,

nay đã mọc lên những khu công nghiệp lớn, hiện đại làm tƣơi mới hồng hào

gƣơng mặt quê hƣơng.

Đƣợc sự ủy nhiệm của Thƣờng trực Tỉnh ủy và Chủ tịch Ủy ban nhân dân

tỉnh, tôi xin nhiệt liệt chào mừng quý đại biểu, chào mừng các cô chú cùng tham

dự buổi họp mặt hôm nay.

Kính thƣa quý đại biểu! 31 năm trƣớc, Đoàn Đặc công 113 khai sinh tại

Chiến khu Đ. Chỉ thời gian rất ngắn đã tạo nên những chiến công vang dội. Những

chiến công ấy đã vƣợt cả không gian đến với bầu bạn khắp thế giới đang hƣớng về

cuộc chiến đấu hào hùng của dân tộc Việt Nam. Làm cho kẻ thù bàng hoàng, run

sợ. Những chiến công oai hùng ấy đã góp vào trang sử vẻ vang của dân tộc cũng

nhƣ của Binh chủng Đặc công nói chung và của tỉnh nhà Biên Hòa - Đồng Nai nói

riêng.

Qua 31 năm xây dựng, chiến đấu và trƣởng thành, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ

Đoàn Đặc công 113 đã thể hiện rõ nét phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, hoàn thành mọi

nhiệm vụ đặc biệt đƣợc giao.

Đoàn đã đánh 256 trận, diệt gần 4.000 tên Mỹ - ngụy. Có nhiều trận đạt hiệu

suất chiến đấu đặc biệt cao, làm cho kẻ thù khiếp sợ; Nhân dân tin tƣởng, yêu mến,

tự hào.

1 Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai phát biểu tại cuộc họp mặt truyền thống 31 năm Đoàn Đặc công

113.

68

Thành tích vẻ vang ấy của Đoàn rất xứng đáng với danh hiệu cao quý ba lần

Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân. Tất cả các tiểu đoàn trong đội hình của

Đoàn đều đƣợc nhận vinh dự cao quý ấy cùng tám cán bộ đƣợc phong tặng Anh

hùng và hàng trăm huân chƣơng Quân công, Chiến công, danh hiệu dũng sĩ...

“Mƣu lƣợc trong chiến tranh, lừng danh trong xây dựng” là một phẩm chất

đáng trân trọng bởi đã xuất phát trong truyền thống hào hùng của Đoàn thể hiện

gắn bó với nhân dân, huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm, sẵn sàng chiến đấu cao.

Đoàn là một trong những đơn vị dẫn đầu về nhiều phong trào của Binh chủng Đặc

công và của toàn quân, đƣợc tặng nhiều phần thƣởng của Chính phủ và của Bộ

Quốc phòng...

Đó là những nét quý giá mà các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Đoàn Đặc công 113

đang đƣợc kế thừa và phát triển, trong đó có sự đóng góp của lớp ngƣời đi trƣớc là

các cô chú ở đây.

Nhân dịp tới dự cuộc họp mặt truyền thống này, một lần nữa thay mặt lãnh

đạo tỉnh nhà, nhân danh cá nhân tôi xin chào mừng những chiến công hôm qua và

những thành tích mới vẻ vang của Đoàn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa yêu quý của chúng ta hôm nay.

Xin cám ơn!

H.V.T

69

XIN NÓI LỜI TRI ÂN

Thiếu tướng PHÙNG TRUYỀN1

Vào thời điểm từ những năm 1972-1973 cho tới ngày giải phóng 30 tháng 4

năm 1975, địa bàn hoạt động của Tiểu đoàn 9 bám trụ ở Bùng Binh, thuộc xã

Thiện Tân và các xã lân cận huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Biên Hòa vô cùng khó khăn.

Địch tìm mọi thủ đoạn đánh phá, ngăn chặn, khống chế sự tiếp tế chi viện của cơ

sở cách mạng trong nhân dân đối với bộ đội. Tình trạng thiếu đói là chuyện

thƣờng xảy ra. Kẻ thù tƣởng dùng mƣu mô quỷ kế là thực hiện đƣợc ý đồ đen tối

của chúng nhằm chống phá phong trào, đè bẹp ý chí cách mạng của ngƣời dân yêu

nƣớc. Nhƣng ngàn lần không! Với tấm lòng son sắt thuỷ chung của nhân dân với

cách mạng, với Bác Hồ nhƣ những hòn than âm ỉ cháy chờ dịp bùng phát.

Đƣợc sự lãnh đạo của Huyện ủy Vĩnh Cửu, chi bộ mật, cán bộ phong trào và

bà con ở Vĩnh Cửu nhất là xã Thiện Tân, Tân Định là chỗ dựa vững chắc của

chúng tôi.

Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 9 đặc công chúng tôi luôn kề vai sát cánh chiến

đấu tiêu diệt địch, hỗ trợ phong trào, cùng với lực lƣợng dân quân du kích nòng

cốt đã giáng cho chúng những phen hú vía, phong trào vẫn đứng vững và từng

bƣớc phát triển.

Tôi vẫn nhớ hình ảnh các chị các anh: Tám Bảo, Hai Đậm, Ba Tánh, Thanh

Giáp, Tƣ Nhung, Ba Thái, Năm Mai, Chị Ba Thanh... là những cán bộ kiên cƣờng

bám dân, bám đất sống chết với phong trào. Chính anh chị là sợi chỉ hồng nối tình

Đảng nghĩa dân, tình quân nghĩa nƣớc một cách bền chặt. Cũng nhờ vậy mà

những cánh đồng lúa sau vụ thu hoạch, cô bác không quên để lại khá nhiều ở

ngoài đồng cho bộ đội, cán bộ phong trào có cái để ăn, mà đánh giặc. Tôi vẫn còn

nhớ những lần đột ấp để lấy gạo, muối... trong dân đều có các anh chị dẫn mối,

nên tránh đƣợc những cặp mắt xoi mói của kẻ thù.

Hình ảnh ngƣời nữ Bí thƣ chi bộ Đảng, chị Hai Vân anh dũng hi sinh khi tuổi

đời còn rất trẻ trên mảnh đất này đã có sức lay động nhiều tấm lòng yêu nƣớc

trong nhân dân địa phƣơng.

Đơn vị Tiểu đoàn 9 chúng tôi trụ bám vững vàng để tiến công tiêu diệt địch là

nhờ dân che chở đùm bọc. Biết nói sao cho đặng những tình cảm cao quý của cô

bác, anh chị ở một vùng quê nghèo mà giàu lòng yêu nƣớc.

Từ sâu thẳm lòng mình tôi xin nói lời tri ân tới miền quê yêu dấu Vĩnh Cửu

anh hùng.

1 Phó tư lệnh về chính trị Binh chủng Đặc công. Nguyên chính trị viên Tiểu đoàn

9, Trung đoàn Đặc công 113.

70

Hà Nội, tháng 12 năm 2002

P.T

71

GẮN BÓ VỚI BIÊN HÒA NHỮNG NGÀY LỬA KHÓI

NGUYỄN MINH HIỆP1

Là chàng trai miền sông nƣớc Cửu Long, nhập ngũ từ năm 1946, vào Đảng

năm 1948, tập kết ra Bắc 1954, tôi trở về Nam chiến đấu tháng 6 năm 1963, nghỉ

hƣu năm 1979 với quân hàm thiếu tá, nguyên là cán bộ Đoàn công binh 476, Quân

khu 7.

Năm 1967 tôi cùng với anh Hai Cà trở về Biên Hòa, lúc ấy lữ đoàn dù 173

của Mỹ cũng vừa đặt chân đến chiến trƣờng U1. Những tên lính ngoại bang mắt

xanh, mũi lõ, tóc hoe vàng, da đỏ nhƣ mào gà chọi cứ nghênh ngang trên quê

hƣơng mình nhƣ chỗ không ngƣời, trông thấy chúng mà nhƣ muốn điên tiết lên

đƣợc. Nó ngang tàng nhƣ vậy vì chƣa gặp đƣợc đối thủ, nên chƣa bị trận trời

giáng nhớ đời nào.

Đơn vị tôi đóng ở rừng Chồi cách Long Bình chừng 2-3 cây số, chiều nào

cũng rủ nhau ra quan sát xe Mỹ, ngụy chạy vun vút tung bụi mù dọc tuyến xa lộ

Biên Hòa. Lúc ấy anh Hai Cà là Chỉ huy trƣởng U1, tôi làm phó giúp việc cho anh.

Chúng tôi toàn tâm toàn ý, tìm mƣu tính kế để thực hiện cho kỳ đƣợc ý định của

cấp trên. Đơn vị U1 của Tỉnh đội Biên Hòa - hay còn gọi là đặc công Biên Hòa chỉ

có 51 anh em, cán bộ, đội viên gắn bó nhƣ máu thịt vậy. Năm năm sau đó, chính

số anh em này làm nòng cốt cho Trung đoàn Đặc công 113 thành lập ngày 3 tháng

6 năm 1972 tại Biên Hòa. Đó là một thực tế phải đƣợc ghi nhận nhƣ sự tiếp nối

của lịch sử.

Trƣớc lúc chúng tôi xuống chiến trƣờng Biên Hòa, đồng chí Lê Đức Anh -

Tham mƣu trƣởng Quân giải phóng đã trực tiếp giao nhiệm vụ. Anh phân tích tính

chất quan trọng của chiến trƣờng Biên Hòa và ý đồ sâu xa của Mỹ, ngụy trên địa

bàn chiến lƣợc này cả hiện tại cũng nhƣ suốt cả quá trình chiến tranh xâm lƣợc

miền Nam của chúng. Ngẫm nghĩ lại những nội dung anh phân tích, nhận định

đánh giá sau này càng khâm phục tầm nhìn chiến lƣợc của anh biết bao. Trƣớc đó

tôi ở J12 chỉ huy anh em công binh nghiên cứu cách bố phòng của địch, mặc dù

gặp không ít khó khăn trở ngại vì địch đang ngày càng mở rộng căn cứ, địa hình bị

xe cơ giới ủi thêm rộng để kiến thiết kho tàng. Song, chúng tôi cũng đã nghiên

cứu đƣợc 12 kho có khả năng đặt lƣợng nổ là phá hủy đƣợc. Nhƣng khi báo cáo

cấp trên xin đánh, trên chƣa cho phép và động viên: phải chờ nhiều hơn thế mới

hành động. Vào thời điểm ấy, J12 chúng tôi có lệnh sáp nhập với Trung đoàn, tôi

giữ chức vụ Tham mƣu trƣởng.

Đƣợc bổ sung vào đội hình Trung đoàn anh em rất phấn khởi, bởi quân số

đông, trang bị vũ khí từng bƣớc đƣợc cải thiện chắc chắn sẽ tạo ra những trận

đánh có tiếng vang lớn hơn. Quả đúng nhƣ vậy, khi về đứng chân trên địa bàn này,

1 Nguyên Tham mưu trưởng đầu tiên Đoàn Đặc công 113 - 50 năm tuổi Đảng, đã nghỉ hưu.

72

một mặt với sự quyết tâm phấn đấu của cán bộ, chiến sĩ, mặt khác có sự giúp đỡ

hết mình của lãnh đạo U1 mà trực tiếp là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt nhƣ anh

Phan Văn Trang - Bí thƣ, anh Hai Cà - cố vấn, các chi bộ trên địa bàn và cơ quan

Tỉnh ủy... Chẳng bao lâu, Trung đoàn đã tạo nên những chiến công vang dội từ

sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình, kho bom Bình Ý và hỗ trợ phong trào địa

phƣơng xây dựng, phát triển lực lƣợng cách mạng. Bằng việc làm cụ thể, thiết

thực mối quan hệ gắn bó giữa đơn vị và địa phƣơng ngày thêm thắm thiết. Sau đó

ít lâu, đầu năm 1973 Hiệp định Pa-ri đƣợc ký kết, tôi nhận quyết định trở về Tỉnh

đội Biên Hòa; anh Chín Tùng, anh Hai Thoạn, anh Năm Châu đƣợc điều về Sƣ

đoàn 2 Đặc công, và tôi xa Trung đoàn Đặc công 113 từ đó.

Tuy không còn trực tiếp ở Trung đoàn, nhƣng với tôi vẫn gắn bó tình cảm và

kỷ niệm cũ vẫn đằm thắm lạ. Bởi một thời máu lửa có nhau nhƣ anh em ruột thịt.

Cũng nhƣ chiến trƣờng Biên Hòa vậy, từ đây đã giúp tôi chắp cánh tình yêu đôi

lứa và duyên thắm tình đầu với ngƣời vợ trẻ. Bất chấp không gian và nguy hiểm

bởi ngăn cách của quân thù, từ miền sông nƣớc Cửu Long xa xôi, ngƣời bạn đời

chung thủy đã đến với tôi. Từ trong lửa đạn, cây hạnh phúc vẫn tỏa ngát hƣơng

thơm, đơm hoa kết trái.

Giờ đây, cuộc chiến đã đi qua gần ba thập kỷ, đất nƣớc yên bình đang dựng

xây cuộc sống mới. Bản thân tôi cũng đã ở cái tuổi “Thất thập”. Song, tự sâu thẳm

lòng mình, quê hƣơng Biên Hòa vẫn dạt dào kỷ niệm đầy ắp trong tâm vậy.

N.M.H.

73

CĂN CỨ GIỮA LÒNG DÂN

NGUYỄN QUỐC ĐỊNH

Trở về thăm lại Bùng Binh

Căn cứ thắm đượm nghĩa tình quân dân

Biết bao người đã xả thân

Xây nên thế trận lòng dân vững bền

Cuối năm 1974 Trung đoàn 113 đã xây dựng đƣợc hành lang bàn đạp trên ba

hƣớng: hƣớng bắc, hƣớng đông và hƣớng tây sân bay Biên Hòa.

Mỗi hƣớng đều hình thành ba tuyến, tuyến cơ bản, tuyến trung gian và tuyến

bàn đạp sát mục tiêu. Tất cả các tuyến đều đƣợc xây dựng vững chắc dựa trên thế

trận lòng dân.

Khi đề cập tới vấn đề này chúng tôi muốn nêu lên mấy điểm mà một số ý

kiến chƣa nhất quán: căn cứ Bùng Binh là nơi “Bất khả xâm phạm” là chƣa chính

xác, thậm chí là hơi quá. Với tinh thần trách nhiệm, những sự kiện mà mình đƣợc

chứng kiến, chúng tôi suy nghĩ, nghiên cứu vấn đề này một cách nghiêm túc. Gần

đây có điều kiện gặp lại các cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 9 đặc công Đoàn Đặc công

113 nhƣ Phùng Truyền, Nguyễn Thế Tám, Nguyễn Văn Tuyến và đồng chí Nếp là

những ngƣời đã từng tổ chức, thực hành xây dựng và bám trụ ở căn cứ Bùng Binh

năm xƣa, chúng tôi đã cùng nhau ôn lại và trao đổi về vấn đề này, đi đến thống

nhất là:

Bất cứ một căn cứ nào dù có kiên cố đến đâu, bố trí các phƣơng tiện hiện đại

nhƣ thế nào cũng chƣa thể gọi là “bất khả xâm phạm” đƣợc nếu thiếu một yếu tố

là Lòng Dân.

Căn cứ Bùng Binh có hệ thống địa đạo dài trên 450 mét xuyên vào lòng núi,

rộng 1,4 mét có nhiều chỗ chiều dày tới 60 mét chống đƣợc các loại bom pháo của

địch. Có hệ thống thông hào, cơ cấu vị trí cho các loại hỏa lực phát huy đƣợc tác

dụng, ngăn chặn sát thƣơng. Xung quanh căn cứ có hệ thống chƣớng ngại, mìn các

loại chống xe tăng và bộ binh đánh tiếp cận. Căn cứ còn đƣợc che khuất dƣới tán

cây rừng. Địa đạo có thể chứa đƣợc 300 ngƣời, có chỗ hội họp sinh hoạt, có kho

dự trữ lƣơng thực, vũ khí bảo đảm chiến đấu thƣờng xuyên và lâu dài.

Chính vì vậy mà căn cứ nhƣ một cái gai trƣớc mắt địch (chỉ cách sân bay

Biên Hòa trên 5 ki-lô-mét) cho nên chúng có thể dùng mọi biện pháp để nhổ bỏ.

Đã nhiều lần, trong nhiều ngày chúng huy động nhiều lực lƣợng, phƣơng tiện

bằng mọi thủ đoạn hòng san bằng địa đạo để trừ hậu họa. Mỗi lần tiến công chúng

đều dùng bom pháo đánh phá, xe tăng, xe bọc thép cùng bộ binh lùng sục, bảo vệ

cho xe san, ủi phá nhƣng đều bị đẩy lùi, căn cứ vẫn tồn tại.

74

Không cam tâm chịu thất bại, chúng thay đổi cách đánh. Chúng sử dụng các

tên ác ôn và bình định, dụ dỗ ép buộc nhân dân ở các vùng xung quanh, do hoàn

cảnh thiếu thốn, hoặc có một số kém giác ngộ, hiểu lầm cách mạng, chúng sử

dụng số dân này cùng xe bò và các xe thô sơ có lính của chúng áp tải, yểm trợ đến

căn cứ Bùng Binh với hình thức là kiếm củi, chặt gỗ làm nhà, nhƣng thực chất là

chặt cây, phát quang địa hình. Có ngày chúng huy động đƣợc hàng mấy trăm

ngƣời đi phá rừng, với ý đồ “tát cạn bắt cá”.

Trƣớc tình hình trên nếu chỉ dùng biện pháp quân sự, dùng mìn, súng bắn vào

dân vô tội, thì không những không bảo vệ đƣợc căn cứ mà còn tạo ra một hậu quả

khó lƣờng vô tình đã mắc mƣu của địch, chia rẽ ngăn cách quân với dân. Nếu nhƣ

không có biện pháp ứng xử thích đáng, kịp thời thì chỉ trong một thời gian ngắn,

địa hình khu căn cứ sẽ bị phát quang hoàn toàn, nguy cơ mất bàn đạp là điều hiển

nhiên. Giữa lúc khó khăn, phức tạp liên quan đến sự mất còn của căn cứ, thì các

đồng chí lãnh đạo và nhân dân Vĩnh Cửu đến với chúng tôi.

Anh Huỳnh Văn Đậm (Hai Đậm) quyền Bí thƣ Huyện ủy Chỉ huy trƣởng

Ban Chỉ huy quân sự huyện Vĩnh Cửu nhớ lại:

- Sau khi nắm đƣợc tình hình, âm mƣu và thủ đoạn của địch, đánh phá căn cứ

bằng cách phá rừng phát quang địa hình. Chúng tôi đã triệu tập cuộc họp khẩn cấp

nhằm triển khai chiến dịch chống phá rừng, bảo vệ căn cứ, bảo vệ lực lƣợng của

địa phƣơng, đặc biệt là tập trung mọi khả năng phối hợp chặt chẽ bảo vệ cho đƣợc

căn cứ Bùng Binh của Đoàn Đặc công 113. Biện pháp cấp kỳ là sử dụng lực lƣợng

tổng hợp: chính trị, quân sự, binh vận nhƣng đấu tranh chính trị là chủ yếu. Các

cán bộ và cơ sở của ta đi sâu vào quần chúng, tuyên truyền vận động vạch rõ âm

mƣu của địch dùng dân làm bia cho chúng. Các chị Ba Thanh, Hai Hƣơng, Hai

Hòa... đã không quản gian lao và nguy hiểm vƣợt qua sự kìm kẹp của địch, đi sâu

vào quần chúng vận động giải thích cho dân thấy rõ âm mƣu thủ đoạn của địch.

Dần dần nhân dân đã nhận thấy rõ ý đồ nham hiểm của địch. Kết hợp với đấu

tranh chính trị, lực lƣợng của Đoàn Đặc công 113 cùng với bộ đội địa phƣơng, du

kích đánh mạnh vào bọn ác ôn khống chế dân, diệt nhiều tên. Cuối cùng chỉ trong

hai tuần, số dân đi phá rừng không còn nữa. Chỉ còn lại bọn lính và lũ ác ôn lúc

này bị ta chặn đánh quyết liệt, diệt nhiều tên buộc chúng phải từ bỏ âm mƣu phát

quang địa hình, phá căn cứ. Và trên thực tế căn cứ vẫn tồn tại một cách vững vàng.

Với nỗ lực cao độ, thể hiện quyết tâm, lòng dũng cảm, trí thông minh và sáng

tạo của bộ đội đặc công, lại đƣợc Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Cửu đùm bọc chở

che, tạo điều kiện cho cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 9, Đoàn Đặc công 113 bám trụ

vững chắc căn cứ Bùng Binh “Bất khả xâm phạm”, nơi xuất phát của các trận

đánh thắng lợi vào các mục tiêu phía đông sân bay Biên Hòa, góp phần cùng đơn

vị bạn và nhân dân địa phƣơng giải phóng thành phố Biên Hòa, trong Chiến dịch

Hồ Chí Minh lịch sử.

Hơn 30 năm đã trôi qua, các dấu tích hầm hào địa đạo do tác động của môi

trƣờng nên đã thay hình đổi dạng. Nhƣng kỷ niệm về căn cứ Bùng Binh đã đi vào

quá khứ nhƣ một huyền thoại.

75

Những bài học về “Thế trận lòng dân” để căn cứ trở thành “bất khả xâm

phạm” vẫn còn nóng hổi. Mãi mãi in sâu vào tâm trí chúng tôi và cả thế hệ mai

sau.

Đoàn Đặc công 113 cũng nhƣ Tiểu đoàn 9 nhƣ một chàng trai giờ đã khôn

lớn, trƣởng thành. Nhƣng nhớ lại “chiếc nôi” chở che mình nơi ấy thuở nào vẫn

không khỏi bồi hồi xúc động.

N.Q.Đ

76

BIÊN HÒA MỘT THỜI KỶ NIỆM

NGUYỄN THÀNH LỘC1

Từ những năm 1968 đến tháng 10 năm 1971, tôi là Tỉnh đội phó Tỉnh đội

Biên Hòa, anh Hai Cà (Trần Công An) Tỉnh đội trƣởng, chúng tôi đã cùng với các

đồng chí trong Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, bám sát chiến trƣờng nắm vững tình hình

địch để phối hợp các lực lƣợng đẩy mạnh tiến công cách mạng. Khoảng cuối

tháng 10 năm 1971 tôi đƣợc gọi về Miền chờ công tác ở Bộ Tham mƣu. Sau đó ít

lâu đƣợc bổ nhiệm làm Phó trung đoàn trƣởng Đoàn Đặc công 113, tham gia kế

hoạch “Chồm lên”.

Thời kỳ ấy, anh Nguyễn Thanh Tùng - Trung đoàn trƣởng, xuống địa bàn

cùng đơn vị trực tiếp chỉ đạo thực hiện kế hoạch “Chồm lên”, còn tôi trực ở Sở

Chỉ huy tại cứ đóng ở Bàu Hàm. Hiệp định Pa-ri, là một thắng lợi có ý nghĩa vô

cùng quan trọng của cách mạng Việt Nam, nhƣng chƣa phải là thắng lợi cuối cùng.

Bởi vì kẻ thù còn mƣu sâu kế hiểm tìm mọi cách để phá hoại. Nhận rõ dã tâm của

chúng, các lực lƣợng vũ trang giải phóng phải đề cao cảnh giác, mài sắc ý chí

chiến đấu để đánh bại kẻ thù, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá hoại nhiều phƣơng

tiện chiến tranh của chúng ngay từ trong căn cứ, hậu cứ mà chúng không thể

chống đỡ.

Để làm đƣợc điều đó, Đảng ủy - Ban Chỉ huy Trung đoàn lãnh đạo học tập về

chính trị quán triệt sâu sắc cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ về tình hình nhiệm vụ

cách mạng miền Nam. Mặt khác, tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ

từ phân đội, đại đội đến tiểu đoàn thay phiên nhau từ một tháng rƣỡi đến ba tháng

tại bên kia sông Đồng Nai, gần khu vực đƣờng Lệ Xuân. Đồng thời Đoàn cử cán

bộ cùng trinh sát đi chuẩn bị chiến trƣờng hƣớng đông bắc sân bay Biên Hòa, kho

bom Bình Ý và tổng kho Long Bình... Sau khi chuẩn bị cơ bản xong các mục tiêu,

khoảng tháng 4 năm 1973 có lệnh điều anh Nguyễn Thanh Tùng - Trung đoàn

trƣởng lên làm Sƣ đoàn phó Sƣ đoàn 2 đặc công Miền; anh Mai Văn Thoạn làm

Chủ nhiệm chính trị sƣ đoàn này; anh Đỗ Văn Ninh, anh Vũ Quớ - Trung đoàn

phó. Các anh Đỗ Thịnh - Chính ủy, Bí thƣ Đảng ủy; anh Trƣơng Bá Triệt - Phó

chính ủy. Sau khi đón nhận các cƣơng vị công tác ổn định tổ chức, tháng 7 năm

1973 chúng tôi tổ chức một tổ đặc công đánh kho bom Bình Ý. Tổ đánh này đã

hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Kết hợp với những chiến công cả trƣớc và sau này,

tổ đã xuất hiện hai ngƣời đƣợc tuyên dƣơng danh hiệu Anh hùng đó là Hồ Văn

Sinh và Ngô Văn Sơn. Sau đó chúng tôi chuyển về đóng cứ ở Hiếu Liêm, nơi ngã

ba sông Bé và sông Đồng Nai. Trong thời gian này vừa tập trung xây dựng căn cứ

ở đây và một bộ phận bám sát chuẩn bị chiến trƣờng, chủ yếu vẫn là sân bay Biên

Hòa, trận địa pháo, địa điểm ém quân và tập kết quân. Đoàn ém quân dựa vào trục

lộ 24 nhƣng chủ yếu là hai khu vực Bùng Binh (Thiện Tân - Vĩnh Cửu) và Nhà

1 Nguyên Trung đoàn trưởng Đoàn Đặc công 113 - đại tá về hưu.

77

Nai, Tân Uyên chờ thời cơ mới. Đến tháng 5 năm 1973, Đoàn cử tôi báo cáo về

trận đánh phân khu 53, tổng kho Long Bình do Bộ Tƣ lệnh Đặc công tổ chức ở Hà

Nội. Đây là một trận đánh mật tập theo chiến thuật đặc công, sử dụng lực lƣợng

đông trên 60 ngƣời, vào một căn cứ lớn, canh phòng cẩn mật, đạt hiệu suất chiến

đấu rất cao. Đƣợc đại biểu nhiệt liệt hoan nghênh và nghiên cứu, học tập. Đến

tháng 2 năm 1975, tôi mới trở lại Miền rồi về công tác ở Sƣ 2 đặc công.

Trong thời gian tôi ra Bắc, anh Ba Ninh - quyền Trung đoàn trƣởng; anh

Trƣơng Bá Triệt Chính ủy thay anh Đỗ Thịnh, sức khỏe yếu ra Bắc dƣỡng bệnh;

anh Đinh Xuân Nghiêm - Trung đoàn phó và anh Tƣ Trang - Phó chính ủy. Tại

hội nghị tổng kết ở miền Bắc, gặp nhiều đại biểu ƣu tú từ các chiến trƣờng ba

nƣớc Đông Dƣơng. Sau khi trực tiếp nghe các trận đánh điển hình, đạt hiệu quả

cao, những tấm gƣơng dũng cảm trong chiến đấu càng thêm yêu mến, cảm phục

và học tập ở bạn nhiều điều quý giá. Đặc biệt có dịp tiếp xúc gặp gỡ với các đồng

chí thủ trƣởng Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, Bộ Tổng tham mƣu, Đảng ủy

- Bộ Tƣ lệnh Đặc công tôi rất phấn khởi tin tƣởng. Sau khi kết thúc hội nghị, tôi

càng nôn nóng đƣợc vào nhanh tới chiến trƣờng để sát cánh cùng anh em đơn vị.

Vào thời điểm ấy, không khí trên miền Bắc cũng thật rộn ràng náo nức mỗi khi

nghe tin chiến thắng dồn dập từ miền Nam vọng ra. Tuy nhiên tôi tiếc mãi vì

không có dịp tiếp xúc nhiều với những ngƣời mẹ, ngƣời chị có chồng, con đang ở

tuyến đầu chống Mỹ đã lâu lắm bặt tin. Trong số đó chắc hẳn có ngƣời vì hoạt

động, chiến đấu bận rộn, lại ở chiến trƣờng xung yếu khó có dịp gửi thƣ. Nhƣng

chắc chắn không ít ngƣời đã ngã xuống trên các chiến trƣờng. Nghĩ đến đó tôi nhƣ

thấy mình còn mắc nợ các mẹ các chị quá lớn. Cái nợ ấy, suy cho cùng không thể

nào trả đƣợc. Tổ quốc, nhân dân mãi mãi ghi nhớ ơn nặng, nghĩa dày với những

ngƣời con trung hiếu ấy bằng những việc làm cụ thể, thiết thực nhằm bù đắp lại

phần nào nhỏ nhoi cho ngƣời thân của họ vậy.

*

* *

Tiễn tôi trở lại Trung đoàn, lúc ấy anh Chín Mây - Sƣ trƣởng Sƣ đoàn 2 đặc

công vừa thay anh Đặng Ngọc Sĩ lên Phó tƣ lệnh Quân khu; anh Tống Viết Dƣơng

sƣ đoàn phó, anh Bảy Dũng - Chính ủy, anh Lê Bá Ƣớc - Phó chính ủy bắt tay tôi

tỏ vẻ phấn chấn và căn dặn:

- Chiến trƣờng đang chuyển biến mau lẹ, có thể tính từng ngày, từng tuần. Về

phải bắt tay ngay để hành động đấy “Bọ” nhé! “Bọ” có nghĩa là Bố - các anh đùa

vui, vì tôi là dân Can Lộc, Hà Tĩnh ấy mà. Tất cả đƣợc một trận cƣời vang đầy

chất hài hƣớc của lính. Tuy bọn tôi đều trải hai mùa kháng chiến, nhƣng cái chất

trẻ trung gần nhƣ còn nguyên vẹn.

Đúng nhƣ các anh căn dặn, khi tôi bƣớc chân về tới cứ Trung đoàn bắt gặp

những ánh mắt, nụ cƣời của mọi ngƣời tƣơi trẻ lạ. Họ vui vì mấy tháng xa nhau,

giờ gặp lại, hỏi thăm đủ chuyện trên miền Bắc trăm mến ngàn thƣơng. Và một cái

vui hiện hữu là khí thế chiến trƣờng đang dồn dập nở hoa chiến thắng. Tất cả đã ở

trên “Bệ phóng”, đội hình Trung đoàn đã vào tƣ thế, các mục tiêu, lực lƣợng đều

78

đã xong xuôi. Đầu tháng 4 năm 1975 đã khởi đánh Xuân Lộc, địch đang điên

cuồng chống cự, tình hình sôi động khác thƣờng.

Lúc này căn cứ Trung đoàn vẫn ở đƣờng Lệ Xuân, Hiếu Liêm. Một buổi

chiều, nhƣ mọi buổi chiều trời vừa nhạt nắng, những vầng sáng sót lại nhuộm

thẫm những cánh rừng. Chim ríu ran gọi nhau về tổ. Nếu không có những tiếng

bom rền, đạn nổ từ xa vọng lại thì nơi đây quả là chốn yên bình.

- Báo cáo thủ trƣờng, có điện!

Tôi đang vui chuyện trên bàn trà ghép bằng cây rừng với anh em cơ quan,

nghe báo cáo ngoái lại tiếp nhận bức điện “Thƣợng khẩn” từ tay anh cơ yếu. Nội

dung ghi:

- Trung đoàn Đặc công 113 tăng cƣờng cho Quân đoàn 4 để sẵn sàng đón

nhận nhiệm vụ!

Tôi đọc đi đọc lại mấy lần, rồi chuyển bức điện cho các anh trong Ban Chỉ

huy đọc để nhận định tình hình.

Kể từ ngày thành lập, mấy năm qua Trung đoàn hoạt động theo phƣơng thức

đánh sâu, đánh hiểm kể cả xung lực, hoặc hỏa lực pháo binh, sử dụng lực lƣợng

gọn. Đánh lớn nhƣ mở đầu bằng pháo kích vào sân bay Biên Hòa đầu tháng 8 năm

1972 của Tiểu đoàn pháo 174, tính ra lực lƣợng phục vụ khá đông. Nhƣng lúc trực

tiếp tác chiến cũng chỉ gọn nhẹ mà đạt hiệu quả rất cao. Nay huy động toàn Trung

đoàn ra quân, chắc đánh lớn đây? Tôi nhận định thế nhƣng còn cụ thể... thú thực

chƣa nắm chắc đƣợc, vì còn chờ chủ trƣơng lớn của trên.

Sáng hôm sau, tôi - Trung đoàn trƣởng; anh Vũ Quớ - Trung đoàn phó cùng

tiểu đội trinh sát khăn gói quả mƣớp lên đƣờng. Tắt rừng, nhiều chặng theo lối

mòn nhƣng đều phải cảnh giác biệt kích, thám báo phục hoặc cài mìn. Chiều tối

tới thƣợng nguồn sông La Ngà, vào trạm khách Quân đoàn 4. Cơm nƣớc, tắm rửa

thật khoan khoái, ngủ đêm sáng hôm sau vào gặp đồng chí Hoàng Cầm - Tƣ lệnh

Quân đoàn 4 nhận nhiệm vụ.

Qua một ngày lội bộ đƣờng rừng khá mệt mỏi, đáng ra phải đƣợc chìm sâu

vào giấc ngủ ngon lành. Song với tôi thì ngƣợc lại, giấc ngủ chập chờn bởi theo

linh cảm của một ngƣời lính trận mạc, ngƣời chỉ huy cấp chiến thuật, qua diễn

biến của chiến trƣờng có thể phán đoán ngày thắng lợi đã tới gần. Trong thời khắc

lịch sử ấy, mỗi ngƣời lính ngã xuống trƣớc giờ toàn thắng thì niềm đau thân nhân

họ theo cấp số nhân, và... ai dám khẳng định điều gì xảy ra... Miên man suy nghĩ

đƣa tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay. Tôi chợt tỉnh bởi giòn giã những

chú tắc kè đua nhau lên tiếng râm ran cả cánh rừng.

Mãi tới khi bƣớc vào làm việc với Tƣ lệnh Quân đoàn, những gì dồn nén

trong tôi mới đƣợc hóa giải. Trung đoàn Đặc công 113 - có mấy nhiệm vụ:

Một là, đánh chiếm, bảo vệ cầu Ghềnh và cầu Hóa An (cầu Mới) chốt giữ để

Sƣ đoàn 7 cùng Quân đoàn 4 tiến về giải phóng Sài Gòn.

79

Hai là, đánh chiếm căn cứ chiến đoàn 15 thiết giáp Hốc Bà Thức để mở cửa

cho Sƣ đoàn 7 tiến công sân bay Biên Hòa và bộ tƣ lệnh quân đoàn 3 ngụy. Sau

khi đánh chiếm cầu, đón đại quân tiến vào Sài Gòn, đơn vị vẫn tiếp tục chốt giữ

căn cứ Hốc Bà Thức và giữ vững hai cầu.

Nhiệm vụ cụ thể là vậy, nhƣng giờ “G” và ngày “N” đều chƣa đƣợc trên cho

hay. Nên bản thân tôi vẫn băn khoăn. Đây là lần đầu tiên trong đời cầm quân của

mình tôi cảm thấy vừa phấn chấn xen lẫn sự hồi hộp trƣớc một sự kiện sắp nổ ra

mang nhiều ý nghĩa đến nhƣ vậy.

Sau khi nhận nhiệm vụ, cũng trên chặng đƣờng ấy, nhƣng lúc trở về chúng

tôi thấy quãng đƣờng nhƣ ngắn lại, chỉ hơn nửa ngày là tới cứ. Đến nơi, chúng tôi

tiến hành họp Đảng ủy trung đoàn ngay để triển khai lãnh đạo. Tiếp đó một hội

nghị quân chính cũng đƣợc tiến hành.

Tiểu đoàn 9, đại đội trinh sát 53 cùng một bộ phận cơ quan Trung đoàn tham

gia đánh chiếm căn cứ thiết giáp Hốc Bà Thức, Tiểu đoàn 23 đặc công và Tiểu

đoàn pháo binh 174 - bố trí trận địa gần bãi khai thác đá Hóa An để hỗ trợ đánh

chiếm cầu Ghềnh và cầu Mới. Phân công chỉ huy gồm: anh Ninh - Trung đoàn

phó; anh Ba Triệt - Chính ủy đi với Tiểu đoàn 9 đánh chiếm Hốc Bà Thức; Tôi -

Trung đoàn trƣờng; anh Hai Nghiêm - Tham mƣu trƣởng; anh Tƣ Trang - Phó

chính ủy đi với Tiểu đoàn 23 và Tiểu đoàn 174 hƣớng cầu Mới và cầu Ghềnh.

Ngày 22 tháng 4 năm 1975, Tiểu đoàn 9, đại đội 53 cùng bộ phận Trung đoàn

bộ từ căn cứ Tân Uyên hành quân tới căn cứ Bùng Binh, xã Thiện Tân, Vĩnh Cửu

để ém quân. Còn Tiểu đoàn 23 và 174 vẫn ở vị trí cũ. Sau khi tập kết xong đội

hình, ngày 26 tháng 4 năm 1975 mới đƣợc phổ biến thời gian cụ thể là: sáng ngày

26 rạng 27 tháng 4, các đơn vị tập kết xong lực lƣợng. Đúng 4 giờ sáng ngày 27

tháng 4 chờ lệnh. 4 giờ 30 phút sáng nổ súng chiến đấu.

Đây không phải lần đầu tiên vào trận, sao hôm nay có cái gì đó vừa hồi hộp,

bồn chồn, vừa rạo rực tin tƣởng trong sự chờ đợi theo nhịp đập của thời gian.

Đến giờ quy định, các mũi xung lực ở cả cầu Mới và cầu Ghềnh đột nhập,

chiếm lĩnh khá dễ dàng. Bị bất ngờ, bọn lính bảo vệ chống cự yếu ớt và bị đánh

bật khỏi cầu mà chƣa cần tới hỏa lực pháo chi viện.

Song, nhƣ chúng ta đã biết, cả cầu Ghềnh và cầu Mới nằm ngay trung tâm thị

xã Biên Hòa, có vị trí cực kỳ quan trọng với địch cả giao thông cũng nhƣ cơ động

binh khí, kỹ thuật không dễ gì để rơi vào tay đối phƣơng. Vì vậy, từ khoảng 10 giờ

sáng ngày 27 tháng 4, một chiến đoàn thuộc sƣ đoàn 18 ngụy tổ chức phản kích

chính diện để lấy lại cầu. Anh em dùng B40-B41, lựu đạn, súng trang bị tự có, lợi

dụng địa hình, địa vật chống lại quyết liệt. Ta vẫn giữ vững hai cầu, địch bị chết

rất nhiều. Tối hôm ấy, ta tranh thủ tăng cƣờng đạn dƣợc, củng cố ý chí quyết tâm

chiến đấu và lƣờng trƣớc những khó khăn ác liệt bội phần. Đúng vậy, tiếp ngày 28

và 29 tháng 4, một tiểu đoàn của sƣ 18 đƣợc tăng cƣờng thêm một tiểu đoàn dù ở

sau Cầu Hang chia làm hai hƣớng đánh vào Sở Chỉ huy Tiểu đoàn 23 của ta, đặt

tại làng gốm Bửu Hòa. Với cuộc đọ sức khá chênh lệch về ngƣời và phƣơng tiện,

80

địch tƣởng sẽ đè bẹp đối phƣơng và làm chủ tình thế. Nhƣng, một mặt anh em lợi

dụng địa hình, tiêu diệt những tốp lính gần nhất. Mặt khác, pháo binh ta đặt cách

đó vài ba cây số bắn trực tiếp xuống đội hình và kiềm chế trận địa pháo địch đặt ở

núi Châu Thới. Đội hình địch rối loạn, nhiều tên bỏ mạng. Tuy vậy, sáng ngày 29,

lực lƣợng Tiểu đoàn 23 tổn thất nặng nề, có đại đội cả Ban Chỉ huy ba đồng chí

đều hy sinh. Tới trƣa, trận địa ta bị địch chọc thủng và cầu Mới bị chúng phá sập

hai nhịp này trƣớc đây đã bị tổ đặc công ta đánh sập, địch bắc lại nhƣng chƣa chắc

chắn. Riêng cầu Ghềnh ta vẫn bám trụ và giữ vững cho đến ngày toàn thắng 30

tháng 4 năm 1975. Tối 27 và 28, số anh em thƣơng binh đƣợc đƣa về trạm phẫu

Trung đoàn đặt tại lô cao su giáp giữa Dĩ An và Tân Uyên cấp cứu, để sáng ngày

29, anh Ba Triệt dùng xe ô tô của dân đƣa về bệnh viện Biên Hòa.

Do cầu Hóa An bị sập hai nhịp, cầu Ghềnh yếu xe tăng loại T54 không đi

đƣợc, nên Sƣ đoàn 7 chỉ tổ chức một số bộ phận cùng với xe tải nhẹ hành quân

qua hƣớng Thủ Đức và cầu Bình Phƣớc. Hai sƣ đoàn còn lại của Quân đoàn 4

cùng xe tăng theo xa lộ qua cầu Sài Gòn và tiếp tục đánh chiếm các mục tiêu đƣợc

phân công nhƣ bộ quốc phòng ngụy cùng một số địa điểm khác dọc đƣờng tiến

quân cho tới dinh Độc Lập, tòa Bố Chánh Sài Gòn.

Trong những ngày chiến đấu ở đây, mặc dù bom đạn, hy sinh, nhƣng đêm

đêm cán bộ, chiến sĩ vẫn nhận đƣợc tiếp tế cơm, nƣớc của nhân dân địa phƣơng.

Tôi còn nhớ có một thanh niên còn khá trẻ trực tiếp tới cung cấp những thông tin

về địch để đơn vị nắm và có phƣơng án đối phó. Đặc biệt, số liệt sĩ cũng nhờ cô

bác chôn cất để sau này có điều kiện quy tập về nghĩa trang cùng đồng đội yên

nghỉ đời đời.

Sau khi Biên Hòa đƣợc hoàn toàn giải phóng, Trung đoàn triển khai làm

nhiệm vụ quân quản tại đây, ít lâu sau đƣợc lệnh hành quân về thành Quan Năm ở

huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh truy quét bọn tàn quân, và lần lƣợt làm

nhiệm vụ khác.

Trƣớc không khí chiến thắng với niềm vui tràn ngập, ngày 8 tháng 9 năm

1975, Trung đoàn tổ chức đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lƣợng vũ trang lần

thứ nhất. Và tháng 10 năm ấy, theo lệnh của Bộ, Tiểu đoàn 9, đại đội trinh sát 53,

đại đội thông tin lại bổ sung về các đơn vị, và tôi xa Trung đoàn từ đó.

Trải qua những năm chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ trên mảnh đất Biên Hòa,

Đảng Bộ, nhân dân tỉnh nhà che chở, đùm bọc Trung đoàn nhƣ con em ruột thịt.

Tình cảm sâu nặng ấy không thể gì sánh đƣợc.

Năm tháng sẽ qua đi, song trang sử vàng truyền thống của Trung đoàn 113

đặc công - đơn vị ba lần Anh hùng, sẽ mãi mãi gắn với lịch sử đấu tranh cách

mạng của Biên Hoà - Đồng Nai nhƣ một nét son thắm đỏ. Đƣợc biết, qua phát

hiện và đề nghị của anh Phan Văn Trang, nguyên Bí thƣ Tỉnh ủy U1 và Bí thƣ tỉnh

ủy Đồng Nai khóa 5 cùng Ban Liên lạc truyền thống Trung đoàn, đề nghị với lãnh

đạo tỉnh và lãnh đạo thành phố Biên Hòa, sẽ khảo sát, xây dựng một bia tƣởng

niệm tại đầu cầu Ghềnh để khắc ghi tên, tuổi 52 liệt sĩ của Tiểu đoàn 23 đặc công

của Trung đoàn đã anh dũng ngã xuống trƣớc giờ toàn thắng.

81

Làm đƣợc điều đó, hồn thiêng các anh hẳn ngậm cƣời, và chúng tôi - những

đồng đội thân yêu cũng lấy làm mãn nguyện. Để một ngày nào đó dòng sông

Đồng Nai trong xanh nƣớc biếc soi bóng những Anh hùng.

N.T.L

82

MỘT TRẬN ĐÁNH BÍ MẬT, BẤT NGỜ, ĐẠT HIỆU SUẤT RẤT CAO

Phỏng vấn Đại tá ĐỖ VĂN NINH - Anh hùng LLVTND.

Tôi vinh dự đƣợc ra Hà Nội dự lễ Đoàn Đặc công 113 đón nhận danh hiệu

đơn vị Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân thời kỳ đổi mới đƣợc tổ chức trọng

thể tại một vùng quê miền trung du Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. Lâu ngày gặp lại

bạn bè, đồng chí thật vui vẻ và cảm động. Trong không khí dạt dào kỷ niệm ấy,

chúng tôi tranh thủ trò chuyện với đại tá Đỗ Văn Ninh, Anh hùng quân đội -

nguyên Phó tƣ lệnh - Tham mƣu trƣởng Bộ Tƣ lệnh Đặc công, từng có những năm

tháng chiến đấu trên quê hƣơng Biên Hòa trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nƣớc.

Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn.

- Thƣa anh Đỗ Văn Ninh, là một cán bộ có mặt từ ngày đầu Trung đoàn Đặc

công 113 đƣợc thành lập, đề nghị anh cho bạn đọc biết về đặc điểm ra đời và

chiến đấu của đơn vị?

Đồng chí Đỗ Văn Ninh: sau 28 năm (1972 - 2000) giờ nghĩ lại thời gian nó đi

qua thật là nhanh, nhanh hơn cả sự tƣởng tƣợng của mình. Trung đoàn 113 ra đời

ở ngã ba suối Bà Hào giữa Chiến khu Đ. Thời điểm ấy mới đầu tháng thứ 2 của

mùa mƣa theo lịch thời tiết ở Nam Bộ. Không khí núi rừng mát mẻ và khá dễ chịu,

chim ríu ran, tắc kè kêu gióng giả, một âm thanh chộn rộn nghe đến là vui. Nếu

không có những tiếng rít của lũ diều hâu Hoa Kỳ trên bầu trời và pháo bầy Tân

Tây Lan đâu đó vọng tới, thì nơi đây tƣởng chừng nhƣ thật là yên bình.

Trƣớc đó tôi là Tiểu đoàn trƣờng Tiểu đoàn 9, nhiều năm đánh nhau với các

loại sắc lính của Mỹ - ngụy trên chiến trƣờng Bình Dƣơng, Sông Bé, Bình Long,

Phƣớc Long... thì nhận lệnh cả đơn vị lật cánh về để sáp nhập vào đội hình Trung

đoàn Đặc công 113. Bƣớc chân tới đất Biên Hòa thì đƣợc đề bạt làm Tham mƣu

phó Trung đoàn. Anh em thƣờng nói vui: phó! Có cũng nhƣ không. Chính tôi

cũng hay tếu táo nhƣ thế và có khi hơn cả nhƣ thế đấy chứ - Lính mà!

Nói vậy chớ, mỗi cƣơng vị có trách nhiệm cụ thể của mình theo sự phân công

của tập thể chỉ huy. Trên cƣơng vị là Tham mƣu phó, tôi đƣợc Chính ủy - Bí thƣ

Đảng uỷ Mai Văn Thoạn và Trung đoàn trƣờng Nguyễn Thanh Tùng mời lên giao

nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo bộ phận trinh sát nghiên cứu để đánh vào tổng kho

Long Bình. Nhiệm vụ khái lƣợc mang tính chất chung chung nhƣ vậy. Nhƣng đi

vào cụ thể để có hành động chính xác, hiệu quả là một quá trình dày công suy nghĩ.

Long Bình là một khu kho liên hợp, rộng hàng chục ki-lô-mét vuông, đƣợc

Mỹ đổ khá nhiều tiền của xây dựng kiên cố, dự trữ các loại hàng chiến lƣợc phục

vụ cho chiến trƣờng ba nƣớc Đông Dƣơng, đặc biệt có ý nghĩa to lớn và trực tiếp

đối với chiến trƣờng miền Nam Việt Nam. Nên kho đƣợc bảo vệ rất cẩn mật với

nhiều thủ đoạn tinh vi. Để đột nhập vào bên trong rõ ràng không đơn giản. Nhƣng

không phải mình chịu bó tay! Song, lựa chọn cán bộ nào để đảm trách việc này là

phải cân nhắc kỹ lƣỡng, ngoài yếu tố ý chí quyết tâm còn phải sắc bén về kỹ thuật

83

khắc phục chƣớng ngại vật. Sau một ngày, đêm đắn đo suy nghĩ, lòng tôi băn

khoăn khó tả. Kể từ ngày vào chiến trƣờng tới nay đã mấy năm, từ Phƣớc Thành,

Trảng Lớn, Bình Dƣơng nhiều căn cứ hóc búa mà mình chƣa hề chịu “chào thua”

bao giờ. Trong chiến công chung của Tiểu đoàn 9 đều có phần đóng góp của bản

thân mình là ngƣời đứng mũi, chịu sào, lẽ nào giờ đây?

Ông bà mình thƣờng ví: “Thức lâu mới biết đêm dài”. Nhƣng với tôi cái đêm

ấy lại quá ngắn mà hết sức ý nghĩa. Bởi nó đã giúp tôi tìm ra lời giải. Thế là tôi

làm kế hoạch báo cáo với với các thủ trƣởng trung đoàn, chọn phân khu 53 trong

tổng kho Long Bình. Lý giải của tôi: rất có thể ở đó nó chứa bom các loại và thuốc

nổ. Phá đƣợc khối lƣợng lớn bom, đạn, thuốc nổ ở đây, nó nhƣ một lời cảnh báo

đối với kẻ thù và tính uy hiếp cũng rất lớn. Kế hoạch này đƣợc trên chấp thuận và

cho phép triển khai. Sau 10 ngày phân chia các tổ bám sát, đột nhập, nghiên cứu

đúng nhƣ nhận định ban đầu: khu vực tổng kho thật là đồ sộ, không thể chủ quan

coi thƣờng địch. Mật tập, phá khoá cửa kho để vào trong đặt lƣợng nổ là điều

không dễ. Song, kỹ thuật này đã đƣợc huấn luyện ngoài Bắc. Cái khó thứ hai là bố

phòng của địch. Chúng lắp đặt hệ thống ánh sáng cực mạnh. Bên cạnh nhiều lớp

hàng rào, ánh sáng điện cao áp, lính tuần tra canh gác nghiêm ngặt, nhất là đội ngũ

chó bắc giê sục sạo quanh kho. Bởi vậy, chúng tôi lại phải suy nghĩ động não để

tìm biện pháp khắc phục loài chó nghiệp vụ này. Làm thế nào để “lót” đƣợc lực

lƣợng vào để phá cửa kho? Nói phá nhƣng thực chất là khắc phục vật cản này để

luồn vào trong đặt lƣợng nổ là điều gay cấn nhất. Về lực lƣợng sử dụng có 54 cán

bộ, chiến sĩ nhƣng trực tiếp đánh là 36 ngƣời, chia làm ba mũi. Cả Trung đoàn lúc

ấy chỉ có hai tiểu đoàn đặc công, một tiểu đoàn pháo và số đại đội trực thuộc nhƣ:

trinh sát, thông tin, quân y, vận tải.

Thƣờng vụ Đảng uỷ - Chỉ huy Trung đoàn cho phép chúng tôi tuyển chọn

những đồng chí ý chí quyết tâm chiến đấu đặc biệt cao, kỹ chiến thuật tinh thông

mới thực hiện đƣợc cách đánh này. Phƣơng án tác chiến đƣợc Trung đoàn và Bộ

Chỉ huy Miền phê duyệt chuẩn y.

Trận đánh đạt kết quả nhƣ một giấc mơ vậy. Trên hệ thống thông tin Quân

Giải phóng hồi ấy cũng nhƣ báo chí trên miền Bắc và các hãng của phƣơng Tây

đều thừa nhận một đòn giáng trả đích đáng ngay giữa sào huyệt quân thù: phá huỷ

150.000 tấn bom đạn, 200 tấn thuốc nổ (trữ lƣợng này có thể còn cao hơn), phá

huỷ thêm một số phƣơng tiện chiến tranh của chúng. Nguy hại hơn, do chấn động

mạnh một số khá lớn bom đạn chƣa bị phá hoại nhƣng địch không dám sử dụng vì

không biết nó có thể phát nổ lúc nào. Một tiểu đoàn lính ngụy bảo vệ kho, nhiều

tên bị bỏ mạng.

Các mũi tổ chức lui quân có trật tự ra ngoài phạm vi an toàn trƣớc khi kho

phát nổ. Chỉ có một đội viên tên Trần Xuân Thƣởng, quê Thanh Hoá đi lạc đội

hình nên bị địch bắt. Nhƣng anh không hề khai báo gì, sau đó chúng đày ra đảo

Phú Quốc, đầu năm 1973 đƣợc trao trả tại Lộc Ninh. Hiện Thƣởng đang sống

cùng gia đình vợ con tại thành phố Hồ Chí Minh.

84

Sau trận đánh, tập thể đƣợc cấp trên tặng thƣởng Huân chƣơng Quân công

hạng nhì. Các cá nhân tham gia trực tiếp đều đƣợc tặng Huân chƣơng Chiến công.

Số phục vụ chiến đấu đƣợc tặng thƣởng bằng khen.

Kết quả của trận đánh đã cho chúng tôi những bài học về mặt chỉ đạo, chỉ huy,

về học thuật của chiến đấu đặc công và cả về phƣơng thức tác chiến ở một căn cứ

lớn của địch, đƣợc phòng thủ rất vững chắc cả bề rộng lẫn chiều sâu của đối

phƣơng. Nếu mình có chuẩn bị tốt, quyết tâm cao đều hoàn toàn có thể tạo đƣợc

thế chủ động, bất ngờ và tiến công giành chiến thắng.

Cấp trên đánh giá đây là một trận đánh đạt hiệu suất cao.

Một vấn đề nữa đƣợc rút ra là công tác tổ chức. Đó là đặt ngƣời chỉ huy và

chiến đấu viên vào đúng vị trí. Nghĩa là phải thực hiện cho đƣợc: hai đúng ba đủ

thì mới hoàn thành đƣợc nhiệm vụ của từng cá nhân cũng nhƣ tập thể.

- Thƣa đồng chí! Trong trận đánh ấy, với cƣơng vị là ngƣời chỉ huy, vị trí

đồng chí ở phạm vi nào để quán xuyến?

Đồng chí Đỗ Văn Ninh: khi đang thời gian nghiên cứu chuẩn bị thì tôi có mặt

ở tất cả ba mũi cùng với anh em. Còn khi thực hành đánh, tôi tổ chức khắc phục

chƣớng ngại và đƣa anh em vào rồi mới trở ra vị trí chỉ huy và cho ngƣời đón anh

em trở ra khi đặt xong lƣợng nổ.

Qua trận đánh, về phía chúng tôi nhận thấy, đây là trận đánh mật tập lớn nhất

từ trƣớc tới nay. Có thể nói đây là một bài học giúp thêm cho cấp trên về công tác

chỉ đạo chỉ huy.

Xin cảm ơn đồng chí.

QUANG MINH thực hiện

85

TRUNG ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113 – MỘT HÌNH ẢNH ĐẸP

NGUYỄN HẢI1

Tôi là một cán bộ ngành Công an đƣợc Đảng cử vào Nam hoạt động trong

vùng đồng bào có đạo ở tỉnh Biên Hòa, cùng dòng ngƣời di cƣ vào Nam. Năm

1966, thành lập huyện Trảng Bom thuộc liên tỉnh Bà Rịa - Long Khánh - Biên

Hòa, tôi đƣợc tổ chức điều động xuống trực tiếp phụ trách huyện Trảng Bom.

Trảng Bom tiếp giáp với Long Khánh và Biên Hòa, án ngữ một phần trục lộ

số 1 Bắc - Nam và lộ 20 từ ngã ba Dầu Giây đi Đà Lạt, nằm về hƣớng đông bắc

Sài Gòn. Khu vực này đƣợc chính quyền Ngô Đình Diệm bố trí bà con giáo dân bị

mua chuộc dụ dỗ, cộng với sự ép buộc di cƣ vào Nam năm 1954 sinh sống rất

đông. Do bị mua chuộc, dụ dỗ và bị kẻ địch kích động nên một số bà con hiểu sai

lệch về đƣờng lối cách mạng của Đảng và Nhà nƣớc ta mà hoài nghi, đố kỵ. Thậm

chí khá đông gia đình có con em đi lính đánh thuê cho giặc. Giai đoạn này đang là

cao trào Mỹ đƣa quân ồ ạt cộng với các loại vũ khí hiện đại xâm lƣợc miền Nam

nƣớc ta, cùng với đội quân bán nƣớc của Chính quyền bù nhìn Sài Gòn gây cho

phong trào cách mạng miền Nam nói chung và chiến trƣờng Biên Hòa - Trảng

Bom nói riêng nóng bỏng và quyết liệt. Do nằm trong tuyến phòng thủ số một lại

là thời điểm lực lƣợng đối phƣơng còn khá mạnh vừa là một chiến trƣờng trọng

điểm nhƣ Biên Hòa, nên ở đây chủ yếu diễn ra các trận đánh nhỏ lẻ. Bên trong cái

chính là diệt ác, trừ gian, nhen nhóm lực lƣợng, gây dựng cơ sở cách mạng trong

quần chúng, đặc biệt là đồng bào theo đạo Thiên Chúa. Theo yêu cầu Đảng phân

công, năm 1972, cách mạng miền Nam đang ở thế tiến công địch, nhiều trận thắng

liên tiếp, dồn dập trên khắp các chiến trƣờng làm cho địch lún sâu vào những thất

bại thảm hại. Ở Mặt trận Biên Hòa, một số trận đánh sâu, đánh hiểm đạt hiệu suất

cao cũng đã diễn ra. Vào thời điểm ấy, trên cƣơng vị là ủy viên Thƣờng vụ Tỉnh

ủy, tôi đƣợc giao trọng trách Công an tỉnh Biên Hòa. Đầu năm 1976, là Phó bí thƣ

Tỉnh ủy, trực tiếp làm Bí thƣ Huyện ủy Thống Nhất - thay cái tên huyện Trảng

Bom đƣợc sử dụng từ nhiều năm trƣớc đó.

Sau khi về trực tiếp công tác, đƣợc các đồng chí trong Ban Thƣờng vụ Huyện

ủy cho biết những đơn vị chủ lực của Miền về đứng chân hoạt động, chiến đấu có

các Trung đoàn 33 bộ binh của anh Nguyễn Huy Thản; Trung đoàn Đặc công 113,

trƣớc đó do anh Nguyễn Thanh Tùng - Đoàn trƣởng; anh Mai Văn Thoạn - Chính

ủy. Tiếp đó có anh Ba Lộc kế nhiệm Trung đoàn trƣởng, anh Đỗ Thịnh - Chính ủy

cùng một số đơn vị khác.

Phải thừa nhận, các đơn vị chủ lực về đứng chân trên địa bàn là một hạnh

phúc cho địa phƣơng, hỗ trợ phong trào cách mạng phát triển. Những trận càn

quét của địch ra các vùng ngoại biên gặp phải lực lƣợng mạnh của ta, chúng phải

chùn bƣớc. Đặc biệt, qua những trận đánh sâu, đánh hiểm vào tận tim gan kẻ thù

theo chiến thuật đặc chủng nhƣ của Đoàn Đặc công 113 vào tổng kho Long Bình,

1 Nguyên Phó bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa - Bí thư Huyện ủy Trảng Bom.

86

sân bay Biên Hòa, phối hợp diệt ác, phá kìm ở các xã vùng sâu huyện Vĩnh Cửu,

hỗ trợ phong trào cách mạng phát triển. Chúng tôi mừng lắm! Từ đó, Huyện ủy

qua các nghị quyết lãnh đạo phong trào đều hết sức quan tâm hỗ trợ đắc lực các

đơn vị những nội dung có thể làm đƣợc.

Chẳng hạn, chúng tôi chỉ đạo các chi bộ công khai, dân quân du kích tăng

cƣờng giáo dục quần chúng các xã Bầu Hàm, Sông Thao và các nơi khác cần đẩy

mạnh tăng gia sản xuất. Một mặt gia đình mình có cái để ăn, không lo đói. Mặt

khác có sẵn dôi dƣ các thứ trên ruộng rẫy bộ đội giải phóng có cái để mà dùng.

Tôi hết sức cảm kích khi nghe nói nguồn chuối xanh ở Hƣng Nghĩa đã từng nuôi

sống bao con ngƣời cả bộ đội, cơ quan. Chuối xanh, hoa chuối, thậm chí cả thân

chuối non chế ra làm lƣơng thực thay cơm, trừ bữa để mà đánh giặc. Thử hỏi

không có nguồn cung ứng này từ các vƣờn rẫy của dân thì bộ đội mình còn gian

nan biết bao?

Tôi còn đƣợc biết thêm, không ít cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị chủ lực từng

đặt chân qua những cánh vƣờn rẫy này chí ít là một đôi lần và mãi mãi không bao

giờ trở về. Các anh của Trung đoàn 33 đã ngã xuống trên tuyến lộ 20 từ Long

Khánh đi Bà Rịa, Châu Pha, Ngãi Giao và của Trung đoàn Đặc công 113 trong

trận quyết chiến để bảo vệ cầu Ghềnh, cầu Hóa An trƣớc ngày toàn thắng. Không

biết cánh rừng, ngọn suối nào còn lƣu giữ bàn chân trần trụi, ứa máu của các anh

đây?

Đất nƣớc ta đã gần 30 năm hoàn toàn giải phóng. Nhiều thứ sẽ dần dần phai

nhạt theo thời gian, năm tháng...

Còn với tôi (và có lẽ nhiều đồng chí khác cũng vậy thôi) giờ đã độ tuổi ngoài

“Bát tuần”. Song mỗi khi hồi tƣởng lại, nhƣ thấy mình có lỗi, mà lỗi to nữa kia,

bởi không giúp gì đƣợc mấy cho anh em, cho đơn vị mà nào họ có đòi hỏi gì cao

sang!

Hình ảnh các anh đẹp vô ngần, những chiến sĩ mà tôi hằng ngƣỡng mộ.

N.H.

87

VINH DỰ TO LỚN, TRÁCH NHIỆM NẶNG NỀ, ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113

QUYẾT GIỮ TRỌN NIỀM TIN VỚI ĐẢNG, QUÂN ĐỘI VÀ NHÂN DÂN1

Thượng tá TRẦN VĂN HÒE

Chỉ huy trưởng Đoàn Đặc công 113.

Kính thƣa các vị đại biểu, các vị khách quý!

Thƣa toàn thể các đồng chí!

Trong niềm hân hoan phấn khởi của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang nô

nức thi đua lập thành tích chào mừng đại hội Đảng các cấp tiến tới chào mừng Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, chào mừng Đại hội thi đua toàn quốc

lần thứ 6 và Đại hội Đảng bộ Binh chủng Đặc công lần thứ 7. Hôm nay, Đoàn Đặc

công 113 long trọng tổ chức lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lƣợng vũ trang

nhân dân trong thời kỳ đổi mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa. Rất vinh dự và tự hào vì Đoàn Đặc công 113 là đơn vị

đƣợc ba lần tuyên dƣơng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân

dân!

Thay mặt cán bộ, chiến sĩ, Đảng ủy - Chỉ huy Đoàn, chúng tôi kính chúc

Thƣờng vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ƣơng, Bộ Quốc phòng, Đảng uỷ Binh chủng

Đặc công, quý đại biểu lời chúc sức khoẻ và lời chào mừng tốt đẹp nhất.

Kính thƣa quý đại biểu, thƣa toàn thể các đồng chí!

Đƣợc đón nhận danh hiệu Anh hùng thời kỳ đổi mới, phần thƣởng cao quý

mà Đảng và Nhà nƣớc đã trao tặng, chúng tôi nhận thức sâu sắc rằng đây là sự

tuyên dƣơng công trạng của Đảng của Nhà nƣớc đối với Đoàn Đặc công 113 trong

xây dựng, chiến đấu đã góp phần hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng và đổi mới của

đất nƣớc. Những thành tích đặc biệt xuất sắc mà đơn vị đã đạt đƣợc bắt nguồn từ

truyền thống anh hùng của dân tộc, của Quân đội và của Binh chủng Đặc công

dƣới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ, mà trực tiếp là Đảng uỷ Quân sự Trung

ƣơng và Bộ Quốc phòng, Bộ Tƣ lệnh Đặc công; từ sự chăm sóc thƣơng yêu đùm

bọc giúp đỡ của cấp ủy Đảng, chính quyền đoàn thể các địa phƣơng, của sự đoàn

kết hiệp đồng, đồng cam cộng khổ của các đơn vị bạn.

Vinh dự cao quý này, trƣớc hết thuộc về các anh hùng, liệt sĩ đã cống hiến

trọn đời mình hy sinh cho Tổ quốc và một phần xƣơng máu của các thế hệ cán bộ,

chiến sĩ kế tiếp nhau xây đắp nên.

Nhân dịp này, cho phép tôi bày tỏ niềm sâu sắc với Đảng quang vinh, dân tộc

anh hùng, nhân dân kiên trung và Quân đội bách chiến bách thắng đã giáo dục bồi

đắp cho đơn vị có những phẩm chất cao quý ấy.

1 Đầu đề là của Ban biên soạn. Bài phát biểu tại lễ đón danh hiệu Anh hùng trong thời kỳ đổi mới của Đoàn Đặc

công 113 - ngày 20 tháng 12 năm 2000.

88

Trong buổi lễ trọng thể này, thay mặt cho cán bộ, chiến sĩ Đoàn Đặc công

113 tôi xin bày tỏ quyết tâm đối với Đảng, Nhà nƣớc, quân đội, Đảng uỷ Bộ Tƣ

lệnh Đặc công:

Một là: phát huy truyền thống Quân đội Anh hùng, Binh chủng Anh hùng,

đơn vị ba lần Anh hùng ra sức giữ vững bản chất chính trị, lý tƣởng chiến đấu,

tuyệt đối trung thành, tin tƣởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sẵn

sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì Chủ nghĩa xã hội và hạnh

phúc của nhân dân. Mãi xứng đáng là lực lƣợng chính trị, lực lƣợng chiến đấu

trung thành tin cậy của Đảng, của Nhà nƣớc và của nhân dân.

Hai là: luôn mài sắc ý chí chiến đấu, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng,

kiên định vững vàng trƣớc mọi tình huống, sẵn sàng đập tan âm mƣu, thủ đoạn

của kẻ thù, nhất là chiến lƣợc diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế

quốc và các thế lực thù địch. Quyết tâm huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm, đoàn kết

tốt, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ đƣợc giao trong mọi điều

kiện.

Ba là: không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt, kiến thức và nghiệp vụ,

làm chủ mọi binh khí kỹ thuật, góp phần xây dựng quân đội, binh chủng đặc biệt

tinh nhuệ, chính quy từng bƣớc hiện đại.

Bốn là: phát huy tinh thần tự lực tự cƣờng, chủ động sáng tạo, tích cực tăng

gia lao động sản xuất góp phần nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho bộ đội,

góp phần xây dựng Quân đội, xây dựng Binh chủng trong thời kỳ công nghiệp hoá,

hiện đại hoá.

Năm là: tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, tập trung xây

dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Tích

cực tham gia vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị, địa bàn an toàn vững

mạnh, giúp đỡ nhân dân xóa đói giảm nghèo, đoàn kết gắn bó máu thịt với nhân

dân, xứng đáng là bộ đội của dân, do dân, vì dân.

Trong cuộc hội ngộ tràn đầy xúc động và tự hào tƣng bừng này, một lần nữa

thay mặt đơn vị, tôi xin bày tỏ lời chân thành cảm ơn các đồng chí Thủ trƣởng Bộ

Quốc phòng, Thủ trƣởng Bộ Tƣ lệnh Đặc công và các vị khách quý, các vị đại

biểu đã không quản xa xôi bớt chút thời gian về tham dự buổi lễ trọng thể này.

Kính chúc các đồng chí sức khỏe và hạnh phúc.

T.V.H

89

ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113 VIẾT TIẾP NHỮNG CHIẾN CÔNG VANG DỘI

TRÊN ĐẤT BIÊN HÒA

Theo lời kể của Đại tá TRẦN CÔNG AN (Hai Cà)1

Đã có những ý kiến cho rằng Trung đoàn Đặc công 113 ra đời chỉ trong thời

gian rất ngắn đã lập được chiến công rất vang dội ở sân bay Biên Hòa và tổng

kho Long Bình là do cán bộ, chiến sĩ có quyết tâm chiến đấu cao, cộng với lòng

căm thù địch sâu sắc. Vâng! Điều ấy không ai phủ nhận. Song, thử hỏi: một đơn vị

chủ lực vừa đến một chiến trường vùng sâu và trọng điểm, trong khi đối phương

phòng thủ nghiêm ngặt như chiến trường Biên Hoà mà nếu không có cơ sở lực

lượng tại chỗ làm bàn đạp. Đặc biệt, sự quan tâm giúp đỡ của lãnh đạo và nhân

dân địa phương thì những yếu tố cơ bản có được khai thác để đơn vị hoạt động?

Có lẽ lời kể của đại tá - Anh hùng lực lượng vũ trang Trần Công An, nguyên

Tỉnh đội trưởng Biên Hòa, cố vấn đặc biệt cho Trung đoàn 113 từ ngày đầu thành

lập là lời giải đáp cho vấn đề trên.

Sau những thất bại nặng nề trên các chiến trƣờng Ba Gia, Đèo Nhông, Bình

Giã, Plây Me, Đức Cơ, Đồng Xoài... chế độ Sài Gòn ở bên bờ vực sụp đổ. Chiến

lƣợc chiến tranh đặc biệt của Mỹ - ngụy bị phá sản hoàn toàn. Để cứu vãn chế độ

tay sai Sài Gòn, Mỹ chuyển sang chiến lƣợc “chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đƣa quân

đội vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam.

Ngày 15 tháng 2 năm 1965, tôi tham gia cuộc họp đầu tiên của Thị ủy Biên

Hòa tại căn cứ Bà Bƣởi, có cán bộ các ngành tham dự. Cấp ủy quán triệt nghị

quyết của Trung ƣơng Cục về hoạt động mùa khô 1964-1965 (trong khi ta đã đánh

địch tơi bời ở các chiến trƣờng), công bố việc lập Thị đội với nhiệm vụ chiến đấu

nặng nề và các cánh CZ.1, CZ.2, CZ.3, CZ.4 có nhiệm vụ yểm trợ phong trào nội

ô. Anh Ba Lễ Bí thƣ Thị ủy bàn giao mấy cơ sở nội tuyến: một ngƣời làm thơ kí ở

quân đoàn 3, một nhân viên trong sân bay, một cơ sở khác ở Bình Đa (nay là

phƣờng An Bình). Những anh em phối thuộc với tôi chịu trách nhiệm dẫn đƣờng

vì chung quanh thị xã còn nhiều rừng. Lúc này khu vực Long Bình chƣa có kho

bãi nhƣ sau năm 1966 khi Mỹ và chƣ hầu đổ quân vào.

Thị đội Biên Hòa đầu tiên gồm: tôi làm Thị đội trƣởng, anh Ba Lễ là Chính

trị viên, anh Tƣ Răng (Hồ Văn Răng) Ủy viên thƣờng vụ Thị ủy là Thị đội phó.

Lực lƣợng 50 ngƣời do tôi dẫn từ Miền về chia làm ba đội: đội 1 có 12 ngƣời do

Hai Cao (Trần Văn Cao, con tôi) phụ trách đứng chân ở Giang Rễ - núi Bùng Binh

(Vĩnh Cửu) chuẩn bị đánh sân bay Biên Hòa, đội 2 gồm 12 ngƣời do anh Tƣ Già

1 Nguyên Tỉnh đội trưởng Biên Hòa (U1) - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

90

(Nguyễn Văn Thái) chỉ huy ém ở Phƣớc Cang để chuẩn bị đánh cầu xa lộ, đội 3

(12 ngƣời) đứng chân ở Hoá An do anh Hai Rao (Nguyễn Văn Rao) phụ trách, có

anh Tƣ Răng cùng ở. Số hơn 10 ngƣời còn lại thì ở các tổ tham mƣu: anh Lý Sơn

Khai - trợ lý hậu cần, anh Tƣ Hải phụ trách chánh trị, anh Út Hồng (Nguyễn Văn

Hồng) là trƣởng ban giao liên, điện đài cơ yếu anh Ba Láng phụ trách cửa khẩu, y

tá, y sĩ... Căn cứ Thị đội đặt ở suối Đá Mài khu vực Bà Bƣởi, Phƣớc Cang.

Tháng 3 năm 1965 địch mở cuộc càn, đánh vào đây từ sáng tới chiều. Trực

thăng quần riết. Nó bắn cháy lán, mấy trái ĐH.10 tôi mang xuống để trong đó bị

cháy nổ mất tiêu - Tiếc quá! Có vài chuyện suýt quên, đó là: xã đội trƣờng Bến

Gỗ anh ruột Bảy Hoàng làm thịt con chó, anh em bắn thêm đƣợc mấy con cheo

mà không tài nào nấu ăn đƣợc. Anh Tạo ở Văn phòng Thị ủy mặc quần áo rằn ri

của lính ngụy đi ngang, anh em nằm phục lia một loạt trung liên, may không trúng.

Anh Tạo hú hồn!

Từ căn cứ đi ra, anh em gặp một toán từ phía xa bƣơn tới cảnh giác mới hỏi:

- Có phải bộ phận Út Hồng bên đó qua không?

- Không, đây Úc Đại Lợi mà? Bọn thông ngôn ngƣời Việt trả lời.

Nó đặt đại liên, quất cho anh em một chặp rồi hạ trại luôn vì trời vừa tối.

Chúng tôi cuốn gói xách con chó và mấy con cheo đã làm thịt, rút lên suối Đá Mài

mới chụm lại nấu ăn lúc chạng vạng tối. Anh Ba Lễ nói:

- Thôi, không ở đây nữa, về Trảng Bom ở...

Từ chỗ đó lên Trảng Bom đi bộ nửa ngày. Tại nơi ở mới là Hƣng Lộc, tôi

nhận đƣợc lệnh của Miền: Thị đội phải tổ chức pháo kích sân bay Biên Hòa rồi

kéo địch truy kích theo để hai đơn vị Q.761 và Q.762 cơ động phục kích. Nếu địch

ra tới Chiến khu Đ sẽ hợp vây chặn đánh, diệt thêm sạch lực lƣợng địch bên kia

sông. Tôi trao đổi với anh Ba Lễ:

- Tình hình trên chỉ đạo nhƣ vậy, thôi anh ở bên Hƣng Lộc đây; tôi đƣa Thị

đội về bên Giang Rế (Vĩnh Cửu) mới nghiên cứu đánh đƣợc...

Miền tăng cƣờng cho Biên Hòa các anh Mƣời Sói, Hai Mẫn... quân báo Thị

ủy và Thị đội Biên Hòa chỉ đạo một cơ sở mật làm cho hãng thầu Mỹ RMK-BRJ

lấy cho tôi tấm bản đồ sân bay Biên Hòa. Lúc trƣớc, anh em nghiên cứu thực địa

rồi vẽ lại, nay có bản đồ Mỹ chính xác thì việc chấm các tọa độ dễ dàng hơn: máy

bay đậu khu nào, kho ở đâu, bồn xăng dầu đặt chỗ nào, sở chỉ huy sân bay, đài

quan sát, xƣởng máy... Bản thân tôi cùng lăn lộn trên chiến trƣờng, tham gia điều

nghiên các mục tiêu địch với phƣơng châm: nhìn tận mắt, sờ tận tay. Có thể nói

tôi lục lạo kỹ khắp sân bay Biên Hòa, anh em cùng đi nhiều khi phải ngăn lại để

tránh nguy hiểm cho thủ trƣởng. Là chỉ huy, tôi nắm chắc địa bàn tỉnh lị Biên Hòa

và vùng ven nhƣ lòng bàn tay. Sau này, nghe anh em đi trinh sát về báo cáo tôi

hình dung cụ thể ngay nơi anh em đã đến và có ý kiến chỉ đạo thích hợp.

Ngày 5 tháng 5 năm 1965, lữ đoàn 173 Mỹ đổ quân vào Biên Hòa, kế đó là

một tiểu đoàn lính Úc, một đại đội pháo Tân Tây Lan. Vừa đặt chân đến đất Biên

91

Hòa, quân Mỹ và chƣ hầu cho xây dựng cấp tốc một số bến cảng (ở đầu sân bay,

khu kỹ nghệ...), lập tổng kho Long Bình lớn nhất miền Nam, nhiều căn cứ đóng

quân... đồng thời mở nhiều cuộc càn quét cấp tiểu đoàn đánh các xã ở Đông Bắc

huyện Vĩnh Cửu, ven sông Đồng Nai nhằm phá căn cứ, đẩy lực lƣợng cách mạng

ta ra xa sân bay, kho tàng, hậu cứ của chúng. Chúng đóng dày đặc quanh sân bay,

các vị trí chúng tôi chọn trƣớc để đặt pháo bắn vào nay trở thành vị trí của địch.

Đặt pháo xa hơn thì tầm đạn bắn khó chính xác, song Miền chủ trƣơng trận

pháo kích thứ hai này đánh lớn, số pháo và số đạn bắn gấp ba trận đầu (tức trận

pháo 31-10- 1964). Trên cử trinh sát pháo binh xuống gặp, tôi phát biểu với anh

em trinh sát:

- Phải chuyển trận địa qua phía tây nam sân bay, từ trạm cát Hóa An rải tới

Thạnh Hội, đồi Khánh Vân. Điểm chuẩn cho pháo là bồn nƣớc trong sân bay...

Anh em bò vào trinh sát; tính tọa độ tất cả các mục tiêu, đƣa lên bản đồ.

Chúng tôi quyết định lập các trận địa pháo: Hóa An bố trí hai khẩu cối 82 mm, ga

Nhíp Bình Trị đặt hai khẩu ĐKZ.75, đồi Khánh Vân có hai sơn pháo 75 mm, còn

gọi là “hoàng tử lƣng gù”, bìa sông xã Thạnh Hội bố trí hai sơn pháo 75 mm, một

trận địa hai khẩu ĐKZ.75 ở Bàu Hang ngay nách sân bay, một trận địa giả ở Tân

Tịch. Để đƣa pháo vào trận địa, phải giải quyết một loạt việc. Trƣớc hết, phải

nghiên cứu đƣờng hành quân cho pháo, ém đạn, ém quân trƣớc. Tôi liên hệ với

anh Tƣ Minh phụ trách bộ phận an ninh, yêu cầu các anh dọn sạch giùm các phần

tử nghi vấn để Thị đội lót đạn, ém quân an toàn.

Phƣơng án trận đánh thông qua Thị ủy rồi báo lên Bộ Chỉ huy tiền phƣơng

gồm các anh Hòa (Chỉ huy trƣởng), anh Hai Nho và anh Hai Hồng Lâm (Chỉ huy

phó). Sau khi phƣơng án quyết tâm và phần tử bắn đƣợc phê duyệt, có lệnh phát

đạn và cấp pháo. Thị đội Biên Hòa ít nhân lực, tôi phải nhờ anh Lê Bình, Tỉnh đội

trƣởng Phƣớc Thành giúp bảo vệ và đƣa pháo, đạn và quân đi an toàn.

Ngày 20 tháng 8 năm 1965, anh Mẫn chỉ huy pháo ra lệnh xuất kích. Sau khi

ra đƣờng 16, đƣờng 8, đƣờng 12, qua bƣng đồng Bà Nghè, qua cầu Bốn Trụ (chỗ

này địch hay phục kích đánh các đoàn của ta xuống Bửu Hòa, Tân Vạn), mất ba

ngày, pháo đến trận địa an toàn. Kiểm tra kỹ càng các trận địa xong xuôi, tôi về

đứng trên bình phong miễu ga Nhíp Bình Trị chỉ huy trận đánh.

Đúng 0 giờ ngày 23 tháng 8 năm 1965, pháo ta đồng loạt dồn dập nã 300 quả

đạn trong mƣời lăm phút vào các mục tiêu chấm trƣớc. Lửa trong sân bay bốc cao,

sáng rực một vùng. Còi báo động sân bay hú inh ỏi, cách xa khoảng hơn hai cây

số tôi còn nghe thấy. Pháo hiệu xanh đỏ bắn lên tới tấp. Trực thăng địch từ sân

bay Tân Sơn Nhất nhanh chóng ùa lên quần đảo trên trời, thả pháo sáng nhìn rõ

mọi vật nhƣ ban ngày, trái này chƣa tắt đã có trái khác cháy sáng. Bị trận địa giả ở

Tân Tịch đánh lừa, máy bay địch quần riết, nã vô số rốc két đến lúc không phát

hiện đƣợc gì chúng mới quay trở lại quần trên đồng Bà Nghè. Lúc đó lúa ở cánh

đồng này chƣa cao mấy, mỗi khi máy bay rọi đèn, chúng tôi đứng im. Chúng vãi

đạn nhƣng không trúng đích. Chúng tôi rút vào rừng Cò Mi. Sáng hôm sau, lính

92

quân đoàn 3 theo dấu, truy kích. Pháo tháo rời neo xuống giếng, địch tới, anh em

diệt một số, tối lại vớt lên mang đi.

Chúng rút không dám bám theo lên phía Chiến khu Đ. Kết quả trận đánh: ta

phá 68 máy bay các loại, thiêu hủy 21 bồn xăng, đánh hỏng tám dàn tên lửa đất

đối không, 30 xe cam nhông, khoảng 300 tên bị chết và bị thƣơng phần đông là

Mỹ. Trận đánh đƣợc Bộ Tƣ lệnh Miền thƣởng Huân chƣơng Quân công giải

phóng hạng nhất, một số đơn vị tham chiến của T.1 (Quân khu 7) đƣợc huân

chƣơng Chiến công giải phóng hạng nhì, hạng ba. Tôi đƣợc Huân chƣơng Chiến

công giải phóng hạng ba (chỉ giữ cái mảnh giấy ghi bức điện do anh Tƣ Chi - Trần

Văn Trà ký, sau ngày giải phóng mới lãnh huân chƣơng). Đánh hiểm thu thắng lợi

lớn, ai cũng phấn khởi muốn ra trận.

Ngày 5 tháng 9 năm 1965, Trung ƣơng Cục ra quyết định thành lập U1, một

đơn vị tƣơng đƣơng cấp tỉnh bao gồm thị xã Biên Hòa, huyện Vĩnh Cửu (tháng 10

năm 1967 có thêm huyện Trảng Bom nhập vào U1). Các xã An Hòa, Hòa Hƣng,

Phƣớc Tân từ huyện Long Thành đƣợc cắt về thị xã Biên Hòa để mở rộng bàn đạp

đứng chân. Bí thƣ U1 là anh Năm Hà (Nguyễn Văn Trị), anh Ba Lễ (Trƣơng Văn

Lễ) là Phó bí thƣ phụ trách công tác dân vận, tôi là Ủy viên Thƣờng vụ làm Chỉ

huy trƣởng quân sự, anh Mƣời Quang (Tiêu Nhƣ Thủy) là Ủy viên Thƣờng vụ phụ

trách Tuyên huấn, anh Năm Thắng (từ Bình Dƣơng chuyển qua) là Ủy viên

Thƣờng vụ, anh Sáu Vân (ngƣời Tân Triều) Ủy viên Thƣờng vụ, anh Chín Hàm là

Tỉnh ủy viên...

Anh Năm Hà gặp tôi trao đổi một số công việc. Tôi nói:

- Bây giờ anh xác định muốn lập căn cứ Tỉnh ủy tại đâu? Anh có hƣớng, tụi

tôi lựa cho anh. Có căn cứ mới tập hợp nhau về, còn căn cứ của anh Ba Lễ ở tuốt

bên Hƣng Lộc.

Tháng 11 năm 1965, anh Năm Hà chính thức về nhận công tác, đặt căn cứ

tạm ở Bàu Lùng, phía sau núi Giang Tói. Căn cứ Tỉnh đội đặt ở gần đó, ngoài

Vũng Rễ đi vào. Đại đội 238 của tỉnh đƣợc thành lập có quân số hai trung đội

(gồm 20 anh em cũ, cộng với trung đội địa phƣơng huyện Vĩnh Cửu nhập vào và

thêm một số tân binh mới tuyển). Anh Tám Bảo chỉ huy đại đội, anh Tƣ Hải là

Chính trị viên đơn vị cơ động này, phụ trách chốt sân bay. Đơn vị đứng chân ở đồi

C.4. Một trung đội chịu trách nhiệm làm nhà và bảo vệ Tỉnh ủy. Anh em chúng tôi

nhận định: Mỹ đã đổ quân vào Biên Hòa thì trƣớc sau lữ 173 cũng tìm và diệt

mình. Chúng tôi cho anh em bộ đội vừa học nghị quyết, vừa huấn luyện chuẩn bị

đánh càn, vừa sửa sang công sự ở đồi C.4 cũng nhƣ các căn cứ Tỉnh ủy, Tỉnh đội.

Ngày 11 tháng 10, lữ dù Mỹ 173 đổ quân cỡ một tiểu đoàn ngoài Vũng Rễ rồi

tiến vô ngã ba Cây Thị. Chúng hành quân rất thận trọng, chậm chạp đến 3 giờ

chiều mới tới chân đồi. Ta cho trinh sát bám từ sáng, thỉnh thoảng bắn nhử và thụt

lui để dụ chúng đi theo hƣớng của mình. Sau một hồi pháo cấp tập, chúng xung

phong tràn lên. Anh em nằm trong hầm hàm ếch vẫn an toàn, trang bị mạnh: súng

AK, trung liên Liên Xô, thủ pháo dù, thuốc nổ C.4..., sẵn sàng chờ địch. Anh Tám

Bảo rất bình tĩnh, chờ địch tới cách 5 mét mới hạ lệnh nổ súng, bắn từ bụng trở

93

xuống chỉ làm gãy chân địch mà không bắn chết, nhử bọn đi sau lên ứng cứu để

diệt nữa. Địch xông lên nhƣ kiến, bộ đội tung thủ pháo dù. Bọn địch giạt xuống, tổ

chức xung phong tạt hông trận địa. Ta đánh chúng lùi xuống. Địch đánh lên đợt ba

thì đã 5 giờ chiều, lại bị đẩy lùi; đợt này chúng chết và bị thƣơng nhiều nhất. Có

hiện tƣợng địch muốn rút lui: khiêng bọn bị thƣơng, kéo xác chết, ở phía xa chúng

chặt cây dọn bãi cho trực thăng đáp xuống chở xác và bọn bị thƣơng đi. Bộ đội

thấy lính Mỹ không lên thì mình cũng rút ra xa vì dự kiến chúng sẽ dập pháo. Quả

nhiên, máy bay và dàn pháo Tân Tây Lan cấp tập đánh vào đồi C.4. Dàn pháo Tân

Tây Lan rất lợi hại, ngƣời ta không nghe tiếng nổ đầu nòng (đề-pa) thì đạn đã nổ

ùng ục thành loạt không dứt nhƣ ngƣời giã gạo. Nhìn đồi C.4 bị chìm trong khói

lửa ngút trời, có thể tƣởng không sinh vật nào sống sót! Địch rút ngay sau cơn

mƣa pháo, sáng hôm sau anh em ra kiểm tra chiến trƣờng, thu đƣợc một đồng hồ

bắn pháo (sau anh Tô Ký thiếu tƣớng đem ra Bắc trƣng bày ở Bảo tàng Quân đội)1,

một súng Colt 12 và con dao găm Mỹ. Vũ khí thu đƣợc tám súng: một trung liên

Mỹ, một súng AR.15, một súng cối cá nhân M.79; năm khẩu các-bin. Số thƣơng

vong của địch khoảng 70 tên; bên ta một đồng chí hy sinh. Tổ chức theo dõi địch

rút, ta bắn tỉa diệt thêm tám tên.

Trƣớc đây khi chƣa đối mặt với quân Mỹ, ta chƣa hiểu có thể đánh đƣợc Mỹ

không? Qua trận đầu thử lửa, bộ đội U1 thấy Mỹ chẳng đáng sợ nhƣ lời đồn thổi.

Chiến thắng Giang Tói khẳng định: có quyết tâm, “bám thắt lƣng địch mà đánh”,

chúng ta sẽ thắng giặc Mỹ xâm lƣợc.

Trong khi Tỉnh đội Biên Hòa diệt lính lữ 173 Mỹ ở đồi C.4 thì bên kia sông

Đồng Nai, đơn vị Q.761 cũng đánh địch càn, diệt gần một tiểu đoàn Mỹ ở Bàu

Sắn.

Tổng kho Long Bình là nơi dự trữ bom đạn, quân trang quân dụng lớn nhất

của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Địch tiến hành ngày đêm ủi phá rừng Ông Than,

khu vực rừng suối Đá Mài và năm sở cao su ở Long Bình Tân để xây dựng các

nhà kho, các khu chứa bom đạn đủ loại. Tổng kho Long Bình rộng ƣớc 40 ki-lô-

mét vuông, riêng khu để bom đạn rộng hàng chục ki-lô-mét vuông. Mỗi dãy bom

hoặc đạn pháo chất cao 5 mét, dài 30 mét, rộng 15 mét, có hàng mấy ngàn trái/dãy.

Qua một thời gian chuẩn bị, tổ đặc công U.1 gồm các anh Tƣ Già (Nguyễn

Văn Thái), Bùi Văn Hòa, Ba Vàng (Nguyễn Tấn Vàng) đột nhập vào kho Long

Bình nghiên cứu, gỡ lấy một số nhãn bom, đạn pháo mang về cho lãnh đạo Tỉnh

đội nghiên cứu. Đánh vào đây, đạn pháo nổ làm sao anh em rút lui an toàn? Tỉnh

đội cho vài anh xuống bàn đạp Long Thành hỏi về đồng hồ gắn vào kíp hẹn giờ.

Tôi về Miền, họp với Bộ Chỉ huy Miền cùng hai chỉ huy trƣởng Tỉnh đội Thủ

Dầu Một và Tây Ninh. Bộ Chỉ huy yêu cầu chúng tôi tổ chức vành đai diệt Mỹ

không để chúng nống ra. Tôi báo cáo với anh Tƣ Chi (Trần Văn Trà) dự kiến của

mình:

1 Nay là Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam - (Hà Nội).

94

- Tôi muốn đánh kho bom đạn Long Bình. Khắc phục bằng cách dùng kíp nổ

chậm thì ngƣời đánh ra đƣợc an toàn. Đánh nhƣ vậy không biết có chết đồng bào

không? Bộ có đồng ý không?

Anh suy nghĩ một lúc rồi gật đầu, ra lệnh:

- Đƣợc đánh!

- Hồi đó tôi nghe chuyện có ông vua nƣớc Tàu, chuột ăn lƣơng thực riết mà

rồi ông đó thua. Thằng Mỹ nếu ta đánh nó hết đạn thì nó không đánh ta đƣợc... -

tôi nói tiếp, còn ngại rằng Bộ Chỉ huy giao lập vành đai diệt Mỹ mà mình lại bàn

chuyện đánh kho, sợ các anh đánh giá mình chọn việc dễ, bỏ việc khó.

- Ờ đánh, đánh đi... - anh động viên đầy hào hứng.

May đƣợc chấp thuận liền, tôi cử ngƣời xin thuốc nổ, anh điện ra lệnh cho

quân lực Miền cấp ngay cho vài trăm ki-lô-gam. Ai dè anh cán bộ tham mƣu chỗ

tôi lãnh về, mang ra đánh mấy cái cầu 17, 19 và đánh sập cống Đại An gây ngập,

đồng bào kiện thƣa lùm xùm. (Đánh cầu và cống để ngăn địch hành quân lên).

Khi tôi về đến nhà, thuốc nổ hết. Tỉnh đội cử anh Ba Vàng xuống chỗ anh Tƣ

Hồng (ở Y.4 tại Long Thành) học cách cấu trúc đồng hồ gài vào kíp mìn hẹn giờ.

Anh em tìm bom chƣa nổ, cƣa lấy thuốc, hỏi anh Hai Hiệp cách làm trái. Anh Hai

Hiệp chỉ cách nấu thuốc rồi đổ vào vỏ mìn, nhƣng anh em chƣa biết làm, sợ thuốc

kích nổ bất tử nên cho giã thuốc thiệt nhuyễn rồi lèn chặt vào thùng mỡ 10 ký, dùi

lỗ tạo vị trí gắn kíp điện. Thí nghiệm thành công tốt đẹp tổ đặc công gồm sáu

ngƣời thuộc Đại đội 2 đặc công do các anh Nguyễn Tấn Vàng và Tƣ Thái chỉ huy,

hạ quyết tâm dù hy sinh cũng đánh. Đêm 22 rạng 23 tháng 6 năm 1966 các anh

mang theo bốn trái mìn tự tạo (mỗi trái 10 ký thuốc nổ) tiềm nhập kho 50 ở Long

Bình. Mỗi thùng đựng đạn pháo (hai viên lớn hoặc bốn viên nhỡ), địch xếp chồng

lên nhau nhƣ ta xếp gạch, thành từng lô cỡ một mẫu, có đƣờng chữ thập chạy giữa

kho để lính đi tuần. Đã sờ tận tay và đếm kỹ, anh em biết rõ mỗi dây có bao nhiêu

thùng đạn pháo cỡ nào (175 mm, 155 mm, 105 mm...)

Anh em đặt bốn trái ở bốn góc của lô đạn ở phía trong sâu rồi rút ra ngoài

phạm vi kho khá xa, chờ kết quả. Đạn kích nổ dây chuyền từ 11 giờ khuya đến

sáng hôm sau, sức ép sóng nổ phạt ngang khá nhiều cây cối trong vùng. Tính ra

anh em đã phá 40 ngàn viên đạn - pháo.

Sáng ra, viên thiếu tƣớng Mỹ phụ trách hậu cần từ Sài Gòn lên thị sát. Một số

viên đạn pháo văng ra tận đƣờng 15, thuốc mồi bị cháy, hạt nổ chƣa lắp, thuốc bên

trong chƣa cháy. Ngày 23 tháng 6, xe cộ bị cấm chạy trên đƣờng 15, sợ cán đạn

nổ. Một nhà báo hỏi viên tƣớng Mỹ:

- Tại sao Việt cộng đánh mà các ông không biết?

- Nếu tôi biết thì tôi đã là Việt cộng... -Nó chua chát trả lời:

Đài, báo địch nói vụ nổ làm bể kiếng nhiều nhà cửa ở Sài Gòn và Biên Hòa.

Bà con tỉnh lỵ cho biết nhà cửa ở đây rung rinh liên tiếp nhƣ bị động đất. Tỉnh đội

chƣa báo cáo ngay lên trên vì còn muốn biết các chiến sĩ có rút lui an toàn không.

95

Miền điện hỏi bên Thủ Đức về trận đánh Long Bình, Huyện đội Thủ Đức trả lời

không đánh. T.1 cũng không đƣợc báo cáo, trận đánh này đƣợc tặng huân chƣơng

Quân công giải phóng hạng ba.

Địch chuẩn bị mở trận càn Gian-xơn Xi-ti (Junction City) có qui mô vào loại

lớn. Cấp trên ra lệnh cho chúng tôi đánh tiếp, đánh mạnh, đánh dài hơi.

Ba tháng 10, 11, 12 năm 1966 Đại đội 2 đặc công U.1 mƣu trí táo bạo ba lần

đánh vào kho Long Bình, phá hủy 353 ngàn quả đạn pháo 175, 155 và 105 mm,

rocket và bom... đƣợc công nhận là lá cờ đầu toàn Miền trong việc đánh kho tàng

địch, đƣợc thƣởng huân chƣơng Quân công giải phóng hạng nhất. Nhiều cán bộ,

chiến sĩ của đơn vị đƣợc thƣởng huân chƣơng Chiến công giải phóng các hạng.

Phong trào đánh Mỹ, diệt ngụy giành các danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, Dũng sĩ diệt

xe tăng... do Bộ Chỉ huy Miền phát động dấy lên sôi nổi ở khắp các đơn vị võ

trang, các huyện và xã...

Đêm 3 tháng 2 năm 1967, đặc công Biên Hòa vào kho trên đồi 53 đặt trái làm

40 dãy chất đầy bom đạn nổ tung ba ngày đêm liền. Bộ Tƣ lệnh Miền gởi điện

khen và tặng huân chƣơng Quân công hạng nhất.

Trong và sau chiến dịch Gian-xơn Xi-ti, Bộ Tƣ lệnh Miền chỉ thị cho U.1 tích

cực đánh sân bay Biên Hòa để giảm bớt mức độ tập trung hỏa lực máy bay trên

chiến trƣờng. Khu ủy và Quân khu cũng chủ trƣơng mở đợt tiến công mùa mƣa

vào hậu cứ sân bay, kho tàng địch để bảo vệ Chiến khu Đ, phá thế bao vây của

địch, tiêu hao và tiêu diệt một phần sanh lực địch cùng các phƣơng tiện chiến

tranh của chúng.

Con trai lớn của tôi là Hai Cao lúc này là Đại đội phó đặc công U.1 đƣợc gọi

về Sở Chỉ huy. Hai Cao tới. Tôi ra lệnh:

- Trần Văn Cao chỉ huy một tổ đặc công vào điều nghiên kỹ sân bay Biên

Hòa trƣớc ngày 10 tháng 4 năm 1967.

- Thƣa cha, rõ!

Trong công tác, tôi bao giờ cũng giữ nguyên tắc: không vì tình cảm gia đình

mà chỉ giao việc dễ, tƣơng đối an toàn cho con mình. Tiềm nhập sân bay Biên

Hòa là công việc rất khó, nguy hiểm, có anh em vô đã bị chó Bẹcgiê Mỹ bắt sống.

Nếu chỉ giao cho các đồng chí khác cùng trạc tuổi, có khi nhỏ hơn Hai Cao, làm

việc khó khăn, thiệt không công bằng... Nhƣ vậy tôi khó lãnh đạo, chỉ huy; còn

biết bao nhiêu đòi hỏi thử thách to lớn anh em đang ở phía trƣớc. Tôi xúc động

dặn dò:

- Cẩn thận và làm tốt, nghe con!

Đêm đó, Hai Cao cùng ba đồng chí Chu, Chiến và Quang vƣợt nhiều hàng

rào, bãi mìn và nắm cách bố phòng hệ thống doanh trại, khu chứa máy bay, quy

luật hoạt động tuần tra canh gác của địch... Hôm sau, tôi nghe báo cáo, đồng thời

xác minh bản đồ do cơ sở mật (anh hạ sĩ Bến) đƣa ra. Suy nghĩ cân nhắc kỹ, tôi

thấy tổ điều nghiên của Hai Cao chƣa nắm chắc vị trí phần lớn máy bay Mỹ trực

96

chiến đậu gần đƣờng băng sẵn sàng cất cánh. Theo tin tình báo, máy bay Mỹ trực

chiến có lúc tới vài chục chiếc. Ta biết chính xác chỗ máy bay tập trung, sẽ dùng

lực lƣợng đặc công cƣờng tập hoặc dập pháo trúng một chiếc, chiếc này cháy nổ

lan ra nhiều chiếc khác thì hiệu suất chiến đấu rất cao (còn ở mỗi ụ xăng chỉ có

một, hai chiếc). Ngoài ra phải nắm kho xăng, kho bom đạn... là các mục tiêu cần

đánh. Tôi ra lệnh mới:

- Tổ điều nghiên của Trần Văn Cao tiếp tục làm nhiệm vụ phù hợp với chiến

thuật kỳ tập bằng lực lƣợng lớn từ trong đánh ra, sau đó pháo ta dập. Lần này phải

nắm kỹ hơn, cụ thể hơn, rờ tận tay, nhìn tận mắt các mục tiêu qua ánh đèn pha

địch...

Không ngờ lần này lúc Hai Cao trở ra dính mìn gãy chân phải. Ba đồng chí

thay nhau cõng thƣơng binh về Sở Chỉ huy U.1 ở Bàu Hàm. Báo cáo của Hai Cao

cụ thể, chính xác giúp pháo ta đánh trúng nhiều mục tiêu trong sân bay, nên về sau

Hai Cao đƣợc thƣởng Huân chƣơng Chiến công giải phóng. Tôi rất thƣơng con bị

mìn gãy chân song bề ngoài phải bình tĩnh ra lệnh đƣa Hai Cao đi quân y điều trị.

Là bộ đội chiến đấu với kẻ địch trang bị mạnh, thì thƣơng vong là chuyện bình

thƣờng. Nếu lúc đó tôi tỏ ra quá săn sóc riêng con trai, sẽ không tránh khỏi nhận

xét này nọ của đồng chí, đồng đội, có thể lời tôi về sau sẽ kém sức nặng.

Tháng 3 năm 1967, đội biệt động thị xã Biên Hòa do đồng chí Sáu A chỉ huy

đánh kho xăng dầu Phƣớc Lƣ làm cháy hai bồn dầu lớn gần hai triệu lít gần một

ngày đêm địch mới dập đƣợc. Đơn vị đã đƣợc thƣởng huân chƣơng Chiến công

giải phóng hạng nhất.

Trong tháng này, Bí thƣ Tỉnh ủy là anh Năm Kiệm (Năm Hà, Nguyễn Văn

Trị) chỉ thị Tỉnh đội tổ chức tổng kết thi đua năm 1965-1966. Tôi lên Miền lãnh

ba Huân chƣơng Quân công giải phóng (hạng nhất, nhì, ba) và 29 huân chƣơng

Chiến công giải phóng các hạng về trao cho các đơn vị và cá nhân lập đƣợc thành

tích xuất sắc trong thời gian qua và phát động đợt thi đua mới. Sau đó tôi đi học

rồi họp hội nghị về chiến tranh du kích do Tham mƣu Miền tổ chức. Từng tỉnh

báo cáo kinh nghiệm đấu tranh chánh trị, quân sự để học tập lẫn nhau và nhân

rộng điển hình.

(Trong khi tôi đi học, má tôi là bà Nguyễn Thị Phố qua đời ở quê nhà ngày

25 tháng 4 Đinh Mùi (tức ngày 2 tháng 6 năm 1967) vì bị phong đòn gánh (uốn

ván). Bà con xóm làng cùng với cháu dâu (vợ Hai Cao) lo an táng bà già chu đáo.

Bọn địch rình rập miết, đoán thế nào con và các cháu cũng về nên chúng chăng

lƣới chờ sập bẫy; song công cốc vì không ai về).

Đêm 11 tháng 5 năm 1967, Trung đoàn pháo ĐKB 274 (do đồng chí Hàm và

Tô Đê chỉ huy) đặt trận địa ở Tân Tịch bắn 108 trái tên lửa 122 mm vào sân bay

Biên Hòa. Hai khẩu cối 82 mm của Tỉnh đội U.1 phối hợp bắn 20 trái. Kế hoạch

pháo kích dựa vào kết quả điều nghiên của Hai Cao trƣớc đây. Trong sân bay

bùng lên nhiều đám cháy lớn và tiếng nổ, ta diệt nhiều giặc lái và sĩ quan, nhân

viên kỹ thuật Mỹ - ngụy. Sau trận đánh, Tỉnh đội U.1 dắt một con bò lên tặng để

97

Quân khu tổ chức liên hoan với Đoàn pháo binh ĐKB. Anh Hai Hồng Lâm rất

mừng:

- Định kiếm con nam mà bắn không đƣợc...

*

* *

Tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ trọng đại, cấp bách cho

toàn Đảng, toàn dân, toàn quân là thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên

toàn miền Nam nhằm giành thắng lợi chiến lƣợc mới.

Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, Trung ƣơng Cục và Quân ủy Miền bố

trí lại chiến trƣờng, giải thể Khu miền Đông, lập sáu phân khu, hình thành những

mũi tiến công vào Sài Gòn, đầu não của Mỹ - ngụy, một trọng điểm của cuộc

Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968.

Lúc này trên chiến trƣờng Biên Hòa - Long Khánh - Bà Rịa, quân số địch

đông khoảng 30 ngàn tên gồm: ba lữ đoàn Mỹ (lữ dù 173, lữ 199 bộ binh, lữ 314

bộ binh), trung đoàn thiết giáp 11 ở suối Râm, hai trung đoàn pháo binh 105 và

155 mm của Mỹ, một trung đoàn lính hoàng gia Úc ở Long Đất. Quân đội Sài Gòn

có: năm tiểu đoàn lính thủy đánh bộ và dù, sƣ đoàn 18 bộ binh (gồm ba trung đoàn

43, 48, 52), sƣ đoàn 3 không quân đóng sân bay Biên Hòa, hai trung đoàn pháo,

một trung đoàn thiết giáp, hai tiểu đoàn biệt động quân, ba đại đội lực lƣợng đặc

biệt, bảy đại đội trợ chiến... chƣa kể bộ máy tề, dân vệ, cảnh sát mật vụ chìm nổi

hàng ngàn tên. Võ khí trang bị của chúng rất hùng hậu: ba bốn trăm máy bay các

loại, hàng ngàn xe tăng, xe thiết giáp và xe cơ giới, hàng trăm khẩu pháo các cỡ...

Khi chuẩn bị vào đợt, U.1 đƣợc Miền xác định là địa bàn chiến lƣợc quan

trọng. Ngày 20 tháng 12 năm 1967, đồng chí Lê Đức Anh, Phó tƣ lệnh kiêm Tham

mƣu trƣởng Bộ Chỉ huy quân sự Miền xuống triệu tập hội nghị triển khai kế hoạch

tại Bàu Sao. Tham dự gồm đại diện các đơn vị cơ quan: Bộ Tƣ lệnh Sƣ đoàn 5,

Tỉnh ủy U.1, Thị ủy Biên Hòa, các Huyện ủy Vĩnh Cửu và Trảng Bom.

Kế hoạch tiến công vào các mục tiêu đƣợc bàn bạc thống nhất cụ thể: sân bay

Biên Hòa, tổng kho Long Bình, bộ tƣ lệnh dã chiến 2 của Mỹ, sở chỉ huy quân

đoàn 3 ngụy, dinh tỉnh trƣởng, nha đặc cảnh miền Đông, ty cảnh sát Biên Hòa, chi

khu Công Thanh, yếu khu Trảng Bom. Ở các xã ấp cán bộ, du kích và cơ sở phát

động nhân dân nổi dậy diệt ác phá kềm giành quyền làm chủ địa phƣơng. Lực

lƣợng ta tham chiến trên địa bàn U.1 gồm: Sƣ đoàn 5 (thiếu một trung đoàn nhƣng

đƣợc tăng cƣờng một tiểu đoàn pháo ĐKB của Miền), hai tiểu đoàn đặc công, đội

biệt động U.1, hai trung đội bộ đội địa phƣơng huyện Vĩnh Cửu và Trảng Bom,

mỗi xã có một tiểu đội du kích ngoài ra còn có khoảng 300 cơ sở mật nòng cốt ở

các ô, ấp của thị xã Biên Hòa. So sánh tƣơng quan lực lƣợng ta - địch tỷ lệ 1/10.

Nhân dân ta có câu ngạn ngữ để chỉ tình hình trên: “Châu chấu đá xe”. Báo chí ta

có lần viết:

98

“Nực cười châu chấu đá xe,

Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng”.

Chỉ nhìn số liệu mà so sánh, nhiều ngƣời chắc không dám đánh vì khớp,

nhƣng chúng tôi dám đánh vì chúng tôi có chánh nghĩa sáng ngƣời, có sự lãnh đạo

sáng suốt của Đảng, của Bác Hồ, có đông đảo nhân dân hậu thuẫn.

Phổ biến xong chỉ thị của Trung ƣơng, anh Lê Đức Anh chỉ định Bộ Chỉ huy

và Đảng ủy mặt trận gồm: anh Trần Minh Tâm, Sƣ đoàn trƣởng Sƣ đoàn 5 là Chỉ

huy trƣởng, tôi là Chỉ huy phó, anh Sáu An (Lê Xuân Lựu), Chính ủy Sƣ đoàn 5

làm Bí thƣ Đảng ủy, anh Năm Trang (Phan Văn Trang) Bí thƣ U.1 làm Phó bí thƣ

Đảng ủy kiêm Phó chính ủy, anh Hai Dũng là Phó chính ủy Sƣ đoàn 5 làm Phó

chính ủy. Anh Sáu An và Đặng Ngọc Sĩ (Tham mƣu trƣởng Sƣ đoàn 5) đƣợc phân

công trực tại Sở Chỉ huy cơ bản.

Sở Chỉ huy tiền phƣơng đặt tại sở Rác đồi Bà Già cách các mục tiêu khoảng

bảy ki-lô-mét. Tại đây có mặt các anh Trần Minh Tâm, tôi, anh Năm Trang, anh

Hai Dũng, anh Hai Hồng, tham mƣu tác chiến thƣờng trực khi sắp bắt đầu trận

đánh.

Tôi là dân địa phƣơng, thông thuộc địa bàn thị xã Biên Hòa. Trƣớc khi nổ ra

chiến dịch ít ngày, tôi trực tiếp dẫn anh Trần Minh Tâm, anh Nguyễn Thanh Hồng

và bốn chiến sĩ đi thực địa. Vì thời gian quá gấp, các đơn vị chủ lực không có điều

kiện nghiên cứu tỉ mỉ địch tình. Đi gần tới lô cốt phía đông sân bay, tôi chỉ cho

anh Trần Minh Tâm và số cán bộ đi cùng:

- Chỗ này có thể mở đột phá khẩu...

Đi thị sát tiếp bên ngoài sở chỉ huy quân đoàn 3, anh Năm Tâm chẳng may

đạp trúng miểng chai sắc, máu ra nhiều đau chân không đi đƣợc. Không chần chờ,

tôi cõng anh một chặng dài trên đƣờng sắt; ảnh nhớ mãi sự kiện này.

Tới khu vực bộ tƣ lệnh dã chiến 2 Mỹ, tôi cũng chỉ cho các anh chỗ nào có

thể đánh vào... Lúc trở về ngang đƣờng ghé xem lại sở chỉ huy trên đồi Bà Già, tới

sông Mây anh em đói meo. May tôi đem theo một gói mì ăn liền, lấy ra cùng anh

em nấu với lá khổ qua rừng, mỗi ngƣời húp một chén lõng bõng lấy sức.

Chiều ngày 24 tháng 12 năm 1967, kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy trên

địa bàn U.1 đƣợc thông qua. Đảng ủy và Bộ Tƣ lệnh mặt trận hạ quyết tâm gởi về

Bộ Tƣ lệnh Miền. Ban Cán sự Đảng và các cán bộ chỉ huy Tỉnh đội tham dự cuộc

họp Tỉnh ủy U.1 (mở rộng), các Tỉnh ủy viên đƣợc phân công trực tiếp chỉ đạo các

mũi tiến công và nổi dậy. Công tác hậu cần chuẩn bị gấp; các Đoàn 81, Đoàn 84

mở nhiều cửa khẩu thu mua đƣợc 500 tấn gạo, thực phẩm, nhu yếu phẩm, bố trí 3

tuyến phục vụ cho mặt trận. Riêng hậu cần Tỉnh đội U.1 do anh Tƣ Hải phụ trách

móc nối bà con Trà Cổ đổ 15 tấn gạo và thực phẩm ở khu vực Vƣờn Cam xã Bàu

Hàm 2. Anh Tám Bảo (Nguyễn Văn Bảo) đƣợc giao nhiệm vụ đóng ghe đi tải

súng đạn từ Chiến khu Đ về cất giấu ở Bàu Hàm, chuẩn bị phân phối khi vô đợt.

99

(Ở đây cần nhắc tới đồng chí Bình - (Bình đen) ở xƣởng quân giới 14 đóng

16 chiếc ghe chở quân qua sông Đồng Nai, nhƣng tới nay đồng chí này chƣa đƣợc

khen thƣởng gì).

Võ khí đƣợc anh Bảy Hoàng chuyển vào nội ô cất giấu ở nhà một số cơ sở

nhƣ nhà má Ba Xuân (xóm Gò Me), ông Lộc (phƣờng Quyết Thắng bây giờ)...

Trƣớc khi trận Tổng công kích bắt đầu, Bộ Chỉ huy Tỉnh đội U.1 cần một

chiến sĩ thông tin dẫn đƣờng cho báo vụ điện đài đến Sở Chỉ huy tiền phƣơng đặt

ở sở Rác. Tổ trƣởng thông tin là Khải con trai tôi - cử luôn em nó là Trần Văn

Mun lúc đó 16 tuổi đƣa một chiến sĩ báo vụ đến Sở Chỉ huy tiền phƣơng đào hầm

đặt điện đài. Trên đƣờng quay về căn cứ, hai ngƣời lọt ổ phục kích địch bị hy sinh.

Địch chôn ngay xác chiến sĩ báo vụ tại đó, chỉ còn lại đôi dép và bình dầu hôi

Mun mang theo vứt ở bên cạnh. Mun mất tích. Hai ngƣời hy sinh đúng đêm 27

tháng 1 năm 1968, trƣớc khi lệnh Tổng tiến công và nổi dậy phát ra bốn ngày. Sau

đợt, Tỉnh đội U.1 cử anh em đi tìm thì mới biết tin này. Tôi thƣơng Mun nhất

trong số các con vì nó thông minh, chịu khó. Nhƣng trăm công ngàn việc đang đổ

dồn lên vai, tôi âm thầm chịu đựng, nƣớc mắt chảy vào tim, không để lộ ra ngoài.

Tổn thất chung rất lớn, mất mát của riêng gia đình tôi thì thấm vào đâu. Chỉ khi đã

có thể nghỉ ngơi chút đỉnh, nỗi đau mới vò xé tâm can ngƣời cha - chiến sĩ. Về sau,

bà xã tôi biết tin, đã ngất xỉu trƣớc cái tang đau đớn này.

Chiều ngày 30 tháng 1 năm 1968 (mùng 1 Tết Mậu Thân). Sƣ đoàn 5 từ Chiến

khu Đ vƣợt sông Đồng Nai về tập kết ở hóc Ông Tạ, xã Tân Định huyện Vĩnh

Cửu. Tiểu đoàn 1 đặc công của U.1 cùng lực lƣợng biệt động thị xã Biên Hòa, bộ

đội các huyện Trảng Bom, Vĩnh Cửu cũng tập hợp về đây ăn Tết và làm lễ xuất

quân. Anh Trần Minh Tâm đọc thơ Bác Hồ gởi đồng bào và chiến sĩ cả nƣớc, kết

thúc bằng bài thơ hạ mệnh lệnh tiến công:

“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,

Thắng trận tin vui khắp nước nhà.

Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ

Tiến lên!

Toàn thắng ắt về ta!”

Anh động viên cán bộ, chiến sĩ cán đơn vị hạ quyết tâm vào đợt Tổng tiến

công và nổi dậy đúng thời gian quy định với khí thế cách mạng cao nhất. Trong

khi đó, một lữ đoàn thuộc sƣ đoàn không kỵ Mỹ mở cuộc càn quét thọc vào phía

sau căn cứ ở Đại An nhằm thăm dò lực lƣợng ta.

Đêm 31 tháng 1 năm 1968 (mùng 2 Tết) Sƣ đoàn 5 chia làm hai cánh: cánh

thứ nhất hành quân xuống dãy đồi Bùng Binh, theo đƣờng Hốc Bà Thức tiến công

sân bay Biên Hòa và quân đoàn 3 ngụy.

Cánh thứ hai cùng sở chỉ huy tiền phƣơng xuống Kẻ Sặt (Hố Nai) tiến công

bộ tƣ lệnh dã chiến 2 của Mỹ đặt trong tổng kho Long Bình.

100

Lực lƣợng biệt động thị xã và cán bộ phát động quần chúng đã vào ém trƣớc

trong nội ô.

Các đơn vị pháo ĐKB, bộ đội địa phƣơng và du kích ở hai huyện Vĩnh Cửu,

Trảng Bom hành quân chiếm lĩnh trận địa trƣớc giờ G.

Cùng đêm 31 tháng 1, Tiểu đoàn 2 đặc công U.1 do anh Tƣ Già (Nguyễn Văn

Thái) chỉ huy đánh vào khu vực đồi 53 tổng kho Long Bình, phá hủy 127 dãy bom

đạn, tiếng nổ kéo dài ba ngày đêm không dứt.

0 giờ ngày 1 tháng 2 năm 1968, pháo ĐKB đặt ở Tân Tịch, Thƣờng Lang

(Tân Uyên) và Đồng Lách (Vĩnh Cửu) đã bắn đồng loạt dồn dập 108 trái vào sân

bay Biên Hòa làm hiệu lệnh mở màn cuộc tiến công chung. Trong lúc này, do trời

tối, lạ đƣờng nên một bộ phận bộ đội Sƣ đoàn 5 chƣa triển khai xong quân.

Đại đội đặc công U.1 cùng Đại đội 1 (thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 4) đột

nhập sân bay Biên Hòa. Anh em tung hoành giữa bầy quân cảnh Mỹ, bảo an ngụy

bảo vệ sân bay, dùng thủ pháo dù đánh hỏng từng chiếc máy bay đậu trên đƣờng

băng. Tiếng nổ gây chấn động toàn thị xã Biên Hòa. Mấy chiếc trực thăng võ

trang Mỹ từ bộ tƣ lệnh dã chiến 2 của Mỹ lên bắn rốc két xuống đội hình quân ta.

Hai đại đội vẫn ngoan cƣờng bám trụ ở một góc sân bay đánh trả các đợt phản

kích quyết liệt của địch. Pháo Sƣ đoàn 5 chi viện cho anh em phát triển đánh vào

khu nhà ở của bọn phi công, chuyên viên kỹ thuật. Anh em loại khỏi vòng chiến

đấu hàng trăm tên. Không đƣợc tiếp viện ngƣời và võ khí, lực lƣợng ta bị hỏa lực

địch làm tiêu hao nhanh chóng. Anh em hy sinh hầu hết, chỉ còn đồng chí Trung

đội trƣởng (của đại đội 1, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 4) và anh Dũng (Đại đội

trƣởng Đại đội đặc công U.1).

Đại đội đặc công Sƣ đoàn 5 đƣợc đội biệt động U.1 dẫn đƣờng, tiến công vào

phía tây sở chỉ huy quân đoàn 3, ta lọt vào trong một số nhƣng địch tập trung quân

tổ chức phản kích ác liệt, đẩy bật lực lƣợng ta ra khỏi vị trí chiếm đƣợc.

Một tiểu đoàn của Trung đoàn 5 (Sƣ đoàn 5) lọt vào trong khu vực bộ tƣ lệnh

dã chiến 2 của Mỹ, lập tức bị chúng tung quân phản kích. Máy bay trực thăng võ

trang quần đảo bắn xối xả và phóng rốc-két bịt cửa mở chặn đƣờng rút của bộ đội

ta. Tiểu đoàn 2 bị hãm trong vòng vây đánh trả quyết liệt bộ binh cơ giới địch

song đơn vị bị tiêu hao nặng.

6 giờ sáng ngày 1 tháng 2 năm 1968, Bộ Chỉ huy tiền phƣơng thống nhất đƣa

Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 5 là thê đội 2 vào chiến đấu, cử anh Nguyễn Thanh Hồng

chỉ huy tiếp viện cho Tiểu đoàn 2. Nhƣng xe tăng địch bịt cửa mở, Tiểu đoàn 3

không vào đƣợc khu vực bộ tƣ lệnh dã chiến 2, tiếp tục bám trụ ở khu gia binh và

địa hình còn cây chồi lúp xúp phía tây nam xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn. Suốt ngày

hôm đó, máy bay và pháo địch bắn vào đội hình tiểu đoàn, gây thƣơng vong nặng

cho ta.

Trên cơ sở tin tức nhận đƣợc từ các mũi, chiều ngày 1 tháng 2 Bộ Chỉ huy

tiền phƣơng họp kiểm điểm tình hình: ta đã đánh một số mục tiêu quan trọng, thể

hiện quyết tâm chiến đấu rất cao dù thƣơng vong nhiều. Bộ Chỉ huy quyết định:

101

các anh Trần Minh Tâm, Hai Dũng và Hai Hồng ở lại Sở Chỉ huy tiền phƣơng tiếp

tục tổ chức chỉ huy chiến đấu; còn anh Năm Trang và tôi huy động lực lƣợng của

U.1 đƣa 250 thƣơng binh vƣợt sông Đồng Nai dƣới tầm hỏa lực địch tại bến Cây

Gáo giao cho trạm quân y tuyến giữa tiếp nhận an toàn.

Đội biệt động U.1 do anh Bảo Khánh chỉ huy bị địch đi tuần tiễu phát hiện

chặn đánh nên không tiếp cận đƣợc các mục tiêu: dinh tỉnh trƣởng, ti cảnh sát

Biên Hòa và nha cảnh sát miền Đông. Cuộc tiến công của ta nói chung không giúp

đƣợc cơ sở và quần chúng nội ô nổi dậy. Cánh CZ.1 của anh Ba Lễ, chị Năm Hoa,

Cô Huỳnh Lan Anh phụ trách phát động quần chúng treo cờ Mặt trận, tìm diệt ác

ôn ở các ấp Lân Thành, Núi Đất, Vĩnh Thị, Bình Đa, An Hảo, khu kỹ nghệ Biên

Hòa... khá sôi nổi.

Ở cánh CZ.2, các anh chị Năm Thắng, Năm Hiền, Sáu Thanh... cũng phát

động quần chúng treo cờ ở nhiều ấp thuộc các xã Hiệp Hòa, Tân Vạn, Bửu Hòa,

Bửu Long. Nhân dân chờ đón bộ đội và các lực lƣợng giải phóng vào. Bộ đội đặc

công U.1 do anh Hai Rao chỉ huy diệt gọn đồn Tân Thành (có 1 trung đội lính bảo

an giữ), thu 24 súng. Khi đơn vị phát triển vào ấp Cây Chàm, do không liên lạc

đƣợc với cánh phía đông (cánh này không vào đƣợc trung tâm tỉnh lị) để phối hợp

đánh các mục tiêu đƣợc giao, phải rút lui. Trực thăng võ trang Mỹ bắn trúng đội

hình, đồng chí Hai Rao hy sinh.

Hiệp đồng tác chiến giữa các mũi, các cánh không chặt, lực lƣợng võ trang ta

không hạ đƣợc ty cảnh sát, dinh tỉnh trƣởng... nên mũi nổi dậy của quần chúng

không đều, không mạnh ở từng khu vực ven ô.

Tại Trảng Bom, anh Hai Hiệp, Tham mƣu trƣởng Tỉnh đội U.1; anh Hai Đậm

Huyện đội trƣởng huyện Trảng Bom và anh Ba Thái, Bí thƣ Huyện ủy, chỉ huy

lực lƣợng võ trang huyện phối hợp với một trung đội công binh thuộc Đại đội 25

của tỉnh tiến công yếu khu Trảng Bom. Ta diệt đƣợc ruột số bót nhỏ chung quanh,

song địch tập trung lực lƣợng phản kích mạnh. Bộ đội không chiếm đƣợc đồn

chính, song đã làm chủ thị trấn một ngày. Quần chúng đƣợc phát động nổi dậy

tham gia diệt ác phá kềm ở các xã dọc quốc lộ 1: Trảng Bom 1, Trảng Bom 2, Bàu

Hàm 1, Bàu Hàm 2... làm gián đoạn giao thông trên quốc lộ 1 trong thời gian ngắn.

Tại xã Hƣng Lộc và ngã ba Dầu Giây, lực lƣợng võ trang huyện phối hợp với

2 trung đội của Đại đội 25 công binh, nổ súng đánh một số đồn bót, làm chủ ngã

ba Dầu Giây và các ấp dọc quốc lộ 1. Ta phát động quần chúng tiếp tế cho bộ đội,

làm chủ ấp ba ngày. Sau đó địch mang quân phản kích, bắn phá, đốt nhiều nhà cửa

nhân dân ở các ấp Hƣng Lộc, Hƣng Nghĩa...

Ở huyện Vĩnh Cửu (địch đặt tên là quận Công Thanh), các anh Nguyễn Văn

Tuất, Tỉnh đội phó U.1, Bảy Chí (Mai Sơn Việt) và Nguyễn Công Thành, Bí thƣ

Huyện ủy, chỉ huy bộ đội địa phƣơng huyện phối hợp với một tổ đặc công U.1

tiến công bao vây chi khu Công Thanh (nay thuộc xã Thạnh Phú), làm chủ thị tứ

này suốt hai ngày liền. Cán bộ, du kích các xã Thiện Tân, Tân Định, Tân Phú, Lợi

Hòa, Bình Hòa, Bình Phƣớc, Đại An cùng với cơ sở mật phát động nhân dân bao

vây nhiều đồn bót, tìm diệt ác ôn, phá rã bộ máy tề ngụy ở xã ấp. Địch mang xe

102

tăng và bộ binh từ quân đoàn 3, từ Hóc Bà Thức lên giải vây. Các đơn vị ta rút về

ấp Cây Da (Tân Phú) xây dựng công sự đánh phản kích. Lực lƣợng võ trang ta đẩy

lui nhiều đợt tấn công của Mỹ - ngụy, bắn cháy 14 xe tăng và thiết giáp, diệt 84

tên trong đó có viên quận trƣởng Đỗ Quang Tiên, lúc lực lƣợng ta bị vây chặt

trong ấp.

Ngày 4 tháng 2 năm 1968, máy bay Mỹ ném bom napan (bom xăng đặc) hủy

diệt ấp Cây Da. Hai anh Tƣ Tuất (Nguyễn Văn Tuất) và Sáu Thành (Nguyễn Công

Thành) bị phỏng, lực lƣợng ta bị tiêu hao nặng, số còn lại phá vây rút lui. Đồng

chí Kiệt - Bí thƣ chi bộ xã Bình Phƣớc - ở lại, diệt chín tên Mỹ sau đó rút lui về

Gò Găng, vƣợt sông Đồng Nai qua Chiến Khu Đ rồi nhanh chóng vòng về Bình

Phƣớc tiếp tục lãnh đạo xã.

Kết quả của đợt tập kích Xuân Mậu Thân ở địa bàn U.1: ta loại khỏi vòng

chiến đấu hơn 5.000 tên địch, nhiều viên chức chánh quyền Sài Gòn và ngụy quân

chạy trốn đến hơn hai tuần sau mới trở về nhiệm sở. 120 máy bay các loại bị phá

hủy, 127 dãy kho bom đạn nổ tung trong các kho ở Long Bình. Ta giải phóng

nhiều ấp, xã ở mức độ khác nhau, phá rã nhiều cơ sở tề ngụy.

Các lực lƣợng võ trang nhân dân U.1 đánh thiệt hại nặng một chi khu, một

yếu khu và giữ đƣợc từ hai đến ba ngày, tác động lớn đến tƣ tƣởng quân địch, gây

phấn khởi cho nhân dân toàn tỉnh.

Tổn thất của ta ở Biên Hòa không nhỏ: Sƣ đoàn 5 thƣơng vong 1.100 ngƣời,

U.1 là 500 (tổng cộng 1.600 cán bộ chiến sĩ). Nếu chỉ nhìn dƣới góc độ chiến

tranh du kích thì dễ bi quan. Song, nhìn ở thế toàn cục chiến lƣợc thì khác hẳn.

Tháng 3 năm 1968, Trung ƣơng Cục tổ chức hội nghị kiểm điểm đợt Tổng

tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân. Hội nghị do đồng chí Phạm Hùng, Bí thƣ

Trung ƣơng Cục và đồng chí Hoàng Văn Thái chủ trì gồm các tƣớng lĩnh, Bí thƣ

Phân khu, Bí thƣ Tỉnh ủy, Tỉnh đội trƣởng, cán bộ dân chánh... rất đông. Anh Hai

Hùng nói: suốt tháng 1 năm 1968 hầu nhƣ đêm ngày các đồng chí lãnh đạo Trung

ƣơng Cục không ngủ, trực điện các nơi gởi về để có ý kiến chỉ đạo từng giờ, từng

phút. Hai anh Tƣ Chi (Trần Văn Trà) và Mƣời Cúc (Nguyễn Văn Linh) tranh luận

sôi nổi, từng Phân khu phát biểu khá tỉ mỉ khiến mọi ngƣời hình dung đƣợc toàn

bộ chiến trƣờng sôi động thế nào. Tôi chỉ ngồi nghe tình hình các nơi. Trung ƣơng

Cục coi thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn là trọng điểm nên lập năm Phân khu nhƣ

năm quả đấm hƣớng vào đó. Sài Gòn là Phân khu 6 và cấp trên tăng cƣờng cho

mặt trận Biên Hòa một sƣ đoàn, đánh ở đây mới khống chế đƣợc thủ đô của chế

độ Sài Gòn. Cũng qua hội nghị này, tôi mới biết hoạt động chiến đấu ở Sài Gòn

chủ yếu do đặc công và biệt dộng đảm nhiệm. Chỉ dùng 90 chiến sĩ đặc công - biệt

động, chúng ta đánh đòn rất hiểm, trúng những nơi nhạy cảm nhất trong hang ổ kẻ

thù: tòa đại sứ Mỹ, dinh Độc lập, đài phát thanh Sài Gòn... Báo chí, đài phát thanh

và truyền hình các nƣớc phƣơng Tây đăng nhiều bài và ảnh, phát nhiều phóng sự

truyền hình khiến đông đảo nhân dân thế giới chứng kiến những trận đánh sôi

động giữa Sài Gòn. Từ ngữ “Tết” tiếng Việt đi vào ngôn ngữ chung của giới báo

chí và sau này, giới nghiên cứu quốc tế. Anh Lê Đức Anh, ngoài những nhận xét

103

chung, còn đánh giá riêng về mặt trận Biên Hòa đại ý: đánh hậu cứ Biên Hòa có

tác động toàn miền Nam, làm Mỹ ngụy hoang mang đến mức nhiều công chức 17

ngày sau mới trở lại nhiệm sở, nhiều lính về ăn Tết với gia đình đã trốn không trở

lại đơn vị. Kết quả là Biên Hòa góp phần chia lửa với toàn Miền, địch ở trong

hang ổ cũng khiếp sợ...

Thắng lợi đợt 1 Xuân Mậu Thân là chiến thắng vĩ đại của quân dân ta vì làm

rúng động choáng váng cả nƣớc Mỹ. Tƣớng Oét-mo-len bị mất chức Tổng chỉ huy

quân viễn chinh Mỹ. Bộ trƣởng quốc phòng Mac Na-ma-ra xin từ nhiệm. Tổng

thống Giôn-xơn phải ra lệnh ngừng ném bom miền Bắc, thôi không ra ứng cử

thêm nhiệm kỳ nữa và chấp nhận cử phái đoàn ngồi vào bàn hội nghị đàm phán tại

Pa-ri. Địch bắt đầu xuống thang, chuẩn bị rút dần quân Mỹ và chƣ hầu về nƣớc.

Thắng lợi to lớn Xuân Mậu Thân 1968 tạo bƣớc ngoặt quyết định lịch sử đối

với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc của quân dân ta, làm phá sản chiến lƣợc

chiến tranh cục bộ, mở đầu quá trình “Mỹ cút ngụy nhào”. Sau đó không lâu, ta

đánh vào đầu não đô thị, thị trấn, hậu cứ chiến lƣợc của địch, đã tiêu diệt nhiều

sanh lực cao cấp, phá hủy nhiều phƣơng tiện chiến tranh hiện đại của chúng. Ta

diệt trừ nhiều ác ôn, phát động quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ nhiều xã

ấp trong thời gian không dài.

Quân dân Biên Hòa chấp nhận hy sinh to lớn song thƣơng vong tổn thất của

ta có thể giảm nếu việc điều nghiên chiến trƣờng làm tốt hơn, kĩ hơn, một số nơi

ta bộc lộ hết lực lƣợng, không có kế hoạch bảo vệ cơ sở, chƣa xử lý tình huống

không thuận lợi...

Miền bổ sung cho U.1 hai tiểu đoàn thiếu: một tiểu đoàn (khoảng 100 cán bộ,

chiến sĩ do các anh Ba Lộc và anh Hai Lƣợng chỉ huy) và một tiểu đoàn bổ sung

qua phía Long Bình (anh Quang là Tiểu đoàn trƣởng, anh Hai Thoạn Chính trị

viên, anh Chiến Chính trị viên phó). Cơ quan Tỉnh đội U.1 đƣợc bổ sung một bán

đội bảo vệ. Miền đƣa xuống Tiểu đoàn 4 (100 tay súng) từ công binh chuyển sang

đặc công do anh Kế chỉ huy và anh Chƣơng làm Tiểu đoàn phó. Nhiệm vụ của

mặt trận U.1 đƣợc trên xác định là cầm chân các trung đoàn thiết giáp Mỹ đóng ở

các căn cứ Suối Râm (Long Khánh) và Nƣớc Trong (Long Thành) cũng nhƣ các

lữ đoàn 173, 199, 312 của chúng.

Tháng 4 năm 1972, tôi đƣợc điện rút về Miền, lực lƣợng võ trang giao lại cho

ban lãnh đạo mới: anh Ba Đắc làm Bí thƣ Tỉnh ủy, anh Mƣời Thà làm Tỉnh đội

trƣởng... Có cái điện nữa nói tôi bàn giao ngay công tác cho cấp ủy địa phƣơng, về

trƣớc tháng 5, càng sớm càng tốt. Tôi bàn giao cho anh Năm Trang và anh Ba Lộc

(Tỉnh đội phó) rồi về Miền. Lúc này lực lƣợng võ trang tỉnh vẫn còn hai tiểu đoàn

nhƣng số quân teo một ít, lực lƣợng du kích mật các xã không đáng kể, lực lƣợng

huyện Vĩnh Cửu và Trảng Bom còn hai đại đội (khoảng 90 ngƣời)... Tổng cộng

lực lƣợng võ trang toàn U.1 còn chƣa tới 300 tay súng.

Tôi gặp đồng chí Ba Thanh (ở Cục Cán bộ) tại Phú Riềng, hỏi:

- Sao đƣơng vô đợt lại kêu tôi về?

104

- Về trển, về phía sau làm nhiệm vụ khác. Cứ đi về trển thì biết.

Về tới Trung ƣơng Cục, tôi gặp anh Trần Độ. Anh cho biết:

- Anh Tƣ Chi (Trần Văn Trà) trƣớc khi đi chiến trƣờng có dặn tôi khi anh về,

hỏi rõ: ở dƣới còn đánh đƣợc không?

- Đánh đƣợc! Chúng tôi mới đánh sân bay, kho bom Bình Ý và chín bồn dầu.

Còn tổng kho Long Bình nó làm cửa thép, đắp ụ, rào kĩ quá nên không vô đánh

đƣợc. Đơn vị ĐKB định đánh sân bay thì không còn đạn. Quy chung lại là đánh

đƣợc nhƣng không có điều kiện để đánh.

- Ảnh dặn: nếu đánh đƣợc thì Trung ƣơng Cục “mƣợn” lại anh một thời gian

nữa. Anh sẽ làm cố vấn đƣa Trung đoàn 113 xuống dƣới, nhập hai tiểu đoàn đặc

công Biên Hòa vô, đánh thắng trận đầu thì quay về hậu cứ, anh sẽ về Miền nhận

nhiệm vụ sau. Anh qua Cục Tham mƣu nhận nhiệm vụ cụ thể.

Qua đó, tôi gặp anh Chín Tùng. Đoàn Đặc công 113 mới có khung tiểu đoàn,

còn trung đoàn bộ thì góp cán bộ lại. Tôi làm cố vấn cho anh Chín Tùng, ở trong

Trung đoàn ủy. Tôi qua hậu cần xin giấy cung cấp cho năm, sáu trăm quân xuống

đứng chân ở U.1. Tôi xuống trƣớc, anh Chín xuống sau, hẹn gặp nhau tại suối Bà

Hào. Tôi liên lạc với Đoàn 814 hậu cần ở Bù Cháp, đƣa giấy và quyết định của

Cục Hậu cần. Anh Sáu Thịnh cho xe ô tô mang cƣa máy đi cắt cây, xe ủi dọn

đƣờng Trần Lệ Xuân từ cách Đồng Xoài ba cây số để kéo đạn, kéo gạo về Cây

Gáo, (mua ở cửa khẩu Phƣơng Lâm) về để ở bến Cầu (bãi Cát Tiên) xuống.

Anh Chín Tùng đƣa quân xuống. Đoàn Đặc công 113 thành lập tại Bà Hào.

Chúng tôi tổ chức đƣờng dây, móc xuồng ghe đƣa bộ đội qua sông, về đứng chân

tại đồi Giang Tói (Đại An). Xe chở đạn xuống tới Cây Gáo, anh em cơ quan cả

quân sự lẫn chánh trị đều đi vác đạn. Anh em tân binh trẻ khỏe một mình vác một

trái H.12, còn ĐKB ba ngƣời khiêng một trái. (Bởi một trái đạn ĐKB nặng tới 58

ki-lô-gam).

Tháng 6 năm 1972, anh Ba Đắc và anh Mƣời Thà đã về đây Tôi cho nhập các

chốt của Tiểu đoàn 3 pháo binh vào Đoàn Đặc công 113 rồi cử ngƣời đi điều

nghiên đánh trận đầu vào sân bay Biên Hòa đầu tháng 8 năm 1972. Ta pháo kích,

diệt 74 máy bay, một số dàn cao xạ bảo vệ sân bay, đài ra đa và làm sập một số

nhà ở.

Đoàn Đặc công 113 cử 52 cán bộ, chiến sĩ qua phía nam lộ 1 chuẩn bị đánh

kho Long Bình. Anh Chín Tùng cho mua kềm cộng lực để anh em phá khóa kho.

Tiểu đoàn 2 đặc công của U.1 giao cho Đoàn Đặc công 113. Anh Tƣ Già không

dẫn đƣờng cho số anh em 113 mới xuống, phát biểu:

- Chúng tôi đã chuẩn bị kỹ, để chúng tôi đánh.

Mở rào gì nổi, vào chƣa tới đích đã sáng bét, chắc chắn sẽ bị tiêu diệt! Tƣ Già

phát hiện và sử dụng lỗ chó chui để đột nhập mới vào nhanh.

105

Anh Hai Thoảng, Chính trị viên tiểu đoàn giải thích, cuối cùng anh Tƣ Già

nghe ra, chấp hành dẫn anh Đỗ Văn Ninh chỉ huy anh em Đoàn Đặc công 113 vào

điều nghiên để làm cơ sở đƣa quân vào trực tiếp đánh đêm 13 tháng 8 năm 1972.

Rất may địch cho mở cửa xả hơi thông gió các dãy kho. Cửa kho bằng thép

tấm dày hàng chục li, lại có khóa mở bằng điện, nếu ta phá khóa cũng không mở

nổi cửa kho, đánh bộc phá chắc chỉ đƣợc một số dãy kho. Tổng kho Long Bình có

hơn 300 gian kho, bữa đó anh em tung hoành đặt mìn hơn 100 gian. Bom đạn

cháy nổ liên tục ba ngày đêm liền làm rung chuyển cả tỉnh lị Biên Hòa. Sau trận.

này, anh Đỗ Văn Ninh đƣợc phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lƣợng võ trang

nhân dân.

Khi tôi về Miền, anh Ba Trần yêu cầu bàn giao hết số cơ sở mật trong nội ô

cho ảnh vì tôi không còn sử dụng nữa, mà tình báo ta lại đang cần. Anh Sáu Biên,

Bí thƣ Đoàn U.1, tổ chức đƣợc đại úy Nguyễn Văn Thôn, sĩ quan quân khí (bí

danh H.16) làm công việc lắp kíp bom từ 12 giờ khuya trên đƣờng băng để sáng ra

nhân viên kỹ thuật khác lắp ráp bom lên máy bay đi đánh phá ta. Anh Năm Trang

bàn với tôi, có cách nào sử dụng cơ sở mật này tổ chức đánh gây thiệt nguy hiểm

ngay trong lòng địch. Muốn vậy phải có kíp nổ chậm 10 tiếng để anh Thôn gắn từ

12 giờ khuya, sáng ra anh ta về thì khoảng 10 giờ sáng bom nổ hoặc trên đƣờng

băng, hoặc trên máy bay ném bom thì mới bảo đảm an toàn cho cơ sở, địch không

nghi ngờ. Hỏi anh cơ sở: địch thƣờng gắn bom gì, thì đƣợc trả lời là loại 250 kí.

Tôi bàn với anh Chín Tùng cho ngƣời về Miền xin hai cái kíp nổ chậm. Tôi suy

nghĩ: bây giờ phải đi kiếm bom lép, cắt lấy đầu nổ trong chứa thuốc mồi, kíp. Trái

bom lép là do kíp hƣ, mình cắt lấy đầu nổ rồi tháo kíp ra. Chúng tôi cho mua sƣờn

cƣa và 10 lƣỡi cƣa thép loại tốt. Bốn ngƣời gồm: Tôi, Quyền, Năm Thanh, Ba Đời

thay phiên hì hục đánh vật bảy ngày liên tục thì thắng lợi bƣớc đầu. Tôi giao cho

Đời gỡ kíp trong đầu nổ:

- Đem ra xa, lỡ rủi có sao thì chết mình mầy thôi...

Chúng tôi thử một cái kíp, đúng 10 giờ sau thì nổ. Kíp trong đầu nổ gỡ ra,

thuốc mồi đem phơi cho khô rồi bọc lại, gắn kíp. Sau đó anh em trao đầu nổ này

cho anh cơ sở mật H.16. Anh này khôn khéo tìm cách đƣa đƣợc đầu nổ hẹn giờ

vào gắn trong bom. Ta định tổ chức đánh vào ngày 2 tháng 9 lấy thành tích chào

mừng Quốc Khánh nhƣng không đánh đƣợc vì quân Mỹ dọn kho, bàn giao cho sƣ

đoàn 3 không quân Sài Gòn, chúng kiểm tra rất kĩ, H.16 không thể thực hiện kế

hoạch. 9 giờ sáng ngày 10 tháng 9 năm 1972, trái bom phát nổ kích thích những

trái khác nổ theo, phá hủy 175 máy bay các loại đậu trên sân và còn hàng hà các

loại thùng đựng linh kiện máy bay (chƣa khui). Để phối hợp nghi binh, Tiểu đoàn

174 pháo đặc công của Đoàn Đặc công 113 phóng từ dốc Ông Hoàng vào ba trái

ĐKB, phi trƣờng Biên Hòa trở thành biển lửa không thể nào dập tắt. Quan thầy

của chúng hết sức khiếp đảm trƣớc đòn tiến công của ta. Bộ Tƣ lệnh Miền điện

tặng thƣởng huân chƣơng Quân công giải phóng hạng nhất cho trận đánh, thƣởng

Nguyễn Văn Thôn Huân chƣơng Quân công giải phóng hạng nhì, kết nạp anh vào

Đảng Nhân dân cách mạng và đƣa về Miền.

106

Chúng tôi kiểm điểm ba đợt hoạt động (pháo kích và đánh bom sân bay, đánh

tổng kho Long Bình). Rồi giữa Đoàn Đặc công 113 và Tỉnh ủy có cuộc họp bàn

công việc bàn giao chánh thức hai tiểu đoàn đặc công cho Đoàn Đặc công 113

đúng thủ tục. Anh Chín Tùng phát biểu:

- Tôi đã tiếp xúc với nhiều phái viên của Cục Tham mƣu theo đơn vị đánh

giặc. Nhƣng không có ai nhƣ anh Hai Cà làm cố vấn cho Đoàn, ảnh thƣợng vàng

hạ cám làm hết mới đạt kết quả này; chớ nếu không thì rất lâu mới làm đƣợc...

Anh Ba Đắc, Bí thƣ Tỉnh ủy, và anh Mƣời Thà, Tỉnh đội trƣởng, nói với tôi:

- Chúng tôi xin anh lại làm Tỉnh đội trƣởng nhƣng trên không cho. Anh

xuống phát huy tác dụng du kích chiến tranh, đánh đƣợc sân bay rất tốt...

Hai anh tặng tôi 10 ngàn đồng làm tiền đi đƣờng và giúp đỡ vợ con một phần.

Anh em làm thịt mấy con gà nuôi đƣợc, tổ chức bữa cơm thân mật tiễn tôi lên

đƣờng.

Miền điện xuống yêu cầu tôi về Đoàn đặc công 119 đứng chân ở Bình Mỹ

(Tân Uyên). Tháng 11 năm 1972, tôi tới đó thì chỉ mới có bộ phận chỉ huy tiền

phƣơng do anh Tƣ Thuật (Trần Thiện), Trung đoàn phó, phụ trách. Tôi lên Bộ Tƣ

lệnh đặc công Miền gặp anh Hai Sĩ xem trên quyết định cụ thể ra sao rồi lại trở

xuống đơn vị. Trên giao nhiệm vụ cho Đoàn 119 đánh sân bay Tân Sơn Nhất bằng

tiềm nhập và pháo kích. Tôi dắt số anh em trắc địa pháo binh xuống địa bàn.

Trong lúc đó, tôi gặp anh Bùi Thanh Vân (Sƣ đoàn trƣởng Sƣ đoàn 5). Anh kể:

- Sƣ đoàn 5 đƣợc lệnh kéo về đồng bằng mở mảng mở vùng. Lúc trƣớc máy

bay nó bắn quá đi, ngày nào cũng bị thƣơng vong! Lúc chúng tôi đánh, nó có bay

nhƣng ít. Cám ơn các anh ở Biên Hòa, cám ơn các anh ở Đoàn Đặc công 113 đánh

sân bay Biên Hòa và tổng kho Long Bình giúp chúng tôi dƣới này đỡ vất vả...

Bấy giờ tôi càng thấy rõ đánh sân bay Biên Hòa và kho Long Bình chi viện

đắc lực cụ thể cỡ nào cho chiến trƣờng toàn Miền!

YÊN TRI và QUANG ĐỊNH

thực hiện

107

CƢA BOM LẤY THUỐC MỒI ĐÁNH GIẶC

TRẦN TRỌNG THANH1

Khoảng đầu tháng 9 năm 1972, tôi đang là đội viên biệt động U.1, Biên Hòa,

dƣới quyền chỉ huy của ông Hai Cà Tỉnh đội trƣởng, ông Châu Văn Lòng (Tƣ

Lòng) Phó tỉnh đội trƣởng thƣờng hay đƣợc cử đi công tác với ông Tƣ. Một hôm

ông Hai Cà cho gọi anh Ba Đời và tôi lại giao nhiệm vụ. Ông nói:

- Các anh có nhiệm vụ đi tìm cho đƣợc một quả bom lép, sau đó tổ chức cƣa

để lấy thuốc. Ông nhấn mạnh:

- Thuốc ở đây không phải loại trong thân bom ta thƣờng dùng đúc vũ khí tự

tạo để đánh địch, mà là loại thuốc mồi cực nhạy đầu kíp trái bom. Thứ này cực kỳ

nguy hiểm, sơ ý để nổ coi nhƣ... chấm hết. Đó, nhiệm vụ có thế, làm đƣợc không?

- Ông hỏi.

- Dạ đƣợc! - Không hẹn trƣớc nhƣng cả tôi và anh Ba Đời cùng trả lời một

lƣợt vậy.

“Nhiệm vụ có vậy” nhƣng quả không dễ dàng tí nào. Sáng hôm sau, ba chúng

tôi gồm: anh Đời, anh Quyền và tôi súng đạn trang bị đầy đủ nhƣ vào trận đánh.

Chỉ có điều mục tiêu không phải đồn bốt giặc hay một trận địa phục kích, tập kích

địch đâu đó mà đi tìm bom lép. Đồi núi thì mênh mông, các điểm máy bay thƣờng

ném bom cũng rộng và nổ ngay. Còn bom chƣa nổ hoặc nổ chậm đều phải đƣợc

xác định cho rõ, bằng không dễ bị toi mạng nhƣ chơi. Hy sinh đối với ngƣời lính

không có gì phải bàn cãi, nhƣng hy sinh trong khi chƣa hoàn thành nhiệm vụ mới

là tai hại cho tập thể đơn vị và phũ phàng lòng tin đối với cấp trên - chua chát lắm.

Các tình huống ấy đều đƣợc anh em trong tổ cân nhắc và tìm ra lời giải. May là,

anh Ba Đời là một đội viên bảo vệ của Tỉnh đội nhƣng thƣờng xuyên từng tiếp

xúc với vật liệu nổ hàng ngày nên sự nhận diện ở mỗi loại không đến nỗi bỡ ngỡ.

Còn tôi trƣớc đó ít nhiều cũng đƣợc tìm hiểu về nguyên lý của một số bom, mìn

của địch và vũ khí tự tạo của ta. Tuy nhiên, không thể mảy may chủ quan với vật

nguy hiểm chết ngƣời này. Vả lại, cƣa đầu quả bom để lấy một loại thuốc mồi

trong kíp thì... lần đầu mới làm. Thôi thì cƣa hay đục là chuyện chƣa bàn lúc này

mà cái chính phải tìm cho đƣợc bom lép. Những lúc bình thƣờng thấy chúng lăn

lóc chỗ nọ chỗ kia, công binh phải xử lý cho nó “câm hẳn” vì biết đâu, tự nhiên nó

phát nổ gây nguy hiểm cho cả mình và dân sản xuất. Ấy vậy mà khi cần tìm đỏ cả

con mắt chẳng thấy bóng dáng trái nào, thế có bực mình không chớ. Đó là chƣa kể

có lúc nhận ra bóng dáng của nó qua một cái lỗ sâu hun hút chui tọt dƣới lòng đất

1 Nguyên chiến sĩ biệt động U.1 - Nguyên Phó bí thư thường trực Thành ủy Biên Hòa.

108

cả dăm bảy thƣớc, không thể đào bới để lôi nó lên đƣợc. Thế là ba ngày đầu bay

vèo mà chƣa đƣa lại kết quả nào, mặc dầu hàng chục địa điểm máy bay ném bom

đều đƣợc dò la tìm kiếm. Các vị chỉ huy Tỉnh đội càng nóng lòng chờ đợi hơn cả

chúng tôi nữa kia. Có lần anh Ba Đời nói vui nhƣng cũng biểu thị lòng quyết tâm

rằng: ƣớc gì tụi mình hóa thành con kỳ đà để lần xuống tận quả bom mà lôi cổ nó

lên thì hay biết mấy? Cả ba cùng cƣời nhƣ tìm ra đƣợc một giải pháp vậy.

Thế rồi sang ngày thứ tƣ, ánh nắng chan hòa làm xanh thắm những rẫy bắp

đang trổ cờ chuẩn bị vào mùa thu hoạch. Trong khi ai nấy đang nhƣ kẻ lang thang

trong những cánh rừng vừa nghe ngóng đủ thứ âm thanh và quan sát mọi động

tĩnh: máy bay trên trời, địch có thể tung biệt kích, thám báo mặt đất nhƣng vẫn

không quên dán mắt vào những nơi nào đó để có thể phát hiện ra những trái bom

chƣa nổ. Gần giữa trƣa dƣờng nhƣ ai cũng thấm mệt, định tấp vào một bóng râm

để nghỉ và ăn cơm nắm mang theo, thì bất chợt thấy một trái bom nằm im lìm phơi

mình trên mặt đất lẫn vào bãi cỏ. Kể ra các hãng sản xuất vũ khí Hoa Kỳ cũng khá

tinh vi, thân quả bom nó sơn lớp màu dễ đồng dạng với thiên nhiên. Cái vật chết

ngƣời ghê gớm thế lại nằm lù lù ra đó, vậy mà nhìn sơ khó lòng phát hiện. Từ khi

gặp đƣợc nó, cả ba cũng quên ăn luôn để vần cho đƣợc ra một nơi kín đáo, có

bóng cây che khuất. Đến lúc mệt phờ, bụng đói meo mới biết đã hai giờ chiều mà

cơm còn nguyên vẹn đeo bên mình.

Ăn uống xong xuôi chúng tôi tức tốc trở về báo cáo kết quả ban đầu với ông

Hai Cà - ngƣời trực tiếp giao nhiệm vụ, ổng mừng hết biết. Tìm đƣợc bom đã khó,

nhƣng tìm cách để lấy thuốc theo ý định thật không đơn giản chút nào. Ở đây có

anh Ba Đời là ngƣời có tiếng phá bom, đạn lép để lấy thuốc sản xuất vũ khí tự tạo

lại gan lỳ hết biết nổi tiếng cả Tỉnh đội. Nhƣng đó là cƣa hoặc đục thân bom. Còn

cƣa đầu quả bom để lấy kíp rồi lại cƣa kíp bom để lấy một lƣợng thuốc mồi cực

nhạy trong ấy thì chƣa làm bao giờ. Đây là tình huống hết sức khó khăn, rủi ro có

thể rất cao, không ngoại trừ chấp nhận hy sinh cả tính mạng. Nhƣng vì yêu cầu

của nhiệm vụ mà ai nấy đều vui vẻ, tự nguyện. Nhận đƣợc báo cáo, Tỉnh đội

trƣởng Trần Công An chỉ thị phòng kế hoạch xuất kho số lƣỡi cƣa sắt đƣợc chuẩn

bị cho Đoàn Đặc công 113 để phá khoá cửa kho tổng kho Long Bình chƣa sử

dụng tới, vừa rất kịp thời lại giữ bí mật. Sáng hôm sau, thầy và trò cùng khăn gói

lên đƣờng, chẳng bao lâu là tới nơi vị trí quả bom. Nếu nhƣ loại bom còn mới,

chƣa bị sét rỉ chỉ dùng dụng cụ kẹp chặt xoay ngƣợc chiều kim đồng hồ thì tháo

phần đầu ra để lấy kíp đem về là không mấy khó khăn. Đằng này, vừa bị sét lại bị

va đập mạnh ren lại lệch méo không tài nào mở đƣợc, đành phải cƣa tại chỗ -

không thể nào khác đƣợc.

Nhìn thân hình quả bom loại 250 ki-lô-gam nằm nhƣ một khối sắt gan lỳ câm

lặng phải hai - ba ngƣời lực lƣỡng mới vần đƣợc nó mấy vòng. Trong lúc những

lƣỡi cƣa sắt răng nhỏ li ty nhƣ con kiến, hai ngƣời cần mẫn cƣa suốt buổi, suốt

ngày cũng chỉ nhƣ “gãi ghẻ”, chẳng khác nào trứng chọi với đá vậy. Nửa tuần đi

qua mới khuyết đƣợc một phần hai đầu trái bom và số lƣỡi cƣa cũng đã vãn mất

kha khá. Nếu dùng hết số lƣỡi cƣa mà chƣa dứt điểm là cả một vấn đề gay cấn.

Bởi tổ chức đi mua bổ sung cũng lắm kỳ công và rất nguy hiểm, lỡ may bại lộ thì

109

nguy hại vô cùng. Thôi thì phải tiết kiệm, nhƣng tiết kiệm bằng cách nào? Anh Ba

Đời nói: tốt nhất là tích cực tƣới nƣớc mát vừa mau đứt lại đỡ hại lƣỡi cƣa. Một ý

kiến đơn giản, rất đơn giản nhƣ thế lại dân dã đến vậy mà chƣa ai biết. Quả thật,

tƣới nƣớc vào mạch cƣa nhẹ hơn, đỡ nóng tăng tuổi thọ lƣỡi cƣa. Sau gần bảy

ngày kiên trì thay nhau thực hiện, có hôm Tỉnh đội trƣởng cũng tham gia cƣa với

cánh lính tụi này. Một kết quả thật đáng mừng, đầu quả bom đƣợc cƣa đứt, chiếc

kíp lấy ra và ngoan ngoãn tuân theo sự điều khiển của những ngƣời có trọng trách.

Công việc đầu tiên theo chỉ đạo của tỉnh đội trƣởng là anh Ba Đời cẩn trọng, tỷ mỉ

tiếp tục cƣa sau đó để lấy số thuốc trong kíp bom ra phơi khô, đề phòng lâu ngày

bị ẩm. Số thuốc này chỉ vỏn vẹn từ 300 - 400 gram nhƣng rất nhạy, có tác dụng

kích thích nổ cả khối thuốc khác nên không thể thiếu nó. Trong thời gian bộ phận

Tỉnh đội Biên Hòa (U1.) tổ chức đi tìm bom và cƣa bom thì anh Chín Tùng, Đoàn

trƣờng 113 cử ngƣời về quân khí Miền xin đƣợc hai chiếc kíp hẹn giờ MY.10.

Loại kíp này rất hiếm nên muốn xin thêm cũng không có. Sau khi về anh Chín

giao luôn cho ông Hai quản lý để thực hiện kế hoạch. Ông Hai cho hay:

- Đƣợc kíp hẹn giờ và có thêm cả kíp bom rồi, bản thân tôi, anh Năm Trang,

anh Chín Tùng hết sức mừng, nhƣng chƣa thể yên tâm bởi còn chờ kết quả thử

nghiệm. Sau khi thử một chiếc, nổ ngon lành thế là phần nào gạt bỏ đƣợc sự nghi

ngại, giúp ngƣời thực hiện yên tâm hơn. Mọi việc bƣớc đầu xong xuôi, tôi báo cáo

với anh Năm Trang - Bí thƣ Tỉnh uỷ, anh Năm thông tin cho anh Sáu Biên để

chuyển giao cho nội tuyến mật danh H16 ở sân bay Biên Hòa.

Nhân sự kiện này, đại tá - Anh hùng quân đội Trần Công An, dù đã ở tuổi

tám ba nhƣng tinh thần vẫn tỉnh táo và nhớ rõ từng sự kiện. Ông nói: trƣớc khi tôi

xuống chiến trƣờng Biên Hòa với cƣơng vị phái viên của Miền, cố vấn Đoàn Đặc

công 113, anh Trần Văn Danh - tham mƣu phó Miền lƣu ý: sau khi anh về địa bàn

quen thuộc, tổ chức cho Trung đoàn 113 đánh thắng một vài trận. Bây giờ là lúc

rất cần phải sử dụng hết các cơ sở mật ở dƣới đó. Nếu anh không sử dụng sẽ

không ai có thể thay anh đƣợc. Trong một lần anh Năm Trang cho biết: Sáu Biên

có cơ sở mật ở trang sân bay nhƣng chƣa biết làm sao để đánh. Anh có cách gì

giúp đỡ để phát huy hiệu quả? Ý kiến chỉ đạo của anh Ba Trần và tham khảo ý

kiến của anh Năm Trang làm tôi suy nghĩ lung lắm. Để có cơ sở là cả một quá

trình dày công tạo dựng, có khi đổ cả máu nay có cơ hội cần đƣợc phát huy chớ.

Tôi nói với anh Năm: để tôi suy nghĩ sẽ trả lời anh. Những ngày sau đó tôi hỏi

một số anh em quân báo và nghiên cứu loại bom địch thƣờng dùng để gắn vào

máy bay đi oanh kích các nơi thƣờng là loại 250 ki-lô-gam. Từ đó nảy ra trong tôi

ý nghĩ phải tiếp sức với H16 bằng hình thức nào đó thích hợp. Tôi liền kêu

Nguyễn Văn Đời (Ba Đời) quê Tây Ninh là một đội viên trong tiểu đội vệ binh

nhƣng thƣờng hay tìm tòi với các loại bom, mìn và sáng tạo các loại mìn để làm

vũ khí đánh địch và cài quanh để bảo vệ khu vực phòng thủ của cơ quan đứng

chân. Tôi không nhớ hết số vũ khí do Ba Đời tự tạo là bao nhiêu, nhƣng chắc chắn

không dƣới con số hàng trăm trái đủ các chủng loại. Đó là một hình ảnh có thể nói

khá sinh động của một ngƣời lính nhà nghèo đánh giặc theo cách của riêng mình.

110

Thế rồi tôi trao nhiệm vụ này cho anh và Ba Đời đã không phụ lòng tin tƣởng của

cấp trên và hoàn thành xuất sắc công việc đƣợc giao nhƣ trên tôi đã đề cập.

Lƣợng thuốc cực nhạy ấy cộng với kíp bom và kíp hẹn giờ đƣợc anh Sáu

Biên khéo léo chuyển giao đầy đủ cho H16, đó là đại uý Nguyễn Văn Thôn, sĩ

quan quân khí của không quân Sài Gòn từ miền Trung về tập huấn kỹ thuật tại sân

bay Biên Hòa. Anh là cơ sở nội tuyến của Ban Binh vận Trung ƣơng Cục miền

Nam. Đƣợc Ban Binh vận Miền bàn giao, Thị ủy Biên Hòa đặt kế hoạch dùng nội

tuyến kết hợp với lực lƣợng vũ trang bên ngoài theo phƣơng châm bí mật và bảo

vệ an toàn cho cơ sở bên trong.

Lợi dụng công việc chuyên môn của mình, đại úy Nguyễn Văn Thôn đã thực

hiện một cách trọn vẹn gắn ngòi nổ hẹn giờ vào đầu quả bom 250 ki-lô-gam đang

đặt dƣới đống bom chuẩn bị gắn vào máy bay.

Trong thời gian này, Mỹ bắt đầu bàn giao sân bay Biên Hòa cho sƣ đoàn 6

không quân để chuẩn bị về nƣớc. Sân bay còn tiếp nhận nhiều máy bay mới và tổ

chức lớp tập huấn các nhân viên kỹ thuật cho sĩ quan không quân Sài Gòn để tiếp

nhận bàn giao của Mỹ. Bởi vậy, thời gian này số lƣợng ngƣời ở sân bay và các

thùng linh kiện máy bay chuẩn bị lắp ráp cũng tăng lên đột ngột. Sáu giờ sáng

ngày 10 tháng 9 năm 1972 giao ban trực cho kíp mới, đại úy Nguyễn Văn Thôn ra

về thì đúng 9 giờ sáng hôm ấy quả bom phát nổ. Cùng lúc từ dốc Ông Hoàng,

Tiểu đoàn 174 pháo Trung đoàn đã phóng 3 quả ĐKB theo đồng hồ hẹn giờ vào

hợp điểm sân bay Biên Hòa nhằm đánh lạc hƣớng địch. Quả bom 250 ki-lô-gam

phát nổ đã kích thích toàn bộ số bom trên đƣờng băng và số bom gắn vào máy bay

trực chiến phát nổ, cả sân bay biến thành biển lửa. 175 máy bay bị phá hủy, trong

đó thiệt hại nặng nề nhất là số linh kiện máy bay chƣa kịp lắp ráp đều bị mảnh

bom chém nát trở thành phế liệu. Nhiều nhân viên kỹ thuật và giặc lái bị tiêu diệt,

rất nhiều nhiên liệu bị đốt cháy. Sân bay tê liệt suốt bảy ngày liền. Các hãng thông

tin của Mỹ và phƣơng Tây nhận định: “Đối phƣơng (tức Quân giải phóng) đã gây

thiệt hại ghê gớm nhất. Trận pháo kích vào sân bay Biên Hòa có giá trị ngang với

một trận tập kích bằng máy bay chiến lƣợc”. Đơn vị đƣợc tặng thƣởng Huân

chƣơng Quân công hạng nhì, H16 - ngƣời trực tiếp thực hiện đƣợc tặng thƣởng

Huân chƣơng Quân công hạng ba và đƣợc Quân ủy Miền kết nạp vào Đảng Nhân

dân Cách mạng.

Hơn 30 năm đã đi qua, bao đổi thay thật kỳ diệu đang diễn ra trên đất nƣớc ta

dƣới ngọn cờ lãnh đạo tài tình của Đảng và sự điều hành của Chính phủ. Những

ngƣời chỉ huy, lãnh đạo trực tiếp hồi ấy đều tuổi đã cao trở nên bậc lão thành,

ngay bản thân tôi cũng không còn trẻ trung. Vậy mà từ trong sâu thẳm ký ức của

mình, mỗi lần nghĩ lại việc tham gia cƣa bom, lấy thuốc để góp phần tạo nên chiến

công chói lọi của một trận đánh có giá trị lớn, càng cảm thấy rất đỗi tự hào.

T.T.T

111

BỘ ĐỘI ĐẶC CÔNC ĐÁNH GIẶC GIỎI,

VẬN ĐỘNG QUẦN CHÖNG CŨNG TÀI

NGUYỄN VĂN THÔNG1

Đoàn Đặc công 113 là lực lƣợng của trên về đứng chân hoạt động và chiến

đấu tại chiến trƣờng Phân khu 4, sau khi có hiệp định Pa-ri ngày 27 tháng 1 năm

1973, Đoàn trực tiếp chiến đấu tại chiến trƣờng Biên Hòa.

Hiệp định Pa-ri là cơ sở pháp lý để chúng ta đấu tranh với địch. Không chỉ có

chiến đấu, Đoàn Đặc công 113 và Trung đoàn bộ binh 33 đƣợc Miền điều về đã

làm tốt công tác dân vận, vận động quần chúng nhân dân để hiểu rõ đƣờng lối

cách mạng của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và xây dựng cơ

sở nòng cốt trong dân.

Để tăng cƣờng hiệu lực công tác lãnh đạo của Đảng, nhằm thực hiện tốt

nhiệm vụ chính trị quan trọng này, ngày 7 tháng 6 năm 1973, Ban Thƣờng vụ

Tỉnh ủy Biên Hòa quyết định thành lập Đảng ủy gồm các đồng chí: Nguyễn Hải

(Tám Hải) Bí thƣ; Văn Công Văn; Hai Thanh; Tƣ Đầy; Năm Kiên cùng hai thành

viên là Phó chính ủy Trung đoàn 113 và Trung đoàn 33 làm Đảng ủy viên. Từ khi

thành lập Đảng ủy hỗn hợp này, phải thừa nhận hiệu lực về công tác lãnh đạo thực

hiện nhiệm vụ chính trị trong hoàn cảnh mới của cách mạng địa phƣơng rất có

hiệu quả Đơn vị cấp ủy này tƣơng đƣơng với Ban Thƣờng vụ Huyện ủy. Ba tháng

sau khi có quyết định của trên thành lập huyện Thống Nhất thì Đảng ủy này trở

thành Ban Chấp hành Huyện ủy huyện Thống Nhất mới, do đồng chí Nguyễn Hải

là Bí thƣ.

Lực lƣợng vũ trang Trung đoàn Đặc công 113 và Trung đoàn bộ binh 33

phân chia thành nhiều tốp nhỏ, đƣợc sự phối hợp chặt chẽ của du kích và chi bộ

mật các cơ sở đã len lỏi, vận động giáo dục giác ngộ cho quần chúng nhân dân

nắm vững các điều khoản của Hiệp định Pa-ri làm cơ sở pháp lý cho đấu tranh.

Địa bàn hoạt động của Đoàn là khu vực Hố Nai, Gia Tân, Gia Kiệm, Sông

Mây, Đồng Lách. Đối tƣợng chủ yếu là đồng bào công giáo miền Bắc di cƣ năm

1954, nhiều năm bị kẻ địch lợi dụng để chia rẽ dân tộc, tôn giáo, Bắc và Nam nên

sự nghi kỵ, mặc cảm với cách mạng khá nặng nề. Bởi vậy, phƣơng châm khi tiếp

xúc với bà con, trƣớc hết phải kiên định lập trƣờng chính trị, hiểu biết về xã hội,

bình tĩnh về thái độ, hoà nhã về phƣơng pháp và lòng kính trọng nhân dân để dần

dần gần gũi cảm hóa. Tránh thô bạo, nóng vội, tỏ rõ thái độ thiếu khiêm tốn để kẻ

thù lợi dụng xuyên tạc nói xấu quân giải phóng nhƣ chúng đã từng rêu rao trƣớc

đây. Đoàn vừa làm vừa rút kinh nhiệm đã tạo ra hiệu quả hết sức to lớn mà trƣớc

đó chƣa có tiền lệ.

Công tác dân vận của Đoàn từ “điểm” nhân ra diện, từ phạm vi hẹp mấy xã

lân cận gần căn cứ, dần dần “bung ra” xa hơn và sâu hơn vào các giáo xứ, giáo họ,

1 Nguyên quyền Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa nông thôn - Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa ngày đầu giải phóng 1975.

112

tạo uy tín cho cách mạng ngày càng cao. Bọn tề xã, ấp của chế độ Việt Nam cộng

hòa từng bƣớc bị cô lập trƣớc quần chúng nhân dân. Có thể nói nắm vững phƣơng

châm, phƣơng pháp đấu tranh đúng đắn này làm cho quần chúng dần dần bớt mặc

cảm, phấn chấn hơn khi nhận thấy bản thân mình và gia đình góp đƣợc gì với cách

mạng đều hữu ích. Bằng không đừng nên đi ngƣợc lại sẽ hối hận về sau... Sự giác

ngộ của quần chúng đã đƣa phong trào phát triển rất sôi nổi và mạnh mẽ. Điển

hình là có những thời điểm đồng bào giáo dân ở các vùng Hố Nai, Gia Kiệm tới

hàng ngàn ngƣời kéo đến trụ sở tề xã đấu tranh đƣa kiến nghị đòi chính quyền

ngừng ngay các hành động tội ác, bồi thƣờng tính mạng, tài sản cho dân. Chúng

biết trong làn sóng ấy có sự chỉ đạo hƣớng dẫn của lực lƣợng cách mạng nhƣng

không thể nào ngăn chặn.

Có thể nói, các đơn vị của Đoàn Đặc công 113, Trung đoàn 33 quân khu nhƣ

tôi nói ở trên, không chỉ đánh giặc giỏi, đạt hiệu suất chiến đấu cao mà còn kề vai

sát cánh với địa phƣơng tuyên truyền vận động, giác ngộ cách mạng cho quần

chúng giáo dân rất tài tình, đem lại vị trí cho cách mạng ở địa phƣơng ngay huyện

Trảng Bom, tỉnh Biên Hòa chúng tôi vào thời điểm sau khi có Hiệp định Pa-ri là

rất có ý nghĩa.

Đây mới chỉ đề cập lực lƣợng Quân Giải phóng trực tiếp làm công tác vận

động quần chúng ở vùng xung yếu, đặc biệt khó khăn, toàn đồng bào giáo dân cơ

sở trắng lại bị kẻ địch lợi dụng mua chuộc lừa bịp bao năm, không ít ngƣời đối

đầu với cách mạng, gây hận thù, hiềm khích. Nếu kể hình ảnh hy sinh chiến đấu

của anh em mình trên mảnh đất Biên Hòa thì cao cả, lớn lao lắm, không thể nào kể

xiết.

Xin dẫn dụ một số hình ảnh bộ đội làm công tác giác ngộ cách mạng quần

chúng ở vùng giáo dân, mà bản thân tôi mắt thấy, tai nghe hết sức cảm động. Xin

ngƣợc lại thời gian một chút, vào năm 1968, đòn tiến công chiến lƣợc Mậu Thân

ta thu nhiều thắng lợi, nhƣng tổn thất cũng khá nặng nề. Sau khi hồi phục lại ý chí

xâm lƣợc, địch càng hung hăng hơn, phong tỏa khá gay gắt trên các mặt trận. Một

dịp, tôi cùng anh Tám Hải ủy viên Thƣờng vụ Tỉnh ủy, anh Năm Y đi nhận tiền ở

Miền về cho cơ quan huyện Long Thành. Vừa về gần tới cứ thì bị địch phục kích.

Rất may, có tổ trinh sát của đơn vị tiểu đoàn tên lửa mặt đất 274 chỉ có hai ngƣời

với súng tiểu liên AK và lựu đạn, đã chiến đấu rất dũng cảm, diệt nhiều tên địch

tạo điều kiện để chúng tôi luồn tránh qua nơi nguy hiểm. Bị giáng trả, chúng gọi

máy bay trực thăng võ trang tới quần đảo, bắn rốc két và vãi đạn nhƣ mƣa. Nhờ

tinh thần dũng cảm, mƣu trí linh hoạt lợi dụng địa hình địa vật tiến công lại kẻ thù,

hai máy bay bị bắn rơi tại chỗ. Nhƣng chúng kéo đến ngày càng đông và tăng

cƣờng oanh tạc, hai anh em mình đã anh dũng hy sinh. Trong đời tôi còn nhớ một

em tên là Biên, quê ở tỉnh Cao Bằng, dân tộc Tày. Chiều hôm ấy, chúng tôi tổ

chức mai táng hai liệt sĩ tại khu vực anh em đã ngã xuống!

Nếu không có sự bảo vệ ngoan cƣờng của anh em bộ đội cả ba chúng tôi đều

hy sinh và tổn thất lớn hơn là lĩnh hội các kế hoạch của cấp trên nhƣng chƣa kịp

113

triển khai. Đặc biệt, khoản tiền vừa nhận bị rơi vào tay kẻ thù thì cuộc sống của

toàn cơ quan Huyện ủy sẽ lao đao khốn khó tới đâu?

Một lần khác, đồng chí Đinh Văn Sung - Tiểu đoàn trƣởng Tiểu đoàn tên lửa

mặt đất 274 đụng độ bọn biệt kích lính đánh thuê Thái Lan anh bị gãy chân. Anh

Sung không những kiên gan chịu đựng mà còn bình tĩnh chỉ huy đơn vị chiến đấu

bảo vệ an toàn cho cơ quan Phân khu ủy vô sự.

Một kỷ niệm nữa cũng đầy ấn tƣợng đối với anh em bộ đội mà tôi hết sức tin

yêu, quý mến và cảm thông, chia sẻ. Đó là ngày 19 tháng 8 năm 1974, Ban

Thƣờng vụ Tỉnh ủy Biên Hòa (nông thôn) nhƣng cũng chỉ có hai ngƣời tôi và anh

Tƣ Định ủy viên Thƣờng vụ Tỉnh ủy, phụ trách về kinh tài trực tiếp làm việc với

anh Tống Viết Dƣơng1 cùng một số đồng chí đi cùng để bàn kế hoạch giúp đỡ của

địa phƣơng tạo cho Đoàn 116 đặc công đánh tiêu diệt căn cứ biệt kích ngụy ở

Nƣớc Trong. Trại biệt kích này mỗi năm huấn luyện, đào tạo hàng chục ngàn tên

biệt kích ngụy còn gọi là “Bóng ma biên giới” tung đi phá hoại phong trào cách

mạng của nhân dân ba nƣớc Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia anh em. Tiêu diệt đƣợc

căn cứ này, là triệt phá đƣợc một trƣờng đào luyện và hun đúc tội ác của chúng.

Sau những lần chuẩn bị hết sức công phu, kỹ lƣỡng, đêm ngày 26 tháng 8

năm 1974, Đoàn đặc công 116 dƣới sự chỉ huy thông minh, tài trí của Tống Viết

Dƣơng, anh em đã khéo léo đột nhập tiêu diệt 200 tên, làm bị thƣơng nhiều tên

khác ngay tại sào huyệt của chúng, đánh sập cả khu chỉ huy. Đây là một đòn trừng

trị đích đáng đối với kẻ thù, làm cho trại huấn luyện biệt kích quy mô lớn bị uy

hiếp nghiêm trọng, gây nức lòng hả dạ quân dân Long Thành chúng tôi cũng nhƣ

quân dân toàn Miền.

Thấm thoát 30 năm đã đi qua, giờ có dịp ôn lại những kỷ niệm với Đoàn Đặc

công 113, Trung đoàn 33 cùng các đơn vị Quân giải phóng miền Nam đƣợc về

đứng chân, sát cánh kề vai hỗ trợ cho phong trào cách mạng địa phƣơng phát triển

mà lòng tôi càng thêm cảm mến, tự hào. Nghĩa tình cách mạng ấy, đƣợc Đảng

giáo dục, Quân đội rèn luyện, nhân dân đùm bọc thƣơng yêu, mảnh đất mầu mỡ

ấy đã nuôi dƣỡng Quân đội ta dũng cảm vô song, chiến thắng mọi kẻ thù.

Tôi mong, phẩm chất ấy còn tiếp tục nẩy nở, sinh sôi, giúp Quân đội ta sức

mạnh làm nòng cốt bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng của Tổ quốc trong sự

nghiệp đổi mới hôrn nay và mãi mãi sau này.

N.V.T

1 Tống Viết Dương (Năm Dương) sau này là đại tá, Tỉnh đội phó Tỉnh đội Đồng Nai - Anh hùng lực lượng

vũ trang nhân dân.

114

TRUNG ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113 VỚI QUÂN VÀ DÂN VĨNH CỬU

NGHĨA NẶNG TÌNH SÂU

HUỲNH VĂN ĐẬM1

Bối cảnh chiến trƣờng Vĩnh Cửu trƣớc khi Trung đoàn 113 ra đời.

Mùa thu năm 1971, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cho cách mạng miền Nam

là: “Nắm lấy thời cơ lớn trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy

mạnh tiến công quân sự chính trị, binh vận, phát triển thế chiến lược tiến công

mới trên chiến trường miền Nam và chiến trường Đông Dương, đánh bại chiến

lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh

bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời chuẩn bị, kiên trì và đẩy mạnh kháng

chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài”.

Tháng 10 năm 1971, Hội nghị Trung ƣơng Cục lần thứ 11 đã cụ thể hóa nghị

quyết của Bộ Chính trị và đề ra nhiệm vụ đánh bại cơ bản khối chủ lực quân đoàn

3 ngụy, cơ bản đánh bại kế hoạch bình định, khôi phục vùng giải phóng nhƣ hồi

tết Mậu Thân 1968.

Trung ƣơng Cục quyết định mở chiến dịch quy mô ngay từ đầu năm đến cuối

năm 1972, lấy tên ngƣời anh hùng dân tộc - Nguyễn Huệ. Hƣớng chính của chiến

dịch đƣợc xác định là lộ 13 (Thủ Dầu Một) và lộ 22 đi Sa Mát (Tây Ninh). Biên

Hòa, Bà Rịa, Long Khánh là hƣớng phối hợp quan trọng.

Phân khu ủy Thủ Biên đã tổ chức Hội nghị triển khai nghị quyết 11 của

Trung ƣơng Cục và Chỉ thị 01/CT của Thƣờng vụ Trung ƣơng Cục đồng thời phân

công các phân khu ủy viên triển khai chủ trƣơng xuống các huyện, các đơn vị vũ

trang, chi bộ lộ, chi bộ mật.

Kế hoạch của phân khu Thủ Biên là: mở mảng giải phóng và bung dân về

khu vực nam Phú Giáo, bắc Châu Thành, bắc Tân Uyên, khôi phục phần lớn căn

cứ cũ, phá lỏng trên diện rộng ở nam Châu Thành, Lái Thiêu, Vĩnh Cửu (gồm cả

Trảng Bom) có điều kiện thì giải phóng bung dân về, tạo thế nối liền phía trên

xuống phía dƣới. Riêng thị xã Biên Hòa phải củng cố cơ sở bên trong nội ô và

vùng ven, tạo điều kiện về chính trị.

Để đảm bảo yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo các lực lƣợng trong chiến dịch tổng

hợp, phối hợp toàn Miền Phân khu ủy Thủ Biên chủ trƣơng mở đợt tiến công vũ

trang, đấu tranh chính trị, binh vận ở khắp các địa bàn nông thôn, khu vực cao su,

thành thị, diệt một bộ phận sinh lực địch và phƣơng tiện chiến tranh của địch,

củng cố và nâng chất đấu tranh chính trị ở thị xã, thị trấn; cho đặc công thọc sâu

tiến công vào sân bay Biên Hòa, tiêu diệt sinh lực và phƣơng tiện chiến tranh của

Mỹ, ngụy, hỗ trợ chiến trƣờng chung.

1 Nguyên Bí thư Huyện ủy - Huyện đội trưởng Vĩnh Cửu.

115

Về đấu tranh chính trị, binh vận, Phân khu ủy chủ trƣơng: “Kết hợp ba mũi

chính trị, vũ trang, binh vận, trên cơ sở tuyên truyền phát động, thâm nhập đường

lối chính sách, làm chuyển biến nhận thức tư tưởng quần chúng, đẩy mạnh phong

trào quần chúng giành quyền lợi thiết thực, vừa dồn địch vào thế cô lập và thất

bại”.

Trong lúc này, ở Vĩnh Cửu, địch ra sức phòng thủ, tăng cƣờng dùng mọi thủ

đoạn đánh phá cơ sở cách mạng rất ác liệt. Đầu năm 1972, lực lƣợng địch ở địa

bàn Vĩnh Cửu gồm có năm đại đội bảo an, hai đại đội và 10 trung đội dân vệ, một

trung đội cảnh sát dã chiến, một trung đội thám kích, sáu xe thiết giáp, tám khẩu

pháo 105mm, 155mm; trên 1.000 phòng vệ dân sự: 32 đồn bốt, tua, chốt gác (sáu

cấp đại đội, 17 cấp trung đội, chín cấp tiểu đội). Các loại lính trù bị cơ động nhƣ

lính thủy đánh bộ, biệt động quân, sƣ đoàn 18 quân đoàn 3, máy bay ở phi trƣờng

Biên Hòa đều có thể tăng cƣờng yểm trợ đánh phá bất cứ lúc nào.

Ngày 10 tháng 2 năm 1972, Phân khu Thủ Biên quyết định bổ sung các đồng

chí Hai Lợi, Tƣ Ninh làm Phó bí thƣ Huyện ủy và nữ đồng chí Ba Hòa, Thƣờng

vụ Huyện ủy để tăng cƣờng lãnh đạo của cấp ủy huyện.

Ngày 31 tháng 3 năm 1972, quân và dân toàn miền Đông sôi nổi bƣớc vào

Chiến dịch Nguyễn Huệ với phƣơng châm chỉ đạo: thần tốc quyết thắng.

Chiến trƣờng Bà Rịa - Long Khánh, các đơn vị Trung đoàn 4, Trung đoàn 33

Quân khu có sự phối hợp của bộ đội địa phƣơng tiến công đồng loạt 80 ấp chiến

lƣợc và các chi khu quân sự địch, diệt các đồn, bốt trên các lộ 1, lộ 2, lộ 13, lộ 23...

mở rộng vùng làm chủ và giải phóng, tác động nhiều đến chiến trƣờng Biên Hòa,

Vĩnh Cửu. Nhân thời cơ, Huyện ủy chỉ đạo các chi bộ và lực lƣợng vũ trang đẩy

mạnh tuyên truyền, tăng cƣờng bám trụ đánh địch, phá hoại đƣờng sá để phối hợp

với chiến trƣờng chung. Trên lộ 24, chi bộ các xã Tân Phú, Bình Long huy động

cơ sở đắp mô, đặt chƣớng ngại vật làm cản trở sự cơ động bằng cơ giới của địch.

Ngày 27 tháng 5 năm 1972 bộ đội huyện, du kích xã Thiện Tân đột nhập ấp

Xóm Vàm. Quá trình vận động, lọt vào ổ phục kích của một trung đội bảo an. Từ

thế bị động, lực lƣợng ta nhanh chóng chuyển sang thế chủ động, tạo trận phục

kích thành tao ngộ chiến. Chỉ trong vòng 10 phút chiến đấu, ta đã diệt 10 tên, hai

tên khác bị thƣơng, buộc trung đội bảo an phải rút chạy thoát thân.

Thất bại trên chiến trƣờng toàn miền, đẩy quân Mỹ và ngụy quân, ngụy

quyền vào thế bị động đối phó. Tuy nhiên với tiềm lực quân sự còn khá mạnh lại

hết sức ngoan cố và ngạo mạn, chúng ra sức chống phá ta quyết liệt cả trên chiến

trƣờng nóng bỏng cũng nhƣ trên mặt trận ngoại giao ở Pa-ri (Pháp). Chúng không

từ bỏ thủ đoạn tàn bạo nào trƣớc khi xuống thang đối với lực lƣợng cách mạng

xuất phát từ những âm mƣu muốn đƣa miền Nam Việt Nam vào trong quỹ đạo của

Mỹ. Vào thời điểm ấy (đầu năm 1972) phi trƣờng Biên Hòa vốn đã nhộn nhịp nay

càng nhộn nhịp hơn, bởi Mỹ tăng cƣờng lực lƣợng cố vấn để gấp rút huấn luyện

chuyển giao kỹ thuật cho ngụy đảm nhận. Không gian và cả thời gian phi trƣờng

Biên Hòa nhƣ nóng bỏng lên. Cứ 3 phút lại có một máy bay lên xuống. Đội ngũ

kỹ thuật viên ở các vùng chiến thuật có liên quan đến máy bay dƣờng nhƣ cũng

116

đƣợc triệu tập về đây để chuyển giao từ quan thầy. Để đảm bảo an ninh vòng

trong, địch càng tăng cƣờng mở rộng phạm vi đánh phá, càn quét, phía tây bắc sân

bay, địch tiếp tục nống ra càn quét bám trụ.

Trên cƣơng vị là một Huyện đội trƣởng, trải qua các giai đoạn gắn bó với

mảnh đất quê hƣơng hai huyện Trảng Bom - Vĩnh Cửu lòng tự hào với truyền

thống kiên cƣờng cách mạng của quân và dân bao nhiêu, tôi càng thông cảm với

sự hy sinh lớn lao về sức ngƣời, sức của của đồng bào, đồng chí bấy nhiêu. Cũng

chính vì vậy mà tôi nhƣ thấy trách nhiệm bản thân hết sức nặng nề để cùng với tập

thể ra sức gánh vác.

Đầu năm 1971, cấp trên bổ nhiệm tôi về làm huyện đội trƣởng huyện đội

Trảng Bom. Thời điểm ấy, địch mở rộng đánh phá hết sức ác liệt. Trƣớc đó trong

Ban Chỉ huy Huyện đội có ba đồng chí: Huyện đội trƣởng, Huyện đội phó, và

Chính trị viên phó lần lƣợt hy sinh. Trƣớc tình hình ấy tôi phải dựa vào các anh

em nòng cốt còn lại và tập thể Huyện ủy để tiếp tục xây dựng và phát triển lực

lƣợng địa phƣơng. Khoảng tháng 5 năm 1971, hai huyện Trảng Bom và Vĩnh Cửu

sáp nhập lại gọi là Liên huyện, tôi lại tiếp tục làm Huyện đội trƣởng. Số anh em

cán bộ Vĩnh Cửu hy sinh cũng nhiều. Nhƣng trƣớc sự mất mát tổn thất ấy càng

hun đúc cho ngƣời ở lại một bản lĩnh vững vàng để tiếp tục gánh vác trọng trách

đƣợc tổ chức giao phó.

Tuy còn ác liệt bởi sự dốc sức đánh phá của kẻ thù, nhƣng tiềm lực chúng

không phải là vô hạn bởi cục diện trên chiến trƣờng đã thay đổi theo chiều hƣớng

có lợi cho ta. Nắm vững thời cơ Trung ƣơng Cục chỉ thị: phải kiên quyết tiến công

vào quân viễn chinh Mỹ đang xuống thang, đánh mạnh vào sân bay, kho tàng, phá

hủy phƣơng tiện chiến tranh của chúng, tăng cƣờng phá hủy cơ sở vật chất của Mỹ

chuyển giao cho ngụy.

Nghiêm chỉnh thực hiện chỉ thị này, ngày 3 tháng 6 năm 1972 lễ thành lập

Trung đoàn Đặc công 113 tại suối Bà Hào (bắc Chiến khu Đ) đƣợc tổ chức. Buổi

lễ diễn ra nhanh chóng, nghiêm túc, đầy ấn tƣợng. Cán bộ từ Phân khu 4, Phân

khu 5 và nhiều đơn vị hợp thành. Không ít ngƣời trong số họ mới chỉ nghe tên

nhƣng lần đầu gặp mặt đã thân quen, bởi từ đây các anh đã là ngƣời trong một nhà,

chung lƣng đấu cật, sống chết sát cánh bên nhau - chiến đấu hy sinh cho sự nghiệp

cao cả của dân tộc. Mặc dù biết rất rõ đến ngày toàn thắng, sẽ không ít cán bộ

chiến sĩ không còn thấy ánh cờ vàng sao tung bay trong nắng mới với khúc khải

hoàn ca.

Trung đoàn Đặc công 113 - đứa con yêu quý của Đảng bộ và nhân dân Biên

Hòa ra đời là một đòi hỏi tất yếu của cách mạng và nhiệm vụ của chiến trƣờng.

Tập thể ban lãnh đạo Tỉnh ủy U1 cũng nhƣ các thành viên chủ chốt đặc biệt quan

tâm và chăm chú theo dõi từng bƣớc đi cho đứa con yêu quý của mình. Minh

chứng tình cảm cao quý ấy của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy là: đồng chí Trần

Công An (Hai Cà) nguyên Tỉnh đội trƣởng Biên Hòa, lúc ấy là cố vấn của Bộ

Tham mƣu Miền trực tiếp giúp đỡ về địa bàn và quan hệ với lãnh đạo địa phƣơng.

Cụ thể, trƣớc khi xuống chiến trƣờng Biên Hòa, đồng chí trực tiếp làm việc với

117

Cục Hậu cần Miền và Đoàn 814 chuẩn bị khá chu đáo về thủ tục để cơ quan chức

năng cung cấp các chế độ lƣơng thực, thực phẩm, cơ số đạn đáp ứng nhiệm vụ tác

chiến cho đơn vị. Ông còn trực tiếp gặp gỡ đồng chí Phan Văn Trang, Phó bí thƣ

Phân khu ủy kiêm Bí thƣ U1 thông báo về chủ trƣơng của Miền thành lập Đoàn

Đặc công 113 để biết và tạo điều kiện giúp đỡ Đoàn hoàn thành nhiệm vụ. Mặc dù

tuổi đã cao nhƣng nghĩa tình cách mạng và sự tận tụy với công việc của ông đã tạo

điều kiện đắc lực cho đơn vị, làm cho ai nấy hết sức khâm phục và kính nể.

Tại buổi lễ thành lập Trung đoàn, đã công bố quyết định và chỉ định các chức

danh cụ thể: đồng chí Nguyễn Thanh Tùng - Phó tƣ lệnh Đoàn 429 đặc công cơ

động Miền giữ chức vụ Trung đoàn trƣởng; đồng chí Mai Văn Thoạn - nguyên là

cán bộ Tỉnh đội Biên Hòa, là Chính ủy Bí thƣ Đảng ủy trung đoàn cùng một số

đồng chí khác giữ các chức danh khác. Các đơn vị hợp thành trong một đội hình

gồm có hai tiểu đoàn đặc công và một tiểu đoàn pháo binh.

Sau hai lần bị tấn công ở sân bay và thất bại nặng cả sinh lực (đặc biệt là

nhân viên kỹ thuật và giặc lái) Mỹ, ngụy điên cuồng phản kích, bọn biệt động

quân, bảo an liên tục càn quét vào vùng 2 và 3 ở phía tây sân bay. Pháo địch đặt từ

các trận địa Sông Thao, Đại An bắn vào các cụm rừng Cây Gáo, Trị An, Bàu Hàm,

Bùng Binh.

Những tháng cuối năm 1972 - chuẩn bị cho việc rút hết quân xâm lƣợc Mỹ về

nƣớc và tạo thế mạnh cho ngụy quyền nếu khi có hiệp định, đế quốc Mỹ đã tăng

cƣờng phƣơng tiện chiến tranh từ các kho Thành Tuy Hạ về Long Bình. Kho bom

Bình Ý cũng đầy ắp bom đạn, thậm chí không đủ kho chứa, chúng phải đắp thêm

ụ để ngoài trời. Phi trƣờng Biên Hòa đƣợc tăng cƣờng các thiết bị hiện đại để lắp

ráp 300 máy bay cƣờng kích A37 cùng các loại máy bay vận tải.

Trƣớc diễn biến của chiến cục trên toàn miền Nam cũng nhƣ ở khu vực miền

Đông Nam Bộ, Tỉnh ủy Biên Hòa nhận định: “Mỹ đã thua, nhưng âm mưu thôn

tính, xâm lược miền Nam chưa bị loại trừ. Vì vậy, chúng luôn tìm cách vực quân

ngụy đứng lên để khả dĩ có thể đối phó được với cách mạng khi đội quân xâm

lược ngoại bang cuốn cờ rút về nước. Tỉnh ủy chỉ rõ: phá hủy phương tiện chiến

tranh ở các hậu cứ, kho tàng Mỹ là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài và cấp bách trong

lúc này”. Nội dung này cũng rất phù hợp với chỉ thị của Bộ Chỉ huy Miền truyền

đạt khi đồng chí Nguyễn Thanh Tùng nhận quyết định Trung đoàn trƣờng Trung

đoàn Đặc công 113 do đồng chí Trần Văn Danh - Phó tham mƣu trƣởng, đặc trách

theo dõi chỉ đạo tác chiến lực lƣợng đặc công, biệt động và tình báo Miền. Huyện

Vĩnh Cửu đƣợc Tỉnh giao nhiệm vụ là: phải tạo mọi điều kiện cho Trung đoàn

Đặc công 113 đứng chân hoạt động.

Chi bộ các xã Thiện Tân, Tân Định, Đại An đẩy mạnh vận động thu mua

lƣơng thực, tổ chức đƣờng dây liên lạc công khai, bí mật mua dây điện, pin đèn

cho bộ đội, tổ chức tải đạn từ Chiến khu Đ về cất giấu sẵn sàng đánh địch.

Bên trong, theo chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Phan Văn Trang - Phó bí thƣ

Phân khu ủy - Bí thƣ Tỉnh ủy, kế hoạch dùng nội tuyến đánh sân bay Biên Hòa

đƣợc đặt ra hết sức chi tiết và chu đáo. Đó là nội tuyến dùng đầu nổ hẹn giờ gắn

118

vào đầu quả bom 250 ki-lô-gam của máy bay địch. Trực tiếp thực hiện công việc

cực kỳ quan trọng này gồm các đồng chí: Trần Công An (Hai Cà); Trần Trọng

Thanh (Năm Thanh); Nguyễn Văn Đời (Ba Đời) và đồng chí Quyền tổ chức đi tìm

kiếm đƣợc một quả bom lép tại rẫy dân xã Sông Thao thuộc huyện Trảng Bom.

Sau ba ngày liên tục tìm kiếm mới phát hiện đƣợc một trái bom lép loại 250 ki-lô-

gam và bảy ngày liên tục cả thủ trƣởng và đội viên thay nhau mới cƣa dứt đƣợc

đầu quả bom để lấy hạt nổ và số thuốc nổ. Trong thời gian tổ chức cƣa đầu quả

bom thì đồng chí Nguyễn Thanh Tùng bố trí trợ lý quân khí lên mặt trận để nhận

hai chiếc kíp hẹn giờ, ký hiệu MY8. Theo yêu cầu của mật danh H16 phải là loại

kíp hẹn nổ 10 giờ. Nhƣng, quân khí mặt trận soát xét trong kho chỉ còn loại kíp 8

giờ, mà cũng chỉ có hai chiếc. Giao nộp cho Trung đoàn số kíp ấy và kịp chuyển

cho cơ sở nội tuyến. Nhƣng để gây niềm tin đối với lãnh đạo tỉnh, ngƣời thi hành

công vụ, chỉ huy Trung đoàn cần “hy sinh” một kíp để xem khả năng chất lƣợng

tới đâu. Đây là một quyết định hết sức khó khăn. Bởi chỉ có hai chiếc kíp, nếu thử

một đâu còn dể dự phòng. Nhƣng rồi cũng phải thử vậy.

Đúng 480 phút, nghĩa là tròn tám giờ thì kíp nổ, ai nấy đều mừng lắm nhƣng

vẫn hồi hộp vì biết đâu kíp còn lại trục trặc thì sao? Nhƣng rồi các ông cũng tìm

cách chuyển giao đƣợc cho H16, và anh đã lợi dụng thời cơ ca trực của mình tại

hiện trƣờng để gắn vào đầu quả bom 250ki-lô-gam, đặt vào giữa đống bom chờ

cài vào máy bay nhƣ công việc thƣờng nhật của anh vẫn từng làm.

Đến giờ thay ca, đại úy Nguyễn Văn Thôn - Ngƣời mang mật danh H16 cùng

đồng nghiệp trở về gia đình ngoài thị xã Biên Hòa mà lòng dạ nôn nao không tả

xiết. Cũng nhƣ anh Thôn, anh Năm Trang, anh Hai Cà, anh Chín Tùng.:. cũng xốn

xang không kém. Bởi đây là cơ hội ngàn vàng nếu để lỡ thì ân hận suốt đời hoài

công tìm kiếm.

Để đánh lạc hƣớng địch, trong khi đại úy Thôn đang cẩn trọng thực hiện từng

động tác ở phi trƣờng, đêm mồng 9 tháng 9 năm 1972 đầy ấn tƣợng ấy, anh Đinh

Xuân Nghiêm - Tiểu đoàn trƣởng 174 pháo binh Đoàn 113 cho lực lƣợng bố trí ba

quả ĐKB với thời gian tƣơng tự theo lệnh anh Nguyễn Thanh Tùng - Đoàn trƣờng.

9 giờ sáng ngày 10 tháng 9, một tiếng nổ dữ dội bùng lên từ sân bay Biên

Hòa. Cùng lúc những quả ĐKB từ dốc Ông Hoàng cặp lộ 24 xã Thiện Tân, huyện

Vĩnh Cửu nhƣ những chú rồng lửa vút đi hợp điểm vào sân bay. Cả phi trƣờng

Biên Hòa chìm ngập trong biển lửa, tạo thành những cột khói bốc cao lên không

trung. 175 máy bay gồm phản lực A37, vận tải C130 đã đƣợc lắp ráp xong hoặc

còn chƣa kịp lắp ráp đều bị nổ tung. Gần 70 lính, chuyên gia cố vấn Mỹ và sĩ quan

kỹ thuật, giặc lái ngụy bị đền tội. Sân bay Biên Hòa tê liệt ba ngày liền. Quan thầy

của chúng vô cùng khiếp đảm và bàng hoàng trƣớc sự tiến công bất ngờ của đối

phƣơng. Ngƣời trực tiếp thực hiện thành công trận đánh này đƣợc tặng thƣởng

Huân chƣơng Quân công hạng ba và Quân ủy Miền chỉ đạo kết nạp vào Đảng

Nhân dân Cách mạng. Đoàn đặc công 113 đƣợc tặng thƣởng Huân chƣơng Quân

công hạng nhì.

119

Nếu trận đánh đầu tiên vào sân bay Biên Hòa, ngày 31 tháng 10 năm 1964

lừng lẫy năm châu, bốn biển, làm cho Nhà trắng phải bàng hoàng, tên đại sứ Mỹ

tại Sài Gòn (Tay-lo) phải gục đầu than vãn một cách nhục nhã, thì trận tiến công

ngày 10 tháng 9 năm 1972 của Đoàn Đặc công 113 phối hợp nhịp nhàng tài trí

giữa trong và ngoài đƣợc các hãng thông tấn phƣơng Tây nhƣ AP; AFP đã thừa

nhận: đối phƣơng (chỉ Quân Giải phóng) đã gây thiệt hại ghê gớm nhất. Trận đánh

này vào sân bay Biên Hòa có giá trị ngang với một trận tập kích bằng máy bay

chiến lƣợc. Trận đánh giành thắng lợi lớn, thể hiện sự nhạy bén trong chỉ đạo, việc

tổ chức thực hiện chặt chẽ tài tình của lực lƣợng tại chỗ với lực lƣợng ở trên; sự

phối hợp chặt chẽ giữa công tác binh vận (nội tuyến) trong lòng địch với lực

lƣợng đặc công, pháo binh.

Tháng 10 tháng 1972, tỉnh Biên Hòa đƣợc thành lập lại, Huyện Vĩnh Cửu

tách khỏi huyện Trảng Bom. Đồng chí Thái Văn Thái làm Bí thƣ Huyện ủy. Tôi,

Huyện đội trƣởng Phó bí thƣ Huyện ủy, chịu trách nhiệm trƣớc Đảng bộ, nhân dân

và cấp trên trong việc tăng cƣờng tổ chức, xây dựng và phát triển lực lƣợng, góp

phần đánh bại kẻ thù.

Sau chiến thắng hết sức vang dội ấy của Đoàn Đặc công 113, cán bộ và quần

chúng cách mạng huyện Vĩnh Cửu càng thêm tin tƣởng, yêu mến, tự hào vì có

một đơn vị bộ đội chủ lực là Đoàn Đặc công 113 kề vai, chung lòng dốc sức đánh

giặc ngay trên quê hƣơng mình. Trƣớc xu thế phát triển chung của phong trào

cách mạng địa phƣơng, Huyện ủy Vĩnh Cửu kịp thời tăng cƣờng nhiều đồng chí

cấp ủy phối hợp với đội vũ trang tuyên truyền của Tiểu đoàn 9, Trung Đoàn Đặc

công 113 xuống tới xã, ấp để phát động, xây dựng và củng cố cơ sở. Tại xã Thiện

Tân, Tiểu đoàn 9 đã cử một bộ phận đặc công tăng cƣờng cho bộ đội huyện và du

kích xã đánh địch theo chiến thuật bộ binh, mở lõm giải phóng, tạo thế đứng chân

đón thời cơ khi có lệnh cấp trên.

Tháng 1 năm 1973, theo chỉ thị của Trung ƣơng Cục và Tỉnh ủy Biên Hòa,

Huyện ủy Vĩnh Cửu đã chỉ đạo các chi bộ lãnh đạo, vận động tổ chức quần chúng

cảm tình với cách mạng tích cực chuẩn bị lƣơng thực, băng, cờ, khẩu hiệu và đặc

biệt vận chuyển vũ khí để bƣớc vào tham gia đợt “Chồm lên chiếm lĩnh” nhằm

đánh bại âm mƣu “Tràn ngập lãnh thổ”, giành dân, lấn đất của địch trƣớc khi có

Hiệp định Pa-ri. Điểm của huyện là xã Thiện Tân. Diện là hai xã Tân Định và Đại

An.

Đêm 26 tháng 1 năm 1973, du kích xã Thiện Tân, đƣợc một trung đội của

Tiểu đoàn 9 đặc công Trung đoàn 113 tăng cƣờng hỗ trợ gồm 16 tay súng, tiến

công đánh chiếm ấp 7 và ấp Ông Hƣờng. Các đồng chí cán bộ nắm vùng căn cứ

lâu nay nhƣ Tƣ Ninh, Hai Xê, Hiền đều vào ấp phát động nhân dân nổi dậy, treo

cờ làm chủ xã, ấp. Cũng trong đêm, đồng chí Tƣ Sĩ, Huyện đội phó chỉ huy một

trung đội du kích xã Đại An cùng tiến công địch ở xã Tân Định. Một bộ phận đặc

công Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 113 tiến công đánh địch ở cống mƣơng Đại An.

Ngày 27 tháng 1 năm 1973, trƣớc thất bại bị lực lƣợng cách mạng đe dọa, uy

hiếp và quấy rối ở khu vực vành đai có nguy cơ làm hậu thuẫn thọc vào sào huyệt

120

thị xã, sân bay, kho tàng bất cứ lúc nào, địch đã dùng máy bay và pháo binh phản

kích vào xã Thiện Tân, hết sức ác liệt. Chúng điều động một tiểu đoàn bộ binh từ

tiểu khu Biên Hòa lên bao vây ấp số 7.

Ấp số 7 không rộng lại ở vào thế bất lợi: phía trƣớc là cánh đồng lúa và lộ 24;

ở giữa là bốt Cây Khô với một đại đội địa phƣơng quân cùng bảo an dân vệ trang

bị súng đạn khá mạnh, phía sau là con sông Đồng Nai rộng, nƣớc chảy xiết ca nô,

tàu thuyền địch chạy tuần phòng. Trên trời máy bay chúng quần lƣợn. Chƣa hết,

hệ thống đồn bốt từ xã Đại An, cầu Rạch Đông, Rạch Tôm, bốt dốc Ông Hƣờng

và trận địa pháo hỗn hợp của Mỹ ở dốc Đá Trắng chỉ cách hơn một cây số... Với

ƣu thế ấy, chúng tƣởng sẽ làm cỏ cái ấp nhỏ nhoi này không mấy khó khăn.

Nhƣng thế trận diễn ra lại hoàn toàn ngoài ý muốn của chúng.

Lực lƣợng ta tuy ít mà tinh thần chiến đấu can trƣờng, vừa thông thạo địa

hình lại đƣợc nhân dân giúp đỡ. Bởi vậy, đã bẻ gãy nhiều đợt xung phong một

cách liều lĩnh của địch. Phối hợp với mũi vũ trang, chi bộ Thiện Tân đã tổ chức

đƣa cơ sở và nhân dân “di tản ngƣợc” từ ấp ra, tung tin hù dọa địch: “Quân giải

phóng đông lắm từ đầu đến cuối ấp súng ống rần rần”, “mấy ổng về đây đang đào

hầm trong đó. Lính quốc gia liều vào bỏ mạng, đừng trách tụi tôi không cho hay”.

Vốn đã bạc nhƣợc lại bán tín bán nghi, nên chúng không dám xông vào, mặc dầu

bị bọn sĩ quan ác ôn la lối, thúc bách. Giận dữ và điên cuồng, địch gọi pháo từ chi

khu Công Thanh, Ba Dốc bắn nhƣ điên loạn vào ấp. Mặt đất nhƣ nung nóng,

nhiều nhà cửa bị cháy, sập, nhiều súc vật bị chết đến thƣơng tâm.

Qua một ngày bám trụ và chống chọi với địch, nhƣng do lực lƣợng quá chênh

lệch, lại trang bị yếu, nguồn đạn cũng đã cạn, tối ngày 27 tháng 1, lực lƣợng ta

bao gồm cả du kích và bộ đội Tiểu đoàn 9 đặc công 113 tăng cƣờng đều rút vào

Bùng Binh là căn cứ đƣợc Tiểu đoàn xây dựng khá công phu thành một căn cứ

lõm sát nách kẻ thù để tiếp tục củng cố và tăng cƣờng lực lƣợng, liên lạc với cơ sở

địa phƣơng.

Tại xã Tân Định tiếp giáp, lực lƣợng võ trang cùng đảng viên trong chi bộ đã

võ trang tuyên truyền diệt ác, đào công sự ẩn nấp nhằm bảo toàn lực lƣợng và

chống địch phản kích. Tại đây ta chỉ có vỏn vẹn một trung đội, trang bị đơn sơ

nhƣng dám đánh trả với một tiểu đoàn địch suốt ngày, gây cho chúng nhiều tổn

thất. Cuối cùng buộc chúng tháo lui, không dám hùng hổ nhƣ lúc đầu.

Ở vùng 2 và 3, đội xây dựng cơ sở cùng du kích tại chỗ liên tục đột ấp để

tuyên truyền giác ngộ nhân dân hƣớng theo ngọn cờ cứu nƣớc của Mặt trận Dân

tộc Giải phóng; thức tỉnh những con em lầm đƣờng lạc nẻo cầm súng đánh thuê

cho giặc trở về với chính nghĩa, đừng chết thay vô ích. Bà con cô bác vùng sâu hết

sức phấn khởi vì nhìn thấy đƣợc cán bộ len lỏi đến với mình, cùng nhau gom góp

đƣợc 668 giạ lúa ủng hộ cách mạng.

Lực lƣợng tuy ít và mỏng lại ở vào địa bàn xung yếu, nhƣng Đảng bộ và nhân

dân Vĩnh Cửu (trong đó có sự chung sức chung lòng của cán bộ, chiến sĩ Đoàn

Đặc công 113) chấp hành nghiêm nghị quyết của Đảng, vƣợt qua mọi gian khổ, hy

121

sinh, tích cực tiến công địch, cùng toàn tỉnh, toàn Miền giành thắng lợi trên chiến

trƣờng, hỗ trợ tích cực cho đòn tiến công ngoại giao.

Trên toàn chiến trƣờng, bị thất bại thảm hại bởi các đợt tiến công dũng mãnh

và tài trí của quân dân miền Nam trong năm 1972, cùng quân dân miền Bắc đánh

bại cuộc tập kích chiến lƣợc bằng máy bay B52 của Mỹ vào Thủ đô Hà Nội và

thành phố cảng Hải Phòng, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm

lịch sử, buộc đế quốc Mỹ ngậm cay nuốt đắng, phải ký Hiệp định Pa-ri ngày 27

tháng 1 năm 1973, nhục nhã cuốn cờ rút hết đội quân xâm lƣợc về nƣớc, tôn trọng

chủ quyền độc lập, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.

Có thể nói, giai đoạn 1968 - 1973 là thời kỳ gian khổ, ác liệt và hy sinh to lớn,

tổn thất nặng nề của Đảng bộ, quân dân huyện Vĩnh Cửu. Song, nhờ niềm tin

tƣởng cách mạng, quân dân huyện nhà đã vƣợt qua gian lao thử thách trui rèn

thêm ý chí kiên trì bám trụ địa bàn, xây dựng cơ sở, củng cố niềm tin cho quần

chúng. Kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động vũ trang với công tác chính trị, binh vận,

lực lƣợng tại chỗ với lực lƣợng cấp trên, từng bƣớc khôi phục và phát triển lại

phong trào cách mạng địa phƣơng.

Đảng bộ và quân dân Vĩnh Cửu đã quán triệt sâu sắc, tham gia tích cực, hiệu

quả trong chiến dịch mang tên ngƣời anh hùng áo vải Nguyễn Huệ với tƣ tƣởng

“thần tốc, quyết thắng” năm 1973 và “Chồm lên chiếm lĩnh” tháng 1 năm 1974,

góp phần cùng toàn Miền đẩy Mỹ - ngụy thêm một bƣớc vào sự lún sâu thất bại.

Thực hiện tiên tri của Bác qua lời thơ chúc Tết: “Đánh cho Mỹ cút” để đi tới

“Đánh cho ngụy nhào” giành thắng lợi huy hoàng và trọn vẹn cho non sông, Tổ

quốc.

Chiến lũy lòng dân

Theo điều khoản của Hiệp định Pa-ri, Mỹ đã phải nhục nhã và cay đắng rút

quân về nƣớc, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Nhƣng mƣu toan thâm độc chúng chƣa từ bỏ ý đồ xâm lƣợc và thôn tính miền

Nam bằng thủ đoạn: “Thay màu da trên xác chết”, trút gánh nặng lên đội quân

đánh thuê của chính quyền Sài Gòn. Chúng tiếp tục thực hiện chiêu bài chiến lƣợc

“Việt Nam hóa chiến tranh”, tiếp tục viện trợ quân sự, kinh tế, cố vấn cho chế độ

tay sai ở Sài Gòn; đẩy mạnh lấn chiếm, lấy bình định nông thôn làm biện pháp

trung tâm đánh phá cách mạng, xóa thế da beo; phục hồi kinh tế ngụy vốn đã sa

sút, phong tỏa phá hoại kinh tế, cơ sở vật chất của cách mạng, Thực hiện ý đồ

chiến lƣợc này bằng những thủ đoạn hết sức thâm độc, chúng đã tạm thời gây cho

ta không ít khó khăn, lúng túng. Nhƣng chúng ta đã lƣờng trƣớc những dã tâm của

kẻ thù là Mỹ - ngụy không dễ gì ngoan ngoãn tuân thủ các điều khoản đã ký kết,

mà chúng phải khuất phục bằng ý chí quyết thắng và thực lực của cách mạng.

Chỉ sau một ngày ký hiệp định Pa-ri (27-1-1973), ngày 28 tháng 1 năm 1973

Ban Chấp hành Trung ƣơng và Chính phủ ta ra tuyên bố khẳng đỉnh: “Với hiệp

định Pa-ri được ký kết, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã

122

giành được thắng lợi vẻ vang. Đây là thắng lợi rất to lớn của cuộc kháng chiến

oanh liệt nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc tộc ta”. Tuy nhiên,

Trung ƣơng Đảng vẫn nhấn mạnh: “Cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam

còn phải vượt qua nhiều khó khăn, trở ngại. Những thế lực quân phiệt, phát xít,

công cụ của Chủ nghĩa thực dân mới, đi ngược lại nguyện vọng của dân tộc ta

vẫn chưa từ bỏ âm mưu phá hoại hòa bình, ngăn trở con đường độc lập, tự do của

nhân dân ta”1.

Tại Vĩnh Cửu, ngay sau khi lực lƣợng ta rút ra một số ấp sau đợt “Chồm lên

chiếm lĩnh”, cuối tháng 1 năm 1973, địch tiến hành ngay kế hoạch lấn chiếm đất

giành dân, lấn chiếm những vùng ta làm chủ trƣớc khi có hiệp định, cƣỡng ép

nhân dân phải sơn cờ ngụy trên nóc nhà, trƣớc cửa và những nơi có thể... Chúng

muốn chứng tỏ rằng nơi đâu có “cờ ba sọc” thì nơi ấy chúng đã kiểm soát. Bọn

địch có biết đâu đó chỉ là hình thức. Dù bị kìm kẹp gắt gao, lòng dân Vĩnh Cửu

vẫn hƣớng về cách mạng, hƣớng về Bác Hồ - vị Cha già dân tộc kính yêu. Địch

dồn sức củng cố lập lại các đội phòng vệ dân sự, đôn dân vệ thành bảo an làm

nhiệm vụ cơ động. Các xã ấp, địch tung tình báo, phƣợng hoàng và bọn tâm lý

chiến cố tuyên truyền xuyên tạc nhằm bóp méo sự thật Hiệp định Pa-ri, tìm mọi

thủ đoạn đánh vào các cơ sở cách mạng. Chúng còn lập nhiều cổng trên lộ 24

nhằm kiểm soát từng ngƣời dân, xăm xét từng cặp lồng cơm bà con mang theo ăn

trƣa ngoài ruộng, rẫy.

Để tăng cƣờng hỗ trợ cho bọn bảo an, dân vệ đánh phá cơ sở cách mạng một

cách trắng trợn hơn, từ Thiện Tân lên Tân Định, Đại An địch bố trí một chi đoàn

xe tăng (thuộc thiết đoàn 15 ở căn cứ Hốc Bà Thức) nối liền với các đơn vị thiết

giáp ngụy bố trí ở quốc lộ 24 làm lá chắn bảo vệ phi trƣờng Biên Hòa và các hậu

cứ, kho tàng thị xã Biên Hòa.

Thâm độc hơn, bọn sĩ quan khát máu đƣợc tung về xã trực tiếp nắm Phân chi

khu quân sự, Phân chi cảnh sát cùng với tề ngụy xã, ấp kìm kẹp dân. Chỉ cần một

nghi ngờ có liên quan đến an ninh, chúng cũng có thể ra tay triệt tiêu. Vùng 1 của

huyện bao gồm các xã: Thiện Tân, Tân Định, Đại An, Trị An, và dọc sông Đồng

Nai, địch dăng biệt kích lùng sục, phục kích, cài mìn cạm bẫy. Hàng đêm chúng

bắn pháo bất quy luật để ngăn chặn lực lƣợng ta. Hầu hết các xã, địch đều xây

dựng các chi bộ đảng “Dân chủ” của Thiệu bằng hình thức bắt tất cả công chức,

binh sĩ tề xã ấp ghi tên vào đảng để tạo cơ sở chính trị cho ngụy quyền.

Nhân dân Vĩnh Cửu sau bao năm chịu đựng chiến tranh do đế quốc Mỹ gây

ra với mất mát thƣơng đau không sao xiết kể, chƣa kịp mừng vui khi có hiệp định

ngừng bắn, lại phải lao vào đối phó với cuộc chiến tranh do bọn ngụy quyền tay

sai bán nƣớc tiếp tục tiến hành.

Trƣớc tình hình ấy một số cán bộ, chiến sĩ và nhân dân cũng tác động tƣ

tƣởng, thắc mắc hoài nghi thắng lợi của Hiệp định. Trƣớc thời điểm lịch sử hết

1 1. Những sự kiện lịch sử Đảng - Tập III - Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội 1985, tr.679.

123

sức nóng bỏng và sôi sục của phong trào cách mạng địa phƣơng, Đảng bộ và nhân

dân Vĩnh Cửu càng thêm yên tâm vững dạ, bên cạnh mình có một lực lƣợng đặc

công đó là Đoàn Đặc công 113. Cán bộ, chiến sĩ đơn vị hầu hết là con em nhân

dân từ mọi miền Tổ quốc hội tụ về đây, cùng đồng cam cộng khổ, chia ngọt xẻ bùi,

sống chết bên nhau nhƣ tình cảm anh em ruột thịt. Hình ảnh cao đẹp ấy sẽ in đậm

vào tâm trí các thế hệ quân dân Vĩnh Cửu chúng tôi, không thể nào phai nhạt.

Ngày 7 đến mồng 10 tháng 1 năm 1973, Thƣờng vụ Trung ƣơng Cục họp

nhằm đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong tình

hình mới. Thƣờng vụ Trung ƣơng Cục chỉ rõ: “Phải nắm vững lực lượng vũ trang,

đứng vững và sẵn sàng trên thế quân sự tiến công địch liên tục bằng chính trị,

binh vận, đồng thời tận dụng và hết sức phát huy cơ sở pháp lý có lợi cho ta”.

Trung ƣơng Cục chỉ rõ phƣơng châm, phƣơng thức hoạt động tùy theo vùng giải

phóng, tranh chấp và vùng địch kiểm soát. Những bƣớc tiếp theo, Trung ƣơng Cục

đề ra nhiều chỉ thị và điện để uốn nắn, chỉ đạo phong trào cho sát hợp.

Trong bức điện 775/TV-Thƣờng vụ Trung ƣơng Cục vạch rõ: “Tính chất của

tình hình hiện nay là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam

đã được ký kết. Mỹ phải rút hết quân, ngừng dùng phi pháo hạm đội bắn vào nhân

dân ta nhưng chúng che chở cho ngụy quân, ngụy quyền, không thi hành lệnh

ngừng chiến, vi phạm nghiêm trọng và có hệ thống hiệp định, tình hình miền Nam

chưa ổn định”.

Ngày 10 tháng 2 năm 1973, đồng chí Nguyễn Hải, Thƣờng vụ Tỉnh ủy Biên

Hòa đã triển khai chỉ thị 02 Trung ƣơng Cục cho Huyện ủy Vĩnh Cửu tại căn cứ

Đại An. Huyện ủy nhất trí đánh giá của Trung ƣơng Cục về thắng lợi của Hiệp

định, đề ra nhiệm vụ chính trị của huyện là: “Đẩy mạnh việc tuyên truyền thắng

lợi của hiệp định, xây dựng niềm tin lòng phấn khởi, đòi trở về đất cũ sản xuất,

đẩy mạnh đấu tranh chính trị, binh vận làm cơ sở, đấu tranh vũ trang làm hậu

thuẫn, hết sức phát huy tác dụng của hiệp định”. Huyện ủy nhấn mạnh: “Phải bám

sát quần chúng, phát triển cơ sở vùng yếu, xây dựng tổ chức Đảng, đoàn thể, bảo

đảm đường giao thông liên lạc, tiếp tục xây dựng an ninh mật, du kích mật bên

trong”.

Ngày 11 tháng 2 năm 1973, địch tiếp tục vi phạm Hiệp định, đẩy mạnh lấn

chiếm ở Vĩnh Cửu. Chúng đƣa một đại đội lính sƣ 18 và một chi đoàn thiết giáp

yểm trợ càn vào căn cứ huyện ở Đại An. Bộ đội địa phƣơng huyện cùng với một

lực lƣợng Trung đoàn 33 Quân khu chặn đánh địch quyết liệt từ 7 giờ 30 phút

sáng đến 16 giờ chiều, bảy xe thiết giáp M113 bị bắn cháy, đại đội địch thiệt hại

nặng phải rút lui. Cuộc chống càn thắng lợi, ta bảo vệ đƣợc căn cứ. Chiến công ấy

còn thể hiện quyết tâm của quân, dân Vĩnh Cửu kiên quyết chống lấn chiếm, góp

phần cổ vũ phong trào trong huyện.

Mở đầu đấu tranh chính trị sau Hiệp định Pa-ri, chi bộ xã Thiện Tân đƣợc sự

hỗ trợ của lực lƣợng đặc công Tiểu đoàn 9 đã vận động và lãnh đạo nhân dân đấu

tranh đòi quyền dân sinh. Nhƣng trong đấu tranh sinh tử với kẻ thù, sự tổn thất là

khó tránh. Trong đợt “Chồm lên chiếm lĩnh” tháng 1 năm 1973, địch đã trả thù hèn

124

hạ bằng cách ném bom, bắn vào ấp Ông Hƣờng làm cháy 75 căn nhà, giết hại bốn

ngƣời và bị thƣơng 10 ngƣời khác. Tại ấp số 7 (còn gọi là ấp AK) vì nơi đây, lực

lƣợng quân, dân các đơn vị đứng chân quanh khu vực thƣờng ra vào nhận lƣơng

thực, thực phẩm do dân cung cấp, bọn địch biết mƣời mƣơi mà không thể nào

ngăn chặn. Trong đợt ấy, ấp số 7 có 20 căn nhà bị cháy trụi; giết chết 13 con bò,

nhiều tài sản khác của dân bị thiêu hủy. Lợi dụng thế hợp pháp, chi bộ Đảng lãnh

đạo hội bà mẹ, phụ nữ làm nòng cốt kéo lên chi khu Công Thanh đƣa bản kiến

nghị tập thể của nhân dân hai ấp bị chúng tàn phá. Tên quận trƣởng đã đứng ra

nhận kiến nghị và hứa đề đạt cấp trên bồi thƣờng thiệt hại cho dân.

Để mị dân và che giấu hành động vi phạm Hiệp định, bọn ngụy quyền ở chi

khu Công Thanh phải chấp nhận bồi thƣờng cho mỗi căn nhà 2.500đ (tiền ngụy).

Cuộc đấu tranh thắng lợi làm nhân dân trong xã tin tƣởng tinh thần đoàn kết, nhất

trí vào cán bộ cách mạng. Sau thắng lợi ấy, chi bộ xã Thiện Tân tiếp tục lãnh đạo

cơ sở vận động xây dựng lại 45 ngôi nhà bị hƣ hại.

Để tạo cơ sở pháp lý cho đấu tranh, Huyện ủy chủ trƣơng bố trí hầu hết các

đồng chí cấp ủy huyện xuống cơ sở từng bƣớc triển khai học tập nắm vững tinh

thần nội dung Hiệp định Pa-ri và phổ biến chủ trƣơng của huyện xuống cho đảng

viên, cơ sở xã, ấp giúp nhân dân thấy đƣợc thắng lợi của các mạng, sẵn sàng đấu

tranh khi địch vi phạm Hiệp định.

Trong tháng 3 năm 1973, triển khai học tập đƣợc ở xã Thiện Tân, Tân Phú,

Lợi Hòa, Bình Ý. Quá trình học tập nhiều quần chúng tốt đã tìm đến cán bộ để hỏi

thêm về Hiệp định. Sau khi học tập, ta đã phát triển thêm nòng cốt trong xã, ấp.

Điển hình nhƣ chi bộ xã Tân Phú đã tạo đƣợc nhiều nòng cốt, thông qua họ nắm

thêm nhiều gia đình để xây dựng thực lực tại cơ sở (một nòng cốt phụ trách từ ba

đến năm hộ gia đình). Đẩy mạnh tuyên truyền cho các gia đình binh sĩ hiểu thắng

lợi của Hiệp định, hƣớng dẫn nòng cốt phá các cuộc họp do địch tổ chức để nói

xấu cách mạng, vạch trần âm mƣu vi phạm hiệp định của địch. Khi chúng tuyên

truyền xuyên tạc đổ vấy cho cách mạng gây chiến tranh, gây thiệt hại cho dân, cơ

sở ta liền đập lại bằng các chứng cớ rành rành hành động dùng bom, pháo, càn

quét và giết hại dân thƣờng của chúng... Bị bà con chất vấn và dẫn chứng rạch ròi,

nhiều cuộc họp chúng lâm vào thế bí phải giải tán.

Tuy nhiên, do lực lƣợng kiềm kẹp của địch ở cơ sở còn đông, việc tuyên

truyền thắng lợi Hiệp định và xây dựng cơ sở của ta chƣa đạt nhƣ yêu cầu của

huyện đề ra cụ thể là đƣa dân về đất cũ chƣa mạnh; phƣơng châm hoạt động kết

hợp ba mũi lúc đầu còn lựng xựng, một số cán bộ, quần chúng tỏ ra thiếu tin

tƣởng Hiệp định trƣớc hành động phá hoại của kẻ thù.

Trong khi cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng tranh thủ thời cơ ráo

riết hoạt động ở bên trong, cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 9; Tiểu đoàn 174 pháo binh,

đại đội trinh sát 53 thuộc Trung đoàn 113 đặc công tích cực hoạt động vòng ngoài

để hỗ trợ, nhƣ chuẩn bị trận địa, đƣờng hƣớng mục tiêu khi có thời cơ kịp giáng

trả vào sào huyệt kẻ thù. Điển hình nhất là xây dựng hầm hào, địa đạo ở căn cứ

Bùng Binh làm bàn đạp tiến công địch mà chúng không thể nào phá vỡ nổi.

125

Để nâng cao nhận thức và thống nhất hành động cho đội ngũ cán bộ, đảng

viên, ngày 21 tháng 3 năm 1973, đồng chí Thái Văn Thái, Bí thƣ Huyện ủy triệu

tập cuộc họp Huyện ủy mở rộng, học tập bổ sung Chỉ thị 02 của Trung ƣơng Cục.

Hội nghị một lần nữa khẳng định: “Ký hiệp định chưa phải là mục tiêu cuối cùng

của cách mạng. Bước đường đấu tranh còn phải tiếp tục với những phức tạp, khó

khăn”. Và nhấn mạnh: “Đấu tranh vũ trang phải hoạt động đúng phương châm để

làm hậu thuẫn cho đấu tranh chính trị”. Nhiệm vụ chủ yếu là chống địch lấn

chiếm bình định, đƣa dân về đất cũ, công tác quần chúng phải gắn chặt với việc

giải quyết quyền lợi cho dân.

Tại vùng xung yếu, Huyện ủy thành lập hai đội vũ trang tuyên truyền do

đồng chí Sáu Thọ phụ trách. Đội 1 do đồng chí Bá Kiếm chỉ huy hoạt động ở vùng

2 gồm Bình Long, Tân Phú, Bình Thạnh, Lợi Hòa. Đội 2 do đồng chí Sáu An làm

đội trƣởng hoạt động ở vùng 3 gồm sát nách đầu phi trƣờng Biên Hòa: Bình

Phƣớc, Bình Ý, Tân Triều, Bình Hòa. Hai xã Đại An và Tân Định gần căn cứ Tiểu

đoàn 9 đặc công thƣờng xuyên hoạt động, đƣợc Huyện ủy tăng cƣờng cán bộ về

củng cố chi bộ Đảng.

Ngày 3 tháng 4 năm 1973, địch dùng xe cơ giới ủi phá địa hình ở Ba Dốc,

cặp bên lộ 24. Chúng tăng cƣờng tiểu đoàn 3 của trung đoàn 43, sƣ đoàn 18 ngụy

yểm trợ hàng ngày có từ 10 xe đến phá ủi. Nhìn những khu rừng chồi bị địch triệt

hạ mà xót xa làm sao. Ý đồ của chúng là phá địa hình của cách mạng, chuẩn bị

đƣa thƣơng phế binh ngụy về làm nhà, tạo vành đai án ngữ phía bắc sân bay Biên

Hòa.

Tiếp đó, ngày 7 tháng 4 năm 1973, địch lại cho bảy xe vào ủi phá Gò Găng

thuộc xã Tân Phú. Đội võ trang tuyên truyền đang bám trụ tại Gò Găng đã chuẩn

bị sẵn sàng đánh địch nếu chúng ủi lấn vào, nhƣng chúng dừng lại điều tiểu đoàn

bảo an triển khai đóng chốt ở đƣờng ủi, tạo vành đai dọc sông Đồng Nai, án ngữ

phía tây sân bay Biên Hòa.

Chƣa dừng lại ở phía Tây, sau đó địch lại tiếp tục ủi phá rừng Bùng Binh

Thiện Tân có nguy cơ uy hiếp căn cứ Tiểu đoàn 9 đặc công, Trung đoàn 113 dồn

bao lực lƣợng xây dựng làm bàn đạp tiến công quân thù. Kế đó là rừng Đồng Lách

(Tân Định). Chúng cho 2 tên tay sai Tƣ Phƣớc và Bảy Câu, công chức ngụy quyền

dùng xe ủi hai bên đƣờng Kiểm vào sâu 100 mét và thuê công nhân trồng cả bƣởi,

chuối rộng 150 héc-ta.

Trƣớc tình hình đó, ngày 10 tháng 5 năm 1973, Thƣờng vụ Huyện ủy nhận

định âm mƣu của địch là dùng chiêu bài “Cộng đồng phát triển” hay “Cộng đồng

tự vệ” hoặc “Tạo công ăn việc làm cho dân” thực chất là ngụy tạo để che lấp tội ác.

Điều chính yếu là phá địa bàn bám trụ của lực lƣợng Cách mạng, vi phạm nghiêm

trọng Hiệp định Paris. Thƣờng vụ Huyện ủy chỉ thị: phải kiên quyết chống địch ủi

phá, lấn chiếm, biện pháp là kết hợp vũ trang đánh xe cơ giới, bộ binh địch, đồng

thời đẩy mạnh việc truyền truyền nhân dân, kiên quyết vạch trần âm mƣu của địch.

Lúc ấy tôi là Huyện đội trƣởng - Phó bí thƣ Huyện ủy trực tiếp chỉ đạo để chặn sự

khiêu khích trắng trợn của địch. Hành động của chúng ta lúc này phải vừa khôn

126

khéo kiên quyết và quả cảm mới có thể đem lại kết quả. Bên cạnh tôi còn có các

anh: Tƣ Ninh, Sáu Thọ, Hai Hân, Hai Nhiều, Sáu An sát cánh bên nhau phát động

nhân dân len lỏi đấu tranh chống địch.

Tại Bùng Binh, đại đội 8 công binh về nghiên cứu đánh xe địch, chặn đứng

bƣớc phiêu lƣu ngang ngƣợc của chúng. Ngày 12 tháng 5, đội dùng mìn định

hƣớng đánh hỏng ba xe ủi, diệt bốn tên ngụy. Tại các xã Thiện Tân, Tân Định,

Đại An và vùng xung yếu, các chi bộ và đội vũ trang tuyên truyền tán phát truyền

đơn với nội dung thức tỉnh: “Rừng là nhà cách mạng”, yêu cầu nhân dân không

phá rừng, phá rừng là có tội sẽ hối hận về sau. Đối với binh lính ngụy, ta có thái

độ cứng rắn hơn: anh em cần thận trọng đừng mắc mƣu bọn ngoan cố xúi dục, lao

đầu vào phá rừng là “vi phạm Hiệp định” sẽ bị trừng trị. Qua từng bƣớc đấu tranh

đã có tác động tâm lý, làm cho sĩ quan, binh lính có phần nao núng, nới lỏng

không dám ra mặt thúc bách dân chúng. Có ba gia đình ở xã Bình Thạnh đƣợc

cách mạng cấp 5 mẫu đất tại xóm Cháy, Tân Định để canh tác. Có 63 hộ tại Bình

Ý, Bình Phƣớc bị địch gom tát từ năm 1965 đã kiến nghị theo pháp lý Hiệp định

trở về xã Trị An làm ăn... Nhờ đó, khoảng cuối tháng 5 năm 1973, tám xã vùng

sâu, yếu ta đã cài cắm đƣợc cơ sở nòng cốt, thổi vào quần chúng ánh sáng của

cách mạng.

Mặt khác, những nơi định liều lĩnh phá rừng, Bộ đội, du kích cài mìn định

hƣớng vừa phá xe, diệt ngƣời lái và lính bảo vệ. Mãi tới ngày 6 tháng 6 năm 1973,

do bị thiệt hại, địch phải ngừng ủi phá rừng.

Không phá đƣợc căn cứ Bùng Binh, nhƣng địch biết rõ Thiện Tân là một bàn

đạp, cửa khẩu hậu cần quan trọng của huyện, có thực lực cách mạng ở trong dân

nên chúng tập trung đẩy mạnh bình định. Hai đại đội lính ngụy thuộc trung đoàn

43, sƣ đoàn 18 từ Ba Dốc về đóng chốt tại Trủng Vịt - Bùng Binh ngăn chặn gây

cho cơ quan, bộ đội từ căn cứ không tiếp xúc đƣợc với dân để nhận lƣơng thực,

nguy cơ bị đói đe dọa thƣờng ngày.

Tuy vậy, tại Đại An chi bộ mật dùng lý lẽ đấu tranh vừa tranh thủ các gia

đình binh sĩ, số anh em này không xét hỏi dân khi đi làm để có cơ hội tiếp tế. Tại

ấp số 7, Thiện Tân, chi bộ mật lãnh đạo tổ phụ nữ lập một hộp thƣ mật liên lạc

Tiểu đoàn 9, Đoàn Đặc công 113 đặc công từ rừng Bùng Binh. Trong hai tháng 7

và 8 năm 1973 đội vũ trang tuyên truyền đã giáo dục đƣợc trên 100 quần chúng,

động viên số phòng vệ dân sự trả súng không đi gác đêm. Tuy nhiên, trên bình

diện chung, thực lực của địch vẫn còn mạnh và hung hăng ngoan cố, chƣa từ bỏ

thủ đoạn đánh phá cách mạng Việt Nam lâu dài.

Tháng 7 năm 1973, Hội nghị lần thứ 21 Trung ƣơng Đảng nhận định: “Đứng

trước tình hình Mỹ ngụy không thi hành hiệp định, tiếp tục chiến tranh hòng

chiếm cả miền Nam thì ta không có con đường nào khác là phải tiến hành chiến

tranh cách mạng để tiêu diệt chúng, giải phóng miền Nam”. Trung ƣơng nêu rõ:

“Con đường cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng bất kể trong

tình huống nào cũng phải nắm thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và

chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên. Vấn đề giành dân, giành

127

quyền làm chủ, phát triển thực lực của cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết, vừa

cơ bản trong giai đoạn mới”.

Tiếp đến, tháng 3 năm 1974, Trung ƣơng Cục ra Nghị quyết 12 thực hiện

quyết tâm của Nghị quyết Trung ƣơng lần thứ 21.

Tháng 1 năm 1974, Tỉnh ủy Biên Hòa mở hội nghị đã nhận định: âm mƣu của

địch vẫn là lấn chiếm bình định bằng những biện pháp toàn diện, vừa đào tạo

những tên ác ôn mới, vừa phát triển các tổ chức chính trị phản động, tăng cƣờng

kìm kẹp, bắt lính đôn quân, tổ chức phòng vệ dân sự xung kích, đánh phá cơ sở

cách mạng, khống chế, ngăn chặn phong trào quần chúng; đẩy mạnh chiến tranh

tâm lý, tình báo, gián điệp, vơ vét, bóc lột, phong tỏa kinh tế của cách mạng.

Sau khi quán triệt Nghị quyết 21 của Trung ƣơng Đảng, phân tích đánh giá

tình hình thực tế của địa phƣơng, Huyện ủy nhận thấy cả năm 1974 phải tập trung

nhiệm vụ chống phá bình định, mở mảng mở vùng, nắm dân... Công tác xây dựng

và phát triển thực lực Đảng, Đoàn và tổ chức quần chúng vừa qua đã thu đƣợc

nhiều thắng lợi.

Tháng 10 năm 1973, Thƣờng vụ Trung ƣơng Cục miền Nam quyết định

thành lập tỉnh căn cứ Tân Phú gồm các huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Định Quán

(bao gồm cả Tân Phú). Tỉnh Tân Phú do đồng chí Nguyễn Văn Súng làm Bí thƣ.

Đồng chí Thái Văn Thái - Bí thƣ huyện ủy Vĩnh Cửu đƣợc bổ sung vào Tỉnh ủy

và công tác ở tỉnh Tân Phú. Tỉnh ủy Biên Hòa chỉ định tôi làm Bí thƣ Huyện ủy

kiêm Huyện đội trƣởng huyện Vĩnh Cửu; anh Tám Bảo Thƣờng vụ huyện ủy

Huyện đội phó.

Nhiệm vụ của huyện là: chống ủi phá lấn chiếm lộ 24, chống địch đôn quân

bắt lính. Đƣa dân bung ra sản xuất ở vùng 1. Điều quan trọng là phải nắm tề, nắm

phòng vệ dân sự, đẩy mạnh công tác binh vận làm tan rã phòng vệ dân sự, mũi vũ

trang hoạt động tích cực hỗ trợ đắc lực phong trào đấu tranh chính trị, binh vận

trên cơ sở pháp lý của Hiệp định...

Bám sát nghị quyết của Trung ƣơng Đảng; Quân ủy Miền và của Tỉnh ủy

Biên Hòa, quân dân Vĩnh Cửu bằng tinh thần cách mạng tiến công đã liên tiếp

giành thắng lợi, đẩy địch vào những thất bại mới trên từng ấp xã. Trong đó có trận

ngày 4 tháng 6 năm 1974, một tổ đặc công Tiểu đoàn 9 phối hợp với du kích xã

Tân Định dùng bốn quả mìn tự tạo bằng đạn cối 81mm đã chặn đứng cuộc càn

quét của trung đội thám kích địch từ tiểu khu Biên Hòa càn vào Hốc Ông Tạ, một

số tên bỏ xác, buộc chúng phải tháo lui.

Trận ngày 13 tháng 4 năm 1974, địch đƣa một đại đội từ Long Thành lên Tân

Định đóng chốt ở Xóm Mới, miếu Thần (nơi trụ sở UBND xã Tân An hiện nay).

Ngày 14 tháng 4 năm 1974, tên thiếu tá Long chi khu phó chi khu Công Thanh

trực tiếp chỉ huy đánh phá cách mạng ba xã: Thiện Tân, Tân Định, Đại An. Chúng

lập thêm bốn trạm gác để soát xét xe cộ dân qua lại làm ăn trên lộ 24. Lập tức

chúng bị một mũi đặc công Tiểu đoàn 9 tập kích bí mật. Một số tên bị đền tội tại

miếu Thần những ngày đầu đặt chân tới. Trận ấy, đồng chí Giáp Văn Thiện bị

128

thƣơng khá nặng vào mặt, vì mảnh đạn địch làm gãy hàm răng nhƣng anh vẫn

bình tĩnh xông thẳng vào đội hình địch dùng thủ pháo, lựu đạn, tiểu liên AK diệt

ngay một số tên tại trận địa, làm cho chúng hết sức kinh ngạc và khiếp sợ. Ta hy

sinh ba đồng chí. Đồng chí Giáp Văn Thiện hiện là đại tá, Hiệu trƣởng trƣờng Sĩ

quan Đặc công, gần đây gặp nhau chúng tôi hồi tƣởng lại sự kiện gần 30 năm

trƣớc, anh không nén nổi xúc động.

Theo chỉ đạo của Miền và Khu ủy miền Đông, Trung đoàn Đặc công 113 -

một đơn vị chủ lực gắn bó với quân dân Vĩnh Cửu trong quá trình chiến đấu đã

chọn căn cứ Bùng Binh để xây dựng địa bàn đứng chân lâu dài theo chỉ thị: “Khẩn

trương xây dựng bàn đạp, bám trụ thật vững chắc để chuẩn bị đón thời cơ”.

Bùng Binh là dãy đồi có rừng thƣa, cách phi trƣờng quân sự Biên Hòa

khoảng 3 ki-lô-mét đƣờng chim bay. Xã Thiện Tân là vùng tranh chấp, có chi bộ

mật, có cơ sở nòng cốt vững, nhân dân có truyền thống cách mạng. Đó là các yếu

tố để Trung đoàn 113 chọn Bùng Binh làm căn cứ bàn đạp. Đặc biệt, đội du kích

xã Thiện Tân đƣợc xây dựng trong phong trào Đồng khởi thực hiện Nghị quyết 15

của Trung ƣơng Cục, là đội du kích mạnh.

Anh em trong đội đều là con em trong xã, nòng cốt cho phong trào diệt ác

phá kềm, đánh địch tuần tiễu, hành quân bảo vệ căn cứ, hỗ trợ nhân dân đấu tranh

chính trị. Lúc tác chiến độc lập, khi kết hợp với lực lƣợng du kích xã góp phần rất

lớn tạo điều kiện cho chủ lực giành thắng lợi ở sân bay Biên Hòa, kho bom Bình

Ý... Đặc biệt, đội du kích đã khéo tổ chức diệt tên Sáu Tàng, một đại úy tình báo

khét tiếng ác ôn mở kìm cho toàn huyện. Năm 1978, đội du kích xã Thiện Tân có

vinh dự lớn đƣợc Đảng và Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu cao quý: Đơn vị Anh

hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân.

Tiểu đoàn 9 đặc công đƣợc sự phối hợp giúp đỡ của Huyện ủy Vĩnh Cửu và

của chi bộ xã Thiện Tân đã triển khai xây dựng căn cứ. Vừa đào địa đạo ở Bùng

Binh, tiểu đoàn vừa sản xuất tự túc và cử nhiều đoàn cán bộ, chiến sĩ đi nghiên

cứu sân bay, căn cứ thiết giáp Hốc Bà Thức, quân đoàn 3 ngụy, kho bom Bình Ý,

tổng kho Long Bình... Trung đoàn 113 còn lập xƣởng sản xuất mìn từ những đầu

đạn cối, pháo lép thu gom của địch. Các hƣớng trọng điểm mìn đƣợc rải khắp để

bảo vệ căn cứ, địch không dám bén mảng vào. Chi bộ Thiện Tân không chỉ giúp

thu mua lƣơng thực, nhu yếu phẩm mà còn bám sát chuyển quân của địch qua

thông tin, liên lạc để chủ động đối phó cho đơn vị. Ai đã từng chứng kiến khung

cảnh ấy mới thấy hết ý nghĩa tình quân dân gắn bó biết chừng nào, càng thêm tin

tƣởng vào sự tất thắng của kháng chiến.

Khoảng tháng 10 năm 1974, căn cứ Bùng Binh hoàn thành. Với địa đạo dài

150 mét, rộng 1,4 mét chạy ngoằn nghèo trong lòng núi, có nhiều ngóc ngách để

chống hơi ngạt, có thể chứa đến 300 ngƣời. Ngoài địa đạo Tiểu đoàn 9 và đại đội

trinh sát 53 Trung đoàn còn đào một số hầm bí mật sát căn cứ thiết giáp Hốc Bà

Thức, sân bay Biên Hòa tiện cho việc bám trụ. Tại căn cứ Bùng Binh này, trung

đoàn đã lập kho dự trữ hai tấn thuốc nổ, hơn 200 quả đạn B40, B41, trên một vạn

129

viên đạn AK, nhiều tấn lƣơng thực để phòng khi địch tung quân mở càn quét lớn,

bịt đƣờng tiếp tế ta vẫn hoạt động, tác chiến đƣợc.

Căn cứ Bùng Binh của Trung đoàn Đặc công 113 là mối hiểm họa đối với kẻ

thù. Đã nhiều lần địch tung bảo an cùng các đơn vị lính sƣ đoàn 18 càn vào nhƣng

đụng mìn phải tháo lui. Chúng dùng máy bay ném bom, bắn rốc két, trận địa pháo

từ dốc Ông Hoàng gần đó bắn nhƣ cơm bữa, tuy có gây khó khăn vì cây cối bị

bom đạn phạt quang nhƣng chẳng làm gì đƣợc ta. Bởi độ dày công sự những mấy

chục thƣớc đủ sức đỡ bom, pháo. Nhƣng vững vàng hơn, đó là “CHIẾN LŨY

LÒNG DÂN”

Nơi đây quả là một bàn đạp lý tƣởng để lực lƣợng ta xuất phát đi tiến công

quân thù ở các căn cứ tại Biên Hòa và khi rút về củng cố xây dựng lực lƣợng.

Để phá thế kìm kẹp của địch ở Thiện Tân, tháng 10 năm 1974 Tiểu đoàn 9

đặc công đƣợc chi bộ xã Thiện Tân dùng cơ sở nội tuyến là con trai của nữ đồng

chí bí thƣ chi bộ mật cung cấp mọi tình hình kể cả quân số, vũ khí và bố phòng

của địch. Đêm 16 tháng 10 năm 1974, một mũi đặc công gồm 15 ngƣời do đồng

chí Nguyễn Văn Tuyến - Tiểu đoàn phó trực tiếp chỉ huy, bí mật cắt rào, đột nhập

đã nhanh chóng san bằng bốt Cây Khô. Đại đội bảo an chiếm giữ ở đây đều bị tiêu

diệt và bị bắt. Trận đánh đã làm nức lòng nhân dân xã Thiện Tân và là đòn cảnh

cáo các đồn bốt dọc lộ 24 từ Tân An, Đại An, bốt Rạch Đông, Rạch Tôm, cầu Ông

Hƣờng... Ban đêm, có bốt bọn tề ngụy phải trốn về chi khu Công Thanh để bảo

toàn mạng sống, tạo thuận lợi cho ta vào các ấp phát động và giác ngộ quần chúng.

Bƣớc vào mùa khô 1974 - 1975, cục diện trên chiến trƣờng miền Nam đã

thay đổi có lợi cho ta. Từ ngày 30 tháng 9 đến 8 tháng 10 năm 1974, Hội nghị Bộ

Chính trị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng họp tại Hà Nội đánh giá tình hình

thắng lợi to lớn cả cách mạng miền Nam và nhất trí hạ quyết tâm thông qua kế

hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976.

Ngày 17 tháng 11 năm 1974, Huyện ủy Vĩnh Cửu triển khai học tập quán

triệt nghị quyết của Trung ƣơng Cục của Tỉnh ủy, chuyển biến nhiều về nhận thức,

xây dựng quyết tâm, nắm vững thời cơ ngàn năm có một. Vào thời điểm này, Tiểu

đoàn 9 cũng nhƣ đội hình Trung đoàn Đặc công 113, bao gồm Tiểu đoàn 9, Tiểu

đoàn 23 đặc công và Tiểu đoàn 174 pháo binh đang ở bên kia sông Đồng Nai đều

nằm trên bệ phóng. Mục tiêu tiến công vẫn là áp chế trận địa pháo, ghìm đầu các

máy bay địch ở phi trƣờng và căn cứ thiết giáp Hốc Bà Thức...

Đêm 22 tháng 4 năm 1975, ba chiến sĩ đặc công 113: Linh, Quỳnh, Lƣợng

đột nhập kho bom Bình Ý, phá hủy 250.000 tấn bom đạn và xăng dầu của địch,

làm chúng hoang mang đến tột độ.

Tiếp đến, 21 giờ đêm 29 tháng 4 năm 1975, đồng chí Nguyễn Long Hƣng1,

dẫn đầu mũi đặc công của Tiểu đoàn 9 tiến công căn cứ thiết giáp Hốc Bà Thức,

làm cho đội hình của chúng thêm náo loạn và tan rã hoàn toàn. Lá cờ Mặt trận

1 Nguyễn Long Hƣng - nay là trung tá công an, đang công tác trong lực lƣợng công an TP Hồ Chí Minh.

130

Dân tộc giải phóng đƣợc cắm lên phất phới tung bay tại căn cứ thiết giáp Hốc Bà

Thức. Và 9 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, huyện Vĩnh Cửu hoàn toàn đƣợc

giải phóng.

Là một trung đoàn đặc công chủ lực, từ buổi đầu thành lập (3-6-1972) cho tới

ngày đất nƣớc sạch bóng quân thù, cán bộ, chiến sĩ Đoàn Đặc công 113 luôn đƣợc

Đảng bộ, nhân dân huyện Vĩnh Cửu coi nhƣ con em máu thịt của mình. Máu

xƣơng của những Anh hùng liệt sĩ Đoàn Đặc công 113 và bao ngƣời con trung

hiếu từ mọi miền Tổ quốc đã ngã xuống trên mảnh đất này, làm cho quê hƣơng

Vĩnh Cửu hôm nay trái ngọt, hoa thơm, ghi thắm mãi nghĩa nặng, tình sâu.

QUANG BÌNH thực hiện

131

PHA TRINH SÁT NGOẠN MỤC TỔNG KHO LONG BÌNH

CỦA MỸ - NGỤY

THANH GIÁP1

Với ngƣời lính đặc công chúng tôi thì vào ra đồn bót, căn cứ, hậu cứ của Mỹ,

ngụy để điều tra nghiên cứu quả là nhƣ cơm bữa. Còn ém lại trong tổng kho Long

Bình cả ban ngày đối với tôi chỉ có một lần. Vậy mà đã hơn ba mƣơi năm đi qua,

cái ấn tƣợng sâu sắc ấy cứ nhƣ còn nguyên vẹn trong đầu.

Đó là vào năm 1972 đang giai đoạn mùa khô. Sau tết Nguyên đán, tiết trời

miền Đông Nam Bộ còn hanh hao lắm. Tôi là đại đội trƣởng đặc công tỉnh Biên

Hòa nhƣng thƣờng gọi theo ký hiệu U1, đƣợc trên giao nhiệm vụ vào điều nghiên

tổng kho Long Bình, cụ thể là cao điểm phân khu 53. Nơi đây, Mỹ - ngụy thƣờng

cấu trúc kiên cố hệ thống kho tàng để chứa các loại bom, đạn pháo. Đánh vào đây

mới có giá trị phá hủy lớn số lƣợng bom đạn của chúng. Cũng là trực tiếp “chia

lửa” với các chiến trƣờng tại Việt Nam và hai nƣớc bạn Lào, Cam-pu-chia anh em.

Tổng kho liên hợp Long Bình rộng tới 40 ki-lô-mét vuông, riêng khu để bom

đạn cũng rộng hàng chục ki-lô-mét vuông. Mỗi dãy kho bom đạn chất cao năm

mét, dài 30 mét, rộng 15 mét.

Là một căn cứ chứa đủ mọi thứ nhằm phục vụ cho chiến tranh xâm lƣợc trên

toàn chiến trƣờng miền Nam Việt Nam, nên chúng bố phòng nghiêm ngặt lắm.

Ngoài đội quân canh gác, tuần tra, cài mìn cạm bẫy còn có hệ thống hàng rào dây

kẽm gai tới chín lớp. Đó là chƣa kể hào giao thông cùng tuyến đê bao, phòng ngừa

ta tấn công. Nghĩa là chừng ấy chƣớng ngại vật, nếu vào ra trinh sát trong một

đêm thì khó lòng thực hiện. Bởi thế cần hiến kế một phƣơng án mạo hiểm hơn là

phải tìm địa hình địa vật để ém lại cả ban ngày nhằm quan sát cho thật kỹ càng.

Ém lại trong tổng kho, cái lợi lớn nhất là tiết kiệm đƣợc thời gian, đỡ tốn

công sức ra vào, giảm động tác xóa dấu vết. Song, nguy hiểm thì đã rõ. Đƣờng đi

lối lại bọn quân cảnh thuộc làu làu, chƣa kể đến ban ngày ngƣời qua lại hoạt động

nƣờm nƣợp. Đặc biệt, đội ngũ chó bécgiê đƣợc lính điều khiển tuần tra, lùng sục

phát hiện hơi lạ của đối phƣơng. Ai mà đoán biết muôn vàn tình huống có thể ập

tới với mình lúc nào? Biết vậy để đề phòng đối phó, nhƣng ém lại vẫn là phƣơng

án tối ƣu nhất.

Sau một đêm khắc phục chƣớng ngại chúng tôi vào căn cứ tổng kho. Mục

tiêu thì chƣa tới mà trời đã hửng sáng. Không còn nhiều thời gian để tìm kiếm, lựa

chọn một nơi nào đó che khuất hoặc che đỡ qua ngày trƣớc sự kiểm soát gắt gao

của đối phƣơng. Thôi thì tƣơng kế tựu kế vậy. Ông cha đã dạy thế trong việc ứng

biến cuộc sống. Còn đối với ngƣời lính đặc công thì càng đòi hỏi ứng biến khôn

lƣờng. Không cho phép mình thụ động, thời gian nhƣ hối thúc từng giây, từng

1 Nguyên Đại đội trưởng đặc công U1 Tỉnh đội Biên Hòa.

132

phút. Tôi quan sát cảnh vật xung quanh đang từ từ sáng rõ dần. Khẽ khàng ghé sát

tai Bùi Minh Khuê, tổ trƣởng cùng đi:

- Khuê!

- Dạ, anh Hai gọi em - Khuê đáp lại.

Bây giờ chúng ta phải đầm mình giữa con suối cạn này. Và ngụy trang cho

nhau thật kỹ. Ban ngày địch có thể đi lùng sục theo quy luật, nó mang theo cả chó

Bécgiê tìm kiếm. Dùng bùn và cỏ phủ kín toàn thân, để chó không còn đánh hơi

thấy. Tôi căn dặn tới đâu, Khuê chăm chú lắng nghe không để sót một chi tiết.

Gƣơng mặt vẫn bình thản không hề tỏ ra bối rối lo sợ, tôi càng thƣơng nó nhƣ một

đứa em út. Tôi ghé sát hôn một cái vào gƣơng mặt bầu bầu, xinh trai rồi nói thêm:

-Ráng nghe cƣng. Chịu đựng một ngày căng thẳng lắm đó. Lỡ máy bay trực

thăng võ trang hoặc loại L19, lƣớt sát cũng cứ nằm im nguyên trạng. Chúng không

thể xoi mói nổi anh em mình đâu. Chắc chắn tối nay ta trở về sớm. Ở nhà đơn vị

hẳn chờ đợi chuyến đi thành công của anh em mình, Thôi, tranh thủ ăn gạo rang

để lấy sức, chớ lát nữa ăn không nổi đâu. - Tôi vừa dứt lời, cả hai thi nhau nhai rau

ráu những nắm gạo rang thật ngon lành. Nhƣng khốn nỗi, ăn gạo rang mà không

có nƣớc uống. Thật tai hại quá, đành chịu vậy. Thế rồi hai đứa chọn mỗi ngƣời

một chỗ để dìm mình xuống giữa lòng suối cạn, bùn lệt sệt mà chờ đợi một ngày

qua mau.

Nhƣng, khủng khiếp quá. Vừa dìm mình xuống đã bốc lên một mùi hôi thối

nồng nặc đến lợm mửa. Vì con suối này chứa bao nhiêu thứ tạp bẩn từ trong tổng

kho. Với lại về mùa khô cạn nƣớc, bùn sánh lại càng nồng nặc. Nhƣng chƣa khổ

bằng ở trong thứ bùn ấy có một loài côn trùng sinh sống. Đƣợc dịp chúng đua

nhau bâu bám đầy mình tha hồ tung hoành. Chỉ mới vài chục phút mà ngứa ngáy

không chịu nổi. Tôi nhìn qua Khuê chỉ toàn một màu bùn nhƣng thấy rùng rùng

chuyển động. Tôi nói đủ nghe:

- Khuê ơi, ráng chịu đựng nghe cƣng. Trời đang sáng rõ dần, địch sắp tuần tra,

để thăm dò dấu vết rồi đó. Hãy nghiến răng chịu đựng sẽ qua thôi. Sau đó không

thấy cậu ta cựa quậy nữa mà nằm im lìm.

Nói vậy để động viên nhau đó thôi, chính tôi cũng trong tình trạng hết sức

khó chịu. Cứ thế này liệu cả hai có ráng chịu đựng qua ngày? Và nếu không chịu

nổi thì điều gì sẽ xảy ra? Cũng thật may quá là may, chúng tập trung tiến công dữ

dội chỉ lúc đầu, sau đó chúng dãn dần ra nên cả hai cùng động viên nhau chịu

đựng.

Trời sáng rõ, trong tổng kho Long Bình động cơ xe máy chuyển động ầm ào

náo loạn. Máy bay trực thăng võ trang, OV10, AD6 và đặc biệt loại trinh sát L19

rỉ rả tối ngày trên bầu trời thị xã Biên Hòa và các mục tiêu căn cứ: sân bay Biên

Hòa, tổng kho Long Bình, căn cứ thiết giáp Hốc Bà Thức... có khi nó hạ thấp sát

ngọn cây tƣởng chừng ném hòn đá ngƣợc có thể lọt qua cửa kính, vỡ tan đầu tên

phi công và mấy tên lính nhí nhố trong máy bay vậy. Thế cũng chƣa nguy hiểm

đến đoạn một tốp lính dắt theo cả chó Bécgiê vòng quanh từng con đƣờng các

133

phân khu kho. Cũng may là mùi hôi thối của bùn đã cản át hơi ngƣời lạ nên cả chó

và lính dừng lại chốc lát nhƣ có phần nghi vấn rồi dắt nhau đi qua. Hai chúng tôi

nhẹ hẫng cả ngƣời, sự ngứa ngáy đến tê dại dƣờng nhƣ tan biến và cơn khát nƣớc

cháy cổ họng cũng tan theo.

Một ngày căng thẳng chịu áp lực từ mọi phía cũng qua đi, ánh nắng từ chói

chang chuyển sang nhạt dần và tắt lịm, chỉ hắt lên nền trời thứ ánh sáng mờ nhạt.

Giờ này địch đã thu gom binh lính là thời cơ thuận lợi nhất để chúng tôi hành

động. Cả hai gần nhƣ cùng lúc lồm cồm bò dậy, toàn thân nhƣ một tảng đất đen

nháy biết cọ quậy. Chỉ có hàm răng còn trắng và cùng nở nụ cƣời nhƣ vừa trút bớt

đƣợc gánh nặng. Tôi chƣa kịp vuốt bùn đất trên mình nhƣng lại vặt mấy nắm lá

“cộng sản”, loại lá có mùi hôi hăng hắt gạt bớt bùn còn bám đầy ngƣời Khuê. Và

hƣớng dẫn cậu ấy vò lá ra chà thật kỹ trên mặt da cho đỡ ngứa rồi tới lƣợt làm cho

mình. Thật bất ngờ, chà càng kỹ dƣờng nhƣ nọc ngứa loài côn trùng tai hại kia bị

dần mất tác dụng. Chỉ để lại trên mặt da đỏ rựng, tứa máu. Lúc này mới thấm cơn

mệt lan tỏa và cái khát đến nôn nao. Mà chẳng biết tìm đâu ra giọt nƣớc để uống

vào lúc này, dù nƣớc có dơ bẩn cũng chịu vậy.

Nghĩ mà thƣơng cho Khuê quá. Mình tƣơng đối lớn tuổi, từng trải, sức chịu

đựng còn đỡ. Cậu ta trai trẻ chƣa va chạm nhiều, nay gặp tình huống gay cấn mà

vƣợt qua đƣợc quả là một kỳ tích - xứng đáng tặng thƣởng huân chƣơng chiến

công quá đi chớ.

Ráng đi cƣng, tôi an ủi Khuê bằng câu ngắn gọn ấy, mà thấy lòng nhẹ nhõm

đôi chút. Bây giờ là lúc tranh tối tranh sáng ta có thể tiếp cận các mục tiêu. Trƣớc

mắt la liệt các loại bom đủ kích cỡ và la liệt những đạn pháo kể cả trong kho và

ngoài bãi phủ bạt nằm im lìm, những nhãn mác ghi bằng tiếng Anh còn mới toanh.

Lƣợng hàng đặc biệt này khó mà đo đếm cho xiết, chất ngất nhƣ núi vậy. Chỉ bấy

nhiêu thôi đã thấy Mỹ đổ tiền của cho cuộc chiến tranh xâm lƣợc bẩn thỉu đối với

Việt Nam lớn biết ngần nào? Khi đã đạt các yêu cầu trinh sát điều nghiên: mắt

thấy, tay sờ... thì tôi hƣớng dẫn cho Khuê quan sát thật kỹ các vật chuẩn, nhằm

đƣờng hƣớng để khi có lệnh là dẫn đội hình vào đánh, không phải điều tra bổ sung.

Rồi lần lƣợt xóa dấu vết để rời khỏi căn cứ.

Theo thông lệ, tầm giờ này cánh lính trinh sát mới bám tới chân hàng rào

ngoài cùng để bắt đầu làm động tác tiếp cận. Vậy mà thời điểm này (hai con vạc

đi đêm) đã làm những việc ngoài cả dự đoán của bản thân mình và chỉ huy cấp

trên. Cả hai rộn lên niềm vui khó tả. Khi ra tới một địa điểm tƣơng đối an toàn,

việc đầu tiên là tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo, tìm lại các trang bị hôm qua cất

giấu tại điểm dừng rồi ung dung trở về cứ đứng chân các xã vành đai huyện Vĩnh

Cửu, cách căn cứ lớn của địch tƣơng đối gần.

Nhờ có những pha trinh sát ngoạn mục này làm cơ sở các chiến sĩ đặc công

tỉnh Biên Hòa trƣớc đó và Đoàn Đặc công 113 những năm sau này giáng những

cú bất ngờ tuyệt vời tạo sấm sét vào tổng kho Long Bình, thiêu hủy hàng trăm

ngàn tấn bom đạn, đốt cháy hàng triệu lít xăng dầu cùng nhiều phƣơng tiện chiến

tranh khác mà Mỹ, ngụy không thể nào ngăn chặn đƣợc.

134

Chiến tranh đã đi qua gần ba mƣơi năm. Màu xanh hòa bình, cuộc sống tƣơi

vui đã lan tràn xứ sở trên Tổ quốc Việt Nam ngàn lần yêu quý của chúng ta. Tổng

kho Long Bình, nơi lƣu giữ những thứ để kẻ thù đi gây tội ác tày trời đối với các

dân tộc trên bán đảo Đông Dƣơng thủa nào nay trở thành vùng đất hứa, mọc lên

các khu công nghiệp trẻ đầy sức sống.

Một buổi sáng đẹp trời đứng dƣới chân tƣợng đài Chiến thắng Đặc công

Long Bình, tôi phóng tầm mắt bao quát cả vùng Khu công nghiệp đang hối hả đi

vào hoạt động mà lòng cảm thấy bâng khuâng, dâng tràn một mềm vui khó sánh.

Tôi thầm nhắc tên ngƣời đồng đội yêu quý thuở nào, hai tiếng: KHUÊ ƠI!

Biên Hòa, 30-6-2003

T.G.

135

NGƢỜI TRUNG ĐOÀN TRƢỞNG QUÝ MẾN

NGÔ VĂN SƠN1

Tôi có may mắn đƣợc gần gũi với ngƣời Trung đoàn trƣởng Nguyễn Thanh

Tùng khi Trung đoàn 113 vừa mới thành lập. Ông là ngƣời chỉ huy sâu sát, tỉ mỉ,

đƣợc gần gũi ông bản thân tôi cũng nhƣ nhiều anh em khác đều thấy mình có

bƣớc trƣởng thành. Dƣới đây là niềm cảm mến sâu sắc và trân trọng của bản thân

tôi đối với ông.

Đó là lần Trung đoàn trƣởng Nguyễn Thanh Tùng trực tiếp giao nhiệm vụ

cho tôi, Đại đội trƣởng 53 trinh sát của Trung đoàn tổ chức lực lƣợng vào điều

nghiên trong tổng kho Long Bình để chuẩn bị cho những trận đánh lớn. Vào ra các

đồn bót của địch đối với cánh lính chúng tôi, là chuyện thƣờng tình. Có điều, đột

nhập một căn cứ với tầm cỡ quy mô nhƣ Long Bình thì đây là lần đầu. Phải thừa

nhận là rất khó và nguy hiểm nhƣng phải thực hiện cho kỳ đƣợc. Mở đầu giao

nhiệm vụ, ông khêu gợi:

- Sơn này, Trung đoàn ta vừa mới thành lập, tới đây thể nào chúng ta cũng sẽ

mở ra những trận đánh quy mô lớn, đạt hiệu suất cao. Đây không phải ý muốn chủ

quan của Đảng uỷ - Chỉ huy Trung đoàn mà nó đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng

trong tình thế mới, cục diện mới có lợi cho ta. Là cấp trung đoàn, sau này chắc

chắn sẽ hình thành nhà truyền thống, trƣng bày những hình ảnh, hiện vật thành

tích chiến đấu, xây dựng qua các thời kỳ. Đây là hình thức giáo dục sinh động cho

các thế hệ. Điều này không phải tới khi kết thúc chiến tranh mới nghĩ đến, nhƣ thế

là đã muộn, mà ta phải nghĩ ngay từ bây giờ, Sơn ạ. Vì vậy những ngày sắp tới,

Sơn tổ chức anh em vào kho trinh sát phải có ý thức về công việc này. Để khi thực

hành chiến đấu lúc trở ra mỗi ngƣời phải mang theo đƣợc vật chứng. Vật chứng ấy

có thể là cái nắp nhựa đạn pháo, chiếc nhãn quả bom, hay một ống thuốc mồi,...

rất nhẹ nhàng, không tốn bao nhiêu sức lực, thời gian, vƣớng bận khi hành tiến

nhƣng có ý nghĩa. Bởi nó là bằng chứng cho những trận đánh sâu, đánh hiểm của

đặc công trong hang ổ giặc không dễ gì có đƣợc. Tôi rất phấn khởi khi nhận ra ý

tƣờng nhìn xa trông rộng của ngƣời chỉ huy cấp trên trực tiếp mình.

Tham gia đánh vào tổng kho Long Bình, đại đội trinh sát 53 gồm 10 ngƣời.

Trƣớc lúc xuất phát, tôi truyền đạt để ai nấy quán triệt nội dung này, coi đây là chỉ

tiêu phải phấn đấu. Tôi còn nói rõ: ai gỡ đƣợc cái gì đem theo cái đó, ngay bản

thân tôi cũng mang về mấy ống thuốc mồi của đạn pháo. Trận đánh thành công rất

xuất sắc, các vật chứng giao nộp đầy đủ cho thủ trƣởng, ông ngắm nghía những

cái thứ “bỏ đi không ai nhặt ấy” lấy làm đắc chí và mỉm cƣời mãn nguyện lắm, rồi

thốt lên một câu: bao nhiêu công lao, mồ hôi và cả máu mới có đấy chứ!

Là một đại đội trƣởng trinh sát đƣợc anh em quý mến về ý chí quyết tâm

trong suốt cả quá trình chiến đấu, kể cả những lúc gay go ác liệt nhất, tôi càng

1 Nguyên Đại đội trưởng trinh sát 53, Thượng tá - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

136

thêm cảm phục tác phong chỉ huy tỉ mỉ đến từng chi tiết của ông. Và đối chiếu lại

nội dung báo cáo qua những lần trinh sát, kết quả chủng loại bom đạn phá huỷ

theo sự thừa nhận của đối phƣơng cùng với nhãn mác đem về là một thể hoàn

chỉnh, trùng khớp nhƣ niềm tin của cấp trên đối với cấp dƣới vậy.

Lực lƣợng trực tiếp tác chiến bên trong có 36 ngƣời. Đại đội anh Tƣ Già 20

đồng chí; đại đội trinh sát 53 có 10 anh em. Ngay tối hôm ấy (14-8-1972 ) đài

BBC đƣa tin: “Phân khu 53 tổng kho Long Bình bị quân cảm tử đặc công Việt

cộng luồn sâu đặt mìn, phá huỷ trên 6.000 tấn bom đạn. Trên thực tế vƣợt rất xa

khối lƣợng mà đối phƣơng thừa nhận.

Trong trận ấy, Trần Xuân Thƣởng khi lui quân lạc đƣờng bị địch bắt ở cầu

Sông Buông ngoài căn cứ, đƣợc trao trả tại huyện Lộc Ninh tháng 3 năm 1973.

Sau ngày đất nƣớc thống nhất, mồng 3 tháng 6 năm 1976, tôi vinh dự đƣợc

Chủ tịch nƣớc tuyên dƣơng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân

dân. Và ngƣời Trung đoàn trƣởng quý mến của chúng tôi - trung tá Nguyễn Thanh

Tùng cũng vinh dự nhận danh hiệu cao quý ấy ngày 6 tháng 11 năm 1978.

Trong thành tích khiêm nhƣờng của mình, tôi luôn luôn tâm niệm trƣớc hết là

do tập thể xây đắp, trong đó có phần đáng kể sự rèn luyện trực tiếp của ngƣời thủ

trƣởng quý mến của mình.

Ông hiện là thiếu tƣớng, đã nghỉ hƣu, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh Đồng

Nai - Ủy viên Thƣờng vụ Ban Chấp hành Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Khi đọc

những dòng này, ngƣời Trung đoàn trƣởng quý mến năm xƣa còn nhớ ngƣời lính

trinh sát thuở nào với họ tên Ngô Văn Sơn quê hƣơng Bắc Thái nữa chăng?

Huyện Mê Linh - tỉnh Vĩnh Phúc

Tháng 12 năm 2002

N.V.S

137

NGUYỄN THANH TÙNG VÀ NHỮNG CHIẾN CÔNG LỪNG LẪY CỦA

BINH CHỦNG ĐẶC CÔNG ANH HÙNG

HOÀNG MINH MẪN1

Tại Đại hội Cựu Chiến binh Việt Nam lần thứ III tôi gặp lại Thiếu tƣớng

Nguyễn Thanh Tùng - Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân, ngƣời chỉ huy đầy

mƣu lƣợc, đầy dũng khí của Binh chủng Đặc công Quân đội nhân dân Việt Nam

trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Anh nắm chặt tay tôi cƣời hiền và hứa:

“Sau Đại hội về anh sẽ kể cho em nghe về một số chiến công của bộ đội đặc công.

Lần này không lỡ hẹn nữa đâu, yên tâm đi”.

Vào một buổi sáng đẹp trời chiếc xe nhà binh đã đƣa anh đi gần trăm cây số

đến với tôi. Cùng đi còn có anh Quốc Hoàn là cựu sĩ quan của Binh chủng Đặc

công năm xƣa và hiện là cán bộ tuyên huấn của Hội Cựu chiến binh tỉnh Đồng Nai.

Anh vào câu chuyện thật tự nhiên, thoải mái:

Ngày 1 tháng 1 năm 1969, anh đƣợc đề bạt Phó phòng Đặc công Miền; đến

tháng 5 năm 1969 đƣợc nhận nhiệm vụ đi trinh sát căn cứ “Tếch Ních” của địch

cách tỉnh lỵ Bình Long 2,5 ki-lô-mét. Đây là căn cứ của lữ đoàn 1 thuộc sƣ đoàn

“Kỵ binh bay” và sở chỉ huy sƣ đoàn bộ binh số 1 “Anh Cả đỏ” của Mỹ. Căn cứ

rộng tới 60 ki-lô-mét vuông đƣợc bảo vệ bởi tám lớp rào kẽm gai với chi chít mìn

sát thƣơng, mìn sáng và hệ thống đèn pha. Tổng số binh lính địch trong căn cứ lên

tới 4.000 tên với hệ thống công sự hầm hào kiên cố, trang bị hiện đại.

Qua nghiên cứu tài liệu và thực tế trinh sát kỹ lƣỡng, ngay sau đêm đầu tiên

anh đã cơ bản nắm đƣợc hệ thống phòng thủ của địch. Nhƣng không may anh đã

bị thƣơng bởi một quả đạn M.79 bắn vu vơ từ trong căn cứ ra. Anh đƣợc đƣa về

bệnh xá Hớn Quản, và khi biết các bác sĩ có ý định chuyển anh về tuyến sau thì

anh đã kiên quyết đề nghị đƣợc ở lại và trở ra chiến trƣờng tiếp tục chỉ đạo tác

chiến.

Các anh quyết định tiến công căn cứ “Tếch Ních” trên ba hƣớng. Mục tiêu

chủ yếu là sở chỉ huy sƣ đoàn bộ binh “Anh Cả đỏ”; mục tiêu quan trọng là sở chỉ

huy lữ đoàn 1 thuộc sƣ đoàn “Kỵ binh bay”. Do căn cứ địch rộng nên anh đã tổ

chức thành chín mũi tiến công.

0 giờ ngày 12 tháng 5 năm 1969, 201 cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 5 đặc công

dũng mãnh tiến công bằng thủ pháo và lựu đạn. Sau 25 phút khói lửa ngút trời,

bọn địch mới bắt đầu phản công, cƣờng độ phản công ngày càng quyết liệt. Nhƣng

dƣới sự chỉ huy quả cảm, sáng suốt của Nguyễn Thanh Tùng quân ta vẫn chiếm

lĩnh và làm chủ các mục tiêu quan trọng. Địch phải dùng máy bay và xe tăng chi

1 Đại tá Phó chủ nhiệm Phòng Chính trị trường Sĩ quan Lục quân 2, đã nghỉ hưu.

138

viện nhƣng lại càng chuốc lấy thất bại nặng nề hơn, nhiều xe tăng bị bắn cháy;

riêng đồng chí Nguyễn Xuân Tình bằng hỏa lực B.40 đã bắn cháy sáu xe tăng Mỹ

(sau này Nguyễn Xuân Tình là đại tá, Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân).

1 giờ 47 phút ngày 12 tháng 5 năm 1969 ta hoàn toàn làm chủ trận địa, loại

khỏi vòng chiến đấu 1.106 tên địch, bắn cháy 21 máy bay; 105 xe quân sự; phá

hủy 20 khẩu pháo và nhiều phƣơng tiện chiến tranh khác của địch, quân ta rút lui

an toàn. Chỉ hơn một tuần sau trong lúc địch còn đang hoang mang thì Nguyễn

Thanh Tùng lại nhận đƣợc lệnh chỉ huy Tiểu đoàn 5 tiến công “Tếch Ních” lần

thứ hai.

Sau một thời gian ngắn trinh sát, 0 giờ ngày 6 tháng 6 năm 1969 trận tiến

công bắt đầu, đó cũng là thời kỳ địch đang tập trung binh khí hỏa lực chuẩn bị một

cuộc càn quét lớn. Vì vậy ta đã loại gần 1.000 tên Mỹ; phá hủy tám khẩu pháo; 12

máy bay; 30 xe quân sự, san phẳng 30 lô cốt, 50 hầm ngầm, 87 nhà ở, ba nhà kho...

Hai chiến thắng liên tục ở “Tếch Ních” chứng tỏ đặc công có đủ khả năng

đánh nhồi, đánh bồi liên tục vào một căn cứ lớn của địch trong một thời gian ngắn

và giành thắng lợi giòn giã.

Đầu năm 1972, Bộ Chỉ huy Miền mở chiến dịch Nguyễn Huệ; không gian

chiến dịch ở phía bắc Sài Gòn gồm bốn tỉnh Bình Long, Phƣớc Long, Tây Ninh,

Bình Dƣơng. Hƣớng chủ yếu của chiến dịch là đƣờng 13; khu vực quyết chiến đợt

1 là Lộc Ninh; đợt 2 là Hớn Quản, Châu Thành; Sau đó phát triển về Lai Khê, Dầu

Tiếng. Hƣớng nghi binh chủ yếu là đƣờng 22; khu vực quyết chiến điểm là Sa Mát,

Trảng Sụp, hƣớng phối hợp là Tây Ninh, Long Khánh, Biên Hòa.

Lực lƣợng tham gia chiến dịch gồm ba sƣ đoàn bộ binh; hai trung đoàn bộ

binh và binh chủng; lực lƣợng đặc công có chín tiểu đoàn.

Với cƣơng vị là Sƣ đoàn phó Sƣ đoàn 30B, Nguyễn Thanh Tùng đƣợc chỉ

định làm Chỉ huy phó cánh nghi binh chiến dịch và đặc trách chỉ huy lực lƣợng

đặc công hƣớng này.

Trƣớc khi mở màn chiến dịch, Bộ Tƣ lệnh Miền giao nhiệm vụ cho đặc công

đánh Trảng Lớn nhằm tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của địch.

Đợt tiến công thứ nhất anh chọn 66 chiến sĩ chia thành năm mũi tiến vào căn cứ

Trảng Lớn và rất nhanh chóng giành thắng lợi; diệt và làm bị thƣơng 230 tên địch;

diệt sở chỉ huy sƣ đoàn địch; phá hủy chín máy bay; năm khu thông tin và nhiều

phƣơng tiện chiến tranh khác.

Để đánh lạc hƣớng và thu hút địch, đêm 20 rạng 21 tháng 3 năm 1972 Tiểu

đoàn 16 đặc công do Nguyễn Thanh Tùng trực tiếp chỉ huy đƣợc lệnh tiến công

Trảng Lớn lần thứ hai, tiêu diệt thêm 300 tên địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

hƣớng nghi binh mà Bộ Tƣ lệnh Miền giao phó.

Đêm 4 tháng 4 năm 1972 chiến dịch Nguyễn Huệ chính thức bắt đầu, quân ta

đánh chiếm thị trấn Lộc Ninh; Tiểu đoàn 28 đặc công của sƣ đoàn 5 diệt chi khu

cảnh sát; sở chỉ huy chiến đoàn 9 ở căn cứ Hoa Lƣ. Cũng trong đêm đó các đơn vị

139

đặc công của Đoàn 429 đồng loạt tiến đánh tám mục tiêu của sƣ đoàn 25 ngụy

trong đó có Tếch Ních, Lai Khê, Phƣớc Vĩnh, Hậu Nghĩa.

Đêm 6 tháng 4 năm 1972, Tiểu đoàn 16 đặc công dƣới sự chỉ huy trực tiếp

của Nguyễn Thanh Tùng đã tập kích trung tâm núi Bà Đen, chiếm đƣợc hai phần

ba núi,...

Sau hai tháng kể từ lúc mở màn chiến dịch, Bộ Tƣ lệnh Miền quyết định rút

các sƣ đoàn chủ lực ra để củng cố lực lƣợng, chuẩn bị cho trận đánh quyết định

cuối cùng. Đồng thời giao nhiệm vụ cho bộ đội đặc công tăng cƣờng hoạt động,

liên tục tiến công địch để phối hợp với mặt trận đấu tranh ngoại giao mà chủ yếu

là cuộc đàm phán ở Pa-ri.

Ngày 1 tháng 6 năm 1972 Nguyễn Thanh Tùng đƣợc Bộ Tƣ lệnh Miền giao

nhiệm vụ tổ chức thành lập năm đoàn đặc công tƣơng đƣơng cấp trung đoàn có

phiên hiệu là 113, 115, 116, 117 và 119. Đoàn Đặc công 113 đƣợc bố trí xung

quanh Biên Hòa; bốn đoàn còn lại bố trí xung quanh Sài Gòn hoạt động nhằm tiêu

hao sinh lực địch và làm nhiệm vụ mở cửa cho đại quân tiến vào giải phóng Sài

Gòn. Các mục tiêu trọng yếu đƣợc tính đến là các sân bay Biên Hòa, Tân Sơn

Nhất, tổng kho Long Bình, căn cứ Đồng Dù...

Chỉ thị của Bộ Tƣ lệnh Miền cũng chỉ rõ: các đơn vị đặc công phải vừa tổ

chức xây dựng lực lƣợng, vừa tác chiến liên tục để gây áp lực đối với địch tại bàn

đàm phán Pa-ri.

Theo bổ nhiệm của cấp trên anh Út Thắng là Trƣởng đoàn Đặc công 113,

nhƣng anh chƣa kịp nhận nhiệm vụ thì đã hy sinh nên Nguyễn Thanh Tùng đƣợc

chỉ định thay thế. Lực lƣợng của 113 có Tiểu đoàn 9 đang hoạt động ở Phú Lợi

(Bình Dƣơng) Phân khu 5; ở Biên Hòa có Tiểu đoàn 1 và 2; Tiểu đoàn ĐKB 174

và một đại đội vận tải. Ban Chỉ huy gồm Nguyễn Thanh Tùng Đoàn trƣởng kiêm

Bí thƣ Đảng ủy; Mai Văn Thoạn - Chính ủy; Vũ Quớ - Đoàn phó Tham mƣu

trƣởng, đồng chí Đỗ Thịnh Phó chính ủy và đồng chí Hai Lộc Đoàn phó.

Thấm nhuần sâu sắc nhiệm vụ trên giao, Nguyễn Thanh Tùng đã cùng Ban

chỉ huy Đoàn tổ chức hoạt động liên tục, trƣớc hết là mở trận đánh lớn vào sân

bay Biên Hòa. Để phối hợp hành động, anh đã bàn với đồng chí Phan Văn Trang

Bí thƣ Tỉnh uỷ Biên Hòa (mật danh là U1) huy động 600 cán bộ cơ quan tỉnh ủy,

dân công cùng bộ đội để bảo vệ hành lang và vận chuyển 200 quả đạn ĐKB, H.12

(mỗi quả ĐKB nặng 58 ki-lô-gam) vào trận địa tiến công.

Đêm mồng 2 rạng mồng 3 tháng 8 năm 1972, Đoàn Đặc công 113 đã dồn dập

dội bão lửa vào sân bay Biên Hòa và bộ tƣ lệnh quân đoàn 3 ngụy; 74 máy bay

địch bị phá hủy, hai đài điều không bị đánh sập; nhiều phƣơng tiện chiến tranh bị

phá hủy, hàng trăm tên giặc phải đền tội.

Ngay sau trận đánh, trên đƣờng rút quân về căn cứ ở xã Bàu Hàm, để nghi

binh đánh lừa địch Nguyễn Thanh Tùng đã đánh một bức điện cho Chính ủy Mai

Văn Thoạn với nội dung: “Theo lệnh trên, không đánh các mục tiêu ở Biên Hòa

140

nữa, chờ lệnh mới. Anh về gấp để rút kinh nghiệm trận đánh pháo vào phi trƣờng

Biên Hòa. Cho lực lƣợng rút ra hết”.

Đánh xong bức điện anh tức khắc dẫn quân về tổng kho Long Bình, nơi

Tham mƣu phó Đỗ Văn Ninh và anh em trinh sát vẫn đang bám trụ nghiên cứu

tình hình để chuẩn bị cho trận đánh mới. Tham gia trận đánh vào tổng kho Long

Bình anh sử dụng 57 cán bộ, chiến sĩ. Đây là trận đánh bằng phƣơng pháp phá hủy

bí mật có quy mô lớn nhất từ trƣớc đến nay.

Ngày 12 tháng 8 năm 1972 lực lƣợng tập kết cách mục tiêu 15 ki-lô-mét về

hƣớng đông bắc; xế chiều đội hình bí mật tiến về tổng kho Long Bình. Gần nửa

đêm cả ba mũi đã đột nhập đƣợc vào khu vực kho 53. Các chiến sĩ phải dùng cƣa

sắt để cƣa các khóa. Nhƣng thật may cho ta, hôm ấy địch mở các cửa kho để

thông thoáng nên đã giảm đƣợc thời gian đáng kể cho việc phá khoá cửa kho.

220 ki-lô-gam thuốc nổ hợp chất C4 tạo thành 220 khối thủ pháo tay đƣợc

các chiến sĩ đặt vào các vị trí hiểm yếu trong kho. Thuốc nổ đƣợc đặt theo hình

tam giác, cách một kho đặt một kho. Thời gian hẹn nổ cũng khác nhau: những quả

đặt trƣớc ở phía xa bên trong giờ hẹn nổ là 1 giờ; những quả ở giữa gần hơn là 30

phút và những quả ở ngoài cùng là 15 phút. Đặt xong 220 khối thuốc quân ta rút

ra an toàn.

Bên ngoài hàng rào trên miệng hầm chỉ huy Nguyễn Thanh Tùng bồn chồn lo

lắng; thời gian sao lâu thế? Hay là bọn địch đã phát hiện đƣợc và gỡ hết rồi? Bên

cạnh anh, Tham mƣu phó Đỗ Văn Ninh cũng lo lắng nhƣng lại liên tiếp an ủi: nhất

định bộc phá sẽ nổ và thúc giục Nguyễn Thanh Tùng xuống hầm cho an toàn thì

vừa lúc đó một ánh chớp xanh xé màn đêm rực sáng kèm theo là tiếng nổ long trời.

Lúc ấy là 4 giờ 30 phút sáng 13 tháng 8 năm 1972.

Tiếng nổ của bộc phá quân ta, tiếng nổ của bom đạn địch ầm vang rung

chuyển đất trời lại thêm khói đen mịt mùng bao phủ bầu trời mãi tới chiều tối

ngày 15 tháng 8 năm 1972 không gian nơi đây mới tạm trở lại yên tĩnh.

Sau thất bại to lớn, bộ chỉ huy địch đã phải thú nhận trên các mặt báo:

150.000 tấn bom đạn bị phá huỷ; 200 tấn thuốc nổ bị nổ tung; 17 nhà lính bị phá

tan tành, tiêu diệt một đại đội công binh; phá hủy nhiều phƣơng tiện chiến tranh

khác...

Trong khi tiếng sấm ở tổng kho Long Bình nhƣ đòn trời giáng còn âm vang,

kẻ địch còn đang hoảng loạn thì Nguyễn Thanh Tùng lại quyết định đánh bồi một

đòn chí mạng nữa vào quân thù; mục tiêu lần này lại là sân bay Biên Hòa.

Tại đây Ban Binh vận Trung ƣơng Cục đã gài đƣợc đồng chí Nguyễn Văn

Thôn vào hàng ngũ địch với mật danh H16, anh mang lon đại úy ngụy. H16 là

đƣờng dây đồng chí Sáu Biên - Bí thƣ thành đoàn Biên Hòa phụ trách. Liên quan

tới sự chỉ đạo của Bí thƣ Tỉnh ủy Phan Văn Trang.

Tỉnh đội trƣởng Trần Công An (Hai Cà) đề xuất phƣơng án giúp đỡ, quyết

định sử dụng H16 làm nội ứng để tiến công địch. Theo kế hoạch Tỉnh đội trƣởng

Trần Công An sẽ cung cấp thuốc nổ mồi có sức công phá lớn lấy từ đầu quả bom

141

lép loại 250 ki-lô-gam của địch. Chất nổ đƣợc H16 đƣa vào căn cứ trong sân bay

(lót dƣới đế giày). Nguyễn Thanh Tùng phụ trách việc tìm kíp nổ hẹn giờ, anh đã

đề nghị Bộ Tham mƣu Miền giúp đỡ và chi viện hai kíp nổ MY10, nhƣng chỉ là

ngòi nổ hẹn 8 giờ, chứ không có ngòi nổ hẹn 10 giờ nhƣ H16 yêu cầu.

Sau khi bí mật đƣa đƣợc thuốc nổ và kíp nổ vào sân bay, hôm ấy là đêm 8

tháng 9 năm 1972 nhƣ thƣờng lệ H16 cùng kíp thợ quân khí ngụy lắp ráp bom vào

các máy bay A37 và C130 để ngày hôm sau chúng xuất kích đi đánh phá. Khác

với mọi lần, hôm nay đã gắn đƣợc thuốc nổ có kíp hẹn giờ vào một trong những

quả bom loại 250 ki-lô-gam nằm trong đống bom chờ gắn vào máy bay. Anh hồi

hộp nhƣng bình thản dắt xe máy ra cổng gác phóng xe hoà vào dòng ngƣời để trở

về nhà riêng với tấm lòng lo lắng, chờ mong và hy vọng.

Ở ngoài kia, ngƣời chỉ huy trận đánh Nguyễn Thanh Tùng đã có phƣơng án

nghi binh để bảo vệ an toàn cho H16. Anh chỉ thị cho Tiểu đoàn pháo 174 đặc

công Đoàn Đặc công 113 bố trí sẵn ba quả đạn ĐKB ở dốc Ông Hoàng xã Thiện

Tân, huyện Vĩnh Cửu để phối hợp hành động.

Khoảng 9 giờ sáng ngày 9 tháng 9 năm 1972, quả bom trong sân bay phát nổ,

tức khắc ba quả đạn ĐKB từ dốc Ông Hoàng phụt khỏi bệ phóng bay vút vào sân

bay Biên Hòa, Toàn bộ sân bay chìm trong khói lửa. Tiếng bom nổ rền vang rung

động cả đất trời và khoảng không bao la; 175 máy bay A37 và C130 nổ tung tan

tành mây khói; hàng trăm tên địch tan xác.

Những chiến công của Binh chủng Đặc công nói chung và Đoàn Đặc công

113 nói riêng, đặc biệt là chiến công lẫy lừng ở tổng kho Long Bình và sân bay

Biên Hòa đã có tiếng vang lớn, bầu bạn thế giới hết lời ngợi ca; kẻ thù khiếp sợ,

đã làm rung động cả bàn đàm phán Pa-ri và đã góp phần tích cực cùng với chiến

thắng oanh liệt của trận “Điện Biên Phủ trên không” trong 12 ngày đêm cuối

tháng 12 năm 1972 trên bầu trời Hà Nội đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định

Pa-ri về Việt Nam và cuốn cờ rút quân về nƣớc...

Mặt trời đã đứng bóng cũng là lúc chuông điện thoại réo gọi từ một nơi nào

đó chắc là gấp lắm. Anh đứng bật dậy và vẫn với giọng nhỏ nhẹ vội nói: thế đã

nhé! Có việc phải đi gấp, nếu có gì chƣa rõ thì trao đổi qua điện thoại vậy.

Chiếc xe nhà binh đã nổ máy chờ sẵn, anh nhanh nhẹn bƣớc vào đóng sập

cửa và chiếc xe lao vút đi nhƣ ngày nào anh háo hức lao vào các trận chiến quyết

liệt với quân thù.

Bà Rịa - Vũng Tàu,

tháng 3 năm 2003

H.M.M

142

LẬT CÁNH

LÊ QUANG TRỊ1

“Lật cánh” là ngôn ngữ của lính khi đang hoạt động chiến đấu ở địa bàn này,

chuyển sang một địa bàn khác. Đối với chúng tôi quả đúng nhƣ vậy.

Ngày 30 tháng 4 năm 1972, khi chiến dịch Nguyễn Huệ ở mặt trận Tây Ninh

đã chuyển hƣớng, một số đơn vị từ miền Đông đƣợc điều động xuống miền Tây.

Lúc ấy, chúng tôi đang ở Bến Cầu, Tây Ninh, đƣợc lệnh trở về căn cứ Bà Chiêm.

Đặt chân tới đây mới hay, anh Nguyễn Thanh Tùng (Chín Tùng), Phó tƣ lệnh

Đoàn đặc công 429 cơ động Miền đã chính thức nhận nhiệm vụ ở Bộ Tham mƣu

Miền về việc tổ chức thành lập Đoàn Đặc công 113, hoạt động trên chiến trƣờng

tỉnh Biên Hòa. Lực lƣợng ban đầu gồm có: Tiểu đoàn 9 đặc công Đoàn 429 đang

ở Thủ Dầu Một; hai Tiểu đoàn đặc công Biên Hòa và Tiểu đoàn pháo 174 đang

đứng chân ở huyện Tân Uyên. Cơ quan lúc ấy đƣợc hình thành, anh Đỗ Văn Ninh

- Tham mƣu phó; anh Trƣơng Bá Triệt, Chủ nhiệm chính trị; còn hậu cần và các

bộ phận khác đang tiếp tục tìm nhân sự. Cũng vào thời điểm ấy, bản thân tôi đƣợc

anh Chín Tùng rút lên làm trợ lý tham mƣu, sau đó Chủ nhiệm Ban trinh sát -

quân báo của Đoàn. Trung đoàn trƣởng đi tới đâu, tôi cũng tháp tùng để làm việc,

nắm tình hình ghi chép đầy đủ, viết điện hằng ngày thông qua anh, báo cáo về Bộ

Tham mƣu Miền. Trên đƣờng từ căn cứ Bà Chiêm xuống bắc Trảng Bom, chúng

tôi ghé qua Thủ Dầu Một, lúc ấy anh Hai Ngƣơn Tỉnh đội trƣởng. Anh Hai tiếp

chúng tôi rất thân tình ấm áp và cung cấp tình hình liên quan khi xuống địa bàn

mới. Nhất là khi vƣợt qua các con lộ 13 và 14 để về suối Bà Hào, nơi dự kiến hợp

điểm để thành lập Đoàn Đặc công 113. Nói chung, đoàn đi tới đâu đều có quan hệ

chặt chẽ với các đơn vị bạn để nhận sự giúp đỡ, ai nấy cùng chung một suy nghĩ

tất cả cho chiến thắng kẻ thù. Trực tiếp và thƣờng xuyên nhất là Đoàn hậu cần 814

để bảo đảm đạn, gạo và những cơ sở vật chất cần thiết khác. Khi chúng tôi đi qua,

tuyến đƣờng Trần Lệ Xuân cây rừng đổ ngổn ngang chắn hết cả lối đi, có chỗ phải

chui qua hoặc trèo rất trở ngại. Đó là mới đi ít ngƣời và mang vác nhẹ nhàng. Thế

nhƣng, vài ngày sau trở lại, đƣờng sá đã thông thoáng hết sức căn bản để xe ô tô

chở đạn, gạo cùng các thiết yếu khác cho đơn vị hết sức kịp thời, góp phần hoàn

thành nhiệm vụ. Mới hay, công việc này do anh Hai Cà tổ chức thực hiện. Sau

buổi làm lễ tuyên bố thành lập đơn vị tại bờ suối Bà Hào Chiến khu Đ, phía bắc

huyện Vĩnh Cửu, Đảng ủy họp phiên đầu tiên có nghị quyết lãnh đạo đã ra quân là

chiến thắng trận đầu.

Chiến trƣờng tỉnh Biên Hòa là một trong những địa bàn trọng điểm ở miền

Đông Nam Bộ, có nhiều mục tiêu quân sự, hậu cần kỹ thuật của địch... đặc biệt

quan trọng, đƣợc bảo vệ cực kỳ vững chắc. Đánh đƣợc vào những nơi này có tiếng

vang lớn không chỉ trong nƣớc, trong khu vực mà tác động mạnh trên toàn thế giới.

1 Nguyên Chủ nhiệm trinh sát - quân báo trung đoàn - đại tá quân đội đã nghỉ hưu.

143

Đó là nhận định đánh giá của Quân ủy, Bộ Tƣ lệnh Miền và Bộ Tham mƣu. Tinh

thần ấy, đƣợc các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy Đoàn cũng nhƣ mọi cán bộ chúng tôi

nhớ nằm lòng. Trận mở đầu đƣợc xác định là pháo kích vào sân bay Biên Hòa.

Ở đây có một điều lý thú theo khái niệm thông thƣờng của việc đánh pháo là

đặt trận địa từ xa nhằm điều khiển những quả đạn vào mục tiêu nhƣ hiệp đồng

quân, binh chủng trong các chiến dịch. Nay đánh bằng pháo binh nhƣng theo kiểu

đặc công, trong đội hình của một đơn vị đặc công thực thụ - tính độc đáo có lẽ ở

chỗ này. Mặc dầu một đơn vị đặc công chủ lực Miền cấp trung đoàn lần đầu đƣợc

thành lập, đứng chân và sẽ tác chiến lâu dài tại đây nhƣng không hề xa lạ với các

đồng chí lãnh đạo địa phƣơng. Phái viên của Bộ Tham mƣu Miền, không phải là

ai khác mà là anh Hai Cà - nguyên Tỉnh đội trƣờng Biên Hòa, sinh trƣởng từ mảnh

đất này, và qua hai mùa kháng chiến cũng đã từng lăn lộn sống chết ở đây, hiểu

thấu đáo từng con suối, ngọn nguồn, làng mạc, xóm thôn... nay lại làm cố vấn trực

tiếp cho Đoàn Đặc công 113. Anh Hai Thoạn, nguyên là một cán bộ Tỉnh đội Biên

Hòa, nhiều năm bám trụ tại đây nay lại là ngƣời “cầm cờ” trên cƣơng vị Chính ủy

- Bí thƣ Đảng ủy Trung đoàn cùng nhiều đồng chí khác từng chiến đấu, công tác ở

mảnh đất này. Đặc biệt số cán bộ, chiến sĩ đặc công Tỉnh đội Biên Hòa đã bao

phen làm cho kẻ thù khiếp đảm bằng các trận tác chiến nhỏ lẻ mà hiệu suất cao

nay trở về trong đội ngũ Trung đoàn. Những thuận lợi này đƣợc coi là rất cơ bản,

không dễ gì mà có đƣợc, cần khai thác triệt để tạo nên chiến công cho cách mạng,

nhằm đánh bại kẻ thù. Bởi thế, khi nhận đƣợc điện báo của Trung ƣơng Cục, của

Bộ Tƣ lệnh Miền về sự ra đời của đơn vị, đặc biệt khi anh Hai Cà, anh Chín Tùng

làm việc với lãnh đạo tỉnh - các đồng chí sẵn sàng tỏ rõ tình cảm của mình và

nhiệt tình giúp đỡ hết lòng. Điển hình là đồng chí Phan Văn Trang (Năm Trang),

trên cƣơng vị là Bí thƣ Tỉnh ủy, anh quán triệt với các cán bộ chủ chốt để ai nấy

đều biết và tạo mọi điều kiện giúp đỡ Đoàn. Điển hình cho việc phối hợp giúp đỡ

của địa phƣơng là phong trào huy động lực lƣợng liên cơ quan Tỉnh ủy Biên Hòa

để vận chuyển đạn cho trận mở màn đánh pháo vào sân bay Biên Hòa. Trung đoàn

trƣờng Nguyễn Thanh Tùng, cùng cơ quan tham mƣu, tác chiến và Ban Chỉ huy

Tiểu đoàn 174 do anh Hai Nghiêm làm Tiểu đoàn trƣởng triển khai phƣơng án

chiến đấu tìm địa điểm đặt trận địa pháo sao cho tiện lợi, bất ngờ để phát huy công

lực, hiệu quả nhất. Trận đánh này không chỉ mang ý nghĩa tiêu diệt sinh lực địch,

phá hủy phƣơng tiện chiến tranh của chúng mà còn là đòn cảnh cáo đối với Mỹ -

ngụy: nếu chúng còn lao sâu vào con đƣờng tội ác, thì sẽ bị trừng trị đích đáng

ngay tận sào huyệt của chúng. Xuất phát từ ý tƣởng: trận đầu ra quân phải giành

thắng lợi giòn giã, gây tiếng vang lớn, tạo không khí phấn khởi cho những trận

thắng liên tục tiếp theo. Căn cứ vào hình thái của phi trƣờng Biên Hòa, một căn cứ

cực kỳ quan trọng của Mỹ - ngụy, nơi xuất phát của những đàn quạ sắt để gieo rắc

tội ác đối với nhân dân ta trên cả hai miền Nam Bắc, để đạt hiệu quả chiến đấu cao

nhất, theo phƣơng châm tác chiến đề ra là: xung lực, binh khí kỹ thuật phân tán,

hỏa lực tập trung. Bởi vậy, cuộc tập kích này tiến hành làm hai hƣớng. Hƣớng thứ

nhất về phía bắc đặt trận địa ở xã Tân Tịch, Mỹ Lộc huyện Tân Uyên do đồng chí

Hai Nghiêm, Tiểu đoàn trƣởng chỉ huy. Hƣớng đông gồm xã Tân Định, Thiện Tân,

trận địa đặt gần Đƣờng Kiểm thuộc xã Thiện Tân do đồng chí Trần Nhật Thành

144

Đại đội trƣởng chỉ huy. Cơ số đạn dự tính sẽ đƣợc sử dụng trên 200 quả. Thời

gian khẩn trƣơng, số đạn nhiều, cần lực lƣợng tải đạn đông mới đáp ứng. Đây là

một thử thách lớn đối với các cấp chỉ huy từ trung đoàn đến tiểu đoàn. Thế là sau

khi Đảng ủy - Ban Chỉ huy Trung đoàn cử đồng chí Mai Văn Thoạn - Chính ủy

trực tiếp báo cáo tình hình với Bí thƣ Tỉnh ủy Phan Văn Trang, mọi việc đã mở ra

một khả năng tốt đẹp...

Phong trào tham gia vận chuyển hàng “đặc biệt” vì bí mật quân sự nên không

nói vận chuyển đạn pháo, ngay từ ban đầu đƣợc đông đảo anh chị em cán bộ cơ

quan Tỉnh ủy hƣởng ứng. Có anh em chị vừa dứt con sốt cũng cố gắng tình

nguyện tham gia cho kỳ đƣợc. Thế là chỉ trong thời gian rất ngắn cơ số đạn đƣợc

đơn vị cùng với cơ quan dân chính đảng vác bộ về bên kia sông Đồng Nai khu vực

xã Tân Hòa. Từ đó bộ đội trực tiếp vận chuyển vào trận địa. Ở hƣớng bắc thuộc xã

Tân Định và Thƣờng Lang cũng đƣợc đáp ứng kịp thời.

Trong khi ráo riết cho việc vận chuyển đạn, bộ phận trinh sát cũng đã đo đạc

lại các phần tử cho thật chính xác. Khi những quả đạn đã ngoan ngoãn cùng

những ngƣời lính vào vị trí sẵn sàng chiến đấu, ai nấy mới tạm yên tâm, nhƣng

vẫn hồi hộp chờ đợi kết quả cuối cùng.

Đêm mồng 2 rạng ngày 3 tháng 8 năm 1972 (nghĩa là đúng 60 ngày kể từ khi

thành lập Trung đoàn), từ hai hƣớng đông và bắc, những quả đạn nhƣ những chú

rồng lửa vun vút bay đi cùng trúng vào một khu vực mục tiêu. Cả phi trƣờng Biên

Hòa thành biển lửa ngút trời. Chỉ trong vòng 30 phút, 200 quả đạn ĐKB đã trở

thành nỗi kinh hoàng đối với bọn xâm lƣợc ở nơi đƣợc coi là bảo vệ cẩn mật nhất.

Kết quả: 74 máy bay các loại bị tan xác; nhiều nhân viên kỹ thuật, giặc lái, lính

bảo vệ đền tội; khá lớn phƣơng tiện chiến tranh khác bị phá hủy...

Trận đánh mở đầu thắng lợi, làm nức lòng quân dân tỉnh Biên Hòa cũng nhƣ

quân dân cả nƣớc. Đặc biệt tạo niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ trung đoàn và sự

đồng tình giúp đỡ của địa phƣơng.

Những chiến công của Trung đoàn trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nƣớc trên

đất Biên Hòa đã đƣợc đề cập nhiều. Ở một góc độ khác trong mối quan hệ tình

cảm với địa phƣơng, đúng là hết sức đặc biệt. Chẳng hạn: Tiểu đoàn 9 xây dựng

căn cứ Bùng Binh ở xã Thiện Tân, đƣợc cán bộ địa phƣơng và dân che chở, đùm

bọc hết mình. Không chỉ thời gian ngắn mà mấy năm liền. Nhờ những vƣờn bí,

bắp, đậu chuối của dân ở các xã Hƣng Nghĩa, Bàu Hàm mà bộ đội ta có đƣợc sự

cải thiện về sinh hoạt. Có những nông dân họ nói mộc mạc mà chí lý làm sao: gia

đình mình trồng trỉa nhiều bắp, đậu, khoai mỳ và các thứ khác không chỉ để dùng

mà còn giúp bộ đội có cái mà ăn. Không có nguồn này của dân thì bộ đội còn

thiếu thốn, khổ sở hơn rất nhiều. Những lời nói mộc mạc, chân tình cùng việc làm

của dân quả thật quý hơn cả bạc vàng, nhất là trong lúc khó khăn trăm bề.

Giai đoạn sắp tới ngày giải phóng, tôi từ Đoàn Đặc công 113 về nhận nhiệm

vụ ở Đoàn đặc công 116 nên xa đơn vị từ đó. Song, những gì tôi ghi nhận đƣợc về

sự giúp đỡ của lãnh đạo Tỉnh ủy Biên Hòa, Huyện ủy ba huyện Trảng Bom - Vĩnh

Cửu - Tân Uyên cùng những xã đơn vị đứng chân và hoạt động là vô cùng cao

145

quý. Bất luận trong hoàn cảnh nào, trong lịch sử, truyền thống của Đoàn Đặc công

113, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ không bao giờ quên điều thiêng liêng ấy.

TP. Hồ Chí Minh - Xuân 2003

L.Q.T.

146

KỶ NIỆM NHỮNG ĐÊM TẢI ĐẠN

TRẦN TÚ HỒNG1

Tôi sinh ra và lớn lên tại xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu rất cận kề với sân

bay Biên Hòa và cách Chiến khu Đ cũng chẳng mấy xa xôi. Nhƣng mãi tới năm

1965, tôi mới chính thức thoát ly vào rừng đi tham gia kháng chiến ở tuổi 26. Bởi

trƣớc đó, từ 1958 đến đầu năm 1965 tôi là một giáo viên tiểu học nên cũng còn cái

cớ để tạm hoãn đi quân dịch. Song việc đôn quân bắt lính của chế độ ngụy quyền

Sài Gòn ngày càng ráo riết, nếu không tìm cách thoát ly, sớm muộn mình cũng

phải làm bia đỡ đạn, chết uổng mạng cho lũ cƣớp nƣớc và bè lũ bán nƣớc. Biết

nguy cơ ấy sẽ có ngày đến với con cháu dòng họ mình, một hôm ông cậu ruột em

mẹ tôi, tên là Nguyễn Văn On, nguyên ủy viên kinh tài huyện Vĩnh Cửu, sau này

chuyển sang làm ủy viên kinh tài huyện Trảng Bom từ đâu đó xuất hiện. Ông nói

nhƣ ra lệnh:

- Mày không vào rừng, nó sẽ bắt cháu đi lính toi mạng con ơi!

Đã lớn tuổi, lại là giáo viên, ít nhiều nhận thức đƣợc thời cuộc. Nghe lời cậu

khuyên bảo thế là tôi bƣớc chân theo ông đi vào rừng luôn. Những ngày đầu tôi

nhớ nhà thì ít mà nhớ học trò thì nhiều, nó ríu ran nhƣ đàn chim mỗi ngày. Nay xa

nó. Và có lẽ những đứa trẻ ngây thơ trong trắng ấy cũng chẳng biết thầy đi đâu mà

im ắng, không để lại một lời từ giã chớ?

- Hãy tha thứ cho thầy các em nghe. Mai này khôn lớn các em sẽ biết cái buổi

ra đi âm thầm của thầy hôm nay đó mà. Các em cố gắng chăm chỉ học hành, sớm

nhận rõ điều phải trái, để một lúc nào đó, thầy trò ta sẽ gặp nhau - tuyệt nhiên

không phải hai trận tuyến mà cùng chiến hào đánh Mỹ, các em yêu quý của thầy

nhé - Cái buổi đầu tiên ấy, tôi ngồi một mình dƣới tán cây rừng nghĩ mông lung

mà nhƣ đang giảng giải cho đàn học trò của mình vậy, nƣớc mắt đầm đìa, nóng

hổi. Thế rồi cái nhớ dần dần cũng qua đi. Một tháng đầu tôi còn công tác ở xã. Sau

đó đƣợc điều về cơ quan Tỉnh ủy Biên Hòa (U.1) làm nhân viên văn thƣ đánh máy

do anh Ba Thắng phụ trách. (Tỉnh ủy lúc ấy các đơn vị hành chánh gồm: huyện

Vĩnh Cửu, huyện Trảng Bom và thị xã Biên Hòa).

Cơ quan Huyện ủy các huyện, Thị ủy Biên Hòa cũng nhƣ các cơ quan dân

chính, Tỉnh ủy hàng năm đều phải tham gia từ một đến hai chuyến tải đạn cho bộ

đội đánh giặc. Qua học tập quán triệt tình hình chung, coi đây là một công tác phối

hợp rất có ý nghĩa. Tôi còn nhớ các đồng chí Bí thƣ Tỉnh ủy Nguyễn Văn Trị, sau

này là anh Phan Văn Trang thƣờng nhắc nhở: Mỗi trận đánh pháo vào sân bay

Biên Hòa đều có công tham gia tải đạn của anh chị em chúng ta. Nghe vậy, chúng

tôi thấy rạo rực phấn chấn hẳn lên quên hết mệt nhọc.

1 Nguyên Giám đốc Trung tâm giáo dục chính trị Thành ủy Biên Hòa.

147

Tôi tham gia hai chuyến tải đạn từ kho K71 đầu Suối Linh về tới cánh đồng

xã Thiện Tân. Đoàn chúng tôi có cả anh em bộ đội và bốn, năm phụ nữ nhƣ cô

Dung, cô Yến, cô Bân, chị Năm Chinh. Các chị vác khỏe không thua gì nam giới.

Về tinh thần thì đáng khâm phục thật. Tuy nhiên, các chị có đặc thù riêng nên lăn

lộn trong vất vả thấy thật tội nghiệp quá. Cũng qua thực tiễn công tác đƣợc tiếp

xúc với anh em bộ đội, tôi càng cảm phục tinh thần và ý chí của họ biết ngần nào.

Tôi còn nhớ có những anh em ngƣời dân tộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Thái, Hòa

Bình..., quê xa tít tắp ngoài miền Bắc. Có ngƣời quê giáp biên giới Trung Quốc.

Vậy mà bao năm rồi gắn bó với vùng đất này chiến đấu, không một mẩu thƣ nhà.

Tinh thần các anh thật là cao cả quá. Mỗi anh vác trọn một quả ĐKB nặng 58 ki-

lô-gam. Còn chúng tôi chỉ vác loại đạn H12 - và thêm ít thuốc nổ mà cũng thấy

vất vả. Tuy nhiên, anh Nguyễn Tùng Khƣơng cũng chẳng kém, vác một lần hai

trái H12 mà còn vừa đi vừa văn nghệ hài hƣớc nữa đó chớ. Riêng với tôi ngƣời

nhỏ thó không đƣợc khỏe lắm nhƣ anh em khác. Tuy nhiên vƣợt núi băng rừng

còn có thể tham gia ngon lành. Nhƣng ngại nhất với tôi là qua sông sâu. Không ít

lần nhờ anh Sáu Khƣơng dìu hộ, chớ không sẽ chới với. Bởi vậy anh em đặt cho

tôi cái biệt danh hài hƣớc là “Hòn đá Nam Bộ”. Hoặc là anh chàng “Lặn nổi, bơi

chìm”, nếu rơi xuống sông sâu thì chỉ có cách đi làm bạn với thuồng luồng, hà bá

không chừng. Những kỷ niệm ấy với tôi đều là thấm thía.

Thắm thoát hơn 30 năm đã đi qua, giờ mỗi lần có dịp hồi tƣởng lại trong lòng

tôi vẫn cảm thấy xao xuyến, bồi hồi và phấn chấn lạ, khi nghĩ về những chiến

công vang dội từ sân bay Biên Hòa mà bản thân mình cùng bạn bè góp những giọt

mồ hôi giữa những đêm dài tham gia tải đạn năm ấy.

Biên Hòa tháng 4 – 2003

T.T.H

148

HẠNH PHÚC

NGUYỄN HẢI KỲ

(Viết về Đại tá Nguyễn Quốc Sử,

nguyên Chính ủy Trung đoàn đặc công 113)

Cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta chống thực dân Pháp xâm lƣợc

đang ở vào giai đoạn phản công để đi tới thắng lợi hoàn toàn. Đầu tháng 1 năm

1953, chàng thanh niên Nguyễn Quốc Sử rời lũy tre làng xã Thanh Lƣơng, huyện

Vĩnh Bảo, Hải Phòng để tham gia cứu nƣớc, cứu nhà, vừa tròn 18 tuổi. Bởi lúc ấy

quê hƣơng anh còn đầy bóng giặc, đồn, bốt mọc giăng giăng. Chỉ hơn một năm

sau, trận Điện Biên Phủ chấn động địa cầu đã cáo chung lũ thực dân xâm lƣợc đầy

tham vọng ở một xứ sở xa xôi đối với chúng đó là dân tộc Việt Nam gan góc, kiên

cƣờng.

Trong ngày vui đoàn tụ gia đình giữa năm 1954, mẹ anh mừng mừng tủi tủi

trong niềm vui sƣớng đƣợc gặp lại con trai làm lính Vệ quốc đoàn đầy sức sống

trẻ trung. Và chỉ ít ngày ngắn ngủi của kỳ phép tranh thủ ấy, ngƣời mẹ khổ nghèo

lam lũ vẫn không quên thúc dục con mình sang “dạm ngõ” cô thôn nữ đầu chít

khăn mỏ quạ, răng đen hạt na, dáng mạnh khỏe, hay lam hay làm để có ngƣời

chăm lo cày cấy ruộng đồng. Mặc dầu rất thƣơng mẹ không dám trái lời, nhƣng

anh hồn nhiên giảng giải mà chƣa kịp chủ định trƣớc:

- Mẹ cứ yên chí, mƣời năm nữa hãy nghĩ tới việc cƣới vợ cho con!

Bà mẹ mắng yêu: -Cha tổ nhà anh, mẹ không thích đùa kiểu đó. Ông bà nhà

bên họ phật ý bây giờ.

-Con nào dám đùa, thật đó mẹ à – Sử phân bua với mẹ nhƣ vậy. Không ngờ,

đó lại là sự minh chứng cho một cuộc chia xa dài hơn cả ý tƣởng của mình. Và

trên cả gấp đôi thời gian ấy!

Ngày 14 tháng 6 năm 1965, Nguyễn Quốc Sử đƣợc bổ sung đầy đủ quân tƣ

trang ngƣời lính cho một chuyến đi xa - thật xa ra mặt trận chống Mỹ, cứu nƣớc

mà chƣa hẹn ngày về. Chiến trƣờng quen thuộc là Tây Nguyên, miền Tây Nam Bộ,

đồng bằng sông Cửu Long đến miền Đông Nam Bộ, cứ thế cuốn hút anh vào trận

mạc. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nƣớc ngập

tràn niềm vui chiến thắng. Ở hậu phƣơng, mẹ anh cạn khô nƣớc mắt vì nhớ

thƣơng con. Chính bà cũng không thể ngờ rằng một cuộc chia xa giữa mẹ và con

dài tới vậy. Nhƣng, mãi tháng 10 năm 1976 đơn vị mới đƣợc lệnh ra miền Bắc, lúc

ấy anh ở cƣơng vị thiếu tá, Chính ủy - Bí thƣ Đảng ủy Trung đoàn Đặc công 113.

Tháng 11 năm 1976, anh mới có dịp thực hiện nguyện ƣớc của mẹ hơn 20 năm

trƣớc là xây dựng gia đình ở tuổi bốn mốt, nhỉnh hơn vợ một con giáp, theo cách

gọi nôm na của các cụ.

Ngƣời bạn đời chung thủy của anh là Vũ Thị Liên, sinh năm 1948 cùng quê

hƣơng. Nhƣ duyên tiền định vậy. Lớn lên cô thôn nữ nết na, duyên dáng này một

bề chí thú học hành, chƣa hề thầm yêu trộm nhớ với bất cứ chàng trai nào. Khi hai

149

ngƣời kết duyên với nhau, chị đã là một bác sĩ có ba năm tuổi nghề công tác ở

bệnh viện huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng chính quê hƣơng của mình.

Tƣởng chừng cả hai ngƣời đến với nhau hơi muộn màng vì sự nghiệp chung

thì có dịp sƣởi ấm cho nhau trong cuộc sống. Nào ngờ tháng 10 năm 1977, khi kẻ

thù mới lộ nguyên hình là bầy thú dữ xua quân tàn sát một cách man rợ đồng bào

ta ở các tỉnh biên giới Tây Nam Tổ quốc thì Nguyễn Quốc Sử, trên cƣơng vị

Chính ủy Trung đoàn trực tiếp lên đƣờng với một đơn vị đi chiến đấu. Và ba tháng

sau đó nhận đƣợc tin mà vui đến ngỡ ngàng, càng thƣơng cô ấy quá chừng. Vợ

anh - chị Vũ Thị Liên sinh con gái đầu lòng đặt tên là Bảo Giang trong sự thiếu

thốn đủ bề về vật chất, thêm cả nỗi lòng thắc thỏm lo âu cho chồng ngoài mặt trận.

Các bạn ơi, những ai đã từng trải, chúng ta có thể hình dung tâm trạng của cả

hai lúc ấy đều đã luống tuổi mới có mụn con đầu lòng. Chồng lại đang ở nơi tiền

tuyến trong khi cả nƣớc vừa thoát khỏi một cuộc chiến tranh dài đằng đẵng, hàng

chục năm trời. Vậy mà cả hai họ đều kiên định, động viên nhau để cùng vƣợt qua

và hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ trên mọi cƣơng vị công tác. Tháng 7 năm 1980,

cháu gái thứ 2 lại tiếp tục ra đời đƣợc đặt tên là Nguyễn Quỳnh Mai. Theo anh:

Hoa Quỳnh thƣờng nở về đêm, tỏa hƣơng dịu dàng thơm ngát. Còn có một bé

Quỳnh Mai - nụ hoa đời của ngƣời lính trận mạc lại nở vào buổi sáng, báo hiệu

một ngày mới nắng đẹp tràn về. Hiểu theo nghĩa nào cũng hay cả (cƣời). Lúc này

vợ anh, mới có dịp ngắm nhìn chồng tình tứ, nở nụ cƣời rằng: mình thật khéo liên

tƣởng. Theo em tên gì cũng hay vậy, con gái cốt cái duyên về sau nữa kia, phải

không cục... cƣng của mẹ? Bé Quỳnh Mai đang ngon giấc chợt tỉnh dậy, mở đôi

mắt đen láy miệng chúm chím cƣời mụ, một kiểu cƣời thƣờng gặp ở trẻ sơ sinh.

Những năm sau đó, dẫu bận rộn, nhƣng với gia đình, chị nuôi dạy con cái

khỏe, ngoan, chăm sóc mẹ chồng trên 90 tuổi một cách tận tụy, hiếu thảo để cho

chồng yên tâm phục vụ quân đội. Còn trên cƣơng vị công tác của mình, từ Phó

giám đốc, rồi Giám đốc bệnh viện đa khoa huyện, Giám đốc trung tâm y tế huyện

Vĩnh Bảo chị đều phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, luôn đƣợc cấp trên tin

tƣởng, bạn bè đồng nghiệp quý mến. Đặc biệt ngày 20 tháng 3 năm 1999, chị

đƣợc nhận danh hiệu thầy thuốc ƣu tú và năm 2000, đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua

toàn quốc, đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ tặng bằng khen.

Đƣợc thừa hƣởng truyền thống quý báu của gia đình, cha mẹ, cả hai con anh

chị đều chăm ngoan học tập, phấn đấu rèn luyện tốt. Cháu lớn Nguyễn Bảo Giang

đã tốt nghiệp đại học y khoa Hà Nội, là bác sĩ sản khoa. Sau khi ra trƣờng công

tác đƣợc thời gian, cháu đang tiếp tục học cao học, đã lập gia đình riêng. Chồng

Giang cũng là sĩ quan quân đội nhân dân - phi công lái máy bay tiêm kích. Cháu

gái út theo nghề nghiệp của mẹ và chị, đã tốt nghiệp trung cấp y tế đang tiếp tục

vƣơn lên đại học, hiện công tác tại huyện nhà. Riêng bản thân anh, với cấp hàm

đại tá ở Binh chủng Đặc công Anh hùng, nghỉ hƣu từ mấy năm nay. Hiện anh là

Phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, tận tụy

với công tác xã hội. Đƣợc sống gần anh, chúng tôi học đƣợc ở anh nhiều điều. Bao

giờ cũng vậy, Nguyễn Quốc Sử là một cán bộ luôn giữ vững nguyên tắc kỷ luật

150

nhƣng tình nghĩa thủy chung sau trƣớc vẹn toàn với bạn bè, đồng chí. Anh đấu

tranh có lý, có tình để bảo vệ quan điểm của Đảng.

Gần đây, từ miền Đông Nam Bộ, chúng tôi có dịp ra Hà Nội để dự lễ kỷ niệm

30 năm ngày thành lập Đoàn Đặc công 113 mà anh là một thành viên chỉ huy,

lãnh đạo đóng góp công sức đáng kể để tô thêm truyền thống vẻ vang đơn vị ba

lần Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân. Đƣợc ra Hải Phòng viếng đền thờ

Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà văn hóa lớn của dân tộc, hiện dịp ghé

thăm gia đình anh chị. Một căn nhà khiêm nhƣờng lợp ngói Tây, tƣờng gạch nhờ

vƣợt thổ ở một vùng đất trũng tại tiểu khu Tân Hòa, thị trấn Vĩnh Bảo (Hải

Phòng), quanh năm đón gió hƣơng đồng, cỏ nội mát rƣợi và dễ chịu còn hơn cả

máy điều hòa nhiệt độ loại xịn đời mới.

Trong căn nhà ấy giờ còn lại ba thành viên: vợ chồng anh và cô con gái út

chƣa lập gia đình vì để rảnh rang cho việc tiếp tục phấn đấu học tập và công tác,

mặc dầu không ít chàng trai để ý tới muốn ngỏ lời cầu hôn.

Trên các bức tƣờng đƣợc bài trí những tấm huân huy chƣơng đủ loại, bằng

khen của Thủ tƣớng Chính phủ, bảng gia đình văn hóa kiểu mẫu... của anh chị nhƣ

một minh chứng cho quá trình cống hiến đối với Tổ quốc và nhân dân.

Trong cái không gian nhỏ bé khiêm nhƣờng ấy, nhƣng đó lại là tổ ấm của

một gia đình có mấy thế hệ vừa cầm súng chiến đấu chống giặc ngoại xâm, lại vừa

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mến yêu trên thành phố cảng anh hùng.

Kết thúc bài viết này, tôi liên tƣởng mấy vần thơ khá ấn tƣợng của cố nhà thơ

Tố Hữu:

“Hạnh phúc tự tay ta làm lấy

Mỗi con người lấp lánh một nhành hoa”.

N. H. K

151

CÙNG ĐỒNG HÀNH VÀO TRẬN CHIẾN

NGUYỄN HUY THẢN1

Tôi rất tự hào về truyền thống cực kỳ anh dũng hy sinh chiến đấu vì độc lập

tự do của Tổ quốc, vì giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của cán bộ, chiến

sĩ Trung đoàn bộ binh 33 mà tôi là ngƣời Trung đoàn trƣởng thứ 3.

Ra đời năm 1965, theo tiếng gọi từ tuyến đầu đánh Mỹ - ngụy, đoàn đã rời

miền Bắc vào Nam chiến đấu. Trung đoàn có ba tiểu đoàn bộ binh, biên chế quân

số, vũ khí đầy đủ. Bốn đại đội trực thuộc: Thông tin, hỏa lực, quân y, vận tải, cơ

quan Trung đoàn bộ gồm tham mƣu, chính trị, hậu cần với trên 2.000 quân. Hầu

hết chiến sĩ là con em các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Số cán bộ sĩ quan

chừng 75 - 80 phần trăm đã có vợ con, riêng chiến sĩ một số ít anh em mới cƣới

vợ, chƣa kịp có con. Lƣu luyến nhớ thƣơng trên đƣờng ra mặt trận, niềm tin vào

chiến thắng nhƣng ai dám khẳng định ngày về mình hãy còn nguyên vẹn? Song,

không một ai từ chối mà trái lại hăng hái lên đƣờng. Hằng tháng trời hành quân

trong mƣa rừng, suối lũ, toàn Trung đoàn đã có mặt tại chiến trƣờng Tây Nguyên

rồi phát triển xuống chiến trƣờng duyên hải miền Trung, chạm trán với sắc lính:

Mỹ, ngụy và cả bọn Pắc Chung Hy - lính đánh thuê Nam Triều Tiên, biệt kích,

thám báo của chúng.

“Vỏ quít dày có móng tay nhọn” kẻ thù có trăm mƣu thì chúng tôi có nghìn

kế. Nhiều trận đánh đã diễn ra với quy mô khác nhau giữa các đơn vị trong đội

hình trung đoàn với kẻ thù từ miền Tây Thừa Thiên - Huế, chiến trƣờng Tây

Nguyên (B3) xuống duyên hải miền Trung. Hàng ngàn tên xâm lƣợc Mỹ, Pắc

Chung Hy, ngụy Sài Gòn bị đền tội.

Do yêu cầu của cách mạng và chuyển biến cục diện trên chiến trƣờng, sau

những năm 1970 - 1971, Trung đoàn phát triển xuống miền Đông Nam Bộ mà cụ

thể là đứng chân tại tỉnh Biên Hòa và hoạt động rộng ra tỉnh Long Khánh, Bà Rịa.

Trong quãng thời gian ở đây lại gặp đƣợc bạn đồng hành đó là Trung đoàn 113

Miền ra đời. Đánh giặc mà có thêm lực lƣợng để hỗ trợ nhau thì còn gì quý hơn.

Đoàn Đặc công 113 lại là đơn vị thiện chiến. Tuy mới thành lập tháng 6 năm 1972

nhƣng những đơn vị hợp thành trong đội hình nhƣ: Tiểu đoàn 9 đã dày dạn chiến

công trên chiến trƣờng Phân khu 5 Thủ Dầu Một; các đơn vị đặc công của anh Hai

Cà ở Biên Hòa và Tiểu đoàn pháo binh 174 bám trụ nhiều năm ở đây... là yếu tố

tạo nên chiến công mới và xuất sắc hơn.

Thật vậy, chỉ mới ra đời Trung đoàn Đặc công 113 đã lập công vang dội ở

phi trƣờng Biên Hòa lần 1, lần 2 tiến công tổng kho Long Bình mà trƣớc đó chƣa

có tiền lệ, làm cho quân thù cả quan thầy Mỹ và ngụy cay đắng, run sợ mà khó

lòng ngăn chặn.

1 Nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 33 - Tỉnh đội phó - đại tá, nghỉ hưu.

152

Hai trung đoàn với chức năng và phƣơng thức tác chiến khác nhau nhƣng

cùng chung đánh kẻ thù xâm lƣợc. Hơn nữa cùng đứng trên một địa bàn cách nhau

không xa. Kể cả chỉ huy, lãnh đạo giữa hai trung đoàn và anh em các đơn vị

thƣờng qua lại tìm gặp đồng hƣơng. Chúng tôi rất gắn bó với nhau về tình cảm,

đồng cam cộng khổ, chia ngọt xẻ bùi. Những rừng chuối ở xã Sông Thao, Hƣng

Nghĩa huyện Trảng Bom là nguồn thực phẩm đáng kể phục vụ cải thiện cho các

đơn vị. Chúng tôi hết sức vui mừng chia sẻ những chiến công của mỗi đơn vị,

nhƣng cũng hết sức đau đớn khi mỗi cán bộ, chiến sĩ ngã xuống anh dũng vì

nhiệm vụ cao cả. Không ít anh em lá thƣ còn để trong bồng chƣa kịp gửi đã không

còn cơ hội. Cũng không ít lá thƣ từ hậu phƣơng vƣợt qua bao lửa đạn chƣa kịp tới

tay ngƣời nhận. Có những ngƣời cha chƣa kịp nhìn mặt đứa con bé bỏng thơ ngây

của mình... Chao ơi, cuộc đời ngƣời lính trong chiến tranh về mất mát, hy sinh quá

đỗi thiêng liêng, không sao kể xiết. Tất cả những cái đó chúng tôi đều chia xẻ cho

nhau, cảm thông vô hạn với thân nhân, gia đình đồng đội.

Chúng tôi có chung suy nghĩ đều hết sức biết ơn các đồng chí lãnh đạo Tỉnh

ủy U1, các Huyện ủy, Huyện đội, cơ sở cách mạng và cô bác bà con những nơi

đơn vị đứng chân, hoạt động. Không có những yếu tố cực kỳ quan trọng này,

chúng tôi khó có thể vƣợt qua những khó khăn trở ngại trong chiến đấu.

Sự nghiệp cách mạng đã chuyển sang giai đoạn mới. Công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nƣớc đang đƣợc khởi động. Những trận địa năm nào đang mọc lên

những nhà máy, xí nghiệp đó là xu hƣớng phát triển đáng mừng. Song, trong sâu

thẳm những ngƣời lính chúng tôi vẫn nặng lòng bởi còn nhiều liệt sĩ của đơn vị

xƣơng cốt còn lẫn khuất trên khắp nẻo chiến trƣờng xƣa. Riêng Trung đoàn 33 có

trên ba ngàn liệt sĩ, nhƣng hiện hữu đủ tên, họ trong các nghĩa trang, may mắn lắm

cũng chỉ đƣợc một nửa trong số ấy.

“Cùng đồng hành vào trận chiến”, đã xa mấy mƣơi năm về trƣớc mà nay vẫn

hằn sâu trong tâm thức của tôi.

Thị trấn Trảng Bom,

tháng 2 năm 2003

N.H.T

153

TRẬN NGOẠI CÔNG, NỘI KÍCH

QUỚ1

Theo thông báo của trên và tin cơ sở, ngoài việc tăng cƣờng lực lƣợng, địch

còn gia tăng chuẩn bị phƣơng tiện chiến tranh, đẩy mạnh mọi hoạt động quân sự

với ý đồ giải quyết vấn đề Việt Nam trên thế mạnh có lợi cho chúng ở cuộc hội

nghị đàm phán Pa-ri (Pháp).

Địch chuyển số bom đạn dự trữ ở Thành Tuy Hạ, quận Nhơn Trạch lên kho

Long Bình và kho bom Bình Ý (bắc sân bay Biên Hoà 3 ki-lô-mét) kho đầy ắp,

chúng phải để ra cả các ụ ở ngoài trời. Trong sân bay các phụ kiện, phụ tùng để

lắp ráp cho khoảng 300 máy bay các loại nhƣ A37, trực thăng... từ Mỹ đƣa sang

cũng đƣợc chuyển về đầy ắp sân bay.

Nắm vững tình hình, Tỉnh ủy yêu cầu Đoàn Đặc công 113 phối hợp với cơ sở

nội tuyến, đánh sân bay và các khu kho của địch.

Yêu cầu phải tuyệt đối bí mật, giành thắng lợi nhƣng phải bảo vệ đƣợc cơ sở

của ta để sử dụng lâu dài.

Do đó chỉ có các đồng chí thƣờng vụ của Đảng uỷ và chỉ huy Đoàn cùng

đồng chí Trần Công An cố vấn đƣợc biết để chỉ đạo phối hợp.

Theo hợp đồng, Đoàn Đặc công 113 có hai nhiệm vụ:

Một là, bảo đảm cung cấp lƣợng nổ và kíp hẹn giờ cho trận đánh.

Hai là, dùng pháo bắn nghi binh nhằm xoá dấu vết khi cơ sở của ta gây ra

tiếng nổ. Tham gia trận đánh này là một đại uý kỹ thuật ở không đoàn 43 ngụy, có

mật danh là H16. H16 là cơ sở của tỉnh Quảng Đà hoạt động công khai là một sĩ

quan đƣợc vùng 1 chiến thuật ngụy cử vào sân bay Biên Hoà tham quan, học tập

cách lắp ráp máy bay. Thông qua đƣờng dây hợp pháp và cơ sở hợp pháp của ta,

Quảng Đà đã bàn giao H16 cho Biên Hoà, đồng chí Sáu Biên ngƣời trực tiếp móc

ráp cơ sở, chớp thời cơ thuận lợi đề đạt lên tỉnh ủy phƣơng án sử dụng cơ sở

(H16) đánh sân bay Biên Hoà và đã đƣợc chấp thuận.

Để làm tốt nhiệm vụ mà Tỉnh uỷ đã giao, chúng tôi bàn bạc kỹ với nhau và

xác định: bằng mọi cách thực hiện bằng đƣợc yêu cầu của Tỉnh ủy. Vấn đề đặt ra

là làm sao có đƣợc kíp nổ hẹn giờ phù hợp với thời gian đã định. Và lƣợng nổ đủ

quy cách.

Hàng ngày việc ra vào của H16 phải qua nhiều trạm kiểm tra khám xét của

các loại cảnh sát mật vụ một cách gắt gao, qua nghiên cứu bàn bạc anh Hai Cà đã

đề ra phƣơng án là nên đổ thuốc nổ theo hình đế giầy vừa với cỡ giầy của H16 thì

1 Nguyên Phó trung đoàn trưởng Trung đoàn 113.

154

có thể qua mặt đƣợc bọn địch. Ý kiến đƣợc chấp nhận, và chính anh Hai đã chỉ

đạo các đồng chí quân giới do đồng chí Ba Đời phụ trách, cƣa một quả bom lép

tìm đƣợc ở gần cứ Tỉnh đội lấy thuốc nổ đúc thành đế giầy chuyển cho H16. Còn

kíp nổ trong kho của đơn vị không có loại nào đáp ứng theo yêu cầu về thời gian,

nên phải yêu cầu Miền cấp.

Vấn đề đã giải quyết xong có thể giao nhiệm vụ cho H16 trong lúc làm ca

đêm nhƣ kế hoạch đã định. Việc còn lại là sử dụng pháo bắn nhằm xoá dấu vết,

đánh lạc hƣớng địch, khi mìn H16 nổ. Nếu là một trận pháo kích nhƣ mọi lần thì

cũng không phức tạp lắm.

Nhƣng lần này phải nắm thời cơ, bắn sao cho thật ăn khớp với thời gian nổ

của mìn do H16 đặt (kíp nổ chậm). Nhiệm vụ đƣợc giao cho đồng chí Đinh Xuân

Nghiêm - Tiểu đoàn trƣởng Tiểu đoàn pháo 174. Nhận nhiệm vụ đồng chí rất phấn

khởi nhƣng không khỏi băn khoăn.

Băn khoăn là tìm đâu ra trận địa bắn giữa ban ngày, các trận địa cũ thì không

thể đƣợc, vì địa hình hoàn toàn trống trải, địch thƣờng xuyên phong tỏa bằng pháo,

máy bay. Bộ binh của chúng thƣờng xuyên lùng sục, tình huống thật là nan giải,

phức tạp. Nhƣng chẳng lẽ bó tay? Nhiệm vụ trên đã giao phải hoàn thành bằng bất

cứ giá nào. Nghĩ nhƣ vậy nên đồng chí đã cùng các trinh sát tiểu đoàn nhƣ: Đàm

Thế Lợi, Phan Ngọc Dƣỡng... đƣợc sự giúp đỡ của du kích và cơ sở ở xã Thiện

Tân, sau một thời gian đã tìm đƣợc trận địa bắn phù hợp.

Khu vực đặt trận địa là con suối cạn dƣới chân dốc Ông Hoàng (cách chốt

địch 800 mét) có những bụi cây lúp xúp thật là một địa điểm bất ngờ địch ít chú ý,

ta có thể bí mật ém đạn và lực lƣợng. Kế hoạch đã hoàn tất vấn đề còn lại là chờ

thời gian. Đêm 9 tháng 9 năm 1972, khi đi làm ca đêm lợi dụng lúc giao ca, H16

vặn nắp bảo hiểm của một trái bom đƣa lƣợng nổ và kíp nổ vào và vặn lại, ung

dung ra về. Cùng thời gian này trận địa pháo ở dốc Ông Hoàng khẩn trƣơng tiếp

cận chiếm lĩnh và đặt xong ba quả ĐKB lên bệ phóng chờ sẵn sàng phối hợp với

H16 để vút lao đi. Giờ G đã đến!

Đúng nhƣ dự kiến, 9 giờ ngày 9 tháng 9 năm 1972 mìn phát hỏa kích thích

bom nổ! Lập tức đạn pháo ta từ trận địa cũng vút lên lao thẳng vào sân bay.

Những cột lửa bốc cao. Tiếng nổ rền vang. Khói bụi mịt mù che lấp cả ánh mặt

trời. Kết quả bốn kho bom chứa 10.000 quả đã nổ tung. Hàng trăm máy bay trực

thăng đỗ ở bãi sẵn sàng chở quân đi tăng viện cho Bình Long, Phƣớc Long, hàng

chục máy bay mới lắp ráp chƣa kịp bay thử bị phá hủy. Hàng trăm thùng phụ kiện

máy bay khác chƣa kịp lắp ráp còn cũng tan tành mây khói.

Đài điều không của địch bị phá hủy. Sân bay phải đóng cửa nhiều ngày. Hàng

trăm tên giặc phải đền tội.

Đƣa tin và bình luận về trận đánh này hãng AP và AFP ngày 11 và 12 tháng 9

năm 1972 nhận xét: “ Đây là trận đánh thành công nhất vào căn cứ đồng minh,

ngang với một trận tập kích bằng không quân chiến lƣợc (B52). Đối phƣơng (chỉ

155

Quân giải phóng) đã gây ra một trong những thiệt hại lớn nhất trong cuộc chiến

tranh này”.

Báo Quân đội nhân dân số ra ngày 15 tháng 9 năm 1972 bình luận: “Bằng

một cuộc tập kích táo bạo, mãnh liệt vào sân bay Biên Hoà. Lực lƣợng vũ trang

giải phóng đã phá hủy hơn 100 máy bay và phƣơng tiện chiến tranh của Mỹ -

ngụy. Chiến thắng to lớn này của ta đã làm phá sản chi viện từ sân bay này cho

các chiến trƣờng của chúng, trận thắng oanh liệt này làm cho Mỹ, ngụy kinh

hoàng. Đồng bào cả nƣớc hả lòng hả dạ...”

Sau trận đánh H16 vẫn an toàn. Nội bộ địch nghi ngờ lẫn nhau, nhƣng chúng

không thể tìm ra dấu vết, đành ngậm đắng nuốt cay.

Đây là một trận đánh tuyệt đẹp “Ngoại công nội kích” phối hợp chặt chẽ nhịp

nhàng giữa cơ sở trên và Đoàn Đặc công 113 bên ngoài dƣới sự lãnh đạo, chỉ đạo

thống nhất của Tỉnh ủy.

Bộ Chỉ huy Miền quyết định tặng thƣởng huân chƣơng Quân công giải phóng

hạng nhì cho các lực lƣợng tham gia trận đánh. Tặng Huân chƣơng Quân công

giải phóng hạng ba cho H16. Đồng chí Trần Văn Trà - Tƣ lệnh Quân Giải phóng -

Phó bí thƣ Quân ủy Miền đã ký quyết định kết nạp vào Đảng Nhân dân Cách

mạng cho H16.

TP. Biên Hòa, tháng 12 năm 2002

V.Q.

156

ĐI TÌM TRẬN ĐỊA

PHẠM NGỌC DƢỠNG1

Ngày 13 tháng 7 năm 1972, Tiểu đoàn 174 pháo ĐKB chúng tôi do đồng chí

Đinh Xuân Nghiêm làm Tiểu đoàn trƣởng, trực thuộc phòng pháo binh Miền,

dừng chân trên địa bàn Phân khu 5 thì đƣợc lệnh bổ sung về đội hình Đoàn Đặc

công 113. Cũng là pháo binh nhƣng thêm vào chữ “Đặc công” có cái gì đó thêm

hấp dẫn - lính trẻ mà. So với ngày ra mắt thành lập Trung đoàn (3-6-1972) thì

chúng tôi về muộn hơn 40 ngày. Song, giữ vững biên chế nên cũng khá thuận lợi

trong thực hiện nhiệm vụ tác chiến.

Ở đâu cũng vậy, cánh lính trinh sát là tai mắt của ngƣời chỉ huy nên tới bất cứ

đâu là phải nắm chắc địa hình, địa vật, đặt đài quan sát, nắm vững mục tiêu. Bởi

thế, một bộ phận đƣợc phái đi ngay. Vào thời điểm ấy sông Đồng Nai đang mùa

mƣa lũ nên nƣớc từ thƣợng nguồn đổ về cuồn cuộn, đục ngầu. Vậy mà chúng tôi

dùng phao bơi, tìm cách vƣợt qua an toàn cả ngƣời và trang bị. Sau khi bám đƣợc

địa bàn, điều quan trọng là liên lạc đƣợc với lực lƣợng dân quân tại chỗ để tìm

hiểu thêm tình hình địch và quy luật hoạt động của chúng.

Trận địa là một khu đất dƣới núi Chân Chùa, xã Tân Định, huyện Vĩnh Cửu,

cách sân bay Biên Hòa hơn 4 ki-lô-mét đƣờng chim bay. Ở đây vừa bất ngờ, bí

mật lại tiện lợi cho việc vận chuyển đạn. Ban ngày quan sát bằng mắt thƣờng, thấy

rõ mồn một máy bay lên xuống, xe cộ qua lại, đo đạc bằng kính quang học thì cực

kỳ chính xác. Song song với trận địa hƣớng Đông sân bay tại huyện Vĩnh Cửu thì

hai trận địa phía bắc thuộc các xã Tân Hòa, Thƣờng Lang, Tân Tịch huyện Tân

Uyên cũng đƣợc khẩn trƣơng triển khai. Sau những ngày đánh vật với một khối

lƣợng công việc hoàn thành chúng tôi hết sức phấn khởi. Đồng thời, lực lƣợng

quân dân chính đảng của địa phƣơng cũng đƣợc huy động để vận chuyển đạn bằng

đƣờng bộ từ Chiến khu Đ về điểm tập kết cả hai hƣớng đông và bắc, để đúng 23

giờ ngày 2 tháng 8 năm 1972 lệnh khai hỏa đƣợc bắt đầu.

Nhƣ có phép thần thông biến hóa, hàng trăm chú rồng lửa từ mặt đất ở những

nơi mà địch không thể ngờ tới, vun vút lao đi, bao trùm mục tiêu phi trƣờng Biên

Hòa, nơi đƣợc coi là bố phòng cẩn mật trở thành biển lửa, thiêu đốt quân thù và

những phƣơng tiện đi gây tội ác của chúng.

Để góp phần tạo nên trận thắng mở đầu vang dội ấy của trung đoàn, chúng tôi

vô cùng biết ơn những anh chị em dân quân, du kích và cô bác các địa phƣơng

nhƣ: xã Tân Hòa, Thƣờng Lang, Tân Tịch, Lạc An huyện Tân Uyên; các xã Tân

Định, Thiện Tân huyện Vĩnh Cửu; ấp Chợ Đậu, rồi chị Bảy, cô Gái... thƣờng cung

cấp cho cánh lính trinh sát chúng tôi những nguồn tin đáng tin cậy để giúp trên

1 Nguyên chiến sĩ trinh sát Tiểu đoàn pháo 174.

157

nhận định, phán đoán về địch khá chính xác. Chúng tôi cũng xin tri ân các anh chị

y tá, y sĩ trạm y tế Vĩnh Cửu đã giúp đỡ cƣu mang anh em trung đội trinh sát trong

quá trình bám trụ địa bàn về mặt cấp cứu lúc bị thƣơng, chữa bệnh lúc ốm đau.

Năm 1972, trung đội trinh sát chúng tôi nhiều tháng xa đơn vị hoạt động độc lập,

thiếu thốn mọi bề, vƣợt qua nhiều nơi nguy hiểm, địch luôn phong tỏa, ngăn chặn.

Song, chúng tôi cảm thấy rất yên tâm, vì đƣợc trên tin tƣởng, chỉ đạo sát sao, bên

cạnh có cán bộ địa phƣơng, dân quân du kích cũng đồng cam cộng khổ, chia ngọt

xẻ bùi thƣơng yêu nhau nhƣ anh em ruột thịt. Tình cảm cao quý ấy không biết nói

sao cho vừa.

Tiếp theo là những trận đánh đêm 15 rạng 16 tháng 11 năm 1972, chúng tôi

chuẩn bị trong thời gian ngắn và rất kịp thời mà lại an toàn. Rồi trận đánh khoảng

tháng 11 năm 1973, chúng tôi, lại đƣợc điều đi tỏa ra các hƣớng để tìm trận địa

cho trận tập kích pháo ở quy mô lớn. Thời điểm này địch phong tỏa rất gắt gao.

Nhiều trận địa cũ trƣớc đây của ta đều đã bị lộ. Địch mở nhiều đợt càn quét nhằm

đẩy lực lƣợng ta ra xa để làm “trong sạch” địa bàn gây cho ta không ít khó khăn

trở ngại. Bởi thế, những nơi trọng điểm, chúng tôi phải đào hầm bí mật để tiếp tục

hoàn thành nhiệm vụ. Nhiều lúc rất gần địch vậy mà không một ai nao núng. Để

bám trụ đƣợc cũng phải nhờ dân giúp đỡ từ cái ăn, viên thuốc chữa bệnh và đặc

biệt quy luật hoạt động của địch. Tất cả điều đó có lúc tƣởng chừng nhƣ bế tắc,

song chúng tôi đều đã vƣợt qua, phục vụ đắc lực cho các trận đánh từ nhỏ, vừa và

lớn của tiểu đoàn hoàn thành thắng lợi một cách xuất sắc.

Thời gian lặng lẽ trôi qua đã vài ba thập niên. Cánh lính trẻ thời ấy giờ đã

thành bậc trung niên, nhiều anh tóc đã điểm mầu. Giờ đây có dịp nhớ lại mà lòng

cảm thấy còn rạo rực.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2003

P.N.D

158

ĐẠI ĐỘI VẬN TẢI CỦA TRUNG ĐOÀN

TRỊNH HÙNG CHẤT1

Tôi sinh ra và lớn lên tại huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Tháng 9 năm

1965 gia nhập quân đội. Tháng 3 năm 1966 là pháo thủ thuộc Tiểu đoàn 1, Trung

đoàn pháo binh 724 - ĐKB của Bộ (trƣớc đó trang bị pháo 85 nòng dài) và lên

đƣờng vào Nam chiến đấu. Nhiều tháng trời hành quân trên đƣờng Trƣờng Sơn,

qua đất bạn Cam-pu-chia, cuối cùng về đứng chân trên địa bàn hai huyện Tân

Uyên và Vĩnh Cửu tỉnh Biên Hòa - một chiến trƣờng khá sâu của miền Đông Nam

Bộ.

Tôi có vinh dự đƣợc tham gia một số trận đánh, trong đó trận mở đầu là tấn

công vào sân bay Biên Hòa năm 1967, gây cho chúng nhiều thiệt hại, trận địa

pháo lúc ấy đặt tại Mã Đà, Chiến khu Đ. Vào thời điểm thành lập Trung đoàn Đặc

công 113, Trung đoàn pháo 724 tách làm hai, Tiểu đoàn 1 đổi tên thành 174 đứng

chân trong đội hình Trung đoàn 113, một nửa trung đoàn còn lại bổ sung cho

chiến trƣờng tỉnh Bà Rịa. Đã mấy năm gắn bó với nhau trong cùng một đơn vị cấp

trung đoàn, chiến đấu trên cùng một chiến trƣờng, vui buồn, sƣớng khổ, sống chết

có nhau. Nay chia tách thành hai hƣớng xa lắc, niềm lƣu luyến thật khó tả trong

mỗi ngƣời. Cũng vào thời điểm ấy, tôi đƣợc điều sang làm Chính trị viên, Bí thƣ

chi bộ đại đội vận tải trung đoàn, anh Tƣ Hồng, Đại đội trƣởng.

Đại đội vận tải là đơn vị phục vụ theo yêu cầu công tác chiến đấu, cung cấp

lƣơng thực, thực phẩm, vũ khí đạn dƣợc, xây dựng địa bàn để tổ chức tăng gia sản

xuất...

Tôi còn nhớ một kỷ niệm sâu sắc không bao giờ quên là có lần để đáp ứng

kịp thời về cơ số đạn cho trận tập kích hỏa lực vào phi trƣờng Biên Hòa. Trời mƣa,

đƣờng trơn lầy lội. Vậy mà có bốn chiến sĩ đã kết nứa làm hai bè, ở dƣới bè lót

thêm ruột xe ô tô bơm căng hơi, đã khéo léo điều khiển đƣợc 40 quả đạn ĐKB

(trọng lƣợng mỗi quả 58 kg) từ đầu nguồn thác Trị An, xuôi theo sông Đồng Nai

về nơi tập kết an toàn. Đây là một chiến công hết sức vẻ vang mà thầm lặng của

chiến sĩ vận tải. Đó là thời điểm cao trào. Còn thƣờng xuyên đại đội vẫn đảm bảo

những khối lƣợng công việc theo sự phân công của ban chủ nhiệm hậu cần trung

đoàn.

Bên cạnh đó, một lực lƣợng có mặt thƣờng xuyên nơi căn cứ xã Bàu Hàm,

huyện Trảng Bom. Lực lƣợng này có nhiệm vụ phát rẫy, trồng bí, đậu nành, bắp

và thuốc lá mỗi năm quay vòng ba vụ. Sản phẩm thu đƣợc thứ thì dùng trực tiếp

nhƣ rau xanh, bắp, đậu đỗ. Riêng thuốc lá bán cho thƣơng nhân dùng tiền mặt chi

tiêu cho tập thể. Nói tóm lại tất cả thành quả lao động ấy đều phục vụ nhằm cải

1 Nguyên Chính trị viên đại đội - đại úy nghỉ hưu.

159

thiện đời sống cho cán bộ, chiến sĩ. Tuy không đáp ứng toàn bộ nhƣng đã chu cấp

đáng kể cho sinh hoạt của bộ đội lúc khó khăn.

Trung đoàn đóng căn cứ tại khu vực Bàu Hàm lại là khu cửa khẩu tiếp nhận

các nguồn hàng hóa các nơi chuyển về cung cấp cho chiến trƣờng. Mặt khác là địa

bàn dân làm ruộng, rẫy. Qua tiếp xúc với nhân dân các xã Hƣng Nghĩa, Bàu Hàm

và một số xã lân cận cả ngƣời Việt và ngƣời Việt gốc Hoa, chúng tôi thấy họ đều

rất chí tình, chí nghĩa với cách mạng. Tuy còn nghèo về của cải vật chất mà lòng

thủy chung với cách mạng, với Bác Hồ thì thật đáng quí vô cùng. Bởi thế khi kẻ

thù biết rõ mƣời mƣơi lực lƣợng ta đóng cứ trú quân nghỉ ngơi tại đó, mà chỉ dùng

phi pháo oanh kích. Còn lực lƣợng bộ binh càn vào đều khó lòng thoát thân. Lòng

dân ta nhƣ thế đó.

Sau ngày đất nƣớc hoàn toàn đƣợc giải phóng 30 tháng 4 năm 1975, Trung

đoàn Đặc công 113 chuyển hƣớng làm nhiệm vụ quân quản thời gian đầu ở thị xã

Biên Hòa, rồi cơ động về Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh quản lý địa bàn, truy

lùng tàn binh... Trung đoàn pháo 174 đƣợc bàn giao cho Tỉnh đội Biên Hòa. Khi

Trung đoàn cơ động ra Bắc, tôi cùng một số anh em khác bổ sung về đơn vị khác,

tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc cho tới khi nghỉ chế độ hƣu

vào 1983, quân hàm đại úy.

Xin tiết lộ với bạn bè đôi chút về đời tƣ của mình. Vợ tôi tên là Phạm Thị

Nhung, quê Long An, nguyên là chiến sĩ biệt động thành Sài Gòn cánh Y4. Năm

1968 từng tham gia đánh vào bộ tổng tham mƣu ngụy đợt 1. Còn đợt 2 nằm trong

đội quyết tử, nhƣng do một tên phản bội nên cô ấy cùng một số đồng đội bị rơi

vào tay giặc, một số khác hy sinh. Sau này cô ấy đƣợc trao trả tại Lộc Ninh, đầu

năm 1973.

Chúng tôi hiện có hai cháu một trai, một gái, cuộc sống ổn định tại khu phố

10 B, phƣờng 13 đƣờng Cộng Hòa quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, nhà

cửa ổn định. Tuy không giàu có gì, nhƣng tình cảm đồng chí một thời máu lửa có

nhau là vô cùng cao quý. Nếu ai có dịp đi qua, xin mời ghé thăm nhau, hàn huyên

tâm sự. Phẩm chất ngƣời lính “Bộ đội Cụ Hồ” chúng mình là vậy, vẫn mong gặp

bạn bè đồng đội ngày xƣa và cả những ai tìm đến hôm nay.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2003

T.H.C

160

XIN GỬI TỚI BIÊN HÒA – ĐỒNG NAI TÌNH CẢM CHÂN THÀNH CỦA

ĐOÀN ĐẶC CÔNG ANH HÙNG 113

Đại tá MAI VĂN THOẠN1

Biết bắt đầu từ đâu đây? Kỷ niệm thì ngồn ngộn, thời gian đã qua xa, tuổi tác

thì cao mà sức khỏe thì giảm. Đó là một thực tế. Song, không góp đƣợc chút gì

vào công trình này cùng anh em, e chẳng đành lòng - có khi còn lỗi đạo nữa ấy

chớ.

Chẳng giấu gì các bạn, tôi xuất thân từ nông dân thứ thiệt. Quê Ba Tri, tỉnh

Bến Tre nơi nhà thơ yêu nƣớc Nguyễn Đình Chiểu yên nghỉ ấy. Nghèo lắm!

Không biết trên dải đất này có nơi nào nghèo hơn quê tôi chăng? Nhƣng lòng yêu

nƣớc, căm thù giặc thì ngùn ngụt bốc cao. Bởi vậy mà lớp chúng tôi nối gót các vị

tiên hiền đi tham gia cứu nƣớc khá sớm.

Tôi hăm hở vào đội thanh niên làm lực lƣợng công an xung phong từ tháng 8

năm 1946 lúc mới 19 tuổi - cái tuổi lửa trong tim rừng rực cháy. Nhiệm vụ là diệt

ác, trừ gian, giữ yên xóm ấp. Khúc dạo đầu ấy thật ý nghĩa, bởi nó mở dần cánh

cửa tâm hồn mình để nhìn ra thế giới bên ngoài. Chớ hồi đầu quanh quẩn quanh

lũy tre làng đã biết gì đâu. Sang năm 1947, gia nhập Vệ quốc đoàn. Khi thành lập

Trung đoàn 99 do đồng chí Đồng Văn Cống chỉ huy. Cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp xâm lƣợc phát triển, đại đội chủ lực địa phƣơng tỉnh ra đời, tôi

đƣợc xung phong vào đây. Tuy hoạt động, đánh đấm chƣa có gì nổi trội cho lắm.

Song, sức mạnh tinh thần luôn luôn nhƣ bốc lửa. Trai nam nhi đất Việt thời nào

cũng vậy - thật quý giá biết bao.

Thấm thoát sáu - bảy năm đời lính đi qua thật chóng vánh. Tháng 7 năm 1954,

xuống tầu ra Bắc tập kết trên cƣơng vị là Đại đội trƣởng. Nghĩ thật tức cƣời, là

Đại đội trƣởng mà chƣa có con chữ nào vào đầu cả, mặc dầu đánh giặc rất hăng

hái. Lỗi này không phải tại mình, nhƣng đã đến lúc cần suy nghĩ lắm rồi. Không

khắc phục sớm sẽ trở thành có tội là điều thật khó tránh. Nhƣng tổ chức còn lo

hơn cả bản thân mình và tạo cho tôi tiến bộ cả trình độ văn hóa và năng lực

chuyên môn.

Sau cải cách ruộng đất năm 1956, tôi đƣợc quân đội cho đi học văn hóa và

đào tạo khóa 10 trƣờng Sĩ quan lục quân. Tốt nghiệp, về nhận nhiệm vụ Cục

Phòng vệ bờ biển (tiền thân của Quân chủng Hải quân sau này). Đƣợc trang bị

thêm kiến thức, tôi thấy mình nhƣ chắp thêm đôi cánh đầy tự tin. Trên cƣơng vị là

1 Nguyên Chính ủy đầu tiên Đoàn Đặc công 113.

161

Chính trị viên đại đội Bí thƣ chi bộ Đảng thực hiện nhiệm vụ vận tải biển. Ít lâu

sau, chuyển sang làm trợ lý tổ chức của Cục Chính trị Hải Quân. Cuối năm 1965,

đi học lớp tình báo vừa xong chƣơng trình đại cƣơng thì về Sƣ đoàn đặc công 305.

Tôi đã từng tham gia tác chiến hình thức đặc công từ hồi chống Pháp, nhƣng

khi đƣợc trang bị thêm kiến thức mới, tôi thấy mình đã bị tụt hậu quá xa. Dù học

tập chƣa tới một năm mà có bƣớc trƣởng thành khá dài. Tiếp đó về nhận nhiệm vụ

Chính trị viên Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Đặc công 426 do đồng chí Nguyễn Cụ -

Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân làm Trung đoàn trƣởng.

Nhớ lại thời kỳ tập huấn nghiệp vụ đặc công, tôi không thể nào quên đƣợc

một sự kiện diễn ra đối với mình. Đó là khi thực hành huấn luyện, phía quân xanh

(tƣợng trƣng cho địch) có chó Béc giê đi tuần tra canh gác sục sạo. Còn quân đỏ là

mình. Thế rồi một chú Béc giê to tƣớng xộc lại dùng chiếc mõm hít hít, dụi dụi

khắp ngƣời tôi. Trƣớc tình huống gay cấn ấy, vẫn nghiến răng nằm im coi nhƣ

mình đã chết. Lúc ấy chỉ một cái rùng mình nhẹ là chúng xông vào bắt sống ngay

và chấp nhận sự thất bại.

Nhƣng không! Tôi đã thấy trƣớc sự chứng kiến của khách tham quan và càng

tăng thêm niềm tin cho tất cả học viên mà trƣớc đó còn ngờ ngợ khi gặp tình

huống tƣơng tự. Thế là tƣ tƣởng sợ chó nghiệp vụ của địch đƣợc giải tỏa phần nào.

Sau thời gian huấn luyện, Đoàn 426 đổi phiên hiệu thành Đoàn 742 lên đƣờng đi

chiến đấu. Đó là vào năm 1966, khi Mỹ ồ ạt đƣa không quân và hải quân ra đánh

phá miền Bắc một cách quyết liệt.

Sau nhiều tháng hành quân vất vả, nhƣng chiến trƣờng thôi thúc giục giã,

chúng tôi sớm tới đích với trang bị, vũ khí và quân số khá đông đủ. Điểm tập kết

là suối Bà Chiêm, tỉnh Tây Ninh. Sau biên chế ổn định, chúng tôi về Z16 đơn vị

hỗn hợp gồm đặc công và lính cơ giới trực thuộc Miền do anh Mai Văn Phúc

Trƣởng phòng, tôi làm Phó chính trị. Cuộc chiến tranh lan rộng, Mỹ ồ ạt đƣa quân

và tăng cƣờng trang bị vũ khí, dồn dập vào miền Nam Việt Nam. Những chiến

trƣờng trọng điểm, trong đó địa bàn tỉnh Biên Hòa trở nên nóng bỏng. Theo sự

điều động của tổ chức, tôi dẫn đầu Tiểu đoàn 2 biên chế đầy đủ quân số, vũ khí

xuống tăng cƣờng cho đặc công Biên Hòa (U1). Đó là thời điểm năm 1966. Tiểu

đoàn này do tôi trực tiếp làm Chính trị viên - Bí thƣ Đảng ủy; anh Bảy Nguyệt

Tiểu đoàn trƣởng.

Tới một chiến trƣờng mới và trọng điểm, gần trung tâm cơ quan đầu não thủ

phủ Sài Gòn nên địch bảo vệ hết sức cẩn mật. Tuy nhiên nhờ đƣợc huấn luyện bài

bản trên miền Bắc, cán bộ chiến sĩ đã hiểu nhau. Khi đặt chân đến địa bàn mới lạ

nhƣng đƣợc số đặc công Biên Hòa bám trụ tại chỗ làm cơ sở, thông theo địa hình,

địch tình nên rút ngắn đƣợc đáng kể thời gian tìm hiểu. Yếu tố ấy cực kỳ thuận lợi

cần phải đƣợc khai thác, tận dụng.

Chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968 long trời, lở đất, Tiểu đoàn 2 chúng tôi

tham gia tập kích vào sân bay Biên Hòa đã góp phần gây cho địch những tổn thất

nặng nề. Điều quan trọng là mục tiêu xung yếu, canh chừng nghiêm ngặt tƣởng

chừng “bất khả xâm phạm”, vậy mà bị đối phƣơng giáng trả đích đáng vào tận sào

162

huyệt. Sau đợt 1 của chiến dịch, tôi đƣợc điều động làm Phó chính trị - kiêm Chủ

nhiệm chính trị Tỉnh đội U1. Vào giữa năm 1968 đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ U1,

tôi đƣợc bầu vào Ban Chấp hành làm tỉnh ủy viên.

Thật may mắn và hạnh phúc không chỉ riêng đặc công, mà tất cả các quân

binh chủng về hoạt động, chiến đấu trên quê hƣơng Biên Hòa, đều nhận đƣợc sự

giúp đỡ tận tình của lãnh đạo tỉnh và phối hợp hành động của lực lƣợng quân sự,

chính trị địa phƣơng. Năm 1970, Bộ Tƣ lệnh Miền điều động tôi làm Chủ nhiệm

chính trị Đoàn đặc công 429 cho tới khi chiến dịch Nguyễn Huệ đầu tháng 4 năm

1972 thì tháng 6 năm ấy tôi trở lại chiến trƣờng Biên Hòa trên cƣơng vị Chính ủy

Đoàn Đặc công 113.

Nói đến bối cảnh ra đời, hoạt động chiến đấu, tình cảm gắn bó máu thịt với

địa phƣơng thì các anh đã nói nhiều, xin phép không nhắc lại. Tuy nhiên, cũng cần

nhấn mạnh để làm nổi bật ý nghĩa của các sự kiện.

Khi Đoàn Đặc công 113 đặt chân lên chiến trƣờng Biên Hòa, anh Trần Văn

Trà lúc ấy là Tƣ lệnh chiến dịch Nguyễn Huệ đã điện cho Đảng ủy, Ban Chỉ huy

Đoàn Đặc công 113 chúng tôi: “Dù trƣờng hợp nào cũng phải đánh cho đƣợc tổng

kho Long Bình! Không đƣợc dao động! Khi ta “cắt đứt đƣợc dạ dày” thì chúng nó

nhất định sẽ phải ký Hiệp định Pa-ri”.

Chúng tôi suy nghĩ rất sâu sắc từng chữ của bức điện. Nó không còn thuần

túy con chữ đơn giản mà là chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên, của Đảng. Cao hơn thế

là yêu cầu của Tổ quốc, chúng tôi phải hành động rốt ráo, có hiệu quả dù bất kỳ

trở ngại nào để góp phần chiến thắng với toàn dân tộc. Và kỳ diệu thay, chúng tôi

đã làm đƣợc một cách rất xuất sắc.

Tôi xin nhắc lại đôi điều trƣớc đó đồng chí Trần Văn Trà từng đánh giá về

anh Nguyễn Thanh Tùng mà mình đƣợc chứng kiến. Ông nói:

- Anh chàng này đang làm cán bộ tiểu đoàn mà có những nhận định đánh giá

về địch có khi còn sắc sảo hơn cả cán bộ trung đoàn. Nên đề bạt lên làm Phòng

Đặc công là phải lắm.

Quả thật, từ Tiểu đoàn trƣởng trinh sát 46 mặt trận, tổ chức đƣa đón, bảo vệ

cơ quan Bộ Chỉ huy chiến dịch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy toàn Miền,

hoàn thành suất sắc nhiệm vụ. Anh đƣợc tặng thƣởng Huân chƣơng Chiến công

giải phóng hạng nhì. Sau đó, đƣợc điều lên làm Phó phòng Đặc công Miền. Song

tiếp đó, có những trận do anh trực tiếp chỉ huy nhƣ một cán bộ trung đoàn thực thụ

đánh vào căn cứ Tếch Ních lần 1 và lần 2 diệt và làm bị thƣơng hàng ngàn tên Mỹ,

phá hủy rất nhiều phƣơng tiện chiến tranh hiện đại của chúng. Sừng sỏ và thiện

chiến nhƣ sƣ đoàn “Anh cả đỏ” của Mỹ, lần đầu tiên nếm trải thất bại trên chiến

trƣờng Việt Nam tại căn cứ Tếch Ních. Còn giai đoạn đầu trong cao trào chiến

dịch Nguyễn Huệ anh đƣơng là Phó tƣ lệnh Đoàn 429, sau khi chỉ huy tiểu đoàn

đặc công đánh chiếm và tiêu diệt mấy trăm tên địch ở căn cứ Trảng Lớn. Tiếp đó,

chỉ huy một lực lƣợng đặc công đánh chiếm căn cứ thông tin của Mỹ ở núi Bà

Đen. Diệt nhiều tên, thu phƣơng tiện,... Giờ đây tôi lại đƣợc sát cánh với anh em

163

để tổ chức đơn vị làm nên chiến công vang dội trên chiến trƣờng Biên Hòa là điều

mong muốn cháy bỏng của cấp trên, và sự nung nấu của chúng tôi và điều ấy đã

tới.

Đó là trận mở đầu bằng pháo ĐKB và H12 đêm mồng 8 tháng 8 năm 1972

vào phi trƣờng Biên Hòa. Phá hủy 74 máy bay các loại của Mỹ, diệt nhiều giặc lái

và nhân viên kỹ thuật. Phá hủy hai đài điều không... Trong lúc chúng chƣa hết

bàng hoàng thì chỉ sau đó chƣa tới một tuần, đêm 12 rạng 13 tháng 8 năm 1972,

lực lƣợng đặc công trực tiếp đặt lƣợng nổ vào tổng kho Long Bình. Phá hủy trên

150.000 tấn bom, đạn, 200 tấn thuốc nổ, làm kinh hoàng lũ giặc, cả thầy lẫn tớ.

Điều đặc biệt là không ở đâu an toàn đối với chúng. Chỉ sau đó ít lâu ngày 10

tháng 9 năm 1972 trận bão lửa lại diễn ra tại căn cứ không quân Biên Hòa, thiêu

đốt 175 máy bay của chúng; phá hủy nghiêm trọng các thiết bị sân bay. Hàng trăm

nhân viên kỹ thuật và giặc lái phải đền tội. Đây là một trong những tổn thất lớn

nhất trong lịch sử quân đội Hoa Kỳ đi xâm lƣợc nƣớc ngoài. Những chiến thắng

vang dội ấy nhƣ những đòn cân não đánh vào ý chí xâm lƣợc của Mỹ và sự ngoan

cố của ngụy quyền Sài Gòn; Góp phần thúc đẩy chúng ký hiệp định Pa-ri, chịu

thất bại cuốn cờ về nƣớc sau 21 năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lƣợc Việt

Nam.

Sau khi có hiệp định Pa-ri, anh Chín Tùng lên nhận nhiệm vụ Sƣ đoàn phó

đặc công 27, còn tôi - Chủ nhiệm chính trị Sƣ đoàn này và cả hai chúng tôi xa

Đoàn Đặc công 113 từ đó.

Là một Chính ủy có mặt từ giai đoạn đầu thành lập. Tuy nhiên, khi tuyên bố

thành lập đơn vị ở suối Bà Hào - Chiến khu Đ, tôi chƣa về kịp. Lúc ấy anh Chín

Tùng vừa là Đoàn trƣởng kiêm Bí thƣ Đảng ủy. Khi tôi có mặt đảm nhiệm Chính

ủy và Bí thƣ Đảng ủy cho tới khi xa Trung đoàn.

Để có những chiến công vang dội ấy, cùng với ý chí chiến đấu sẵn sàng hy

sinh vì sự nghiệp cao cả của dân tộc của những ngƣời lính Trung đoàn. Đó còn là

kết quả của sự gắn bó thủy chung giúp đỡ quý báu của Tỉnh ủy U1, cƣu mang đùm

bọc chí nghĩa chí tình của quân và dân tỉnh Biên Hòa, mà trực tiếp nhất là những

nơi đơn vị đứng chân và hoạt động...

Ghi lại những dòng này tôi không biết nói sao cho hết tấm lòng của mình đối

với tình sâu, nghĩa nặng của nhân dân Biên Hòa đã dành cho tôi và đơn vị suốt

chặng đƣờng chiến đấu hôm qua, còn lƣu giữ tới hôm nay và mãi mãi cho các thế

hệ cán bộ, chiến sĩ Đoàn Đặc công 113 anh hùng.

TP Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2003

M.V.T.

164

ĐÁNH PHÁO CŨNG RẤT… ĐẶC CÔNG

ĐINH XUÂN

NGHIÊM1

Tôi sinh năm 1935 ở quê hƣơng xứ dừa, Hoài Nhơn, Bình Định. Vào quân

đội đầu năm 1954. Sau khi có hiệp định Giơ-ne-vơ, tập kết ra Bắc, tháng 3 năm

1966, trở về Nam chiến đấu, nay đại tá quân đội về hƣu năm 1992, nhƣng từ ngày

đó theo yêu cầu của Đảng, tôi tiếp tục tham gia công tác ở Ban nội chính huyện

Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.

Nói về cuộc đời ngƣời lính, ít nhiều ai mà chẳng có những kỷ niệm vui, buồn.

Bản thân mình cũng thế thôi. Song, về phƣơng diện đánh giặc đến suốt đời tôi vẫn

đinh ninh lối đánh pháo cũng mang đậm nét rất đặc công ấy.

Vào giữa đầu tháng 6 năm 1972, anh Nguyễn Thanh Tùng (Chín Tùng)

Trung đoàn trƣờng Đoàn Đặc công 113 vừa mới thành lập tại suối Bà Hào phía

bắc huyện Vĩnh Cửu giữa lòng Chiến khu Đ đi chuẩn bị chiến trƣờng. Cùng đi với

anh Chín Tùng có anh Tƣ Trị trợ lý tham mƣu giúp việc và một số cán bộ tăng

cƣờng từ Tiểu đoàn pháo 174 về nằm trong đội hình Trung đoàn Đặc công 113.

Từ xƣa tới nay, pháo binh thƣờng phối hợp tác chiến chiến dịch hoặc từng trận

đánh để hỗ trợ cho xung lực bộ binh hay đặc công ở một số mục tiêu nào đó theo

chỉ lệnh chiến đấu. Đánh xong, có thể tham gia rút kinh nghiệm, bình xét khen

thƣởng rồi ai về vị trí của mình. Còn pháo binh nằm biên chế trong đội hình đặc

công nhƣ thế này, tôi mới gặp lần đầu; rất hiếm thấy nhƣ vậy. Nhiều cán bộ binh

chủng pháo binh kỳ cựu cũng có chung tâm trạng ấy. Nhƣng trên đã quyết thì

mình cứ chấp hành, quá trình nảy sinh vấn đề gì cần tìm cách tháo gỡ. Miễn sao

hoàn thành đƣợc nhiệm vụ hiệu suất chiến đấu cao, góp phần chiến thắng kẻ thù là

điều ai cũng mong muốn.

Lúc ấy tôi là Tiểu đoàn trƣởng, anh Võ Tấn Lợi là Chính trị viên - Bí thƣ

Đảng ủy tiểu đoàn. Đơn vị có bốn đại đội đều trang bị pháo ĐKB, đóng quân ở

bàu Cá Trê huyện Tân Uyên. Nhiều năm bám trụ ở đây, tiểu đoàn tham gia tác

chiến một số trận nhƣng quân số, vũ khí cơ bản vẫn ổn định, chƣa tổn thất bao

nhiêu, kinh nghiệm chiến đấu đang dần dần đƣợc tích lũy, đó là vốn thực tiễn hết

sức quý giá. Đầu tháng 7 năm 1972, tiểu đoàn chính thức về trong đội hình Trung

đoàn Đặc công 113, dời chuyển nơi đóng quân lâu nay ở bàu Cá Trê huyện Tân

1 Nguyên Tham mưu trưởng thứ 2 Trung đoàn 113 - đại tá về hưu.

165

Uyên về xây dựng căn cứ tại suối Bà Hào giữa Chiến khu Đ cách nơi cũ trên 20

cây số.

Nhiệm vụ chủ yếu của Trung đoàn là nghiên cứu để tạo nên những trận đánh

hiệu quả nhất vào sân bay Biên Hòa và tổng kho Long Bình. Vào thời điểm ấy,

tình hình trên khắp các chiến trƣờng còn rất sôi động. Mỹ, ngụy bị tấn công dồn

dập và thất bại liên tiếp cả trên chiến trƣờng và tại bàn đàm phán ngoại giao ở hội

nghị Pa-ri. Nếu bồi thêm cho chúng những đòn chí tử ngoài mặt trận quân sự,

càng thúc đẩy ngoại giao hiệu quả hơn. Thời gian thúc bách lắm không thể chờ lâu.

Theo chỉ thị của Bộ Chỉ huy Miền, Trung đoàn Đặc công 113 phải tạo ra đƣợc

những trận đánh sâu, đánh hiểm có hiệu quả cao làm thối động từ căn cứ hậu cứ

đối phƣơng. Với chiến thuật đặc công, đánh phải có thời gian làm công tác chuẩn

bị điều tra nghiên cứu mới chắc thắng. Đó là đánh về xung lực. Còn đánh bằng

hỏa lực pháo nhƣng không phải theo kiểu truyền thống, dùng công năng của đạn

đặt thật xa có thể tới đƣợc mục tiêu, mà pháo cũng phải tiếp cận theo phƣơng thức

“Nối dài cánh tay cho đặc công”, đây là một hình thức sáng tạo do thực tiễn chiến

trƣờng đặt ra.

Trinh sát tiểu đoàn kết hợp với trinh sát Trung đoàn có sự giúp đỡ của cán bộ

địa phƣơng các xã ở Vĩnh Cửu và Tân Uyên, len lỏi tìm kiếm địa hình, đặt đài

quan sát, đo đạc cự ly. Chẳng bao lâu đã tìm đƣợc những điểm đặt trận địa hết sức

thuận lợi vừa gần trung tâm bắn khoảng 4 ki-lô-mét, vừa bất ngờ. Trận địa chính

đặt tại chân núi Chân Chùa về phía đông sân bay Biên Hòa, thuộc xã Tân Định do

anh Trần Nhật Thành, Đại đội trƣởng chỉ huy. Trận địa phía bắc sân bay đặt tại xã

Mỹ Lộc - Tân Hòa, huyện Tân Uyên do tôi, Tiểu đoàn trƣởng chỉ huy. Song song

với thời gian làm công tác chuẩn bị trận địa thì một lực lƣợng đáng kể cán bộ cơ

quan Tỉnh ủy U1 đƣợc huy động vận chuyển đạn từ mạn gần xã Lý Lịch của

Chiến khu Đ do Hậu cần 814 chở về. Một lực lƣợng của Tiểu đoàn 9 và Tiểu đoàn

14 do anh Ba Triệt, chủ nhiệm chính trị đứng ra tổ chức thực hiện. Trời mƣa,

đƣờng lầy lội, mỗi quả đạn ĐKB nặng tới 58 ki-lô-gam phải tháo rời từng phần:

đuôi, thân, đầu để vác. Vậy mà có ngƣời vác nguyên cả quả, mới thấy sức mạnh

của lòng căm thù giặc đến thế nào.

Nặng nhọc vất vả đối với nam giới còn đỡ, song đối với chị em phụ nữ quá

sức tƣởng tƣợng, vậy mà khi đƣợc tham gia đi vận chuyển hàng “đặc biệt” cho bộ

đội ai cũng hớn hở ra mặt (để giữ bí mật không dám nói là chuyển đạn). Nhân nói

đến chuyển đạn tôi nhớ tới một sự kiện đầy ấn tƣợng: đó là Nguyễn Minh Hiển,

Đại đội trƣởng trực tiếp chỉ huy một tổ đặc công năm ngƣời, dùng tre kết bè, dƣới

bè kèm ruột xe hơi bơm căng điều khiển từ thƣợng nguồn xuôi theo sông Đồng

Nai về tới xã Mỹ Lộc. Khi gần qua trận địa, theo ám hiệu có ngƣời đón để đƣa đạn

vào vị trí. Số đạn do năm ngƣời chở bằng 100 ngƣời vác, mới thấy sự sáng tạo của

ngƣời lính quý giá biết ngần nào.

Mọi công tác chuẩn bị đã hoàn tất, theo mệnh lệnh của trên, những con rồng

lửa từ hai hƣớng vun vút lao đi bao trùm phi trƣờng Biên Hòa tạo nên những tiếng

nổ dữ dội và biển lửa ngút trời. Kết quả: 74 máy bay các loại, một đài điều không,

166

giàn ra đa và nhiều dãy nhà lính bị tan tành. Sân bay tê liệt nhiều ngày liền. Địch

cay đắng và hoàn toàn bất lực. Ta thu dọn trận địa, xóa dấu vết, tổ chức lui quân

an toàn. Nửa giờ sau địch mới hoàn hồn phản pháo vu vơ không đem lại hiệu quả.

Để xóa dấu vết triệt để, tại trận địa núi Chân Chùa xã Tân Định, nữ cán bộ

Lâm Thị Nhung đã cùng với xã đội trƣởng Ba Tánh huy động dân dùng trâu kéo

bừa những đám ruộng nƣớc mà hồi hôm bộ đội đi qua để tránh địch lần theo dấu

vết oanh tạc bằng phi pháo. Tinh thần yêu nƣớc của cán bộ, nhân dân ta thật tuyệt

vời.

Trận thắng mở đầu giòn giã ấy, Trung đoàn đƣợc Bộ Tƣ lệnh Miền tặng

thƣởng Huân chƣơng Quân công hạng ba.

Từ sau trận thắng ấy, Tiểu đoàn tiếp tục gây tiếng nổ trong sân bay Biên Hòa,

thiệt hại tuy không lớn nhƣng có tác dụng kiềm chế địch hoạt động, xuất kích đi

gây tội ác các vùng, miền đối với nhân dân ta cả hai miền Nam - Bắc.

Tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 và Chiến dịch Hồ Chí

Minh toàn thắng, anh Đỗ Văn Ninh - Trung đoàn phó đi với Tiểu đoàn 9 đánh

chiếm căn cứ thiết giáp Hốc Bà Thức. Tiểu đoàn 14 đặc công và Tiểu đoàn 174

đƣợc trang bị pháo hạng nhẹ đó là ĐKZ 82 và bốn khẩu ĐKB để kiềm chế mục

tiêu núi Châu Thới cùng một số trận địa gần đó. Nhờ kiềm chế chính xác, ngay

loạt đạn đầu địch bị tiêu diệt nhiều tên, số còn lại không thể trụ đƣợc, trận địa

pháo ở núi Châu Thới phải rút chạy.

Ấn tƣợng nhất đối với tôi là pháo binh đi cùng đội hình đặc công, bắn gần

nhƣng lại chính xác làm cho đối phƣơng rất hoảng sợ. Trong trận này có Lê Văn

Lƣu, quê ở huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây làm trợ lý đảng vụ Tiểu đoàn vừa đƣợc

điều xuống làm Trung đội trƣởng Trung đội pháo. Trƣớc đó ít ngày anh nhận thƣ

gia đình, mừng lắm đọc công khai cho mọi ngƣời cùng nghe để chia sẻ niềm vui.

Vợ anh viết: “Mẹ con em cũng như gia đình đều khỏe, con của chúng mình rất

khỏe và ngoan. Nó cứ hỏi mẹ, bao giờ cha về với con hở mẹ? Em ôm con vào lòng

cứ nghẹn ngào mà không thể nào trả lời cho con được”. Phần tái bút, cô vợ trẻ từ

hậu phƣơng xa xôi còn hỏi: “anh Lưu ơi, biết đến bao giờ anh có thể về thăm mẹ

con em, gia đình và quê hương hở anh? Em thường nằm mơ thấy anh về đấy”.

Đọc thƣ vợ, không riêng gì Lƣu vui mà dƣờng nhƣ ai cũng vui lây với anh.

Thế mà chỉ hai tuần sau, Lê Văn Lƣu vĩnh viễn nằm lại bên dòng sông Đồng Nai

con sông quê hƣơng thứ hai của anh. Cùng ngã xuống với Lƣu ở chốn này còn có

hơn năm chục đồng đội của anh trƣớc ngày toàn thắng!

Đ.X.N.

167

TƢỚNG ĐẶC CÔNG ANH HÙNG

HOÀNG TRÂN

Nguyễn Thanh Tùng (thƣờng đƣợc gọi thân mật là Chín Tùng) là một trong

những vị chỉ huy đặc công dạn dày trận mạc của miền Đông Nam Bộ, lập nhiều

chiến công xuất sắc. Đặc biệt, trên cƣơng vị Trung đoàn trƣởng đầu tiên của Đoàn

Đặc công 113 đặc công, Nguyễn Thanh Tùng chỉ huy đơn vị lập công lớn bằng hai

trận ra quân lịch sử đánh vào sân bay Biên Hòa và tổng kho Long Bình năm 1972.

Sau khi rời chức Sƣ đoàn trƣởng 310 và Phó tƣ lệnh kiêm Tham mƣu trƣởng Mặt

trận 779, từ chiến trƣờng Cam-pu-chia trở về, hơn 10 năm cuối cuộc đời binh

nghiệp, ông đảm trách nhiệm vụ Chỉ huy trƣởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng

Nai, sau đó là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh Đồng Nai, đƣợc bầu làm đại biểu

Quốc hội khóa 8 và 9. Năm 1976, Đoàn Đặc công 113 đƣợc Đảng và Nhà nƣớc

phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân. Hai năm sau

- 1978, ngƣời chỉ huy đầu tiên của Trung đoàn là Nguyễn Thanh Tùng cũng vinh

dự đƣợc nhận danh hiệu cao quý ấy.

Bí mật về Nam

Tháng 11 năm 1961, thiếu úy, chính trị viên phó đại đội còn khá trẻ Nguyễn

Thanh Tùng (quê ở Tây Ninh) cùng đồng đội rời miền Bắc hành quân bí mật trở

về Nam tham gia kháng chiến chống Mỹ, đƣợc phân công về đại đội 21, Trung

đoàn 762 (C21, Q762). Gần ba năm sau - 1964, Nguyễn thanh Tùng đƣợc bổ

nhiệm làm Chính trị viên phó Tiểu đoàn 46 trinh sát Miền, chuẩn bị nắm tình hình

địch để phục vụ cho hai chiến dịch Bình Giã và Đồng Xoài, Nguyễn Thanh Tùng

nhận lệnh chỉ huy đơn vị lên đánh chiếm đài truyền tin của địch trên núi Bà Rá.

Nhiệm vụ đƣợc hoàn thành xuất sắc: tiêu diệt tên đại đội trƣởng trực tiếp chỉ huy

đài truyền tin, bắt toàn bộ trung đội địch trực chiến, chiếm lĩnh đỉnh núi Bà Rá,

đặt đài quan sát phục vụ các đơn vị bộ binh của ta chặn đánh viện quân địch ở sở

cao su Phú Riềng, Phƣớc Long. Đồng thời, Nguyễn Thanh Tùng cùng một bộ

phận cán bộ tiếp tục chuẩn bị phƣơng án phục vụ kịp thời cho Bộ Chỉ huy Miền

trƣớc khi bƣớc vào trận Tổng tiến công chiến lƣợc Tết Mậu Thân - 1968. Ông đã

có mặt xuyên suốt trên tuyến đầu trong cả đợt 1 và 2 chiến dịch.

Sự ra đời của Trung đoàn 113 vào ngày 3 tháng 6 năm 1972 do Nguyễn

Thanh Tùng làm Trung đoàn trƣởng là sự kiện quan trọng, đánh dấu bƣớc phát

triển mới của lực lƣợng đặc công trên chiến trƣờng miền Đông Nam Bộ. Cũng từ

168

đây, cuộc đời binh nghiệp của vị tƣớng tƣơng lai chuyển sang một bƣớc ngoặt mới.

Thành lập trong điều kiện khẩn trƣơng, Trung đoàn 113, thƣờng đƣợc gọi tắt là

Đoàn Đặc công 113, phải vừa tổ chức lực lƣợng, vừa huấn luyện và chuẩn bị cơ

sở vật chất để sẵn sàng chiến đấu. Hai trận đánh sân bay Biên Hòa và tổng kho

Long Bình năm 1972 của Đoàn Đặc công 113 khi mới thành lập, do Nguyễn

Thanh Tùng chỉ huy, đã đi vào lịch sử nhƣ hai trận đánh chiến lƣợc tiêu biểu của

Binh chủng Đặc công, gây cho địch tổn thất lớn.

Đột kích sân bay Biên Hòa.

Sân bay Biên Hòa xây dựng từ thời thuộc Pháp, đƣợc Mỹ nâng cấp mở rộng

trở thành sân bay quân sự cấp một lớn nhất miền Nam, vào loại tầm cỡ Đông Nam

Á. Từ năm 1965-1970, quân ta tấn công sân bay Biên Hòa 12 lần, gây thiệt hại lớn

về máy bay, phƣơng tiện chiến tranh của địch. Do đó, địch bố trí hệ thống phòng

thủ bảo vệ sân bay này rất kiên cố. Bên cạnh sân bay còn có sở chỉ huy bộ tƣ lệnh

quân khu 3 và quân đoàn 3 ngụy.

Sau khi nghiên cứu mục tiêu và cách đánh, Trung đoàn trƣởng Nguyễn

Thanh Tùng cùng Ban Chỉ huy Trung đoàn quyết định sử dụng Tiểu đoàn 9, Tiểu

đoàn 174, và đại đội trinh sát chuẩn bị cho trận đánh. Tiểu đoàn 174 chịu trách

nhiệm tập kích hỏa lực ĐKB vào sân bay bằng phƣơng pháp bắn ứng dụng. Trung

đoàn đã phối hợp với cơ quan Tỉnh ủy Biên Hòa (U1) huy động hàng trăm lƣợt

ngƣời, cả dân quân du kích địa phƣơng, vận chuyển vũ khí và bảo vệ hành lang

suốt hai ngày đêm. Giờ nổ súng bắt đầu vào đêm mồng 2 rạng sáng 3 tháng 8 năm

1972. Hỏa lực Trung đoàn dội dồn dập 202 quả đạn ĐKB, 45 quả H12 vào sân

bay Biên Hòa và sở chỉ huy quân khu 3, quân đoàn 3 ngụy. Thị xã Biên Hòa rúng

động. Những cột lửa trong sân bay bốc sáng rực một vùng trời.

Trận pháo kích khá bất ngờ, địch không kịp phản ứng. Kết quả ta đã phá hủy,

làm hỏng 74 máy bay, hai giàn radar, một kho bom, một kho xăng, phá sập nhiều

công sự, diệt hàng trăm binh lính địch. Đúng theo dự kiến của Trung đoàn trƣởng

Nguyễn Thanh Tùng, quân ta rút về nơi tập kết an toàn.

Hỏa thiêu tổng kho Long Bình

Tổng kho Long Bình là căn cứ hậu cần dự trữ chiến lƣợc lớn nhất của quân

Mỹ ở miền Nam, đƣợc bố phòng hiện đại, kiên cố, nằm sát hai quốc lộ số 1 và 15,

cách trung tâm Sài Gòn 21 ki-lô-mét về phía bắc và Biên Hòa 7 ki-lô-mét về phía

nam. Nơi đây đồn trú hơn 2.000 quân Mỹ, chủ yếu là cố vấn và chuyên viên kỹ

thuật. Còn quân ngụy có một trung đoàn công binh, một liên đội vận tải, một tiểu

đoàn quân cảnh. Đây cũng là nơi đóng sở chỉ huy của bộ tƣ lệnh hậu cần Mỹ, bộ

tƣ lệnh hậu cần và bộ tƣ lệnh tiếp vận 3 ngụy. Hai cụm kho chứa bom đạn lớn

nhất đƣợc xây dựng trên điểm cao 50 và 58. Tuyến phòng thủ ngoài cùng bằng rào

kẽm gai dày đặc. Kho 53 nằm trên điểm cao 53 là kho quan trọng nhất trong tuyến

phòng thủ thứ 3; toàn kho có 18 dãy nhà gồm hơn 200 gian kho, chủ yếu chứa

bom đạn. Cửa kho đều đƣợc làm bằng những tấm thép dày có rãnh chống tháo

gỡ...

169

Thiếu tƣớng Nguyễn Thanh Tùng cho biết: “Trận tấn công tổng kho Long

Bình là trận đánh bằng phƣơng pháp phá hủy bí mật có lực lƣợng đặc công quy

mô nhất từ trƣớc đến nay. Tôi và Phó tham mƣu trƣởng trung đoàn Đỗ Văn Ninh

cùng với bộ phận trinh sát đã đi tiền trạm để quan sát tiếp cận mục tiêu. Chúng tôi

nghiên cứu kỹ cách bố phòng, quy luật tuần tra canh gác của địch và xác định mục

tiêu cần đánh phá. Trở về, tôi họp Ban Chỉ huy Trung đoàn và phân công nhiệm

vụ cụ thể. Có 57 cán bộ, chiến sĩ trực tiếp tham gia trận đánh, sử dụng cả một cơ

sở biệt động bên trong tổng kho Long Bình”. Chuẩn bị xong, ngày 12 tháng 8 năm

1972, lực lƣợng quân ta tập kết cách mục tiêu 15 ki-lô-mét về phía đông bắc.

Khoảng nửa đêm, ba mũi đặc công bí mật vƣợt qua các tuyến phòng thủ, tiến vào

khu vực kho 53. 220 ki-lô-gam thuốc nổ hợp chất C4 tự tạo thành 220 quả thủ

pháo đƣợc đặt vào các vị trí đã định. Các kíp hẹn giờ có khoảng cách với nhau

làm sao đến những quả cuối cùng đủ thời gian cho bộ đội ra an toàn.

Sau khi các chiến sĩ đặc công rút khỏi khu vực kho, đúng 4 giờ 30 phút sáng

ngày 13 tháng 8, các kíp nổ đồng loạt phát hỏa. Khu kho 53 bùng nổ dữ dội, lửa

bốc cao, rung chuyển cả một vùng rộng lớn. Những cột khói đen ngòm che phủ

bầu trời giúp cho các mũi rút quân an toàn. Bom đạn kho 53 nổ liên tục cho tới 16

giờ ngày 15 tháng 8 mới ngƣng. Có 130 gian nhà kho với hơn 150.000 tấn bom

đạn bị phá hủy, gần một triệu lít xăng dầu bị đốt cháy, hơn 100 lính Mỹ - ngụy

chết và bị thƣơng. “Sau trận đánh, quân Mỹ phải ngừng bắn pháo một tuần vì hết

đạn dự trữ. Quân ta có một chiến sĩ đặc công đi lạc đƣờng và bị địch bắt, nhƣng đã

giữ tròn khí tiết, khi bị tra tấn đã không khai báo gì làm lộ bí mật của đơn vị. Chỉ

gần hai tháng sau khi thành lập, Trung đoàn Đặc công 113 đã hoàn thành xuất sắc

hai trận đánh lớn vào sân bay Biên Hòa và tổng kho Long Bình, khẳng định bƣớc

trƣởng thành đầu tiên của Trung đoàn. Thiếu tƣớng Nguyễn Thanh Tùng nói: đây

là hai trận đánh có ý nghĩa chiến lƣợc trong thời điểm toàn chiến trƣờng đang gặp

nhiều khó khăn, nhất là về mặt quân giới, góp phần đánh bại bƣớc cơ bản chiến

lƣợc Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, buộc chính quyền Sài Gòn cùng quan thầy

Mỹ ký Hiệp định Pa-ri”.

Thần tốc về Nam lần thứ hai

Sau thành công hai trận đánh lớn mở đầu vào sân bay Biên Hòa và tổng kho

Long Bình, Trung đoàn 113 đã nhận điện của Phó tham mƣu trƣởng Miền Trần

Văn Danh với công văn do Tƣ lệnh Trần Văn Trà ký đề nghị Trung đoàn triển

khai đánh tiếp các cứ điểm khác của địch. Phát huy khí thế ban đầu, Trung đoàn

tiếp tục giành nhiều chiến công mới (về sau Trung đoàn đổi thành Đoàn Đặc công

113, đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ba lần phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lƣợng vũ

trang). Gần một năm sau ngày thành lập Trung đoàn 113 với hai chiến công hiển

hách, tháng 5 năm 1973, Nguyễn Thanh Tùng đƣợc Tƣ lệnh Trần Văn Trà ký

quyết định “điều động” về Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam nhận nhiệm vụ

Phó tƣ lệnh Đoàn đặc công 27 - biệt động (tƣơng đƣơng sƣ đoàn). Đến tháng 10

năm 1973, Nguyễn Thanh Tùng đƣợc điều ra Hà Nội học ở Học viện Quân sự cao

cấp. Ngày 20 tháng 4 năm 1975, ông rời Học viện lên máy bay vào Đông Hà, rồi

đi xe con thẳng vào Lộc Ninh để kịp tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh.

170

Nguyễn Thanh Tùng nhận nhiệm vụ Sƣ đoàn phó Sƣ đoàn 2 đặc công, do anh

Nguyễn Văn Mây làm Sƣ đoàn trƣởng đánh vào hƣớng tây Sài Gòn, theo đƣờng 4

Long An. Lực lƣợng Sƣ đoàn 2 đặc công gồm Trung đoàn 429, Trung đoàn 115,

Trung đoàn 117, 116, 119... và đƣợc phối thuộc với Trung đoàn Gia Định bộ binh,

đặt dƣới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Chỉ huy Miền. Sƣ đoàn 2 đặc công đánh

chiếm trung tâm truyền tin Phú Lâm (ra-đa Phú Lâm), căn cứ Tân Tạo, kho gạo

Xa cảng miền Tây, trƣờng Minh Phụng... góp phần đƣa Chiến dịch Hồ Chí Minh

tới thắng lợi hoàn toàn.

H.T.

171

TÔI ĐÃ TỪNG SÁT CÁNH VỚI ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113 CHIẾN ĐẤU

NGUYỄN VĂN BÌNH1

Tôi sinh năm 1937 tại ấp Tam Hòa, xã Hiệp Hòa còn gọi là Cù Lao Phố, thị

xã Biên Hòa. So với bạn bè trang lứa thì tôi đi thoát ly hơi trễ.

Tôi nhập ngũ 15 tháng 10 năm 1964 vào làm lính đại đội 306 của Quân khu

miền Đông. Sau trận pháo kích vào sân bay Biên Hòa ngày 23 tháng 8 năm 1965,

phiên hiệu đơn vị đổi lại thành đại đội 238 thuộc Tỉnh đội Biên Hòa do ông Hai

Cà làm Tỉnh đội trƣởng. Cứ đóng ở Hốc Bà Cai - Chùa Bạc Kiết, lúc ấy chƣa có

khu Long Bình, còn thuộc chiến khu Bình Đa xƣa, thị xã Biên Hòa. Ít lâu sau Mỹ

ủi phá để xây dựng tổng kho Long Bình nhằm thực hiện cuộc chiến tranh xâm

lƣợc Việt Nam lâu dài của chúng. Trƣớc tình hình ấy, đơn vị dạt về đóng quân ở

dốc Già Râu (gần lộ 24 xã Đại An đi vào).

Nhiệm vụ Quân khu giao cho đại đội 238 là phải tìm cách kìm chân lữ đoàn

173 của Mỹ đóng ở Hốc Bà Thức, hạn chế nó hành quân để đánh phá các nơi bằng

mọi hình thức. Đây là nhiệm vụ nặng nề mà cán bộ, chiến sĩ phải tìm mọi cách

thực hiện cho kỳ đƣợc. Trong lúc đó các loại vũ khí khá đơn giản nhƣ mìn định

hƣớng ĐH10; ĐH4, thủ pháo dù rất lợi hại để kìm chân địch thì ta chƣa có. Kể cả

súng B40 cũng chƣa xuất hiện tại chiến trƣờng. Trong lúc đó Quân khu ƣu tiên

trang bị cho đơn vị đƣợc 32 khẩu súng AK báng gỗ, cơ số đạn 350 viên/khẩu. Khi

địch đi càn chúng phát hiện căn cứ dốc Già Râu nên ta phải dời cứ về dốc đại đội

4 (thƣờng gọi C Tƣ) tại Suối Đá trƣờng Đảng Thị ủy Biên Hòa. Đó là thời điểm

năm 1965. Lúc này Mỹ đang chuyển từ chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục

bộ.

Mỹ mở đầu cho cuộc chiến tranh mà chiều hƣớng dẫn tới khốc liệt trong

tƣơng lai là điều khó tránh bằng hình thức đổ bộ một trung đoàn lính Mỹ, mỗi đợt

24 chiếc trực thăng gần căn cứ C Tƣ (lộ 24). Lúc này anh Ba Đấu, quê Thƣờng

Lang, Đất Cuốc, Đại đội trƣởng, anh Tám Bảo và Tƣ Hải, Đại đội phó (anh Tƣ

Hải đã hy sinh), đơn vị trực tiếp chiến đấu với quân chủ lực Mỹ ở đồi C Tƣ. Mặc

dầu trận chiến diễn ra không cân sức giữa một bên là lực lƣợng vũ trang địa

phƣơng, quân số chỉ trên dƣới một trung đội, trang bị tiểu liên, thủ pháo, lựu đạn,

đƣợc chuẩn bị trƣớc công sự chiến đấu cá nhân. Còn bên kia là một tiểu đoàn lính

Mỹ tới mấy trăm tên, vũ khí hiện đại, có máy bay, pháo binh yểm trợ. Kết cục,

hơn 70 tên bỏ xác, số bị thƣơng có lẽ cũng hàng chục. Cuối cùng địch phải cay cú

tháo lui. Ta thu đƣợc hai đại liên, 20 băng đạn, một M79, trong đó có một khẩu

Colt 45 và một đồng hồ. Chiếc đồng hồ ấy nghe nói Thiếu tƣớng Tô Ký gửi tặng

Viện Bảo tàng quân đội. Trận này đƣợc xác định là trận đánh Mỹ quy mô lớn đầu

tiên của lực lƣợng vũ trang địa phƣơng tỉnh Biên Hòa tại khu vực này với bọn

xâm lƣợc Hoa Kỳ. Số xác Mỹ đƣợc đồng bọn đƣa ra một địa điểm ở khu vực Cây

Gáo để trực thăng tới đƣa về khu vực Long Bình để phẫu thuật, ƣớp xác bảo quản

1 Nguyên là thợ đóng bệ phóng vũ khí tự tạo, đóng thuyền phục vụ các lực lượng U.1

172

trƣớc lúc đƣa về cố hƣơng. Nhờ cơ sở tình báo của ta nắm số liệu trực tiếp, nên ta

biết khá chính xác lính Mỹ chết trong trận này. Lúc này tôi đang ở chung trung đội

với Thanh Giáp, một cán bộ đặc công ngƣời địa phƣơng đƣợc anh em trọng nể về

tính gan góc, bản lĩnh đánh giặc.

Qua năm 1967, theo yêu cầu của cấp trên tôi đƣợc điều về đại đội quân giới

của tỉnh để đóng bệ phóng lựu đạn, bom bi để “nối dài” đôi tay nhằm giáng những

loại vũ khí tự tạo đơn sơ mà hết sức lợi hại vào quân xâm lƣợc và bè lũ bán nƣớc.

Tôi không thống kê bản thân mình đã cùng đồng đội sản xuất đƣợc bao nhiêu giá

phóng lựu đạn, bom bi nhƣng chắc chắn không dƣới hàng trăm. Mỗi giá phóng

điều khiển từ sáu đến 12 trái, xa gần tùy thuộc mục tiêu. Nghe nói có những trận

đội hình địch bị bủa vây nào là lựu đạn, bom bi hàng loạt tên bỏ mạng mà chúng

không thể nào hiểu nổi loại vũ khí hết sức lợi hại do Việt cộng tạo nên. Sang năm

Mậu Thân 1968, cơ sở đƣợc giao thêm nhiệm vụ khá quan trọng. Đó là triển khai

lực lƣợng đi thu gom bom, đầu đạn cối, pháo lép về cƣa lấy thuốc để đúc mìn, lựu

đạn cán chày và thủ pháo. Các loại mìn định hƣớng ĐH4, ĐH10 chứa từ 650 viên

sắt các loại 12mm; ĐH4 ít hơn cũng tới 450 viên sắt loại 12 mm đƣợc chặt ra. Do

yêu cầu của chiến trƣờng về vũ khí để đánh giặc, nên mặc dầu đơn vị có 40 cán

bộ; đội viên hầu hết là bộ đội mùa thu tập kết trở về, nhiều khi làm việc không

quản ngại thời gian với tinh thần: Tất cả cho chiến thắng, làm việc không biết mệt

mỏi. Công việc đang tiến triển ngày càng thuận lợi thì tôi lại nhận nhiệm vụ mới,

nhƣng không phải ra mặt trận cầm súng đánh giặc mà phụ trách đóng thuyền để

chở quân sang sông và tiếp tế vũ khí, lƣơng thực chuẩn bị đánh sân bay Biên Hòa

và tổng kho Long Bình cùng nhiều nơi khác. Kể từ năm 1967 đến 1972, tôi cùng

đồng nghiệp, nhƣ chú Hai (cha của cô y tá dân y), anh Năm Một - dân tộc Châu

Ro, quê Thƣờng Lang, Chiến khu Đất Cuốc - đã chết sau giải phóng; anh Sớm cán

bộ tuyên giáo Thị ủy... anh này cƣa líu rất tài. Những cây gỗ bằng lăng hoặc loại

gỗ thích hợp đƣợc anh tuyển chọn, đốn ngã chẳng bao lâu trở thành những tấm

ván phẳng phiu, những thớ gỗ làm đai đố hết sức tiện lợi. Thợ chỉ việc gia công

uốn lƣợn, lắp ghép chúng lại với nhau trở nên những con thuyền xinh xắn lƣớt

sóng xuôi ngƣợc dòng sông. Trong khoảng thời gian ấy, chúng tôi tự tổ chức cƣa

gỗ, chế tác và đóng đƣợc khoảng 26 chiếc thuyền, bình quân mỗi chiếc chở đƣợc

từ 23 - 25 ngƣời kèm theo trang bị vũ khí và đồ dùng cá nhân, trọng lƣợng ƣớc

tính từ 1.700 - 1.800 ki-lô-gam. Thử làm một phép tính đơn giản, số trọng lƣợng

ấy nếu bình quân mỗi ngƣời vận tải bộ đƣợc 25 ki-lô-gam phải điều động công

sức 76 ngƣời. Đằng này dùng thuyền chở chỉ cao lắm ba - bốn ngƣời điều khiển.

Giảm đƣợc một số lƣợng ngƣời không nhỏ để trực tiếp chiến đấu. Chính nhờ

những chiếc thuyền tự tạo này mà khi Trung đoàn 113 ra đời ông Hai Cà đã tận

dụng tối đa chở các loại lƣơng thực, thực phẩm, đạn dƣợc do hậu cần 814 cấp, vận

chuyển theo sông Đồng Nai đáp ứng kịp thời cho nhiệm vụ chiến đấu của đơn vị,

và giúp Đoàn Đặc công 113 đánh chiếm cầu Ghềnh và cầu Mới.

Trƣớc tình hình chuyển biến trên chiến trƣờng có lợi cho ta, địch đang từng

bƣớc lún sâu vào những thất bại, theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, khoảng

giữa năm 1972, Tỉnh đội U.1 thuyên chuyển tôi về Thị đội Biên Hòa phục vụ nội

173

thành, chuẩn bị cho phƣơng án “lót ổ” khi thời cơ xuất hiện. Thời kỳ này anh Bảy

Sang làm Thị đội trƣởng, anh Thanh (ngƣời Bắc) và anh Tƣ Liên - Thị đội phó.

Nhiệm vụ của tôi là xây dựng cơ sở Nông hội cùng với các tổ chức khác nhƣ là

Thanh niên, Phụ nữ, Hội lân, Hội tang tế vốn đã đƣợc chính quyền địch xây dựng,

mình chỉ việc “lồng” vào thật khéo để hoạt động, đƣa phong trào ba mũi giáp công

ngày một lên cao. Tôi chịu trách nhiệm xây dựng lực lƣợng quân sự và binh vận.

Còn mũi chính trị do chị Ba Xuân đảm trách. Lúc này anh Năm Trang, trên cƣơng

vị là Bí thƣ Thị uỷ đã móc nối làm các thủ tục giấy tờ hợp lệ để chúng tôi hoạt

động, một hình thức bình phong khá chặt chẽ, vƣợt mặt bọn tay chân chính quyền

sở tại. Nghe nói làm một tấm giấy kiểm tra lúc ấy mất khoảng 120.000 đồng; giấy

phòng vệ dân sự là 45.000 đồng để đi lại hợp pháp, đều do tổ chức thực hiện trao

lại cho chúng tôi, nhằm có đủ yếu tố hoạt động công khai, hợp pháp.

Tôi còn nhớ rất rõ ràng, ngày 20 tháng 4 năm 1975, nhận đƣợc chỉ thị của cấp

trên là chốt bàn đạp phải đƣa quân ém vào vị trí, chuẩn bị cho bƣớc vào chiến dịch

Hồ Chí Minh. Lúc ấy các lực lƣợng mật theo tôi biết là đã xây dựng đƣợc 10 cơ sở

khá vững chắc. Đó là ông Sấu, ông Sáu Hoành, anh Năm Nọng, ông Ba Trƣờng,

ông Sáu Râu, ông Bảy (đờn cò), anh Út (tài công), bà Sáu (răng vàng), ông Tƣ

(thợ mộ Hiệp Hòa). Đặc biệt, có ông Sáu Râu dùng thuyền công khai đƣa vũ khí

giấu trong các bao lúa, các bó củi bần vào thành. Mìn, súng đều giấu trong củi.

Khi chƣa đƣợc lệnh sử dụng thì lau chùi sạch sẽ, tra dầu mỡ bó giấy bóng chôn cất

giấu ở hầm bí mật tại nhà đồng chí Nguyễn Văn Hoa, hiện là Chủ tịch Hội Cựu

chiến binh xã Hiệp Hòa, trƣởng ấp 3 và Bí thƣ chi bộ. Trƣớc 30 tháng 4 năm 1975,

anh Tƣ Hoa là du kích mật của đồng chí Hai Bình - Thị đội trƣởng.

Đêm 29 tháng 4, anh Hai Bình nắm thời cơ thấy địch tan rã đã lãnh đạo nhân

dân địa phƣơng cƣớp chính quyền tại xã Hiệp Hòa, đó là xã đầu tiên của thị xã

Biên Hòa đƣợc giải phóng. Và sau này, vinh dự to lớn là xã đầu tiên đƣợc tuyên

dƣơng Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân.

Qua hai cuộc kháng chiến chống pháp và chống Mỹ, nhân dân xã Hiệp Hòa

đóng góp sức ngƣời, sức của cho cách mạng hết sức to lớn. Xã có 90 liệt sĩ và

nhiều thƣơng bệnh binh khác.

Chính anh Hai Bình chớ không phải ai khác đã móc nối cơ sở tại Hiệp Hòa

để tạo điều kiện cho Đoàn Đặc công 113 chiến đấu và bám trụ ở cầu Ghềnh và cầu

Mới. Bởi vậy anh Bảy Nhuận cán bộ tiểu đoàn và anh Hai Bình thân nhau từ dạo

ấy.

Anh Năm Trang và anh Bảy Sang giao nhiệm vụ cho anh Bình kết hợp bảo

vệ cầu Ghềnh, cầu Mới vận động lực lƣợng của xã Hiệp Hòa nổi dậy cƣớp chính

quyền. Chính anh chỉ thị cho anh Tôn Trọng Kính – Trƣởng ban thƣơng binh xã

hội cùng một số anh em khác trực tiếp an táng 5 thi thể anh em đặc công Tiểu

đoàn 23 Trung đoàn 113 cạnh bờ sông Đồng Nai, hy sinh trong khi chiến đấu bảo

vệ cầu Ghềnh.

Xã Hiệp Hòa hồi ấy có khá nhiều sắc lính ngụy gồm: một tiểu đội của phân

chi khu Đức Tu; một tiểu đội cảnh sát; một trung đội dân vệ; một trung đội lính

174

biệt kích cánh dơi. Đây là loại biệt kích đặc biệt nên nó ăn lƣơng trực tiếp đơn vị

Mỹ trả. Bên cạnh còn có đội ngũ phòng vệ dân sự khá đông đảo, trang bị súng đạn

đầy đủ. Chính bọn này gây cho ta không ít khó khăn. Các lực lƣợng này cấu kết

lại, chúng đã gây nhiều tội ác đẫm máu với phong trào cách mạng địa phƣơng.

Điển hình nhƣ trong đợt “chồm lên” năm 1973, lực lƣợng ta hy sinh cả một trung

đội trong đó có lực lƣợng đặc công, công binh, phong trào, binh địch vận, biệt

động thị xã, biệt động thị đội. Tuy vậy, nhƣng chúng không thể đè bẹp đƣợc tinh

thần yêu nƣớc, khát vọng độc lập, tự do của quần chúng cách mạng. Chính vì vậy

mà các cơ sở cách mạng của ta vẫn bám chặt trong nhân dân cho tới ngày toàn

thắng.

Nhƣ vậy là trong quãng đời hoạt động cách mạng của mình, tôi có hai giai

đoạn gắn bó với Trung đoàn Đặc công 113. Lần thứ nhất, tham gia đóng thuyền

phục vụ cho đơn vị vận chuyển đạn, gạo và có khi chở quân qua sông Đồng Nai,

Sông Bé. Lần thứ hai, hỗ trợ phía sau để đơn vị đánh chiếm, bảo vệ cầu.

Tôi năm nay đã ở tuổi 70, là cán bộ hƣu trí. Ngẫm nghĩ là ngƣời lính xung

trận, ngƣời tạo dựng phong trào hay làm bất kỳ việc gì, miễn là góp phần nhỏ vào

phong trào cách mạng của Đảng, của dân tộc là hạnh phú lắm rồi.

Hạnh phúc là đấu tranh và dâng hiến! Vị tiền bối cách mạng nào dạy câu ấy

thật là chí lý!

Hiệp Hòa, tháng 12 năm 2002

N.V.B

175

SÔNG NƢỚC ĐỒNG NAI

VŨ QUỚI và NGUYỄN MINH HIỂN

Đồng Nai sông nước mênh mang

Hỡi người đồng đội tôi đang mong chờ.

Mong anh từng phút từng giây

Đạn về ta bắn sân bay tan tành!

Hạ tuần tháng 10 năm 1972, trong khi tôi đang cùng các đồng chí cán bộ Tiểu

đoàn 174 nghiên cứu phƣơng pháp hiệu chỉnh bắn cho pháo ĐKB ở khu sân bay

Rang Rang (Mã Đà) thì nhận đƣợc điện của anh Chín Tùng từ Bầu Hàm, huyện

Trảng Bom, nội dung: “Theo lệnh của Miền, các anh nhanh chóng tổ chức cho

174 đánh M1 (mật danh sân bay Biên Hòa) cơ sở x đạn đánh ngay, đây là một trận

đánh quan trọng cần nỗ lực vƣợt bực để hoàn thành nhiệm vụ, N, G theo quy ƣớc

của ngƣời chỉ huy”. Tôi và anh Chín (Nguyễn Thanh Tùng) thời gian công tác với

nhau chƣa lâu, nhƣng các trận đánh vừa qua chúng tôi rất tin và hiểu nhau, tôn

trọng quý mến nhau xuất phát từ công việc chung.

Khi nhận điện của anh, tôi đã hình dung đƣợc tầm quan trọng của trận đánh

sắp tới. Chỉ mấy từ: “Cần nỗ lực vƣợt bực” mà anh nhấn mạnh là chúng tôi đã

hiểu rằng: anh đã nắm đƣợc, hiện nay địch đang phong tỏa toàn bộ trận địa bắn

của ta vào sân bay của chúng.

Thật nan giải! Ngày N suy ra là ngày 22 tháng 10 năm 1972.

Nếu tình hình bình thƣờng thì với cơ số đạn đã có và thời gian quy định thì có

thể hoàn thành đƣợc. Nhƣng trong tình thế này, địch phong tỏa nhƣ vậy thì làm

sao đây? Bó tay ƣ? Không thể đƣợc.

Qua bàn bạc kỹ lƣỡng chúng tôi đi đến thống nhất là sử dụng lực lƣợng đặc

công nƣớc chuyển đạn theo đƣờng sông thì mới có thể hoàn thành nhiệm vụ trên

giao. Phƣơng án đƣợc chấp thuận, tôi giao nhiệm vụ cho anh Ba Lƣợng, Tham

mƣu phó của Đoàn, tổ chức cho đại đội 22 đặc công nƣớc vận chuyển đạn. Đồng

chí Đinh Xuân Nghiêm, Tiểu đoàn trƣởng và đồng chí Nguyễn Minh Hiển, Đại

đội trƣởng Đại đội 8, Tiểu đoàn 174 pháo nghiên cứu trận địa bắn. Trận địa này

ngay sát bên bờ sông Đồng Nai là nơi địch sơ hở, ta có thể lợi dụng đặt trận địa.

Cán bộ chiến sĩ đại đội 22, những con “cá kình” của biển Đông, trên sông

nƣớc Đồng Nai của chúng tôi vừa qua đã lập đƣợc nhiều chiến công. Mới đây nhất

nhƣ: ngày 10 tháng 9 năm 1972 đã đánh chìm hai tàu chở dầu ở cảng Long Bình

Tân. Giờ đây nhận nhiệm vụ vận chuyển đạn cho pháo bằng đƣờng sông, anh em

rất phấn khởi, bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị.

Bên bờ Sông Bé dƣới những lùm tre rũ bóng đôi bờ không khí thật nhộn nhịp.

Các pháo thủ, quân khí hối hả ghép phao chở đạn. Dƣới sông các chàng trai đại

đội 22 rẽ nƣớc ngƣợc xuôi ôn luyện kỹ thuật. Chặng đƣờng vận chuyển dài

176

khoảng 30 ki-lô-mét đƣờng sông. Từ bến Thuộc Nghĩa xuôi dòng Sông Bé đến

ngã ba Hiếu Liêm, nơi con Sông Bé gặp sông Đồng Nai, nơi dòng sông Đồng Nai

vào trận địa bắn dự kiến đặt ở cầu Rạch Gốc sát bờ bắc sông.

Trên tuyến đƣờng này anh em phải vƣợt qua các đồn bót địch đóng sát bờ

sông nhƣ: Đại An, Rạch Tôm, Rạch Lăng, Thiện Tân, Cây Khô... Trên mặt sông

thƣờng xuyên có tàu tuần tiễu của địch và trực thăng bay dọc bờ sông pha đèn soi

rọi sẵn sàng bắn phá những điểm chúng nghi ngờ. Chúng tôi sử dụng 12 đồng chí

đảm nhiệm chuyển 50 quả đạn H12.

Để đảm bảo hàng tới đích an toàn, ngoài việc vật lộn với sông nƣớc, từ Đại

An về ngƣời và hàng phải đi chìm dƣới nƣớc. Ngƣời nhiều lúc phải bơi ngầm nên

sức cản càng lớn, hàng càng nặng, tốn rất nhiều sức. Về mùa mƣa càng về khuya,

trời càng se lạnh, phải ngâm mình dƣới nƣớc suốt 10 tiếng liền, chịu cái lạnh thấu

xƣơng, nhƣng anh em vẫn quyết tâm kiên gan chịu đựng, kể cả việc xử lý tình

huống bất trắc nhƣ gặp địch...

Trong thời gian đạn đi đƣờng sông, thì trên bộ các trinh sát và pháo thủ do

đồng chí Nguyễn Minh Hiển chỉ huy cắt rừng đi về hƣớng trận địa. Từ cửa rừng ra

điểm hẹn đón đạn (cũng là trận địa bắn) rất trống trải, nhiều trảng trống, đồi trọc.

Địch thƣờng rải quân đóng chốt nhiều nơi. Tranh thủ trời còn sáng anh em quan

sát kỹ địa hình và nắm địch để đêm xuống hành quân tránh lạc hƣớng. Một vấn đề

không kém phần nguy hiểm là khi qua các trảng trống mà gặp phải bầy “te te” một

loài chim ban đêm khi nghe tiếng động chúng bay lên kêu inh ỏi, bọn địch ở bót

và các chốt nắm đƣợc quy luật cứ thế nã pháo, cối vô tội vạ vào khu vực có tiếng

chim kêu (vì chúng phán đoán là có lực lƣợng ta đi qua).

Tuy hết sức đề phòng, nhƣng trên đƣờng đi anh em cũng gặp phải bầy chim

quái ác này hai lần, mà mỗi lần đều “đƣợc” các loại pháo cối của địch không hẹn

mà “nghênh đón” ra trò. Tuy rằng, cánh lính chiến gặp những trận mƣa lửa nhƣ

thế chẳng phải là cá biệt.

Chặng đƣờng phải vƣợt qua nhiều trảng, đầy gai góc sình lầy, chân tay mặt

mũi, quần áo ai nấy đều rách bƣơm nhƣng vẫn không chùn bƣớc. Chúng tôi kiên

quyết đến điểm hẹn đúng thời gian quy định. Cây cầu sắt bắc qua Rạch Gốc trên

lộ 8 sát bờ sông Đồng Nai đã hiện ra trƣớc mắt chúng tôi. Anh em nhanh chóng

triển khai làm công tác chuẩn bị.

Một bộ phận cảnh giới, số còn lại đo đạc, dọn trận địa, một tổ ra tận mép

nƣớc bắt liên lạc với bộ phận tải đạn. Mới 23 giờ! Chúng tôi đến sớm hơn một

tiếng đồng hồ theo hợp đồng.

Đêm càng về khuya càng yên tĩnh. Hai bên triền sông, sóng vỗ ì oạp đều đều

nhƣ khúc hát ru đầy âm điệu trữ tình, nhƣng ai nấy đều chả còn lòng dạ nào để tận

hƣởng...

Thời gian thật nặng nề chậm chạp. Đã quá giờ hẹn 30 phút rồi 1 tiếng, mắt

chúng tôi ai nấy đều căng ra để quan sát. Trong bóng đêm lờ mờ chỉ có sóng và

ánh sao trời đuổi nhau trên mặt nƣớc dòng sông Đồng Nai nhƣ thách thức sự chờ

177

đợi của chúng tôi. Mọi ngƣời đều bồn chồn lo lắng, tín hiệu nhận nhau phát đi liên

tục mà chẳng thấy hồi âm. Cuối cùng tôi quyết định cử một tổ trinh sát đi ngƣợc

dòng về phía Lạc An nắm tình hình và bắt liên lạc với bộ phận tải đạn. Ba mƣơi

phút sau anh em quay lại, báo tin vui, đã gặp đƣợc anh em đang xuôi dòng về

điểm hẹn...

Từng tốp, từng tốp kéo theo những “kiện hàng” lần lƣợt cặp bờ. Những vòng

tay tiếp những vòng tay ôm chặt lấy nhau. Trong bóng đêm không nhìn rõ mặt

nhau, nhƣng nghe rõ tiếng lập cập của những hàm răng, ai nấy trào lên tình cảm

thƣơng yêu, mến phục. Chúng tôi không ai bảo ai đều tự động cởi áo khoác lên

ngƣời đồng đội mặc đỡ qua cơn rét. Từng lọ dầu nóng, từng bánh lƣơng khô

chuyền tay nhau, ấm lòng đồng đội.

Ngâm mình dƣới nƣớc hơn 10 tiếng đồng hồ, vƣợt qua bao đồn bốt địch

nhƣng anh em vẫn giữ đƣợc bí mật. Một vấn đề không kém phần gay go là vật lộn

với các luồng nƣớc xoáy phải tốn nhiều sức. Càng về hạ lƣu do ảnh hƣởng của

thủy triều nƣớc sông nhƣ chững lại, có đoạn chảy ngƣợc dòng, tốc độ di chuyển

càng chậm, nên sai hẹn hơn một tiếng đồng hồ theo quy định.

Cảm phục tinh thần của đồng đội, và cũng là để thi đua với các đồng chí, anh

em chúng tôi đều nhanh tay chuyển đạn lên bờ theo tuần tự, thao tác bắn. Sau một

tiếng đồng hồ chuẩn bị, những dàn hỏa tiễn H12 đã sẵn sàng phát hoả nhƣ đã nắm

phần chiến thắng.

03 giờ sáng ngày 22 tháng 10 năm 1972, từng loạt đạn liên tiếp dội xuống sân

bay Biên Hòa.

Phía sau chúng tôi các chốt địch hoàn toàn bất ngờ, hoảng hốt, pháo sáng,

súng các cỡ bắn loạn xạ. Các trận địa pháo ở Đại An, Hốc Bà Thức, chi khu Tân

Uyên nhằm vào những chỗ nghi ngờ bắn “ liên hồi kỳ trận” nhƣng đạn của chúng

cách chúng tôi khá xa. Các tốp trực thăng vũ trang của địch soi đèn và bắn pháo

loạn xạ vào các khu vực trận địa mà ta sử dụng các lần trƣớc đây. Thật nực cƣời

cho sự phán đoán chẳng chút thông minh nào của những tên chỉ huy địch.

Chúng không ngờ rằng: anh em chúng tôi vẫn ung dung rời khỏi trận địa

ngay trƣớc “mũi” mà chúng không hay.

Kết quả trận đánh: 22 máy bay các loại bị phá hủy. Đặc biệt là thực hiện

đƣợc quyết tâm đánh phối hợp các chiến trƣờng và liên tục đánh vào mục tiêu

quan trọng (tấn công căn cứ, hậu cứ, diệt hàng trăm tên địch có 56 tên Mỹ, đốt

cháy một kho bom Na pan, một kho xăng, một kho phụ tùng máy bay...). Mờ sáng

ngày 22 tháng 10, toàn bộ đội hình về đến bìa rừng an toàn.

Trên đƣờng về hậu cứ chúng tôi phải đi qua căn cứ du kích liên xã Mỹ Lộc,

Thƣờng Lang, Lạc An. Đã thành thông lệ mỗi lần đi làm nhiệm vụ, trở về khi qua

căn cứ, các bác, các anh chị em du kích cũng “bắt” dừng chân để trò chuyện (đơn

vị đã sáu năm liền bám trụ địa bàn này). Nhƣng lần này do trang phục của anh em

quá lôi thôi nên có ý định “dong” luôn về hậu cứ. Phát hiện ý định của chúng tôi,

chú Năm Lửa ngƣời cao tuổi nhất gọi lại và nói lớn:

178

- Cho sắp nhỏ nghỉ chớ! Hồi hôm qua mới đột ấp có trà, thuốc dành cho tụi

bay đây, định đi luôn hả? Đâu đƣợc?

Tiếp sau câu nói của chú Năm Lửa, những tiếng cƣời khúc khích của mấy

anh em bên kia góc lán. Nghe tiếng cƣời anh Hai Luồng xã đội trƣởng Thƣờng

Lang, nhìn chúng tôi và bằng một giọng ngạc nhiên, anh nói:

- Ủa? Sao kỳ vậy? Mất hết đồ rồi hả? Ăn bận gì kỳ cục vậy nè, màng ơi...

Chả là do sơ suất chƣa tính đến tình huống này, không mang theo quần áo

cho anh em tải đạn để khi lên bờ có đồ bận. Thành ra pháo thủ cởi trần nhƣờng áo

cho anh am đặc công nƣớc mặc. Nhƣng khi không có quần nên trở thành “táo

quân” tất cả. Nhƣ đã hiểu ra “lý do” trục trặc, chú Năm cƣời rất xởi lởi và xua tay

nói tiếp:

- Không sao, không sao hết, sáp vô tụi bây, vô cả đây. Có trà thuốc, có cả

đƣờng tán cầm tay nữa chớ.

Quay sang góc lán chú nới tiếp nhƣ ra lệnh:

- Cƣời gì cƣời hoài mấy nhỏ? Lẹ lên? Cƣời hoài vậy, Tất cả lại cùng cƣời

râm ran hơn.

Sau tiệc “khao quân” rất lính, phần lớn anh em hành quân về cứ. Một số cán

bộ và trinh sát ở lại để trao đổi tình hình có liên quan. Câu chuyện lại tiếp tục.

Vừa mang nƣớc lên cho chúng tôi, Đông - cô con gái út chú Năm Quyết cán bộ

mặt trận huyện Tân Uyên (sau giải phóng cô làm Huyện ủy viên huyện Tân Uyên)

cƣời rất hồn nhiên và hỏi:

- Anh Hai ơi! Đơn vị anh kỳ này có nhiều anh mới quá? Tôi hỏi lại:

- Sao em biết? - Thì má Năm (má của Đông) trả lời thay.

- Hết thảy tụi bay có lạ gì? Nhƣng mấy đứa đó (ý nói số anh em đặc công

nƣớc) má mỉm cƣời... thì... “lạ hoắc”. Chúng tôi lại cƣời. Anh Tám Năm xã đội

trƣởng Mỹ Lộc nói tiếp:

- Mấy anh lần này hay thiệt. Tụi nó (ý nói địch) chốt hết mọi chỗ kể cả đƣờng

tải đạn. Vậy mà các anh vẫn “thụt thụt” dữ vậy (ý nói bắn đạn hỏa tiễn) tụi nó ớn

lắm đó.

Để đảm bảo bí mật chúng tôi đành lảng sang chuyện khác. Thì may quá chú

Năm nói nhƣ gỡ bí cho chúng tôi:

- Thôi đừng hỏi vòng vo nữa để tụi nó uống trà. Miễn sao cứ “dọng” nhiều

vào phi trƣờng là đã rồi - chú lại giục: uống đi tụi bay!

Nhấp ngụm trà thơm thấm đƣợm tình nghĩa quân dân, không khí thật đầm ấm,

tôi thầm nghĩ: bà con cô bác luôn dõi theo bƣớc chân của chúng tôi trên chặng

đƣờng chiến đấu, với tình cảm rất mộc mạc, chân thành.

Chia tay các bác, các anh chị em ra về, lòng chúng tôi thấy lâng lâng.

179

Mãi đến bây giờ, mỗi chúng tôi vẫn không quên đƣợc kỷ niệm về trận đánh.

Nhất là tình đoàn kết hợp đồng, tình thƣơng yêu đồng đội. Tinh thần tất cả cho

thắng lợi vƣợt lên khó khăn gian khổ của các đồng chí đặc công nƣớc, tải đạn

phục vụ trận đánh. Đặc biệt là tình cảm của bà con cô bác Chiến khu Đ dành cho

chúng tôi.

Đồng chí Đỗ Văn Ninh, Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân, một cán bộ

chỉ huy của Đoàn, anh em thƣờng gọi quen bằng cái tên thân mật “Đỗ Phủ Ninh”

đã cảm xúc ghi lại những vần thơ sau đây nói lên tình cảm của mình đối với các

chiến sĩ mến yêu:

Vạc đi ăn đêm anh đi tìm giặc

Sương đêm lạnh ngắt tấm da trần.

Bao lần ra quân đầu trần, chân đất

Phút thầm lặng để cho đời ca hát

Đâu phải vĩ nhân, đâu phải thánh thần

Áo giáp anh đây tấm da trần

Lọt lòng mẹ đã bao bọc sẵn

Ánh trái tim hồng dòng máu Việt Nam.

Khi hồi tƣởng để ghi lại những dòng này mà trƣớc mắt tôi nhƣ hiện về cảnh

sông nƣớc Đồng Nai mênh mang, đầy thơ mộng và chan chứa bao tình.

Thanh Hóa, mùa đông năm 2002

VQ – MH

180

TƢ THẾ ĐẶC CÔNG

VĂN DĨ - VŨ CHIẾN1

Tháng 4 năm 1975, đội hình Trung đoàn 113 ở khu vực Chiến khu Đ bắc sân

bay Biên Hòa. Tiểu đoàn pháo 174 đảm nhiệm bắn phá sân bay Biên Hòa, khống

chế đƣờng băng không cho máy bay địch lên xuống. Trên các mặt trận ta đang

thắng lớn. Phía đông bắc Sài Gòn mặt trận Xuân Lộc là một điểm nóng. Đƣợc

lệnh của trên bàn giao nhiệm vụ kiềm chế sân bay cho đơn vị bạn, chuẩn bị nhận

nhiệm vụ mới, cán bộ chiến sĩ đều náo nức chờ đón nhiệm vụ mới. Trong buổi

giao nhiệm vụ cho các đơn vị, đồng chí Nguyễn Thành Lộc, Trung đoàn trƣởng

giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 9 lật cánh sang hƣớng đông sân bay. Tiếp sau là

nhiệm vụ của chúng tôi anh nói:

- Đây là nhiệm vụ mà Tiểu đoàn 23 (Đặc công nƣớc) và Tiểu đoàn 174

(pháo) phải làm bằng đƣợc với bất cứ giá nào. Đó là: đánh chiếm và chốt giữ cầu

Mới (Hóa An) và cầu Ghềnh bảo đảm cho đại quân ta cơ động. Đây là trận đánh

có ý nghĩa lịch sử. Với giọng rất truyền cảm, sâu lắng anh nói tiếp:

- Trƣớc đây khi giao nhiệm vụ cho các đồng chí phá cầu không hoàn thành

nhiệm vụ thì bị kỷ luật. Nhƣng giờ đây không phá, mà phải giữ bằng đƣợc! Nếu

không sẽ ảnh hƣởng lớn. Và đến đây giọng anh trầm xuống gần nhƣ tâm sự với

chính mình, anh nói:

- Là những ngƣời lính không gì khổ tâm bằng khi không hoàn thành nhiệm

vụ, và nhất là nhiệm vụ quan trọng trong thời điểm lịch sử. Do đó chúng ta phải

tập trung mọi khả năng để hoàn thành bằng đƣợc!

Chia tay nhau, trên đƣờng về cứ anh Dĩ nói vui với tôi nhƣ sau:

- Bọn mình đánh ở dƣới nƣớc nay lên cạn, còn các bạn sở trƣờng đánh từ xa,

nay đánh thiệt gần. Dù khó khăn, ác liệt thế nào chúng mình cũng không ngán. Cứ

xáp vô miễn là “chí cốt” phải không? Chúng tôi cƣời vang và xiết chặt tay nhau.

Về tới đơn vị sau khi hội ý cấp ủy và Ban Chỉ huy xong, chúng tôi quán triệt

nhiệm vụ cho anh em. Một mặt tiến hành giao số súng ĐKB (hỏa tiễn 122 mm) về

kho quân giới, đồng thời lĩnh vũ khí mới gồm: ĐKZ 82 mm, cối 82 mm, cối 60,

súng chống tăng B40, B41, trọng liên 12,7 mm, trung liên, thủ pháo, lựu đạn...

Đi đôi với việc huấn luyện cấp tốc để anh em nắm vững kỹ thuật sử dụng loại

vũ khí trang bị mới, chúng tôi tranh thủ tổ chức sinh hoạt chính trị, quán triệt

nhiệm vụ mới vì từ trƣớc đến nay đơn vị quen sử dụng pháo ĐKB bắn ở cự ly xa

tuy gay go ác liệt, nhƣng lần này cùng đơn vị bạn đánh chiếm và chốt giữ cầu, mặt

đối mặt với kẻ thù anh em không khỏi băn khoăn.

1 Văn Dĩ - nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn 23, Vũ Chiến - đại tá nghỉ hưu.

181

Vấn đề đặt ra là phải động viên giải thích để mọi ngƣời đều thông suốt. Qua

bàn bạc dân chủ anh em đều thống nhất: dù phải hy sinh cả tính mạng nhƣng anh

em chỉ bàn cách khắc phục, không có ý kiến bàn lùi.

Đợt huấn luyện 5 ngày đạt kết quả tốt, ai nấy đã sử dụng thành thục các loại

trang bị mới. Sẵn sàng bƣớc vào trận đánh.

Trận đánh trƣớc buổi bình minh của ngày toàn thắng

Ngày 25 tháng 4 năm 1975, chúng tôi rời hậu cứ gần trảng Nhà Nai (Chiến

khu Đ) bắc thị trấn Tân Uyên hành quân ra mặt trận. Đêm 26 tháng 4, vƣợt lộ 16

tiếp tục tiến về hƣớng mục tiêu.

Tiếng súng của các mặt trận dồn dập dội về, nhƣ giục giã chúng tôi bƣớc gấp.

(Sau này đƣợc biết là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử bắt đầu). Đến địa điểm quy

định đã gần nửa đêm, gió từ sông Đồng Nai thổi về mát rƣợi, bên kia sông là

Thành phố Biên Hòa có căn cứ của quân đoàn 3 và quân khu 3 ngụy và căn cứ

không quân chiến lƣợc Biên Hòa, ánh điện vẫn sáng rực...

Toàn bộ đội hình dừng lại ở khu vực phía đông ấp Tân Bản (nay thuộc

phƣờng Bửu Hòa), Chỉ huy sở trận đánh cũng ở đây. Cách hai cầu khoảng một cây

số. Đơn vị tôi bố trí ven ấp gần ngã ba cầu Hang. Theo phƣơng án tác chiến,

nhiệm vụ cụ thể các đơn vị nhƣ sau:

- Đại đội 1 Tiểu đoàn 23 và Đại đội 14 Tiểu đoàn 174 đánh chiếm cầu Ghềnh.

- Đại đội 3 Tiểu đoàn 23 và Đại đội 13 Tiểu đoàn 174 đánh chiếm cầu Hóa

An.

- Các đơn vị còn lại bố trí gần Sở Chỉ huy làm lực lƣợng dự bị, đồng thời có

nhiệm vụ ngăn chặn địch từ hƣớng Thủ Đức, Dĩ An đánh lên.

- Hỏa lực chi viện trực tiếp cho các đơn vị đánh chiếm hai cầu bố trí gần cầu

Hang.

- Đại đội 8 bố trí phía sau sử dụng bốn khẩu ĐKB chi viện cho các lực lƣợng

phía trƣớc.

Về vị trí và tầm quan trọng của hai cầu Ghềnh và cầu Hóa An mà chúng tôi

có nhiệm vụ chiếm giữ.

- Cầu Ghềnh là bằng sắt có từ hồi Pháp thuộc, bắc qua sông Đồng Nai ở đầu

Cù Lao Phố, cầu tuy hẹp nhƣng vẫn dùng cho xe lửa và xe hơi qua lại.

- Cầu Hóa An (cầu Mới) dài 800 mét ở phía thƣợng nguồn cách cầu Ghềnh 1

ki-lô-mét, là cầu bê tông kiên cố. Hồi tháng 10 năm 1974 bị một tổ của tiểu đoàn

đặc công 23 đánh sập hai nhịp, địch đã sửa lại, xe vận tải có thể qua lại đƣợc.

Đánh chiếm, chốt giữ hai cầu này hết sức quan trọng:

Một là, không cho địch rút về co cụm ở Sài Gòn.

Hai là, bảo đảm đƣờng cơ động cho các binh đoàn chủ lực ta tiến vào giải

phóng Sài Gòn.

182

Sau khi nghiên cứu địa hình, chúng tôi triển khai cho đơn vị đào công sự

chiến đấu.

Đêm đã khuya bà con trong xóm vẫn chƣa ngủ. Giữa lúc này một thanh niên

đến gặp chúng tôi cho biết tên anh là Tân, anh nói:

- Xã này đã thành lập Ủy ban khởi nghĩa do cô Hai (tức chị Hai Não) và chị

Tám (Tám Huệ) lãnh đạo phái em đến để liên lạc với đằng mình, cần gì các anh

cứ nói. Các anh về tụi em mừng quá trời.

- Thế thì hay quá - tôi nói: Anh đến thật đúng lúc, đề nghị anh cho biết tình

hình ở khu vực này. Sau khi nói một số tình hình, anh chỉ tay về phía trƣớc mặt

nói tiếp:

- Hồi hôm ở Xóm Chùa cách đây khoảng 1.000 mét có lính và cả xe tăng mới

đến, nhƣng số lƣợng bao nhiêu thì chƣa rõ. Tôi nghĩ sơ bộ nhƣ vậy là quý lắm rồi.

Thấy bộ đội đào công sự mấy bác trong xóm đem trà nƣớc cho anh em uống, một

bác nhỏ nhẹ nói:

- Nói thiệt với mấy chú, tụi tôi thấy các chú đến mừng lắm. Nhƣng thế nào

cũng đánh nhau to, mà đánh nhau thì... - bác ngừng lời, tôi nhẹ nhàng nói:

- Có gì bác cứ nói, đừng ngại. -Một lát sau bác tiếp lời:

- Nói các chú đừng buồn, ý bà con muốn giao lại nhà cửa vƣờn tƣợc cho các

chú, để đƣa sắp nhỏ lánh xa làn tên mũi đạn.

- Bà con định đi đâu? - Tôi hỏi.

- Vô trỏng chứ còn đi đâu nữa mấy chú!

- Tức là vô Biên Hòa hay xuống Sài Gòn?

Các bác không ai trả lời mà chỉ thở dài... tôi lại nói:

- Không ổn rồi! Cô bác ơi! Những chỗ ấy bộ đội mình nay mai cũng tiến về

đó cả thôi. Cuộc trao đổi tạm ngƣng vì tôi phải nhận lệnh của Ban Chỉ huy trận

đánh là khẩn trƣơng hoàn thành mọi công tác chuẩn bị trƣớc 4 giờ sáng ngày 27

tháng 4. Sau khi phổ biến mệnh lệnh trên cho đơn vị chúng tôi trao đổi với nhau:

trƣớc tình hình nhân dân lo lắng nên cử cán bộ cùng anh em du kích đến từng nhà

động viên bà con bình tĩnh ở lại bám đất, nổi dậy làm chủ xóm ấp. Cần có kế

hoạch sơ tán số ngƣời già yếu và các cháu nhỏ về phía sau, số còn lại thì đào hầm

ngay trong nhà, ngoài vƣờn để ẩn nấp.

Khi đã hiểu ra, bà con cô bác không những tự đào hầm cho mình mà còn giúp

đỡ anh em làm công sự chiến đấu. Có nhiều gia đình tháo cả cánh cửa, ván nằm

đƣa cho chúng tôi làm nắp công sự chiến đấu.

Tuy đất rắn nhƣng với nỗ lực của anh em đƣợc bà con giúp đỡ, 4 giờ sáng

ngày 27 tháng 4 chúng tôi đã hoàn thành mọi công việc chuẩn bị chiến đấu. Đúng

4 giờ 30 phút trận chiến bắt đầu.

183

Tại cầu Ghềnh một mũi của ta bí mật tiếp cận ém sát mục tiêu, bất ngờ tập

kích vào lực lƣợng địch canh giữ cầu. Bọn chúng trở tay không kịp hốt hoảng bỏ

chạy, ta chiếm cầu tổ chức lực lƣợng chốt giữ.

Tại cầu Hóa An khi ta tiến quân, gặp địch chốt tại ngã tƣ Tân Mỹ cách cầu

500 mét, buộc ta phải nổ súng đánh thốc lên chiếm cầu.

Chỉ trong vòng 30 phút, chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm hai

cầu, về phía ta không ai thƣơng vong.

Nhƣng nhiệm vụ tiếp sau là giữ cầu, mới thực sự diễn ra vô cùng quyết liệt. 8

giờ 30 phút ngày 27 tháng 4, địch tổ chức phản kích chiếm lại cầu.

Mở đầu pháo của chúng từ Thủ Đức bắn lên, từ Long Bình, Biên Hòa bắn tới,

Châu Thới bắn qua. Đứng ở Sở Chỉ huy quan sát thấy từng cụm khói bốc cao, lẫn

trong tiếng nổ vang rền. Tuy đã quen với cảnh tƣợng này nhƣng tim tôi nhƣ thắt

lại với nỗi lo: liệu anh em mình có sao không? Có trụ vững không?

Nhƣng cái gì thế kia? Những tiếng nổ đanh dồn dập của đạn B40, B41, ĐKZ

82, xen lẫn những tràng tiểu liên, trung liên, trọng liên 12,7 mm của hai cánh quân

ta, đánh thẳng vào đội hình của địch, chặn đứng bọn biệt động quân và lính dù

ngụy có xe tăng yểm trợ phản kích hòng chiếm lại cầu. Bị giáng trả quyết liệt, bọn

phía trƣớc không tiến lên đƣợc, đội hình phía sau ùn lại. Tận dụng thời cơ, trận địa

cối 82 của chúng tôi bắn cấp tập vào đội hình địch, gây cho chúng tổn thất nặng nề

một số chết, một số bị thƣơng, số còn lại chạy nhốn nháo. Nhìn cảnh tƣợng ấy có

đồng chí bỗng thốt lên:

Đánh cừ lắm! Rất bài bản. Nhƣ để trả lời đồng chí ấy, tôi nói: đúng bài bản

đấy! Nhƣng bọn chúng lại xông lên bây giờ đấy mà, chuẩn bị đi thì vừa.

Quả đúng vậy! Tiếng súng lại rộ lên từ phía hai cầu xen lẫn tiếng súng của ta

và địch. Còn nghe rõ tiếng động cơ xe tăng địch gầm rú, không gian nhƣ vỡ ra,

đợt phản kích thứ 2 của địch lại bắt đầu. Cứ nhƣ vậy, suốt ngày 27 tháng 4 qua

bốn đợt dùng xung lực, dƣới sự yểm trợ tối đa của pháo và xe tăng, tấn công quyết

liệt nhằm đánh bật ta ra khỏi cầu, nhƣng đều thất bại.

Ngày 28 tháng 4, mới mờ sáng các trận địa pháo của địch bắn liên tiếp vào

các chốt của ta. Sau đó năm trực thăng vũ trang của chúng từ hƣớng sân bay Tân

Sơn Nhất tới bắn hỏa tiễn và đạn 12,8 mm xuống trận địa của ta, mở đầu cho các

đợt tấn công của bộ binh kết hợp với xe tăng nhằm chiếm lại cầu.

Hồi 10 giờ sáng cùng lúc với việc đánh chiếm hai cầu, địch còn dùng một

tiểu đoàn đánh vào Chỉ huy sở của ta.

Đƣợc du kích phối hợp, nhân dân lo cơm nƣớc, cứu chữa chăm sóc thƣơng

binh, lực lƣợng ta bám trụ kiên cƣờng, giáng trả địch quyết liệt tiêu diệt nhiều tên,

thu 20 súng buộc chúng phải tháo chạy.

Ở hƣớng cầu Ghềnh hôm đó do lực lƣợng không cân sức, địch tạm thời

chiếm đƣợc cầu. Nhƣng ngay đêm hôm đó (28-4) ta tổ chức lực lƣợng phản kích

chiếm lại cầu.

184

Suốt đêm hôm đó tất cả các bộ phận lại củng cố công sự, chuẩn bị vũ khí, giải

quyết hậu quả, sẵn sàng đánh trả các đợt tiến công của địch. Ngày 29 tháng 4, sau

nhiều lần dùng máy bay L19 trinh sát thăm dò lực lƣợng ta, vẫn theo nếp cũ, pháo

địch lại bắn phá điên cuồng vào các chốt của ta: lần này chúng sử dụng hai tiểu

đoàn bộ binh kết hợp với xe tăng đánh vào hai cầu và chốt của ta ở cầu Hang.

Hƣớng cầu Ghềnh Đại đội 1 Tiểu đoàn 23 và Đại đội pháo 174 chiếm lĩnh địa

hình có lợi, đánh lui nhiều đợt tiến công của địch diệt hàng trăm tên, bắn cháy

năm xe tăng. Ba đồng chí trong Ban Chỉ huy đại đội 1 trong một lần tiến công của

địch bị chúng bao vây chia cắt đội hình, không liên lạc đƣợc với anh em. Các

đồng chí không nao núng, chiến đấu rất kiên cƣờng, mƣu trí, vừa nghi binh đánh

lừa địch, vừa chiến đấu diệt nhiều tên, bằng mọi thứ vũ khí có trong tay nhằm kéo

dài cuộc chiến đấu không cân sức với hàng trăm tên lính ngụy. Các đồng chí đã

chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và anh dũng hy sinh tại trận địa.

Tại cầu Hóa An, các chiến sĩ ta ngoan cƣờng giành đi giật lại từng tấc đất với

địch để giữ cầu. Ngoài lực lƣợng địch đánh chiếm hai cầu, chúng còn dùng lực

lƣợng mạnh nhằm đánh bật chốt ở cầu Hang do đại đội pháo chiếm giữ.

Đây là một vị trí quan trọng vì không những chi viện trực tiếp cho lực lƣợng

chốt giữ cầu, mà còn là một vị trí “yết hầu” nhằm án ngữ không cho địch rút chạy

về Sài Gòn, đồng thời ngăn chặn các lực lƣợng của chúng từ Thủ Đức, Dĩ An lên

chi viện cho lực lƣợng chúng đánh chiếm cầu.

Trời vừa mờ sáng (ngày 29 tháng 4 năm 1975) tổ cảnh giới báo cáo: bộ binh

địch từ hƣớng cầu Hóa An theo trục lộ tiến về phía ta. Khi tốp đi đầu cách trận địa

ta 100 mét rồi 50 mét, lập tức các cỡ súng AK, trung liên, B40 nổ đồng loạt. Xác

địch liên tiếp đổ xuống mặt lộ và rải rác ở các thửa ruộng ven lộ, số còn lại chạy

tán loạn. Bị một đòn phủ đầu choáng váng, chúng không dám tiến lên nữa. Lợi

dụng các bờ ruộng, mƣơng cạn ẩn nấp, gọi pháo bắn vào chốt của ta.

Loạt pháo cuối cùng của chúng vừa dứt, trên trục lộ xuất hiện sáu xe tăng nối

đuôi nhau chạy về hƣớng chúng tôi. Tiếng xích sắt và động cơ ầm ầm, mặt đất

nhƣ rung chuyển. Chiếc đi đầu vừa chạy vừa bắn xối xả vào phía chốt. Lợi dụng

các thửa ruộng khô hai bên lộ, chúng triển khai đội hình cách trận địa ta khoảng

300 mét.

Khẩu đội ĐKZ 82 của đồng chí Nghị ở gần chiếc đi đầu nhất, pháo thủ số 1 -

Lã Văn Điều đề nghị khẩu đội trƣởng cho bắn, nhƣng đồng chí Nghị nhắc Điều cứ

để thật gần mới bắn. Khi khối thép di động còn cách trận địa 100 mét thì khẩu

ĐKZ chồm lên kèm theo hai tiếng nổ hầu nhƣ cùng một lúc, chiếc M41 trúng đạn

bốc cháy. Chiếc thứ hai của chúng vƣợt lên thì cũng chịu chung số phận. Bốn

chiếc còn lại bắn xối xả về phía ta và tiếp tục xông lên. Đồng chí Nghị hạ lệnh nạp

đạn tiếp. Nhƣng lúc này chân pháo bị mảnh đạn của địch tiện gãy. Khẩu đội

trƣởng hy sinh, một số đồng chí khác bị thƣơng, đồng chí Điều cũng bị thƣơng

vào trán máu chảy tràn xuống sống mũi và một bên mắt chƣa kịp băng bó. Chúng

tôi định cho khẩu đội ngƣng bắn lui về phía sau!

185

Nhƣng thật bất ngờ! Đồng chí Điều bật khỏi công sự, đứng thẳng tƣ thế hiên

ngang với nòng pháo còn nóng bỏng trên vai, động tác chính xác, dứt khoát giật

cò. Chiếc xe tăng thứ 3 của địch bốc cháy, những chiếc còn lại đứng tại chỗ không

dám tiến lên chỉ dùng hỏa lực bắn xối xả vào chốt của ta. Điều nạp tiếp quả đạn

thứ 4. Nhƣng... chƣa kịp giật cò, thì đạn của địch trúng nòng pháo của Điều, quả

đạn trong nòng nổ! Đồng chí Điều hy sinh trong tƣ thế ngẩng cao đầu “Nhắm

thẳng quân thù bắn!”. Noi gƣơng Điều các khẩu khác tới tấp nã đạn vào quân địch.

Những chiếc xe tăng còn lại quay đầu bỏ chạy, bộ binh của chúng hoảng sợ, bám

theo xe tăng chạy thục mạng về hƣớng xóm Chùa.

Ở một hƣớng khác, Nguyễn Tiến Huân trinh sát viên của tiểu đoàn tăng

cƣờng cho đơn vị, khi xạ thủ B41 bị thƣơng, Huân xin thay thế, đã bắn cháy hai xe

tăng địch. Khi bị thƣơng vẫn không rời trận địa đã cùng đại đội đánh lui nhiều đợt

tiến công của địch diệt nhiều tên.

Khoảng 12 giờ trƣa địch chuyển hƣớng tiến công từ chính diện sang tiến

công cạnh sƣờn, chúng sử dụng chín xe tăng kết hợp với bộ binh tiến công phía

sƣờn trái chúng tôi.

Xe tăng của chúng chạy băng băng trên các thửa ruộng tiến lên chiếm lĩnh

dãy đồi cao cách chúng tôi 800 mét (nay là khu khai thác đá) dùng pháo trên xe

bắn xối xả vào đội hình của ta. Hƣớng chính diện chúng dùng xe kéo hai khẩu

pháo 105 mm đặt ngay trên lộ bắn thẳng vào chốt của chúng tôi. Trận địa cối

106,7 mm trên núi Châu Thới cũng bắn dồn dập vào đội hình phía sau và trận địa

cối 82 mm của ta. Đợt tập kích hỏa lực của chúng làm sập một số công sự, một số

đồng chí ta hy sinh và bị thƣơng. Trƣớc tình hình đó chúng tôi hội ý cán bộ hạ

quyết tâm: bất luận tình huống nào cũng phải giữ vững trận địa, với khẩu hiệu

hành động là: “Còn ngƣời còn trận địa”. Một mặt điều chỉnh binh hỏa lực, củng cố

công sự, bố trí đội hình hợp lý. Mặt khác cán bộ đi đến từng tổ chiến đấu động

viên anh em, củng cố quyết tâm... Qua mạng thông tin báo cáo tình hình lên cấp

trên và xin chi viện hỏa lực.

Từ Sở Chỉ huy, đồng chí Đinh Xuân Nghiêm Tham mƣu trƣởng Trung đoàn

động viên chúng tôi phải giữ đƣợc trận địa bằng mọi giá. Trung đoàn sẽ chi viện

cho các đồng chí, cần hợp đồng chặt chẽ với đại đội 8 quan sát hiệu chỉnh bắn cho

tốt, sau cùng anh thông báo:

- Đại quân ta đã tiến gần tới chỗ các đồng chí rồi đấy! Thông báo cho anh em.

Cần giữ vững quyết tâm. Chúc các đồng chí thắng lợi!

Chúng tôi phổ biến ngay lệnh của Trung đoàn và tin đại quân ta đang đến.

Anh em rất phấn khởi nhƣ đƣợc tiếp thêm sức mạnh.

Sau khi hiệu chỉnh chính xác đạn bắn thử, thì từ trận địa phía sau, từng loạt,

từng loạt hỏa tiễn ĐKB của đại đội 8 bắn cấp tập vào cụm bộ binh và xe tăng, trận

địa cối của địch trên núi Châu Thới. Phối hợp với trận địa ĐKB, trận địa cối 82

của chúng tôi tới tấp nhả đạn vào hai khẩu pháo của địch đặt trên lộ. Đạn pháo và

cối của ta trùm lên các mục tiêu của địch phá hủy một khẩu pháo 105, trận địa cối

186

trên núi Châu Thới phải câm họng, số còn lại phải bỏ chạy. Khi loạt đạn cuối cùng

của ta vừa dứt, bộ binh và xe tăng địch chạy nhốn nháo.

Từ phía Tân Uyên các cỡ súng nổ dồn dập (sau này đƣợc biết là cánh quân

Quân đoàn 1 của ta đang đánh địch ở hƣớng đó).

Đội hình của địch lúc này càng nhốn nháo, cuối cùng chúng phải tháo chạy

bỏ dở cuộc tiến công.

Mặt trời đã khuất sau rặng núi phía xa, những tia nắng cuối cùng tắt hẳn.

Không gian nhƣ dịu lại khi màn đêm buông xuống, chúng tôi sơ bộ tổng hợp tình

hình: trong ngày đơn vị đã đánh lui năm đợt phản kích của địch, diệt hàng trăm

tên; bắn cháy bảy xe tăng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhƣng nhiệm vụ tiếp

theo vẫn còn phải cố gắng nhiều. Chúng tôi lại bắt tay vào công việc chuẩn bị cho

ngày mai...?

Đến đây chúng tôi muốn nói về tấm lòng của nhân dân đối với đơn vị qua

những ngày chiến đấu. Trong lúc anh em du kích phối hợp chiến đấu, thì một số

bà con lo cơm nƣớc cho chúng tôi.

Đối với ngƣời lính trong công tác và chiến đấu cảnh đói cơm khát nƣớc là

chuyện thƣờng. Nhƣng hoàn cảnh của chúng tôi lúc bấy giờ thật vô cùng khó khăn.

Thời tiết vào cuối mùa khô, mặt trời nhƣ đổ lửa phơi mình dƣới cái nắng nhƣ

nung, cộng thêm khói lửa mịt mù của mƣa bom bão đạn. Không khí càng bị nung

nóng thêm, ngột ngạt vô cùng. Áo quần ai nấy đều bê bết đẫm mồ hôi, khói bụi -

mặt mũi xạm đen, môi nứt nẻ, cổ họng rát bỏng vì khát! Khát đến cực độ thì bà

con cô bác bất chấp nguy hiểm, đem tới tận chiến hào cho chúng tôi những bình

trà, ca nƣớc. Lúc này quý giá biết chừng nào!

Trên các khu vực xảy ra chiến sự, bom pháo địch bắn bừa bãi bất chấp khu

dân cƣ, mà nhiều nhất là ở khu chợ Đồn, Tân Bản nhiều nhà cửa bị sập, bị cháy. Ở

Tân Bửu chiều 29 tháng 4, pháo địch bắn trúng nhà của các bác Sáu Tây, Hai Căn,

Chín Thăm, lửa bốc cháy ngùn ngụt, chúng tôi điều động một số anh em đi cứu

chữa tài sản cho dân, nhƣng bà con ngăn lại và nói:

- Trƣớc sau gì thì nhà cũng cháy rồi, may mà còn ngƣời. Các chú cứ lo đánh

tụi nó đi (ý nói địch) nay mai yên bình rồi làm lại mấy hồi.

Tấm lòng của nhân dân đối với cách mạng, với các chiến sĩ thân yêu thật quý

giá biết nhƣờng nào. Việc chăm sóc thƣơng binh, tẩn liệm, mai táng tử sĩ đƣợc các

bác Tƣ Minh, Hai Sớt, Năm Đƣợc, Tƣ Nhị và bà con cô bác rất tận tình.

Cô bác chăm sóc thƣơng binh, tẩn liệm mai táng tử sĩ mà nƣớc mắt lƣng

tròng, nhiều ngƣời khóc ròng, trƣớc tình cảm đó chúng tôi vô cùng xúc động. Tình

cảm thân thƣơng trìu mến mà bà con cô bác giành cho chúng tôi những ngƣời

đang sống cũng nhƣ ngƣời đã khuất, mãi mãi in sâu vào tâm trí chúng tôi.

Trên 60 cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn đã ngã xuống bên bờ Sông Phố và

ven sông Đồng Nai trƣớc ngày toàn thắng, đã đƣợc nhân dân mai táng chu đáo, và

đã trang trọng ghi tên các anh vào danh sách liệt sĩ của địa phƣơng mình.

187

Hàng năm cứ đến dịp kỷ niệm chiến thắng 30 tháng 4 và 27 tháng 7, cấp ủy

và chính quyền địa phƣơng đều gởi thƣ thăm hỏi gia đình các liệt sĩ.

Nhân đây cũng xin nói thêm một kỷ niệm về các đồng chí lãnh đạo địa

phƣơng đối với đơn vị trong những ngày này.

Chiều 1 tháng 5 năm 1975, sau khi nắm tình hình giải quyết một số công việc

cho các địa phƣơng ở hƣớng tây, chúng tôi đi trên chiếc xe Jeep chiếm lợi phẩm

để qua căn cứ Hốc Bà Thức (đông thành phố) do Tiểu đoàn 9 chiếm giữ.

Xe chúng tôi đến cầu Ghềnh thì chốt cầu gồm bốn đồng chí còn lại của Đại

đội 1 Tiểu đoàn 23 đón chúng tôi. Mặc dù rất mệt nhƣng ánh mắt các đồng chí vẫn

sáng ngƣời, với nụ cƣời rạng rỡ trong niềm vui chiến thắng. Đó cũng là những

ngƣời đầu tiên đón chúng tôi. Dọc đƣờng xe chúng tôi chạy qua ngổn ngang các

thứ vũ khí, quân trang, quân dụng của địch bỏ lại làm cản trở giao thông.

Xe chúng tôi ghé qua tòa thị chính (dinh tỉnh trƣởng ngụy) nay là trụ sở Ủy

ban nhân dân tỉnh gặp anh Năm Trang (Phan Văn Trang) và các anh trong Ban

Quân quản. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, trong không khí của ngày vui toàn thắng.

Chúng tôi báo cáo tình hình và kết quả chiến đấu của đơn vị các anh rất vui, anh

Năm lại hỏi:

- Anh em mình thƣơng vong có nhiều không? -Nén xúc động chúng tôi báo

cáo tiếp:

- Số hy sinh nắm chƣa đầy đủ nhƣng khoảng 60 đồng chí. Số bị thƣơng cũng

gần nhƣ vậy.

Tất cả đều lặng đi. Lát sau bằng một giọng trầm hẳn xuống anh Năm hỏi tiếp:

- Số anh em bị thƣơng giờ nằm ở đâu? Đồng chí Nguyễn Thanh Lộc báo cáo:

- Đơn vị đƣợc bà con giúp đỡ đã đƣa anh em về nhà thƣơng Biên Hòa hồi

chiều 30 tháng 4, chút nữa chúng tôi ghé thăm anh em.

Suy nghĩ giây lát và sau khi trao đổi với các anh lãnh đạo, anh nói:

- Tuy rất bận nhƣng chúng tôi sẽ cùng các anh đến thăm anh em. Tôi sẽ làm

“giao liên” vì tôi rành đƣờng lắm.

Bệnh viện Biên Hòa tiếp nhận hầu hết thƣơng binh của các đơn vị chiến đấu

ở địa bàn thị xã và phụ cận, nhƣng nhiều nhất vẫn là thƣơng binh của Đoàn Đặc

công 113. Anh em đƣợc các y bác sĩ giải phóng cùng với một số nhân viên y tế

chế độ cũ tận tình cứu chữa.

Chúng tôi giành nhiều thời gian, thăm hỏi động viên anh em. Các đồng chí

lãnh đạo địa phƣơng còn muốn ở lại thêm nữa với anh em, nhƣng công việc rất

bận nên tạm chia tay.

Xe chúng tôi đến căn cứ Hốc Bà Thức, đây là căn cứ, hậu cứ của lữ đoàn kỵ

binh thiết giáp số 15 ngụy và liên đoàn biệt kích 81 ngụy. Đêm 29 tháng 4 Tiểu

đoàn 9 đã bí mật tập kích đánh chiếm và làm chủ hoàn toàn căn cứ này để bảo

188

đảm thông đƣờng tiến quân cho các cánh quân đánh chiếm sân bay Biên Hòa, bộ

tƣ lệnh quân đoàn 3 ngụy, giải phóng thành phố Biên Hòa.

Tại Sở Chỉ huy tiểu đoàn (trƣớc đây là bản doanh của chuẩn tƣớng Lê Quang

Khôi lữ trƣởng lữ 15). Đồng chí Đỗ Văn Ninh, Trung đoàn phó ngƣời chỉ huy

đánh căn cứ Hốc Bà Thức và Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 9 vui mừng chào đón chúng

tôi.

Mới xa nhau mấy ngày mà ai cũng tƣởng nhƣ hằng năm mới gặp. Chúng tôi

kể cho nhau nghe diễn biến chiến đấu của từng cánh, gƣơng chiến đấu dũng cảm

mƣu trí của những tập thể và cá nhân các đơn vị, trong niềm tự hào nhƣng không

khỏi xót xa khi nghĩ đến nhiều đồng chí không còn nữa để chung vui ngày toàn

thắng.

Kể về sự giúp đỡ của nhân dân trong đợt chiến đấu vừa qua, mọi ngƣời đều

chung ý nghĩ, nếu nhƣ không đƣợc dân giúp đỡ thì nhiệm vụ của chúng tôi sẽ khó

khăn biết chừng nào!

Sau câu chuyện hàn huyên, chúng tôi lại tiếp tục bàn kế hoạch triển khai công

việc. Thắng lợi rồi nhƣng chƣa phải lúc nghỉ ngơi. Nhiệm vụ mới đang chờ!

Đã nhiều năm trôi qua, thời gian đã làm cho ai đó phai nhạt đi nhiều kỷ niệm

và nhiều hình ảnh thân thƣơng. Nhƣng với chúng tôi, những cán bộ chiến sĩ Đoàn

Đặc công 113 quên làm sao đƣợc? Mỗi khi qua cầu Mới, cầu Ghềnh, nhìn những

nhịp cầu soi bóng xuống dòng sông, và những dòng ngƣời, những đoàn xe tấp nập

qua lại, lòng chúng tôi vô cùng xúc động nhớ lại bao kỷ niệm. Chính nơi đây qua

ba ngày đêm cán bộ chiến sĩ chúng tôi đã dũng cảm, mƣu trí chịu đựng mọi thứ

thách gay go, ác liệt lập nên những chiến công hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giữ

cầu diệt hàng trăm tên địch, bắn cháy xe tăng, phá hủy và phá hỏng nhiều khẩu

pháo của địch. Chúng tôi không thể nào quên nơi đây trên 60 đồng chí đã ngã

xuống và đã thấm máu biết bao nhiêu cán bộ chiến sĩ thân yêu. Trận địa cầu Mới,

cầu Ghềnh đã tô thắm thêm truyền thống của Trung đoàn 113. Và mãi mãi thắm

đƣợm tình nghĩa quân, dân cá nƣớc.

Qua bài viết này, xin nêu lên đôi điều cảm nghĩ của chúng tôi, mà cũng là

cảm nghĩ của các thế hệ cán bộ chiến sĩ Đoàn Đặc công 113 về mảnh đất Biên

Hòa với những tên làng, tên núi, tên sông, đều gắn liền với chiến công của đơn vị.

Thân thƣơng biết mấy, khi nhắc tới Thiện Tân, Đại An, Hƣng Nghĩa, Bàu Hàm,

Bình Sơn, An Viễn, Tân Hiệp, Tân Vạn, Bửu Hòa, Tân Phong, Tân Mai, Tân Bửu,

Hóa An, Hiệp Hòa... Tuy nghèo nhƣng giàu lòng yêu nƣớc, chắt chiu từng lon gạo,

hạt muối nuôi quân. Chăm lo cho các chiến sĩ cũng nhƣ con em ruột thịt của mình.

Từ lòng đất núi Bùng Binh, Giang Tói, Ông Tạ là áo giáp chở che cho đoàn quân

tinh nhuệ. Và đây nữa những dòng sông quê mẹ Đồng Nai, Sông Bé, Sông

Buông... đã bao lần đƣa đón các đoàn quân xuôi ngƣợc. Từng chứng kiến những

tiến công trên sông nƣớc của cảng Long Bình Tân, cầu Mới, cầu Ghềnh.

189

Sân bay chiến lƣợc Biên Hòa, tổng kho liên hợp Long Bình “mục tiêu điểm

của chiến trƣờng trọng điểm” bị đánh đi đánh lại nhiều lần bằng những đòn đánh

hiểm, những đòn sấm sét làm cho kẻ thù choáng váng, hoang mang.

Những tháng năm chiến đấu hào hùng. Đoàn Đặc công 113 chúng tôi sinh ra

và lớn nhanh nhƣ Phù Đổng, mà cái nôi là mảnh đất Biên Hòa “miền Đông gian

lao mà anh dũng” hun đúc bồi đắp hào khí Đồng Nai. Đảng bộ địa phƣơng chăm

sóc, nhân dân yêu thƣơng đùm bọc, tạo điều kiện cho chúng tôi làm nên những

chiến thắng diệu kỳ.

Ngày nay trong hòa bình, Đảng bộ và nhân dân đã dựng lên những tƣợng đài

chiến thắng và dành vị trí trang trọng ghi tên những đơn vị đã từng chiến đấu trên

mảnh đất Biên Hòa, trong đó có Đoàn Đặc công 113 chúng tôi.

Về phần mình, cán bộ chiến sĩ các thế hệ của Trung đoàn từ vị tƣớng tới binh

nhì dù còn tại ngũ hay đã về với đời thƣờng, từ trái tim mình luôn luôn ghi nhớ

những tình cảm mà Đảng bộ và nhân dân dành cho đơn vị. Xin nguyện giữ gìn và

phát huy truyền thống của bộ đội đặc công: “Đặc biệt tinh nhuệ, anh dũng tuyệt

vời. Mƣu trí sáng tạo, đánh hiểm thắng lớn” và Đoàn Đặc công 113 ba lần đƣợc

tuyên dƣơng Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân. Mãi mãi xứng đáng với niềm

tin của Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa, Đồng Nai trăm quý ngàn thƣơng.

VD – VC

190

TẤM LÒNG CHỊ BA

Theo lời kể của đồng chí NGUYỄN THẾ TÁM1

Trong những tháng năm chiến đấu của mình có nhiều kỷ niệm sâu sắc về

những đồng đội, đồng bào, những trận đánh... Một trong những kỷ niệm sâu sắc

nhất mà tôi kể sau đây là trận đánh bốt Cây Khô sát ấp số 7 xã Thiện Tân, huyện

Vĩnh Cửu tỉnh Biên Hòa mà tôi là ngƣời trực tiếp tổ chức và chỉ huy trận đánh.

Tháng 7 năm 1974, Miền chỉ đạo mở một đợt hoạt động đánh phá đồn bót

của địch, diệt, ác phá kềm tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân nổi dậy. Hƣớng

bắc chi khu Tân Uyên, các đơn vị của Sƣ đoàn bộ binh 7 kết hợp với lực lƣợng địa

phƣơng tiêu diệt các bốt Tân Lộc, Bà Cẩm của địch, cả một vùng phía bắc sông

Đồng Nai thuộc Chiến khu Đ đƣợc giải phóng.

Để phối hợp với đơn vị bạn, đƣợc lệnh của Trung đoàn, đơn vị tôi tiến hành

điều nghiên để đánh bốt Cây Khô mở màn cho đợt đánh phá đồn bót, chi khu của

địch, hỗ trợ nhân dân các xã Đại An, Thiện Tân nổi dậy diệt ác phá kềm.

Trong công tác chuẩn bị, có một điểm thuận lợi là chị Ba Thanh, cơ sở của ta

ở ấp số 7, xã Thiện Tân cung cấp khá tỉ mỉ về tình hình địch trong bốt, kèm theo

sơ đồ các khu vực bố trí quân, nơi đặt các hỏa điểm, kho đạn, nhà của bọn chỉ huy

và bọn ác ôn đầu sỏ.

Công tác chuẩn bị đều suôn sẻ, đơn vị náo nức chờ lệnh thì gặp một trắc trở.

Đó là:

Theo kế hoạch ngày nổ súng là ngày 12 tháng 7 năm 1974. Thì ngày 10 tháng

7 năm 1974, chị Ba Thanh đến gặp tôi với nét mặt rất căng thẳng, chị hỏi:

- Các chú định nhổ bót Cây Khô phải không?

- Dạ phải! Tôi trả lời chị, và thoáng suy nghĩ là: tại sao chị lại hỏi mình với

thái độ lo lắng nhƣ vậy? Hay là địch tăng quân đánh lúc này chƣa có lợi? Hay là

có điều gì sơ suất ảnh hƣởng đến kế hoạch? Tôi nhìn chị ý dò hỏi, thì chị hỏi tiếp:

- Bao giờ thì các chú khởi sự?

Một phản ứng tự nhiên! Tôi suy nghĩ giây lát và trả lời chị để chị khỏi phật

lòng.

- Ngày nào đánh là do trên quyết định, chúng tôi chƣa nắm đƣợc, mong chị

thông cảm.

Nét mặt chị rất đăm chiêu, môi mím chặt, chị nói nhƣ để thanh minh:

- Tôi không tò mò đâu. Ngƣng giây lát, mắt chị đỏ hoe, chớp chớp. Nƣớc mắt

lƣng tròng chị nói tiếp

1 Nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9, Đoàn Đặc công 113.

191

- Chị hỏi các chú ngày nào đánh là vì thằng nhỏ đang ở trong đó.

Tuy đã biết chị có con trai đầu lòng, cháu bị ép vào lính bảo an dân vệ, nhƣng

không ngờ rằng cháu lại ở bót Cây Khô. Từ băn khoăn chuyển sang xúc động, tôi

muốn nói giờ cụ thể nổ súng để chị dựa vào đó có kế hoạch đƣa con ra. Nhƣng rồi

lại nghĩ đây là nguyên tắc, không thể cho phép về mặt tình cảm tôi rất băn khoăn

khó xử, giữa lúc đó chị Ba chủ động nói:

- Nếu không có cách nào báo trƣớc thì tôi bằng lòng hy sinh thằng nhỏ vậy.

Giọng chị nhƣ nghẹn lại và tiếp:

- Các chú cứ đánh theo kế hoạch!

Nghe chị nói, tôi không cầm đƣợc nƣớc mắt vì cảm phục tinh thần cao cả của

chị vì nghĩa cả không tiếc bất cứ một thứ gì kể cả đứa con đầu của mình. Suy nghĩ

giây lát tôi nói:

- Chị Ba ơi, tôi sẽ báo cáo sự việc này lên trên, xin ý kiến các anh, và khêu

gợi chị xem có cách nào để tạo cớ đƣa cháu ra ngoài một thời gian thì hay lắm, chị

nhìn thẳng vào tôi và nói giọng nhỏ nhẹ:

- Các chú cứ yên tâm có gì sẽ báo các chú sau.

Ngay sau đó tôi báo cáo lên Trung đoàn tất cả chi tiết mà tôi đã kể trên xin ý

kiến giải quyết. Trung đoàn trả lời: Đƣợc! Miễn là bảo đảm đƣợc yêu cầu cả

chung và riêng. Có thể lui lại một hai ngày, chậm nhất là 14 tháng 7 phải báo cáo

kết quả lần cuối. Căn cứ vào ý kiến của trên, tôi hẹn gặp chị Ba vào ngày 13 tháng

7 để trao đổi. Chị đến đúng hẹn, vừa gặp tôi chị đã nói ngay:

- Tôi đã xin cho cháu đi khám bệnh ở thị xã Biên Hòa vào ngày 15 tháng 7.

Nếu đƣợc tôi sẽ báo cho các chú ngay. Ngƣng giây lát chị nói tiếp giọng quả

quyết: nếu ngày đó có gì kẹt thì các chú cứ đánh theo kế hoạch. Nói đến đây giọng

chị vừa nghẹn ngào vừa kiên quyết:

- Các chú ráng đánh cho gọn! Chị về đây. Dõi theo bƣớc chân chị, lòng tôi vô

cùng xúc động trƣớc tấm lòng của ngƣời chị, ngƣời mẹ vì Tổ quốc mà sẵn sàng

chấp nhận tất cả.

Trong cuộc họp bàn kế hoạch thực hiện trận đánh. Trƣớc khi vào bàn phƣơng

án tác chiến tôi trình bày tỉ mỉ sự việc của chị Ba. Có đồng chí cho rằng sự hy sinh

của chị quá “dễ dàng” nhƣ vậy cần phải cảnh giác, đây có thể là thái độ hai mặt!

Không khí cuộc họp trở nên sôi nổi các ý kiến đều tập trung phân tích xem chị Ba

là ngƣời nhƣ thế nào? Tôi giải trình:

- Chị là cơ sở đứng vững từ trƣớc đến nay, kể cả lúc khó khăn ác liệt địch

khủng bố gắt gao, dọa nạt mua chuộc chị vẫn không chao đảo.

- Từ khi làm việc giúp đỡ đơn vị chị chấp hành nghiêm các quy định, giúp đỡ

đơn vị có hiệu quả, gần đây để phục vụ cho kế hoạch đánh bót Cây Khô chị đã

cung cấp chính xác các vị trí, các mục tiêu phải diệt mà chúng tôi đã điều nghiên

xác minh lại.

192

- Chị quả quyết hy sinh đứa con của mình cho sự nghiệp chung đó là biểu

hiện lòng trung thành của chị đối với cách mạng. Kết luận trên đã đƣợc hội nghị

thống nhất. Tôi báo cáo quyết tâm lên Trung đoàn và Trung đoàn phê chuẩn quyết

tâm ấy. Đêm 15 tháng 7, Tiểu đoàn 9 chúng tôi đánh bót Cây Khô.

Ngày 14 tháng 7, trong lúc đơn vị đang hối hả chuẩn bị cho trận đánh thì

nhận đƣợc tin của chị Ba báo là đã xin phép đƣợc cho cháu về nhà để sáng 15

tháng 7 đi khám bệnh.

Nhận đƣợc tin này chúng tôi rất phấn khởi. Quyết tâm càng đƣợc nhân lên.

Bƣớc vào trận đánh với tâm hồn thanh thản, vì cái chung và cái riêng đều vẹn cả

đôi đƣờng.

0 giờ 15 phút ngày 15 tháng 7 năm 1974 không thể nào quên ấy, 15 đồng chí

do anh Nguyễn Văn Tuyến, Phó tiểu đoàn trƣởng trực tiếp chỉ huy, bằng kỹ thuật

mật tập đã đột nhập vào bót Cây Khô. Do chuẩn bị chu đáo về kế hoạch, trận

chiến đấu diễn ra nhanh gọn. Chỉ trong ít phút ta đã san bằng bót Cây Khô diệt

gọn một đại đội, thu toàn bộ vũ khí.

Thắng lợi của trận đánh bót Cây Khô mở đầu, làm đà cho các trận tiếp theo.

Đơn vị chúng tôi liên tiếp đánh các bót Đại An, Rạch Tôm, Rạch Lăng... Thắng

lợi của trận đánh một lần nữa chứng minh lòng son sắt của quần chúng nhân dân

đối với cách mạng mà tiêu biểu là chị Ba Thanh, sẵn sàng chấp nhận tất cả kể cả

đứa con ruột thịt của mình.

Những kỷ niệm, những hình ảnh và những việc làm của các anh, chị mãi mãi

in sâu trong tâm trí tôi. Giờ đây do điều kiện hoàn cảnh tôi chƣa trở lại thăm đƣợc

các anh các chị, ba má, bà con cô bác ở chiến trƣờng xƣa. Qua bài viết này tôi

muốn gửi gắm tình cảm chân thành, lòng biết ơn đến bà con cô bác đã cƣu mang,

giúp đỡ chúng tôi làm nên chiến thắng.

NGUYỄN QUỐC BÌNH (thực hiện).

193

TÂM NGUYỆN VỚI NGƢỜI ĐÃ KHUẤT

VŨ ĐỨC NINH1

Quê tôi, xã Minh Tân, huyện Phù Cừ, tỉnh Hƣng Yên nơi có giống nhãn đặc

sản nổi tiếng cả nƣớc. Cây nhãn “Tổ” cả trăm năm tuổi thân cổ thụ, cành lá xúm

xuê đã chở che những cơn nắng rát cho bao thế hệ con cháu trên mảnh đất ngàn

năm văn hiến và dâng vị ngọt cho đời, bất chấp những tháng năm xâm lƣợc, tàn

phá của thực dân Pháp trƣớc đây và chiến tranh phá hoại bằng máy bay của đế

quốc Mỹ sau này.

Ngày 8 tháng 4 năm 1972, tôi lên đƣờng nhập ngũ với một tâm nguyện đƣợc

cầm súng chiến đấu tiêu diệt quân xâm lƣợc. Buổi đầu làm lính Đại đội 10 Tiểu

đoàn 34 Trung đoàn 62 của Bộ Tƣ lệnh Đặc công, đóng quân tại xã Vật Lại,

huyện Ba Vì, tỉnh Hà Sơn Bình2. Vật Lại là một xã anh hùng với bao sự tích kỳ

diệu của hình ảnh làng kháng chiến chống giặc năm nào. Đặc biệt, nơi đây tại đồi

Yên Bồ mùa xuân năm 1968, Bác Hồ đã về trồng cây đa lƣu niệm. Bác cũng đã

dành thời gian thăm hỏi các cụ phụ lão, cái tầng lớp nhân dân. Cây đa của Ngƣời

lúc ấy đã bốn tuổi, tán bắt đầu vƣơn cành, tỏa bóng. Sau những giờ luyện tập dƣới

ánh nắng chói chang ở thao trƣờng đầy đá sỏi của miền trung du, chúng tôi quây

quần bên gốc đa lá xanh mơn mởn nhƣ cảm thấy hơi ấm của Bác tỏa lan thêm dịu

mát.

Những ngày luyện tập để trở thành ngƣời lính đặc công thực thụ trôi đi rất

nhanh. Tôi cảm thấy mình từ một cậu học trò dáng thƣ sinh hôm nào nay trở nên

rắn rỏi và đầy tự tin. Và ƣớc mơ ra mặt trận càng thêm thôi thúc. Thế rồi cái mơ

ƣớc ấy cũng đã tới. Đó là ngày 25 tháng 12 năm 1972, thời điểm mà miền Bắc

đang vào mùa ngọt rét, chuẩn bị đón cái tết cổ truyền dân tộc, đón tổ tiên ông bà

về sum họp cùng con cháu.

Tại ga Thƣờng Tín, một số toa tàu hỏa dành riêng cho chuyển quân đã đầy

chật ghế, ai nấy đều đƣợc trang bị quần áo mới xanh biếc màu đồng quê. Súng đạn

chỉnh tề dƣờng nhƣ cũng náo nức rộn ràng cùng ngƣời lính vậy. Ai nấy đều cảm

thấy tự tin ngày chiến thắng đã tới gần. Con tàu nổi hồi còi dài rồi chuyển bánh

xình xịch, xình xịch, để lại đằng sau những cánh đồng bát ngát, những hàng cây

xanh biếc reo vui trong nắng mới. Nhƣng khung cảnh chiến tranh nhƣ rình rập bất

cứ lúc nào. Tàu rời ga chƣa tới hai chục phút thì những chiến phản lực Mỹ lao tới

trút bom xuống sân ga. Đoàn tàu chuyển quân tuy bình an mà chúng tôi vẫn thấy

đau đáu cõi lòng: kẻ thù thật nham hiểm, xảo quyệt. Có thể chúng đã nhận ra

những tín hiệu di chuyển quân của ta tăng cƣờng cho tiền tuyến, hay đánh theo tọa

độ? Những ngƣời chị, ngƣời em, những công nhân bám ga, bám tàu có ai việc gì

không? Còn kẻ thù xâm lƣợc thì tìm cách giáng mọi thƣơng đau có thể ập xuống

1 Nguyên trinh sát đặc công Tiểu đoàn 23, Đoàn Đặc công 113 – Kỹ sư kinh tế đang công tác tại Sở Nông nghiệp

và phát triển nông thôn tỉnh Đồng Nai.

2 Nay thuộc tỉnh Hà Tây.

194

lúc nào trên mọi miền quê yêu dấu của chúng tôi nhƣ một trò chơi của quỷ sứ. Suy

nghĩ này nhƣ càng thôi thúc những chàng lính trẻ chúng tôi hối hả lên đƣờng.

Trên đƣờng đi, có những khúc đƣờng rày bị lật tung vì bom đạn Mỹ nhƣng

nhờ can trƣờng của những ngƣời thợ đã kịp thời hàn gắn, để những con tàu chở

chúng tôi vƣợt qua trên 500 cây số vào tới Quảng Bình. Chúng tôi lƣu luyến chia

tay con tàu thân yêu này nối liền Nam Bắc, chở đầy mùa xuân tƣơi vui và hạnh

phúc.

Chia tay với con tàu cũng là lúc chúng tôi hành quân bộ trên giải Trƣờng Sơn

bằng đôi chân dẻo dai của ngƣời lính. Những địa danh chỉ biết qua trang sách nhƣ

núi Liên U, đèo Mụ Dạ, dốc Ông Thanh, đèo Mào Gà, đèo Bà Định... nay trở

thành gần gũi thân thƣơng. Sức trẻ thật đáng yêu làm sao, miệt mài hành quân ra

tiền tuyến mà vui nhƣ đi trẩy hội, mặc dầu đạn bom thù giăng giăng chặn lối. Đến

sông Sê Công chúng tôi đƣợc chuyển đi ca nô tới tỉnh Công Pông Chàm (Cam-pu-

chia) bên kia là huyện Lộc Ninh, tỉnh Phƣớc Long (Việt Nam).

Vào tới đây không khí chiến trƣờng đã thấy rõ nét, bom đạn gầm rú ngày

đêm nhƣng anh em đã qua thử thách ai nấy đều sáng lên gƣơng mặt của ngƣời

chiến thắng. Nghỉ lại đây thời gian ngắn, tôi đƣợc bổ sung vào đại đội chiến đấu

thuộc Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 113 của Sƣ đoàn 27 đặc công, tiếp tục hành quân

về miền Đông Nam Bộ. Căn cứ đóng quân tại đƣờng Trần Lệ Xuân - cánh rừng

Hiếu Liêm nơi ngã ba sông Đồng Nai và Sông Bé.

Trận thứ lửa đầu tiên mà tôi tham gia là vào đêm 20 tháng 10 năm 1974 tập

kích bốt Tân Hòa, Xóm Chợ, Tân Uyên. Do đƣợc chuẩn bị chu đáo nên trận đánh

khá thành công. Tiêu diệt 74 tên lính ngụy, làm cho đại đội này tan rã. Đây là đòn

giáng trả đích đáng đối với binh lính địch làm cho chúng hoang mang, dao động

đến cực độ, luôn nơm nớp lo sợ bị ta tiến công. Sau trận ấy, đơn vị tăng cƣờng

một đại đội thiếu cấp tốc hành quân để bổ sung cùng với lực lƣợng bạn tham gia

đánh chiếm núi Bà Đen, trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

Núi Bà Đen có độ cao 997 mét so với mặt biển. Đây là một căn cứ thông tin

mã thám đƣợc Mỹ xây dựng khá kiên cố hết sức lợi hại cho cả một vùng rộng lớn,

gây khó khăn cho ta. Nhƣng muốn tiêu diệt đƣợc căn cứ này thật không đơn giản

bởi đã nhiều lần bị tấn công nên địch bố phòng chặt chẽ. Trƣớc lúc chuẩn bị cho

trận đánh quan trọng này, Chính trị viên đại đội - Bí thƣ chi bộ Chu Hồng Tuấn

trực tiếp động viên và giao nhiệm vụ cho tôi đảm trách khối bộc phá chuẩn. Với

ngƣời lính đặc công, đây là một hạnh phúc đặc biệt, tôi cảm thấy sung sƣớng vô

ngần. Đây còn là dịp thử thách ý chí can trƣờng và chấp nhận có thể hy sinh cả

tính mạng. Song, trận đánh ấy không còn giữ đƣợc yếu tố bí mật, bất ngờ nên trên

quyết định chuyển hƣớng áp sát bao vây chặt, cắt đƣờng tiếp tế của đối phƣơng.

Tuy chúng tìm đủ phƣơng kế để giải vây bằng các trận phi, pháo và trực thăng võ

trang vãi đạn nhƣ mƣa quanh căn cứ. Nhƣng, nhờ các hốc đá che chắn, lực lƣợng

ta vẫn bám trụ vững chắc. Sau một tháng bị o ép, đạn dƣợc, lƣơng thực cạn kiệt,

nhiều tên bị ta bắn tỉa chết mà không chôn đƣợc xác làm ô nhiễm nặng nề cả căn

cứ. Cuối cùng chúng phải bí mật rút chạy, chúng tôi làm chủ hoàn toàn.

195

Lá cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng phất phới tung bay trên đỉnh núi Bà

Đen là niềm kiêu hãnh, cổ vũ to lớn đối với quân và dân ta cả một vùng rộng lớn.

Song, với kẻ thù đó là một sự thách đố và căm tức tột độ. Những đợt phi pháo dội

xuống làm cho cờ rách nát. Thƣờng trực ở đây bao gồm anh Vân, Trung đội

trƣởng, Nguyên, Dung, Giao và tôi thƣờng xuyên thay nhau không để một phút

nào vắng bóng cờ trên đỉnh núi. Từ công việc thiêng liêng này, làm tôi liên tƣởng

đến các chiến sĩ công an giới tuyến Vĩnh Linh nhiều năm liền giữ cho lá cờ Tổ

quốc phất phới tung bay đầu cầu bờ bắc sông Bến Hải ở vị tuyến 17 những năm

đất nƣớc tạm thời chia cắt. Nghe nói có ngày các anh phải thay hai lá cờ bởi bị

máy bay địch bắn cháy hoặc rách nát. Mà lá cờ nào có nhỏ, những mấy chục mét

vuông phất phới tung bay. Nhân dân bờ Nam nhìn thấy cờ sao càng tự hào kiêu

hãnh đối với miền Bắc. Một ai đó trong chúng tôi có hy sinh mà lá cờ vẫn tung

bay ngạo nghễ đó cũng là một hạnh phúc của ngƣời chiến sĩ. Trong thời gian làm

nhiệm vụ ở đây một số anh em mang thêm những thƣơng tích, tôi cũng nằm trong

số đó. Bỗng chúng tôi đƣợc lệnh bàn giao lại trận địa cho bạn để đón nhận nhiệm

vụ mới, còn nhiệm vụ cụ thể thế nào chỉ có cấp trên mới rõ. Không khí chiến

thắng dồn dập trên khắp các chiến trƣờng tới tấp bay về nhƣ thôi thúc, giục giã

bƣớc chân chúng tôi. Chỉ hơn một ngày sau đó chúng tôi đã có mặt tại huyện Tân

Uyên để cùng đơn vị tiếp cận, đánh chiếm và bảo vệ mục tiêu cầu Ghềnh và cầu

Hóa An trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Để tiến hành thực hiện tiếp cận các mục tiêu quan trọng này nằm sâu giữa thị

xã Biên Hòa, phải luồn lách qua nhiều phòng tuyến bảo vệ của đối phƣơng. Từ

những ngày đầu tháng 4 năm 1975, bộ phận trinh sát của Tiểu đoàn 23 đi điều

nghiên gặp địch phục kích, anh Đinh Văn Trọng một cán bộ mũi trƣởng đánh giặc

rất dũng cảm trƣớc đó đã phải hy sinh. Nhƣng cuối cùng mục tiêu cả hai cầu đều

đã đƣợc trinh sát kỹ lƣỡng. Vì vậy, tối ngày 26 tháng 4 từ hƣớng Nhà Nai đơn vị

xuất phát hành quân tiếp cận chiếm lĩnh vị trí chiến đấu an toàn bí mật. Sáng ngày

27 tháng 4, ta bắt đầu nổ súng đánh chiếm mục tiêu, địch mới chống trả một cách

điên cuồng. Giằng co với đối phƣơng cho tới trƣa ngày 29 tháng 4, đơn vị chúng

tôi tổn thất khá nặng nề. Anh Nguyễn Duy Thính, một Đại đội trƣởng rất kiên

cƣờng, quê Phú Thọ đất Tổ Hùng Vƣơng, Thông - liên lạc, Nguyễn Duy Trữ y tá

cùng một số anh em khác đã anh dũng hy sinh vào những ngày nóng bỏng này.

Chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975, địch ở khu vực thị xã Biên Hòa hoang mang

cực độ và trên đà tan rã. Đƣợc những ngƣời dân tốt bụng xã Bửu Hòa báo tin, đội

mai táng thánh thất Cao Đài Bửu Hòa do ông Võ Hoàng Sơn (Ba Đấu) trên danh

nghĩa là Thế tộc đã điều động lực lƣợng trong thánh thất đi tìm kiếm, khâm liệm

thi thể anh em hy sinh rồi dùng xe chở lên chôn cất tại nghĩa địa ấp Tân Bản cách

đó khoảng một ngàn thƣớc. Chính tay tôi đã viết những dòng họ và tên từng ngƣời

cắm ở chân mộ. Sau này thành phố Biên Hòa cùng Sở Lao động Thƣơng binh - Xã

hội tỉnh quy tập hài cốt anh em về nghĩa trang liệt sĩ của tỉnh Đồng Nai. Đi đƣợc

chặng đƣờng khá xa của cuộc chiến, đến ngày đỉnh cao toàn thắng của dân tộc thì

ngã xuống, có nỗi đau nào hơn!

196

Tới tháng 6 năm 1975, toàn đơn vị hành quân về Sài Gòn đóng ở khách sạn

Sao Mai gần Lăng Cha Cả làm nhiệm vụ quân quản. Tháng 11 năm ấy, về căn cứ

Quang Trung, huyện Hóc Môn tiếp nhận quân mới huấn luyện nhằm đáp ứng yêu

cầu và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tháng 5 năm 1977, tôi đƣợc

chuyển ngành về Ty Lƣơng thực Đồng Nai. Sau đó đƣợc đi học trung cấp rồi hàm

thụ đại học kinh tế và tiếp tục công tác ở Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn,

gắn bó với mảnh đất thân yêu này cho tới hôm nay.

Những ngày chung sống công tác và chiến đấu, tôi và Trữ rất gần gũi gắn bó

nhƣ anh em ruột thịt, mặc dầu tôi quê ở Hƣng Yên, còn Trữ ở Thái Bình. Không ít

lần chúng tôi giao ƣớc: khi hòa bình thống nhất nƣớc nhà sẽ đến thăm nhau, ai có

dịp thì giúp nhau những gì có thể. Cuộc sống của ngƣời lính chân chất và vô tƣ là

vậy. Nào ngờ, đó lại là những lời tâm nguyện - Trữ đã mãi mãi nằm lại với tuổi

xuân. Một dịp đi viếng mộ Trữ tại nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Đồng Nai, tình cờ gặp

ngƣời làng của Trữ, từ ấy tôi tìm đến nhà Trữ ở Thái Bình. Gặp em trai của bạn

mừng mừng tủi tủi nhƣ thấy anh mình trở về vậy. Tôi kể lại tình cảm giữa hai anh

em khi cùng chung chiến hào, đói khổ có nhau. Giờ đây đứa con yêu dấu ấy đã

nằm lại phƣơng trời xa vời vợi để lại cho gia đình nỗi sầu đau thăm thẳm. Từ ấy

tôi nảy ra ý tƣởng muốn giúp đỡ vợ chồng ngƣời em trai của Trữ vào lập nghiệp

nhƣng không biết chú ấy có thuận tình? Khi nhận ra sự đề cập của tôi là xuất phát

từ tấm lòng chân thật của một ngƣời lính đã đi qua máu lửa, thế là Nguyễn Duy

Tứ cùng vợ con lên đƣờng vào định cƣ ở một miền đất mà với họ còn khá xa lạ.

Đây có thể là một quyết định mạnh dạn và dũng cảm. Nhƣng trƣớc hết phải có

một niềm tin ở nhiều khía cạnh, niềm tin ở bản lĩnh của mình.

Là một ngƣời say mê với kinh tế nông nghiệp, gặp đƣợc chủ trƣơng của

Chính phủ khuyến khích phát triển chăn nuôi bò sữa, tôi mạnh dạn làm dự án vay

vốn Nhà nƣớc và nhận đất mở trại chăn nuôi. Từ vài ba con ban đầu (1998), cho

tới nay đàn bò lên chín con, có năm con đang cho sữa. Đó là chƣa kể số bê đực

nuôi bán thịt và đã trả hết số nợ khá lớn cho ngân hàng. Riêng tiền bán sữa, sau

khi trừ mọi chi phí còn thu về vài triệu đồng/tháng, đủ nuôi các con ăn học và tích

lũy đầu tƣ chiều sâu.

Với ngƣời em trai của bạn, bƣớc đầu đƣợc vợ chồng tôi hỗ trợ một con bò

giống, tới nay đã sinh sản đang cho sữa và thêm một bê cái, trả lƣơng sòng phẳng.

Vợ chú ấy tham gia lao động cho xí nghiệp chăn nuôi bò sữa An Phƣớc. Thu nhập

từ các nguồn đủ khả năng nuôi các con ăn học. Cháu lớn đã đi làm, một cháu đang

học đại học Sƣ phạm thành phố Hồ Chí Minh và đứa út sắp vào đại học. Vợ chồng

chú ấy coi tôi nhƣ hiện thân ngƣời anh trai của mình và tôi cố gắng làm tròn bổn

phận nhƣ tâm nguyện với bạn mình - dù anh đã đi xa gần ba chục năm rồi.

Năm tháng rồi sẽ qua đi, chỉ có tình ngƣời là ở lại. Tôi luôn luôn tâm niệm

với mình nhƣ vậy.

Biên Hòa tháng 5 năm 2003

V.Đ.N

197

NGHĨ CÀNG THÊM NHỚ

TRƢƠNG BÁ TRIỆT1

Trong mấy mƣơi năm cuộc đời quân ngũ, có ai chỉ ở trong một cơ quan hay

một đơn vị. Vậy mà trong tâm tƣởng của tôi luôn dành một khoảng đáng kể để

nhớ về Trung đoàn Đặc công 113 mà tôi hằng yêu mến dù chỉ ở mấy năm.

Ngày 3 tháng 6 năm 1972, Trung đoàn Đặc công 113 đƣợc thành lập ở suối

Bà Hào, tôi làm Chủ nhiệm chính trị - Ủy viên Thƣờng vụ Đảng ủy Trung đoàn.

Trƣớc đó là chính trị viên Tiểu đoàn 10, Đoàn Đặc công 429 cơ động của Miền.

Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, anh Tƣ Lập - Chính ủy Trung đoàn về Sƣ

đoàn 2 Đặc công, tôi nhận nhiệm vụ của anh, đồng thời Bí thƣ Đảng ủy Trung

đoàn.

Điều tâm đắc nhất đối với tôi là nhận chỉ thị cấp trên chỉ qua bức điện ngắn

mà cán bộ các hƣớng từ Phân khu 4, Phân khu 5 ở mãi Thủ Dầu Một kịp thời có

mặt tại ngã ba suối Bà Hào, bất chấp khó khăn nguy hiểm.

Thứ hai, năng lực công tác tổ chức của Ban Chỉ huy Trung đoàn, đứng đầu là

Trung đoàn trƣởng Nguyễn Thanh Tùng và Chính ủy Mai Văn Thoạn cùng ở cơ

quan chuyên trách. Tinh thần, ý thức tổ chức kỷ luật chấp hành mệnh lệnh của cán

bộ, chiến sĩ thật là tuyệt vời.

Phát huy truyền thống quý báu của Binh chủng Đặc công anh hùng, đơn vị

thích ứng nhanh khi đặt chân tới một địa bàn mới, khai thác triệt để kinh nghiệm

của tập thể, cá nhân từ các chiến trƣờng hợp thành. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ, chiến

sĩ đặc công U1 (Biên Hòa), bổ sung về đơn vị, là những ngƣời từ nhiều năm trƣớc

đã bám trụ thông thạo địa hình, nắm chắc đối phƣơng nên phục vụ đắc lực kịp thời

cho Trung đoàn triển khai tác chiến đƣợc ngay, mà không mất nhiều thời gian làm

quen tìm hiểu ở một hƣớng chiến trƣờng mới.

Đoàn đã quan hệ tốt với Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh, huyện và các cơ sở

vùng sâu, vùng xa nơi phong trào cách mạng còn mỏng và yếu. Ngay từ khi đến

và trải suốt quá trình bám trụ, hoạt động chiến đấu, lúc nào đơn vị cũng nhận đƣợc

sự giúp đỡ chí tình chí nghĩa của ban lãnh đạo từ Tỉnh ủy Biên Hòa (U1), cơ quan

Tỉnh ủy, các cơ sở cách mạng cả về tinh thần và vật chất. Điển hình nhất là lãnh

đạo tỉnh đã huy động một lực lƣợng đáng kể anh chị em cán bộ cơ quan tham gia

vận chuyển hàng trăm quả đạn pháo ĐKB để kịp thời phục vụ cho đơn vị mở đầu

trận đánh lớn vào sân bay Biên Hòa, đêm ngày 2 rạng ngày 3 tháng 8 năm 1972

đạt hiệu suất cao. Đây là đòn giáng trả đích đáng của một đơn vị đặc công vừa

mới thành lập đã lập đƣợc chiến công vang dội theo cách đánh mới “nối dài cánh

tay đặc công”.

Đơn vị đã xây dựng đƣợc căn cứ vững chắc giữa lòng dân mà kẻ thù không

sao phá vỡ nổi. Căn cứ Bùng Binh của Tiểu đoàn 9 là một minh chứng. Sát các

1 Nguyên Chủ nhiệm chính trị đầu tiên Đoàn Đặc công 113 - đại tá, về hưu.

198

căn cứ của địch là một “vùng lõm” đƣợc xây dựng đủ cho cho vài ba đại đội sinh

hoạt nhiều ngày liền. Lƣơng thực, thực phẩm, thuốc nổ, đạn dƣợc đƣợc tập kết an

toàn đáp ứng kịp thời cho các cuộc tiến công địch mà không tốn thời gian phải

tiếp cận từ xa tới.

Còn trận đánh chiếm cầu Ghềnh và cầu Hoá An nhƣ một dấu ấn tạc vào tâm

trí, không thể nào phai nhạt trong tôi. Ấy là sáng ngày 27 tháng 4 năm 1975, lực

lƣợng ta nổ súng tiến công đánh chiếm cầu. Bị bất ngờ địch tán loạn tháo chạy.

Nhƣng khi hoàn hồn, chúng tập trung mọi lực lƣợng pháo binh, máy bay chi viện

liều lĩnh xông lên. “Ba đánh một không chột cũng què”, đằng này mình một, địch

có thể gấp hàng chục lần, ta lại ở vào thế bất lợi. Qua ngày đầu chiến đấu ai nấy

rất kiên cƣờng nhƣng khả năng thì có hạn, nên hy sinh là điều khó tránh. Ngày 28

tháng 4 nhờ hoả lực ĐKB - ĐKZ Trung đoàn tăng cƣờng chi viện có hiệu quả,

phần nào đó giảm áp lực quân địch tập trung từ Biên Hoà đánh ra, Sóng Thần, Dĩ

An đánh về, tôi đề nghị anh Ba Lộc Trung đoàn trƣởng để tôi cùng mấy anh em

trinh sát trực tiếp xuống trận địa Cầu Hang để thăm hỏi, động viên bộ đội.

Gặp tôi, anh em mừng rỡ hết chỗ nói nhƣng bản thân mình không nén nổi xúc

động khi đại đội giữ cầu Ghềnh đã anh dũng hy sinh gần hết trƣớc sự phản kích

điên cuồng của địch. Lòng tôi nhƣ se lại khi số lực lƣợng còn lại rất mỏng mà

nhiệm vụ tiếp theo khá nặng nề. Song nhiều dấu hiệu cho thấy địch đang có biểu

hiện nao núng. Qua máy điện đàm, tôi trực tiếp báo cho anh Ba Lộc ở Chỉ huy sở.

Anh nói lại: rất có thể là nhƣ vậy, và khả năng còn tồi tệ hơn nhiều. Đúng thế,

sáng ngày 29 tháng 4, địch thất thủ Biên Hòa, nhốn nháo, nhiều tên lột hết quần áo,

vứt súng tháo chạy thoát thân. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đại quân ta tràn về

thành phố Sài Gòn, báo hiệu giờ cáo chung của chế độ bán nƣớc.

Giữa trận địa còn vƣơng mùi khói đạn, bom khét lẹt, bản thân tôi cùng một số

anh em, dùng xe ô tô của dân thu gom số thƣơng binh đƣa đi cấp cứu, điều trị tại

nhà thƣơng Biên Hòa. Còn từ sĩ đƣợc cô bác địa phƣơng đƣa vào yên nghỉ tại khu

nghĩa trang nhân dân ấp Tân Bản, xã Bửu Hòa chân núi Châu Thới.

*

* *

Đất nƣớc đã hoàn toàn giải phóng gần 30 năm. Ngần ấy thời gian, đủ cho một

thế hệ trƣờng thành và vững vàng trong sự nghiệp cống hiến sức lực, tài năng cho

đất nƣớc. Còn thế hệ chúng tôi cũng nhƣ bản thân mình lùi về chốn yên bình, lo

toan tuổi già. Nhƣng chƣa hẳn hoàn toàn nhƣ thế, còn vƣơng vấn nhƣ một duyên

nợ chƣa thể trả, nói đúng hơn không thể nào trả cho đặng.

Nhớ lại, lúc khói đạn còn khét lẹt, tôi gặp anh Lê Bá Ƣớc - Phó chính ủy Sƣ

đoàn 2 Đặc công nói rằng:

199

- Anh Bảy, sau ngày đất nƣớc sạch bóng quân thù, non sông liền một dải hát

khúc khải hoàn. Nơi đây cần dựng bia kỷ niệm các liệt sĩ đã ngã xuống trƣớc ngày

toàn thắng, nhƣ một nghĩa cử để các thế hệ đời đời nhớ ơn và tri ân họ vậy.

Anh Bảy Ƣớc rất đồng tình với ý nguyện ấy của tôi.

Nghe nói, nguyên Bí thƣ Tỉnh ủy Phan Văn Trang, một đồng chí lãnh đạo đã

có nhiều công lao đóng góp với phong trào cách mạng địa phƣơng, rất gần gũi gắn

bó với Trung đoàn Đặc công 113 từ khi mới thành lập và đi suốt cuộc kháng chiến

cứu nƣớc đã nhắc nhiều lần ý tƣởng cao đẹp này.

Mong sao ý tƣởng ấy của anh Năm Trang, của tôi và đông đảo cán bộ, chiến

sĩ Trung đoàn Đặc công 113 quý mến sớm trở thành hiện thực. Đó cũng là biểu

hiện sự tri ân các Anh hùng liệt sĩ hy sinh cho dân tộc trƣờng tồn.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2003

T.B.T.

200

BẮT TÊN ĐẠI TÁ TRƢỞNG THANH TRA

QUÂN ĐOÀN 3 NGỤY GIỮA BAN NGÀY

NGUYỄN HẢI KỲ1

Theo trên cho biết, ở gần căn cứ huấn luyện biệt kích Nƣớc Trong, huyện

Long Thành, có một tên đại tá ngụy - phó chỉ huy trƣởng tổng kho Long Bình và

trƣởng thanh tra quân đoàn 3. Tên này có một dinh điền trồng cây ăn trái, chăn

nuôi bò, heo thƣờng xuyên có một lực lƣợng lính trông coi bảo vệ. Hàng tuần

chúng thƣờng đi bằng xe Zeep từ Biên Hòa xuống Long Thành thăm đồn điền. Là

loại cáo già nên mỗi lần đi về tên này rất cảnh giác. Thậm chí còn có lính bảo vệ

thăm dò đƣờng sá nhằm phát hiện mọi động tĩnh.

Theo chỉ thị của trên, lực lƣợng đặc công J116 phối hợp với đặc công Đoàn

113 nghiên cứu quy luật qua lại của tên này, dùng lực lƣợng cải trang tìm cách bắt

sống đƣợc nó để khai thác tài liệu.

Nhận nhiệm vụ trên giao, đơn vị tuyển chọn khoảng một tiểu đội đóng vai

“Lính biệt động quân” tuần tra trên quãng đƣờng nó thƣờng qua lại. Một buổi sáng

nhƣ thƣờng lệ nó xuống dạo chơi kiểm tra đồn điền xong trở về nơi đậu xe. Đồng

chí chỉ huy chĩa khẩu súng ngắn vào ngƣời hắn, hô:

- Giơ tay lên! Ông đã bị bắt!

Nó tƣởng lính quốc gia, trừng mắt quát:

- Đ... u... m, mày có biết tao là ai không? Nó xƣng luôn:

- Tao là đại tá Võ Chí Kiệt đây!

Nó nói chƣa dứt câu thì nhanh nhƣ chớp Phƣơng, Phong, Sơn xông vào bẻ

khuỷu tay hắn ra phía sau và dùng dây trói lại, bịt mắt và giải đi theo một con

đƣờng mòn rồi cắt rừng để đánh lạc hƣớng địch. Số anh em còn lại khống chế tên

tài xế, tuyên truyền giải thích rồi tha cho về.

Dọc đƣờng tên này vừa sợ lại vừa đi chân đất không quen nên khá nhọc nhằn

và một mực xin tha tội chết cho nó. Anh em giải thích chính sách khoan hồng của

Mặt trận, sẽ đối xử nhân đạo với những kẻ lầm đƣờng lạc lối nhƣng nếu biết ăn

năn hối cải sẽ đƣợc giảm nhẹ tội. Qua một chặng đƣờng mấy chục cây số, vừa đi

vừa tránh địch, có đoạn phải thay nhau khiêng nó để kịp giải giao cho Phòng Địch

vận Miền. Qua tên đại tá ngụy, chắc chắn cấp trên sẽ khai thác đƣợc những tài liệu

quý phục vụ cho công tác chiến đấu và hoạt động của bộ đội ta.

N.H.K

1 Ghi theo lời kể của các đồng chí Nguyễn Văn Tải, Hoàng Xuân Lĩnh.

201

CẢM TỬ QUÂN TRÊN DÒNG SÔNG PHỐ1

XUÂN QUỲNH

Trận đánh cầu Hóa An của các dũng sĩ Tiểu đoàn 23 đặc công nƣớc, Trung

đoàn 113 đã đƣợc nói đến nhiều. Trong phạm vi bài viết này chỉ nêu lên một số

chi tiết nhằm minh họa thêm hành động anh hùng của các liệt sĩ đã quyết tử lập

nên chiến công trên dòng Sông Phố. Cầu Hóa An (còn gọi là cầu Mới) bắc qua

sông Đồng Nai đoạn gần thị xã Biên Hòa, dài 800 mét rộng 8 mét có 22 trụ. Cầu

xây dựng năm 1970, cấu trúc hiện đại, hệ thống phòng thủ vững chắc, cẩn mật. Ở

mỗi trụ cầu đều có một bóng đèn 1000 oát chiếu xuống mặt sông. Quanh các trụ

cầu đƣợc rào bằng những tấm lƣới thép. Hai trụ cầu chính giữa có bót gác ở gần

mặt nƣớc. Cứ bốn trụ lại có một trạm gác. Mỗi đầu cầu có một đại đội bộ binh

đóng chốt bảo vệ. Thƣờng xuyên có ba tàu túc trực và tuần tiễu ở khu vực cầu.

Việc điều động lực lƣợng, vũ khí phƣơng tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy ở

vùng 3 chiến thuật lên các tỉnh Bình Dƣơng, Bình Long, Phƣớc Long đều qua

chiếc cầu này.

Từ khi xây dựng cho đến tháng 10 năm 1974, cầu chƣa bị đánh phá lần nào.

Tháng 3 năm 1974, đơn vị đƣợc lệnh nghiên cứu, tổ chức đánh cầu. Tổ trinh

sát gồm ba đồng chí: Trọng, Lâm (Tiểu đoàn 23) Dƣỡng (trinh sát Trung đoàn)

trên đƣờng vận động đến mục tiêu bị địch phát hiện. Chúng huy động cả một đại

đội hơn 100 tên, bao vây quyết bắt sống ba ngƣời. Nhƣng, cả ba đồng chí đã kiên

quyết đánh trả địch quyết liệt diệt nhiều tên, cả tổ đã anh dũng hy sinh tại trận địa,

nên việc nghiên cứu phải tạm ngƣng. Tháng 9 năm 1974, trên chỉ thị cho Trung

đoàn phải tổ chức phá cầu để gây trở ngại cho địch, buộc chúng phải chôn chân tại

chỗ, cản trở đến việc cơ động lực lƣợng chi viện cho các chiến trƣờng. Trong đợt

triệt phá giao thông lần này mục tiêu số một của Đoàn vẫn là cầu Hóa An.

Tiểu đoàn 23 lại đƣợc giao nhiệm vụ đánh cầu. Trinh sát của tiểu đoàn gồm

hai đồng chí Thƣởng và Thƣờng đã vƣợt qua hàng chục đồn bót và ổ phục kích

của địch, qua nhiều kênh- rạch để bám mục tiêu. Khi còn cách cầu sáu ki- lô-mét

phải vƣợt qua những dòng nƣớc xoáy, qua cù lao Bình Chánh, qua hai cầu cảng có

nhiều tàu và xà lan neo đậu trên sông để tiếp cận mục tiêu.

Theo đúng thời gian quy định, anh em trinh sát đã trở về an toàn.

Nghe các đồng chí báo cáo kết quả trinh sát, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 23 đề

nghị cho đánh cầu.

Để bảo đảm chắc thắng, chúng tôi yêu cầu phải nắm thật chắc một số vấn đề

sau đây:

Quy luật hoạt động của địch, đặc biệt là khu vực gần cầu và gầm cầu; dòng

chảy khi nƣớc lớn và nƣớc ròng ảnh hƣởng đến việc đƣa lƣợng nổ vào mục tiêu có

1 Trên sông Đồng Nai có đoạn gần cầu Hóa An gọi là khúc Sông Phố.

202

khó khăn gì; các thuyền đánh cá của dân thƣờng hoạt động vào thời gian nào?

Trên thuyền có đèn không? Mức độ tỏa sáng xuống dòng sông? Quy luật tuần tiễu

bằng tàu xuồng của địch dọc sông? Rào xung quanh các trụ cầu bằng loại thép gì?

Có thể khắc phục để đƣa lƣợng nổ vào tận trụ cầu đƣợc không?...

Sau lần trinh sát cuối cùng trở về, tất cả yêu cầu trên đều đƣợc đáp ứng.

Chúng tôi cho đơn vị lên phƣơng án tác chiến và điện cho anh Đỗ Văn Ninh, đang

chỉ đạo Tiểu đoàn 9 ở cánh đông về để thông qua phƣơng án - Vì anh Ninh có

nhiều kinh nghiệm thực tế chỉ huy tác chiến theo phƣơng thức đặc công.

Sau khi nghe các đồng chí trình bày cụ thể, chúng tôi phê chuẩn - chỉ còn một

vấn đề là lƣợng nổ bao nhiêu để phá sập cầu. Đây là số lƣợng có tính toán bởi

lƣợng nổ là yếu tố trực tiếp quyết định cầu có sập hay không? Trong chiến đấu

quyết tâm lý tƣởng nhất là dẫn đến thắng lợi. Chúng tôi suy tính, lƣợng nổ từ 450

đến 500 ki-lô-gam mà các đồng chí đã tính toán là sát. Nhƣng phải dự kiến tình

huống không thể đƣa lƣợng nổ vào sát trụ cầu đƣợc, nên cần phải tăng lên 700 ki-

lô-gam mới đủ sức phá cầu.

Việc tăng lƣợng nổ lên 700 ki-lô-gam đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết.

Trƣớc mắt tập trung toàn bộ lực lƣợng của Tiểu đoàn pháo 174 chuyển thuốc nổ

cho Tiểu đoàn 23 bảo đảm đủ số lƣợng, thời gian quy định và một số việc bảo

đảm khác rất phức tạp.

Nhƣng vấn đề phức tạp hơn là thực hiện phƣơng án nổ. Trong phƣơng án tác

chiến chúng tôi đã nêu rất cụ thể từng động tác, từng quy trình kỹ thuật để phá cầu,

nhất nhất phải tuân theo. Đồng thời dự kiến những tình huống bất trắc và biện

pháp đối phó. Bởi trong chiến đấu diễn biến tình huống chƣa dự kiến tới lại

thƣờng hay xảy ra, đòi hỏi ngƣời chiến sĩ đặc công mọi hành động phải rất linh

hoạt ứng phó kịp thời, có hiệu quả để thắng địch. Thông thƣờng ở bộ đội đặc công

khi đã giao nhiệm vụ trinh sát, kèm sau đó là giao nhiệm vụ thực hành tiến công.

Chính vì vậy khi giao nhiệm vụ cho tổ đồng chí Thƣờng đánh cầu đều đƣợc mọi

ngƣời nhất trí. Nhìn những khuôn mặt rạng rỡ của anh em khi nhận nhiệm vụ,

chúng tôi rất tin tƣởng.

Khi nêu lên tình huống. - Một là: ta vẫn giữ đƣợc bí mật, thao tác chính xác

đƣa lƣợng nổ vào sát trụ cầu, đây là phƣơng án lý tƣởng cần phải phấn đấu. - Hai

là: khi vào gần mục tiêu mà bị lộ thì phải xử trí theo phƣơng án: một đến hai đồng

chí phải bơi ra, nhằm nghi binh thu hút địch, bảo đảm cho các đồng chí còn lại

nhanh chóng lao khối thuốc vào trụ cầu giật nổ tức thì. Chƣa kịp hỏi ai sẽ xung

phong nhận nhiệm vụ này thì Nguyễn Trung Thƣờng đứng thẳng dậy và nói:

- Tôi xin nhận lao khối thuốc vào cầu và giật nổ tức thì!

Giọng Thƣờng rất trang nghiêm và ánh mắt rực sáng. Tất cả chúng tôi lần

lƣợt xiết chặt tay Thƣờng, vây kín lấy anh nhƣng đều im lặng bởi vô cùng xúc

động và tự hào về đồng đội của mình. Từ giờ phút ấy cho đến khi các đồng chí lên

đƣờng, hầu nhƣ chúng tôi không muốn rời nhau.

203

Khoảng 20 giờ ngày 7 tháng 10 năm 1974, lƣợng nổ 700 ki-lô-gam đã đƣợc

lắp ghép xong, tại địa điểm xuất phát tiến công. Chúng tôi lần lƣợt xiết chặt tay

các dũng sĩ trực tiếp làm nhiệm vụ phá cầu với lời chúc thành công. Chẳng phải

riêng chỉ huy chúng tôi, mà hầu nhƣ tất cả anh em trong đơn vị đều hƣớng về các

đồng chí với lòng tin yêu và niềm hy vọng.

Kể từ khi khối thuốc 700 ki-lô-gam nhẹ nhàng cùng bốn chiến sĩ lặng lẽ hòa

vào dòng nƣớc mênh mông, thì cả tiểu đoàn và chỉ huy lãnh đạo trung đoàn trầm

lắng nhƣ chờ đợi một điều hệ trọng sắp xảy ra. Thế rồi 2 giờ 15 phút đêm mồng 8

tháng 10, một tiếng nổ dữ dội từ phía cầu vọng về làm vui sƣớng lòng mong đợi

của mọi ngƣời.

Ngay sáng hôm sau đài BBC đã đƣa tin về trận đánh này: “Cầu bị sập hai

nhịp giữa, giao thông hoàn toàn bị tắc nghẽn”.

Chúng tôi rất phấn khởi, đầu óc bớt căng thẳng nhƣ cất đi đƣợc gánh nặng.

Nhƣng vẫn linh cảm có một cái gì đó chƣa ổn...

Lúc này hình ảnh các đồng chí Thƣờng, Thƣởng, Thiết, Đệ hiện lên rõ nét

trong tâm trí chúng tôi.

Cả ngày 8 tháng 10 ai nấy hồi hộp chờ tin các đồng đội, vẫn bặt vô âm tín.

Ngay đêm hôm ấy chúng tôi cử một tổ đi đón anh em, sau hai ngày đêm tìm

kiếm vẫn chƣa kết quả, khi tổ này trở về ngoài tin thêm cây cầu bị sập còn tin tức

về số anh em vẫn không nắm đƣợc gì hơn, không gian nhƣ lắng xuống. Suốt đêm

không ngủ hết đi ra lại đi vào, hầu hết anh em chúng tôi đều tâm trạng nhƣ thế

thấp thỏm đợi chờ... Vẫn biết rằng chiến đấu là phải có hy sinh, nhƣng chúng tôi

mong muốn không thể nào mất đi các đồng chí thân yêu của mình.

Ngày thứ tƣ, nhƣ có phép thần! Đồng chí Thƣởng trở về, quần áo rách bƣơm,

khuôn mặt hốc hác. Tất cả chúng tôi đều reo lên phá tan bầu không khí trầm lặng,

mọi ngƣời ùa ra vây quanh Thƣởng.

Tuy rất mệt nhƣng anh gắng gƣợng thuật lại diễn biến trận đánh, đáp ứng

lòng mong đợi của anh em bằng một giọng sôi nổi:

- Khoảng 2 giờ sáng, khi chúng tôi đẩy khối thuốc vào cách trụ cầu tầm 20

mét, bọn địch phát hiện đƣợc. Lập tức đạn các cỡ xả xuống sông và nhằm vào

chúng tôi.

Đã bị lộ! Tiếng đồng chí Thƣờng lẫn trong tiếng súng và anh hô tiếp: theo

phƣơng án hai! Nhanh lên, đừng chần chờ nữa!

Nhƣ một tia chớp, tôi nhô lên khỏi mặt nƣớc, thu hút địch, trong khi đồng chí

Thƣờng, Thiết đẩy khối thuốc vào sát trụ cầu. Bọn địch rất xảo quyệt, chúng chỉ

cho một ca nô đuổi theo tôi, số còn lại vẫn bám lấy các đồng chí đang đẩy thuốc

vào trụ cầu.

Tiếng súng, tiếng động cơ ca-nô vang cả khúc sông, đầu óc tôi nhƣ vỡ tung ra,

vì tiếng nổ quá nhiều. Tôi cố bơi thật nhanh, hầu nhƣ không biết mệt là gì. Đang

204

bơi, đột nhiên thấy mình nhƣ bị hẫng và nhƣ có một bàn tay vô hình nâng lên khỏi

mặt nƣớc... Khi tỉnh dậy mới biết mình đang nằm ở bờ sông sát mép nƣớc. Trời

sáng dần, lúc này tôi lơ mơ hình dung lại những sự việc đã xảy ra đêm qua. Rồi cố

gắng bò theo bờ sông và rẽ lần theo bờ con rạch lợi dụng những lùm cây ẩn nấp,

tránh bọn địch lùng sục và hy vọng sẽ bắt liên lạc đƣợc với đồng chí Đệ (theo

phƣơng án thì Đệ cũng cùng rời đội hình để đánh lạc hƣớng địch). Cả ngày hôm

đó tôi tuy rất mệt nhƣng phải cố gắng nghe ngóng, quan sát, mà nào thấy gì ngoài

sông nƣớc mênh mang.

Trƣớc khi trời tối tôi quan sát kỹ, xác định hƣớng và quyết tâm bằng mọi

cách phải tìm về đơn vị. Cứ nhƣ thế đêm đi ngày nghỉ, kiếm củ quả ăn để lót dạ.

Vƣợt qua nhiều vòng kiểm soát của địch đến tối ngày thứ 2 thì gặp đƣợc anh

em du kích, đƣợc các đồng chí chăm sóc dần dần lấy lại sức. Thƣờng ngừng lời

nhƣ lấy lại tƣ thế và kể tiếp:

- Lúc địch phát hiện đƣợc chúng tôi, đồng chí Thƣờng nói dứt khoát “theo

phƣơng án 2”. Tôi rời khỏi đội hình còn cố ngoái lại nhìn các đồng chí lần cuối,

lúc này lƣợng nổ còn xa trụ cầu nên đồng chí Thiết cùng Thƣờng cố đẩy khối

thuốc vào gần hơn... Đến đây giọng Thƣởng nhƣ nghẹn lại, nƣớc mắt dàn dụa,

giọng lạc hẳn đi.

- Thủ trƣởng ơi, các đồng chí ơi!... giờ này... các anh ấy không còn nữa rồi.

Nhiều anh em nƣớc mắt lƣng tròng, vô cùng xúc động tiếc thƣơng, cảm phục

các đồng chí thân yêu của mình. Coi cái chết nhẹ tựa bông hồng sẵn sàng hiến

dâng cả cuộc đời cho sự nghiệp lớn. Hành động của họ ngang tầm các chiến sĩ

cảm tử quân dùng bom ba càng lao vào xe tăng địch hay các anh hùng liệt sĩ Phan

Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ

năm nào...

Đã 30 năm trôi qua (8-10-1974 / 4-2004), thi hài các anh đƣợc bà con cô bác

bất chấp sự đe dọa của kẻ thù, đã đón vớt gởi vào lòng đất mẹ Đồng Nai. Giờ đây

mỗi khi nhớ lại lòng chúng tôi cảm thấy bồi hồi, tiếc thƣơng, cảm phục và tự hào

về các anh những Cảm Tử quân trên dòng Sông Phố.

X.Q

205

VUI THAY NGHỀ QUÂN GIỚI

KIỀU VIỆT HÙNG1

Tôi sinh ra tại huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ - tự hào vì sinh ra trên quê

hƣơng đất Tổ Vua Hùng.

Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc của dân tộc đang ở giai đoạn

quyết liệt nhất, tháng 6 năm 1968 tôi cùng bạn bè nô nức tòng quân nhập ngũ. Sau

thời gian làm lính Sƣ đoàn 304B huấn luyện, không kể hết nỗi gian lao vất vã để

có một kiến thức quân sự nhất định gọi là làm “lƣng vốn”, nắng gió thao trƣờng

càng làm cho sức trẻ, lòng trai thêm phấn chấn khi nghĩ tới chiến trƣờng đang

mong đợi. Thế rồi nửa năm bay vèo nhƣ một cái chớp mắt. Tháng 12 năm 1968

thời điểm mà những ngọn gió heo may se lạnh đủ làm cho làn da con gái tƣơi

hồng, thì cũng là lúc toàn đơn vị rộn rã lên đƣờng để lại đàng sau miền trung du

với bao kỷ niệm.

Trƣờng Sơn bạt ngàn thăm thẳm, núi cao không còn xa vời trong trí tƣởng

tƣợng mà Trƣờng Sơn đã ôm ấp chúng tôi vào lòng, những đoàn quân trùng trùng,

điệp điệp nhƣ đi trẩy hội vậy. Khi tới trạm dừng chân cuối đông Trƣờng Sơn, tôi

mới hay mình đã hiện diện tại miền Đông Nam Bộ. Nhƣng mặt trận hãy còn xa

lắm, mà bom đạn thì lại rất gần, đối diện với nó từng giây, từng phút ngay trên đầu.

Tháng 4 năm 1969, chúng tôi có mặt tại địa bàn xã Hƣng Nghĩa, huyện Trảng

Bom trong đội hình Đoàn 75 pháo binh Biên Hoà. Lúc ấy chúng tôi đều hầu hết là

“những chàng lính trẻ măng tơ, nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi” nhƣ diễn tả

trong bài thơ “Nƣớc non ngàn dặm” của Tố Hữu. Nhƣng cơm ở đây nào có đƣợc

đích thực là cơm, mà trộn lẫn các thứ khoai mỳ, bắp, đậu, chuối xanh mới đủ chu

cấp cho cái bao tử đang háu đói của cái tuổi 19 - 20. Thế đấy, bƣớc chân vào tới

chiến trƣờng đã đối mặt với mọi thiếu thốn, vất vả gian khổ và cao hơn thế sẽ đối

mặt với sự hy sinh - kể cả hy sinh tính mạng cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Biết vậy mà ai nấy đều bình thản, tự tin và yêu đời.

Cái cảm nhận đầu tiên của những chàng lính trẻ chúng tôi là đƣợc cán bộ chỉ

huy và số anh em lớp trƣớc tiếp đón thân tình, chỉ vẽ để làm quen từ việc sinh hoạt

theo nếp thời chiến nhằm tránh những đổ máu không cần thiết. Cái này tƣởng nhƣ

là đơn giản nhƣng hệ trọng vô cùng. Có những câu nói mà ai ai cũng thuộc nằm

lòng: “Đi không dấu, nấu không khói, nói không to, ho không tiếng” ngày ngày

trở thành nếp sống thƣờng nhật. Ai đơn giản, tai họa không chỉ đến với riêng mình

mà còn sinh mạng của bao anh em đồng chí đồng đội. Dần dần chúng tôi cũng đã

làm quen với chiến trƣờng, những bỡ ngỡ đã rút dần khoảng cách. Điều quý giá là

niềm tự hào về truyền thống chiến đấu và chiến thắng của Đoàn pháo binh Biên

Hòa lan toả trong từng cán bộ, chiến sĩ đơn vị. Điển hình là chiến công vang dội

trận mở đầu vào phi trƣờng Biên Hòa, đêm 31 tháng 10 năm 1964 biến nơi đây

thành biển lửa, thiêu đốt trên một trăm mấy chục chim ƣng nhà trời Hoa Kỳ, làm

sân bay tê liệt bảy ngày liền. Đó là nỗi kinh hoàng đối với kẻ luôn coi mình là

1 Nguyên trợ lý quân giới Trung đoàn - trung tá công an thành phố Hồ Chí Minh.

206

thƣợng đẳng, coi thƣờng một dân tộc khác. Trận thắng oai hùng ấy là nỗi ám ảnh

của bọn đế quốc hiếu chiến. Những năm tiếp theo, chúng tôi không còn là lính

mới tò te ngày nào mà ai nấy đã thực sự trƣởng thành. Những bộ quân phục khoẻ

trên mình đã vƣơng mùi thuốc súng qua mấy mùa chiến dịch. Khi thì độc lập tác

chiến bằng hỏa lực pháo binh. Lúc thì đóng vai trò khống chế trận địa pháo của

địch để các đơn vị bộ binh bạn đánh đồn, diệt viện. Song với phƣơng thức nào thì

pháo binh Quân giải phóng vẫn là nỗi sợ hãi đối với kẻ thù trên chiến trƣờng Biên

Hoà. Tháng 6 năm 1972, Trung đoàn Đặc công 113 ra đời, một tiểu đoàn pháo

đƣợc tách ra bổ sung nằm trong đội hình, tôi nghiễm nhiên trở thành lính pháo đặc

công, nhƣng chiến đấu mang tính đặc thù, không giống nhƣ anh em pháo thủ

chính hiệu, đó là anh quân khí.

Cái nghề quân khí còn tới mùa quýt mới có đƣợc chiến công vang dội nhƣ

ngƣời lính chiến trƣờng để có huân chƣơng đỏ ngực. Tính hiếu thắng và thêm chút

bồng bột của tuổi trẻ, có khi đã trỗi dậy trong tôi nhƣ thế. Nhƣng khi hiểu hết ý

nghĩa sâu xa của công việc, tôi mới ngớ ngƣời ra mình còn ấu trĩ quá đi thôi.

Chiến công của ngƣời quân khí không hề đơn lẻ, đó là chiến công của mọi chiến

công. Nào thuốc nổ, kíp hẹn giờ, thủ pháo, lựu đạn, đạn pháo, đạn nhọn trăm thứ

đều phải qua tay anh quân giới. Thử hỏi bảo quản không tốt, thuốc ẩm, ngòi hỏng,

đạn bắn bị... xịt thì lấy đâu ra chiến công dù nhỏ dù lớn cho từng đơn vị chớ? Vì

thế mà cần từ bỏ cái ý nghĩ đơn giản công việc thầm lặng mà cao quý vô cùng hỡi

anh chàng ngốc nghếch kia ơi - tôi tự nghiêm túc phê phán với chính mình nhƣ

vậy đó. Mà tôi đã thắng cái tầm thƣờng, mới hay chớ.

Ban quân giới Trung đoàn có ba ngƣời, anh Phạm Cờ - phụ trách chung, chịu

trách nhiệm chính mọi kế hoạch dự trù số lƣợng đạn dƣợc thuốc nổ, các trang bị

khác có liên quan cho cả quá trình hoạt động, chiến đấu của toàn Trung đoàn. Có

đầy đủ súng đạn, vật tƣ khác chƣa phải đã xong, còn phải hƣớng dẫn cách thức sử

dụng, lau chùi bảo quản nữa chứ. Nếu không, vũ khí xuống cấp, bắn không nổ tai

hoạ biết nhƣờng nào.

Tôi còn nhớ, chuẩn bị bƣớc vào trận đánh hoặc mùa chiến dịch cơ số đạn,

thuốc nổ nhận về khá nhiều phải tìm nơi cất giấu, để phòng bom, pháo địch bắn vu

vơ kích thích nổ thì khốn khổ vô cùng. Không ít nơi do sơ suất để lựu đạn, thủ

pháo nổ, hoặc súng cƣớp cò thế là cƣớp đi những mạng sống. Cảnh ấy diễn ra

không còn là cá biệt ở nơi này nơi kia, đấy là bài học xƣơng máu.

Là trợ lý quân khí nhƣng có khi một mình cũng phải đi hàng chục cây số

đƣờng rừng để về Cục hậu cần 814 nhận kế hoạch vật tƣ. Những lúc nhƣ vậy,

chƣa nói bị địch phục kích bắt sống, chỉ một viên đạn lạc, hay một con rắn độc

cắn giữa đƣờng cũng đủ tính mạng bị đe dọa thế nào. Vậy mà tôi đều vƣợt qua, đi

tới, mới thấy tinh thần và sức trẻ khi đƣợc giác ngộ, có gì cản ngăn cho nổi?

Thế rồi lần lƣợt các đơn vị xuất quân. Mở đầu là trận pháo kích của Tiểu

đoàn 174 vào phi trƣờng Biên Hòa đêm ngày 2 rạng mồng 3 tháng 8 năm 1972,

thiêu huỷ trên 70 máy bay các loại của địch, làm chúng khốn đốn. Trận xung lực

của Tiểu đoàn 9 vào tổng kho Long Bình đêm 12 rạng 13 tháng 8 năm 1972 phá

207

hủy trên 500 ngàn tấn bom đạn và phƣơng tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy. Và

nhiều trận tiếp theo cho đến ngày kết thúc chiến tranh 30 tháng 4 năm 1975 toàn

thắng.

Vâng! Thƣa các bạn, là một quân khí viên chúng tôi tiếp nhận khá nhiều vũ

khí, khí tài, đạn dƣợc có đôi khi phải thử trƣớc xem khả năng chất lƣợng nhƣ thế

nào. Bản thân không trực diện với đối tƣợng tác chiến, song, chúng tôi rất lấy làm

tự hào, trong tất cả những chiến công ấy của toàn Trung đoàn có phần đóng góp

quan trọng của những chàng quân khí, nghe qua có vẻ khô khốc làm sao ấy.

Lịch sử nƣớc nhà đã sang trang mới, thế hệ chúng tôi đi qua chiến tranh kẻ

còn, ngƣời mất hoặc thƣơng tích đầy mình, nhƣng tất cả đều chung niềm tự hào.

Riêng Trung đoàn Đặc công 113 thân yêu của chúng ta ba lần đón danh hiệu Anh

hùng của Đảng và Nhà nƣớc trao tặng. Trang sử hào hùng đƣợc khắc ghi trên lá

quân kỳ Quyết thắng.

Riêng tôi đã xa đơn vị mấy chục năm, nay trên cƣơng vị là một cán bộ sĩ

quan trong lực lƣợng cảnh sát nhân dân. Nhƣng mỗi lần nghĩ tới những năm tháng

hào hùng, tôi vẫn cảm thấy vui thay cái nghề quân giới của mình!

TP. Hồ Chí Minh tháng 12 năm 2002

K.V.H

208

TRẬN THỬ LỬA CUỐI CÙNG

TÀO QUANG NHỊ1

Lúc ấy tôi là Đại đội trƣởng đại đội 1, Tiểu đoàn 23 thuộc Trung đoàn Đặc

công 113.

Đêm 26 tháng 4 năm 1975, đại đội tôi chiếm lĩnh trận địa đặt tại rừng chồi Dĩ

An ngang với núi Châu Thới. Đại đội lúc ấy có hai trung đội đặc công tăng cƣờng.

Còn hỏa lực bản thân gồm có: một khẩu ĐKZ 82 mm, một khẩu ĐKZ 75 và một

khẩu ĐKZ 57.

Sau khi một bộ phận của địch bị lực lƣợng ta đánh bật khỏi cầu Mới và cầu

Ghềnh sáng ngày 27 tháng 4 năm 1975, khoảng 10 giờ, chúng đƣợc tăng cƣờng

lực lƣợng của sƣ đoàn 18 và một tiểu đoàn dù từ sau cầu Hang, đánh thốc lên để

mở rộng địa bàn. Mũi đi đầu của địch cách khu vực đại đội tôi khoảng 40 mét.

Chiến sĩ xạ thủ B41 có phần lúng túng nên thao tác chậm, tôi giật ngay súng và

phóng trái đầu vào khu vực địch túm tụm khá đông. Bị nổ ngay giữa đội hình, có

tên bị hất tung lên nhƣ tàu lá chuối. Chúng giãn ra để chuyển hƣớng phát triển.

Nhân cơ hội, đạn ĐKZ của ta bủa vây, thế là mũi đánh vỗ mặt của địch bị chúng

tôi bẻ gãy.

Không những đánh địch trƣớc trận địa, khi phát hiện địch từ cầu Hang lũ lƣợt

tràn về hƣớng cầu Ghềnh, với ƣu thế của hỏa lực ĐKZ các loại, chúng tôi bắn

thẳng vào đội hình chúng. Tuy không quan sát đƣợc xác địch chết vì khói đạn mù

mịt, nhƣng chắc chúng bị tổn thất rất đau phải khựng lại. Song, đạn pháo địch từ

các hƣớng dội về, đại đội tôi ba ngƣời hy sinh và chín ngƣời khác bị thƣơng. Tôi

còn nhớ có anh tên là Danh, bị thƣơng khá nặng vào ngực, máu ra nhiều khát nƣớc

đến cháy cổ. Thƣơng quá không biết làm sao, tôi phải tiểu để lấy nƣớc cho cậu ấy

uống phần nào dịu lại. Không ngờ Danh tăng thêm sức để vƣợt qua đƣợc cơn đau

đè nặng thân thể. Nghe nói cậu ấy giờ đang sinh sống cùng gia đình ở một vùng

quê tại miền Bắc.

Cứ vậy mấy ngày liền chúng tôi thi gan với địch và đã chiến thắng. Hàng

trăm tên bị đền tội trƣớc trận địa giữa hai hƣớng vào cầu Ghềnh và cầu Hóa An,

bốn xe tăng địch bị cháy. Tuy nhiên, về phía mình có trên 52 anh em đã ngã

xuống trƣớc giờ toàn thắng.

Đại quân từ các hƣớng tiến vào giải phóng Sài Gòn, tổng thống Dƣơng Văn

Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Địch thất thủ Biên Hòa vứt súng tháo chạy.

Chúng tôi thu dọn chiến trƣờng, đƣa thƣơng binh vào nhà thƣơng điều trị.

Trong khung cảnh chiến trƣờng còn vƣơng khói súng, cũng là lúc chúng tôi

nhận ra đây là trận thử lửa cuối cùng.

1 Nguyên Đại đội trưởng trận quyết chiến cầu Ghềnh và cầu Mới.

209

T.Q.N

210

VĨNH CỬU – NHỮNG NÉT SON TRONG LỊCH SỬ

ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

QUẾ SƠN

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Vĩnh Cửu

là nơi tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch, bởi đây là cửa ngõ án ngữ bảo vệ căn

cứ Chiến khu Đ ở phía nam, đồng thời là hậu phƣơng trực tiếp, bàn đạp của các

lực lƣợng vũ trang tấn công vào các cơ quan quân sự, chính trị lớn của địch tại

thành phố Biên Hòa. Đặc biệt trong chống Mỹ, trên một địa bàn nhỏ hẹp, quân và

dân Vĩnh Cửu phải đối đầu với một lực lƣợng Mỹ - ngụy dày đặc, một bộ máy

kìm kẹp nặng nề bằng mọi thủ đoạn, biện pháp thâm độc, dã man nhằm diệt lực

lƣợng cách mạng ở huyện để triệt phá Chiến khu Đ, bảo vệ bộ máy của địch ở

Biên Hòa…

* Những hạt giống đỏ...

Những ngƣời con của miền đất ven sông Đồng Nai này, không biết từ bao giờ

đã hun đúc nên truyền thống cách mạng quật cƣờng. Khi thực dân Pháp chiếm

Biên Hòa, ngƣời Vĩnh Cửu đã cùng tham gia các phong trào nhƣ Thiên địa hội của

Đoàn Văn Cự, Trại Lâm Trung ở Thiện Tân, từng khởi nghĩa cƣớp trại giam, giải

cứu thanh niên bị thực dân Pháp bắt đi lính 1916.

Vĩnh Cửu là nơi chi bộ Đảng Cộng sản ra đời sớm nhất ở tỉnh Biên Hòa: Chi

bộ Bình Phƣớc - Tân Triều thành lập tháng 2 năm 1935, và từ hạt giống đỏ này,

những năm 1935 - 1939, Vĩnh Cửu là nơi sản sinh và đào tạo nhiều đảng viên

cộng sản kiên cƣờng, sau này là các đồng chí lãnh đạo của tỉnh nhƣ: Phạm Văn

Thuận, Nguyễn Văn Nghĩa, Huỳnh Văn Lũy, Huỳnh Văn Phan...

Vĩnh Cửu cũng là nơi hình thành Tỉnh ủy Biên Hòa đầu tiên và chính ngƣời

dân Vĩnh Cửu là lực lƣợng nòng cốt trong cuộc nổi dậy giành chính quyền vào

Cách mạng Tháng 8 năm 1945 ở tỉnh Biên Hòa.

* Những nét son trong trang vàng lịch sử

Bây giờ nhắc đến Vĩnh Cửu, những tên đất tên làng cũng thành những chiến

công: Hốc Bà Thức, Thiện Tân, Tân Định, Đại An... đã gắn liền với những chiến

thắng La Ngà, diệt đồn Long Điền, đánh yếu khu quân sự Trảng Bom, diệt bót

Cẩm Vinh, Cây Đào, Rạch Đông, Lợi Hòa, Bình Lợi... trong kháng chiến chống

Pháp.

Đạn bom, chất độc hóa học, những thủ đoạn thâm độc của địch đã không làm

nao núng tinh thần của ngƣời dân Vĩnh Cửu anh hùng trong kháng chiến chống

Mỹ. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, ngƣời dân Vĩnh Cửu đã đứng lên từ căn cứ địa

vững chãi trong trái tim mình. Cuộc đấu tranh chống địch cƣớp đất mở rộng sân

bay Biên Hòa không chỉ gây tiếng vang trong nƣớc. Cuộc vƣợt ngục Tân Hiệp

huyền thoại đã có sự tiếp sức của ngƣời dân Vĩnh Cửu, chiến công Nhà Xanh nổi

tiếng với những tên lính Mỹ chết trận đầu tiên ở Việt Nam cũng có công của

ngƣời dân Vĩnh Cửu. Những năm đầu kháng chiến chống Mỹ, tên tuổi của lực

lƣợng vũ trang Vĩnh Cửu đi liền với những chiến công đánh địch ở Cây Khô, Tân

211

Triều, Bến Cá, Lò Than, Trị An, Cây Da... Đặc biệt, ngày 16 tháng 3 năm 1961,

lực lƣợng vũ trang Vĩnh Cửu cùng Tiểu đoàn 800 của Quân khu đã tiến công tiêu

diệt chi khu Hiếu Liêm, góp phần mở rộng căn cứ về phía nam. Đến năm 1961,

lực lƣợng vũ trang Vĩnh Cửu đã làm chủ một khu vực khá rộng lớn.

Trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, lực lƣợng vũ trang

và nhân dân Vĩnh Cửu đã có nhiều thành tích nổi bật hơn. Đến bây giờ nhiều

ngƣời còn nhớ trận phá ấp chiến lƣợc điểm tại Đại An đêm 24 tháng 11 năm 1963.

Trận đánh đồn Trị An đêm 2 tháng 2 năm 1964 cũng là một chiến công đặc biệt.

Đây là trận tiến công kết hợp quân sự và binh vận, kết hợp lực lƣợng vũ trang và

quần chúng trong đó có cả thân nhân bọn lính trong đồn. Đồn trƣởng Lê Văn

Châu bị bắt. Đến hôm sau, bộ đội huyện và du kích các xã đã thừa thắng xông lên

bức rút các đồn khác nhƣ Kim Liên, các bót cầu 20, 19, 18. Lộ 24 từ Đại An lên

Trị An và xã Trị An với hơn 500 dân đƣợc giải phóng, mở rộng chiến khu Đ.

Tháng 7 năm 1964, lực lƣợng vũ trang huyện phiên hiệu C27 phối hợp với Tiểu

đoàn 800 Quân khu bí mật tiến công hạ đồn Cây Gáo, bắt 19 tên địch, phá tan ấp

chiến lƣợc, giải phóng đồn điền Cây Gáo với 6.000 dân và công nhân. Đây là trận

đánh có ý nghĩa đặc biệt bởi giải phóng Cây Gáo, lực lƣợng vũ trang Vĩnh Cửu

mở đƣợc hành lang vận chuyển từ Chiến khu Đ về quốc lộ 20 để xuống Long

Khánh, Bà Rịa...

Cũng trong giai đoạn này, chi khu Hiếu Liêm, đồn Trị An bị tiêu diệt, bao

vây và bức hàng hai lần.

* Bám trụ và tiến công

Thời kỳ 1965 - 1968, quân viễn chinh Mỹ triển khai ở Biên Hòa. Chúng xây

dựng những căn cứ quân sự lớn. Tổng kho Long Bình, sân bay Biên Hòa. Để bảo

vệ những cơ quan này, địch đẩy mạnh việc “tìm diệt và bình định” ở Vĩnh Cửu.

Có thể nói đây là giai đoạn ác liệt nhất trong lịch sử đấu tranh của huyện:

địch tăng cƣờng phong tỏa bằng giang thuyền trên sông Đồng Nai, tăng cƣờng xây

đồn bót, tăng cƣờng biệt kích, bom pháo và các âm mƣu thâm độc. Nhƣng bám trụ

dù phải hy sinh là quyết tâm của Đảng bộ, lực lƣợng vũ trang huyện. Hầm bí mật

ra đời ngày càng nhiều, hàng chục hầm đã ra đời ở ấp 6, 7, Ông Hƣờng, Cây Khô

(Thiện Tân), Rạch Đông (Tân Định), Bình Long, Lợi Hòa... Chính nhờ bám trụ,

những trận tiến công đầu tiên vào quân Mỹ đã đem lại những thắng lợi vẻ vang.

Hầu hết các trận đánh lớn của quân chủ lực đều có công của quân và dân

Vĩnh Cửu: đêm 24 tháng 8 năm 1965, trận tập kích vào sân bay Biên Hòa của

Tiểu đoàn 34 pháo binh Miền; ngày 11 tháng 11 năm 1965, lực lƣợng vũ trang

huyện cùng C238 của tỉnh đã đánh bại cuộc càn đầu tiên có máy bay yểm trợ của

lữ dù Mỹ vào căn cứ với 78 lính Mỹ bị diệt. Thành quả lớn nhất trong giai đoạn

này ở Vĩnh Cửu chính là xây dựng những tiền đề đầu tiên cho những trận tiến

công lớn để đặc công Biên Hòa U1, pháo binh Miền tấn công vào tổng kho Long

Bình và sân bay Biên Hòa. Từ căn cứ của lòng dân ở Bình Ý, Thiện Tân, Hố Nai,

các trận đánh ngày 26 tháng 6 năm 1967, 17 tháng 11 và ngày 9 tháng 12 năm

1966, ngày 11 tháng 5 năm 1967, 12 tháng 5 năm 1967 của Trung đoàn pháo binh

212

Biên Hòa và đặc công U1 đã thành công và góp phần vào thắng lợi quân sự lớn

trên toàn chiến trƣờng miền Nam.

Trong Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Vĩnh

Cửu là địa bàn tập kết quân chủ lực Miền để tiến công vào các địa bàn trọng yếu.

Đêm 31 tháng 1 năm 1968, lực lƣợng vũ trang huyện và một tiểu đội đặc công đã

đánh Chi khu Công Thanh bao vây làm chủ thị trấn suốt ba ngày, ba đêm, phát

động quần chúng nổi dậy diệt ác phá kềm. Lực lƣợng vũ trang huyện đã bắn cháy

14 xe tăng, tiêu diệt 80 lính Mỹ - ngụy trong đó có tên quận trƣởng chi khu Công

Thanh.

Tháng 3 năm 1967, du kích xã Thiện Tân đã tiêu diệt tên đại uý biệt kích Sáu

Tàng - một tên ác ôn khét tiếng Biên Hòa ở cầu Cây Khô. Cũng trong thời gian

này, lực lƣợng vũ trang huyện đã cùng với bộ đội chủ lực đẩy lùi nhiều cuộc càn

quét lớn của địch. Khó mà kể hết những chiến công vang dội của quân và dân

Vĩnh Cửu, nhất là những trận đánh tiêu biểu của giai đoạn 1969 - 1975. Những

trận đánh vào sân bay Biên Hòa vào những năm 1972, 1975 vang dội hoàn cầu đã

có phần đóng góp lớn lao của lực lƣợng vũ trang và nhân dân Vĩnh Cửu. Có thể

nói ngƣời dân Vĩnh Cửu vô cùng tự hào bởi trong đó có góp phần công sức trí tuệ

và xƣơng máu của mình.

Những trái tim hồng giữa vành đai trắng.

Từ sau tết Mậu Thân, Vĩnh Cửu là chiến trƣờng cực kỳ ác liệt. Địch tăng

cƣờng hành quân, càn quét nhằm tiêu diệt lực lƣợng cách mạng, tạo vành đai trắng

phía bắc Biên Hòa. Trong khó khăn, nhân dân, những cơ sở cách mạng, đã tìm

mọi cách để tiếp tế ra ngoài cho cách mạng. Nhiều gia đình làm ruộng để lúa tại

ruộng để du kích, bộ đội về lấy. Chuẩn bị lƣơng thực, hẹn điểm để cán bộ vào thu

nhận... đó là nét đặc thù trong những năm gian lao. Nhiều cơ sở đã bám trụ trong

khó khăn để che chở cho cán bộ an toàn, tạo điều kiện cho du kích đánh diệt. Trên

20 bà mẹ cơ sở cách mạng bị địch đánh đập rất dã man vẫn trung kiên không khai

báo, khi đƣợc thả về lại tiếp tục hoạt động. Nhƣng ngƣời dân “một tấc không đi

một ly không rời” ấy đã từng che chở cho hàng trăm thƣơng binh, nuôi sống hàng

ngàn chiến sĩ. Họ chính là những trái tim hồng giữa vành đai trắng đầy cạm bẫy.

Và họ chính là những pháo đài thép của lòng dân mà bao phƣơng tiện chiến tranh

hiện đại của Mỹ không sao tiêu diệt đƣợc. Gần ba thập kỷ đã trôi qua kể từ cái

mốc lịch sử 9 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, huyện Vĩnh Cửu đã hoàn toàn

giải phóng, quân và dân huyện Vĩnh Cửu đã tiếp tục viết thêm những trang đẹp

trong lịch sử của mình trên con đƣờng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những chiến

công năm xƣa đã trở thành niềm tự hào và là động lực mới cho công cuộc phát

triển hôm nay, những cán bộ chiến sĩ từng bám trụ chiến đấu với quân thù trên

mảnh đất này. Chính nơi đây đang từng ngày thay da, đổi thịt, tƣơi rói những nụ

cƣời làm lòng mỗi ngƣời chúng ta trào dâng niềm cảm kích.

Q.S.

213

CÓ NGÔI MIẾU THỜ CÁC LIỆT SĨ ĐẶC CÔNG

TẠI DINH BÀ CHÚA XỨ

NGUYỄN QUỐC HOÀN1

(Ghi theo lời kể của ông Huỳnh Quang Sao)

Nét mặt phúc hậu, ngƣời tầm thƣớc, nƣớc da hồng hào, giọng nói nhỏ nhẹ gợi

cảm, dẫu lần đầu mới gặp cũng đã thấy gần gũi và dễ mến... Đó là ông Huỳnh

Quang Sao, nhà ở làng Mỹ Khánh xƣa, nay là ấp Tân Mỹ, phƣờng Bửu Hòa, thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai - đã có công kế thừa, chăm sóc, tôn tạo ngôi miếu để

hƣơng khói các liệt sĩ bộ đội đặc công đã anh dũng hy sinh tại nơi này. Mỗi lần có

dịp nhắc lại sự kiện này, với riêng tôi và chắc mỗi ngƣời chúng ta không khỏi

rƣng rƣng cảm động.

Một buổi sáng cuối tháng 3 năm 2003, sau nhiều lần tìm kiếm, tôi may mắn

gặp đƣợc ông Huỳnh Quang Sao (Sáu Sao) đang phụ giúp vợ bán hàng trang trí

nội thất tại đƣờng Nguyễn Trãi, chợ Biên Hòa. Sau khi nghe tôi trình bày lý do

công việc, ông Sáu Sao lần lƣợt kể lại đầu đuôi sự kiện của gần 30 năm về trƣớc,

ông nói:

- Tôi nguyên là một công nhân của Nhà máy BIF Tân Mai (nay là Nhà máy

gỗ Tân Mai). Cơ sở sản xuất công nghiệp này có từ thời Pháp thuộc. Nhà tôi từ

mấy đời nay đều ở làng Mỹ Khánh. Sau giải phóng, Nhà nƣớc đổi tên là ấp Tân

Mỹ, thuộc xã Bửu Hòa (nay là phƣờng Bửu Hòa - thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng

Nai). Sinh ra và lớn lên ở đây từ thuở nhỏ, bởi vậy, địa hình nơi đây tôi thuộc làu

nhƣ lòng bàn tay. Vào một ngày cuối tháng 4 năm 1975, trên đƣờng từ nhà máy

trở về nhà, lúc đó trời vừa mờ sáng. DINH BÀ CHÚA XỨ, cách nhà tôi khoảng

một trăm thƣớc. Khác với mọi ngày vẻ tĩnh mịch chỉ vọng ra tiếng chim chích ríu

ran gọi nhau rời khỏi tổ đi tìm mồi. Nhƣng hôm nay thật khác thƣờng chƣa từng

thấy bao giờ.

Là một công nhân chân chính, chỉ biết làm ăn để nuôi đàn con nhỏ. Hơn nữa

với môi trƣờng lao động có dịp tiếp xúc với nhiều đối tƣợng, phần nào đó giúp tôi

hiểu biết về những ngƣời hoạt động cách mạng và cuộc sống chiến đấu đầy gian

khổ, hy sinh của họ. Khi đi qua Dinh Bà, bất chợt thấy ngƣời thấp thoáng ở quanh

đó, linh cảm tôi mách bảo: có thể sự kiện gì sắp diễn ra ở đây chăng? Tôi dừng

chốc lát để trấn tĩnh lại mình rồi từ từ tiến lại gần thì thấy không chỉ một ngƣời mà

cả một tốp bán tiểu đội súng ống, trang phục đầy mình hƣớng dần về phía tôi - tất

cả đều hoàn toàn xa lạ. Một anh lại gần cất tiếng hỏi vừa đủ để tôi nghe:

- Xin lỗi, ông đi đâu về vào thời gian này?

1 Nguyên cán bộ Tiểu đoàn 9, Trung đoàn Đặc công 113.

214

Tôi chƣa trả lời ngay nội dung câu hỏi, mà thật bình tĩnh nói một câu để các

anh ấy an lòng, không bận tâm e ngại đến mức phải bối rối giữa lúc tranh tối tranh

sáng này, tôi chậm rãi nói:

- Tôi là ngƣời dân làm ăn lƣơng thiện, nhƣng biết các ông là ai rồi. Xin anh

em hãy nghe tôi - tôi đổi cách xƣng hô có vẻ nhẹ nhàng hơn “anh em” thay vì “các

ông” nhƣ lúc đầu. Tôi hối thúc:

- Các anh nên phân tán ra, tập trung nhƣ thế này nguy hiểm lắm, trời lại sáng

rõ rồi. Quanh đây lính quốc gia rần rần, tôi sợ... cho các anh lắm đó.

Biết đƣợc tâm trạng của một ngƣời “khách” không mời mà tới nhƣ thế này

nhƣng dù sao cũng đã có chút lòng tin, một anh thật thà biểu lộ:

- Bọn tôi về đây để giúp dân cƣớp chính quyền. Trƣớc mắt là đánh chiếm và

bảo vệ cầu Ghềnh nên phải ở lại, không thể khác đƣợc. Cám ơn ông đã chỉ bảo

những gì chúng tôi chƣa biết.

- Nhiệm vụ của các anh tôi không có ý kiến. Nhƣng theo tôi, các anh nên

nghe tôi tản ra đi tìm nơi ẩn nấp cho kín đáo. Tốt nhất xuống dọc mé sông, có

đụng độ lính quốc gia còn có đƣờng thoát hiểm. - Nói đoạn, xét thấy mình ở lại

không giúp gì đƣợc hơn cho họ và còn nguy hiểm nữa nên tôi chào từ biệt, ra về.

Tắm rửa, ăn sáng xong tính đi nghỉ nhƣng, tôi không thể nào chợp mắt, lòng dạ cứ

bồn chồn khi nghĩ tới số phận các anh sẽ ra sao khi quân lính quốc gia, súng đạn

rần rần phát hiện? Bất chợt lại thấy mình nhƣ ngƣời có lỗi, bởi chẳng còn cách

nào khác để kéo các anh ra khỏi vòng tử chiến cực kỳ nguy hiểm có thể ập đến lúc

nào! Sự nhận định của tôi quả không sai. Ngay sáng hôm ấy, bọn chó săn quanh

đó đã cung cấp mọi động thái mà chúng thu thập đƣợc báo tiểu khu Biên Hòa. Lập

tức bọn quân cảnh, lính dù, sƣ đoàn 18 kéo đến bao vây toàn bộ khu vực miễu. Ở

hai đầu cầu Ghềnh anh em đã đánh chiếm hồi hôm đang giữ hai bốt gác cũng bị

máy bay trực thăng võ trang phóng rốc-két và xả đại liên nhƣ mƣa dông. Cuộc

chiến đấu diễn ra không cân sức ấy, mặc dầu anh em ta đã kiên quyết chống trả,

nhƣng cuối cùng lần lƣợt hy sinh một cách đau đớn. Giữa lúc bom rơi đạn lạc

không ai dám đến tận hiện trƣờng để thị sát nên thực hƣ thế nào chẳng biết đƣợc.

Ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi phía ngoài bị ta tấn công, địch thất thủ nhốn nháo

dao động thành dây chuyền nên cả quan lẫn lính chủ yếu tìm mạng sống. Chiều

hôm ấy, đƣợc tin cho hay, đội mai táng Thánh Thất Cao Đài, Bửu Hòa xuống

khâm liệm tử thi và đƣa đi an táng tại nghĩa địa ấp Tân Bản. Sau năm 1980, khi

tỉnh Đồng Nai xây dựng nghĩa trang liệt sĩ, Phòng Lao động Thƣơng binh - Xã hội

thành phố Biên Hòa đã tổ chức đƣa hài cốt anh em về tập trung cùng đồng chí của

mình.

Cảnh thƣơng tâm là 14 anh em hy sinh ngay tại Dinh Bà và quanh khu vực

trong tổng số 47 ngƣời của đơn vị này (Tiểu đoàn 23, Trung đoàn Đặc công 113).

Nghe nói tính cả ở mạn cầu Hóa An thì có tới 52 cán bộ, chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm

lại mảnh đất trƣớc ngày toàn thắng.

215

Ông Sáu Sao kể trong nƣớc mắt: xót thƣơng anh em không để đâu cho hết.

Chỉ ngày một, ngày hai là đất nƣớc sạch bóng quân thù. Vậy mà những trai trẻ này

không còn nhìn thấy ngọn cờ vàng sao tung bay trong nắng mới. Những ngày sau

đó, Ban quý tế đền Nguyễn Tri Phƣơng lập nên một cái miễu tại nơi anh em ngã

xuống, có lƣ hƣơng để bái vọng. Bƣớc đầu miếu cũng đơn sơ thôi chỉ một tấm tôn

gấp lại, tránh mƣa gió. Sau này tôi kiếm thêm vật liệu đƣợc anh chị em Ban quý tế

giúp sức, mới tôn tạo khá hơn. Gần đây phƣờng Bửu Hòa dựng bia ghi danh 150

liệt sĩ địa phƣơng qua các thời kỳ chống Pháp, Mỹ và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Theo chỉ đạo của chính quyền, Ban tổ chức rƣớc lƣ hƣơng và linh hồn anh em

cùng về trên đó nên mới tháo gỡ ngôi miễu này, nhƣng tôi thấy bài “TRUY NIỆM

CHIẾN SĨ TRẬN VONG” còn ngay ngắn quá nên để làm lƣu niệm - nhƣ anh thấy

đó.

Nghĩ giây lát, ông Sáu Sao kể tiếp: từ ngày lập ngôi miễu, sáng tối nào khói

hƣơng cũng nghi ngút. Đó là chƣa kể mỗi năm có hai lần dân làng tổ chức tế lễ

lớn là ngày 16 tháng giêng và 23 tháng 3 cúng vía bà Ngũ Hành, cỗ bàn đề huề

lắm. Cả hai lễ trọng này, Ban quý tế dành đầy đủ lễ vật để dâng hƣơng hồn các liệt

sĩ. Và không riêng gì số liệt sĩ đặc công quê miền Bắc, cha mẹ, ngƣời thân ở xa ít

có điều kiện đến thăm viếng mà cả những ngƣời mẹ, ngƣời vợ tại địa phƣơng có

chồng con ngã xuống trên khắp các chiến trƣờng, họ nhƣ thấy trong ngôi miễu này

có cả linh hồn ngƣời thân của mình vậy. Nhiều bà mẹ tới đây khóc thƣơng đến

nao lòng.

*

* *

Năm nay tôi đã 70 tuổi, song nhờ ơn phúc đức vẫn mạnh khỏe, tỉnh táo, lại là

trƣởng Ban quý tế với 14 - 15 vị đều hết sức tâm huyết với công việc. Mỗi lần ra

dâng hƣơng Dinh Bà, tôi nhƣ thấy hình ảnh các anh hiện về trƣớc ngày lâm trận

của gần 30 năm trƣớc.

Biên Hòa, ngày 29-3-2003

216

ĐẢNG BỘ VĨNH CỬU TRƢỞNG THÀNH TRONG ĐỔI MỚI

NGUYỄN THÀNH CÔNG1

Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cũng nhƣ trong hòa bình xây dựng chủ

nghĩa xã hội, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Cửu luôn giữ vững truyền thống cách

mạng kiên cƣờng, nỗ lực vƣợt khó, năng động đổi mới, góp phần xứng đáng vào

sự nghiệp cách mạng chung của cả nƣớc.

Từ một chi bộ Đảng đầu tiên đƣợc thành lập khá sớm ở Đồng Nai (vào đầu

năm 1935) với bảy đảng viên, đến nay Đảng bộ Vĩnh Cửu đã có 1.250 đảng viên

sinh hoạt ở 45 chi, đảng bộ cơ sở, trong đó có 10 chi, đảng bộ xã, thị trấn.

Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong kháng chiến giành độc lập dân

tộc, nhân dân và lực lƣợng vũ trang nhân dân Vĩnh Cửu đƣợc Nhà nƣớc tuyên

dƣơng danh hiệu Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân vào ngày 29 tháng 1 năm

1996. Từ năm 1996 đến năm 1999, có 7/10 xã thị trấn của huyện đƣợc Nhà nƣớc

tuyên dƣơng Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân. Trong xây dựng chủ nghĩa xã

hội, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Cửu đƣợc Nhà nƣớc tặng thƣởng Huân chƣơng

lao động hạng ba. Thành tích đạt đƣợc không chỉ là niềm vinh dự, tự hào mà còn

trở thành động lực tinh thần của Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Cửu trên con đƣờng đi

lên chủ nghĩa xã hội theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông

thôn.

Phát huy truyền thống cách mạng kiên cƣờng và tinh thần tự lực, tự cƣờng

lao động cần cù, sáng tạo, nhiệm kỳ 1996 - 2000 giá trị tổng sản phẩm nông

nghiệp tăng bình quân 7,2 phần trăm; GDP bình quân đầu ngƣời đạt 14.059.000

đồng bằng 1,8 lần so với năm 1995. Kết cấu hạ tầng xây dựng nhanh, hiệu quả rõ,

100 phần trăm xã, thị trấn có điện lƣới quốc gia, 76 phần trăm số hộ dân đƣợc sử

dụng điện, 100 phần trăm xã, thị trấn có trạm y tế, xây dựng mới nhiều trƣờng học

và sửa chữa kịp thời các phòng học xuống cấp góp phần xoá lớp học ba ca trên địa

bàn... nhiều dự án và công trình đã và đang xây dựng làm thay đổi bộ mặt nông

thôn, cải thiện đời sống cho cán bộ và nhân dân, tạo thế và lực mới trong những

năm sau.

Trong công tác xây dựng Đảng, vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng đƣợc

tăng cƣờng, việc xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh đƣợc chú

trọng và có bƣớc tiến bộ tích cực. Số tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh

hàng năm đều tăng, không có yếu kém; số đảng viên hoàn thành nhiệm vụ đủ tƣ

cách mức 1 đạt tỷ lệ cao (92,34 phần trăm). Trong 5 năm (1996 - 2000), toàn

Đảng bộ kết nạp đƣợc 228 đảng viên mới, số đông là đảng viên trẻ có trình độ

năng lực và phát huy tác dụng tốt. Nhờ đó vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở

Đảng đƣợc tăng cƣờng.

1 Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Vĩnh Cửu.

217

Đội ngũ cán bộ trƣớc hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt đƣợc xây dựng và kiện

toàn trong mỗi kỳ đại hội, từng bƣớc đƣợc trẻ hóa, năng lực trình độ đƣợc quan

tâm đào tạo và nâng lên. Số đông cán bộ đảng viên giữ đƣợc phẩm chất đạo đức

lối sống lành mạnh, trung thành với mục tiêu lý tƣởng của Đảng, làm việc năng

động sáng tạo và hiệu quả.

Bài học kinh nghiệm sâu sắc của Đảng bộ Vĩnh Cửu là: “Phải xây dựng và

giữ được sự đoàn kết nhất trí trong Đảng bộ, làm nền tảng cho khối đại đoàn kết

toàn dân. Quá trình lãnh đạo, Huyện ủy và các cấp ủy Đảng phải kịp thời cụ thể

hóa các chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước phù hợp với

tình hình và điều kiện của địa phương, đơn vị. Huy động, phát huy được các

nguồn lực vào phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống các mặt

của mọi tầng lớp nhân dân”.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc, Đảng bộ Vĩnh Cửu còn một

số mặt hạn chế, thiếu sót đó là:

Công tác giáo dục nâng cao trình độ nhận thức chính trị tƣ tƣởng cho cán bộ

đảng viên còn hạn chế. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trong từng lúc và

trong một số lĩnh vực còn lỏng lẻo. Lề lối làm việc, phong cách lãnh đạo chƣa thật

sự sâu sát, chƣa tạo ra sự đồng bộ giữa các cấp, các ngành để đẩy nhanh quá trình

phát triển kinh tế - xã hội. Tình trạng cán bộ, đảng viên sa sút về phẩm chất, đạo

đức nói và làm không theo Nghị quyết đã làm hạn chế đến năng lực và sức chiến

đấu của các tổ chức cơ sở Đảng. Tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, đời

sống nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, cả huyện còn hơn

3.000 hộ thuộc diện nghèo. Đó là những trăn trở, day dứt của Đảng bộ Vĩnh Cửu.

Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trƣớc hết là công nghiệp

hóa và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, huyện Vĩnh Cửu phấn đấu thực hiện

thắng lợi các mục tiêu kinh tế, xã hội mà Đại hội lần thứ VII Đảng bộ huyện đề ra

là: Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng trên địa bàn bình quân hàng năm là 8,7 phần

trăm; GDP bình quân đầu người tăng 6,5 phần trăm/năm, để đến năm 2005 đạt

19.431.000 đồng/người; giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 8,4 phần

trăm; nỗ lực giảm 2.500 hộ nghèo để đến năm 2005 tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn

còn dưới 3 phần trăm.

Để hoàn thành những mục tiêu quan trọng nêu trên, Đảng bộ Vĩnh Cửu phải

tiếp tục và ra sức thực hiện Nghị quyết Trung ƣơng 6 (lần 2); tập trung và xây

dựng và giữ vững đƣợc đoàn kết thống nhất nội bộ; nâng cao bản lĩnh chính trị,

đạo đức, lối sống cách mạng, năng lực tổ chức thực hiện và hành động của cán bộ

đảng viên; thực hiện nghiêm chỉnh quy định của Bộ Chính trị về những điều đảng

viên không đƣợc làm và xử lý nghiêm minh, kịp thời những cán bộ đảng viên vi

phạm kỷ luật; củng cố và tăng cƣờng hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở, chăm

lo xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh về chính trị, kiên định mục tiêu lý tƣởng

có trình độ và năng lực chuyên môn thành thạo, có hoài bão vƣơn lên để phát huy

và khai thác tốt nhất những tiềm năng, thế mạnh của địa phƣơng.

218

Quá trình phấn đấu và trƣởng thành của Đảng bộ Vĩnh Cửu là quá trình của

những thành tựu và cả những thiếu sót, khuyết điểm trong phát triển kinh tế, xã

hội. Nhận thức đƣợc điều đó, Đảng bộ quyết tâm phát huy hơn nữa truyền thống

cách mạng, nêu cao ý thức tự lực, tự cƣờng, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân, góp phần cùng cả nƣớc tiến lên theo định hƣớng xã hội

chủ nghĩa thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh”.

Có thể nói, hơn 28 năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ

và nhân dân Vĩnh Cửu đã nỗ lực phấn đấu đạt đƣợc những thành tựu quan trọng.

Phát huy truyền thống quê hƣơng anh hùng, Đảng bộ Vĩnh Cửu đang vƣơn lên

khẳng định mình, khai thác tiềm năng thế mạnh của huyện, xây dựng quê hƣơng

Vĩnh Cửu ngày càng giàu đẹp, có cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Đƣợc về họp mặt truyền thống với anh chị em Cựu chiến binh Đoàn Đặc

công 113, lại khơi dậy trong Đảng bộ và nhân dân huyện Vĩnh Cửu chúng tôi một

tình cảm lƣu luyến lạ thƣờng. Bởi chúng tôi hiểu sâu sắc rằng: trong truyền thống

đấu tranh cách mạng kiên cƣờng của địa phƣơng, có phần đóng góp xƣơng máu

của nhiều đơn vị, trong đó có Đoàn Đặc công 113 anh hùng.

N.T.C

219

ĐI KHÔNG DẤU

VŨ ĐẠT

Khi gà lên chuồng ấy là lúc mũi trƣởng trinh sát, thƣợng úy Phan Duy Mật

dẫn đơn vị ra bãi tập. Hành quân trong buổi nhập nhoạng tối, im lặng, ngƣời đi

sau dẫm lên bƣớc chân ngƣời đi trƣớc. Đó là lối đi của chiến sĩ trinh sát đặc công,

vừa bảo đảm bí mật, vừa tránh vấp phải mìn của “địch”. Không kể đêm, ngày,

nắng, mƣa, gió rét, lúc nào các anh cũng phải tập, tập cho quen trong mọi hoàn

cảnh, mọi địa hình, thời tiết. “Chỉ có khổ luyện nhƣ vậy chúng tôi mới đủ điều

kiện hoàn thành những nhiệm vụ đặc biệt của Đảng, Quân đội và nhân dân giao

cho”. Thƣợng tá Trần Đình Lƣợng, Đoàn trƣởng Đoàn M13 đặc công tâm sự: từ

nhiều năm nay đoàn đầu tƣ khá nhiều tiền, công lao động cho các bãi tập. Hàng

rào, lô cốt, công sự của “địch” đều phải nhƣ thật... Xem các anh huấn luyện đêm

mới thấy rõ sự vất vả của họ. Mỗi chiến sĩ trên ngƣời chỉ có chiếc quần xà lỏn và

chiếc mũ, toàn thân đƣợc trát lên lớp nhọ nồi bóng nhẫy. Lại có ngƣời trát bùn đất,

lá cây để phù hợp với mục tiêu tiếp cận. Hỏi chuyện binh nhất Nguyễn Tiến Hùng

mới nhập ngũ một năm, là chiến sĩ giỏi của mũi 1 liên đội 27 Anh hùng, Hùng cho

biết: “Lúc mới vào tập chúng em sợ không theo đƣợc, nhƣng đƣợc các anh đi

trƣớc giúp đỡ dần dần cũng quen. Bây giờ không đi tập lại nhớ”. Liên tục nhiều

năm liền Đoàn M13 là đơn vị huấn luyện giỏi, xây dựng đơn vị theo nền nếp

chính quy và rèn luyện kỷ luật tốt. Tỷ lệ vi phạm kỷ luật năm 2002 so với năm

trƣớc giảm từ 0,8 phần trăm xuống còn 0,4 phần trăm. Nhiệm vụ trực chiến đƣợc

duy trì 24/24 giờ trong ngày, còn những ngày lễ, tết cƣờng độ trực chiến càng cao.

Tối 30 Tết năm nay tôi may mắn đƣợc lên đơn vị chứng kiến họ triển khai kế

hoạch thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, mới thấy thế nào là đơn vị làm

nhiệm vụ đặc biệt. Cả đơn vị “chìm” trong phố phƣờng, trong cây cỏ, trong ao hồ,

bƣớc chân tôi đi chỉ sợ giẫm vào họ... Trung úy Phạm Văn Sợi, mũi trƣởng trực ca

này đã 11 năm chƣa đƣợc về quê đón tết với gia đình, Sợi nói: “Em và nhiều cán

bộ ở đơn vị đã quên khái niệm ăn Tết ở quê rồi”. Xa nhà nhƣng các anh lại đƣợc

vui Tết với nhân dân địa phƣơng, đƣợc nhân dân địa phƣơng quý mến, vì hơn ai

hết nhân dân ở đây hiểu nổi vất vả hy sinh của các anh. Còn nhớ tháng 8 năm

2002, 100 cán bộ, chiến sĩ đơn vị đã chạy bộ hàng chục ki-lô-mét dập tắt đám

cháy cứu đƣợc 200 héc-ta rừng phòng hộ; giúp dân gặt mùa, nạo vét kênh, tu sửa

nghĩa trang, khám bệnh, cấp thuốc và giúp đỡ các gia đình neo đơn, các gia đình

thƣơng binh - liệt sĩ. Chị Khuất Thị Lan, giảng viên khoa Ngữ văn của Trƣờng

Đại học Sƣ phạm 2 đã trở thành ngƣời vợ hiền của đại úy Đại đội trƣởng Lê Sĩ

Thanh cũng từ một buổi giao lƣu văn hóa văn nghệ với trƣờng. Giờ dây anh chị đã

có một cháu gái bốn tuổi xinh xắn. Trƣa 30 Tết hỏi bố đi đâu cháu ngây thơ ghé

sát tai tôi thì thầm “Bí mật”!

Các anh gian khổ hy sinh vất vả ngay cả trong thời bình, chƣa có thời gian để

nghĩ đến mình, doanh trại còn quá chật chội. Đến các phòng ở của cán bộ Phòng

Chính trị tôi mới thực sự thông cảm với cuộc sống của ngƣời chiến sĩ đặc công:

nhà hẹp, ẩm thấp, đêm đông gió lùa qua khe cửa, luồn vào chăn, lạnh thấu xƣơng.

Ngày mƣa trong nhà dột tới mức có đêm nƣớc dềnh lên, trôi mất cả giày, dép. Một

220

cán bộ chính trị tâm sự với tôi: “Quân đội và Nhà nƣớc còn nghèo nên chúng tôi

không kêu ca phàn nàn gì mà vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”.

“Những ngƣời đi không dấu”, dân vẫn nói về ngƣời chiến sĩ đặc công nhƣ

vậy. Họ thật đáng yêu và đáng trân trọng. Họ không chỉ giấu bƣớc chân, giấu hơi

thở mà còn giấu cả những khó khăn mà nhiều ngƣời biết đó là sự hy sinh thời bình.

Họ thật xứng đáng với danh hiệu đơn vị ba lần Anh hùng.

Báo QĐND ngày 16-2-2003.

V.Đ.

221

QUẢN LÝ BỘ ĐỘI THEO CÁCH CỦA ĐOÀN M13

LÊ NGỌC LONG.

Tôi có mặt tại cửa ra vào của Đoàn M13 đúng lúc ba hồi kẻng vang lên báo

hiệu một ngày làm việc, công tác, huấn luyện kết thúc. Từ các ngả đƣờng, từng

đơn vị theo đội hình hai hàng dọc đổ về phía cổng chính vào doanh trại. Khác với

nhiều đơn vị, khi bộ đội đi huấn luyện từ ngoài doanh trại trở về là vào cổng đƣợc

ngay, nhƣng ở Đoàn M13, chỉ huy đơn vị phải báo cáo theo đúng điều lệnh với

trực ban nội vụ của đoàn. Thấy có nhiều điểm khác biệt so với nhiều đơn vị trong

toàn quân, tôi hỏi đồng chí trực ban nội vụ sau khi anh vừa nhận xong báo cáo của

một đơn vị:

- Bộ đội các đơn vị đi huấn luyện về mà cũng phải báo cáo đầy đủ với trực

ban nội vụ chi tiết thế sao? Sao các anh không nắm tình hình các đơn vị thông qua

hệ thống trực ban của mình?

- Đây là quy định của chỉ huy Đoàn đã đƣợc thực hiện trong nhiều năm nay.

Không những khi về mà ngay cả lúc đi trực ban nội vụ đoàn cũng phải nắm chắc

quân số, vũ khí trang bị, nội dung và địa điểm huấn luyện. Có nhƣ vậy khi tình

huống xảy ra chúng tôi mới đáp ứng đƣợc. Mặt khác thông qua phƣơng pháp này,

trực ban nội vụ của đoàn còn kiểm tra, đánh giá đƣợc hiệu quả quản lý, duy trì kỷ

luật của trực ban nội vụ cấp dƣới.

Để kiểm chứng cụ thể hơn kết quả quản lý, duy trì kỷ luật của Đoàn M13, tôi

trực tiếp tìm hiểu ở một số đơn vị. Trƣớc hết, hệ thống sổ sách theo dõi của các

đơn vị khá thống nhất. Mỗi cấp có một quyển sổ theo dõi kỷ luật thể hiện chi tiết

đến từng mũi (tƣơng đƣơng với trung đội). Ở cấp đội (tƣơng đƣơng với cấp đại

đội) theo dõi cụ thể đến từng tổ, và một số đối tƣợng cá biệt. Các đội đều có sổ

theo dõi và đăng ký ra vào ghi cụ thể ngày giờ đi, về, nội dung công việc, địa điểm

và có chữ ký xác nhận của cán bộ trực tiếp quản lý. Khi về, ngƣời đăng ký phải

trực tiếp đăng ký thời gian về với trực chỉ huy đơn vị, đồng thời ký tên vào cột

“Thời gian về” trong sổ.

Cùng với việc dăng ký, quản lý chung, hiệu quả của các hộp thƣ góp ý cũng

đƣợc phát huy tốt. Hòm thƣ góp ý đƣợc chỉ huy các đơn vị bố trí ở những nơi

thuận tiện nhất để ngƣời góp ý không phải gặp những tình huống khó xử. Hằng

tuần, cơ quan chính trị của Đoàn trực tiếp mở và tiếp nhận các ý kiến đóng góp,

phản ánh, phối hợp với chỉ huy từng đơn vị và các cơ quan chức năng xem xét,

giải quyết. Nếu có vấn đề phản ánh đơn giản, có thể giải quyết đƣợc ngay, cơ quan

chính trị kết hợp với chỉ huy các phân đội, trả lời trực tiếp ngay sau buổi đọc báo

và xem thời sự. Nếu có các vấn đề phức tạp, cơ quan chính trị thông báo rõ việc

tiếp nhận, định thời gian trả lời cụ thể. Tất cả các ý kiến đóng góp đều đƣợc chỉ

huy các cấp giải quyết theo nguyên tắc tôn trọng nguyện vọng cá nhân và xứ lý

dứt điểm. Nhờ có những biện pháp kiên quyết, phù hợp với tâm lý, nguyện vọng

nên các ý kiến đóng góp khá đa dạng, thẳng thắn và rất cụ thể. Đặc biệt, thông qua

222

các ý kiến đóng góp, chỉ huy đoàn còn kịp thời nắm chắc đƣợc nhiều vấn đề mới

hoặc chƣa nẩy sinh, có biện pháp xử lý dứt điểm, đồng thời dự báo để chỉ huy các

cấp xác định những biện pháp quản lý, duy trì kỷ luật phù hợp.

Không chỉ chú trọng trong các biện pháp quản lý hành chính và duy trì chặt

chẽ các chế độ, lãnh đạo, chỉ huy Đoàn M13 còn đặc biệt coi trọng đến việc giáo

dục, nâng cao ý thức tự giác của mỗi cán bộ, chiến sĩ. Ngoài các buổi sinh hoạt,

học tập theo chƣơng trình nội dung huấn luyện, đoàn còn thƣờng xuyên tổ chức

nhiều hình thức sinh hoạt ngoại khoá nhƣ tọa đàm, trao đổi, diễn đàn, thi tìm

hiểu... Nhiều hình thức nhƣ tổ chức theo kiểu sân khấu hóa, thu hút đƣợc đông đảo

cán bộ, chiến sĩ và các đơn vị kết nghĩa tham gia. Mặt khác, hệ thống phát thanh

nội bộ của đoàn cũng đƣợc phát huy tốt. Hằng tuần, cơ quan chính trị tổ chức phát

hai chƣơng trình truyền thanh. Ngoài việc đƣa tin kết quả hoạt động trong từng

đơn vị, những gƣơng điển hình, những việc làm tốt, chƣơng trình còn đề cập đến

những trƣờng hợp cán bộ, chiến sĩ vi phạm kỷ luật quân đội, quy định của đơn vị.

Nội dung thông tin nêu rõ, họ tên, đơn vị, cấp bậc, chức vụ, hành vi vi phạm, mức

độ xử lý và hậu quả xảy ra... Thông qua các buổi phát thanh nhằm tạo dƣ luận tập

thể để giáo dục bộ đội đồng thời còn chính là lời “cảnh báo” đối với ngƣời khác.

Trao đổi với chúng tôi, đại tá Trần Đình Lƣợng, Đoàn trƣởng Đoàn M13 Đặc

công cho biết:

- Trong điều kiện huấn luyện thƣờng xuyên ở cƣờng độ cao, tính chất nhiệm

vụ đòi hỏi phức tạp, nếu không có biện pháp quản lý, duy trì kỷ luật chặt chẽ, hiệu

quả thì đơn vị không đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Kỷ luật chặt chẽ, nghiêm

minh không chỉ tạo nên sự ổn định, thống nhất trong đơn vị, mà thực sự trở thành

sức mạnh trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và xây dựng đơn vị vững mạnh

toàn diện ở Đoàn M13 nhiều năm qua.

L. N. L

223

NHÌN ANH EM HY SINH TRƢỚC GIỜ TOÀN THẮNG,

LÒNG TÔI QUẶN ĐAU NHƢ CHÍNH HỌ LÀ NHỮNG

ĐỨA CON THÂN YÊU CỦA MÌNH

ông VÕ HOÀNG SƠN (Ba Đậu)1

Vào quãng sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, quan, quân chế độ cũ nhốn nháo

bởi áp lực tiến công của phía cách mạng. Lúc ấy tầm 7 - 8 giờ của một ngày nắng

vàng rực rỡ. Tôi đang ở tại thánh thất Cao Đài xã Bửu Hòa gặp ông Chín Chút,

Chủ tịch ủy ban khởi nghĩa hớt hải chạy tới, biểu:

- Ở dƣới bờ sông Đồng Nai và khu vực cầu Ghềnh, một số bộ đội giải phóng

hy sinh. Anh Ba xuống điều hành giúp. Tôi hỏi lại ông Chín:

- Cách thức giúp sao anh Chín?

Thi thể anh em bị trúng đạn, bầm dập, mấy ngày này trời nắng đã phình lên

coi bộ thƣơng tâm lắm, mà sắp nhỏ nó không làm đƣợc, anh Ba lớn tuổi, có kinh

nghiệm làm chu đáo hơn - lời ông Chín. Còn đồ khâm liệm đâu? - tôi hỏi.

- Ủy ban khởi nghĩa đang cử ngƣời đi huy động đƣa tới ngay bây giờ.

Phần nào tôi đã hình dung đƣợc nội dung công việc. Ngay sau đó, tôi hối thúc

khoảng 14 - 15 anh em trốn quân dịch với danh nghĩa là tu sĩ và quản dịch đƣợc

thánh thất hợp lý giấy tờ để khỏi đi lính chết trận, đƣợc tôi điều động ai nấy hăng

hái tham gia. Thú thực bƣớc đầu chính tôi cũng không thể hình dung tình cảnh

thƣơng tâm nhƣ vậy. Câu chuyện diễn biến nhƣ sau:

- Khuya 27 tháng 4 năm 1975, một đơn vị đặc công quân giải phóng (sau này

tìm hiểu biết rõ đó là đại đội 1 Tiểu đoàn 23 thuộc Trung đoàn Đặc công 113 tỉnh

Biên Hòa, từ đâu đó về đánh chiếm cầu Ghềnh. Khi đi qua nhà đèn ngã tƣ chợ

Đồn, ngƣời cuối đội hình bị một tên nghĩa quân bắn chết. Lập tức chúng bị giáng

một quả đạn B40, lô cốt bị vỡ mảng lớn. Tên lính gác ngồi trên nhảy ù xuống

đƣợc đồng bọn dìu chạy về phía cầu Ghềnh, rồi tạt xuống ấp Tân Mĩ. Anh em bộ

đội truy đuổi nhƣng bị rào cản đành dừng lại rồi tìm nơi ém quân, vì nhiệm vụ

chính đang chờ đón họ và đây còn là trong lòng địch.

Thế rồi sáng hôm sau 28 tháng 4, có một tên mắc dịch thật đê tiện đến trụ sở

xã báo cho bọn chỉ huy nghĩa quân. Chúng gọi điện cho chi khu Đức Tu và tiểu

khu Biên Hòa. Lập tức, chúng điều động lính dù sƣ đoàn 18 trong thị xã tràn qua,

máy bay lên thẳng đổ quân xuống cánh đồng Tân Mỹ đánh bọc lên. Một anh hy

sinh ở gần cầu. Phối hợp với bộ binh mặt đất, trực thăng võ trang bắn rốc-két và

1 Nguyên Chánh sự thánh thất - Cao Đài - phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa.

224

đại liên xuống. Thế là bảy anh em hy sinh tại đền thờ Nguyễn Tri Phƣơng nằm

gần sát cầu. Nghe nói tên Danh chỉ huy bọn nghĩa quân đánh chùa Mục Đồng làm

năm anh hy sinh tại chỗ. Nghe cô bác kháo nhau vậy, tôi chỉ biết thế. Thời buổi

loạn lạc, đôi khi do thiếu tỉnh táo lại bị thúc bách, lòng dạ lang sói của chúng trỗi

dậy lúc nào không hay, trở thành kẻ phản bội. Tội danh của chúng tới đâu do

chính quyền cách mạng phán xử. Còn việc chính của tôi lúc này là chỉ đạo việc

khâm liệm thi thể các anh, miệng nói tay làm, càng nhanh càng tốt.

Bƣớc đầu những tƣởng chỉ vài ba ngƣời. Nào ngờ gấp nhiều lần nhƣ thế. Sau

khi khâm liệm đầy đủ, đếm đƣợc 14 ngƣời. Nhìn những phong lƣơng khô chƣa

kịp dùng hoặc dùng còn dở dang đeo ngang lƣng mà lòng tôi nhƣ thắt lại. Đó là

khẩu phần ăn của những ngƣời lính giải phóng vào trận đấy. Trời ơi! Thế mà bấy

lâu nay chính bản thân tôi đã ngần ấy tuổi đầu cũng còn mù mờ lắm!

Sau khi tôi chỉ đạo, điều hành và trực tiếp khâm liệm xong số thi hài anh em

hy sinh, một chiếc xe GMC (ta thu đƣợc do một tài xế nào đó điều khiển mà tôi

không biết tên), theo sự hƣớng dẫn của ông Chín Chút, đã đƣa anh em đến và an

táng ở nghĩa địa ấp Tân Bản. Sau những năm 80, cơ quan chủ quản Sở Lao động

Thƣơng binh - Xã hội tỉnh đón các anh về nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Đồng Nai với

đồng đội của mình.

Gần 30 năm đã đi qua, đất nƣớc ta sạch bóng quân thù. Tôi giờ đã bƣớc sang

tuổi 81. Tuy không còn tráng kiện nhƣ hồi bấy giờ, nhƣng nhờ ơn bề trên ban lộc

nên vẫn còn khỏe mạnh và đầu óc còn minh mẫn, tỉnh táo lắm. Bởi vậy, mỗi lần

liên tƣởng đến công việc mình làm năm nào, hình ảnh các anh lại hiện về làm tôi

không khỏi đau đớn nhƣ chính họ là những đứa con thân yêu của mình vậy.

Riêng tôi, là ngƣời có đạo, tôi vẫn tâm niệm rằng các anh không bao giờ chết,

mà hồn thiêng trai trẻ vẫn hiển hiện quanh ta giữa bầu trời tự do tƣơi thắm này.

Các anh là bất tử.

V.H.S.

225

HÃY XỨNG ĐÁNG LÀ TRAI ĐẤT TỔ - VUA HÙNG

NGUYỄN VĂN CHƢƠNG

(Trân trọng kính tặng các đồng chí Tiểu đoàn 23 Trung đoàn 113 Anh hùng

và các liệt sĩ đã hy sinh trong trận đánh ngày 27 tháng 4 năm 1975.).

Chiến tranh đã trôi qua 27 năm, nhƣng hôm nay những hình ảnh về những

năm tháng gian khổ sống và chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc của các cán bộ

chiến sĩ Tiểu đoàn 23 Trung đoàn 113 vẫn còn in đậm trong ký ức của tôi và

những đồng đội của mình.

Cuối tháng 4 năm 1975, đài tiếng nói Việt Nam liên tục thông báo tin thắng

lợi của quân và dân ta trên khắp các chiến trƣờng miền Nam, viễn cảnh thất bại

của chế độ Sài Gòn đã đến gần, càng làm chúng tôi náo nức đƣợc góp phần vào

chiến thắng chung của quân dân ta giành độc lập tự do cho Tổ quốc.

Chính trong thời điểm này, ngày 26 tháng 4 năm 1975 chúng tôi đƣợc lệnh

“Cả tiểu đoàn chuẩn bị đi chiến đấu. Không ai bảo ai nhƣng chúng tôi đều hiểu

rằng có lẽ đây sẽ là trận đánh cuối cùng của đời lính đặc công. Trận đánh này sẽ

vô cùng gay go và tính chất ác liệt của nó chƣa xác định đƣợc. Cả tiểu đoàn tập

trung nghe Tiểu đoàn trƣởng Ba Trạch và Chính trị viên trƣởng Tƣ Dĩ phổ biến

tình hình, nhiệm vụ cho các đại đội và các bộ phận. Điểm mà đơn vị chúng tôi

phải đến là cầu Ghềnh giữa lòng thành phố Biên Hòa. Nhiệm vụ chúng tôi phải

thực hiện là chiếm lĩnh và giữ bằng đƣợc cây cầu, đảm bảo đƣờng cho các đơn vị

quân chủng bạn đi qua cùng với các con đƣờng khác cùng tiến về giải phóng Sài

gòn.

Đêm 25 tháng 4 hầu nhƣ chúng tôi không ai ngủ đƣợc mỗi ngƣời một việc ai

nấy đều hăm hở bắt tay chuẩn bị cho trận đánh. Bộ ba Hải (Minh Côi, Hạ Hoà),

Đát (Bản Nguyên, Lâm Thao) và tôi cùng quê Phú Thọ, sau khi chôn giấu toàn bộ

hành trang gồm quần áo, sổ sách, thƣ từ trong chiếc hòm đạn đại liên, chúng tôi

ngồi bên nhau ôn lại kỷ niệm những năm tháng đã qua và nói với nhau lời chia tay,

bởi không biết ai còn ai mất trong cuộc chiến ác liệt này. Chúng tôi ôm nhau và

thầm hứa với nhau hãy chiến đấu xứng đáng là trai đất Tổ - Vua Hùng.

Ngày 26 tháng 4 năm 1975, từ sáng sớm cả căn cứ nhƣ sôi động, tất cả mọi

công việc chuẩn bị đƣợc tiến hành một cách chu đáo, mỗi ngƣời đƣợc trang bị một

khẩu AK với ba cơ số đạn, năm trái thủ pháo cầm tay, theo tinh thần đƣợc quán

triệt của cán bộ tiểu đoàn thì chúng tôi chỉ cố gắng giữ cầu Ghềnh qua đêm 27

tháng 4 và sáng 28 tháng 4 đại quân của ta sẽ từ Xuân Lộc kéo qua giải phóng

thành phố Biên Hoà, nhƣ vậy sự tổn thất của tiểu đoàn sẽ không đáng kể. Mọi

ngƣời phấn khởi bƣớc vào trận đánh đầy lạc quan, tin tƣởng chiến thắng đã đến

gần, rất gần.

Mƣời bảy giờ (năm giờ chiều) chúng tôi vội vã ăn cơm và tất cả tiểu đoàn tập

trung chuẩn bị xuất phát. Tiểu đoàn trƣởng Ba Trạch nhắc lại lần cuối phƣơng án

nhiệm vụ của từng đơn vị, từng bộ phận. Chính trị viên Tƣ Dĩ động viên tƣ tƣởng,

226

toàn thể ai nấy thông suốt và hứa quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, với một khí thế

náo nức lạ thƣờng.

Màn đêm buông xuống nhƣng không có vẻ yên tĩnh nhƣ thƣờng ngày. Xa xa

tiếng súng, tiếng pháo ngày một nhiều vọng về và trong chiến khu giữa đất trời

miền Đông Nam Bộ đã thấy xuất hiện bóng dáng của các khẩu pháo lớn của Quân

đoàn 1 đang di chuyển, chuẩn bị công kích sân bay Biên Hòa, càng làm chúng tôi

nôn nóng.

Khẩu lệnh: Xuất phát đƣợc truyền đi lặng lẽ. Tiểu đoàn 23 chúng tôi cùng với

Tiểu đoàn pháo 174 ngƣời nọ nối ngƣời kia từ từ di chuyển ra khỏi căn cứ để lại

sau lƣng những kỷ niệm của những năm tháng ngủ rừng, mƣa hầm, cơm vắt; để lại

sau lƣng những cánh rừng bạt ngàn của miền Đông Nam Bộ đã che chở và nuôi

sống chúng tôi trong những năm tháng qua. Không ai nói gì nhƣng chúng tôi đều

hiểu rằng có lẽ chƣa chắc sẽ có dịp quay trở lại. Mọi suy nghĩ đều dành cho trận

đánh đêm nay.

Tiểu đội trinh sát chúng tôi bảy ngƣời đƣợc chia xuống các đại đội. Tôi

xuống cùng đại đội anh Thính ngƣời Bạch Hạc, Việt Trì, phía sau tôi là Yên ngƣời

Hà Lộc, Phú Thọ. Toàn tiểu đoàn nhƣ con rắn trƣờn đi nhẹ nhàng trong đêm, vƣợt

qua nhiều cánh đồng lúa đang phơi màu, qua nhiều xóm, ấp thỉnh thoảng nghe

những tiếng chó sủa. Tự nhiên thấy hình ảnh quê hƣơng hiện về và lại trôi qua thật

nhanh. Đáp lại với cảnh vật ấy, chúng tôi phải căng mắt ra bám vào ngƣời phía

trƣớc, giữ đúng cự ly. Cứ thế, dần dần thì ánh điện thành phố Biên Hòa cũng đã

hiện ra trƣớc mắt phần nào cũng giúp chúng tôi nhìn rõ đƣờng đi hơn và đâu đó

một vài loạt súng AR15, tiếng đạn M79 rời rạc cùng với ánh sáng của pháo dù bắn

lên từ các đồn địch làm tốc độ di chuyển của chúng tôi cũng nhanh hơn. Phải

nhanh chóng tiếp cận mục tiêu.

Cầu Ghềnh - cái tên nghe vừa lạ vừa quen tôi cố hình dung nhƣng cũng

không hiểu hình hài nó ra sao, chỉ biết rằng phải giữ nó không đƣợc để quân địch

phá, sẽ ngăn cản bƣớc tiến của quân ta. Kim đồng hồ đã chỉ 1 giờ sáng, Tiểu đoàn

174 đã tách khỏi đội hình đi về phía cầu Mới - cây cầu mà trƣớc đây bốn chiến sĩ

Thƣờng, Thiết, Thƣởng, Đệ của đại đội đặc công nƣớc của tiểu đoàn tôi đã đánh

sập hai nhịp, và nhiệm vụ của họ cũng phải bảo vệ bằng đƣợc nó. Chúng tôi đã đi

vào giữa con đƣờng dẫn tới cầu Ghềnh. Khi bƣớc qua đoạn đƣờng sắt cũng là lúc

tôi hiểu chúng tôi đã đến mục tiêu, cây cầu đã hiện ra trƣớc mắt huyền ảo lung

linh in hình xuống dòng sông thơ mộng. Chúng tôi từ từ ém sát các chốt đầu cầu

phía bên Chợ Đồn. Tôi chia tay anh Thính, Hải và một bộ phận bơi qua sông sang

đầu cầu bên kia nằm giữa Cù Lao Phố nhƣ một hòn đảo nhỏ. Tôi cùng Yên nằm

lại hồi hộp chờ giờ nổ súng. Đã nhiều lần vào trận nhƣng có lẽ đây là trận đánh

mà chúng tôi cảm thấy căng thẳng nhất. Có thể tôi hoặc đồng đội của mình sẽ ngã

xuống trƣớc ngày toàn thắng nhƣng có hề chi. Chúng ta cùng tự hào vì đã anh

dũng hy sinh cho độc lập tự do của Tổ quốc.

Đúng 2 giờ 30 phút sáng, một tiếng nổ của khẩu ĐKZ của Tiểu đoàn 174 làm

hiệu lệnh mở đầu cho trận đánh. Tiếng nổ đã đánh thức toàn thành phố. Chúng tôi

227

nhanh chóng phong toả các mục tiêu đã đƣợc phân công, những ánh chớp của các

quả thủ pháo bùng lên và những tiếng nổ dồn dập khắp hai bên đầu cầu và cả phía

trên kia nơi Tiểu đoàn 174 chiếm giữ. Tôi hiểu chúng tôi đã đạt yêu cầu ban đầu

hiệp đồng với các đơn vị bạn. Trong trận này hầu nhƣ chúng tôi không gặp một sự

kháng cự nào, chúng tôi nằm lại chờ trời sáng, chờ tin thắng lợi của các đơn vị.

Chiến tranh vẫn tiếp diễn không lƣờng hết, sau khi im tiếng súng, chúng tôi

chờ tiếng pháo vào sân bay Biên Hòa nhƣng chƣa thấy đâu, mà chỉ có tiếng những

động cơ máy bay lên xuống ngày càng nhiều hơn và đã có tiếng rít của đạn pháo

địch rơi xuống lòng sông nơi chúng tôi đang chiếm giữ. Xung quanh nhiều tiếng

la, tiếng gọi nhau của nhân dân hốt hoảng chạy xa nơi chiến sự. Lệnh của tiểu

đoàn - bằng mọi giá phải ở lại giữ cầu. Đoán có sự chẳng lành, chúng tôi cùng tìm

chỗ ẩn nấp để chuẩn bị đối đầu với cuộc chiến đấu mới.

Đúng nhƣ dự đoán, mọi kế hoạch không suôn sẻ nhƣ chúng tôi tƣởng. Khi

mặt trời ló rạng, cả vùng ấp Chợ Đồn vắng lặng, một sự im lặng đáng sợ của chiến

tranh, báo hiệu tính chất ác liệt của cuộc chiến đang đến gần. Chúng tôi bình thản

chờ đợi, mọi sự sắp xếp chuẩn bị đối đầu với lực lƣợng ngụy quân đang cố giãy

giụa trƣớc ngày sụp đổ. Tôi nhìn quanh, hầu nhƣ đồng đội của tôi vẫn nguyên vẹn

nhƣ khi bắt đầu ra trận, mọi ngƣời đều nhìn phía bên kia cầu bộ phận tiền duyên

cũng đang đón chờ cuộc chiến đấu mới.

*

* *

- Xe tăng! - Một tiếng kêu của ai đó.

- Chuẩn bị chiến đấu!

Chúng tôi đã nghe tiếng gầm rú của xe tăng phía bên kia cầu và tiếng máy

bay rít trên bầu trời quần đảo nơi chúng tôi đang chiếm giữ. Tôi nhìn thấy rất

nhiều bóng những sắc phục lính ngụy bên cù lao, rồi tiếng đạn pháo, đạn xe tăng

xen lẫn tiếng súng AR15, M79 của địch liên tục hƣớng về phía chúng tôi. Có lẽ

chúng đang cố đánh bật bộ phận anh Thính phía bên kia. Chúng tôi tựa vào nhau

kiên quyết chống trả những trận phản công của địch hòng chiếm lại cây cầu. Xung

quanh tôi bụi mù mịt vì khói súng và bụi đất, đôi tai dần dần nhƣ không còn nghe

thấy gì, chỉ thấy mặt đất rung từng đợt. Tiếng súng AK của chúng tôi lọt thỏm

giữa không gian của trận chiến ác liệt. Một số đồng đội của tôi mặt mũi nhọ nhem,

thỉnh thoảng ra hiệu cho nhau di chuyển vị trí tìm nơi thuận lợi có thể ngăn cản

các đợt tấn công của địch không cho chúng vƣợt sang bên này cầu. Cứ nhƣ vậy

đôi bên giằng co trận địa dƣới những làn đạn pháo, đạn máy bay của địch.

Mặt trời lên cao dần, trận đánh cũng giảm bớt nhịp độ, tôi đổi vị trí cho Yên

lùi một chút về phía sau, xung quanh tôi có một số đồng đội đã nằm yên tôi đoán

chắc họ đã hy sinh, lòng căm hận trào dâng, tự nhủ phải cố gắng bảo vệ cầu và

bảo vệ danh dự ngƣời chiến sĩ, không lùi bƣớc trƣớc những hy sinh của đồng đội.

Phải chiến đấu để trả thù cho bạn và kìa, hình ảnh của Tuân y tá quê Hà Bắc ôm

228

súng vƣợt qua cầu nhƣng anh chƣa kịp qua cầu bỗng khựng lại chới với trƣớc làn

đạn của địch. Anh hy sinh trƣớc mắt tôi mà không thể cứu đƣợc. Tôi kêu lên một

tiếng: Tuân ơi!

Lệnh của tiểu đoàn: phải giữ gìn lực lƣợng không manh động qua cầu khi

chƣa có lệnh. Tôi lùi lại nắm vai Yên thì ngƣời anh đã mềm nhũn từ khi nào, máu

chảy dài trên khuôn mặt anh. Tôi ôm lấy anh mà thấy tim mình buốt nhói trƣớc sự

hy sinh thầm lặng của anh cùng với những đồng đội của tôi đã ngã xuống khi

thắng lợi đang đến gần.

Mặt trời đã xế bóng, chiến sự không còn ác liệt nhƣ buổi sáng, tiếng đạn pháo,

tiếng máy bay thƣa dần, phía bên kia cầu không còn tiếng súng, không biết bộ

phận của ta bên ấy ra sao. Chúng tôi vẫn không đƣợc lệnh qua cầu, tôi nhìn quanh

chỉ còn một vài đồng đội nhƣ anh Bang (ngƣời Hà Tây) Trung đội trƣởng, anh Đát

(Bản Nguyên, Lâm Thao) và một số ngƣời bị thƣơng đang đƣợc chuyển về phía

sau.

Khoảng 4 giờ chiều toàn trận địa im hẳn tiếng súng, tiếng máy bay, tiếng xe

tăng. Một sự im lặng đáng sợ. Không biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo, chúng tôi lại

căng thẳng chờ đợi không kịp nghĩ đến cái nóng, cái khát, cái đói trong suốt một

ngày chiến đấu. Có một vài ngƣời dân mạnh dạn mang nƣớc uống và thức ăn cho

chúng tôi và giúp chúng tôi đi tìm những đồng đội đã hy sinh. Xa xa phía Hố Nai

tiếng súng, tiếng pháo, lại nổi lên từng chập có lẽ cũng có những đụng độ quyết

liệt của quân ta với quân ngụy đang cố thủ. Chúng tôi vẫn trong trạng thái căng

thẳng cảnh giác. Thời gian cứ trôi và bóng tối đã trùm xuống thành phố. Chúng tôi,

những ngƣời sống sót đang tìm nhau, tôi chỉ bị xây xƣớc nhẹ. Những đồng đội bị

thƣơng đang đƣợc các y tá, y sĩ của tiểu đoàn sơ cứu, có nhiều tiếng rên trong đêm.

Ngƣời vô cùng mệt mỏi, tôi ôm súng căng mắt nhìn về phía cầu, cùng một số

đồng chí còn lành lặn sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Có nhiều ngƣời

dân trong ấp ra trận địa giúp chúng tôi chăm sóc các thƣơng binh và tiếp tế, thuốc

men, thức ăn, đồ uống. Tôi cầm chiếc bánh trong tay mà miệng đắng ngắt, nƣớc

mắt tuôn trào vì sự hy sinh quá nhiều đồng đội.

Đêm dần trôi. Bỗng Biên Hòa rung động bởi những loạt pháo vang dậy phía

sân bay, liên tục trong một khoảng thời gian dài, chúng tôi gọi nhau mừng rỡ vì

chắc chắn đây là những loạt đạn của quân ta đang đánh chiếm Biên Hoà theo nhƣ

hợp đồng tác chiến. Lệnh của tiểu đoàn: Chuẩn bị đánh địch rút chạy. Chúng tôi

tập hợp lực lƣợng còn lại khoảng hơn 20 ngƣời và những số đạn ít ỏi nằm phục

bên đầu cầu. Tiếng pháo xen lẫn tiếng súng các cỡ của quân ta vẫn vang dội phía

thành phố, không có tiếng máy bay lên xuống. Mọi kháng cự của địch hầu nhƣ

thƣa thớt, ít ỏi và tuyệt vọng. Chúng tôi hiểu Biên Hòa đang thất thủ trƣớc sự tấn

công của quân ta. Rất nhiều nơi trong và ngoài thành phố chiến sự vẫn đang tiếp

diễn, những ánh chớp của đạn pháo, của tiếng súng làm chúng tôi hồi hộp chờ giờ

giải phóng miền Nam thân yêu. Chúng tôi chờ đợi quân địch rút chạy, nhƣng

không có động tĩnh gì.

229

Bình minh lên trong tiếng súng của quân ta chiến đấu giải phóng Biên Hoà.

Hàng đoàn ngƣời dân chạy qua cầu hỗn loạn, chúng tôi cầm súng đứng canh cầu

và hƣớng dẫn cho họ sơ tán nhanh ra khỏi nơi chiến sự. Có thể trong số đó có cả

những têu lính ngụy đã trút bỏ bộ đồ vấy máu nhân dân để trốn chạy, quần áo

ngụy quân vứt rải rác báo hiệu chế độ ngụy quyền Sài Gòn đã sụp đổ.

12 giờ ngày 29 tháng 4 năm 1975 cờ giải phóng đã tung bay khắp nơi trong

và ngoài thành phố Biên Hòa. Nhân dân đổ ra đƣờng hò reo chiến thắng và chào

đón đoàn quân của ta từ các quân đoàn tiến về Sài Gòn. Chúng tôi nhanh chóng

triển khai làm công tác thƣơng binh liệt sĩ, những đồng đội bị thƣơng đƣợc nhân

dân giúp đỡ cho đi bệnh viện cứu chữa, và đi thu lƣợm những thân thể đồng đội đã

hy sinh, có ngƣời không nguyên vẹn. Những chiếc quan tài đƣợc đƣa đến, chúng

tôi ngậm ngùi đƣa tiễn họ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Sự hy sinh vô cùng anh dũng

trƣớc ngày toàn thắng của dân tộc, của những ngƣời lính mãi mãi ghi trong sổ

vàng của Trung đoàn 113. Tiểu đoàn 23 hy sinh 47 ngƣời, số bị thƣơng cũng khá

nhiều, còn lại tƣơng đối lành lặn khoảng hơn 20 ngƣời. Nhân dân vây quanh

chúng tôi trầm trồ thán phục. Họ nhìn chúng tôi ngỡ ngàng, ngƣời lính Cụ Hồ

trƣớc mắt họ cũng chỉ là những ngƣời bình thƣờng nhƣng đã làm nên những chiến

công hiển hách.

11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, cờ giải phóng đã tung bay trên nóc

dinh Độc lập. Miền Nam hoàn toàn giải phóng. Trong cuộc chiến tranh giải phóng

dân tộc hàng triệu ngƣời đã ngã xuống cho độc lập tự do của Tổ quốc trong đó

chốt thép cầu Ghềnh luôn là niềm tự hào của chúng tôi, những chiến sĩ Tiểu đoàn

23 Trung đoàn 113 Anh hùng.

Hôm nay bên cầu Ghềnh, tôi bùi ngùi nhìn lại trận địa xƣa, hình bóng của

những đồng đội năm ấy vẫn theo tôi trong kỷ niệm thời chiến tranh, và trong sự

nghiệp xây dựng Tổ quốc. Các anh đã ngã xuống cho mầm xanh hạnh phúc muôn

đời mai sau. Kính cẩn nghiêng mình trƣớc những hƣơng hồn bất diệt.

Biên Hoà 27-7-2002

N.V.C

230

GẶP LẠI NHỮNG ÂN TÌNH

NGUYỄN QUỐC CHÍNH

Cũng nhƣ các kỳ họp trƣớc đây, Ban liên lạc truyền thống ấn định, rồi phân

công thành viên liên hệ với cơ quan chủ quản. Nếu đƣợc chấp thuận thì tiến hành

phát giấy mời và phân công ngƣời xúc tiến các bƣớc công tác chuẩn bị: từ tổ chức

trang trí hội trƣờng, đón tiếp khách đến dùng bữa cơm thân mật sau khi kết thúc

buổi họp mặt...

Kỳ họp kỷ niệm 31 năm ngày truyền thống của Đoàn Đặc công 113 vào ngày

7 tháng 6 năm 2003 này, thiếu tƣớng Nguyễn Thanh Tùng trƣởng ban liên lạc ấn

định tổ chức tại hội trƣờng A Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai. Và qua làm việc

với lãnh đạo, chỉ huy ở đây đều nhất trí cao. Trên cơ sở đó giấy mời cũng đã đƣợc

phát hành tới tay đại biểu. Nhƣng, gần tới ngày triển khai họp mặt thì nhận đƣợc

thông báo của cơ quan Điện lực Biên Hòa: cắt điện trong hai ngày để cải tạo

đƣờng dây. Họp đông ngƣời mà bị cắt điện thì điều gì sẽ diễn ra?

- Mất điện, kèm theo mất nƣớc, hệ thống loa, amply micro vô hiệu hóa, nói

không đủ sức, nghe... thật là một tình huống bất khả dĩ.

Để giải quyết rắc rối này, cần kíp chuyển hƣớng dời địa điểm sang khách sạn

71 của Tỉnh ủy. Khi cán bộ đến gặp đại diện Ban giám đốc khách sạn, họ rất đồng

tình nhận đăng cai mặt bằng để họp và tổ chức ăn uống tại chỗ. Ban liên lạc cảm

thấy hết sức nhẹ nhõm, bởi đã tháo gỡ đƣợc khó khăn. Nhƣng một điều bất ngờ

đến thú vị. Tình huống này đã đến tai đồng chí Lê Hoàng Quân, Bí thƣ Tỉnh ủy và

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đồng chí Võ Văn Một. Cả hai vị đứng

đầu lãnh đạo Đảng bộ và chính quyền tỉnh đã gợi ý và chỉ đạo cho phép Ban liên

lạc triển khai họp mặt truyền thống tại hội trƣờng lớn Tỉnh ủy. Có thể nói, đây là

một ƣu ái đến bất ngờ và hết sức cảm động với chúng tôi. Đúng vậy, hội trƣờng

này thƣờng dùng vào những hội họp trọng đại của tỉnh. Đây chỉ họp mặt truyền

thống của một đơn vị, mà vẫn đƣợc lãnh đạo Tỉnh ủy cho phép sử dụng để giao

lƣu thì ý nghĩa về mặt chính trị, tình cảm càng sâu nặng lắm thay.

Tại cuộc họp mặt lần này, bên cạnh các đồng chí nguyên là chỉ huy, lãnh đạo

tiền thân của Đoàn, đó là: thiếu tƣớng Nguyễn Thanh Tùng - Anh hùng lực lƣợng

vũ trang nhân dân, đại tá Mai Văn Thoạn - Chính ủy, còn có nhiều anh chị từng

vào sinh ra tử sống chết có nhau. Các vị từng là chỉ huy Huyện đội Vĩnh Cửu nhƣ

ông Tám Bảo, ông Hai Đậm; những anh chị từng là Xã đội trƣởng, Bí thƣ chi bộ,

cán bộ phong trào nhƣ anh Ba Tánh, các chị Tƣ Nhung, chị Ba Thanh, chị Sáu

Dân... Đặc biệt có đại tá Trần Công An - Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân

nguyên là Tỉnh đội trƣởng Biên Hòa, cố vấn cho đoàn ngay từ ngày đầu thành lập.

Nguyên Bí thƣ Tỉnh ủy Phan Văn Trang, ngƣời đứng đầu Đảng bộ là một cán bộ

hết lòng quan tâm chăm sóc cho các lực lƣợng chiến đấu, công tác tại địa bàn mà

Đoàn Đặc công 113 đƣợc ông cùng tập thể lãnh đạo tỉnh nhà hết sức ƣu ái. Cuộc

họp mặt lần này còn có vị chức sắc ở thánh thất Cao Đài, phƣờng Bửu Hòa, thành

phố Biên Hòa. Ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi mùi thuốc súng và đạn pháo còn

nồng nặc, ông đã tổ chức một tốp thanh niên đi gom và khâm liệm thi hài các

231

chiến sĩ đặc công, hy sinh trong chiến đấu bảo vệ cầu Ghềnh để đƣa đi an táng.

Đồng thời có cả thân nhân liệt sĩ của đơn vị cùng tới dự.

Khi đại tá nguyên Chính ủy Đoàn 113 Mai Văn Thoạn đọc tóm tắt thành tích

31 năm chiến đấu, xây dựng và trƣởng thành để đạt danh hiệu cao quý: đơn vị ba

lần Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân, tám cán bộ trở thành Anh hùng và

nhiều phần thƣởng cao quý khác, những ngƣời có mặt đều rất tự hào. Càng tự hào

hơn, Đoàn Đặc công 113 lại là con đẻ của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Biên Hòa.

Chính mảnh đất nhƣ là huyền thoại này, đã là điểm tựa chắp cánh cho đơn vị bay

cao, bay xa gặt hái nhiều chiến công vang dội.

Thay mặt lãnh đạo tỉnh, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, tiến sĩ Huỳnh

Văn Tới qua nội dung phát biểu của mình đã thể hiện mối tình sâu đậm giữa Đảng

bộ, nhân dân địa phƣơng với Đoàn Đặc công 113.

Cuộc họp mặt truyền thống của ngành hay đơn vị nào cũng mang một ý nghĩa

tình cảm đẹp. Cuộc họp mặt truyền thống nhân dịp kỷ niệm 31 năm thành lập

Đoàn Đặc công 113 không chỉ mang đầy đủ tinh thần ấy. Nó còn là dịp cho anh

chị em cựu chiến binh chúng ta gặp lại những ân tình, mà từ sâu thẳm hồn mình ta

luôn tôn vinh những con ngƣời bình dị mà cao cả bởi tấm lòng thủy chung son sắt

với cách mạng của họ.

Đúng nhƣ trong lời phát biểu ngắn gọn mà xúc tích của thiếu tƣớng Nguyễn

Thanh Tùng mở đầu cuộc họp rằng:

- Để có đƣợc thành tích vẻ vang của Đoàn Đặc công 113, chúng tôi vô cùng

biết ơn sâu sắc đối với Tỉnh ủy, quân và dân tỉnh Biên Hòa trƣớc đây và tỉnh Đồng

Nai ngày nay. - Ông nhấn mạnh: tôi xin nói một lời chân thành rằng, anh Hai Cà,

anh Năm Trang và tập thể lãnh đạo Tỉnh ủy là linh hồn chiến thắng của Đoàn Đặc

công 113 lúc bấy giờ! Thực vậy, không có đạn, gạo... của Đoàn hậu cần 814 Miền

đƣa xuống, thông qua sự nhạy bén, tài tổ chức điều động của anh Hai Cà thì bộ

đội sẽ không có cái ăn, không tìm đâu ra đạn để tạo ra những trận đánh phủ đầu

vang dội. Không có vai trò chỉ đạo sát sao của Bí thƣ Tỉnh ủy Phan Văn Trang, thì

không có sự ra quân sôi nổi của cán bộ dân chính Đảng liên cơ quan rầm rộ đi tải

đạn với hàng trăm quả ĐKB, H12 cho trận bão lửa vào phi trƣờng Biên Hòa.

Không có nhân dân và cơ sở cách mạng cán bộ nằm vùng các xã Tân Định, Tân

An, Thiện Tân chi viện thì Tiểu đoàn 9 không thể xây dựng đƣợc bàn đạp Bùng

Binh vững chãi để bám trụ hàng năm trời giữa lòng địch...

Giờ đây tuy cách xa về không gian và thời gian, nhƣng mỗi lần nhìn lên

tƣợng đài chiến thắng đặc công tổng kho Long Bình, phiên bản do Đảng bộ và

nhân dân tỉnh Đồng Nai tặng Đoàn, đƣợc đặt trong khuôn viên doanh trại, cán bộ,

chiến sĩ các thế hệ của Đoàn càng ghi tạc nghĩa tình sâu nặng nơi vùng đất đã

dƣỡng nuôi mình hơn ba chục năm về trƣớc, lòng càng thêm phơi phới tự hào.

Biên Hòa, ngày 7-6-2003

N.Q.C

232

ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113 GẮN BÓ VỚI ĐỊA PHƢƠNG CHÖNG TÔI

NHƢ LÀ MÁU THỊT

ĐỖ THỊ THANH VÂN1

Nơi chôn nhau cắt rốn của tôi là xã Phú Thạnh, nằm trong vành đai căn cứ

Thành Tuy Hạ, quận Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa.

Là một ngƣời con gái sinh ra ở vùng quê nghèo nên mơ ƣớc đi đây đi đó là

điều không tƣởng đối với tôi. Song quê hƣơng yên bình bị xé nát, cảnh chém giết

xảy ra bởi lũ chó săn của lũ đầu trâu mặt ngựa ôm chân đế quốc. Bởi thế, tôi tham

gia cách mạng từ tháng 10 năm 1961 theo ngọn cờ cứu nƣớc của Mặt trận Dân tộc

giải phóng miền Nam. Chỉ ít lâu sau, tháng 5 năm 1962, tôi thoát ly lên quận làm

cấp dƣỡng cho cơ quan đóng tại khu lòng chảo gồm 13 xã của quận. Năm 1964,

tôi đƣợc điều lên cơ quan tuyên giáo Tỉnh ủy Biên Hòa do hai đồng chí Tám

Thạch và Mƣời Trung phụ trách (cả hai đều đã hy sinh). Cơ quan lúc ấy đóng ở

khu vực các xã Cẩm Đƣờng, Cẩm Mỹ. Bƣớc đầu làm cấp dƣỡng sau đƣợc đi học

để làm cán bộ phong trào, đó là bƣớc ngoặt cuộc đời tôi.

Tháng 7 năm 1964, sau khi sáp nhập hai tỉnh Biên Hòa - Bà Rịa, tôi đƣợc về

công tác ở Ban cán sự (lúc ấy chƣa thành lập huyện ủy), đóng ở rừng Bầu Hàm

chạy về tận rừng Cây Gáo. Phụ trách Ban cán sự lúc ấy là ông Ba Thái và chị Hai

Liên. Năm 1968 đến 1972 tôi về hoạt động ở quận Công Thanh (ta gọi là Vĩnh

Cửu) nằm trong Ban chấp hành Hội phụ nữ huyện, trực tiếp làm Bí thƣ chi bộ xã

Đại An. Năm 1973, trên quyết định làm Bí thƣ chi bộ xã Thiện Tân. Chi bộ lúc ấy

là có ba đảng viên: Thanh Vân, anh Hai C và cô Hiền công tác phụ nữ. Thiện Tân,

Tân Định, Đại An thuộc vùng một, trọng điểm đánh phá rất ác liệt của địch. Có

thời điểm dƣờng nhƣ ngày nào cũng có ngƣời chết hoặc bị thƣơng. Giai đoạn tôi

về đây công tác cũng vừa lúc gặp Tiểu đoàn 9, Trung đoàn Đặc công 113 đến xây

dựng căn cứ, bám trụ và chiến đấu.

Trong bối cảnh phong trào cách mạng địa phƣơng đang bị địch dùng mọi thủ

đoạn o ép hết sức cùng cực, dân đi lại làm ăn cũng gặp nhiều khó khăn, bởi chúng

kiểm soát gắt gao, lại đƣợc một lực lƣợng chủ lực về hỗ trợ xây dựng phong trào

thì khác nào đại hạn gặp mƣa rào. Bởi thế, Huyện ủy giao cho chi bộ xã Thiện Tân

mấy nhiệm vụ cơ bản: Tổ chức bố trí lực lƣợng cốt cán chỉ dẫn đƣờng cho bộ đội

qua lại; vận động cơ sở giúp đỡ lƣơng thực, thực phẩm và một số thứ cần thiết

khác. Đồng thời giới thiệu cốt cán để đơn vị vận động, giáo dục xây dựng, nhằm

nắm tình hình địch. Chẳng hạn, có chị Ba Thanh ở ấp 7 và cô Bảy ở ấp Ông

Hƣờng. Bên cạnh, bộ đội hỗ trợ một cách đắc lực cho địa phƣơng xây dựng phong

trào. Mối quan hệ ấy hết sức tốt đẹp.

1 Nguyên Bí thư chi bộ xã Thiện Tân, huyện Vĩnh Cửu.

233

Tôi còn nhớ nhƣ in trong đợt “Chồm lên” năm 1973, là Bí thƣ chi bộ tôi trực

tiếp dẫn đại đội 2 của Tiểu đoàn 9 do anh Lý đại đội trƣởng, anh Thuận Chính trị

viên vào xã Đại An để tham gia tấn công địch. Do chúng phán đoán đƣợc phần

nào ý định của mình và tăng cƣờng đề phòng. Mới tiếp cận tới cuối xã Trị An giáp

với Đại An, ta hy sinh hai anh em. Thế là gặp khó khăn, phải chuyển sang hƣớng

khác, cuối cùng đơn vị cũng đã đột nhập đƣợc, nhƣng lại gặp phải các trận mƣa

đạn pháo của địch gần đó bắn tới, làm một số bị thƣơng. Đơn vị rút ra, tôi cùng

với ba anh em đơn vị nán lại tìm nơi ẩn nấp để bám nắm địch ở đây. Chờ lúc nhá

nhem tối, tôi dẫn đƣờng anh em về dãy núi Giang Rế gần suối Rạch Đông. Tôi

còn nhớ tên một số anh khá quen thuộc nhƣ là Sơn “ròm”, anh Dƣơng cùng một

số khác thƣờng vô xay lúa, giã gạo ở núi Giang Rế để có cái ăn mà đánh giặc.

Thiếu thốn, gian khổ, có lúc cũng phải hy sinh mà sao lạc quan đến lạ thƣờng. Lâu

lâu địch làm căng quá không đột ấp để lấy gạo, bị đói, anh em lại mang bồng vào

ấp cần chi viện để có cái mà ăn. Nghĩ lại thƣơng anh em mình quá xá.

Một lần có một cô gái trẻ, không biết tìm đâu ra đƣợc tấm vải mịn màng,

dùng chỉ hồng thêu tặng anh cán bộ đại đội nội dung thế này:

Vuông khăn thêu tặng người thương mến

Chốn chiến trường anh lập chiến công

Ngày mai thống nhất non sông.

Anh về quê mẹ hoa hồng thắm tươi.

Đọc xong, anh Truyền Chính trị viên Tiểu đoàn 9 cƣời đùa: về quê mẹ, nghĩa

là “đuổi” các anh về rồi lấy ai mà đánh giặc? Cô gái trẻ mặt đỏ hồng tƣơi, nhƣng

cũng mạnh dạn đối lại:

- Đó là em nói ngày mai thống nhất non sông - nghĩa là lúc ấy đã hết giặc rồi

chớ bộ. Anh Ba cứ giỡn hoài. Giờ đây “níu” các anh muốn chết ở lại để đánh giặc

chƣa đƣợc, ai mà dám “đuổi” chớ. - Tất cả đƣợc một trận cƣời thật là vui ơi là vui.

Ngày 23 tháng 3 năm 1975, nghĩa là chỉ khoảng một tháng thì tới giờ phút

đỉnh cao toàn thắng, tôi đƣợc lệnh rút về tỉnh để chuẩn bị cho cuộc xuống đƣờng.

Nhƣng không phải ở trên tỉnh mà chuyển về xã Phú Thạnh hỗ trợ phong trào. Kể

từ đó tôi xa Thiện Tân, Vĩnh Cửu cho tới giờ. Mới đó mà đã 30 năm rồi còn gì,

thời gian đi nhanh quá, nhanh hơn cả ngoài sức tƣởng tƣợng của con ngƣời.

Thời lửa đạn cận kề hy sinh cả thân mình mà cái tình cái nghĩa tràn đầy. Tôi

có một cảm nhận bộ đội Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 113 lúc ấy vừa là chủ lực bởi họ

là cấp trên phái về, có khả năng tác chiến lớn mà quân sự địa phƣơng chƣa làm

đƣợc. Nhƣng lại rất dân dã gần gũi nhƣ anh chị em du kích địa phƣơng thôn ấp

vậy. Có lẽ cái gần gũi gắn bó ấy tạo nên chiến thắng chăng? Đáp lại, cơ quan tụi

tôi coi anh em nhƣ ngƣời nhà. Chỉ có tình cảm cách mạng, lý tƣởng chiến đấu

đƣợc Đảng, Bác rèn luyện xây đắp mới trở nên bền đẹp nhƣ thế.

Cơ quan tôi có chị Thu cán bộ phụ nữ bị sốt rét, may nhờ có y tá đơn vị Tiểu

đoàn 9 cứu chữa nên chị đã thoát chết. Sau đó ít lâu, sốt rét tái phát, y tá đơn vị

234

không đến kịp, thế là cơn sốt rét đã cƣớp mất cuộc đời đang đẹp nhƣ mơ của chị.

Thi hài ngƣời con gái quê hƣơng Vĩnh Cửu này lại nằm bên những trai trẻ miền

Bắc đời đời yên nghỉ bên dòng sông Đồng Nai mơn man gió, sóng vỗ về dạt dào

tha thiết, thay lời ru của mẹ thuở nào.

Thôi thì nói hoài, kể hoài cũng chẳng hết mà tình càng thêm lai láng. Tôi chỉ

mong sao các anh em lính đặc công 113 một thời gian gắn bó máu thịt với dân

trong lửa khói, nay có một cơ hội xây dựng tổ ấm hạnh phúc trên mọi miền quê.

Ai có may mắn khá lên, giàu lên càng tốt, nhƣng đừng quên nhau thuở hàn vi, hay

dửng dƣng trƣớc cảnh còn gian khó của bạn bè, đồng chí.

Nhơn Trạch, cuối đông năm 2002

Đ.T.T.V.

235

MỘT THỜI GẮN BÓ VỚI TRUNG ĐOÀN

NGUYỄN THỊ LỆ HOA1

Trung đoàn đặc công 113 thật “hiếm” phụ nữ, chỉ có hai ngƣời, tôi (Nguyễn

Thị Lệ Hoa) là y sĩ và chị Ba Yến, Chính trị viên đại đội quân y Trung đoàn.

Đƣợc tiếp xúc nhiều với bộ đội quê ngoài Bắc, tôi thấy anh em rất tình cảm và sự

hy sinh của họ cũng rất lớn lao mà trƣớc tôi còn hiểu chƣa thật thấu đáo.

Tôi sinh ra bên dòng sông Đồng Nai: ấp số 7 xã Thiện Tân, huyện Vĩnh Cửu

(nơi mà sau này Tiểu đoàn 9 đặc công chọn làm nơi xây dựng căn cứ Bùng Binh,

làm bàn đạp tiến công sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình và căn cứ, hậu cứ

của địch).

Là một phụ nữ chân yếu tay mềm nhƣng sớm đến với kháng chiến. Đó là vào

thời kỳ cách mạng miền Nam đang đen tối, Mỹ - Diệm tàn sát dã man những

ngƣời dân yêu nƣớc. Ấp chiến lƣợc mọc dăng dăng để cản ngăn những cán bộ tiếp

xúc với cơ sở. Bọn mật thám nhƣ bầy cú vọ xăm xoi chỉ điểm để đánh phá nơi nào

mà chúng khả nghi.

Hồi ấy có chú Năm Ka cán bộ cách mạng nằm vùng, biết tôi là một phụ nữ

trẻ, có chút nhan sắc đã có chồng, con. Chồng tôi lại là một cán bộ thoát ly thuộc

đối tƣợng số 1 theo dõi của chúng. Hơn nữa thấy tôi nhanh nhẹn hoạt bát có thể

giao thử thách giác ngộ từng bƣớc tạo cốt cán cho phong trào. Công việc đầu tiên

ông Năm khêu gợi là nắm tình hình hoạt động bề ngoài của địch và bọn chính

quyền tay sai, có động tĩnh gì khác thƣờng, cung cấp tin tức cho ông. Mặt khác, có

những thƣ từ gì của ông chuyển đến đâu thì tôi tìm cách thực hiện. Một số việc tôi

làm đƣợc ổng thấy có khả năng triển vọng.

Chiến công đầu trên đất quê hƣơng

Một ngày giữa tháng 5 năm 1961, tôi đang hái đậu ở một đám ruộng nhà gần

đồn địch đóng tại bót Cây Khô, ấp 7 bỗng nhìn thấy một bé trai cầm mảnh vải

trắng vẫy vẫy liên hồi, tôi ngồi xuống quan sát động thái của đứa bé này và khả

nghi lắm. Chợt lóe lên trong đầu và nhận định:

- Thôi chết, đây là đứa con trai của tên P, một tên Việt gian, dân địa phƣơng

làm tay sai cho địch. Hôm nay chắc nó cho con trai dắt lính về bao vây căn cứ

Huyện ủy chăng. Không còn thì giờ để cân nhắc chờ đợi thêm, lợi dụng rặng cây

che khuất tôi chạy nhƣ bay tắt qua cánh đồng đến hụt cả hơi. Vừa chạm bìa rừng

khu vực Bùng Binh, gặp mấy anh cán bộ, hỏi:

- Chạy gì nhƣ ma đuổi vậy, Hai?

Tôi nói trong hơi thở hổn hển:

1 Nguyên quân y sĩ Trung đoàn - cán bộ dân chính nghỉ hưu.

236

- Lính! Lính áp vô bây giờ. Tôi kể lại sự việc, tin đƣợc loan đi rất nhanh, nên

cơ quan Huyện ủy Vĩnh Cửu đủ thời gian điều chỉnh lực lƣợng và tăng cƣờng cài

mìn ra các hƣớng. Nói đoạn, tôi xin phép ra về vừa chạy vừa quan sát nên tên Việt

gian “nhí” không thể phát hiện. Tôi đem số đậu đã hái về nhà. Nhƣng ruột nóng

nhƣ lửa đốt bồn chồn đứng ngồi không yên. Lúc này lính từ hệ thống đồn bót từ

dốc Ông Hƣờng kéo xuống, bót cầu Tân Định, Rạch Đông hợp với bót cầu Cây

Khô và cả trên quận Công Thanh kéo về chia thành nhiều hƣớng với hình thái bao

vây căn cứ Huyện ủy. Có lẽ chúng chắc mƣời mƣơi, phen này sẽ hốt một mẻ lƣới

ngon ơ cơ quan đầu não của phong trào cách mạng ở vùng này. Mặt trời lên cao,

cánh đồng sau vụ gặt dƣờng nhƣ bốc lửa. Từ trong bìa làng nhìn theo, tôi nhƣ

không tin vào mắt mình khi bọn giặc vòng vây càng khép dần cánh rừng. Bỗng

những tên đi đầu chạm phải mìn phát nổ, đồng bọn dạt ra tìm cách tiến vào căn cứ.

Nhƣng trời và đất không dung tha bọn ác ôn. Hàng loạt tên bỏ mạng hoặc vác đầu

máu chạy tán loạn. Qua mấy hiệp, các hƣớng đều bị “tày” không thể tiến lên đƣợc

sâu hơn. Cuối cùng chúng phải cay đắng chịu bại trận trở về.

Kết cục, không kể bọn bị thƣơng, số bị chết phải chở đầy ba xe bò lấy của

dân từ Xóm Già về các hƣớng để... chôn. Dân chúng đổ ra lấp ló quan sát đều mỉa

mai đối với chúng.

Thất bại thảm hại ấy là một đòn cân não đối với lũ quan thầy buôn dân, hại

nƣớc, nhƣng tuyệt nhiên chúng không thể ngờ rằng đƣợc tay sai chỉ điểm đến nhƣ

vậy mà vẫn vác đầu máu chuốc hận trở về. Từ thất bại này, chúng đâm ra nghi kỵ

cha con tên P đã ăn phải bùa mê của bọn cộng quân “ăn cơm quốc gia, thờ ma

Cộng sản”. Tuy nhiên, thấy để cha con tên P vẫn tồn tại và sống yên ổn, một ngày

nào đó chúng sẽ gây họa cho phong trào cách mạng địa phƣơng nhƣ một sự lập

công để chuộc lại lỗi lầm. Theo chỉ đạo của trên, cha con tên phản tặc đã phải bị

đền tội.

Sau sự kiện động trời ấy, tôi xin phép chú Năm Ka, ngƣời dẫn dắt tôi bƣớc

vào con đƣờng làm cách mạng... xin phép ba má tôi để đi thoát ly, gửi lại hai đứa

con của chồng tôi là anh Nguyễn Xuân Thành, hy sinh tháng 2 năm 1962 trong lúc

cùng đồng đội đánh bót cầu Ông Hƣờng, ngay giữa quê hƣơng. Khi tôi đi thoát ly,

con gái Nguyễn Thị Mỹ Cảnh mƣời một tuổi, cháu trai Nguyễn Hữu Phƣớc tám

tuổi, gửi lại ông bà nội nuôi. Những ngày đầu nhớ con da diết tƣởng chừng nhƣ

không thể nào vƣợt qua nổi. Nhƣng nghĩ đến những gì còn lớn lao hơn nhiều đó là

yêu cầu cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp chung của dân tộc. Mai rày lớn lên các

con sẽ hiểu hết những gì hôm nay má phải xa các con bé bỏng, cần đƣợc có mẹ

bên cạnh ấp yêu - tôi thầm thì nhƣ vậy với chính mình để tự an ủi nhƣ đang âu

yếm với con vậy.

Những ngày đầu tôi làm nhân viên ở cơ quan Huyện ủy, vừa cũng để từng

bƣớc làm quen với công việc. Ít lâu sau, tôi đƣợc cử đi học nghề y tá về phục vụ

cơ quan. Đƣợc trang bị chuyên môn, tôi cảm thấy mình có nhiều may mắn vì trực

tiếp chăm sóc sức khỏe cho cô chú, anh chị em. Và sau này phục vụ nhân dân, đặc

biệt là vùng quê nghèo nhƣ Vĩnh Cửu nơi đã sinh ra tôi và nuôi dƣỡng tôi khôn

237

lớn thành ngƣời. Cuộc chiến lan rộng và ngày càng thêm quyết liệt nhu cầu

chuyên môn càng lớn hơn, tôi lại đƣợc tổ chức quan tâm cử đi học trung cấp

ngành y để nâng cao trình độ. Tôi thực sự lo lắng hơn là mừng rỡ. Bởi văn hóa

mình còn thấp, nếu đi học y sĩ sẽ rất vất vả vì khó theo kịp chƣơng trình, ngay các

tên thuốc cũng đòi hỏi có vốn ngoại ngữ. Đằng này những điều đó tôi còn quá

kém cỏi. Biết đƣợc những băn khoăn của tôi các cô chú, anh chị động viên rất

nhiều. Đặc biệt chú Lê Thanh Nhàn, anh em cơ quan thƣờng gọi là “ông Sáu già”

một cán bộ Ban binh vận của tỉnh Biên Hòa. Sau này tôi mới hay, chú Sáu là tổ

trƣởng tổ liên lạc công khai trong đƣờng dây quân báo của cụm tình báo biệt động

Sài Gòn do chú Trần Mẫn làm cụm trƣởng. Không dƣới vài ba lần chú trực tiếp

căn dặn:

- Hai này (Tên thứ hai của tôi), chồng con đã hy sinh vì đất nƣớc, hai con còn

nhỏ gửi ông bà nội, dám thoát ly để hoạt động cách mạng, đó là một quyết định

dũng cảm. Tuổi Hoa còn trẻ, cách mạng lại đang cần. Con nên ráng học thêm để

nâng cao trình độ về phục vụ nhân dân.

- Nhƣng... con sợ lắm chú Sáu ơi - tôi thƣa với chú.

- Sợ cái gì? Con còn dám xử lý một tình huống tày trời để cứu thoát cả cơ

quan Huyện ủy Vĩnh Cửu khỏi tai họa trƣớc sự bao vây của giặc. Đó là một chiến

công. Nếu nhƣ hôm ấy, Hoa chần chờ một chút, không kịp báo để địch bao vây,

lợi dụng ta sơ hở chúng đột nhập vào căn cứ, chắc chắn tai họa sẽ khôn lƣờng với

phong trào cách mạng huyện nhà đó chớ, phải hông? - Nghe chú Sáu phân tích có

tình, có lý nhƣ ngƣời thầy chỉ hƣớng tƣơng lai cho cô trò nhỏ yếu đuối. Thế rồi tôi

nhận ra ý nghĩa của công việc, đành vui vẻ chấp nhận.

Nói đào tạo cấp tốc để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ nhƣng những nguyên

lý cơ bản về y đức và kiến thức chuyên môn cũng phải đƣợc trang bị, chớ không

thể chạy theo thời gian. Dần dần đƣợc thầy cô, bạn bè giúp đỡ, cộng với sự nỗ lực

bản thân, khóa học kết thúc cảm thấy khá nhanh. Ra trƣờng, tôi đƣợc điều về phục

vụ tại cơ quan Tỉnh đội Biên Hòa, chăm sóc trực tiếp sức khỏe các chú Trần Văn

Kìa (Hai Cà), chú Phan Văn Trang, và các cô, chú, anh chị khác. Tháng 6 năm

1972, Trung đoàn Đặc công 113 ra đời, tôi lại đƣợc bổ sung sang làm công tác

chuyên môn.

Những kỷ niệm nồng ấm với ngƣời lính Trung đoàn

Ban quân y Trung đoàn lúc ấy do bác sĩ Hiển và bác sĩ Mai phụ trách. Tôi là

y sĩ, chị Ba Yến Chính trị viên cùng một số y sĩ, y tá, cứu thƣơng. Một số anh em

đi sát tiểu đoàn, đại đội để phục vụ cảm thấy rất tự hào.

Lúc ấy tôi và cả chị Ba Yến đều đã lớn tuổi, có chồng con. Chồng tôi lại là

một liệt sĩ nên càng cảm thông với cuộc sống chiến đấu của bộ đội. Những anh em

trẻ, họ coi tôi nhƣ ngƣời chị trong gia đình chăm sóc các em lúc ốm đau, bệnh tật

hoặc bị thƣơng. Sau khi căn cứ Trung đoàn đóng tại Bầu Hàm bị máy bay oanh

tạc. Vả lại đặt cứ nơi đây có phần hơi xa nên thủ trƣởng quyết định dời về Tân

238

Uyên để sát với mục tiêu do Trung đoàn đảm nhiệm, nhƣ sân bay Biên Hòa, tổng

kho Long Bình, căn cứ thiết giáp Hốc Bà Thức... hơn nữa thƣơng bệnh binh về

điều trị cũng gần hơn. Có lần bom ném vào nơi giấu quân, sáu anh em hy sinh,

một số bị thƣơng hầu hết chƣa lập gia đình. Việc này làm tôi liên tƣởng thân thể

bầm dập của chồng tôi hy sinh ngày ấy khi đánh bốt Ông Hƣờng. Những ngƣời

mẹ, ngƣời chị của họ hẳn tái tê ngày toàn thắng không còn nhìn thấy con em mình

trở về. Là ngƣời từng chứng kiến nỗi đau, tôi càng thấm thía điều ấy.

Tôi không trực tiếp xung trận nhƣ anh em bộ đội, mà chỉ ở thê đội 2 chăm

sóc sức khỏe anh em, mỗi khi tới điều trị. Nhìn ai cũng hiền khô, thƣơng mến lạ

thƣờng nhƣng trƣớc quân thù, cặp mắt nhƣ bốc lửa tạo nên những chiến công

tuyệt vời.

Ban quân y chúng tôi không chỉ điều trị, phát thuốc cho thƣơng bệnh binh

đơn vị, mà còn tham gia sản xuất để góp phần cải thiện đời sống. Những rẫy bắp

xen đu đủ, khoai mỳ, đậu nành, thuốc lá sản xuất ba vụ ở Bầu Hàm, Trảng Bom đã

đem lại hiệu quả thiết thực. Ngƣời lính già chú Bảy Trì dân tộc Châu Ro đƣợc cử

trông coi hàng chục mẫu rẫy. Nhờ nguồn lợi nông sản đƣợc làm ra từ ngƣời lính

đặc công Trung đoàn đã góp đáng kể cải thiện sinh hoạt cho Bộ đội, tăng thêm sức

khỏe. Phải chăng đây cũng là biểu hiện câu dạy bảo của cha ông xƣa “Thực túc thì

binh cƣờng” đó sao.

Ban quân y chúng tôi thật tự hào trong những chiến công vang dội của Trung

đoàn đều có phần đóng góp khiêm nhƣờng của mình, trong đó có bản thân tôi là

một thành viên.

Thấm thoát gần 30 năm đã đi qua kể từ ngày đất nƣớc thống nhất, cũng là

ngần ấy thời gian tôi xa đơn vị. Ngƣời chị Hai ngày nào mà những ngƣời lính trẻ

thƣờng gọi một cách trìu mến, thân thƣơng nay đã trở thành bà ngoại, bà nội của

đàn cháu thân yêu giữa một thành phố nhộn nhịp - ở phƣơng Nam. Song mỗi lần

nghĩ lại, trong tâm tƣởng của mình gợi lên một thời gắn bó với Trung đoàn càng

trỗi dậy niềm thƣơng, nỗi nhớ đầy vơi.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2003

N.T.L.H

239

NẶNG NGHĨA VỚI NGƢỜI ĐÃ KHUẤT

CAO TIẾN ĐẠT

(Theo lời kể của đồng chí Đặng Trọng Thành,

cựu chiến binh Đoàn Đặc công 113)

Tôi gặp anh trong một kỳ đại hội Hội Cựu chiến binh khối Dân Chính Đảng

nhiệm kỳ III (2002 - 2007) đƣợc tổ chức trọng thể tại hội trƣờng Ngân hàng Công

thƣơng tỉnh Đồng Nai. Qua hỏi chuyện, thật tình cờ biết đƣợc anh từng là lính

Tiểu đoàn 174 pháo binh trong đội hình Đoàn Đặc công 113, chiến đấu trên quê

hƣơng Biên Hòa những năm chống Mỹ, cứu nƣớc. Nhƣng phải nhiều tháng sau

của năm 2004 mới có dịp tiếp xúc với anh đƣợc. Điều ấy cũng dễ hiểu và thông

cảm cho nhau. Bởi anh đƣơng là một giám đốc của một công ty, việc lãnh đạo,

quản lý điều hành bộ máy hết sức bận rộn. Song, cuối cùng chúng tôi cũng đã gặp

gỡ để trò chuyện, nhằm thực hiện cái ý định mà hàng chục năm nay từng ấp ủ nhƣ

một duyên nợ với những ngƣời đã khuất trên mảnh đất này.

Khi đã biết điều hệ trọng ấy, anh không hề từ chối mà lại còn nhiệt tâm hơn

cả tôi tƣởng để muốn góp một chút gì đó bằng cái tâm của một ngƣời lính thực thụ

còn sống sót trở về để có đƣợc hạnh phúc gia đình nhƣ ngày hôm nay.

Từ trong phòng làm việc của mình ở lầu một tọa lạc bên bờ sông Đồng Nai,

đôi mắt mơ màng của anh nhìn về cõi xa xăm, giờ là các khu công nghiệp, thu hút

hàng chục ngàn lao động đang hối hả để có đƣợc những sản phẩm mới. Nhƣng họ

có biết đâu nơi đây một thời là chiến địa, đồng đội anh, bạn bè đồng chí chỉ mới

rộn rã bên nhau với bao nhiêu dự định khi qua thời trận mạc, đất nƣớc sạch bóng

quân thù. Vậy mà... sắp đến thời điểm đỉnh cao toàn thắng, đã phải gửi xƣơng, gửi

thịt và dập tắt niềm ƣớc vọng tại nơi này.

Trong niềm xúc động anh tâm sự:

Tôi tên Đặng Trọng Thành, ra đời vào thời điểm cả dân tộc hân hoan chào

đón chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu tháng 5 năm 1954 lịch sử - đó

là nghe cha mẹ tôi thƣờng kể lại vậy, ở một làng quê nghèo Yên Định - Thanh

Hóa.

Nhƣ bao đứa trẻ khác, khi còn tuổi cắp sách tới trƣờng đã phải “đội mũ rơm

đi học đƣờng dài” trong bom đạn của quân thù. Tuy chƣa phải chứng kiến cảnh

thƣơng tâm nhƣ các trƣờng bạn ở Hƣơng Phúc, Hƣơng Khê, Hà Tĩnh vào một

ngày của năm 1967, hàng chục học sinh mơn mởn nhƣ hoa xuân đã phải lìa cành

vì bom đạn Mỹ. Hay các bạn ở Quảng Bình, Vĩnh Linh, Hà Tĩnh phải học dƣới

hầm địa đạo hoặc trong lòng núi. Ở cái tuổi ngây thơ nào đã hiểu biết gì cao xa

nhƣng nghe thầy cô giáo và cả ngƣời lớn kể lại sao mà thƣơng quá là thƣơng cho

các bạn mình.

Thế rồi, cái tuổi niên thiếu chúng tôi cũng qua đi, kế đó là tuổi nam thanh nữ

tú rộn rã tới trƣờng. Những giờ học phải ngắt quãng vì tiếng động nhƣ xé toang cả

240

không trung của hàng đàn quạ sắt Mỹ. Không ở đâu yên bình đối với chúng tôi.

Những năm tháng ấy đã gieo vào lòng chúng tôi những điều thiêng liêng mà càng

lùi về thời gian mới dần cảm nhận hết về nó.

Đặng Trọng Thành kể tiếp: và nhƣ anh biết đấy, cái tuổi học trò cấp III chúng

tôi “ăn chƣa biết no mà lo chƣa tới” đầy sức trẻ trung phơi phới; chuyền tay nhau

đọc những tác phẩm: Sống nhƣ anh - ngợi ca anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi,

hiên ngang bất khuất trƣớc họng súng quân thù; các tiểu thuyết: “Mẫn và tôi” của

Phan Tứ; “Hòn Đất” của Anh Đức; “Đường chúng ta đi” của Nguyễn Trung

Thành rồi “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi.... càng thúc giục tuổi trẻ chúng

tôi hãy xông ra tiền tuyến để tiêu diệt quân thù. Và... ngày ấy cũng đã tới.

Vào giữa tháng 4 tháng 1972, cái oi nồng đầu mùa hè của miền Bắc đã bắt

đầu. Cùng với các bạn trẻ nô nức lên đƣờng nhập ngũ. Cánh cửa quân đội rộng mở

đón chúng tôi là Trung đoàn 14 tỉnh Thanh Hóa. Hơn một tháng sau đó là Trung

đoàn 46, Quân khu Hữu Ngạn, đóng tại Yên Mô - Ninh Bình gần căn cứ Đinh Bộ

Lĩnh cờ lau tập trận thuở xa xƣa còn lƣu truyền sử sách. Cái nắng khét lẹt từ

những lèn núi đá ở đây góp phần điểm cho làn da những chàng lính trẻ non tơ

thêm rắn rỏi, cứng cáp. Ba tháng quân trƣờng trôi đi thật nhanh, nhanh đến nỗi

quên cả nhớ nhà, nhớ quê và cặp mắt đen huyền của bạn gái bịn rịn lúc chia xa

vậy. Cái hồn nhiên của tuổi trẻ thật đáng yêu làm sao? Vậy mà nào có ai trách cứ.

Trái lại, những cánh thƣ hồng dồn dập bay tới đọc đến là thích, song do huấn

luyện và học tập liên miên không thể trả lời hết cho mọi bạn. Ấy vậy mà không

nhận đƣợc một lời trách cứ nào. Mới thấy đƣợc bạn bè phần nào hiểu đƣợc cuộc

sống của cánh lính và cảm thông, chia sẻ cho nhau biết mấy. Những ngày thao

trƣờng bãi tập tuy có nắng gió vất vả, nhƣng tin chiến thắng từ tiền tuyến lớn miền

Nam vọng về, lòng ai nấy càng thêm náo nức lạ thƣờng. Và cái ngày ấy cũng đã

tới: Nhắm thẳng hƣớng tiền phƣơng.

“Đường giao liên bước tôi đi, dài theo, theo đất nước. Đường tôi đi núi chênh

vênh có mây bay dưới chân giăng thành. Đường tôi đi như con thoi dệt tình yêu

quê hương thống nhất... Đường tôi cánh chim bay, cánh chim bay, suốt dãy

Trường Sơn...”

Ôi! Mới ngày nào trên quê hƣơng miền Bắc, qua những đêm sinh hoạt văn

hóa văn nghệ đại đội hay trên làn sóng đài tiếng nói Việt Nam chúng ta từng nghe

ca sĩ nào đó thể hiện bài hát ấy một cách say mê lạ thƣờng, thế mà nay nó đã trở

thành hiện thực.

“Trường Sơn Đông nắng, Tây mưa.

Ai chưa đến đó, như chưa rõ mình...”

Quả đúng thế! Những tháng ngày vƣợt Trƣờng Sơn vạn dặm, mới thấy hết ý

nghĩa của việc rèn luyện trên thao trƣờng và tinh thần đi cứu nƣớc của tuổi trẻ.

Những địa danh xa vời mà lại khá thân quen qua lời kể của thế hệ cha anh nhƣ đèo

U Bò - Ba Rền, miền Tây Quảng Bình, dốc Bà Định, dốc Nguyễn Chí Thanh cao

ngất vời vợi giữa núi non trập trùng. Đó là chƣa kể gồng mình lên để gánh chịu

241

những trận mƣa pháo bầy, bom tọa độ, rải thảm B52 khi đặt chân tới địa bàn chiến

trƣờng Tây Nguyên xa xôi trùng điệp quân đi nhƣ trẩy hội. Cứ vậy, theo đƣờng

binh trạm dƣới sự hƣớng dẫn của cánh lính giao liên. Họ tựa nhƣ những con chim

chuyền cành, những con thoi “dệt tình yêu quê hƣơng đất nƣớc...” mà nhạc sĩ Vũ

Trọng Hối đã diễn tả. Và mải miết nhƣ thế đi theo phƣơng Đông, chúng tôi đặt

chân lên vùng đất Sông Bé oai hùng, mà cách nay chƣa lâu đã lừng danh chiến

thắng Bầu Bàng, Bình Long, Phƣớc Long, Tếch Ních... làm nức lòng quân dân cả

nƣớc và bè bạn năm châu. Mùa khô năm 1972, bàn chân lính trẻ chúng tôi đã đặt

trên quê hƣơng Biên Hòa yêu dấu của nhà thơ, chiến sĩ Huỳnh Văn Nghệ với thi

phẩm để đời trong bài “Nhớ Bắc”:

Ai về Bắc ta đi với

Thăm lại non xưa giống Lạc Hồng

Từ độ mang gươm đi mở cõi

Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.

Hóa ra đây là nơi chôn nhau, cắt rốn của nhà thơ đấy ƣ? Cũng giống nhƣ

muôn ngàn làng quê khác trên đất nƣớc Việt Nam ta bị bom đạn quân thù tàn phá

hết sức dã man tàn bạo. Thi sĩ tiền chiến ơi, nay ông đang ở đâu vậy? Không hiểu

sao, tôi và đồng đội cùng thốt lên những điều tha thiết nhƣ thế.

Chúng tôi tuy đã hơn nửa năm tuổi quân rồi nhƣng vào chiến trƣờng thực sự

là những chàng lính mới, phải tìm hiểu mọi điều về nếp sống thời chiến. Đƣợc bổ

xung về đại đội 3, sau đó sang đại đội 8 Tiểu đoàn pháo ĐKB 174 nguyên nằm

trong đội hình trung đoàn pháo hỗn hợp mang phiên hiệu 724 của Quân khu 7. Do

yêu cầu phát triển của chiến trƣờng, trung đoàn đƣợc phân làm hai: một tiểu đoàn

về hoạt động trên địa bàn tỉnh Bà Rịa. Số còn lại vẫn bám trụ tại Tân Uyên, nơi

nhiều năm trƣớc đã đứng chân và hoạt động. Đƣợc tìm hiểu quá trình chiến đấu

của trung đoàn thật đáng tự hào. Trung đoàn đã tham gia chiến đấu nhiều trận vào

sân bay Biên Hòa và các mục tiêu căn cứ, hậu cứ khác của địch, làm cho chúng

tổn thất nặng nề cả về xung lực, hỏa lực và phƣơng tiện chiến tranh khác mà

không thể nào đánh bật ta ra khỏi địa bàn. Điều sâu xa là đơn vị biết dựa vào dân,

dựa vào đơn vị bạn, bộ đội địa phƣơng, dân quân du kích. Ở đâu cũng đƣợc dân

che chở, yêu thƣơng, đùm bọc, giúp đỡ chí tình. Qua học tập truyền thống làm cho

ai nấy hết sức tự hào, yêu mến. Không những thế, lớp đàn anh đi trƣớc, từng trải

tận tình giúp đỡ chỉ bảo nên dần dần trƣởng thành trong thực tiễn. Tuy nhiên, kể

từ thời điểm chúng tôi bổ sung về đơn vị, mặc dù hai tiếng “pháo binh” nhƣng tính

chất tác chiến có phần khác trƣớc. Bởi trƣớc đó những trận tập kích hỏa lực pháo

binh đều đặt trận địa khá xa bắn vào mục tiêu. Nhƣng khi nằm trong đội hình

Đoàn Đặc công 113 thì tính chất đánh pháo cũng đƣợc điều chỉnh.

Chẳng hạn trận đánh pháo mở màn tập kích vào sân bay Biên Hòa đêm ngày

2 rạng ngày 3 tháng 8 năm 1972 là một thí dụ điển hình. Ta xây dựng trận địa chỉ

cách sân bay trong tầm 7 cây số, hết sức bí mật, bất ngờ. Khi ta nổ súng, mục tiêu

trở thành biển lửa bốc cháy ngùn ngụt mà địch còn bàng hoàng bán tín bán nghi:

242

làm thế nào mà quân đối phƣơng (chỉ Quân giải phóng) áp sát pháo binh vào tận

hang ổ của chúng, trong khi đó cả khu vực rộng lớn quanh căn cứ đƣợc bố phòng

nghiêm ngặt, tƣởng chừng một lực lƣợng nhỏ của ta cũng khó lòng lọt qua đƣợc.

Càng có thêm thời gian cọ xát với thực tiễn, tôi càng thêm yêu mến tự hào và

khâm phục lớp đàn anh đi trƣớc học tập ở họ những điều quý giá. Những ngày

làm chiến sĩ trinh sát lắm khi cũng khá nguy hiểm. Bởi trinh sát pháo binh là tai

mắt của chỉ huy. Tinh tƣờng, thông minh, sáng tạo của ngƣời lính trinh sát là góp

phần hết sức quan trọng cho trận đánh thắng lợi. Tôi có một cảm tƣởng, cánh lính

trinh sát, họ có một bản lĩnh thật độc đáo mà ngƣời lính bình thƣờng không thể có.

Tôi tham gia làm nhiệm vụ trinh sát không nhiều nhƣ số anh em kỳ cựu từng trải

khác, song thời gian ấy đã giúp tôi trƣởng thành khá tốt. Ngoài sự rèn luyện bản

thân, còn có sự tận tình giúp đỡ của anh em đơn vị mà Đinh Văn Cốc là một thí dụ.

Đinh Văn Cốc là Trung đội phó trinh sát tiểu đoàn, anh lớn hơn tôi cả về tuổi

đời lẫn tuổi quân. Anh lại là một đảng viên chính thức và là ngƣời trực tiếp giúp

đỡ tôi vào Đảng. Tính anh trầm tính, cứng rắn và độ lƣợng. Những ngƣời lính

thuộc quyền anh rất nể phục, anh em làm sai, đƣợc anh chỉ vẽ bảo ban chu đáo.

Anh nói: tôi có thể nặng lời với các đồng chí chỗ nọ, chỗ kia nhƣng các đồng chí

không hy sinh một cách vô ích. Sau ngày Tổ quốc toàn thắng, còn có cơ hội gặp

cha mẹ, bạn bè, ngƣời thân. Đặc biệt, anh em ta tuổi còn trẻ, còn rất nhiều cơ hội

thăng tiến, để cống hiến cho đất nƣớc, quê hƣơng. Còn dễ dãi để anh em chết một

cách oan uổng, cái giá này không thể nào trả đƣợc. Tất cả cùng suy nghĩ lấy mà

hành động!

Tuổi trẻ vô tƣ và có khi còn khờ dại. Nhƣng càng lùi sâu vào thời gian, tôi

càng thấm thía những lời nói đầy tính nhân bản của anh. Cũng nhờ vậy mà tôi sớm

trƣởng thành, đƣợc đứng vào hàng ngũ vinh quang của Đảng. Giờ đây tôi trở

thành một giám đốc, quản lý, điều hành một tập thể, có khối lƣợng tài sản nhiều tỷ

đồng nhằm phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. Anh không màng phút lợi lộc gì do

tôi đƣa lại, thậm chí anh đang ở phƣơng trời nào, cuộc sống thực tại ra sao tôi

cũng không hay. Song, tự sâu thẳm lòng mình, tôi vô cùng tri ân anh lắm đó, anh

Cốc ơi.

Cục diện trên chiến trƣờng ngày càng thay đổi có lợi cho ta. Tiếp đến cuộc

Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Tiểu

đoàn 174 chúng tôi lần lƣợt triển khai nhiệm vụ phối hợp với Tiểu đoàn 23 đặc

công làm nhiệm vụ chốt chặn, đánh địch trên xa lộ Đại Hàn - Khánh Vân xuống

đến cầu Hóa An.

Trƣớc sự tấn công nhƣ vũ bão của quân và dân ta, địch chống chọi một cách

tuyệt vọng. Tuy nhiên, một bộ phận ngoan cố còn tìm cách chống cự lại. Một số

đồng chí thân yêu của chúng tôi đã ngã xuống trƣớc ngày toàn thắng, trong đó có

đồng chí Lịch Chính trị viên đại đội - Bí thƣ chi bộ Đảng của chúng tôi. Sau tìm

hiểu ra mới biết thêm, trong trận quyết chiến giữ cầu Ghềnh và cầu Mới để đón

đại quân tiến về giải phóng Sài Gòn, chỉ tính riêng khu vực này Đoàn Đặc công

113 chúng tôi đã có trên 50 anh em ngã xuống. Khi tiếng súng vừa dứt, trận địa

243

còn khét lẹt bom đạn, các cô bác xã Bửu Hòa do ông Ba Đậu tổ chức đã gom nhặt

thi thể các liệt sĩ về chôn cất tại nghĩa địa ấp Tân Bản gần đó. Sau này đƣợc Sở

Lao động - Thƣơng binh xã hội tỉnh Đồng Nai đón về tập trung nghĩa trang liệt sĩ

cùng đồng đội. Cuộc chiến nào cũng phải hy sinh đổ máu, song hy sinh trƣớc ngày

toàn thắng càng để lại cho ngƣời còn sống niềm tiếc thƣơng vô hạn.

Sau ngày đất nƣớc đƣợc hoàn toàn giải phóng, nghĩa là lịch sử đã sang trang.

Tháng 8 năm 1975, tiểu đoàn chúng tôi tham gia làm nhiệm vụ cải tạo tƣ sản ở các

quận 1 - 3, 5 - 10 thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 4 năm 1976 đơn vị đƣợc điều về

Tỉnh đội Đồng Nai đóng quân ở Vũng Tàu, lúc này tôi đƣợc điều lên làm quân lực

tiểu đoàn. Và cũng từ đây ƣớc mơ của tôi tiếp tục theo học để phát triển thêm kiến

thức chuyên môn nghiệp vụ đƣợc đánh thức mà trƣớc đó chƣa có dịp thực hiện.

Nguyện vọng chính đáng ấy đƣợc trên chấp thuận. Tháng 4 năm 1976, chuyển

ngành về Ty tài chính Đồng Nai làm công tác quản lý nghiệp vụ. Trƣớc yêu cầu

đòi hỏi phát triển của ngành, từ năm 1980 đến 1984 tôi học đại học tài chính tại

chức và đã tốt nghiệp đại học.

Tuy học hành có gián đoạn vì đất nƣớc chiến tranh, tuổi trẻ phải ra đi cầm

súng tiêu diệt quân thù. Nhƣng khi Tổ quốc yên bình, phấn đấu để học tập có thêm

vốn kiến thức là một mong ƣớc đối với tôi và điều ấy đã thành hiện thực. Ngoài

yếu tố quyết tâm của bản thân, tôi thầm cảm ơn sự quan tâm của tổ chức và cổ vũ

của bạn bè. Đến năm 1990 về công tác tại Sở Công nghiệp đƣợc sáu tháng thì

đƣợc đề bạt Phó giám đốc công ty cấp nƣớc Đồng Nai. Và từ năm 2000 đến nay

làm Giám đốc công ty.

Là ngƣời lính một thời trận mạc, tuy chƣa phải dạn dày lửa đạn nhƣ những

lớp đàn anh, song bản thân đã từng đau xót chứng kiến sự ngã xuống của bao

đồng chí thân yêu. Bởi thế, giờ đây trên cƣơng vị là một ngƣời quản lý góp phần

công sức nhỏ bé của mình xây dựng làm biến đổi một miền quê, nơi sinh linh bao

đồng đội đang nằm luôn nhắc nhở tôi không bao giờ đƣợc quên họ. Không ít lần

trong giấc ngủ chập chờn, bóng dáng đồng đội thân yêu một thủa vào sinh ra tử

bất chợt hiện về. Họ không hề trách cứ mà lạ thay, tôi cảm thấy lòng mình se lại

khi một số ngƣời quần áo còn phong phanh quá nhƣ thuở sinh thời xông pha trận

mạc vậy.

Cùng tuổi thanh xuân ra đi đánh giặc cứu nƣớc, tôi có chút may mắn đƣợc trở

về xây dựng tổ ấm hạnh phúc, có vợ con gia đình. Vợ tôi là một ngƣời phụ nữ Hà

Thành, sau giải phóng trong đoàn cán bộ do Bộ Tài chính điều động tăng cƣờng

cho miền Nam và về tỉnh Đồng Nai. Chúng tôi gặp nhau trên đƣờng công tác rồi

nên duyên đôi lứa, cùng nhau xây dựng hạnh phúc trăm năm. Còn các anh, những

ngƣời nằm xuống vì cuộc sống hòa bình hôm nay, không ít ngƣời chƣa đƣợc về

bên đồng đội, cha mẹ, ngƣời thân khắc khoải đợi chờ. Bởi thế, không ít lần tôi đã

cất công trở lại những chiến địa ngày nào mà đơn vị đã hoạt động ở huyện Tân

Uyên - Bình Dƣơng; Vĩnh Cửu - Biên Hòa - Đồng Nai hầu mong tìm đƣợc những

dòng chữ trên mộ chí khắc ghi tên bạn bè quen thuộc. Và may thay, những điều

244

ƣớc muốn đã tới làm tôi vui đến nghẹn ngào. Đó là các bạn Vũ Văn Lý, Trần Văn

Tịch, Đinh Xuân Hƣng, Nguyễn Văn Lịch, Lã Văn Điều...

Thú thực, cƣơng vị công tác của tôi chẳng phải to tát cho lắm, nhƣng nhiều

khi khá bận rộn. Điều ấy cũng dễ hiểu: phấn đấu thực hiện chỉ tiêu kế hoạch nhà

nƣớc tỉnh giao, chăm lo đời sống tinh thần, vật chất cho cán bộ, công nhân viên

chức và ngƣời lao động. Rồi còn tham gia các phong trào đền ơn, đáp nghĩa, văn

hóa xã hội... Tuy vậy, nhƣng không thể vin vào những công việc thƣờng nhật để

quên những điều thiêng liêng khác với đồng đội đã khuất. Không ít lần vào dịp kỷ

niệm 27 tháng 7 ngày thƣơng binh, liệt sĩ; ngày 22 tháng 12 thành lập Quân đội

nhân dân, tết Nguyên đán cổ truyền dân tộc, tôi cùng một số bạn bè tha thẩn ở

nghĩa trang liệt sĩ để thắp hƣơng viếng mộ anh em. Làm đƣợc việc này nhƣ thấy

lòng mình nhẹ vơi đôi chút. Tuy nhiên trong số anh em hy sinh nêu ở trên so với

thực tế hy sinh trƣớc ngày toàn thắng của cán bộ, chiến sĩ Đoàn Đặc công 113

chúng tôi còn quá ít. Nghĩa là vẫn hàng chục anh em khác hiện chƣa tìm thấy mộ

chí ở các nghĩa trang, đó là điều làm chúng tôi trăn trở vô cùng.

Ra thăm các anh, tôi nhƣ thấy hình ảnh họ hiển hiện gần gũi thân quen biết

ngần nào. Tiêu biểu nhƣ Lã Văn Điều, pháo thủ ĐKZ 82 một mình thay cho mấy

ngƣời bắn ba quả đạn, tiêu diệt ba xe tăng địch. Khi pháo bị đạn địch tiện gẫy

chân, anh vác nòng pháo nóng cả ngàn độ lên vai định bắn tiếp. Nhƣng viên đạn

trong lòng phát nổ, Điều đã anh dũng hy sinh. Nghe nói sau này Bộ Tƣ lệnh Đặc

công có đề nghị Nhà nƣớc tuyên dƣơng anh danh hiệu Anh hùng lực lƣợng vũ

trang nhân dân mà chƣa thấy kết quả, không hiểu vì lý do gì?

Tôi có những kỷ niệm đẹp với Lã Văn Điều. Những lần đi mò cua, mò cá, hái

rau rừng, đào củ mài... cải thiện. Điều bộc bạch về ý tƣởng của mình khi nƣớc nhà

thống nhất, mơ ƣớc đi đại học để có dịp phát triển tri thức của tuổi trẻ cống hiến

cho quê hƣơng, đất nƣớc. Điều còn thổ lộ rằng: mình đã có cô bạn gái học cùng

cấp III, khi chia tay nàng bịn rịn e lệ trƣớc bạn bè và trao cho mình chiếc bì thơ,

bên ngoài đề nắn nót nét chữ còn tƣơi rói khá duyên dáng nhƣ khuôn mặt nàng

vậy. Điều bảo tôi: Thành có thể đoán thử coi nàng viết nhƣ thế nào? Tôi chƣa kịp

trả lời thì Điều thuật lại với nụ cƣời tủm tỉm mà rằng:

- Bạn gái nơi chốn quê hương thương gửi chàng ngày lên đường ra mặt trận.

Nhớ đừng quên nhau nhé... Cuối câu nàng kéo dài nhƣ muốn níu lại thời gian

để đƣợc gần nhau đôi chút. Mình định trả lời thật mạch lạc những câu đầy ấn

tƣợng, song rốt cuộc chẳng nói đƣợc gì hơn ngoài hai cặp mắt nhìn nhau cho tới

khi có lệnh xếp hàng ngũ để xuất phát lên đƣờng. Ánh mắt nàng dõi theo mình

cho tới hút tầm. Hình ảnh ấy cứ hiển hiện và theo mình vào trong cả giấc mơ đấy,

Thành ạ. Đã lâu mình chẳng nhận đƣợc thƣ nàng. Có thể nàng đã là một tiểu thƣ

trên giảng đƣờng đại học, một cô thanh niên xung phong phá đá, mở đƣờng hoặc

“thím” bộ đội cũng nên. Tuổi trẻ nhiều lúc cũng đầy mơ mộng và đẹp lạ thƣờng.

- Còn cậu đã có bóng hồng nào thấp thoáng trong tim chƣa? - Điều đột ngột

quay sang hỏi tôi thế.

245

- Có! Nhƣng mới chỉ mờ mờ ảo ảo thôi, chƣa thắm thiết nhƣ Điều đâu. Ờ

càng tốt. - Điều trả lời vắn tắt vậy....

Nào ngờ những kỷ niệm hết sức bình dị ấy đã trở thành dấu ấn với ngƣời ở lại

trong tôi. Sau khi Điều hy sinh, tại hậu cứ trong chiếc ba lô đã bạc màu, chúng tôi

còn thấy chiếc phong bì ấy. Bên trong có chiếc khăn mùi xoa thêu hình đôi chim

bồ câu con lƣợn, con đậu và tấm ảnh chân dung đen trắng của ngƣời bạn nữ sinh

gƣơng mặt nhƣ một bông hoa.

Nặng tình đồng đội, đã mấy lần tôi đi phép lần theo địa chỉ thôn Phúc Thủy,

xã Hợp Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam để thăm gia đình. Mẹ Điều là bà Trần

Thị Sai đã ngoài tám chục tuổi. Mẹ nói trong nƣớc mắt: em Điều con mẹ đã đƣợc

báo tử nhiều năm rồi. Nay con cất công từ tỉnh Thanh ra thăm mẹ, mẹ nhƣ thấy

em Điều nó trở về - thật quý hóa vô cùng.

Xét thấy hoàn cảnh mẹ cũng còn vất vả. Qua thực tế, tôi bàn với Đảng ủy,

Ban giám đốc công ty, Ban chấp hành công đoàn cùng tập thể cán bộ công nhân

viên chức thống nhất nhận phụng dƣỡng mẹ liệt sĩ Trần Thị Sai mỗi tháng

200.000 đồng, từ hơn một năm nay. Ngoài ra những ngày lễ tết công ty còn có

thêm phần quà và thƣ thăm hỏi, động viên mẹ lúc tuổi già.

Chiến tranh đã lùi xa gần ba thập kỷ, nhƣng nỗi đau còn âm ỉ trong hàng vạn

gia đình. Song, trên mỗi cƣơng vị công tác trong tất cả chúng ta chỉ góp một chút

gì đó để làm vơi bớt nỗi đau cho thân nhân gia đình liệt sĩ âu cũng là nghĩa cử rất

đáng trân trọng, đƣợc xã hội tri ân. Việc làm của Đặng Trọng Thành là một trong

những nét đẹp quý giá ấy.

Biên Hòa, tháng 3 năm 2004.

C.T.Đ

246

GẦN CÁC ANH THẤY YÊN LÒNG, XA CÁC ANH THÊM NHỚ

PHAN THỊ DIỆU1

Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống cách mạng thuộc xã

Phú Giáo, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dƣơng, nhờ cha chú giáo dục, sớm giác ngộ

cách mạng và lòng căm thù giặc từ thời niên thiếu.

Khi phong trào kháng chiến phát triển, mọi ngƣời nô nức đƣợc cầm súng giết

giặc, cứu nƣớc, cứu nhà. Năm 1964, Mỹ điên cuồng viện cớ sự kiện Vịnh Bắc Bộ

để dùng máy bay, tàu chiến ồ ạt đánh phá miền Bắc, hòng gỡ thế thất bại trong

chiến tranh đặc biệt tại miền Nam. Vào thời điểm ấy, thay vì tính nhút nhát e lệ

của một ngƣời con gái mƣời bảy tuổi đầu tôi đã tham hoạt động cách mạng trong

phong trào phụ nữ Phú Giáo, tỉnh Phƣớc Thành động viên chị em thi đua với nam

giới xung phong ra mặt trận. Ngƣời ở hậu phƣơng thì chăm lo sản xuất, ủng hộ

kháng chiến. Những chị em có chồng con, anh em đi cầm súng đánh thuê cho giặc,

hãy thức tỉnh trở về với chính nghĩa, đừng chết thay vô ích... Hƣởng ứng lời kêu

gọi của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Chị em nữ giới quê tôi

lúc ấy làm nhiều việc có ích cho nƣớc, cho nhà.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày càng lan rộng và phát triển cƣờng độ cao.

Điển hình nhất là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân - 1968 là một đòn

chí mạng đánh vào bè lũ cƣớp nƣớc và bọn bán nƣớc, hại dân. Theo chỉ đạo của

cấp trên, trực tiếp là Tỉnh ủy Thủ Dầu Một các huyện trong tỉnh đều lần lƣợt vận

động thành lập các đội nữ pháo binh trực thuộc Huyện đội. Thế là ngày 20 tháng 8

năm 1968, từ tổ chức Hội Phụ nữ, tôi gia nhập lực lƣợng võ trang, trực tiếp làm

đội trƣởng - chỉ huy về quân sự. Chị Tƣ Hà - chính trị viên và chị Út Tuyết - đội

phó.

Thực tình, đƣợc cấp trên tin tƣởng giao nhiệm vụ thì tôi sẵn sàng đón nhận

với tinh thần cách mạng tiến công, chứ nói về kỹ chiến thuật cối, pháo thì bản thân

tôi cũng nhƣ các chị em khác cũng còn tù mù lắm. Đó cũng là một thực tế thôi, từ

hồi nào tới giờ đâu có đƣợc sờ tới loại súng đạn nặng nề ấy thƣờng thích hợp với

nam giới. Tuy nhiên đƣợc sự động viên của cấp trên, hơn nữa, Huyện đội Tân

Uyên phái anh Tƣ Hòa trực tiếp làm cố vấn. Lực lƣợng ban đầu chỉ có 13 chị em,

tuổi đời từ 18 đến 22 đƣợc điều động từ các cơ quan dân chính ra, có chọn lựa hẳn

1 Nguyên đội trưởng nữ pháo binh huyện Tân Uyên - Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai.

247

hoi nên tinh thần rất hăng hái, háo hức lập chiến công. Súng bộ binh loại nhỏ nhƣ:

bá đỏ, tiểu liên AK, các bin, cực nhanh chẳng hạn dù sao cũng đã có hiểu biết

phần nào. Gặp địch có thể sử dụng phát huy tác dụng đƣợc ngay. Đằng này thuộc

loại pháo cối 81mm và 60 mm đòi hỏi tính toán phân tử, tầm hƣớng chi tiết lắm

mới điều khiển quả đạn trúng mục tiêu. Vậy mà đã đòi lập công thì thật buồn cƣời.

Nhƣng mà có nhƣ thế thật đó, tuổi trẻ đáng yêu làm sao.

Phải thừa nhận nhờ ý chí quyết tâm nung nấu thi đua với nam giới và đội nữ

pháo của các huyện bạn nên ai nấy say mê học tập. Anh Tƣ Hòa cũng hết sức quý

mến tinh thần ham học hỏi và sáng dạ của chị em. Vì thế, chỉ trong thời gian

tƣơng đối ngắn, từ chỉ huy đến các pháo thủ đều đã hiểu và nắm khá vững tính

năng tác dụng của từng loại pháo. Kể cả thực hành bắn khi có đủ bộ lệ nhƣ chân

pháo, đế pháo, máy tính toán và có lúc bắn ứng dụng, vừa ban ngày lẫn ban đêm,

ai nấy rất phấn khởi và tự tin lắm. Từ hồi nào tới giờ trên địa bàn huyện chỉ có bộ

đội địa phƣơng kết hợp với dân quân du kích tại chỗ. Những mục tiêu trọng yếu,

trên điều bộ đội chủ lực về, đánh xong lại rút đi. Nhƣng nay có thêm đội pháo

binh do chị em đảm nhiệm thấy phấn chấn lạ. Vậy là gần nhƣ cùng một thời điểm,

các huyện: Châu Thành, Lái Thiêu, Bến Cát, Long Khánh đều lần lƣợt ra mắt đội

nữ pháo binh. Hiệu quả hoạt động và chiến đấu còn phải chờ thực tiễn trên chiến

trƣờng, nhƣng dù sao đây cũng đánh dấu bƣớc trƣởng thành của đội quân tóc dài

dùng pháo.

Nhiệm vụ của đội nữ pháo cối là do Ban Chỉ huy Huyện đội quyết định.

Nhƣng cơ bản, thƣờng xuyên phối hợp với các đơn vị bộ đội huyện nhƣ đại đội 1,

đại đội 2 và K1, K2 của tỉnh Thủ Dầu Một đánh nhỏ lẻ nhằm phân tán lực lƣợng

địch, kìm chân chúng tại chỗ để tạo thuận lợi cho các đơn vị chủ lực đánh lớn.

Với phƣơng châm ấy, từ sau ngày thành lập cho tới những tháng còn lại của

năm 1968 và suốt cả những năm 1969 - 1970 - 1971, đội nữ pháo binh chúng tôi

bám trụ và hoạt động thƣờng xuyên trên địa bàn bốn xã của Chiến khu Đ nhƣ:

Thƣờng Lang, Tân Tịch, Mỹ Lộc, Tân Hòa thuộc Đất Cuốc. Sau này có thêm xã

Lạc An.

Mục tiêu tác chiến là tập kích các chốt của địch đóng dã ngoại và chi khu Tân

Uyên mỗi tháng một trận. Có khi hai trận nếu phát hiện trong chi khu thấy động

thái khác thƣờng nhƣ địch tụ tập quân lính về đông. Bên cạnh đó còn có các mục

tiêu nhƣ chốt Tân Hòa, cầu Đồng Tranh của bọn ngụy và chốt Mỹ ở cầu Rạch Rớ

bằng cối 81mm.

Để đánh chắc thắng, chúng tôi thƣờng tổ chức đặt đài quan sát chặt chẽ mục

tiêu để khi bắn tiết kiệm đạn nhƣng gây thiệt hại nặng cho địch. Có những lần

chúng tôi về họp hoặc các đồng chí Huỳnh Tƣ Hậu - Huyện đội trƣởng, Huỳnh

Văn Hiệp - Huyện đội phó xuống kiểm tra tinh thần sẵn sàng chiến đấu của đội

thƣờng nhắc nhở: chị em làm ăn sao đó thì làm; đừng để bọn quan lính trong chi

khu nó tung tin mấy bả bày đặt “gãi ngứa” đó nghen. Đƣợc dịp cả bọn con gái này

cũng chẳng vừa:

248

-Đƣợc rồi, các anh cứ ra lệnh đi, nếu làm ăn không ra trò trống cứ việc kỷ

luật thẳng thừng không khoan nhƣợng. Sau đó đuổi cổ đi cho tìm mỗi đứa một

tấm chồng, thế là xong - Nói đoạn cả bọn cƣời khúc khích đến là vui. Mà cũng

nhờ cái lạc quan ấy nên vƣợt qua mọi gian khổ, hy sinh để bền gan vững chí mà

chiến đấu. Trong máu lửa, niềm tin càng đƣợc hun đúc hơn bao giờ hết. Không gì

vui sƣớng bằng ra trận mà chiến thắng quân thù, hạn chế thƣơng vong cho đồng

đội.

Tôi vẫn còn nhớ trận tập kích địch chốt cầu Rạch Rớ, chúng bỏ xác từ 15 đến

20 tên. Cũng nhờ nắm đƣợc thời cơ khi chúng sơ hở chủ quan reo hò loạn xạ, thế

là chúng tôi cấp tập mấy quả liền vào trúng đội hình. Một chốt nhỏ mà chết nhƣ

thế, chúng không khiếp sao đƣợc chứ. Rồi chốt Tân Hòa, chỉ dộng sơ sơ một, hai

trái cũng đến ba, bốn tên tiêu mạng. Còn nữa chƣa hết đâu. Trận tập kích quân Mỹ

ở cầu Bình Tranh cũng ấn tƣợng lắm.

Đó là vào năm 1970, địch đổ bộ bao vây các làng Bình Mỹ, Bình Cơ ngăn

chặn hành quân của ta. Theo chỉ thị của Ban Chỉ huy huyện Tân Uyên, chúng tôi

tổ chức nghiên cứu trận địa. Hết thảy chị em là ngƣời địa phƣơng trong huyện.

Hơn nữa đã nhiều năm hoạt động nơi đây nên quen thuộc nhƣ mảnh vƣờn nhà

mình vậy. Bởi thế tìm trận địa đặt pháo không mấy khó khăn. Thế rồi sau khi biết

đƣợc nơi co cụm của tụi Mỹ. Vào 17 giờ 30 phút cả đội ra trận địa. Sau khi giành

thời gian đặt cối pháo, đo đạc kiểm tra chính xác cự ly mục tiêu. Quả đầu tiên rơi

trúng đích, cấp tập những quả tiếp theo, điểm nổ rất chuẩn và chụm. Thế là bàu

Đồng Tranh lại thêm đẫm máu quân xâm lƣợc. Khoảng 20 tên Mỹ bị phơi thây -

đây là một trong những trận đánh điển hình của đội nữ cối pháo Tân Uyên, làm

nức lòng quân dân huyện nhà. Bọn quan thầy bị đền tội thê thảm, đó chính là đòn

cân não đánh vào bọn ngụy quân, ngụy quyền, hạn chế phần bạo ngƣợc so với

trƣớc.

Từ trận thắng này, tiếng tăm đội nữ pháo binh Tân Uyên lan truyền khắp nơi,

đƣợc nhiều bạn bè biết tới và hết sức khâm phục. Chỉ huy, lãnh đạo Quân khu gửi

điện khen ngợi. Đồng chí Bảy Mai Chính ủy gởi tặng tôi chiếc ra-đi-ô ba băng để

nghe thời sự hàng ngày trong nƣớc và thế giới. Chúng tôi coi đây là phần thƣởng

dành cho tập thể các chị em. Một điều ý nghĩa hết sức lớn lao là địch tƣởng bao

vây ngăn chặn ta. Chẳng những không thực hiện đƣợc ý đồ, ngƣợc lại bị thất bại

nhục nhã. Sau trận thắng ấy, địch buộc phải từ bỏ ý định, tạo thông thoáng hành

lang đi lại cho ta.

Một lần khác, Mỹ mở cuộc càn quét vào căn cứ của ta. Không may có một

mũi của chúng đột thẳng vào đội hình nữ pháo binh. Thế là ai nấy đều dùng vũ khí

tự có để chiến đấu nhƣ là lựu đạn, súng trƣờng CKC và AK. Chống cự đƣợc từ 15

- 20 phút thì đƣợc hai đại đội bạn chi viện kịp thời. Ta không ai bị thƣơng vong.

Dấu ấn trận chống càn bàu Sông Rắn

Địch thừa biết lực lƣợng ta luôn bám trụ ở đây để bảo vệ hành lang từ Chiến

khu Đ đi về hoạt động là mối nguy hiểm bị đe dọa thƣờng xuyên đối với chúng.

Nên chúng dồn sức mở trận càn quy mô nhỏ, phạm vi hẹp, không gian ngắn từ đầu

249

chiều cho tới nhá nhem tối. Mặt khác dồn sức để lấy xác đồng bọn. Lợi dụng trời

đang tối dần, ta vừa đánh vừa kìm chế cho nhau để rút ra khỏi Trủng Chẳng.

Chúng dùng máy bay pha đèn để tìm nhặt xác đồng bọn. Trong khi chúng lấy

xong xác thì gọi pháo dập cho tan nát để tiếp tục đổ quân. Rất may lúc này quân ta

đã rút ra ngoài an toàn, chỉ bị thƣơng nhẹ một nam giới. Thật là một phen nhớ đời,

nhƣng càng cọ xát với bọn giặc Hoa Kỳ, ỷ vào vũ khí tối tân, quân lính đƣợc trang

bị đầy đủ, qua chiến đấu thì chúng chẳng có gì ghê gớm nhƣ một số ngƣời run sợ

và khiếp nhƣợc. Những lần nhƣ thế, hết thảy chị em cảm thấy mình trƣởng thành

thêm một bƣớc đáng kể.

Sau trận thoát hiểm ấy, chúng tôi vƣợt tới Trủng Chẳng thì đã 10 giờ đêm

mới dừng lại triển khai nấu ăn. Ý thức địch tình thì ai cũng biết, song vừa quần

nhau với giặc mệt nhoài. Trong khi đó lại dùng bếp dã chiến, ít nhiều ánh sáng lọt

ra ngoài, loại máy bay hai thân phát hiện, chỉ điểm. Thế là 5 giờ sáng, loại cá lẹp

quần đảo, bắn áp chế những trận mƣa trọng liên 12,8 mm và đạn cối, rốc két liên

hồi kỳ trận. Kế đó, các mũi lính bộ binh áp sát bủa vây theo kiểu cất vó. Nhƣng

một lần nữa chúng lại chua chát đánh vào chỗ trống. Chúng tôi bình yên vô sự.

Là lực lƣợng bộ đội địa phƣơng, chúng tôi không chỉ luôn luôn sẵn sàng

chiến đấu, thực hành chiến đấu và tranh thủ huấn luyện bổ sung để nâng cao thêm

trình độ. Ngoài ra còn phải tham gia vận tải đạn từ Đồng Xoài về tận sông Đồng

Nai cho đơn vị bạn. Quân số có khi lên tới 20 chị em, tình cảm gắn bó nhƣ con

một nhà. Cũng có lúc nặng lời với nhau đôi chút, nhƣng qua đó là thôi không nỡ

giận hờn nhau mà làm gì. Vào giữa năm 1969, tôi đƣợc trên cử đi học trƣờng quân

sự H12 của Miền. Xa đơn vị ai nấy khóc rƣng rức. Có cô bạo mồm bạo miệng nói:

- Liệu chị Diệu học xong trở về có còn gặp đầy đủ bọn em nữa không? - Họ

nói thực lòng, làm tôi càng thêm nhung nhớ. Nhƣng điều ấy ai mà đoán trƣớc

đƣợc nhiều tình huống xảy ra. Mà quả thật nhƣ vậy.

Tuy xa đơn vị, xa chị em nhƣng tôi vẫn theo dõi các hoạt động chiến đấu ở

nhà. Khi gặp ai về Miền là tôi tìm tới hỏi thăm họ. Kể ra thì cũng tội nghiệp. Đất

nƣớc loạn lạc binh đao lửa khói nên đàn bà con gái cũng nô nức ra trận, chịu đựng

gian khổ khó khăn nhƣ nam giới. Nếu bình thƣờng, con gái nhà quê độ tuổi trong

ngoài hai mƣơi này, đều đã chồng con rần rần rồi còn gì. Liệu khi kết thúc chiến

tranh, có đứa trong bọn gối lẻ chăn đơn cho mà coi. Tôi tự nghĩ thầm trong bụng

vậy rỗi lại trách mình: nghĩ mông lung vậy là chƣa phù hợp với hiện tại cô nàng ạ.

Sau thời gian đƣợc trang bị những kiến thức tƣơng đối có hệ thống cả quân

sự và chính trị ở trƣờng H12, đầu năm 1971 tốt nghiệp về nhận công tác ở Tỉnh

đội Thủ Dầu Một, làm Đại đội trƣởng đại đội 4, Tiểu đoàn Phú Lợi toàn là nữ.

Năm 1972, về Phòng Tham mƣu Quân khu miền Đông làm trợ lý dân quân. Và

sau đó ít lâu về Tỉnh đội Tân Phú - sau giải phóng ít lâu, tỉnh này chuyển thành

huyện Định Quán trên địa bàn hành chính tỉnh Đồng Nai.

Hai huyện Tân Uyên và Vĩnh Cửu là cửa ngõ tiếp giáp Chiến khu Đ rất thuận

lợi cho Quân giải phóng đột kích vào các căn cứ lớn của Mỹ - ngụy ở Biên Hòa và

Sài Gòn. Bởi vậy, từ những năm 1966, trên địa bàn huyện Tân Uyên, nhất là năm

250

xã chiến khu A đã có một trung đoàn pháo binh Quân giải phóng bám trụ và hoạt

động. Từ đây, nhiều trận bão lửa đã dội xuống phi trƣờng Biên Hòa, tổng kho

Long Bình, căn cứ thiết giáp Hốc Bà Thức... làm cho Mỹ - ngụy điên đầu mà

không thể nào tìm cách đẩy ra khỏi địa bàn, bởi đƣợc dân bao bọc, che chở thƣơng

yêu nhƣ ruột thịt. Chính những tháng năm gian khổ mà hào hùng của cuộc chiến

đấu ấy, đội nữ phào binh tụi tôi ngoài sự trực tiếp lãnh đạo cửa Huyện ủy, chỉ huy

của Huyện đội Tân Uyên, về mặt chuyên môn, còn có sự giúp đỡ rất nhiều của các

anh bộ đội.

Phải thừa nhận, các anh trinh sát kỹ thuật pháo binh tính toán rất giỏi nhờ

trình độ văn hóa cao. Số anh này hầu hết huấn luyện bài bản từ miền Bắc, nên

đƣợc gần các anh nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện tốt cho chị em nâng cao đƣợc

trình độ pháo. Mặt khác, đƣợc gần gũi một đơn vị quân chủ lực, nhiều khi cũng

thấy an tâm hơn. Cũng chính từ điều kiện hoạt động đã chớm nở những mối tình

đẹp trong số các anh với chị em chúng tôi mà anh Hai - Tiểu đoàn trƣởng với chị

Út phó đại đội trƣởng là một ví dụ điển hình. Vì nhiều lý do khác nhau, chƣa đi tới

thành hôn, song những mối tình nhƣ thế trong chiến tranh, không chỉ cổ vũ hai

ngƣời mà còn là niềm khích lệ bao chàng pháo thủ và nữ quân nhân chúng tôi thật

vui, quên hết vất vả nhọc nhằn. Đầu tháng 6 năm 1972, đơn vị pháo binh này đƣợc

chia tách làm đôi, Tiểu đoàn 174 nằm trong đội hình Trung đoàn Đặc công 113

chuyển địa điểm đóng quân để gần mục tiêu nội ô. Một nửa cơ động về tỉnh Bà

Rịa, từ đó chúng tôi thực sự xa các anh. Song, những kỷ niệm kháng chiến nhƣ

vẫn còn nguyên vẹn.

Mà quên sao đặng chớ, là phái “chân yếu tay mềm”, vậy mà nhờ hun đúc tinh

thần yêu nƣớc và lòng căm thù giặc mà trở nên rắn rỏi, cứng cáp lạ thƣờng. Chị Út

Tuyết Đại đội phó, vừa khỏe mạnh lại đẹp ngƣời, đẹp nết. Chẳng thế mà thƣờng

giành phần công việc nặng nề về mình. Có những anh cán bộ bên pháo binh dám

nói rằng: các anh đƣợc nhìn thấy em Út là muốn khỏe ra bao nhiêu. Chị cƣời

gƣơng mặt ánh lên những sức sống trẻ trung biết mấy. Không chỉ riêng phái mày

râu nhận xét, là chị em nữ với nhau, chúng tôi cũng nhận ra sự nổi trội ấy của chị.

Nhƣng không hề ghen tỵ mà càng tự hào hơn. Bởi bất cứ ai đẹp lên đƣợc điều gì,

dù đó là ánh mắt nụ cƣời thêm má lúm đồng tiền đều thêm nét duyên của phái yếu

càng dịu dàng chớ sao? Vậy mà... mảnh đạn quái ác của kẻ thù đã “đóng” vào trán

chị một vết thẹo to tƣớng. Thêm nữa là cặp giò trắng nhƣ ngà của chị cũng gẫy

mất một bên. Chị đƣợc chuyển tuyến ra Bắc điều trị. Nghe nói quá trình điều

dƣỡng, chị gặp và se duyên với một anh bộ đội cùng cảnh để có một tổ ấm. Sau

ngày giải phóng anh chị hồi hƣơng về tỉnh Bạc Liêu quê chồng. Nghe tin cuộc

sống còn chật vật lắm. Còn các em khác nhƣ Bé, Ngọc, Hằng, Vân... nhỏ tuổi hơn

mà tinh thần hăng hái lắm, vác cả thùng đạn cối nặng trĩu tới mấy chục ký vậy.

Bình thƣờng thì đã đáng khích lệ lắm rồi. Lúc sốt rét, ốm đau bệnh hoạn, hoặc

những ngày “cấm kỵ” vẫn xung phong ra trận địa, thƣơng biết chừng nào. Riêng

tôi là đội trƣởng, nhờ có chút sức khỏe khá nổi trội, ngoài trách nhiệm chính về

mọi mặt từ tác chiến, tổ chức xây dựng đơn vị... còn thƣờng đảm nhiệm cả cái đế

251

cối 81mm. Trọng lƣợng này dễ chừng cả hai ngƣời khiêng còn chật vật, vậy mà

một mình khỏe re.

Sau giải phóng chị em đều lần lƣợt lập gia đình, có chồng con, cuộc sống ổn

định, thế cũng mừng. Tuy nhiên cũng có chị mơ ƣớc thiên chức làm mẹ mà không

bao giờ tới nên chấp nhận ở vậy suốt đời gối lẻ chăn đơn. Điển hình nhƣ chị

Nguyễn Thị Vân, bám trụ khá lâu trong quân đội và xung phong đi phục vụ chiến

trƣờng Cam-pu-chia sau này nữa chớ. Tinh thần ấy cao thƣợng biết bao. Đó là

chƣa kể tới là một đơn vị nhỏ nữ pháo binh chúng tôi mà có đến năm chị em ngã

xuống khi tuổi đời còn rất trẻ. Trong số đó có những em lƣu luyến tiễn tôi trƣớc

khi đi học: “Lúc chị trở về liệu có gặp đầy đủ tụi em?” lúc này tôi chỉ biết an ủi họ

chớ sao. Không ngờ điều ấy đã là sự thật.

Tuy nhiên, từ sâu thẳm lòng mình vẫn ray rứt một điều đã gần 30 năm rồi

mỗi đứa mỗi phƣơng chƣa có dịp gặp lại nhau để hàn huyên tâm sự bao nhiêu

chuyện vui buồn, chia sẻ cùng nhau. Có lẽ các chị khác cũng có tâm trạng nhƣ tôi

vậy!

Kỷ niệm trong chiến tranh thì bao la, làm sao kể xiết. Vào những thời điểm

khó khăn nhất những năm 1969, 1970 - 1971 đói quay, đói quắt, mỗi lần sang

thăm các anh thấy “khẩu phần ăn” toàn là củ nần, củ chụp. Có lúc khá hơn là thêm

chén măng rừng hoặc ít chuối xanh. Giờ đây mỗi lần ăn miếng ngon, nghĩ lại cảm

thấy rƣng rƣng. Bất chợt, tôi giở trang nhật ký có một anh cán bộ bên ấy đã lƣu

bút mấy câu thơ:

Ta đã từng đói no nên quý từng hạt gạo

Đã chịu rét nhiều lần nên thương từng manh áo

Đời cha mẹ khổ cực, nên ta quyết làm người

Nước còn giặc, còn đánh, đánh đến cùng thế thôi!

Thời gian đã khá xa, nét mực đã mờ nhòa mà đọc lại vẫn thấy thấm đẫm quá!

Chân lý quá! Hỡi ngƣời anh viết những dòng này, giờ anh đang ở phƣơng trời nào

vậy?

Chƣa nói đâu xa, chính gia đình tôi đấy thôi: cha mẹ sinh hạ đƣợc bảy ngƣời,

ba con trai, bốn con gái. Mẹ mất vì bệnh tật từ năm 1953 trong rừng Chiến khu Đ.

Cha bị địch bắt từ năm 1960 sau trận Phƣớc Thành vì lý do là cơ sở cách mạng.

Mất năm 1970 tại xóm Bƣng bởi di chứng những đòn tra tấn và bệnh tật. Cả ba

anh em trai đều hy sinh trong chống Mỹ, trong đó có đứa em út Phan Văn Tèo hy

sinh năm 1970 trên mảnh đất quê hƣơng, đƣợc Nhà nƣớc truy tặng danh hiệu cao

quý Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân vào năm 1976. Còn tôi, tuy thân gái

liễu yếu tơ mành nhƣng sớm nhận ra chân lý, thoát ly hoạt động cách mạng từ

năm 1964. Sau đó sang lực lƣợng vũ trang giải phóng và đi suốt cuộc hành trình

theo yêu cầu của Đảng.

Giờ đây mỗi lần có dịp trở về thăm miền quê yêu dấu đang thay đổi từng

ngày. Vào dịp lễ, tết ra nghĩa trang thắp hƣơng tƣởng niệm các anh hùng liệt sĩ,

252

những ngƣời con trung hiếu vì Đảng, dân tộc làm tôi liên tƣởng ngày nào chiến

đấu bên nhau.

Tp. Biên Hòa, tháng 4 năm 2004

P. T. D

253

BÁC SĨ BỘ ĐỘI GIẢI PHÓNG TỐT QUÁ

Bs NGUYỄN VĂN ĐIỆP1

Đội phẫu thuật dã chiến thuộc đại đội quân y, Trung đoàn Đặc công 113 do

tôi phụ trách, mới từ Tân Uyên cấp tốc chuyển về đóng ở ấp Tân Bản để phục vụ

bộ đội đánh chiếm và bảo vệ cầu Ghềnh và Cầu Mới, ngay giữa thị xã Biên Hòa.

Suốt mấy ngày, đêm liền cùng các y sĩ, y tá, hộ lý của đội phẫu thuật làm việc liên

tục để cấp cứu anh em thƣơng binh và cả nhân dân bị thƣơng dồn dập chuyển tới.

Khoảng 10 giờ sáng, ngày 30 tháng 4 năm 1975, một số căn cứ địch trong thị

xã Biên Hòa còn ngoan cố nổ súng kháng cự với quân ta. Một số khác bỏ nơi đồn

trú chạy tán loạn, nhà thƣơng Biên Hòa cũng dồn dập tiếp nhận các ca chấn

thƣơng. Giữa lúc đó, tại đội phẫu Trung đoàn 113, chúng tôi nhận một cháu bé 8

tuổi trong tình trạng nguy kịch gồm các vết thƣơng ở đầu, mặt, cổ. Đặc biệt, vùng

thắt lƣng bị một mảnh đạn xuyên thủng cả mặt trƣớc và sau dạ dày. Em bé trong

trạng thái hôn mê vì mất máu.

Sau khi hội chẩn, tôi chỉ lệnh gây mê và kịp thời xử lý theo phƣơng pháp:

giải phẫu khẩn hai lỗ thủng dạ dày và đóng thành bụng ba lớp. Chiến dịch Hồ Chí

Minh tiếp tục phát triển, đội phẫu phải cơ động theo đội hình đơn vị, nếu để cháu

bé lại sẽ rất nguy hiểm cho việc chăm sóc vết thƣơng sau khi mổ. Tôi quyết định

đƣa cháu đi cùng đội phẫu để tiện bề chăm sóc. Đi theo cháu còn có cha, mẹ và

một cụ già (có thể bà nội hay ngoại). Ít ngày sau vết thƣơng ổn định, gia đình xin

cho cháu về nhà, trong không khí chiến thắng của toàn dân tộc.

Trƣớc lúc chia tay trong niềm xúc động vì con, cháu mình đã đƣợc cứu sống

mà ngƣời trực giúp cứu chữa lại là bác sĩ quân y quân giải phóng, lần đầu họ mới

gặp. Gia đình đƣa ra một xấp tiền còn rất mới để bồi dƣỡng cho bác sĩ. Tôi cƣời

và giải thích:

- Bộ đội giải phóng không chỉ là đánh giặc, giải phóng đất nƣớc, còn có nghĩa

vụ bảo vệ tính mạng, tài sản cho nhân dân. Gia đình yên tâm đƣa cháu về, tiếp tục

chăm sóc, đề phòng vết thƣơng bị nhiễm trùng...

Đƣợc biết cháu bé tên là Huỳnh Phú Hữu, Tân Hiệp, Biên Hòa.

Gần 30 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nƣớc. Tôi

cầu mong biết hoàn cảnh em Hữu ngày ấy hiện nay thế nào?

N.V.Đ

1 Đội phẫu thuật dã chiến - Đại tá Chủ nhiệm quân y Bộ Tư lệnh Đặc công.

254

CÂU CHUYỆN BÊN VÀNH ĐAI SÂN BAY BIÊN HÕA

Ghi chép của ĐÀM CHU VĂN

Một buổi chiều nhƣ bao buổi chiều thanh bình khác. Đã gần ba mƣơi năm kể

từ ngày chiến tranh chấm dứt. Cảnh sắc đã thay đổi quá nhiều. Nhà cửa mọc lên

san sát. Ngƣời đổ về đây đông hơn, ai cũng tất bật, hối hả trong nhịp sống mới.

Riêng đối với ông, đối với gia đình ông còn đƣợc một chút thƣ thả, bình tĩnh, đó

là vẫn đƣợc ở trên khu đất tổ tiên rộng rãi, thoáng đãng trong vành đai sân bay

Biên Hòa. Chiều chiều, đi làm về ông ngồi bên chiếc bàn đá hoa đặt bên gốc dừa,

nhâm nhi ly rƣợu thuốc, lơ mơ nghe tiếng lá dừa lao xao, tiếng bò gõ sừng, hít thở

mùi cỏ dại, mùi lá cây trộn mùi phân bò nồng nồng, ngai ngái, tâm trí nhƣ để ở

nơi nào xa lắm. Bảy mƣơi mốt tuổi. Tóc bạc đã gần hết. Da đã có đồi mồi, nhăn

nheo nhƣng dáng đi vẫn còn khỏe khoắn, ánh nhìn còn nhanh - dấu vết của một

thời rèn luyện chiến đấu gian khổ, ác liệt mà hào sảng, phỉ chí anh hùng. Ông

nguyên là Trƣởng ban Quân báo U1 (Tỉnh đội Biên Hòa) từ năm 1965 đến năm

1974. Tên thật ông là Nguyễn Thành Luân. Bí danh đƣợc dùng nhiều nhất là Lê

Minh Sói, Mƣời Sói - gọi riết thành quen. Mấy chục năm nay ngƣời ta chỉ quen

gọi ông là Mƣời Sói. Tôi đến gặp ông khi ông đang ở trong tâm trạng thƣ thả nhƣ

vậy. Trung đoàn Đặc công 113 chiến đấu trên địa bàn Biên Hòa trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ, cứu nƣớc, lập đƣợc nhiều chiến công oanh liệt, liên tục tiến công

vào hai mục tiêu chiến lƣợc là sân bay Biên Hòa và tổng kho Long Bình - dạ dày

chiến tranh lớn nhất miền Nam của Mỹ - nguỵ cùng nhiều căn cứ, cầu cảng khác,

phá hủy hàng trăm ngàn tấn bom đạn, hàng chục triệu lít xăng dầu, hàng trăm máy

bay và nhiều phƣơng tiện chiến tranh khác, tiêu diệt hàng ngàn tên địch. Lập nên

những chiến công đó không tách rời sự phối hợp chiến đấu, sự tham gia, đóng góp

của các lực lƣợng vũ trang và nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai, trong đó có Ban

Quân báo U1 là một trong những đơn vị có những đóng góp quan trọng. Tôi ngồi

hỏi chuyện ông. Câu chuyện lan man rất nhiều điều, nhƣng cũng có thể hình dung

đƣợc ít nhiều về những năm tháng ấy....

Ông Mƣời Sói kể:

Hồi “chín năm” tôi cũng là quân báo Biên Hòa. Biên Hòa là nơi gia đình,

dòng họ tôi ở lâu đời nên tôi rất rành. Năm 1965 khi tôi về hoạt động ở U1 Biên

Hòa thì các đơn vị đã tổ chức đánh một số trận vào sân bay Biên Hòa, trong đó

lớn nhất là trận đêm 31 tháng 10 năm 1964. Căn cứ U1 hồi đó đóng tại đồi Giang

Tói thuộc khu vực Trảng Bom huyện Thống Nhất bây giờ. Từ đó về Biên Hòa căn

cứ đóng dày đặc. Muốn tổ chức đánh phải trinh sát dùi đƣờng. Tôi đã chỉ huy trực

tiếp một mũi dùi đƣờng. Đi cùng với tôi là anh “Chín cà lăm” - Đại đội trƣởng đội

trinh sát rất dũng cảm và anh Ba Đấu một chiến sĩ đặc công rất can trƣờng, có tài

“xuất quỷ nhập thần”. Hồi đó rừng còn nhiều. Khu vực Trảng Dài còn rừng chồi.

Rừng cao su kéo dài từ Trảng Bom, qua Hố Nai, qua trung tâm cải huấn Biên Hòa

(Bệnh viện tâm thần Biên Hòa) tới tận cầu Mƣơng Sao. Chúng tôi phải luồn rừng

cao su, đi men bìa nghĩa trang công giáo Hố Nai, giấu mìn dƣới gầm cầu sát lô cốt

255

giặc ở trung tâm cải huấn Biên Hòa. Phải ém ở chỗ địch ít nghi ngờ nhất. Hồi đó,

con suối Linh còn rộng, chƣa bị ô nhiễm, rất nhiều ốc. Nhiều ngƣời dân nghèo

sống bằng nghề bắt ốc dọc suối Linh. Ém ở đây không sợ địch, chỉ sợ dân bắt ốc

thì rầy rà. May mà không gặp ai. Chờ đêm đến, chúng tôi thọc qua ngã tƣ Tân

Phong, tiếp cận sân bay Biên Hòa phía đông bắc. Chúng tôi còn dùi con đƣờng

men theo suối Linh, qua cầu Mƣơng Sao, sang Gò Me, Hiệp Hòa. Mỗi chuyến đi

nhƣ thế mất cả một tuần. Lƣơng thực mang theo chỉ là gạo rang. Ăn rất xót ruột.

Chúng tôi phải đột nhập vào căn cứ Mỹ lấy đồ hộp, nƣớc uống của chúng về dùng.

Tỉnh đội trƣởng U1 lúc đó là đồng chí Hai Cà. Ông Hai Cà rất sâu sát. Có lần ông

bắt chúng tôi dẫn tới sát vành đai sân bay Biên Hòa xem xét. Tôi và một ngƣời

nữa dẫn ông luồn rừng và phải ém lại chòm rừng sát nghĩa trang công giáo Hố Nai

suốt một ngày một đêm. Chúng tôi câu cá dƣới suối và chém đƣợc hai con rắn làm

đồ ăn. Đêm đến, trăng sáng mờ mờ, thấy một con nai cái rất to mò ra uống nƣớc

mà không dám bắn. Sau đó, tụi dân vệ ở chòm rừng kế bên bắn mất, cứ tiếc mãi.

Dùi đƣợc đƣờng rồi, công binh mình xuống tôi cũng dẫn đi, đặc công tới tôi cũng

dẫn đi. Anh em mình ở ngoài Bắc vô, lạ địa hình không có ngƣời dẫn đƣờng là

không đi đƣợc, lỡ lọt vào ngay căn cứ địch hay ổ phục của chúng. Những chuyến

đi, có đêm chúng tôi phải ngủ ngay dƣới chân cầu Mƣơng Sao. Địch đi lại rần rần

ở trên mà chúng đâu có hay.

… Trận đánh Mỹ lớn đầu tiên ở Đồng Nai là ở đồi Giang Tói. Đại đội Tám

Bảo có mƣời mấy ngƣời quần nhau với cả tiểu đoàn giặc. Chúng phải rút chạy, bỏ

lại xác đồng bọn. Ta nhào lên thu đƣợc nhiều vũ khí. Trận đánh Mỹ đầu tiên tôi tổ

chức và tham dự là vào cuối năm 1965, lúc đó tụi Mỹ mở con đƣờng từ bệnh viện

tâm thần đi Hốc Bà Thức. Trên R có lệnh là phải có tiếng nổ trong đô thị. Chúng

tôi có bốn ngƣời tổ chức phục kích ở cái cống bên suối Săn Máu đánh tụi lính ra

đây lấy cát. Lúc đó hai bên bờ suối là rừng cao su thuận tiện cho việc phục kích.

Tính là đánh cái xe lớn nhƣng bất ngờ có một tình huống ngoài dự kiến, đó là có

một chị công nhân cạo mủ ra “tè” ngay sát chỗ tôi núp mà cái xe Jép của địch lại

đậu ngay trƣớc mặt. Sợ lộ, tôi bấm liền trái mìn định hƣớng ĐH8, diệt đƣợc hai

tên lính thu hai khẩu súng.

… Sát chỗ tôi ở bây giờ (ngoài sân bay Biên Hòa) ngày trƣớc là một cái bàu

lớn, nƣớc quanh năm không bao giờ cạn chảy ra suối Săn Máu. Tụi Mỹ mở rộng

sân bay Biên Hòa, xoá hết xóm Gò Mô, xoá hết làng Tân Phong, chỉ còn một vài

nhà dân bám trụ ở lại ngoài vành đai sân bay. Hồi Mậu Thân 68, bộ đội mình mở

đƣợc hàng rào, đánh vào lô cốt địch trong sân bay. Địch phản kích cho xe tăng

hàn kín cứ ba mƣơi mét một chiếc, trên là máy bay quần đảo, lực lƣợng ta không

phát triển lên đƣợc, hy sinh rất nhiều. Cũng có những chuyện thật kỳ lạ. Đồng chí

Ba Đấu - chiến sĩ đặc công mà tôi vừa kể, lủi vào nhà một ông già ở ngoài bìa sân

bay. Ông tên là Ba Cheo, có con trai tham gia Quân giải phóng, hy sinh hồi đầu

cuộc kháng chiến chống Mỹ. Bom đạn rần rần thế mà ông già không chịu đi đâu

cả, bám trụ ở lại làm cơ sở cho ta. Ông nói, thấy tụi bay về là mừng rồi, tao đâu có

sợ chết. Ông già cùng Ba Đấu xuống hầm, Ba Đấu giục ông chạy, ông kiên quyết

không đi. Tụi Mỹ mò tới, còn một trái lựu đạn Ba Đấu liệng tới rồi bồng ông già

256

chạy vô rừng. Chúng bắn ông già bị thƣơng mà Ba Đấu không việc gì. Đêm đến,

Ba Đấu mò ra chỗ xe tăng địch đang dàn hàng rào bao vây. Thấy một chiếc máy

vẫn nổ mà trong xe không có động tĩnh gì. Ba Đấu nhảy lên, thấy tụi trong xe bị

mìn tiêu diệt hết. Anh lấy một khẩu súng ngắn, một khẩu cạc bin, một túi đồ hộp,

rồi lộn ngƣợc trở lại, lội qua sông Đồng Nai về Thƣờng Lang (Tân Uyên).

Một công việc quan trọng của Ban Quân báo chúng tội là xây dựng mạng

lƣới cơ sở trong lòng địch. Chúng tôi xây dựng đƣợc nhiều cơ sở nội tuyến. Một

trong những ngƣời có đóng góp xuất sắc nhất là H15. Ông tên thật là Đặng Văn

Trâm, quê ở Tây Ninh. Ông đƣợc cài vào làm thợ điện cho hãng thầu của Mỹ

trong sân bay, rất thuận tiện cho nhiệm vụ H15 đã cung cấp nhiều tin tức có giá trị

về tình hình địch trong sân bay. Chiến công lớn nhất mà H15 lấy đƣợc tấm bản đồ

đem giấu kín. Sau khi phát hiện mất, chúng tra hỏi ông, đem ông ra đƣờng băng

sân bay dọa bắn bỏ nếu không trả lại chúng tấm bản đồ. Ông kiên quyết không

nhận, thà chịu chết. Sau không có bằng cớ, địch đành chịu. Tấm bản đồ đó đã

đƣợc H15 bí mật chuyển ra cứ cho phòng Quân báo U1. Đấy là bản vẽ thiết kế mở

mang sân bay Biên Hòa tỷ lệ 1/50.000 nên coi rất rõ. Tấm bản đồ này đã giúp ích

rất nhiều cho công tác điều tra, nghiên cứu, tấn công sân bay Biên Hòa của Trung

đoàn Đặc công 113, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng. Sáng ngày 30

tháng 4 khi bộ đội ta tiến vào giải phóng Biên Hòa, H15 mừng quá đã nhảy lên

kéo cờ giải phóng ở sân bay, ở Bửu Long nên bị địch phát hiện. Năm 1978, ông

đƣợc giao nhiệm vụ bám theo tụi tàn quân ngụy đang nhen nhóm bạo loạn ở Vĩnh

Cửu. Chúng đã ám sát ông khi ông đang trên đƣờng ra rẫy.

Ở căn cứ Long Bình ta cũng gài đƣợc một số cơ sở nội tuyến. Ngƣời lập đƣợc

nhiều thành tích nhất là chị Khéo. Tôi không nhớ họ của chị. Chị cũng quê ở Tây

Ninh, gia đình theo đạo Thiên chúa. Những năm đó chị vào quãng 26, 27 tuổi,

cuộc đời riêng có phần lỡ dở, sau lấy một bác sĩ ngƣời Úc, có một đứa con gái.

Chị Khéo làm phiên dịch trong căn cứ Long Bình. Chị cũng lấy đƣợc tấm bản đồ

tổng kho Long Bình và cung cấp nhiều tin tức có giá trị. Có một ngƣời đáng kể

nữa là anh Đặng Văn Trong, đại úy ngụy, phụ trách vận tải. Có điều kiện đi nhiều

nên anh Trong cung cấp tình hình bố phòng, kho tàng bom đạn trong tổng kho

tƣơng đối chính xác, phục vụ cho các kế hoạch tiến công của ta. Tôi với ông Bảy

Hồng (Phó ban Quân báo U1) còn xây dựng đƣợc một số cơ sở nội tuyến nữa.

Những ngƣời này, ngƣời ít, ngƣời nhiều đã cung cấp những tin tức có giá trị về

tình hình địch, góp phần làm nên các chiến thắng của ta.

Biên Hòa, 19- 5- 2003

Đ.C.V.

257

CHỈ THƢƠNG CON NGAN NÓ… BUỒN

HỒ THANH

Khoảng cuối tháng 8 năm 1978, Đoàn Đặc công 113 chúng tôi từ khu vực các

xã Ba Chúc, Lƣơng Phi, huyện Bảy Núi, tỉnh An Giang đƣợc lệnh rút về tập trung

tại căn cứ Bình Đức, thị xã Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang (nay là thành phố Mỹ Tho,

tỉnh Mỹ Tho) để huấn luyện bổ sung, chuẩn bị bƣớc vào cuộc chiến đấu mới trên

lãnh thổ Cam-pu-chia.

Nếu bạn nào đã ở lính vào thời điểm này hẳn còn nhớ đậm nét khẩu phần

lƣơng thực phần nhiều là trộn bo bo và bột mì. Đó là bữa chính, còn bữa phụ buổi

sáng thì chỉ có trăm phần trăm hoặc là hạt bo bo ninh hoặc là bột mì nắm lại luộc

chín, cứng ngắc mà vẫn ăn ngon lành, cƣời vui thoải mái, hăng say luyện tập. Lính

mà vô tƣ quá, hồn hậu quá, không phải họ không biết ăn ngon, mặc đẹp mà cái

chính là họ biết thông cảm với nhân dân, với đất nƣớc trải qua cuộc chiến tranh

đằng đẵng ba mƣơi năm, nay lại phải đƣơng đầu với bọn phản động Pôn Pốt gây

hấn ở biên giới Tây Nam Tổ quốc nên phải oằn vai gánh vác. Chúng tôi là những

đơn vị trực tiếp chiến đấu, có phần đƣợc ƣu tiên khẩu phần lƣơng thực nên hai bữa

chính có tăng chất bột gạo hơn. Nhƣng lƣợng calo không đủ để bù đắp với cƣờng

độ huấn luyện bổ sung rất cao nhằm đáp ứng cho nhiệm vụ chiến đấu sắp tới mà

theo chúng tôi nhận định và cả cấp trên cho biết là rất gian khổ và quyết liệt khi

thời cơ đến giải phóng đất nƣớc Cam-pu-chia, giúp một dân tộc thoát họa diệt

chủng của bọn phản động Pôn Pốt tàn bạo hơn cả thời trung cổ.

Vật chất đã là nhƣ vậy. Còn tinh thần cũng còn quá thiếu thốn. Báo chí đặt ở

bƣu điện chƣa đến kỳ hoặc chƣa kịp lấy thì phải cơ động, nên chủ yếu dựa vào

những chiếc radio của các chính trị viên để cập nhật thông tin trong nƣớc và thế

giới rồi truyền đạt lại cho bộ đội qua các buổi sinh hoạt buổi tối hoặc ít phút trƣớc

khi ra bãi tập. Nhất là phim ảnh lại càng thiếu, bởi thế họa may có một buổi chiếu

phim màn ảnh rộng ngoài trời, trừ ngƣời trực gác bảo vệ khu vực đóng quân, còn

lại ra hết sân bãi để thƣởng thức. Thấu hiểu về sự khát khao sinh hoạt văn hóa tinh

thần của bộ đội, Chính ủy Nguyễn Quốc Sử - chỉ đạo Ban Chính trị Trung đoàn cử

cán bộ ra quan hệ với cơ quan quân sự địa phƣơng tỉnh Tiền Giang để đội điện

ảnh của họ vào phục vụ cho bộ đội một số buổi tối. Ý kiến của Chính ủy đƣợc Ban

Chính trị tổ chức triển khai nhanh chóng và đạt hiệu quả. Tôi là ngƣời đƣợc lãnh

hội công tác này.

Một hôm tôi ra gặp chỉ huy, lãnh đạo Tỉnh đội Tiền Giang, phòng Chính trị

và bộ phận tuyên huấn, từ đó làm việc cụ thể với đội điện ảnh, phải nói rằng sự

nhiệt tình giúp đỡ của Tỉnh đội bạn là hết sức quý giá. Họ thực lòng cho biết: - Cả

Tỉnh đội chỉ một đội điện ảnh, ngoài phục vụ nội bộ cơ quan, phục vụ đối ngoại

cho một số địa phƣơng các huyện, và ƣu tiên phục vụ các đơn vị do tỉnh quản lý

cũng đang tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu ở biên giới, nên rất kín về thời

gian. Song, khi ta đặt vấn đề, họ sẵn sàng chấp thuận theo yêu cầu của mình.

258

Còn nội dung phim hồi ấy cũng không có gì phong phú cho lắm, nhƣng đối

với bộ đội trong lúc thiếu thốn thì hấp dẫn vô cùng. Bởi đó lại là bộ phim: “Mối

tình đầu”. Tôi đem tinh thần này về báo cáo lại với Ban Chủ nhiệm chính trị và

Thủ trƣởng Trung đoàn, ai nấy rất phấn khởi. Có ngƣời nói vui:

- Ôi dào trong lúc đang thiếu thốn, tình đầu, tình cuối gì cũng chơi ráo, hấp

dẫn hết! Mà thực tế nó hấp dẫn thật.

Thế là kế hoạch chuẩn bị đón tiếp đội điện ảnh vào phục vụ đơn vị đƣợc triển

khai nhanh chóng, trong đó có cả bồi dƣỡng sau buổi kết thúc cho anh chị em

phục vụ. Tuy cũng là lính cả nhƣng họ lại là khách, cần phải chu đáo chứ. Nên bộ

phận tuyên huấn phân công ngƣời ra tận chợ thị xã Mỹ Tho để chuẩn bị thêm chút

gì đó coi đƣợc đƣợc mình mới yên lòng.

Nhƣng, trong quá trình triển khai thực hiện nảy sinh một số tình huống mà cơ

quan tham mƣu phải ra tay cân đối về kế hoạch để thông qua Thủ trƣởng Trung

đoàn. Bởi sân bãi thì hẹp, quân số lại đông có tới ba tiểu đoàn, các đại đội trực

thuộc và cơ quan trung đoàn bộ không thể xem hết một hai buổi tối mà phải kéo

dài hơn. Mà kéo dài hơn liên quan đến kế hoạch của họ “lấn” sang đơn vị khác

nên họ không thể đáp ứng cho ta đƣợc. Cuối cùng một phƣơng án đặt ra, bƣớc đầu

có vẻ khó chấp thuận nhƣng rồi từ trên xuống dƣới ai cũng đồng tình đó là “xem

thông tầm” chia làm ba ca một đêm. Suất một bắt đầu xem từ 19 giờ đến 22 giờ.

Suất hai từ 23 giờ đến 1 giờ sáng, và suất ba đến mờ mờ sáng. Quay vòng nhƣ vậy,

liệu những suất sau bộ đội có buồn ngủ? Đặc biệt, đội điện ảnh có đủ sức để phục

vụ? Khi chúng tôi hỏi anh chị em trong đội điện ảnh, họ đều vui vẻ nói:

- Sợ bộ đội các anh không đủ sức kiên trì để xem, chớ bọn tôi chia kíp để đáp

ứng phục vụ cả ba ca, khỏi lo.

Thế là thông tin này đƣợc toàn thể cán bộ, chiến sĩ rất đồng tình. Mới thấy độ

khát khao về thƣởng thức văn hóa nghệ thuật của cánh lính đến cỡ nào. Mặc dầu

đã có kế hoạch thời gian cho từng tiểu đoàn, đại đội vậy mà không ít anh “tình

nguyện” xem liên thông luôn cả ba suất, tới khi hết phim vẫn cảm thấy luyến tiếc.

Điều đặc biệt là thời điểm ấy vào mùa mƣa. Có khi phim đang hay, tới đoạn cao

trào gây cấn thì trời đổ mƣa tầm tã, vậy mà... mƣa mặc mƣa, choàng áo vào cứ

việc xem tiếp, quyết không chịu bỏ dở cuộc. Sang đêm thứ hai, thấy anh chị em

phục vụ quá nhiệt tình, mà việc bồi dƣỡng giữa ca không có gì đáng kể, cảm thấy

ái ngại quá - tôi nghĩ thầm vậy, mặc dầu họ hết sức vô tƣ. Từ phân vân này, tôi

mới chợt nhớ ra anh Lê Văn Cát - Phó chính ủy Trung đoàn có một con gà mái tơ

và con ngan (vịt xiêm), mình có thể xử lý giải quyết tình thế trong lúc này, vì việc

chung cả mà.

Bụng nghĩ, chân bƣớc tìm quanh sân bãi, thấy Đạt cậu lính công vụ trẻ tuổi,

đẹp trai, da trắng hồng nhƣ con gái đang mải xem phim xuất 2 từ 22 giờ đến 1 giờ

sáng. Nghe tiếng kêu, Đạt vội chạy ra:

- Có gì không thủ trƣởng? - Đạt hỏi.

259

- Thế này Đạt ạ, Ban Chính trị rất cần con gà mái tơ của anh Cát vào lúc này

để nấu cháo. bồi dƣỡng cho các anh chị đội chiếu bóng. Họ phục vụ quá mức nhiệt

tình, ăn uống đơn sơ quá mình không đành tâm tý nào. Thủ trƣởng Quốc Sử cũng

căn dặn bọn mình cố gắng chu đáo với họ mà.

Nghe tôi đặt vấn đề, Đạt vội vàng chạy về nhờ tôi rọi đèn pin, cậu ta tiến lại

chộp ngay con gà mái tơ đang quấn quít bên chàng vịt xiêm ngủ rất chi là tình tứ.

Tôi đƣa con gà về Ban chính trị; giao cho cậu Vĩ nhân viên câu lạc bộ xử lý các

khâu còn lại rất nhanh chóng. Chẳng bao lâu một soong 20 quân dụng cháo gà

thơm phức đƣợc soạn ra. Tôi trực tiếp mời anh Cát, một phần hai đội điện ảnh

(nửa còn lại dùng sau) cùng một số anh em Ban Chính trị vào điểm tâm giữa giờ.

Trong lúc vui vẻ, tôi tuyên bố:

- Thƣa anh Cát, thƣa các anh, các chị! Có lẽ chƣa bao giờ chúng ta tổ chức

xem phim đầy ấn tƣợng nhƣ thế này. Và cả nồi cháo gà này nữa, tuy không có gì

đặc biệt nhƣng cũng có thể gây cho ta một ấn tƣợng, một kỷ niệm... phải không

thƣa anh Cát? Đúng quá đi chớ, còn gì nữa - nhiều ngƣời cũng nói vậy.

Anh Lê Văn Cát, tôi biết anh từ lâu, vốn tính thật thà, chất phác nhƣng nói

hơi cà lăm. Có lẽ trong không khí vui vẻ nhƣ thế, anh chƣa nhận ra trong câu hỏi

của tôi có hàm chứa sự thăm dò, nên anh trả lời thật vô tƣ thế này:

- A là... Ban Chính trị các anh làm đƣợc thế này là tốt đấy, cần phát huy. Tui,

tui hoàn toàn hƣởng ứng.

-Xin cảm ơn anh Cát - tôi đỡ lời và ai nấy trở về vị trí của mình. Trời càng về

khuya, đám mây kéo đến báo hiệu cơn mƣa sắp tràn qua. Tôi trở ra bãi chiếu bóng,

bộ đội vẫn ngồi nghiêm chỉnh, chăm chú theo dõi màn hình. Thỉnh thoảng cƣời rộ

lên mỗi khi có những pha hấp dẫn. Tuổi trẻ thật đáng yêu làm sao, khi đã say sƣa

thì quên hết mệt nhọc. Nghĩ mà thƣơng anh em làm sao, vật chất thì thiếu thốn,

sinh hoạt văn hóa tinh thần xem phim ảnh cũng rất hạn chế mới diễn ra cảnh xem

thông tầm đến quá xá thế này.

Sáng hôm sau anh Cát dậy nhƣ thƣờng lệ, mặc dầu chƣa tới giờ báo thức. Sau

mấy vòng chạy bộ thể dục, lúc trở về mới thấy chỉ mỗi chàng vịt xiêm ủ rũ một

mình, không nhanh nhẹn nhƣ mọi khi. Anh rảo quanh tìm kiếm không thấy con gà

mái, vội vàng gọi Đạt:

- Đồng chí Đạt, cái con gà mái đâu mà chỉ còn mỗi con ngan, nó buồn nhƣ...

thế... hở Đạt? Trong giây phút bối rối, Đạt lấy lại bình tĩnh trả lời:

- Báo cáo, dạ thƣa đêm qua em bắt con gà mái cho Ban Chính trị mƣợn rồi ạ!

Nghe đến đây, mặt anh nóng bừng, đỏ lựng. Chốc lát đi một mạch sang Ban

Chính trị. Nhân lúc gặp tôi, anh liền lên tiếng:

- Ha...ha rứa ( nhƣ thế - tiếng Hà Tĩnh) đêm qua anh bắt con gà mái của tui?

-Vâng! Giải pháp tình thế đó anh. Anh cảm phiền nhé, sáng nay tôi sẽ bù lại

cho anh trên cả đầy đủ - tôi trả lời thêm chút hài hƣớc vậy.

260

Anh đứng tần ngần một lúc rồi buông một câu tôi cũng không nhịn đƣợc cƣời.

- Nó đang ngủ với nhau vui nhƣ thế! Nay còn lại một con nó buồn nhƣ... thế?

Và quay trở về.

Hóa ra là anh nóng mặt hoàn toàn không phải anh quá tiếc con gà mái tơ

khoảng 2 ki-lô-gam bị làm thịt đãi khách, mà lý do chính là anh thƣơng con xiêm

mất bạn trở nên lẻ loi, buồn buồn nhƣ anh cảm nhận. Nhƣ vậy là anh chẳng trách

tôi - ngƣời đóng vai chỉ đạo cho Đạt bắt cô mái ghẹ. Ngƣợc lại, tôi cũng không hề

hiểu nhầm anh mà càng hiểu anh hơn, thƣơng cho những con vật côi cút khi thiếu

bạn. Điều đó càng quý cái đức tính ở anh.

Sáng hôm đó, tôi cử cậu Vĩ ra chợ Mỹ Tho mua những năm con gà vừa mái

vừa trống đang ở độ mơn mởn, kẻo rồi lại mang tiếng gà đến tuổi “hƣu”. Tôi chọn

hai con gà mái đẹp mã nhất đƣa sang thế chân. Nhƣng thật lạ, chàng Xiêm cứ

chấp nhận đơn côi chứ không thể hòa hợp đƣợc. Bởi thế, đêm đêm một mình

Xiêm nép mình vào một nơi nào đó trông ủ dột làm sao. Những lúc này, ngƣời

động lòng nhất vẫn là anh Cát. Tôi có cảm tƣởng cảnh này kéo dài thêm, anh Cát

sẽ ƣu tƣ nhiều hơn vì mất đi con vật mà mình yêu mến.

Thế rồi có lệnh toàn đơn vị chuẩn bị lên đƣờng nhận nhiệm vụ. Chính anh

Cát bảo Đạt “biến tƣớng” một lúc cả hai cô mái ghẹ và chàng vịt Xiêm thành bữa

tƣơi nổi trội hơn mọi ngày thƣờng. Và anh Cát thân chinh sang Ban Chính trị với

một thái độ thân thiện, niềm nở:

- À-à này, bữa ni (hôm nay) mời anh em sang tôi ta chơi chút cho vui hè

(nhé).

Biết tính anh thiệt thà, không hề khách sáo, nên chúng tôi mấy ngƣời theo

chân anh luôn. Nhìn bữa liên hoan thật sang, nào có thịt gà, thịt vịt Xiêm, thêm cả

món canh cá lóc nấu bông súng. Anh mở đầu bằng một giọng rất Hà Tĩnh:

- Nhƣ rứa là bữa ni ta cho nó đi theo đàn cả hè. Mời anh em hƣởng ứng thật

nhiệt tình cho.

Nhân lúc rôm rả, vui vẻ tôi hài hƣớc một câu để ghẹo anh:

- Rứa... anh hết thƣơng con Xiêm nó buồn nhƣ thế rồi hả - anh Cát?

-Nói là nói rứa, chớ thƣơng đúng lúc, đúng chỗ mới ý nghĩa chớ thƣơng tràn

lan đâu hết đƣợc - anh Cát lên tiếng nhƣ vậy.

Sau buổi ấy, chúng tôi tiếp tục đi chiến đấu cho tới ngày giải phóng đất nƣớc

Cam-pu-chia, và giúp bạn xây dựng chính quyền cách mạng. Và sau đó thuyên

chuyển công tác mỗi ngƣời mỗi phƣơng trời xa thẳm. Tôi ra Bắc rồi trở vào Nam

đóng đô lâu dài và anh Cát ở lại xây dựng Trung đoàn tới khi về hƣu tại thị xã Hà

Tĩnh với cấp hàm đại tá.

Thời gian cứ lặng lẽ trôi theo quy luật tự nhiên của nó, bao kỷ niệm cứ đọng

lại trong lòng mỗi ngƣời. Nhƣng vào giữa tháng 12 năm 2002 vừa qua, tình cờ

chúng tôi gặp nhau tại Đại hội Đại biểu lần thứ III Hội Cựu chiến binh Việt Nam

261

trong hội trƣờng Ba Đình - Hà Nội. Trông anh tóc đã bạc trắng khá nhiều nhƣng

da vẫn hồng hào khỏe mạnh, dáng nhanh nhẹn hoạt bát. Nhớ lại kỷ niệm ngày nào,

tôi gợi chuyện:

- Anh Cát ơi, bây giờ anh có thƣơng con ngan nó buồn nhƣ thế nữa không

đây?

Anh cƣời thân thiện đến hồn nhiên mà rằng:

- Ha, ha rứa anh vẫn nhớ chuyện đó hả? Cũng hay ông hè?

Mỹ Tho, tháng 9 năm 1978.

Biên Hòa, tháng 3 năm 2003

H.T.

262

MỘT PHƢƠNG ÁN MUA BÕ KHÁ LY KỲ

QUANG ĐỊNH

Vào khoảng tháng 10 năm 1976, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 9, thuộc Trung đoàn

Đặc công 113 gồm có các anh: Nguyễn Thế Tám, Tiểu đoàn trƣởng, Lê Quang

Liên, Tiểu đoàn phó, Phùng Truyền, Chính trị viên (anh Truyền nay là Thiếu

tƣớng, Phó tƣ lệnh về Chính trị - Bí thƣ Đảng ủy Binh chủng Đặc công) và tôi -

Phó chính trị viên. Vào thời điểm ấy cả ba anh đi học nghị quyết do Đảng ủy Binh

chủng triệu tập, Ban Chỉ huy còn mỗi mình tôi ở nhà quán xuyến chung. Một hôm

tôi đi thao trƣờng về, đứng ngắm đồng cỏ mênh mông quanh chân đồi 33 ở khu

vực Xuân Mai, rất hợp cho việc chăn thả hàng đàn trâu, bò tha hồ tận dụng mà

không tốn công chăm sóc. Tôi nhớ lại:

- Phải rồi, trong nghị quyết của Đảng ủy Trung đoàn và tiểu đoàn đều có ghi:

“Các đơn vị chủ động trong khâu tăng gia sản xuất nhằm góp phần cải thiện bữa

ăn cho bộ đội...”

Nghị quyết chỉ vắn tắt vậy thôi, nhƣng chứa đựng bao nhiêu việc phải làm,

rất đòi hỏi sự năng động ở mỗi cán bộ, chiến sĩ - nhất là ngƣời chỉ huy, lãnh đạo -

tôi nghĩ vậy. Từ đó tôi nảy ra một ý định: nên chăng, ta có thể mua một đàn bò

chăn thả quanh chân đồi 33 để lấy phân tăng gia và chắc chắn có thực phẩm cải

thiện cho bộ đội. Nhƣng lấy đâu ra tiền để mua cả một đàn bò, ít ra cũng phải từ

vài chục con trở lên mới bõ công chuồng trại, cử ngƣời trông coi. Trong lúc suy

nghĩ cái trƣớc thì le lói những cái sau hết sức lý thú.

Phải rồi! Giống bò ở vùng này rất thích hợp với khí hậu khu vực Xuân Mai.

Đơn vị có một số anh em chiến sĩ mới, quê ở các huyện Kim Bôi, Lạc Thủy... tỉnh

Hòa Bình. Từ suy nghĩ này, tôi cho liên lạc gọi anh em quân nhu, trợ lý hậu cần

lên bàn bạc, tôi gợi ý ai nấy đều rất đồng tình.

Trƣớc hết, về nguồn tài chính, giao đồng chí Bảy trợ lý hậu cần tiểu đoàn trực

tiếp gặp anh Lƣợng trƣờng Ban tài vụ trung đoàn đề xuất. Các anh khen hay và

sẵn sàng hỗ trợ. Còn khâu mua bò, tiểu đoàn chọn một số chiến sĩ ở quê nuôi

nhiều bò cho đi tranh thủ thăm gia đình và dẫn dắt bắt mối. Phần việc này giao

cho đồng chí Thắng trợ lý quân nhu phụ trách. Kết quả cụ thể về giá cả, số lƣợng

mua đƣợc bao nhiêu về báo cáo tiểu đoàn để cử ngƣời đem tiền lên thanh toán và

dẫn bò về. Phƣơng án triển khai khá trôi chảy, nếu không có những tình huống

nảy sinh tiếp theo khá rắc rối. Đó là chính quyền cấp huyện nhất định không cho

đƣa bò ra khỏi địa bàn quản lý dù có mua bán sòng phẳng. Cùng với sự tuyên bố

của ông Phó chủ tịch huyện - phụ trách về nông nghiệp, họ còn có cả bộ máy đƣợc

huy động: nhƣ là thuế vụ, quản lý thị trƣờng chặn các ngả đƣờng chính, trâu, bò,

heo... đi qua đây đều bị ách lại, hoặc bị tịch thu. Thời bao cấp ngăn sông cấm chợ

có những cái tƣởng chừng hết sức phi lý nhƣng khó mà cƣỡng lại. Tài sản của dân

làm ra, ngƣời mua có nhu cầu trao đổi sòng phẳng mà lại không đƣợc tự do trao

đổi, mua bán, thế có tréo ngoe cẳng ngỗng không chớ! Nhận đƣợc tinh thần này

do đồng chí Thắng trực tiếp quay về báo cáo, tôi mới nghĩ ra cách xử lý “rất lính”

thế này:

263

- Cử một bộ phận nhỏ trinh sát có trang bị cần thiết đi làm nhiệm vụ. Thứ

nhất là quan sát từ Xuân Mai dọc đƣờng số 6 qua dốc Cun cao ngất về đến mấy xã

thuộc huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình, có bao nhiêu trạm quản lý thị trƣờng, thuế

vụ và quy luật hoạt động cả ngày và đêm của họ. Nắm chắc để báo cáo với tiểu

đoàn. Mình mua bán rõ ràng chớ phạm pháp đâu mà sợ.

Trƣớc tình hình ấy, tôi thấy cần thiết mình phải thân chinh lên tận huyện Kim

Bôi nơi mua bò của dân. Qua tìm hiểu, dân chúng rất thiệt thà và chỉ bảo nhƣ thế

này:

- Cái bộ đội cứ yên chí, đừng có đi theo con đƣờng chính mà thuế vụ, quản lý

thị trƣờng họ gây khó dễ, để mình dẫn đƣờng đi tắt thôi. Con bò đồng bào nó cũng

đi đƣờng rừng giỏi hơn cả mình nữa cơ. Mà phải ngƣời nhà dẫn đi mới đƣợc. Chớ

cái bộ đội đuổi nó không chịu đi, lại còn kêu rống lên rung chuyển cả núi rừng đấy

mà.

Quả thật, ban đêm bộ đội mới vào tận cửa chuồng bò là nó đã vùng dậy cả

đàn. Bắt một vài con lôi ra nó rị lại và rống lên nhƣ bị cắt tiết vậy. Nhƣng khi bò

do ngƣời nhà điều khiển qua những núi đồi chênh vênh có tới mấy chục cây số

đƣờng rừng mà cả đàn bò đực, bò mẹ và bê nghé đều ngoan ngoãn, trật tự đi

không hề ngang bƣớng. Ra hết vùng trọng điểm khu vực quản lý của họ là chúng

tôi bồi dƣỡng lại tiền thù lao dẫn bò và đƣa đƣờng cho bà con, nhƣng họ cự tuyệt

không nhận một đồng nào mà chỉ nói:

- Dân mình giúp đỡ bộ đội thôi bơ, không lấy cái tiền của bộ đội đâu. Dân chỉ

mong cho bộ đội nuôi đƣợc nhiều nhiều đàn bò nhƣ ở quê mình ấy mà. Dân mình

quý đến nhƣ vậy đấy. Bỏ cả gần một ngày đƣờng mà không nỡ lấy đồng xu cắc

bạc của bộ đội, mặc dù đó là đồng tiền chân chính nhằm bù đắp lại công sức của

mình.

Đàn bò đã có sẵn nền nếp, hơn nữa vƣợt qua mấy chục cây số đƣờng rừng

con nào cũng thấm mệt nên đều ngoan ngoãn tuân theo ngƣời điều khiển. Khi tập

kết đầy đủ tại chân đồi 33 khu vực Xuân Mai, chỉ mới khoảng 4 giờ chiều, đều rất

an toàn mà dọc đƣờng không gặp phải một rắc rối nào. Nói đúng hơn, chúng tôi đã

có những phƣơng án nên “vƣợt mặt” hết các cơ quan chức năng, dù họ sẵn sàng

gây khó dễ.

Về địa bàn mới, chủ mới gặp nguồn thức ăn dồi dào, chỉ ít ngày sau lại sức

ngay cả đàn 13 con, trông con nào cũng ra dáng vẻ dễ thƣơng quá mà chƣa tới

3.000 đồng bạc. Giá cả hồi ấy một con bò đực to cũng chỉ hai trăm mấy chục đồng

ấy mà. Nghe tin Tiểu đoàn 9 vừa có một đàn bò, cán bộ, chiến sĩ rất phấn khởi,

bởi họ nghĩ trong tƣơng lai việc cải thiện về đời sống có chút tiến bộ hơn.

Đúng thế, sau khi các anh trong Ban Chỉ huy về đầy đủ tôi báo cáo lại kết quả

công việc (có phần cả phiêu lƣu) nhƣng ai nấy rất đồng tình hƣởng ứng. Đồng thời

quyết định cho hậu cần hạ một chú đẫy đà nhất để “khao quân” - nói theo ngôn

ngữ của lính. Số thịt của con bò ấy đƣợc chia đều các bếp đại đội trong tiểu đoàn

264

và dành một khoản tặng bếp trung đoàn bộ gồm ba cơ quan: tham mƣu, chính trị,

hậu cần và Ban chỉ huy trung đoàn.

Đến chuyện bị cấp trên “điểm danh”.

Ấy thế mà cái chuyện tổ chức đùm đuề lên tận vùng dân tộc xa xôi để mua bò,

đặc biệt, tạo ra những phƣơng án để “vƣợt mặt” cơ quan thuế vụ, quản lý thị

trƣờng mà tôi là “tác giả” chính đã đến tai các thủ trƣởng Bộ Tƣ lệnh Đặc công.

Nhìn chung cấp trên đồng tình, hƣởng ứng và khuyến khích. Riêng Chính ủy thì

chỉ trích có phần gay gắt. Nhƣng tôi nghĩ mình làm có lợi cho tập thể đơn vị, hoàn

toàn trong sáng không có tƣ túi gì. Chẳng qua là mình làm sớm hơn so với cách

nghĩ đơn thuần ở một số ngƣời đó thôi.

Thế rồi thời gian cứ lặng lẽ rồi qua, đàn bò cũng bình thản phát triển ở một

môi trƣờng hết sức thuận lợi. Từ một số lƣợng khiêm tốn ban đầu, dần dần bò mẹ

đẻ bò con, bò con sinh bò cháu thành đàn thành lũ và nguồn phân cũng cứ thế mà

nhân lên nhiều lần. Những vƣờn rau xanh trên nền đất sỏi đá cằn cỗi, bỏng rát xứ

Xuân Mai xung quanh doanh trại càng thêm xanh ngát, góp phần cải thiện bữa ăn

cho bộ đội. Vào các dịp lễ, tết ngoài các thức ăn mua ở thị trƣờng còn có món thịt

bò “cây nhà lá vƣờn” góp phần xôm tụ, thật hấp dẫn. Tính ra nguồn lợi thực phẩm

cung cấp từ đàn bò cho tiểu đoàn thật đáng kể lắm.

Vào thời điểm anh Phùng Truyền và tôi đƣợc điều lên Ban Chính trị Trung

đoàn, chính bộ phận hậu cần có lƣu ý một chú bò béo mập để liên hoan cho đơn vị,

mặc dầu chúng tôi thấy để vào dịp khác, tiện hơn nhƣng anh em họ đã quyết rồi.

Nghe nói vào thời điểm đơn vị lên đƣờng đi chiến đấu ở biên giới Tây Nam Tổ

quốc, số lƣợng đàn bò chuyển nhƣợng lại cho đơn vị bạn còn tới vài chục con.

Ngoài số cung cấp thực phẩm dinh dƣỡng cho bộ đội một số lƣợng đáng kể. Tính

về kinh tế còn lãi tới mấy chục lần so đồng vốn ban đầu đấy chứ.

Cái chuyện tìm phƣơng án để mua bò khá ly kỳ ngày ấy đã đi qua hơn một

phần tƣ thế kỷ, giờ nghĩ lại vẫn cảm thấy vui vui. Điều đặc biệt nó đã trở thành kỷ

niệm trong đời quân ngũ của mình.

Biên Hòa - Tháng 3 năm 2003

Q.Đ.

265

BÉ THANH THẢO

DƢƠNG QUANG

(Theo lời kể của chị Lâm Thị Nhung)

Ngày 26 tháng 4 năm 1971, lúc ấy tôi là cán bộ phụ nữ huyện Vĩnh Cửu, tỉnh

Biên Hòa cùng cơ quan Huyện ủy đóng cứ ở núi Giang Tói, thƣờng xuyên về công

tác ở Bùng Binh, xã Thiện Tân, tiếp cận cơ sở làm công tác tuyên truyền. Cùng đi

với tôi, có Nguyễn Thị Hiền tuổi còn khá trẻ chỉ mƣời bảy, mƣời tám, cùng để tập

sự về công tác thanh niên. Tôi coi Hiền nhƣ là đứa em gái vậy, ngoan ngoãn và

xinh xắn.

Trên đƣờng đi không may chúng tôi bị lọt vào ổ phục kích của địch. Thấy

chúng tôi chỉ có hai ngƣời lại là phụ nữ nên chúng không bắn mà dụng ý bắt sống.

Phía địch lại khá đông, súng đạn đầy mình, chỉ cần một loạt đạn hoặc một trái láng

(lựu đạn) thì chị em tôi rồi đời. Trƣớc tình thế nguy ngập, hai chị em chỉ biết co

cẳng chạy, hy vọng có thể thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa của chúng. Nhƣng tôi chạy

đƣợc gần một cây số thì chúng đuổi kịp và tóm đƣợc, lúc ấy tôi gần nhƣ kiệt sức.

Suôn sẻ thì không nói làm gì, đằng này bụng đang mang bầu. Khi đã bị chúng tóm

gọn, hai tay bị trói chéo cánh gà, mồm mũi thi nhau thở muốn đứt cả hơi. Cứ

tƣởng thế nào cái thai cũng sẽ hỏng, thế mà hổng sao. Sau này anh em cứ giỡn là:

cái giống đặc công nó kiên cƣờng từ trong máu huyết nên mới “lỳ” cỡ đó. Chả là

chồng tôi là đặc công thực thụ mà.

Sau khi bắt đƣợc tôi tại Trủng Vịt, chúng nó cƣời hô hố ra vẻ khoái trá lắm,

nghe mà muốn lộn tiết lên đƣợc. Chúng giải tôi đi mà chƣa yên tâm nên dùng

khăn bịt mắt dẫn tới nhà chị Ba Thanh, ấp số 7. Chị Ba Thanh là Bí thƣ chi bộ mật

của ta nhƣng do khéo léo hoạt động nên vẫn giữ đƣợc sự kín đáo. Bƣớc đầu nó dỗ

dành ngon ngọt:

- Đàn bà, con gái theo Việt cộng mà làm gì cho khổ thân, về mà lấy chồng đi

em gái, để các anh đƣợc nhờ.

Tôi liền phỉ báng vào mặt chúng:

- Tụi bay là đồ hèn! Đừng giở trò cợt nhả nghe khả ố lắm. Thế là chúng phủ

đầu tôi những cú đá trời giáng. Không chỉ đánh đập, nó còn buộc tôi là cán bộ làm

phong trào. Khai nhƣ vậy là trúng với ý đồ của chúng thì có chết hoặc tàn phế mà

thôi. Bởi vậy, tôi chỉ nhất quyết nói:

- Tôi là nữ cứu thƣơng chỉ biết băng bó bậy bạ. Hôm nay hết gạo, đi kiếm cái

để ăn không may gặp mấy ông.

Nó còn dọa: theo Việt cộng thì có ngày làm mồi cho giun, dế đó cô em ạ. Nói

đoạn, tay nó cầm tờ báo ngụy quyền đƣa tin nói nọ, nói kia bao nhiêu lính cộng

quân bị lính quốc gia hạ sát để hòng lung lạc tôi. Tôi nói:

266

- Tôi không đƣợc học đâu biết chữ, các ông đƣa báo cũng chỉ coi nhƣ tờ giấy

lộn thôi à. - Khi chúng đƣa tôi trở về nhà chị Ba Thanh, đối mặt nó hỏi chị Ba:

- Bà có biết đứa nào đây không?

Chị Ba trả lời tỉnh khô:

- Dân tứ xứ đi làm ăn, chẳng may gặp mấy ổng dồn về đây làm sao tôi biết.

Thế là cả bọn cụt hứng, tức tƣởi giải tôi về quận Công Thanh. Khoảng 10

ngày ở đây, chúng dùng chiêu bài dụ dỗ, mua chuộc để moi tin tức những gì tôi

biết, nhƣng tuyệt đối không. Thời gian ở đây, có hai thằng Mỹ biết nói tiếng Việt

lơ lớ. Khi nó làm việc với tôi có thông dịch viên. Nó bầy tôi: đã vào đây phải tuân

thủ luật lệ, may còn có cơ hội trở về với gia đình. Bằng không... nó còn buộc tôi

lên máy bay trực thăng hoặc L19 phát loa kêu gọi chiêu hồi. Song, tôi đều gạt

phăng mà thẳng vào mặt chúng:

- Tôi không quen cái trò bỉ ổi đó. Các ông có đầy đủ quân lính, phƣơng tiện

cứ đi mà làm. Đừng bảo tôi, vô ích.

Xét thấy không sáng sủa gì khi giở các trò cũ rích ấy với tôi chúng lại tiếp tục

đƣa tôi về nha cảnh sát Biên Hòa mƣời ngày nữa rồi chúng lại đƣa tới trại C3 khu

biệt giam ba tháng. Ở biệt giam này mới cảm nhận hết cuộc đời tù tội và dã man

của bọn chó săn tay sai cho giặc, nó đối xử với ngƣời tù nhƣ trâu, ngựa và hơn thế

nữa. Mỗi bận ăn ngƣời lao công đƣa tới một chén cơm, một chén nƣớc qua cái lỗ

nhỏ. Thiếu dƣỡng khí nên ngột ngạt và hôi thối, ẩm mốc. Sau ba tháng nhốt khám

tối chúng lại đƣa tôi về khám đƣờng Biên Hòa, cạnh sông Đồng Nai. Trong thời

gian về khám đƣờng có chút may mắn là dịp bà luật sƣ Ngô Bá Thành đấu tranh

dòi trả tự do cho ngƣời tù, không đƣợc hành hạ đối xử tàn nhẫn đối với họ... nên

nó có giảm giảm chút chút. Bị nhốt khám đƣờng 5 tháng thì một hôm bọn quân

cảnh quân đoàn ba đƣa xe tới chở tôi về nhà tù Tân Hiệp, ở trại C 60 ngày thì toà

án binh mở phiên toà xét xử.

Sở dĩ tòa án quân sự xét xử tôi vì nó viện cớ tôi tiếp tay cho các đơn vị lực

lƣợng vũ trang ta hoạt động, đánh vào các căn cứ quân sự, hậu cần của chúng ở

Biên Hòa, Long Bình. Nhƣng tuyệt nhiên tôi không nhận. Tôi chỉ nói:

- Tôi đi thăm dƣợng, không may lọt vào ổ kích, thấy lính quốc gia súng ống,

tôi sợ quá - đàn bà con gái không sợ sao đƣợc, mới bỏ chạy. Tôi biết có chạy cũng

khó thoát với các ông, nhƣng cứ chạy, các ông bắn đuổi chết còn sƣớng hơn!

Nó hỏi tên gì?

Tôi nói: tên C. Bởi tên này ngay từ khi bị bắt tôi đã nói với chúng nhƣ vậy

cho nhất quán.

Nó nói tiếp:

- Có biết tên Nhung và tên Tánh không?

267

Nghe hỏi tới đây, tôi có phần giật mình nhƣng cố giữ thái độ bình tĩnh, không

biến đổi sắc thái. “Nhung” chính là tên của tôi do anh chị em đặt khi thoát ly hoạt

động. Còn tên từ hồi nào của tôi là C do cha mẹ đặt, ai ai cũng biết.

Tôi liền đáp: cả hai cái tên ấy đối với tôi đều xa lạ, lần đầu mới nghe các ông

nhắc tới.

Láo. Còn ngoan cố hả?

Một tên trong bọn quan toà đập bàn một cái “đốp” và gằn giọng nhƣ để nắn

gân cốt của tôi ấy mà. Tôi càng bình tĩnh hơn.

- Đúng vậy! Hai cái tên các ông vừa nêu với tôi là hết sức ngỡ ngàng. Các

ông cứ việc cho ngƣời dò xét đi. Tôi cƣời thầm trong bụng: thế là tụi nó mới nghe

phong phanh bọn tay chân bộ hạ cung cấp, chớ chúng chƣa thể hiểu biết gì về tung

tích của mình. Còn anh Ba Tánh cũng thế. Anh Ba Tánh là một xã đội trƣởng xã

Tân Định, sau này là Bí thƣ chi bộ, một cán bộ nằm vùng bám trụ kiên cƣờng

sống chết với phong trào. Ảnh là một đối thủ đáng gờm đối với chúng. Không moi

đƣợc gì hơn, chúng căm tức lộn ruột rồi đƣa tôi lên trại giam Thủ Đức ở tiếp 30

ngày nhƣ kiểu chơi trò ú tim dậy. Sau đó đƣa trở lại phòng giam số 6, khám

đƣờng Biên Hòa. Một hôm tôi động kinh, nó cho xe chở tới nhà thƣơng điên Biên

Hòa thì tôi nghe thai máy nhƣng máy rất yếu. Tôi nói với các nhân viên y tế có

mặt:

- Các anh chị coi giùm, dễ chừng cái thai nhi trong bụng tôi tới ngày ra đời

đó. Nghe nói vậy, họ báo cáo lại với ngƣời có trách nhiệm chuyên môn cao hơn ở

đây. Một lát sau có bác sĩ ngƣời Mỹ tới kèm theo dụng cụ đƣa thai ra và cũng là

lúc tôi kiệt sức hoàn toàn ngất lịm ngay tại chỗ. Khi tỉnh lại mới nghe mấy chị

phục vụ cho hay: khi bác sĩ đƣa thai nhi ra, hài thai là một bé gái rất yếu và nhỏ

xíu, chỉ hơn một ki-lô-gam thôi à, còn thoi thóp thở. Bác sĩ chuyển giao cho Bà

Phƣớc chăm sóc trong lồng kính, may ra mới sống nổi. Tôi nghẹn ngào, nƣớc mắt

tràn đầy nóng hổi và thổn thức một mình:

- Ôi! Con tôi. Mẹ sanh con trong cảnh thế này đây. Con ơi, liệu có sống nổi

để lớn lên bên mẹ cho tới ngày nƣớc nhà độc lập, tự do con ơi? Lúc ấy dƣờng nhƣ

sức mạnh trong tôi ngùn ngụt dâng tràn, quên hết đau đớn, mệt nhọc. Chỉ mong

sao nhìn đƣợc mặt con xem thử hình hài, vóc đáng nó thế nào. Lúc này, tôi càng

nhớ chồng tôi da diết. Anh ấy là một cán bộ đặc công Tỉnh đội Biên Hòa gan góc,

kiên cƣờng lắm. Giá nhƣ ảnh biết mình ở đây, hổng chừng ảnh báo cáo cấp trên tổ

chức cùng đồng đội tìm cách giải thoát cho mình cũng không chừng. Tôi nghĩ

miên man dông dài trong một tâm trạng dằn vặt đau đớn lạ. Mà không đau đớn

sao đặng: thân gái dặm trƣờng “vƣợt cạn” mà nào có đƣợc yên thân. Mới hay lúc

này mở mắt còn thấy bản thân đang bị trói cùng cái băng ca với hai lý do. Thứ

nhất tôi lên xe đi nhà thƣơng tâm trí bất ổn, phải có dây trói đề phòng vật vã.

Nhƣng khi đã sanh rồi, có thai nhi hẳn hòi mà ngƣời còn yếu lắm, sao vẫn cứ trói

nằm trên băng ca? Phải chăng các nhà chức trách khám đƣờng Biên Hòa phòng xa

sợ mình trốn thoát chớ gì? Chớ các bác sĩ, hộ lý nhà thƣơng Biên Hòa hoặc bất cứ

268

ở đâu không bao giờ họ lại đối xử với bệnh nhân, đặc biệt với sản phụ tồi tệ nhƣ

thế!

Hổng biết trời xui đất khiến thế nào, nhân lúc hai đứa em trai tôi đi làm phụ

hồ về ngang qua cổng nhà thƣơng tâm trí Biên Hòa, bất chợt nhận ra tôi - chị gái

mình. Thế là tất tƣởi về nhà nói lại má tôi - bà Huỳnh Thị Tƣ. Kể từ giờ phút ấy,

má tôi đứng ngồi không yên đành bảo đứa em dẫn ra đến nơi để tận mắt chứng

kiến. Khi nhìn rõ đích xác con gái mình trong cảnh đau đớn đến tột cùng. Bà gạt

nƣớc mắt, quay về cấp tốc bán ngay cặp bò đẻ để có tiền chạy thuốc thang cho con

qua cơn nguy khốn.

Công việc đầu tiên là bà khẩn khoản mấy tên lính quân đoàn 3 có nhiệm vụ

giám sát tù nhân để chúng đồng ý xin đƣợc chuyển viện Hùng Vƣơng, Sài Gòn.

Nhƣng đến đây vì lý do nào đó họ không nhận, đành qua nhà thƣơng Chợ Rẫy

phải mất 10 ngày mới tỉnh táo tƣơng đối. Và phải trải qua hai tháng điều trị.

Nhƣng mỉa mai thay, hai tháng đó, hai tên lính quân đoàn 3 vẫn cùng giám sát,

thực chất là một hình thức canh chừng bởi họ sợ “Bà Việt cộng trốn thoát”. Tội

nghiệp cho má tôi tần tảo lận đận đến để đƣợc chăm sóc con, cháu nhƣng cũng chỉ

ở đƣợc 26 ngày thì bị nó đuổi về. Khi sức khỏe có phần kha khá mà nào có đƣợc

yên, quân cảnh quân đoàn 3 cho xe sang bắt trở về khám đƣờng Biên Hòa, cả

trƣớc sau ở tù mất bốn năm. Trƣớc làn sóng chiến thắng của cách mạng miền Nam,

ngày 26 tháng 4 năm 1974 tôi mới đƣợc chúng thả ra. Đúng mức mà nói, chúng

kết án tôi hai năm tù, nhƣng quá trình tôi tham gia đấu tranh với chế độ bất công

của nhà tù đế quốc, lấy cớ đó chúng tăng gấp đôi đành phải ngồi tù tới bốn năm.

Mỉa mai thay, mẹ ngồi tù bốn năm đã là một lẽ, con gái bé bỏng của mình

cũng ở tròn bốn năm với mẹ, vị chi thành tám năm. Có lúc tù nhân đƣa về quá

đông, phòng chật ních địch cho thả bé ra sân. Độc ác hơn, lúc đầu chúng không

cho con ở với mẹ bởi tôi không chấp nhận chào cờ ngụy. Mỗi khi ra sân chuẩn bị

lễ chào cờ, tôi nhéo bé khóc thét lên để mình có cớ chúng cho ra ngoài vì mất trật

tự chung.

Chị Lâm Thị Nhung kể trong rƣng rƣng nƣớc mắt:

- Ngƣời mẹ nào nuôi con nhỏ cũng vất vả, đặc biệt là hoàn cảnh nghèo càng

cực nhọc khó khăn. Song, đƣợc nuôi nấng chăm sóc những mầm non cho non

sông, đất nƣớc và duy trì nòi giống là một niềm vui và hạnh phúc dâng tràn. Vậy

mà... vậy mà bản thân tôi, hai năm đầu nuôi con nhỏ trong nhà tù không có lấy

một giọt sữa từ bầu vú của mẹ vì ăn uống kham khổ, lấy đâu ra dinh dƣỡng? Nó

có ngậm vú cũng chỉ là để an ủi bé mà thôi. Tất cả đều phải nuôi bộ. Một mặt gia

đình gửi sữa vào cho cháu. Mặt khác nhờ các dì, các chị bạn tù giúp đỡ bảo vệ. Có

khi quá căng thẳng, bọn quản giáo khám đƣờng còn ép tôi gửi con vào cô nhi viện,

nhƣng tôi nhất quyết đấu tranh đến cùng để bảo vệ con, cũng là để bảo vệ giọt

máu của anh ấy - Thanh Giáp, chồng tôi đang cùng đồng đội ngày đêm chiến đấu

với quân thù ở đâu đó trên đất Biên Hòa.

Thế rồi từ sự chăm sóc hết lòng của mẹ, của các dì và sự hỗ trợ từ họ hàng

bên ngoại, con bé cũng qua đƣợc giai đoạn èo uột, lẫm chẩm tập đi và thôi bú. Nó

269

sống đƣợc đã mừng, nay lớn và có phần cứng cáp hơn, thế là phúc lắm rồi. Có lúc

tôi ôm ấp con vào lòng nhƣ ôm cả niềm hy vọng mà rằng:

- Ráng sống cho khỏe và lớn nghe con. Kẻ thù dù tàn ác nhƣ rắn độc, chó sói

cũng có ngày lụi tàn, khí thế cách mạng nhƣ mặt trời đang lên rực rỡ. Có mẹ bên

cạnh, có các dì các cô... đó là chỗ dựa cho mẹ con mình rồi. Tôi cúi xuống hôn

vào gƣơng mặt dễ thƣơng nhƣng ốm nhóc của con đã thấy nó ngủ tự lúc nào mà

cảm thấy đến nao lòng.

Khoảng một tháng đầu tôi điều trị ở bệnh viện Sài Gòn, chị Ba Thanh có lên

thăm và đem quà cáp. Biết chị lên thăm mẹ con tôi, anh em Tiểu đoàn 9 đặc công

Trung đoàn 113 cũng góp nhau lại đƣợc ít tiền, bộ đồ cho bé và nửa chỉ vàng gửi

tặng. Nghe chị Ba Thanh nói lại tình cảm anh em Tiểu đoàn 9 lo lắng cho sinh

mạng của mẹ con tôi, mà tôi thực sự không nén đƣợc lòng mình về tình cảm chân

thành, cao quý ấy của các anh bộ đội. Tôi nhờ chị Ba gửi lời cám ơn quý mến với

các ảnh và mong ngày chiến thắng trở về gặp lại nhau. Và thật lòng rằng: không

muốn làm phiền các ảnh, bởi bộ đội đã nghèo còn nhiệm vụ chiến đấu nặng nề.

Hơn nữa, chị đi lại nhiều có phần bất lợi, bọn chó săn chúng theo dõi từng bƣớc đi

của chị về mối quan hệ, rất không tiện cho phong trào cách mạng địa phƣơng nếu

chị có bề gì.

Thực tình, ở tù tôi rất nhớ chồng tôi - anh Thanh Giáp và nhớ anh em Tiểu

đoàn 9 đặc công. Ban Chỉ huy tiểu đoàn gồm có: anh Tám, anh Tuyến về quân sự,

anh Truyền Chính trị viên và một số anh em khác rất thân tình. Tôi là ngƣời tại

chỗ, đƣờng đi lối lại thuộc nhƣ lòng bàn tay. Có chúng tôi: anh Năm Côi, anh Ba

Tánh, chị Ba Thanh và tôi là những nhân tố để các anh dựa, nhờ vậy gạo, thực

phẩm, nhu yếu khác qua ấp AK (ấp số 7) giúp đỡ khá nhiều cho Tiểu đoàn 9 thời

gian bám trụ tại Bùng Binh. Từ khi tôi bị sa vào tay giặc, phần việc của mình lại

dồn cho các anh, các chị gánh nặng thêm lên. Nhƣng tôi tin cũng sẽ hoàn thành.

Tôi còn nhớ có lần bản thân tôi đƣợc phân công dẫn các anh đi tìm địa điểm

đặt trận địa pháo ở chân núi Chân Chùa, thuộc xã Tân Định. Và đạn cũng vậy, vác

đến hốc Ông Tạ ém lại đó, đêm hôm sau mới vác vào Chân Chùa. Trên đƣờng đi

qua các thửa ruộng bùn bê bết. Sáng hôm sau, chúng tôi động viên các gia đình có

trâu ra sớm bừa hết lối đi để xóa dấu vết, dân nghe và làm chu đáo lắm. Trận đánh

pháo vào sân bay Biên Hòa thắng lợi, gây cho địch thiệt hại nặng nề: trong đó có

phần đóng góp của những ngƣời dân bình thƣờng. Nghĩ về những kỷ niệm đó mà

thƣơng nhớ các anh quá trời.

Từ ngày tôi đƣợc ra tù trở về tiếp tục hoạt động, gặp đƣợc Thanh Giáp -

chồng tôi, gặp đƣợc anh em Tiểu đoàn 9. Đặc biệt, bé Nguyễn Thanh Thảo, ra đời

trong bối cảnh bi thƣơng nhƣ thế vẫn thể hiện sức sống và đã chạy nhảy, nói cƣời

liến thoắng. Anh Truyền, một cán bộ chính trị vui tính đề xƣớng:

- Cho bé Thanh Thảo làm con nuôi tiểu đoàn đi!

Tất cả đồng ý, đồng ý và cƣời nói rộn ràng. Bé Thanh Thảo chƣa biết gì cũng

cƣời toe toét một cách vô tƣ.

270

Thấm thoát đã 30 năm - gần một phần ba thế kỷ đã đi qua, trên mảnh đất này

cũng nhƣ trên toàn đất nƣớc có biết bao thay đổi kỳ diệu dƣới ánh sáng đƣờng lối

đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc ta. Trên nền trận địa ngày nào giờ đã mọc lên bao

nhà máy, xí nghiệp thu hút hàng chục ngàn lao động thế hệ con em sau chiến tranh

vào làm việc, tạo ra của cải cho toàn xã hội. Bé gái Thanh Thảo đƣợc hít thở khí

trời tự do phổng phao nay đã trở thành ngƣời vợ, ngƣời mẹ, là nhân viên thƣ ký

tổng hợp trƣờng tiểu học xã Thiện Tân, nơi không gian và thời gian ngƣời mẹ

cháu một thời sinh tử với quân giặc.

Hoá ra cuộc đời chứa đựng bao nhiêu là ẩn số, bao nhiêu đắng cay để có hạnh

phúc. Hãy dũng cảm bƣớc đi và nơi đến sẽ cho ta trái ngọt, mùa vàng đó, phải

không các bạn? - Chị Lâm Thị Nhung nở nụ cƣời và nói nhƣ thế với chúng tôi.

Xã Thiện Tân - Vĩnh Cửu

Tháng 3 - 2003

D.Q

271

TRẬN TẬP KÍCH XUNG LỰC VÀO TỔNG KHO LONG BÌNH

LÀ MỘT KỲ TÍCH

NGUYỄN VĂN TẢI1

Đầu tháng 6 năm 1972, Tiểu đoàn 9 chân ƣớt chân ráo từ chiến trƣờng Bình

Dƣơng lật cánh sang chiến trƣờng Biên Hòa để tham gia thành lập Trung đoàn

Đặc công 113. Sau khi mở đầu bằng trận thắng vang dội của Tiểu đoàn pháo 174

vào phi trƣờng Biên Hòa thì đến lƣợt xung lực phải ra tay hành động. Mà điều đó

cũng đúng thôi, đạn pháo có thể giáng vào bãi để máy bay trên các đƣờng lăn,

hoặc trực chiến phơi mình trên đƣờng băng lồ lộ ra đó chứ không thể “róc” vào

đƣợc từng kho bom đạn ở dƣới mặt đất, vừa có đê bao chắn hết sức kỹ lƣỡng. Để

đột nhập vào trong, nghiên cứu tỷ mỉ cách bố phòng của địch và hành động có kết

quả là cả một vấn đề công phu lắm. Nhiệm vụ quan trọng này, đƣợc Đảng uỷ -

Ban Chỉ huy Trung đoàn giao cho Tiểu đoàn 9.

Sau khi điều tra nghiên cứu xong, chúng tôi quyết định sử bụng ba mũi, mỗi

mũi 12 ngƣời, trang bị toàn thủ pháo loại thuốc hợp chất C4 và kíp hẹn giờ. Mũi

một, anh Tƣ già, một cán bộ đặc công U1 kỳ cựu tại đây và anh Chƣơng, anh

Thành, anh Thi. Mũi thứ hai, anh Luỹ mũi trƣởng, Thống mũi phó. Còn anh

Thành, mũi thứ ba. Bản thân tôi là Tiểu đoàn trƣởng nhƣng cùng vào kho với anh

em, vặn nắp quả đạn pháo, cài thuốc nổ xong ra báo cáo với anh Nguyễn Thanh

Tùng tại Sở Chỉ huy.

Kỹ thuật cài y nhƣ khi đang huấn luyện trên miền Bắc vậy. Cài một kho để

một kho, nhƣ thế vừa tiết kiệm lƣợng nổ lại phá hủy đƣợc diện rộng, kíp hẹn giờ

quy ƣớc từ 4 giờ đến 6 giờ đƣợc đặt khá bài bản từ trong ra ngoài.

Kết quả, trên 200 kho đã phát nổ và lan truyền tới một tuần lễ làm rung

chuyển cả một không gian rộng lớn. Bên cạnh kho bom đạn các loại, còn có kho

thuốc nổ hợp chất hệt nhƣ một trái bom nguyên tử vậy. Khói mù mịt đầy trời, đến

nỗi chúng tôi đi giữa ban ngày ở đồng trống mà máy bay vẫn bất lực vì màn khói

bụi. Một số cột điện cả trung thế và hạ thế bị chấn động gãy gục. Sƣ đoàn 18 ngụy

đóng tại Hố Nai phải giãn đội hình vì sợ đe dọa, cửa kính nhà cao tầng trong thị xã

Biên Hòa đều rạn vỡ. Trong lúc địch còn hoảng loạn thì chúng tôi ung dung tổ

chức lui quân trong niềm phấn khởi lạ thƣờng. Riêng có anh Thƣờng đi lạc vào ổ

phục kích của địch bị chúng bắt ở cầu sông Buông. Trời sáng bạch không ra kịp

đành giấu mình dƣới cái cống thoát nƣớc, đêm sau mới ra đƣợc.

Vào thời điểm ấy anh Ba Ninh làm Tham mƣu phó Trung đoàn, đƣợc anh

Chín Tùng giao nhiệm vụ chỉ đạo và kiểm tra giai đoạn điều nghiên. Còn hôm

thực hành đánh, anh ở Sở Chỉ huy với Trung đoàn trƣờng Nguyễn Thanh Tùng

ngoài đê bao căn cứ cạnh sông Buông.

1 Nguyên Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn 9, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 113, đại tá nghỉ hưu.

272

Trên đánh giá: đây là một trận đánh đặc công thật lý tƣởng, đạt hiệu suất

chiến đấu rất cao. Làm tê liệt cả hệ thống tổng kho dự trữ chiến lƣợc. Riêng khu

vực bị nổ, ngoài số bị phá hủy, số còn lại mất tác dụng hoàn toàn. Đến nỗi 6 tháng

tiếp theo, cƣờng độ bom đạn của địch hoạt động trên chiến trƣờng bị giảm rõ nét.

Cụ thể nhất là đại tƣớng Cao Văn Viên, tổng tham mƣu trƣởng quân đội Sài Gòn

phải chỉ thị hạn chế tối đa khi xuất các loại vũ khí cho các đơn vị hành quân càn

quét đánh phá.

Đài phƣơng Tây bình luận: “Đây là một trận phá hủy của đối phƣơng gây

thiệt hại chƣa từng có đối với quân đội Việt Nam cộng hòa”. Bởi từ sau Tết Mậu

Thân 1968, Mỹ - ngụy rút kinh nghiệm bảo vệ rất nghiêm ngặt, các lực lƣợng đặc

công hoạt động hết sức khó khăn, thậm chí không đột nhập nổi. Bởi vậy, trong lúc

đối phƣơng đang tự mãn với phƣơng thức ngăn chặn tƣởng chừng nhƣ “Bất khả

xâm phạm” thì bị đòn trời giáng, chứng tỏ không ở đâu an toàn đối với chúng.

Hôm thành lập Trung đoàn, tôi ngủ với anh Phùng Truyền đƣợc một đêm tại

Bùng Binh, xã Thiện Tân, huyện Vĩnh Cửu để sáng hôm sau đi chuẩn bị chiến

trƣờng. Hôm đó, để nắm đƣợc lực lƣợng đại đội 2 đang bám trụ bên ấy. Công tác

chuẩn bị chiến trƣờng thực ra đƣợc triển khai ngay từ khi Trung đoàn ra đời, tuy

nhiên phải rất khẩn trƣơng và đã đạt kết quả. Để có đƣợc kết quả quý giá đó phải

ghi nhận đƣợc tiếp nối kinh nghiệm thực tiễn của số anh em đặc công Tỉnh đội

Biên Hòa từng nhiều năm bám trụ ở địa bàn trọng điểm này. Đó là một cái vốn

quý ai cũng phải thừa nhận. Bởi hệ thống phòng thủ của địch ở tổng kho Long

Bình có thể nói là kỷ lục. Ngay các loại rào kẽm gai có tới 20 tuyến. Đó là chƣa kể

vô vàn cài mìn cặm bẫy rất nguy hiểm bao quanh căn cứ. Điều lý thú là trong quá

trình điều nghiên, chúng tôi có bắt đƣợc một tên lính cấp trung sĩ, nó khai tên là

Thân khi đang tuần tra trên các tuyến đƣờng nhựa. Tuy nhiên đƣa về khai thác, tên

này chẳng biết gì đƣợc mấy về tin tức, bởi nó gác vòng ngoài nên cách bố phòng

bên trong coi nhƣ mù tịt. Toàn tổng kho chúng bố trí những 11 cổng ra vào, bộ

phận nào làm ở khu vực nào là chỉ biết trong phạm vi của mình. Mới thấy, ngay

trong đội ngũ của chúng đã có những phƣơng án cảnh giác chặt chẽ đến mức nào.

Ngay hệ thống cửa cũng toàn loại sắt dày rất nặng, khóa đóng mở đều bằng điện.

Để phá đƣợc loại cửa này cực kỳ khó khăn. Long Bình là căn cứ rất rộng lại phải

khắc phục nhiều chƣớng ngại, nên trong vòng một đêm không thể ra vào đƣợc.

Bởi thế, có lần anh Quỳnh một cán bộ phải nán lại trong khu vực kho cả ngày để

hôm sau điều nghiên các mục tiêu bên trong. Tƣơng tự nhƣ vậy, vào tháng 3 năm

1973, Hồ Văn Sinh (sau này đƣợc tuyên dƣơng Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân

dân) trong một lần vào trinh sát bất ngờ gặp một tên địch. Bí quá, Sinh gí khẩu

súng vào mặt nó, dọa: hãy im mồm thì tao tha mạng sống. Nó dạ dạ lia lịa. Tƣởng

chừng trƣớc cái sống và cái chết chúng giả bộ cho qua, không ngờ nó lại sợ bị liên

lụy nên im thật. Bằng chứng là cả đêm ấy, Sinh chủ yếu là nghe ngóng động tĩnh

và rất may tìm đƣợc hòm đạn pháo để trống. Thế là anh ta giấu mình cả ngày

trong đó. Lợi dụng tranh tối, tranh sáng và đủ mọi âm thanh nên đã quan sát khá

rõ các khu vực bố phòng bên trong của địch. Tối hôm sau, tìm đƣờng trở ra an

toàn. Ít lâu sau nữa Hồ Văn Sinh trực tiếp dẫn lực lƣợng vào phân khu 50 phá hủy

273

đƣợc 20 xe tăng và xe bọc thép của Mỹ, ta lui quân an toàn rút về ấp Đá Mài, gần

sông Buông trú lại tạo thế bất ngờ.

Nhƣ vậy là chúng tôi đi chuẩn bị mục tiêu trong tổng kho Long Bình làm hai

giai đoạn cả tháng 5 và tháng 6 âm lịch, để thực hành đánh vào đêm trăng tháng 7,

đó là đêm 12 rạng 13 tháng 8 năm 1972.

Lực lƣợng tham gia trực tiếp có 36 ngƣời. Nếu tính cả chỉ huy và bảo vệ hành

lang là trên 50 ngƣời. Phƣơng tiện hiệp đồng chỉ huy chủ yếu bằng đồng hồ, từ giờ

mở rào, giờ tiếp cận, giờ đột nhập đặt trái, giờ lui quân rời trận địa đều căn bằng

giờ. Khoảng 3 giờ 30 phút, tất cả ra khỏi hàng rào ngoài cùng, 4 giờ sáng bắt đầu

phát nổ. Theo dự kiến khoảng 6 giờ trái nổ nhƣng do nhiệt độ tăng nên nó nổ sớm

hơn đƣợc 2 giờ. Ở đây còn có nhiều may mắn là thời gian phát nổ sớm nhƣng lúc

ấy lực lƣợng ta đã ra ngoài phạm vi tƣơng đối an toàn. Bằng không, điều gì xảy ra

khó mà lƣờng hết đƣợc.

Là một ngƣời trong cuộc, trực tiếp kề vai sát cánh cùng anh em đơn vị thực

hiện nhiệm vụ đƣợc giao và hoàn thành xuất sắc. Mặc dầu thời gian đã lùi lại khá

xa, gần cả phần ba thế kỷ rồi còn gì. Song, từ tâm thức của mình tôi xin kể lại

những gì vốn có của nó, mong các bạn bổ xung thêm.

Qua đây, cũng xin gửi tới những ngƣời đồng đội thân thiết xa gần tình cảm

chân thành, chúc dồi dào sức khỏe, hạnh phúc, niềm tin yêu cuộc sống.

Thành Vinh - Nghệ An, năm 2002

N.V.T.

274

ĐÊM TRƢỚC NGÀY TOÀN THẮNG

NGUYỄN LONG HƢNG1

Ngày họp mặt truyền thống các cựu chiến binh Đoàn Đặc công 113, mặc dù

địa bàn rộng gồm thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, vậy mà mới 8 giờ

sáng, khuôn viên Bảo tàng lực lƣợng vũ trang miền Đông Nam Bộ đã khá đông

đại biểu, tiếng cƣời nói rộn ràng, tay bắt, mặt mừng, nhìn ai cũng thấy trẻ trung,

hồn hậu, tựa nhƣ lúc ở căn cứ đóng quân trong ngày toàn thắng 30 tháng 4 năm

1975 vậy.

Gặp lại bạn bè tóc đã điểm màu thời gian, lớp đàn anh nhiều ngƣời đã bạc

trắng, tất cả kỷ niệm xƣa lại òa vào trong tôi và lần lƣợt hiển hiện nhƣ những

thƣớc phim tái hiện hình ảnh 28 năm về trƣớc.

Ngồi cùng với thiếu tƣớng Nguyễn Thanh Tùng - Anh hùng lực lƣợng vũ

trang nhân dân, nguyên Trung đoàn trƣởng đầu tiên Đoàn Đặc công 113, cùng các

anh Nguyễn Quốc Hoàn, Đàm Chu Văn từ Đồng Nai lên, tôi rộn ràng, xao xuyến

nhớ lại cái không khí náo nức của đêm bƣớc vào trận đánh cuối cùng để đi tới

ngày bình minh toàn thắng.

Đó là đêm 29 tháng 4 năm 1975, bầu trời đầy sao, trăng sáng lắm (dƣờng nhƣ

14 hay rằm tháng 3 thì phải). Tiểu đoàn 9 đặc công chúng tôi đƣợc chia làm hai

mũi, xuất phát từ căn cứ Bùng Binh, xã Thiện Tân, huyện Vĩnh Cửu. Nhiệm vụ

của đơn vị là đánh theo yêu cầu (không có điều nghiên chuẩn bị trƣớc) tập kích và

đánh chiếm căn cứ lữ đoàn thiết giáp số 15 và lữ đoàn dù 81 của ngụy ở Hốc Bà

Thức. Tôi có vinh dự đƣợc cấp trên tin tƣởng phân công chỉ huy trung đội mũi

nhọn, có nhiệm vụ mở cửa cho tiểu đoàn bí mật đột nhập vào căn cứ. Bên cạnh tôi

là Hồng tổ trƣởng và Lợi xạ thủ B40 cùng tham gia cắt rào. Dƣới ánh trăng, sao

căn cứ thiết đoàn 15 hiện ra khá rõ với năm hàng rào kẽm gai và bờ đê bao quanh

khá cao để bảo vệ. Mặt đê chúng đặt các bót canh, thân đê với hệ thống lô cốt đen

ngòm các lỗ châu mai sẵn sàng nhả đạn. Khoảng cách từ chân hàng rào thứ nhất

đến bờ đê tầm 300 mét. Đèn pha trên căn cứ quét lia lịa. Pháo sáng từ phi trƣờng

Biên Hòa hắt lên làm cho mọi vật đều thấy rõ mồn một.

Lệnh nổ súng vào đúng 24 giờ, song vào thời điểm ấy cả đội hình mới qua

đƣợc hai hàng rào. Hàng rào cũi Lợn rộng khoảng 40 mét và hàng rào chữ A, xen

giữa là hàng rào lƣỡi lam với các loại mìn đƣợc bố trí cài cắm dày đặc.

Nhìn đồng hồ đeo tay các chữ số màu dạ quang nổi lên chỉ rõ thời gian đã

qua khá xa mà chƣớng ngại hãy còn nhiều, lòng tôi nhƣ lửa đốt, quên hết mọi

hiểm nguy. Khi chỉ còn hàng rào cuối cùng là lọt đƣợc vào bên trong căn cứ thì

bất chợt tên lính gác trên đê phát hiện. Lập tức chúng xả súng bắn về phía đội hình

và nhảy xuống thân đê chui vào lô cốt. Tình thế thật cấp bách, để cứu toàn đội

1 Nguyên cán bộ mũi trưởng Tiểu đoàn 9 - trung tá công an thành phố Hồ Chí Minh.

275

hình đang nằm kẹt giữa các chƣớng ngại, tổ đầu cầu vụt dậy nhảy qua lớp rào cuối

cùng áp sát chân đê và dựa vào đê làm lá chắn tƣơng thủ pháo, lựu đạn vào lỗ

châu mai. Khẩu súng B40 cũng kịp thời phóng đƣợc mấy quả vào phía trong đội

hình địch.

Do tác động chung của toàn chiến trƣờng, đặc biệt tuyến phòng thủ cuối cùng

của địch ở Xuân Lộc, Dầu Giây và nhiều nơi khác chúng đã nao núng, hoang

mang. Khi xuất hiện những tiếng nổ lạ và đanh, biết chúng bị tấn công. Sẵn đà cả

căn cứ Hốc Bà Thức náo loạn, một số xe nổ máy theo trục đƣờng chạy thoát thân.

Nhƣng để tránh sự truy kích của đối phƣơng và bị tiêu diệt, nên chúng quay súng

bắn xối xả ra phía sau và cả hai bên đƣờng. Khoảng 4 giờ sáng, lực lƣợng ta đã

chiếm lĩnh và làm chủ toàn bộ căn cứ. Nhƣng cũng vừa lúc máy bay trực thăng võ

trang địch từng tốp, từng tốp thay nhau tới bắn xối xả xuống căn cứ. Lợi dụng địa

hình địa vật để bảo toàn lực lƣợng, nên ta hạn chế đƣợc thƣơng vong.

Khoảng 8 giờ sáng, xe tăng và bộ binh của đại quân ta tiến qua Hố Nai để về

giải phóng Sài Gòn, bọn địch ở khu vực căn cứ Hốc Bà Thức cũng nháo nhác vứt

bỏ mọi thứ tìm đƣờng chạy thoát thân, một cảnh tƣợng diễn ra chƣa từng thấy của

đội quân bại trận. Quá trình lùng sục tảo trừ, anh em phát hiện và bắt đƣợc một tên

địch ngay tại căn cứ. Tên này tƣớng mạo ngon lành nhƣng rất ngoan cố không

khai cƣơng vị gì. Bởi nhƣ nó nói: các ông làm gì mà chiếm đƣợc Sài Gòn! Hóa ra

nó ngạo mạn và mù quáng đến nhƣ vậy. Tới khi Dƣơng Văn Minh tuyên bố đầu

hàng, chúng mới hay toàn bộ chính quyền Sài Gòn đã hoàn toàn sụp đổ. Ngay lúc

ấy tên này mới khai: hắn là trung tá, lữ đoàn trƣởng chiến đoàn 15 ngụy, xin cúi

đầu nhận hết tội lỗi và tha chết cho nó. Lá cờ cách mạng đƣợc dƣơng cao tung bay

trong nắng mới trên căn cứ thiết giáp của quân thù còn vƣơng mùi thuốc súng.

Trong trận này, anh Tam cán bộ đại đội hy sinh. Vết thƣơng tuy không nặng

nhƣng bị nhiễm vi trùng uốn ván. Hình ảnh hy sinh của anh trƣớc giờ toàn thắng,

làm cho tất cả đơn vị ngậm ngùi thƣơng tiếc. Ngay sau đó, chúng tôi tiếp tục nhận

lệnh triển khai bảo vệ căn cứ, đề phòng tàn quân địch bắn lén nhằm trả thù.

Những kỷ niệm không bao giờ quên.

Trƣa hôm ấy, cả tiểu đoàn dƣờng nhƣ không ngủ đƣợc, nhìn cảnh ngổn

ngang xe pháo địch vứt lại. Có những chiếc xe tăng còn khởi động nổ máy chúng

chƣa kịp tắt. Những chiếc xe Hon-đa của bọn chỉ huy còn nguyên nƣớc sơn. Anh

Tuyến, Tiểu đoàn phó hăm hở khởi động máy đi thử một chiếc để chạy quanh căn

cứ, đắc chí lắm. Nhƣng khốn nỗi không biết thao tác điều khiển nên xe cứ nhƣ chứ

ngựa bất kham. Bí quá anh nảy ra một “sáng kiến” cho xe chồm vào ụ mối, thế là

cả ngƣời và xe ngã lăn ra. Khi lồm cồm dậy chỉ xây xát đôi chút, miệng cƣời nhƣ

để chữa thẹn mà rằng:

- May quá, không bận gì, nhằm nhỏ gì ba cái lẻ tẻ.

Nhân sự kiện ấy, anh em đơn vị đàm tiếu rằng: phi công khi thất thủ phải

nhảy dù từ máy bay trên bầu trời bao la, còn anh Tuyến nhà ta, đi xe Hon-đa bí

quá “nhảy dù” vào ụ mối, thật là một phát kiến kỳ diệu...

276

Kể từ giờ phút ấy, anh chƣa dám dùng xe máy nhƣng quyết tâm tập cho kỳ

đƣợc để sử dụng nó. Buổi chiều ấy, tôi với anh hai ngƣời hai xe đạp phóng dọc lộ

24 trở về thăm bà con cô bác ở xã Thiện Tân. Gặp nhau giữa ngày toàn thắng,

niềm vui không thể nói nên lời. Câu hỏi đầu tiên của những ngƣời thân quen tại

đây là:

- Trận đánh sau cùng đêm qua, anh em có ai hy sinh? Ai bị thƣơng? Khi nghe

tin anh Tam không còn cơ hội gặp lại ngƣời thân giữa ngày vui sum họp, nhiều mẹ,

nhiều chị đã bật thành tiếng khóc thƣơng xót cho anh nhƣ chính là thân nhân của

mình.

Nhớ lại những năm tháng bám trụ tại căn cứ Bùng Binh bốn bề là giặc, bom

pháo rần rần, sống chết đến với mình từng giây, từng phút. Thế mà luôn lạc quan

yêu đời bởi niềm tin tất thắng. Bên cạnh đơn vị còn có lãnh đạo địa phƣơng, cô

bác, anh chị sẵn sàng chia sẻ từng hạt gạo, củ khoai, mọi thứ sinh hoạt khác. Dân

che chở yêu thƣơng đùm bọc, nên kẻ thù dù có quỷ quyệt tàn bạo tới đâu cũng

hoàn toàn bị bất lực.

Một lần khác đi trinh sát sân bay Biên Hòa, cả nhóm năm ngƣời gồm: Hƣng,

Chinh, Bảo, Khiêm (gù) dƣới sự chỉ huy của anh Lũy Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 9.

Từ căn cứ Bùng Binh, xã Thiện Tân - chúng tôi ra đi do Bảo dẫn đƣờng. Hƣớng

đột kích là dọc Suối Dầu, bởi con suối này dầu mỡ từ sân bay chảy ra rất nhiều.

Tới khu vực tập kết, Bảo chỉ hƣớng, tôi chống rào và khắc phục mìn, cắm lỗ tiêu,

Chinh, Khiêm tổ viên. Bảo cho biết chỗ này có năm hàng rào, một đƣờng xe tuần

tra cơ giới. Khu vực sân bay ban đêm ngoài hệ thống đèn cao áp, còn có pháo

sáng từ máy bay và mặt đất bắn lên sáng rực. Bên cạnh các tốp lính đi tuần tra, chỉ

một sơ suất nhỏ cũng có thể bị phát hiện. Tổ chúng tôi vƣợt qua ba hàng rào êm

xuôi, chuẩn bị vƣợt hàng rào thứ bốn, bỗng phát ra tiếng nổ ầm ở phía sau đội

hình. Tất cả nhƣ nín thở để nghe ngóng động tĩnh. Nếu bị lộ thì chỉ có thể chấp

nhận sự hy sinh, bởi lúc này chẳng khác nào những con chim đang bị nhốt trong

lồng sắt vậy. Nhƣng may thay, cái giây phút có thể đổi bằng cả sinh mạng ấy cũng

qua đi. Chúng tôi lần lƣợt xóa dấu vết lui ra. Đến một quãng không xa thì gặp anh

Lũy đang trong trạng thái hết sức nguy kịch. Một bàn chân bị nát vụn do dẫm phải

quả mìn díp M14 chỉ còn dính chút da. Chúng tôi dùng dao găm cắt luôn và ga rô

cầm máu, đƣa anh ra ngoài. Lúc này mới sực nhớ là chỗ anh Lũy bị thƣơng vết

máu và các mẩu thịt còn vƣơng lại chƣa đƣợc xóa dấu vết. Để vậy, hôm sau địch

phát hiện, có thể rất nguy hiểm cho các đợt đi trinh sát sau này. Thế rồi tôi trở vào

lần lƣợt làm mọi động tác để trả lại nguyên trạng ban đầu. Sau đó thay nhau cõng

anh Lũy trở về căn cứ. Đến đây mới biết cả mấy anh em vẫn còn sống để tìm một

cơ hội khác cho kế hoạch. Dọc đƣờng tôi hỏi anh Lũy: nhiệm vụ anh là chỉ tới

hàng rào ngoài cùng, điểm tập kết đầu tiên, cớ chi anh lại tự động vào, chui lệch

hƣớng để dẫm phải mìn, nó “xin” mất một bàn chân? Trong cơn đau vì vết thƣơng

lại cả phần thƣơng anh em vất vả với mình. Anh Lũy cho biết: ở ngoài thấy bọn

bay tiếp cận ngon lành quá. Tao cứ nghĩ vào thêm ít hàng rào rồi cùng ra với nhau

khi công việc hoàn thành. Ngờ đâu sai một ly đi một dặm, nghiệt ngã thật. Anh

còn tỏ ra ân hận: thế là từ nay tao không còn cơ hội cùng với tụi bay, với đơn vị đi

277

tới ngày toàn thắng. Nghe anh nói trong cơn đau rỉ máu mà chúng tôi thấy nghẹn

ngào. Bởi anh là một cán bộ tiểu đoàn có uy tín, biết thƣơng yêu cấp dƣới, đồng

cam cộng khổ. Anh bị thƣơng cũng chỉ vì trách nhiệm cao cả của ngƣời chỉ huy,

chớ ai lại vào chỗ chết ngƣời mà làm gì...

Kể cũng lạ, một tiếng nổ khá giòn nhƣ thế mà bọn lính gác gần đó và cả lũ

tuần tra không hề hay biết. Bởi lúc ấy gió thổi rào rào, trong sân bay nhiều âm

thanh hỗn hợp cộng với tiếng động cơ máy bay nên chúng đánh bạt trộn lẫn tiếng

mìn vậy. Lúc này tôi sực nhớ ra cái bàn chân nát vụn của anh Lũy đƣợc tôi gói

vào trong chiếc xà líp đặc công thƣờng dùng để đƣa ra ngoài chƣa kịp chôn cất,

trở nên lạnh toát đến rợn ngƣời. Ôi phần thi thể mà tạo hóa ban tặng cho anh từ

nay xa lìa thân chủ, mất mát này sẽ không thể bù đắp đƣợc, anh Lũy ơi. Chúng tôi

dìu anh về tới căn cứ Bùng Binh, đƣợc y sĩ Nhu dùng lƣỡi dao lam cắt bỏ phần

dập nát và chăm sóc vết thƣơng rồi chuyển tiếp về tuyến sau điều trị. Tƣởng rằng

chỉ dừng lại chừng đó, sự mất mát trong chiến tranh khó tránh đối với ngƣời lính,

dần dần sẽ đƣợc bù đắp. Không ngờ chân anh bị hoại tử, hai lần bị cắt bỏ tháo

khớp lên tới háng. Nay anh là một thƣơng binh nặng, có tổ ấm gia đình sống với

vợ con tại quê hƣơng Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Hơn một tháng sau, Bảo và Khiêm vào trinh sát trở lại. Lúc ấy tôi đang ở trên

R để huấn luyện kỹ thuật đặc công cho số quân từ miền Bắc mới vào. Quỷ quyệt

hơn kẻ thù tăng cƣờng cài mìn, cạm bẫy dày đặc. Một quả mìn định hƣớng phát nổ.

Bảo - một chiến sĩ trinh sát của tiểu đoàn khá dày dạn kinh nhiệm đã anh dũng hy

sinh, còn Khiêm bị thƣơng nặng không còn khả năng chiến đấu.

Trƣớc khi đi trinh sát lần đầu cách đó bốn ngày, vì trời trăng sáng quá, địch

gác lại dày không thể vào đƣợc, đành tạm hoãn chờ dịp khác. Trên đƣờng trở về

qua cánh đồng Tân Phong phía đông sân bay, tình cờ gặp một bóng ngƣời hớt hải

chạy qua. Với phản ứng mau lẹ của mình, tôi, Bảo, Khiêm, Bình hình thành thế

bao vây. Trong chốc lát, bóng đen bị bắt sống, khóa chặt tay và giải về phía sau.

Qua khai thác biết đƣợc, đó là viên trung úy phi công ngụy. Trong một buổi rời

khỏi doanh trại, đi tranh gái với đám thanh niên ngoài phố, hắn bị truy đuổi chạy

tạt qua đây để thoát nạn. Không thể ngờ rằng lại bị đối phƣơng tóm cổ. Hắn đƣợc

giải giao cho Phòng Địch vận Miền.

Vào thời điểm đầu mùa mƣa năm 1974 tôi bị một cơn sốt rét ác tính quật ngã.

Đƣợc đơn vị chuyển dần lên điều trị tại trạm quân y Đoàn 841 Cục Hậu cần, nằm

trên thƣợng nguồn sông Đồng Nai. Bị sốt cao, dẫn tới hôn mê và coi nhƣ đã bị

chết về mặt lâm sàng. Một bộ phận làm công tác chính sách cử ngƣời ra đào huyệt

để chuẩn bị chôn cất. Song, qua nhiều tháng nắng hạn, đất sỏi đá quá cứng, anh

em chƣa đào đƣợc bao nhiêu. Vả lại lúc ấy trời đổ cơn mƣa dông rất to nên ai nấy

vứt cuốc xẻng tại chỗ để chạy lánh mƣa. Với dụng ý, sau cơn mƣa sẽ tiếp tục đào

nốt phần còn lại để đặt thi thể tôi xuống đó cho mồ yên, mả đẹp. Nhƣng, thật tình

cờ một ngƣời trong số họ lật tấm đắp để nhìn mặt tôi lần cuối cùng mới khâm liệm

cho tôi để về chốn cửu tuyền. Thế rồi không biết có phép mầu nhiệm nào, làm cho

con tim tôi đập trở lại. Nhịp thở từ thoi thóp yếu ớt đến tăng dần, cơ thể ấm lên.

278

Mọi ngƣời xúm lại, các y bác sĩ tiếp tục xoa bóp với các thủ thuật của chuyên môn.

Thế là tôi hoàn toàn thoát khỏi bàn tay tử thần trong giây lát. Tôi từ từ mở mắt,

ngƣời quay cuồng sau một cơn mê lịm khá dài. Định thần lại biết mình vẫn còn

sống, nƣớc mắt dàn dụa lăn dài nóng hổi trên hai má. Chuyện thật mƣời mƣơi mà

tôi cứ ngỡ nhƣ là mơ vậy.

Hơn 30 năm đã trôi qua, bao biến cố thăng trầm đến với dân tộc ta cũng nhƣ

với mỗi con ngƣời. Bản thân tôi cũng thế thôi, từ một chàng trai tỉnh lẻ huyện Ý

Yên, Nam Định rời cây bút để cầm súng diệt quân thù theo tiếng gọi thiêng liêng

của Tổ quốc. Trƣởng thành nhờ sự giáo dục, rèn luyện của Đảng, của quân đội,

nay là một sĩ quan cấp trung tá công an nhân dân. Từ sâu thẳm lòng mình, tôi tri

ân bội phần tình dân, nghĩa Đảng, đồng chí anh em đã cho tôi một cuộc đời, một

trái tim nhân hậu của ngƣời lính Cụ Hồ, ngƣời chiến sĩ của Đoàn Đặc công 113

mà tôi hằng yêu quý.

N.L.H

279

NHỮNG CHIẾC GIÁ PHÁO THẦN KỲ

LÂM VĨNH CHÂU1

Không biết trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của Hồng quân Xô Viết,

đánh bại đội quân phát xít Đức quốc xã tàn bạo khét tiếng, cũng nhƣ viện Triều

chống Mỹ của Hồng quân Trung Quốc trƣớc đây và những cuộc chiến tranh chính

nghĩa khác của nhân dân các nƣớc trên thế giới, đã “sáng chế” ra những chiếc giá

pháo thần kỳ nhƣ thế nào. Còn pháo binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam

ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nƣớc vĩ đại, những chiếc giá pháo thần kỳ ấy,

nó lại đƣợc xuất hiện tại Tiểu đoàn 174 pháo đặc công Đoàn 113 của chúng tôi đó.

Chuyện ấy sau này thì trở thành đơn giản, phổ biến nhƣng khi bắt đầu nghĩ ra nó

quả là đòi hỏi phải động não ghê gớm. Sự thể là thế này:

Tôi (Lâm Vĩnh Châu) nguyên Phó tiểu đoàn trƣởng 174 pháo binh Miền đóng

cứ tại các xã Tân Hòa, Tân Tịch, Thƣờng Lang, huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa

(Nay là tỉnh Bình Dƣơng). Đây là loại pháo ĐKB kích cỡ 122mm. Mục tiêu chủ

yếu là sân bay Biên Hòa và một số căn cứ đóng quân của Mỹ - ngụy và trận địa

pháo binh của chúng. Tính năng, tác dụng của loại vũ khí lợi hại này của ta do

nƣớc bạn Nga trƣớc đây giúp đỡ, không chỉ có giá trị phá hủy các mục tiêu trên

mặt đất của đối phƣơng, tiêu diệt sinh lực của chúng mà tiếng rít và tiếng nổ của

đầu đạn làm cho chúng hết sức kinh hoàng. Bởi vậy, mỗi trận đánh pháo đƣợc

chuẩn bị hết sức công phu: tìm trận địa chính, trận địa phụ, trận địa nghi binh; đo

đạc tính cự ly, mục tiêu... để đạt hiệu suất chiến đấu cao nhất. Nhƣng, thông

thƣờng đánh pháo từ xa so với các mục tiêu, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải

tuyệt đối bí mật trận địa, đề phòng đối phƣơng phản pháo hoặc dùng máy bay

oanh tạc... Bởi thế, lính pháo thƣờng ít khi giáp mặt trực tiếp với bộ binh địch,

ngoại trừ khi chúng tổ chức xung lực tiến công, hay biệt kích thám báo đột nhập

dò la nơi trú quân hoặc trận địa của ta.

Do yêu cầu của chiến trƣờng, tháng 6 năm 1972, trung đoàn pháo binh đƣợc

chia là hai, một tiểu đoàn tăng cƣờng cho chiến trƣờng Bà Rịa, còn Tiểu đoàn 174

sáp nhập đội hình Trung đoàn Đặc công 113, hoạt động tại chiến trƣờng tỉnh Biên

Hòa - mật danh thƣờng gọi là U1. Nhƣng không đóng quân nơi địa bàn cũ đã sáu

năm gắn bó mà dời chuyển về suối Nhung, cánh rừng Mã Đà để gần mục tiêu hơn,

cơ động tác chiến đánh pháo theo kiểu đặc công đƣợc thuận lợi.

Nói đến tác chiến pháo binh thì rất lý thú nhƣng cũng vô cùng gian khổ, thiếu

thốn. Thiếu thốn về cơ sở vật chất còn dựa vào dân, dựa vào đơn vị bạn giúp đỡ,

dần dần từng bƣớc đƣợc tháo gỡ. Còn thiếu đạn pháo để đánh là điều cực kỳ nan

giải nhất. Pháo địch bắn phá, giết hại dân lành. Bộ binh chúng ngang ngƣợc càn

quét nhƣ một sự thử thách. Nhiều lúc rất cần đƣợc giáng trả thích đáng. Vậy mà,

hỡi ơi pháo đơn vị lại thiếu đạn - mới nghiêm trọng làm sao! Có những thời kỳ từ

1 Nguyên Phó tiểu đoàn trưởng 174 pháo binh Trung đoàn 113.

280

năm 1966 đến đầu năm 1972, địch bao vây phong tỏa rất quyết liệt. Các ngả

đƣờng bị chúng chốt chặn rất gắt gao nên vận chuyển rất khó khăn. Bởi thế, súng

“đói” đạn còn gay gắt không kém lính đói cơm, thiếu gạo. Vì vậy, chỉ tám quả đạn

pháo phải đánh tới hai trận. Diệt bao nhiêu địch chƣa thành vấn đề, nhƣng điều cơ

bản là làm cho chúng biết: pháo binh Quân Giải phóng còn bám trụ rất cận kề, hãy

coi chừng! Làm ấm lòng nhân dân.

Thế mới thấy, cánh lính pháo cũng có những khó khăn, gian khổ và thiếu

thốn cực kỳ nhƣ thế nào?

Đến những chiếc giá pháo thần kỳ.

Khác những trận đánh trƣớc đó: phải có thời gian làm trận địa; đắp ụ bằng đất

thay cho giá pháo. Lần này trận ra quân đầu tiên đánh vào sân bay Biên Hòa trong

đội hình đặc công, nên luồn gần hơn mục tiêu tác chiến. Bởi vậy thời gian tính

từng phút, từng giờ, đâu có khoảng rảnh rỗi để đắp ụ. Vì thế, để có một loại giá

pháo gọn nhẹ, dễ cơ động là rất cần thiết. Song, chƣa ai đề xuất đƣợc phƣơng án

“sản xuất” nó ra làm sao. Mà mang vác đủ bộ lệ, vào trận địa là cả một vấn đề.

Không chỉ tốn kém nhân lực mà điều nan giải nhất là dễ bị lộ. Thời gian thôi thúc

từ ngƣời chỉ huy, lãnh đạo đến từng ngƣời lính. Nhiều cuộc họp dân chủ về quân

sự từ cơ sở để hiến kế mà vẫn chƣa tìm ra giải pháp nào hữu hiệu hơn.

Là phó tiểu đoàn trƣởng tôi đã cùng đồng đội nhiều năm gắn bó với chiến

trƣờng, trực tiếp chỉ huy đơn vị dội bão lửa xuống sân bay chiến lƣợc Biên Hòa,

góp nhiều chiến công to lớn. Nhƣng cũng chỉ tác chiến theo lối truyền thống, chứ

chƣa có mấy việc cải tiến cơ cấu cho pháo. Những năm tháng trên miền Bắc,

những ngƣời chỉ huy gạo cội đàn anh trong Binh chủng pháo binh Việt Nam cũng

chƣa ai đề xuất phƣơng án chế tác loại chân pháo, thay thế các công binh xƣởng

nơi sản sinh ra loại vũ khí lợi hại này. Tôi suy nghĩ đến mất ăn, mất ngủ.

Thế rồi một hôm dạo mát dƣới tán cây rừng, nhìn lên một cây cao có ba

nhánh chụm lại với nhau từ thân mẹ sinh ra. Tôi đứng ngắm nghía đến say mê nhƣ

bị ai thôi miên vậy. Nhƣng thật mừng thay, từ đó nảy nở trong tôi một ý tƣởng:

giá nhƣ ta tạo ra một chiếc giá ba chân nhƣ thân cây kia để ngƣợc, đặt viên đạn

ĐKB lên đấy có đƣợc chăng? Và từ đó, tôi trở về căn hầm của mình hăm hở dùng

dao găm chặt ba khúc cây rừng, hí hoáy ƣớm thử ngắm nghía. Không ngờ đó lại là

hé mở ra cho mình sự tò mò đáng quý. Sau vài lần thực nghiệm, tôi thấy le lói có

những nét hay hay có thể ứng dụng vào việc tạo ra những chiếc giá pháo cơ động

một cách nhẹ nhàng, hiệu quả. Tôi tham khảo ý kiến anh em quân khí rồi trao đổi

với các anh Ban Chỉ huy Tiểu đoàn bổ sung thêm những điều mới mẻ để đi đến

thống nhất. Thế là một tổ chuyên sản xuất giá pháo giã chiến đƣợc hình thành và

cho “xuất xƣởng” một loạt.

Trƣớc đây huy động lực lƣợng toàn đại đội mỗi đêm chỉ đắp đƣợc từ năm -

sáu ụ nhƣng với điều kiện địa hình thuận lợi, xa khu vực địch hoạt động, lại tốn rất

nhiều công sức mà dễ bị bại lộ trận địa. Nhƣng bắn lại rất chậm. Mỗi trận đánh,

281

toàn tiểu đoàn chỉ sử dụng đƣợc chừng 50 quả đạn là nhiều. Từ khi sáng chế ra

loại giá pháo cải tiến này, mỗi trận đánh tiểu đoàn có thể dùng tới 200 quả đạn.

Vừa tăng đƣợc hiệu quả lại đỡ vất vả cho việc đắp ụ. Đánh xong, tổ chức thu gom

giá, xoá dấu vết, kẻ địch có lùng sục tìm kiếm trận địa đặt pháo ta cũng hết sức

khó khăn, có khi chúng hoàn toàn bất lực, nhƣ đối phƣơng có phép thần thông

biến hóa vậy.

Trận đánh pháo vào sân bay Biên Hòa mở màn thắng lợi giòn giã đêm mồng

2 rạng sáng mồng 3 tháng 8 năm 1972 của Tiểu đoàn pháo 174, Trung đoàn 113

đã làm cho quân thù khiếp sợ. Chiến công vang lừng ấy có phần đóng góp của

những chiếc giá pháo giản đơn nhƣ thế đó. Bởi thế chiến công vang dội ấy đƣợc

cấp trên đánh giá rất cao và biểu dƣơng sự sáng tạo ra những chiếc giá pháo. Còn

anh em đơn vị thì gọi vui là: “Những chiếc giá pháo thần kỳ”.

Từ kinh nghiệm này, Phòng pháo binh thuộc Bộ Tham mƣu Miền đã phổ

biến cho các đơn vị học tập, vận dụng đạt hiệu quả rất cao.

Từ ngày tôi đƣợc điều động lên làm Chủ nhiệm pháo binh Trung đoàn 174

đặc công, kinh nghiệm này đƣợc áp dụng cho trận đánh pháo vào chi khu Tân Tạo

và áp chế sân bay Tân Sơn Nhất trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Giờ có dịp hồi tƣởng lại những kỷ niệm này, tuy thời gian đã khá lâu, tuổi tác

cũng đã cao lại trở về với cuộc sống đời thƣờng, tham gia công tác xã hội tại địa

phƣơng. Song, tôi vẫn cảm thấy nhiều điều lý thú mỗi khi có dịp nhắc lại với lớp

trẻ con cháu: bất luận trong hoàn cảnh nào, sự sáng tạo của con ngƣời cũng rất cần

thiết - chớ coi thƣờng nhé.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 3-2003

L.V.C.

282

TÂM NIỆM CỦA NGƢỜI LÍNH ĐẶC CÔNG

NGUYỄN HỒNG VIỆT1

Trƣớc đó tôi đang công tác ở Ban Tổ chức Tỉnh ủy Phú Thọ thì đƣợc cử đi

trƣờng huấn luyện nghiệp vụ cơ yếu của Bộ Tổng tham mƣu - Bộ Quốc phòng.

Tôi học xong, cũng là lúc phong trào sục sôi chống Mỹ, cứu nƣớc đang lan rộng

đòi hỏi sức ngƣời, sức của cho cách mạng miền Nam. Với tinh thần: Tất cả cho

tuyền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lƣợc! Cũng nhƣ bao thanh niên bấy

giờ, tôi tình nguyện lên đƣờng. Sau nhiều tháng hành quân vất vả, tháng 3 năm

1972 tôi vào tới chiến trƣờng miền Đông Nam Bộ và nhận nhiệm vụ ở bộ phận cơ

yếu của Đoàn đặc công 429. Khi thành lập Trung đoàn Đặc công 113, tôi đƣợc

chuyển về đơn vị làm công tác chuyên môn.

Công việc của tôi là dịch các bức điện đi và đến một cách đầy đủ, chính xác,

kịp thời đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của chỉ huy. Trung đoàn 113 ra đời trong bối

cảnh hết sức sôi động trên khắp các chiến trƣờng miền Nam. Địch tuy bị thất bại

liên tiếp nhƣng tiềm lực kinh tế và quân sự của chúng vẫn còn rất mạnh. Vì vậy,

chúng tìm cách chống trả ta hết sức quyết liệt cả phía trƣớc và phía sau. Những

căn cứ hậu cứ của ta bao công xây dựng chẳng mấy chốc thành bãi chiến trƣờng

xác xơ vì bom đạn. Trung đoàn 113 ra đời trong bối cảnh đó nên hết sức thiếu

thốn vất vả. Có những đơn vị cấp đại đội, tiểu đoàn bám chốt ở địa bàn vùng sâu,

mọi sinh hoạt cuộc sống chủ yếu dựa vào dân. Dân ta rất tốt, tin vào cách mạng

nhƣng bị địch o ép kìm kẹp nên rất khổ. Chỉ một sự nghi ngờ của địch có thể dẫn

đến tai họa cho cả gia đình. Vậy mà họ nào quản ngại. Là một ngƣời lính phục vụ

bình thƣờng, nhƣng tôi biết khá rõ hoàn cảnh ấy bởi thông qua những bức điện từ

các nơi gởi đi và đến, nhiều khi không cầm đƣợc lòng mình. Cảm phục nhất có

những cán bộ, chiến sĩ đi trinh sát điều nghiên trong các căn cứ địch phải náu

mình lại trong hang ổ giặc một hai ngày để làm nhiệm vụ, xong xuôi đâu đó mới

trở ra. Thứ hỏi: nếu đối phƣơng bắt đƣợc thì điều gì sẽ đến với bản thân họ? Đó là

những hành động anh hùng, không phải ai cũng làm đƣợc, nếu không có tinh thần

yêu nƣớc tuyệt vời để hun đúc dũng khí ấy. Những hành động nhƣ thế không phải

ít mà nhiều lắm. Chiến sĩ đặc công thật là gan vàng, dạ ngọc, cảm phục vô biên.

Những trận đánh vang dội của Trung đoàn Đặc công 113 thân yêu vào sân bay

Biên Hòa, tổng kho Long Bình, kho bom Bình Ý, căn cứ chiến đoàn thiết giáp

Hốc Bà Thức, bám trụ căn cứ Bùng Binh xã Thiện Tân, Vĩnh Cửu, tổ cảm tử đánh

sập cầu Hóa An và bảo vệ cầu Ghềnh, cầu Mới (Hóa An ) trong Chiến dịch Hồ

Chí Minh những ngày cuối tháng 4 năm 1975 lịch sử... đều đƣợc kết tinh với

những phẩm chất anh hùng ấy.

Bởi vậy chỉ hơn bốn năm thành lập, kết thúc chiến tranh, ngày 8 tháng 9 năm

1975, Trung đoàn đã có vinh dự đặc biệt đón nhận danh hiệu cao quý: Anh hùng

lực lƣợng vũ trang nhân dân lần thứ nhất.

Đầu năm 1976, đơn vị đƣợc lệnh ra miền Bắc tiếp nhận nhiệm vụ mới. Tháng

7 năm ấy, tôi đƣợc chuyển về Trƣờng Sĩ quan Đặc công; và ít lâu sau trở về công

283

tác tại Công ty Bƣu chính Viễn thông tỉnh Phú Thọ, đại bản doanh đặt tại thành

phố ngã ba sông. Từ đây lên núi Nghĩa Lĩnh nơi đền Thƣợng thờ Vua Hùng đã có

công dựng nƣớc rất gần.

Thực ra thì tôi ở trong quân đội chỉ ít năm thôi, nhƣng đa phần thời gian ấy

lại công tác ở Trung đoàn 113. Nếu ai hỏi tôi về cảm nhận những gì sâu sắc nhất?

Tôi có thể nói ngay rằng: đó là phẩm chất! Vâng, chính nhờ đó mà tất cả cán bộ,

chiến sĩ vƣợt qua những khó khăn gian khổ, hy sinh, vƣợt lên cả cái chết để tất cả

cho chiến thắng quân thù.

Còn bản thân tôi, chẳng có gì đáng nói. Song, nếu đƣợc góp đôi lời thì tôi xin

thƣa: miệt mài, cẩn trọng tới từng chi tiết với công việc đƣợc giao. Nhƣ các bạn

biết đấy, cơ yếu là chuyện cơ mật của quốc gia, mình là ngƣời gác cổng. Tôi có

chút may mắn xen lẫn tự hào rằng đã dịch hàng trăm, hàng ngàn bức điện chƣa hề

sai sót. Bởi tôi nghĩ, mỗi một từ trong từng bức điện là liên quan đến sinh mạng

của bao ngƣời, nên không cho phép mình dễ dãi trong công tác. Vì thế, suốt ngần

ấy năm gắn bó với chỉ huy, lãnh đạo phục vụ cấp trên, tôi hoàn thành một cách vẻ

vang. Tôi cảm thấy thật tự hào!

Lại nữa, là ngƣời mã hóa các bức điện nên tôi hay biết trƣớc mọi vấn đề. Vui

náo nức cũng nhiều, mà bi thƣơng cũng không ít. Những bức điện báo cáo cấp

trên tin chiến thắng sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình và nhiều nơi khác lòng

tôi rộn rã vô cùng, càng tăng thêm niềm tin tƣởng sự nghiệp kháng chiến cứu nƣớc

nhất định thắng lợi tới gần. Tuy nhiên không ít lần lòng mình se lại đau buốt mỗi

khi đây đó ta lại tổn thất hy sinh, trong đó có những đứa bạn cùng quê hoặc khác

quê nhƣng rất thân thiết, mới hôm nào còn rộn rã với bao ƣớc mơ cháy bỏng.

Tôi liên tƣởng đến ngày Tổ quốc toàn thắng, nhiều ông bố, bà mẹ, ngƣời vợ

hiền chung thủy, đứa con trẻ ngây thơ ngơ ngác và đớn đau tột cùng khi vô vọng

không thấy ngƣời thân ruột thịt của mình trở về? Và nỗi đau ấy cứ âm ỉ dằng xé

tâm can. Không ít ông bố, bà mẹ trƣớc phút lâm chung cũng không thể nào thanh

thản ra đi khi nghĩ tới xƣơng cốt con mình đang vật vờ phƣơng trời xa thẳm nào

đây! Đó là hiện thực mà bất cứ tới địa phƣơng nào ở quê tôi cũng nhƣ mọi miền

quê trên dải đất này, tôi, anh và chúng ta đều có thể gặp.

Vậy đó, sự hy sinh của nhân dân ta là vô bờ bến, không có gì sánh nổi. Là

một ngƣời lính ít nhiều đi qua chiến tranh, giờ có cuộc sống hạnh phúc gia đình,

sống đầm ấm bên vợ con trong lòng thành phố ngã ba sông này. Cuộc sống, hạnh

phúc, sự nghiệp nhƣ vậy đã là đủ, không đòi hỏi gì cao sang hơn.

Tuy nhiên, tự sâu thẳm lòng mình trỗi dậy những hình ảnh ngƣời mẹ, ngƣời

vợ, đứa con trẻ mỏi mòn chờ con, chờ chồng, chờ cha mà tâm can da diết lạ. Tôi

tự nhủ mình: tiền tài, danh vọng đều là phù phiếm, hãy giữ mình trong sạch nhƣ

dáng vẻ anh lính đặc công thuở nào!

Thành phố Việt Trì - Phú Thọ

tháng 6 năm 2002

N.H.V

284

BẠN TÔI NGƢỜI LÍNH, NGƢỜI THẦY

NGUYỄN QUANG

Quê Nguyễn Văn Chƣơng, xã Hậu Bổng, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ nơi

bạt ngàn rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt... Tháng 5 năm 1971, vừa học

xong cấp III anh cùng bạn bè tòng quân lên đƣờng chống Mỹ cứu nƣớc. Đơn vị

đầu tiên của anh là đại đội 6, Tiểu đoàn 29, Trung đoàn 62, Bộ Tƣ lệnh Đặc công.

Những ngày nắng nóng nhƣ đổ lửa trên thao trƣờng của huyện Ba Vì, Hà Sơn

Bình. Ngày ấy có làm mất đi cái dáng vẻ bề ngoài của cậu học trò với vóc ngƣời

mảnh khảnh, hao gầy. Đƣợc bù lại là sự rắn rỏi cứng cáp của một anh lính đặc

công thực thụ, với tinh thần hƣớng về tiền tuyến lớn miền Nam giết giặc lập công.

Và ngày ấy cũng đã tới. Sau ba tháng vừa hành quân bằng cơ giới, vừa đi bộ hối

hả trên tuyến đƣờng Trƣờng Sơn. Chặng cuối, đi thuyền trên sông Sê Rê Công và

Mê Công tới tỉnh Công Pông Chàm nƣớc bạn Cam-pu-chia, đơn vị tạm dừng chân

và tìm hiểu, làm quen với chiến trƣờng. Song, khí thế chiến thắng đây đó cứ dồn

dập cổ vũ. Quân thù càng thất bại càng điên cuồng phản kích quyết liệt, phía trƣớc

đang từng ngày từng giờ chờ tăng viện sức ngƣời, sức của. Tháng 3 năm 1973,

anh cùng đơn vị tiếp tục hành quân về hƣớng đông bắc, tới điểm tập kết ở cứ Dâu

Gia nơi ngã ba sông Bé và sông Đồng Nai, tiếp giáp với xã Bàu Hàm, huyện

Trảng Bom, tỉnh Biên Hòa, nơi có nhiều căn cứ quân sự lớn của Mỹ - ngụy. Lúc

này, đơn vị anh chính thức đƣợc mang phiên hiệu đại đội 3, Tiểu đoàn 23, nằm

trong đội hình Trung đoàn Đặc công 113, ra đời ngày 3 tháng 6 năm 1972 tại

Chiến khu Đ do đồng chí Nguyễn Thanh Tùng (sau này là Thiếu tƣớng Anh hùng

lực lƣợng vũ trang nhân dân) đứng ra thành lập. Đồng thời là ngƣời đoàn trƣởng

đầu tiên trực tiếp chỉ huy làm nên bão lửa ở phi trƣờng Biên Hòa và tổng kho

Long Bình, làm cho quân thù kinh hồn bạt vía.

Nhờ đƣợc huấn luyện kỹ càng trên miền Bắc, khi vào chiến trƣờng nhờ anh

em cũ dìu dắt, lại đƣợc truyền thống vẻ vang của đơn vị cổ vũ, số chiến sĩ mới vừa

đƣợc bổ sung làm quen rất nhanh với cuộc sống chiến đấu. Vốn tính thông minh,

lanh lợi, qua những lần thử thách, anh đƣợc chỉ huy đơn vị chọn làm chiến sĩ trinh

sát tiểu đoàn. Có tới vài ba lần vào, ra điều nghiên sân bay Biên Hòa, đều hoàn

thành tốt nhiệm vụ. Điều đó đã khẳng định sự trƣởng thành vƣợt bậc của chàng

trai học trò quê hƣơng đất Tổ - Vua Hùng và ngƣời lính đặc công Nguyễn Văn

Chƣơng.

Hồi ấy, tôi ở cơ quan chính trị Trung đoàn không thể nào nhớ hết từng cán bộ,

chiến sĩ. Song, biết khá rõ những cán bộ, chiến sĩ có thành tích xuất sắc trong

chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Trong số đó, có Nguyễn Văn Chƣơng. Hơn 28

năm đã đi qua, cuộc chiến tranh đã lùi sâu vào quá khứ. Sau giải phóng hoàn toàn

miền Nam, đơn vị làm nhiệm vụ quân quản ở thị xã Biên Hòa, rồi thành phố Sài

Gòn. Ít lâu sau lại trở ra miền Bắc, nhiều anh em đƣợc giải quyết chính sách trở về

sum họp gia đình. Số còn lại, biên chế tổ chức, bổ sung thêm quân số, huấn luyện

và sẵn sàng chiến đấu. Nghĩa là về muôn nẻo quê hƣơng tạo lập cuộc sống. Có

nhớ tới nhau chỉ là trong tâm tƣởng, ký ức, mấy ai tới đƣợc thăm nhau trên quãng

285

đƣờng hàng trăm hay hàng ngàn cây số. Vì lẽ đó mà tôi thực sự không tin vào mắt

mình, khi trƣớc mắt tôi là một Nguyễn Văn Chƣơng bằng xƣơng bằng thịt. Hiện

anh là giáo viên dạy toán trƣờng phổ thông trung học Nam Hà thuộc Sở Giáo dục

- Đào tạo tỉnh Đồng Nai toạ lạc tại xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, nơi đã diễn

ra trận đánh khốc liệt cuối cùng vào ngày 28 tháng 4 năm 1975 giữa một đơn vị

đặc công bảo vệ cầu Ghềnh với một bên là đủ loại sắc lính và phƣơng tiện chiến

tranh hiện đại của địch, nơi đƣợc coi là “hậu phƣơng” của chúng. Trận ấy,

Chƣơng là một tay súng cừ khôi còn may mắn trở về.

Trò chuyện với Chƣơng tại nhà riêng vừa mới đƣợc xây dựng khá khang

trang ở khu phố 9, phƣờng Tân Phong, thành phố Biên Hòa, tôi “chất vấn”

Chƣơng duyên cớ nào đã “nhảy” về quê nơi chè thơm gió lộng Hạ Hòa, Phú Thọ,

lại còn “nhảy” vào Đồng Nai, bỏ lại đằng sau những 2.000 cây số?

Chƣơng cƣời mà đôi mắt xa xăm, rƣớm lệ nhƣ ẩn hiện một điều gì đó thẳm

sâu đã lâu lắm mới có bạn đồng ngũ để giãi bày.

Nếu anh hỏi duyên cớ nào thì cũng xin nói thật: tôi quá yêu say đắm mảnh

đất Biên Hòa - Đồng Nai. Nơi mà một thời trai trẻ của mình từng gắn bó. Song, đó

chỉ là điều nhỏ nhoi, có gì đáng nói. Cái thiêng liêng hơn là bao sinh linh đồng đội

Tiểu đoàn 23, Trung đoàn Đặc công 113 thân yêu đã từng kề vai chiến đấu. Vậy

mà... Vậy mà ngã xuống trƣớc giờ phút bình minh của chiến thắng ở hai đầu cầu

Ghềnh, giữa thị xã Biên Hòa. Chỉ sau đó ít giờ đồng hồ là đại quân tiến về giải

phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn. Cả bầu trời rợp cờ hoa chiến thắng!

Lắng lại một lúc cho qua cơn xúc động, Chƣơng kể tiếp: lúc ấy cô bác hai

bên cầu Ghềnh gồm xã Bửu Hòa và Cù Lao Phố cùng anh em đơn vị đi gom thi

hài các liệt sĩ. Phải nhận dạng từng ngƣời rồi mới nhập áo quan để đi an táng tại

chân núi Châu Thới. Nhìn thi thể đồng chí, đồng đội mà lòng dạ mình thắt lại, da

dẻ đen nhẻm vì khói đạn và cả lẫn thuốc ngụy trang. Toàn thân trần trụi độc chỉ

chiếc quần xà lỏn. Anh Ba Thính - Đại đội trƣờng; Hải đội viên; anh Yên nguyên

là giáo viên cấp I cũng quê Phú Thọ, có vợ một con đều hy sinh ngay trên đất Cù

Lao Phố. Cả tiểu đoàn khi xuất quân tối ngày 27 tháng 4 năm 1975, mờ sáng ngày

28 tháng 4 năm 1975 thì chiếm đƣợc cầu Ghềnh, làm chủ cả hai đầu cầu. Nhƣng

khi lực lƣợng ta xuất hiện, địch bu lại nhƣ ong.

Trong lúc đại quân ta chƣa vào tới, cứ vậy hơn một ngày quần nhau với giặc

gồm: bộ binh, pháo binh, trực thăng võ trang, bảo an, dân vệ. Ta quyết giữ chặt

cầu, địch quyết đẩy ta ra, chiến trận khốc liệt không thể tƣởng tƣợng nổi. Và... trên

50 cán bộ, chiến sĩ đã ngã xuống trƣớc giờ bình minh chiến thắng nhƣ thế đó.

Điển hình, có cậu Tuân y tá, quê Bắc Ninh từ bên này xã Bửu Hòa chạy qua

cầu để băng bó cho thƣơng binh. Tuân bị trúng đạn địch, cả ngƣời và túi thuốc rơi

xuống giữa dòng sông Đồng Nai nƣớc chảy xiết. Thế mà khi soát xét lại số hy

sinh không ai tìm thấy Tuân đâu cả. Và... nhƣ anh biết đấy, cả tiểu đoàn vừa hy

sinh, vừa bị thƣơng hết hai phần ba quân số, một phần ba còn lại mấy ngày sau tai

vẫn điếc đặc, nói với nhau chỉ bằng động tác ra hiệu.

286

Lúc ấy dù tôi không trực tiếp tại chỗ, nhƣng vẫn theo dõi sát sao diễn biến

của trận đánh. ấy vậy mà giờ nghe Chƣơng thuật lại, tôi nhƣ thấy quang cảnh

chiến đấu đang tái hiện hình ảnh đồng đội vun vút xông lên tiêu diệt quân thù.

Thế rồi ngay năm 1976, Chƣơng đƣợc đơn vị cho đi trại an dƣỡng và giải

quyết chính sách. Chiến tranh tuy đã kết thúc nhƣng sự nghiệp xây dựng kiến thiết

đất nƣớc và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới đang bắt đầu. Nhận thức đƣợc

điều hệ trọng ấy, nên Chƣơng lao vào đèn sách ôn thi vào đại học Sƣ phạm. Sau

bốn năm ở giảng đƣờng đại học Sƣ phạm Việt Bắc tại thành phố Thái Nguyên,

tỉnh Bắc Thái, anh gác mọi riêng tƣ dành toàn tâm cho học hành. Kết quả, tốt

nghiệp đạt loại ƣu. Tiếp đó đã đƣợc trƣờng cấp III Đoan Hùng, Phú Thọ tiếp nhận.

Ở đây, vừa là giáo viên dạy bộ môn toán vừa là Bí thƣ đoàn trƣờng, anh hoạt động

nhiệt tình, sôi nổi. Hàng năm, thi đồng diễn thể dục và các loại hình khác, trƣờng

cấp III Đoan Hùng đều đoạt giải cao do ngành giáo dục tỉnh tổ chức.

Vui thì vui vậy, nhƣng nhiều khi tâm tƣởng ngƣời thầy còn mang đầy chất

lính ở trong Chƣơng muốn trở về nơi vùng đất mình chiến đấu, nơi đồng đội đã hy

sinh. Ý tƣởng ấy nhƣ lớn dần, lớn dần theo thời gian. Thế rồi, hè năm 1985 anh

quyết định đi phép để có dịp vào Nam thăm lại cô bác ngày ấy tại xã Bửu Hòa,

thành phố Biên Hòa. Vẫn nhƣ ngày nào, cô bác đón anh nhƣ thân nhân gia đình

vậy. Chƣơng nhờ cô bác hƣớng dẫn ra chân núi Châu Thới tìm mộ đồng đội, để

thắp nhang tƣởng niệm. Nhƣng nghe nói cơ quan chính sách Bộ Tƣ lệnh Đặc công

và Sở Lao động Thƣơng binh xã hội tỉnh Đồng Nai đã quy tập về nghĩa trang liệt

sĩ. Thôi, thế cũng yên lòng các anh rồi, đƣợc Đảng bộ, chính quyền thăm nom mồ

mả, hƣơng khói đỡ phần lạnh lẽo.

Nếu không ở lại chịu tang mẹ thì anh đã xin chuyển trƣờng từ năm ấy. Tiếp

đến lại ngƣời cha qua đời. Mãi tới tháng 11 năm 1985, ý tƣởng trở về nơi mình

chiến đấu để dạy học hay làm một việc gì đó để đƣợc gần đồng đội hơn trong

Chƣơng mới thành hiện thực. Lãnh đạo ngành giáo dục tỉnh Đồng Nai sẵn sàng

đón nhận anh, không có điều gì trở ngại cả.

Hiện nay trên phƣơng diện là một giáo viên dạy toán. Tuy đã ngoài 50 tuổi,

Nguyễn Văn Chƣơng vẫn đảm đƣơng công tác đoàn trƣờng, hoạt động sôi nổi,

hào hứng.

Điều lý thú với anh là: trƣờng phổ thông trung học Nam Hà, tọa lạc gần cạnh

cầu Ghềnh trên Cù Lao Phố - xã Hiệp Hòa, đơn vị Anh hùng của thành phố Biên

Hòa.

Ngoài bộ môn chính của mình, giờ sinh hoạt ngoại khóa, hoạt động Đoàn

trƣờng, thầy Nguyễn Văn Chƣơng còn truyền thụ, kể cho các em hình ảnh cao đẹp

của anh Giải phóng quân hiên ngang trên trận tuyến đánh quân thù để các em có

cuộc sống hòa bình tƣơi đẹp nhƣ hôm nay.

N.Q

287

ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113 VÀ NHỮNG ĐIỀU TÂM ĐẮC VỚI TÔI

NGUYỄN VĂN LÂN1

Trƣớc đó, tôi ở Lữ đoàn đặc công 429 cơ động của Miền, tham gia chiến đấu

nhiều trận đánh khá điển hình vào các căn cứ của Mỹ, ngụy đƣợc bảo vệ nghiêm

ngặt nhƣ: Tếch Ních, Trảng Lớn, núi Bà Đen trên chiến trƣờng Tây Ninh... mãi tới

gần cuối cuộc chiến tranh, từ Đoàn 429 tôi đƣợc trên điều động về làm Tham mƣu

phó Trung đoàn Đặc công 113, địa bàn hoạt động, chiến đấu là tỉnh Biên Hòa

(U1).

Đƣợc thừa hƣởng những chiến công vang dội mà cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn

tạo nên ở các mục tiêu nhƣ tập kích hỏa lực pháo vào sân bay Biên Hòa, xung lực

mật tập tiến công tổng kho Long Bình, phá hủy hơn 500.000 tấn bom đạn, phƣơng

tiện chiến tranh của địch; thiêu cháy kho bom Bình Ý, một tổ đặc công nƣớc phá

sập hai nhịp cầu Hóa An của địch... Kế thừa truyền thống với những chiến công vẻ

vang ấy, tôi cảm thấy hết sức tự hào. Và trên cƣơng vị công tác là Tham mƣu phó

Trung đoàn, tôi tiếp tục tìm hiểu các nguyên nhân để tạo nên chiến thắng ấy.

Ngoài ý chí quyết tâm, sẵn sàng xả thân cứu nƣớc của cán bộ, chiến sĩ - một phẩm

chất cao quý của ngƣời lính cách mạng, không thể gì thay thế đƣợc, còn có những

điều cực kỳ quý báu đó là:.

- Các lực lƣợng địa phƣơng từ bộ đội, dân quân chiến đấu, cán bộ phong trào

dẫn dắt qua các địa hình, địa vật trƣớc vòng kiểm soát của địch.

- Chi viện sức ngƣời: vận chuyển hàng trăm quả đạn pháo ĐKB-H12 trong

một thời điểm ngắn để kịp trận khai hỏa vào sân bay Biên Hòa. Phục vụ hậu cần

rất kịp thời đạn, gạo... khi đơn vị vừa đặt chân tới địa bàn mới lạ và sâu. Quá trình

bám trụ đều đƣợc cán bộ, cơ sở cách mạng trong dân che chở, đùm bọc thƣơng

yêu... nói một điều khẳng định rằng, không có dân, hoặc cán bộ địa phƣơng cơ

quan tỉnh Biên Hòa giúp đỡ thì Đoàn 113 khó có thể tạo nên đƣợc chiến thắng kịp

thời từ khi thành lập rất ngắn và những trận tiếp theo nhƣ nó đã diễn ra. Đó là một

thực tế hùng hồn, cần đƣợc ghi nhận qua sử sách truyền thống trung đoàn nhƣ một

minh chứng để các thế hệ tiếp nhau nâng niu trân trọng.

Tình hình trên toàn chiến trƣờng miền Nam nói chung cũng nhƣ ở tỉnh Biên

Hòa đã có bƣớc chuyển biến lớn về tƣơng quan lực lƣợng giữa ta và địch. Sau

những ngày khẩn trƣơng triển khai chuẩn bị lực lƣợng tinh thần quyết tâm cho bộ

đội, chuẩn bị mục tiêu chiến trƣờng. Tiếp đó tham gia chiến dịch Tổng tiến công

và nổi dậy toàn miền - Xuân 1975. Các mục tiêu trên giáo cho đơn vị là: bảo vệ

vững chắc cầu Ghềnh và cầu Mới để đón đại quân vào giải phóng Sài Gòn; đánh

chiếm căn cứ thiết giáp Hốc Bà Thức. Quá trình thực hiện tuy gian khổ, ác liệt

chịu một phần tổn thất hy sinh, nhƣng đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tiếp đến

làm quân quản ở Biên Hòa, Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh, truy quét bọn tàn

quân ngụy, củng cố chính quyền cách mạng.

288

Trƣớc không khí chiến thắng của toàn dân tộc lại vừa bƣớc ra khỏi cuộc

chiến tranh, dễ chừng mắc bệnh công thần tự mãn. Song, điều đó đã không diễn ra,

tất cả đều giữ nghiêm kỷ luật quân đội, đứng đắn trong quan hệ với nhân dân,

đƣợc mọi ngƣời tin yêu quý mến.

Cuối năm 1975, Trung đoàn đƣợc lệnh ra Bắc xây dựng, củng cố huấn luyện

làm lực lƣợng cơ động của Bộ. Và sau đó ít lâu, tôi đi Học viện quân sự trung cao

Đà Lạt, từ đó xa đơn vị cho tới nay.

Giờ đây trở về với cuộc sống đời thƣờng với bao lo toan bận rộn: tham gia

Đảng ủy của phƣờng, Trƣởng ban Tuyên giáo Đảng ủy; ủy viên Ban Chấp hành

Thành hội Biên Hòa - Chủ tịch Hội Cựu chiến binh phƣờng; Bí thƣ chi bộ khu phố,

tôi đều cố gắng hoàn thành. Nhƣng mỗi lần nhớ lại năm tháng ở chiến trƣờng sống

mái với quân thù, vui buồn cùng đồng đội, tôi càng thấm thía tình đồng chí, nghĩa

đồng bào tha thiết lắm thay.

Biên Hòa, tháng 3 năm 2003

N.V.L

289

TÔI VẪN LÀ ANH QUÂN GIỚI THUỞ NÀO

LÊ MINH QUANG1

Tôi là một thanh niên xã Đông Đô, huyện Thanh Oai tỉnh Hà Tây quê lụa,

nhập ngũ tháng 2 năm 1965. Thời điểm ấy đế quốc Mỹ đang chuyển chiến lƣợc từ

chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ, ồ ạt đƣa quân Mỹ trực tiếp xâm lƣợc

miền Nam Việt Nam.

Nhờ có chút vốn văn hóa nên vào quân đội, tôi đƣợc về binh chủng pháo binh

thuộc đơn vị Ca-chiu-sa, loại tên lửa mặt đất mà Hồng quân Xô Viết từng sử dụng,

làm cho quân thù bao phen bạt vía, kinh hồn. Sau khi làm quen với loại vũ khí

hiện đại này, tôi lại đƣợc cử sang học nghề quân giới, để làm chủ binh khí, kỹ

thuật, xử lý mọi tình huống trong quá trình sử dụng. Bởi vậy, tôi đƣợc học khá sâu

về nguyên lý, tính năng tác dụng của nó. Nếu ai đã hiểu biết ít nhiều về vũ khí đạn

có thể thấy đƣợc cái nghề này có khi còn khá nguy hiểm đến tính mạng của chính

mình và đồng đội. Dù chỉ sơ suất một chút thôi là hậu quả khôn lƣờng, không còn

cơ hội để sửa chữa cho lần sau. Ấy vậy, mà tôi lại rất tự tin khi đã làm chủ đƣợc

nó.

Từ những năm 1967 - 1968, địa bàn tỉnh Biên Hòa là một chiến trƣờng nóng

bỏng và khốc liệt bởi kẻ thù luôn luôn tìm cách xua ta ra xa những vùng xung yếu,

nhằm trừ mối hiểm họa cho chúng ở các căn cứ, hậu cứ phía đông bắc Sài Gòn.

Vậy mà Trung đoàn pháo binh 724 Ca – chiu – sa chúng tôi vẫn trụ bám an toàn,

nhiều phen làm cho kẻ thù phải run sợ trƣớc những cơn bão lửa.

Tình hình cách mạng miền Nam đang chuyển biến mau lẹ có lợi cho ta. Đế

quốc Mỹ và bè lũ tay sai từng bƣớc đang lún sâu vào thất bại trên các chiến trƣờng

và trên bàn đàm phán ngoại giao ở Hội nghị Pa-ri. Để đối phó với âm mƣu thủ

đoạn của kẻ thù kể cả sau khi có Hiệp định đƣợc ký kết, lực lƣợng vũ trang cách

mạng vẫn tồn tại nhƣ một tất yếu khách quan. Với phƣơng châm: đánh đau, đánh

hiểm vào các căn cứ, hậu cứ mà chúng không thể chống đỡ. Với tinh thần ấy,

Trung đoàn Đặc công 113 đƣợc ra đời tại Biên Hòa. Sự thành lập trung đoàn đặc

công chủ lực hoạt động trên một địa bàn xung yếu nhƣ ở Biên Hòa là một sự kiện

hết sức có ý nghĩa. Dù hồi ấy là một quân khí viên, nhƣng tôi vẫn nhận ra điều hệ

trọng ấy qua học tập chính trị, quán triệt tình hình nhiệm vụ.

Để bổ sung cho Trung đoàn 113, tiểu đoàn pháo binh lấy phiên hiệu 174,

Trung đoàn pháo binh 724 phải chia đôi - một nửa về Đoàn Đặc công 113, nửa

còn lại bổ sung cho tỉnh Bà Rịa. Bao năm gắn bó, sống chết có nhau. Không ít

ngƣời cùng quê hƣơng nay phải mỗi ngƣời mỗi phƣơng thật day dứt khó tả.

Nhƣng rồi đƣợc sự đả thông của lãnh đạo, chỉ huy ai nấy đều vui vẻ nhận nhiệm

vụ về địa bàn mới hoạt động.

Là một trợ lý quân giới tiểu đoàn, tôi nhận rõ ý nghĩa việc làm của mình. Nên

ngoài hiểu biết qua lý thuyết, sách vở tôi còn phải đi sâu vào thực tế từng chi tiết

của vũ khí. Có những động tác tôi lặng lẽ nghiên cứu mà toát cả mồ hôi về tính

1 Nguyên là quân khí Tiểu đoàn 174 pháo binh - đại úy công an nghỉ hưu.

290

mạo hiểm của nó. Chẳng hạn: nguyên lý của quả đạn và các bộ phận hợp thành

của nó đã đƣợc các nhà khoa học, các chuyên gia nƣớc bạn nghiên cứu, chế tác

dựa trên cơ sở nguyên tắc bất di bất dịch. Làm khác đi nghĩa là nguy hiểm chết

ngƣời khó tránh. Vậy mà tôi dám chấp nhận mạo hiểm ấy, coi nhẹ cả tính mạng

của mình bởi nghĩ tới chiến thắng đang chờ, mình có hy sinh để đạt thành công

cho đơn vị cũng là niềm hạnh phúc vậy. Bởi thế có lần tôi dám mở quả đạn có

trọng lƣợng 19 ki-lô-gam và khoan lỗ để đặt kíp hẹn giờ vào đó nhằm phối hợp

với cơ sở nội tuyến đánh sân bay Biên Hòa. Việc làm này chƣa có tiền lệ, rất nguy

hiểm nhƣng đã thành công mỹ mãn. Đƣợc cấp trên đánh giá rất cao. Chƣa hết, tất

cả các trận đánh pháo của đơn vị dù nhỏ, hay lớn bản thân tôi bao giờ cũng là

ngƣời về sau cùng với nhóm pháo thủ để giải quyết những gì còn lại tại trận địa có

liên quan đến chức trách của một quân giới viên. Không ít lần hứng những trận

mƣa pháo phản kích của địch, giữa cái sống và hy sinh chỉ một lằn ranh.

Có một sự kiện làm tôi nhớ mãi đến hôm nay. Đó là một lần thấy lực lƣợng

địch cả Mỹ và ngụy xông ra lấn chiếm một số điểm ở Hƣng Nghĩa, Trảng Bom

gây không ít khó khăn cho ta. Đồng chí Dƣơng Bàng, Tiểu đoàn trƣởng bảo:

Quang, Quang còn đạn pháo dôi không? Tôi nói: Thủ trƣởng cần mấy quả?

Khoảng vài ba trái - anh Bàng trả lời. Thế rồi anh Bàng tìm điểm đặt, tôi thiết kế

bệ phóng. Lợi dụng chúng sơ hở, mấy quả đạn vút bay đi trúng mục tiêu. Bị bất

ngờ, cả quan và lính chết rất nhiều. Nhƣng anh Dƣơng Bàng nào có đƣợc khen

thƣởng, lại còn bị kỷ luật. Bởi trong điều kiện còn phải giữ bí mật loại vũ khí lợi

hại ta mới đƣa vào chiến trƣờng. Còn tôi, bình an vô sự vì làm theo chỉ thị của cấp

trên. Thật là một bài học nhớ đời cho cả thầy lẫn trò. Nhƣng theo tôi nghĩ vẫn cảm

phục anh Dƣơng Bàng và thƣơng anh nhiều hơn. Bởi anh em đơn vị còn “hãnh

diện” với cái án kỷ luật ấy nó còn phần nào phản ánh cái dũng khí, dám chịu trách

nhiệm của ngƣời chỉ huy, miễn là tìm cách tiêu diệt đƣợc nhiều kẻ thù, trừ đi đƣợc

ít nhiều tội ác do chúng gây ra. Còn hơn kẻ hèn nhát, bạc nhƣợc không dám ngẩng

cao đầu vì tham sống sợ chết. Anh Dƣơng Bàng ơi, bây giờ anh đang ở phƣơng

trời nào đây? Sau chiến tranh cuộc sống và gia đình anh thế nào. Trong tâm tƣởng

tôi, anh quân khí tầm thƣờng cũng nhƣ nhiều anh em cựu chiến binh tiểu đoàn

pháo ta thuở ấy vẫn nhớ thƣơng và yêu quý anh nhiều đó hỡi anh.

Tự nhận bản thân tôi thấy mình chẳng có thành tích gì đáng kể để mà nhắc.

Song, tôi cảm thấy rất tự hào đã một thời trai trẻ cùng bạn bè, đồng chí dấn thân

vào cuộc chiến đấu hào hùng của dân tộc mà không mảy may sợ gian khổ, hy sinh.

Từ anh quân khí bình thƣờng trở thành sĩ quan quân đội rồi cán bộ, sĩ quan công

an nhân dân là cả chặng đƣờng mấy mƣơi năm phấn đấu dƣới ngọn cờ Quyết

chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng và ngƣời Công an

nhân dân thực hiện tốt 6 điều Bác Hồ dạy.

Một hạnh phúc nữa tuy bình dị nhƣng rất đáng trân trọng đó là sau cuộc chiến,

tôi cũng có một tổ ấm gia đình sống hạnh phúc. Song trong tâm tƣởng mình vẫn

luôn nhớ về bạn bè, đồng chí. Bởi thế, tôi càng lƣu luyến cái nghề quân giới của

mình vì nó đã hun đúc cho tôi một phẩm chất, lòng trong sáng, ngay thẳng mực

thƣớc không thể nào khác đƣợc.

L.M.Q

291

NHỚ LẠI TRẬN QUYẾT CHIẾN GIỮ CẦU GHỀNH, CẦU MỚI

TÔI CÀNG THA THIẾT NHỚ THƢƠNG ĐỒNG ĐỘI

VŨ VĂN CHIẾN1

Tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử để giải phóng miền Nam, Tiểu

đoàn 23 đặc công chúng tôi nằm trong đội hình Trung đoàn 113 đánh chiếm, bảo

vệ cầu Ghềnh và cầu Hóa An ở thị xã Biên Hòa. Lực lƣợng gồm hai đại đội 13 và

14. Lúc ấy tôi là Chính trị viên - Bí thƣ chi bộ đại đội 13.

Xuất phát từ căn cứ đóng quân cách đó không xa, từ ngày 20 đến 23 tháng 4

toàn đơn vị tập kết tại Nhà Nai, Tân Uyên tỉnh Biên Hòa. Đêm 25 tháng 4 đơn vị

đƣợc lệnh hành quân tiếp cận làm công tác chuẩn bị. Chính thức đêm 26 rạng sáng

27 thì tiếp cận mục tiêu, xây dựng công sự để chuẩn bị chiến đấu. Đến khoảng 8

giờ sáng ngày 27 tháng 4 đã đánh nhau kịch liệt với địch.

Trong bối cảnh lực lƣợng của địch trong thị xã Biên Hòa và khu vực phụ cận

gần nhƣ còn nguyên vẹn, mà xuất hiện một đơn vị của đối phƣơng thì tất nhiên

địch không để yên. Đúng vậy? Và ngay từ ngày đầu, địch huy động một trung

đoàn của lực lƣợng dã chiến và tăng cƣờng các loại hỏa lực pháo binh, xe tăng,

máy bay trực thăng võ trang yểm trợ bao vây nhƣ để “nuốt chửng” chúng tôi. Lúc

này cả hai cầu, chúng tôi đều đã đánh bật địch và chiếm giữ đƣợc các mục tiêu.

Đặc biệt, địch đã huy động bốn giàn pháo lớn ở bốn căn cứ: Hốc Bà Thức (Biên

Hòa), căn cứ Nƣớc Trong (Long Thành), Long Bình và trận địa pháo hỗn hợp dốc

Ông Hoàng ở vành đai Biên Hòa tới tấp giã vào trận địa, nhằm đẩy chúng tôi ra

khỏi khu vực để lực lƣợng chúng dồn về Sài Gòn khi bị thất thủ. Mặc dù bộ binh,

pháo binh tập trung ở mức rất cao nhƣng suốt ngày 27 tháng 4, tuy chúng có gây

cho ta những tổn thất, song trận địa ta vẫn giữ vững, làm cho chúng thêm điên

cuồng.

Tôi còn nhớ rất rõ rằng, tiểu đoàn cùng với đại đội tôi chiếm giữ một quả đồi

cạnh Cầu Hang để khống chế con đƣờng từ Biên Hòa đi Thủ Đức. Đây là cái

“đinh” nhƣ một sự trêu ngƣơi nên địch quyết tâm nhổ với bất cứ giá nào?

Qua hai ngày chiến đấu ta thu đƣợc hơn 100 khẩu súng đã phản ảnh đƣợc

phần nào số địch bị tiêu diệt. Suốt ngày 28 chúng tăng cƣờng đánh phá các khu

dân cƣ gần dó, vì chúng đoán quân ta lợi dụng địa hình làng mạc để ẩn nấp. Song

trƣớc đó, dân đã sơ tán nên sự tổn thất về ngƣời có phần hạn chế. Ngày 28, có thể

nói là một ngày máu lửa đối với chúng tôi.

Khoảng 8 giờ sáng, một đoàn xe tăng nối đuôi nhau chuyển động ầm ầm, mặt

đất nhƣ rung chuyển, cây cối ngả nghiêng. Tôi nép mình bên thành công sự đếm

đƣợc trên dƣới 30 chiếc bao gồm xe tăng, xe thiết giáp M113. Sau khi chiếm lĩnh

triển khai đội hình trên những thửa ruộng cánh đồng ấp Tân Mỹ và Tân Bản xã

Bửu Hòa, một số chiếc đột kích vào trận địa đại đội 13 và 14 chúng tôi. Nhƣng

1 Nguyên Chính trị viên đại đội 13, Trưởng ban chính sách Binh chủng Đặc công - đại tá nghỉ hưu.

292

một số chiếc lại bị trúng đạn chống tăng ĐKZ và B41 của ta đã bốc cháy, làm cho

đồng bọn cũng phải dè chừng. Song, bị bọn sĩ quan thúc ép, địch dựa vào thế đông

và vũ khí mạnh đã bắn bừa bãi vào phía trận địa ta, mức độ thƣơng vong lại tăng

vọt lên.

Sáng ngày 29 tháng 4 dòng ngƣời di tản nối nhau nƣờm nƣợp, trong đó có

những sĩ quan, binh lính địch mặc thƣờng phục trà trộn nên chúng tôi không thể

phát dƣơng đƣợc hỏa lực mà chỉ bắn tỉa nếu xác định đó là sĩ quan hoặc cảnh sát

ngụy tháo chạy. Mặc dầu đã đến ngày tàn, nhƣng với bản chất ngoan cố chúng vẫn

ra sức kháng cự. Tuy biết trận địa của chúng tôi cách 700 - 800 mét nhƣng chúng

chỉ nã pháo từ xe tăng chớ bộ binh không dám bén mảng vào. Chiều ngày 29,

chúng mở đợt công kích cuối cùng vào đại đội 13 xung lực. Còn đại đội 14 hỏa

lực 12,7mm phòng không thì còn rất dè chừng. Giằng co đến 5 giờ chiều thì gặp

lúc trời đổ cơn mƣa dông khá lớn, nƣớc chảy tràn lan, cũng là lúc chúng lui quân

theo hƣớng Dĩ An và Sóng Thần. Trận địa trở lại yên ắng.

Qua mấy ngày giằng co quyết liệt, có lúc địch tạm thời chiếm đƣợc cầu

nhƣng ban đêm ta tổ chức tập kích đẩy chúng ra khỏi mục tiêu. Tuy nhiên, do bộc

lộ lực lƣợng sớm, trong lúc đại quân ta còn ở xa nên địch đã tập trung đối phó rất

quyết liệt, gây cho Tiểu đoàn 23 tổn thất nặng nề, nhiều anh em đã xuống trƣớc

ngày toàn thắng.

Hàng chục năm đã đi qua, song giờ hồi tƣởng lại lòng mình vẫn thấy buốt

nhói và càng nhớ thƣơng đồng đội vô ngần.

Đông Mỹ, Hà Nội, tháng 12 năm 2002

N.V.C

293

BỨC THƢ CỦA NHỮNG NGUỜI VỢ TRẺ

NGUYỄN QUANG MINH

Một chiều ngày xuân dƣới cánh rừng cây cối còn khá rậm rạp và cao lớn

thuộc xã Hảo Đƣớc, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Chiến sĩ quân bƣu đƣa tới

cho Viêm một lá thƣ, nét chữ viết bằng mực Cửu Long quen thuộc, tay cầm thƣ

mà trong lòng rộn ràng xao xuyến:

- Đúng là thƣ Miễn - Vợ mình đây rồi! Nhƣng...

Tuy hồi hộp đến cao độ song anh cố trấn tĩnh, cẩn trọng bóc thƣ không để bị

rách mất những con chữ ở nội dung bên trong thì tiếc lắm.

Cẩm Hòa, 12 giờ đêm, ngày... tháng 12 năm 1977.

Trong đêm vắng trời lại rét căm căm, gió mùa Đông Bắc tràn về càng tê buốt.

Lúc này cu Tý đang ngon giấc trong chăn ấm. Nhìn con mà nhớ anh không sao kể

xiết. Đây là thành quả của những ngày ngắn ngủi, hiếm hoi của chúng ta ở nhà

khách đơn vị khi em bỏ cả công việc đồng quê ra thăm anh, ấp ủ niềm hy vọng.

Giá như, vâng! Giá như cái Tết vừa rồi anh về phép để thăm em, thăm cha mẹ, họ

hàng nội ngoại và bế con thì em sẽ vui sướng muôn phần.

Anh Viêm yêu dấu của em!

Nhận thư anh cho hay, tết này anh được về phép thăm gia đình, em trông

ngày, trông đêm, lòng dạ bồn chồn. Còn cái thai trong bụng chưa rõ trai hay gái

mà nó cứ đạp, nghe đến là vui. Em trông nhất là vào dịp sinh nở mẹ tròn con

vuông lại được anh an ủi thì niềm vui nào bằng? Vậy mà... sự mong đợi đến cháy

bỏng ấy của em cứ tuồn tuột trôi chảy theo ngày nọ, tiếp ngày kia. Thực tình, có

khi em đã liên tưởng đến một hoài niệm:

Có lẽ anh đã say sưa với nhiệm vụ mà quên tình riêng chăng?

Thế rồi, bắt được mấy dòng tin ngắn ngủi của anh.

“Anh đã cùng với toàn đơn vị lên đường đi chiến đấu ở biên giới Tây Nam,

vào những ngày giáp tết Nguyên Đán. Cuộc đời người lính là như vậy đó hở em.

Mong em bình tĩnh. Anh nhớ em và khao khát để được bế bồng con - dù chỉ trong

chốc lát. Thương em nhiều”.

Trời ơi, đọc thư anh lòng em như lửa đốt, nước mắt đầm đìa rơi lã chã xuống

cả đứa con bé bỏng vô tư của chúng mình. Những đêm ngày tiếp theo em khóc

ròng trong âm thầm lặng lẽ, cố nén chặt vào lòng sự nhung nhớ. Càng nhớ đến

anh càng thương con khôn tả, song cũng nhờ có nó mà phần nào em được an ủi.

Anh ạ, nghĩ đến cuộc chiến mà em rùng mình. Không biết cuộc chiến này khốc liệt

tới đâu và kéo dài đến bao giờ. Khi nào thì anh được trở về thăm mẹ con em vậy,

anh Viêm?...

Một chiều xuân trong cánh rừng Hảo Đƣớc, huyện Châu Thành, tỉnh Tây

Ninh một tháng sau tết. Viêm sung sƣớng đọc thƣ và loan báo cho anh em đơn vị.

294

Tôi cũng đƣợc nằm trong số đó để chia vui với Viêm, tôi coi Viêm nhƣ một đứa

em cùng quê hƣơng. Viêm từng là chiến sĩ đặc công của Tiểu đoàn 33 Quân Khu

4 chuyên bám trụ và hoạt động ở chiến trƣờng Quảng Trị và Bắc Thừa Thiên -

Huế, từng tham gia nhiều trận đánh vào căn cứ, hậu cứ Mỹ - ngụy lập nhiều chiến

công xuất sắc, đƣợc tặng thƣởng ba huân chƣơng Chiến công giải phóng và nhiều

danh hiệu dũng sĩ. Qua thử thách vững vàng trong chiến đấu, Viêm đƣợc đơn vị

cử đi học trƣờng Sĩ quan Đặc công. Tốt nghiệp đƣợc phong quân hàm thiếu uý,

giữ chức mũi trƣởng thuộc đại đội 3 Tiểu đoàn 9, Trung đoàn Đặc công 113 đóng

ở Xuân Mai giáp ranh hai tỉnh Hòa Bình - Hà Sơn Bình.

Lúc bấy giờ tôi là Phó chính trị viên Tiểu đoàn 9 thƣờng xuyên xuống các đại

đội và trong công tác quản lí cán bộ nên hiểu khá rõ hoàn cảnh của từng anh em.

Viêm đã cƣới vợ đƣợc hơn một năm nhƣng chƣa có con, cô vợ tên là Miễn, một

thiếu nữ thôn quê ngoan hiền nhƣng vẻ nhút nhát, ra thăm chồng là một niềm vui

của các cô vợ trẻ nhƣng đầy e ngại. Vả lại, trong thời kì huấn luyện cƣờng độ cao,

doanh trại toàn tranh tre, nứa lá. Nơi đón khách cũng còn tềnh toàng nên các cô vợ

trẻ nhà quê ra thăm chồng, thấy rất ái ngại. Thƣờng thì muốn chồng về phép hơn

là mình cất công ra thăm, lạ nƣớc lạ cái không những không chăm sóc đƣợc chồng

còn làm anh ấy vất vả thêm. Nhƣng về phép chăng nữa thời gian có giới hạn chỉ

nhờ may ăn, may thua vậy. Mấy chị vợ lính chả từng nói nhƣ vậy đó thôi. Chúng

tôi đã phải thuyết phục, Viêm mới sắp xếp để Miễn ra thăm, ăn ở với nhau mấy

tháng. Thật may mắn dịp ấy có kết quả, một cháu trai ra đời mà chƣa giây phút

đƣợc gặp cha.

Vào giữa tháng 8 năm 1978, cánh đồng hai xã Ba Chúc và Lƣơng Phi huyện

Bảy Núi, tỉnh An Giang lúa đang thì con gái xanh tƣơi mơn mởn. Trƣớc đó mấy

ngày những động thái khác thƣờng qua tín hiệu kỹ thuật nắm đƣợc phần nào về

địch. Đặc biệt, trinh sát Trung đoàn đã phục tóm cổ đƣợc bốn tên lính Pôn Pốt (có

một tên nữ) từ bên kia biên giới Cam-pu-chia vƣợt kinh Vĩnh Tế vào sâu các

phum sóc ngƣời Việt - gốc Miên. Dù chúng rất lì lợm và ngoan cố, nhƣng cuối

cùng vẫn khai ra những ý đồ đen tối của bọn chỉ huy đối với khu vực quan trọng

này. Và sau đó chỉ hơn chục ngày đã diễn ra một trận đánh tại Cầu Sắt gần kinh

Vĩnh Tế sát biên giới. Đơn vị trực tiếp tác chiến là Tiểu đoàn 9. Do ta chủ động về

địa hình phía địch đã bị đánh phủ đầu khi lọt qua biên giới, một số tên phải đền tội.

Tuy nhiên một số cán bộ chiến sĩ ta cũng bị thƣơng và hy sinh trong đó có Phan

Thanh Viêm. Viêm ngã xuống để lại cho đơn vị niềm tiếc thƣơng, một cán bộ

xông xáo dũng cảm có nhiều kinh nghiệm chiến đấu từ trong cuộc kháng chiến

chống Mỹ đang đƣợc tích lũy, đã đạt hai danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ và ba Huân

chƣơng Chiến công. Thƣơng tiếc thay, Viêm cũng đã có ngƣời anh trai hy sinh

trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, nay anh lại trở thành liệt sĩ. Và đứa

con, niềm mơ ƣớc đẹp đẽ của cặp vợ chồng trẻ từ khi thành đôi lứa đã đến ngày

khai hoa, kết trái. Cơ hội cha con có dịp gặp nhau thì nay không còn nữa? Sự hy

sinh của anh Phan Thanh Viêm để lại nỗi đau, niềm thƣơng tiếc vô hạn cho ngƣời

thân, đồng chí, đồng đội.

295

Thi hài Viêm đƣợc đồng đội đƣa về an táng tại nghĩa trang liệt sĩ xã Tú Tề,

huyện Bảy Núi, tỉnh An Giang nằm giữa châu thổ đồng bằng sông Cửu Long đầy

ắp gió nội hƣơng đồng bát ngát.

Cùng thời điểm ấy còn có: Hải, Ngoạn... những tân trung uý nhận quyết định

thăng quân hàm buổi chiều do Chính uỷ trung đoàn Nguyễn Quốc Sử trực tiếp

trao còn nóng hổi, thì chỉ ít giờ sau, bốn trong chín ngƣời đã trở thành liệt sĩ.

Còn dƣới đây là một bức thƣ khác cũng không kém phần xúc động:

Thị xã Phúc Yên, ngày... tháng 12 năm 1977.

Anh Đức yêu thương của em!

“Mấy hôm nay chân tay em cứ líu ríu làm sao ấy. Tại anh đấy, vì từ khi tiếp

được thư anh em phấn chấn đến là vui lắm cơ. Như vậy là tết này em sẽ cùng anh

đưa con về quê: thị trấn Thái Hoà, huyện Nghĩa Đàn, xứ Nghệ để ăn tết. Em cứ

nghĩ hoài: con dâu về nhà chồng lạ nước lạ cái, đối diện với bao thứ, em biết xử

sự sao đây cho khỏi lỗi đạo để họ hàng khỏi cười chê... Song, có anh bên cạnh

làm “cố vấn” là em yên tâm rồi còn gì?” ( Và sự thực Mây đã lặn lội vƣợt mấy

trăm cây số đƣờng tầu xe để về thị trấn Thái Hòa của huyện miền núi Nghĩa Đàn,

Nghệ An với bao dự định cùng chồng con đón một cái tết đầu tiên tại quê chồng.

Tuy vật chất có thể khiêm nhƣờng, nhƣng về tinh thần chắc mang đầy đủ ý nghĩa

lắm.)

Song, cái blốc lịch treo trên tƣờng đã đƣợc bóc giở gần hết những tờ cuối

cùng, vậy mà chƣa thấy bóng dáng của chồng đâu cả. Trông hoài, trông mãi cũng

chẳng thấy, chị đâm ra luống cuống suy nghĩ mông lung: hay trên đƣờng về anh

ấy gặp chuyện chẳng lành? Hoặc kế hoạch thay đổi? Biết đâu đấy, quân đội mà!

Nhƣng đất nƣớc đã hòa bình, giặc giã đã bị quân ta đánh tan từ ngày 30 tháng 4

năm 1975 rồi còn gì? Nghĩa là đã hơn hai năm nay chiến tranh đã lùi về dĩ vãng.

Anh ấy hẳn sẽ đƣợc về chung hƣởng cái tết với gia đình, quê hƣơng chứ. Vậy mà...

tại sao cho tới hôm nay vẫn chƣa thấy nhƣ nội dung thƣ đã viết?...

Cái thị trấn heo hút cuối đông nhƣ ngập tràn lạnh lẽo gió đông bắc tràn về

hun hút. Vậy mà trong lòng ngƣời vợ trẻ cứ nóng bừng bừng, đứng ngồi không

yên. Cuối cùng chị đành phải xin phép gia đình tốc tƣởi bế con trở ra đơn vị của

chồng. Linh cảm ngƣời vợ trẻ thật tinh nhạy và chính xác làm sao.

Nếu nhƣ trên đƣờng đi lòng dạ xốn xang nóng bừng thì khi đặt chân tới cổng

doanh trại hẫng hụt tê tái, chị nhƣ không tin vào chính mắt mình nữa. Toàn khu

doanh trại những dãy nhà tranh tre nứa ngày nào tràn ngập tiếng cƣời nói rộn ràng

của lính trong đó có Trần Minh Đức - ngƣời chồng yêu quý của chị, giờ đây trở

nên trống vắng chỉ còn mấy ngƣời đƣợc cử ở lại trông coi. Hỏi ra mới hay chồng

chị đã cùng đơn vị lên đƣờng làm nhiệm vụ chiến đấu ở biên giới Tây Nam Tổ

quốc. Chị đứng lặng trân nhƣ trời trồng, lát sau mới bật òa tiếng khóc nức nở.

Thực tình thì bản tính ngƣời phụ nữ nhƣ chị không đến nỗi mềm yếu nhƣ vậy,

nhƣng vì quá bất ngờ và xúc động giây lát không kiềm chế đƣợc đành vậy đó thôi.

296

Thôi chị ơi! Chúng tôi hết sức cảm thông với chị và những ngƣời đã tới đây

mấy hôm nay. Nhƣng có lẽ chị là ngƣời lận đận nhất vì vƣợt chặng đƣờng khá xa,

lại bị hẫng hụt không thực hiện đƣợc kế hoạch. Song, chị cũng hãy thông cảm cho

anh ấy và cho đơn vị, bởi nhận lệnh lên đƣờng quá gấp nên khá nhiều ngƣời đã

cầm giấy phép thanh toán chế độ, cuối cùng đành phải hoãn lại hết. Một ngƣời

trung tuổi phụ trách số anh em ở lại đã an ủi chị nhƣ vậy. Mây không còn nức nở,

nhƣng trong lòng cứ nhƣ từng đợt sóng. Sáng hôm sau, chị lại bế con trở về đơn vị

Đồ Bản của mình, thuộc Bộ Tổng tham mƣu đóng tại thị trấn Phúc Yên, tỉnh Vĩnh

Phúc.

Cũng là căn phòng nhỏ bé có chiếc giƣờng đôi kê ngay ngắn nhƣ ngày nào,

nơi thỉnh thoảng anh ấy ghé qua thật ấm cúng, vui vầy. Thế mà hôm nay nó trống

vắng làm sao. Các anh chị hầu hết đã đóng kín cửa, vợ chồng con cái họ đƣa nhau

về quê ăn tết. Lúc này nếu không có bé Nguyên bên cạnh làm nguồn an ủi thì

không biết niềm xúc động sẽ dâng đến chừng nào!

Thực tế đã đƣợc minh chứng, chị không còn trách anh quá vô tƣ với vợ con,

gia đình nhƣ có lúc mình đã nghĩ về anh ấy, mà ngƣợc lại lòng nhớ nhung cứ dâng

tràn. Chỉ mong sao chóng đến ngày gặp mặt để kể anh nghe tâm trạng của một

ngƣời vợ, ngƣời mẹ. Chắc chắn anh không nhịn đƣợc cƣời cho mà xem, và có khi

còn đƣợc anh âu yếm để bù lại những tháng đợi năm chờ mà lòng ngổn ngang

trăm mối.

Thế rồi cái nhớ, cái thƣơng, nỗi lòng da diết nghĩ đến chồng nơi xa dần dần

cũng nguôi ngoai khi chị lao vào công tác học tập và chăm sóc con cái để anh ấy

yên tâm chiến đấu.

Lũ giặc Pôn Pốt tập trung một lực lƣợng khá đông, có tăng cƣờng hỏa lực

mạnh hòng ngăn chặn con đƣờng huyết mạch của ta cơ động lực lƣợng vào trong

đất bạn Cam-pu-chia. Trận Bạch Bột ngã ba Giếng Xây diễn ra khá dai dẳng vào

một số ngày tháng 7 của năm 1978 và kéo dài những 26 giờ đồng hồ. Lực lƣợng

đặc công bám trụ từng địa hình, địa vật tiếp cận mục tiêu để đẩy đối phƣơng ra

khỏi khu vực và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Trƣớc khi xuất quân vào trận đánh, cơ quan chính trị trung đoàn chúng tôi

trực tiếp có mặt tại các đại đội. Nhìn gƣơng mặt cán bộ, chiến sĩ đều hiện rõ vẻ lạc

quan tin tƣởng vào chiến thắng. Cái bắt tay rất chặt với tôi của Đức và nụ cƣời

tƣơi của ngƣời Bí thƣ chi bộ - Chính trị viên đại đội 3, Tiểu đoàn 9 ở Đức làm

chúng tôi thật yên tâm ở ngƣời cán bộ đã từng xông pha, vào sinh ra tử các căn cứ

của Mỹ tại chiến trƣờng đƣờng 9 Quảng Trị năm nào. Nào ngờ, cái bắt tay nồng

ấm ấy của anh cũng là sự giã biệt cuối cùng.

Thi thể Đức đƣợc đƣa về yên nghỉ cùng đồng đội tại nghĩa trang Quân đoàn 4

trên quê hƣơng huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh.

Chị Mây ơi, giờ chị đang ở đâu? Còn công tác hay đã nghỉ chế độ? Là những

đồng đội của anh ấy, chính chúng tôi cũng không thể ngờ rằng lần thứ hai anh

Đức - chồng chị lên đƣờng chiến đấu chống kẻ thù mới xâm lƣợc lại là lần giã biệt

297

cuối cùng. Cháu Nguyên - giọt máu của anh Đức để lại chắc hẳn đã lớn trở thành

cô thiếu nữ gần tuổi ngày nào của mẹ rồi còn gì. Mong cháu ngoan ngoãn học giỏi,

công tác tốt để xứng đáng với ngƣời con của một liệt sĩ cháu nhé. Khi nào có dịp,

cháu nhớ ghé qua đơn vị của bố cháu ngày nào đang đóng quân ở thị trấn Xuân

Hoà, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc thăm các bác, các chú. Chắc chắn cháu sẽ

gặp lại các bác cùng thời với bố cháu đấy. Và cháu hẳn tự hào rằng: trong truyền

thống vẻ vang của đơn vị ba lần đƣợc tuyên dƣơng danh hiệu Anh hùng, có phần

đóng góp xƣơng máu của bố Trần Minh Đức đấy, cháu ạ.

Ngƣợc dòng thời gian của gần ba thập niên về trƣớc, cũng có hình ảnh tƣơng

tự. Đó là Lê Văn Lƣu, một đảng viên trẻ, trợ lý Đảng vụ Tiểu đoàn pháo binh 174

trong đội hình Trung đoàn Đặc công 113. Quê Lƣu ở Phúc Thọ, Hà Tây cửa ngõ

Thủ đô. Do yêu cầu nhiệm vụ, anh đƣợc điều xuống làm Trung đội trƣởng chỉ huy

pháo. Trƣớc đó ít ngày, Lƣu nhận đƣợc thƣ gia đình vƣợt qua hơn 2000 cây số và

qua bao lửa đạn, truyền đến cho ngƣời lính một niềm vui khôn tả khi biết tình hình

hậu phƣơng gia đình. Mà không chỉ riêng anh - chủ nhân của lá thƣ ấy mà cả toàn

đơn vị cùng chia vui. Trong thƣ vợ anh kể: “Mẹ con em cũng nhƣ gia đình nội

ngoại, họ hàng đều khỏe. Đặc biệt con của chúng mình rất ngoan, giống anh nhƣ

tạc và nhảy múa tung tăng suốt ngày... Hằng ngày em say sƣa với công việc ruộng

đồng, tối về có con bên cạnh, em thấy niềm vui dâng tràn. Nhƣng không thể khỏa

lấp nỗi nhớ thƣơng anh. Anh thƣơng yêu, không ít lần con âu yếm bên mẹ và hỏi

một cách vô tƣ: “Mẹ ơi, bao giờ thì bố đƣợc về với con, hở mẹ?”. Em ôm con vào

lòng mà cứ nghẹn ngào không thể nào trả lời đƣợc cho con. Phần tái bút, ngƣời vợ

trẻ từ hậu phƣơng xa xôi còn hỏi: “Anh Lƣu ơi, biết đến bao giờ thì anh có thể về

thăm mẹ con em, gia đình, quê hƣơng... đƣợc hở anh? Những đêm sâu thẳm, khi

con đã ngủ ngon trong chăn ấm là lúc em thao thức với anh đấy. Anh biết không,

mỗi lần em lần giở những tấm ảnh của anh ra ngắm nghía, thật lạ lùng càng ngắm

càng say, thu hút bao tâm trí của em vậy. Có khi gà đầu thôn đã râm ran cất tiếng

gáy em mới chợp mắt - bắt đền anh đó - ngƣời chinh phụ của em ạ. Nói anh đừng

cƣời, không ít lần em vừa thiu thiu ngủ đã thấy anh về phép, với ba lô con cóc và

bộ quần áo lính còn vƣơng mùi thuốc súng. Vậy mà... khi choàng tỉnh dậy, chỉ có

căn phòng rộng thênh mà lòng nao nao khó tả”. Thế mà, chỉ một tuần sau, Lê Văn

Lƣu vĩnh viễn nằm lại bên dòng sông Đồng Nai dạt dào sóng vỗ nhƣ lời ru của mẹ

từ thuở nào. Cùng ngã xuống với Lƣu còn có hơn năm chục ngƣời lính pháo đặc

công qua bao mùa chiến trận để tới giờ phút đỉnh cao chiến thắng của toàn dân

tộc!

Chiến tranh là thế đó, có ai mà đoán đƣợc sự mất mát hy sinh kể cả phần tính

mạng của chính mình và đồng đội, ngƣời thân.

Những sinh linh bé bỏng chƣa một lần đƣợc gặp cha ngày ấy, giờ đây hẳn các

cháu đã trở thành những chàng trai, cô gái trẻ trung tuấn tú đƣợc ngƣời mẹ, ông bà

và xã hội chăm sóc, nuôi dƣỡng trƣởng thành, đóng góp sức lực tài năng cho đất

nƣớc. Và... những ngƣời vợ trẻ của các anh trở thành quả phụ nén nỗi sầu đau

thăm thẳm trong lòng để chăm sóc nuôi nấng dạy dỗ con cái thay cả phần việc của

chồng để lại.

298

Những đồng đội của các anh may mắn trở về có cuộc sống gia đình, có vợ, có

con. Tuy chƣa đủ đầy về vật chất, nhƣng về tinh thần, tình cảm đƣợc nhƣ vậy là

quý hóa lắm rồi.

Đầu tháng 6 năm 2002, nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Trung đoàn

- nay là Đoàn đặc công 113 thân yêu của chúng ta (3-6-1972 - 3-6-2002), đại biểu

các thế hệ cán bộ chiến sĩ hội tụ về khá đông, trong đó có thân nhân gia đình Anh

hùng, liệt sĩ.

Vào thăm Nhà Truyền thống đƣợc trang hoàng khá nhiều hình ảnh, hiện vật

của Đoàn. Chúng tôi nhƣ sống lại những kỷ niệm hào hùng của những ngày chiến

đấu đầy gian khổ, hy sinh và tự sâu thẳm lòng mình, tôi rƣng rƣng cảm động khi

đọc lại các lƣu bút của những ngƣời vợ trẻ gửi cho chồng đƣợc lồng trong khung

kính treo ở nơi trang trọng. Theo năm tháng nét chữ đã mờ nhƣng vẫn còn nguyên

trinh tình cảm thƣơng nhớ đầy vơi đối với ngƣời chinh phụ. Tôi liên tƣởng tới

hình ảnh ngƣời vợ chờ chồng đi trấn giữ biên cƣơng gìn giữ cõi bờ. Chờ mãi, chờ

mãi hoá thành.... đá, mới gọi là hòn “Vọng Phu” vậy. Đức hạnh tuyệt vời ấy của

họ còn đƣợc muôn đời ngƣỡng mộ.

Biên giới Tây Nam, năm 1978

Biên Hòa, ngày 27-7-2002

N.Q.M

299

CÔNG LAO CỦA ĐẢNG BỘ, QUÂN VÀ DÂN U1

ĐỐI VỚI ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113 LÀ HẾT SỨC TO LỚN

LÊ VĂN LƢỢNG1

Tháng 10 năm 1967, tôi cùng đoàn cán bộ trực tiếp nhận quân của Bộ Tƣ

lệnh Đặc công tăng cƣờng cho chiến trƣờng miền Nam. Số cán bộ, chiến sĩ đƣợc

huấn luyện chu đáo, kỹ chiến thuật tinh thông, ý chí quyết tâm vững vàng sẵn

sàng xung trận. Chúng tôi hành quân ra trận mang theo niềm tin của hậu phƣơng

lớn miền Bắc thân yêu để góp mặt với tiền tuyến lớn miền Nam anh hùng. Bởi thế,

trên đƣờng ra trận mà nhƣ đi trẩy hội. Sau gần sáu tháng hành quân, chúng tôi tới

miền Đông Nam Bộ và xuống thẳng chiến trƣờng tỉnh Biên Hòa.

Biên Hòa, hai tiếng thân yêu ấy từ lâu đã đi vào tình cảm của đồng bào cả

nƣớc với những địa danh: bƣởi Tân Triều đậm đà hƣơng vị nổi tiếng xứ đàng

trong; Nông Nại đại phố (Cảng cù lao phố); sông Đồng Nai... qua trang sách học

trò nhƣng nay mới có dịp đi tới. Sau khi bổ sung biên chế quân cho các đơn vị bạn,

tôi đƣợc quyết định làm Tiểu đoàn trƣởng Tiểu đoàn 1 đặc công Biên Hòa bám trụ

và tác chiến sân bay quân sự Biên Hòa.

Vào thời điểm ấy, Tỉnh đội Biên Hòa có hai tiểu đoàn đặc công. Tiểu đoàn 1

(chốt 1) hoạt động quanh sân bay; Tiểu đoàn 2 (chốt 2) bám trụ và tác chiến tổng

kho Long Bình. Trong số cán bộ, chiến sĩ có nhiều anh em ngƣời địa phƣơng,

hoặc quê nơi khác nhƣng đã bám trụ lâu ngày trở thành thổ địa, thông thuộc nhƣ

vƣờn nhà. Đó là yếu tố cực kỳ tiện lợi cho việc hoạt động chiến đấu. Tuy nhiên,

thƣờng xuyên tác chiến nên quân số hao hụt, sức khỏe ốm yếu, trong khi đó nhiệm

vụ đòi hỏi rất nặng nề. Giữa lúc ấy, cấp trên tăng cƣờng lực lƣợng lại đƣợc huấn

luyện khá kỹ từ miền Bắc. Cả hai bổ sung cho nhau tạo nên sức chiến đấu hết sức

hiệu quả. Đúng vậy, những trận tập kích bằng hỏa lực pháo binh đánh gần theo

chiến thuật đặc công: luồn sâu lót sát vào sân bay Biên Hòa; bí mật dùng xung lực

đánh tổng kho Long Bình phá hủy nhiều bom đạn và phƣơng tiện chiến tranh của

Mỹ, ngụy là nỗi kinh hoàng đối với chúng. Trƣớc tình hình tớ, thầy hết sức hoang

mang, dao động, đại tƣớng Cao Văn Viên - tổng tham trƣởng quân đội Sài Gòn

phải ra một chỉ thị khẩn cấp: tìm mọi biện pháp để phòng chống đặc công Việt

cộng. Chỉ thị còn nói rõ: sẽ trọng thƣởng cho những ai bắt đƣợc đặc công Việt

cộng hoặc phát hiện và tố giác cơ sở che giấu! Nghe đến nực cƣời. Bởi đặc công

ta luôn luôn bám sát các căn cứ, hậu cứ, cơ quan đầu não của chúng, bất ngờ tiến

công tiêu diệt chúng chớ có đâu xa.

Trƣớc tình hình phát triển của cách mạng miền Nam, địch đang lún sâu vào

những thất bại nặng nề cả trên chiến trƣờng và trên bàn đàm phán ngoại giao ở hội

nghị Pa-ri (Pháp). Tuy nhiên, tiềm lực quốc phòng của chúng còn khá mạnh, quân

số cả Mỹ lẫn ngụy vẫn còn đông, trang bị vũ khí mạnh và đặc biệt rất hiếu chiến.

1 Nguyên Tham mưu phó Trung đoàn 113 từ ngày đầu thành lập.

300

Để có những cú giáng trả đích đáng vào các căn cứ, hậu cứ của đối phƣơng làm

rúng động mạnh cả về tinh thần và tổn thất về cơ sở vật chất, ngày 3 tháng 6 năm

1972 Trung đoàn Đặc công 113 ra đời trên chiến trƣờng Biên Hòa.

Lực lƣợng nòng cốt và cơ bản ban đầu gồm: Tiểu đoàn 9 đặc công đã dày dặn

chiến trận từ chiến trƣờng Sông Bé sang, Tiểu đoàn pháo 174 và hai tiểu đoàn đặc

công U1 - Tỉnh đội Biên Hòa. Số này tuy không đông lắm nhƣng đã bám trụ và

tác chiến nhiều năm ở đây, thông hiểu địa bàn rất thuận lợi việc điều tra nắm địch

ở các căn cứ lớn nhƣ sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình. Bởi vậy đã khắc

phục đƣợc những bỡ ngỡ lúng túng ban đầu khi đặt chân trên chiến trƣờng mới.

Ngoài các lực lƣợng chiến đấu, đội ngũ cán bộ của Tỉnh đội nhƣ: anh Ba Lộc,

Trung đoàn phó, anh Hai Thoạn - nguyên Ủy viên Thƣờng vụ Tỉnh ủy làm Chính

ủy trung đoàn; anh Hai Hiệp - Tham mƣu trƣởng và tôi đƣợc đảm nhiệm Tham

mƣu phó. Bên cạnh đó còn có sự quan tâm đặc biệt của Tỉnh ủy Biên Hòa về mọi

mặt. Và Miền phái anh Hai Cà làm cố vấn cho đoàn.

Ngay từ khi đón nhận chủ trƣơng của Miền thành lập Trung đoàn Đặc công

113, tiếp đến anh Nguyễn Thanh Tùng - Phó tƣ lệnh đoàn đặc công 429 về trực

tiếp chỉ huy xuống địa bàn Biên Hòa, Đoàn đã đƣợc tập thể Thƣờng vụ tỉnh ủy và

bản thân anh Phan Văn Trang - Bí thƣ hết sức quan tâm chăm sóc. Quan điểm

đúng đắn này chi phối mọi chỉ đạo cho các cơ quan, đơn vị trực thuộc quản lý,

lãnh đạo của tỉnh.

Những ngƣời trong cuộc chắc chúng ta vẫn còn nhớ hình ảnh các cơ quan ban

ngành của tỉnh huy động đi khiêng vác đạn pháo ĐKB, H12 cho đơn vị tiến công

sân bay Biên Hòa. Tiểu đoàn 9 xây dựng căn cứ Bùng Binh Thiện Tân, Vĩnh Cửu

xung quanh là giặc đóng cứ, càn quét, bom pháo đủ thứ. Vậy mà lƣơng thực, thực

phẩm, nhu yếu phẩm... vẫn đƣợc dân tiếp tế. Tôi còn nhớ, có một lần Thƣờng vụ

Huyện ủy Vĩnh Cửu đang họp mà anh Hai Đậm Huyện đội trƣởng phải vắng để

trực tiếp chỉ đạo đánh địch dùng xe ủi phá địa hình quanh căn cứ đơn vị. Anh Ba

Tánh, Bí thƣ chi bộ Tân Định, chị Ba Thanh - Bí thƣ chi bộ mật Thiện Tân, một

cơ sở vững chắc nhiều năm trụ bám để giúp đỡ bộ đội. Chị Tƣ Nhung, chị Sáu

Vân - những ngƣời tôi đƣợc biết hết lòng vì đơn vị, cũng là vì phong trào cách

mạng địa phƣơng...

Đó là địa bàn trọng điểm vùng sâu. Còn nhân dân vùng bàn đạp căn cứ ở Bàu

Hàm, Hƣng Lộc, Hƣng Nghĩa cũng nhiều điều để nói. Bầu bí, rau xanh, chuối,

khoai mì, bắp với một lƣợng khá lớn cung cấp cho bộ đội mà không cần so đo tính

toán thiệt hơn. Có công góp công, có của giúp của, thậm chí chấp nhận cả sự hy

sinh xƣơng máu, tính mạng vì sự nghiệp, không thể kể hết. Lòng dân thật tuyệt

vời.

Cuộc chiến kết thúc đã lâu có biết bao sự kiện đáng nhớ. Nhƣng tuổi tác đã

cao - Tôi sinh 1935, nhập ngũ năm 1951 mà trí nhớ lại giảm vì bệnh cao huyết áp

chi phối nhiều sức khỏe. Song, từ sâu thẳm lòng mình tôi hồi ức lại đôi điều nơi

mảnh đất Biên Hòa một thời mình cùng đồng đội gắn bó với nhân dân nhƣ là máu

thịt. Bởi vậy, xin nói ngàn lời tri ân cũng không thể đủ công lao to lớn, quý giá

301

của Đảng bộ và quân dân Biên Hòa đối với Đoàn Đặc công 113 yêu quý của

chúng tôi.

L.V.L

302

NHỮNG THÁNG NĂM ĐÁNG NHỚ

NGUYỄN THÁI HÒA1

Tháng 12 năm 1971, tôi đang là cán bộ Tiểu đoàn 13 trực thuộc Bộ Tƣ lệnh

Đặc công - Hà Nội thì có lệnh tập trung chi viện cho chiến trƣờng miền Nam.

Đƣợc đi chiến đấu là nỗi khao khát của cán bộ, chiến sĩ sau khi đã huấn luyện

thuần thục về kỹ, chiến thuật binh chủng, có đầy đủ bản lĩnh của ngƣời lính đặc

công.

Thế rồi sau những tháng hành quân trên đƣờng Trƣờng Sơn vô cùng gian lao

vất vả, có những chặng bị địch oanh tạc bằng máy bay và pháo binh, biệt kích,

thám báo ngăn chặn nhƣng chúng tôi đều vƣợt qua. Chẳng bao lâu thì có mặt

trong đội hình Đoàn đặc công 429 cơ động của Miền. Vào đầu tháng 6 năm 1972,

Trung đoàn Đặc công 113 đƣợc thành lập, Tiểu đoàn 9 có mặt ngay từ đầu. Từ

chiến trƣờng tỉnh Sông Bé hành quân về đến suối Bà Hào giữa Chiến khu Đ,

chúng tôi gặp anh Nguyễn Thanh Tùng Trung, đoàn trƣởng, anh Mai Văn Thoạn,

Chính ủy và anh Phan Văn Trang, Bí thƣ Tỉnh ủy Biên Hòa (U1). Xuống tới địa

bàn huyện Vĩnh Cửu là chiến trƣờng mới nhƣng gặp ngay anh Hai Đậm huyện đội

trƣởng, cả hai đều rất vui vẻ và cảm thấy thật an tâm.

Không vui sao đƣợc, trong lúc phong trào cách mạng địa phƣơng đang rất

cần cấp trên hỗ trợ lực lƣợng. Và là đơn vị cũng rất cần địa phƣơng làm chỗ dựa.

Thật là may, trong khi Đoàn hậu cần 814 của Miền chƣa đáp ứng kịp, tất cả đơn vị

đều phải dựa vào địa phƣơng giúp đỡ mọi mặt. Thế mới biết có qua hoạn nạn mới

thấu tỏ lòng nhau là vậy.

Sau khi tuyên bố lễ thành lập trung đoàn ở suối Bà Hào, anh Chín Tùng thay

mặt Đảng ủy - Ban Chỉ huy Trung đoàn giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 9 triển khai

ngay nhiệm vụ mà không đƣợc cầu toàn về thời gian. Cụ thể anh Tải, Tiểu đoàn

trƣởng, Nguyễn Thái Hòa, Chính trị viên, Ngô Văn Sơn đại đội trƣởng, anh Khâm

mũi trƣởng cùng một số đồng chí khác gồm mũi trƣởng, mũi phó đi trinh sát ở

tổng kho Long Bình. Nghe tin này, Tƣ Già là một đặc công kỳ cựu gan dạ, Long

Bình đối với anh thuộc làu làu đã nói với số anh em mới tới rằng: các bạn nếu vào

đƣợc tổng kho Long Bình, khi về ông tự nguyện làm “bò” cho tha hồ mà cƣỡi.

Quả là khó thật.

Đêm thứ nhất chủ yếu mới làm quen và quan sát động tĩnh. Đêm thứ hai nhờ

nắm đƣợc hệ thống ống thoát nƣớc, anh em tranh thủ luồn vào, nhƣng cũng chỉ

mới qua đƣợc ba lớp rào. Sang đêm thứ ba vào hết đƣợc chín lớp thì vừa hết thời

gian mà chƣa kiểm tra đƣợc kho. Đây là thắng lợi bƣớc đầu, nhƣng để kiểm tra

đƣợc mục tiêu bên trong còn phải vƣợt qua biết bao khó khăn bởi bố phòng của

địch rất chặt chẽ và kiên cố. Thế rồi tất cả khó khăn đều vƣợt qua.

1 Nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 113.

303

Mũi 1 do anh Tƣ Già dẫn đầu; mũi 2 do Hòa và Sơn; mũi 3 do Khâm Trung

đội trƣởng trinh sát trực tiếp chỉ huy, có nhiệm vụ gỡ mìn. Đó là những bƣớc khó

khăn đã đƣợc vƣợt qua để giành thắng lợi sau khi thực hành chiến đấu. Kết quả

trận đánh thật tuyệt vời nhƣ ta đã thấy.

Tôi có thể khẳng định: chiến công trận tập kích bí mật giành thắng lợi vang

dội ở tổng kho Long Bình của Tiểu đoàn 9 Trung đoàn Đặc công 113 những năm

đánh Mỹ của thế kỷ 20, sẽ đi suốt chiều dài lịch sử truyền thống, trở thành niềm tự

hào của bao thế hệ cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn. Không chỉ có vậy, nó còn nhƣ

một nét son tô thắm truyền thống của Binh chủng Đặc công Anh hùng.

Sau trận đánh vào tổng kho Long Bình, tôi đƣợc đề bạt lên Phó chủ nhiệm

chính trị Trung đoàn, anh Ba Triệt Chủ nhiệm, anh Phùng Tuyền thay tôi làm

Chính trị viên Tiểu đoàn 9.

Những năm tháng bám trụ và chiến đấu ở đây, cơ quan quân sự huyện Vĩnh

Cửu giúp đỡ hết mình cả vật chất lẫn tinh thần. Dân thƣơng yêu đùm bọc, coi bộ

đội nhƣ con em ruột thịt, quan hệ quân dân gắn bó keo sơn. Thiết nghĩ thiếu

những yếu tố ấy, không thể có chiến thắng. Riêng tôi, cũng từ đây đã xây đắp mối

tình trăm năm với Bí thƣ chi bộ xã Đỗ Thị Thanh Vân là vợ tôi hiện nay. Xin cảm

ơn miền quê này đã xây đắp cho tôi một mối tình lƣơng duyên đằm thắm.

N.T.H.

304

Nằm võng giữa rừng chiến khu Kính tặng: cán bộ, chiến sĩ Đoàn Đặc công 113 Anh hùng

ĐỖ MINH

Về nguồn với chiến khu xưa

Lại cùng mắc võng đung đưa giữa rừng.

Võng chao cây động ngập ngừng

Sương nhòa mắt lá rưng rưng mái đầu!

Võng nghiêng về phía khe sâu

Nhớ ai đẵn gỗ bắc cầu trong mưa

Võng nghiêng về phía rừng thưa

Nhớ triền rẫy chín hương mùa thoảng bay

Võng nghiêng về phía rừng dày

Bếp Hoàng Cầm tỏa ấm ngày khao quân

Võng chao cho dạ bần thần

Thương hoài mắt mẹ trong lần tiễn đưa

Nghiêng rừng cơn sốt mùa mưa

Bạn hy sinh để võng thừa chông chênh

Có đêm thức giấc giật mình

Lệnh truyền bỏ võng kịp hành quân ngay

Quân đi dưới tán rừng dày

Lần theo dấu võng, dấu tay bạn bè

Bom rơi đạn nổ tứ bề

Cây rừng gẫy đổ võng che chở người...

Bây giờ đưa võng thảnh thơi

Tiếng rừng man mác như lời mẹ ru

Bạn nằm kể chuyện chiến khu

Võng chao nghiêng cả rừng thu bồi hồi...!

Suối Bà Hào, Chiến khu Đ - 12-2001

Đ.M.

305

Kỉ vật thiêng liêng

ĐỖ MINH

Gặp trong lòng mộ vô danh

Những đôi dép lốp thuở “hành quân xa”

Chẳng tan cùng với thịt da

Dép thành kỷ vật chúng ta nhận người.

Dép cao su của một thời

Vượt Trường Sơn giữa bom rơi thác gào

Nhuộm mồ hôi với máu đào

Giờ ôm xương trắng ủ vào đất nâu

Thủy chung dép chẳng đổi màu

Để bao đồng đội tìm nhau mà về...

Rất nhiều thứ đã tan đi

Mà sao dép lốp chưa hề phôi pha

Cuộc đời còn lắm ngã ba

Dép còn định hướng cho ta nhận đường...

306

Đồi Mỹ1

ĐỖ MINH ĐƢỜNG

Một vạt đồi giữa Chiến khu Đ

Tự bao giờ, ai gọi tên: Đồi Mỹ

Giặc Mỹ thua, cờ Mỹ cuốn về.

Tên để lại hóa niềm đau thế kỷ!

Chiến khu Đ 22-12-2001

1 Nơi đây quân đội Mỹ từng đặt trận địa pháo để khống chế và tiêu diệt lượng ta ở Chiến khu Đ. Nhưng

chúng đã thất bại và cuốn cờ rút chạy.

307

Điệp khúc khăn rằn

ĐỖ MINH

Khăn rằn giản dị dễ thương

Vải xô, nền trắng, kẻ đường dọc ngang

Má ưa đội, em ưa quàng

Ra đồng, ba thích buộc choàng ngang lưng

Thời đánh giặc sống ngoài bưng

Khăn đùm bọc súng, che sương mái đầu

Gái trai lỡ phải lòng nhau

Nhờ khăn rằn bắc nhịp cầu se duyên...

Khăn rằn có nét đẹp riêng

Đường ngang kẻ dọc đan chen tình người

Đường dọc - chỉ hướng chân trời

Đường ngang - vạch đất chỉ nơi ta về

Bao người một thuở xa quê

Khăn rằn gói trọn lời thề Bắc - Nam!

Kẻ thù ác độc dã man

Cũng thầm nể phục người mang khăn rằn

Mỏng mềm chỉ một vuông khăn

Hiền như ánh nắng xua tan mây mù

Hiện ra - bạt vía quân thù

Lui về - đầm ấm chan hòa tình dân

Lệ tuôn, máu thắm bao lần

Đón tin thắng trận, bỗng phần phật bay!

Gấp vào bỏ túi cầm tay

Trải ra ngang dọc rộng dài quê hương...

Dẫu đi trăm chốn ngàn phương

Nhớ về Nam Bộ là thương khăn rằn...!

308

Chia tay Đoàn 113

ĐỖ VĂN NINH

Cầm bút trên tay biết viết gì?

Tình người lưu luyến lúc ra đi

Bảy năm khói lửa bao tình nghĩa

Truyền thống vui buồn dạ tạc ghi

Buổi đầu ta họp suối Bà Hào1

Định ra phương hướng chỉ tiêu giao

Đặc công với pháo nên tình nghĩa

Trưởng thành qua thử thách gian lao

Ngày nắng khi mưa lúc sớm khuya

Bao người lặn lội Chiến khu Đ

Tám xã gian nan lòng chẳng quản

Vì quê hương bám trụ kiên trì

Nơi đây tình nghĩa hỡi miền Đông

Đồng Nai, Sông Bé những con sông

Ôi dòng nước chảy qua năm tháng

Như lòng người chiến sĩ đặc công

Khi ấy vượt sông bám đất, bám làng

Cá Sấu, giặc càn vẫn kiên gan

Tên ấp hay tên người yêu mến

Những Thiện Tân, Tân Định, Đại An...

Biên Hòa trận ấy đã lừng danh

Long Bình vang dội giặc thêm kinh

Gương bao chiến sĩ luôn người sáng

Giết giặc không ai tiếc máu mình

Nhớ những khi bom dội, tăng càn

Ta thời thiếu gạo, muối càng khan

Củ chụp thay cơm trang sử viết

Ở rạch Tôm, Tân Phú, Hoài An

1 Suối Bà Hào giữa Chiến khu Đ nơi thành lập Trung đoàn Đặc công 113 (ngày 3-6-1972).

309

Trải qua mất mát khi sinh ấy

Suối nào “Săng Máu” với “Bùng Binh”

Đặc biệt nghe tin dân mến phục

“Long Biên” vang tiếng giặc hoảng kinh

Đơn vị ta qua những tháng năm

Góp phần nhỏ bé giữ non sông

Mỹ cút, ngụy nhào vui đoàn kết

Dựng xây Nam - Bắc một lòng chung

Thù mới rắp tâm toan xâm lược

Tay sai Pôn Pốt dựng đao binh

Giết dân, lấn đất gây tang tóc

Dã tâm, tội ác chúng tày đình

Ta lại lên đường ta lại đi

Vì Dân vì Đảng chẳng hề chi

Vui sao cách mạng hai dân tộc

Thắng lợi - Phnôm Pênh đã trở về

Viết được gì đây trước lúc đi

Bao tình sâu nặng bút khôn ghi

Thêm yêu truyền thống chung tình nghĩa

Chia tay gửi lại một dòng thi.

Năm 1979

310

Về thăm

ĐỖ VĂN NINH

Tôi về thăm một mười ba

Ơn Đoàn rèn dạy cho ta trưởng thành

Trải qua khói lửa chiến tranh

Hai mươi tám tuổi lại giành hoa tươi

Nhớ bao nét mặt nụ cười

Người còn người mất trọn đời vì dân

Khi Đoàn mới bốn tuổi quân

Anh hùng lần một xa gần đều vui

Vượt biên tình nguyện vẫn cười

Giúp bạn giành lại cuộc đời tự do

Phnôm Pênh chiến dịch thắng to

Hoàn thành nghĩa vụ Đoàn lo trở về

Biết bao công việc bộn bề

Thương binh liệt sĩ trở về nước ta

Thời gian được hết quý ba

Tháng tám, bảy chín Đoàn ta hoàn thành

Mười ba tuổi đã ghi danh

Chiến công hiển hách lại giành đỉnh cao

Đoàn ta sung sướng tự hào

Chiến tranh kết thúc đi vào dựng xây

Quá trình thành tích đẹp dầy

Được Đảng, Quốc hội phong ngay Anh hùng

Hôm nay gặp mặt vui chung

Tự hào Đoàn lại đón mừng hiệu danh

Hai tám tuổi thật hùng anh

Thời kỳ đổi mới xứng danh Anh hùng.

Năm 2000

311

Con người và dòng sông

NGUYỄN NAM NGỮ

Gió Đông Nam ngàn ngàn lớp lớp

Làn sóng reo cá đớp chân trời

Đồng Nai yêu mến của ta ơi

Biết bao thân thiết với người bên sông

Sông còn nhớ chiến công thuở trước

Cùng cha ông giữ nước, giữ nhà

Ngày nay sông lại cùng ta

Nhấn chìm tàu giặc, Biên Hòa tiếng vang

Đồng Nai ơi dòng sông bất khuất

Bao chiến công hiển hách còn ghi

Nhớ chăng sông anh hùng đánh Mỹ

Suốt đêm ngày bền bỉ bám sông

Yêu bao chiến sĩ đặc công

Gội nắng dầm mưa đêm ngày đuổi giặc

Gian khổ hiểm nghèo kiên cường bất khuất

Thật kính yêu người chiến sĩ miền Đông

Như dòng sông chảy tươi mát cánh đồng bát ngát

Chung thủy với ta, kiên cường đánh giặc.

Tôi viết bài thơ tặng các anh

Những chiến sĩ anh hùng bất khuất

Đầu mũ cỏ1 mình trần chân đất

Lập những chiến công chấn động địa cầu

Hỡi Đồng Nai anh hùng dũng sĩ

Đã dồn sức những tháng ngày không nghỉ

Cùng quê hương ta đập nát đầu thù

Khúc khải hoàn với cách mạng mùa thu

Đài vinh quang giữa chiến khu kiêu hãnh.

Mùa thu 1973

1 Mũ cỏ, một loại mũ bằng vải mỏng và mịn đồng màu với thiên nhiên, lính đặc công thường dùng trong

luyện tập và chiến đấu.

312

Hiên ngang nhƣ một dáng cầu HOÀNG MINH TRANH

(Kính tặng hƣơng hồn liệt sĩ Lã Văn Điều, một trong 60 liệt sĩ của Đoàn Đặc công

113 đã anh dũng hy sinh bảo vệ cầu Mới và cầu Ghềnh cho bộ đội tiến về giải

phóng Sài Gòn vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975).

Khẩu súng ĐKZ82

Chỉ có hai người

Nghị chỉ huy còn Điều là xạ thủ

Xe tăng địch tràn lên trút lửa

Vào trận địa ta, chốt giữ thân cầu

Mệnh lệnh phát ra: “Nhằm chiếc đi đầu...”

Hai quầng lửa, hai xe tăng bốc cháy

Bốn chiếc sau, hung hăng quần lại

Nhằm khẩu DK vãi đạn như mưa

Nghị hy sinh, càng súng bị đạn cưa

Điều bị thương máu tràn lên mặt mũi

Tình huống cam go

Hỏa lực diệt xe tăng chững lại

Địch tràn lên, đồng đội lại hy sinh

Lã Văn Điều như một mũi tên

Bật lên khỏi thành công sự

Anh đứng thẳng hiên ngang

Đối mặt với xe tăng, đạn lửa

Nâng khẩu ĐK nóng hổi trên vai

Bỏng rát thịt da, chẳng chuyển chí trai

Quả đạn vút đi

Chiếc xe tăng thứ ba lựng khựng

Quầng lửa vầng lên thiêu xác quân thù

Quả đạn thứ tư

Nhằm chiếc xe tăng đang tiến lại lù lù

Anh chưa kịp đạp cò

Thì đạn địch trúng vào thân súng

Khẩu ĐK vỡ vụn

Quả đạn trong nòng phát nổ rền vang

Điều hy sinh với tư thế hiên ngang

Trong thế trận sẵn sàng nhả đạn

Cho đồng đội anh thêm tinh thần mạnh dạn

Vượt ra khỏi công sự mố cầu

Xe tăng, bộ binh địch bị đánh phủ đầu

Tháo chạy về xóm Chùa loạn lạc

Cầu Mới vẫn vẹn nguyên

Hiên ngang như dáng anh hùng mới tạc

313

Đón chào những đoàn quân vào giải phóng thành đô

Ngày 30 tháng 4 tràn ngập bóng cờ

Chỉ trước đó một ngày

Lã Văn Điều đã viết bản tình ca

Khắc lên tượng đài bằng xương bằng thịt

Sáu mươi chiến sĩ đặc công cùng anh

Hát khúc hùng ca, ngắm tượng đài

Hình hài chiếc cầu

Trên dòng sông Đồng Nai tươi đẹp

Và hình bóng của anh

Mãi mãi đi vào lòng người

Như một tượng đài bất diệt

Hiên ngang như một dáng cầu

Ai qua Biên Hòa

Có đến cầu Hang

Có sang cầu Mới

Có tới cầu Ghềnh

Xin nán lại phút giây

Nhìn dòng sông Đồng Nai trong xanh vời vợi

Sẽ thấy hình bóng các anh

Hòa vào sóng xanh

Đang cùng đồng đội

Hiên ngang như một dáng cầu.

30-4-2002

314

CÓ MỘT NGƢỜI LÍNH ĐẶC CÔNG NHƢ THẾ

NGUYỄN QUỐC HOÀN

Từ một chuyến đi thi đấu võ các nƣớc châu Á tại Nhật Bản không thành

Cậu bé Dƣơng Quang Lộc cất tiếng khóc chào đời vào đêm 23 tháng 2 năm

1950 giữa Sài Gòn đầy bóng giặc. Ông Dƣơng Tử Trực, với linh cảm của một

ngƣời cha từng bôn ba nhiều nƣớc trên thế giới đã nói với ngƣời vợ trẻ Lê Thị

Yến Nguyệt trong niềm vui:

- Em ơi, anh coi tinh tƣớng thằng bé này mai mốt cũng là đứa ngang tàng và

thích mạo hiểm còn hơn cả cha nó không chừng!

Nguyệt mỉm cƣời với chồng và nịnh cƣng cái hài nhi bé bỏng: mình nói quả

đúng, các cụ xƣa từng ví “cây nào, trái ấy” đó sao. Cả hai cùng cƣời làm bé giật

mình, chúm chím đôi môi.

Bé Lộc hay ăn, chóng lớn, đặc biệt tính gan góc đã bộc lộ khi tuổi còn nhỏ.

Cậu sống rất tình cảm với bạn bè, có tính thƣơng ngƣời nhất là những bạn có hoàn

cảnh khó khăn.

Mỗi lần theo ba đi dạo phố hoặc vui chơi đâu đó, cảnh ngang trái diễn ra

trƣớc mắt. Ông Dƣơng Tử Trực nói với con:

- Lộc, con có nhìn thấy gì không? Bọn lính đàn áp dân mình đấy, mai này lớn

lên thế hệ các con phải nung nấu ý chí để rửa nhục thì dân nƣớc mới đặng yên

lành.

Những câu nói của ba còn có vẻ xa vời với đầu óc non nớt của cậu. Nhƣng

chính nó lại tạo nên gốc rễ cho một chiến sĩ biệt động thành kiên cƣờng sau này.

Với tính hiếu động và gan dạ, mới mƣời một, mƣời hai tuổi, Lộc đã đam mê

học võ. Tiền ba mẹ chu cấp ăn sáng, Lộc không dùng cứ gom góp lại để trả cho

thầy. Bà Nguyệt thấy thƣơng con, giấu chồng cho thêm đôi chút. Nhƣng theo Lộc

đó là giải pháp tốt nhất. Bởi mình còn nhỏ chƣa lao động đƣợc để kiếm tiền mà

phải phụ thuộc cha mẹ. Hơn nữa, nếu xin thêm một khoản tiền cho việc học võ,

liệu ba mẹ có đồng ý bởi tính khí khác thƣờng của mình? Có ba miếng võ vẽ dễ

ngứa ngáy chân tay, tính xốc nổi lỡ ra “đụng” vô con cái thiên hạ. Nhất là lũ con

nhà giàu cậy thần cậy thế, tức khí không kìm chế đƣợc “thoi”cho chúng mấy phát,

e lôi thôi to. Còn nhỏ mà Lộc đã nhận thức đƣợc nhƣ vậy. Với kinh nghiệm của

một đầu dây cơ sở quân báo cách mạng nội thành, ông Dƣơng Tử Trực đã linh

cảm đƣợc những gì đứa con trai mình đang ấp ủ hơn cả nó tƣởng. Ông để tâm theo

dõi, đêm nào cậu cũng có mặt cùng các đồng môn luyện tập rất say sƣa.

Sau nhiều lần với sự linh cảm ông Trực nhận ra ở cậu con trai mình những

điều mới mẻ, rất cần đƣợc bồi bổ giáo dục về nhân cách và đặc biệt phải tiếp sức

cho nó. Theo ông nghĩ: Cách mạng nƣớc nhà đang rất cần những thanh niên có

dũng khí. Mình là lớp ngƣời đi trƣớc phải có bổn phận vun đắp thì những cây non

315

mới nẩy nở vƣơn cành, tỏa bóng. Đừng để cho những hy vọng mới chớm nở đã

sớm bị thui chột ở con trẻ.

Một hôm trong căn phòng trên đƣờng Võ Dy Nghi (sau giải phóng đổi lại

Phan Đình Phùng) quận Phú Nhuận giữa thành phố Sài Gòn hoa lệ mà lắm cảnh

ngang trái, nơi vợ chồng con cái sinh sống. Khác với tính nghiêm nghị hàng ngày,

mỗi lần nhìn vào cặp mắt của ba đã thấy làm sao ấy, mặc dầu ba chƣa quở trách gì.

Với nét mặt nhân hậu, chất giọng nửa Bắc nửa Nam ông hỏi:

- Lộc này, con nói thật với ba vừa qua nhiều buổi tối con đi đâu? Làm gì?

Ngay thẳng hay uẩn khúc nói ba nghe coi?

Nghe ba hỏi, mặc dầu rất bình tĩnh nhẹ nhàng nhƣng làm Lộc toát cả mồ hôi.

Một lúc lấy lại bình tĩnh, Lộc lễ phép đáp:

- Thƣa ba, bấy lâu nay con lén ba đi học võ ạ!

-Học võ nhƣ thế có mệt lắm không? Lấy tiền đâu con trả cho thầy? Hay là...?

-Ông hỏi liền một thôi nhƣng Lộc đều giải trình đầy đủ, tự tin và trôi chảy không

hề ấp úng:

- Thƣa ba, con có lỗi với ba mẹ vì chƣa xin ý kiến mà đã tự đi học võ. Học võ

thích lắm ba ơi, mệt nhƣng thích thú mà quên hết mệt nhọc luôn à. Còn tiền trả

thầy, con dành dụm khoản ăn sáng ba mẹ cho ấy. Những hôm đầu chƣa quen, đói

hoa cả mắt ba à. Nhƣng con ráng nín nhịn rồi cũng qua đƣợc hết, mừng quá.

Nghe con trả lời một cách hồn nhiên, vô tƣ lại tỏ ta trung thực mà ông Trực

thƣơng con thắt ruột nhƣng vẫn cố gắng kiềm chế, không hề để lộ thái độ khác

thƣờng. Cuối cùng ông hỏi một câu nhƣ để trắc nghiệm về nhận thức của cậu con

trai với bao hy vọng:

- Tại sao con không tập trung học văn hóa, mà lại học võ để nó chi phối thời

gian và sức lực vậy?

- Thƣa ba, con vẫn học tập tốt đó thôi. Thầy giáo thƣờng khen con chăm học

và sáng dạ, luôn đƣợc điểm cao, đƣợc thầy yêu, bạn mến ba à. Nhƣng... giây lát

Lộc ngập ngừng thì ba hỏi dồn:

- Nhƣng sao, con nói ba nghe coi?

Nhƣng con phải học võ để bảo vệ mình và bảo vệ những bạn nghèo để bọn

con nhà quan quyền hay cậy thế ăn hiếp. Và khi lớn lên không bị bọn có thế lực

khinh khi ba à. Nghe con thuật lại việc làm của mình và ý tƣởng nuôi chí học võ

để mai mốt nhƣ một thứ hành trang hữu ích cho đời làm ông thật vui trong lòng,

lại có phần ân hận bởi mình chƣa hiểu hết con trẻ.

Thôi đƣợc, từ nay ba mẹ cho con khoản tiền học võ. Nhƣng không đƣợc bỏ

ăn sáng mà ảnh hƣởng sức khỏe và học hành nghe chƣa?

- Dạ! Hoan hô ba mẹ nhiều nhiều. Nói đoạn nó nhảy chân sáo coi bộ khoái

chí lắm, trông mà... ghét.

316

Đƣợc ba mẹ đồng tình hƣởng ứng nhƣ có thêm đồng minh tin cậy làm cho

Lộc hăng hái thêm lên đạt kết quả cao trong học tập cả về văn hóa và huấn luyện

võ. Đặc biệt trong mấy năm học lớp 7, lớp 8, lớp 9 là học sinh trƣờng Việt Nam

học đường do một số nhà giáo yêu nƣớc đứng ra tổ chức dƣới danh nghĩa trƣờng

tƣ để che mắt chính quyền, Lộc đƣợc miễn học phí nên càng có điều kiện đầu tƣ

cho việc học võ.

Thật lạ, một môn sinh tầm vóc nhỏ thó so với bạn bè trang lứa, vậy mà làm

cho ai nấy đều thán phục. Còn giáo viên, với con mắt nhà nghề thì nhận ra ở Lộc

những triển vọng chƣa thể dừng lại ở cấp độ nhƣ hiện có. Quả đúng nhƣ vậy, đầu

năm 1965, đọc quảng cáo trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng, Lộc mạnh dạn

đi đăng ký sơ tuyển thi đấu trƣờng. Phạm vi tuyển khá rộng bao gồm các tỉnh,

thành miền Nam Việt Nam với ba lứa tuổi: trung niên, thanh niên và thiếu niên.

Đối tƣợng đăng ký đông có tới hàng ngàn môn đệ, có ngƣời đã nổi danh. Nhƣng

qua mấy vòng sơ khảo, chung khảo chỉ còn lại những gƣơng mặt sáng giá. Trong

hai bƣớc này, Lộc đều xếp đầu bảng hạng thiếu niên. Đến lƣợt về cuối cùng để

quyết định thắng bại thì thật không may cho Lộc là bị bong gân chân, tƣởng chừng

nhƣ bỏ cuộc. Mà bỏ cuộc là đồng nghĩa với chấp nhận chào thua đối thủ. Song, từ

đâu đó nguồn sức mạnh vô hình đã làm Lộc vụt dậy, lớn lên và quật ngã địch thủ,

giành thắng lợi rất vẻ vang trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt của những ngƣời hâm mộ.

Trên tấm thảm giữa đấu trƣờng còn thấm những giọt mồ hôi của các võ sĩ,

ông trọng tài chính với một động tác mạnh mẽ nắm chặt cánh tay Lộc đƣa lên cao

và tuyên bố dõng dạc: Thắng rồi... đoạt giải r...ồ....i!.... Sau khi ban tổ chức công

bố kết quả cuộc thi.

Ngay lúc đó, đô trƣởng Sài Gòn là Văn Văn Của đã hồ hởi tặng chiếc cúp bạc

cho võ sĩ Dƣơng Quang Lộc đoạt giải nhất thứ hạng thiếu niên cùng bó hoa tƣơi

thắm và vị đại sứ Nhật tặng tấm huy chƣơng về võ judo cho võ sĩ nhí này. Với sự

chứng kiến và ngƣỡng mộ của hàng vạn khán giả. Sự kiện này diễn ra giữa năm

1965 khi Mỹ bắt đầu ồ ạt đƣa quân xâm lƣợc miền Nam Việt Nam.

Vào dịp tết Nguyên đán năm 1965 - 1966, ông Dƣơng Tử Trực cùng cả gia

đình đi xem phim ở rạp Tân Định trên đƣờng Hai Bà Trƣng. Thoạt nhìn lên màn

ảnh rộng đang trình chiếu bộ phim thời sự tƣờng thuật buổi thi đấu ấy, thấy xuất

hiện hình ảnh con trai mình. Hay là nhầm chăng? Không! Đúng rồi, chính con trai

ta kìa. Ông vừa mừng lại hết sức ngạc nhiên, quay sang Lộc hỏi dồn dập:

- Nó đâu rồi?

-Đâu rồi cái gì ba? - Lộc hỏi lại.

- Cái cúp ấy. Họ đang chiếu hình ảnh con kia kìa.

Nghe ông hỏi, khán giả xem phim nhận ra võ sĩ nhí trên màn ảnh lại là cậu bé

hiện hữu trƣớc mặt mình, ai nấy trầm trồ thán phục.

- Con đang gửi nhà thằng bạn tên là Nguyễn Công Hoàng, hay tới nhà mình

chơi đấy ba. Đến lúc này, cả ông Trực, bà Nguyệt mới tƣờng tận bấy lâu nay nó

lén cha mẹ để đeo đuổi học võ và kết quả là nhƣ thế đó. Vậy mà mình nào có hay.

317

Sau buổi tan học, Lộc ghé nhà bạn lấy chiếc cúp - thành quả của một quá

trình khổ luyện thành tài đem về trình báo với cha mẹ. Không còn là hình ảnh nhƣ

hôm qua nữa mà nó hiện diện ngay trƣớc mặt mình, có những dòng chữ nổi bật, cả

nhà không ai giấu đƣợc niềm vui. Bà con thân quen lối xóm biết chuyện cũng

sang ngắm nghía xem cái cúp ấy hình dáng nó ra làm sao, mà họ tranh đua đến

vậy. Riêng ông Trực, bà Nguyệt cố gắng giữ vững sự bình thản, báo cáo với tổ

chức, chuẩn bị cho cậu con trai bƣớc vào một chặng đƣờng mới đầy cam go, sống

mái với quân thù mà chƣa thể lƣờng hết mọi tình huống.

Từ sau giành thắng lợi một cách vẻ vang ấy, tiếng tăm nhà võ sĩ tƣơng lai

đƣợc các nhà chuyên môn toàn miền Nam biết tới và đặt niềm hy vọng cho một

giải quốc tế ở khu vực Đông Nam Á đang tới gần.

Một đội tuyển quốc tế các võ sĩ có đẳng cấp đƣợc tập trung rèn luyện theo

một quy chế đặc biệt để chuẩn bị cho ngày lên đƣờng thi đấu ở Nhật Bản do chủ

nhà đăng cai bao gồm các nƣớc: Thái Lan, Xin-ga-po, Phi-líp-pin, Nam Triều

Tiên, Đài Loan, Nhật Bản... mà Lộc là ngôi sao sáng giá của miền Nam Việt Nam.

Đây là một dịp so tài với các võ sĩ các nƣớc trong khu vực, đồng thời học tập ở

bạn những điều cần thiết cho mình. Càng tới ngày lên đƣờng, mặc dầu rất tự tin

nhƣng Lộc vẫn cảm thấy bồn chồn. Khi chiếc máy bay hàng không dân dụng quốc

tế chuẩn bị cất cánh tại sân bay Tân Sơn Nhất thì một tốp quân cảnh ập tới đọc

lệnh của cục an ninh và bắt Lộc ngay tại chỗ, tống đạt từ máy bay xuống trƣớc sự

ngơ ngác của khách hàng và nhân viên phục vụ. Hóa ra qua nghiên cứu, cục an

ninh tình báo chính quyền Sài Còn đã manh nha nhận ra điều gì đó chƣa ổn với võ

sĩ nhí Dƣơng Quang Lộc có liên quan đến cộng quân, là mối nguy hiểm khó lƣờng

đối với nền an ninh quốc gia. Ngay sau đó, Lộc bị chúng nhốt vào bốt Ca-ti-na

(trên đƣờng Tự Do) Sài Gòn và liệt vào loại đối tƣợng nguy hiểm nhằm tiếp tục

mở rộng cuộc điều tra...

Lật lại hồ sơ của một “Việt cộng nhí”.

Thực ra thì ông Trực, bà Nguyệt là trạm giao liên tình báo nội thành của A54

do đồng chí Tƣ Sắc (Hoàng Đạo) phụ trách. Song đối với bọn mật vụ, tình báo

địch cũng chỉ nắm lơ mơ chứ chƣa có cơ sở chắc chắn để buộc tội. Hơn nữa, Lộc

còn nhỏ tuổi nên khi giao nhiệm vụ giao liên cho cách mạng cũng chỉ có giới hạn

để thử thách. Và chƣa hề biết nhiệm vụ hệ trọng của ba mẹ mình. Song, bản thân

Lộc lại là đối tƣợng mà bọn quân cảnh và mật vụ thƣờng “quan tâm” theo dõi.

Với Lộc bọn quân cảnh khu vực đã từng nhẵn mặt bởi nhƣ bắt cóc bỏ đĩa

cũng tại vì cậu ƣa chơi trò mạo hiểm. Chả là ở Sài Gòn thời bấy giờ có một băng

đảng cƣớp áo đen thƣờng tác oai tác quái, gây tai họa chốn đô thành. Nghe tên

băng cƣớp áo đen ai cũng phải dè chừng. Vậy mà đi học hay đi dạo phố Lộc

thƣờng mặc bộ quần Zin trắng, áo đen nhƣ một sự thách đố bọn quân cảnh. Điều

trái khoáy là chúng cứ tƣởng Lộc cũng nằm trong băng cƣớp áo đen ấy, nên luôn

cảm thấy bất an. Nhiều khi chúng bắt giữ đe nẹt làm tình làm tội đủ thứ mà Lộc

đâu có sợ. Cuối cùng chẳng có chứng cứ nào buộc chúng phải thả. Bạn bè lấy làm

318

ái ngại, thậm chí lo lắng thay cho Lộc, còn Lộc thì cứ tỉnh bơ. Thậm chí khinh

thƣờng cả bọn lính láp: mặc xác nó, mình thích thì cứ mặc, ai cấm đƣợc ta.

Tai hại hơn thế, chính vì vậy mà các trƣờng đều từ chối nhận cậu học sinh

tính khí khác thƣờng này vào học. Ông Trực có chạy cho con mà đều bị họ từ chối.

Chỉ có trƣờng Việt Nam học đường là sẵn sàng chấp thuận. Bởi trƣớc đó Lộc làm

tống thƣ văn (văn thƣ, đánh máy, chuyển thƣ tín) một cách trôi chảy. Học ở đây

không phải trả học phí lại còn đƣợc khoản thu nhập thêm nên rất phù hợp với Lộc.

Bên ngoài trông dáng vẻ của Lộc ra chiều bƣớng bỉnh khó gần nhƣng thực tế

với bạn bè tỏ ra hào hiệp, sẵn sàng đứng ra bênh vực cho lẽ phải. Với thầy cô giáo,

Lộc hết mực kính trọng lễ phép. Giáo sƣ Nguyễn Minh Mẫn là ngƣời thƣờng gần

gũi ngày ấy, nay tuổi đã cao, ở thành phố Hồ Chí Minh thƣờng nhận xét:

- Lộc là một học sinh sáng dạ, tính thẳng thắn sẵn sàng nhận lỗi nếu biết sai,

không hề giấu giếm. Thật ra dáng nam nhi.

Học ở trƣờng này có cái hay là trò đƣợc bồi bổ về tinh thần yêu nƣớc, bởi đội

ngũ giáo sƣ ở đây đều có cảm tình với cách mạng. Chính vì thế mà những rắc rối

có thể ập đến lúc nào mỗi khi có dấu hiệu truyền bá tƣ tƣởng thân cộng cho học

sinh, mầm mống đe dọa nền an ninh quốc gia. Lộc còn nhớ nhƣ in một tai họa

thoát hiểm chỉ trong gang tấc.

Đó là năm học 1966 - 1967, tên Thịnh một tay mật vụ đƣợc địch cài vào lấy

vỏ bọc là “giáo sƣ” để theo dõi đội ngũ giáo viên ở trƣờng. Nhƣng dần dần bộ mặt

thật của chúng cũng bị lộ tẩy. Một hôm nó tỏ thái độ gây gổ chống đối giáo sƣ

hiệu trƣởng Lƣơng Duyên Trinh vốn đƣợc mọi ngƣời kính trọng. Là tuổi mới lớn

đang hăm hở với những điều mới mẻ, trong sáng, bất bình với những gì ngang trái.

Không kìm chế nổi, sẵn cây thƣớc gỗ ở phòng văn thƣ, Lộc phang một phát vào

ống quyển tên chó săn. Nó đau điếng, mặt nhăn nhó nhƣ khỉ, nhƣng biết Lộc là

một võ sĩ nhí có tiếng ở đất Sài Gòn. Không làm gì đƣợc, hắn ba chân bốn cẳng

chuồn thẳng. Song, chỉ mƣời lăm phút sau bọn quân cảnh ập tới thì thầy Lƣơng

Duyên Trinh vừa ra ngoài. Còn Lộc nhỏ bé chúng không ngờ tới dám làm chuyện

động trời ấy thế là thoát hiểm trong gang tấc.

Theo ba mẹ làm quân báo

Sinh năm nào thì cậu không thể nhớ, chỉ biết mình quê ở xã Trực Ninh, tỉnh

Nam Định - một vùng quê chiêm khô, mất mùa đói rét liên miên. Vốn tính nghịch

ngợm, hiếu động và thông minh, thích tìm hiểu những điều mới lạ. Chừng 12 - 13

tuổi cậu bé Dƣơng Tử Trực phiêu bạt xuống Hải Phòng. Thấy cậu khôi ngô, mặt

mày sáng sủa, dáng nhanh nhẹn thông minh dễ thƣơng lắm. Thế là có một vị ở

hãng tầu buôn cảm tình nhận làm con nuôi đƣa xuống tàu. Từ đó, nghiễm nhiên

Trực trở nên một thành viên của chủ hãng đi khắp đó đây. Chặng dừng chân đầu

tiên khi tàu đến thƣơng cảng là Hồng Kông rồi lần lƣợt tới Luân Đôn, Pa-ri, Ấn

Độ... mênh mông khắp đại dƣơng nhƣ thế. Hàng mấy năm trời rồi sau cùng là về

tới Xiêm La (Thái Lan). Và từ đây, theo hƣớng dẫn của các nhà tiền bối ngƣời

319

Việt đã xuất dƣơng trƣớc đó theo họ về đến cố hƣơng. Năm 1926, Trực đặt chân

đến tỉnh Bến Tre thì gặp lúc phong trào Thiên địa hội đang phát triển.

Khởi đầu cho phong trào này ở tỉnh là ông Lê Quang Toán, một nhà trí thức

yêu nƣớc đứng ra thành lập, lôi cuốn đƣợc khá đông thanh niên tham gia. Mặc dầu

bị bọn đế quốc lợi dụng, cấm đoán nhƣng phong trào vẫn cứ phát triển khá sôi nổi.

Số ngƣời này sau ngày 3 tháng 2 năm 1930 Đảng Cộng sản Đông Dƣơng do

Nguyễn Ái Quốc ủy viên quốc tế cộng sản đứng ra thành lập trên đất bạn Trung

Quốc. Ánh sáng của Đảng đã lan tỏa trên mọi miền đất nƣớc. Và hầu hết những

thành viên của phong trào Thiên - Địa - Hội ở Bến Tre đều lần lƣợt đứng vào hàng

ngũ của Đảng, chiến đấu hy sinh cho dân tộc. Ông Lê Quang Toán vừa là thủ lĩnh

phong trào Thiên - Địa - Hội ở Bến Tre và đƣợc kết nạp vào Đảng cộng sản từ

những năm 1930. Ông đã từng bị địch bắt giam ở Bà Rá, vùng rừng thiêng nƣớc

độc Tà Lài, thuộc huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai cùng với các vị lão thành cách

mạng nhƣ: Dƣơng Quang Đông, Trần Văn Giàu. Anh thanh niên đầy dũng khí Tô

Ký lúc ấy mới 19 tuổi cũng bị bắt giam ở đây. Sau này ông trở thành vị tƣớng của

Quân đội nhân dân Việt Nam... Trên nền nhà tù thuở ấy, nay đƣợc thế hệ con cháu

cho dựng lên một tấm bia nhằm tố cáo chứng tích tội ác của kẻ thù. Đồng thời ghi

nhớ công ơn của cha ông không hề tiếc tuổi thanh xuân của mình hiến dâng cho

đất nƣớc mãi mãi trƣờng tồn. Ngƣời chiến sĩ cách mạng Lê Quang Toán hy sinh

tại nhà tù Bà Rá. Sau này, nhiều bạn tù ở đây, trong tác phẩm của mình đã dành

cho nhà cách mạng tiền bối này những dòng cảm kích, tƣởng nhớ và hết sức kính

trọng. Noi gƣơng ngƣời thủ lĩnh của mình, anh Dƣơng Tử Trực tiếp tục dấn bƣớc

trên con đƣờng cách mạng và trở thành Đảng viên cộng sản, nung nấu ý chí giải

phóng đất nƣớc, quê hƣơng.

Sau khi đặt chân lên mảnh đất tỉnh Bến Tre thì gặp luồng gió mới của cách

mạng, Dƣơng Tử Trực đã đƣa lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ hoạt động một cách

say sƣa. Chính nơi đây, anh đã gặp Yến Nguyệt một cô gái xứ dừa duyên dáng và

họ đã nên đôi vợ chồng và cùng bƣớc vào cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp

xâm lƣợc. Ít lâu sau họ đƣa nhau lên Sài Gòn sinh sống và tiếp tục hoạt động trong

đại đội quyết tử của Sài Gòn. Với tính gan dạ dũng cảm và tháo vát, chiến sĩ quân

báo Dƣơng Tử Trực đã bao lần chuyển những bức thƣ của tổ chức, hoặc đƣa đón

cán bộ tuyệt đối an toàn.

Hiệp định Giơ-ne-vơ đƣợc ký kết, thực dân Pháp chịu thất bại, phải rút quân

khỏi bán đảo Đông Dƣơng. Theo qui định của Hiệp định các đơn vị vũ trang ta ở

miền Nam tập kết ra miền Bắc hẹn trở lại sau hai năm thực hiện hiệp thƣơng Tổng

tuyển cử thống nhất đất nƣớc. Cặp vợ chồng đồng thời là hai chiến sĩ quân báo

Dƣơng Tử Trực - Lê Thị Yến Nguyệt, do yêu cầu của tổ chức nên vẫn ở lại tiếp

tục hoạt động trên trận tuyến thầm lặng mà không kém phần quyết liệt giữa đô

thành.

Với bản chất hiếu chiến và cực kỳ xảo quyệt, Mỹ hất cẳng Pháp dựng lên bộ

máy chính quyền mới cực kỳ phản động để đàn áp phong trào cách mạng và tàn

sát những chiến sĩ, đồng bào yêu nƣớc hết sức đẫm máu. Trƣớc tình hình vô cùng

320

sôi sục ấy, để giữ đƣợc đƣờng dây liên lạc thông suốt với tổ chức, có khi đổi cả

mạng sống của chính mình và gia đình.

Chiến lƣợc chiến tranh đặc biệt của Mỹ bị phá sản đƣợc tiếp nối bằng chiến

tranh cục bộ rồi Việt Nam hóa chiến tranh, Mỹ ồ ạt đƣa quân đội viễn chinh cùng

lính đánh thuê của các nƣớc chƣ hầu vào tham chiến. Miền Nam Việt Nam nóng

bỏng hơn bao giờ hết. Trƣớc tình hình ấy, nhiệm vụ của các cơ sở quân báo nội

thành càng hết sức nặng nề cấp bách. Cặp vợ chồng và là đảng viên cộng sản

Dƣơng Tử Trực - Lê Thị Yến Nguyệt, không chỉ thuỷ chung đôi lứa mà còn kiên

trung với cách mạng. Trên bƣớc đƣờng hoạt động nếu có bị địch bắt dù có phải bị

tra tấn dã man, họ nguyện thà chết không hề khai báo để gây tổn thất cho đồng chí,

đồng đội, đồng bào. Và họ đã làm đúng lời thề thiêng liêng và cao quý đó. Sau

nhiều lần thoát hiểm chuyển công văn, tài liệu từ nội thành Sài Gòn về chiến khu

đƣợc trót lọt, giúp cho cấp trên nắm chắc tình hình địch để tìm cách đối phó.

Nhƣng mùa khô năm 1969 - 1970, trong một chuyến công tác lên tỉnh Tây Ninh,

chiến sĩ quân báo đầy bản lĩnh Dƣơng Tử Trực đã ngã xuống dƣới bom đạn của

máy bay Mỹ trúng hầm chỉ huy chiến dịch.

Ông Trực hy sinh, cụm quân báo nội thành mất đi một cán bộ dày dạn kinh

nghiệm. Bà Lê Thị Yến Nguyệt phải oằn mình để gánh vác việc gia đình, nuôi đàn

con bảy đứa ba trai bốn gái hầu hết còn nhỏ, rất cần có chỗ dựa ở cha mẹ. Đặc biệt,

nhiệm vụ về công tác quân báo nội thành, giao liên của cụm, bà Nguyệt - vợ ông

ghé vai gánh vác. Làm nhiệm vụ cách mạng rất có thể hy sinh cả tính mạng.

Chồng mình và nhiều đồng chí đã vậy, còn bản thân cũng sẵn sàng đón nhận chớ

sao. Đã có những lúc ý nghĩ ấy xuất hiện trong đầu, nhƣ để chuẩn bị cho mình có

thêm tƣ thế. Tuy thƣơng ngƣời bạn đời - ngƣời đồng chí bao năm rồi chung chiến

hào đánh thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ nay đã ra đi không một lời giã biệt.

Nhƣng vƣợt lên trên tất cả hoàn cảnh gia đình, mất mát hy sinh là tình yêu đất

nƣớc. Bằng nghị lực của một ngƣời mẹ, ngƣời vợ và trí thông minh, lòng quả cảm

của một nữ giao liên quân báo, Lê Thị Yến Nguyệt đã đi trọn tuổi xuân, hoàn

thành xuất sắc nhiệm vụ tổ chức giao phó một cách khá trọn vẹn. Ngày Tổ quốc

toàn thắng 30 tháng 4 năm 1975 cả đất nƣớc ngập tràn cờ hoa chiến thắng, trạm

giao liên quân báo A54, một mắt xích quan trọng giữa nội thành Sài Gòn dày đặc

cảnh sát, mật vụ... của kẻ thù do Lê Thị Yến Nguyệt phụ trách đã làm tròn chức

năng, nhiệm vụ mà cách mạng giao phó. Và giữa ngày đỉnh cao chiến thắng ấy,

Yến Nguyệt - ngƣời phụ nữ kiên trung bao năm nén chặt trong lòng đã khóc oà

nức nở phần vì vui sƣớng ngập tràn, phần vì nhớ thƣơng ngƣời bạn đời chung

thủy đã không có mặt để chung hƣởng vinh quang cùng dân tộc. Trong tâm thức

của ngƣời nữ giao liên quân báo vẫn còn nhớ nhƣ in ngày 19 tháng 5 năm 1969.

Trận đánh do anh Năm Đức đội trƣởng chỉ huy, chống cự với hai tiểu đoàn Mỹ -

ngụy, có 40 xe tăng, xe bọc thép, máy bay, pháo binh yểm trợ. Vừa mới chân ƣớt

chân ráo từ nội thành ra căn cứ để báo cáo tình hình, thì cũng là lúc cuộc chiến

đấu diễn ra giữa một đội quân báo thuộc cụm A54 vừa chấm dứt. Bà cùng số anh

em khác ra thu dọn trận địa mà chẳng thấy bóng dáng chồng mình đâu cả. Tìm

mãi, tìm hoài thì bỗng bắt gặp đƣợc một cánh tay đã lạnh toát, nhờ chiếc đồng hồ

321

còn đính trên cổ tay mới biết đích thực ông Trực đã hy sinh! Bà chết lặng nhƣ trời

trồng. Hôm sau trở vào thành mà nặng trĩu bởi từ nay không còn chồng để cùng

chia sẻ công việc cách mạng cũng nhƣ việc gia đình với mình.

Để trôi chảy công việc, che mắt quân thù, trong những năm cực kỳ khó khăn

khốc liệt, Yến Nguyệt đã thay đổi hàm răng thật của mình để làm hàm răng giả,

cải trang thành một bà già ngƣời Miên để đi qua Cam-pu-chia. Vì thời điểm ấy, cơ

quan Miền đóng trên đất bạn vào những năm 1969 - 1970 và đã hoàn thành xuất

sắc nhiệm vụ. Vào dịp giỗ ông Trực, bạn bè chiến đấu cụm quân báo A54 rủ nhau

về thắp nhang, thƣờng kể lại câu chuyện cảm động này, ai nấy đều tỏ lòng khâm

phục.

Đƣợc thừa hƣởng sự giáo dục của cha mẹ về tinh thần yêu nƣớc, sớm hun

đúc lòng căm thù giặc. Với bản tính hiếu động nên Lộc muốn thể hiện làm một

việc gì đó khỏi phụ lòng ba má. Đầu năm 1967, Lộc trực tiếp tham gia giao liên

nội thành thuộc quân báo A34 khác đơn vị của mẹ.. Bƣớc đầu, cấp trên chỉ mới

giao những nhiệm vụ đơn giản để thử thách. Nhƣng dần dần, chiến sĩ trẻ tuổi này

đã chứng tỏ việc làm vƣợt lên cả sự từng trải. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết

Mậu Thân 1968, Lộc tham gia chiến đấu ở ngã ba Cây Thị đến trƣờng đua Phú

Thọ luôn thể hiện tinh thần gan dạ, dũng cảm. Đƣợc đồng đội hết lòng tin yêu quý

mến. Sau tổng công kích đợt hai, Lộc lại tham gia đánh địch ở ngã tƣ Bảy Hiền,

quận Tân Bình, trực tiếp tấn công căn cứ tiểu đoàn dù số 3 ngụy và tiểu đoàn lính

Thái Lan (vị trí bệnh viện Thống Nhất hiện nay). Với địa hình thông thạo, Lộc đã

len lỏi qua từng con hẻm để dẫn các mũi đột kích sắc bén, làm cho địch bị động

đối phó. Những loạt đạn tiểu liên AK, thủ pháo, lựu đạn của Lộc đã cùng đồng đội

hạ gục nhiều tên địch ngay trên hƣớng phát triển. Mới chỉ qua một số trận thử lửa

mà những nét độc đáo của chiến sĩ giao liên quân báo ở Lộc đã đƣợc bộc lộ thật

đáng quý, đầy triển vọng.

Chiến dịch Mậu Thân kết thúc, cấp trên giao cho Lộc tìm cách đƣa đồng chí

Tƣ Quy - Tham mƣu trƣởng Sƣ đoàn 5 (công trƣờng 5) từ nội ô về căn cứ Trảng

Bàng, Tây Ninh bằng xe Hon-đa trƣớc sự phong tỏa gắt gao của địch, Lộc nghĩ:

Hy sinh bản thân thì không ngại, nhƣng làm sao đƣa đƣợc cán bộ đi đến nơi,

về tới chốn trong thời điểm nóng bỏng ấy là hết sức nguy hiểm. Một cán bộ có

tầm cỡ hy sinh thì tổn thất cho cách mạng, cho quân đội biết bao? Thôi thì tƣơng

kế, tựu kế vậy. Đây cũng là một dịp thử thách cho mình.

Nói là làm. Thế rồi bằng động tác cải trang che mắt dịch, chiếc Hon-đa 67 lần

lƣợt vƣợt hết trạm kiểm soát này đến trạm kiểm soát khác. Có chỗ chúng còn xem

cả thẻ căn cƣớc đều lọt qua, cả hai đã thấy mừng thầm trong bụng. Song, do sơ

suất nhỏ nhƣng dẫn tới hết sức tai hại. Đó là khi ra vùng ngoại thành tới giáp vùng

Bà Điểm bị trạm kiểm soát địch bắt giữ bởi chúng nghi vấn chiếc xe tắm đầy bùn

đất. Thời buổi này bọn Việt cộng hay trà trộn lắm - chúng kháo nhau nhƣ vậy lọt

tới tai Lộc.

322

Tình thế thật nan giải, cả hai đều hết sức bình thản không để hiện rõ nét mặt

âu lo. Những kinh nghiệm ứng phó trƣớc muôn vàn tình huống đối với một chiến

sĩ giao liên nội thành, tuy còn rất trẻ nhƣng đã mách báo điều ấy với Lộc.

Trong khi bị chặn xe để xét hỏi lúc trời đã sẩm tối, Lộc nhanh ý rút chìa khóa

xe Hon-đa, dùng ngón chân dí sâu xuống cát mà không quên nhớ điểm đánh dấu.

Một tên lính dắt chiếc xe vào nhà mà không hề để ý tới chìa khóa. Mặc dầu mới ở

mức nghi vấn nhƣng chúng đã tìm mọi biện pháp quản lý chặt chẽ. Bởi vậy, mỗi

ngƣời bị chúng nhốt riêng vào một chuồng cọp đan bằng dây kẽm gai với kích

thƣớc dài 2 mét cao chỉ 1 mét, khóa chặt nhƣ nhốt một con vật. Mỗi chuồng cách

xa dăm bảy thƣớc nên khó có thể liên lạc đƣợc với nhau. Nhƣng trong cái rủi lại

gặp cái may. Bởi nhiều lần bị lực lƣợng ta tấn công, không ít tên bị đền tội, vì vậy

ban đêm không dám ngủ tại nơi đồn trú mà đƣa nhau đi nơi khác để tránh thiệt

mạng. Một vài tên canh gác nhƣng về khuya cũng lẻn đi nốt. Hơn nữa, với hai cũi

sắt đƣợc bao bọc dây kẽm gai nhốt hai tên cộng quân tƣởng đã chắc chắn. Lợi

dụng cơ hội này, Lộc đã tìm cách tháo đƣợc dây kẽm gai chui ra. Sau đó lần tới

chỗ anh Tƣ Quy tiếp tục xử lý mà không mấy khó khăn. Rồi bình tĩnh tìm tới nơi

hồi chiều giấu chìa khóa xe, lấy thêm xăng rồi cả hai bí mật dắt xe ra tới điểm nhất

định, bắt đầu nổ máy và thẳng tiến mà chúng không hề hay biết.

Kẻ địch thật nham hiểm, xung quanh nơi đóng quân đều cài mìn căm bẫy.

Đặc biệt khu vực đặt chuồng cọp đều có cài trái, chỉ một sơ suất là khó lòng thoát

hiểm. Bằng sự nhạy bén của một chiến sĩ quân báo, Lộc đã làm mất tác dụng của

những vật quái ác đó để trở về. Trời sáng dần, về tới huyện Trảng Bàng (giáp Củ

Chi) gần trạm giao liên quân báo mới thấm mệt. Tại đây địa bàn ta quản lý tƣơng

đối an toàn, đƣợc anh chị em du kích tiếp đón, chăm sóc chu đáo. Điều phấn khởi

là gặp chú Hoàng Đạo cụm trƣởng quân báo động viên khen ngợi về tinh thần

dũng cảm, quyết đoán đƣa đón cán bộ đến nơi an toàn trƣớc những::. tình huống

hết sức nguy hiểm. Lúc ấy là vào thời điểm tháng 5 năm 1968 và cũng sau lần thử

thách ấy, Dƣơng Quang Lộc thực sự đã trƣởng thành, rồi anh đƣợc bổ sung về

Tổng cụm quân báo.

Làm thành viên của tiệu đội Gang Thép

Tiểu đội Gang Thép ra đời từ hồi nào thì Lộc không hay biết, nhƣng sau

chuyến đƣa cán bộ về đây thì đồng chí Hoàng Đạo (Tƣ Sắc) cụm trƣởng quân báo

A34 gọi Lộc ra nói riêng:

- Lộc này, cháu có thể vào tiểu đội Gang Thép đƣợc đấy!

Chƣa hiểu nội dung tiểu đội này làm cái gì nhƣng khi nghe tên Gang Thép thì

với Lộc hết sức thích thú. Chắc có cái gì đó mạo hiểm, đòi hỏi cả sự hy sinh mà

ngƣời bình thƣờng không dễ gì làm đƣợc.

- Thƣa chú Tƣ, con chƣa hiểu rõ nhiệm vụ nhƣng nghe nói đƣợc làm thành

viên của tiểu đội Gang Thép thì rất thích chú ạ.

-Hay lắm, hay lắm, để chú nói Lộc nghe đây - ông Tƣ Sắc giải thích:

323

- Nhiệm vụ của tiểu đội Gang Thép là săn Mỹ, ngụy, Úc dọc sông Sài Gòn.

Nhƣng bọn lính Mỹ là nhiều nhất. Phải chặn bàn tay tội ác của chúng từ sông Sài

Gòn lên chiến khu Bời Lời, Thanh An, Bến Súc, xóm Cầu Đá thuộc tỉnh Tây Ninh,

Bình Dƣơng.

Vừa giao nhiệm vụ nhƣng ông nhìn vào gƣơng mặt của ngƣời chiến sĩ trẻ nhƣ

để thăm dò trạng thái tâm lý của Lộc. Cháu thấy thế nào?

Nhƣ đã đƣợc chuẩn bị, với sự háo hức, Lộc trả lời:

- Thƣa chú Tƣ, con đã từng luồn lách, tránh né địch để đƣa thông tin đi các

hang cùng ngõ hẻm từ nội thành ra căn cứ và ngƣợc lại. Nhiều khi “thèm” đánh

giặc quá trời mà chẳng đƣợc, sợ vi phạm quy chế, nay đƣợc tìm Mỹ mà đánh, tìm

ngụy mà diệt thì còn gì vui bằng ạ.

Tính khí thằng nhỏ giống cha nó quá đi thôi. Hăng hái, quả cảm, con nhà nòi

có khác - ông Tƣ nghĩ vậy. Thôi đƣợc, kể từ giờ phút này, cháu là thành viên

chính thức của tiểu đội Gang Thép, tha hồ mà tung hoành đó nghe cƣng.

-Rõ! Lộc trả lời một cách dứt khoát, tự tin thật là hồn nhiên, làm ngƣời chỉ

huy từng trải này nhƣ thấy cay cay nơi khóe mắt. Ông nghĩ bụng: tuổi trẻ nếu

đƣợc giáo dục, giác ngộ thì tình yêu đất nƣớc nhân lên bội phần, bất chấp gian khổ,

hy sinh...

Để kịp thời phát hiện mọi hoạt động của ta ở vùng giáp ranh với căn cứ, hậu

cứ. Ngoài các phƣơng tiện máy bay dò thám, địch thƣờng tung các toán biệt kích,

thám báo hoạt động. Chính bọn này hết sức lợi hại. Chúng kết hợp với bọn tình

báo tại chỗ gây cho ta những tổn thất đáng tiếc. Và chính tiểu đội Gang Thép của

cụm quân báo A34 ra đời làm cho chúng bao phen điêu đứng, không dám ngang

tàng nhƣ trƣớc, tạo thế vững chắc cho địa bàn đứng chân và mở rộng hoạt động.

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968, địch ra sức ruồng bố

ráo riết, nhiều cơ sở cách mạng nội thành bị tróc. Những cơ sở còn giữ đƣợc bí

mật thì tạm thời im ắng chờ đợi. Nhiều nơi bị đứt liên lạc nên sự chỉ đạo đối với

cấp trên gặp nhiều trở ngại. Theo chỉ thị của cụm quân báo A34, tiểu đội Gang

Thép sẵn sàng tung vào nội thành khôi phục lại những cơ sở bị gián đoạn, đó là

thời điểm tháng hai năm Kỷ Dậu 1969. Giai đoạn này địch phong tỏa các tuyến ra

vào hết sức nghiêm ngặt. Còn ở vòng ngoài, nhất là quanh các đô thị lớn chúng

mở những cuộc càn quét đánh phá dữ dội để hòng tiêu diệt lực lƣợng cách mạng.

Sau thời gian học tập chỉnh huấn để quán triệt tình hình nhiệm vụ, tiến hành trang

bị vũ khí cho chuyến lên đƣờng.

Tiểu đội Gang Thép có tám anh em, tuổi đời từ 18-19, riêng Lộc bƣớc vào

tuổi 20, nhỏ nhất là Tùng 16 tuổi, quê ở tỉnh Bến Tre, kế đó là Xe 17 tuổi. Trang

bị có sáu khẩu AK, mỗi khẩu chỉ một băng đạn 30 viên. Còn Lộc đƣợc đảm nhiệm

khẩu AK và tám trái đạn AT để bắn xe tăng, xe bọc thép khi cần thiết. Mọi công

tác chuẩn bị xong xuôi để sáng mai xuất phát. Nhƣng không ngờ cái buổi sáng

định mệnh ấy, với một sự trùng hợp lạ lùng, lữ đoàn biệt kích 101 của Mỹ đã tung

hai tiểu đoàn với nhiều xe tăng, xe bọc thép, có nhiều máy bay, pháo binh yểm trợ

324

mở trận càn cầu Xe, xã Bùng Binh, huyện Trảng Bàng gần Bến Dƣợc, đƣờng số 6

(huyện Củ Chi hiện nay) bao vây đội hình toàn tiểu đội. Chúng triển khai quân từ

rất sớm và cứ thế khép chặt. Tham chiến dọc đƣờng hành quân là vạn bất đắc dĩ,

nhƣng trong tình huống ngặt nghèo này không còn cách nào khác là tất cả triển

khai chiến đấu. Nhƣng xác định là chỉ cầm cự chờ trời tối để tiếp tục cuộc hành

quân tiếp theo nhiệm vụ cấp trên giao phó công tác nội thành. Song tình thế thật là

nguy hiểm. Cuộc chiến đấu diễn ra hết sức bất lợi cho tám chiến sĩ quân báo với

trang bị gọn nhẹ cùng một bên hai tiểu đoàn thiện chiến của Mỹ, trang bị hiện đại.

Nhƣng bằng ý chí đặc biệt ngoan cƣờng, anh dũng vô song. Các lính Mỹ nhƣ

những tấm bia thịt thi nhau đổ gục. Song chúng ỷ vào số đông cứ điên cuồng xông

lên nhƣ lũ thiêu thân. Bằng lối đánh thiên biến vạn hóa, xuất quỷ nhập thần. Hết

cơ số đạn thì lấy vũ khí địch giáng trả lại chúng. Cuộc chiến giằng co từ sáng sớm

cho tới 5 giờ chiều, xác lính Mỹ nhƣ sung rụng trƣớc tiền duyên trận địa. Màn

đêm sắp buông xuống, trực thăng Mỹ đến chở xác đồng bọn và những tên sống sót

bại trận. Về phía ta, sáu anh em hy sinh cực kỳ anh dũng, chỉ một ngƣời bị thƣơng

tên là Dũng, nhƣng vẫn tìm cách thoát ra khỏi vòng vây địch. Riêng Lộc bị thƣơng

rất nặng vào ngực, vào tay và ngất lịm tại trận địa. Khi tỉnh dậy vào ngày hôm sau

mới hay mình bị địch bắt, hai tay còn bị trói chéo cánh sẻ, máu me đầm đìa đã khô

sậm lại trên bộ quần áo chiến trận, nằm trong một chiếc xe tăng Mỹ. Qua tên

thông ngôn, Lộc nghe thấy chúng chở mình về Hố Nai - Biên Hòa nhốt chung với

số anh em khác cùng chung cảnh ngộ. Tối hôm ấy, cụm trƣởng A34 Hoàng Đạo

có mặt tại trận địa để nắm tình hình nhằm lúc lực lƣợng dân quân du kích quanh

vùng chuẩn bị võng để khiêng cáng thƣơng binh và chôn cất tử sĩ. Đến lúc này họ

mới hay ta chỉ có tám chiến sĩ của tiểu đội Gang Thép, vậy mà dám cầm cự với

hai tiểu đoàn lính Mỹ, gây cho chúng thất bại nặng nề. Thật kỳ diệu làm sao!

Chúng giam giữ Lộc ở nhà tù Hố Nai gần bốn tháng, đến ngày 19 tháng 6 năm

1969 thì chở ra giam ở đảo Phú Quốc. Nhờ chiến thắng của quân và dân ta để có

hiệp định Pa-ri, tháng 3 năm 1973, anh đƣợc trả tự do ở nam sông Thạch Hãn, tỉnh

Quảng Trị.

Đƣợc kết nạp Đảng trong nhà tù Mỹ - ngụy

Lộc kể: từ ngày ra nhà tù Phú Quốc, tôi bị giam ở nhà trại A2 mà chúng xếp

vào dạng “cứng đầu” hoặc “bất trị”. Ở trại này có chi bộ Đảng lãnh đạo do đồng

chí Hai Thƣơng làm Bí thƣ - với bí danh là Tƣ Trƣờng Hận. Nói đến Hai Thƣơng

chắc nhiều bạn đọc xa gần trong nƣớc đều đã biết. Anh là một cán bộ đặc công

biệt động thành Sài Gòn kiên cƣờng. Trong một trận đánh ở nội ô, anh bị địch bắt

rồi đầy ra đảo Phú Quốc. Mỗi lần bị tra tấn cực kỳ man rợ của kẻ thù là chúng cƣa

sống một khúc chân. Sau ngày miền Nam giải phóng, anh đƣợc Nhà nƣớc tuyên

dƣơng Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân. Thƣơng binh loại đặc biệt bị mất cả

hai chân, hiện còn sống ở quận Tân Bình thành phố Hồ Chí Minh. Anh là một

hình ảnh tuyệt đẹp về ý chí chiến đấu và lòng trung thành vô hạn với Tổ quốc và

nhân dân, vì lý tƣởng cộng sản chân chính.

Đầu năm 1970, tin từ ngoài do anh Hai Thƣơng và anh Năm Vũ (hiện Phó bí

thƣ thƣờng trực Quận ủy, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh) cho hay: có một tên

325

mật vụ vừa đào tạo từ Phi-lip-pin về, đƣợc địch trà trộn để phát hiện tổ chức lãnh

đạo của ta trong nhà tù. Nhất là đối với ngƣời chủ chốt, có uy tín với anh em tù.

Tôi nhận chỉ thị của đồng chí Bí thƣ chi bộ Đảng Tƣ Trƣờng Hận là phải tìm cách

vô hiệu hóa tên này. Mấy chữ “vô hiệu hóa” còn có phần trìu tƣợng đối với tôi lúc

bấy giờ. Nhƣng suy ra tôi nhận thấy tên này đặc biệt nguy hiểm. Để nó tồn tại

ngày nào thì phong trào bị uy hiếp, anh em ta ở tù sẽ bị khủng bố khốc liệt. Nhƣng

loại trừ nó bằng cách nào là không đơn giản, bởi nó đô con, xảo quyệt lại có sự

chở che của bọn cai ngục. Nhƣng “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, với sự mách

bảo trong ứng phó của một chiến sĩ quân báo đã đƣợc thử thách trong chiến đấu,

tôi đã tìm ra cho mình một hình thức khá mạo hiểm.

Trƣớc hết tôi cố ý gây xích mích đối với nó mà các bạn tù đều nhận thấy.

Đồng thời tôi thủ sẵn một đoạn thép độ dài 20 cm, mài thật nhọn làm vũ khí. Chờ

cho điện các phòng tắt và mọi ngƣời chìm sâu vào giấc ngủ, bằng một động tác

nhanh gọn và cực kỳ chính xác, tôi tiếp cận tên thủ ác. Ánh điện từ ngoài hắt vào,

sáng vàng vọt nhƣng đủ để cho tôi quan sát thật kỹ tên mật vụ. Và nhanh nhƣ cắt,

đoạn thép bén nhọn đã xuyên thủng từ lỗ tai vào tận óc làm nó chỉ ớ lên một tiếng

nhẹ và lịm dần. Chờ cho nó thực sự tắt thở, tôi mới trở về vị trí của mình nhƣng

lòng dạ cứ bồn chồn không thể nào chợp mắt đƣợc, bởi tìm mƣu tính kế đấu tranh

trực diện với bọn chúa ngục và xác định cho mình quyết sinh tử với chúng, dù có

phải hy sinh.

Đúng nhƣ nhận định của tôi, sáng hôm sau khi tiếng kẻng báo thức, điện các

trại giam bật sáng, các bạn tù rậm rịch dậy nhƣ thƣờng lệ. Nhƣng trại giam A2,

anh em la lên có một “tù nhân” bị chết, máu lênh láng với tấm thân sõng soài. Tin

này đến tai bọn quản trại và ban giám thị. Một cuộc lục vấn, tra khảo diễn ra toàn

trại, rất có nguy cơ dẫn tới anh em thiệt mạng. Hơn ai hết, bọn chúa ngục thừa biết

tên mật vụ nguy hiểm đƣợc trên phái về thừa hành công vụ, mất bao nhiêu tiền

của đào luyện từ nƣớc ngoài chƣa làm đƣợc trò trống gì đã bị cộng quân phát hiện

và thủ tiêu một cách âm thầm.

- Phải ra tay tìm kẻ thủ phạm và trừng trị đích đáng! Đó là khẩu khí của tên

trƣởng đảo đƣợc nhanh chóng tới tai tổ chức chi bộ Đảng của trại từ cơ sở ngoài

đƣa vào.

Không thể cho chúng đàn áp tràn lan để tìm ra thủ phạm. Một không khí im

ắng xen lẫn lo lắng bao trùm khắp trại. Ngay lập tức, những tên chúa đảo mặt sát

khí đằng đằng ập vào thị uy:

- Ai giết “tên” này? Ai?

Trong khi mọi ngƣời còn nhìn nhau chờ đợi, lo lắng cho số phận của nhau

nhƣng không hề tỏ ra sợ hãi mà sẵn sàng kết thành đội ngũ để tranh đấu, thì tôi lên

tiếng:

- Tao giết. Tao giết nó đấy, bởi nhiều lần nó cậy to con ức hiếp tao.

A... a... Tên này to gan thật? Tên giám thị nói một cách hằn học nhƣ vậy.

326

Sau vụ động trời ấy, chúng tách tôi khỏi trại A2 để giam riêng một phòng.

Mọi chế độ ăn uống có phần khác hơn trƣớc cùng ở chung trại. Đây là một dấu

hiệu khác thƣờng, cần hết sức cảnh giác với âm mƣu thâm độc của kẻ thù. Tôi

nghĩ vậy và chờ đón sự nguy hiểm sẽ đến với mình bất cứ lúc nào. Nhƣng điều ấy

chƣa kịp diễn ra. Sau đó ít lâu chúng chuyển tôi từ nhà tù Phú Quốc ra giam ở nhà

tù Côn Đảo và kèm theo tội danh là “tù chính trị phạm” với một bản án nặng hơn.

Nhƣng phía Mỹ không chịu, nên buộc chúng trả lại Phú Quốc cùng giam chung ở

trại A2 trƣớc đây.

Nếu nhƣ khi chúng tách tôi ra khỏi trại, anh em bạn tù lo lắng cho tôi bao

nhiêu vì sợ nó tìm cách thủ tiêu, thì nay phấn khởi bấy nhiêu. Bởi chúng đã thất

bại trong âm mƣu cài cắm mật vụ nhƣng không thành. Tinh thần đoàn kết đấu

tranh ở các trại càng lên cao, tin tƣởng cuộc chiến đấu của dân tộc sẽ đến ngày

toàn thắng, dù còn phải trải qua gian khổ, hy sinh.

Thế là tôi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng giao, mặc dầu lúc ấy tôi còn

là một quần chúng đối tƣợng Đảng. Và cũng từ trại giam A2 này của đế quốc, một

sự kiện hết sức ý nghĩa đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đó là

đƣợc chi bộ nhà tù kết nạp tôi vào Đảng nhân dân cách mạng miền Nam, do đồng

chí Tƣ Trƣờng Hận (Hai Thƣơng) Bí thƣ chi bộ, đồng chí Năm Vũ và đồng chí

Thanh chủ trì. Cờ Đảng kỳ và Quốc kỳ đều là tƣợng trƣng. Lời thề trƣớc khi vào

Đảng cũng chỉ là âm thầm. Kể từ giờ phút ấy, ngày 8 tháng 12 năm 1970 tôi chính

thức trở thành đảng viên của Đảng cho tới hôm nay - Ba mƣơi tƣ năm đứng trong

hàng ngũ của những ngƣời cộng sản. Chỉ thƣơng đồng chí Thanh hy sinh sáng

ngày 30 tháng 4 năm 1975 trƣớc ngày Tổ quốc toàn thắng mấy tiếng đồng hồ. Cái

giờ phút ấy đối với tôi sao mà thiêng liêng và kiêu hãnh bội phần. Mỗi lần nhớ lại,

tôi càng vui sƣớng và tự hào lắm thay.

Gặp lại ngƣời cụm trƣởng giữa Thủ đô Hà Nội

Tháng 3 năm 1973 tôi đƣợc trao trả tại bờ nam sông Thạch Hãn, tỉnh Quảng

Trị, sau đó Nhà nƣớc cho đi điều dƣỡng ở huyện Nam Trực, tỉnh Hà Nam Ninh

(giờ là Nam Định). Đầu năm 1974, về học ở trƣờng Sĩ quan Đặc công. Cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc của dân tộc sắp bƣớc vào giai đoạn tổng công

kích để đi tới toàn thắng. Đầu năm 1974 ấy, một số học viên trong đó có tôi tăng

cƣờng cho chiến trƣờng miền Nam rồi vinh dự tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Sau đó trở về trƣờng tiếp tục học tập và năm 1976 tốt nghiệp ra trƣờng rồi làm

công tác huấn luyện nghiệp vụ cho bạn. Tháng 7 năm 1977, về nhận nhiệm vụ Đại

đội trƣởng, Đoàn Đặc công 113.

Một lần đi dạo phố, tình cờ gặp chú Tƣ Sắc (Hoàng Đạo) ngƣời cụm trƣởng

quân báo A34 nội thành Sài Gòn ngày nào giữa Thủ đô Hà Nội. Tôi vui sƣớng quá

liền la lên một tiếng: Chú T...ƣ......ơ...i... rồi chạy ào lại ôm chầm lấy ông nhƣ cha

với con vậy. Lúc ấy nƣớc mắt tôi đầm đìa không thể nào ghìm nén nổi. Còn chú

Tƣ, một vị chỉ huy dạn dày trận mạc cũng sững sờ, chớp chớp hàng mi tỏ ra hết

sức mừng rỡ, vui sƣớng vì quá bất ngờ. Một lúc, chú mới cất tiếng:

327

- Lộc, gặp con ở đây chú cứ ngỡ nhƣ con từ trên trời rơi xuống. Đã lâu, chú

cứ lần tìm mà đinh ninh con đã hy sinh cùng với tiểu đội Gang Thép rồi chớ? Con

biết không, trận đánh với hai tiểu đoàn biệt kích dù phiên hiệu 101 của Mỹ ở Cầu

Xe, xã Bùng Binh, Trảng Bàng năm ấy là một chọi với trên một trăm. Vậy mà

phần thắng không phải thuộc về số đông nhƣ Mỹ thƣờng ảo tƣởng. Tiểu đội Gang

Thép đã xứng đáng với cái tên kiêu hãnh của nó. Các con đã diệt 157 tên lính Mỹ,

bắn cháy 15 xe tăng, xe bọc thép, làm bị thƣơng chắc chắn số lƣợng không nhỏ.

Ta đã chặn đứng cuộc hành quân càn quét, đánh phá địa bàn, ngăn chặn lực lƣợng

quân giải phóng của địch. Nó đã nếm một đòn thất bại cay đắng. Đây là tổng hợp

tin tức tình báo của ta và cả của địch thừa nhận, khá chính xác đó. Chú kể tiếp: sau

khi vừa im tiếng súng, chú ra trực tiếp hiện trƣờng, cho ngƣời tìm kiếm khắp trận

địa không gặp một thi thể liệt sĩ nào còn lại, bởi cũng đinh ninh anh em đã hy sinh

hết. Nào ngờ... Chú Tƣ ngắm nghía tôi nhƣ ngắm đứa con trai đẻ của mình đã sáu

- bảy năm mới gặp lại. Chú nói:

- Chú nhìn con lại hình dung cha mày tái hiện vậy. Cƣơng trực, thẳng thắn,

một lòng sắt son với Đảng, với cách mạng, đi theo ngọn cờ cứu nƣớc của Bác Hồ.

Hãy nối chí ngƣời cha là liệt sĩ một cách xứng đáng nghe con.

Nghe những lời chú Tƣ căn dặn hôm ấy mà tôi liên tƣởng sự nhắc nhở trƣớc

giờ phút gia nhập tiểu đội Gang Thép thuở nào vậy. Gặp lại chú Tƣ ngƣời cụm

trƣởng quân báo tài ba, thấy ông mạnh khỏe, bình an sau cuộc chiến. Còn chú Tƣ

cũng biểu hiện niềm vui khi biết ngƣời lính nhỏ con, gan dạ của mình vẫn còn

sống sót trƣớc những sự kiện dữ dội giữa cuộc thi gan với quân thù. Lộc, con thật

xứng đáng với dòng máu bất tử của cha mày.

Anh thƣơng binh ngƣời Sài Gòn trên biên giới phía Bắc

Tôi đã từng nghe kể và trực tiếp chứng kiến những câu chuyện về Dƣơng

Quang Lộc nhƣ là huyền thoại với muôn vàn cảm kích.

Đó là vào thời điểm sau tết Nguyên đán năm 1979, tàn quân Pôn Pốt từ khu

vực núi Tƣợng Năng thuộc tỉnh Tà Keo, Cam-pu-chia nống lấn vùng giải phóng,

giết hại dân lành của bạn. Tiểu đoàn 198, Trung đoàn Đặc công 113 chúng tôi có

nhiệm vụ luồn sâu khám phá các kho tàng của địch. Đại đội 3 do Lộc chỉ huy đã

phát hiện ở chân núi Tƣợng Năng hai dãy nhà kho hàng chục gian, nửa chìm, nửa

nổi chứa toàn vũ khí đạn dƣợc. Khi có nguy cơ rơi vào tay đối phƣơng, chúng huy

động cả lực lƣợng bộ binh, pháo binh và xe tăng tấn công ngăn chặn. Dƣới làn đạn

địch bắn nhƣ mƣa, mà lạ thay Lộc nhƣ sắt nhƣ đồng vậy, luôn tỏ ra bình tĩnh lạ

thƣờng. Nhìn phong thái ngƣời đại đội trƣởng của mình trƣớc sự sống và cái chết

vẫn nhẹ tênh mà ai nấy cảm phục làm sao. Quả thật, các đợt hùng hổ phản kích

của địch đều bị ta bẻ gãy. Trong đó có đại đội 3 chủ công do Lộc chỉ huy.

Sau khi lật cánh lên biên giới phía Bắc, trƣớc khi đối phƣơng rút quân về

nƣớc chúng đã cài lại những bãi mìn dày đặc. Nếu không đƣợc khắc phục sẽ gây

hậu quả cho ngƣời và gia súc. Nhận thấy điều ấy, đơn vị chúng tôi đã chủ động

triển khai thực hiện và đã xử lý đƣợc đáng kể các loại mìn quái ác đó. Nhƣng

trong quá trình tiến hành, một quả mìn díp loại M14 phát nổ đã tiện mất một cẳng

328

chân của Lộc và dập một cánh tay với nhiều mảnh găm vào ngƣời. Đặc biệt, bộ

phận sinh dục bị tổn thƣơng rất nặng. Đây là trƣờng hợp hãn hữu trai Sài Gòn bị

thƣơng nặng trên biên cƣơng phía Bắc vào thời khắc lịch sử ấy. Đƣợc sự chăm sóc

của thầy thuốc, sau thời gian điều trị tại viện Trung ƣơng Quân đội 108, xếp

thƣơng tật loại 1/4 mất 81 phần trăm sức khỏe.

Trở lại Sài Gòn giữa một đô thị lớn còn bao chồng chất khó khăn của hậu quả

do cuộc chiến tranh để lại khá nặng nề. Cơm áo gạo tiền không phải là chuyện đùa

cho cuộc sống mỗi gia đình. Thƣơng tật trầm trọng, sức khỏe sa sút lại thêm ngƣời

vợ chƣa kịp có con đã thay lòng, đổi dạ... bấy nhiêu thứ cộng lại tƣởng chừng làm

cho Lộc tạo nên những cú sốc nặng nề. Song, điều ấy có tới cũng qua đi rất nhanh

bởi Lộc đã tìm niềm vui trong công việc tại địa phƣơng. Cao hơn thế là bản lĩnh

vững vàng của một ngƣời lính.

Bƣớc đầu cấp ủy, Đảng, chính quyền, đoàn thể và ngƣời mẹ già - một chiến

sĩ giao liên quân báo kỳ cựu không khỏi ái ngại cho sức khỏe của Lộc. Anh đề

xuất đƣợc đảm nhiệm một công tác cụ thể nào đó để làm. Thấy anh hăng hái nhiệt

tình, lại có năng lực tập hợp giáo dục thanh niên đƣa họ vào hoạt động phong trào

và cảm hóa những thanh thiếu niên chậm tiến. Dần dần, chính anh trở thành sự

chú ý của mọi ngƣời. Thấy anh làm đƣợc việc, Đảng ủy, chính quyền mạnh dạn đề

bạt anh làm Phƣờng đội trƣởng phƣờng 7, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí

Minh và đƣợc Ban Chỉ huy Quận đội chuẩn y. Trong thời gian gần bảy năm từ

1980 đến 1987 là đại biểu Hội đồng nhân dân, anh đã đáp lại lòng tin của tập thể

lãnh đạo và nhân dân phƣờng. Hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ đƣợc giao. Nhiều

năm liền Phƣờng đội đạt đơn vị quyết thắng. Riêng anh, bốn năm liên tục đạt danh

hiệu Chiến sĩ thi đua cấp quận và một năm Chiến sĩ thi đua cấp thành phố. Không

ít thanh thiếu niên chƣa ngoan đƣợc anh giáo dục cảm hóa đã tiến bộ rõ nét gia

nhập lực lƣợng phƣờng đội, giữ gìn an ninh trật tự hoặc vào quân đội làm nghĩa

vụ quân sự. Hai năm tiếp theo 1988 - 1989 anh đƣợc bề bạt làm Phó phòng Lao

động Thƣơng binh-xã hội quận Phú Nhuận. Trong thời gian làm phƣờng đội

trƣởng, anh đã xử lý một tình huống hết sức mạo hiểm mà dƣ âm mãi tới bây giờ.

Đó là vào đầu năm 1981, thành phố tổ chức xây dựng trung tâm phục hồi

chức năng trẻ bại liệt tại số 1 đƣờng Lý Thƣờng Kiệt, quận Phú Nhuận. Trong quá

trình cải tạo mặt bằng thì gặp một khu vực là nơi trƣớc đây Mỹ, ngụy vứt lại các

loại mìn và đầu đạn chƣa nổ hết sức nguy hiểm. Ban chỉ đạo công trình báo cáo

với quận đội cử ngƣời tới xử lý nhƣng vào thời điểm ấy đại đội công binh đều đi

làm nhiệm vụ ở biên giới Tây Nam. Chờ đợi ngày nào thì công trình bị ngƣng trệ

thi công ngày đó.

Với bản lĩnh gan góc, lại đƣợc huấn luyện bài bản ở trƣờng Sĩ quan Đặc công

nên Lộc rất tự tin. Song, mọi ngƣời đều lo lắng cho anh với nhiều lẽ: mạnh khỏe

thì đã đành, đằng này anh chỉ còn một chân một tay. Cánh tay còn lại bị gãy nên

nay rất yếu. Trong khi đó các loại mìn, lựu đạn, đầu đạn cối, M79... rất nguy hiểm

có thể phát nổ bất cứ lúc nào, trực tiếp đe dọa đến tính mạng. Là ngƣời đứng đầu

Đảng bộ phƣờng, nữ đồng chí bí thƣ Đảng ủy Hai Hoài đề xuất:

329

- Anh Lộc, hay là ta yêu cầu chờ thành đội xuống, nhƣ vậy sẽ yên tâm hơn.

Tuy nhiên sẽ kéo dài thời gian, anh Lộc thấy thế nào?

Vốn bản tính vui vẻ lại pha chút hài hƣớc còn đậm đà chất lính, Lộc dõng dạc

nói:

- Đồng chí Bí thƣ cứ yên chí, tôi đã mất gần hai chi rồi, nếu còn tiếp tục mất

nữa cũng chẳng sao. Nói đoạn, anh kéo chiếc xe ba gác vào hiện trƣờng trong sự

hồi hộp đến nín thở của mọi ngƣời. Một số anh em phƣờng đội định sáp vô phụ

giúp, nhƣng nhất định anh không cho vì đề phòng nguy hiểm đến tính mạng nhiều

ngƣời.

Kết quả, các loại mìn, đầu đạn tai ác ấy đƣợc anh gom nhặt, nhẹ nhàng xếp

từng lớp lên xe rồi lót từng lớp cát thật êm. Bởi anh thừa biết rằng có những loại

đầu đạn nhƣ M79, nếu sơ ý chạm nhẹ có thể phát nổ làm kích thích các loại khác

nổ theo. Và hai xe ba gác đƣợc chất đầy các thứ kia chở đi nơi khác một cách

tuyệt đối an toàn. Tính ra có tới mấy trăm món nguy hiểm nhƣ thế đƣợc anh vô

hiệu hóa trƣớc sự khâm phục đến ngỡ ngàng của mọi ngƣời. Và trên một trăm cán

bộ, công nhân lại hối hả tiếp tục thi công công trình mau chóng hoàn thành đƣa

vào sử dụng, phục hồi chức năng cho những đứa trẻ thiếu may mắn. Đa số trong

các cháu ấy do hậu quả chiến tranh để lại.

Trở thành vận động viên mô tô đi khắp đất nƣớc

Mặc dầu thƣơng tích đầy mình, nhƣng từ năm 1990, Lộc xin nghỉ công tác

Phòng lao động thƣơng binh xã hội quận Tân Bình để không phải “ngồi chơi xơi

nƣớc” một cách bình lặng mà nhằm thực hiện một ý tƣởng hết sức táo bạo mà cả

ngƣời khỏe mạnh, lành lặn có khi không dám: Trở thành tuyển thủ mô tô hành

hƣơng khắp mọi miền đất nƣớc, loại xe có dung tích từ 400cc

đến 1340cc

. Đây là

một hình thức thể thao nhƣng lắm bất trắc mà khá tốn kém, không phải ai muốn

cũng làm đƣợc. Với Dƣơng Quang Lộc không là ngoại lệ. Thế rồi anh kiên trì tập

luyện, nâng dần trình độ qua các kỳ sát hạch để khẳng định về mặt chuyên môn và

kỹ năng trên lộ trình. Các loại mô tô từ 400cc

đến 1340cc

anh đều sử dụng thành

thục và quyết định làm đơn xin gia nhập liên đoàn vận động viên mô tô. Số tuyển

thủ và nhân viên phục vụ không nhiều, khoảng 100 ngƣời với 80 chiếc xe mô tô,

toàn những thành viên có máu mặt. Đã có lúc lóe lên trong đầu Lộc: có lẽ mình vô

diện chẳng giống ai, bởi thấp bé nhẹ cân lại thƣơng binh loại đặc biệt. Nhƣng cứ

tham gia cho biết, mình lại có cơ hội viễn du đây đó khắp đất nƣớc rộng, dài xem

phong cảnh kỳ vĩ tới đâu. Thế là anh hạ quyết tâm nhập cuộc. Sau một thời gian

lâm thời, liên đoàn tổ chức đại hội, anh đƣợc bầu vào làm ban chấp hành và kiêm

ủy viên thƣ ký. Chức danh này xem ra cũng khá quan trọng.

Phƣơng châm hoạt động của liên đoàn là: vui khỏe, vì một nền thể thao xã

hội chủ nghĩa mang hình thái lành mạnh... Các tỉnh miền Tây Nam Bộ, miền Đông

Nam Bộ, đƣờng mòn Hồ Chí Minh, Tây Nguyên là những chặng đua giai đoạn

đầu. Dần dần đoàn nối dài lộ trình các tỉnh miền Trung và ra tới Thủ đô Hà Nội.

Bƣớc vào cuộc lắm thú vị mà không ít gian truân.

330

Lộc nhớ lại: chiều 21 tháng 12 năm 1994, đoàn mô tô thành phố Hồ Chí

Minh biểu diễn quanh hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội để chào mừng nhân dân Thủ đô.

Thật hạnh phúc, hôm ấy đoàn đƣợc Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp biết đến và cho

phép vào thăm tại nhà riêng và Đại tƣớng còn tặng mỗi ngƣời tập hồi ký 40 năm

Điện Biên Phủ kèm chữ ký của vị danh tƣớng. Đƣợc gặp Đại tƣớng, ai cũng cảm

thấy mình may mắn và hạnh phúc. Chia tay ra về mọi ngƣời tiếp tục chuẩn bị để

sáng hôm sau, đúng ngày 22 tháng 12 năm 1994 về thăm Điện Biên Phủ. Nhƣng

một sự cố đến với Lộc là xe anh bị cháy cục IC, mà lục tìm các tiệm ở Hà Nội

không có. Tuy nhỏ nhƣng không có nó coi nhƣ bị bỏ cuộc. Mà đã bỏ cuộc, đồng

nghĩa với thất bại. Một tình huống hết sức nan giải. Sau khi hội ý với lãnh đạo

Đoàn, Lộc quyết định mua vé máy bay trở về Sài Gòn để mua cục IC và ra ngay

trong đêm cũng bằng máy bay cho kịp lên đƣờng. Giá IC là 800.000Đ và giá vé

máy bay chợ đen tới hơn 2 triệu đồng. Thời gian đã ủng hộ anh, trong đội hình

tuyển thủ vận động viên mô tô ngƣợc lên thăm Điện Biên Phủ hai lƣợt đi về thành

công tốt đẹp, để lại dấu ấn trong trái tim mỗi ngƣời.

Sự bất ngờ đến thú vị

Sau hai năm tham gia tuyển thủ liên đoàn mô-tô, Lộc đã đóng góp tích cực về

công tác tổ chức và bản thân cũng đã khẳng định đƣợc phần nào sự cố gắng rất lớn

của mình. Trong một chuyến hành hƣơng về đồng bằng sông Cửu Long để thăm

mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc thân sinh Bác Hồ kính yêu ở tỉnh Đồng Tháp, thăm quê

hƣơng Bác Tôn Đức Thắng ở tỉnh An Giang và ngƣợc lên tỉnh Bến Tre viếng mộ

Nhà thơ Đồ Chiểu. Trong một lần vui cùng bạn bè, Lộc bị “nƣớc mắt quê hƣơng”

ở xứ dừa quật cho tơi bời, thuyền chìm tại bến. Ngƣời anh mềm nhũn không biết

trời trăng mây gió gì nữa. Bạn bè dìu anh vào nơi nghỉ, không ngờ rằng lúc ấy họ

mới biết ông ủy viên thƣ ký Đoàn chỉ còn một chân nguyên vẹn, chân kia chỉ còn

một nửa, ai nấy đều ngỡ ngàng. Mà sao ổng kín đến thế vô hình chung sự việc coi

nhƣ đƣợc công khai. Sáng hôm sau, sau khi con ma men đã nhạt, anh tỉnh táo trở

lại. Lộc vui vẻ tuyên bố với mọi ngƣời: nếu tôi bô bô ta đây là thƣơng binh chỉ

còn một giò, thì các anh đã loại tôi ngay từ vòng đầu, nói chi đeo bám đƣợc hai

năm nay. Vở kịch đã đến hồi kết thúc, chúc Đoàn tuyển thủ mô tô của ta tiếp tục

gặt hái những thành tích mới tốt đẹp hơn. Vừa dứt lời, cả đoàn xúm lại nâng anh

lên nhƣ tung hứng với đầy vẻ thán phục. Có ngƣời biết rõ tung tích đầy bi tráng

của anh đã nói vui: hèn chi ổng hoạt động quân báo tài thế giữa cái đất Sài Gòn

vào những năm khốc liệt của cuộc chiến...?

Sau hàng chục năm xa nhau, giờ đây ngồi đối diện với tôi là một Dƣơng

Quang Lộc ở tuổi 54, trên cƣơng vị Giám đốc trung tâm xúc tiến việc làm Quận 7

thành phố Hồ Chí Minh trong căn nhà tình nghĩa cùng với vợ - chị Trần Thị Mỹ

Lệ ít hơn chồng 10 tuổi và đứa con trai thật dễ thƣơng, cháu Dƣơng Hoàng Ân

sinh năm 1988 đang học lớp 10. Một tổ ấm thật hạnh phúc. Là đồng chí, đồng đội

chỉ huy của Lộc một thời máu lửa, sống chết có nhau, tôi thực sự mừng cho gia

đình vợ chồng Lộc - Lệ.

331

Dƣơng Quang Lộc đƣợc Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa

miền Nam Việt Nam trƣớc đây và Chủ tịch nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam tặng thƣởng nhiều Huân chƣơng Chiến công, Huân chƣơng Kháng chiến,

bằng Dũng sĩ diệt Mỹ, diệt cơ giới... Ở một góc nhà anh còn lƣu giữ chiếc cúp, ghi

rõ:

Dƣơng Quang Lộc - vô địch đai can (thiếu nhi) 1965. Giải vô địch: Bi - Trí -

Dũng 1965. Một con ngƣời gang thép nhƣ thế nhƣng trái tim lại rất đa cảm. Khi

tôi đọc lại bài viết này cho anh nghe, thật không ngờ nhiều lần bị gián đoạn bởi sự

xúc động mạnh của Lộc, có lúc bật lên thành tiếng khóc. Lộc thổ lộ:

- Không hiểu sao, từ giữa năm 2003 bị tai biến mạch máu não, sức khỏe giảm

sút rõ nét nên hay gây sự xúc dộng nhƣ thế!

*

* *

Khi viết những dòng này về đồng đội của mình, trong lòng tôi rộn lên một

niềm vui, niềm tự hào về Nhân dân anh hùng, Đảng Anh hùng, Quân đội Anh

hùng, và Binh chủng Đặc công Anh hùng đã dày công giáo dục, rèn luyện để tạo

nên những ngƣời lính đặc công nhƣ thế.

Tp Biên Hòa, tháng 11 năm 2003

N. Q. H

332

BÍ THƢ TỈNH ỦY LÊ HOÀNG QUÂN

VỚI BÀI BÁO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

NGUYỄN QUANG MINH

Một ngày giữa tháng 5 năm 2003, vào tầm 8 giờ sáng trời xanh cao lồng lộng,

đƣờng phố đỏ rực băng cờ, khẩu hiệu để kỷ niệm lần thứ 113 ngày sinh Bác Hồ

kính yêu - vị Cha già của toàn dân tộc. Tại trụ sở Hội Cựu chiến binh tỉnh Đồng

Nai, từ ngoài cổng xuất hiện một chiếc xe con rồi từ từ dừng lại giữa sân.

Từ trên bƣớc xuống là đồng chí Lê Hoàng Quân, ủy viên Trung ƣơng Đảng -

Bí thƣ Tỉnh ủy Đồng Nai. Sau cái bắt tay thân mật, anh hỏi:

- Mấy chú, mấy anh đi đâu cả? Chú Chín (đồng chí Nguyễn Thanh Tùng) sức

khỏe có đỡ không? Tôi liền đáp:

-Thƣa, Ban thƣờng trực đều đi viếng anh Hai Khánh, sắp về. Mời anh vào

nhà chơi, chờ một chút.

Anh vui vẻ bƣớc vào, vừa ngồi xuống ghế, đã cho hay:

- Tôi vừa đọc bài trên báo Quân đội nhân dân của anh số mới đây có tựa đề:

“Ngôi miếu thờ các liệt sĩ đặc công tại dinh Bà Chúa Xứ”.

Tôi lặng ngƣời vì xúc động, vừa nhƣ thấy bóng dáng đồng đội hiện về trƣớc

mặt sau gần ba chục năm đi xa. Lại vừa cảm mến đồng chí Bí thƣ Tỉnh ủy, ngƣời

đứng đầu Đảng bộ tỉnh nhà rất bộn bề công việc vẫn dành thời gian theo dõi khá

chặt chẽ các thông tin trên đài và báo chí. Thú thật, chính tôi là tác giả bài báo trên

cũng bị bất ngờ. Bởi sau đó vài ngày, tôi mới tình cờ bắt gặp bài báo ấy đăng ở

trang 3 báo Quân đội nhân dân đúng ngày 30 tháng 4, đỉnh cao toàn thắng của dân

tộc ta qua 30 năm đằng đẵng cuộc kháng chiến cứu nƣớc đầy máu lửa, thƣơng đau

và rất đỗi hào hùng, dƣới sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Đảng Cộng sản Việt

Nam quang vinh và Bác Hồ vĩ đại. Trong cái hy sinh lớn lao của toàn dân tộc, có

phần đóng góp nhỏ bé của mỗi ngƣời dân yêu nƣớc cả hậu phƣơng và tiền tuyến,

cả phía trƣớc lẫn phía sau, từ ngƣời lớn đến thiếu niên, nhi đồng. Dân tộc ta thật là

thần kỳ.

Đồng chí Bí thƣ Tỉnh ủy Lê Hoàng Quân tâm sự:

- Có một sự trùng hợp đến lạ lùng, vào thời điểm gần đỉnh cao chiến thắng

ngày 30 tháng 4 năm 1975. Một đơn vị đặc công nƣớc đánh chiếm, chốt giữ để

bảo vệ cầu Rạch Chiếc trên xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn, hy sinh anh dũng 52 cán bộ,

chiến sĩ. Gần đây đã đƣợc xây dựng bia tƣởng niệm. Còn Tiểu đoàn 23 Đoàn Đặc

công 113, có pháo binh đơn vị chi viện trực tiếp để đánh chiếm, bảo vệ hai cầu

Hóa An và cầu Ghềnh giữa thị xã Biên Hòa. Cuộc chiến đấu diễn ra hết sức cam

go quyết liệt ấy, tƣơng tự cũng có 52 đồng chí nằm lại nơi chiến địa (theo số liệu

của những ngƣời tham gia trong cuộc).

333

Hy sinh cho Tổ quốc, cho dân tộc từ trong đêm dài nô lệ lúc bình minh rực

sáng hoặc trong xây dựng thời hòa bình... đều vinh quang đều thiêng liêng, cao cả.

Song, đi suốt cuộc chiến lâu dài đầy hy sinh máu lửa, vào thời khắc áp chót đỉnh

cao toàn thắng mà vẫn còn ngã xuống, hình ảnh ấy để lại cho ngƣời đời niềm tiếc

thƣơng vô hạn!

Đồng chí Bí thƣ còn cho biết ý tƣởng: tới đây, Tỉnh ủy sẽ chỉ đạo Thành ủy,

Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa phối hợp với Ban Liên lạc truyền thống

Đoàn Đặc công 113 nghiên cứu địa điểm, nắm lại danh sách các đồng chí đã anh

dũng hy sinh vào thời khắc lịch sử ấy để dựng một tấm bia ghi nhớ, tôn vinh tên

tuổi, chiến công của các liệt sĩ. Ý tƣởng này rất trùng hợp với suy nghĩ của đồng

chí Phan Văn Trang, Bí thƣ Tỉnh ủy Biên Hòa của 28 năm về trƣớc. Ngày giải

phóng khi tiếng súng vừa ngừng, ông cùng với anh Trƣơng Bá Triệt, lúc ấy là Phó

chính ủy Trung đoàn 113 đề xuất ý tƣởng dựng bia lƣu niệm các liệt sĩ đầu cầu

Ghềnh với Bí thƣ Tỉnh ủy, ông rất đồng tình và không ít lần đƣợc đề cập qua các

cuộc họp mặt truyền thống. Đây cũng là biểu hiện sự tri ân của chúng ta đối với

các Anh hùng, liệt sĩ. Nói tới đây, mắt Bí thƣ Tỉnh ủy ngƣớc nhìn lên ảnh Bác

chớp chớp, tôi bắt gặp từ hai khóe mắt long lanh giọt lệ. Và trong khoảnh khắc ấy,

cả hai chúng tôi cùng yên lặng. Vừa lúc thiếu tƣớng Nguyễn Thanh Tùng, Chủ

tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh cùng các anh trong Ban thƣờng trực viếng anh Hai

Khánh về tới cơ quan.

Tôi nghĩ, làm đƣợc điều thiêng liêng này, hƣơng hồn các anh hẳn mãn

nguyện lắm!

Biên Hòa, giữa tháng 5/2003

N.Q.M

334

Công nƣơng tải gạo

(Kỷ niệm một lần tải gạo đêm)

TẠ THỊ NGỌC HIỀN

Chuyển gạo mau về trong đêm nay

Pháo sáng trùng vây đèn pha khắp ngõ

Trên không trung đạn vèo bay vút gió

Ta bèn trầm bên suối cả “xiêm y”

Con suối chảy ôm chặt ta với nước

Tóc mây vờn sóng biếc nhấp nhô say

Nằm đây nghe máu chảy vòng quay

Chỉ thoáng, ngủ ngon trong nước mát

Mơ thấy mình mênh mang biển bạc

Vua thủy tề và tể tướng vây quanh

Lấp lánh ngọc ngà, vương miện trưởng thành

Ta ngất ngưởng giữa ngôi cao thủy các

Chỉ một phút hồn say quấn quýt

Con “cá kình” lao xuống... nổ inh tai

Loạt đạn vút qua, sát cạnh... “long ngai”

Thoáng ngỡ... “Tôn Ngộ Không đại náo”

Mở choàng mắt chiếc trực thăng nghiêng đảo

Con “cá kình” trong mộng bỗng lao mau

Thì ra.... Tổ trinh sát đã vào

Bảo vệ.... “công nương Thủy Tề” tải gạo.

335

Sự tích cầu đồng đội

N.H.

Chiếc cầu cây nho nhỏ

Đứng đấy tự bao giờ

Dường như chưa hề ngủ

Nhịp chân cầu lắc lư

Rồi một sáng mù sương

Bom dội cầu ngả nghiêng

Nước sông đùng đục đỏ

Hoa cỏ rủ bên đường.

Một ngày kia có người

Chặt cây to giữa trời

Cho ngã về sông nhỏ

Quân lại về không ngơi

Bom lại dội, lại quây

Cầu vẫn nằm nơi đây

Như thân người dùi dập

Đau đớn biết bao ngày

Lạ thay cây vẫn sống

Hoa lá vùng xanh um

Nơi cành lìa nước cuốn

Nhựa trào dâng long lanh

Nước sông lên cuồn cuộn

Người dập dìu đi qua

Cành lá xanh che lối

Chiếc cầu như la đà

Bom dội thì cứ dội

Cầu chẳng chết bao giờ

Nếu có ai nằm xuống

Xác về ngay bến chờ

Tháng năm cầu vẫn đợi

336

Vẫn một lòng thủy chung

Ai qua cầu cũng gọi

“Cầu đồng đội” miền Đông.

337

Khóc anh

(Tƣởng nhớ một liệt sĩ khuyết danh)

A.N

Tôi dìu anh nằm xuống

Bên mảng rừng tả tơi

Bờ mi chờ khép kín

Bối rối bóng chiều rơi

Nón tai bèo bết máu

Run run anh chợt trao

Mắt nhìn tôi đau đáu

Dường như để mang theo

Khoan, kìa anh, đồng chí

Ta vừa chợt gặp nhau

Đường hành quân ngược lối

Gặp bom rơi chân cầu

Khoan, đừng đi, đồng chí

Chiều rừng lạnh hoang vu

Ta dìu nhau về cứ

Kẻo sương rơi trắng mù

Nâng màu mây tóc rối

Anh siết chặt yêu thương

Chợt vỗ về nhung nhớ.

“Mẹ ơi! Chớ có buồn...”

Tôi khóc anh bên dốc

Nghe gió về “truông” côi

Anh nằm nghe rừng dội

Đất Mẹ gọi nghìn lời.

1974

338

Qua đèo Ngang HỒNG ANH

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà”

Đâu là non nước của hôm qua

Dường như trong gió còn vương vấn

Vẳng tiếng chuông chùa đỗ ngân nga

Đèo ngang sườn núi tít mờ xa

Đoàn quân ngồi ngắm gốc thông già

Dưới kia thấp thoáng vài phố chợ

Lanh lảnh còi tàu sắp đến ga

Ngước trông khói biếc thoáng cô thôn

Một vạt rau xanh hay cỏ non

Mà nghe tiếng gọi rền vách núi

Mơ bóng non xa dáng Mẹ còn...

Đoàn quân rảo bước ngắm chiều tà

Chợt ráng chiều rung lên thiết tha

Giá như ta có dăm cây cọ

Vẽ ngay đôi bức kẻo chiều nhòa.

1976

Xin cảm ơn HỒNG ANH

Cảm ơn Cha Mẹ đã sinh ta một lần

Cảm ơn Đảng đã cho ta đời quân

Cảm ơn lịch sử đã cho ta chứng kiến

Một chặng đường, chặng cuối, cuộc tồn sinh.

1975

339

Nhớ rừng miền Đông (Kỷ niệm một thời miền Đông)

HỒNG ANH

Vầng trăng thức suốt đêm nay

Miền Đông vời vợi rừng cây muôn trùng

Lập lòe đốm sáng mông lung

Nhớ ngày nhập ngũ lên rừng nôn nao

Sương đêm gió lạnh rì rào

Bước chân lặng lẽ xôn xao tóc dài

Đạn bom sợ gót trang đài

Nửa đêm vùng dậy dép cài ba lô

Những đêm mưa nhớ rừng le.

Qua sông lội suối luồn khe té nhào

Nhớ miền Đông, nhớ mưa rào

Tóc mai rũ ướt, gai cào rát da.

Bên rừng tròn tám năm qua

Miền Đông quen tiếng chim gà kêu sương

Vén làn tóc rối soi gương

Mỉm cười như thấy sáng đường chân mây

Thèm sao chiếc võng trên cây

Nghêu ngao con sáo ngày ngày qua sông

Thèm sao gùi mọng vàng lưng

Chua lè ngọt lịm tít cùng trên dây

Nhớ sao cơn sốt rừng vây

Từng cơn cầm cập ngất ngây da vàng

Thèm me chấm muối trên ngàn

Nhìn nhau thầm nhủ quê làng còn xa

Ôi miền Đông, sáng ngời ngời.

Nhớ sao là nhớ một thời trong tôi.

340

TÓM TẮT THÀNH TÍCH CỦA ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113

TỪ NĂM 1972 ĐẾN NĂM 2002

Thƣợng tá TRẦN VĂN LƢỢNG

Trung đoàn Đặc công 113 (nay là Đoàn Đặc công 113) đƣợc thành lập ngày 3

tháng 6 năm 1972 tại Chiến khu Đ miền Đông Nam Bộ. Qua 30 năm xây dựng,

chiến đấu và trƣởng thành. Trong bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào, Đoàn 113 cũng

luôn khắc phục mọi khó khăn, không ngừng phấn đấu vƣơn lên hoàn thành xuất

sắc mọi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nƣớc, Quân đội, Binh chủng giao cho, xứng

đáng lá cờ đầu phong trào thi đua quyết thắng của Binh chủng Đặc công Anh hùng.

Kết quả thành tích của Đoàn đƣợc tóm tắt trong các thời kỳ nhƣ sau:

- Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc: mặc dù đơn vị mới thành

lập lại hoạt động trong lòng địch nhiệm vụ nặng nề phức tạp, song cán bộ chiến sĩ

Đoàn Đặc công 113 đã quán triệt sâu sắc nhiệm vụ, cùng nhau đoàn kết khắc phục

khó khăn, dựa vào dân, hợp đồng chặt chẽ với các lực lƣợng vũ trang địa phƣơng,

kiên trì bám trụ và đã liên tục chiến đấu và đánh phá vào sân bay Biên Hòa, tổng

kho Long Bình và nhiều mục tiêu quan trọng, hiểm yếu của địch, hoàn thành xuất

sắc nhiệm vụ Bộ Chỉ huy Miền giao cho. Đặc biệt là trong Chiến dịch Nguyễn

Huệ và trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. Từ ngày thành lập đến tháng 4 năm 1975

Đoàn đã đánh 256 trận, tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 3428 tên Mỹ - ngụy,

bắt 77 tên, phá hủy hơn 200 nghìn tấn bon đạn, 226 triệu lít xăng dầu, hàng trăm

máy bay, 296 xe quân sự, hàng chục cầu cống và nhiều phƣơng tiện chiến tranh

của địch. Đoàn đã đƣợc Đảng, Nhà nƣớc tuyên dƣơng đơn vị Anh hùng lực lƣợng

vũ trang nhân dân ngày 8 tháng 9 năm 1975 cùng hai tiểu đoàn (174, 27) và bảy cá

nhân. Đoàn đƣợc tặng thƣởng bốn huân chƣơng Quân công, 34 huân chƣơng

Chiến công và các phần thƣởng cao quý khác..

- Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc: sau khi thống nhất đất nƣớc, Đoàn đƣợc

điều ra miền Bắc để củng cố lực lƣợng và huấn luyện xây dựng quân đội chính

quy, song do yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đến năm 1977 các đơn vị của

Đoàn đều lần lƣợt lên đƣờng vào chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam,

chống quân Pôn Pốt xâm lƣợc. Tuy đối tƣợng tác chiến mới, song cán bộ chiến sĩ

Đoàn 113 đã thể hiện quyết tâm chiến đấu dũng cảm, ngoan cƣờng và hoàn thành

xuất sắc nhiệm vụ đƣợc giao, trong đó có nhiều trận đánh tiêu biểu giành hiệu suất

cao nhƣ trận Bạch Bột (Tây Ninh), Đá Dựng (Hà Tiên), Dồ Đá Bia (Bảy Núi, An

Giang). Đồng thời là một trong những đơn vị đầu tiên tiến công, đánh chiến giải

phóng thủ đô Phnôm Pênh, cùng các đơn vị bạn truy quét tàn quân Pôn Pốt, thành

lập chính quyền cách mạng Cam-pu-chia. Trên biên giới phía Bắc Tiểu đoàn 45 và

Tiểu đoàn 9 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Ngày 19 tháng 12 năm 1979, Đoàn

113 đã đƣợc Nhà nƣớc tuyên dƣơng Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân lần

thứ hai. Đƣợc Trung ƣơng Đoàn tặng cờ “Các vua Hùng đã có công dựng nƣớc,

Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nƣớc” và cờ “Tuổi trẻ anh hùng bảo vệ Tổ quốc”.

341

- Làm nhiệm vụ quốc tế: thực hiện nhiệm vụ trên giao, Tiểu đoàn 27 sang

chiến đấu trên chiến trƣờng Lào từ tháng 12 năm 1969 đến tháng 12 năm 1974.

Mặc dù trong điều kiện hoạt động trên đất bạn địa hình phức tạp hiểm trở, song

cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 27 đã nêu cao truyền thống cách mạng, đoàn kết khắc

phục khó khăn, anh dũng chiến đấu và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Với các

trận đánh nổi tiếng ở Sảm Thông, Loong Chẹng, Pu Lu Cốc, sân bay Bản Áng...

Tiểu đoàn 27 đã đƣợc Nhà nƣớc tuyên dƣơng Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân

dân ngày 8 tháng 9 năm 1975.

Trên chiến trƣờng Cam-pu-chia: sau khi giải phóng Cam-pu-chia, theo yêu

cầu của bạn và cấp trên giao cho, Đoàn 113 lần lƣợt cử các đơn vị A3 - 82 và A9

sang giúp bạn truy quét tàn quân Pôn Pốt ở Cao Mê Lai và xây dựng chính quyền

cách mạng, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân. Trong quá trình giúp bạn,

Đoàn đã tham gia đánh 151 trận, tiêu diệt và làm bị thƣơng hàng trăm tên địch,

thu 445 súng, 80 xe quân sự, 72 tàu chiến đấu, chấp hành nghiêm kỷ luật dân vận,

đƣợc cấp trên khen thƣởng và đánh giá là đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

quốc tế vẻ vang.

- Trong sự nghiệp đổi mới: từ năm 1986 đến nay, Đoàn Đặc công 113 đƣợc

Binh chủng Đặc công chọn làm điểm xây dựng đơn vị điểm toàn diện của Binh

chủng; là đơn vị cơ động sẵn sàng chiến đấu cao theo các phƣơng án của Bộ.

Đoàn 113 đã khắc phục mọi khó khăn phát huy truyền thống vẻ vang, hoàn thành

xuất sắc nhiệm vụ đƣợc giao, đơn vị ngày càng trƣởng thành vững mạnh về mọi

mặt cụ thể:

+ 100 phần trăm cán bộ chiến sĩ Đoàn 113 đều quán triệt sâu sắc nhiệm vụ,

sẵn sàng chiến đấu, luôn rèn luyện ý chí quyết tâm cao, sẵn sàng nhận và hoàn

thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao. Toàn Đoàn thƣờng xuyên duy trì và chấp hành

nghiêm các chế độ trực sẵn sàng chiến đấu theo các phƣơng án. Thƣờng xuyên

nắm chắc các mục tiêu, bổ xung và hoàn thiện các phƣơng án, vì vậy đã góp phần

cùng với lực lƣợng bạn bảo vệ vững chắc mục tiêu đƣợc giao, đặc biệt là bảo vệ

an toàn cho các kỳ họp Quốc hội, các hội nghị Trung ƣơng, Đại hội Đảng và các

sự kiện chính trị quan trọng đƣợc tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Qua kiểm tra của Bộ

Quốc phòng, của Bộ Tƣ lệnh Binh chủng Đặc công đều đánh giá là đơn vị có công

tác chuẩn bị, có khả năng cơ động, chiến đấu tốt, đủ khả năng hoàn thành đƣợc

nhiệm vụ chiến đấu theo các phƣơng án trong mọi tình huống chiến đấu đƣợc giao.

- Trong huấn luyện và xây dựng nền nếp chính quy: Đoàn đã thƣờng

xuyên quán triệt sâu sắc các quan điểm, phƣơng châm, phƣơng pháp trong huấn

luyện, không ngừng đổi mới nội dung, hình thức, phƣơng pháp huấn luyện giáo

dục bộ đội, bảo đảm sát thực tế chiến đấu, không ngừng nâng cao chất lƣợng toàn

diện của đơn vị. Qua kiểm tra hàng năm, 100 phần trăm các nội dung huấn luyện

đơn vị đều đạt yêu cầu trở lên, trong đó có từ 75 - 80 phần trăm khá giỏi. Các đợt

hội thi, hội thao về quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật do Binh chủng tổ chức

nhân kỷ niệm 20 năm, 25 năm, 30 năm ngày thành lập Binh chủng, Đoàn 113 đều

đƣợc giải nhất toàn đoàn. Là đơn vị thƣờng xuyên duy trì và chấp hành nghiêm

342

các chế độ nền nếp chính quy, hàng năm, trích quỹ hàng chục triệu đồng để củng

cố doanh trại, mua sắm dụng cụ biển báo, sổ sách đảm bảo sự thống nhất chính

quy trong đơn vị. Đồng thời Đoàn có nhiều biện pháp giáo dục, quản lý rèn luyện

kỷ luật bộ đội, do đó trong đơn vị không có cán bộ chiến sĩ phạm kỷ luật nghiêm

trọng, không có chiến sĩ đào, bỏ ngũ, tỷ lệ kỷ luật thông thƣờng giảm nhiều so với

những năm trƣớc đây. Thƣờng xuyên giữ vững mối quan hệ đoàn kết với Đảng bộ,

chính quyền nhân dân các địa phƣơng nơi đóng quân.

Đặc biệt thực hiện tốt kế hoạch hàng năm, đƣa đơn vị đi làm công tác vận

động quần chúng, cùng với địa phƣơng củng cố 18 tổ chức cơ sở Đoàn thanh niên,

ứng cứu kịp thời giúp đỡ dân đắp đê chống lụt, đóng góp hàng ngàn ngày công để

xây dựng cơ sở hạ tầng, giúp đỡ gia đình chính sách, cùng địa phƣơng giữ vững an

ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đƣợc nhân dân địa phƣơng và các đơn vị cơ

quan trong khu vực đóng quân luôn tin tƣởng, khen ngợi. Đoàn Đặc công 113 đã

bảy lần đƣợc tặng cờ thi đua của Thủ tƣớng Chính phủ, ba cờ thi đua của Bộ Quốc

phòng, nhiều cờ thi đua của Tổng cục Chính trị, của Trung ƣơng Đoàn, của Binh

chủng Đặc công, bốn huân chƣơng Quân công, 34 huân chƣơng Chiến công, ba

lần đƣợc Đảng và Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lƣợng vũ trang

nhân dân.

Ngày nay, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Đoàn Đặc công 113 luôn đoàn kết nhất

trí, quyết tâm giữ vững truyền thống vẻ vang của Đoàn, quyết tâm hoàn thành xuất

sắc mọi nhiệm vụ đƣợc giao, xứng đáng là đơn vị điểm, đơn vị dẫn đầu phong trào

thi đua quyết thắng của Binh chủng Đặc công Anh hùng.

T. L. V

343

LỜI CẢM ƠN

Kính gửi quý Ban lãnh đạo các cơ quan đơn vị, quý vị bạn đọc.

Trên tay các bạn là một ấn phẩm không phải đƣợc tạo ra từ các nhà văn, nhà

báo chuyên nghiệp mà đƣợc xây dựng từ tình cảm quý mến, trân trọng truyền

thống hào hùng, oanh liệt của Đoàn Đặc công 113 của những ngƣời lính cũ, những

cán bộ, chiến sĩ, đồng bào cơ sở đã một thời gắn bó và trực tiếp góp phần lập nên

những chiến công, thành tích của Đoàn. Đây là sản phẩm cây nhà lá vƣờn, chân

thành, mộc mạc, tự kể về mình, tự viết về những kỷ niệm máu thịt, gắn bó với

Đoàn, với mảnh đất Đồng Nai kiên trung, bất khuất.

Nhân dịp này, thay mặt nguyên Đảng ủy, Ban Chỉ huy, các cán bộ, chiến sĩ,

Ban Liên lạc truyền thống Đoàn Đặc công 113 xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành

tới Ban Thƣờng vụ Tỉnh ủy, Thƣờng trực ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã quan

tâm ủng hộ, tạo điều kiện tinh thần, vật chất để chúng tôi thực hiện, xuất bản đƣợc

ấn phẩm này. Xin cám ơn các đồng chí: Phan Văn Trang nguyên Bí thƣ Tỉnh ủy

Biên Hòa (U1), nguyên Bí thƣ Tỉnh ủy Đồng Nai (khóa V), đại tá Trần Văn Cà -

Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân và một số đồng chí nguyên là cán bộ lãnh

đạo cấp tỉnh, huyện, lãnh đạo chỉ huy Đoàn Đặc công 113 đã không quản ngại thời

gian, tuổi tác góp ý, thẩm định, cung cấp những tƣ liệu lịch sử quý báu và tham

gia xây dựng, biên soạn tập sách này. Cám ơn các cơ sở cách mạng, các đồng chí

nguyên là cán bộ, chiến sĩ của Đoàn, các đồng chí ở tận các tỉnh phía Bắc xa xôi

cũng nhiệt tình viết bài gửi vào tham gia làm phong phú thêm nội dung cuốn sách.

Xin cám ơn Đảng ủy, Ban Chỉ huy Đoàn đặc công 113 anh hùng đã nhiệt tình

phối hợp cùng chúng tôi triển khai xây dựng tập sách. Cám ơn Nhà xuất bản Quân

đội nhân dân đã biên tập, nâng cao chất lƣợng và xuất bản cuốn sách.

Một lần nữa, chúng tôi xin đƣợc cám ơn và đánh giá rất cao những sự quan

tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện của các tập thể và toàn thể các đồng chí, các bạn để tạo

nên ấn phẩm quý báu này.

Nhân dịp bƣớc sang năm mới Nhâm Thân - 2004 xin trân trọng gửi tới Tỉnh

ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, bà con cô bác cơ sở cách mạng các vùng

Vĩnh Cửu, Thống Nhất (Đồng Nai), Tân Uyên (Bình Dƣơng) từng cƣu mang, giúp

đỡ Đoàn, các gia đình liệt sĩ, thƣơng binh, các cựu chiến binh và toàn thể cán bộ,

chiến sĩ của Đoàn đặc công 113 Anh hùng lời chúc sức khỏe, thành đạt và nhiều

hạnh phúc trong cuộc sống.

Biên Hòa - tháng 12 năm 2003

Thay mặt Ban Liên lạc truyền thống Đoàn Đặc công 113

Đại tá MAI VĂN THOẠN

344

MỤC LỤC

- Mƣời sáu chữ vàng truyền thống của bộ đội Đặc công

- Hai mƣơi bốn chữ vàng truyền thống của Đoàn Đặc công 113

- Huấn thị của Hồ Chủ tịch với đại biểu cán bộ và chiến sỹ binh chủng đặc

công 19 tháng 3 năm 1967

- Lời bạt - Dương Thanh Tân

- Bác Hồ với bộ đội Đặc công

- Nguồn sức mạnh- Nguồn tinh thần vô giá- Lê Hoàng Quân

- Phát huy truyền thống đơn vị ba lần Anh hùng, nỗ lực phấn đấu giành

nhiều thành tích mới rực rỡ hơn. – Phùng Khắc Đông

- Bối cảnh ra đời và những chiến công vang dội của Đoàn Đặc công 113- ba

lần Anh hùng. – Nguyễn Thanh Tùng

- Đoàn Đặc công 113 – ba mƣơi năm đầy gian lao thử tháchm xây dựng nên

truyền thống vẻ vang ba lần Anh hùng. – Trần Thanh Phương

- Kỷ niệm miền Đông. – Nguyễn Thanh Toàn

- Đoàn Đặc công 113 đánh tổng kho liên hợp Long Bình và sân bay Biên

Hòa chấn động trong nƣớc và thế giới. – Phan Văn Trang

- Dạt dào lƣu luyến. – Huỳnh Văn Tới

- Xin nói lời tri ân - Phùng Truyền

- Gắn bó với Biên Hòa những ngày khói lửa - Nguyễn Minh Hiệp

- Căn cứ giữa lòng dân - Nguyễn Quốc Định

- Biên Hòa một thời kỷ niệm - Nguyễn Thành Lộc

- Một trận đánh bí một, bất ngờ đạt hiệu suất cao - Đỗ Văn Minh

- Trung đoàn Đặc công 113 là một hình ảnh đẹp - Nguyễn Hải

- Vinh dự to lớn, trách nhiệm nặng nề, Đoàn Đặc công 113 quyết giữ trọn

niềm tin với Đảng, Quân đội và nhân dân - Trần Văn Hòe

- Đoàn 113 viết tiếp những chiến công vang dội trên đất Biên Hòa - Trần

Công An

- Cƣa bom lấy thuốc mồi đánh giặc - Trần Trọng Thanh

- Bộ đội Đặc công đánh giặc giởi, vận động quần chúng cũng tài - Nguyễn

Văn Thông

- Trung đoàn Đặc công 113 với quân và dân Vĩnh Cửu nghĩa nặng tình sâu

- Huỳnh Văn Đậm

- Pha trinh sát ngoạn mục tổng kho Long Bình của Mỹ- Ngụy - Thanh

Giáp

345

- Ngƣời trung đoàn trƣởng quý mến - Ngô Văn Sơn

- Nguyễn Thanh Tùng và những chiến công lẫy lừng của Binh chủng Đặc

công Anh hùng - Hoàng Minh Mẫn

- Lật cánh - Lê Quang Trị

- Kỷ niệm đêm tải đạn - Trần Tú Hồng

- Hạnh phúc - Nguyễn Hải Kỳ

- Cùng đồng hành vào trận chiến - Nguyễn Huy Thản

- Trận ngoại công, nội kích - Vũ Quớ

- Đi tìm trận địa - Phạm Ngọc Dưỡng

- Đại đội vậi tải của trung đòan - Trịnh Hùng Chất

- Xin gởi tới Biên Hòa- Đồng Nai tình cảm chân thành của Đoàn Đặc công

113 anh hùng - Mai Văn Thoạn

- Đánh pháo cũng rất …Đặc công - Đinh Xuân Nghiêm

- Tƣớng Đặc công anh hùng - Hoàng Trân

- Tôi đã từng sát cánh với Đoàn Đặc công 113 chiến đấu -Nguyễn Văn

Bình

- Sông nƣớc Đồng Nai - Vũ Quớ- Minh Hiển

- Tƣ thế Đặc công - Văn Dĩ- Vũ Chiến

- Tấm lòng chị Ba - Nguyễn Thế Tám

- Tâm nguyện với ngƣời đã khuất - Vũ Đức Ninh

- Nghĩ càng thêm nhớ - Trương Bá Triệt

- Bắt tên đại tá trƣởng thanh tra quân đoàn 3 ngụy giữa ban ngày - Nguyễn

Hải Kỳ

- Cản tử quân trên dòng sông phố - Xuân Quỳnh

- Vui thay nghề quân giới - Kiều Việt Hùng

- Trận thử lửa cuối cùng - Tào Quang Nhị

- Vĩnh Cửu những nét son trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc - Quế

Sơn

- Có ngôi miếu thờ các liệt sỹ Đặc công tại dinh Bà Chúa Xứ - Nguyễn

Quốc Hoàn

- Đảng bộ Vĩnh Cửu trƣởng thành trong đổi mới - Nguyễn Thành Công

- Đi không dấu - Vũ Đạt

- Quản lý bộ đội theo cách của 113 -Lê Ngọc Long

346

- Nhìn anh em hy sinh trƣớc ngày toàn thắng, lòng tôi quặn đau nhƣ chính

họ là những đứa con thân yêu của mình -Võ Hoàng Sơn

- Hãy xứng đáng là trai đất Tổ vua Hùng - Nguyễn Văn Chương

- Gặp lại những ân tình - Nguyễn Quốc Chính

- Đoàn Đặc công 113 gắn bó với địa phƣơng chúng tôi nhƣ là máu thịt -

Đỗ Thị Thanh Vân

- Một thời gắn bó với trung đòan -Nguyễn Thị Lệ Hoa

- Nghĩa nặng với ngƣời dđã khuất - Cao Tiến Đạt

- Gần các anh yên lòng, xa các anh thêm nhớ - Phan Thị Diệu

- Bác sỹ bộ đội giải phóng tốt quá -Nguyễn Văn Điệp

- Câu chuyện bên vành đai sân bay Biên Hòa - Đàm Chu Văn

- Chỉ thƣơng con ngan …nó buồn - Hồ Thanh

- Một phƣơng án mua bò khá ly kì -Quang Định

- Bé Thanh Thảo -Dương Quang

- Trận tập kích xung lực vào tổng kho Long Bình là một kỳ tích -Nguyễn

Văn Tải

- Đêm trƣớc ngày toàn thắng - Nguyễn Long Hưng

- Những chiếc giá pháo thần kỳ -Lâm Vĩnh Châu

- Tâm niệm của ngƣời lính đặc công - Nguyễn Hồng Việt

- Bạn tôi ngƣời lính, ngƣời thầy - Nguyễn Quang

- Đoàn Đặc công 113 và những điều tâm đắc đối với tôi - Nguyễn Văn Lân

- Tôi vẫn là anh quân giới thuở nào - Lê Minh Quang

- Nhớ lại trận quyết chiến giữ cầu Ghềnh, cầu Mới tôi càng tha thiết nhớ

thƣơng bạn bè - Vũ Văn Chiến

- Bức thƣ của những ngƣời vợ trẻ - Nguyễn Quang Minh

- Công lao của Đảng bộ, quân và dân U1 đối với Đoàn Đặc công 113 là hết

sức to lớn - Lê Văn Lượng

- Những thánh năm đáng nhớ - Nguyễn Thái Hòa

- Nắm võng giữa rừng Chiến khu Đ - Đỗ Minh

- Kỷ vật thiêng liêng - Đ. M

- Trên đồi Mỹ - Đỗ Minh Cường

- Điệp khúc khăn rằn - Đỗ Minh

- Chia tay Đoàn 113 - Đỗ Văn Ninh

347

- Về thăm - Đỗ Văn Ninh

- Con ngƣời và dòng sông - Nguyễn Nam Vũ

- Hiên ngang nhƣ một dáng cầu - Hoàng Minh Trang

- Có một ngƣời lính dđặc công nhƣ thế - Nguyễn Quốc Hoàn

- Bí thƣ Tỉnh ủy Lê Hoàng Quân với bài báo QĐND - Nguyễn Quang

Minh

- Công nƣơng tải gạo - Tạ Thị Ngọc Hiền

- Sự tích cầu đồng đội - N.H

- Khóc anh - A.N

- Qua đèo Ngang - Hồng Anh

- Xin cảm ơn

- Nhớ rừng miền Đông

- Tóm tắt thành tích của Đoàn Đặc công 113 từ năm 1972- 2002 - Quang

Định

- Lời cảm ơn - Mai Văn Thoạn

348

ĐOÀN ĐẶC CÔNG 113 VỚI BIÊN HÒA- ĐỒNG NAI

***

Chịu trách nhiệm xuất bản: PHẠM QUANG ĐỊNH

Chịu trách nhiệm bản thảo: Ths PHẠM BÁ TOÀN

Biên tập: ĐỒNG KIM HẢI

Vẽ bìa: NHẬT LỆ

Trình bày: THU HƢƠNG

Sửa bản in: HÀ PHƢỚC CHIẾN

NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

13 Lý Nam Đế Hà Nội

Cơ quan đại diện tại TP Hồ Chí Minh

Số 1 đƣờng Kỳ Đồng, Q3